source
stringlengths
3
14.5k
summary keyword
stringlengths
3
90
summary
stringlengths
265
1.86k
Mỗi phần mềm sẽ được tạo thành bởi một quy trình phát triển phần mềm riêng, tuỳ theo loại hình và công nghệ sử dụng mà các lập trình viên sẽ có cách áp dụng khác nhau. Dưới đây là các thông tin chi tiết nhất về quá trình phát triển phần mềm mà bạn cần nắm vững. Các bước chính của quy trình phát triển phần mềm1. Thiết kế và tạo mẫu phần mềm4. Mọi hoạt động của một dự án phát triển phần mềm đều phải được lên kế hoạch, chia thành các giai đoạn và sắp xếp theo một trình tự hợp lý. Thứ tự này được gọi là quy trình phát triển phần mềm hoặc còn được gọi với cái tên là vòng đời phát triển phần mềm. Mỗi quá trình phát triển phần mềm đều là một bước quan trọng của quá trình phát triển một hệ thống, vì vậy đây là kiến thức căn bản nhất mà bất kỳ nhà phát triển, kiểm thử phần mềm nào cũng cần nắm được. Quy trình phát triển càng tinh gọn và khoa học thì sản phẩm tạo ra càng tối ưu và hoạt động tốt hơn. Mỗi phần mềm sẽ có tiêu chuẩn riêng mà theo đó các nhiệm vụ và thao tác sẽ diễn ra khác nhau, để cụ thể hoá các bước này, người ta xây dựng mô hình riêng cho mỗi quy trình. Cụ thể BMD Solutions sẽ chỉ ra một số loại quá trình phát triển phần mềm phổ biến dưới đây:. Mô hình này được áp dụng khi nhà phát triển muốn làm rõ ý nghĩa của việc sản xuất phần mềm, phù hợp với các dự án vừa và nhỏ. Bạn có thể hiểu đơn giản một phần mềm được thiết kế theo mô hình thác nước thì từng phần sẽ được diễn ra tuần tự theo từng giai đoạn: phân tích – thiết kế – thực hiện – thử nghiệm – sản xuất – bảo trì. Ưu điểm của loại quy trình phát triển phần mềm này là tránh được sai sót do quy trình thực hiện rõ ràng. Tuy nhiên nhược điểm đi kèm với đó là tính linh hoạt kém, bạn chỉ có thể thử nghiệm sau khi đã thực hiện xong bước thiết kế phần mềm và nếu muốn thay đổi các bước trước đó thì hầu như là rất khó. Đó cũng chính là lý do người ta phát minh ra thêm mô hình chữ V. Mô hình này được áp dụng khá nhiều trong các quá trình phát triển phần mềm. Mô hình chữ V là phiên bản cải tiến của mô hình thác nước. Phương pháp này giúp cho việc phát triển và kiểm thử diễn ra song song nhau, thông qua đó các lập trình viên có thể kiểm soát các công đoạn tốt hơn. Bên cạnh đó, các kiểm thử viên (tester) cũng có thể tham gia kiểm thử ở ngay giai đoạn đầu của dự án và có thể phát hiện lỗi thiết kế từ rất sớm giúp đảm bảo chất lượng sản phẩm tốt hơn. Agile là một thuật ngữ bao trùm để chỉ tất cả các thực hành, khuôn khổ dựa trên sự phát triển lặp đi lặp lại, đây là một tập hợp các nguyên tắc cần tuân theo khi làm việc trong một dự án phát triển phần mềm. Mọi người coi đây là một công cụ thay đổi cuộc chơi lớn cung cấp một phương pháp quản lý bổ sung. Để áp dụng phương pháp này, dự án của bạn sẽ được tách thành nhiều gói nhỏ và có thể tiêu hao được và phải hoàn thành trong một khung thời gian. Quá trình, hầu hết thời gian là yêu cầu -> thiết kế -> phát triển -> thử nghiệm -> xem xét, sẽ được lặp lại hết lần này đến lần khác. Hơn nữa, mọi thứ phải minh bạch, hợp tác và dễ dàng thích ứng cho tất cả các thành viên. Điều này có nghĩa là, ví dụ, nhà thiết kế sẽ cho mọi người trong nhóm biết bản thảo của họ xuất hiện như thế nào theo yêu cầu từ nhà phân tích kinh doanh. Bằng cách này, những người khác có thể giải quyết ý kiến đóng góp hoặc phê bình của họ một cách cởi mở và mang tính xây dựng. Kết quả là giai đoạn sau có thể được thực hiện tốt hơn. Bằng cách áp dụng phát triển phần mềm Agile, nhóm của bạn có thể trở nên linh hoạt và thích ứng với những thay đổi. Chúng sẽ hoạt động hiệu quả hơn và đảm bảo phần mềm sẽ hoạt động đúng giờ. Ngày nay, hai framework phát triển phần mềm Agile phổ biến nhất là Scrum và Kanban nhưng Scrum chiếm phần lớn hơn trong miếng bánh này ở đây là 58% so với 5% thuộc về Kanban. Ngoài các mô hình trên thì quá trình phát triển phần mềm cũng có thể được triển khai theo các mô hình khác như mô hình xoắn ốc Boehm, mô hình phát triển tiến hoá,… Nhưng dù theo mô hình nào đi chăng nữa thì các bước chính trong quá trình phát triển phần mềm vẫn không thay đổi. Tại BMD Solutions, các quy trình phát triển phần mềm đều được tiến hành theo 7 bước nhằm đảm bảo chất lượng của sản phẩm tạo ra. Bước đầu tiên sau khi tiếp nhận yêu cầu của khách hàng, đội ngũ lập trình viên của chúng tôi sẽ tiến hành lên kế hoạch phát triển. Thông thường với một dự án chúng tôi sẽ đưa ra ít nhất 3 kế hoạch nhằm giúp khách hàng có thêm nhiều lựa chọn và đề xuất được giải pháp tối ưu. Tiếp đó, lập trình viên cần đi sâu vào từng bước, phân tích dữ liệu để cho ra báo cáo chi tiết nhất về kế hoạch phát triển phần mềm. Đây cũng là một trong những bước quan trọng nhất trong vòng đời phát triển phần mềm, nó góp phần quyết định chất lượng sản phẩm sau này. Và đó cũng chính là ưu điểm của BMD Solutions. Với mỗi sản phẩm và yêu cầu cụ thể của quý khách hàng, đội ngũ kỹ thuật viên sẽ chịu trách nhiệm lên bản vẽ thiết kế sơ bộ cũng như tạo mẫu khung để định hình phần mềm. Tại bước này, chúng tôi sẽ thống nhất với khách hàng lần cuối để tiến hành lập trình sản phẩm. Trong quy trình phát triển phần mềm Agile thì đây sẽ là bước cầu nối cho tất cả các giai đoạn sau này. BMD Solutions sử dụng công nghệ lập trình tiên tiến cùng các ngôn ngữ lập trình phổ biến nhằm tạo ra sản phẩm có khả năng tương tác cao trên thị trường. Chúng tôi có trách nhiệm thông báo cụ thể từng giai đoạn và phát sinh trong bước lập trình phần mềm và cam kết hoàn thành đúng sản phẩm theo thời gian thỏa thuận. Thử nghiệm là bước không thể thiếu trong vòng đời phát triển phần mềm. Để tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh, chúng tôi cần đưa sản phẩm vào thử nghiệm nhiều lần để đảm bảo kiểm soát được chất lượng và khắc phục sớm được các sai sót trong quá trình lập trình. Khi thống nhất được về chất lượng và khả năng hoạt động của phần mềm, BMD Solutions sẽ tiến hành bàn giao cho khách hàng để triển khai dự án. Sau quá trình bàn giao, chúng ta đến với bước cuối của các quá trình phát triển phần mềm. Tại bước này, đội ngũ kỹ thuật viên vẫn luôn theo sát hỗ trợ và sửa lỗi phát sinh của phần mềm trong quá trình sử dụng. Với mỗi sản phẩm làm ra, chúng tôi cam kết bảo hành, nâng cấp và cập nhật sản phẩm trọn đời giúp khách hàng có trải nghiệm tốt nhất khi sử dụng phần mềm. Như đã nói ở trên, để tạo ra được một phần mềm, đội ngũ lập trình viên cần tuân thủ đủ các quá trình phát triển phần mềm tiêu chuẩn. Muốn tăng tốc quá trình phát triển, bạn bắt buộc phải có giải pháp để tối ưu hoá các bước này. Nguyên tắc “độ trễ”: Trong khi tiến hành các bước phát triển phần mềm, bạn sẽ gặp phải rất nhiều biến số, và nhất là khi thiết kế các phần mềm phức tạp thì biến số này càng nhiều. Bạn cần xác định được độ trễ trong quá trình thiết kế cho các quyết định quan trọng để tránh được việc xảy ra sai sót và phải sửa đi sửa lại nhiều lần;. Đề cao việc tối ưu hóa cục bộ: Một phần mềm được tạo ra nhờ sự tương tác giữa các bộ phận nhỏ. Bởi vậy trong quá trình phát triển phần mềm bạn cần nhìn nhiều hơn vào tổng thể để nhận ra vấn đề kết nối trong các bộ phận nhỏ đó. Việc này sẽ giúp sửa lỗi và thiết kế nhanh hơn…. Nếu bạn đã đọc đến đây thì chắc hẳn đã phần nào tin tưởng vào dịch vụ của BMD Solutions. Trong nhiều năm hoạt động trên thị trường, chúng tôi đã có cơ hội hợp tác với hàng nghìn đối tác doanh nghiệp/ cá nhân trong và ngoài nước để tạo ra các sản phẩm công nghệ tân tiến nhất. Để làm được điều đó, chúng tôi luôn nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm và hoàn thiện các quy trình phát triển phần mềm của mình. Đặc biệt, BMD Solutions là công ty outsource, do đó, chúng tôi có thế mạnh hơn về mức giá. Bạn có thể yên tâm rằng mức giá lập trình chúng tôi đưa ra là cạnh tranh nhất trên thị trường. Với bất kỳ yêu cầu nào của quý khách hàng, BMD Solutions đều có thể đưa ra phương án tối ưu nhất. Hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi để có cơ hội hợp tác phát triển trong tương lai bạn nhé. Hân hạnh được phục vụ quý khách hàng.
Nhà phát triển phần mềm
Nhà phát triển phần mềm là một cá nhân hay một tổ chức có liên quan đến các vấn đề trong quá trình phát triển phần mềm ở mức cao hơn việc chỉ thiết kế và viết mã, là khái niệm rộng hơn phạm vi lập trình máy tính hay quản lý dự án, bao gồm cả nhiều vấn đề quản lý sản phẩm phần mềm. Đối tượng này có thể tác động bao quát cả dự án ở mức ứng dụng thay vì mức thành phần hay những tác vụ lập trình riêng lẻ. Các nhà phát triển phần mềm thường được chỉ đạo bởi những lập trình viên lãnh đạo cũng như bao gồm cả những nhà phát triển phần mềm tự do. Trong những phạm vi cụ thể, thuật ngữ này có thể có những tên gọi khác là nhà phân tích phần mềm và kỹ sư phần mềm. Trên thị trường hiện nay có thể bắt gặp sự phân biệt giữa lập trình viên và nhà phát triển, với một bên là người tác động thực sự khác với một bên là người thiết kế lớp cấu trúc và phân cấp. Hơn nữa, các nhà phát triển còn là những kiến trúc sư hệ thống, thiết kế kiến trúc đa cấp độ hay những thành phần tương tác của một hệ thống phần mềm lớn.
“Grand Slam” trong tennis có nguồn gốc từ trò đánh bài “bridge” ở phương Tây. Ra đời từ thế kỷ 19, Vương quốc Anh được cho là nơi sản sinh ra trò chơi bài bridge, nhưng cũng có nhiều ý cho rằng nó “xuất thân” từ nước Nga. Đây là một trong những trò chơi phổ biến nhất ở Mỹ và Anh những năm 30 của thế kỷ trước. Bài bridge sử dụng bộ bài 52 cây, có 4 người chơi, 2 người ngồi đối diện nhau là 1 đội. 52 cây chia đều cho 4 người (13 lá) và chơi theo nguyên tắc “ăn nước” (trick-taking). Hiểu một cách đơn giản nhất, bên nào càng ăn nhiều nước, ghi được nhiều điểm hơn thì bên đó thắng. Sau 1 ván bài, nếu một đội ăn được cả 13 vòng thì được gọi là thắng “Grand Slam”. Cùng với cờ vua, bài bridge là 2 môn duy nhất được Ủy ban Olympic quốc tế (IOC) công nhận là môn thể thao trí tuệ dù vẫn chưa có môn nào có trong chương trình thi đấu. Liên đoàn Bridge thế giới (WBF) được thành lập năm 1958 với khoảng 700.000 thành viên từ 123 tổ chức Bridge ở mỗi quốc gia. Tai SEA Games 26 năm 2011, bài Bridge là là môn thi đấu chính thức với 4 nước tham dự là chủ nhà Indonesia, Thái Lan, Singapore và Philippines. Như chúng ta đã biết, 4 giải đấu lớn nhất trong 1 năm của quần vợt hiện nay là Australian Open, Roland Garros, Wimbledon và US Open. Dù lịch sử các giải đấu đã có từ rất lâu (như Wimbledon lần đầu tổ chức năm 1877) nhưng phải đến năm 1925, khi mà Roland Garros cho phép các VĐV nước ngoài tham dự, đó mới được coi như thời điểm “Grand Slam” ra đời. Vậy, ai là người đã mang cụm từ đó vào trong tennis?. Đã có một sự nhầm lẫn trong thời gian dài về người đã lần đầu tiên áp dụng thuật ngữ “Grand Slam” vào môn quần vợt. Trong một bài báo vào tháng 10/1933, John Francis Kieran (1892 – 1981), cây bút thể thao của tờ New York Times,nói: “Nếu Crawford (tay vợt đã giành 3 danh hiệu lớn vào năm 1933) thắng, điều đó như là ghi một cú ‘Grand Slam’ trên sân quần vậy”. Người có công phát hiện ra Alan Gould chính là nhà báo, BLV huyền thoại Bud Collins, ông được mệnh danh là “Google của tennis”. Trong cuốn sách “Lịch sử tennis” phát hành năm 2008, Collins ngụ ý sự nhầm lẫn trên là vì bài viết của Kieran được đăng trên tờ báo lớn New York Times nên nhiều người biết hơn, trong khi Gould thì ít nổi tiếng hơn khi làm việc tại tờ địa phương ở Pennsylvania. Trước đó, vào năm 1930, trong thể thao có môn golf cũng dùng ‘Grand Slam’ để miêu tả chiến tích giành 4 danh hiệu lớn của Bobby Jone trong một mùa giải. Năm 1982, Liên đoàn quần vợt quốc tế (ITF) đưa ra định nghĩa về ‘Grand Slam’: “Danh hiệu Grand Slam là chức vô địch tại các giải đấu ở Australia, Pháp, Mỹ và Wimbledon. Những tay vợt là ĐKVĐ của 4 giải đấu cùng lúc được gọi là giành Grand Slam”. Đây là định nghĩa có chút khác biệt so với cách hiểu sơ khai về Grand Slam, khi không yêu cầu cả 4 danh hiệu đạt được đến cùng một năm dương lịch. Nghĩa là kể cả khi vô địch 4 giải trong vòng 2 năm, như vậy vẫn được gọi là “giành Grand Slam”. Điều này đã vấp phải sự phản đối vô cùng mạnh mẽ của thế giới tennis. Sau nhiều tranh cãi không hồi kết, ITF cuối cùng đã chịu nhượng bộ khi gỡ bỏ định nghĩa mới để quay lại với truyền thống cũ và đặt ra định nghĩa mới cho những tay vợt giành 4 danh hiệu lớn không cùng 1 năm là “Non-calender year Grand Slam”. Kết luận: Nếu xét câu chữ đơn thuần, khi một tay vợt chiến thắng tại Australian Open, Roland Garros, Wimbledon hay US Open không thể coi là vô địch Grand Slam vìvề lý thuyết, đó là cách gọi cho tay vợt giành được cả 4 danh hiệu trong 1 năm dương lịch.
Grand Slam (quần vợt)
Mỹ Mở rộng4 giải này do đó cũng gọi là các giải Grand Slam, và được xem là những giải đấu quan trọng nhất trong năm, cả đối với đại đa số khán giả cũng như về điểm xếp hạng và tiền thưởng cho đấu thủ. Các chức vô địch 4 giải cũng được gọi là các danh hiệu Grand Slam. Thắng được cả bốn giải Grand Slam trong cùng một năm là thành tích tột đỉnh của một đấu thủ quần vợt. Cho tới nay trong lịch sử chỉ có 2 tay vợt nam (Don Budge-1938 và Rod Laver-1962, 1969) và 3 tay vợt nữ (Maureen Connolly-1953, Margaret Court-1970, và Steffi Graf-1988) đã đạt được thành tích này. Thuật ngữ Grand Slam được ký giả Mỹ John Kieran dùng lần đầu tiên cho môn quần vợt năm 1933. Khi miêu tả nỗ lực của Jack Crawford giành cả bốn giải đấu lớn năm đó, nhà báo đã so sánh như "một cú grand slam trong bài bridge". Tuy nhiên, trong trận chung kết giải Mỹ mở rộng, Crawford đã không vượt qua được Fred Perry. Mãi đến năm 1938 mới có người đầu tiên giành được Grand Slam là Don Budge.
Giáo sư, nhà thiên văn học nổi tiếng thế giới Nguyễn Quang Riệu - Ảnh: vjsonline.org. Phó giáo sư Nguyễn Văn Huy - một người họ hàng của gia đình nhà thiên văn học Nguyễn Quang Riệu - cho biết GS Riệu được phát hiện mắc COVID-19, gia đình đưa vào viện nhưng ông đã mất rất nhanh sau đó. GS Nguyễn Quang Riệu là một trong số rất ít nhà khoa học ngành thiên văn học gốc Việt được biết tới rộng rãi trên thế giới. Ông đã công bố trên 150 công trình khoa học về vật lý thiên văn trên các tạp chí nổi tiếng, được trao giải thưởng của Viện hàn lâm Khoa học Pháp năm 1973 sau khi phát hiện và xác định chính xác vị trí xảy ra vụ nổ trong chòm sao Thiên Nga (Cygnus X3). Sinh năm 1932 tại Hải Phòng, sinh sống và học tập tại Hà Nội, GS Nguyễn Quang Riệu là một người con của làng nhiếp ảnh Lai Xá (xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, Hà Nội). Cha ông là chủ của hiệu ảnh Phúc Lai, tức Central photo nổi tiếng tại Hà Nội và Hải Phòng những năm 1930. Theo phó giáo sư Nguyễn Văn Huy, GS Nguyễn Quang Riệu là người Lai Xá thứ hai bảo vệ thành công luận án tiến sĩ năm 1968 rồi trở thành giáo sư, sau GS Nguyễn Văn Huyên. Mê thiên văn từ nhỏ, ông luôn ước mơ được khám phá bí ẩn của vũ trụ. Ông rời Hà Nội đi du học ở Đại học Sorbonne, Pháp năm 1950 khi mới 18 tuổi. Với nỗ lực không ngừng, ông trở thành giáo sư, tiến sĩ tại Đại học Sorbonne, giám đốc nghiên cứu tại Đài thiên văn Paris, giám đốc nghiên cứu danh dự của Trung tâm quốc gia Nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS). Từ năm 1976, ông thường xuyên về nước tham gia phát triển và phổ biến ngành vật lý thiên văn và vật lý môi trường, hai lĩnh vực nghiên cứu còn non trẻ ở Việt Nam. Khi còn khỏe, hằng năm ông đều dành thời gian về nước tổ chức lớp học về môn vật lý vũ trụ và vật lý môi trường tại Đại học Quốc gia Hà Nội, vận động nhiều nhà khoa học nước ngoài cùng về thỉnh giảng. Với mục tiêu phổ biến khoa học cho người Việt, ông đã viết nhiều cuốn sách về thiên văn học với nội dung dễ hiểu bằng tiếng Việt, như Vũ trụ phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại, Lang thang trên dải Ngân Hà, Sông Ngân khi tỏ khi mờ, Bầu trời tuổi thơ, Những con đường đến với các vì sao, Vũ trụ huyền diệu. Ngoài ra, ông còn tham gia soạn một cuốn giáo trình chuyên ngành thiên văn vật lý song ngữ Việt - Anh dành cho sinh viên các trường đại học trong nước. Các cuốn sách cả về chuyên ngành lẫn phổ biến khoa học trong lĩnh vực vật lý thiên văn do ông xuất bản tại Việt Nam nhiều năm qua đã khơi dậy niềm đam mê nghiên cứu thiên văn học của thế hệ trẻ người Việt. Một điều đặc biệt nữa là cả ba anh em ông Nguyễn Quang Riệu đều là những nhà khoa học xuất sắc. Hai em trai ông là giáo sư, nhà giải phẫu học, nhân chủng học và nhân trắc học Nguyễn Quang Quyền và giáo sư, tiến sĩ hóa lý Nguyễn Quý Đạo. TTO - Giáo sư Wallace Smith Broecker, nhà khoa học từng là người đưa ra những cảnh báo sớm nhất về tình trạng biến đổi khí hậu và phổ biến khái niệm nóng lên toàn cầu, vừa tạ thế ở tuổi 87. TTO - Trung tâm an sinh TP.HCM đã ra mắt Đội hình tình nguyện viên hỗ trợ tiếp nhận và phân phối hàng hóa đến người dân khó khăn, gọi tắt là đội shipper tình nguyện, vận chuyển hàng hóa miễn phí cho người dân. Mới có 17% người dân tiêm 1 mũi vắc xin. TP.HCM: Doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tự test nhanh COVID-19 cho công nhân, 7 ngày/lần. TTO - Trung tâm an sinh TP.HCM đã ra mắt Đội hình tình nguyện viên hỗ trợ tiếp nhận và phân phối hàng hóa đến người dân khó khăn, gọi tắt là đội shipper tình nguyện, vận chuyển hàng hóa miễn phí cho người dân. Mới có 17% người dân tiêm 1 mũi vắc xin. TTO - Tổng thống Mỹ Joe Biden tiếp tục chỉ trích Trung Quốc, tố chính quyền Bắc Kinh ngăn chặn "ngay từ đầu" các nhà điều tra và khoa học quốc tế tìm kiếm câu trả lời cho nguồn gốc COVID-19. TTO - Những ngày qua, một số phường tại TP.HCM phản ánh tình trạng người dân đăng ký đi chợ giúp nhưng khi đến giao hàng lại không có người nhận. Đặc biệt, trong ngày 27-8, có phường phải trả lại đến 30 đơn hàng cho siêu thị. TTO - Bản tin chiều 27-8 của Bộ Y tế cho biết trong 1 ngày vừa qua, cả nước ghi nhận thêm 12.920 ca COVID-19 mới, tăng 1.332 ca so với ngày 26-8. Hôm nay có 10.126 bệnh nhân được công bố khỏi bệnh. Tuy nhiên hiện tại, ca sĩ vẫn đang điều trị COVID-19 tại Bệnh viện Chợ Rẫy, TP.HCM.
Nguyễn Quang Riệu
Nguyễn Quang Riệu (sinh 15 tháng 6 năm 1932, tại Hải Phòng - mất 5 tháng 1 năm 2021, tại Paris, Pháp), là nhà vật lý thiên văn Việt kiều tại Pháp. Ông là người con đầu trong một gia đình có ba anh em trai sau này đều trở thành những nhà khoa học tên tuổi. Là giáo sư-tiến sĩ tại Đại học Sorbonne (Paris), giám đốc nghiên cứu tại Đài thiên văn Paris, ông đã công bố trên 150 công trình khoa học về vật lý thiên văn (đặc biệt trong lĩnh vực thiên văn vô tuyến, tên gọi tiếng Anh là Radioastronomy) trên các tạp chí khoa học quốc tế, viết nhiều sách (cả sách chuyên ngành và sách phổ biến khoa học) bằng tiếng nước ngoài và tiếng Việt. Ông cũng là Giám đốc Nghiên cứu Danh dự (Emeritus) của Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS). Năm 1973, ông đã được nhận giải thưởng của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp sau khi đã phát hiện và xác định chính xác vị trí xảy ra vụ nổ trong chòm sao Thiên Nga (Cygnus X3). Cùng với Giáo sư Trịnh Xuân Thuận, Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Quang Riệu được coi là một trong số rất ít nhà khoa học gốc Việt trên thế giới không ngại dấn thân và đạt được những thành công trong ngành thiên văn học, một ngành khoa học đến giờ vẫn được coi là non trẻ và ít có điều kiện phát triển tại Việt Nam.
Hoa: Ở thực vật một lá mầm, hoa là mẫu 3 (số lượng các bộ phận của hoa trên một vòng là 3) trong khi ở thực vật hai lá mầm thì hoa là mẫu 4 hay 5 (các bộ phận của hoa là 4 hay 5 trên một vòng). Phấn hoa: Ở thực vật một lá mầm, phấn hoa có một rãnh cắt hay một lỗ trong khi ở thực vật hai lá mầm là ba rãnh. Hạt: Ở thực vật một lá mầm, phôi có một lá mầm trong khi phôi của thực vật hai lá mầm có hai lá mầm. Thân cây: Ở thực vật một lá mầm, các bó mạch trong thân cây là phân tán, trong khi ở thực vật hai lá mầm thì chúng phân bổ thành vòng. Rễ: Ở thực vật một lá mầm là rễ chùm trong khi ở thực vật hai lá mầm các rễ phát triển từ rễ mầm. Lá: Ở thực vật một lá mầm, Các gân lá chính là song song, trong khi ở thực vật hai lá mầm thì chúng có dạng mắt lưới. Mời Quý đọc giả chọn vào nút Youtube (nút đỏ) phía dưới để nhận được tất cả các Video chia sẻ về Kĩ Thuật Nông Nghiệp. Mời Quý đọc giả "Like Page", Để Nông Nghiệp Sạch được Tư Vấn Kỹ Thuật cho Quý đọc giả ngay bây giờ .
Thực vật hai lá mầm
Thực vật hai lá mầm (Magnoliopsida) là tên gọi cho một nhóm thực vật có hoa ở cấp độ lớp mà hạt thông thường chứa hai lá trong phôi hay hai lá mầm. Có khoảng 199.350 loài trong nhóm này . Thực vật có hoa mà không phải là thực vật hai lá mầm thì thuộc thực vật một lá mầm, thông thường có một lá mầm. Hiện nay nhờ các nghiên cứu của APG người ta chấp nhận rằng thực vật một lá mầm đã tiến hóa từ trong thực vật hai lá mầm, cũng như thực vật hai lá mầm tạo thành một nhóm cận ngành. Điều này có nghĩa là thực vật hai lá mầm sẽ không còn được coi là một nhóm "tốt", và tên gọi "thực vật hai lá mầm" (dicotyledons hay dicots) sẽ không còn được sử dụng nữa, ít nhất là trong ngữ cảnh phân loại học. Tuy nhiên, phần chủ yếu của thực vật hai lá mầm cũ sẽ tạo thành nhóm đơn ngành được gọi là thực vật hai lá mầm thật sự (eudicots) hay ba đường xoi (tricolpates) của phấn hoa. Chúng có thể phân biệt với tất cả các loài thực vật có hoa còn lại nhờ cấu trúc phấn hoa của chúng.
Trải qua hàng thế kỷ, con người đều luôn rất trầm trồ về các di sản kiến trúc mà người xưa để lại. Và tòa nhà bằng gạch trang trí rất công phu với mái vòm kiểu củ hành đa sắc màu đặc biệt của “Nhà thờ chính toà sự Chuyển cầu của Đức Mẹ Rất Thánh” (Đức Mẹ Mary của Chúa) ở Moat là một minh chứng. Nhà thờ chính tòa Thánh Basil là một cái tên khác thường được sử dụng nhiều hơn. Điểm đáng chú ý là nhà thờ này chỉ mất có sáu năm để hoàn thiện (khởi công năm 1555, hoàn thành năm 1561). Csar Ivan IV (Hung đế) đã ra lệnh xây dựng nhà thờ nhằm kỷ niệm chiến thắng trước hãn quốc Kazan, một chiến thắng đỉnh điểm trong ngày Giao cầu năm 1552. Mặc dù diện mạo của nhà thờ này có vẻ bất thường nhưng thiết kế của nó vốn là có trật tự. Có tất cả mười nhà nguyện, chín trong mười số này có ý nghĩa kỷ niệm các sự kiện hay trận đấu mà đưa đến chiến thắng lớn cho Ivan Hung đế. Nhà nguyện còn lại là cái lớn nhất, nằm ở trung tâm, gọi là “Nhà thờ chính toà sự Chuyển cầu của Đức Mẹ Rất Thánh” (Đức Mẹ Mary của Chúa) và đây cũng là tên gọi chung của nhà thờ. Nó được bao quanh bởi bốn nhà nguyện lớn ở bốn hướng trên một đường tròn. Và bốn nhà nguyện còn lại có kích thước tương đương nhau đặt xen kẽ vào bốn nhà nguyện lớn cũng trên một đường tròn. Vô số các hành lang được trang trí bằng các bức bích họa tôn giáo và những bức tranh sơn dầu cũng như các tranh tường màu sắc thể hiện hoa lá thiên nhiên, sự trang trí mĩ miều này nối tiếp các nhà nguyện với nhau. Nhà nguyện thứ mười là Nhà thờ chính tòa Thánh Basil được xây thêm vào năm 1588 để tưởng nhớ Thánh Basil, Người đã sống tại Moskva. Vị Thánh Chính thống giáo Nga được biết đến như là một vị Thánh ngốc nghếch của Chúa, một người đã từ bỏ các chuẩn mực của thế gian, của xã hội để phụng sự Chúa. Basil được tin là một nhà tiên tri và cũng thực hiện được các phép màu. Basil thường không mặc quần áo gì trừ sợi dây xích. Ông luôn giúp đỡ con người khi họ cần.
Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm, Moskva
Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm Moskva hay Nhà thờ chính tòa Đức Maria vô nhiễm nguyên tội Moskva (tiếng Nga: Собор Непорочного Зачатия Пресвятой Девы Марии, Sobor Neporotschnowo Satschatija Preswjatoj Dewy Marii, tên bình dân là: Костёл / Kostjol hay Кирха / Kirkha - "Nhà thờ Công giáo") là một nhà thờ kiến trúc tân Gothic được tổng giáo phận Công giáo Moskva dùng làm nhà thờ chính tòa. Nằm trong quận trung tâm, đây là một trong 2 nhà thờ duy nhất của Công giáo ở Moskva và là nhà thờ Công giáo lớn nhất ở Nga. Việc xây dựng nhà thờ chính tòa này do chính quyền Sa hoàng đề nghị năm 1894. Lễ khởi công diễn ra năm 1899. Việc xây dựng bắt đầu từ năm 1901 và được hoàn thành 10 năm sau. Nhà thờ gồm 3 gian dọc, xây bằng gạch đỏ theo bản thiết kế của kiến trúc sư Tomasz Bohdanowicz-Dworzecki. Phong cách kiến trúc chịu ảnh hưởng của tu viện Westminster và nhà thờ chính tòa Milano. Được các quỹ của các giáo xứ Nga và các nước lân bang đài thọ, nhà thờ được thánh hiến như một nhà nguyện dành cho giáo xứ người Ba Lan ở Moskva năm 1911.
Được coi là vệ tinh tự nhiên duy nhất của Trái Đất, Mặt trăng di chuyển xung quanh Trái Đất theo một quỹ đạo hình ovan. Khi di chuyển tới vị trí cực cận - có khoảng cách gần nhất với Trái Đất, kích thước của Mặt Trăng khi nhìn từ Trái Đất sẽ lớn hơn. Đặc biệt khi Mặt Trời, Trái Đất và Mặt Trăng xếp thẳng hàng đúng thời điểm Mặt Trăng ở cận điểm. Mặt Trăng lúc đó sẽ sáng hơn và có kích thước lớn hơn nhiều khi nhìn từ Trái Đất, đó được gọi là hiện tượng Siêu trăng hoặc Siêu Mặt Trăng (Supermoon). So với kích thước của Mặt Trăng tại vị trí có khoảng cách xa nhất với Trái Đất trên quỹ đạo (điểm viễn địa), Mặt Trăng sáng hơn 30% và có kích thước lớn hơn 14% khi nhìn từ Trái Đất vào lúc xảy ra hiện tượng Siêu trăng. Siêu trăng là một trăng non hoặc trăng tròn nằm tại vị trí cực cận - điểm gần nhất của Mặt Trăng so với Trái Đất trong quỹ đạo hàng tháng của nó. Nhà chiêm tinh, Richard Nolle, đã đặt ra thuật ngữ “supermoon - siêu trăng” từ hơn 30 năm trước, nhưng đến bây giờ nhiều người trong giới thiên văn học vẫn sử dụng nó. Liệu rằng siêu trăng có phải là sự cường điệu hóa hay không? Chúng tôi cho rằng nó chỉ là văn hoá dân gian hiện đại. Chúng đã bước vào văn hóa đại chúng (như video nhạc của Sophie Hunger trong bài đăng này). Và chúng thực sự có thể gây ra các hiệu ứng vật lý, chẳng hạn như thủy triều lên cao hoặc xuống thấp. Theo định nghĩa của nhà chiêm tinh Richard Nolle, trăng non (New Moon) hay trăng tròn (Full Moon) di chuyển đến khoảng cách 362.146 km (225.027 dặm) của hành tinh Trái Đất, được đo từ trung tâm của Mặt Trăng và Trái Đất, để được coi là siêu trăng. Trong năm 2020, lần siêu trăng đầu tiên diễn ra vào 9/2, lần thứ 2 là 10/3, lần thứ 3 là 8/4 và lần cuối cùng là 7/5. Khi quan sát bằng mắt thường, có lẽ chúng ta sẽ thấy rằng siêu trăng không lớn hơn mặt trăng lúc bình thường là mấy (mặc dù trông nó có vẻ sáng hơn). Tuy nhiên, các đại dương Trái Đất cảm nhận được lực hấp dẫn của siêu trăng từ xa, gây ra thủy triều lên xuống. Nhà chiêm tinh Richard Nolle đã định nghĩa siêu trăng như sau: "Siêu trăng là một trăng mới hoặc trăng tròn xuất hiện tại Mặt Trăng hoặc gần (khoảng 90%) điểm tiếp cận gần nhất của Trái Đất với một quỹ đạo cụ thể". Đó là một định nghĩa khá mở, chính là lý do tại sao có rất nhiều siêu trăng. Dựa vào định nghĩa này, Nolle cho biết: Trung bình mỗi năm sẽ có từ 4 đến 6 siêu trăng. Một số siêu trăng là trăng tròn, còn một số khác là trăng non. Bất kỳ trăng tròn hoặc trăng mới nào gần hơn 361.554,9 km (406,464 - 44,909.1 = 361,554.9) tính từ Trái Đất đều có thể là siêu trăng. Một số nhà thiên văn học đã phàn nàn về tên gọi này. nhưng chúng tôi thích nó! Và nó đã đi vào văn hoá đại chúng. Ví dụ, Supermoon là ca khúc chủ đề trong album năm 2015 của Sophie Hunger. Đó là một bài hát hay! Hãy xem trong đoạn video dưới đây:. Vậy các nhà thiên văn học đã gọi hiện tượng này là gì trước khi gọi chúng là siêu trăng? Perigee - vị trí cận cực nghĩa là nằm gần Trái Đất. Mặt trăng tròn, hoặc Trái Đất nằm đối diện với Mặt Trời, mỗi tháng một lần. Nó được là trăng non, nhiều hơn hoặc ít hơn mỗi tháng một lần. Và mỗi tháng, khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất, nó nằm gần nhất với Trái Đất. Điểm này được gọi là vị trí cực cận. Mặt Trăng luôn di chuyển ra vị trí xa nhất mỗi tháng một lần; điểm này được gọi là apogee - điểm xa quả đất nhất. Không có nghi ngờ gì về điều đó. Supermoon - siêu trăng là một thuật ngữ hấp dẫn hơn so với trăng non hoặc trăng tròn. Lần đầu tiên chúng tôi được làm quen với thuật ngữ siêu trăng trong năm 2011 khi các phương tiện truyền thông sử dụng nó để mô tả trăng tròn xuất hiện vào ngày 19 tháng 03 năm 2011. Ngày đó, Mặt Trăng tròn phù hợp với proxigee - vị trí gần nhất của năm - đến vị trí cận điểm, trăng tròn lớn nhất vào năm 2011. Khoảng ba hoặc bốn lần một năm, trăng non hoặc trăng tròn trùng với thời gian trăng tròn - điểm gần nhất của Trái Đất. Sự kiện này thường được gọi là “perigean spring tide - cận điểm triều phát mùa xuân”. Sự khác biệt giữa cận điểm triều phát và thủy triều bình thường đối với tất cả các khu vực bờ biển là rất nhỏ. Trong hầu hết các trường hợp, sự khác biệt chỉ là một vài inch so với thủy triều bình thường. Trăng non (bên trái) và trăng tròn (bên phải) - khi Trái Đất và Mặt Trăng xếp thẳng hàng đúng thời điểm Mặt Trăng ở cận điểm - khoảng giữa thủy triều lên và xuống là lớn nhất. Đây được gọi là thủy triều mùa xuân. Một siêu trăng - trăng non hoặc trăng tròn ở vị trí gần Trái Đất nhất - nhấn mạnh các thủy triều. Thủy triều mùa xuân sẽ đi kèm với siêu trăng. Thủy triều sẽ lớn hơn bình thường, trăng non vào tháng 04, tháng 05 và tháng 06 năm 2017 và trăng tròn tháng 12 năm 2017? Vâng, tất cả trăng tròn (và các mặt trăng non) kết hợp với Mặt Trời để tạo ra thủy triều lớn hơn bình thường, nhưng các trăng non lại tròn hơn bình thường (hoặc những trăng non nằm ở vị trí gần hơn bình thường) làm thủy triều dâng cao hơn. Mỗi tháng, vào ngày trăng non, Trái Đất, Mặt Trăng và Mặt Trời đều cùng nằm trên một đường thẳng, Mặt Trăng ở giữa. Vị trí thẳng hàng này tạo ra những dòng thủy triều rộng, gọi là thủy triều mùa xuân. Thủy triều mùa xuân đặc biệt lên cao và xuống thấp trong cùng một ngày. Trăng non gần nhất của năm xuất hiện vào ngày 25 tháng 05 và trăng tròn gần nhất của năm xuất hiện vào ngày 03 tháng 12 tác động mạnh vào thủy triều mùa xuân, khiến cho nó được gọi là cận điểm triều phát. Nếu bạn sống dọc theo bờ biển đại dương, hãy theo dõi thủy triều lên cao do xuất hiện trăng tròn ở cận điểm này. Liệu thủy triều lên cao này có gây ra ngập lụt hay không? Có lẽ không, trừ khi tác động mạnh mẽ từ thời tiết đi kèm với cận điểm triều phát mùa xuân. Tuy nhiên, hãy để ý đến thời tiết, bởi các cơn bão có tiềm năng lớn làm nổi bật cận điểm triều phát mùa xuân. Các ngày siêu trăng tròn nhất trong những năm qua và trong tương lai. Mặt trăng có chu kỳ định kỳ, chúng ta có thể tính được trăng tròn và trăng ở cận điểm trong khoảng thời gian một năm, một tháng và 18 ngày. Tháng âm lịch đề cập đến khoảng thời gian giữa các trăng tròn, một khoảng thời gian trung bình là 29.53059 ngày. Một tháng Mặt Trăng gần Trái Đất nhất dựa vào việc trở về vị trí cực cận, khoảng thời gian 27.55455 ngày. Trăng tròn và trăng ở cận điểm trong khoảng thời gian khoảng 413 ngày (một năm và 48 ngày). Vì vậy, chúng ta có thể tính ra được ngày các vệ tinh nằm ở vị trí gần nhất (<357.000 km) trong những năm vừa qua và tương lai:. Năm 2017, không có một ngày nào trăng tròn nằm ở vị trí cận điểm (<357.000 km) bởi vì tình trạng trùng hợp ngẫu nhiên của trăng tròn và trăng ở cận điểm sẽ không xảy ra (sau ngày 14 tháng 11 năm 2016) cho đến ngày 02 tháng 01 năm 2018. Trong tương lai, trăng tròn ở vị trí cực cận sẽ tiến đến gần 356.500 km - lần đầu tiên trong thế kỷ XXI (2001-2100) vào ngày 25 tháng 11 năm 2034 (356.446 km). Trăng tròn gần nhất nhất của thế kỷ XXI sẽ rơi vào ngày 06 tháng 12 năm 2052 (356.425 km). Tiện đây, một số nhà thiên văn học sẽ gọi tất cả các trăng tròn được liệt kê trên là proxigee full moon - trăng tròn proxigee. Nhưng giống như nhiều người, chúng ta sẽ vui vẻ gọi chúng là "siêu trăng". Siêu trăng trông như thế nào? Hầu hết các nhà thiên văn học đều cho rằng bạn không thể phát hiện ra bất kỳ sự khác biệt nào bằng mắt thường giữa một siêu trăng và bất kỳ mặt trăng bình thường nào, mặc dù một số nhà quan sát lại nói rằng bạn có thể. Có một vài định nghĩa về Trăng Đen. Nó có thể là lần trăng mới thứ ba trong một mùa thiên văn học có 4 lần trăng mới, hoặc là lần trăng mới thứ hai trong cùng một tháng dương lịch. Chúng tôi chưa bao giờ nghe thấy thuật ngữ Black Moon - Trăng Đen cho đến đầu năm 2014.Trăng Đen không phải là một thuật ngữ thông dụng trong thế giới thiên văn học. Theo David Harper cho biết: "Trong những năm gần đây, thuật ngữ này trở nên phổ biến bởi các nhà chiêm tinh học theo tôn giáo Wicca". Đây là tên dùng để chỉ lần trăng mới thứ hai xuất hiện trong cùng một tháng. Ví dụ, vào tháng 01 năm 2014, có hai trăng mới, siêu trăng thứ hai không chỉ là siêu trăng, mà còn được gọi là Trăng Đen. Vậy Trăng Đen có phải là siêu trăng hay không? - Câu trả lời là "Không". Theo lý thuyết, Trăng Đen kế tiếp sẽ xuất hiện vào ngày 30 tháng 10 năm 2016. Sten Odenwald tại astronomycafe.net liệt kê một số tên khác cho siêu trăng mới thứ hai trong một tháng: Spinner Moon, Finder’s Moon, Secret Moon. Trên thực tế không có một định nghĩa đơn lẻ nào được chấp nhận về Trăng Đen. Các thuật ngữ thường được sử dụng để ám chỉ về bất cứ hiện tượng nào có liên quan đến pha Trăng Mới:. Lần trăng mới thứ hai trong một tháng dương lịch: Những lần Trăng Đen thuộc định nghĩa này xảy ra khá thường xuyên, cứ khoảng 2,5 năm một lần. Lần trăng mới thứ ba trong một mùa có 4 Trăng Mới: Các nhà thiên văn học chia một năm thành 4 mùa - xuân, hạ, thu, đông. Thường thì mỗi mùa có 3 tháng và 3 Trăng Mới. Nếu một mùa có 4 Trăng Mới thì lần trăng mới thứ ba được gọi là Trăng Đen. Một tháng dương lịch không có Trăng Mới: Điều này chỉ có thể xảy ra trong tháng Hai. Khi đó, tháng Một và tháng Ba mỗi tháng sẽ có 2 Trăng Mới, thay vì 1 Trăng Mới như thường lệ. Một tháng dương lịch không có Trăng Tròn: Khoảng 19 năm 1 lần, tháng Hai không có Trăng Tròn. Thay vào đó, tháng Một và tháng Ba lại có 2 Trăng Tròn.
Siêu trăng
Siêu Mặt Trăng hay siêu trăng là khi Mặt Trăng vào thời kì trăng tròn hoặc trăng non trùng vào điểm cận địa, tức là điểm trên quỹ đạo của nó mà có khoảng cách gần nhất so với Trái Đất, làm cho kích thước biểu kiến của nó to hơn bình thường khi quan sát từ Trái Đất. Một cách chính xác hơn, đó là vị trí sóc vọng của hệ Mặt Trời–Trái Đất–Mặt Trăng tại cận địa. Liên hệ của Mặt Trăng với thủy triều của đại dương và của vỏ Trái Đất đã làm nảy sinh các lời đồn đoán cho rằng hiện tượng siêu trăng có thể đi kèm với nguy cơ gia tăng của các sự kiện cực đoan như động đất và núi lửa phun, mặc dù không có chứng cứ. Tương tự ta có tiểu trăng là vị trí sóc vọng ở điểm viễn địa của Mặt Trăng (có khoảng cách xa nhất), khi đó Mặt Trăng có kích thước biểu kiến nhỏ hơn bình thường. Các khoảng cách hình học khác nhau của Mặt Trăng mỗi tháng dao động trong khoảng từ gần nhất là 357.000 km (222.000 dặm Anh) đến xa nhất là 406.000 km (252.000 dặm Anh) do quỹ đạo hình elip quanh Trái Đất.
Dù lượn, tiếng Anh gọi là Paragliding, gọi theo tiếng Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và tiếng Pháp là Parapent, là một môn thể thao hàng không giải trí nhưng cũng không kém phần cạnh tranh mang tính chuyên nghiệp. Dù lượn là hình thức bay tự do, cất cánh bằng chân. Phi công ngồi vào một ghế ngồi được may bằng những dây đai bền chắc (đai ngồi) bên dưới một cánh dù làm bằng vải, được bơm căng đầy không khí để giữ hình dáng khí động học nhờ vào áp lực không khí khi dù di chuyển tràn vào các "xoang dù". Cùng có chữ “dù”, cùng là môn thể thao hàng không, lại có hình dáng thoạt đầu khá giống nhau, rất nhiều người đang nhầm lẫn hai môn này với nhau. Nhảy dù là môn thể thao hàng không mà VĐV nhảy ra từ máy bay trực thăng, rơi tự do trong vài giây trước khi bung dù ra để hãm lực rơi. Chiếc dù nhảy gần như chỉ có chức năng giảm tốc độ rơi, không có chức năng lái. Ngược lại, dù lượn được cất cánh từ sườn núi, di chuyển theo phương gần ngang, có khả năng lái và cơ động cao về hướng bay. Người chơi dù lượn có tính độc lập cao hơn nhiều so với dù nhảy, vì có thể mua và sở hữu một bộ dù và có thể lên điểm bay bất cứ lúc nào để huấn luyện.
Dù lượn
Dù lượn, tiếng Anh gọi là Paragliding, gọi theo tiếng Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và tiếng Pháp là Parapent, là một môn thể thao hàng không giải trí nhưng cũng không kém phần cạnh tranh mang tính chuyên nghiệp. Dù lượn là hình thức bay tự do, cất cánh bằng chân. Phi công ngồi vào một ghế ngồi được may bằng những dây đai bền chắc (đai ngồi) bên dưới một cánh dù làm bằng vải, được bơm căng đầy không khí để giữ hình dáng khí động học nhờ vào áp lực không khí khi dù di chuyển tràn vào các "xoang dù". Năm 1954, Walter Neumark có ý tưởng khi cho rằng có thể cất cánh bằng chân khi chạy trên một con dốc với một cánh bằng vải. Sau đó một vài vận động viên leo núi đã dùng cách này để lao xuống núi cho nhanh thay vì leo xuống tại dãy núi Alps, Thụy Sĩ. Năm 1964, Domina Jalbert – một người Mỹ phát minh ra chiếc dù vuông thể thao mà ngày nay các vận động viên môn rơi tự do vẫn dùng, cấu tạo gồm những xoang khí khi may hở phần trước và đóng phần sau của 2 lớp dù với các vách ngăn.
