id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
5
274k
24146
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0%E1%BB%A1ng%20chi%E1%BA%BFt
Lưỡng chiết
Lưỡng chiết (hay khúc xạ đúp, khúc xạ kép) là hiện tượng xảy ra khi tia sáng khi đi qua một số loại tinh thể (như canxít) bị tách ra thành hai tia sáng: tia thường và tia khác thường (thượng đẳng), tùy thuộc vào trạng thái phân cực của tia sáng. Các tinh thể gây ra hiện tượng lưỡng chiết được gọi là tinh thể lưỡng chiết. Các tinh thể này đều có tính chất không đẳng hướng. Sóng điện từ khi đi vào các môi trường này có thể có độ điện dịch không song song với véctơ cường độ điện trường. Nếu tinh thể chỉ có một trục quang học, hiện tượng lưỡng chiết có thể được mô tả bằng cách gán 2 chiết suất cho 2 phương phân cực, no cho phương vuông góc (ứng với tia thường) và ne cho phương song song (ứng với tia bất thường) với trục quang học. Khi đó độ lưỡng chiết của vật liệu có thể được định nghĩa là: Δn = ne - no. Một số vật liệu lưỡng chiết Một số khoáng chất thể hiện tính lưỡng chiết (đơn trục) như ở bảng bên. Nhiều chất dẻo có tính lưỡng chiết, vì phân tử của chúng bị đóng băng trong tình trạng chịu sức căng nhất định, khi chất dẻo được đúc hoặc dập. Xem thêm Phân cực Hiệu ứng Kerr Tham khảo Quang học Tinh thể học
24151
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%A2n%20L%E1%BA%A1p
Chân Lạp
Chân Lạp, Chenla hay Zhenla (; , phát âm: Chơn La) là nhà nước của người Khmer tồn tại trong giai đoạn từ khoảng năm 550 tới năm 802 trên phần phía nam của bán đảo Đông Dương gồm cả Campuchia và một số tỉnh phía Nam của Việt Nam hiện tại. Triều đại các vị vua của Chân Lạp theo truyền thuyết có nguồn gốc từ nhân vật thần thoại Campu, lấy nàng Naga (con gái thần nước, biến từ rắn thành thiếu nữ). Từ "campu" cũng bắt nguồn cho tên gọi của Campuchia sau này. Các vương quốc láng giềng xung quanh vào thời kỳ ban đầu là Chăm Pa ở phía đông, Phù Nam ở phía nam và Dvaravati (thuộc Thái Lan ngày nay) ở về phía tây bắc. Ban đầu là một nhà nước chư hầu của Phù Nam (khoảng cho tới năm 550), trong vòng 60 năm sau đó nhà nước này đã giành được độc lập và dần dần lấn lướt Phù Nam. Đến thế kỷ 6 thì họ đã xâm chiếm được miền bắc của Phù Nam. Cuối cùng, trong thế kỷ 7 (khoảng giai đoạn 612-628), nhà nước này đã xâm chiếm toàn bộ Phù Nam, chiếm toàn bộ dân cư của nhà nước đó nhưng lại hấp thu nền văn hóa của họ. Năm 613, Ishanapura trở thành kinh đô đầu tiên của đế quốc mới. Lịch sử Người Khmer đã tiến tới sông Mê Kông từ phía bắc sông Chao Phraya thông qua Thung lũng sông Mun. Ban đầu người Khmer định cư trong một khu vực tương ứng với phần đất là miền trung và nam Lào cùng với vùng đông bắc Thái Lan ngày nay. Các ghi chép sử học Trung Hoa cổ đại đề cập tới hai vị vua, Shrutavarman (trị vì 435-495) và Shreshthavarman (trị vì 495-530), những người trị vì tại kinh đô Shreshthapura nằm ở miền nam Lào ngày nay, có lẽ trong khu vực cận kề Wat Phu gần Champasak. Đến thời vua Bhavavarman I (550-598) với kinh đô đặt tại Bhavapura (ngày nay có lẽ là khu vực Sambor Prei Kuk, tỉnh Kampong Thom, Campuchia), Chân Lạp bắt đầu một số chiến dịch chống lại Phù Nam. Sau khi Bhavavarman I chết năm 598, người anh em của ông là Citrasena (tên gọi khi trị vì là Mahendravarman, thực tế cầm quyền từ năm 590) đã tiếp tục công việc xâm chiếm Phù Nam. Ishanavarman I, con trai của Citrasena, đã hoàn thành công cuộc xâm chiếm vương quốc Phù Nam trong giai đoạn 612-628. Ông đổi tên kinh đô từ Bhavapura thành Ishanapura. Sau khi vua Bhavavarman II chết năm 656, phần lớn Chân Lạp bị chia tách thành các tiểu quốc nhỏ độc lập. Vua Jayavarman I đã có những cố gắng để thống nhất đất nước và ông đã giành lại phần lớn phần lãnh thổ được vua Ishanavarman I cai trị trước đó. Sau khi vua Jayavarman I chết năm 700, rối loạn trong vương quốc lại xảy ra và vương quốc lại bị chia nhỏ giữa nhiều thế lực cát cứ. Các sử liệu Trung Hoa thì cho rằng trong thế kỷ 8, Chân Lạp bị chia thành hai tiểu quốc là Lục Chân Lạp (với trung tâm của Lục Chân Lạp khi đó là tỉnh Champasak ngày nay của Lào) và Thủy Chân Lạp (tương ứng với khu vực đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam và miền nam Campuchia ngày nay). Từ hai quốc gia này có lẽ lại tách ra thành một vài tiểu quốc khác, tiếp tục làm suy yếu Chân Lạp. Các tiểu quốc chủ yếu tại Thủy Chân Lạp là Shambupura, Vyadhapura, Souht Prei Veng, Bhavapura, với trung tâm tại Sambor Prei Kuk. Năm 716, Pushkaraksha, người cai trị Shambhupura (khu vực Kratie ngày nay) tuyên bố mình là vua của toàn bộ Kambuja. Cũng trong khoảng thời gian này, Shambhuvarman, con trai của Pushkaraksha, đã kiểm soát phần lớn Thủy Chân Lạp cho tới khi (cũng trong thế kỷ 8) người Mã Lai và người Java thống trị trên nhiều tiểu quốc Khmer. Cổ sử còn đề cập tới Rjendravarman I, con trai của Sambhuvarman và Mahipativarman, con trai của Rjendravarman I. Ông này có lẽ là vị vua bị người Java chặt đầu. Các vị vua Chân Lạp Ghi chú Liên kết ngoài The Treasures of Angkor. ISBN 88-544-0117-X C Cựu quốc gia trong lịch sử Campuchia Quốc gia cổ trong lịch sử Lào Cựu quốc gia châu Á Cựu quốc gia trong lịch sử Việt Nam
24152
https://vi.wikipedia.org/wiki/Di%E1%BB%87n%20t%C3%ADch
Diện tích
Diện tích là đại lượng biểu thị phạm vi của hình hoặc hình hai chiều hoặc lamina phẳng, trong mặt phẳng. Diện tích bề mặt là tương tự của diện tích trên bề mặt hai chiều của một vật thể ba chiều. Diện tích có thể được hiểu là lượng vật liệu có độ dày nhất định sẽ cần thiết để tạo kiểu cho mô hình hình dạng hoặc lượng sơn cần thiết để phủ lên bề mặt bằng một lớp sơn. Nó là tương tự về mặt hai chiều đối với chiều dài của đường cong (khái niệm một chiều) hoặc thể tích của vật rắn (khái niệm ba chiều). Diện tích của hình có thể được đo bằng cách so sánh hình với các hình vuông có kích thước cố định. Trong Hệ thống đơn vị quốc tế (SI), đơn vị diện tích tiêu chuẩn là mét vuông (viết là m²), là diện tích của một hình vuông có cạnh dài một mét. Một hình có diện tích ba mét vuông sẽ có cùng diện tích với ba hình vuông như vậy. Trong toán học, hình vuông đơn vị được xác định là có diện tích bằng một và diện tích của bất kỳ hình dạng hoặc bề mặt nào khác là một số thực không thứ nguyên. Có một số công thức nổi tiếng cho các diện tích có hình dạng đơn giản như hình tam giác, hình chữ nhật và hình tròn. Sử dụng các công thức này, diện tích của bất kỳ đa giác nào đều có thể được tính toán bằng cách chia đa giác thành các hình tam giác. Đối với các hình có ranh giới cong, tích phân thường được dùng để tính diện tích. Thật vậy, vấn đề xác định diện tích các hình phẳng là một động lực chính cho sự phát triển lịch sử của tích phân. Đối với một hình dạng rắn như hình cầu, hình nón hoặc hình trụ, diện tích bề mặt ranh giới của nó được gọi là diện tích bề mặt. Các công thức cho các diện tích bề mặt của các hình dạng đơn giản đã được người Hy Lạp cổ đại tính toán, nhưng tính toán diện tích bề mặt của một hình dạng phức tạp hơn thường đòi hỏi tích phân đa biến. Diện tích đóng một vai trò quan trọng trong toán học hiện đại. Ngoài tầm quan trọng rõ ràng của nó trong hình học và tính toán, diện tích có liên quan đến định nghĩa các yếu tố quyết định trong đại số tuyến tính, và là một tính chất cơ bản của các bề mặt trong hình học vi phân. Trong phân tích, diện tích của một tập hợp con của mặt phẳng được xác định bằng cách sử dụng thước đo Lebesgue, mặc dù không phải mọi tập hợp con đều có thể đo được. Nói chung, diện tích trong toán học cấp cao hơn được coi là một trường hợp đặc biệt về thể tích cho các vùng có hai chiều. Diện tích có thể được xác định thông qua việc sử dụng các tiên đề, xác định nó là một hàm của một tập hợp các hình mặt phẳng nhất định chiếu đến tập hợp các số thực. Nó có thể được chứng minh rằng một hàm như vậy là tồn tại. Định nghĩa hình thức Một cách tiếp cận để xác định ý nghĩa của "diện tích" là thông qua các tiên đề. "Diện tích" có thể được định nghĩa là một hàm a từ tập hợp M gồm các hình phẳng đặc biệt (gọi là tập hợp có thể đo được) đến tập các số thực, thỏa mãn các tính chất sau: Với mọi S thuộc M thì a (S) ≥ 0. Nếu S và T nằm trong M thì S ∪ T và S ∩ T, và a (S ∪ T) = a (S) + a (T) - a (S ∩ T). Nếu S và T nằm trong M với S ⊆ T thì T - S thuộc M và a (T - S) = a (T) - a (S). Nếu một tập hợp S thuộc M và S đồng nhất với T thì T cũng thuộc M và a (S) = a (T. Mọi hình chữ nhật R đều nằm trong M. Nếu hình chữ nhật có chiều dài h và chiều rộng k thì a (R) = hk. Gọi Q là một tập hợp nằm giữa hai vùng bước S và T. Vùng bước được hình thành từ sự kết hợp hữu hạn của các hình chữ nhật liền kề nằm trên một cơ sở chung, tức là S ⊆ Q ⊆ T. Nếu tồn tại một số duy nhất c sao cho a (S) ≤ c ≤ a (T) đối với tất cả các vùng bước S và T như vậy, thì a (Q) = c. Có thể chứng minh rằng một hàm diện tích như vậy thực sự tồn tại. Đơn vị Mọi đơn vị độ dài đều có một đơn vị diện tích tương ứng là diện tích hình vuông có độ dài cạnh bằng đơn vị độ dài đã cho. Do đó diện tích có thể được đo bằng mét vuông (m2), vuông cm (cm2), milimét vuông (mm2), kilômét vuông (km²),feet vuông (ft 2), yard vuông (yd 2), dặm vuông (mi2), v.v. Về mặt đại số, các đơn vị này có thể được coi là bình phương của các đơn vị độ dài tương ứng. Đơn vị diện tích SI là mét vuông, được coi là một đơn vị dẫn xuất SI. Chuyển đổi Tính diện tích của một hình vuông có chiều dài và chiều rộng là 1 mét sẽ là: 1 mét × 1 mét = 1 m² và do đó, một hình chữ nhật có các cạnh khác nhau (giả sử chiều dài 3 mét và chiều rộng 2 mét) sẽ có diện tích tính bằng đơn vị hình vuông có thể được tính như sau: 3 mét × 2 mét = 6 m². Điều này tương đương với 6 triệu mm vuông. Các chuyển đổi hữu ích khác là: 1 km vuông = 1.000.000 mét vuông 1 mét vuông = 10.000 cm vuông = 1.000.000 mm vuông 1 cm vuông = 100 mm vuông. Đơn vị không phải hệ mét Trong đơn vị không thuộc hệ mét, việc chuyển đổi giữa hai đơn vị vuông là bình phương của việc chuyển đổi giữa các đơn vị chiều dài tương ứng. 1 foot = 12 inch, mối quan hệ giữa feet vuông và inch vuông là 1 foot vuông = 144 inch vuông, trong đó 144 = 122 = 12 × 12. Tương tự: 1 yard vuông = 9 feet vuông 1 dặm vuông = 3.097.600 yard vuông = 27.878.400 feet vuông Ngoài ra, các yếu tố chuyển đổi bao gồm: 1 inch vuông = 6.4516 cm vuông 1 foot vuông = mét vuông 1 yard vuông = mét vuông 1 dặm vuông = km vuông Các đơn vị khác bao gồm các đơn vị mang tính lịch sử Có một số đơn vị phổ biến khác cho diện tích. A là đơn vị diện tích ban đầu trong hệ mét, với: 1 a = 100 mét vuông Mặc dù đã không còn sử dụng, hecta vẫn thường được sử dụng để đo đất: 1 hecta = 100 a = 10.000 mét vuông = 0,01 ki lô mét vuông Mẫu Anh cũng thường được sử dụng để đo diện tích đất 1 mẫu Anh = 4,840 yard vuông = 43,560 feet vuông. Một mẫu Anh là khoảng 40% của một hecta. Trên quy mô nguyên tử, diện tích được đo bằng đơn vị barn: 1 barn = 10 −28 mét vuông. Barn được sử dụng phổ biến trong việc mô tả vùng tương tác mặt cắt ngang trong vật lý hạt nhân. Ở Ấn Độ, 20 dhurki = 1 dhur 20 dhur = 1 khatha 20 khata = 1 bigha 32 khata = 1 mẫu Anh Lịch sử Diện tích hình tròn Vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, Hippocrates xứ Chios là người đầu tiên chỉ ra rằng diện tích của một cái đĩa (vùng được bao quanh bởi một vòng tròn) tỷ lệ với bình phương đường kính của nó, như một phần của việc cầu phương của ông, nhưng không xác định được hằng số tỷ lệ. Eudoxus của Cnidus, cũng vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, cũng phát hiện ra rằng diện tích của một cái đĩa tròn tỷ lệ thuận với bình phương bán kính của nó. Sau đó, Quyển I của Cơ sở của Euclid đề cập đến sự bằng nhau về diện tích giữa các hình hai chiều. Nhà toán học Archimedes sử dụng các công cụ của Euclid để chứng minh rằng diện tích bên trong một vòng tròn là tương đương với của một tam giác vuông có đáy là chiều dài của chu vi của vòng tròn và có chiều cao tương đương với bán kính của vòng tròn, trong cuốn sách của ông Đo một hình tròn. (Chu vi là 2 r, và diện tích của một tam giác bằng một nửa đáy nhân với chiều cao, mang lại diện tích r 2 cho hình tròn.) Archimedes đã tính gần đúng giá trị của π (và do đó là diện tích của một hình tròn bán kính đơn vị) bằng phương pháp nhân đôi của mình, trong đó ông nội tiếp một tam giác đều trong một vòng tròn và ghi nhận diện tích của nó, sau đó nhân đôi số cạnh để tạo ra một hình lục giác đều., sau đó liên tục nhân đôi số cạnh khi diện tích của đa giác ngày càng gần với diện tích của hình tròn (và thực hiện tương tự với đa giác ngoại tiếp). Nhà khoa học người Thụy Sĩ Johann Heinrich Lambert năm 1761 đã chứng minh rằng π, tỷ số giữa diện tích hình tròn với bán kính bình phương của nó, là số vô tỉ, nghĩa là nó không bằng thương số của hai số nguyên bất kỳ. Năm 1794, nhà toán học người Pháp Adrien-Marie Legendre đã chứng minh rằng π2 là vô tỉ; điều này cũng chứng tỏ rằng π là vô tỉ. Năm 1882, nhà toán học người Đức Ferdinand von Lindemann đã chứng minh rằng π là số siêu việt (không phải là nghiệm của bất kỳ phương trình đa thức nào với hệ số hữu tỉ), chứng minh này xác nhận một phỏng đoán của cả Legendre và Euler. Diện tích tam giác Heron (hay Hero) của Alexandria đã tìm ra cái được gọi là công thức Heron cho diện tích tam giác tính theo các cạnh của nó, và một phép chứng minh có trong cuốn sách của ông, Metrica, được viết vào khoảng năm 60 CN. Có ý kiến cho rằng Archimedes đã biết công thức hơn hai thế kỷ trước đó, và vì Metrica là tập hợp các kiến thức toán học có sẵn trong thế giới cổ đại, nên có thể công thức có trước tham chiếu được đưa ra trong công trình đó. Năm 499, Aryabhata, một nhà toán học - thiên văn học vĩ đại của thời đại cổ điển của toán học Ấn Độ và thiên văn học Ấn Độ, đã biểu thị diện tích của một tam giác bằng một nửa đáy nhân với chiều cao trong Aryabhatiya (phần 2.6). Một công thức tương đương với Heron đã được người Trung Quốc tìm ra độc lập với người Hy Lạp. Nó được xuất bản vào năm 1247 trong Shushu Jiuzhang ("Cửu chương toán thuật"), tác phẩm của Qin Jiushao. Diện tích tứ giác Trong thế kỷ thứ 7, Brahmagupta đã phát triển một công thức, bây giờ được gọi là công thức Brahmagupta, cho diện tích của một tứ giác nội tiếp (một tứ giác có các đỉnh nằm trên một vòng tròn) theo các cạnh của nó. Năm 1842, các nhà toán học người Đức Carl Anton Bretschneider và Karl Georg Christian von Staudt đã độc lập với nhau, cùng tìm ra một công thức, được gọi là công thức Bretschneider, cho diện tích của bất kỳ hình tứ giác nào. Diện tích đa giác Sự phát triển của tọa độ Descartes do René Descartes xây dựng vào thế kỷ 17 cho phép phát triển công thức cho diện tích của bất kỳ đa giác nào có vị trí đỉnh đã biết của Gauss vào thế kỷ 19. Diện tích được xác định bằng phép tính tích phân Sự phát triển của phép tính tích phân vào cuối thế kỷ 17 đã cung cấp các công cụ sau đó có thể được sử dụng để tính toán các diện tích phức tạp hơn, chẳng hạn như diện tích hình elip và diện tích bề mặt của các vật thể ba chiều cong khác nhau. Công thức diện tích Đa giác Đối với một đa giác không tự cắt (đa giác đơn), tọa độ Descartes (i = 0, 1,..., n -1) của n đỉnh đã biết, diện tích được cho bởi công thức của người đóng móng: trong đó khi i = n -1, thì i +1 được biểu thị dưới dạng môđun n và do đó quy về 0. Hình chữ nhật Công thức diện tích cơ bản nhất là công thức diện tích hình chữ nhật. Cho một hình chữ nhật có chiều dài và chiều rộng , công thức của diện tích là: . Nghĩa là, diện tích của hình chữ nhật bằng chiều dài nhân với chiều rộng. Trong trường hợp đặc biệt, vì trong trường hợp hình vuông, diện tích của hình vuông có độ dài cạnh được cho bởi công thức: Công thức cho diện tích hình chữ nhật trực tiếp dựa trên các tính chất cơ bản của diện tích, và đôi khi được coi là một định nghĩa hoặc tiên đề. Mặt khác, nếu hình học được phát triển trước số học, công thức này có thể được sử dụng để định nghĩa phép nhân các số thực. Phương pháp tách hình, hình bình hành và hình tam giác Hầu hết các công thức đơn giản khác cho diện tích đều tuân theo phương pháp tách hình. Điều này bao gồm việc cắt một hình thành từng hình nhỏ, và việc tính diện tích hình đó sẽ là việc dùng phép cộng các diện tích các hình con. Ví dụ, bất kỳ hình bình hành nào cũng có thể được chia nhỏ thành hình thang và tam giác vuông, như thể hiện trong hình bên trái. Nếu tam giác được di chuyển sang phía bên kia của hình thang, thì hình thu được là một hình chữ nhật. Theo đó diện tích của hình bình hành bằng diện tích của hình chữ nhật đó:  (hình bình hành). Tuy nhiên, cùng một hình bình hành cũng có thể được cắt theo một đường chéo thành hai tam giác tương đẳng, như trong hình bên phải. Như vậy diện tích của mỗi tam giác bằng một nửa diện tích của hình bình hành:  (Tam giác). Các phép chứng minh tương tự có thể được sử dụng để tìm công thức diện tích cho hình thang cũng như các đa giác phức tạp hơn. Diện tích các hình cong Hình tròn Công thức tính diện tích hình tròn (được gọi đúng hơn là diện tích được bao bởi hình tròn hay diện tích đĩa) dựa trên một phương pháp tương tự. Cho một vòng tròn bán kính nó có thể phân vùng các vòng tròn vào các lĩnh vực, như thể hiện trong hình bên phải. Mỗi cung có dạng hình tam giác gần đúng và các cung có thể được sắp xếp lại để tạo thành một hình bình hành gần đúng. Chiều cao của hình bình hành này là , và chiều rộng bằng nửa chu vi của hình tròn, hay . Như vậy, tổng diện tích của hình tròn là :  (hình tròn). Mặc dù việc phân tách hình tròn được sử dụng trong công thức này chỉ là gần đúng, nhưng sai số ngày càng nhỏ hơn khi vòng tròn được phân chia thành ngày càng nhiều cung. Giới hạn diện tích của các hình bình hành gần đúng là , là diện tích của hình tròn. Lập luận này thực sự là một ứng dụng đơn giản của các ý tưởng của phép tính vi tích phân. Trong thời cổ đại, phương pháp cạn kiệt được sử dụng một cách tương tự để tìm diện tích hình tròn, và phương pháp này ngày nay được công nhận là tiền thân của phép tính tích phân. Sử dụng các phương pháp hiện đại, diện tích hình tròn có thể được tính bằng cách sử dụng một tích phân xác định: Hình elip Công thức cho diện tích được bao bởi một hình elip có liên quan đến công thức của một hình tròn; đối với một hình elip với các bán trục chính và bán trục phụ và , với công thức là: Diện tích bề mặt Hầu hết các công thức cơ bản cho diện tích bề mặt có thể thu được bằng cách cắt các bề mặt và làm phẳng chúng. Ví dụ, nếu bề mặt bên của một hình trụ (hoặc bất kỳ hình lăng trụ nào) được cắt theo chiều dọc, bề mặt đó có thể được làm phẳng thành hình chữ nhật. Tương tự, nếu một vết cắt được thực hiện dọc theo mặt bên của hình nón, bề mặt bên có thể được làm phẳng thành một phần của hình tròn và diện tích kết quả có thể được tính ra. Công thức cho diện tích bề mặt của một hình cầu khó tìm hơn: bởi vì một hình cầu có độ cong Gauss khác 0, nó không thể bị cán dẹt ra. Công thức về diện tích bề mặt của một hình cầu lần đầu tiên được Archimedes thu được trong tác phẩm Về hình cầu và hình trụ. Công thức là:  (hình cầu), với r là bán kính của hình cầu. Cũng giống như công thức về diện tích hình tròn, bất kỳ suy luận nào của công thức này đều sử dụng các phương pháp tương tự như tích phân. Công thức chung Diện tích của các hình 2 chiều Hình tam giác: (trong đó B là cạnh bất kỳ và h là khoảng cách từ đường thẳng mà B nằm đến đỉnh còn lại của tam giác). Có thể sử dụng công thức này nếu biết chiều cao h. Nếu biết độ dài của ba cạnh thì có thể sử dụng công thức Heron: trong đó a, b, c là các cạnh của tam giác và là một nửa chu vi của nó. Nếu cho một góc và hai cạnh bên của nó, diện tích là trong đó là góc đã cho và và là các cạnh của nó. Nếu tam giác được vẽ đồ thị trên một mặt phẳng tọa độ, một ma trận có thể được sử dụng và được đơn giản hóa thành giá trị tuyệt đối của. Công thức này còn được gọi là công thức dây giày và là một cách dễ dàng để giải diện tích của một tam giác tọa độ bằng cách thay thế 3 điểm (x 1, y 1), (x 2, y 2) và (x 3, y 3). Công thức dây giày cũng có thể được sử dụng để tìm diện tích của các đa giác khác khi các đỉnh của chúng đã biết. Một cách tiếp cận khác cho tam giác tọa độ là sử dụng phép tính để tìm diện tích. Một đa giác đơn được xây dựng trên một lưới các điểm có khoảng cách bằng nhau (tức là các điểm có tọa độ nguyên) sao cho tất cả các đỉnh của đa giác là các điểm lưới:, với i là số điểm lưới bên trong đa giác và b là số điểm biên. Kết quả này được gọi là định lý Pick. Diện tích trong giải tích Diện tích giữa đường cong có giá trị dương và trục hoành, được đo giữa hai giá trị a và b (b được định nghĩa là lớn hơn trong hai giá trị) trên trục hoành, được cho bởi tích phân từ a đến b của hàm đại diện cho đường cong: Diện tích giữa đồ thị của hai hàm số bằng tích phân của một hàm số, f (x), trừ đi tích phân của hàm số kia, g (x): Diện tích bị giới hạn bởi một hàm r = r (θ) được biểu thị bằng tọa độ cực là: Khu vực được bao quanh bởi một đường cong tham số với các điểm cuối được cho bởi tích phân đường: (xem định lý Green) hoặc thành phần z của Các công thức thông dụng Xem thêm Độ dài Thể tích Tham khảo Lý thuyết độ đo Bài cơ bản sơ khai Hình học
24156
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20th%E1%BB%ABa%20kh%E1%BB%9Fi%20t%C3%ADn%20lu%E1%BA%ADn
Đại thừa khởi tín luận
Đại thừa khởi tín Luận (zh. dàchéng qǐ xìn lùn 大乘起信論, sa. mahāyānaśraddhotpādaśāstra, en. The Awakening of Faith in Mahayana) được xem là một trong những bộ luận quan trọng nhất của truyền thống Đại thừa. Theo truyền thống cho biết, tác giả là đại sư kiêm thi hào người Ấn Độ là Mã Minh (zh. 馬鳴, sa. Aśvaghoṣa), vị tổ thứ 12 của Thiền Tông. Chú thích Tham khảo Thích Thiện Hoa: Luận Đại Thừa Khỏi Tín trong Phật Học Phổ Thông, tập 3, tr. 222-432. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, 2002. Yoshito Hakeda: The Awakening of Faith. Berkeley: Numata Buddhist Research Center, 2005. Triết lý Phật giáo Kinh văn Phật giáo Đại thừa
24159
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%E1%BB%87n%20H%E1%BB%99i
Thiện Hội
Thiện Hội (? -900), tự gọi là Tổ Phong, tu tại chùa Định Thiền làng Siêu Loại . Người làng Điển Lãnh, là đời (hay thế hệ) thứ 2, dòng Vô Ngôn Thông. Cơ duyên và hành trạng Thiện Hội lúc nhỏ xuất gia với sư Tiệm Nguyên tại chùa Đông Lâm cùng làng. Sư rảo khắp cõi ngoài, cầu học Thiền chỉ. Khi đến chùa Kiến Sơ gặp Thiền sư Cảm Thành bèn xin ở lại và hầu hạ Cảm Thành hơn mười năm. Một hôm Sư vào thất hỏi: "Trong kinh nói: Đức Thích Ca Như Lai, nhân địa tu hành trải qua ba tăng kỳ kiếp mới được thành Phật, nay Đại đức lại luôn luôn bảo: Tức tâm tức Phật. Tôi thật chưa hiểu, xin một phen khai thị cho." Cảm Thành hỏi: "Trong kinh đó là do ai nói?" Sư thưa: "Há chẳng phải Phật nói sao?" Thành hỏi: "Nếu là Phật nói thì tại sao trong kinh Văn Thù bảo: Ta ở đời 49 năm, chưa từng nói một chữ cho ai. Vả lại cổ đức nói: Người tìm văn lấy chứng, thì thêm vướng mắc. Người khổ hạnh cầu Phật thì đều lầm mê. Người lìa tâm cầu Phật là ngoại đạo. Người chấp tâm tức Phật là ma." Sư hỏi: "Như vậy tâm này là cái gì? Cái chẳng phải Phật là cái gì? Như vậy tâm này là Phật gì?" Thành đáp: "Xưa có người hỏi Mã Tổ: Tâm tức là Phật, cái nào là Phật?. Mã Tổ dạy: Ông nghĩ cái nào không phải là Phật chỉ ra xem?. Người ấy không trả lời. Tổ dạy Hiểu được khắp nơi có, không hiểu mãi xa sai. Chỉ một câu thoại đầu nầy, ngươi lại hiểu chưa?" Nghe lời đó xong, Sư thưa: "Con đã hiểu rồi." Thành hỏi: "Ngươi hiểu như thế nào?" Sư thưa: "Khắp cả mọi nơi, không chỗ nào là chẳng phải tâm Phật." Nói xong Sư liền sụp xuống lạy. Cảm Thành bảo: "Cần phải làm thế a?" Nhân đó đặt tên cho Sư là Thiện Hội. Thiền sư Thiện Hội mất tại chùa Định Thiền, năm Canh thân, Đường Quang Hoá thứ 3 (900). Nguyên bản Hán văn 第二世一人□□□□□□□□ 善會禪師 超類鄉定禪寺善會禪師典冷人也蚤依本 鄉東林寺僧漸源出家自號祖風徧逰方外 求學禪要後遇建初感誠便委事之一十餘 年路無倦色嘗一日入室問曰教中道釋迦 如來因地修行歷三大阿僧祗劫始得成佛 今大德每謂即心即仸某甲未明願一開示 誠曰教中是什麽人說師云豈不是仸說耶 誠曰若是佛說為什麽文殊經云吾住世四 十九年未嘗說一字與人且古德道尋文取 證者益滯苦行求佛者俱迷離心求佛者外道 執心是佛(1)者為魔師云如是則此心是那箇 不是佛者為麽(2)師云如是則此心是那箇佛 誠曰昔有人於馬祖問即心即仸那箇是佛 祖云汝疑那箇不是佛指出看其人無對祖 云達即徧境是不悟永乖踈秪遮話頭汝還會 麽師於言下應云某甲會也誠曰汝作麽生 會師云徧一切處無非仸心便禮拜誠曰直 須與麽因以善會名焉後於本寺示寂即唐 光化三年庚申也□□□□□□□□□□ 執心是佛: Bản Nguyễn, 2767; LMT 執心求佛 佛者為麽: Bản Nguyễn, 2767; LMT 佛者為魔 Chú thích Tham khảo Lê Mạnh Thát: Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nhà xuất bản TP HCM 1999. Bản Hán điện tử của Thiền viện Viên Chiếu & Chân Nguyên. Nguyễn Hữu Vinh (Đài Loan) đọc dò lại. Thiền Uyển Tập Anh - Bản Adobe Thiền Uyển Tập Anh - Bản chữ Hán Thiền phái Vô Ngôn Thông Người Bắc Ninh Thiền sư Việt Nam
24160
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2u%20m%C3%A1y%20t%C3%ADnh
Sâu máy tính
Sâu máy tính là một chương trình máy tính chứa phần mềm độc hại độc lập tự sao chép để lây lan sang các máy tính khác. Nó thường sử dụng mạng máy tính để tự lây lan, dựa vào các lỗi bảo mật trên máy tính mục tiêu để truy cập. Nó sẽ sử dụng máy này làm máy chủ để quét và lây nhiễm cho các máy tính khác. Khi các máy tính bị sâu mới này kiểm soát, sâu sẽ tiếp tục quét và lây nhiễm các máy tính khác sử dụng các máy tính này làm máy chủ và hành vi lây lan này sẽ tiếp tục. Sâu máy tính sử dụng phương pháp đệ quy để tự sao chép mà không cần chương trình chủ và tự phân phối dựa trên quy luật tăng trưởng theo cấp số nhân, sau đó điều khiển và lây nhiễm ngày càng nhiều máy tính trong thời gian ngắn. Sâu hầu như luôn gây ra ít nhất một số tác hại cho mạng, ngay cả khi chỉ bằng cách tiêu tốn băng thông, trong khi vi rút hầu như luôn làm hỏng hoặc sửa đổi các tệp trên máy tính được nhắm mục tiêu. Nhiều loại sâu được thiết kế chỉ để lây lan và không cố gắng thay đổi hệ thống mà chúng đi qua. Tuy nhiên, như sâu Morris và Mydoom đã chỉ ra, ngay cả những con sâu "không cần tải" này cũng có thể gây ra gián đoạn lớn bằng cách tăng lưu lượng mạng và các tác động ngoài ý muốn khác. Lịch sử Trên thực tế thuật ngữ "sâu máy tính" được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1975 trong cuốn tiểu thuyết Shockwave Rider của John Brunner. Trong cuốn tiểu thuyết này, Nichlas Haflinger thiết kế và bắt đầu một con sâu thu thập dữ liệu nhằm trả thù những người đàn ông quyền lực điều hành một trang web thông tin điện tử quốc gia gây ra sự giống nhau hàng loạt. "Bạn có con sâu lớn nhất chưa từng có trong mạng và nó sẽ tự động phá hoại mọi nỗ lực theo dõi nó. Chưa bao giờ có con sâu nào có cái đầu cứng rắn hay cái đuôi dài đến thế! " Vào ngày 02 tháng 11 năm 1988, Robert Tappan Morris một sinh viên tốt nghiệp ngành khoa học máy tính tại Đại học Cornell, đã tung ra "sâu" đầu tiên và được gọi là Sâu Morris. Nó đã thâm nhập và lây lan trên một lượng lớn các máy tính trên Internet, ước tính vào thời điểm đó chiếm một phần mười tất cả máy tính kết nối trên internet. Khi Morris bị kiện ra tòa án, tòa phúc thẩm chính phủ Hoa Kỳ ước tính chi phí của việc loại bỏ "sâu" này vào khoảng $ 200-53,000 cho mỗi lần cài đặt và làm sạch trên mỗi máy tính. Sự việc này đã thúc đẩy sự hình thành và ra đời của Trung tâm điều phối CERT để phục vụ trong các trường hợp khẩn cấp và danh sách gửi thư Phage. Bản thân Morris trở thành người đầu tiên bị kết án theo đạo luật CFAA (Computer Fraud and Abuse Act) năm 1986. Đặc điểm Độc lập Virus máy tính thường yêu cầu một chương trình chủ. Virus viết mã của chính nó vào chương trình chủ. Khi chương trình chạy, chương trình vi rút đã viết được thực thi trước, gây nhiễm trùng và hư hỏng. Sâu không cần chương trình chủ vì nó là một chương trình độc lập hoặc đoạn mã độc lập. Do đó, nó không bị hạn chế bởi chương trình chủ mà có thể chạy độc lập và chủ động thực hiện các cuộc tấn công. Các cuộc tấn công khai thác Bởi vì sâu không bị giới hạn bởi chương trình chủ, sâu có thể lợi dụng các lỗ hổng hệ điều hành khác nhau để thực hiện các cuộc tấn công chủ động. Ví dụ, virus Nimda khai thác các lỗ hổng để tấn công. Tính phức tạp Một số sâu được kết hợp với các tập lệnh trang web và được ẩn trong các trang HTML bằng VBScript, ActiveX và các công nghệ khác. Khi người dùng truy cập một trang web có chứa vi rút, vi rút sẽ tự động cư trú trong bộ nhớ và chờ được kích hoạt. Cũng có một số sâu được kết hợp với các chương trình cửa hậu hoặc Trojan, chẳng hạn như "Code Red". Tính lây nhiễm Sâu có khả năng lây nhiễm cao hơn các loại virus truyền thống. Chúng không chỉ lây nhiễm vào các máy tính cục bộ mà còn lây nhiễm sang tất cả các máy chủ và máy khách trên mạng dựa trên máy tính cục bộ. Sâu có thể dễ dàng lây lan qua các thư mục chia sẻ, e-mail, các trang web độc hại và các máy chủ có nhiều lỗ hổng trong mạng. Xem thêm Sâu Melissa (1999) có cơ chế lừa để lây rất hiệu quả đã từng gây thiệt hại hơn 1 tỉ đô la. Chú thích Phần mềm độc hại Internet An ninh Sâu máy tính
24164
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A1%20v%C3%B4i
Đá vôi
Đá vôi là loại một loại đá trầm tích, về thành phần hóa học chủ yếu là khoáng vật calcit và aragonit (các dạng kết tinh khác nhau của calci cacbonat CaCO3). Đá vôi ít khi ở dạng tinh khiết, mà thường bị lẫn các tạp chất như đá phiến silic, silica và đá mácma cũng như đất sét, bùn, cát, bitum... nên nó có màu sắc từ trắng đến màu tro, xanh nhạt, vàng và cả màu hồng sẫm, màu đen. Đá vôi có độ cứng 3, khối lượng riêng 2.600 ÷ 2.800 kg/m³, cường độ chịu nén 1700 ÷ 2600 kg/cm², độ hút nước 0,2 ÷ 0,5%. Các loại đá vôi Đá vôi nhiều silic có cường độ cao hơn, nhưng giòn và cứng. Đá vôi đôlômit có tính năng cơ học tốt hơn đá vôi thường. Đá vôi chứa nhiều sét (lớn hơn 3%) thì độ bền nước kém. Travertin là một loại đá vôi đa dạng, được hình thành dọc theo các dòng suối; đặc biệt là nơi có thác nước và quanh suối nước nóng hoặc lạnh. Tufa, đá vôi xốp được tìm thấy gần các thác nước hay là được hình thành khi các khoáng chất cacbonat kết tủa ra khỏi vùng nước nóng. Coquina là một đá vôi kết hợp kém bao gồm các mảnh san hô hoặc vỏ sò. Đặc điểm Khối lượng riêng là 2,6-2,8 g/cm³ Cường độ chịu nén 45-80 MPA Dễ dàng gia công thành các loại vật liệu dạng hạt Không cứng bằng đá cuội, bị sủi bọt khi nhỏ giấm chua vào và bay khí Xâm thực núi đá vôi Hiện tượng này có thể thấy qua quá trình tạo thành các thạch nhũ trong các hang động. Phương trình hóa học: (1) CaCO3 + CO2 + H2O ↔ Ca(HCO3)2 (2) Chiều phản ứng thuận (1)->(2) diễn tả quá trình xâm thực núi đá vôi. Chiều phản ứng nghịch (2)->(1) diễn tả quá trình hình thành thạch nhũ trong các hang động. Các cách sử dụng Đá vôi không rắn bằng đá granit, nhưng phổ biến hơn, khai thác và gia công dễ dàng hơn, nên được dùng rộng rãi hơn. Đá vôi thường được dùng làm cốt liệu cho bê tông, dùng rải mặt đường ô tô, đường xe lửa, và dùng trong các công trình thủy lợi nói chung, cũng như để chế tạo tấm ốp, tấm lát và các cấu kiện kiến trúc khác. Đá vôi là nguyên liệu để sản xuất vôi và xi măng. Phong cảnh vùng đất đá vôi Núi Tai Mèo Hang động Karst Đồng bằng Karst Động Phong Nha Vịnh Hạ Long Tham khảo Liên kết ngoài Thạch luận Đá trầm tích Đá vôi
24168
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C6%B0%E1%BB%A3ng%20T%E1%BB%91ng
Nhượng Tống
Nhượng Tống (1906-1949), tên thật là Hoàng Phạm Trân, vì bút danh Nhượng Tống nên còn được gọi là Hoàng Nhượng Tống. Ông là nhà văn, nhà báo, dịch giả và là nhà cách mạng Việt Nam. Thân thế Ông là người làng Đô Hoàng, xã Yên Thành, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân sinh ông là Hoàng Hồ, thi đỗ tú tài đời nhà Nguyễn, nổi tiếng chống Pháp. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động chính trị của ông sau này. Ngoài người cha ruột, ông còn làm con nuôi ông Phạm Bùi Cẩm ở phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Sinh ra trong một gia đình Nho học, nên Nhượng Tống được học chữ Hán ngay từ nhỏ, sau mới tự học thêm chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp. Mặc dù học lực rất uyên bác, nhưng ông không có một văn bằng nào cả. Hoạt động cách mạng Năm 1921, báo Khai hóa ra đời, đã thấy ông có bài đăng trên báo ấy. Kể từ đó, ông lần lượt viết cho các báo: Nam thành, Thực nghiệp dân báo, Hồn cách mạng, Hà Nội tân văn... Năm 1924, ông làm trợ bút cho tờ Thực nghiệp dân báo ở Hà Nội. Năm 1926 Ông cùng cụ Đồ Lê (thân sinh đại tướng Lê Trọng Tấn) tổ chức lễ truy điệu nhà chí sĩ Phan Chu Trinh tại đền thờ Hai Bà Trưng, có hàng vạn người tham dự. Cuối năm 1926 hai anh em nhà giáo là Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài thành lập Nam Đồng thư xã trên đường Ngũ Xã (Hà Nội), chuyên xuất bản các sách tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước. Sau đó, Nhượng Tống đến tham gia, và trở thành một thành viên nòng cốt . Thời gian ông viết và dịch hăng say nhất là khoảng thập niên 1940 với những truyện dịch cũng như tác phẩm khác. Tháng 10 năm 1927, Nguyễn Thái Học tham gia Nam Đồng thư xã và thành lập chi bộ để tiến tới thành một đảng cách mạng. Song khác với Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm, Nguyễn Thái Học... Nhượng Tống chủ trương "hòa bình cách mạng", tức không ủng hộ tư tưởng "bạo lực cách mạng", dùng "sắt và máu để giành lại độc lập dân tộc." Ngày 25 tháng 12 năm 1927, Nhượng Tống cùng với các đồng chí thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng tại làng Thể Giao, Hà Nội. Ông là ủy viên trong Trung ương Đảng bộ với vai trò trọng yếu trong việc biên soạn văn thư tuyên truyền và huấn luyện đảng viên. Năm 1929, theo kế hoạch của Nguyễn Thái Học, Nhượng Tống vào Huế gặp Phan Bội Châu, nhưng khi trở ra khi thì bị Pháp đón bắt. Hội đồng đề hình tuyên án ông 10 năm tù rồi đày ra Côn Đảo mãi đến năm 1936 mới được tha, nhưng vẫn chịu sự quản thúc tại quê nhà. Khi ông đang ở nhà lao Côn Đảo, thì các đồng chí của ông tổ chức cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930), nhưng bị thực dân Pháp đàn áp và khủng bố. Bị ám sát Sau Cách mạng tháng Tám, vào tháng 12 năm 1945, ba đảng phái là: Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt Dân chính Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảng liên minh thành Mặt trận quốc dân đảng Việt Nam, rồi cùng tham gia vào Chính phủ Liên hiệp Việt Nam. Tuy nhiên, đến cuối năm 1946, Pháp tái chiếm liên bang Đông Dương, thì Chính phủ Liên hiệp Việt Nam tan vỡ. Năm 1947, hết thời gian bị quản thúc, Nhượng Tống trở lại Hà Nội (1947), rồi cùng với một số đồng chí tái tổ chức lại hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng tại một số vùng do quân Pháp kiểm soát. Ngày 17 tháng 2 năm 1947, Việt Nam Quốc dân đảng tham gia Mặt trận Quốc gia Thống nhất Toàn quốc, chống lại chính quyền Việt Minh và ủng hộ giải pháp Bảo Đại, thành lập chính quyền Quốc gia Việt Nam. Ông làm cố vấn cho Tổng trấn Bắc phần Nghiêm Xuân Thiện. Nhưng rồi vì những mâu thuẫn trong giới chính khách Hà Nội, trong nội bộ Việt Nam Quốc dân Đảng, nên đầu năm 1949, ông lặng lẽ trở về hành nghề thầy thuốc Bắc tại 128 phố Chợ Hôm, Hà Nội. Ngày 8 tháng 9 năm 1949, Nhượng Tống bị công an mật Việt Minh tên là Nguyễn Văn Kịch, người làng Mai Động, Quỳnh Lôi, ngoại thành Hà Nội ám sát tại Hà Nội. Thư mục Sáng tác Hai Bà Trưng, đệ nhất anh thư (1926) (?) Trưng Vương, Hà Nội: Nam Đồng thư xã, 1927 Đời trong ngục, Nhà xuất bản Văn hóa mới, 1935 Lan Hữu, Hà Nội: Nhà in Lê Cường, 1940, tiểu thuyết tình cảm lãng mạn, có tính tự truyện. Tái bản sau 1975: Hà Nội: NXB Văn học và Công ty CP Sách Tao Đàn, 2015. Nguyễn Thái Học, Hà Nội, Tân Việt, 1945 (hồi ký). In lần 2: 1949, lần 3, 1956, lần 4: 1973 đều do Tân Việt tại Sài Gòn; tái bản sau 1975: NXB Hội nhà văn và Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam, 2014. Tân Việt cách mệnh đảng, Việt Nam thư xã, 1945 Hỗ trợ thảo luận, tác giả xuất bản, Tân Việt tổng phát hành, 1945 Treo cổ Hoàng Diệu Phất cờ nương tử Hoa cành Nam, Sài Gòn: Khai Trí, 1964, tập hợp những bài viết của Nhượng Tống từ 1945 và bạn bè viết về ông sau khi ông mất Ngoài ra, ông còn sáng tác một số bài thơ trong đó có những bài đầy khí khái. Dịch phẩm Khuất Nguyên, Ly tao, 1944 (in lại trong: Khuất Nguyên, Sở từ, Đào Duy Anh và Nguyễn Sĩ Lâm dịch, Hà Nội, Nhà xuất bản Văn học, 1974). Tái bản sau 1975: Hà Nội: NXB Văn học và Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam, 2015. Thơ Đỗ Phủ, Hà Nội: Tân Việt, 1944. Tái bản sau 1975: Hà Nội: NXB Văn hóa Thông tin, 1996. Sử ký Tư Mã Thiên, Hà Nội: Tân Việt, 1944. In lần 2: Sài Gòn: Tân Việt, 1964. Tái bản có sửa chữa, bổ chú, lược khảo: Tư Mã Thiên, Sử ký (Nhượng Tống dịch văn, Lâm Tây Trọng bình giảng, Nguyễn Duy Long hiệu khảo), Hà Nội, NXB Văn học và Công ty CP Sách Bách Việt, 2021. Vương Thực Phủ, Mái Tây (Tây sương ký), Hà Nội: Tân Việt, 1944. In lần 2: Sài Gòn: Tân Việt; in lần 3: Sài Gòn: Tân Việt, 1963; tái bản sau 1975: Hà Nội: NXB Văn học, 1992; NXB Văn hóa Thông tin, 1999. Trang tử, Nam Hoa kinh, Hà Nội: Tân Việt, 1945. In lần 2: Sài Gòn: Tân Việt, 1962; tái bản sau 1975: NXB Văn học và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2001. Từ Chẩm Á, Dưới hoa (đăng báo, chưa đầy đủ). Dịch bổ sung và xuất bản: Ngọc lê hồn (Nhượng Tống dịch, Dương Minh dịch bổ sung), Hà Nội: NXB Văn học và Công ty CP Sách Tao Đàn, 2016. Bả phồn hoa. Tái bản sau 1975: Hà Nội: NXB Thế Giới và Mai Hà Books, 2021. Tào Tuyết Cần, Hồng lâu mộng, 1945 Bồ Tùng Linh, Liêu trai chí dị (đăng báo một số truyện) Lão tử, Đạo đức kinh, 1945 Khổng tử, Kinh Thư, Sài Gòn: Tân Việt, 1963. Tái bản sau 1975: Hà Nội: NXB Văn học, 2002. Văn dịch ký bút danh Mạc Bảo Thần: Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội: Tân Việt, 1945. Tái bản: Sài Gòn: Tân Việt, 1964. Nguyễn Trãi, Lam Sơn thực lục, Tân Việt, 1945. In lần 2: Sài Gòn: Tân Việt, 1949; lần 3: Sài Gòn: Tân Việt, 1956. Viết về Nhượng Tống Tạp chí Văn học, số chuyên đề Nhượng Tống, Sài Gòn, phát hành ngày 01/12/1973. Yên Ba, Nhượng Tống - Bi kịch con người giữa những xung đột của thế kỷ XX, NXB Hội nhà văn và Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam, 2021. Thơ Nhượng Tống {| | Cảm đề lịch sử Ba xứ non sông một giải liền, Máu đào xương trắng điểm tô nên. Cơ trời dù đổi trò tang hải, Mặt đất chưa tàn nghiệp tổ tiên. Có nước có dân đừng rẻ rúng; Muốn còn muốn sống phải đua chen. Giựt mình nhớ chuyện nghìn năm cũ; Chiêm, Lạp xưa kia vốn chẳng hèn. | Khóc Nguyễn Thái Học Nhục mấy trùng cao, ách mấy trùng. Thương đời không lẽ đứng mà trông. Quyết quăng nghiên bút xoay gươm súng, Đâu chịu râu mày thẹn núi sông. Người dẫu chết đi, lòng vẫn sống, Việc dù hỏng nữa, tội là công. Nhớ anh nhớ lúc khi lâm biệt; Cười khóc canh khuya chén rượu nồng. | Cảnh nhà tù Hàng vạn con người áo một màu Khác nhau con số chẳng đều nhau Xưa nay vẫn có câu bình đẳngBình đẳng là đây lọ phải cầu! |} Nhận xét (sơ lược) Nhượng Tống đặc biệt yêu quý Đỗ Phủ, như ông tự nhận: Tôi biết đọc thơ từ thuở nhỏ, Trong thơ riêng thích thơ Đỗ Phủ. Lại do ưu tư vì vận nước và hoạt động cách mạng gian truân, mang mối đồng cảm với Khuất Nguyên, Đỗ Phủ... nên ông dịch Ly tao, những vần thơ hiện thực của Đỗ... hết sức thành công, tái tạo được hồn thơ của nguyên tác. Bàn về sự nghiệp văn chương của ông, nhà văn Vũ Ngọc Phan đã khen rằng: "Nhượng Tống có tâm hồn thi sĩ, nên quyển "Lan Hữu" gần như là một tiểu thuyết tả một thứ ái tình lý tưởng. Còn thơ ông có cái đặc sắc là bao giờ cũng già giặn và thiên về tình cảm rất nhiều...Ông quả là một nhà văn tài hoa, lãng mạn và rất sở trường về dịch thuật". Thông tin thêm Ông có người em trai út là Hoàng Trung Tích, là Giám đốc ty Giáo dục Hà Nam Ninh. Ông là anh họ của Chu Thiên tức Hoàng Minh Giám, còn Hoàng Minh Chính (là bộ đội hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ, tác giả phần lời bài hát " Đi học") là con thứ của người em trai thứ hai là Hoàng Trọng Huống, gọi Nhượng Tống là bác. Chú thích Liên kết ngoài Nhượng Tống Nhà văn Việt Nam thời Pháp thuộc Dịch giả Việt Nam Nhà cách mạng Việt Nam Đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng Người Nam Định Nhà văn Việt Nam bị ám sát Nhà báo Việt Nam bị ám sát Chính khách Việt Nam bị ám sát Người bị ám sát bởi thành viên của Việt Minh
24171
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2n%20v%E1%BA%ADn%20%C4%91%E1%BB%99ng%20Olympic%20%28Berlin%29
Sân vận động Olympic (Berlin)
Sân vận động Olympic (; ) là một sân vận động thể thao nằm ở Công viên Olympic Berlin, Berlin, Đức. Sân được xây dựng ban đầu bởi Werner March cho Thế vận hội Mùa hè 1936. Trong thời gian diễn ra Thế vận hội, lượng khán giả kỷ lục được cho là hơn 100.000 người. Ngày nay sân vận động là một phần của Công viên Olympic Berlin. Kể từ khi cải tạo lại vào năm 2004, sân vận động Olympic có sức chứa 74.475 chỗ ngồi và là sân vận động lớn nhất ở Đức cho các trận đấu bóng đá quốc tế. Sân vận động Olympic là sân vận động xếp loại 4 của UEFA và là một trong những địa điểm có uy tín nhất trên thế giới cho các sự kiện thể thao và giải trí. Ngoài việc sử dụng như là một sân vận động điền kinh, nó còn là nơi đã xây dựng một truyền thống bóng đá. Kể từ năm 1963, nó là sân nhà của câu lạc bộ Hertha BSC. Sân vận động đã tổ chức ba trận đấu trong khuôn khổ Giải vô địch bóng đá thế giới 1974. Sân được cải tạo lại cho Giải vô địch bóng đá thế giới 2006, thời điểm mà nó tổ chức sáu trận đấu, bao gồm cả trận chung kết. Trận đấu chung kết của Cúp bóng đá Đức được diễn ra mỗi năm tại địa điểm này. Sân vận động Olympic Berlin còn là nơi tổ chức Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2011 cũng như là trận chung kết UEFA Champions League 2015, Giải vô địch điền kinh thế giới năm 2009. Lịch sử 1916–1934: Sân vận động Deutsches Trong Thế vận hội Mùa hè 1912, thành phố Berlin được Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) chỉ định đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1916. Sân vận động được đề xuất của Đức cho sự kiện này được đặt tại Charlottenburg, trong Rừng Grunewald, ở phía tây Berlin - do đó sân vận động còn được gọi là Grunewaldstadion. Một trường đua ngựa đã tồn tại ở đó thuộc về Berliner Rennverein, và thậm chí ngày nay các quầy bán vé cũ vẫn tồn tại trên Jesse-Owens-Allee. Chính phủ Đức quyết định không xây dựng trong rừng Grunewald gần đó, hoặc cải tạo các công trình đã tồn tại. Vì mong muốn này, họ đã thuê cùng một kiến ​​trúc sư đã xây dựng "Rennverein", Otto March. March quyết định chôn sân vận động xuống đất ("Erdstadion", trong tiếng Đức). Tuy nhiên, Thế vận hội Olympic năm 1916 đã bị hủy bỏ do Chiến tranh thế giới thứ nhất. Vào những năm 1920, công trình đầu tiên của một trường học, "Deutsches Sportforum" (Diễn đàn thể thao của Đức), dành riêng cho việc giảng dạy của các giáo sư thể dục và nghiên cứu khoa học thể thao, được xây dựng về phía đông bắc của địa điểm sân vận động. Từ năm 1926 đến năm 1929, các con trai của Otto March (Werner và Walter) được giao xây dựng một khu phụ cho các cơ sở này, mặc dù việc hoàn thiện bị trì hoãn cho đến năm 1936. 1936–1945: Sân vận động Olympic Năm 1931, Ủy ban Olympic Quốc tế đã chọn Berlin để đăng cai Thế vận hội Mùa hè lần thứ 11. Ban đầu, chính phủ Đức chỉ quyết định khôi phục lại Sân vận động Olympic trước đó vào năm 1916, với Werner March một lần nữa được giữ lại để làm việc này. Khi Đức Quốc xã lên nắm quyền ở Đức (1933), họ quyết định sử dụng Thế vận hội Olympic năm 1936 cho mục đích tuyên truyền. Với những kế hoạch này, Adolf Hitler đã ra lệnh xây dựng một khu liên hợp thể thao lớn ở Grunewald được đặt tên là "Reichssportfeld" với một Sân vận động Olympic hoàn toàn mới. Kiến trúc sư Werner March vẫn phụ trách dự án với sự trợ giúp của anh trai ông là Walter. Quá trình xây dựng diễn ra từ năm 1934 đến năm 1936. Khi hoàn thành, Reichssportfeld có diện tích 132 ha (330 mẫu Anh). Nó bao gồm (đông sang tây): Sân vận động Olympic, Maifeld (Mayfield, sức chứa 50.000 người) và giảng đường Waldbühne (sức chứa 25.000 người), ngoài ra còn có nhiều địa điểm, công trình và cơ sở cho các môn thể thao khác nhau (như bóng đá, bơi lội, cưỡi ngựa và khúc côn cầu trên cỏ) ở phần phía bắc. Werner March đã xây dựng Sân vận động Olympic mới trên nền của Sân vận động Deutsches ban đầu, một lần nữa với nửa dưới của cấu trúc lõm xuống 12 mét (39,4 ft) so với mặt đất. Sức chứa của Sân vận động Olympic lên tới 110.000 khán giả. Sân cũng sở hữu một vị trí đặc biệt cho Adolf Hitler và các cộng sự chính trị của ông ta. Cuối cùng, phù hợp với bố cục được thiết kế đối xứng của các tòa nhà của Olympischer Platz và về phía Maifeld, là Cổng Marathon với một ngăn chứa lớn cho Ngọn lửa Olympic. Maifeld Maifeld (Mayfield) được tạo ra như một bãi cỏ khổng lồ (11,2 ha, 28 mẫu Anh) cho các cuộc biểu tình tập thể dục, đặc biệt là lễ kỷ niệm Ngày tháng Năm hàng năm của chính phủ. Khu vực này được bao quanh bởi độ cao 19 mét (62 ft) trên mặt đất, mặc dù Sân vận động Olympic (về phía đông) chỉ cao 17 mét (55 ft). Tổng sức chứa là 250.000 người, với 60.000 người ở khán đài lớn kéo dài ở đầu phía tây. Cũng nằm ở đó có Langemarck-Halle (bên dưới) và Tháp chuông (trên cao). Các bức tường được xây bằng đá vững chắc từ khu vực Lower Alps, và cũng có các tác phẩm điêu khắc về ngựa (tác phẩm của Joseph Wackerle). Điều này bao gồm các hội trường lớn được xây dựng dưới khán đài của Maifeld. Các cột được dựng lên trên đó treo cờ và lá chắn để tưởng nhớ tất cả các lực lượng đã tham gia trận chiến tại Langemark (Tây Flanders, Bỉ) vào ngày 10 tháng 11 năm 1914, trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Từ năm 2006, tầng trệt là nơi tổ chức một cuộc triển lãm cung cấp thông tin lịch sử về khu vực Reichssportfeld cũ. Trong Thế vận hội năm 1936, Maifeld được sử dụng cho các sự kiện thi đấu polo và cưỡi ngựa. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, lực lượng chiếm đóng của Quân đội Anh (Lữ đoàn Bộ binh Berlin) hàng năm tổ chức Lễ sinh nhật chính thức của Vua hoặc Nữ hoàng tại Maifeld và sử dụng nó cho nhiều hoạt động thể thao bao gồm cricket. Bắt đầu từ năm 2012, Maifeld trở thành sân nhà của Câu lạc bộ Cricket Berlin. Tháp chuông Tháp chuông đăng quang ở cuối phía tây của Reichs Sportfield được trồng giữa các tầng của khán đài Maifeld. Nó cao 77 mét (247 ft). Từ đỉnh của nó có thể quan sát toàn cảnh thành phố Berlin. Trong các môn thi đấu, nó được sử dụng như một trạm quan sát của các quản trị viên và các quan chức cảnh sát, bác sĩ và giới truyền thông. Trong tháp là Chuông Olympic. Trên bề mặt của nó là những chiếc Nhẫn Olympic có hình một con đại bàng, năm 1936, Cổng Brandenburg, ngày 1-16. Tháng 8 và một khẩu hiệu giữa hai chữ Vạn: I call the youth of the world và 11. Olympic Games Berlin - mặc dù các môn thi đấu là Thế vận hội lần thứ 10 (Mùa hè), chúng là Thế vận hội của Olympic lần thứ XI. Tháp chuông là phần duy nhất của Reichssportfeld đã bị phá hủy trong chiến tranh. Đệ tam đế chế đã sử dụng cấu trúc của tháp để lưu trữ các tài liệu lưu trữ (chẳng hạn như phim). Quân đội Liên Xô đã đốt lửa, biến tòa tháp thành một ống khói tạm bợ. Cấu trúc nổi lên từ đám cháy bị hư hại nghiêm trọng và suy yếu. Năm 1947, các kỹ sư người Anh đã phá bỏ tòa tháp; tuy nhiên, nó đã được tái tạo lại chính xác vào năm 1962. Chuông Olympic (đã sống sót sau trận hỏa hoạn và vẫn ở nguyên vị trí của nó trong tháp) rơi xuống 77 mét và nứt vỡ và không thể phát ra âm thanh kể từ đó. Năm 1956, chiếc chuông được giải cứu, chỉ được sử dụng làm mục tiêu tập bắn bằng đạn chống tăng. Chiếc chuông cũ bị hư hỏng vẫn tồn tại và được dùng như một đài tưởng niệm. Việc tái tạo lại tòa tháp được thực hiện từ năm 1960 đến năm 1962, một lần nữa do kiến ​​trúc sư Werner March thực hiện theo bản thiết kế ban đầu. Tòa tháp hiện tại đã trở thành một địa điểm du lịch quan trọng với bức tranh toàn cảnh của Berlin, Spandau, Thung lũng Havel, Potsdam, Nauen và Hennigsdorf. Trận chiến quan trọng nhất xung quanh Sân vận động Olympic là vào tháng 4 năm 1945 khi quân đội Liên Xô chiến đấu để chiếm nó. Đây là trận chiến cuối cùng của Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu, với cuộc xâm lược toàn bộ Berlin là mục tiêu của quân Đồng minh. Sân vận động Olympic sống sót sau cuộc chiến gần như không bị ảnh hưởng; nó chỉ chịu tác động của những phát súng máy. 1945–1990: Kỷ nguyên Tây Berlin Sau chiến tranh, Reichssportfeld cũ trở thành trụ sở của lực lượng chiếm đóng quân đội Anh. Chính quyền định cư trong các tòa nhà phía đông bắc do anh em nhà March thiết kế vào những năm 1920, mà Đệ tam Đế chế đã sử dụng cho các tổ chức thể thao chính thức như Học viện Thể dục Thể thao và được mở rộng vào năm 1936, bổ sung thêm "Haus des deutschen Sports" (Nhà của Thể thao Đức) và các tòa nhà khác (thuộc về Công viên Olympic Berlin từ năm 1994, một cơ sở thể thao trung tâm của Thành phố Berlin). Không lâu sau, lực lượng Anh đã cải tạo các tòa nhà bị tàn phá do chiến tranh nhưng cũng chuyển đổi nội thất theo nhu cầu cụ thể của họ (một phòng tập thể dục được chuyển đổi thành nhà ăn, phòng khác thành nhà để xe). Từ năm 1951 đến năm 2005, Olympischer Platz có một ăng-ten khổng lồ truyền cho tất cả các đài cầm tay ở Berlin. Từ đó cho đến năm 1994 và sự ra đi của họ, quân Anh đã tổ chức hàng năm lễ kỷ niệm Sinh nhật chính thức của Nữ hoàng tại Maifeld với hàng nghìn khán giả từ Berlin có mặt. Trong những năm 1960, các đội bóng đá quân sự và trung học của Mỹ đã giới thiệu hàng trăm nghìn người Berlin đến với bóng đá Mỹ tại sân vận động trong các trận đấu triển lãm. Trong những năm đó, các trận đấu bóng đá Bundesliga được diễn ra tại Sân vận động Olympic, với Hertha BSC là đội địa phương. Tại Maifeld, một số giải đấu bóng đá, bóng bầu dục và polo cũng đã được tổ chức. Vào mùa hè, Waldbühne tiếp tục các buổi hòa nhạc cổ điển và chiếu phim. Nhà hát cũng được sử dụng như một sàn đấu ngẫu hứng cho các trận đấu quyền Anh. 1990–2004: Berlin thống nhất Năm 1998, người Berlin đã tranh luận về vận mệnh của Sân vận động Olympic dựa trên di sản mà sân đại diện cho nước Đức. Một số muốn phá bỏ sân vận động và xây một sân vận động mới từ đầu, trong khi những người khác lại thích để sân từ từ đổ nát "giống như Đấu trường La Mã ở Roma". Cuối cùng, người ta quyết định cải tạo Sân vận động Olympic. FIFA đã chọn sân là một trong những địa điểm tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới 2006. Bang Berlin đã thuê một tập đoàn gồm Walter Bau AG và DYWIDAG đã giành được 45 triệu euro nhượng quyền thương mại. Liên danh phụ trách hoạt động của các cơ sở cùng với Hertha BSC và chính quyền Berlin sau khi tu sửa. Vào ngày 3 tháng 7 năm 2000, việc cải tạo bắt đầu với một buổi lễ do Thủ tướng Gerhard Schröder chủ trì, cùng với Eberhard Diepgen (Thị trưởng Berlin), Franz Beckenbauer và Giáo sư Tiến sĩ Ignaz Walter. 2004–nay: Nhà thi đấu đa năng Lễ khánh thành lại Sân vận động Olympic mới được thực hiện vào ngày 31 tháng 7 năm 2004 và ngày 1 tháng 8 năm 2004. Vào ngày hôm đó, thứ Bảy, bữa tiệc bắt đầu với màn trình diễn của Pink, Nena và Daniel Barenboim. Đỉnh cao là vào ban đêm với lễ khai mạc. Vào ngày thứ hai, các trận giao hữu được diễn ra giữa các hạng mục khác nhau của câu lạc bộ Hertha BSC và đội khách. Vào ngày 8 tháng 9 năm 2004, Brasil đấu với Đức. Năm 2011, địa điểm này đã tổ chức Lễ hội Văn hóa Thế giới do Art of Living tổ chức, nơi 70.000 người thiền định vì hòa bình. Năm 2018, địa điểm đã tổ chức Giải vô địch điền kinh châu Âu 2018. Sân vận động Cải tạo Với ý định tạo ra một bầu không khí thân mật hơn cho các trận đấu bóng đá, mặt sân đã được hạ xuống 2,65 mét (8,7 ft). Khoảng 90.000 mét khối (3.200.000 cu ft) cát đã được khai quật. Tầng dưới của ghế trong sân vận động đã bị phá hủy và xây dựng lại ở một góc độ hoàn toàn khác. Mái che được mở rộng để bao phủ tổng cộng 37.000 mét vuông (400.000 ft vuông), với 20 cột đỡ mái mang trọng lượng 3.500 tấn (3.900 tấn ngắn) thép. Mái che tăng 68 mét (223 ft) trên ghế và được tạo thành từ các tấm trong suốt cho phép ánh sáng mặt trời chiếu vào ban ngày. Phần phía tây (trên Marathon Arch) được mở để lộ ra Tháp Chuông cho khán giả. Yếu tố bảo tồn của Sân vận động Olympic như một di tích lịch sử cũng được xem xét, đặc biệt là đối với việc bảo tồn các khối đá tự nhiên. Sau những lời chỉ trích, màu sắc của đường chạy điền kinh quanh sân thi đấu đã được thay đổi từ màu đỏ sang màu xanh, phản ánh màu sắc của Hertha BSC. Việc cải tạo đã sử dụng 70.000 mét khối (2.500.000 cu ft) bê tông và 20.000 mét khối (710.000 cu ft) của các yếu tố bê tông cốt thép đúc sẵn. Một số 12.000 mét khối (420.000 cu ft) bê tông đã bị phá hủy và loại bỏ và 30.000 mét khối (1.100.000 cu ft) đá tự nhiên đã được tân trang lại. Sân vận động Olympic được trang bị công nghệ mới nhất trong thiết bị âm thanh và chiếu sáng nhân tạo. Sân có 113 khán đài VIP, một bộ nhà hàng và hai nhà để xe ngầm (cho 630 xe hơi). Tổng chi phí tu sửa và khuếch đại là 242 triệu euro. Sức chứa Sân vận động Olympic mới có sức chứa toàn bộ chỗ ngồi cao nhất ở Đức. Nó có sức chứa là 74.475 chỗ ngồi. Tầng trên có 31 hàng ghế ở độ dốc trung bình 23° và có 36.455 chỗ ngồi, trong đó 36.032 là ghế thường, 290 ghế ngồi trên bệ báo chí và 133 ghế ngồi trong skybox. Tầng dưới có 42 hàng ghế ở góc trung bình 25,4° và có 38.020 chỗ ngồi, trong đó 32.310 là ghế thường, 560 là ghế hộp, 563 là ghế phòng chờ (có thể mở rộng lên 743), 4.413 là ghế kinh doanh và 174 không gian xe lăn. Đối với một số trận đấu bóng đá nhất định, chẳng hạn như giữa Hertha BSC và FC Bayern München, khả năng có thể được mở rộng tạm thời. Điều này được thực hiện bằng việc bổ sung khán đài di động trên Marathon Arch. Sức chứa mở rộng đạt 76.197 chỗ ngồi trong năm 2014. Các sân vận động duy nhất ở Đức có tổng sức chứa cao hơn là Signal Iduna Park ở Dortmund và Allianz Arena ở München. Tuy nhiên, Signal Iduna Park và Allianz Arena có cả khu vực chỗ ngồi và chỗ đứng, và sức chứa tất cả chỗ ngồi của họ thấp hơn Sân vận động Olympic. Tổng sức chứa của Allianz Arena cũng thấp hơn so với sức chứa mở rộng của Sân vận động Olympic. Người thuê sân Sân vận động đã được sử dụng làm sân nhà của Hertha BSC của Bundesliga kể từ năm 1963. Năm 1963, Bundesliga được thành lập và Hertha BSC đã tham gia bằng lời mời trực tiếp, rời sân vận động cũ ("Plumpe") để sử dụng Sân vận động Olympic. Vào ngày 24 tháng 8, đội đã chơi trận địa phương đầu tiên với 1. FC Nürnberg, với tỷ số cuối cùng là 1–1. Tuy nhiên, vào năm 1965, Hiệp hội bóng đá Đức đã phát hiện Hertha BSC phạm tội hối lộ và đưa họ đến Giải đấu Khu vực. Năm 1968, Hertha trở lại giải đấu hạng nhất, và đến Sân vận động Olympic, và năm 1971 đã bán "Plumpe". Nửa sau thập niên 1970 là khoảng thời gian khá thành công với Hertha BSC Berlin. Năm 1979, đội đã lọt vào bán kết Cúp UEFA, nhưng bị đánh bại bởi Sao Đỏ Beograd. Hertha lọt vào trận chung kết Cúp quốc gia Đức hai lần (1977 và 1979). Vào những năm 1980, Hertha đã sa sút tại Bundesliga, và xuống Giải đấu Khu vực vào năm 1986, mặc dù sau đó họ đã hồi sinh để đạt được Giải đấu hạng hai (1988–1989). Với việc phá hủy Bức tường Berlin vào tháng 11 năm 1989, một cảm giác đồng cảm tự phát giữa Hertha và 1. FC Union Berlin từ Đông Berlin nảy sinh, lên đến đỉnh cao trong trận đấu giao hữu tại Sân vận động Olympic với 50.000 khán giả (27 tháng 1 năm 1990). Năm 1990, Hertha trở lại Giải hạng nhất, mặc dù lại xuống Giải hạng hai từ năm 1991 đến năm 1997. Từ năm 1997, câu lạc bộ đã tiến bộ, leo lên Bundesliga và đủ điều kiện tham dự UEFA Champions League, với các trận đấu với các đội bóng hàng đầu châu Âu như Chelsea và A.C. Milan. Sự kiện đáng chú ý Sân vận động Olympic đã giữ kỷ lục thế giới về số lượng khán giả dự khán một trận bóng chày trong Thế vận hội 1936 khi được cho là có hơn 100.000 người. Kể từ năm 1985, sân vận động đã tổ chức các trận chung kết của cả Cúp bóng đá Đức và giải đấu nữ đồng hành của nó, Cúp bóng đá nữ Đức. Tuy nhiên, sân không tổ chức trận chung kết năm 2010 của Cúp bóng đá nữ Đức, được tổ chức tại RheinEnergieStadion của Cologne như một phần của cuộc thử nghiệm để tổ chức sự kiện ở một thành phố khác. Sân vận động đã tổ chức 5 giải American Bowls từ năm 1990-1994. Sân vận động này cũng là sân nhà của Berlin Thunder, một đội bóng bầu dục Mỹ tại NFL Europa, từ năm 2003 cho đến khi nhà điều hành giải đấu, National Football League của Hoa Kỳ, đóng cửa giải đấu do bị thua lỗ vào năm 2007. Sân vận động cũng đã tổ chức Lễ hội Văn hóa Thế giới năm 2011 là để kỷ niệm 30 năm phục vụ nhân loại của Art of Living Foundation. Sân vận động này cũng tổ chức Internationales Stadionfest, cũng là một sự kiện IAAF Golden League cho đến năm 2010. Hiện tại vẫn chưa rõ về tương lai của sự kiện này. Sân vận động tổ chức Giải vô địch điền kinh thế giới 2009, nơi Usain Bolt đã phá kỷ lục thế giới về nội dung 100 mét và 200 mét. Thế vận hội Mùa hè 1936 Vào ngày 1 tháng 8 năm 1936, Thế vận hội chính thức được khai mạc bởi nguyên thủ quốc gia Adolf Hitler, và chiếc vạc Olympic được thắp sáng bởi vận động viên Fritz Schilgen. Bốn triệu vé đã được bán cho tất cả các sự kiện của Thế vận hội Mùa hè 1936. Đây cũng là Thế vận hội đầu tiên có truyền hình (25 không gian xem rải rác khắp Berlin và Potsdam) và truyền radio bằng 28 ngôn ngữ (với 20 xe đài và 300 microphone). Trong khi ngọn lửa Olympic được sử dụng lần đầu tiên ở Amsterdam năm 1928, tại Berlin năm 1936, một cuộc hành trình giống như marathon vòng quanh ngọn đuốc Olympic đã được giới thiệu, từ Olympia ở Hy Lạp, băng qua sáu biên giới với hành trình đến Berlin, qua Hy Lạp, Bulgaria, Nam Tư, Hungary, Tiệp Khắc, Áo và Đức. Ý tưởng ban đầu của cuộc rước đuốc Olympic này là của Carl Diem, người từng là cố vấn chính trị cho Bộ trưởng Tuyên truyền Joseph Goebbels, chuyên phụ trách các vấn đề Olympic. Thế vận hội là chủ đề của bộ phim tuyên truyền Olympia (1938) của Leni Riefenstahl. Trong số các môn thi đấu, một trong những sự kiện đáng nhớ nhất là màn trình diễn của vận động viên điền kinh người Mỹ gốc Phi Jesse Owens, đại diện cho Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Owens giành huy chương vàng ở nội dung 100, 200, nhảy xa và tiếp sức 4 x 100. Một trong những con đường chính bên ngoài sân vận động được đặt tên Jesse Owens Allee để ghi nhận màn trình diễn của anh. Sân vận động này cũng tổ chức các sự kiện nhảy ngựa, bóng đá và bóng ném. Bảng A Giải vô địch bóng đá thế giới 1974 Ba trận đấu của Bảng A (Tây Đức, Chile, Đông Đức và Úc) đã được diễn ra tại Sân vận động Olympic. Trận đấu thứ ba, Úc vs Chile, diễn ra trong cơn mưa xối xả. Tuy nhiên, trận đấu lịch sử giữa hai đội Đức lại diễn ra tại Hamburg. Đội chủ nhà Tây Đức đã vô địch giải đấu. Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 Các trận đấu sau đây được diễn ra tại Berlin, tại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006: Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2011 Năm 2011, Sân vận động Olympic đã tổ chức trận đấu mở màn của Đức trong Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2011. Đây là trận đấu duy nhất trong giải đấu được tổ chức tại sân vận động. Chung kết UEFA Champions League 2015 Vào tháng 5 năm 2013, Olympiastadion được chọn làm nơi tổ chức trận chung kết UEFA Champions League 2015. FC Barcelona đã giành được danh hiệu thứ năm và hoàn thành cú ăn ba thứ hai. Buổi hòa nhạc Tài liệu tham khảo văn hóa Sân vận động được sử dụng làm cảnh quay trong bộ phim về điệp viên thời chiến tranh lạnh The Quiller Memorandum (1966). Giao thông U-Bahn Tàu điện ngầm (U-Bahn) U2 đưa du khách đến thẳng nhà ga Sân vận động Olympic. Từ đó đi bộ một đoạn ngắn là đến sân vận động (Cổng Đông: 500m, Cổng Nam: 870m). Thời gian di chuyển trung bình: 14 phút từ Zoologischer Garten, 24 phút từ Potsdamer Platz, 34 phút từ Alexanderplatz. S-Bahn Tàu khu vực (S-Bahn) S3 và S9 sẽ đưa du khách thẳng đến nhà ga Sân vận động Olympic. Từ đó đi bộ một đoạn ngắn là đến sân vận động (Lối vào Cổng Nam qua lối ra Flatowallee: 200 m, Lối vào Cổng Đông qua lối ra Trakehner Allee: 250m). Thời gian di chuyển trung bình: 7 phút từ ga Spandau, 14 phút từ Zoologischer Garten, 22 phút từ Friedrichstrasse, 26 phút từ Alexanderplatz. Xe buýt Với các tuyến xe buýt M49 và 218 du khách có thể đến trạm dừng Flatowallee. Từ đó đến sân vận động một quãng đi bộ ngắn. Với tuyến xe buýt 104 du khách có thể đến ga tàu điện ngầm Neu-Westend. Từ đó có thể đi bộ trực tiếp đến sân vận động. Du khách cũng có thể đi tàu điện ngầm và ra tại nhà ga Sân vận động Olympic. Xem thêm Berlin Bóng đá tại Berlin Thể thao tại Berlin Văn học "Olympic Stadium Berlin" by Andreas Janowski. Published by Andreas Janowski Verlag under the label "sights-on-audio" 1936 Summer Olympics official report. Volume 1. pp. 141–9, 154–62. Tham khảo Liên kết ngoài Official Olympiastadion Site Picture galleries: An illustrative walk along the facilities of the Olympischer Platz. Địa điểm thi đấu Thế vận hội Mùa hè 1936 Các sân vận động giải vô địch bóng đá thế giới 1974 Các sân vận động giải vô địch bóng đá thế giới 2006 Giải vô địch điền kinh thế giới 2009 Các sân vận động giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2011 Các sân vận động giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 Địa điểm điền kinh Đức Địa điểm American Bowl Địa điểm bóng bầu dục Mỹ tại Đức Công trình xây dựng Charlottenburg-Wilmersdorf Địa điểm bóng đá Đức Công trình Gerkan, Marg und Partner Hertha BSC SC Tasmania 1900 Berlin Kiến trúc Đức Quốc Xã Địa điểm điền kinh Olympic Địa điểm bóng đá Olympic Địa điểm bóng ném Olympic Berlin Địa điểm thể thao Berlin Sân vận động đã tổ chức trận chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới Địa điểm thể thao hoàn thành năm 1936 Khởi đầu năm 1936 ở Đức
24173
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%A2n%20Phong%20%28thi%E1%BB%81n%20s%C6%B0%29
Vân Phong (thiền sư)
Vân Phong (?-956), có tên gọi khác là Chủ Phong, tu tại chùa Khai Quốc , tại kinh đô Thăng Long, người Từ Liêm , quận Vĩnh Khương. Sư họ Nguyễn và là đời (hay thế hệ) thứ 3, dòng Vô Ngôn Thông. Cơ duyên và hành trạng Tương truyền, khi mẹ Sư mang thai, bà thường ăn chay, tụng kinh. Lúc sinh thấy có ánh sáng lạ chiếu khắp nhà. Cha mẹ thấy điềm lạ, nên khi Sư lớn lên, cha mẹ cho Sư xuất gia theo hầu Sư Thiện Hội ở Siêu Loại. Sư thuộc hàng cao đệ, được thầy truyền dạy yếu lĩnh thiền. Thiện Hội có lần bảo Sư: Sống chết là việc lớn, cần phải giải quyết ngay. Sư hỏi: Khi sống chết đến, làm sao tránh khỏi? Hội đáp: Hãy nắm lấy chỗ không sống chết mà tránh. Sư hỏi: Thế nào là chỗ không sống chết? Hội đáp: Ngay trong sống chết nắm lấy nó mới được. Sư hỏi: Làm sao mà hiểu? Hội đáp: Ngươi hãy đi, chiều nay sẽ đến. Chiều Sư lại vào, như đã hẹn, Hội bảo: Đợi đến sáng mai đông đủ, sẽ chứng minh cho ngươi. Sư tỉnh ngộ, liền sụp lạy. Hội hỏi: Ngươi thấy đạo lý gì? Sư thưa: Con đã lĩnh hội. Hội hỏi: Ngươi hiểu như thế nào?. Sư đưa nắm tay lên, thưa: Bất tiếu là cái này đây. Hội liền bảo thôi. Thiền Sư Vân Phong mất vào năm Bính thìn là năm thứ ba niên hiệu Hiển Đức đời Châu (956). Chú thích Nguyên bản Hán văn □第三世一人□□□□□□□□□□ 雲峯禪師 昇龍京開國寺雲峯禪師〖一名主峯〗永康𨛦慈廉人 也阮氏母懷娠時齋素持(1)經生而神光照室 雙親感異許以出家及長師事超類善會禪 師爲入室弟子宻扣玄機禪學曰(2)益會嘗謂 師云生死事大直須打底師問云生死到來 如何迴避會云管取無生死處迴避又問如 何是無生死處會云於生死中會取始得師 云作麽生會會云偁且去日暮即來師便如 期果至會云待朝明日眾與汝證明師豁然 省悟禮拜會云汝見什麽道理師云某甲領 也會云汝作麽生師竪拳云不肖遮箇會便 休以後周顯德三年丙辰示寂□□□□□ Bản khắc 〖⿰扌夺〗 曰 có lẽ là 日 (nhật), không thấy LMT hiệu đính Tham khảo Lê Mạnh Thát: Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nhà xuất bản TP HCM 1999. Bản Hán điện tử của Thiền viện Viên Chiếu & Chân Nguyên. Nguyễn Hữu Vinh (Đài Loan) đọc dò lại. Thiền Uyển Tập Anh - Bản Adobe Thiền Uyển Tập Anh - Bản chữ Hán Thiền sư Việt Nam Thiền phái Vô Ngôn Thông Người Hà Nội
24175
https://vi.wikipedia.org/wiki/Indonesia
Indonesia
Indonesia, tên gọi chính thức là Cộng hòa Indonesia (tiếng Indonesia: Republik Indonesia), thường được gọi ngắn là Indo, là một đảo quốc liên lục địa, nằm giữa Đông Nam Á và Châu Đại Dương. Indonesia được mệnh danh là "Xứ sở vạn đảo" vì lãnh thổ của nước này bao gồm 13.487 hòn đảo với dân số ước tính đạt hơn 279 triệu người (năm 2022), xếp thứ 4 thế giới và đứng thứ 3 châu Á. Indonesia là quốc gia có số dân theo Hồi giáo lớn nhất trên thế giới, tuy nhiên khác với Malaysia và Brunei, trong Hiến pháp Indonesia không đề cập tới tôn giáo này là quốc giáo (do vậy không thể coi Indonesia là một quốc gia Hồi giáo giống như các nước Tây Á, Trung Đông, Bắc Phi, Malaysia hay Brunei,...). Indonesia theo thể chế cộng hòa với một bộ máy lập pháp và Tổng thống do dân bầu. Indonesia có biên giới trên đất liền với Papua New Guinea ở đảo New Guinea, Đông Timor ở đảo Timor và Malaysia ở đảo Borneo, ngoài ra vùng biển giáp các nước Singapore, Việt Nam, Philippines, Úc, và lãnh thổ Quần đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ. Thủ đô hiện tại là Jakarta và đây cũng đồng thời là tỉnh lớn nhất, tuy nhiên do sự quá tải dân số đang gây sức ép lớn lên hệ thống cơ sở hạ tầng, chính phủ Indonesia đang có chủ trương dời đô trong tương lai. Quần đảo Indonesia từng là một vùng thương mại quan trọng nhất từ thế kỷ VII. Lịch sử Indonesia bắt đầu khi Vương quốc Srivijaya có các hoạt động giao thương với Trung Quốc và Ấn Độ. Những vị vua cai trị địa phương dần tiếp thu văn hóa, tôn giáo và các mô hình quản lý kiểu Ấn Độ từ những thế kỷ đầu tiên của Công Nguyên, tiếp sau đó, các vương quốc Ấn Độ giáo cũng như Phật giáo đã bắt đầu hình thành và phát triển. Indonesia bị ảnh hưởng bởi các cường quốc nước ngoài muốn nhòm ngó các nguồn tài nguyên thiên nhiên của quần đảo. Các nhà buôn Hồi giáo đã đưa đạo Hồi tới đây, đồng thời, các cường quốc châu Âu cũng bắt đầu tranh giành ảnh hưởng để độc chiếm lĩnh vực thương mại trên các hòn đảo Hương liệu Maluku trong Thời đại Khám phá. Sau hơn ba thế kỷ dưới ách thống trị của thực dân Hà Lan, Indonesia đã giành được độc lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau độc lập, Indonesia tiếp tục rơi vào nhiều biến động lớn như xung đột quyền lực giữa các phe phái chính trị, nạn tham nhũng cũng như một quá trình dân chủ hoá chưa triệt để. Tuy gồm rất nhiều hòn đảo, Indonesia vẫn có các nhóm sắc tộc, ngôn ngữ và tôn giáo riêng biệt. Người Java là nhóm sắc tộc đông đúc và có vị thế chính trị lớn nhất còn người Indonesia gốc Hoa là nhóm cộng đồng có sức ảnh hưởng lớn nhất tới nền kinh tế. Indonesia là 1 trong 5 quốc gia tham sáng lập ASEAN, thành viên của nhiều tổ chức toàn cầu lớn trong đó nổi bật nhất là G-20. Năm 2020, nền kinh tế Indonesia có quy mô lớn nhất khu vực Đông Nam Á, xếp thứ 15 toàn cầu hoặc hạng 4 châu Á và thứ 7 toàn cầu theo GDP sức mua tương đương (ước tính 2020). Tuy nhiên, do dân số quá đông (hơn 274,1 triệu người) nên GDP bình quân đầu người của nước này vẫn ở mức trung bình thấp. Quốc gia này có chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức cao và được công nhận là một cường quốc ở khu vực Đông Nam Á cũng như cường quốc bậc trung trên thế giới. Khẩu hiệu quốc gia của Indonesia, "Bhinneka tunggal ika" - "Thống nhất trong đa dạng" (theo nghĩa đen "nhiều, nhưng là một"), đã thể hiện rõ sự đa dạng hình thành nên quốc gia này. Tuy nhiên, những căng thẳng tôn giáo và chủ nghĩa ly khai đã dẫn tới những xung đột bạo lực đe doạ sự ổn định kinh tế và chính trị. Dù có dân số lớn và nhiều vùng dân cư đông đúc, Indonesia vẫn còn nhiều khu vực hoang vu, đây là quốc gia có mức độ đa dạng sinh học đứng hàng đầu trên thế giới. Quốc gia này cũng rất giàu các nguồn tài nguyên thiên nhiên, có diện tích lãnh thổ rộng lớn nhất, dân số đông nhất và là quốc gia duy nhất thuộc G-20 trong số các nước Đông Nam Á, tuy vậy, tình trạng lạc hậu của các vùng nông thôn, tỷ lệ người nghèo cao cùng sự chênh lệch giàu nghèo, bất bình đẳng thu nhập gia tăng đang là những vấn đề, thách thức lớn của xã hội Indonesia hiện đại. Từ nguyên Danh từ Indonesia là một từ ghép bao gồm hai thành tố: Indus tiếng Latinh, có nghĩa là "Ấn Độ"; và nesos tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "hòn đảo". Tên gọi này xuất hiện từ thế kỷ XVIII, rất lâu trước khi nhà nước Indonesia độc lập hình thành. Năm 1850, nhà phong tục học người Anh George Earl đề xuất thuật ngữ Indunesians — và một từ nữa mà ông thấy thích hơn là Malayunesians — để chỉ những người dân sống trên "Quần đảo Ấn Độ hay Quần đảo Malaya" trong một bài báo học thuật. Cũng trong bài viết đó, học trò của Earl là James Richardson Logan đã sử dụng Indonesia như một từ đồng nghĩa với Quần đảo Ấn Độ. Tuy nhiên, các tài liệu của viện hàn lâm Hà Lan viết về Đông Ấn lúc bấy giờ vẫn còn lưỡng lự trong việc sử dụng từ Indonesia. Thay vào đó, họ dùng các thuật ngữ như Quần đảo Malay (Maleische Archipel); Đông Ấn Hà Lan (Nederlandsch Oost Indië), khái quát chung Indië; phương Đông (de Oost); và thậm chí Insulinde. Kể từ năm 1900 trở đi, tên gọi Indonesia trở nên phổ thông hơn trong các cộng đồng hàn lâm bên ngoài Hà Lan, và nó dần được các nhóm chủ nghĩa dân tộc tiếp nhận nhằm mục đích chính trị. Adolf Bastian, thuộc Đại học Berlin, đã giúp từ này được biết đến rộng rãi hơn qua cuốn sách Indonesien oder die Inseln des Malayischen Archipels, 1884–1894 của ông. Học giả Indonesia đầu tiên sử dụng thuật ngữ này là Suwardi Suryaningrat (Ki Hajar Dewantara), khi ông thiết lập một văn phòng báo chí tại Hà Lan với tên gọi Indonesisch Pers-bureau vào năm 1913. Lịch sử Các di tích hoá thạch của người Homo erectus, thường được gọi là "Người Java", cho thấy quần đảo Indonesia đã có người ở từ hai triệu năm tới 500.000 năm trước. Người Nam Đảo, là cộng đồng dân cư đa số hiện tại, đã di cư tới Đông Nam Á từ Đài Loan. Họ tới Indonesia từ khoảng năm 2000 trước Công Nguyên, và đẩy người Melanesia bản xứ về các vùng xa xôi phía đông khi họ mở rộng lãnh thổ. Các điều kiện nông nghiệp lý tưởng, và nền văn minh lúa nước xuất hiện sớm từ thế kỷ thứ VIII trước Công Nguyên, cho phép các làng mạc, thị trấn và các vương quốc nhỏ dần phát triển từ thế kỷ thứ nhất. Vị trí đường biển chiến lược của Indonesia giúp thương mại nội địa và với nước ngoài phát triển. Ví dụ, các con đường thương mại nối với cả các vương quốc Ấn Độ và Trung Quốc đã được thiết lập từ nhiều thế kỷ trước Công Nguyên. Chính thương mại đã hình thành nên lịch sử Indonesia. Từ thế kỷ thứ bảy, vương quốc hàng hải Srivijaya hùng mạnh phát triển nhờ thương mại và các ảnh hưởng của Hindu giáo cùng Phật giáo được du nhập vào cùng thương mại. Từ thế kỷ thứ VIII tới thế kỷ thứ X, các triều đại nông nghiệp Phật giáo Sailendra và Hindu giáo Medang phát triển và suy tàn trong vùng nội địa Java, để lại các công trình tôn giáo lớn như Borobudur của Sailendra và Prambanan của Medang. Vương quốc Hindu Majapahit được thành lập ở phía đông Java hồi cuối thế kỷ XIII, và ở thời Gajah Mada, ảnh hưởng của nó đã lan rộng tới hầu hết Indonesia; giai đoạn này thường được coi là một "Thời kỳ Huy hoàng" trong lịch sử Indonesia. Dù các thương gia Hồi giáo đã lần đầu đi qua Đông Nam Á từ đầu thời kỳ Hồi giáo, bằng chứng sớm nhất về cộng đồng dân cư Hồi giáo tại Indonesia có niên đại từ thế kỷ XIII ở phía bắc Sumatra. Các vùng khác của Indonesia dần chấp nhận Hồi giáo, và nó đã là tôn giáo ưu thế tại Java và Sumatra từ cuối thế kỷ XVI. Ở hầu hết các nơi, Hồi giáo vượt lên và pha trộn với các ảnh hưởng văn hóa và tôn giáo bản địa, hình thành nên hình thức Hồi giáo hiện tại ở Indonesia, đặc biệt tại Java. Những người châu Âu đầu tiên tới Indonesia năm 1512, khi các thương gia Bồ Đào Nha, do Francisco Serrão dẫn đầu tìm cách thâu tóm các nguồn tài nguyên nhục đậu khấu, đinh hương, và hạt tiêu tại Maluku. Các thương gia Hà Lan và Anh nhanh chóng theo chân. Năm 1602, Hà Lan thành lập Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) và trở thành một quyền lực lớn của châu Âu. Sau khi bị phá sản, Công ty Đông Ấn Hà Lan chính thức bị giải tán năm 1800, và chính phủ Hà Lan thành lập Đông Ấn Hà Lan như một thuộc địa được quốc hữu hóa. Trong hầu hết thời gian của thời kỳ thuộc địa, Hà Lan chỉ kiểm soát vùng đất này một cách lỏng lẻo; chỉ tới đầu thế kỷ XX Hà Lan mới thực sự kiểm soát toàn bộ vùng đất lãnh thổ Indonesia hiện tại. Cuộc xâm lược và chiếm đóng của Nhật Bản sau đó trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã chấm dứt thời kỳ cai trị của Hà Lan, và khuyến khích phong trào độc lập từng bị đàn áp trước đó ở Indonesia. Hai ngày sau khi Nhật Bản đầu hàng, ngày 17 tháng 8 năm 1945, Sukarno, một lãnh đạo ảnh hưởng theo chủ nghĩa quốc gia, tuyên bố độc lập và được chỉ định làm tổng thống. Người Hà Lan đã tìm cách tái lập quyền cai trị, và cuộc tranh giành ngoại giao và vũ trang đã chấm dứt vào tháng 12 năm 1949, khi đối mặt với sức ép quốc tế, Hà Lan chính thức công nhận nền độc lập của Indonesia (ngoại trừ lãnh thổ Hà Lan Tây New Guinea, đã được tích hợp theo Thoả thuận New York năm 1962, và Đạo luật Tự do Lựa chọn được Liên hiệp quốc uỷ thác). Sukarno chuyển từ dân chủ sang chủ nghĩa độc đoán, và duy trì cơ sở quyền lực bằng cách cân bằng các lực lượng đối lập trong quân đội, và Đảng Cộng sản Indonesia (PKI). Quân đội âm mưu đảo chính ngày 30 tháng 9 năm 1965, dẫn tới Các vụ giết người tại Indonesia 1965-1966, một phong trào thanh trừng chống cộng trong đó Đảng Cộng sản Indonesia bị cáo buộc âm mưu đảo chính, các đảng viên Cộng sản bị săn lùng và tiêu diệt. Khoảng 500 nghìn tới 1 triệu người bị cho là có liên hệ với Đảng Cộng sản Indonesia đã bị giết hại. Lãnh đạo quân đội, Tướng Suharto, công khai làm suy yếu vị trí chính trị của Sukarno, và được chính thức chỉ định làm tổng thống vào tháng 3 năm 1968. Chính sách Trật tự Mới của ông được chính phủ Mỹ ủng hộ, và khuyến khích đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Indonesia, đây là một yếu tố chính dẫn tới ba thập kỷ tăng trưởng kinh tế ổn định sau đó. Tuy nhiên, sự độc đoán của chính sách "Trật tự Mới" bị chỉ trích rộng rãi vì tình trạng tham nhũng và đàn áp chính trị đối lập. Năm 1997 và 1998, Indonesia là nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất của cuộc Khủng hoảng Tài chính châu Á. Điều này càng khiến sự bất mãn của dân chúng với Trật tự Mới gia tăng và dẫn tới các cuộc tuần hành dân chúng. Suharto từ chức ngày 21 tháng 5 năm 1998. Xung đột sắc tộc ở Indonesia đã mang lại những vụ việc đẫm máu. Vào năm 1965, hàng chục nghìn người Hoa bị giết hại trong phong trào chống Cộng ở Indonesia. Sau sự kiện này, các trường dạy tiếng Trung Quốc bị đóng cửa, chữ viết Trung Quốc bị cấm. Chính quyền cũng cấm người Hoa tổ chức những ngày lễ, tết truyền thống, hạn chế nói tiếng Trung Quốc ở nơi công cộng. Các quan chức cho rằng ngôn ngữ Trung Quốc đối với người Indonesia cũng "nguy hiểm như vũ khí". Mãi đến thời cựu tổng thống Abdurrahman Wahid, tình hình mới dễ thở hơn cho người Hoa ở Indonesia - họ được phép sử dụng chữ viết của mình và kỷ niệm những ngày lễ, tết truyền thống. Trong cuộc biến động năm 1998, tâm lý thù ghét người Hoa khiến họ bị biến thành mục tiêu của bạo lực. Tháng 5/1998, những phần tử cực đoan đã cướp bóc, đốt tài sản của Hoa kiều, tấn công nhiều người. Gần 170 phụ nữ gốc Trung Quốc bị cưỡng hiếp, hậu quả là 20 người chết Năm 1999, Đông Timor bỏ phiếu ly khai khỏi Indonesia, sau một cuộc xâm chiếm quân sự dài 25 năm được đánh dấu bởi những lời lên án quốc tế và những vụ đàn áp thường xuyên với người Đông Timor. Từ khi Suharto từ chức, một quá trình tăng cường dân chủ gồm cả một chương trình trao quyền tự trị cho các vùng, và cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp năm 2004. Tình trạng bất ổn chính trị và kinh tế, bất ổn xã hội, tham nhũng và chủ nghĩa khủng bố đã giảm sút đáng kể. Dù các quan hệ giữa các tôn giáo và các nhóm sắc tộc phần lớn hài hòa, những vấn đề bất đồng và bạo lực tại một số khu vực vẫn thỉnh thoảng xảy ra. Một cuộc dàn xếp chính trị cho cuộc xung đột vũ trang ly khai ở Aceh đã được thực hiện năm 2005. Địa lý Indonesia gồm 13.487 hòn đảo, khoảng 6.000 trong số đó không có người ở. Các hòn đảo nằm rải rác ở cả hai phía đường xích đạo. Năm hòn đảo lớn nhất là Java, Sumatra, Kalimantan (phần Borneo thuộc Indonesia), New Guinea (cùng chung với Papua New Guinea), và Sulawesi. Indonesia có biên giới trên bộ với Malaysia trên hòn đảo Borneo và Sebatik, Papua New Guinea trên đảo New Guinea, và Đông Timor trên đảo Timor. Indonesia cũng có chung biên giới với Singapore, Malaysia, và Philippines ở phía bắc và Australia ở phía nam bằng một dải nước hẹp. Thủ đô, Jakarta, nằm trên đảo Java là thành phố lớn nhất nước, sau đó là Surabaya, Bandung, Medan, và Semarang. Với đặc điểm địa lý trên, Indonesia được mệnh danh là "Xứ sở vạn đảo". Với diện tích 1.907.540 km² (741.050 dặm vuông), Indonesia là nước đứng thứ 14 trên thế giới về diện tích đất liền. Mật độ dân số trung bình là 142 người trên km² (347 trên dặm vuông), đứng thứ 80 trên thế giới, dù Java, hòn đảo đông dân nhất thế giới, có mật độ dân số khoảng hơn 1000 người trên km² (2.435 trên dặm vuông). Nằm ở độ cao 4.884 mét (16.024 ft), Puncak Jaya tại Papua là đỉnh cao nhất Indonesia, và hồ Toba tại Sumatra là hồ lớn nhất, với diện tích 1.145 km² (442 dặm vuông). Các con sông lớn nhất nước này nằm ở Kalimantan, và gồm các sông Mahakam và Barito; những con sông này là các đường giao thông quan trọng nối giữa các khu định cư trên đảo. Indonesia nằm trên các rìa của các mảng Thái Bình Dương, Âu-Á, và Úc khiến nước này trở thành nơi có nhiều núi lửa và thường xảy ra các vụ động đất. Indonesia có ít nhất 150 núi lửa đang hoạt động, gồm cả Krakatoa và Tambora, cả hai núi lửa này đều đã có những vụ phun trào gây phá hủy lớn trong thế kỷ XIX. Vụ phun trào siêu núi lửa Toba khoảng 70.000 năm trước, là một trong những vụ phun trào lớn nhất từng xảy ra và là một thảm họa toàn cầu. Những thảm họa gần đây liên quan tới hoạt động kiến tạo gồm vụ sóng thần năm 2004 đã giết hại tổng cộng gần 230.000 người và khoảng 168.000 người tính riêng phía bắc Sumatra, và trận động đất Yogyakarta năm 2006. Tuy nhiên, tro núi lửa là một yếu tố đóng góp vào sự màu mỡ của đất trong lịch sử từng giúp nuôi sống mật độ dân cư dày tại Java và Bali. Nằm dọc theo xích đạo, Indonesia có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với hai mùa mưa và khô riêng biệt. Lượng mưa trung bình hàng năm tại các vùng đất thấp khoảng từ 1.780–3.175 milimét (70–125 in), và lên tới 6.100 milimét (240 in) tại các vùng núi. Các vùng đồi núi—đặc biệt ở bờ biển phía tây Sumatra, Tây Java, Kalimantan, Sulawesi, và Papua—có lượng mưa lớn nhất. Độ ẩm nói chung cao, trung bình khoảng 80%. Nhiệt độ ít thay đổi trong năm; trung bình tại Jakarta là 26–30 °C (79–86 °F). Rừng nhiệt đới ẩm chiếm gần 2/3 diện tích lãnh thổ. Đất canh tác 8% (3% được tưới), đồng cỏ 10%, rừng và cây bụi 67%, các đất khác 15%. Khoáng sản chính: dầu khí, thiếc, niken, bauxit, đồng, than, vàng, bạc. Sinh thái Diện tích, khí hậu nhiệt đới cùng với hình thế địa lý quần đảo của Indonesia khiến nước này có mức độ đa dạng sinh học đứng thứ hai thế giới—chỉ sau Brazil— và hệ động thực vật của nó là sự pha trộn của các giống loài châu Á và Australasia. Khi còn kết nối với lục địa châu Á, thềm Sunda (Sumatra, Java, Borneo, và Bali) có hệ động vật châu Á rất phong phú. Các loài thú lớn như hổ, tê giác, đười ươi, voi, và báo, từng hiện diện với số lượng lớn tới tận phía đông Bali, nhưng số lượng và diện tích phân bố của chúng đã giảm mạnh, đặc biệt ở Indonesia có loài Rồng komodo (Varanus komodoensis) là loài thằn lằn lớn nhất thế giới, chiều dài con lớn trung bình 2–3 m. Đây là một loại thuộc họ kỳ đà, (Varanidae), và sống trên nhiều đảo của Indonesia, năm 2011 con vật này đã được chọn làm biểu tượng linh vật của SEA Games 26. Rừng bao phủ khoảng 60% đất nước. Tại Sumatra và Kalimantan, có rất nhiều loài động vật châu Á. Tuy nhiên, rừng đang suy giảm, và số lượng dân cư đông đảo tại Java càng khiến tình trạng phá rừng tăng cao lấy đất sinh sống và canh tác. Sulawesi, Nusa Tenggara, và Maluku—từng tách rời khỏi lục địa từ lâu—đã phát triển hệ động thực vật của riêng mình. Papua từng là một phần của lục địa Úc, và là nơi có hệ động vật duy nhất có liên quan gần gũi với hệ động thực vật Australia, với hơn 600 loài chim. Indonesia đứng thứ hai chỉ sau Australia về mức độ loài đặc hữu, với 26% trong tổng số 1.531 loài chim và 39% trong tổng số 515 loài có vú là động vật đặc hữu. Bờ biển dài 80.000 kilômét (50.000 dặm) của Indonesia được bao quanh bởi các biển nhiệt đới cũng đóng góp vào mức độ đa dạng sinh thái cao của nước này. Indonesia có nhiều hệ sinh thái biển và bờ biển, gồm các bãi biển, đụn cát, cửa sông, bãi lầy, rặng san hô, bãi cỏ biển, bãi bùn ven biển, bãi thủy triều, bãi tảo, và các hệ sinh thái nhỏ trong đất liền. Nhà tự nhiên học người Anh, Alfred Wallace, đã mô tả về một đường ranh giới phần bố giữa các loài châu Á và châu Úc. Được gọi là đường Wallace, chạy gần theo hướng bắc nam dọc theo cạnh Thềm Sunda, giữa Kalimantan và Sulawesi, và dọc theo Eo Lombok sâu, giữa Lombok và Bali. Phía tây đường này hệ động thực vật mang nhiều đặc điểm châu Á; về phía đông Lombok, hệ động thực vật dần mang đặc điểm Australia. Trong cuốn sách The Malay Archipelago năm 1869, Wallace đã miêu tả nhiều loài động vật duy chỉ có ở vùng này. Vùng đảo giữa đường Wallace và New Guinea hiện được gọi là Wallacea. Dân số cao và cuộc công nghiệp hóa nhanh chóng của Indonesia đặt ra nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng và thường không được chú trọng nhiều vì mức độ nghèo đói cao cũng như sự quản lý yếu kém với các nguồn tài nguyên. Các vấn đề này gồm phá rừng trên quy mô lớn (đa số là trái phép) và những trận cháy rừng gây ra những đám khói dày che phủ nhiều vùng phía tây Indonesia, Malaysia và Singapore; khai thác quá mức các nguồn tài nguyên biển; và các vấn đề môi trường đi liền với sự đô thị hóa và phát triển kinh tế quá nhanh, gồm ô nhiễm không khí, tắc đường, quản lý rác, và xử lý nước thải. Phá hủy môi trường sống đe doạ sự tồn tại của các loài bản địa và đặc hữu, gồm 140 loài thú được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) xác định là đang bị đe dọa, và 15 loài được coi là bị đe dọa tuyệt chủng, gồm cả đười ươi Sumatra (Sumatran Orangutan). Nhân khẩu Dân số quốc gia theo cuộc tổng điều tra năm 2000 là 206 triệu người, và Văn phòng Thống kê Trung ương Indonesia và Thống kê Indonesia ước tính dân số năm 2006 là 222 triệu người., và năm 2012 đã đạt 249 triệu người, là quốc gia đông dân nhất khu vực Đông Nam Á, đứng thứ 3 châu Á và đứng thứ 4 thế giới. Với 130 triệu người, Java là đảo đông dân nhất thế giới hiện nay. Dù có một chương trình kế hoạch hóa gia đình khá hiệu quả được thực thi từ thập niên 1960, dân số nước này được cho sẽ tăng lên khoảng 315 triệu người năm 2035, dựa trên mức ước tính tỷ lệ tăng hàng năm hiện nay là 1,25%. Đa số người Indonesia là hậu duệ của những người nói các thứ tiếng Nam Đảo có nguồn gốc từ Đài Loan. Các nhóm chính khác gồm người Melanesia, sống ở phía đông Indonesia. Có khoảng 300 sắc tộc bản địa khác nhau tại Indonesia, và 742 ngôn ngữ cùng thổ ngữ. Nhóm đông nhất là người Java, chiếm 42% dân số, và có ưu thế văn hóa cũng như chính trị. Người Sunda, Malay, và Madur là các nhóm lớn nhất ngoài Java. Bản sắc địa phương của các sắc tộc được duy trì bên cạnh một tình cảm quốc gia Indonesia mạnh mẽ. Xã hội phần lớn hài hòa, dù các căng thẳng xã hội, tôn giáo và sắc tộc đã gây ra những vụ bạo lực kinh khủng. Người Indonesia gốc Hoa là sắc tộc thiểu số có ảnh hưởng dù chiếm chưa tới 1% dân số. Đa số lĩnh vực thương mại và tài sản tư nhân quốc gia đều thuộc sự kiểm soát của người Hoa, điều này góp phần gây ra sự oán giận to lớn, và thậm chí bạo lực chống lại người Hoa. Ngôn ngữ quốc gia, tiếng Indonesia, được dạy trong các trường học và đại học, và được sử dụng bởi hầu hết mọi người dân Indonesia. Đây là ngôn ngữ được dùng trong thương mại, chính trị, truyền thông quốc gia, giáo dục và hàn lâm. Về nguồn gốc nó từng là một ngôn ngữ chung cho hầu hết cả vùng, gồm cả nước Malaysia hiện nay, và vì thế có quan hệ chặt chẽ với tiếng Malaysia. Tiếng Indonesia lần đầu tiên được những người theo chủ nghĩa quốc gia truyền bá vào thập niên 1920, và đã được tuyên bố là ngôn ngữ chính thức khi nước này giành độc lập năm 1945. Đa số người dân Indonesia nói ít nhất một trong hàng trăm ngôn ngữ địa phương (bahasa daerah), thường như tiếng mẹ đẻ. Trong số các ngôn ngữ đó, tiếng Java được sử dụng nhiều nhất bởi nó là ngôn ngữ của nhóm sắc tộc lớn nhất. Mặt khác, Papua có 500 hay nhiều hơn các ngôn ngữ bản địa thuộc nhóm Papua hay Nam Đảo, trong một vùng chỉ có 2,7 triệu dân. Đa số những người lớn tuổi hiện nay vẫn có thể nói tiếng Hà Lan ở một mức độ nào đó. Dù tự do tôn giáo đã được quy định trong Hiến pháp Indonesia, chính phủ chính thức công nhận chỉ sáu tôn giáo: Hồi giáo; Tin Lành; Công giáo La Mã; Ấn Độ giáo; Phật giáo; và Nho giáo. Dù không phải là một nhà nước Hồi giáo, Indonesia là quốc gia có đa số tín đồ Hồi giáo, với 86,1% người dân tuyên bố là tín đồ đạo này theo cuộc điều tra dân số năm 2000. Indonesia có 9% dân số là tín đồ Kitô giáo (trong đó khoảng hai phần ba theo Tin Lành), 3% là tín đồ Hindu giáo, và 2% là tín đồ Phật giáo hay tôn giáo khác. Đa số tín đồ Hindu Indonesia là người Bali, và đa số tín đồ Phật giáo tại Indonesia ngày nay là người Hoa. Dù hiện là tôn giáo thiểu số, Hindu giáo và Phật giáo vẫn có ảnh hưởng trong văn hóa Indonesia. Hồi giáo lần đầu được người dân Indonesia chấp nhận ở miền bắc Sumatra trong thế kỷ XIII, thông qua ảnh hưởng từ các thương nhân, và đã trở thành tôn giáo chiếm ưu thế tại quốc gia này từ thế kỷ XVI. Cơ đốc giáo La Mã lần đầu được đưa tới Indonesia bởi những người thực dân và các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha thời kỳ đầu, và phái Tin Lành chủ yếu phát triển nhờ những nhà truyền giáo người Hà Lan phái Calvin và Luther trong thời kỳ thực dân tại đây. Một tỷ lệ lớn người dân Indonesia-như người abangan Java, người Hindu giáo Bali, và người Kitô giáo Dayak-thực hành một dạng tôn giáo dung hợp và ít chính thống hơn, dựa trên các phong tục và tín ngưỡng địa phương. Phân cấp hành chính Về mặt hành chính, Indonesia gồm 38 tỉnh, trong đó năm tỉnh có quy chế đặc biệt. Mỗi tỉnh có cơ quan lập pháp và thống đốc riêng. Các tỉnh được chia tiếp thành các huyện (kabupaten) và các thành phố (kota), chúng lại được chia tiếp thành các quận (kecamatan), và các nhóm làng (hoặc desa hay kelurahan). Sau khi áp dụng các biện pháp vùng tự trị năm 2001, các huyện và các thành phố đã trở thành các đơn vị hành chính chủ chốt, chịu trách nhiệm cung cấp hầu hết dịch vụ nhà nước. Cấp hành chính làng là đơn vị có ảnh hưởng lớn nhất tới cuộc sống thường ngày của người dân, và giải quyết các vấn đề của làng hay khu vực lân cận thông qua một lurah hay kepala desa (trưởng làng) do dân bầu. Các tỉnh Aceh, Jakarta, Yogyakarta, Papua, và Tây Papua có mức độ tự trị và ưu tiên hành pháp cao hơn từ chính quyền trung ương so với các tỉnh khác. Ví dụ, chính phủ Aceh, có quyền thiết lập một hệ thống luật pháp độc lập; năm 2003, tỉnh này đã cho ra đời một hình thức Sharia (Luật Hồi giáo). Yogyakarta được trao vị thế Vùng Đặc biệt để ghi nhận vai trò nòng cốt của nó trong việc hỗ trợ những người Cộng hòa Indonesia thời Cách mạng Indonesia. Papua, thường được gọi bằng Irian Jaya, đã được hưởng một quy chế tự chủ đặc biệt từ năm 2001. Jakarta là vùng thủ đô đặc biệt của quốc gia. Các tỉnh của Indonesia và thủ phủ Dấu † chỉ các tỉnh có quy chế đặc biệt Sumatra Aceh† – Banda Aceh Bắc Sumatra (Sumatera Utara) – Medan Tây Sumatra (Sumatera Barat) – Padang Riau – Pekanbaru Quần đảo Riau (Kepulauan Riau) – Tanjung Pinang Jambi – Jambi Nam Sumatra (Sumatera Selatan) – Palembang Bangka-Belitung (Kepulauan Bangka-Belitung) – Pangkal Pinang Bengkulu – Bengluku Lampung – Bandar Lampung Java Jakarta† – Jakarta Banten – Serang Tây Java (Jawa Barat) – Bandung Trung Java (Jawa Tengah) – Semarang Vùng đặc biệt Yogyakarta† (Daerah Istimewa Yogyakarta) – Yogyakarta Đông Java (Jawa Timur) – Surabaya Quần đảo Sunda nhỏ/ (Nusa Tenggara) Bali – Denpasar Tây Nusa Tenggara (Nusa Tenggara Barat) – Mataram Đông Nusa Tenggara (Nusa Tenggara Timur) – Kupang Kalimantan Tây Kalimantan (Kalimantan Barat) – Pontianak Trung Kalimantan (Kalimantan Tengah) – Palangkaraya Nam Kalimantan (Kalimantan Selatan) – Banjarmasin Đông Kalimantan (Kalimantan Timur) – Samarinda Bắc Kalimantan (Kalimantan Utara) – Tanjung Selor Sulawesi Bắc Sulawesi (Sulawesi Utara) – Manado Gorontalo – Gorontalo Trung Sulawesi (Sulawesi Tengah) – Palu Tây Sulawesi (Sulawesi Barat) – Mamuju Nam Sulawesi (Sulawesi Selatan) – Makassar Đông Nam Sulawesi (Sulawesi Tenggara) – Kendari Quần đảo Maluku Maluku – Ambon Bắc Maluku (Maluku Utara) – Sofifi Tây New Guinea Papua Cao nguyên (Papua Pegunungan) – Wamena Nam Papua (Papua Selatan) – Merauke Tây Papua† (Papua Barat) – Manokwari Tây Nam Papua (Papua Barat Daya) – Sorong Trung Papua (Papua Tengah) – Nabire Papua† – Jayapura Chính phủ và chính trị Indonesia là một nước cộng hòa với một hệ thống tổng thống. Với tư cách một quốc gia đơn nhất, quyền lực tập trung trong tay chính phủ trung ương. Sau cuộc từ chức của Tổng thống Suharto năm 1998, chính trị Indonesia và các cơ cấu chính phủ đã trải qua những cuộc cải cách lớn. Bốn sửa đổi đã được tiến hành với Hiến pháp Indonesia năm 1945 sắp xếp lại các nhánh hành pháp, lập pháp, và tư pháp. Tổng thống Indonesia là lãnh đạo quốc gia, tổng tư lệnh các Lực lượng Vũ trang Indonesia, và là người chịu trách nhiệm quản lý nhà nước, lập chính sách cùng quan hệ đối ngoại. Tổng thống chỉ định một hội đồng bộ trưởng, các thành viên của hội đồng không buộc phải là các thành viên được bầu của nghị viện. Cuộc bầu cử tổng thống năm 2004 là cuộc bầu cử đầu tiên dân chúng được trực tiếp bầu ra tổng thống và phó tổng thống. Tổng thống có thể phục vụ tối đa hai nhiệm kỳ 5 năm liên tiếp. Cơ quan đại diện cao nhất ở cấp quốc gia là Hội nghị Hiệp thương Nhân dân (MPR). Các chức năng chính của cơ quan này là hỗ trợ và sửa đổi hiến pháp, chứng nhận tổng thống nhậm chức, chính thức hoá các khuôn khổ của chính sách quốc gia. Cơ quan này có quyền buộc tội tổng thống. MPR gồm hai viện; Hội đồng Đại diện Nhân dân (DPR), với 550 thành viên, và Hội đồng Đại diện Khu vực (DPD), với 128 thành viên. DPR thông qua các luật và giám sát nhánh hành pháp; các thành viên thuộc các đảng chính trị được bầu với nhiệm kỳ 5 năm theo đại diện tỷ lệ. Những cải cách từ năm 1998 đã làm tăng đáng kể vai trò của DPR trong việc điều hành quốc gia. DPD hiện là một cơ quan mới chịu trách nhiệm quản lý khu vực. Đa số các tranh chấp dân sự đều được đưa ra trước Tòa Nhà nước; các vụ phúc thẩm được xử tại Tòa Cấp cao. Tòa án Tối cao là tòa cấp cao nhất của nhà nước, và đưa ra phán quyết cuối cùng về các vụ phúc thẩm sau khi đã xem xét lại vụ việc. Các tòa khác gồm Tòa Thương mại, xử các vụ phá sản và mất khả năng thanh toán, một Tòa án Hành chính Quốc gia xử các vụ về luật hành chính chống lại chính phủ; một Tòa án Hiến pháp xử các vụ về tính hợp pháp của pháp luật, các cuộc bầu cử, giải tán các đảng chính trị, và phạm vi quyền lực của các định chế nhà nước; và một Tòa án Tôn giáo để xử các vụ án tôn giáo riêng biệt. Ngoại giao Trái với tình cảm chống chủ nghĩa thực dân và những căng thẳng với Malaysia thời Sukarno, quan hệ ngoại giao của Indonesia từ thời chính sách "Trật tự Mới" của Suharto đã được đặt trên cơ sở hợp tác kinh tế và chính trị với các quốc gia phương Tây. Indonesia duy trì quan hệ gần gũi với các nước láng giềng ở Châu Á, và là một thành viên sáng lập của ASEAN cùng Hội nghị cấp cao Đông Á. Quốc gia này đã tái lập quan hệ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1990 sau một thời gian đóng băng bởi quan điểm chống cộng thời đầu cầm quyền của Suharto. Indonesia đã là một thành viên của Liên hiệp quốc từ năm 1950, và là một nước sáng lập Tổ chức không liên kết (NAM) và Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC). Indonesia tham gia vào thỏa thuận Vùng Tự do Thương mại ASEAN, Nhóm Cairns, và WTO, và trong lịch sử từng là một thành viên của OPEC, dù đã rút lui vào năm 2008 bởi họ không còn là một nước xuất khẩu dầu mỏ. Indonesia đã nhận được viện trợ nhân đạo và viện trợ phát triển từ năm 1966, đặc biệt từ Hoa Kỳ, Tây Âu, Australia, và Nhật Bản. Chính phủ Indonesia đã làm việc với các quốc gia khác để ngăn chặn và truy tìm những kẻ đánh bom có liên quan tới các du kích Hồi giáo và Al-Qaeda. Vụ gây tổn thất nhiều nhân mạng nhất đã giết hại 202 người, gồm 164 du khách quốc tế, ở thị xã nghỉ mát thuộc Bali Kuta năm 2002. Những vụ tấn công, và những cảnh báo du lịch được đưa ra sau đó bởi các quốc gia khác, đã làm thiệt hại nghiêm trọng ngành công nghiệp du lịch và đầu tư nước ngoài. Quân sự Quân đội Indonesia được đánh giá là lực lượng quân sự thiện chiến nhất khu vực Đông Nam Á.Các lực lượng vũ trang Indonesia (TNI) với 300.000 thành viên gồm Quân đội (TNI-AD), Hải quân (TNI-AL, gồm cả thủy quân lục chiến), và Không quân (TNI-AU). Quân đội có khoảng 233.000 lính thường trực. Chi phí quốc phòng trong ngân sách quốc gia khoảng 4% GDP năm 2006, và được cung cấp thêm bởi các khoản lợi nhuận từ thương mại và các quỹ của quân đội. Giai đoạn hậu Suharto từ năm 1998, đại diện thường trực của quân đội trong nghị viện đã bị bãi bỏ; dù bị giảm uy thế, ảnh hưởng chính trị của quân đội vẫn còn rất lớn. Các phong trào ly khai tại các tỉnh Aceh và Papua đã dẫn tới xung đột vũ trang, và những cáo buộc vi phạm nhân quyền cũng như sự tàn ác từ tất cả các phía. Sau một cuộc chiến du kích không thường xuyên kéo dài khoảng ba mươi năm giữa Phong trào Tự do Aceh (GAM) và quân đội Indonesia, một thỏa thuận ngừng bắn đã được ký kết năm 2005. Tại Papua, đã có những điều luật tự trị cấp vùng quan trọng, dù vẫn chưa hoàn thiện và được áp dụng đầy đủ, và những vụ bạo lực cũng như vi phạm nhân quyền đã giảm bớt, từ khi Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono lên cầm quyền. Kinh tế Năm 2019, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Indonesia ước khoảng 1.112 tỷ đô la (3.585 tỷ đô la theo PPP), đứng thứ 16 thế giới, đứng thứ 5 châu Á và đứng số 1 Đông Nam Á. Năm 2016, ước tính GDP bình quân đầu người danh nghĩa là 3,362 đô la, và GDP trên đầu người theo sức mua tương đương (PPP) là 12,422 (đô la quốc tế). Lĩnh vực dịch vụ là ngành lớn nhất của nền kinh tế và chiếm 45,3% GDP (2005). Tiếp theo là công nghiệp (40,7%) và nông nghiệp (14,0%). Tuy nhiên, nông nghiệp sử dụng nhiều lao động hơn các lĩnh vực khác, chiếm 44,3% trong tổng số lực lượng lao động 95 triệu người. Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ (36,9%) và công nghiệp (18,8%). Các ngành công nghiệp chính gồm dầu mỏ và khí thiên nhiên, dệt, may, và khai thác mỏ. Các sản phẩm nông nghiệp chính gồm dầu cọ, gạo, chè, cà phê, gia vị, và cao su. Các thị trường xuất khẩu chính của Indonesia (2005) là Nhật Bản (22,3%), Hoa Kỳ (13,9%), Trung Quốc (9,1%), và Singapore (8,9%). Indonesia nhập khẩu nhiều hàng của Nhật Bản (18,0%), Trung Quốc (16,1%), và Singapore (12,8%). Năm 2005, Indonesia có thặng dư thương mại, với kim ngạch xuất khẩu đạt 83,64 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu là 62,02 tỷ. Nước này có nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên lớn, gồm dầu mỏ, khí tự nhiên, thiếc, đồng, và vàng. Các mặt hàng nhập khẩu chính của Indonesia gồm máy móc và thiết bị, hoá chất, nhiên liệu và các mặt hàng thực phẩm. Trong thập kỷ 1960, nền kinh tế đã suy giảm nghiêm trọng vì sự bất ổn chính trị, một chính phủ trẻ và không có kinh nghiệm, và chủ nghĩa kinh tế quốc gia yếu kém, dẫn tới tình trạng nghèo đói nghiêm trọng. Sau khi chế độ Sukarno sụp đổ hồi giữa thập niên 1960, chính sách Trật tự Mới đã mang lại một mức độ kỷ lục cho chính sách kinh tế nhanh chóng làm giảm lạm phát, ổn định tiền tệ, tái cơ cấu nợ nước ngoài, và thu hút đầu tư cũng như viện trợ từ nước ngoài. Indonesia là thành viên duy nhất của OPEC tại Đông Nam Á, và sự bùng nổ giá dầu mỏ thời thập niên 1970 đã mang lại một nguồn thu xuất khẩu lớn giúp duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Sau những cải cách thêm nữa hồi thập niên 1980, Đầu tư nước ngoài đổ vào Indonesia, đặc biệt vào những khu vực chế tạo phát triển nhanh và định hướng xuất khẩu, và từ năm 1989 tới năm 1997, kinh tế Indonesia phát triển với tốc độ trung bình trên 7%. Indonesia là nước chịu tác động mạnh nhất từ cuộc Khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997–1998. Tỷ giá tiền tệ nước này so với đồng đô la Mỹ đã giảm từ khoảng 2.000 Rp tới 18.000 Rp, và nền kinh tế giảm 13,7%. Từ đó đồng rupiah đã ổn định ở mức trong khoảng 10.000 Rp/dollar, và đã xuất hiện dấu hiệu khôi phục kinh tế quan trọng tuy còn chậm chạp. Sự bất ổn chính trị, cải cách kinh tế chậm chạp và tham nhũng ở mọi cấp độ chính phủ và kinh doanh từ năm 1998 đã ảnh hưởng tiêu cực tới sự phục hồi kinh tế. Ví dụ, Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp Indonesia đứng hạng 143 trên 180 nước trong bảng Chỉ số nhận thức tham nhũng của họ. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng GDP đã vượt 5% trong cả hai năm 2004 và 2005, và được dự báo sẽ còn tăng thêm. Mặc dù vậy, tốc độ tăng này chưa đủ mạnh đề dẫn tới một sự thay đổi lớn trong tỷ lệ thất nghiệp, và mức tăng lương, giá nhiên liệu và gạo tăng cao càng làm trầm trọng hơn vấn đề đói nghèo. Năm 2006, ước tính 17,8% dân số sống dưới mức mức nghèo khổ, 49,0% dân số sống với chưa tới 2 đô la mỗi ngày, và tỷ lệ thất nghiệp ở mức 9,75%. Người Hoa là thế lực chi phối nền kinh tế Indonesia. Người Hoa chỉ chiếm 2,5% trong tổng dân số Indonesia, nhưng lại kiểm soát tới trên 70% kinh tế nước này, trong đó kiểm soát trên 75% ngành sản xuất bánh mì, miến, kiểm soát 80% ngành may mặc, 65% ngành nhuộm và 80% ngành lâm sản. Cuối năm 1993, 68% doanh nghiệp quy mô lớn của Indonesia do người Hoa kiểm soát Văn hóa Indonesia có khoảng 300 nhóm sắc tộc, mỗi nhóm có văn hóa khác biệt và đã phát triển qua nhiều thế kỷ, với ảnh hưởng từ Ấn Độ, Ả Rập, Trung Quốc, Malaysia và châu Âu. Ví dụ, các điệu múa truyền thống Java và Bali chứa đựng các yếu tố văn hóa và thần thoại trong văn hóa Hindu, wayang kulit (rối bóng) cũng tương tự. Những loại vải dệt như batik, ikat và songket được sản xuất trên khắp đất nước Indonesia nhưng theo kiểu cách khác biệt tùy theo vùng. Ảnh hưởng lớn nhất trên kiến trúc Indonesia đến từ kiến trúc Ấn Độ; tuy nhiên, những ảnh hưởng kiến trúc từ Trung Quốc, Ả Rập và châu Âu cũng khá quan trọng. Là quốc gia đa tôn giáo, các lễ hội ở Indonesia rất đa dạng, với các lễ hội như: Tết Tahun Baru Saka (của người theo đạo Hindu), Tết Tahun Baru Hijiriah (của người theo Hồi giáo), Tết Tahun Baru Imlek (ngày lễ quốc gia Indonesia), Lễ hội Kasada, Ramadan. Tuy nhiên cũng có mang tính chất hủ tục như lễ hội Pon. Hàng nghìn du khách và người hành hương tụ tập trong một ngôi đền trên ngọn núi thiêng Gunung Kemukus để tiến hành một nghi thức liên quan đến tình dục. Để nhận được may mắn và lời cầu chúc của các vị thần, du khách phải quan hệ với cùng một người liên tục 7 lần suốt 35 ngày. Những người tham gia phải ngâm mình và tắm trong nước suối để tẩy rửa thân thể, sau đó mỗi người tìm một người lạ để ghép đôi. Cặp đôi sẽ tiến hành quan hệ ngay trong đêm cử hành nghi lễ. Đối tác không được phép là vợ hay chồng của người đó. Ẩm thực Indonesia khác biệt theo vùng tuỳ theo ảnh hưởng của Trung Quốc, châu Âu, Trung Đông hay Ấn Độ. Gạo là thực phẩm chính và được dùng cùng với thịt và rau. Các loại gia vị (có nhiều ớt), nước cốt dừa, cá và gà là các thành phần chính. Âm nhạc truyền thống Indonesia gồm gamelan và keroncong. Dangdut là một thể loại nhạc pop đương đại phổ thông có ảnh hưởng từ âm nhạc dân gian Ả Rập, Ấn Độ và Malaysia. Công nghiệp điện ảnh Indonesia phát triển mạnh trong thập niên 1980 và chiếm hầu hết các rạp chiếu bóng, dù tới đầu thập niên 1990 nó bắt đầu hơi suy giảm. Từ năm 2000 tới năm 2005, số lượng phim Indonesia được phát hành hàng năm đã liên tục tăng lên. Bằng chứng cổ nhất về chữ viết tại Indonesia là một loạt bản ghi chép bằng tiếng Phạn có niên đại từ thế kỷ thứ V. Những nhân vật có ảnh hưởng lớn trong văn học hiện đại Indonesia gồm: tác gia Hà Lan Multatuli, người đã chỉ trích cách đối xử với người dân Indonesia thời cai trị thuộc địa Hà Lan; các nhân vật người Sumatra Muhammad Yamin và Hamka, là những nhà chính trị và tác gia ủng hộ độc lập quốc gia nổi tiếng; và tác gia vô sản Pramoedya Ananta Toer, nhà tiểu thuyết nổi tiếng nhất Indonesia. Nhiều người Indonesia có kiểu giọng địa phương rõ rệt, giúp xác định và duy trì bản sắc văn hóa của họ. Tự do truyền thông tại Indonesia đã tăng lên đáng kể từ khi chế độ Tổng thống Suharto chấm dứt, thời ấy Bộ Thông tin, nay đã bị bãi bỏ, giám sát và kiểm soát truyền thông trong nước, ngăn chặn truyền thông nước ngoài. Thị trường TV gồm mười mạng lưới truyền thông thương mại, và các mạng lưới địa phương cạnh tranh với TVRI của nhà nước. Các đài phát sóng tư nhân thực hiện bản tin của riêng mình và các chương trình khác lấy từ đài nước ngoài. Với 25 triệu người sử dụng năm 2008, Internet chỉ phố biến tới một bộ phận nhỏ người dân, xấp xỉ 10.5%. Các môn thể thao thông dụng tại Indonesia là cầu lông và bóng đá; Liga Indonesia là giải vô địch cấp cao nhất của các câu lạc bộ bóng đá tại Indonesia. Các môn thể thao truyền thống gồm sepak takraw, và chạy đấu bò tại Madura. Tại các vùng có lịch sử chiến tranh giữa các bộ tộc, những cuộc thi đánh trận giả thường được tổ chức, như caci tại Flores, và pasola tại Sumba. Pencak Silat là một môn võ Indonesia. Các môn thể thao tại Indonesia nói chung thường dành cho phái nam và các khán giả cũng thường tham gia vào hoạt động cá cược cờ bạc. Xem thêm Lịch sử Indonesia Văn hóa Indonesia ASEAN Tham khảo Liên kết ngoài Chính phủ Government of Indonesia Minister of The State Secretary Antara – National News Agency Statistics Center Chief of State and Cabinet Members Thông tin chung Indonesia from UCB Libraries GovPubs Xem thêm Bộ trưởng indonesia đề xuất người giàu lấy người nghèo để giảm tỉ lệ đói nghèo Bài Indonesia chọn lọc Cộng hòa Quốc gia Đông Nam Á Quốc gia G15 Quốc gia Châu Đại Dương Thành viên G20 Đảo quốc Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc Quốc gia Melanesia Quốc gia E7 Quốc gia thành viên Khối D8 Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Mã Lai Quốc gia thành viên Tổ chức Hợp tác Hồi giáo Quốc gia thành viên ASEAN Quốc gia châu Á
24176
https://vi.wikipedia.org/wiki/Myanmar
Myanmar
Myanmar (), tên chính thức là Cộng hòa Liên bang Myanmar, còn gọi là Miến Điện (tên chính thức cho đến năm 1989), là một quốc gia tại Đông Nam Á. Myanmar có biên giới với Bangladesh, Ấn Độ, Trung Quốc, Lào và Thái Lan. Một phần ba tổng chu vi của Myanmar là đường bờ biển giáp với vịnh Bengal và biển Andaman. Theo số liệu điều tra nhân khẩu năm 2014, Myanmar có 51 triệu cư dân. Myanmar có diện tích 676.577 km² (261.288 mi²). Thủ đô của quốc gia này là Naypyidaw còn thành phố lớn nhất là Yangon. Các nền văn minh ban đầu tại Myanmar gồm có các thị quốc Pyu nói tiếng Tạng-Miến tại khu vực Thượng Miến và các vương quốc Mon tại khu vực Hạ Miến. Đến thế kỷ IX, người Miến tiến đến thung lũng Thượng Irrawaddy, họ lập nên Vương quốc Pagan trong thập niên 1050, và sau đó ngôn ngữ-văn hóa Miến cùng Phật giáo Nam Tông dần dần chiếm ưu thế tại Myanmar. Vương quốc Pagan sụp đổ trước các cuộc xâm chiếm của quân Mông Cổ, và xuất hiện một số quốc gia thường xuyên giao chiến với nhau. Đến thế kỷ XVI, Myanmar tái thống nhất dưới Triều Taungoo, sau đó từng trở thành quốc gia lớn nhất trong lịch sử Đông Nam Á. Đến đầu thế kỷ XIX, lãnh thổ của triều Konbaung bao gồm Myanmar ngày nay và cũng từng kiểm soát Manipur và Assam trong thời gian ngắn. Người Anh chiếm được Myanmar sau ba cuộc chiến tranh trong thế kỷ XIX và quốc gia này trở thành một thuộc địa của Anh. Myanmar trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1948, ban đầu là một quốc gia dân chủ, song nằm dưới chế độ độc tài quân sự sau cuộc đảo chính năm 1962. Trong hầu hết thời gian độc lập, Myanmar xảy ra xung đột dân tộc tràn lan, trở thành một trong các cuộc nội chiến kéo dài nhất vẫn đang diễn ra. Thời gian này, Liên Hợp Quốc và một số tổ chức khác ghi nhận các tội ác vi phạm nhân quyền tại đây. Năm 2011, chính quyền quân sự chính thức giải tán sau tổng tuyển cử năm 2010, và một chính phủ dân sự trên danh nghĩa nhậm chức. Điều này cùng với hành động phóng thích Aung San Suu Kyi và các tù nhân chính trị, đã cải thiện hồ sơ nhân quyền và quan hệ ngoại giao của Myanmar, kéo theo nới lỏng các chế tài mậu dịch và kinh tế khác. Trong tổng tuyển cử năm 2015, đảng của Aung San Suu Kyi giành đa số tại lưỡng viện quốc hội, song các lãnh đạo quân sự vẫn nắm giữ quyền lực rất lớn trong nước, và đến ngày 1 tháng 2 năm 2021 thì phát động chính biến giành lại quyền lực. Myanmar giàu tài nguyên ngọc và đá quý, dầu mỏ, khí thiên nhiên và các loại khoáng sản khác. Năm 2016, GDP danh nghĩa ở mức 68.277 tỷ USD và GDP theo sức mua tương đương đạt 6,501 tỷ USD. Khoảng cách thu nhập tại Myanmar nằm vào hàng rộng nhất trên thế giới, do phần lớn kinh tế nằm dưới quyền kiểm soát của những người ủng hộ chính phủ quân sự cũ. , Myanmar có chỉ số phát triển con người HDI ở mức thấp, xếp thứ 148 trong số 188 quốc gia được đánh giá. Tên gọi "Miến Điện" hay "Diến Điện" (chữ Hán: 緬甸) là tên nước này được người Việt Nam đọc theo cách gọi của người Trung Quốc. "Miến" có nghĩa là xa tắp, xa vời, xa tít tắp. "Điện" là chỉ vùng đất nằm bên ngoài "giao". Theo cách gọi của người Trung Quốc thì tường trong của thành gọi là "thành", tường ngoài gọi là "quách". Vùng ngoại vi của quách gọi là "giao". Vùng đất bên ngoài giao gọi là "điện", cách thành khoảng từ một trăm dặm trở lên. "Miến Điện" ý là vùng ngoại thành xa xôi. Myanmar là tên gọi bắt nguồn từ tên địa phương Myanmar Naingngandaw. Nó được sử dụng vào đầu thế kỷ XII nhưng nguồn gốc của nó vẫn còn chưa được sáng tỏ. Một gốc của tên gọi này là từ Brahmadesh trong tiếng Phạn có nghĩa là "mảnh đất của Brahma", vị thần Hindu giáo của mọi sinh vật. Năm 1989, hội đồng quân sự đổi tên tiếng Anh từ Burma thành Myanmar, cùng với nhiều thay đổi trong tên gọi tiếng Anh của nhiều vùng trong đất nước, chẳng hạn tên gọi trước kia của thủ đô đổi từ Rangoon thành Yangon. Tuy vậy, tên chính thức của đất nước trong tiếng Myanmar là Myanmar vẫn không đổi. Trong tiếng Myanmar, Myanmar là tên quốc gia, trong khi Bama (Burma lấy nguồn gốc từ đây) là tên gọi thông dụng. Sự thay đổi trong tên gọi là biểu hiện của một cuộc tranh cãi chính trị. Nhiều nhóm người Myanmar tiếp tục sử dụng tên "Burma" vì họ không chấp nhận tính hợp pháp của chính quyền quân sự cũng như sự đổi tên đất nước. Một vài chính phủ phương Tây, chẳng hạn Hoa Kỳ, Úc, Ireland và Anh tiếp tục sử dụng tên "Burma", trong khi Liên minh châu Âu sử dụng cả hai. Liên Hợp Quốc sử dụng tên "Myanmar". Việc sử dụng tên "Burma" vẫn còn phổ biến ở Hoa Kỳ và Anh. Trong tiếng Anh, người ta vẫn dùng từ "Burmese" như một tính từ. Sau khi giành được độc lập từ Đế quốc Anh, Myanmar đã sử dụng các quốc hiệu sau: Liên bang Miến Điện: 1948-1974 Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Liên bang Burma: 1974-1988 Liên bang Myanmar: 1988-2011 (từ năm 1989 thì quốc hiệu tiếng Anh dùng Myanmar thay cho Burma) Cộng hòa Liên bang Myanmar: 2010-nay Ngoài ra, người miền tây Nam Bộ ngày xưa còn gọi nước Burma là nước Cù Là (nguồn gốc tên dầu cù là - một loại dầu thoa ngoài da người Việt hay dùng). Lịch sử Người Môn được cho là nhóm người đầu tiên di cư tới vùng hạ lưu châu thổ sông Ayeyarwady (ở phía nam Myanmar) và tới khoảng giữa thập niên 900 trước Công nguyên họ đã giành quyền kiểm soát khu vực này. Sau đó, vào thế kỷ thứ I trước Công nguyên, người Pyu di cư tới đây và tiến tới xây dựng các thành bang có quan hệ thương mại với Ấn Độ và Trung Quốc. Trong đó, mạnh nhất là vương quốc Sri Ksetra, nhưng nó bị từ bỏ năm 656. Sau đó, một quá trình tái lập quốc diễn ra, nhưng đến giữa thập niên 800 thì bị người Nam Chiếu xâm lược. Vào khoảng trước những năm 800, người Bamar (người Miến Điện) bắt đầu di cư tới châu thổ Ayeyarwady từ Tây Tạng hiện nay. Tới năm 849, vương quốc họ đã thành lập xung quanh trung tâm Pagan trở nên hùng mạnh. Trong giai đoạn Anawratha trị vì (1044-1077), người Miến Điện đã mở rộng ảnh hưởng ra khắp Myanmar hiện nay. Tới thập niên 1100, nhiều vùng lớn thuộc lục địa Đông Nam Á đã thuộc quyền kiểm soát của vương quốc Pagan, thường được gọi là Đế chế Miến Điện thứ nhất với kinh đô tại Mandalay. Tới cuối thập niên 1200, Hốt Tất Liệt đã thống lĩnh quân Mông Cổ xâm lược Vương quốc Pagan, nhưng tới năm 1364 người Miến Điện đã tái lập vương quốc của họ tại Ava, nơi văn hóa Miến Điện bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ. Tuy nhiên, vào năm 1527 người Shan cướp phá Ava. Trong lúc ấy người Mon thiết lập địa điểm mới của họ tại Pegu, nơi này đã trở thành một trung tâm tôn giáo và văn hóa lớn. Những người Miến Điện đã phải chạy trốn khỏi Ava thành lập Vương quốc Toungoo năm 1531 tại Toungoo, dưới quyền Tabinshwehti, người đã tái thống nhất Miến Điện và lập ra Đế chế Miến Điện thứ hai. Vì sự ảnh hưởng ngày càng tăng từ châu Âu ở Đông Nam Á, Vương quốc Toungoo trở thành một trung tâm thương mại lớn. Bayinnaung đã mở rộng đế chế bằng cách chinh phục các lãnh thổ Manipur, Chiang Mai, Ayutthaya, Shan, Nagaland, Tripura, Mizoram, Assam, Sikkim, Bhutan, Chittagong, Dhaka, Rajshahi, Rangpur và một số vùng đất thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Quốc gồm Đức Hoành, Nộ Giang, Bảo Sơn và Phổ Nhĩ. Những cuộc nổi loạn bên trong cũng như sự thiếu hụt các nguồn tài nguyên cần thiết để kiểm soát các vùng mới giành được dẫn tới sự sụp đổ của Vương quốc Toungoo. Anaukpetlun, người đã đẩy lùi cuộc xâm lăng của Bồ Đào Nha, đã lập nên một vương triều mới tại Ava năm 1613. Cuộc nổi dậy trong nước của người Mon, với sự trợ giúp của Pháp, khiến vương quốc sụp đổ năm 1752. Alaungpaya thành lập nên Triều đại Konbaung và Đế chế Miến Điện thứ ba vào khoảng thập niên 1700. Năm 1767, Vua Hsinbyushin chinh phục Ayutthaya và Ceylon dẫn tới việc văn hóa Thái Lan và văn hóa Ceylon có ảnh hưởng lớn tới văn hóa Miến Điện. Nhà Thanh (Trung Quốc) lo ngại sự lớn mạnh của Miến Điện, đã bốn lần xâm lược nước này trong khoảng thời gian từ 1766 đến 1769 nhưng không lần nào thành công. Các triều đại sau này mất quyền kiểm soát Ayutthaya, nhưng chiếm thêm được Arakan và Tenasserim. Dưới thời cai trị của Vua Bagyidaw, năm 1824, Mahabandoola chiếm Assam, sát lãnh thổ Anh ở Ấn Độ, gây nên một cuộc chiến tranh. Trong các cuộc chiến tranh Anh-Miến (1823-26, 1852-53 và 1885-87), Miến Điện mất một số lãnh thổ vào tay người Anh và trở thành một tỉnh của Ấn Độ thuộc Anh. Ngày 1 tháng 4 năm 1937, Miến Điện trở thành một thuộc địa hành chính riêng biệt, độc lập khỏi quyền hành chính Ấn Độ. Trong thập niên 1940, Ba mươi chiến hữu, do Aung San lãnh đạo đã lập nên Quân đội Miến Điện độc lập. Ba mươi chiến hữu được huấn luyện quân sự tại Nhật Bản. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai Miến Điện trở thành một mặt trận chính tại Mặt trận Đông Nam Á. Sau những thắng lợi ban đầu của Nhật Bản tại Mặt trận Miến Điện, trong đó người Anh bị đẩy lùi khỏi đa phần Miến Điện, Đồng Minh đã phản công. Tới tháng 7 năm 1945 họ đã chiếm lại toàn bộ nước này. Người Miến Điện chiến đấu cho cả hai phía trong cuộc chiến. Họ chiến đấu trong Đội quân Miến Điện Anh năm 1941-1942. Năm 1943, Chin Levies và Kachin Levies đã được thành lập ở các quận biên giới Miến Điện và vẫn thuộc quyền kiểm soát của người Anh. Đội quân Miến Điện chiến đấu trong thành phần Chindit dưới quyền Tướng Orde Wingate từ 1943-1945. Ở giai đoạn sau của cuộc chiến, người Mỹ đã lập ra Đội biệt kích Kachin-Hoa Kỳ cũng chiến đấu cho quân Đồng Minh. Nhiều người Miến Điện khác chiến đấu trong lực lượng SOE của Anh. Quân đội Miến Điện độc lập dưới quyền chỉ huy của Aung San và Quân đội quốc gia Arakan đã chiến đấu với Nhật Bản từ 1942-1944, nhưng đã nổi lên chống lại người Nhật năm 1945. Năm 1947, Aung San trở thành Phó chủ tịch Ủy ban hành pháp Miến Điện, một chính phủ chuyển tiếp. Tuy nhiên, trong tháng 7 năm 1947, các đối thủ chính trị đã ám sát Aung San và nhiều thành viên chính phủ khác. Ngày 4 tháng 1 năm 1948, quốc gia này trở thành một nước cộng hòa độc lập, với cái tên Liên bang Myanmar, với Sao Shwe Thaik là tổng thống đầu tiên và U Nu là thủ tướng. Không giống như đa số các thuộc địa của Anh, nước này không trở thành một thành viên của Khối thịnh vượng chung Anh bởi vì họ đã giành lại độc lập trước khi Khối thịnh vượng chung cho phép các nước cộng hòa trở thành một thành viên của nó. Một hệ thống chính trị lưỡng viện được thành lập gồm Viện đại biểu và Viện quốc gia. Vùng địa lý hiện nay của Myanmar có thể suy ngược từ Thỏa ước Panglong, là toàn bộ Miến Điện gồm Hạ Miến và Thượng Miến và Các vùng biên giới, đã từng được quản lý hành chính độc lập bởi Anh Quốc. Năm 1961 U Thant, khi ấy là Đại biểu thường trực của Miến Điện tại Liên hiệp quốc và cựu Thư ký Thủ tướng, được bầu làm Tổng thư ký Liên hiệp quốc; ông là người đầu tiên không xuất thân từ phương Tây lãnh đạo một tổ chức quốc tế nào cho tới lúc ấy và đã đảm nhiệm chức vụ này trong vòng mười năm. Trong số những người Miến Điện làm việc tại Liên hiệp quốc khi ông đang giữ chức Tổng thư ký có cô gái trẻ Aung San Suu Kyi. Giai đoạn dân chủ kết thúc năm 1962 với một cuộc đảo chính quân sự do Tướng Ne Win lãnh đạo. Ông này cầm quyền trong 26 năm và theo đuổi chính sách xã hội chủ nghĩa. Năm 1974, Myanmar lấy quốc hiệu mới là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Liên bang Miến Điện. Cùng năm này, đám tang của U Thant dẫn tới một cuộc biểu tình chống chính phủ đẫm máu. Năm 1988, Cuộc nổi dậy 8888 đẩy đất nước tới bờ vực cách mạng. Để đối phó, Tướng Saw Maung tiến hành một cuộc đảo chính. Ông thành lập Hội đồng Khôi phục Trật tự và Luật pháp Liên bang (SLORC). Myanmar quay trở lại quốc hiệu Liên bang Myanmar. Năm sau, quốc hiệu bằng tiếng Anh đổi từ Union of Burma thành Union of Myanmar. Năm 1989, thiết quân luật được ban bố sau những cuộc biểu tình rộng lớn. Các kế hoạch bầu cử Quốc hội đã hoàn thành ngày 31 tháng 5 năm 1989. Năm 1990, lần đầu tiên các cuộc bầu cử tự do được tổ chức trong vòng 30 năm. Liên minh Quốc gia vì Dân chủ, đảng của bà Aung San Suu Kyi, thắng 392 trong tổng số 485 ghế, nhưng các kết quả của cuộc bầu cử đã bị SLORC hủy bỏ và họ từ chối giao lại quyền lực. SLORC đổi tên Miến Điện (Burma) thành Myanmar năm 1989. Dưới sự lãnh đạo của Than Shwe, từ năm 1992 chính quyền quân sự đã tiến hành các thỏa thuận ngừng bắn với các nhóm du kích thiểu số. Năm 1992, SLORC tiết lộ các kế hoạch thành lập một hiến pháp mới thông qua Hội nghị Quốc gia, bắt đầu ngày 9 tháng 1 năm 1993. Năm 1997, Hội đồng Khôi phục Trật tự và Luật pháp Liên bang được đổi tên thành Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang (SPDC). Ngày 23 tháng 6 năm 1997, Myanmar được chấp nhận gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Hội nghị Quốc gia tiếp tục được triệu tập và hoãn lại. Nhiều đảng chính trị lớn, đặc biệt Liên minh Quốc gia vì Dân chủ, đã bị trục xuất và có ít tiến bộ đã được hoàn thành. Ngày 27 tháng 3 năm 2006, hội đồng quân sự đã di chuyển thủ đô đất nước từ Yangon tới một địa điểm gần Pyinmana, đặt tên chính thức cho nó là Naypyidaw, có nghĩa "vùng đất của những ông vua". Năm 2010, quốc hiệu của Myanmar đổi thành Cộng hòa Liên bang Myanmar (tiếng Myanmar: ပြည်ထောင်စု သမ္မတ မြန်မာနိုင်ငံတော်, tiếng Anh: Republic of the Union of Myanmar). Năm 2021, với các cáo buộc gian lận bầu cử, vào ngày 1 tháng 2 năm 2021, quân đội Myanmar đã tiến hành đảo chính. Các chính khách dân sự được bầu trong cuộc tổng tuyển cử vào tháng 11 năm 2021 bị phế truất và quyền điều hành đất nước được trao lại cho Tatmadaw, đặt dấu chấm hết cho thời kỳ dân chủ đã bắt đầu từ 2011 của Myanmar. Chính trị Các đại biểu được bầu ra trong cuộc bầu cử Quốc hội nhân dân năm 1990 hình thành nên Liên minh Chính phủ Quốc gia Liên bang Miến Điện (NCGUB), một chính phủ hải ngoại vào tháng 12 năm 1990, với trách nhiệm vãn hồi nền dân chủ tại Myanmar. Sein Win, người anh họ của Aung San Suu Kyi, là thủ tướng của NCGUB. Tuy nhiên, NCGUB có rất ít quyền lực và đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật tại Myanmar. Lãnh đạo Nhà nước là Thống tướng Than Shwe, người giữ chức vụ "Chủ tịch Hội đồng Hòa Bình và Phát triển Quốc gia". Ông nắm mọi quyền lực quan trọng, gồm quyền bãi nhiệm các bộ trưởng và các thành viên chính phủ, đưa ra các quyết định quan trọng trong vấn đề chính trị đối ngoại. Khin Nyunt từng là thủ tướng cho tới ngày 19 tháng 10 năm 2004, và đã bị thay thế bởi Tướng Soe Win, người có quan hệ mật thiết với Than Shwe. Đa số các bộ và các vị trí chính phủ đều do các sĩ quan quân đội nắm giữ, ngoại trừ Bộ y tế, Bộ giáo dục, Bộ lao động và Bộ kinh tế và kế hoạch quốc gia, do các viên chức dân sự quản lý. Các đảng chính trị lớn ở Myanmar gồm Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ và Liên đoàn Dân tộc Shan vì Dân chủ, dù các hoạt động của họ bị chế độ quản lý chặt chẽ. Nhiều đảng khác, thường đại diện cho lợi ích của các dân tộc thiểu số thực sự có tồn tại. Tại Myanmar ít có khoan dung chính trị cho phe đối lập và nhiều đảng đã bị đặt ngoài vòng pháp luật. Đảng Thống nhất Quốc gia đại diện cho quân đội, và được sự ủng hộ của một tổ chức to lớn tên gọi Hiệp hội Liên đoàn Đoàn kết và Phát triển. Theo nhiều tổ chức, gồm cả Human Rights Watch và Amnesty International, chính quyền này có bản thành tích nhân quyền kém cỏi. Không có tòa án độc lập tại Myanmar và đối lập chính trị với chính phủ quân sự không hề được khoan dung. Truy cập Internet tại Myanmar bị hạn chế chặt chẽ thông qua các phần mềm lọc các trang web có thể truy cập đối với công dân, hạn chế đa số các trang đối lập chính trị và ủng hộ dân chủ. Lao động cưỡng bức, buôn người và lao động trẻ em là điều thông thường, và bất đồng chính trị không được khoan dung. Năm 1988, quân đội Myanmar đã dùng vũ lực đàn áp các cuộc biểu tình phản đối sự quản lý kinh tế yếu kém và sự áp bức chính trị. Ngày 8 tháng 8 năm 1988, quân đội nổ súng vào những người biểu tình trong vụ việc được gọi là cuộc Nổi dậy 8888 (Cuộc biểu tình 8888). Tuy nhiên, cuộc biểu tình năm 1988 đã dọn đường cho cuộc bầu cử Quốc hội Nhân dân năm 1990. Kết quả của cuộc bầu cử sau đó đã bị chính quyền bác bỏ. Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, do Aung San Suu Kyi lãnh đạo, thắng hơn 60% số phiếu và 80% ghế trong quốc hội trong cuộc bầu cử 1990, cuộc bầu cử đầu tiên được tổ chức trong 30 năm. Aung San Suu Kyi được quốc tế công nhận là một nhà hoạt động vì dân chủ tại Myanmar, đoạt Giải Nobel Hòa bình năm 1991. Bà đã nhiều lần bị quản thúc tại gia. Dù có lời kêu gọi trực tiếp từ Kofi Annan tới Than Shwe và áp lực của ASEAN, hội đồng quân sự Myanmar vẫn kéo dài thời hạn quản thúc tại gia đối với Aung San Suu Kyi thêm một năm ngày 27 tháng 5 năm 2006 theo Luật Bảo vệ Quốc gia năm 1975, trao cho chính phủ quyền cầm giữ hợp pháp bất kỳ người nào. Hội đồng quân sự này phải đối mặt với sự cô lập quốc tế. Vào tháng 12 năm 2005, lần đầu tiên tình trạng của Myanmar đã được thảo luận không chính thức tại Liên hiệp quốc. ASEAN cũng đã bày tỏ sự thất vọng của mình với chính phủ Myanmar. Tổ chức này đã thành lập Cuộc họp kín liên nghị viện ASEAN để bàn bạc về sự thiếu dân chủ tại Myanmar. Sự thay đổi chính trị lớn ở nước này hiện vẫn khó xảy ra, vì sự ủng hộ từ các cường quốc trong vùng, đặc biệt là Trung Quốc. Ngày 8 tháng 11 năm 2015, hàng chục triệu người dân Myanmar đã đi bỏ phiếu với kỳ vọng vào tương lai trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên kể từ năm 1990. Kết quả cuộc bầu cử được công bố cụ thể vào sáng ngày 10 tháng 11 năm 2015. Ước tính khoảng 10.000 quan sát viên đã có mặt theo dõi tiến trình bầu cử tại Myanmar. Chính phủ triển khai hơn 40.000 cảnh sát đặc nhiệm giám sát các điểm bầu cử. Rất nhiều chợ, nhà hàng ở Yangon đóng cửa để đảm bảo an toàn. Chiều ngày 10 tháng 11 năm 2015, bà Aung San Suu Kyi, lãnh đạo đảng Liên đoàn Quốc gia vì dân chủ (NLD) Myanmar tuyên bố đảng của bà giành khoảng 75% trong tổng số ghế Quốc hội. Trong đó, NLD có 96 ghế, bao gồm 49 ghế hạ viện. Đảng Đoàn kết phát triển liên bang (USDP) cầm quyền chỉ có 3 ghế hạ viện. Tuy nhiên, quân đội Myanmar vẫn sẽ nắm giữ nhiều quyền lực chính trị. Ngày 30 tháng 3 năm 2016, ông Htin Kyaw, một đồng minh thân cận của bà Aung San Suu Kyi chính thức trở thành tổng thống dân sự đầu tiên của Myanmar, chấm dứt gần 50 năm đất nước Myanmar nằm dưới sự cai trị của giới độc tài quân sự, nhưng đến ngày 1 tháng 2 năm 2021 thì quân đội phát động chính biến để giành lại quyền lực. Quan hệ đối ngoại Quan hệ ngoại giao của Myanmar, đặc biệt với các nước phương Tây, đã rơi vào tình trạng căng thẳng. Hoa Kỳ đã áp đặt các biện pháp trừng phạt rộng lớn với Myanmar vì sự đàn áp quân sự năm 1988 và vì sự từ chối thừa nhận các kết quả cuộc bầu cử Quốc hội Nhân dân năm 1990 của chế độ quân sự. Tương tự, Liên minh châu Âu đã áp đặt lệnh cấm vận lên Myanmar, gồm cả cấm vận vũ khí, ngừng ưu tiên thương mại và hoãn toàn bộ viện trợ ngoại trừ viện trợ nhân đạo. Những biện pháp cấm vận của Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu chống lại chính phủ quân sự, cộng với sự tẩy chay và những sức ép trực tiếp khác từ người dân ở các nước phương Tây ủng hộ phong trào dân chủ Myanmar, khiến đa số các công ty Hoa Kỳ và châu Âu phải rời khỏi nước này. Tuy nhiên, nhiều công ty khác vẫn còn ở lại nhờ các kẽ hở của biện pháp cấm vận. Nói chung các tập đoàn ở châu Á vẫn muốn đầu tư vào Myanmar và tiến hành thực hiện các dự án đầu tư mới, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên. Công ty dầu mỏ Pháp Total S.A. hiện đang điều hành đường ống dẫn khí Yadana từ Myanmar tới Thái Lan dù có lệnh cấm vận của Liên minh châu Âu. Total hiện là bị đơn của nhiều vụ khiếu kiện tại Pháp liên quan tới cái gọi là mối quan hệ với những vụ vi phạm nhân quyền liên quan tới đường ống dẫn khí họ đang đồng sở hữu với các công ty Hoa Kỳ Chevron và Tatmadaw. Trước khi bị Chevron thâu tóm, Unocal đã giải quyết một vụ kiện tụng liên quan tới nhân quyền với phí tổn được thông báo lên tới nhiều triệu dollar. Vẫn còn những cuộc tranh cãi sôi nổi về việc liệu các biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ có mang lại kết quả trái ngược trên cuộc sống của người dân chứ không phải với những nhà cầm quyền quân sự. Chính sách đối ngoại của Myanmar là quan hệ hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới đặc biệt với các nước láng giềng, khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi. Myanmar là thành viên của Tổ chức ASEAN, Phong trào không liên kết và Liên Hợp Quốc. Từ khi Myanmar được kết nạp vào ASEAN (tháng 7 năm 1997), quan hệ Myanmar với các nước ASEAN ngày càng được tăng cường và cải thiện. Myanmar tích cực tham gia các hoạt động của ASEAN, kiên trì bảo vệ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ và đồng thuận của ASEAN để bảo vệ lợi ích của mình. Hiện nay, Mỹ và EU điều chỉnh chính sách với Myanmar theo hướng mềm mỏng hơn, triển khai cả hai biện pháp là trừng phạt và tiếp cận nhằm đạt được cùng mục tiêu; Mỹ sẽ từng bước dỡ bỏ cấm vận và cải thiện quan hệ nếu Myanmar đáp ứng yêu cầu của Mỹ, có những tiến bộ thực chất. Tuy bị sức ép mạnh của chính quyền Mỹ và các nước phương Tây, nhưng quan hệ của Myanmar với các tổ chức phi chính phủ hoặc có tính nhân dân của các nước phương Tây, kể cả Mỹ, Anh vẫn được duy trì. Các nước này vẫn tiếp tục giúp đỡ Myanmar các dự án xây dựng trường học, giúp đào tạo y tế, dân sinh... Quân sự Các lực lượng vũ trang Myanmar được gọi là Tatmadaw, với số lượng 488.000 người. Tatmadaw gồm các lực lượng vũ trang, hải quân và không quân. Myanmar được xếp hạng thứ 10 trên thế giới theo số lượng binh lính của mình. Quân đội có nhiều ảnh hưởng trong nước, các vị trí chủ chốt trong chính phủ và trong quân đội đều do các sĩ quan quân sự nắm giữ. Dù những con số chính thức về chi tiêu quân sự của Myanmar không được công bố, Viện nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm, trong bảng xếp hạng hàng năm của mình đã đặt Myanmar trong số 15 nước chi tiêu quân sự nhiều nhất thế giới. Đầu tháng 2/2011,Quốc hội Myanmar đã bầu Thủ tướng mãn nhiệm trước đây là tướng lãnh, ông Thein Sein làm tổng thống dân sự đầu tiên sau gần 50 năm cầm quyền của quân đội. Hành chính Myanmar được chia thành 7 bang và 7 vùng hành chính. Vùng lớn nhất là Bamar (တိုင်းဒေသကြီး). Các bang (ပြည်နယ်), thực chất, là các vùng sinh sống của một số sắc tộc đặc biệt. Các vùng hành chính được chia nhỏ tiếp thành các thành phố, khu vực và các làng. Các thành phố lớn được chia thành các quận. Các vùng và bang của Myanmar lại được chia thành các huyện (kayaing). Bang Shan là bang có nhiều (11) huyện nhất. Các bang Chin, bang Mon và bang Kayah chỉ có hai huyện mỗi bang. Địa lý Myanmar có tổng diện tích 678.500 kilômét vuông (261.970 dặm vuông), là nước lớn nhất trong lục địa Đông Nam Á, và là nước lớn thứ 40 trên thế giới (sau Zambia). Nước này hơi nhỏ hơn bang Texas Hoa Kỳ và hơi lớn hơn Afghanistan. Myanmar nằm giữa Khu Chittagong của Bangladesh và Assam, Nagaland và Manipur của Ấn Độ ở phía tây bắc. Nó có đường biên giới dài nhất với Tây Tạng và Vân Nam của Trung Quốc ở phía đông bắc với tổng chiều dài 2.185 km (1.358 dặm). Myanmar giáp biên giới với Lào và Thái Lan ở phía đông nam. Myanmar có đường bờ biển dài 1.930 km (1.199 dặm) dọc theo Vịnh Bengal và Biển Andaman ở phía tây nam và phía nam, chiếm một phần ba tổng chiều dài biên giới. Đồng bằng Ayeyarwady, diện tích gần 50.400 km², phần lớn canh tác lúa gạo]] Ở phía bắc, núi Hengduan Shan tạo nên biên giới với Trung Quốc. Hkakabo Razi, nằm tại Bang Kachin, ở độ cao 5.881 m (19.295 feet), là điểm cao nhất Myanmar. Các dãy núi Rakhine Yoma, Bago Yoma và Cao nguyên Shan nằm bên trong Myanmar, cả ba đều chạy theo hướng bắc-nam từ dãy Himalaya. Các dãy núi phân chia ba hệ thống sông của Myanmar, là Ayeyarwady, Thanlwin và Sittang. Sông Ayeyarwady, con sông dài nhất Myanmar, gần 2.170 km (1.348 dặm), chảy vào Vịnh Martaban. Các đồng bằng màu mỡ nằm ở các thung lũng giữa các dãy núi. Đa số dân cư Myanmar sống trong thung lũng Ayeyarwady, nằm giữa Rakhine Yoma và Cao nguyên Shan. Đa phần diện tích Myanmar nằm giữa Hạ chí tuyến và Xích đạo. Myanmar nằm trong vùng gió mùa châu Á, các vùng bờ biển của nó nhận lượng mưa trung bình 5.000 mm (197 in) hàng năm. Lượng mưa hàng năm tại vùng đồng bằng gần 2.500 mm (98 in), trong khi lượng mưa trung bình hàng năm tại Vùng Khô, nằm ở trung tâm Myanmar, chưa tới 1.000 mm (39 in). Các vùng phía bắc đất nước có khí hậu lạnh nhất, nhiệt độ trung bình 21 °C (70 °F). Các vùng duyên hải và đồng bằng có nhiệt độ trung bình 32 °C (90 °F). Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm của Myanmar góp phần giữ gìn môi trường và các hệ sinh thái. Rừng, gồm rừng nhiệt đới với loại gỗ tếch có giá trị kinh tế cao ở vùng hạ Myanmar, bao phủ 49% diện tích đất nước. Các loại cây khác mọc ở vùng này gồm cao su, cây keo, tre, lim, đước, dừa, cọ. Trên những cao nguyên phía bắc, sồi, thông, và nhiều giống đỗ quyên khác bao phủ đa phần diện tích. Những vùng đất dọc bờ biển có nhiều cây ăn trái nhiệt đới. Tại Vùng Khô, thực vật thưa thớt và còi cọc hơn. Các loại động vật rừng rậm tiêu biểu, đặc biệt hổ và báo có nhiều tại Myanmar. Ở vùng Thượng Myanmar, có tê giác, trâu rừng, lợn lòi, hươu, linh dương và voi nhà, sử dụng nhiều nhất trong công nghiệp khai thác gỗ. Các loài có vú nhỏ hơn cũng rất nhiều từ vượn, khỉ tới cáo bay và heo vòi. Đáng chú ý là sự đa dạng các loài chim với hơn 800 loài gồm vẹt, peafowl, gà lôi, quạ, diệc và gõ kiến (paddybird). Trong số các loài bò sát có cá sấu, tắc kè, rắn mang bành, trăn và rùa. Hàng trăm loài cá nước ngọt, rất phong phú và là nguồn thực phẩm quan trọng. Năm 1994, đất canh tác 15,3% (2% có tưới), đồng cỏ 0,5%, rừng và cây bụi 49,3%, các đất khác 34,9%. Khoáng sản chính: dầu khí, thiếc, kẽm, antimon, đồng, wolfram, chì, than, đá quý. Kinh tế Myanmar là một trong những nước nghèo nhất thế giới với hàng thập kỷ ở trong tình trạng trì trệ, quản lý kém và bị cô lập. Sau khi một chính phủ nghị viện được thành lập năm 1948, Thủ tướng U Nu đã nỗ lực biến Miến Điện trở thành một quốc gia thịnh vượng. Chính quyền của ông đã thông qua Kế hoạch kinh tế hai năm nhưng tiếc thay đây là một kế hoạch sai lầm. Vụ đảo chính năm 1962 tiếp sau là một kế hoạch phát triển kinh tế được gọi là Con đường Miến Điện tiến tới Chủ nghĩa xã hội, một kế hoạch nhằm quốc hữu hóa mọi ngành công nghiệp, ngoại trừ nông nghiệp. Năm 1989, chính phủ Myanmar bắt đầu bãi bỏ kiểm soát tập trung hóa nền kinh tế và tự do hóa một số lĩnh vực kinh tế. Các ngành công nghiệp mang lại lợi nhuận như ngọc, dầu khí và lâm nghiệp vẫn bị kiểm soát chặt chẽ. Gần đây những ngành này đã được một số tập đoàn nước ngoài liên doanh cùng chính phủ tham gia khai thác. Myanmar bị liệt vào hạng nước kém phát triển nhất năm 1987. Từ năm 1992, khi Than Shwe lên lãnh đạo quốc gia, chính phủ đã khuyến khích du lịch. Tuy nhiên, chưa tới 750.000 du khách tới nước này hàng năm. Các doanh nghiệp tư nhân thường là đồng sở hữu hay thuộc sở hữu trực tiếp của Tatmadaw. Trong những năm gần đây, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều nỗ lực phát triển quan hệ với chính phủ nước này vì mục tiêu lợi ích kinh tế. Nhiều quốc gia khác, trong đó gồm cả Hoa Kỳ, Canada và Liên minh châu Âu, đã áp đặt các lệnh cấm vận thương mại và đầu tư đối với Myanmar. Đầu tư nước ngoài chủ yếu từ Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Ấn Độ và Thái Lan. Ở thời thuộc địa Anh, Miến Điện là một trong những nước giàu có nhất vùng Đông Nam Á. Đây là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới và là nước cung cấp dầu khí thông qua Công ty Dầu khí Miến Điện. Miến Điện cũng có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và nhân lực dồi dào. Họ sản xuất 75% lượng gỗ tếch của thế giới, và dân cư có tỷ lệ biết đọc biết viết cao. Nước này từng được tin tưởng sẽ có tương lai phát triển nhanh chóng. Ngày nay, Myanmar thiếu cơ sở hạ tầng cần thiết. Trao đổi hàng hóa chủ yếu qua biên giới với Thái Lan, và đó cũng là đầu mối xuất khẩu ma túy lớn nhất, và dọc theo Sông Ayeyarwady. Đường sắt cũ kỹ và mới ở mức kỹ thuật sơ khai, hiếm khi được sửa chữa từ khi được xây dựng trong thập niên 1800. Đường giao thông thường không được trải nhựa, trừ tại các thành phố lớn. Thiếu hụt năng lượng là điều thường thấy trong nước, kể cả tại Yangon. Myanmar cũng là nước sản xuất thuốc phiện lớn thứ hai thế giới, chiếm 8% tổng lượng sản xuất toàn cầu và là nguồn cung cấp các tiền chất ma túy lớn gồm cả amphetamines. Các ngành công nghiệp khác gồm sản phẩm nông nghiệp, dệt may, sản phẩm gỗ, vật liệu xây dựng, kim cương, kim loại, dầu mỏ và khí ga. Việc thiếu hụt nguồn nhân công trình độ cao cũng là một vấn đề ngày càng tăng đối với kinh tế Myanmar. Nông nghiệp chiếm 59,5% GDP và 65,9% lao động. Công nghiệp chế biến chiếm 7,1% GDP và 9,1% lao động; khai khoáng 0,5% GDP và 0,7% lao động; xây dựng 2,4% GDP và 2,2% lao động; thương mại 23,2% GDP và 9,7% lao động; tài chính, dịch vụ và công chính 1,5% GDP và 8,1% lao động. GDP/đầu người: 2.399 USD (1995); GNP/đầu người: 2610 USD (1996). Sản phẩm nông nghiệp chính (1999): lúa 17 triệu tấn, mía 5,4 triệu tấn, đậu 1,9 triệu tấn, lạc 562 nghìn tấn, ngô 303 nghìn tấn, vừng 210 nghìn tấn, bông 158 nghìn tấn. Chăn nuôi: bò 10,7 triệu, lợn 3,7 triệu, trâu 2,4 triệu, cừu và dê 1,7 triệu, vịt 6,1 triệu, gà 39 triệu. Gỗ tròn 22,4 triệu m³ (1998). Đánh bắt cá 917,7 nghìn tấn (1997). Sản phẩm công nghiệp chính: khai khoáng (đồng 14,6 nghìn tấn, thạch cao 40,6 nghìn tấn, chì 1,6 nghìn tấn, thiếc 154 tấn); chế biến (xi măng 513 nghìn tấn, phân hóa học 66 nghìn, đường 43 nghìn; 1996). Năng lượng (1996): điện 4,3 tỉ kW.h, than 72 nghìn tấn, dầu thô 2,8 triệu thùng, khí đốt 1,6 tỉ m³. Giao thông: đường sắt 3955 km (1999-2000), đường bộ 28,2 nghìn km (1996, rải nhựa 12%). Xuất khẩu (1997-98) 5,4 tỉ kyat (nông sản 26,9%, gỗ và cao su 15,7%). Bạn hàng chính: Singapore 13,2%; Thái Lan 11,9%; Ấn Độ 22,6%; Trung Quốc 10,6%; Hồng Kông 5,8%. Nhập khẩu (1997-98) 12,7 tỉ kyat (máy móc và thiết bị vận tải 28,6%, tư liệu sản xuất 48%, hàng tiêu dùng 4,3%). Bạn hàng chính: Singapore 31,1%, Thái Lan 9,8%, Trung Quốc 9,4%, Malaysia 7%. Đơn vị tiền tệ: kyat Myanmar. Tỷ giá hối đoái: 1USD = 1,400 kyat (04/2020) Tính đến năm 2016, GDP của Myanmar đạt 68.277 tỷ USD, đứng thứ 73 thế giới, đứng thứ 25 châu Á và đứng thứ 7 Đông Nam Á. Nhân khẩu Myanmar có dân số là 51,419,420 theo điều tra nhân khẩu năm 2014 . Có hơn 600.000 công nhân nhập cư Myanmar có đăng ký tại Thái Lan, và hàng triệu người lao động bất hợp pháp khác. Những công nhân nhập cư Myanmar chiếm 80% số lao động nhập cư tại Thái Lan. Mật độ dân số bình quân của Myanmar là 75 người trên km², một trong những mức thấp nhất vùng Đông Nam Á. Các trại tị nạn tồn tại dọc theo biên giới Ấn Độ-Myanmar, Bangladesh-Myanmar và Myanmar-Thái Lan và hàng ngàn người khác sống tại Malaysia. Những ước tính thận trọng cho rằng hơn 295.800 người tị nạn từ Myanmar, đa số là người Rohingya, Kayin và Karenni. Myanmar rất đa dạng về chủng tộc dân cư. Dù chính phủ công nhận 135 dân tộc khác nhau, con số thực thấp hơn nhiều. Người Bamar chiếm khoảng 68% dân số, 10% là người Shan. Người Kayin chiếm 7% dân số, người Rakhine chiếm 4%. Người Hoa chiếm gần 3% dân số. Người Môn, chiếm 2% dân số, là nhóm người có quan hệ dân tộc và ngôn ngữ với người Khmer. Người Ấn chiếm 2%. Số còn lại là người Kachin, Chin và các nhóm thiểu số khác. Myanmar có bốn ngữ hệ chính: Hán-Tạng, Nam Á, Tai-Kadai và Ấn-Âu. Các ngôn ngữ thuộc hệ Hán-Tạng được sử dụng nhiều nhất. Chúng gồm tiếng Myanmar, tiếng Karen, Kachin, tiếng Chin và tiếng Hoa. Ngôn ngữ Tai-Kadai chính là tiếng Shan. Tiếng Môn là ngôn ngữ Nam Á chính được sử dụng ở Myanmar. Hai ngôn ngữ Ấn-Âu chính là tiếng Pali, ngôn ngữ dùng trong nghi thức của Phật giáo Nguyên Thủy và tiếng Anh. Theo Viện Thống kê UNESCO, tỷ lệ biết đọc biết viết chính thức của Myanmar năm 2000 là 89,9%. Về mặt lịch sử, Myanmar có tỷ lệ biết chữ cao. Nhằm đạt mức đánh giá tình trạng quốc gia kém phát triển của Liên hiệp quốc để được cho vay vốn, Myanmar đã hạ thấp mức biết chữ của nước mình từ 78,6% xuống còn 18,7% năm 1987. Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ước tính số người biết chữ thực là 30%. Phật giáo tại Myanmar chủ yếu là phái Nguyên Thủy hòa trộn với những đức tin bản địa. 89% dân số nước này theo Phật giáo Nguyên Thủy, gồm người Bamar, Rakhine, Shan, Mon và Hoa. 4% dân số là tín đồ Cơ Đốc giáo, chủ yếu là những cư dân vùng cao như Kachin, Chin và Kayin, và Âu Á bởi vì các nhà truyền giáo thường tới các vùng này. Đa số tín đồ Cơ Đốc giáo là Tin Lành, đặc biệt là phái Baptist của Giáo đoàn Baptist Myanmar. 4% dân số theo Hồi giáo, chủ yếu là dòng Sunni. Hồi giáo thường phát triển trong các cộng đồng dân cư Ấn Độ, Ấn Miến, Ba Tư, Ả Rập, Panthay và Rohingya. Những người dân theo Hồi giáo và Cơ Đốc giáo không có vị trí quan trọng trong xã hội và thường sống cô lập. Một số nhỏ dân cư theo Hindu giáo. Quyền con người Có sự đồng thuận rằng chế độ độc tài quân sự cũ ở Myanmar (1962–2010) là một trong những chế độ đàn áp và khắc nghiệt nhất trên thế giới . Vào tháng 11 năm 2012, Samantha Power, trợ lý đặc biệt về nhân quyền của Tổng thống Mỹ Barack Obama, đã viết trên blog của Nhà Trắng trước chuyến thăm của Tổng thống Obama tới Myanmar rằng: "Lạm dụng nhân quyền nghiêm trọng chống lại thường dân ở một số khu vực tiếp tục diễn ra, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em." Các thành viên của Liên Hợp Quốc và các tổ chức nhân quyền quốc tế lớn đã đưa ra các báo cáo lặp đi lặp lại và nhất quán về tình trạng vi phạm nhân quyền lan rộng và có hệ thống ở Myanmar. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã nhiều lần kêu gọi chính quyền quân sự Myanmar tôn trọng nhân quyền vào tháng 11/2009 Đại hội đồng đã thông qua nghị quyết "lên án mạnh mẽ các hành vi vi phạm liên tục về quyền con người và quyền tự do cơ bản" và kêu gọi chính quyền quân sự Myanmar "thực hiện các biện pháp khẩn cấp để chấm dứt vi phạm luật phap quốc tế về nhân quyền và nhân đạo." Các tổ chức nhân quyền quốc tế bao gồm Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, Tổ chức Ân xá Quốc tế và Hiệp hội Tiến bộ Khoa học Hoa Kỳ đã nhiều lần ghi nhận và lên án các vụ vi phạm nhân quyền trên diện rộng ở Myanmar. Vào tháng 7 năm 2013, Hiệp hội hỗ trợ các tù nhân chính trị chỉ ra rằng có khoảng 100 tù nhân chính trị bị giam giữ trong các nhà tù Myanmar Những cáo buộc về tội ác và diệt chủng đối với người Rohingya Người Rohingya đã liên tục phải đối mặt với các hành vi phạm nhân quyền bởi chính quyền Myanmar, họ thậm chí còn không được chính quyền Myanmar công nhận là công dân của nước này. Người Rohingya đã bị từ chối quyền công dân Myanmar kể từ khi ban hành Luật công dân 1982. Luật đã tạo ra ba loại quyền công dân: công dân, công dân liên kết và công dân nhập tịch. Quyền công dân được trao cho các dân tộc như Kachin, Kayah (Karenni), Karen, Chin, Burman, Mon, Rakhine, Shan, Kaman, hoặc Zerbadee. Công dân liên kết được trao cho những người không thể chứng minh được rằng tổ tiên của họ đã định cư tại Myanmar trước năm 1823, nhưng có thể chứng minh họ có một ông bà, hoặc tổ tiên trước năm 1823, là công dân của một quốc gia khác, cũng như những người nộp đơn xin nhập tịch vào năm 1948 và đủ điều kiện theo luật hồi đó. Công dân nhập tịch chỉ dành cho những người có ít nhất một trong hai người cha hoặc mẹ thuộc một trong hai loại công dân Miến Điện trên hoặc có thể cung cấp "bằng chứng kết luận" rằng cha mẹ họ đã nhập cư và cư trú tại Miến Điện từ trước khi nước này dành độc lập vào năm 1948. Chính phủ Myanmar đã cố gắng trục xuất người Rohingya ra khỏi đất nước và đưa những người không phải là người Rohingyas thay thế họ - chính sách này đã dẫn đến việc trục xuất khoảng một nửa (400.000) người Rohingya ra khỏi Myanmar. Người Rohingya được mô tả "một trong những dân tộc thiểu số bị đàn áp nhiều nhất thế giới" . Người Rohingya cũng không được phép di chuyển mà không có sự cho phép, bị cấm sở hữu đất đai và phải ký cam kết không có nhiều hơn hai con. Đến tháng 7 năm 2012, người Rohingya vẫn không nằm trong danh sách hơn 130 dân tộc tại Myanmar của chính phủ, kể từ năm 1982 họ được chính phủ Myanmar phân loại là người Hồi giáo Bengali không quốc tịch có nguồn gốc từ Bangladesh - do đó, chính phủ Myanmar tuyên bố rằng những người Rohingya không được cấp quốc tịch Myanmar . Kể từ khi quá trình chuyển đổi sang nền dân chủ bắt đầu vào năm 2011, bạo lực vẫn tiếp tục xảy ra khi 280 người Rohingya thiệt mạng và 140.000 người buộc phải chạy trốn khỏi nhà của họ ở bang Rakhine . Một phái viên của Liên Hợp Quốc đưa tin vào tháng 3 năm 2013 rằng tình trạng bất ổn đã tái xuất hiện giữa cộng đồng Phật giáo và Hồi giáo của Myanmar, với bạo lực lan rộng đến các thị trấn nằm gần Yangon hơn . Bạo loạn bang Rakhine năm 2012 Bạo động tại bang Rakhine năm 2012 là một loạt các cuộc xung đột đang diễn ra chủ yếu giữa những người Phật tử Rakhine và những người Hồi giáo Rohingya ở bang Rakhine phía bắc của Myanmar, dù đến tháng 10 năm 2012 thì người Hồi giáo thuộc tất cả các dân tộc khác ở quốc gia này đã bắt đầu trở thành mục tiêu bị tấn công. Các cuộc bạo loạn diễn ra sau nhiều tuần tranh chấp bè phái và đã bị lên án bởi hầu hết mọi người ở cả hai phía của cuộc xung đột. Nguyên nhân trực tiếp của các cuộc bạo loạn là không rõ ràng, với nhiều nhà bình luận đưa ra việc người Rakhine Phật giáo giết chết mười người Miến Điện Hồi giáo sau vụ hãm hiếp và giết chết một phụ nữ dân tộc Rakhine là nguyên nhân chính. Chính phủ Myanmar phản ứng bằng cách áp đặt lệnh giới nghiêm và bằng cách triển khai quân đội ở khu vực. Ngày 10 tháng 6, tình trạng khẩn cấp đã được loan báo trong Rakhine, cho phép quân đội tham gia vào việc quản lý khu vực Đến thời điểm 22 tháng 8 năm 2012, chính thức đã có 88 trường hợp bị giết chết – 57 người Hồi giáo và 31 người theo Phật giáo. Ước tính có khoảng 90.000 người đã bị dời chỗ ở do bạo động. Khoảng 2.528 ngôi nhà bị đốt cháy, và của những người, 1.336 ngôi nhà thuộc người Rohingya và 1192 ngôi nhà thuộc về người Rakhine. Quân đội Miến Điện và cảnh sát bị cáo buộc đóng vai trò hàng đầu trong việc nhắm mục tiêu vào người Rohingya thông qua việc bắt giữ hàng loạt và bạo lực độc đoán.. Một số tổ chức của các nhà sư Phật giáo đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh dân chủ của Myanmar đã thực hiện các biện pháp ngăn chặn bất kỳ sự hỗ trợ nhân đạo nào cho cộng đồng người Rohingya. Khủng hoảng di cư Rohingya năm 2015 Cuộc khủng hoảng người tị nạn Rohingya 2015 là sự cố gắn liền với sự di dân bất hợp pháp của hàng nghìn người Rohingya từ Myanmar, được phương tiện truyền thông quốc tế gọi chung là "thuyền nhân", tới Đông Nam Á bao gồm các nước Indonesia, Malaysia, Thái Lan bằng tàu thuyền vượt qua eo biển Malacca và biển Andaman. Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn ước tính có khoảng 25.000 người từ tháng 1-3/2015 lên thuyền vượt biên. Có những tuyên bố rằng khoảng 100 người đã thiệt mạng tại Indonesia, 200 tại Malaysia và 10 tại Thái Lan, khi bị những kẻ buôn người bỏ lại trên biển. Theo ước tính có khoảng 140.000 người trong số từ 800.000-1,1 triệu người Rohingya đã buộc phải tìm nơi ẩn náu tại các trại di dời sau cuộc bạo loạn bang Rakhine năm 2012. Để thoát khỏi sự trấn áp và chính sách khủng bố hơn 100,000 đã chạy trốn khỏi Myanmar bằng đường biển kể từ năm 2012. Một ước tính có khoảng 3000 thuyền nhân Myanmar và Bangladesh đã được giải cứu hoặc bơi vào bờ, vài nghìn người vẫn bị mắc kẹt trên thuyền ngoài biển với rất ít thức ăn và nước. Cuộc khủng hoảng do những kẻ buôn người gây ra. Cuộc đàn áp người Rohingya tại Myanmar 2016-17 Theo báo cáo của chính quyền Myanmar vào ngày 09 Tháng Mười 2016, một số cá nhân có vũ trang đã tấn công nhiều trạm cảnh sát biên phòng ở bang Rakhine khiến chín nhân viên cảnh sát tử vong. Vũ khí và đạn dược cũng bị cướp mất. Các cuộc tấn công lớn đã diễn ra tại thị trấn Maungdaw của nhà nước. Danh tính của những kẻ tấn công vẫn chưa được biết, mặc dù nó đã được cho là một nhóm tách khỏi Tổ chức Đoàn Kết Rohingya. Sau sự kiện trạm cảnh sát, quân đội Miến Điện đã bắt đầu một chiến dịch đàn áp lớn trong các làng mạc phía bắc của bang Rakhine. Trong cuộc hành quân khởi đầu, hàng chục người đã thiệt mạng và nhiều người đã bị bắt giữ. Số thương vong đã gia tăng theo diễn tiến của cuộc đàn áp. Những vụ bắt giữ tùy tiện, hạ thủ, hiếp dâm tàn bạo nhắm vào dân thường, và cướp bóc đã được thực hiện. Theo báo cáo của giới truyền thông, hàng trăm người Rohingya đã bị giết tính đến tháng 12 năm 2016, và nhiều người đã chạy trốn khỏi Myanmar với tư cách tị nạn để tìm nơi trú ẩn trong các khu vực lân cận của Bangladesh. Cuối tháng Mười một, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền HRW công bố hình ảnh vệ tinh cho thấy rằng có khoảng 1250 ngôi nhà của người Rohingya trong năm ngôi làng đã bị thiêu rụi bởi các lực lượng an ninh. Các phương tiện truyền thông và các tổ chức nhân quyền thường xuyên báo cáo các hành vi xâm phạm nhân quyền nghiêm trọng của quân đội Myanmar. Trong một biến cố vào tháng Mười Một, quân đội Myanmar đã sử dụng máy bay trực thăng để bắn giết dân làng. Tính đến tháng 11 năm 2016, Myanmar vẫn chưa cho phép các giới truyền thông và các tổ chức nhân quyền vào những khu vực bị đàn áp. Do đó, các con số chính xác về thương vong dân sự vẫn chưa được rõ. Bang Rakhine đã được gọi là một "hố đen về thông tin". Những người đã chạy trốn khỏi Myanmar để thoát cuộc đàn áp đã báo cáo rằng phụ nữ bị hiếp dâm, nam giới bị giết chết, nhà nhà bị đốt phá, và trẻ em bị ném vào các ngôi nhà đang bốc cháy. Thuyền bè chở người tị nạn Rohingya trên sông Naf thường bị bắn hạ bởi quân đội Myanmar. Ngày 03 tháng 2 năm 2017, Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về Nhân quyền công bố một báo cáo dựa trên các cuộc phỏng vấn với hơn 200 người tị nạn Rohingya, trong đó nói rằng các ngược đãi bao gồm hiếp dâm tập thể, giết người hàng loạt, và thảm sát trẻ em. Gần một nửa số người được phỏng vấn nói rằng các thành viên gia đình của họ đã bị giết hại. Một nửa số phụ nữ được phỏng vấn nói rằng họ đã bị cưỡng hiếp hoặc tấn công tình dục: báo cáo mô tả bạo hành tình dục là "quy mô và có hệ thống". Quân đội và cảnh sát tuyên bố đã đốt cháy "nhà cửa, trường học, chợ búa, cửa hàng và đền thờ Hồi giáo" thuộc sở hữu hoặc được sử dụng bởi những người Rohingya. Văn hóa Dù có nhiều nền văn hóa bản xứ tồn tại ở Myanmar, nền văn hóa chiếm vị trí trọng yếu là Phật giáo và Bamar. Văn hóa Bamar từng bị ảnh hưởng từ các nền văn hóa các nước xung quanh. Nó được biểu hiện qua ngôn ngữ, ẩm thực, âm nhạc, nhảy múa và sân khấu. Nghệ thuật, đặc biệt là văn học, trong lịch sử từng bị ảnh hưởng bởi văn hóa Phật giáo Nam truyền Miến Điện. Nếu coi thiên sử thi quốc gia của Myanmar, Yama Zatdaw, là một sự phóng tác theo Ramayana, thì nó đã mang nhiều nét ảnh hưởng lớn từ các văn bản Thái, Mon và Ấn Độ của vở kịch này. Phật giáo đi sâu vào văn hóa và là cốt lõi của văn hóa Myanmar. Trong các làng Myanmar truyền thống, chùa chiền là trung tâm của đời sống văn hóa. Các nhà sư được sùng kính và người dân luôn quỳ trước mặt để tỏ lòng tôn trọng họ. Lễ nhập tu được gọi là shinbyu là lễ đánh dấu sự trưởng thành quan trọng nhất của một chú bé khi vào chùa tu trong một khoảng thời gian ngắn. Các cô bé cũng có lễ xuyên lỗ tai (နားသွင်း) khi đến tuổi trưởng thành. Văn hóa Myanmar được thể hiện rõ rệt nhất tại những ngôi làng nơi các lễ hội địa phương được tổ chức trong suốt năm, lễ hội quan trọng nhất là lễ chùa. Nhiều làng xã ở Myanmar có quy ước, các phong tục và những điều cấm kị riêng. Thời kỳ cai trị thuộc địa của Anh cũng đã để lại một số ảnh hưởng phương Tây trong văn hóa Myanmar. Hệ thống giáo dục Myanmar theo khuôn mẫu hệ thống giáo dục Anh Quốc. Những ảnh hưởng kiến trúc thuộc địa là điều dễ nhận thấy nhất tại các thành phố lớn như Yangon. Nhiều dân tộc thiểu số, đặc biệt là người Karen ở phía đông nam và người Kachin, người Chin sống ở phía bắc và tây bắc, theo Thiên chúa giáo nhờ công của các nhà truyền giáo. Ngôn ngữ Tiếng Myanmar, tiếng mẹ đẻ của người Bamar và là ngôn ngữ chính thức của Myanmar, về mặt ngôn ngữ học có liên quan tới tiếng Tây Tạng và tiếng Trung Quốc. Nó được viết bằng ký tự gồm các chữ hình tròn và nửa hình tròn, có nguồn gốc từ ký tự Môn. Bảng chữ cái này được phỏng theo ký tự Môn, ký tự Môn được phát triển từ ký tự nam Ấn Độ trong thập niên 700. Những văn bản sớm nhất sử dụng ký tự được biết tới từ thập niên 1000. Ký tự này cũng được sử dụng để viết chữ Pali, ngôn ngữ thiêng liêng của Phật giáo Nguyên Thủy. Ký tự Miến Điện cũng được dùng để viết nhiều ngôn ngữ thiểu số khác, gồm Shan, nhiều thổ ngữ Karen và Kayah (Karenni); ngoài ra mỗi ngôn ngữ còn có thêm nhiều ký tự và dấu phụ đặc biệt khác. Tiếng Mayanmar sử dụng nhiều từ thể hiện sự kính trọng và phân biệt tuổi tác. Xã hội Myanmar truyền thống rất nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục. Bên trong các ngôi làng, giáo dục do các giáo sĩ truyền dạy thường diễn ra trong các ngôi chùa. Giáo dục trung học và giáo dục cao đẳng/đại học thuộc các trường của chính phủ. Ẩm thực Ẩm thực Myanmar bị ảnh hưởng nhiều từ ẩm thực Ấn Độ, Trung Quốc, Thái, và các nền văn hóa ẩm thực của các dân tộc thiểu số khác. Món chủ yếu trong ẩm thực Myanmar là gạo. Mỳ và bánh mì cũng là các món thường thấy. Ẩm thực Myanmar thường sử dụng tôm, cá, patê cá lên men, thịt lợn và thịt cừu. Thịt bò, bị coi là món cấm kỵ, rất hiếm được sử dụng. Các món cà ri, như masala và ớt khô cũng được dùng. Mohinga, thường được coi là món quốc hồn Myanmar, gồm nước luộc cá trê có gia vị cà ri và hoa đậu xanh, miến và nước mắm. Các loại quả nhiệt đới thường dùng làm đồ tráng miệng. Các thành phố lớn có nhiều phong cách ẩm thực gồm cả Shan, Trung Quốc và Ấn Độ. Âm nhạc Âm nhạc truyền thống Miến Điện du dương nhưng không hài hòa. Các nhạc cụ gồm một bộ trống được gọi là pat waing, một bộ cồng gọi là kyi waing, một đàn tre gọi là pattala, chũm chọe, nhạc cụ bộ hơi như hnè hay oboe và sáo, bamboo clappers, và nhạc cụ bộ dây, thường được kết hợp thành một giàn giao hưởng gọi là saing waing Saung gauk, một nhạc cụ bộ dây hình chiếc thuyền gồm các dây tơ và thủy tinh trang trí dọc theo thân từ lâu đã đi liền với văn hóa Myanmar. Từ thập niên 1950, các nhạc cụ phương Tây đã trở nên phổ biến, đặc biệt tại các thành phố lớn. Thể thao Các môn võ thuật Lethwei, Bando, Banshay, và Pongyi cùng với chinlone là các môn thể thao truyền thống ở Myanmar. Bóng đá được chơi trên khắp đất nước, ngay cả ở các làng quê. SEA Games 2013 diễn ra tại Naypyidaw, Yangon, Mandalay và Ngwesaung Beach ở Myanmar vào tháng 12, là lần thứ ba sự kiện thể thao này được tổ chức tại Myanmar. Myanmar trước đây đã tổ chức SEA Games vào các năm 1961 và 1969. Tôn giáo Phật giáo tại Myanmar chủ yếu là phái Nguyên Thủy hòa trộn với những đức tin bản địa. 89% dân số nước này theo Phật giáo Nguyên Thủy, gồm người Bamar, Rakhine, Shan, Mon và Hoa. 4% dân số là tín đồ Cơ Đốc giáo, chủ yếu là những cư dân vùng cao như Kachin, Chin và Kayin, và Âu Á bởi vì các nhà truyền giáo thường tới các vùng này. Đa số tín đồ Cơ Đốc giáo là Tin Lành, đặc biệt là phái Baptist của Giáo đoàn Baptist Myanmar. 4% dân số theo Hồi giáo, chủ yếu là dòng Sunni. Hồi giáo thường phát triển trong các cộng đồng dân cư Ấn Độ, Ấn Miến, Ba Tư, Ả Rập, Panthay và Rohingya. Những người dân theo Hồi giáo và Cơ Đốc giáo không có vị trí quan trọng trong xã hội và thường sống cô lập. Một số nhỏ dân cư theo Hindu giáo. Myanmar có nhiều tôn giáo khác nhau, trong đó đạo Phật chiếm 89,3% số dân; Thiên Chúa giáo 5,6%; đạo Hồi 3,8%; đạo Hindu 0,5%; các tôn giáo khác như Do Thái giáo, Đa Thần giáo, Vật linh giáo, v.v. Chiếm khoảng 0,8% số dân. Mọi công dân Myanmar được tự do tín ngưỡng, tuy theo tôn giáo khác nhau nhưng dân chúng vẫn sống hòa bình, bằng chứng là những kiến trúc của tôn giáo khác nhau cùng được xây dựng và tôn trọng tại những thành phố lớn. Phật giáo Người dân Myanmar sùng đạo Phật, tại bất kỳ thành phố, thị xã nào đều có ít nhất một ngôi chùa và một tu viện Phật giáo. Đạo Phật có ảnh hưởng rất lớn ở Myanmar, cuộc sống của người dân không tách rời các nghi lễ Phật giáo. Mùa chay Phật giáo cũng được ghi trên lịch của Myanmar là ba tháng mùa mưa, tương đương với thời gian từ tháng 7 đến tháng 10 dương lịch. Trong thời gian đó có các hoạt động ăn chay, cưới xin, chuyển nhà thường được hoãn lại. Trong các tín đồ Phật giáo ở Myanmar có 99% là người Miến, người Shan và người Karen. Cả nước Myanmar có khoảng 500.000 tăng ni. Đạo Phật ở Myanmar theo dòng Theravada, là Phật giáo Nguyên thủy – tức dòng Phật giáo giữ nguyên sinh hoạt và tu hành như thời kỳ Đức Phật, giáo phái Nam Tông. Sự tu hành của các sư cũng giống như Phật giáo tại Thái Lan, Lào, Sri Lanka, Campuchia: các sư không ở chùa mà ở thiền viện, buổi sáng hằng ngày đi khất thực, không ăn chay và chỉ được ăn từ khi mặt trời mọc đến trước 12h trưa, sau 12h trưa đến sáng hôm sau tuyệt đối không được ăn. Dưới thời thủ tướng Ne Win, Phật giáo tại Mianma từng được đưa vào Hiến pháp là quốc đạo, nhưng các chính quyền quân sự Myanmar tiếp theo đã xóa bỏ điều khoản này để đảm bảo công bằng về tôn giáo. Cả nước Myanmar có hàng vạn đền, chùa, tháp, nằm rải rác trên khắp đất nước. Vì vậy, cũng như Campuchia, Myanmar còn được gọi là đất nước Chùa tháp. Chùa tháp tập trung nhiều nhất ở thành phố Bagan, gồm khoảng hơn 4000 đền, chùa, tháp lớn nhỏ trên diện tích khoảng 40km2. Nhiều chùa, tháp được xây dựng từ đầu kỷ nguyên Bagan (thế kỷ XI). Nhiều chùa tháp của Myanmar thường được xây trên các đỉnh núi cao hơn mặt nước biển hàng nghìn mét để cất giữ, bảo quản xá lợi Phật và các Phật tích khác. Các ngọn tháp cất giữ xá lợi Phật là những cấu trúc liền khối hình nón với một căn phòng chứa báu vật ở bên dưới. Khu nền bao quanh ngọn tháp là nơi dành cho hành khách hương cầu nguyện, thiền định, tụng kinh hay dâng hương. Những kiến trúc Phật giáo khác gồm có: tượng Phật – được dựng ngoài trời hay dưới một mái che, Phật đường – là nơi tổ chức thuyết pháp và các buổi lễ. Ở lối vào những ngôi đền, chùa lớn thường có nhiều quầy bán hoa tươi, cành lá, nến, vàng thếp, những chiếc dù, quạt nhỏ bằng giấy màu để dâng lên Đức Phật. Giày dép của khách thập phương phải bỏ bên ngoài mỗi khi bước chân vào đền, chùa. Myanmar cũng có rất nhiều thiền viện – là nơi ở của các nhà sư. Các Phật tử trong và ngoài nước thường tới thiền viện để tỏ lòng kính trọng và dâng đồ bố thí, cúng dường như thức ăn, tiền bạc, áo cà sa và vật dụng cho các sư. Phật tử có thể lưu lại cả tuần, cả tháng, cả năm trong thiền viện để học thiền, nghe thuyết pháp hay nghiên cứu Phật pháp. Nhiều nghi lễ tôn giáo, trong đó có lễ thụ giới và lễ dâng cà sa,… được tổ chức rất trang trọng tại các thiền viện. Một số khu vực trong thiền viện cấm phụ nữ không được lui tới. Vào các kỳ nghỉ hè hằng năm, học sinh từ 6 đến 16 tuổi cũng tập trung ở đây làm lễ xuống tóc, đổi áo và dự một khóa tu khoảng 1 tháng để học các giới luật, nghe thuyết pháp và tu thiền. Chùa Shwedagon (chùa vàng) ở Yangon là chùa tháp lớn nhất và đẹp nhất Myanmar, được hình thành từ 2500 năm trước và được các triều đạo phong kiến Miến Điện tu bổ, mở rộng dần. Chùa Shewdagon tọa lạc trên một quả đồi cao, rộng, trên đỉnh tháp gắn nhiều kim cương, hồng ngọc, bích ngọc và các loại đá quý, chùa được dát vàng nên lấp lánh dưới ánh mặt trời vào ban ngày và ánh điện về ban đêm. Ở Yangoon còn có chùa Phật nằm, chùa Phật ngọc, chùa tóc Phật, chùa răng Phật, v.v.. rất độc đáo. Chùa Kyaikhtyo ở bang Mon là kỳ quan có một không hai trên thế giới. Chùa được xây trên tảng đá lớn màu vàng chênh vênh trên vách núi cao trông rất ngoạn mục. Myanmar có nhiều học viện Phật giáo ở các thành phố lớn, nơi đã và đang đào tạo các sư có trình độ cao về Phật học. Myanmar còn có trường đại học Phật giáo quốc tế tại Yangoon, dành cho sinh viên từ nhiều nước như Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Sri Lanka, Nepan, Thái Lan, Campuchia, Lào,.. đến học miễn phí từ bậc đại học đến tiến sĩ. Thiên Chúa giáo Thiên chúa giáo lần đầu tiên gia nhập Myanmar khoảng đầu thế kỷ XVII, hiện chiếm khoảng 5,6% số dân Myanmar. Phần lớn tín đồ thiên chúa giáo là người Keren, Chin, Kachin, và người Miến theo Thiên chúa giáo dòng Baptis. Những thừa sai Thiên chúa giáo hoạt động rất tích cực từ thời thuộc địa cho đến giữa những năm 1960, họ thành lập các trường học, bệnh viện và các trung tâm cứu trợ xã hội. Sau năm 1962, những cơ sở này bị chính quyền Myanmar quốc hữu hóa. Hồi giáo Đạo Hồi tại Myanmar chiếm 3,8% số dân và chủ yếu tập trung ở bang Rakhine, phía tây Myanmar. Những người Hồi giáo dòng Rohingya sống chủ yếu ở các quận Maungdau, Buthidaung và Rathedaung – bang Rakhine. Từ nhiều năm nay, những khu vực này vẫn thường xảy ra xung đột quyết liệt giữa các giáo phái với nhau, đặc biệt là tín đồ Hồi giáo dòng Rohingya với tín đồ Thiên chúa giáo và Phật giáo. Các tôn giáo khác gồm Do thái giáo, Đa thần giáo, Linh vật giáo,..chiếm khoảng 0,8% số dân Myanmar. Những hình ảnh liên quan Xem thêm Ẩm thực Myanmar Văn học Myanmar Âm nhạc Myanmar Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài Fonts tiếng Myanmar (font chuẩn và font unicode) Online Burma/Myanmar Library Ministry of Agriculture and Irrigation Ministry of Communications, Posts, and Telegraphs Ministry of Education Ministry of Finance and Revenue Ministry of Foreign Affairs Ministry of Home Affairs Ministry of Hotels and Tourism Ministry of Religious Affairs National Coalition Government of the Union of Burma Official Interim Shan Government Website Encyclopaedia Britannica Myanmar Country Page Official Myanmar Government Website US Campaign for Burma Burma Campaign UK Các bài nghiên cứu: The Longest Coup: Did China Plan to Invade Burma in 1988? A Historical Overview of Political Transition in Myanmar Since 1988 Sino-Myanmar Economic Relations Since 1988 Regionalism in Myanmar’s Foreign Policy: Past, Present and Future The Changing Nature of Conflict between Burma and Siam as Seen from the Growth and Development of Burmese States from the 16th to the 19th Centuries Nước kém phát triển Cựu cộng hòa xã hội chủ nghĩa Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc Quốc gia Đông Nam Á Quốc gia thành viên ASEAN Quốc gia châu Á Chế độ độc tài quân sự
24180
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A3%20Minh
Mã Minh
Mã Minh (sa. aśvaghosha, zh. 馬鳴, sinh khoảng năm 80 CN – mất khoảng năm 150 CN) hay A-na Bồ-đề (zh. 阿那菩提, sa. Ānabodhi) là nhà thơ, nhà văn và luận sư Phật giáo Đại thừa người Ấn Độ, sống giữa thế kỉ 1 và 2, được xem là một trong những luận sư quan trọng nhất của Phật giáo. Ông là tổ thứ 12 của Thiền tông Ấn Độ. Cuộc đời Mã Minh sinh ra trong một gia đình theo Bà-la-môn giáo ở Saketa, miền Bắc Ấn Độ. Ông được tổ thứ 10 của Thiền tông Ấn Độ là Bà-lật-thấp-bà (sa. pārśva) giác ngộ và chuyển sang theo Phật giáo. Tác phẩm quan trọng nhất của sư là bộ Hi khúc Xá-lợi tử, Phật sở hạnh tán, bộ Tôn-già-lợi Nan-đà. Sư cũng được xem là tác giả của bộ Đại thừa khởi tín luận. Tác phẩm nổi tiếng nhất của sư là quyển Phật sở hạnh tán (Cuộc đời Đức Phật) thi phẩm nổi tiếng về kể cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, được viết bằng thơ Sanskrit. Với thiên tài thi ca Sanskrit vô tiền khoáng hậu, Mã Minh đã góp phần đưa văn học Sanskrit Phật giáo đến đỉnh cao văn chương và triết lý. Và đây cũng là một trong những kiệt tác của văn học phương Đông. Các tác phẩm của Sư đọc rất dễ hiểu và có nhiều ẩn dụ. Thí dụ như chuyện Tôn-già-lợi Nan-đà "chàng trai tuấn tú Nan-đà" người tuy đã vào chùa đi tu nhưng vẫn còn thương yêu người vợ. Chỉ sau nhiều lần giảng dạy của Phật, chàng mới hết nghiệp yêu thương và sống viễn li. Mã Minh được xem là một trong bốn vị minh triết Phật giáo, được xếp vào "bốn mặt trời chiếu rọi thế giới". Ba vị kia là Long Thụ, Thánh Thiên và Đồng Thụ (sa. kumāralāta, một Đại sư của Kinh lượng bộ). Tác phẩm còn lưu lại Các tác phẩm được liệt kê dưới tên Mã Minh: Đại thừa khởi tín luận (sa. mahāyānaśraddhotpāda-śāstra); Phật sở hành tán (sa. buddhacarita-kāvya); Đại tông địa huyền văn bản luận (sa. mahāyānabhūmiguhyavācāmūla-śāstra); Đại trang nghiêm kinh luận (sa. mahālaṅkāra-sūtra-śāstra); Ni-kiền tử vấn vô ngã nghĩa kinh; Thập bất thiện nghiệp đạo kinh (sa. daśaduṣṭakarmamārga-sūtra); Sự sư pháp ngũ thập tụng; Lục đạo luân hồi kinh; Hi khúc Xá-lợi tử (sa. śāriputraprakaraṇa); Tôn-già-lợi Nan-đà (sa. saundarananda-kāvya). Chú thích Tham khảo Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.) Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986. Đại sư Phật giáo Mất thập niên 150 Nhà thơ Ấn Độ Sinh thập niên 80 Thiền sư Ấn Độ Thiền tông
24181
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%A1n%20v%E1%BB%8B%20thi%C3%AAn%20v%C4%83n
Đơn vị thiên văn
Đơn vị thiên văn (ký hiệu: au hoặc ua) là một đơn vị đo chiều dài, xấp xỉ bằng khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời. Tuy nhiên, bởi vì khoảng cách này thay đổi khi Trái Đất quay quanh Mặt Trời, từ khoảng cách lớn nhất (điểm viễn nhật) đến khoảng cách nhỏ nhất (điểm cận nhật) và quay trở lại trong chu kỳ một năm. Ban đầu đơn vị thiên văn được xác định bằng trung bình giữa khoảng cách theo vị trí cận nhật và viễn nhật của Trái Đất, cho tới nay nó được định nghĩa chính xác bằng mét (khoảng 150 triệu kilômét, hay 93 triệu dặm). Đơn vị thiên văn được sử dụng do nó là đơn vị đo thuận tiện sử dụng chủ yếu trong phạm vi hệ Mặt Trời hoặc xung quanh các ngôi sao khác. Tuy thế, nó cũng là một thành phần cơ bản trong định nghĩa của đơn vị độ dài thiên văn khác, đơn vị parsec. Sử dụng ký hiệu Đơn vị thiên văn đã từng có nhiều ký hiệu và cách viết tắt được sử dụng. Trong quyết định năm 1976, hiệp hội Thiên văn học quốc tế (IAU) đã sử dụng ký hiệu A cho đơn vị thiên văn. Trong các xuất bản phẩm về thiên văn học, ký hiệu AU đã từng và vẫn còn được sử dụng phổ biến. Năm 2006, tổ chức Cân đo quốc tế (BIPM) đề nghị sử dụng ua cho đơn vị thiên văn. Trong phụ lục C (mang tính chất cung cấp thông tin) của ISO 80000-3 (2006), hiệu đơn vị thiên văn là "ua". Năm 2012, tổ chức IAU, chú ý tới "nhiều ký hiệu hiện nay đang được sử dụng cho đơn vị thiên văn", khuyến nghị sử dụng chung một ký hiệu là "au". Trong bản sửa đổi năm 2014 của hệ SI, tổ chức BIPM sử dụng ký hiệu "au". Quá trình phát triển đơn vị Quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời là một hình elíp. Bán trục lớn của quỹ đạo elip được xác định bằng một nửa đoạn thẳng trục lớn nối hai điểm cận nhật và viễn nhật. Mặt Trời nằm trên đoạn thẳng này, nhưng không nằm ở trung điểm của nó. Bởi vì elip là một hình xác định một cách tường minh, việc biết được các điểm nằm trên nó cho phép xác định chính xác hình dạng toán học của quỹ đạo elip, từ đó có thể tính toán ra quỹ đạo cũng như dự đoán cho các quan sát trong tương lai. Thêm vào đó, khoảng cách lớn nhất trong một năm Trái Đất quay quanh Mặt Trời (điểm viễn nhật) sẽ biết được, cho phép xác định được thời điểm và vị trí để quan sát thị sai (sự dịch chuyển vị trí biểu kiến của vật thể trên bầu trời) cực đại đối với các ngôi sao ở gần. Biết được chuyển động của Trái Đất và thị sai của một ngôi sao cho phép ước lượng khoảng cách đến ngôi sao đó. Nhưng mọi phép đo đều có sai số và độ bất định, và các độ bất định trong độ dài đơn vị thiên văn chỉ làm tăng độ bất định của khoảng cách đến ngôi sao. Việc nâng cao độ chính xác luôn là một điều quan trọng nhằm nâng cao hiểu biết thiên văn đối với các nhà khoa học. Trong thế kỷ 20, các lần đo đã ngày càng chính xác và phức tạp hơn, và sự phụ thuộc vào độ chính xác trong quan sát thiên văn đối với các hiệu ứng miêu tả bởi thuyết tương đối của Einstein cũng như vào công cụ toán học mà nó sử dụng. Nâng dần độ chính xác trong đo lường liên tục được kiểm tra và kiểm tra chéo bởi kiến thức của các nhà thiên văn về các định luật của cơ học thiên thể mà chi phối chuyển động của các vật thể trong không gian. Vị trí và khoảng cách dự đoán của vật thể ở một thời điểm nhất định được tính toán (theo AU) từ các định luật này, và được ghi lại thành một tập hợp dữ liệu gọi là lịch thiên văn (ephemeris). Phòng Thí nghiệm Sức đẩy Phản lực (JPL) của NASA cung cấp một số dịch vụ tính toán lịch thiên văn. Năm 1976, để thiết lập một phép đo chính xác hơn cho đơn vị thiên văn, tổ chức IAU đã chính thức chấp nhận một định nghĩa mới của đơn vị thiên văn. Mặc dù dựa trực tiếp trên những đo lường quan sát chính xác nhất cho đến thời điểm đó, định nghĩa này được viết lại theo các số hạng toán học phù hợp nhất rút ra từ cơ học thiên thể và các dữ liệu hành tinh. Phát biểu của định nghĩa "đơn vị thiên văn là độ dài (A) mà hằng số hấp dẫn Gauss (k) có giá trị khi các đơn vị đo lường là đơn vị thiên văn của độ dài, khối lượng và thời gian". Một cách tương đương, theo định nghĩa này, 1 AU là bán kính của quỹ đạo tròn Newton không bị nhiễu loạn của một hạt có khối lượng vô cùng nhỏ với tâm là Mặt Trời, chuyển động với tần số góc bằng radian trên một ngày; hoặc một cách khác nó là độ dài mà hằng số hấp dẫn nhật tâm (heliocentric gravitational constant) (tích của GM) bằng ()2 AU3/d2, khi độ dài được sử dụng để miêu tả vị trí của vật thể trong hệ Mặt Trời. Những cuộc thám hiểm hệ Mặt Trời về sau bằng các tàu thăm dò không gian cho phép thực hiện các phép đo chính xác hơn về vị trí tương đối của các hành tinh bên trong hệ Mặt Trời và những vật thể khác bằng cách sử dụng ra đa và đo lường từ xa (telemetry). Như đối với mọi phép đo bằng ra đa, các phương pháp này dựa trên kết quả đo thời gian mà các photon được phản xạ từ vật thể. Bởi vì mọi photon chuyển động bằng tốc độ ánh sáng trong chân không, một hằng số cơ bản trong vũ trụ, khoảng cách của một vật thể đến tàu không gian sẽ bằng tích của tốc độ ánh sáng và thời gian đo được. Tuy nhiên, để tính toán chính xác cần phải kể tới một số ảnh hưởng như chuyển động của tàu thăm dò và của vật thể trong thời gian các photon truyền đi. Thêm vào, phép đo thời gian cũng phải được quy về một hệ quy chiếu tiêu chuẩn khi tính tới ảnh hưởng của hiệu ứng giãn thời gian tương đối tính (relativistic time dilation). So sánh các vị trí trong lịch thiên văn với kết quả đo thời gian trong hệ thời gian phối hợp động lực khối tâm (Barycentric Dynamical Time, TDB) cho giá trị của tốc độ ánh sáng theo đơn vị thiên văn trên một ngày (của ). Năm 2009, tổ chức IAU đã cập nhật các phép đo tiêu chuẩn để phản ánh những cải tiến, và tính toán tốc độ ánh sáng bằng AU/ngày (TDB). Năm 1983, Ủy ban Quốc tế về Cân đo (CIPM) hiệu chỉnh hệ đo lường SI (hay hệ đo lường "hiện đại") để cho phép định nghĩa mét hoàn toàn độc lập với một thực thể nào đó, bởi vì các phép đo khác đã trở lên quá chính xác để có thể tham chiếu đến thanh mét chuẩn làm bằng platin vẫn còn được sử dụng đến lúc đó. Thay thế cho nó, đơn vị mét được định nghĩa lại theo tốc độ của ánh sáng trong chân không, mà khi cần thiết có thể xác định một cách độc lập. Tốc độ ánh sáng được định nghĩa chính xác bằng c0 = , một giá trị số chuẩn cũng được công nhận bởi Tổ chức dịch vụ quốc tế các hệ thống tham chiếu và sự xoay Trái Đất (International Earth Rotation and Reference Systems Service, IERS). Từ định nghĩa này và tiêu chuẩn của 2009, thời gian ánh sáng truyền qua 1 AU bằng τA = , hay hơn 8 phút. Bằng cách nhân ngược lại, ước lượng tốt nhất của IAU 2009 bằng A = c0τA = , dựa trên so sánh lịch thiên văn của JPL và của Viện hàn lâm khoa học Nga IAA–RAS. Năm 2006, Văn phòng Cân đo Quốc tế BIPM báo cáo một giá trị sử dụng đơn vị thiên văn là . Năm 2014 trong tài liệu sửa đổi SI, BIPM công nhận định nghĩa lại của IAU năm 2012 với giá trị của đơn vị thiên văn bằng . Ước lượng trên vẫn được rút ra từ các quan sát và đo đạc thực nghiệm và do vậy chịu ảnh hưởng bởi sai số, và dựa trên những kỹ thuật vẫn chưa chuẩn hóa được mọi hiệu ứng tương đối tính, và do đó không bất biến đối với mọi quan sát viên. Năm 2012, nhận thấy việc kết hợp với thuyết tương đối khiến định nghĩa trở lên quá phức tạp, IAU đã sử dụng định nghĩa đơn giản năm 2009 để xác định lại đơn vị thiên văn như là một đơn vị chiều dài thuận tiện gắn liền trực tiếp với mét (giá trị chính xác bằng ). Định nghĩa mới cũng nhận ra một hệ quả đó là đơn vị thiên văn hiện giờ đóng vai trò ít quan trọng hơn, và nó chỉ được sử dụng giới hạn cho thuận tiện trong một số trường hợp. {| |- |rowspan=5 valign=top|1 đơn vị thiên văn  |= mét (bằng chính xác) |- |≈ triệu dặm |- |≈ giây ánh sáng |- |≈ phần triệu () của 1 parsec |- |≈ phần triệu () của 1 năm ánh sáng |} Định nghĩa trên đặt tốc độ ánh sáng, được định nghĩa chính xác bằng , bằng chính xác  ×  ÷  hay khoảng AU/d, nhỏ hơn 60 phần nghìn tỷ giá trị ước lượng năm 2009. Sử dụng và mức độ quan trọng Với các định nghĩa được sử dụng trước năm 2012, đơn vị thiên văn phụ thuộc vào hằng số hấp dẫn nhật tâm, một hằng số bằng tích của hằng số hấp dẫn G và khối lượng Mặt Trời M. Cả G lẫn M không thể đo với độ chính xác cao khi tách biệt nhau, nhưng giá trị tích của chúng thu được rất chính xác từ kết quả quan sát vị trí tương đối của các hành tinh (định luật 3 Kepler biểu diễn theo hằng số hấp dẫn Newton). Chỉ có giá trị của tích được đòi hỏi để tính vị trí của các hành tinh cho một lịch thiên văn, do đó lịch thiên văn được tính theo đơn vị thiên văn và không theo hệ đơn vị SI. Việc lập lịch thiên văn cũng đòi hỏi phải xét tới ảnh hưởng của các hiệu ứng trong thuyết tương đối rộng. Đặc biệt, khoảng thời gian đo tại bề mặt Trái Đất (thời gian địa cầu, terrestrial time, TT) là không cố định khi so sánh ở những thời điểm khác nhau bởi chuyển động Trái Đất: giây địa cầu (TT) trở lên dài hơn trong mùa đông ở Bán cầu bắc và ngắn hơn trong mùa hè ở Bán cầu nam khi so với "giây hành tinh" (đo quy ước trong hệ thời gian phối hợp động lực khối tâm, TDB). Nguyên nhân do khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời không phải là bất biến (nó thay đổi từ đến ) và, khi Trái Đất ở gần Mặt Trời hơn (điểm cận nhật), trường hấp dẫn của Mặt Trời mạnh hơn và Trái Đất chuyển động nhanh hơn trên quỹ đạo của nó. Khi mét được xác định theo các số hạng giây và tốc độ ánh sáng là hằng số cho mọi quan sát viên, độ dài mét trên địa cầu sẽ thay đổi độ dài so với "độ dài hành tinh" trên một cơ sở tuần hoàn. Mét được xác định là đơn vị của độ dài riêng (proper length), nhưng định nghĩa SI không chỉ rõ tenxơ mêtric nào được sử dụng để xác định nó. Quả vậy, Ủy ban Quốc tế về Cân đo (CIPM) lưu ý rằng "định nghĩa chỉ áp dụng cho những khoảng cách đủ nhỏ mà hiệu ứng của trường hấp dẫn không đều có thể bỏ qua được". Như vậy, mét không xác định được chính xác cho những mục đích đo khoảng cách trong phạm vi hệ Mặt Trời. Định nghĩa 1976 cho đơn vị thiên văn là chưa hoàn thiện bởi vì nó không nêu cụ thể thời gian được đo trong hệ quy chiếu nào, nhưng nó mang lại phương thức tính toán lịch thiên văn: một định nghĩa đầy đủ hơn nhất quán với thuyết tương đối rộng đã được đề xuất, và trải qua "tranh cãi phức tạp" cho đến tận tháng 8 năm 2012 khi IAU chấp nhận định nghĩa hiện nay của 1 đơn vị thiên văn = mét. Đơn vị thiên văn chủ yếu được sử dụng cho các khoảng cách trong phạm vi một hệ sao, kích thước của một đĩa tiền hành tinh hay khoảng cách đến Mặt Trời của một tiểu hành tinh, trong khi các đơn vị khác được sử dụng ở những mức khoảng cách thiên văn học khác nhau. Đơn vị thiên văn là quá nhỏ để có thể sử dụng thuận tiện cho khoảng cách liên sao và lớn hơn, nơi mà đơn vị parsec và năm ánh sáng được sử dụng. Parsec (thị sai giây cung) được xác định theo đơn vị thiên văn, là khoảng cách của một vật thể với thị sai bằng 1 giây cung. Năm ánh sáng thường được sử dụng trong phổ biến khoa học, nhưng không phải là đơn vị SI được phê chuẩn và hiếm khi các nhà thiên văn chuyên nghiệp sử dụng. Lịch sử Theo Archimedes viết trong tiểu luận đếm số hạt cát (2.1), Aristarchus của Samos ước tính khoảng cách đến Mặt Trời xấp xỉ lần bán kính của Trái Đất (giá trị thực sự vào khoảng ). Tuy nhiên, trong cuốn Về kích thước và khoảng cách đến Mặt Trời và Mặt Trăng, cuốn sách được cho là do Aristarchus viết, nói rằng ông tính khoảng cách đến Mặt Trời từ 18 đến 20 lần khoảng cách đến Mặt Trăng, trong khi tỉ số thực sự vào khoảng 389,174. Ước lượng về sau dựa trên góc giữa pha bán nguyệt và Mặt Trời, mà ông ước tính bằng 87° (giá trị thực sự nằm gần 89,853°). Phụ thuộc vào khoảng cách này, Van Helden giả thiết Aristarchus đã sử dụng khoảng cách này đến Mặt Trăng, ông tính toán khoảng cách đến Mặt Trời bằng từ 380 đến lần bán kính Trái Đất. Theo như Eusebius thành Caesarea trong Praeparatio Evangelica (Sách XV, chương 53), Eratosthenes tìm thấy khoảng cách đến Mặt Trời khi ông viết "σταδιων μυριαδας τετρακοσιας και οκτωκισμυριας" (dịch nghĩa "bằng của 400 vạn và stadia") nhưng có thêm lưu ý là trong văn tự Hy Lạp sự tương hợp về ngữ pháp (grammatical agreement) giữa vạn (không phải stadia) trên một vế và cả 400 và trên vế kia, như trong tiếng Hy Lạp, không giống như tiếng Anh, cả ba từ (hoặc cả bốn từ nếu gộp cả stadia) đã bị biến tố (inflection). Do vậy có thể dịch là stadia (dịch bởi Edwin Hamilton Gifford năm 1903), hoặc bằng stadia (bởi Édouard des Places giai đoạn 1974–1991). Sử dụng sân vận động Hy Lạp kích thước 185 đến 190 mét, khoảng cách theo cách dịch đầu tiên tương ứng với độ dài đến , mà quá nhỏ so với thực tế, trong khi cách dịch thứ hai tương ứng với 148,7 đến 152,8 triệu kilômét (độ chính xác trong phạm vi 2%). Hipparchus cũng thử tính khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời, mà như Pappus nói rằng ông tính ra bằng 490 lần bán kính Trái Đất. Theo như phỏng đoán tái dựng lại bởi Noel Swerdlow và G. J. Toomer, Hipparchus thu được kết quả này từ quan sát thị sai Mặt Trời với giá trị bằng 7 cung phút. Trong quyển Chu bễ toán kinh (khoảng thế kỷ 1 TCN) của Trung Hoa, đã chỉ ra cách tính bằng hình học khoảng cách đến Mặt Trời, sử dụng các độ dài khác nhau của bóng chiều tà quan sát tại ba nơi khác nhau cách nhau lý và giả thiết Trái Đất phẳng. Ở thế kỷ 2, Ptolemy ước tính khoảng cách trung bình đến Mặt Trời bằng lần bán kính Trái Đất. Để xác định giá trị này, Ptolemy bắt đầu bằng cách đo thị sai của Mặt Trăng, ông tìm thấy thị sai Mặt Trăng theo đường chân trời bằng 1° 26′, một giá trị quá lớn. Sau đó ông dẫn ra khoảng cách lớn nhất đến Mặt Trăng bằng 64 lần bán kính Trái Đất. Bởi vì các sai số loại bỏ nhau trong cách tính toán của ông về thị sai, lý thuyết của ông về quỹ đạo Mặt Trăng, và những yếu tố khác, kết quả ông thu được giá trị xấp xỉ. Tiếp theo ông đo kích thước biểu kiến của Mặt Trời và Mặt Trăng và đi đến kết luận là đường kính biểu kiến của Mặt Trời bằng đường kính biểu kiến của Mặt Trăng khi Mặt Trăng ở vị trí xa Trái Đất nhất, và từ những tài liệu về nguyệt thực còn lưu lại, ông ước tính ra đường kính biểu kiến này, cũng như đường kính biểu kiến của nón bóng tối của Trái Đất quét qua Mặt Trăng trong thời gian xảy ra nguyệt thực. Dựa trên những dữ liệu này, khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời có thể tính bằng lượng giác và cho giá trị bằng lần bán kính Trái Đất. Kết quả này cho tỷ số khoảng cách đến Mặt Trời và Mặt Trăng xấp xỉ bằng 19, khớp với con số của Aristarchus. Mặc dù thủ tục tính của Ptolemy có thể thực hiện được về mặt lý thuyết, nó rất nhạy với một sự thay đổi nhỏ trong dữ liệu, do vậy chỉ một phép đo cho sai số vài phần trăm sẽ dẫn tới khoảng cách đến Mặt Trời có thể lớn vô hạn. Sau khi kiến thức về thiên văn học của người Hy Lạp cổ đại truyền đến thế giới Hồi giáo ở trung đông, các nhà thiên văn đã thay đổi mô hình của Ptolemy về vũ trụ, nhưng đã không thay đổi nhiều về ước tính của ông cho khoảng cách Trái Đất - Mặt Trời. Ví dụ, trong cuốn sách viết về thiên văn học Ptolemy, al-Farghānī đưa ra khoảng cách trung bình bằng lần bán kính Trái Đất, trong khi ở cuốn zij, al-Battānī sử dụng khoảng cách trung bình đến Mặt Trời bằng lần bán kính Trái Đất. Các nhà thiên văn học về sau, như al-Bīrūnī cũng sử dụng giá trị tương tự. Sau này ở châu Âu, Copernicus và Tycho Brahe cũng đã sử dụng các con số tương tự ( và lần bán kính Trái Đất), do vậy kết quả tính khoảng cách Trái Đất - Mặt Trời của Ptolemy tồn tại cho đến tận thế kỷ 16. Johannes Kepler là người đầu tiên nhận ra rằng ước lượng của Ptolemy cho giá trị quá thấp (mà theo như Kepler, ít nhất nhỏ hơn 3 lần) khi ông nêu trong cuốn Rudolphine Tables (1627). Những định luật của Kepler cho phép các nhà thiên văn tính được khoảng cách tương đối của các hành tinh đến Mặt Trời, và làm khơi lại mối quan tâm đến việc xác định giá trị chính xác khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời (mà có thể áp dụng cho các hành tinh khác). Với phát minh ra kính thiên văn cho phép đo lường chính xác hơn góc thị sai bé mà mặt người không nhận ra được. Nhà thiên văn Godefroy Wendelin đã lặp lại các phép đo của Aristarchus vào năm 1635, và ông nhận thấy giá trị của Ptolemy thấp hơn ít nhất 11 lần. Ước lượng chính xác hơn có thể thu được thông qua quan sát sự đi qua của Sao Kim. Bằng cách đo sự đi ngang qua ở hai nơi khác nhau, các nhà thiên văn có thể tính chính xác thị sai của Sao Kim và khoảng cách tương đối từ Trái Đất và Sao Kim đến Mặt Trời, cũng như tính được thị sai Mặt Trời α (mà không thể đo được một cách trực tiếp). Jeremiah Horrocks đã nỗ lực ước tính dựa trên quan sát của ông vào lần Sao Kim đi ngang qua Mặt Trời vào năm 1639 (công bố năm 1662), ông thu được thị sai Mặt Trời là 15 giây cung, tương tự với con số của Wendelin. Thị sai Mặt Trời liên hệ với khoảng cách Mặt Trời - Trái Đất đo theo đơn vị bán kính Trái Đất bằng Thị sai Mặt Trời nhỏ hơn, thì khoảng cách Trái Đất đến Mặt Trời lớn hơn: thị sai Mặt Trời 15" tương đương với khoảng cách Trái Đất - Mặt Trời bằng lần bán kính Trái Đất. Christiaan Huygens tin rằng khoảng cách này thậm chí phải lớn hơn: bằng cách so sánh kích thước biểu kiến của Sao Kim với Sao Hỏa, ông ước tính giá trị này vào khoảng lần bán kính Trái Đất, tương ứng với giá trị thị sai Mặt Trời bằng 8,6". Mặc dù ước tính của Huygens là khá gần với giá trị hiện đại, các nhà lịch sử thiên văn học thường không kể tới tính toán của ông do ông đặt ra nhiều giả thiết không được chứng minh (và không đúng) để có thể tính toán kết quả; độ chính xác trong giá trị của ông dường như có sự may mắn hơn là một phép đo tốt, với rất nhiều sai số loại trừ nhau. Jean Richer và Giovanni Domenico Cassini đã đo thị sai của Sao Hỏa ở hai nơi Paris và Cayenne ở Guyane thuộc Pháp khi Sao Hỏa nằm gần Trái Đất nhất vào năm 1672. Họ thu được thị sai Mặt Trời bằng 9", tương đương khoảng cách Trái Đất - Mặt Trời bằng lần bán kính Trái Đất. Họ cũng là những nhà thiên văn học đầu tiên sử dụng giá trị chính xác và tin cậy của bán kính Trái Đất, mà do đồng nghiệp của họ là Jean Picard đo được vào năm 1669 với bán kính Trái Đất bằng lần toise. Một nhà thiên văn khác, Ole Rømer, đã phát hiện ra ánh sáng có tốc độ hữu hạn vào năm 1676: tốc độ rất lớn mà nó thường được viết là thời gian cần thiết để ánh sáng di chuyển từ Mặt Trời đến Trái Đất, hoặc "thời gian ánh sáng trên một đơn vị khoảng cách", một cách dùng thuận tiện mà các nhà thiên văn vẫn còn sử dụng cho đến ngày nay. Phương pháp tốt hơn để quan sát Sao Kim đi qua Mặt Trời được nhà thiên văn James Gregory đưa ra và công bố trong Optica Promata (1663). Phương pháp này được Edmond Halley ủng hộ mạnh mẽ và ông đã áp dụng để quan sát Sao Kim trong hai lần nó đi qua Mặt Trời vào các năm 1761 và 1769. Sau đó các nhà thiên văn đã lập lại phương pháp này trong lần quan sát năm 1874 và 1882. Hiện tượng Sao Kim đi qua Mặt Trời xuất hiện theo từng cặp, nhưng mỗi thế kỷ nhiều nhất chỉ có một cặp, và lần quan sát trong các năm 1761 và 1769 là một hoạt động khoa học quốc tế chưa từng có đến thời điểm đó. Mặc dù trong thời gian diễn ra chiến tranh Bảy Năm, hàng tá các nhà thiên văn đã đi đến các điểm quan sát trên thế giới với chi phí lớn và sự nguy hiểm tới tính mạng: một vài người thiệt mạng trong cuộc hành trình này. Các kết quả khác nhau được Jérôme Lalande tập hợp và so sánh để cho ra giá trị của thị sai Mặt Trời bằng 8,6″. Một phương pháp khác bao gồm việc xác định hằng số quang sai. Simon Newcomb tập trung chủ yếu vào phương pháp này và dẫn ra giá trị được công nhận rộng rãi bằng 8,80″ của thị sai Mặt Trời (gần bằng với giá trị hiện đại ″), mặc dù Newcomb cũng sử dụng dữ liệu từ lần Sao Kim đi qua Mặt Trời. Newcomb cũng hợp tác với A. A. Michelson để đo tốc độ ánh sáng bằng các thiết bị trên mặt đất; kết hợp với hằng số quang sai (mà được liên hệ với thời gian ánh sáng trên một đơn vị khoảng cách), phương pháp này đưa ra phép đo trực tiếp đầu tiên về khoảng cách Trái Đất - Mặt Trời theo ki lô mét. Giá trị của Newcomb cho thị sai Mặt Trời (và cho hằng số quang sai và hằng số hấp dẫn Gauss) được đưa vào hệ thống hằng số thiên văn quốc tế đầu tiên vào năm 1896, mà được sử dụng để tính toán lịch thiên văn cho đến tận năm 1964. Tên gọi "đơn vị thiên văn" xuất hiện lần đầu và được sử dụng từ năm 1903. Sự khám phá ra tiểu hành tinh gần Trái Đất 433 Eros và thời điểm nó bay đến gần Trái Đất năm 1900–1901 đã cho phép cải thiện đáng kể phép đo thị sai. Cũng vì vậy mà một dự án quốc tế khác được tổ chức để đo thị sai của 433 Eros thực hiện vào năm 1930–1931. Các đo đạc trực tiếp bằng ra đa về khoảng cách đến Sao Kim và Sao Hỏa bắt đầu từ thập kỷ 1960. Cùng với các đo lường cải thiện về tốc độ ánh sáng, các kết quả cho thấy giá trị đo của Newcomb về thị sai Mặt Trời và hằng số quang sai khớp với các số liệu về sau. Phát triển Khoảng cách đơn vị A (giá trị của đơn vị thiên văn đo bằng mét) được biểu diễn theo các hằng số thiên văn: với G là hằng số hấp dẫn Newton, M là khối lượng Mặt Trời, k là giá trị số của hằng số hấp dẫn Gauss và D là chu kỳ thời gian một ngày. Mặt Trời liên tục mất khối lượng do bức xạ năng lượng và gió Mặt Trời, do đó quỹ đạo của các hành tinh dần dần mở rộng ra ngoài khỏi Mặt Trời. Một trong những điều này dẫn tới việc không thể sử dụng đơn vị thiên văn như là đơn vị cơ bản trong lĩnh vực thiên văn chuyên nghiệp. Do tốc độ ánh sáng được định nghĩa chính xác trong hệ đơn vị SI và hằng số hấp dẫn Gauss k được cố định trong hệ thống các đơn vị thiên văn, việc đo thời gian ánh sáng trên đơn vị khoảng cách tương đương chính xác với việc đo giá trị của tích GM trong hệ SI. Từ đây, có thể lập lịch thiên văn hoàn toàn dựa trên hệ đơn vị SI, mà đã dần trở thành một tiêu chuẩn. Phân tích đo lường bức xạ thực hiện năm 2004 đối với các hành tinh vòng trong hệ Mặt Trời cho thấy biến thiên thế kỷ (secular variation) trong khoảng cách đơn vị lớn hơn nhiều so với ảnh hưởng từ bức xạ Mặt Trời, bằng + mét trên thế kỷ. Đo lường biến thiên thế kỷ của đơn vị thiên văn chưa được xác nhận bởi các nhà thiên văn khác và vẫn còn là một chủ đề tranh cãi. Hơn nữa, từ năm 2010, đơn vị thiên văn vẫn chưa được ước tính bởi lịch hành tinh. Xem thêm Năm ánh sáng Yôtamét Pêtamét Parsec Tham khảo Đọc thêm Liên kết ngoài The IAU and astronomical units Recommendations concerning Units (HTML version of the IAU Style Manual) Chasing Venus, Observing the Transits of Venus Transit of Venus Thuật ngữ thiên văn học Đơn vị đo chiều dài (thiên văn học) Cơ học thiên thể
24182
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%B9%20%C4%91%E1%BA%A1o
Quỹ đạo
Một quỹ đạo hoặc đường bay là đường di chuyển của một vật thể có khối lượng chuyển động trong không gian như một hàm của thời gian. Trong cơ học cổ điển, một quỹ đạo được xác định bởi cơ học Hamilton thông qua tọa độ chính tắc; do đó, một quỹ đạo hoàn chỉnh được xác định bởi vị trí và động lượng một cách đồng thời. Quỹ đạo trong cơ học lượng tử là không xác định do nguyên lý bất định Heisenberg rằng vị trí và động lượng không thể đo được đồng thời. Trong cơ học cổ điển, quỹ đạo có thể là của một vật bị ném hoặc vệ tinh. Ví dụ, nó có thể là một quỹ đạo quay của hành tinh, một tiểu hành tinh hoặc sao chổi khi nó di chuyển xung quanh một thiên thể trung tâm. Trong lý thuyết điều khiển, quỹ đạo là một tập hợp các trạng thái của hệ động lực (xem ví dụ Bản đồ Poincaré). Trong toán học rời rạc, một quỹ đạo là một chuỗi các giá trị được tính toán bởi ứng dụng lặp của ánh xạ đến một yếu tố của nguồn của nó. -- Quỹ đạo vật lý -- Một ví dụ quen thuộc của một quỹ đạo là đường đi của một viên đạn, chẳng hạn như một quả bóng được ném hoặc đá. Trong một mô hình được đơn giản hóa, vật thể chỉ di chuyển dưới ảnh hưởng của trường lực hấp dẫn đồng nhất..Trong phép tính gần đúng này, quỹ đạo có hình dạng của một hình parabol. Nói chung khi xác định quỹ đạo, có thể cần phải tính đến lực hấp dẫn không đồng nhất và sức cản không khí (lực cản và khí động học). Đây là trọng tâm của định luật đạn đạo. Một trong những thành tựu đáng chú ý của cơ học Newton là các định luật Kepler. Trong trường hấp dẫn của một khối điểm hoặc khối lượng mở rộng đối xứng hình cầu (như Mặt trời), quỹ đạo của một vật chuyển động là một hình nón, thường là hình elip hoặc hyperbola. này phù hợp với quỹ đạo quan sát của hành tinh, sao chổi, và tàu vũ trụ nhân tạo, mặc dù nếu một sao chổi đi gần Mặt trời, sau đó nó cũng bị ảnh hưởng bởi khác lực như gió mặt trời và áp suất bức xạ, làm thay đổi quỹ đạo và khiến sao chổi đẩy vật chất vào không gian. Lý thuyết của Newton sau này đã phát triển thành nhánh của vật lý lý thuyết được gọi là cơ học cổ điển. Nó sử dụng toán học của phép tính vi phân (cũng được Newton khởi xướng khi còn trẻ). Trong nhiều thế kỷ, vô số nhà khoa học đã đóng góp cho sự phát triển của hai ngành này. Cơ học cổ điển trở thành một minh chứng nổi bật nhất về sức mạnh của tư duy duy lý, tức là lý trí, trong khoa học cũng như công nghệ. Nó giúp hiểu và dự đoán một loạt các hiện tượng; quỹ đạo là một ví dụ. Xét một hạt có khối lượng , di chuyển trong một lĩnh vực tiềm năng . Về mặt vật lý, khối lượng đại diện cho quán tính và trường đại diện cho các lực lượng bên ngoài của một loại cụ thể được gọi là "bảo thủ". Được lực tại mọi vị trí liên quan, có một cách để suy ra lực liên kết sẽ hoạt động tại vị trí đó, đến từ trọng lực. Tuy nhiên, không phải tất cả các lực lượng có thể được thể hiện theo cách này. Chuyển động của hạt được mô tả bởi phương trình vi phân bậc hai Ở phía bên tay phải, lực được đưa ra theo , độ dốc của điện thế, được lấy tại các vị trí dọc theo quỹ đạo. Đây là dạng toán của định luật chuyển động thứ hai của Newton: lực bằng với gia tốc khối lượng cho các tình huống như vậy. Quỹ đạo trong thiên văn học Trong thiên văn học, Johannes Kepler có ba định luật về hành tinh và chuyển động của chúng. Định luật Kepler I hay còn gọi là định luật về quỹ đạo chuyển động của các hành tinh với nội dung: Mọi hành tinh đều chuyển động với quỹ đạo hình elip quanh Mặt Trời, trong đó Mặt Trời nằm tại một tiêu điểm. Các hành tinh chuyển động với quỹ đạo nhờ lực hấp dẫn của Mặt Trời. Định luật Kepler II hay định luật về tốc độ diện tích quét: Trong chuyển động của một hành tinh, vectơ bán kính từ Mặt Trời đến hành tinh quét những diện tích bằng nhau trong những khoảng thời gian bằng nhau. Định luật kepler III hay định luật về chu kì chuyển động: Đối với các hành tinh khác nhau, bình phương chu kì quay của mỗi hành tinh luôn tỉ lệ với luỹ thừa bậc 3 của bán trục lớn (quỹ đạo) của hành tinh đó và bằng một hằng số. Định luật này được biểu diễn bằng công thức: , trong đó I là chu kì quay của hành tinh, a là bán trục lớn của quỹ đạo chuyển động, c là hằng số. Xem thêm Tên lửa đạn đạo Tham khảo Liên kết ngoài Cơ học Thuật ngữ thiên văn học Cơ học thiên thể Thuật phóng
24184
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C4%83ng%20hoa
Thăng hoa
Thăng hoa (sublimation) là quá trình chuyển biến trạng thái vật chất, trực tiếp từ thể rắn qua thể khí, mà không cần qua thể lỏng ở trung gian. Thăng hoa là một quá trình thu nhiệt xảy ra ở các nhiệt độ và áp suất bên dưới điểm ba của chất trong biểu đồ pha, tương ứng với áp suất thấp nhất mà chất có thể tồn tại ở thể lỏng. Quá trình ngược lại với thăng hoa được gọi là ngưng kết, trong đó một chất chuyển trực tiếp từ thể khí thành thể rắn. Thăng hoa cũng đã được sử dụng như một thuật ngữ chung để mô tả một sự chuyển biến gồm từ rắn sang khí (thăng hoa), kế tiếp là sự chuyển biến từ khí săng rắn (ngưng kết). Trong khi hóa hơi từ thể lỏng sang thể khí xảy ra dưới hình thức bay hơi trên bề mặt nếu nó xảy ra dưới điểm sôi của chất lỏng, và sự sôi với các bọt khí được hình thành trong khối chất lỏng nếu nó xảy ra tại điểm sôi, không có sự phân biệt tương tự đối với quá trình chuyển từ thể rắn sang thể khí, bởi nó luôn xảy ra dưới hình thức thăng hoa trên bề mặt chất rắn. Ở áp suất thường, hầu hết các hợp chất hóa học và các nguyên tố tồn tại ở 3 trạng thái khác nhau ở các mức nhiệt độ không giống nhau. Trong các trường hợp này, sự chuyển đổi trạng thái từ rắn sang khí đòi hỏi phải trải qua trạng thái lỏng trung gian. Tuy nhiên áp suất đề cập ở đây là áp suất riêng phần của vật chất chứ không phải áp suất tổng thể (chẳng hạn áp suất khí quyển) của hệ. Vì thế tất cả các chất rắn có áp suất hơi có thể đo được ở một nhiệt độ nhất định thường có thể thăng hoa trong không khí (như băng nước dưới 0 °C). Đối với vài chất, ví dụ như cacbon và arsenic, thăng hoa là dễ dàng hơn sự bay hơi chất lỏng nóng chảy, bởi vì áp suất điểm ba của chúng là rất cao, và rất khó để thu được chúng dưới dạng lỏng. Thuật ngữ thăng hoa được sử dụng để chỉ một quá trình biến đổi trạng thái vật lý và không phải chỉ sự biến đổi từ một chất rắn thành một chất khí khác trong một phản ứng hóa học. Ví dụ, sự phân ly khi đun nóng nhôm chloride thành hydro chloride và amoniac không phải là thăng hoa mà là một phản ứng hóa học. Tương tự, sự cháy của các cây nến, chứa sáp parafin, trở thành carbon dioxide và hơi nước cũng là một phản ứng hóa học với oxy mà không phải thăng hoa. Thăng hoa được gây ra bởi sự hấp thụ nhiệt lượng, cấp đủ năng lượng cần thiết để một số phân tử vượt qua được các lực hút của các phân tử lân cận và thoát ly vào pha hơi hoặc khí. Do quá trình thăng hoa cần thêm năng lượng thu vào, nó là một sự biến đổi thu nhiệt. Entanpi thăng hoa (còn gọi là nhiệt thăng hoa) có thể được tính bằng cách cộng entanpi nóng chảy và entanpi hóa hơi. Các hợp chất thường gặp có liên quan tới hiện tượng thăng hoa: băng phiến (còn gọi là naftalin chống mọt), băng khô, xăng khô, băng, tuyết, iod,... Ví dụ Cacbon dioxit Cacbon dioxit (băng khô) thăng hoa ở mọi điều kiện trên đường biểu diễn bên dưới điểm ba (tức là ở nhiệt độ −78.5 °C (194.65 K, ) tại áp suất khí quyển), trong khi nó có thể nóng chảy thành CO2 lỏng trên đường phân cách rắn-lỏng ở các nhiệt độ và áp suất bên trên điểm ba (i.e., 5.1 atm, −56.6 °C). Nước Băng và tuyết có thể thăng hoa dù chậm hơn, ở các nhiệt độ bên dưới điểm đông đặc/nóng chảy, thuộc đường đẳng nhiệt 0 °C đối với các áp suất riêng phần thấp hơn áp suất điểm ba . Trong quá trình sấy đông khô, vật liệu cần loại nước được đông lạnh và nước được cho thăng hoa trong điều kiện áp suất giảm hoặc chân không. Naphthalen Băng phiến, một hợp chất hữu cơ thường có trong các loại thuốc chống côn trùng, có thể thăng hoa dễ dàng bởi vì nó được cấu tạo bởi các phân tử không phân cực mà lực liên kết giữa chúng chỉ gồm lực van der Waals. Băng phiến là một chất rắn thăng hoa ở áp suất khí quyển tiêu chuẩn với nhiệt độ thăng hoa khoảng 80°C hay 176°F. Ở nhiệt độ thấp, áp suất hơi của nó, 1mmHg tại 53°C, là đủ cao để làm cho dạng rắn có thể chuyển thành khí. Trên các bề mặt đủ lạnh, hơi băng phiến sẽ hóa rắn, tạo thành các tinh thể dạng hình kim. Các chất khác Iod tạo ra khói khi đun nóng nhẹ, mặc dù điều này xảy ra ở trên điểm ba và do đó không phải là thăng hoa thực sự. Có thể thu được iod lỏng ở áp suất khí quyển bằng cách điều chỉnh nhiệt độ ở mức ngay phía trên nhiệt độ nóng chảy của iod. Trong khoa học pháp y, hơi iod có thể làm hiển thị dấu vân tay ẩn trên một tờ giấy. Arsen cũng có thể thăng hoa ở nhiệt độ cao. Cadmi và kẽm không phải là vật liệu phù hợp để sử dụng trong chân không bởi vì trong điều kiện đó chúng thăng hoa nhiều hơn các vật liệu thông thường khác. Ứng dụng Khi xử lý vật liệu trong kỹ thuật cắt laser thăng hoa, sự thăng hoa xảy ra với công suất xung cao của tia laser. Vật liệu không cần phải trước hết nóng chảy, mà có thể chuyển pha trực tiếp từ trạng thái rắn sang khí. Kết quả là một vết cắt rất sạch, không có xỉ và các cạnh bị sờn. Những ứng dụng khác bao gồm sấy đông khô thực phẩm, một phương pháp sấy không sử dụng nhiệt và do đó ít ảnh hưởng tới chất lượng hơn các phương pháp khác. Sơn in thăng hoa là một công nghệ in kỹ thuật số sử dụng đối tượng in đầy đủ màu sắc với chất liệu nền polyester hoặc phủ polymer. Trong máy sơn in thăng hoa, sáp nhuộm màu được sử dụng thay cho mực. Nó được làm nóng tới gần 200 °C bởi các vi điện trở phân bố trên đầu in và được chuyển tức thì từ trạng thái rắn sang trạng thái khí, sau đó được dẫn vào tấm in nơi nó nguội đi và trở về dạng rắn. Ưu điểm của quá trình này ở chỗ nó dựa vào các đặc tính trong suốt của sáp. Với phương pháp in thăng hoa, sự chuyển đổi là đơn giản: một điểm màu trên ảnh kỹ thuật số tương ứng với một điểm màu trên ảnh in. Do đó, để in một điểm màu có sẵn, máy in chồng chất ba lớp sáp (màu vàng, hồng cánh sen và xanh lơ) với những mật độ khác nhau để cùng nhau tạo nên sắc độ mong muốn, trong một bảng màu gồm tổng cộng 16,73 triệu màu. Thăng hoa cũng là một phương pháp thay thế cho tái kết tinh trong quá trình tinh chế các sản phẩm trong tổng hợp chất hóa học. Một ví dụ về ứng dụng của thăng hoa với lượng nhỏ chất trong ngành hóa phóng xạ là sự tinh chế một nuclide trong quá trình xác định chu kỳ bán rã của đồng vị 79Se. Trong phòng thí nghiệm, thăng hoa thường được ứng dụng để tinh chế các hợp chất và vật liệu, chẳng hạn: ferrocene và pyrogallol, naphthalen, phthalic anhydride, camphor, anthraquinone, acid salicylic, acid benzoic, urani hexafluoride và một số kim loại. Xem thêm Bay hơi Entanpi thăng hoa Ngưng kết, quá trình chuyển pha ngược lại với thăng hoa Tham khảo Chuyển pha Quá trình hóa học Chất khí Kỹ thuật phòng thí nghiệm
24186
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khu%C3%B4ng%20Vi%E1%BB%87t
Khuông Việt
Khuông Việt (匡越, 933-1011) trước tên là Ngô Chân Lưu (吳真流), tu chùa Phật Đà, làng Cát Lợi, Thường Lạc (nay là Vệ Linh, Sóc Sơn, Hà Nội). Sư là người Cát Lợi, hậu duệ nhà Ngô (吳), thuộc đời (hay thế hệ) thứ 4, dòng Vô Ngôn Thông. Đại sư Khuông Việt là vị thiền sư được phong Tăng thống đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Tăng thống Ngô Chân Lưu, được ban danh hiệu Khuông Việt đại sư năm 971, quê quán tại hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc, sau là thôn Đoài xã Da Hạ, huyện Kim Hoa phủ Bắc Hà, nay là thôn Thụy Hương, xã Phú Cường, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Tiểu sử Theo sách Phả hệ họ Ngô Việt Nam, ông là con cả của Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập vốn có tên là Ngô Xương Tỷ. Ông là anh của sứ quân Ngô Xương Xí. Sách Thiền Uyển tập anh chỉ ghi ông thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế 1. Ngô Xương Tỷ ra đời dưới thời cai trị của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ (933), cha vợ thứ của ông nội ông là Ngô Quyền. Năm 937, Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết, Ngô Quyền giết Tiễn và đánh bại quân Nam Hán, lên ngôi vua (938). Năm 944, Ngô Quyền mất, đáng lý con trai trưởng ông là Ngô Xương Ngập phải được thừa kế, nhưng người con của Dương Đình Nghệ là Dương Tam Kha tranh ngôi. Cha ông phải bỏ trốn về Hương Trà, nương nhờ Phạm Lệnh Công và lấy con gái Lệnh Công, sinh ra người em Xương Xí. Dương Tam Kha lùng bắt cha ông rất gắt gao nhưng không bắt được. Chú hai Ngô Xương Văn là con bà nội kế Dương Như Ngọc nên được Tam Kha nhận làm con nuôi. Có lẽ trong cảnh gia đình gặp tai họa đó, người cha không biết sống chết lúc nào, cậu bé Ngô Chân Lưu (11 tuổi năm 944) không nơi nương tựa đã tìm đến cửa Thiền đề thoát nạn. Cơ duyên và hành trạng Sư Khuông Việt có tướng mạo khôi ngô, tính tình phóng khoáng. Lúc nhỏ theo học Nho, lớn lên quy y Phật. Sư cùng bạn học Trụ trì đến Thiền Sư Vân Phong chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc), thọ giới Cụ túc 2. Từ đó, Sư đọc khắp sách Phật, tìm hiểu yếu chỉ của Thiền. Một lần Sư đi chơi núi Vệ Linh, ở quận Bình Lỗ 3, thích phong cảnh vắng đẹp, bèn muốn lập am để ở. Đêm xuống nằm mộng thấy một vị thần, mình mặc áo giáp vàng, tay trái cầm thương vàng, tay phải đỡ bảo tháp, hơn mười người theo hầu, hình tướng dễ sợ, đến nói rằng: "Ta là Tỳ Sa Môn thiên vương, những người theo ta là Dạ-xoa. Thiên đế có sắc sai ta đến nước này để giữ gìn biên giới, khiến cho Phật pháp thịnh hành. Ta có duyên với ngươi, nên đến đây báo cho ngươi biết". Sư kinh hãi thức dậy, nghe trong núi có tiếng kêu la ầm ĩ, lòng rất lấy làm lạ. Đến sáng Sư vào núi, thấy một cây to, cao khoảng mười trượng, cành lá sum suê, bên trên lại có mây xanh bao phủ, nhân đó sai thợ đến chặt. Đem về, khắc tượng như đã thấy trong mộng, để thờ... Các tràng kinh của Đinh Liễn Năm bốn mươi tuổi, danh Sư vang tới triều đình. Năm 969, Đinh Tiên Hoàng mời Sư đến. Thấy Sư đối đáp hiệp chỉ, bèn phong cho Khuông Việt làm Tăng thống. Đây là lần đầu tiên chức Tăng thống được nói đến trong lịch sử Việt Nam. Và sau này cho đến thời nhà Trần và nhà Lê vẫn còn sử dụng. Nhiệm vụ của người giữ chức này, tuy sử sách không ghi lại rõ ràng, song vẫn có thể hiểu như một chức để nắm các sư sãi ở trong nước. Các nhà khảo cổ học cho biết năm 1963, tại vùng đất Hoa Lư, đã tìm được gần 20 tràng kinh hình bát giác cao từ 50 đến 80 cm. Theo những dòng chữ ghi trên tràng kinh thì năm Quý Dậu (973), Nam Việt Vương Đinh Khuông Liễn đã cho dựng 100 tràng kinh. Vào năm 1987, một số tràng kinh khác lại được phát hiện tại khu di tích cố đô Hoa Lư. Căn cứ thông tin trên số tràng kinh cho thấy năm 979 Đinh Khuông Liễn lại dựng 100 tràng kinh nữa. Các kinh tràng và sự tham mưu của Khuông Việt, tuy gián tiếp, nhưng rất có ý nghĩa đối với lịch sử và văn hóa dân tộc cũng như Phật giáo. Năm Thái Bình thứ hai (971). Vua ban hiệu Khuông Việt đại sư. 4 Vương Lang Quy Lý Giác là người đã từng đi trong phái bộ Lý Nhược Chuyết trong năm trước để sang phong cho vua Lê Đại Hành làm An Nam đô hộ Tĩnh Hải quân tiết độ sứ và đòi vua Lê Đại Hành trao trả hai tên tướng là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân bị bắt trong cuộc chiến năm 981. Phái bộ của Lý Giác đến Việt Nam lần hai vào năm Thiên Phúc thứ 7 (987). Vua Lê Đại Hành đã nhờ Pháp Thuận và Khuông Việt cùng đứng ra đón tiếp. Pháp Thuận đã đón Lý Giác từ chùa Sông Sách, nay thuộc tỉnh Hải Dương, để đưa về kinh ấp Hoa Lư. Đến Hoa Lư, Khuông Việt đã đứng ra tiếp. Trước khi Lý Giác ra về, vua Lê Đại Hành đã ra lệnh cho Khuông Việt viết một khúc nhạc để tiễn đưa phái bộ. Đây có thể nói là lần đầu tiên văn chương nghệ thuật đã công khai đưa vào phục vụ sự nghiệp chính trị ngoại giao. Đây là một loại từ khúc lưu hành khá phổ biến thời bấy giờ, có thể dùng như lời của một bản nhạc để hát với việc sử dụng các nhạc khí để tấu kèm theo. Khúc từ này có tên là Ngọc Lang Quy, mà truyền bản nhà Nguyễn viết thành Vương Lang Quy. Đây là một tác phẩm văn học đầu tiên hiện còn của lịch sử ngoại giao Việt Nam, nếu không kể đến các văn thư ngoại giao với Trung Quốc. Đồng thời, nó cũng là bài Nguyễn Lang Quy không những xưa nhất của văn học Việt Nam, mà còn của văn học thế giới, bởi vì những bài từ loại này hiện còn chép trong các sách Trung Quốc như Tống lục thập danh gia từ, Tuyệt diệu hảo từ thiêm, Từ tổn v.v. đều là của những tác giả về sau như Âu Dương Tu (1007-1072), Tô Thức (1037-1101), Hoàng Đình Kiên (1045-1105)... Triết lý hành động Trên 30 năm đại sư Khuông Việt đã phục vụ trong các chính quyền của Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành và đã thể hiện được tài năng nhiều mặt của mình. Không chỉ trong lĩnh vực sinh hoạt Phật giáo mà cả trong lĩnh vực chính trị và ngoại giao. Điều này chứng tỏ nền giáo dục Việt Nam và Phật giáo Việt Nam lúc ấy đã thực hiện tốt chức năng đào tạo những người trí thức có khả năng gánh vác không chỉ việc đạo mà cả việc nước việc dân. Khuông Việt, trong thời gian theo học tại chùa Khai Quốc, đã được Thiền sư Vân Phong dạy những gì hiện không ai biết, và tiểu sử của Vân Phong cũng không ghi nhận có dấu tích nào. Tuy nhiên, quan điểm học thuật của Vân Phong, dẫu có nằm trong dòng chủ lưu của tư tưởng thiền, xoay quanh những vấn đề như sống chết, nhưng đã đưa ra những kiến giải mới phù hợp với hệ tư tưởng thiền của dòng thiền Pháp Vân. Đó là, muốn tránh khỏi sống chết thì hãy ở trong sống chết mà nắm lấy. Nói cách khác, không có chỗ không sống chết bên người sống chết để cho người ta tìm thấy được. Chính trong chỗ sống chết người ta mới tìm được sự không sống chết. Đây rõ ràng phản ảnh tư tưởng "Tây thiên cõi này, cõi này Tây thiên" và quan điểm "Phật ở khắp mọi nơi" của Cảm Thành. Nếu suy rộng ra, thì đây cũng là tư tưởng trong kinh Kim Cương mà Thanh Biện đã đề xuất. Đó là "tất cả pháp đều là Phật pháp". Xuất phát từ một học lý như thế, người ta mới có thể dễ dàng ung dung tham dự vào mọi sinh hoạt của cuộc đời, coi sự hoàn thành việc đời như một chứng tích cho sự hoàn thành việc đạo. Người ta không thể tìm có một thế giới giác ngộ nào khác bên ngoài cuộc đời này. Nói một cách hình ảnh, thì lửa có sẵn trong cây, vấn đề là làm sao cho cây bật ra lửa. Triết lý hành động của Khuông Việt như thế dựa trên một nhận thức luận coi cuộc đời là nơi mình có thể giải thoát được bằng chính nhận thức của mình. Thế giới giác ngộ cũng như hành động của Phật giáo không nằm bên ngoài cuộc đời, và con người không cần đi tìm bất cứ một thế giới nào khác. Điều này giải thích cho ta tại sao Khuông Việt đã ung dung tích cực tham gia vào việc nước việc dân và có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp bảo vệ độc lập của tổ quốc. Khi đã rời nhiệm vụ Tăng thống và những chính sự khác, Đại sư đã trở về mở trường ở chùa Thanh Tước núi Du Hý của quận Thường Lạc. Tại đây, "học trò tìm tới đông đảo". Dù vậy, Khuông Việt đã không quên ngôi chùa lịch sử của thầy mình, đó là chùa Khai Quốc. Sư cũng thường lui tới giảng dạy tại trường giảng của chùa này. Sử sách đã ghi lại cho ta một người có thể bước theo bước chân của thầy mình, đó là thiền sư Đa Bảo, người có ảnh hưởng đến sự việc lên ngôi của Lý Công Uẩn. Một hôm, đệ tử nhập thất là Đa Bảo hỏi: "Thế nào là chung thủy của sự học đạo". Sư đáp: "Thủy chung không vật, diệu hư không. Hiểu được chân hư, thể tự đồng"5. Bảo tiếp: "Làm sao đảm bảo được?" Sư đáp: "Không có chỗ cho người xuống tay." Bảo nói: "Hòa thượng nói xong rồi." Sư lại hỏi: "Ngươi hiểu gì." Bảo bèn hét lên. Ngày 15 tháng 2 năm Thuận Thiên thứ 2 (tức 22 tháng 3 năm 1011), khi sắp cáo tịch, Sư dạy Đa Bảo kệ rằng: Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà mất, thọ 82 tuổi5... Nguyên bản Hán văn □第四世二人□□□□□□□□□□□ 匡越大師 常樂吉利鄉佛陀寺匡越大師〖初名真流〗吉利人 也姓吳氏吳順帝之裔狀貌魁偉志尚倜儻 少業儒及長㱕釋與同學住持投開國雲峯 受具由是該覧竺墳探幁禪要年四十名震 于朝丁先皇帝召對稱旨拜為僧統太平二 年賜號匡越大師黎大行皇帝尤加禮敬凢 朝廷軍國之事師皆與焉嘗逰平虜𨛦衛靈 山悅其境致幽勝欲爰(1)庵居之夜夢神人身 披金甲左執金鎗右擎寶塔從者十餘軰狀 貌可怖來謂之曰吾即毗沙門天王從者皆 落叉也天帝有勑令徃此國護其疆界使佛 法興行於汝有緣故來相託師驚寤聞山中有 呵喝聲心甚異之及旦入山見一大木長十 丈許枝斡繁茂又有瑞雲覆蔭其上因命工 伐取如夢中所見刻像祠焉天福元年宋兵 入冦帝素聞其事命師就祠禳禱虜軍驚駭 退保友寧江友(又)見風濤震蕩蛟龍騰躍虜乃 奔潰七年宋人阮覺來聘時法師杜順亦有盛 名帝命變服爲江令迎於江曲覺見其善於文 談以詩贈之有天外有天外有天應返照(2)之句帝 以示師對曰此(3)尊陛下與其主不異覺還師作 詞曰玉(4)郎㱕送之其詞云 祥光風好錦㠶張 神𠎣復帝鄉 千重萬里涉滄浪 九天㱕路長 人情慘切對離觴 攀戀星星郎 願將深意爲南強 分明報我皇 尋以衰老乞辭㱕還本郡逰戱山創 寺住持學者輻溱一日入室弟子多寶問云如 何是學道始終師云始終無物玅虚空會得真 如骵自同寶云如何保任師云無汝下手處進 云和尚道了也師云汝作麽生會宝便喝李朝順 天二年二月十五日將告寂示宝偈云木中元有 火元火復还生若謂本無火鑽燧何由萌偈畢跌跏而逝 壽五十有二或云壽七十九□□□□□□□□□□ 爰; Bản Nguyễn; LMT = 構 返照: LMT = 遠照 此; bản khắc 〖⿰土匕〗 玉; Nguyễn, A 2767, LMT = 王 Ghi công từ hậu thế Quốc sư Khuông Việt được thờ tại Chùa Non Nước (Hà Nội) và Chùa Nhất Trụ (Ninh Bình). Ông cũng được thờ tại di tích miếu Hạ, xóm 2, thôn Ngọc Lâm, xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, Ninh Bình. Với vai trò là vị tăng thống đầu tiên của Việt Nam, thiền sư Khuông Việt được hậu thế suy tôn như là một vị đại sư có công mở nước: Tạp chí Khuông Việt là tờ báo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời với tôn chỉ, mục đích là nghiên cứu, giới thiệu tri thức Phật học và những giá trị văn hóa Phật giáo, theo phương châm hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là Đạo pháp - dân tộc - chủ nghĩa xã hội. Chùa Khuông Việt: có nhiều chùa ở Việt Nam và nước ngoài mang tên ông như chùa Khuông Việt ở Sài Gòn, chùa Khuông Việt ở Paris, chùa Khuông Việt ở Na Uy. Đường Khuông Việt: có ở các thành phố Ninh Bình và Sài Gòn. Ở Thành phố Đà Nẵng, thành phố Tam Kỳ và thị xã Nghi Sơn có đường Ngô Chân Lưu. Học viện Phật giáo Khuông Việt hiện được xây dựng tại khuôn viên chùa Bái Đính, Ninh Bình Trường Khuông Việt: Một số cơ sở dạy Phật giáo mang tên trường Khuông Việt như ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội (chùa Quán Sư) hay ở Thị trấn Thác Mơ, Phước Long, Bình Phước có "trung tâm Văn Hoá Lịch sử Phật giáo Khuông Việt" ở núi Bà Rá. Tham khảo QUỐC SƯ KHUÔNG VIỆT VỚI NỀN NGOẠI GIAO VIỆT NAM ĐẦU KỶ NGUYÊN ĐỘC LẬP Tưởng niệm 1.000 năm Quốc sư Khuông Việt viên tịch Lê Mạnh Thát: Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh 1999. Bài Từ Ngọc Lang Quy của Khuông Việt Đại Sư Thiền Uyển Tập Anh - Bản tiếng Việt Thiền Uyển Tập Anh - Bản chữ Hán Khuông Việt Ghi chú Bài này lấy từ sách Thiền Uyển tập anh, ghi nguyên văn là Ngô Thuận Đế. Trong sách in có chú thích Thuận đế chính là Tiền Ngô vương Quyền, dù ông chưa từng xưng đế nhưng không biết vì sao ở đây lại gọi như vậy. Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam thì sư Khuông Việt vốn tên là Xương Tỷ, con Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập. Thọ giới Cụ túc, tức nhận lấy đầy đủ những kỷ luật chi phối đời sống cá nhân và đời sống tập thể của tổ chức Phật giáo. Thường thường, những kỷ luật ấy gồm số những điều luật, mà tùy theo tôn phái và nam nữ, có thể bắt đầu từ khoảng hai trăm mấy chục giới cho đến 500 giới, dùng cho đời sống cá nhân. Khi một người nào chịu nhận số những điều luật đó, họ được gọi là Tỳ kheo nếu là đàn ông, hay Tỳ kheo ni nếu là đàn bà, và họ là những người đã thọ Cụ túc giới. Địa danh Bình Lỗ xuất hiện xưa nhất trong Việt sử Toàn thư trong trận đánh vào tháng 5 năm 1141. Ngày nay tại huyện Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phú ta có một làng tên Phù Lỗ. Quận Bình Lỗ có thể rơi vào khoảng đất huyện Kim Anh ngày nay. Đại Việt sử lược ghi: "Năm Thái Bình thứ hai (971) đặt phẩm trật cho quan văn quan võ, thầy tu và đạo sĩ". Việt sử Toàn thư cũng ghi: "Năm Thái Bình thứ 2 hai bắt đầu định phẩm cho văn võ Tăng đạo", nhưng còn thêm: "Tăng thống Ngô Chân Lưu được vua ban hiệu là Khuông Việt đại sư". Đây là lần đầu tiên chức Tăng thống được nói đến trong lịch sử của Việt Nam. Tạm dịch: Vốn không có thủy, không có chung, chỉ có hư không là kỳ diệu - Nếu hiểu thấu chân như (thực tại) thì sẽ rõ vạn vật có cùng tâm thể với chân như. Có tài liệu ghi Thiện sư Khuông Việt thọ 79 tuổi. Chú thích Thiền sư Việt Nam Thiền phái Vô Ngôn Thông Người Hà Nội Văn học Việt Nam thời Tiền Lê Nhà thơ Việt Nam Sinh năm 933 Mất năm 1011
24208
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20H%C3%B2a%20b%C3%ACnh%20v%C3%A0%20Ph%C3%A1t%20tri%E1%BB%83n%20Li%C3%AAn%20bang
Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang
Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang (; ; viết tắt SPDC), hay Hội đồng Quốc gia vì Hoà bình và Phát triển, là tên gọi chính thức của một cơ quan quyết định tối cao của chính quyền quân sự Myanmar. Cơ quan này bị nhiều người buộc tội là đã khủng bố dã man các nhóm sắc tộc thiểu số, các nhóm đối lập, sinh viên và những nhà hoạt động nhân quyền. Từ 1988 đến 1997, Hội đồng này có tên là Hội đồng Quốc gia Phục hồi Luật pháp và Trật tự, hay còn được dịch là Hội đồng Khôi phục Trật tự và Pháp luật Liên bang. Tháng 9 năm 1988, bằng cách tiến hành đảo chính, Hội đồng nắm toàn bộ quyền lãnh đạo đất nước Miến Điện. Năm 1990, cơ quan này bác bỏ kết quả cuộc bầu cử năm 1990 mà khi đó Liên minh Dân chủ Quốc gia giành thắng lợi áp đảo. Ngày 15 tháng 11 năm 1997, Hội đồng Khôi phục Trật tự và Pháp luật Liên bang bị những người lãnh đạo của nó giải thể và được tổ chức lại thành Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang. Ngày 30 tháng 3 năm 2011, Thống tướng Than Shwe thay mặt lãnh đạo Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang tuyên bố giải thể cơ quan này. Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang bao gồm tổng tư lệnh bộ ngành và tư lệnh quân khu. 19 thành viên của junta dường như có được nhiều quyền hành hơn cả Thủ tướng Chính phủ. Một số thành viên của hội đồng còn giữ chức vị Bộ trưởng trong chính phủ. Mặc dù chế độ đã rút lui khỏi Con đường độc tài toàn trị của Miến Điện sang Chủ nghĩa xã hội của BSPP khi nắm quyền vào năm 1988, chế độ này đã bị nhiều người cáo buộc là vi phạm nhân quyền. Nó bác bỏ kết quả tuyển cử năm 1990 và quản thúc bà Aung San Suu Kyi cho đến khi bà được trả tự do vào ngày 13 tháng 11 năm 2010. Hội đồng chính thức bị giải tán vào ngày 30 tháng 3 năm 2011, với lễ khánh thành của chính phủ mới được bầu, do cựu thành viên và Thủ tướng Thein Sein lãnh đạo. Lịch sử Các thành viên SPDC chào mừng thủ tướng Thái Lan Abhisit Vejjajiva trong chuyến thăm tháng 10 năm 2010 tới Naypyidaw. Các thành viên SPDC với phái đoàn Thái Lan trong chuyến thăm Naypyidaw tháng 10 năm 2010. SLORC được thành lập khi Lực lượng Vũ trang Miến Điện, do Tướng Saw Maung chỉ huy (sau này tự thăng cấp cho "tướng quân" Saw Maung, mất tháng 7 năm 1997), nắm quyền vào ngày 18 tháng 9 năm 1988 nghiền nát "Cuộc nổi dậy Bốn đêm". Vào ngày nó chiếm được quyền lực, SLORC đã ban hành Lệnh số 1/1988 nói rằng Lực lượng Vũ trang đã nắm quyền lực và tuyên bố thành lập SLORC. Với Lệnh số 2/1988, SLORC đã bãi bỏ tất cả 'Các cơ quan quyền lực nhà nước' được thành lập theo hiến pháp năm 1974 của Miến Điện. Pyithu Hluttaw (cơ quan lập pháp theo Hiến pháp 1974), Hội đồng Bộ trưởng (Nội các), Hội đồng Thẩm phán Nhân dân (Tư pháp), Hội đồng Luật sư Nhân dân ("Văn phòng Tổng chưởng lý"), Hội đồng Thanh tra Nhân dân ("Văn phòng Kiểm toán-Tổng giám đốc"), cũng như Hội đồng Nhân dân/Khu vực, Thị trấn, Phường/Làng bị bãi bỏ. SLORC cũng tuyên bố rằng các dịch vụ của các Thứ trưởng trong chính phủ của Chương trình Xã hội Chủ nghĩa Miến Điện (BSPP) trước đây mà nó thay thế cũng bị chấm dứt. (Theo Hiến pháp Miến Điện năm 1974, "Hội đồng Bộ trưởng" hoạt động như một Nội các nhưng vì các Thứ trưởng không được coi là một phần chính thức của Hội đồng Bộ trưởng, SLORC đảm bảo rằng các Thứ trưởng-cùng với các Bộ trưởng-các dịch vụ trong chính phủ BSPP trước đây mà họ đã nắm quyền cũng bị chấm dứt.) Các đơn đặt hàng mà SLORC ban hành vào ngày tiếp quản có thể được nhìn thấy trong số ra ngày 19 tháng 9 năm 1988 của tờ Nhân dân làm việc. Chủ tịch đầu tiên của SLORC là Tướng Saw Maung, sau này là Đại tướng, người cũng là Thủ tướng. Ông bị cách chức cả Chủ tịch của SLORC và Thủ tướng vào ngày 23 tháng 4 năm 1992 khi Tướng Than Shwe, sau này là Đại tướng, tiếp quản cả hai chức vụ từ ông. Vào ngày 15 tháng 11 năm 1997, SLORC đã bị bãi bỏ và được tái lập thành Hội đồng Phát triển và Hòa bình Nhà nước (SPDC). Hầu hết nhưng không phải tất cả các thành viên của SLORC bị bãi bỏ đều ở chế độ quân sự SPDC. Lãnh đạo Chủ tịch Cựu thành viên Thống tướng Than Shwe, Chủ tịch Hội đồng, Tổng tư lệnh Quốc phòng Phó thống tướng Maung Aye, Phó chủ tịch Hội đồng, Phó tổng tư lệnh Quốc phòng, Tổng tư lệnh Lục quân Đại tướng hồi hưu Thura U Shwe Mann, cựu Tham mưu trưởng Liên quân Đại tướng hồi hưu U Thein Sein, Thủ tướng, cựu Tổng thống Myanmar Đại tướng hồi hưu U Thiha Thura Tin Aung Myint Oo, Bí thư thứ nhất Hội đồng, cựu Tổng trưởng và cựu Phó tổng thống Myanmar Thiếu tướng Ohn Myint, Chánh văn phòng số 1 (Kachin State, Mandalay Region, Chin State, Sagaing Region) Trung tướng Min Aung Hlaing, Chánh văn phòng số 2 (Shan State, Kayah State) Trung tướng Ko Ko, Chánh văn phòng số 3 (Bago Region, Ayeyarwady Region) Trung tướng Tha Aye, Chánh văn phòng số 4 (Karen State, Mon State, Tanintharyi Region) Trung tướng Myint Swe, Chánh văn phòng số 5 (Yangon Region) Trung tướng Khin Zaw, Chánh văn phòng số 6 (Magwe Region, Rakhine State) Thiếu tướng Hla Htay Win, Tư lệnh Không quân huấn luyện Trung tướng hồi hưu U Tin Aye, cựu Tổng trưởng Hậu cần quân đội, Lãnh đạo Hội đồng Bầu cử Trung tướng Thura Myint Aung, Tổng phụ tá Tham khảo Liên kết ngoài Myanmar.gov: Official State Peace And Development Council−SPDC website Irrawaddy.org: Members of State Peace and Development Council (SPDC) Burma Campaign UK Chính trị Myanmar Chính phủ Myanmar Cựu quốc gia ở Đông Nam Á Chế độ độc tài quân sự
24213
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C4%83ng%20th%E1%BB%91ng
Tăng thống
Tăng thống (chữ Hán: 僧統)là danh xưng dùng để tôn xưng vị tăng sĩ lãnh đạo tinh thần Phật giáo của một quốc gia hoặc một giáo hội Phật giáo. Xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ IV tại Trung Hoa, Tăng thống ban đầu là chức vụ quản lý tăng sự được triều đình phong và coi là người đứng đầu Phật giáo cả nước thời phong kiến và quân chủ. Ngày nay, Tăng thống được hiểu là người đứng đầu Phật giáo trong một nước, hoặc của một giáo hội và chức vụ này thường do các tổ chức giáo hội quyết định. Một số danh xưng như Tăng vương (僧王, pi. saṅgharāja), Tăng hoàng (僧皇), Pháp chủ (法主), cũng được xem là tương đương với chức vị Tăng thống. Từ nguyên Trung Quốc Danh xưng Tăng thống (chữ Hán: 僧統) bắt nguồn từ Trung Hoa, được lập thời Bắc Ngụy, thời kỳ đầu được gọi là Đạo nhân thống (道人統), Sa-môn thống (沙門統), Đô thống (都統), Chiêu Huyền thống (昭玄統). Từ giữa thế kỷ IV, Phật giáo phát triển mạnh mẽ và dần có sự ủng hộ chính thức của triều đình tại Trung Hoa. Theo sách Đại Tống tăng sử lược, quyển Trung, có chép là thời nhà Hậu Tần, hoàng đế Diêu Hưng bắt đầu cho lập Tăng quan (僧官) là các vị quan trông coi các vị sư, với chức danh Tăng chính (僧正) là người đứng đầu trông quản Phật giáo. Theo một tác phẩm vào thời Bắc Ngụy là Thích Lão chí thì vào năm đầu tiên của Đạo Vũ đế nhà Bắc Ngụy, ở quận Triệu có Sa-môn tên là Pháp Quả có giới hạnh tinh nghiêm, mở trường thuyết pháp, được vua cho vời (trưng bổ) làm Đạo nhân thống. Không lâu sau, chức này được đổi thành là Sa-môn thống, do vị tăng Đàm Diệu (曇曜) giữ chức, cũng gọi là Sa-môn đô thống hoặc Chiêu Huyền thống vì gọi theo tên của cơ cấu tăng quan trung ương là Chiêu Huyền tự (昭玄寺, trước đó mang tên Giám Phúc tào 監福曹). Sau đó các vị giữ chức đều được gọi là Chiêu Huyền thống. Khi nhà Ngụy thống nhất được miền Bắc Trung Hoa, đã cho đổi chức danh Tăng chính thành Tăng thống để thống lĩnh tăng ni. Sử chép thời kỳ này có vị Sa-môn người Kế Tân (罽賓) là Sư Hiền (師賢) đến Trung Hoa, du phương (đi chơi) đến đất Lương, sau đến kinh đô, nhằm lúc Phật pháp gặp nạn (440-451) bèn tạm giữ nghề bốc thuốc để không phải đổi đạo. Sau khi Phật pháp được trùng hưng, sư lại trở thành Sa-môn cùng với năm người bạn. Vua Ngụy lúc đó là Văn Thành đế kính mến, tự tay cắt tóc cho sư, chiếu lệnh phong làm Tăng thống. Đây là vị tăng nhân đầu tiên được ghi chép giữ chức Tăng thống trong lịch sử. Vào thời Bắc Tề năm 550, Văn Tuyên đế cử 10 vị tăng nhân làm Chiêu Huyền thống và trong đó, Sa-môn Pháp Thượng đứng đầu, được gọi là Chiêu Huyền Đại thống và 9 người còn lại là Thông thống (通統), cùng nhau trông coi hơn 40.000 tăng ni. Năm 581, Tùy Văn Đế sắc phong cho Tăng Mãnh chức "Tùy quốc Đại thống". Mười năm sau lại dùng chức Chiêu Huyền thống. Từ đời nhà Đường trở đi, vương triều bỏ chức Tăng thống, lập chức Tăng lục (僧錄). Nhà Tống bỏ chức vụ này, nhưng nó lại được dùng lại đời nhà Nguyên với danh hiệu là Thích giáo Tổng thống (釋教總統). Việt Nam Tại Việt Nam, từ thế kỷ X, Vua Đinh Tiên Hoàng thiết trí chức Tăng thống nhưng cũng đồng thời giữ chức Tăng lục. Khuông Việt Đại sư được phong chức Tăng thống và sau đó, vào năm 971, võ quan Trương Ma Ni cũng được Đinh Tiên Hoàng phong chức Tăng lục đạo sĩ. Đây là lần đầu tiên chức Tăng thống được nói đến trong lịch sử Việt Nam và sau này, cho đến thời nhà Trần và nhà Lê vẫn còn được sử dụng. Nhiệm vụ của người giữ chức này, tuy sử sách không ghi lại rõ ràng song vẫn có thể hiểu như một chức để quản lý các sư sãi ở trong nước. Triều đình nhà Nguyễn đề cao Nho học, không lập chức Tăng thống. Thay vào đó là Tăng cang, được triều đình cấp giới đao, độ điệp, y Ca-sa bằng gấm và mão Hiệp chưởng làm triều phục đại triều. Thời hiện đại, chức vụ Tăng thống được ghi nhận lần đầu tiên vào năm 1957, là chức vụ lãnh đạo Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam. Theo tài liệu "Thắp lửa tâm linh" của Minh Đức Triều Tâm Ảnh, ngày 15 tháng 4 năm 1957 đánh dấu thời điểm thành lập Ban Chưởng Quản Lâm thời Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam, đại đức Bửu Chơn là Tăng thống (lâm thời): "Đây chỉ mới là Ban Chưởng Quản Lâm thời, nó chỉ là cái sườn. Cái Ban này phải có nhiệm vụ sơ thảo điều lệ, nội dung để đệ trình lên Chính phủ. Vào khoảng tháng 11,12 năm này, chúng ta phải tổ chức một đại hội, đầy đủ Chư tăng tỳ khưu khắp các chùa để bầu bán công bằng, dân chủ..." Vào ngày 18 tháng 12 năm 1957, một Hội đồng Tăng già Chưởng Quản Giáo hội Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam, sau cuộc bầu bán và suy cử: Tăng thống: Đại đức Hộ Tông Đệ nhất Phó Tăng thống: Đại đức Bửu Chơn Đệ nhị Phó Tăng thống: Đại đức Thiện Luật Từ năm 1957 đến 1984, Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam trải qua 7 đời Tăng thống: Tăng thống Hòa thượng Bửu Chơn (Từ 1957 đến 1961) Tăng thống Hòa thượng Thiện Luật (từ 1961 đến 1965) Tăng thống Hòa thượng Hộ Tông (Từ 1965 đến 1969) Tăng thống Hòa thượng Giới Nghiêm (Từ 1969 đến 1973) Tăng thống Hòa thượng Bửu Chơn (Từ 1973 đến 1977) Tăng thống Hòa thượng Ẩn Lâm (Từ 1977 đến 1981) Tăng thống Hòa thượng Giới Nghiêm (Từ 1981 đến 1984) Khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thành lập năm 1964, đã sử dụng lại danh vị này để gọi vị lãnh đạo cao nhất của giáo hội, theo đó có 6 vị Tăng thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là: Đệ nhất Tăng thống (1964-1973) Hòa thượng Thích Tịnh Khiết (1890-1973) Đệ nhị Tăng thống (1973-1979) Hòa thượng Thích Giác Nhiên (1878-1979) Đệ tam Tăng thống (1979-1991) Hòa thượng Thích Đôn Hậu (1905-1991) Đệ tứ Tăng thống (1991-2008) Hòa thượng Thích Huyền Quang (1919-2008) Đệ ngũ Tăng thống (2011-2020) Hòa thượng Thích Quảng Độ (1928-2020) Đệ lục Tăng thống (2020-2023) Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ (1943-2023) Sau khi Việt Nam thống nhất, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập sau Đại hội Phật giáo Việt Nam tổ chức tại Tùng lâm Quán Sứ, Hà Nội vào ngày 7 tháng 11 năm 1981. Giáo hội Phật giáo Việt Nam không dùng chức danh Tăng thống mà thay vào đó dùng chức danh Pháp chủ dùng để gọi người lãnh đạo cao nhất của giáo hội. Từ khi thành lập năm 1981 đến nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có bốn vị Pháp chủ: Đức Đệ nhất Pháp chủ: Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận (1981 - 1993) Đức Đệ nhị Pháp chủ: Đại lão Hòa thượng Thích Tâm Tịch (1993 - 2005) Đức Đệ tam Pháp chủ: Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (2007 - 2021) Đức Đệ tứ Pháp chủ: Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quảng (2021 - nay) Nhật Bản Theo chế độ Ritsuryō, giới tăng lữ được đặt dưới sự giám sát của Genba ryō (玄蕃寮, げんばりょう), một cơ quan quản lý về Phật giáo và Ngoại quốc của triều đình. Lãnh đạo tăng quan (僧官, Sōkan) gồm có Tăng chính (僧正, Sōjō), Tăng đô (僧都, Sōzu), Luật sư (律師, Risshi). Các chức vụ Tăng chính và Tăng đô lại phân thành các chức Đại - Thiếu. Bên cạnh đó còn các cấp bậc thấp hơn làm phụ tá. Thiên hoàng Suiko năm 32 (624) lần đầu tiên bổ nhiệm các chức vụ tăng quan với các chức vụ Tăng chính, Tăng đô và Pháp đầu, Bách Tế tăng quan, khởi đầu cho chế độ Tăng chính của Nhật Bản. Cơ quan quản lý tăng sĩ được gọi là Sōgō sho (僧綱所, そうごうしょ), đóng một vai trò quan trọng trong thế giới Phật giáo theo thể chế Ritsuryō. Trong thời kỳ Nara, Sōgō sho đặt tại chùa Yakushi-ji (薬師寺, Dược Sư tự). Sau khi thiên đô, Sōgō sho được đặt tại chùa Sai-ji (西寺, Tây tự). Theo thời gian, các chức vụ tăng quan được mở rộng, đỉnh điểm gia tăng đến 10 vị. Bậc Tăng chính phân thành Đại tăng chính, Quyền đại tăng chính, Tăng chính, Quyền tăng chính. Năm 819, Sōgō sho được quy định số lượng tăng quan gồm Tăng chính 1 vị, Đại tăng đô 1 vị, Tiểu tăng đô 1 vị, Luật sư 4 vị. Đến năm 864, quy định danh vị các tăng quan của Sōgō sho với Tăng chính là Pháp Ấn Đại hòa thượng (法印大和尚, Hōin Daikashō), Tăng đô là Pháp Nhãn hòa thượng (法眼和尚, Hōgen Kashō) và Luật sư là Pháp Kiều thượng nhân (法橋上人, Hokkyō Shōnin). Triều Tiên Chế độ Seunggwan (僧官, 승관, Tăng quan) trong lịch sử Triều Tiên được ghi nhận đầu tiên ở vương quốc Tân La qua các ghi chép rải rác ở các tài liệu Tam quốc sử ký và Tam quốc di sự. Vẫn chưa rõ hệ thống Seunggwan được thành lập khi nào, do ai và nhiệm vụ của nó là gì, nhưng một số chức vị được ghi nhận như sau: Guktong (國統, 국통, Quốc thống) Doyuna Rang (都維那娘, 도유나랑, Đô đuy na nương) Tae Doyuna (大都維那, 대도유나, Đại đô duy na) Tae Seoseong (大書省, 대서성, Đại thư tỉnh) So Nyeon Seoseong (小年書省, 소년서성, Thiếu niên thư tỉnh) Jutong (州統, 주통, Châu thống) Guntong (郡統, 군통, Quận thống) Lịch sử Triều Tiên cũng từng thiết lập chế độ thi cử tăng khoa, thông qua chế độ khoa cử để khảo thí để kiểm định trình độ học thức cao thấp của giới tăng lữ, từ đó phân cấp địa vị chính trị tương ứng. Người đứng đầu giới tăng quan được gọi là Quốc sư (國師) hoặc Vương sư (王師). Myanmar Thathanabaing (), đôi khi được phiên âm là Thathanapaing, từng là tôn hiệu dành cho vị tăng sĩ đứng đầu Tăng đoàn ở Miến Điện thời tiền thuộc địa, cho đến khi chức vụ này bị chính quyền thuộc địa Anh ở Miến Điện bãi bỏ vào năm 1938. Thathanapaing chịu trách nhiệm quản lý hệ thống cấp bậc của tự viện và giáo dục tại các tự viện Phật giáo. Thathanabaing thường do triều đình Miến Điện bổ nhiệm tăng sĩ trên cơ sở đạo đạo và sự uyên thâm Phật pháp, được quyền cư trú trong một tự viện sắc tứ hoàng gia gần kinh đô của vương quốc. Thái Lan Campuchia Chú thích Tham khảo Lê Mạnh Thát: Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh 1999. Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.) Frederic, Louis (2002). "Japan Encyclopedia." Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press. Danh vị Phật giáo Nhà lãnh đạo tôn giáo
24215
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khoa%20h%E1%BB%8Dc%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i
Khoa học xã hội
Khoa học xã hội (tiếng Anh: Social science) là một trong những nhánh của khoa học, có mục đích nghiên cứu các xã hội và các mối quan hệ giữa các cá nhân trong các xã hội đó. Thuật ngữ này trước đây được sử dụng để chỉ lĩnh vực xã hội học, "khoa học về xã hội" ban đầu, được đặt ra vào thế kỷ 19. Ngoài xã hội học, bây giờ nó bao gồm một loạt các ngành lĩnh vực khác, bao gồm nhân học, khảo cổ học, kinh tế học, địa lý nhân văn, ngôn ngữ học, khoa học quản lý, khoa học truyền thông, khoa học chính trị và tâm lý học. Các nhà khoa học xã hội theo chủ nghĩa thực chứng sử dụng các phương pháp tương tự như các phương pháp của khoa học tự nhiên làm công cụ để hiểu xã hội, và do đó định nghĩa khoa học theo nghĩa hiện đại chặt chẽ hơn của nó. Ngược lại, các nhà khoa học xã hội theo chủ nghĩa diễn dịch có thể sử dụng phương pháp phê bình xã hội hoặc cách diễn giải tượng trưng hơn là xây dựng các lý thuyết có thể sai theo thực nghiệm, và do đó coi khoa học theo nghĩa rộng hơn của nó. Trong thực hành học thuật hiện đại, các nhà nghiên cứu thường chiết trung, sử dụng nhiều phương pháp luận (ví dụ, bằng cách kết hợp cả nghiên cứu định lượng và định tính). Thuật ngữ nghiên cứu xã hội cũng đã có được một mức độ tự chủ khi các nhà thực hành từ các lĩnh vực khác nhau có cùng mục tiêu và phương pháp. Lịch sử Phân ngành Danh sách sau đây là các lĩnh vực vấn đề, khoa học xã hội ứng dụng và các ngành trong khoa học xã hội. Nhân loại học Nghiên cứu kinh doanh (Business studies) Giáo dục công dân Nghiên cứu giao tiếp (Communication studies) Tội phạm học Nhân khẩu học Nghiên cứu phát triển (Development studies) Kinh tế học Giáo dục Nghiên cứu môi trường Khoa học dân gian (Folkloristics) Nghiên cứu về giới (Gender studies) Địa lý nhân văn Lịch sử Quan hệ lao động (Industrial relations) Khoa học thông tin Quan hệ quốc tế Pháp luật Khoa học thư viện Ngôn ngữ học Nghiên cứu truyền thông (Media studies) Chính trị học Tâm lý học Hành chính công Xã hội học Công tác xã hội Phát triển bền vững Các lĩnh vực nghiên cứu bổ sung Các lĩnh vực ứng dụng bổ sung hoặc liên ngành liên quan đến khoa học xã hội hoặc là khoa học xã hội ứng dụng bao gồm: Khảo cổ học Nghiên cứu khu vực (Area studies) Khoa học hành vi (Behavioural sciences) Khoa học xã hội tính toán (?) (Computational social science) Nhân khẩu học Nghiên cứu phát triển (Development studies) Khoa học xã hội môi trường (Environmental social science) Nghiên cứu môi trường Nghiên cứu về giới (Gender studies) Khoa học thông tin Quan hệ quốc tế và Giáo dục quốc tế (International education) Quản lý pháp lý (?) (Legal management) Khoa học thư viện Quản lý Marketing Kinh tế chính trị Hành chính công Nghiên cứu tôn giáo Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu xã hội Học thuyết Xem thêm Tham khảo Liên kết ngoài Môn học Thuật ngữ khoa học xã hội
24216
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BA%ADt%20li%E1%BB%87u%20kim%20lo%E1%BA%A1i
Vật liệu kim loại
Vật liệu kim loại hiện được phân làm hai loại: Vật liệu kim loại đen và vật liệu kim loại màu. Vật liệu kim loại đen Vật liệu kim loại đen bao gồm gang,thép và các hợp kim của chúng(chứa đa phần là sắt). Đây là những hợp kim trên cơ sở sắt và cacbon. Thành phần cacbon được đánh giá bằng phần trăm khối lượng. Nếu trong 100 kg thép có 1 kg cacbon thì thành phần cacbon là 1%. Khi hàm lượng cacbon nhiều hơn 2,14% ta có gang, nếu nhỏ hơn 2,14% ta có thép. Thép Thép gồm có thép cacbon và thép hợp kim. Trên thực tế thép cacbon không có nghĩa là trong thành phần chỉ hoàn toàn là sắt và cacbon. Trong nền kim loại sắt, ngoài cacbon (<2,14%) còn có các tạp chất thông thường như Mn, Si, S, P và các tạp chất ngẫu nhiên như Cr, Ni, Cu, W, Ti, Mo... Khi hàm lượng các chất trên cao hơn một giá trị nào đó thì thép sẽ được coi là thép hợp kim. Thép cacbon Xem bài chính: Thép carbon Trong thép cacbon, ngoài sắt ra người ta quan tâm chỉnh sửa thành phần của những nguyên tố sau đây: C (<2%), Mn (0,5-0,8%), Si (0,3-0,6%), P (0,05-0,06%), S (0,05-0,06%) Ngoài các nguyên tố trên, các tạp chất ngẫu nhiên khác nếu có thì càng tốt vì làm tăng cơ tính của thép nên không cần loại bỏ. Phosphor và lưu huỳnh là 2 kẻ thù của mọi loại thép. Chất lượng của thép cao hay thấp đôi khi được đánh giá qua hàm lượng phosphor và lưu huỳnh còn lại trong thành phần. Thép có chất lượng cao là thép không chứa quá 0,025% mỗi nguyên tố trên. Phosphor có mặt trong thép từ quặng hay từ than có mặt trong thép ở dạng hòa tan trong ferit hoặc liên kết với sắt dạng Fe3P làm dòn thép khi nguội, gọi là hiện tượng dòn nguội, hay bở nguội. Lưu huỳnh có mặt trong thép cũng từ quặng hay trong than. Hỗn hợp cùng tinh (FeS + Fe) có nhiệt độ nóng chảy thấp hơn gang thép và nằm ở biên giới các hạt, khi nung nóng để gia công áp lực, pha cùng tinh này bị chảy ra, làm thép bị đứt ở biên hạt, có cảm giác như bị giòn, hiện tượng này gọi là giòn nóng, hay bở nóng. Mn và Si được cho vào khử ôxi còn trong kim loại lỏng khi nấu, trong đó tác dụng khử ôxi của silic mạnh hơn. Hai nguyên tố này khi có mặt trong sắt còn làm tăng độ bền, độ cứng nhưng tác dụng làm giảm độ dẻo độ dai rất mạnh nên người ta chỉ sử dụng chúng có hạn chế. Thép dùng làm các kết cấu thông thường trong ngành xây dựng (tấm, thanh, dây, ống, thép hình chữ U, chữ I...) là thép cacbon chất lượng thấp, phosphor và lưu huỳnh dưới 0,06%. Thép kết cấu (thép dùng làm các chi tiết máy thông thường) có chất lượng cao hơn, S < 0,04%, P < 0,035%. Thép này luôn được khử ôxi bằng cả mangan lẫn silic. Độ bền của thép tăng khi hàm lượng cacbon tăng, tuy nhiên không sử dụng lượng cacbon cao hơn 0,85% vì độ bền từ điểm đó trở đi sẽ không tăng nữa mà sẽ giảm. Thép kết cấu có hàm lượng cacbon là 0,85% chịu được độ bền kéo là 1150 MPa, nghĩa là nếu một dây thép bằng thép trên tiết diện 1 mm² có thể treo được 1 vật nặng 115 kg. Thép đường ray là thép 0,5-0,8% cacbon; 0,6-1% mangan; phosphor, lưu huỳnh < 0,04%, thường có nhà máy chế tạo riêng. Dây thép có độ bền kéo phụ thuộc vào cả lượng cacbon lẫn mức độ bị biến dạng khi kéo (khi sản xuất), thông thường lượng carbon không cao hơn 1,2%, giới hạn bền kéo có thể đạt rất cao, chẳng hạn sản xuất từ thép 1,2% cacbon, kéo nguội đến mức độ biến dạng là 90% thì dây có giới hạn bền là 4000 MPa nghĩa là 1 dây tiết diện 1 mm² treo được 400 kg. Thép hợp kim Thép hợp kim là thép (với thành phần chính là sắt và cacbon) được nấu pha trộn với các nguyên tố hoá học khác (đồng, mangan, niken,...) với tổng lượng nguyên tố thêm vào nằm khoảng từ 1,0% đến 50% tổng khối lượng hỗn hợp để cải thiện chất lượng thép thành phẩm. Tuỳ theo số lượng khác nhau của các nguyên tố và tỷ lệ của chúng trong thép mà thay đổi độ cứng, độ đàn hồi, tính dễ uốn, sức bền và khả năng chống oxy hóa của thép thành phẩm. Tại Nga, Trung Quốc và một số nước phương đông, thép hợp kim được chia làm 3 nhóm: thép hợp kim thấp, thép hợp kim trung bình và thép hợp kim cao. Ở phương Tây chỉ phân biệt hai loại thấp và cao. Sự khác nhau giữa hai loại này không có sự ranh giới rõ ràng.[1][2] Theo tiêu chuẩn của Nga, thép hợp kim thấp có tổng lượng hợp kim nhỏ hơn 2,5%, ở thép hợp kim cao tỉ lệ này lớn hơn 10%. Thông thường, cụm từ "thép hợp kim" dùng để đề cập đến thép hợp kim thấp. - Ngoài kim loại đen (thép,gắng) các kim loại còn lại chủ yếu là kim loại màu. Kim loại màu thường được sử dụng dưới dạng hợp kim. - Kim loại màu dễ kéo dài, dễ dát mỏng, có tính chống mài mòn, tính chống ăn mòn cao, đa số có tính dẫn nhiệt và dẫn điện tốt. Các kim loại màu ít bị oxi hoá trong môi trường. Kim loại màu chủ yếu là đồng (Cu), nhôm (Al) và hợp kim của chúng. - Đồng, nhôm và hợp kim của chúng được dùng nhiều trong công nghiệp như: sản xuất đồ dùng gia đình, chế tại chi tiết máy, làm vật liệu dẫn điện... Tham khảo
24220
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%B7c%20tr%C6%B0ng%20%28nh%E1%BA%ADn%20d%E1%BA%A1ng%20m%E1%BA%ABu%29
Đặc trưng (nhận dạng mẫu)
Trong nhận dạng mẫu, các đặc trưng là các thuộc tính riêng rẽ mà ta có thể xác định và đo đạc được khi quan sát một hiện tượng nào đó. Việc lựa chọn các đặc trưng tách biệt và độc lập là điểm mấu chốt cho bất kì giải thuật nhận dạng mẫu nào có thể thành công trong việc phân loại. Trong khi các lãnh vực khác nhau của nhận dạng mẫu thì có các đặc trưng khác nhau, một khi các đặc trưng này đã được xác định, chúng có thể được phân loại bằng một tập các giải thuật nhỏ hơn. Những tập này bao gồm việc phân loại theo hàng xóm gần nhau (near neighborhood classification) dựa trên đa chiều, mạng nơron (neural networks) hay các kĩ thuật thống kê, mà chủ yếu là dựa vào xác suất Bayes (Bayesian probabilities). Ví dụ Trong nhận dạng ký tự, các đặc trưng có thể bao gồm thông tin (profiles) theo chiều ngang và chiều dọc, số lượng các lỗ rỗng bên trong, xác định số nét (stroke detection) và nhiều yếu tố khác. Trong nhận dạng giọng nói, các đặc trưng để nhận dạng âm vị (phoneme) có thể bao gồm tỉ lệ tiếng ồn (noise ratio), chiều dài âm (sound), cường độ tương quan (relative power), lọc ra các trùng khớp (filter matche) và nhiều yếu tố khác. Trong các giải thuật nhận dạng spam, các đặc trưng có thể bao gồm việc kiểm tra xem một phần đầu (header) của thư điện tử có hiện hữu hay không, xem chúng có được cấu thành đúng hay không, ngôn ngữ mà thư điện tử dùng, việc chỉnh sửa các lỗi cú pháp, phân tích tần số Markov (Markovian frequency analysis) và nhiều yếu tố khác. Trong mọi trường hợp này, và nhiều trường hợp khác, việc trích rút đặc trưng mà có thể đo đạc được bằng máy tính là cả một nghệ thuật, với ngoại lệ là một số kĩ thuật mạng nơron và di truyền có thể tự động trực cảm (nhận biết) được các "đặc tính", và lựa chọn bằng tay các đặc tính tố để tạo thành cơ sở cho mọi giải thuật phân loại. Tham khảo Liên kết ngoài Usenet FAQ: comp.ai.neural-nets Chương trình mạng nơ ron đa lớp (Multi Layer Neural Network) và mạng nơ ron tự tổ chức (Self Organizing Maps) có giải thích bằng tiếng Việt. Sử dụng phần mềm mạng nơ ron 3 lớp Spice-MLP Sử dụng phần mềm mạng tự tổ chức Spice-SOM Hướng dẫn sử dụng mạng nơ ron trong các ứng dụng thực tế trong đó có minh họa phân loại ảnh khuôn mặt, ảnh người đi bộ, ảnh xe hơi, dự báo chứng khoán và một số ví dụ khác Giải thuật phân loại Nhận dạng mẫu
24221
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A2n%20lo%E1%BA%A1i%20%28to%C3%A1n%20h%E1%BB%8Dc%29
Phân loại (toán học)
Trong toán học, một phân loại là một ánh xạ từ một không gian của các đặc trưng X (rời rạc hay liên tục) vào một nhóm rời rạc của các nhãn Y. Phân loại ở đây có thể là phân loại cố định (fixed classifier) hay phân loại có học, và phân loại có học có thể được chia thành phân loại có giám sát và học không có giám sát. Danh sách các ứng dụng phân loại và các công nghệ phân loại có thể xem ở phân loại bằng thống kê. Xem thêm Nhận dạng mẫu Trí tuệ nhân tạo Học máy Phân loại tuyến tính Tham khảo en:Classifier (mathematics)
24230
https://vi.wikipedia.org/wiki/Document%20Object%20Model
Document Object Model
Document Object Model (Mô hình Đối tượng Tài liệu), viết tắt là DOM, là một giao diện lập trình ứng dụng (API). Thông thường, DOM có dạng một cây cấu trúc dữ liệu, được dùng để truy xuất các tài liệu dạng HTML và XML. Mô hình DOM độc lập với hệ điều hành và dựa theo kỹ thuật lập trình hướng đối tượng để mô tả tài liệu. Ban đầu, chưa có chuẩn thống nhất nên các thành phần trong một tài liệu HTML mô tả bằng các phiên bản khác nhau của DOM được hiển thị bởi các chương trình duyệt web thông qua JavaScript. Điều này buộc World Wide Web Consortium (W3C) phải đưa ra một loạt các mô tả kĩ thuật về tiêu chuẩn cho DOM để thống nhất mô hình này. Mặc dù một tài liệu hay văn bản có cấu trúc chặt chẽ (well-structured document) luôn luôn có thể được mô hình hóa bằng một cấu trúc dạng cây, DOM không có giới hạn về cấu trúc dữ liệu của một tài liệu. Hầu hết các bộ phân tích XML (XML parsers) (ví dụ: Xerces) và bộ xử lý XSL (ví dụ: Xalan) đã được phát triển để sử dụng cấu trúc cây này. Những hiện thực như vậy đòi hỏi toàn bộ nội dụng của một văn bản phải được phân tích và lưu trong bộ nhớ. Vì thế, DOM được sử dụng tốt nhất trong các ứng dụng mà trong đó các thành phần của tài liệu có thể được truy xuất và thao tác một cách ngẫu nhiên. Với các ứng dụng dựa trên XML, bao gồm yêu cầu đọc/ghi có chọn lọc cho mỗi lần phân tích (one-time selective read/write per parse), DOM cho thấy được sự tối ưu về mặt bộ nhớ. Trong các trường hợp đó thì giao diện lập trình ứng dụng SAX trở nên rất tiện lợi về cả mặt tốc độ và bộ nhớ. Cấp độ Các phiên bản mô hình DOM được xếp theo cấp độ hay bậc (level). Hiện tại thì, bản chi tiết kĩ thuật hiện hành của DOM đang ở cấp độ 2. Tuy vậy một số ở bản mô tả chi tiết kĩ thuật cấp độ 3 đang là khuyến khích sử dụng của W3C. Cấp độ 0 Bao gồm mọi chi tiết DOM theo quy định của từng nhà phát triển riêng biệt tồn tại trước khi DOM cấp độ 1 ra đời. Ví dụ: document.images, document.forms, document.layers, và document.all. Chú ý: đây là mô tả chi tiết kĩ thuật chính thức bởi W3C hơn là một tham khảo đến những thứ tồn tại trước khi xảy ra quá trình chuẩn hóa. Cấp độ 1 Cách duyệt qua tài liệu (cấu trúc cây) của DOM (HTML và XML) và thao tác nội dung (bao gồm việc thêm thành phần). Các thành phần riêng cho HTML cũng được đưa vào. Cấp độ 2 Hỗ trợ không gian tên XML, khung nhìn có lọc (filtered views) và các sự kiện DOM. Cấp độ 3 Nhằm nâng cao các khả năng của DOM, cấp độ 3 chứa sáu bản mô tả chi tiết kĩ thuật khác nhau: 1) the DOM Level 3 Core; 2) the DOM Level 3 Load and Save; 3) the DOM Level 3 XPath; 4) the DOM Level 3 Views and Formatting; 5) DOM Level 3 Requirements; and 6) the DOM Level 3 Validation. Sử dụng trong trình duyệt web Các hiện thực khác nhau của DOM trong các trình duyệt web khác nhau đã dẫn đến các vấn đề không tương hợp trong quá khứ. Vì thế, các lập trình viên web tốt hơn hết là nên kiểm tra xem một thuộc tính có tồn tại hay không trước khi sử dụng nó. Đoạn mã sau cho thấy cách kiểm tra phương thức quan trọng của W3CDOM có tồn tại hay không trước khi muốn thực thi đoạn mã phụ thuộc vào sự hỗ trợ của W3CDOM. if (document.getElementById && document.getElementsByTagName) { // vì các phương thức quan trọng getElementById và getElementsByTagName // có mặt nên đoạn mã sau có thể an toàn mà sử dụng chúng. obj = document.getElementById("navigation") // đoạn mã khác có sử dụng W3CDOM. //..... } Chương trình duyệt Internet Explorer của Microsoft – phiên bản 5 (1999),... phiên bản 6 (2001) – là một trong các trình duyệt phổ biến nhất trong năm 2005. Internet Explorer và các trình duyệt khác dựa trên động cơ hiển thị Gecko như là Mozilla và Firefox hỗ trợ nhiều thuộc tính của W3C DOM. Vì thế các vấn đề trong việc sử dụng W3CDOM không còn tồn tại nhiều nữa như từng có trước đây với Internet Explorer 4.x và Netscape 4.x vào năm 2000. Bảng trong bài so sánh các động cơ hiển thị (DOM) cho thấy các phương thức và thuộc tính nào có thể được sử dụng một cách an toàn cho mỗi chương trình duyệt. Bản đặc tả chi tiết kĩ thuật Document Object Model (DOM) Level 1 Specification Level 2 Recommendations: Document Object Model (DOM) Level 2 Core Specification Document Object Model (DOM) Level 2 Views Specification Document Object Model (DOM) Level 2 Events Specification Document Object Model (DOM) Level 2 Style Specification Document Object Model (DOM) Level 2 Traversal and Range Specification Document Object Model (DOM) Level 2 HTML Specification Level 3 Recommendations: Document Object Model (DOM) Level 3 Core Specification Document Object Model (DOM) Level 3 Load and Save Specification Document Object Model (DOM) Level 3 Validation Specification Level 3 Working Group Notes: Document Object Model (DOM) Level 3 XPath Specification Document Object Model (DOM) Level 3 Views and Formatting Specification Document Object Model (DOM) Requirements Xem thêm Sự kiện DOM SAX – A set of APIs for accessing and manipulating XML documents in a sequential manner. JDOM – A Java-based document object model for XML that integrates with DOM and SAX and uses parsers to build the document. Comparison of layout engines (DOM) Dynamic HTML Tham khảo Liên kết ngoài Trang chủ DOM của W3C Technology Reports Tutorials What does your user agent claim to support? What does each DOM Level bring? About the W3C Document Object Model (MSDN) W3C DOM scripts and compatibility tables (Quirksmode) Gecko DOM Reference khtml Library API Documentation Giao diện cho... C++ Java – W3C DOM Cấp độ 2 Lisp Pascal (Kylix) Perl PHP Python Ruby TCL Chuẩn dựa trên XML Giao diện lập trình ứng dụng HTML Tiêu chuẩn của W3C Tiêu chuẩn dựa trên XML
24243
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bluetooth
Bluetooth
Bluetooth là một chuẩn công nghệ truyền thông không dây tầm gần giữa các thiết bị điện tử. Công nghệ này hỗ trợ việc truyền dữ liệu qua các khoảng cách ngắn giữa các thiết bị di động và cố định, tạo nên các mạng cá nhân không dây (Wireless Personal Area Network-PANs). Bluetooth có thể đạt được tốc độ truyền dữ liệu 1Mb/s. Bluetooth hỗ trợ tốc độ truyền tải dữ liệu lên tới 720 Kbps trong phạm vi 10 m–100 m. Khác với kết nối hồng ngoại (IrDA), kết nối Bluetooth là vô hướng và sử dụng dải tần 2,4 GHz. Ở chế độ được sử dụng rộng rãi nhất, công suất truyền được giới hạn ở mức 2,5 milliwatt. Thuật ngữ "Bluetooth" (có nghĩa là "răng xanh") được đặt theo tên của một vị vua Đan Mạch, vua Harald Bluetooth, người Viking nổi tiếng về khả năng giúp mọi người có thể giao tiếp, thương lượng với nhau, vào thế kỷ thứ 10, chính ông là vị vua viking đầu tiên chấp nhận Cơ đốc giáo, biến cơ đốc thành quốc giáo của Đan Mạch Từ nguyên Tên “Bluetooth” được đề xuất vào năm 1997 bởi Jim Kardach của Intel, người đã phát triển một hệ thống cho phép điện thoại di động giao tiếp với máy tính. Vào thời điểm đề xuất này, ông đang đọc cuốn tiểu thuyết lịch sử của Frans G. Bengtsson The Long Ships về người Viking và vua Đan Mạch thế kỷ 10 Harald Bluetooth. Bluetooth là phiên bản Anh hóa của tiếng Scandinavia Blåtand/Blåtann (hay tiếng Norse cổ blátǫnn). Đó là hình dung từ của Vua Harald Bluetooth, người đã thống nhất các bộ lạc Đan Mạch bất hòa thành một vương quốc duy nhất. Hàm ý rằng Bluetooth hợp nhất các giao thức truyền thông. Lịch sử phát triển Đặc tả Bluetooth được phát triển đầu tiên bởi Ericsson (hiện nay là Sony Ericsson và Ericsson Mobile Platforms), và sau đó được chuẩn hoá bởi Bluetooth Special Interest Group (SIG). Chuẩn được công bố vào ngày 20 tháng 5 năm 1999. Ngày nay được công nhận bởi hơn 1800 công ty trên toàn thế giới. Được thành lập đầu tiên bởi Sony Ericsson, IBM, Intel, Toshiba và Nokia, sau đó cùng có sự tham gia của nhiều công ty khác với tư cách cộng tác hay hỗ trợ. Bluetooth có chuẩn là IEEE 802.15.1. Theo Bluetooth SIG, hiện có hơn 90% điện thoại smartphone có tính năng Bluetooth, bao gồm các hệ điều hành IOS, Android và Windows. Ứng dụng Bluetooth cho phép kết nối và trao đổi thông tin giữa các thiết bị như điện thoại di động, điện thoại cố định, máy tính xách tay, PC, máy in, thiết bị định vị dùng GPS, máy ảnh số, và video game console. Các ứng dụng nổi bật của Bluetooth gồm: Điều khiển và giao tiếp không dây giữa một điện thoại di động và tai nghe không dây. Mạng không dây giữa các máy tính cá nhân trong một không gian hẹp đòi hỏi ít băng thông. Giao tiếp không dây với các thiết bị vào ra của máy tính, chẳng hạn như chuột, bàn phím và máy in. Truyền dữ liệu giữa các thiết bị dùng giao thức OBEX. Thay thế các giao tiếp nối tiếp dùng dây truyền thống giữa các thiết bị đo, thiết bị định vị dùng GPS, thiết bị y tế, máy quét mã vạch, và các thiết bị điều khiển giao thông. Thay thế các điều khiển dùng tia hồng ngoại. Gửi các mẩu quảng cáo nhỏ từ các pa-nô quảng cáo tới các thiết bị dùng Bluetooth khác. Điều khiển từ xa cho các thiết bị trò chơi điện tử như Wii - Máy chơi trò chơi điện tử thế hệ 7 của Nintendo và PlayStation 3 của Sony. Kết nối Internet cho PC hoặc PDA bằng cách dùng điện thoại di động thay modem. Xem thêm Virus (máy tính) Điện thoại di động Chú thích Liên kết ngoài Trang web chính thức về kết nối Bluetooth phương thức truy cập kênh Bluetooth Máy tính di động Chuẩn mạng máy tính Phát minh của Thụy Điển Mạng không dây
24246
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A2n%20lo%E1%BA%A1i%20b%E1%BA%B1ng%20th%E1%BB%91ng%20k%C3%AA
Phân loại bằng thống kê
Phân loại bằng thống kê là một thủ tục thống kê trong đó các thể riêng biệt sẽ được sắp vào từng nhóm dựa trên số lượng thông tin về một hay nhiều tính chất kế thừa của cá thể đó (được xem như là các điểm, các biến, các đặc điểm, v.v...) và dựa vào một tập huấn luyện của các cá thể đã được đánh nhãn sẵn. Về mặt hình thức, bài toán có thể diễn giải như sau: cho sẵn một tập huấn luyện ta cần tạo ra một phân loại mà có thể ánh xạ một đối tượng vào nhãn phân loại của nó. Ví dụ, nếu bài toán là lọc spam, thì là một biểu diễn nào nó cho một thư điện tử và thì hoặc là "Spam" hoặc "Không Spam". Các giải thuật phân loại bằng thống kê thường được sử dụng trong các hệ thống nhận dạng mẫu. Chú ý: trong cộng đồng sinh thái học, thuật ngữ "phân loại" là đồng nghĩa với từ được biết đến (trong ngành học máy) là phân nhóm (clustering). Xem bài viết đó để biết rõ hơn về các kĩ thuật không có giám sát. Các kĩ thuật phân loại bằng thống kê Trong khi có rất nhiều phương pháp phân loại, chúng thường buộc phải giải quyết một trong ba vấn đề liên quan đến toán học sau. Vấn đề đầu tiên là tìm một ánh xạ của một không gian đặc trưng (thường là một không gian vec-tơ đa chiều) đến một tập các nhãn. Điều này là tương đương với việc phân hoạch không gian đặc trưng thành các vùng nhỏ hơn, sau đó gán một nhãn vào mỗi vùng. Các giải thuật dạng này (ví dụ, giải thuật hàng xóm gần nhất) thường không đem lại sự tin cậy hay xác suất class (posterior probability), trừ phi quá trình xử lý sau được áp dụng. Một tập các giải thuật khác để giải quyết vấn đề này trước tiên là áp dụng việc phân mảnh không có giám sát không gian đặc trưng ra, sau đó cố gắng đánh nhãn cho mỗi mảnh (hay vùng) được phân ra đó. Vấn đề thứ hai là xem xét việc phân loại như là một bài toán về ước lượng, với mục tiêu là ước lượng xem một hàm có dạng với vec-tơ đặc trưng đầu vào là , và hàm f là được tham số hóa bởi một số tham số . Trong hướng tiếp cận Bayes cho vấn đề này, thay vì chọn một tham số vec-tơ đơn lẻ , kết quả sẽ tích hợp trên mọi thê-ta có thể có, với cách đánh trọng số dựa vào như cách đưa ra tập huấn luyện D: Bài toán thứ ba liên quan tới bài toán thứ hai, nhưng yêu cầu của nó là ước lượng xác suất có điều kiện-class và rồi sử dụng quy luật Bayes để đưa về xác suất lớp nhu bài toán số hai. Các ví dụ về các giải thuật phân loại bao gồm: Linear classifier Fisher's linear discriminant Logistic regression Naive Bayes classifier Perceptron k hàng xóm gần nhất Boosting Cây quyết định Mạng nơ-ron Mạng Bayes Support vector machine Mô hình Markov ẩn Lĩnh vực ứng dụng Thị giác máy tính Phân tích hình ảnh y học (Medical image analysis) Nhận dạng ký tự quang học Nhân dạng tiếng nói Nhận dạng chữ viết tay Nhận dạng sinh trắc học (Biometric identification) Phân loại tài liệu (Document classification) Động cơ tìm kiếm trên Internet Credit scoring Xem thêm Khai phá dữ liệu (Data mining) Lôgic mờ (Fuzzy logic) Thu thập thông tin (Information retrieval) Hướng dẫn sử dụng mạng nơ ron trong các ứng dụng thực tế trong đó có minh họa phân loại ảnh khuôn mặt, ảnh người đi bộ, ảnh xe hơi, dự báo chứng khoán và một số ví dụ khác Tham khảo Học máy Phân loại bằng thống kê
24249
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20d%C3%A2n%20s%E1%BB%B1
Xã hội dân sự
Xã hội dân sự cấu thành từ tổng thể của các tổ chức xã hội và dân sự tự nguyện mà các tổ chức này tạo nên cơ sở của một xã hội tự vận hành, khác với các cấu trúc quyền lực của một nhà nước (bất kể hệ thống chính trị của nhà nước này thuộc kiểu gì) và các thể chế thương mại của thị trường. Xã hội dân sự bao gồm không gian gia đình và lĩnh vực tư nhân, được gọi là " khu vực thứ ba " của xã hội, phân biệt với chính phủ và kinh doanh. Đôi khi thuật ngữ xã hội dân sự được sử dụng theo nghĩa tổng quát hơn, là "các yếu tố như tự do ngôn luận, tư pháp độc lập,..., tạo nên một xã hội dân chủ " (Từ điển tiếng Anh Collins). Đặc biệt là trong các cuộc thảo luận giữa các nhà tư tưởng Đông và Trung Âu, xã hội dân sự cũng xem như là một khái niệm về các giá trị của công dân. Một đại diện nổi tiếng của khái niệm này là Nhà bất đồng chính kiến ​​Ba Lan Adam Michnik. Hoạt động tình nguyện và sự độc lập từ các cơ quan sử dụng quyền lực nhà nước thường được xem là 2 đặc tính của các tổ chức cấu thành xã hội dân sự. Định nghĩa Có nhiều định nghĩa về xã hội dân sự: Liên minh vì sự tham gia của công dân - CIVICUS 2005: Xã hội dân sự là "Diễn đàn giữa gia đình, nhà nước và thị trường, nơi mà mọi con người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung Trung tâm Xã hội dân sự của Trường đại học kinh tế London định nghĩa Xã hội dân sự như sau: Xã hội dân sự đề cập tới một mảng các hoạt động tập thể tự nguyện xung quanh các giá trị, mục tiêu, ý thích chung. Về lý thuyết, các hình thái tổ chức xã hội dân sự khác biệt hẳn với các hình thái tổ chức nhà nước, gia đình và thị trường. Nhưng trong thực tế thì, ranh giới giữa nhà nước, xã hội dân sự, gia đình và thị trường là khá lẫn lộn, mập mờ và không rõ ràng. Xã hội dân sự thường bao gồm một sự đa dạng về phạm vi hoạt động, các thành viên tham gia và các hình thái tổ chức, khác nhau về mức độ nghi lễ, tự do và quyền lực. Xã hội dân sự thường được hình thành dưới dạng các tổ chức như các hội từ thiện, các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ, các phòng trào xã hội, các hiệp hội kinh doanh, các liên minh, và các đoàn luật sư. Theo cuốn "Chế độ Dân chủ, nhà nước và xã hội" của N.M.Voskresenskaia và N.B.Davletshina:Xã hội dân sự là xã hội trong đó các tổ chức khác nhau của các công dân như đảng phái, công đoàn, hợp tác xã, nhóm,...thực hiện mối liên hệ giữa công dân với nhà nước, không để cho nhà nước áp bức các công dân của mình. Lịch sử Thuật ngữ xã hội dân sự xuất hiện lần đầu tiên ở châu Âu vào thế kỷ 16 và trở nên phổ biến vào thế kỷ 18. Một số sử gia Trung Quốc cho rằng vấn đề xã hội dân sự đã được nhắc đến ngay từ thời nhà Chu ở Trung Hoa. Theo quan niệm truyền thống châu Âu, xã hội dân sự được coi là một tổ chức (hội) đối trọng với chính quyền, tuy vậy cách hiểu này vẫn chưa được chấp nhận tại Việt Nam vì những lý do chính trị. Đặc trưng Chỉ ra những ranh giới rõ rệt, một bên là những hoạt động kinh tế tư nhân hướng theo lợi nhuận, bên kia là những hoạt động chính trị hướng vào việc chiếm lãnh và thực thi quyền lực nhà nước; Định ra một khu vực đa dạng gồm những hội nhóm và tổ chức khác nhau. Những thành tố này có thể sẽ trở thành những đảm bảo quan trọng cho một chính sách phát triển bền vững và trong khuôn khổ hợp tác của các cơ quan nước ngoài, cần phải được ưu tiên trợ giúp tùy theo thực chất của từng tổ chức; Cần phải tiến tới tầm cỡ độc lập về mặt chính trị xã hội, và qua đó, các tổ chức có một tiềm năng quan trọng phục vụ cho tiến trình phát triển dân chủ; Miêu tả vai trò các thành tố "dân chủ tham gia" như là một bổ khuyết cho các cơ quan "dân chủ đại diện"; Có khả năng tiến tới tầm cỡ toàn cầu thông qua việc nối kết với những tổ chức xã hội dân sự khác trên thế giới. Xã hội dân sự và dân chủ Những người ủng hộ lập luận rằng các yếu tố chính trị của nhiều tổ chức tự nguyện tạo điều kiện cho công dân nhận thức tốt hơn và thêm thông tin, cử tri lựa chọn tốt hơn, tham gia vào chính trị, và giữ chính quyền có trách nhiệm hơn Các quy chế của các tổ chức này có. thường được coi là vi hiến pháp vì họ quen với những người tham gia thủ tục ra quyết định dân chủ. Gần đây, Robert D. Putnam đã lập luận rằng ngay cả các tổ chức phi-chính trị trong xã hội dân sự đặc biệt quan trọng đối với nền dân chủ. Điều này là do họ xây dựng vốn xã hội, tin tưởng và giá trị chung, được chuyển sang lĩnh vực chính trị và giúp tổ chức xã hội cùng với nhau, tạo điều kiện cho sự hiểu biết về sự liên kết của xã hội và lợi ích trong đó. Những người ủng hộ cho rằng xã hội dân sự rất cần cho xã hội: đó là lực lượng cùng góp phần với Nhà nước trong việc xây dựng và thực thi pháp luật, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng của bộ máy nhà nước, là lực lượng khỏa lấp những khiếm khuyết của thị trường, nhằm đạt tới mục tiêu cuối cùng là xây dựng một xã hội tốt đẹp, phồn vinh, hạnh phúc. Những người khác, tuy nhiên, đã nghi vấn hoặc đặt câu hỏi "làm thế nào xã hội dân sự có thể tạo ra dân chủ thực sự?". Một số lưu ý rằng các tổ chức xã hội dân sự đã thu được một số lượng đáng kể quyền lực chính trị thông qua các hoạt động của họ mà không hề có người trực tiếp bầu hoặc bổ nhiệm họ. Partha Chatterjee đã lập luận rằng, trong hầu hết các đất nước, "xã hội dân sự vẫn chỉ là đại diện cho quyền lợi của một nhóm nhỏ". Đối với Jai, xã hội dân sự là một chiêu bài của chủ nghĩa thực dân mới do giới tinh hoa chính trị phương Tây tạo ra nhằm phục vụ lợi ích riêng của họ. Cuối cùng, các học giả khác cho rằng, kể từ khi các khái niệm về xã hội dân sự liên quan chặt chẽ với nền dân chủ đại diện, nó cũng bị ảnh hưởng những ý tưởng của dân tộc và chủ nghĩa dân tộc, tức là một tổ chức xã hội dân sự ở nước này có thể trở thành công cụ gây hại cho một nước khác nếu hai nước có mâu thuẫn hoặc xung đột. Xã hội dân sự có nhiều điểm tích cực; đó là hoạt động trong khuôn khổ pháp lý để thể hiện quyền làm chủ của nhân dân đối với xã hội và Nhà nước; là cầu nối các cá nhân với Nhà nước, cùng với Nhà nước hoạch định và tổ chức phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách. Song thực tiễn ở các nước Liên Xô và Đông Âu năm 1990, hay khủng hoảng chính trị ở Trung Đông, Bắc Phi năm 2012 đã cho thấy: các thế lực bên ngoài đã lợi dụng các tổ chức xã hội dân sự để tạo ra tổ chức đối lập, lợi dụng "đấu tranh dân chủ" để kích động người dân thực hiện "Cách mạng màu", "Mùa xuân Ả Rập"... nhằm lật đổ chế độ xã hội ở các quốc gia kháchttp://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/Lat-tay-muu-do-doi-lot-xa-hoi-dan-su-chong-pha-dat-nuoc-343556/. Xã hội dân sự và đảng cộng sản Edmund Burke, Alexis de Tocqueville và cả những nhà trí thức Nga từ thế kỷ 18 đã cho là xã hội dân sự là nền tảng căn bản cho nền dân chủ. Tuy nhiên Lenin lại cho là xã hội dân sự là thứ cản trở cho nền chuyên chính vô sản. Sử gia Stuart Finkel giải thích, Lenin tin tưởng rằng: "Phạm vi công cộng trong xã hội xã hội chủ nghĩa thì phải thống nhất và duy nhất." và gạt bỏ các tổ chức xã hội dân sự, cho đó là tư tưởng tư sản. Người Bolshevik xem những tổ chức, công đoàn độc lập là tác nhân gây ra sự chia rẽ quan điểm trong xã hội. Thật ra những người Bolshevik không thích những tổ chức độc lập vì cùng một lý do mà Burke và Tocqueville đã ủng hộ những tổ chức này, bởi vì chúng đòi hỏi việc con người tự quyết định cuộc sống riêng tư của họ bất chấp khuôn khổ quản lý của nhà nước, bởi vì chúng khuyến khích những tư tưởng độc lập và chúng làm cho con người cá nhân nảy sinh nhiều thái độ mâu thuẫn đối với quyền lực của nhà nước. Trong thời kỳ Cách mạng Tháng Mười họ là đảng chính trị đầu tiên mà có mục tiêu dứt khoát là cấm bất cứ tổ chức nào mà không được họ trực tiếp lập ra và không trung thành với họ. Tại Liên Xô, ngay cả những tổ chức phi chính trị cũng bị cấm, bởi vì Lenin tin tưởng rằng, tất cả các tổ chức tự nhiên là chính trị; nếu họ không làm chính trị thẳng thắn thì cũng làm chính trị bí mật. Ngay cả các nhà Marxist chính thống cũng ưa thích tự do mậu dịch hơn là tự do lập hội, kể cả lập ra những hội thể thao phi chính trị hay các hội văn hóa. Điều này là đúng như vậy dưới thời Lenin, Stalin, Krushchev và Brezhnev. Mặc dù nhiều thứ đã thay đổi trong lịch sử của Liên Xô, sự phản bác xã hội dân sự tiếp tục tới tận thập niên 1970 và 80. Những người cộng sản Đông Âu thừa hưởng lập luận này (quan điểm bà Anne Applebaum) có thể là vì họ đã quan sát và thu thập được trong nhiều chuyến viếng thăm Liên Xô, hay vì các đồng chí họ trong mật vụ đã học được khi họ được huấn luyện, trong một vài trường hợp vì chính các tướng lãnh và đại sứ Liên Xô đã ra chỉ thị cho họ làm chuyện đó.Trong thời kỳ hậu chiến (thế chiến thứ hai), các nước khác mà bị ảnh hưởng bởi học thuyết Bolshevik cũng đã bắt đầu thực hiện một vài chính sách này. Trung Quốc và Triều Tiên là 2 nước hiển nhiên nhất, và họ được xem là ngang hàng hay vượt trên Liên Xô (theo cái nhìn của Anne Applebaum) trong việc cấm những tổ chức độc lập., Đến cuối thập niên 1980, ở Liên Xô, Gorbachev đề ra cải cách chính trị, cho phép thành lập hàng loạt các tổ chức phi chính phủ, xã hội dân sự... Kết quả là chính phủ Liên Xô trở nên ngày một yếu đuối và dễ bị tổn thương do họ không còn quyền lực mạnh mẽ như trước đây. các tổ chức phi chính phủ, xã hội dân sự đã lợi dụng chủ trương phản biện xã hội để chỉ trích, thậm chí vu khống Nhà nước Liên Xô, biến phản biện xã hội thành một quá trình không kiểm soát được, nhiều khi thành một hoạt động dạng câu lạc bộ vô chính phủ. Không còn bị kiểm soát, các tổ chức này đã tiến hành những hoạt động "diễn biến hòa bình", gây mâu thuẫn giữa các sắc tộc của Liên Xô. Các biện pháp bao gồm: bôi nhọ Chủ nghĩa Mác-Lênin, gây mất lòng tin của người dân vào chính quyền bằng các biện pháp chụp mũ, tạo tin đồn giả. Xuất hiện rất nhiều bài viết xét lại lịch sử, xét lại chủ nghĩa xã hội, phủ nhận vai trò của Cách mạng Tháng Mười trên báo chí mà không bị ngăn chặn và xử lý. Các "tổ chức phi chính phủ" xuất hiện rất nhiều (hơn 30.000 tổ chức vào năm 1987), trong đó nhiều tổ chức nhận tài trợ nước ngoài, vận động ngầm hoặc công khai truyền bá tư tưởng phủ nhận Nhà nước Liên Xô. Nhiều đơn vị xuất bản, phát thanh, truyền hình được phương Tây tài trợ đã quay sang chỉ trích lịch sử cách mạng, khiến tư tưởng chính trị của Đảng viên và nhân dân Liên Xô trở nên dao động dữ dội, lòng tin vào sự nghiệp cách mạng sụt giảm nghiêm trọng Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự tan rã Liên Xô năm 1991. Xã hội dân sự và các nước Trung Đông Các chế độ chính trị ở nhiều nước Ả Rập, bao gồm những chế độ ở Ả Rập Saudi, Libya và Iraq, áp dụng những chính sách cấm các tổ chức xã hội dân sự, với những lý do như các tổ chức này gây phương hại các giá trị Hồi giáo, hoặc là công cụ gián điệp của nước ngoài, gây chia rẽ các sắc tộc... Ví dụ như Muammar al-Qadhafi đã cấm mọi tổ chức xã hội dân sự và ông ta cũng cấm cả việc thành lập một đảng chính trị độc quyền duy nhất, ông ưa thích việc cai trị thông qua các hội đồng mà thành viên do người dân địa phương bầu ra, không phải là người của bất kỳ tổ chức nào. Xã hội dân sự tại Việt Nam Xã hội dân sự tại Việt Nam phát triển từ khi khái niệm dân chủ và quyền công dân được người Pháp đưa vào Việt Nam đầu thế kỷ 20. Trước năm 1945, các phong trào và tổ chức dân sự có sự phát triển bước đầu tại Việt Nam. Sau năm 1945, tại miền Bắc, xã hội dân sự bị hạn chế, gần như xóa bỏ. Trong khi tại miền Nam, xã hội dân sự vẫn tồn tại và phát triển, một số tổ chức trở thành công cụ đắc lực ngầm phục vụ cho các hoạt động chính trị của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam chống lại Mỹ. Sau năm 1975 và đến rất gần đây, xã hội dân sự không được phát triển tại Việt Nam do Việt Nam hạn chế các phong trào dân sự và lập hội, bởi lo ngại tiềm ẩn các nguy cơ an ninh. Mãi tới gần đây, xã hội dân sự bắt đầu phát triển trở lại. Trong đó, Nghị quyết số 37-NQ/TW về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030 của Đảng Cộng sản Việt Nam có đề cập đến "Xã hội dân sự" như là vấn đề cần nghiên cứu trong việc "phát huy quyền làm chủ của người dân đi đôi với hoàn thiện hệ thống chính trị" Quan điểm của các cơ quan an ninh Việt Nam cho rằng: xã hội dân sự có nhiều điểm tích cực; đó là hoạt động trong khuôn khổ pháp lý để thể hiện quyền làm chủ của nhân dân đối với xã hội và Nhà nước, góp phần giúp Nhà nước giảm bớt gánh nặng chi phí, tinh giản bộ máy, hoạt động hiệu quả và minh bạch; là cầu nối các cá nhân với Nhà nước; cùng với Nhà nước hoạch định và tổ chức phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách. Song thực tiễn ở các nước Liên Xô và Đông Âu năm 1990, hay biến động chính trị ở Trung Đông, Bắc Phi năm 2012 đã cho thấy: các thế lực bên ngoài đặc biệt chú trọng thúc đẩy, hình thành các tổ chức xã hội dân sự theo tiêu chí phương Tây, từng bước tạo ra tổ chức đối lập, hình thành xã hội đa đảng; áp đặt các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa theo kiểu của họ, thực hiện "Cách mạng màu", "Mùa xuân Ả Rập"... coi đó là phương thức hoạt động chủ yếu nhằm lật đổ chế độ xã hội ở các quốc gia này. Do vậy, cần phải kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các tổ chức này, ngăn chặn hoạt động lợi dụng xã hội dân sự để thực hiện "diễn biến hòa bình", lật đổ chế độ chính trị ở Việt Nam. Tham khảo Edwards, Michael. Civil Society. Cambridge, England: Polity Press, 2004. ISBN 0-7456-3133-9. O'Connell, Brian. Civil Society: The Underpinnings of American Democracy. Medford, Mass: Tufts University Press, 1999. ISBN 0-87451-924-1. Pollock, Graham.'Civil Society Theory and Euro-Nationalism' , Studies In Social & Political Thought'', Issue 4, March 2001, pp. 31–56 Hemmati, Minu. Dodds, Felix. Enayati, Jasmin. and McHarry,Jan downloadable copy of Multistakeholder Processes for Governance and Sustainability:Beyond Deadlock and Conflict Chú thích Liên kết ngoài LSE Centre for Civil Society Civil Society in the Post-Communist Context: Linking Theoretical Concept and Social Transformation by Tanya Narozhna The Western Concept of the Civil Society in the Context of Chinese History by Thomas Metzger UN relations with Civil Society (NGO's) UN relations with Civil Society (Businesses) UNEP Global Civil Society Forum . EU relations with Civil Society UK DFID relations with Civil Society Global civil society (PCDF). Cox, P., N. Shams, G. Jahn, P. Erickson and P. Hicks. 2002. Building collaboration between NGOs and agricultural research institutes. Cambodian Journal of Agriculture 6: 1-8. WiserEarth.org - World Index for Social and Environmental Responsibility - formerly www.civilsociety.org. Stakeholder Forum for a Sustainable Future engagement in UN stakeholder relations Dự án CIVICUS CSI-SAT, Đánh giá ban đầu về xã hội dân sự tại Việt Nam Học viện Công dân, Xã hội dân sự Chuyên trang Xã hội dân sự, Xã hội dân sự Xây dựng cộng đồng Xã hội dân sự Dân chủ
24251
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90a%20B%E1%BA%A3o
Đa Bảo
Thiền sư Đa Bảo (多寶) tu tại chùa Kiến Sơ (建初寺), làng Phù Đổng (扶蕫), Tiên Du (𠎣逰), thuộc thế hệ thứ 5 dòng Vô Ngôn Thông. Những cứ liệu hiện còn đều không biết rõ Sư người đâu, và cũng không biết họ gì. Cơ duyên và hành trạng Khi Đại sư Khuông Việt giảng dạy tại chùa Khai Quốc, Sư đến tham học. Đại sư khen là người gặp việc thì chóng hiểu, xử sự cẩn thận, nên riêng cho nhập thất. Sau khi đắc pháp, Sư chỉ một mình một bát, tiêu dao ngoại vật. Sau được chùa Kiến Sơ, bèn đến ở đó. Lý Thái Tổ lúc chưa lên ngôi, Sư thấy tướng mạo đẹp đẽ khác thường, bèn bảo: "Chú này cốt tướng khác phàm, ngày kia làm vua ắt là nó đây." Lý Thái Tổ cả kinh, thưa: "Hiện nay đức Thánh thượng anh minh còn đó, trong ngoài cả nước yên vui, thầy ta sao lại nói lời phải tội tru di này?" Sư bảo: "Mệnh trời đã định, người dù muốn trốn cũng chẳng được nào. Giả như lời này mà đúng, thì mong chớ bỏ nhau." Khi Lý Thái Tổ lên ngôi, nhiều lần triệu Sư vào cung, hỏi bàn yếu chỉ của Thiền và lễ Sư rất hậu. Cả đến công việc chính trị của triều đình, Sư đều dự phần giải quyết. Với những công trạng này, vua đã xuống chiếu trùng tu chùa Kiến Sơ. Sư Đa Bảo tịch ở đâu không ai biết rõ thời gian cũng như địa điểm. Chữ "Bát" và việc nhà Lý mất ngôi Về việc Đa Bảo đến ở chùa Kiến Sơ và có những liên lạc với Lý Công Uẩn và những bài kệ liên quan đến việc nhà Lý mất ngôi "sau tám đời vua", truyện Xung thiên dũng liệt chiếu ứng uy tín đại vương của tập Việt điện u linh và truyện Xung thiên chiêu ứng thần vương của Lĩnh nam trích quái có đề cập tuy có một số những sai khác về văn cứ và điểm xuất phát. Sử ký toàn thư trong lời bàn của Ngô Sĩ Liên về việc nhà Lý mất ngôi thì nhân vật chính của chuyện không phải là Đa Bảo, mà là Thiền sư Vạn Hạnh. Ngô Sĩ Liên viết: Thế truyền Lý Thái Tổ lúc mới được thiên hạ, xa giá trở về Cổ Pháp đến thăm chùa làng Phù Đổng. Có thần nhân đề thơ trên cột chùa rằng: Sư Vạn Hạnh đem bài thơ dâng lên. Vua Lý Thái Tổ xem, nói rằng: "Việc thần nhân không thể hiểu được". Người đời truyền tụng nó, mà không biết nó nói gì. Đến khi họ Lý mất ngôi, mới biết bài thơ quả đúng. Chữ Bát 鉢 (của "bát nước") và chữ Bát 八 (nghĩa là "tám") phát âm giống nhau. Hai chữ Nhật 日 và San 山 tại câu cuối ghép thành chữ Sảm 旵 (tên vua Huệ Tông) có nghĩa là mặt trời lặn sau núi, hết bóng, có thể liên tưởng đến một sự chấm dứt. Bài thơ hàm ý rằng: nhà Lý chỉ tồn tại tám đời, sau đời vua Huệ Tông sẽ chấm dứt. Lịch sử Việt Nam viết về nhà Lý cho thấy rằng từ Thái Tổ trở lên đến Huệ Tông là tám đời, sau đó đến đời Lý Chiêu Hoàng thì phải nhường ngôi cho nhà Trần. Như thế, nhân vật chính của cả truyện trên đúng ra phải là Vạn Hạnh chứ không phải Đa Bảo. Và cứ vào đấy thì những bài thơ trên cũng phải là của Vạn Hạnh. Chúng thực tế có thứ chất thơ phong thủy và sấm truyền của những bài thơ hiện còn lưu truyền mệnh danh là của Vạn Hạnh. Việt sử tiêu án cũng ghi lại chuyện Lý Thái Tổ gặp bài thơ vừa nói, nhưng không ghi ai dâng lên. Nguyên bản Hán văn □第五世二人□□□□□□□□□□□ 多寶禪師 𠎣逰扶蕫鄉建初寺多寶禪師不知何許人亦莫曉其姓氏時匡越大師於開國寺闡化師預參學大師嘉其臨機領悟處事謹恪獨許入室得法之後惟一瓶一鉢逍遙物外後得建初寺居焉李太祖澘(潛)龍時師見其英姿秀異謂曰此兒骨相不凢他日南靣必此人也帝大驚曰方今聖明在上海內靖謐吾師何故出此赤族語耶師云天命素定錐/雖/欲逃之不可得已33倘效其言幸勿相棄及帝即位屢召師赴闕諮訪禪旨恩禮厚𨺼洽至於朝廷政事咸預决焉有詔重修其寺後不知所化□□□□□□□ 得已: Nguyễn, LMT = 得也 Tham khảo Lê Mạnh Thát: Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nhà xuất bản TP HCM 1999. Thiền Uyển Tập Anh - Bản tiếng Việt Thiền Uyển Tập Anh - Bản chữ Hán Thiền sư Việt Nam Thiền phái Vô Ngôn Thông