Cây Thủy trúc với hình dáng độc đáo, nhiều công dụng và ý nghĩa hữu ích, hiện đang nổi lên là một loại cây cảnh được nhiều người yêu thích và trồng trang trí trong nhà. Chúng ta cùng tìm hiểu những thông tin về cây Thủy trúc qua bài viết dưới đây nhé. Cây Thủy trúc có vẻ ngoài rất dễ nhận biết, dưới đây là một vài thông tin về đặc điểm, đặc tính của cây mà bạn có thể tham khảo qua. Là loài cây thân thảo, Thủy trúc có nguồn gốc từ châu Phi, cụ thể là vùng Madagasca. Cây sống lâu năm, mọc thành bụi cao từ 30cm – 1.5m tùy môi trường sống. Cây trồng trong nhà làm cảnh thường có kích thước nhỏ hơn so với mọc ngoài tự nhiên. Thân cây Thủy trúc nhỏ và có dạng tròn, màu xanh, không phủ lông, mọc hướng thẳng lên trên. Lá cây có 2 dạng: 1 là biến đổi thành bẹ dưới gốc, gần giống thân, 2 là có dạng thuôn dài, mỏng, nhón dần ở đầu lá, mọc từ đỉnh thân cây và xòe thành vòng tròn. Tán lá rộng, rũ xuống dưới như một chiếc dù, nhờ vậy mới có tên là Lác dù. Thủy trúc có rễ dạng chùm, nhờ vậy mà cây có thể đứng vững dù thân khá mảnh mai. Hoa của cây Trúc thủy có màu trắng, khi gần tàn thì màu tối dần. Hoa có cuống thẳng dài, mọc từ gốc chĩa đều ra các phía, nhìn chúng, nó giống như một cây Thủy trúc mini với màu đẹp mắt vậy. Cây Thủy trúc có khả năng sống tốt trong nước, kết hợp với bộ rễ chùm đẹp mắt nên loài này thường được trồng cảnh theo dạng thủy sinh. Một cây cau mini trồng trong chậu nước với bộ rễ tuyệt đẹp là sự lựa chọn không tồi đúng không nào. Tất nhiên, công dụng đầu tiên và phổ biến nhất của cây Thủy trúc chính là làm cảnh. Với vẻ ngoài độc đáo, nhỏ gọn, dễ chăm sóc, Thủy trúc phù hợp để làm cảnh trong nhiều khu vực như sân vườn, tiểu cảnh, giếng trời, trồng trong chậu, cạnh hồ nước hay bình thủy sinh. Các chậu cây Thủy trúc có thể đặt trên bàn làm việc, bàn tiếp khách hay tiền sảnh đều rất phù hợp. Nếu trồng thủy sinh, bạn có thể ngắm nhìn bộ rễ tuyệt đẹp của nó trong nước. Hoa và cây Thủy trúc còn có thể kết hợp với các loại hoa khác, giúp tăng tính thẩm mỹ cho các chậu hay lẵng hoa. Không chỉ vậy, Thủy trúc còn được ghi nhận là có khả năng làm trong nước, thanh lọc không khí, qua đó giúp không gian sống của bạn luôn trong lành, mát mẻ. Nếu trồng trong bể á, cây có thể hỗ trợ việc lọc tạp chất và làm trong nước rất tốt. Về ý nghĩa trong phong thủy, Trúc thủy được cho là có khả năng trừ tà. Trồng Trúc thủy trong nhà sẽ giúp gia chủ loại bỏ vận rủi, đạt được nhiều may mắn, thuận lợi trong cuộc sống, công việc. Là loài cây không kén mệnh, dù bạn thuộc tuổi nào, mệnh gì cũng có thể trồng Trúc thủy, tuy nhiên những người thuộc mệnh Thủy được xem là phù hợp nhất với loài cây này. Bởi vậy nếu bạn thuộc mệnh trên thì đừng bỏ qua việc trồng một cây Trúc thủy trong không gian sống hoặc làm việc nhé. Thủy trúc có sức sống khá mãnh liệt, lại có thể phù hợp với cả trên cạn lẫn dưới nước nên cách trồng không có gì quá khó. Trúc thủy được nhân giống bằng cách tách bụi, nghĩa là từ một bụi to, bạn nhẹ nhàng tách cây con ra, cần cẩn thận để giữ được sự an toàn cho bộ rễ, nhờ đó cây mới có thể phát triển tốt. Chuẩn bị đất đảm bảo độ tơi xốp, trộn thêm xơ dừa và phân hữu cơ để bổ sung dinh dưỡng cho đất. Sau khi tách bụi, bạn loại bỏ rễ hư thối, lá vàng úa hay sâu bệnh, tiếp đó mang cây con trồng xuống đất, lấp đất lại và nén nhẹ để giữ chặt cây. Tưới nước đều đặn hàng ngày vào sáng sớm để duy trì độ ẩm cho đất. Nên trồng cây ở nơi thoáng mát, nhiều ánh sáng để thúc đẩy quang hợp, nhưng tránh những nơi có ánh nắng gắt ra nhé. Trồng Thủy trúc thủy sinh có phần đơn giản hơn rất nhiều, vì bạn không cần chuẩn bị đất cầy kỳ, chỉ cần một bình nước, hòa chút dung dịch dinh dưỡng cho cây thủy sinh là xong. Để cây Thủy sinh được đẹp, bạn cần làm sạch bộ rễ, loại bỏ các rễ hư hỏng. Nếu bình có miệng rộng, bạn nên sử dụng một ít sỏi để cố định vị trí cây. Mực nước trong chậu cần ngập hết bộ rễ nhưng không được chạm tới lá để tránh lá bị vàng héo, hư thối. Vài tuần bạn thay nước một lần là cây có thể sinh trưởng khỏe mạnh, khá đơn giản đúng không nào. Tưới nước: nếu trồng trên đất, bạn chỉ cần tưới cho cây mỗi tuần 2 lần, mỗi lần chỉ cần ẩm đất là đủ. Nếu tưới nhiều chút cũng không sao vì cây có khả năng chịu úng tốt. Nếu trồng cây thủy sinh, hoặc ven tiểu cảnh có hồ nước thì bạn không cần phải tưới cây. Trồng trong chậu thì nhớ thay nước định kỳ là cây có thể sống tốt. Dinh dưỡng: tương tự như nước, bạn không cần phải bón phân bổ sung dinh dưỡng cho cây quá nhiều. Cứ khoảng 4 – 5 tháng bạn có thể bón một ít phân NPK, nếu trồng thủy sinh thì nhỏ vài giọt dung dịch dinh dưỡng. Ánh sáng: dù ở điều kiện nhiều sáng hay bóng râm thì cây đều có thể phát triển khỏe mạnh. Bạn chỉ cần đảm bảo không để cây tiếp xúc với ánh nắng gắt của mặt trời quá lâu. Nhiệt độ: cây phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới ở Việt Nam nên bạn không cần quá lo lắng về vấn đề này. Phòng trừ sâu bệnh: trong quá trình chăm sóc, bạn cần thường xuyên quan sát, cắt tỉa lá hư, rễ thối để tránh làm ô nhiễm môi trường sống. Nếu phát hiện cây có sâu rầy thì cần sớm loại bỏ, bị nặng thì có thể mua thuốc về phun. Nhìn chung, bạn không phải quan tâm chăm sóc cây Thủy trúc quá nhiều mà cây vẫn có thể sống tốt và phát triển khỏe mạnh.
Thủy trúc
Cyperus alternifolius là một loài thực vật có hoa trong họ Cói. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1767. Cây thủy trúc có hình dáng đặc sắc, thân và lá đẹp. Cây có thân tròn cứng cáp, bề mặt nhẵn bóng với màu xanh lục đậm. Cây mọc thành bụi dày thẳng như cây cau, dừa tí hon. Rễ của cây là dạng rễ chùm bám chắc vào đất và rất khỏe. Lá thủy trúc mỏng, gân chính nổi rõ, có màu xanh, giảm thành các bẹ ở gốc, mặc khác các lá bắc ở đỉnh lại phát triển lớn, dài xếp vòng xòe ra và cong xuống. Hoa có cuống chung dài thẳng, xếp tỏa ra nổi trên đám lá bắc. Hoa lúc non có màu trắng khi già chuyển dần sang màu nâu. Cây thường hay thay lá, nếu không kịp thời cắt bỏ những lá bị úa vàng thì chúng sẽ rụng xuống làm đục nước, gây mất mỹ quan. Cây có tốc độ sinh trưởng nhanh và là loài cây ưa bóng râm, ưa sáng. Cây còn là thực vật bán cạn nên phát triển rất tốt trong môi trường nước ngập úng qua rễ, tuy nhiên nếu nước quá cao, ngập cả phần thân và gần chạm đến lá thì làm cho lá dễ bị vàng hoặc thối rữa.
Dự trữ bắt buộc (Required reserve) là lượng tiền mặt mà các ngân hàng thương mại phải kí gửi vào quĩ dự trữ của ngân hàng trung ương. Tỉ lệ dự trữ bắt buộc trong tiếng Anh là Required reserve ratio. Tỉ lệ dự trữ bắt buộc là tỉ lệ dự trữ tối thiểu mà các ngân hàng thương mại phải duy trì theo qui định của ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương có thể tác động tới cung ứng tiền tệ thông qua tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Tỉ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng tiền mà hệ thống ngân hàng có thể tạo ra từ mỗi đồng dự trữ. Sự gia tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc hàm ý các ngân hàng phải dự trữ nhiều hơn, do đó cho vay ít hơn từ mỗi đồng mà các ngân hàng nhận được dưới dạng tiền gửi. Kết quả là, tỉ lệ dự trữ của các ngân hàng tăng lên, làm giảm số nhân tiền và làm giảm cung. Những cách thay đổi trong dự trữ bắt buộc tác động đến cung ứng tiền tệ bằng cách gây ra thay đổi số nhân tiền tệ. Ta thấy mm tỉ lệ nghịch với rd. Nếu rd giảm thì mm sẽ tăng, MB không đổi dẫn đến MS tăng và ngược lại, cụ thể:. Hoặc có thể xét trên một góc độ khác: khi giảm rd thì tỉ lệ cho vay của ngân hàng tăng lên. Từ khoản tiền cho vay tăng, các khoản tiền gửi sử dụng séc sẽ tăng lên, tức là tăng tiền ngân hàng. Nhờ vậy mà khối lượng tiền MS cũng tăng. Nhìn chung các ngân hàng trung ương rất ít khi thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc bởi vì sự thay đổi thường xuyên có thể làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng. Ví dụ khi ngân hàng trung ương tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, một số ngân hàng nhận thấy họ bị thiếu hụt dự trữ, mặc dù họ không thấy có sự biến động nào trong tiền gửi.
Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của ngân hàng trung ương về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường là từ ngân hàng trung ương để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là một trong những công cụ của ngân hàng trung ương nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách làm thay đổi số nhân tiền tệ.
Lý thuyết trò chơi coi trò chơi là sự kết hợp hoặc trao đổi giữa hai hay nhiều đối thủ ở đó mỗi đối thủ cố gắng lựa chọn tối ưu hành động (hay nước đi) của mình nhằm đạt được lợi ích tối đa. Người ta chia các trò chơi ra làm 2 loại: trò chơi có tổng bằng 0 và trò chơi có tổng khác 0. Trò chơi có tổng bằng 0 (zero-sum) là trò chơi có tổng giá trị kết quả (mà người thắng được hưởng) là cố định. Bất cứ bên nào thắng (+1) cũng làm cho bên kia thua cuộc (-1), tương ứng với tình huống ganh đua thuần tuý, cuối cùng dẫn tới tổng (+1 -1) = 0. Cờ vua là một trò chơi có tổng bằng 0 bởi không thể có trường hợp cả hai bên đều thắng hoặc đều thua. Nếu một bên thắng thì bên kia nhất định là thua và ngược lại . Thể thao là những ví dụ điển hình nhất của trò chơi có tổng bằng 0. Nhà vô địch chỉ có thể đạt được vinh quang khi toàn bộ các đối thủ khác đều thua cuộc. Trong một giải bóng đá tổng số trận thắng luôn bằng tổng số trận thua cũng là bởi cái tính chất tổng bằng 0 ấy. “Được ăn cả, ngã về không”, việc đầu cơ chứng khoán cũng chính là một trò chơi có tổng bằng 0, ở đó, kẻ đầu cơ có thể mất trắng hoặc thắng lớn, nhưng lợi nhuận mà anh ta thu được có thể đổi bằng cả gia tài, đôi khi mạng sống của những nhà đầu tư tài chính khác. Khác với tổng bằng 0, trong những tình huống có tổng khác 0, lợi ích thu được của người nay không nhất thiết dẫn tới sự mất mát của người kia. Các tình huống này tồn tại với điều kiện tổng kết quả (mà người thắng được hưởng) không bị giới hạn hay cố định. Về bản chất đây là trường hợp kiến tạo kết quả thay vì chia sẻ kết quả giữa các đối thủ. Chẳng hạn như khi nghe hoà nhạc, người ta không phải thích một bản hoà tấu vì người khác không thích nghe. Việc ai đó không thích nghe chẳng có ảnh hưởng gì tới sở thích của bạn trong điều kiện bạn không phải nghe lời bình luận của người đó . Thực ra trong trò chơi tổng bằng 0 cũng có thể tồn tại tình huống tổng khác 0. Chẳng hạn như ví dụ mà R. Kaplan (2003) đưa ra . Ở một trận tennis đơn, mỗi đối thủ chỉ có cơ hội thắng hoặc thua (hoặc là … hoãn trận đấu). Còn ở trận tennis đôi, mỗi đôi có cơ hội thắng hoặc thua ứng với trò chơi có tổng bằng 0, nhưng mỗi cầu thủ trong cùng một đội lại đang tham gia vào một trò chơi có tổng khác 0 mà ở đó họ có thể cùng thua hay cùng thắng. Rõ ràng là họ đang hỗ trợ nhau hết mình để cùng dành phần thắng đúng không. Các tiện ích công cộng, thông tin hay kiến thức cũng có tổng khác 0 bởi người ta có thể sử dụng mà không làm cạn kiệt hay làm mất phần của người khác. Năng lượng mặt trời cũng vậy. Người ta có thể sử dụng thoải mái mà không phải lo những người khác hay cho con cái đời sau không có mà dùng. Việc phát triển công nghệ này còn có lợi cho bất cứ ai trên thế giới (có lẽ trừ mấy ông sản xuất điện truyền thống) và cho cả các thế hệ sau. Ngoài lề một chút, không biết bạn đã từng xem kiến càng “thi đấu” đến “hơi thở cuối cùng” bao giờ chưa. Đó là một cuộc chơi có tổng khác 0 giữa hai chú kiến mà ở đó không có người thắng, chỉ có kẻ chết trước và chết sau mà thôi. Giá mà hai chú kiến có thể trao đổi qua lại và đổi “đối đầu” thành “đối thoại” thì chắc mấy chú nhóc nghịch ngợm cũng chằng còn hứng thú nào mà làm khổ hai chú kiến cỏn con ấy nữa. Đừng tưởng mấy chị buôn chuyến không biết chơi trò tổng khác 0 nhé. Nếu đôi bên không cùng có lợi, có lẽ sẽ chẳng có hoạt động buôn bán nào có thể diễn ra. Người đi buôn chẳng dại gì tham gia vào thương vụ mà không nhìn thấy lợi nhuận gì. Tất nhiên không phải thương vụ buôn bán nào cũng sinh lợi, nhưng người ta vẫn cứ đi buôn đấy thôi. Hầu hết các hiện tượng kinh tế đều có tổng khác 0. Chẳng hạn khi sản lượng khai thác quặng tăng lên, nhà khai thác giảm giá đầu ra. Nhà máy luyện kim qua đó cung ứng đầu vào với giá rẻ hơn cho nhà máy cán thép đảm bảo được vật liệu cho ngành xây dựng với giá thành hạ. Ngành xây dựng tăng trưởng. Người chủ đầu tư xây dựng hài lòng, chủ nhà máy cán thép rồi luyện kim cũng đều hài lòng từ việc gia tăng sản lượng khai thác quặng. Còn nhà khai thác qua đó cũng bán thêm được nhiều quặng. Có thể thấy tất cả đều thắng trong cuộc chơi có tổng khác 0 này. Ngày nay, người ta ứng dụng tổng khác 0 vào những chiến lược kinh doanh win-win, tức là đôi bên cùng có lợi. Bất cứ công ty nào cũng phải nghĩ tới mối lợi của của những người cùng chơi, đó là khách hàng, là nhà cung ứng, là những đối tượng mà người ta gọi là “stakeholders” tức là ít nhiều có một chút lợi ích từ sự thành công của công ty, trong đó có xã hội nữa. Muốn phát triển bền vững, hãy luôn lấy chiến lược win-win làm mục đích hướng tới cho mình. Rõ ràng chiến lược kinh doanh tối ưu phải tham gia vào trò chơi có tổng khác 0 chứ không thể rơi vào vòng xoáy của cuộc chơi có tổng bằng 0 sinh tử. Bài viết rất hay. Cảm ơn bạn rất nhiều vì đã tìm tòi, dịch được bài này. Chúc bạn nhiều thành công.
Trò chơi có tổng bằng không
Trong lý thuyết trò chơi và lý thuyết kinh tế, trò chơi có tổng bằng 0 là một biểu diễn toán học về tình huống trong đó mỗi người tham gia được hoặc mất tiện ích được cân bằng chính xác bởi những mất mát hoặc lợi ích của những người tham gia khác. Nếu tổng số lợi ích của những người tham gia được cộng lại và tính tổng thiệt hại, cả hai sẽ có tổng bằng không. Do đó, việc cắt bánh, trong đó nếu lấy một miếng lớn hơn sẽ làm giảm lượng bánh còn lại cho người khác, là một trò chơi có tổng bằng không nếu tất cả người tham gia đánh giá mỗi đơn vị bánh bằng nhau (xem tiện ích cận biên). Ngược lại, tổng khác không mô tả một tình huống trong đó các khoản lãi và lỗ tổng hợp của các bên tương tác có thể nhỏ hơn hoặc nhiều hơn 0. Một trò chơi có tổng bằng không cũng được gọi là một trò chơi cạnh tranh nghiêm ngặt trong khi các trò chơi có tổng khác không có thể là cạnh tranh hoặc không cạnh tranh. Các trò chơi tổng bằng không thường được giải quyết bằng định lý Minimax liên quan chặt chẽ đến tính đối ngẫu lập trình tuyến tính, hoặc với trạng thái cân bằng Nash.
Nhiều người thắc mắc Màu xám có ý nghĩa gì? Bài viết hôm nay sẽ giải đáp điều này. Màu xám, đôi khi còn được gọi là màu ghi là màu thông thường được nhìn thấy trong tự nhiên. Nó được tạo ra bằng cách trộn màu trắng và màu đen trong các tỷ lệ khác nhau. Phụ thuộc vào nguồn sáng, mắt người có thể cảm nhận màu sắc của một vật hoặc là màu xám hoặc màu khác. Hai màu được gọi là các màu bù nếu màu xám được tạo ra khi ánh sáng của hai màu này tổ hợp với nhau. Các màu gốc thuộc tâm lý là:. Màu xám đôi khi tượng trưng cho cuộc sống tẻ nhạt, chán ngắt, không có mục đích hay những người có cuộc sống khắc khổ. Chất tạo thành não người được nhắc tới như là có màu xám và được gọi là “chất xám”, vì thế nó còn có nghĩa là những cái gì đó thuộc về trí thức. “Lý thuyết chỉ là màu xám…”. Màu xám được sử dụng để miêu tả chủ nghĩa công nghiệp, ngược lại với màu xanh lá cây để miêu tả chủ nghĩa môi trường. Tóc trở thành có màu xám khi người ta đứng tuổi, vì thế màu xám liên tưởng tới những người cao tuổi, và nó truyền cảm hứng cho việc đặt tên của tổ chức Gray Panthers ở Mỹ. Màu xám được sử dụng như màu của trang phục cho quân đội Liên minh miền Nam trong Nội chiến Hoa Kỳ, ngược lại với trang phục màu xanh lam của binh lính Liên bang miền Bắc Hoa Kỳ. Trong sáng tạo: Màu xám có ý nghĩa là sự thông minh, ví như nhiều người nói chất xám là để nói đến sự suy nghĩ – sáng tạo, ai có chất xám nhiều thì ắt hẳn họ giỏi hơn người rồi. Trong tuổi tác: Màu xám có ý nghĩa là sự già đi, là những người đứng tuổi với mái tóc bạc hay nhiều người nói rằng là muối tiêu. Trong tình yêu: mọi thứ đang dần đi vào ngõ cụt, nhưng vẫn chưa đến nổi, có thể quay đầu.
Xám
Màu xám, đôi khi còn được gọi là màu ghi (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp gris /ɡʁi/), là màu thông thường được nhìn thấy trong tự nhiên. Nó được tạo ra bằng cách trộn màu trắng và màu đen trong các tỷ lệ khác nhau. Phụ thuộc vào nguồn sáng, mắt người có thể cảm nhận màu sắc của một vật hoặc là màu xám hoặc màu khác. Hai màu được gọi là các màu bù nếu màu xám được tạo ra khi ánh sáng của hai màu này tổ hợp với nhau. Màu vàng chanh và màu tíaMàu xám là tự bù (trong ảo giác quang học thì màu sắc có thể bị chuyển sang màu bù của nó nếu nhìn lâu vào một vật).
Nói một cách đơn giản, đại số là việc tìm ẩn số hoặc đưa các biến số trong cuộc sống thực vào các phương trình và sau đó giải chúng. Thật không may, nhiều sách giáo khoa đi thẳng vào các quy tắc, thủ tục và công thức, mà quên rằng đây là những vấn đề thực tế đang được giải quyết và bỏ qua phần giải thích về đại số ở cốt lõi của nó: sử dụng các ký hiệu để biểu diễn các biến số và thừa số còn thiếu trong phương trình và thao tác chúng theo cách cách để đi đến một giải pháp. Đại số là một nhánh của toán học thay thế các chữ cái cho các số, và một phương trình đại số biểu thị một thang đo trong đó những gì được thực hiện ở một bên của thang đo cũng được thực hiện ở phía bên kia của thang đo và các số đóng vai trò là hằng số. Đại số có thể bao gồm số thực , số phức, ma trận, vectơ và nhiều dạng biểu diễn toán học khác. Lĩnh vực đại số có thể được chia nhỏ hơn nữa thành các khái niệm cơ bản được gọi là đại số sơ cấp hoặc nghiên cứu trừu tượng hơn về các con số và phương trình được gọi là đại số trừu tượng, nơi cái trước được sử dụng trong hầu hết toán học, khoa học, kinh tế, y học và kỹ thuật trong khi cái sau là hầu như chỉ được sử dụng trong toán học cao cấp. Đại số tiểu học được giảng dạy trong tất cả các trường học của Hoa Kỳ bắt đầu từ lớp bảy đến lớp chín và tiếp tục tốt lên trung học và thậm chí đại học. Môn học này được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực bao gồm y học và kế toán, nhưng cũng có thể được sử dụng để giải quyết vấn đề hàng ngày khi nói đến các biến chưa biết trong phương trình toán học. Một ứng dụng thực tế của đại số sẽ là nếu bạn đang cố gắng xác định xem bạn bắt đầu một ngày với bao nhiêu quả bóng bay nếu bạn bán được 37 quả bóng bay nhưng vẫn còn 13 quả bóng bay. Phương trình đại số cho bài toán này sẽ là x - 37 = 13 trong đó số bong bóng bạn bắt đầu được biểu thị bằng x, ẩn số mà chúng tôi đang cố gắng giải. Mục tiêu trong đại số là tìm ra ẩn số và để làm như vậy trong ví dụ này, bạn sẽ thao tác với thang của phương trình để tách x trên một cạnh của thang bằng cách thêm 37 vào cả hai bên, dẫn đến phương trình của x = 50 nghĩa là bạn bắt đầu một ngày với 50 quả bóng bay nếu bạn có 13 quả sau khi bán 37 quả. Ngay cả khi bạn không nghĩ rằng bạn sẽ cần đại số bên ngoài các hội trường linh thiêng của trường trung học bình thường của bạn, quản lý ngân sách, thanh toán hóa đơn và thậm chí xác định chi phí chăm sóc sức khỏe và lập kế hoạch cho các khoản đầu tư trong tương lai sẽ yêu cầu hiểu biết cơ bản về đại số. Cùng với việc phát triển tư duy phản biện, cụ thể là logic, các mẫu, giải quyết vấn đề , suy luận và suy luận quy nạp, việc hiểu các khái niệm cốt lõi của đại số có thể giúp các cá nhân xử lý tốt hơn các vấn đề phức tạp liên quan đến các con số, đặc biệt khi họ bước vào nơi làm việc, nơi có các tình huống thực tế liên quan đến các biến chưa biết. đến chi phí và lợi nhuận đòi hỏi nhân viên phải sử dụng phương trình đại số để xác định các yếu tố còn thiếu. Cuối cùng, một người càng biết nhiều về toán học, thì cá nhân đó càng có cơ hội thành công trong lĩnh vực kỹ thuật, tính toán, vật lý, lập trình hoặc bất kỳ lĩnh vực nào khác liên quan đến công nghệ và đại số và các môn toán cao hơn khác thường là các khóa học bắt buộc để đầu vào hầu hết các trường cao đẳng và đại học. Từ hóa học đến lập trình máy tính, nghệ thuật cho đến Thế chiến II, Chúng tôi cung cấp hướng dẫn, mẹo và tài nguyên để giúp bạn hiểu thêm về thế giới xung quanh chúng ta.
Hàm số đại số
Trong toán học, hàm số đại số hay hàm đại số là một hàm số có thể được định nghĩa là nghiệm của phương trình đa thức. Các hàm đại số thường là sử dụng một số lượng các số hạng hữu hạn, chỉ liên quan đến các phép toán đại số cộng, trừ, nhân, chia và lũy thừa. Tuy nhiên, một số hàm đại số không thể được biểu thị bằng các biểu thức hữu hạn như vậy (đây là định lý Abel-Ruffini). trong đó các hệ số ai(x) là các đa thức của x, với các hệ số nguyên. Nó có thể được chỉ ra rằng cùng một tập hợp các hàm có được nếu các số đại số được cho phép làm các hệ số ai(x). Nếu các số siêu việt xuất hiện trong các hệ số hàm, nói chung thì hàm đó không còn là hàm đại số nữa, nhưng là hàm đại số trên trường do các hệ số trên tạo ra. Giá trị của hàm đại số tại một giá trị biến là số hữu tỷ, và nói chung, khi biến là một số đại số thì luôn luôn là một số đại số.
Nếu bạn băn khoăn không biết nên làm gì khi không may mang thai tuổi vị thành niên. Hãy theo dõi những chia sẻ dưới đây. Trẻ vị thành niên mang thai không có trợ giúp của bố mẹ sẽ không biết chăm sóc tiền sản. Chăm sóc tiền sản rất quan trọng, đặc biệt là trong những tháng đầu của thai kỳ. Khám thai thường xuyên sẽ theo dõi sự phát triển của bé, giải quyết biến chứng phát sinh nhanh chóng. Việc bổ sung các vitamin như axit folic rất quan trọng, giúp ngăn ngừa các dị tật bẩm sinh (khuyết tật ống thần kinh). Trẻ vị thành niên mang thai có nguy cơ cao bị cao huyết áp. Ngoài ra, trẻ cũng có nguy cơ bị tiền sản giật cao. Huyết áp cao, lượng protein dư thừa trong nước tiểu, tay và mặt bị sưng, tổn thương các cơ quan. Thai kỳ kéo dài khoảng 40 tuần. Nếu bé sinh trước 37 tuần thì được gọi là sinh non. Nếu trẻ có dấu hiệu sinh quá sớm, bác sĩ có thể can thiệp bằng thuốc. Một số trường hợp, trẻ phải chào đời sớm vì sức khỏe của mẹ hoặc bé. Những bé sinh sớm hơn dễ gặp các vấn đề sức khỏe hô hấp, tiêu hóa, thị lực, nhận thức …. Trẻ vị thành niên có nguy cơ sinh con nhẹ cân cao. Trong trường hợp này, trẻ sinh ra sẽ có cân nặng thấp hơn bình thường, có bé chỉ nặng 1,2-2kg. Những trẻ sinh nhẹ cân cần phải được chăm sóc đặc biệt sau khi sinh. Con của các “bà mẹ trẻ” cũng có nguy cơ kém phát triển và tử vong cao hơn so với con của các bà mẹ tuổi trưởng thành. Mẹ trẻ tuổi vị thành niên sẽ rất khó khăn trong khi sinh. Do khung chậu chưa phát triển đầy đủ, phải can thiệp bằng các thủ thuật, phẫu thuật (foóc-xép, giác hút). Sau đẻ dễ có nguy cơ chảy máu, nhiễm khuẩn hậu sản. Nguy cơ tử vong mẹ ở lứa tuổi này cao hơn so với các bà mẹ sinh con ở tuổi trưởng thành. Trẻ vị thành niên chưa có biện pháp an toàn khi quan hệ tình dục dễ mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục. Các bệnh có thể mắc là Chlamydia, HIV, nhiễm trùng tử cung… Điều này cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thai nhi. Trẻ vị thành niên có thai dễ bị trầm cảm sau sinh. Nếu bạn thấy trẻ hay buồn khi đang mang thai hoặc sau khi sinh, hãy động viên tinh thần trẻ. Hoặc đưa trẻ đi tư vấn bác sĩ. Trầm cảm có thể ảnh hưởng đến việc chăm sóc trẻ sơ sinh. Những đứa trẻ không thể nói với bố mẹ việc mang thai sẽ cảm giác sợ hãi, cô lập. Nếu không có sự hỗ trợ của gia đình hoặc người lớn, trẻ sẽ ít ăn uống, nghỉ ngơi. Và trẻ ít có khả năng thường xuyên đi khám thai trước khi sinh. Vì vậy, mẹ và người thân là người hỗ trợ tinh thần tốt nhất cho trẻ trong thời gian này. Trẻ mang thai ở tuổi vị thành niên sẽ luôn cảm giác sợ hãi, cô lập. Ở lứa tuổi vị thành niên, do còn thiếu các thông tin, nhiều em không biết các dấu hiệu để nhận biết có thai. Khi tìm đến cơ sở y tế thường tuổi thai đã lớn. Nhiều bạn, do mặc cảm, xấu hổ nên thường tìm kiếm dịch vụ phá thai không an toàn. Cơ thể chưa phát triển hoàn chỉnh nên thủ thuật phá thai ở vị thành niên dễ xảy ra tai biến hơn người trưởng thành. Những ảnh hưởng tâm lý sau phá thai ở tuổi vị thành niên rất nặng nề và kéo dài. Mang thai ở tuổi vị thanh niên chắc chắn nữ sẽ lựa chọn bỏ thai. Và những tai biến và hậu quả của phá thai ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và hạnh phúc gia đình. Hãy thận trọng trước những chỗ phá thai không an toàn. Để có thông tin chính xác, bạn hãy khám và nhờ bác sĩ ở các bệnh viện lớn tư vấn. Nếu còn bất cứ thắc mắc nào cần tư vấn, giải đáp chị em có thể để lại câu hỏi tại . Đội ngũ y bác sĩ của Đông Phương sẽ trả lời câu hỏi của bạn trong trời gian sớm nhất.
Mang thai ở tuổi vị thành niên
Mang thai ở tuổi vị thành niên, còn được gọi là mang thai ở tuổi vị thành niên, mang thai ở phụ nữ dưới 20 tuổi. Mang thai có thể xảy ra khi quan hệ tình dục sau khi bắt đầu rụng trứng, có thể là trước kỳ kinh nguyệt đầu tiên (kinh nguyệt) nhưng thường xảy ra sau sự khởi đầu của kỳ kinh nguyệt. Ở những phụ nữ được nuôi dưỡng tốt, kỳ kinh nguyệt đầu tiên thường diễn ra vào khoảng 12 hoặc 13. Thanh thiếu niên mang thai phải đối mặt với nhiều vấn đề liên quan đến mang thai giống như những phụ nữ khác. Có những lo ngại thêm cho những em gái dưới 15 tuổi vì các em ít có khả năng phát triển thể chất để duy trì thai kỳ khỏe mạnh hoặc sinh con. Đối với các cô gái ở độ tuổi 15-19, rủi ro liên quan nhiều đến các yếu tố kinh tế xã hội hơn là ảnh hưởng sinh học của tuổi tác. Rủi ro về cân nặng khi sinh thấp, chuyển dạ sớm, thiếu máu và tiền sản giật có liên quan đến tuổi sinh học, được quan sát thấy ở trẻ vị thành niên ngay cả sau khi kiểm soát các yếu tố nguy cơ khác (như tiếp cận chăm sóc trước khi sinh, v.v.).Mang thai ở tuổi vị thành niên có liên quan đến các vấn đề xã hội, bao gồm trình độ học vấn thấp hơn và nghèo đói.
3 Mục đích của việc trồng cây óc chó là làm gì?3.1 Cây óc chó lấy nguyên liệu gỗ làm đồ nội thất3.2 Cây óc chó để lấy quả. 4 Tìm hiểu chi tiết về cây gỗ óc chó lấy gỗ4.1 Gỗ óc chó là gỗ gì?4.2 Gỗ óc chó có mấy loại?. 5 Ứng dụng của cây óc chó và quả óc chó trong đời sống5.1 Đặc điểm cây óc chó5.2 Đặc điểm quả óc chó5.3 Ưu điểm của cây óc chó5.4 Ưu điểm của quả óc chó5.5 Nhược điểm của gỗ óc chó walnut. 6 Gỗ óc chó là gì thuộc nhóm mấy, có tốt không, có đắt không6.1 Vân gỗ óc chó trông như thế nào?6.2 Gỗ óc chó có đắt không?6.3 Gỗ óc chó có tốt không?6.4 Gỗ óc chó thuộc nhóm mấy?. Gỗ óc chó tiếng anh là Walnut, đây là loại cây được sinh trưởng phổ biến ở khu vực Bắc Mỹ. Đây là loại cây trồng có giá trị kinh tế cao đặc biệt là quả óc chó. Cây óc chó là loại cây thuộc họ nhà hồ Đào ( tên khoa học là Juglandaceae). Cây sinh trưởng và phát triển ở điều kiện đất phù sa màu mỡ. Khí hậu luôn cung cấp đủ độ ẩm, ánh sáng trực tiếp của mặt trời. Cây óc chó là loại cây lớn, khi trưởng thành có thể cao lên đến 25 -35m. Bán kính thân cây có thể lên đến 2m thân cây mập. Tán cây rộng, là loại cây ưa nắng, cần nhiều ánh nắng để phát triển. Quả của cây này gọi là quả óc chó. Gỗ óc chó tự nhiên có mặt ở khắp mọi nơi trên thế giới. Cây óc chó ở Việt nam được trồng chủ yếu ở Phí Tây Bắc vùng biên giới như Sapa, Lào cai. Một số loài cây khác được trồng ở khu vực Bắc Mỹ, nơi có nhiều phù sa màu mỡ. Bề mặt của cây gỗ óc chó luôn được phủ 1 lớp dày bảo vệ trước khi phủ lớp màu. Vì vậy loại gỗ này giữ màu sơn rất tốt. Nên được dùng nhiều trong thiết kế nội ngoại thất. Những đồ dùng nội thất được làm từ loại gỗ này luôn mới đẹp và sáng bóng. Ngoài ra thì trên loài cây này còn có một lớp dầu giúp gỗ tránh bụi bẩn. Nên khi sử dụng không cần mất nhiều thời gian lau chùi màu đồ dùng vẫn giữ được màu sắc tự nhiên nhất. Trên thực tế có rất nhiều loài cây óc chó và được phân bố trên khắp thế giới. Có đến khoảng 21 loài cây óc chó và nhân ( hạt óc chó) đều có thể ăn được. Tuy nhiên loài cây óc chó trồng để lấy quả luôn có giá trị kinh tế cao. Còn có tên gọi là mạy châu ( Hồ Đào Bắc Bộ hoặc Hạnh Đào Bắc) thuộc chi Carya, loại cây này thường được phân bố chủ yếu tại khu vực các nước Châu Á. Gỗ óc chó là loại gỗ cứng, thường có phần dát gỗ màu kem. Tâm gỗ có màu nâu nhạt đến màu socola. Vân gỗ có hình dáng cuộn xoáy rất đẹp mắt, vì vậy khó có thể nhầm lẫn loại gỗ này với nhóm gỗ khác. Bởi màu sắc đặc trưng có khi là màu ánh tím đỏ và sọc sậm. Gỗ óc chó rất cứng có khả năng chống va chạm mạnh. Chịu được lực uốn xoắn lớn, khả năng uốn cong bằng hơi nước rất tốt. Vì vậy đây cũng là loại gỗ được lựa chọn để làm các loại cửa gỗ công nghiệp. Loại cửa này có khả năng chịu được khí hậu và môi trường nóng ẩm của Việt Nam. Có rất nhiều loại gỗ óc chó khác nhau, nhưng chúng ta có thể chia chúng làm 2 loại chính đó là, cây óc chó lấy hạt và cây óc chó lấy gỗ. Theo rất nhiều tài liệu nghiên cứu khoa học. Quả óc chó là loại quả rất tốt cho sức khỏe con người nhất là với trẻ em và phụ nữ mang thai. Loại cây óc chó lấy hạt này cũng được trồng nhiều ở phía đông nước Mỹ. Hạt óc chó Mỹ có nhiều chất dinh dưỡng thiết yếu. Vì vậy giá thành loại hạt óc chó mỹ luôn cao hơn so với giá óc chó rừng việt nam. Cây óc chó lấy gỗ được trồng nhiều tại khu vực Bắc Mỹ. Khí hậu nơi đây là điều kiện thuận lợi để cây sinh trưởng và phát triển tốt. Cây óc chó là loại cây thân gỗ sống lâu năm. Được trồng cũng có và mọc tự nhiên trong rừng cũng rất nhiều. Trung bình các loại cây này đều có chiều cao trung bình khoảng 30m. Thân cây nhẵn có màu tro, lá cây dài lên đến 40cm lá kép chia làm 7 – 9 chét lá. Hoa óc chó (đơn sắc) khi nở có màu lục nhạt và có hình đuôi sóc rất đẹp. Là loại quả giàu dinh dưỡng và dưỡng chất như omega3. Quả óc chó non có màu xanh, thường mọc theo chùm, một chùm thường có 3 quả. Khi già quả sẽ chuyển sang màu nâu vỏ rất cứng. Muốn ăn hạt óc chó phải dùng kìm để tách lớp vỏ cứng bên ngoài ra. Hạt óc chó có hình dáng giống não động vật. Vân gỗ óc có là những đường nét uyển chuyển mềm mại, dày dặn trong từng thớ gỗ. Màu sắc sinh động mang lại cho người dung cảm giác cuốn hút gần gũi. Vẻ đẹp tao nhã, thân thiện. Có 2 loại vân goỗ óc chó đó là dạng cuộn xoáy và lượn sóng. Với mỗi loại vân gỗ sẽ tạo nên những thành phẩm khác nhau và mang nét đẹp đặc trưng của riêng nó mà không loại gỗ nào có thể có được. Đây là câu hỏi được đa số tín đồ yêu thích đồ dùng nội thất óc chó quan tâm. Và đương nhiên những sản phẩm nội thất được làm từ goỗ óc chó không hề rẻ. Theo khảo sát trên thị trường thì giá gỗ óc chó nhập khẩu có giá dao động từ 80.000.000 – 100.000.000 VNĐ/m3. Đây chỉ là giá khảo sát thôi nhé, tùy vào mỗi thời điểm khác nhau mà sẽ có giá dao động khác nhau. Trước tình hình dịch bệnh vi rút corona (covid 19) đang diễn biến căng thẳng tại các nước phương Tây. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi thì giá cả mọi đồ dùng nội thất hoặc đồ goỗ óc chó nhập khẩu về sẽ rất khan hiếm và có thể tăng cao hơn nữa. Tuy nhiên với những tín đồ của loại gỗ này. Dù giá gỗ óc chó không hề rẻ cũng không phải là sự quan tâm quá lớn. Bởi giá thành luôn đi kèm với chất lượng, mang đến sự sang trọng quý phái cho mỗi không gian ngôi nhà. Gỗ óc chó rất tốt, độ bền cao, ít bị giãn nở. Kháng sâu mối mọt rất tốt, thích nghi nhanh với mọi loại môi trường. Cửa làm từ goỗ óc chó hạn chế cong vênh, co ngót, chịu được đinh vít, bám dính siêu tốt. Có thể nói đây là loại gỗ thượng hạng rất tốt. Gỗ óc chó thuộc nhóm IV và nằm trong danh sách các loại gỗ quý. Là loại gỗ được yêu thích không chỉ tại thị trường Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới. Điểm nhấn nổi bật ở nhóm gỗ này chính là ở vân gỗ mềm mại. Cửa gỗ công nghiệp là dòng cửa hiện nay được đa số người tiêu dùng tin tưởng lựa chọn. Bởi dòng cửa này trông không khác gì cửa gỗ tự nhiên. Lại có nhiều đặc điểm ưu việt mà cửa gỗ tự nhiên không có được. Tuy nhiên thì không phải cửa gỗ công nghiệp. Cửa gỗ phòng ngủ đẹp luôn là sự lựa chọn hoàn hảo cho không gian của bạn. Với thiết kế đa dạng, phong cách hiện đại và những tính năng vượt trội. Những mẫu cửa gỗ phòng ngủ đẹp 2020. Đem lại cho không gian phòng ngủ ấm áp – sang trọng – hiện đại. Phòng ngủ là không gian riêng để chúng ta có thể nghỉ ngơi sau 1 ngày làm việc vất vả. Cửa phòng ngủ chính là cái nhìn đầu tiên khi bước vào phòng. Căn phòng mà thiếu đi cửa sẽ không hoàn thiện và sẽ thấy trống trải và thiếu thiếu. Vì vậy chi phí. Bách Việt là đơn vị chuyên cung cấp các giải pháp tổng thể về cửa: Cửa cuốn Austdoor, cửa gỗ công nghiệp, cửa nhôm xingfa, rèm cửa nhập khẩu 100% Hàn Quốc. Bách Việt cam kết: 100% các sản phẩm mà chúng tôi cung cấp đều là sản phẩm chính hãng. Chế độ bảo hành bảo trì dài hạn.
Cây óc chó
Cây óc chó (danh pháp khoa học: Juglans regia) là một loài thực vật có hoa trong Chi Óc chó họ Juglandaceae. Loài này được Carl von Linné mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. Cây óc chó thuộc họ Juglandaceae, phân bố từ phía Đông khu vực Balkan qua dãy Himalayas đến phía Tây Nam Trung Quốc. Những khu rừng óc chó lớn nhất nằm ở Kyrgyzstan, ở độ cao từ 1,000 đến 2,000 m so với mực nước biển. Cây óc chó đã mang sang và trồng phổ biến ở Châu Âu trong thời kì cổ đại qua các hoạt động chinh phạt và thương mại. Cây óc chó thuộc dạng cây lớn, cây trưởng thành có thể đạt độ cao 25–35 m, bán kính thân cây có thể lên đến 2m, thân cây mập, ngắn nhưng tán cây thì rất rộng để giành được lợi thế cạnh tranh về ánh sáng trong các khu rừng. Cây óc chó là loài cây ưa nắng và cần nhiều nắng để phát triển.