24253
https://vi.wikipedia.org/wiki/To%C3%A0n%20quy%E1%BB%81n%20%C4%90%C3%B4ng%20D%C6%B0%C6%A1ng
Toàn quyền Đông Dương
Đông Dương tổng thống toàn quyền đại thần (chữ Hán: 東洋總統全權大臣, tiếng Pháp: Gouverneur-général de l'Indochine française), gọi tắt là toàn quyền Đông Dương, còn gọi là Đông Pháp tổng thống toàn quyền đại thần, gọi tắt là toàn quyền Đông Pháp, là chức vụ cao cấp của quan chức cai trị thuộc địa Pháp, đứng đầu trong Liên bang Đông Dương. Sau Thế chiến thứ hai, khi quân Pháp đã tái kiểm soát được phần lớn Đông Dương, nhằm tránh khơi gợi lại thời kỳ thuộc địa, chức vụ Toàn quyền được thay thế bằng chức vụ thành Cao ủy Đông Dương hay Cao ủy Đông Pháp (tiếng Pháp: Haut-commissaire de France en Indochine). Cuối tháng 4 năm 1943, chức vụ này một lần nữa được thay đổi thành đến năm 1953 thì gọi là Tổng ủy Đông Dương (tiếng Pháp: Commissaires généraux en Indochine). Sau ngày 21 tháng 7 năm 1956, chức vụ này bị bãi bỏ theo tinh thần của Hiệp định Genève, 1954. Bối cảnh lịch sử Khi tiến hành xâm chiếm Nam kỳ, người Pháp tổ chức hệ thống cai trị qua hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, từ 1861 đến 1879, người Pháp thành lập Soái phủ Nam kỳ (Gouvernement des Amiraux) do các đô đốc của Hải quân Pháp đứng đầu, trông coi việc cai trị hành chính và binh bị. Bắt đầu năm 1879, người Pháp đặt chức vụ Thống đốc Nam Kỳ (Gouverneur de la Cochinchine) để cai trị mảnh đất thuộc địa này. Chức vụ thống đốc này trực thuộc bộ Thuộc địa và bộ Hải quân Pháp. Sau khi áp đặt chế độ bảo hộ, người Pháp đặt thêm chức vụ Khâm sứ Trung Kỳ (Résident supérieur d'Annam) và Thống sứ Bắc Kỳ (Résident supérieur du Tonkin). Hai người này trực thuộc bộ Ngoại giao Pháp. Ngày 17 tháng 10 năm 1887, viên Tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập Phủ Toàn quyền Đông Dương, còn gọi là Phủ Toàn quyền Đông Pháp (Gouvernement général de l'Indochine Française). Toàn quyền Đông Pháp là người có quyền hành cao nhất trong thể chế chính trị Pháp trên toàn cõi Bắc kỳ, Nam kỳ và Cao Miên. Riêng nước Đại Nam (phần đất Trung kỳ còn lại, đang chịu sự bảo hộ của thực dân Pháp) thì Hoàng đế nhà Nguyễn vẫn là người có quyền tối thượng, tất nhiên là trên danh nghĩa. Đứng đầu cả ba kỳ là: Thống đốc Nam kỳ, Khâm sứ Trung kỳ và Thống sứ Bắc kỳ, cả ba đều nằm dưới quyền giám sát và điều khiển tối cao của viên Toàn quyền Đông Pháp, trực thuộc bộ Thuộc địa. Đến năm 1900 quyền kiểm soát của Toàn quyền Đông Pháp được mở rộng thêm, bao gồm cả Ai Lao và Quảng Châu Loan. Quyền lực Toàn quyền là người đại diện cho chính phủ Pháp tại Đông Pháp, gồm các thuộc địa kể trên, và hành xử như một nguyên thủ, với các quyền hành và trách nhiệm như sau: Có quyền ban hành các sắc lệnh và đạo luật để cai trị, công bố thiết quân luật, giờ giới nghiêm, Có quyền ân xá các tội phạm bản xứ, Có quyền thiết lập ngân sách và phê chuẩn chi thu toàn cõi Đông Pháp, Có quyền sử dụng các lực lượng quân sự, Chịu trách nhiệm an ninh nội bộ và quốc phòng của khối Đông Pháp, Có quyền giải tán các hội đồng mọi cấp. Chức vụ này có nhiệm kỳ năm (5) năm. Dưới quyền điều khiển của Toàn quyền, ngoài Thống đốc, Khâm sứ và Thống sứ, còn có các cơ quan hành chính như sau: Hội đồng Tư vấn (Conseil privé), Hội đồng Đề hình (Commissions criminelles), Bắc kỳ và Trung kỳ Nhân dân Đại biểu viện (Chambre des représentants du peuple) và một Đại hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương (Grand Conseil des Intérêts économiques et financiers de l'Indochine), Các tổng nha chuyên môn Đông Dương (Services généraux de l'Indochine): Nha Học chính, Nha Tài chính, Nha Kinh tế vụ, Nha Canh nông, Nha Công chính, Nha Bưu chính, Nha Thương chính, Quân đội, Sở Hiến binh (Gendarmerie) Sở Mật thám Đông Dương (Direction des Affairs politiques et de la Sureté générale). Chính sách cai trị của các Toàn quyền Trên lý thuyết, các chính sách kinh tế, xã hội và quân sự người Pháp áp dụng tại Việt Nam phải dựa trên một chính sách chung dành cho tất cả các thuộc địa và đất bảo hộ, được hoạch định từ bộ Thuộc địa Pháp. Tuy nhiên trên thực tế các viên chức đại diện cho Pháp tại thuộc địa có toàn quyền hành xử, do đó chính sách cai trị thay đổi tùy thuộc vào khuynh hướng chính trị và tính tình của từng cá nhân.<ref>VNTPĐH, tr. 127</ref> Lúc bấy giờ trong các lý thuyết gia thuộc chính giới Pháp có hai khuynh hướng khác biệt về chính sách thuộc địa, một khuynh hướng chủ trương đồng hóa (assimilation), một chủ trương liên hiệp (association). Danh sách các Toàn quyền, Cao ủy và Tổng ủy Đông Dương Toàn quyền Đông Dương đầu tiên là Ernest Constans (1887–1888) và người cuối cùng là Jean Decoux (1940–1945)Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược (VNSL), Trung tâm Học Liệu, Bộ Giáo dục, Sàigòn, 1971, tr. 331; Chép là Constant chứ không phải Constants.. Bốn toàn quyền quan trọng là Paul Doumer, Paul Beau, Antony Klobukowski và Albert Sarraut. Một vài Toàn quyền tiêu biểu Bert, de Lanessan và Rousseau Trong số các viên chức dưới chế độ Toàn quyền đầu tiên có Thống sứ Paul Bert (19 tháng 10 năm 1833 tại Auxerre - 11 tháng 11 năm 1886 tại Hà Nội) và Toàn quyền Jean Marie Antoine de Lanessan (1891–1894) cai trị theo đường lối liên hiệp. Hai ông sử dụng các bậc trí thức, nho sĩ, thành lập Hội đồng Hào mục gồm 40 người để cố vấn, đối xử ngọt ngào để mua chuộc cảm tình của người Việt, trao quyền hành cho các quan lại người Việt và không xâm phạm các lễ nghi tôn giáo và phong tục của người Việt. Các ông này sau đó bị gọi về Pháp vì đại đa số các viên chức bộ Thuộc địa và giáo hội Pháp không đồng ý với chính sách cai trị ôn hòa đó. Từ năm 1895 đến năm 1897 Paul Armand Rosseau giữ chức Toàn quyền và tập trung quyền lực nhằm đàn áp các phong trào kháng Pháp. Paul Doumer Năm 1897, chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam bước sang một bước ngoặt khi Paul Doumer (22 tháng 3 năm 1857 – 7 tháng 5 năm 1932) giữ chức Toàn quyền. Paul Doumer là một chính khách ngoại hạng, sau trở thành Tổng thống Pháp, nhưng là một nhà cai trị độc tài mang lại nhiều thay đổi sâu sắc từ lúc ông ta nhậm chức. Ông thiết lập bộ máy nhà nước bảo hộ và xây dựng cơ sở hạ tầng kiên cố tại Việt Nam. Dưới thời Doumer, hệ thống hạ tầng cơ sở tại Đông Dương được kiến thiết rất nhiều, nhưng người dân Việt phải chịu sưu thuế rất nặng để phục dịch và chu cấp cho việc này. Paul Doumer cho xây cây cầu có cùng tên với ông, một trong những cây cầu lớn nhất thế giới lúc bấy giờ, hiện là cầu Long Biên. Ông chủ trương biến chế độ bảo hộ thành chế độ thực trị, xóa bỏ chủ quyền và thống nhất của Việt Nam, mang đến phân hóa rõ rệt giữa ba miền. Ông tập trung quyền hành vào chức vụ Toàn quyền, ép triều đình nhà Nguyễn đóng cửa Nha Kinh lược sứ Bắc kỳ, giao chức Kinh lược sứ, một chức quan trong triều đình Huế, cho Thống sứ Bắc kỳ lúc bấy giờ là Augustin Fourès. Ông cũng tổ chức khai thác tài nguyên của các nước trong Liên hiệp Đông Pháp, biến Đông Dương thành một thị trường cho kỹ nghệ và thương mãi của Pháp, và cùng lúc thành lập nơi đây một tiền đồn kinh tế và quân sự vững chắc của thực dân Pháp tại toàn cõi Viễn Đông. Sau khi trở về Pháp, ông tiếp tục tham gia chính trường Pháp, đắc cử Tổng thống Cộng hòa Pháp ngày 13 tháng 5 năm 1931. Ngày 6 tháng 5 năm 1932, ông bị bắn chết bởi một người Nga tị nạn chính trị tại Pháp tên là Paul Gorguloff. Tương truyền khi ông chết, người Pháp định mang thi hài ông táng trong điện Panthéon, nhưng vợ ông không đồng ý, nói rằng: "cả đời ông ấy đã hy sinh cho nước Pháp, còn bây giờ ông ấy là của tôi", rồi bà chôn ông trong khu vườn mộ gia đình, bên cạnh mộ của bốn người con trai, cả bốn đều hy sinh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Jean Beau Năm 1902, Doumer bị gọi về Pháp và Jean Beau thay thế. Jean Beau có tinh thần cấp tiến và mềm mỏng, chủ trương khai hóa dân trí, thành lập các trường học, y tế cục, bệnh viện, tổ chức giúp đỡ dân nghèo. Khi nhận thấy Phong trào Đông Du đưa đến việc nhiều thanh niên Việt Nam trốn sang Nhật học tập, ông cố gắng kềm chế tình trạng xuất dương bằng cách thành lập một trường đại học. Đồng thời ông cũng thành lập Hội đồng Tư vấn Bắc kỳ và các hội đồng tỉnh hạt, cho người Việt được bầu vào các hội đồng. Cùng chung số phận với các Toàn quyền cấp tiến Bert và de Lanessan, Beau bị gọi về về Pháp năm 1907. Antony Klobukowski kế nhiệm (1908–1911) đã bãi bỏ trường đại học và tất cả các hội đồng trên. Klobukowski Ngày 26 tháng 8 năm 1908, Antony Klobukowski được bổ làm Toàn quyền Đông Dương. Klobukowski, con rể của Paul Bert, xuất thân là nhà ngoại giao, đã từng làm việc với Thống đốc Thomson ở Sài Gòn, Tổng Trú sứ Bert, Toàn quyền Constans ở Hà Nội và giữ chức ngoại giao ở Nhật và Xiêm La. Tại Bắc Kỳ, Klobukowski thành lập một Hội đồng Tư vấn, một mô thức mới của Hội đồng Kỳ lão của Bert năm 1886. Ngày 30 tháng 1 năm 1909, nhân dịp Klobukowski có mặt ở Huế, Phủ Phụ chính ra Dụ trừng phạt cha mẹ có con xuất ngoại bất hợp pháp. Klobukowski cũng sửa đổi chính sách "chinh phục tinh thần" của Beau; bỏ Tổng nha Giáo dục Công lập (nghị định ngày 16/3/1909), đóng cửa Viện Đại học Đông Dương và giải thể Hội đồng Phát triển Giáo dục Bản xứ. Ngày 14 tháng 4 năm 1909 Klobukowski thành lập thêm một phân khoa sư phạm để đào tạo huấn đạo (giáo quan cấp huyện, từ chánh bát phẩm tới chánh thất phẩm) và giáo thụ (giáo quan cấp phủ, từ tòng lục phẩm tới tòng ngũ phẩm). Cho tới năm 1910, phân khoa này đặt dưới quyền phòng 2 của Phủ Thống sứ. Klobukowski còn mở trường Luật (École de Droit) với hai trụ sở Hà Nội và Sài Gòn. Học trình là 2 năm. Trường khai giảng tại Hà Nội ngày 15 tháng 4 năm 1910. Trong niên khoá 1911-1912, Sài Gòn có 18 sinh viên và Hà Nội 32 người. Đầu năm 1909, Klobukowski cũng chấm dứt chương trình gửi công chức bản xứ qua Pháp tu nghiệp – chương trình mà Beau tin tưởng là phương tiện hữu hiệu nhất và duy nhất để chống lại ảnh hưởng của Nhật Bản. Phân khoa bản xứ của trường Thuộc Địa ở Paris vẫn được duy trì, chỉ thay đổi cách tuyển chọn khoá sinh. Sau khi xác định Đề Thám dính líu vào âm mưu nổi dậy ở Hà Nội mùa Hè 1908, Klobukowski cho lệnh tấn công Yên Thế. Ngày 27 tháng 1 năm 1909, đồn điền Phồn Xương bị phá tan. Tháng 7 năm 1909, Đề Thám bắt cóc một con tin Pháp, định dùng để nghị hòa, nhưng Klobukowski không nhượng bộ. Ngày 9 tháng 12 năm 1908, Klobukowski ký nghị định cho mua bằng tiền tất cả 10 ngày sưu dịch với giá 0,15 đồng một ngày, hay 1,5 đồng mỗi năm. Tiền này bỏ vào quỹ hàng tỉnh. Sau khi ngân sách hàng tỉnh bị bãi bỏ năm 1911, tổng số tiền mua sưu dịch ở Bắc Kỳ năm 1912 là 765.000 đồng. Tại An Nam (Trung Kỳ), ngày 31 tháng 12 năm 1908, Klobukowski phê chuẩn dụ ngày 4 tháng 12 năm 1908 của Viện Cơ Mật, chia đều sưu dịch làm 5 ngày sưu tỉnh và 5 ngày sưu xã. Trong số 5 ngày sưu tỉnh, 2 ngày phải mua lại bằng tiền với giá 2 hào (20 xu) mỗi ngày. Ba ngày còn lại có thể mua, hay tự lao động. Ngoài ra, số ngày sưu tỉnh bị hạn chế trong phạm vi tổng hay huyện, ngoài phạm vi này phải có phép Viện Cơ Mật. Năm 1913, ngân sách Trung Kỳ dự trù thu được 364.500 đồng trên khoản mua sưu dịch. Đầu năm 1910, Klobukowski phải về nước tham khảo, và trở lại Đông Dương vào tháng 6 cùng năm. Nửa năm sau, Klobukowski lại về nước. Từ Paris, Klobukowski cho lệnh Toàn quyền Paul Louis Luce cấp học bổng cho Phó bảng Phan Châu Trinh qua Pháp cùng con trai là Phan Châu Dật, lúc ấy mới 8 tuổi. Ngày 1 tháng 4 năm 1911, Phan Châu Trinh cùng con trai rời Sài Gòn. Vì phí tổn do ngân quỹ liên bang đài thọ, hai người được đặt dưới sự quản trị của Julien Fourès, Giám đốc Đoàn Giáo dục Đông Dương tại Pháp. Albert Sarraut Năm 1911, Albert Sarraut, một chính khách trẻ và lỗi lạc, sau làm đến bộ trưởng Bộ Thuộc địa và đắc cử Thủ tướng Pháp trong hai nhiệm kỳ, sang kế nhiệm chức Toàn quyền. Sarraut thuộc đảng Cấp Tiến Pháp, là một đảng khuynh tả. Sarraut chủ trương làm đúng tinh thần liên hiệp, cho tổ chức lại trường đại học, cho mở mang thêm các trường học các cấp, nới rộng các hội đồng quản trị cho người Việt tham gia. Tuy các nỗ lực của ông bị người Pháp tại Việt Nam cực lực phản đối, chính sách cai trị mềm mỏng giúp ông tại chức khá lâu và tạo nên không khí dễ thở phần nào cho dân bị trị. Maurice Long Từ tháng 2 năm 1920 đến tháng 4 năm 1922 Maurice Long làm toàn quyền Đông Dương. Ông cũng có chính sách mềm mỏng tương tự Albert Sarraut nhưng bị phản đối và triệu hồi. Alexandre Varenne Năm 1925, Alexandre Varenne sang nhậm chức, và là một Toàn quyền có ý thức nhân đạo. Một trong các hành động nhân đạo tiêu biểu đó là ông cho chích ngừa dịch tả, cải cách các trường học, ân xá cho Phan Bội Châu vừa bị tuyên án tử hình, lập các viện Dân biểu Bắc kỳ và Trung kỳ, mở rộng ngạch tương đương (cadres latérants) trong các công sở cho người Việt có bằng cấp tương đương có quyền nắm giữ các chức vụ tương đương với người Pháp, và thành lập Bình dân Nông phố Ngân quỹ để cho giúp nông dân. Chính sách của ông bị một số người Pháp phản đối dữ dội, và Varenne bị gọi về Pháp năm 1928. Chú thích Bell, Hesketh. Foreign Colonial Administration in the Far East''. London: Edward Arnold & Co., 1928. Xem thêm Danh sách các Toàn quyền Đông Dương Danh sách Thống đốc Nam Kỳ Liên kết ngoài Alexandre Varenne tại Đông Dương Chính trị Việt Nam thời Pháp thuộc
24258
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20h%C3%A0n
Đại hàn
Đại hàn (tiếng Trung: 大寒; bính âm: Dàhán) là tiết khí thường bắt đầu vào khoảng ngày 20 hay 21 tháng 1 (dương lịch), khi Mặt Trời ở xích kinh 300° (kinh độ Mặt Trời bằng 300°). Trong khoảng thời gian diễn ra tiết khí này thông thường thời tiết rất lạnh ở Bắc bán cầu Trái Đất; chính xác hơn là ở Trung Hoa cổ đại. Tuy nhiên nếu trước đó, khi tiết tiểu hàn diễn ra mà thời tiết đã rất lạnh thì thời tiết trong tiết đại hàn lại thường không lạnh lắm. Ở miền bắc Việt Nam, từ đèo Hải Vân trở ra thì ảnh hưởng của gió mùa đông bắc khô và lạnh còn lớn nên trong nông nghiệp người ta rất chú ý tới các tiết khí này nhằm có các biện pháp bảo vệ cây trồng thích hợp, tránh cho chúng không bị chết do rét đậm, rét hại. Ở Nam bán cầu Trái Đất, thời tiết lúc này đang vào cuối mùa hè. Theo quy ước, tiết đại hàn là một khoảng thời gian kéo dài từ ngày 20 hay 21 tháng 1 tới ngày 4 hay 5 tháng 2, tuy nhiên trên các loại lịch được xuất bản chính thức thì người ta chỉ ghi thời điểm bắt đầu của nó trong ngày 20 hay 21 tháng 1. Tiết khí đứng ngay trước Đại hàn là Tiểu hàn và tiết khí kế tiếp sau là Lập xuân. Tham khảo Tiết khí Giờ mùa đông Mùa đông
24260
https://vi.wikipedia.org/wiki/Du%20l%E1%BB%8Bch
Du lịch
Du lịch là việc đi lại nhằm mục đích vui thú hoặc kinh doanh; cũng là lý thuyết và thực hành về tổ chức các chương trình đi du lịch, ngành kinh doanh nhằm thu hút, cung cấp và giải trí cho khách du lịch, và việc kinh doanh của các tổ chức điều hành các tour du lịch. Tổ chức Du lịch Thế giới định nghĩa du lịch nói chung, theo nghĩa "vượt ra ngoài nhận thức chung về du lịch là chỉ giới hạn trong hoạt động nghỉ lễ", vì mọi người "đi du lịch và ở trong những nơi ngoài môi trường thông thường của họ không quá một năm liên tiếp để giải trí và không ít hơn 24 giờ, với mục đích kinh doanh và các mục đích khác". Du lịch có thể là du lịch nội địa (trong quốc gia của khách du lịch) hoặc du lịch quốc tế có cả ý nghĩa đến và đi, có ý nghĩa quan trọng đối với cán cân thanh toán của một quốc gia (tác động của du lịch). Số lượng du lịch giảm do suy thoái kinh tế mạnh mẽ (suy thoái kinh tế cuối thập niên 2000) giữa nửa cuối năm 2008 và cuối năm 2009, và do hậu quả của sự bùng phát của virut cúm H1N1 2009, nhưng từ từ hồi phục. Trên toàn cầu, các khoản thu du lịch quốc tế (mục du lịch trong cán cân thanh toán) đã tăng lên nghìn tỷ đô la Mỹ ( tỷ euro) vào năm 2005, tương ứng với mức tăng 3,8% thực tế từ năm 2010 Lượng khách du lịch quốc tế đã vượt qua cột mốc của 1 tỷ khách du lịch trên toàn cầu lần đầu tiên vào năm 2012, Các nền kinh tế đang nổi lên như Trung Quốc, Nga và Brazil đã tăng đáng kể chi tiêu của họ trong thập kỷ trước. ITB Berlin là hội chợ thương mại du lịch hàng đầu thế giới. Việc du lịch toàn cầu gây ra khoảng 8% lượng khí thải nhà kính toàn cầu. Tên gọi Từ tiếng Anh tourist được sử dụng vào năm 1772 và tourism vào năm 1811. Những từ này bắt nguồn từ từ tour, xuất phát từ tiếng Anh cổ , từ tiếng Pháp cổ , từ Tiếng Latinh - "xoay trên máy tiện", xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ () - "máy tiện". Định nghĩa Vào năm 1936, Hội Quốc Liên xác định "khách du lịch nước ngoài" là "người đi du lịch nước ngoài ít nhất 24 giờ". Kế nhiệm của nó, Liên Hợp Quốc, đã sửa đổi định nghĩa này vào năm 1945, bao gồm một khoảng thời gian tối đa là sáu tháng. Vào năm 1941, Hunziker và Kraft định nghĩa du lịch là "tổng số hiện tượng và quan hệ phát sinh từ việc đi lại và lưu trú của người không phải là cư dân, miễn là không dẫn đến thường trú vĩnh viễn và không liên quan đến bất kỳ hoạt động kiếm thu nào." Năm 1976, định nghĩa của Hội Du lịch của Anh là: "Du lịch là sự di chuyển tạm thời, ngắn hạn của con người đến địa điểm ngoài nơi họ thường sống và làm việc, và các hoạt động của họ trong suốt thời gian lưu trú tại mỗi điểm đến. Nó bao gồm việc di chuyển cho mọi mục đích." Vào năm 1981, Hiệp hội Quốc tế các chuyên gia Khoa học Du lịch định nghĩa du lịch dựa trên các hoạt động cụ thể được chọn và thực hiện bên ngoài nhà. Vào năm 1994, Liên Hợp Quốc xác định ba hình thức du lịch trong "Các Khuyến nghị về Thống kê Du lịch" của nó: Du lịch nội địa, bao gồm cư dân của một quốc gia du lịch chỉ du lịch trong nước này. Du lịch đến, bao gồm người không phải là cư dân du lịch trong nước đó. Du lịch đi, bao gồm cư dân du lịch tại một quốc gia khác. Các nhóm khác được tạo ra từ việc phân nhóm trên: Du lịch quốc gia, sự kết hợp của du lịch nội địa và du lịch đi Du lịch khu vực, sự kết hợp của du lịch nội địa và du lịch đến Du lịch quốc tế, sự kết hợp của du lịch đến và du lịch đi Các thuật ngữ "du lịch" và "đi lại" đôi khi được sử dụng thay thế cho nhau. Trong ngữ cảnh này, đi lại có cùng định nghĩa với du lịch nhưng ngụ ý một hành trình mang tính chủ đích hơn. Các thuật ngữ "du lịch" và "khách du lịch" đôi khi được sử dụng một cách khinh thường, ngụ ý sự quan tâm hời hợt đến văn hóa hoặc địa điểm được thăm. Trái lại, từ "người đi du lịch" thường được sử dụng như một dấu hiệu của sự phân biệt. Xã hội học du lịch đã nghiên cứu các giá trị văn hóa cốt lõi đằng sau những sự phân biệt này và tác động của chúng đối với mối quan hệ giai cấp. Sản phẩm du lịch Theo Tổ chức Du lịch Thế giới thì sản phẩm du lịch là: Sản phẩm du lịch bao gồm một loạt dịch vụ đa dạng bao gồm: Dịch vụ chỗ ở từ những nơi trọ giá rẻ đến khách sạn năm sao Dịch vụ tiếp đãi bao gồm các trung tâm phục vụ thức ăn và đồ uống Dịch vụ chăm sóc sức khỏe như mát-xa Tất cả các hình thức vận chuyển, đặt vé và thuê Các công ty du lịch, các chuyến tham quan có hướng dẫn và các hướng dẫn viên du lịch Dịch vụ văn hóa như công trình tôn giáo, bảo tàng và di tích lịch sử Mua sắm Du lịch quốc tế Du lịch quốc tế là du lịch vượt qua biên giới quốc gia. Quá trình Toàn cầu hóa đã biến du lịch trở thành một hoạt động giải trí toàn cầu phổ biến. Tổ chức Du lịch Thế giới xác định du khách là những người "đi du lịch và lưu trú ở những nơi nằm ngoài môi trường thông thường của họ trong không quá một năm liên tục cho mục đích du lịch, kinh doanh và các mục đích khác". Tổ chức Y tế Thế giới ước tính rằng có đến 500.000 người đang bay trong cùng một thời điểm. Năm 2010, du lịch quốc tế đạt mức 919 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009, tương ứng với mức tăng về giá trị thực 4,7%. Năm 2010, có hơn 940 triệu lượt khách du lịch quốc tế trên toàn thế giới. Đến năm 2016, con số này đã tăng lên 1.235 triệu lượt, tạo ra 1.220 tỷ USD chi tiêu tại điểm đến. Đại dịch COVID-19 đã gây tác động tiêu cực đáng kể đến du lịch quốc tế, đặc biệt là làm chậm sự tăng trưởng tổng thể. Du lịch quốc tế có tác động đáng kể đến môi trường, gia tăng một phần do các vấn đề gây ra bởi việc đi lại bằng máy bay nhưng cũng do các vấn đề khác, bao gồm khách du lịch giàu có mang đến lối sống gây áp lực cho cơ sở hạ tầng, hệ thống nước và rác thải địa phương, và nhiều vấn đề khác. Các sự kiện trong lịch sử ngành du lịch Thế kỉ 8 TCN – Các cuộc hành hương của người Hy Lạp về đỉnh Olympus Thế kỉ thứ 7 và thế kỉ thứ 8 – Sự phát triển của du lịch tôn giáo Thế kỉ 13 – Thời kì của các cuộc du hành tới các trường ĐH của Ý Năm 1271 – Cuộc viễn du của Marco Polo đến Đế quốc Mông Cổ theo Con đường tơ lụa Năm 1336 – Cuộc thám hiểm của Francesco Petrarka vào rặng núi Alps Provence Năm 1492 – Cuộc thám hiểm của Columbus với việc phát hiện ra châu Mỹ Năm 1550 – Cuốn sách đầu tiên hướng dẫn du lịch tại Ý: "Giới thiệu về Ý" Thế kỉ 18 – Những cuộc du hành đầu tiên trong mùa đông Năm 1825 – Xây dựng tuyến đường sắt đầu tiên trên thế giới Năm 1841 – Khai trương công ty du hành đầu tiên mang tên "Thomas Cook", và chuyến du hành đầu tiên bằng tàu hỏa Năm 1882 – Mở những hội hiệp chủ khách sạn đầu tiên tại Thụy Sĩ Năm 1904 – Mở lộ trượt tuyết đầu tiên Năm 1924 – Thực hiện Olympic mùa đông lần đầu tiên; xây xa lộ đầu tiên tại Ý Năm 1934 – Thành lập Hội các tổ chức du lịch chính thể (UIOOPT) Các dạng du lịch Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, có các dạng du lịch: Du lịch làm ăn. Du lịch giải trí, năng động và đặc biệt. Du lịch nội quốc, quá biên. Du lịch tham quan trong thành phố. Du lịch mạo hiểm, khám phá, trải nghiệm. Du lịch hội thảo, triển lãm MICE. Du lịch giảm stress, Du lịch ba-lô, tự túc khám phá. Du lịch bụi. Du lịch biển đảo. Du lịch văn hóa. Du lịch sinh thái. Du lịch y tế. Du lịch người cao tuổi. Du lịch online. Các khu vực phát triển du lịch Hoa Kỳ Du lịch phát triển mạnh về nhiều mặt đặc biệt là tắm biển. Ví dụ: Bờ biển Florida, quần đảo Hawaii, bờ biển California. Du lịch trượt tuyết, leo núi và thác nước như Colorado, ven dãy núi Coocdie... Du lịch trên thuyền lớn cũng khá phát triển. Khách du lịch về đây từ khắp nơi trên thế giới khá đông. Du lịch châu Âu Châu Âu là nơi có nhiều kì quan thế giới và những cảnh đẹp như Tháp Eiffel ở Paris, Đồng hồ Big Ben ở London, Đấu trường Colosseum ở Roma, tháp nghiêng Pisa ở Italia, Kraków ở Ba Lan... tạo điều kiện cho du lịch tham quan cảnh vật trở nên phát triển. Dãy núi Anpo là góp phần cho du lịch trượt tuyết, leo núi, trượt tuyết của một số vùng phát triển với phong cảnh núi non hùng vĩ. Tầm quan trọng của ngành du lịch Ngành du lịch, là một phần của lĩnh vực dịch vụ, đã trở thành một nguồn thu quan trọng cho nhiều vùng và thậm chí là cho cả các quốc gia. "Tuyên ngôn Manila về Du lịch Thế giới năm 1980" đã công nhận tầm quan trọng của nó như "một hoạt động cần thiết đối với sự sống của các quốc gia vì tác động trực tiếp của nó đến các lĩnh vực xã hội, văn hóa, giáo dục và kinh tế của các xã hội quốc gia, cũng như đến quan hệ quốc tế của họ." Du lịch mang vào một nền kinh tế địa phương số lượng lớn thu nhập dưới dạng thanh toán cho các hàng hóa và dịch vụ cần thiết cho du khách, chiếm 30% tổng giá trị thương mại dịch vụ trên thế giới, và, như một xuất khẩu vô hình, chiếm 6% tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Nó cũng tạo ra cơ hội việc làm trong lĩnh vực dịch vụ liên quan đến du lịch. Cũng được cho rằng du lịch mở mang tầm mắt. Các ngành công nghiệp dịch vụ như giao thông vận tải (như hãng hàng không, tàu du lịch, các phương tiện công cộng, tàu hỏa và xe taxi); nơi lưu trú (bao gồm khách sạn, nhà trọ, chỗ nghỉ tại nhà, khu nghỉ dưỡng và việc cho thuê phòng); và địa điểm giải trí (như công viên giải trí, nhà hàng, sòng bạc, lễ hội, trung tâm mua sắm, nhạc viện và rạp hát, vietnam tours). Điều này cộng thêm các hàng hóa được mua bởi du khách, bao gồm đồ lưu niệm. Mặt khác, du lịch có thể làm suy yếu những người mà địa phương đón tiếp và gây mất mát quan hệ giữa chủ nhà và khách. Du lịch thường cũng gây áp lực bổ sung lên môi trường địa phương. Căn cơ kinh tế của du lịch về cơ bản là tài sản văn hóa, tài sản văn hóa và thiên nhiên của địa điểm du lịch. Di sản Thế giới đáng kể đáng được nhắc đến hiện nay vì chúng là điểm thu hút du lịch thực sự. Nhưng ngay cả hình thức chính trị hiện tại hoặc trước đây của một quốc gia cũng có thể quyết định cho du lịch. Ví dụ, sự hấp dẫn của gia đình hoàng gia Anh thu hút hàng triệu du khách đến Vương quốc Anh hàng năm và do đó góp phần cho nền kinh tế khoảng 550 triệu bảng Anh mỗi năm. Gia đình Habsburg cũng có thể được nhắc đến ở Trung Âu. Theo ước tính, thương hiệu Habsburg nên tạo ra doanh thu du lịch 60 triệu euro mỗi năm cho Viên một mình. Nguyên tắc du lịch "Habsburg bán hàng" được áp dụng. Du lịch, di sản văn hóa và UNESCO Di sản văn hóa và tự nhiên trong nhiều trường hợp là cơ sở tuyệt đối cho du lịch toàn cầu. Du lịch văn hóa là một trong những xu hướng lớn được thể hiện qua số lượng lưu trú và doanh số khổng lồ. Như UNESCO ngày càng nhận thấy, di sản văn hóa cần thiết cho du lịch, nhưng cũng bị đe dọa bởi nó. "Hiến chương Du lịch Văn hóa Quốc tế của ICOMOS" từ năm 1999 đã đề cập đến tất cả những vấn đề này. Kết quả của mối nguy hiểm du lịch, ví dụ, hang động Lascaux đã được xây dựng lại cho du khách. Overtourism là một từ khóa quan trọng trong lĩnh vực này. Hơn nữa, mục tiêu của UNESCO trong các khu vực chiến tranh là đảm bảo bảo vệ di sản văn hóa để duy trì nền kinh tế quan trọng trong tương lai cho dân địa phương. Và có sự hợp tác mạnh mẽ giữa UNESCO, Liên Hợp Quốc, Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc và Blue Shield International. Có nhiều suy nghĩ, nghiên cứu và chương trình quốc tế và quốc gia để bảo vệ tài sản văn hóa khỏi ảnh hưởng của du lịch và những ảnh hưởng từ chiến tranh. Đặc biệt, còn liên quan đến việc đào tạo cho nhân viên dân sự và quân sự. Nhưng sự tham gia của người dân địa phương là vô cùng quan trọng. Chủ tịch sáng lập của Blue Shield International Karl von Habsburg tóm tắt bằng lời nói: "Không có cộng đồng địa phương và không có người tham gia địa phương, điều đó sẽ hoàn toàn không thể". Các phát triển gần đây Trải qua vài thập kỷ gần đây, ngành du lịch đã có xu hướng tăng trưởng đáng kể, đặc biệt là tại châu Âu, nơi du khách thường đi du lịch quốc tế trong các chuyến nghỉ ngắn. Du khách có đa dạng về ngân sách và sở thích, và do đó đã xuất hiện nhiều loại khu nghỉ dưỡng và khách sạn để đáp ứng nhu cầu của họ. Ví dụ, một số người thích du lịch biển đơn giản, trong khi người khác muốn có những kỳ nghỉ đặc biệt hơn, tại các khu nghỉ yên tĩnh, kỳ nghỉ dành cho gia đình hoặc khách sạn điểm đến theo thị trường đặc thù. Các phát triển trong cơ sở hạ tầng vận chuyển hàng không, như máy bay jumbo, hãng hàng không giá rẻ và sự tiếp cận dễ dàng đến các sân bay, đã làm cho nhiều loại hình du lịch trở nên phổ biến hơn. Một yếu tố quan trọng trong việc giảm giá vé máy bay là miễn thuế nhiên liệu hàng không. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính vào năm 2009 có khoảng nửa triệu người trên máy bay tại bất kỳ thời điểm nào. Cuộc sống cũng đã có những thay đổi, ví dụ như một số người nghỉ hưu du lịch quanh năm. Sự phát triển của việc bán dịch vụ du lịch trực tuyến đã hỗ trợ điều này. Một số trang web đã bắt đầu cung cấp gói du lịch tự tạo (dynamic packaging), trong đó giá cả được công bố cho một gói dịch vụ tùy chỉnh theo yêu cầu của khách hàng. Cũng có một số thất bại trong ngành du lịch, như các vụ tấn công ngày 11 tháng 9 và các mối đe dọa khủng bố đối với các điểm đến du lịch, như Bali và một số thành phố châu Âu. Ngoài ra, vào ngày 26 tháng 12 năm 2004, một trận sóng thần do động đất Ấn Độ Dương năm 2004 gây ra đã ập vào các quốc gia châu Á ven biển Ấn Độ Dương, bao gồm cả Maldives. Hàng ngàn người đã thiệt mạng, trong đó có nhiều du khách. Trong thời gian đó, việc dọn dẹp sau thảm họa đã làm tạm ngừng hoặc làm giảm mạnh hoạt động du lịch trong khu vực này. Việc lưu trú qua đêm với giá rẻ hoặc thậm chí miễn phí đã trở nên phổ biến hơn trong những năm 2000, đặc biệt là với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường nhà nghỉ và các dịch vụ như CouchSurfing và Airbnb. Ngoài ra, cũng đã có các ví dụ về các địa phương chi tiêu một phần lớn GDP để chuyển đổi nguồn thu chính từ du lịch, như đã xảy ra tại Dubai. Xem thêm Du lịch Việt Nam Sản phẩm du lịch Công nghiệp văn hoá Tham khảo Du lịch Giải trí Công nghiệp dịch vụ Văn hóa Nhàn rỗi
24261
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%B3%20m%E1%BA%ADu%20d%E1%BB%8Bch
Gió mậu dịch
Gió mậu dịch hay gió tín phong (tiếng Anh: trade wind hay passat, bắt nguồn từ passar trong tiếng Bồ Đào Nha) là gió thổi thường xuyên trong những miền Cận Xích đạo. Gió mậu dịch thổi từ những miền áp cao ở các vĩ độ ngựa về vùng áp thấp xung quanh xích đạo. Gió bắt đầu từ Đại áp cao cận nhiệt đới ở cả 2 bán cầu. Trên Bắc bán cầu thì đây là những luồn gió thổi chủ yếu theo hướng (chiều) Đông Bắc đến Tây Nam, còn trên Nam bán cầu là hướng (chiều) Đông Nam đến Tây Bắc (do ảnh hưởng của lực Coriolis).(Co-rio-lis) Trong những miền cận xích đạo, gió mậu dịch đến từ hai bán cầu gặp nhau tạo thành những dòng đối lưu bốc lên cao (vì vậy mà ở sát mặt đất thì yên lặng, hoặc gió thổi yếu). Nó tạo thành cái gọi là đới hội tụ liên chí tuyến (ITCZ). Gió mậu dịch thường xuất hiện vào mùa hè, thổi về hướng Đông ở tầng có độ cao trên 2 cây số phía trên xích đạo. Còn ở tầng cao hơn nữa thì lại có những luồng gió "mậu dịch ngược" thổi về hướng Tây. Đây là hệ quả của sự tuân thủ theo định luật bảo toàn động lượng trong chuyển động quay. Gió mậu dịch còn được gọi là gió tín phong (tín nghĩa là tin tưởng) là vì vào thời xưa người châu Âu và Trung Quốc đã dùng các đợt gió mậu dịch để giong buồm buôn bán trên con đường tơ lụa trên biển, với sự xuất hiện của những cơn gió này thì việc làm ăn, buôn bán, giao thương được thuận lợi. Xem thêm Gió mùa đông bắc Gió mùa đông nam Gió mùa chí tuyến Gió Tây ôn đới Gió Đông cực Hiệu ứng Coriolis Tham khảo Gió Khí tượng
24276
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0ng%20x%C3%B3m%20g%E1%BA%A7n%20nh%E1%BA%A5t%20%28nh%E1%BA%ADn%20d%E1%BA%A1ng%20m%E1%BA%ABu%29
Hàng xóm gần nhất (nhận dạng mẫu)
Giải thuật người hàng xóm gần nhất trong nhận dạng mẫu là một phương pháp để phân loại các hiện tượng dựa trên các đặc trưng quan sát được. Trong giải thuật, mỗi đặc trưng được gán cho một chiều để tạo thành một không gian đặc trưng đa chiều. Một tập huấn luyện các đối tượng với lớp (class) đã biết trước (đã phân loại sẵn) sẽ được xử lý bằng cách trích rút đặc trưng (lấy ra một số đặc trưng) và được biểu diễn (vẽ sơ đồ) vào trong không gian đặc trưng đa chiều đó. Khoảng cách đến gốc (offset) trong mỗi chiều được xem là vec-tơ đặc trưng. Đây là giai đoạn huấn luyện hay học. Vì động cơ có thể được huấn luyện lại để phân loại nhiều hiện tượng khác nhau, nhận dạng mẫu là một phần của ngành học máy. Giai đoạn kiểm tra bắt đầu với các hiện tượng (phenomena) cần phân loại (lớp của từng hiện tượng chưa được biết trước) và trích rút ra cùng tập các đặc trưng như với tập huấn luyện. Khoảng cách hình học được tính toán giữa vec-tơ đặc trưng mới với mỗi vec-tơ đặc trưng có sẵn từ tập huấn luyện. Khoảng cách ngắn nhất tính toán được, đến vec-tơ đặc trưng trong tập huấn luyện, chính là họ hàng gần nhất. Và lớp (loại) biết trướccủa họ hàng gần nhất đó sẽ cũng là lớp của hiện tượng mà ta đang cần phân loại. Hiển nhiên, giải thuật này sẽ đòi hỏi cường độ tính toán cao khi tập huấn luyên trở nên lớn. Nhiều sự tối ưu đã và đang được đưa ra, chúng chủ yếu tìm kiếm nhằm giảm số lượng khoảng cách được thực sự tính toán. Một số tối ưu bao gồm phân hoạch không gian đặc trưng, và chỉ tính các khoảng cách với các vec-tơ thuộc một vùng lân cận cụ thể nào đó. Một số biến thể khác của giải thuật bao gồm giải thuật k hàng xóm gần nhất với k vec-tơ đặc trưng gần nhất sẽ được tính toán, và việc phân loại sẽ dựa vào độ tin cậy cao nhất chỉ khi mọi mọi hàng xóm gần nhất đó nều cùng thuộc một loại (lớp). Người hàng xóm gần nhất cho ra một số kết quả ổn định vững chắc. Vì số lượng dữ liệu tiếp cận được xem là vô hạn, người hàng xóm gần nhất đảm bảo cho ra tỉ lệ lỗi không vượt quá hai lần tỉ lệ lỗi Bayes (là tỉ lệ lỗi đạt được tối thiểu khi biết sự phân bố dữ liệu). k-người hàng xóm gần nhất được đảm bảo là sẽ tiến tới tỉ lệ lỗi Bayes, với một giá trị nào đó của k. Xem thêm Trí tuệ nhân tạo Khai phá dữ liệu Học máy Nhận dạng mẫu Thống kê Support vector machine hang xom gan nhat Tham khảo Belur V. Dasarathy, editor (1991) Nearest Neighbor (NN) Norms: NN Pattern Classification Techniques, ISBN 0-8186-8930-0 Giải thuật phân loại en:Nearest neighbor (pattern recognition)
24278
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc%20m%C3%A1y
Học máy
Học máy hay máy học (tiếng Anh: machine learning) là một lĩnh vực của trí tuệ nhân tạo liên quan đến việc nghiên cứu và xây dựng các kĩ thuật cho phép các hệ thống "học" tự động từ dữ liệu để giải quyết những vấn đề cụ thể. Các thuật toán học máy xây dựng một mô hình dựa trên dữ liệu mẫu, được gọi là dữ liệu huấn luyện, để đưa ra dự đoán hoặc quyết định mà không cần được lập trình chi tiết về việc đưa ra dự đoán hoặc quyết định này. Ví dụ như các máy có thể "học" cách phân loại thư điện tử xem có phải thư rác (spam) hay không và tự động xếp thư vào thư mục tương ứng. Học máy rất gần với suy diễn thống kê (statistical inference) tuy có khác nhau về thuật ngữ. Một nhánh của học máy là học sâu phát triển rất mạnh mẽ gần đây và có những kết quả vượt trội so với các phương pháp học máy khác Học máy có liên quan lớn đến thống kê, vì cả hai lĩnh vực đều nghiên cứu việc phân tích dữ liệu, nhưng khác với thống kê, học máy tập trung vào sự phức tạp của các giải thuật trong việc thực thi tính toán. Nhiều bài toán suy luận được xếp vào loại bài toán NP-khó, vì thế một phần của học máy là nghiên cứu sự phát triển các giải thuật suy luận xấp xỉ mà có thể xử lý được. Học máy có hiện nay được áp dụng rộng rãi bao gồm máy truy tìm dữ liệu, chẩn đoán y khoa, phát hiện thẻ tín dụng giả, phân tích thị trường chứng khoán, phân loại các chuỗi DNA, nhận dạng tiếng nói và chữ viết, dịch tự động, chơi trò chơi và cử động rô-bốt (robot locomotion). Định nghĩa Dưới góc nhìn của trí tuệ nhân tạo, động lực chính học máy bởi là nhu cầu thu nhận tri thức (knowledge acquisition). Thật vậy, trong nhiều trường hợp ta cần kiến thức chuyên gia là khan hiếm (không đủ chuyên gia ngồi phân loại lừa đảo thẻ tín dụng của tất cả giao dịch hàng ngày) hoặc chậm vì một số nhiệm vụ cần đưa ra quyết định nhanh chóng dựa trên xử lý dữ liệu khổng lồ (trong mua bán chứng khoán phải quyết định trong vài khoảng khắc của giây chẳng hạn) và thiếu ổn định thì buộc phải cần đến máy tính. Ngoài ra, đại đa số dữ liệu sinh ra ngày nay chỉ phù hợp cho máy đọc (computer readable) tiềm tàng ngưồn kiến thức quan trọng. Máy học nghiên cứu cách thức để mô hình hóa bài toán cho phép máy tính tự động hiểu, xử lý và học từ dữ liệu để thực thi nhiệm vụ được giao cũng như cách đánh giá giúp tăng tính hiệu quả. Tom Mitchell, giáo sư nổi tiếng của Đại học Carnegie Mellon University - CMU định nghĩa cụ thể và chuẩn mực hơn như sau: "Một chương trình máy tính CT được xem là học cách thực thi một lớp nhiệm vụ NV thông qua trải nghiệm KN, đối với thang đo năng lực NL nếu như dùng NL ta đo thấy năng lực thực thi của chương trình có tiến bộ sau khi trải qua KN" (máy đã học). Biểu diễn Biểu diễn (tiếng Anh: representation) là một trong những vấn đề quan trọng của học máy. Biểu diễn ở đây có thể hiểu làm sao mã hóa (encode) những thông tin của thế giới thật giúp hoàn thành nhiệm vụ một cách hiệu quả và đầy đủ nhất có thể. Thông tin ở đây bao hàm cả thông tin về dữ liệu đầu vào, đầu ra hay các trạng thái của hệ thống; cũng như cách đánh giá hiệu quả của chương trình. Thông thường, trong học máy người ta hay xây dựng các mô hình sử dụng những biến ngẫu nhiên cho việc biểu diễn dữ liệu và nội trạng thái của hệ thống. Ví dụ: dùng biến ngẫu nhiên để biểu thị cho tính chất của email là spam (tương ứng giá trị 0) hay là bình thường (tương ứng 1). Mối tương quan giữa các biến ngẫu nhiên này có thể sử dụng ví dụ như mô hình xác suất dạng đồ thị để miêu tả. Mặt khác, để đo hiệu quả có thể dùng các hàm thiệt hại (hay hàm tiện ích, trong tiếng Anh là loss function và utility function tương ứng). Tính phổ quát Một trong những trọng tâm khác của học máy là đạt được tính phổ quát (tiếng Anh: generalization), nói cách khác là tính chất của chương trình có thể làm việc tốt với dữ liệu mà nó chưa gặp bao giờ (tiếng Anh: unseen data). Một chương trình chỉ hiệu quả với dữ liệu đã gặp nhìn chung không có nhiều tính hữu dụng. Lấy ví dụ về xếp thư điện tử tự động như trên, một hệ thống tự động sau khi trải qua quá trình học từ dữ liệu ("training") có thể suy diễn một số nguyên tắc riêng (chẳng hạn như xem xét nội dung: nếu thư được viết bằng tiếng Anh mà chứa một số từ như "porn", "sell", "good product" hoặc người gửi đến từ Somalia trong khi người nhận ở Hà Nội không thân quen nhau) để quyết định xem có phải là thư rác hay không. Tuy nhiên, nếu như trong dữ liệu bài giảng (training data) có ngôn ngữ khác trong thực tế (tiếng Việt thay vì tiếng Anh) hoặc thậm chí không phải dạng thuần văn bản (dạng ảnh khiến cho bóc tách nội dung khó hơn hoặc không thể) thì rất có thể máy sẽ dự báo không chính xác nữa. Một số chương trình có thể tự động cập nhật trong thời gian thực (ví dụ như người sử dụng có chỉ ra rằng thư bị sắp xếp sai danh mục). Tương tác với con người Một số hệ thống học máy nỗ lực loại bỏ nhu cầu trực giác của con người trong việc phân tích dữ liệu, trong khi các hệ thống khác hướng đến việc tăng sự cộng tác giữa người và máy. Không thể loại bỏ hoàn toàn tác động của con người vì các nhà thiết kế hệ thống phải chỉ định cách biểu diễn của dữ liệu và những cơ chế nào sẽ được dùng để tìm kiếm các đặc tính của dữ liệu. Học máy có thể được xem là một nỗ lực để tự động hóa một số phần của phương pháp khoa học. Một số nhà nghiên cứu học máy tạo ra các phương pháp bên trong các khuôn khổ của thống kê Bayes. Tương quan với Khai phá dữ liệu Khai phá dữ liệu và học máy là hai khái niệm hay bị nhầm lẫn. Hai lĩnh vực này nhìn chung gần với nhau và đôi khi dùng chung nhiều phương pháp, công cụ nhưng khác biệt chính là ở mục tiêu: Khai phá dữ liệu: thường mục tiêu là tìm kiếm những thông tin, tri thức hoàn toàn mới tiềm năng có ích trong nguồn dữ liệu. Học máy: dự đoán một số thông tin của dữ liệu dựa trên những đặc tính đã biết. Các loại giải thuật Các thuật toán học máy được phân loại theo kết quả mong muốn của thuật toán. Các loại thuật toán thường dùng bao gồm: Học có giám sát—trong đó, thuật toán tạo ra một hàm ánh xạ dữ liệu vào tới kết quả mong muốn. Một phát biểu chuẩn về một việc học có giám sát là bài toán phân loại: chương trình cần học (cách xấp xỉ biểu hiện của) một hàm ánh xạ một vector tới một vài lớp bằng cách xem xét một số mẫu dữ liệu - kết quả của hàm đó. Học không giám sát—mô hình hóa một tập dữ liệu, không có sẵn các ví dụ đã được gắn nhãn. Học nửa giám sát—kết hợp các ví dụ có gắn nhãn và không gắn nhãn để sinh một hàm hoặc một bộ phân loại thích hợp. Học tăng cường—trong đó, thuật toán học một chính sách hành động tùy theo các quan sát về thế giới. Mỗi hành động đều có tác động tới môi trường, và môi trường cung cấp thông tin phản hồi để hướng dẫn cho thuật toán của quá trình học. Chuyển đổi—tương tự học có giám sát nhưng không xây dựng hàm một cách rõ ràng. Thay vì thế, cố gắng đoán kết quả mới dựa vào các dữ liệu huấn luyện, kết quả huấn luyện, và dữ liệu thử nghiệm có sẵn trong quá trình huấn luyện. Học cách học—trong đó thuật toán học thiên kiến quy nạp của chính mình, dựa theo các kinh nghiệm đã gặp. Phân tích hiệu quả các thuật toán học máy là một nhánh của ngành thống kê, được biết với tên lý thuyết học điện toán. Các chủ đề về máy học Danh sách các chủ đề của môn học này: Mô hình hóa các hàm mật độ xác suất điều kiện: hồi quy và phân loại Mạng nơ-ron Máy học cực độ (Extreme learning machine) Cây quyết định Lập trình biểu thức gen Lập trình di truyền Hồi quy quá trình Gauss Phân tích biệt thức tuyến tính k láng giềng gần nhất Độ dài thông điệp tối thiểu Cảm tri nguyên Hàm cơ sở xuyên tâm Máy vector hỗ trợ (Support Vector Machine) Mô hình hóa các hàm mật độ xác suất qua các mô hình phát sinh: Thuật toán cực đại kì vọng Các mô hình đồ họa gồm mạng Bayes và mạng Markov Ánh xạ topo phát sinh Các kỹ thuật suy luận xấp xỉ đúng: Chuỗi Markov phương pháp Monte Carlo Phương pháp biến thiên Tối ưu hóa: hầu hết các phương pháp trên đều sử dụng tối ưu hóa hoặc là các thể hiện của các thuật toán tối ưu hóa. Xem thêm Trí tuệ nhân tạo Trí tuệ điện toán Khai phá dữ liệu Nhận dạng mẫu Các ẩn bản quan trọng trong học máy (khoa học máy tính) Các ấn bản quan trọng trong học máy (thống kê) Rô-bốt tự hành Lập trình suy diễn lôgic Tham khảo Bishop C. M. (1995). Neural Networks for Pattern Recognition, Nhà in Đại học Oxford. ISBN 0-19-853864-2 Richard O. Duda, Peter E. Hart, David G. Stork (2001) Pattern classification (ấn bản lần 2), Wiley, New York, ISBN 0-471-05669-3. MacKay D. J. C. (2003). Information Theory, Inference, and Learning Algorithms, Nhà in Đại học Cambridge. ISBN 0-521-64298-1 Sholom Weiss và Casimir Kulikowski (1991). Computer Systems That Learn, Morgan Kaufmann. ISBN 1-55860-065-5 Liên kết ngoài Tài nguyên chung UCI description MLnet Mailing List Kmining List of machine learning, data mining and KDD scientific conferences Book "Intelligent Systems and their Societies " của Walter Fritz Links from Open Directory Project Eruditionhome - nơi chứa nhiều mục đề về Học máy MLpedia - Từ điển bách khoa wiki dành riêng cho chủ đề Học máy Tạp chí và Hội thảo Journal of Machine Learning Research Machine Learning Journal Machine Learning papers tại CiteSeer NIPS: Neural Information Processing Systems ICML: International Conference on Machine Learning Nhóm nghiên cứu Machine Learning tại Đại học Hebrew Machine Learning and Natural Language Processing tại Đại học Freiburg Machine Learning and Data Mining in Bioinformatics Group tại TU München Machine Learning and Biological Computation Group tại Đại học Bristol Machine Learning and Applied Statistics của Microsoft Research Department of Knowledge Technologies của Học viện Jozef Stefan Statistical Multimedia Learning Group tại Đại học British Columbia Machine Learning Systems Group tại Jet Propulsion Laboratory, Học viện Kỹ thuật California Department of Empirical Inference tại Viện Max Planck về điều khiển học sinh học, Tübingen Machine Learning Group tại Đại học Toronto Intelligent Data Analysis Group tại Fraunhofer FIRST, Berlin Machine Learning Group tại Đại học Tự do Bruxelles Phần mềm Chương trình mạng nơ ron đa lớp (Multi Layer Neural Network) và mạng nơ ron tự tổ chức (Self Organizing Maps) có giải thích bằng tiếng Việt. Sử dụng phần mềm mạng nơ ron 3 lớp Spice-MLP Sử dụng phần mềm mạng tự tổ chức Spice-SOM Hướng dẫn sử dụng mạng nơ ron trong các ứng dụng thực tế trong đó có minh họa phân loại ảnh khuôn mặt, ảnh người đi bộ, ảnh xe hơi, dự báo chứng khoán và một số ví dụ khác SPIDER - một hộp công cụ học máy hoàn chỉnh cho Matlab PRTools PRTools là một gói phần mềm hoàn chỉnh khác tương tự SPIDER và được cài trong Matlab. SPIDER có vẻ có nhiều hỗ trợ mức thấp, nhưng các công cụ của PRTools có phần đa dạng hơn. PRTools có sách và tài liệu tốt. Cả SPIDER và PRTools được cung cấp miễn phí trên mạng cho các ứng dụng phi thương mại. Orange, bộ chương trình học máy với các script viết bằng Python và giao diện lập trình đồ họa YALE là một công cụ mạnh miễn phí cho Học máy và Khai phá dữ liệu Weka Machine Learning Software Matlab MATLAB có hỗ trợ hộp công cụ cho nhiều công cụ học máy. Hiện giờ hộ công cụ Tin sinh học đã có Support Vector Machines và các bộ phân loại KNN (k láng giềng gần nhất). Hộp công cụ thống kê thực hiện biệt thức tuyến tính và phân loại bằng cây quyết định. Hộp công cụ mạng nơ-ron là một bộ công cụ hoàn chỉnh để cài đặt mạng nơron. Trong thời gian gần đây, các phương pháp mới để đánh giá hiệu quả của các bộ phân loại và để thẩm định chéo đã làm Matlab trở nên hấp dẫn hơn đối với học máy. MLC++ là thư viện lớp C++ dành cho học có giám sát MDR là một gói phần mềm nguồn mở dành cho việc phát hiện các tương tác thuộc tính bằng phương pháp rút gọn thứ nguyên đa thừa số (MDR). Trí tuệ nhân tạo Học tập Điều khiển học
24286
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20t%E1%BB%AB%20nguy%C3%AAn%20thu%E1%BA%ADt%20ng%E1%BB%AF%20m%C3%A1y%20t%C3%ADnh
Danh sách từ nguyên thuật ngữ máy tính
Đây là danh sách nguồn gốc các thuật ngữ liên quan đến máy tính (hay danh sách từ nguyên thuật ngữ máy tính). Nó có liên quan đến cả phần cứng và phần mềm máy tính. Tên của nhiều thuật ngữ máy tính, đặc biệt đối với các ứng dụng, thường có liên quan đến chức năng của nó. Thí dụ, chương trình dịch là ứng dụng biên dịch (từ mã nguồn ngôn ngữ lập trình sang ngôn ngữ máy). Có những thuật ngữ mà lịch sử của nó ít liên quan đến chức năng của nó, và đó là giá trị của từ nguyên học. Chủ đề này nói về các thuật ngữ như vậy. Nguồn gốc của tên công ty máy tính: xem Danh sách từ nguyên tên công ty máy tính. Danh sách đầy đủ các từ nguyên: xem Danh sách từ nguyên. Danh sách từ nguyên A-Ă-Â Ngôn ngữ lập trình Ada - được đặt tên theo của Ada Lovelace, người được xem là lập trình viên đầu tiên. AWK - một ngôn ngữ lập trình, được đặt theo họ của các tác giả là Alfred V. Aho, Peter J. Weinberger và Brian W. Kernighan Ajax Kết hợp giữa HTML, Javascript (Lập trình phần tử mạng), CSS - Cassaded Style Sheet (Định dạng thể hình trang mạng) để làm cho trang mạng thêm sinh động và có giao diện đẹp hơn Active Data Objects(ADO): Đối Tượng Dữ Liệu Động Active Server Page (ASP): Trang Mạng Động Máy Chủ ActiveX: Đối tượng bổ sung, một thư viện bổ sung chức năng Add-ons: Công Cụ Bổ Sung Công cụ đã viết sẵn để dùng trong trang mạng của bạn. Address: Địa Chỉ ASCII - (American Standard Code for Information Interchange): Bộ Mã Ký Tự Chuẩn Bắc Mĩ Bộ Mã Chuẩn Bắc Mĩ Để trao Đổi Thông tin, 7-bit, với 128 ký tự ANSI - (American National Standards Institute) Mã Chuẩn 1252 ISO - (International Organization for Standardization) Mã Chuẩn 8859-1 API - (Application programming interface): Giao diện lập trình ứng dụng Tổ hợp những hàm dùng trong Windows Attribute: Thuộc tính B B (ngôn ngữ lập trình) - B được tạo bởi Ken Thompson như là một bản sửa đổi của ngôn ngữ lập trình BCPL. Bug - một lỗi trong chương trình máy tính làm cho nó không hoạt động chính xác. Thuật ngữ này thường (bị nhầm lẫn) tin là của Grace Hopper. Năm 1946, cô vào Harvard, phòng thí nghiệm tính toán, nơi cô dò ra lỗi trong Harvard Mark II do con bướm đêm bị kẹt trong relay gây ra. Con bọ (tiếng Anh: bug) này được gỡ cẩn thận và dán vào sổ nhật ký. (Xem Hình). Tuy nhiên, việc dùng từ "bug" để diễn tả sự thiếu sót trong hệ thống cơ khí bắt đầu ít nhất từ những năm 1870. Thomas Edison đã một lần dùng thuật ngữ này trong sổ tay của ông. C C (ngôn ngữ lập trình) - Dennis Ritchie nâng cấp ngôn ngữ lập trình B và gọi nó là New B. Sau đó ông gọi nó là C. Client Side: Máy Khách Command: Lệnh Code: Mã D-Đ DHTML Dynamic HTML - HTML Động Kết hợp giữa HTML (soạn trang mạng) và Javascript (lập trình mạng) làm cho trang mạng sinh động hơn. Dynamic Link Library (DLL), Thư viện liên kết động, Thư viện chức năng rời Data Base: Cơ Sở Dữ Liệu Domain: Tên Miền E-Ê Element: Phần tử Event: sự kiên. Thí dụ: Onclick - khi nhấp chuột Event Handling: định dạng cách thức hoạt động của sự kiện F FTP File Transfer Protocol - Nghi Thức Hồ Sơ Nghi thức vận chuyển hồ sơ trên mạng Favorite: Tập Ưa Thích Folder: Thư Mục File: Tập Tin (Tệp) ASCII File: Tập Tin Chử, Đọc được như văn bản thường Binary File: Tập Tin Mả Hóa, Không thể đọc được như văn bản thường Frame: Khung G GOPHER: nghi thức tin tức Nghi thức dùng để trao đổi tin tức trên mạng H HTML Hyper Text Markup Language - Ngôn Ngữ Biên Tập Trang Mạng, Ngôn Ngữ Viết Trang Mạng, Ngôn ngữ liên kết siêu văn bản Ngôn ngữ soạn trang mạng bằng thẻ lịnh (tag) HTTP: Hyper Text Transfer Protocol: Nghi thức Trang Mạng Nghi thức dùng để truy cập trang mạng trên mạng quốc tế Homepage: Trang Chính, Trang Đầu I IP: Internet Protocol - Nghi Thức Lưới Mạng Internet: Lưới Mạng Toàn Cầu Interface:Giao Diện ISO - (International Organization for Standardization): Tiêu chuẩn Toàn Cầu ISO 8859: Tiêu chuẩn Bộ Ký Tự 8-bits. 8859-2, 8859-5, 8859-13 ISO 10646: Tiêu chuẩn Bộ Ký Tự Unicode J Javascript: Ngôn Ngữ Lập Trình Trang Mạng dùng trong HTML để làm trang mạng HTML sinh động hơn K L LAN (Local Area Network) Hệ thống kết nối máy vi tính địa phương, cục bộ Link: Liên Kết, Kết Nối M MAIL TO: Nghi Thức Gửi Thư Nghi Thức dùng để gửi thư điện tử trên mạng Multimedia: Đa Phương Tiện hồ sơ có hình, ảnh, tiếng Method: Phương Thức N O-Ô-Ơ Object: Đối tượng Object Oriented Programming: Lập Trình Hướng Đối Tượng P Program: Một Trình, một chương trình Property: Thuộc Tính Protocol: Nghi Thức, Nghi Thức dùng trong Trình Duyệt Có 5 dạng Nghi Thức Trình Duyệt thường dùng http:, Nghi Thức Trang Mạng ftp:, (file tranfer protocol) Nghi Thức Hồ Sơ '''mailto:''', Nghi Thức Gởi Thơ Gopher:, Nghi Thức Tin Tức Password: Mật Khẩu Path: Đường Dẫn Q R S SSI Server Side - Include Lịnh Máy Chủ thông tin của trang mạng trên các máy khách và chủ Server: Máy chủ Script: Biên Tập Scripting Language: Ngôn Ngữ Biên Tập. Thí Dụ: DOS BATCH, HTML, WSL Structured Proramming Language:Ngôn ngữ lập trình cấu trúc. Thí Dụ: C, Visual Basic, Pascal Machine Language: Ngôn Ngữ Máy. Thí Dụ: Assembly, Structured Query Language - SQL: Ngôn Ngữ Truy vấn Dữ Liệu Ngôn ngữ dùng dòng lịnh để truy cập dữ liệu từ các cơ sở dữ liệu theo một quy định nhất định Source Code: Mã nguồn Scripting language: Ngôn ngữ kịch bản T Tag: Thẻ lệnh ngôn ngữ HTML dưới dạng Lệnh. Thí dụ Mở và kết trang mạng TCP: ToolBar: Thanh Công Cụ Tab: Thẻ U-Ư Uniform Resource Locator: Truy Cập Địa Chỉ Trang Mạng User ID: Tên Đăng Nhập GUI - (Graphic User Interface): Giao diện đồ hoạ người dùng V Value: Giá trị VBScript: Lập Trình Trang Mạng của Microsoft tương tợ như Lập Trình Trang Mạng Javascript của Netscape Search Engine: Máy Tìm Kiếm Máy truy tìm thông tin trên mạng W World Wide Web: Mạng Toàn Cầu Hệ thống trang mạng trên toàn thế giới World Wide Net: Mạng Lưới Toàn Cầu Hệ thống kết nối máy vi tính trên toàn thế giới Web Browser: Trình Duyệt Web Web: Mạng Website: Mạng Vùng, tập hợp của nhiều trang mạng trên một máy chủ Webpage: Trang Mạng WAN: Wide Area NetWork Hệ thống kết nối máy vi tính mở rộng Windows: Cửa Sổ X XHTML: Extended HTML - HTML Nâng Cấp Bổ sung thêm chức năng cho trang mạng HTML XML Extended Markup Language Ngôn ngữ lập trình mạng với khả năng định dạng dữ liệu và truy cập dữ liệu Y Z Tham khảo :en:List of computer term etymologies Máy tính Thuật ngữ
24288
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%A5%20gia%20th%E1%BB%B1c%20ph%E1%BA%A9m
Phụ gia thực phẩm
Các phụ gia thực phẩm là các chất được bổ sung thêm vào thực phẩm để bảo quản (hóa chất bảo quản) hay cải thiện hương vị và bề ngoài của chúng. Một số phụ gia thực phẩm đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ; ví dụ bảo quản bằng làm dưa chua (với giấm), ướp muối - chẳng hạn như với thịt ướp muối xông khói, hay sử dụng lưu huỳnh dioxide như trong một số loại rượu vang. Với sự ra đời và phát triển của công nghiệp chế biến thực phẩm trong nửa sau thế kỷ 20 thì có thêm nhiều phụ gia thực phẩm đã được giới thiệu, cả tự nhiên lẫn nhân tạo. Một số phụ gia là những hóa chất có thể gây hại cho sức khỏe con người nếu dùng liều cao hoặc trong thời gian dài ví dụ acid benzoic,... Đánh số Để quản lý các phụ gia này và thông tin về chúng cho người tiêu dùng thì mỗi loại phụ gia đều được gắn với một số duy nhất. Ban đầu các số này là các "số E" được sử dụng ở châu Âu cho tất cả các phụ gia đã được chấp nhận. Hệ thống đánh số này hiện đã được Ủy ban mã thực phẩm (Codex Alimentarius Committee) chấp nhận và mở rộng để xác định trên bình diện quốc tế tất cả các phụ gia thực phẩm mà không liên quan đến việc chúng có được chấp nhận sử dụng hay không. Tất cả các số E đều có tiền tố "E" đi kèm, nhưng các quốc gia ngoài châu Âu chỉ sử dụng các số mà không cần biết là các phụ gia đó có được chấp nhận sử dụng ở châu Âu hay không. Ví dụ, acid axêtic là phụ gia 260, vì thế nó được viết là E260 trên các sản phẩm được bày bán ở châu Âu. Phụ gia 103, alkanet, không được chấp nhận sử dụng ở châu Âu nên nó không có số E, mặc dù nó được chấp nhận sử dụng tại Úc và New Zealand. Xem thêm Danh sách các phụ gia thực phẩm để có danh sách đầy đủ tất cả các mã số. Các thể loại Các phụ gia thực phẩm có thể phân chia thành vài nhóm, mặc dù có một số phần chồng lấn giữa các thể loại này. Các acid thực phẩm Các acid thực phẩm hay chất acid hóa được bổ sung vào để làm cho hương vị của thực phẩm "sắc hơn", và chúng cũng có tác dụng như là các chất bảo quản và chống oxy hóa. Các acid thực phẩm phổ biến là giấm, acid citric, acid tartaric, acid malic, acid fumaric, acid lactic. Các chất điều chỉnh độ acid Các chất điều chỉnh độ acid được sử dụng để thay đổi hay kiểm soát độ acid và độ kiềm của thực phẩm. Các chất chống vón Các chất chống vón giữ cho các chất bột, chẳng hạn như sữa bột không bị vón cục. Các chất chống tạo bọt Các chất chống tạo bọt làm giảm hoặc ngăn chặn sự tạo bọt trong thực phẩm. Các chất chống oxy hóa Các chất chống oxy hóa như vitamin C có tác dụng như là chất bảo quản bằng cách kiềm chế các tác động của các gốc tự do đối với thực phẩm và nói chung là có lợi cho sức khỏe. Các chất tạo lượng Các chất tạo khối lượng chẳng hạn như tinh bột được bổ sung để tăng số/khối lượng của thực phẩm mà không làm ảnh hưởng tới giá trị dinh dưỡng của nó. Các chất tạo màu thực phẩm Chất tạo màu thực phẩm được thêm vào thực phẩm để thay thế các màu sắc bị mất trong quá trình sản xuất hay làm cho thực phẩm trông bắt mắt hơn. Chất giữ màu Ngược lại với các chất tạo màu, các chất giữ màu được sử dụng để bảo quản màu hiện hữu của thực phẩm. Các chất chuyển thể sữa Các chất chuyển thể sữa cho phép nước và dầu ăn duy trì được thể hỗn hợp cùng nhau trong thể sữa, chẳng hạn trong maiônét, kem lạnh và sữa. Các chất tạo vị Các chất tạo vị là các phụ gia làm cho thực phẩm hương vị hay mùi cụ thể nào đó và có thể được tạo ra từ các chất tự nhiên hay nhân tạo. Các chất điều vị Các chất điều vị làm tăng hương vị sẵn có của thực phẩm. Các chất xử lý bột ngũ cốc Các chất xử lý bột ngũ cốc được thêm vào bột ngũ cốc (bột mì, bột mạch v.v) để cải thiện màu sắc của nó hay sử dụng khi nướng bánh. Các chất giữ ẩm Các chất giữ ẩm ngăn không cho thực phẩm bị khô đi. Các chất bảo quản Các chất bảo quản ngăn hoặc kiềm chế sự thối hỏng của thực phẩm bị gây ra bởi các hoạt động của nấm mốc, vi khuẩn hay các vi sinh vật khác. Các chất đẩy Các chất đẩy là các loại khí nén được sử dụng để đẩy thực phẩm ra khỏi đồ chứa đựng nó. Các chất ổn định Các chất ổn định, tạo đặc và tạo gel, chẳng hạn agar hay pectin (sử dụng trong một số loại mứt hoa quả) làm cho thực phẩm có kết cấu đặc và chắc. Dù chúng không phải là các chất chuyển thể sữa thực thụ, nhưng chúng giúp cho các chất thể sữa ổn định hơn. Các chất làm ngọt Các chất làm ngọt được bổ sung vào thực phẩm để tạo vị ngọt. Các chất làm ngọt không phải đường được thêm vào để giữ cho thực phẩm chứa ít năng lượng (calo) nhưng vẫn có vị ngọt của đường hay vì chúng có các tác động có lợi cho các bệnh nhân bị bệnh đái đường hay sâu răng. Các chất làm đặc Các chất làm đặc là các chất mà khi thêm vào thực phẩm sẽ làm tăng độ dẻo mà không làm thay đổi đáng kể các thuộc tính khác của thực phẩm. Xem thêm Chất bảo quản thực phẩm Hướng dẫn công bố phụ gia thực phẩm Tham khảo Liên kết ngoài Quy định pháp lý của EU về phụ gia thực phẩm Hướng dẫn của CSPI về phụ gia thực phẩm Food Additives & Ỉngedients Khoa học thực phẩm
24290
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%8Da%20Long%20c%C6%B0%C6%A1ng
Ngọa Long cương
Bài này viết về tên một ngọn núi tại Hà Nam, Trung Quốc. Các nghĩa khác xin xem thêm Ngọa Long (định hướng). Ngọa Long cương (chữ Hán: 臥龍崗) là tên một ngọn núi ở làng Ngọa Long Cương, khu Ngọa Long, thành phố Nam Dương, Hà Nam, thuộc vùng Long Trung. Tục truyền Gia Cát Lượng sống ở đây sau khi chạy tị nạn sang Nam Dương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ Ngâm". Tham khảo N Núi Trung Quốc
24292
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%A5m%20thi%C3%AAn%20h%C3%A0
Cụm thiên hà
Cụm Thiên Hà (tiếng Anh: Galaxy Cluster), hay còn được gọi là quần tụ thiên hà, là một sự tập hợp của nhiều thiên hà gần nhau dưới tác dụng của lực hấp dẫn. Chúng là cấu trúc liên kết hấp dẫn lớn nhất được biết đến trong vũ trụ và được cho là cấu trúc lớn nhất đã biết trong vũ trụ cho đến thập niên 1980, khi siêu cụm thiên hà được phát hiện. Kích thước của quần tụ thiên hà có thể từ 5.000.000 năm ánh sáng đến hàng tỷ năm ánh sáng. Khoảng cách trung bình giữa các thiên hà trong cùng một quần tụ thiên hà là khoảng 2.500.000 năm ánh sáng. Về cấu tạo, quần tụ thiên hà có nhiều thiên hà bầu dục ở trung tâm, xung quanh là các thiên hà xoắn ốc và thiên hà vô định hình. Quần tụ thiên hà của chúng ta có tên là quần tụ thiên hà Địa phương, gồm 3 thiên hà xoắn ốc là Ngân Hà, thiên hà Andromeda (thiên hà Tiên Nữ, M31), thiên hà M33, nhiều thiên hà bầu dục và các thiên hà vệ tinh (đám đại tinh vân Magellan và tiểu tinh vân Magellan là 2 thiên hà vệ tinh của Ngân Hà). Khoảng không giữa các thiên hà là tập hợp các đám bụi mây khí khổng lồ. Đến lượt mình, các quần tụ thiên hà hợp lại thành những siêu thiên hà (đại thiên hà) gồm những quần tụ thiên hà gần nhau. Những quần tụ thiên hà gần Nhóm Địa phương nhất là quần tụ Virgo chứa khoảng 1300 thiên hà, quần tụ Coma với hơn 1000 và quần tụ Hercules với khoảng 100 thành viên. Các đặc tính cơ bản Các cụm thiên hà thường có các đặc tính sau: Chúng chứa 100 đến 1.000 thiên hà, phát ra khí tia X nóng và lượng lớn vật chất tối. Chi tiết được mô tả trong mục "Thành phần". Sự phân bố của ba thành phần gần như giống nhau trong cụm. Chúng có tổng khối lượng là 1014 đến 1015 khối lượng mặt trời. Chúng thường có đường kính từ 1 đến 5 Mpc (xem 1023 m để so sánh khoảng cách). Sự lan truyền các vận tốc cho các thiên hà riêng lẻ là khoảng 800–1000 km/s. Xem thêm Danh sách các cụm thiên hà Cấu trúc vũ trụ Siêu thiên hà Vũ trụ Vụ Nổ Lớn Tham khảo Liên kết ngoài Thuật ngữ thiên văn học Thiên hà
24295
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mao%20Tr%E1%BA%A1ch%20%C4%90%C3%B4ng
Mao Trạch Đông
Mao Trạch Đông (phồn thể: 毛澤東; giản thể: 毛泽东; bính âm: Máo Zédōng; 26 tháng 12 năm 1893 – 9 tháng 9 năm 1976), còn được người dân Trung Quốc gọi với tên tôn kính là Mao Chủ tịch, là một nhà cách mạng người Trung Quốc, người sáng lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc từ khi thành lập năm 1949 cho đến khi ông qua đời năm 1976. Là một người theo chủ nghĩa Marx-Lenin, lý thuyết, chiến lược quân sự, chính sách chính trị của ông được gọi chung là chủ nghĩa Mao. Đầu đời Tổ tịch và xuất thân Mao Trạch Đông chào đời ngày 26 tháng 12 năm 1893 trong một gia đình nông dân ở làng Thiều Sơn, huyện Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Cha ông, Mao Di Xương (毛贻昌), xuất thân vốn là bần nông và từng có thời tòng quân cho tổng đốc Hồ Quảng đời nhà Thanh, sau vươn lên trở thành một tiểu địa chủ và thương gia ngũ cốc khá giả. Mẹ ông, Văn Thất Muội (文素勤), là một Phật tử sùng đạo tuy không biết chữ. Vợ chồng Mao-Văn có với nhau ba đứa con trai; Mao Trạch Đông là con cả, kế tiếp là Mao Trạch Dân (毛泽民; sinh 1896) và Mao Trạch Đàm (毛泽覃; sinh 1905). Gia phả Mao tộc Thiều Sơn khẳng định Mao Thái Hoa (毛太华) là tổ phụ dòng họ; vị này quê gốc Giang Tây, sống vào giai đoạn Nguyên mạt Minh sơ (), lánh nạn chiến tranh một thời gian ở Vân Nam rồi lên Hồ Nam an cư. Thiếu thời: 1893–1911 Thuở nhỏ, Mao Trạch Đông thường xuyên theo mẹ đi chùa. Bà Văn muốn con trai mình lớn lên sẽ tu nghiệp Phật tử, song ông Mao lại cho rằng việc học đạo Nho quan trọng hơn. Năm lên 8, Mao bắt đầu theo học tiểu học ở một ngôi trường làng truyền thống, dành phần lớn thời gian trên lớp đọc thuộc lòng kinh sách Nho giáo. Những hoạt động cách mạng đầu tiên Bắc Kinh, chủ nghĩa vô chính phủ và chủ nghĩa Marx: 1917-1919 Mao tới Bắc Kinh, nơi thầy của ông Dương Xương Tế đang dạy học tại Đại học Bắc Kinh. Dương giao cho ông làm phụ tá của thủ thư trường đại học Lý Đại Chiêu, người sớm trở thành người sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Lý là tác giả của một loạt bài báo đăng trên báo Tân thanh niên về sự kiện Cách mạng tháng Mười ở Nga, trong suốt thời gian mà Đảng Bolshevik dưới sự lãnh đạo của Vladimir Lenin lên nắm quyền. Lenin là một người ủng hộ lý thuyết chính trị - xã hội của Chủ nghĩa Marx, được phát triển bởi Karl Marx và Friedrich Engels, những bài báo của Lý làm gia tăng ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx tới những học thuyết trong phong trào cách mạng của người Trung Quốc. Khi trở thành một người cấp tiến, Mao ban đầu bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa vô chính phủ của Peter Kropotkin, một học thuyết cấp tiến nổi bật nhất lúc bấy giờ. Sau đó, ông tham gia Nhóm nghiên cứu của Lý và phát triển chủ nghĩa Marx trong suốt mùa đông năm 1919. Vì trả lương thấp, Mao phải sống trong một căn phòng chật chội cùng với 7 sinh viên Hồ Nam khác, nhưng ông tin rằng cảnh đẹp Bắc Kinh sẽ đền đáp lại những vất vả trong cuộc sống của ông. Tại trường đại học, Mao bị những sinh viên khác làm nhục do ông là người nông thôn Hồ Nam, phát âm địa phương và địa vị thấp. Ông gia nhập khoa Triết và Báo chí Xã hội, chú tâm viết thư và thảo luận với những người như Trần Độc Tú, Hồ Thích và Qian Xuantong. Thời gian Mao ở Bắc Kinh kết thúc vào mùa xuân 1919, khi ông tới Thượng Hải với những người bạn đang chuẩn bị tới Pháp. Ông không trở lại Trường Sa, nơi mẹ ông ốm giai đoạn cuối. Bà đã chết vào tháng 10 năm 1919 và chồng bà đã chết vào tháng 1 năm 1920. Văn hóa mới và những cuộc biểu tình chính trị: 1919-1920 Ngày 4 tháng 5 năm 1919, những sinh viên ở Bắc Kinh đã tụ tập tại cổng Thiên An Môn để biểu tình phản đối sự kháng cự yếu ớt của chính phủ Trung Quốc trước sự bành trướng của người Nhật ở Trung Quốc. Những người yêu nước phẫn uất bị tác động bởi sự nhượng bộ Nhật Bản trong 21 yêu sách mà nước này gửi cho chính phủ Trung Quốc năm 1915. Với sự thỏa hiệp của Chính phủ Bắc Dương của Đoàn Kỳ Thụy trong Hòa ước Versailles, Nhật Bản được cho phép nhận những lãnh thổ tại Sơn Đông, lãnh thổ bị Đức kiểm soát. Những cuộc biểu tình bùng phát khắp đất nước với Phong trào Ngũ Tứ (do nó bắt đầu ngày 4 tháng 5 năm 1919) và được tiếp sức với Phong trào văn hóa mới cho rằng Trung Quốc đã thua trên mặt xã hội và văn hóa chậm phát triển. Ngày 23 tháng 7 năm 1921, Mao tham gia Đại hội lần thứ nhất thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Thượng Hải. Hai năm sau, tại Đại hội lần thứ ba (1923), ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ gồm 5 người. Tháng 1 năm 1924, theo chủ trương Quốc – Cộng hợp tác, Mao Trạch Đông tham dự Đại hội lần thứ nhất Quốc dân Đảng họp ở Quảng Châu và được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Quốc dân Đảng. Sau đó ông lên đường đi Thượng Hải làm việc tại cơ quan Ban chấp hành Quốc dân Đảng, rồi sang năm sau lại về Quảng Châu làm quyền trưởng Ban tuyên truyền của Quốc dân Đảng, rồi kiêm thêm một chân trong Ủy ban vận động nông dân của đảng này. Lúc này ông bị Trần Độc Tú đẩy ra khỏi Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản tại Đại hội 4 họp vắng mặt ông vào tháng 1 năm 1925. Tại Đại hội lần thứ hai Quốc dân Đảng (tháng 1 năm 1926), ông lại được bầu làm ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Quốc dân Đảng và làm quyền Trưởng ban Tuyên truyền đến tháng 5 năm 1926. Sau khi Tưởng Giới Thạch quay sang đàn áp Đảng Cộng sản, Mao Trạch Đông chủ trương đấu tranh vũ trang với Tưởng nhưng không được Trần Độc Tú chấp nhận và bị thất sủng. Mao Trạch Đông bèn lui về quê cho ra đời Báo cáo khảo sát phong trào nông dân Hồ Nam, tác phẩm quan trọng đầu tiên của chủ nghĩa Mao. Chiến tranh và cách mạng Mao thoát khỏi bạch sắc khủng bố vào năm 1927 và lãnh đạo Cuộc khởi nghĩa Vụ gặt Mùa thu ở Trường Sa, Hồ Nam nhưng thất bại. Tàn quân du kích chưa đầy 1.000 người của Mao tìm nơi ẩn náu ở vùng núi tỉnh Cương Sơn, nơi giáp ranh giữa hai tỉnh Hồ Nam và Giang Tây. Năm 1928 đội quân này hợp nhất với quân của Chu Đức, lập ra Quân đoàn 4 công nông, do Chu Đức làm Quân đoàn trưởng. Mao đã góp phần xây dựng căn cứ, chính quyền và quân đội tiến hành chiến tranh du kích có hiệu quả, thực hiện cải cách ruộng đất. Chính tại nơi đây từ 1931 đến 1934, nhà nước Cộng hòa Xô-viết Trung Hoa được lập ra và Mao được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Trung ương lâm thời. Vào thời kỳ này, Mao kết hôn với Hạ Tử Trân, sau khi Dương Khai Tuệ bị lực lượng Quốc dân Đảng giết chết. Khu Xô-viết này trở thành nơi trú ngụ của Ban Lãnh đạo Đảng Cộng sản chạy trốn sự khủng bố của Tưởng Giới Thạch ở các thành phố lớn, chủ yếu là Thượng Hải. Dưới áp lực của các chiến dịch bao vây càn quét của Quốc dân Đảng, trong nội bộ Ban Lãnh đạo Đảng Cộng sản diễn ra cuộc tranh giành quyền lực và đấu tranh về đường lối và chiến thuật. Phe theo đường lối chính thống của Moskva, mà đại diện là nhóm 28 người Bolshevik, đã thắng thế và Mao dần dần bị gạt ra khỏi các chức vụ quan trọng. Với quyết tâm tiêu diệt bằng được những người cộng sản, tháng 10 năm 1934 Tưởng Giới Thạch trực tiếp chỉ huy 50 vạn quân bao vây tấn công khu Xô-viết trung ương, buộc Hồng quân phải mở đường máu rời bỏ nơi đây, tiến hành cuộc Vạn lý trường chinh cực kỳ gian khổ, vượt 9.600 km trong suốt một năm trời để đến tỉnh Thiểm Tây xây dựng căn cứ mới. Trên đường trường chinh, Mao Trạch Đông đã lên nắm quyền lãnh đạo từ Hội nghị Tuân Nghĩa họp vào tháng 1 năm 1935. Tại hội nghị này, Chu Ân Lai ngả về phía Mao, Tổng Bí thư Bác Cổ và cố vấn quân sự Otto Braun (tên Trung Quốc là Lý Đức) bị hạ bệ, Mao vào Ban thường vụ Bộ Chính trị, nắm quyền thực tế và năm 1943 được bầu làm Chủ tịch Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. Từ căn cứ mới ở Diên An, Mao lãnh đạo những người cộng sản tiến hành cuộc kháng chiến chống Nhật (1937–1945) thông qua hợp tác Quốc–Cộng lần thứ hai. Tại đây, Mao củng cố quyền lực trong Đảng Cộng sản bằng việc mở cuộc vận động chỉnh phong. Tại Đại hội lần thứ 7 của Đảng Cộng sản Trung Quốc họp tại Diên An tháng 6 năm 1945, Mao được bầu làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng. Cũng tại Diên An, Mao ly thân với Hạ Tử Trân và lấy Lam Bình, một diễn viên mới tới Diên An mà sau này khuynh đảo chính trường Trung Quốc với tên gọi là Giang Thanh. Ngay sau khi Chiến tranh Trung-Nhật kết thúc, nội chiến tiếp tục diễn ra giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản, kết thúc bằng thắng lợi của Đảng Cộng sản vào năm 1949. Lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông thuộc phái tả kiên định, năm 1920, Mao trở thành người Mác xít. Năm 1921, là một trong 21 người sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng mãi đến năm 1935, Mao mới trở thành người lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Trung Quốc sau hai lần thất bại vào năm 1927 và 1934, nhưng cuối cùng cũng vượt qua được nhờ Mao Trạch Đông lên nắm quyền lãnh đạo Đảng, lực lượng của Đảng dần được củng cố mạnh lên. Đến năm 1947, Mao Trạch Đông đã chuẩn bị phát động cuộc tấn công toàn diện vào Chính phủ Quốc Dân Đảng do Tưởng Giới Thạch đứng đầu. Mao Trạch Đông lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc thực hiện cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ giành chính quyền năm 1949, chấm dứt tình trạng quân phiệt cát cứ, thu hồi các tô giới của nước ngoài trên lãnh thổ Trung Quốc, xóa bỏ các hiệp ước bất bình đẳng với các cường quốc; đặt nền móng cho một đất nước Trung Quốc thống nhất và bắt đầu công cuộc hiện đại hóa đưa Trung Quốc từ một nước phương Đông bị các đế quốc phương Tây chèn ép trở thành một cường quốc trên thế giới. Trong suốt 27 năm, ông và các đồng chí của mình đã kiên trì thực hiện công cuộc cải cách kinh tế - xã hội vĩ đại mang ý nghĩa sâu xa trên đất nước Trung Quốc theo hướng xóa bỏ các tàn tích trung cổ lạc hậu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho xã hội dân chủ và bình đẳng hơn dù trong quá trình thực hiện ông đã mắc một số sai lầm gây ra những hậu quả nghiêm trọng và lâu dài cho xã hội Trung Quốc. Những tổn thất, thiệt hại do những chính sách Mao đưa ra, những phong trào do Mao phát động một phần do sự nhiệt tình thái quá đến mức cực đoan của những cán bộ trực tiếp thực thi và của công chúng. Từ năm 1949 đến năm 1976, Mao Trạch Đông luôn là nhân vật quan trọng nhất trong Chính quyền Trung ương Trung Quốc. Mao Trạch Đông đã lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc đánh bại quân đội Trung Hoa Dân quốc do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Tiếp đó Mao thực hiện những kế hoạch kinh tế ngắn hạn với sự giúp đỡ của Liên Xô để xây dựng nền tảng công nghiệp cho Trung Quốc. Với mong muốn đưa Trung Quốc trở thành một siêu cường trong thời gian còn nhanh hơn cả Liên Xô từng làm, Mao phát động phong trào Đại nhảy vọt và Công xã hoá, vào thời kỳ cuối những năm 50 của thế kỷ XX. Đây là kế hoạch với mục tiêu nhấn mạnh biện pháp sản xuất quy mô nhỏ, sản xuất thủ công, tiến hành cuộc thực nghiệm chủ nghĩa xã hội lớn chưa từng thấy với mục tiêu công nghiệp hóa nhằm đưa Trung Quốc thành siêu cường trong thời gian chỉ 10 - 20 năm. Sự nóng vội quá mức dẫn tới việc kế hoạch bị thất bại và phải hủy bỏ. Cùng với thiên tai, những chính sách kinh tế sai lầm đã gây ra một nạn đói rất lớn trong lịch sử loài người, khoảng 37,5 triệu người (khoảng 5% dân số Trung Quốc) đã chết vì nạn đói do sản xuất nông nghiệp bị đình trệ. Sau khi giành được chính quyền, Mao Trạch Đông đã tiến hành nhiều cải cách kinh tế - xã hội như cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa tất cả các doanh nghiệp tư nhân, giải tán các đảng phái chính trị cánh hữu, các hội kín, triệt hạ các băng đảng tội phạm... Sinh ra và lớn lên trong xã hội phong kiến Trung Quốc cuối thế kỷ 19 và đã chứng kiến nạn quân phiệt cát cứ cuối thời nhà Thanh, Mao Trạch Đông chịu ảnh hưởng lớn từ các bài học trong lịch sử Trung Quốc: ông tin rằng cần phải mạnh tay trấn áp mọi lực lượng chống đối thì mới có thể giữ ổn định được một đất nước rộng lớn và đông dân như Trung Hoa. Trong các cuộc cải cách của Mao có hàng chục vạn địa chủ, doanh nhân, trí thức bị bắt hoặc xử tử vì bị kết tội hữu khuynh, phá hoại, phản cách mạng, tay sai của ngoại quốc, Hán gian... Đến năm 1950, trước việc Bắc Triều Tiên bị lực lượng phương Tây (dẫn đầu là Hoa Kỳ) tấn công, Mao Trạch Đông đã cử chí nguyện quân tham chiến. Lực lượng Trung Quốc đã đẩy lùi quân đội phương Tây về vĩ tuyến 38, bảo vệ được nhà nước Bắc Triều Tiên và cầm cự ngang ngửa với lực lượng phương Tây trong suốt 4 năm. Tuy không giành được thắng lợi quyết định, nhưng việc quân đội Trung Quốc có thể giao chiến ngang ngửa với lực lượng phương Tây (trong đó có Hoa Kỳ, quốc gia mạnh nhất thế giới khi đó) đã nâng cao tinh thần dân tộc của người Trung Quốc và uy tín của Mao Trạch Đông, bởi cả 100 năm trước đó quân đội nước này liên tục bại trận khi chiến đấu với phương Tây, là giai đoạn mà người Trung Quốc xem là Bách niên quốc sỉ. Tiếp đó Mao thực hiện những kế hoạch kinh tế ngắn hạn với sự giúp đỡ của Liên Xô để xây dựng nền tảng công nghiệp cho Trung Quốc. Trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953-1957), Trung Quốc lấy xây dựng và phát triển công nghiệp nặng làm trung tâm, gồm những ngành điện lực, than, gang thép, hóa chất... Với sự giúp đỡ nhiều mặt của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, 246 công trình công nghiệp quan trọng, được coi là xương sống của nền công nghiệp Trung Quốc được xây dựng. Từ 1949 tới 1955, hơn 20 triệu bản in từ hơn 3.000 đầu sách khoa học và kỹ thuật (chủ yếu do Liên Xô cung cấp) được dịch và xuất bản ở Trung Quốc, tạo nền tảng cho một thế hệ trí thức khoa học mới tại Trung Quốc. Tốc độ của sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 18%. Đến năm 1957, sản lượng công nghiệp đã tăng 140%, sản lượng nông nghiệp tăng 25% so với năm 1952. Đại nhảy vọt là tên đặt cho Kế hoạch Năm năm lần thứ hai dự trù kéo dài từ 1958-1963. Mao tiết lộ Đại nhảy vọt tại một cuộc họp vào tháng 1 năm 1958 tại Nam Kinh. Ý tưởng trung tâm đằng sau Đại nhảy vọt là sự phát triển nhanh của nền công nghiệp và nông nghiệp Trung Quốc nên được diễn ra song song. Công nghiệp hóa thực hiện bằng nguồn cung ứng lao động giá rẻ khổng lồ và tránh phải nhập cảng các thiết bị, máy móc nặng. Để đạt được điều này, Mao chủ trương thực hiện chính sách tập thể hóa sâu rộng hơn dựa theo mô hình "Thời kỳ thứ 3" của Liên Xô trong nông thôn Trung Quốc, nơi các hợp tác xã hiện hữu sẽ được sáp nhập với nhau thành các Công xã nhân dân khổng lồ. Một công xã thí điểm được thiết lập tại Chayashan trong tỉnh Hà Nam tháng 4 năm 1958. Tại đây, lần đầu tiên, đất tư hữu bị xóa bỏ hoàn toàn và các nhà bếp công xã được giới thiệu. Tại các cuộc họp của Bộ chính trị vào tháng 8 năm 1958, quyết định được đưa ra là những công xã nhân dân này sẽ trở thành hình thức tổ chức chính trị và kinh tế mới khắp các vùng nông thôn Trung Quốc. Vào cuối năm, khoảng 25.000 công xã được lập lên, mỗi công xã có trung bình 5.000 hộ gia đình. Ở các công xã tự cung tự cấp này, lương và tiền được thay thế bằng công điểm (work points). Ngoài nông nghiệp, chúng kết hợp một vài dự án xây dựng và công nghiệp nhẹ. Mao cho rằng sản xuất lúa gạo và thép là cột trụ chính của phát triển kinh tế. Ông tiên đoán rằng trong vòng 15 năm kể từ Đại nhảy vọt, sản lượng thép của Trung Quốc sẽ vượt qua sản lượng thép của Vương quốc Anh. Trong các cuộc họp Bộ chính trị vào tháng 8 năm 1958, quyết định được đưa ra là sản xuất thép được ấn định tăng gấp đôi trong năm, đa số sản lượng gia tăng tới từ các lò nung thép sân vườn. Mao được Bí thư tỉnh An Huy cho xem một thí dụ về một lò nung thép ở Hợp Phì vào tháng 9 năm 1958, được cho là đang sản xuất thép chất lượng cao (mặc dù thực tế thì thép tinh luyện này đã được sản xuất ở nơi khác). Phấn khích vì chuyện này, Mao khuyến khích việc thiết lập các lò nung thép sân vườn loại nhỏ tại mỗi xã và tại mỗi khu phố. Nỗ lực khổng lồ từ nông dân và các công nhân khác được đưa vào để sản xuất thép từ sắt vụn. Để cung cấp nhiên liệu đốt cho các lò nung, cây rừng bị chặt bừa bãi, gây thiệt hại lớn cho môi trường thiên nhiên của địa phương. Tình trạng phá cửa nhà và bàn ghế đồ đạc để lấy củi đốt lò nung cũng xảy ra khắp nơi. Nồi, xoong, chảo, và các thứ vật dụng kim loại khác được trưng dụng để cung cấp "sắt vụn" cho các lò nung để có thể đạt được mục tiêu sản xuất. Nhiều lao động nông nghiệp bị thuyên chuyển từ thu hoạch mùa màng sang giúp sản xuất thép cũng giống như các công nhân ở nhiều nhà máy, trường học và thậm chí cả bệnh viện. Những ai có chút kinh nghiệm về sản xuất thép hoặc có hiểu biết cơ bản về luyện kim thì cũng có thể thấy được rằng sản phẩm từ các lò nung này là những đống sắt nguyên liệu phẩm chất thấp và chẳng có chút giá trị gì về kinh tế. Tuy nhiên, chính sự ngờ vực sâu đậm của Mao đối với giới trí thức, niềm tin vào sức mạnh khổng lồ của giới nông dân đã khiến ông ra lệnh thực hiện nỗ lực khổng lồ này trên toàn quốc mà không hỏi ý kiến của các chuyên gia. Nỗ lực lớn được thực hiện trong suốt Đại nhảy vọt trên phạm vi rộng như các dự án xây cất cơ bản thường được hoạch định cẩu thả, ví dụ như các công trình thủy lợi, thường được xây mà chẳng hỏi ý từ các kỹ sư được đào tạo. Hơn nữa, kinh nghiệm của các tầng lớp trí thức theo sau Chiến dịch trăm hoa đua nở đã khiến những ai biết được kế hoạch như thế là một chuyện điên rồ cũng chẳng dám lên tiếng chỉ trích. Đại nhảy vọt ngày nay được đa số mọi người, cả trong và ngoài Trung Quốc, xem như là một đại thảm họa kinh tế, thực sự đúng là một "Đại Nhảy Lùi" mà ảnh hưởng đến Trung Quốc trong nhiều năm sau đó. Khi các con số thống kê bị thổi phồng tới tay giới chức đặc trách kế hoạch, mệnh lệnh được ban ra là phải chuyển nguồn nhân lực lao động vào công nghiệp hơn là nông nghiệp. Do các đợt hạn hán và lũ lụt năm 1959-1961 kết hợp với việc quá nhiều nguồn lực bị dồn vào công nghiệp đã dẫn tới mất mùa, kéo theo đó là nạn đói. Con số người chết trong nạn đói chính thức được ghi nhận tại Trung Quốc trong những năm của Đại nhảy vọt là 14 triệu, nhưng các học giả ước tính rằng con số nạn nhân chết đói là từ 20 đến 43 triệu. Ba năm từ năm 1959 đến năm 1962 được biết như là "Ba năm Ác nghiệt" và Ba năm Thiên tai. Nhiều quan chức địa phương bị truy tố và hành quyết công khai vì báo cáo thông tin sai lệch. Kế hoạch tiếp theo mà Mao Trạch Đông ủng hộ là cuộc "Đại Cách mạng văn hóa vô sản" vào những năm 60 của thế kỷ 20. Có nhiều quan điểm khác nhau về Cách mạng văn hóa tại Trung Quốc. Theo Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Cách mạng văn hóa là để "đấu tranh với giai cấp tư sản trong lĩnh vực tư tưởng và sử dụng những tư tưởng và lề thói mới của giai cấp vô sản để thay đổi diện mạo tinh thần của toàn bộ xã hội" nhưng cũng có quan điểm cho rằng đây là một cách để Mao Trạch Đông lấy lại quyền kiểm soát Đảng Cộng sản Trung Quốc sau cuộc Đại nhảy vọt thất bại. Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc đã xóa bỏ triệt để những hủ tục còn lại từ thời trung cổ tại Trung Quốc (cúng bái để chữa bệnh, tục bó chân phụ nữ...), nhưng cũng để lại những hậu quả nghiêm trọng không chỉ về kinh tế, xã hội mà cả về văn hóa. Cách mạng văn hóa từ mục tiêu ban đầu là thay đổi diện mạo tinh thần của toàn bộ xã hội đã biến thành quy chụp, tố cáo, chỉ trích, đấu tố, thanh trừng lẫn nhau trên toàn Trung Quốc. Cuộc cách mạng này làm tê liệt các hoạt động kinh tế, chính trị, giáo dục, văn hóa của Trung Quốc; phá vỡ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc và khiến nhà nước không còn duy trì nổi trật tự xã hội; gây chia rẽ nghiêm trọng trong Đảng Cộng sản, trong bộ máy nhà nước và trong xã hội Trung Quốc; phá hủy các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Đặng Tiểu Bình nhận định Mao Trạch Đông có một phần lỗi trong việc này, nhưng phần khác là do những người thi hành cấp dưới có trình độ kém còn công chúng dễ bị kích động khiến mục tiêu đề ra bị bóp méo: "Cách mạng Văn Hóa là một sai lầm. Chúng ta phải mạnh dạn chối bỏ sai lầm này của Mao trong những năm tháng cuối đời của ông. Nhưng cũng cần nhìn vào sự thật. Sự thật là không phải mọi sai lầm và quá đáng trong cuộc Cách mạng Văn Hóa đều do Mao Trạch Đông." Có điều đặc biệt là khi phát động "Đại nhảy vọt", Mao Trạch Đông đã hơn 60 tuổi; còn "Đại Cách mạng văn hóa" diễn ra lúc ông gần 70 tuổi; và khi quyết định thiết lập ngoại giao với Hoa Kỳ thì Mao đã gần 80 tuổi. Đầu năm 1950, Mao Trạch Đông cũng đã chấp nhận viện trợ vũ khí và cử các đoàn cố vấn Trung Quốc để giúp đỡ Việt Nam chống Pháp. Trước khi đi, Mao Trạch Đông căn dặn đoàn cố vấn: "Các đồng chí phải phải coi sự nghiệp giải phóng của nhân dân Việt Nam là sự nghiệp của chính mình. Chiến thắng của Việt Nam trước Pháp vào năm 1954 (chỉ ít lâu sau khi Trung Quốc buộc Mỹ đình chiến ở Triều Tiên) cũng gián tiếp nâng cao vị thế của Trung Quốc và uy tín của Mao Trạch Đông. Dù mắc phải nhiều sai lầm nhưng dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông, Trung Quốc đã bước đầu xây dựng được nền tảng công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp quốc phòng. Nền kinh tế Trung Quốc đã tự sản xuất được hầu hết các sản phẩm công nghiệp thông dụng, các loại vũ khí thông thường và đặc biệt chế tạo được bom nguyên tử. Đây là nền tảng để Trung Quốc tiếp tục phát triển dưới sự lãnh đạo của người kế thừa ông là Đặng Tiểu Bình. Qua đời Mao Trạch Đông qua đời ngày 9 tháng 9 năm 1976, 10 phút sau nửa đêm ở thủ đô Bắc Kinh. Mao mất vì bệnh xơ cứng teo cơ (tên khoa học: amyotrophic lateral sclerosis), ở Hoa Kỳ bệnh này thường được gọi là Lou Gehrig's hoặc Motor Neurone, cùng một căn bệnh với Stephen Hawking. Sức khỏe của Mao Trạch Đông đã rất kém trong nhiều năm và suy giảm rất rõ rệt trong thời gian vài tháng trước khi qua đời. Thi hài ông được an táng tại Đại lễ đường nhân dân. Lễ tưởng niệm ông cử hành vào ngày 18 tháng 9 năm 1976 tại quảng trường Thiên An Môn. Trong lễ tưởng niệm có 3 phút mặc niệm. Sau đó thi hài Mao được đặt trong Lăng Mao Trạch Đông, mặc dù ông muốn được hỏa táng và là nhà lãnh đạo cấp cao đầu tiên ký văn bản chính thức vào tháng 11 năm 1956 quy định tất cả những người lãnh đạo cấp trung ương sau khi chết sẽ được an táng theo nghi thức hỏa táng. Đánh giá Học giả Shinjima Junra, người Nhật Bản cho rằng: "Mao Trạch Đông không phải là nhà cách mạng theo kiểu thợ mộc – chỉ biết đục đẽo cứng nhắc, cũng không phải một nhà cách mạng theo kiểu học giả, mà là một nhà cách mạng theo kiểu quân sư mưu lược, nhiều kỹ xảo". Trong mỗi lĩnh vực, Mao Trạch Đông đều thể hiện mưu lược. Trong cuộc sống, ông có sự tự tin, nỗ lực, lý tưởng cao thượng, nhu cầu vật chất đạm bạc. Trong mưu lược quân sự, ông biết áp dụng nhiều chiến thuật đa dạng: đánh du kích, dụ địch xâm nhập, giương đông kích tây, thâm nhập vùng địch hậu, đánh công thành, chặn tiếp viện, mai phục quân để đánh chặn... Mao Trạch Đông cũng chịu những chỉ trích về những sai lầm của ông. Theo cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội của Tân Tử Lăng, do nhà xuất bản Thư Tác Phường (Hồng Kông) ấn hành tháng 7 năm 2007 cho rằng: "Nhân dân đã thức tỉnh. Việc tiếp tục treo ảnh Mao trên Thiên An Môn, tiếp tục để thi hài Mao ở nhà kỷ niệm là lạc hậu so với quần chúng rồi, cần xử lý thỏa đáng đất nước ta triệt để bóng đen Mao Trạch Đông". Lý Nhuệ, cựu thư ký của Mao Trạch Đông, bị bắt giam trong thời kỳ Cách mạng văn hóa, đánh giá "Chế độ độc tài của Mao còn kinh khủng hơn Stalin vì ông muốn kiểm soát não trạng của con người" và "Mao Trạch Đông vượt hơn mọi hoàng đế vì ông khiến người dân tuân lời cả trong suy nghĩ - không hoàng đế nào trên thế giới làm được vậy. Hoặc anh ủng hộ ông ta, hoặc không dám nói ra, hoặc anh tự thú trái lòng mình". Ngày 25/10/2017, trong một phiên thảo luận tại Hội đồng Quan hệ quốc tế, khi đánh giá về sức mạnh của Trung Quốc, Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long nói ngắn gọn về quá trình phát triển của Trung Quốc: "Nếu nhìn vào khác biệt trong việc nhấn mạnh tầm quan trọng, đó là điều tự thân Trung Quốc đã nói lên rồi. Với ông Mao Trạch Đông, Trung Quốc đứng dậy. Với ông Đặng Tiểu Bình, họ đạt được sự giàu có và bây giờ với ông Tập Cận Bình, họ mạnh mẽ". Mao Trạch Đông còn được coi là nhà chiến thuật và chính trị xuất sắc trong cuộc Nội chiến và chiến tranh Triều Tiên, với các bài viết về quân sự đã ảnh hưởng lớn tới những người muốn tạo ra các cuộc nổi dậy cũng như tìm hiểu cách dẹp nổi dậy, và trái lại, ý thức hệ của Mao thì đã bị lạm dụng và gây ra những hậu quả xấu, những chính sách bạo lực. Nhưng điều đó lại tăng thêm tầm vóc của Mao Trạch Đông trong con mắt người dân Trung Quốc. Việc sùng kính các nhà lãnh đạo vĩ đại chuyên dùng vũ lực để lập lại trật tự là một nét văn hóa ở Trung Quốc. Người dân Trung Quốc coi ông như "một vị thần báo thù đến để thanh trừng thế giới hủ bại", và vị thần đó không thể chỉ dùng những biện pháp nửa vời. Sau khi Mao Trạch Đông qua đời năm 1976, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đi đến kết luận không phải tất cả các hành động của ông đều đúng. Chủ tịch Đặng Tiểu Bình, kiến ​​trúc sư của cuộc cải cách trong những năm 1980, đã đưa ra công thức: 70% những gì Mao Trạch Đông đã làm là đúng, còn 30% là sai lầm. Ngay cả ở Trung Quốc hiện đại, theo các cuộc thăm dò, Mao Trạch Đông vẫn rất được tôn sùng trong dân chúng. Nhân dịp chuẩn bị kỷ niệm 120 năm ngày sinh Mao Trạch Đông, tờ Thời báo Hoàn Cầu đã tiến hành một cuộc khảo sát đối với hơn 1000 độc giả tại 6 thành phố của Trung Quốc và nhận được kết quả là có tới 85% số người được hỏi cho rằng Mao Trạch Đông đã có công lớn trong việc đưa đất nước Trung Quốc đến những thành công như ngày nay. Những công lao của Mao Trạch Đông được họ xem là lớn hơn nhiều so với những sai lầm của ông Không giống như Nikita Khrushchev đã từng lên án người tiền nhiệm Joseph Stalin, chính quyền Trung Quốc không phủ nhận các chiến thuật và tư tưởng chính trị của Mao Trạch Đông. Chủ nghĩa Mao Trạch Đông vẫn là một yếu tố được công nhận trong Hiến pháp Trung Quốc và là tư tưởng chính trị quan trọng tại Trung Quốc hiện nay. Theo nghị quyết của Hội nghị Trung ương 6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 11 vào tháng 6 năm 1981, Tư tưởng Mao Trạch Đông là "sản phẩm của sự kết hợp các nguyên tắc phổ quát của chủ nghĩa Marx-Lenin và thực tiễn cụ thể của cách mạng Trung Quốc", là một hệ thống khoa học biểu trưng cho "sự kết tinh trí tuệ tập thể của Đảng Cộng sản Trung Quốc" Phả hệ Ông nội, cụ và bố mẹ Tổ tiên và cha mẹ của Mao: Mao Di Xương (毛贻昌), bố, tên tự là Mao Thuận Sinh (毛顺生) (15 tháng 10 năm 1870 – 23 tháng 1 năm 1920) Văn Tố Cần (文素勤), mẹ (12 tháng 2 năm 1867 – 5 tháng 10 năm 1919), bà là người thất học và là một Phật tử, lấy chồng năm 1885 và là hậu duệ của Văn Thiên Tường Mao Ân Phổ (毛恩普), ông nội Mao Tổ Nhân (毛祖人), cụ nội Những người vợ Mao Trạch Đông có bốn người vợ, họ đã sinh tổng cộng 10 người con. Họ là: La Nhất Tú (1889–1910), do gia đình sắp đặt nhưng Mao không công nhận và hai người chưa hề ăn ở với nhau. Kết hôn năm 1907. Không có con. Dương Khai Tuệ (杨开慧, 1901–1930) ở Trường Sa, kết hôn năm 1921, sống với nhau đến năm 1927, bị Quốc dân Đảng hành quyết năm 1930. Bà sinh được 3 người con trai. Hạ Tử Trân (贺子珍, 1909? / tháng 8 năm 1910 – 19 tháng 4 năm 1984) người Vĩnh Tân, tỉnh Giang Tây, kết hôn từ tháng 5 năm 1928, đến năm 1937 thì bà sang Liên Xô chữa bệnh. Bà sinh nở 6 lần nhưng năm con chết non hoặc mất tích và chỉ có Lý Mẫn trưởng thành. Giang Thanh: kết hôn từ năm 1938 đến lúc Mao mất. Có một con gái là Lý Nạp. Theo hồi ký của Lý Chí Thỏa, bác sĩ riêng của ông, Mao đã quan hệ tình dục với cả trăm người phụ nữ khác. Qua đó ông chấp nhận là họ có thể bị lây bệnh hoa liễu, bởi vì chính ông đã bị mắc bệnh này mà không thể chữa khỏi được. Tuy nhiên, một số học giả, những người thân và những người từng làm việc với Mao đã lên tiếng chỉ trích về tính chính xác của những nguồn hồi ký cá nhân như vậy. Một nhóm nghiên cứu gồm ba tác giả đã dẫn những hồ sơ y tế cũ của Mao cho thấy Lý Chí Thỏa chỉ chăm sóc Mao có 1 ngày duy nhất (ngày 3 tháng 6 năm 1957). Như vậy, Lý Chí Thỏa không phải là bác sĩ thường trực của Mao Trạch Đông và vì thế không có khả năng có được những thông tin "riêng tư, bí mật" mà ông viết ra trên sách. Anh chị em Bố mẹ Mao Trạch Đông có cả thảy năm con trai và hai con gái. Hai người con trai và cả hai con gái chết sớm, còn lại 3 anh em Mao Trạch Đông, Mao Trạch Dân, Mao Trạch Đàm. Cũng như Dương Khai Tuệ, Mao Trạch Dân và Mao Trạch Đàm đều bị Quốc dân Đảng giết hại trong thời kỳ nội chiến. Mao Trạch Dân (毛泽民, 1895? / 3 tháng 4 năm 1896 – 27 tháng 9 năm 1943), em trai Mao Trạch Đàm (毛泽覃, 25 tháng 9 năm 1905 – 26 tháng 4 năm 1935), em trai Có hai chị em gái đều mất khi còn trẻ, trong đó có Mao Trạch Oanh Ngoài ra Mao Trạch Kiến (毛泽建, 1905 - 1929) tức Mao Trạch Hồng là chị họ, bị Quốc dân Đảng giết hại năm 1930 Những người con Mao Ngạn Anh (毛岸英, 1922-1950), con trai cả của Dương Khai Tuệ, kết hôn với Lưu Tư Tề (刘思齐), tên khai sinh là Lưu Tùng Lâm (刘松林), tham gia chiến đấu và hi sinh trong chiến tranh Triều Tiên. Mao Ngạn Thanh (毛岸青, 1923-2007), con trai của Dương Khai Tuệ, kết hôn với Thiệu Hoa (邵华), em gái Lưu Tư Tề, sinh ra con trai là Mao Tân Vũ. Mao Ngạn Long (1927- 1931?), con trai út của Dương Khai Tuệ, mất tích. Lý Mẫn (李敏, 1936-), tên thật Mao Kiều Kiều (毛娇娇), con gái của Hạ Tử Trân, kết hôn với Khổng Lệnh Hoa (孔令华), sinh ra con trai là Khổng Kế Ninh (孔继宁), con gái là Khổng Đông Mai (孔冬梅). Mao từng có biệt danh là Lý Đức Thắng, nên Lý Mẫn lấy họ này? Lý Nạp (李讷, 1940-), con gái của Giang Thanh, kết hôn với Vương Cảnh Thanh (王景清), sinh ra con trai là Vương Hiệu Chi (王效芝). Lý là họ gốc của Giang Thanh. Lưu ý là tên đệm trong từng thế hệ gia đình Mao là giống nhau, tuần tự các đời là Tổ-Ân-Di-Trạch-Ngạn. Các con của Mao Trạch Dân và Mao Trạch Đàm có tên đệm là Viễn. Các tác phẩm Nghiên cứu về giáo dục thể chất Nói chuyện về triết học Chống lại việc mê tín sách Thực tiễn luận (Luận về vấn đề "thực tiễn") Mâu thuẫn luận (Luận về vấn đề "mâu thuẫn") Luận trì cửu chiến (Luận về đánh lâu dài) Tân dân chủ chủ nghĩa luận (Luận về chủ nghĩa dân chủ mới) Mao Trạch Đông ngữ lục (Tổng hợp các câu nói ấn tượng của Mao Trạch Đông) Đời sống riêng tư Chú thích Tham khảo Thư mục Sách Tạp chí Đọc thêm Liên kết ngoài BBC 中国丛谈特辑(上) BBC 中国丛谈特辑(上)采访录音 BBC 中国丛谈特辑(下) BBC 中国丛谈特辑(下)采访录音 "Mao: The Unknown Story" on Amazon.com 開放出版社 《毛澤東:鮮為人知的故事》中文版 《毛澤東:鮮為人知的故事》 英文注釋 Asia Source biography Mao Zedong Biography From Spartacus Educational The Mao Zedong Reference Archive at marxists.org Collected Works of Mao Zedong at the Maoist Internationalist Movement Mao Zedong on propaganda posters Set of propaganda paintings showing Mao Zedong as the great leader of China. Other Chinese leaders CNN profile Sayings of Chairman Mao The Oxford Companion to Politics of the World: Mao Zedong Uncounted Millions: Mass Death in Mao's China (July 1994 Washington Post article by Daniel Southerland) Getting My Reestimate Of Mao's Democide Out (blog article by professor R. J. Rummel) China must confront dark past, says Mao confidant by Jonathan Watts for The Guardian <noinclude> <noinclude> Bài cơ bản dài Người Hồ Nam Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Chủ tịch Trung Quốc Người sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc Nhà lý luận Mác-xít Nhà cách mạng Trung Quốc Lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc Lãnh tụ Cộng sản Người thời đại cách mạng Văn hóa Chống chủ nghĩa đế quốc Người chống xét lại Người Trung Quốc trong Thế chiến thứ hai Nhân vật trong Nội chiến Trung Quốc Nhà thơ từ Hồ Nam Nhà văn Trung Hoa Dân Quốc
24296
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%8Da%20Long
Ngọa Long
Ngọa Long (臥龍, từ Hán-Việt nghĩa là "rồng nằm") có thể chỉ: Ngọa Long cương, tên của một ngọn núi ở thành phố Nam Dương (Trung Quốc). Ngọa Long tiên sinh tên hiệu của Gia Cát Lượng, thừa tướng của Lưu Bị trong thời Tam Quốc của Trung Quốc. Chùa Ngọa Long tại tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc) Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọa Long, khu bảo hộ thiên nhiên cấp quốc gia của Trung Quốc tại tỉnh Tứ Xuyên. Ngọa Long khu, thuộc thành phố Nam Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Ngọa Long trấn thuộc Tương Thành khu, thành phố Tương Phàn, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Ngoạ Long Sinh, một nhà văn viết truyện kiếm hiệp, tác giả của những bộ truyện Xác chết loạn giang hồ, Đàn chỉ thần công và Đoạn kiếm thù Ngọa Long webgame
24297
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ngo%E1%BA%A1%20Long%20t%E1%BB%B1
Ngoạ Long tự
Bài này viết về tên một ngôi chùa tại Tây An, Trung Quốc. Các nghĩa khác xin xem thêm Ngọa Long. Ngoạ Long tự (臥龍寺) là một ngôi chùa ở phố Bách Thụ Lâm (柏樹林), thành phố Tây An (西安), tỉnh Thiểm Tây (陝西), Trung Quốc, được xây cất vào đời nhà Tuỳ, ban đầu gọi là "Phúc Ứng Thiền tự" (福應禪寺). Bởi hoạ gia đời nhà Đường là Ngô Đạo Tử từng vì tự viện mà vẽ tượng Quan Âm nên còn được gọi là "Quan Âm Tự" (觀音寺). Đầu đời nhà Tống, cao tăng Huệ Quả vào viện làm trụ trì, suốt ngày nằm dài nên người đời gọi là "Ngoạ Long Hoà Thượng", tự viện cũng được gọi là Ngoạ Long tự. Từ đời Tống Nguyên trở đi đã trở thành thập phương thiền lâm. Đời nhà Minh, Tần vương Phiên Phủ từng bỏ của cải ra trùng tu, cho nên hàng ngàn năm qua hương khói không dứt. Những vị trụ trì nhiều đời đều là đại đức cao tăng, nhất là thích sưu tập trân vật Phật môn. Tự viện cất giữ bối diệp kinh Ấn Độ, tượng Phật đá đời Bắc Nguỵ, đều có giá trị lịch sử. Ngoài ra còn có chuông sắt đúc vào khoảng niên hiệu Hàm Bình (998-1003) đời Tống và lư hương bằng đá Đại lý do Lạt-ma Tây Tạng lưu tặng, đều là những trân phẩm hiếm có. Chú thích Tham khảo Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.) Từ điển Thiền Tông Hán Việt. Hân Mẫn & Thông Thiền biên dịch. TP HCM 2002. Chùa Trung Quốc
24305
https://vi.wikipedia.org/wiki/Marco%20Polo
Marco Polo
Marco Polo (; 1254 – 8 tháng 1, 1324) là một thương gia và nhà thám hiểm gốc Venezia (Ý). Trong số các nhà thám hiểm, ông, cùng cha (Niccolò) và chú (Maffeo)là một trong những người châu Âu đầu tiên đến Trung Quốc (nơi mà Marco Polo gọi là Katai) bằng Con đường tơ lụa cũng như đến thăm vị khả hãn Mông Cổ Hốt Tất Liệt. Những cuộc du hành của ông đã được ghi lại trong cuốn Il Milione (còn sách được biết với các tên Marco Polo du ký và Miêu tả thế giới). Hiện nay Marco Polo được nhiều người coi là một trong những du hành gia vĩ đại nhất, mặc dù rằng những người thời ông chỉ coi ông như một người biết kể chuyện dí dỏm tài tình, còn những câu chuyện của ông là những chuyện hoang đường, viễn tưởng. Cũng cần lưu ý rằng, một số đoạn trong những câu chuyện của ông và cùng với sự hiện diện của ông tại triều đình Trung Quốc đều không được nhắc tới trong sử sách Trung Hoa. Cũng vì thế mà nhiều người đã tỏ ý nghi ngờ về tính trung thực cho những chuyến du hành của ông (xem phần sau dưới đây). Các cuộc du hành của Marco Polo cùng với gia đình ông đã kéo dài gần hai chục năm. Sau khi trở về, Marco Polo đã bị bắt trong trận thủy chiến trên biển xảy ra giữa Venezia và Genova. Bị giam trong tù, ông đã kể lại các chuyến du hành của mình cho người bạn cùng bị giam là Rustichello da Pisa, và sau đó hai người đã gộp các truyện vào cuốn Il Milione nói ở trên. Cuộc đời Từ lúc trẻ thời khi bị người Genoa bắt giữ Thời gian và địa điểm chính xác khi Marco Polo ra đời vẫn chưa được biết, và các lý thuyết hiện tại hầu hết đều là phỏng đoán. Tuy nhiên, ngày tháng thường được dẫn ra nhất là trong khoảng năm 1254, và nói chung chấp nhận rằng Marco Polo sinh tại Cộng hoà Venice. Tuy nơi sinh chính xác không được biết, hầu hết những người viết tiểu sử đều coi Venice là quê hương của Marco Polo. Cha ông Niccolò là một nhà buôn thường buôn bán với Trung Đông, trở nên giàu có và có danh tiếng lớn. Niccolò và anh/em trai mình là Maffeo đã thực hiện một chuyến đi buôn, trước khi Marco ra đời. Năm 1260, Niccolò và Maffeo định cư tại Constantinopolis khi họ dự đoán có sự thay đổi chính trị; họ đã chuyển tài sản thành đồ quý và ra đi. Theo Các chuyến du hành của Marco Polo, họ đã đi qua hầu hết châu Á, và đã gặp gỡ Hốt Tất Liệt. Trong lúc đó, mẹ của Marco Polo mất, và ông được một người chú và thím nuôi dạy. Polo được giáo dục tốt, và đã học các môn về buôn bán gồm cả ngoại tệ, định giá, và chỉ huy tàu chở hàng, dù ông ít hay không học tiếng Latin. Năm 1269, Niccolò và Maffeo quay trở lại Venice, lần đầu gặp Marco. Năm 1271, Marco Polo (khi ấy 17 tuổi), cha ông, và người chú đi tới châu Á trong một loạt các chuyến thám hiểm mà sau này được ghi lại trong cuốn sách của Marco. Họ quay trở lại Venice năm 1295, 24 năm sau, với nhiều tiền bạc và của cải. Họ đã đi qua tới 15.000 dặm (24.140 km). Khi họ trở lại, Venice đang có chiến tranh với Genoa, và Marco Polo bị bắt làm tù binh. Ông bỏ vài tháng trong tù để đọc lại bản tường thuật chi tiết về các chuyến đi của mình cho người bạn tù, Rustichello da Pisa, người đã thêm vào cả những câu chuyện của mình cùng với những giai thoại và những câu chuyện đương thời khác từ Trung Quốc. Cuốn sách được gọi là Những chuyến du hành của Marco Polo, và kể lại các chuyến đi của Polos xuyên qua châu Á, khiến người châu Âu có được cái nhìn chi tiết đầu tiên về vùng Viễn Đông, gồm cả Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản. Marco Polo cuối cùng được thả vào tháng 8 năm 1299, và quay trở về nhà ở Venice, nơi cha và chú ông đã mua một ngôi nhà lớn ở quận trung tâm tên là contrada San Giovanni Crisostomo. Họ tiếp tục công việc và Marco nhanh chóng trở thành một nhà buôn giàu có. Polo tài trợ cho các chuyến thám hiểm khác, nhưng không bao giờ rời bỏ Venice một lần nữa. Năm 1300, ông cưới Donata Badoer, con gái của Vitale Badoer, một nhà buôn. Họ có ba con gái tên là Fantina, Bellela và Moreta. Cái chết Năm 1323, Polo bị ốm liệt giường. Ngày 8 tháng 1 năm 1324, dù các thầy thuốc đã cố gắng điều trị, Polo đã hấp hối. Để viết và xác nhận ý muốn của ông, gia đình ông đã yêu cầu Giovanni Giustiniani, một thầy tu ở San Procolo. Vợ ông, Donata, và ba cô con gái được ông chỉ định làm người đồng thừa hành. Nhà thờ theo luật pháp được thừa hưởng một phần tài sản của ông; ông đồng ý điều này và muốn rằng thêm một khoản nữa sẽ được chi cho nhà tu San Lorenzo, nơi ông muốn được chôn cất. Ông cũng trả tự do cho một "nô lệ người Tartar "người có thể đã theo ông về từ châu Á. Ông chia phần tài sản còn lại, gồm nhiều bất động sản, cho các cá nhân và các định chế tôn giáo, và mọi phường hội và hội nhóm ông tham gia. Ông cũng xoá bỏ nhiều khoản nợ gồm cả khoản 300 lire mà người chị/em dâu nợ ông, và những khoản khác cho nhà tu San Giovanni, San Paolo thuộc Hội những Người thuyết pháp, và một giáo sĩ tên là Friar Benvenuto. Ông ra lệnh trả 220 soldi cho Giovanni Giustiniani vì công việc làm công chứng viên và những lời cầu nguyện của ông. Chúc thư, không được ký bởi Polo, nhưng sau đó đã trở nên có tính pháp lý theo quy định "signum manus" liên quan, theo đó người để lại di chúc chỉ cần chạm vào văn bản để nó trở thành có hiệu lực pháp luật, được đề ngày 9 tháng 1 năm 1324. Vì luật của Venice nói rằng ngày chấm dứt khi hoàng hôn, ngày mất chính xác của Marco Polo không thể được xác định, nhưng nó trong khoảng giữa hai buổi hoàng hôn ngày 8 và 9 tháng 1 năm 1324. Marco Polo du ký Một phiên bản chuẩn xác của cuốn sách của Marco Polo không tồn tại, và những văn bản chép tay thời kỳ đầu khác biệt. Các phiên bản được xuất bản của cuốn sách của ông hoặc dựa trên các bản chép tay riêng lẻ, hoặc trộn lẫn giữa nhiều bản hay thêm các ghi chú để chú giải, ví dụ, bản dịch tiếng Anh của Henry Yule. Một phiên bản dịch tiếng Anh khác của A.C. Moule và Paul Pelliot, được xuất bản năm 1938, dựa trên bản chép tay tiếng Latin được tìm thấy trong thư viện tại Thánh đường Toledo năm 1932, và dài hơn 50% so với các bản khác. Xấp xỉ 150 biến thể trong nhiều ngôn ngữ được biết có tồn tại, và vì thời ấy chưa có kỹ thuật in ấn nhiều lỗi đã phát sinh trong quá trình sao chép và biên dịch, dẫn tới nhiều sự không nhất quán. Các câu chuyện Cuốn sách bắt đầu với một lời nói đầu về chuyến đi của cha và chú ông tới Bolghar nơi Hoàng tử Berke Khan sống. Một năm sau, họ tới Ukek và tiếp tục đi đến Bukhara. Tại đây, một phái viên từ Cận Đông đã mời họ tới gặp Hốt Tất Liệt, người chưa từng gặp gỡ người châu Âu. Năm 1266, họ tới triều đình của Hốt Tất Liệt tại Đại Đô (Khanbaliq), hiện là Bắc Kinh, Trung Quốc. Vị Hãn đã đón tiếp hai anh em với lòng mến khách và hỏi họ nhiều câu về hệ thống pháp lý và chính trị châu Âu. Hốt Tất Liệt cũng hỏi về Giáo hoàng và Nhà thờ tại Roma. Sau khi hai anh em trả lời các câu hỏi Hốt Tất Liệt yêu cầu họ mang một bức thư tới Giáo hoàng, yêu cầu 100 tín đồ Thiên chúa giáo thông thạo Bảy môn Nghệ thuật (văn phạm, tu từ, logic, hình học, số học, âm nhạc và thiên văn học). Hốt Tất Liệt yêu cầu một phái viên mang về cho ông dầu trong ngọn đèn ở Jerusalem. Khoảng thời gian trống dài giữa cái chết của Giáo hoàng Clement IV vào năm 1268 và cuộc bầu cử người kế nhiệm ông đã khiến hai anh em nhà Polo phải đợi chờ lâu khi thực hiện ý nguyện của vị Đại Hãn. Họ theo lời khuyên của Theobald Visconti, khi ấy là Giám mục đại diện Giáo hoàng tại vương quốc Ai Cập, và quay trở lại Venice năm 1269 hay 1270 để đợi việc tuyên bố Giáo hoàng mới, điều này giúp Marco lần đầu tiên được thấy mặt cha mình, khi ông mười lăm hay mười sáu tuổi. Năm 1271, Niccolò, Maffeo và Marco Polo thực hiện chuyến đi của mình để thực hiện ý nguyện của Hốt Tất Liệt. Họ đi thuyền tới Acre, và sau đó cưỡi lạc đà tới cảng Hormuz của Ba Tư. Họ muốn đi thuyền tới Trung Quốc, nhưng những con tàu ở đó không đủ chất lượng để đi biển, vì thế họ tiếp tục đi đường bộ cho tới cung điện mùa hè của vị Hãn tại Thượng Đô (Shangdu/Xanadu), gần Trương Gia Khẩu ngày nay. Ba năm rưỡi sau khi rời Venice, khi Marco khoảng 21 tuổi, Hốt Tất Liệt đón họ tại lâu đài của ông. Ngày chính xác khi họ tới nơi không được biết, nhưng các học giả ước tính nó trong khoảng giữa năm 1271 và 1275. Khi tới triều đình Mông Cổ, ba thành viên nhà Polos đã đệ trình dầu thánh mang về từ Jerusalem và các bức thư của Giáo hoàng bảo trợ cho họ. Marco biết bốn ngôn ngữ, và gia đình ông đã có được nhiều hiểu biết và kinh nghiệm có ích lợi cho vị Hãn. Có lẽ ông đã trở thành một vị quan trong triều; ông đã viết về nhiều chuyết đi thăm với tư cách đại diện triều đình tới các tỉnh miền nam và miền đông Trung Quốc, vùng phía nam xa xôi và cả Miến Điện. Hốt Tất Liệt không đồng ý thỉnh cầu của nhà Polo rời khỏi Trung Quốc. Họ trở nên lo lắng về khả năng trở về của mình, tin rằng nếu vị Hãn qua đời, các kẻ thù của ông sẽ quay sang chống họ bởi họ là những người thân cận của ông. Năm 1292, cháu của Hốt Tất Liệt, khi ấy là vua cai trị Ba Tư, gửi các đại diện tới Trung Quốc để cầu hôn, và họ yêu cầu gia đình Polo tháp tùng cô dâu, vì thế họ được phép quay trở lại Ba Tư với phái đoàn đưa dâu – xuất phát cùng năm ấy từ Tuyền Châu (Zaitun) ở miền Nam Trung Quốc với một hạm đội 14 thuyền mành. Phái đoàn đi tới cảng Singapore, tiếp tục hướng về phía nam tới Sumatra và đi quanh mũi cực nam Ấn Độ, cuối cùng, vượt qua Biển Ả Rập tới Hormuz. Chuyến đi kéo dài hai năm rất nguy hiểm – trong số 600 người (không gồm thủy thủ đoàn) trong phái đoàn chỉ 18 người còn sống (gồm cả ba thành viên gia đình Polo). Nhà Polo rời phái đoàn kết hôn sau khi tới Hormuz và đi theo đường bộ tới cảng Trebizond trên Biển Đen, Trabzon ngày nay. Di sản Tiếp tục thám hiểm Những nhà thám hiểm người châu Âu ít được biết đến hơn khác cũng đã đi tới Trung Quốc, như Giovanni da Pian del Carpine, nhưng cuốn sách của Polo là lần đầu tiên khiến chuyến đi của họ được biết tới rộng rãi. Christopher Columbus đã có cảm hứng từ ghi chép của Polo về chuyến đi của ông tới Viễn Đông để chính mình đi biển tới những miền đất đó; một bản copy cuốn sách luôn ở trong hành trang của ông, với những lời chú giải viết tay. Bento de Góis, có cảm hứng từ cuốn sách của Polo về một vương quốc Thiên chúa giáo ở phía đông, đã đi hơn bốn ngàn dặm trong ba năm xuyên qua Trung Á. Ông không bao giờ tìm thấy vương quốc này, nhưng đã kết thúc chuyến đi của mình tại Vạn lý trường thành năm 1605, chứng minh rằng "Cathay" là cái mà Matteo Ricci (1552-1610) gọi là "China" (Trung Quốc). Tưởng niệm Cừu Marco Polo, một phụ loài của cừu, được đặt theo tên nhà thám hiểm, người đã miêu tả nó khi ông đi qua Pamir (Núi Imeon cổ) năm 1271. Năm 1851, một thuyền cao tốc ba buồm được chế tạo ở Saint John, New Brunswick cũng lấy tên ông; the Marco Polo là chiếc tàu đầu tiên đi quanh thế giới trong sáu tháng. Sân bay tại Venice được đặt tên là Sân bay Marco Polo Venice, và Chương trình khách hàng thường xuyên của hãng Cathay Pacific tại Hồng Kông cũng được gọi là "Marco Polo Club". Quyển Marco Polo du ký đã được tiểu thuyết hoá trong Messer Marco Polo của Brian Oswald Donn-Byrne và tiểu thuyết năm 1984 của Gary Jennings The Journeyer. Polo cũng xuất hiện với tư cách một nhân vật chính trong tiểu thuyết của Italo Calvino Invisible Cities. Loạt phim truyền hình năm 1982, Marco Polo, được đạo diễn bởi Giuliano Montaldo và thể hiện các chuyến đi của Polo, đã giành hai Giải Emmy và còn được đề cử sáu giải khác. Marco Polo cũng xuất hiện như một Nhà Đại Thám hiểm trong tưa game chiến lược năm 2008 Civilization Revolution. Bản đồ học Xem thêm Lịch sử Dự án Gutenberg Những chuyến du hành của Marco Polo — Quyển 1 của Marco Polo và Rustichello của Pisa và Quyển 2 Con đường tơ lụa, mà Marco Polo đã đi qua. Niên biểu thám hiểm châu Á của người châu Âu Đầu những năm 1990 hai người bạn (Denis Belliveau và Francis O’Donnell), đã đưa ra ý tưởng thực hiện chuyến đi theo dấu chuyến đi của Marco Polo từ Venice, tới Trung Quốc bằng đường bộ và đường biển. Hư cấu lịch sử Loạt phim truyền hình năm 2007, Marco Polo, với diễn viên Brian Dennehy đóng vai Hốt Tất Liệt, và Ian Somerhalder vai Marco, thể hiện Marco Polo bị bỏ lại một mình ở Trung Quốc khi cha và chú ông quay trở lại Venice, họ gặp lại ông sau nhiều năm. Loạt phim năm 1982, với diễn viên Ken Marshall và Ruocheng Ying, và mất hơn một năm để thực hiện, dường như chi tiết và chính xác hơn về mặt lịch sử. Ý nghĩa lịch sử Mặc dù rằng Marco Polo và gia đình của ông không phải là những người châu Âu đầu tiên đã tới được Trung Quốc bằng đường bộ (trước đó đã có Giovanni da Pian del Carpini), song nhờ cuốn sách của ông mà cuộc hành trình này đã trở nên quen thuộc rộng rãi, và là cuộc hành trình đầu tiên đến Viễn Đông đã được ghi thành tài liệu chi tiết. Huyền thoại cũng kể rằng Marco Polo đã mang về cho nước Ý nhiều sản phẩm mới, ví dụ như kem ăn, piñata và mì sợi, trong đó có spaghetti. Mặc dù vậy, giá trị của những tin tức này rất đáng ngờ, bởi lẽ có những điều chứng tỏ rằng mì sợi tại Ý đã được biết đến từ thời Cổ đại (Cổ đại - được coi là từ năm 5000-4000 TCN tới năm 476, năm lật đổ Hoàng đế La Mã cuối cùng). Tên tuổi của Marco Polo đã được đặt cho phi trường tại Venezia và cho một loạt các vệ tinh truyền hình. Đọc thêm Ghi chú Tham khảo Thư mục (tái bản năm 2006 trong World Almanac Books; bản trực tuyến tại History.com) Marco Polo. (2010). In Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2010 từ Encyclopædia Britannica Online: http://www.britannica.com/EBchecked/topic/468139/Marco-Polo Liên kết ngoài Polo's travels Polo and China Marco Polo's Description of the World - từ cuốn sách của Frances Wood Did Marco Polo Go to China? F. Wood's "Did Marco Polo Go To China?" - Một phân tích phê bình lý thuyết này của Dr Igor de Rachewiltz thuộc Đại học Quốc gia Australia Các mục lục của "Description of the World" dựa trên văn bản tiếng Italia Sinh năm 1254 Mất năm 1324 Thương nhân Ý Nhà thám hiểm thế kỷ 13 Nhà thám hiểm Ý Người thám hiểm châu Á Người thám hiểm Trung Á Người nước ngoài ở Trung Quốc Nhà thám hiểm Cộng hòa Venezia
24309
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0n%20tranh
Đàn tranh
Đàn tranh (chữ Nôm: 彈箏, , Hán Việt: cổ tranh) còn được gọi là đàn thập lục hay đàn có trụ chắn, là nhạc cụ truyền thống của người phương Đông, có xuất xứ từ Trung Quốc. Đàn thuộc họ dây, chi gảy; ngoài ra họ đàn tranh có cả chi kéo và chi gõ. Loại 16 dây nên đàn còn có tên gọi là đàn Thập lục. Nay đã được tân tiến thành 21 - 25, 26 dây (cổ tranh của Trung Quốc). Ngoài khả năng diễn tấu giai điệu, ngón chơi truyền thống của đàn tranh là những quãng tám rải hoặc chập và ngón đặc trưng nhất là vuốt trên các dây và gảy dây,ngoài ra có cả dạng dùng vĩ kéo hay dùng que gõ. Đàn tranh là nhạc khí dùng để độc tấu, hòa tấu, đệm cho hát và được chơi trong nhiều thể loại âm nhạc như các dàn nhạc dân ca, kết hợp với những ca khúc của C-pop, nhạc Âu Mỹ,... Trong khi các quốc gia phương Đông có những nhạc cụ nhiều dây như đàn tranh, đàn sắt thì với người phương Tây họ có đàn zither. Vậy nên đàn tranh phương Đông cũng có tầm sánh ngang zither phương Tây, tuy âm điệu của chúng hoàn toàn khác nhau. Ngoài ra, những loại đàn thuộc họ đàn tranh ở hầu hết các nước trong khu vực châu Á luôn có một phiên bản mini cho trẻ em và người mới chơi học diễn tấu. Nguồn gốc lịch sử Lịch sử của đàn tranh kéo dài từ lịch sử Trung Quốc thời kỳ đầu. Đó là một trong những nhạc cụ có dây quan trọng nhất được tạo ra ở Trung Quốc, trước khi đàn cổ tranh ra đời, người Hoa đã chế tạo ra đàn sắt (sắt cầm hoặc cổ sắt) (瑟 hoặc 古瑟 hay 瑟琴 Bính âm: Sè, gǔ sè, Sè qín), có âm vực rộng tới 5 quãng tám. Đàn sắt là một nhạc cụ rất phổ biến trong thời Tây Chu và thời Xuân Thu. Các mẫu vật còn sót lại đã được khai quật từ những nơi như tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam và khu vực Giang Nam của Trung Quốc. Những nơi khác bao gồm Giang Tô, An Huy, Sơn Đông và Liêu Ninh. Ở Hồ Bắc, lăng mộ của Tăng Hầu Ất (cuối thập niên 400 trước Công nguyên) là một kho báu của các nhạc cụ cổ xưa của Trung Quốc, bao gồm một bộ hoàn chỉnh của biên chung (chuông đồng), đàn sắt và đàn cổ cầm, chuông đá (biên khánh) và trống. Đoàn tùy tùng âm nhạc của ông gồm 21 cô gái và phụ nữ cũng được chôn cất cùng ông. Vào thời Chiến Quốc, các loại cổ tranh ban đầu đã xuất hiện, được phát triển từ đàn sắt. Vì vậy, đôi khi người ta nói rằng cổ tranh về cơ bản là một phiên bản nhỏ hơn và đơn giản hơn đàn sắt rất nhiều. Đàn sắt cũng được trưng bày ở các bảo tàng lịch sử và dân tộc ở Trung Quốc, nhiều nghệ nhân cũng chơi loại đàn này và nếu như có bán ra thị trường thì giá của đàn sắt vô cùng đắt đỏ so với cổ tranh. Chính vì vậy đàn sắt vô cùng hiếm đưa vào sử dụng trong dàn nhạc dân tộc để hoà tấu nên đàn sắt luôn trở thành thứ bị quên lãng. Theo truyền thuyết, Phục Hy đã tạo ra đàn sắt. Và do đó, người ta tin rằng vào thời nhà Hạ, sắt cầm đã ra đời. Cũng có nhiều đề cập trong văn học Trung Quốc, như trong Kinh Thư (Cổ điển của thơ ca) và Luận ngữ của Khổng Tử. Sắt cầm luôn là một nhạc cụ cao cấp. Ngay từ thời nhà Chu, nó đã được sử dụng để chơi nhạc theo nghi thức để cúng tế. Từ đó cổ tranh đã trải qua nhiều thay đổi trong lịch sử lâu dài của nó. Mẫu vật lâu đời nhất được phát hiện là đàn tranh 14 dây và có niên đại khoảng 500 năm TCN, có thể trong thời Chiến Quốc (475 năm trước Công nguyên). Cổ tranh trở nên nổi bật trong triều đại Tần (221 Tái 206 TCN). Vào thời nhà Đường (618 TCN), cổ tranh có thể là nhạc cụ được chơi phổ biến nhất ở Trung Quốc lúc bấy giờ. Có nhiều tài liệu khác nhau về cách cổ tranh xuất hiện. Cổ tranh Trung Quốc được phát minh bởi Mông Điềm, một vị tướng của triều đại Tần (221-206 trước Công nguyên), chịu ảnh hưởng lớn từ đàn sắt. Do đàn sắt tuy có 50 dây nhưng trọng lượng của nó vô cùng nặng nên Mông Điềm mới nghĩ ra một loại nhạc cụ tương tự đàn sắt với kích thước nhỏ hơn đàn sắt, dễ di chuyển và không quá khó khăn khi mang vác, ông gọi thứ đàn đó là đàn tranh hay cổ tranh. Một số người tin rằng cổ tranh ban đầu được phát triển dưới dạng đàn tam giác bằng tre như được ghi lại trong thuyết văn giải tự, sau đó được thiết kế lại và làm từ những tấm gỗ cong lớn hơn và những con nhạn của đàn có thể di chuyển. Một truyền thuyết thứ ba nói rằng xuất hiện khi hai người song tấu với đàn cổ tranh loại 25 dây. Họ đã cải tiến nó thành 16, 17, 18 và 21 dây. Dây đã từng được làm bằng lụa, nhưng dây bằng lụa ngày nay chỉ có dòng đàn tranh của Triều Tiên mới sử dụng. Trong triều đại nhà Thanh (1644-1912 CE), các dây này chuyển sang dây đồng thau. Dây hiện đại hầu như luôn được bọc thép bằng nylon. Được giới thiệu lần đầu tiên vào những năm 1970, các dây đàn đa vật liệu này đã tăng âm lượng của nhạc cụ trong khi vẫn duy trì âm sắc chấp nhận được. Tại Trung Quốc, có ít nhất nửa tá phong cách chơi cổ tranh theo trường phái khu vực riêng biệt; niên đại ít nhất là từ thời nhà Đường, tức là hơn 1.000 năm trước, có hai phong cách chơi đàn tranh riêng biệt: đàn tranh (弹筝, tức gảy đàn tranh với móng giả) và sưu tranh (搊筝 - chơi đàn tranh bằng đầu ngón tay). Các hoạ tiết trên cổ tranh bao gồm nghệ thuật chạm khắc, sơn mài chạm khắc, khảm xà cừ, tranh, thơ, thư pháp, chạm khắc vỏ (ngọc) và pháp lam. Phong cách chơi trước tiên được phân chia giữa miền Bắc và miền Nam trước khi được chia nhỏ thành các trường khu vực cụ thể. Các trường phái trong khu vực là một phần của phong cách phương Bắc bao gồm Hà Nam, Thiểm Tây, Sơn Đông và Chiết Giang. Các trường phái trong khu vực được bao gồm trong phong cách miền Nam bao gồm Triều Châu, Phúc Kiến và Khách Gia. Cũng từ đàn sắt và đàn cổ tranh mà người Trung Quốc còn chế tạo ra hai loại đàn là đàn trúc (筑) do Cao Tiệm Ly chế tác, sử dụng một que để gõ vào dây đàn tương tự đàn tam thập lục, một tay dùng ngón để nhấn dây đàn (chi gõ). Đôi khi đàn trúc cũng được dùng 2 que gõ, ban đầu đàn trúc cũng chỉ vỏn vẹn 5 dây và không có con nhạn như cổ cầm, sau đó được mắc thêm con nhạn và kể từ đó đàn trúc có ba loại: 5 dây, 12 dây và 20 dây (phái trúc - 沛筑) ; ngưu cân cầm (牛筋琴) cũng thuộc đàn tranh chi gõ là loại đàn tranh kích thước từ nhỏ cho tới lớn như đàn sắt, sử dụng que tre để gõ tương tự đàn trúc. Thân đàn hình chữ nhật lớn và nó chuyên trị dòng nhạc dân ca ở Ôn Châu, Triết Giang và đàn yết tranh (轧筝) có từ thời nhà Đường, sử dụng cây vĩ để kéo (chi kéo) mà du nhập vào bán đảo Triều Tiên trở thành đàn ajaeng (hangul:아쟁, Hanja:牙; Hán Việt: nha tranh). Riêng với người Choang, yết tranh của họ được gọi là tranh ni (琤尼) hay toả cầm (挫琴), nhỏ hơn yết tranh và văn chẩm cầm (文枕琴) - yết tranh cỡ nhỏ chỉ vỏn vẹn 9 dây. Tuy nhiên thì văn chẩm cầm không dùng từng con nhạn rời rạc mà dây đàn của văn chẩm cầm được mắc bới một cầu đàn hình vòng cung. Nếu yết tranh Trung Quốc cũng như ajaeng Triều Tiên kéo theo phương nằm ngang khi đặt đàn thì văn chẩm cầm và tranh ni được đặt dọc để chơi, giống như kéo đàn cello. Cũng chính vì thế mà họ đàn tranh Châu Á ngày càng trở nên phong phú. Ngưu cân cầm là đàn tranh dùng que gõ truyền thống ở tỉnh Chiết Giang, trong đó huyện Bình Dương là cái nôi ra đời của nhạc cụ này. Trước đây, dây đàn được làm từ gân bò, trải qua công đoạn rửa sạch, lấy gân từ xương bò, tách sợi, phơi khô nhưng ngày nay ngưu cân cầm hầu như sử dụng dây cước hay nhựa tổng hợp. Về giá trị bảo vệ, ngưu cân cầm có giá trị trong lịch sử, văn hóa, thực tiễn và sự khéo léo. Về mặt giá trị lịch sử, nó đã được phát triển thành công vào thời Quảng Đông kể từ thời nhà Thanh và có lịch sử hơn 100 năm. Toả cầm - đàn tranh dùng vĩ, cùng họ với yết tranh và văn chẩm cầm trong họ đàn tranh, chi kéo. là một nhạc cụ cổ xưa và đặc biệt, chỉ được tìm thấy ở Thanh Châu. Nguồn gốc của nghệ thuật đàn tỏa cầm Thanh Châu liên quan đến nguồn gốc của âm nhạc dây Trung Quốc và thậm chí cả thế giới của âm nhạc có dây. Nó có giá trị lịch sử cao để nghiên cứu sự phát triển của âm nhạc cổ đại. Vào ngày 10 tháng 12 năm 2008, hội nghị chuyên đề Thanh Châu tỏa cầm do Nhạc viện Trung Quốc tổ chức đã được tổ chức tại Bắc Kinh, đã thu hút sự chú ý mạnh mẽ từ ngành công nghiệp âm nhạc về một nhạc cụ đã biến mất trong lịch sử nhạc cụ Trung Quốc cổ đại. Tỏa cầm Thanh Châu đã được tái phát hiện và vẫn có một di sản kỹ năng sống động, làm cho lịch sử của các nhạc cụ dây Trung Quốc sớm hơn 1500 năm so với ở phương Tây. Đàn tranh này có thể nói là có nghĩa là "hóa thạch sống". Loại toả cầm được sử dụng phổ biến nhất ở Thanh Châu là toả cầm sử dụng dây kép. Đàn tranh của người Triều Châu Trung Quốc gồm có hai loại: truyền thống (传统) và cách tân (革新); có ý kiến cho rằng nó được sản xuất năm 1800 tại Quảng Châu, Trung Quốc. Loại này được thiết kế theo phong cách thời nhà Tống. Đàn tranh Việt Nam cũng ảnh hưởng rất nặng từ loại đàn tranh Triều Châu truyền thống: có trục đàn và dây bằng thép mảnh, trong khi loại cách tân chốt dây được giấu trong hộp điều âm. Đàn tranh Triều Châu ảnh hưởng mạnh tới các trường phái lớn của hệ thống trường phái đàn tranh Trung Quốc. Âm nhạc Triều Châu là một trong những loại nhạc dân gian cổ xưa của Trung Quốc, chủ yếu lan rộng ở phía đông Quảng Đông, miền nam Phúc Kiến, Đài Loan, Hồng Kông và Ma Cao và những nơi người Triều Châu sống ở các nước Đông Nam Á. Nó có một lịch sử lâu dài, nền tảng đại chúng của nó là vững chắc và sâu sắc, và tiết mục của nó khá phong phú. Có hàng ngàn âm nhạc hiện có. Với sự thay đổi của lịch sử, âm nhạc Triều Châu đã hình thành những đặc trưng và phong cách nghệ thuật độc đáo. Đây là một phần không thể thiếu trong kho tàng văn hóa nghệ thuật và là một di sản âm nhạc dân gian có giá trị. Nhạc phẩm Hàn nha hí thủy (寒鸦戏水) được cho là kinh điển khi chơi với đàn tranh Triều Châu dây thép. Như vậy, niên đại về đàn tranh Trung Quốc cũng cho thấy qua từng thời kỳ và từng triều đại Trung Hoa mà hậu nhạc sơn (后岳山) và đuôi đàn (琴尾 cầm vĩ) của đàn tranh có sự biến đổi khác nhau theo thời gian. Loại cổ tranh ngày nay của Trung Quốc có tiền nhạc sơn dạng chữ S gợn sóng, hoặc chữ C,... Đàn tranh cải tiến Đàn tranh cánh bướm Năm 1978, Hà Bảo Tuyền (何寶泉) và Nhạc viện Thượng Hải đã phát triển và phát minh ra đàn tranh cánh bướm, Hán Việt đọc là Điệp thức tranh (). Đàn tranh cánh bướm này có hai cột được sắp xếp theo thang ngũ âm và có 2 vùng biểu diễn (tức 2 bên mặt đàn có thể diễn tấu 2 tay). Nó có thể chơi tất cả các nửa cung của thang ngũ âm, thang thứ bảy hoặc mười hai nhịp bằng nhau, giữa các hợp âm nhất định của thang ngũ âm, và cũng được trang bị móc dây để thay đổi cao độ của một số dây cố định. Đàn tranh cánh bướm vốn có ngoại hình như một con bướm khổng lồ đang xòe cánh bay thì nó chuyên trị những bản nhạc giao hưởng phương Tây và chơi rất dễ dàng so với cổ tranh phải nhấn dây rất nhiều. Tân tranh Hiện nay, ở Đài Loan đang có loại đàn tranh độc lạ, có tên là chuyển điều tranh () hay tân tranh (). . Theo như hợp âm, hai mươi bốn hợp âm chính và phụ chỉ là "135" và "613" trong cổ tranh truyền thống. Ngoài ra, cổ tranh truyền thống rất khó điều chỉnh, thiếu âm thanh và thiếu nhịp điệu, điều này hạn chế sự sáng tạo của nhà soạn nhạc và hạn chế nghiêm trọng phạm vi sử dụng của nó. Để thay đổi tình trạng này, nhiều nghệ sĩ biểu diễn và chuyên gia sản xuất nhạc cụ trong và ngoài nước đã tiếp tục phát triển và cải cách cổ tranh. Họ đã đề xuất nhiều chương trình và phát triển nhiều "chuyển điều tranh". Sự cải tiến mang tính cách mạng nhất đối với đàn tranh nên là sự phát triển thành công của đàn tranh, đây là một bước đột phá lớn khác trong lịch sử của đàn tranh. Cải cách ban đầu của cổ tranh được phản ánh nhiều hơn ở sự gia tăng số lượng dây, và cải cách đàn tranh mới đã phá vỡ ranh giới này. Cải tiến cổ tranh từ một góc độ khác thậm chí còn quan trọng hơn so với loạt cải cách ban đầu. Đàn tranh cải biên đã phá vỡ hoàn toàn phương pháp hiệu suất ngũ giác ban đầu, và phá vỡ hoàn toàn giới hạn của thang âm ngũ cung đối với sức mạnh biểu cảm của đàn sắt và cổ tranh trong hàng trăm năm, giúp cổ tranh dễ dàng điều chỉnh và sở hữu mười hai luật bằng nhau. Về lý thuyết, chức năng hòa âm của nó gần như tương đương với đàn piano, đây là một bước nhảy vọt khác trong lịch sử của cổ tranh Trung Hoa. Đàn tranh mới giải quyết mâu thuẫn giữa phát triển và kế thừa, và hoàn toàn tương thích với đàn tranh truyền thống. Chơi đàn chuyển điều tranh này về cơ bản không cần thay đổi phương pháp chơi hay huấn luyện đặc biệt, cho phép cải biên lối chơi của cổ tranh. Kinh nghiệm vẫn có giá trị thực tế. Các chức năng khác của chuyển điều tranh là không thể đối với cổ tranh truyền thống. Chuyển điều tranh đã mở ra một thế giới rộng lớn cho việc tạo ra âm nhạc đàn tranh, sử dụng các kỹ năng chơi và sử dụng rộng rãi cổ tranh. Sự xuất hiện của đàn tranh thế hệ mới đã giải quyết được nhiều vấn đề. Nó không chỉ có thể được chuyển đổi, nó còn có thang đo bảy âm với tiền đề đảm bảo thang đo âm giai ngũ cung, và thậm chí nó có thể được điều chỉnh theo đầy đủ theo mười hai luật trung bình. Chuyển điều tranh đã khéo léo sử dụng các phương pháp như con nhạn gắn ở trung tâm và kết hợp hữu cơ của hai khu vực chơi trên cùng một đàn tranh để giải quyết vấn đề thiếu âm thanh. Con nhạn của đàn tranh kiểu mới nằm ở trung tâm của mặt đàn so với con nhạn cổ tranh được xếp chéo. Khu vực chơi bên trái được sắp xếp theo thứ tự bảy âm thanh và khu vực chơi bên phải được sắp xếp theo thứ tự năm âm thanh. Điều này giải quyết mâu thuẫn giữa kế thừa và phát triển. Tân tranh có thể sử dụng vùng biểu diễn bên phải để hoàn thành bất kỳ bản nhạc nào thuộc hệ thống ngũ cung hoặc chúng ta có thể sử dụng vùng biểu diễn bên trái để thực hiện các tác phẩm dựa trên hệ thống bảy thang âm. Nếu các vùng biểu diễn bên trái và bên phải được sử dụng kết hợp, các đặc điểm của cách sắp xếp nhạn kiểu ngũ cung và heptad có thể được sử dụng đầy đủ để phát các bản nhạc phức tạp khác nhau. Nếu chuỗi tỷ lệ của các vùng biểu diễn bên trái và bên phải được điều chỉnh một chút, nó sẽ có tất cả các nốt trong mười hai nhịp bằng nhau và về mặt lý thuyết có chức năng tương tự như piano. Theo cách này, nó có thể được điều chỉnh phù hợp với bất kỳ âm nhạc nào dựa trên mười hai mức trung bình. Điều đáng khen ngợi hơn nữa là, với mười hai âm điệu, mối quan hệ tương đối giữa âm thanh trong vùng biểu diễn phù hợp và âm thanh vẫn giữ nguyên, và sự sắp xếp âm vị vẫn là một sự sắp xếp ngũ cung. Mặc dù đó là sự sắp xếp ngũ cung, hoàn toàn có thể. Đáp ứng nhu cầu biểu diễn âm nhạc ngũ cung nói chung. Có thể nói rằng đàn tranh tân tiến được trang bị đầy đủ các chức năng của cổ tranh truyền thống; đàn tranh tân tiến có thể dễ dàng giải quyết các bài nhạc diễn tấu cấp độ khó mà cổ tranh truyền thống không thể diễn tấu được. Tân tranh gồm có 25 dây và 25 con nhạn mắc thẳng tắp mặt đàn, chia khoảng cách của tiền nhạc sơn và hậu nhạc sơn bằng nhau. Bên cạnh đó, có những con nhạn nhỏ phụ trợ thay cho việc nhấn dây. Sự quyến rũ trong âm sắc cổ tranh là đặc trưng của cổ tranh. Vị trí thích hợp của tay trái để nhấn dây đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện kỹ năng. Vị trí hợp âm lý tưởng là khoảng 16 cm từ phía bên trái của đàn tam thập lục, được xác định bởi độ căng của dây đàn tân tranh và phần mở rộng vừa phải của bàn tay trái. Vị trí không phù hợp phổ biến thường là hơn 20 cm. Bởi vì càng gần nhạn đàn tranh, độ căng của dây càng lớn và dây không thể được ép chặt, càng xa nhạn đàn tranh, dây càng mềm và độ căng của dây càng thấp. Một số người chơi diều có bàn tay trái của họ mở rộng ra để làm cho việc nhấn dây dễ dàng hơn, do đó vị trí của dây được thay đổi. Tay trái bị căng quá mức, làm tăng gánh nặng cho cánh tay, hình thức chơi trở nên không tự nhiên và ngón tay thường chạm vào mặt đàn. Có nhiều bản in móng trên mặt đàn bên trái của một số đàn tranh, nguyên nhân là do vị trí dây không đúng. Trong đào tạo cơ bản, chú ý đến tính chính xác của vị trí hợp âm tay trái, để các kỹ năng tay trái có thể được thể hiện đầy đủ. Có hai phương pháp chơi dây cơ bản: phương pháp gảy và phương pháp lướt dây. Phương pháp gảy: Hướng của ngón tay chơi dây là từ phía trên xiên sang bên dưới xiên, góc nghiêng 45 độ, dây trung âm dày và xanh, âm thanh đầy đặn. Khi chơi, ngón áp út có xu hướng nghỉ ngơi trên dây zheng một cách tự nhiên, để hỗ trợ bàn tay và giữ cho bàn tay thư giãn tự nhiên. Phương pháp clip là phương pháp cơ bản cho người mới bắt đầu chơi diều, và nó cũng là phương pháp cơ bản cho các kỹ thuật truyền thống. Phương pháp lướt dây: Hướng của các ngón tay chơi dây là từ xiên bên dưới đến xiên ở trên, góc nghiêng 45 độ, phát âm rõ nét và chất lượng âm thanh rõ ràng. Khi chơi, họ thường chơi mà không cần hỗ trợ. Trong quá trình huấn luyện cơ bản, thủ hình bàn tay không nên căng thẳng, và sự thư giãn tự nhiên của nửa nắm tay vẫn nên được duy trì. Nâng cao là một kỹ thuật quan trọng để thực hành nhanh chóng. Ngoài hai phương pháp cơ bản này, độ sâu của cảm ứng, sự điều chỉnh góc của cảm ứng, tốc độ và sức mạnh của cảm ứng đều mang lại những thay đổi lớn cho cách phát âm của cổ tranh. Trong đào tạo cơ bản, bạn phải học cách làm chủ các dây khác nhau, học cách điều chỉnh góc, độ mạnh và tốc độ của dây và áp dụng chúng vào hiệu suất của âm nhạc một cách tự do. Các phiên bản khác của đàn tranh Cổ tranh 9 dây Cổ tranh 9 dây () là phiên bản cổ tranh nhỏ gồm 9 dây đàn và chín con nhạn dành cho người tập chơi, đặc biệt là trẻ em. Ngoài ra còn có Cổ tranh liên chỉ khí () cũng dành cho người mới chơi. Cấu tạo của nó mô phỏng cổ tranh, thay thế con nhạn bằng 1 thanh gỗ dài mắc chéo dưới dây trên mặt đàn. Cổ tranh điện Cổ tranh điện là loại đàn tranh Trung Quốc được gắn thêm những pickup nam châm để khuếch đại âm thanh thông qua một amplifier hay PA system (hệ thống phân bố và khuếch đại âm thanh điện tử thông qua microphone, amplifier và loa). Cổ tranh 27, 36 và 39 dây Cổ tranh 36 dây () được tạo ra vào năm 1972 bởi Trương Chí Nhạc thuộc Nhà máy Nhạc cụ Tô Châu của tỉnh Giang Tô, những chiếc cổ tranh được kích hoạt bằng bàn đạp pedal đã xuất hiện để giải quyết những vấn đề tương tự như cổ tranh 21 dây hay đàn sắt đã điều chế trước đó - và có một số hạn chế tương tự. Đây là một loại cổ tranh với 36 dây đi kèm với 36 con nhạn được thực hiện trong khoảng thời gian đó, nó được điều chỉnh theo thang độ diatonic phương Tây. Biến thể của nó bổ sung thêm 3 dây & 3 con nhạn gọi là cổ tranh 39 dây (39弦筝). Loại 27 dây âm trầm được gọi là nhị thập thất huyền đê âm tranh (27弦低音箏). Cổ tranh 44 dây Một loại cổ tranh năm 1972 được tạo bởi Trương Chí Nhạc của Nhà máy nhạc cụ Tô Châu của tỉnh Giang Tô. Nó có 44 dây được điều chỉnh theo thang độ diatonic Đàn tranh đa âm Đàn tranh đa âm () hay gọi tắt là Đa thanh tranh (多声筝) được phát triển vào năm 2011 bởi giáo sư Lý Manh (李萌). Nó thực sự là hai chiếc đàn tranh kết hợp với nhau; có 21 dây được điều chỉnh theo thang âm cho phía bên phải, với 16 dây bổ sung được điều chỉnh theo âm giai ngũ cung ở phía bên trái. Có biểu đồ điều chỉnh bên dưới. Phạm vi của hai bên gần giống nhau, với bên 21 dây có tone A sâu hơn và dây 16 có tone D cao hơn Du nhập vào các quốc gia khác của châu Á Mông Cổ Yatga yatug-a, tiếng Mông Cổ: ятга yatga; ; tiếng Trung: 雅托葛) là loại đàn tranh của người Mông Cổ. Yatga có thể khác nhau về kích thước, điều chỉnh số lượng ngựa đàn và dây; Thân đàn là một hộp gỗ dài, một đầu của nó được đặt nghiêng xuống. Người biểu diễn gảy đàn bằng phần thịt đầu ngón của bàn tay phải; tay trái được sử dụng để nhấn lên dây đàn, thay đổi nốt nhạc. Tay trái cũng có thể được sử dụng để chơi các dải bass mà không cần plectrum (picks). Tùy thuộc vào kiểu dáng, các dây có âm sắc cao hơn được chọn bằng ngón tay hoặc bằng cách chọn. Loại yatga phổ biến nhất trong sử dụng đương đại là phiên bản 21 dây. Loại yatga này còn được gọi là "Master Yatga." Chiều dài của một nhạc cụ kích thước đầy đủ là 1,62m hoặc 63 inch. Các phiên bản ngắn hơn được lên nốt cao hơn. Một phiên bản 13 dây được gọi là "Gariin Yatga" (Hand Yatga). Các yatga có nguồn gốc từ cổ tranh Trung Quốc. Có một giả thuyết cho rằng, đàn sắt Trung Quốc loại 24 dây có phần đuôi đàn bẻ quặt xuống được du nhập vào Mông Cổ thời nhà Nguyên năm 1800 với chiều dài 223,8 cm hoặc 88 inch, người Mông Cổ gọi nó là yatga. Trong lịch sử Mông Cổ, do 24 dây của đàn sắt diễn tấu khó nên họ nghĩ ra phiên bản 12 dây được sử dụng tại triều đình vì lý do tượng trưng; 12 dây tương ứng với 12 cấp bậc của cung điện. Những người bình dân đã phải chơi trên một yatga 10 dây. Việc sử dụng phiên bản 12 dây trở lên được dành riêng cho triều đình và tu viện. Sử thi truyền thống của người Mông Cổ, Janggar kể về câu chuyện của một nàng công chúa trẻ đã từng chơi trên một chiếc yatga 800 dây với 82 con nhạn; cô ấy được cho là chỉ chơi ở 7 ngựa đàn thấp hơn. Nhật Bản Koto (tiếng Nhật: 箏), đôi khi gọi là Sō (tranh) là loại đàn tranh phổ biến nhất của xứ sở mặt trời mọc. Những phát hiện khảo cổ học cho thấy từ thời Yayoi hoặc Nara ở Nhật Bản đã có loại đàn 6 dây hoặc 5 dây được người Nhật gọi là Wagon hoặc Yamatogoto (đều viết là 和琴) giống với đàn koto ngày nay. Dân tộc Ainu ở Nhật Bản có đàn truyền thống giống đàn koto. Có thuyết cho rằng đàn này có nguồn gốc từ cây đàn do Mông Điềm, người nước Tần, sáng chế (xem đàn koto phần history). Từ thời cổ, Koto được gọi là "Wagon" (Hòa cầm) hay "Yamato goto" (Đại Hòa cầm) và là một loại nhạc cụ trong Nhã nhạc. Trong kho báu của vương triều Nhật Bản có một nhạc cụ tên là Sinlageum (Kanji: 新羅琴, Hiragana: しらぎ ごと, Hangul: 신라금), tương truyền có nguồn gốc từ Tân La, Triều Tiên du nhập sang. Cây đàn tranh Sillageum trông giống đàn tranh Jeongak Gayageum Hàn Quốc hiện nay, nhưng kích cỡ nhỏ gọn hơn và có dây đeo. Do đó, có phỏng đoán rằng người xưa quàng dây đeo cây đàn này lên người để diễn tấu. Triều Tiên và Hàn Quốc Gayageum Gayageum (hangul: 가야금, Hán Việt: Già da cầm) là đàn tranh của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Đại Hàn Dân quốc. Theo Tam quốc sử ký (hangul: 삼국사기) của Đại Hàn ghi lại về xuất xứ của đàn tranh 12 dây Gayageum. Trước khi có đàn tranh gayageum, người Triều Tiên có loại đàn gọi là Đại tranh (Daejaeng 대쟁; Hanja: 大箏). Trong thời đại Cao Ly, nó được sử dụng hoà tấu trong dàn nhạc nhã nhạc Gugak. Sau đó, ở Cao Ly, chủ yếu: 1) Chỉ được sử dụng cho nhạc Munmyo jeryeak (Văn miếu tế lễ nhạc). Kích thước đàn chơi cho nhã nhạc và chính thống hiện tại. 2) Nó dường như lớn hơn một chút so với gayageum. Mặt đàn được làm bằng gỗ cây ngô đồng và đáy đàn được làm bằng gỗ hạt dẻ. Độ dày của dây lớn hơn gayageum, dày nhất và dần dần mỏng hơn, đạt 15 dây. Sự xuất hiện của nó tương đương đàn tranh dùng vĩ kéo Ajaeng, mặt uốn cong được uốn cong xuống phía dưới giữa đuôi đàn với giá đỡ. 3) Với gỗ đen ở bốn góc và không có hình ở giữa. Một số điều chỉnh và chuyển ngữ có các dây tạo ra hai âm sắc trong một bản nhạc, như cách thể hiện trong dàn nhạc chính thống gugak. 