Hình tượng loài thú (động vật có vú) hay hình tượng những con thú đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét trong đời sống vật chất và tinh thần của con người. Động vật có vú nói chung đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra và duy trì đời sống của con người mà trên đó đã góp phần phác thảo, định hình một phần yếu tố của nền văn hoá của con người. Chăn nuôi thú là công cụ trong sự phát triển của nền nông nghiệp và văn minh nhân loại, làm nông nghiệp thay thế việc săn bắt trên khắp thế giới. Trong sự biến thiên của hình thái kinh tế xã hội, sự kiện chăn nuôi tách khỏi trồng trọt đánh dấu một bước phát triển mới trong nấc thang của xã hội loài người. Trong đó, các loài vật nuôi được nuôi nhiều nhất là loài thú, cụ thể là chó, mèo và thỏ. Về mặt kinh tế, động vật có vú cung cấp các sản phẩm từ sữa và phần lớn thịt cho con người ăn như là một loài thực phẩm thiết yếu, dù là được chăn nuôi hay bị săn bắn (thịt rừng). Các loài thú cũng mang lại da và len cho quần áo và các trang thiết bị tạo ra sự phát triển của ngành thuộc da và dệt sợi. Cho đến khi có sự vận chuyển cơ giới, động vật có vú được thuần hóa cung cấp một lượng lớn năng lượng sử dụng cho công việc và vận chuyển. Chúng phục vụ như là các mô hình trong nghiên cứu sinh học, chẳng hạn như trong di truyền, và trong thử nghiệm ma túy và sau này là thử nghiệm chất nổ. Về mặt văn hoá và đời sống, động vật có vú là vật nuôi phổ biến nhất, với hàng chục triệu con chó, mèo và các động vật nuôi khác bao gồm thỏ nhà và chuột lang, chuột cảnh được nuôi bởi các gia đình trên thế giới. Động vật có vú như ngựa và hươu là một trong những chủ đề nghệ thuật sớm nhất về hội họa, được tìm thấy trong các bức tranh hang động thời Paleolithic ở trên ở Lascaux. Các nghệ sĩ chính như Albrecht Dürer, George Stubbs và Edwin Landseer nổi tiếng là những bức chân dung của những con vật. Động vật, đặc biệt là loài thú đóng vai trò rất nhiều trong văn học, phim ảnh (Phim về động vật), thần thoại, và tôn giáo (tín ngưỡng thờ thú). Charles Darwin, Jared Diamond và những người khác đã ghi nhận tầm quan trọng của động vật có vú thuần hóa trong sự phát triển của nền nông nghiệp và nền văn minh. Sự chuyển đổi này từ việc săn bắt và tập trung đàn chăn nuôi và trồng cây trồng là một bước tiến quan trọng trong lịch sử loài người. Các nền kinh tế nông nghiệp mới, dựa trên các động vật có vú thuần hóa, đã gây ra sự tái cấu trúc triệt để các xã hội loài người, những thay đổi trên toàn thế giới về đa dạng sinh học và những thay đổi đáng kể về địa hình và bầu khí quyển Trái Đất là những kết quả quan trọng. Năm 1997, gia súc cung cấp khoảng 25 đến 64% sức sản xuất trong trồng trọt trong các hệ thống tưới tiêu trên thế giới, và 300 triệu súc vật cày kéo được sử dụng trên toàn cầu trong nông nghiệp quy mô nhỏ, hộ gia đình. Động vật có vú là một bộ phận lớn của các loài gia súc chăn nuôi cho thịt và các sản phẩm từ sữa trên toàn thế giới, dù được canh tác một cách kỹ lưỡng hay bởi sự di chuyển của động vật hoang dã. Chúng bao gồm khoảng 1,4 tỷ con bò, 1,2 tỷ con cừu, 1 tỷ con lợn, và trên 700 triệu con thỏ. Giá trị sản xuất chăn nuôi gia súc toàn cầu năm 2013 ước tính đạt khoảng 883 tỷ đô la. Jared Diamond nhận thấy rằng các động vật có vú lớn đã được thuần hoá tiêu thụ một chế độ ăn uống mà con người có thể cung cấp, chúng tăng trưởng nhanh và sinh sản thường xuyên và luôn sẵn sàng sinh sản. Chúng có hệ thống phân cấp thống trị của đàn gia súc thuận tiện và luôn điềm tĩnh khi bị giam nhốt. Carlos Driscoll và các đồng nghiệp đã đưa ra một kết luận tương tự, quan sát thấy rằng thú nuôi đã được thiết kế một cách thông minh để thay đổi thành phần di truyền của sinh vật tự nhiên đã làm cho các công cụ thực sự. Theo một nghĩa nào đó, nông dân thời kỳ đồ đá mới là nhà di truyền học đầu tiên và nông nghiệp là đòn bẩy mà họ cải biến thế giới. Đối với các bộ tộc du mục, việc nuôi các loài vật này mang đến cho họ một nguồn giá trị rất to lớn. Việc nuôi dê và cừu thực sự phù hợp với điều kiện của các tộc du mục bởi chúng không đòi hỏi quá nhiều công sức chăm sóc. Từ xưa, lông thú và da thú được đan, may thành quần áo. Gia súc dã cung cấp một phần lớn nguyên liệu da thành phẩm được sử dụng cho các sản phẩm quần áo như giày dép, túi xách và thắt lưng và những mặt hàng thời trang. Len đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ cho quần áo bao gồm cả phù hợp và cũng như hàng dệt kim. Nguồn gốc của len từ cừu, và sau đó là một số giống dê lấy len. Ở thần thoại Na Uy có “Berserker” nghĩa là “bear coat” (áo choàng gấu) để chỉ một lớp da thú lớn thường được các chiến binh khoác trong khi chiến đấu, các chiến binh dũng mãnh nhất kiểu này được truyền tụng là có bản tính thú vật, dã man như loại da thú mà họ choàng trên người, hầu hết mặc da gấu nhưng Úlfhéðnar là mang bộ da sói. Ngoài ra, chăn nuôi gia súc được ví như có một đồ dự trữ của người xưa, vì nó cung cấp một không gian dự trữ dinh dưỡng cho ngày mai, trong quá trình chăn nuôi, họ nhận ra các loài vật này đều nuôi con bằng sữa mẹ, có nghĩa là sữa của chúng là bổ dưỡng, từ đó, đã học được cách vắt sữa từ các loài thú để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng và cũng có ý nghĩa hạn chế tập tính giết thú lấy thịt, vì việc vắt sữa cung cấp nguồn dinh dưỡng lâu dài hơn hẳn. Con người nhờ có tiến hóa và tập tính chăn nuôi động vật lấy sữa đã dẫn đến thói quen uống sữa ngay cả khi đã trưởng thành. Sữa được coi là thực phẩm lành mạnh, các loại chất dinh dưỡng đều được tìm thấy trong sữa, các vitamin, khoáng chất, protein, carbohydrate và chất béo thiết yếu có trong sữa làm cho nó trở thành một thực phẩm tốt cho con người. Gia súc đang lao tác bao gồm gia súc (trâu, bò, lạc đà, ngựa) đã được sử dụng để làm việc và vận chuyển sản phẩm nông nghiệp, số lượng chúng giảm đi khi chuyên chở cơ giới hoá và hiện đại hóa. Năm 2004, chúng vẫn cung cấp khoảng 80% năng lượng cho các trang trại nhỏ chủ yếu ở các nước nghèo, và khoảng 20% lượng vận tải thế giới, chủ yếu ở các vùng nông thôn. Ở vùng núi non không phù hợp với xe có bánh lái, súc vật tiếp tục vận chuyển hàng hoá đắc lực. Ở những vùng hạn chế về công suất máy móc, một số loại gia súc được sử dụng không chỉ để làm đất và các mục đích trang trại khác, mà còn để vận chuyển người và hàng hóa, nhất là những vùng núi non, đồi đèo, rẻo cao, địa hình hiểm trở khi phương tiện cơ giới là chưa thể (ngựa thồ). Chăn nuôi gia súc cung cấp nhiều loại thực phẩm và sản phẩm phi thực phẩm; thứ hai bao gồm da, len, dược phẩm, sản phẩm xương, protein công nghiệp và chất béo. Đối với nhiều lò mổ, rất ít sinh khối động vật có thể bị lãng phí khi giết mổ. Ngay cả những chất trong ruột bị loại bỏ khi giết mổ có thể được thu hồi để sử dụng làm phân bón. Phân gia súc giúp duy trì độ phì nhiêu của các vùng đất chăn thả. Phân chuồng thường được thu thập từ các chuồng trại và khu vực cho ăn để bón cho đất trồng trọt. Ở một số nơi, phân thú được sử dụng làm nhiên liệu, trực tiếp (như ở một số nước đang phát triển), hoặc gián tiếp (như một nguồn mêtan để sưởi ấm hoặc để tạo ra điện). Động vật có vú đóng vai trò quan trọng trong khoa học như động vật thực nghiệm với những thí nghiệm trên động vật, cả trong nghiên cứu sinh học cơ bản, như di truyền, và trong việc phát triển các loại thuốc mới, phải được kiểm tra một cách triệt để để chứng minh sự an toàn của chúng. Hàng triệu động vật có vú, đặc biệt là chuột bạch, được sử dụng trong các thí nghiệm mỗi năm. Một tỷ lệ nhỏ các động vật có vú là động vật linh trưởng không phải là con người, như khỉ nâu đỏ và khỉ ăn cua, được sử dụng trong nghiên cứu cho sự giống nhau của chúng với con người nhất là về hệ gen, đặc điểm cơ thể và tập tính. Trong các loài thú thì loài chuột có vai trò quan trọng trong nền khoa học như là vật thí nghiệm lý tưởng về sinh học, khi ngành di truyền học có những bước đi đầu tiên thì chuột được coi như một vật mẫu khoa học rộng rãi. Với thân hình nhỏ bé, khả năng sinh sản nhanh (21 ngày mang thai) và tương đồng với con người về sinh lý và di truyền (90% các gien người giống chuột), chuột trở thành vật thí nghiệm tối ưu, rẻ tiền, sẵn có. Một số loài thú hiện diện trong văn hóa truyền thống trên khắp thế giới, hàm chứa những ý nghĩa tích cực, linh thiêng và cả những ý nghĩa tiêu cực. Những biểu tượng của các loài thú thường thấy như Sư tử vốn là vua của muôn thú, không e sợ bất cứ loài thú nào, tiếng hống, tiếng gầm của sư tử còn khiến loài khác phải khiếp sợ mà khiếp phục. Voi được coi là biểu tượng về sức mạnh của tinh thần, một con voi to lớn hoang dã thì dường như không thể kiểm soát nổi nhưng khi được thuần hóa thì chúng được chế ngự với tinh thần bất khuất, không quay về bản tính hoang dã xưa. Tê giác thì là loài vật được xuất hiện trong bài “Kinh tê giác” và trở thành biểu tượng cho những người tu hành kiên trì dù cho không có bạn tu hành nhưng vẫn một mình tu tập tâm ý cho đến ngày giải thoát. Ngựa tượng trưng cho sự trung thành, nhanh nhạy, gần gũi với con người cũng là biểu tượng của năng lượng và sức lực trong việc hành pháp. Trâu là con vật mang nhiều đức tính tốt như hiền lành, bền bỉ, mạnh mẽ, trâu được coi là biểu tượng của sự an lành, no đủ, mang lại may mắn và tài lộc dồi dào, con trâu vốn là loài có bản tính siêng năng, nhẫn nại không hung hăng nhưng lại vô trí, phật giáo Đại thừa thường lấy việc chăn trâu dụ cho việc luyện tâm cần công phu tu tập lâu ngày. Gấu là biểu tượng may mắn đối với những người Mỹ bản địa, người Siberia cổ và nhóm những người di cư tới Alaska (Mỹ). Còn chuột thì nếu thấy chuột xuất hiện trong nhà vào ban trưa là điềm báo gia chủ dễ bị hao tài, nếu thấy chuột reo trong nhà lại là báo tin vui, nếu đặt bẫy chuột và thấy có hai con cùng sập bẫy thì gặp được may mắn, nếu chuột kéo nhau hàng đàn ra khỏi nhà nào báo hiệu trong nhà sẽ gặp nhiều bất hạnh rủi ro. Sự mê tín, niềm tin về việc biết trước hoặc thay đổi được một số điều vận rủi tồn tại khắp nơi trên thế giới, đó là các “động vật ma thuật” gồm cả những con vật thần thoại không được khoa học công nhận và các loài có tồn tại trên thực tế và được cho là có khả năng ma thuật đối phó với tâm lý mê tín dị đoan lại là lĩnh vực đạo đức khá tế nhị đối với các nhà bảo tồn nếu chỉ nói một cách đơn giản với mọi người là hãy từ bỏ niềm tin của họ đi thì điều đó có thể làm hỏng cả một hệ thống niềm tin phức tạp kết nối mọi người với thiên nhiên, cả giới khoa học cũng ngại đụng chạm tới vấn đề mê tín cho thấy văn hoá dân gian có thể gây ảnh hưởng tới mức nào. Ở phương Tây niềm mê tín phổ biến nỗi người ta kiêng kỵ mèo mun xem loài mèo đen là gắn liền với phù thủy, cái chết, điềm gở, bị đồn nhập hồn vào xác chết, còn trên khắp Nam Mỹ, nỗi bất hạnh và xui xẻo cũng thường được gắn với loài vật bốn chân này và những loài thú khác, tại Chile, loài mèo đốm kodkod còn được gọi là guiña (Leopardus guigna) loài mèo hoang nhỏ nhất trên lục địa Nam Mỹ lại bị coi là kẻ trộm, và nếu chúng xông vào chuồng gà thì gia đình sẽ có người chết. Loài cầy Fossa hay cầy báo (Cryptoprocta ferox) là loài động vật săn mồi, reo rắc sự sợ hãi cho những người mê tín tại đảo Madagascar nhưng không nguy hiểm đối với con người như người như trong chuyện kể dân gian. Hình ảnh con cáo hơi thảo mai, lươn lẹo, nên thường sử dụng tính từ “cáo già” thể hiện sự tiêu cực, chỉ ai đó chỉ biết đạt mục đích cho mình. Con cáo là tâm điểm trong nhiều tín ngưỡng dân gian từ thời Đế chế Inca. Trong các câu chuyện dân gian của người Inca, cáo được coi là kẻ lừa dối và kín đáo, Tại Brazil thì loài cáo ăn cua (Cerdocyon thous) bị coi là đem lại những chuyện xui xẻo ở Brazil, nhiều nơi ở Brazil, cáo ăn cua bị coi là loài vật nham hiểm, đem đến toàn điều xui xẻo, vì là loài thú ăn tạp cho nên việc chúng đi kiếm mồi vào mùa mưa và hay mò bắt ăn cua trên vùng đồng bằng ngập nước tạo ra xung đột với con người và con người ta không tin tưởng các loài vật đe dọa đến gia súc, gia cầm của họ và coi chúng là đối thủ cạnh tranh trong cuộc săn mồi.
Hình tượng ếch nhái trong văn hóa
Các loài ếch, nhái, cóc nổi bật trong văn hóa dân gian, những câu chuyện cổ tích trong nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới, và cũng có nhiều vai trò văn hóa trong văn học, biểu tượng và tôn giáo. Về phân loại khoa học các loài ếch, nhái, cóc được gọi chung là bộ Không đuôi (tên khoa học là: Anura) là những loài động vật lưỡng cư. Trong tiếng Việt, chúng còn được gọi bằng những tên khác nhau mô tả về nhiều loài khác nhau thông dụng như ếch, nhái, cóc, ngóe, chằng hương, chẫu chàng, ễnh ương., trong tiếng Hán Việt chúng còn được gọi là cáp hay hàm hay thiềm vốn thông dụng với cuộc sống của những cư dân vùng nhiệt đới ẩm, nơi có nhiều nguồn nước là môi trường sinh sống cho các loài này. Ếch xuất hiện trong nhiều truyền thuyết, truyện cổ tích, và trong văn hóa đại chúng. Chúng có xu hướng được mô tả là những con vật tốt bụng, xấu xí, và vụng về, nhưng có tài năng tìm ẩn. Một vài ví dụ bao gồm Michigan J. Frog, "Hoàng tử ếch", và Kermit the Frog.
Lâm Vỹ Dạ tên khai sinh là Lê Thị Vỹ Dạ (sinh ngày 1 tháng 9 năm 1989) là một nữ diễn viên người Việt Nam. Cô có nguyên quán tại Huế và lớn lên tại Thành phố Hồ Chí Minh. Vỹ Dạ là diễn viên hài quen thuộc của sân khấu kịch Nụ cười Mới. Khán giả biết đến Lâm Vỹ Dạ qua những tiểu phẩm diễn cùng Trường Giang và với vai trò phó phòng (mùa 3-5) và trưởng phòng (mùa 6) trong chương trình Ơn giời cậu đây rồi!. Cô hiện là nữ nghệ sĩ hài được rất nhiều khán giả yêu mến bởi lối diễn xuất duyên dáng cùng gương mặt xinh đẹp dễ thương, đặc biệt là tính cách luôn hết mình trong các chương trình. Lâm Vỹ Dạ đã 2 lần liên tiếp nhận được giải thưởng Mai Vàng ở hạng mục Nghệ sĩ hài được yêu thích nhất năm 2018 và 2019. Từ năm 2004 đến 2008, Lâm Vỹ Dạ học khóa Diễn viên kịch và điện ảnh tại trường Cao đẳng Sân khấu Điện ảnh TP.HCM. Cô là diễn viên quen thuộc tại sân khấu Nụ cười Mới của cố nghệ sĩ Hữu Lộc. Cô còn làm huấn luyện viên cho chương trình Tiếu lâm tứ trụ nhí mùa đầu tiên trên kênh THVL1. Cô sau đó được mời làm MC hiện trường các tỉnh thành phía Nam của Vì bạn xứng đáng từ ngày 21/4/2019. Lâm Vỹ Dạ và nghệ sĩ Hứa Minh Đạt kết hôn vào ngày 30 tháng 7 năm 2010. Họ đã có hai con trai là Hứa Lê Khôi Vỹ và Hứa Lê Khôi Nguyên. Trước khi kết hôn với Hứa Minh Đạt, cô từng có mối tình với nghệ sĩ hài Anh Đức. “MC Lại Văn Sâm trở lại sóng truyền hình, “cầm trịch” dàn sao nữ showbiz Việt”. Truy cập 9 tháng 12 năm 2019. Cậu đây rồi: Lê Phương mang chuyện tình yêu của Nhã Phương làm khó Trường Giang”. Truy cập 9 tháng 12 năm 2019. “Lâm Vỹ Dạ tiết lộ chuyện tình với diễn viên Anh Đức”. Truy cập 9 tháng 12 năm 2019.
Lâm Vỹ Dạ
Lâm Vỹ Dạ, tên khai sinh là Lê Thị Vỹ Dạ (sinh ngày 1 tháng 9 năm 1989) là một nữ diễn viên người Việt Nam. Cô có nguyên quán tại Huế và lớn lên tại Thành phố Hồ Chí Minh. Vỹ Dạ là diễn viên hài quen thuộc của sân khấu kịch Nụ cười Mới. Khán giả biết đến Lâm Vỹ Dạ qua những tiểu phẩm diễn cùng Trường Giang và với vai trò phó phòng (mùa 3-5) và trưởng phòng (mùa 6) trong chương trình Ơn giời cậu đây rồi!. Cô hiện là nữ nghệ sĩ hài được rất nhiều khán giả yêu mến bởi lối diễn xuất duyên dáng cùng gương mặt xinh đẹp dễ thương, đặc biệt là tính cách luôn hết mình trong các chương trình. Lâm Vỹ Dạ đã 2 lần liên tiếp nhận được giải thưởng Mai Vàng ở hạng mục Nghệ sĩ hài được yêu thích nhất năm 2018 và 2019. Từ năm 2004 đến 2008, Lâm Vỹ Dạ học khóa Diễn viên kịch và điện ảnh tại trường Cao đẳng Sân khấu Điện ảnh TP.HCM. Cô là diễn viên quen thuộc tại sân khấu Nụ cười Mới của cố nghệ sĩ Hữu Lộc.
Trang chủ / Học tập - Thi / Xác suất và Thống kê là gì? Xem xong 5 phút hiểu luôn. Để đảm bảo chất lượng học và dạy cũng như chất lượng đầu ra cho sinh viên, năm 2021 Khoa nhận đào tạo 200 sinh viên đối với ngành Đại Học Điều Dưỡng và Dược tuyển sinh theo hình thức xét tuyển. Hồ sơ đăng ký gồm có giấy khai sinh photo công chứng, chứng minh thư photo công chứng, ảnh 3.4. Xác suất và Thống kê là hai khái niệm quan trọng trong Toán học. Xác suất là tất cả về cơ hội. Trong khi số liệu thống kê thiên về cách chúng tôi xử lý các dữ liệu khác nhau bằng các kỹ thuật khác nhau. Nó giúp biểu diễn dữ liệu phức tạp một cách rất dễ hiểu và dễ hiểu. Thống kê và xác suất thường được giới thiệu trong các học sinh Lớp 10, Lớp 11 và Lớp 12 đang chuẩn bị cho các kỳ thi cấp trường và các kỳ thi cạnh tranh. Việc giới thiệu những nguyên tắc cơ bản này được đưa ra ngắn gọn trong các cuốn sách và ghi chú học thuật của bạn. Thống kê có một ứng dụng rất lớn ngày nay trong các ngành khoa học dữ liệu. Các chuyên gia sử dụng các số liệu thống kê và thực hiện các dự đoán của doanh nghiệp. Nó giúp họ dự đoán lợi nhuận hoặc thua lỗ trong tương lai mà công ty đạt được. Xác suất biểu thị khả năng xảy ra kết quả của bất kỳ sự kiện ngẫu nhiên nào. Ý nghĩa của thuật ngữ này là để kiểm tra mức độ mà bất kỳ sự kiện nào có khả năng xảy ra. Ví dụ, khi chúng ta tung một đồng xu trong không khí, khả năng nhận được một cái đầu là bao nhiêu? Câu trả lời cho câu hỏi này dựa trên số lượng các kết quả có thể xảy ra. Ở đây khả năng là đầu hoặc đuôi sẽ là kết quả. Vì vậy, xác suất để kết quả này xảy ra là 1/2. Xác suất là thước đo khả năng xảy ra một sự kiện. Nó đo lường sự chắc chắn của sự kiện. Công thức xác suất được đưa ra bởi;. Thống kê là nghiên cứu về việc thu thập, phân tích, giải thích, trình bày và tổ chức dữ liệu. Nó là một phương pháp thu thập và tổng hợp dữ liệu. Điều này có nhiều ứng dụng từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn. Cho dù đó là nghiên cứu về dân số của đất nước hay nền kinh tế của nó, số liệu thống kê được sử dụng cho tất cả các phân tích dữ liệu như vậy. Thống kê có phạm vi rộng lớn trong nhiều lĩnh vực như xã hội học, tâm lý học, địa chất học, dự báo thời tiết, … Dữ liệu được thu thập ở đây để phân tích có thể là định lượng hoặc định tính. Dữ liệu định lượng cũng có hai dạng như: rời rạc và liên tục. Dữ liệu rời rạc có giá trị cố định trong khi dữ liệu liên tục không phải là dữ liệu cố định mà có phạm vi. Có rất nhiều thuật ngữ và công thức được sử dụng trong khái niệm này. Xem bảng dưới đây để hiểu chúng . Một thử nghiệm mà kết quả của nó không thể được dự đoán, cho đến khi nó được chú ý được gọi là một thử nghiệm ngẫu nhiên. Ví dụ, khi chúng ta ném một con xúc xắc một cách ngẫu nhiên, kết quả là không chắc chắn đối với chúng ta. Chúng tôi có thể nhận được bất kỳ đầu ra nào trong khoảng từ 1 đến 6. Do đó, thử nghiệm này là ngẫu nhiên. Không gian mẫu là tập hợp tất cả các kết quả có thể có hoặc kết quả của một thử nghiệm ngẫu nhiên. Giả sử, nếu chúng ta ném một con xúc xắc, một cách ngẫu nhiên, thì không gian mẫu cho thí nghiệm này sẽ là tất cả các kết quả có thể có của việc ném một con xúc xắc, chẳng hạn như;. Các biến biểu thị các kết quả có thể có của một thí nghiệm ngẫu nhiên được gọi là các biến ngẫu nhiên. Chúng có hai loại:. Các biến ngẫu nhiên rời rạc chỉ nhận những giá trị riêng biệt có thể đếm được. Trong khi các biến ngẫu nhiên liên tục có thể nhận vô số giá trị có thể. Khi xác suất xảy ra của một sự kiện không ảnh hưởng đến xác suất của một sự kiện khác, thì cả hai sự kiện được gọi là độc lập với nhau. Ví dụ, nếu bạn tung một đồng xu và đồng thời ném một con xúc xắc, xác suất nhận được ‘đầu’ độc lập với xác suất nhận được 6 con xúc xắc. Giá trị trung bình của một biến ngẫu nhiên là giá trị trung bình của các giá trị ngẫu nhiên của các kết quả có thể có của một thử nghiệm ngẫu nhiên. Nói một cách dễ hiểu, đó là kỳ vọng về các kết quả có thể xảy ra của thử nghiệm ngẫu nhiên, được lặp đi lặp lại hoặc n số lần. Nó còn được gọi là kỳ vọng của một biến ngẫu nhiên. Giá trị kỳ vọng là giá trị trung bình của một biến ngẫu nhiên. Đây là giá trị giả định được xem xét cho một thử nghiệm ngẫu nhiên. Nó còn được gọi là kỳ vọng, kỳ vọng toán học hoặc thời điểm đầu tiên. Ví dụ: nếu chúng ta tung một con xúc xắc có sáu mặt, thì giá trị mong đợi sẽ là giá trị trung bình của tất cả các kết quả có thể xảy ra, tức là 3,5. Về cơ bản, phương sai cho chúng ta biết các giá trị của biến ngẫu nhiên được lan truyền như thế nào xung quanh giá trị trung bình. Nó chỉ định sự phân bố của không gian mẫu trên giá trị trung bình. Dưới đây là một số ví dụ dựa trên các khái niệm thống kê và xác suất để bạn hiểu rõ hơn. Học sinh có thể thực hành thêm các câu hỏi dựa trên các ví dụ đã giải này để hoàn thành tốt đề tài. Ngoài ra, hãy sử dụng các công thức được đưa ra trong bài viết này ở phần trên để giải quyết các vấn đề dựa trên chúng. Ví dụ 1 : Tìm giá trị trung bình và chế độ của các dữ liệu sau: 2, 3, 5, 6, 10, 6, 12, 6, 3, 4. Ví dụ 2: Một cái thùng đựng 5 quả bóng màu xanh lam, 4 quả bóng xanh lá cây và 5 quả bóng màu đỏ. Sudheer được yêu cầu chọn ngẫu nhiên 2 quả bóng từ thùng mà không cần thay thế và sau đó chọn thêm một quả bóng nữa. Xác suất anh ta chọn được 2 bi xanh và 1 bi xanh là bao nhiêu?. Ví dụ 3 : Tính xác suất để Ram chọn ngẫu nhiên một viên bi và nó không phải là màu đen nếu trong bát có 3 viên bi đỏ, 2 đen và 5 viên bi xanh. ContentsBảng tính phân sốBảng phân số dành cho lớp 6Bảng phân số dành cho lớp 7Bảng phân số dành. ContentsYếu tố 42Các yếu tố của 42 là gì?Yếu tố cặp của 42Số nguyên tố của 42Các ví dụCác. Chuyên trang thông tin Tuyển Sinh cung cấp thông tin tuyển sinh chính thức từ Bộ GD & ĐT và các trường ĐH – CĐ trên cả nước.
Xác suất
Xác suất là một nhánh của toán học liên quan đến các mô tả bằng số về khả năng xảy ra một sự kiện, hoặc khả năng một mệnh đề là đúng. Xác suất của một sự kiện là một số trong khoảng từ 0 đến 1, trong đó, nói một cách đại khái, 0 biểu thị sự bất khả thi của sự kiện và 1 biểu thị sự chắc chắn. Xác suất của sự kiện càng cao thì khả năng xảy ra sự kiện càng cao. Một ví dụ đơn giản là tung đồng xu công bằng (không thiên vị). Vì đồng xu là công bằng, nên cả hai kết quả ("sấp" và "ngửa") đều có thể xảy ra như nhau; xác suất của "sấp" bằng xác suất của "ngửa"; và vì không có kết quả nào khác có thể xảy ra, xác suất xảy ra "sấp" hoặc "ngửa" là 1/2 (cũng có thể được viết là 0,5 hoặc 50%). Những khái niệm này đã được chuẩn hóa toán học bằng tiên đề trong lý thuyết xác suất, được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực nghiên cứu như toán học, thống kê, tài chính, cờ bạc, khoa học (đặc biệt là vật lý), trí tuệ nhân tạo, học máy, khoa học máy tính, lý thuyết trò chơi, và triết học, ví dụ, rút ra suy luận về tần suất dự kiến của các sự kiện.
Bị bọ chét cắn phải làm sao? Nguyên nhân và cách xử lý khi bị bọ chét đốt. Bé bị muỗi đốt sưng to bôi gì? Nguyên nhân và cách xử lý vết muỗi cắn. Bị côn trùng cắn sưng phù ngứa, cứng2. Bị côn trùng cắn sưng mủ 3. Bị côn trùng đốt sưng mắt 4. Bị côn trùng cắn nổi mụn nước5. Bị côn trùng cắn sưng đỏ ngứa6. Trẻ bị côn trùng đốt phát sốt7. Bị côn trùng cắn sưng môi8. Côn trùng cắn sưng chân. IV – Côn trùng cắn bôi thuốc gì?1. Thuốc bôi côn trùng cắn cho trẻ em và trẻ sơ sinh2. Thuốc xức côn trùng cắn cho người lớn. V – Bị côn trùng cắn phải làm sao? Cách xử lý vết côn trùng cắn1. Cách chữa sưng mắt khi bị côn trùng cắn 2. Cách chữa vết côn trùng cắn lâu lành3. Cách xử lý côn trùng đốt cho trẻ em và người lớn bằng kem Yoosun rau má. Cách xử lý côn trùng đốt cho trẻ em và người lớn bằng kem Yoosun rau má. Trong tự nhiên có rất nhiều loài côn trùng, khi tiếp xúc với người chúng có thể gây ra các vết cắn/đốt rất khó chịu, ngứa ngáy hoặc đau đớn. Bất kỳ ai cũng có thể bị côn trùng cắn khi tiếp xúc với chúng. Những loài côn trùng cắn phổ biến gồm kiến, ong, muỗi, rệp, bọ chét, bọ ve, nhện, chí, ruồi…. Bất kỳ ai cũng có thể bị côn trùng cắn khi tiếp xúc với chúng. Dấu hiệu của tình trạng này phụ thuộc vào loại vết đốt hay chích. Các triệu chứng thường gặp bao gồm:. Các trường hợp do côn trùng không gây độc chích, đốt thì triệu chứng tiêu biểu vẫn là ngứa, sưng phù tuy nhiên bé bị côn trùng cắn sưng cứng mức độ nguy hiểm không đáng lo ngại. Nhưng rất có thể chúng là nguyên nhân gây bệnh truyền nhiễm như sốt rét, sốt Chikungunya, bệnh Rickettsial và sốt xuất huyết (nếu do muỗi chích). Thông thường các triệu chứng tay bị côn trùng cắn sưng phù sẽ tự khỏi trong vài giờ, vài ngày. Tuy nhiên nếu mức độ bị cắn, đốt nặng thì cơ thể sẽ có hiện tượng phản ứng lan tỏa. Lúc này bạn sẽ cảm giác bứt rứt do ngứa nhiều thậm chí là đau nhức toàn thân cần được đưa ngay đến cơ sở y tế để kiểm tra. Khi bị côn trùng cắn hoặc đốt thì cảm giác đầu tiên có thể là đau đớn vùng da bị cắn hoặc có cảm giác ngứa ngáy dữ dội. Thường thì các loại côn trùng gây độc sẽ khiến vết cắn sưng phù, mưng mủ và cảm thấy đau nhức. Bé bị côn trùng đốt mưng mủ có thể là do các loại côn trùng như bọ chét, mò ve, ruồi vàng, muỗi, các loại ong,. Tình trạng này cần đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế để có cách chữa côn trùng đốt ở trẻ em hiệu quả. Các loại kiến (kiến lửa, kiến ba khoang), các loài ong, muỗi,. khi đốt gần mắt hoặc ngay tại mắt sẽ gây phản ứng sưng mắt, ngứa. Vết cắn của côn trùng ban đầu chỉ là vết thương rất nhỏ nhưng sau đó sẽ sưng to do phản ứng miễn dịch của cơ thể đối với lông, ngòi của côn trùng hay từ vết cắn gây ra. Phản ứng tức thì tại chỗ bị cắn là đau nhức, ngứa. Sau đó nổi các nốt sưng phù, sẩn ngứa, côn trùng đốt nổi mụn nước trong vòng 48 giờ sau khi đốt. Một vết bị côn trùng cắn sưng đỏ đơn độc có lẽ là do muỗi đốt hay ruồi cắn. Có thể nhận thấy một điểm nhỏ ở giữa một vết sưng do muỗi đốt. Vết cắn của bọ chét khiến trẻ em bị côn trùng đốt sưng đỏ nhỏ và ngứa tập trung thành cụm. Các nốt này xuất hiện ở những vùng da nơi quần áo sát vào người, chẳng hạn như xung quanh eo. Vết cắn của rệp giường khiến trẻ bị côn trùng cắn sưng đỏ và ngứa, có thể phồng rộp, tập trung thành hai hoặc ba hàng. Khi bị kiến ba khoang đốt, vùng da tổn thương của trẻ sẽ có cảm giác rát bỏng tại chỗ, sau khoảng 6 – 8 tiếng sẽ xuất hiện ban đỏ, rát đỏ, ngứa lâu, thương tổn trên diện rộng và có thể gây sốt nhẹ, nổi hạch. Nốt kiến ba khoang là vết thương côn trùng cắn phồng rộp ngứa rát và có thể gây sốt nhẹ. Ong vò vẽ cũng là loài côn trùng khiến trẻ bị côn trùng cắn ngứa và sưng có thể mang đến nhiều nguy hiểm. Nọc độc của ong có thể gây xuất huyết trên da, trẻ có thể bị dị ứng côn trùng đốt, sốt, gây ra sốc phản vệ nên bố mẹ cần theo dõi chặt chẽ, xử lý vết côn trùng cắn. Tốt nhất khi bé bị côn trùng đốt sưng to gây sốt cần đưa bé đến cơ sở y tế để có biện pháp xử lý đúng cách. Khi bị côn trùng cắn vào môi, chất độc hoặc nước bọt của chúng tiếp xúc trực tiếp với vùng da và máu. Cơ thể sinh ra các phản ứng để chống lại sự xâm nhập gây sưng, viêm tại khu vực này. – Ong đốt: Sau khi bị ong đốt trên môi, có thể nhận thấy vùng môi bị sưng to, viêm, đỏ lên kèm cảm giác đau nhức. Một số trường hợp vết côn trùng cắn ở trẻ em có thể kèm theo xuất huyết trên da. – Muỗi: Khi muỗi đốt, nước bọt của chúng sẽ khiến vùng da côn trùng cắn nổi mẩn đỏ sưng, cứng, kèm theo cảm giác ngứa ngáy rất khó chịu. Nếu bị ngứa và sưng vùng môi thì rất có thể bị muỗi đốt. – Kiến lửa: Kiến lửa đốt vào môi có thể khiến vùng da côn trùng cắn bị sưng đỏ, sưng to rõ rệt kèm theo cảm giác ngứa kéo dài, có thể kéo sang vùng da xung quanh. Nếu em bé bị côn trùng cắn sưng to, đỏ rất có thể do kiến lửa cắn. – Rệp: Dấu hiệu khi bị rệp cắn tại môi là hình dạng vết cắn khá gần nhau, côn trùng cắn bị sưng nhỏ màu đỏ với quầng màu đỏ xung quanh vết đốt, kèm theo cảm giác đau đớn nhiều hơn khi bị muỗi đốt. Tùy theo loại côn trùng, mức độ tổn thương mà tình trạng sưng nhiều hay ít, có thể tự xẹp trong vài giờ hoặc kéo dài hơn, vết côn trùng cắn lâu lành hay đi kèm các phản ứng toàn thân khác. Khi bị côn trùng cắn, dị ứng côn trùng cắn nếu không nhanh chóng điều trị sẽ dẫn đến tổn thương ngoài da, gây viêm hoặc nhiễm trùng da. Tuy nhiên khi bị côn trùng đốt sưng đỏ bôi thuốc gì? không phải ai cũng biết. Bạn có thể tham khảo một vài gợi ý sau:. Cần lưu ý, không phải bất cứ sản phẩm nào cũng mang đến hiệu quả và an toàn cho làn da trẻ, đặc biệt là tình trạng côn trùng cắn trẻ sơ sinh. Do đó, để trị côn trùng đốt cho bé cha mẹ cần lựa chọn những loại thuốc/kem có nguồn gốc rõ ràng, thương hiệu uy tín dùng bôi vào vết thương bé bị côn trùng đốt sưng tấy. Bị côn trùng cắn sưng to, bạn có thể sử dụng kem bôi calamine hoặc thuốc muối. Nếu bạn cảm thấy ngứa dữ dội (khi bị bọ chét cắn), xử lý vết côn trùng đốt có thể sử dụng kem hydrocortisone theo sự chỉ định của bác sỹ. Các trường hợp bị côn trùng cắn sưng và ngứa có thể sử dụng kem bôi da Yoosun rau má để cải thiện những triệu chứng này. Khi bị côn trùng đốt có những dấu hiệu như sưng tây, ngứa rát, mẩn đỏ. Bạn cần xử lý nhanh vết thương tránh nhiễm trùng và độc lan rông như sau:. Bị côn trùng cắn vào mắt trước tiên cần loại bỏ côn trùng ra khỏi vết cắn, rửa sạch vết cắn bằng nước sạch. Mắt là bộ phận rất quan trọng và nhạy cảm nên trẻ bị côn trùng đốt sưng mắt tránh dùng xà phòng hay nước muối, nước chanh. Côn trùng cắn sưng mí mắt có thể sử dụng đá lạnh để chườm lên vết cắn giúp giảm đau khi trẻ bị côn trùng cắn sưng to. Có những vết thương khi bị côn trùng đốt để lại những tổn thương trên da rất lâu lành như các vết thâm, đối với những trường hợp này có thể sử dụng các nguyên liệu tự nhiên như nghệ để làm mờ vết thâm hoặc có thể sử dụng các loại kem bôi da khi bị côn trùng đốt sưng to, côn trùng cắn ngứa, côn trùng đốt bị sưng tấy. Tốt nhất là tham khảo ý kiến bác sỹ trước khi dùng thuốc/kem bôi, đặc biệt là bị côn trùng đốt sưng môi, côn trùng đốt mưng mủ. Trong rất nhiều trường hợp côn trùng đốt ở trẻ em và người lớn như các nốt muỗi đốt, kiến cắn, bọ chét, rệp,… côn trùng đốt bị sưng đỏ, ngứa rát, bị côn trùng đốt sưng tay có thể sử dụng kem bôi da Yoosun rau má để giảm triệu chứng. Với thành phần Asiatic acid, Asiaticosid và Madecassic acid chiết xuất từ cây rau má kết hợp cùng vitamin E, hoạt chất D- panthenol, chlorhexindine, giúp giảm ngứa, sưng viêm, tấy đỏ do côn trùng cắn nhanh chóng, đồng thời ngăn ngừa sẹo thâm. Kem Yoosun rau má được Sở Y Tế Hà Nội cấp phép lưu hành, và có bán tại các hiệu thuốc trên toàn quốc. Sản phẩm này phù hợp với mọi loại da, kể cả da nhạy cảm khi trị côn trùng cắn ở trẻ sơ sinh. Cách xử lý khi bị côn trùng đốt tốt nhất là bôi kem Yoosun rau má ngay khi phát hiện trẻ em bị côn trùng đốt. – Mỗi ngày có thể thực hiện bôi kem Yoosun rau má lên nốt côn trùng cắn khoảng 3 – 4 lần. Mắc màn khi ngủ, kể cả ban ngày là cách phòng tránh côn trùng cắn hiệu quả. – Hạn chế mặc quần áo có màu sắc tươi sáng, nhất là khi đi ra ngoài. Hy vọng những thông tin trên về tình trạng côn trùng cắn và những giải đáp thắc mắc trẻ bị côn trùng cắn phải làm sao? người lớn côn trùng đốt bôi thuốc gì? trẻ bị côn trùng đốt bôi gì? sẽ giúp nhiều người trong việc nhận biết và có cách xử lý côn trùng cắn đúng đắn. Liên hệ tổng đài chăm sóc sức khỏe miễn cước 18001125 để được dược sỹ tư vấn. Không chỉ gây ngứa, để lại sẹo thâm mà khi bị muỗi đốt còn có nhiều nguy cơ như sốt rét, sốt xuất huyết,… rất nguy hiểm. Vì thế, bạn cần nắm rõ nguyên nhân, cách xử lý và phòng chống muỗi cắn, đặc biệt là ở trẻ nhỏNgười bị ve chó cắn phải làm. Bọ chét là những con bọ nhỏ, không có cánh nên di chuyển xung quanh bằng cách nhảy từ nơi này sang nơi khác. Chúng thường xuất hiện ở môi trường có vật nuôi như chó, mèo và gây ra các vết cắn trên người. Vậy làm thế nào để nhận biết và đối phó. Do sứa biển có chứa chất độc và chất gây dị ứng nên rất nhiều người muốn biết bị sứa cắn có nguy hiểm không? Không chỉ giải đáp thắc mắc này, bài viết này của Yoosun.vn sẽ cung cấp cho bạn rất nhiều các thông tin về nguyên nhân, triệu chứng, cách điều trị
Côn trùng đốt
Côn trùng đốt, chích và cắn (hay còn gọi là châm chích) là việc côn trùng tấn công hoặc phản ứng lên con người xảy ra khi một con côn trùng bị kích động và tìm cách tự bảo vệ mình thông qua cơ chế phòng vệ tự nhiên của nó, hoặc khi côn trùng tìm cách tấn công ký sinh, hút máu con người. Một số côn trùng tiêm axit fomic, có thể gây ra một phản ứng ngay lập tức ở da thường dẫn đến tấy đỏ và sưng ở vùng bị thương. Những cú chích, đốt từ kiến lửa, ong, ong bắp cày thường đau đớn, và có thể kích thích một phản ứng theo kiểu dị ứng nguy hiểm được gọi là sốc phản vệ cho bệnh nhân có nguy cơ cao, một số loài ong bắp cày cũng có thể có một vết cắn mạnh mẽ gây đau đớn. Vết cắn của muỗi và bọ chét, chấy, rận có nhiều khả năng gây ngứa hơn đau. Dị ứng da côn trùng cắn và đốt thường kéo dài đến vài ngày. Tuy nhiên, trong một số trường hợp phản ứng địa phương có thể kéo dài đến năm.
Trần Hưng Đạo (chữ Hán: 陳興道; ? - 20 tháng 8, 1300), còn được gọi là Hưng Đạo đại vương (興道大王) hay Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương (仁武興道大王) là một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một nhà chính trị, nhà văn cũng như là Tư lệnh tối cao chỉ huy quân đội toàn quốc của Đại Việt thời nhà Trần. Ông nổi tiếng trong lịch sử nước Việt với vai trò chỉ huy quân đội Đại Việt ba lần đẩy lùi quân Nguyên - Mông trong thế kỷ 13 (1258-1288). Chiến thắng của ông trước đội quân Nguyên - Mông dưới thời Hốt Tất Liệt được đánh giá là một trong những chiến công vĩ đại của lịch sử quân sự thế giới. Được coi là một trong những nhà quân sự kiệt xuất nhất trong lịch sử dân tộc.Tư tưởng quân sự của ông đã được thể hiện rõ trong các luận thuyết, tác phẩm của mình. Trần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn (陳國峻), con trai thứ ba của Khâm Minh đại vương Trần Liễu, gọi Trần Thái Tông bằng chú ruột. Cho đến nay vẫn không rõ mẹ ông là ai, có giả thiết đó là Thiện Đạo quốc mẫu (善道國母), huý là Nguyệt, một người trong tôn thất họ Trần.1 Vì Thuận Thiên công chúa là con của vua Lý Huệ Tông, nên theo luật lệ của triều đình xưa, dù hoàng nữ có là thiếp hoặc vợ thứ thì cũng được đưa lên hàng chính thất (vợ cả). Sau khi Trần Liễu mất (1251), bà Trần Thị Nguyệt đã xuất gia làm ni sư, hiệu là Diệu Hương. Năm sinh của ông không rõ ràng, có tài liệu cho rằng là năm 1228, nhưng cũng có tài liệu cho là năm 1230, hay 1231. Nhưng điều đó cũng cho thấy khi ông sinh ra thì triều đại nhà Trần cũng vừa mới thành lập được không lâu (thành lập năm 1225). Ông có người mẹ nuôi đồng thời là cô ruột, Thụy Bà công chúa (瑞婆公主)2 . Ông sinh ra ở kinh đô Thăng Long, quê quán ở thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, TP Nam Định ngày nay3 . Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, nhờ được những người tài giỏi đến giảng dạy mà ông sớm trở thành người đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ 4 . Năm 1237, gia đình ông đã xảy ra biến động. Do chú ông là Trần Thái Tông lên ngôi và kết hôn đã lâu nhưng chưa có con nối dõi, Thái sư Trần Thủ Độ đang nắm thực quyền phụ chính ép cha ông là Trần Liễu phải nhường vợ là Thuận Thiên công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) cho Trần Thái Tông dù bà đang mang thai với Trần Liễu được ba tháng, đồng thời giáng Lý hoàng hậu xuống làm công chúa. Phẫn uất, Trần Liễu họp quân chống lại nhưng thế cô không làm gì được, phải xin đầu hàng. Vì Thái Tông cũng thương anh nên xin với Trần Thủ Độ tha tội cho Trần Liễu, nhưng quân lính đều bị giết5 . Mang lòng hậm hực, Trần Liễu tìm người tài nghệ để dạy văn, võ cho Trần Quốc Tuấn. Khi trưởng thành, Trần Quốc Tuấn (19 tuổi) đem lòng yêu công chúa Thiên Thành, không biết rõ gốc tích của bà, nhưng các nhà nghiên cứu phần lớn đều đồng tình với quan điểm bà là con gái trưởng của Trần Thái Tông tức là em họ của ông. Đầu năm 1251, Trần Thái Tông muốn gả công chúa cho Trung Thành vương, nên đã cho công chúa đến ở trong dinh Nhân Đạo vương (cha của Trung Thành vương). Ngày rằm tháng giêng, Trần Thái Tông mở hội lớn, ý muốn cho công chúa làm lễ kết tóc với Trung Thành vương. Trần Quốc Tuấn muốn lấy công chúa, nhưng không làm thế nào được, mới nhân ban đêm lẻn vào chỗ ở của công chúa thông dâm với nàng6 . Mẹ nuôi Trần Quốc Tuấn là Thụy Bà công chúa biết chuyện, sợ ông bị hại trong phủ, liền chạy đến cung điện cáo cấp, xin Trần Thái Tông cứu Trần Quốc Tuấn. Vua hỏi việc gì, Thụy Bà trả lời:"Quốc Tuấn ngông cuồng, đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành, Nhân Đạo bắt giữ rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu". Trần Thái Tông vội sai người đến dinh Nhân Đạo vương, vào chỗ Thiên Thành, thì thấy Trần Quốc Tuấn đã ở đấy. Hôm sau, Thụy Bà công chúa dâng 10 mâm vàng đến chỗ Trần Thái Tông xin lễ cưới Thiên Thành công chúa cho Trần Quốc Tuấn. Thái Tông bắt đắc dĩ phải gả công chúa cho ông và lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính vật cho Trung Thành vương6 . Tháng 4 năm đó, Trần Liễu ốm nặng. Lúc sắp mất, Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối: "Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được". Trần Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải. Trần Hưng Đạo trở thành võ quan nhà Trần lúc nào không rõ, chỉ biết vào tháng Chín (âm lịch) năm Đinh Tỵ (1257), ông giao trách nhiệm phòng thủ biên giới trước thời điểm quân Mông Cổ xâm lược vào tháng 12 năm 1257. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 9 (1257), (Trần Thái Tông) xuống chiếu, lệnh cho tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới (phía Bắc) theo sự tiết chế của Quốc Tuấn" 7 . Viết về cuộc chiến này, các bộ sử của hai bên như Đại Việt Sử ký Toàn thư, Nguyên sử, An Nam chí lược đều không đề cập chi tiết gì về vai trò của Hưng Đạo vương trong các trận đánh lớn của cuộc chiến. Các ngày 12-13 tháng 12 âm lịch năm 1257 (tức 17-18 tháng 1 năm 1258), quân Mông Cổ đánh bại quân Đại Việt do vua Trần Thái Tông đích thân chỉ huy ở Bình Lệ Nguyên và Phù Lỗ. Thái Tông rời bỏ kinh đô, lui về giữ sông Thiên Mạc. Quân Mông Cổ vào Thăng Long nhưng thiếu lương thực trầm trọng, phải chia nhau đi cướp lương thực và bị chặn đánh quyết liệt. Ngày 24 tháng 12 âm lịch năm 1257 (tức 28 tháng 1 năm 1258), vua Trần Thái Tông cùng thái tử 18 tuổi Trần Hoảng ngự lâu thuyền tiến quân đến Đông Bộ Đầu, đánh tan quân Mông Cổ, giải phóng Thăng Long. Chiến tranh kết thúc, Quốc Tuấn vẫn giữ nguyên tước cũ và trở về thái ấp ở Vạn Kiếp. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Theo quy chế nhà Trần, các vương hầu đều ở phủ đệ nơi hương ấp của mình, khi chầu hầu thì đến kinh đô, xong việc lại về phủ đệ. Như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Thủ Độ ở Quắc Hương, Quốc Chẩn ở Chí Linh đều thế cả". Sau chiến thắng quân Mông Cổ, vua Thái Tông nhường ngôi cho con là Trần Hoảng, tức vua Trần Thánh Tông. Thánh Tông phong em là Trần Quang Khải là Thái úy, tước Đại vương. Tuy bị đánh bại nhưng Mông Cổ vẫn lớn mạnh ở phía bắc, thành lập nhà Nguyên và tiêu diệt Nam Tống vào năm 1279, tiếp giáp với biên giới Đại Việt. Trước sự bành trường của nhà Nguyên, nhà Trần đã đề phòng, chuẩn bị kháng cự. Trần Quốc Tuấn mở trường dạy võ, dạy con em hoàng tộc và những người tài giỏi trong nước. Ông thường đi khắp các lộ, kiểm soát các giảng võ đường địa phương, thu dụng nhiều người tài giỏi trong nước như Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa, Đỗ Hành.8 . Đầu năm 1277, Trần Thánh Tông thân chinh đánh các bộ tộc thiểu số ở động Nẫm Bà La (nay thuộc Quảng Bình). Trần Quang Khải đi theo, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Thượng hoàng Trần Thái Tông gọi Trần Quốc Tuấn tới, tỏ ý định lấy ông làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc. Trần Quốc Tuấn trả lời:. Khi Thánh Tông trở về, việc ấy lại bỏ đấy, vì hai người vốn không ưa nhau9 . Sau đó, Trần Quốc Tuấn chủ động gạt bỏ hiềm khích với Trần Quang Khải vì việc nước. Một hôm, Trần Hưng Đạo từ Vạn Kiếp tới, Trần Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội, Trần Hưng Đạo thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Trần Quang Khải: "Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi áo Trần Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: "Hôm nay được tắm cho Thượng tướng". Trần Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho". Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai ông ngày càng tốt10 . Đầu năm 1281, vua Nguyên Mông là Hốt Tất Liệt sai Sài Thung đem ngàn quân hộ tống nhóm Trần Di Ái về nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Sài Thung ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh. Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, Thung dùng roi ngựa quất họ bị thương ở đầu. Vua (Trần Nhân Tông) sai Trần Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Thung nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Thung làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Thung đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu của Thung cầm mũi tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Thung ra cửa tiễn ông."11. Năm 1282, nhà Nguyên sai Toa Đô mang quân vượt biển đánh Chiêm Thành ở phía nam Đại Việt. Chiến tranh giữa Đại Việt với nhà Nguyên đến gần. Tháng Mười (âm lịch) năm 1283, để chuẩn bị kháng chiến lần hai, Trần Hưng Đạo được thượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông phong làm Quốc công tiết chế thống lĩnh chư quân. Ông chọn các quân hiệu tài giỏi, cho chia nhau chỉ huy các đơn vị quân đội. Tháng Tám (âm lịch) năm sau (1284), ông cho duyệt quân ở bến Đông Bộ Đầu (gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay), đọc bài "Hịch tướng sĩ" nổi tiếng, rồi chia quân đóng giữ Bình Than và các nơi hiểm yếu khác.9. Tháng 7 âm lịch năm 1284, nhà Nguyên sai Trấn Năm vương Thoát Hoan, A Lý Hải Nha tập trung 50 vạn quân ở hành tỉnh Hồ Quảng, dự đinh sang năm xâm lược Đại Việt. Tháng 11 âm lịch năm 1284, Trần Nhân Tông sai Trần Phủ sang hành tỉnh Hồ Quảng (Đại Nguyên) xin hoãn binh. Khi trở về, Trần Phủ báo tin Hốt Tất Liệt sai Thoát Hoan, A Lý Hải Nha lấy danh nghĩa mượn đường đánh Chiêm Thành, mang đại quân tiến vào đất Việt. Đầu năm 1285, quân Nguyên Mông lại ào ạt tiến công vào phía bắc và vùng Thanh Hóa-Nghệ An. Hưng Đạo vương đốc các quân đánh chặn ở biên giới nhưng thất bại, quân Đại Việt bị tổn thất. Trần Hưng Đạo phải thu quân về Vạn Kiếp. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, quân Đại Việt đã tan vỡ; Trần Quốc Tuấn thoát được là nhờ có Yết Kiêu kiên quyết giữ thuyền đợi chủ tướng. Thủy quân Nguyên do Ô Mã Nhi chỉ huy tấn công vào Vạn Kiếp, quân Nguyên vây quân của Trần Quốc Tuấn. Một trận thủy chiến lớn giữa 2 bên đã diễn ra. Vua Trần đã đem quân đến trợ chiến cho Trần Quốc Tuấn. Ô Mã Nhi đã không ngăn nổi quân Đại Việt rút lui. Toàn bộ quân Đại Việt rút khỏi Vạn Kiếp, Phả Lại, Bình Than về dàn trận bên bờ sông Hồng gần thành Thăng Long. Quân Nguyên tiến theo đường bộ về Thăng Long.12 . Để bảo toàn lực lượng và thực hiện kế "thanh dã" (vườn không nhà trống), Trần Hưng Đạo ra lệnh rút quân. Quân xâm lược vào Thăng Long rồi tiến xuống Thiên Trường (vùng Nam Định) đuổi theo vua Trần. Thượng hoàng Thánh Tông lo ngại, vờ hỏi ông xem có nên hàng không. Ông khảng khái trả lời "Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng"13 . Sau trận quân Đại Việt phản công quân Nguyên không thành và việc mặt trận Thanh-Nghệ bị tan vỡ (do sự phản bội của Trần Kiện), đại quân Việt chỉ lâm vào thế bị ép từ 2 mặt Bắc-Nam. Trần Hưng Đạo đưa thượng hoàng Thánh Tông và vua Nhân Tông rút về vùng bờ biển ở Quảng Ninh và Hải Phòng ngày nay, là nơi mà quân Nguyên chưa vươn tới. Trong hành trình rút lui, quân Đại Việt bị quân Nguyên đuổi gấp. Trước thế quân Nguyên Mông bức bách, ông đưa hai vua Trần ngầm đi chiếc thuyền nhỏ đến Tam Trĩ nguyên (sông Ba Chẽ, thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay), sai người đưa thuyền ngự ra Ngọc Sơn địch. Lúc ấy, xa giá nhà vua đang phiêu giạt, lại còn mối hiềm cũ của Trần Liễu, nên có nhiều người nghi ngại. Trần Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi người đều gườm mắt nhìn. Trần Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi, chỉ chống gậy không mà đi, bởi vậy hai vua Trần và mọi người khỏi nghi ngại14 . Khi thấy đạo quân của Toa Đô đã rời Thanh Hóa tiến lên đóng ở Trường Yên (Ninh Bình), ngày 7 tháng 4 năm 1285, Trần Hưng Đạo lại đưa 2 vua Trần cùng đại quân vượt biển vào Thanh Hóa, thoát khỏi thế bị kìm kẹp của đối phương.15 Hàng loạt tông thất nhà Trần ra hàng quân Nguyên như hoàng tử Trần Ích Tắc, các hoàng thân Trần Lộng, Trần Kiện. Tháng 5 (dương lịch) năm ấy (1285), ông vạch kế hoạch tổng phản công. Chỉ sau một tháng chiến đấu quyết liệt với quân Nguyên, các cánh quân Đại Việt do Trần Hưng Đạo cùng Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật chỉ huy thắng lợi ở Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp,. quân dân Đại Việt đã tiến vào Thăng Long, Thoát Hoan bỏ chạy.