4) Trong triều đại Joseon, nó chỉ được sử dụng ở Dangak. Họ đã sử dụng các sợi tơ đầy màu sắc hoặc sợi bông màu xanh lam. Trước khi có đàn tranh gayageum, một mảnh tàn tích của cây đàn tranh 10 dây được khai quật từ tàn tích của Thời đại đồ sắt ở Sinchang-dong, Gwangju vào năm 1997. Khám phá này đã gây ra sự quan tâm mới trong sự ra đời và phát triển của các nhạc cụ có dây cổ xưa. Các tấm gỗ của nhạc cụ dây này, được cho là đã được thực hiện trong thế kỷ đầu tiên trước Công nguyên. Hình dạng cơ bản của cây đàn tranh là làm từ gỗ và mặt đàn thuôn tròn giống chiếc chai, với một lỗ nhỏ ở đầu cố định một dây, và một hình chữ U ở đầu kia. Phần hình chữ U được nối với phần nhô ra hình tam giác ngược với hai lỗ vuông nhỏ. Lỗ nhỏ hình vuông ở một đầu của phần nhô ra được cho là được sử dụng để ghép chặt một thiết bị cố định dây riêng biệt. 2 trục lớn phần đuôi đàn đóng vai trò buộc dây bằng cách chèn nó vào cầu đàn. Kích thước của lỗ khớp là 2,3 cm x 1,8 đến 1,9 cm, độ sâu là 6,4 cm và khoảng cách giữa hai lỗ khoảng 2,4 cm. Chiều rộng tối đa còn lại của ống cộng hưởng là 15,9 cm (chiều rộng tối đa của phục hồi là 28,4 cm) và độ dày của phần hình chữ U là 5,7 cm. Phần trung tâm của tấm gỗ có hình chữ U, và bên trong được đào để lại chu vi. Một phần của phần dưới được đào thành hình chữ V, và sau đó một lỗ được khoan bên trong. Đó là một vòng tròn nhỏ có đường kính khoảng 0,3 cm và khoảng cách giữa các đường là khoảng 2,3 cm. Có sáu lỗ còn lại. Do đó, mặc dù người ta ước tính rằng 10 đến 12 chuỗi đã được phát trên thông cáo báo chí lần đầu tiên giới thiệu việc khai quật cổ vật, sự phục hồi đã xác nhận rằng đàn tranh này có 10 dây và 10 con nhạn hình chữ A. Gayageum được Gasilwang (가실왕 Gia Tất Vương) của vương quốc Gaya sáng chế. Trên thực tế, khi nhắc đến đàn tranh 12 dây Gayageum, thì người Hàn Quốc nhớ tới tên nhạc gia Wureuk (우륵 Vu Lặc), hơn là vua Gasil. Truyền rằng, Gaya là một vương quốc được hình thành từ 12 bộ tộc dùng các ngôn ngữ khác nhau. Lo ngại việc các bộ tộc không thể thông tin và hiểu nhau do khác biệt về ngôn ngữ, vua Gasil đã chế tác đàn tranh 12 dây Gayageum và ra lệnh cho nhạc gia Wureuk sáng tác nhạc phẩm, với niềm tin âm nhạc sẽ kết nối hiệu quả hơn ngôn ngữ. Hiểu ý nguyện của nhà vua, nhạc gia Wureuk đã sáng tác 12 nhạc phẩm. Đó là câu chuyện trong thế kỷ thứ VI. Tới nay, sau 1500 năm, đàn tranh 12 dây Gayageum vẫn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu. Vua Gasil của vương quốc Gaya những mong dùng âm nhạc để đoàn kết lòng dân và dẫn dắt quốc gia, nhưng thời thế đã không thuận theo mong ước của Gaya. Trước sự lớn mạnh của vương triều Silla, trong lúc vận mệnh của Gaya như ngọn đèn dầu trước gió, nhạc gia Wureuk đã mang cây đàn tranh 12 dây Gayageum tới Silla tị nạn. Không có sử sách nào ghi lại lý do nhạc gia Wureuk đưa ra quyết định này. Nhưng có lẽ là một nhạc gia, ông đã lựa chọn cách này để bảo vệ âm nhạc trước nguy cơ biến mất của âm nhạc một nước bại trận. Vua Jinheung (진흥 Chân Hưng) của Silla (Tân La) đã nhiệt liệt chào đón nhạc gia Wureuk, nhưng các quần thần lại kịch liệt phản đối vì lo ngại quốc gia sẽ trở nên rối ren nếu đưa vào sử dụng âm nhạc của một vương quốc vong tàn. Là một vị vua có tầm nhìn xa và quyết đoán, mặc dù vấp phải sự phản đối của quần thần, nhưng vua Chân Hưng vẫn cử ba người theo học âm nhạc và vũ đạo của nhạc gia Vu Lặc. Sau khi kế tục hoàn thiện âm nhạc của nhạc gia, các nhạc công trẻ đã sáng tác mới và tóm tắt 5 nhạc phẩm tiêu biểu nhất dành cho đàn tranh 12 dây Gayageum. Nói một cách khác, là họ đã diễn tấu âm nhạc Gayageum theo lối Tân La. Ban đầu, nhạc gia Vu Lặc đã nổi giận do học trò của mình đơn phương cải biến nhạc phẩm chính ông sáng tác. Song nghe xong bản nhạc biến tấu của học trò, Vu Lặc đã có lời bình rằng "Bản nhạc nghe vui nhưng không quá mức, có đoạn buồn nhưng không cảm thấy bi ai. Có thể nói đây là một loại hình âm nhạc mẫu mực, các trò có thể trình diễn trước quân vương". Các loại gayageum bao gồm: gaeryang gayageum (개량 가야금) có 17 dây, beopgeum (법금 Pháp cầm) 12 dây và nó còn gọi là pungyu gayageum (풍류 가야금), sanjo gayageum (산조 가야금), jeongak gayageum (정악 가야금) 18 dây, gayageum 25 dây (25 현 가야금). Trong đó, lịch sử của loại gaeryang gayageum bao gồm các loại sau: 15 dây: Gayageum đã được mở rộng bằng cách tăng số dây đàn tranh gayageum hiện có từ 12 lên 15 dây. Năm 1967, Sung Geum Ryun, nổi tiếng với gayageum Sanjo, được diễn tấu nhiều. 17 dây: Gayageum được cải thiện bởi Giáo sư Hwang Byung-ju. Gayageum truyền thống là jeongak là Gayageum jeongak, Sanjo và dân gian âm nhạc, do sự phối hợp khác nhau cho Sanjo Gayageum 17 dây. Còn jeongak gayageum khi diễn tấu có nét tương đồng với âm sắc nhã nhạc cung đình Huế, nhất là khi diễn tấu bản nhạc Junggwangjigok Taryeong 중광지곡 타령. 18 dây: Gayageum nhằm mục đích mở rộng phạm vi bằng cách tăng số lượng dây lên 18. Nó được phát triển bởi Park Il-hoon vào năm 1988. 21 dây: Gayageum được cải thiện bởi Giáo sư Lee Sung-Chun. Số lượng dây gayageum đã được tăng lên rất nhiều, mở rộng phạm vi. 22 dây: Loại này tăng số dây gayageum lên 22. Park Bum-hoon được cải tạo vào năm 1995 để kỷ niệm buổi hòa nhạc thành lập Dàn nhạc truyền thống Quốc gia Hàn Quốc. 23 dây: Dahyun gayageum được phát triển bởi người chơi gayageum Cheon Ik-chang. Gayageum được sử dụng bởi Cheon Ikchang, con trai của Cheon Ik-chang, là 23 và 25 dây. Dây đàn cũng được cải tiến từ chất liệu tơ lụa thành dây kim loại, nên loại đàn này được gọi là Cheolgayageum (đàn tranh dây sắt). Dần dần xuất hiện các loại đàn 13 dây, 15 dây, 17 dây, 21 dây, đến giờ có cả đàn tranh 25 dây sắt. Geomungo Geomungo (거문고): Theo sự tích về cây đàn tranh 6 dây Geomungo của Hàn Quốc được ghi trong sử sách, xưa kia dưới thời Cao Câu Ly ở Hàn Quốc, có một cây đàn được gửi sang từ cổ cầm Trung Quốc nhưng người Cao Câu Ly khi đó không biết đây là loại nhạc cụ gì và cách tấu ra sao. Thấy vậy, tể tướng Vương Sơn Nhạc (왕산악) liền cải tiến cây đàn và sáng tác một thể loại âm nhạc mới có thể tấu với cây đàn. Khi âm thanh của cây đàn vang lên trầm bổng, du dương thì một chú hạc đen từ đâu bay tới nhún nhảy trên nền âm điệu mới mẻ này. Điểm nhấn trong sự tích về cây đàn tranh 6 dây Geomungo không phải là sự xuất hiện của loài hạc đen trên thế gian này, mà ở chỗ đến hạc cũng phải cao hứng nhảy múa khi nghe tiếng đàn tranh 6 dây geomungo do tể tướng Vương Sơn Nhạc diễn tấu. Ở phương Đông, hạc là loài vật tượng trưng cho sự thái bình, thịnh vượng. Âm nhạc giao hòa cùng thiên nhiên, tạo nên khung cảnh thái bình, yên vui, nơi con người và loài vật cùng chung sống trong hòa bình và yêu thương chính là niềm mong ước của người xưa gửi gắm qua cây đàn tranh 6 dây Geomungo (hay còn được gọi là huyền cầm - tức hyeongeum). Dodeuri (도드리) là thể loại âm nhạc thường được chơi bằng đàn tranh 6 dây geomungo. Âm nhạc Dodeuri có sáu phách trong một nhịp, tốc độ vừa phải, không nhanh cũng không chậm. Mỗi phách mang một âm và các âm sắc cũng hết sức chân phương, có thể sẽ khiến những người sống trong xã hội hiện đại đã quen với những âm điệu nhanh và hào nhoáng, cảm thấy nhàm chán. Nhưng những điều phức tạp, hào nhoáng, cũng giống như những món ăn có gia vị mạnh thì thi thoảng chúng ta mới thưởng thức, còn những món có vị thuần và nhạt như cơm hay nước thì ngày nào, bữa nào chúng ta cũng cần tới. Những điều giản dị, không tô vẽ, thêm thắt mà chỉ thuần túy như bản chất vốn có, sẽ mang lại sự bình an trong tâm hồn của mỗi con người, và đây chính là lối sống mà giới học giả xưa ở Hàn Quốc hướng tới. Thứ âm nhạc giúp con người ta có thể cảm nhận được thế giới tâm hồn này chính là âm nhạc được tấu bằng cây đàn tranh 6 dây Geomungo. Giới khoa học ngày nay đã phát hiện ra hình khắc vẽ một loại nhạc cụ trông gần giống với cây đàn tranh 6 dây Geomungo được vẽ trên bức tường mộ thời Goguryeo, trước cả thời của tể tướng Wang San-ak. Việc cải tiến nhạc cụ được mang tới từ Trung Quốc trở thành nhạc cụ của Goguryeo thể hiện quá trình dịch chuyển, biến đổi và phát triển của "văn hóa". "Geomungo Byeongchang (거문고 병창)" - Thể loại âm nhạc vừa hát ả đào vừa tấu đàn tranh 6 dây geomungo trong âm nhạc truyền thống của Hàn Quốc, thể loại âm nhạc vừa tấu đàn vừa hát được gọi là byeongchang. Người nghệ sĩ theo đuổi thể loại âm nhạc này sẽ vừa phải hát hay lại vừa phải đàn giỏi. Người khởi xướng dòng nhạc vừa tấu đàn tranh 6 dây Geomungo vừa hát "Geomungo Byeongchang" chính là nghệ nhân Shin Kwae-dong. Giờ đây, chỉ còn một học trò duy nhất của nghệ nhân Shin Kwae-dong có thể trình diễn hoàn hảo lối âm nhạc vừa tấu đàn tranh 6 dây Geomungo vừa hát ả đào byeongchang này. Trong một thời gian dài, đàn tranh 6 dây Geomungo đã từng là loại nhạc cụ ưa thích của giới học giả ở Hàn Quốc. Ở cuối thời đại Joseon, cây đàn tranh 6 dây Geomungo được dùng để chơi các thể loại âm nhạc dân gian, thể hiện mọi cung bậc cảm xúc tâm hồn của con người như niềm vui, nỗi buồn, niềm hạnh phúc, sự tức giận, khiến giới học giả bất bình và tặc lưỡi cho rằng đàn tranh 6 dây Geomungo đã hết thời. Trong khi đó, các học giả Nhật Bản cho rằng tiền thân của geomungo là Ngọa không hầu (卧箜篌), một loại đàn tranh có phím tre đỡ dây đàn được sử dụng ở Trung Quốc ít nhất là từ thời Tây Hán tới thời Đường rồi bị thất truyền từ thời nhà Minh, có nhiều ý kiến và giả thiết gây tranh cãi ​​về tiền thân của Geomungo vẫn còn được thảo luận ở Đông Á (không nên nhầm lẫn giữa Ngọa không hầu với 2 loại không hầu Trung Quốc có cấu tạo tương đồng đàn hạc phương Tây). Nguyên mẫu của loại đàn tranh này được vẽ trong lăng mộ Goguryeo. Chúng được tìm thấy trong lăng mộ Muyongchong và lăng mộ Anak số 3. Ngọa không hầu Trung Quốc có 7 dây trong khi geomungo truyền thống chỉ có 6 dây. Ajaeng Đàn tranh Ajaeng (아쟁) du nhập vào Hàn Quốc từ thời Cao Ly (thế kỷ X – XIV). Tới thời Joseon, nhạc cụ này chủ yếu chỉ được dùng để tấu nhạc cung đình. Trọng tâm của âm nhạc cung đình Hàn Quốc là sự hài hòa với vũ trụ, thế gian, chứ không mang mục đích lay động lòng người nên có nhịp điệu chậm, hùng tráng. Bởi vậy, âm thanh trầm và sâu lắng của đàn tranh Ajaeng rất phù hợp với âm nhạc cung đình. Truyền rằng, đàn tranh Ajaeng có nguồn gốc từ đàn yết tranh Trung Quốc và xuất hiện ở Hàn Quốc từ thời Cao Ly (thế kỷ 10-14). Lúc đầu người ta thường dùng đàn Ajaeng để chơi nhạc Trung Quốc, dần dà Ajaeng đã trở thành nhạc khí không thể thiếu trong dàn hòa tấu âm nhạc truyền thống Hàn Quốc. Âm thanh đàn tranh Ajaeng trầm, thường làm nền trắc cho âm điệu của dàn nhạc. Nhưng khi độc tấu, thì âm thanh trầm có phần hơi thô của đàn Ajaeng như muốn khơi dậy cảm giác não nùng từ tâm can mỗi con người. Thời Joseon, một nhà quý tộc có tên là Kim Un-ran, ông bị bệnh về mắt và mất thị lực từ khi còn rất trẻ. Thời bấy giờ, những người mù thường làm thày bói là công việc của tầng lớp dân hạ đẳng nhất trong xã hội. Nhà quí tộc Kim Un-ran thường mượn tiếng đàn tranh Ajaeng thổ lộ nỗi hận và tâm cảm buồn rầu của mình. Truyện kể rằng, có lần nhà quí tộc Kim Un-ran dừng bước và ngồi kéo đàn tranh Ajaeng bên ngoài hàng rào một ngôi đền. Tiếng đàn nghe da diết não nùng buồn thảm. Bỗng dưng ông nghe thấy tiếng khóc vọng ra từ trong đền. Tiếng đàn Ajaeng của Kim Un-ran đã làm các hồn ma trong đền chùa thức tỉnh. Ông hoảng hốt cầm đàn bỏ chạy, còn các hồn ma chắc cũng thán phục khả năng chơi đàn Ajaeng xuất chúng của ông. Việt Nam Nguồn gốc đàn tranh Việt Nam là đàn tranh giống như đàn sắt và đàn cổ tranh nhưng vì loại đàn tranh truyền thống của Việt Nam là 16 dây nên xuất xứ của nó chính là đàn thập lục cương huyền tranh () từ Triều Châu,Trung Quốc và Đài Loan truyền sang nước Việt có thể từ đời nhà Trần hay trước nữa, dùng trong dân gian dưới dạng 15 dây,16, 17, 19 dây và 22, 24 và hiện đại hơn là 26 dây; từ xưa đến giờ thay đổi số dây từ dây tơ tổng hợp sang dây cước, dây đồng đến dây thép và cải biên thêm trục đàn để mắc dây. Đây là điểm đặc biệt của đàn tranh Việt Nam và Triều Châu, Đài Loan có được mà các loại đàn tranh Á Đông khác không hề có. Riêng loại 16 dây tại Triều Châu có trước tiên. Qua 7, 8 thế kỷ, người nước Việt dùng và bản địa hóa nó, tạo cho nó phong cách đặc thù trong thủ pháp, ngón đàn, tay nhấn nhá, trong thang âm điệu thức, biến nó trở thành một loại nhạc cụ bản địa mang tính dân tộc, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của người Việt, và nói rõ ngôn ngữ âm nhạc Việt Nam. Cấu tạo Trung Quốc và Việt Nam Đàn tranh và cổ tranh Trung Quốc (kể cả đàn sắt của Trung Quốc) đều có dạng hình hộp dài. Khung đàn hình thang có chiều dài 110–120 cm. Đầu lớn rộng khoảng 25–30 cm là đầu có lỗ và con nhạn để mắc dây (trán đàn), khoảng cách giữa cầu đàn và trán đàn của đàn tranh Việt Nam và Triều Châu (Trung Quốc) người ta thay thế lỗ xỏ dây đàn bằng cách lắp đinh vít (thường là vít đồng) để buộc cố định dây. Đầu nhỏ rộng khoảng 15–20 cm gắn 16 tới 25 khóa lên dây chéo qua mặt đàn (đàn sắt lên tới 50 khoá). Mặt đàn làm bằng ván gỗ ngô đồng dày khoảng 0,05 cm uốn hình vòm. Ngựa đàn (còn gọi là con nhạn- 雁柱) nằm ở khoảng giữa để gác dây và có thể di chuyển để điều chỉnh âm thanh. Riêng cấu tạo đàn sắt gồm 25-50 ngựa đàn mắc với 25-50 dây. Dây đàn sắt được túm gọn và cuộn chặt cố định bằng 4 trục đàn lớn. Riêng với đàn sắt của Triều Tiên (Hangul: 슬, seul) thì thiết kế của nó tương tự như cổ tranh Trung Quốc, yatga Mông Cổ và mặt đàn được vẽ lên những chi tiết hoa lá chim muông tinh xảo, còn cổ tranh của Đài Loan sử dụng dây kép. Dây đàn làm bằng kim loại với các cỡ dây khác nhau. Ngày xưa cổ tranh Trung Quốc dùng dây tơ. Khi biểu diễn nghệ nhân thường đeo ba móng gẩy vào ngón cái, trỏ và ngón giữa của tay phải để gẩy. Móng gẩy làm bằng các chất liệu khác nhau như kim loại, sừng hoặc đồi mồi . Cổ tranh Trung Quốc thông thường khi diễn tấu phải đeo tất cả tám móng giả; đeo vào ngón cái, ngón trỏ, ngón áp út và ngón út. Riêng móng của ngón cái là cong hơn so với 3 ngón còn lại. Thứ tự dây cổ tranh tương đương với 5 thang âm: Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ và 21 dây của cổ tranh phân theo 5 âm khu: bội âm trầm, âm trầm, âm trung, âm cao và bội âm cao. Chỉ có đàn tranh Việt Nam và Đài Loan mới có trục đàn để lên dây, trục đàn đặt trên mặt đàn còn để giữ một đầu dây xếp hàng chéo do độ ngắn dài của dây, tạo âm thanh cao thấp, trục đàn tốt thường được làm bằng gỗ Trắc, gỗ cẩm lai hoặc gỗ gụ vì những loại đàn tranh còn lại là koto (Nhật), gayageum (Hàn Quốc), yatga (Mông Cổ) và cổ tranh (Trung Quốc) không hề có trục đàn thì phần chỉnh dây đàn được giấu trong hộp điều âm ở cầu đàn bên trái. Khi mở hộp ra phần chỉnh dây đàn gọi là chốt dây, và người ta sử dụng cờ lê chuyên dụng cho việc lên dây đàn để lên dây sau đó vặn chốt ngược chiều kim đồng hồ trước khi xếp ngựa đàn (con nhạn) để mắc dây; khi mắc ngựa đàn vào dây sẽ dùng cờ lê vặn chiều xuôi chốt lại để giữ chặt. Con nhạn đàn tranh Việt Nam có một lỗ xâu dây cước hay dây tơ tổng hợp nhỏ. Đây là lý do khiến các dòng đàn tranh Á Đông không có, vì ngựa đàn tranh khi mua về đã được lắp đặt cố định, còn những đàn tranh kia thì phải lắp con nhạn trước khi gảy. Con nhạn cổ tranh song song với hộp điều âm và khoảng cách giữa con nhạn và hộp điều âm là tiền nhạc sơn (bên phải), hậu nhạc sơn là bên tay trái của con nhạn. Con nhạn của đàn sắt, đàn cổ tranh Trung Quốc, yatga Mông Cổ hay đàn tranh Việt Nam đều sử dụng con nhạn hình chiếc kìm chữ A mỏ vuông. Đàn cổ tranh Trung Quốc gồm hai loại chính là 整挖筝 (chính oát tranh) và 拼面筝 (bính diện tranh). Mông Cổ Đàn được thiết kế như một hộp với bề mặt lồi và uốn cong về phía cuối. Các dây được gảy và tạo âm thanh khá mềm mại. Ở Mông Cổ, đây là nhạc cụ được coi là bất khả xâm phạm và được chơi trong nghi lễ, ràng buộc với những điều cấm kị. Yatga được sử dụng chủ yếu tại triều đình và trong các tu viện từ khi các dây tượng trưng cho mười hai cấp độ của hệ thống phân cấp cung điện. Mục đồng bị cấm chơi đàn tranh yatga 13 dây, nhưng họ được phép chơi đàn tranh yatga mười dây, cũng được sử dụng cho thời gian giải lao trong lần trì tụng sử thi. Loại yatga 13 dây có ngoại hình tương tự đàn tranh sanjo gayageum 12 dây của Hàn Quốc. Người Mông Cổ truyền thống chơi ba loại đàn tranh yatga, phân biệt bằng hộp cộng hưởng hoặc thân đàn rỗng mà âm thanh được khuếch đại. Nhật Bản Để làm ra đàn koto, trước tiên người thợ xẻ đốn gỗ từ cây Hông. Quy trình đó dùng để làm mặt đàn. Kích thước gần đúng của một cây koto là: Chiều dài 164,5 cm (64 3/4 in.) Chiều rộng 32,4 cm (12 3/4 in.) Chiều cao 24,1 cm (9,5 in. Bao gồm cả cầu đàn) Gỗ được chuẩn bị để sản xuất đàn koto thường là những khối lớn và cần được xẻ ra thành các tấm gỗ có kích thước khác nhau dựa theo yêu cầu thiết kế và uốn cong tấm gỗ thành mặt đàn. Người thợ tiến hành bước này phải có sự tính toán tỉ mỉ để lượng gỗ đã được chuẩn bị từ trước được xẻ ra không bị thiếu hay thừa, đảm bảo sản phẩm được hoàn thiện tốt. Sau khi xẻ gỗ xong, thành phẩm sẽ được ngâm qua các hóa chất chống mối mọt và mặt sau của ván gỗ uốn cong thành mặt đàn người thợ khắc hình zigzag đều nhau thẳng hàng; kế tiếp, người thợ nung nóng một thanh sắt để đốt cháy mặt đàn. Biện pháp này giúp cho đàn làm ra bền hơn, khó bị các loại côn trùng mối mọt tấn công. Sau đó, lấy một tấm gỗ nhẵn khác ốp lên mặt sau của mặt đàn. Tiếp theo, lấy nẹp gỗ và dây thừng để cố định đàn và dùng giấy ráp để làm nhẵn mặt đàn và phết nước sơn làm bóng mặt đàn. Sau đó, lấy một tấm gỗ nhẵn khác ốp lên mặt sau của mặt đàn. Tiếp theo, lấy nẹp gỗ và dây thừng để cố định đàn và dùng giấy ráp để làm nhẵn mặt đàn và phết nước sơn làm bóng mặt đàn. Thông thường, đàn koto có 13 dây. Từ thời Nara, số lượng dây đã như vậy, mặc dù vào thời Edo có một số cây đàn koto có hơn 13 dây. Từ thời Meiji thì đàn koto nhiều dây, nhất là loại đàn 17 dây, xuất hiện nhiều hơn. Có nhiều loại dây to hay mảnh khác nhau, thường là màu vàng mặc dù màu đỏ hay xanh lá cây cũng nhiều. Dây đàn truyền thống làm từ tơ tằm bện thành dây thừng sợi nhỏ và giống như nhiều đàn dây của Nhật Bản khác được bện từ 4 sợi tơ thành 1 dây đàn. Dây đàn ngày nay hầu hết làm từ chất liệu polyester. Dây đàn bằng polyester có độ căng tốt hơn nên âm dài hơn và tốt hơn, lại không lo bị đứt khi đang diễn tấu, giá thành chế tạo lại thấp hơn nhiều. Vì thế, đàn với dây bằng polyester ngày nay trở nên phổ biến. Ngày nay, phiên bản hiện đại của đàn koto với 25 dây thường sử dụng nylon bọc thép dây. Dây nylon cũng đã được giới thiệu để sản xuất một âm thanh to hơn, được ưa thích cho đi kèm vũ đạo. Để chơi âm nhạc hiện đại, koto với một số lượng lớn dây đàn đã được phát triển, tăng phạm vi của dây đàn. Koto có sẵn với 13, 17, 18, 21, 22, hoặc 25 dây, mặc dù các công cụ có dây khác đang có sẵn theo yêu cầu. Nhạn đàn và cầu đàn koto xưa làm bằng ngà voi. Tuy nhiên ngày nay do ngà voi đắt tiền, nên cầu đàn và nhạn đàn bằng chất liệu tổng hợp khá phổ biến, nhất là nhựa PVC. Có cây đàn koto mà cầu đàn và nhạn đàn làm bằng xương cá voi. Koto 80 dây, được gọi là hachijugen (kanji: 八十絃; hiragana: はちじゅげん) trong tiếng Nhật, là một phát minh của nhà soạn nhạc Nhật Bản Michio Miyagi, xuất hiện vào năm 1923. Ông đã thêm 67 dây vào thiết kế 13 dây truyền thống, âm sắc koto 80 dây trong trẻo giống như đàn hạc phương tây. Cùng với koto thông thường, 80 dây cung cấp một phạm vi cao hơn nhiều so với koto tiêu chuẩn. Nó được xem rộng rãi như một công cụ thử nghiệm ngắn. Triều Tiên và Hàn Quốc Gayageum Dây đàn gayageum khá dày và được bện từ lụa tơ tằm. Âm nhạc Gayageum truyền thống có hai loại. Một loại là Gayageum tấu chính nhạc, hay còn gọi là Gayageum Beopgeum hoặc Gayageum phong lưu có lịch sử hình thành phát triển hơn 1500 năm. Nhưng khoảng cách giữa các dây đàn của nhạc cụ này xa nhau, nên khó có thể chơi được các bản nhạc có tiết tấu nhanh. Tới cuối thời Joseon, để có thể diễn tấu đa dạng âm nhạc, người ta đã cải tiến cây đàn tranh 12 dây Gayageum theo hướng nhỏ gọn hơn và có các dây đàn được mắc gần nhau hơn. Đàn tranh 12 dây Gayageum cải tiến thường được dùng để tấu nhạc dòng Sanjo hoặc đệm cho dân ca Minyo. Các ca nương thường dùng gayageum thường dùng để đệm hát những bài ả đào, gọi là hình thức gayageum byeongchang (강야금 병창). Sau này, khi âm nhạc châu Âu du nhập vào Hàn Quốc, đàn tranh Gayageum đã được cách tân một cách quả cảm mang sắc thái khác biệt hoàn toàn với Gayageum truyền thống và thời kỳ này bắt đầu xuất hiện đàn tranh Gayageum 13 dây, 15 dây, 18 dây... Gần đây, còn có cả đàn tranh Gayageum 25 dây diễn tấu âm nhạc sáng tác mới. Dây đàn cũng được sử dụng bằng chất liệu tơ lụa tổng hợp và người nghệ sĩ còn dùng cả hai tay để nhấn nhá búng gẩy dây đàn tạo âm thanh. Ngựa đàn (con nhạn) của gayageum rất đặc biệt, không như đàn sắt hay cổ tranh của Trung Quốc, ngựa đàn (con nhạn) gayageum có đầu tròn, cổ nhạn dài và đuôi nhạn cong 2 bên như chữ 人 (nhân) làm từ gỗ. Cụm từ 안족 (anjok - con nhạn) cũng ám chỉ chân con ngỗng trời. Đuôi đàn (yangidu) trông giống hai chiếc sừng cừu choãi sang hai bên. Cây đàn tranh 12 dây Gayageum trong những bức tượng đất nung thời Silla cũng có Yangidu. Qua đây chúng ta có thể thấy rằng sau hàng nghìn năm, Gayageum vẫn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu. Gayageum Jeongak là loại Gayageum cơ bản, nền tảng của đàn tranh 12 dây Gayageum, nên còn được gọi là Beopgeum, tức "pháp cầm", và Pungryu Gayageum, do thường được dùng để tấu nhạc phong lưu Pungryu của giới quý tộc Trên mặt đàn, anjok (con nhạn) hỗ trợ cố định dây. Những con nhạn di chuyển để điều chỉnh thang âm trên dây đàn và ngữ điệu. Các dây nối liền vào đầu của thân đàn từ tolgwae (chốt dây) bên dưới. Ở đầu bên kia, dây quấn quanh các vòng ở đầu dây dày, đi qua đai ốc sau đó luồn qua các lỗ ở dưới cùng của đàn và được bảo đảm, sau đó tất cả các dây được buộc trong một cuộn dây trang trí. Loại này chỉ có ở gayageum 12 dây. Loại Gaeryang gayageum luôn có hộp điều âm, trong hộp có chứa phần chốt xỏ dây bằng kim loại và gần đây dòng đàn sanjo gayageum hay jeongak gayageum có gắn thêm bộ gắn thêm những pickup nam châm kiểu giống guitar điện để khuếch đại âm thanh thông qua một amplifier hay PA system (hệ thống phân bố và khuếch đại âm thanh điện tử thông qua microphone, amplifier và loa) gọi là Jeonja gayageum (전자 가야금). Ari gayageum (아리 가야금) có con nhạn hình chữ A tương tự đàn tranh dùng vĩ kéo jeongak ajaeng, nó có hộp điều âm chứa chốt chỉnh dây thay thế cho loại đàn tranh gayageum truyền thống. Geomungo Geomungo dài khoảng 162 cm và rộng 23 cm (dài 63,75 inch, rộng 9 inch) và có những con nhạn có thể di chuyển được gọi là anjok (안족) và 16 phím hình chữ nhật lớn nhỏ bằng tre xếp gần nhau để mắc dây (giống phím đàn đáy Việt Nam). Nó có một thân rỗng, nơi tấm trước của nhạc cụ được làm bằng gỗ cây hông và tấm phía sau được làm bằng gỗ hạt dẻ cứng. Sáu dây của nó, được làm bằng dây thừng bện từ lụa xoắn đi qua thân của nó. Que gảy geomungo được làm từ tre tương đương kích thước của chiếc bút chì. Ba dây đàn trực tiếp trên các phím có thể dừng lại trong khi ba dây còn lại là các dây mở. Chỉ có 3 dây đàn ở giữa của geomungo 6 dây mới có ngựa đàn mắc dây. Các dây còn lại được mắc bởi con nhạn anjok hình chữ "nhân" (人), geomungo 11 dây cũng vậy. Đầu đàn gọi là Jwadan (좌단), phím cố định nhỏ gọi là gwae, daemo là phần khoảng cách giữa phím nhỏ (괘 gwae) nhỏ nhất và cầu đàn (현침 hyeonchim). Gwiru (귀루) là phím lớn nhất mắc 3 dây giữa; các dây của geomungo 6 dây gồm có: munhyeon (무현 dây 1), yunhyeon (유현 dây 2), daehyeon (대현 dây 3), gwaesangcheon (괘상천 dây 4), gwaehacheon (괘하천 dây 5) và muhyeon (무현 dây 6). Ngoài ra còn có hakseul (학슬 nút thắt dây), budeul (부들 dây trang trí được tết thành búi giữ cho dây đàn tránh bị trùng và tuột), unjok (운족) là chân đàn, đuôi đàn là bongmi (봉미). Dưới đáy đàn gồm phần cộng hưởng (울림구맹 ulrimgumeong), que gảy (술대 suldae) và chốt dây (돌괘 tolgwe). Riêng dây thứ tư khi dùng que gảy, que sẽ chạm vào mặt đàn lẫn dây và sẽ có tiếng đàn lẫn tiếng đập que vào mặt đàn khi gảy mạnh. Geomungo hiện đại hóa tăng lên 11 dây, được làm bằng nylon. Như với phiên bản truyền thống, ba dây vượt qua các phím đàn và các dây khác đều mở. Nhưng phiên bản truyền thống của geomungo có 6 dây, với ba phím đàn. Một loại geomungo cổ để tấu chính nhạc có tên hoehyeongeum (회현금) và các geomungo còn lại gồm sanjo geomungo (산조 거문고) và jeongak geomungo (정악 거문고). Một loại đàn tranh geomungo khác gọi là jayanggeum (자양금) chỉ có phím mà không cần những con nhạn anjok căng dây, do nghệ nhân Yu Jung-gyo (1821-1893) chế tác. Jayanggeum có 7 dây và nó được coi là phiên bản hoàn chỉnh của cổ cầm Trung Quốc (được đưa vào dàn nhạc tế lễ Văn miếu - Munmyo jeryeak 문묘제례). Gần đây, geomungo 6 dây đã được cải tiến khá nhiều, với sự xuất hiện của geomungo điện tử (천차 거문고). Geomungo chơi với cung Hwaldae (활대 거문고) (giống như chơi ajaeng và có loại chỉ vỏn vẹn 3 dây thì dây giữa mắc bởi hàng phím đỡ bên dưới mà khi kéo phải để dọc đàn), hoặc loại geomungo có nhiều dây hơn, được thu thập; thu hút sự chú ý của các nghệ sĩ trẻ. Khi kéo đàn geomungo bằng vĩ, âm thanh của nó trầm hơn ajaeng rất nhiều. Trong sự phát triển của văn hóa, bên cạnh những nghệ sĩ bảo tồn, kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc, có những nghệ sĩ thay đổi và hiện đại hóa văn hóa truyền thống của dân tộc. Ajaeng Đàn tranh Ajaeng có thân đàn lớn làm bằng thân cây ngô đồng, cao hơn cả chiều cao của một người bình thường và có nhiều dây đàn được mắc ngang trên mặt bầu đàn (từ 8-12 dây). Dây đàn khá dày và được bện từ lụa tơ tằm. Gayageum, nhạc công có thể đặt lên đùi để diễn tấu, nhưng đối với đàn tranh Ajaeng họ phải kê lên kệ vì đàn to và nặng. Cung vĩ của đàn tranh Ajaeng được vót bằng cành cây hoa vàng mùa xuân Gaenari nên tốc độ biến âm chậm, không phù hợp để hòa âm cùng các nhạc cụ khác. Đàn tranh Ajaeng có âm thanh trầm nhất trong số các nhạc cụ truyền thống của Hàn Quốc. Giá đỡ đàn tranh ajaeng là chosang, cấu tạo của đàn tranh ajaeng gồm: đuôi đàn uốn cong xuống (미단 midan), cầu đàn (현침 hyeonchim), hakseul (학슬 nút thắt dây đàn), budeul (부들 búi dây trang trí, cố định để dây không bị tuột), ullimtong (울림통 đáy đàn chứa phần cộng hưởng), con nhạn (안족 anjok), đầu đàn (좌단 jwadan), dưới đáy đàn là tolgwe (돌괘 chốt dây) và cung vĩ để kéo (활 hwal). Cung vĩ thông thường chỉ là cành cây gaenari thì còn có cả cung vĩ từ lông đuôi ngựa hoặc dùng vĩ của violin để kéo. Có năm loại đàn tranh Ajaeng, gồm Daeajaeng 9 dây (9 현 대아쟁), soajaeng 9 dây (9현 소아쟁), ajaeng 8 dây (8현 아쟁), 10 dây (정악 아쟁) và 12 dây (12현 아쟁). Âm thanh Âm sắc các loại đàn tranh trong trẻo, sáng sủa thể hiện tốt các điệu nhạc vui tươi, có khi hùng tráng, u buồn,... Do dây bằng kim loại mỏng, hoặc từ dây nylon hoặc polyeste, lụa tơ tằm bện nên đàn tranh ít thích hợp với những tính cách trầm hùng, khoẻ mạnh. Tầm âm đàn tranh rộng 3 quãng 8, từ Đô lên Đô 3 hoặc Sol 1 đến Sol 3 tuỳ theo cách lên dây và tuỳ vào các loại đàn tranh của các quốc gia. Sử dụng Đàn tranh thường được sử dụng để độc tấu, hòa tấu, đệm hát, tham gia trong các dàn nhạc tài tử Việt Nam và các dàn nhạc dân tộc tổng hợp quốc tế. Koto của Nhật Bản hay gayageum của Hàn Quốc có thể trình diễn độc tấu hay kết hợp các nhạc cụ khác để hoà tấu những bài hát dân ca, nhạc hiện đại như K-pop, J-pop, nhạc Âu Mỹ,... Đối với cổ tranh Trung Quốc hay Yatga Mông Cổ, cũng được diễn tấu là hoà tấu hoặc độc tấu. Riêng cổ tranh Trung Quốc dùng để chuyên trị các nhạc phẩm C-pop, nhạc dân ca, kinh kịch,... Người Việt Nam có thể sử dụng đàn tranh của các quốc gia châu Á khác để chơi dân ca Việt Nam. Hiện đại hóa Ngày nay, trên các điện thoại smartphone có các phần mềm ứng dụng của đàn tranh như guzheng, koto hay gayageum đều được tải về qua Google Play (Android) hay App Store (IOS). Cách chơi đàn Đa phần các đàn tranh Á Đông đều diễn tấu bằng 2 tay với 1 đàn thì ngày nay các nghệ sĩ dùng liền 2 đàn một lúc, mỗi tay sẽ dùng 1 đàn. Đàn dùng tay trái sẽ làm nhạc đệm, còn tay phải sẽ gảy giai điệu chính tuỳ theo khoảng cách đặt đàn và tư thế đứng hay ngồi khi chơi của nghệ sĩ. Việt Nam và Trung Quốc Phong cách chơi đàn truyền thống sử dụng trước đây thường dùng 2 ngón gẩy, ngày nay phổ biến là 3 ngón, cá biệt sử dụng 4 hoặc 5 ngón. Thang âm đàn tranh gồm: Do: C3 Re: D3 Fa: F3 Sol: G3 La: A3 Do2: C4 Re2: D4 Fa2: F4 Sol2: G4 La: A4 Do3: C5 Re3: D5 Fa3: F5 Sol3: G5 La3: A5 Do4: C6 Re4: D6 Fa4: F6 Sol4: G6 La 4: A6 Tuy nhiên cách gẩy 3 ngón là cách gẩy thông dụng nhất là ngón cái (số 1), ngón trỏ (số 2) và ngón giữa (số 3). Với những cách gẩy cơ bản: liền bậc, cách bậc, gẩy đi lên và đi xuống liền bậc hay cách bậc. Móng gẩy đàn làm từ đồi mồi hoặc inox. Đối với đàn sắt không dùng móng gẩy mà gẩy đầu bụng ngón tay, sử dụng ngón rung và vê thì phải có móng tay dài. Tư thế: bàn tay phải nâng lên, ngón tay khum lại, thả lỏng, ngón đeo nhẫn tì nhẹ lên cầu đàn. Khi đánh những dây đàn thấp, cổ tay tròn lại, hạ dần về phía trước đàn. Khi đánh những dây cao, cố hạ dần theo chiều cong của cầu đàn, cánh tay cũng hạ khép dần lại (tránh không đưa cánh tay ra phía ngoài). Ba hay bốn ngón tay gảy mềm mại, từng ngón thả lỏng này nhẹ nhàng nâng lên hay hạ xuống gảy vào dây theo chiều cong tự nhiên của bàn tay, tránh gãy ngón. Riêng ngón tay gảy cổ trang Trung Quốc là gảy kiểu móc dây. Do dây của cổ tranh là dây thép loại dày bọc nhựa dẻo chứ không như đàn tranh Việt Nam với sợi dây thép mảnh. Thay dây nếu bị đứt 1. Khi dây đàn bị đứt, hãy mở hộp điều âm của đàn (đối với cổ tranh), dùng cờ lê vặn trùng toàn bộ dây đàn cần thay. Sau đó rút hẳn đầu dây ra khỏi đầu kim loại rút dây. Đẩy đầu dây còn lại ra khỏi hộp điều âm rút hẳn dây cũ ra và loại bỏ. 2. Cho dây mới vào, luồn như xâu kim khâu vào lỗ từ dưới hộp điều âm lên rồi kéo lên, luồn lại vào lỗ kim loại chỗ cuộn dây đàn sau đó cuốn vài vòng để cố định. Cuối cùng xếp nhạn mắc vào dây. Thủ pháp "thác" - Kỹ thuật "thác" (): dùng ngón cái diễn tấu. Giai đoạn mới học có 2 cách diễn tấu của thủ pháp "thác" gồm "giáp" () và "đề" (). "Giáp" thông thường ứng dụng vào 2 tình huống: một là người mới học và ổn định thủ hình. Hai là khi diễn tấu nhạc khúc truyền thống (dân ca và nhạc cổ phong Trung Quốc) được vận dụng khá nhiều. "Đề" vận dụng rất nhiều trong các nhạc khúc hiện đại, nhất là nhạc Trung Quốc phong. Thủ pháp "Thác" (ký hiệu là góc vuông). Biểu thị dùng thủ pháp "thác" diễn tấu âm trung Sol (tương đương với dây số 5 của cổ tranh). Dùng ngón áp út và ngón út đặt tự nhiên trên dây đàn. Ngón cái hướng về phía trước cơ thể gảy đàn. Sau khi gảy xong, thuận thế rơi vào dây tiếp theo. Bước đầu, đặt dây lấy âm trung Sol làm ví dụ; tay phải ở trạng thái nửa nắm tay. Cổ tay để nằm ngang và mở cánh tay ra. Đặt ngón tay nhẹ nhàng lên âm trung Sol. Ngón áp út và ngón út tự nhiên chống trên dây đàn ("ghim cọc"). Trong cách diễn tấu truyền thống, ngoài ra ngón tay thả lỏng. Ngón trỏ, ngón giữa và ngón áp út tay phải khép lại trong khi ngón cái và ngược lại ón út thả lỏng tự nhiên. Dùng phần thịt đầu ngón tay đặt trên dây đàn phía bên trái con nhạn. Vị trí đặt dây cách con nhạn khoảng 15 – 20 cm. Lưu ý: 1. Khi tay phải ở trạng thái nửa nắm tay, ngón tay thả lỏng và đốt bàn tay hơi nhô ra, không được sụp lún. Cổ tay để nằm ngang và cánh tay mở ra khoảng 45 độ, thả lỏng thoải mái. 2. Đầu móng giả của ngón cái đặt trên dây đàn cách Tiền nhạc sơn khoảng 3,33 cm (1 tấc). 3. Móng giả xuống dây không được quá sâu. Người mới học không cần đeo ngón áp út với móng giả khi thao tác "ghim cọc". 4. Vị trí đặt dây căn cứ vào độ to nhỏ của dây mà xác định. 5. Khi tay phải diễn tấu, tay trái đặt trên dây đàn bên trái của con nhạn tạo thành thói quen diễn tấu tốt. Khi tay trái đặt dây thì ngón cái và ngón út cấm nhếch lên; cũng không được kẹp chặt ngón tay hoặc nép vào lòng bàn tay. Sau khi nắm được cách thức đặt dây chính xác, người chơi sẽ diễn tấu "giáp" theo thủ pháp "thác": đặt dây trước rồi ngón cái dùng đốt bàn tay kéo theo ngón tay. - Thác kiểu Đề: là dùng đốt bàn tay kéo đốt thứ nhất (đốt nhỏ) khi diễn tấu. Đặt tay lên dây và tay phải luôn duy trù thủ hình nửa nắm tay, cổ tay đặt nằm ngang còn cánh tay mở ra tự nhiên. Dồn sức từ vai xuống cánh tay đặt ngón cái nhẹ nhàng lên trung âm 5 (Sol), các ngón tay khác buông xuống tự nhiên. Ngón cái dùng đốt nhỏ nhẹ nhàng hướng lòng bàn tay gảy dây. Khi diến tấu, đầu ngón tay phải nhanh chóng phát lực. Hướng diễn tấu của ngón cái hơi nghiêng về phía đầu ngón trỏ, không được chĩa thẳng vào lòng bàn tay. Khi ngón cái diễn tấu thì các đốt ngón tay phải nhô ra, không được móp vào. Khi luyện tập đặt dây cho tay phải, tay trái đặt lên dây tương ứng với dây bên trái và chú ý thủ hình nửa nắm tay. Kỹ thuật lướt dây - Là một lối gảy rất phổ biến của đàn tranh và đàn sắt cũng như cổ tranh Trung Quốc, đây là cách gảy lướt trên hàng dây xen kẽ các câu nhạc, thường kỹ thuật này hay ở vào phách yếu để chuẩn bị vào một phách mạnh đầu hay cuối câu nhạc. Ngón cái tay phải dùng thủ pháp "thác" liên tục vài dây với tốc độ nhanh. Có 2 dạng lướt là lướt trước phách (dùng ở đầu câu nhạc, lúc diễn tấu không chiếm giá trị thời gian thuộc về hiệu quả mang tính "trang trí"; có tác dụng tăng thêm màu sắc cho giai điệu) và lướt trùng phách (thường xuất hiện ở phách sau, dùng để bổ khuyết tiết tấu). - Lướt xuống: theo lối cổ truyền, là cách lướt liền các âm liền bậc, từ một âm cao xuống các âm thấp, tức là sử dụng ngón cái của tay phải lướt nhanh và đều qua các hàng dây, từ cao xuống thấp. - Lướt lên: là kỹ thuật lướt qua hàng dây, nhưng vuốt bằng ngón 2 hoặc ngón 3 từ một âm thấp lên các âm cao. - Lướt kết hợp: kết hợp lướt lên và lướt xuống, kỹ thuật diễn tấu này thường chuẩn bị cho mở đầu hoặc kết thúc một câu nhạc, có trường hợp nó được sử dụng để tả cảnh sóng nước, gió thổi, mưa rơi và có thể sử dụng kỹ thuật lướt liên tiếp với nhiều âm hơn. - Song thanh: 2 nốt cùng phát ra một lúc, song thanh truyền thống chỉ dùng quãng 8, các nhạc sĩ hiện đại còn kết hợp dùng các quãng khác. Kỹ thuật bàn tay trái Tư thế: Ðầu ba ngón tay giữa đặt trên dây nhẹ nhàng, bàn tay mở tự nhiên, ngón tay hơi khum, hai hoặc ba ngón (trỏ, giữa, áp út) chụm lại, ngón cái và ngón út tách rời, dáng bàn tay vươn về phía trước. Khi rung, nhấn, bàn tay được nâng lên mềm mại, ba ngón chụm lại cùng một lúc chuyển từ dây nọ sang dây kia. Kỹ thuật rung âm Ngón rung (rung âm): là cách dùng một, hai hoặc ba ngón tay trái rung nhẹ trên sợi dây đàn (bên trái hàng nhạn đàn) mà tay phải vừa gảy. Nó là 1 kỹ thuật tay trái vô cùng quan trọng trong diễn tấu cổ tranh Trung Quốc và đàn tranh Việt Nam. Nó tô điểm vẻ đẹp, trau chuốt và kéo dài cùng nhiều tác dụng khác cho nhạc khúc. Chủng loại của rung âm rất nhiều. Sau khi tay phải gảy gây xong thì tay trái nhấn, thả trên dây đàn tương ứng bên trái con nhạn; khiến cho âm mà tay phải gảy sản sinh hiệu quả rung động dạng sóng có quy luật. Diễn tấu rung âm cần 1 quá trình huấn luyện lâu dài. Lúc đầu mới học, luyện tập với tốc độ chậm trước, nắm được cách phát lực và thả lỏng chính xác. Sau khi thành thục mới tiến hành luyện tập tăng tốc. + Nhấn dây tay trái: Tay phải đặt cần bằng trên hộp điều âm, tay trái duy trì thủ hình nửa nắm tay. Nhấn thả dây đàn lên xuống chậm rãi đều đặn. Mỗi 1 nhịp có 2 động tác nhấn & thả, sau mỗi lần nhấn phải ngay lập tức thả ra. Tay trái và phải đặt dây chính xác trên trung âm 5 (Sol). Sau khi tay phải gảy trung âm 5 thì tay trái trên dây đàn tương ứng với bên trái con nhạn. Nhấn, thả dây đàn đều đặn. Khi người chơi mới học rung âm có thể áp dụng phương pháp luyện tập đếm nhịp. Tay phải gảy trung âm 5. Sau mỗi lần nhấn dây phải lập tức thả ra. Sau khi nắm vững diễn tấu chậm, tăng tốc độ nhấn dây thích hợp cho tay trái. Lưu ý: 1. Khi tay trái nhấn dây, vai phải thả lỏng. Sức lực của cánh tay trái nén xuống tự nhiên tập trung vào đầu ngón tay. Sau khi nhanh chóng nhấn dây thì lập tức trở về vị trí cũ. 2. Biên độ nhấn của tay trái bắt buộc phải nhỏ mà đều đặn. Tuyệt đối không được làm biến đổi độ cao của âm gốc. Thứ tự diễn tấu của tay trái & phải là gảy trước rồi rung sau. Tay trái nhấn và thả dây đàn trên dư âm sau khi tay phải gảy đàn. Nghiêm cấm làm cả hai tay cùng 1 lúc. Ngón nhấn luyến (hoạt âm) Là thủ pháp sử dụng các ngón nhấn để luyến hai hay ba âm có độ cao khác nhau, âm thanh nghe mềm mại, uyển chuyển gần với thanh điệu tiếng nói. Có hai loại nhấn luyến: a. Nhấn luyến lên (hoạt âm lên): nghệ nhân gảy vào một dây để vang lên, tay trái nhấn dần lên dây đó làm âm thanh cao lên hoặc tiếp tục nhấn cho cao lên nữa. Sau khi tay phải gảy dây, tay trái ở bên trái con nhạn đem âm mà tay phải gảy nhấn "trượt" tới cao âm của dây đàn phía trên. (Lấy trung âm 5 làm ví dụ: đem 5 là nốt Sol nhấn tới cao âm của dây đàn phía trên cũng chính là 6 - nốt La. Hoạt âm lên của 1 - nốt Đồ chính là đem 1 "trượt lên" cao âm của 2. Cứ như vậy suy ra với những dây còn lại). Đặt dây giống rung âm, sau đó tiến hành luyện tập nhấn dây cho tay trái. Lấy trung âm 5 làm ví dụ: tay phải đặt cân bằng trên hộp điều âm, tay trái đặt trên dây đàn bên trái. Đếm 1 thấy bất động nhưng đếm 2 thì tay trái nhấn dây xuống dưới (1 là ngón tay phải gảy trung âm 5 - Sol, 2 là tay trái hoạt âm lên). Sau khi tay trái hoàn thành hoạt âm, không được thả tay ra cho tới khi dư âm biến mất mới được thả tay. Nắm vững phương pháp gảy trước nhấn sau. Khi tay trái nhấn dây, vai hạ xuống; đem sức lực tập trung vào đầu ngón tay. Tay trái từng bước thực hiện hoạt âm chuẩn xác. Chú ý diễn tấu, khủy tay không được nhấc lên còn cổ tay thì không được sụp xuống. Cao âm của hoạt âm lên phải chuẩn xác, bởi sức dãn của mỗi dây là khác nhau nên lực dùng để nhấn dây cũng khác nhau. Nhấn dây ở khu âm cao tương đối dễ dàng. Nhấn ở khu âm trung, thấp thì lực độ mạnh hơn chút. Nghe và luyện nhiều mới có thể nắm bắt chính xác cao âm của hoạt âm. b. Nhấn luyến xuống (hoạt âm xuống): tương phản với hoạt âm lên. Tay trái ở bên trái nhạn, đem trung âm 5 nhấn đến cao âm của dây trên trước là trung âm 6, sau đó tay phải gảy dây. Sau khi gảy dây xong thì mới từ từ thả tay trái ra khiến cho âm từ cao đến thấp thành 1 khối. Đặt tay lên dây, tay trái nhấn trung âm 5 lên cao độ của trung âm 6 phải duy trì ổn định, không được di chuyển. Nắm vững phương pháp diễn tấu " nhấn trước, gảy rồi thả". Đợi sau khi tay phải gảy xong thì tay trái mới từ từ buông ra. Tốc độ vừa phải. - Nhấn kết hợp (Hồi hoạt âm): Sau khi tay phải gảy dây,tay trái ở bên con nhạn. Đem âm mà tay phải gảy nhấn "trượt" tới cao âm của dây đàn phía trên. Lấy trung âm 5 làm ví dụ chính là đem 5 (nốt Sol) nhấn tới cao âm của dây đàn phía trên nó cũng chính là 6 (nốt La). Phương pháp đặt dây giống rung âm, nhấn dây cho tay trái và lấy trung âm 5 làm ví dụ. Tay phải đặt cân bằng với hộp điều âm (chỉ có ở cổ tranh Trung Quốc), tay trái đặt lên dây đàn bên trái con nhạn. Đếm nhịp 1 thì thấy bất động cho tới khi đếm nhịp 2 thì tay trái nhấn dây xuống dưới. Tay phải gảy trước, tay trái nhấn sau. Đợi sau khi tay phải gảy 1 lần nữa thì từ từ buông tay trái. (Đếm 1, tay phải gảy bằng thủ pháp "thác". Đếm 2, tay trái nhấn dây đến cao âm mong muốn. Đếm 3, tay trái vẫn giữ vững như vậy, tay phải gảy theo thủ pháp "thác" 1 lần nữa. Đếm 4, tay trái từ từ thả ra khiến cho âm trượt từ cao xuống thấp. - Ngón nhún: là cách nhấn liên tục trên một dây nào đó làm cho âm thanh cao lên không quá một cung liền bậc. Ngón tay nhún tạo thành những làn sóng có dao động lớn hơn ở ngón rung, làm cho âm thanh thêm mềm mại, tình cảm sâu lắng. Thủ pháp "Mạt" Mạt () là một kỹ thuật quan trọng trong diễn tấu cổ tranh cũng như đàn sắt. Ngón trỏ hướng về phía lòng bàn tay gảy dây. Tay phải - nửa nắm tay, cổ tay để nằm ngang còn cánh tay mở tự nhiên. Dồn sức từ vai xuống cánh tay. Đem ngón trỏ đặt nhẹ nhàng lên trung âm 5. Các ngón tay còn lại buông xuống tự nhiên. Khi mới học, người chơi có thể dùng ngón út và áp út nhẹ nhàng chống đỡ trên dây đàn để ổn định thủ hình. Khi ngón trỏ có thể độc lập diễn tấu thì không cần dùng hai ngón kia. Khi ngón trỏ đặt dây, đốt bàn tay hơi nhô ra và không được sụp xuống. Mặt bàn tay, cổ tay đặt nằm ngang không được co lại, cánh tay mở ra tự nhiên. Vị trí đặt dây của ngón trỏ cách Tiền nhạc sơn khoảng 3 cm. (Chú ý móng giả không được đặt sâu quá). Khi luyện tập đặt dây cho tay phải, tay trái đặt lên dây đàn tương ứng bên trái, duy trì thủ hình nửa nắm tay. Ngón trỏ đặt dây, dùng đốt nhỏ của ngón trỏ nhẹ nhàng gảy về phía lòng bàn tay. Dùng mặt chính diện của móng giả ngón trỏ gảy dây, gảy hướng về lòng bàn tay. Không được dùng mặt bên của móng giả để gảy dây, như vậy sẽ sản sinh tạp âm. Đốt bàn tay kéo đốt nhỏ gảy đàn, chú ý đốt nhỏ không được móp vào. Khi ngón trỏ gảy, các ngón tay khác thả lỏng tự nhiên. (Khi mới học, lực gảy đừng mạnh quá, chỉ cần gảy nhẹ nhàng & duy trì thủ hình thả lỏng tự nhiên). Thủ pháp "Câu" Câu () là một thủ pháp diễn tấu cổ tranh bằng ngón tay phải. Ký hiệu của thủ pháp câu được mô tả bằng hình vòng cung. Nó cũng có 2 kiểu diễn tấu tương tự như thủ pháp thác. Bao gồm: - Câu kiểu đề: Ngón giữa hướng về phía lòng bàn tay gảy dây. Tay phải luôn trong thủ hình nửa nắm tay, cổ tay đặt nằm ngang và cánh tay mở ra tự nhiên. Dồn sức từ vai xuống cánh tay, đặt ngón giữa nhẹ nhàng lên trung âm Sol (5) còn những ngón khác buông xuống tự nhiên. Thủ pháp nhóm nhỏ Là sự kết hợp giữa thủ pháp "thác" và "mạt". Nhóm nhỏ trong thủ pháp này gọi là kỹ thuật song âm (một lúc phát ra 2 âm so với đơn âm sẽ khó hơn chút). Song âm chủ yếu là ngón trỏ và ngón cái cùng tạo thành nhóm nhỏ, khi diễn tấu cần chính xác ngón trỏ và ngón cái, chứ không phải đồng thời dùng lực bốc dây và lướt dây. Dễ chạm vào dây khác âm thanh ta cần không phải là âm thanh song âm chuẩn nên trước tiên phải tìm đúng dây thật chuẩn xác, 2 ngón tay đặt vào dây đàn. Sau đó nhẹ nhàng, 2 ngón phân biệt gảy dây đàn và gảy dây đồng thời nhẹ nhàng thì âm song thanh đồng thời phát ra. Trong thực hiện thủ pháp nhóm nhỏ và nhóm lớn cần chú ý: 1. Chính diện tiếp xúc dây. Trong thực hiện thủ pháp, lưu ý 2 ngón tay. Một ngón tay rất dễ dàng tiếp xúc trực tiếp dây đàn, hai ngón tay và lại có thêm ngón cái có thể rất khó để thực hiện. Để thực hiện tốt, cần điều chỉnh góc độ thích hợp để cả hai ngón đều chính diện tiếp xúc dây đàn. 2 ngón tay phân biệt trên dây đàn, cẩn thận điều chỉnh góc độ để móng giả tiếp xúc chính diện dây đàn. 2. Khi thực hiện các thủ pháp "thác", "mạt" và câu thì vận dụng đốt ngón tay (chứ không phải là nắm tay hay cánh tay) hoàn toàn không vượt ra phạm vi nắm tay, nếu vượt qua phạm vi là cử động quá lớn vì cử động như vậy thì tốc độ càng chậm nên động tác sẽ không rõ ràng. Cần ghi nhớ cách vận dụng đốt ngón tay và điều chỉnh với trạng thái thả lỏng. Thủ pháp nhóm lớn Đây là sự kết hợp giữa thủ pháp "câu" và thác cùng lúc, tức là dùng cả ngón cái và ngón giữa khi diễn tấu. Nó là sự hình thành từ tổ hợp của 2 âm trên và dưới, âm Sol (5) trầm hơn phía dưới là dùng ngón giữa (thủ pháp "câu") diễn tấu. Khi thị xướng và hát giai điệu của âm phía trên. Nhóm lớn có 2 cách diễn tấu, gồm "giáp" và "đề" (ngón cái và ngón giữa cùng lúc gảy 2 âm cách nhau 1 quãng 8. Đầu tiên đặt dây,tay phải duy trì thủ hình nửa nắm tay và cổ tay đặt nằm ngang, cánh tay mở ra. Dồn sức từ vai xuống cánh tay, ngón cái đặt trên trung âm 5 (nốt Sol), ngón giữa đặt trên trầm âm 5 và các ngón tay còn lại buông xuống tự nhiên. Tay trái đặt trên dây đàn phía trái trung âm 5, duy trì thủ hình nửa nắm tay. Khi đặt dây cần chú ý những điều sau: 1. Khi ngón cái và ngón giữa gảy dây, cố gắng đặt móng tay vuông góc với dây đàn và duy trì thủ hình nửa nắm tay. 2. Khi ngón cái và ngón giữa đặt dây, các ngón khác phải thả lỏng, không được vểnh lên. Chú ý cổ tay phải đặt nằm ngang, không được co lại. 3. Tay trái đặt trên dây đàn bên trái trung âm phải duy trì thủ hình nửa nắm tay. Sau khi ngón giữa và ngón cái đặt dây xong, hai ngón này đồng thời hướng lòng bàn tay gảy dây. Kiến nghị các bạn trước khi luyện tập, hãy luyện tập động tác túm đồ vật. Để lĩnh hội mấu chốt và cách thức ngón tay phát lực, khi diễn tấu cần chú ý: 1. Ngón cái và ngón giữa phải gảy cùng lúc, không được phát âm lệch nhau. 2. Chú ý phương hướng gảy của ngón cái và ngón trỏ, gảy kiểu "đề" theo hướng lòng bàn tay. 3. Khi diễn tấu, 2 ngón tay phải phát lực bằng nhau và tập trung lực vào đầu ngón tay. Không được nghiêng lệch về ngón nào. 4. Sau khi ngón cái và ngón giữa gảy xong, thủ hình phải thả lỏng tự nhiên, tránh móng giả của 2 ngón va vào nhau gây phát sinh tạp âm. Tổ hợp Thác và Mạt Tổ hợp này được diễn tấu bằng ngón trỏ và ngón cái. Đặt dây và tay phải duy trì thủ hình nửa nắm tay, đặt ngón trỏ lên trung âm Rê (dây thứ 2) trong khi các ngón tay khác buông xuống tự nhiên. Tay trái duy trì thủ hình nửa nắm tay, đặt trên dây đàn bên trái trung âm Sol (5). Trên cơ sở đặt dây chính xác thì ngón trỏ gảy trước, sau khi gảy xong thì ngón cái phải ở trên trung âm 5. Tiến hành áp dụng thủ pháp Thác kiểu Đề. Khi diễn tấu cần chú ý: 1. Khi diễn tấu hai âm, lực độ phải đều đặn 2. Duy trì tính độc lập của ngón cái và ngón trỏ, tránh để thủ hình bị cứng hoặc biến dạng. 3. Khi diễn tấu, cánh tay phải duy trì ổn định và không được nhảy nhót lên xuống. 4. Rung âm của tay trái phải đều đặn, giá trị thời gian phải chuẩn xác. Tổ hợp Câu - Thác - Mạt - Thác Tổ hợp này được diễn tấu bằng ngón giữa, ngón cái và ngón trỏ theo thủ pháp Thác, Mạt và Câu tuần tự theo quy trình "Câu - Thác - Mạt -Thác" mà diễn tấu ra 4 âm. Khi diễn tấu cần chú ý: 1. Giai đoạn mới học có thể chơi kiểu dán dây với tốc độ chậm chút. Sau khi ngón cái gảy xong, ngón cái đến vị trí đặt dây. Kế đến ngón giữa gảy xong, ngón trỏ đến vị trí đặt dây. Cuối cùng ngón trỏ gảy xong, ngón cái đến vị trí đặt dây làm cho các âm nối tiếp tự nhiên. Trên cơ sở luyện tập thành thạo mới luyện tập kiểu rời dây với tốc độ nhanh dần. 2. Khi diễn tấu cần duy trì thủ hình nửa nắm tay, giữ toàn bộ thủ hình bình ổn, Không được nhảy nhót lên xuống. 3. Lực độ phân chia cho 4 âm phải đều nhau, không được âm nặng âm nhẹ. Thủ pháp Câu - Thác - Mạt - Thác là một kỹ thuật vô cùng quan trọng trong diễn tấu đàn sắt và cổ tranh Trung Quốc cũng như đàn tranh Việt Nam. Khi luyện tập phải tiến hành luyện tập nhiều lần, trên các dây 5 5# 2 và 5#. Sau khi cơ bản nắm được cách chơi, tiếp tục tiến hành luyện tập đi dây căn cứ vào mức độ thành thục của luyện tập có thể mở rộng từ từ khu âm gảy (ví dụ như khu âm trầm và khu bội âm trầm). Thủ pháp tổ hợp này được coi làm nhạc đệm cho hát hay cho các nhạc cụ khác diễn tấu chung thành một bản hoà tấu hoàn chỉnh, khi diễn tấu có thể dùng thị phạm tay phải hoặc tay trái đều được. Khi diễn tấu cần chú ý: 1. Gảy bằng lực của ngón tay, không quá dựa vào lực của cánh tay và vai, Tránh tình trạng diễn tấu căng thẳng. 2. Khi diễn tấu phải duy trì sự bình ổn, thả lỏng của mặt bàn tay. Ngón tay không được lật lung tung. Nhấn âm 4 và 7 Nhấn âm 4 (nốt Fa): Tay phải và tay trái phân biệt đặt trên trung âm 3 (nốt Mi), duy trì thủ hình đặt dây chính xác. Tay trái nhấn trung âm 3 lên nửa cung thành cao độ của 4, sau đó tay phải tiếp tục gảy trung âm 3. Khi luyện tập nhấn âm 4, cần chú ý: 1. Tay trái nhấn dây phải dứt khoát, chính xác. Duy trì độ ổn định của âm nhấn, lực nhấn dây của tay trái càng nhỏ thì cao âm của tay phải sẽ càng thấp. Ngược lại, lực nhấn dây của tay trái càng lớn thì cao âm của tay phải sẽ càng cao. Vì vậy, khi luyện tập nhấn âm, cần khống chế tốt lực nhấn âm của tay trái; đòi hỏi khi luyện tập phải nghe nhiều và mô phỏng nhiều. 2. Sau khi tay phải gảy dây xong, tay trái giữ vững nhưng đừng thả ra ngay lập tức hoặc là đợi khi tay phải chơi âm tiếp theo thì mới thả ra một cách nhanh chóng để tránh xuất hiện hoạt âm. 3. Thông thường, nếu như thời gian cho phép thì tay trái có thể từ từ nhấn dây trước; ví dụ như diễn tấu 4, 3 (Fa và Mi). Nếu như không có thời gian, tay trái nhấn dây và tay phải diễn tấu gần như phải tiến hành đồng thời. Động tác của tay trái phải dứt khoát, nhanh chóng vào vị trí. Nhấn âm 7 (nốt Si): giống với cách nhấn âm 4. Tay phải và tay trái phân biệt đặt trên trung âm 6 (nốt La), duy trì thủ hình đặt dây chính xác. Tay trái nhấn trung âm 6 lên 2 cung thành cao độ của 7, sau đó tay phải tiếp tục gảy trung âm 6. Lực nhấn đến 7 phải lớn hơn 4 một chút. Phân giải hợp âm và bà âm Hợp âm là từ 3 âm trở lên sắp xếp theo quan hệ quãng âm nhất định (ví dụ Đô - Mi - Sol, Sol - Rê - Sol, Sol - Đô - Rê - Sol), mỗi 1 âm trong quá trình hợp âm phải dựa theo trước sau và tiết tấu nhất định. Lấy hợp âm Sol - Đô - Rê - Sol làm ví dụ, đặt dây và tay phải dựa theo ngón áp út. Ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa phân biệt đặt trên các dây Sol - Đô - Rê - Sol. Khi diẽn tấu cần chú ý: 1. Đối với người mới học hay nhỏ tuổi, có thể dùng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa tiến hành luyện tập trước. Sau khi thành thạo mới dùng thêm ngón áp dụng để tập luyện. 2. Khi mới luyện tập đặt dây, áp dụng theo thứ tự lần lượt từ ngón áp út tới ngón cái. Yêu cầu 4 ngón tay áp dụng cách đặt dây đồng thời. Khi đặt dây yêu cầu nhô ra, duy trì nguyên dạng thủ hình để đầu ngón tay ôm lấy dây đoàn, trânh tình trạng ngón tay méo mó hay cứng ngắc. 3. Khi 4 ngón đặt dây đừng đặt quá sâu, mỗi ngón đều sử dụng đầu ngón tay tiếp xúc dây. Sau khi đặt dây xong, tay phải bắt đầu diễn tấu từ ngón áp út từ âm cao đến âm thấp và diễn tấu lần lượt theo hướng lòng bàn tay, sau khi gảy xong thì thu về lòng bàn tay một cách tự nhiên. Khi diễn tấu cần chú ý: 1. Tiếp xúc dây bằng mặt chính diện của móng giả, tránh xuất hiện tạp âm từ mặt bên móng giả. 2. Chú ý tính độc lập của mỗi ngón tay. Sau khi gảy dây từng âm, ngón tay lập tức trở về thủ hình nửa nắm tay. Không được co quắp vào lòng bàn tay. 3. Các ngón tay trong khi chơi cần chú ý sự cân bằng của lực độ, sự thống nhất của âm sắc. Không được theo kiểu âm thì mạnh, âm thì yếu. 4. Khi chơi phân giải hợp âm trong vòng quãng 8 (bát độ), ngón tay có thể đặt dây trước một cách có chuẩn bị. Còn phân giải hợp âm quá quãng 8 có thể áp dụng cách chơi rời dây. Bà âm () là đem các âm trong hợp âm theo thứ tự từ thấp đến cao diễn tấu theo tốc độ trung bình nhanh. Khi diễn tấu chú ý sự khác biệt và liên hệ giữa Phân giải hợp âm và Bà âm. Hai thủ pháp này giống nhau về mặt thủ hình và cách chơi. Điểm khác biệt nằm ở: Phân giải hợp âm phải diễn tấu chính xác dựa theo tiết tấu quy định mà bà âm về tốc độ hơi nhanh chút. Diễn tấu Bà âm cần phải dựa trên cơ sở thành thạo diễn tấu phân giải hợp âm mới tiến hành tập luyện. Diễn tấu của Bà âm khá tự do có thể là tiết tấu hợp quy tắc, cũng có thể căn cứ vào sự cần thiết của nhạc khúc mà biến hóa và diễn tấu theo hai kiểu thị phạm tay trái (bên trái đàn) hay tay phải (bên phải đàn) hoặc diễn tấu 2 tay. Kĩ thuật vê ngón Đây là kĩ thuật quan trọng trong diễn tấu đàn sắt, cổ tranh Trung Quốc và đàn tranh Việt Nam. Nó lợi dụng dao động của cánh tay và cổ tay Khiến cho các đơn âm rời rạc liên kết thành 1 tuyến trở thành trường âm liên tục không ngừng khiến cho tiếng nhạc kéo dài thể hiện tác dụng ca xướng của âm nhạc. Vê trong âm nhạc có năng lực biểu hiện phong phú. Nó có thể thông qua các biến hoá về lực độ, tốc độ, âm sắc, tiết tấu,... biểu hiện ra các loại tình cảm âm nhạc khác nhau. Thủ pháp vê chia làm: vê ngón cái, vê ngón trỏ, vê ngón giữa và vê ngón áp út. Trong đó vê ngón cái là thường gặp nhất. Nó lại chia làm 2 trường hợp: có điểm tựa & không điểm tựa. Đặt dây, mặt bên trái của bụng ngón trỏ tay phải nhẹ nhàng đặt ở chỗ cuốn băng dính của móng giả ngón cái. Ngón giữa, ngón áp út cong vào tự nhiên. Ngón út chống xuống bên phải Tiền nhạc sơn (bên phải đàn), cổ tay hơi ép xuống tiếp cận hộp điều âm (chỉ có ở cổ tranh). Mặt chính diện của móng giả ngón cái tiếp xúc dây. Khi luyện tập đặt dây cần chú ý: 1. Khi mới học, luyện động tác ngón út chống đỡ, rời dây chuyển động cổ tay trước. 2. Mấu chốt để vê tốt chính là nằm ở đặt dây và thủ hình. Khi ngón trỏ giữ móng giả ngón cái, đốt ngón tay của ngón cái phải chống đỡ; không được sụp xuống hay biến dạng. Tác dụng của ngón trỏ là khống chế và cố định móng giả của ngón cái. Lực giữ của ngón trỏ nên vừa phải, nếu như ngón trỏ dùng lực quá nhiều sẽ khiến cổ tay cứng đơ hoặc thủ hình biến dạng. Từ đó mà ảnh hưởng đến sự phát lực của ngón tay. Còn quá thả lỏng, sẽ khiến móng giả ngón cái lắc lư trước sau, thanh âm yếu ớt, đồng thời thiếu tính rõ nét. 3. Ngón giữa, ngón áp út hơi nâng lên, tránh lúc đang vê, móng giả của 2 ngón này chạm vào dây đàn mà sản sinh tạp âm. 4. Ngón út khi chống đỡ cần duy trì ổn định, nhưng đừng dùng lực quá nhiều. Vê bao hàm 2 động tác diễn tấu ngược nhau là "Tỳ" (琵) và "Thác". Ngón cái đặt dây trên trung âm Sol (5) cách Tiền nhạc sơn khoảng 2 cm, tiếp xúc dây sẵn sàng. Cổ tay kéo ngón cái hướng về phía cơ thể diễn tấu hoàn thành động tác của "Tỳ". Sau khi gảy xong, cổ tay dựa theo quán tính kéo ngón tay hướng về phía trước cơ thể diễn tấu hoàn thành động tác của "Thác"; khi tổ hợp thủ pháp "Tỳ" và "Thác" dao động qua lại một cách nhanh chóng sẽ trở thành kỹ thuật vê. Khi diễn tấu vê ngón, cần chú ý: 1. Khi diễn tấu, phải duy trì thủ hình đặt dây không thay đổi, dựa vào lực chuyển động của cổ tay kéo ngón cái diễn tấu; cần phải nhớ ngón cái không được chủ động phản lực, biên độ chuyển động của cổ tay không được quá lớn. 2. Ngón út làm điểm chống đỡ dựa vào bên phải Tiền nhạc sơn, dùng để ổn định vận động của cổ tay. Trong quá trình diễn tấu không được dao động qua lại. Luyện vê quãng ngắn có lợi trong việc huấn luyện lực khống chế và cảm giác rõ nét trong liền mạch của vê. Một số kỹ thuật khác - Đả (打): Sử dụng ngón áp út để gảy dây trong một chuyển động đóng, về phía lòng bàn tay. Nếu sử dụng móng riêng, cả móng (nếu đủ dài) và "đi bộ" tiếp xúc với dây. - Phách (劈) hay bài (擘): Sử dụng ngón tay cái để gảy móc trong một chuyển động mở, cách xa lòng bàn tay. Nếu sử dụng móng riêng, chỉ có móng tiếp xúc với dây, không có phần nào khác của ngón tay cái. - Khiêu (挑): Sử dụng ngón trỏ để gảy theo một chuyển động mở ra, cách xa lòng bàn tay. Nếu sử dụng móng riêng, chỉ có móng tiếp xúc với dây, không có phần nào khác của ngón tay. - Dịch (剔): Sử dụng ngón tay giữa để gảy theo một chuyển động mở ra, cách xa lòng bàn tay. Nếu sử dụng móng riêng, chỉ có móng tiếp xúc với dây, không có phần nào khác của ngón tay. - Trích (摘), khẩu (扣): Sử dụng ngón tay đeo nhẫn (thứ tư) để nhổ một chuyển động mở ra, cách xa lòng bàn tay. Nếu sử dụng móng riêng, chỉ có móng tiếp xúc với chuỗi, không có phần nào khác của ngón tay. Nó ảnh hưởng từ cách chơi cổ cầm. - Dản huyền (间弦): Một số ngón tay gảy vài dây với một chuyển động đóng. Các dây không liền kề nhau và cách nhau một quãng tám. - Đại toát (大撮): Sử dụng ngón tay cái và ngón giữa để gảy hai dây có bốn dây giữa chúng trong một chuyển động đóng, các ngón tay di chuyển về phía lòng bàn tay. Điều này nghe như quãng tám khi được phát trên một giai điệu ngũ cung. Nếu sử dụng móng tay riêng, móng tay và đầu bụng của ngón tay chạm vào dây. - Tiểu toát (小撮): Sử dụng ngón tay cái và ngón trỏ để gảy hai dây trong một chuyển động đóng, về phía lòng bàn tay. Các dây được gảy phải có một dây giữa chúng. - Phiến toát (反撮): Sử dụng ngón tay cái và ngón giữa để gảy móc hai dây theo chuyển động mở, cách xa lòng bàn tay. Các dây gảy phải có bốn dây giữa chúng. Nếu sử dụng móng tay riêng, chỉ có móng tay chạm vào dây. - Phú chỉ (复指): Một lớp các kỹ thuật trong đó cùng một dây được đánh hai lần liên tiếp. Có thể sử dụng cùng một ngón tay hoặc hai ngón tay khác nhau - Song âm (双音): Đối với hai dây liền kề, nhấn dây thấp hơn để cao độ của nó tăng lên để phù hợp với dây cao hơn. Sử dụng ngón tay cái hoặc ngón trỏ để quét qua cả hai dây, trong một cử chỉ cách người biểu diễn. Nhấn dây thấp hơn sau khi nó được đánh và tạo một âm thanh trượt là một kỹ thuật khác - Trùng âm (重音): Sử dụng ngón tay cái và ngón trỏ để gảy hai dây liền kề trong một chuyển động đóng, nhấn thấp hơn để tạo ra cao độ tương tự như cao hơn. Dùng vĩ kéo và que gõ - Dùng vĩ kéo (chỉ có ở yết tranh Trung Quốc; geomungo 3 dây, ajaeng Triều Tiên và yatga Mông Cổ): đặt đàn lên giá đỡ. Riêng với văn chẩm cầm (đàn tranh kéo 9 dây) phải để dọc đàn khi kéo. Hiếm khi thấy người Việt Nam dùng vĩ kéo chơi trên đàn tranh. Kỹ thuật tay phải chủ yếu là sử dụng cung vĩ, cung vĩ ở yết tranh khác với cung vĩ đàn nhị nhưng nó có tầm quan trọng đặc biệt: điều khiển khéo léo sẽ làm cho tiếng đàn mềm mại, ngọt ngào hoặc khoẻ mạnh, chắc chắn. Hướng chuyển động của cung vĩ là đẩy từ trên xuống dưới và kéo lên từng dây đàn. Cung vĩ của yết tranh thuộc dạng cung rời như cung của violin hay cello chứ không như cung vĩ mắc liền với dây đàn nhị. Kỹ thuật tay trái: nhấn và tì nhẹ dây đàn. Các âm tiến hành trong một đường cung vĩ như đánh miết vĩ, nhấn từng âm và các âm vẫn luyến với nhau. Biểu hiện trạng thái đấu tranh gay gắt, có thể diễn tả sự say đắm, nặng nề. Nhịp độ bản nhạc thường là vừa và chậm. Riêng văn chẩm cầm lại kéo giống đàn nhị từ phải sang trái, có điều là kéo từng dây ở tay trái và nhấn tì dây ở tay phải. Âm thanh đàn tranh ajaeng của Hàn Quốc cũng như Triều Tiên có phần não nùng như tiếng rầu rĩ bi thương, tiếng đàn gần giống với nhạc đệm của đàn đáy Việt Nam trong ca trù. Yết tranh Trung Quốc và Ajaeng Triều Tiên có thể vừa gảy vừa kéo trong khi diễn tấu. - Gõ (chỉ có ở đàn trúc và ngưu cân cầm Trung Quốc; đôi khi cũng dùng cho yatga Mông Cổ): tay phải cầm một que tre gõ lên từng dây đàn. Tay trái nhấn và tì dây. Người chơi cần nắm bắt được cách gõ que đàn sao cho rơi đúng điểm (cách cầu ngựa khoảng 1,5 cm – 2 cm, bụng ở đầu que gảy được rơi ở chính giữa) kết hợp hài hoa giữa cổ tay và ngón tay. Khi bật đầu que nên bật đến độ cao khoảng 45 độ so với mặt đàn. Mông Cổ Một đầu của yatga được đặt trên đầu gối của người biểu diễn, đầu còn lại sẽ ở trên sàn hoặc sẽ được đặt trên một giá đỡ. Một số người biểu diễn thích đặt yatga trên hai khán đài. Nhạc cụ sẽ được đặt ở vị trí mà các dây cao hơn ở bên phải và phía trước, và tất cả các dây sẽ chỉ được gảy ở phía bên phải của cầu đàn. Cao độ của một dây cũng có thể được thay đổi bằng cách di chuyển các cầu đàn. Do thiếu hai ghi chú, nên có một khoảng trống giữa các cầu của dây E và G và cũng có khoảng trống giữa các dây A và C. Yatga được điều chỉnh bởi các cơ chế ẩn bên phải của yatga. Sau khi điều chỉnh cơ bản, nhạc cụ được tinh chỉnh bằng cách di chuyển các nhạn đàn sang hai bên. Người chơi có thể thay đổi cao độ hoặc một nốt bằng một nửa âm trở lên khi nhấn xuống dây bên trái của cầu đàn. Bên cạnh các bản nhạc theo phong cách phương tây, một ký hiệu dựa trên số được sử dụng ở Trung Quốc và các quốc gia khác. Dây nốt cao nhất nhận được số 1 và sau đây được đánh số theo thứ tự tăng dần. Giai điệu của dây 1 phải là D hoặc Re nếu sử dụng lược đồ CDEGA. Lối chơi yatga ảnh hưởng mạnh từ đàn sắt và cổ tranh Trung Quốc. Đa phần nhạc công Mông Cổ diễn tấu yatga không hề dùng móng giả khi gảy. Thông thường các dây màu xanh lá cây là ghi chú A. Cũng có thể điều chỉnh yatga trong 7 nốt trên mỗi quãng tám, hoặc 7 nốt và 3 nốt nửa (thang độ diatonic). Nhiều khi yatga cũng được nhạc công dùng cung vĩ (giống cây vĩ của đàn violin) để kéo vào dây hoặc búng mạnh cung vĩ lên dây để âm thanh yatga có phần sinh động. <ref> </rep> Nhật Bản Người chơi đàn đeo móng đàn (móng gảy) vào ba ngón tay cái, trỏ và giữa của bàn tay phải để gảy đàn. Tùy từng phái mà hình dáng của móng gảy có thể là tròn hay vuông, độ lớn bé cũng khác. Như phái Ikuta thì dùng móng gảy to hình vuông, còn phái Yamada thì dùng móng gảy tròn hoặc đầu tròn. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, móng gảy có xu hướng mỏng đi. Nuôi móng tay dài có thể chơi koto mà không cần đeo móng đàn. Hoặc có thể chơi bằng phần đầu bụng của ngón tay để chơi. Ngồi xuống và mở đầu gối của bạn với chiều rộng của thắt lưng của bạn. Tạo khoảng trống với kích thước một vài nắm tay giữa hai đầu gối của bạn. Thẳng lên xương hông và cột sống của bạn, và hỗ trợ với bụng của bạn. Thư giãn cơ thể và vai trên của bạn. Ngồi xuống chính xác đầu tiên là vô cùng quan trọng. Hãy ngồi xuống định vị 45 độ cho koto. Một vị trí mà xương sống của bạn đi trên đường mở rộng từ rìa (ryukaku). Đây là vị trí phù hợp bạn ngồi xuống. Tiếp theo vươn tay qua koto một cách tự nhiên; lưu ý không vặn eo, không duỗi khuỷu tay. Và giữ vai của bạn theo chiều ngang. Khum bàn tay phải của bạn trong một vòng tròn và đặt bàn tay trái của bạn trên các dây đàn với các ngón tay với nhau. Khi bạn chơi một dây đàn xa bạn,không cúi đầu, nhưng uốn cong phần trên của cơ thể từ thắt lưng cho đến khi bàn tay của bạn đạt đến chuỗi tự nhiên. Ngồi thẳng và nâng đỡ phần thân trên của bạn với bụng và đùi của bạn. Khi bạn nhìn vào một cuốn sách âm nhạc, hãy chắc chắn nơi bạn đặt một giá đỡ sách dạy nhạc. Nếu bạn đặt chân đứng bên phải, cổ của bạn trở thành tư thế cong vẹo. Giữ đúng vị trí của bạn, thẳng mặt, Đặt tư thế đứng thẳng từ cái nhìn của bạn. Móng đàn koto đeo trong ngón tay cái, ngón trỏ và ngón giữa của bạn. Cong tay nhẹ nhàng theo vòng tròn. Đừng căng thẳng và làm cho nó dễ dàng. Nhấn và tỳ dây đàn xuống mặt đàn có cạnh chính xác, sau đó bạn sẽ tạo ra âm thanh tuyệt vời. Âm sắc koto và độ dày của âm phụ thuộc vào kỹ thuật chơi. Khi bắt đầu học, bạn chơi koto chủ yếu bằng ngón tay cái của bạn. Trước khi bắt đầu chơi Koto, bạn phải lên dây cho đàn. Để bắt đầu, 13 ngựa đàn (gọi là Ji) được đặt dưới từng dây đàn, sau đó người ta điều chỉnh chúng cho tới khi các dây đạt được chính xác những âm cơ bản. Cách chỉnh âm cơ bản phổ biến nhất của Koto là: mỗi dây có một tên riêng, bắt đầu từ dây trầm nhất, Ichi (1), Ni (2), San (3), Shi (4), Go (5), Roku (6), Shichi (7), Hachi (8), Ku (9), Jyu (10), To (11), I (12), Kin (13). Năm dây tương đương với một quãng tám. Các # hơi trầm hơn hệ âm của phương Tây. Nhẹ nhàng khum bàn tay của bạn trong một vòng tròn và đặt các ngón tay của bạn trên một dây với nhau. Đặt ngón tay thứ ba và nhỏ của bạn vào một dây và hỗ trợ nó. Cách chơi với ngón trỏ và ngón giữa của bạn: Khi bạn chơi với ngón trỏ và ngón giữa,khum chúng vào trong (bên trái của koto). Chơi bằng tay trái: Khi bạn thực hành kỹ năng oshide (để căng dây bằng tay trái để điều chỉnh hoặc thay đổi âm thanh),ngón tay trái của bạn có thể bị đau. Triều Tiên và Hàn Quốc Gayageum Theo truyền thống, gayageum được chơi khi ngồi trên sàn với hai chân bắt chéo, đầu đàn nằm trên đầu gối phải và đuôi đàn nằm trên sàn. Khi được chơi trong khi ngồi trên ghế hoặc ghế đẩu, đuôi đàn thường được đặt trên giá đỡ đặc biệt, tương tự như ngồi ghế. Đối với gayageum hiện đại, họ có thể được đặt trên một giá đỡ đặc biệt với người chơi ngồi trên một chiếc ghế phía sau đàn. Người CHDCND Triều Tiên thường chơi trong khi ngồi trên ghế nhưng họ không sử dụng giá đỡ ở đầu đuôi. Thay vào đó, gayageum có đôi chân có thể tháo rời được cố định vào cuối để nâng đuôi đủ cao. Gayageum được chơi bằng cả tay phải và tay trái. Tay phải gảy và búng dây gần cầu đàn của gayageum trong khi tay trái nhấn và tì dây xuống ở phía bên trái của con nhạn để nâng cao độ của đàn. Gayageum không dùng móng gẩy mà dùng phần đầu bụng ngón tay để gẩy. Ngày nay, kỹ thuật vê ngón trên dây đàn nhưng không cần dùng móng đàn, đòi hỏi nghệ sĩ cần nuôi móng tay dài mới có kỹ thuật vê ngón khi chơi đàn tranh gayageum. Kéo ngón tay của bạn về phía cơ thể của bạn hoặc đẩy ra khỏi nó trong khi cổ tay của bạn được nâng lên. Tay trái được sử dụng để gảy các dây theo trình tự, hoặc nó chỉ đơn giản là theo dây chỉ được chơi bởi tay phải. Các ngón đàn chơi gayageum gồm ngón búng (튕기기 Twingigi), ngón gẩy (집기 Jipgi), ngón nhấn (농현), lướt dây, ngón vê và ngón giật (뜯기 Tteutgi). Khi chơi gayageum, tay phải luôn nằm trên mặt đàn bên cạnh hyeonchim (thành đàn). Tay phải giả định vị trí ký hiệu OK. Ngón cái chưa thực sự chạm vào dây, nhưng việc gảy được thực hiện bằng ngón trỏ. Các ngón còn lại luôn nằm trên dây phía trên ngón trỏ. Sau khi gảy, bàn tay mở ra với lòng bàn tay hướng lên. Làm như vậy sẽ kéo dài âm thanh và cho phép nó cộng hưởng. Ngoài ra còn có một kỹ thuật khác là ngón búng, nhưng đó là dành cho người chơi thuần thục. Trong ngón búng, mặt trước của ngón trỏ được sử dụng để chơi dây, người học thuần thục cũng sẽ học cách sử dụng các ngón tay khác ngoài chỉ số để chơi gayageum. Tay trái được sử dụng để tạm thời thay đổi cường độ của dây khi cần. Chỉ số bên trái và ngón giữa là một ngón trỏ đến không gian ngón tay cái cách xa phía bên trái của con nhạn mọi lúc khi chơi gayageum. Khi cần, chỉ số bên trái và ngón giữa nhấn dây xuống trong khi dây được gảy bằng tay phải. Để chơi ngón rung (농현 nonghyeon), tỳ dây xuống bằng tay trái nhiều lần trong khi âm thanh vẫn vang. Để tạo tiếng nhấn luyến (정숭 jeongsung), tay phải gảy dây còn tay trái túm dây giật nhẹ lên. Các dây được đặt theo thứ tự điều chỉnh sau đây từ cao nhất, xa nhất, từ ​​người chơi đến cao nhất, dây gần nhất với người chơi đàn. Kỹ thuật tay phải Duỗi thẳng các ngón tay trên bàn tay phải của bạn, đảm bảo không có khoảng cách giữa chúng. Thả lỏng chúng và cuộn tròn chúng vào trong, tạo thành hình nửa nắm tay. Đặt tay phải của bạn lên cầu đàn (hyeonchim) với tay phải của bạn được đặt đúng vị trí, lúc này chúng ta có thể học các kỹ thuật gayageum khác nhau. Gảy bằng ngón trỏ: số "2" đặt phía trên nốt nhạc cho biết kỹ thuật này. Duỗi thẳng các ngón tay và đưa ngón tay cái của bạn về đốt ngón tay đầu tiên trên ngón trỏ. Làm tròn thủ hình nửa nắm tay, đặt ngón trỏ của bạn trên dây bạn muốn gảy, ngón giữa và ngón đeo nhẫn của bạn trên dây bên dưới dây đích, và ngón út của bạn đặt trên cầu đàn. Ngón búng: số "0" được đặt phía trên nốt nhạc cho biết kỹ thuật này. Đưa ngón tay cái của bạn lên đầu ngón trỏ và uốn cong cả hai để tạo thành hình chữ "O". Đặt ngón tay cái của bạn lên dây phía trên dây mục tiêu và dùng ngón trỏ để búng dây. Sau khi bạn búng dây, không uốn cong ngón trỏ và đảm bảo rằng ngón cái của bạn vẫn ở vị trí cũ. Gảy bằng ngón tay cái: vị trí "1" phía trên nốt nhạc cho biết điều này. Đặt ngón tay cái và ngón trỏ của bạn theo đường chéo trên dây và ba ngón tay còn lại trên dây. Đảm bảo rằng tâm của đốt ngón tay cái đầu tiên chạm vào dây đàn. Cuối cùng, dùng ngón tay cái kéo dây lên trên. Khi bạn gảy đàn và đảm bảo rằng ngón trỏ của bạn tiếp xúc với dây đàn. Gảy song thanh: để tay ở vị trí "280 độ" phía trên mặt đàn gần cầu đàn; đây là lối gảy 2 đồng âm ở hai dây khác nhau. Kỹ thuật tay phải Duỗi thẳng các ngón tay trên bàn tay phải của bạn, đảm bảo không có khoảng cách giữa chúng. Thả lỏng chúng và cuộn tròn chúng vào trong, tạo thành hình nửa nắm tay. Đặt tay phải của bạn lên cầu đàn (hyeonchim) với tay phải của bạn được đặt đúng vị trí, lúc này chúng ta có thể học các kỹ thuật gayageum khác nhau. Gảy bằng ngón trỏ: vị trí số "2" đặt phía trên dây với mặt đàn. Duỗi thẳng các ngón tay và đưa ngón tay cái của bạn về đốt ngón tay đầu tiên trên ngón trỏ. Làm tròn thủ hình nửa nắm tay, đặt ngón trỏ của bạn trên dây bạn muốn gảy, ngón giữa và ngón đeo nhẫn của bạn trên dây bên dưới dây đích, và ngón út của bạn đặt trên cầu đàn. Ngón búng: vị trí số "0" được đặt trên dây với mặt đàn. Đưa ngón tay cái của bạn lên đầu ngón trỏ và uốn cong cả hai để tạo thành hình chữ "O". Đặt ngón tay cái của bạn lên dây phía trên dây mục tiêu và dùng ngón trỏ để búng dây. Sau khi bạn búng dây, không uốn cong ngón trỏ và đảm bảo rằng ngón cái của bạn vẫn ở vị trí cũ. Gảy bằng ngón tay cái: vị trí "1" phía trên mặt đàn. Đặt ngón tay cái và ngón trỏ của bạn theo đường chéo trên dây và ba ngón tay còn lại trên dây. Đảm bảo rằng tâm của đốt ngón tay cái đầu tiên chạm vào dây đàn. Cuối cùng, dùng ngón tay cái kéo dây lên trên. Khi bạn gảy đàn và đảm bảo rằng ngón trỏ của bạn tiếp xúc với dây đàn. Búng hai dây: tại vị trí "280" phía trên mặt đàn. Đưa ngón tay cái của bạn lên đầu ngón trỏ và uốn cong cả hai để tạo và hình chữ "O". Gập ngón tay giữa của bạn sao cho đầu ngón tay ở vị trí thấp hơn một chút so với chiều cao của đầu ngón trỏ. Búng ngón giữa rồi đến ngón trỏ. Ngón giật: tại vị trí "2-1" phía trên mặt đàn. Đặt ngón tay cái và ngón trỏ của bạn trên các dây ở hai bên của dây mục tiêu, di chuyển ngón trỏ của bạn xuống dây mục tiêu và dùng ngón tay cái nhấc nó lên rồi giật nhẹ lại Song thanh (gảy ngón cái & giữa): tại vị trí "1-3" của mặt đàn. Đặt ngón tay cái và ngón giữa của bạn lên các dây đích và dùng ngón tay cái vuốt nhẹ trước rồi dùng ngón giữa kéo dây vào gần sát dây của ngón cái rồi thả tay ra. Geomungo Geomungo thường được chơi trong khi ngồi trên sàn nhà. Các dây đàn được gảy bằng một que tre ngắn gọi là suldae, được giữ giữa ngón trỏ và ngón giữa của bàn tay phải, trong khi tay trái ấn vào dây bằng cách búng và tì dây để tạo ra nhiều nốt khác nhau. Kỹ thuật của đàn tranh geomungo gồm gảy que, đánh chồng âm và tay trái nhấn luyến dây. Điều chỉnh điển hình nhất của dây mở cho âm nhạc truyền thống Hàn Quốc là D # / Eb, G # / Ab, C, A # / Bb, A # / Bb và A # / Bb một quãng tám thấp hơn âm trung tâm. Nhạc cụ được chơi trong âm nhạc cung đình truyền thống của Hàn Quốc (jeongak) và phong cách dân gian của sanjo và sinawi. Cách chơi gồm: Ngón nhấn: (nhấn bằng gân tay: nhấn và miết dây đàn cho chùng lại bằng tay trái) ngón nhấn tạo cho hai âm nối liền nhau và sẽ trở thành âm luyến lặp lại nhiều lần, nghe mềm mại hơn. Gảy que: Tay phải cầm que búng lên dây đàn tuỳ vào lực độ vừa hay mạnh trong khi tay trái thao tác ngón nhấn. Tuỳ theo từng nhạc khúc mà khi nhấn nhạc công sẽ nhấn 1 dây hay túm 2 dây trong khi vẫn gảy 1 dây. Nhấn dây bằng tay trái giữa khoảng cách của dây đàn và các phím Đánh chồng âm: Dùng que gảy gảy liền hai dây với lực mạnh bằng tay phải. Do âm thanh gõ đặc trưng và kỹ thuật chơi mạnh mẽ của nó, nó được cho là một nhạc cụ trầm hơn so với đàn tranh gayageum 12 dây hoặc 25 dây; tuy nhiên, được chơi bởi cả người biểu diễn nam và nữ. Geomungo có một loạt các bài hát có thể chơi được và cũng có một loạt các giai điệu lớn. Những loại đàn thuộc họ đàn tranh ở Đông Nam Á Mi gyaung Mi gyaung ( ) hay kyam (, ; đọc là "chyam") là một đàn zither ba dây với hình thù con cá sấu được đẽo từ gỗ, gảy với ba dây được sử dụng như một công cụ truyền thống ở Miến Điện. Nó gắn liền với người Môn. Thân đàn được làm bằng gỗ được chạm khắc ở mặt trên của "lưng con cá sấu gỗ" giống như một chiếc xuồng độc mộc. Nó có khoảng 13 con nhạn bằng gỗ được nâng lên theo chiều dọc thay vì cách đều nhau hoặc cách đều màu. Nó có đầu và đuôi cá sấu chạm khắc, cũng như bốn chân. Dây đàn của nó được điều chỉnh (từ thấp đến cao) FCF. Chuỗi thấp nhất được làm bằng đồng và hai chuỗi cao hơn được làm từ nylon. Nó được gảy bằng một plectrum hình que ngắn, thon đến một điểm, làm bằng sừng hoặc gỗ cứng. Không giống như đàn chakhe của Thái Lan, miếng gảy không được cầm vào ngón trỏ bên phải, mà thay vào đó chỉ đơn giản là cầm trong tay trái. Kỹ thuật vê ngón trên dây thường được sử dụng bởi tay phải. Nhạc cụ có âm thanh ù bởi vì dây được nâng lên khỏi con nhạn bằng một mảnh tre hoặc vật liệu mỏng khác như nhựa hay gỗ cứng. Chakhe Chakhe (, , cũng gọi là jakhe or ja-khe), hay cũng gọi là krapeu (; hoặc takhe, , takhe, takkhe hay charakhe) là đàn với ba dây được sử dụng trong âm nhạc Thái Lan và Khmer. Nhạc cụ tiếng Thái và tiếng Khmer gần như giống hệt nhau. Nó có hai loại, ở Campuchia thì krapeau được làm bằng gỗ cứng theo hình cá sấu cách điệu và cao khoảng 20 cm và dài 130 đùa132 cm, còn thiết kế của Thái Lan là hình dáng quả lê bổ dọc nằm ngang với cổ đàn dài. Phần "đầu" dài 52 cm, rộng 28 cm và sâu 9 trận12 cm; phần "đuôi" dài 81 cm và rộng 11,5 cm. Nó có mười một con nhạn (chakhe) hoặc mười hai con nhạn (krapeu) các phím đàn được làm bằng tre, ngà, xương hoặc gỗ; có chiều cao từ 2 đến 3,5 cm, được dán cố định vào khung bằng sáp hoặc keo. Hai dây cao nhất của nó được làm bằng sợi tơ tằm, chỉ y tế (catgut) hoặc nylon trong khi dây thấp nhất được làm bằng kim loại. Chúng được điều chỉnh với tone là C-G-c. Đàn thường được hỗ trợ bởi ba hoặc năm ở đáy làm chân đàn. 3 dây đàn mắc vào trục (chốt đàn) để lên dây. Kỹ thuật diễn tấu của chakhe hay krapeu tương tự như mi gyaung của Miến Điện. Kacapi Kacapi là loại đàn tương tự các loại đàn tranh Á Đông và zither phương Tây. Đây là loại đàn zither của người Sunda ở Indonesia, khu vực Java. Từ kacapi trong tiếng Sundan cũng dùng để chỉ cây sấu đỏ, từ đó ban đầu gỗ được sử dụng để chế tạo đàn này. Con nhạn của kacapi có dạng hình chóp. Theo hình dạng hoặc hình dạng vật lý của nó, có hai loại kacapi: Kacapi Parahu (Thuyền Kacapi) hoặc Kacapi Gelung; và Kacapi Parahu là một hộp cộng hưởng với cấu tạo hình thang cân để cho phép âm thanh phát ra. Các cạnh của loại kacapi này được làm thon dần từ trên xuống dưới, tạo cho thùng đàn có hình dạng giống như chiếc thuyền. Vào thời cổ đại, nó được làm trực tiếp từ gỗ nguyên khối bằng cách đục lỗ. Siter Kacapi là loại đàn zither 15 dây. Tương tự như Kacapi Parahu, lỗ của nó nằm ở phía dưới. Mặt trên và mặt dưới của nó tạo thành hình dạng giống hình thang cân. Đối với cả hai loại kacapi, mỗi dây được mắc vào con nhạn và Kacapi Parahu (dạng thuyền) có trục chốt ở phía trên bên phải của hộp. Chúng có thể được điều chỉnh trong các hệ thống khác nhau: pelog, sorog/madenda hoặc slendro. Ngày nay, hộp cộng hưởng của kacapi được tạo ra bằng cách dán sáu tấm gỗ cạnh nhau. Theo truyền thống, kacapi được chơi bằng cách ngồi khoanh chân trên sàn nhà. Do đó, khoảng cách các dây là khoảng 25 cm trên sàn. Ngày nay, kacapi đôi khi được đặt trên khung gỗ, để người chơi có thể ngồi trên ghế. Nếu kacapi indung được chơi khi đang ngồi trên sàn, thường là một cái gối hoặc một vật nhỏ khác được đặt bên dưới bàn tay trái của nó, như được nhìn thấy từ người chơi, để âm thanh có thể tự do thoát qua lỗ cộng hưởng ở dưới cùng của hộp âm nhạc. Một số kecapi được trang bị chân đế nhỏ, do đó không cần thiết phải nâng chúng theo cách này. Về âm thanh: hơi giống koto Nhật nhưng âm sắc thiên về zither phương Tây hay guitar. Người ta chơi kacapi gảy trực tiếp bằng đầu ngón tay chứ không đeo móng giả, tương tự như chơi đàn tranh gayageum Hàn Quốc. Cách lên dây của kacapi tương đương với âm sắc của các nhạc cụ Tây Nguyên ở Việt Nam: Sol – Si Do – Re – Fa# - Sol. Đàn KoTaMo KoTaMo là loại đàn zither gồm sự kết hợp của đàn tranh koto Nhật, tanputa (một nhạc cụ dây gảy cổ dài, có nguồn gốc từ Ấn Độ, được tìm thấy trong các hình thức khác nhau trong âm nhạc Ấn Độ. Nó không chơi giai điệu mà chỉ hỗ trợ và duy trì giai điệu của một nhạc cụ hoặc ca sĩ khác bằng cách cung cấp một bourdon hoặc drone hòa âm liên tục) và monochord (một nhạc cụ phòng thí nghiệm âm nhạc và khoa học cổ đại). Koto có các con nhạn di động và cho phép điều chỉnh ở nhiều quy mô khác nhau. Thông thường nó được điều chỉnh trong ngũ giác. Koto và tanpura đều được đặt ở một bên của nhạc cụ. Khi Kotamo được đặt thẳng đứng, có thể chơi cả hai bên một cách đồng thời. Một tay chơi với âm thanh Monochord, tay còn lại ứng biến trên dây của Koto và Tambura. Kotamo tổng cộng có 58 dây và 15 con nhạn của koto. Nếu không có con nhạn của koto, các dây đàn của KoTaMo chỉ toàn là đơn âm. Đàn Jetigen Jetigen (, , or dzhetigan or zhetygen) là một loại đàn zither có nhạn (ngựa đàn) của người Kazakhstan (có thể hiểu nôm na là đàn tranh của Kazakhstan). Loại jetigen cổ xưa nhất trông giống như chiếc hộp kéo dài rỗng ra từ mảnh gỗ với 7 dây và bảy con nhạn, lúc đầu dây của Jetigen bện từ lông đuôi ngựa nên về sau người ta thay bằng dây nylon hay dây thép. Mặt đàn của Jetigen trông giống như hộp gỗ dài rỗng. Jetigen không có hộp âm thanh và trục đàn. Các dây được kéo dài bằng tay từ phía bên ngoài của đàn. Sau đó, phần trên của Jetigen được phủ hộp âm thanh gỗ. Asyks (con nhạn) đã ra ngoài dưới mỗi dây từ hai bên và trước kia, nhạn của jetigen được làm từ xương động vật. Di chuyển chúng có thể điều chỉnh dây. Nếu các con nhạn (assyks) được kéo lại gần nhau thì giai điệu sẽ tăng lên và nếu tách ra thì giai điệu sẽ giảm xuống. Điều chỉnh dây đàn được thực hiện bởi các con nhạn và bằng cách di chuyển nó trên dây. Các nhạc cụ ban đầu có dạng một hộp hình chữ nhật, được chạm khắc từ gỗ, với các dây kéo dài trên đầu. Đàn Ognyugeum Đây là một trong những nhạc cụ đặc biệt của Bắc Triều Tiên. Người trẻ nhất cho đến nay, đàn zither Ongnyugeum được cho là đã được tạo ra vào năm 1973 theo yêu cầu của nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Chính Ân. Trong khi quy kết một sáng tác nhạc cụ từ một người đứng đầu nhà nước là nghi ngờ, có thể thấy rằng lãnh đạo Triều Tiên đã thấy những cải cách âm nhạc ra khỏi quốc gia. Ognyugeum có 32 hoặc 33 dây được sắp xếp trên một bảng âm hình thang. Người chơi ngồi ở vị trí hẹp của đàn và gảy bằng ngón tay. Cả hai điểm cuối bên phải và bên trái của dây được sắp xếp theo các đường cong s phù hợp. Một hàng nhạn cố định nằm ở bên trái của tay người chơi cho phép nhấn dây. Bảng âm có một lỗ âm thanh mở ở phía trên, hướng âm thanh lên trên, thay vì xuống như trên hầu hết các đàn zithers châu Á (đàn tranh) dài khác. Theo Hàn Quốc nhạc cụ bách khoa của Viện âm nhạc cổ điển quốc gia Hàn Quốc, ongnyugum được chơi bên ngoài Bắc Triều Tiên ở tỉnh Cát Lâm và ở Hàn Quốc; Các trang web video trực tuyến khác nhau và các cửa hàng tin tức đã ghi lại hiệu suất trong vài thập kỷ qua. Cuốn sách chính thức nhất của người Viking về thảo luận về Ognyugeum là cuốn sách Ognyugeum, xuất bản năm 1988; Có các bản sao trong các thư viện ở Los Angeles, New York và Boston, Hoa Kỳ. Tôi nói nó chính thức bởi vì nó được xuất bản ở Bắc Triều Tiên. Cách làm đàn tranh tự chế Không quá khó khi tạo ra chiếc đàn tranh của mình mà không quá đắt so với mua đàn ở cửa hàng nếu chi phí hay kinh tế của bạn không đủ, hãy lấy một tấm gỗ chữ nhật dài, sau đó lấy búa đóng những chiếc đinh lên phần đầu và phần cuối của mặt ván (tùy theo kích thước của ván gỗ). Sau đó mắc dây lên đinh và buộc chặt dây (sử dụng dây từ sợi nilon loại dày để tránh bị đứt, hoặc dùng dây cước càng tốt). Sau đó bạn chỉ cần mua bộ con nhạn đàn tranh rồi xếp lên ván gỗ để mắc dây là xong. Nếu như bạn không đủ tiền mua con nhạn, bạn cũng có thể dùng cành cây gỗ cứng (cành to), đẽo thành hình chiếc kìm chữ A. Hoặc dùng những miếng gỗ hình lập phương kích cỡ khác nhau làm con nhạn mắc dây đàn tùy bạn. Bạn chẳng phải là nghệ nhân hay nhà sản xuất đàn tranh mà cũng tự làm cho mình cây đàn không hề tốn phí quá nhiều tiền. Tác phẩm tiêu biểu của Đàn Tranh (Việt Nam) - Sang Xuân - St Phương Bảo - Bình Minh Trên Rẻo Cao - St Phương Bảo - Biển - St Phương Bảo - Tình Ca Đất Bắc - St Phạm Thúy Hoan - Tình Ca Xứ Huế - St Phạm Thúy Hoan - Tình Ca Miền Nam - St Phạm Thúy Hoan - Mùa Thu Quê Hương - St Phạm Thúy Hoan - Mơ Về Bến Ngự - St Phạm Thúy Hoan - Xuân Quê Hương - St Xuân Khải - Hương Sen Đồng Tháp - St Xuân Khải - Rặng Tre Trước Gió - St Trần Chính - Cảm Xúc Tây Nguyên - St Ngô Bích Vượng - Mưa Chiều - St Bùi Thiên Hoàng Quân - Khúc Ngẫu Hứng Trên Hò Đồng Tháp - St Đặng Kim Hiền - Gió Xuân (Sonate) - St Nguyễn Văn Đời - Quê Tôi Giải Phóng (Concerto) - St Quang Hải - Đất và Hoa (Concerto) - St Quang Hải Xem thêm Đàn sắt Trung Quốc Cổ tranh Trung Quốc Koto (nhạc cụ) Gayageum Yatga Mi gyaung Chakhe Kacapi Chú thích Liên kết ngoài Nhạc cụ dân gian Việt Nam Nhạc cụ Việt Nam Nhạc cụ dây Nhạc cụ Trung Quốc
24325
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0n%20tam%20th%E1%BA%ADp%20l%E1%BB%A5c
Đàn tam thập lục
Tam thập lục - hay còn có tên gọi khác như Dương cầm là một trong những loại nhạc cụ truyền thống hình thang, thuộc bộ gõ dây nằm trong cơ cấu dàn nhạc dân tộc Việt Nam, đựoc du nhập từ phương Tây vào các nước trong khu vực Châu Á và cải biến cấu tạo, kích thước cũng như sắp xếp hệ thống dây đàn, âm vực phù hợp với cách chơi và truyền thống mỗi nước. Về cơ bản đàn có 36 dây nên được gọi là Tam Thập Lục. Tuy nhiên ngày nay, đàn đã được cải tiến mở rộng âm vực bằng cách chế tác tăng kích thước hộp đàn - mặt đàn, mắc thêm dây, mở rộng từ 3,5 tới 4 quãng 8. Nguyên bản đàn Tam Thập Lục Việt Nam được du nhập và cải tiến từ đàn Yangqin Trung Quốc, tên gọi gốc cổ theo ký tự chữ tiếng Hán là Dương cầm (揚琴), hoặc theo tiếng Hán - Hàn là Yanggeum (양금 - cũng là duơng cầm) được hiểu theo nghĩa của Hán Việt là âm nhạc của sự tán dương, hoan nghênh. Không nên nhầm lẫn với dương cầm - tức đàn piano của phương Tây. Nguồn gốc Đàn Tam Thập Lục của Việt Nam cũng như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan và đa số các nước trong khu vực Châu Á có chiều dài lịch sử bắt nguồn từ Ba Tư. Nguyên gốc có tên là santur được chế tác vào khoảng thể kỷ thứ XII. Đến khoảng thế kỷ XVIII, santur bắt đầu được du nhập vào Triều Tiên, Trung Hoa và Đông Nam Á. Vào thời nhà Minh, đàn Santur tràn vào Trung Quốc và trở nên phổ biến ở Trung Quốc (sau này nó dần dần phát triển thành một loại nhạc cụ truyền thống được gọi là Dương cầm), từng được chơi ở cung đình trong các bài nhạc lễ Nho giáo, ngày nay Dương cầm (tam thập lục Trung Quốc) đều có thể chơi hầu hết các bản nhạc. Đàn Tam Thập Lục bắt đầu du nhập vào Việt Nam trong khoảng thập niên 60 qua cộng đồng người Hoa ở khu vực Chợ Lớn, Sài Gòn. Nhạc cụ này khá phổ biến ở các quốc gia trong khu vực Trung Á. Không chỉ du nhập vào Trung Quốc thông qua con đường tơ lụa với cái tên Dương cầm mà nó cũng rất phổ biến ở các quốc gia phương Tây thời Trung cổ cho đến ngày nay. Với mỗi quốc gia đàn có tên gọi khác nhau như: Ba Tư, Syria & Ả Rập: Santũr, Santari, Santuri, Santir, Suntur, Santouri, Sandouri, Santoor Mông Cổ: Yoochir Triều Tiên: Yanggeum (양금) Thái Lan: Khim (ขิม) Campuchia: Khum (ឃឹម) Ấn Độ: Santoor (সন্তুর) Anh, Hoa Kỳ: Hammered Dulcimer Các quốc gia phương Tây: Cimbalom, Cimbál, Cymbalom, Cymbalum, Tambal, Tsymbaly v.v… Cấu tạo và cách chơi Đàn Tam Thập Lục có khả năng độc tấu, hòa tấu và đệm rất phong phú nhưng ban đầu đàn ít phổ biến trong cộng đồng Việt Nam vì cấu tạo to, nặng và quá trình học tập rèn luyện lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì cũng như độ chăm chỉ cao mới có thể chơi thuần thục. Phần lớn chỉ thấy đàn được ứng dụng trong những nhà hát, dàn nhạc truyền thống chuyên nghiệp nhưng số lượng cũng không nhiều. Tuy nhiên ngày nay đàn cũng đã phát triển nhiều hơn và số lượng nghệ sĩ chơi đàn cũng dần tăng lên vì sự thú vị và đặc biệt của cây đàn này. Đàn tam thập lục có hình thang cân, mặt đàn làm bằng gỗ mềm, hơi phồng lên theo đường vòng cung ở giữa, mặt đáy phẳng. Trên mặt đàn có đặt 2 hàng cầu (hay còn gọi là ngựa đàn) được sắp xếp dàn đều 2 bên dựa theo hình thang của khung đàn và có sự so le nhau để thuận tiện mắc dây. Khung thành đàn làm bằng gỗ cứng. Bên phải là hàng trục vừa để mắc dây và có thể xoay để căng dây theo cao độ, bên trái là hàng mắc gốc dây. Các dây đàn đều được làm bằng kim loại và có độ dài và độ dày- mảnh trải dần đều từ khu âm vực thấp tới cao. Mỗi một nốt trung bình mắc 3 dây. - Quãng trầm: Ngoài lõi dây kim loại cơ bản thì bên ngoài bọc xoắn vòng theo dạng lò xo chặt chẽ, tạo nên âm thanh bass dày, rền, ấm và vang, cho cảm giác hào hùng, mạnh mẽ - Quãng trung: Từ nốt đô tới nốt sol vẫn sử dụng loại dây có bọc nhưng mảnh hơn quãng trầm, từ nốt la trở lên dùng dây kim loại trần tạ nên tiếng đàn đầy đặn, trong trẻo - Quãng cao: sử dụng hoàn toàn dây kim loại trần, âm thanh sắc, gon, đanh và cứng cáp Dây đàn được mắc nối vào 2 bên trục, bắt so le qua cầu ngựa và qua "con lăn" - một miếng kim loại nhỏ được cắt mài theo dạng hình trụ cầu có thể lăn qua lăn lại để hỗ trợ điều chỉnh cao độ một cách nhanh chóng. Que đàn đựoc làm bằng tre vót nhỏ, đầu que đựoc thiết kế gắn một miếng gỗ nhỏ hình dạng như một nửa hình bầu dục, bọc thun hoặc miếng cao su. Khi biểu diễn, người nghệ sĩ dùng 2 đầu que gõ vào dây đàn tạo ra các âm thanh với những kỹ thuật như: đánh đơn, đánh chồng âm - hòa âm, nẩy âm, reo dây, bịt tiếng, gẩy đuôi que... Xem thêm Erhu Pipa Zhongruan Liuqin Dizi Tham khảo Nhạc cụ dân gian Việt Nam
24329
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc%20c%C3%B3%20gi%C3%A1m%20s%C3%A1t
Học có giám sát
Học có giám sát là một kĩ thuật của ngành học máy để xây dựng một hàm (function) từ dữ liệu huấn luyện. Dữ liệu huấn luyện bao gồm các cặp gồm đối tượng đầu vào (thường dạng vec-tơ), và đầu ra mong muốn. Đầu ra của một hàm có thể là một giá trị liên tục (gọi là hồi qui), hay có thể là dự đoán một nhãn phân loại cho một đối tượng đầu vào (gọi là phân loại). Nhiệm vụ của chương trình học có giám sát là dự đoán giá trị của hàm cho một đối tượng bất kì là đầu vào hợp lệ, sau khi đã xem xét một số ví dụ huấn luyện (nghĩa là, các cặp đầu vào và đầu ra tương ứng). Để đạt được điều này, chương trình học phải tổng quát hóa từ các dữ liệu sẵn có để dự đoán được những tình huống chưa gặp phải theo một cách "hợp lý" (xem thiên kiến quy nạp - inductive bias). (So sánh với học không có giám sát.) Học có giám sát có thể tạo ra hai loại mô hình. Phổ biến nhất, học có giám sát tạo ra một mô hình toàn cục (global model) để ánh xạ đối tượng đầu vào đến đầu ra mong muốn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc ánh xạ được thực hiện dưới dạng một tập các mô hình cục bộ (như trong phương pháp lập luận theo tình huống (case-based reasoning) hay giải thuật láng giềng gần nhất). Để có thể giải quyết một bài toán nào đó của học có giám sát (ví dụ: học để nhận dạng chữ viết tay) người ta phải xem xét nhiều bước khác nhau: Xác định loại của các ví dụ huấn luyện. Trước khi làm bất cứ điều gì, người kĩ sư nên quyết định loại dữ liệu nào sẽ được sử dụng làm ví dụ. Chẳng hạn, đó có thể là một ký tự viết tay đơn lẻ, toàn bộ một từ viết tay, hay toàn bộ một dòng chữ viết tay. Thu thập tập huấn luyện. Tập huấn luyện cần đặc trưng cho thực tế sử dụng của hàm chức năng. Vì thế, một tập các đối tượng đầu vào được thu thập và đầu ra tương ứng được thu thập, hoặc từ các chuyên gia hoặc từ việc đo đạc tính toán. Xác định việc biểu diễn các đặc trưng đầu vào cho hàm chức năng cần tìm. Sự chính xác của hàm chức năng phụ thuộc lớn vào cách các đối tượng đầu vào được biểu diễn. Thông thường, đối tượng đầu vào được chuyển đổi thành một vec-tơ đặc trưng, chứa một số các đặc trưng nhằm mô tả cho đối tượng đó. Số lượng các đặc trưng không nên quá lớn, do sự bùng nổ tổ hợp (curse of dimensionality); nhưng phải đủ lớn để dự đoán chính xác đầu ra. Xác định cấu trúc của hàm chức năng cần tìm và giải thuật học tương ứng. Ví dụ, người kĩ sư có thể lựa chọn việc sử dụng mạng nơ-ron nhân tạo hay cây quyết định. Hoàn thiện thiết kế. Người kĩ sư sẽ chạy giải thuật học từ tập huấn luyện thu thập được. Các tham số của giải thuật học có thể được điều chỉnh bằng cách tối ưu hóa hiệu năng trên một tập con (gọi là tập kiểm chứng -validation set) của tập huấn luyện, hay thông qua kiểm chứng chéo (cross-validation). Sau khi học và điều chỉnh tham số, hiệu năng của giải thuật có thể được đo đạc trên một tập kiểm tra độc lập với tập huấn luyện. Cực tiểu hóa rủi ro kinh nghiệm Mục tiêu của việc học có giám sát một mô hình toàn cục là tìm ra một hàm g, khi cho sẵn một tập các điểm có dạng (x, g(x)). Giả thiết rằng đã biết trước đặc điểm của hàm g đối với một tập điểm. Tập điểm đó đã được lấy mẫu độc lập và có cùng phân bố (independent and identically distributed (i.i.d.)) theo một xác suất phân bố p chưa biết từ một tập lớn hơn và có thể vô hạn. Ngoài ra, giả sử tồn tại một hàm hàm tổn thất (loss function) theo tác vụ L có dạng: trong đó Y là trùng với miền xác định của g và L ánh xạ tới các số thực không âm (có thể đặt thêm hạn chế cho L). Giá trị L(z, y) là tổn thất nảy sinh khi đoán giá trị của g tại một điểm cho trước là z trong khi giá trị thực của nó là y. Hàm rủi ro f được định nghĩa là giá trị kỳ vọng của hàm tổn thất và có công thức như sau: nếu xác suất phân bố p là rời rạc (trường hợp xác suất phân bố liên tục cần một tích phân xác định (definite integral) và một hàm mật độ xác suất. Mục tiêu là tìm một hàm f* trong số một lớp con cố định các hàm để cho rủi ro R(f*) là cực tiểu. Tuy nhiên, do thường chỉ biết được đặc điểm của hàm g cho một tập hữu hạn điểm (x1, y1),..., (xn, yn), người ta chỉ có thể xác định gần đúng rủi ro thực sự, ví dụ, với rủi ro kinh nghiệm (empirical risk): Nguyên lý của cực tiểu hóa rủi ro kinh nghiệm là chọn hàm f* sao cho rủi ro kinh nghiệm là nhỏ nhất. Lý thuyết học bằng thống kê tìm hiểu xem việc cực tiểu hóa rủi ro kinh nghiệm có thể đạt được trong những điều kiện nào và có thể trông đợi các tính toán xấp xỉ tốt đến đâu. Hướng tiếp cận và giải thuật học bằng phân tích (analytical learning) mạng nơ-ron nhân tạo Instantaneously trained neural networks kỹ thuật lan truyền ngược (backpropagation) boosting thống kê Bayes lập luận theo tình huống (case-based reasoning) học cây quyết định inductive logic programming hồi quy Gauss (Gaussian process regression) learning automata theory Minimum message length (cây quyết định, đồ thị quyết định, v.v.) naive Bayes classifier thuật toán láng giềng gần nhất probably approximately correct learning (PAC) learning symbolic machine learning algorithms subsymbolic machine learning algorithms support vector machines Random Forests Ứng dụng Tin sinh học Nhận dạng chữ viết tay Thu thập thông tin (information retrieval) Nhận dạng đối tượng trong computer vision Nhận dạng ký tự quang học Phát hiện spam Nhận dạng mẫu Nhận dạng tiếng nói Vấn đề chung computational learning theory (ngành toán học liên quan đến việc phân tích các thuật toán học máy) thiên kiến quy nạp (inductive bias) overfitting (hàm học được quá thích nghi với tập huấn luyện) version space Tham khảo Liên kết ngoài Chương trình mạng nơ ron đa lớp (Multi Layer Neural Network) và mạng nơ ron tự tổ chức (Self Organizing Maps) có giải thích bằng tiếng Việt. Sử dụng phần mềm mạng nơ ron 3 lớp Spice-MLP Sử dụng phần mềm mạng tự tổ chức Spice-SOM Hướng dẫn sử dụng mạng nơ ron trong các ứng dụng thực tế trong đó có minh họa phân loại ảnh khuôn mặt, ảnh người đi bộ, ảnh xe hơi, dự báo chứng khoán và một số ví dụ khác Học máy
24330
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA%20Kh%E1%BA%A3%20Phi%C3%AAu
Lê Khả Phiêu
Lê Khả Phiêu (27 tháng 12 năm 1931 – 7 tháng 8 năm 2020) là một cố chính trị gia người Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ tháng 12 năm 1997 đến tháng 4 năm 2001. Ông cũng từng là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Quân ủy Trung ương, Trưởng Ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ Trung ương. Ông cũng đồng thời là một tướng lĩnh trong Quân đội nhân dân Việt Nam, từng giữ chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Xuất thân và binh nghiệp Lê Khả Phiêu sinh ngày 27 tháng 12 năm 1931 ở làng Thạch Khê Thượng, xã Đông Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Năm 1945, ông tham gia phong trào Việt Minh tại địa phương và gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 19 tháng 6 năm 1949. Ngày 1 tháng 5 năm 1950, Lê Khả Phiêu được tổ chức Việt Minh điều động gia nhập quân đội. Ông bắt đầu trưởng thành từ một binh nhì thăng tiến dần đến chức vụ Chính trị viên Đại đội thuộc Trung đoàn 66 Đại đoàn 304. Từ tháng 9 năm 1954 đến năm 1958, ông lần lượt giữ các chức vụ Phó chính trị viên, Chính trị viên tiểu đoàn rồi Chủ nhiệm chính trị Trung đoàn 66. Từ tháng 6 năm 1961 đến năm 1966, ông lần lượt giữ chức vụ Phó trưởng ban, Trưởng ban Cán bộ tổ chức Sư đoàn 304, sau đó là Phó chính ủy, rồi Chính ủy kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 9, Sư đoàn 304. Năm 1967, Lê Khả Phiêu được điều động cùng Trung đoàn 9 vào chiến trường Trị Thiên, làm Chính ủy Trung đoàn. Năm 1968, ông làm Trưởng phòng Tổ chức Quân khu Trị Thiên. Đến năm 1970, là Phó chủ nhiệm Chính trị Quân khu Trị Thiên. Tháng 5 năm 1974, khi Quân đoàn 2 được thành lập, ông được cử giữ chức Chủ nhiệm Cục chính trị Quân đoàn, hàm Thượng tá. Năm 1978, Lê Khả Phiêu là Phó chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị, rồi Phó tư lệnh về chính trị Quân khu 9, hàm Đại tá. Đồng thời ông cũng kiêm nhiệm một chức vụ dân sự là Phó Bí thư Khu ủy Khu IX. Tháng 4 năm 1984, Lê Khả Phiêu được thăng hàm Thiếu tướng, giữ chức vụ Chủ nhiệm chính trị, rồi Phó tư lệnh về chính trị kiêm Chủ nhiệm chính trị, Phó Bí thư Ban Cán sự Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (mật danh Mặt trận 719). Tháng 8 năm 1988, sau khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, ông được thăng hàm Trung tướng và được điều về làm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 9 năm 1991, Lê Khả Phiêu là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm 1992, ông được phong quân hàm Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Sự nghiệp chính trị Tháng 6 năm 1991 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Lê Khả Phiêu được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Về phía quân đội, ông giữ chức Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương. Tháng 6 năm 1992, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 13 của Đảng, Lê Khả Phiêu được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng. Tháng 1 năm 1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam, ông được Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII bầu vào Bộ Chính trị. Tháng 4 năm 1996 Lê Khả Phiêu được phân công làm Thường trực Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc khoá VIII Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 6 năm 1996, ông được bầu làm Uỷ viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị, Thường trực Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Trưởng Ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ Trung ương. Tổng Bí thư Hoạt động nội bộ Đảng Ngày 26 tháng 12 năm 1997 tại Hội nghị Trung ương lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII), Lê Khả Phiêu được bầu giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, không lâu sau khi Đỗ Mười quyết định hưu trí. Cùng ngày, ông cũng là Bí thư Quân ủy Trung ương. Trong nhiệm kỳ Tổng bí thư ông thực hiện chiến dịch chống tham nhũng và xây dựng chỉnh đốn lại Đảng. Trong diễn văn khai mạc Hội nghị Trung ương 6 lần 2 (Khóa 8), Lê Khả Phiêu đã phân tích thực trạng của Đảng:“Sau gần ba năm kể từ Đại hội Đảng lần thứ 8 năm 1996 đến nay, chúng ta đã phải thi hành kỷ luật 60.000 đảng viên, trong đó, khai trừ 11.000, có 1.108 người bị xử tù… Nếu Đảng không thấy được những yếu kém ấy, không tập trung, không kiên quyết khắc phục và ngăn ngừa có hiệu quả, thì rất có thể Đảng sẽ ngày càng tự biến chất, xa rời bản chất cách mạng của Đảng. Có phải nếu như chúng ta không khắc phục được, không ngăn ngừa được những yếu kém nói trên, nhất là về tư tưởng chính trị, về đạo đức, lối sống cũng như về nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, nó sẽ đưa đến nguy cơ tự hủy mình hay không?”, với Nghị quyết số 10-NQ/TƯ, ra đời năm 1999 nói về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng đảng hiện nay”, Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương mà đứng đầu là chính bản thân ông khi đó đã “xới lại, củng cố lại” nền móng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nghị quyết này sau đó được thông qua vào ngày 2 tháng 2 năm 1999. Trong giai đoạn này ông Phiêu luôn truyền đi những thông điệp cứng rắn, mạnh mẽ góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Nhưng ông cũng mắc phải một số sai lầm và chỉ trích như việc hỗ trợ và cất nhắc những người cùng quê Thanh Hóa vào những vị trí quan trọng và không muốn cải tổ doanh nghiệp nhà nước dù vậy ông đã góp phần chỉ đạo tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giai đoạn ông làm Tổng bí thư đã xảy ra bất ổn ở Tây Nguyên vào năm 2001. Đối ngoại Lê Khả Phiêu chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, khẳng định Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, với tinh thần “khép lại quá khứ hướng tới tương lai”. Hoa Kỳ Ông là Tổng bí thư đầu tiên đón tiếp Tổng thống Hoa Kỳ là ông Bill Clinton sau khi hai quốc gia bình thường hóa quan hệ. Ngày 13 tháng 7 năm 2000, hai bên đã ký Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ. Trung Quốc Việt Nam đã tăng cường quan hệ với Trung Quốc sau khi thiết lập lại quan hệ ngoại giao. Hai văn bản quan trọng đã được ký kết, Hiệp ước biên giới trên đất liền vào ngày 30 tháng 12 năm 1999 có hiệu lực vào ngày 6 tháng 7 năm 2000, Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá ngày 25 tháng 12 năm 2000. Trong chuyến thăm đến Trung Quốc từ ngày 25 tháng 2 cho đến ngày 2 tháng 3 năm 1999 của ông, Giang Trạch Dân và Lê Khả Phiêu đã nêu ra phương châm 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Quan hệ với các Cố vấn và từ chức Trong số các ba Cố vấn lúc bấy giờ là Đỗ Mười, Lê Đức Anh và Võ Văn Kiệt thì ông Phiêu có quan hệ tốt với ông Lê Đức Anh. Lê Đức Anh nguyên là Tư lệnh quân Việt Nam tại chiến trường Campuchia mà ông Lê Khả Phiêu là cấp phó, ông Lê Đức Anh đã giới thiệu ông với Tổng bí thư Đỗ Mười và được đồng ý làm người kế nhiệm. Tuy nhiên mối quan hệ hai bên xấu đi khi ông Phiêu hạn chế quyền lực của các Cố vấn và thành lập cơ quan để theo dõi. Cả ba Cố vấn sau đó đã gây sức ép và ký tên vào một lá thư phê phán Tổng bí thư Lê Khả Phiêu. Tháng 4 năm 2001, Bộ Chính trị bỏ phiếu với tỉ lệ 12/6 đồng ý để ông Phiêu ở lại đến năm 2003. Nhưng ngày 17 tháng 4 năm 2001, tại buổi họp của các đại biểu ngay trước lúc chính thức khai mạc Đại hội IX, Ban chấp hành trung ương đã đảo ngược quyết định của Bộ Chính trị và tiến hành bỏ phiếu. Lần bỏ phiếu đầu tiên số người đồng ý cho ông Lê Khả Phiêu nghỉ chỉ chiếm 50,5%, số không đồng ý là 49,5% và có năm ủy viên Trung ương vắng họp. Trung ương sau đó đã bỏ phiếu lại vào ngày 18 tháng 4 năm 2001 dù bị các Cố vấn phản đối, trong lần bỏ phiếu này ông Phiêu chỉ còn một số phiếu rất thấp, ông chấp nhận từ chức trước Đại hội IX của Đảng vào ngày 22 tháng 4 năm 2001, chức vụ Cố vấn cũng bị bãi bỏ ngay sau đó. Nghỉ hưu và qua đời Nghỉ hưu Tháng 10 năm 2006, ông chính thức nghỉ hưu theo chế độ. Sau khi nghỉ hưu ông ít can thiệp vào chính trị mà thường đi đến các địa phương tham gia các hoạt động xã hội. Năm 2007, ông được Tổng bí thư Nông Đức Mạnh trao tặng Huân chương Sao Vàng. Năm 2014, ông nhận được huy hiệu 65 năm tuổi Đảng và 70 năm tuổi Đảng vào năm 2019. Qua đời Sau một thời gian lâm bệnh, ông qua đời vào lúc 02:52, ngày 7 tháng 8 năm 2020 tại nhà riêng số 7/36/C1 Lý Nam Đế, phường Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Theo Văn phòng Ban chấp hành Trung ương Đảng được biết, tang lễ dành cho nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu sẽ được tổ chức theo nghi thức Quốc tang trong hai ngày, 14 và 15 tháng 8 năm 2020. Lễ viếng của ông được tổ chức tại Nhà tang lễ quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội bắt đầu từ 08:00, ngày 14 tháng 8 năm 2020 đến 12:00, ngày 15 tháng 8 năm 2020. Lễ truy điệu được tổ chức vào 12:30, ngày 15 tháng 8 năm 2020 tại Nhà tang lễ quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Cùng thời gian này tại Hội trường Thống nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hội trường 25B, đường Quang Trung, Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa cũng tổ chức lễ viếng, lễ truy điệu nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu. Theo di nguyện của Lê Khả Phiêu, sau khi mất, ông muốn được rải tro cốt xuống ba dòng sông đã gắn liền kỉ niệm với cuộc đời ông nhưng do dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp nên gia đình cũng không muốn kéo dài thời gian tang lễ. Theo một người thân trong gia đình Lê Khả Phiêu chia sẻ, ba con sông đó là sông Mã, sông Hồng và sông Cửu Long. Vào 14:00 cùng ngày, linh cữu của ông được đưa về Nghĩa trang Mai Dịch để an táng với khu vực là tại vị trí thứ tư (cạnh mộ Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương), bên phải (từ cổng nghĩa trang hướng vào sân chính). Gia đình Vợ của Lê Khả Phiêu tên là Nguyễn Thị Bích (1935-2022), là giáo viên. Ông và vợ có ba người con, ông từng có con nuôi tên là Lan, người dân tộc Paco qua đời năm 1969 vì bị sốt rét. Di sản và đánh giá Chính sách chống tham nhũng và chỉnh đốn xây dựng lại Đảng của ông đã đặt nền móng cho công cuộc chống tham nhũng của Việt Nam mà hiện nay Tổng bí thư đương nhiệm Nguyễn Phú Trọng đang tiếp tục, ông Cù Huy Hà Vũ nhận xét. Ông được đánh giá là người sát với thực tế khi còn là Tổng bí thư và là người rất tận tình và chu đáo, ông Phan Diễn (nguyên Bí thư Thường trực Ban Bí thư) khi nói về Lê Khả Phiêu. Ông được ca ngợi là một người Cộng sản chân chính, cống hiến hết mình cho nước nhà và cho quân đội. Tặng thưởng Huân chương Huân chương Sao vàng (2007). Huân chương Quân công hạng Nhất. Huân chương Quân công hạng Nhì. Huân chương Quân công hạng Ba. Huân chương Kháng chiến hạng Nhất. Huân chương Chiến thắng hạng Ba. Huân chương Chiến công hạng Nhất. Huân chương Chiến công hạng Nhì. Huân chương Chiến công hạng Ba. Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất. Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì. Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba. Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất. Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhì. Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Ba. Huy chương Quân kỳ quyết thắng. Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba. Huân chương José Martí của Cộng hòa Cuba. Huân chương Tự do hạng Nhất của CHDCND Lào. Huân chương Chiến công Cách mạng của CHDCND Lào. Huân chương Bảo vệ Tổ quốc Hạng Nhất của Vương quốc Campuchia. Kỉ niệm chương vì sự nghiệp Quốc tế. Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng (trao ngày 30 tháng 9 năm 2014). Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam (trao ngày 25 tháng 8 năm 2019). Lịch sử thụ phong quân hàm Chú thích Liên kết ngoài Tóm tắt tiểu sử Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu ĐCSVN 10/8/2020 Người Thanh Hóa Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam đã nghỉ hưu Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa IX Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Huân chương Sao Vàng Huân chương Quân công Huân chương Chiến công Huân chương Kháng chiến Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam Sinh tại Thanh Hóa Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam thụ phong thập niên 1990
24338
https://vi.wikipedia.org/wiki/Truy%E1%BB%87n%20th%E1%BA%A7n%20tho%E1%BA%A1i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Truyện thần thoại Việt Nam
Truyện thần thoại Việt Nam là tập hợp những truyện dân gian kể về các vị thần, các nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn hóa, phản ánh quan niệm của người thời cổ về nguồn gốc thế giới và đời sống con người, muôn loài. Ví dụ Cóc kiện trời là một trong những truyện tiêu biểu của thể loại Thần thoại Việt Nam. Truyện thần thoại Việt Nam Truyện thần thoại Việt Nam là thể loại tự sự viết bằng văn xuôi, kể lại sự tích các vị thần sáng tạo ra thế giới tự nhiên và văn hóa, phản ánh nhận thức, cách hình dung của người thời cổ về nguồn gốc của thế giới và đời sống con người. Có thể nói truyện thần thoại được xây dựng bằng những hình ảnh, chi tiết không có thực mà chỉ là hư ảo do con người tưởng ra dựa trên quan niệm về sự tiến hóa loài người mà sau này chỉ có các nhà khoa học mới giải thích được. Đó là những quan niệm theo lối duy vật từ thời xa xưa khi bắt đầu có loài người trên Trái Đất. Nhằm phản ánh quá trình sáng tạo văn học con người thời cổ đại. Phân loại Thần thoại Việt Nam có thể phân ra thành các nhóm chính sau đây Về nguồn gốc vũ trụ và các hiện tượng tự nhiên: Thần trụ trời, Ông Trời, Nữ thần Mặt Trăng, Thần Mặt trời, Thần Mưa... Về nguồn gốc các loài động thực vật: Cuộc tu bổ các giống vật, Thần Lúa. Về nguồn gốc con người và nguồn gốc các dân tộc ở Việt Nam: Ông Trời, Thần Nông, Mười hai bà mụ, Nữ Oa-Tứ Tượng, Lạc Long Quân - Âu Cơ... Về các anh hùng thời khuyết sử, các anh hùng văn hóa, tổ sư các nghề: Sơn Tinh-Thủy Tinh, Nữ thần nghề mộc, Thạch Sanh, Thánh Gióng... Thần thoại Việt bị truyền thuyết hóa: Truyền thuyết vua Hùng... Thần thoại còn biến tướng trong Phật thoại, Tiên thoại, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn và cả truyện cười: Cóc kiện Trời, Chử Đồng Tử... hoặc mang dấu ấn của xã hội nguyên thủy như Trầu Cau, Hòn Vọng Phu, Sao Hôm Sao Mai... Bàn luận Thần thoại đã tạo nên cho con người Việt Nam nếp cảm, nếp nghĩ, nếp tư duy đầy hình tượng phóng đại và khoáng đạt. Nhà nghiên cứu người Nga M.N. Tkachốp đã có nhận xét xác đáng rằng: "Những quan điểm thần linh siêu nhiên được cho là tư duy truyền thống của người Việt Nam từ thời xa xưa và được bắt nguồn chính từ thần thoại. Những lời giải cho sự "kì lạ" không phải là quá hiếm hoi, và đã nằm trong những hoàn cảnh đã tạo nên nó. Một người Việt Nam dù sinh ra trong gia đình làm nghề cày ruộng hay một gia đình quý tộc thì từ tấm bé đều biết ánh sáng loé lên của tia chớp và tiếng sấm là dấu hiệu thần Sấm đang đến, vung lưỡi tầm sét của mình để thực hiện ý muốn của ông Trời trừng phạt một kẻ nào đó phạm tội ác. Anh ta biết rằng cơn gió mát mẻ và trận cuồng phong dữ dội là do bởi chiếc quạt lông của thần Gió cụt đầu mà ra, còn con rồng khổng lồ đang dồn đuổi đám mây mưa trên bầu trời chính là thần Mưa. Còn nếu ông Thần Nông xuất hiện trong giấc mơ của ai đó một cách vui vẻ thì có nghĩa là mùa màng thất bát đang đón chờ anh ta, còn nếu thần xuất hiện trong bộ dạng phờ phạc thì là sự báo trước một mùa màng bội thu... Trong mỗi dòng sông, trong những cánh rừng rậm và hang núi, đang sống những vị thần mà mọi người đều biết rõ tập tục và thói quen của họ." Tham khảo Văn học dân gian Việt Nam Tôn giáo tại Việt Nam
24339
https://vi.wikipedia.org/wiki/Truy%E1%BB%81n%20thuy%E1%BA%BFt%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Truyền thuyết Việt Nam
Truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian, ra đời sau truyện thần thoại, thường có yếu tố tưởng tượng kì ảo, các nhân vật, sự kiện đều liên quan đến lịch sử, là những truyện truyền miệng kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong cảnh địa phương theo quan niệm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại. Dựa theo nội dung truyền thuyết Việt Nam có thể chia theo các thời kì sau: Họ Hồng Bàng và thời kỳ Văn Lang: mang tính chất sử thi, phản ánh không khí anh hùng ca thời Hùng Vương dựng nước và trình độ khá văn minh của người Văn Lang. Các truyền thuyết tiêu biểu của thời kỳ này là Lạc Long Quân-Âu Cơ, Sơn Tinh-Thủy Tinh, Thánh Gióng, Thánh Hùng Linh Công, Hùng Vương thứ sáu, Hùng Vương thứ mười tám... Thời kỳ Âu Lạc và Bắc thuộc: Nước Âu Lạc của An Dương Vương tồn tại khoảng 50 năm (257 TCN-208 TCN). Thời kỳ Bắc thuộc hơn 10 thế kỷ (207 TCN-938) là thời kỳ bị xâm lược và chiến đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Truyền thuyết tiêu biểu của thời Âu Lạc là truyện An Dương Vương, kết cấu gồm hai phần: phần đầu là lịch sử chiến thắng, phần sau là lịch sử chiến bại. Các truyền thuyết phản ánh các cuộc vũ trang khởi nghĩa chống xâm lược thời kỳ Bắc thuộc là Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí... Thời kỳ phong kiến tự chủ: Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, giai cấp phong kiến Việt Nam xây dựng một quốc gia thống nhất, củng cố nền độc lập dân tộc. Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX là sự suy sụp của các triều đại phong kiến. Các truyền thuyết của thời kỳ nầy gồm các nhóm sau đây: Anh hùng chống ngoại xâm: Yết Kiêu, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi... Danh nhân văn hóa: Chu Văn An, Trạng Trình... Lịch sử địa danh: Sự tích Hồ Gươm, Sự tích Núi Ngũ Hành... Anh hùng nông dân: Chàng Lía, Quận He, Ba Vành... Anh hùng nông dân không có yếu tố thần kỳ: Chàng Lía, Lê Văn Khôi... GS. Lê Chí Quế đã đưa ra một số đặc trưng nghệ thuật của truyền thuyết dân gian như sau: Truyền thuyết dân gian được xây dựng trên cơ sở một cốt lõi lịch sử và được chắp thêm đôi cánh "thơ và mộng" nghĩa là sự hư cấu hoang đường. Yếu tố hoang đường trong truyền thuyết mang tính chất thi vị, làm tăng vẻ đẹp, sự oai hùng của nhân vật mà nhân dân kính trọng. Mặt khác nó còn biểu hiện sự rơi rớt của tín ngưỡng dân gian thời nguyên thủy và sự xâm nhập của những yếu tố tôn giáo sau này (Phật, Đạo). Nếu như thời gian trong thần thoại là buổi hồng hoang, khi trời đất chưa phân chia, con người chưa đông đúc, thời gian trong truyện cổ tích là thời quá khứ phiếm định "ngày xửa, ngày xưa", thì thời gian trong truyền thuyết là thời gian quá khứ - xác định. Truyền thuyết nào cũng kể về chuyện đã xảy ra rồi và vào một thời kỳ lịch sử nhất định nào đó (Vào thời đại Hùng Vương, cách đây 4000 năm, vào thời An Dương Vương cách đây trên 2000 năm, vào thời Hai Bà Trưng thế kỷ thứ I, Bà Triệu thế kỷ thứ III, Lê Lợi thế kỷ thứ XV...). Tuy nhiên thật khó mà đoán định khoảng cách giữa thời gian sự kiện và thời gian sáng tạo tác phẩm. Kết cấu của truyền thuyết gần giống kết cấu của thần thoại, cổ tích là kết cấu trực tuyến, không có đồng hiện và sự quay trở lại. Sự việc trong truyền thuyết không đầy đủ chi tiết như trong sử biên niên. Phần giới thiệu lai lịch nhân vật và kết cục cuộc đời thường được hư cấu kỳ diệu: Đinh Bộ Lĩnh là con của Rái Cá, Bà Trưng mất một cách đột ngột sau đêm ngủ say và hồn bay lên trời làm phúc thần, tạo nên mưa thuận gió hòa cho hạ giới. Truyền thuyết thường gắn với các di tích vật chất (gò, đồi, sông, suối...), các di tích văn hóa (đền thờ, tháp, chùa, tượng...) các phong tục và lễ hội (hội Dóng, hội Kiếp bạc, giỗ trận Đống Đa...) Tham khảo Có thể tham khảo các truyện Lạc Long Quân- Âu Cơ; Bánh Chưng - Bánh Giầy; Thánh Gióng; Sơn Tinh - Thủy Tinh; Sự tích Hồ Gươm;..... Văn học dân gian Việt Nam
24341
https://vi.wikipedia.org/wiki/Truy%E1%BB%87n%20c%C6%B0%E1%BB%9Di%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Truyện cười Việt Nam
Truyện cười Việt Nam (còn gọi là truyện tiếu lâm) là một lĩnh vực truyện kể dân gian rộng lớn, đa dạng, phức tạp bao gồm những hình thức được gọi bằng những danh từ khác nhau như truyện tiếu lâm, truyện khôi hài, truyện trào phúng, truyện trạng, giai thoại hài hước. Tiếng cười trong sinh học mang tính bản năng, vô thức phát ra do phản ứng của cơ thể một cách đơn thuần. Trong khi, tiếng cười tâm lý xã hội biểu thị thái độ, bộc lộ tư tưởng, tình cảm con người. Tiếng cười tâm lý xã hội có hai loại nhỏ: tiếng cười tán thưởng và tiếng cười phê phán. Tiếng cười tán thưởng biểu thị niềm vui, sự yêu mến. Tiếng cười phê phán biểu thị sự khinh ghét, sự phủ nhận.Tiếng cười phê phán là cái cười trong truyện cười. Cái cười phát ra từ cái đáng cười. Cái đáng cười chứa đựng cái hài hiểu theo nghĩa triết học, nghĩa là có mâu thuẫn bên trong. Đó là mâu thuẫn giữa cái xấu và cái đẹp, giữa hình tượng và ý niệm, giữa sinh động và máy móc. Nội dung Nội dung của truyện cười có các mục đích: Mua vui giải trí: nhằm mục đích giải trí là chủ yếu, song nó cũng có tính chất phê phán nhẹ nhàng những thói xấu của người bình dân, những lầm lẫn, hớ hênh, những tình huống trớ trêu: (Tay ải tay ai, Thấy dễ mà thèm, Ăn vụng gặp nhau...) như các giai thoại về Bác Ba Phi Phê bình giáo dục: phê bình thói hư tật xấu của người chung quanh trong xã hội đương thời: Hội sợ vợ, Lợn cưới áo mới, Sợ quá nói liều... Đả kích: vạch trần cái ác, cái xấu có tính bản chất của giai cấp thống trị, lãnh đạo. Truyện trào phúng đả kích từ vua chúa, quan chức đến địa chủ cường hào, thầy đồ, thầy chùa, thầy pháp, thầy lang, nhà giàu mới, ông bà chủ, sếp... (Quan huyện thanh liêm, Thần bia trả nghĩa, Nó phải bằng hai mày, Nam mô... boong, Thầy đồ liếm mật, Chỉ có một con ma...). Hệ thống truyện trạng (tiêu biểu là truyện Trạng Quỳnh, truyện ông Ó), Ba Giai Tú Xuất,... Phân loại Theo tiêu chí kết cấu thì truyện cười có 2 nhóm lớn: Truyện cười kết chuỗi: Nhóm truyện cười về nhân vật trung tâm là đối tượng của tiếng cười phê phán (Trạng Lợn) Nhóm truyện cười về nhân vật trung tâm là người được ca ngợi, thán phục, đã dũng cảm, mưu trí đấu tranh chống cái xấu, cái ác (Trạng Quỳnh). Truyện cười không kết chuỗi: Truyện khôi hài (giải trí là chủ yếu), Truyện trào phúng (phê phán là chủ yếu), và Truyện tiếu lâm (có yếu tố tục). Một số truyện cười Việt Nam Thầy bói xem voi Tam đại con gà Lợn cưới, áo mới Đi chợ Nhưng nó phải bằng hai mày Treo biển Mua kính Tham khảo Văn học dân gian Việt Nam Việt Nam
24343
https://vi.wikipedia.org/wiki/Truy%E1%BB%87n%20ng%E1%BB%A5%20ng%C3%B4n%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Truyện ngụ ngôn Việt Nam
Truyện ngụ ngôn là truyện kể có thể kể bằng văn xuôi hoặc văn vần, có tính chất đối nhân xử thế, dùng cách ẩn dụ hoặc nhân hóa loài vật, con vật hay kể cả con người để thuyết minh cho một chủ đề luân lý, triết lý một quan niệm nhân sinh hay một nhận xét về thực tế xã hội hay những thói hư tật xấu của con người. Có một số truyện ngụ ngôn gây cười nhưng cũng ngụ ý bóng gió, kín đáo khuyên nhủ, răn dạy con người. Trong quá trình sống gần gũi với tự nhiên và chưa hoàn toàn tách mình ra khỏi tự nhiên, người cổ đại đã từng quan sát, tìm hiểu các con vật để dễ săn bắt và tự vệ. Khi con người có ý thức mượn truyện loài vật để nói về con người thì truyện ngụ ngôn xuất hiện. Nội dung truyện ngụ ngôn Việt Nam thường bao gồm các điểm sau: Đả kích (giai cấp thống trị): đó là thói ngang ngược, đạo đức giả của kẻ quyền thế (Khi chúa sơn lâm ngọa bệnh, Chèo bẻo và ác là, Mèo ăn chay...) Phê phán thói hư tật xấu của con người: thói huênh hoang đi kèm với bệnh chủ quan, tính tham lam, thói đoán mò (Ếch ngồi đáy giếng, Người nông dân và con lừa, Thả mồi bắt bóng, Cà cuống với người tịt mũi, Thầy bói xem voi...) Nêu lên những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn cuộc sống: tuy chưa là ý niệm triết học đích thực nhưng là những bài học bổ ích, khuyên con người nên đứng đúng vị trí của mình, sống cần có lập trường, nêu lên sức mạnh của sự đoàn kết, tác hại của óc xa rời thực tế, đã tin tưởng vào ý kiến vào quá nhiều người mà không nghe theo ý kiến riêng của mình (Quạ mặc lông công, Đẽo cày giữa đường, Chị bán nồi đất, Chuyện bó đũa, Mèo lại hoàn mèo, Ếch ngồi đáy giếng,...) Ví dụ: Trí khôn,… Các kiểu truyện ngụ ngôn đều có liên quan đến các động vật, những thói sống của con người được khắc hoạ trên truyện ngụ ngôn. Những truyện ngụ ngôn điều mang tính chất và ý nghĩa khác nhau nhưng mấu chốt là giúp con người hiểu ra những bản chất tốt đẹp(hoặc bẩn thỉu) của con người trong hơn triệu năm tiến hóa và phát triển tạo ra.NHững tác giả Việt Nam đã rất tinh tế khi đưa những tính cách vào động vật giống tính cách nó nhất trong dân gian (Ví Dụ: con cáo thì lưu manh, xảo quyệt,...). Tham khảo Văn học dân gian Việt Nam Việt Nam
24344
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%A8
Vè là một trong những thể loại văn học dân gian Việt Nam. Theo Đại Nam quốc âm tự vị, vè là chuyện khen chê có ca vần và việc sáng tác vè là việc đặt chuyện khen chê có ca vần. Định nghĩa này còn đơn giản, nhưng đã nêu được những đặc trưng cơ bản của vè. Vấn đề vè có từ bao giờ chưa thể khẳng định dứt khoát. Đại thể, vè đã nảy sinh chủ yếu trong thời kỳ phong kiến, phát triển nhất trong các thế kỷ 18 - 20. Sự xuất hiện của vè là một bước tiến mới của văn tự sự dân gian. Hình thức Vè được sáng tác bằng văn vần, sử dụng nhiều hình thức khác nhau: câu bốn chữ, năm chữ, lục bát, hát giặm, nói lối. Có vè đồng dao, là những bài hát của trẻ em. Có vè thế sự, về người thật việc thật, phản ánh, bình luận những câu chuyện thời sự địa phương, những truyện đồi phong bại tục, những chuyện áp bức bóc lột của cường hào địa chủ và đời sống khổ cực của dân nghèo trong làng xóm. Những người đặt vè, bẻ vè, nói vè phần nhiều thuộc tầng lớp dưới trong xã hội. Nội dung Đa số bài vè phản ánh hiện thực ở từng địa phương nhất định, bộc lộ rõ thái độ của người dân trước những sự việc, sự kiện đó. Ngoài ra có những bài vè có thể phổ biến rộng rãi ở nhiều địa phương, đôi khi toàn quốc. ‘‘Vè Cầu Ngói Chợ Liễu’’, ‘‘Vè anh Nghị lấy o Hương’’, ‘‘Vè Năm Chơi’’, ‘‘Vè Quản Hớn’’... Vè mang tính thời sự, các sự kiện trong quá khứ ít được vè quan tâm. Vè xuất hiện tức thời, nắm bắt nhạy bén sự việc, sự kiện, ghi nhanh, rồi truyền đi để gây dư luận. ‘‘Vè thách cưới’’, ‘‘Vè bão năm Tỵ’’, ‘‘Vè sai đạo’’, ‘‘Vè thầy Thông Chánh’’... Phân loại Theo tiêu chí thể thơ, có thể chia vè thành các loại: vè lục bát, vè nói lối... Theo tiêu chí đề tài, nội dung phản ánh, có thể phân vè thành các tiểu loại: Vè loài vật, cây trái, sự vật: ‘‘Vè chim chóc’’, ‘‘Vè trái cây’’, ‘‘Vè cá’’, ‘‘Vè rau’’, ‘‘Vè các thứ lúa’’, ‘‘Vè rắn U Minh’’, ‘‘Vè nói ngược’’, ‘‘Vè nói láo’’... Ví dụ bài Vè con ve: Lại truyền ra khắp hết bốn phương,Đem bảng dán chư châu thiên hạ. Gái nào đành dạ,Mà giết đặng chồng. Chém lấy đầu đem nạp bệ rồng,Vua phong chức Hoàng Tôn quận chúa.Có một nàng Nữ TốThật là gái vô songNghe lệnh truyền như hoả ngộ phongThấy bảng dán, dường như đắc thủy...Vè thế sự (vè sinh hoạt xã hội): loại vè này, bên cạnh tính thời sự, tính địa phương rất nổi bật với xu hướng chung là trào phúng: ‘‘Vè thách cưới’’, ‘‘Vè chửa hoang’’, ‘‘Vè uống rượu’’, ‘‘Vè nói dóc’’, ‘‘Vè đánh bạc’’, ‘‘Vè đi bối’’...; vè ghi nhận thực trạng đời sống nhân dân: ‘‘Vè bão năm Tỵ’’, ‘‘Vè Cầu Ngói, chợ Liễu’’, ‘‘Vè thầy cai’’, ‘‘Vè đi phu Cửa Rào’’, ‘‘Vè Cải dịch y phục’’, ‘‘Vè chăn trâu’’, ‘‘Vè đi ở’’, ‘‘Vè chồng chung’’, ‘‘Vè vạn cấy’’, ‘‘Vè đi phu’’... Vè lịch sử: thường hòa quyện sự chân thật lịch sử và sự hư cấu thần kỳ. Vè lịch sử là lịch sử không thành văn của nhân dân, gồm 2 mảng lớn.Nông dân khởi nghĩa: tiêu biểu là ‘‘Vè chàng Lía’’, về phong trào ‘‘khởi nghĩa Tây Sơn’’ có bài ‘‘Vè Bà Thiếu Phó’’, về phong trào nông dân khởi nghĩa ‘‘thế kỷ 19’’, ở miền Bắc phổ biến nhất là ‘‘Vè vợ ba Cai Vàng’’...Đấu tranh chống ngoại xâm'': ‘‘Vè thất thủ kinh đô’’ dài 1850 câu, kể những sự việc xảy ra từ thất thủ Thuận An (‘‘1885’’) đến khi vua ‘‘Thành Thái’’ bị giặc đày sang ‘‘đảo Réunion’’ (‘‘1907’’); ‘‘Vè Ba Đình’’ kể về cuộc ‘‘khởi nghĩa ở Ba Đình’’; ‘‘Vè Quan Đình’’ kể về ‘‘Phan Đình Phùng’’ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở ‘‘Hương Khê’’; ‘‘Hà Tĩnh’’ (‘‘1877’’); ‘‘Vè Tán Thuật’’ kể về cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy của ‘‘Nguyễn Thiện Thuật’’ ở ‘‘Hải Dương’’ hoặc ‘‘Hưng Yên’’ (‘‘1885’’); ‘‘Vè Trương Định’’ kể về người anh hùng đất ‘‘Gò Công’’, Nam Bộ; ‘‘Vè Khâm sai’’ xuất hiện ở ‘‘Quảng Nam’’ khoảng năm ‘‘1886’’... Phương pháp biểu hiện của vè gắn với mục đích và đặc điểm thể loại. Vè xuất hiện nhằm đáp ứng sự phản ánh tức thời một sự việc, sự kiện, ngôn ngữ vè mộc mạc, đơn giản, không trau chuốt, gọt dũa, phần lớn các bài vè lại có vận mệnh ngắn ngủi. Tính đích danh xác thực thể hiện ở tên bài vè, nội dung được phản ánh trong vè. Vè có thể là thơ thể vãn với 3, 4, 5 tiếng một câu nhanh gọn, sắc bén thích hợp yêu cầu tự sự. Thể lục bát dàn trải thích hợp yêu cầu trữ tình. Có bài vè kết hợp cả hai thể thơ: ‘‘Vè Tây cướp nước’’, ‘‘Vè giữ trâu’’... có khi kết hợp yếu tố trữ tình theo yêu cầu biểu hiện nội dung bài vè: ‘‘Vè trước họa giặc Pháp’’... Tham khảo Liên kết ngoài Văn học dân gian Việt Nam Âm nhạc Việt Nam Văn hóa Việt Nam
24345
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc%20kh%C3%B4ng%20c%C3%B3%20gi%C3%A1m%20s%C3%A1t
Học không có giám sát
Học không có giám sát (tiếng Anh: unsupervised learning) là một phương pháp của ngành học máy nhằm tìm ra một mô hình mà phù hợp với các quan sát. Nó khác biệt với học có giám sát ở chỗ là đầu ra đúng tương ứng cho mỗi đầu vào là không biết trước. Trong học không có giám sát, một tập dữ liệu đầu vào được thu thập. Học không có giám sát thường đối xử với các đối tượng đầu vào như là một tập các biến ngẫu nhiên. Sau đó, một mô hình mật độ kết hợp sẽ được xây dựng cho tập dữ liệu đó. Học không có giám sát có thể được dùng kết hợp với suy luận Bayes để cho ra xác suất có điều kiện (nghĩa là học có giám sát) cho bất kì biến ngẫu nhiên nào khi biết trước các biến khác. Học không có giám sát cũng hữu ích cho việc nén dữ liệu: về cơ bản, mọi giải thuật nén dữ liệu hoặc là dựa vào một phân bố xác suất trên một tập đầu vào một cách tường minh hay không tường minh. Một dạng khác của học không có giám sát là phân nhóm dữ liệu, nó đôi khi không mang tính xác suất. Xem thêm Phân nhóm dữ liệu Bản đồ tự tổ chức Thuật toán cực đại hóa kỳ vọng Phân tích khái niệm hình thức (formal concept analysis) Tham khảo Đọc thêm (This book focuses on unsupervised learning in neural networks) Học không có giám sát Học máy
24346
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A5c%20ng%E1%BB%AF%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Tục ngữ Việt Nam
Tục ngữ Việt Nam là những câu nói hoàn chỉnh, đúc kết kinh nghiệm qua thời gian của người Việt Nam về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con người và xã hội. Tục ngữ thiên về trí tuệ nên thường được ví von là "trí khôn dân gian". Trí khôn đó rất phong phú mà cũng rất đa dạng nhưng lại được diễn đạt bằng ngôn từ ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, giàu hình ảnh và nhịp điệu. Có thể coi tục ngữ là văn học nói dân gian nên thường được nhân dân vận dụng trong đời sống sinh hoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội hay hẹp hơn như lời ăn tiếng nói và khuyên răn. Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn, trong đời sống sản xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác; được tách ra từ tác phẩm văn học dân gian hoặc ngược lại; được rút ra tác phẩm văn học bằng con đường dân gian hóa những lời hay ý đẹp hoặc từ sự vay mượn nước ngoài. Giữa hình thức và nội dung, tục ngữ có sự gắn bó chặt chẽ, một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Tục ngữ có tính chất đúc kết, khái quát hóa những nhận xét cụ thể thành những phương châm, chân lý. Hình tượng của tục ngữ là hình tượng ngữ ngôn được xây dựng từ những biện pháp so sánh, nhân hóa, ẩn dụ. Đa số tục ngữ đều có vần, gồm hai loại: vần liền và vần cách. Các kiểu ngắt nhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý, theo tổ chức ngôn ngữ thơ ca... Sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho tục ngữ. Hình thức đối: đối thanh, đối ý. Tục ngữ có thể có 1 vế, chứa 1 phán đoán, nhưng cũng có thể có thể gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán. Các kiểu suy luận: liên hệ tương đồng, liên hệ không tương đồng, liên hệ tương phản, đối lập, liên hệ phụ thuộc hoặc liên hệ nhân quả. Đầu tiên là các bản ghi chép tục ngữ bằng chữ Nôm vào thế kỷ 19 như Nam phong ngữ ngạn thi (南風語諺詩) của Đình Thái, Đại Nam Quốc Túy (大南國粹) của Ngô Giáp Đậu. Bản ghi tục ngữ bằng chữ quốc ngữ có Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn của Huỳnh Tịnh Của (1897), Tục ngữ cách ngôn của Hàn Thái Dương (1920). Một số bản sưu tập, chú thích nghĩa và dịch tục ngữ Việt Nam sang tiếng Pháp như Tục ngữ An Nam dịch sang tiếng Tây của V. Barbier (Triệu Hoàng Hòa), Đông Tây ngạn ngữ cách ngôn của H. Délétie và Nguyễn Xán (1931). Một số bản khác như Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc (1942), Tục ngữ dân ca Mường Thanh Hóa của Minh Hiệu sưu tầm (1970), Ca dao, ngạn ngữ Hà Nội do Triều Dương sưu tầm và biên soạn (1971), Tục ngữ Thái (1978), Tục ngữ ca dao dân ca của Vũ Ngọc Phan (1956), Tục ngữ Việt Nam của Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Chi (1975). Từ nguyên Chữ Nôm: 俗語越南. Chú thích Đọc thêm Tục ngữ Việt Nam
24347
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gia%20C%C3%A1t%20L%C6%B0%E1%BB%A3ng
Gia Cát Lượng