Trần Hưng Đạo
Trần Hưng Đạo (chữ Hán:陳興道); 1228 – 1300), tên thật là Trần Quốc Tuấn (chữ Hán:陳國峻), tước hiệu Hưng Đạo đại vương, là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Ông được biết đến trong lịch sử Việt Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông năm 1285 và năm 1288. Phần lớn tài liệu nghiên cứu lịch sử và cả dân gian thời sau thường dùng tên gọi vắn tắt là "Trần Hưng Đạo" thay cho cách gọi đầy đủ là "Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn", vốn bao gồm tước hiệu được sắc phong cho ông. Ông là 1 trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Là con của thân vương An Sinh vương Trần Liễu và là cháu nội của Trần Thái Tổ, Trần Hưng Đạo có mối quan hệ mật thiết với hoàng tộc họ Trần và vua Trần Nhân Tông gọi ông bằng bác. Năm 1257, ông được vua Trần Thái Tông phong làm đại tướng chỉ huy các lực lượng ở biên giới đánh quân Mông Cổ xâm lược. Sau đó, ông lui về thái ấp ở Vạn Kiếp.
Trong văn hóa Trung Hoa, Gia Cát Lượng là bậc quân sư lỗi lạc, đại tài khiến đời đời thán phục. Đến nay, những lời tiên tri ông để lại cho hậu thế vẫn là bí ẩn chưa giải mã hết. Theo Thục chí, tài liệu được cho là chính xác nhất về Gia Cát Lượng, ông vốn là người Lang Nha, Dương Độ (nay thuộc huyện Nghi Nam, tỉnh Sơn Đông). Gia Cát Lượng sinh năm 181, tự là Khổng Minh, hiệu Ngọa Long tiên sinh. Ngay từ nhỏ, Khổng Minh là đứa trẻ vô cùng thông minh, hiếu học, đọc đủ loại sách vở và tầm sư học đạo khắp nơi. Sau này, ông là quân sư giỏi của Lưu Bị nước Thục, thời hậu Hán. Không những thế, ông còn là học giả và nhà phát minh kỹ thuật đại tài. Khổng Minh sáng tạo ra các chiến thuật quân sự nổi tiếng như Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu gỗ ngựa máy). Ngoài ra, tương truyền ông còn là người phát minh đèn trời (còn được gọi là Khổng Minh đăng) và món màn thầu nổi tiếng của Trung Quốc. Những chuyện Khổng Minh xem bói, đoán trước tương lai được kể khá nhiều trong dã sử và chính sử. Chuyện nổi tiếng nhất là việc ông khiến Lưu Bá Ôn - danh tướng văn võ song toàn thời nhà Minh - phải phục sát đất, dù Lưu sinh sau Khổng Minh tới hơn 1.000 năm. Trong phiên bản được nhiều người ưa thích nhất, Lưu Bá Ôn có lần thân chinh dẫn tướng sĩ vượt núi băng rừng truy kích quân địch, không may ngã vào một hang núi. Lần mò trong hang, Lưu gặp tấm bia đá khắc 14 chữ “Vạn đại quân sư Gia Cát Lượng, thống nhất sơn hà Lưu Bá Ôn”. Dưới bia khắc dòng chữ nhỏ “Gia Cát Lượng thủ bút”. Hàng chữ kia mang nghĩa: “Gia Cát Lượng xứng đáng là quân sư của mọi thời đại, nhưng làm tướng thống nhất sơn hà thì có Lưu Bá Ôn”. Sau tấm bia còn vẽ đường rời khỏi hang núi, nhờ đó Lưu Bá Ôn thoát khỏi cảnh chết đói chốn hoang vu. Còn trong Gia Cát Lượng dã sử thì viết, trước lúc lâm chung, Gia Cát Lượng dặn dò con cháu: “Sau khi ta chết, trong số các con sẽ gặp phải đại họa chết người. Tới lúc ấy, hãy dỡ nhà, lấy từ trong tường ra một bọc giấy, trong đó có cách cứu mạng”. Trạng nguyên thời Mạc - Nguyễn Bỉnh Khiêm - không chỉ nổi danh nhờ tài học sâu rộng, tầm nhìn chiến lược, mà còn được người đời tôn kính vì những lời sấm truyền chính xác. Sau khi ông qua đời, Tư Mã Viêm lên ngôi hoàng đế. Nghe tin trong số quan quân triều đình có viên tướng quân là hậu thế của Gia Cát Lượng, Viêm bèn nghĩ cách trừng trị người này. Một hôm, Tư Mã Viêm tìm cớ định tội chết cho viên tướng nhà Gia Cát. Trên Kim điện, Viêm cất lời hỏi: “Trước khi chết, tổ phụ nhà ngươi đã nói những gì?”. Kẻ “tội đồ” bèn thật thà truyền đạt tới vua lời dặn của Gia Cát Lượng. Nghe thấy vậy, Tư Mã Viêm bèn ra lệnh cho quân lính dỡ nhà, lấy bọc giấy ra xem. Bên trong chỉ có một phong thư kín, phía trên viết rằng: “Ngộ hoàng nhi khai” (nghĩa là Đúng hoàng thượng mới mở ra xem). Đám binh sĩ bèn dâng thư lên vua. Trong thư có mấy chữ: “Xin lùi ba bước”. Tư Mã Viêm dù nghi ngờ nhưng vẫn làm theo. Vừa đứng vững đã nghe thấy một tiếng “rầm”, chiếc xà rơi thẳng xuống chỗ vua ngồi, khiến bàn ghế tan tành. Viêm trông thấy vậy mà sợ hãi lạnh người, rồi lại xem tiếp những dòng ở cuối thư: “Ta cứu mạng ngươi, ngươi hãy giữ lại mạng sống của con cháu ta”. Xem xong thư, Tư Mã Viêm thầm thán phục tài tiên đoán như thần của Gia Cát Khổng Minh rồi ra lệnh phục nguyên chức cho vị tướng quân này. Ngoài ra, những lời tiên tri của Khổng Minh trong cuốn Mã Tiền Khóa (trước ngựa gieo quẻ) vẫn là một bí ẩn mà nhiều người chưa thể lý giải hết. Tương truyền, đây là những bài thơ mà ông sáng tác trong những lúc nhàn hạ khi ở quân ngũ, dự đoán đại sự trong thiên hạ theo từng thời đại lịch sử. Khi mỗi thời đại lịch sử qua đi, người ta xem lại mới thấy Khổng Minh tiên tri chính xác. Đương nhiên, những người phản đối cho rằng, đó chỉ là cách suy diễn của đời sau, khi sự đã rồi. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu tiên tri lại đưa ra biện giải riêng. Trong bộ sách Tướng Uyên, Khổng Minh từng đưa ra nhận xét về tính cách con người rằng: “Tính người thật khó hiểu. Dung mạo bất nhất, hành động trăm ngàn lối. Kẻ trông hiền lành nhu thuận mà vô đạo, kẻ bề ngoài cung kính mà trong lòng trí trá vô lễ. Kẻ trông rất hùng dũng nhưng lại nhát sợ. Kẻ có vẻ thật tận lực mà rất bất trung”. Nhờ những phép thử rất hữu hiệu này mà Gia Cát Lượng đã giúp cho Thục vương Lưu Bị chọn lựa ra những người có đủ cả tài, đức, trí, dũng, chính, tín; xây dựng nên triều đại nhà Thục hùng mạnh, sánh ngang hai cường quốc bên cạnh là Ngụy và Ngô. Khi ra Kỳ Sơn lần thứ sáu, Khổng Minh lâm bệnh nặng, cho quân đóng ở gò Ngũ Trượng, tránh giao chiến với quân Ngụy. Ông bèn dùng phép dâng sao, trong vòng 7 ngày bày ra 49 cây đèn quay quanh cây đèn chủ mạng của ông nhằm xin trời cao cho kéo dài mạng sống. Đến ngày thứ bảy, Tư Mã Ý nhìn thiên tượng biết Khổng Minh bị bệnh, cho quân đến thăm dò trước trại thách đánh. Ngụy Diên chạy vào trướng báo tin, chẳng ngờ đạp mạnh quá làm tắt ngọn đèn chủ vị. Khương Duy giận lắm, rút gươm muốn giết Ngụy Diên, Khổng Minh cản lại, than rằng: "Số trời như thế, không sao trái được". Ông gọi Khương Duy lại truyền thụ 24 thiên binh thư do ông viết ra. Sau đó, ông dặn các tướng phải đề phòng quân Ngụy tới đánh và Ngụy Diên làm phản cùng kế sách đối phó. Sau Thục chủ sai sứ tới hỏi việc hậu sự, Khổng Minh đáp rằng Tưởng Uyển có thể thay ông làm thừa tướng, sau đó là Phí Y, nói tới đó thì mất, hưởng dương 54 tuổi. Sau khi Khổng Minh mất, Ngụy Diên quả nhiên làm phản nhưng Khổng Minh đã tiên đoán trước nên bày kế cho Mã Đại chém chết Ngụy Diên. Tư Mã Ý tới đánh, quân Thục đẩy xe có tượng gỗ Khổng Minh ra trận, Tư Mã Ý sợ hãi bỏ chạy, hỏi các tướng rằng đầu mình có còn không. Thế là quân Thục rút an toàn trở về Thành Đô. Sau này trong dân gian có câu: "Gia Cát chết vẫn đuổi được Trọng Đạt sống". Khổng Tử là nhà tư tưởng, triết học, chính trị lỗi lạc Trung Hoa. Qua câu chuyện về phép tính 3 x 8 = 23, ông dạy học trò của mình bài học về sự nhường nhịn vô cùng sâu sắc. Nhờ trí thông minh hơn người, trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử nước ta Nguyễn Hiền đã có những đóng góp to lớn và 2 lần giúp đất nước thoát khỏi nguy cơ chiến tranh xâm lược. Khổng Tử là nhà tư tưởng, triết học, chính trị lỗi lạc Trung Hoa. Qua câu chuyện về phép tính 3 x 8 = 23, ông dạy học trò của mình bài học về sự nhường nhịn vô cùng sâu sắc.
Gia Cát Lượng
Gia Cát Lượng (chữ Hán: 諸葛亮; bính âm: Zhūgě Liàng; 181 – 234), biểu tự Khổng Minh (孔明), hiệu Ngọa Long (臥龍), là Thừa tướng, công thần khai quốc, nhà chính trị, nhà ngoại giao, chỉ huy quân sự, nhà giáo dục, và cũng là một nhà phát minh kỹ thuật nổi tiếng của nhà Quý Hán (Thục Hán) thời Tam Quốc. Gia Cát Lượng đã giúp Lưu Bị gây dựng nên nhà Thục Hán, hình thành thế chân vạc Tam quốc, liên minh Thục-Ngô chống Ngụy. Ông được cho là một trong những chiến lược gia vĩ đại và xuất sắc nhất trong thời đại của ông, và được so sánh với một chiến lược gia tài ba khác của Trung Quốc là Tôn Tử. Tuy nhiên, năm chiến dịch đánh Tào Ngụy do ông phát động đều không thành công, cuối cùng ông bị bệnh mất trong doanh trại. Không chỉ có tài năng hơn người, ông còn nổi tiếng với tấm lòng tận trung báo quốc, "cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi". Con trai và cháu nội của Gia Cát Lượng cũng kế thừa chí nguyện bảo vệ nhà Hán của ông và đã anh dũng tử trận khi nhà Thục Hán sắp sụp đổ, tạo nên tấm gương "Trung nghĩa truyền gia thế vô song, Ba đời trung liệt chiếu sử xanh" nổi tiếng lịch sử của nhà Gia Cát.
Tuổi dậy thì là giai đoạn cơ thể phát triển từ một đứa trẻ thành người trưởng thành, biểu hiện bằng sự thay đổi của nhiều bộ phận trên cơ thể. Thông thường những thay đổi này bắt đầu xuất hiện ở độ tuổi từ 8 đến 14 đối với các bé gái và từ 9 đến 15 tuổi đối với các bé trai. Khoảng tuổi như vậy là bình thường, do đó một số trẻ có thể phát triển sớm hơn hoặc muộn hơn vài năm so với các bạn bè của mình. Tuy nhiên có những trẻ đã bước qua khỏi độ tuổi này mà vẫn không có bất kỳ dấu hiệu thay đổi nào trên cơ thể, khi đó sẽ được gọi là dậy thì muộn. Dậy thì muộn là hiện tượng trẻ bị chậm phát triển về sinh dục, các dấu hiệu trưởng thành sinh dục không xuất hiện ở độ tuổi như bình thường. Sự thay đổi của cơ thể đánh dấu giai đoạn dậy thì được gọi là “đặc điểm sinh dục thứ phát”, bao gồm sự phát triển của ngực hoặc tinh hoàn, lông mu, và thay đổi giọng nói. Những thay đổi nêu trên là do tác động của hormone sinh dục mà cơ thể tạo ra nhiều hơn so với độ tuổi trước dậy thì – đó là testosterone ở nam và estrogen ở nữ. Nhìn chung các dấu hiệu có thể thấy rõ nhất là thiếu các đặc điểm sinh dục thứ phát. Các triệu chứng phổ biến ở trẻ em gái bao gồm:. Các dấu hiệu của dậy thì muộn có thể giống với một số bệnh lý và rối loạn khác, do đó nếu thấy trẻ có triệu chứng nghi ngờ thì bạn nên đưa trẻ đi khám để được chẩn đoán chính xác. Đa số trường hợp dậy thì muộn thường không rõ nguyên nhân. Đôi khi tình trạng này có thể do di truyền và xuất hiện ở nhiều thế hệ trong gia đình, ngoài ra còn có thể do các yếu tố sau đây:. Nhiều trường hợp dậy thì muộn chỉ đơn giản là một đặc điểm di truyền trong gia đình. Trẻ bị dậy thì muộn có thể nhận thấy cha mẹ và các anh chị của mình cũng phát triển muộn hơn. Tình trạng này thường không cần điều trị và sau đó trẻ vẫn sẽ phát triển bình thường, chỉ là muộn hơn so với các bạn cùng lứa tuổi mà thôi. Một số bệnh mạn tính như tiểu đường, xơ nang, bệnh thận, hoặc thậm chí hen suyễn cũng có thể khiến trẻ bị dậy thì muộn. Đó là vì bệnh tật khiến cơ thể khó tăng trưởng và phát triển hơn. Điều trị đúng cách và kiểm soát tốt các bệnh lý này có thể giúp giảm nguy cơ bị dậy thì muộn. Trẻ bị thiếu dinh dưỡng – do không ăn đủ lượng thực phẩm cần thiết hoặc không đủ các chất dinh dưỡng thiết yếu – cũng có thể phát triển muộn hơn so với những trẻ khác có chế độ ăn uống lành mạnh, cân bằng. Ví dụ như thanh thiếu niên mắc chứng rối loạn ăn uống do thần kinh thường sụt cân quá mức khiến cơ thể không phát triển bình thường. Những trẻ em gái tập luyện cường độ cao từ nhỏ trong các môn thể thao cũng có thể phát triển muộn vì mức độ tập luyện khiến trẻ trở nên quá gầy, trong khi cơ thể của con gái cần tích lũy đủ lượng chất béo để bước vào tuổi dậy thì. Dậy thì muộn cũng có thể xảy ra do các vấn đề ở tuyến yên hoặc tuyến giáp. Các tuyến này tạo ra các hormone quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể. Một số trẻ gặp rối loạn về tuổi dậy thì do các vấn đề về nhiễm sắc thể – đó là các cấu trúc siêu nhỏ bên trong tế bào, được tạo thành từ DNA quy định cách phát triển của cơ thể. Khi nhiễm sắc thể bị thay đổi sẽ ảnh hưởng đến quá trình phát triển bình thường. Hội chứng Turner xảy ra khi một trong hai nhiễm sắc thể X của nữ giới bị thiếu hoặc bất thường. Tình trạng này gây ra nhiều vấn đề đối với sự phát triển của buồng trứng và sản xuất hormone sinh dục của cơ thể. Những phụ nữ mắc hội chứng Turner không được điều trị sẽ có vóc dáng thấp lùn, có thể gặp rối loạn về tuổi dậy thì và mắc các vấn đề sức khỏe khác. Nam giới mắc hội chứng Klinefelter có thêm một nhiễm sắc thể X dư thừa, tức là XXY thay vì XY như bình thường. Tình trạng này có thể làm chậm quá trình phát triển giới tính. Những chàng trai mắc hội chứng này thường cao hơn so với tuổi, có thể gặp vấn đề về trí tuệ và mắc các bệnh lý khác. Nếu nghi ngờ trẻ bị dậy thì muộn, cha mẹ nên đến gặp bác sĩ. Tại phòng khám, bác sĩ sẽ tìm hiểu vấn đề của trẻ thông qua các bước:. Xét nghiệm máu để kiểm tra nồng độ hormone, phát hiện bất thường về nhiễm sắc thể và các vấn đề sức khỏe mạn tính có thể làm chậm quá trình dậy thì – có thể bao gồm bệnh tiểu đường hoặc thiếu máu. Chụp X-quang: Hình ảnh X-quang bàn tay và cổ tay có thể được dùng để ước tính tuổi của xương. Đối với trẻ dậy thì muộn, tuổi của xương thường “trẻ” hơn tuổi trên giấy tờ. Chụp cắt lớp (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) để kiểm tra có bất thường trong não hay không. Sau khi đã chẩn đoán chính xác, bác sĩ sẽ xem xét tuổi, sức khỏe tổng quát và các yếu tố khác của trẻ khi tư vấn điều trị. Phương pháp điều trị cụ thể phụ thuộc vào nguyên nhân gây ra vấn đề. Trong nhiều trường hợp, khi nguyên nhân được điều trị dứt điểm thì quá trình dậy thì sẽ diễn ra bình thường. Nếu dậy thì muộn do di truyền thì thường không cần điều trị. Nếu bác sĩ phát hiện có vấn đề nghiêm trọng nào đó, họ có thể tư vấn cho cha mẹ đưa trẻ đến gặp bác sĩ nội tiết nhi khoa chuyên điều trị cho trẻ em và thanh thiếu niên có vấn đề về tăng trưởng, hoặc đến một chuyên gia khác để kiểm tra hoặc điều trị thêm. Một số trẻ dậy thì muộn cảm thấy khó chịu khi cơ thể mình bất thường so với bạn bè. Trong trường hợp đó, các bác sĩ có thể đưa ra phương pháp điều trị bằng hormone:. Trẻ trai có thể được điều trị ngắn hạn với testosterone (thường là tiêm mỗi tháng trong vòng 4-6 tháng) để kích hoạt những thay đổi của tuổi dậy thì. Các bé gái có thể được sử dụng liều thấp estrogen trong 4–6 tháng để bắt đầu phát triển ngực. Sau khi kết thúc thời gian điều trị, hormone tự nhiên của cơ thể thường sẽ tiếp tục hoàn thành quá trình dậy thì. Nếu cơ thể vẫn không có đủ hormone tự nhiên thì bác sĩ sẽ xem xét dùng hormone ngoại sinh để thay thế lâu dài. Một số trường hợp khác cần thực hiện phẫu thuật để tác động tới nguyên nhân về thể chất. Hầu hết những trẻ bị dậy thì muộn vẫn có thể phát triển bình thường và không gặp vấn đề nghiêm trọng về sau. Những trẻ gặp tình trạng này chỉ phát triển muộn hơn một chút so với mức trung bình, nhưng sau này vẫn có thể bắt kịp các bạn cùng trang lứa. Một số nguyên nhân đặc biệt cần phải được điều trị bằng hormone bổ sung, khi đó cha mẹ nên hỗ trợ về mặt tinh thần để giúp trẻ không mặc cảm và quá lo sợ về sự khác biệt của mình. Trẻ có thể cảm thấy khó chịu khi nhìn bạn bè của mình trưởng thành và phát triển trong khi điều tương tự lại không xảy ra với bản thân mình. Điều đó có thể dẫn tới tâm lý tự ti, mặc cảm, cho rằng mình thua kém bạn bè. Ngay cả khi bác sĩ hoặc cha mẹ trấn an rằng mọi thứ sẽ ổn thì trẻ cũng khó có thể tự tin hòa nhập cùng bạn bè, từ đó ảnh hưởng đến học tập và vui chơi. Nếu nhận thấy trẻ có biểu hiện bất thường về tâm lý hoặc khó khăn trong học tập, cha mẹ nên trò chuyện cùng con, tới gặp bác sĩ hoặc tìm các chuyên gia về trẻ em để nói chuyện. Họ có thể giúp cha mẹ tìm ra vấn đề của trẻ và tư vấn cách giải quyết hợp lý. Dậy thì muộn thường là vấn đề khó chịu và gây rắc rối cho trẻ, nhưng đa số các trường hợp đều có thể được giải quyết tốt đẹp. Các bậc cha mẹ hãy luôn quan tâm để ý đến con mình và phát hiện những dấu hiệu sớm nhất giúp cho việc điều trị dễ dàng hơn!
Dậy thì muộn
Dậy thì muộn / dậy thì bị trì hoãn là khi một người thiếu hoặc có sự phát triển không đầy đủ các đặc điểm tình dục cụ thể đã qua tuổi bắt đầu dậy thì thông thường. Người bệnh có thể không có dấu hiệu thể chất hoặc nội tiết tố mà tuổi dậy thì đã bắt đầu. Tại Hoa Kỳ, các bé gái được coi là chậm dậy thì nếu thiếu phát triển vú ở tuổi 13 hoặc chưa bắt đầu kinh nguyệt ở tuổi 16. Các bé trai được coi là chậm dậy thì nếu tinh hoàn không to lên ở tuổi 14. Dậy thì muộn ảnh hưởng đến khoảng 2% thanh thiếu niên. Thông thường nhất, dậy thì có thể bị trì hoãn trong vài năm và vẫn diễn ra bình thường, trong trường hợp đó được coi là chậm phát triển cơ thể và dậy thì muộn, một biến thể phổ biến của sự phát triển thể chất lành mạnh. Sự chậm trễ của tuổi dậy thì cũng có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau như suy dinh dưỡng, các bệnh hệ thống khác nhau hoặc khiếm khuyết của hệ thống sinh sản (suy sinh dục) hoặc phản ứng của cơ thể đối với hormone giới tính.
Cỏ xạ hương được biết đến như một loại gia vị sử dụng rộng rãi trong các món ăn châu Âu. Ngoài ra ít ai biết được loại cỏ này còn có những lợi ích thiết thực đối với sức khỏe. Cùng chuyên trang tìm hiểu kỹ hơn về đặc điểm nhận dạng và những tác dụng cụ thể của loại dược liệu này. Cỏ xạ hương hay còn gọi Thyme là cây bụi, cao khoảng 30 – 70cm và mọc thành khóm thẳng đứng hoặc nằm ngang. Thân hóa gỗ sau khi về già, được phủ bởi một lớp lông mịn, có màu xám hoặc lục trắng và được phân nhiều nhánh nhỏ. Lá cây rất nhỏ, cuống lá ngắn, hình ngọn giáo, dài khoảng 5 – 9mm, rộng khoảng 3mm, mép lá cuốn lại, mặt dưới có lớp lông mềm mịn như bông. Hoa xạ hương nở vào tháng 6 – 10 hàng năm, bông hoa mọc từ nách lá, nhỏ, dài chỉ 4 – 6mm, hoa thường có màu trắng, hồng hoặc tím nhạt. Đài hoa lởm chởm, có lông cứng và chia thành 2 môi, môi trên đứng, môi dưới có 3 thuỳ. Tràng hoa hình ống, nhị có bao phấn, nhuỵ hoa có đĩa mật. Quả bế màu nâu, có bốn hạch. Đặc biệt loại cỏ này có mùi thơm đặc trưng, tinh dầu có mùi thơm mát, ngọt nồng. Cỏ xạ hương và hương thảo là 2 loại cây hương liệu khác nhau và đều được sử dụng nhiều trong trang trí, làm hương liệu trong nấu ăn. Tuy nhiên nhiều người không để ý rất dễ bị nhầm lẫn giữa cỏ xạ hương và hương thảo. Để phân biệt chính xác 2 loại cây này bạn có thể căn cứ vào một số đặc điểm bên ngoài như:. Cỏ xạ hương (Thyme) lá rất nhỏ, có màu xanh lá, bề mặt mềm trong khi hương thảo có lá kim tuyến, khi sờ tạo cảm giác cứng tay. Lá hương thảo dài hơn nhiều so với lá của cây cỏ xạ hương, có khi dài gấp 2 – 3 lần, có hình thuôn dài nhưng hẹp ngang. Cây hương thảo (Rosemary) có thân mọc thẳng, màu đổi từ xanh lá sang thân gỗ khi trưởng thành, và có chiều cao thấp hơn so với cây cỏ xạ hương. Cây cỏ xạ hương có nguồn gốc từ châu Âu, là cây ưa thích sống trên các vách núi đá cao cheo leo hoặc nơi có khí hậu ôn đới. Ngày nay loại cây này còn được tìm thấy nhiều nước khu vực Bắc Mỹ. Tại Việt Nam, loại cây này được nhập khẩu và trồng ở Sapa để làm thuốc. Bộ phận sử dụng: Thu hái phần ngọn cây mang cả hoa lá – Herba et Folium Thymi. Cây cỏ xạ hương phát triển mạnh nhất là vào mùa xuân và mùa đông. Do đó đây là thời điểm lý tưởng để thu hoạch loại cây này làm dược liệu. Dùng tươi: Cỏ xạ hương tươi bảo quản ngắn ngày, dùng làm hương liệu món ăn do đó có thể bảo quản ở trong ngăn mát tủ lạnh. Cỏ xạ hương khô: Sau khi thu hái cỏ tươi, đem rửa sạch và để ráo nước. Sau đó đem sấy ở nhiệt độ 60 độ C cho đến khi khô hoàn toàn. Khi sấy ở nhiệt độ này dược liệu sẽ giữ được hàm lượng dược tính cao nhất và có thể bảo quản cũng như sử dụng trong thời gian dài. Cỏ xạ hương có chứa nhiều thành phần hóa học nhưng quan trọng nhất là Thymol, Carvacrol và Flavonoid. Thymol: Có tác dụng kháng viêm, ức chế vi khuẩn, nấm phát triển, giảm tình trạng vi khuẩn kháng kháng sinh, chống oxy hóa, tăng cường sức khỏe cho người già yếu và ngăn chặn sự phát triển của các khối u. Flavonoid: Chất chống oxy hóa mạnh, tác dụng ức chế hoạt động của các tế bào gốc tự do hoạt động. Các tinh dầu thơm (thymol, borneol, carvacrol, geraniol…) có tác dụng giảm ho, khó thở (làm dịu cơn đau rát họng, chống co thắt phế quản và giúp đẩy nhanh quá trình tống chất nhầy đường hô hấp). Ngoài ra, tinh dầu trên có khả năng chống viêm, kháng nấm, vi khuẩn, virus lây nhiễm gây bệnh. Trong cuộc sống hàng ngày cây xạ hương được ứng dụng để nấu ăn, làm thuốc chữa bệnh và là thành phần quan trọng để điều chế các sản phẩm hóa – mỹ phẩm khác. Dưới đây là một số công dụng của cây xạ hương trong cuộc sống hàng ngày. Tinh dầu xạ hương được chiết xuất từ lá cây xạ hương được dùng như phương pháp trị ho tự nhiên rất hiệu quả. Tại các nước Âu Mỹ, dịch chiết dược liệu được sử dụng rộng rãi để điều trị và làm giảm chứng bệnh hô hấp như: giảm ho, viêm họng, đau họng, khó thở, ho gà, chữa viêm phế quản, nhiễm trùng đường hô hấp,…. Cách dùng: Có thể dùng cỏ xạ hương tươi giã nát rồi đắp trực tiếp lên cổ họng hoặc uống trà cỏ xạ hương khô để trị bệnh. Đặc biệt khi kết hợp cỏ thường xuân và lá xạ hương có thể giảm ho và cải thiện nhanh các triệu chứng bệnh viêm phế quản cấp tính. Theo một số nghiên cứu, chiết xuất từ cỏ xạ hương tự nhiên có thể làm giảm huyết áp trên chuột thí nghiệm. Phát hiện này là tiền đề để phát triển và ứng dụng tác dụng này lên người. Trong cỏ xạ hương chứa hàm lượng vitamin C và A, các khoáng chất như chất sắt, chất xơ lớn. Vì vậy khi sử dụng thường xuyên giúp tăng cường hệ thống miễn dịch của cơ thể khi dùng. Dược liệu xạ hương có tác dụng khử trùng nước tiểu, đồng thời tăng lưu lượng nước tiểu bài tiết, nên có tác dụng như một loại thuốc lợi tiểu. Chính vì vậy khi mắc các triệu chứng như bí tiểu, tiểu rắt, tiểu khó có thể dùng dược liệu này để điều trị. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả cao người bệnh nên sử dụng dược liệu này hàng ngày và đúng cách dùng. Thành phần Thymol, Carvacrol trong loại cỏ này có tác dụng kháng viêm, kháng khuẩn, giúp điều trị mụn, đặc biệt là mụn trứng cá. Để điều trị mụn, người bệnh có thể sử dụng rượu thuốc ngâm từ cây cỏ xạ hương. Ngoài ra, chiết xuất tinh dầu của dược liệu còn có khả năng ức chế hoạt động virus HSV gây mụn rộp. Ngoài những công dụng đối với sức khỏe con người, cỏ xạ hương hiện nay được sử dụng trong ngành công nghiệp giúp sản xuất các chế phẩm phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của con người như. Có chứa thành phần tinh dầu dồi dào, cây Thyme là thành phần chính trong nhiều sản phẩm nước súc miệng, nước rửa tay không chứa cồn. Đây là các sản phẩm có thành phần thiên nhiên và có mùi hương đặc trưng nên rất được ưa chuộng sử dụng. Chiết xuất từ cỏ xạ hương khi kết hợp với Chlorhexidine được ứng dụng làm chất nha khoa. Hợp chất này có tác dụng ngăn ngừa tình trạng sâu răng và giúp hơi thở thơm tho, sạch sẽ hơn. Cách sử dụng như sau:. Ngoài ra có thể kết hợp tinh dầu xạ hương với 1 giọt tinh dầu bạc hà hoặc 1 giọt tinh dầu đinh hương để giúp răng chắc khỏe và hơi thở thơm mát hơn. Theo các nghiên cứu cho thấy chiết xuất tinh dầu kết hợp với tinh dầu tràm có tác dụng tiêu diệt ấu trùng muỗi vằn và xua đuổi côn trùng gây bệnh. Bên cạnh đó, dầu xạ hương có tác dụng chống nấm mốc, làm sạch môi trường sống và các yếu tố có nguy cơ gây hại cho sức khỏe con người. Thành phần Thymol trong xạ hương không chỉ có tác dụng ngăn chặn vi khuẩn, virus mà còn giúp xua đuổi các loại côn trùng. Cây xạ hương có mùi thơm nồng đặc trưng do đó loại cây này được ứng dụng nhiều trong ngành sản xuất hóa mỹ phẩm. Dược liệu này được sản xuất các loại tinh dầu giúp khử mùi hôi, làm thơm phòng, khử mùi phòng vệ sinh, trong nhà bếp, tủ quần áo,. Hiện tượng oxy hóa lipid là vấn đề nghiêm trọng trong quá trình chế biến và bảo quản thực phẩm. Tình trạng này có thể làm cho thực phẩm mất chất lượng và giá trị dinh dưỡng, đặc biệt còn có thể gây mất an toàn. Dầu xạ hương ở nồng độ thấp là một chất bảo quản thực phẩm, ngăn chặn hình thành vi khuẩn và nấm mốc gây bệnh trong đồ ăn. Ngoài ra, loại dầu này còn kéo dài sự ổn định của dầu hướng dương và ngăn chặn hiện tượng oxy hóa lipid. Trong ẩm thực các món ăn châu Âu, cỏ xạ hương là một loại gia vị không thể thiếu. Hương liệu này có vị hơi hăng cay, mặn, có thể là nguyên liệu kết hợp với rất nhiều thực phẩm như: thịt, cá, nấm, cà rốt, khoai tây,…. Không chỉ là gia vị tạo hương cho món ăn mà sử dụng cây xạ hương trong nấu ăn còn rất bổ dưỡng với cơ thể. Các món ăn này giúp dễ tiêu, tránh ngộ độc thức ăn, nhiễm trùng đường ruột, giảm cholesterol trong máu và kích thích cảm giác thèm ăn. Chú ý: Khi nấu ăn nên thêm loại gia vị này vào sau cùng bởi nhiệt độ cao có thể làm mất đi dưỡng chất và mùi hương tự nhiên của nó. Hiện nay các ứng dụng của cây xạ hương được nhiều người biết đến do đó rất nhiều nơi bán loại cây này. Do đó việc mua cây cỏ xạ hương về trồng là rất dễ dàng. Cỏ xạ hương tươi thường được bày bán ở các nhà vườn phân phối cây trồng, bạn có thể đến trực tiếp hoặc mua online. Hạt giống cỏ xạ hương khó tìm mua hơn giống cây xạ hương, tuy nhiên bạn vẫn có thể tìm mua tại địa chỉ các vườn cây giống. Cỏ xạ hương khô là sản phẩm rất tiện lợi, dễ dàng bảo quản và sử dụng trong nấu ăn hàng ngày. Loại hương liệu khô này có thể dễ dàng tìm mua trong các siêu thị, nơi bán gia vị nấu ăn, hương liệu,…. Cỏ xạ hương an toàn, lành tính nên được ứng dụng rất nhiều trong cuốc sống hàng ngày. Tuy nhiên một số trường hợp sau cần chú ý khi sử dụng loại cây này:. Cỏ xạ hương không gây tác dụng phụ cho cơ thể khi dùng ở liều lượng vừa phải và trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, nếu dùng ở liều cao có thể gây một số tác dụng phụ lên đường tiêu hóa như tình trạng rối loạn tiêu hóa. Trẻ em, phụ nữ mang thai, người đang cho con bú khi sử dụng cần chú ý liều lượng tránh gây tác dụng phụ nguy hiểm. Để đảm bảo an toàn, tốt nhất những đối tượng này nên tham khảo ý kiến của bác sĩ, chuyên gia. Người bị dị ứng với oregano và các loại cây thuộc họ Hoa Môi Lamiaceae cũng có nguy cơ cao bị dị ứng với dượ liệu xạ hương. Do đó khi sử dụng loại cỏ này mà cơ thể xuất hiện các triệu chứng như ngứa da, đỏ da, phát ban, khó thở,… cần ngưng sử dụng và tình trạng nghiêm trọng cần đến cơ sở y tế để được xử lý kịp thời. Cỏ xạ hương có thể làm máu chậm đông hơn so với bình thường, nếu dùng nhiều có nguy cơ chảy máu. Vì vậy, trường hợp cần phẫu thuật cần ngưng dùng loại thảo dược này trước đó ít nhất 2 tuần.
Cỏ xạ hương
Cỏ xạ hương (tiếng Anh: Thyme hay Common thyme, Garden thyme, danh pháp hai phần: Thymus vulgaris) là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa môi, được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực, dược liệu và trang trí. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753 Chúng thuộc Chi Cỏ xạ hương (Bách lý hương) và là loài phổ biến nhất trong chi này. Cỏ xạ hương có nguồn gốc miền nam châu Âu từ phía tây Địa Trung Hải đến miền nam Italia nhưng hiện nay đã di thực khắp nơi trên thế giới. Tại Việt Nam cây được trồng chính tại Đà Lạt và Sa Pa. Cỏ xạ hương khá phổ biến ở châu Âu như Đức, Pháp, Séc, Áo và khu vực Địa Trung Hải như Italia. Theo trang Y học cổ truyền, cỏ xạ hương là cây dưới bụi, cao 30–70 cm, tạo thành khóm xám hay lục trăng trắng, thân hóa gỗ, mọc đứng hay nằm, phân nhánh nhiều và có lông mịn. Lá nhỏ hình ngọn giáo dài 5-9mm; có cuống ngắn, mép lá cuốn lại có lông như bông ở mặt dưới. Hoa nhỏ ở nách lá, dài 4-6mm, màu hồng hay trắng; đài lởm chởm, lông cứng, chia hai môi; tràng hình ống, các môi trên đứng, môi dưới có 3 thùy gần bằng nhau; nhị 4, lồi có bao phấn rẽ ra; nhụy có đĩa mật bao quanh.
Không giống như Phân tích Kỹ thuật (Technical Analysis) là dựa vào Hành Động Giá (Price Action) và Xu Hướng (TrendLine) để xác định mục tiêu giá trong tương lai. Trường phái Phân tích Cơ bản chỉ dựa trên các dữ liệu có sẵn (kinh tế, địa chính trị, sự kiện trong phiên giao dịch,…) để nghiên cứu các lý do hoặc nguyên nhân làm cho giá tăng lên hoặc giảm xuống. Sau đó mới tìm kiếm sự khác biệt giữa giá thị trường hiện tại và định giá của riêng trader để phát hiện ra các cơ hội giao dịch. Phân tích cơ bản còn được gọi là phân tích tin tức. Là dựa trên giá trị nội tại của tài sản làm căn cứ, cùng với phân tích các yếu tố ảnh hưởng với giá cả để quyết định nhà đầu tư sẽ mua loại tài sản nào và mua lúc nào. Giả sử bạn đang có ý định mua xe hơi và bạn tìm thấy một chiếc xe với giá 10.000 USD. Nhưng bạn không chắc đây có phải là một mức giá tốt hay không và bạn lên internet để hỏi ý kiến của người khác, sau đó so sánh và đánh giá xem liệu 10.000 USD có phải là một mức giá hợp lý chưa. Những gì bạn đang làm trong trường hợp này chính là Phân tích Cơ bản – nghĩa là đi tìm tất cả các yếu tố cơ bản để quyết định xem giá hiện tại có phản ánh giá trị thực của tài sản hay không. Phân tích Cơ bản trong Chứng khoán nhằm mục đích đánh giá một cổ phiếu công ty là dưới giá trị hay trên giá trị hiện hành. Từ đó khẳng định giá trị thực của một công ty với các đặc tính tài chính như: khả năng phát triển; những rủi ro mà công ty có thể gặp phải; dòng tiền trong công ty… Bất kỳ một sự khác biệt nào so với giá trị thực cũng là dấu hiệu cho thấy cổ phiếu công ty đang ở dưới hoặc vượt quá giá trị thực. Mối quan hệ giữa giá trị cổ phiếu hiện hành và các yếu tố tài chính là có thể đo lường được. Các sai lệch của mối quan hệ có được điều chỉnh lại vào thời điểm thích hợp. Nhà đầu tư thường dùng phương pháp Phân tích Cơ bản để chọn mua những chứng khoán có triển vọng tốt nhưng đang bị thị trường đánh giá thấp, tức là một cách thức đầu tư giá trị. Việc mua bán chứng khoán không chỉ dựa trên các biểu đồ từ phân tích kỹ thuật (về cung và cầu), mà chủ yếu phải từ Phân tích Cơ bản (về năng lực và hoạt động của các công ty). Phân tích Cơ bản nhằm tính toán về thị trường, doanh số, các chỉ số tài chính, tình hình pháp lý và hệ thống quản trị của doanh nghiệp nhằm tìm ra các doanh nghiệp xứng đáng đầu tư. Trong thị trường Forex, các nhà Phân tích Cơ bản sử dụng các dữ liệu sẵn có bao gồm các báo cáo thu nhập của công ty, các sự kiện địa chính trị, chính sách của ngân hàng trung ương, các yếu tố môi trường… để giúp họ tìm kiếm manh mối về xu hướng thị trường trong tương lai. Lãi suất, lạm phát và GDP là 3 chỉ số kinh tế quan trọng thường được sử dụng trong Phân tích Cơ bản với Forex. Chúng có tác động vô cùng lớn đến nền kinh tế của một quốc gia so với các chỉ số khác như chỉ số bán lẻ, dòng vốn, cán cân thương mại cũng như giá trái phiếu và nhiều yếu tố vĩ mô hay địa chính trị khác. Ngoài ra, các chỉ số kinh tế không chỉ được so sánh với nhau mà còn được phối hợp, liên kết với nhau. Ngoài ra, một trong những yếu tố quan trọng nhất trong Phân tích Cơ bản là chính sách tiền tệ được ban hành bởi các ngân hàng trung ương. Lãi suất của thị trường mở và sự can thiệp của ngân hàng trung ương ảnh hưởng đến điều kiện kinh doanh và được theo dõi chặt chẽ bởi các nhà phân tích tài chính và giới đầu cơ. Một số ngân hàng trung ương có ảnh hưởng nhất bao gồm Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), Ngân hàng Trung ương Anh (BoE), Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) và Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ). Thêm nữa, trường phái Phân tích Cơ bản cũng xem xét các ảnh hưởng bên ngoài có thể ảnh hưởng đến giá trị cụ thể hoặc biến động giá. Thiên tai, chẳng hạn như lũ lụt hoặc động đất, cũng có thể có tác động lớn đến giá trị của một tiền tệ hoặc hàng hóa.
Phân tích cơ bản
Phân tích cơ bản một doanh nghiệp liên quan đến việc phân tích các báo cáo tài chính và sức khỏe của nó, các lợi thế quản lý và cạnh tranh của nó, và các đối thủ cạnh tranh và các thị trường nó. Khi áp dụng cho các tương lai và ngoại hối, nó tập trung vào tình trạng tổng thể của nền kinh tế, lãi suất, sản xuất, thu nhập, và quản lý. Khi phân tích một cổ phiếu, hợp đồng tương lai, hoặc tiền tệ bằng cách sử dụng phân tích cơ bản có hai cách tiếp cận cơ bản có thể sử dụng, phân tích từ dưới lên và phân tích từ trên xuống. Thuật ngữ này được sử dụng để phân biệt các phân tích như vậy khỏi các loại phân tích đầu tư, chẳng hạn như phân tích định lượng và phân tích kỹ thuật. Phân tích cơ bản được thực hiện trên dữ liệu lịch sử và hiện tại, nhưng với mục tiêu làm các dự báo tài chính. để tính toán rủi ro tín dụng của nó.
Nếu như bạn đã có cơ hội học qua môn nguyên lí của Mác- Lênin thì chắc hẳn đã từng nghe qua thặng dư là gì?. Không những vậy trên những bản tin thời sự, kinh tế cũng thường xuyên nhắc đến thuật ngữ này. Lúc nghe qua chắc hẳn bạn cảm thấy khó hiểu. Không biện giải được thặng dư ra sao?. Vậy thì hãy cùng mình tìm hiểu chi tiết qua bài viết này nhé. Thặng dư là khoảng tiền chênh lệch giữa khoản tiền mà hàng hóa mang đến cho chủ sở hữu trừ ra số tiền chi ra để sản xuất ra hàng hóa đó. Công thức cổ điển thể hiện giá trị thặng dư là T-H-T’. Điều đó có nghĩa là ban đầu nhà sản xuất chỉ có tiền. Rồi đem tiền đó sản xuất ra hàng hóa. Hàng hóa đó sẽ đem đi bán lấy một lượng tiền lớn hơn ban đầu. Ví dụ: Nếu doanh nghiệp thuê 1 người về làm việc. 1 ngày người đó có thể làm dc 1.000.000đ. Và sang ngày thứ 2 người đó có thể làm được 1.200.000đ. Vậy phần 200.000đ kia sẽ là giá trị thặng dư nếu vẫn giữ nguyên mức giá trị lao động ở 1 ngày bình thường. Có thể hình dung rằng các nhà tư bản đã ra sức bốc lột sức lao động cua công nhân. Từ đó tạo ra một khoảng thặng dư cho bản thân mình. Càng bóc lột được nhiều sức lao động của người lao động thì sẽ tạo ra càng nhiều giá trị thặng dư. Vì thế mà người ta thường có câu người giàu thì cứ giàu mãi, người nghèo thì cứ nghèo mãi là vậy. Năng suất lao động: lượng sản phẩm được tạo ra trong cùng một khoảng thời gian. Thời gian lao động: thời gia mà người lao động dùng để tạo ra một mặt hàng nào đó. Cường độ lao động: tiêu hao về trí tuệ, đầu óc, sức lực lao động của con người. Ngày nay thay vì tăng cường độ lao động làm việc chân tay như lúc xưa. Các ông chủ thường sẽ đầu tư thêm các máy móc, trang thiết bị hiện đại. Đừng nên làm việc chân tay mà hãy làm việc bằng đầu óc. Có như vậy thì năng suất lao động sẽ được nâng cao. Giá trị sản phẩm đó tạo ra cao hơn so với lúc trước. Có 2 phương pháp thường được áp dụng để tạo ra giá trị thặng dư. Đó là phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối. Đây là phương pháp kéo dài thời gian lao động thặng dư của công nhân. Trong khi năng suất lao động, thời gian lao động không hề thay đổi. Đây chính là phương pháp rút ngắn lại thời gian lao động tất yếu của người lao động. Nhờ vào việc hạ thấp giá trị sức lao động. Tăng thời gian lao động thặng dư lên với điều kiện ngày làm việc và cường độ làm việc không hề thay đổi. Giá trị thặng dư siêu ngạch chính là giá trị thặng dư được thu vào có giá trị thấp hơn so với giá trị xã hội. Nhưng lại được bán ra theo giá trị xã hội. Khi đó ta sẽ thu được một khoảng giá trị thặng dư cao hơn nhiều so với những doanh nghiệp khác. Giá trị thặng dư siêu ngạch = Giá trị xã hội của hàng hóa – Giá trị cá biệt của hàng hóa. Bản chất chính của giá trị thặng dư người có tư liệu sản xuất sẽ bóc lột người không có tư liệu sản xuất. Bóc lột sức lao động của họ để tạo ra nhiều giá trị thặng dư cho mình thì càng tốt. Bản chất giá trị thặng dư chính là mối quan hệ bóc lột giữa chủ và người làm thuê. Bóc lột cành nhiều thì giá trị thặng dư được tạo ra cũng cành nhiều. Giá trị thặng dư là một khái niệm cơ bản và hay nhất và lĩnh vực kinh tế chính trị Mác- Lênin. Ở thời tư bản chủ nghĩa muốn tích lũy tài sản thì phải bóc lột sức lao động của con người. Mãi cho đế ngày nay thì giá trị thặng dư vẫn không bị mất đi. Mà nó chính là tiền để cho các doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng. Tăng qui mô và lĩnh vực hoạt động kinh doanh. Phong Banker là một nhân viên làm việc trong môi trường tài chính ngân hàng 5 năm. Mình có nhiều kiến thức liên quan đến mảng tài chính chia sẻ cho mọi người. Rất vui được làm quen với các bạn. Goctaichinh.com là nơi chia sẻ các kiến thức, kinh nghiệm liên quan quan đến lĩnh vực tài chính, kinh doanh hiện nay. Ngoài ra chúng tôi còn hỗ trợ thêm các kinh nghiệm về vay vốn, vay tín chấp online cho mọi người. Giúp cho các bạn hiểu hơn về lĩnh vực tài chính cũng như các thức để có thể dễ dàng vay vốn hơn.
Giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư là một trong những khái niệm trung tâm của kinh tế chính trị Karl Marx. Karl Marx đã nghiên cứu và đưa ra một số lý luận xung quanh khái niệm này trong các tác phẩm viết về kinh tế chính trị của ông để khẳng định lao động thặng dư của công nhân bị các nhà tư bản lấy đi, là nền tảng cho sự tích lũy tư bản. Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải mua sức lao động và tư liệu sản xuất. Vì tư liệu sản xuất và sức lao động do nhà tư bản mua, nên trong quá trình sản xuất, người công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản và sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản. Sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình tạo ra giá trị tăng thêm cho nhà tư bản khi năng suất lao động đạt tới trình độ nhất định – chỉ cần một phần của ngày lao động người công nhân làm thuê đã tạo ra giá trị bằng giá trị sức lao động của chính mình. Bằng lao động cụ thể của mình, công nhân sử dụng các tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của chúng vào sản phẩm; và bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó được gọi là giá trị thặng dư.