Gia Cát Lượng (chữ Hán: 諸葛亮/ 诸葛亮; bính âm: Zhūgě Liàng; 181 – 234), biểu tự Khổng Minh (孔明), hiệu Ngọa Long (臥龍), là Thừa tướng, công thần khai quốc, nhà chính trị, nhà ngoại giao, chỉ huy quân sự, nhà giáo dục, và cũng là một nhà phát minh kỹ thuật nổi tiếng của nhà Quý Hán (Thục Hán) thời Tam Quốc. Gia Cát Lượng đã phò tá Lưu Bị gây dựng nên nhà Thục Hán, hình thành thế chân vạc Tam quốc, liên minh Thục-Ngô chống Ngụy. Ông được cho là một trong những chiến lược gia vĩ đại và xuất sắc nhất trong thời đại của ông, và được so sánh với một chiến lược gia tài ba khác của Trung Quốc là Tôn Tử. Tuy nhiên, năm chiến dịch đánh Tào Ngụy do ông phát động đều không thành công, cuối cùng ông bị bệnh mất trong doanh trại. Không chỉ có tài năng hơn người, ông còn nổi tiếng với tấm lòng tận trung báo quốc, "cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi". Con trai và cháu nội của Gia Cát Lượng cũng kế thừa chí nguyện bảo vệ nhà Hán của ông và đã anh dũng tử trận khi nhà Thục Hán sắp sụp đổ, tạo nên tấm gương "Trung nghĩa truyền gia thế vô song, Ba đời trung liệt chiếu sử xanh" nổi tiếng lịch sử của nhà Gia Cát. Gia Cát Lượng cũng là vị quan văn duy nhất thời Tam quốc được thờ tại Đế vương miếu (được nhà Minh, nhà Thanh xây dựng, trong đó thờ phụng 40 vị quan văn được đánh giá là tài năng và tận trung nhất qua các triều đại). Ông khi còn sống có tước hiệu Vũ hương hầu (武乡侯), sau khi mất có thụy hiệu là Trung Vũ hầu, do đó hậu thế thường hay gọi ông là Vũ hầu (武侯) hay Gia Cát Vũ hầu (诸葛武侯) để tỏ lòng tôn kính. Hình tượng của ông được dân gian ca tụng qua những câu chuyện lưu truyền suốt cả nghìn năm, về sau được La Quán Trung tiểu thuyết hóa và càng trở nên nổi tiếng qua tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, một trong Tứ đại kỳ thư của văn học Trung Hoa. Trong tác phẩm này, Gia Cát Lượng được mô tả là một vị thừa tướng tài đức song toàn với tài năng "xuất quỷ nhập thần", đoán mưu lập kế như thần, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, là biểu tượng của lòng trung nghĩa và trí tuệ anh minh (Tuyệt nhân là Lưu Bị, tuyệt gian là Tào Tháo, tuyệt trí là Khổng Minh). Nguồn gốc và giáo dục Gia Cát Lượng là người đất Dương Đô (nay thuộc huyện Nghi Nam, tỉnh Sơn Đông) quận Lang Nha đời Đông Hán. Ông sinh vào mùa thu năm Tân Dậu (181) thời Hán Linh Đế. Dòng họ Gia Cát (諸葛) của ông là một họ kép ít gặp. Theo từ điển Hán Việt của Thiều Chửu và một số từ điển khác thì chữ 诸 (bính âm là zhū) có thể phiên là chư lẫn gia, đồng thời ở mục họ 诸葛 (Zhūgé) thì chỉ phiên là Gia Cát. Hai sách và có chú tên đất và tên người đọc gần giống chữ Tra (查), tức đọc là Gia. Theo sách Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện, chữ "Cát" trong họ Gia Cát của ông có nguồn gốc từ việc ông là dòng dõi của Cát Anh, một tướng theo Trần Thắng khởi nghĩa chống Tần. Cát Anh có công, bị Trần Thắng giết oan. Khi Hán Văn Đế lên ngôi đã sai người tìm dòng dõi Cát Anh và đất Gia làm nơi ăn lộc. Một chi sau này lấy sang họ Gia Cát - ghép chữ "Cát" cũ và đất "Gia". Gia Cát Lượng là dòng dõi sĩ tộc, hậu duệ của quan Tư lệ Hiệu úy là Gia Cát Phong đời nhà Hán, cha là Gia Cát Khuê, thời Hán mạt làm chức Quận thừa ở Thái Sơn, nhưng chết khi Gia Cát Lượng còn nhỏ. Gia Cát Khuê sinh được ba người con trai là Gia Cát Cẩn, Gia Cát Lượng và Gia Cát Quân. Do cha mất sớm, Gia Cát Lượng theo chú là Gia Cát Huyền làm Dự Chương thái thú cho Viên Thuật. Gia Cát Huyền dẫn Lượng cùng em trai ông là Gia Cát Quân đến nhậm chức. Gặp lúc Hán triều cử người khác đến thay Huyền, nên ông qua Kinh Châu nương nhờ Lưu Biểu, vốn là chỗ quen biết cũ. Anh trai của ông là Gia Cát Cẩn tránh loạn đến Giang Đông, gặp lúc Tôn Sách chết, phục vụ cho Tôn Quyền ở Giang Đông. Gia Cát Lượng xuất thân trong một gia đình tương đối có tiếng tăm, thời trẻ cũng có nhiều mối quan hệ, giao du với quan lại nhân sĩ địa phương, không hoàn toàn mai danh ẩn tích một cách thần bí ở rừng núi như truyện dân gian hay mô tả. Dâng biểu "Gia Cát Lượng tập" của Trần Thọ mô tả Gia Cát Lượng: "Ít có nhân tài như vậy, có khí anh bá, thân cao tám thước, dung mạo khôi vĩ khác hẳn người thường". Khi chú mất, Gia Cát Lượng đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, thích làm ca từ theo khúc . Anh cả Gia Cát Cẩn làm quan bên Đông Ngô, em thứ là Gia Cát Quân làm quan đại thần cho nước Thục Hán cùng với ông, em họ Gia Cát Đản làm quan cho Tào Ngụy. Gia Cát Lượng tự mình cày ruộng, vốn cao tám thước, ông tự ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị. Người đương thời chẳng mấy ai tin, nhưng vài người như Thôi Châu Bình và Từ Thứ có giao du với ông thì tin ông có tài như vậy. Gia Cát Lượng khi đọc sách chủ yếu xem xét đại lược, khác với nhiều bạn học đọc sách tỉ mỉ, chăm chú đến tinh thục. Dịch Trung Thiên nói như vậy mới là biết đọc sách, Gia Cát Lượng giỏi nắm bắt cái tinh tuý cốt yếu trong sách, chứ không tầm chương trích cú, câu nệ từng chữ. Gia Cát Lượng cũng nói các bạn của mình như Thạch Quảng Nguyên, Từ Thứ, Mạnh Công Uy sau này có thể làm đến quan cai trị một châu hay một quận, còn về bản thân mình thì "Lượng chỉ cười không đáp". Thật ra câu trả lời đã rất rõ ràng: Gia Cát Lượng không muốn làm đế vương mà cũng chẳng muốn làm quan địa phương, mà muốn làm đại hiền thần phò tá một minh chủ lập nên nghiệp lớn, giống như Quản Trọng hay Nhạc Nghị xưa vậy. Theo Bàng Thống truyện chép trong Tam quốc chí, Gia Cát Lượng là học trò của Bàng Đức Công, người Tương Dương. Gia Cát Lượng thường hay tới nhà, một mình lạy ở dưới giường, ban đầu Bàng Đức Công chẳng chỉ bảo gì sau mới dạy. Chính họ Bàng đặt các biệt danh Ngọa Long cho Gia Cát Lượng, Phượng Sồ cho Bàng Thống và Thủy Kính cho Tư Mã Huy. Bàng Đức Công có cháu là Bàng Thống, người sau này được Gia Cát Lượng tiến cử cho Lưu Bị. Trong gia tộc Gia Cát, Gia Cát Lượng là người tài giỏi nhất nên người đời sau có câu: "Thục được rồng, Ngô được hổ, Ngụy được chó", ví trong 4 anh em thì ông tài giỏi nhất, Lưu Bị thu nạp được rồng và cả Gia Cát Quân em ông trong số 3 người (Lưu, Tào, Tôn). Sự nghiệp Vào khoảng năm 200, hai thế lực lớn là Tào Tháo và Viên Thiệu giao chiến ở trận Quan Độ, ban đầu Lưu Bị phục vụ cho Viên Thiệu, nhưng sau lại ngầm tìm cách bỏ đi về phía Nam. Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu, xua quân truy kích Lưu Bị, lực lượng mà Tào Tháo tỏ ra lo ngại. Lưu Bị chạy đến nương nhờ Lưu Biểu, người đang cai quản Kinh Châu. Lưu Biểu tiếp đãi Lưu Bị trọng hậu, cho thêm quân, sai đóng quân ở huyện Tân Dã, hào kiệt Kinh châu theo về rất đông. Phò tá Lưu Bị Được tiến cử Khi Lưu Bị ở Tân Dã, có đến nhà Tư Mã Huy bàn việc thiên hạ. Huy đáp: "Bọn nho sinh đời nay chỉ là một phường tục sĩ, hạng tuấn kiệt hai người, đó là Ngọa Long và Phượng Sồ. Ngọa Long tức Gia Cát Khổng Minh, Phượng Sồ tức Bàng Thống tự Sĩ Nguyên. Có được một trong 2 người đó thì có thể định được thiên hạ". Lưu Bị nói rằng hãy đưa người đó đến gặp, Tư Mã Huy khuyên Lưu Bị nên tới nhà Gia Cát Lượng để gặp. Một nhân vật khác nhận được sự kính trọng từ Lưu Bị là Từ Thứ đã tiến cử Gia Cát Lượng cho Lưu Bị, gọi Gia Cát Lượng là con rồng nằm. Lưu Bị đã 3 lần đến Long Trung mời Khổng Minh ra giúp. Gia Cát Lượng đã trình bày Long Trung đối sách, được Lưu Bị khen hay. Lúc bấy giờ là năm 208, Lưu Bị 47 tuổi, Gia Cát Lượng chỉ mới 27 tuổi. Sách "Ngụy Lược" thì viết rằng Gia Cát Lượng tự đến làm khách ở chỗ Lưu Bị, nhưng chỉ được xem như một thư sinh bình thường. Một hôm, Lượng cố ý ở lại cuối cùng sau khi gia khách đã về hết, nhưng vẫn không được Bị để ý gì đến. Sau khi Lượng chủ động thưa chuyện với Lưu Bị thì Bị mới nhận ra tài năng, và trọng dụng Lượng. Các sử gia xem xét sự trái ngược của hai cách nói trong 2 bộ sử và kết luận rằng: cả hai sự kiện đều có thể là đúng, với trình tự là Gia Cát sớm đến chỗ Lưu Bị trước, nhưng chưa thực sự được Lưu Bị coi trọng nên ông trở về. Sau đó Lưu Bị nhận ra tài năng thực thụ của Khổng Minh, bèn hạ mình 3 lần tới lều tranh tìm gặp. Tam quốc diễn nghĩa xây dựng tình tiết Lưu Bị đến lều tranh hai lần đầu không gặp được, đến lần thứ ba mới gặp Gia Cát Lượng, cùng với nhiều tình tiết huyền ảo kỳ bí khác. Thật ra đấy chỉ là cách hư cấu huyền bí của văn chương nghệ thuật, các sử liệu cho thấy Lưu Bị có thể cả ba lần đều gặp và đàm đạo với Gia Cát Lượng. Hơn nữa, không chỉ là ba lần, mà có thể là đến gặp rất nhiều lần khác nữa, hai người càng nói chuyện càng hợp ý nhau, cuối cùng Gia Cát Lượng quyết định xuống núi phò tá Lưu Bị. Lưu Bị từ đó càng đối đãi thân tình với Gia Cát Lượng, điều đó khiến Quan Vũ, Trương Phi không hài lòng. Lưu Bị mới giải thích: "Có được Khổng Minh, như cá gặp nước vậy. Các em chớ nên nhiều lời." Quan Vũ, Trương Phi đành phải chịu. Người đời sau có thơ khen việc Lưu Bị 3 lần hạ mình tới cầu kiến người hiền tài để dựng nên cơ nghiệp 50 năm của nhà Thục Hán: Chạy khỏi Tân Dã Tháng 8 năm 208, quân Tào áp sát Kinh châu. Lưu Biểu ốm chết, trước lúc chết phó thác việc nước cho Lưu Bị, Bị từ chối. Con út Lưu Biểu là Lưu Tông được lập lên kế vị, quyết định đầu hàng Tào Tháo. Lúc ấy Lưu Bị đóng quân ở Phàn Thành, lúc nghe quân Tào đến Uyển Thành, bèn dẫn quân rời đi. Qua Tương Dương, Gia Cát Lượng khuyên Lưu Bị đánh Lưu Tông để thu Kinh Châu, nhưng Lưu Bị đã khước từ lời đề nghị ấy, nói rằng: Ta chẳng nhẫn tâm làm vậy. Lúc quân Lưu Bị rời đi, nhiều thuộc hạ của Lưu Biểu đi theo Lưu Bị, khi đến Tương Dương, dân chúng kéo theo hơn chục vạn người. Biết mình quân ít không thể chống nổi đại quân Tào, Lưu Bị chia làm 2 đường: Quan Vũ dẫn thủy quân chạy về Giang Hạ để hợp binh với Lưu Kỳ, Bị đi cùng Gia Cát Lượng, Từ Thứ, Triệu Vân, Trương Phi dẫn theo cả gia quyến theo đường bộ chạy đến Giang Lăng. Dân lánh nạn đi theo có đến hơn mười vạn người, xe chở hành lý lớn nhỏ chen cả lối đi, mỗi ngày hành quân không được 10 dặm đường. Tào Tháo sai Tào Thuần dẫn quân khinh kỵ đuổi gấp, bắt kịp Lưu Bị ở Đương Dương - Trường Bản. Lưu Bị bỏ lại vợ con cùng Gia Cát Lượng, Trương Phi và Triệu Vân phải chạy cùng vài chục quân kỵ. Hai con gái của Lưu Bị và mẹ già của Từ Thứ bị quân Tào bắt. Lưu Bị chạy rẽ sang Hán Tân, vừa hay gặp được thuyền của Quan Vũ, qua sông Miện, hội với con trưởng của Lưu Biểu là Kì rồi cùng đến Hạ Khẩu. Đi sứ Đông Ngô Lưu Bị rút về phương Nam, đóng ở Hạ Khẩu, Lỗ Túc bên Đông Ngô tới gặp, khuyên liên minh với Tôn Quyền. Gia Cát Lượng nói với Lưu Bị: "Việc rất đã gấp, xin được phụng mệnh nhờ Tôn tướng quân cứu giúp". Bị đồng ý để Lượng theo Túc đi Giang Đông. Trong Xuất sư biểu có nhắc đến việc này: "Sau này ngẫm lại, nhận việc trước lúc bại quân, phụng mệnh giữa lúc nguy nan". Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung đã hư cấu ra các tình tiết nhân vật Khổng Minh tranh luận làm bẽ mặt một loạt quan văn "hủ nho" của Đông Ngô gồm Trương Chiêu, v.v. Nhân vật Gia Cát Lượng còn sử dụng bài phú Đồng Tước đài để khích Chu Du, đây là việc hoàn toàn không có thật bởi 5 năm sau đó Tào Thực mới làm bài phú này. Tôn Quyền mặc áo vải thô, tiếp sứ giả ở doanh trại dựng tạm. Gia Cát Lượng giỏi xét người, mới đến cửa đã đoán được cá tính của Quyền, nên ông dùng kế khích tướng, cường điệu uy thế của Tào Tháo và khuyên Tôn Quyền quy phục. Quyền hỏi: "Nếu như lời ông, sao Lưu Dự Châu không hàng Tào đi?" Lượng đáp: "Điền Hoành chỉ là 1 tráng sĩ nước Tề còn không chịu nhục, huống chi Lưu Dự Châu vốn là dòng vương thất, anh tài cái thế. Nếu việc chẳng xong là bởi ý trời, sao có thể hàng Tào!" Tôn Quyền nói rõ quyết tâm chống Tào, nhưng vẫn nghi ngại không đánh nổi, hỏi rằng: "Dự Châu (Lưu Bị) cũng mới thua trận, sao có thể chống nổi nạn này?" Gia Cát Lượng bèn đưa ra phân tích tình thế và thực lực của Tháo và Bị: Lưu Bị tuy mới thua trận nhưng 10.000 thủy quân còn nguyên vẹn, quân Giang Hạ của Lưu Kỳ cũng được khoảng 10.000 người. Quân Tào Tháo tuy đông nhưng đã rất mỏi mệt sau khi truy kích Lưu Bị hơn 300 dặm. Quân Tào đến từ phương Bắc, vốn không quen thủy chiến. Tào Tháo chỉ vừa mới chiếm được Kinh Châu, lòng người chưa phục. Lượng nói tiếp rằng nếu phá được Tào Tháo sẽ lập thành được thế chân vạc, "cơ hội thành bại, là việc ở hôm nay vậy". Quyền hài lòng, đồng ý liên minh. Tôn Quyền quyết tâm đánh Tào Tuy nhiên, Bùi Tùng Chi chú giải Tam quốc chí cho rằng người đầu tiên khuyên Tôn Quyền đánh Tào là Lỗ Túc, sau đó Chu Du đã thuyết phục được Quyền hạ quyết tâm từ trước khi Gia Cát Lượng tới Có lẽ Tôn Quyền chỉ muốn thử nghe phân tích của Lượng để quyết định có nên liên minh với Lưu Bị hay không, còn chuyện chống Tào thì đã quyết từ trước. Tam quốc chí chép: Tào Tháo gửi thư chiêu hàng Tôn Quyền, Quyền gọi quần thần dưới trướng đến hỏi kế sách. Đa phần đều cho rằng nên hàng, bởi Tháo mang danh Thiên Tử nay lại được thủy quân Kinh Châu, lợi thế của Trường Giang đã không còn. Chu Du không đồng ý, cho rằng Tào Tháo "giả danh tướng nhà Hán, kỳ thực là giặc nhà Hán", còn Tôn Quyền "thừa kế cơ nghiệp cha anh, binh hùng tướng mạnh, phải vì nhà Hán diệt trừ kẻ bạo tàn", đồng thời phân tích ra 4 điều kỵ trong binh pháp mà Tào Tháo đang phạm phải: Đất Bắc chưa thật sự yên, vùng Tây Lương có Mã Đằng, Hàn Toại là mối lo sau lưng Tháo. Thủy chiến vốn là sở trường của quân Ngô-Việt, không phải của quân phương Bắc. Thời tiết hiện rất lạnh, ngựa không có cỏ ăn. Binh sĩ Trung Nguyên không quen thủy thổ phương Nam, sẽ sinh bệnh tật. Chu Du tiếp tục: "Du này xin được cấp ba vạn tinh binh, tiến đến đóng giữ Hạ Khẩu, bảo đảm sẽ vì Tướng quân mà phá tan quân giặc." Tôn Quyền nghe Chu Du phân tích xong, nói "Ngươi nói rất hợp ý cô, thực là trời đem ngươi đến cho ta vậy!", rồi chụp lấy thanh đao chém đứt góc bàn, nói: "Ai còn dám nói đến chuyện đón rước Tháo, sẽ như cái bàn này." Kết thúc buổi chầu, Chu Du lại vào thưa về thực lực đôi bên để Tôn Quyền khỏi lo lắng: Quân Tào nói có tổng cộng 800.000, thật ra chỉ có khoản 150.000 đến 160.000, lại mệt mỏi lắm rồi. Hàng quân của Lưu Biểu chỉ 70.000 đến 80.000, trong lòng lại hồ nghi. Địch vừa mệt vừa không đồng lòng nên dẫu đông cũng không đáng sợ, chỉ cần 50.000 binh là đủ khắc chế. Tôn Quyền vỗ vai Chu Du nói "Khanh nói rất hợp lòng Cô". Trước mắt không tập hợp nổi 50.000 người, Chu Du lĩnh 30.000 binh cùng Trình Phổ đi đối địch Tào Tháo ở Xích Bích. Theo Trần Văn Đức, tác giả sách Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện (thuộc thể loại Tam Quốc ngoại truyện), thì những trao đổi trên giữa Chu Du và Tôn Quyền cho thấy do Chu Du có thiên tài vạch sách lược chiến đấu, lại liên tục ở chiến trường nên thông tin tình báo của ông rất phong phú và chính xác, các quan viên tướng lĩnh của Đông Ngô ở Sài Tang đều không bằng, Gia Cát Lượng dẫu chú trọng việc tình báo cũng không thể nắm rõ tình hình bằng Chu Du. Gia Cát Cẩn lôi kéo Đại thần của Ngô là Trương Chiêu thấy Gia Cát Lượng trẻ tuổi và có tài, có ý muốn lôi kéo, bèn đề nghị Tôn Quyền lệnh cho Gia Cát Cẩn đến thuyết phục Gia Cát Lượng. Tôn Quyền bèn cho gọi Gia Cát Cẩn bảo rằng: "Gia Cát Khổng Minh là em của tiên sinh, là người có tài, em nghe theo anh là lẽ đương nhiên nếu ông ta muốn ở lại cùng lo đại sự, ta sẽ tự tay viết thư nói rõ với Lưu Dự Châu". Gia Cát Cẩn đến gặp Gia Cát Lượng, không ngờ Gia Cát Lượng lại nói trước, khuyên Gia Cát Cẩn theo về với Lưu Bị sẽ càng phát huy được khả năng. Gia Cát Cẩn không nài ép được, đành trở về báo cáo với Tôn Quyền: "Em tôi phụ tá Lưu Dự Châu, vì nghĩa chẳng thể hai lòng, Lượng không chịu ở Đông Ngô, cũng như Cẩn không thể rời Giang Đông vậy". Trận Xích Bích, Giang Lăng Trong trận Xích Bích, Chu Du thống lĩnh quân liên minh, dùng kế hỏa công của Hoàng Cái đánh bại quân Tào. Và trong trận Giang Lăng (208-209) tiếp sau đó, liên quân Tôn - Lưu do Chu Du và Lưu Bị dẫn đầu tiếp tục khiến Tào Nhân phải tháo chạy khỏi Nam Quận sau hơn một năm trời vây hãm. Trong hai trận chiến này, Gia Cát Lượng không được ghi chép về thành tích cầm quân nào, vai trò của ông chỉ là về ngoại giao và nội chính. Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra một loạt sự kiện thể hiện mưu trí thần thánh của Gia Cát Lượng như "thuyền cỏ mượn tên", cùng Chu Du bày mưu phóng hoả, lập đàn hô phong hoán vũ để gọi gió đông, đặt phục binh ở hẻm Hoa Dung đón đầu Tào Tháo, thừa cơ nẫng tay trên chiếm cả Giang Lăng và Tương Dương khiến Chu Du phát uất thổ máu... Tam quốc diễn nghĩa còn hư cấu ra cả chuyện Chu Du bị Gia Cát Lượng 3 lần chọc tức, phải than rằng: "Trời sinh Du sao còn sinh Lượng?" rồi thổ huyết mà chết. Sự thực là Chu Du chết bệnh trong quân ngũ, hoàn toàn không liên quan đến việc bị Gia Cát Lượng chọc tức. Tác giả Trần Văn Đức trong sách Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện cho rằng Chu Du là người khiêm tốn, bao dung và Gia Cát Lượng có lẽ đã học được nhiều kinh nghiệm ở Chu Du và Lỗ Túc, bởi khi trận Xích Bích diễn ra thì Chu Du 34 tuổi, Lỗ Túc 37 tuổi, họ đã có 15 năm kinh nghiệm chính trị và thực tế chiến trường, trong khi Gia Cát Lượng khi đó mới 27 tuổi và mới chỉ tham gia chính sự được 1 năm. Sau khi trở về với Lưu Bị, Gia Cát Lượng sau khi quan sát tình thế toàn cục, đã đề nghị Lưu Bị ngầm bố trí lực lượng khác với sắp xếp của Chu Du. Ông cho rằng Chu Du chỉ giao cho Lưu Bị nhiệm vụ thứ yếu (chặn đánh tàn quân Tào Tháo), sau này nếu có thắng lợi cũng không thu được gì nhiều. Ông cho rằng không cần phải cố sức đánh quân Tào Tháo rút chạy để không tổn hại binh sĩ của mình, cần giữ gìn thực lực để làm những công việc cần thiết sau đó. Tuy nhiên, theo các ghi chép trong chính sử thì lực lượng của Lưu Bị cũng bị tổn hại nhiều trong trận Giang Lăng: Quan Vũ được Lưu Bị biệt phái mang quân lên phía Bắc nhằm chia cắt liên lạc giữa Thượng Giang và Giang Lăng, chặn đường rút lui của Tào Nhân, nhưng liên tiếp bị Thái thú Nhữ Nam là Lý Thông, tướng giữ Tương Dương là Nhạc Tiến đánh bại, còn bị Văn Sính dùng thủy binh đuổi đánh, bị đốt sạch thuyền và quân nhu, mất hết thủy quân Giang Hạ. Gia Cát Lượng cho rằng Giang Lăng là mục tiêu rất quan trọng song cũng là điều mấu chốt mà Tào Tháo và Chu Du cùng quan tâm, bởi thế nên khích lệ Chu Du đem toàn lực đoạt lại Giang Lăng để đôi bên cùng hao tổn binh lực, còn mục tiêu thực của Lưu Bị là chớp thời cơ bình định các quận phía nam Kinh Châu giáp Trường Giang, để tự mình có một địa bàn đứng chân và khôi phục được Kinh Châu sau này. Lưu Bị chấp thuận làm theo. Trong thời gian Lưu Bị và Trương Phi cùng hiệp trợ tác chiến với Đông Ngô ở phía bắc trong hội chiến Giang Lăng, Gia Cát Lượng dẫn quân sĩ cùng Quan Vũ và Triệu Vân, phối hợp với quân Giang Hạ của Lưu Kỳ, lấy các quận phía nam làm đại bản doanh, bình định bốn quận là: Vũ Lăng, Trường Sa, Quế Dương và Linh Lăng. Sau cuộc chiến Xích Bích và Giang Lăng, Đông Ngô giành được đại thắng, chiếm được Giang Lăng, Nam Quận - vị trí chiến lược quan trọng nhất của Kinh Châu. Còn Lưu Bị nhân cơ hội thâu tóm bốn quận ở phía nam, chẳng những hồi sinh sự nghiệp mà còn có được cơ sở rất quan trọng để sau này tranh thiên hạ. Gia Cát Lượng có thành công lớn nhất là tham mưu sách lược chiếm lấy bốn quận nam Kinh Châu, có thể nói là táo bạo và rất thành công. Tuy nhiên, bốn quận này chỉ có thể giải quyết vấn đề nhân lực và kinh tế cho Lưu Bị, chứ không có vai trò chiến lược trong việc thi hành Long Trung sách. Vì vậy, Lưu Bị và Gia Cát Lượng phải sử dụng nhiều nỗ lực ngoại giao để mượn huyện Giang Lăng của Tôn Quyền. Nhưng phải đợi đến sau khi Chu Du mất (210), Lỗ Túc - người rất coi trọng liên minh Tôn - Lưu lên thay, Tôn Quyền mới nghe theo lời Lỗ Túc (khiến Tào Tháo thêm kẻ thù, mượn sức Lưu Bị đỡ gánh nặng phía tây của Giang Đông), đồng ý cho Lưu Bị mượn Giang Lăng, hay còn gọi là "mượn Kinh Châu" . Tuy nhiên, việc Lưu Bị công ít, lợi nhiều và Quan Vũ ỷ được giao giữ Kinh châu mà hay hống hách với Đông Ngô dẫn đến rạn nứt quan hệ liên minh với nước này. 12 năm sau, khi Lỗ Túc mất, không còn ai chủ hòa, Tôn Quyền sai Lã Mông đánh úp lấy Kinh Châu, giết chết Quan Vũ. Vạch chính sách giúp Lưu Bị bình Kinh Châu Gia Cát Lượng được phong Trung lang tướng, giao cai quản Linh Lăng, Quế Dương và Trường Sa, thu thuế và lương thực để chu cấp cho quân đội. Theo sách lược của Gia Cát Lượng, các quận huyện và tướng lĩnh phía nam Kinh Châu, cùng tuyên thệ ủng hộ Lưu Bị kế nhiệm chức Kinh Châu mục. Vai trò của Gia Cát Lượng lúc này giống như thừa tướng Tiêu Hà giúp Lưu Bang lo liệu tích trữ lương thảo, đáp ứng nhu cầu của quân đội. Gia Cát Lượng nhìn thấy phái phản Tào ở Kinh Châu như rắn không đầu, bèn có ý nhắc Lưu Bị đối đãi thật tốt với Lưu Kỳ, để Lưu Kỳ làm vây cánh cho mình. Để làm cho thực lực của Lưu Bị mạnh lên, Gia Cát Lượng đã vận dụng sách lược tích lũy, ông sớm đề nghị với Lưu Bị sắp xếp lại dân di cư, xây dựng lực lượng cơ bản. Với tình thế Kinh Châu lúc ấy đã làm tăng thêm danh tiếng của Lưu Bị ở Kinh Châu. Ở giai đoạn này, biểu hiện "lấy nhu khắc cương, lấy nhược khắc cường" của Lưu Bị chính là công lao của quân sư Gia Cát Lượng. Giúp Lưu Bị chiếm Ích Châu Năm 211, Lưu Chương mời Lưu Bị vào Tây Xuyên giúp chống Trương Lỗ, Gia Cát Lượng được giao ở lại Kinh Châu cùng Quan Vũ và Trương Phi. Năm 212, Lưu Bị đánh úp Lưu Chương, chiếm đánh thành trì ở Thục. Trương Phi, Triệu Vân và Gia Cát Lượng được lệnh dẫn quân vào Xuyên tiếp ứng. Tuy nhiên quân sư Bàng Thống bị trúng tên lạc mà chết. Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra việc Bàng Thống bị Trương Nhiệm phục kích bắn chết ở gò Lạc Phượng, Gia Cát Lượng bày mưu bắt Trương Nhiệm báo thù cho Thống. Năm 214, Mã Siêu bỏ rơi vợ con, từ chỗ Trương Lỗ chạy đến theo Lưu Bị. Bị phái Siêu đến tham gia vây Thành Đô. Quân dân trong thành rúng động, Lưu Chương xin hàng. Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra chuyện Mã Siêu đại chiến Trương Phi, sau đó Lưu Bị nhờ Gia Cát Lượng bày mưu dụ hàng Mã Siêu. Cánh quân của Gia Cát Lượng không giao chiến trận nào lớn trong chiến dịch này. Làm thừa tướng Giúp Lưu Bị cai quản Ích Châu Trần Thọ trong Tam Quốc Chí viết rằng: "Lưu Bị sau khi bình định được Thành Đô, phong Gia Cát Lượng là Quân sư tướng quân, chức Tả tướng quân (đây là chức quan quan trọng của Lưu Bị) để trông coi việc lớn. Lưu Bị thường dẫn quân đội đi chinh chiến bên ngoài để Gia Cát Lượng ở Thành Đô trông coi triều chính, chẳng bao lâu khắp vùng Ích Châu đều dư thực dư binh" Theo Dịch Trung Thiên, chức vụ Gia Cát Lượng lúc này là "Tổng lý đại thần" hay "Đại quản gia" trong phủ Tả tướng quân của Lưu Bị, không phải là "Tổng tư lệnh ba quân" hay "Tổng tham mưu trưởng". Nhiệm vụ chủ yếu của ông là là hành chính, dân chính, không phụ trách kế hoạch quân sự, khi Lưu Bị xuất chinh thì ông được giao trấn thủ Thành Đô, lo việc cai trị dân chúng. Trần Thọ nhận xét lúc này với Lưu Bị thì "Gia Cát Lượng là thân thích, Pháp Chính là mưu chủ, Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu là nang vuốt" Trong cương vị thừa tướng, Gia Cát Lượng đã dốc tâm điều hành công việc quản lý. Gia Cát Lượng khi thấy Tưởng Uyển làm việc sơ ý, có nói với Lưu Bị: "Việc chính sự lấy yên dân làm gốc, không lấy trang sức làm đầu". Đối với việc cầm quyền, ông hiểu rõ chỗ nào thì cần khoan dung, chỗ nào thì cần dùng luật nghiêm khắc. Sách Tư trị thông giám có ghi rằng: "Gia Cát Lượng phụ tá Lưu Bị cai quản đất Thục pháp lệnh rất nghiêm, tầng lớp thế gia quan liêu đặc quyền ở Ích Châu chịu không nổi thường vẫn oán thán". Khi Pháp Chính khuyên ông nên học theo Hán Cao tổ (giảm bớt hình phạt cho giới quyền quý), ông trả lời: Tiên sinh chỉ biết một mà không biết hai, nước Tần thi hành chế độ hà khắc dẫn đến dân tình oán hận, nơi nơi phản loạn, thiên hạ bởi thế đất lở ngói vỡ. Lưu Chương vốn nhu nhược lại cố chấp nên chính trị ở đất Thục không phát huy được, chẳng nêu đức độ, hình phạt chẳng đủ, tầng lớp quan liêu thế tộc thừa cơ giành độc quyền, đạo quân - thần chẳng rõ ràng, nền luân lý xã hội cũng tan mất cả. Thực ra, đối với những kẻ quan liêu có đặc quyền này, nếu được sủng ái thái quá, lại làm cho họ không nghĩ đến trọng danh vị, lơ là trách nhiệm. Nếu ban ơn cho họ sau này ân huệ ít đi, họ sẽ oán thán, lại làm khó cho việc thực thi pháp lệnh của chính phủ. Nay ở đất Thục chứng bệnh lớn là ở đấy, nên ta mới nêu cao chánh pháp, để pháp lệnh có thể phát huy hiệu quả khiến nhân dân được bảo vệ chu đáo. Nên hạn chế quyền thế của bọn quan liêu thế tộc, khiến họ phải gìn giữ tốt vị trí của mình. Bùi Tùng Chi không cho lời nói này là có tồn tại, vì lúc đó Lưu Bị còn sống, Gia Cát Lượng dù là người thân tín cũng không qua mặt Lưu Bị tự ý định ra pháp luật thưởng phạt. Đồng thời người dẫn ra đoạn đối thoại vừa trên là Quách Xung lại còn chê Lượng "khắc nghiệt", "bóc lột", đấy là nhận xét rất phi lý vì Gia Cát Lượng là người chấp pháp nghiêm minh, dùng hình luật khéo léo. Tuy nhiên Dịch Trung Thiên cho rằng có người phàn nàn Gia Cát Lượng quá nghiêm là đúng sự thật, họ chỉ chê Gia Cát Lượng quá nghiêm chứ không hề chê Gia Cát Lượng chấp pháp không công bằng. Gia Cát Lượng quan tâm đến đời sống nhân dân ở đất Thục, nên sau 3 năm, Ích Châu đã đủ lương, đủ lính, có thể cung ứng đầy đủ cho nhu cầu tiền tuyến của Lưu Bị. Để ổn định tài chính, Gia Cát Lượng cho đúc tiền mới, bình ổn vật giá, lập ra quan chợ chuyên quản lý thị trường. Trước kia, Tào Tháo đúc tiền lớn "Ngũ thù" vẫn chẳng thể cứu vãn được tình hình tiên tệ rối loạn từ cuối thời Đông Hán. Ở Đông Ngô, Tôn Quyền vào khoảng năm 236 đến năm 238 đã hai lần thay đổi đồng tiền, cho thấy tiền tệ cũng rất không ổn định. Lưu Bị sau khi chiếm được Ích Châu, cho đúc tiền 100 đồng, cũng chưa có biến đổi gì xáo trộn, cho thấy cách xử lý của Gia Cát Lượng về vấn đề này thành công hơn 2 nước kia. Tiền tệ của nước Thục, chẳng những được lưu thông trong nước mà ở vùng Kinh Châu lúc đó cũng lưu hành tiền tệ của Thục Hán. Được Gia Cát Lượng cố gắng điều hành, sự phát triển kinh tế của Thục Hán lúc đó được xem là khá thành công. Viên Chuẩn đời Tấn đối với việc này có khen rằng "Việc điều hành của Gia Cát Lượng ở Thục đã đem lại ruộng đất mở mang, kho lương sung túc, khí giới sắc bén, sản vật dồi dào... từ chỗ suy yếu mà sửa sang được mọi việc, khuyên khích dân cố gắng". Nhận ủy thác của Lưu Bị Mùa hạ năm 221, vừa lên ngôi, Lưu Bị đã muốn lấy lại Kinh Châu và tháng 7 năm đó, để trả thù cho Quan Vũ nên Lưu Bị đã tuyên bố tuyệt giao với Đông Ngô, đem đại quân tiến đánh Tôn Quyền. Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách lược "liên Ngô chống Tào" của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng biết đánh Ngô hại nhiều hơn lợi nhưng không can ngăn nổi Lưu Bị nên dẫn đến thua trận Hào Đình, thất bại ở Tỷ Quy. Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra việc Lưu Bị sai Mã Lương vẽ sơ đồ doanh trại quân mình, đem về hỏi Gia Cát Lượng. Lượng xem xong đoán Lưu Bị sẽ thất bại. Trên thực tế Mã Lương vẫn ở cùng Lưu Bị và chết trong trận Di Lăng. Tam Quốc Diễn Nghĩa còn hư cấu ra việc Lục Tốn đuổi theo Lưu Bị, bị lạc vào một "thạch trận" có ma thuật biến hóa khôn lường do Gia Cát Lượng lập ra. Sau khi được cha vợ Lượng là Hoàng Thừa Ngạn cứu ra, nhân vật Lục Tốn "thừa nhận" rằng Lượng tài cao hơn mình nhiều. Lưu Bị thua trận, hổ thẹn với nhân dân mà mắc bệnh nặng. Trước khi chết, ông đã ủy thác việc nước cho Gia Cát Lượng. Di chiếu của Lưu Bị nhắc nhở Thái tử Lưu Thiện rằng: Trẫm lúc mới ốm chỉ mắc bệnh lị mà thôi, sau chuyển sang tạp bệnh, sợ rằng chẳng qua khỏi. Người ta 50 tuổi chẳng nói là yểu, ta đã hơn 60 tuổi, sao phải ân hận nữa, chẳng đau xót gì cho mình, chỉ nghĩ đến anh em khanh (chỉ thái tử Lưu Thiện). Quan Bộc xạ tới đây, nói rằng Thừa tướng khen khanh sáng suốt hiểu biết, tiến bộ rất mau, vượt quá ước vọng của y, nếu thực được như thế, ta sao còn phải lo lắng nữa! Gắng lên, gắng lên! Chớ vì điều ác nhỏ mà làm, chớ vì điều thiện nhỏ mà không làm. Chỉ có hiền chỉ có đức, mới có thể thu phục được người. Cha các ngươi đức bạc, chớ nên bắt chước. Ngươi nên đọc sách Hán thư - Lễ ký, những lúc nhàn nhã nên xem các sách của Chư tử cùng với Lục Thao-Thương quân thư, cũng giúp tăng thêm ý chí và trí tuệ. Nghe nói Thừa tướng chỉnh lý các sách Thân-Hàn-Quản tử-Lục Thao đều thông suốt hết cả, chưa đưa ra ngoài, e rằng lỗi đạo, ngươi nên phải tự thân đến cầu học lấy Lúc lâm chung, Lưu Bị cho gọi Lỗ vương (một người con thứ) đến dặn nhỏ rằng: "Sau khi ta mất, anh em chúng mày phải coi Thừa tướng như cha, lệnh cho ngươi làm cộng sự giúp cho Thừa tướng mà thôi." Ông dặn Gia Cát Lượng rằng: "Tài thừa tướng gấp mười Tào Phi, tất yên định được nhà nước, làm nên việc lớn. Đối với con trẫm (Lưu Thiện), nếu có thể giúp được thì giúp, nếu nó bất tài, hãy tự thay đi!" Gia Cát Lượng nghe vậy khóc mà quỳ xuống tâu rằng: "Thần xin dốc sức làm tay chân, theo đúng lẽ trung trinh, nguyện chết không đổi vậy". Phò tá Lưu Thiện Nhà vua Lưu Thiện mới 17 tuổi, Gia Cát Lượng nắm quyền lực thừa tướng, chỉnh đốn nội bộ và chấn chỉnh lực lượng. Lưu Thiện nói với ông: Chính là họ Gia Cát đã cứu quả nhân. Ngay sau đó, Gia Cát Lượng nỗ lực xây dựng liên minh Đông Ngô - Thục Hán. Không ít đại thần Thục Hán phản đối vì Lưu Bị bệnh mất là do bại trận trước Đông Ngô. Song Gia Cát Lượng biết rằng đại cục khôi phục lại nhà Hán là quan trọng nhất. Nếu như muốn có lực lượng đầy đủ đối chọi được Tào Ngụy ở phương Bắc thì phải xây dựng sự ổn định và trạng thái hoà bình ở phía Đông, việc liên minh với Ngô là điều tuyệt đối cần thiết. Vì vậy Gia Cát Lượng đã cho Đặng Chi và sau đó là Phí Y sang hòa hiếu với Tôn Quyền, các nhiệm vụ ngoại giao đều rất thành công, liên minh Thục - Ngô được khôi phục và củng cố. Năm 229, Tôn Quyền xưng đế. Nhiều đại thần Thục Hán giận dữ muốn cắt quan hệ với Đông Ngô. Tuy nhiên Gia Cát Lượng đã giải thích là liên minh Thục - Ngô rất cần thiết để cùng chống Tào Ngụy, đồng thời bản thân Tôn Quyền không có khả năng một mình vượt ra khỏi phạm vi chiếm đóng của mình mà chỉ xưng đế cai quản một góc thiên hạ. Do vậy, hành động "tiếm nghịch" của Tôn Quyền tạm thời có thể bỏ qua được. Sau đó Thục Hán đã cử sứ giả sang Ngô để chúc mừng Tôn Quyền. Về đối nội, Gia Cát Lượng xác định kế sách, chú trọng khuyến nông, giảm thuế cho dân và phát triển sản xuất: Ông hạ lệnh chính quyền các cấp quan tâm thật sự đến nông dân, khi trưng dụng phu phen tạp dịch tuyệt đối không chiếm dụng thời gian gieo trồng và gặt hái của nông dân, chẳng được hô khẩu hiệu suông. Cũng giống như Tào Tháo, Gia Cát Lượng rất xem trọng chính sách đồn điền bởi đó không những là nơi đóng quân khi có chiến tranh, làm tốt quan hệ quân dân, lại có thể giải quyết vấn đề lương thực. Gia Cát Lượng rất xem trọng thủy lợi, ông đặt ra quan chủ quản phụ trách bảo quản, tu bổ và quản lý kênh Đô Giang ở trạng thái tốt nhất, nâng cao được sức tưới nước giúp cho sản xuất nông nghiệp ở Thục được rất nhiều. Hiện nay ở Bá Hà phía tây bắc Thành Đô, có một con đê dài hơn 9 dặm, gọi là "đê Gia Cát", truyền thuyết nói là Gia Cát Lượng đã chỉ đạo xây dựng để ngăn chặn hồng thủy tràn vào vùng đất nông nghiệp thấp. Hiện nay ở Thành Đô vẫn lưu truyền câu chuyện Gia Cát Lượng tự mình dẫn đầu các tráng đinh đi đắp đê. Gia Cát Lượng cho thiết lập lại cơ cấu quốc doanh về muối sắt, quan Tư diêm hiệu úy (đầu tiên là Vương Liên) và Tư kim trung lang tướng (đầu tiên là Trương Duệ) phụ trách quản lý sản xuất muối và sắt, chế tạo nông cụ, binh khí, không để cường hào và quan lại câu kết chiếm làm của riêng nguồn lợi quốc gia. Tư diêm hiệu uý của Thục Hán đem lại mối lợi rất lớn về muối, giúp ích nhiều cho quốc gia. Chỉ huy quân sự Trong khi Lưu Bị chinh chiến, Gia Cát Lượng chủ yếu là một chính khách, đại sứ, và lo chuyện kinh tế, pháp luật và hậu cần, ít khi ra trận tác chiến. Trong suốt chiến dịch Hán Trung, Lưu Bị thống lĩnh đại quân cùng các tướng lĩnh giao chiến với quân Tào, còn Gia Cát Lượng ở lại Thành Đô lo chuyện nội chính và hậu cần. Tuy nhiên, sau khi Lưu Bị chết, Gia Cát Lượng bắt đầu phải lo cả chuyện quân sự. Bình định Nam Trung Sau khi trừ bỏ được những lo lắng trong nước thì vùng Nam Trung phía tây nam nước Thục Hán nổi loạn. Tuy dân ở đây đa phần là những tộc người thiểu số, những kẻ cầm đầu lại chủ yếu là người Hán. Cao Định, Ung Khải, Chu Bao nổi loạn Thời Lưu Bị mới chiếm được Ích Châu đã bổ nhiệm Đặng Phương (người Nam Quận) làm Thái thú ở Chu Đề. Phương ốm chết, Bị bổ nhiệm Lý Khôi làm Thứ sử Giao Châu. Lưu Bị đông chinh đánh Ngô, "tẩu soái" là Cao Định ở Việt Huề làm phản, lẩn tránh quân của Lý Nghiêm. Khi Lưu Bị chết, Cao Định lại lộng hành, đánh phá thành trì, xưng vương ở Việt Huề. Cường hào ở Ích Châu là Ung Khải (hậu duệ Hợp hương hầu Ung Xỉ) cũng dấy binh nổi dậy ở Kiến Ninh, giết chết thái thú. Gia Cát Lượng phái Trương Duệ thay chức thái thú, nhưng cũng bị Ung Khải bắt được, đem nộp sang Đông Ngô. Tôn Quyền sai Thái thú Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp phong Khải làm Thái thú Vĩnh Xương. Gia Cát Lượng sai Đặng Chi đi sứ Đông Ngô, cắt đứt ngoại viện của Ung Khải, lại sai Thường Phòng đi khôi phục quyền cai trị Nam Trung. Phòng tra khảo rồi giết quan chủ bạ quận Tang Ca, nói Thái thú Tang Ca là Chu Bao có ý hưởng ứng Ung Khải. Chu Bao giết Thường Phòng, vu cáo Phòng mưu phản. Gia Cát Lượng "thí tốt" cho giết gia quyến của Thường Phòng, lưu đày 4 người anh em của Phòng đến Việt Huề. Ung Khải liên minh với Cao Định, tấn công Vĩnh Xương. Lã Khải đóng cửa thành chống cự. Ung Khải không đánh được, thấy thế yếu dần, liên hệ với Đầu mục ở quận Ích Châu là Mạnh Hoạch. Hoạch kích động người Di, khiến họ đi theo Ung Khải, nổi dậy khắp vùng Nam Trung. Gia Cát Lượng Nam chinh Gia Cát Lượng phải đem quân xuống phía nam để thu phục. Mã Trung theo đường mòn Tứ Xuyên dẫn quân đánh Chu Bao ở Tang Ca. Lý Khôi đánh Ung Khải và Mạnh Hoạch. Gia Cát Lượng tự đi sau, hợp quân ở Điền Trì. Tuy nhiên, tướng lĩnh và binh lực huy động không lớn. Thực tế, việc đánh bại quân phản loạn thiếu tổ chức chẳng khó gì. Quân Thục với số đông và quân đội chính quy nhanh chóng áp đảo, và không lâu sau đã đánh bại Chu Bao. Ung Khải bị thuộc hạ Cao Định giết, còn Cao Định sau đó tử trận. Mạnh Hoạch dẫn tàn dư của Ung Khải chạy về Ích Châu, kết hợp với các bộ lạc phía Nam vốn thù hận người Hán. Nhận thấy uy tín và ảnh hưởng sâu rộng của Mạnh Hoạch ở vùng Nam Trung và vì muốn giải quyết thật tốt mối quan hệ giữa các dân tộc thiểu số vùng này với triều đình Thục Hán nên Gia Cát Lượng quyết định đánh vào lòng người, coi đó là chiến thuật chủ đạo. Gia Cát Lượng không thực hiện sự nghiêm khắc như trước, trái lại vận dụng một chính sách khoan dung "vô tiền khoáng hậu" trong lịch sử Trung Quốc. Theo lời Mã Tốc, ông hạ lệnh khi đánh nhau với Mạnh Hoạch, quân Thục chỉ được phép bắt sống, không được giết chết hoặc làm Mạnh Hoạch bị thương. Mạnh Hoạch bị bắt rồi Gia Cát Lượng lại thả ra, cứ như vậy lặp đi lặp lại đến 7 lần. Nghệ thuật tác chiến chính trị, tâm lý của Gia Cát Lượng thể hiện rõ rệt trong chiến dịch này. Cuối cùng Mạnh Hoạch tâm phục khẩu phục, hoàn toàn chịu thần phục triều Thục Hán. Đến lần thứ 7, khi Gia Cát Lượng định thả Mạnh Hoạch thì Mạnh Hoạch không chịu về vì ông ta nhận thấy Gia Cát Lượng quả thật là con người phi thường và trong thâm tâm không có ý thù địch với mình. Mạnh Hoạch thành tâm nói với Gia Cát Lượng rằng: "Thừa tướng có uy như trời vậy, người Nam không phản lại nữa". Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, nhằm tăng thêm sự lôi cuốn, phóng đại tầm cỡ của chiến dịch và ca tụng Gia Cát Lượng, nhà văn đã sáng tạo ra một loạt các nhân vật hư cấu như Mạnh Ưu, Mạnh Tiết, Chúc Dung phu nhân, Ngột Đột Cốt, Đái Lai Động chúa, Mộc Lộc đại vương, Đóa Tư đại vương, Kim Hoàn Tam Kết, Đổng Trà Na, A Hội Nam, Mang Nha Trường, Quan Sách... và các tình tiết như Lượng đem theo cả Ngụy Diên và Triệu Vân (thực tế chỉ có Mã Trung và Lý Khôi), quân Thục uống phải nước độc, Gia Cát hỏa thiêu "quân giáp mây"... Sau khi Mạnh Hoạch chịu thần phục thì các thế lực phản loạn ở miền Nam cũng nhanh chóng lần lượt quy hàng. Mùa thu năm 225, ba cánh quân Đông, Tây và Trung hội quân ở Điền Trì (Vân Nam) ăn mừng thắng lợi của cuộc Nam tiến và giai thoại bảy lần bắt bảy lần thả được truyền trụng. Một số nhà nghiên cứu lịch sử nghi ngờ rằng việc Gia Cát Lượng bắt Mạnh Hoạch tới 7 lần chỉ là "truyền thuyết trong dã sử". Việc Gia Cát Lượng từng mấy lần bắt rồi thả Mạnh Hoạch để "công tâm" là điều chẳng có gì nghi ngờ, nhưng số lần lên tới con số 7 thì có chỗ khoa trương. "Thông giám thông lãm" cho rằng "bắt rồi tha, như là trò đùa, một lần đã là nhiều, thực tế chẳng thể đến 7 lần... huống chi kẻ địch lớn ở phương Bắc, việc khiến chiến sự kéo dài không quyết, tin rằng một người cẩn thận như Gia Cát Lượng sẽ không bao giờ làm". Theo "Điền Vân kí lược" của Trương Nhược Tú, những địa điểm đưa ra về việc 7 lần bắt Mạnh Hoạch đều ở vùng Đại Lý và Bảo Sơn của Vân Nam. Sử tuy có ghi 7 lần bắt, 7 lần thả nhưng không ghi Gia Cát Lượng đã đến Điền Tây. Tác giả Trần Văn Đức cho rằng người đời sau đã lấy sự tích của Lã Khải (quan cai quản Điền Tây) hợp vào hình ảnh Gia Cát Lượng. Nhưng dẫu việc bắt Mạnh Hoạch có tới 7 lần hay không thì việc Gia Cát Lượng mấy lần bắt rồi thả tướng địch vẫn là sự thực lịch sử. Gia Cát Lượng đích xác chỉ trong mấy tháng ngắn ngủi đã bình định Nam Trung, cải thiện quan hệ với người dân tộc thiểu số địa phương, hoàn thành chiến dịch lớn "công tâm làm đầu" chưa từng có trong lịch sử. Các chiến dịch đánh nhà Tào Ngụy Sau một thời gian chuẩn bị, căn cứ vào tình hình hiện tại, năm 227, Gia Cát Lượng quyết định tấn công Tào Ngụy, tiêu diệt họ Tào, giành lại giang sơn cho nhà Hán. Ông tấu lên Hán Hậu chủ Lưu Thiện bản Xuất sư biểu nổi tiếng, trong đó nói rằng: "Nay phương Nam đã bình định, binh giáp đã đầy đủ đáng khích lệ ba quân; nay bắc định Trung Nguyên, thần xin đem hết lòng khuyển mã, trừ sạch gian ác, phục hưng triều Hán về lại cố đô, như vậy là thần báo đáp được tiên đế, mà trúng với chức phận dưới bệ rồng vậy... Những mong bệ hạ uỷ thác để thần được đánh kẻ nghịch tặc, trung hưng nhà Hán; nếu chẳng thành công, xin bắt tội thần, để báo cáo cùng vong linh Tiên đế.". Hậu chủ Lưu Thiện chấp thuận, giáng chiếu: "Gia Cát thừa tướng cương nghị trung trinh, dốc lòng vì nước, (vì thế) Tiên đế trao việc thiên hạ, phù trợ quả nhân. Nay ban cho mao việt, cùng với phó thác trọng quyền, thống lĩnh bộ kỵ hai mươi vạn binh, nắm giữ nguyên nhung, thay trời tru phạt, trừ hoạn dẹp loạn, chiếm lại kinh đô, chính là dịp này" Lúc này, trong số các danh tướng của Thục Hán thì Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu, Hoàng Trung đều đã chết, còn Triệu Vân thì đã già. Vì binh lực Thục Hán có hạn, vì vậy Gia Cát Lượng chọn sách lược tấn công thận trọng. Tướng Ngụy Diên hiến kế: cho ông ta dẫn 5000 tinh binh và 5000 lính vận lương, từ Hán Trung vòng sang hang Tý Ngọ để lẻn đến tập kích Trường An. Tam Quốc Chí (Ngụy Diên truyện) viết: mỗi lần Diên theo Lượng ra quân đều xin riêng một vạn tinh binh, men theo đường hẻm để hội quân với Lượng ở Đồng Quan, như việc năm xưa của Hàn Tín. Lượng nhất định không cho, Diên vẫn thường nói Lượng nhút nhát, than thở rằng tài năng của mình không được dùng hết. Các nhà sử học như Dịch Trung Thiên và Trần Văn Đức đều cho rằng Gia Cát Lượng rất có lý khi từ chối kế của Ngụy Diên vì nó quá khinh địch và nhiều rủi ro. Thứ nhất: Hạ Hầu Mậu chưa chắc sẽ hèn nhát bỏ chạy khỏi Trường An như Ngụy Diên suy đoán, mà dù Mậu bỏ chạy thật thì các thuộc tướng của Mậu vẫn có thể ở lại phòng thủ, quân của Diên chỉ có 1 vạn thì rất khó công phá được tường thành vững chắc của Trường An. Thứ hai: danh tướng Quách Hoài ở gần đó có thể sớm đến chi viện cho Mậu, trong khi quân Thục của Gia Cát Lượng sẽ phải vượt qua đường núi hiểm trở xa xôi, khó mà đến kịp để chi viện cho Diên. Thứ ba: việc hành quân gấp gáp theo đường Tý Ngọ hiểm trở sẽ khiến binh tướng hao tổn sức lực, lúc tới nơi thì số quân vừa ít ỏi vừa mỏi mệt của Ngụy Diên lại phải đối mặt với cả chục vạn quân Ngụy, nên rất dễ bị tiêu diệt hoàn toàn. Thứ 4: cuộc hành quân của 1 vạn binh mã qua lãnh thổ của địch là rất khó che giấu, đạo quân của Diên chắc chắn sẽ bị thám báo phát hiện từ sớm và quân Ngụy sẽ kịp tổ chức phòng thủ, nên không còn yếu tố bất ngờ nữa. Trên thực tế, ngay khi nghe tin Gia Cát Lượng tấn công, vua Ngụy là Tào Duệ đã nhanh chóng đích thân tới Trường An chỉ huy, thu lại binh quyền của Hạ Hầu Mậu và đưa Mậu về kinh. Diễn biến này cho thấy suy đoán của Ngụy Diên rằng "Hạ Hầu Mậu sẽ bỏ chạy, Trường An sẽ bị bỏ trống" là sai lầm. Nếu Gia Cát Lượng chấp thuận kế của Ngụy Diên thì hẳn là quân Thục Hán đã đại bại. Lịch sử sau này cho thấy một số đội quân khác cũng dùng kế xuất quân từ Tí Ngọ giống như Ngụy Diên, và tất cả đều thất bại. Năm 230, Tào Chân cũng theo đường Tí Ngọ để tấn công Thục Hán, nhưng mất một tháng cũng chưa đi được nửa quãng đường, cho thấy việc Ngụy Diên dự tính "chỉ khoảng 10 ngày là tới được Trường An" là hoàn toàn sai. Năm 354, Hoàn Ôn sai thứ sử Lương Châu là Tư Mã Huân từ Hán Trung theo đường Tí Ngọ để đánh quân Tiền Tần từ phía sau, nhưng chưa ra khỏi Tí Ngọ thì đã bị 7.000 kỵ binh quân Tần đột kích đánh bại. Năm 1636, Sấm vương Cao Nghênh Tường cũng theo đường này để tiến đánh Tây An, nhưng nhanh chóng bị tướng nhà Minh là Tôn Truyền Đình phát hiện và phục kích đánh bại. Các ví dụ này cho thấy việc Gia Cát Lượng từ chối kế của Ngụy Diên là hoàn toàn đúng đắn, bởi kế sách này không chỉ rủi ro cực cao mà còn là bất khả thi trong thực tế Mạnh Đạt phản Ngụy Khi xưa, Mạnh Đạt sợ Lưu Bị bắt tội, chạy sang đầu hàng Ngụy vào năm 220, và được giao cai quản Tân Thành. Năm 227, Mạnh Đạt bất hòa với một số quan binh nhà Ngụy, bị nghi ngờ, lại muốn phản Ngụy về Thục. Gia Cát Lượng sắp đem quân ra Kỳ Sơn, trao đổi thư từ với Mạnh Đạt, hối thúc Đạt làm phản chiếm lấy Thượng Dung. Tư Mã Ý đóng ở Uyển Thành gần đó viết thư lừa Mạnh Đạt, rồi hành quân gấp rút tới Tân Thành. Mạnh Đạt còn chưa kịp chuẩn bị, nhanh chóng bị bắt giết. Chiến dịch thứ nhất Dù âm mưu dùng Mạnh Đạt đã bị phá vỡ, mùa xuân năm 228, Gia Cát Lượng vẫn xuất quân. Lão tướng Triệu Vân cùng Đặng Chi được giao đi theo đường Tà Cốc ra My Thành làm nghi binh, trong khi đó Gia Cát Lượng tự mình dẫn quân chủ lực tiến ra Kỳ Sơn. Trước tin đại quân Thục Hán tiến đánh, ba quận thuộc đất Lũng Hữu là Thiên Thủy, Nam An, An Định liền phản Ngụy theo Hán. Gia Cát Lượng được Khương Duy, một viên tướng trẻ của Ngụy. Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa hư cấu ra tình tiết Khương Duy rất tài giỏi, giao đấu cân sức với Triệu Vân, sau đó bị mắc mưu Gia Cát nên phải hàng. Gia Cát sau đó cho người đón mẹ già của Khương Duy về Thục. Trên thực tế mẹ Khương Duy vẫn ở Ngụy, viết thư gọi con về nhưng Duy không về. Tào Duệ thân chinh từ Lạc Dương ra Trường An, sai đại tướng Trương Hợp đi Kỳ Sơn chống Gia Cát Lượng, và Tào Chân chi viện My Thành chống Triệu Vân. Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa hư cấu ra việc phò mã Hạ Hầu Mậu bất tài nhưng được làm tướng chống Gia Cát Lượng, bị Lượng liên tiếp đánh bại, xấu hổ chạy trốn không dám về nước. Trên thực tế ngay khi nghe tin Gia Cát Lượng tấn công, Tào Duệ nhanh chóng đích thân ra Trường An, thu binh quyền của Hạ Hầu Mậu và đưa Mậu về kinh. Hạ Hầu Mậu đến khi qua đời vẫn không ra trận lần nào. Gia Cát Lượng sai Mã Tốc làm tiên phong, dẫn quân chặn Trương Hợp ở Nhai Đình. Mã Tốc vốn là thân tín của Lượng, cũng đọc nhiều binh thư nhưng thiếu kinh nghiệm trận mạc, trong khi Trương Hợp là danh tướng lâu năm của nhà Ngụy. Đến Nhai Đình, Mã Tốc làm ngược lại với phương án chỉ huy của Gia Cát Lượng. Mã Tốc không đóng quân ở nơi đường cái, gần sông là chỗ có nước cho quân dùng, mà lại mang quân trấn giữ trên núi với phương án "Trên núi đánh xuống, thế như chẻ tre". Vương Bình nhiều lần phản đối, nhưng Mã Tốc không nghe. Quả nhiên khi bị quân Ngụy chặn đường lấy nước, quân Thục đại bại nhanh chóng. Trương Hợp nhân đà tiến quân tái chiếm cả ba quận thuộc đất Lũng Hữu. Triệu Vân và Đặng Chi chỉ có ít quân già yếu làm nghi binh nên cũng phải rút khi bị Tào Chân tấn công. Nhai Đình thất thủ, Gia Cát Lượng bị mất bàn đạp tấn công, lỡ mất cơ hội đánh chiếm Lũng Hữu, đại quân Thục không thể tiến nữa buộc phải lui về Hán Trung. Chiến dịch của Thục Hán đến đây coi như kết thúc. Quân Thục Hán thu phục Khương Duy và giành được dân của 3 quận, nhưng không đạt mục tiêu chính. Gia Cát Lượng ra lệnh rút quân và xử tội Mã Tốc, đồng thời xin tự giáng chức xuống 3 bậc thành Hữu tướng quân, đứng dưới cả Lý Nghiêm (đã lên Tiền tướng quân vào năm 226). Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung có hư cấu thêm chi tiết "Không thành kế", theo đó Gia Cát Lượng không còn quân, một mình ngồi trên thành mở toang cửa gảy đàn để dọa Tư Mã Ý rút quân. Sự kiện này không có thật vì khi đó Tư Mã Ý vẫn trấn thủ Uyển Thành, và theo sách sử thì mãi đến chiến dịch thứ 4 đánh Ngụy thì Gia Cát và Tư Mã mới đối đầu nhau. Theo chú thích của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí, câu chuyện "Không thành kế" là do Quách Xung nói với Phù Phong vương Tư Mã Tuấn để ca ngợi Gia Cát Lượng. Tuy nhiên Bùi Tùng Chi cho rằng chuyện này không có thật vì nội dung tình tiết có nhiều điểm không hợp lý. Hơn nữa, Quách Xung khen Lượng như vậy chẳng khác nào chê bai Tư Mã Ý, không thể nào dám nói trước mặt Tư Mã Tuấn (con trai của Ý), càng không thể nào Tuấn "cho rằng lời của Xung là đúng". Theo bộ sử Tam quốc chí, Gia Cát Lượng đúng là đã có lần ngồi trước doanh trại quân Ngụy rồi ung dung chơi cờ, xung quanh không có binh sỹ hộ vệ mà chỉ có mấy tiểu đồng phục vụ, nhưng quân Ngụy sợ phục binh nên không dám ra đánh. Như vậy theo chính sử thì Gia Cát Lượng sử dụng "Không trận kế" để khiêu khích quân Ngụy, chứ không phải là "Không thành kế" để dọa quân Ngụy. "Không trận kế" đã không có tác dụng, và sự kiện này cũng không diễn ra ở lần bắc phạt thứ nhất. Về nguyên nhân thất bại, có người an ủi cho rằng nguyên do xuất quân lần này gặp bất lợi là do binh lực quá ít. Gia Cát Lượng đã nghiêm túc trả lời rằng: Không đúng như vậy, vì trong hai trận đánh ở Kỳ Sơn và Tà Cốc, quân Thục nhiều hơn quân Ngụy, nguyên nhân thất bại chính là do bản thân ông dùng người không đúng. Gia Cát Lượng nói rằng từ sau này sẽ thưởng phạt nghiêm minh, khắc phục thiếu sót, và bất kỳ ai trung thành với đất nước đều có quyền vạch khuyết điểm của ông, có như vậy mới tiêu diệt được kẻ thù thống nhất được thiên hạ. Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa hư cấu ra việc Trương Bào làm tướng theo Gia Cát Lượng đánh Ngụy. Thực tế cả Quan Hưng lẫn Trương Bào đều chết yểu, chưa từng làm tướng. Chiến dịch thứ hai Tháng 12 năm 228, nhân cơ hội Lục Tốn của Đông Ngô đánh bại quân của Tào Hưu ở Thạch Bình, Gia Cát Lượng liền tổ chức cuộc Bắc phạt lần thứ hai. Trước khi xuất chinh, ông dâng lên bản Hậu xuất sư biểu, thể hiện quyết tâm hết lòng hết sức của Gia Cát Lượng vì nhà Thục Hán mặc dù việc thành bại của Bắc phạt bản thân ông không thể định đoạt. Bài biểu có hai câu nói nổi tiếng sau này đã trở thành biểu tượng cho tấm lòng trung thành của Gia Cát Lượng với nhà Thục Hán nói riêng và của các bậc trung thần với triều đình phong kiến nói chung: Gia Cát Lượng quyết định tiến quân theo đường Trần Thương. Tuy nhiên, đại tướng Ngụy là Tào Chân đã đoán trước được Gia Cát Lượng lần sau đến đánh sẽ đi đường này, và giao cho Hác Chiêu tăng cường phòng thủ ải Trần Thương. Gia Cát Lượng bị bất ngờ trước sự phòng thủ kiên cố của quân Ngụy. Dụ hàng Hác Chiêu không được, Gia Cát quyết tâm đánh thành. Thế nhưng cửa ải rất vững chắc, trong suốt 20 ngày, quân Thục với quân số lên đến 40.000 - 50.000 vẫn không thể công phá được. Hác Chiêu chỉ với 1000 quân đã giữ vững được đến khi viện binh của nhà Ngụy tới cứu. Trương Hợp dự đoán rằng chỉ cần nghe tin mình đến, Gia Cát Lượng sẽ rút quân, và quả thực quân Thục rút lui trước khi viện binh của Trương Hợp đến Trần Thương. Tiểu tướng trong ải Trần Thương là Vương Song mở cửa đuổi theo quân Thục, bị phục binh bắn chết. Trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, Vương Song được phóng đại là một vị tướng có sức mạnh và tài nghệ thuộc hàng mạnh nhất của quân Tào Ngụy tại thời điểm đó, nhưng bị Ngụy Diên chém chết. Chiến dịch thứ ba Mùa xuân năm 229, Gia Cát Lượng phái Trần Thức đi đánh các vùng xa xôi ở Tây Bắc của nhà Ngụy. Tướng Ngụy Quách Hoài dẫn binh đối địch, nghe tin đại quân của Thục sắp đến thì rút lui. Trần Thức đánh lấy được hai quận là Vũ Đô và Dương Bình. Gia Cát Lượng chiếm được hai quận liền thu quân, báo tin thắng trận, được Hậu chủ phục chức Thừa Tướng. Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu nên chuyện rằng Vương Lãng làm quân sư cho Tào Chân và Quách Hoài, đấu khẩu với Gia Cát Lượng trước trận, bị mắng đến uất quá từ trên ngựa ngã lăn xuống đất chết. Thực tế sử chỉ có ghi Vương Lãng từng gửi thư cho Gia Cát Lượng khuyên ông nên quy phục nhà Ngụy, Lượng trả lời rằng ông quyết trung thành với nhà Hán. Nhà Ngụy phản công Năm 230, nhà Ngụy muốn thay đổi tình thế từ bị động sang chủ động tấn công. Đại tướng Tào Chân cùng Tư Mã Ý dẫn 2 cánh quân tấn công Hán Trung. Số người ở đạo quân Tào Chân vượt quá 5 vạn, Tư Mã Ý cũng có 3-4 vạn, quân Quách Hoài do các đạo quân nhỏ của các tướng lĩnh hợp thành số người cũng có 1-2 vạn người. Chiến dịch của quân Tào thất bại do trời mưa liên miên suốt hơn 30 ngày, đường núi bị đứt đoạn. Tào Duệ hạ lệnh thu quân, Gia Cát Lượng cũng không đuổi theo, hai bên không giao tranh gì. Tào Chân trên đường về bị mưa, ốm chết. Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra chuyện Lượng gửi thư chọc tức Tào Chân đang ốm, Chân đọc thư xong thổ huyết chết. Thực tế Tào Chân chết bệnh ở Lạc Dương chứ không phải bị Gia Cát Lượng viết thư chọc tức mà chết, và khi Tào Chân làm đô đốc quân Ngụy đã chặn được quân Thục trong lần bắc phạt thứ nhất và thứ hai. Chiến dịch thứ tư Cuối năm 230, quân Thục do Ngụy Diên dẫn đầu giao tranh với quân Ngụy do Phí Diệu và Quách Hoài chỉ huy. Quân Thục thắng trận. Năm 231, Gia Cát Lượng thống lĩnh đại binh ra Kỳ Sơn lần thứ 2, tiến hành cuộc Bắc phạt lần thứ tư. Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa viết rằng "Khổng Minh Lục xuất Kỳ Sơn", nhưng theo sách sử, Gia Cát Lượng chỉ 5 lần xuất quân đánh Ngụy, trong đó chỉ ra Kỳ Sơn lần thứ 1 và thứ 4. Còn 1 lần thì quân Thục Hán phòng thủ chống quân Ngụy. Quân Thục lần này dùng xe trâu (trâu gỗ, ngựa máy) vận chuyển quân lương. Về phía nhà Ngụy, Tào Chân đã bị bệnh chết nên Tư Mã Ý làm thống soái, các tướng lĩnh Phí Diệu, Đới Lăng, Quách Hoài làm tiên phong. Đây là lần đầu tiên Gia Cát và Tư Mã đối đầu nhau, cũng là lần đầu Tư Mã Ý cầm đại quân tham gia chiến tranh. Gia Cát Lượng chia quân ở lại Kỳ Sơn, còn mình đến Thiên Thủy lén gặt lúa. Tư Mã Ý cũng dẫn quân đến Thiên Thủy, Gia Cát Lượng không chủ quan khinh địch, ra lệnh cho quân lính chiếm cứ vùng rừng núi hiểm trở, bố trí trận địa sẵn sàng. Đại quân hai bên đối mặt nhau nhưng vẫn chưa xảy ra giao tranh. Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra việc Gia Cát Lượng dùng phép thuật "độn giáp" để gặt xong lúa, khiến Tư Mã Ý vừa kinh sợ vừa thán phục. Gia Cát Lượng rút lui về phía Kỳ Sơn nhằm lôi kéo quân Ngụy ra đánh. Tư Mã Ý cho quân đuổi theo nhưng vẫn đề phòng cẩn thận, khi quân Thục dừng lại thì họ cũng dừng lại. Lúc này nhiều tướng Ngụy cho rằng Tư Mã Ý nhát gan. Bị các tướng thúc ép, Ý phải tung quân giao chiến. Tư Mã Ý đích thân dẫn quân đi, một cánh khác do Trương Hợp thống lĩnh đánh vào phía Nam của quân Thục ở Kỳ Sơn. Gia Cát Lượng sai Ngụy Diên, Ngô Ban, Cao Tường ra nghênh địch. Quân Ngụy bị thua to, quân Thục khi thu dọn chiến trường đã đếm được hơn 3000 thủ cấp, 500 bộ giáp và cung nỏ. Ý rút quân về Thiên Thủy, cố thủ không ra đánh. Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra việc Gia Cát Lượng dùng kế tăng bếp lừa Tư Mã Ý ra đánh. Thực tế đây là kế của Ngu Hủ thời Đông Hán lừa quân Khương trước đó gần 70 năm. Tháng 6 năm 231, mưa to khiến việc vận tải lương thực rất khó khăn. Quân Thục phải rút lui vì hết lương ăn. Trương Cáp dẫn quân đuổi theo đến Mộc Môn thì bị phục kích bắn chết. Tam Quốc chí ghi rằng Tư Mã Ý khuyên Trương Cáp không nên đuổi theo quân Thục Hán nhưng ông không nghe nên bị phục kích, nhưng sách"Ngụy lược" thì cho rằng Trương Cáp lúc đó là lão tướng nhiều kinh nghiệm nên không muốn đuổi theo Gia Cát Lượng, nhưng Tư Mã Ý hoặc là vì trúng kế, hoặc là cố ý hại Trương Cáp để tranh quyền nên ra lệnh cho ông đuổi theo. Trương Cáp được phong tước Hầu sau khi chết. Chiến dịch thứ năm Bốn lần Bắc phạt phải rút giữa chừng vì khó khăn trong cung ứng lương thực. Song Gia Cát Lượng liên tục đối trận với những danh tướng bậc nhất Tào Ngụy như Tào Chân, Trương Cáp và Tư Mã Ý, đặc biệt là sau khi đánh bại Tư Mã Ý và giết chết Trương Cáp, Gia Cát Lượng càng tin vào khả năng đánh bại Tào Ngụy. Để cải thiện vấn đề tải lương, ông đã cải tiến thêm một bước trâu gỗ ngựa máy, đồng thời cho khai khẩn với quy mô lớn ở Hoàng Sa (tỉnh Thiểm Tây), thao luyện việc vận tải bằng trâu gỗ ngựa máy ở Bạch Mã Sơn vùng Cảnh Cốc (tỉnh Tứ Xuyên), lại cho xây dựng ở Tà Cốc kho lương lớn chưa từng thấy, để hoàn chỉnh chuẩn bị bắc phạt. Liền hai năm, đại bộ phận thời gian của Gia Cát Lượng vẫn ở Hán Trung để luyện binh giảng võ, khuyên quân cầy cấy. Năm 234, sau mấy năm chuẩn bị, Gia Cát Lượng tiếp tục mang 10 vạn quân đánh Ngụy lần thứ năm. Lần này quân Thục đi theo đường Tà Cốc đến huyện My, cắm trại tại đồng bằng Ngũ Trượng phía nam sông Vị Thủy. Ngũ Trượng ngày nay thuộc huyện Kỳ Sơn tỉnh Thiểm Tây, là một vùng gò đồi thấp, chất đất phì nhiêu thích hợp trồng trọt lương thực. Gia Cát Lượng lựa chọn vùng đất này là nhằm có thể trồng cấy lương thực tại chỗ, dự liệu cho việc tác chiến trường kỳ. Ông cũng giữ nghiêm quân kỷ, tuyệt đối cấm việc chiếm đoạt của cải và thóc lúa của dân chúng. Vì vậy quân Thục và dân cày trong vùng tương đối hòa thuận, không xảy ra xung đột gì. Tuy quân Tào Ngụy chiếm ưu thế về quân số, song sau mấy lần bị quân Thục Hán đánh bại ở chiến trường, tướng Trương Cáp tử trận, nên Tư Mã Ý cho rằng tiến hành giao chiến lớn thì sẽ bất lợi. Tư Mã Ý biết quân Thục gặp khó khăn về tiếp tế lương thảo, nên vẫn sử dụng chiến thuật cố thủ không ra đánh. Gia Cát Lượng sai quân sĩ đến dưới chân thành mắng nhiếc nhằm chọc tức Tư Mã Ý, nhưng ông ta tiếp tục án binh bất động dù nhiều lần bị khiêu chiến. Gia Cát Lượng gửi vào trong thành một bộ áo quần phụ nữ kèm theo một bức thư với nội dung: "Trọng Đạt chui rúc trong thành không giám ra nghênh chiến, thì có khác chi đàn bà, nếu muốn xưng danh là người quân tử và còn biết liêm sỉ, thì hãy ra ngoài thành đọ tài cao thấp, nếu không thì hãy mặc bộ quần áo này vào". Các tướng Ngụy tức điên. Để làm dịu các tướng lĩnh, Tư Mã Ý vờ xin Tào Duệ cho phép tấn công quân Thục. Tào Duệ biết ý, phái người tới chỗ Tư Mã Ý thuyết phục tướng sĩ bình tĩnh. Gia Cát Lượng cho lính làm ruộng để có lương thực đánh trường kỳ, một mặt vẫn liên tục khiêu khích quân Ngụy, nhưng Tư Mã Ý tiếp tục án binh bất động. Quân Ngụy kiên quyết cố thủ không đánh đã đưa Gia Cát Lượng vào thế giằng co không thể tiến triển được. Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu nên sự kiện Gia Cát Lượng dùng kế lừa Tư Mã Ý và hai con trai vào Thượng Phương Cốc rồi cho quân ném rơm rạ, củi lửa chặn bít hai đầu phóng hỏa. Trong lúc Tư Mã Ý tuyệt vọng ôm hai con khóc lóc thì trời bỗng đổ mưa lớn, dập tắt hết ngọn lửa, giúp cho cha con Tư Mã Ý chạy thoát khỏi hang. Gia Cát Lượng lo lắng vì quân Ngụy không chịu xuất trận, lại làm việc rất vất vả, dậy sớm thức khuya, việc xử án phạt 20 gậy trở lên đều tự mình xét hỏi cẩn thận nên sức khỏe mỗi ngày mỗi sút kém. Qua đời Tháng 8 năm 234, Gia Cát Lượng sinh bệnh nặng. Vua Thục Hán là Lưu Thiện phái Thượng thư Lý Phúc, ngày đêm phóng đến tiền tuyến gò Ngũ Trượng thăm hỏi bệnh tình của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng nằm trên giường bệnh dặn dò Lý Phúc: trước mắt sự nghiệp bắc phạt chưa thành công, hy vọng đại thần triều đình vẫn một lòng như cũ, tận tâm phò tá Lưu Thiện, kế tục hoàn thành sự nghiệp phục hưng nhà Hán mà mình chưa hoàn thành được. Lại yêu cầu Lý Phúc chuyển lời cho nhà vua rằng: sau khi ông ta mất không cần đưa về Thành Đô chôn cất, cứ an táng ở núi Định Quân tại tiền tuyến là được, để tượng trưng chí hướng "da ngựa bọc thây chết ở sa trường". Lý Phúc thảy đều ghi nhớ lời di chúc của Gia Cát Lượng, liền mau chóng trở về Thành Đô báo cáo lại với Lưu Thiện. Cuối tháng 8 năm Kiến Hưng thứ 12 (tức năm 234), Gia Cát Lượng bệnh mất ngay trong chiến dịch Bắc Phạt lần thứ 6, thọ 54 tuổi; kể từ khi ông ra khỏi lều cỏ Long Trung đã trải qua 27 năm, ở chức vụ Thừa tướng Thục Hán được 14 năm. Cuốn "Tấn Dương thu" của Tôn Thịnh đời Đông Tấn có chép: "Truyền thuyết kể rằng vào hôm Gia Cát Khổng Minh từ trần, ở trên khoảng trời phía bắc, có một ngôi sao đỏ rất lớn, từ phía đông bắc theo hướng tây nam chợt loé sáng rồi tắt đi..." Trước khi qua bệnh qua đời, Gia Cát Lượng dặn dò Khương Duy đoạn hậu Ngụy Diên. Khi đại tướng Ngụy là Tư Mã Ý được tin Gia Cát Lượng đã chết, liền hạ lệnh cho quân Ngụy tấn công. Tuy nhiên Dương Nghi đã làm theo mưu kế của Gia Cát Lượng là quay cờ về phía sau, dóng chuông đánh trống đàng hoàng tiến quân, làm cho Tư Mã Ý với bản tính đa nghi tưởng rằng Gia Cát Lượng vấn chưa chết. Tư Mã Ý sợ rằng Gia Cát Lượng chỉ giả chết để lừa mình, ngay lập tức vội vàng cho quân quay về doanh trại cố thủ. Việc Tư Mã Ý phải bỏ chạy trước một Gia Cát Lượng đã chết khiến người dân truyền tụng câu truyện cười: "Gia Cát chết vẫn dọa được Trọng Đạt sống" (死諸葛嚇走活仲達). Khi Tư Mã Ý biết việc này, ông cười và nói: "Ta có thể chiến đấu với người sống, chứ không phải người chết." Nhờ kế này của Gia Cát Lượng, quân Thục mới an toàn rút về Hán Trung. Trong Tam quốc chí bình thoại có ghi lại giai thoại dân gian kể rằng Tư Mã cũng từng nhận xét về Gia Cát Lượng như sau: "Lai bất khả đương, công bất khả thủ, khốn bất khả vi, vị tri thị nhân dã, thần dã, tiên dã?", nghĩa là: Gia Cát Lượng đã đến thì không ai có thể địch nổi, đã tấn công thì không ai có thể phòng thủ, khó khăn cũng chẳng thể vây hãm, ông ấy không phải là người, mà là thần, là tiên. Nguyên nhân Bắc phạt thất bại 5 lần Gia Cát Lượng bắc phạt, tuy đánh thắng một số trận, giành thêm được dân tại 4 quận phía Tây, nhưng nhìn chung là không đạt mục tiêu đề ra. Theo Dịch Trung Thiên, có 3 nguyên nhân dẫn đến việc Bắc phạt thất bại của Thục Hán và Gia Cát Lượng: Thứ nhất: Tào Ngụy lớn mạnh, nên không dễ sụp đổ nhanh chóng. Ngụy Diên từng đề xuất chia quân 2 hướng, hội sư ở Đồng Quan giống như năm xưa Hàn Tín giúp Lưu Bang lấy thiên hạ, nhưng Gia Cát Lượng không nghe vì phương án này có rủi ro lớn, trong khi "Ngụy chủ minh lược, còn có Tư Mã Ý không thể xem nhẹ" Quân số và diện tích Tào Ngụy lớn hơn gấp 4 lần so với Thục Hán là một bất lợi rất lớn đối với Gia Cát Lượng Thứ hai: vùng Ích Châu không phải là nơi dễ tiến công vào Trung Nguyên. Đường vào Thục khó đi, địa hình hiểm trở, ngăn người cũng là ngăn mình, phòng thủ thì dễ còn xông ra giành thiên hạ thì khó. Quân Thục Hán xuất chinh lần nào cũng bị thiếu lương do việc vận chuyển khó khăn Theo Long Trung đối sách thì Gia Cát Lượng dự trù phải có một phần Kinh Châu để có thêm 1 con đường Bắc phạt, nhưng lúc này Thục Hán không còn Kinh Châu nên việc bắc phạt gặp khó khăn gấp bội. Thứ ba: Gia Cát Lượng là người thận trọng, không muốn đưa ra những quyết sách mạo hiểm. Dịch Trung Thiên cho rằng bản thân Gia Cát Lượng có lẽ cũng nhận ra các vấn đề này, nhưng ông vẫn quyết tâm Bắc phạt để "lấy công để thủ", "quấy bên ngoài để giữ yên bên trong", bởi Thục Hán đất hẹp ít dân hơn Tào Ngụy, nếu ngồi yên thì chẳng khác nào đợi diệt vong, còn nếu tấn công thì ít ra vẫn có cơ hội thắng. Trong Xuất sư biểu, Gia Cát Lượng cũng đã chỉ rõ rằng trong Tam quốc thì nước Thục Hán có tiềm lực lãnh thổ, dân số ít nhất, do đó không thể thỏa mãn với cục diện yên ổn tạm thời mà phải cố tiến công giành thêm lãnh thổ. Vương Phu Chi cho rằng quyết tâm Bắc phạt chính là sự nhìn xa trông rộng của Gia Cát Lượng. Truy tặng Hậu chủ Lưu Thiện nghe tin Gia Cát Lượng đã mất, đau đớn khóc lóc không thôi, lại xuống chiếu truy tặng ấn thụ Vũ Hương hầu, cùng dựa vào phẩm đức và công tích của Gia Cát Lượng lúc sống, đặt tên Thụy là Trung Vũ hầu (忠武侯). Ông được chôn tại ngọn núi Định Quân ở vùng Hán Trung theo đúng di nguyện. Mộ phần tựa vào núi, chỉ đủ chứa quan tài, liệm bằng quần áo bình thường, không chôn theo tài sản gì. Chiếu thư do vua Thục Hán ban tặng viết rằng: Chỉ ngài văn võ kiêm toàn, sáng suốt thành thực, chịu mệnh thác cô, đem thân phò trẫm, hưng dòng đã tuyệt, chí mưu dẹp loạn; sửa việc binh cơ, chinh chiến liền năm, thần vũ hiển hách, uy trấn tám phương, lập công lớn vào thời cuối Hán, công lao sánh tựa Y Doãn - Chu Công. Sao chẳng xót thương, việc lớn chưa thành, gặp bệnh mà thác! Lòng trẫm đớn đau, tim gan tan nát. Trọng người đức lớn công đầu, tên hiệu khắc sâu, danh còn sáng mãi về sau, tiếng thơm bất hủ. Nay sai sứ là Tả trung lang tướng Đỗ Quỳnh cầm cờ tiết, truy tặng ngài ấn thụ Thừa tướng Võ Hương Hầu, thuỵ hiệu Trung Vũ Hầu. Hồn thiêng có linh, xin về thượng hưởng. Than ôi thương thay! Than ôi thương thay! Người kế nghiệp Ngay sau khi Gia Cát Lượng chết, mâu thuẫn tranh chấp binh quyền xảy ra giữa đại tướng Ngụy Diên và thân tín của Lượng là Dương Nghi. Tam quốc chí có chép: "Gia Cát Lượng rất tiếc tài cán của Dương Nghi, cũng rất xem trọng sự dũng mãnh của Ngụy Diên, thường hận hai người bất bình với nhau, không nỡ bỏ một người". Trước lúc lâm chung, Gia Cát Lượng yêu cầu Khương Duy, Phí Vỹ giúp đỡ Dương Nghi chỉ huy việc rút quân. Ngụy Diên muốn tiếp tục ở lại chiến đấu nên không tuân lệnh Dương Nghi, hạ lệnh cho quân đoàn của mình sớm rút về phía nam Tà Cốc, không muốn làm việc chặn hậu cho toàn quân. Dương Nghi cáo buộc Ngụy Diên âm mưu tạo phản. Các quan văn như Tưởng Uyển, Phí Y, đều ủng hộ Dương Nghi. Ngụy Diên muốn giết Dương Nghi nên dàn quân ngăn cản đường về của đoàn quân Thục Hán. Dương Nghi hạ lệnh cho Vương Bình đang chỉ huy hậu quân đến đánh Ngụy Diên. Vương Bình chọn sách lược "tiên lễ hậu binh", phân người ước hẹn với Ngụy Diên đối trận ở cửa Nam Cốc, đầu tiên chỉ tiến hành đàm phán. Ông ta nói với Ngụy Diên và quân lính rằng: "Thừa tướng vừa mới mất, thi thể còn chưa lạnh, các ông cuối cùng không nghĩ đến ân nghĩa lại muốn tạo phản ư?". Các tướng lĩnh quân Ngụy Diên nghe Vương Bình diễn thuyết, tinh thần lập tức tan rã, đại đa số quân sĩ không đánh mà rút khỏi cửa Nam Cốc. Ngụy Diên sau khi đại bại dẫn vợ con và một số người thân tín chạy trốn vào vùng núi Hán Trung để lánh nạn, Dương Nghi hạ lệnh cho Mã Đại dẫn quân tìm bắt, không lâu đã bắt được Ngụy Diên cùng gia nhân, Dương Nghi hạ lệnh cùng đem đi xử trảm. Nhà Thục mất đi danh tướng cuối cùng ở thời Lưu Bị. Tưởng Uyển là người được chọn để kế nhiệm Gia Cát, Dương Nghi bất mãn phỉ báng triều đình, bị bãi chức rồi tự sát trong ngục. Tưởng Uyển nắm quyền, duy trì các chính sách đối nội của Gia Cát Lượng, nhưng bãi bỏ chính sách phát động chiến tranh chống lại nhà Tào Ngụy, và rút hầu như toàn độ quân đội đồn trú ở thành trì trọng điểm giáp biên giới với Ngụy là Hán Trung về Phù huyện. Từ thời điểm đó, Thục nhìn chung là ở thế phòng ngự và không còn đe dọa đến Ngụy nữa. Tưởng Uyển ốm, giao việc cho Phí Y và Đổng Doãn. Sau khi Tưởng Uyển mất, Phí Y kế nhiệm, bắt đầu sai Khương Duy quấy rối biên giới với Tào Ngụy bằng những vụ đột kích mang tính chu kỳ, nhưng chưa bao giờ cho phép Duy thực hiện những cuộc tấn công lớn. Năm 244, khi nhiếp chính của nước Tào Ngụy là Tào Sảng (con Tào Chân) tấn công Hán Trung. Phí Y chỉ huy quân đội chống lại Tào Sảng và đại thắng, quân số Tào Ngụy thiệt hại gần một nửa, dẫn đến sự diệt vong sau này của Tào Sảng. Phí Y có năng lực, chỉ buổi sáng đã làm hết việc, chiều thường mở tiệc chiêu đãi các quan lại trong triều tại tư gia. Trong một bữa tiệc như vậy, Quách Tuần (郭循), một hàng tướng của Tào Ngụy do Khương Duy đem về, đâm chết Phí Y. Từ đó binh quyền rơi vào tay Khương Duy còn triều chính rơi vào tay hoạn quan Hoàng Hạo. Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa miêu tả Khương Duy như là một kỳ tài thiên hạ, được Gia Cát nhận làm học trò và truyền dạy binh pháp, sau khi Gia Cát chết thì thống lĩnh đại quân đánh Ngụy, vai trò của Tưởng Uyển và Phí Y mờ nhạt, hầu hết bị lược bỏ. Trên thực tế mãi đến năm 255 Khương Duy mới được phong Đại tướng quân, và cũng chưa bao giờ nắm được toàn quyền về triều chính như Gia Cát, Tưởng Uyển, Phí Y. Không còn bị Phí Y kềm chế, Khương Duy khôi phục chính sách Bắc phạt của Gia Cát Lượng. Tổng cộng Duy tiến hành 9 chiến dịch tấn công Tào Ngụy, đa phần thất bại nặng nề. Các tướng Ngụy như Quách Hoài, Đặng Ngải, Trần Thái thành công trong việc ngăn chặn các cuộc tấn công của quân Thục. Nước Thục Hán vốn nhỏ hơn Ngụy, vì Khương Duy tấn công không thành nên hao tổn nhân lực và tài nguyên nghiêm trọng, triều chính thì bị hoạn quan thao túng, tham nhũng tràn lan, nhà Thục Hán bắt đầu suy tàn. Một trong những sai lầm nghiêm trọng nhất của Khương Duy là việc phá bỏ hệ thống trại phòng thủ ở Hán Trung do Gia Cát Lượng theo Kinh Dịch lập nên. Ba mươi năm sau khi Gia Cát Lượng mất, năm 264 SCN, quân Ngụy do Đặng Ngải và Chung Hội thống lĩnh tấn công nước Thục Hán, Hán Trung nhanh chóng thất thủ. Trong khi Khương Duy chặn được Chung Hội ở Kiếm Các, Đăng Ngải lẻn qua Âm Bình sơn - một vùng núi non hiểm trở mà quân Thục không phòng bị. Con và cháu nội của Gia Cát Lượng là Gia Cát Chiêm và Gia Cát Thượng đều tử trận khi chiến đấu bảo vệ thành Miên Trúc. Lưu Thiện đầu hàng nước Ngụy. Khương Duy bày kế kích động tướng Ngụy là Chung Hội làm phản để tái lập Thục Hán nhưng thất bại, Khương Duy bị giết và nước Thục diệt vong. Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra chuyện khi Đặng Ngải vào Thục, đi qua mộ Gia Cát Lượng thì Lượng hiện hồn về báo mộng, khuyên ông đừng cướp bóc, giết hại người dân. Quan hệ với Lưu Bị, Lưu Thiện Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, mối quan hệ giữa nhân vật Gia Cát Lượng và nhân vật Lưu Bị được ví như "cá với nước", Lượng nói gì Bị nghe nấy. Còn đối với Lưu Thiện thì nhân vật Gia Cát Lượng "hết lòng phò tá", được xem như cha nuôi... Trên thực tế thì Lưu Bị với Gia Cát Lượng đúng là "kính trọng như khách", Lưu Thiện thì ca ngợi "họ Gia Cát đã cứu quả nhân", nhưng mối quan hệ quân thần giữa họ cũng có những vấn đề phức tạp. Với Lưu Bị Theo Dịch Trung Thiên, sau giai đoạn gắn bó ban đầu, giữa Gia Cát Lượng và Lưu Bị sau trận Xích Bích lại trở nên ít gắn bó hơn: Lưu Bị vào đánh Tây Xuyên (Ích Châu) không đem theo Lượng mà đem theo Bàng Thống, Thống thỏa sức tung hoành, bày mưu vạch kế. Bàng Thống chết rồi, Lưu Bị "thương nhớ đến rơi lệ". Khi đánh Đông Xuyên (Hán Trung) Bị lại đem theo Pháp Chính, Chính cùng Lưu Bị vào sinh ra tử, đề xuất chủ trương. Pháp Chính mất, Lưu Bị "nước mắt giàn giụa". Suốt giai đoạn này, Gia Cát Lượng chỉ "lo việc thuế má", "lo lương cho quân ăn"... đây có thể chỉ là do ông vốn giỏi trị quốc, lo việc hậu cần nên được phân công ở phía sau. Lưu Bị nghe lời Pháp Chính hơn là nghe lời Gia Cát Lượng, Lưu Bị với Gia Cát Lượng "kính trọng như khách", còn với Pháp Chính thì "nghe lời theo kế". Chính Gia Cát Lượng cũng từng thừa nhận điều này khi nói: "nếu Pháp Hiếu Trực còn thì có thể ngăn được chúa thượng". Dịch Trung Thiên cho rằng về sau giữa hai người đã nảy sinh sự khác biệt về tư tưởng chiến lược: Lưu Bị vì muốn đánh Ngô trả thù cho Quan Vũ, Trương Phi mà xóa bỏ chủ trương "hòa Ngô đánh Ngụy" của Gia Cát Lượng Lưu Bị không hoàn toàn tín nhiệm Gia Cát Lượng, sau khi lên ngôi Hoàng Đế phong Gia Cát làm Thừa tướng, nhưng không cho "khai phủ" (nghĩa là chỉ có chức vụ, không có trụ sở, không có phủ đệ, không có thuộc cấp), tức là không thể lấn quyền nhà vua như Tào Tháo đã làm. Lưu Bị "gửi con" cho Gia Cát Lượng do vì con còn quá nhỏ và không còn ai khác đủ tin cậy để gửi. Trong việc gửi con, Lưu Bị có thực tâm tin tưởng Gia Cát Lượng hay không thì không thể xác định rõ vì lời trăn trối của Lưu Bị quá vắn tắt, có thể hiểu theo nhiều cách khách nhau tùy theo quan điểm của mỗi nhà sử học (xem phân tích bên trên). Sau này, Gia Cát Lượng không dùng một số người mà Lưu Bị tin cậy; lại sử dụng người Lưu Bị từng cảnh báo là không nên dùng: Lý Nghiêm: trước khi chết Lưu Bị sắp xếp, đề bạt Lý Nghiêm làm phó, cùng Gia Cát Lượng nắm triều chính (tựa như Trương Chiêu và Chu Du phò Tôn Quyền). Giữa Lượng và Nghiêm đã có xung đột. Theo Tam quốc chí - Lý Nghiêm truyện và Hoa Dương quốc chí, Lý Nghiêm tham quyền, từng đề xuất thành lập Ba châu (tự mình là thứ sử), kết quả "thừa tướng Gia Cát Lượng không theo". Mấy năm sau, Lý Nghiêm lại xin được "khai phủ", lý do là 4 vị nhận di chiếu của Tào Phi phò tá Tào Duệ đều được khai phủ, nhưng yêu cầu này cũng bị Gia Cát từ chối vì cho rằng Lý nghiêm muốn lấn quyền trung ương. 8 năm sau, Gia Cát Lượng cách chức Lý Nghiêm với chứng cớ rõ ràng là Lý Nghiêm chậm trễ cung cấp quân lương lại trình báo gian dối, nhưng Dịch Trung Thiên cho rằng còn có những lý do khác không rõ ràng Ngụy Diên: Ngụy Diên là người rất được Lưu Bị tin tưởng, tín nhiệm. Sử ghi rằng "mỗi lần Tiên chủ xuất binh, văn có Pháp Chính, võ có Ngụy Diên". Sau khi chiếm được Hán Trung, ai cũng nghĩ Bị sẽ cho Trương Phi trấn thủ nơi này, nhưng ông lại chọn Ngụy Diên. Sau này Gia Cát Lượng nắm quyền, Ngụy Diên luôn bị kềm chế, mỗi lần hiến kế đều bị gạt đi. Tam quốc chí - Mã Lương truyện viết: lúc xuất binh, ai cũng thấy Ngụy Diên xứng đáng là tiên phong, nhưng Gia Cát Lượng lại sử dụng Mã Tốc (lúc lâm chung Lưu Bị đã chê Mã Tốc), kết quả Mã Tốc bại trận. Với Lưu Thiện Sau khi Lưu Bị chết, Gia Cát Lượng mới được "khai phủ" thừa tướng, ngoài ra còn kiêm luôn Ích Châu mục. Nước Thục Hán và Ích Châu gần như là một (Thục Hán chỉ có vỏn vẹn châu Ích và Hán Trung), việc Gia Cát Lượng vừa là Thừa tướng Thục Hán (trực tiếp quản lý quan lại) vừa là Ích Châu mục (trực tiếp quản lý dân chúng) cho thấy ông nắm trọn quyền hành (vừa trực tiếp quản "quan" lẫn "dân"). Tam quốc chí - Gia Cát Lượng truyện ghi: "chính sự dù to nhỏ, do Lượng giải quyết tất", Hậu chủ truyện ghi Lưu Thiện nói: "chính, do họ Cát; tế, do quả nhân" (nghĩa là mọi việc quan trọng do gia Cát Lượng xử lý, còn Lưu Thiện chỉ là vua trên danh nghĩa). Lưu Bị vốn "gửi con" để Gia Cát Lượng phò tá, giúp đỡ Lưu Thiện. Gia Cát Lượng hết lòng tận tụy vì việc nước, tự mình xử lý mọi việc, chưa bao giờ trao lại quyền điều hành cho Lưu Thiện. Thục Hán không đặt chức quan ghi sử, khiến người sau không biết chuyện gì xảy ra trong triều. Gia Cát Lượng kèm cặp, dạy bảo Lưu Thiện rất nghiêm, lên ngôi năm 17 tuổi đến khi 29 tuổi Lưu Thiện mới ra khỏi cung lần đầu. Tam quốc chí - Hậu chủ truyện ghi: năm 236 Hậu chủ mới đi xem đập Đô Giang; Tư trị thông giám có ghi chú: không còn Gia Cát Lượng nên Lưu Thiện mới ra ngoài du ngoạn. Trong Xuất sư biểu, Gia Cát Lượng cũng dùng lời lẽ dạy bảo Lưu Thiện, mong ông noi gương tiên đế, hành xử đúng đạo lý Bùi Tùng Chi cho rằng Gia Cát Lượng không trao quyền điều hành cho Lưu Thiện vì biết Lưu Thiện chưa quen chấp chính, còn Dịch Trung Thiên thì cho rằng có 3 nguyên nhân: Thứ nhất, việc nhà vua vừa tự nắm quyền vừa tự thân chính là không hay vì khi có chuyện sẽ không có ai cáng đáng cùng vua. Thứ hai, Gia Cát Lượng là người rất có trách nhiệm, sợ giao việc cho một người non nớt như Lưu Thiện thì sẽ làm hỏng việc nước. Thứ ba, nước Thục Hán có nhiều khó khăn, bên ngoài lại có nguy cơ lớn bị Tào Ngụy và Đông Ngô tấn công, nên chỉ có Gia Cát Lượng mới có thể xử lý tốt. Sau khi Gia Cát Lượng chết, Lưu Thiện bãi bỏ chức vụ Thừa tướng, lấy lại thực quyền cho mình. Theo ghi chú của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí - Gia Cát Lượng truyện (dẫn Tương Dương ký), khắp nơi người người ở Thục đều yêu cầu lập miếu thờ thừa tướng, nhưng không được Lưu Thiện phê chuẩn, người dân phải "tự cúng tế riêng" khắp mọi nơi. Có người nói để "cúng ngoài đường", "tế ngoài đồng" không hợp lẽ, có thể lập miếu ở Thành Đô, nhưng "Hậu chủ vẫn không theo" vì như vậy là "bức tông miếu, khiến bụng thánh sinh nghi". Dư luận xôn xao, bất bình. Cuối cùng có quan dâng sớ đưa ra phương án "có thể chấp nhận được" với Lưu Thiện: cho lập miếu gần mộ (ở núi Định Quân), ra quy định chỉ được lập miếu cúng tế trước mộ (trên núi xa xôi ít người tới). Dịch Trung Thiên cho rằng điều này chứng tỏ Lưu Thiện không ưa Gia Cát Lượng, nguyên nhân là do Lưu Thiện luôn bị Gia Cát Lượng dạy bảo, kèm cặp quá sát sao nên cảm thấy không vui trong lòng Đánh giá Tài năng Gia Cát Lượng là nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc. Ông có tài năng trên rất nhiều lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, ngoại giao, pháp luật cho tới giáo dục, phong thủy, văn chương, phát minh kỹ thuật. Trong lịch sử thế giới, rất hiếm người có tài năng toàn diện trên khắp các lĩnh vực như ông. Thời kì Tam Quốc có nhiều quân sư giỏi khác như Tuân Úc, Giả Hủ, Quách Gia, Pháp Chính, Lỗ Túc... nhưng tài năng của họ cũng chỉ giới hạn ở một vài phương diện chứ không ai đa tài được như Gia Cát Lượng. Thậm chí cả về ngoại hình, Gia Cát Lượng cũng phi phàm hơn người, sử quan Trần Thọ mô tả Gia Cát Lượng "có khí anh bá, thân cao tám thước, dung mạo khôi vĩ khác hẳn người thường". Tư Mã Huy nhận xét về Gia Cát Lượng như sau: "Nếu được một trong hai người Ngọa Long (tức Khổng Minh) hoặc Phượng Sồ (tức Bàng Thống) thì có thể bình định được thiên hạ". Người đời sau có câu: "Tam phân thiên hạ Gia Cát Lượng, Nhất thống sơn hà Lưu Bá Ôn", đế nói lên tài năng của ông. Sau khi Thục Hán mất, Tấn vương Tư Mã Chiêu đã ra lệnh cho Trần Hiệp phải tìm kiếm tư liệu để học tập binh pháp của Gia Cát Lượng. Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm còn đích thân thỉnh giáo Phàn Kiến (một cựu đại thần của Thục Hán) về cách trị quốc của Gia Cát Lượng, ông còn cảm thán: "Nếu ta được Gia Cát Lượng phò tá, thì đâu có nhọc mệt như hôm nay". Như vậy, cả ba thế hệ họ Tư Mã kiến lập nhà Tấn, dù là đối thủ của Gia Cát Lượng song đều tán thưởng tài năng của ông, khuyến khích hậu thế noi gương. Nhà Tấn sau này còn truy phong miếu hiệu cho Gia Cát Lượng là "Võ Hưng Vương". Việc truy phong tước vị cho quan đại thần của triều đình đối thủ quả là điều rất hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc. Theo Trần Văn Đức "Về quản lý thực tiễn, Gia Cát Lượng cơ hồ là người tài giỏi bậc nhất trong thời Tam quốc. Về nhân cách con người và kỹ xảo phát minh, ông đích xác rất đáng ca ngợi, đáng được xem là nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc". Sở dĩ Gia Cát Lượng không thể đạt được ý nguyện phục hưng nhà Hán, chẳng phải vì ông điều hành nước Thục không hiệu quả, mà vì bản thân nước Thục có diện tích và dân số khá nhỏ so với Ngụy và Ngô, trong khi đó đối thủ (Tào Tháo, Tư Mã Ý, Tôn Quyền...) đều là những người có tài, cùng với đó là thời vận không được thuận lợi, nhiều kế hoạch của Gia Cát Lượng không thành vì những điều không may (Ngô bắt tay với Ngụy để đánh úp và giết Quan Vũ, Trương Phi bị ám sát, Lưu Bị vì quá đau xót đã không nghe lời can ngăn của ông mà đánh Ngô rồi thua to và ốm chết; người kế nhiệm Tưởng Uyển, Phí Y mất quá sớm, Vương Bình, Mã Trung, Đặng Chi đều mất sau Gia Cát Lượng không lâu). Về sau Nguyên Vi Chi có bài thơ ca ngợi rằng: Dẹp loạn phò chúa yếu, Ân cần việc thác cô. Tài cao hơn Quản, Nhạc. Mẹo giỏi quá Tôn, Ngô. Thắm thiết lời dâng biểu, Tài tình phép trận đồ. Đức ngài cao thịnh lắm, Thiên cổ tiếng thơm tho! Tài năng chính trị Về năng lực trị quốc, Gia Cát Lượng được đánh giá rất cao. Sử gia Trần Thọ trong Tam quốc chí ca ngợi và so sánh ông với Quản Trọng và Tiêu Hà: Gia Cát Lượng làm tướng quốc rất đỗi quan tâm đến đời sống trăm họ, lấy mình làm gương về luân lý, điều hành chánh sự. Ông thanh trừ quan lại tham nhũng, giảm bớt các khoản chi quốc gia không cần thiết, tăng thêm hiệu suất bộ máy hành chính Khai sáng dân tâm, ban bố điều luật, xây dựng được niềm tin của dân chúng toàn quốc với quyền lực của vương triều. Cuối cùng, khắp trong lãnh thổ đều kính trạng mà nể sợ, hình phạt tuy nghiêm khắc song dân gian không oán thán, lấy chánh tâm công bằng mà khuyên thiện trừ ác vậy; thực là người hiền tài đại độ trong điều hành chánh sự, có thể nói ví như Quản Trọng và Tiêu Hà cũng chẳng thể hơn Gia Cát Lượng trị quốc theo phép, hành lệnh nghiêm chỉnh, chấp pháp như sơn. Các đại thần, công thần như Lý Nghiêm, Lai Mẫn, Liêu Lập, Hướng Lãng phạm tội đều bị trừng phạt nặng nề. Những đại thần cậy có uy thế mà hành động tranh quyền đoạt lợi, nhất là việc gây rối loạn quan hệ nội bộ, Gia Cát Lượng đặc biệt xử lý nghiêm khắc. Đối với những người có năng lực làm việc nhưng tính cách có tật xấu như Lưu Diễm, Trương Duệ, thì Gia Cát Lượng chọn cách nhắc nhở và cải tạo, cho cơ hội hối cải chuộc tội. Đối với gia quyến người phạm tội, Gia Cát Lượng không truy bức mà sẵn sàng bổ dụng nếu có tài. Lý Phong con trai Lý Nghiêm, được làm Giang Châu đốc quân, sau thăng làm Thái thú Chu Đề. Lúc Lý Nghiêm bị tội, Lý Phong bị điều về Thành Đô, mọi người đều cho rằng Phong sẽ bị phế truất, nhưng cuối cung Lý Phong vẫn được tập tước, được tham dự chính sự, lại còn được Gia Cát Lượng viết thư động viên, thăm hỏi khiến Phong rất cảm động. Hướng Sủng cháu của Hướng Lãng được Gia Cát Lượng đánh giá cao, bổ nhiệm chức Trung lĩnh quân, chủ trì cấm quân, tuyển chọn, giám sát các tướng lĩnh. Bởi vì chí công vô tư, cho nên những đại thần như Liêu Lập, Lý Nghiêm bị Gia Cát Lượng cách chức, phế làm dân thường nhưng vẫn không oán hận. Lý Nghiêm ngày thường vẫn hay nói sẽ có ngày được Gia Cát Lượng xá tội và trọng dụng lại, khi nghe tin Gia Cát Lượng chết thì cũng đau buồn sinh bệnh mà qua đời. Còn về Liêu Lập, nghe tin dữ khi đang bị đày ở Vấn Sơn đã nói: "Thừa tướng Gia Cát mất đi, thế là ta chết già ở đây thôi !" Trương Duệ ban đầu rất bất mãn Gia Cát Lượng nắm đại quyền ở Ích Châu, nhưng sau khi chứng kiến cách Gia Cát Lượng làm việc đã hoàn toàn cảm phục tài năng và nhân cách của ông. Chấp pháp nghiêm minh như vậy là đúng, nhưng không tránh khỏi có một số người bất mãn do bị xử phạt nghiêm. Bùi Tùng Chi ghi chú trong Tam quốc chí - Gia Cát Lượng truyện, trích dẫn Thục ký có câu: "(Gia Cát) Lượng hình pháp gay gắt, hà khắc với bách tính, từ quân tử đến tiểu nhân mang bụng oán thán", nhiều người không tán thành ý kiến này, và nó cũng mâu thuẫn với câu "hình phạt tuy nghiêm khắc song dân gian không oán thán" của Trần Thọ. Nhà nghiên cứu Dịch Trung Thiên cho rằng cả hai cách nói thật ra đều đúng: Gia Cát Lượng thực thi pháp luật rất công chính - công khai, tức là công bằng, nên rất được lòng dân; dân chúng ở Thục không oán pháp luật không công bằng mà oán vì pháp luật "quá nghiêm" khiến họ không thể buông tuồng dễ dãi<ref>'Dịch Trung Thiên, Phẩm Tam Quốc (Nhà xuất bản CAND 2010) Tập 2, trang 167</ref> Tập Tạc Xỉ đời nhà Tấn (tác giả Tương Dương kỳ cựu ký) từng bình luận rằng:"Hình luật không thể không dùng, khi gia hình mà như mình có lỗi, khi ban tước lộc mà không tư riêng, khi trừng phạt mà không giận dữ, thiên hạ còn ai chẳng phục; Gia Cát Lượng là người giỏi dùng hình phạt, từ Tần Hán đến giờ chưa từng có vậy". Tuy nhiên Tập Tạc Xỉ cũng phê bình Gia Cát Lượng có những sai sót trong việc đánh giá thuộc cấp để giao việc cho họ theo đúng khả năng, có lúc thiếu khoan dung trước lỗi lầm của họ (cụ thể là việc giao Mã Tốc trấn thủ Nhai Đình nên thất bại, rồi sau đó xử chém Mã Tốc), và kết luận: "Gia Cát Lượng không thể kiêm thượng quốc vậy, há không phải sao?" Gia Cát Lượng nói rằng: "Đạo nhận biết nhân tài có 7 phương pháp: Thứ nhất, đặt họ trước việc phải trái để xem chí hướng. Thứ hai, dùng ngôn từ truy vấn họ để xem tài ứng biến. Thứ ba, tham vấn họ mưu kế để xem kiến thức. Thứ tư, để họ trước họa hoạn khó khăn để xem lòng dũng cảm. Thứ năm, chuốc rượu say để xem bản tính. Thứ sáu, cho họ cơ hội kiếm lợi ích tiền tài để xem sự liêm khiết. Thứ bảy, giao nhiệm vụ cho họ để xem chữ tín". Gia Cát Lượng còn sáng lập ra một cơ cấu gọi là "tham thự", ông giải thích rằng: "Tham thự là nơi để tập hợp ý kiến của đông đảo mọi người, mở rộng ích lợi của những lời trung". Tham thự chính là tiền thân của ban cố vấn cho các nguyên thủ quốc gia ngày nay, Gia Cát Lượng muốn thông qua "tham thự" để tiếp nhận ý kiến rộng rãi mọi mặt, sau đó xem xét đánh giá lợi hại, từ đó đặt ra chính sách, phương châm chính xác. Gia Cát Lượng còn nhấn mạnh rằng: "Đạo quản lý chính sự thì cốt yếu ở nghe nhiều mặt, tiếp thu ý kiến của đông đảo mọi người ở dưới, hỏi mưu kế từ quan lại cho đến thứ dân, như thế thì mọi sự việc đều làm sáng tỏ, mọi tiếng nói đều được ghi nhận". Quan niệm về sử dụng nhân tài của Gia Cát Lượng khá khách quan và toàn diện, do đó chính quyền Thục Hán đã tập hợp được khá nhiều nhân tài, trở thành một tập đoàn lãnh đạo mạnh. Đại học giả Chu Hi thời nhà Tống bình luận:Xét từ Tam Đại (3 triều đại Hạ - Thương - Chu) trở về sau, người lấy nghĩa để cai trị chỉ có một mình Gia Cát Khổng Minh. Triệu Dực trong cuốn "Sử trát ký" có bình luận như sau: "Tào Tháo dùng người lấy quyền lực mà chế ngự, Lưu Bị thì lấy tính tình làm trọng còn Tôn Quyền thì lấy ý khí làm đầu. Lấy quyền thuật chế ngự thì trọng ở cái cốt yếu, lấy tính tình đê mà tụ họp thì trọng ở chữ chân thành, Gia Cát Lượng thì dùng người, trên tinh thần vận dụng sở trường của cả ba nhà đó". Vị hoàng đế nổi tiếng anh minh Đường Thái Tông nhận xét: nước Thục Hán thời Tam Quốc "10 năm không có đại xá mà dân Thục được cảm hóa sâu xa, là do hiền tướng Gia Cát Lượng rất chí công trong việc cai trị". Đường Thái Tông rất tôn sùng Gia Cát Lượng, trước quần thần ông tán thưởng Gia Cát Lượng là "đệ nhất thừa tướng", "là bậc đại công vô tư". Tài năng quân sự Mạnh Hoạch, tướng người man bị Gia Cát Lượng bày kế bắt sống tới 7 lần, đã công nhận Gia Cát Lượng có khả năng cầm quân phi thường và nói rằng: "Thừa tướng có uy như trời vậy, người Nam không phản lại nữa". Long Trung đối sách do Gia Cát Lượng soạn thảo là chiến lược quân sự nổi tiếng nhất thời Tam Quốc. Gia Cát Lượng đã nhìn nhận chính xác rằng địa bàn Lưu Bị có thể giành được chỉ còn Kinh Châu và Ích Châu, vì khu vực phía Bắc và phía Đông đã bị Tào Tháo và Tôn Quyền chiếm cứ. Gia Cát Lượng cũng đưa ra các phân tích cùng với phương pháp để Lưu Bị đoạt được Kinh Châu và Ích Châu, phát triển thế lực. Theo Kimberly Ann Besio, chiến lược này cho thấy Gia Cát Lượng không chỉ tinh thông sách vở mà còn nắm rất rõ thời cuộc, nhận xét đúng đắn điểm mạnh, điểm yếu của từng lực lượng chính Cơ đồ của nhà Thục Hán sau này, về cơ bản là được xây dựng đúng theo đường lối mà Gia Cát Lượng hoạch định trong Long Trung đối sách. Việc đóng quân của Gia Cát Lượng rất bài bản, có doanh lũy, bếp giếng, nhà xí, rào tre, chòi canh gắn liền với nhau, chẳng những động viên được lực lượng cơ động rất thuận lợi mà khả năng phòng ngự cũng rất mạnh. Ở gò Ngũ Trượng, Tư Mã Ý đã nhìn thấy doanh lũy và công sự của quân Thục Hán còn lưu lại, phải thốt lên rằng: "Thật là thiên hạ kỳ tài vậy". Nhưng trong thư gửi em trai là Tư Mã Phu thì Tư Mã Ý bình luận (ghi trong "Tấn thư - Tuyên Đế kỷ"): "Lượng chí hướng lớn lao nhưng không nắm được thời cơ, mưu trí rất nhiều nhưng thiếu quyết đoán, thích dùng binh nhưng không biết quyền biến", tức là Gia Cát Lượng quá thận trọng, không thích mạo hiểm nên có những lúc bỏ lỡ thời cơ Hai bình luận tưởng như mâu thuẫn nhưng thực ra không phải vậy. Trong thư gửi em trai, Tư Mã Ý phải chê bai Lượng là để trấn an gia đình cũng như giữ thể diện bản thân trước triều đình. Còn lời khen trên chiến trường cho thấy ông ta thực sự rất e sợ Gia Cát Lượng (sau này Tư Mã Ý khi lập mưu đảo chính nhà Tào Ngụy đã coi việc này dễ dàng hơn nhiều so với cầm quân chống Gia Cát Lượng, và "Tào Sảng so với Gia Cát Lượng chỉ như con dế dũi"). Sau chiến dịch Nam Trung năm 225, Gia Cát Lượng vừa để tận dụng sức chiến đấu của các dân tộc thiểu số miền Nam, vừa để làm giảm mâu thuẫn sắc tộc, đã tuyển lựa người Di để xây dựng đội quân tinh nhuệ mang tên Vô Đương phi quân. Đội quân này cùng với đội cấm vệ quân Bạch Nhĩ binh của Lưu Bị và quân đoàn kị binh Tây Lương của Mã Siêu trở thành 3 lực lượng tinh nhuệ của nhà Thục Hán. Sử sách Trung Quốc ghi lại chiến binh Vô Đương phi quân "thân mặc giáp sắt, có thể dời non vượt núi, giỏi dùng cung nỏ, tên độc, đặc biệt tinh nhuệ trong tác chiến phòng ngự". Đội quân này dùng nỏ liên châu do Gia Cát Lượng cải tiến, kết hợp với kĩ năng bắn nỏ thuần thục có thể đánh bại lực lượng địch đông gấp nhiều lần. Trong lần Bắc phạt thứ 4, Vô đương phi quân do Vương Bình chỉ huy đã lập chiến tích lớn, đánh bại đội quân Ngụy đông gấp 20 lần do tướng giỏi là Trương Cáp chỉ huy. Trong tác chiến, Gia Cát Lượng đã sáng tạo ra Bát trận đồ dựa trên nguyên lý Bát quái với 8 cửa. Bát trận đồ có thể biến hóa khôn lường, làm quân địch rối loạn đội hình và mất phương hướng. Ngoài ra, bên trong Bát trận đồ còn có thể bố trí các loại vật liệu đặc biệt như gỗ, đá, hầm hào, hàng rào để tạo chướng ngại vật, ngăn cản kỵ binh địch tấn công, trong khi các đội bộ binh khi tản khi hợp rất linh hoạt để bao vây, tấn công địch. Trận đồ này chuyên dùng để khắc chế kỵ binh của địch, nhờ vậy quân Thục Hán chủ yếu là bộ binh mà vẫn có thể khắc chế ưu thế của kị binh Tào Nguỵ, đánh bại đối phương trong nhiều trận. Sau khi nhà Tấn nhất thống thiên hạ, chính Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm đã hạ lệnh truy tìm và thu thập "Bát trận chiến pháp" của Gia Cát Lượng về làm giáo trình huấn luyện quân đội, cho thấy năng lực quân sự của Lượng là rất cao. Tới nhà Đường, Gia Cát Lượng đã được xem như "Quân thần", được rước vào Võ miếu - nơi thờ phụng những bậc đại kỳ tài quân sự như Khương Tử Nha, Tôn Tử, Trương Lương... Sử gia Trần Thọ trong Tam quốc chí đánh giá rằng Gia Cát Lượng là người rất thận trọng, "Trị quân là sở trường, kỳ mưu là sở đoản; lo liệu việc dân hơn là lo liệu việc tướng", nghĩa là giỏi trị quân hơn là dùng quân, giỏi cai trị hơn là đánh trận Tuy nhiên, nhiều học giả khác đã chỉ ra rằng: cha Trần Thọ từng bị Gia Cát Lượng xử tội, mặt khác Trần Thọ là quan nhà Tấn, mà người kiến lập nhà Tấn là Tư Mã Ý từng mấy lần thất bại trước Gia Cát Lượng, nên Trần Thọ đã cố ý đánh giá thấp tài quân sự của Gia Cát Lượng. Như Tấn thư của Phòng Huyền Linh ghi rằng: "Cha Thọ làm tham quân cho Mã Tốc, Tốc bị Gia Cát Lượng giết, cha Thọ cũng bị xử tội cắt tóc, Gia Cát Chiêm lại khinh Thọ. Thọ viết truyện về Lượng, bảo Lượng mưu lược không cao, không có tài ứng địch, bàn luận thì chỉ dựa vào sách vở, tiếng tăm vượt quá sự thực. Người bàn lấy đó để chê". Hoặc Lưu Tri Kỷ trong Sử thông, thiên Trực thư phê bình việc Trần Thọ không đề cập đến việc Tư Mã Ý bại trận khi tác chiến với Gia Cát Lượng, để giấu đi việc Gia Cát Lượng cầm quân trên tài Tư Mã Ý: Trong "Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc", nhà sử học Nga B. L. Riftin cũng cho rằng bộ sử của Trần Thọ có ý thiên vị cá nhân lộ liễu: Gia Cát Chiêm, con trai Gia Cát Lượng, từng nhận xét coi thường Trần Thọ, và Trần Thọ đã trả thù khi viết trong sử sách là: "Lượng chỉ biết đọc sách, tiếng tăm vượt quá thực tế". "Trị quân là sở trường, kỳ mưu là sở đoản; lo liệu việc dân hơn là lo liệu việc tướng", tính chất thiên vị và có ý hạ thấp Gia Cát Lượng trong lời đánh giá như vậy đã bị các tác giả Tấn thư (một bộ chính sử khác) chỉ trích Trong giai đoạn đầu nhà Thục Hán, Gia Cát Lượng chủ yếu là một chính khách, đại sứ, Lưu Bị giao cho ông quản lý kinh tế, pháp luật và hậu cần, ít khi ra trận tác chiến. Trong suốt chiến dịch Hán Trung, Lưu Bị đi cùng Pháp Chính các tướng lĩnh giao chiến với quân Tào, còn Gia Cát Lượng ở lại Thành Đô lo chuyện nội chính. Một số ý kiến cho rằng như vậy chứng tỏ Gia Cát Lượng thiếu khả năng quân sự. Nhưng thực ra không phải như vậy. Thứ nhất, Gia Cát Lượng là quân sư chiến lược, vai trò của ông là hoạch định chiến lược quân sự tại hậu phương (tiêu biểu là Long Trung đối sách) chứ không cần phải mạo hiểm tự xuất chinh như võ tướng (chỉ sau khi Lưu Bị và nhiều võ tướng qua đời, nhà Thục Hán thiếu nhân sự thì Lượng mới bắt buộc phải ra trận). Thứ hai, Gia Cát Lượng là người giỏi nội trị nhất của Thục Hán nên đương nhiên Lưu Bị phải bố trí ông ở hậu phương: việc đánh trận thì Lưu Bị có thể dùng Bàng Thống, Pháp Chính để thay thế, chứ việc nội trị thì không ai thay được Gia Cát Lượng (cũng như Tào Tháo khi đi đánh trận luôn để Tuân Úc ở lại hậu phương, dù Tuân Úc hoàn toàn có thể cầm quân đánh trận). Vì 2 lý do trên mà Lưu Bị khi còn sống ít khi bố trí Gia Cát Lượng xuất trận, đó là vì vai trò quá quan trọng của Lượng chứ không phải vì ông thiếu khả năng quân sự. Một phân tích khác thì cho thấy tài binh lược của Gia Cát Khổng Minh vẫn cao hơn Tư Mã Ý. Trong cuộc Bắc phạt vào tháng 5/231, dù điều kiện bất lợi hơn (viễn chinh đường xa, quân ít hơn, lương thiếu), nhưng Gia Cát Lượng đã thắng Tư Mã Ý trong tất cả các ý đồ tác chiến: từ vây thành diệt viện cho đến dụ địch lùi sâu để mai phục, từ công tác tiếp vận đến duy trì sĩ khí, từ phản mai phục cho đến phản tập kích. Từ Thượng Khuê đến Kỳ Sơn; quân Thục đều đánh cho quân Ngụy bại trận. Quân Ngụy quân bại trận triệt để, không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục "đóng cửa thủ vững". Thế cục này được duy trì đến khi Lý Nghiêm không hoàn thành nhiệm vụ vận tải, khiến Thục quân cạn lương buộc phải rút về. Và lần này, Khổng Minh rút lui vẫn đặt phục binh giết được tướng tài của Ngụy là Trương Cáp, khiến cho tổn thất của quân Ngụy lại càng nặng hơn. Sau này, Tư Mã Ý bị thuộc tướng chê bai là "sợ Thục như sợ cọp", bị Gia Cát Lượng sỉ nhục bằng việc gửi tặng quần áo đàn bà mà vẫn không chịu ra đánh, chính là vì ông ta biết mình không đọ nổi Gia Cát Lượng trên chiến trường. Một số quan điểm dựa vào việc Gia Cát Lượng bắc phạt 5 lần vẫn không thành công để che bai, cho rằng tài năng quân sự của Lượng là không cao. Những quan điểm như vậy là không xác đáng, vì không xét đến hàng loạt những bất lợi rất lớn mà Gia Cát Lượng phải đối mặt: quân số của Tào Ngụy đông hơn gấp 3 lần, có lợi thế về kị binh, lại thủ sẵn trong thành lũy vững chắc, quân Thục Hán phải hành quân đường xa hiểm trở, thường bị thiếu lương do việc vận chuyển khó khăn Với những khó khăn như vậy, những gì Gia Cát Lượng làm được (chiếm 5 quận, đánh thiệt hại nặng quân Ngụy) đã là rất thành công. Những quân sư, tướng lĩnh nổi tiếng khác thời Tam Quốc khi gặp những khó khăn như vậy đều chẳng thể làm được như Gia Cát Lượng, ví dụ như: Trận Quan Độ, quân Viên Thiệu cũng đông hơn Tào Tháo 3 lần và đã sớm áp đảo, bao vây quân Tào. Các mưu sĩ giỏi như Giả Hủ, Quách Gia, Tuân Du cũng bó tay không thể lật ngược tình thế (quân Tào chiến thắng là do may mắn được Hứa Du tiết lộ bí mật kho lương của Viên Thiệu). Còn Gia Cát Lượng, dù cũng bị áp đảo 3 lần về quân số, nhưng lại đánh thiệt hại nặng quân Ngụy, buộc đối phương phải chuyển sang cố thủ. Tào Chân khi nam chinh đánh Thục năm 230, chưa đầy 1 tháng đã phải rút quân vì đường hành quân hiểm trở, không cung ứng được lương thảo. Còn Gia Cát Lượng, dù cũng gặp khó khăn như vậy, nhưng vẫn tác chiến được lâu dài và còn đánh chiếm được một số lãnh thổ của Ngụy. Trong cuốn sách Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện (thuộc thể loại Tam Quốc Ngoại Truyện), tác giả là Trần Văn Đức nhận xét rằng Gia Cát Lượng tuy không tới mức "xuất quỷ nhập thần" như truyền thuyết dân gian mô tả, song cũng có được nhiều chiến tích nổi trội, xứng đáng là nhà cầm quân bậc nhất thời Tam Quốc, ví dụ như: bình định Mạnh Hoạch chỉ trong thời gian ngắn, lập kế giết được tướng giỏi của Ngụy (Trương Cáp), mấy lần đánh bại Tư Mã Ý, khiến quân Ngụy hoang mang tới mức chỉ chọn sách lược cố thủ trong thành lũy chứ không dám kéo ra giao chiến với quân Thục Hán (dù quân Ngụy đông hơn), khiến nhiều tướng Ngụy phải cười mỉa rằng: "Tướng quân Tư Mã sợ quân Thục như sợ cọp, chẳng nhẽ không sợ thiên hạ cười chê hay sao?". Đến cả khi chết rồi, ông vẫn bày kế dọa được Tư Mã Ý phải bỏ chạy, cho thấy Tư Mã Ý dù đầy mưu mẹo nhưng vẫn rất kiêng dè khả năng bày mưu tính kế của Gia Cát Lượng. Lòng trung thành Theo nhiều tác giả, trong cuộc chiến diệt Tào Ngụy, Gia Cát Lượng không đeo đuổi danh lợi, chỉ một ý chí đánh giặc diệt Ngụy, phục hưng nhà Hán, đặt sự hưng vong của quốc gia lên trên danh lợi và vinh nhục của cá nhân với tấm lòng tha thiết. Ông từng tuyên bố rằng: "Nếu như diệt được nước Ngụy, chém đầu Tào Duệ, đưa hoàng thượng về cố đô Lạc Dương thì đến lúc đó tôi cùng chư vị đồng liêu được thăng quan tấn tước, cho dù được thưởng mười loại báu vật tôi cũng xin nhận huống chi là cửu tích". Lúc sắp mất, Lưu Bị dặn Gia Cát Lượng rằng: "... nếu nó (Lưu Thiện) bất tài, hãy tự thay đi!", nghĩa là cho phép Lượng toàn quyền phế Lưu Thiện lập bản thân hoặc một người con khác của Lưu Bị. Ông đã từ chối ngay, muốn trọn đời là trung thần nhà Hán. Khi Lưu Bị từ trần, Tào Phi hạ lệnh cho mấy danh sĩ của nước Ngụy trao đổi ý kiến chính trị với Gia Cát Lượng, bao gồm Tư đồ Hoa Hâm, Tư không Vương Lãng, Thượng thư Trần Quần, Thái sử Hứa Chi, Phó tạ Gia Cát Chương, muốn Gia Cát Lượng quy hàng nước Ngụy. Gia Cát Lượng chẳng hề dao động, viết một bức thư công khai trả lời, bày tỏ lập trường tận trung với nhà Hán của mình:"Hạng Vũ ngày xưa, đã phản lại nguyên lý chính trị, có được chính quyền bằng mọi cách, bởi thế tuy chiếm được đại bộ phận vùng đất Hoa Hạ, có được thanh thế của hoàng đế song cuối cùng vẫn thân bại danh liệt, có thể coi là tấm gương soi cho hậu thế. Nay Tào Ngụy, chưa thấu tỏ sự thực lịch sử, vẫn giẫm lên vết chân Hạng Vũ, phi pháp đoạt lấy chính quyền, tức là cầu may mà có nhất thời, cũng sẽ rước họa về sau vậy. Các vị tiên sinh là những kỳ lão của xã hội, lại vì Tào Ngụy mà viết thư cho tôi, đúng như cuối đời Tây Hán Trần Sùng, Trương Tủng lại ca tụng công lao của Vương Mãng, tiếp tay cho việc Vương Mãng thoái vị, thực là những kẻ đầu sỏ tội lỗi đã phá hoại luân lý chính trị....Kiên trì chính nghĩa, thảo phạt tà đạo không ở số quân nhiều hay ít. Tào Tháo tuy nhiều mưu lược tự dẫn đại quân đến cứu Trương Cáp ở Dương Bình, vẫn khó tránh mất Hán Trung vào tay tiên đế. Tin rằng cái chết của Tào Tháo là sự trừng phạt của thiên mệnh. Song Tào Phi dâm dật không biết tỉnh ngộ, làm việc thoán vị xấu xa mà các ông lại thuyết lý, tuyên dương cho ông ta. Khiến cho những luân lý chính trị của những thánh vương truyền lại như vua Nghiêu, vua Thuấn, Văn Vương đều hoen ố, thực khiến những kẻ quân tử không chịu nổi". Trong bài Tam Quốc diễn ca cuối tác phẩm, La Quán Trung có mấy câu tả về quyết tâm bắc phạt nhưng không thành của Gia Cát Lượng:...Kỳ Sơn trở ngọn cờ đào,Một tay mong chống trời cao nghìn trùng.Ngờ đâu vận đã cùng khôn gượng,Nửa đêm gò Ngũ Trượng sao sa...Nhà thơ Đỗ Phủ có bài thơ ca ngợi lòng trung thành của Gia Cát Lượng khi đến thăm đền thờ ông: Bạch Lạc Thiên cũng có thơ rằng Dù không thành công trong mục tiêu cuối cùng là thống nhất Trung Nguyên, khôi phục nhà Hán, nhưng sau hai nghìn năm, người dân Tứ Xuyên vẫn còn nhắc đến những thành tích trị quốc ở đất Thục của ông. Những danh nhân như Đỗ Phủ, Lý Bạch, Lý Thương Ẩn đều sùng bái ông, viên danh tướng là Nhạc Phi đã lừng danh "tận trung báo quốc", đều đã đọc kỹ bản viết Xuất sư biểu nổi tiếng của Gia Cát Lượng và cùng bày tỏ sự tôn sùng vô hạn đối với tài năng và lòng trung thành của ông. Gia Cát Lượng đã viết ra Xuất sư biểu gồm hai bài biểu, Tiền xuất sư biểu (前出師表) và Hậu xuất sư biểu (後出師表) để dâng lên Thục Hán Hậu chủ Lưu Thiện trước khi ông thân chinh dẫn quân đi Bắc phạt lần thứ nhất và lần thứ hai vào các năm 225 và 226. Trong hai bài biểu này, Gia Cát Lượng đã dùng những lời lẽ thống thiết từ tận đáy lòng để bày tỏ sự tận trung của mình với nhà Thục Hán và những lo lắng của ông cho sự an nguy của đất nước, với hai câu nói nổi tiếng thể hiện tâm nguyện của ông: "Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi" Xuất sư biểu sau đó đã trở nên nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc như là đại diện xuất sắc của thể loại biểu và là biểu tượng cho tấm lòng của các bậc trung thần. Nhận xét về bài Hậu xuất sư biểu của Gia Cát Lượng, Tạ Phương Đắc thời Nam Tống trong tác phẩm Văn chương quỹ phạm đã viết: "Đọc Xuất sư biểu, ai không khóc là bất trung, đọc Trần tình biểu ai không khóc là bất hiếu, đọc Tế thập nhị lang văn ai không khóc là bất từ". Vị vua nổi tiếng nhất đời Thanh là hoàng đế Khang Hy đã nói rằng: "Gia Cát Lượng nói: Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi. Làm kẻ bầy tôi, duy chỉ có Gia Cát Lượng có thể được như vậy"Năm 2007, tạp chí Shukan Bunshun của Nhật có bài nghiên cứu về quan điểm của người dân Nhật Bản đối với 100 danh nhân nổi tiếng nhất thế giới. Kết quả, Gia Cát Lượng là vị danh nhân được người dân Nhật tôn sùng nhất. Người Nhật tôn sùng Gia Cát Lượng, không chỉ bởi ông có tài năng kiệt xuất, mà còn vì Gia Cát Lượng chính là một tấm gương về lòng trung thành, rất phù hợp với tinh thần võ sĩ đạo, truyền thống "tận trung vì Thiên Hoàng" của người Nhật Bản. Con trai ông là Gia Cát Chiêm và cháu nội là Gia Cát Thượng kế thừa ý chí phục hưng Hán triều của ông, đã chiến đấu tới cùng và tử trận khi nhà Thục Hán sắp sụp đổ bởi kẻ thù. Bởi vậy, người đời sau có câu khen rằng "Gia Cát Vũ hầu, ba đời trung liệt". La Quán Trung có thơ khen rằng: Người đời sau có thơ khen gia đình Gia Cát Lượng như sau: Sự liêm khiết Tầng lớp quan liêu thế gia ở đất Thục thời Lưu Chương thích hưởng thụ lối sống xa hoa, khiến xã hội băng hoại đến cực điểm. Gia Cát Lượng quyết tâm ngăn chặn, ông lấy mình làm gương đặt ra điều luật. Trong "Giới tử thư", ông nhắc nhở con cái trong nhà:"Ta làm theo đạo của người Quân tử, tu thân thanh tịnh, cần kiệm dưỡng đức, đạm bạc để nuôi chí, tĩnh lặng để nghĩ xa. Ta học lấy sự thanh tịnh, tài do học mà có, chẳng học chẳng rộng tài, chẳng có chí thì chẳng thành công, buông thả hại cho tinh thần, mạo hiểm khó thuần được tính". Sau khi bình định được phương Nam, danh tiếng của Gia Cát Lượng đạt đến đỉnh cao. Lý Nghiêm bèn viết thư khuyến khích ông thu vén lợi ích riêng: "Nên nhận lễ phong cửu Tích đổi tước hiệu và xưng vương". Gia Cát Lượng chẳng những không nghe theo mà trả lời rất thẳng thắn rằng:"Tôi với túc hạ tương tri đã lâu há chẳng hiểu nhau ư... Tôi vốn là kẻ sĩ quê mùa ở phương Đông, tiên đế lầm dùng được đặt ở vị trí cao sang hưởng lộc trọng, nay trừ giặc chưa mấy hiệu quả, biết rằng chưa đền đáp được bao nhiêu, mà được tôn sùng thái quá, cho ngồi ở những vị trí quan trọng hơn thực hổ thẹn vậy!". Gia Cát Lượng tự viết biểu tâu lên Hậu chủ Lưu Thiện rằng: "Nhà của thần ở Thành Đô có tám trăm gốc dâu, ruộng xấu mười lăm khoảng, việc ăn mặc của con cháu xem ra đầy đủ. Đến như thần gánh vác việc ở bên ngoài, cũng chẳng có gì khác người, cái ăn cái mặc đều trông vào cửa quan, chẳng chút tơ hào cho riêng mình, ấy là để lâu dài thước tấc vậy. Đến ngày thần mất, trong nhà chẳng có gấm vóc dư thừa, bên ngoài không có điền sản dôi dư, chính là để khỏi phụ lòng tin tưởng của Bệ hạ vậy". Sau này Gia Cát Lượng qua đời, quả đúng như lời đã nói. Gia Cát Lượng di chúc rằng cứ an táng cho mình ở núi Định Quân tại tiền tuyến, không cần đưa về Thành Đô cử hành quốc táng để tránh lãng phí phô trương. Ông cũng di chúc rằng nghi thức tang lễ phải thật đơn giản, lấy núi làm mộ, có thể dùng quan tài loại thường cũng được, khi liệm chỉ cần dùng quần áo bình thường, không chôn theo vật quý. Sự liêm khiết của Gia Cát Lượng tạo gương cho các quan lại nước Thục. Tể tướng Tưởng Uyển nhắc với con cái: "Thường nhắc nhở trong nhà nên ăn chay, mặc áo vải thô, ra ngoài không dùng xe ngựa". Tể tướng Phí Vĩ sau này, nhã nhặn khiêm nhường, nhà không tích chứa của cải, con cái mặc áo vải thô ăn cơm chay, không thích ngựa xe, chẳng khác dân thường. Đại tướng Khương Duy là tổng chỉ huy quân đội, nhà cửa cũng rất giản đơn, "trong nhà không có thiếp hầu, sau sân chẳng hề nghe thấy tiếng đàn hát". Còn Đặng Chi là nhà ngoại giao xuất sắc cũng chịu ảnh hưởng phong cách của Gia Cát Lượng, ông làm quan hơn 20 năm thưởng phạt nghiêm minh, chu cấp cho binh sĩ có khó khăn, sinh hoạt thường cần kiệm, khi ông ta mất gia cảnh rất thanh bần. Thanh liêm như vậy nên không khó hiểu tại sao nước Thục Hán mất mà người dân địa phương đến cả nghìn năm sau vẫn còn hoài niệm về Gia Cát thừa tướng. Thờ phụng Gia Cát Lượng là vị quan duy nhất thời Tam quốc được thờ tại Đế vương miếu (được nhà Minh, nhà Thanh xây dựng, trong đó có thờ 41 vị công thần được đánh giá là tài năng và tận trung nhất qua các triều đại). Sau khi Gia Cát Lượng mất, toàn dân Thục Hán rất đỗi thương tiếc, trăm họ tế cúng trong ngõ, người Nhung, Di tế cúng ngoài đồng nội. Tình hình này kéo dài suốt mấy chục năm không thôi. Trong bài biểu dâng lên vua Tấn vào năm Thái Thủy thứ 10 (272), Trần Thọ có nói: "Lê dân nghĩ nhớ, truyền tụng sự tích. Đến nay dân của hai châu Lương, Ích vẫn còn truyền kể chuyện về Lượng, lời như còn vẳng bên tai" Tôn Tiền đời nhà Đường ghi rằng: "Gia Cát Vũ Hầu đã mất 500 năm, nhân dân từ Lưỡng Hán đến nay, vẫn ca tụng sự tích, lập miếu và tế tự ở nhiều nơi, ông đã để lại sự thương nhớ của mọi người mãi mãi khắc sâu như thế"Trên đất Trung Hoa, nhân dân rất nhiều nơi đã lập đền thờ để tưởng nhớ Gia Cát Lượng, trong đó nổi tiếng nhất là đền thờ ở huyện Miễn, dưới chân núi Định Quân (nơi an táng Gia Cát Lượng), sau đó đến miếu Vũ Hầu ở Thành Đô, miếu Vũ Hầu ở thành Bạch Đế, huyện Phụng Tiết, Trùng Khánh... Chỉ riêng vùng đất Thục xưa đã có đến 40 đền thờ Khổng Minh, tuy nhiên trong số đó đền Vũ Hầu ở Thành Đô vẫn là nổi tiếng hơn cả. Năm 304, Lý Hùng xây dựng được chính quyền Thành Hán ở Thành Đô, ở Thiếu Thành của Thành Đô đã cho xây dựng "miếu Khổng Minh". Năm 347, Đông Tấn đại tướng quân Hoàn Ôn khi diệt được Thành Hán đã cho thiêu hủy Thiếu Thành, song miếu Khổng Minh lại được giữ lại, cho thấy người đời sau dù thuộc triều đình nào cũng rất kính trọng Gia Cát Lượng. Ngôi mộ của Gia Cát Lượng cho tới nay vẫn không bị xâm phạm bởi hậu thế đều kính nể và ngưỡng mộ đức hạnh cả đời cúc cung tận tụy và tài năng của ông. Ngay tới ngôi miếu thờ Khổng Minh từ trước tới nay cũng chưa từng bị trộm cướp. Năm 1979, các chuyên gia từ Học viện nông lâm Bắc Kinh đã xác định rằng 22 cây tùng quanh khu mộ Gia Cát đã được trồng từ thời Tam Quốc, chứng minh rằng suốt 1700 năm, trải qua nhiều cuộc biến động nhưng khu mộ vẫn không hề bị xâm phạm. Bởi vậy, có rất nhiều đền thờ, di tích liên quan tới Gia Cát Lượng được lưu truyền suốt 1.800 năm qua mà không bị hậu thế phá hủy. Sau thời Tam quốc ít lâu, ở phía nam Thành Đô, trong hậu đường Hán Chiêu Liệt miếu (đền thờ Lưu Bị) có xây dựng một điện thờ Gia Cát Lượng. Đến đời nhà Đường, danh tiếng của Gia Cát Lượng vượt quá Lưu Bị, đền thờ ấy được gọi là đền thờ Vũ Hầu, vẫn được lưu truyền đến nay, trở thành một nơi danh thắng quan trọng ở Thành Đô. Ngôi đền bị cháy trong thời kỳ chiến tranh cuối thời nhà Minh, khi quân của Trương Hiến Trung tiến vào Thành Đô năm 1644. Sau đó đền được trùng tu trong những năm 1671 - 1672 dưới thời hoàng đế Khang Hy nhà Thanh. Năm 1961, đền được công nhận là di tích trọng điểm cấp Quốc gia của Trung Quốc. Các thi nhân nổi tiếng như Đỗ Phủ, Lý Thương Ẩn, Lục Du đã từng đến đó chiêm ngưỡng, lại còn viết không ít thơ ca tưởng nhớ Gia Cát Lượng. Trong đền có tấm bia Gia Cát Vũ Hầu rất có giá trị, do nhà chính trị nổi tiếng đời Đường là Bùi Độ viết ra, nhà thư pháp nổi tiếng Liễu Công Xước (anh của Liễu Công Quyền) trực tiếp viết chữ. Tấm bia đó đã khen Gia Cát Lượng có tài khai quốc trị dân, sánh được với những danh thần trong lịch sử như Khương Tử Nha, Y Doãn, Quản Trọng, Tiêu Hà. Đền Vũ Hầu có diện tích hơn 15.000 m2, gồm 3 gian: gian ngoài thờ Lưu Bị, gian giữa thờ Khổng Minh và gian cuối thờ 3 anh em Lưu Bị - Quan Vũ - Trương Phi. Bước vào trong, du khách sẽ bắt gặp ngay hai bức thư pháp được khắc trên 37 phiến đá, mỗi phiến cao 63 cm, rộng 58 cm, là Tiền xuất sư biểu và Hậu xuất sư biểu của Gia Cát Lượng. Bước qua cổng thứ nhất có tấm bảng "Minh lương thiên cổ" (nghĩa là "Vua sáng tôi hiền còn lưu danh thiên cổ"). Đền thờ Vũ Hầu ở thành Bạch Đế cũng như các đền thờ ở Nam Dương và Tương Dương cũng đều rất nổi tiếng. Ở đền thờ Vũ Hầu tại thành Bạch Đế, nổi tiếng nhất vẫn là tác phẩm của Đỗ Phủ đề tặng: Gia đình và hậu duệ Tổ tiên: Gia Cát Phong (諸葛豐), làm quan dưới thời Hán Nguyên Đế. Cha: Gia Cát Khuê (諸葛珪), làm quan vào cuối thời Đông Hán. Chú: Gia Cát Huyền (諸葛玄), làm quan cho Lưu Biểu và dẫn anh em Gia Cát Lượng về sống ở đất Kinh Châu. Anh chị em: Gia Cát Cẩn (诸葛瑾) anh trai làm quan nhà Đông Ngô. Gia Cát Quân (诸葛均) em trai cùng làm quan nhà Thục Hán. Chị gái không rõ tên cưới Bàng Lệnh Minh. Chị gái không rõ tên làm dâu dòng họ Khoái thị ở Kinh Châu. Gia Cát Đản em họ làm quan nhà Tào Ngụy. Vợ: Hoàng phu nhân (黄夫人), con gái của ẩn sĩ Hoàng Thừa Ngạn (黄承彦), dung mạo cực kì xấu xí, được liệt vào Ngũ xú Trung Hoa. Con: Gia Cát Chiêm (诸葛瞻), con trai trưởng, làm quan nhà Thục Hán, tử trận khi giao chiến với Đặng Ngải. Gia Cát Hoài (諸葛懷), con gái áp út, sinh năm 232, sống và chết dưới thời nhà Tấn (có nguồn cho rằng đây là nhân vật dã sử, không có thật) Gia Cát Quả, con gái út, sinh năm 232 (có nguồn cho rằng đây là nhân vật dã sử, không có thật). Con nuôi: Gia Cát Kiều (诸葛乔), vốn là con của Gia Cát Cẩn và được Gia Cát Lượng nhận nuôi, chết khi mới 24 tuổi. Cháu: Gia Cát Thượng (诸葛尚), con trai trưởng của Gia Cát Chiêm, tử trận cùng với cha. Gia Cát Phàn (諸葛攀), con trai của Kiều, chuyển về sống ở Đông Ngô để kế tục dòng dõi Gia Cát Cẩn sau khi Gia Cát Khác bị giết và tru di tam tộc. Gia Cát Kinh (諸葛京), con trai thứ hai của Chiêm. Thứ sử Giang Châu nhà Tây Tấn. Gia Cát Chất (諸葛質), con trai út của Chiêm. Hậu duệ: Gia Cát Tử Kỳ (諸葛梓岐), hay còn gọi là Marie Zhuge, người mẫu Hong Kong, hậu duệ đời thứ 63. Thôn Gia Cát hay thôn Bát Quái ở thị trấn Lan Khê, tỉnh Triết Giang còn được gọi là "Trung Quốc đệ nhất thôn", tập trung gần 6.000 người đều là hậu duệ của Gia Cát Lượng. Thôn Gia Cát do Gia Cát Đại Sư, hậu duệ đời thứ 27 của Gia Cát Lượng, lập vào cuối đời Tống, đầu nhà Nguyên (khoảng năm 1300). Gia Cát Đại Sư đã vận dụng học thuyết Kham dư (phong thủy) vào bát quái trận đồ của ông tổ mình, thiết lập thôn trang án theo cửu cung bát quái, trước khi qua đời ông còn di huấn con cháu không được thay đổi nguyên dạng, dù có bị tai ương. Trải qua hơn 800 năm thăng trầm, tổng thể kiến trúc cửu cung bát quái không hề thay đổi. Trong thôn có đền thờ thừa tướng Gia Cát Lượng, hoa viên, 3 nhà bia, 18 sảnh đường, 18 giếng, 18 ao, hơn 200 phòng ốc..., đều là kiến trúc cổ đời Minh - Thanh rất độc đáo. Con cháu Gia Cát trong thôn đời đời đều theo lời giáo huấn của tổ phụ "Không làm lương tướng, tất làm lương y" nên nhiều đời theo nghề thuốc. Gia Cát dạy con cháu Không chỉ tài ba mưu lược, Gia Cát Lượng còn là danh sư bậc thầy. Cuốn sách "Giới Tử Thư" (Thư dạy con) mà Gia Cát Lượng để lại trước khi lâm chung cho con trai mình đến nay vẫn được lưu truyền rộng rãi, trở thành một tài liệu kinh điển chứa đựng những triết lý sống, những đạo lý nhân sinh cuộc đời vô giá. Giới Tử Thư gồm 2 bức thư, mỗi bức chưa quá 90 chữ nhưng lại bao hàm những lời răn dạy sâu sắc. Trong đó, có tám chữ cực kỳ tâm đắc được ông đặc biệt nhấn mạnh với Gia Cát Chiêm, khi đó mới 8 tuổi: "Đạm bạc minh chí, ninh tĩnh chí viễn (Sống đạm bạc để sáng tỏ chí lớn, yên tĩnh để chí hướng cao xa)". Tức là phẩm hạnh của người đức tài toàn vẹn là dựa vào nội tâm an tĩnh, tinh lực tập trung để tu dưỡng thân và tâm; là dựa vào tác phong giản dị để bồi dưỡng đạo đức. Bên cạnh đó, Gia Cát Lượng cũng viết rằng: "Học tập cần phải chuyên tâm ý chí, để phát triển tài năng thì cần phải học tập khắc khổ. Không nỗ lực học tập, thì không thể phát triển tài trí; không xác định rõ chí hướng thì không thể thành công trong học tập". Trong quá trình học tập, ý chí quyết tâm, sự kiên trì, nỗ lực là những yếu tố rất quan trọng để đạt được sự học, vậy nên cha mẹ cần tạo cho trẻ em sự hứng thú với học tập, tìm tòi và rèn luyện tính kiên trì ngay từ những ngày đầu tới trường. Tuổi trẻ sẽ trôi đi rất nhanh, sức lực và tinh thần của con người cũng suy yếu dần theo tuổi tác, nhân lúc còn trẻ phải tự mình theo đuổi thành công, nắm bắt cơ hội. Gia Cát lượng căn dặn con mình: "Tuổi tác trôi qua, ý chí hao mòn theo năm tháng, thì cuối cùng sẽ như cây khô lá úa mà thôi, không có ích gì cho xã hội. Đến lúc đó ngồi trong góc nhà đau buồn than thở có ích gì đâu?""Giới tử thư" Gia Cát Lượng gửi con trai Gia Cát Chiêm: Bức thư "Giới ngoại sanh thư" gửi cháu trai: Sau này, con cháu của Gia Cát Lượng đều coi nhẹ danh lợi, một lòng tận trung báo quốc, vì quốc gia xã tắc mà cống hiến cuộc đời. Gia đình ông được tôn xưng là "Trung nghĩa truyền gia thế vô song", cũng chính là nhờ sự răn dạy con cháu của Gia Cát Lượng. Mao Tôn Cương trong Thánh thán ngoại thư có lời khen ngợi:Vũ Hầu (Gia Cát Lượng) có con trung dũng, lại thêm có cháu trung liệt. Đời cho như vậy là Vũ Hầu không chết. Tiên chúa (Chiêu Liệt Đế Lưu Bị) tuy không có con anh hùng, nhưng có cháu (Bắc Địa vương Lưu Kham) khảng khái, cháu thay cho con, đời cũng cho là Tiên chúa không chết... Xem trận đánh Miên Trúc, vì chữ trung mà Chiêm, Thượng liều chết tại trần tiền, ta mới rõ cái hay trong gia giáo nhà Vũ Hầu... Ôi! Nhà Thục Hán mất rồi, nhưng ta vẫn thấy rờ rờ có sinh khí hơn các triều đại khác. Tác phẩm, câu nói nổi tiếng Tác phẩm Âm phù kinh Binh pháp Mã tiền khóa Thơ văn: Bài văn ghi tại miếu Hoàng Lăng Ngâm lương phụ Bồ câu trắng Bài tán trên bia Tư Mã Quý Chủ Thư gửi: Ngô Chủ, gửi anh Tử Du (Gia Cát Cẩn), gửi Lục Tốn, gửi Trương Duệ, gửi Trương Lỗ. Khuyên răn cháu ngoại Khuyên con (2 bài) Xuất sư biểu Câu nói nổi tiếng Trong Xuất sư biểu: Trong tấu chương trình lên Hán Hậu chủ Lưu Thiện: Trong "Thư khuyên con": Các phát minh kỹ thuật Gia Cát Lượng được cho là người phát minh ra màn thầu, khinh khí cầu và một thiết bị giao thông vận tải tự động kỳ bí nhưng hiệu quả được gọi là "trâu gỗ ngựa máy" (Mộc Ngưu Lưu Mã), được cho là một phiên bản của xe cút kít. Một phiên bản sơ khai của khinh khí cầu được sử dụng để truyền tín hiệu quân sự, được gọi là đèn lồng Khổng Minh, được mang tên ông. Nó được cho là phát minh bởi Gia Cát Lượng khi ông bị bao vây bởi Tư Mã Ý.. Tuy vậy theo nhà sử gia khoa học Joseph Needham, người Trung Quốc đã sử dụng những quả cầu khí cỡ nhỏ để truyền tín hiệu từ thời kỳ Chiến Quốc đầu thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên Ông được cho là đã phát minh ra loại nỏ có thể bắn liên tục nhiều mũi tên và được gọi là "Nỏ Gia Cát" Thực ra loại nỏ bán tự động đã xuất hiện trong thời kỳ Chiến Quốc (mặc dù có tranh luận rằng nỏ thời Chiến Quốc là bán tự động hay chỉ đơn giản là gắn nhiều chiếc nỏ lên một giá gỗ để bắn cùng một lúc). Tuy nhiên, phiên bản của Gia Cát Lượng đã được ông cải tiến để có thể bắn xa hơn, mạnh hơn và nhanh hơn phiên bản trước đó. Năm 1964, ở vùng công xã Thái Bình thuộc Ti huyện gần Thành Đô đã khai quật được nỏ bằng đồng được chế tạo vào ngày 30 tháng 2 năm Cảnh Diệu thứ tư thời hậu chủ Lưu Thiện, tức là sau 27 năm Gia Cát Lượng từ trần, thuộc loại nỏ liên châu mà Gia Cát Lượng đã cải tiến. Khi kéo dây phải dùng chân đạp vào lẫy, khi kéo thì lẫy nỏ sẽ tự hạ xuống để nạp mũi tên, do có bộ phận lấy chuẩn nên rất trúng đích. Sách "Ngụy thị Xuân Thu" có ghi: "Gia Cát Lượng dùng nỏ liên châu để tập kích giết được danh tướng Trương Cáp, gọi nỏ ấy là "nguyên nhung", lấy sắt làm tên, mỗi mũi tên dài tám tấc, mỗi nỏ bắn ra mười tên, thực là một vũ khí sát thương mãnh liệt". Ngựa gỗ trâu máy được Gia Cát Lượng nghĩ ra khi Bắc phạt Tào Ngụy. Thời điểm đó là mùa mưa khiến cho việc vận chuyển lương thực khá khó khăn. Do đó, Khổng Minh bèn sáng tạo ra ngựa gỗ trâu máy để giải quyết việc vận chuyển. Tuy nhiên, sử sách không ghi rõ hình dạng, cơ chế vận hành của loại máy này. Các nhà sử học ngày nay suy đoán đây có thể là một loại xe cút kít cải tiến, có phần bánh xe và khung truyền động được thiết kế để dễ di chuyển trên đường gồ ghề (gần giống như xe đạp thồ ngày nay). Sử sách còn mô tả trâu gỗ ngựa máy có thể tự di chuyển một quãng đường, có thể Gia Cát Lượng đã phát minh ra bộ phận lên dây cót để xe tự di chuyển. Trong bày binh bố trận, Gia Cát Lượng đã sáng tạo ra Bát trận đồ biến hóa khôn lường. Hình thế của trận này dựa trên nguyên lý Bát quái với 8 cửa. Bát trận đồ có thể biến hóa khôn lường, làm quân địch rối loạn đội hình và mất phương hướng. Ngoài ra, ở bên trong Bát trận đồ còn có thể bố trí các loại vật liệu đặc biệt như gỗ, đá, hầm hào, xe lương thực để tạo chướng ngại vật, ngăn cản kỵ binh địch tấn công, trong khi các đội bộ binh khi tản khi hợp rất linh hoạt để bao vây, tấn công địch. Trận đồ này chuyên dùng để khắc chế các đội quân kỵ binh của địch. Trần Thọ trong Tam quốc chí đánh giá:"Gia Cát Lượng thường hay tư lự hao tổn bởi nỏ liên châu, trâu gỗ ngựa máy, đều là những ý nghĩ kỳ lạ; suy diễn binh pháp làm ra bát trận đồ, thật là huyền bí vậy". Hình tượng trong văn học Nhân vật Khổng Minh Gia Cát Lượng trong tiểu thuyết được hư cấu có tài như thần thánh, có thể bấm quẻ đoán trước tương lai, hô mưa gọi gió, dùng lời nói hoặc thư từ để khích chết hàng loạt nhân vật khác như Chu Du, Vương Lãng, Tào Chân... Theo nhà nghiên cứu người Trung Quốc Dịch Trung Thiên (tác giả sách "Phẩm Tam Quốc"), Gia Cát Lượng trong lịch sử có vai trò giống Tiêu Hà hơn là Trương Lương, Hàn Tín (nghĩa là ông chuyên trị quốc an dân chứ ít khi tự mình ra trận, sau này nhà Thục Hán mất đi nhiều trụ cột thì Gia Cát Lượng mới phải lo cả việc quân), nhưng trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa thì nhiệm vụ của nhân vật này bằng cả ba vị Tiêu Hà, Trương Lương, Hàn Tín (Hán sơ Tam Kiệt) gộp lại. Tuy ca ngợi Gia Cát Lượng, nhưng tác giả La Quán Trung vẫn tuân theo kết cục lịch sử là Gia Cát Lượng đã qua đời khi cầm quân Bắc phạt, không thể giúp nhà Thục Hán thống nhất giang sơn. Các thông tin dưới đây được lấy trong tiểu thuyết của La Quán Trung, một số tình tiết không phải thực tế lịch sử. Ba lượt đến tận lều tranh Nhân vật Gia Cát Lượng là ẩn sĩ ở Long Trung. Tư Mã Huy và Từ Thứ tiến cử ông với Lưu Bị. Thời đó bậc danh sĩ Kinh Châu lan truyền một câu: "Ngọa Long, Phụng Sồ ai có được một trong hai người ấy sẽ có thiên hạ!". Theo Thủy Kính tiên sinh thì:"Tài của Gia Cát Lượng phải được ví với Lã Vọng làm nên cơ nghiệp 800 năm của nhà Chu và Trương Lương làm nên cơ nghiệp 400 năm của nhà Hán.Từ Thứ, một nhân vật có mưu lược, trước khi chia tay Lưu Bị vì trúng kế của Tào Tháo đã tiến cử Gia Cát Lượng cho Lưu Bị. Lưu Bị có hỏi tài năng của Khổng Minh so với ngài thì thế nào, Từ Thứ có nói: "Tôi so với Khổng Minh như ngựa so với Kỳ lân, như quạ so với Phượng hoàng, chúa công có Khổng Minh như Văn vương có Lã Vọng, như Hán vương được Trương Lương"Sau khi Từ Thứ đến với Tào Tháo, Lưu Bị tìm đến Long Trung để thỉnh cầu ông ra giúp nhưng hai lần đầu không gặp mãi đến lần thứ ba mới gặp được nên mới có câu "Lưu Bị tam cố thảo lư câu hiền". Lưu Bị được Lượng nói kế sách định quốc an bang vô cùng kính phục, muốn mời Gia Cát Lượng xuống núi mưu tính đại sự. Gia Cát Lượng thấy Lưu Bị thật lòng cầu xin nên ông chấp nhận làm quân sư cho Lưu Bị. Năm đó Gia Cát Lượng mới có 27 tuổi chính thức bước vào vũ đài chính trị. Sự kiện "ba lần đến mời" có thực sự diễn ra hay chỉ là lời biểu cảm của Gia Cát Lượng còn nhiều tranh cãi. Tam quốc diễn nghĩa có bài thơ nói về sự kiện này: Gò Bác Vọng quân sư bắt đầu dùng binh Sau khi nhân vật Gia Cát Lượng làm quân sư cho Lưu Bị đã góp nhiều công sức xây dựng binh mã tại Tân Dã. Tào Tháo nghe tin, điều tướng đi đánh Tân Dã. Lưu Bị giao quyền điều binh cho nhân vật Khổng Minh. Khổng Minh cho quân mai phục chuẩn bị mọi thứ để tiêu diệt quân Tào tại Bác Vọng. Ông cho Triệu Tử Long và Lưu Bị dụ địch. Hạ Hầu Đôn gần tới đồi Bác Vọng thì thấy Lưu Bị ra đánh rồi rút lui vào thung lũng, cho rằng dù có mai phục ít nên thúc quân tiến vào Bác Vọng. Quân Tào tiến vào rừng tên lửa bắn xuống mịt mù, cây cối hai bên đường cháy to, quân Tào hoảng loạn dẫm đạp lên nhau mà chạy, lương thực toàn bộ bị cháy. Toàn bộ Tào quân bị tiêu diệt, tướng Hạ Hầu Đôn chạy thoát. Từ đó uy tín của Khổng Minh lại càng được nể trọng. Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:Bác Vọng dùng mưu đánh hỏa côngCười cười nói nói vẫn ung dungTào quân nghe tiếng hồn bay bổngRời khỏi lều tranh đệ nhất công.Sự việc này là hư cấu của nhà văn để ca ngợi nhân vật Gia Cát Lượng, thực tế Lưu Bị tự đánh trận Bác Vọng trước khi có Gia Cát. Hỏa thiêu Tân Dã Sau trận đồi Bác Vọng, Tào Tháo dẫn đại quân đến Kinh Châu. Lưu Tông và mẹ là Sái thị dâng Kinh Châu cho Tào Tháo. Tào Tháo chiếm được Kinh Châu, đem quân đến Tân Dã truy kích Lưu Bị. Nhân vật Khổng Minh bèn lập kế mai phục quân Tào: sai nhân vật Quan Vũ dẫn 1000 binh đi mai phục phía bờ sông Bạch Hà, quân lính mỗi người mang sẵn một bao cát đợi khi nghe tiếng ngựa hí thì ngăn nước sông xả nước cho nước cuốn chảy xuống. Ông lại sai Trương Phi mai phục ở Bác Lăng và dặn thấy quân Tào băng qua thì xông ra mà đánh. Cuối cùng ông sai Triệu Vân chia quân ba mặt Đông, Tây, Nam, chừa phía Bắc cho quân Tào chạy, thấy có hiệu lửa thì xông ra mặt Bắc mà đánh đồng thời lệnh cho quân lính mang đồ dẫn lửa để sẵn trong nhà dân sau khi mọi người đã chạy đến Phàn Thành. Sau đó, quân Tào do các nhân vật Tào Nhân, Tào Hồng, Hứa Chử kéo đến. Hứa Chử dẫn quân vào rừng gặp Lưu Bị, Khổng Minh, định lên bắt nhưng bị gỗ, đá cản lại. Còn Tào Nhân, Tào Hồng tiến vào thành Tân Dã bỏ trống. Lúc ấy quân Tào tất cả đều mỏi mệt nên nấu cơm ăn để nghỉ ngơi. Đêm đó, quân Lưu Bị tấn công. Tào Nhân thất kinh chạy ra thì thấy cả vùng lửa cháy ngút trời. Tào Nhân, Tào Hồng đang tìm đường thoát thân thì gặp quân của Triệu Vân ùa ra đánh giết. Quân Tào chạy một lúc nữa lại có con sông chặn trước mặt, nhưng nước cạn nên quân Tào không lo nữa, dẫn quân qua sông. Quan Vũ phục ở mé trên, bèn cho quân xả nước xuống, nước chảy xuống như thác vỡ bờ cuốn trôi quân Tào vô số. Tào Nhân, Tào Hồng dẫn tàn binh trốn chạy, bỗng đâu gặp Trương Phi, may nhờ có Hứa Chử đến cứu. Sau đó Lưu Bị, Khổng Minh và các tướng thẳng tới Phàn Thành. Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ than rằng:Gian hùng Tào Tháo giữ Trung NguyênTháng chín sang năm đánh Hán XuyênPhong Bá ra oai huyên Tân DãChúc Dung bay xuống Diễm Ma Thiên.Sự kiện này là hư cấu của nhà văn. Trận Tân Dã hoàn toàn không có thật. Trận Xích Bích Khua lưỡi bẻ bọn nho Nhân vật Khổng Minh chủ trương liên Tôn chống Tào, đã theo Lỗ Túc đi sứ Đông Ngô nhắm xúc tiến việc kết minh. Tuy nhiên nhóm quan văn bên Ngô chủ trương hàng Tào, từng người đều đứng ra đặt câu hỏi nhằm làm khó Khổng Minh. Khổng Minh dựa vào ba tấc lưỡi đánh gãy bọn nho Đông Ngô, sau đó dùng kế khích Tôn Quyền và Chu Du cùng liên minh với Lưu Bị chống lại Tào Tháo. Nhân vật Lỗ Túc được miêu tả là rất ngây ngô. Việc nhân vật Gia Cát Lượng sử dụng bài phú Đồng Tước đài để kích động Chu Du đánh Tào Tháo trong Tam quốc diễn nghĩa hoàn toàn là hư cấu. Trận Xích Bích diễn ra năm 207, Đồng Tước đài (銅雀臺) được xây dựng vào mùa đông năm 210 gần 3 năm sau khi kết thúc Trận Xích Bích. Bài Đồng Tước đài phú của Tào Thực lại được viết vào năm 212, hai năm sau khi công trình hoàn thành. Như vậy Gia Cát Lượng không thể biết được bài phú viết sau đó 5 năm. Bên cạnh đó, bài thơ trong Tam quốc diễn nghĩa có chứa đựng thêm 7 dòng không có trong bản gốc của Tào Thực được ghi lại trong Tam quốc chí. Thuyền cỏ mượn tên Theo Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung Trong trận Xích Bích, nhân vật Khổng Minh đến Giang Đông giúp đỡ đại đô đốc của Đông Ngô là Chu Du chống Tào Tháo. Nhân vật Chu Du từ lâu biết Khổng Minh là "thiên hạ kỳ tài", để người như vậy sống về sau sẽ là họa cho Đông Ngô nên muốn tìm cách hại ông. Đầu tiên Chu Du sai Khổng Minh dẫn quân đi cướp trại Tào Tháo nhưng ông đã khéo léo từ chối. Sau đó, Chu Du đề nghị Khổng Minh trong 10 ngày làm 10 vạn mũi tên nhưng cố tình dặn thợ tên làm chậm nhằm kết tội Khổng Minh. Nhưng Khổng Minh hẹn trong 3 ngày sẽ làm xong. Chu Du mừng quá bảo Khổng Minh viết tờ quân lệnh. Khổng Minh bèn đến tìm mưu sĩ Lỗ Túc của Đông Ngô mượn 20 chiếc thuyền, mỗi chiếc có chừng ba mươi quân sĩ, trên thuyền dùng vải xanh làm màn che xung quanh, lại bó cỏ với rơm cho nhiều. Lỗ Túc nhận lời, 2 ngày đầu Khổng Minh không làm gì cả. Đến ngày thứ ba, vào đầu canh tư, Khổng Minh bỗng bí mật cho mời Lỗ Túc lên thuyền uống rượu rồi lại sai người lấy dây chạc dài, buộc hai mươi chiếc thuyền liền lại với nhau, rồi bảo quân nhắm bờ phía Bắc thẳng tới. Hôm ấy, sương mù rất nhiều. Đến đầu canh năm, Khổng Minh tiến sát đến thủy trại của Tào Tháo, Khổng Minh sai thủy thủ dàn ngang đoàn thuyền ra rồi đánh trống, hò reo ầm ĩ. 2 tướng Sái Mạo và Trương Doãn thấy sương mù dày đặc sợ có phục binh nên hạ lệnh cho quân sĩ bắn tên ra loạn xạ. Đợi đến gần sáng, Khổng Minh dẫn quân trở về, 20 chiếc thuyền cắm đầy tên của quân Tào, tính ra hơn 10 vạn. Chu Du trông thấy vô cùng kinh hãi, tự thấy tài kém Khổng Minh rất nhiều. Lỗ Túc hỏi: "Tiên sinh thực là thần thánh. Làm sao lại biết đêm nay có sương mù lớn thế?" Khổng Minh nói: "Làm tướng mà không biết thiên văn, không tường địa lý, không biết được thuật pháp, không hiểu được âm dương, không tính trận đồ, không giỏi binh thế, đó là tướng xoàng. Từ ba hôm trước, ta đã tính biết hôm nay có sương mù lớn, nên mới dám nhận thời hạn ba hôm. Công Cẩn hạn cho ta mười ngày, mà thuyền thợ, đồ dùng không có gì đủ, chực đem một tội lỗi nhỏ để hại ta; nhưng số mệnh ta đã có trời định, hại làm sao nổi!"Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:Sương mù mờ mịt khắp Trường GiangGần xa không rõ nước mênh mangTên bắn như mưa thuyền không núngKhổng Minh tài trí vượt Chu LangThuyền cỏ mượn tên trở thành điển tích nổi tiếng. Nhân vật Khổng Minh chỉ một lần dùng mẹo mà khiến hai nhân vật tài trí là Chu Du, Tào Tháo đều mắc lỡm. Ông bỡn cợt trước mưu kế của Chu Du đang tìm cách hãm hại mình, lại chọc ghẹo đại quân Tào Tháo đang lăm le tiến xuống Giang Nam, trước sau đều tỏ rõ phong thái ung dung tự tại vô cùng. Thực ra, tình tiết này là hoàn toàn hư cấu và không xảy ra ngoài đời thực. Trong Tam quốc chí của Trần Thọ cũng hoàn toàn không đề cập gì tới "Thuyền cỏ mượn tên". Thực tế La Quán Trung chỉ sáng tạo ra nó từ một tình tiết có thật trong trận Như Tu năm 213, khi Tôn Quyền bí mật do thám trại đóng quân của Tào Tháo trên một con thuyền. Tào Tháo ra lệnh cho các cung thủ của mình bắn tên vào thuyền của Tôn Quyền. Những mũi tên đã bị mắc kẹt vào một bên của con thuyền và khiến cho con thuyền có nguy cơ bị lật. Tôn Quyền ra lệnh lái con thuyền theo hướng ngược với bên con thuyền bị bắn. Cuối cùng con thuyền cũng giữ được thăng bằng và Tôn Quyền quay trở lại trại của mình . Chuyện tương tự cũng xảy ra thời Đường khi Trương Tuần dẹp loạn An Lộc Sơn, vào ban đêm bện người cỏ thả xuống tường thành, lấy được 10 vạn mũi tên của Lệnh Hồ Triều. Mượn Gió Đông Nhân vật Chu Du muốn đánh hỏa công nhưng mùa đông chỉ có gió tây bắc thổi ngược về phía quân Ngô mà không có gió đông nam thổi về phía quân Tào nên lo lắng thành bệnh. Nhân vật Khổng Minh và Lỗ Túc đến thăm, nói bệnh của Chu Du là tâm bệnh, lại viết phương thuốc cho Chu Du là một bài thơ:Muốn phá Tào côngPhải dùng hỏa côngMọi thứ đủ cảChỉ thiếu gió đông.Nhân vật Chu Du xem xong phục nhân vật Khổng Minh lắm, mới hỏi rằng thế nào mới có gió đông. Khổng Minh xin đi cầu gió đông cho Chu Du nổi lửa đốt trại Tào. Khổng Minh bảo Chu Du hãy truyền xây ngay một đài thất tinh ở chân núi Nam Bình, ông sẽ cầu gió Đông luôn ba ngày ba đêm để giúp Chu Du. Lập tức Chu Du sai cất đài như lời Khổng Minh dặn. Khổng Minh lên đàn thắp nhang, làm phép cầu ba lần, vẫn chưa có gió. Đến canh hai, gió Đông nam thổi tới rất mạnh, quân Ngô nhân cơ hội đó châm lửa phóng hỏa đốt sạch chiến thuyền quân Tào. Khi gió đông tới, Chu Du vừa vui mừng vì sắp đánh thắng quân Tào, vừa kinh sợ vì tài năng "sai khiến cả quỷ thần" của Khổng Minh. Chu Du lập tức ra lệnh cho thuộc cấp tới đài thất tinh để giết Khổng Minh, nhưng khi tới nơi thì ông đã lên thuyền đi mất. Thì ra Khổng Minh đã đoán trước khi gió đông tới, Chu Du sẽ ra lệnh giết mình nên ông đã bí mật gửi thư, dặn dò Lưu Bị cử người tới đón ông vào đúng đêm hôm đó. Nhờ "gió Đông nam của Khổng Minh" mà quân Ngô đại thắng quân Ngụy, Chu Du không bị nỗi nhục mất nước, mất vợ nên về sau thi sĩ đời Đường Đỗ Mục có một bài thơ rằng: Dưới cát gươm chìm, sắt chửa tiêu Rũa mài nhận biết việc tiền triều. Gió Đông nếu chẳng vì Công Cẩn Đồng Tước đêm xuân khóa Nhị Kiều.Việc lập đài cầu gió Đông Nam, Gia Cát Lượng có phép thần thông hô mưa gọi gió đều là hư cấu của nhà văn. Mưu đoạt Tương Dương, 3 lần chọc tức Chu Du Nhân vật Khổng Minh thừa cơ chiếm cả Giang Lăng, Tương Dương từ tay Tào Nhân, nẫng tay trên của Chu Du khiến Chu Du phát uất thổ máu. Sau 3 lần bị chọc tức, nhân vật Chu Du kêu lên "Trời sinh Du sao còn sinh Lượng" rồi chết. Những sự kiện này đều là hư cấu của nhà văn. Chu Du chiếm được Giang Lăng năm 209, còn Tào Nhân vẫn giữ thành Tương Dương (thời Tam Quốc, Ngụy chưa từng mất nơi này). Chu Du bị ốm mà chết, câu nói trên cũng là lời lẽ của nhà văn La Quán Trung. Dùng kế bắt Trương Nhiệm Sau khi Bàng Thống mất, Lưu Bị gọi Khổng Minh vào Tây Xuyên để đánh chiếm Ích Châu. Khổng Minh giao Kinh Châu lại cho Quan Vũ rồi cùng Trương Phi, Triệu Vân vào Tây Xuyên. Khổng Minh muốn chiếm Lạc Thành nhưng có Trương Nhiệm là người đã giết Bàng Thống đang trấn giữ. Ông xem xét địa hình rồi sai Ngụy Diên đem quân phục ở phía đông cầu Kim Nhạn, Hoàng Trung dẫn quân phục phía hữu, Trương Phi phục sẵn quân ở núi còn Triệu Vân thì chờ Trương Nhiệm chạy qua cầu Kim Nhạn thì chặt gãy ngay cầu ấy. Phân công xong, Khổng Minh đích thân đi dụ địch. Trương Nhiệm dẫn Trác Ung ra trận, gặp Khổng Minh liền dẫn quân ra đánh, Khổng Minh bỏ xe lên ngựa chạy qua cầu. Trương Nhiệm đuổi theo một quãng thì gặp Huyền Đức và Nghiêm Nhan đổ ra chặn đánh. Nhiệm toan quay về thì cầu đã bị chặt gãy. Nhìn bờ phía Bắc thì Triệu Vân chặn, liền chạy vào đường nhỏ thì gặp quân phục của Ngụy Diên, Hoàng Trung. Trương Nhiệm chỉ còn vài chục kỵ binh theo sau chạy vội vào đường núi thì Trương Phi xông ra bắt sống. Trương Nhiệm không chịu hàng nên Khổng Minh sai đem ra chém. Đây là hư cấu của nhà văn. Trên thực tế Lưu Bị tự chiếm Lạc Thành bắt Trương Nhiệm, không liên quan gì đến Gia Cát Lượng. Thạch trận ở Di Lăng Lưu Bị đem binh phạt Ngô để báo thù cho 2 huynh đệ kết nghĩa Quan Vũ, Trương Phi, kết quả bị Đại đô đốc Lục Tốn dùng hỏa công đánh bại. Khi nhân vật Lục Tốn ham truy kích thì gặp phải thạch trận do Khổng Minh bày ở bến Ngư Phúc, Tốn cho rằng đây chỉ là trò lừa nên xông vào trận, cuối cùng bị mắc kẹt. Đang lúc kinh hãi, Tốn gặp được bố vợ Khổng Minh là Hoàng Thừa Ngạn, và được đưa ra khỏi thạch trận. Lục Tốn hết sức kính phục tài năng của nhân vật Khổng Minh, bèn hạ lệnh rút quân về. Một thời gian sau trận Di Lăng, Khổng Minh nối lại liên minh Thục-Ngô để cùng nhau chống Tào Ngụy. Đây chỉ là hư cấu của nhà văn vừa để tôn vinh nhân vật Gia Cát Lượng. Thực chất Lục Tốn cũng rút quân ngay khi thấy Lưu Bị đã về đất Thục, để kịp đối phó với Tào Phi đang rình rập ở phía bắc. Phò tá ấu chúa đẩy lui 5 đạo quân Sau thất bại Di Lăng, Lưu Bị lui về thành Bạch Đế, sức khỏe ngày một kém. Bèn gọi Khổng Minh từ Thành Đô tới để dặn dò hậu sự. Lưu Bị nằm trên giường cầm tay Khổng Minh: "Tài thừa tướng gấp 10 Tào Phi tất yên định nhà nước, làm nên nghiệp to. Đối với con trẫm, nếu có thể giúp thì giúp còn không thì ngươi nên làm chủ Thành Đô". Khổng Minh nghe xong giật mình, phục lạy xuống đất mà thề "thần xin dốc hết sức khuyển mã phò tá thái tử, cúc cung tận tụy đến chết mới thôi". Hậu chủ Lưu Thiện lên kế vị khi mới 15 tuổi, mọi chuyện lớn nhỏ trong triều do Thừa tướng Gia Cát Lượng giải quyết. Ngụy đế Tào Phi thừa cơ nước Thục suy yếu muốn xuất binh chinh phạt, liền theo kế của Tư Mã Ý khởi 50 vạn đại quân, chia làm 5 đạo đánh Thục. Hậu chủ liền triệu tập quần thần thương nghị kế sách, nhưng Khổng Minh cáo bệnh không ra khỏi phủ. Hậu chủ lo lắng ngự giá đến thăm hỏi, thì bắt gặp Khổng Minh đang ngồi xem cá. Hậu chủ trách Khổng Minh không quản việc quân, trốn trong phủ xem cá. Khổng Minh mời Hậu chủ vào trong nhà, mở bản đồ và phân tích phương án đẩy lui 5 đạo binh một cách bình thản: "Mã Siêu vốn gốc tích Tây Lương, trong mắt người Khương thì Mã Siêu là Thần Oai tướng quân, nay phái Siêu ra trấn thủ ải Tây Bình, dùng 4 đạo quân thay phiên chặn đánh quân Khương. Lý Nghiêm và Mạnh Đạt rất thân, từng kết nghĩa sống chết có nhau, để Lý Nghiêm viết thư cho Mạnh Đạt, tất Đạt giả ốm không chiến. Man Vương Mạch Hoạch có khỏe nhưng kém khôn, lệnh cho Ngụy Diên dùng 2 đạo quân làm nghi binh, cắm thật nhiều quân kỳ trong rừng, quân Nam Man thấy nghi binh tất sẽ không dám tiến. Triệu Vân ra trấn thủ ải Dương Bình chống Tào Chân, nơi này hiểm trở dễ thủ khó công, chỉ cần kiên thủ không đánh thì Tào Chân sẽ cạn lương và rút lui. Quan Hưng và Trương Bào mỗi người dẫn 3 vạn binh đóng ở các nơi hiểm yếu, để tiếp ứng cho các mặt. Phía Đông Ngô thì Tôn Quyền còn hận việc Tào Phi xâm phạm trước kia, nên sẽ không nghe lệnh mà ngồi nhìn thắng bại. Nếu 4 đạo quân thằng thì quân Ngô mới tiến, còn 4 đạo quân thất bại thì sẽ không manh động, chỉ cần phái sứ giả đến phân tích lợi hại để giữa chắc mặt này." Sáu lần ra Kỳ Sơn Sau khi thu phục Mạnh Hoạch, Gia Cát Lượng chỉnh đốn binh mã, nhân Tào Phi vừa mất đem đại quân bắc phạt, ông có tâu với Hậu chủ Lưu Thiện: "Dù biết đánh Tào là lấy yếu đánh mạnh, nhưng nhất quyết phải phạt Ngụy, ta không phạt người ắt người sẽ phạt ta, nay xin Hoàng thượng cho thần đóng quân ở Hán Trung, từ trên cao nhìn xuống như hổ săn Lạc Dương.". Sau đó, trong 6 lần Bắc phạt mà sau này các sử gia gọi là Lục xuất Kỳ Sơn, ông đều đem đại quân đánh ra Kỳ Sơn vì cho rằng nơi đây chính là đất dụng võ,ông nói:" Kỳ Sơn là đầu xứ Trường An, kéo quân vào các quân Lũng Tây tất cả phải qua đường ấy, vả lại, mé trước sát sông Vị, mé sau dựa vào hang Tà Cốc, ra bên nọ vào bên kia, có thể dùng được kế mai phục. Đó là đất dụng võ, cho nên trước hết ta muốn dụng được chỗ địa lợi ấy.",có thể công phá Trường An và Lạc Dương, bình định được Trung nguyên, nhưng tiếc là vì nhiều lý do chưa thể thành công. Việc Gia Cát Lượng "6 lần đem quân ra Kỳ Sơn" chỉ là sự phóng đại của nhà văn La Quán Trung. Thực tế Gia Cát Lượng chỉ có 5 lần đem quân đánh Ngụy, trong đó ông cũng chỉ đem quân ra Kỳ Sơn lần thứ nhất và lần thứ tư . Không thành kế Sau khi Mã Tốc để mất Nhai Đình, Gia Cát Lượng về Tây thành, trong thành khoảng 2000 quan văn, cùng Quan Hưng vào 500 lính kị mã. Tư Mã Ý mang 15 vạn đại quân đuổi đến nơi, ông không những không triển khai quân đối phó mà còn mở cổng thành, có ý mời quan quân Tư Mã Ý vào thành. Còn mình thì ngồi trên thành, gẩy đàn rất bình thản. Tư Mã Ý đến nơi, thấy vậy liền sinh nghi, không dám tiến vào thành vì sợ trong thành có bẫy. Tư Mã Ý nghe tiếng đàn của Gia Cát Lượng, thấy được sự bình thản trong con người ông, càng thêm lo sợ và quyết định rút lui. Sau đó Quan Hưng cùng 500 lính phục kích hò reo làm cho Tư Mã Ý sợ có nghi binh nên bỏ chạy. Sau này khi biết được trong thành chỉ có vài trăm binh sĩ già yếu, mà một mình Gia Cát Lượng có thể đẩy lui được đại quân của mình, Tư Mã Ý rất khâm phục và cho rằng mình còn kém tài ông rất nhiều. Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:Gảy đàn ba tấc thắng quân hùngGia Cát Tây thành đuổi giặc hungHơn chục vạn quân lo tháo chạyThổ dân chỉ điểm ở nơi cùng.Trên thực tế thì giữa Gia Cát Lượng và Tư Mã Ý không xảy ra vụ việc này mà chỉ là hư cấu của La Quán Trung. "Không thành kế" thực sự trong lịch sử xảy ra tại chiến tranh Lưu Tống-Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều. Khi quân Ngụy đuổi theo quân Tống đến Lịch Thành, Thái thú Tế Nam của Lưu Tống là Tiêu Thừa Chi chỉ có vài trăm quân, liệu chừng không thể chống lại đại quân Ngụy, bèn áp dụng "không thành kế", cho mở toang cổng thành. Quân Bắc Ngụy sợ có phục binh không dám vào thành. Theo bộ sử Tam quốc chí, Gia Cát Lượng đúng là đã có lần ngồi trước doanh trại quân Ngụy rồi ung dung chơi cờ, xung quanh không có binh sỹ hộ vệ mà chỉ có mấy tiểu đồng phục vụ, nhưng quân Ngụy sợ phục binh nên không dám ra đánh (không phải là Gia Cát Lượng ngồi trong thành gảy đàn khi quân Ngụy tới tấn công). Như vậy thì đó là "Không trận kế" chứ không phải là "Không thành kế". Trâu gỗ ngựa máy Khổng Minh nhiều lần ra Kỳ Sơn, hay bị khốn đốn vì hết lương, ông quyết định chọn hang Hồ Lô ở trước núi, mé tây sông Vị làm nơi bí mật, lại kén nghìn tay thợ giỏi để chế ra trâu gỗ, ngựa máy làm máy tải lương. Trâu gỗ ngựa máy trèo đèo lội suối không khác chi trâu ngựa thật, vận lương từ Kiếm Các ra Kỳ Sơn cho quân ăn. Khổng Minh sau đó cố ý để Tư Mã Ý biết được, lại thả cho Tư Mã Ý bắt được một số trâu gỗ ngựa máy. Trọng Đạt bắt chước chế tạo dựa trên mẫu của Khổng Minh, sau đó cho trâu gỗ ngựa máy mới tạo đi vận lương. Khổng Minh hết lương, bèn tìm kế phục kích đuổi quân tải lương của Ngụy đi, sau đó hạ lệnh cho quân sĩ vặn cái chốt dưới miệng trâu gỗ ngựa máy, làm chúng không đi được nữa, sau đó lui quân. Quân Ngụy đuổi đến nhưng không sao bắt trâu ngựa đi được nữa, Khổng Minh nhân lúc này xua quân ra đánh, quân Ngụy thua chạy. Khổng Minh sai người vặn lại cái chốt, trâu ngựa lại hoạt động trở lại, Khổng Minh đem theo trâu gỗ ngựa máy chở lương của quân Ngụy về trại. Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:Núi Kiếm gập ghềnh xưa ngựa chạyHang Tà quanh quất lối trâu điĐời sau nếu biết dùng mưu ấyTải vận nào ai khó nhọc gì. Vây khốn cha con Tư Mã Ý Gia Cát Lượng lục xuất Kỳ Sơn, sau nhiều lần đánh nước Ngụy không thành vì có Tư Mã Ý đối trận, biết rằng muốn phạt Ngụy, định Trung Nguyên phải trừ người này, nên quyết tâm giết Tư Mã Ý. Cuối cùng ông dùng kế lừa cho hàng binh nói với Tư Mã Ý rằng toàn bộ lương thực của quân Thục đều cất giữ tại Thượng Phương cốc. Tư Mã Ý cho lính thăm dò thì thấy có vẻ đúng, bèn dẫn hai con mang quân tới. Cha con Tư Mã Ý vừa vào hang thì quân Thục ném rơm rạ, củi lửa chặn bít hai đầu. Gia Cát Lượng liền cho quân phóng hỏa nhằm thiêu chết cha con Tư Mã Ý. Nhưng trong lúc Tư Mã Ý tuyệt vọng chờ chết thì Kỳ Sơn 9 tháng không có mưa bỗng đổ mưa lớn, trận mưa đã cứu cha con Tư Mã Ý và dập tắt hết ngọn lửa, cha con Tư Mã Ý chạy thoát khỏi Thượng Phương cốc. Gia Cát Lượng đau đớn thốt lên "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", từ đó mà câu nói này trở nên nổi tiếng. Gia Cát Lượng buồn rầu, biết rằng khí số nhà Hán đã tận, trời không giúp ông mà giúp Tư Mã Ý, một mình ông khó mà xoay chuyển càn khôn, nghịch lại ý trời, lại thêm ngày đêm lao lực mà sinh bệnh. Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ than rằng:Cửa hang gió cát với mây bayMưa xối mây đen kéo lại đâyVũ hầu kế diệu ví thành đạtTấn triều sao chiếm núi sông này?Đây là sự kiện hư cấu, hoàn toàn không có thật. Thực tế trong lần Bắc phạt này, Tư Mã Ý luôn án binh bất động, cố thủ không ra đánh, nên Gia Cát Lượng không có cách nào bày trận đánh bại quân Ngụy. Dặn kế giết Ngụy Diên Khi ra Kỳ Sơn lần thứ 6, cho quân đóng ở gò Ngũ Trượng. Quân Ngụy sau nhiều thất bại nên rất sợ Gia Cát Lượng, chỉ đóng cửa cố thủ, tránh giao chiến với quân Thục. Khổng Minh lâm bệnh nặng, biết thọ mạng của mình sắp hểt. Ông bèn dùng phép dâng sao, trong vòng 7 ngày bày ra 49 cây đèn quay quanh cây đèn chủ mạng nhằm xin trời cao cho kéo dài mạng sống để ông tiếp tục sự nghiệp phục hưng nhà Hán. Nếu sau 7 ngày 7 đêm mà đèn vẫn sáng thì thành công, nếu đèn tắt thì thất bại. Đến ngày thứ 7, Tư Mã Ý nhìn thiên tượng biết Khổng Minh bị bệnh, cho quân đến thăm dò trước trại thách đánh. Ngụy Diên chạy vào trướng báo tin, chẳng ngờ đạp mạnh quá làm tắt ngọn đèn chủ vị, thế là phép dâng sao thất bại. Khương Duy giận lắm, rút gươm muốn giết Ngụy Diên, Khổng Minh cản lại, than rằng: "Số trời đã định, không sao trái được!". Ông gọi Khương Duy lại truyền thụ 24 thiên binh thư do ông viết ra. Sau đó ông dặn dò các tướng phải đề phòng quân Ngụy tới đánh và Ngụy Diên làm phản cùng kế sách đối phó. Sau Thục chủ sai sứ tới hỏi việc hậu sự, Khổng Minh đáp rằng Tưởng Uyển có thể thay ông làm thừa tướng, sau đó là Phí Y, nói tới đó thì mất, hưởng dương 54 tuổi. Sau khi Khổng Minh mất, Ngụy Diên quả nhiên làm phản nhưng Khổng Minh đã tiên đoán trước nên bày kế cho Mã Đại chém chết Ngụy Diên. Tư Mã Ý thấy tướng tinh trên trời rơi xuống, đoán rằng Khổng Minh đã mất nên kéo quân tới đánh. Quân Thục làm theo di kế của Khổng Minh, hành quân về phía quân Ngụy và đẩy xe có tượng gỗ Khổng Minh ra trận. Tư Mã Ý tưởng Khổng Minh giả chết lừa mình nên sợ hãi bỏ chạy, chạy một lúc lâu mới hỏi các tướng rằng "đầu mình có còn không". Thế là quân Thục rút an toàn trở về Thành Đô. Sau này trong dân gian có câu: "Gia Cát chết vẫn đuổi được Trọng Đạt sống" (Tử Gia Cát năng tẩu sinh Trọng Đạt), để nói lên tài năng siêu phàm của ông. Sau câu chuyện này, người ta có thơ than rằng:Nửa đêm sao lớn rơi sờ sờLại còn hồ nghi Lượng chết vờMuôn thuở người Xuyên cười Trọng ĐạtSờ đầu lại hỏi mất hay chưa?Sau khi Khổng Minh mất, người ta làm theo di chúc là chôn ông ở núi Định Quân (nơi ngày xưa Hạ Hầu Uyên mất), không cần làm ma chay cầu kỳ. Câu nói nổi tiếng trong tiểu thuyết Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, Gia Cát Lượng có nhiều câu nói nổi tiếng. 2 câu nổi tiếng là:Mệnh của ta đã có Trời định, kẻ khác làm sao hại được (Gia Cát Lượng nói với Lỗ Túc khi ông phá kế hãm hại của Chu Du)Mưu sự tại nhân, hành sự tại thiên. Số trời đã định, không thể cưỡng lại (Gia Cát Lượng thất vọng thốt lên khi việc cầu sao tăng thọ của mình vô tình bị Ngụy Diên làm hỏng, khiến ông phải sớm qua đời) Hai câu nói trên thể hiện triết lý "Ý Trời khó cưỡng" của Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa: Bậc kỳ nhân như nhân vật Gia Cát Lượng có tài trí trác tuyệt, mưu kế của người khác không thể thoát khỏi dự tính của ông, nhưng Gia Cát Lượng tài ba đến mấy thì cũng không thể tính trước được những điều mà số Trời đã sắp đặt, không thể "cưỡng lại ý Trời". Chí lớn khôi phục Hán thất của Gia Cát Lượng không thành không phải vì ông không đủ tài trí, mà bởi một loạt những điều rủi ro ngẫu nhiên mà ông không thể dự tính được, ấy là do "số Trời đã định" mà thôi. Gia Cát Lượng tinh thông thiên văn lý số, ắt cũng thấy được khí số nhà Hán đã sắp tận, ông hẳn sẽ tiếp tục ở ẩn nếu như Lưu Bị không 3 lần tới lều tranh để mời ông giúp đỡ. Sau buổi trò truyện để nhận thức rõ con người và chí hướng của Lưu Bị, ông mới đồng ý hạ sơn, quyết tâm đem tài năng của mình để "cưỡng lại ý Trời". Nhân vật Gia Cát Lượng cũng hiểu rõ sức người thì khó mà chống lại ý Trời, nhưng ông mong rằng sự trung nghĩa của mình cùng với tấm lòng yêu nước thương dân của Lưu Bị có thể cảm động lòng Trời mà giữ lại thiên mệnh cho nhà Hán. Ngay trước khi Gia Cát Lượng hạ sơn phò tá Lưu Bị, Thủy Kính tiên sinh Tư Mã Huy đã hiểu rõ ý định của Gia Cát Lượng là rất gian nan, rất khó thành công và than thở: "Ngọa Long gặp được minh chủ (Lưu Bị) nhưng không gặp thời, tiếc thay!" Xem thêm Lưu Bị Tam Quốc Tam Quốc Diễn Nghĩa Tham khảo Tam quốc chí, tác giả Trần Thọ, Nhà xuất bản văn học, 2016, tập 1, 2, 3. Mã Nguyên Lương và Lê Xuân Mai (2004), Khổng Minh Gia Cát Lượng, Nhà xuất bản Đà Nẵng Trần Văn Đức (2006), Khổng Minh Gia Cát Lượng'', Nhà xuất bản Văn hóa thông tin Chú thích Liên kết ngoài tiếng Anh Zhuge Liang style-name Kongming A history of Zhuge Liang and his writings. Including a guide to historic sites in China connected with Zhuge Liang Sinh năm 181 Gia Cát Lượng Thừa tướng Trung Quốc Người Sơn Đông Nhân vật quân sự Thục Hán Nhiếp chính thời Tam Quốc Nhà thơ Trung Quốc thời Tam Quốc Nhà thư pháp Trung Quốc Nhà văn Trung Quốc Họa sĩ Trung Quốc Nhân vật Tam quốc diễn nghĩa Nhân vật được tiểu thuyết hóa Nhà phát minh Trung Quốc Nhân vật chính trị Thục Hán Nhà nho Trung Quốc Mất năm 234
24348
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A2u%20%C4%91%E1%BB%91%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Câu đố Việt Nam
Câu đố là thể loại văn học dân gian phản ánh sự vật hiện tượng theo lối nói chệch. Khi sáng tạo câu đố, người ta tìm đặc trưng và chức năng của từng vật cá biệt và sau đó phản ánh thông qua sự so sánh, hình tượng hóa. Phân biệt câu đố với tục ngữ, ca dao Có sự tương đồng về hình thức ngắn gọn, cô đúc, có vần điệu nhịp nhàng. Có sự khác biệt về chức năng và phương pháp nghệ thuật. Câu đố xây dựng hình tượng phản ánh dấu hiệu đặc trưng và chức năng của những sự vật, sự việc cụ thể với mục đích kiểm tra, truyền đạt tri thức về thế giới khách quan. Căn cứ hình thức diễn tả, câu đố được chia hai loại: câu đố chính hiệu và câu đố vay mượn. Căn cứ đối tượng phản ánh, câu đố được chia hai loại: loại thuộc tự nhiên, loại thuộc văn hóa. Nguồn gốc và quá trình hình thành câu đố Phương pháp nhận thức và phản ánh nghệ thuật của câu đố là một phương pháp phổ biến ở hầu hết các dân tộc khác nhau trên thế giới. Câu đố ra đời từ thời cổ đại liên quan đến lối nói so sánh gián tiếp phổ biến của người thời cổ, hiện tượng chưa có tên của nhiều sự vật phổ biến trong giai đoạn đầu của mọi dân tộc. Việc dùng sự vật này để nói sự vật khác, việc miêu tả đặc điểm sự vật vào một hình thức ngôn ngữ là điều hợp quy luật. Nội dung câu đố Chứa đựng tri thức thực tiễn: Đối tượng phản ánh của câu đố là các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan, phần lớn có liên quan đến những hoạt động sinh hoạt của người dân. Chứa đựng nội dung và ý nghĩa xã hội: Khi miêu tả thế giới hiện thực xung quanh con người, nhiều câu đố mang thêm ý nghĩa xã hội, mặc dù đó không phải là mục đích của câu đố. Phương thức nghệ thuật Hình thức ẩn dụ: Câu đố thường đưa ra những nét tương đồng về hình dạng bên ngoài của các sự vật khác so với vật đố, những dấu hiệu của đối tượng được dấu tên, như những chức năng, công dụng của các đối tượng trong cuộc sống sinh hoạt, những đặc điểm của đối tượng về hình dáng, trạng thái hoạt động, sự chuyển động, bất động, sự xuất hiện, điều kiện sống... để gợi sự liên tưởng. Hình thức chữ bị chơi: Câu đố thường sử dụng từ đồng âm dị nghĩa, đồng nghĩa dị âm, nói lái, chiết tự... Câu đố sử dụng các thể thơ truyền thống, có vần, nhịp điệu, cô đúc, cân đối nhịp nhàng. Câu đố cũng có xu hướng đưa vào yếu tố tục, song yếu tố này ở câu đố không mang nội dung xã hội, thường chỉ có tác dụng tạo sự dí dỏm, gây cười. Tham khảo Liên kết ngoài Bách khoa toàn thư văn hóa Việt http://huc.edu.vn/vi/spct/id126/DO---MOT-HINH-THUC-SINH-HOAT-VAN-HOA-DAN-GIAN-DOC-DAO/
24349
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ca%20dao%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Ca dao Việt Nam
Ca dao là thơ ca dân gian Việt Nam được truyền miệng dưới dạng những câu hát không theo một điệu nhất định, thường phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ, dễ thuộc. Ca dao là một từ Hán Việt, theo từ nguyên, ca là bài hát có chương khúc, giai điệu; dao là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc. Xem thêm Dân ca Việt Nam Tham khảo Liên kết ngoài Văn học dân gian Việt Nam
24350
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n%20h%E1%BB%8Dc%20d%C3%A2n%20gian%20c%C3%A1c%20d%C3%A2n%20t%E1%BB%99c%20thi%E1%BB%83u%20s%E1%BB%91%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam
Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam có những thành tựu với những sắc thái riêng biệt. Căn cứ vào quy luật phát triển của sáng tác dân gian và sự thực tiễn tồn tại những mảnh vụn thần thoại, các nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam đã nói đến sự tồn tại của các thể loại sử thi, và thực tế đã sưu tầm, phát hiện được. Những nét đặc sắc Yếu tố thần thoại bảo tồn được một số nét cổ hơn so với thần thoại người Việt. Kho thần thoại giải thích tự nhiên rất dồi dào. Sử thi đậm đà chất thần thoại nổi bật hình tượng người anh hùng dũng sĩ. Khối lượng thơ ca dân gian lớn, có sắc thái trữ tình đậm. Sử thi Giới nghiên cứu thường gọi: truyền thuyết, anh hùng ca, trường ca, sử thi anh hùng, sử thi... Người Êđê gọi Khan còn người Bana gọi Hơmon... Đây là một thể loại tự sự dân gian về thời kỳ lịch sử khi loài người bước vào xã hội văn minh, kể về những kỳ tích, sự nghiệp anh hùng có tầm vóc lớn. Sử thi là những sáng tác tự sự có quy mô tương đối lớn, bằng văn vần hay thứ văn xuôi giàu chất thơ. Nội dung bao quát cả đời sống toàn dân trong suốt một thời kỳ lịch sử dài mà trung tâm là những sự kiện có ý nghĩa trọng đại trong đời sống cộng đồng. Có thể phân thành hai loại: Sử thi thần thoại (sử thi mo): Đẻ đất đẻ nước (Mường) và... Sử thi anh hùng (sử thi khan): Đam San (Ê Đê), Xinh Nhã (Ê Đê)... Truyện thơ Truyện thơ là những truyện kể bằng thơ, biểu hiện cảm nghĩ bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh, cảm xúc, chứa đựng vấn đề xã hội. Có sư kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình, dung lượng lớn, mang tính chất cố sự của truyện kể dân gian, biểu hiện dưới hình thức thơ ca với màu sắc trữ tình đậm. Có thể phân thành hai loại: Truyện thơ phát triển đề tài của tự sự xã hội: Vượt biển (Khảm hải), Chim sáo, Nàng Kim Quế (Tày Nùng)... Truyện thơ về tình yêu và hôn nhân: Nàng Nga Hai Mối (Mường); Nàng Ớm chàng Bồng Hương (Mường); Út Lót Hồ Liêu (Mường); Tiếng hát làm dâu (H'Mông); Nam Kim Thị Đan (Tày); Khun Lú Nàng Ủa (Thái), Tiễn dặn người yêu hay Xống chụ xon xao (Thái)... Tham khảo Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam
24353
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2n%20kh%E1%BA%A5u%20c%E1%BB%95%20truy%E1%BB%81n%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Sân khấu cổ truyền Việt Nam
Ở Việt Nam, đã có nhiều hình thức sân khấu cổ truyền tồn tại từ lâu đời như hát chèo, hát tuồng, múa rối nước... và mới hơn như cải lương, kịch dân ca. Theo truyền thống, ngày 12 tháng 8 âm lịch là ngày giỗ Tổ sân khấu, và từ năm 2011 thủ tướng Việt Nam lúc đó là ông Nguyễn Tấn Dũng đã ra quyết định chính thức công nhận ngày 12 tháng 8 âm lịch là ngày Sân khấu Việt Nam. Lịch sử hình thành Ngành sân khấu Việt Nam được hình thành từ thời nhà Đinh, khi nhà nước Đại Cồ Việt ra đời sau 1000 năm Bắc thuộc. Hoa Lư là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến tập quyền Việt Nam, là nơi khởi nguồn sản sinh nhiều giá trị văn hóa mang bản sắc Việt. Đây là nơi khai sinh ra dòng văn học viết và cũng được xem là vùng đất tổ của nghệ thuật sân khấu điện ảnh Việt Nam với việc hình thành các bộ môn chèo, tuồng và xiếc. Hoa Lư là quê hương của nghệ thuật sân khấu chèo mà người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh. Đây là loại hình sân khấu được hình thành sớm nhất và tiêu biểu nhất của Việt Nam. Qua truyền thuyết về pháp sư Văn Du Tường thời Đinh dùng mưu diệt quỷ Xương Cuồng ở Bạch Hạc cho thấy nghệ thuật xiếc, tạp kỹ như đi trên dây, đánh đu, trồng cây chuối đã xuất hiện. Cũng ở thời Đinh, Hoàng hậu Dương Thị Nguyệt được coi là bà tổ truyền dạy trò Xuân Phả cho người dân trình diễn trong lễ hội hàng năm tại nghè Xuân Phả, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Đại Việt sử ký toàn thư chép: Mùa thu Ất Dậu, nhân ngày kỷ niệm lên ngôi, Lê Đại Hành cho tổ chức hội đèn bơi thuyền, lấy tre làm núi giả, gọi là Nam Sơn. Để cho sứ giả nhà Tống sợ, vua cho ba nghìn quân sĩ có thích ở trán ba chữ “Thiên tử quân” oai phong lẫm liệt, mở cuộc thao diễn vĩ đại, đóng trò giả cùng với dân bơi thuyền, gióng trống hò reo, cắm cờ, làm như bày binh bố trận, để phô trương thanh thế. Và, vẫn dẫn sách trên: Vua Lê Đại Hành ngự giá chinh phạt Chiêm Thành, bắt được hàng trăm ca kỹ ở kinh đô Chiêm quốc mang về nước, bắt họ múa hát vui chơi, đó là việc hình thành nghệ thuật kịch và xiếc. Các truyền thuyết lịch sử hát Tuồng cũng ghi rằng loại hình ngày hình thành vào thời Tiền Lê năm 1005, khi một kép hát người Tàu tên là Liêu Thủ Tâm đến Hoa Lư và trình bày lối hát xướng thịnh hành bên nhà Tống và được vua Lê Long Đĩnh thâu dụng, bổ làm phường trưởng để dạy cung nữ ca hát trong cung. Trong cuộc chiến chống Nguyên Mông, nhà Trần bắt được nhạc sĩ Lý Nguyên Cát người Nam Tống vốn là trưởng ban kịch ca trong quân đội Nguyên Mông. Lý Nguyên Cát phỏng theo tiếng Việt mà soạn ra các vở tuồng và huấn luyện người Việt diễn tuồng. Sang thời Trần Dụ Tông, có người phường trò là Đinh Bàng Đức ở nhà Nguyên sang nương nhờ vì chiến tranh. Đinh Bàng Đức dạy người Việt lối hát cầm gậy. Nhảy múa thường xuyên được tổ chức trong cung đình và trong dân gian. Ngoài chèo, hát ả đào truyền thống khá phổ biến trong dân gian và giới quý tộc. Các quý tộc nhà Trần yêu thích hát chèo và diễn hề. Thời Trần Dụ Tông, các quý tộc trong cung đình say mê nghệ thuật, nhiều vở hát chèo trong cung đình do chính những người trong hoàng tộc dàn dựng, biểu diễn và nhà vua tự mình duyệt lại, thưởng hậu cho người diễn và làm trò giỏi. Việc ca hát trong cung đình nhà Trần được sứ nhà Nguyên là Trần Cương Trung mô tả trong tác phẩm Sứ giao tập, theo đó mỗi lần yến tiệc trong cung thường có ca nhạc và nhảy múa, các khúc ca giống như khúc Giáng Châu Long, Nhập hoàng đô của phương Bắc, âm điệu cổ nhưng ngắn hơn. Nhưng từ thế kỷ XV, triều đình nhà Lê cho nghệ thuật sân khấu là trò du hí của tiểu nhân (nhân dân lao động thất học), cấm vào diễn ở cung đình, đồng thời ban hành nhiều văn bản khá khắc nghiệt hạn chế nghệ thuật này phát triển trong dân gian. Vì tình hình đó, nghệ thuật sân khấu vẫn tồn tại trong nông thôn nhưng không phát triển mạnh. Cách mạng Tháng Tám thành công, nghệ thuật sân khấu bư­ớc vào thời kỳ sáng tạo mới. Các nghệ sĩ khắp nơi đư­ợc tập hợp. Các đoàn văn công đ­ược thành lập. Hàng loạt vở diễn sân khấu ra đời ở các chiến khu phục vụ kháng chiến. Những năm hoà bình, Sân khấu phát triển mạnh mẽ, từ một phong trào sân khấu bán chuyên nghiệp, sân khấu lửa trại phát triển thành các Đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp. B­ước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, đội quân Sân khấu hùng hậu ra trận đến với nhiều trận địa ác liệt với khẩu hiệu “Tiếng hát át tiếng bom”. Nhiều tác phẩm sân khấu ra đời trong thời kỳ này mang dáng vóc sử thi, ca ngợi chiến công, ca ngợi các anh hùng, liệt nữ, lên án kẻ thù, cổ vũ cuộc chiến đấu là những vở diễn có mặt trên nhiều trận địa để lại ấn tư­ợng sâu sắc trong ng­ười xem. Sau năm 1975, cùng với cuộc hội tụ của cả dân tộc, Sân khấu về mái nhà Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam. Điểm nổi bật của sân khấu những năm 1975 đến 1990 ngoài những tác phẩm mang tính sử thi viết về chiến tranh, là một loạt vở diễn với đề tài xã hội đ­ương đại. Năm 2010, từ đề nghị của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có Thông báo kết luận công nhận ngày 12/8 Âm lịch hàng năm là Ngày Sân khấu Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cũng đã có Quyết định số 13/QĐ-TTg ngày 04/01/2011 công nhận ngày 12/8 Âm lịch là Ngày Sân khấu Việt Nam. Chèo Chèo là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng. Nội dung của các vở chèo lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm, mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc, đồng thời thể hiện tính dân tộc Việt. Sân khấu chèo đơn giản, với các diễn viên có thể không chuyên, biểu diễn ngẫu hứng. Loại hình nghệ thuật truyền thống này được hình thành từ nguồn gốc cung đình Hoa Lư với vị tổ nghề Phạm Thị Trân nhưng sau đó đã phát triển mạnh ở nông thôn Việt Nam, trọng tâm ở đồng bằng Bắc Bộ và lan tỏa ra khu vực phía Bắc. Nó đạt đỉnh cao phát triển vào thời kỳ từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Đến thế kỷ 19, chèo nhận ảnh hưởng của tuồng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị. Múa rối nước Múa rối nước ra đời khoảng thế kỷ 10-11 ở đồng bằng Bắc Bộ gắn với mặt nước hồ ao đồng ruộng. Tuồng Tuồng (còn gọi là hát Bội hay hát Bộ) là môn nghệ thuật từng thâm nhập vào cuộc sống cung đình và dần dà, có nhiều gánh hát đã được chuyên nghiệp hóa. Chữ tuồng có người cho là bởi chữ tường mà ra; tức hình dung dáng dấp, cử chỉ của người đời xưa. Thế kỷ 19 là thời hoàng kim của nghệ thuật tuồng. Tại từng địa phương ở Việt Nam còn có trường phái tuồng riêng, như tuồng Quảng Nam, tuồng Bình Định, tuồng Hà Bắc, hát bội Sài Gòn (tuồng Bình Định phát triển mạnh một phần nhờ ông Đào Duy Từ và ông Đào Tấn). Cải lương Cải lương là nghệ thuật kịch hát của miền nam Việt Nam, trên cơ sở dân ca vùng đồng bằng sông Cửu Long và đờn ca tài tử Nam Bộ. Nghệ thuật này ra đời vào năm 1917, chịu nhiều ảnh hưởng của âm nhạc Tây phương hơn so với các nghệ thuật thuần túy như hát chèo và hát bội. Đề tài của các tuồng cải lương thường liên quan đến các điển tích và những vấn đề xã hội. Hiện nay, cải lương vẫn còn thịnh hành, đặc biệt là tại miền nam Việt Nam. Kịch dân ca Loại hình sân khấu mới xuất hiện ở Việt Nam từ sau Cách mạng tháng 8, dựa trên nền tảng âm nhạc là các làn điệu dân ca ở địa phương, ví dụ như Kịch dân ca Bài chòi, Kịch dân ca Huế, Kịch dân ca Nghệ Tĩnh... Đây là loại hình nghệ thuật mới, tương tự như tuồng, chèo và cải lương. Kịch bài chòi Ca kịch Bài chòi bắt nguồn từ thú chơi bài chòi của người dân Quảng Nam – Đà Nẵng, về sau phát triển thành hình thức biểu diễn thơ tự sự, kể chuyện. Âm nhạc bắt nguồn từ các làn điệu dân ca miền Trung như Quảng Nam - Đà Nẵng, Huế, Quảng Trị..., có các điệu chính là xuân nữ, nam xuân và xàng xê. Dàn nhạc đơn giản chỉ có đàn nhị, sanh sứa, sau có thêm đàn nguyệt, sáo và sinh tiền. Điều độc đáo của ca kịch Bài chòi là một diễn viên có thế thủ một lúc nhiều vai, với dàn nhạc đơn sơ nhưng vẫn lôi cuốn khán giả (tương tự như Pansori của Hàn Quốc). Bài chòi được phát triển chuyên nghiệp từ sự ra đời của Đoàn ca kịch Liên khu V với nghệ sĩ tiêu biểu như Lệ Thi. Kịch ca Huế Ca Huế là một thể loại âm nhạc cổ truyền của xứ Huế, Việt Nam, bao gồm ca và đàn, ở nhiều phương diện khá gần gũi với hát đào, làm từ dòng nhạc dân gian bình dị và cung đình nhã nhạc,thanh cao. Kịch dân ca Nghệ Tĩnh Các tổ ngành sân khấu Việt Nam Một số nhân vật thường được ghi nhận là tổ một số ngành nghề sân khấu tại Việt Nam: Phạm Thị Trân là bà tổ nghề hát chèo Việt Nam. Liêu Thủ Tâm, Đào Tấn là các vị tổ của nghệ thuật sân khấu tuồng. Tống Hữu Định (1896–1932) là ông tổ Cải Lương.. Năm Tú (Châu Văn Tú) ở Mỹ Tho, cũng là người được cho là có công nhất trong việc gây dựng lối hát Cải lương buổi ban đầu. Vũ Đình Long là tổ nghề kịch nói. Trần Quốc Đĩnh là tổ nghề hát xẩm. Đinh Dự là tổ nghề ca trù Việt Nam. Ông được nhiều vùng có di sản ca trù thờ phụng như Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình. Ca trù sau này còn có một số vị tổ nghề địa phương như: Phan Tôn Chu tổ nghề ca trù Cổ Đạm ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh; Đào Thị Huệ tổ nghề ca trù Đào Đặng, Hưng Yên. Nguyễn Lan Hương (1887 – 1949) là tổ nghề nhiếp ảnh (chủ cửa hiệu Hương Ký, là một hiệu ảnh ở phố Hàng Trống, bây giờ là khách sạn Phú Gia). Có thông tin khác lại cho là Đặng Huy Trứ là tổ nghề nhiếp ảnh. Hoàng hậu Dương Thị Nguyệt, Bà tổ truyền dạy trò Xuân Phả cho dân làng Xuân Phả tại Nghè Xuân Phả thờ Đại Hải Long Vương. Xem thêm Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam Tham khảo Liên kết ngoài Sân khấu cổ truyền Việt Nam Sân khấu Việt Nam Văn hóa Việt Nam
24354
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20hu%E1%BA%A5n%20luy%E1%BB%87n
Tập huấn luyện
Một tập huấn luyện được sử dụng trong trí tuệ nhân tạo, cùng với phương pháp học có giám sát, và nó bao gồm một vec-tơ đầu vào và một vec-tơ kết quả. Nói chung, một hệ thống thông minh (intelligent system) bao gồm một hàm chức năng nhận một hay nhiều đối số và cho ra kết quả là một vec-tơ đầu ra, và nhiệm vụ của phương pháp học là chạy hệ thống với vec-tơ đầu vào làm đối số, tính toán vec-tơ đầu ra, so sánh nó với vec-tơ kết quả và thay đổi một ít trong trật tự để có được vec-tơ đầu ra gần đúng với vec-tơ kết quả ở lần chạy tiếp theo của hệ thống. Tham khảo Trí tuệ nhân tạo
24355
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n%20h%E1%BB%8Dc%20%C4%90%E1%BA%A1i%20Vi%E1%BB%87t%20th%E1%BB%9Di%20L%C3%BD
Văn học Đại Việt thời Lý
Văn học đời Lý là thời kỳ đầu của nền văn học Việt Nam được hình thành trong giai đoạn lịch sử của nhà Lý (1009-1225). Đặc điểm chính Về lịch sử, xem bài chính Nhà Lý. Thời Lý, sự ảnh hưởng của đạo Phật (đã có căn bản từ triều Đinh-Lê) đến chính trị, văn hóa và văn học trở thành một đặc điểm nổi bật trong thời kỳ lịch sử này. Sách Việt Nam cổ Văn học sử của Nguyễn Đổng Chi ghi lại Trong thế kỷ 10, cửa chùa đã đóng một vai trò quan trọng về văn học. Cũng vì thế mà Đạo Phật ở Việt Nam từ đó càng lắm tín đồ và được chính phủ vị nể. Các tăng sĩ đời Lý học hiểu rất rộng, uyên thâm Hán học, họ là những người tài giỏi và hay chữ nhất trong xã hội. Khi lực lượng nhà Nho chưa đủ nhiều để tham gia chính sự thì triều đình thường vời đến các bậc cao tăng trưởng lão. Cũng do tính chất độc tôn của đạo Phật trong đời sống tinh thần dân tộc đã dẫn đến nhu cầu rộng rãi trong nhân dân muốn tìm hiểu, học tập những vấn đề triết lý của đạo Phật. Để đáp ứng nhu cầu đó, bên cạnh việc thuyết giảng, các nhà sư còn tìm cách truyền phổ đạo Phật bằng cách thể hiện các nội dung triết lý vốn rất trừu tượng khó hiểu qua hình thức các bài kệ ngắn gọn, sinh động, dễ nhớ, dễ hiểu để giúp người học đạo được thuận lợi hơn trong quá trình nghiên cứu, học tập. Một đặc điểm ngôn ngữ quan trọng là văn tự được viết bằng chữ Hán nên chủ yếu, chỉ có các tầng lớp vua, quan, nhà sư mới có đủ trình độ uyên bác để sử dụng chữ viết và sáng tác thơ văn. Tình hình văn học Các tác phẩm trong Thiền Uyển tập anh1 được xem những thành tựu ban đầu của văn học thời kỳ này và vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Đặc điểm nổi bật của văn học đời Lý là lực lượng các nhà sư sáng tác chiếm đa số trên văn đàn. Có khoảng hơn 40 nhà sư sáng tác với những tên tuổi tiêu biểu như Mãn Giác, Viên Chiếu, Viên Thông, Không Lộ, Quảng Nghiêm... Các nhà sư đời Lý đã góp phần không nhỏ vào kho tàng văn học cổ Việt Nam. Định hướng sáng tác của các nhà sư tuy tập trung thuyết lý cho đạo Phật nhưng vẫn chứa đựng những yếu tố xã hội tích cực và có giá trị văn học. Bên cạnh đó, bắt đầu từ thời Lý, truyền thống yêu nước trong văn học hình thành và phát triển trong các giai đoạn sau. Chủ đề yêu nước trong mỗi tác phẩm thể hiện ở những cung bậc trầm hùng khác nhau nhưng ý nghĩa chung nhất vẫn là tiếng nói lạc quan, mang tính thời đại, tiếng nói tự hào của một dân tộc đang vượt qua nhiều thử thách. Dưới hình thức này hay hình thức khác, sự phong phú của văn học thời kỳ này biểu hiện tính chất dung hòa nhất giữa Phật giáo-Nho giáo và các tín ngưỡng dân gian thuần túy của dân tộc. Tính chất trang trọng trong ngôn ngữ biểu hiện (chữ Hán), tính uyên bác trong chiều sâu tư tưởng... khiến cho văn học đời nhà Lý trở thành một đỉnh cao, ảnh hưởng sâu rộng đến đời Trần mà gần nhiều thế kỷ văn học trung đại nối tiếp khó bề sánh kịp. Tuy mức độ ảnh hưởng và quảng bá văn chương không đi sâu vào tầng lớp bình dân nhưng văn học đời Lý vẫn khẳng định được giá trị bác học độc đáo của mình. Thời kỳ này, văn học dân gian vẫn độc lập phát triển. Chú thích Tuy Thiền Uyển Tập Anh ra đời vào thời nhà Trần 1337 nhưng hầu hết các tác phẩm trong tuyển tập này đều được sáng tác vào thời nhà Lý. Liên kết ngoài Văn học Việt Nam thời Lý Văn học trung đại Việt Nam
24360
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%C3%AAn%20ki%E1%BA%BFn%20quy%20n%E1%BA%A1p
Thiên kiến quy nạp
Thiên kiến quy nạp (tiếng Anh: inductive bias) của một giải thuật học máy đề cập đến những giả định bổ sung (additional assumptions) mà người học sẽ dùng để dự đoán đầu ra đúng cho các tình huống chưa gặp phải trước đây. Trong ngành học máy, khi một "người" nhắm mục tiêu vào xây dựng giải thuật, người đó có thể "học" để dự đoán một đầu ra đích nào đó. Với điều này, người học sẽ có được một lượng hữu hạn các ví dụ huấn luyện minh họa mối quan hệ mong muốn giữa giá trị đầu vào và đầu ra. Sau khi học thành công, người học mong muốn xấp xỉ đầu ra đúng, ngay cả cho các ví dụ vẫn chưa được thử trong suốt quá trình huấn luyện. Không có các giả định bổ sung, nhiệm vụ này không thể được giải quyết vì các tình huống chưa được xem xét có thể có đầu ra bất kì. Loại giả định cần thiết về bản chất của hàm chức năng đích được xem là thiên kiến quy nạp. Một ví dụ cổ điển của thiên kiến quy nạp là Occam's Razor, cho rằng giả thiết nào về tính ổn định của hàm chức năng mục tiêu mà đơn giản nhất là thực sự tốt nhất. Ở đây "ổn định" nghĩa là giả thuyết "người" học cho ra đầu ra đúng cho mọi ví dụ mà đã thử với giải thuật. Việc tiếp cận đến một định nghĩa hình thức hơn của thiên kiến quy nạp là dựa trên lôgic toán. Ở đây, thiên kiến quy nạp là một công thức lôgic mà, cùng với dữ liệu huấn luyện, đòi hỏi một cách lôgic giả thuyết đưa ra bởi người học. Không may mắn là thói quen hình thức này thất bại với các trường hợp thực tế, nơi mà thiên kiến quy nạp chỉ có thể được xem là một mô tả thô (ví dụ: trong trường hợp của mạng nơ-ron). Tham khảo Học máy Quy nạp
24370
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A7n%20tho%E1%BA%A1i
Thần thoại
Thần thoại, hay còn được gọi là huyền thoại, là sáng tạo của trí tưởng tượng tập thể toàn dân, phản ánh khái quát hóa hiện thực dưới dạng những vị thần được nhân cách hóa hoặc những sinh thể có linh hồn, mà dù đặc biệt, phi thường đến mấy vẫn được đầu óc người nguyên thủy nghĩ và tin là hoàn toàn có thực. Đặc điểm Tuy thần thoại tồn tại như những truyện kể về thế gian, nhưng nó không hẳn là một thể loại ngôn từ, mà là những ý niệm và biểu tượng nhất định về thế giới. Bên cạnh đó, cảm quan thần thoại nói chung không chỉ bộc lộ bằng truyện kể mà còn bộc lộ trong những hình thức khác như hành động (nghi lễ, lễ thức, điều răn dạy), các bài ca, vũ điệu v.v. Đặc điểm của thần thoại thể hiện rõ nhất trong văn hóa nguyên thủy, nơi mà vị trí của thần thoại trong tâm thức cộng đồng có thể coi tương đương với "văn hóa tinh thần" hay "khoa học" của thời cận, hiện đại. Trong đời sống của các cộng đồng người nguyên thủy, thần thoại là một hệ thống mà nhờ nó, con người tri giác và mô tả thế giới bằng các biểu tượng (của hệ thống ấy). Do đó, có thể coi thần thoại là ý thức nguyên hợp của xã hội nguyên thủy. Tiến trình lịch sử về sau, dù đã phân chia thần thoại thành các hình thái ý thức xã hội khác như tôn giáo, nghệ thuật, văn học, khoa học, tư tưởng chính trị v.v., thì các hình thái ấy vẫn bảo lưu trong chúng hàng loạt mô hình thần thoại, được cơ cấu, tái chế để đưa vào các cấu trúc mới. Thần thoại học Trong khoa học nghiên cứu, thu thập và giải nghĩa thần thoại, thần thoại học, các nhà khoa học đã từng gặp những khó khăn nhất định khi không xác lập được giới hạn của các hệ thần thoại. Thường các giới hạn ấy được người ta gắn với việc trong tác phẩm có nói đến các sinh thể siêu nhiên (thần thánh, anh hùng, ma quỷ v.v.). Theo cách hiểu này, chỉ cần vạch ra trong tác phẩm có những tên tuổi và hình tượng của thần thoại (như thần thánh và các anh hùng trong các tác phẩm văn học cổ Huy Lạp, văn học trung-cận đại châu Âu). Bên cạnh đó, có thể sử dụng tiêu chuẩn về cấu trúc, do hầu hết phạm vi của thần thoại có chất liệu từ đời sống con người nhưng được lựa chọn và gán cho những ngữ nghĩa riêng biệt chỉ có trong văn cảnh thần thoại (như các bộ phận của con người: đầu, mắt, bộ phận sinh dục v.v.; các động vật: sư tử, rắn, đại bàng; các loài cây: sồi, đa, cau, gạo; các hình dạng ký hiệu: con số, vòng tròn, chữ thập, vành khuyên v.v.). Trong những nỗ lực tìm về bản chất của thần thoại, học giả Đức E. Cassirer phân tích thần thoại như là "hình thức tượng trưng" và cho rằng ở những giai đoạn phát triển nhất định của nhân loại, thần thoại là hệ thống phổ quát duy nhất mà bằng các thuật ngữ của nó người ta tri giác thế giới. Tiếp nối tinh thần này, những nhà nghiên cứu Nga tập trung tìm hiểu chỉnh thể thế giới quan của thần thoại. Bên cạnh đó là xu hướng đặt thần thoại vào văn cảnh ứng xử của các nhóm người, khảo sát thần thoại như một hệ thống được mô hình hóa trong đầu óc các cá thể đã hợp thành nhóm. Thần thoại và văn học Thần thoại khá gần gũi với văn học khi cả hai đều có tính hình tượng trong nội dung. Tuy vậy, thần thoại mang tính hình tượng một cách vô ý thức, khác biệt với những sáng tác văn học. S. S. Averintzev cho rằng, sự khác nhau giữa thần thoại và văn học có thể kể ra ở vài phương diện: thứ nhất, thần thoại là sản phẩm sáng tạo tập thể ở thời kỳ trong ý thức chưa hình thành sự phản tư (reflexion), trong khi đó văn học đã tách khỏi folklore là sự phản tư của chủ thể tác giả. Thứ hai, các hình tượng của thần thoại được "đồ vật hóa", chưa sử dụng các thủ pháp nghệ thuật như ẩn dụ, phúng dụ hay các hình thức chuyển nghĩa khác của văn học. Thứ ba, văn học hướng tới những tiêu chuẩn thẩm mỹ mang tính tự trị, trong khi đó thần thoại còn chưa biết đến việc tách phạm vi thẩm mỹ ra khỏi cái khối các nguyên tố tự phát chưa phân lập của ý thức. Bởi vậy thần thoại, với tất cả tính nguyên hợp tư tưởng của nó trong tư duy nguyên thủy, chẳng những là thi ca nguyên thủy mà còn là tôn giáo nguyên thủy, triết học nguyên thủy, khoa học nguyên thủy v.v. Có thể nói, văn học gắn bó mật thiết với thần thoại, không chỉ về mặt nguồn gốc (thông qua truyện cổ tích và sử thi dân gian) mà còn về kiểu phản ánh thực tại (tính hình tượng). Chính vì vậy, văn học về sau thường không từ bỏ các cơ sở thần thoại. Văn học cổ đại, Phục hưng, lãng mạn, hiện thực đều sử dụng các hình mẫu, môtip thần thoại, thủ pháp thần thoại hóa, thậm chí cả kiểu sáng tác huyền thoại (chủ nghĩa huyền thoại, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo v.v.). Một loạt motip văn học được xếp vào motip thần thoại và mở rộng đến cả những motip không thần bí, nhưng được xem là gắn với những mẫu gốc (archétype) của tư duy thần thoại. Dù vậy, văn học về nguyên tắc không phải là thần thoại; và các quy luật đặc thù của văn học không phải chỉ là đem phối hợp với các mẫu gốc của thần thoại. Xem thêm Cổ tích Truyền thuyết Chú thích Armstrong, Karen. "A Short History of Myth". Knopf Canada, 2006. Bascom, William. "The Forms of Folklore: Prose Narratives". 'Sacred Narrative: Readings in the Theory of Myth. Ed. Alan Dundes. Berkeley: University of California Press, 1984. 5-29. Bulfinch, Thomas. Bulfinch's Mythology. Whitefish: Kessinger, 2004. Doty, William. Myth: A Handbook. Westport: Greenwood, 2004. Dundes, Alan. "Binary Opposition in Myth: The Propp/Levi-Strauss Debate in Retrospect". Western Folklore 56 (Winter, 1997): 39-50. Dundes, Alan. Introduction. Sacred Narrative: Readings in the Theory of Myth. Ed. Alan Dundes. Berkeley: University of California Press, 1984. 1-3. Dunes, Alan. "Madness in Method Plus a Plea for Projective Inversion in Myth". Myth and Method. Ed. Laurie Patton and Wendy Doniger. Charlottesville: University of Virginia Press, 1996. Eliade, Mircea. Myth and Reality. Trans. Willard R. Trask. New York: Harper & Row, 1963. Eliade, Mircea. Myths, Dreams and Mysteries. Trans. Philip Mairet. New York: Harper & Row, 1967. "Euhemerism". The Concise Oxford Dictionary of World Religions. Ed. John Bowker. Oxford University Press, 2000. Oxford Reference Online. Oxford University Press. UC - Berkeley Library. ngày 20 tháng 3 năm 2009. Frankfort, Henri, et al. The Intellectual Adventure of Ancient Man: An Essay on Speculative Thought in the Ancient Near East. Chicago:University of Chicago Press, 1977. Frazer, James. The Golden Bough. New York: Macmillan, 1922. Graf, Fritz. Greek Mythology. Trans. Thomas Marier. Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1993. Honko, Lauri. "The Problem of Defining Myth". Sacred Narrative: Readings in the Theory of Myth. Ed. Alan Dundes. Berkeley: University of California Press, 1984. 41-52. Kirk, G.S. Myth: Its Meaning and Functions in Ancient and Other Cultures. Berkeley: Cambridge University Press, 1973. Kirk, G.S. "On Defining Myths". Sacred Narrative: Readings in the Theory of Myth. Ed. Alan Dundes. Berkeley: University of California Press, 1984. 53-61. Leonard, Scott. "The History of Mythology: Part I". Scott A. Leonard's Home Page. August 2007.Youngstown State University , ngày 17 tháng 11 năm 2009 Littleton, Covington. The New Comparative Mythology: An Anthropological Assessment of the Theories of Georges Dumezil. Berkeley: University of California Press, 1973. Meletinsky, Elea. The Poetics of Myth. Trans. Guy Lanoue and Alexandre Sadetsky. New York: Routledge, 2000. "myth." Encyclopædia Britannica. 2009. Encyclopædia Britannica Online, ngày 21 tháng 3 năm 2009 "myths". A Dictionary of English Folklore. Jacqueline Simpson and Steve Roud. Oxford University Press, 2000. Oxford Reference Online. Oxford University Press. UC - Berkeley Library. ngày 20 tháng 3 năm 2009 Oxfordreference.com Northup, Lesley. "Myth-Placed Priorities: Religion and the Study of Myth". Religious Studies Review 32.1(2006): 5-10. O'Flaherty, Wendy. Hindu Myths: A Sourcebook. London: Penguin, 1975. Pettazzoni, Raffaele. "The Truth of Myth". Sacred Narrative: Readings in the Theory of Myth. Ed. Alan Dundes. Berkeley: University of California Press, 1984. 98-109. Segal, Robert. Myth: A Very Short Introduction. Oxford: Oxford UP, 2004. Simpson, Michael. Introduction. Apollodorus. Gods and Heroes of the Greeks. Trans. Michael Simpson. Amherst: University of Massachusetts Press, 1976. 1-9. Tham khảo 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân biên soạn, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, H. 2003 Stefan Arvidsson, Aryan Idols. Indo-European Mythology as Ideology and Science, University of Chicago Press, 2006. ISBN 0-226-02860-7 Roland Barthes, Mythologies (1957) Kees W. Bolle, The Freedom of Man in Myth. Vanderbilt University Press, 1968. Richard Buxton. The Complete World of Greek Mythology. London: Thames & Hudson, 2004. E. Csapo, Theories of Mythology (2005) Edith Hamilton, Mythology (1998) Graves, Robert. "Introduction." New Larousse Encyclopedia of Mythology. Trans. Richard Aldington and Delano Ames. London: Hamlyn, 1968. v-viii. Joseph Campbell The Hero with a Thousand Faces. Princeton University Press, 1949. Flight of the Wild Gander: Explorations in the Mythological Dimension: Select Essays 1944-1968 New World Library, 3rd ed. (2002), ISBN 978-1-57731-210-9. Mircea Eliade Cosmos and History: The Myth of the Eternal Return. Princeton University Press, 1954. The Sacred and the Profane: The Nature of Religion. Trans. Willard R. Trask. NY: Harper & Row, 1961. Louis Herbert Gray [ed.], The Mythology of All Races, in 12 vols., 1916. Lucien Lévy-Bruhl Mental Functions in Primitive Societies (1910) Primitive Mentality (1922) The Soul of the Primitive (1928) The Supernatural and the Nature of the Primitive Mind (1931) Primitive Mythology (1935) The Mystic Experience and Primitive Symbolism (1938) Charles H. Long, Alpha: The Myths of Creation. George Braziller, 1963. O'Flaherty, Wendy. Hindu Myths: A Sourcebook. London: Penguin, 1975. Barry B. Powell, Classical Myth, 5th edition, Prentice-Hall. Santillana and Von Dechend (1969, 1992 re-issue). Hamlet's Mill: An Essay Investigating the Origins of Human Knowledge And Its Transmission Through Myth, Harvard University Press. ISBN 0-87923-215-3. E. Segura, Th. Honegger (eds.), Myth and Magic: Art according to the Inklings, Walking Tree Publishers (2007), ISBN 978-3-905703-08-5. Walker, Steven F. and Segal, Robert A., Jung and the Jungians on Myth: An Introduction, Theorists of Myth, Routledge (1996), ISBN 978-0-8153-2259-7. Watt, Ian. Myths of Modern Individualism. Cambridge: Cambridge UP, 1997. Zong, In-Sob. Folk Tales from Korea. 3rd ed. Elizabeth: Hollym, 1989. Daniel-Henri Pageaux: Huyền thoại. Đọc: http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=9662 Iu.M. Lotman, B.A.Uspenski. Huyền thoại – tên gọi – văn hóa: http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=2432 Thể loại văn học Tôn giáo Truyền thống Bài cơ bản dài trung bình Nhân học văn hóa Phong tục tập quán
24374
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A5c%20ng%E1%BB%AF
Tục ngữ
Tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn, ổn định, có nhịp điệu, hình ảnh, thể hiện những kinh nghiệm của nhân dân về mọi mặt (tự nhiên, lao động sản xuất, xã hội), được nhân dân vận dụng vào đời sống, suy nghĩ và lời ăn tiếng nói hằng ngày. Cũng là 1 thể loại của văn học dân gian. Nội dung tục ngữ thường phản ánh những kinh nghiệm về lao động sản xuất, ghi nhận các hiện tượng lịch sử xã hội loài người , hoặc thể hiện triết lý dân gian của dân tộc. Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn, trong đời sống sản xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân dân sáng tác; ý đẹp hoặc từ sự vay mượn nước ngoài. Giữa hình thức và nội dung, tục ngữ có sự gắn bó chặt chẽ, một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Tục ngữ có tính chất đúc kết, khái quát hóa những nhận xét cụ thể thành những phương châm, chân lý. Hình tượng của tục ngữ là hình tượng ngữ ngôn được xây dựng từ những biện pháp so sánh, nhân hóa, ẩn dụ... Đa số tục ngữ đều có vần, gồm hai loại: vần liền và vần cách. Các kiểu ngắt nhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý, theo tổ chức ngôn ngữ thơ ca... Sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho tục ngữ. Hình thức đối: đối thanh, đối ý. Tục ngữ có thể có 1 vế, chứa 1 phán đoán, nhưng cũng có thể có thể gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán. Các kiểu suy luận: liên hệ tương đồng, liên hệ không tương đồng, liên hệ tương phản, đối lập, liên hệ phụ thuộc hoặc liên hệ nhân quả. Từ nguyên Chữ tượng hình 俗語. Xem thêm Thành ngữ Tục ngữ Việt Nam Tham khảo Văn học dân gian Thể loại văn học Nhân học văn hóa Truyền thống truyền miệng Văn học
24376
https://vi.wikipedia.org/wiki/Truy%E1%BB%81n%20thuy%E1%BA%BFt
Truyền thuyết
Truyền thuyết là tên gọi dùng để chỉ một tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật lịch sử (hoặc có liên quan đến lịch sử), phần lớn theo xu hướng lí tưởng hóa, qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân đối với những người có công với đất nước, dân tộc hoặc cộng đồng cư dân của một vùng. Bên cạnh đó cũng có những truyền thuyết vừa đề cao, vừa phê phán nhân vật lịch sử. Đặc điểm, sự phân lập thể loại Tại những truyền thống văn hóa khác nhau về loại hình, khái niệm truyền thuyết có thể được mô tả những hiện tượng không hoàn toàn giống nhau, và liên hệ một cách khác nhau với các thể loại dân gian khác, kể cả thần thoại. Trong văn hóa châu Âu, thường người ta chia hai loại: legend và tradition, tuy cùng mang ngữ nghĩa là lời truyền tụng, lời tục truyền, truyền thuyết. Huyền thoại thiên về phía gắn với các nhân vật của lịch sử linh thiêng như các thánh của Kitô giáo hoặc Hồi giáo. Truyền thống gắn với các nhân vật trần thế và không buộc phải có yếu tố thần kỳ. Tuy vậy, sự phân chia này chỉ phù hợp với những truyền thống trong đó tôn giáo thống trị đã cải biến các hệ thống thần thoại có sớm hơn (chỉ xảy ra tại các nền văn hóa Kitô giáo và Hồi giáo), và rất khó thực hiện với các truyền thống trong đó tôn giáo mang tính thế giới (như Phật giáo) vốn không bác bỏ các hệ thống thần thoại có sớm hơn. Bên cạnh đó, sự phân chia này chỉ cũng khó làm đối với những hệ thần thoại đa thần chưa trải qua biến đổi căn bản nào hoặc những truyền thống trong đó lịch sử linh thiêng không phân lập với thế tục. Trên một vài dấu hiệu khác biệt có thể rất nhỏ, sự phân lập truyền thuyết với các thể loại khác cũng có căn cứ nhất định. Truyền thuyết chung với thần thoại ở dấu hiệu về niềm tin và sự hiện diện của yếu tố thần kỳ. Truyền thuyết cũng phân biệt với thần thoại có thể ở phương diện sở hữu ngôn bản của bộ lạc hoặc toàn dòng họ. Thần thoại kể về nguồn gốc cõi đời và cõi người thì bất cứ một thành viên nào trong bộ lạc cũng có quyền kể lại; còn những truyền ngôn về các biến cố mở đầu dòng họ thì có thể thuộc sở hữu của các thành viên dòng họ. Bên cạnh đó, ở các nền văn hóa chưa có sự biến động về hệ thống tôn giáo, truyền thuyết có thể phân lập với thần thoại về quy chế, việc có hay không có liên hệ với sự thờ phụng, về nhân vật truyền thuyết,... Về tổng thể, so với thần thoại thì truyền thuyết kém linh thiêng hơn và thường mô tả những sự kiện xảy ra muộn hơn. Sự lệ thuộc về nguồn gốc (biến sinh) của truyền thuyết với thần thoại có thể được xác định, tuy không phải thần thoại là nguồn cốt truyện duy nhất của truyền thuyết. Truyền thuyết nằm ở ranh giới giữa thần thoại và các ghi chép mô tả lịch sử. Một số nhóm truyền thuyết Truyền thuyết liên quan đến Kitô giáo hoặc ít nhiều tái hiện các cốt truyện của thời tiền tông đồ của Kitô giáo, là một trong những phương tiện tái mã hóa các biểu tượng Kitô giáo trong các tượng trưng Kitô giáo. Chẳng hạn hạnh các thánh (hagiographie) thực chất là những văn bản kém thiêng hơn so với lời thiêng, được phép hòa trộn với các môtip phi Kitô giáo, kể cả việc biến đổi các thánh thành một kiểu tương tự như trong điện thờ đa thần giáo. Hạnh các thánh tương tự như mọi loại truyền thuyết, trong khi hướng tới các thể loại lịch sử, đã đồng thời ứng với ngày kỷ niệm các thánh tính theo lịch. Từ đó cho phép gắn hai chu trình ngày lễ trong năm (gồm chu kỳ Kitô giáo và chu kỳ đa thần giáo) thành một chu kỳ thời gian nghi lễ. Truyền thuyết Kitô giáo còn có một nhóm riêng trong đó không chỉ có những nhân vật của Cựu ước mà còn có cả thần và quỷ. Nhóm truyền thuyết này đã bổ sung tính lịch sử cho hệ thần thoại Kitô giáo bằng những yếu tố thần thoại tiền Thiên Chúa. Các hành động trong loại truyền thuyết này cũng được chuyển vào cái thời gian, mà đối với Kitô giáo nó thực hiện chức năng thời gian thần thoại (tức thời gian của Cựu ước và Phúc âm), thậm chí xâm nhập cả vào thời gian Kinh thánh (thời giai lịch sử linh thiêng), và vào cả thời gian thần thoại đích thực kể về cuộc đấu tranh của những người khổng lồ, lịch sử sáng thế,... Bên cạnh các truyền thuyết với hành động diễn ra trong thời gian lịch sử hoặc thời gian tôn giáo, châu Âu còn biết đến loại hình truyền thuyết diễn ra trong thời gian trừu tượng, bất định, tương tự thời gian của truyện ngụ ngôn hoặc truyện cổ tích. Đó là kiểu truyền thuyết mô tả quan hệ giữa các thánh với con người. Một số tiết đoạn của thể loại truyền thuyết này có thể được chuyển hóa thành cổ tích. Cũng cần kể đến các truyền thuyết về những cư dân tiền bối tại các địa phương mang cùng một truyền thống văn hóa. Các truyền thuyết này thường miêu tả những sinh thể khác con người, đồng thời gắn với ranh giới giữa tiền lịch sử và lịch sử. Về phương diện nào đó, loại truyền thuyết này tương đồng về loại hình với các truyền thuyết kể về khởi thủy dòng họ hoặc bộ lạc. Một số truyền thuyết khác, vượt qua ranh giới nói trên và đặt thời gian lịch sử vào tộc người, thể hiện chức năng của các thể loại lịch sử hoặc giả lịch sử. Các truyền thuyết này tiếp cận ở mức độ đáng kể thời gian của cộng đồng cư dân mang truyền thống văn hóa ấy thậm chí vượt quá thời gian này, kéo dài thời gian lịch sử thành thời gian thần thoại. Bên cạnh đó còn có loại thể truyền thuyết miêu tả những xứ sở và xã hội không tưởng, thể hiện sự tương quan không chỉ với lịch sử mà còn với tình thế xã hội cụ thể. Những truyền thuyết này miêu tả các bức tranh không tưởng về tương lai và những nhân vật không bị linh thiêng hóa, họ thực hiện chức năng khôi phục lẽ phải đã bị phá bỏ, xác lập một phúc lợi không tưởng (tức cái vốn là chức năng của nhân vật văn hóa đương thời được "dịch" ra thành ngôn ngữ của các quan hệ xã hội muộn hơn) những nét chính trong chuyện là; lấy bối cảnh lịch sử để thêm vào đó những chi tiết thần bí,bí hiểm Xem thêm Thần thoại Cổ tích Truyện truyền thuyết Việt Nam Thần thoại Hy Lạp Chú thích Tham khảo 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân biên soạn, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Từ trang 341 đến 347. Thể loại văn học Văn học dân gian Truyền thống truyền miệng Tự sự học hu:Legenda
24380
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%B4%20men%20l%E1%BB%B1c
Mô men lực
Moment (Mô men) lực là một đại lượng trong vật lý, thể hiện tác động gây ra sự quay quanh một điểm hoặc một trục của một vật thể. Nó là khái niệm mở rộng cho chuyển động quay từ khái niệm lực trong chuyển động thẳng. Biểu thức moment lực: Trong đó: M: Moment (mô men) lực (Đơn vị: N.m) F: lực tác dụng (N) d: vector khoảng cách từ tâm quay đến giá của lực F gọi là cánh tay đòn của lực F Khái niệm cánh tay đòn Là một đặc điểm về khoảng cách, là chìa khóa hoạt động của đòn bẩy, ròng rọc, bánh răng và đa số các bộ máy cơ bản có khả năng tạo ra các mô hình cơ học nâng cao. Mô men (moment) lực được đưa ra từ khi Archimedes khám phá ra nguyên lý hoạt động của đòn bẩy. Trong một đòn bẩy, Archimedes thấy rằng độ lớn của khả năng tác động lực tỷ lệ thuận với độ lớn của lực và đồng thời tỷ lệ thuận với khoảng cách từ điểm tác dụng lực tới tâm quay (cánh tay đòn). Trong chuyển động quay của vật thể rắn, nếu không có mô men lực tác động lên vật, mô men (moment) động lượng của vật thể sẽ không thay đổi theo thời gian. Khi có mô men (moment) lực, M, mô men (moment) động lượng, L, thay đổi theo phương trình tương tự như định luật 2 Newton: Nếu mô men (moment) quán tính của vật thể không thay đổi, phương trình trên trở thành: đối với một điểm tựa, tổng các mô men (moment) lực của các lực quay theo chiều kim đồng hồ bằng tổng các mô men (moment) lực của các lực quay ngược chiều kim đồng hồ Với ω là vận tốc góc của chuyển động quay của vật, có thể coi là gia tốc góc của vật thể. Đối với vật thể quay,ta có công thức tính mô men (moment): M=I*B; với B: gia tốc góc; I: momen (moment) quán tính. Điều kiện cân bằng của vật rắn có trục quay cố định (còn gọi là quy tắc mô men (moment)) Vật rắn có trục quay cố định nằm cân bằng khi tổng mô men (moment) lực làm vật quay theo chiều kim đồng hồ bằng tổng mô men (moment) lực có tác dụng làm vật quay ngược chiều kim đồng hồ. Momen của ngẫu lực Trong đó M: mô men của ngẫu lực (N.m) F: lực tác dụng d: cánh tay đòn của ngẫu lực. Xem thêm Mô men quán tính Ngẫu lực Tham khảo Liên kết ngoài Mô men Chuyển động quay Đại lượng vật lý Kĩ thuật động cơ Khái niệm vật lý Xoay tròn Mô men lực
24388
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%B4%20men%20qu%C3%A1n%20t%C3%ADnh
Mô men quán tính
Mô men quán tính là một đại lượng vật lý (với đơn vị đo trong SI là kilôgam mét vuông kg m²) đặc trưng cho mức quán tính của các vật thể trong chuyển động quay, tương tự như khối lượng trong chuyển động thẳng. Với một khối lượng m có kích thước nhỏ so với khoảng cách r tới trục quay, mô men quán tính được tính bằng: Với hệ nhiều khối lượng có kích thước nhỏ, mô men quán tính của hệ bằng tổng của mô men quán tính từng khối lượng: Với vật thể rắn đặc, chứa các phần tử khối lượng gần như liên tục về khoảng cách, phép tổng được thay bằng tích phân toàn bộ thể tích vật thể: Với dm là phần tử khối lượng trong vật và r là khoảng cách từ dm đến tâm quay. Nếu khối lượng riêng của vật là ρ thì: Với dV là phần tử thể tích. Mô men quán tính này còn gọi là mô men quán tính khối lượng (the mass moment of inertia). Cần phân biệt với mô men quán tính chính trung tâm hay mô men quán tính của tiết diện (the area moment of inertia or the second moment of area) đơn vị đo trong SI là m4 (độ dài 4) đặc trưng cho sức kháng uốn của một tiết diện theo một trục xác định, áp dụng cho kết cấu thanh, cột..v..v.. Vì các kỹ sư thường hay nói tắt là mô men quán tính mà không nói cụ thể là mô men quán tính khối lượng hay là mô men quán tính theo hình dạng tiết diện. Mô men quán tính của tiết diện đối với trục y là ,được tính như sau: Mô men quán tính của tiết diện với trục x là như sau: Tính chất: Mô men quán tính của một hình phức tạp bằng tổng mô men quán tính của của từng hình đơn giản. Mô men quán tính của tiết diện đối với trục chính trung tâm được gọi là mô men quán tính chính trung tâm của mặt cắt. Một số công thức Với một số vật thể có dạng hình học đơn giản, mô men quán tính (mô men quán tính về khối lượng) được tính như sau: Với vành tròn đồng chất, bán kính r, khối lượng m, trục quay qua tâm và vuông góc với mặt phẳng chứa vành tròn: Với đĩa tròn đồng chất, bán kính r, khối lượng m, trục quay qua tâm và vuông góc với mặt phẳng chứa đĩa tròn: Với thanh thẳng đồng chất, chiều dài l, khối lượng m, trục quay ở 1 đầu thanh: Với thanh thẳng đồng chất, chiều dài l, khối lượng m, trục quay ở chính giữa thanh: Với hình cầu đồng chất, bán kính R, khối lượng m: Với mặt cầu đồng chất, bán kính R, khối lượng m: Công thức dời trục Xem chi tiết tại định lý trục quay song song Các công thức trên được áp dụng khi trục đi qua tâm của vật thể. Trong thực tế, nhiều khi ta cần tính mô men quán tính qua một trục khác không đi qua tâm, nhưng song song với trục ban đầu (trục quay đi qua tâm của vật thể). Khi đó có thể áp dụng định lý dời trục (Steiner - Huygens): trong đó: là mô men quán tính đối với trục mới là mô men quán tính đối với trục ban đầu (trục quay đi qua tâm của vật thể) là khối lượng của vật là khoảng cách giữa hai trục Liên hệ với mô men động lượng Giống như động lượng bằng khối lượng nhân với vận tốc, trong chuyển động quay, mô men động lượng, bằng mô men quán tính, , nhân với vận tốc góc, Xem thêm Mô men lực Mô men động lượng Mô men Tham khảo Giáo trình sức bền vật liệu. T/g: Đỗ Kiến Quốc- Nguyễn Thị Hiền Lương- Tiêu Năng Long- Trần Nhật Minh- Trần Tấn Quốc Nhà xuất bản đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. Số đăng ký KHXB: 191-2010/CXB/107-08/ĐHQG-TPHCM Đại lượng vật lý Cơ học vật rắn Chuyển động quay Mô men Khái niệm vật lý Cơ học Xoay tròn
24389
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%B4%20men%20%C4%91%E1%BB%99ng%20l%C6%B0%E1%BB%A3ng
Mô men động lượng
Trong vật lý học, đại lượng mô-men động lượng (hay mô-men xung lượng, động lượng quay) là một tính chất mô men gắn liền với vật thể trong chuyển động quay đo mức độ và phương hướng quay của vật, so với một tâm quay nhất định. Với vật rắn cổ điển có kích thước nhỏ hơn nhiều khoảng cách tới tâm quay, mô men động lượng, , phụ thuộc vào động lượng, , của vật thể và véc-tơ khoảng cách từ vật thể tới tâm quay, . Với các vật thể rắn có hình dạng bất kỳ, mô men động lượng đối với 1 trục cố định có thể được tính từ mô men quán tính của vật rắn đối với trục đó, , và vận tốc góc, : Xây dựng công thức mô-men động lượng của vật rắn Ta được biết mô-men động lượng của các chất điểm đối với một trục quay có biểu thức: Đối với các vật thể rắn, mô-men động lượng của chúng đối một trục quay là tổng các mô-men động lượng của các chất điểm nhỏ: Vài biến đổi toán học và ta có: Chiếu lên 3 trục xyz và rút gọn, ta có: Với: và Từ đây ta có thể rút gọn các phương trình trên thành một phương trình vector: Với là Ten-xơ moment quán tính Định luật 2 Newton mở rộng Khi có mô men lực, , tác dụng lên vật thể thì mô men động lượng sẽ thay đổi theo phương trình tương tự như định luật 2 Newton: Nếu mô men quán tính của vật thể, , không thay đổi thì phương trình trên trở thành: Định luật bảo toàn mô men động lượng Từ công thức trên, suy ra nếu không có mô men lực tác động lên vật, mô men động lượng của vật thể sẽ không thay đổi theo thời gian. Đây chính là nội dung của định luật bảo toàn mômen động lượng. Phát biểu cụ thể: "mômen động lượng của một hệ không đổi khi hệ chịu tổng cộng các mômen ngoại lực bằng không". Cơ học lượng tử Một đại lượng có ý nghĩa tương tự như mô men động lượng cho chuyển động quay của các vật thể bé nhỏ trong cơ học lượng tử là spin (một trong nhựng đại lượng vật lý) Xem thêm Vận tốc góc Mômen lực Spin Mô men Mô men từ quỹ đạo Mô men từ spin. Tham khảo Liên kết ngoài Đại lượng vật lý Chuyển động quay Mô men Định luật bảo toàn Xoay tròn
24390
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C5%A9i%20N%C3%A9
Mũi Né
Mũi Né là một địa danh, tên một mũi biển và cũng là một phường ở thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Việt Nam. Đây là một khu du lịch nổi tiếng của tỉnh Bình Thuận và là một trong số các khu du lịch quốc gia của Việt Nam (tuy nhiên, thực tế đa phần các khu nghỉ mát lại tập trung nhiều ở phường Hàm Tiến, gần Mũi Né). Về hành chính, toàn bộ khu vực ven biển từ Mũi Né lên đến Hòn Rơm nằm cách đó khoảng 7 km là phường Mũi Né thuộc thành phố Phan Thiết. Nguồn gốc tên gọi Hiện có hai giả thiết phổ biến về địa danh Mũi Né: Xuất phát từ việc ngư dân đánh cá, mỗi khi đi biển gặp bão, họ thường đến đây nương náu. "Mũi" là cái mũi đất đưa ra biển lớn; "Né" có nghĩa là để né tránh, trốn thoát giông bão. Vùng đất này xưa kia là của người Chăm, lau sậy mọc um tùm. Công chúa Út của một vua Chăm Pa tên là công chúa Chuột, năm 16 tuổi mắc bệnh nặng qua đời nên dân chúng xây dựng miếu để thờ tại khu vực Hòn Rơm và gọi biệt danh cô là bà Nà Né. Lâu dần, người dân đọc lệch chữ "Nà Né" thành Mũi Né. Địa lý Phường Mũi Né có vị trí địa lý: Phía đông và phía nam giáp biển Đông Phía tây phường Hàm Tiến và xã Thiện Nghiệp Phía bắc giáp xã Thiện Nghiệp và huyện Bắc Bình. Phường có diện tích 35,41 km², dân số năm 1999 là 24.275 người, mật độ dân số đạt 686 người/km². Lịch sử hành chính Thời Việt Nam Cộng hòa, Mũi Né là quận lị quận Hải Long, tỉnh Bình Thuận.Sau năm 1975, quận Hải Long hợp nhất với hai quận Hàm Thuận và Thiện Giáo thành huyện Hàm Thuận, tỉnh Thuận Hải. Lúc này Mũi Né thuộc xã Hàm Dũng, huyện Hàm Thuận. Ngày 13 tháng 3 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 104-CP. Theo đó, giải thể xã Hàm Dũng để thành lập thị trấn Mũi Né - thị trấn huyện lị huyện Hàm Thuận. Ngày 30 tháng 12 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 204-HĐBT. Theo đó, chia huyện Hàm Thuận thành hai huyện mới là Hàm Thuận Bắc và Hàm Thuận Nam. Đồng thời, chuyển thị trấn Mũi Né về thị xã Phan Thiết quản lý và chuyển thành phường Mũi Né. Du lịch Mũi Né Từ một dải bờ biển hoang vu với các đồi cát đỏ như sa mạc nằm rất xa đường giao thông, chỉ có lác đác vài xóm chài nghèo, Mũi Né đã mọc lên hàng trăm khu resort. Cách trung tâm thành phố Phan Thiết 22 km về hướng Đông Bắc, Mũi Né được nối liền với thành phố biển này bởi hai con đường Nguyễn Đình Chiểu (đường 706) và Võ Nguyên Giáp (đường 706B) - được coi là tuyến trọng yếu cho ngành du lịch của Bình Thuận. Khi đến Mũi Né, du khách sẽ có thể được tham quan làng chài Mũi Né, có cơ hội chứng kiến được hoạt động của một làng chài xứ biển thuần chất Việt Nam. Từ nội thành Phan Thiết ra Mũi Né khoảng 22 km, có nhiều di tích, danh lam thắng cảnh, nơi tham quan nằm rải rác trên đường. Bạn có thể dễ dàng tìm ra hơn chục resort, danh lam di tích nổi tiếng. Việc tập trung như thế này khiến cho đường ra Mũi Né thêm phần hấp dẫn, thú vị. Thứ tự từ hướng Thành phố Hồ Chí Minh đi vào như sau: Nhà ở Mộng Cầm - một trong những người tình của Hàn Mạc Tử nằm tại số nhà 300 (số mới là 394) đường Trần Hưng Đạo. Sông Cà Ty cùng với Tháp nước Phan Thiết. Vạn Thủy Tú. Trường Dục Thanh. Chợ Phan Thiết. Tháp Chăm Phố Hài - Tháp Pôshanư. Lầu Ông Hoàng. Núi Cố cùng với mộ Nguyễn Thông. Bãi đá Ông Địa. Rặng Dừa Hàm Tiến (Rạng). Nhiều khu resort tiện nghi, cao cấp. Suối Tiên. Làng chài giàu của Mũi Né Đồi Cát Mũi Né. Hòn Rơm Tham khảo 1. Nhiều tác giả - Non nước Việt Nam - Nhà xuất bản văn hóa thông tin. 2. Sách Địa Lý Chú thích Liên kết Bãi biển Việt Nam Phan Thiết Khu du lịch Việt Nam Mũi đất Việt Nam
24394
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BA%ADn%20t%E1%BB%91c%20g%C3%B3c
Vận tốc góc
Trong vật lý, vận tốc góc là một đại lượng véc tơ cho biết một góc thay đổi nhanh như thế nào theo thời gian quanh một trục. Kí hiệu công thức của nó là (omega bé). Đơn vị SI của vận tốc góc là . Nó đóng một vai trò đặc biệt trong các phép quay vì thế còn được gọi là vận tốc quay hoặc tốc độ xoay. Trong nhiều trường hợp mà phương hướng của trục quay không thay đổi trong hệ quy chiếu, thì việc sử dụng kí hiệu vô hướng đại diện cho lượng vectơ là đủ. Định nghĩa Vận tốc góc Vận tốc góc được biểu diễn bằng một vectơ giả, cho biết hướng của trục quay và tốc độ của chuyển động quay. Hướng của vectơ giả được định hướng sao cho chỉ ra hướng quay theo quy tắc mở nút chai. Lượng của vận tốc góc bằng với đạo hàm của góc quay sau thời gian : Với vận tốc góc không đổi (ví dụ: trong chuyển động tròn đều) thì bởi vì với chu kỳ thì sẽ quét được góc 2 . Với chuyển động tròn phẳng, hướng thay đổi vận tốc đường đi tức thời của một điểm có cùng vận tốc góc với vectơ bán kính của điểm. Trong trường hợp đường cong trong không gian, điều này áp dụng cho vòng tròn hiện tại. Do đó, sự thay đổi theo hướng của tốc độ quét cũng có thể được sử dụng để xác định tốc độ góc. Nó kết quả trực tiếp từ dữ liệu của đường dẫn và không yêu cầu xác định trục quay. Số lượng vận tốc góc chủ yếu được sử dụng trong các quá trình trong đó trục quay không thay đổi. Sự thay đổi hướng và/hoặc độ lớn của vận tốc góc là kết quả của gia tốc góc. Vận tốc quỹ đạo Mỗi điểm của hệ quay đều mô tả một đường tròn mà mặt phẳng của nó vuông góc với trục quay. Tốc độ quỹ đạo điểm trên vòng tròn này là ở đây là bán kính của chuyển động tròn. Bởi vì trong khoảng vô cùng bé thì . Nếu gốc của hệ tọa độ nằm trên trục quay, khi đó vận tốc quỹ đạo về hướng và lượng bằng với tích chéo của vận tốc góc và vectơ vị trí: . bởi vì khoảng cách từ trục là với góc cực là khoảng cách góc không đổi giữa trục quay và vectơ vị trí đến điểm đang xem xét. Việc xem xét tốc độ thay đổi của vectơ vị trí này áp dụng cho bất kỳ vectơ nào có thể xoay, ví dụ:   B. cho các vectơ cơ sở () của một hệ quy chiếu xoay. Vận tốc thay đổi của nó là Vận tốc góc theo đường ngắm Chuyển động phẳng Vectơ vận tốc v của một hạt P liên quan đến một người quan sát O có thể được phân tích trong tọa độ cực. Thành phần xuyên tâm của vectơ vận tốc không thay đổi hướng của đường ngắm. Biểu thức tồn tại giữa thành phần tiếp tuyến và tốc độ góc của tia ngắm: Cần lưu ý rằng vận tốc góc theo đường ngắm phụ thuộc vào vị trí (tùy ý) của người quan sát. Chuyển động trong không gian Trong không gian ba chiều, vận tốc góc được đặc trưng bởi lượng và hướng của nó. Như trong trường hợp hai chiều, hạt có một thành phần của vectơ vận tốc theo hướng của vectơ bán kính và một thành phần khác vuông góc với nó. Mặt phẳng có vectơ hỗ trợ (vị trí của người quan sát) và vectơ chỉ phương và định nghĩa một mặt phẳng quay trong đó chuyển động của hạt xuất hiện trong một khoảnh khắc như trong trường hợp hai chiều. Trục quay khi đó vuông góc với mặt phẳng này và định nghĩa hướng của vectơ vận tốc góc tức thời. Vectơ bán kính và vận tốc được giả định là đã biết. Ta có biểu thức: Xem thêm Mô men động lượng Tốc độ góc Areal velocity Nhóm quay Đại số Lie Vận tốc Vận tốc-4 Chuyển động tròn Tham khảo Liên kết ngoài Đại lượng vật lý Chuyển động quay Góc Vận tốc
24398
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201934
Giải vô địch bóng đá thế giới 1934
Giải bóng đá vô địch thế giới 1934 (tên chính thức là 1934 Football World Cup - Italy / Campionato Mondiale di Calcio) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ hai và đã được tổ chức từ 27 tháng 5 đến 10 tháng 6 năm 1934 tại Ý. Đây là lần đầu tiên giải bóng đá vô địch thế giới được tổ chức tại châu Âu và một quốc gia theo chủ nghĩa phát xít. Sau thành công của World Cup 1930, số đội tuyển đăng ký tăng vọt khiến giải lần đầu tiên có vòng loại. Đây là giải duy nhất mà đội chủ nhà cũng phải tham dự vòng loại và đội đương kim vô địch (Uruguay) không tham dự để tẩy chay các đội châu Âu bởi vì họ không đến nước mình dự giải năm 1930. Đội tuyển Anh tiếp tục tẩy chay giải đấu do không phải thành viên FIFA. Thông tin nổi bật khác là đội tuyển Ai Cập là đội tuyển quốc gia đầu tiên thuộc châu Phi tham dự một kỳ World Cup. Kỳ World Cup này có sự tổ chức với quy mô vượt trội về điều kiện vật chất so với giải năm 1930 khi có 8 sân vận động được xây mới hay sửa chữa trên toàn nước Ý. Nhưng cũng như Thế vận hội 1936, giải đấu này bị chính quyền Ý mang làm công cụ tuyên truyền cho chủ nghĩa phát xít khiến có đôi chút làm giảm sự thành công của giải. Sau 15 ngày và 17 trận đấu, Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý lên ngôi vô địch. Vòng loại Đây là lần đầu tiên giải có vòng loại, 32 đội bóng được chia thành 12 nhóm để thi đấu chọn ra 16 đội vào vòng chung kết. Địa điểm Đội hình Sơ đồ thi đấu Vòng 16 đội Tứ kết Đá lại Bán kết Tranh hạng ba Chung kết Vô địch Cầu thủ ghi bàn 5 bàn Oldřich Nejedlý 4 bàn Edmund Conen Angelo Schiavio 3 bàn Raimundo Orsi Leopold Kielholz 2 bàn Johann Horvath Bernard Voorhoof Antonín Puč Abdelrahman Fawzi Karl Hohmann Ernst Lehner Géza Toldi Giovanni Ferrari Giuseppe Meazza José Iraragorri Sven Jonasson 1 bàn Ernesto Belis Alberto Galateo Josef Bican Toni Schall Karl Sesta Matthias Sindelar Karl Zischek Leônidas Jiří Sobotka František Svoboda Jean Nicolas Georges Verriest Stanislaus Kobierski Rudolf Noack Otto Siffling György Sárosi Pál Teleki Jenő Vincze Enrique Guaita Kick Smit 1 bàn (tiếp) Leen Vente Ştefan Dobay Isidro Lángara Luis Regueiro Gösta Dunker Knut Kroon André Abegglen Willy Jäggi Aldo Donelli Bảng xếp hạng giải đấu Tham khảo Liên kết ngoài Trang chính thức của World Cup 1934 Thông tin trên RSSSF có những khác biệt với của FIFA Bóng đá năm 1934 Giải vô địch bóng đá thế giới theo năm Giải đấu bóng đá quốc tế tổ chức bởi Ý
24399
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201938
Giải vô địch bóng đá thế giới 1938
Giải bóng đá vô địch thế giới 1938 (tên chính thức là Coupe du Monde 1938) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 3, và đã được tổ chức từ ngày 4 tháng 6 đến ngày 19 tháng 6 năm 1938 tại Pháp. Đây là lần thứ hai giải bóng đá vô địch thế giới được tổ chức tại châu Âu sau lần đầu tiên là vào năm 1934 tại Ý. Sau 16 ngày và 18 trận đấu, Ý đã bảo vệ được danh hiệu vô địch thế giới của mình và là đội đầu tiên làm được điều này. Đây cũng là kỳ World Cup cuối cùng trong 3 kỳ World Cup đầu tiên trước khi Giải đấu bị gián đoạn trong 2 kỳ tiếp theo (1942 và 1946) vì Chiến tranh thế giới thứ hai. Vòng loại 37 đội bóng tham dự vòng tuyển để chọn ra 16 đội vào vòng chung kết. Nước chủ nhà Pháp và đội đương kim vô địch thế giới Ý được quyền vào thẳng vòng chung kết. Lý do Pháp được chọn cho lần giải này đã làm mất lòng nhiều nước vì họ tin rằng lần này phải được tổ chức tại Nam Mỹ (sau khi đã được tổ chức tại châu Âu lần trước). Do đó, hai đội: Argentina và Uruguay đã không tham dự vòng loại. Đội tuyển bóng đá quốc gia Áo, sau khi đã qua vòng tuyển, đã phải rút ra vì khi giải vô địch xảy ra thì Áo bị Đức Quốc xã chiếm. FIFA mời đội Anh thay thế vào chỗ của Áo nhưng họ tiếp tục từ chối. Vì lý do đó, đội Thụy Điển là đội duy nhất không phải đấu vòng một mà trực tiếp được vào vòng hai vì đội Áo là đối thủ được bốc thăm sẽ đấu với họ ở vòng một. Giải đấu này đánh dấu cho đội Indonesia khi là đội đầu tiên đến từ châu Á giành quyền tham dự giải với tên gọi Đông Ấn Hà Lan. Địa điểm thi đấu Đội hình Kết quả Vòng 16 đội Đá lại Tứ kết Đá lại Bán kết Tranh hạng ba Chung kết Vô địch 30px Danh sách cầu thủ ghi bàn 7 bàn Leônidas 5 bàn György Sárosi Gyula Zsengellér Silvio Piola 4 bàn Gino Colaussi Ernest Wilimowski 3 bàn Perácio Romeu Héctor Socorro Harry Andersson Arne Nyberg Gustav Wetterström André Abegglen 2 bàn Oldřich Nejedlý Jean Nicolas Pál Titkos Ștefan Dobay 1 bàn Henri Isemborghs Roberto Tomás Fernández José Magriñá Vlastimil Kopecký Josef Košťálek Josef Zeman Oscar Heisserer Émile Veinante Josef Gauchel Wilhelm Hahnemann Vilmos Kohut Géza Toldi Pietro Ferraris Giuseppe Meazza Arne Brustad Fryderyk Scherfke Iuliu Barátky Silviu Bindea Tore Keller Sven Jonasson Alfred Bickel Eugen Walaschek phản lưới nhà Sven Jacobsson (trong trận gặp ) Ernst Lörtscher (trong trận gặp ) Liên kết ngoài Trang Web chính thức của Liên đoàn Bóng đá thế giới (FIFA) Trang Web chính thức của FIFA về World Cup Bảng xếp hạng giải đấu Chú thích Bóng đá năm 1938 1938 1938 Tẩy chay thể thao quốc tế
24404
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201950
Giải vô địch bóng đá thế giới 1950
Giải vô địch bóng đá thế giới 1950 (tên chính thức là 1950 Football World Cup - Brazil hay IV Campeonato Mundial de Futebol trong tiếng Bồ Đào Nha) là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ tư và là giải vô địch bóng đá thế giới đầu tiên được tổ chức sau hai năm 1942 và 1946 không diễn ra do ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là lần thứ hai giải vô địch bóng đá thế giới được tổ chức tại Nam Mỹ sau lần đầu tiên là vào năm 1930 tại Uruguay. Giải đấu được tổ chức từ ngày 24 tháng 6 đến 16 tháng 7 năm 1950 tại Brasil. Sau 23 ngày và 22 trận đấu, Uruguay đã trở thành vô địch thế giới lần thứ hai. Còn Ý trở thành đội đương kim vô địch đầu tiên bị loại ngay từ vòng bảng. Đây là giải đấu duy nhất cho đến nay mà đội vô địch không được xác định bởi một trận chung kết duy nhất. Đây cũng là giải đấu đầu tiên mà chiếc cúp được đặt tên là Jules Rimet, để đánh dấu kỷ niệm 25 năm Jules Rimet làm chủ tịch FIFA. Vòng loại 34 đội bóng tham dự vòng loại được chia vào 10 nhóm để chọn ra 11 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Brasil và đội đương kim vô địch Ý. Đáng chú ý, ĐT Anh đã lần đầu tiên xuất hiện tại World Cup sau 3 kỳ từ chối tham dự. Một số đội đã từ chối tham gia giai đoạn vòng loại, bao gồm hầu hết các quốc gia đứng sau Bức màn Sắt như Liên Xô, Tiệp Khắc và Hungary. Cuối cùng, Nam Tư là quốc gia Đông Âu duy nhất tham dự giải đấu. Argentina, Ecuador và Peru ở Nam Mỹ rút lui sau lễ bốc thăm vòng loại, trường hợp của Argentina là do tranh chấp với Liên đoàn bóng đá Brazil. Điều này có nghĩa là Chile, Bolivia, Paraguay và Uruguay đã mặc định vượt qua vòng loại của Nam Mỹ. Ở châu Á, Philippines, Indonesia và Miến Điện đều rút lui, Ấn Độ nghiễm nhiên vào vòng chung kết. Tại châu Âu, Áo và Bỉ rút lui khỏi vòng loại, đồng nghĩa với việc Thụy Sĩ và Thổ Nhĩ Kỳ đã đủ điều kiện mà không cần phải thi đấu lượt trận cuối cùng. Các sân vận động Đội hình Phân nhóm Thể thức Ban tổ chức giải đấu của Brazil đã đề xuất một thể thức thi đấu mới nhằm tối đa hóa các trận đấu và doanh thu bán vé bởi sân vận động và cơ sở hạ tầng quá đắt đỏ. 13 đội được chia thành bốn bảng đấu vòng một, đội đứng đầu mỗi bảng sẽ tiến vào vòng bảng cuối cùng, thi đấu theo thể thức vòng tròn tính điểm để xác định đội giành cúp. Một giải đấu loại trực tiếp, như đã được sử dụng vào năm 1934 và 1938, chỉ có mười sáu trận đấu (bao gồm cả trận tranh hạng ba), trong khi hai vòng đấu theo thể thức bảng được đề xuất sẽ đảm bảo ba mươi trận và do đó doanh thu từ vé nhiều hơn. Ngoài ra, thể thức này sẽ đảm bảo mỗi đội chơi ít nhất ba trận và tạo thêm động lực cho các đội châu Âu thực hiện hành trình đến Nam Mỹ và thi đấu. FIFA đã phản đối đề xuất này, nhưng sau đó đã xem xét lại khi phía Brasil đe dọa sẽ không đăng cai giải đấu nếu thể thức này không được sử dụng. Ở mỗi bảng, các đội được 2 điểm nếu thắng và 1 điểm nếu hòa. Nếu các đội đứng đầu trong một bảng bằng điểm nhau, một trận playoff sẽ được tổ chức để xác định đội chiến thắng trong nhóm. Trọng tài Châu Âu Alois Beranek Arthur Edward Ellis George Reader Reginald Leafe Charles de La Salle Generoso Dattillo Giovanni Galeati Karel van der Meer José da Costa George Mitchell José García Carrión Ramón Roma Azon Gunnar Dahlner Ivan Eklind Jean Lutz Benjamin Griffiths Leo Lemešić Bắc Mỹ Estevez Texada Prudencio Garcia Nam Mỹ Alfredo Álvarez Alberto da Gama Malcher Mario Gardelli Mario Gonçalves Viana Sergio Bustamante Cayetano de Nicola Mario Ruben Heyn Esteban Marino Vòng bảng Bảng 1 Bảng 2 Bảng 3 Bảng 4 Vòng đấu chung kết Vô địch 30px Danh sách cầu thủ ghi bàn 8 bàn Ademir 5 bàn Óscar Míguez 4 bàn Chico Estanislau Basora Telmo Zarra Alcides Ghiggia 3 goals Karl-Erik Palmér Stig Sundqvist Juan Alberto Schiaffino 2 bàn Baltazar Jair Zizinho Atilio Cremaschi Riccardo Carapellese Silvestre Igoa Sune Andersson Hasse Jeppson Jacques Fatton Željko Čajkovski Kosta Tomašević 1 bàn Alfredo Friaça Maneca Andrés Prieto George Robledo Fernando Riera Wilf Mannion Stan Mortensen Ermes Muccinelli Egisto Pandolfini Horacio Casarín Héctor Ortiz Atilio López César López Fretes Bror Mellberg Charles Antenen René Bader Joe Gaetjens Joe Maca Gino Pariani Frank Wallace Julio Pérez Obdulio Varela Ernesto Vidal Rajko Mitić Stjepan Bobek Tihomir Ognjanov phản lưới nhà José Parra (trận gặp Brasil) Bảng xếp hạng giải đấu Pháp và Ấn Độ là hai đội bỏ cuộc. Tham khảo Liên kết ngoài World Cup 1950 finals 1950 FIFA World Cup Brazil ™ - Overview - FIFA.com Bóng đá năm 1950 1950 Giải đấu bóng đá quốc tế tổ chức bởi Brasil
24405
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A1ch%20Th%C3%A1i%20B%C6%B0%E1%BB%9Fi
Bạch Thái Bưởi
Bạch Thái Bưởi (白泰𣞻, 1874 – 22 tháng 7 năm 1932) là một doanh nhân người Việt đầu thế kỷ 20. Các lĩnh vực kinh doanh nổi bật nhất của Bạch Thái Bưởi là hàng hải, khai thác than và in ấn. Cuộc đời Khởi nghiệp Bạch Thái Bưởi sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở làng An Phúc (Yên Phúc), huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay là Yên Phúc, Hà Đông, Hà Nội), tên thật là Đỗ Thái Bửu. Gia đình ông vốn họ Đỗ nhưng vì cha ông là Đỗ Văn Cóp mất sớm, ông phải phụ giúp mẹ kiếm sống bằng nghề bán hàng rong. Sau có một người nhà giàu họ Bạch nhận ông làm con nuôi và cho ăn học, ông mới đổi từ họ Đỗ sang họ Bạch. Sau thời gian học quốc ngữ và tiếng Pháp; ông bỏ học đi làm thư ký cho một hãng buôn của người Pháp ở phố Tràng Tiền, Hà Nội. Khi đó ông có tên là Ký Năm. Năm 1894, ông chuyển sang làm cho một xưởng thuộc hãng thầu công chính và ở đây, lần đầu tiên ông được tiếp xúc, thu nhận những hiểu biết về máy móc, cách tổ chức, quản lý sản xuất. Năm 1895, ông được Phủ Thống sứ Bắc kỳ chọn làm người giới thiệu những sản phẩm của Việt Nam tại Hội chợ Bordeaux, nơi ông đã được tiếp xúc trực tiếp với xã hội phương Tây. Khi về nước, với kiến thức và kinh nghiệm thu được trong thời gian ở Pháp, ông đã xin làm giám đốc công trình cầu Long Biên. Nhận thấy người Pháp đang cần gỗ xây dựng đường sắt, Bạch Thái Bưởi đã hùn vốn với một người Pháp làm đại lý cung cấp tà vẹt gỗ cho Sở Hoả xa Đông Dương. Sau ba năm kinh doanh, ông đã trở nên giàu có và đã tách riêng để kinh doanh độc lập bằng việc bỏ vốn ra buôn ngô, nhưng lần này ông đã thất bại và lỗ nặng. Mặc dù vậy, ông vẫn tung nốt những đồng vốn còn lại vào một vụ đấu thầu hiệu cầm đồ của người Hoa ở Nam Định và ông đã trúng thầu. ông lãnh thêm việc thầu thuế chợ ở Vinh (1906–1913), ở Nam Định (1906–1909), ở Thanh Hóa (1907–1909). Hàng hải Năm 1909, Bạch Thái Bưởi đã bước vào một lĩnh vực kinh doanh mới mẻ là ngành vận tải đường sông, bắt đầu bằng việc thuê lại 3 chiếc tàu (Phi Phụng, Phi Long và Khoái Tử Long) của một hãng tàu Pháp chở thư và hành khách đường sông Bắc kỳ, có tên là A. R. Marty, vừa hết hạn hợp đồng với chính phủ. Ông đã cho tàu chạy hai tuyến đường: Nam Định – Hà Nội và Nam Định – Bến Thủy (Vinh) Lúc này, ông đã phải đối mặt với hai đối thủ nặng ký nhất là chủ tàu người Pháp và người Hoa. Và cuộc đụng độ không cân sức đã xảy ra, ông hạ giá vé xuống một thì người Hoa hạ giá vé xuống hai. Các chủ tàu người Hoa lại trường vốn và đã quyết chí đánh bại Bạch Thái Bưởi bằng đủ mọi cách. Trong tình thế đó, Bạch Thái Bưởi đã nghĩ tới một thứ vũ khí mà người Hoa không thể có, đó là tinh thần dân tộc. Bạch Thái Bưởi đã tin rằng, sự nghiệp kinh doanh của mình diễn ra trên tổ quốc mình, xung quanh là đồng bào minh chắc chắn sẽ thắng lợi. Ông cho người tới các bến tàu nêu rõ những thiệt thòi của người Việt, kêu gọi về tình đồng bào, tinh thần tương thân tương ái. Ông treo một cái ống trên tàu, để ai thấy việc làm của ông là đáng khuyến khích, bỏ tiền vào, giúp cho chủ tàu giảm lỗ. Kết quả hành khách dần bỏ tàu Hoa mà đi tàu Việt. Ông đã sử dụng thành công tinh thần dân tộc như một vũ khí để chiến thắng đối thủ cạnh tranh của mình. Từ sự thành công đó, ông đã thâu tóm các đội tàu của các công ty Pháp và Hoa đã bị phá sản như Marty d'Abbadie, công ty Desch Wander... tên của những con tàu của các hãng bị ông đánh bại và mua lại đã được gắn đầy trên bức tường trong phòng làm việc của ông. Năm 1915, có một sự kiện đáng lưu ý trong tầm nhìn của Bạch Thái Bưởi, đó là ông đã quyết định mua lại xưởng sửa chữa và đóng tàu của A. R. Marty, một trong những xưởng đóng tàu đầu tiên ở Hải Phòng. Sau bảy năm kinh doanh trên sông nước, Bạch Thái Bưởi đã tạo dựng một cơ ngơi khép kín từ chạy tàu đến đóng tàu, sửa chữa tàu và các chi nhánh ở nhiều nơi. Đến năm 1916, Bạch Thái Bưởi đã chuyển trụ sở của hãng từ Nam Định xuống Hải Phòng, và tại đây, một công ty hàng hải mang tên Giang Hải Luân thuyền Bạch Thái Bưởi công ty đã ra đời. Năm 1917, hãng Deschwanden của Pháp bị phá sản, Bạch Thái Bưởi mua lại sáu chiếc tàu khác của hãng này. Ngày 7 tháng 9 năm 1919, công ty của Bạch Thái Bưởi đã hạ thủy tại Cửa Cấm (Hải Phòng) chiếc tàu Bình Chuẩn hoàn toàn do người Việt thiết kế, thi công. Con tàu Bình Chuẩn dài 42m, rộng 7,2m, cao 3,6m, trọng tải 600 tấn, động cơ compound 450 mã lực, chạy bằng hơi nước có dung tích tám mét khối, vận tốc đạt 8 hải lý/giờ. Tàu Bình Chuẩn chạy chuyến đầu tiên từ Hải Phòng cập bến Sài Gòn ngày 17 tháng 9 năm 1920, trong sự đón chào nồng nhiệt của giới công thương Sài Gòn lúc đó. Sự việc này được xem là sự kiện tượng trưng cho "Phong trào chấn hưng thương trường cổ động thực nghiệp" của giới tư sản Việt Nam lúc đó. Bạch Thái Bưởi được mệnh danh là Chúa sông Bắc kỳ. Công ty của Bạch Thái Bưởi bắt đầu mở rộng tầm hoạt động khắp Đông Dương và các nước lân cận như Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, và Philippines. Đỉnh cao phát triển của công ty là khoảng cuối thập niên 1920 đầu 1930; khi ấy công ty có trên 40 con tàu cùng sà lan chạy trên tất cả các tuyến đường sông Bắc kỳ và cả các nước và vùng lãnh thổ lân cận, với số lượng nhân viên lên tới 2.500 người làm việc trên các đội tàu, xưởng đóng tàu, dưới sự điều khiển của một quản đốc có tên là Nguyễn Văn Phúc, một người tâm phúc của Bạch Thái Bưởi. Công ty đã tiến hành bảo dưỡng định kỳ, tân trang những con tàu mua lại đã rách nát và đóng mới hàng loạt những tàu pha sông biển. Văn phòng và chi nhánh của công ty có ở các thành phố lớn như Hà Nội, Nam Định, Tuyên Quang, Việt Trì, Bến Thủy, Quy Nhơn, Đà Nẵng, Sài Gòn. Mỏ Từ lợi nhuận thu được từ kinh doanh hàng hải, Bạch Thái Bưởi tiếp tục đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác, với ước vọng trở thành nhà kinh doanh tổng hợp, hiện đại như kiểu công ty Ford của Hoa Kỳ, với các lĩnh vực như: đấu thầu thu thuế ở Chợ Rồng, Nam Định, mở ty nước ở Thái Bình, mở quán cơm Tây ở Thanh Hoá... Đặc biệt, Bạch Thái Bưởi đã đầu tư thành công vào một lĩnh vực được coi là cấm kỵ của thời Pháp thuộc, đó là ngành khai thác mỏ. Các mỏ than lúc bấy giờ đều nằm trọn trong tay người Pháp. Năm 1928, Bạch Thái Bưởi dốc nhiều tiền vào việc khởi nghiệp khai mỏ. Ông được cấp phép khai mỏ than ở vùng Quảng Yên. Nhận thức rằng muốn hơn người Pháp trong việc khai mỏ cần phải có người điều hành giỏi chuyên môn, thấu đáo kỹ thuật, ông nhờ người thân tín ở Pháp, tuyển dụng ở các trường kỹ thuật những người có tài năng về Việt Nam làm việc. Sau thành công trong khai thác than, ông kinh doanh bất động sản ở Đồ Sơn, Hải Phòng. Văn hóa – Ấn bản Có lẽ đóng góp quan trọng thứ hai sau kinh doanh hàng hải của Bạch Thái Bưởi là kinh doanh văn hoá. Ông đã đầu tư xây dựng "Công ty in và Xuất bản Bạch Thái Bưởi" (sau là Đông Kinh ấn quán). Năm 1921, Bạch Thái Bưởi cho ra đời tờ báo hàng ngày mang tên Khai hóa nhật báo với tôn chỉ: "Một là giúp đồng bào ta tự khai hoá, dạy bảo lẫn nhau... mở mang con đường thực nghiệp. Hai là giãi bày cùng Chính phủ bảo hộ những yêu cầu thiết thực, chính đáng của quốc dân. Ba là diễn giải những ý kiến, những lợi ích, tác hại của các công việc Chính phủ đang làm...". Mục đích cuối cùng của phong trào thực nghiệp mà Bạch Thái Bưởi phát động và cổ suý chỉ cốt làm giàu "vì dân giàu thì nước mới giàu". Tờ báo Khai hóa ra được 22 số trước khi đình bản. Ông ủng hộ lập trường của Việt Nam Quốc dân Đảng. Cuối đời Bạch Thái Bưởi còn dự định tạo dựng nhiều công trình như xây một nhà máy xay gạo ở Nam Định với những thiết bị tân tiến mua tận Hambourg (Đức), chương trình đặt ống cống, xây nhà máy nước, dựng nhà máy điện cho thành phố Nam Định và cả việc đặt đường sắt Nam Định – Hải Phòng,... nhưng ông đã không thực hiện được. Bạch Thái Bưởi mất ngày 22 tháng 7 năm 1932 tại Hải Phòng, sau một cơn đau tim. Vinh danh Tại quê nhà Yên Phúc, khu Đô thị Văn Quán, Hà Đông, Hà Nội có con đường mang tên ông. Tại Nha Trang con đường hoa giấy đẹp nhất mang tên ông. Ông được giới thiệu trong Sách giáo khoa lớp 4 tập 1 với tựa bài " "Vua tàu thủy" Bạch Thái Bưởi", theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Bài này thuộc chủ đề "Có chí thì nên". Hậu duệ Vợ chồng Bạch Thái Bưởi có tòa nhà hai tầng (gồm nhiều căn) ở góc đường Đinh Tiên Hoàng - Trần Hưng Đạo (quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng). Thời điểm tháng 10/1958, khi lên đường tham gia kháng chiến, ông Bạch Thái Hải (cháu nội của cụ Bạch Thái Bưởi) đã gửi Thành phố Hải Phòng giữ giúp tòa nhà. Khi gửi có giấy viết tay. 34 năm sau, ông Bạch Thái Hải có đơn xin lại nhà từ năm 1992. Tháng 7/1993, Văn phòng Trung ương Đảng có văn bản chuyển đơn kiến nghị của ông Hải cho Thành phố Hải Phòng giải quyết. Tuy nhiên, việc đòi nhà không có kết quả vì không còn giấy tờ lưu trữ. Sau đó, ba căn nhà mặt tiền đường Đinh Tiên Hoàng được Thành phố Hải Phòng bán thanh lý cho ba hộ dân. Sau nhiều năm đòi lại nhà để làm nơi thờ tự không có kết quả, vào tháng 12/2019, bà Bạch Quế Hương (chắt nội ông Bạch Thái Bưởi) muốn trả lại cho Nhà nước các bằng khen, danh hiệu đã được trao tặng. Xem thêm Vua lốp Nguyễn Văn Chẩn (miền Bắc) Vua ngân hàng Nguyễn Tấn Đời (miền Nam) Vua công nghiệp (Hoa Kỳ) Chú thích Đọc thêm Bạch Thái Bưởi: "Cậu ký" đường thủy trên Việt Nam Net ngày 13 tháng 10 năm 2004 Bạch Thái Bưởi "Chúa sông Bắc Kỳ" trên báo Công nghiệp ngày 29 tháng 1 năm 2005 Lê Minh Quốc, Bạch Thái Bưởi - Khẳng Định Doanh Tài Đất Việt. NXB Đông Tây. Thương nhân Việt Nam Mất tại Hải Phòng Sinh tại Hà Đông Nhà đầu tư kinh doanh có trụ sở tại Hải Phòng (tính đến năm 1954) Nhà đầu tư kinh doanh người Việt Nam (tính đến năm 1954)
24406
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201954
Giải vô địch bóng đá thế giới 1954
Giải bóng đá vô địch thế giới 1954 (tên chính thức là 1954 Football World Cup - Switzerland / Championnat du Monde de Football 1954) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 5 và đã được tổ chức từ ngày 16 tháng 6 đến 4 tháng 7 năm 1954 tại Thụy Sĩ. Đây là lần thứ ba giải bóng đá vô địch thế giới được tổ chức tại châu Âu sau các năm 1934 tại Ý và 1938 tại Pháp. Đây là lần đầu tiên giải được chiếu trên truyền hình. Tây Đức lần đầu tiên giành chức vô địch thế giới sau khi thắng Hungary 3 - 2 ở trận chung kết. Vòng loại 37 đội bóng tham dự vòng tuyển và được chia vào 13 nhóm để chọn ra 14 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Thụy Sĩ và đội đương kim vô địch thế giới Uruguay. Tóm tắt giải đấu Thể thức Giải đấu năm 1954 áp dụng một thể thức khác biệt. 16 đội tuyển tham dự được chia thành bốn bảng 4 đội. Mỗi bảng gồm hai đội hạt giống và hai đội không hạt giống. Các trận đấu trong bảng chỉ giữa đội hạt giống và không hạt giống, vì vậy chỉ có 4 trận đấu mỗi bảng. Điều này khác với thể thức vòng tròn thông thường khi mỗi đội gặp tất cả các đội khác trong bảng, do vậy mỗi bảng có 6 trận đấu. Một điều khác biệt nữa là hiệp phụ, điều mà hầu hết các giải đấu khác không sử dụng ở vòng bảng. Nếu trận đấu hòa sau 90 phút thì tiếp tục chơi hiệp phụ và kết quả trận đấu được tính sau hai hiệp phụ. Một trận thắng tính 2 điểm, một trận hòa 1 điểm. Hai đội đứng đầu bảng vào vòng loại trực tiếp. Nếu hai đội đầu bảng bằng điểm thì tổ chức bốc thăm xác định đội nhất bảng. Nếu đội thứ nhì và thứ ba bằng điểm thì họ phải đấu thêm một trận play-off để phân định đội lọt vào vòng sau. Trên thực tế hai trong bốn bảng cần đến trận play-off và hai bảng còn lại phải bốc thăm chọn ra đội đầu bảng. Hai trận play-off giữa Thụy Sĩ với Ý và Thổ Nhĩ Kỳ với Tây Đức. Trong cả hai trận này đội không hạt giống (Thụy Sĩ và Tây Đức) đã lặp lại chiến thắng trước đội hạt giống (Ý và Thổ Nhĩ Kỳ) để đi tiếp. Trong hai bảng còn lại, Uruguay và Brasil lần lượt xếp đầu bảng, trên Áo và Nam Tư. Thể thức lại tiếp tục khác biệt ở vòng loại trực tiếp, khi bốn đội đầu bảng chơi một nhánh và bốn đội nhì bảng chơi nhánh còn lại để xác định hai đội chơi trận chung kết. Ở các giải đấu sau này đội nhất bảng sẽ gặp đội nhì bảng khác ở vòng loại trực tiếp đầu tiên. Nếu trận đấu vòng loại trực tiếp hòa sau 90 phút, hai đội chơi tiếp 30 phút hiệp phụ. Thời điểm này chưa có sút luân lưu. Vì vậy nếu tỉ số tiếp tục hòa, hai đội sẽ bốc thăm chọn ra đội thắng. Riêng trận chung kết nếu hòa sau hai hiệp phụ, sẽ có một trận tái đấu. Nếu trận tái đấu tiếp tục hòa sau hai hiệp phụ mới tổ chức bốc thăm. Thực tế trong giải đấu này, không có trận nào hòa sau hai hiệp phụ nên không cần bốc thăm hoặc tái đấu. Lựa chọn hạt giống Trước khi vòng loại kết thúc, 8 đội hạt giống đã được FIFA lựa chọn dựa vào thứ hạng trên bảng xếp hạng thế giới. Đó là Anh, Áo, Brasil, Hungary, Pháp, Tây Ban Nha, Uruguay và Ý. Việc xếp hạt giống sớm đã gặp vấn đề khi Thổ Nhĩ Kỳ bất ngờ loại Tây Ban Nha ra khỏi vòng chung kết. FIFA giải quyết trường hợp này bằng cách chọn luôn Thổ Nhĩ Kỳ làm hạt giống thế chỗ Tây Ban Nha. Các kết quả đáng chú ý Tây Đức mới chỉ trở lại làm thành viên đầy đủ của FIFA từ năm 1950 và không được xếp làm hạt giống, đã thắng thuyết phục trận đầu tiên trước hạt giống Thổ Nhĩ Kỳ. Huấn luyện viên của Tây Đức là Sepp Herberger đã đánh cược khi chỉ cử đội hình dự bị để gặp đội hạt giống Hungary. Họ thua đậm trận đấu đó với tỉ số 3–8 và họ buộc phải đá trận play-off, gặp lại Thổ Nhĩ Kỳ. Tây Đức cũng thắng dễ trận này. Đội trưởng của tuyển Hungary Ferenc Puskás, được phần đông mọi người cho là cầu thủ xuất sắc nhất thế giới ở thời điểm đó, đã bị hậu vệ Tây Đức Werner Liebrich gây chấn thương và phải vắng mặt ở hai trận tiếp theo của đội nhà. Puskás thi đấu trận chung kết dù chưa ở trạng thái sung sức nhất. Ở tứ kết, ứng viên vô địch Hungary thắng Brasil 4–2 trong một trận đấu được coi là một trong những trận đấu bạo lực nhất lịch sử bóng đá, được đặt một cái tên tai tiếng là Trận chiến ở Berne. Đương kim vô địch Uruguay hạ Anh cũng với tỉ số 4–2. Tây Đức vượt qua Nam Tư 2–0 và Áo thắng chủ nhà Thụy Sĩ 7–5, trở thành trận đấu có nhiều bàn thắng nhất lịch sử World Cup. Tại bán kết, Tây Đức thắng Áo 6–1. Ở trận bán kết còn lại, Hungary và Uruguay đã chơi một trận cầu hấp dẫn bậc nhất giải đấu. Hết hiệp một Hungary dẫn Uruguay 1–0. Trận đấu phải bước sang hiệp phụ khi tỉ số ở hai hiệp chính là 2–2. Sándor Kocsis phá vỡ thế bế tắc với hai bàn thắng muộn, đưa Hungary vào chung kết. Uruguay thua trận đấu đầu tiên ở vòng chung kết Cúp thế giới. Sau đó họ còn thất bại thêm lần nữa trước Áo ở trận tranh hạng ba. Địa điểm Đội hình Trọng tài Raymon Wyssling Benjamin Griffiths Charlie Faultless Manuel Asensi Jose da Costa Vieira Raymond Vincenti William Ling Esteban Marino Arthur Edward Ellis Laurent Franken Vincenzo Orlandini Vasa Stefanovic Mario Vianna Emil Schmetzer Carl Erich Steiner István Zsolt Phân nhóm Vòng bảng Bảng 1 Bảng 2 Play-off Bảng 3 Bảng 4 Play-off Vòng đấu loại trực tiếp Tứ kết Bán kết Tranh hạng ba Chung kết Vô địch Danh sách cầu thủ ghi bàn Wagner (18) Sándor Kocsis (11) 6 bàn Erich Probst Josef Hügi Max Morlock 4 bàn Nándor Hidegkuti Ferenc Puskás Robert Ballaman Carlos Borges Helmut Rahn Hans Schäfer Ottmar Walter 3 bàn Ernst Stojaspal Léopold Anoul Nat Lofthouse Zoltán Czibor Burhan Sargun Suat Mamat Juan Hohberg Óscar Míguez Fritz Walter 2 bàn Robert Körner Ernst Ocwirk Didi Julinho Pinga Ivor Broadis Mihály Lantos Péter Palotás Lefter Küçükandonyadis Julio Abbadie Juan Alberto Schiaffino 1 bàn Henri Coppens Baltazar Djalma Santos Tom Finney Jimmy Mullen Dennis Wilshaw Raymond Kopa Jean Vincent József Tóth Giampiero Boniperti Amleto Frignani Carlo Galli Benito Lorenzi Fulvio Nesti Egisto Pandolfini Tomás Balcázar José Luis Lamadrid Jacques Fatton Mustafa Ertan Erol Keskin Javier Ambrois Obdulio Varela Richard Herrmann Bernhard Klodt Alfred Pfaff Miloš Milutinović Branko Zebec phản lưới nhà Jimmy Dickinson (trong trận gặp ) Raúl Cárdenas (trong trận gặp ) Luis Cruz (trong trận gặp ) Ivica Horvat (trong trận gặp ) Bảng xếp hạng giải đấu Tham khảo Liên kết ngoài FIFA World Cup 1954 Switzerland ™ , FIFA.com Chi tiết trên RSSSF Bóng đá năm 1954 Giải vô địch bóng đá thế giới theo năm
24409
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201958
Giải vô địch bóng đá thế giới 1958
Giải bóng đá vô địch thế giới 1958 (tên chính thức là 1958 Football World Cup - Sweden / Sverige 1958) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 6 và đã được tổ chức từ ngày 8 tháng 6 đến 29 tháng 6 năm 1958 tại Thụy Điển. Đây là lần thứ tư giải bóng đá vô địch thế giới được tổ chức tại châu Âu sau các năm 1934 tại Ý, 1938 tại Pháp, 1954 tại Thụy Sĩ và là lần đầu tiên được tổ chức tại một quốc gia thuộc bán đảo Scandinavia. Sau 35 trận đấu, với cầu thủ trẻ Pelé trong đội, Brasil lần đầu tiên đã trở thành vô địch thế giới và Brasil trở thành đội bóng Nam Mỹ đầu tiên vô địch giải đấu này tại châu Âu. Vòng loại Xem thêm: Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1958 53 đội bóng tham dự vòng loại và được chia theo các châu lục để chọn ra 14 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Thụy Điển và đội đương kim vô địch thế giới CHLB Đức. World Cup lần này ghi nhận sự tham gia và vượt qua vòng loại ngay lần đầu tiên của Liên Xô, cùng với sự có mặt ở vòng chung kết của tất cả các đội bóng thuộc Liên hiệp vương quốc Anh: Anh, Scotland, xứ Wales và Bắc Ireland. Bắc Ireland đã lập thành tích loại Ý ra khỏi vòng chung kết. Đây là lần đầu tiên Ý không lọt được vào vòng chung kết. Bên cạnh các trận đấu loại diễn ra chủ yếu ở châu Âu, xứ Wales tuy xếp thứ hai trong bảng đấu loại (sau Tiệp Khắc) nhưng được quyền tham dự trận đấu tranh vé vớt với Israel sau khi Israel vượt qua vòng loại mà không phải đấu một trận nào vì các đối thủ Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia và Sudan đều bỏ cuộc. FIFA đã bổ sung một điều luật là không có đội tuyển nào có quyền vượt qua vòng loại mà không phải đấu trận nào, vì rất nhiều đội tuyển vượt qua vòng loại tại các World Cup trước mà không phải thi đấu do đối thủ bỏ cuộc. Xứ Wales đã thắng trận tranh vé vớt. Ngày 8 tháng 2, Lennart Hyland và Sven Jerring đã đưa ra kết quả bốc thăm. Các đội tham gia vòng chung kết được chia thành 4 bảng. Các sân vận động Trọng tài Danh sách 22 trọng tài tham gia điều khiển các trận đấu của giải vô địch bóng đá thế giới 1958. Châu Âu Fritz Seipelt Lucien van Nuffel Martin Macko Carl Jørgensen Arthur Ellis Reginald Leafe Arne Eriksson Maurice Guigue István Zsolt Vincenzo Orlandini Jan Bronkhorst Joaquim Campos Jack Mowat Juan Garay Gardeazábal Sten Ahlner Raymond Wyssling Nikolai Latyshev Mervyn Griffiths Leo Lemesić Nam Mỹ Juan Brozzi José Maria Codesal Phân nhóm Đội hình Vòng bảng Bảng 1 Do bằng điểm nhau nên Bắc Ireland và Tiệp Khắc đấu thêm một trận. Play-off Bảng 2 Pháp xếp trên Nam Tư. Bảng 3 Do bằng điểm nhau nên Xứ Wales và Hungary đấu thêm một trận. Play-off Bảng 4 Do bằng điểm nhau nên Liên Xô và Anh đấu thêm một trận. Đây là trận hòa không bàn thắng đầu tiên trong lịch sử giải vô địch bóng đá thế giới. Play-off Vòng đấu loại trực tiếp Tứ kết Bán kết Tranh hạng ba Chung kết Vô địch Danh sách cầu thủ ghi bàn 13 bàn Just Fontaine 6 bàn Pelé Helmut Rahn 5 bàn Vavá Peter McParland 4 bàn Zdeněk Zikán Lajos Tichy Kurt Hamrin Agne Simonsson 3 bàn Omar Oreste Corbatta Raymond Kopa Roger Piantoni Hans Schäfer Todor Veselinović 2 bàn José Altafini Milan Dvořák Václav Hovorka Derek Kevan Maryan Wisnieski Juan Bautista Agüero Florencio Amarilla José Parodi Jorge Lino Romero Aleksandr Ivanov Nils Liedholm Ivor Allchurch Uwe Seeler Aleksandar Petaković 1 bàn Ludovico Avio Norberto Menéndez Karl Koller Alfred Körner Didi Nílton Santos Mário Zagallo Jiří Feureisl Tom Finney Johnny Haynes Yvon Douis Jean Vincent József Bencsics József Bozsik Károly Sándor Jaime Belmonte Wilbur Cush Cayetano Ré Sammy Baird Bobby Collins Jackie Mudie Jimmy Murray Anatoli Ilyin Valentin Ivanov Nikita Simonyan Gunnar Gren Lennart Skoglund John Charles Terry Medwin Hans Cieslarczyk Radivoje Ognjanović Zdravko Rajkov Bảng xếp hạng giải đấu Tham khảo Liên kết ngoài FIFA World Cup 1958 Sweden ™ , FIFA.com Thông tin trên RSSSF Bóng đá năm 1958 Giải vô địch bóng đá thế giới theo năm
24410
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201962
Giải vô địch bóng đá thế giới 1962
Giải bóng đá vô địch thế giới 1962 (tên chính thức là 1962 Football World Cup - Chile / Campeonato Mundial de Fútbol - Chile 1962) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 7 và đã được tổ chức từ ngày 30 tháng 5 đến 17 tháng 6 năm 1962 tại Chile. Đây là lần thứ ba giải bóng đá vô địch thế giới tổ chức tại Nam Mỹ sau các năm 1930 tại Uruguay và 1950 tại Brasil. Sau 32 trận đấu, Brasil đã bảo vệ được danh hiệu vô địch thế giới của mình và là đội thứ hai làm được điều này sau . Vòng loại 56 đội bóng tham dự vòng loại và được chia theo các châu lục để chọn ra 14 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Chile và đội đương kim vô địch thế giới Brasil. Các sân vận động Trại đóng quân Đội hình Trọng tài 18 trọng tài từ 17 quốc gia sẽ tham gia điều khiển các trận đấu của giải vô địch bóng đá thế giới 1962 Châu Âu Albert Dusch Andor Dorogi Arthur Blavier Branko Tesanić Cesare Jonni Erich Steiner Gottfried Dienst Juan Gardeazábal Karol Galba Ken Aston Leo Horn Nikolay Latyshev Pierre Schwinte Robert Holley Davidson Nam Mỹ Arturo Yamasaki Carlos Robles João Etzel Filho Sergio Bustamante Phân nhóm Vòng bảng Bảng 1 Bảng 2 Bảng 3 Bảng 4 Anh xếp trên Argentina nhờ hơn về hiệu số bất phân thắng bại. Vòng đấu loại trực tiếp Tứ kết Bán kết Tranh hạng ba Chung kết Vô địch Danh sách cầu thủ ghi bàn 4 bàn Garrincha Vavá Leonel Sánchez Flórián Albert Valentin Ivanov Dražan Jerković 3 bàn Amarildo Adolf Scherer Lajos Tichy Milan Galić 2 bàn Jaime Ramírez Eladio Rojas Jorge Toro Ron Flowers Giacomo Bulgarelli Igor Chislenko Viktor Ponedelnik José Sasía Uwe Seeler 1 bàn Héctor Facundo José Sanfilippo Pelé Mário Zagallo Zito Georgi Asparuhov Germán Aceros Marcos Coll Marino Klinger Antonio Rada Francisco Zuluaga Josef Kadraba Václav Mašek Josef Masopust Jozef Štibrányi Bobby Charlton Jimmy Greaves Gerry Hitchens Ernő Solymosi Bruno Mora Alfredo del Águila Isidoro Díaz Héctor Hernández Aleksei Mamykin Adelardo Joaquín Peiró Heinz Schneiter Rolf Wüthrich Ángel Cabrera Luis Cubilla Albert Brülls Horst Szymaniak Vojislav Melić Petar Radaković Josip Skoblar Bảng xếp hạng giải đấu Tham khảo Liên kết ngoài FIFA World Cup 1962 Chile ™ , FIFA.com Thông tin trên RSSSF Bóng đá năm 1962 Giải vô địch bóng đá thế giới theo năm
24415
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201966
Giải vô địch bóng đá thế giới 1966
Giải vô địch bóng đá thế giới 1966 (tên chính thức là 1966 Football World Cup - England / World Cup 1966 - England) là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ 8 và đã được tổ chức từ ngày 11 đến ngày 30 tháng 7 năm 1966 tại Anh. Đây là lần thứ 5 giải vô địch bóng đá thế giới được tổ chức tại châu Âu sau các năm 1934 tại Ý, 1938 tại Pháp, 1954 tại Thụy Sĩ và 1958 tại Thụy Điển. Linh vật chính thức của giải đấu là sư tử Willie, một biểu tượng đặc trưng của Anh, đang mặc chiếc áo thi đấu hình lá cờ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland với dòng chữ "WORLD CUP". Các trận đấu được diễn ra tại tám sân vận động trên khắp nước Anh, với trận chung kết được tổ chức tại sân vận động Wembley, có sức chứa 98.600 khán giả. Sự kiện này năm 1966 có số lượng đội tham gia cao nhất của bất kỳ giải đấu quốc tế nào cho đến lúc bấy giờ, với 70 quốc gia tham gia. Trước giải đấu, chiếc cúp Jules Rimet đã bị đánh cắp, nhưng đã được một chú chó tên Pickles tìm thấy 4 tháng trước khi giải đấu bắt đầu. Trận chung kết, được BBC phát sóng tại chỗ, là lần cuối cùng được giải đấu được chiếu hoàn toàn bằng truyền hình đen trắng. 31 quốc gia châu Á đã tẩy chay World Cup vì phản đối số lượng các đội hạt giống được FIFA bảo đảm vào vòng chung kết của giải năm đó. Sau 32 trận đấu, chủ nhà Anh đoạt chức vô địch thế giới sau khi đánh bại Tây Đức 4-2 trong trận chung kết để giành chức vô địch thế giới đầu tiên của họ; Trận đấu đã kết thúc với tỷ số 2–2 sau 90 phút và đến hiệp phụ, khi Geoff Hurst ghi hai bàn thắng để hoàn thành cú hat-trick (dù bàn thắng thứ 2 của ông đã gây ra nhiều tranh cãi dữ dội và cực kỳ gay gắt giống như ở tại World Cup 2010), đây là hat-trick lần đầu tiên được ghi trong một trận chung kết World Cup, với khán giả chạy thẳng vào sân sau bàn thứ tư. là quốc gia thứ 5 giành chức vô địch và là quốc gia chủ nhà thứ 3 giành chiến thắng sau Uruguay năm 1930 và Ý năm 1934. Vòng loại 71 đội bóng tham dự vòng tuyển và được chia theo các châu lục để chọn ra 14 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Anh và đội đương kim vô địch thế giới Brasil. (Xem Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1966) Các sân vận động Trọng tài Châu Phi Ali Kandil Châu Á Menachem Ashkenazi Nam Mỹ José María Codesal Roberto Goicoechea Armando Marques Arturo Yamasaki Châu Âu John Adair Tofiq Bahramov Leo Callaghan Joaquim Campos Ken Dagnall Gottfried Dienst Jim Finney Karol Galba Juan Gardeazábal Garay Rudolf Kreitlein Concetto Lo Bello Bertil Lööw George McCabe Hugh Phillips Dimitar Rumentchev Pierre Schwinte Kurt Tschenscher Konstantin Zečević István Zsolt Phân nhóm Đội hình Vòng bảng Bảng 1 Bảng 2 Tây Đức xếp trên Argentina nhờ hơn về hiệu số bất phân thắng bại. Bảng 3 Bảng 4 Vòng đấu loại trực tiếp Tứ kết Bán kết Tranh hạng ba Chung kết Vô địch Danh sách cầu thủ ghi bàn 9 bàn Eusébio 6 bàn Helmut Haller 4 bàn Geoff Hurst Ferenc Bene Valeriy Porkujan Franz Beckenbauer 3 bàn Luis Artime Bobby Charlton Roger Hunt José Augusto José Torres Eduard Malofeyev 2 bàn Rubén Marcos Kálmán Mészöly Pak Seung-zin Igor Chislenko Uwe Seeler 1 bàn Ermindo Onega Garrincha Pelé Rildo Tostão Georgi Asparuhov Martin Peters Héctor De Bourgoing Gérard Hausser János Farkas Paolo Barison Sandro Mazzola Enrique Borja Li Dong-woon Pak Doo-ik Yang Seung-kook António Simões Anatoliy Banishevskiy Amancio Josep Maria Fusté Pirri Manuel Sanchís René-Pierre Quentin Julio César Cortés Pedro Rocha Lothar Emmerich Sigfried Held Wolfgang Weber phản lưới nhà Ivan Davidov (trận gặp Hungary) Ivan Vutsov (trận gặp Bồ Đào Nha) Đội hình toàn sao Bảng xếp hạng giải đấu Tham khảo Liên kết ngoài Trang Web chính thức của Liên đoàn Bóng đá thế giới (FIFA) Trang của RSSSF 1966 Tẩy chay thể thao quốc tế Giải đấu bóng đá quốc tế tổ chức bởi Anh
24416
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201970
Giải vô địch bóng đá thế giới 1970
Giải bóng đá vô địch thế giới 1970 (tên chính thức là 1970 Football World Cup - Mexico / Mexico 70) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 9 và đã được tổ chức từ 31 tháng 5 đến 21 tháng 6 năm 1970 tại México. Đây là lần đầu tiên giải vô địch bóng đá thế giới được tổ chức tại Bắc Mỹ. Giải vô địch lần này được những người hâm mộ xem là giải hay nhất cho đến nay. Linh vật chính thức của giải đấu là Juanito, một cậu bé mặc đồng phục thi đấu của Đội tuyển bóng đá quốc gia Mexico và đội nón rộng vành (sombrero) với dòng chữ "MEXICO 70". Tên thân mật của cậu bé là "Juan", một cái tên phổ biến trong tiếng Tây Ban Nha. Sau 32 trận đấu, Brasil đã vô địch giải đấu lần thứ 3 và do đó, được quyền giữ cúp vĩnh viễn. Vòng loại 71 đội bóng tham dự vòng tuyển và được chia theo các châu lục để chọn ra 14 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Mexico và đội đương kim vô địch thế giới Anh. (Xem Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 1970) Các sân vận động Phân nhóm Trọng tài AFC Abraham Klein CAF Seyoum Tarekegn Ali Kandil CONCACAF Abel Aguilar Elizalde Diego De Leo Henry Landauer CONMEBOL Ángel Norberto Coerezza Antônio de Moraês Rafael Hormázabal Arturo Yamasaki Ramón Barreto UEFA Ferdinand Marschall Vital Loraux Rudi Glöckner Jack Taylor Roger Machin Antonio Sbardella Laurens van Ravens Antonio Ribeiro Saldanha Andrei Rǎdulescu Bob Davidson Ortíz de Mendibil Tofiq Bakhramov Rudolf Scheurer Kurt Tschenscher Đội hình Vòng bảng Bảng 1 Chú thích: Liên Xô xếp trên Mexico nhờ hơn về hiệu số bất phân thắng bại. Bảng 2 Bảng 3 Bảng 4 Vòng đấu loại trực tiếp Tứ kết Bán kết Tranh hạng ba Chung kết Vô địch Danh sách cầu thủ ghi bàn 10 bàn Gerd Müller 7 bàn Jairzinho 5 bàn Teófilo Cubillas 4 bàn Pelé Anatoliy Byshovets 3 bàn Rivellino Luigi Riva Uwe Seeler 2 bàn Raoul Lambert Wilfried Van Moer Tostão Ladislav Petráš Roberto Boninsegna Gianni Rivera Javier Valdivia Alberto Gallardo Florea Dumitrache 1 bàn Carlos Alberto Clodoaldo Gérson Hristo Bonev Dinko Dermendzhiev Todor Kolev Asparuh Nikodimov Dobromir Zhechev Allan Clarke Geoff Hurst Alan Mullery Martin Peters Mordechai Spiegler Tarcisio Burgnich Angelo Domenghini Maouhoub Ghazouani Houmane Jarir Juan Ignacio Basaguren Javier Fragoso José Luis González Gustavo Peña Roberto Challe Héctor Chumpitaz Emerich Dembrovschi Alexandru Neagu Kakhi Asatiani Vitaliy Khmelnytskyi Ove Grahn Tom Turesson Luis Cubilla Víctor Espárrago Ildo Maneiro Juan Mujica Franz Beckenbauer Reinhard Libuda Wolfgang Overath Karl-Heinz Schnellinger phản lưới nhà Javier Guzmán (trận gặp Ý) Giải thưởng Quả bóng vàng: Pelé (Brasil) Chiếc giày vàng: Gerd Müller (Tây Đức) Cầu thủ trẻ xuất sắc (Awarded retrospectively): Teófilo Cubillas (Peru) Đội tuyển chơi đẹp: Bảng xếp hạng giải đấu Tham khảo Liên kết ngoài FIFA World Cup 1970 Mexico ™ , FIFA.com Chi tiết trên RSSSF FIFA Technical Report Bóng đá năm 1970 Giải vô địch bóng đá thế giới theo năm
24417
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201974
Giải vô địch bóng đá thế giới 1974
Giải vô địch bóng đá thế giới 1974 (tên chính thức là 1974 Football World Cup - West Germany / Fußball-Weltmeisterschaft 1974) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ mười và đã được tổ chức từ 13 tháng 6 đến 7 tháng 7 năm 1974 ở Tây Đức. Đây là lần thứ 6 giải vô địch bóng đá thế giới được tổ chức tại châu Âu sau các năm 1934 tại Ý, 1938 tại Pháp, 1954 tại Thụy Sĩ, 1958 tại Thụy Điển và 1966 tại Anh, và đây cũng là lần đầu tiên giới thiệu chiếc cúp mới thay thế Cúp Jules Rimet. Linh vật chính thức của giải đấu là Tip và Tap, hai chú bé mặc áo đồng phục của Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Đức với dòng chữ WM (tiếng Đức Weltmeisterschaft, World Cup) và con số 74. Sau 38 trận đấu, Tây Đức đã đoạt chức vô địch bóng đá thế giới lần này. Vòng loại 99 đội bóng tham dự vòng tuyển và được chia theo các châu lục để chọn ra 14 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Tây Đức và đội đương kim vô địch thế giới Brasil. Các sân vận động Trọng tài AFC Jafar Namdar Govindasamy Suppiah CAF Mahmoud Mustafa Kamel Youssou N'Diaye CONCACAF Alfonso González Archundia Werner Winsemann CONMEBOL Ramón Barreto Omar Delgado Gómez Vicente Llobregat Armando Marques Luis Pestarino Edison Peréz-Núñez UEFA Aurelio Angonese Doğan Babacan Bob Davidson Rudi Glöckner Pavel Kasakov Erich Linemayr Vital Loraux Károly Palotai Nicolae Rainea Pablo Sánchez Ibáñez Rudolf Scheurer Gerhard Schulenburg Jack Taylor Clive Thomas Kurt Tschenscher Arie van Gemert Hans-Joachim Weyland OFC Tony Boskovic Đội hình Phân nhóm Vòng bảng Bảng 1 Bảng 2 Bảng 3 Bảng 4 Vòng 2 Bảng A Bảng B Tranh hạng ba Chung kết Vô địch Danh sách cầu thủ ghi bàn 7 bàn Grzegorz Lato 5 bàn Johan Neeskens Andrzej Szarmach 4 bàn Johnny Rep Ralf Edström Gerd Müller 3 bàn René Houseman Rivellino Johan Cruyff Kazimierz Deyna Paul Breitner Dušan Bajević 2 bàn Héctor Yazalde Jairzinho Joachim Streich Emmanuel Sanon Joe Jordan Roland Sandberg Wolfgang Overath Stanislav Karasi Ivica Šurjak 1 bàn Rubén Ayala Carlos Babington Miguel Ángel Brindisi Ramón Heredia Valdomiro Hristo Bonev Sergio Ahumada Martin Hoffmann Jürgen Sparwasser Pietro Anastasi Romeo Benetti Fabio Capello Gianni Rivera Theo de Jong Ruud Krol Rob Rensenbrink Jerzy Gorgoń Peter Lorimer Conny Torstensson Ricardo Pavoni Rainer Bonhof Bernhard Cullmann Jürgen Grabowski Uli Hoeneß Vladislav Bogićević Dragan Džajić Josip Katalinski Branko Oblak Ilija Petković Marcel Tisserand Bàn phản lưới nhà Roberto Perfumo (trận gặp Ý) Colin Curran (trận gặp Đông Đức) Ruud Krol (trận gặp Bulgaria) Bảng xếp hạng giải đấu Tham khảo Liên kết ngoài 1974 FIFA World Cup Germany ™ , FIFA.com FIFA Technical Report Chi tiết trên RSSSF Bóng đá năm 1974 Giải vô địch bóng đá thế giới 1974 1974 Bóng đá Tây Đức 1973-74 Giải đấu bóng đá quốc tế tổ chức bởi Đức
24418
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201978
Giải vô địch bóng đá thế giới 1978
Giải bóng đá vô địch thế giới 1978 (tên chính thức là 1978 Football World Cup - Argentina / Argentina '78) là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ 11 và đã được tổ chức từ ngày 1 đến ngày 25 tháng 6 năm 1978 ở Argentina. Đây là lần thứ tư giải vô địch bóng đá thế giới được tổ chức tại Nam Mỹ sau các năm 1930 tại Uruguay, 1950 tại Brasil và 1962 tại Chile. Linh vật chính thức của giải đấu là Gauchito, một cậu bé mặc đồng phục của Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina. Cái nón (với dòng chữ ARGENTINA '78), khăn choàng cổ và roi da là những đặc trưng của những cậu bé chăn bò ở những cánh đồng hoang Nam Mỹ. Sau 38 trận đấu, Argentina lần đầu tiên đoạt chức vô địch bóng đá thế giới. Vòng loại 106 đội bóng tham dự vòng loại và được chia theo các châu lục để chọn ra 14 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Argentina và đội đương kim vô địch thế giới Tây Đức. Các sân vận động Trọng tài AFC Farouk Bouzo Jafar Namdar Abraham Klein CAF Youssou N'Diaye CONCACAF Alfonso González Archundia CONMEBOL Ramón Barreto Arnaldo Cézar Coelho Ángel Norberto Coerezza César Orosco Juan Silvagno UEFA Ferdinand Biwersi Charles Corver Jean Dubach Ulf Eriksson António Garrido John Gordon Sergio Gonella Alojzy Jarguz Erich Linemayr Dušan Maksimović Ángel Franco Martínez Károly Palotai Pat Partridge Adolf Prokop Nicolae Rainea Francis Rion Clive Thomas Robert Wurtz Đội hình Phân nhóm Vòng bảng Bảng 1 Bảng 2 Bảng 3 Bảng 4 Vòng 2 Bảng A Bảng B Tranh hạng ba Chung kết Vô địch Danh sách cầu thủ ghi bàn 6 bàn Mario Kempes 5 bàn Rob Rensenbrink Teófilo Cubillas 4 bàn Leopoldo Luque Hans Krankl 3 bàn Dirceu Roberto Dinamite Paolo Rossi Johnny Rep Karl-Heinz Rummenigge 2 bàn Daniel Bertoni Nelinho Roberto Bettega Ernie Brandts Arie Haan Zbigniew Boniek Grzegorz Lato Archie Gemmill Heinz Flohe Dieter Müller 1 bàn René Houseman Daniel Passarella Alberto Tarantini Erich Obermayer Walter Schachner Reinaldo Zico Marc Berdoll Bernard Lacombe Christian Lopez Michel Platini Dominique Rocheteau Károly Csapó András Tóth Sándor Zombori Iraj Danaeifard Hassan Rowshan Romeo Benetti Franco Causio Renato Zaccarelli Víctor Rangel Arturo Vázquez Ayala Dick Nanninga René van de Kerkhof Willy van de Kerkhof César Cueto José Velásquez Kazimierz Deyna Andrzej Szarmach Kenny Dalglish Joe Jordan Juan Manuel Asensi Dani Thomas Sjöberg Mokhtar Dhouieb Néjib Ghommidh Ali Kaabi Rüdiger Abramczik Bernd Hölzenbein Hansi Müller phản lưới nhà Andranik Eskandarian (trận gặp Scotland) Ernie Brandts (trận gặp Ý) Berti Vogts (trận gặp Áo) Các cầu thủ nhận thẻ đỏ Tibor Nyilasi András Törőcsik Dick Nanninga Bảng xếp hạng giải đấu Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài 1978 FIFA World Cup Argentina ™ , FIFA.com Chi tiết tại RSSSF FIFA Technical Report (Phần 1) , (Phần 2) , (Phần 3) , (Phần 4) , (Phần 5) , (Phần 6) và (Phần 7) Bóng đá năm 1978 Giải vô địch bóng đá thế giới theo năm
24428
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%91t%20T%E1%BA%A5t%20Li%E1%BB%87t
Hốt Tất Liệt
{{Thông tin nhân vật hoàng gia | tên = Nguyên Thế Tổ元世祖 Tiết Thiện Hãn 薛禪汗 | tên gốc = | tước vị = Hoàng đế Trung Hoa, Khả Hãn Mông Cổ | tước vị thêm = | thêm = china | cỡ hình = 250px | hình = YuanEmperorAlbumKhubilaiPortrait.jpg | ghi chú hình = Bức chân dung Hốt Tất Liệt là một phần của một bộ sưu tập chân dung của hoàng đế và hoàng hậu nhà Nguyên, hiện nằm trong bộ sưu tập của Bảo tàng Cố cung Quốc gia ở Đài Bắc. | chức vị = Hoàng đế nhà Nguyên | tại vị = 18 tháng 12 năm 1271 - 18 tháng 2 năm 1294() | đăng quang = | tiền nhiệm = <font color = "red">Sáng lập triều đại | nhiếp chính = | kế nhiệm = Nguyên Thành Tông | chức vị 1 = Khả Hãn Mông Cổ | tại vị 1 = 5 tháng 5 năm 1260 - 18 tháng 2 năm 1294() | tiền nhiệm 1 = Mông Kha hãn, A Lý Bất Ca hãn | kế nhiệm 1 = Hoàn Trạch Đốc hãn | tước hiệu = | hoàng tộc = Bột Nhi Chỉ Cân<ref>Khiyad (Хиад) hay Kì Ác Ôn (奇渥溫) hoặc Khất Nhan (乞顏); Phiên bản phiên âm này của tiếng Trung xuất hiện trong lịch sử Trung Quốc thời nhà Nguyên.</ref> | tên đầy đủ = Hốt Tất Liệt (Khubilai, Хубилай, 忽必烈) | tên tự = | tên hiệu = | tôn hiệu = | miếu hiệu = Thế Tổ (世祖) | thụy hiệu = Thánh Đức Thần Công Văn Vũ Hoàng đế(聖德神功文武皇帝) | niên hiệu = Trung Thống (中統; 1260 - 1264)Chí Nguyên (至元; 1264 - 1294) | thời gian của niên hiệu = | cha = Đà Lôi | mẹ = Toa Lỗ Hòa Thiếp Ni | phối ngẫu = | vợ = xem văn bản | con cái = xem văn bản | mất = | sinh = | nơi sinh = | nơi mất = Đại Đô (nay là Bắc Kinh, Trung Quốc) | ngày an táng = | nơi an táng = | học vấn = | nghề nghiệp = | tôn giáo = | chữ ký = }} Hốt Tất Liệt (, Xubilaĭ Khaan, ; 23 tháng 9, 1215 - 18 tháng 2, 1294), Hãn hiệu Tiết Thiện Hãn (ᠰᠡᠴᠡᠨ ᠬᠠᠭᠠᠠᠨ, Сэцэн хаан, Sechen Khan), là Đại Hãn thứ năm của đế quốc Mông Cổ, và là người sáng lập ra nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai thứ 4 của Đà Lôi và là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn. Năm 1260, ông và em trai A Lý Bất Ca (Ariq Böke) cùng xưng Đại Hãn sau khi Đại Hãn tiền nhiệm là Mông Kha - anh trai của họ băng hà mà không chỉ định người kế vị. Cuối cùng, Hốt Tất Liệt giành thắng lợi vào năm 1264, dẫn đến sự chia rẽ chính trị sâu sắc trong nội bộ Mông Cổ, nhưng đế quốc về tổng thể vẫn là thống nhất và hùng mạnh. Ảnh hưởng của Hốt Tất Liệt vẫn còn mạnh tại hãn quốc Y Nhi và Kim Trướng hãn quốc, các lãnh thổ phía tây của đế quốc Mông Cổ. Dưới sự lãnh đạo của Hốt Tất Liệt, đế quốc Mông Cổ đã đạt đến thời kỳ cực thịnh. Ông đã dời đô từ Hoa Lâm (Karakorum) về Đại Đô (tức Bắc Kinh ngày nay). Năm 1271, Hốt Tất Liệt thành lập nhà Nguyên, đế quốc kiểm soát các khu vực ngày nay thuộc Mông Cổ, Hoa Bắc, tây bắc Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên và các khu vực cận kề, giúp ông có địa vị như một hoàng đế Trung Hoa. Năm 1279, quân đội nhà Nguyên đánh bại Nam Tống, Hốt Tất Liệt trở thành người dân tộc thiểu số đầu tiên làm hoàng đế Trung Hoa và cai trị nhà Nguyên đến khi mất vào năm 1294, miếu hiệu là Nguyên Thế Tổ (元世祖). Dưới sự cai trị của Hốt Tất Liệt, tất cả các vương quốc phụ cận với đế quốc Mông Cổ đều trở thành các chư hầu lệ thuộc. Ông phát động các chiến dịch thôn tính Nhật Bản, Đại Việt, Bagan và Java, nhưng không thành. Mặc dù Hốt Tất Liệt theo đạo Phật ông cũng để ý đến sự phát triển của đạo Kitô trên thế giới và mời các sứ giả đến Trung Quốc truyền đạo. Ông cũng chú trọng đến việc phát triển các nghề thủ công, khoa học và nghệ thuật. Những năm đầu Hốt Tất Liệt sinh năm 1215, là con trai thứ 4 của Đà Lôi với chính thê Toa Lỗ Hòa Thiếp Ni, và là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn. Theo lệnh của Thành Cát Tư Hãn, Toa Lỗ Hòa Thiếp Ni đã chọn một nhũ mẫu theo Phật giáo Tây Tạng để chăm nom Hốt Tất Liệt. Tương truyền, Hốt Tất Liệt sinh ra khi quân Mông Cổ tấn công nhà Kim, và ông cất tiếng khóc chào đời ngay giữa chiến trường, báo hiệu sự ra đời của một con người kiệt xuất sẽ gánh vác cả Mông Cổ. Từ nhỏ, Hốt Tất Liệt tỏ ra là một cậu bé thông minh, trượng nghĩa, rất được Thành Cát Tư Hãn yêu quý. Ông nói rằng: "Những lời của cậu bé này rất khôn ngoan, hãy chú ý đến chúng. Hãy chú ý chúng bằng tất cả những gì chúng ta có." Năm 1227, Thành Cát Tư Hãn băng hà, khi Hốt Tất Liệt lên 12. Đà Lôi, cha của Hốt Tất Liệt làm Giám quốc trong 2 năm rồi tôn Oa Khoát Đài lên ngôi Đại Hãn theo đúng di chiếu của Thành Cát Tư Hãn. Năm 1231, Đà Lôi qua đời vì trọng bệnh khi đang phò tá Oa Khoát Đài trong chiến dịch chinh phục nhà Kim. Sau khi nhà Kim diệt vong vào năm 1234, Oa Khoát Đài đã ban đất Hà Bắc (khoảng 80.000 nhân khẩu) cho gia đình Đà Lôi cai quản. Hốt Tất Liệt nhận được một phần gia sản, bao gồm 10.000 dân. Nhưng do thiếu kinh nghiệm quản lý, nên thay vì trực tiếp cai quản, ông đã giao cho các quan viên Mông Cổ tự do hành sự. Kết quả, tham nhũng dẫn đến tô thuế tăng cao, khiến phần lớn nông dân Trung Quốc rời bỏ ruộng đất để xuống phía Nam, khiến doanh thu thuế giảm mạnh. Hốt Tất Liệt nhanh chóng sửa sai bằng cách bãi nhiệm các quan viên vi phạm, thay bằng những quan viên có tài, bất kể dân tộc. Nhờ những nỗ lực đó, đến cuối những năm 1240, hầu hết nông dân Hà Bắc bỏ ruộng trước đây đã trở về quê hương làm ăn. Hốt Tất Liệt có đam mê nghiên cứu nền văn hóa của các dân tộc khác, đặc biệt là Trung Hoa đương thời. Đầu những năm 1240, ông đã tập hợp dưới trướng nhiều quan viên gốc Đột Quyết, người Kito giáo, tướng lĩnh Mông Cổ, người Hồi giáo Trung Á và cả những nhà Nho, nhà sư Trung Quốc, nhằm hướng đến sự cân bằng lợi ích của các dân tộc. Hốt Tất Liệt đã mời Hải Vân, một nhà sư Phật giáo hàng đầu ở miền bắc Trung Quốc, đến đại bản doanh của ông ở Mông Cổ, và họ sau đó trở thành bạn tâm giao. Khi gặp Hải Vân thiền sư ở Karakorum năm 1242, ông tham vấn nhà sư về triết lý của Phật giáo. Hải Vân thiền sư cũng đặt tên cho con trai thứ của Hốt Tất Liệt là Chân Kim (sinh năm 1243). Vị thiền sư này cũng giảng dạy cho Hốt Tất Liệt về Đạo giáo và giới thiệu Lưu Bỉnh Trung - một nhà sư Phật giáo kiêm họa sĩ, nhà thư pháp, nhà thơ và nhà toán học. Lưu Bỉnh Trung trở thành cố vấn của Hốt Tất Liệt khi Hải Vân thiền sư trở lại Trung Đô. Hốt Tất Liệt cũng mời học giả người Sơn Tây Zhao Bi làm việc cho mình. Thành công ở Hoa Bắc Năm 1251, Mông Kha, anh trai của Hốt Tất Liệt trở thành Đại Hãn và giao cho Hốt Tất Liệt vùng Hoa Bắc, trực tiếp quản lý các vùng đất phía nam đế quốc. Trong giai đoạn này, sản lượng lương thực tại Hà Nam tăng mạnh và phúc lợi xã hội được cải thiện. Hốt Tất Liệt nhận được sự ủng hộ lớn từ các lãnh chúa, tạo nền tảng cơ bản cho việc xây dựng nhà Nguyên sau này. Năm 1252, Hốt Tất Liệt được lệnh tấn công Vân Nam và vương quốc Đại Lý, khi vua nước này thể hiện sự chống đối và giết chết các sứ giả Mông Cổ được phái đến để dụ hàng. Dù vậy, khi Hốt Tất Liệt chiếm kinh đô của Đại Lý, ông vẫn tha mạng cho hoàng tộc nước này. Đoàn Hưng Trí, vị vua cuối cùng của Đại Lý đầu hàng Mông Cổ và được Mông Kha bổ nhiệm chức thổ ty cai trị địa phương. Nhưng ngay khi Hốt Tất Liệt rời đi, tình trạng bất ổn lại nổ ra tại Vân Nam. Vào năm 1255 và 1256, Đoàn Hưng Trí khuyên triều đình Mông Cổ bình định một số bộ lạc chưa đầu hàng. Đích thân ông ta lãnh đạo quân tiên phong. Đến cuối năm 1256, Ngột Lương Hợp Thai đã hoàn toàn bình định Vân Nam. Thành công của Hốt Tất Liệt khiến một số quan viên Mông Cổ bắt đầu ghen tị. Họ xàm tấu lên Mông Kha rằng Hốt Tất Liệt tham vọng xây dựng đế chế của riêng mình. Mông Kha đã gửi 2 thanh tra thuế đến điều tra quan lại của Hốt Tất Liệt vào năm 1257. Ông bị quy vào 142 sai phạm, phải giao lại toàn bộ binh quyền và một số quan viên Trung Quốc dưới trướng của ông bị xử tử. Hốt Tất Liệt phải cùng gia đình quay về Hòa Lâm tạ tội với Mông Kha. May mắn là ông không bị xử tội, nhưng bị giám sát nghiêm ngặt và không được phép xây dựng quân đội riêng. Cùng thời gian này, những người theo Đạo giáo trở nên giàu có và dần củng cố địa vị bằng cách chiếm đoạt các ngôi chùa Phật giáo. Mông Kha liền lệnh cho Hốt Tất Liệt chấm dứt xung đột giữa 2 giáo phái. Đầu năm 1258, Hốt Tất Liệt đã tổ chức một hội nghị của các nhà lãnh đạo Đạo giáo và Phật giáo, qua đó bác bỏ yêu sách của Đạo giáo, buộc 237 ngôi đền Đạo giáo phải chuyển thành chùa Phật giáo, thậm chí tiêu hủy các văn bản Đạo giáo. Hốt Tất Liệt và nhà Nguyên sau này công khai sùng bái Phật giáo, trong khi các Hãn quốc khác như Hãn quốc Sát Hợp Đài, Hãn quốc Kim Trướng và Hãn quốc Y Nhi lại lấy Hồi giáo làm quốc giáo. Năm 1258, Mông Kha lệnh cho Hốt Tất Liệt chỉ huy cánh quân đông chinh hỗ trợ các cuộc tấn công vào Tứ Xuyên và một lần nữa vào Vân Nam. Năm 1259, Mông Kha tử trận trên đất Nam Tống. Hốt Tất Liệt vẫn tiếp tục tấn công Vũ Hán đến khi nhận được tin em trai ông là A Lý Bất Ca đã tổ chức hội nghị Khố Lý Đài tại Hòa Lâm và lên ngôi Đại Hãn. Đại đa số quý tộc Mông Cổ ủng hộ A Lý Bất Ca, riêng hai người anh của ông này là Hốt Tất Liệt và Húc Liệt Ngột lại phản đối. Nhà Tống muốn giảng hòa với Mông Cổ, sai sứ giả đến xin cống hàng năm 200.000 lượng bạc và 200.000 lụa, để đổi lấy thỏa thuận đình chiến và chọn sông Dương Tử làm biên giới. Hốt Tất Liệt nhanh chóng đạt được thỏa thuận đình chiến và quay trở về Mông Cổ nhằm chống lại tuyên bố của A Lý Bất Ca về ngôi vị Đại Hãn. Tranh ngôi kế vị Năm 1260, Hốt Tất Liệt trở lại Khai Bình và triệu tập một hội nghị Khố Lý Đài của chính mình. Chỉ một bộ phận nhỏ thành viên hoàng tộc ủng hộ Hốt Tất Liệt về quyền kế vị. Lý do khiến phần lớn thành viên hoàng tộc không ủng hộ Hốt Tất Liệt là vì ông quá gần gũi với người Hán, tôn sùng Hán pháp và văn hóa Hán, và it nhiều đã phá vỡ nhiều cách thức cai trị truyền thống của Mông Cổ trong lãnh thổ mà ông đang cai quản. Cuộc nội chiến giữa hai anh em nổ ra không lâu sau đó. Sau 4 năm huynh đệ tương tàn, A Lý Bất Ca đầu hàng Hốt Tất Liệt tại Thượng Đô vào năm 1264. Những người cai trị ở phía Tây thừa nhận chiến thắng và sự cai trị của Hốt Tất Liệt, và ông chính thức trở thành Đại Hãn chân chính của Mông Cổ. Hốt Tất Liệt ân xá A Lý Bất Ca, nhưng xử tử những người ủng hộ em trai mình. Sự kiện này cũng đã đánh dấu sự kết thúc của đế quốc Mông Cổ thống nhất. Các hãn quốc phía tây trở thành độc lập trên thực tế, và Hải Đô Hãn của Hãn quốc Sát Hợp Đài còn tiếp tục chống đối Hốt Tất Liệt tới tận khi ông này mất vào năm 1301. Trong thời kỳ nội chiến với A Lý Bất Ca, tổng đốc Ích Châu là Lý Đàn đã nổi dậy chống lại người Mông Cổ vào năm 1262, nhưng nhanh chóng bị dập tắt và Lý Đàn bị tru di, dẫn đến một số quan lại người Hán thân tín của Hốt Tất Liệt cũng bị liên đới và xử tử. Sự kiện này đã làm Hốt Tất Liệt mất niềm tin vào người Hán. Sau khi trở thành hoàng đế nhà Nguyên, ông cấm chỉ việc giao các chức vụ quan trọng cho các lãnh chúa gốc Hán. Trị vì Đại Hãn Mông Cổ Cái chết bí ẩn của 3 hoàng tử nhà Truật Xích trong chiến dịch bao vây Baghdad (1258) của Húc Liệt Ngột và sự phân chia chiến lợi phẩm không công bằng khiến mối quan hệ giữa Hãn quốc Y Nhi với Hãn quốc Kim Trướng trở nên rạn nứt. Khi Húc Liệt Ngột qua đời vào năm 1264, khả hãn Kim Trướng là Berke đã hành quân để chinh phục Y Nhi nhưng lại mắc bệnh chết trên đường đi. Vài tháng sau những cái chết này, khả hãn Alghu của Sát Hợp Đài cũng chết. Trong phiên bản chính thức mới của lịch sử gia đình, Hốt Tất Liệt đã từ chối viết tên của Berke là khả hãn của Kim Trướng vì Berke ủng hộ A Lý Bất Ca và gây chiến với Húc Liệt Ngột, gia đình Truật Xích vẫn được công nhận là thành viên hợp pháp của gia đình. Hốt Tất Liệt chọn Abaqa là khả hãn mới của Y Nhi và được đề cử cháu trai Mạnh Đặc Mục của Bạt Đô cho ngai vàng ở Sarai, thủ đô của Kim Trướng. Lãnh thổ của Hốt Tất Liệt ở phía đông vẫn giữ được uy quyền tuyệt đối đối với Y Nhi đến khi kết thúc triều đại của họ. Hốt Tất Liệt cũng phái thân tín Ghiyas-ud-din Baraq lật đổ triều đình của Oirat Orghana, hoàng hậu của Hãn quốc Sát Hợp Đài, người đã đưa con trai nhỏ Mubarak Shah lên ngai vàng vào năm 1265, mà không có sự cho phép của chồng sau khi ông ta chết. Hải Đô, cháu nội của Oa Khoát Đài đã từ chối yêu cầu đích thân sang chầu của Hốt Tất Liệt. Ông liền sai Baraq tấn công Hải Đô. Baraq bắt đầu mở rộng vương quốc của mình về phía bắc. Ông nắm quyền lực vào năm 1266 và chiến đấu với Hải Đô và Kim Trướng. Ông ta cũng đẩy người giám sát của Hốt Tất Liệt ra khỏi lòng chảo Tarim. Khi Hải Đô và Mạnh Đặc Mục cùng nhau chiến đấu với Hốt Tất Liệt, Baraq đã gia nhập liên minh với Nhà Oa Khoát Đài và Kim Trướng để chống lại Hốt Tất Liệt ở phía đông và Abagha ở phía tây. Trong khi đó, Mạnh Đặc Mục tránh mọi cuộc thám hiểm quân sự trực tiếp chống lại vương quốc của Hốt Tất Liệt. Hãn quốc Kim Trướng đã hứa với Hốt Tất Liệt sự giúp đỡ của họ để đánh bại Kaidu mà Mạnh Đặc Mục gọi là phiến quân. Điều này rõ ràng là do mâu thuẫn giữa Kaidu và Mạnh Đặc Mục về thỏa thuận mà họ đã đưa ra tại Talas Kurultai. Quân đội của Mông Cổ Ba Tư đã đánh bại lực lượng xâm lược của Baraq vào năm 1269. Khi Baraq qua đời vào năm sau, Kaidu nắm quyền kiểm soát Sát Hợp Đài và lấy lại liên minh với Mạnh Đặc Mục. Trong khi đó, Hốt Tất Liệt đã cố gắng ổn định quyền kiểm soát của mình trên bán đảo Triều Tiên bằng cách huy động một cuộc xâm lược khác của người Mông Cổ sau khi ông ta lập Cao Ly Nguyên Tông (r. 1260-1274) lên ngôi vào năm 1259 ở Ganghwado. Kublai cũng buộc hai nhà cai trị của Kim Trướng và Y Nhi phải kêu gọi đình chiến với nhau vào năm 1270 bất chấp lợi ích của Kim Trướng ở Trung Đông và Kavkaz. Năm 1260, Hốt Tất Liệt đã gửi một trong những cố vấn của mình, Hao Ching, đến triều đình của hoàng đế Nam Tống Lý Tông để yêu cầu vua Tống sang chầu Hốt Tất Liệt và ông ta sẽ được trao quyền tự trị. Tống Lý Tông từ chối đáp ứng yêu cầu của ông và giam cầm Hao Ching, chỉ đến khi Hốt Tất Liệt phái một phái đoàn để đòi thả Hao Ching, nhà Tống mới chịu thả con tin. Hốt Tất Liệt đã gọi hai kỹ sư bao vây của Iraq từ Y Nhi để phá hủy các pháo đài của nhà Tống. Sau khi chiếm được Tương Dương năm 1273, chỉ huy của quân đội Hốt Tất Liệt, Aju và Lưu Tranh, đã đề xuất một chiến dịch cuối cùng để tiêu diệt nhà Tống, và Hốt Tất Liệt đã phong Bá Nhan trở thành chỉ huy tối cao. Ông đã ra lệnh cho Mạnh Đặc Mục điều chỉnh lại cuộc điều tra dân số của Kim Trướng để cung cấp lương thực và con người cho cuộc chinh phục Trung Quốc của ông. Cuộc điều tra dân số đã diễn ra ở tất cả mọi khu vực của Kim Trướng, bao gồm cả Smolensk và Vitebsk vào năm 1274. Ông cũng đã gửi khả hãn Nogai đến Balkan để tăng cường ảnh hưởng của Mông Cổ ở đó. Hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt chấp nhận các mô hình chính trị và văn hóa Trung Hoa, cố gắng giảm thiểu ảnh hưởng của các lãnh chúa địa phương. Tuy nhiên, do mất niềm tin vào người Hán, ông đã chỉ định người Mông Cổ, người Trung Á, người Hồi giáo và một ít người châu Âu vào các vị trí cao hơn người Hán, dù ông vẫn tiếp tục sử dụng một số cố vấn người Hán như Lưu Bỉnh Trung, Hứa Hành và Diêu Xu. Năm Chí Nguyên thứ 8 (1271), Hốt Tất Liệt chính thức tuyên bố lập ra nhà Nguyên và đặt kinh đô tại Đại Đô (, nghĩa là "kinh đô lớn", ngày nay là Bắc Kinh) hay còn gọi là Hãn Bát Lý (Khanbaliq) vào năm sau đó. Kinh đô mùa hè của ông đặt tại Thượng Đô (, nghĩa là "kinh đô trên", hay Xanadu, gần với Đa Luân (多伦) ngày nay). Để thống nhất Trung Quốc, Hốt Tất Liệt bắt đầu một chiến dịch rộng lớn chống lại những lực lượng còn sót lại của Nam Tống vào năm Chí Nguyên thứ 11 (1274) và cuối cùng tiêu diệt Nam Tống vào năm Chí Nguyên thứ 16 (1279), thống nhất toàn bộ Trung Hoa. Nội Trung Hoa và Mông CổThe Branch Secretariats of the Yuan Empire được chia thành 10 hành trung thư tỉnh (行中書省) hay hành tỉnh (行省) trong thời kỳ trị vì của ông với 1 hành thượng thư tỉnh và 1 hành thị lang tỉnh đứng đầu. Bên cạnh 10 hành tỉnh là khu vực trung tâm ( = Phúc Lý), bao gồm phần lớn Hoa Bắc ngày nay, được coi là khu vực quan trọng nhất của nhà Nguyên và do trung thư tỉnh tại Đại Đô trực tiếp quản lý. Ngoài ra, Tây Tạng cũng do một cơ quan cấp cao khác là Tuyên chính viện () quản lý trực tiếp. Ông quản lý điều hành công việc triều chính khá tốt, khuyến khích phát triển kinh tế với việc cho xây dựng lại Đại Vận Hà, sửa chữa các tòa nhà công và mở rộng đường đi lối lại. Tuy nhiên, chính sách đối nội của Hốt Tất Liệt cũng bao gồm một số khía cạnh của các truyền thống Mông Cổ cũ, và trong khi Hốt Tất Liệt tiếp tục công việc trị vì của mình thì những truyền thống này va chạm ngày càng thường xuyên hơn với kinh tế và văn hóa xã hội Trung Hoa truyền thống. Hốt Tất Liệt ra lệnh rằng các thương nhân đối tác của người Mông Cổ phải chịu thuế vào năm 1263 và thành lập Văn phòng Thuế thị trường để giám sát họ vào năm 1268. Sau khi người Mông Cổ chinh phục nhà Tống, các thương nhân đã mở rộng hoạt động của họ sang Biển Đông và Ấn Độ Dương. Năm 1286, thương mại hàng hải được đặt dưới Văn phòng Thuế thị trường. Nguồn doanh thu chính của triều đình là độc quyền sản xuất muối. Năm 1273, ông cho phát hành một loạt mới các giấy bạc được nhà nước bảo đảm, được sử dụng trong khắp đất nước, mặc dù cuối cùng do thiếu các kỹ năng, kỷ luật tài chính và lạm phát đã làm cho bước đi này trở thành thảm họa kinh tế đối với triều đại này trong những năm sau đó. Việc thanh toán được thực hiện bằng tiền giấy gọi là sáo. Để đảm bảo việc sử dụng nó, chính quyền Hốt Tất Liệt đã sung công vàng, bạc từ các cá nhân cũng như từ thương nhân ngoại quốc. Thay vì thế, các thương nhân được nhận giấy bạc do nhà nước ban hành theo tỷ lệ quy đổi. Điều này giải thích tại sao Hốt Tất Liệt được coi là người đầu tiên tạo ra tiền pháp định. Giấy bạc làm cho việc thu thuế và quản lý một đế quốc rộng lớn trở nên dễ dàng hơn trong khi làm giảm chi phí vận chuyển tiền kim loại. Sau này Gaykhatu (Hải Hợp Đô) của hãn quốc Y Nhi cũng có ý định áp dụng hệ thống này tại Ba Tư và Trung Đông, nhưng đã hoàn toàn thất bại và ông này bị ám sát ngay sau đó. Ông cũng cho phát triển các bộ môn nghệ thuật châu Á và chấp nhận những khác biệt về tôn giáo, ngoại trừ khi đề cập tới Đạo giáo. Một số người châu Âu đã từng đặt chân tới đây, đáng chú ý trong số này có Marco Polo trong thập niên 1270, người có thể đã từng nhìn thấy kinh đô mùa hè tại Thượng Đô. Trong thời Nam Tống, hậu duệ của Khổng Tử tại Khúc Phụ, Công tước Yansheng Kong Duanyou đã trốn chạy về phía nam với nhà Tống đến Cù Châu, trong khi nhà Kim mới thành lập (1115-1234) ở phía bắc bổ nhiệm anh trai của Kong Duanyou là Kong Duancao, người vẫn còn ở Khúc Phụ là Diễn Thánh Công. Từ thời đó cho đến thời Nguyên, có hai Diễn Thánh Công, một lần ở phía bắc ở Khúc Phụ và người kia ở phía nam tại Cù Châu. Một lời mời quay trở lại Khúc Phụ đã được Hốt Tất Liệt gửi đến Diễn Thánh Công ở Giang Nam Khổng Chu. Tiêu đề đã bị lấy đi khỏi chi nhánh phía nam sau khi Khổng Chu từ chối lời mời, vì vậy chi nhánh phía bắc của gia đình giữ danh hiệu Diễn Thánh Công. Chi nhánh phía nam vẫn còn ở Cù Châu nơi họ sống cho đến ngày nay. Con cháu của Khổng Tử ở Cù Châu có số lượng lên đến 30.000. Phát triển khoa học và quan hệ với người Hồi giáo Ba mươi người Hồi giáo đã phục vụ như các quan chức cao cấp trong triều đình của Hốt Tất Liệt. Tám trong số mười hai khu hành chính của triều đại có các thống đốc Hồi giáo do ông bổ nhiệm. Trong số các thống đốc Hồi giáo có Sayyid Ajjal Shams al-Din Omar, người trở thành quan cai trị của Vân Nam. Ông là một người đàn ông thông thái trong các truyền thống Nho giáo và Đạo giáo và được cho là đã truyền bá đạo Hồi giáo ở Trung Quốc. Các viên quan khác là Nasr al-Din (Vân Nam) và Mahmud Yalavach (kinh đô nhà Nguyên). Hốt Tất Liệt bảo trợ các học giả và nhà khoa học Hồi giáo, và các nhà thiên văn Hồi giáo đã đóng góp vào việc xây dựng đài thiên văn ở Thiểm Tây. Các nhà thiên văn học như Jamal ad-Din đã giới thiệu 7 công cụ và khái niệm mới cho phép điều chỉnh lịch Trung Quốc. Các nhà vẽ bản đồ Hồi giáo đã tạo ra các bản đồ chính xác của tất cả các quốc gia dọc theo Con đường tơ lụa và ảnh hưởng lớn đến kiến ​​thức của các nhà cai trị và thương nhân triều đại nhà Nguyên. Các bác sĩ Hồi giáo đã tổ chức các bệnh viện và có viện Y học riêng ở Bắc Kinh và Thượng Hải. Ở Bắc Kinh là "Khoa thương xót" nổi tiếng của Guang Hui Si, nơi dạy về thuốc và phẫu thuật kiểu người Hồi. Các tác phẩm của Avicenna cũng được xuất bản tại Trung Quốc trong thời gian đó. Các nhà toán học Hồi giáo đã giới thiệu Hình học Euclide, lượng giác hình cầu và chữ số Ả Rập ở Trung Quốc. Hốt Tất Liệt đưa các kỹ sư Ismail và Al al-Din đến Trung Quốc, và họ cùng nhau phát minh ra vũ khí "Hồi Hồi Pháo" (Hui-Hui Pao), được Kublai Khan sử dụng trong Trận Tương Dương với nhà Tống. Đối ngoại Hốt Tất Liệt buộc nước Cao Ly (Triều Tiên) phải trở thành chư hầu vào năm 1260. Nhà Nguyên giúp Cao Ly Nguyên Tông (원종) bình ổn sự kiểm soát của ông này tại Triều Tiên vào năm 1271. Hốt Tất Liệt cũng có ý định thiết lập mối quan hệ triều cống với các quốc gia khác, nhưng bị cự tuyệt. Dưới áp lực từ các cố vấn người Mông Cổ, Hốt Tất Liệt quyết định xâm lăng Nhật Bản, Myanma, Đại Việt và Java. Ông cũng đã cố gắng chinh phục các vùng đất ngoại vi như Sakhalin, nơi người dân bản địa cuối cùng đã nộp cho người Mông Cổ vào năm 1308. Những cố gắng thất bại và tốn kém này, cùng với sự lưu thông tiền giấy đã gây ra lạm phát. Tuy nhiên, ông cũng đã buộc các lãnh chúa từ tây bắc và đông bắc phải đầu hàng, đảm bảo sự ổn định tại các khu vực này. Từ năm 1273 đến 1276, các cuộc chiến tranh trước nhà Tống và Nhật Bản đã khiến vấn đề tiền giấy mở rộng từ 110.000 ding lên 1.420.000 ding. Sáp nhập Cao Ly Hốt Tất Liệt đã xâm chiếm Cao Ly (nằm trên Bán đảo Triều Tiên) và biến nó thành một quốc gia chư hầu phụ vào năm 1260. Sau một cuộc can thiệp khác của người Mông Cổ vào năm 1273, Cao Ly đã bị kiểm soát chặt chẽ hơn với nhà Nguyên. Cao Ly trở thành một căn cứ quân sự của người Mông Cổ, và một số mệnh lệnh của chế độ quân chủ đã được thiết lập ở đó. Triều đình của Cao Ly đã cung cấp quân đội nước này và một lực lượng hải quân đi biển cho các chiến dịch quân sự khác của Mông Cổ. Xâm lược Nhật Bản Hốt Tất Liệt hai lần có ý định xâm chiếm Nhật Bản; tuy nhiên, cả hai lần, người ta tin rằng thời tiết xấu hoặc các lỗi kỹ thuật trong chế tạo tàu thuyền đã phá hủy hạm đội thủy quân của ông. Ý định xâm chiếm thứ nhất diễn ra vào năm 1274, với hạm đội gồm 900 tàu thuyền. Lần xâm chiếm thứ hai diễn ra vào năm 1281, với hạm đội có trên 1.170 thuyền chiến lớn, mỗi chiếc dài tới 73 m (240 ft). Chiến dịch này được tổ chức không tốt và hạm đội của người Triều Tiên đã tới Nhật Bản trước hạm đội của nhà Nguyên khá lâu. Hạm đội được lắp ráp vội vàng và trang bị không kĩ lưỡng để đối phó với các điều kiện hàng hải. Trong tháng mười một, họ đi thuyền vào vùng biển nguy hiểm mà giữa Triều Tiên và Nhật Bản là 110 dặm. Người Mông Cổ dễ dàng chiếm đảo Tsushima khoảng nửa chừng eo biển và sau đó đảo Iki gần Kyushu hơn. Hạm đội Triều Tiên đã đến Vịnh Hakata vào ngày 23 tháng 6 năm 1281 và hạ cánh quân và của họ, nhưng những con tàu từ Trung Quốc không được nhìn thấy. Các lực lượng đổ bộ của Mông Cổ sau đó đã bị đánh bại tại Trận Akasaka và Trận Torikai-Gata. Tiến sĩ Kenzo Hayashida, một nhà khảo cổ học biển, người đứng đầu nhóm điều tra đã phát hiện ra các mảnh vỡ của hạm đội xâm chiếm lần thứ hai ngoài khơi miền tây Dokdo. Các vật tìm thấy của nhóm này chỉ ra rằng Hốt Tất Liệt rất vội xâm chiếm Nhật Bản và cố gắng xây dựng hạm đội hùng mạnh chỉ trong vòng 1 năm (một công việc mà đúng ra phải mất ít nhất 5 năm). Điều này buộc nhà Nguyên phải sử dụng mọi loại thuyền có thể, từ những thuyền nhỏ chuyên chạy trên sông, nhằm đạt được sự sẵn sàng sớm hơn. Quan trọng nhất, người Trung Quốc, khi đó dưới sự thống trị của Hốt Tất Liệt, buộc phải dựng ra nhiều tàu thuyền nhanh hơn nhằm đảm bảo góp đủ cơ số tàu thuyền cho cả hai lần xâm chiếm. Hayashida giả đinh rằng, nếu Hốt Tất Liệt sử dụng các tàu thuyền đi biển tiêu chuẩn, được chế tạo tốt, với sống thuyền cong để ngăn cản sự lật úp thì thủy quân của ông có thể đã vượt qua được cuộc hành trình dài này tới Nhật Bản và có thể đã có khả năng chiếm được đất nước này. David Nicolle viết trong The Mongol Warlords rằng "Những mất mát lớn cũng phải gánh chịu khi nói về số thương vong và chi phí vô ích, trong khi huyền thoại về sự bất khả chiến bại của người Mông Cổ đã bị tiêu tan trong khu vực Đông Á". Ông cũng viết rằng Hốt Tất Liệt đã có ý định xâm chiếm lần thứ ba vào Nhật Bản, cho dù phải trả một giá đắt khủng khiếp cho nền kinh tế cũng như cho tiếng tăm của ông và của đội quân Mông Cổ thiện chiến trong 2 lần xâm lược đầu tiên và chỉ có cái chết của ông cùng sự nhất trí của các cố vấn về việc không xâm chiếm nữa mới ngăn được ý định lần thứ ba này. Năm 1293, thủy quân nhà Nguyên bắt được 100 người Nhật từ Okinawa. Xâm lược Đại Việt Quân đội nhà Nguyên cũng ba lần xâm chiếm Đại Việt. Lần xâm chiếm đầu tiên (lần thứ hai của đế quốc Mông Cổ) bắt đầu vào tháng 12 âm lịch năm 1284 khi quân đội Mông Cổ dưới sự chỉ huy của Trấn Nam vương Thoát Hoan (con trai thứ chín của Hốt Tất Liệt) và A Lý Hải Nha, vượt qua biên giới và nhanh chóng chiếm được Thăng Long (nay là Hà Nội) vào đầu tháng 1 âm lịch năm 1285 sau thắng lợi của đội quân do Ô Mã Nhi chỉ huy tại Vạn Kiếp và Phả Lại (đông bắc Thăng Long). Cùng thời gian đó, đội quân do Toa Đô chỉ huy sau khi tấn công Chiêm Thành bằng đường qua Lão Qua cũng di chuyển về phía bắc và nhanh chóng tiến tới Nghệ An (phía bắc miền Trung Việt Nam ngày nay) vào cuối tháng 1 âm lịch, tại đây đội quân nhà Trần dưới sự chỉ huy của Trần Kiện nhanh chóng đầu hàng. Tháng 2 âm lịch, Trần Bình Trọng đánh quân Nguyên tại bãi Đà Mạc, bị thua và bị giết. Tháng 3 âm lịch, Trần Lộng, Trần Ích Tắc và gia thuộc cũng đầu hàng quân Nguyên. Tuy nhiên, hai vua Trần và Quốc công tiết chế Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã thay đổi chiến thuật từ phòng ngự sang phản công và một lần nữa đánh bại quân Mông Cổ. Tháng 4 âm lịch, tướng Trần Nhật Duật giành thắng lợi trong trận Hàm Tử (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Tháng 5 âm lịch, tướng Trần Quang Khải đánh bại Toa Đô tại Chương Dương (nay thuộc Hà Nội) và sau đó các vua Trần đã giành thắng lợi trong trận chiến lớn tại Tây Kết nơi Toa Đô bị giết chết. Ô Mã Nhi trốn qua cửa sông Thanh Hoá, hai vua Trần đuổi theo nhưng không kịp, bắt được hơn 5 vạn dư đảng đem về, Ô Mã Nhi chỉ còn một chiếc thuyền vượt biển trốn thoát. Trong khi đó, đội quân của Thoát Hoan và Lý Hằng bị Trần Hưng Đạo đánh bại tại Vạn Kiếp, phải bỏ chạy về Tư Minh. Lý Hằng bị xạ tiễn bắn chết còn Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới thoát được. Hốt Tất Liệt đã thất bại trong cố gắng đầu tiên của mình nhằm xâm chiếm Đại Việt. Lần xâm chiếm thứ hai vào Đại Việt của quân đội nhà Nguyên diễn ra vào cuối năm 1287 và được tổ chức tốt hơn so với lần trước, với việc đưa vào lực lượng thủy quân lớn hơn và nhiều lương thực thực phẩm hơn. Quân đội Mông Cổ, dưới sự chỉ huy của Thoát Hoan, tiến tới Vạn Kiếp và hội quân tại đây với quân đội của Ô Mã Nhi và quân Nguyên cũng nhanh chóng giành được thắng lợi ban đầu rồi xuôi dòng về phía đông. Thủy quân của nhà Nguyên nhanh chóng giành được thắng lợi tại Vân Đồn (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay) nhưng thuyền chở lương thực, thực phẩm nặng nề đi sau lại bị tướng Trần Khánh Dư đánh tan. Kết quả là quân Mông Cổ tại Thăng Long bị thiếu lương thực, thực phẩm trầm trọng. Không có lương thực, thực phẩm tiếp tế, Thoát Hoan buộc phải rút quân khỏi Thăng Long về Vạn Kiếp. Các nhóm bộ binh của nhà Trần được lệnh tấn công quân đội Mông Cổ tại Vạn Kiếp. Đầu tháng 3 âm lịch năm 1288 thủy quân của Ô Mã Nhi tiến tới sông Bạch Đằng để đón thuyền lương do Trương Văn Hổ chỉ huy. Một đội thủy quân nhỏ của Đại Việt ra khiêu chiến và nhanh chóng rút lui để nhử thủy quân nhà Nguyên vào bãi cọc nhọn. Quân Nguyên trúng kế và rơi vào trận địa mai phục sẵn của Đại Việt. Hàng nghìn thuyền nhẹ của Đại Việt từ hai bên bờ nhanh chóng xuất hiện, tấn công dữ dội và đánh tan sức kháng cự từ quân Nguyên. Quân đội Mông Cổ cố gắng rút lui ra biển trong sự hoảng loạn. Bị va phải cọc, thuyền của họ bị vỡ hay mắc kẹt, nhiều thuyền bị chìm. Quân Nguyên phải nhảy xuống sông để bơi vào bờ, bị chết đuối rất nhiều. Các tướng như Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ Ngọc, Sầm Đoàn, Phàn Tiếp v.v bị bắt sống. Cùng thời gian đó, quân đội Đại Việt liên tục tấn công và đánh tan đội quân của Thoát Hoan trên đường rút chạy qua Lạng Sơn. Cố gắng lần hai của Hốt Tất Liệt trong việc xâm chiếm Đại Việt cũng tan thành mây khói. Mặc dù các thất bại này đã kết thúc giấc mơ của Hốt Tất Liệt trong việc mở rộng lãnh thổ về phía nam, đặc biệt nhằm để kiểm soát con đường gia vị. Tuy nhiên trong giai đoạn 1288-1293, các quốc gia như Đại Việt, Chiêm Thành và Sukhothai đều lần lượt công nhận uy quyền tối cao của Hốt Tất Liệt để tránh xảy ra chiến tranh thêm nữa. Xâm lược Miến Điện và Java Ba cuộc viễn chinh đánh Miến Điện, vào năm 1277, 1283 và 1287, đã đưa lực lượng Mông Cổ đến Đồng bằng sông Irrawaddy, sau đó họ chiếm được Bagan, kinh đô của triều Pagan và thành lập chính quyền của họ. Hốt Tất Liệt phải bằng lòng với việc thiết lập một sự tuyệt đối chính thức, nhưng cuối cùng Pagan đã trở thành một quốc gia triều cống, gửi các triều cống đến kinh đô nhà Nguyên cho đến khi quân Mông Cổ bị trục xuất khỏi Trung Quốc vào những năm 1360. Lợi ích của người Mông Cổ trong các lĩnh vực này là mối quan hệ thương mại và phụ lưu. Trong những năm cuối cùng của triều đại, Hốt Tất Liệt đã phát động một cuộc viễn chinh chinh phạt hải quân gồm 20-30.000 người đánh Singhasari trên Java (1293), nhưng lực lượng Mông Cổ xâm lược đã buộc phải rút lui bởi Majapahit sau khi tổn thất đáng kể hơn 3000 quân. Tuy nhiên, đến năm 1294, năm Hốt Tất Liệt qua đời, các vương quốc Thái Lan bao gồm Sukhothai và Chiang Mai đã trở thành các quốc gia chư hầu của nhà Nguyên. Quan hệ với châu Âu Dưới thời Hốt Tất Liệt, liên hệ trực tiếp giữa Đông Á và Châu Âu đã được thiết lập, nhờ sự kiểm soát của Mông Cổ đối với các tuyến thương mại trung tâm châu Á và được tạo điều kiện bởi sự hiện diện của các dịch vụ bưu chính hiệu quả. Vào đầu thế kỷ 13, người châu Âu và Trung Á - thương nhân, khách du lịch và nhà truyền giáo của các quốc gia khác nhau - đã đến Trung Quốc. Sự hiện diện của sức mạnh Mông Cổ cho phép một số lượng lớn người Trung Quốc, có ý định chiến tranh hoặc buôn bán, đi đến các bộ phận khác của Đế quốc Mông Cổ, đến tận Nga, Ba Tư và Lưỡng Hà. Dời đô Sau khi Hốt Tất Liệt tuyên bố là Khả hãn ở Thượng Đô vào ngày 5 tháng 5 năm 1260, ông bắt đầu tổ chức lại đất nước. Zhang Wenqian, một quan chức chính phủ trung ương, được ông gửi vào năm 1260 tới Daming nơi tình trạng bất ổn đã được báo cáo trong dân chúng địa phương. Một người bạn của Zhang, Guo Shoujing, đi cùng anh ta trong nhiệm vụ này. Guo quan tâm đến kỹ thuật, là một chuyên gia thiên văn học và nhà chế tạo nhạc cụ lành nghề, và anh hiểu rằng những quan sát thiên văn tốt phụ thuộc vào các công cụ được chế tạo chuyên nghiệp. Guo bắt đầu chế tạo các dụng cụ thiên văn, bao gồm đồng hồ nước để xác định thời gian và các quả cầu vũ khí chính xác đại diện cho quả cầu thiên thể. Kiến trúc sư Turkestan Ikhtiyar al-Din, còn được gọi là "Igder", đã thiết kế kinh đô cho tân khả hãn, Khanbaliq (Đại Đô, Trung Quốc). Hốt Tất Liệt cũng thuê các thợ thủ công nước ngoài để xây dựng kinh đô mới của mình; một trong số họ, một người Newar tên là Araniko, đã xây dựng Bảo tháp Trắng là công trình kiến ​​trúc lớn nhất ở Khanbaliq /Đại Đô. Zhang khuyên Hốt Tất Liệt rằng Guo là một chuyên gia hàng đầu về kỹ thuật thủy lực. Hốt Tất Liệt biết tầm quan trọng của việc quản lý nước đối với tưới tiêu, vận chuyển ngũ cốc và kiểm soát lũ lụt, và ông yêu cầu Guo xem xét các khía cạnh này ở khu vực giữa Đại Đô (nay là Bắc Kinh) và Hoàng Hà. Để cung cấp cho Đại Đô một nguồn cung cấp nước mới, Guo đã tìm thấy suối Baifu trên núi Shen và có một kênh dài 30 km (19 mi) được xây dựng để di chuyển nước đến Đại Đô. Ông đề xuất kết nối nguồn cung cấp nước qua các lưu vực sông khác nhau, xây dựng các kênh đào mới có cống để kiểm soát mực nước và đạt được thành công lớn với những cải tiến mà ông đã thực hiện. Hốt Tất Liệt rất hài lòng và yêu cầu Guo thực hiện các dự án tương tự ở các vùng khác của đất nước. Năm 1264, ông ta được yêu cầu đến Cam Túc để sửa chữa những thiệt hại đã gây ra cho các hệ thống thủy lợi trong những năm chiến tranh trong cuộc tiến công của người Mông Cổ trong khu vực. Guo đã đi tuần rộng rãi cùng với người bạn Zhang của mình để ghi chú các công việc cần thực hiện để bỏ chặn các phần bị hư hỏng của hệ thống và để cải thiện hiệu quả của nó. Ông ấy đã gửi báo cáo của mình trực tiếp đến Hốt Tất Liệt. Cuối đời Hốt Tất Liệt đã gửi cháu trai Gammala của mình đến Burkhan Khaldun vào năm 1291 để đảm bảo yêu sách của mình với Ikh Khorig, nơi Thành Cát Tư Hãn được chôn cất, một nơi linh thiêng được bảo vệ bởi chính quyền của ông. Bá Nhan đã kiểm soát Karakorum và đang thiết lập lại quyền kiểm soát các khu vực xung quanh vào năm 1293, do đó, đối thủ Kaidu của Hốt Tất Liệt đã không thử bất kỳ hành động quân sự quy mô lớn nào trong ba năm tới. Từ năm 1293 trở đi, quân đội của Hốt Tất Liệt đã giải phóng lực lượng của Kaidu khỏi Cao nguyên Trung Sibir. Hốt Tất Liệt ban đầu có ý định đưa con trai thứ hai là Chân Kim (真金) làm người kế vị ông. Chân Kim đã trở thành người đứng đầu của trung thư tỉnh và tích cực điều hành công việc triều chính theo kiểu Nho giáo. Thật không may, Chân Kim chết năm 1285, 9 năm trước khi Hốt Tất Liệt qua đời. Ngoài ra, ái thê của ông Hoàng hậu Sát Tất cũng qua đời trước đó vài năm (năm 1281). Con yêu cùng vợ yêu qua đời trong một thời gian ngắn, cùng với những thất bại của các chiến dịch quân sự ở Đại Việt và Nhật Bản cũng luôn ám ảnh ông, hẳn đã khiến tinh thần Hốt Tất Liệt bị chấn động mạnh mẽ. Mặt khác, Hốt Tất Liệt cũng bị bệnh gút nặng trong những năm cuối đời do thừa cân quá mức. Ông tăng cân nhanh vì thích ăn các món đặc sản nguồn gốc động vật và uống quá nhiều rượu. Điều này làm gia tăng nhanh lượng purin trong máu của ông, dẫn tới việc làm trầm trọng thêm các vấn đề với bệnh gút và cuối cùng dẫn tới cái chết. Việc ăn uống quá nhiều của ông có thể có liên quan tới cái chết của bà vợ yêu quý nhất của ông cũng như của người ông đã chọn làm người kế vị là Chân Kim, vì điều này có thể đã giúp ông ổn định lại tâm trạng và trở nên thoải mái hơn. Hốt Tất Liệt chìm vào trầm cảm vì mất người thân, sức khỏe yếu và tuổi tác ngày càng cao. Ông đã thử mọi phương pháp điều trị y tế có sẵn, từ các pháp sư Cao Ly đến các thần y Đại Việt, và các phương thuốc và thuốc men khác, nhưng không có kết quả. Vào cuối năm 1293, hoàng đế đã từ chối tham gia vào lễ đón năm mới truyền thống. Trước khi chết, Hốt Tất Liệt đã chọn con trai của Chân Kim là Thiết Mộc Nhĩ làm Thái tử và ông này đã trở thành vị hoàng đế thứ hai của nhà Nguyên, tức là Nguyên Thành Tông. Hốt Tất Liệt muốn tìm kiếm một người bạn đồng hành cũ để an ủi ông trong căn bệnh cuối cùng, các triều thần chỉ có thể chọn Bá Nhan, người kém ông hơn 20 tuổi. Sức khỏe của Hốt Tất Liệt ngày càng suy yếu dần, và vào ngày 18 tháng 2 năm 1294, ông qua đời ở tuổi 80. Hai ngày sau, đám tang đã đưa thi hài của ông đến nơi chôn cất của những khả hãn Mông Cổ. Nhà thơ Hốt Tất Liệt cũng đã để lại nhiều bài thơ Trung Quốc, mặc dù hầu hết các tác phẩm của ông đã không còn tồn tại. Chỉ có một bài thơ Trung Quốc do ông viết được đưa vào Tuyển tập Thơ nhà Nguyên (元 詩選), có tựa đề 'Cảm hứng được ghi lại khi thưởng thức ngọn núi mùa xuân'. Nó được dịch sang tiếng Mông Cổ bởi học giả người Mông Cổ B.Buyan theo cùng phong cách với thơ ca cổ điển Mông Cổ và được Ya.Ganbaatar phiên âm sang tiếng Cyrillic. Chuyện kể rằng, một lần vào mùa xuân, Hốt Tất Liệt đã đi lễ tại một ngôi chùa Phật giáo tại Cung điện mùa hè ở phía tây Khanbaliq (Bắc Kinh) và trên đường trở về Di Hòa viên (Tumen Nast Uul ở Mông Cổ), nơi ông tràn đầy cảm hứng và viết bài thơ này: Dịch: Di sản Sự chiếm đoạt quyền lực của Hốt Tất Liệt vào năm 1260 đã đẩy Đế quốc Mông Cổ sang một hướng mới. Bất chấp cuộc tranh ngôi báu gây tranh cãi của ông, đã thúc đẩy sự mất đoàn kết của người Mông Cổ, việc Hốt Tất Liệt sẵn sàng chính thức hóa mối quan hệ cộng sinh của vương quốc Mông Cổ với Trung Quốc đã khiến Đế quốc Mông Cổ được quốc tế chú ý. Các cuộc chinh phạt của Hốt Tất Liệt và những người tiền nhiệm của ông chủ yếu chịu trách nhiệm tái tạo một Trung Quốc thống nhất, mạnh mẽ về quân sự. Sự cai trị của người Mông Cổ ở Tây Tạng, Mãn Châu và thảo nguyên Mông Cổ từ một kinh đô ở Bắc Kinh hiện đại là tiền lệ cho Đế quốc Nội Á của triều đại nhà Thanh sau này. Gia quyến Thân phụ: Đà Lôi, miếu hiệu Duệ Tông (睿宗), thụy hiệu Nhân Thánh Cảnh Tương hoàng đế (仁圣景襄皇帝). Thân mẫu: Toa Lỗ Hòa Thiếp Ni (唆鲁禾帖尼), thụy hiệu Hiển Ý Trang Thánh hoàng hậu (显懿庄圣皇后). Anh em: Đại ca: Mông Kha, anh cả cùng mẹ, sau được truy tặng làm Nguyên Hiến Tông (元宪宗). Nhị ca: Hốt Đổ Đô (忽睹都). Tam ca và Ngũ đệ không biết tên. Lục đệ: Húc Liệt Ngột, Đại Hãn của Hãn quốc Y Nhi. Thất đệ: A Lý Bất Ca, tranh chấp giành lấy quyền lực Đại Hãn. Bát đệ: Bát Xước (拨绰). Cửu đệ: Mạt Ca (末哥). Thập đệ: Tuế Ca Đô (岁哥都). Thập nhất đệ: Tuyết Biệt Đài (雪别台). Chị em: Độc Mộc Can (独木干), phong Triệu Quốc công chúa (赵国公主), hạ giá Niếp Cổ Đài, Sát Hốt. Dã Tốc Bất Hoa (也速不花), phong Lỗ Quốc công chúa (鲁国公主), hạ giá Oát Trần. Tiết Chỉ Can (薛只干), phong Lỗ Quốc công chúa, hạ giá Giáp Nạp Trần (em trai Oát Trần). Thê thiếp: Đại hoàng hậu: Thiếp Cổ Luân (帖古伦). Đệ nhị Oát nhĩ đóa: Hoàng hậu Sát Tất, Hoằng Cát Lạt thị, lập năm 1260, mất 1281, thụy hiệu Chiêu Duệ Thuận Thánh hoàng hậu (昭睿顺圣皇后). Hoàng hậu Nam Tất, Hoằng Cát Lạt thị, lập năm 1283. Đệ tam Oát nhĩ đóa: Hoàng hậu Tháp Lạt Hải (塔剌海). Hoàng hậu Nô Hãn (奴罕). Đệ tứ Oát nhĩ đóa: Hoàng hậu Bá Yếu Ngột Chân (伯要兀真). Hoàng hậu Khoát Khoát Luân (阔阔伦). Khác: Hoàng hậu Tốc Ca Đáp Tư (速哥答思). Phi Bát Bát Hãn (八八罕). Phi Tát Bất Hốt (撒不忽). Hậu duệ Hoàng tử Đóa Nhân Chỉ (朵儿只), mất sớm, mẹ Hoàng hậu Sát Tất. Chân Kim (真金), mẹ Hoàng hậu Sát Tất. Năm 1273 lập làm Thái tử. Mất năm 1286. Mang Ca Lạt (忙哥剌), mẹ Hoàng hậu Sát Tất, tước An Tây vương (安西王). Na Mộc Hãn (那木罕), mẹ Hoàng hậu Sát Tất, tước Bắc An vương (北安王). Hốt Ca Xích (忽哥赤), mẹ không rõ, tước Vân Nam vương (雲南王). Ái Nha Xích (爱牙赤), mẹ không rõ. Áo Đô Xích (奥都赤), mẹ không rõ, tước Tây Bình vương (西平王). Khoát Khoát Xuất (阔阔出), mẹ không rõ, tước Ninh vương (宁王). Thoát Hoan, mẹ không rõ, tước Trấn Nam vương (镇南王). Hốt Đô Lỗ Thiếp Mộc Nhân (忽都鲁帖木儿), mẹ không rõ. Thiết Miệt Xích (铁蔑赤), mẹ Hoàng hậu Nam Tất. Hoàng nữ Nguyệt Liệt (月烈), phong Triệu Quốc đại trưởng công chúa (赵国大长公主), hạ giá lấy Triệu Vũ Tương vương Ái Bất Hoa (爱不花). Ngô Lỗ Chân (吾鲁真), phong Xương Quốc công chúa (昌国公主), hạ giá lấy Bột Hoa (孛花). Trà Luân (茶伦), phong Xương Quốc đại trưởng công chúa (昌国大长公主), hạ giá lấy Thiếp Giam Can (帖监干). Hoàn Trạch (完泽), phong Lỗ Quốc trưởng công chúa (鲁国长公主), hạ giá lấy Oát La Chân (斡罗真). Nang Gia Chân (囊家真), phong Lỗ Quốc đại trưởng công chúa (鲁国大长公主), hạ giá lấy con trai của Thiết Mộc Nhân Man (铁木儿蛮). Hốt Đô Lỗ Kiên Mễ Thất (忽都魯揭里迷失), phong Tề Quốc đại trưởng công chúa (齐国大长公主), hạ giá lấy Cao Ly Trung Liệt Vương. Bột Nhi Chỉ Cân thị, hạ giá lấy Tống Cung Đế. Có khả năng chỉ là tông thất nữ. Tiểu thuyết hoá Hốt Tất Liệt được tiểu thuyết hoá trở thành một nhân vật trong truyện Thần điêu hiệp lữ của Kim Dung. Trong truyện này ông là người đứng ra chiêu nạp đám cao thủ võ lâm Kim Luân Pháp Vương, Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây,Sóng Gió Nguyên Triều v.v. âm mưu tiêu diệt các cao thủ Đại Tống. Chú thích Tham khảo Morgan David. The Mongols (Blackwell Publishers; Tái bản, tháng 4 năm 1990), ISBN 0-631-17563-6. Rossabi Morris. Khubilai Khan: His Life and Times (Nhà in Đại học California (1-5-1990)) ISBN 0-520-06740-1. Saunders J. J. The History of the Mongol Conquests'' (Nhà in Đại học Pennsylvania (1-3-2001)) ISBN 0-8122-1766-7. Man John. "Kublai Khan" Man John. "Genghis Khan" Liên kết ngoài Lạm phát dưới thời Hốt Tất Liệt Relics of the Kamikaze (Viện Khảo cổ Mỹ) |- |- Đại hãn Đế quốc Mông Cổ Hoàng đế nhà Nguyên Sinh năm 1215 Mất năm 1294