Bóng ném là môn thể thao đồng đội, trong đó hai đội mỗi đội có bảy cầu thủ (sáu cầu thủ trên sân và thủ môn) cố gắng ném một quả bóng vào gôn của đối thủ. Đội nào ném được nhiều lần bóng vào cầu môn đội kia trong hai hiệp mỗi hiệp 30 phút sẽ là đội giành chiến thắng. Bóng ném hiện đại thường được chơi trong nhà, nhưng các biến thể bóng đá ngoài trời vẫn tồn tại dưới hình thức ném ngoài sân (loại bóng ném đã phổ biến hơn trong quá khứ) và bóng ném bãi biển. Bóng ném Mỹ và bóng ném Gaelic là môn thể thao hoàn toàn khác nhau. Môn bóng ném chơi với tốc độ là khá nhanh và có va chạm do các hậu vệ cố gắng ngăn chặn những cầu thủ tấn công không được cận mục tiêu. Va chạm cầu thủ chỉ được phép khi các cầu thủ phòng thủ hoàn toàn ở phía trước của các cầu thủ tấn công, tức là giữa các cầu thủ tấn công và gôn. Điều này được gọi là một bánh kẹp sandwich cầu thủ. Bất kỳ sự va chạm từ phía bên hoặc đặc biệt là từ phía sau được xem là nguy hiểm và thường chịu hình phạt. Khi hậu vệ cản phá thành công một cầu thủ tấn công, cuộc chơi được dừng lại và khởi động lại bởi đội tấn công từ vị trí của infraction hoặc trên dòng 9 mét. Không giống như trong bóng rổ, nơi người chơi được phép cam kết chỉ có 5 lỗi trong một trò chơi (6 trong NBA), cầu thủ bóng ném được cho phép một số lượng không giới hạn của "lỗi lầm", được coi là phòng thủ tốt và gây gián đoạn cho nhịp điệu tấn công của đội. Bóng ném là môn thể thao đồng đội, có tính đối kháng cao. Mỗi lượt thi đấu gồm hai đội đấu với nhau, mỗi đội có bảy người bao gồm một thủ môn và sáu cầu thủ ném bóng. Mục đích của cả hai đội là ném được bóng vào khung thành (kích thước 3x2m) của đối phương. Quả bóng hoàn toàn vượt qua vạch biên sân thi đấu với khung thành thì mới được tính bàn thắng. Kích thước sân thi đấu khoảng 40x20m, được chia làm hai phần cho mỗi đội. Trong đó đường giới hạn ném bóng tự do có khoảng cách 9m với khung thành, “vòng cấm địa” của thủ môn có bán kính 6m xung quanh khung thành. Tại “vùng cấm địa” cầu thủ ném bóng tuyệt đối không được bước chân vào mà chỉ được giành bóng ở khu vực ném bóng tự do rồi ném bóng vào khung thành để ghi bàn. Trận đấu có hai hiệp, mỗi hiệp 30 phút. Đội ghi nhiều bàn thắng hơn là đội thắng cuộc. Nếu hòa, sẽ có hai hiệp phụ, mỗi hiệp 5 phút. Nếu sau hai hiệp phụ mà vẫn hòa, thì thắng thua của trận đấu sẽ được quyết định bằng loạt ném bóng Penalty như trong bóng đá. Cầu thủ ném bóng không được cầm bóng quá 3 giây, và cũng không được chạy quá 3 bước khi cầm bóng. Nếu cầu thủ vi phạm các luật trên thì sẽ bị phạt một quả ném bóng trực tiếp cho đội bạn. Cầu thủ được phép chuyền bóng cho đồng đội, dằng bóng để dẫn bóng như trong bóng rổ. Nếu trong một trận đấu, một đội giữ bóng quá lâu mà không chịu ghi bàn (chuyền bóng để câu giờ), trọng tài có quyền tước bóng và giao cho đội đối phương. Cầu thủ có thể chặn đối phương ném bóng bằng tay hay bằng cả cánh tay, ngăn chăn trực tiếp (ngăn chặn trước mặt) chứ không được chặn từ phía sau lung đối phương, không được lập hàng rào để chặn. Cầu thủ cũng không được cướp bóng khi bóng đang nằm trong tay đối phương, không được nhảy lên người hay đẩy người của đối phương. Tất cả các lỗi trên nếu vi phạm đều bị phạt một quả ném bóng trực tiếp cho đội bạn. Các đặc biệt nhất của bóng ném khác với những môn thể thao khác là khi một cầu thủ trên sân bị thay ra ngoài thì vẫn có thể quay lại sân thi đấu tiếp và không hạn chế số lượng vào sân của cầu thủ.
Bóng ném
Bóng ném là môn thể thao đồng đội, trong đó hai đội mỗi đội có bảy cầu thủ (sáu cầu thủ trên sân và thủ môn) cố gắng ném một quả bóng vào gôn của đối thủ. Đội nào ném được nhiều lần bóng vào cầu môn đội kia trong hai hiệp mỗi hiệp 30 phút sẽ là đội giành chiến thắng. Bóng ném hiện đại thường được chơi trong nhà, nhưng các biến thể bóng ném ngoài trời vẫn tồn tại dưới hình thức ném ngoài sân (loại bóng ném đã phổ biến hơn trong quá khứ) và bóng ném bãi biển. Bóng ném Mỹ và bóng ném Gaelic là môn thể thao hoàn toàn khác nhau. Môn bóng ném chơi với tốc độ là khá nhanh và có va chạm do các hậu vệ cố gắng ngăn chặn những cầu thủ tấn công không được cận mục tiêu. Va chạm cầu thủ chỉ được phép khi các cầu thủ phòng thủ hoàn toàn ở phía trước của các cầu thủ tấn công, tức là giữa các cầu thủ tấn công và gôn. Điều này được gọi là một bánh kẹp sandwich cầu thủ. Bất kỳ sự va chạm từ phía bên hoặc đặc biệt là từ phía sau được xem là nguy hiểm và thường chịu hình phạt.
Nguyên nhân là vì văn hóa hay kinh tế? Câu hỏi đó tạo ra nhiều tranh luận về chủ nghĩa dân túy đương đại. Liệu nhiệm kỳ tổng thống của Donald Trump, Brexit, và sự trỗi dậy của các đảng chính trị cánh hữu theo chủ nghĩa bản địa ở châu Âu có phải là hậu quả của sự rạn nứt sâu sắc về giá trị giữa những người bảo thủ và những người tự do, với việc những người bảo thủ quay sang ủng hộ các chính trị gia chuyên chế, bài ngoại theo chủ nghĩa dân tộc – sắc tộc hay không? Hay các hiện tượng này phản ánh sự lo lắng, bất an về kinh tế của các cử tri, được thúc đẩy bởi khủng hoảng tài chính, chính sách thắt lưng buộc bụng và toàn cầu hóa?. Phần lớn phụ thuộc vào câu trả lời. Nếu chủ nghĩa dân túy độc đoán bắt nguồn từ gốc rễ kinh tế, thì biện pháp giải quyết thích hợp là một hình thức chủ nghĩa dân túy khác – nhắm vào sự bất bình đẳng thu nhập và phát triển kinh tế bao trùm, nhưng đa nguyên trong chính trị và không nhất thiết gây tổn hại cho nền dân chủ. Tuy nhiên, nếu nó bắt nguồn từ yếu tố văn hóa và giá trị thì số giải pháp là ít hơn. Dân chủ tự do có thể bị hủy hoại bởi những động lực và mâu thuẫn nội bộ của chính nó. Các tập đoàn lớn đang bị công kích mạnh mẽ ở Hoa Kỳ. Amazon đã hủy bỏ kế hoạch mua trụ sở mới tại quận Queen của thành phố New York do sự phản đối mạnh mẽ của người dân địa phương. Lindsey Graham, một thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa đại diện cho Nam Carolina, đã nêu quan ngại về vị thế thị trường áp đảo của Facebook, trong khi đồng nghiệp phía đảng Dân chủ của ông, bà Elizabeth Warren đại diện cho bang Massachusetts, đã kêu gọi chia nhỏ công ty. Warren cũng đã đưa ra các dự luật quy định dành 40% số ghế trong hội đồng quản trị các công ty cho người lao động. Continue reading “Tại sao chủ nghĩa tư bản cần chủ nghĩa dân túy?”. Người hâm mộ gọi ông là Nhà ma thuật, Người chiến thắng, thậm chí là “melekh yisrael”, nghĩa là “Vua của Israel”. Binyamin Netanyahu là chính trị gia tài năng nhất của Israel trong vòng một thế hệ qua. Ông là thủ tướng nắm quyền lâu thứ hai của đất nước, và nếu ông thắng cử lần thứ năm vào ngày 9 tháng 4, ông sẽ đánh bại kỷ lục của người cha sáng lập đất nước, David Ben Gurion. Thường được gọi với biệt danh “Bibi”, ông có tầm quan trọng vượt ra ngoài Israel, và không chỉ bởi vì ông nói thứ tiếng Do Thái và tiếng Anh hoàn hảo và có thế đứng tốt ở Trung Đông hỗn loạn ngày nay. Ông quan trọng bởi vì ông hiện thân cho thứ chính trị dân tộc chủ nghĩa cơ bắp, chủ nghĩa sô vanh và sự phẫn nộ của giới tinh hoa từ lâu trước khi chủ nghĩa dân túy theo kiểu đó trở thành một thứ sức mạnh trên toàn cầu. Ông Netanyahu có thể đếm trong số các bạn bè và đồng minh của mình những người như Donald Trump và Narendra Modi, chưa kể các chính trị gia châu Âu từ Viktor Orban ở Hungary đến Matteo Salvini ở Ý. Continue reading “Binyamin Netanyahu và chân dung chủ nghĩa dân túy hiện đại”. Ngay cả khi làn sóng dân túy cánh hữu đang quét qua Châu Âu, Hoa Kỳ, Ấn Độ và các khu vực của Đông Nam Á, Nhật Bản cho đến nay dường như không bị ảnh hưởng. Nhật Bản không có các nhà chính trị dân túy như Geert Wilders, Marine Le Pen, Donald Trump, Narendra Modi, hay Rodrigo Duterte, những người đã khai thác những sự phẫn nộ dồn nén của người dân chống lại giới tinh hoa trong văn hoá hay chính trị. Có lẽ nhân vật dân túy nhất mà Nhật từng có gần đây là cựu thị trưởng Osaka, Toru Hashimoto, người trước đây nổi tiếng trong vai trò một nhân vật truyền hình và sau đó tự hạ thấp mình trong những năm gần đây bằng cách khen ngợi việc sử dụng nô lệ tình dục thời chiến của quân đội Đế quốc Nhật Bản. Quan điểm cực đoan về chủ nghĩa dân tộc của ông và sự e sợ các phương tiện truyền thông tự do là một phiên bản quen thuộc của chủ nghĩa dân túy cánh hữu. Nhưng ông không bao giờ có thể thâm nhập được vào chính trường quốc gia. Có ba lý do tại sao chúng ta đang chứng khiến sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc dân túy vào nửa sau của thập niên 2010: kinh tế, chính trị và văn hóa. Những nguồn gốc kinh tế của chủ nghĩa dân túy đã được chú ý và bàn luận rộng rãi. Lý thuyết thương mại nói với chúng ta rằng, tính gộp lại tất cả các quốc gia tham gia vào cơ chế thương mại tự do đều giàu có lên; nhưng cũng chính lý thuyết ấy nói với chúng ta rằng không phải mọi cá nhân ở mỗi quốc gia đó đều khá giả lên: những người lao động kỹ năng thấp ở các nước giàu sẽ thua thiệt trước những công nhân cũng có kỹ năng thấp nhưng được trả công thấp hơn ở các nước nghèo. Continue reading “Vì sao chủ nghĩa dân tộc dân túy trỗi dậy vào lúc này?”. Thuật ngữ “chủ nghĩa dân túy” (populism) đã được sử dụng rất lỏng lẻo trong thời gian gần đây. Chúng ta cần xác định rõ hơn. Những năm gần đây đã trỗi dậy những hình thức mới của chủ nghĩa dân tộc dân túy (populist nationalism) mà ngày nay đã trở thành mối đe dọa chính đối với trật tự tự do quốc tế từng là nền tảng của hòa bình và thịnh vượng trên toàn cầu từ sau năm 1945. Chế độ dân chủ tự do đã liên tiếp bị các chế độ chuyên chế đe dọa trong suốt thế kỷ qua, ngoại trừ giai đoạn 1991-2008 khi quyền lực của Hoa Kỳ giữ vị trí gần như bá chủ. Lo lắng về các vấn đề kinh tế trong tình hình chính trị hiện nay đã khiến cho các cử tri của Vương quốc Anh và Hoa Kỳ rơi vào tay của những người theo chủ nghĩa dân tuý. Phải chi, như người ta vẫn thường nói, nền kinh tế có thể trở lại với một tốc độ tăng trưởng GDP và năng suất “bình thường”, cuộc sống sẽ cải thiện cho nhiều người hơn, sự chống đối chính phủ sẽ suy yếu dần, và chính trị cũng sẽ trở lại “bình thường”. Lúc đó, chủ nghĩa tư bản, toàn cầu hóa, và dân chủ có thể tiếp tục tiến về phía trước. Nhưng những suy nghĩ như vậy được ngoại suy từ một khoảng thời gian nhìn chung khác thường trong lịch sử. Quãng thời gian đó đã qua, và các thế lực duy trì thời kỳ đó khó có thể tập hợp lại được trong tương lai gần. Sự đổi mới công nghệ và nhân khẩu học là một cơn gió ngược, không phải là cơn gió xuôi giúp thúc đẩy tăng trưởng, và những thủ thuật tài chính vẫn không thể cứu được tình trạng này. Continue reading “Có thể cứu vãn chủ nghĩa tư bản toàn cầu hay không?”. Khi châu Mỹ Latinh nhìn vào Donald Trump, nhiều người nghĩ rằng họ đã nhìn thấy điều tương tự trước đây. Chỉ một vài năm trước, các nhà chủ nghĩa dân tộc – dân túy đã nắm quyền kiểm soát liên tục đối với chính trị khu vực, từ Hugo Chávez của Venezuela (ảnh) đến Cristina Fernández ở Argentina và Rafael Correa ở Ecuador. Bây giờ Chávez đã chết, Venezuela đang trong cuộc khủng hoảng; Bà Fernández đã mất quyền và phải đối mặt với các cáo buộc tham nhũng vốn có thể khiến bà phải chịu án tù; Ông Correa đã quyết định không tranh cử nhiệm kỳ thứ tư trong năm tới. Evo Morales của Bolivia, người có khuynh hướng dân túy, đã bị đánh bại trong một cuộc trưng cầu dân ý trong năm nay, một cuộc trưng cầu mà có thể đã cho phép ông tiếp tục nắm quyền cho tới năm 2025. Ngay cả khi chủ nghĩa dân túy đang gia tăng ở châu Âu và Hoa Kỳ, nó lại có bước thụt lùi ở châu Mỹ Latinh. Tại sao lại như vậy?. Donald Trump, tổng thống đắc cử theo chủ nghĩa dân túy của nước Mỹ, muốn trục xuất những người nhập cư không có giấy tờ. Podemos, một đảng dân túy Tây Ban Nha, muốn cho người nhập cư quyền bầu cử. Jaroslaw Kaczynski, chính trị gia dân túy người Ba Lan, nỗ lực thúc đẩy một đạo luật quy định việc sử dụng cụm từ “các trại tử thần Ba Lan” là bất hợp pháp. Evo Morales, tổng thống dân túy của Bolivia, đã mở rộng quyền trồng coca của nông dân thổ dân. Rodrigo Duterte, tổng thống dân túy của Philippines, đã ra lệnh cho lực lượng cảnh sát tiêu diệt những người bị nghi ngờ là buôn bán ma túy. Các nhà dân túy có thể là các nhà quân phiệt, người yêu hòa bình, người hâm mộ Che Guevara hay Ayn Rand; họ có thể là những người hoạt động vì môi trường phản đối việc xây dựng các đường ống dẫn dầu hoặc những người phủ nhận biến đổi khí hậu và ủng hộ việc khoan thêm dầu. Điều gì khiến cho tất cả những người đó được gọi là “các nhà dân túy” (populist), và thuật ngữ đó thực sự có ý nghĩa gì?. Có lẽ, điều duy nhất đáng ngạc nhiên về phản ứng dân túy, điều đã áp đảo nền chính trị của nhiều nền dân chủ lâu đời, là nó đã xảy đến quá chậm. Thậm chí từ hai thập niên trước, khá dễ để dự đoán rằng sự miễn cưỡng của các chính trị gia dòng chính trong việc đề xuất giải pháp cho sự bất ổn và bất bình đẳng trong kỷ nguyên siêu toàn cầu hóa sẽ tạo nên một không gian chính trị cho các nhà đại dân túy với các giải pháp dễ dãi. Trước đây, đó là Ross Perot và Patrick Buchaman; ngày nay đó là Donald Trump, Marine Le Pen và nhiều nhân vật khác. Lịch sử không bao giờ lặp lại, nhưng dù sao, bài học của nó vẫn vô cùng quan trọng. Chúng ta cần gợi nhớ lại rằng thời kỳ đầu tiên của toàn cầu hóa, vốn đạt đến đỉnh điểm trong vài thập niên trước Thế chiến I, sau cùng đã sản sinh ra một phản ứng chính trị thậm chí còn nghiêm trọng hơn. Continue reading “Lý giải thành công của các chính trị gia dân túy”. Pháp Việt giao binh ký là cuốn sách chép cuộc chiến tranh của nước Việt Nam với nước Pháp từ những năm đầu triều Nguyễn đến những năm 1880. Nội dung cuốn sách chủ yếu xoay quanh mấy vấn đề như địa lý, phong tục, sản vật, diên cách lịch sử Việt Nam, mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam cùng cách thức mà Trung Quốc và Việt Nam đối phó với Pháp.
Chủ nghĩa dân túy cánh hữu
Chủ nghĩa dân túy cánh hữu là một dạng của chủ nghĩa dân túy. Những dòng chính trị này, với các phong trào và các Đảng phái đôi khi khá khác nhau , được thành lập ở một số nước châu Âu vào cuối những năm 1970 ở Tây Âu và trong những năm 1990 cũng phát triển ở các nước Trung Âu và Đông Âu. Các Đảng phái dân túy cánh hữu liên kết những quan điểm quá khích của những thành phần chính trị cánh hữu hoặc cực hữu, với cam kết dân chủ và chống lại theo phong cách dân túy những người nhập cư (chủ yếu là từ các nền văn hóa xa lạ), Liên minh châu Âu và cơ cấu hiện tại của nó và các Đảng cầm quyền. Họ cũng kêu gọi, trong số những vấn đề khác, một trật tự xã hội thực hiện theo định hướng hiệu quả, cam kết với "Kitô giáo phương Tây" cực đoan và cổ xúy chủ nghĩa dân tộc đi kèm với việc bảo tồn nền văn hóa và bản sắc dân tộc, thường gắn liền với chống đạo Hồi và đòi hỏi một "chính sách pháp luật và trật tự" chống lại các cá nhân và các tổ chức họ cho là có hại hoặc nguy hiểm cho quốc gia và các cấu trúc hiện có trong chính phủ, chính quyền và các quá trình hoạch định chính sách bị phân loại như quá tự do và không linh hoạt.
Hôm nay ngồi nghe nhạc Lana cả buổi tối, tự nhiên tới bài Old Money chả hiểu sao cứ replay miết và rồi mình nghĩ tới Gatsby, nên muốn viết một vài dòng. Là tác phẩm kinh điển thế giới, lại còn có cả một bộ phim quá hoành tráng thì mình cũng chẳng có gì để mà bàn cãi tới việc hay ra làm sao, ý nghĩa như thế nào, hoặc khỏi bàn tới sự tinh tế khi tái hiện thời đại jazz của nước Mỹ rất thật và sâu săc của Fitzgerald nữa. Nhiều người nói với mình Gatsby làm họ thấy đau lòng, nhưng mình thì không, mình thấy chúng thật đẹp và (như cách tác giả đặt tựa cho truyện), vĩ đại. Cái vĩ đại không phải chỉ riêng về tình yêu đậm sâu tới tuyệt vọng của Gatsby dành cho Daisy tới tận lúc chết, mà là những nỗ lực mà ông đã làm được để vươn lên, để nắm bắt lấy người phụ nữ của mình. Mục đích của Gatsby, đến cuối cùng cũng là để có được trái tim, có được Daisy, nên ông không ngần ngại buông bỏ hết tất cả khi đã có được cô trong tay. Mình nhớ Baker có nói: “Cách anh ấy nhìn chị Daisy là ánh mắt mà bất cứ người phụ nữ nào cũng muốn được nhìn như thế một lần trong đời”. Mình đã rùng mình đến chết được khi đọc câu ấy và khi tưởng tượng ra ánh mắt đó mình nghĩ rằng chắc chả có thứ gì chân thành, mãnh liệt bằng nó cả. Gatsby tạo ra mọi thứ cho Daisy, dựng lên một thế giới mà cô mong ước, để rồi ông chết đi một cách cô đơn trong chính cái thế giới ấy của mình. Hình ảnh Daisy, mình cảm giác như đó không chỉ đơn thuần là tình yêu mù quáng, mà nó như thể tâm ma trong qua khứ. Một cái gì đó đã qua nhưng sẽ vẫn đeo bám ta tới tận cùng, ai đủ bản lĩnh thì sẽ có thể vượt qua mà tiến lên phía trước, còn không thì sẽ bị mắc kẹt lại, thậm chí còn không thể có ý chí để mà vùng vẫy thoát ra. Quá khứ là thứ gì đó thật đẹp, nhưng cũng khổ đau và đầy những day dứt. Gatsby đã không thể vượt ra khỏi thứ đã đeo bám ông dai dẳng hết gần cả cuộc đời. Gatsby đã quên đi lí tuongr mình là con của Chúa Trời mà chỉ biết mình làm điều này để có Daisy, để chứng minh cho cô ông sẽ làm được tất cả, nhưng tiếc thay. Ta được gì khi chứng minh hiện tại cho một quá khứ, chỉ thoắt ẩn thoát hiện trong khoảnh khắc, rồi sẽ lại trở về vị trí, khi ấy hiện tại đã sụp đổ, tương lai sẽ biến thành quá khứ, và những cái tên sẽ bị lãng quên…. Nhưng chúng ta làm gì được đây? Khi mà Gatsby đã tin vào “đốm sáng xanh ấy”, ở đó có Daisy, ở đó là quá khứ, cái quá khứ đó đã biến thành cái “tương lai mê đắm đến cực điểm” nhưng đang rời xa trước mắt chúng ta năm này qua năm khác. Để rồi nó tuột khỏi tay chúng ta. Dịch giả Trịnh Lữ có nói “Gatsby chỉ là Đại Gia, người tạo ra Gatsby mới là vĩ đại”. Có lẽ bác nói đúng, nhưng mình thấy Gatsby vẫn vĩ đại, dù cái chết thật tức tưởi nhưng mấy ai giữ trọn vẹn được niềm tin mãnh liệt vào ngay cả khúc cuối cùng được thở? Mấy ai làm được. theo cách nào đó, với mình đó là một sự vĩ đại, bên cạnh những cố gắng, nỗ lực đã đề cập bên trên.
Gatsby vĩ đại
Gatsby vĩ đại (tiếng Anh: The Great Gatsby) là một tiểu thuyết của nhà văn F. Scott Fitzgerald người Mỹ, được xuất bản lần đầu vào ngày 10 tháng 4 năm 1925. Câu chuyện được kể qua hồi ức của Nick Carraway về những sự việc xảy ra từ mùa xuân năm 1922. Nick là cựu sinh viên Đại học Yale và từng tham gia trong Đại chiến Thế giới lần thứ nhất, từ vùng Trung Tây chuyển đến, hiện đang làm nghề kinh doanh trái phiếu tại thành phố New York. Nick mới chuyển đến thuê một ngôi nhà gỗ tại Long Island thuộc West Egg, ngoại ô thành phố New York, cạnh một dinh thự hoành tráng do Jay Gatsby làm chủ. Gatsby là một triệu phú bí ẩn thường xuyên tổ chức các bữa tiệc cho quan khách nhưng bản thân mình lại không tham gia cùng họ. Một buổi tối nọ, Nick được mời đến ăn tối ở East Egg tại gia đình người em gái họ Daisy và chồng, Tom Buchanan, cũng là người quen biết của Nick thời đại học. Họ giới thiệu Nick với cô Jordan Baker, một golf thủ trẻ thành công, và hai người bắt đầu mối quan hệ hẹn hò.
cũng có thể nói Hộ chiếu (Passport) được coi là một ĐK cần phải có nhằm bạn cũng có thể xuất ngoại. Vậy các bạn bao gồm biết Hộ chiếu là gì? Thủ tục làm hồ sơ xin hộ chiếu có nhu cầu các gì? Và có bao nhiêu loại? đối tượng thực hiện, thời hạn với Đặc điểm của bọn chúng như thế nào? để trả lời không còn được hầu như câu hỏi kia, mời bạn tìm hiểu thêm qua nội dung bài viết dưới đây của công ty chúng tôi.Quý Khách đã xem: Số hộ chiếu bước đầu bằng văn bản c là gì. Hộ chiếu có tên giờ anh là Passport. Đây được coi là một loại giấy tờ tùy thân nhằm các đương sự được xuất nhập cư. Trong số đó bao gồm sự xác nhạn của phòng ban đơn vị nước tất cả thẩm quyền với đặc điểm dấn dạng cá nhân, quốc tịch của đương sự.Bạn đang xem: Hộ chiếu loại c là gì. Theo định nghĩ về của ban ngành công ty nước thì Hộ chiếu là 1 trong những các loại giấy tờ được phép xuất chình ảnh khỏi giang sơn cùng được phnghiền nhập cư quay trở lại tự nước ngoài. Còn đọc Theo phong cách dễ dàng độc nhất thì nóđược xem là một chứng tỏ thỏng nước ngoài nhằm đương sự được ra quốc tế cùng nhập cư về nước ta. Để ra được quốc tế, thì việc thứ nhất bạn cần phải có tác dụng xin cung cấp hộ chiếu kế tiếp bắt đầu xin visa của quốc gia bạn cần đến. Với các nước miễn visa cho người bao gồm Passportcả nước thì không nhất thiết phải xin visa. Ngược lại thì các bạn cần phải xin visa thị thực. Số hộ chiếu là 1 trong dãy số sẽ tiến hành bước đầu bằng một vần âm in hoa theo bảng vần âm của đất nước hình chữ S và sao đó sẽ là hàng số bao hàm 7 chữ sô tự nhiên và thoải mái. Dãy số nàysẽ tiến hành ghi sinh hoạt tức thì trang 1 bên dưới chữ hộ chiếu hoặc passport, mà hơn nữa thì còn một số trường hợp khácthìhoàn toàn có thể được ghi ở đầu góc bên đề nghị của trang thỏng 2 địa điểm cơ mà có hình ảnh chân dung của người làm cho hộ chiếu. Lưu ý: Tphải chăng em dưới 9 tuổi rất có thể làm cho hộ chiếu ghnghiền với hộ chiếu của cha mẹ. Nhưng khi to lên bắt buộc bóc riêngđể rời sự trắc trở phiền đức hà. Vì rứa nhằm thuận lợi tốt nhất thì rất tốt đề xuất làm hộ chiếu riêng đến trẻ em. Lúc Này sống Việt Nam có 3 các loại hộ chiếu: Phổ thông , Công vụ với Ngoại giao. Hộ chiếu phổ biến là hộ chiếu được cung cấp mang đến công dân có quốc tịch nước ta, dùng để xuất nhập cư VN cùng những nước không giống. Hộ chiếu nhiều được viết tắt là P (P. viết tắt của tự Phổ thông), ĐK sẽ được cung cấp các loại hộ chiếu này chỉ cần chứng minh thỏng cùng hộ khẩu. Đây là nhiều loại hộ chiếu tính chất dành cho các trường vừa lòng ra quốc tế đẻ triển khai những quá trình, trọng trách theo sự phân công của cơ quan đơn vị nước cùng chính phủ. Khi người có loại hộ chiếu này sẽ được miễn visa nhập cư cùng được ưu tiên qua cổng đặc biệt quan trọng Khi nhập cảnh theo luật pháp của nước mang đến. Đây là hộ chiếu chỉ cấp cho những quan liêu chức V.I.P. Những bạn này sẽ thực hiện những quá trình, nhiệm vụ ngoại giao theo sự phân công của phòng ban công ty nước, chính phủ nước nhà. lúc người có nhiều loại hộ chiếu này cũng biến thành được miễn visa nhập cảnh với ưu tiên qua cổng đặc biệt quan trọng lúc nhập cảnh và theo khí cụ của nước đến. Đối tượng được cấp cho hộ chiếu nước ngoài giao: bạn giữ lại dùng cho cấp cao vào hệ thống ban ngành của Đảng cùng Nhà nước: Bí tlỗi, Phó Bí tlỗi, Chủ tịch UBND cung cấp tỉnh trsinh sống lên; Bộ trưởng, Thđọng trưởng của Sở, ban ngành ngang Bộ, cơ sở thuộc Chính phủ. Bài viết được tìm hiểu thêm theo những mối cung cấp bên trên mạng, với lên tiếng của chính phủ nước nhà. Hộ chiếu năng lượng điện tử xuất xắc còn được gọi là e-pasport, đó là một quyển hộ chiếu phổ thôngnhưng nó có điều nhất là được lắp thêm bé chip điện tử để giữ lại thông tin cá nhân với dữ liệu sinc trắc học của họ. do đó, trải qua bài viết "Hộ chiếu là gì? được chia sẻ tự Gia Hợp Visa ở bên trên hy vọng để giúp đỡ quý người sử dụng khác nhau được có mang bên trên và hiểu rõ chức năng của từng một số loại Passport hiện thời.
Hộ chiếu
Hộ chiếu là một giấy thông hành, thường do chính phủ của một quốc gia cấp cho công dân của quốc gia đó, xác nhận danh tính và quốc tịch của người giữ hộ chiếu chủ yếu cho mục đích đi lại quốc tế. Hộ chiếu tiêu chuẩn có thể chứa thông tin như tên, nơi ở và ngày sinh, ảnh, chữ ký và các thông tin nhận dạng có liên quan khác của người sở hữu hộ chiếu. Nhiều quốc gia đã bắt đầu phát hành hoặc có kế hoạch phát hành hộ chiếu sinh trắc học có chứa vi mạch nhúng, khiến chúng có thể đọc được bằng máy và khó làm giả hơn. Tính đến tháng 1 năm 2019, đã có hơn 150 khu vực pháp lý cấp hộ chiếu điện tử. Hộ chiếu không đọc được bằng máy không sinh trắc học được cấp trước đây thường vẫn có giá trị cho đến ngày hết hạn của nó. Người mang hộ chiếu thường được quyền nhập cảnh vào quốc gia đã cấp hộ chiếu, mặc dù một số người được cấp hộ chiếu có thể không phải là công dân đầy đủ quyền cư trú (ví dụ: công dân Mỹ hoặc công dân Anh).
Giới từ trong tiếng Anh xuất hiện ở hầu hết các câu nói tiếng Anh, bất kể là tiếng Anh giao tiếp hay học thuật.Ngoài ra, Giới từ là từ hoặc nhóm từ thường được dùng trước danh từ hoặc đại từ để chỉ sự liên hệ giữa danh từ hoặc đại từ này với các thành phần khác trong câu. Vậy giới từ có vai trò gì đối với việc học tiếng anh của chúng mình nhỉ?. Giới từ (Preposition) là những từ (in, on, at,…) thường đứng trước danh từ, cụm danh từ hoặc danh động từ. Ở ví dụ 1 “sunday” là tân ngữ của giới từ “on”. Ở ví dụ 2, “the park” là tân ngữ của giới từ “in”. Chú ý: Các bạn phải luôn phân biệt trạng từ (adverb) và giới từ, vì thường khi một từ có hai chức năng đó (vừa là trạng từ và giới từ). Điều khác nhau cơ bản là Trạng từ thì không có tân ngữ theo sau. Mong rằng với bài viết Giới từ trong Tiếng Anh: Cách sử dụng, quy tắc cần biết này cũng giúp ích cho các bạn một phần nào đó trong việc học tập và nghiên cứu.Cùng tìm hiểu thêm về các ngữ pháp tổng hợp trong tiếng anh tại EFC nhé.
Từ loại
Trong Ngữ pháp học, từ loại (còn được gọi là lớp từ, lớp từ vựng hoặc bộ phận dùng trong lời nói trong Ngữ pháp truyền thống) là một lớp từ ngôn ngữ học (hay chính xác hơn là lớp các mục từ vựng) được xác định bằng các hiện tượng cú pháp hoặc các hiện tượng hình thái học của mục từ vựng trong câu nói. Phân loại ngôn ngữ học phổ biến gồm có danh từ, động từ và các từ loại khác. Có các lớp từ mở thường xuyên đòi hỏi các thành viên mới, và có các lớp từ đóng hiếm khi đòi hỏi các thành viên mới. Các ngôn ngữ khác nhau có các hình thức từ loại khác nhau, hoặc chúng có thể kết hợp nhiều tính chất vào một. Ví dụ, tiếng Nhật có tới ba loại tính từ trong khi đó tiếng Anh chỉ có một; tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Việt và tiếng Nhật có các loại từ (hay được gọi là lượng từ) trong khi đó các ngôn ngữ châu Âu lại không từ loại hóa những đơn vị đo lường này (ví dụ: a pair of pants (một-cặp-của-quần dài = một cái quần dài), a grain of rice (một-hạt-của-gạo = một hạt gạo),.
Ở bài viết tuần này, chúng tôi sẽ giải đáp cho các bạn trương lực cơ là gì và những bệnh lí liên quan đến trương lực cơ. Trương lực cơ là lực căng của cơ ở trạng thái nghỉ. Bình thường, ở trạng thái nghỉ cơ luôn chịu sức kéo từ hai đầu bám của nó, nên cơ luôn ở trạng thái trương lực nhất định. Trạng thái trương lực cơ này được duy trì nhờ có cơ chế điều hoà trương lực cơ từ phía hệ thần kinh trung ương. Xét một ví dụ đơn giản về trương lực cơ bình thường: Bạn đang ngồi trên một chiếc ghế bành nhỏ để thư giãn đầu óc bằng cách nghe nhạc, cánh tay của bạn đặt trên đùi. Lúc này cơ bắp cánh tay của bạn đang ở trạng thái “nghỉ ngơi”. Sau đó bạn quyết định sẽ uống một ngụm cà phê ở trong chiếc cốc đặt ở bàn cạnh chỗ bạn ngồi . Với tình trạng trương lực cơ bình thường, bạn dễ dàng đưa tay cầm cốc cà phê lên và đưa nó lên miệng. Không hề có sự khó khăn nào và bạn không phải gắng sức quá nhiều. Như vậy, trương lực cơ bình thường là khi bạn có thể điều khiển các cơ một cách dễ dàng từ trạng thái nghỉ sang trạng thái cử động, cầm nắm, không hề khó khăn hay gặp trở ngại gì, bạn có thể làm những gì bạn muốn khi bạn muốn. Theo Arun Garg – bác sĩ chuyên khoa thần kinh: “Loạn trương lực cơ là hội chứng cơ co thắt ngoài ý muốn, dẫn đến các cử động xoắn vặn và lặp đi lặp lại hoặc các dáng điệu bất thường. Sự rối loạn này có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe cũng như tâm sinh lý của bệnh nhân. Phạm vi của loạn trương lực cơ có thể bao gồm toàn bộ cơ thể, nhiều cơ hoặc chỉ nhất một cơ, tạo ra những phản ứng khó chịu, gây phiền hà cho đời sống thường ngày.”. Tăng trương lực cơ là tình trạng mất các cử động tự động và các cử động phối hợp, nét mặt của người bị tăng trăng lực trở nên cứng nhắc và không thể biểu lộ được cảm xúc, dáng đi của thân và chi cũng cứng nhắc. Tăng trương lực cơ ảnh hưởng nhất đến các cơ của nét mặt, các cơ gấp của đầu, cổ, thân, các chi, bàn tay vẫn duỗi , giảm hay tăng tùy theo tư thế tĩnh. Biểu hiện của giảm trương lực cơ là các kỹ năng vận động bị hạn chế, cơ bị yếu và/hoặc có vấn đề về phối hợp. Những bệnh nhân bị giảm trương lực cơ sờ vào người thấy ‘mềm’ và thường các khớp rất dẻo. Họ gặp khó khăn trong việc co các cơ quanh khớp lại để giữ tư thế, vậy nên họ sẽ gặp khó khăn trong việc giữ ổn định khớp và hạn chế các kỹ năng vận động. Ở một vài trường hợp bệnh nhân có trương lực thấp thường nhanh thấy mỏi mệt và lờ đờ. Ở người bệnh nhược cơ lực căng trương lực ở một số cơ bị giảm hay nói cách khác người bệnh nhược cơ thường có dấu hiệu giảm cơ lực sau khi vận động và phục hồi sau khi nghỉ ngơi (thường vào buổi sáng). Nhược cơ là một căn bệnh thần kinh-cơ tự miễn với đặc điểm là sự suy yếu các cơ trong cơ thể. Bệnh gây mệt mỏi yếu hay liệt các cơ và gây tử vong do biến chứng viêm phổi. Trẻ sơ sinh cũng có thể bị nhược cơ thoáng qua với tỷ lệ 8-18% có dấu hiệu giảm trương lực cơ, rối loạn bú, nuốt và hô hấp xảy ra trong 24 giờ đầu sau sinh và có thể kéo dài đến 18 ngày hay 2 tháng. Các bệnh tự miễn nói chung và nhược cơ nói riêng là những bệnh có liên quan đến hệ miễn dịch. Từ lâu người ta đã biết đến những công dụng tuyệt vời của thiền. Thiền không chỉ giúp nâng cao sức
Tăng trương lực cơ
Tăng trương lực cơ / hypertonia là một thuật ngữ đôi khi được sử dụng đồng nghĩa với sự co cứng và cứng cơ trong các tài liệu nói về chấn thương của hệ thần kinh trung ương, cụ thể là tổn thương tế bào thần kinh vận động trên. Khả năng suy yếu của các tế bào thần kinh vận động bị tổn thương để điều chỉnh các con đường giảm dần dẫn đến các phản xạ cột sống bị rối loạn, tăng tính dễ bị kích thích của các trục cơ và giảm ức chế synaptic. Những hậu quả này dẫn đến tăng trương lực cơ bất thường của các cơ có triệu chứng. Một số tác giả cho rằng định nghĩa hiện tại về độ co cứng, hoạt động quá mức phụ thuộc vào vận tốc của phản xạ căng cơ, là không đủ vì nó không tính đến các bệnh nhân biểu hiện tăng trương lực cơ khi không có phản xạ căng quá mức. Thay vào đó, họ cho rằng " tăng trương lực đảo ngược " là phù hợp hơn và đại diện cho một tình trạng có thể điều trị đáp ứng với các phương thức trị liệu khác nhau như thuốc và/hoặc vật lý trị liệu.
CHƯƠNG XII TỔ CHỨC CÔNG NGHIỆP §93. Trưng thu từ giai cấp tư sản và quá trình quốc hữu hóa nền công nghiệp quy mô lớn Việc tước đoạt quyền sở hữu của giai cấp tư sản được bắt đầu ngay sau cuộc cách mạng tháng Mười một cho đến. CHƯƠNG XI CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN VÀ TÔN GIÁO § 89. Tại sao tôn giáo và chủ nghĩa cộng sản không thể tương hợp “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, Mác đã nói như vậy. Phơi bày sự thật này và quần chúng lao động cần được thấu. Chương X CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN VÀ GIÁO DỤC § 76. Trường học dưới chế độ tư sản Trong xã hội tư sản, nhà trường có ba nhiệm vụ chính cần hoàn thành. Đầu tiên, nó truyền cho thế hệ công nhân sắp tới sự tận tâm và kính trọng. Người viết: Sally Mju Liệu tư tưởng của Marx chỉ đóng khung trong các tư tưởng truyền thống hay có sự chuyển đông? Trong suốt quãng đời cách mạng của mình, Marx chịu ảnh hưởng lớn nhất từ người thầy Hegel và cũng như các khái niệm của Hegel trong. Tác giả: Peter Hudis Người dịch: Sally Mju Nhà tư tưởng gốc Nga Raya Dunayevskaya là một nhân vật quan trọng và có ảnh hưởng đối với cánh tả cấp tiến của Mỹ. Ở giai đoạn đầu, bà nhận ra sự cần thiết phải kết hợp các cuộc đấu tranh. HỆ THỐNG TƯ PHÁP VÔ SẢN § 70. Hệ thống tư pháp trong xã hội tư sản Trong số rất nhiều các định chế của xã hội tư sản được sử dụng để áp bức và lừa dối đông đảo quần chúng lao động hẳn ta phải nhắc. I. Giới thiệu Tha hóa là một trong những chủ đề quan trọng và được tranh luận rộng rãi nhất trong thế kỷ XX, và lý thuyết của Karl Marx đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc thảo luận. Tuy nhiên, trái ngược với những gì người ta. Chương Ⅷ ĐƯỜNG LỐI CỦA NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN VỀ VẤN ĐỀ TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI § 61. Đường lối cũ của chúng tôi và vấn đề chiến tranh trong nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Ở §12, chúng tôi đã giải thích cho các bạn về việc quân đội. CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN VÀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC § 55. Sự áp bức lên các dân tộc bị trị Một trong những hình thức áp bức giữa người với người đó chính là sự áp bức lên các dân tộc bị trị. Trong số những rào cản. Chương Ⅵ CHÍNH QUYỀN XÔ VIẾT § 46. Chính quyền Xô Viết, một hình thức chuyên chính vô sản Đảng chúng ta là người đầu tiên thành lập, người đầu tiên nhận ra nhu cầu về một chính quyền Xô Viết. Cuộc cách mạng vĩ đại tháng 11 năm 1917. LỜI NÓI ĐẦU Trong 2 tháng đầu năm 1917 nước Nga hãy còn nằm dưới ách cai trị của vương triều Romanov, nhưng chỉ tám tháng sau cầm lái con tàu đã là những người Bolshevik. Ít ai trong số họ dám nghĩ tới điều đó khi năm mới bắt. Giới thiệu: Các điều kiện cho việc thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở Nga §41. Tình hình quốc tế của Nga Như đã nói, sự cần thiết của cuộc cách mạng cộng sản xuất phát từ hoàn cảnh nước Nga đã trở nên gắn bó mật thiết với hệ. Chương V: Quốc tế hai và Quốc tế ba § 35. Chủ nghĩa quốc tế của phong trào công nhân là tiên quyết để dẫn đến thắng lợi của cách mạng cộng sản Cách mạng cộng sản chỉ có thể khải hoàn với tư cách là một cuộc cách. MỤC LỤC Phần thứ nhất: Lý thuyết – Sự phát triển và suy tàn của chủ nghĩa tư bản Giới thiệu: Chương trình của chúng tôi 1. Chương trình là gì? Chương trình trước đây của chúng tôi là gì? Tại sao cần thiết lập một chương trình. Chương Ⅳ LÀM THẾ NÀO MÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ BẢN LẠI DẪN ĐẾN CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN (CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC, CHIẾN TRANH VÀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN) §26 Tư bản tài chính Chúng ta đã thấy giữa các doanh nghiệp có một cuộc.
Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại!
"Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại!" là một trong những lời kêu gọi tập hợp nổi tiếng nhất từ tác phẩm Tuyên ngôn Đảng cộng sản bởi Karl Marx và Friedrich Engels (tiếng Đức: Proletarier aller Länder, vereinigt euch!) dịch theo chính xác từng chữ là những người vô sản của tất cả các nước, kết hợp lại nhưng sớm được đại chúng hóa trong tiếng Anh như là "Workers of the world, unite! You have nothing to lose but your chains!-"Công nhân của thế giới, đoàn kết ! Bạn không có gì để mất ngoại trừ xiềng xích của bạn!. Một biến thể của cách nói này ("Workers of all lands, unite- Công nhân tất cả các nước, đoàn kết.") cũng được khắc trên bia mộ của Marx. Bản chất của khẩu hiệu là những thành viên của giai cấp lao động khắp thế giới phải hợp tác để đạt được chiến thắng trong xung đột giai cấp. Năm năm trước Bản tuyên ngôn Đảng cộng sản, câu khẩu hiệu này đã xuất hiện năm 1843 trong cuốn sách The Workers Union bởi Flora Tristan. Tổ thức The International Workingmen s Association- Hiệp hội công nhân quốc tế, đã mô tả bởi Engels như là sự hoạt động quốc tế đầu tiên của giai cấp công nhân được thuyết phục bởi Engels để thay đổi khẩu hiệu từ Ngôn ngữ của Thiên Chúa giáo all men are brothers tới công nhân của toàn thể các nước, đoàn kết!.
ThienNhien.Net – Tất nhiên sẽ là không sao nếu việc tiêu thụ của con người nằm trong khả năng cung cấp và tự tái tạo của trái đất. Tuy nhiên, bắt đầu từ đầu những năm 80 của thế kỷ 20, mức tiêu thụ của loài người đã vượt quá so với khả năng này, và tới năm 2003 thì đã vượt quá 20%, có nghĩa là phải mất 1 năm 2 tháng để trái đất có thể tái tạo những gì mà con người sử dụng trong 1 năm. Để tồn tại và phát triển, con người tiêu thụ những sản phẩm mà tự nhiên cung cấp. Điều đó có nghĩa là mọi hoạt động tiêu thụ đều ảnh hưởng đến các hệ sinh thái hành tinh. Tất nhiên sẽ là không sao nếu việc sử dụng này nằm trong khả năng cung cấp và tự tái tạo của trái đất. Tuy nhiên, bắt đầu từ đầu những năm 80 của thế kỷ 20, mức tiêu thụ của loài người đã vượt quá so với khả năng này, và tới năm 2003 thì đã vượt quá 20%, có nghĩa là phải mất 1 năm 2 tháng để trái đất có thể tái tạo những gì mà con người sử dụng trong 1 năm. Ngày 6 tháng 10 năm 2007 đánh dấu Ngày nợ sinh thái (Ecological Debt Day) của con người – là ngày mà con người đã sử dụng hết nguồn tài nguyên mà Trái đất tái tạo ra trong cả năm. Những dấu hiệu của quá trình tiêu thụ quá mức này được thể hiện qua nhiều hiện tượng rõ ràng như: thay đổi khí hậu, mất rừng, mất đất, giảm sản lượng khai thác tài nguyên v.v. Trái đất – hành tinh sống, là nơi cung cấp đầy đủ các điều kiện để thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Con người cần ăn, mặc, đi lại, giao tiếp, giải trí… tất cả những nhu cầu đó được thỏa mãn bởi các thành phần của trái đất: đất, nước, rừng, không khí… Tuy nhiên, trong số 51 tỷ ha diện tích bề mặt, trái đất chỉ có thể cung cấp cho con người 18% diện tích có khả năng tạo năng suất sinh học để thỏa mãn những nhu cầu trên. Điều chúng ta cần là một chuẩn mực để đánh giá và định hướng nhu cầu của con người, điều này giúp ta xác định được “điểm ngưỡng nhu cầu” – mức nhu cầu con người được thỏa mãn mà không làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái. Phương pháp “Dấu chân sinh thái” được sử dụng như một công cụ để so sánh Nhu cầu của con người với Sức tải sinh học – khả năng tái tạo tài nguyên và hấp thu chất thải của Trái đất, bằng cách chuyển đổi các diện tích có khả năng cung cấp năng suất sinh học sang đơn vị chuẩn hecta toàn cầu (gha). – Đất trồng trọt (Cropland): là diện tích được sử dụng cho canh tác để thu lương thực, thức ăn gia súc và sợi bông, gồm 70 loại diện tích sơ cấp và 15 loại diện tích thứ cấp. – Đất chăn nuôi (Grazing land): là diện tích được dùng để chăn nuôi động vật để lấy thịt, da, len và sữa, gồm đồng cỏ tự nhiên và bán tự nhiên. – Rừng: gồm rừng tự nhiên và rừng trồng để thu gỗ nhiên liệu, gỗ tròn. – Mặt nước thủy sản: là diện tích cung cấp thủy sản nước ngọt và nước biển, bao gồm 8 loại cá, động vật thủy sinh và 1 loại thực vật thủy sinh. – Đất xây dựng: là diện tích được sử dụng để xây dựng cơ sở hạ tầng: nhà ở, khu công nghiệp, nhà máy điện,… – Đất năng lượng hay “đất cacbon”: là diện tích đất hoặc đại dương cần để hấp thu phát thải CO2 từ quá trình đốt nhiên liệu hóa thạch. Và, nhu cầu con người sẽ là tổng các sản phẩm mà 6 kiểu diện tích trên cung cấp thỏa mãn. Năm 2003, Dấu chân sinh thái toàn cầu là 14,1 tỷ gha, tương đương với 2,2 gha/người, trong khi đó, Sức tải sinh học là 1,8gha/người. Dấu chân sinh thái được tính cho hơn 150 quốc gia trên thế giới, trong đó, tiêu thụ của mỗi quốc gia được tính bằng lượng sản phẩm sản xuất cộng với (+) lượng sản phẩm nhập khẩu, sau đó trừ đi (–) lượng sản phẩm xuất khẩu. Một quốc gia sẽ có “dự trữ sinh thái” nếu Dấu chân sinh thái nhỏ hơn Sức tải sinh học, ngược lại, nó sẽ ở trong tình trạng “thâm hụt sinh thái”. Hiện nay, hầu hết các quốc gia đều đang ở trong tình trạng thâm hụt sinh thái. Ở Việt Nam, các số liệu tính Dấu chân sinh thái và Sức tải sinh thái có từ năm 1961 đến 2003 trong các báo cáo thường niên của National Footprint Network và WWF. Ta có tương quan về Dấu chân sinh thái và Sức tải sinh học theo đầu người qua các năm như sau:. Sơ đồ trên cho thấy sự thay đổi Dấu chân sinh thái và Sức tải sinh học của Việt Nam diễn biến theo xu thế chung của toàn cầu, Dấu chân sinh thái tăng dần. Như vậy, đến năm 2003, mặc dù so với toàn cầu Dấu chân sinh thái của Việt Nam vẫn ở mức chưa đáng lo ngại (0,9gha<1,8gha) nhưng nhu cầu của Việt nam đối với tài nguyên đã lớn hơn sức tải của thiên nhiên (0,9gha>0,8gha). Có thể nới, vấn đề năng lượng và phát thải CO2 ở nước ta hiện chưa phải quá trầm trọng nhưng trong tương lai, cùng với nhu cầu sử dụng năng lượng và đốt nhiên liệu hóa thạch gia tăng thì sức ép của nhu cầu lên thiên nhiên sẽ có biến động rõ rệt. Covid-19 ở Việt Nam sáng 30/8: 39 tỉnh thành có F0, Bình Dương dẫn đầu tăng 5.414 ca/24 giờ; Tỷ lệ tử vong hơn thế giới 0,4%; Hướng dẫn F0 tự chăm sóc
Dấu chân sinh thái
Dấu chân sinh thái (thuật ngữ tiếng Anh: ecological footprint) là một thuật ngữ mới được sử dụng vào những năm 1990 bởi các nhà khoa học thuộc trường Đại học British Columbia là William E.Rees và Mathis Wackernagel. Theo đó, dấu chân sinh thái là một thước đo nhu cầu về các diện tích đất, nước có khả năng cho năng suất sinh học cần thiết để cung cấp thực phẩm, gỗ cho con người, bề mặt xây dựng cơ sở hạ tầng, diện tích hấp thụ cacbon dioxide, khả năng chứa đựng và đồng hóa chất thải. Loài người đang khai thác tài nguyên thiên nhiên vốn có để phục vụ cho lợi ích của mình. Theo các nhà khoa học, Trái Đất có khả năng tái tạo lại những gì con người đã khai thác. Điều này là hoàn toàn đúng đắn vì những gì con người đang khai thác cũng là những gì Trái Đất đã tạo ra. Tuy nhiên, khả năng tái tạo của Trái Đất là có hạn, nếu con người khai thác tài nguyên vượt quá khả năng tái tạo của Trái Đất thì Trái Đất sẽ rơi vào trình trạng quá tải, nghĩa là không thể tái tạo đủ những gì con người khai thác.