24430
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n%20h%C3%A0m%20Qu%C3%A2n%20l%E1%BB%B1c%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a
Quân hàm Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Hệ thống cấp bậc của Quân lực Việt Nam Cộng hòa được đặt ra ngay sau khi thành lập nền Đệ nhất Cộng hòa (1955), khởi thủy bằng cách chuyển đổi tương đương cấp bậc của quân đội Pháp. Hàng sĩ quan có 3 cấp (thiếu, trung, đại), nhận diện bằng bông mai vàng (cấp úy), bông mai bạc (cấp tá), ngôi sao trắng (cấp tướng). Năm 1967, khi nền Đệ nhị Cộng hòa thành lập, hệ thống cấp bậc được điều chỉnh theo hệ thống cấp bậc Quân đội Hoa Kỳ và các nước đồng minh. Sĩ quan các cấp trong các đơn vị tác chiến đều phải ngụy trang cấp bậc bằng màu đen, do đó bông mai của cấp tá cộng thêm một gạch (để phân biệt với cấp úy). Sửa đổi quan trọng nhất là bổ sung cấp bậc Chuẩn tướng. Sĩ quan cấp tướng bắt đầu bằng cấp Chuẩn tướng. Ở quân chủng Hải quân, song song với cấp bậc còn được gọi theo Hải hàm: Chuẩn tướng (Phó Đề đốc), Thiếu tướng (Đề Đốc), Trung tướng (Phó Đô đốc), Đại tướng (Đô đốc) và Thống tướng (Thủy sư Đô đốc). Tuy nhiên, trong 3 quân chủng Lục, Hải, Không quân của QLVNCH, duy nhất chỉ có một người mang cấp bậc cao nhất là Thống tướng Lục quân Lê Văn Tỵ, người mang cấp cao nhất ở Hải quân là Phó Đô đốc Chung Tấn Cang và Không quân là Trung tướng Trần Văn Minh. Lục quân Trước 1964 Bậc binh sĩ Bậc hạ sĩ quan Bậc sĩ quan Sau 1964 Binh sĩ Hạ sĩ quan Sĩ quan Không quân Trước 1964 Binh sĩ Hạ sĩ quan Sĩ quan Sau 1964 Binh sĩ Hạ sĩ quan Sĩ quan Hải quân Trước 1964 Binh sĩ Hạ sĩ quan Sĩ quan Sau 1964 Binh sĩ Hạ sĩ quan Sĩ quan Thủy quân lục chiến Trước 1964 Binh sĩ Hạ sĩ quan Sĩ quan '''Sau 1964 Binh sĩ Hạ sĩ quan Sĩ quan Xem thêm Quân hàm Quân đội Nhân dân Việt Nam Quân lực Việt Nam Cộng hòa Chú thích Việt Nam Cộng hòa Biểu trưng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
24431
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sankt-Peterburg
Sankt-Peterburg
Sankt-Peterburg (; đọc là Xanh Pê-téc-bua từ tiếng Pháp: Saint-Pétersbourg nghĩa là "Thánh Phêrô") là một thành phố liên bang của Nga. Đây là đô thị lớn thứ nhì của Liên bang Nga và cũng là cố đô của Đế quốc Nga. Saint-Peterburg nằm trên một loạt đảo nhỏ trong châu thổ sông Neva; con sông này thông với Vịnh Phần Lan, tạo vị thế hải cảng cho Sankt-Peterburg. Trong khoảng thời gian từ năm 1914 đến 1924 thành phố có tên là Petrograd (Петроград), và Leningrad (Ленинград) từ 1924 đến 1991 dưới chính thể Liên Xô Với diện tích trên 670 km², Saint-Peterburg có dân số 4,7 triệu người (thống kê 2005). Nếu tính cả vùng phụ cận bao gồm 1.439 km² thì Saint-Peterburg có 5 triệu 550 ngàn dân. Trải qua nhiều thế kỷ địa danh của Saint-Peterburg đã bị đổi nhiều lần. Nguyên thủy là Sankt-Peterburg. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra vào năm 1914 và Nga bị Đế quốc Đức xâm lăng thì thành phố đổi tên là Petrograd để tránh các từ nguyên danh gốc tiếng Đức. Mười năm sau thì chính quyền Liên Xô lại loại bỏ tên Petrograd mà đặt là Leningrad, tưởng niệm cố lãnh tụ Liên Xô, Vladimir Ilyich Lenin. Sau khi Liên Xô sụp đổ, địa danh ban đầu Sankt-Peterburg được dùng lại sau cuộc trưng cầu dân ý, tuy nhiên các khu vực xung quanh thành phố (tỉnh Leningrad) thì vẫn giữ nguyên tên gọi. Đối với người Việt vào đầu thế kỷ 20 thì Sankt-Peterburg được phiên âm là Thành Bỉ Đắc như trong bài "Á Tế Á ca" của Phan Bội Châu. Lịch sử thành phố Vấn đề ưu tiên của Sa hoàng Nga của triều đại Romanov là phải mở một thủy lộ thông ra Biển Baltic. Trong vòng hơn 100 năm liên tiếp giấc mộng đó không thành. Phải đến thời Pyotr Đại Đế (Pyotr I) người Nga mới chiếm được cửa bể ra Baltic. Âu là trong cuộc Đại chiến Bắc Âu giữa Thụy Điển và Nga (1701–1721) quân Nga tiến ra bắc và thắng lớn trong trận Poltava năm 1710, buộc Thụy Điển phải ký hòa ước Nystad và nhường vùng duyên hải sông Neva cho Sa hoàng Pyotr I. Nga từ đó mở cửa ngỏ thông thương đường biển sang Âu châu. Giấc mơ lớn nhất của Sa hoàng là xây dựng một thành phố thật quy củ để qua đó chứng tỏ sự hùng hậu của nước Nga. Dự án của công trình này được bắt đầu ngay từ năm 1703 trên Hòn đảo con thỏ giành được từ tay người Thụy Điển (người Viking). Công trình được xây dựng đầu tiên trên đảo là pháo đài SaintPiterburh, ngày nay gọi là Pháo đài Petro-Pavlov, thực hiện theo lệnh của Sa hoàng ngày 16 tháng 5, năm 1703 (là ngày 27 tháng 5 tính theo lịch Gregory). Ngày này được công nhận là "ngày khai sinh" của thành phố. Trên phiến đá kỉ niệm dịp này người ta đã khắc dòng chữ như sau: "Ngày 16 tháng 5, năm 1703, thành phố Sankt-Peterburg đã được Sa hoàng và Hoàng tử Aleksei Petrovich xếp đặt". Vào năm 1917, thành phố được đổi tên thành Petrograd. Lúc này, triều đại Sa hoàng cuối cùng, Nikolai II, là triều đại rối ren. Chiến tranh với Nhật Bản không được ủng hộ. Chính sự thất bại đã châm ngòi cho những cuộc biểu tình phản đối trên đất nước. Ngày chủ nhật 22/1/1905, quân đội đã nã súng vào đoàn người biểu tình trước Cung điện Mùa đông ở Sankt Peterburg. Khoảng 100 người biểu tình đã thiệt mạng. Trong đó có cả phụ nữ và trẻ em đã chết. Sự kiện Ngày Chủ nhật đẫm máu đã bị nhân dân toàn thế giới lên án. Các cuộc nổi dậy của nông dân, bãi công, biểu tình, ám sát và binh biến diễn ra liên tiếp, cho đến khi Sa hoàng Nikolai miễn cưỡng chấp nhận yêu sách của những người phản đối. Tháng 10 năm 1905, Sa hoàng Nikolai đã ký một văn kiện hứa đảm bảo quyền tự do ngôn luận và thành lập một hạ viện thông qua bầu cử - viện Duma. Tình hình vẫn không giảm sau năm 1916, giá thức ăn tăng gấp 4 lần. Đoàn người chờ bánh mì trước Cung điện Mùa đông bắt đầu gây náo loạn. Trong khi đó, quân lính không theo lệnh vua, đứng ra lãnh đạo đoàn người biểu tình. Dân chúng luôn yêu cầu Sa hoàng phải thoái vị. Sau sự kiện Ngày Chủ nhật đẫm máu, không một quốc gia châu Âu nào đồng ý tiếp nhận vị Sa hoàng bị trục xuất này. Cách mạng tháng Hai đã lật đổ Sa hoàng và chế độ phong kiến, lập nên thể chế dân chủ (tư sản), Chính phủ lâm thời thành lập do Kerensky đứng đầu. Nhưng những người Bolshevik đứng đầu là Vladimir Ilyich Lenin và Lev Trotsky tiếp tục đấu tranh, tổ chức những cuộc nổi dậy lan rộng trên đất nước. Đến ngày 7/11/1917 (theo lịch Julius là tháng 10), cuộc Cách mạng tháng Mười Nga đã thành công, lật đổ Chính phủ Lâm thời và lập ra nhà nước công nông đầu tiên. Tháng 9 năm 1941, quân đội phát-xít Đức bắt đầu bao vây Leningrad (Saint Peterburg ngày nay). Cuộc phong tỏa kéo dài gần 900 ngày đêm, song quân Đức đã bị Hồng quân Liên Xô chặn lại ở ngoại vi thành phố. Gần một triệu người đã chết vì bom đạn, đói khát và bệnh tật. Gần 3 triệu người dân còn lại trong thành phố lâm vào cảnh thiếu thốn, không có chất đốt để sưởi ấm và nước để uống, thức ăn không đủ. Trong tình trạng thiếu thốn đó, thịt của động vật nuôi, chuột và chim được sử dụng để nuôi con người. Chính phủ Xô-viết đã thiết lập tuyến vận tải cung cấp nhu yếu phẩm cho quân đội và dân cư thành phố qua mặt hồ Ladoga đóng băng, được mệnh danh là "Con đường sống". Cuối cùng, vào ngày 27/1/1944, quân đội Liên Xô đã phá tan vòng vây phong tỏa Leningrad của phát-xít Đức. Trải qua các thời kỳ Lenin, Stalin, cuối cùng, Liên Xô tan rã thành 15 nước khác nhau vào năm 1991. Tên thành phố từ Leningrad đổi thành cái tên ban đầu, là Sant Peterburg. Sau 10 năm suy thoái kinh tế, kể từ năm 2000, nền kinh tế thành phố bắt đầu khôi phục lại. Các hoạt động tôn giáo và nghệ thuật được phát triển. Du lịch trở thành nền kinh tế chính của thành phố. Các điểm đến du lịch hấp dẫn, như Cung điện mùa đông, Cung điện mùa hè...đẹp tuyệt vời sáng chói giữa phương Bắc lạnh giá của Nga khiến cho thành phố này như một Venice của phương Bắc. Địa lý Trung tâm thành phố Sankt-Peterburg có diện tích . Nếu tính là chủ thể liên bang thì diện tích của thành phố là , bao gồm trung tâm Sankt-Peterburg, 9 thị trấn (Kolpino, Krasnoye Selo, Kronstadt, Lomonosov, Pavlovsk, Petergof, Pushkin, Sestroretsk, Zelenogorsk) – và 21 đô thị khác. Petersburg nằm trên vùng đất thấp taiga dọc theo bờ biển của vịnh Neva thuộc Vịnh Phần Lan, và các đảo của đồng bằng châu thổ. Đảo Vasilyevsky là đảo lớn nhất (bên cạnh các đảo nhân tạo giữa kênh đào Obvodny và Fontanka, và Kotlin trong vịnh Neva), Petrogradsky, Dekabristov và Krestovsky. Krestovsky cùng với Yelagin và đảo Kamenny hầu hết được chuyển thành các công viên. Karelian Isthmus, ở phía bắc thành phố, là khu nghỉ dưỡng đông đúc. Ở phía nam Sankt-Peterburg băng qua Baltic-Ladoga Klint và đến cao nguyên Izhora. Cao độ của Sankt-Peterburg từ mực nước biển đến điểm cao nhất là trên đồi Orekhovaya thuộc Cao nguyên Duderhof ở phía nam. Phần đất ở phía tây của Liteyny Prospekt không cao hơn so với mực nước biển và thường xuyên bị ngập. Ngập lụt ở Sankt-Peterburg chủ yếu từ sóng dài của biển Baltic, do chịu sự ảnh hưởng của các điều kiện khí tượng, gió và độ nông của vịnh Neva. Bốn trận lụt lịch sử diễn ra vào năm 1824 (cao , trong đợt lụt này hơn 300 nhà bị phá hủy), 1924 , 1777 , 1955 , và 1975 . Người ta xây đập Sankt-Peterburg để ngăn lụt. Từ thế kỷ 18 địa hình của thành phố được nâng lên do các yếu tố nhân tạo, ở những nơi có độ cao trên , làm sáp nhập một số đảo và thay đổi chế độ thủy văn của thành phố. Bên cạnh sông Neva và các phụ lưu của nó, các sông quan trọng khác gồm Sestra, Okhta và Izhora. Hồ lớn nhất là Sestroretsky Razliv nằm ở phía bắc, theo sau là Lakhtinsky Razliv, Suzdal và các hồ nhỏ khác. Do nằm ở vĩ độ khoảng 60°Bắc, nên độ dài ban ngày ở Petersburg thay đổi theo mùa, từ 5:53 đến 18:50. Trong khoảng thời gian từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 7, hoàng hôn có thể kéo dài cả đêm nên được gọi là "đêm trắng". Khí hậu Theo phân loại khí hậu của Köppen, Sankt-Peterburg được xếp vào nhóm khí hậu lục địa ẩm. Chịu sự ảnh hưởng vừa phải của các xoáy từ biển Baltic nên thành phố có khí hậu ấm, ẩm và mùa hè ngắn, mùa đông ẩm ướt, kéo dài. Nhiệt độ trung bình lớn nhất vào tháng 7 là ; nhiệt độ cực điểm là xuất hiện vào mùa hè năm 2010. Nhiệt độ thấp nhất vào mùa đông là được ghi nhận vào năm 1883. Nhiệt độ trung bình năm là . Sông Neva chảy qua thành phố thường bị đóng băng vào tháng 11-12 và tan băng vào tháng 4. Từ tháng 12 đến tháng 3, trung bình có 118 ngày bị phủ tuyết, với bề dày trung bình đạt vào tháng 2. Thời gian không đóng băng trong thành phố kéo dài trung bình 135 ngày. Trung tâm thành phố hơi ấm hơn vùng ngoại ô. Các điều kiện khí hậu khá thay đổi trong cả năm. Lượng giáng thủy trung bình thay đổi tùy nơi trong thành phố, trung bình /năm và cao nhất vào cuối hè. Độ âm đất hầu như luôn cao vì độ bốc hơi thấp của khí hậu mát. Độ ẩm tương đối của không khí trung bình 78% và trung bình có 165 ngày có nhiều mây. Dân số Năm 1976, thành phố bùng nổ với số dân là trên 5 triệu. Năm 2004, St. Peterburg có số dân là khoảng 4 triệu người, giảm đi một triệu. Đa số là người Nga. Dự kiến sẽ giảm trong các năm tới. Sankt-Peterburg là thành phố lớn thứ 2 ở Nga. Theo thống kê năm 2010, dân số toàn thành phố là 4.879.566 chiếm 3,4% dân số Nga; với thống kê năm 2002 là 4.661.219 (3,2%) và giảm so với thời kỳ Liên Xô ghi nhận 5.023.506 năm 1989. Thống kê năm 2010 về thành phần dân cư gồm: người Nga 80,1%, Ukraina 1,3%, Belarus 0,8%, Tatar 0,6%, Armeni 0,6%, Do Thái 0,5%, Uzbek 0,4%, Tajik 0,3%, Azeri 0,3%, Cruzia 0,2%, Moldova 0,2%, Finns 0,1%, nhóm khác – 1,3%. Nhóm chiếm 13,4% còn lại không xác định được. Kinh tế Sankt-Peterburg là trung tâm thương mại, tài chính và công nghiệp của Nga, đặc biệt là thương mại dầu khí, cơ sở đóng tàu, công nghệ vũ trụ, radio và điện tử, phần mềm và máy tính; chế tạo máy, máy móc hạng nặng và giao thông, bao gồm xe tăng và khí tài quân sự, khai thác mỏ, chế tạo thiết bị, luyện kim (sản xuất các hợp kim nhôm), hóa chất, dược phẩm, trang thiết bị y tế, in ấn và xuất bản, thực phẩm, dệt và may mặc, và nhiều ngành thương mại khác. Thành phố cũng là trụ sở chính của Lessner, một trong hai nhà chết tạo ô tô tiên phong của Nga (cùng với Russo-Baltic). 10% tuốc bin điện trên thế giới được sản xuất ở LMZ, nhà máy này sản xuất hơn 2000 tuốc bin cho các nhà máy điện trên khắp thế giới. Các cơ sở công nghiệp lớn gồm Admiralty Shipyard, Baltic Shipyard, LOMO, Kirov Plant, Elektrosila, Izhorskiye Zavody; có trụ sở đặt tại Sankt-Peterburg là Sovkomflot, Petersburg Fuel Company và SIBUR trong số những công ty lớn khác của Nga và công ty quốc tế khác. Sankt-Peterburg có 3 cảng hàng hóa lớn vùng Baltic: cảng Bolshoi-Sankt-Peterburg, Kronstadt, và Lomonosov. Các công ty tàu-phà quốc tế phục vụ hành khách ở Morskoy Vokzal phía tây nam của đảo Vasilyevsky. Thành phố có rất nhiều nhà máy chưng cất rượu, sản xuất các loại rượu vodka. Nhà máy lâu đời nhất là LIVIZ (được thành lập năm 1897). Trong số các nhà máy trẻ nhất là Russian Standard Vodka được thành lập ở Moscow năm 1998, và ở St. Petersburg năm 2006 với vốn đầu tư $60 million (trên diện tích 30.000 m², sản xuất 22.500 chai/giờ). Năm 2007 loại rượu này đã xuất khẩu sang hơn 70 quốc gia. Năm 2006, ngân sách thành phố là 179,9 tỉ rubles (tương đương 6,651 tỉ USD tỷ giá năm 2006). Tổng sản phẩm khu vực của chủ thể liên bang năm 2005 là 667,905 tỷ ruble (khoảng 23,611 tỷ USD theo tỷ giá 2005), xếp hạng thứ 4 ở Nga sau Moscow, Tyumen, và tỉnh Moscow, hay 145.503,3 ruble/người (khoảng 5.143,6 USD theo tỷ giá 2005), xếp hạng thứ 12 trong các chủ thể liên bang của Nga, chủ yếu thu từ các nguồn buôn bán, bán lẻ và dịch vụ sửa chữa (24,7%) cũng như công nghiệp chế biến (20,9%) và giao thông, thông tin truyền thông (15,1%). Thu ngân sách của thành phố năm 2009 là 294,3 tỉ ruble (khoảng 10,044 tỉ USD theo tỷ giá 2009), chi – 336,3 tỉ ruble (khoảng 11,477 tỉ USD theo tỷ giá 2009). Thâm hụt ngân sách lên đến 42 tỉ ruble. (khoảng 1,433 tỉ USD năm 2009) Giáo dục Tính đến năm 2006/2007, thành phố có 1024 nhà trẻ, 716 trường công và 80 trường nghề. Trường đại học lớn nhất là Đại học Sankt-Peterburg, số sinh viên bậc đại học khoảng 32.000; và cơ sở đào tạo đại học tư lớn nhất là Viện quan hệ quốc tế, Kinh tế và Luật St. Petersburg. Các trường đại học nổi tiếng khác gồm Đại học Bách khoa Sankt-Peterburg, Đại học Herzen và Đại học Công nghệ quân sự Sankt-Peterburg. Tuy nhiên, các trường đại học công lập đều trực thuộc chính thể liên bang chứ không phải của thành phố. Chính quyền Sankt-Peterburg là một chính thể liên bang của Nga. Chính trị của Sankt-Peterburg được quy định tại Hiến pháp Sankt-Peterburg đã được cơ quan lập pháp của thành phố thông qua năm 1998. Cơ quan điều hành cao là Sankt-Peterburg City Administration, đứng đầu là thống đốc thành phố (trước năm 1996 là thị trưởng). Sankt-Peterburg có một cơ quan lập pháp single-chamber, quốc hội lập pháp Sankt-Peterburg, Quốc hội khu vực. Hành chính Thành phố Sankt-Peterburg hiện (2012) được phân chia thành 18 quận (район): Admiralteysky Frunzensky Kalininsky Kirovsky Kolpinsky Krasnogvardeysky Krasnoselsky Kronshtadtsky Kurortny Moskovsky Nevsky Petrodvortsovy Petrogradsky Primorsky Pushkinsky Tsentralny Vasileostrovsky Vyborgsky Du lịch Sankt-Peterburg là một trung tâm lớn thứ nhì sau Moskva về kinh tế, văn hóa và khoa học của Nga, nhưng nếu nói về phương diện tham quan du lịch thì nó còn hơn cả Moskva cổ kính. Thành phố còn được gọi là thủ đô phía Bắc của Nga, đã được tổ chức UNESCO thừa nhận là thành phố du lịch hấp dẫn thứ 8 của thế giới. Vào năm 2004 Sankt-Peterburg đã đón nhận 3,4 triệu du khách từ khắp thế giới. Số du khách đến thăm thành phố trong những năm gần đây tăng liên tục. Do thành phố có một hệ thống kênh đào chằng chịt với vô số những chiếc cầu cổ kính ở bên trên nên nó cũng được mệnh danh là Venice của phương Bắc. Nhờ có vị trí địa lý thuận lợi (59,93 độ vĩ bắc và 30,32 độ kinh đông), thành phố có các ngành công nghiệp phát triển như: đóng tàu (với xưởng đóng tàu nổi tiếng mang tên Baltic); cơ khí (với các xưởng Electrosila, xưởng Kirov); điện kĩ thuật và điện tử; luyện kim và kim loại màu; hóa chất, và nhất là cao su; dệt vải, may mặc; giày da; in ấn; gỗ, giấy; vật liệu xây dựng và thực phẩm. Sankt-Peterburg còn là một đầu mối giao thông lớn về đường sắt và đường bộ và là một trong những cảng biển lớn nhất của Nga. Đây cũng là căn cứ chính của hải quân Nga (Hạm đội Baltic). Cảng sông được các tuyến đường thủy nối liền với các biển Bạch Hải, biển Azov, biển Caspi và biển Đen. Thành phố cũng có một phi trường quốc tế: Sân bay Pulkovo Do thành phố này nằm ở vị trí rất xa về phương Bắc nên nó còn nổi tiếng với hiện tượng các đêm trắng, là các đêm sáng như trăng rằm mà không hề có trăng. Do sự khúc xạ ánh sáng Mặt Trời từ phía bên kia Địa cầu đang là "ban ngày", vượt qua miền Cực Bắc để tỏa sáng xuống thành phố. Đôi khi cũng có thể trông thấy hiện tượng cực quang. Thành phố có 41 trường đại học, trong đó có trường tổng hợp, trên 170 viện nghiên cứu khoa học, trên 2.000 thư viện (trong đó có Thư viện mang tên Mikhain Jevgraphovic Saltikov-Shchedrin), đài quan sát thiên văn Pulkovo, Nhà hát Maria, trong những năm 1920–1992 là Nhà hát Nhạc kịch Opera và Ballet mang tên Sergey Kirov. Ở đây cũng có phòng hòa nhạc vốn nổi tiếng trên thế giới, được thành lập từ năm 1862. Sankt-Petersburg cũng là một trong những trung tâm bảo tàng trọng yếu của châu Âu, tài nguyên này thuộc về Bảo tàng Ermitage và Bảo tàng Nga. Kề liền với thành phố có những địa danh du lịch – tĩnh dưỡng như khu Pushkin, Petrostation, Pavlovsk, Zielonogorsk, Siestrorieck hoặc là Gatchina. Giao thông Sankt-Peterburg là một trung tâm giao thông chính. Tuyến đường sắt đầu tiên của Nga được xây dựng ở đây vào năm 1837, và kể từ đó cơ sở hạ tầng giao thông của thành phố đã tiếp tục phát triển và bắt kịp với sự phát triển của thành phố. Petersburg có một hệ thống rộng lớn của các đường địa phương và các dịch vụ đường sắt, duy trì hệ thống giao thông công cộng lớn bao gồm các đường xe điện ở Sankt-Peterburg và Tàu điện ngầm Sankt-Peterburg, và là nơi có một số dịch vụ ven sông chuyển tải hành khách xung quanh thành phố một cách hiệu quả và tương đối thoải mái. Thành phố được kết nối với phần còn lại của Nga và thế giới bởi một số đường cao tốc liên bang và tuyến đường sắt quốc gia và quốc tế. Sân bay Pulkovo phục vụ phần lớn các hành khách hàng không khởi hành từ hoặc tới thành phố. Hình ảnh Chú thích Đọc thêm Amery, Colin, Brian Curran & Yuri Molodkovets. St. Petersburg. London: Frances Lincoln, 2006. ISBN 0-7112-2492-7. Bater, James H. St. Petersburg: Industrialization and Change. Montreal: McGuill-Queen’s University Press, 1976. ISBN 0-7735-0266-1. Berelowitch, Wladimir & Olga Medvedkova. Histoire de Saint-Pétersbourg. Paris: Fayard, 1996. ISBN 2-213-59601-8. Brumfield, William Craft. The Origins of Modernism in Russian Architecture. Berkeley: University of California Press, 1991. ISBN 0-520-06929-3. Buckler, Julie. Mapping St. Petersburg: Imperial Text and Cityshape. Princeton: Princeton University Press, 2005 ISBN 0-691-11349-1. Clark, Katerina, Petersburg, Crucible of Revolution. Cambridge: Harvard University Press, 1995. Cross, Anthony (ed.). St. Petersburg, 1703-1825. Basingstoke: Palgrave Macmillan, 2003. ISBN 1-4039-1570-9. George, Arthur L. & Elena George. St. Petersburg: Russia's Window to the Future, The First Three Centuries. Lanham: Taylor Trade Publishing, 2003. ISBN 1-58979-017-0. Glantz, David M. The Battle for Leningrad, 1941-1944. Lawrence: University Press of Kansas, 2002. ISBN 0-7006-1208-4. Hellberg-Hirn, Elena. Imperial Imprints: Post-Soviet St. Petersburg. Helsinki: SKS Finnish Literature Society, 2003. ISBN 951-746-491-6. Knopf Guide: Sat. Petersburg. New York: Knopf, 1995. ISBN 0-679-76202-7. Eyewitness Guide: St. Petersburg. Lincoln, W. Bruce. Sunlight at Midnight: St. Petersburg and the Rise of Modern Russia. New York: Basic Books, 2000. ISBN 0-465-08323-4. Orttung, Robert W. From Leningrad to St. Petersburg: Democratization in a Russian City. New York: St. Martin’s, 1995. ISBN 0-312-17561-2. Ruble, Blair A. Leningrad: Shaping a Soviet City. Berkeley: University of California Press, 1990. ISBN 0-87772-347-8. Shvidkovsky, Dmitry O. & Alexander Orloff. St. Petersburg: Architecture of the Tsars. New York: Abbeville Press, 1996. ISBN 0-7892-0217-4. Volkov, Solomon. St. Petersburg: A Cultural History. New York: Free Press, 1995. ISBN 0-02-874052-1. St. Petersburg:Architecture of the Tsars. 360 pages. Abbeville Press, 1996. ISBN 0-7892-0217-4 Saint Petersburg: Museums, Palaces, and Historic Collections: A Guide to the Lesser Known Treasures of St. Petersburg. 2003. ISBN 1-59373-000-4. Нежиховский Р. А. Река Нева и Невская губа, Leningrad, Гидрометеоиздат, 1981. Preclík, Vratislav. Masaryk a legie (Masaryk and the Legion), váz. kniha, 219 trang, vydalo nakladatelství Paris Karviná, Žižkova 2379 (734 01 Karviná-Mizerov) ve spolupráci s Masarykovým demokratickým hnutím (xuất bản bởi Paris Karviná, phối hợp với Phong trào Dân chủ Masaryk), 2019, ISBN 978-80-87173-47-3, trang 41 - 137, 140 – 148 Liên kết ngoài Official presentation of Saint Petersburg Official Portal of the City Government: Saint Petersburg Encyclopaedia of Saint Petersburg Saint Petersburg in 1900 Saint Petersburg , entry in the World Monuments Fund's 2008 watchlist Thành phố của Nga Thành phố liên bang của Nga Thành phố Anh hùng (Liên Xô) Di sản thế giới tại Nga Cố đô Thành phố ven biển ở Nga Thành phố cảng ở Nga
24432
https://vi.wikipedia.org/wiki/Boeing%20747
Boeing 747
Boeing 747, biệt danh "Jumbo Jet" hay nữ hoàng bầu trời "Queens of the Skies", là một trong những loại máy bay dễ nhận biết nhất trên toàn thế giới. Nó là máy bay thân rộng, hai tầng, hai lối đi đầu tiên trên thế giới, và là máy bay phản lực dân dụng thương mại cỡ lớn thân rộng hai lối đi đầu tiên trên thế giới được sản xuất. Loại máy bay này được đơn vị Commercial Airplanes của Boeing tại Hoa Kỳ sản xuất. Phiên bản đầu tiên của Boeing 747 có kích thước gấp 2,5 lần chiếc Boeing 707, một trong những máy bay thương mại cỡ lớn của thập niên 1960. Từ chuyến bay thương mại đầu tiên năm 1970, Boeing 747 giữ kỷ lục về sức chứa hành khách lớn nhất trong 37 năm cho đến khi đối thủ mới là hãng sản xuất máy bay của Châu Âu Airbus trình làng chiếc Airbus A380 vượt mặt. Máy bay Boeing 747 sử dụng 4 động cơ và đã từng có ý tưởng thực hiện trên cấu hình là hai tầng nhưng đã bị hủy bỏ phần thân được dùng chở khách, chở hàng hay sử dụng mục đích khác ở những phiên bản mới. Phần trên của máy bay được tạo hình thành một cái bướu trên 747 nằm phía trên sàn ngăn, tạo điều kiện cho các phiên bản chở hàng sau này có thể nhận hàng qua cửa lớn phía mũi máy bay. Phần bướu trong các phiên bản chở khách là phần đặt chỗ ngồi bổ sung hoặc sử dụng vào mục đích khác. Phiên bản mới nhất đang hoạt động của 747 là B747-8 Intercontinental và B747-8F. Phiên bản B747-400 là một trong những cấu hình máy bay dân dụng thân rộng nhanh nhất đang hoạt động trong các hãng hàng không với tốc độ đạt Mach 0,85 (567 mph hay 913 km/h), tầm bay liên lục địa là 7.260 hải lý (8.350 dặm hay 13.450 km). Phiên bản chở khách 747-400 có thể chở 416 khách với ba hạng ghế hoặc 524 khách với bố trí hai hạng ghế. Sau khi đã bán được 400 chiếc, có những lúc 747 bị cho là lỗi thời do sự phát triển của những máy bay dân dụng siêu thanh nhưng thực tế, tổng số sản xuất ở con số 1.000 chiếc vào năm 1993 đã vượt quá sức tưởng tượng của những người chỉ trích. Tính đến tháng 4-2008, có 1.402 chiếc 747 được chế tạo với 122 cấu hình khác nhau. Phiên bản mới nhất của loại 747 là 747-8F, đã đi vào hoạt động vào năm 2009. Phát triển Bối cảnh Vào năm 1963, Không quân Hoa Kỳ bắt đầu một loạt những dự án nghiên cứu về một máy bay vận tải "chiến lược" rất lớn. Dù C-141 Starlifter đang trong quá trình đưa vào sản xuất, họ cảm thấy một máy bay có sức chứa lớn hơn và to hơn là điều cần thiết, đặc biệt là khả năng để mang những hàng hóa "ngoại cỡ", điều không thể thực hiện trên những máy bay lúc đó. Những nghiên cứu này đã dẫn đến "CX-X" (Cargo, Experimental, no number - Hàng hóa, Thí nghiệm, không số), một thiết kế yêu cầu sức chứa lên đến 180.000 pound (81.600 kg) có tốc độ đạt Mach 0.75 (500 mph/805 km/h), và bay liền một mạch quãng đường dài 5.000 hải lý (9.260 km) với trọng tải là 115.000 pound (52.200 kg). Khoang chứa hàng phải có chiều rộng là 17 feet (5.18 m), chiều cao là 13.5 feet (4.11 m) và chiều dài là 100 feet (30.5 m) từ cửa ở trước (phần đầu) cho đến cửa cuối (phần đuôi) của máy bay. Thiết kế ban đầu đã vấp phải một loạt những đề xuất với 6 động cơ. Tuy nhiên, tất cả thiết kế đều được nhận thấy rằng không đủ tiến bộ để vượt qua C-141, để được xem là quan trọng cho phát triển. Một tập hợp mới các tiêu chuẩn được hoàn thành và một yêu cầu chính thức đề nghị đã được đưa ra vào ngày 27 tháng 4 năm 1964 cho "Heavy Logistics System" (CX-HLS - Hệ thống ngành hậu cần nặng). Nổi bật với chỉ 4 động cơ, thiết kế cũng yêu cầu những động cơ mới với công suất lớn hơn và tiết kiệm nhiên liệu hơn. Vào 18 tháng 5 năm 1964, những đề nghị sản xuất khung máy bay đã được chuyển tới Boeing, Douglas, General Dynamics, Lockheed và Martin Marietta; trong khi những đề nghị về động cơ được chuyển cho General Electric, Curtiss-Wright và Pratt and Whitney. Sau khi nghiên cứu lựa chọn, Boeing, Douglas và Lockheed đã được ký những hợp đồng nghiên cứu bổ sung cho khung máy bay, trong khi động cơ được giao cho General Electric và Pratt and Whitney. Tất cả ba trong số những đề nghị khung máy bay phải chia sẻ một số đặc tính, nhưng một chi tiết đã trở thành biểu tượng trên 747. Khi máy bay CX-HLS được thiết kế để mang hàng hóa hạng nặng, việc đặt buồng lái tại vị trí truyền thống ở phần mũi có thể gây ra nguy hiểm nghiêm trọng trong thời gian hạ cánh vội khi hàng hóa di chuyển về phía trước và có thể ép vào buồng lái của phi công. Tất cả các công ty đều tính đến vấn đề này bằng việc di chuyển buồng lái lên cao hơn khu vực chứa hàng; hãng Douglas có một "pod" (vỏ) nhỏ chỉ có ở phía trước và trên cánh, hãng Lockheed sử dụng một "xương sống" chạy theo chiều dài của máy bay với xà dọc cánh đi xuyên qua nó, trong khi hãng Boeing pha trộn cả hai ý tưởng trên lại, với một vỏ dài hơn và chạy từ phía sau mũi đến sau cánh. Vào năm 1965, thiết kế máy bay của Lockheed và thiết kế động cơ của General Electric đã được chọn cho mẫu máy bay vận tải mới là C-5 Galaxy. Kế hoạch về máy bay dân dụng 747 được hình thành trong đầu các nhà thiết kế khi du lịch bằng đường không đang gia tăng vào thập niên 1960. Thời đại của máy bay vận tải thương mại phản lực được mở ra bởi tính phổ biến to lớn của Boeing 707 và Douglas DC-8 đã cách mạng hóa du lịch đường dài. Thậm chí trước khi hợp đồng CX-HLS thất bại, Boeing đã bị thúc ép bởi Juan Trippe, chủ tịch của Pan American World Airways (Pan Am), một trong những hãng hàng không là khách hàng quan trọng nhất của Boeing; sự thúc ép này là về việc chế tạo một máy bay chở khách lớn gấp hai lần kích thước của chiếc 707. Trong thời gian này, việc tắc nghẽn tại các sân bay đã trở nên tồi tệ hơn do số lượng hành khách tăng lên trong khi sức chứa của máy bay lại tương đối nhỏ, những điều này đã trở thành vấn đề và Juan Trippe suy nghĩ có thể giải quyết vấn đề này bằng một loại máy bay cỡ lớn mới. Vào năm 1965, Joe Sutter chuyển từ đội phát triển 737 của Boeing sang làm quản lý các nghiên cứu về một máy bay dân dụng mới, loại máy bay mới này đã được gán số mô hình là 747. Sutter bắt đầu nghiên cứu thiết kế với Pan Am và các hãng hàng không khác, nhằm hiểu những nhu cầu của khách hàng khi đặt mua máy bay. Lúc đó, phần lớn người ta nghĩ rằng 747 sẽ dần dần bị thay thế bởi máy bay vận tải siêu thanh. Boeing đã trả lời bằng việc thiết kế 747 sao cho nó có thể thích nghi dễ dàng với việc chuyển chở hàng hóa và tiếp tục được đặt hàng chế tạo dù những đơn đặt hàng phiên bản chở khách có thể giảm sút. Trong vai trò chuyển chở hàng hóa, nhu cầu khoang chứa hàng lớn để hỗ trợ vận chuyển hàng bằng container là phương pháp đang được áp dụng rộng rãi vào cùng thời gian đó. Những container tiêu chuẩn có chiều ngang là (hơi cao hơn vì những điểm phiếu đính kèm) và chiều dài là 20 hoặc . Điều này có nghĩa rằng nó có thể hỗ trợ một chồng container 2-rộng 2-cao gồm 2 hay 3 hàng với một kích thước khung máy bay tương tự như dự án CX-HLS trước đó. Những nỗ lực thiết kế Cuối cùng thì thiết kế cánh cao của Boeing trên mẫu CX-HLS đã không được sử dụng cho 747, dù những công nghệ để phát triển dựa trên những cố gắng của họ có một ảnh hưởng nhất định. Thiết kế nguyên bản bao gồm một thân máy bay hai tầng với chiều dài đúng theo thiết kế, tầng dưới có 8 dãy ghế và 2 lối đi giữa các dãy ghế, tầng trên có 7 dãy ghế và 2 lối đi giữa các dãy ghế. Tuy nhiên, mối quan tâm đến việc giải tỏa tắc nghẽn trên các tuyến đường và khả năng mang hàng hóa hạn chế là nguyên nhân dẫn đến suy nghĩ ý tưởng này sẽ bị loại bỏ vào đầu năm 1966 vì những ưu tiên lớn hơn cho thiết kế máy bay một tầng có kích thước rộng hơn. Bởi vậy buồng lái đã được đặt trên một tầng trên ngắn hơn, vì vậy cửa chất và chuyển hàng hóa lên xuống máy bay có thể bao gồm cửa hình nón ở cả phần mũi nữa; thiết kế đặc trưng đã khiến 747 có thể dễ dàng nhận biết với một chỗ "lồi" ở phần đầu. Trong các kiểu đầu tiên, nó không được hiểu rõ ràng là những thứ có liên quan với vùng không gian nhỏ ở đằng sau buồng lái, và điều này lúc đầu theo lý thuyết như một khu vực "phòng khách" không có ghế ngồi cố định. Một trong những công nghệ thiết yếu cho phép một máy bay lớn như 747 được hình thành là động cơ phản lực cánh đẩy (turbofan) tỷ lệ đường vòng lớn. Công nghệ động cơ được tính đến để có khả năng cung cấp công suất gấp 2 lần những động cơ tuabin phản lực (turbojet) ban đầu trong khi tiêu thụ nhiên liệu ít hơn 3 lần. General Electric đã mở đường cho khái niệm này nhưng hãng đã chuyên tâm vào phát triển động cơ cho C-5 Galaxy và loại động cơ này đã không được thương mại hóa cho đến tận sau này. Pratt & Whitney cũng nghiên cứu chế tạo trên cùng nguyên lý, và cuối năm 1966, các hãng Boeing, Pan-Am và Pratt & Whitney đã đồng ý phát triển một động cơ mới trang bị cho 747, có tên gọi là JT9D. Dự án được thiết kế với một phương pháp mới gọi là phân tích cây sai hỏng (fault tree analysis), cho phép nghiên cứu kỹ lưỡng những tác động của một lỗi hỏng hóc của một bộ phận đơn lẻ, nhằm xác định ảnh hưởng của nó đối với những hệ thống khác. Để chuyên tâm vào những mối quan tầm về an toàn và khả năng bay, thiết kế của 747 bao gồm việc dư thừa cấu trúc, những hệ thống thủy lực thừa, hệ thống bánh đáp tăng lên 4 lần và 2 hệ thống điều khiển bề mặt. Đồng thời, một số thiết bị nâng tiên tiến nhất được sử dụng trong công nghiệp cũng được áp dụng trong thiết kế mới, cho phép máy bay hoạt động tại những sân bay hiện có lúc đó. Những tấm nhỏ ở gờ trước của cánh máy bay được thiết kế chạy dọc theo chiều dài của cánh, cũng như những cánh tà có rãnh được chia làm 3 phần chạy dọc theo chiều dài cánh ở phía sau. Thiết kế cánh đặt dưới cho phép những cánh tà lấy được luồng khí dưới cánh, tăng những hiệu ứng mặt đất tới máy bay. Boeing đồng ý giao chiếc 747 đầu tiên cho Pan Am vào cuối năm 1969. Ngày giao hàng tính từ sau ngày thiết kế máy bay là 28 tháng, khoảng thời gian này chỉ chiếm 2/3 quỹ thời gian bình thường từ khi thiết kế đến giao hàng chiếc máy bay đầu tiên đối với các loại máy bay khác. Vì chương trình nhanh như vậy nên những người làm việc trong dự án đã được đặt cho biệt danh là "The Incredibles" (Những người lạ thường). Việc phát triển máy bay như vậy là một thách thức kỹ thuật và tài chính, ban giám đốc dự án đã nói rằng "bet the company" (đánh cược công ty) khi họ bắt đầu dự án. Nhà máy sản xuất Vì Boeing không có một nhà máy nào đủ lớn để lắp ráp máy bay dân dụng khổng lồ, do đó họ lựa chọn giải pháp xây dựng một nhà máy mới. Boeing đã xem xét kỹ lưỡng các vị trí có thể đặt nhà máy mới ở 50 thành phố, và dần dần quyết định xây dựng nhà máy mới cách 30 dặm (48 km) về phía bắc Seattle trên một vị trí gần một căn cứ quân sự tại Paine Field gần Everett, Washington. Boeing đã mua một vùng đất rộng 780 mẫu Anh (316 hecta) vào tháng 6-1966. Việc phát triển 747 là một thách thức chính đối với hãng Boeing, và việc xây dựng nhà máy lắp ráp cũng là một nhiệm vụ to lớn khác. Chủ tịch Boeing là William M. Allen đã hỏi Malcolm T. Stamper khi đó là người đứng đầu bộ phận tuabin của hãng, để giám sát việc xây dựng nhà máy Everett và để bắt đầu sản xuất 747. Để san ủi mặt bằng, hơn 3.1 triệu m³ đất đã được chuyển đi. Thời gian xây dựng rất ngắn khi mô hình có kích cỡ thật của 747 đã được chế tạo trước khi mái của nhà máy được hoàn thành. Nhà máy này là tòa nhà lớn nhất thế giới về thể tích từng được xây dựng vào lúc đó. Phát triển và thử nghiệm Trước khi chiếc 747 đầu tiên được lắp ráp hoàn chỉnh, việc thử nghiệm đã bắt đầu đối với nhiều thành phần và hệ thống. Một thử nghiệm quan trọng là sơ tán hành khách khi máy bay bị nạn, người ta đã cần tới 560 tình nguyện viên ở trên cabin mô hình có kích thước thật của 747, sau đó thử nghiệm sơ tán qua những cầu trượt khẩn cấp thoát khỏi máy bay. Việc thử nghiệm sơ tán như thật đầu tiên mất 2 phút 30 giây thay vì tối đa 90 giây như yêu cầu bởi Cơ quan quản lý Hàng không Liên bang (FAA), vài người tình nguyện đã bị thương. Những thử nghiệm sơ tán tiếp theo đã đạt yêu cầu 90 giây nhưng khiến nhiều người bị thương hơn. Việc khó hiểu nhất là việc sơ tán từ tầng trên của máy bay; những hành khách tình nguyện thay vì việc sử dụng một máng trượt thông thường, khi thoát khỏi máy bay đã sử dụng một trang bị bảo hộ gắn liền với một ống cuộn. Boeing đã xây dựng một thiết bị huấn luyện khác thường được biết đến như "Waddell's Wagon" (Máy bay của Waddell) (tên gọi của một phi công thử nghiệm 747 là Jack Waddell), thiết bị này gồm có một buồng lái mô hình như thật đặt trên mui của một xe tải. Trong khi những chiếc 747 đầu tiên đã được chế tạo, thiết bị cho phép các phi công thực hành những thao tác trượt từ một vị trí tầng trên đặt trên cao. Vào ngày 30 tháng 9-1968, chiếc 747 đầu tiên đã được giới thiệu tại nhà máy lắp ráp Everett trước giới báo chí khắp thế giới và đại diện của 26 hãng hàng không trên thế giới đã đặt hàng chiếc máy bay. Trong những tháng sau đó, những sự chuẩn bị được thực hiện cho chuyến bay đầu tiên sẽ diễn ra vào ngày 9 tháng 2-1969, với những phi công thử nghiệm điều khiển là Jack Waddell và Brien Wygle và Jess Wallick ở vị trí phụ trách máy móc. Dù có một vấn đề nhỏ với một trong số những cánh tà, chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của 747 vẫn được xác nhận là có tính năng điều khiển rất tốt. Máy bay trong thời gian bay hầu như không bị hiện tượng "Dutch roll" (hiện tượng chao đảo hình cung), đây là một hiện tượng gây nguy hiểm chính đối với những máy bay phản lực cánh xuôi đầu tiên. Trong thời gian diễn ra những giai đoạn sau đó của chương trình thử nghiệm bay, thử nghiệm rung khi bay chỉ ra rằng cánh phải chịu dao động dưới những điều kiện nhất định. Khó khăn này một phần được giải quyết bằng việc giảm độ cứng của một số thành phần trong cánh. Tuy nhiên, vấn đề máy bay rung khi bay ở tốc độ cao đã trở thành một vân đề đặc biệt nghiêm trọng, và vấn đề này chỉ được giải quyết bằng cách chèn thêm những vật đối trọng như các bao bì chứa uranium nghèo trong vỏ động cơ ở phía ngoài, phương pháp này được áp dụng trên những chiếc 747 đầu tiên. Biện pháp này đã gây ra mối lo khi máy bay bị rơi hay đâm vào nhau, chẳng hạn như Chuyến bay 358 của China Airlines tại Wanli, Đài Bắc năm 1991 và Chuyến bay 1862 của El Al tại Amsterdam năm 1992. Chương trình thử nghiệm bay bị hạn chế bởi những vấn đề về động cơ JT9D của máy bay. Những khó khăn bao gồm việc động cơ chết máy, nguyên nhân là do sự chuyển động của van tiết lưu và sự biến dạng của vỏ bọc tuabin xảy ra rất nhanh sau một thời gian ngắn hoạt động. Những vấn đề này đã gây ra sự chậm trễ vài tháng trong việc giao hàng những chiếc 747 và 20 chiếc máy bay đã phải nằm chờ tại nhà máy Everett để đợi lắp đặt động cơ. Chương trình đã bị trì hoãn thêm khi một trong 5 chiếc máy bay thử nghiệm đã phải chịu thiệt hại nghiêm trọng trong khi đang cố gắng hạ cánh xuống sân bay Renton Municipal, nơi đặt nhà máy Renton của Boeing. Máy bay thử nghiệm đã bị loại bỏ các thiết bị kiểm tra và một cabin đã được lắp đặt khi phi công Ralph C. Cokely đã hạ cánh trên một đường băng ngắn và bộ bánh đáp đã bị cắt rời ra khỏi chiếc 747 sau sự cố trên. Tuy nhiên, những khó khăn này không cản trở Boeing mang một trong những máy bay thử nghiệm đến Triển lãm hàng không Paris lần thứ 28 vào giữa năm 1969, đây là lần đầu tiên chiếc 747 được xuất hiện trước công chúng. Chiếc 747 đã đạt được chứng chỉ bay của FAA (Cơ quan quản lý Hàng không Liên bang) vào tháng 12-1969, và chiếc máy bay mới đã sẵn sàng để đưa vào sử dụng chính thức trong các hãng hàng không. Chi phí rất lớn của dự án phát triển 747 và việc xây dựng nhà máy Everett có nghĩa rằng Boeing đã phải vay mượn những khoản tiền rất lớn từ một nghiệp đoàn ngân hàng. Trong những tháng cuối cùng trước khi giao chiếc máy bay đầu tiên, công ty đã phải nhiều lần yêu cầu cấp vốn bổ sung để hoàn thành dự án. Nếu bị từ chối không cấp thêm vốn, sự tồn tại của Boeing sẽ bị đe dọa. Cuối cùng thì, canh bạc mạo hiểm của Boeing đã thành công, và Boeing đã giữ độc quyền trong sản xuất máy bay chở khách cỡ lớn trong nhiều năm liền. Đi vào hoạt động Ngày 15 tháng 1-1970, Đệ Nhất Phu nhân Hoa Kỳ Pat Nixon đã làm lễ rửa tội cho chiếc 747 đầu tiên của Pan Am tại Sân bay quốc tế Dulles (sau này sân bay này đổi tên thành Sân bay quốc tế Washington Dulles) với sự có mặt của chủ tịch Pan Am là Najeeb Halaby. Thay vì rượu sâm banh, nước màu đỏ, trắng và xanh đã được phun lên máy bay. Chiếc 747 bắt đầu đi vào hoạt động chính thức vào ngày 22 tháng 1-1970, nó hoạt động trên tuyến đường bay New York–Luân Đôn của Pan Am; chuyến bay đầu tiên đã lên kế hoạch vào tối ngày 21 tháng 1, nhưng động cơ nóng quá mức cho phép khiến máy bay không thể sử dụng được. Việc tìm kiếm động cơ thay thế đã khiến chuyển bay bị trì hoãn muộn hơn 6 giờ vào ngày hôm sau. Loại máy bay 747 đã có được một sự mở đầu đi vào hoạt động suôn sẻ, vượt qua những lo âu là một số sân bay không có khả năng tiếp nhận một máy bay cỡ lớn. Mặc dù những vấn đề kỹ thuật đã nảy sinh, họ đã giải quyết một cách tương đối nhanh chóng và gọn nhẹ. Sau khi đi vào hoạt động với Pan Am, các hãng hàng không khác từng đặt mua 747 để duy trì sự cạnh tranh lần lượt đưa những chiếc 747 của riêng mình vào hoạt động. Boeing đã ước tính rằng một nửa số lượng 747 đầu tiên bán cho các hãng hàng không sẽ hoạt động do khả năng bay đường dài hơn là khả năng trọng tải của nó. Nhưng dù 747 có thể có chi phí hoạt động đối với mỗi ghế thấp, điều này có thể chỉ đạt được khi máy bay chở tải toàn bộ như theo thiết kế; chi phí hoạt động trên mỗi ghế sẽ gia tăng nhanh chóng khi hiệu suất sử dụng ghế giảm xuống. Việc tiêu thụ nhiên liệu cho một chiếc 747 chuyên chở khoảng 70% số ghế sẽ sử dụng hơn 95% nhiên liệu so với một chiếc 747 chở đầy tải. Khi những vấn đề kinh tế ở Hoa Kỳ và tại các quốc gia khác sau Khủng hoảng Dầu mỏ 1973 dẫn tới việc giảm lượng hành khách vận chuyển, một vài hãng hàng không nhận thấy họ không có đủ hành khách để cho chiếc 747 bay với chi phi kinh tế, và họ đã thay thế những chiếc 747 bằng những máy bay nhỏ hơn thân rộng vừa mới được giới thiệu, đó là kiểuMcDonnell Douglas DC-10 và Lockheed L-1011 TriStar (và sau đó là những máy bay phản lực 2 động cơ 767 và A300). Để thu hút khách hàng, các hãng hàng không đã cố gắng thử thay thế những ghế ngồi trên những chiếc 747 thành những quầy bar piano, hãng American Airlines đã dần dần chuyển những chiếc 747 của họ thành máy bay chở hàng vào năm 1983 đã đổi đội bay 747 của mình cho Pan Am để lấy những máy bay nhỏ hơn; Hãng Delta Airlines cũng đã loại bỏ những chiếc 747 khỏi đội bay sau vài năm. Những chuyến bay quốc tế bay trực tiếp bỏ qua những sân bay đầu mối truyền thống và hạ cánh xuống những thành phố nhỏ hơn đã trở nên phổ biến khắp nơi vào thập niên 1980, và điều này đã làm xói mòn thị trường ban đầu của 747. Tuy nhiên, nhiều hãng vận tải quốc tế vẫn tiếp tục sử dụng 747 trên các tuyến đường bay vượt Thái Bình Dương. Ở Nhật Bản, những chiếc 747 hoạt động trên các tuyến đường bay nội địa được cấu hình để chuyên chở lượng hành khách gần như toàn tải. 747 nhanh chóng có được uy tín và là một biểu tượng, nó đã xuất hiện trong những bộ phim khác nhau như loạt phim Airport về thảm họa hàng không, Không lực Một và Executive Decision. Những phát triển xa hơn Sau kiểu 747-100 ban đầu, Boeing đã phát triển phiên bản -100B có Trọng lượng Cất cánh Tối đa lớn hơn và phiên bản -100SR (tầm ngắn) có sức chứa hành khách lớn hơn. Tăng trọng lượng cất cánh tối đa (MTOW) có thể cho phép một máy bay mang nhiều nhiên liệu hơn và có tầm bay xa hơn. Kiểu -200 được phát triển sau đó và bắt đầu hoạt động chính thức năm 1971. Kiểu -200 có động cơ mạnh hơn và trọng lượng cất cánh lớn hơn. Các phiên bản chở khách, chuyên chở hàng và kết hợp chở khách-hàng hóa cũng được sản xuất. 747SP ngắn hơn (hiệu suất đặc biệt) với một tầm bay dài hơn cũng được phát triển vào giữa thập niên 1970. Dòng máy bay 747 đã được phát triển xa hơn với việc xuất xưởng 747-300 vào năm 1980. Phiên bản -300 là kết quả từ sự nghiên cứu của Boeing để tăng số ghế của 747. Những giải pháp như chốt thân máy bay và mở rộng tầng trên ở toàn bộ chiều dài thân máy bay đã bị loại bỏ. Tên gọi ban đầu của -300 là 747SUD ("stretched upper deck" - tầng trên kéo dài) tiếp theo là 747-200 SUD, sau đó là 747EUD, trước khi tên gọi 747-300 được sử dụng. Kiểu 300 được sản xuất lần đầu vào năm 1983. Nó bao gồm một tầng trên kéo dài (SUD), tăng tốc độ hành trình và tăng số ghế. Phiên bản chở khách, tầm gần và kết hợp chở khách-hàng hóa cũng được chế tạo. Năm 1985, công việc phát triển phiên bản 747-400 tầm xa bắt đầu. Phiên bản mới có một buồng lái kính mới, cho phép tăng tổ lái từ 3 phi công giảm xuống còn 2. Chi phí phát triển lớn, và những trì hoãn sản xuất đã xảy ra khi những hàng không đòi hỏi công nghệ mới phải được hợp nhất vào mẫu máy bay mới. Lực lượng lao động thiếu kinh nghiệm và những vấn đề sản xuất khác đã xuất hiện khi Boeing chế tạo 747-400. -400 bắt đầu đi vào hoạt động vào năm 1989. Từ khi 747-400 hoạt động, vài kế hoạch kéo dài cho 747 đã được đề xuất. Boeing đã giới thiệu thiết kế 747-500X và -600X vào năm 1996. Những phiên bản mới có chi phí hơn 5 tỷ USD để phát triển, và mối quan tâm không đủ để chương trình có thể bắt đầu. Boeing đưa ra giới thiệu kiểu 747X và 747X kéo dài khiêm nhường hơn vào năm 2000 như một câu trả lời tới kiểu A3XX của đối thủ Airbus. Tuy nhiên, dòng 747X không có khả năng thu hút đủ sự quan tâm để đi vào sản xuất. Boeing đã chuyển từ nghiên cứu 747X sang theo đuổi Sonic Cruiser vào năm 2001 và sau chương trình Sonic Cruiser là Boeing 787. Vài ý tưởng được phát triển cho 747X sẽ được sử dụng trên 747-400ER. Sau khi vài phương án được đề xướng và sau đó bị hủy bỏ, một số người theo dõi ngành công nghiệp đã tỏ ra hoài nghi về đề xuất máy bay mới từ Boeing. Tuy nhiên, vào đầu năm 2004, Boeing đã công bố những kế hoạch thử cho 747 Advanced, kiểu máy bay đang dần được thông qua. Tương tự bản chất với 747-X, 747 Advanced kéo dài thân sử dụng công nghệ từ 787 để hiện đại hóa thiết kế và những hệ thống của nó. Ngày 14 tháng 11-2005, Boeing công bố xuất xưởng 747 Advanced với tên gọi Boeing 747-8. 747 đã bị Airbus A380 chiếm danh hiệu máy bay chở khách lớn nhất đang hoạt động, khi Airbus A380 bắt đầu hoạt động trong các hãng hàng không vào năm 2007. Năm 1991, một kỷ lục đã được thiết lập khi 1.087 hành khách đã được một chiếc 747 chở đến Israel như một phần trong Chiến dịch Solomon. 747 từng là máy bay dân dụng nặng nhất hoạt động thường xuyên, cho đến khi loại máy bay Antonov An-124 Ruslan đi vào hoạt động năm 1982. Kiểu 747-400ER đã chiếm lại danh hiệu này vào năm 2000. Máy bay vận tải hàng hóa Antonov An-225 vẫn tiếp tục chiếm ngôi vị là máy bay có kích thước lớn nhất thế giới (bao gồm trọng lượng cất cánh tối đa và chiều dài). Loại Hughes H-4 Hercules là máy bay có sải cánh lớn nhất thế giới, nhưng nó chỉ bay một lần. Chỉ có 2 chiếc An-225 đã được chế tạo, trong khi loại máy bay 747 và A380 đã được sản xuất hàng loạt. Một số máy bay 747 được chuyển đổi để hoạt động trong những mục đích đặc biệt. Một chiếc 747-100 do General Electric sở hữu được sử dụng như một phòng thí nghiệm về động cơ của họ loại động cơ General Electric GEnx đã được thử nghiệm trên chiếc 747 này. Một nguyên mẫu chữa cháy đã được chế tạo bởi Evergreen International. Dần dần, 747 có thể được thay thế bởi một thiết kế có tên "Y3". Thiết kế Boeing 747 là một máy bay dân dụng cỡ lớn, thân rộng với 4 động cơ được đặt ở cánh. Cánh có góc xuôi sau lớn là 37.5° nhằm tăng tốc độ và hiệu quả khi bay ở vận tốc hành trình Mach 0.84 đến 0.88, phụ thuộc vào từng phiên bản. Cánh xuôi sau cũng cho phép 747 sử dụng những nhà để máy bay hiện có. Số ghế ngồi là hơn 366 ghế khi sắp xếp theo sơ đồ 3-4-3 (gồm 3 dãy ghế, 2 dãy ngoài mỗi hàng có 3 ghế và dãy giữa mỗi hàng có 4 ghế, xen vào giữa 3 dãy là 2 lối đi) ở khoang hạng economy và theo sơ đồ 2-3-2 ở khoang hạng nhất trên tầng chính của máy bay. Tầng trên có số ghế bố trí theo sơ đồ 3-3 ở khoang hạng economy và 2-2 ở khoang hạng nhất. Buồng lái của 747 tạo thành một cái "bướu" do nằm phía trên tầng chính. Buồng lái nhô cao cho phép máy bay có thể chất dỡ hàng hóa từ phía trước ở các phiên bản chuyên chở hàng hóa. Tầng trên phía sau buồng lái tạo không gian cho một phòng khách hay ghế bổ sung. "Tầng trên kéo dài" đã trở thành một tùy chọn trên phiên bản 747-100B và sau đó được coi như một tiêu chuẩn trên phiên bản 747-300. Trọng lượng cất cánh tối đa của 747 trong khoảng từ 735.000 pound (333.400 kg) đối với phiên bản 747-100 lên 970.000 lb (439.985 kg) cho phiên bản 747-8. Tầm bay tăng từ 5.300 hải lý (6.100 dặm, 9.800 km) đối với 747-100 lên 8.000 hải lý (9.200 dặm, 14.815 km) đối với 747-8I. 747 có nhiều cấu trúc phải tăng thêm số lượng bao gồm 4 hệ thống thủy lực và 4 bộ bánh đáp gồm có 16 lốp, điều này giúp máy bay tăng bề mặt bám đường và sự an toàn trong trường hợp có lốp bị nổ. Hộp số chính cũng được tăng số, điều này ngăn máy bay hạ cánh sử dụng bộ phận hạ cánh nếu phi công không thực hiện đủ thao tác, khi thực hiện đủ thao tác thì máy bay mới có thể hạ cánh. Ngoài ra, 747 còn có hệ thống điều khiển bề mặt kép và những cánh tà có rãnh xẻ được chia làm 3 có cấu trúc tinh vi, những cánh tà này giúp máy bay giảm tốc độ khi hạ cánh và cho phép máy bay sử dụng những đường băng có độ dài tiêu chuẩn. Những chiếc 747 đời đầu còn mang theo cả những động cơ dự phòng, những động cơ này được bố trí đặt ở giữa khoang chức năng động cơ và thân máy bay. Các biến thể 747-100 là biến thể đầu tiên được giới thiệu vào năm 1966. 747-200 cũng nhanh chóng được giới thiệu ngay sau đó và có đơn đặt hàng đầu tiên vào năm 1968. 747-300 được giới thiệu năm 1980, năm 1985 là 747-400. Cuối cùng là 747-8 được công bố vào năm 2005. Vài phiên bản của mỗi biến thể đã được sản xuất. Nhiều biến thể vẫn đang được sản xuất đồng thời. 747-100 Những chiếc 747-100 đầu tiên được chế tạo với 6 cửa sổ ở tầng trên (mỗi bên có 3 cửa sổ) dành cho khu vực phòng nghỉ ngơi ở tầng trên. Sau đó, khi các hãng hàng không bắt đầu sử dụng tầng trên làm khoang dành cho hành khách thượng hạng thay vì phòng nghỉ ngơi, Boeing đã đưa ra thiết kế tầng trên có 10 cửa sổ như một tùy chọn. Một số chiếc -100 đã được tái trang bị theo cấu hình mới này. Phiên bản 747-100B là một phiên bản có thiết kế khung máy bay và bộ bánh đáp được gia cố cũng như tăng trọng lượng cất cánh tối đa (MTOW) lên 750.000 lb (340.000 kg). 747-100B chỉ được giao cho hãng Iran Air và Saudia (hiện nay là Saudi Arabian Airlines). Những kiểu động cơ tùy chọn đã được các hãng đưa ra bao gồm Rolls-Royce (RB211) và GE (CF6), nhưng chỉ có Saudia đặt mua tùy chọn của Rolls-Royce. Boeing không phát triển phiên bản chuyên chở hàng hóa cho kiểu này. Tuy nhiên, những chiếc 747-100 sau này đã được chuyển đổi thành chuyên chở hàng hóa. Tổng cộng có 250 chiếc -100 (mọi phiên bản, bao gồm cả 747SP) được chế tạo; chiếc cuối cùng được giao vào năm 1986. Trong tổng số 250 chiếc được chế tạo có 167 chiếc 747-100, 45 chiếc 747SP, 29 chiếc 747SR và 9 chiếc 747-100B. 747-100SR Để đáp ứng những yêu cầu từ các hãng hàng không Nhật Bản, Boeing đã phát triển 747-100SR như một phiên bản "tầm gần" của biến thể 747-100. SR có sức chứa nhiên liệu ít hơn nhưng chở được nhiều hành khách hơn, lên tới 498 hành khách đối với những phiên bản ban đầu và 550 đối với những phiên bản sau này, do tăng số ghế ở khoang hạng du lịch. Đặc biệt, SR có cấu trúc hỗ trợ tăng cường ở cánh, thân, và bộ bánh đáp cùng với sức chứa nhiên liệu được giảm bớt 20%. 747SR phải sửa đổi lại cấu trúc thân để chịu đựng được áp lực tăng lên do số lần hạ cánh và cất cánh lớn. -100SR bắt đầu hoạt động chính thức ở hãng Japan Airlines (lúc đó là Japan Air Lines) vào ngày 7 tháng 10-1973. Sau này, những phiên bản tầm gần của -100B và -300 cũng được phát triển. Máy bay SR được sử dụng chủ yếu trên những tuyến bay nội địa ở Nhật Bản. 2 chiếc 747-100B/SR đã được giao cho Japan Airlines (JAL) với một tầng trên kéo dài để cung cấp chỗ cho nhiều khách hơn. Sự sửa đổi này được biết đến như "SUD" (stretched upper deck - tầng trên kéo dài). Hãng hàng không All Nippon Airways (ANA) đã vận hành những chiếc 747SR trên những tuyến bay nội địa ở Nhật Bản với sức chứa mỗi chiếc từ 455 đến 456 ghế, nhưng chúng đã ngừng hoạt động, chiếc cuối cùng ngừng hoạt động vào ngày 10 tháng 3-2006. JAL vận hành biến thể 747-100B/SR/SUD với 563 ghế trên tuyến bay nội địa, và ngừng sử dụng những máy bay này vào quý ba năm 2006. JAL và JALways đã vận hành những chiếc -300SR trên tuyến bay nội địa vào thời gian rỗi và trên các tuyến bay đến các nơi khác ở Châu Á. 747-100B 747-100B được phát triển từ -100SR, sử dụng thiết kế khung máy bay và thiết bị hạ cánh mạnh mẽ hơn. Loại này có công suất nhiên liệu tăng thêm 48.070 gal Mỹ cho phép phạm vi hoạt động 5.000 hải lý (9.300 km; 5.800 dặm) với trọng tải 452 hành khách thông thường và tăng MTOW 750.000 lb (340.000 kg). Đơn đặt hàng -100B đầu tiên, một máy bay cho Iran Air, được công bố vào ngày 1 tháng 6 năm 1978. Máy bay này bay lần đầu tiên vào ngày 20 tháng 6 năm 1979, nhận được chứng nhận FAA vào ngày 1 tháng 8 năm 1979 và được giao vào ngày hôm sau. 9 -100B đã được chế tạo, 1 cho Iran Air và 8 cho Saudi Arabian Airlines. Không giống như -100 ban đầu, -100B được cung cấp với các động cơ Pratt & Whitney JT9D-7A, General Electric CF6-50 hoặc Rolls-Royce RB211-524. Tuy nhiên, chỉ có động cơ RB211-524 (Saudia) và JT9D-7A (Iran Air) được đặt hàng. 747-100B, EP-IAM cuối cùng đã được Iran Air nghỉ hưu vào năm 2014, nhà khai thác thương mại cuối cùng của 747-100 và -100B. 747SP 747SP ngắn hơn 48 feet 4 in (14.7 m) so với 747-100. Ngoại trừ 747-8, SP chỉ có phần thân của 747 đã được sửa chiều dài. Những bộ phận thân ở phía trước và ở đuôi của cánh đã bị loại bỏ, và bộ phận thân ở giữa được thiết kế lại. Cánh tà có rãnh đơn đã được thay thế bởi nhóm 3 cánh tà Fowler có rãnh từ biến thể 747-100. "Ca nô" ở dưới cánh, là nơi đặt cơ cấu vận hành cánh tà trên những chiếc 747 tiêu chuẩn, bị loại bỏ hoàn toàn trên biến thể 747SP. 747SP khi đem so sánh với những biến thể trước đó, thì SP có phần thân ở cuối đuôi thon hơn, bánh lái có hai khớp nối, cánh đuôi đứng và cánh đuôi ngang dài hơn. Boeing 747SP đã được công nhận đạt một chứng chỉ phụ vào ngày 4 tháng 2-1976 và bắt đầu đi vào hoạt động ở hãng Pan American World Airways (PAN AM) cùng năm. Máy bay được chọn lựa bởi những hãng hàng không muốn hoạt động ở những sân bay chính với đường băng ngắn. Tổng cộng có 45 chiếc 747SP được chế tạo. Chiếc 747SP thứ 44 được giao vào ngày 30 tháng 8-1982. Boeing đã mở lại dây chuyền sản xuất 747SP để chế tạo một chiếc 747SP cuối cùng 5 năm sau đó vào năm 1987, đơn đặt hàng từ chính phủ Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Tính đến tháng 8-2007, 17 chiếc Boeing 747SP vẫn đang hoạt động trong các hãng hàng không bao gồm Iran Air (3), Saudi Arabian Airlines (1), Syrian Arab Airlines (2) và thuộc chính phủ. Dryden Flight Research Center (Trung tâm nghiên cứu bay Dryden) của NASA có một chiếc SP sửa đổi cho hoạt động thử nghiệm SOFIA. 747-200 747-200 có động cơ mạnh hơn, trọng lượng cất cánh tối đa (MTOW) và tầm bay lớn hơn so với 747-100. Một vài chiếc -200 đầu tiên giữ lại cấu hình 3 cửa sổ ở mỗi bên của biến thể -100 ở tầng phía trên, nhưng những chiếc chế tạo sau này lại có cấu hình 10 cửa sổ ở mỗi bên. Vài phiên bản thêm của -200 đã được sản xuất. Phiên bản 747-200B là một phiên bản cải tiến của 747-200, nó có sức chứa nhiên liệu lớn hơn và động cơ mạnh hơn; bắt đầu hoạt động vào tháng 2-1971. Máy bay -200B có tầm bay khi trọng tải đầy đạt khoảng 6.857 hải lý (12.700 km). Phiên bản 747-200F là một phiên bản chuyên chở hàng hóa của biến thể -200. Cửa để chất tải hàng ở một bên thân có thể có hoặc không trên -200F. Sức chứa của nó là 105 tấn Anh (95.3 tấn) và trọng lượng cất cánh tối đa lên đến 833.000 lb (378.000 kg). Nó bắt đầu hoạt động lần đầu vào năm 1972 với hãng Lufthansa. Phiên bản 747-200C Convertible là một phiên bản có thể chuyển đổi giữa chuyên chở khách và chuyên chở hàng hoặc sử dụng trong cấu hình kết hợp. Những chiếc ghế có thể được rờ đi, và kiểu này có cửa hàng hóa ở phần mũi. -200C có thể có một cửa hàng hóa bên cạnh tùy chọn ở tầng chính. 747-200M là một phiên bản kết hợp, nó có một cửa hàng hóa ở một bên thân trên tầng chính và có thể chở hàng ở khu vực phía sau của tầng chính. Một vách ngăn có thể dời đi trên tầng chính nhằm phân chia khu vực hàng hóa ở phía sau với khu vực của khách ở phía trước. Kiểu này có thể mang 238 hành khách khi bố trí ghế ở 3 hạng nếu hàng hóa được mang trên tầng chính. Kiểu này cũng được biết đến với tên gọi 747-200 Combi. Cũng như đối với biến thể 747-100, sửa đổi tầng trên kéo dài (SUD) cũng được đưa ra như một tùy chọn cho các khách hàng tùy chọn sau này. Tổng cộng có 10 chiếc 747-200 được chuyển đổi đang được vận hành bởi KLM. UTA French Airlines cũng có 2 chiếc trong số những máy bay 747 của mình được chuyển đổi. Tổng cộng có 393 chiếc -200 thuộc mọi phiên bản được chế tạo khi dây chuyền sản xuất đóng cửa năm 1991. Trong đó có 225 chiếc 747-200, 73 chiếc 747-200F, 13 chiếc 747-200C, 78 chiếc 747-200M, và 4 chiếc thuộc quân đội. Nhiều chiếc 747-200 hiện vẫn đang hoạt động, dù đa số những hãng hàng không lớn đã ngừng sử dụng chúng và bán chúng cho các hãng hàng không nhỏ hơn. Nhiều hãng hàng không lớn đã đẩy tiến độ ngừng hoạt động những chiếc 747-200 sau Sự kiện 11 tháng 9, một số chiếc thì được sử dụng để chuyên chở hàng hóa. 747-300 Sự khác biệt dễ nhận thấy nhất giữa 747-300 và những kiểu trước đó là tầng trên kéo dài với 2 cửa thoát hiểm khẩn cấp mới và một khu vực dành cho thành viên phi hành đoàn nghỉ ngơi ở ngay sau buồng lái, khu vực này được coi như một tiêu chuẩn tùy chọn (tầng trên kéo dài trước đây được đưa ra như một trang bị bổ sung và xuất hiện lần đầu trên 2 chiếc 747-100SP của Nhật Bản ). Khi so sánh với 747-200, tầng trên dài hơn của 747-300 dài hơn 23 feet 4 in (7,11 m). Một cầu thang thẳng mới lên tầng trên thay thế cho cầu thang xoắn ốc là điểm khác biệt giữa -300 và các biến thể trước đó. Cầu thang tạo nên phòng ở dưới và ở trên, tạo thêm không gian đặt ghế. Với những thay đổi khí động học nhỏ, Boeing đã tăng tốc độ hành trình của -300 lên Mach 0,85 so với Mach 0,84 ở biến thể -100/-200. -300 có trọng lượng cất cánh tương đương với -100/-200. 2 trong số 3 động cơ được lựa chọn từ -200 đã được giữ nguyên ở biến thể -300, nhưng động cơ General Electric CF6-80C2B1 đã được đưa ra nhằm thay thế cho loại CF6-50E2 trên -200. Tên gọi 747-300, trước đây được đề xuất cho một biến thể chưa bao giờ được xuất xưởng, tên gọi này được sử dụng lại cho phiên bản mới này, nó được giới thiệu năm 1980. Hãng Swissair đã đặt mua những chiếc 747-300 đầu tiên vào ngày 11 tháng 6-1980. 747-300 bay lần đầu vào 5 tháng 10 năm 1982. Swissair là khách hàng đầu tiên được giao hàng vào 23 tháng 3-1983. Ngoài phiên bản chở khách, những phiên bản khách cũng được chế tạo. Phiên bản 747-300M có khả năng chở hàng hóa ở phía sau tầng chính tương tự như -200M, nhưng với tầng trên kéo dài nó có thể chở được nhiều khách hơn. 747-300SR là phiên bản tầm gần nhằm đáp ứng nhu cầu cho các tuyến đường bay nội địa. Hãng Japan Airlines đã sử dụng phiên bản -300SR với sức chứa lên đến 600 ghế trên tuyến đường bay Okinawa–Tokyo và các tuyến khác. Boeing chưa bao giờ xuất xưởng phiên bản chuyên chở hàng hóa chế tạo mới của 747-300, nhưng các phiên bản chở khách của 747-300 có thể được sửa đổi để chuyên chở hàng hóa từ năm 2000. Tổng cộng có 81 chiếc được chế tạo, trong đó có 56 chiếc dùng để chở khách, 21 chiếc 747-300M và 4 chiếc 747-300SR. 747-300 sớm bị thay thế bởi biến thể 747-400 tiên tiến hơn được xuất xưởng vào năm 1985, chỉ 2 năm sau khi -300 bắt đầu đi vào hoạt động. Chiếc 747-300 cuối cùng được giao vào tháng 9-1990 cho hãng Sabena. Ngày nay, đa số máy bay -300 hiện vẫn đang hoạt động, mặc dù mất đi tầm quan trọng trong một loạt các hãng hàng không, các hãng lớn đã bán chúng cho các hãng hàng không nhỏ hơn khác. Một số chiếc -300 đã khiến người ta ngạc nhiên khi được chuyển đổi để sử dụng chở hàng, dù không một chiếc nào của biến thể -300 khi giao hàng là phiên bản chuyên chở hàng. Tính đến tháng 7 năm 2018, chỉ còn 5 chiếc 747-300 phục vụ gồm hãng Max Air (Nigeria, 3 chiếc), Mahan Air (Iran, 1 chiếc) và TransAVIAexport Airlines (Belarus, 1 chiếc chở hàng). 747-400 747-400 là một kiểu cải tiến tăng tầm bay. Nó có đầu cánh kéo dài thêm 6 ft (1,8 m), những cánh nhỏ là 6 ft (1,8 m), cải thiện hiệu suất tiêu thụ nhiên liệu của 747-400 tiết kiệm hơn 4% so với những phiên bản 747 trước. Nó có thiết kế buồng lái kính mới cho tổ lái, giảm số phi công lái từ 3 còn 2 người. Sử dụng các thiết bị điện tử mới giảm bớt số lượng đồng hồ, máy đo và nút bấm từ 971 xuống còn 365. Nó có những thùng nhiên liệu ở đuôi, sửa lại động cơ và có nội thất mới. Tầm bay dài nên nó được một số hãng hàng không sử dụng trên những tuyến bay dài không dừng. -400 có các phiên bản chở khách (400), chở hàng (400F), kết hợp (400C), nội địa (400D), chở khách với tầm bay mở rộng (400ER) và chở hàng với tầm bay mở rộng (400ERF). Phiên bản chở hàng không có tầng trên kéo dài. 747-400D được chế tạo để hoạt động tầm gần và không có những cánh nhỏ ở đầu cánh, nhưng có thể được trang bị thêm. Phiên bản chở khách hoạt động lần đầu vào tháng 2-1989 với hãng Northwest Airlines trên tuyến từ Minneapolis đến Phoenix. Phiên bản kết hợp bắt đầu hoạt động vào tháng 9-1989 với hãng KLM. Phiên bản chở hàng bắt đầu hoạt động vào tháng 11-1993 với hãng Cargolux. 747-400ERF bắt đầu hoạt động vào tháng 10-2002 và 747-400ER hoạt động vào tháng 11-2002 với hãng Qantas, hãng hàng không duy nhất từng đặt mua phiên bản chở khách 400ER. Phiên bản chở khách cuối cùng của 747-400 được giao vào tháng 4-2005. Boeing công bố trong tháng 3-2007 rằng họ không có kế hoạch tiếp tục sản xuất những phiên bản chở khách của -400. Tuy nhiên, những đơn đặt hàng cho 36 chiếc chở hàng -400F và -400ERF đã được ký vào thời điểm thông báo. Đến tháng 10-2007, tổng cộng có 670 chiếc 747-400 mọi phiên bản được giao cho các hãng hàng không. Những hãng sử dụng nhiều 747-400 nhất là Singapore Airlines, Japan Airlines, và British Airways. 747 LCF Dreamlifter 747-400 Dreamlifter (tên gọi ban đầu là 747 Large Cargo Freighter hay LCF) là một sửa đổi do Boeing tự thiết kế từ những chiếc 747-400 sẵn có, có thân lớn hơn nhằm chuyên chở những bộ phận chính và phụ của Boeing 787 đến nhà máy của Boeing ở Everett, Washington hoặc north chaleston, South Carolina, để lắp ráp hoàn thiện. Evergreen Aviation Technologies Corporation là tập đoàn lớn đang được Boeing giao sửa đổi những chiếc 747-400 thành Dreamlifters ở Đài Loan. Dreamlifters bay lần đầu vào 9 tháng 9-2006. Dreamlifter chỉ có một mục đích duy nhất là vận chuyển những bộ phận lắp ráp của Boeing 787. Máy bay được chứng nhận chỉ dành cho phi hành đoàn sử dụng vào mục đích cần thiết và không chở hành khách. Hai chiếc đã được chế tạo,và hai chiếc khác đã đặt hàng.Tuy nhiên hiện tại chỉ có 3 chiếc đang hoạt động theo tuyên bố chính thức của Boeing. 747-8 Boeing đã công bố một biến thể 747 mới là 747-8 nhằm cạnh tranh với A380 của Airbus đồng thời là máy bay hiện tại giữ kỹ lục dài nhất thế giới tính đến hiện tại trước khi bị B777X cũng do Boeing sản xuất vượt mặt (được xem như 747 Advanced trước khi giới thiệu) vào 14 tháng 11-2005, 747-8 sẽ dùng công nghệ động cơ và buồng lái giống 787. (Người ta quyết định đặt tên gọi là B747-8 vì những công nghệ nó dùng chung với 787 Dreamliner.) Những kế hoạch yêu cầu thiết kế mới yên tĩnh hơn, kinh tế hơn và nhất là thân thiện với môi trường hơn.747-8 được làm dài hơn để tăng tải trọng. 747-8 tăng chiều dài từ 232 lên 251 feet (70.8 to 76.4 m), vượt trội so với Airbus A340-600 để trở thành máy bay dân dụng dài nhất thế giới. Phiên bản chở khách, được gọi là 747-8 Intercontinental (Liên lục địa) hay 747-8I, có khả năng chỗ tới 467 hành khách ở cấu hình 3 hạng ghế và bay xa hơn 8.000 hải lý (15.000 km) ở vận tốc Mach 0.855.747-8 có lợi thế kinh tế về huấn luyện phi công và dễ hoán chuyển các bộ phận với loại 747-400. 747-8I lên kế hoạch bắt đầu hoạt động vào năm 2010. Cũng được giới thiệu cùng lúc là 747-8 Freighter (chở hàng) hay 747-8F, phiên bản này xuất phát từ 747-400(ER)F. 747-8F có thể chứa 154 tấn hay (140 tấn) hàng hóa tương đương 20 thùng container loại 40 feel.Hỗ trợ chất và dỡ hàng hóa,nó có một cửa lớn ở đầu máy bay(gọi tạm là mở bằng lỗ mũi máy bay)từ phiên bản B747-400F.Và một hay hai cửa phụ ở một trong hai bên hoặc thậm chí là hai bên hông thân máy bay tùy theo cấu hình và yêu cầu đặt hàng riêng của từng khách hàng.Trọng tải của nó lớn hơn 16% so với 747-400F và có thể chứa thêm bảy container hàng hóa tiêu chuẩn hàng không. 747-8F lên kế hoạch đi vào hoạt động năm 2009. Đến tháng 12-2007,tổng cộng có hơn 78 chiếc Boeing 747-8F được đặt mua, từ các hãng Cathay Pacific (14), Atlas Air (2), Nippon Cargo Airlines (14), Cargolux (14), Emirates SkyCargo (10), Volga-Dnepr (5), Guggenheim Aviation Partners (4) Korean Air (14)...cùng một số hãng hàng không khác và khách hàng giấu tên không được đề cập trong bài viết này. Tổng cộng có hơn 25 chiếc Boeing 747-8I được đặt mua,trong đó liệt kê có 5 chiếc từ Boeing Business Jet và 20 chiếc từ Lufthansa...cùng một số khách hàng giấu tên và các hãng hàng không khác. Các biến thể thuộc chính phủ và quân sự C-19 – Không quân Mỹ đã đặt tên gọi này cho những chiếc 747-100 được sử dụng bởi một số hãng hàng không và sửa đổi để dùng trong Civil Reserve Airlift Fleet (Phi đội Cầu hàng không Dự bị Dân dụng). VC-25 – Đây là phiên bản 747-200B được sử dụng để phục vụ VIP của Không quân Mỹ. Họ sử dụng 2 chiếc 747-200B để chở yếu nhân với tên gọi VC-25A. Số trên đuôi là 28000 và 29000, hay còn được biết đến như Không lực một, về mặt kỹ thuật giao thông trên không, số hiệu này được gọi cho bất kỳ máy bay này của không quân Mỹ chở Tổng thống Hoa Kỳ. Mặc dù dựa vào thiết kế của 747-200B, nhưng VC-25 lại có nhiều đổi mới được sử dụng trên kiểu 747-400, như nâng cấp buồng điều khiển và động cơ. Từng phần của máy bay được hoàn thành tại Everett, Washington, sau đó được chuyển đến Wichita, Kansas để lắp ráp hoàn thiện, trong hợp đồng với máy bay dân dụng, chúng sẽ được hoàn thiện ở nhà máy Everett. Không quân Hoa Kỳ thông báo sẽ mua 2 chiếc Boeing 747-8 (VC-25B) để thay thế VC-25A đã cũ. E-4B – Trước đây được biết đến như National Emergency Airborne Command Post (Sở chỉ huy tình trạng khẩn cấp trên không quốc gia) (thường gọi là "Kneecap"), máy bay này hiện nay được sử dụng làm National Airborne Operations Center (NAOC - Trung tâm chiến dịch trên không quốc gia). YAL-1 – Đây là một máy bay mang thiết bị phóng laser trên không thử nghiệm, một bộ phận của kế hoạch lá chắn Phòng thủ tên lửa quốc gia. Shuttle Carrier Aircraft – 2 chiếc 747 đã được sửa đổi để mang tàu con thoi. Một chiếc là 747-100 (N905NA), mua từ hãng American Airlines năm 1974; chiếc còn lại là 747-100SR (N911NA), mua từ hãng Japan Airlines năm 1988. Chúng thực hiện chuyến chở tàu con thoi đầu tiên năm 1991. Hiện các máy bay này đều do NASA sở hữu. Một số chính phủ các quốc gia khác cũng sử dụng 747 như máy bay phục vụ VIP, bao gồm Bahrain, Brunei, Ấn Độ, Iran, Nhật Bản, Kuwait, Oman, Pakistan, Qatar, Ả Rập Xê Út và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Một vài chiếc Boeing 747-8 mới cũng được Boeing Business Jet đặt mua để sửa đổi thành máy bay VIP cho một số khách hàng giấu tên. C-33 – Máy bay này là loại 747-400 phiên bản quân sự đề xuất cho quân đội Mỹ, được dự định để tăng cường cho phi đội C-17. Kế hoạch bị hủy bỏ để ưu tiên bổ sung những máy bay vận tải quân sự C-17. KC-33A – Boeing đã đề xướng chiếc 747 như một máy bay chở dầu có khả năng tiếp nhiên liêu trên không, nó được phát triển để cạnh tranh với loại DC-10-30 trong chương trình Advanced Cargo Transport Aircraft (ACTA - Máy bay vận tải hàng hóa tiên tiến) vào thập niên 1970, và KC-10A Extender phát triển từ DC-10-30 đã được chọn để sản xuất. Trước cuộc cách mạng của Ruhollah Khomeini, Iran đã mua 4 máy bay 747-100 để chuyển đổi thành máy bay chở dầu tiếp nhiên liệu trên không nhằm hỗ trợ cho phi đội F-4 Phantom. Người ta không biết liệu máy bay này có còn được sử dụng như máy bay chở dầu hay không. Từ đó, những đề xuất khác đã nảy sinh khi sử dụng máy bay 747-400 làm máy bay chở dầu. 747 CMCA – Phiên bản này được Không quân Hoa Kỳ coi như một Máy bay mang tên lửa hành trình (Cruise Missile Carrier Aircraft) trong khi máy bay ném bom chiến lược B-1 Lancer đang phát triển. Nó trang bị từ 50 đến 100 tên lửa hành trình AGM-86 ALCM trên các bệ phóng quay được. Dự án này đã rơi vào quên lãng khi không quân dành ưu tiên để phát triển những máy bay ném bom chiến lược. Những biến thể không phát triển tiếp Boeing đã nghiên cứu một số biến thể 747 khác, nhưng những biến thể này không được đưa vào sản xuất. 747-300 Trijet Trong thập niên 1970, Boeing đã nghiên cứu phát triển một kiểu 747 thân ngắn hơn và có 3 động cơ để cạnh tranh với loại L-1011 TriStar và DC-10 nhỏ hơn, kiểu 747 mới này có chi phí bay thấp hơn so với 747SP. 747-300 Trijet có trọng tải, tầm bay và sức chứa hành khách lớn hơn. Động cơ giữa được đặt ở đuôi với một đầu vào khí ống chữ S tương tự như của L-1011. Tuy nhiên, những nghiên cứu kỹ thuật chỉ ra thiết kế cần nhiều thời gian để hoàn thiện và chi phí để thiết kế lại cánh của 747 là tất yếu. Vì vậy, 747 trijet sau đó đã được loại bỏ. 747-500X, -600X và -700X Boeing công bố 747-500X và -600X tại Triển lãm hàng không Farnborough năm 1996. Những kiểu đề xuất kết hợp thân của 747 với một sải cánh dài 251 ft (77 m) được lấy từ 777. Những thay đổi khác bao gồm thêm động cơ mạnh hơn và tăng số lốp từ 2 lên 4 ở bộ hạ cánh dưới mũi và từ 16 lên 20 ở bộ hạ cánh chính. Ý tưởng 747-500X nổi bật với chiều dài là 250 ft (76.2 m), thân máy bay được kéo dài thêm 18 ft (5.5 m), và máy bay mang được 462 hành khách với tầm bay 8.700 hải lý (10.000 dặm, 16.100 km), với trọng lượng toàn bộ là 1.0 Mlb (450 tấn). Còn ý tưởng 747-600X nổi bật với chiều dài lên đến 279 ft (85 m) và chở được 548 hành khách, tầm bay đạt 7.700 hải lý (8.900 dặm, 14.300 km), trọng lượng toàn bộ đạt 1.2 Mlb (540 tấn). Một ý tưởng thứ 3 được nghiên cứu đó là 747-700X, nó kết hợp giữa cánh của 747-600X và thân mở rộng, cho phép chở được 650 hành khách trên quãng đường bay giống với 747-400. Chi phí của những thay đổi từ các mẫu 747 trước đó, nói riêng với thiết kế cánh mới cho 747-500X và -600X có giá xấp xỉ hơn 5 tỷ USD. Boeing không thu hút đủ sự quan tâm để có thể sản xuất những phiên bản này. 747X và 747X Stretch Trong khi Airbus tiến triển với những nghiên cứu về A3XX, Boeing vào năm 2000 đã giới thiệu ra thị trường một phiên bản bắt nguồn từ 747 được coi như một giải pháp. Đây là một đề xuất vừa phải so với -500X và -600X trước đây, phiên bản này nói chung giữ lại thiết kế cánh toàn diện của 747 và thêm vào một đoạn ở gốc cánh, tăng sải cánh lên 229 ft (69.8 m). Động cơ được lựa chọn giữa Engine Alliance GP7172 hoặc Rolls-Royce Trent 600, những loại động cơ này cũng được dự định sử dụng cho 767-400ERX. Một buồng điều khiển mới dựa trên thiết kế của 777 cũng được sử dụng. Máy bay 747X mang được 430 hành khách với tầm bay là 8.700 hải lý (10.000 dặm, 16.100 km). 747X Stretch có chiều dài tăng lên đến 263 ft (80.2 m), cho phép mang được 500 hành khách với tầm bay lên đến 7.800 hải lý (9.000 dặm, 14.500 km).Cả hai phiên bản này đều sử dụng kiến trúc nội thát dựa vào nội thất của 777. Những phiên bản chuyên chở hàng hóa của 747X và 747X Stretch cũng được nghiên cứu. Cũng như những mẫu 747 khác trước nó, dòng 747X không có khả năng tạo đủ sự quan tâm để đưa vào sản xuất, và nó đã bị trì hoãn đưa vào sản xuất cùng với 767-400ERX vào tháng 3-2001, khi Boeing công bố ý tưởng về Sonic Cruiser. Mặc dù thiết kế 747X có chi phí ít tốn kém hơn so với 747-500X và -600X, nó vẫn bị chỉ trích không phải là một đề xuất tiên tiến từ 747-400. 747X không được đưa vào sản xuất, nhưng 747-400X vẫn được phát triển tiếp và được sản xuất với tên gọi 747-400ER. 747-400XQLR Sau khi chương trình 747X kết thúc, Boeing tiếp tục nghiên cứu cải tiến áp dụng trên 747. 747-400XQLR (Quiet Long Range) có tầm bay tăng lên tới 7.980 hải lý (9.200 dặm, 14.800 km), với những cải tiến để cải thiện hiệu suất và giảm bớt tiếng ồn. Những nghiên cứu cải tiến bao gồm các đầu cánh nghiêng sau tương tự các đầu cánh được dùng trên 767-400ER và một vỏ động cơ răng cưa để giảm bớt tiếng ồn. Dù 747-400XQLR không được đưa vào sản xuất, nhưng nhiều đặc tính của nó đã được sử dụng cho 747 Advanced, được biết đến hiện nay với tên gọi 747-8. Các biến cố và tai nạn Tính đến tháng 5 năm 2007 đã có tổng cộng 45 vụ tai nạn khiến Boeing 747 bị phá hủy, 3.707 người thiệt mạng. Ít vụ rơi máy bay được cho là do những sai sót trong thiết kế của 747. Thảm hoạ Tenerife xảy ra là do lỗi của phi công, đài kiểm soát không lưu (ATC), khiến cho 2 chiếc 747 va chạm và làm 583 người chết. Chuyến bay 123 của Japan Airlines và Chuyến bay 611 của China Airlines 2 chiếc Boeing 747 bị dập đuôi và sửa chữa không đúng cách khiến bị rơi Chuyến bay 801 của Korean Air bị rơi khi đang tiếp cận sân bay, dẫn đến những khuyến cáo an toàn về độ cao tối thiểu của máy bay. Vụ va chạm trên không trung tại làng Charkhi Dadri năm 1996 giữa máy bay Ilyushin Il-76 và máy bay 747 đã trở thành vụ va chạm giữa không trung tồi tệ nhất, làm tổng cộng 349 người chết. Chuyến bay 811 của United Airlines bị nổ trên không vào 24 tháng 2-1989, dẫn đến Ủy ban an toàn vận tải quốc gia (NTSB) đưa ra khuyến cáo về cửa hàng hóa của 747-200 tương tự như những cửa hàng hóa trên chiếc 747 bay chuyến 811 cần phải được sửa đổi. Chuyến bay 007 của Korean Air Lines đã bị máy bay tiêm kích của Liên Xô bắn hạ khi nó bay lạc đường vào không phận của Liên Xô, đây là nguyên nhân dẫn đến tổng thống Mỹ Reagan cho phép sử dụng hệ thống định vị Global Positioning System (GPS) của quân đội vào mục đích dân sự. Chuyến bay 800 của TWA là một chiếc 747-100 bị nổ trên không vào 17 tháng 7 năm 1996, dẫn đến Cơ quan quản lý hàng không Liên bang đưa ra điều luật quy định lắp đặt một hệ thống chữa cháy ở thùng nhiên liệu trung tâm của hầu hết máy bay cỡ lớn. Chuyến bay 9 của British Airways là một sự cố đặc biệt, khi máy bay xuyên qua vùng tro núi lửa và phát ra ánh sáng xanh kì quái, sau đó cả bốn đông cơ đều tắt và khói tràn vào ca bin. Rất may, toàn bộ hành khách và phi hành đoàn đều an toàn sau sự cố đó. Những chiếc đang trưng bày Khi số lượng những chiếc 747-100 và 747-200 ngừng hoạt động tăng lên, một số chiếc đã được chuyển vào trưng bày trong bảo tàng hay trở thành nhà hàng. Chiếc 747 đầu tiên và nguyên mẫu được trưng bày tại Bảo tàng bay, Seattle, Washington, Hoa Kỳ. Một số chiếc 747 được trưng bày tại các bảo tàng khác bao gồm: Công viên giải trí Hàng không Quốc gia Aviodrome, Lelystad, Hà Lan; Bảo tàng Qantas Founders Outback,Longreach, Queensland, Australia; Sân bay Rand, Johannesburg, Nam Phi; Triển lãm hàng không vũ trụ Tehran, Tehran, Iran; Trung tâm hàng không Jeongseok, Jeju, Hàn Quốc, và Bảo tàng không gian và không trung Quốc gia, Washington, D.C. Thông số kỹ thuật Nguồn: Thông số kỹ thuật 747, 747 báo cáo sân bay Lực cản ký sinh trên 747, CDP, là 0.022, và diện tích cánh là 5.500 feet² (511 m²), f² khoảng 121 sq ft hay 11.2 m². Lực cản ký sinh được tính bởi ½ f ρair v² trong đó f là tích số của hệ số cản CDp và diện tích cánh. Danh sách giao hàng {| border="2" cellpadding="4" cellspacing="0" style="margin: 1em 1em 1em 0; border: 1px #aaa solid; border-collapse: collapse; font-size: 95%;" |- 2008 2007 2006 2005 2004 2003 2002 2001 2000 1999 1998 1997 1996 1995 1994 1993 1992 1991 1990 1989 |- | 6 |16 |14 |13 |15 |19 |27 |31 |25 |47 |53 |39 |26 |25 |40 |56 |61 |64 |70 |45 |- |----- 1988 1987 1986 1985 1984 1983 1982 1981 1980 1979 1978 1977 1976 1975 1974 1973 1972 1971 1970 1969 |- |24 |23 |35 |24 |16 |22 |26 |53 |73 |67 |32 |20 |27 |21 |22 |30 |30 |69 |92 |4 |- |} Dữ liệu tính đến tháng 4-2008. Cập nhật ngày 9 tháng 5 năm 2008. Tham khảo Chú thích Tài liệu Bowers, Peter M. Boeing aircraft since 1916. Luân Đôn: Putnam Aeronautical Books, 1989. ISBN 0-85177-804-6. Irving, Clive. Wide Body: The Making of the Boeing 747. Philadelphia: Coronet, 1994. ISBN 0-340-59983-9. Kane, Robert M. Air Transportation. Dubuque, IA: Kendall Hunt Publishing Company, 2003. ISBN 0-7575-3180-6. Lawrence, Philip K. and David Weldon Thornton. Deep Stall: The Turbulent Story of Boeing Commercial Airplanes. Burlington, VT: Ashgate Publishing Co., 2005, ISBN 0-7546-4626-2. Norris, Guy and Mark Wagner. Boeing 747. St. Paul, Minnesota: MBI Publishing Co., 1997. ISBN 0-7603-0280-4. Shaw, Robbie. Boeing 747 (Osprey Civil Aircraft series). Luân Đôn: Osprey, 1994. ISBN 1-85532-420-2. Sutter, Joe. 747: Creating the World's First Jumbo Jet and Other Adventures from a Life in Aviation. Washington, DC: Smithsonian Books, 2006. ISBN 978-0-06-088241-9. Wilson, Stewart. Airliners of the World. Fyshwick, Australia: Aerospace Publications Pty Ltd., 1999. ISBN 1-875671-44-7. Liên kết ngoài Boeing 747 product page Boeing 747 profile on FlightGlobal.com Pan Am 747 Clipper Names and FAA Registry Numbers Nội dung liên quan Máy bay có cùng sự phát triển Boeing 747SP Boeing VC-25 Boeing 747-400 Boeing 747-8 Boeing 747 LCF Máy bay có tính năng tương đương Airbus A380 Airbus A340-600 Antonov An-124 C-5 Galaxy Danh sách Danh sách các hãng hàng không sử dụng Boeing 747 Máy bay chở khách Hoa Kỳ 1960–1969 Máy bay chở hàng Hoa Kỳ 1960–1969 Máy bay quân sự Hoa Kỳ thập niên 1960 Máy bay dân sự Máy bay quân sự Máy bay chở khách Máy bay chở hàng Máy bay vận tải Máy bay bốn động cơ phản lực Máy bay cánh trên Bài Hoa Kỳ chọn lọc
24438
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch%20h%E1%BB%93i%20quy
Phân tích hồi quy
Phân tích hồi quy là một phân tích thống kê để xác định xem các biến độc lập (biến thuyết minh) quy định các biến phụ thuộc (biến được thuyết minh) như thế nào. Giới thiệu Đây là một phương pháp thống kê mà giá trị kỳ vọng của một hay nhiều biến ngẫu nhiên được dự đoán dựa vào điều kiện của các biến ngẫu nhiên (đã tính toán) khác. Cụ thể, có hồi qui tuyến tính, hồi qui lôgic, hồi qui Poisson và học có giám sát. Phân tích hồi qui không chỉ là trùng khớp đường cong (lựa chọn một đường cong mà vừa khớp nhất với một tập điểm dữ liệu); nó còn phải trùng khớp với một mô hình với các thành phần ngẫu nhiên và xác định (deterministic and stochastic components). Thành phần xác định được gọi là bộ dự đoán (predictor) và thành phần ngẫu nhiên được gọi là phần sai số (error term). Dạng đơn giản nhất của một mô hình hồi qui chứa một biến phụ thuộc (còn gọi là "biến đầu ra," "biến nội sinh," "biến được thuyết minh", hay "biến-Y") và một biến độc lập đơn (còn gọi là "hệ số," "biến ngoại sinh", "biến thuyết minh", hay "biến-X"). Ví dụ thường dùng là sự phụ thuộc của huyết áp Y theo tuổi tác X của một người, hay sự phụ thuộc của trọng lượng Y của một con thú nào đó theo khẩu phần thức ăn hằng ngày X. Sự phụ thuộc này được gọi là hồi qui của Y lên X. Xem thêm: phân phối chuẩn đa biến (multivariate normal distribution), các ẩn bản quan trọng trong phân tích hồi qui. Hồi qui thường được xếp vào loại bài toán tối ưu vì chúng ta nỗ lực để tìm kiếm một giải pháp để cho sai số và phần dư là tốt nhất. Phương pháp sai số chung nhất được sử dụng là phương pháp bình phương cực tiểu: phương pháp này tương ứng với một hàm hợp lý dạng Gauss của các dữ liệu quan sát khi biết biến ngẫu nhiên (ẩn). Về một mặt nào đó, bình phương cực tiểu là một phương pháp ước lượng tối ưu: xem định lý Gauss-Markov. Để giải quyết bài toán tối ưu trong hồi qui thường dùng các giải thuật như giải thuật hạ bậc gradient gradient descent, giải thuật Gauss-Newton, và giải thuật Levenberg-Marquardt. Các giải thuật xác suất như RANSAC có thể được dùng để tìm một phù hợp tốt cho tập mẫu, khi cho trước một mô hình tham số hóa của hàm đường cong. Hồi qui có thể được biểu diễn bằng phương pháp hàm hợp lý ước lượng các tham số của một mô hình nào đó. Tuy nhiên, với một lượng nhỏ dữ liệu, ước lượng này có thể có phương sai lớn (high variance). Các phương pháp Bayesian có thể được sử dụng để ước lượng các mô hình hồi qui. Các tham số có một phân phối điều kiện được giả định trước, nó bao gồm mọi thông tin thống kê đã biết trước về các biến. (Ví dụ, nếu một tham số được biết là không âm thì một phân phối không âm sẽ được gán cho nó.) Phân phối được giả định trước này sau đó được áp dụng cho vector tham số. Phương pháp Bayes có ưu điểm là khai thác được toàn bộ các thông tin đã có và nó là ước lượng chính xác, không phải ước lượng chệch và do đó rất tốt cho các tập số liệu nhỏ. Trong thực hành, người ta sử dụng phương pháp MAP maximum a posteriori, phương pháp này đơn giản hơn phân tích Bayes đầy đủ, trong đó các tham số được chọn sao cho cực đại hóa phân phối giả định trước posterior. Các phương pháp MAP có liên hệ với Occam's Razor: ở chỗ có sự ưu tiên cho sự đơn giản, khi có nhiều mô hình hồi qui (đường cong) cũng như khi có nhiều lý thuyết thì chọn cái đơn giản. Công thức tổng quát Chúng ta muốn dự báo giá trị của một biến ngẫu nhiên Y có điều kiện dựa trên một biến ngẫu nhiên khác gọi là nhân tố. Đặt là số nhân tố được sử dụng cho dự đoán này. xác định một không gian xác suất và là một không gian đo được trong đó là và với ). Bây giờ chúng ta có thể xác định biến phụ thuộc và . Bây giờ, đặt là tập các hàm được xác định bởi nhận các giá trị trong mà và là một metric (độ đo) sao cho là một không gian metric đầy đủ complete metric space. Chúng ta đang tìm một hàm đo được sao cho là nhỏ nhất. Hồi qui tuyến tính Hồi quy tuyến tính là một trường hợp rất phổ biến trong thực tế. Ta giả thiết rằng hàm phụ thuộc tuyến tính vào bộ như vậy ta chỉ cần tìm kiếm các hệ số phù hợp. Đặt là tập các hệ số. Đối thuyết của hồi quy tuyến tính là: và matric được sử dụng ở đây là: Chúng ta muốn cực tiểu hóa , có nghĩa là . Như vậy chỉ cần tìm . Để giải quyết bài toán này một cách hiệu quả, một số phương pháp đã được đưa ra. Phương pháp phổ biến nhất là phương pháp Gauss-Markov, nhưng nó đòi hỏi thêm một số đối thuyết nữa. Mô hình tuyến tính Gauss-Markov Ước lượng bình phương cực tiểu của các hệ số Xem thêm bình phương cực tiểu Ví dụ Ví dụ đơn giản nhất của hồi qui là trong trường hợp 1 chiều. Chúng ta được cấp một vec-tơ của các giá trị x và một vec-tơ khác của các giá trị y và chúng ta đang cố gắng tìm kiếm một hàm mà . giả sử Giả thiết rằng giải pháp (hàm) của chúng ta là thuộc họ các hàm được định bởi chuỗi Fourier mở rộng cấp 3 (3rd degree Fourier expansion) được viết dưới dạng: với là các số thực. Bài toán này có thể được biểu diễn theo dạng ma trận như sau: điền vào dạng này các giá trị của chúng ta sẽ cho ta bài toán với dạng Xw = y Bài toán này bây giờ có thể chuyển thành bài toán tối ưu để tìm ra tổng cực tiểu của bình phương sai số. giải bằng phương pháp bình phương cực tiểu cho ra: vì thế hàm Fourier bậc 3 mà trùng khớp nhất với dữ liệu có công thức cụ thể: Xem thêm Mạng nơ-ron nhân tạo Kriging Khai phá dữ liệu Thống kê Tham khảo Audi, R., Ed. (1996) The Cambridge Dictionary of Philosophy. Cambridge, Cambridge University Press. curve fitting problem p. 172-173. David Birkes and Yadolah Dodge, Alternative Methods of Regression (1993), ISBN 0-471-56881-3 W. Hardle, Applied Nonparametric Regression (1990), ISBN 0-521-42950-1 J. Fox, Applied Regression Analysis, Linear Models and Related Methods. (1997), Sage Liên kết ngoài Regression Analysis SixSigmaFirst Curve Expert (shareware) fits functions to data (limited to one dependant and one independent variable.) Online curve and surface fitting Online curve and surface fitting TableCurve2D and TableCurve3D by Systat automates curve fitting LMS applet another choice online curve-fitting textbook Tối ưu hóa (toán học)
24439
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BA%ADp%20lu%E1%BA%ADn%20theo%20t%C3%ACnh%20hu%E1%BB%91ng
Lập luận theo tình huống
Lập luận theo tình huống (tiếng Anh: case-based reasoning - CBR) là quy trình giải các bài toán mới dựa trên lời giải của các bài toán tương tự đã gặp. Ví dụ, một thợ sửa chữa ô tô đang chữa một cái động cơ bằng cách nhớ lại một cái xe khác cũng có các triệu chứng tương tự, người đó đang sử dụng lập luận theo tình huống. Một luật sư đang bảo vệ một kết quả nào đó trong một phiên tòa dựa trên các tiền lệ pháp lý hay một quan tòa đang sử dụng một phán lệ (case law), hai người này cũng đang thực hiện lập luận theo tình huống. Cũng như vậy, một kỹ sư đang sao chép các đặc tính hoạt động của thiên nhiên vào trong công trình phỏng sinh học (biomimicry) của mình, anh ta đang coi thiên nhiên như một cơ sở dữ liệu của các giải pháp cho các vấn đề. Lập luận theo tình huống là một dạng nổi bật của việc tạo ra các sự tương tự Người ta đã cho rằng lập luận theo tình huống không chỉ là một phương pháp mạnh cho lập luận máy tính mà còn là một hành vi phổ biến của con người trong cuộc sống hằng ngày khi giải quyết các vấn đề. Hay nói cách khác, mọi lập luận đều dựa trên các tình huống trong quá khứ (mà đã được trải nghiệm hoặc chấp nhận bằng cách chủ động thực hiện chọn lựa) -- lý thuyết nguyên mẫu (prototype theory) -- lý thuyết được nghiên cứu sâu nhất trong ngành khoa học nhận thức về con người (human cognitive science). Quy trình Lập luận theo tình huống đã được chính thức hóa cho các mục tiêu của lập luận máy thành một quy trình bốn bước: Truy lục (Retrieve): Cho trước một bài toán đích, truy lục từ trong bộ nhớ các tình huống có liên quan tới việc giải bài toán cần giải quyết. Một tình huống bao gồm một vấn đề, giải pháp cho vấn đề đó, và thông thường, các chú thích về lời giải đó đã được tìm ra như thế nào. Ví dụ, giả sử Dậu muốn nấu món cơm gà. Vì là người không thạo nấu ăn, kinh nghiệm gần nhất mà anh ta có thể nhớ đến là một lần anh ta nấu thành công một nồi cơm thường. Quy trình mà anh ta làm theo để nấu cơm thường, cùng với giải thích cho các quyết định mà anh ta đưa ra trong quá trình nấu, hợp thành tình huống thu được của Dậu. Tái sử dụng (Reuse): Ánh xạ lời giải cho tình huống trước cho bài toán đích. Điều đó có thể dẫn đến việc điều chỉnh lời giải để phù hợp với tình huống mới. Trong ví dụ cơm gà, Dậu phải điều chỉnh giải pháp truy lục được để bao hàm cả phần nguyên liệu thịt gà bổ sung. Điều chỉnh (Revise): Sau khi đã ánh xạ lời giải trước vào bài toán đích, kiểm tra lời giải mới trong thế giới thực (hoặc giả lập) và sửa lại nếu cần thiết. Giả sử Dậu điều chỉnh giải pháp nấu cơm gà bằng cách cho thịt gà vào nấu cùng gạo ngay từ đầu. Sau khi cơm chín, anh ta phát hiện ra rằng món ăn thu được là một món cháo đặc với thịt gà bị quá nhừ. Điều đó gợi ý việc sửa lại như sau: không cho thịt gà vào ngay từ đầu mà xào trước rồi trộn vào sau, khi cơm đã chín. Lưu lại (Retain): Sau khi lời giải đã được điều chỉnh thành công cho bài toán đích, lưu trữ kinh nghiệm thu được trong bộ nhớ dưới dạng một tình huống mới. Theo đó, Dậu ghi lại quy trình nấu cơm gà mới tìm được, nhờ đó làm giàu thêm tập các kinh nghiệm anh đã tích trữ được, và chuẩn bị tốt hơn cho những lần phải nấu cơm sau này. Lịch sử Roger Schank và các sinh viên của ông tại Đại học Yale là những người đầu tiên đưa ra những cơ sở đầu tiên về lập luận theo tình huống vào thập niên 1980. Hệ thống đầu tiên được xem là một ứng dụng của lập luận theo tình huống là CYRUS, được phát triển bởi Janet Kolodner, một thành viên trong nhóm của Roger Schank, vào năm 1983. Một hệ thống khác được phát triển bởi nhóm của Bruce Porter vào năm 1989 tại Đại học Texas là PROTOS, hệ thống này đã tích hợp thành công lập luận theo tri thức tổng quát (general domain knowledge) và lập luận theo tình huống thể hiện trong một cấu trúc. Lập luận theo tình huống là một trong những ứng dụng kỹ thuật trí tuệ nhân tạo thành công trong những năm gần đây. Các ứng dụng thông dụng là trong các hệ thống trợ giúp và chẩn đoán. Chú giải Xem thêm Cây quyết định Thuật toán di truyền So trùng mẫu (Pattern matching) Analogy K-line (trí tuệ nhân tạo) Truth maintenance systems Liên kết ngoài Conference on Case-Based Reasoning Association for Artificial Intelligence of Case-Based Reasoning (CBR) at Đại học Indiana Giải thuật phân loại Tư duy phản biện
24442
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20California%20t%E1%BA%A1i%20Berkeley
Đại học California tại Berkeley
Viện Đại học California–Berkeley (tiếng Anh: University of California, Berkeley; viết tắt là UC Berkeley, Berkeley, Cal, hoặc California), còn gọi là Đại học California–Berkeley, là một viện đại học công lập uy tín hàng đầu nằm trong khu vực vịnh San Francisco, tại thành phố Berkeley, California. Đây là viện đại học đầu tiên và nổi tiếng nhất của hệ thống Viện Đại học California, một trong ba hệ thống giáo dục công lập của tiểu bang, bao gồm hệ thống California State University và California Community College. Trường được công nhận bởi Times Higher Education World University Rankings là một trong sáu trường đại học danh giá nhất thế giới (cùng với Đại học Cambridge, Đại học Harvard, Viện Công nghệ Massachusetts, Đại học Oxford và Đại học Stanford) trong bảng xếp hạng công bố năm 2015 và nằm ở vị trí thứ tư theo bảng xếp hạng Best Global Universities của U.S News năm 2018-2019 với khảo sát bao gồm các trường của Mỹ và gần 50 quốc gia khác. Báo cáo của Academic Ranking of World Universities (ARWU) cũng xếp University of California, Berkeley ở vị trí thứ năm trong bảng xếp hạng toàn cầu. Xét về các ngành học, trường đứng thứ ba về Ngành Kỹ thuật, thứ tư trong Lĩnh vực Khoa Học Xã hội và thứ nhất về Toán Học và Khoa học Đời Sống. Trường cũng nổi tiếng trong việc đào tạo một số lượng lớn Kinh tế Gia. Được thành lập năm 1868 do sáp nhập trường tư thục Trường Đại học California (College of California) và trường công lập Trường Đại học Cơ khí, Mỏ, và Nông nghiệp (Agricultural, Mining, and Mechanical Arts College), UC Berkeley đã có những đóng góp quan trọng về khoa học tự nhiên và các hoạt động xã hội. Các giảng viên, cựu sinh viên và nghiên cứu sinh của trường đã giành tổng cộng 107 giả Nobel (bao gồm 33 giải của cựu sinh viên), 9 giải Wolf, 14 huy chương Fields, 25 giải Turing, 45 học giả MacArthur, 20 giải Academy, và 19 giải Pulitzer. Berkeley có hệ thống giáo dục bậc cử nhân rất đa dạng và được xem là trung tâm nghiên cứu của rất nhiều ngành học. Viện đại học đạt nhiều thành tích về vật lý, hóa học và các ngành sinh học trong thế kỷ 20, như sáng chế ra máy cyclotron, cách ly thành công vi khuẩn bại liệt ở người, phát triển khái niệm tia laser, giải thích nguyên lý của quang hợp, thiết kế thí nghiệm chứng minh định lý Bell, tạo ra hệ điều hành BSD Unix, khám phá ra mối liên quan giữa sự giãn nở của vũ trụ và Vật chất tối, công nghệ chỉnh sửa gen CRISPR, Điều trị miễn dịch ung thư,... và phát hiện ra 17 nguyên tố hóa học – nhiều hơn bất cứ viện đại học nào khác trên thế giới, trong đó có Plutonium, Berkelium và Californium, cũng như thành lập nhiều công ty hàng đầu như Apple Inc., Intel, Tesla Motors, EBay, HTC, Activision Blizzard, SanDisk, VMware,... Viện đại học cũng đạt được nhiều giải thưởng về Toán, giải Nobel Kinh tế và giải Nobel Văn học. Các nhà vật lý của Berkeley nằm trong nhóm khoa học gia phát triển Dự án Manhatttan chế tạo bom nguyên tử trong Chiến tranh thế giới thứ hai và bom khinh khí không lâu sau đó. Berkeley tham gia các cuộc thể thao giữa sinh viên các trường với tên California Golden Bears (Những con gấu vàng của California), đạt nhiều danh hiệu quốc gia trong các môn như bóng bầu dục Mỹ, bóng rổ nam, bóng chày, bóng nước, v.v. cũng như đã giành được 207 huy chương Thế vận hội Olympic (117 vàng, 51 bạc và 39 đồng). Màu áo chính thức của trường và đội thể thao là màu xanh dương và màu vàng. Lịch sử Thành lập Năm 1866, vùng đất thời bây giờ là khuôn viên của đại học Berkeley được mua bởi trường tư College of California. Bởi vì không đủ kinh phí để vận hành, cuối cùng nó sáp nhập với trường công lập với tên gọi Cao đẳng Nông nghiệp, Khai mỏ, Cơ khí, Nghệ thuật để trở thành Đại học California. Văn bản thành lập trường được ký bởi Thống đốc bang California Henry H. Haight vào 23 tháng 3 năm 1868 và Henry Durant, người sáng lập ra College of California, trở thành Hiệu trưởng đầu tiên. Trường đại học mở ra vào năm 1869 sử dụng các tòa nhà trước đây của College of California ở Oakland như là nơi tạm thời trong khi một campus mới đang được xây dựng. Với sự hoàn tất của North và South Halls vào năm 1875, trường dời về địa điểm hiện nay ở Berkeley với 167 sinh viên nam và 222 sinh viên nữ. Phát triển ban đầu Trường đại học này đã trưởng thành dưới quyền lãnh đạo của Benjamin Ide Wheeler, người là Hiệu trưởng trường từ 1899 đến 1919. Danh tiếng của trường các nổi khi Hiệu trưởng Wheeler đã thành công trong việc thu hút các giáo sư nổi tiếng về trường và thu hút được nhiều ngân sách cho việc nghiên cứu và cấp học bổng. Campus bắt đầu có dáng vẻ của một đại học tầm cỡ đương thời với các tòa nhà Beaux-Arts và neoclassical, bao gồm California Memorial Stadium (1923) được thiết kế bởi kiến trúc sư John Galen Howard; những tòa nhà này tạo thành phần chính campus của Đại học Berkeley hiện nay. Chiến tranh thế giới thứ hai Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Ernest Orlando Lawrence lãnh đạo Phòng thí nghiệm phóng xạ ở trên các dãy đồi bên trên Berkeley bắt đầu các hợp đồng với Quân đội Hoa Kỳ để phát triển bom nguyên tử, có liên quan đến các nghiên cứu tiên phong trong vật lý hạt nhân ở Berkeley, bao gồm cả việc khám phá ra plutonium (lúc đó được xem là bí mật quốc gia) của Glenn Seaborg (Phòng 307 tòa nhà Gilman Hall, nơi Seaborg khám phá ra plutonium, sau này là một địa điểm lịch sử cấp quốc gia). Giáo sư vật lý của UC Berkeley J. Robert Oppenheimer được cử làm người đứng đầu về khoa học của Dự án Manhattan vào năm 1942. Cùng với hậu duệ của Phòng thí nghiệm phóng xạ, bây giờ là Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence tại Berkeley (Lawrence Berkeley National Laboratory), Đại học California cũng quản lý hai phòng thí nghiệm khá có cùng độ tuổi, Los Alamos National Laboratory và Lawrence Livermore National Laboratory, được thành lập vào 1943 và 1952. Các ảnh hưởng chính trị trong những năm 1950 và 1960 Trong thời McCarthy vào năm 1949, Hội đồng quản trị đã đưa ra lời thề trung thành với chủ nghĩa chống cộng sản được ký tất cả bởi các nhân viên của Đại học California. Một số lớn các giáo sư phản đối lời thề này đã bị cho thôi việc; mười năm trôi qua trước khi họ được khôi phục lại vị trí cũ với lương cũ. Một trong số đó, Edward C. Tolman— một nhà tâm lý học so sánh nổi tiếng — đã có một tòa nhà đặt theo tên ông là nơi của khoa tâm lý và giáo dục. Lời thề"ủng hộ bảo vệ Hiến pháp Hoa Kỳ hiến pháp tiểu bang California chống lại tất cả các kẻ thù, trong nước và ngoài nước"vẫn còn bắt buộc đối với tất cả các nhân viên của Đại học California. Tham khảo Tham khảo A Brief History of the University of California, Berkeley Brief History of the University from official website Berkeley: Historical Overview from University of California Digital Archives Atomicarchive.com Manhattan Project Heritage Preservation Association Cal Traditions 101 Cal Band University of California Rally Committee Cal Athletics UC Berkeley Residential and Student Programs Landscape plan Liên kết ngoài Trang web chính thức Berkeley NewsCenter The Daily Californian – tờ báo độc lập của sinh viên Trang web chính thức về điền kinh Berkeley California tại Berkeley Liên minh Quốc tế các Đại học nghiên cứu
24443
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20Th%E1%BA%A7y
Chùa Thầy
Chùa Thầy (chữ nôm:㕑偨) là một nhóm những ngôi chùa ở chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ, nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây nam, đi theo đường cao tốc Láng - Hòa Lạc. Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa được gọi là chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ thời nhà Lý. Đây từng là nơi tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, lúc này núi Thầy còn gọi là núi Phật Tích. Lịch sử Cùng với chùa Tây Phương và Chùa Hương, Chùa Thầy là một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất Hà Nội. Nếu như Chùa Láng gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc đời Từ Đạo Hạnh, thì chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến ngày thoát xác của vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi này. Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh trụ trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại gồm hai cụm chùa: chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự 嵿山寺) trên núi và chùa Dưới, tức chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự (天福寺). Đầu thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh; sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân chùa như hàm rồng ,thủy đình như viên ngọc rồng ngậm.Cây cầu Nguyệt Tiên Kiều và Nhật Tiên Kiều như hai chiếc râu rồng. Truyền thuyết Hóa thân chuyển thế Đây là một khái niệm trong Phật giáo liên quan tới luân hồi, tuy nhiên chỉ được hiện thực hóa rõ ràng trong phái Kim Cang Thừa tại Tây Tạng khởi nguyên của việc hóa thân này cũng là thế kỷ 11 cùng thời với Tổ Từ Đạo Hạnh. Có ít nhất 2 vị vua được cho là hóa thân của Từ Đạo Hạnh: Lý Thần Tông (1116-1138) Lê Thần Tông (1607-1662) Lê Hiến Tông (do mẹ cầu tự tại chùa Thầy và sinh năm 1461) Kiến trúc Phần chính của chùa Thầy được xây dựng theo lối kiến trúc tiền Phật hậu Thánh , Thánh ở đây là Từ Đạo Hạnh một vị danh tăng nổi tiếng dưới thời Lý. Chùa gồm ba tòa song song với nhau gọi là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Giữa chùa Hạ và chùa Trung có ống muống nối với nhau, tạo thành thế hạ công thượng nhất. Đặc biệt kiến trúc chùa chỉ có 36 lỗ đục các tấm gỗ được xếp chồng lên nhau cực kỳ vững chắc. Chùa Hạ là nhà tiền tế, bày các tượng Đức Ông, Thánh hiền. Ống muống để tượng Bát bộ Kim Cương. Chùa Trung bày bàn thờ Phật, hai bên có hai tượng Hộ pháp, tượng Thiên vương. Chùa Thượng hay chùa trên tách biệt hẳn, ở vị trí cao nhất, biển đề Đại hùng Bảo điện, đồng thời là nhà thánh, để tượng Di Đà tam tôn,Thích Ca, tượng ba kiếp của thiền sư Từ Đạo Hạnh, ban thờ Lý thần Tông còn có 1 đôi Phượng Hoàng gỗ, 2 tượng Phỗng thế kỷ 18 đời vua Lê Ý Tông, Xung quanh chùa có hai dãy hành lang phía sau có lầu chuông, lầu trống. tương truyền do bà Chúa Chè Tuyên Phi Đặng Thị Huệ xin với chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm xây dựng khi về thăm chùa, Phía trước chùa là một sân rộng nhìn ra hồ Long Chiểu, tạo thành hàm của rồng trước trồng hai cây gạo, nhưng hiện tại hai cây gạo đã chết, được thay bởi cây đa. Từ sân này có hai cầu là Nhật tiên kiều và Nguyệt tiên kiều nối sang hai bên, tạo thành hai râu rồng. Hai cầu này do Phùng Khắc Khoan xây vào năm 1602. Cầu Nhật Tiên nối sang một hòn đảo nhỏ, trên đảo có đền thờ Tam phủ. Cầu Nguyệt Tiên nối vào đường lên núi. Giữa ao Long Chiểu có thủy đình là viên ngọc giữa miệng rồng. Đây cũng là nơi diễn ra trò múa rối nước. Từ Đạo Hạnh được cho là ông tổ của hình thức biểu diễn dân gian này. Điêu khắc trong chùa Tại chùa Hạ có các pho tượng Đức Ông khá đẹp, và một bức bình phong lớn mô tả cảnh địa ngục. Các pho Kim Cương đứng trong những tư thế võ mạnh mẽ, sống động. Tại chùa Trung có hai pho tượng Hộ pháp được cho là lớn nhất trong các ngôi chùa Việt Nam, cao gần 4m. Tượng Hộ pháp đắp bằng đất thó, giấy bản giã nhỏ trộn với mật, trứng,..., nên sau hơn ba trăm năm vẫn còn rất tốt. Các pho tượng đẹp nhất của chùa Thầy tập trung tại chùa Trên. Trên cao nhất là tượng Di Đà Tam tôn được tạc vào đời Mạc. Phật A Di Đà ngồi giữa dáng vẻ phúc hậu. Pho tượng Quán Thế Âm bên phải ngồi buông chân trái xuống, chân phải co lên, tay cầm một cây phất trần, dáng vẻ ung dung. Pho Đại Thế Chí ngồi xếp bằng, hai tay bắt ấn mật phùng. Ba pho tượng mỗi pho một vẻ không giống nhau, tạo thành một bộ tượng đẹp đặc biệt. Dưới đó, chính giữa là tượng Thiền sư Từ Đạo Hạnh trong kiếp Phật. Tượng được tạc vào thế kỉ 19, khuôn mặt khắc khổ, nổi rõ mạch máu, ngồi xếp bằng tròn trên một bệ hoa sen còn lại từ đời Lý. Bệ hoa sen đặt trên một con sư tử cuộn tròn, dưới con sư tử là một bệ bát giác. Hiện nay tượng được đội mũ hoa sen và khoác áo vàng. Toàn bộ ba pho Di Đà và tượng Từ Đạo Hạnh đặt trên một bệ đá hai tầng, được làm vào thời nhà Trần. Bệ đá chạm những cánh hoa sen, bốn mặt chạm hình rồng và hoa lá, bốn góc có hình thần điểu Garuda. Bên phải là tượng Thiền sư ở kiếp Vua. Tương truyền Từ Đạo Hạnh sau khi đã hóa, đầu thai làm con trai của Sùng Hiền Hầu và trở thành nhà vua Lý Thần Tông. Tượng Lý Thần Tông đầu đội mũ bình thiên, mình khoác long bào, ngồi trên ngai vàng. Bên trái có tượng Từ Đạo Hạnh trong kiếp Thánh, ngồi trong một khám gỗ chạm trổ cầu kì. Tượng này có cốt bằng tre, có thể cử động. Tương truyền xưa kia mỗi khi mở cửa khám thì tượng tự động nhỏm dậy chào. Sau một vị quan triều Nguyễn nói rằng "Thánh thì không phải chào ai cả", nên tháo hệ thống khớp nối, từ đó tượng ngồi yên. Pho tượng này thể hiện nghệ thuật làm rối nước của dân gian. Trong chùa còn có tượng ông Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan là cha mẹ Từ Đạo Hạnh và hai bạn đồng đạo thân thiết của Ngài là Thiền sư Minh Không và Thiền sư Giác Hải. Trước tượng Từ Đạo Hạnh ở chính giữa có một bàn thờ gỗ chạm trổ rất đẹp. Xưa kia nền đất còn thấp, người thắp hương vịn vào bàn thờ tạo thành một chỗ hõm rất lớn. Trong chùa Thượng còn có hai cây cột làm bằng loại gỗ quý là gỗ Ngọc am. Hệ thống chùa trên núi Qua cầu Nguyệt Tiên nối với con đường lên núi. Trên núi có chùa Cao, vốn là Hiển Thụy am, còn có tên là Đỉnh Sơn Tự, là nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh đến tu đầu tiên. Trên vách chùa còn khắc những bài thơ tức cảnh của Nguyễn Trực và Nguyễn Thượng Hiền. Tương truyền rằng động Phật Tích ở sau chùa là nơi Ngài Từ Đạo Hạnh thoát xác để đầu thai làm vua Lý Thần Tông, nên còn gọi là hang Thánh Hóa. Phía trên chùa Cao, trên đỉnh núi có một mặt bằng gọi là chợ Trời với nhiều tảng đá hình bàn ghế, kệ bày hàng, ly rượu,... trong đó có một phiến đá nhẵn lì được gọi là bàn cờ tiên. Có lẽ nơi đây ngày xưa các bậc trích tiên vẫn ngồi chơi cờ, uống rượu, thưởng trăng và ngâm thơ. Từ chùa Cao, đi vòng ra phía sau là hang Cắc Cớ, là nơi tình tự của trai gái ngày xưa trong những ngày hội hè, như ca dao đã ghi lại: Gái chưa chồng trông hang Cắc Cớ, Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy. Đi ngược lên trên là đến đền Thượng. Gần đền Thượng có hang Bụt Mọc với nhiều tảng đá được thời gian bào mòn trông như tượng Phật. Tiếp đó là hang Bò với lối vào âm u. Cách một đoạn là đến hang Gió với những ngọn gió thổi thông thốc cả hai đầu.Dưới hang gió có một lối đi nhỏ là hang của Bác ngày xưa xuống để phòng ngự đánh giặc. Ở chân núi phía Tây còn có chùa Bối Am, còn gọi là chùa Một Mái, chùa có tên như vậy là vì chùa chỉ có một mái ngói, mặt sau chùa dựa vào vách núi. Truyền thuyết ở khu vực chùa Bối Am, thuộc phạm vi căn cứ Đỗ Động Giang xưa cho biết: Trước kia có một toán quân của Lã Đường tự Lã Tá Công, một trong Thập nhị sứ quân, bị vây hãm trong hang núi và bị chết đói hết cả. Điều này chứng tỏ đã có một cuộc tấn công của sứ quân Lữ Đường tới lãnh địa sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, chiếm đóng tại đây. Như vậy, quanh núi Thầy, ngoài chùa Thầy còn có cả một cụm kiến trúc Phật giáo được xây dựng trong những khoảng thời gian khác nhau. Trong một bài ký ghi trên vách núi, Chúa Trịnh Căn đã phác họa cảnh chùa Thầy "như viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn mùa. Động trên hệt như cõi thanh hư, bên vách còn in mây ráng. Ao rồng thông sang bến siêu độ, cầu tiên Nhật Nguyệt đôi vầng. Hình tựa bình phong, sông như dải lụa". Di sản văn hóa Nằm ở xứ Đoài, nơi ít bị ảnh hưởng trong suốt hàng ngàn năm chống giặc ngoại xâm, là một trong những trung tâm phật giáo cổ và lớn nhất gần Kinh đô Thăng Long, với quan hệ đặc biệt với các Hoàng gia triều Lý, hậu Lê nên chùa Thầy có số lượng di sản văn hóa vừa nhiều về số lượng vừa trải đều qua các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc, Nguyễn. Đây là ngôi chùa có tính bảo lưu một cách liên tục nhất các di vật văn hóa, nghệ thuật từ thời Lý. Lễ hội và văn hóa Hội chùa Thầy diễn ra từ ngày mùng 5 đến ngày mùng 7 tháng ba Âm lịch hàng năm. Trong ngày hội, nhiều tăng ni từ các nơi khác trong vùng cùng về đây dự lễ trong những bộ cà-sa trang trọng, tay cầm gậy hoa, miệng tụng kinh trong tiếng mõ trầm đều. Lễ cúng Phật và trai đàn - một diễn xướng có tính chất tôn giáo - được thực hiện có sự phối hợp của các nhạc cụ dân tộc. Nhưng hội chùa Thầy không chỉ có những nghi thức tôn giáo. Ở đây còn có trò múa rối nước mang đậm sắc thái dân gian mà ngày nay có tiếng vang ở nhiều nước. Trai thanh gái lịch gần xa tìm đến hội chùa Thầy còn để thỏa mãn tính mạo hiểm khi leo núi và khao khát bày tỏ tình yêu trong một khung cảnh thiên nhiên rộng mở: Rủ nhau lên núi Sài Sơn Ai làm đá ướt đường trơn hỡi mình? Hỏi non, non những làm thinh Phải rằng non đã vô tình với ai? Nước non ví chẳng chiều đời Mắt xanh đâu lẽ phụ người tình chung? Yêu nhau ta dắt nhau cùng Non bao nhiêu đá nặng lòng bấy nhiêu. (Á Nam Trần Tuấn Khải) Về văn hóa, Chùa thầy có truyền thống nghìn năm về văn hóa. Nơi đây đã sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Phan Huy Ích, Phan Huy Chú làm sáng danh lịch sử nước nhà. Các đời trụ trì Thánh Tổ Từ Đạo Hạnh Thiền sư Đại sa môn Huệ Hưng Thiên Phúc Hòa thượng, Tỳ Kheo An Thiền Sư Lan Hương trụ trì: 1897-1900 Hoà Thượng Minh Tâm trụ trì: 1900 - 1906 Hòa thượng Thích Thanh Mậu - Sơn Tăng Như Tùng - Thích Thanh Thi (1900 - 1945) Hòa Thượng Thích Tâm Quyến, viên tịch năm 1984 Là Sư Huynh Của Trưởng Lão HT Thích Thanh Bích Hoà Thượng Thích Viên Thành (1950 - 2002) trụ trì: 1984 - 2002 Đại Đức Thích Minh Hiển (Trụ trì Thiên Phúc Tự - Chùa Thầy hay chùa Cả), Đại Đức Thích Đạo Vĩnh, Đại Đức Thích Minh Đạo (Trụ trì Đỉnh Sơn Tự - Hiển Thụy Am - Chùa Cao), Thượng Tọa Thích Minh Hà (trụ trì Bối Am Tự - chùa Một Mái), Thượng Toạ Thích Minh Xuân (trụ trì chùa Long Đẩu), Thích Đạo Khuê Tham khảo Xem thêm Liên kết ngoài Khu danh thắng chùa Thầy Lễ hội Du lịch chùa Thầy Thầy Quốc Oai Chùa Việt Nam Bảo vật quốc gia của Việt Nam Danh lam thắng cảnh Kiến trúc cổ Việt Nam
24444
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20T%C3%A2y%20Ph%C6%B0%C6%A1ng
Chùa Tây Phương
Chùa Tây Phương (tên chữ là Sùng Phúc tự 崇福寺) là một ngôi chùa được xây trên đỉnh đồi Câu Lâu ở thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Lịch sử Một số sách báo viết về chùa Tây Phương cho rằng được xây dựng vào thời nhà Mạc, nhưng không chứng minh. Niên đại này có thể tin được, vì đầu thế kỷ 17 vào những năm 30 chùa đã phải sửa chữa lớn, hơn nữa trong chùa còn hai tấm bia đều bị mờ hết chữ nhưng còn đọc được rõ tên bia ở mặt ngoài là Tín thí và Tây Phương sơn Sùng Phúc tự thạch bi (mặt bia kia áp vào tường hồi toà chùa giữa nên không đọc được), các hoa văn trang trí thuộc phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ 16 sang đầu thế kỷ 17. Năm 1632, vào đời vua Lê Thần Tông, chùa xây dựng thượng điện 3 gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Khoảng những năm 1657-1682, Tây Đô Vương Trịnh Tạc lại cho phá chùa cũ, xây lại chùa mới và tam quan. Đến năm 1794 dưới thời nhà Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với tên mới là "Tây Phương Cổ Tự" và hình dáng kiến trúc còn để lại như ngày nay. Thông tin trên trang web chính thức của tỉnh Hà Tây thì nói chùa được thành lập từ thế kỷ 6-7 nhưng đã trải qua nhiều lần trùng tu . Kiến trúc Từ chân núi, qua 237 bậc lát đá ong thì đến đỉnh núi và cổng chùa. Chùa Tây Phương gồm ba nếp nhà song song: bái đường, chính điện và hậu cung. Mỗi nếp có hai tầng mái kiểu chồng diêm, tường xây toàn bằng gạch Bát Tràng nung đỏ, để trần tạo thành một không khí rất thô sơ mộc mạc, điểm những của sổ tròn với biểu tượng sắc và không; các cột gỗ đều kê trên đá tảng xanh trong khắc hình cánh sen. Mái lợp hai lớp ngói: mái trên có múi in nổi hình lá đề, lớp dưới là ngói lót, còn gọi là ngói chiếu, hình vuông sơn ngũ sắc như màu áo cà sa xếp trên những hàng rui gỗ làm thành ô vuông vắn đều đặn. Xung quanh diềm mái của ba tòa nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái gắn nhiều con giống bằng đất nung, các đầu đao mái cũng bằng đất nung đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng phượng giàu sức khái quát và khả năng truyền cảm. Cột chùa kê trên những tảng đá chạm hình cánh sen. Toàn bộ ngôi chùa toát ra một tính hoành tráng và phóng khoáng phù hợp với triết lý "sắc sắc không không" của nhà Phật. Nơi đây còn là nơi tập trung những kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo bao gồm chạm trổ, phù điêu và tạc tượng. Khắp chùa chỗ nào có gỗ là có chạm trổ. Các đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long... đều có chạm trổ đề tài trang trí quen thuộc của dân tộc Việt: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù... rất tinh xảo được tạo ra dưới bàn tay thợ tài hoa của các nghệ nhân làng mộc ngay trong vùng Tổng Nủa, làng truyền thống Chàng Sơn Làng nghề mộc lâu đời và nổi tiếng của xứ Đoài. Bộ tượng Phật Trong chùa có 64 pho tượng cùng với các phù điêu có mặt tại mọi nơi. Các tượng được tạc bằng gỗ mít được sơn son thếp vàng. Nhiều pho được tạc cao hơn người thật như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ pháp, cao chừng 3 mét, trang nghiêm phúc hậu. Hệ thống tượng ở chùa Tây Phương gồm: Bộ tượng Tam Thế Phật với ba pho tượng Phật: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai (còn gọi là Tam thân: Pháp thân, Ứng thân và Hóa thân) ngồi ở tư thế tọa thiền, y phục gập nếp đơn giản phủ kín cơ thể, được coi là có niên đại đầu thế kỷ 17. Bộ tượng Di-đà Tam Tôn: gồm tượng đức Phật A-di-đà, đứng hai bên là Quan Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát. Tượng Tuyết Sơn miêu tả đức Phật Thích ca trong thời kỳ tu khổ hạnh: mỗi ngày ăn một hạt kê, một hạt vừng, tự hành xác để vươn lên thế giới tinh thần sáng láng. Tượng màu đen thẫm khoác áo cà sa mỏng, tay chân gầy khẳng khiu, xương nổi lên trước ngực. Toàn bộ cơ thể chìm trong suy tưởng, mắt trũng sâu, hướng về nội tâm. Hai bên tượng Tuyết Sơn có tượng A Nan và Ca Diếp đứng hầu. Tượng đức Phật Di lặc tượng trưng cho vị Phật của thế giới cực lạc tương lai. Người mập mạp, ngồi hơi ngả về phía sau, toàn thân toát ra sự thỏa mãn, sung sướng. Tượng Văn thù Bồ Tát: đứng chắp tay, chân đi đất, các ngón chân bấm móng xuống mặt bệ. Tượng Phổ Hiền Bồ Tát: chắp tay trước ngực, khuôn mặt sáng rộng nổi lên trên tấm thân phủ đầy y phục. Tượng Bát bộ Kim Cương, thể hiện trình độ rất cao về nghệ thuật lắp ghép gỗ và cách bố cục, chuyển động của một thân thể mang giáp trụ trong các thế võ. Mười sáu pho tượng Tổ với phong cách hiện thực: Đó là Ưu-ba-cầu-đa, Đê-đa-ca, Di-trà-ca, Bà-tu-mật, Phật-đà Nan-đề, Phục-đa-mật-đa, Hiếp Tôn giả, Thương Na Hòa Tu, Mã Minh, Ca-tỳ-ma-la, Long Thụ Tôn giả, La-hầu-la-đa, Tăng-già Nan-đề, Già-gia-xá-đa, Cưu-ma-la-đa, Chà-dạ-đa. Theo một danh sách tên các nhân vật được tạc tượng trong một tài liệu còn lưu truyền ở chùa thì đây là tượng các vị tổ Ấn Độ trong quan niệm của Thiền tông Trung Quốc (xem Nhị thập bát tổ). Mười tám vị tổ người đứng kẻ ngồi, pho thì ngước mặt lên trời chỉ vào mây khói, pho thì hững hờ với ngoại vật, tì cằm trên đầu gối nhếch môi cười một mình nửa tinh nghịch nửa mỉa mai, có pho vẻ mặt hân hoan tươi tắn, khổ người đầy đặn tròn trĩnh, pho khác có vẻ mặt đăm chiêu lạ thường, lại có pho như đang đắn đo phân bua hay đang thì thầm trò chuyện cùng ai. Tượng La Hầu La đúng là chân dung một cụ già Việt Nam, thân hình gầy gò, mặt dài, nhỏ, gò má cao, môi mỏng vừa phải. Chưa thấy pho tượng nào diễn tả y phục một cách hiện thực mà lại đẹp đến như thế. Dáng điệu một tay cầm gậy, một tay để trên gối rất thoải mái, đôi bàn tay trông thấy rõ từng đốt xương bên trong. Những người thợ mộc của làng nghề mộc truyền thống Chàng Sơn là tác giả của những kiệt tác tuyệt vời ấy của nền mỹ thuật Việt Nam. Chùa Tây Phương đã là một công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc tiêu biểu cho mỹ thuật Việt Nam thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18). Năm 1960, nhà thơ Huy Cận đến thăm chùa, đã làm những câu thơ trong bài thơ "Các vị La Hán chùa Tây Phương" rất sống động và gợi cảm về hình tượng những con người đắc đạo mà lòng vẫn trầm ngâm suy tưởng về những khổ đau quần quại của chúng sinh. Tham khảo Xem thêm Liên kết ngoài Thư viện ảnh chùa trên trang web tỉnh Hà Tây cũ Chùa Tây Phương (Sùng Phúc Tự) Giám sát công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích chùa Tây Phương Tây Phương Thạch Thất
24469
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4%20Thanh%20Nh%C3%A0n
Ngô Thanh Nhàn
Ngô Thanh Nhàn (sinh năm 1948) là một nhà ngôn ngữ học chuyên về xử lý ngôn ngữ tự nhiên trên máy tính đang làm việc tại Đại học New York. Ông đã đóng góp trong việc mã hóa và chuẩn mã chữ quốc ngữ, chữ Nôm và chữ Chăm trên máy tính. Ông cũng là phó chủ tịch của Hội Bảo tồn Di sản chữ Nôm. Học vấn Từ năm 1968 đến 1972, ông nhận học bổng của bộ ngoại giao Hoa Kỳ và nhận bằng cử nhân (về tiếng Nga) tại Đại học Tiểu bang California tại San José năm 1972. Ông nhận bằng cao học cũng tại trường này trong môn ngôn ngữ lý thuyết năm 1977. Năm 1984, ông nhận bằng tiến sĩ (môn ngôn ngữ học) tại Đại học New York. Hoạt động chính trị Từ năm 1968 đến 1972, ông đã tham gia phong trào chống chiến tranh Việt Nam tại Hoa Kỳ. Từ 1972 đến 1976, ông tham gia sáng lập "Liên hiệp Việt kiều tại Mỹ". Từ 1976 đến 1979, ông đã giúp sáng lập "Hội Việt kiều Yêu nước tại Mỹ", sau đó sáng lập "Hội Người Việt Nam tại Mỹ" để kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ bình thường hoá, bãi bỏ cấm vận với Việt Nam (1975-1995). Ông kết hôn với Merle Ratner, một phụ nữ đã từng hoạt động trong phong trào phản chiến và ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Hai người đang hoạt động trong Diễn đàn Brecht tại trường Marx. Họ cũng tích cực tham gia hỗ trợ các nạn nhân chất độc da cam, là đồng phối hợp viên trong "Cuộc Vận động Cứu trợ và Trách nhiệm đối với Nạn nhân Chất độc Da cam Việt Nam" tại Mỹ. Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức Gương mặt vinh danh nước Việt Nói chuyện với tiến sĩ Ngô Thanh Nhàn, chuyên gia ngôn ngữ, về công tác bảo tồn văn hóa cổ truyền Việt Nam Nhà ngôn ngữ học Người Mỹ gốc Việt Nhân vật còn sống
24470
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ki%E1%BB%83m%20ch%E1%BB%A9ng%20ch%C3%A9o
Kiểm chứng chéo
Trong thống kê, kiểm chứng chéo (cross validation) là việc phân nhóm một mẫu dữ liệu thành các mẫu con để cho việc phân tích ban đầu chỉ thực hiện trên một mẫu con đơn, còn các mẫu con còn lại được giữ "kín" để dùng cho việc xác nhận và kiểm chứng lại lần phân tích đầu tiên đó. Kiểm chứng chéo là quan trọng trong việc đảm bảo tránh được kiểm tra tổng hợp từ dữ liệu, đặc biệt khi mà các mẫu là may rủi, chi phí cao hay không thể (khoa học không thuận lợi thu thập). Kiểm chứng chéo gồm hai loại: kiểm chứng chéo toàn diện và kiểm chứng chéo không toàn diện. Tham khảo Kohavi, Ron (1995). "A study of cross-validation and bootstrap for accuracy estimation and model selection". Proceedings of the Fourteenth International Joint Conference on Artificial Intelligence. San Mateo, CA: Morgan Kaufmann.  Phân tích dữ liệu
24471
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A9m%20Xuy%C3%AAn
Cẩm Xuyên