O2O (Online To Offline) là mô hình kinh doanh bán lẻ kết hợp cả hình thức Online và Offline dựa trên các công nghệ số mà chủ yếu là nền tảng Mobile. Đây là mô hình mà doanh nghiệp sẽ sử dụng các công cụ trực tuyến để tiếp cận và từ đó tác động vào hành vi mua sắm của khách hàng để tăng trưởng doanh thu. Dựa vào các kênh trực tuyến như mạng xã hội, website hay các ứng dụng khác, doanh nghiệp sẽ tiếp cận và truyền tải những thông điệp có giá trị hấp dẫn đến khách hàng mục tiêu của mình như thông tin về sản phẩm, chương trình khuyến mại hay sự kiện giảm giá…. Các thông điệp này sẽ thúc đẩy động cơ mua hàng và khách hàng sẽ có xu hướng đi đến của hàng Offline và tiến hành mua sản phẩm. Có thể nói O2O là một giải pháp hoàn hảo dựa trên thực tế thói quen tiêu dùng của khách hàng và kết hợp hiệu quả các kênh bán hàng để đem lại lợi ích cao nhất cho doanh nghiệp. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp SMEs tại Việt Nam đang gặp khó khăn trong việc triển khai các hình thức kinh doanh một cách hiệu quả. Đối với các doanh nghiệp bán hàng Offline đơn thuần, việc truyền tải thông tin đến khách hàng sẽ vô cùng hạn chế. Theo thống kê gần đây, có đến 88% khách hàng sẽ tìm kiếm thông tin về sản phẩm trên công cụ trực tuyến trước khi đến của hàng để tiến hành mua. Điều đó cho thấy rằng các cửa hàng Offline đã đánh mất đi một lợi thế cạnh tranh vô cùng lớn để có thể chinh phục thượng đế của mình. Bán hàng giờ đây không còn đơn giản rằng bạn có một sản phẩm, bạn trưng bày ra cửa hàng và khách hàng sẽ tự động tìm đến bạn nữa. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp lại quá tập trung vào hệ thống bán hàng Online mà quên đi tầm quan trọng của hệ thống cửa hàng. Một trong những yếu tố quan trọng nhất để khách hàng lựa chọn sản phẩm là trải nghiệm thực tế. Thói quen “mắt thấy, tay sờ” vẵn ăn sâu trong tâm trí của đại đa số người tiêu dùng Việt. Khách hàng luôn có sự cảnh giác và thiếu tin tưởng vào những sản phẩm Online. Điều này là tác nhân lớn để cản trở thương mại điện tử phát triển tại Việt Nam. Với O2O, doanh nghiệp sẽ kết hợp cả hai hình thức nêu trên một cách tối ưu nhất. Sự hỗ trợ lẫn nhau giữa hình thức Online và Offline chính là chìa khóa cho sự thành công của các công ty. O2O cung cấp cho khách hàng những thông tin cần thiết, giúp khách hàng mua sắm tiện lợi và tiết kiệm nhiều thời gian. Hơn nữa, khách hàng sẽ có nhiều cơ hội để nhận được các điểm thưởng, quà tặng có giá trị. Cuối cùng, mô hình này làm tăng khách hàng đến với cửa hàng từ đó thúc đẩy quá trình tăng doanh thu. Dù không phải là một mô hình mới mẻ nhưng thực sự không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tự triển khai O2O một cách hiệu quả. Những khó khăn về tài chính, cơ sở hạ tầng hay những nền tảng kỹ thuật là những vấn đề đau đầu mà doanh nghiệp Việt đang tìm cách vượt qua. Nắm bắt được nhu cầu lớn của thị trường, nhiều công ty về công nghệ đã cho ra đời các giải pháp để hỗ trợ các SMEs tại Việt Nam. GoWoW đang nổi lên như là một giải pháp hàng đầu như thế. GoWoW.MoBi là giải pháp kinh doanh của Công ty cổ phần mPos Việt Nam cho doanh nghiệp bán lẻ dựa trên mô hình O2O. Với mô hình này, các doanh nghiệp đưa thông tin về sản phẩm, về chương trình khuyến mại hay địa chỉ của hàng của mình lên ứng dụng đi động GoWoW. Khách hàng chỉ cần mở ứng dụng, chức năng tìm địa điểm sẽ cung cấp cho khách hàng những địa điểm ở gần mình nhất để tiện lợi cho việc mua sắm. Bên cạnh đó, các thông báo về sự kiện khuyến mại, chương trình giảm giá, chiết khấu cũng sẽ được đẩy đến khách hàng trên ứng dụng thông qua hệ thống Thông báo khuyến mãi. Ngoài ra, GoWoW cũng giúp khách hàng tích lũy điểm thưởng khi thanh toán tại bất kỳ địa điểm liên kết nào qua tính năng Hoàn tiền trực tiếp. Đây chính là hình thức Omni-Chanel Marketing cho các doanh nghiệp bán lẻ. Mức độ phủ sóng của thương hiệu sẽ được duy trì một cách thường xuyên trên ứng dụng GoWoW bằng tương tác trực tiếp với khách hàng, mang lại cho họ những trải nghiệm khác biệt. Điểm nổi bật của hình thức này là luôn chủ động tiếp cận với khách hàng mọi lúc mọi nơi. Ngay cả khi khách hàng không có nhu cầu mua sắm nhưng một thông báo Sale 50% được gửi đến ứng dụng thì chắc chắn họ cũng phải đắn đo. Quá trình mua hàng cũng vì thế mà được đẩy nhanh. Toàn bộ quá trình thanh toán cũng được thực hiện an toàn và tiện lợi nhờ hệ thống thanh toán thẻ mPoS. Khách hàng chẳng cần bận tâm đến số tiền trong ví vẫn mua được sản phẩm của mình. Thêm vào đó, các công cụ quản lý trực tuyến cũng hỗ trợ doanh nghiệp tối đa để tối ưu hoạt động kinh doanh một cách hữu hiệu. GoWoW thực sự là một giải pháp toàn diện không những giúp doanh nghiệp bán lẻ thu hút được khách hàng mà còn giải quyết vấn đề chi phí một cách tối ưu nhất. Với số lượng khoảng 500 nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, O2O được xem là một hướng đi đúng đắn và vô cùng tiềm năng. Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp trong tình trạng thiếu hụt về nguồn lực là phải lựa chọn những giải pháp hợp lý nhất để có thể tạo nên những bước tiến vững chắc cho mình. mPoS.vn là giải pháp công nghệ hiện đại, cho phép thực hiện thanh toán các loại thẻ tín dụng quốc tế và các loại thẻ ATM nội địa trên nền tảng điện thoại thông minh. mPoS.vn được tích hợp Giải pháp Bán hàng trả góp 0% lãi suất, giúp bạn thu hút khách hàng tiềm năng và gia tăng doanh thu hàng tháng nhanh chóng và hiệu quả.
Mô hình bán lẻ kết hợp online và offline
Mô hình bán lẻ kết hợp online và offline là một thuật ngữ chuyên môn để chỉ một mô hình kinh doanh mà một công ty tích hợp cả sự hiện diện ngoại tuyến (gạch) và trực tuyến (nhấp chuột), đôi khi có thêm lần lật thứ ba (danh mục sản phẩm vật lý). Ngoài ra, nhiều người cũng sẽ cung cấp các ứng dụng đặt hàng qua điện thoại và ứng dụng trên di động, hoặc ít nhất là cung cấp hỗ trợ bán hàng qua điện thoại. Sự ra đời của web di động đã khiến các doanh nghiệp vận hành bán lẻ kết hợp online và offline trở nên đặc biệt phổ biến, bởi vì điều đó có nghĩa là khách hàng có thể thực hiện các nhiệm vụ như mua sắm khi họ có thời gian rảnh rỗi và không phải ở máy tính. Nhiều người trong số những người dùng này thích sử dụng các trang web mua sắm di động. Một ví dụ phổ biến về mô hình bán lẻ kết hợp online và offline là khi một chuỗi cửa hàng cho phép khách hàng đặt mua sản phẩm trực tuyến hoặc thực tế tại một trong các cửa hàng của họ, cũng cho phép họ nhận đặt hàng trực tiếp tại chi nhánh địa phương của cửa hàng hoặc nhận nó được giao đến nhà của họ.
Vừa qua, tại xóm tôi, dư luận bàn tán rất nhiều về hành động loạn luân của một ông dượng ghẻ với con gái riêng của vợ mình…. Thế nào là loạn luân và tại sao người ta lại hành động lại như vậy?. Cứ bất cứ ai loạn luân là gì, chắc cũng sẽ có người trả lời: loạn luân là quan hệ tình dục giữa những kẻ cùng huyết thống, ở những mức độ khác nhau: cha – con, mẹ – con, anh – em, chú – cháu, dì – cháu… Nếu không kể đến những quan điểm về luân lý, văn hóa, xã hội của mọi thời đại, thì lý do thường được đưa ra, để lên án, bài bác, là về mặt sinh học. Do cộng hưởng di truyền, những dị tật bẩm sinh sẽ xảy ra thường hơn và nghiêm trọng hơn, cho đứa con, nếu có. Đó là loạn luân “kiểu khác” ít được đề cập giữa những kẻ chỉ có sự liên hệ, do hôn nhân của quyến thuộc, như một người đàn ông với vợ khác của cha, hoặc với con riêng của vợ, chị em, hay mợ vợ…Hầu hết mọi xã hội, mọi nền văn minh, cũng đều không chấp nhận hình thức quan hệ này, trong khi về mặt sinh học, không hề có sự ràng buộc huyết thống, vì họ có họ hàng bà con gì với nhau đâu? Riêng một vài nước, như Pháp chẳng hạn, cho phép cưới em hoặc chị vợ, nhưng với điều kiện vợ chết hoặc đã ly dị. Nói chung, từ ngày bắt đầu phát triển thành cộng đồng xã hội, nhân loại luôn luôn chọn lựa đối tượng quan hệ tình dục. Điều này xảy ra ngay cả trong trường hợp mại dâm, và cả ở hai phía, nếu có điều kiện chọn lựa. Mà chọn lựa thì tất nhiên, phải nhằm mục đích nâng cao giá trị, hoặc chí ít cũng gia tăng chất lượng của quan hệ nói trên. Do đi ngược lại với trào lưu, cụ thể là hạ thấp, chứ không nâng cao chuyện đó, hành vi loạn luân, luôn luôn và mãi mãi vẫn chỉ xảy ra ở một số rất ít người. Giống như đồng tính ái, cho dù hiện nay y học không coi là bệnh đi nữa, thì cũng chỉ có 1% dân số (theo thống kê mới đây của Mỹ) đang ở trong trạng thái này. Đối với con người, sinh hoạt tình dục là hành động cao cấp nhất, tương ứng với mức độ phát triển của não bộ, nơi quyết định tất cả mọi chuyện, trong khi cơ quan phụ trách chỉ là cấp thừa hành, nên luôn luôn có suy nghĩ , chọn lựa, tính toán và cả kiềm chế. Khác với động vật, kể cả động vật cao cấp như chó khi… giao cấu theo bản năng, cơ quan tình dục thật sự của con người chính là bộ óc. Bằng chứng là người đàn ông nào cũng từng biết đến những giấc mơ kỳ thú “đi đến tận cùng”, với một người đẹp nào đó, mà mọi việc đều hoàn toàn diễn ra trong đầu và dấu vết còn lại chỉ là vệt ướt trong quần lót vào lúc thức dậy, chứ chẳng cần thiết phải đụng chạm đến cơ quan sinh dục. Loạn luân “kiểu khác”, như câu hỏi trên đây, thường xảy ra khi sẵn điều kiện thuận lợi: cùng ở chung nhà, nhiều cơ hội tiếp xúc hoặc dễ làm áp lực hay dụ dỗ.tóm lại, là ít khi phải bỏ nhiều công sức để thực hiện. Điều này đi ngược với bản chất con người, là thích chinh phục và luôn cố gắng chọn lựa, do muốn nâng cao giá trị, như đã nói ở trên. Nhiều ông đã kiên trì theo đuổi một đối tượng hàng năm liên tục, trong bối cảnh đó. Về mặt sinh học đơn thuần, loạn luân cho dù “cổ điển” hay “kiểu khác”, cho dù biện minh cách nào đi nữa, vẫn gần với súc vật hơn. Chúng ta có thể nghĩ nó chủ yếu chỉ xảy ra ở những người trình độ văn hóa thấp. Trong thực tế, tình huống này đôi khi có thể gặp ở nhiều trí thức khoa bảng nhất là trường hợp “hoa thơm đánh cả cụm” 2-3 chị em. Gần đây nhất, là trường hợp tài tử điện ảnh Mỹ Woody Allen, đã công khai sống chung với cô Soon Yi, con gái nuôi của vợ tạo nên nhiều phản đối trong dư luận. Đa số các nhà nghiên cứu đều đồng tình với Robert Chartham khi tác giả này cho rằng tình dục vốn là khía cảnh súc vật trong con người chúng ta, chính tình yêu một hình thức tư duy vào hàng cao cấp nhất mới đưa tình dục vượt lên trên bản năng tự nhiên của động vật có vú. Bằng loạn lân, con người lại trở về với bản năng súc vật, như vào thời kỳ mới vừa xuất hiện trên hành tinh. Trái ngược với điều thường nghĩ, người loạn luân, không hề (hoặc rất ít khi mạnh về mặt tình dục, mà trái lại, tuyệt đại đa số các trường hợp lại còn rất yếu là đằng khác. Ngoài ra họ thường khá nhát gái sợ đàn bà, và hầu như không dám dính líu với phụ nữ nào khác, ngoài vợ. Loạn luân là giải pháp dễ dàng. Trong sự dễ dàng như vậy, nhất là được rượu hỗ trợ, loạn luân rất hay xảy ra khi có điều kiện sẵn trong tầm tay” khỏi cần tìm kiếm đâu xa. Để ngăn chặn trước hết người liên hệ trực tiếp: vợ mẹ, chị….và chính nạn nhân, phải ý thức được nguy cơ loạn luân, cố tránh mọi tình huống tạo điều kiện càng cảnh giác cao, càng tốt. Điều rất đáng tiếc, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là nguyên nhân kinh tế, người thân và đôi khi chính nạn nhân, đều không tích cực chống trả lại hành động này, hoặc nếu xảy ra, lại cố ý che giấu. Rối cuộc, chỉ còn cách xử thật nặng mới hy vọng răn đe hiệu quả, mà ngay cả điều này chưa thực hiện tốt.
Loạn luân
Loạn luân hoặc phi luân là biệt ngữ mô tả mọi hoạt động tình dục giữa những người trong cùng gia đình hoặc những người có liên hệ huyết thống gần gũi. Loạn luân thường bao gồm các hoạt động tình dục giữa những người có quan hệ họ hàng gần (chung dòng máu), và thỉnh thoảng giữa những người có quan hệ luật pháp, con riêng, con nuôi hoặc có liên quan đến hôn nhân (ví dụ con với mẹ kế), hoặc các thành viên trong thị tộc có cùng tổ tiên. Cấm kỵ về loạn luân đã và đang là những cấm kỵ mang tính văn hóa phổ quát nhất, kể cả trong các xã hội cũ và mới. Hầu hết các xã hội hiện đại có luật cấm loạn luân hoặc các hạn chế xã hội về hôn nhân cận huyết rất chặt chẽ. Trong các xã hội mà loạn luân là bất hợp pháp, việc loạn luân đồng thuận giữa hai người lớn được một số người coi là một tội phạm không nạn nhân. Một số nền văn hoá mở rộng quan niệm loạn luân cho các trường hợp người thân mà không có quan hệ huyết thống như được một người mẹ nuôi chung, anh chị em có cha/mẹ khác nhau, và các anh chị nhận nuôi.
Mùa Chay là mùa ăn năn thống hối, cầu nguyện, bố thí, mùa chịu nạn, thương khó, chuẩn bị cho đại biến cố Phục Sinh. Được bắt đầu từ thứ tư Lễ Tro và kết thúc với Chúa Nhật Phục Sinh. Nó chứa đựng 40 ngày chay tịnh để tưởng nhớ đến biến cố Chúa vào trong hoang địa ăn chay, cầu nguyện và sau đó chịu sự cám dỗ trong 40 đêm ngày; là thời gian của thương khó và thống hối. (thực sự là 46 ngày, nếu tính từ Thứ tư lễ Tro cho đến Chúa nhật Phục sinh, nhưng theo nghĩa hẹp, Mùa Chay tính từ Chúa nhật thứ nhất đến chiều Thứ Năm Tuần Thánh, nghĩa là cho tới lúc cử thành thánh lễ Tiệc Ly vào ban chiều “in Caena Domini”, trong đó Chúa lập Bí tích Thánh Thể, rửa chân cho 12 môn đệ và truyền lại Giới răn mới) (Thời gian 40 ngày cũng để nhớ lại 40 đêm ngày Maisen cầu nguyện trên Núi Sinai và được Chúa trao cho 10 Giới răn. Rồi 40 ngày còn để nhớ lại cuộc hành trình 40 ngày trong sa mạc của Tiên tri Elia, lúc ông trốn khỏi cơn thịnh nộ của Hoàng hậu Gezabele, để tiến về Núi Oreb (cũng là núi Sinai, kế Biển Ðỏ và Kênh đào Suez), nơi đây Chúa mạc khải và trao cho ông sứ vụ mới (1 Vua 19),. Trong ba thế kỷ đầu, Mùa Chay chỉ kéo dài hai hay ba ngày, sau đó kéo dài từ ba đến bốn tuần. Con số bốn mươi được áp dụng do quy định của Công Đồng Nicaea (325). Ngoại trừ những ngày Chúa Nhật, Giáo Hội đề nghị các tín hữu nên ăn chay theo luật định. Toàn thời gian Mùa Chay cũng là thời gian chuẩn bị tâm hồn cho cuộc khổ nạn, chịu chết và Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô. Trong Mùa Chay không được kết hôn, Linh mục mặc áo màu tím, không có kinh Vinh Danh và Alleluia trong Thánh lễ. Không đệm đàn khi không có tiếng hát. Không trưng bông trên bàn thờ. Mỗi ngày có Thánh lễ với những lời mở đầu Mùa Chay khác nhau. Trong thời gian này, Giáo Hội chuẩn bị cho biến cố trung tâm của lịch sử, sự Cứu Chuộc nhân loại của Chúa Giêsu Kitô. Công Đồng Vaticanô thứ hai dạy rằng :” Mùa Chay có hai đặc tính :1/ Hồi tưởng lại bí tích rửa tội hoặc là chuẩn bị cho bí tích này. 2/Nhấn mạnh đến tinh thần ăn năn, sám hối. Bởi những ý nghĩa đặc biệt này, mùa Chay chuẩn bị cho các tín hữu sẳn sàng cử hành mầu nhiệm vượt qua sau thời gian tiếp cận, gần gũi hơn với Lời Chúa và nồng nhiệt hơn trong sự cầu nguyện. Trong chính bản thân phụng tự và trong những hướng dẩn từ trung tâm của phụng tự, những chủ đề về rửa tội và thống hối được tuyên bố cách sâu sắc hơn” (SC 109). “.Hằng năm qua bốn mươi ngày của Mùa Chay, Giáo Hội hiệp thông với mầu nhiệm của Chúa Giêsu trên hoang địa” (GLGHCG 540). Vì thế tinh thần Mùa Chay là làm cho nội tâm cũng như hành động của mỗi cá nhân liên hệ đến phụng tự của Giáo Hội nhiều hơn và các tín hữu đáp trả nhiều hơn đối với sứ điệp và sự dạy dỗ của Chúa Kitô. Do đó Giáo Hội kêu gọi các tín hữu hảy hăng hái hy sinh, hãm mình, làm việc bác ái, cầu nguyện và làm việc Tông đồ trong Mùa Chay Thánh.
Mùa Chay
Mùa Chay (Latin: Quadragesima - tuần chay giới) là một dịp lễ tôn giáo trang trọng trong lịch phụng vụ của nhiều hệ phái Kitô giáo bắt đầu từ ngày thứ Tư Lễ Tro và bao gồm một khoảng thời gian khoảng sáu tuần trước lễ Phục sinh. Mục đích truyền thống của Mùa Chay là việc chuẩn bị của các tín hữu qua lời cầu nguyện, sám hối, ăn năn tội lỗi, thực hành bác ái từ thiện, chuộc tội và từ bỏ chính mình. Sự kiện này, cùng với các phong tục giữ đạo đức liên quan, được thực hành bởi các Kitô hữu theo truyền thống Anh giáo, Thần học Calvin, Giáo hội Luther, Phong trào Giám Lý, và Giáo hội Công giáo Rôma. Ngày nay, hệ phái Anabaptist và giáo hội Tin Lành cũng tuân giữ mùa Chay. Chính Thống giáo cũng có mùa Chay, bắt đầu từ Thứ hai tinh khiết (tiếng Hy Lạp: Καθαρή Δευτέρα, tiếng Anh: Clean Monday), 48 ngày trước Chủ nhật Phục Sinh và kéo dài 40 ngày. Trong Kitô giáo Tây phương, Mùa Chay là thời gian bốn mươi ngày trước Lễ Phục Sinh kéo dài từ ngày Thứ tư Lễ Tro đến Thứ bảy Tuần Thánh.
Trầm cảm, ảo giác, nhiều nhân cách, thay đổi cảm xúc liên tục, hay quên,… là những triệu chứng điển hình của bệnh rối loạn đa nhân cách. Người bệnh nên sớm tiến hành chữa trị, tránh các biến chứng phức tạp, nguy hiểm đến tính mạng. Hiện nay, tỉ lệ những bệnh nhân mắc bệnh rối loạn đa nhân cách ngày càng phổ biến. Người bệnh hầu như không thể phát hiện được những bất thường ở cơ thể của mình. Bệnh nhân thường có những gây phút mơ màng, không thể nhận thức được sự khác biệt về thế giới xung quanh. Theo các chuyên gia tâm lý, rối loạn đa nhân cách (Multiple Personality Disorder – MPD) là một dạng tách biệt với môi trường xung quanh nhưng mức độ của bệnh nghiêm trọng hơn. Dường như tâm lý của bệnh nhân đã mất kết nối với những ký ức, cảm xúc, suy nghĩ, hành động và nhân cách của chính bản thân mình. Chúng ta có thể hiểu đơn giản, một bộ não, một cơ thể nhưng có nhiều nhân cách chung sống. Căn bệnh này kèm theo triệu chứng mất trí nhớ và người bệnh không thể giải thích được bằng lời mà xem đó là những lãng quên thông thường. Đây không phải là căn bệnh có thể tự chữa trị theo thời gian mà cần phải có sự can thiệp kịp thời của bác sĩ chuyên khoa. Các bản thể của bệnh nhân không phải là một nhân cách hoàn chỉnh mà là những mảnh ghép rời rạc. Thông thường, bản thể chính sẽ mang tên thật của bệnh nhân. Người bệnh sẽ không hề biết được sự hiện diện của những bản thể khác ở cơ thể của mình mà chỉ nhận thức khi được người khác kể lại. Hầu hết những bệnh nhân mắc phải căn bệnh này đều gặp phải những tổn thương nhất định trong quá khứ hoặc gặp phải bạo lực. Họ nhanh chóng tách mình ra khỏi thực tế bằng cách tạo ra những bản thể khác nhau để có thể tránh được những suy nghĩ tiêu cực, đau buồn trong cuộc sống. Mỗi bản thể của người bệnh sẽ có những cách nói chuyện riêng biệt. Có những bản thể là người nhưng cũng có những bản thể là động vật. Việc chuyển đổi giữa các bản thể với nhau chỉ diễn ra trong vài giây, vài phút hoặc vài ngày. Những kích thích ở môi trường, đời sống sẽ khiến các bản thể thay đổi nhanh chóng. Ban đầu, bệnh nhân có thể có 2 – 4 bản thể. Tuy nhiên, sau khi chữa trị, người bệnh có thể chuyển trung bình 13 – 15 bản thể, thậm chí cả 100 bản thể. Tuy nhiên, bệnh nhân không biết điều này. Do đó, việc phát hiện và điều trị cho những bệnh nhân mắc bệnh rối loạn đa nhân cách gặp nhiều khó khăn. Theo các nghiên cứu của Cộng đồng Nghiên cứu Chấn thương và Phân tách tâm lý Quốc tế, rối loạn đa nhân cách là căn bệnh tồn tại ở 1% – 3% dân số toàn cầu. Trong đó, 1% – 5% bệnh nhân tâm thần nội trú tại Châu Âu và Bắc Mỹ mắc phải căn bệnh này. Khi mắc bệnh rối loạn đa nhân cách, người bệnh thường gặp phải một số triệu chứng như sau:. Có nhiều nhân cách tồn tại: Người bệnh có ít nhất 2 bản thể riêng biệt, không thể kiểm soát được hành vi của mình. Xuất hiện khoảng trống trong kí ức: Bệnh nhân không có kí ức hoàn toàn về những sự kiện đã xảy ra trong cuộc sống. Đặc biệt, người bệnh thường có những kí ức đen và nghĩ là mình đã ngủ trong khoảng thời gian đó. Quên thông tin cá nhân: Một số thông tin quan trọng như nơi làm việc, nơi sinh sống, sở thích cá nhân,… người bệnh không thể nhớ hết được. Rối loạn đa nhân cách là căn bệnh khá phức tạp và gây nguy hiểm đến tính mạng của người bệnh nếu không được kiểm soát kịp thời. Hiện tại, việc tìm ra nguyên nhân chính xác của căn bệnh rối loạn đa nhân cách là cả một quá trình điều trị lâu dài. Thông thường, bệnh nhân mắc phải căn bệnh này là do một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:. Rối loạn đa nhân cách là căn bệnh vô cùng nguy hiểm. Những trẻ bị bỏ bê hoặc lạm dụng về tâm lý có nguy cơ mắc phải căn bệnh này khá cao. Các thống kê cho thấy, có đến 99% những bệnh nhân mắc bệnh rối loạn đa nhân cách từng bị lạm dụng liên tục hoặc bị sức ép gây ảnh hưởng đến tính mạng ở giai đoạn phát triển nhạy cảm (trước 9 tuổi). Ba mẹ hay hung dữ, cãi nhau sẽ khiến cho con cái có nguy cơ bị rối loạn đa nhân cách. Đây là nguyên nhân thường gặp ở rất nhiều người. Các nghiên cứu cho thấy, một gia đình không hạnh phúc thì tỉ lệ con cái gặp phải vấn đề tâm lý và đứng trước nguy cơ mắc bệnh rối loạn đa nhân cách rất cao. Những người bị bỏ bê trong khoảng thời gian dài, không được quan tâm đứng trước nguy cơ mắc bệnh khá cao. Bên cạnh đó, người bị lạm dụng vè tâm lý, thể chất hoặc bị quấy rối tình dục sẽ rất dễ bị rối loạn đa nhân cách. Bệnh nhân khó chấp nhận được thực tế nên có dấu hiệu quên khoảng thời gian đen tối đó. Tâm lý của người bệnh sẽ có kí ức bị lãng quên. Rối loạn đa nhân cách khiến bệnh nhân gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống hành ngày. Vì người bệnh khó phát hiện ra bệnh lý của mình nên việc điều trị bệnh là điều không dễ dàng. Ngoài việc ảnh hưởng đến sức khỏe, bệnh rối loạn đa nhân cách còn khiến người bệnh đối diện với một số vấn đề sau đây. Rối loạn đa nhân cách khiến cho bệnh nhân có cảm giác không còn ở trong cơ thể của mình nữa mà chỉ đang quan sát cơ thể từ xa. Hiện tượng này còn được gọi là “trải nghiệm thoát xác”. Người bệnh không thể tập trung vào công việc của mình. Bệnh nhân luôn có cảm giác thế giới xung quanh không có thật. Mọi vật trở nên mờ nhạt, người bệnh sẽ không còn cảm giác thực với những gì diễn ra bên cạnh mình. Từ đó, những nhận thức của bệnh nhân trở nên mờ ảo, khó xác định. Chính bản thân người bệnh cũng không thể biết được bản thân mình đang suy nghĩ điều gì. Tình trạng này xảy ra ở rất nhiều người. Hầu hết những bệnh nhân mắc bệnh rối loạn đa nhân cách đều quên hết mọi thông tin cá nhân của mình. Họ cũng không thể ghi nhớ được những cuộc nói chuyện quan trọng. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống và công việc hàng ngày. Người bệnh gặp khó khăn trong việc xác định quan điểm chính trị, xã hội, tôn giáo, xu hướng tình dục, tham vọng nghề nghiệp,… Bệnh nhân còn có dấu hiệu bị nhầm lẫn về thời gian và địa điểm. Nhân cách bản thân có dấu hiệu bị thay đổi liên tục mà người bệnh không thể kiểm soát được. Rối loạn đa nhân cách là căn bệnh khá phức tạp. Việc chẩn đoán bệnh cần phải trải qua khoảng thời gian dài. Bệnh nhân cần phải tiến hành thăm khám bác sĩ tâm lý sớm. Tuy nhiên, các chuyên gia cho biết, để có thể chẩn đoán chính xác bệnh, người bệnh phải đi thăm khám tâm lý ít nhất 7 năm. Hầu hết những triệu chứng của bệnh rối loạn đa nhân cách rất giống với bệnh tâm thần nên khá khó phân biệt. Bên cạnh đó, bệnh nhân mắc bệnh rối loạn đa nhân cách còn mắc thêm các bệnh khác như trầm cảm, lo âu. Do đó, việc phát hiện và chữa trị cần phải có thời gian nhất định. Với người nhà bệnh nhân, nếu thấy người bệnh có biểu hiện bất thường nên đưa người bệnh tiến hành thăm khám bác sĩ sớm, tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra. Căn cứ vào 5 tiêu chí dưới đây, bác sĩ sẽ chẩn đoán bệnh nhân có mắc bệnh rối loạn đa nhân cách hay không. Xuất hiện nhiều bản thể: Bệnh nhân có ít nhất 2 bản thể khác nhau. Mỗi bản thể sẽ có những nhận thức và suy nghĩ riêng về thế giới xung quanh. Mất kí ức: Người bệnh không thể nhớ hết các sự kiện xảy ra trong quá khứ. Thậm chí các thông tin quan trọng hoặc chuyện buồn cá nhân đều không nhớ rõ. Sinh hoạt không bình thường: Bệnh nhân luôn bị căng thẳng và gặp khó khăn trong cuộc sống vì bệnh rối loạn đa nhân cách. Họ không làm việc hiệu quả hoặc không thể xây dựng được mối quan hệ bền vững với những người xung quanh. Trải nghiệm bị tổn thương: Bệnh nhân có những trải nghiệm đau buồn về văn hóa, tôn giáo hoặc bị bạo hành, lạm dụng tình dục. Hiện nay, việc tiến hành điều trị bệnh rối loạn đa nhân cách đang được nhiều người quan tâm. Hầu hết những bệnh nhân mắc bệnh rối loạn đa nhân cách đều khó có thể sinh hoạt bình thường. Người bệnh cần phải kiên trì điều trị theo hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa. Dần dần, theo thời gian, bệnh giảm nhẹ các triệu chứng, bệnh nhân mới có thể hòa nhập vào cuộc sống bình thường như bao người khác. Với căn bệnh rối loạn đa nhân cách, hiện tại vẫn chưa có cách điều trị cụ thể cho từng đối tượng bệnh nhân. Tuy nhiên, một số phương pháp được áp dụng có thể cải thiện mức độ mắc bệnh. Để bệnh nhanh chóng khỏi, bệnh nhân cần phải kiên nhẫn điều trị lâu dài. Một số liệu pháp được áp dụng như tâm sự với bác sĩ tâm lý, trò chuyện, tâm lý trị liệu, thôi miên,… Bên cạnh đó, một số liệu pháp bổ trợ cũng được áp dụng triệt để như liệu pháp vận động, nghệ thuật trị liệu,…. Thực tế, với căn bệnh rối loạn đa nhân cách, hiện nay vẫn chưa có phương pháp điều trị bằng thuốc dành riêng cho những bệnh nhân này. Do đó, phương pháp chữa trị tâm lý vẫn được ưu tiên áp dụng chính. Riêng những bệnh nhân rối loạn đa nhân cách kèm thêm bệnh trầm cảm có thể sử dụng thuốc đi kèm để nâng cao hiệu quả tâm lý. Một số liệu pháp tâm lý thường được sử dụng để chữa trị bệnh rối loạn đa nhân cách như sau:. Nếu trong quá trình điều trị, bệnh nhân có dấu hiệu bất thường, gia đình cần báo ngay cho bác sĩ chuyên khoa được biết. Rối loạn đa nhân cách là cuộc chiến không ngừng nghỉ của bệnh nhân. Đây không đơn thuần chỉ là ảo tưởng. Người bệnh cần có sự chăm sóc tâm lý và y tế để sớm trở lại con người bình thường. Ngoài sự phối hợp giữa bác sĩ và bệnh nhân, những người xung quanh cũng tác động rất lớn để người bệnh có thể thoát khỏi những mảnh ghép ám ảnh và trở thành người có ích cho xã hội. Hy vọng những thông tin trên sẽ giúp bệnh nhân hiểu rõ hơn về căn bệnh rối loạn đa nhân cách. Thực tế, những bệnh nhân mắc phải căn bệnh này đều khó có thể phát hiện bệnh nếu không có sự can thiệp của bác sĩ chuyên khoa. Để bệnh nhân nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng, tất cả mọi người hãy chung tay hỗ trợ giúp người bệnh tìm về con người thật của mình. Rối loạn nhân cách phụ thuộc (DPD) là một trong những loại rối loạn nhân cách không quá phổ biến. Đặc trưng bởi tình trạng dựa dẫm vào người khác,. Rối loạn nhân cách hoang tưởng (PPD) là tình trạng được xếp vào loại rối loạn nhân cách lập dị. Người bệnh thường thể hiện những hành vi có vẻ. Rối loạn nhân cách phân liệt (SPD) là một tình trạng mãn tính, đặc trưng bởi sự cô lập xã hội và cảm giác thờ ơ với người khác. Rối loạn nhân cách ái kỷ là hội chứng về tâm lý được đặc trưng bởi hình thái tâm lý phổ biến là tự cao, có nhu cầu được nịnh.
Rối loạn đa nhân cách
Rối loạn đa nhân cách (tiếng Anh: DID - Dissociative identity disorder) hay còn được gọi là rối loạn nhân dạng phân ly, là một dạng rối loạn tâm thần được đặc trưng bằng ít nhất hai nhân cách khác biệt và tồn tại tương đối lâu ở người bệnh. Triệu chứng thường đi kèm với bệnh mất trí nhớ tâm lý vượt xa so với sự lãng trí thông thường. Những nhân cách này thay phiên thể hiện trong hành vi của một người; tuy nhiên nhân cách nào xuất hiện còn tùy thuộc vào từng trường hợp. Các vấn đề khác thường xảy ra ở những người mắc DID bao gồm rối loạn nhân cách ranh giới (BPD), hậu chấn tâm lý (PTSD), trầm cảm, rối loạn sử dụng chất, tự gây hại, và lo lắng. Một số chuyên gia tin rằng nguyên nhân của bệnh này là chấn thương từ thời thơ ấu. Trong khoảng 90% các trường hợp, người bệnh đã từng bị lạm dụng khi còn bé, trong khi các trường hợp còn lại nguyên nhân có liên quan đến chiến tranh hoặc các vấn đề sức khỏe khi còn nhỏ. Yếu tố di truyền cũng được cho là một yếu tố liên quan.
Gặp người bị nạn thì thờ ơ, lạnh lùng đứng xem, hôi của, chăm chăm chụp hình đăng Facebook sống ảo. Ngàn việc tốt làm không một lời khen ngợi, phạm một lỗi lầm thì chì chiết, trách móc, thậm chí đăng bài lên mạng xã hội gây áp lực tinh thần cho người bị hại. Thấy cụ già mang vác nặng, thấy ba mẹ vất vả cũng thờ ơ, chăm chăm vào màn hình iPad, Smartphone. Nhà văn Nam Cao đã từng viết: "Chao ôi! Đối với những người sống xung quanh ta, nếu ta không cố mà tìm hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi., toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương… cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất". Vì vậy, mỗi người nên biết đặt mình vào vị trí của nhau để hiểu nhau và thông cảm cho nhau.Tình yêu thương, đồng cảm, sẻ chia luôn là bài ca ngọt ngào của cuộc sống, là những mầm non cho cây đời mãi xanh tươi. Cho đi và nhận lại luôn là hai kết quả trên một hành trình, mà ở đó kẻ cho và người nhận đều cảm thấy được sẽ chia, an lòng và hạnh phúc. Giữa con người với con người, hãy trân trọng và dành cho nhau cái tâm của tình người. Cần trân quý những ai đã giúp đỡ ta trong cuộc đời. Trong suốt hành trình của cuộc đời học sinh, em đã học được nhiều điều và cho đi cũng không ít. Song, sau tất thảy, tình thương rất đỗi ngọt ngào của thầy cô, gia đình và cả những người xa lạ đã giúp em trưởng thành hơn. Luôn tự hứa và mang theo suốt hành trình của cuộc đời mình chữ "tâm" cao quý, đặc biệt là khi còn sức trẻ, dành hết thanh xuân để tham gia hoạt động cộng đồng, đem yêu thương nhờ hương gió gửi đến những vùng cao nghèo đói, những nơi cần giúp đỡ. "Thiện căn tại bởi lòng taChữ tâm kia mới ba ba chữ tài"Nghị luận xã hội về đồng cảm và sẻ chia trong xã hội - Bài mẫu 8Thời gian trôi qua sẽ không lấy lại được. Mỗi con người cũng chỉ được sống một lần duy nhất trong đời, chúng ta hãy sống một cuộc đời thật trọn vẹn với tình yêu thương, sự sẻ chia với người khác. Có thể thấy, sự sẻ chia giữa con người với con người đã góp phần không nhỏ khiến cho thế giới này tốt đẹp hơn.Đồng cảm là việc chúng ta rung động, yêu thương, thấu cảm với những người có hoàn cảnh khó khăn hơn mình. Còn sẻ chia là khi chúng ta gặp người khác có hoàn cảnh khó khăn, cần sự san sẻ chúng ta sẵn lòng giúp đỡ họ mà không màng đến danh lợi cả về vật chất lẫn tinh thần để họ có thể vượt qua khó khăn và khắc phục cuộc sống.Chúng ta dễ dàng nhận thấy trong xã hội hiện nay có rất nhiều mảnh đời chịu bất hạnh, đau thương, khổ cực, việc chúng ta sống tử tế, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ những người đó làm xoa dịu, giảm bớt nỗi đau của họ, xã hội cũng sẽ phát triển đẹp đẽ, vững mạnh hơn. Bên cạnh đó, khi giúp đỡ người khác, ta sẽ nhận lại sự kính trọng, niềm tin yêu của người khác và cả sự sẵn sàng giúp đỡ lại mình lúc mình gặp khó khăn, điều này làm lan tỏa thông điệp “cho và nhận” trong xã hội ngày càng được lan tỏa hơn. Mỗi người biết chia sẻ, yêu thương, giúp đỡ người khác sẽ góp phần làm cho xã hội này giàu tình cảm hơn, phát triển văn minh hơn.Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay vẫn có không ít người có tính ích kỉ, nhỏ nhen, chỉ biết đến bản thân mình mà không cần suy nghĩ cho người khác, lạnh lùng, vô cảm mặc kệ nỗi đau của đồng loại. Lại có những người sống có cách hành xử thô lỗ, kém tinh tế,… những người này cần bị phê phán, chỉ trích.Mỗi người chỉ được sống một lần, chúng ta hãy sống với tấm lòng, sự tử tế, cho đi và yêu thương để làm cho xã hội này ngày càng tốt hơn, con người được sống tình cảm hơn vì vốn dĩ: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.-----------------------Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới các bạn Nghị luận xã hội về đồng cảm và sẻ chia trong xã hội. Mong rằng qua đây các bạn có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 12 nhé. Mời các bạn cùng tham khảo thêm các môn Toán 12, Tiếng Anh 12, đề thi học kì 1 lớp 12, đề thi học kì 2 lớp 12.Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 12, Ôn thi khối C để có thêm tài liệu học tập nhé. Tình yêu thương, đồng cảm, sẻ chia luôn là bài ca ngọt ngào của cuộc sống, là những mầm non cho cây đời mãi xanh tươi. Cho đi và nhận lại luôn là hai kết quả trên một hành trình, mà ở đó kẻ cho và người nhận đều cảm thấy được sẽ chia, an lòng và hạnh phúc. Giữa con người với con người, hãy trân trọng và dành cho nhau cái tâm của tình người. Cần trân quý những ai đã giúp đỡ ta trong cuộc đời. Trong suốt hành trình của cuộc đời học sinh, em đã học được nhiều điều và cho đi cũng không ít. Song, sau tất thảy, tình thương rất đỗi ngọt ngào của thầy cô, gia đình và cả những người xa lạ đã giúp em trưởng thành hơn. Luôn tự hứa và mang theo suốt hành trình của cuộc đời mình chữ "tâm" cao quý, đặc biệt là khi còn sức trẻ, dành hết thanh xuân để tham gia hoạt động cộng đồng, đem yêu thương nhờ hương gió gửi đến những vùng cao nghèo đói, những nơi cần giúp đỡ. "Thiện căn tại bởi lòng taChữ tâm kia mới ba ba chữ tài"Nghị luận xã hội về đồng cảm và sẻ chia trong xã hội - Bài mẫu 8Thời gian trôi qua sẽ không lấy lại được. Mỗi con người cũng chỉ được sống một lần duy nhất trong đời, chúng ta hãy sống một cuộc đời thật trọn vẹn với tình yêu thương, sự sẻ chia với người khác. Có thể thấy, sự sẻ chia giữa con người với con người đã góp phần không nhỏ khiến cho thế giới này tốt đẹp hơn.Đồng cảm là việc chúng ta rung động, yêu thương, thấu cảm với những người có hoàn cảnh khó khăn hơn mình. Còn sẻ chia là khi chúng ta gặp người khác có hoàn cảnh khó khăn, cần sự san sẻ chúng ta sẵn lòng giúp đỡ họ mà không màng đến danh lợi cả về vật chất lẫn tinh thần để họ có thể vượt qua khó khăn và khắc phục cuộc sống.Chúng ta dễ dàng nhận thấy trong xã hội hiện nay có rất nhiều mảnh đời chịu bất hạnh, đau thương, khổ cực, việc chúng ta sống tử tế, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ những người đó làm xoa dịu, giảm bớt nỗi đau của họ, xã hội cũng sẽ phát triển đẹp đẽ, vững mạnh hơn. Bên cạnh đó, khi giúp đỡ người khác, ta sẽ nhận lại sự kính trọng, niềm tin yêu của người khác và cả sự sẵn sàng giúp đỡ lại mình lúc mình gặp khó khăn, điều này làm lan tỏa thông điệp “cho và nhận” trong xã hội ngày càng được lan tỏa hơn. Mỗi người biết chia sẻ, yêu thương, giúp đỡ người khác sẽ góp phần làm cho xã hội này giàu tình cảm hơn, phát triển văn minh hơn.Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay vẫn có không ít người có tính ích kỉ, nhỏ nhen, chỉ biết đến bản thân mình mà không cần suy nghĩ cho người khác, lạnh lùng, vô cảm mặc kệ nỗi đau của đồng loại. Lại có những người sống có cách hành xử thô lỗ, kém tinh tế,… những người này cần bị phê phán, chỉ trích.Mỗi người chỉ được sống một lần, chúng ta hãy sống với tấm lòng, sự tử tế, cho đi và yêu thương để làm cho xã hội này ngày càng tốt hơn, con người được sống tình cảm hơn vì vốn dĩ: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.-----------------------Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới các bạn Nghị luận xã hội về đồng cảm và sẻ chia trong xã hội. Mong rằng qua đây các bạn có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 12 nhé. Mời các bạn cùng tham khảo thêm các môn Toán 12, Tiếng Anh 12, đề thi học kì 1 lớp 12, đề thi học kì 2 lớp 12.Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 12, Ôn thi khối C để có thêm tài liệu học tập nhé. "Thiện căn tại bởi lòng taChữ tâm kia mới ba ba chữ tài"Nghị luận xã hội về đồng cảm và sẻ chia trong xã hội - Bài mẫu 8Thời gian trôi qua sẽ không lấy lại được. Mỗi con người cũng chỉ được sống một lần duy nhất trong đời, chúng ta hãy sống một cuộc đời thật trọn vẹn với tình yêu thương, sự sẻ chia với người khác. Có thể thấy, sự sẻ chia giữa con người với con người đã góp phần không nhỏ khiến cho thế giới này tốt đẹp hơn.Đồng cảm là việc chúng ta rung động, yêu thương, thấu cảm với những người có hoàn cảnh khó khăn hơn mình. Còn sẻ chia là khi chúng ta gặp người khác có hoàn cảnh khó khăn, cần sự san sẻ chúng ta sẵn lòng giúp đỡ họ mà không màng đến danh lợi cả về vật chất lẫn tinh thần để họ có thể vượt qua khó khăn và khắc phục cuộc sống.Chúng ta dễ dàng nhận thấy trong xã hội hiện nay có rất nhiều mảnh đời chịu bất hạnh, đau thương, khổ cực, việc chúng ta sống tử tế, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ những người đó làm xoa dịu, giảm bớt nỗi đau của họ, xã hội cũng sẽ phát triển đẹp đẽ, vững mạnh hơn. Bên cạnh đó, khi giúp đỡ người khác, ta sẽ nhận lại sự kính trọng, niềm tin yêu của người khác và cả sự sẵn sàng giúp đỡ lại mình lúc mình gặp khó khăn, điều này làm lan tỏa thông điệp “cho và nhận” trong xã hội ngày càng được lan tỏa hơn. Mỗi người biết chia sẻ, yêu thương, giúp đỡ người khác sẽ góp phần làm cho xã hội này giàu tình cảm hơn, phát triển văn minh hơn.Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay vẫn có không ít người có tính ích kỉ, nhỏ nhen, chỉ biết đến bản thân mình mà không cần suy nghĩ cho người khác, lạnh lùng, vô cảm mặc kệ nỗi đau của đồng loại. Lại có những người sống có cách hành xử thô lỗ, kém tinh tế,… những người này cần bị phê phán, chỉ trích.Mỗi người chỉ được sống một lần, chúng ta hãy sống với tấm lòng, sự tử tế, cho đi và yêu thương để làm cho xã hội này ngày càng tốt hơn, con người được sống tình cảm hơn vì vốn dĩ: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.-----------------------Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới các bạn Nghị luận xã hội về đồng cảm và sẻ chia trong xã hội. Mong rằng qua đây các bạn có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 12 nhé. Mời các bạn cùng tham khảo thêm các môn Toán 12, Tiếng Anh 12, đề thi học kì 1 lớp 12, đề thi học kì 2 lớp 12.Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 12, Ôn thi khối C để có thêm tài liệu học tập nhé. Thời gian trôi qua sẽ không lấy lại được. Mỗi con người cũng chỉ được sống một lần duy nhất trong đời, chúng ta hãy sống một cuộc đời thật trọn vẹn với tình yêu thương, sự sẻ chia với người khác. Có thể thấy, sự sẻ chia giữa con người với con người đã góp phần không nhỏ khiến cho thế giới này tốt đẹp hơn.Đồng cảm là việc chúng ta rung động, yêu thương, thấu cảm với những người có hoàn cảnh khó khăn hơn mình. Còn sẻ chia là khi chúng ta gặp người khác có hoàn cảnh khó khăn, cần sự san sẻ chúng ta sẵn lòng giúp đỡ họ mà không màng đến danh lợi cả về vật chất lẫn tinh thần để họ có thể vượt qua khó khăn và khắc phục cuộc sống.Chúng ta dễ dàng nhận thấy trong xã hội hiện nay có rất nhiều mảnh đời chịu bất hạnh, đau thương, khổ cực, việc chúng ta sống tử tế, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ những người đó làm xoa dịu, giảm bớt nỗi đau của họ, xã hội cũng sẽ phát triển đẹp đẽ, vững mạnh hơn.
Đồng cảm
Đồng cảm là khả năng hiểu hoặc cảm nhận những gì người khác đang trải qua trong khung tham chiếu của họ, nghĩa là khả năng đặt bản thân vào vị trí của người khác. Có nhiều định nghĩa cho sự đồng cảm mà bao gồm một loạt các trạng thái cảm xúc. Các loại đồng cảm bao gồm đồng cảm nhận thức, đồng cảm về cảm xúc và đồng cảm soma. Các định nghĩa đồng cảm bao gồm một loạt các trạng thái cảm xúc, bao gồm chăm sóc người khác và có mong muốn giúp đỡ họ; trải nghiệm cảm xúc phù hợp với cảm xúc của người khác; nhận thấy những gì người khác đang nghĩ hoặc cảm thấy; và thu hẹp sự khác biệt giữa bản thân và người khác. Nó cũng có thể được hiểu là làm giảm khoảng cách giữa việc định danh chính mình và người khác. Đồng cảm cũng là khả năng cảm nhận và chia sẻ cảm xúc của người khác. Một số người tin rằng sự đồng cảm liên quan đến khả năng phù hợp với cảm xúc của người khác, trong khi những người khác tin rằng sự đồng cảm liên quan đến việc tỏ thái độ yêu thương đối với người khác.
Ông Hội sinh năm 1963, tuổi Quý Mão, từng là kỹ sư chế tạo mãy của Trường ĐH Nông nghiệp 1 Hà Nội, là con ông Vũ Quang Huy. Công ty TNHH Sản xuất kinh doanh Xuất nhập khẩu Bình Minh (Bitexco) thành lập tại Thái Bình bởi ông Huy với ngành nghề hoạt là dệt may, nước khoáng. Năm 2002, khi ông Hội cùng vợ đứng trên tầng thượng của Tòa nhà Chrysler ở Thành phố New York, một suy nghĩ hiện lên trong đầu: “Chrysler Building không phải là tòa nhà cao nhất, nhưng chưa bao giờ bị lu mờ hay lãng quên vì nó là niềm tự hào của người New York. Mình sẽ xây dựng một tòa tháp để người Việt Nam tự hào, như người New York có Chrysler Building, hay người Malaysia tự hào có tòa tháp đôi Petronas”. Ông Vũ Quang Hội hiện là chủ tịch Công ty TNHH SXKD XNK Bình minh (Bitexco), đồng chủ tịch HĐQT CTCP Xây lắp và Đầu tư Sông Đà. Tâm niệm về cuộc đời, ông Hội chia sẻ: “Tôi dạy các con tôi rằng, ai cũng đi một chuyến tàu cuộc đời và cũng xuống ga cuối cùng. Cuối cùng, anh để lại giá trị gì cho đời?”. Không như phần đông doanh nghiệp tư nhân lớn của Việt Nam, Bitexco đứng ngoài cơn bão chứng khoán một thập kỷ qua, trong khi cá nhân ông Vũ Quang Hội cũng vắng tên trong mọi danh sách người giàu. Ông chọn cho mình cách ứng xử khá bặt thiệp nhưng lặng lẽ, hầu như không xuất hiện trên báo chí, hầu như tránh xa mọi giải thưởng và danh hiệu… Nhưng, với những dự án đã và đang được triển khai, ông xứng đáng nhận được từ các doanh nhân khác sự ngưỡng mộ. Mới đây, tạp chí Forbes Việt Nam đã có bài viết về ông Vũ Quang Hội, trong đó Forbes đã gọi ông là một “người xây biểu tượng”. Trả lời Forbes, ông Hội cho biết quan điểm kinh doanh của mình là “lúc nghịch thì phải tính thuận, và lúc thuận thì phải tính nghịch”. “Lúc tình hình thuận lợi nhất, như thời điểm năm 2003 – 2007, nếu suy nghĩ rất lạc quan thì bay lên giời lúc nào không biết. Lúc đó thì lại phải bình tĩnh quản trị cho tốt, đó là tính nghịch. Còn lúc khó khăn thử thách thì cơ hội cũng nhiều. Chưa bao giờ nhiều cơ hội như hiện nay, nên không thể bỏ lỡ… Cơ hội chỉ dành cho những ngừoi biết quyết tâm làm” ông nói.
Vũ Quang Hội
Vũ Quang Hội, sinh năm 1963 tại làng Mẹo, Thái Phương, Hưng Hà, Thái Bình, là một doanh nhân Việt Nam. Ông là chủ tịch tập đoàn Bitexco, chủ đầu tư dự án Tòa nhà Bitexco Financial, tòa nhà cao thứ hai ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Tập đoàn Bitexco là một tập đoàn đa ngành hoạt động trong các lĩnh vực bất động sản, thủy điện, xây dựng, khai khoáng. Ông Vũ Quang Hội sinh năm 1963 tại làng Mẹo, tức làng Phương La, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống làm kinh doanh. Cha ông Hội, ông Vũ Quang Huy, bắt đầu với nghề dệt, rồi chuyển sang kinh doanh nước khoáng. Ông Huy chính là người khởi nghiệp và xây dựng thương hiệu nước khoáng Vital khá nổi tiếng của tỉnh Thái Bình. Ông Huy cũng thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Minh, tức tập đoàn Bitexco. Năm 70 tuổi, ông Huy về hưu và để lại công ty cho các con, trong đó ông Hội đóng vai trò chủ chốt. Năm 1984, 21 tuổi, ông Hội theo học ở Đại học Nông nghiệp 1, Hà Nội.
Tần số (tiếng Anh là Frequency) có nghĩa là số lần lặp lại của một hiện tượng trong một khoảng thời gian. Để tính tần số, đếm số lần xuất hiện của hiện tượng và chia cho khoảng thời gian đã chọn. Trong hệ đo lường quốc tế, đơn vị đo tần số Hz được đặt theo tên của nhà vật lý người Đức, Heinrich Rudolf Hertz. 1 Hz là tần số lặp lại của hiện tượng đúng bằng 1 lần trong mỗi giây:. Mạch và thiết bị thường được thiết kế hoạt động ở cả tần số cố định và biến đổi. Tần số được tính qua liên hệ với chu kỳ là thời gian giữa hai lần xuất hiện liên tiếp của hiện tượng. Tần số f bằng nghịch đảo chu kỳ T theo công thức:. Tần số là số lần quan sát thấy đỉnh sóng tại một điểm trong một khoảng thời gian nhất định. Tần số sóng âm trong âm nhạc được đặc trưng bởi các nốt nhạc. Khi sóng đi qua các môi trường khác nhau, vận tốc và bước sóng có thể thay đổi nhưng tần số không thay đổi. Đây là thông số kỹ thuật của các thiết bị điện tử có dạng màn hình như tần số quét tivi, smartphone, laptop, máy tính bảng…, dù là màn hình LCD hay LED. Tần số quét của màn hình là lượng khung hình có thể chạy trong 1 giây. Có thể bạn chưa biết, các đoạn phim được phát thông qua việc lật khung hình. Lượng khung hình được lật càng nhanh và càng nhiều thì chất lượng video càng tốt, các chuyển động trong video càng mượt mà. Ví dụ, các dải tần số quét màn hình như 60Hz, 120Hz, 144Hz… thì sẽ có số khung hình chạy lần lượt là 60, 120, 144…trên một giây. Âm thanh là một dạng năng lượng được cảm nhận thông qua sóng lan truyền trong không gian, dẫn đến thính giác của con người. Thông thường thì con người có thể nghe được âm thanh trong khoảng 20 – 20.000Hz. Tần số dưới 20Hz là hạ âm, con người có thể cảm nhận được mức tần số này nhưng không thể nghe được. Tần số trên 20.000Hz là siêu âm, chúng ta vẫn có thể cảm nhận được mức tần số này nhưng không thể nghe được. Trong hai trường hợp trên, chúng ta cần phải sử dụng đến máy đo tần số âm thanh để đo được tần số chính xác nhất. Tuy nhiên, trên thế giới có một số người có ngưỡng nghe cao hơn, nghe được âm thanh vượt qua ngưỡng thông thường, là do cơ địa, cấu tạo màng nhĩ đặc biệt của họ. Nhiều người cũng có sở thích nghe nhạc tần số cao để kích thích thần kinh, đạt được sự hưng phấn, giải phóng năng lượng tích cực và tăng động lực trong cuộc sống. Thông thường trên các thiết bị điện gia dụng như nồi cơm điện, tivi, tủ lạnh, bàn là, máy giặt, điều hòa… đều ghi thông số kỹ thuật là 220V – 60Hz hay 220V – 50Hz. Tần số điện Việt Nam là 50Hz, tức là trong khoảng thời gian là 1/50s thì dòng điện sẽ quay về trạng thái ban đầu hay trong 1 giây thì dòng điện sẽ được lặp lại khoảng 50 lần. Biên độ của dòng điện một chiều là một đường thẳng có cường độ không đổi theo thời gian và đi theo một hướng nhất định. Do đó, tần số của dòng điện một chiều có giá trị là 0. Biên độ của dòng điện xoay chiều là một hình sin di chuyển đối xứng gồm nửa chu kì dương và nửa chu kỳ âm. Do đó, tần số của dòng điện xoay chiều khác 0. Tại Việt Nam thường có 2 dạng tần số dòng điện chính là 50Hz và 60Hz. Trong đó, V là vận tốc sóng, f là tần số và λ là bước sóng. Công thức tần số sóng trong chân không giống với môi trường ngoài chân không. Tuy nhiên, trong môi trường chân không, vận tốc sóng không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác và bằng vận tốc ánh sáng. Trong đó, C là vận tốc ánh sáng, f là tần số và λ là bước sóng. Thời gian và tần số là hai đại lượng cần thiết để hoàn thành một dao động sóng và tỉ lệ nghịch với nhau. Trong đó, f là tần số, T là chu kỳ thời gian cần để hoàn thành một dao động. Trong đó, ω là tần số góc, f là tần số chuẩn, π là hằng số pi, có giá trị khoảng 3,14.
Tần số âm thanh
Tần số âm thanh (viết tắt: AF) hoặc tần số nghe được được đặc trưng là rung động tuần hoàn có tần số nghe được với người thường. Đơn vị SI của tần số âm thanh là hertz (Hz). Đây là tính chất của âm thanh mà chủ yếu quyết định cao độ. Quãng tần số nghe được tiêu chuẩn thường được chấp nhận là 20 đến 20,000 Hz, mặc dù quãng tần số mỗi người nghe được bị ảnh hưởng lớn bởi các yếu tố môi trường. Tần số dưới 20 Hz thường có thể được cảm thấy thay vì nghe thấy, cho là biên độ của rung động đủ lớn. Tần số trên 20.000 Hz đôi khi có thể được cảm thấy bởi người trẻ. Tần số cao là loại đầu tiên bị ảnh hưởng bởi khiếm thính do tuổi già và/hoặc phơi nhiễm tiếng ồn lớn lâu dài.
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế được vận hành dựa trên mối quan hệ giữa người mua và người bán theo quy luật cung cầu, để xác định giá cả thông qua giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ sẵn sàng giao dịch trên thị trường. Để hiểu rõ hơn quy luật cung cầu bạn có thể xem qua bài viết: Cung cầu là gì? Quy luật cung cầu và giá cả thị trường, tiền tệ. Kinh tế thị trường đã có mầm móng trong xã hội nô lệ, hinh thành trong xã hội phong kiến và phát triển mạnh mẽ trong xã hội tư bản chu nghĩa. Như vậy, nền kinh tế thị trường ra đời ở thời điểm có sự xuất hiện trao đổi hàng hóa trên thị trường và phát triển mạnh mẽ nhất ở thời kỳ kinh tế hoạt động chủ yếu dựa vào việc phân bổ các nguồn lực. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường bằng luật pháp, tạo ra các điều kiện tốt nhất cho thị trường hoạt động, điều tiết toàn bộ nền kinh tế bằng các công cụ kinh tế hợp pháp và khắc phục những thất bại của thị trường. Hàng hóa, lao động, dịch vụ phải được tự do trao đổi trên thị trường, các công cụ điều tiết thụ trường như tỷ giá ngoại tệ, tiền lương, giá cả, lãi suất ngần hàng…phải được hình thành trên cơ sở thị trường. Cá nhân, doanh nghiệp tham gia vào hoạt động của thị trường dưới sự điều tiết của quy luật kinh tế thị trường như cung cầu, giá cả và cạnh tranh. Thị trường hoạt động phải đảm bảo bình đẳng và tự chủ của các thành phần kinh tế tham gia thị trường, quyền lợi như nhau trong việc tham gia, rút khỏi, tự do kinh doanh. Thị trường là cơ sở cho việc phân bố hiệu quả các nguồn lực kinh tế, khác biệ hẳn với nền kinh tế hiến vật hay kế hoạch hóa tập trung. Trong đó 2 mô hình kinh tế thị trường tư bản và định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhận được sự quan tâm nhiều nhất. Chính vì vậy, Top Kinh Doanh sẽ tập trung giải thích 2 khái niệm cho bạn dễ hiểu nhất. Kinh tế thị trường tư bản là mô hình dựa trên sở hữu của tư nhân với tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất với mục đích chính gắn liền với lợi nhuận. Thị trường tư bản được vận hành được quyết định bởi người sở hữu tài sản, tư liệu sản xuất hoặc khả năng tạo ra thị trường tài chính. Trong đó, giá cả của sản phẩm và dịch vụ được quyết định bởi sự cạnh tranh trong thị trường. Đại hội XIII của Đảng (2021) xác định: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế được vận hành dựa trên mối quan hệ giữa người mua và người bán theo quy luật cung cầu, để xác định giá cả thông qua giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ sẵn sàng giao dịch trên thị trường. Những mô hình kinh tế thị trường phổ biến hiện nay: xã hội, tự do, tư bản nhà nước, xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lưu tên, email và trang web của tôi trong trình duyệt này cho lần tiếp theo tôi nhận xét.
Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là hệ thống kinh tế và mô hình phát triển kinh tế thuộc lý luận Đặng Tiểu Bình được sử dụng tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Hệ thống này dựa trên sự chiếm ưu thế của sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Thuật ngữ "kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa" được Giang Trạch Dân đưa ra trong Đại hội toàn quốc lần thứ 14 của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1992 để mô tả mục tiêu cải cách kinh tế của Trung Quốc. Bắt nguồn từ các cải cách kinh tế Trung Quốc khởi xướng năm 1978 đã đưa Trung Quốc vào nền kinh tế thị trường toàn cầu, nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đại diện cho giai đoạn sơ bộ hoặc "giai đoạn chính" của phát triển chủ nghĩa xã hội. Mặc dù vậy, nhiều nhà bình luận phương Tây đã mô tả hệ thống này là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Cải cách kinh tế đối với nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa được củng cố bởi khuôn khổ Marxism của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Có thể hiểu nôm na là bản lề có hình dáng giống chữ A, nhưng thực tế nó còn có tên gọi khác là bản lề ma sát. Nó được làm bằng inox 304 không rỉ với mọi điều kiện khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu. Nó có thể quay được 1 góc bằng 90 độ. Sở dĩ nó có tên gọi là bản lề ma sát vì khi thời tiết xấu như gió , bão chẳng hạn, cánh cửa sẽ va đập vào nhau, lúc đó sự chuyển động ma sát của bản lề sẽ giúp cánh cửa hạn chế được các va đập xảy ra, từ đó giúp cửa không bị hỏng hóc, xây xước. Bản lề chữ A có thể chịu được tải trọng dao động trong khoảng 25-40 kg. Đối với những loại cửa nặng hơn thì cần sử dụng thêm thanh hãm cửa là được. Thường sẽ lắp đặt bản lề ở phía trên cửa hoặc ở 2 bên cánh cửa. Ngoài ra nó còn nhiều bản mở rộng khác như 22 mm, 18 mm, 23,5 mm, 18,5 mm….Còn tùy vào chiều dài cũng như hệ của nhà sản xuất mà chọn loại bản lề cửa cao cấp có khả năng chịu lực tương đương với kích cỡ của cửa. Bản lề chữ A thường được dùng để lắp đặt cho các loại cửa như cửa thông gió, cửa sổ loại nhỏ hay cửa thoát hơi nhà bếp. Giúp người dùng có thể lau chùi, vệ sinh dễ dàng phần nhôm kính cả trong lẫn ngoài kể cả ở các tòa nhà chung cư trên cao. Đối với phụ kiện thì có thể sử dụng chổi lông để làm sạch. Một số loại cửa sổ hất ví dụ như cửa trong nhà vệ sinh hay cửa thông gió hoặc một số loại cửa quay thì bắt buộc phải dùng bản lề chữ A thì mới có thể hất lên được. Nhiều người hiện nay khá chủ quan khi chỉ nghĩ đơn giản mua chiếc bản lề xong chia 2 hoặc 3 vị trí rồi gắn lên cửa là xong. Nhưng thực sự thì việc đó không hề đảm bảo tính bền lâu chút nào. Bài viết dưới đây sẽ lưu ý cho bạn những điều đó. Khi bán bản lề cửa thì bên trong thường sẽ có bộ ốc vít đi kèm. Bộ ốc vít này đã được tính toán sao cho cực kỳ chuẩn, chính xác đến từng mm độ dài, độ lớn hay từng răng cưa một, kể cả sức chịu lực nữa nên bạn chỉ nên sử dụng bộ ốc có sẵn chứ không nên mua khác loại ở ngoài tránh trường hợp khó gắn lại vào bản lề. Bản lề cách đầu cánh cửa từ 10-12 cm là cánh cửa đầu tiên có mô men quay theo phương thẳng sẽ phải chịu lực lớn nhất. Khi lắp cánh cửa thì phải căn cả vị trí của bản lề sao cho phù hợp với chiều cao của lối ra vào. Không được khít quá mà cũng không được hở quá. Nếu sát quá thì sẽ cọ xuống sàn nhà gây xước nhà, còn nếu như hở nhiều quá thì sẽ bị thoát nhiều khí điều hòa ( vào mùa hè ) hoặc để cho muỗi, ruồi, côn trùng chui vào…Tốt nhất nên kê cửa cách sàn tối đa là 5 mm là tốt nhất, tối thiểu là 3 mm. Trước khi mua bạn nên tìm hiểu kỹ thông tin về bản lề như: khả năng chịu lực, được làm bằng gì, khi kết hợp với cánh cửa nói riêng và công trình xung quanh của mình nói chung thì có phù hợp hay không. Một lưu ý nhỏ nữa là tùy theo loại công trình mà bản lề có thể chịu được lửa trong vòng bao lâu ( trong trường hợp hỏa hoạn ). Vì vậy cần phải chọn và gắn đúng loại bản lề vào từng khu vực thích hợp như : cửa chống cháy, phòng làm việc của nhân viên văn phòng, cửa thoát hiểm…. Kể cả khi bản lề phù hợp với công trình của mình thì cũng không nên chủ quan phủ PU hay sơn đè lên cả bản lề mà bạn hãy phủ một lớp báo lên bản lề để đảm bảo được vẻ đẹp nguyên bản của nó cũng như chất lượng bền lâu theo năm tháng. Nếu như phải gắn quá nhiều bản lề trên cửa ( cửa quá rộng, to ) thì bạn nên chú ý làm như sau: Bản lề đầu tiên cách bản lề thứ 3 khoảng tầm từ 10-12 cm, bản lề đầu tiên và bản lề phía dưới đáy cách cuối và đầu cánh với một khoảng cách tương tự. Số bản lề còn lại thì cân giữa bản lề dưới đáy và bản lề thứ 3. Sau một thời gian sử dụng thì cửa sẽ rất nhanh ma sát xuống dưới mặt sàn nhà, làm xước sàn và phát ra âm thanh lớn là do không có bạc đạn đi kèm và do 2 trục tròn tác động trực tiếp vào nhau nên bạn cũng phải hết sức lưu ý điều này. Khóa cửa Thành Đạt chuyên cung cấp khóa cửa đại sảnh, khóa cửa nắm đấm, khóa tròn gạt, khóa phân thể, khóa cửa nẹp, thân khóa cửa, ruột khóa cửa, bản lề, chốt cửa, v.v. giá tốt, giao hàng tận nơi tại TP. Hồ Chí Minh, nhận phân phối cho các đại lý, dự án lớn.
Bản lề
Bản lề là một loại dụng cụ kỹ thuật được thiết kế, cấu tạo để làm cầu nối cố định các cánh cửa hay cửa sổ hoặc các đối tượng rắn khác, bản lề thường cho phép chỉ là một góc hạn chế luân phiên giữa chúng (góc cố định) góc còn lại có thể lưu động. Hai đối tượng kết nối bởi một bản lề xoay tương đối so với nhau bởi một trục quay cố định. Bản lề có thể được làm bằng vật liệu đa dạng nhưng ngày nay người ta thường dùng sắt, thép, nhôm và đặc biệt là thép không gỉ. Trong sinh học, các khớp rất nhiều chức năng như bản lề. Ngày nay, thuật ngữ này được sử dụng theo nghĩa rộng như năm bản lề có nghĩa là năm then chốt bắt đầu cho những năm tiếp theo, hay có tính chất bản lề đề cập đến một sự kiện, công việc làm điểm tựa, quan trọng, mấu chốt cho những hoạt động hoặc khả năng tiếp theo. Có rất nhiều loại bản lề cửa như bản lề trụ, bản lề lá, ngoài ra còn có các bản lề nối cánh cửa và tủ với nhau.
Baccarat – một game bài không còn xa lạ với với những người tham gia chơi tại các sòng bài. Với luật chơi đơn giản, tỷ lệ cược cao, Baccarat trở thành trò chơi được ưa thích nhất hiện nay. Baccarat hay còn được biết tới với tên gọi khác là bài cào quốc tế hay bách gia lạc. Đây là một game bài được chơi phổ biến trên thế giới. Baccarat sử dụng bộ bài 52 lá (không bao gồm 2 quân bài có hình chú hề). Trong đó, cách tính điểm sẽ dựa vào giá trị của lá bài. Chẳng hạn, quân Át sẽ được quy đổi thành 1 điểm, heo là 2 điểm,… Tuy nhiên, từ quân bài 10 cho đến những lá hình sẽ được tính là 0 điểm. Đây là game bài mang tính chất đối kháng cao. Tức người sở hữu trên tay lá bài có giá trị càng lớn thì cơ hội win sẽ càng cao. Ưu điểm của trò chơi này so với những game bài khác là cho phép người chơi đặt cược. Vì thế nên được nhiều người đánh giá cao về tính công bằng. Baccarat có nguồn gốc từ Italia, thuật ngữ này chính thức du nhập trên thế giới từ thế kỷ thứ 15 tại Pháp. Sau đó phổ biến tại Anh vào thế kỷ 19. Theo từ điển Italia, Baccarat có nghĩa là số 0. Bởi trong trò chơi này, tất cả các chất bài có giá trị từ 10, ri, chuồn, già đều được tính là 0 điểm. Ban đầu, Baccarat trở thành trò chơi giải trí cho những người thuộc tầng lớp quý tộc. Nhưng thời gian sau, nó đã trở lên phổ biến và phát triển ra công chúng. Có rất nhiều câu chuyện được nhắc đến xoay quanh sự ra đời của trò chơi này. Nhưng có lẽ truyền thuyết sẽ được kể ngay sau đây là được lưu truyền nhiều nhất. Nhiều người kể rằng, Baccarat được sáng tạo bởi tay chơi cờ bạc tại Ý. Tên của anh ta là Falguiere. Thuở ban đầu, Baccarat sử dụng lá bài tarot, vì thế cách chơi cũng sẽ sự khác biệt đôi chút với luật chơi Baccarat hiện giờ. 9 vị thần trong tôn giáo cổ đại Etruscan cầu nguyện và hy vọng nữ thần tóc vàng ném ra một con xúc xắc 9 mặt. Nếu số điểm dưới 6, nữ thần sẽ phải xuống biển. Nếu từ 6 – 7 điểm, nữ thần sẽ bị giam cầm không được tham gia bất kỳ hoạt động tôn giáo nào. Nếu từ 8 đến 9 điểm, nữ thần sẽ hóa thành nữ tu sĩ. Các nhà nghiên cứu sử học cho rằng, trò chơi cờ bạc baccarat bắt nguồn từ thời Trung Cổ tại Sicily – Ý. Sau đó phổ biến tại Pháp và được giới quý tộc rất tôn sùng. Tiếp đó là lan sang Mỹ, luật cũng dần dần được hoàn thiện. Và cuối cùng, Baccarat đã được công dân trên toàn thế giới công nhận, được chơi trên mọi sòng bài. Hầu hết các sòng bài trên đất Ma Cao đều có sự xuất hiện của game bài này, đồng thời cũng thu hút được số lượng người chơi rất lớn. Baccarat được phát triển ra rất nhiều phiên bản. Dưới đây là một số phiên bản Baccarat online mà bạn có thể chơi trên điện thoại:. Đây là một trò chơi được phát triển từ Baccarat và được chơi trực tuyến nhiều nhất. Trò chơi này mang tính chất may rủi rất cao. Người chơi sẽ thực hiện rút 2 lá bài trong bộ bài đã được nhà cái xáo trộn. Nếu thẻ bài của bạn tổng là 2 giá trị, thì số đầu tiên sẽ bị loại bỏ. Chẳng hạn, nếu tổng quan bài của bạn là 17, thì điểm thực tế của bạn là 7. Nếu tất cả người chơi và nhà cái đều có có tổng giá trị các quân bài bằng 8 hoặc 9, thì sẽ tiếp tục rút tiếp lá bài thứ 3. Game bài này cũng có luật chơi tương tự như Punto Banco, nhưng có đôi chút thay đổi. Đó chính là sự khác nhau về tỷ lệ đặt cược (luật chơi, cách chơi hoàn toàn tương đồng). Người chơi và nhà cái sẽ nhận tỷ lệ thanh toán là 1:1. Do đó, EZ Baccarat được đánh giá là game bài khá công bằng. Đây là game bài Baccarat phổ biến ở Pháp. Nhiều người cho rằng, Chemin De Fer là phiên bản gốc, sau đó được phát triển thành game Punto Banco. Các thẻ bài sẽ được giữ trong hộp sắt, đúng như tên gọi của là “đường sắt” (được dịch theo tiếng Pháp), người chơi sẽ đặt cược với nhau, nhà cái sẽ là người thu tỷ lệ cược. Đây là một phiên bản Baccarat dành cho những người chơi không phải cược tiền cao. Trong sòng bài, Mini Baccarat được chơi tại những bàn thông thường, không có sự hoàng nhoáng và luật chơi rườm rà. Quy tắc chơi giống hệ như Punto Blanco nên rất dễ để bạn chơi và tham gia. Hẳn bạn không còn xa lạ với game ba cào Việt Nam. Thoạt nhìn, có thể thấy baccarat và ba cào Việt Nam có nhiều điểm tương đồng. Cả 2 game bài này đều tính tổng giá trị của lá bài, ai có tổng điểm cao hơn là người chiến thắng. Cách tính điểm của baccarat và ba cào cũng giống nhau: 9 là tổng điểm cao nhất và 0 là điểm thấp nhất. Tuy nhiên, nếu bạn đã chơi thử qua 2 game bài này chắc chắn sẽ nhận ra sự khác biệt. Đều là game bài mang tính chất đối kháng, giữa cửa của người chơi và cửa của nhà cái. Natural: Có nghĩa là thắng tự nhiên. Bạn sẽ là người chiến thắng khi sở hữu trong tay 2 lá bài đầu tiên có tổng giá trị là 8 hoặc 9. Vì vậy, lá bài thứ 3 không cần quy ước điểm nữa. Player: Thuật ngữ này được quy ước là cửa của người chơi. Nếu cửa này mà thắng sẽ nhận được tiền thưởng theo tỷ lệ 1:1 và không phải chia tiền hoa hồng dành cho nhà cái. Banker: Là cửa của nhà cái. Nếu đặt cược cửa này, bạn thắng sẽ phải trích 5% tiền thưởng cho nhà cái. Người chơi đặt cược cửa này chỉ thắng khi 2 cửa có số điểm ngang bằng nhau. Tỷ lệ tiền thưởng thu được sẽ tùy vào từng nhà cái, nhưng sẽ dao động từ 8 – 9 lần so với tiền cược. Nếu khoảng cách điểm giữa 2 cửa là 4 thì bạn sẽ thắng, và nhận được tỷ lệ tiền thường là 1.5:1. Big: Đây cũng là một dạng cửa khoảng cách giữa 2 cửa. Nhưng điểm khoảng cách sẽ là 5 hoặc 6. Tỷ lệ tiền thưởng là 0.54:1. Perfect Pair: Đây là thuật ngữ chỉ người chơi đặt cược 2 cửa. Nếu thắng thì sẽ 1 trong 2 cửa sẽ xuất hiện đôi. Với tỷ lệ tiền thưởng là 25:1. Nếu chơi dạng này, người chơi chỉ cần đặt cược 1 trong 2 cửa. Nếu cửa được chọn xuất hiện đôi thì sẽ thắng. Tỷ lệ tiền thường là 5:1. Banker Pair: Đây là thuật ngữ chỉ người chơi đặt cửa nhà cái. Nếu cửa đó xuất hiện đôi sẽ thắng. Tỷ lệ tiền thưởng là 11:1. Ngoài ra, còn một số cửa phụ như side bet. Người chơi sẽ chỉ được đặt 1 cửa trong số đó!. Sau khi tất cả các thành viên tham gia đã hoàn thành phần đặt cược, việc chia bài sẽ được diễn ra. Dù có bao nhiêu người tham gia đặt cược thì bộ bài cũng chỉ chia cho Player và Banker. Mỗi bên sẽ được phát 2 lá bài trước tiên. Sẽ tùy thuộc vào tính huống mà người chơi và banker sẽ được giữ nguyên kết quả 2 lá bài ban đầu hoặc chia thêm 1 lá bài thứ 3. Trên thực tế sẽ có 3 trường hợp sau đây:. Nếu một trong 2 bên có tổng điểm 2 lá bài đạt được là 8 hoặc 9 thì sẽ được coi là “thắng tự nhiên”. Điều này đồng nghĩa với việc lá bài thứ 3 sẽ không cần phải rút nữa. Nếu trong số người chơi có tổng điểm là 6 hoặc 7 thì sẽ phân định thắng thua bằng cách tính điểm cao thấp. Và không rút thêm lá thứ 3 nữa. Trường hợp điểm thấp hơn sẽ được rút thêm lá thứ 3 để tính điểm. Sẽ dừng không rút thêm lá thứ 3 khi có tổng giá trị các quân bài là 7. Ngược lại, phải rút thêm lá thứ 3 khi có tổng điểm là 0, 1, 2. Trường hợp người chơi có tổng là 6 hoặc 7 thì nhà cái sẽ rút thêm lá thứ 3 nếu có tổng giá trị quân bài là dưới 5. Các lá bài còn lại sẽ được tính tương đương với giá trị của quân bài. Chẳng hạn như lá 5 sẽ tính là 5 điểm. Trường hợp tổng 3 cây lớn hơn 10. Số điểm cuối cùng sẽ được lấy là con số đằng sau số 1. Trong trò chơi này, điểm số tối đa mà người chơi có thể đạt được sẽ là chính 9 điểm nên nếu số điểm trên tay bạn là 10 hoặc hơn thì bạn sẽ phải tự mình trử đi. Cũng tương tự như các game bài khác, Baccarat sẽ có 3 trường hợp xảy ra: Đó là người chơi thắng, nhà cái thắng và kết quả hòa. Tỷ lệ đổi thưởng tương ứng với các cửa như sau:. Nếu bạn đặt cược vào Player: Nếu người chơi thắng sẽ được nhận thưởng đúng bằng số tiền đặt cược. Nếu bạn đặt cược vào cửa Banker: Nếu nhà cái thắng, bạn sẽ nhận được tiền thưởng đúng bằng số tiền đặt cược. Tuy nhiên sẽ phải trích 5% chia cho nhà cái. Nếu người chơi và nhà cái có kết quả hòa, tức bằng điểm nhau: Trước đó, nếu bạn đặt cửa “hòa” thì sẽ chiến thắng và nhận được số tiền thưởng gấp 8 lần tiền đặt cược. Pair: Nếu đặt cửa Pair mà trong 2 lá bài đã chiến thắng thì bạn sẽ nhận được tiền thưởng gấp 11 lần số tiền đã đặt cược. Khi mới bắt đầu làm quen với Baccarat, chắc hẳn bạn sẽ có nhiều thắc mắc về trò chơi này. Vì thế, chúng tôi đã tổng hợp cho bạn những câu hỏi & trả lời ngay sau đây:. Không phải mọi ván theo cửa nhà cái cũng sẽ thắng. Tuy nhiên, xác xuất trong toán học đã chứng minh, nếu theo nhà cái thì tỷ lệ thắng sẽ cao hơn là 45.85% so với mức 44.62% nếu đặt cược cho người chơi. Mức đặt cược trong bàn baccarat là khoảng 10.000 VND (Tuy nhiên điều này sẽ thay đổi tuỳ theo nhà cái mà bạn tham gia). Nếu tham gia chơi trong bàn VIP, số tiền cược sẽ lên tới 25.000 VND , thậm chí là 50.000 VND. Bạn là người thắng cuộc khi cược đúng vào bên có điểm gần hơn với 9 hoặc cả 2 bên bằng điểm dẫn tới kết quả hòa. Trò chơi này có độ may rủi khá cao nên ai cũng có thể chơi được. Thời gian chơi tối đa là 30 phút. Khi chơi, giữ tinh thần thoải mái, tỉnh táo. 1 bàn chơi baccarat thường có 80 đến 100 bán. Bạn không nhất thiết phải đặt cược ở mọi ván. Nếu chắc chắn ở ván nào thì đặt ván đấy. Ngoài ra bạn còn có thể tham khảo các thế bài và tâm pháp khi chơi Baccarat được chia sẻ từ các người chơi game bài chuyên nghiệp. Nếu bạn đã đọc kỹ những thông tin có trong phần trên của bài chia sẻ chắc cũng sẽ biết được câu trả lời của câu hỏi này. Về cơ bản, Baccarat có rất nhiều vị trí để đặt cược. Tuy nhiên, 3 vị trí dưới đây sẽ được nhiều người đặt cược hơn cả. Đó là cửa nhà cái, cửa người chơi và cửa hòa. Tỷ lệ đổi thưởng tương ứng với các cửa cũng sẽ khác nhau. Trong Baccarat, việc đếm bài để thắng dường như là chuyện không thể. Trò chơi này sẽ trộn các lá bài trong nhiều bộ 52 lá với nhau lên kết quả sẽ dựa trên quy luật xác suất thống kê. Sau khi đã xáo trộn bộ bài, Dealer sẽ lấy ra 6 lá. Do đó, kết quả tính toán xảy ra khi bốc bài có thể lên đến hàng triệu. Bởi vậy, nếu bạn có ý định đếm bài để chiến thắng game này thì hãy dẹp ngay! Bởi đó là điều bất khả thi. 🧡 Các cặp lô hay về cùng nhau 💛 6 Cặp số phổ biến nhất hay đi cùng 1.6k views
Baccarat (trò chơi bài)
Baccarat hay baccara (; tiếng Pháp: ) là một trò chơi bài chơi tại Casino. Baccarat là cách phát âm tiếng Pháp của Người Ý cho từ "Số 0". Đây là một trò chơi so sánh điểm số giữa hai cửa "người chơi" và "nhà cái". Mỗi vòng chơi có ba kết quả có thể xảy ra: "người chơi" (người chơi có số điểm cao hơn), "nhà cái" và "hòa". Có ba biến thể phổ biến của trò chơi: Người chơi - Nhà cái (hoặc "baccarat Bắc Mỹ"), baccarat chemin de fer (hoặc "chemmy"), và baccarat banque (hoặc à deux tableaux). Nguồn gốc của trò chơi đang bị tranh cãi, và một số nguồn tin cho rằng nó có từ Thế kỷ 19. Các nguồn khác cho rằng trò chơi được đưa vào Pháp từ Ý vào cuối thế kỷ 15 bởi những người lính trở về từ Các cuộc chiến tranh Ý dưới triều đại của Charles VIII của Pháp. Baccarat đã được phổ biến trong giới quý tộc Pháp từ thế kỷ 19. Trong thời kỳ Napoléon và trước khi hợp pháp hóa cờ bạc sòng bạc vào năm 1907, người dân ở Pháp thường chơi Baccarat trong các phòng chơi tư nhân.
Chỉ còn vài ngày nữa, bom tấn được mong đợi nhất nửa đầu năm nay – Godzilla vs. Kong (Godzilla Đại Chiến Kong) sẽ chính thức ra mắt. Bên cạnh 2 siêu quái của vũ trụ quái vật – trung tâm của cuộc đại chiến, phim còn quy tụ dàn diễn viên toàn sao đã được công nhận với cả những giải thưởng danh giá. Alexander Skarsgard sở hữu diễn xuất ổn định, đa dạng và đặc biệt là tinh thần không ngại thử thách với những dạng vai khác biệt, Skarsgard luôn nằm trong top những diễn viên được săn đón nhất tại Hollywood. Với gương mặt điển trai cùng ánh mắt hút hồn, Skarsgard từng 5 lần được bình chọn là Người đàn ông sexy nhất Thụy Điển. Trong suốt sự nghiệp của mình, anh đã mang về những giải thưởng cao quý tại Emmy, Quả Cầu Vàng hay Nghiệp đoàn Diễn viên màn ảnh (SAG). Trong Godzilla Đại Chiến Kong, Skarsgard sẽ vào vai Nathan – cựu nhân viên của Monarch, người mà anh mô tả là “rất thú vị khi vào vai, vì anh chàng này không phải kiểu người cứng rắn hay một cựu quân nhân liều mạng mà khán giả mong chờ trong những tình huống nguy hiểm. Anh ta thông minh, nhận thức được các nguy cơ một cách tinh tường nhưng cũng luôn tràn trề động lực.”. Cô là một diễn viên, nhà biên kịch và đạo diễn tài năng với đề cử giải Lựa chọn của Ban giám khảo tại Liên hoan phim Sundance cho bộ phim Passing. Vai diễn Tiến sĩ Andrews của Rebecca Hall có mối liên kết đặc biệt với cả Kong và Jia – cô bé khiếm thính có khả năng giao tiếp với Kong. Hall chia sẻ: “Vai diễn của tôi có liên kết với cả Kong và Jia. Một mặt, ôi giống như người mẹ với Jia, một mặt lại giống như một nhà nghiên cứu kiểu Jane Goodall.” Là một nhà nghiên cứu thuộc Monarch, Tiến sĩ Andrews có những hiểu biết sâu sắc về cả Kong và Godzilla. Bên cạnh việc từng xuất hiện trong các tựa phim đình đám thuộc vũ trụ quái vật Monsterverse, Millie Bobby Brown cũng là một sao trẻ tiềm năng của Hollywood khi từng góp mặt trong nhiều tác phẩm nổi bật như Stranger Things. Không chỉ tích cực hoạt động trong giới phim ảnh, Brown còn sở hữu dòng sản phẩm trang điểm và chăm sóc da được điều chế hoàn toàn từ thực vật – florence by mills. Thương hiệu của Brown nhanh chóng lọt top một trong những thương hiệu mỹ phẩm được chị em phụ nữ tin dùng bậc nhất và còn giành giải thưởng Màn ra mắt của năm tại Giải thưởng Women’s Wear Daily’s Beauty Inc. Bản thân Brown cũng là Đại sứ thiện chí trẻ nhất của Tổ chức Y tế Thế giới. Trong Godzilla Đại Chiến Kong, cô bé Madison gan dạ sẽ bước vào một hành trình nguy hiểm để khai phá những bí mật về Godzilla, mặc sự can ngăn của cha – tiến sĩ Mark Russell (Kyle Chandler). Cùng đồng hành với cô bé Madison, không thể bỏ qua anh chàng bảo vệ hài hước nhưng nắm giữ hàng loạt bí mật về các titan – Bernie Hayes, do Brian Tyree Henry thể hiện. Brian là diễn viên với profile khá “khủng” khi anh góp mặt trong hàng loạt phim điện ảnh, loạt phim truyền hình hay thậm chí là cả các vở nhạc kịch trên sân khấu của Broadway. Nhận bằng MFA của Trường kịch nghệ thuộc Đại học Yale, Brian thể hiện khả năng diễn xuất nhạy bén và đa dạng của mình. Một số tác phẩm nổi bật nhất Brian đã, đang và sẽ góp mặt là Atlanta, Hotel Artemis hay The Eternals. Godzilla Đại Chiến Kong còn có sự xuất hiện đặc biệt của mỹ nam Nhật Bản Shun Oguri trong vai Ren Serizawa – con trai của tiến sĩ Serizawa từng xuất hiện trong những phần phim trước của vũ trụ quái vật. Shun Oguri từ lâu đã là cái tên quen thuộc với khán giả Việt Nam khi anh góp mặt trong hàng loạt bộ phim nổi tiếng. Sau đó, anh liên tục tham gia những bộ phim nổi tiếng khác, đặc biệt phải kể đến Hana Kimi và Rich Man, Poor Woman (Chàng Giàu, Nàng Nghèo). Trong lĩnh vực điện ảnh, anh rất thành công với Crows Zero hay series Gintama. Hiện tại, vai diễn Ren Serizawa của Oguri Shun vẫn là một ẩn số đối với phần phim này. Ren thuộc phe thiện hay phe ác, hay sẽ có ảnh hưởng thế nào với màn combat của hai siêu quái?. Godzilla Đại Chiến Kong khởi chiếu từ ngày 26/03/2021 trên toàn quốc với các định dạng 2D, IMAX 2D và có suất chiếu đặc biệt nguyên ngày 25/03/2021.
Godzilla đại chiến Kong
Godzilla đại chiến Kong (tên gốc tiếng Anh: Godzilla vs. Kong) là phim điện ảnh quái vật của Mỹ năm 2021 do Adam Wingard đạo diễn. Đây là phần tiếp theo của Chúa tể Godzilla (2019) và Kong: Đảo Đầu lâu (2017), đồng thời cũng là phim điện ảnh thứ tư trong vũ trụ điện ảnh MonsterVerse của hãng Legendary. Godzilla đại chiến Kong cũng là phim điện ảnh thứ thứ 36 trong loạt phim Godzilla, phim điện ảnh thứ 12 trong loạt phim King Kong và phim điện ảnh thứ tư về quái vật Godzilla do một hãng phim Hollywood chịu trách nhiệm sản xuất. Phim có sự tham gia diễn xuất của Alexander Skarsgård, Millie Bobby Brown, Rebecca Hall, Brian Tyree Henry, Shun Oguri, Eiza González, Julian Dennison, Kyle Chandler và Demián Bichir. Trong tác phẩm, hai quái vật Kong và Godzilla đã đụng độ nhau sau khi Kong bị con người dụ tiến vào Trái Đất rỗng để tìm kiếm nguồn năng lượng làm vũ khí ngăn chặn những cơn thịnh nộ bí ẩn của Godzilla. Dự án Godzilla đại chiến Kong được xác nhận vào tháng 10 năm 2015 khi hãng Legendary công bố kế hoạch về một vũ trụ điện ảnh chung giữa Godzilla và King Kong.
Từ phân tử, nguyên tử.đến hạt nhân , nuclon, con người ngày càng đi sâu vào cấu tạo bên trong của vật chất. Trong quá trình nghiên cứu khoa học đã chứng minh được rằng: hạt sơ cấp là những hạt vật chất được xem là nhỏ nhất góp phần quan trọng cấu tạo nên vũ trụ. Vậy hạt sơ cấp là gì ? Hạt sơ cấp có những tính chất và được phân loại như thế nào? Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu ở bài học ngày hôm nay: Bài 40- Các hạt sơ cấp. Hạt sơ cấp (hạt vi mô, hay vi hạt) là những hạt có kích thước vào cỡ kích thước hạt nhân trở xuống. Để tạo nên các hạt sơ cấp mới, người ta sử dụng các máy gia tốc làm tăng vận tốc của một số hạt và cho chúng bắn vào các hạt khác. Một số ít hạt sơ cấp là bền, còn đa số là không bền, chúng tự phân huỷ và biến thành hạt sơ cấp khác. Phản hạt của một hạt sơ cấp có cùng khối lượng nhưng điện tích trái dấu và cùng giá trị tuyệt đối. Trường hợp hạt sơ cấp không mang điện như nơtrôn thì thực nghiệm chứng tỏ nơtrôn vẫn có momen từ khác không → phản hạt của nó có momen từ ngược hướng và cùng độ lớn. Là tương tác giữa phôtôn và các hạt mang điện và giữa các hạt mang điện với nhau. Các em có thể hệ thống lại nội dung kiến thức đã học được thông qua bài kiểm tra Trắc nghiệm Vật lý 12 Bài 40 cực hay có đáp án và lời giải chi tiết. Các em có thể xem thêm phần hướng dẫn Giải bài tập Vật lý 12 Bài 40 để giúp các em nắm vững bài học và các phương pháp giải bài tập.
Hạt sơ cấp
Hạt sơ cấp (tiếng Anh: elementary particle) hay còn gọi là hạt cơ bản, là các hạt hạ nguyên tử không có các cấu trúc phụ, không được cấu tạo từ những hạt khác. Vì thế hạt sơ cấp được coi là tồn tại như một hạt nguyên vẹn, đồng nhất, không thể tách thành các phần nhỏ hơn. Cho đến thời điểm hiện tại các hạt được cho là sơ cấp bao gồm: Các loại "hạt vật chất" và "hạt phản vật chất" thuộc họ fermion (quark, lepton, phản quark và phản lepton), "các hạt lực" làm trung gian tương tác giữa các hạt fermion thuộc họ hạt boson (gauge bosons và Higgs boson). Một hạt chứa hai hoặc nhiều hạt cơ bản là một hạt tổng hợp. Vật chất chúng ta tiếp xúc hàng ngày bao gồm các nguyên tử, từng được coi là hạt sơ cấp, có nghĩa là "không thể bị chia nhỏ" trong tiếng Hy Lạp mặc dù sự tồn tại của nguyên tử vẫn còn gây tranh cãi cho đến khoảng năm 1910, vì một số nhà vật lý hàng đầu coi các phân tử là ảo ảnh toán học, và cuối cùng là năng lượng của vật chất.