Cẩm Xuyên là một huyện ven biển thuộc tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam. Vị trí địa lý Huyện Cẩm Xuyên nằm ở phía đông nam của tỉnh Hà Tĩnh, có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Kỳ Anh và Biển Đông Phía tây giáp huyện Hương Khê Phía nam giáp huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình Phía bắc giáp thành phố Hà Tĩnh và huyện Thạch Hà. Trên bản đồ tỉnh Hà Tĩnh, Cẩm Xuyên nằm về phía đông nam của tỉnh, phía đông giáp huyện Kỳ Anh và biển Đông, phía bắc giáp thành phố Hà Tĩnh và huyện Thạch Hà, phía tây giáp huyện Hương Khê, phía nam giáp huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình. - Điểm cực Nam là 18002'18'' vĩ Bắc, mốc là núi Cù Han, đỉnh cao 400m, thuộc xã Cẩm Thịnh, giáp giới với xã Kỳ Thượng (huyện Kỳ Anh) và 2 xã Hương Hoá, Kim Hoá (huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình). - Điểm cực Bắc là 18020'51'' vĩ Bắc, mốc giới là điểm tiếp giáp giữa xóm Bắc Hoà (xã Cẩm Hoà) với biển Đông và xóm Đông Bàn (xã Thạch Văn, Thạch Hà). - Điểm cực Tây là 105051'17'' kinh Đông, mốc giới là núi My Ôn, đỉnh cao 238m thuộc xã Cẩm Mỹ, giáp với 2 xã Hương Trạch và Lộc Yên (huyện Hương Khê). - Điểm cực Đông trên đất liền là 106009'13'' kinh Đông, mốc giới là núi Ba Cội, đỉnh cao 400m, thuộc thôn Bắc Lĩnh (xã Cẩm Lĩnh), giáp với biển Đông và thôn Trung Kiên (xã Kỳ Xuân, huyện Kỳ Anh). Tổng diện tích tự nhiên của huyện Cẩm Xuyên là 639,28 km², là huyện có diện tích lớn thứ ba trong số 13 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Hà Tĩnh, xếp sau các huyện Hương Khê (1241 km²) và Hương Sơn (950 km²). Dân số toàn huyện tính đến ngày 01/4/2019 là 149.313 người (74.982 nam, 74.331 nữ với 14.087 dân cư thành thị và 135.226 dân cư nông thôn; 9,1% dân số theo đạo Thiên Chúa. Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Hàm Nghi – Vũng Áng đi qua đang được xây dựng. Hành chính Huyện Cẩm Xuyên có 23 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Cẩm Xuyên (huyện lỵ), Thiên Cầm và 21 xã: Cẩm Bình, Cẩm Duệ, Cẩm Dương, Cẩm Hà, Cẩm Hưng, Cẩm Lạc, Cẩm Lĩnh, Cẩm Lộc, Cẩm Minh, Cẩm Mỹ, Cẩm Nhượng, Cẩm Quan, Cẩm Quang, Cẩm Sơn, Cẩm Thạch, Cẩm Thành, Cẩm Thịnh, Cẩm Trung, Cẩm Vịnh, Nam Phúc Thăng, Yên Hòa. Lịch sử - Thời Hùng Vương (Thế kỷ thứ VII-258 TCN), nước Việt Thường Thị được chia làm 2 bộ là Việt Thường và Cửu Đức. Địa phận của bộ Việt Thường là vùng Nam Hà Tĩnh, trong đó có Cẩm Xuyên ngày nay. - Thời Triệu Đà trị vì (208-111 TCN) và nhà Hán đô hộ (111 TCN-220), nước Nam Việt được chia làm 7 quận, quận Cửu Chân có 5 huyện, trong đó huyện Hàm Hoan nằm ở cực Nam. Vùng Cẩm Xuyên ngày nay thuộc huyện Hàm Hoan lúc đó. - Thời Ngô (Tam Quốc, 220-280), Lưỡng Tấn (265-420) và các triều đại Tống, Tề, Lương (420-557), nước ta chia làm 6 quận, vùng Hà Tĩnh thuộc quận Cửu Đức với 8 huyện. Vùng nam Hà Tĩnh ứng với huyện Nam Lăng. - Thời nhà Tuỳ đô hộ (581-618), nước ta bị chia làm 7 quận, trong đó quận Nhật Nam thuộc Nghệ An - Hà Tĩnh ngày nay. Huyện Việt Thường là một trong 8 huyện của quận Nhật Nam nằm phía Đông Nam Hà Tĩnh, đất Cẩm Xuyên lúc đó thuộc huyện Việt Thường. - Thời nhà Đường đô hộ (618-905), nước ta chia thành 12 quận và 14 châu, trong đó vùng đất Nghệ -Tĩnh ngày nay là châu Hoan, đất Cẩm Xuyên vẫn thuộc huyện Việt Thường. - Hơn một thế kỷ từ Họ Khúc (905-917), Nhà Ngô (939-967) đến Nhà Đinh (968-980) là thời kỳ chuyển giao lịch sử từ bị đô hộ sang độc lập, không có sử liệu về lịch sử hành chính nước ta. - Thời Tiền Lê (Lê Đại Hành, 980-1009) diễn ra việc sắp xếp lại hành chính trong cả nước, riêng vùng Hà Tĩnh lúc đó có châu mới Thạch Hà, đất Cẩm Xuyên thuộc về châu Thạch Hà. - Thời nhà Lý: Năm 1036, châu Hoan được đổi thành châu Nghệ An. Các đơn vị hành chính cấp dưới vẫn giữ nguyên. - Thời nhà Trần: Năm 1242 châu Nghệ An đổi thành phủ Nghệ An với 5 châu trực thuộc. Vùng Nam Hà Tĩnh thuộc châu Nam Tĩnh, dưới có 4 huyện: Hà Hoàng, Bài Thạch, Hà Hoa và Kỳ La. Huyện Kỳ La có địa phận tương ứng với đất huyện Cẩm xuyên ngày nay (Kỳ La là tên gọi của vùng cửa Nhượng ngày xưa, lúc đầu người Việt cổ gọi là Kẻ La, khi người Hán tràn xuống gọi chệch thành Cơ La rồi đổi thành Kỳ La). Năm 1397, Nhà Trần đổi phủ Nghệ An thành trấn Lâm An, cho nhập hai huyện Hà Hoa với Kỳ La thành huyện Kỳ Hoa. - Thời thuộc Minh (1407-1428), nhà Minh đổi nước ta thành quận Giao Chỉ, dưới quận có phủ, châu và huyện. Năm 1419, đặt phủ Hà Hoa gồm hai huyện Thạch Hà và Kỳ Hoa. -Thời Hậu Lê (1428-1788): Nhà Hậu Lê không có những thay đổi lớn về hệ thống hành chính. Suốt từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII đất Cẩm Xuyên vẫn thuộc huyện Kỳ Hoa, phủ Hà Hoa. - Thời Nguyễn (1802-1945): Năm 1831 trấn Nghệ An được chia thành 2 tỉnh là Nghệ An và Hà Tĩnh. Năm 1837, huyện Kỳ Hoa được tách làm 2 huyện là Kỳ Hoa và Hoa Xuyên. Tên gọi Hoa Xuyên có lẽ được đặt do ghép tên của 2 tổng là Hoa Duệ và Lạc Xuyên (trong số 4 tổng) thuộc huyện này. Năm 1841, Minh Mạng vì kỵ húy đã cho đổi Kỳ Hoa thành Kỳ Anh và Hoa Xuyên thành Cẩm Xuyên. Cũng năm này phủ Hà Hoa đổi thành phủ Hà Thanh gồm 3 huyện Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Thạch Hà. Các đơn vị hành chính cấp dưới: Huyện Cẩm Xuyên khi mới thành lập có 4 tổng là Hoa Duệ (Mỹ Duệ), Lạc Xuyên, Thổ Ngõa và Vân Tán. Tổng Hoa Duệ có các xã: Hoa Duệ, Hương Duệ, Quan Duệ, Hương Cần,  Tam Lộng, Thạch Lâu, Vịnh Lại và vạn A Mè.   Tổng Vân Tán có các xã: Vân Tán, Nhược Thạch, Quyết Nhược, Thạch Khê Thượng, Thạch Khê Trung, Thạch Khê Hạ, Vân Phong, Cẩm Bào, Hải An,    Hoa Hương, Kỳ La, trại Tuấn Nghĩa và phường Giang Phái. Tổng Thổ Ngõa có các xã:  Ngoã Cầu, Thổ Ngoã,  Phượng Hoàng. Tổng Lạc Xuyên có các xã:  Dư Lạc, Lạc Xuyên, Hoá Dục, Nhượng Bạn, Tư Dung.                                                                                 Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) huyện Cẩm Xuyên chia làm 15 xã: Cẩm Vân, Đại Thành, Hà Huy Tập, Mỹ Duệ, Nam Dương, Nam Lạc, Ngũ Phúc, Nguyễn Đình Liện, Nhượng Bạn, Quang Huy, Tam Quan, Thạch Lâu, Trung Lạc, Vĩnh Lại, Yên Hòa. Năm 1954 huyện Cẩm Xuyên lại chia làm 27 xã với chữ đầu là "Cẩm": Cẩm Bình, Cẩm Duệ, Cẩm Dương, Cẩm Hà, Cẩm Hoà, Cẩm Huy, Cẩm Hưng, Cẩm Lạc, Cẩm Lĩnh, Cẩm Long, Cẩm Lộc, Cẩm Minh, Cẩm Mỹ, Cẩm Nam, Cẩm Nhượng, Cẩm Phúc, Cẩm Quan, Cẩm Quang, Cẩm Sơn, Cẩm Thạch, Cẩm Thành, Cẩm Thăng, Cẩm Tiến, Cẩm Trung, Cẩm Thịnh, Cẩm Vịnh, Cẩm Yên. Từ năm 2020 huyện Cẩm Xuyên có 2 thị trấn: Thị trấn Cẩm Xuyên, Thị trấn Thiên Cầm và 21 xã: Cẩm Bình, Cẩm Duệ, Cẩm Dương, Cẩm Hà, Cẩm Hưng, Cẩm Lạc, Cẩm Lĩnh, Cẩm Lộc, Cẩm Minh, Cẩm Mỹ, Cẩm Nhượng, Cẩm Quan, Cẩm Quang, Cẩm Sơn, Cẩm Thạch, Cẩm Thành, Cẩm Trung, Cẩm Thịnh, Cẩm Vịnh, Nam Phúc Thăng, Yên Hòa. Một số thay đổi đơn vị hành chính cấp dưới của Huyện Cẩm Xuyên như sau: Ngày 17 tháng 5 năm 1986, thành lập thị trấn Cẩm Xuyên trên cơ sở 91,5 ha diện tích tự nhiên với 130 nhân khẩu của xã Cẩm Tiến; 52 ha diện tích tự nhiên với 130 nhân khẩu của xã Cẩm Quan và 3.783 nhân khẩu là cán bộ, công nhân viên Nhà nước. Ngày 19 tháng 11 năm 1997, sáp nhập xã Cẩm Tiến vào thị trấn Cẩm Xuyên. Ngày 3 tháng 10 năm 2003, thành lập thị trấn Thiên Cầm trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Cẩm Long. Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 819/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Hà Tĩnh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó: Sáp nhập ba xã Cẩm Nam, Cẩm Phúc, Cẩm Thăng thành xã Nam Phúc Thăng Sáp nhập xã Cẩm Yên và xã Cẩm Hòa thành xã Yên Hòa Sáp nhập xã Cẩm Huy vào thị trấn Cẩm Xuyên. Truyền thống văn hóa Các vị Khoa bảng đất Cẩm Xuyên: Các vị đỗ đại khoa. 1. Dương Chấp Trung (1414-1469), người xã Sài Xuyên nay là xã Cẩm Minh,  đỗ Hoàng giáp khoa Mậu Thìn (1448) lúc 34 tuổi. Làm quan đến chức Tả thị lang. Đền thờ ông tại xã Cẩm Minh đã được tại thiết và xếp hạng Di tích LS-VH cấp tỉnh năm 2017. 2. Lê Tự (1466- ?), người thôn Lai Trung, xã Ngõa Kiều, tổng Thổ Ngõa, nay là xã Cẩm Thịnh, đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi (1499) lúc 34 tuổi, làm quan đến chức Thượng thư. Ông có công tổ chức khai khẩn hàng trăm mẫu ruộng rồi sung làm công điền. 3. Biện Hoành  (?)  người xã Hoa Duệ, nay là xã Cẩm Duệ, đỗ Đệ Nhị giáp (Hoàng giáp) khoa Giáp Dần (1554), làm quan đến chức Hiến sát sứ Thuận Hoá. 4. Lê Phúc Nhạc (1553-?), người xã Dư Lạc, nay là xã Cẩm Lạc, đỗ Nhất giáp khoa Đinh Sửu (1577) lúc 25 tuổi, làm quan đến Hữu thị lang bộ Lễ. Các vị đỗ Hương khoa: 2      vị đỗ Hương cống Thời Lê 1. Hoàng Công Minh, người thôn Lỗ Khê, nay là xã Cẩm Nam (không rõ khoa thi), làm quan đến chức Sơn phòng sứ. 2. Hà Huy Kiểu, người thôn Kim Nặc, nay là xã Cẩm Hưng (đỗ khoa thi năm Kỷ Hợi-1779), Triều liệt đại phu, Lễ khoa cấp sự trung, tước Tử. 12 vị đỗ Cử nhân thời Nguyễn: 1. Nguyễn Xuân Cảnh người thôn Yên Ốc, xã Quyết Nhược nay thuộc xã Cẩm Bình, đỗ Cử nhân khoa Ất Dậu (1825) làm quan Phủ thừa phủ Thừa Thiên. 2. Nguyễn Xuân Thức, người thôn Yên Ốc, nay thuộc xã Cẩm Bình, đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1831) làm quan với hàm Thị độc. 3. Hà Huy Nhiếp, người xã Thổ Ngoạ, nay là xã Cẩm Hưng, đỗ Cử nhân khoa Quý Mão (1843), làm quan đến Tri huyện. 4. Đỗ Đình Hiệu  (sau đổi là Đỗ Đình Vĩnh) người xã Thổ Ngõa, nay là xã Cẩm Hưng, đỗ Cử nhân khoa Bính Ngọ (1846) làm Chủ sự. 5. Hà Huy Phẩm, người xã Thổ Ngoạ,  nay là xã Cẩm Hưng, đỗ Cử nhân khoa Mậu Ngọ (1858) làm Đốc học. 6. Hoàng Lý, người tổng Vân Tán (không rõ làng), đỗ Cử nhân khoa Đinh Mão (1867). 7. Bùi Suyền, người xã Mỹ Duệ nay là xã Cẩm Duệ, đỗ Cử nhân khoa Mậu Thìn (1868). 8. Bùi Đạt, người làng Quy Vinh, thuộc xã Cẩm Duệ ngày nay, đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1879). 9. Võ Phương Trứ, người xã Mỹ Duệ, nay là xã Cẩm Duệ, đỗ Cử nhân khoa Đinh Dậu năm Thành Thái thứ 9 (1897) lúc 27 tuổi. Làm Biên tu Quốc sử quán. 10. Hà Huy Đỉnh, người xã Thổ Ngoạ, nay là xã Cẩm Hưng, đỗ Cử nhân khoa Quý Mão (1903) lúc đã 63 tuổi. 11. Đỗ Văn Bính, người làng Khả Luật, nay là xã Cẩm Hưng, đỗ Cử nhân khoa Nhâm Tí (1912) lúc 39 tuổi. 12. Nguyễn Gia Hưởng người làng Yên Dưỡng, tổng Vân Tán, nay là xã Cẩm Yên, đỗ Cử nhân khoa Ất Mão (1915) lúc 25 tuổi. Các vị Tạo sĩ Cẩm Xuyên có 6 vị (Tiến sĩ võ khoa dưới Thời Lê), quê đều xã Hương Duệ, nay là xã Cẩm Thành. 1. Nguyễn Đình Thạch (đỗ khoa Quý Sửu -1733) 2. Nguyễn Đình Chữ (đỗ khoa Kỷ Mùi-1739) 3. Nguyễn Đình Quyền (đỗ khoa Qúy Hợi- 1743) 4. Nguyễn Đình Khanh (đỗ khoa Đinh Sửu-1757) 5. Nguyễn Đình Cẩn (đỗ khoa Kỷ Hợi-1779) 6. Nguyễn Cử Tướng (quan Cử, khoa thi Mậu Thân ?) Chùa Yên Lạc: ở xã Cẩm Nhượng là một công trình kiến trúc nghệ thuật (Đã được Bộ Văn hóa- thông tin cấp bằng chứng nhận "Di tích lịch sử, văn hóa" cấp Quốc gia số 3211/BT-QD (12/12/94)) Nhà lưu niệm Tổng Bí thư Hà Huy Tập: Xã Cẩm Hưng. Khu nghỉ mát Thiên Cầm Hồ Kẻ Gỗ và khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ. Công trình kiến trúc nghệ thuật quốc gia AM THÁP Cẩm Duệ (tại thôn quang trung Cẩm Duệ). Đền Nguyễn Biên ở xã Cẩm Huy: Danh nhân lịch sử- Văn hóa thế kỷ 15. Đền Lùm Sò (thôn Tân Hòa), đền Nha Quan (Tân Hòa), đền Pháp Hải (Hữu Hòa) Cẩm Hòa -Cẩm Xuyên- Hà Tĩnh Ngoài ra các xã có rất nhiều đền chùa bị thu gom tượng phật, đập phá, triệt hạ sau cách mạng tháng 8 nhất là thời kỳ những năm 1960. Đây là thời kì nhầm lẫn tai hại giữa mê tín di đoan và đời sống tâm linh của những người cách mạng vì vậy ngày nay xứ này rất hiếm đền chùa. Cầu Rác (Cẩm Trung), Cầu Họ (Cẩm Hưng), Cầu Na, Cầu Kho (Cẩm Thành) là những trận địa vô cùng ác liệt đã đi vào lịch sử của quân và dân Cẩm Xuyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để bảo vệ tuyến đường huyết mạch chi viện cho chiến trường miền Nam. Đình Hát: thuộc xóm Yên Lạc, xã Cẩm Yên, ngày xưa là nơi tổ chức các buổi hát ví của làng và cũng là nơi tổ chức lễ cúng tế cầu an, sinh hoạt cộng đồng của làng Yên Dượng. Trong những 1930 - 1931 Pháp đã đóng đồn ở đây hòng đàn áp phong trào cách. Tại đây cũng là nơi tụ họp của các vị cách mạng tiền bối trong phong trào cách mạng ba mươi, ba mốt của nhân dân Cẩm Xuyên. Giếng Vàng: thuộc xóm Gia Hội nay thuộc xã Cẩm Tiến (thị trấn Cẩm Xuyên). Giếng được đào dưới chân cồn cát trắng, nước giếng trước kia nỗi tiếng là tốt: trong suốt, không mùi, vị nhạt. Nước có tỷ trọng nhẹ, có thể pha vào rượi mà không cần phải lọc. Nơi đây trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ là một trận địa pháo cao xạ bảo vệ Cầu Họ, nhiều chiến sĩ bộ đội, dân quân đã anh dũng hy sinh tại đây, ngay trên sân gếng. Lễ hội truyền thống Ở xã Cẩm Nhượng có các Lễ hội lớn tổ chức hàng năm như sau: Hội Hạ Thủy - Thời gian: Sau Tết Nguyên đán. - Đặc điểm: Nhân dân trong vùng tổ chức lễ hạ thủy, cầu thần biển giúp cho ngư dân thuận buồm xuôi gió và hứa hẹn một mùa đánh bắt được nhiều tôm cá.. Hội đua thuyền - Thời gian: Mồng 4 Tết nguyên đán và các ngày lễ lớn trong năm. - Đặc điểm: Hội đua thuyền được tổ chức nhằm chọn ra những tay đua cừ khôi và rèn luyện sức khỏe cho dân vùng sông nước; đồng thời là truyền thống của nhân dân địa phương để cầu yên xóm làng. Hội Nhượng bạn - Thời gian: 30/6 âm lịch. - Đặc điểm: Dựng đàn lễ ở bên sông, dâng hương, cầu khấn. Cờ người: tổ chức từ 2 đến sáng mùng 5 tết, các thôn xóm chọn những trai thanh nữ tú, những người có hình thể đẹp đứng cầm quân cờ. Các tay cao cờ thách đấu với nhau, phần thưởng của các trận thắng là những tràng pháo tay hay những lời thán phục. Hội chơi cờ thường được tổ chức trên các bãi đất trống đẹp đẽ hay các sân rộng, người xem đông vui, hồ hỡi và cổ vũ nhiệt tình. Đặc sản: - Bánh tráng Đông Hà (Cẩm Hà) nổi tiếng với vị thơm ngon, dòn.Thôn Đông Hà (Cẩm Hà) là nơi làm bánh tráng nổi tiếng xưa nay.Bánh tráng kẹp cá ngần, chấm với nước mắm Cẩm Nhượng có hòa ít ớt bột, ăn kèm với rau kinh giới thì thật là ngon miệng và bổ dưỡng, chỉ ăn một lần là sau còn nhớ mãi. - Rượu Cẩm Yên: loại rượu nếp có mùi thơm đặc biệt, vị cay nhưng khi nhấp lại cảm giác ngọt, trong suốt, hơi sánh (nên được gọi là rượu côộc tóc - gốc rạ). Rượu có nồng độ từ 40 - 60 độ, uống say nhưng khi tỉnh, người cảm thấy khoan khoái, dễ chịu. Rượu được nấu bằng thứ nếp đặc sản. Lúa nếp chỉ xay bóc vỏ trấu (gạo nếp lứt), nấu cơm bằng nước Giếng Ngoài (hay nước mưa), ủ men thuốc bắc gia truyền. Chọn ngày ủ men có thời tiết đẹp (không nóng quá cũng không lạnh quá). Rượu nấu để càng lâu uống càng thích. Rượu nếp Cẩm Yên mà nhắm với nham côộc chuối thì thật là tuyệt vời. - Khoai lang Mục Bài (xã Cẩm Hòa): loại khoai có củ to, vỏ màu tím, trồng trên đất cát, thu hoạch vào mùa hè. Khoai khi nấu chín thì rất bở và nhiều bột trắng, đặc biệt có mùi thơm hấp dẫn, vị bùi, ngọt và hơi béo. Khoai mà ăn cùng với cá trích tươi, cắn ngang con thì thật là thú vị. Nhiều người ăn khoai Mục Bài da dẻ trở nên hồng hào và tươi tắn. Ngày xưa loại khoai lang này là đặc sản tiến vua. Giáo xứ Xứ Quèn Đông: thuộc xã Cẩm Lộc, là một xứ nổi tiếng về bình dân học vụ và tôn thờ Thiên Chúa. Giáo xứ Ngô Xá thuộc xã Cẩm Quang là một xã có truyền thống đạo lâu đời, con người ở nơi đây giàu lòng yêu thương người, sống rất chân tình. Giáo xứ Vạn Thành thuộc xã Cẩm Thạch. Giáo xứ Nhượng Bạn thuộc xã Cẩm Nhượng. Giáo xứ Vĩnh Phước thuộc xã Nam Phúc Thăng. Giáo xứ Mỹ Hòa thuộc xã Yên Hòa. Giáo xứ Lạc Sơn thuộc xã Cẩm Minh là một xã đang phát triển mạnh hiện nay. Chú thích Tham khảo Huyện duyên hải Việt Nam
24472
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wetzlar
Wetzlar
Wetzlar là một thành phố ở bang Hessen (Đức). Thành phố một trung tâm công nghiệp, kinh tế và văn hóa trong vùng trung Hessen. Thành phố nằm ở nơi sông Dill đổ vào sông Lahn. Cùng với thành phố có trường đại học Gießen ngay cạnh bên về phía đông và vùng phụ cận chung, Wetzlar tạo thành một vùng đô thị trong khu vực trung Hessen. Thành phố Frankfurt am Main nằm về phía nam của Wetzlar, cách khoảng 60 km. Wetzlar là thành phố lớn thứ 11 của bang Hessen. Tham khảo Cựu cộng hòa Chấm dứt năm 1803 Cựu quốc gia châu Âu Thành bang Thị trấn của bang Hessen
24475
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m%20Ng%E1%BB%8Dc%20Th%E1%BA%A3o
Phạm Ngọc Thảo
Phạm Ngọc Thảo (1922–1965), còn gọi là Albert Thảo, là một cán bộ tình báo của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông hoạt động dưới vỏ bọc là một sĩ quan cao cấp trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng như là một chính khách có ảnh hưởng lớn trong chính quyền Sài Gòn thời đó. Ông cũng là một thành viên chủ chốt trong 2 cuộc đảo chính ở Việt Nam Cộng hòa vào những năm 1964–1965. Ông mang quân hàm Đại tá của cả hai quân đội đối nghịch trong Chiến tranh Việt Nam là Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Phạm Ngọc Thảo được đích thân Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn chỉ định ở lại miền Nam Việt Nam sau Hiệp định Genève, với nhiệm vụ chiến lược là thâm nhập vào hàng ngũ cao cấp của chính quyền Sài Gòn để "phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước". Không ai biết rõ "phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước" là nhiệm vụ gì, tuy nhiên theo Võ Văn Kiệt, Phạm Ngọc Thảo được quyền tuỳ cơ ứng biến, hoạt động độc lập, không bị bất cứ một chế định nào, không bị bắt buộc phải báo cáo với một số cấp trên cụ thể nào. Sau một thời gian tạo vỏ bọc, Phạm Ngọc Thảo đã giành được lòng tin của chính phủ Ngô Đình Diệm, được bổ nhiệm một số chức vụ cao cấp và ông đã sử dụng quyền hạn của mình để phục vụ cho nhiệm vụ tình báo mình được giao. Trong thời gian được cử làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre), ông đã thả 2000 tù chính trị trong đó bao gồm nhiều cán bộ cách mạng, và cố ý làm lệch hướng các cuộc càn quét của quân đội Việt Nam Cộng hoà. Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ cuối năm 1963, Phạm Ngọc Thảo tham gia nhiều vụ đảo chính với mục đích gây mất ổn định cho chính quyền Sài Gòn và tạo điều kiện cho hoạt động của quân Giải phóng. Tuy nhiên sau cuộc đảo chính bất thành vào năm 1965, ông bị chính quyền Việt Nam Cộng hoà truy nã và kết án tử hình. Ông tiếp tục hoạt động bất hợp pháp một thời gian cho đến khi bị bắt, tra tấn và sát hại vào ngày 17 tháng 7 năm 1965 lúc 43 tuổi. Thân phận thật của Phạm Ngọc Thảo được giữ kín suốt một thời gian dài sau chiến tranh, chỉ đến năm 1995 ông mới được phong Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Nguyên nhân được cho là để bảo đảm an toàn cho gia đình của ông đang sống ở Hoa Kỳ. Hình tượng Phạm Ngọc Thảo đã được nhà văn Trần Bạch Đằng sử dụng để xây dựng nhân vật Nguyễn Thành Luân trong tiểu thuyết Giữa biển giáo rừng gươm, sau này được chuyển thể thành bộ phim Ván bài lật ngửa với vai chính do Nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Chánh Tín đảm nhiệm. Thân thế gia đình Ông sinh ngày 14 tháng 2 năm 1922, nguyên quán Thành Phố Cần Thơ - Tỉnh Hậu Giang (cũ) trong một gia đình Công giáo toàn tòng. Phạm Ngọc Thảo còn có tên là Albert Phạm Ngọc Thảo. Mọi người thường gọi ông là Chín Thảo vì ông được sinh thứ 9 trong gia đình. Cha ông là Adrian Phạm Ngọc Thuần (1882-1970), một địa chủ lớn có quốc tịch Pháp. Mẹ ông là bà Martha Nguyễn Thị Giai (1883-1963). Ông Adrian Phạm Ngọc Thuần có tới hơn 4000 mẫu đất và gần 1000 căn nhà rải rác ở khắp các tỉnh Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá, Sa Đéc, Vĩnh Long. Ông Thuần có quốc tịch Pháp nên các con đều được sang Pháp học. Gia đình Phạm Ngọc Thảo có nhiều người tham gia các phong trào yêu nước. Ông nội của Phạm Ngọc Thảo là chí sĩ ái quốc Phạm Ngọc Lành, người ủng hộ, hậu thuẫn cho nhiều phong trào chống Pháp (kể cả Cần Vương). Anh của Phạm Ngọc Thảo, luật sư Gaston Phạm Ngọc Thuần (1914-2002) là Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến Nam bộ, sau năm 1954 tập kết ra Bắc, làm Đại sứ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại CHDC Đức. Một anh trai khác là Lucien Phạm Ngọc Hùng là Ủy viên Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ, gia đình Phạm Ngọc Thảo đã đem hết tài sản ra ủng hộ kháng chiến. Lúc nhỏ ông học một trường tư thục Công giáo nổi tiếng ở Sài Gòn đó là trường Lasan Taberd (Có tài liệu nói học trường Chasseloup Laubat- ngày nay là trường THPT Lê Quý Đôn). Khi học xong tú tài, khác với các anh em khác, ông không sang Pháp du học (do Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra) mà ra Hà Nội học, tốt nghiệp Trường kỹ sư công chánh năm 1942 và về làm việc tại Sài Gòn từ năm 1943. Tham gia Việt Minh Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, anh cả của ông là Gaston Phạm Ngọc Thuần tham gia Việt Minh ở Vĩnh Long và được cử giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ. Khi Luật sư Phạm Văn Bạch ra miền Bắc, ông Thuần làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ kiêm Chính ủy Bộ Tư lệnh Nam Bộ (trong những năm 60 làm đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Cộng hòa Dân chủ Đức). Anh trai thứ bảy Phạm Ngọc Hùng học ở Pháp, lấy vợ Pháp rồi về Việt Nam ra chiến khu chiến đấu, làm Uỷ viên Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam. Tốt nghiệp trường Kỹ sư công chánh ở Hà Nội, khi Pháp bội ước quay lại xâm chiếm Việt Nam, ông Phạm Ngọc Thảo tuyên bố huỷ bỏ quốc tịch Pháp và quyết định trở về Vĩnh Long theo anh tham gia kháng chiến, làm việc ở Văn phòng Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ. Trên đường về, ông bị dân quân Việt Minh bắt hai lần và suýt bị xử bắn do hiểu lầm. Năm 1946, trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (sau này là Trường Sĩ quan Lục quân I, nay là Đại học Trần Quốc Tuấn) khai giảng. Ông cùng 12 chiến sĩ Nam Bộ khác được cử ra Sơn Tây học tập. Tốt nghiệp khoá I, ông được điều về Phú Yên nhận nhiệm vụ làm giao liên. Một lần, ông được giao nhiệm vụ đưa một cán bộ về Nam Bộ. Do người cán bộ này có vẻ ngoài gầy yếu, ông đề nghị người cán bộ này giả vờ bị bệnh lao phổi và cho mình cõng trên lưng, khi đi qua các khu vực do quân Pháp chiếm đóng sẽ khai là hai chú cháu cõng nhau đi tìm thầy thuốc. Như dự đoán, do sợ bệnh lao, những người xét hỏi chỉ khám xét qua loa và hai người đến vùng giải phóng an toàn. Người cán bộ được Phạm Ngọc Thảo hộ tống chính là Lê Duẩn, người có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tình báo của ông sau này. Sau khi trở về Nam Bộ, ông được giao nhiệm vụ Trưởng phòng mật vụ Ban quân sự Nam Bộ – tổ chức tình báo đầu tiên của cách mạng ở Nam Bộ, rồi được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410, Quân khu 9 (có tài liệu nói là tiểu đoàn 404 hoặc tiểu đoàn 307). Việc bổ nhiệm Phạm Ngọc Thảo, một thanh niên con nhà địa chủ Công giáo làm Trưởng phòng Mật vụ, được cho là quyết định rất táo bạo của Lê Duẩn. Trong thời gian này Phạm Ngọc Thảo cũng hướng dẫn về chiến tranh du kích cho các học viên Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim... những người sau này trở thành các tướng lĩnh trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Năm 1949, Phạm Ngọc Thảo kết hôn với bà Phạm Thị Nhiệm, cũng là một trí thức tham gia kháng chiến (bà Nhiệm là em ruột giáo sư Phạm Thiều). Những năm 1952-1953, ông là sĩ quan tham mưu trong một số đơn vị chủ lực của Việt Minh tại miền Tây Nam Bộ. Giai đoạn bắt đầu hoạt động Sau Hiệp định Genève, các cán bộ của Việt Minh (cả dân sự lẫn quân sự) đều được tập kết ra Bắc. Cũng có nhiều cán bộ Việt Minh đã bí mật ở lại. Riêng trường hợp của Phạm Ngọc Thảo, chính Lê Duẩn đã chỉ thị cho ông không tập kết ra Bắc mà ở lại miền Nam để hình thành "lực lượng thứ ba" trong trường hợp Hiệp định Geneve không được đối phương thi hành. Về việc này, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói: "Anh Ba Duẩn rất tin cậy Phạm Ngọc Thảo và đã giao cho đồng chí Thảo một nhiệm vụ đặc biệt". Lê Duẩn giới thiệu Phạm Ngọc Thảo với Mai Chí Thọ, lúc ấy là người phụ trách Ban Đặc tình Xứ ủy và hai người khác trong Ban Đặc tình Xứ ủy là Mười Hương và Cao Đăng Chiếm. Ông được giao nhiệm vụ phải thâm nhập vào nội bộ của chính quyền Sài Gòn để hoạt động "phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước". Nội dung cụ thể chi tiết của nhiệm vụ này không được rõ, kể cả ông Mai Chí Thọ chỉ biết nhiệm vụ của mình đối với Phạm Ngọc Thảo nhưng không được biết Lê Duẩn giao nhiệm vụ gì cho ông Thảo. Theo lời của cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phạm Ngọc Thảo được quyền tùy cơ ứng biến, hoạt động độc lập, tự do hành động, không bị bất cứ một chế định nào, không có trách nhiệm báo cáo bất cứ chuyện gì với bất kỳ ai và có quyền tự do báo cáo thông tin với bất cứ cấp trên nào mà ông Thảo thấy tin tưởng. Tuy ở lại hoạt động ở miền Nam nhưng Đảng không cho phép Mai Chí Thọ và Cao Đăng Chiếm vào sống ở Sài Gòn, chỉ có Mười Hương là có thể vào Sài Gòn sống hợp pháp vì ông là cán bộ từ ngoài Bắc vào, không ai biết. Do đó, Mười Hương đã bàn bạc cụ thể với Phạm Ngọc Thảo về phương thức hoạt động và trực tiếp liên lạc với Phạm Ngọc Thảo ngay tại Sài Gòn. Ông Mười Hương trở thành “người chỉ huy” Phạm Ngọc Thảo trong thời kỳ đầu, tuy nhiên thời gian này rất ngắn, vì sau đó Mười Hương bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam ở Huế. Phạm Ngọc Thảo trở lại Sài Gòn giữa lúc tình hình rất khó khăn, lực lượng Bình Xuyên gây rối khắp nơi. Vì không chịu ký tên vào giấy "hồi chánh" theo quy định của chế độ Việt Nam Cộng hòa đối với những người đã đi theo Việt Minh không tập kết ra Bắc, ông bị đại tá Mai Hữu Xuân, Giám đốc An ninh Quân đội lùng bắt nhiều lần nhưng đều trốn thoát. Vì vậy, ông không vội tiếp cận với gia đình họ Ngô mà đi dạy học. Vợ ông cũng vậy. Sau cùng, ông về Vĩnh Long dạy học. Vùng này thuộc giáo phận của Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục, vốn quen biết gia đình ông từ lâu. Gia đình ông theo Thiên chúa giáo lâu đời, rất thân thiết với Giám mục Ngô Đình Thục. Giám mục Ngô Đình Thục rất quý mến Thảo vì đã từng làm lễ rửa tội cho ông và coi ông như con nuôi. Trong kháng chiến chống Pháp, Phạm Ngọc Thảo từng mời Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục vào chiến khu để tranh thủ đồng bào Công giáo ủng hộ kháng chiến. Vì vậy, Giám mục Thục đã bảo lãnh cho ông vào dạy học ở trường Nguyễn Trường Tộ. Sau này, cũng chính Giám mục Thục đã giới thiệu ông với Ngô Đình Nhu và ông được sắp xếp vào làm việc ở Sở Tài chánh Nam Việt. Nhờ chính sách "đả thực bài phong", khuyến khích những người theo kháng chiến cũ về với "chính nghĩa quốc gia" của Ngô Đình Diệm, ông khôn khéo công khai hết nguồn gốc của mình, kể cả chức tiểu đoàn trưởng cũ, chỉ trừ một điều: mình là Đảng viên Đảng Lao động Việt Nam. Năm 1956, ông được phép đưa vợ con ra Sài Gòn sinh sống, làm việc tại ngân hàng quốc gia; rồi được chuyển ngạch quân sự, mang hàm Đại úy "đồng hóa". Tháng 5 năm 1956 được sự giới thiệu của ông Huỳnh Văn Lang, Tổng giám đốc Viện Hối đoái và Bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt của đảng Cần Lao, Phạm Ngọc Thảo được cử đi học khóa huấn luyện tại trung tâm Nhân vị tại Vĩnh Long. Và sau đó (tháng 10 năm 1956) ông gia nhập đảng Cần Lao. Sau khi gia nhập đảng Cần Lao, ông phụ trách tổ quân sự, giữ nhiệm vụ nghiên cứu về chiến lược và chiến thuật quân sự và huấn luyện quân sự cho các đảng viên đảng Cần Lao. Tháng 1 năm 1957 Phạm Ngọc Thảo tham gia biên tập bán nguyệt san Bách Khoa - tạp chí của một nhóm trí thức đảng Cần Lao. Tờ Bách Khoa qua nhiều thăng trầm nhưng vẫn tồn tại cho đến năm 1975. Hoạt động tình báo trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa Đại tá Thảo còn biết "khai thác" vốn binh pháp Tôn Tử mà Hoàng Đạo Thúy từng dạy để viết báo. Thời gian này, ông cộng tác với tạp chí Bách khoa. Chỉ trong hơn một năm, ông đã viết 20 bài báo nói về các vấn đề chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật chỉ huy, huấn luyện quân sự, phân tích binh pháp Tôn Tử, Trần Hưng Đạo... Điều đặc biệt là trong các bài báo này, ông ngầm ca ngợi quân đội Việt Minh và các lực lượng kháng chiến chống Pháp - điều tối kỵ đối với người sống dưới chính quyền Sài Gòn có chính sách chống Cộng triệt để. Chính quyền lúc đó thấy bài viết của ông mang "giọng điệu Cộng sản" nhưng không thể bắt bẻ được vì ông chỉ thuần tuý nêu lên kinh nghiệm cá nhân của mình mặc dù ai cũng ngầm hiểu đấy là "kinh nghiệm" của ai. Hơn nữa, các bài viết của ông được nhiều thành phần độc giả đánh giá cao, trong đó có chính anh em Ngô Đình Diệm. Nhờ đó, Phạm Ngọc Thảo dần dần lọt vào mắt xanh gia đình họ Ngô. Năm 1957, ông được điều về làm việc tại Phòng Nghiên cứu chính trị của Phủ tổng thống với hàm thiếu tá. Từ đó, ông lần lượt giữ các chức vụ Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Vĩnh Long, rồi Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Bình Dương. Năm 1960, sau khi học một khóa chỉ huy và tham mưu ở Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, Phạm Ngọc Thảo được cử làm Thanh tra Khu Trù Mật. Biết Phạm Ngọc Thảo từng là chỉ huy quân sự Việt Minh, đầu năm 1961 Ngô Đình Diệm đã quyết định thăng ông lên trung tá và cử làm tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa (tức Bến Tre) để trắc nghiệm Chương trình Bình định. Trước khi nhận nhiệm vụ mới, ông đề nghị trực tiếp với Ngô Đình Diệm 3 yêu cầu: - Một là ổn định tình hình Bến Tre không phải bằng bạo lực mà là chính trị, vì ông không thể hành động như những quân nhân võ biền khác. - Hai, nếu bắt được Việt Cộng, có đủ bằng chứng, cho lập phiên tòa xét xử. - Ba, Tỉnh trưởng Bến Tre được đặc cách chỉ báo cáo với Tổng thống, không qua một ban, bộ nào. Ngô Đình Diệm đã chấp thuận cả ba yêu cầu đó. Về làm Tỉnh trưởng Bến Tre một thời gian, ông đã ký quyết định thả 2.000 tù nhân chính trị đang bị giam giữ, (trong đó có ông Võ Viết Thanh, sau này là Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh), liên lạc với bà Nguyễn Thị Định, tạo điều kiện cho khởi nghĩa Bến Tre bùng nổ và lập tòa án trừng trị bọn phản bội, đầu hàng. Chính sách không sử dụng bạo lực của Phạm Ngọc Thảo đã "bật đèn xanh" cho phong trào "đồng khởi" sau này. Nhiều phản ứng của phía chính quyền và quân đội Sài Gòn đều được Phạm Ngọc Thảo bác bỏ với lý do Ngô Đình Diệm thí nghiệm một luận thuyết mới nên phải có thì giờ để kiểm nghiệm. Do có nhiều tố cáo nghi ngờ ông là cán bộ cộng sản nằm vùng, anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu đã ngưng chức tỉnh trưởng Kiến Hòa và cho ông sang Hoa Kỳ học một khóa về chỉ huy và tham mưu. Năm 1962, Phạm Ngọc Thảo được bổ nhiệm làm Thanh tra Ấp chiến lược, trực thuộc Phủ Tổng thống. Làm tỉnh trưởng, bị ám sát nhầm Ngày Quốc khánh Việt Nam cộng hòa 26 tháng 10 năm 1961, một cuộc mít-tinh lớn biểu dương lực lượng được tổ chức tại Quảng trường An Hội (khu Vườn Hoa ba con chim câu bây giờ). Đặng Quốc Tuấn (sau này là Tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh đoàn, Giám đốc Đài phát thanh - truyền hình tỉnh Bến Tre), lúc đó 17 tuổi, đang học đệ tam (lớp 10) cùng với đồng đội tên Thiều có nhiệm vụ phá hoại buổi mít-tinh này. Mỗi ông cầm 1 trái lựu đạn MK2, còn lại 3 lựu đạn để ở nhà ông Thiều. Theo bàn bạc, ông Thiều ném lựu đạn trước, ông Tư Tuấn ném tiếp theo, xong chạy về tập kết tại nhà ông Thiều ở thị xã. Tuy nhiên, không có quả lựu đạn nào phát nổ. Hai ông định quay về nhà lấy thêm 3 trái lựu đạn còn lại thì bị bắt. Một tuần sau khi hai ông bị bắt, ông Thảo có đến gặp ông Tuấn và ông Thiều. Lần đó, một cố vấn Mỹ thẩm vấn, ông Thảo làm phiên dịch. Hỏi: “Tại sao là học sinh mà đi ám sát Tỉnh trưởng ngay tại ngày Quốc khánh? Có phải Cộng sản giao việc không? Ai là người giao việc?”. Trả lời: “Do chính quyền độc ác, đàn áp ức hiếp giết hại dân. Chúng tôi học tập gương của Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học đứng lên đấu tranh, không liên quan gì tới Cộng sản, không có ai giao việc cả”. Ông Thảo dịch như thế nào ông Tư Tuấn không biết, ông Thảo chỉ nói với hai ông: “Các em còn nhỏ, phải lo chuyện học hành, chính trị là chuyện của người lớn, sau này lớn lên muốn làm gì thì làm”. Lần thứ hai, ông Thảo đến hỏi thăm trước khi cả hai bị đưa về Chí Hòa. Hai ông bị kết án mỗi người 20 năm tù, sau đó đưa ra Côn Đảo. Ông Thiều được trao trả năm 1973, thoát ly lên chiến khu, sau giải phóng làm cán bộ Ban Tổ chức Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, qua đời năm 1984 vì bệnh. Còn ông Tư Tuấn đến ngày giải phóng mới về. Những năm 1988 - 1989, bà Phạm Thị Nhiệm - phu nhân ông Thảo định cư ở Mỹ có về thăm tỉnh Bến Tre và An Giang. Bà đã gặp lại Đặng Quốc Tuấn trong chuyến thăm lại Dinh Tỉnh trưởng. Bà Phạm Thị Nhiệm thăm hỏi ông Tuấn rồi bảo gửi cho bà tấm ảnh khi còn là học sinh Kiến Hòa, để về treo bên cạnh ảnh ông Phạm Ngọc Thảo làm kỷ niệm. Bà kể: “Hồi đó, ông Thảo vẫn thường nhắc chúng mầy. Lúc bị ném lựu đạn ông Thảo chụp trái lựu đạn đang xì khói, lúng túng không biết xử lý làm sao. Nếu liệng ra bên ngoài thì chết dân, liệng bên phải bên trái thì chết dàn thiếu nhi nhà thờ. Đang không biết làm sao thì thấy khói dần dần mỏng ra, ổng biết lựu đạn lép, nên nắm chặt luôn”. Tham gia các cuộc đảo chính Trong những năm 1962 - 1963, phong trào Đồng khởi lan rộng. Biết trước sau gì tổng thống Ngô Đình Diệm cũng bị người Mỹ lật đổ để dựng lên một chính quyền nguy hiểm hơn, Phạm Ngọc Thảo cùng với Trần Kim Tuyến và giáo sư Huỳnh Văn Lang lên một kế hoạch đảo chính với mục tiêu đổi chế độ nhằm vô hiệu hóa ý đồ của người Mỹ. Lần thứ nhất Tháng 9 năm 1963, Trần Kim Tuyến nguyên Giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị (thực chất là trùm mật vụ) và Phạm Ngọc Thảo âm mưu một cuộc đảo chính. Theo kế hoạch này, lực lượng đảo chính sẽ vẫn giữ Ngô Đình Diệm làm tổng thống, chỉ buộc Ngô Đình Nhu ra nước ngoài. Tuy nhiên, kế hoạch bị lộ. Để chấm dứt âm mưu đảo chính này, ngày 6 tháng 9 năm 1963, Tổng thống Diệm đã cử Trần Kim Tuyến đi làm Tổng lãnh sự tại Ai Cập. Ngô Đình Nhu không tin Phạm Ngọc Thảo tham gia kế hoạch này, thứ nhất là ông Nhu không tin Thảo phản bội, thứ hai là Thảo “không có quân”. Thực ra lúc đó Phạm Ngọc Thảo đã kêu gọi được một số đơn vị như Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, Biệt động quân, Bảo an,... hậu thuẫn. Cuộc đảo chính không thành chủ yếu do thành phần đảo chính không phải là những người mà người Mỹ có thể nắm được. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ bởi một nhóm tướng lĩnh do Mỹ bật đèn xanh. Hội đồng Quân nhân Cách mạng do tướng Dương Văn Minh đứng đầu lên cầm quyền. Phạm Ngọc Thảo được phe đảo chính giao nhiệm vụ đánh chiếm Đài phát thanh. Theo tài liệu "Làm thế nào để giết một Tổng thống?", Trung tá Phạm Ngọc Thảo nằm trong nhóm các tướng tá, đứng đầu bởi 2 tướng Trần Thiện Khiêm và Đỗ Mậu, chủ trương chỉ thay đổi cơ cấu chế độ mà không làm hại đến tính mạng anh em Diệm - Nhu. Ông được tướng Khiêm giao nhiệm vụ tìm mọi cách để đón và bảo vệ an ninh cho anh em Diệm - Nhu sau khi quân đảo chính kiểm soát được dinh Gia Long. Dù không đón được anh em Diệm - Nhu, những người mà sau đó đã bị giết trong một hoàn cảnh bí ẩn, để tưởng thưởng cho công lao tham gia đảo chính, ông vẫn được thăng lên cấp đại tá, làm tùy viên báo chí trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng sau đó được cử sang Mỹ tu nghiệp. Một thời gian sau, ông được cử làm tùy viên văn hóa của Tòa đại sứ Việt Nam tại Mỹ. Sau đó ông được tướng Nguyễn Khánh mời làm phát ngôn viên báo chí trong “Hội đồng quân nhân Cách mạng”. Tháng 10 năm 1964, khi Trần Thiện Khiêm được bổ nhiệm làm Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Mỹ, ông được cử làm tùy viên báo chí và quân sự của Sứ quán Việt Nam Cộng Hòa. Ông đưa luôn vợ con sang (họ định cư ở Mỹ cho đến ngày nay). Lần thứ hai Đầu năm 1965, Phạm Ngọc Thảo bị gọi về nước vì chính quyền Sài Gòn đã nghi ngờ, muốn bắt ông. Nguyễn Khánh ra lệnh triệu hồi Phạm Ngọc Thảo về nước, với ý đồ sẽ bắt ông tại sân bay Tân Sơn Nhất. Phạm Ngọc Thảo đã khôn khéo không về đúng giờ bay dự định nên thoát. Vì vậy, ông đã đào nhiệm và bí mật liên lạc với các lực lượng đối lập khác để tổ chức đảo chính ở Sài Gòn vì một lý do vô cùng quan trọng. Theo một tài liệu mà ông nắm được, Mỹ và Nguyễn Khánh đã thỏa thuận sẽ ném bom xuống miền Bắc vào 20/2/1965, vì vậy cuộc đảo chính sẽ tiến hành đúng ngày 19 tháng 2 với tên gọi Chiến dịch Nguyễn Huệ Ngày 19 tháng 2 năm 1965, Phạm Ngọc Thảo cùng thiếu tướng Lâm Văn Phát, đại tá Bùi Dzinh và trung tá Lê Hoàng Thao đem quân (gồm các đơn vị thiết giáp với 45 xe tăng và thiết giáp, các đơn vị địa phương quân, lực lượng của Trường bộ binh Thủ Đức và chủ lực là trung đoàn 46 thuộc Sư đoàn 25 bộ binh) và xe tăng vào chiếm trại Lê Văn Duyệt, đài phát thanh Sài Gòn, bến Bạch Đằng và sân bay Tân Sơn Nhất. Tướng Nguyễn Khánh được Nguyễn Cao Kỳ cứu thoát bằng máy bay ra Vũng Tàu. Mục tiêu quan trọng hàng đầu là bắt sống Nguyễn Khánh đã không thực hiện được. Trong tờ Việt Tiến (in ronéo, phát bí mật) với bút hiệu Lê Minh, Đại tá Phạm Ngọc Thảo đã viết: “Chúng tôi vì không muốn đổ máu mà hơn nữa ngay từ phút đầu đã thấy có sự chia rẽ và tranh giành nhau, nên tôi đã cho lệnh chấm dứt cuộc chính biến vào lúc 20 giờ ngày 19 tháng 2 và coi như 20 giờ làm chủ thủ đô đã chấm dứt”. Ngày 20 tháng 2 năm 1965, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và một số tướng lãnh được sự hậu thuẫn của người Mỹ đã tổ chức hội đồng các tướng lĩnh họp ở Biên Hòa. Các tướng cử Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính và ra lệnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát và 13 sĩ quan khác phải ra trình diện trong 24 giờ. Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát, Lê Hoàng Thao (Trung đoàn trưởng Trung đoàn 46) bỏ trốn. Ngày 21 tháng 2 năm 1965, các tướng tiếp tục họp tại Biên Hòa, quyết định giải nhiệm Nguyễn Khánh cử tướng Trần Văn Minh làm Tổng Tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 22 tháng 2 năm 1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu ký sắc lệnh bổ nhiệm tướng Nguyễn Khánh làm Đại sứ lưu động (một hình thức trục xuất khỏi nước cho đi lưu vong). Ngày 25 tháng 2 năm 1965, Nguyễn Khánh rời khỏi Việt Nam. Bị bắt và qua đời Ngày 11 tháng 6 năm 1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát tuyên bố trả lại quyền lãnh đạo quốc gia cho quân đội. Ngày 14 tháng 6 năm 1965, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia đã được thành lập do tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch (tương đương quốc trưởng), tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương (tương đương thủ tướng) Sau đó, Phạm Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí mật, lẩn tránh sự truy bắt của chính quyền, nhưng vẫn còn nắm được 1 tiểu đoàn. Ông tiếp tục chuẩn bị tư tưởng cho các hoạt động cách mạng bằng cách xuất bản tờ báo "Việt Tiến", mỗi ngày phát hành trên 50.000 tờ, tuyên truyền tinh thần yêu nước. Ông có cả một hàng rào bảo vệ rộng lớn từ các xứ đạo Biên Hòa tới Hố Nai, Thủ Đức; có nhiều linh mục giúp đỡ in ấn, phát hành tờ Việt Tiến. Lúc này, ông bị chính quyền Thiệu-Kỳ kết án tử hình và treo giải 3 triệu đồng cho ai bắt được nhưng vẫn liên lạc với cơ sở cách mạng trực tiếp là Sáu Dân (bí danh của Võ Văn Kiệt) để hoạt động tiếp. Ông Võ Văn Kiệt kể lại: "tôi thấy Phạm Ngọc Thảo quá khó khăn nên đi tìm anh để đưa về chiến khu. Nhưng anh bảo vẫn còn khả năng đảo chính thành công quyết tâm ngăn chặn bàn tay đế quốc Mỹ định đưa quân viễn chinh vào miền Nam, cản trở kế hoạch ồ ạt đổ quân vào Đà Nẵng cuối tháng 5/1965...". Đại sứ quán Mỹ cũng đề nghị đưa ông ra nước ngoài an toàn nhưng ông từ chối. Sau khi nhậm chức, Nguyễn Văn Thiệu quyết định tìm bắt và giết Phạm Ngọc Thảo để trừ hậu họa. Tướng Lâm Văn Phát đã ra trình diện và chỉ bị cách chức, nhưng đại tá Phạm Ngọc Thảo phải trốn nhiều nơi, cuối cùng đến trốn trong Đan viện Phước Lý ở xã Vĩnh Thanh, Nhơn Trạch, Biên Hòa. Lúc 3 giờ sáng ngày 16 tháng 7 năm 1965, khi ông vừa ra khỏi Đan viện Phước Lý thì bị an ninh quân đội mai phục sẵn bắt rồi đưa về một suối nhỏ gần Tam Hiệp, Biên Hòa, thủ tiêu. Tuy nhiên Phạm Ngọc Thảo không chết mà chỉ bị ngất vì viên đạn chỉ trúng cằm. Tỉnh dậy, ông cố lết về một nhà thờ. Ông được linh mục Cường, cha tuyên úy của Dòng Nữ tu Đa Minh, Tam Hiệp cứu chữa. Sau đó ông chủ động xin chuyển tới chỗ khác phòng khi An ninh quân đội tới truy tìm, nhưng bị phát giác và ông lại bị an ninh quân đội bắt về Cục an ninh quân đội, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn. Ông bị Nguyễn Ngọc Loan và thuộc hạ tra tấn dã man và bóp hạ bộ ông cho đến chết vào rạng sáng 17 tháng 7 năm 1965. Khi đó ông mới 43 tuổi. Nguyễn Ngọc Loan (tức Sáu Lèo) được cho là đã sát hại ông lúc đó. Linh mục Nguyễn Quang Lãm (chủ bút Báo Xây dựng), người có tình cảm đặc biệt đối với Phạm Ngọc Thảo, đã che chở, giữ liên lạc và làm tất cả những gì có thể làm được để giúp Phạm Ngọc Thảo). Sau khi Phạm Ngọc Thảo bị giết hại, Báo Xây dựng của cha Lãm đã đăng loạt bài điều tra 40 kỳ về cái chết của ông. Chưa hết, gần 10 năm sau, vào năm 1974, cha Lãm còn viết một loạt bài nhiều kỳ đăng trên Báo Hòa Bình, lại đề cập đến việc ai đã giết Phạm Ngọc Thảo, ai đã bán đứng Phạm Ngọc Thảo. Chính cha Lãm đã trực tiếp gặp Nguyễn Ngọc Loan để hỏi cho ra nhẽ. Tướng Loan chối, bảo rằng không có chuyện đó, rằng ông Thảo chết là do bị thương quá nặng, mình không liên quan đến chuyện bắt bớ ông Thảo. Linh mục Nguyễn Quang Lãm đem lời tướng Loan kể lại cho đàn em và bạn bè Phạm Ngọc Thảo, nhưng không ai tin, “người ta sẵn sàng tin là tướng Loan nói thật, nhưng đó là sự thật ghi trên các phúc trình, báo cáo, biên bản của bác sĩ”. Vị linh mục còn viết tiếp: “Tôi biết chắc những người có dụng ý loại trừ Thảo không muốn chuyện bắt bớ kéo dài kéo theo nhiều chuyện lôi thôi. Bởi họ không thể không biết đại tá Phạm Ngọc Thảo rất được cảm tình và sự che chở của nhiều chức sắc cao cấp Công giáo. Nếu Phạm Ngọc Thảo bị giải về Sài Gòn, chờ ngày ra tòa lãnh án thì tất nhiên sẽ có nhiều tiếng nói can thiệp, nhiều áp lực ngay cả do phía tòa đại sứ Mỹ. Vì vậy biện pháp áp dụng là thủ tiêu ngay”. Năm 2012, trong một bài báo của báo báo Thanh Niên linh mục Nguyễn Quang Lãm kể lại đã từng hỏi Nguyễn Cao Kỳ: "Hồi đó mọi người đều nói tướng Nguyễn Ngọc Loan tự tay giết chết Phạm Ngọc Thảo. Mà tướng Loan từng là người thân cận của ông?”. Nguyễn Cao Kỳ đã trả lời: “Tôi không biết ông Loan có giết ông Thảo hay không, nhưng mọi quyết định đều do ông Thiệu”. Có ý kiến nói rằng Phạm Ngọc Thảo bị Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh giết hại là bởi ông ta không tin Phạm Ngọc Thảo là Đảng viên cộng sản, nếu tin Phạm Ngọc Thảo là Đảng viên cộng sản thì Nguyễn Văn Thiệu sẽ không giết Phạm Ngọc Thảo. Bởi kinh nghiệm từ cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu không cảm thấy lo sợ những người cộng sản bằng một người không cộng sản được Mỹ và Giáo hội Công giáo hậu thuẫn để làm đảo chính lật đổ ông ta. Di sản Những năm ấy, rất ít người biết Phạm Ngọc Thảo là một nhà tình báo, người ta chỉ biết ông là một sĩ quan có khả năng chính trị và ngoại giao. Sau ngày Việt Nam thống nhất, nhiều đồng đội đã vô cùng chua xót khi thấy mộ ông vẫn chỉ là nấm mồ vô danh. Họ đã sưu tầm tư liệu, đề nghị Nhà nước truy tặng ông danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân,... Rất nhiều nước mắt xúc động, cảm thương của những người chiến binh già đã rơi khi kể lại câu chuyện về ông. Năm 1987, Nhà nước Việt Nam truy tặng ông danh hiệu liệt sĩ, với quân hàm đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hiện nay, mộ Phạm Ngọc Thảo được đưa về nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh, trên đồi Lạc Cảnh (thành phố Thủ Đức). Mộ ông nằm cạnh mộ những tên tuổi nổi tiếng như Lưu Hữu Phước, Phạm Ngọc Thạch, Can Trường... Tên ông được đặt tên cho một con đường tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Mãi tới 12 năm sau ngày hòa bình, Nhà nước Việt Nam mới chính thức công nhận liệt sĩ và phong anh hùng cho Phạm Ngọc Thảo. Ông Mười Hương đã nói: “Phong anh hùng 10 lần cho Phạm Ngọc Thảo cũng xứng đáng, nhưng chưa thể được, vì vợ con Thảo đang ở Mỹ. Khi chiếu phim Ván bài lật ngửa, tôi gọi cho ông Trần Độ (lúc ấy làm Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương) bảo hãy cấm cái phim đó đi, đừng làm hại vợ con Phạm Ngọc Thảo”. Ông Phạm Xuân Ẩn cũng từng nói sau khi Phạm Ngọc Thảo bị giết chết, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã đề nghị chính quyền Mỹ trục xuất vợ con ông Thảo, lúc đó ở Mỹ có một cuộc vận động bảo vệ vợ con ông Thảo, ngay cả những nhà báo Mỹ chống cộng cũng phản đối sự trục xuất này, vì vậy mà vợ con ông Thảo vẫn bình an vô sự cho đến bây giờ. Ngày 28 tháng 8 năm 2015, Tỉnh ủy Bến Tre tổ chức trọng thể lễ công bố quyết định của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch về xếp hạng di tích quốc gia, đối với nơi ở và hoạt động của đại tá tình báo Phạm Ngọc Thảo (dinh tỉnh trưởng cũ, sau là nhà bảo tàng tỉnh), tọa lạc tại số 146 Hùng Vương, Phường 3, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Phạm Ngọc Thảo được coi là một trong 4 tình báo viên xuất sắc nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam (3 người kia là Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ và Đặng Trần Đức). Một số người còn cho ông là điệp viên xuất sắc nhất<ref>Trong Điệp viên hoàn hảo, nhà sử học Larry Berman đã dẫn lời điệp viên Phạm Xuân Ẩn: "Nhiệm vụ được giao cho Phạm Ngọc Thảo khác với nhiệm vụ của tôi. Ông ấy có nhiệm vụ làm mất ổn định của chế độ Diệm và vạch âm mưu đảo chính, còn tôi là một nhà tình báo chiến lược. Nhiệm vụ của ông Phạm Ngọc Thảo nguy hiểm hơn nhiệm vụ của tôi rất nhiều"</ref> bởi 3 đặc điểm chính: Phạm Ngọc Thảo là tình báo viên hoạt động đơn tuyến, không có đồng đội trực tiếp hỗ trợ, chỉ chịu sự chỉ đạo về chiến lược của Lê Duẩn. Nhiệm vụ của ông không phải là đưa tin mà là tác động đến sự "thay đổi chế độ". Có thể nói tầm quan trọng của Phạm Ngọc Thảo ngang với sức mạnh của một đạo quân. Khác với các tình báo viên thông thường, Phạm Ngọc Thảo là người có thể tác động trực tiếp đến chính quyền và quân đội. Là sĩ quan cao cấp trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, ông có tác động, thậm chí trực tiếp đạo diễn và tham gia chỉ đạo hàng loạt vụ đảo chính làm rung chuyển gây mất ổn định chính quyền Nam Việt Nam những năm 1964-1965. Trong cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái quân đội, Phạm Ngọc Thảo bị xem là đối tượng nguy hiểm và bị đe dọa tính mạng bất cứ lúc nào. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục nhiệm vụ mà không trốn chạy để bảo toàn mạng sống. Thậm chí, cả khi bị bắt và tra tấn đến chết, Phạm Ngọc Thảo vẫn không lộ tung tích của mình. Mãi sau này, khi ông được truy phong, người ta mới biết ông là tình báo viên. Hai ông bà Phạm Ngọc Thảo và Phạm Thị Nhiệm có bảy người con. Vợ ông từng đi dạy học. Vợ và con ông hiện đang ở Hoa Kỳ. Tất cả các con của ông đều học hành thành tài (có người là bác sĩ, đang ở Quận Cam). Trong dòng đề tựa trong cuốn Ván bài lật ngửa, nhà văn Trần Bạch Đằng, với bút danh Nguyễn Trương Thiên Lý, đã trân trọng viết "Tưởng nhớ anh Chín T. (Thảo) và những người đã chiến đấu hy sinh thầm lặng". Ông đã sử dụng chính hình tượng của Phạm Ngọc Thảo để xây dựng nhân vật Nguyễn Thành Luân trong tiểu thuyết của mình. Tiểu thuyết này sau được dựng thành phim rất ăn khách (vai Nguyễn Thành Luân do cố diễn viên Nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Chánh Tín đảm nhiệm). Ông Trần Bạch Đằng nhận xét: "các nhà tình báo thông thường có nhiệm vụ giấu mình, thu thập, khai thác tin tức chuyển về trung tâm. Riêng Phạm Ngọc Thảo đi thẳng vào hàng ngũ kẻ thù, tung hoành hoạt động vì Tổ quốc cho tới tận lúc hy sinh, trường kỳ mai phục và độc lập tác chiến. Anh là người tình báo đặc biệt có một không hai". Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt nói: "anh Phạm Ngọc Thảo đã nhận một nhiệm vụ đặc biệt, chưa từng có tiền lệ trong công tác cách mạng của chúng ta''" Vinh danh Ông được truy phong quân hàm Đại tá, liệt sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và truy tặng những phần thưởng cao quý: Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (30/08/1995). Huân chương Quân công hạng Nhì. Huân chương Chiến thắng hạng Nhì. Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất. Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhì. Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Ba. Tên ông được đặt cho các con đường ở Quận 8, Tân Phú (Thành phố Hồ Chí Minh), Đồng Xoài (tỉnh Bình Phước), Thành phố Bến Tre (tỉnh Bến Tre), Tân Biên (tỉnh Tây Ninh), Qui Nhơn (tỉnh Bình Định), Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang). Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài Báo Quân đội nhân dân Loạt bài Nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo Điệp viên Việt Nam Sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa Binh biến ở Việt Nam Cộng hòa Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam Tổng cục Tình báo, Quân đội nhân dân Việt Nam Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam Sinh năm 1922 Mất năm 1965 Cựu sinh viên Trường Đại học Trần Quốc Tuấn Cựu học sinh Collège Chasseloup-Laubat Tín hữu Công giáo Việt Nam Nhà dân tộc chủ nghĩa Việt Nam
24477
https://vi.wikipedia.org/wiki/Singapore
Singapore
Singapore (phát âm: "Xin-ga-po" hoặc "Xinh-ga-po", , , ), tên gọi chính thức là Cộng hòa Singapore, thường được gọi ngắn là Sing, là một đảo và thành quốc có chủ quyền tại khu vực Đông Nam Á, nằm ngoài khơi về mũi phía nam của bán đảo Mã Lai và cách xích đạo 137 km về phía bắc. Lãnh thổ Singapore bao gồm có một đảo chính hình thoi và khoảng 60 đảo nhỏ hơn. Singapore tách biệt với bán đảo Malaysia qua eo biển Johor ở phía bắc cũng như tách biệt với quần đảo Riau của Indonesia qua eo biển Singapore ở phía nam. Singapore là quốc gia có mức độ đô thị hóa rất cao, chỉ còn lại số lượng ít thảm thực vật nguyên sinh. Lãnh thổ của Singapore hiện đang liên tục được mở rộng thông qua các hoạt động cải tạo và lấn biển. Các hòn đảo của Singapore có con người định cư lần đầu tiên vào thế kỷ thứ II TCN và sau đó thuộc một số quốc gia bản địa. Năm 1819, chính trị gia người Anh Stamford Raffles đã thành lập nên Nhà nước Singapore hiện đại với vai trò là một trạm mậu dịch của Công ty Đông Ấn Anh, hành động này được Vương quốc Johor chấp thuận. Anh Quốc sau đó giành được chủ quyền đối với hòn đảo vào năm 1824 và Singapore trở thành một trong Các khu định cư Eo biển của Đế quốc Anh vào năm 1826. Trong những năm sau đó, với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế và vận tải biển, Singapore phát triển nhanh chóng. Đến đầu những năm 1900, Singapore đã trở thành một thành phố tầm cỡ quốc tế hiện đại và phồn thịnh nhất trong khu vực Đông Nam Á, sánh ngang với các thành phố cảng lớn trên thế giới như Rotterdam, Kobe, Thượng Hải, Hồng Kông,... Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng Singapore một thời gian ngắn trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sau chiến tranh, Singapore tuyên bố độc lập từ Anh Quốc vào năm 1963 và hợp nhất với các cựu lãnh thổ khác của Anh để hình thành Liên bang Malaysia, tuy nhiên, Singapore bị trục xuất khỏi Malaysia hai năm sau khi gia nhập. Kể từ đó, kinh tế Singapore phát triển nhanh chóng, được công nhận là một trong 'Bốn con Rồng châu Á' cùng với Hàn Quốc, Hồng Kông và Đài Loan. Singapore là một trong những trung tâm thương mại lớn nhất của thế giới với vị thế là trung tâm tài chính lớn thứ 4 và là một trong 5 cảng biển bận rộn nhất trên toàn cầu. Nền kinh tế mang tính toàn cầu hóa và đa dạng của Singapore phụ thuộc nhiều vào mậu dịch, đặc biệt là xuất khẩu, thương mại và công nghiệp chế tạo, chiếm 26% GDP vào năm 2005. Theo sức mua tương đương thống kê năm 2020, Singapore có mức thu nhập bình quân đầu người cao thứ 2 trên thế giới. Quốc gia này được xếp hạng cao trong hầu hết các bảng xếp hạng quốc tế liên quan đến chất lượng kinh tế, giáo dục công, chăm sóc sức khỏe, sự minh bạch của chính phủ và tính cạnh tranh kinh tế. Singapore là một nước cộng hòa nghị viện đa đảng nhất thể, xây dựng chính phủ nghị viện nhất viện theo Hệ thống Westminster theo hình mẫu của Vương quốc Anh. Đảng Hành động Nhân dân giành chiến thắng trong tất cả các cuộc bầu cử kể từ khi Singapore tự trị vào năm 1959. Hiện nay, hơn 5 triệu cư dân đang sinh sống tại Singapore, trong đó có xấp xỉ 2 triệu người sinh ra tại nước ngoài. Singapore được coi là một quốc gia của người nhập cư với nhiều thành phần dân tộc đa dạng, song các dân tộc gốc châu Á chiếm ưu thế với 75% dân số là người gốc Hoa, các cộng đồng thiểu số đáng kể là người Mã Lai, người Ấn Độ, người Âu-Mỹ và người lai Âu-Á. Quốc gia này có bốn ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh, tiếng Mã Lai, tiếng Hoa và tiếng Tamil, chính phủ Singapore thúc đẩy chủ nghĩa văn hóa đa nguyên thông qua một loạt các chính sách chính thức. Singapore là một trong 5 thành viên tham gia sáng lập của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), là nơi đặt Ban thư ký APEC, một thành viên của Hội nghị cấp cao Đông Á, Phong trào không liên kết, Khối Thịnh vượng chung Anh cùng nhiều tổ chức quốc tế lớn khác. Quốc đảo này có bình quân mức sống, mức tiêu chuẩn sinh hoạt và chỉ số phát triển con người (HDI) đạt vào loại rất cao, Singapore là một trong những quốc gia giàu có nhất trên thế giới với GDP bình quân đầu người theo sức mua đứng hạng 2 toàn cầu (2020), được đánh giá là một trong những đất nước đáng sống nhất trên thế giới đối với giới siêu giàu. Người dân Singapore sở hữu cuốn hộ chiếu quyền lực hạng 2 toàn cầu (2021), trong đó từng nhiều lần vươn lên dẫn đầu thế giới, đứng hạng 1 thế giới trong Báo cáo cạnh tranh toàn cầu năm 2019, có nền kinh tế công nghiệp phát triển theo phân loại của IMF, WB, CIA và Liên Hợp Quốc đồng thời là quốc gia phát triển duy nhất trong khu vực Đông Nam Á. Quy mô nền kinh tế tính theo GDP danh nghĩa của Singapore lớn thứ 39 trên thế giới với dân số chỉ khoảng hơn 5 triệu người (2020). Sự phát triển nhanh chóng và bền vững của Singapore đã tạo cho quốc gia này một vị thế đáng kể, có tầm ảnh hưởng tương đối lớn trong các vấn đề toàn cầu, đặc biệt là về kinh tế, khiến các nhà phân tích đều có chung một nhận định rằng: Singapore, mặc dù diện tích nhỏ, dân số ít nhưng vẫn được coi là cường quốc khu vực tại Đông Nam Á cũng như là một Tiểu cường quốc trên thế giới. Từ nguyên Tên gọi tiếng Anh "Singapore" bắt nguồn từ tiếng Mã Lai , và gốc xa hơn là từ , nghĩa là "thành phố Sư tử". Tuy nhiên, người ta tin rằng sư tử chưa từng sống trên đảo, và loài thú mà Sang Nila Utama (người thành lập và định danh cho Singapore cổ đại) nhìn thấy có lẽ là một con hổ. Tên tiếng Trung Quốc của nước này là 新加坡 (pinyin: "Xīn jiā pō", Hán-Việt: "Tân Gia Ba"), là phiên âm bằng tiếng Quan Thoại cho "Sin-ga-pore". Nó chỉ mang tính chất phiên âm cho người Trung Quốc đọc. Dưới sự chiếm đóng của Đế quốc Nhật Bản, Singapore được đổi tên thành Syonanto (tiếng Nhật: 昭南島 - "Chiêu Nam Đảo", Hepburn: Shōnan-tō), là gọi tắt của 昭和に手に入れた南の島 (Shōwa ni te ni haireta Minami no Shima, "Hòn đảo phía nam được sở hữu bởi Chiêu Hòa"). Singapore đôi khi được gọi bằng biệt danh "Thành phố vườn", liên quan đến các công viên và đường phố rợp bóng cây tại quốc gia này. Một tên khác, "Little Red Dot", được thông qua sau khi tổng thống Indonesia đương thời Bacharuddin Jusuf Habibie đã bỏ qua Singapore bằng cách đề cập đến một chấm đỏ trên bản đồ. Lịch sử Khu định cư đầu tiên được biết đến tại Singapore là một tiền đồn của Đế quốc Srivijaya có tên là Temasek ('hải trấn'). Hòn đảo vẫn là một phần của Đế quốc Srivijaya khi Hoàng đế Rajendra Chola I của Đế quốc Chola tại Nam Ấn xâm chiếm nó vào thế kỷ XI. Năm 1613, những hải tặc người Bồ Đào Nha đốt khu định cư và hòn đảo chìm trong tăm tối vào hai thế kỷ sau đó. Cảng biển quốc tế lớn nhất Châu Á (1820-1960) Đầu thế kỷ XIX, đế quốc Anh cần có một cảng biển cho toàn vùng. Những thương nhân Anh cần một vị trí chiến lược để nghỉ ngơi và bảo vệ đội thương thuyền của đế chế Anh, cũng như ngăn chặn nguy cơ cạnh tranh của người Hà Lan trong vùng. Singapore được nước Anh nhắm đến nhờ vị trí địa lý then chốt, án ngữ eo biển Malacca của nó. Năm 1819, chính khách người Anh Quốc Thomas Stamford Raffles đến và thay mặt Công ty Đông Ấn của Anh để ký kết một hiệp định với Quốc vương Hussein Shah của Vương quốc Johor nhằm phát triển phần phía nam của Singapore thành một trạm mậu dịch của Đế quốc Anh. Năm 1824, Anh Quốc có quyền sở hữu đối với toàn bộ đảo theo một hiệp định khác với Quốc vương và Temenggong (thống lĩnh). Năm 1826, Singapore trở thành một phần của Các khu định cư Eo biển, thuộc phạm vi quyền hạn của Ấn Độ thuộc Anh, rồi trở thành thủ đô của lãnh thổ vào năm 1836. Trước khi Raffles đến, chỉ có xấp xỉ 1.000 người sống trên đảo, hầu hết là người Mã Lai bản địa cùng với một số người Hoa. Rất nhanh chóng, kể từ năm 1830, nước Anh đổ tiền bạc để biến đây trở thành hải cảng thương mại chính ở vùng Đông Nam Á bởi 2 lợi thế then chốt so với những thành phố cảng thuộc địa và những cảng lớn khác ở khu vực. Thứ nhất: vị trí địa lý (hầu hết các thương thuyền qua lại giữa Trung Quốc, Ấn Độ và Châu Âu đều phải đi qua Singapore). Thứ hai: sự liên kết giữa Singapore với đế chế Anh (Trong thế kỷ thứ XIX, Anh Quốc là một cường quốc số 1 thế giới cả về kinh tế và số lượng thuộc địa). Sự phồn vinh của Singapore bắt nguồn từ những thuận lợi về địa lý và vị trí của nó trong hệ thống thuộc địa Anh. Vào những năm 1830, Singapore đã trở thành một trong ba cảng thương mại chính ở Đông Nam Á, cùng với Manila ở Philipinnes và Batavia (Jarkata ngày nay) ở đảo Java. Mậu dịch tự do và vị trí thuận lợi đã nơi đây trở thành hải cảng nhộn nhịp. Những văn bản cổ còn mô tả: "Các con thuyền đến Singapore như đàn ong bay tới hũ mật để cùng tận hưởng bữa tiệc mậu dịch tự do". Những nhà buôn người Anh bị hấp dẫn bởi mảnh đất này và từ đó những hiệu buôn, những tuyến hàng hải, những công ty dịch vụ liên tiếp mọc lên. Những thương gia người Hoa cũng bị thu hút tới đây vì mật độ buôn bán dày đặc, sự canh phòng của hải quân Anh quốc và vị trí chiến lược của Singapore. Những thương gia người Malay, Ấn Độ và Ả Rập cũng từ những cảng lân cận khác kéo tới Singapore. Singapore nhanh chóng chiếm được một thị phần lớn trong việc giao thương giữa các vùng ở Đông Nam Á, đồng thời cũng trở thành một bến đỗ chính của tàu buôn trên đường tới Trung Quốc và Nhật Bản. Năm 1860, dân số Singapore đã vượt quá 80.000 và hơn một nửa là người Hoa. Nhiều người nhập cư đến để làm việc trong các đồn điền cao su, và sau thập niên 1870 thì đảo trở thành một trung tâm xuất khẩu cao su toàn cầu. Vị thế là một cảng tự do tạo lợi thế quyết định cho Singapore so với các đô thị cảng thuộc địa khác như Jakarta hay Manila, và nó thu hút nhiều thương nhân người Hoa, Mã Lai, Ấn Độ, và Ả Rập hoạt động tại Đông Nam Á đến Singapore. Việc khánh thành kênh đào Suez vào năm 1869 sẽ thúc đẩy hơn nữa mậu dịch tại Singapore. Năm 1880, trên 1,5 triệu tấn hàng hóa thông qua Singapore mỗi năm, với khoảng 80% hàng hóa được vận chuyển trên những tàu hơi nước. Đến cuối thế kỷ XIX, Singapore đã trở thành một cảng biển quốc tế phồn thịnh nhất tại khu vực Đông Nam Á, sánh ngang với Hồng Kông và vượt xa các thành phố khác trong khu vực Đông Nam Á. Tới năm 1900, Singapore đã là một trung tâm tài chính và thương mại quan trọng của thế giới, là cảng trung chuyển các sản phẩm của Đông Á sang châu Âu và ngược lại. Vào thời kỳ trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, có hơn 2/3 lượng hàng nhập khẩu và xuất khẩu của Malay đi qua cảng Singapore. Tiền đầu tư đi qua Singapore, thiếc và cao su được xuất khẩu ngang qua Singapore, nó cũng trở thành trung tâm kho vận và phân phối những mặt hàng dành cho những người châu Âu sống ở khắp vùng Đông Nam Á. Nơi đây cũng đã trở thành một căn cứ tài chính và thương mại chủ yếu của các công ty Anh ở vùng Đông Nam Á. Đại thần nhà Nguyễn là Phạm Quỳnh từng sang Singapore (thuộc Anh) năm 1922, đã ghi lại quang cảnh phồn vinh mà ông chứng kiến như sau: "Lần này mới được trông thấy một nơi hải cảng là lần thứ nhất, thật là một cái cảnh tượng to tát. Cửa Hải Phòng, cửa Sài Gòn của ta kể cũng khá to, nhưng so sánh với cửa Singapore này thì còn kém xa nhiều. Bến liền nhau với bể, chạy dài đến mấy nghìn thước, tàu đỗ không biết cơ man nào mà kể, tàu của khắp các nước đi tự Á Đông sang Ấn Độ và Âu Tây đều phải qua đấy... Phố xá đông đúc, san sát những hiệu Khách cả, có mấy dãy phố toàn những nhà tửu lâu khách sạn, ngày đêm tấp nập những khách ăn chơi, người đi lại... Singapore có thể chia ra hai phần: một phần là phố Khách (dành cho dân buôn bán), một phần là phố Tây (dành cho người châu Âu xây biệt thự); phố Tây cũng sầm uất bằng phố Khách mà lại có cái vẻ nguy nga hơn. Những hàng buôn của người Anh ở Singapore thật là những lâu đài vĩ đại, có khi chiếm từng dãy phố dài. Ngoài các phố phường buôn bán, đến những nơi nhà ở riêng, làm theo lối "biệt thự" (villas) của người Anh, nhà xây ở chỗ đất cao, chung quanh vườn rộng, xe hơi chạy vòng khắp được... Xe hơi ở Singapore, thật không biết cơ man nào mà kể, nào xe riêng, nào xe thuê, cả ngày chạy như mắc cửi. Vào đến Sài Gòn, thấy xe hơi chạy đường Catinat đã nghĩ là nhiều, nhưng xe hơi ở Singapore lại còn nhiều hơn nữa, và ở Singapore đường phố nào cũng to đẹp như đường Catinat hết thảy". Chiến tranh thế giới thứ nhất không có ảnh hưởng nhiều đến Singapore. Sự kiện quân sự địa phương quan trọng nhất trong thế chiến là binh biến năm 1915 do các binh sĩ sepoy người Hồi giáo Ấn Độ đồn trú tại Singapore tiến hành. Sau khi nghe được những tin đồn về việc có kế hoạch đưa họ đi chiến đấu với Đế quốc Ottoman, các binh sĩ nổi dậy, sát hại những sĩ quan của họ và một vài thường dân Anh Quốc trước khi bị quân đến từ Johor và Miến Điện trấn áp. Sau thế chiến thứ nhất, chính phủ Anh Quốc dành nguồn lực đáng kể để xây dựng một căn cứ hải quân tại Singapore, một sự ngăn chặn đối với tham vọng ngày càng tăng của Đế quốc Nhật Bản. Singapore được nước Anh coi là tài sản thương mại quan trọng nhất tại châu Á, và từ thập niên 1920 nó cũng là căn cứ hải quân chủ lực bảo vệ quyền lợi của nước Anh ở vùng Đông Nam Á và là lá chắn phòng ngự cho Úc và New Zealand. Để bảo vệ thành phố giá trị này, nhiều doanh trại được xây dựng để làm căn cứ đồn trú cho hàng vạn binh sỹ Anh. Căn cứ hải quân Anh ở đây được hoàn thành vào năm 1939, có đủ dự trữ nhiên liệu để hỗ trợ cho toàn bộ hải quân Anh Quốc trong sáu tháng. Thủ tướng Winston Churchill ca ngợi Singapore có giá trị như là "eo biển Gibraltar của phương Đông" Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Singapore là mục tiêu mà Đế quốc Nhật Bản rất thèm muốn. Quân đội Đế quốc Nhật Bản xâm chiếm Malaya thuộc Anh, đỉnh điểm là trận Singapore. Người Anh chiến bại, và đầu hàng vào ngày 15 tháng 2 năm 1942, gần 90.000 quân Anh đóng ở đây bị bắt làm tù binh. Thủ tướng Anh Quốc Winston Churchill gọi đây là "thảm họa tệ nhất và sự đầu hàng lớn nhất trong lịch sử Anh Quốc". Số người Hoa bị thảm sát sau khi Singapore thất thủ ước tính từ 5.000 đến 25.000 người. Người Anh tái chiếm đảo vào tháng 9 năm 1945, sau khi Nhật Bản đầu hàng. Trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên năm 1955, lãnh đạo ủng hộ độc lập của Mặt trận Lao động là David Marshall giành chiến thắng. Ông dẫn đầu một phái đoàn đến Luân Đôn để yêu cầu tự trị hoàn toàn, song người Anh bác bỏ. Sau đó, David Marshall từ chức và Lâm Hữu Phúc trở thành người thay thế, ông thi hành các chính sách nhằm thuyết phục người Anh trao cho Singapore quyền tự trị nội bộ hoàn toàn đối với toàn bộ các vấn đề ngoại trừ quốc phòng và đối ngoại. Tách ra độc lập (1960 - nay) Trong cuộc bầu cử tháng 5 năm 1959, Đảng Hành động Nhân dân giành chiến thắng vang dội. Singapore trở thành một nhà nước tự trị nội bộ bên trong Thịnh vượng chung và Lý Quang Diệu trở thành Thủ tướng đầu tiên của quốc gia. Tổng đốc William Allmond Codrington Goode giữ vai trò là Yang di-Pertuan Negara ("nguyên thủ quốc gia") đầu tiên, người kế nhiệm là Yusof bin Ishak trở thành Tổng thống Singapore đầu tiên vào năm 1965. Trong thập niên 1950, những người cộng sản gốc Hoa vốn có quan hệ chặt chẽ với các thương hội và các trường tiếng Hoa tiến hành một cuộc nổi dậy vũ trang chống lại chính quyền tại Malaya, dẫn đến Tình trạng khẩn cấp Malaya, và sau đó là cuộc Nổi dậy cộng sản Malaysia (1968-1989). Bạo động phục vụ toàn quốc 1954, bạo động trung học Hoa văn và bạo động xe buýt Phúc Lợi tại Singapore đều có liên hệ với các sự kiện này. Trong giai đoạn này, chính phủ Singapore tiêu diệt những tổ chức chính trị, cá nhân bị liệt vào thành phần có cảm tình với phong trào Cộng sản tại Singapore. Cuộc trưng cầu dân ý về việc sáp nhập Singapore vào Liên bang Mã Lai được tiến hành vào năm 1962, đưa Singapore trở thành một thành viên của Liên bang Malaysia cùng với Malaya, Sabah và Sarawak với vị thế một bang có quyền tự trị vào tháng 9 năm 1963. Singapore bị trục xuất khỏi liên bang vào ngày 7 tháng 8 năm 1965 sau những bất đồng quan điểm chính trị chính phủ của bang và hội đồng liên bang tại Kuala Lumpur. Singapore được độc lập 2 ngày sau đó, vào ngày 9 tháng 8 năm 1965, sau này đã trở thành ngày Quốc khánh của Singapore. Malaysia là nước đầu tiên công nhận nền độc lập của Singapore. Độc lập đồng nghĩa với tự túc, Singapore đã phải đối mặt với nhiều khó khăn trong giai đoạn này, bao gồm nạn thất nghiệp, thiếu nhà ở, đất đai và tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, tại thời điểm độc lập, khoảng 70% hộ dân Singapore phải sống trong điều kiện đông đúc tồi tàn, một nửa dân số mù chữ. Năm 1962, GDP đầu người của Singapore đạt 516 USD, đây là mức cao nhất ở Đông Nam Á, nhưng vẫn thấp nếu so với các nước châu Âu. Trong thời kỳ lãnh đạo của mình từ năm 1959 đến 1990, Thủ tướng Lý Quang Diệu từng bước kiềm chế thất nghiệp, lạm phát, tăng mức sống và thực hiện một chương trình nhà ở công cộng với quy mô lớn. Các cơ sở hạ tầng kinh tế của đất nước được phát triển, mối đe dọa của căng thẳng chủng tộc được loại bỏ và một hệ thống phòng vệ quốc gia được thiết lập. Ngoài ra, trong thập niên 1960-1970, kinh tế Singapore cũng được hưởng lợi từ việc cung cấp nhu yếu phẩm, nhiên liệu, vũ khí và phương tiện chiến tranh cho quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam. Riêng xăng dầu và nhiên liệu, mỗi tháng Singapore bán cho Mỹ lượng hàng trị giá 600 triệu đôla, thu nhập từ việc làm hậu cần cho quân đội Mỹ chính là nguồn lực ban đầu giúp Singapore xây dựng kinh tế đất nước.. Singapore từ một nước đang phát triển trở thành một nước phát triển vào cuối thế kỷ XX. Năm 1990, Ngô Tác Đống kế nhiệm chức thủ tướng, đối mặt với nhiều khó khăn bao gồm ảnh hưởng kinh tế từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997, sự lan tràn của SARS năm 2003 cũng như những đe dọa khủng bố từ Jemaah Islamiah, hậu 11 tháng 9 và các vụ đánh bom ở Bali. Năm 2004, con trai cả của Lý Quang Diệu là Lý Hiển Long trở thành thủ tướng thứ ba.. Mặc dù nền kinh tế có sự tăng trưởng đặc biệt, Đảng Hành động Nhân dân (PAP) đã phải nhận kết quả bầu cử tệ nhất trong lịch sử tại cuộc bầu cử năm 2011, khi họ chỉ giành được 60% số phiếu bầu. Vào ngày 23 tháng 3 năm 2015, Lý Quang Diệu qua đời . Địa lý Singapore là một hòn đảo có hình dạng một viên kim cương được nhiều đảo nhỏ khác bao quanh. Có hai con đường nối giữa Singapore và bang Johor của Malaysia — một con đường nhân tạo có tên Đường đắp cao Johor-Singapore ở phía bắc, băng qua eo biển Tebrau và liên kết thứ hai Tuas, một cầu phía tây nối với Juhor. Singapore có tổng cộng 63 hòn đảo lớn nhỏ. Trong đó, Đảo Jurong, Pulau Tekong, Pulau Ubin và Sentosa là những đảo lớn nhất của Singapore, ngoài ra còn có nhiều đảo nhỏ khác. Vị trí cao nhất của Singapore là đồi Bukit Timah với độ cao 166 m. Vùng thành thị trước đây chỉ tập trung bao quanh sông Singapore, hiện nay là trung tâm buôn bán của Singapore, trong khi đó những vùng còn lại rừng nhiệt đới ẩm hoặc dùng cho nông nghiệp. Từ thập niên 1960, chính phủ đã xây dựng nhiều đô thị mới ở những vùng xa, tạo nên một Singapore với nhà cửa san sát ở khắp mọi miền, mặc dù Khu vực Trung tâm vẫn là nơi hưng thịnh nhất. Ủy ban Quy hoạch Đô thị là một ban của chính phủ chuyên về các hoạt động quy hoạch đô thị với nhiệm vụ là sử dụng và phân phối đất hiệu quả cũng như điều phối giao thông. Ban đã đưa ra quy hoạch chi tiết cho việc sử dụng đất ở 55 khu vực. Singapore đã mở mang lãnh thổ bằng đất lấy từ những ngọn đồi, đáy biển và những nước lân cận. Nhờ đó, diện tích đất của Singapore đã tăng từ 581,5 km² ở thập niên 1960 lên 697,25 km² ngày nay, và có thể sẽ tăng thêm 100 km² nữa đến năm 2030. Khí hậu Do chỉ cách đường xích đạo 137 km, Singapore có khí hậu xích đạo ẩm đặc trưng với các mùa không phân biệt rõ rệt. Đặc điểm của loại khí hậu này là nhiệt độ và áp suất ổn định, độ ẩm cao và mưa nhiều. Nhiệt độ cao đều quanh năm nhưng không dao động quá lớn, thay đổi trong khoảng 22°C đến 31 °C (72°–88°F). Trung bình, độ ẩm tương đối khoảng 90% vào buổi sáng và 60% vào buổi chiều. Trong những trận mưa lớn kéo dài, độ ẩm tương đối thường đạt 100%. Nhiệt độ cao nhất và thấp nhất đã từng xuất hiện là 18,4 °C (65,1 °F) và 37,8 °C (100,0 °F). Sự đô thị hóa đã làm biến mất nhiều cánh rừng mưa nhiệt đới một thời, hiện nay chỉ còn lại một trong số chúng là Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bukit Timah. Tuy nhiên, nhiều công viên đã được gìn giữ với sự can thiệp của con người, ví dụ như Vườn Thực vật Quốc gia Singapore. Không có nước ngọt từ sông và hồ, nguồn cung cấp nước chủ yếu của Singapore là từ những trận mưa rào được giữ lại trong những hồ chứa hoặc lưu vực sông. Mưa rào cung cấp khoảng 50% lượng nước, phần còn lại được nhập khẩu từ Malaysia hoặc lấy từ nước tái chế - một loại nước có được sau quá trình khử muối. Nhiều nhà máy sản xuất nước tái chế đang được đề xuất và xây dựng nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào việc nhập khẩu. Từ tháng 7 đến tháng 10, thường có những đám khói dày đặc do cháy rừng ở nước láng giềng Indonesia bay qua Singapore, thường là từ đảo Sumatra. Mặc dù Singapore không quan sát thời gian tiết kiệm ánh sáng ban ngày (DST), nhưng nó tuân theo múi giờ GMT + 8, trước một giờ so với khu vực điển hình cho vị trí địa lý của nó. Điều này đã khiến mặt trời mọc và lặn đặc biệt vào cuối tháng 1 và tháng 2, trong đó mặt trời mọc lúc 7:20 sáng và lặn vào khoảng 7:25 tối. Trong tháng 7, mặt trời lặn vào khoảng 7:15 tối, tương tự như các thành phố khác ở vĩ độ cao hơn nhiều như Đài Bắc và Tokyo. Sớm nhất mặt trời lặn và mọc là vào tháng 10 và tháng 11 khi mặt trời mọc lúc 6:45 sáng và lặn lúc 6:50 chiều. Singapore vẫn rất dễ bị thương tổn trước nguy cơ biến đổi khí hậu, đặc biệt là liên quan đến mực nước biển dâng cao Chính trị Singapore là một nước cộng hòa nghị viện, có chính phủ nghị viện nhất viện theo hệ thống Westminster đại diện cho các khu vực bầu cử. Hiến pháp của quốc gia thiết lập hệ thống chính trị dân chủ đại diện. Freedom House xếp hạng Singapore là "tự do một phần" trong báo cáo Freedom in the World của họ, và The Economist xếp hạng Singapore là một "chế độ hỗn hợp", hạng thứ ba trong số bốn hạng, trong "Chỉ số dân chủ" của họ. Tổ chức Minh bạch Quốc tế liên tục xếp Singapore vào hạng các quốc gia ít tham nhũng nhất trên thế giới. Quyền hành pháp thuộc về Nội các Singapore, do Thủ tướng lãnh đạo, và ở một mức độ thấp hơn rất nhiều là Tổng thống. Tổng thống được bầu thông qua phổ thông đầu phiếu, và có quyền phủ quyết đối với một tập hợp cụ thể các quyết định hành pháp, như sử dụng dự trữ quốc gia và bổ nhiệm các thẩm phán, song vai trò phần lớn mang tính lễ nghi. Quốc hội Singapore đóng vai trò là nhánh lập pháp của chính phủ. Các thành viên của Quốc hội gồm có các thành viên đắc cử, phi tuyển khu và được chỉ định. Các thành viên đắc cử được bầu vào Quốc hội trên cơ sở "đa số ghế" và đại diện cho các khu vực bầu cử có một hoặc nhóm đại diện. Đảng Hành động Nhân dân giành quyền kiểm soát quốc hội với đa số lớn trong tất cả các cuộc bầu cử kể từ khi Singapore tự trị vào năm 1959. Hệ thống tư pháp của Singapore dựa trên thông luật Anh, song có các khác biệt địa phương đáng kể. Việc bồi thẩm đoàn xử án bị bãi bỏ vào năm 1970, các phán quyết tư pháp sẽ hoàn toàn nằm trong tay các thẩm phán được chỉ định. Singapore có các hình phạt rất nghiêm khắc, bao gồm cả trừng phạt thân thể tư pháp dưới dạng đánh đòn hoặc phạt roi ngay tại nơi công cộng, có thể áp dụng đối với các tội hình như hiếp dâm, quấy rối tình dục, gây rối loạn, phá hoại, và các vi phạm di trú nhất định. Các tội danh về ma túy bị xử rất nặng, bao gồm cả án tử hình kể cả đối với người có quốc tịch nước ngoài. Tổ chức Ân xá Quốc tế cho rằng một số điều khoản pháp lý của Singapore xung đột với nguyên tắc suy đoán vô tội, và cho rằng Singapore "có thể có tỷ lệ hành quyết cao nhất trên thế giới so với dân số của quốc gia". Chính phủ Singapore phản đối các tuyên bố của Tổ chức Ân xá Quốc tế. Trong một nghiên cứu vào năm 2008, Singapore và Hồng Kông xếp hàng đầu về chất lượng hệ thống tư pháp tại châu Á. Lý giải về việc tại sao pháp luật Singapore lại duy trì những hình phạt rất nặng bất chấp sự phản đối của các tổ chức phương Tây, thủ tướng Lý Quang Diệu nói: Sự mở rộng quyền tự do cá nhân thích hành động hay phá phách thế nào tuỳ ý sẽ gây ra tổn thất với trật tự xã hội. Ở phương Đông, mục đích chính luôn là trật tự xã hội ổn định để mọi người có thể có hưởng tự do của mình. Sự tự do này chỉ tồn tại trong xã hội ổn định chứ không phải ở đất nước của tranh cãi và vô chính phủ. Con người cần những ý thức đạo đức nhất định về đúng và sai. Có những thứ là xấu xa. Anh đơn giản là xấu xa, dễ làm những việc xấu thì phải chặn anh không làm những việc xấu vậy. Người phương Tây từ bỏ những nền tảng đạo đức của xã hội, tin rằng mọi vấn đề có thể giải quyết bằng một chính phủ tốt – đây là điều mà phương Đông chúng tôi không bao giờ tin. Hiện tại, Singapore vẫn duy trì diện mạo của một nền dân chủ nhưng trong thực tế, Đảng Hành động Nhân dân (PAP) cầm quyền đã thống trị nền chính trị kể từ khi nước này giành được độc lập bằng cách tạo ra những rào cản lớn đối với các đảng chính trị đối lập, và hiện nay PAP nắm hơn 90% số ghế trong Quốc hội. Quan hệ đối ngoại Chính sách đối ngoại của Singapore có mục đích duy trì an ninh tại Đông Nam Á và các lãnh thổ phụ cận. Một nguyên tắc cơ bản là tính ổn định chính trị và kinh tế trong khu vực. Singapore có quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia có chủ quyền. Là một trong năm thành viên sáng lập của ASEAN, Singapore là một quốc gia ủng hộ mạnh mẽ đối với Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) và Khu vực đầu tư ASEAN. Cựu Thủ tướng Ngô Tác Đống đề xuất hình thành một Cộng đồng Kinh tế ASEAN, một bước vượt qua AFTA, đưa Đông Nam Á tiến gần hơn đến một thị trường chung. Singapore duy trì tư cách thành viên trong các tổ chức khu vực khác như Hội nghị Á-Âu, Diễn đàn Hợp tác Đông Á-Mỹ Latinh, Hệ thống các thành phố lớn châu Á 21, và Hội nghị cấp cao Đông Á. Đảo quốc cũng là một thành viên của Phong trào không liên kết và Thịnh vượng chung Các quốc gia. Về tổng thể, Singapore có quan hệ song phương vững chắc với các thành viên khác trong ASEAN; tuy nhiên, có những bất đồng phát sinh, và quan hệ với Malaysia và Indonesia đôi khi trở nên căng thẳng. Malaysia và Singapore phát sinh mâu thuẫn về vấn đề cung cấp nước sạch đến Singapore, và vấn đề Quân đội Singapore tiếp cận không phận Malaysia. Có những vấn đề biên giới tồn tại với Malaysia và Indonesia, và hai quốc gia này đều cấm bán cát biển đến Singapore do những tranh nghị về hành động cải tạo đất của Singapore. Một số tranh chấp trước đó được giải quyết thông qua Tòa án Công lý Quốc tế. Vấn nạn hải tặc trên eo biển Malacca tạo ra mối quan tâm chung của cả ba quốc gia. Singapore có các quan hệ kinh tế mật thiết với Brunei, và hai quốc gia chia sẻ một giá trị tiền tệ cố định. Singapore có tiếp xúc ngoại giao đầu tiên với Trung Quốc trong thập niên 1970, và quan hệ ngoại giao đầy đủ giữa hai quốc gia được thiết lập trong thập niên 1990. Kể từ đó, Singapore và Trung Quốc là những bên chủ yếu trong việc tăng cường quan hệ ASEAN–Trung Quốc. Singapore và Hoa Kỳ có quan hệ mật thiết lâu dài, đặc biệt là trong các lĩnh vực quốc phòng, kinh tế, y tế, và giáo dục. Hoa Kỳ là đối tác mậu dịch lớn thứ ba của Singapore trong năm 2010, sau Trung Quốc (thứ 2) và Malaysia (thứ 1). Hai quốc gia có một hiệp định mậu dịch tự do, và Singapore nhận định quan hệ với Hoa Kỳ là một đối trọng quan trọng với ảnh hưởng của Trung Quốc. Học thuyết đối ngoại Ý thức khủng hoảng nước nhỏ Ý thức khủng hoảng nước nhỏ là đặc trưng nổi bật nhất của nền đối ngoại Singapore. Theo đó, giới tinh hoa nước này luôn nhận định rằng Singapore là một "chấm nhỏ đỏ" trên bản đồ thế giới, khan hiếm tài nguyên, nhân lực và thiếu chiều sâu chiến lược. Do nội lực của nước này quá yếu nên Singapore buộc phải chấp nhận chính sách đối ngoại phụ thuộc vào một nước lớn nào đó. Đồng thời, với mối quan hệ thiếu hữu hảo và khác biệt về tôn giáo, chủng tộc với Malaysia và Indonesia, Singapore luôn có cảm giác "bị bao vây" sâu sắc bởi các thế lực thiếu thiện chí. Do đó, việc phụ thuộc vào một nước lớn nào đó khiến Singapore luôn phải đối mặt với nguy cơ trở thành vật hy sinh trong các cuộc tranh bá của các nước lớn. Tất cả chính trị, kinh tế, ngoại giao của Singapore đều dựa trên "văn hóa khủng hoảng" này. Cân bằng nước lớn Cân bằng nước lớn được coi là điểm trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Singapore. Singapore chủ trưởng lợi dụng sự tranh giành giữa các nước lớn để có được hòa bình và ổn định từ đó phát triển nội lực trong nước. Nước này luôn lo sợ sức mạnh của một cường quốc nào đó trong khu vực trở nên quá lớn, lấn át các cường quốc còn lại và khiến Singapore bị lệ thuộc vào cường quốc mạnh nhất. Lý Quang Diệu cho rằng: "Nếu khu vực Đông Nam Á hình thành cục diện đa cực, năng lực ngăn chặn sức ép từ các nước lớn của chúng ta sẽ càng mạnh hơn. Trong tình hình tồn tại cùng lúc nhiều nước lớn, vai trò của mỗi nước lớn sẽ bị giảm đi, hơn nữa bằng cách khéo léo lợi dụng vai trò của các nước lớn, các nước nhỏ có thể tự do vận hành một cách tối đa...vận mệnh của Đông Nam Á sẽ không phải do người Đông Nam Á tự quyết định". Singapore xuất phát từ tình thế của mình, tranh thủ sự can dự tích cực của nhiều nước lớn vào Singapore và Đông Nam Á để có được viện trợ kinh tế và sự hỗ trợ đa phương về chính trị, nhưng không kết đồng minh, tránh gánh vác nghĩa vụ quân sự và bị cuốn vào xung đột nước lớn. Singapore cho rằng thông qua sự cạnh tranh lẫn nhau giữa hai dòng thế lực để hình thành sự cân bằng lực lượng, nước nhỏ có thể giành được không gian quốc tế của mình trong sự cân bằng giữa các nước lớn, từ đó tránh việc nghe theo một nước mạnh nào đó cuối cùng dẫn đến có hại cho cục diện vốn bất lợi của an ninh và chủ quyền quốc gia. Trong khái niệm ngoại giao của Lý Quang Diệu, phát triển quan hệ ngoại giao với Mỹ, Nhật Bản là mấu chốt trong việc thực hiện ngoại giao cân bằng nước lớn của Singapore nhưng ông không mong muốn thế lực Mỹ bá quyền độc tài ở Đông Nam Á. Có sự cân bằng nước lớn mang tính định hướng. Lâu nay Singapore đều tự đặt mình vào thế trung lập. Trên thực tế, cân bằng nước lớn của Singapore mang tính chọn lọc và phân cấp, là cân bằng lấy Mỹ làm trung tâm. Bảo vệ an ninh quốc gia, phát triển kinh tế nhà nước là mục tiêu cuối cùng của Singapore. Có thể gạt bỏ được mối lo an ninh của Singapore, mang lại sự thịnh vượng về kinh tế chắc chắn là mục tiêu cao nhất trong hệ thống cân bằng nước lớn của Singapore. Singapore dựa vào đó để ràng buộc lợi ích của mình với lợi ích của Mỹ ở Đông Nam Á, từ đó mưu cầu tối đa hóa lợi ích. Tuy Singapore cũng từng dẫn dắt Liên Xô, Trung Quốc cân bằng sức ảnh hưởng của Mỹ, Nhật Bản, nhưng chỉ là để tránh lực lượng Mỹ quá mạnh khiến Singapore cảm thấy "nghẹt thở". Thực lực đang không ngừng lớn mạnh của Trung Quốc tại Biển Đông về khách quan đã tạo thành thách thức cho sự cân bằng nước lớn khu vực Đông Nam Á mà Mỹ chủ đạo, động chạm đến bố cục cân bằng mà Singapore lâu nay tạo dựng. Sự tương hỗ giữa ASEAN và Singapore Để bảo đảm lợi ích và an ninh của Singapore cũng như khu vực Đông Nam Á, Singapore khuyến khích các nước ngoài khu vực tham gia Diễn đàn khu vực ASEAN. Cựu Thủ tướng Ngô Tác Đống so sánh Singapore với một con cá nhỏ, cá nhỏ muốn sống phải đi cùng các con cá khác, hòa mình vào trong đàn cá, dựa vào sự kết thành đàn để tự bảo vệ mình. Chiến lược "đàn cá" trở thành một phần quan trọng trong chiến lược an ninh của Singapore. Dưới sự chỉ đạo của lý luận này, Singapore là một trong những nước đầu tiên không ngừng thúc đẩy hợp tác kinh tế và chính trị các nước ASEAN, đồng thời mở rộng lĩnh vực hợp tác đến an ninh khu vực. ASEAN đem đến sân chơi giao lưu kết nối cho các nhà lãnh đạo các nước Đông Nam Á, phát huy vai trò to lớn trong việc duy trì ổn định khu vực. Đồng thời, ASEAN cũng đem đến một nền tảng ngoại giao vô cùng tốt cho Singapore. Tư cách thành viên của ASEAN khiến Singapore có quyền phát ngôn lớn hơn trong các công việc quốc tế. Lý Hiển Long nói: "Khi Singapore và các nước ASEAN khác trở thành một tập thể, bất cứ nước lớn nào đều sẽ có phần kiêng nể, nhưng khi Singapore không có sự chống đỡ của ASEAN, có thể bị các nước lớn xem nhẹ". Bộ trưởng Ngoại giao Singapore George Yong-Boon Yeo cũng nói rằng: "Chúng tôi đặt ASEAN ở vị trí quan trọng, Singapore là trung tâm của ASEAN, đó là lý do vì sao lợi ích của ASEAN và lợi ích của Singapore hoàn toàn giống nhau". Đối với Singapore, chiến lược sinh tồn, an ninh và kinh tế của nước này gắn liền với chiến lược của ASEAN. Quân sự Quân đội Singapore tuy nhỏ nhưng được cho là có công nghệ tiến bộ nhất tại Đông Nam Á, gồm có Lục quân Singapore, Hải quân Cộng hòa Singapore, và Không quân Cộng hòa Singapore. Quân đội được nhìn nhận là lực lượng bảo đảm cho độc lập quốc gia. Triết lý quốc phòng của đảo quốc mang tính ngoại giao và răn đe. Nguyên lý này biến thành văn hóa, yêu cầu mọi công dân tham dự phòng thủ quốc gia. Chính phủ dành 4,9% GDP toàn quốc cho quốc phòng, và khoảng 1/4 chi tiêu của chính phủ là dành cho quốc phòng. Sau khi độc lập, Singapore có hai trung đoàn bộ binh do các sĩ quan người Anh chỉ huy. Lực lượng này được nhận định là quá nhỏ để đáp ứng an ninh hiệu quả cho quốc mới, do vậy việc phát triển quân đội trở thành một điều ưu tiên. Anh đưa quân đội ra khỏi Singapore vào tháng 10 năm 1971, chỉ còn hiện diện tượng trưng bằng một lực lượng nhỏ người Anh, Úc và New Zealand. Quân nhân Anh cuối cùng rời khỏi Singapore vào tháng 3 năm 1976. Các binh sĩ New Zealand là những người cuối cùng rời đi, vào năm 1989. Singapore nhận được trợ giúp ban đầu trên quy mô lớn từ Israel, một quốc gia không được Malaysia, Indonesia hay Brunei công nhận. Mối lo chính sau khi độc lập là một cuộc xâm chiếm của Malaysia. Các sĩ quan chỉ huy của Lực lượng Phòng vệ Israel được giao nhiệm vụ thiết lập Lực lượng vũ trang Singapore từ con số không, và những giáo viên hướng dẫn người Israel được đưa đến nhằm huấn luyện cho các binh sĩ Singapore. Các khóa huấn luyện quân sự được tiến hành theo khuôn mẫu của Lực lượng Phòng vệ Israel, và Singapore tiếp nhận một chế độ nghĩa vụ quân sự và lực lượng dự bị dựa theo mô hình Israel. Singapore vẫn duy trì các quan hệ an ninh mật thiết với Israel và là một trong những khách hàng lớn nhất của vũ khí Israel. Lực lượng vũ trang Singapore đang được phát triển nhằm đáp ứng một loạt các vấn đề, trong cả chiến tranh quy ước và phi quy ước. Cục khoa-kỹ Quốc phòng chịu trách nhiệm thu thập tiềm lực cho quân đội. Hạn chế trên phương diện địa lý của đảo quốc có nghĩa là Lực lượng vũ trang Singapore cần phải có kế hoạch đẩy lui hoàn toàn một cuộc tấn công, do họ không thể rút lui rồi tái tập hợp. Quy mô dân số nhỏ cũng tác động đến phương pháp mà Lực lượng vũ trang Singapore trù tính, với một lực lượng tích cực nhỏ song có một lượng dự trữ lớn. Do khan hiếm đất trống tại đảo chính, các hoạt động liên quan đến huấn luyện như bắn đạn thật và diễn tập đổ bộ thường được tiến hành trên các đảo nhỏ hơn, thường cấm chỉ thường dân tiếp cận, nó cũng ngăn ngừa rủi ro tại đảo chính và khu vực đô thị. Tuy nhiên, các cuộc tập trận quy mô lớn được nhận định là quá nguy hiểm khi tiến hành trong khu vực, và chúng được thực hiện tại Đài Loan từ năm 1975. Hoạt động huấn luyện cũng được tổ chức tại nhiều quốc gia khác. Về tổng thể, các cuộc luyện tập quân sự được tổ chức với lực lượng ngoại quốc một hoặc hai lần mỗi tuần. Do không phận và lãnh thổ hạn chế, Không quân Cộng hòa Singapore duy trì một số căn cứ hải ngoại tại Úc, Hoa Kỳ, và Pháp. Phi đội 130 của Không quân Cộng hòa Singapore đặt tại RAAF Base Pearce, Tây Úc, còn Phi đội 126 đặt tại Trung tâm Hàng không Lục quân Oakey, Queensland. Phi đội 150 đặt tại căn cứ không quân Cazaux tại miền nam Pháp. Không quân Cộng hòa Singapore cũng có một vài phân đội hải ngoại tại Hoa Kỳ, như tại San Diego, Marana, Grand Prairie và căn cứ không quân Luke. Lực lượng vũ trang Singapore đã phái quân đi hỗ trợ các hoạt động bên ngoài đảo quốc, tại các khu vực như Iraq và Afghanistan, trong cả vai trò quân sự và dân sự. Trong khu vực, Lực lượng vũ trang Singapore giúp ổn định Đông Timor và cung cấp viện trợ đến Aceh tại Indonesia sau Động đất và sóng thần Ấn Độ Dương 2004. Lực lượng vũ trang Singapore cũng tham gia giúp đỡ trong các nỗ lực cứu trợ sau Bão Katrina. Singapore là một bên trong Dàn xếp phòng vệ 5 quốc gia (FPDA), một liên minh quân sự với Anh, Malaysia, New Zealand, và Úc. Kinh tế Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên ngoài. Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước ngọt; đất canh tác hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, do vậy nông nghiệp không phát triển, hàng năm phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu ở trong nước. Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao hàng đầu châu Á và thế giới như: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc dầu, chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi. Singapore có 12 khu vực công nghiệp lớn, trong đó lớn nhất là Khu công nghiệp Jurong. Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử và hàng bán dẫn. Các khu công nghiệp chủ yếu gia công sản phẩm rồi xuất khẩu. Tại Singapore có nhiều ngân hàng lớn đang hoạt động, các công ty bảo hiểm, các công ty chứng khoán...là trung tâm tài chính khu vực Đông Nam Á. Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở châu Á. Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Singapore có một nền kinh tế thị trường phát triển cao, dựa trên lịch sử về thương mại cảng vận tải mở rộng. Cùng với Hồng Kông, Hàn Quốc và Đài Loan, Singapore là một trong Bốn hổ kinh tế của châu Á, và đã vượt qua các nước tương đương về GDP bình quân đầu người. Từ năm 1965 đến năm 1995, tỷ lệ tăng trưởng trung bình khoảng 6% mỗi năm, làm thay đổi mức sống của dân số. Giai đoạn 2017-2020, tỷ lệ tăng trưởng của Singapore lần là 3.66% (2017), 1.10% (2018), -4.14% (2019), 7.61% (2020). Nền kinh tế Singapore được biết đến như là một trong những tự do nhất, sáng tạo nhất, cạnh tranh nhất, năng động nhất và đa số thân thiện với kinh doanh. Chỉ số Tự do Kinh tế năm 2015 xếp Singapore là nước có nền kinh tế tự do thứ hai trên thế giới và Chỉ số Dễ dẫn Kinh doanh cũng xếp Singapore là nơi dễ dàng nhất để kinh doanh trong thập kỷ qua. Theo Chỉ số Nhận thức Tham nhũng, Singapore luôn được coi là một trong những quốc gia tham nhũng ít nhất trên thế giới, cùng với New Zealand và các nước Scandinavi. Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm 40% thu nhập quốc dân). Kinh tế Singapore từ cuối những năm 1980 đạt tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất thế giới: 1994 đạt 10%, 1995 là 8,9%. Tuy nhiên, từ cuối 1997, do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ, đồng đô la Singapore đã bị mất giá 20% và tăng trưởng kinh tế năm 1998 giảm mạnh chỉ còn 1,3%. Từ 1999, Singapore bắt đầu phục hồi nhanh: Năm 1999, tăng trưởng 5,5%, và năm 2000 đạt hơn 9%. Do ảnh hưởng của sự kiện 11 tháng 9, suy giảm của kinh tế thế giới và sau đó là dịch SARS, kinh tế Singapore bị ảnh hưởng nặng nề: Năm 2001, tăng trưởng kinh tế chỉ đạt -2,2%, 2002, đạt 3% và 2003 chỉ đạt 1,1%. Từ 2004, tăng trưởng mạnh: năm 2004 đạt 8,4%; 2005 đạt 5,7%; năm 2006 đạt 7,7% và năm 2007 đạt 7,5%. Năm 2009, GDP chỉ tăng 1,2% do tác động của khủng hoảng kinh tế. Hiện tại (2019), nền kinh tế của Singapore đứng thứ tư của ASEAN, đứng thứ 12 châu Á và đứng thứ 34 trên thế giới, GDP đạt 362,818 tỷ USD. Trong nhiều năm, Singapore là một trong số ít các quốc gia có xếp hạng tín dụng AAA từ "ba nước lớn" và là nước duy nhất ở Châu Á đạt được mức đánh giá này. Singapore thu hút một lượng lớn đầu tư nước ngoài do vị trí của nó, lực lượng lao động có tay nghề, thuế suất thấp, cơ sở hạ tầng tiên tiến và không khoan nhượng chống tham nhũng. Singapore có trữ lượng ngoại tệ lớn thứ 11 thế giới, và là một trong những quốc gia được đầu tư quốc tế cao nhất trên đầu người. Có hơn 7.000 tập đoàn đa quốc gia đến từ Hoa Kỳ, Nhật Bản và Châu Âu tại Singapore. Cũng có khoảng 1.500 công ty từ Trung Quốc và một số tương tự từ Ấn Độ. Các công ty nước ngoài được tìm thấy ở hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh tế của đất nước. Khoảng 44 phần trăm lực lượng lao động của Singapore bao gồm những người không phải là người Singapore. Hơn mười hiệp định thương mại tự do đã được ký kết với các nước và khu vực khác. Mặc dù tự do thị trường, hoạt động của chính phủ Singapore có một phần đáng kể trong nền kinh tế, đóng góp 22% GDP. Singapore là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ hai ở Ấn Độ. Đây là nhà xuất khẩu lớn thứ 14 và là nhà nhập khẩu lớn thứ 15 trên thế giới. Đồng tiền của Singapore là đồng đô la Singapore (SGD hay S$) do Cơ quan tiền tệ Singapore (MAS) phát hành. Nó có thể hoán đổi cho đồng đô la Brunei theo mệnh giá từ năm 1967 do mối quan hệ gần gũi lịch sử của chúng. MAS quản lý chính sách tiền tệ của mình bằng cách cho phép tỷ giá hối đoái đồng đô la Singapore tăng hoặc rơi vào một dải giao dịch không được tiết lộ. Điều này khác với hầu hết các ngân hàng trung ương, sử dụng lãi suất để quản lý chính sách. Trong những năm gần đây, đất nước này được xác định là thiên đường thuế ngày càng phổ biến dành cho người giàu do thuế suất thấp đối với thu nhập cá nhân và miễn thuế đối với thu nhập và tăng vốn từ nước ngoài. Nhà bán lẻ triệu phú Úc Brett Blundy và nhà đồng sáng lập nhiều tỷ phú Facebook, ông Eduardo Saverin là hai ví dụ về những cá nhân giàu có đã định cư ở Singapore (Blundy năm 2013 và Saverin năm 2012). Năm 2009, Singapore đã bị loại khỏi "danh sách" các thiên đường thuế của OCDE, nhưng xếp thứ tư trong Chỉ số bảo mật tài chính năm 2015 của Mạng lưới Tư pháp thuế của các nhà cung cấp dịch vụ tài chính ngoài khơi của thế giới, một phần tám của thế giới ngoài khơi vốn, trong khi "cung cấp nhiều cơ hội tránh thuế và trốn thuế". Vào tháng 8 năm 2016, The Straits Times đã báo cáo rằng Indonesia đã quyết định tạo ra các thiên đường thuế trên hai hòn đảo gần Singapore để đưa thủ đô Indonesia trở lại cơ sở thuế. Vào tháng 10 năm 2016, Cơ quan tiền tệ Singapore đã cảnh cáo và phạt UBS và DBS và rút giấy phép ngân hàng của Ngân hàng tư nhân Falcon vì vai trò bị cáo buộc của họ trong vụ bê bối Quỹ có chủ quyền của Malaysia. Singapore có tỉ lệ triệu phú là 6.1% trên tổng dân số. Năm 2016, Singapore được Đơn vị Tình báo Kinh tế đánh giá là thành phố đắt đỏ nhất thế giới trong năm thứ ba liên tiếp, và điều này vẫn đúng trong năm 2018. Chính phủ cung cấp nhiều chương trình hỗ trợ cho người vô gia cư và người nghèo khổ thông qua Bộ Phát triển Gia đình và Xã hội, vì vậy nghèo đói cấp tính là rất hiếm. Một số chương trình bao gồm cung cấp từ 400 đô la Singapore đến 1000 đô la Singapore hỗ trợ tài chính mỗi tháng cho các hộ gia đình nghèo, chăm sóc y tế miễn phí tại các bệnh viện chính phủ và trả tiền học phí cho trẻ em. Các lợi ích khác bao gồm bồi thường phí tập thể dục để khuyến khích công dân tập thể dục, lên tới 166.000 đô la Singapore như một phần thưởng trẻ em cho mỗi công dân, chăm sóc y tế được trợ cấp rất nhiều, hỗ trợ tài chính cho người khuyết tật, cung cấp máy tính xách tay giảm chi phí cho người nghèo sinh viên, giảm giá cho các chi phí như giao thông công cộng và hóa đơn tiện ích, v.v. Tính đến năm 2018, thứ hạng của Singapore trong Chỉ số phát triển con người đứng thứ 9 trên thế giới, với giá trị HDI là 0,935. Các thương hiệu toàn cầu nổi tiếng nhất của quốc gia bao gồm Singapore Airlines, Sân bay Changi và Cảng Singapore, cả ba đều nằm trong số những ngành được đánh giá cao nhất trong các lĩnh vực công nghiệp tương ứng. Singapore Airlines được xếp hạng là công ty được ngưỡng mộ nhất Châu Á, và được đánh giá cao nhất vào năm 2015 của thế giới vào năm 2015, bởi các cuộc khảo sát ngành công nghiệp hàng năm "50 công ty được ngưỡng mộ nhất trên thế giới" của Fortune. Đây cũng là hãng hàng không được đánh giá cao nhất thế giới, bao gồm "hãng hàng không quốc tế tốt nhất", bởi các cuộc khảo sát người đọc Travel + Leisure của Mỹ, trong 20 năm liên tiếp. Sân bay Changi kết nối hơn 100 hãng hàng không đến hơn 300 thành phố. Trung tâm hàng không chiến lược quốc tế có hơn 480 giải thưởng "Sân bay tốt nhất thế giới" vào năm 2015 và được biết đến như là sân bay được trao danh hiệu này nhiều nhất trên thế giới. Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Singapore đang thực hiện kế hoạch đến năm 2018 sẽ biến Singapore thành một thành phố hàng đầu thế giới, một đầu mối của mạng lưới mới trong nền kinh tế toàn cầu và châu Á và một nền kinh tế đa dạng nhạy cảm kinh doanh. Du lịch Du lịch chiếm một phần lớn của nền kinh tế, với hơn 15 triệu khách du lịch đến thăm thành phố vào năm 2014, và 18,5 triệu khách du lịch quốc tế năm 2018, gấp ba lần tổng dân số Singapore. Singapore là thành phố được đến nhiều thứ 5 trên thế giới và thứ 2 ở châu Á-Thái Bình Dương. Năm 2019, du lịch đóng góp trực tiếp vào khoảng 4% GDP của Singapore, so với năm 2016, khi du lịch đóng góp, trực tiếp và gián tiếp, vào khoảng 9,9% GDP của Singapore. Tổng cộng, lĩnh vực này đã tạo ra khoảng 8,6% việc làm của Singapore trong năm 2016. Để mở rộng ngành, các sòng bạc được hợp pháp hóa vào năm 2005, nhưng chỉ có hai giấy phép cho "Khu nghỉ mát Tích hợp" được ban hành, để kiểm soát việc rửa tiền và nghiện. Singapore cũng quảng bá chính nó như là một trung tâm du lịch y tế: khoảng 200.000 người nước ngoài tìm kiếm sự chăm sóc y tế ở đó mỗi năm. Các dịch vụ y tế của Singapore nhằm phục vụ ít nhất một triệu bệnh nhân nước ngoài hàng năm và tạo ra doanh thu 3 tỷ đô la. Vào năm 2015, Lonely Planet và The New York Times liệt kê Singapore là điểm đến tốt thứ 6 trên thế giới để tham quan. Tổng cục Du lịch Singapore (STB) là hội đồng theo luật định của Bộ Thương mại và Công nghiệp được giao nhiệm vụ thúc đẩy ngành du lịch của đất nước. Vào tháng 8 năm 2017, STB và Ủy ban Phát triển Kinh tế (EDB) đã tiết lộ một thương hiệu thống nhất, Singapore - Passion Made Possible, để tiếp thị Singapore quốc tế cho mục đích kinh doanh và du lịch. Quận Orchard Road, nơi có các trung tâm mua sắm và khách sạn nhiều tầng, có thể được coi là trung tâm mua sắm và du lịch tại Singapore. Các điểm du lịch nổi tiếng khác bao gồm Sở thú Singapore, River Safari và Night Safari. Sở thú Singapore đã chấp nhận khái niệm vườn thú mở, theo đó các động vật được sinh sống trong một khu vực rộng hơn, ngăn cách với du khách bằng những con hào khô hoặc ướt, thay vì nhốt các con vật và River Safari có 300 loài động vật, trong đó có nhiều loài có nguy cơ tuyệt chủng. Các địa danh nổi tiếng khác bao gồm công viên Merlion, tòa nhà Marina Bay Sands, Gardens by the Bay, khu phức hợp Jewel, vành đai mua sắm trên đường Orchard, hòn đảo nghỉ mát Sentosa, và Vườn bách thảo Singapore, Di sản Thế giới UNESCO đầu tiên của Singapore. Nhân khẩu Năm 2012, dân số Singapore là 5,312 triệu người, trong đó 3,285 triệu (62%) là công dân Singapore và những người còn lại (38%) là những cư dân thường trú hoặc công nhân/học sinh ngoại quốc. 23% công dân Singapore sinh ra bên ngoài Singapore. Có một triệu cư dân thường trú tại Singapore vào năm 2012. Số cư dân này không tính đến 11 triệu du khách tạm thời đến tham quan Singapore mỗi năm. Tuổi thọ trung bình của người Singapore là 82 tuổi và quy mô hộ gia đình trung bình là 3,5 người. Do khan hiếm đất, 4/5 người Singapore sống trong các căn hộ được trợ cấp, cao tầng, công cộng được gọi là các căn hộ Cục Nhà ở và Phát triển (HDB), theo sau việc cục chịu trách nhiệm đối với nhà ở công tại quốc gia. Có gần 200.000 người giúp việc gia đình tại Singapore. Năm 2010, tỷ lệ sở hữu nhà tại Singapore là 87,2%. Điện thoại di động thâm nhập với tỷ lệ rất cao là 1.400 điện thoại di động trên 1000 người. Khoảng 1/10 cư dân sở hữu một ô tô. Tổng tỷ suất sinh được ước tính là 0,79 trẻ em trên mỗi phụ nữ vào năm 2013, đây là tỷ lệ thấp nhất thế giới và thấp hơn tỷ lệ cần thiết là 2,1 để thay thế dân số. Để khắc phục vấn đề này, chính phủ Singapore khuyến khích người ngoại quốc nhập cư đến Singapore trong vài thập niên gần đây. Một lượng lớn người nhập cư giúp cho dân số của Singapore không suy giảm. Singapore có truyền thống là một trong những quốc gia phát triển có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất, tỷ lệ thất nghiệp tại đây không vượt quá 4% trong thập kỷ qua, chạm mức cao 3% trong khủng hoản tài chính toàn cầu 2009 và giảm xuống 1,9% vào 2011. Năm 2009, khoảng 40% cư dân Singapore là người ngoại quốc, một trong những tỷ lệ cao nhất trên thế giới. Công nhân ngoại quốc chiếm 80% lao động trong ngành xây dựng và chiếm 50% trong ngành phục vụ. Năm 2009, điều tra dân số của chính phủ báo cáo rằng 74,2% cư dân là người gốc Hoa, 13,4% là người gốc Mã Lai, và 9,2% là người gốc Ấn Độ, người Âu-Á và các nhóm khác chiếm 3,2%. Trước năm 2010, mỗi cá nhân chỉ có thể đăng ký làm thành viên của một chủng tộc, mặc định theo phụ hệ, do đó, những người hỗn chủng được xếp theo nhóm chủng tộc của người cha. Từ năm 2010 trở đi, người dân có thể đăng ký theo phân loại kép, trong đó họ có thể chọn một chủng tộc chính và một chủng tộc thứ, song không quá hai. Tôn giáo Phật giáo là tôn giáo được thực hành phổ biến nhất tại Singapore, với 33% số cư dân tuyên bố bản thân họ là tín đồ đạo Phật trong cuộc điều tra dân số gần đây nhất. Tôn giáo được thực hành phổ biến thứ nhì là Ki-tô giáo, sau đó là Hồi giáo, Đạo giáo, và Ấn Độ giáo. 17% dân số không gia nhập tôn giáo nào. Tỷ lệ tín đồ Ki-tô giáo, Đạo giáo, và người không tôn giáo tăng trong khoảng thời gian giữa năm 2000 và 2010, mỗi nhóm tăng 3%, trong khi tỷ lệ tín đồ Phật giáo thì giảm xuống. Các đức tin khác vẫn ổn định trên quy mô lớn về tỷ lệ dân số. Tại Singapore có các chùa và trung tâm Phật pháp từ cả ba tông phái truyền thống chính của Phật giáo: Thượng tọa bộ, Đại thừa, và Kim cương thừa. Hầu hết tín đồ Phật giáo tại Singapore là người Hoa và theo truyền thống Đại thừa. Đại thừa Trung Hoa là tông phái Phật giáo chiếm ưu thế nhất tại Singapore, với các hòa thượng truyền giáo đến từ Đài Loan và Trung Quốc trong vài thập kỷ gần đây. Tuy nhiên, Phật giáo Thượng tọa bộ từ Thái Lan ngày càng phổ biến trong cư dân Singapore (không chỉ người Hoa) trong thập niên qua. Học hội Sáng giá Quốc tế là một tổ chức Phật giáo của Nhật Bản, hiện được nhiều người thực hành theo tại Singapore, song hầu hết họ là người gốc Hoa. Phật giáo Tây Tạng cũng xâm nhập chậm vào quốc đảo trong những năm gần đây. Ngôn ngữ Singapore có bốn ngôn ngữ chính thức: tiếng Anh, tiếng Mã Lai, tiếng Quan thoại, và tiếng Tamil. Tiếng Anh là ngôn ngữ phổ biến tại quốc đảo và là ngôn ngữ của kinh doanh, chính phủ, và là phương tiện giảng dạy trong trường học. Các cơ cấu công cộng tại Singapore quản lý công việc của họ bằng tiếng Anh, và các tài liệu chính thức được viết bằng các ngôn ngữ chính thức khác như tiếng Hoa, tiếng Mã Lai, hay tiếng Tamil thường phải được dịch sang tiếng Anh để việc đệ trình được chấp nhận. Hiến pháp Singapore và toàn bộ các luật được viết bằng tiếng Anh, và người dịch được yêu cầu nếu một người muốn nói chuyện với tòa án bằng một ngôn ngữ không phải tiếng Anh. Tuy nhiên, tiếng Anh chỉ là ngôn ngữ mẹ đẻ của một phần ba người Singapore, với khoảng một phần ba người Singapore gốc Hoa, một phần tư người Singapore gốc Mã Lai và một nửa người Singapore gốc Ấn Độ có ngôn ngữ mẹ đẻ là tiếng Anh. 20% người Singapore không thể đọc hoặc viết bằng tiếng Anh. Nhiều người Singapore là người song ngữ trong tiếng Anh và ngôn ngữ chính thức khác, với mức độ lưu loát khác nhau. Xếp hạng các ngôn ngữ chính thức về tỷ lệ đọc viết là tiếng Anh (80% biết đọc viết), Quan thoại (65% biết đọc viết), Mã Lai (17% biết đọc viết), và Tamil (4% biết đọc viết). Tiếng Anh-Singapore dựa trên tiếng Anh-Anh, và các dạng tiếng Anh được nói tại Singapore biến thiên từ "tiếng Anh-Singapore chuẩn" đến một thứ tiếng bồi gọi là "Singlish". Singlish bị chính phủ ngăn trở quyết liệt. Tiếng Hoa là ngôn ngữ mẹ đẻ của nhiều người Singapore nhất, chiếm một nửa trong số họ. Quan thoại Singapore là phương ngôn tiếng Hoa phổ biến nhất tại quốc đảo, với 1,2 triệu người sử dụng nó làm ngôn ngữ nói tại nhà. Gần nửa triệu người nói các phương ngôn tiếng Hoa khác, chủ yếu là tiếng Phúc Kiến, tiếng Triều Châu, và tiếng Quảng Đông, như ngôn ngữ tại nhà của họ, song việc sử dụng các phương ngôn này đang suy giảm khi thế hệ sau này chuyển sang Quan thoại và tiếng Anh. Chính phủ Singapore chọn tiếng Mã Lai làm ngôn ngữ quốc gia sau khi giành độc lập từ Anh Quốc trong thập niên 1960 nhằm tránh xích mích với các láng giềng — Malaysia và Indonesia — những quốc gia nói tiếng Mã Lai. Việc này mang mục đích biểu tượng hơn là chức năng. Ngôn ngữ này được sử dụng trong quốc ca "Majulah Singapura", trong các trích dẫn của hệ thống thứ bậc và huy chương của Singapore, và trong chỉ huy quân sự. Ngày nay, về tổng thể, tiếng Mã Lai được nói trong cộng đồng người Singapore gốc Mã Lai, chỉ 16,8% người Singapore biết đọc viết tiếng Mã Lai và chỉ 12% sử dụng nó làm ngôn ngữ mẹ đẻ. Khoảng 100.000, hay 3%, người Singapore nói tiếng Tamil như ngôn ngữ mẹ đẻ của họ. Tamil có địa vị chính thức tại Singapore và không có nỗ lực nào nhằm ngăn cấm việc sử dụng các ngôn ngữ Ấn Độ khác. Xã hội Giáo dục Singapore là một trung tâm giáo dục, với hơn 80.000 sinh viên quốc tế trong năm 2006. 5.000 sinh viên từ Malaysia vượt qua tuyến đường Johor-Singapore mỗi ngày để học tại Singapore. Trong năm 2009, 20% học sinh của các trường đại học Singapore là sinh viên quốc tế - mức tối đa cho phép, phần lớn là từ ASEAN, Trung Quốc và Ấn Độ. Đại học Quốc gia Singapore (NUS) và Đại học Công nghệ Nanyang (NTU) được xếp hạng trong top những trường đại học tốt nhất châu Á và luôn đứng trong top 13 các trường đại học chất lượng nhất thế giới những năm gần đây. Giáo dục các cấp tiểu học, trung học, và đại học hầu hết được nhà nước hỗ trợ. Toàn bộ các tổ chức dù là công hay tư đều phải được đăng ký với Bộ Giáo dục. Tiếng Anh là ngôn ngữ giảng dạy trong toàn bộ các trường học công, và toàn bộ các môn học được dạy và thi bằng tiếng Anh ngoại trừ bài luận bằng "tiếng mẹ đẻ". Trong khi thuật ngữ "tiếng mẹ đẻ" về tổng thể tầm quốc tế là đề cập đến ngôn ngữ thứ nhất, song nó được sử dụng nhằm đề cập đến ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục của Singapore, do tiếng Anh là ngôn ngữ thứ nhất. Các học sinh ở tại nước ngoài trong một thời gian, hoặc gặp khó khăn với "tiếng mẹ đẻ" của họ, được phép có một đề cương giản hóa hoặc bỏ qua môn học. Giáo dục gồm ba giai đoạn: tiểu học, trung học, và tiền đại học, trong đó chỉ có cấp tiểu học là bắt buộc. Học sinh bắt đầu với 6 năm tiểu học, gồm 4 năm cơ sở và hai năm định hướng, chương trình giảng dạy tập trung vào phát triển Anh ngữ, bản ngữ, toán học, và khoa học. Trung học kéo dài 4-5 năm, và được phân thành các ban Đặc thù, Nhanh, Phổ thông (Học thuật), và Phổ thông (Kỹ thuật) trong mỗi trường, dựa theo trình độ năng lực của mỗi học sinh. Phân loại chương trình cơ bản tương tự cấp tiểu học, song các lớp học chuyên biệt hơn nhiều. Giáo dục tiền đại học diễn ra trong 2-3 năm tại các trường cao đẳng, hầu hết gọi là Học viện sơ cấp. Một số trường học được tự do trong chương trình giảng dạy của mình và được gọi là trường tự chủ. Các trường này tồn tại từ cấp trung học trở lên. Các kỳ thi quốc gia được tiêu chuẩn hóa trong tất cá các trường học, với một bài kiểm tra được thực hiện sau mỗi giai đoạn. Sau sáu năm giáo dục đầu tiên, học sinh tham gia kì thi tốt nghiệp tiểu học (PSLE), nó quyết định vị trí của họ tại trường trung học. Cuối giai đoạn trung học, khảo thí GCE trình độ "O" (GCE O-Level) được tiến hành; vào cuối giai đoạn tiền đại học sau đó, khảo thí GCE trình độ "A" (GCE A-Level) được tiến hành. Năm 2005, trong toàn bộ người Singapore 15 tuổi và lớn hơn mà không còn là học sinh, có 18% không có trình độ giáo dục. Y tế Singapore có một hệ thống chăm sóc y tế hiệu quả về tổng thể, dù chi phí y tế tại đây tương đối thấp so với các quốc gia phát triển. Tổ chức Y tế Thế giới xếp hạng hệ thống y tế của Singapore đứng thứ 6 về tổng thể trong Báo cáo Y tế thế giới 2000. Singapore có tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh thấp nhất thế giới trong hai thập niên qua. Tuổi thọ trung bình (năm 2012) tại Singapore là 83, trong khi số liệu toàn cầu là 70. Hầu như toàn bộ dân cư được tiếp cận với nước và điều kiện vệ sinh được cải thiện. Phụ nữ nước này có thể sống trung bình 87,6 năm với 75,8 năm có sức khỏe tốt. Mức trung bình thấp hơn đối với nam giới. Singapore được xếp hạng 1 về Chỉ số an ninh lương thực toàn cầu. Tính đến tháng 12 năm 2011 và tháng 1 năm 2013, có 8.800 người nước ngoài và 5.400 người Singapore được chẩn đoán nhiễm HIV tương ứng, nhưng có ít hơn 10 trường hợp tử vong hàng năm do HIV trên 100.000 người. Có một mức độ tiêm chủng cao. Béo phì ở người trưởng thành dưới 10%. Đơn vị tình báo kinh tế, trong Chỉ số sinh ra năm 2013, đã xếp hạng Singapore là nơi có chất lượng cuộc sống tốt nhất ở châu Á và thứ sáu trên toàn thế giới. Hệ thống chăm sóc sức khỏe của chính phủ dựa trên khung "3M". Điều này có ba thành phần: Medifund, cung cấp một mạng lưới an toàn cho những người không có khả năng chăm sóc sức khỏe, Medisave, một hệ thống tài khoản tiết kiệm y tế quốc gia bắt buộc bao gồm khoảng 85% dân số, và Medishield, một chương trình bảo hiểm y tế do chính phủ tài trợ. Các bệnh viện công ở Singapore có quyền tự chủ đáng kể trong các quyết định quản lý của họ và cạnh tranh về mặt bệnh nhân, tuy nhiên họ vẫn thuộc quyền sở hữu của chính phủ và chính phủ bổ nhiệm các hội đồng quản trị và Giám đốc điều hành và báo cáo quản lý và chịu trách nhiệm trước các ban này. Một chế độ trợ cấp tồn tại cho những người có thu nhập thấp. Năm 2008, 32% dịch vụ chăm sóc sức khỏe được chính phủ tài trợ. Nó chiếm khoảng 3,5% GDP của Singapore. Văn hóa Singapore là một quốc gia đa dạng và non trẻ, với nhiều ngôn ngữ, tôn giáo, và văn hóa. Khi Singapore độc lập từ Anh Quốc vào năm 1963, hầu hết công dân là những lao động không có học thức đến từ Malaysia, Trung Quốc và Ấn Độ. Nhiều người trong số họ là những lao động ngắn hạn, đến Singapore nhằm kiếm một khoản tiền và không có ý định ở lại. Ngoại trừ người Peranakan (hậu duệ của người Hoa nhập cư vào thế kỷ XV-XVI) đảm bảo lòng trung thành của họ với Singapore, thì hầu hết người lao động trung thành với quê hương của họ. Sau khi độc lập, quá trình thiết lập một bản sắc Singapore được khởi động. Các cựu thủ tướng Lý Quang Diệu và Ngô Tác Đồng từng tuyên bố rằng Singapore không thích hợp với mô tả truyền thống về một quốc gia, gọi đây là một xã hội quá độ, chỉ ra thực tế rằng không phải toàn bộ người Singapore nói cùng một ngôn ngữ, chia sẻ cùng một tôn giáo, hoặc có phong tục tương đồng. Mặc dù tiếng Anh là ngôn ngữ thứ nhất của quốc gia, song theo điều tra nhân khẩu năm 2010 của chính phủ thì có 20% người Singapore không biết đọc viết bằng tiếng Anh, con số này vào năm 1990 là 40%. Chính phủ nhận định sự hài hòa chủng tộc và tôn giáo là bộ phận quan trọng trong thành công của Singapore, và đóng vai trò quan trọng trong việc kiến thiết một bản sắc Singapore. Quốc hoa của Singapore là Vanda 'Miss Joaquim', được đặt tên theo một phụ nữ Armenia sinh tại Singapore, bà phát hiện loài hoa này trong vườn nhà tại Tanjong Pagar vào năm 1893. Nhiều phù hiệu quốc gia như quốc huy Singapore và biểu tượng đầu sư tử Singapore sử dụng hình tượng sư tử, do Singapore được mệnh danh là 'Thành phố Sư tử'. Các ngày lễ công cộng tại Singapore bao trùm các lễ chính của người Trung Hoa, Tây phương, Mã Lai, Ấn Độ. Ở tầm quốc gia, Singapore là một xã hội bảo thủ, song xuất hiện một số sự tự do hóa. Ở cấp độ quốc gia, trọng dụng nhân tài được chú trọng cao độ, mỗi cá nhân được đánh giá dựa trên năng lực của họ. Từ thập niên 1990, chính phủ xúc tiến các hoạt động nhằm biến Singapore thành một trung tâm nghệ thuật và văn hóa, đặc biệt là nghệ thuật biểu diễn, và biến đổi quốc gia thành một "cửa ngõ giữa phương Đông và phương Tây". Ẩm thực Ẩm thực cùng với mua sắm được cho là những hoạt động tiêu khiển quốc gia tại Singapore. Sự đa dạng của thực phẩm được quảng cáo là một trong những lý do để đến thăm đảo quốc, và sự đa dạng của thực phẩm đại diện cho các dân tộc khác nhau, chính phủ nhận định đây là một tương trưng cho sự đa dạng văn hóa của đảo quốc. "Quốc quả" của Singapore là sầu riêng. Các mặt hàng thực phẩm địa phương thường liên quan đến một dân tộc cụ thể - Trung Quốc, Mã Lai và Ấn Độ; nhưng sự đa dạng của ẩm thực đã tăng thêm bởi sự kết hợp của các phong cách khác nhau (ví dụ: ẩm thực Peranakan, sự pha trộn của ẩm thực Trung Quốc và Mã Lai). Trong các trung tâm bán hàng rong, sự khuếch tán văn hóa được minh họa bằng các quầy bán hàng rong truyền thống của người Mã Lai cũng bán thức ăn của người Tamil. Các quầy hàng Trung Quốc có thể giới thiệu các nguyên liệu Mã Lai, kỹ thuật nấu ăn hoặc toàn bộ món ăn vào phạm vi phục vụ của họ. Cơm gà Hải Nam, dựa trên món gà Văn Xương ở đảo Hải Nam, được coi là món ăn quốc gia của Singapore. Thành phố có một nền ẩm thực đang phát triển từ các trung tâm bán hàng rong (ngoài trời), khu ẩm thực (máy lạnh), quán cà phê (ngoài trời với hàng chục quầy hàng rong), quán cà phê, thức ăn nhanh, và các nhà hàng từ đơn giản, bình dân cho đến nổi tiếng và cao cấp. Dịch vụ giao đồ ăn cũng đang tăng lên, với 70% cư dân đặt hàng từ các ứng dụng giao hàng ít nhất một lần một tháng. Nhiều nhà hàng đầu bếp nổi tiếng quốc tế nằm trong các khu nghỉ dưỡng tích hợp. Chế độ ăn kiêng tôn giáo tồn tại (người Hồi giáo không ăn thịt lợn và người Ấn Độ giáo không ăn thịt bò), và cũng có một nhóm người ăn chay đáng kể. Lễ hội ẩm thực Singapore kỷ niệm ẩm thực Singapore được tổ chức hàng năm vào tháng Bảy. Trước những năm 1980, thức ăn đường phố được bán chủ yếu bởi những người nhập cư từ Trung Quốc, Ấn Độ và Malaysia cho những người nhập cư khác đang tìm kiếm một hương vị ẩm thực quen thuộc. Ở Singapore, thức ăn đường phố từ lâu đã được liên kết với các trung tâm bán hàng rong với các khu vực chỗ ngồi chung. Thông thường, các trung tâm này có vài chục đến hàng trăm quầy hàng thực phẩm, mỗi quầy chuyên về một hoặc nhiều món ăn liên quan. Trong khi thức ăn đường phố có thể được tìm thấy ở nhiều quốc gia, sự đa dạng và tầm với của các trung tâm bán hàng rong tập trung phục vụ thức ăn đường phố di sản ở Singapore là độc nhất. Năm 2018, đã có 114 trung tâm bán hàng rong trải khắp trung tâm thành phố và các khu nhà ở trung tâm. Chúng được duy trì bởi Cơ quan Môi trường Quốc gia, nơi cũng phân loại từng gian hàng thực phẩm để vệ sinh. Trung tâm bán hàng rong lớn nhất nằm trên tầng hai của Khu phức hợp Khu phố Tàu, và có hơn 200 quầy hàng. Khu phức hợp này cũng là nơi có bữa ăn được gắn sao Michelin rẻ nhất thế giới - một đĩa cơm gà sốt tương hoặc mì với giá 2 đô la Singapore (2S$), tương đương với khoảng 1,5 đô la Mỹ. Hai quầy hàng thức ăn đường phố trong thành phố là những quán ăn đầu tiên trên thế giới được trao tặng một ngôi sao Michelin, mỗi nơi đều có được một ngôi sao. Thể thao Sự phát triển của các câu lạc bộ thể thao và giải trí tư nhân bắt đầu từ Singapore thế kỷ 19, với các câu lạc bộ được thành lập trong thời gian này bao gồm Câu lạc bộ Cricket, Câu lạc bộ Giải trí Singapore, Câu lạc bộ bơi lội Singapore và Câu lạc bộ Hollandse. Các môn thể thao đại chúng tại Singapore gồm có bóng đá, bóng rổ, cricket, bơi lội, đi thuyền, bóng bàn và cầu lông. Hầu hết người Singapore sống trong các khu chung cư gần các tiện ích như hồ bơi, bên ngoài có sân bóng rổ và khu thể thao trong nhà. Các môn thể thao dưới nước phổ biến tại đảo quốc, trong đó có đi thuyền, chèo thuyền kayak và lướt ván. Lặn biển là một môn thể thao tiêu khiển phổ biến khác, đảo Hantu đặc biệt nổi tiếng với các rạn san hô phong phú. Giải bóng đá vô địch quốc gia của Singapore mang tên S-League, được hình thành vào năm 1994, bao gồm 9 đội tham dự, trong đó có 2 đội nước ngoài. Singapore bắt đầu tổ chức một vòng thi đấu của giải vô địch công thức 1 thế giới, Singapore Grand Prix, vào năm 2008. Singapore tổ chức Thế vận hội trẻ kỳ đầu tiên, vào năm 2010. Bơi lội được xem là bộ môn thế mạnh của thể thao Singapore. Tại Thế vận hội Mùa hè 2016, vận động viên Joseph Schooling đã giành huy chương vàng Olympic đầu tiên cho Singapore ở cuộc thi bơi bướm 100 mét trong thời gian ngắn kỷ lục 50,39 giây. Các vận động viên đua thuyền Singapore cũng đã thành công trên trường quốc tế, với đội Optimist của họ được coi là một trong những đội mạnh của thế giới. Mặc dù kích thước nhỏ, quốc gia này đã thống trị các giải đấu bơi lội ở SEA Games. Đội tuyển bóng nước Singapore đã giành huy chương vàng SEA Games lần thứ 27 vào năm 2017, tiếp tục chuỗi vô địch dài nhất của thể thao Singapore về môn môn cụ thể. Truyền thông Các công ty có liên kết với chính phủ kiểm soát hầu hết truyền thông nội địa tại Singapore. MediaCorp vận hành hầu hết các kênh truyền hình và phát thanh phát sóng miễn phí tại Singapore. Có tổng cộng 7 kênh truyền hình phát sóng miễn phí do Mediacorp cung cấp. Các kênh Channel 5 (tiếng Anh), Channel News Asia (tiếng Anh), Okto (tiếng Anh), Channel 8 (tiếng Trung), Channel U (tiếng Trung), Suria (tiếng Mã Lai) và Vasantham (tiếng Ấn). StarHub Cable Vision (SCV) cung cấp dịch vụ truyền hình cáp với các kênh từ khắp thế giới và Mio TV của SingTel cung cấp một dịch vụ IPTV. Tập đoàn Singapore Press Holdings có liên hệ với chính phủ và kiểm soát hầu hết ngành báo chí tại Singapore. Các tổ chức nhân quyền như Freedom House đôi khi chỉ trích ngành truyền thông Singapore chịu quản lý quá mức và thiếu tự do. Năm 2010, Phóng viên không biên giới xếp hạng Singapore thứ 136 trong số 178 trong Chỉ số Tự do Báo chí của mình. Giao thông Hệ thống giao thông ở Singapore rất phát triển. Chất lượng đường bộ của đảo quốc này được đánh giá là vào loại tốt nhất thế giới. Giao thông tại Singapore được vận hành theo mô hình của Anh, trái với giao thông tay phải của châu Âu lục địa. Singapore có nhiều loại phương tiện giao thông công cộng, trong đó hai phương tiện phổ biến nhất là xe buýt (hơn 3 triệu lượt người mỗi ngày, năm 2010) và tàu điện ngầm mà người Singapore thường gọi là SMRT (Singapore Mass Rapid Transit, hơn 2 triệu lượt người mỗi ngày, năm 2010). Người đi xe buýt trả tiền mua vé cho từng chặng, ngoại trừ trường hợp họ có thẻ từ tự động EZlink (thẻ này cho phép họ sử dụng dịch vụ của xe bus giá rẻ và trong một thời gian dài). Hệ thống tàu điện ngầm của Singapore có 84 ga với chiều dài 129.9 km và có giờ làm việc là từ 06:00 tới 24:00. Taxi cũng là một phương tiện giao thông khá phổ biến ở Singapore nhưng khá khó bắt và giá rất đắt trong giờ cao điểm. Do Singapore có diện tích rất nhỏ hẹp, nên chính quyền Singapore thường có những biện pháp đặc biệt để tránh tình trạng kẹt xe, tắc đường. Hệ thống thuế giờ cao điểm ERP (Electronics Road Pricing) được đưa vào hoạt động trong khu vực trung tâm thành phố để giảm lưu lượng xe lưu thông qua các khu vực này vào giờ cao điểm. Số tiền này được trừ thẳng vào thẻ EZLink cài trên xe hơi. ERP có thể lên đến 15 đô la Singapore (15S$) nếu 1 chiếc xe chạy qua 5 trạm ERP trong khu vực nội thành. Singapore cũng có phương tiện giao thông đường thủy phổ biến là thuyền máy nhỏ, tuy nhiên đa số chúng chỉ được dùng cho mục đích du lịch. Các du khách tới Singapore có thể tham quan thành phố bằng đường thủy trên sông Singapore trong những tour kéo dài khoảng 30 phút. Do Singapore là một đảo quốc nhỏ với mật độ dân số cao, số lượng ô tô cá nhân trên đường bị hạn chế nhằm giảm ô nhiễm và tắc nghẽn. Những người mua ô tô phải trả thuế cao gấp 1,5 lần giá thị trường của phương tiện, và phải đấu giá cho một giấy chứng nhận quyền lợi (COE) để ô tô của họ được phép chạy trên đường trong một thập niên. Giá ô tô tại Singapore thường cao hơn đáng kể so với các quốc gia nói tiếng Anh khác. Giống như hầu hết các quốc gia trong Khối Thịnh vượng chung, các phương tiện đi trên đường và người đi bộ trên phố theo quy tắc bên trái. Cư dân Singapore cũng di chuyển bằng cách phương thức đi bộ, xe đạp, xe buýt, taxi và tàu hỏa và tàu điện ngầm (MRT hoặc LRT). Hai công ty vận hành xe buýt công cộng và hệ thống giao thông tàu hỏa là SBS Transit và SMRT Corporation. Taxi là hình thức giao thông công cộng phổ biến do chi phí tương đối rẻ so với nhiều quốc gia phát triển khác. Năm 2010, Singapore sở hữu một hệ thống đường bộ dài tổng cộng , trong đó có đường cao tốc. Kế hoạch giấy phép khu vực Singapore được thi hành vào năm 1975, là kế hoạch giải quyết tắc nghẽn thông qua phí đầu tiên trên thế giới, gồm các biện pháp bổ sung như hạn ngạch sở hữu ô tô nghiêm ngặt và cải thiện giao thông công cộng. Năm 1998, nó được nâng cấp thành phí đường bộ điện tử, hệ thống thực hiện thu thuế điện tử, phát hiện điện tử, và giám sát bằng video. Cảng Singapore là cảng biển nhộn nhịp hàng đầu thế giới. Singapore là một trung tâm hàng không quan trọng tại châu Á, và là điểm dừng chân của tuyến Kangaroo (Kangaroo Route) giữa Sydney và Luân Đôn. Singapore có 3 cảng hàng không dân sự, bao gồm Sân bay quốc tế Singapore Changi, sân bay Seletar và sân bay Kallang (đã ngừng hoạt động). Trong đó sân bay Changi sở hữu một mạng lưới gồm trên 100 hãng hàng không kết nối Singapore với khoảng 300 thành thị tại khoảng 70 quốc gia và lãnh thổ trên toàn cầu. Changi đã nhiều lần được các tạp chí du lịch quốc tế đánh giá là một trong những sân bay quốc tế tốt nhất thế giới, bao gồm cả được đánh giá là sân bay tốt nhất thế giới lần đầu tiên vào năm 2006 bởi Skytrax. Hãng hàng không quốc gia là Singapore Airlines. Ghi chú Xem thêm Lịch sử Singapore Văn hóa Singapore Kinh tế Singapore Tham khảo Đọc thêm Lee Kuan Yew (2000). From Third World To First: The Singapore Story: 1965–2000. New York: HarperCollins. ISBN 0-06-019776-5 Liên kết ngoài Singapore Government Online Portal CIA World Factbook Entry for Singapore Quốc gia thành viên ASEAN Quốc gia thành viên Khối Thịnh vượng chung Anh Thành bang Quốc gia Đông Nam Á Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Anh Thủ đô của châu Á Đảo quốc Thành phố ven biển Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc Cộng hòa Thịnh vượng chung Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Trung Quốc Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Mã Lai Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Tamil Quốc gia châu Á Khởi đầu năm 1965 ở châu Á
24478
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7
Chính phủ
Chính phủ (tiếng Anh: government) là một chủ thể có quyền lực để thi hành luật pháp trong một tổ chức quốc gia hay một nhóm người ở tầm quốc gia. Ngoài ra, Chính phủ còn quản lý hoặc chỉ đạo trong một khu vực, trong một nhóm người. Chính phủ còn là cơ quan được trao quyền hành pháp cùng với nguyên thủ quốc gia. Mặc dù có khá nhiều thuật ngữ khác nhau như Hội đồng Bộ trưởng, Hội đồng Nhà nước, Nội các, Hội đồng Hành chính,... nhưng thuật ngữ "Chính phủ" có ý nghĩa bao quát nhất, hàm ý cơ quan thực hiện quyền hành pháp trong một cơ cấu nhà nước hoặc tương tự nhà nước. Tuy nhiên, cách hiểu thuật ngữ này còn phụ thuộc vào hình thức chính thể (tổ chức nhà nước) ở mỗi nước. Ở các nước cộng hòa tổng thống và quân chủ tuyệt đối, quân chủ nhị nguyên, chính phủ chủ yếu được coi là tập hợp các cố vấn cho người đứng đầu nhà nước với thẩm quyền xuất phát từ thẩm quyền của người đứng đầu nhà nước, mà không tạo thành một tập thể toàn vẹn. Còn ở các nước theo chính thể nghị viện, chính phủ là thiết chế tập thể thực hiện quyền hành pháp, chịu trách nhiệm trước nghị viện về đường hướng chính sách đã đề ra. Từ nguyên Xưng vị "chính phủ" (Trung văn: 政府) trong tiếng Việt bắt nguồn từ Trung Quốc. Thời Đường và Tống, nơi tể tướng xử lý chính vụ gọi là "chính phủ". Về sau từ "chính phủ" được dùng để chỉ cơ quan thi hành quyền lực quốc gia, tức cơ quan hành chính quốc gia. Từ "chính phủ" trong các ngôn ngữ phương Tây như tiếng Anh (government), tiếng Pháp (gouvernement), tiếng Đức (Regierung) từ này có gốc từ tiếng Hy Lạp là Κυβερνήτης (kubernites) với nghĩa "thuyền trưởng" (steersman), chủ quản (governor), phi công hoặc bánh lái (rudder) Cách thức hình thành Cách thức hình thành chính phủ ở mỗi nước phụ thuộc vào hình thức chính thể của nước đó. Ở nhiều nước theo chính thể nghị viện như Singapore, Hy Lạp, Ý, Canada, Ấn Độ, Úc, Anh, nguyên thủ quốc gia bổ nhiệm lãnh đạo đảng chiếm đa số (hoặc liên minh một số đảng) làm Thủ tướng Chính phủ và bổ nhiệm các bộ trưởng khác theo giới thiệu của Thủ tướng. Nhưng ở nhiều nước khác theo chính thể nghị viện, nghị viện trực tiếp bỏ phiếu bầu Thủ tướng, sau đó nguyên thủ quốc gia mới phê chuẩn. Ở một số nước như Australia, New Zealand, các nghị sĩ thành viên của đảng chiếm đa số bỏ phiếu bầu các thành viên Chính phủ, còn Thủ tướng chỉ có quyền phân chia ghế giữa các thành viên đó. Ở những nước như Hà Lan, Italy, Áo, Đan Mạch, Bỉ thường diễn ra tình trạng không một đảng nào hoặc một liên minh nào chiếm đa số trong nghị viện, dẫn đến việc hình thành chính phủ chiếm thời gian khá lâu, và nhiều khi thành phần chính phủ không phản ánh kết quả bầu cử, nghĩa là "thắng cử nhưng thua ghế". Ở các nước cộng hòa tổng thống, quân chủ tuyệt đối và quân chủ nhị nguyên, chính phủ hình thành chủ yếu theo ý chí của người đứng đầu nhà nước. Chẳng hạn, ở các nước Nam Mỹ, Tổng thống có toàn quyền lựa chọn thành phần chính phủ. Ở nhiều nước như Mỹ, Ecuador, việc Tổng thống bổ nhiệm các Bộ trưởng phải có sự phê chuẩn của Thượng viện. Còn ở Philippines, một Ủy ban do Chủ tịch Thượng viện đứng đầu và mỗi viện cử 12 nghị sĩ theo tỷ lệ các chính đảng để phê chuẩn việc Tổng thống bổ nhiệm các bộ trưởng. Ở các nước theo chính thể cộng hòa lưỡng tính, thông thường nguyên thủ quốc gia bổ nhiệm một trong số các lãnh đạo của đảng chiếm đa số (hoặc liên minh các đảng) làm Thủ tướng Chính phủ và bổ nhiệm các bộ trưởng khác theo giới thiệu của Thủ tướng. Ở một số nước như Nga, Hàn Quốc, việc bổ nhiệm này phải được nghị viện biểu quyết phê chuẩn. Còn ở Pháp, trong trường hợp Tổng thống là người của đảng chiếm đa số trong nghị viện thì việc bổ nhiệm các bộ trưởng hầu như do Tổng thống quyết định, nhưng nếu Thủ tướng là người của đảng đa số thì vai trò của Thủ tướng sẽ tăng lên, nhưng đối với một số ghế bộ trưởng vẫn phải có ý kiến của Tổng thống. Ở nhiều nước như Hy Lạp, Italy, Séc, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Moldova, để được coi là đã hoàn toàn hình thành và có thể bắt tay vào hoạt động, trong vòng một thời hạn nhất định (ví dụ 10 ngày, 14 ngày, 30 ngày) chính phủ phải nhận được sự ủng hộ của đa số trong nghị viện qua việc biểu quyết tín nhiệm đối với thành phần và chương trình hành động của chính phủ. Ở một số nước như ở Bắc Âu, Hiến pháp quy định Chính phủ có thể làm việc ngay sau khi nguyên thủ quốc gia bổ nhiệm Thủ tướng. Ở một số nước khác kết hợp hai cách quy định nói trên. Bản đồ Việt Nam Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001), Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp tối cao của Nhà nước. Chính phủ do Chủ tịch nước thành lập và Quốc hội phê chuẩn, có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội (5 năm). Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu Chủ tịch nước và phê chuẩn chính phủ mới. Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng, các bộ trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội. Quốc hội bầu Thủ tướng theo đề nghị của Chủ tịch nước trong số các đại biểu Quốc hội và chỉ có Quốc hội mới có quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng trước khi kết thúc nhiệm kỳ. Thủ tướng Chính phủ đề nghị Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ. Căn cứ vào nghị quyết phê chuẩn của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ. Chính phủ chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội, báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Thủ tướng Chính phủ đương nhiệm hiện nay là ông Phạm Minh Chính. Theo Điều 112 Hiến pháp 1992, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Lãnh đạo công tác của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống thống nhất bộ máy hành chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ viên chức Nhà nước; Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân; Trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước; Thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi trường; Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước; Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra Nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; Thống nhất quản lý công tác đối ngoại của Nhà nước; ký kết, tham gia, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài; Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Chính phủ có quyền ban hành các Nghị quyết, Nghị định. Các quyết định của Chính phủ phải được quá nửa tổng số thành viên Chính phủ biểu quyết tán thành, trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Thủ tướng Chính phủ. Xem thêm Lý thuyết móng ngựa Chú thích Chính thể Tổ chức chính quyền Thuật ngữ chính trị Dạng nhà nước hợp hiến Bài cơ bản sơ khai Bài viết chủ đề chính
24484
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh%20tuy%E1%BA%BFn%20g%E1%BB%91c%20%28Greenwich%29
Kinh tuyến gốc (Greenwich)
Kinh tuyến gốc, còn gọi là kinh tuyến gốc 1 số không là kinh tuyến có kinh độ bằng 0°, đi ngang qua đài thiên văn Hoàng gia Greenwich, Luân Đôn, nước Anh. Bên trái của kinh tuyến gốc là các kinh tuyến Tây, bên phải kinh tuyến gốc là các kinh tuyến Đông. Trong nhiều thế kỉ trước, El Hierro (còn được gọi là "Đảo Kinh tuyến") của Tây Ban Nha vẫn được coi là điểm mà "kinh tuyến số 0" chạy qua. Ngay từ thế kỉ 2 chính Ptôlêmê đã vận dụng điểm "cực viễn Tây" của lục địa châu Âu để đặt kinh tuyến "mốc 0", nhờ đó mà tất cả mọi điểm trên thế giới, đã được biết đến, đều có tọa độ (kinh độ) Đông và theo quy ước này thì đều dương. Người ta dùng "kinh tuyến số 0" làm mốc để vẽ bản đồ và để tính toán tọa độ địa lý, nhất là đối với các nhà hàng hải và địa lý của Anh. Kinh tuyến Greenwich Tính đến năm 2017 kinh tuyến Greenwich đi qua: , , , , , , , , , ở Châu Nam Cực. Tham khảo Liên kết ngoài Địa lý học Thiên văn mặt cầu Thuật ngữ thiên văn học Khởi đầu năm 1884 Phát minh Anh Khởi đầu năm 1721 ở Đảo Anh Địa lý Khu Greenwich của Luân Đôn
24485
https://vi.wikipedia.org/wiki/Claudius%20Ptolemaeus
Claudius Ptolemaeus
Claudius Ptolemaeus (tiếng Hy Lạp: Κλαύδιος Πτολεμαῖος Klaudios Ptolemaios), hoặc một cách đơn giản là Ptolemaeus, Ptolemy hay Ptolémée hay Ptôlêmê, (khoảng 100-178) là một nhà bác học Hy Lạp xuất xứ từ Tebaida, học tập, sinh sống và làm việc tại Alexandria. Ông viết nhiều tác phẩm trong các lĩnh vực như toán học, thiên văn học, địa lý và nhạc. Tiểu sử Nghiên cứu Các quan điểm của ông về cấu trúc của thế giới đã làm nền tảng cho thuyết địa tâm trong nhiều thế kỷ, một học thuyết mà đến đời Nicolaus Copernicus mới bị đánh đổ. Ptolemaeus cũng là tác giả của sơ đồ chuyển động của các thiên thể với sự có mặt của tuế sai. Trong tác phẩm mang tựa đề "Địa lý học" của mình (Geographia), ông đã miêu tả tới hơn 3.000 địa danh. Ông cũng soạn ra các nguyên tắc về họa đồ, có ghi trong cuốn sách "Mở đầu về địa lý". Các công trình nghiên cứu của Ptolemaeus trong lĩnh vực thiên văn học đã được tập hợp lại trong cuốn Hè Megalè Syntaxis, về sau này còn được biết đến với cái tên là Ho megas astronomos. Cái tên Almagest (Αλμαγέστη) của nó mà ngày nay ta thường gặp là có xuất xứ từ chữ megiste trong tiếng Hy Lạp, và do các nhà bác học Ả Rập ở thế kỷ 9 đã thêm cái tiếp đầu ngữ al vào mà thành. Almagest là sự tổng hợp tất cả các thành tựu về thiên văn của Hy Lạp, mà trong đó Hipparchus của Nicaea là nguồn của các dữ liệu chính về các khám phá. Các học trò của ông Tham khảo Liên kết ngoài Người La Mã thế kỷ 1 Người La Mã thế kỷ 2 Triết gia thế kỷ 2 Nhà thơ thế kỷ 2 Lịch Ai Cập Nhà chiêm tinh Hy Lạp cổ đại Nhà thiên văn học Hy Lạp cổ đại Nhà toán học Hy Lạp cổ đại Nhà lý thuyết âm nhạc Hy Lạp cổ đại Nhà văn chiêm tinh Claudii Nhà thiên văn Ai Cập Nhà toán học Ai Cập Người Ai Cập thuộc La Mã thế kỷ 2 Nhà địa lý Hy Lạp cổ đại Nhà địa lý thời La Mã Ưu tú
24486
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20X%C3%A1%20L%E1%BB%A3i
Chùa Xá Lợi
Chùa Xá Lợi (舍利寺) là một ngôi chùa lớn và là một di tích cấp thành phố của Thành phố Hồ Chí Minh, tọa lạc tại góc đường Bà Huyện Thanh Quan và Sư Thiện Chiếu, Quận 3, trong một khuôn viên rộng 2.500 m². Lịch sử Chùa được khởi công xây dựng vào ngày 5 tháng 8 năm 1956 thời Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam theo bản vẽ của các kiến trúc sư Trần Văn Đường và Đỗ Bá Vinh, công trường xây dựng do các kỹ sư Dư Ngọc Ánh và Hồ Tố Thuận điều khiển. Chùa được hoàn thành vào ngày 2 tháng 5 năm 1958. Chùa được xây dựng để thờ xá lợi Phật tổ nên ban đầu có tên là chùa thờ Xá Lợi, người dân quen gọi tắt là chùa Xá Lợi nên khi khánh thành hòa thượng Khánh Anh đã đặt tên chùa là Xá Lợi cho hợp lòng người. Năm 1961 nhà chùa xây thêm tháp chuông Chùa là trụ sở chính của Hội Phật học Nam Việt từ năm 1951 cho đến năm 1981. Trong hai năm 1964-1966 chùa còn là cơ sở giảng dạy của Viện Đại học Vạn Hạnh. Từ năm 1981 đến tháng 5 năm 1993 chùa là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Văn phòng II). Kiến trúc Chùa Xá Lợi là ngôi chùa đầu tiên của thành phố được xây dựng theo lối kiến trúc mới, trên là bái đường, phía dưới là giảng đường. Cấu trúc của chùa bao gồm chánh điện thờ Phật, giảng đường, tháp chuông, thư viện, tăng phòng, nhà trai đường, văn phòng, đoàn quán, phòng phát hành kinh sách, phòng khách và vãng sinh đường. Chùa thờ một tượng Phật Thích Ca lớn do trường Mỹ Nghệ Biên Hòa đắp tạo. Năm 1969 tượng được thếp lại toàn thân bằng vàng như hình dáng ngày nay. Trước tượng Phật là nơi tôn thờ xá lợi Phật đặt trong một tháp nhỏ. Chính điện ở tầng lầu được trang trí bằng một bộ tranh lớn gồm 15 bức do giáo sư Nguyễn Văn Long của trường Mỹ thuật Gia Định thực hiện, miêu tả lịch sử đức Phật Thích Ca từ lúc sơ sinh cho đến khi nhập Niết Bàn. Tháp chuông chùa Xá Lợi được khánh thành trong năm 1961. Tháp chuông cao 32 mét, gồm 7 tầng, cho đến đầu thế kỷ 21 là tháp chuông cao nhất Việt Nam nhưng sau chùa Linh Phước ở Đà Lạt đã dựng một tháp chuông cao hơn. Tầng cao nhất tháp chùa Xá Lợi có treo một đại hồng chung nặng 2 tấn, được đúc đồng theo mẫu của chuông chùa Thiên Mụ (Huế). Tham khảo Lê Quang Ninh, Stéphane Dovert. Sài Gòn – Ba thế kỷ phát triển và xây dựng. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2004. Chú thích Liên kết ngoài Chùa Xá Lợi: Truyền thống & đặc điểm Văn hóa tại Buddhism today Thành phố Hồ Chí Minh/chua-xaloi.htm Sài Gòn Xưa và Nay: Chùa Xá Lợi tại SaigonNet Công nhận 9 di tích cấp thành phố tại Tuổi Trẻ Online Xá Lợi Quận 3
24487
https://vi.wikipedia.org/wiki/JAXP
JAXP
Java API for XML Processing, hay JAXP, là một trong các API cho lập trình Java XML. Nó cung cấp khả năng kiểm chứng và phân tích các tài liệu XML. Hai loại giao diện (interface) để phân tích cơ bản là: Giao diện phân tích dạng Mô hình đối tượng tài liệu (Document Object Model) - viết tắt là DOM Giao diện phân tích API đơn giản dành cho XML (Simple API for XML) - viết tắt là SAX Giao diện thứ ba, với hứa hẹn là sẽ được thêm vào trong xuất bản lớn sắp tới của Java (tên hiệu Mustang), đang được dự kiến sẽ ra vào cuối năm 2006 là: StAX, API dẫn luồng cho XML (the Streaming API for XML). JSR #173. Cùng với các giao diện phân tích, API này còn cung cấp một giao diện XSLT để cung cấp việc chuyển đổi dữ liệu và cấu trúc từ một tài liệu XML sang một dạng khác. J2SE 1.4 JDK là phiên bản đầu tiên mà có kèm theo JAXP 1.1. Giao diện DOM Giao diện DOM có lẽ là một giao diện dễ hiểu nhất. Nó phân tích toàn bộ tài liệu XML và kiến thiết một cấu trúc hoàn chỉnh đại diện cho bản tài liệu, trong bộ nhớ, bằng cách dùng các lớp để mô hình hóa các khái niệm đã ghi trong Tài liệu chi tiết đặc tả kĩ thuật của Document Object Model(DOM) Cấp độ 2. Bộ phân tích DOM được gọi là DocumentBuilder, vì nó tạo nên một hình thức đại diện cho Document trong bộ nhớ. javax.xml.parsers.DocumentBuilder được tạo nên bởi javax.xml.parsers.DocumentBuilderFactory. DocumentBuilder tạo ra một trường hợp của org.w3c.dom.Document, tức một cấu trúc cây chứa các nốt trong Tài liệu XML. Mỗi nốt cây trong cấu trúc thực hiện một giao diện org.w3c.dom.Node. Có nhiều loại nốt cây đại diện cho loại dữ liệu tìm thấy trong bản tài liệu XML. Loại nốt quan trọng nhất là: Nốt phần tử. Loại này có thể có các thuộc tính nằm ở bên trong. Nốt văn bản. Loại này đại diện cho phần văn bản nằm giữa thẻ mở và thẻ đóng của một phần tử tài liệu. Xem tài liệu javadoc của gói org.w3c.dom để có danh sách đầy đủ mọi loại nốt. Ví dụ java.io.File file = new java.io.File("c:/news.xml"); javax.xml.parsers.DocumentBuilderFactory dbf = DocumentBuilderFactory.newInstance(); javax.xml.parsers.DocumentBuilder db = dbf.newDocumentBuilder(); org.w3c.dom.Document doc=null; if (file.exists()){ doc = db.parse(file); } if (doc != null) { /* xử lý */ NodeList nodes = doc.getElementsByTagName("content"); for (int i = 0; i < nodes.getLength(); i++) { Element e = (Element) nodes.item(i); /* xử lý */ } } Giao diện SAX Bộ phân tích SAX được gọi là SAXParser và được tạo bằng javax.xml.parsers.SAXParserFactory. Khác với bộ phân tích DOM, bộ SAXParser không tạo ra một hình thức đại diện của tài liệu XML trong bộ nhớ và vì thế nó hoạt động nhanh hơn, ít tốn bộ nhớ hơn. Thay vào đó, bộ phân tích SAXParser thông báo cho các trình khách cấu trúc của tài liệu XML bằng cách gọi các hàm callbacks, nghĩa là, bằng cách gọi các phương pháp của trường hợp đã được cung cấp cho bộ phân tích. Lớp DefaultHandler nằm trong gói org.xml.sax.helpers. Lớp này thực hiện các giao diện ContentHandler, ErrorHandler, DTDHandler, và EntityResolver. Đại bộ phận các trình khách chỉ quan tâm đến những phương pháp được định nghĩa trong giao diện ContentHandler mà thôi. Các phương pháp của giao diện ContentHandler, được DefaultHandler thực hiện, được gọi đến khi bộ phân tích SAX bắt gặp những phần tử tương ứng trong bản tài liệu XML. Những phương pháp chủ yếu trong giao diện này bao gồm: phương pháp startDocument() và endDocument(). Những phương pháp này được gọi lúc mở đầu và khi kết thúc một bản tài liệu XML. phương pháp characters(). Phương pháp này được gọi với nội dung văn bản giữa các thẻ mở và thẻ đóng của một phần tử trong bản tài liệu XML. Các trình khách cung cấp một phân lớp của DefaultHandler. Phân lớp này được sử dụng để lấn quyền những phương pháp trên và xử lý dữ liệu. Quá trình này có thể bao gồm việc lưu trữ dữ liệu vào trong cơ sở dữ liệu, hoặc viết chúng ra một luồng (dữ liệu). Giao diện XSLT Ngôn ngữ tập tin định dạng XML dành cho việc chuyển đổi - (The XML Stylesheet Language for Transformations, hay XSLT) cho phép biến đổi một bản tài liệu XML sang các dạng thức dữ liệu khác. Tài nguyên bổ trợ Xem Sun's JAXP product description Xem Document Object Model(DOM) Level 2 Core Specification Một số chương trình mẫu dùng bộ phân tích DOM và SAX Hướng dẫn: XML với Xerces cho Java Tham khảo Công nghệ Java Chuẩn dựa trên XML Giao diện lập trình ứng dụng