Với khẩu hiệu “Điện ảnh - Hội nhập và phát triển bền vững”, Liên hoan Phim quốc tế Hà Nội lần thứ V nhằm vinh danh các tác phẩm điện ảnh xuất sắc, có giá trị nghệ thuật cao, giàu tính nhân văn, sáng tạo, khuyến khích những tài năng mới của điện ảnh. Các Chương trình phim Liên hoan Phim quốc tế Hà Nội lần thứ V gồm: Chương trình phim dự thi và Chương trình phim không dự thi. Các phim thuộc “Chương trình phim dự thi” được tuyển chọn từ các quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Để đảm bảo tính mới mẻ, hấp dẫn của tác phẩm Phim được tuyển chọn dự thi Liên hoan Phim quốc tế Hà Nội lần thứ V phải là phim chưa từng dự thi các LHP quốc tế tại châu Á. “Chương trình phim không dự thi” gồm: Chương trình toàn cảnh điện ảnh thế giới; Chương trình tiêu điểm điện ảnh quốc gia: “Điện ảnh Ba Lan”; Chương trình phim chọn lọc của điện ảnh Iran; Chương trình phim mới của Việt Nam; Chương trình Chiếu phim ngoài trời và giao lưu, biểu diễn thời trang. Nét mới của Liên hoan Phim quốc tế Hà Nội lần thứ V là sẽ có nhiều chương trình phim Việt Nam. Ngoài chương trình phim truyện mới giới thiệu những bộ phim mới ra rạp, sẽ có chương trình chiếu phim tài liệu, khoa học gồm hai chùm phim dài và phim ngắn và chương trình chiếu 2 chùm phim hoạt hình. Chương trình tiêu điểm điện ảnh quốc gia giới thiệu nền Điện ảnh Ba Lan và chương trình phim Iran với chùm phim của một số đạo diễn danh tiếng từng giành giải cao tại các LHP Cannes, Berlin, Oscar… và các bộ phim mới được tuyển chọn của nền điện ảnh này. Hai cuộc hội thảo và tọa đàm tại Liên hoan Phim quốc tế Hà Nội lần thứ V có hai chủ đề: “Tiêu điểm điện ảnh Ba Lan” và “Kinh nghiệm thành công quốc tế của Điện ảnh Iran” sẽ giúp các nghệ sĩ, nhà quản lý và công chúng hiểu thêm về các nền điện ảnh giàu bản sắc trên thế giới. Theo dự kiến, Liên hoan Phim quốc tế Hà Nội lần thứ V có khoảng 1200 đại biểu và khách mời, trong đó có khoảng 200 khách quốc tế. Cùng đó, các hoạt động khác diễn ra trong LHP như: chợ dự án làm phim, trại sáng tác Haniff, triển lãm “Bối cảnh quay phim đặc sắc tại Việt Nam” và các cuộc giao lưu, tham quan sẽ là dịp để công chúng thủ đô tham gia nhiều sự kiện, chương trình của LHP và thưởng thức các tác phẩm điện ảnh đặc sắc trên thế giới thông qua các buổi chiếu phim miễn phí. Dự kiến Lễ Khai mạc Liên hoan Phim vào 20h ngày 27/10/2018 và được truyền hình trực tiếp trên VTV2; Bế mạc Liên hoan Phim vào 20h ngày 31/10/2018 và được truyền hình trực tiếp trên VTV1. Lễ Khai mạc và Bế mạc của Liên hoan Phim quốc tế Hà Nội lần thứ V được tổ chức tại Cung Văn hóa Hữu nghị Việt Xô, 91 Trần Hưng Đạo, Hà Nội.
Liên hoan phim quốc tế Hà Nội
Liên hoan phim quốc tế Hà Nội (Tiếng Anh: Hanoi International Film Festival, viết tắt là HANIFF), tên cũ là Liên hoan phim quốc tế Việt Nam (Tiếng Anh: Vietnam International Film Festival, viết tắt là VNIFF) là một liên hoan phim lớn được tổ chức định kỳ 2 năm 1 lần tại Hà Nội, Việt Nam. Được thành lập vào năm 2010 bởi Cục Điện ảnh thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Sở Văn hóa - Thể thao thành phố Hà Nội thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội phối hợp tổ chức, đến nay, nó đã có 5 lần tổ chức. Liên hoan phim là sự kiện uy tín nhằm vinh danh các tác phẩm điện ảnh xuất sắc, có giá trị nghệ thuật cao, giàu tính nhân văn, sáng tạo, khuyến khích những tài năng mới của điện ảnh, qua đó góp phần phát huy tinh thần thân ái, hợp tác giữa các nhà làm phim, đại biểu, vì sự phát triển của điện ảnh đồng thời giới thiệu các tác phẩm đặc sắc của các nền điện ảnh trên thế giới. Sáng ngày 10 tháng 9 năm 2010, tại Nhà hát lớn Hà Nội, Cục Điện ảnh (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã tổ chức buổi họp báo giới thiệu Liên hoan phim quốc tế Việt Nam lần thứ nhất.
Lý giải danh xưng trọng tài bóng đá là gì, trọng tài cấp FIFA là gì, giữ nhiệm vụ như thế nào.? Trong bài viết sau. Đây hứa hẹn sẽ là một chủ đề vô cùng lý thú cho những a đang có hứng thú với vị trí đầy “quyền lực” này đấy. Trọng tài bóng đá là 1 vị trí khá thú vị trên sân bóng. Nếu ai muốn nắm giữ “quyền lực” thì vị trí này rất hợp lý cho bạn đấy. Cùng tìm hiểu 1 số thông tin của vị trí trọng tài thông qua bài viết sau. Trọng tài là 1 danh từ dùng để chỉ người điều khiển 1 trận đấu bóng đá. Các trọng tài cũng giống như những vị luật sư, phải nắm rõ các luật lệ trong môn bóng đá và giữ nhịp độ các trận đấu được diễn ra đúng luật, đủ thời gian,. Các vị trọng tài sẽ căn cứ vào những tình huống diễn ra trên sân mà đưa ra nhiều phán quyết hợp lý. Những phán quyết này có thể sẽ gây ảnh hưởng đến cục diện của toàn trận đấu. Các quyết định của trọng tài trên sân 1 khi đã đưa ra thì không thể rút lại được. Trọng tài trong bóng đá có 34 người với mọi quyền hạn được đặt trong tay vị trọng tài chính. Nhiều trận đấu còn có thêm vị trọng tài thứ 5, 6 hoặc thế giới từng ghi nhận có thêm vị trọng tài thứ 13. Các vị trọng tài này sẽ đảm nhận những nhiệm vụ khác nhau và nắm giữ liên lạc để kịp thời truyền báo đến cho vị trọng tài chính đang chạy trên sân. Bên cạnh đó, các vị trọng tài còn nhận được nhiều sự hỗ trợ từ phía các trợ lý trọng tài. 1 trọng tài chính: Điều triển trận đấu, chạy theo các đường chuyền bóng trên sân, có nhiệm vụ quan sát bao quát hết sân và đưa ra phán quyết. 2 trọng tài biên: Đảm nhiệm kiểm soát 2 bên bên sân, thông báo các thông tin về cho trọng tài chính. 1 trọng tài bàn: Kiểm soát bù giờ, theo dõi số lượng các cầu thủ thay người,. 2 - 13 trọng tài VAR: Tùy theo mức độ quan trọng của các giải đấu mà phân thành tổ trọng tài VAR với số lượng nhiều ít khác nhau. Khác với trọng tài cấp quốc gia, trọng tài bóng đá muốn được làm việc trực tiếp cho FIFA phải trải qua sự kiểm tra khắt khe. hằng năm, các quốc gia sẽ gửi danh sách các vị trọng tài giỏi nhất đất nước mình để FIFA sàng lọc, kiểm tra và cấp phép FIFA cho những ai đạt yêu cầu. thông qua các trận đầu từ nhỏ đến quy mô lớn, FIFA sẽ lựa chọn ra người có tài năng thật sự làm việc cho mình. Những trận đấu quan trọng mang tầm quốc tế, không thể sử dụng các trọng tài nghiệp sư được mà phải là các vị trọng tài mang chứng nhận của FIFA. Trọng tài bóng đá luôn phải có sự công tâm cùng những quyết định chính xác. Bên cạnh đó, họ cần có nguồn thể lực dồi dào. Nếu bạn muốn đảm nhận chức vụ đó, hãy chăm tập luyện thể thao. Các sản phẩm của thương hiệu Elipsport sẵn sàng hỗ trợ bạn năng cao thể lực như máy chạy bộ, xe đạp tại chỗ. Để có sức khoẻ như các cầu thủ chúng ta hãy cùng nhau luyện tập thể dục mọi lúc tại nhà cùng Elipsport với các dòng máy chạy bộ Elip hoặc Xe đạp tập , Ngoài ra giác ngủ và giảm stress cũng rất quan trọng cho sức khoẻ bạn và gia đình nên chúng ta hãy cân nhắc lựa chọn một chiếc Ghế massage ELip sau một ngày làm việc mệt nhọc để thư giãn, giảm stress để có một giấc ngủ ngon nhé. Elipsport - Thương hiệu thể thao tại nhà với các dòng sản phẩm như: Máy chạy bộ, xe đạp tập, ghế massage… được khách hàng tin dùng hàng đầu hiện nay. Hệ thống cửa hàng có số lượng lớn nhất tại 63 tỉnh trên toàn quốc. CEO Elipsport với phương châm: “Sức khoẻ cho người Việt là mục tiêu của cuộc đời tôi.”
Trọng tài (bóng đá)
Trọng tài là danh từ chỉ người điều khiển một trận đấu trong bóng đá. Trọng tài có những nhiệm vụ thực thi luật bóng đá để điều khiển trận đấu đã được giao, là người đưa ra quyết định cuối cùng về một tình huống nào đó mà không thể thay đổi hay phản đối được. Một trọng tài còn được nhận những sự hỗ trợ từ trợ lý trọng tài, và ở một số trận đấu chuyên nghiệp cũng có một trọng tài thứ tư và thậm chí là trọng tài thứ năm. Trọng tài thứ năm đầu tiên đã được giới thiệu bởi FIFA vào năm 2006. Các trọng tài được sử dụng những hệ thống định vị để giúp việc kiểm soát trận đấu. UEFA cũng đã sử dụng thêm những người giám sát trọng tài trong khu vực sân thi đấu để giúp giải quyết các sự cố như: bóng vượt qua vạch giới hạn, bóng có vượt qua vạch vôi hay không. Gần đây, công nghệ video hỗ trợ trọng tài (công nghệ VAR) đã được đưa vào sử dụng trong các trận đấu lớn. Giải vô địch bóng đá thế giới 2018 tại Nga là giải đấu World Cup đầu tiên áp dụng công nghệ này.
Cấu tạo và chức năng của tinh hoànTràn dịch màng tinh hoàn Tinh dịch là gì? - Tinh dịch là dịch chứa tinh trùng. - Tinh dịch được phóng thích từ cửa niệu đạo của dương vật thường vào lúc người nam đạt cực khoái và xuất tinh.- Ngoài một phần nhỏ các chất nhờn từ niệu đạo, 10% dung dịch tinh dịch là từ ống dẫn tinh, 60% từ tuyến tiền liệt và 30% từ túi tinh. Hình ảnh tinh trùng trong tinh dịch dưới kinh hiển vi điện tử. Nguồn Internet Đặc điểm của tinh dịch Màu sắc - Màu sắc bình thường của tinh dịch là màu trắng sữa hoặc hơi vàng. Nếu tinh dịch xuất hiện màu vàng hoặc màu vàng xanh, có thể hệ sinh dục hoặc tuyến sinh dục phụ của nam giới có triệu chứng viêm. - Nếu tinh dịch xuất hiện màu hồng, màu đỏ hoặc soi dưới kính hiển vi có thể nhìn thấy các tế bào đỏ, tinh dịch đẫm máu, thường là viêm túi tinh, viêm niệu đạo, có trường hợp còn xuất hiện khối u. Số lượng Sau khi xuất tinh, lượng tinh dịch từ 2-5ml được xem là bình thường. Nguồn Internet - Nếu lượng tinh dịch trên 7ml được xem là quá nhiều, nó không những làm cho mật độ tinh trùng thấp đi. Nếu lượng tinh dịch quá nhiều thường dễ mắc bệnh viêm túi tinh. - Còn nếu lượng tinh dịch dưới 2ml được xem là ít; dưới 1.5ml là quá ít, dễ vô sinh. Tính chất - Thông thường sau khi xuất tinh, một loại emzyme Coagulase trong túi tinh có tác dụng làm đông dính tinh dịch. Tinh dịch sau khi xuất tinh thường đặc sánh, sau khoảng 15-30 phút, tinh dịch này sẽ dần biến thành chất lỏng. - Nếu sau 30 phút, tinh dịch xuất ra vẫn không hóa lỏng, đồng nghĩa tinh dịch có dấu hiệu bất thường, bạn cần khi khám càng sớm càng tốt Ảnh minh họa. Nguồn Internet Độ dính Dùng ống nghiệm thủy tinh chạm vào tinh dịch đã hóa lỏng, rồi nhẹ nhàng nhấc lên thành sợi tinh dịch. Nếu tinh dịch bình thường, sợi tinh dịch sẽ có độ dài khoảng 2cm. Độ pH - Tinh dịch có độ pH trung bình là 7,5, tức là hơi kiềm. Điều này rất có ý nghĩa bởi độ kiềm của tinh dịch sẽ trung hoà bớt độ pH toan của âm đạo, tạo môi trường thuận lợi cho tinh trùng hoạt động. - Muối khoáng: Phospho, kẽm, magnesium, canxi, kali. - Những chất khác: acid lactic, ure, acid uric Tinh dịch là một hỗn hợp dịch, khi xuất tinh và sau khi xuất tinh, tinh dịch thường trải qua 1 chuỗi các phản ứng hóa lý như: đông đặc, kết dính, hóa lỏng…Rất nhiều trường hợp vô sinh có nguyên nhân từ sự bất thường của tinh dịch. - Tinh dịch được phóng thích từ cửa niệu đạo của dương vật thường vào lúc người nam đạt cực khoái và xuất tinh. - Ngoài một phần nhỏ các chất nhờn từ niệu đạo, 10% dung dịch tinh dịch là từ ống dẫn tinh, 60% từ tuyến tiền liệt và 30% từ túi tinh. - Màu sắc bình thường của tinh dịch là màu trắng sữa hoặc hơi vàng. Nếu tinh dịch xuất hiện màu vàng hoặc màu vàng xanh, có thể hệ sinh dục hoặc tuyến sinh dục phụ của nam giới có triệu chứng viêm. - Nếu tinh dịch xuất hiện màu hồng, màu đỏ hoặc soi dưới kính hiển vi có thể nhìn thấy các tế bào đỏ, tinh dịch đẫm máu, thường là viêm túi tinh, viêm niệu đạo, có trường hợp còn xuất hiện khối u. - Nếu lượng tinh dịch trên 7ml được xem là quá nhiều, nó không những làm cho mật độ tinh trùng thấp đi. Nếu lượng tinh dịch quá nhiều thường dễ mắc bệnh viêm túi tinh. - Còn nếu lượng tinh dịch dưới 2ml được xem là ít; dưới 1.5ml là quá ít, dễ vô sinh. - Thông thường sau khi xuất tinh, một loại emzyme Coagulase trong túi tinh có tác dụng làm đông dính tinh dịch. Tinh dịch sau khi xuất tinh thường đặc sánh, sau khoảng 15-30 phút, tinh dịch này sẽ dần biến thành chất lỏng. Dùng ống nghiệm thủy tinh chạm vào tinh dịch đã hóa lỏng, rồi nhẹ nhàng nhấc lên thành sợi tinh dịch. Nếu tinh dịch bình thường, sợi tinh dịch sẽ có độ dài khoảng 2cm. - Tinh dịch có độ pH trung bình là 7,5, tức là hơi kiềm. Điều này rất có ý nghĩa bởi độ kiềm của tinh dịch sẽ trung hoà bớt độ pH toan của âm đạo, tạo môi trường thuận lợi cho tinh trùng hoạt động. Tinh dịch là một hỗn hợp dịch, khi xuất tinh và sau khi xuất tinh, tinh dịch thường trải qua 1 chuỗi các phản ứng hóa lý như: đông đặc, kết dính, hóa lỏng…Rất nhiều trường hợp vô sinh có nguyên nhân từ sự bất thường của tinh dịch.
Tinh dịch
Tinh dịch là chất dịch màu trắng đục (thick white fluid) chứa tinh trùng. Tinh dịch được phóng ra từ cửa niệu đạo của dương vật thường vào lúc con đực đạt cực khoái khi giao phối. Đôi khi cũng được phóng ra khi không có hoạt động tình dục như mộng tinh hoặc thủ dâm. Ở trạng thái bình thường, tinh dịch đậm đặc và có màu trắng hoặc màu vàng nhạt. Tinh dịch màu vàng nhạt là do trong thời gian dài không có xuất tinh, tinh dịch biến đổi về màu sắc và có sự kết dính. Ngoài một phần nhỏ các chất nhờn từ niệu đạo, 10% dung dịch tinh dịch là từ ống dẫn tinh, 30% từ tuyến tiền liệt và 60% từ túi tinh (seminal vesicles). Dung dịch trong túi tinh đẩy tinh trùng và "rửa sạch" ống dẫn tinh trong giai đoạn xuất tinh.
Ngoại giao văn hóa là một hình thức ngoại giao thông qua công cụ văn hóa để thiết lập, duy trì và phát triển quan hệ đối ngoại nhằm đạt được các mục tiêu lợi ích cơ bản của quốc gia là phát triển, an ninh và ảnh hưởng. Hiểu theo nghĩa rộng hơn, ngoại giao văn hóa có thể bao gồm cả việc giới thiệu các thành tựu khoa học kĩ thuật, nghệ thuật, khoa học xã hội… không chỉ của riêng quốc gia mà còn của các nhóm quốc gia hoặc các tổ chức quốc tế. Cũng cần phân biệt rõ giữa ngoại giao văn hóa và văn hóa ngoại giao. Ngoại giao văn hóa là dùng văn hóa để làm ngoại giao, trong khi đó văn hóa ngoại giao thiên về những biểu hiện, cách ứng xử của các cán bộ ngoại giao (phong thái ngoại giao) hoặc cách thức giải quyết vấn đề đối ngoại của một quốc gia dựa trên tư tưởng, chính sách và các ảnh hưởng văn hóa. Trong thời đại toàn cầu hóa và với sự nổi trội của xu hướng "đối thoại thay cho đối đầu", ngoại giao văn hóa được xem là một trong 3 trụ cột chính của hoạt động ngoại giao, bên cạnh ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế. Nền ngoại giao của một quốc gia thường chịu ảnh hưởng không ít từ nền văn hóa dân tộc, văn hóa ngoại giao và kĩ năng của bản thân các nhà ngoại giao, vốn cũng là những yếu tố tác động đến quá trình hoạch định và thực thi chính sách về ngoại giao văn hóa của một nước. Đối tượng hướng tới của ngoại giao văn hóa thường là chính phủ và/hoặc nhân dân của các quốc gia khác. Đối với các nước lớn, ngoại giao văn hóa là con đường để mở rộng ảnh hưởng của mình với thế giới. Đối với các nước nhỏ hơn, ngoại giao văn hóa được sử dụng nhằm quảng bá hình ảnh đất nước và tăng cường phát triển, qua đó các nước này sẽ được chú ý nhiều hơn và nâng cao tiếng nói trên trường quốc tế. Ngoại giao văn hóa còn giúp thu hút đầu tư, du lịch và khai thác các ngành công nghiệp văn hóa. Ngoại giao văn hóa không phải là hoạt động một chiều mà là sự trao đổi qua lại có tương tác. Quá trình trao đổi này giúp các quốc gia tiếp nhận các giá trị và thành tựu văn hóa nổi bật của nhân loại để làm giàu thêm kho tàng văn hóa của mình, đồng thời định hướng việc gìn giữ, phát huy và điều chỉnh các giá trị văn hóa riêng cho phù hợp với dòng chảy phát triển chung của thế giới. Nhiều quốc gia trên thế giới đã bắt đầu thực hiện và triển khai thành công chiến lược ngoại giao văn hóa, như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… Tại Việt Nam, năm 2009 được chọn là "Năm Ngoại giao Văn hóa". Trong năm này Việt Nam đã tổ chức nhiều hoạt động ngoại giao văn hoá tại nhiều nước trên thế giới và đạt nhiều kết quả được đánh giá là mang tính đột phá, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam ra nước ngoài, mở rộng giao lưu quốc tế. (Theo Thuật ngữ Quan hệ quốc tế, Đại học Quốc gia TP.HCM, NXB Chính trị Quốc gia sự thật)
Ngoại giao văn hóa
Ngoại giao văn hóa trong quan hệ quốc tế là một loại ngoại giao với quần chúng quốc tế và quyền lực mềm bao gồm các "trao đổi ý tưởng, thông tin, nghệ thuật và các khía cạnh khác của văn hóa giữa các quốc gia và dân tộc các nước nhằm bồi dưỡng sự hiểu biết lẫn nhau." Mục đích của ngoại giao văn hóa là để người dân của một quốc gia nước ngoài mở mang một sự hiểu biết về những lý tưởng và các tổ chức của quốc gia trong một nỗ lực để gầy dựng hỗ trợ rộng rãi cho các mục tiêu kinh tế và chính trị. Bản chất "ngoại giao văn hóa tiết lộ tâm hồn của một dân tộc", đổi lại nó tạo ra ảnh hưởng. Mặc dù thường bị coi nhẹ, ngoại giao văn hóa có thể và đang đóng một vai trò quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu an ninh quốc gia. Trong thời đại toàn cầu hóa và với sự nổi trội của xu hướng “đối thoại thay cho đối đầu”, ngoại giao văn hóa được xem là một trong 3 trụ cột chính của hoạt động ngoại giao, bên cạnh ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế.
Đại Hội đồng Liên Hiệp quốc đã tuyên bố ngày 21 tháng 3 hàng năm sẽ là Ngày Quốc tế về Rừng. Quyết định này của Liên Hiệp Quốc dựa vào thành công của năm Quốc tế về Rừng 2011 đã được tổ chức ở khắp nơi trên thế giới. Ngày Quốc tế về Rừng sẽ góp phần nâng cao nhận thức của toàn nhân loại về tầm quan trọng của các hệ sinh thái rừng. Tại buổi tuyên bố ‘Ngày Quốc tế về Rừng’, Tổng thư ký Liên hiệp quốc ông Ban Ki-moon đã phát biểu: ‘ Rừng là một phần tất yếu của cuộc sống chúng ta. Rừng chiếm gần 1/3 trái đất và cung cấp những giá trị vô giá về mặt xã hội và lợi ích to lớn về kinh tế và môi trường. Rừng là nơi khơi thủy, cung cấp ¾ nguồn nước ngọt trên trái đất. Rừng đã góp phần chống xói mòn và hạn chế lở đất, rừng bảo vệ những cộng đồng dân cư sống ven biển khỏi thảm họa sóng thần và bão lụt. Hơn 3 tỷ người trên trái đất đang sử dụng gỗ củi, hơn 2 tỷ người đang sống phụ thuộc vào rừng và khoảng 750 triệu người đang sống trong rừng. Bằng việc tuyên bố Ngày Quốc tế về Rừng, Liên Hiệp quốc đã tạo ra một diễn đàn để nâng cao nhận thức của toàn nhân loại về tầm quan trọng của các hệ sinh thái rừng cho phát triển bền vững….’ Ông cũng nhấn mạnh ‘Tỷ lệ mất rừng trên toàn cầu đã giảm xuống còn 20% trong thập kỷ qua. Chúng ta cần những nỗ lực hơn nữa để bảo vệ rừng bao gồm cả việc lồng ghép các hoạt động liên quan đến rừng vào các chương trình nghị sự và mục tiêu phát triển bền vững sau năm 2015’. Khắp nơi trên thế giới đã tổ chức kỷ niệm Ngày Quốc tế về Rừng bằng các hoạt động thiết thực như trồng cây, triển lãm phim, ảnh về rừng và nhiều hoạt động truyền thông xã hội. Các nhà sản xuất đồ gỗ Việt Nam luôn luôn coi trong giá trị của việc bảo vệ rừng bằng việc tuân thủ nghiêm ngặt các hiệp định về rừng. Bạn là nhà máy chế biến gỗ xuất khẩu, thiết kế thi công nội ngoại thất, bạn quan tâm, đến gỗ xẻ sấy như Gỗ sồi, Gỗ tần bì, Gỗ óc chó, Gỗ beech,…Nhưng có quá nhiều nhà cung cấp để xác định ai cung cấp gỗ xẻ sấy ổn định, chất lượng, giá tốt là việc không đơn giản. Đến với chúng tôi bạn thật sự yên tâm vì là nhà cung cấp hàng đầu về Gỗ cứng xẻ sấy nhập từ Mỹ và toàn cầu. "Với mong muốn chia sẻ một phần lợi nhuận của mình đến những trẻ em thiếu may mắn trong cuộc sống. Chúng tôi tự nguyện trích lợi nhuận của mình là 10.000 vnd/m3 vào Quỹ trẻ em Việt nam. Bạn và tôi hãy làm những điều tốt đẹp hơn nhé"
Ngày Quốc tế về Rừng
Ngày Quốc tế về Rừng, viết tắt là IDF (International Day of Forests) là ngày 21 tháng Ba, là ngày hành động quốc tế được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 28/11/2012 theo Nghị quyết A/RES/67/200. Ngày quốc tế về rừng đầu tiên tổ chức vào ngày 21 Tháng Ba năm 2013. Ngày Quốc tế Rừng khai mạc "đã được tổ chức trên toàn thế giới thông qua trồng cây và các sự kiện cộng đồng khác, bao gồm nghệ thuật, hình ảnh và phim cũng như phương tiện truyền thông tiếp cận xã hội. Trong năm 2014, Ngày Quốc tế Rừng tập trung vào "kết nối cá nhân và độc đáo của mỗi cá nhân với rừng", thông qua một chiến dịch mang tên "Rừng của ta Tương lai của chúng ta ". Một sự kiện đặc biệt được tổ chức tại trụ sở Liên Hợp Quốc về "Phụ nữ là tác nhân thay đổi về rừng và phát triển bền vững". Các chủ đề cho Ngày Quốc tế Rừng năm 2015 là "Rừng Khí hậu Thay đổi".
Bạn đã từng đứng trước đám đông và thuyết trình chưa? thuyết trình là một cách nói chuyện thuyết phục người nghe, và cũng là khả năng giao tiếp ứng xử trước đám đông, điều đó thật sự khó đối với nhiều người nhưng nếu bạn có được kỹ năng thuyết trình và nói trước công chúng tốt sẽ giúp bạn tự tin, thành công trong các buổi thuyết trình, có thể bảo vệ luận điểm của mình một cách ấn tượng và thuyết phục của bạn. Đề tài về kỹ năng thuyết trình trước đám đông gần như là vô kể khi ta tìm kiếm trên google với những từ khóa như kỹ năng thuyết trình và nói trước đám đông, thậm chí trong website của Cuộc Sống Đúng Nghĩa cũng đã có một vài bài viết chia sẻ về khóa học kỹ năng thuyết trình và cách làm thế nào để trình bày bài thuyết trình ấn tượng và hay. Khi bạn muốn có bài thuyết trình ấn tượng và cuốn hút người theo dõi nhất thì bạn chắc chắn phải làm chủ sân khấu nhờ vào những kỹ năng khi thuyết trình. Vậy làm thế nào để có được bản lĩnh làm chủ bản thân và sân khấu để có được kỹ năng thuyết trình trước đám đông tốt nhất. Hầu hết những người thuyết trình kém đều quá chú ý vào việc họ sẽ nói gì mà quên mất rằng điều quan trọng hơn là họ nói như thế nào? Theo đó, những nội dung nâng cao của một bài trình bày không thể được chuyển tải hết qua các câu chữ ngắn ngủi của một bài thuyết trình trong khoảng thời lượng 30 – 40 phút. Mà khả năng truyền tải thông tin này sẽ được quyết định bởi cảm xúc phát ra từ trong giọng nói, cũng như cách biểu hiện ngôn ngữ cơ thể của người thuyết trình. Như vậy, điều đầu tiên và bắt buộc bạn nên làm trước khi chuẩn bị một kỹ năng thuyết trình nói trước đám đông, đó chính là đừng bao giờ cố gắng học thuộc lòng toàn bộ nội dung của bài thuyết trình đó. Làm thế nào để luôn có được tự tin là một trong những chủ đề nóng trong những khóa học kỹ năng thuyết trình cũng như khóa học kỹ năng giao tiếp của chúng tôi. Thật ra, điều này là vô cùng dễ dàng để đạt được và nó là gốc rễ, phụ thuộc những kỹ năng điều chỉnh giọng nói cũng như diễn tả ngôn ngữ hình thể. Để làm tốt điều này đầu tiên, bạn hãy hồi tưởng lại cách bạn tự tin khi nói chuyện hay trình bày với một người đồng nghiệp gần gũi, hoặc một người bạn thân của bạn như thế nào. Khi có được tự tin, bạn sẽ biết bạn là ai, và bạn hiểu đưuọc người khác đánh giá bạn ra sao, bạn sẽ không bao giờ sợ hãi đám đông. Khi đặt niềm tin vào người nghe, bạn có thể thoải mái để thể hiện ý tưởng của bản thân, đó là sự tự tin. Nói một cách khác, nếu bạn luôn suy nghĩ mọi thứ về bản thân mình tích cực, và bạn tin rằng người khác cũng đang nhìn thấy được những điều tốt đẹp đó, thì bạn sẽ nâng cao được lòng tự tin của mình. Có bao giờ bạn tự hỏi vì sao những người diễn giả nổi tiếng, có kỹ năng thuyết trình trước công chúng siêu phàm và có thể thuyết trình về một vấn đề nào đó trước hàng ngàn người bằng tiếng Việt và cả ngôn ngữ khác? Bởi vì, mục tiêu của họ là mong muốn chia sẻ được những giá trị nhất định đến cho người nghe trong thuyết trình của mình. Theo quy tắc diễn thuyết của Diễn giả Trần Đình Tuấn – một trong những diễn giả hàng đầu tại Việt Nam, thì thuyết trình cũng là một trong những phương tiện truyền thông, và nhiệm vụ chính của người thuyết trình là hướng đến lợi ích chung của người nghe, chứ không phải để thể hiện thương hiệu bản thân. Nên mục tiêu của bài thuyết trình phải luôn là để khiến cho người khác thay đổi tốt hơn, hay để giải quyết vấn đề đó theo hướng tích cực nhất. Cuộc Sống Đúng Nghĩa chuyên tư vấn và đào tạo các kỹ năng bán hàng – kỹ năng thuyết trình – kỹ năng giao tiếp và các kỹ năng mềm quan trọng trong cuộc sống khác. Bạn đang muốn cải thiện các kỹ năng trên hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được hỗ trợ sớm nhất:
Diễn thuyết trước công chúng
Diễn thuyết trước công chúng là nghệ thuật nói chuyện với một nhóm người theo một phương cách được chuẩn bị kỹ nhằm cung cấp thông tin, gây ảnh hưởng hoặc gây cười cho thính giả. Trong diễn thuyết, cũng giống bất cứ hình thức truyền thông nào khác, có năm yếu tố căn bản thường được biểu thị như sau, "ai đang nói điều gì với ai và đang sử dụng phương tiện nào để gây ra kết quả gì?. Mục tiêu của nghệ thuật diễn thuyết có thể kể từ việc chuyển tải thông tin đến hô hào lôi kéo công chúng đi đến hành động, hoặc chỉ đơn giản là kể một câu chuyện. Một nhà hùng biện tài năng không chỉ cung cấp thông tin cho người nghe mà còn có thể làm thay đổi cảm xúc của họ. Nghệ thuật diễn thuyết trước công chúng, cũng như các bài diễn văn, đã có từ thời xa xưa. Quyển sách giáo khoa đầu tiên về chủ đề này được viết hơn 2.400 năm trước, những nguyên lý được trình bày cặn kẽ trong đó đã được đem vào ứng dụng qua trải nghiệm của những nhà hùng biện Hy Lạp cổ đại.
Công thức 1 (hay Thể thứ 1 hoặc F1) là một bộ môn thể thao đua xe tốc độ chuyên về dòng ô tô bánh hở cao nhất. Ở đây “công thức” hay “thể thức” nhằm chỉ những quy định nghiêm ngặt về xe đua và tay đua phải tuân thủ khi tham gia. Những đường đua F1 hầu hết được xây dựng riêng để thoả mãn các tiêu chuẩn an toàn nhất định, chỉ một số ít trường hợp đặc biệt là nằm trên các con đường trong thành phố. Giải đua xe F1 bắt nguồn từ giải đua mô tô Grand Prix vào các năm 1920. Năm 1950, giải đua F1 Grand Prix lần đầu tiên trên thế giới được tổ chức tại Silverstone – Liên hiệp Anh. Các giải đua được tổ chức liên tiếp những năm sau đó. Trải qua hơn nửa thế kỷ, giải đua xe F1 thế giới đã trở thành tâm điểm thu hút sự quan tâm của hàng triệu người đam mê tốc độ trên toàn cầu. Giải đua F1 hàng năm có rất nhiều quốc gia tham dự. Đặc biệt, vào năm 2020, lần đầu tiên đường đua F1 Việt Nam xuất hiện với vai trò là một trong các chặng đua của cuộc đấu rực lửa này. Các loại xe đua F1 (còn gọi là Formula One car) không chỉ phải đáp ứng những yêu cầu nghiêm ngặt mà còn phải hoàn hảo trên mọi khía cạnh nhằm đạt được hiệu suất cao nhất. Từ các bản thiết kế xe đua F1 có thể thấy, dòng xe đua này rất chú trọng về khí động học. Đặc tính khí động học của xe F1chính là bài toán mà các nhà thiết kế và chế tạo xe F1 phải giải quyết đầu tiên. Vấn đề khí động học không chỉ nằm ở hình dáng xe mà còn liên quan đến tất cảc các bộ phận trong xe như buồng lái, hộp số hay động cơ. Cánh trước và cánh đuôi: Theo các bản vẽ xe F1, cánh trước và cánh đuôi là những bộ phận ảnh hưởng rất lớn đến luồng khí chạy qua xe. Gầm xe: Gầm xe đua F1 phải được thiết kế sao cho luồng khí thoát ra nhanh nhất có thể. Sườn xe: Từ bánh trước luồng khí sẽ đi theo 2 hướng chạy dọc 2 bên sườn xe, vì vậy thiết kế sườn xe phải sao cho giảm lực cản ở mức thấp nhất. Kích thước: Kích thước xe, cụ thể là chiều dài, chiều ngang, chiều cao của xe đóng vai trò rất quan trọng. Kích thước xe theo quy định là dài x rộng x cao lần lượt: 5.100 – 5.450 x 2.000 x 950, chiều dài cơ sở 3.200 – 3.700. Trọng lượng: Theo quy định mới nhất, các xe đua F1 phải nặng ít nhất 660 kg (không tính người lái). Ngày nay, các loại xe đua F1 thường sử dụng động cơ V6, dung tích 1.6L. Theo thông số kỹ thuật, động cơ này có thể sinh ra công suất cực đại đạt 850 mã lực tại 18.000 vòng/phút và 160 mã lực do hệ thống tái tạo năng lực Energy Recovery System tạo ra, mô men xoắn cực đại đạt 400 – 500 Nm. Xe đua F1 thường sử dụng hộp số 7 hoặc 8 cấp. Loại hộp số này được cải tiến có thời gian chuyển số chỉ tính trong phần nghìn giây. Tốc độ tối đa của xe F1 trên 250 km/h. Xe có khả năng tăng tốc từ 0 – 100 km/h dưới 2,5 giây, 0 – 200 km/h dưới 4,5 giây và 0 – 300 km/h dưới 8,5 giây. Hệ thống phanh và giảm xóc được thiết kế đến mức chuẩn xác. Bởi khi hãm phanh hay xe tăng tốc mà giảm xóc khiến xe hạ thấp hơn 1mm thì cũng sẽ ảnh hưởng đến khí động học của xe. Lốp xe ô tô ảnh hưởng khá nhiều đến tốc độ tối đa của xe F1. Lốp xe F1 thường có 4 rãnh nhằm giúp xe vào cua ổn định hơn ở tốc độ cao. Vành xe làm từ hợp kim nhẹ. Điểm đặc biệt trong thiết kế xe đua F1 đó là mỗi bánh chỉ có 1 đai ốc duy nhất, giúp thời gian thay bánh diễn ra nhanh nhất. Bình xăng xe đua F1 được thiết kế ở phía sau tay đua. Thành bình rất dày nhằm đảm bảo an toàn tối đa trong trường hợp xe gặp tai nạn. Nói về cấu tạo xe đua Công thức 1 thì không thể bỏ qua hệ thống điện. Hầu hết tất cả những tính năng của xe đua F1 từ động cơ, hộp số… đều nằm dưới sử kiểm soát của một máy tính trung tâm nhằm hỗ trợ tốt nhất cho tay đua. Vô lăng xe đua F1 là một trong những bộ phận quan trọng nhất. Không chỉ giúp chuyển hướng xe mà trên vô lăng xe F1 còn được tích hợp màn hình hiển thị dữ liệu cũng như các phím điều khiển tính năng. Vô lăng xe đua F1 được làm bằng sợi carbon nhằm giúp hạn chế tối đa tổn thương cho tay đua nếu xảy ra tai nạn. Xe đua F1 được lắp ráo từ hơn 80.000 chi tiết. Mỗi chi tiết đều vô cùng đắt giá và quá trình lắp ráp đòi hỏi phải chính xác 99,9%. Giá xe đua F1 hiện nay không có động cơ dạng trưng bày là 25.000 USD. Còn giá bán xe đua F1 đã hoàn thiện, có động cơ sẽ vào tầm trên 15 triệu USD. Còn với những chiếc xe đua F1 đắt nhất thế giới có thể từ vài chục đến hàng trăm triệu USD. Giá tiền để đầu tư phát triển một chiếc xe đua Công thức 1 vô cùng đắt đỏ. Điển hình vào năm 2018, đội đua Renault F1 đã phải chi 190 triệu USD cho đội ngũ phát triển xe. Có khá nhiều đội đua xe F1, trong đó có những đội đua thành lập từ rất lâu đời và sở hữu những thành tích đồ sộ. Sau đây là danh sách các đội đua F1 đứng đầu thế giới (2018 – 2019):. Đội đua F1 Ferrari: Đội đua F1 Ferrari là đội đua giành nhiều chiến thắng nhất hiện nay với 235 chiến thắng, vô địch 14 giải cá nhân và 14 giải đội đua. Đội đua F1 McLaren: Đội đua F1 McLaren tham gia đường đua F1 từ năm 1966, giành tất cả 182 chiến thắng, vô địch 11 giải cá nhân và 8 giải đội đua. Đội đua F1 Williams: Đội đua F1 Williams giành tất cả 114 chiến thắng, 7 giải cá nhân và 9 giải đội đua. Đội đua F1 Mercedes: Đội đua F1 Mercedes ra đời vào năm 1954, giành 89 chiến thắng. Đội đua F1 Lotus: Đội đua Lotus là một đội đua F1 khá rẻ lần đầu tham gia cuộc đua F1 vào năm 2012 nhưng đã nhanh chóng giành được 81 chiến thắng. Đội đua F1 Red Bull: Đội đua F1 Red Bull là một đội đua F1 rất nổi tiếng, đội giành được tổng cộng 59 chiến thắng. Đội đua F1 Brabham: Đội đua F1 Brabham tham gia đường đua F1 từ năm 1962, đến nay đội giành được 35 chiến thắng. Đội đua F1 Renault: Đội đua F1 Renault là một đội đua đến từ nước Pháp, lần đầu ra mắt vào năm 1977, giành tất cả 35 chiến thắng. Đội đua F1 Tyrrel: Đội đua F1 Tyrrel ra mắt 1958, thành công nhiều vào những năm 1970, đến nay giành tất cả 23 chiến thắng. Đi liền với các đội đua F1 là những tay đua F1 có thành tích ấn tượng nhất. Sau đây là danh sách các tay đua F1 vĩ đại nhất mọi thời đại:. Michael Schumacher: Đây là một trong các tay đua F1 nổi tiếng nhất thế giới với 91 chiến thắng cùng 7 chức vô địch thế giới. Lewis Hamilton: Tay đua người Anh từng có 74 chiến thắng và 5 chức vô địch thế giới. Sebastian Vettel: Tay đua Sebastian Vettel có 52 chiến thắng và 4 chức vô địch thế giới. Alain Prost: Tay đua người Pháp giành được 51 chiến thắng và 4 chức vô địch giải công thức 1. Ayrton Senna: Tay đua Ayrton Senna có tất cả 3 chức vô địch thế giới và 41 chiến thắng. Trong một mua giải F1 vào năm 1994, Ayrton Senna đã tử nạn trong một sự cố, tuy nhiên đến nay ông mãi là một tay đua xuất sắc trong lòng người hâm mộ. Jim Clark: Tay đua Jim Clark có tất cả 25 chiến thắng và 2 chức vô địch thế giới. Niki Lauda: Tay đua Niki Lauda đoạt được 3 chức vô địch thế giới và 25 chiến thắng. Hiện nay lịch đua F1 mới nhất đã được công bố. Giải đua F1 sắp tới hứa hẹn sẽ bùng cháy với sự tham dự của nhiều đội đua và tay đua nổi tiếng thế giới. Mercedes là một trong những “ông lớn” của giải đua xe nổi tiếng thế giới F1. Với nhiều thành tích xuất sắc liên tiếp, Lewis Hamilton được xem là một trong những tay đua Công thức. Red Bull là cái tên không còn xa lạ với các tín đồ yêu bộ môn đua xe Công thức. Mang đến nhiều trận đua rực lửa với sự bứt phá ngoạn mục, Sebastian Vettel hiện được đánh giá là. Ferrari F1 được đánh giá là một trong các đội đua danh giá và thành công nhất lịch sử Công. Deltawingracing là một hãng xe đua nổi tiếng, deltawingracing ra mắt vào tháng 2 năm 2010 tại Triển lãm ô tô Chicago. Deltawingracing.com cung cấp thông tin review xung quanh xe ô tô.
Giải đua xe Công thức 1 2020
Giải đua xe Công thức 1 2020 là mùa giải lần thứ 71 của giải đua xe Công thức 1. Đây là giải đua xe cấp cao nhất của thể loại xe bánh hở và được điều hành bởi Liên đoàn Ô tô quốc tế. Do tác động của đại dịch covid-19 nên giải đua được rút ngắn còn 17 chặng đua, diễn ra từ tháng 07/2020 và kết thúc vào tháng 12/2020. Giải đua có 10 đội đua và 23 tay đua tranh tài (bao gồm cả tay đua dự bị. Tay đua vô địch là Lewis Hamilton. Anh san bằng kỷ lục 7 lần vô địch F1 của huyền thoại Michael Schumacher.
Một trong những vấn đề chính mà chúng ta có thể tìm thấy khi đi từ cửa sổ đến Linux là do thiếu các chương trình yêu thích của chúng tôi. Nhiều chương trình, như Office hoặc Photoshop, không có sẵn cho các bản phân phối như Ubuntu. Và điều tương tự cũng xảy ra với các trò chơi, vì mặc dù chúng ta có thể cài đặt hơi nướcvà các cửa hàng khác, số lượng đầu sách hoạt động trên Linux rất hạn chế. Điều này là do không có thư viện và phụ thuộc Windows trong hệ điều hành này. Và đây chính xác là những gì Rượu nho đang cố gắng giải quyết. Ban đầu Wine được dự định là một trình giả lập Windows cho Linux. Tuy nhiên, WineHQ không “mô phỏng” một môi trường Windows hoàn chỉnh trong Linux, mà chỉ cung cấp các thư viện và hướng dẫn cần thiết để tải và xử lý các tệp nhị phân đã biên dịch cho microsoft hệ thống. Do đó, từ viết tắt của phần mềm này đã thay đổi thành "Wine Is Not an Emulator". Phần mềm này có khả năng tải các ứng dụng từ Windows 3.x đến Windows 10, cả ở định dạng 16 và 32 hoặc 64 bit. Trên thực tế, nó có tất cả các thư viện chính thức của hệ thống Microsoft, và nó cho phép chúng ta nhập các thư viện của riêng mình một cách dễ dàng trong trường hợp chúng ta phải tạo một chương trình với các phụ thuộc đặc biệt. Nó cũng có hệ thống tăng tốc đồ họa cho phép từ vẽ cửa sổ ứng dụng đến chơi game. Wine đã trở thành một trong những chương trình cần thiết cho bất kỳ người dùng Ubuntu hoặc bất kỳ bản phân phối Linux nào khác. Và đây là cách chúng ta có thể cài đặt và cấu hình nó. Điều đầu tiên chúng ta sẽ phải làm nếu chúng ta đang sử dụng Ubuntu 64-bit là cho phép hỗ trợ 32-bit , vì nó bị tắt theo mặc định. Chúng ta có thể làm điều này rất dễ dàng bằng cách mở một thiết bị đầu cuối và thực hiện lệnh sau trong đó:. Bước tiếp theo sẽ là nhập khóa WineHQ vào hệ thống của chúng tôi trong để thêm kho lưu trữ và tải xuống các phiên bản mới nhất của phần mềm. Wine có thể được cài đặt từ nhiều kho, mặc dù chúng tôi đặc biệt khuyên bạn nên luôn sử dụng kho chính thức. Chúng tôi tải xuống khóa bằng lệnh sau:. Bây giờ chúng ta sẽ thêm kho lưu trữ tương ứng với phiên bản Ubuntu của chúng tôi. Chúng tôi đã sử dụng kho lưu trữ Ubuntu 20.04, nhưng nếu chúng tôi sử dụng bất kỳ phiên bản nào khác (hoặc một phiên bản khác, chẳng hạn như Linux Mint), chúng tôi phải thêm kho lưu trữ tương ứng. Những điều này có thể được tham khảo từ Trang web rượu . Chúng tôi đã có sẵn kho phần mềm. Điều duy nhất còn lại để làm là cài đặt phiên bản chúng tôi muốn . Chúng tôi khuyên bạn nên cài đặt nhánh ổn định, vì nó được gỡ lỗi nhiều hơn và ít gặp sự cố hơn. Khi quá trình cài đặt kết thúc, chúng tôi sẽ có Wine sẵn sàng trên PC của mình. Chúng tôi có thể kiểm tra xem nó đã được cài đặt và phiên bản đã được cài đặt hay chưa bằng lệnh sau:. Phương pháp trên là phương pháp được khuyến nghị để cài đặt công cụ này. Tuy nhiên, nếu muốn, chúng ta có thể sử dụng phiên bản có trong kho lưu trữ riêng của Ubuntu. Chúng tôi chỉ cần thực hiện lệnh sau để tải xuống và cài đặt phiên bản này. Điều này sẽ được cài đặt tự động trên PC của chúng tôi mà không cần phải thực hiện tất cả những điều trên, mặc dù rất dễ dàng tìm thấy phiên bản Wine lỗi thời. Vì vậy, chúng tôi khuyên bạn nên sử dụng phương pháp trên. Chúng tôi đã cài đặt Wine trên bản phân phối Ubuntu của mình. Nhưng trước khi bắt đầu sử dụng nó, bạn phải tạo cấu hình của công cụ. Trong cấu hình này, hệ thống sẽ được chuẩn bị để có thể chạy các ứng dụng Windows và một số thành phần nhất định (chẳng hạn như Wine-Mono hoặc Gecko) cần thiết cho một số phần tử nhất định, chẳng hạn như .NET, hoạt động, sẽ được tải xuống. Chúng ta sẽ thấy một cửa sổ cho biết chương trình đang được cấu hình. Chúng tôi đợi nó kết thúc hoặc để chúng tôi thấy một cửa sổ yêu cầu chúng tôi cho phép cài đặt các phụ thuộc. Chúng tôi nhấp vào nút “Cài đặt” của tất cả chúng để trình hướng dẫn tự đảm nhận việc tải xuống và sao chép mọi thứ cần thiết. Khi quá trình kết thúc và mọi thứ đã sẵn sàng trên PC, chúng ta sẽ có thể thấy cửa sổ cấu hình Wine. Cửa sổ này có 7 tab, qua đó chúng ta có thể cấu hình các khía cạnh khác nhau của công cụ này. Wine cho phép chúng tôi mô phỏng tất cả các phiên bản của Windows. Bằng cách này, nếu chúng tôi có phần mềm chỉ có thể chạy trên một phiên bản Windows cụ thể, chúng tôi có thể tải các thư viện của phiên bản đó và thay thế phiên bản của hệ điều hành cho từng phiên bản. Chúng tôi có thể định cấu hình phiên bản mặc định, phiên bản này sẽ được sử dụng trong tất cả các chương trình và thêm các tệp EXE cụ thể để cung cấp cho mỗi chương trình một phiên bản. Từ phần này, chúng tôi sẽ có thể cấu hình cách chúng tôi muốn các thư viện được sử dụng. Chúng tôi có thể để những chương trình riêng mà Wine cung cấp được sử dụng theo mặc định hoặc để từng chương trình sử dụng chương trình riêng (nếu có) hoặc các thư viện mà chúng tôi sao chép từ phiên bản Windows hoặc tải xuống từ Internet. Từ phần này, chúng tôi có thể cấu hình cách chúng tôi muốn các cửa sổ hoặc đồ họa của các ứng dụng chúng tôi chạy được vẽ. Chúng ta có thể chọn nếu chúng ta muốn con chuột được bắt vào bên trong, giả lập một màn hình Windows ảo để chương trình chạy trên đó, và thậm chí cả trang trí cửa sổ. Chúng tôi cũng có thể chọn kích thước phông chữ. Nó cho phép chúng tôi cài đặt và định cấu hình các chủ đề máy tính để bàn khác nhau, cũng như định cấu hình các thư mục cá nhân điển hình của hệ điều hành, nơi dữ liệu được tạo từ các chương trình này được mở từ Wine sẽ được lưu. Từ phần này, chúng ta có thể định cấu hình các điểm gắn kết khác nhau mà chúng ta muốn các ứng dụng Wine nhận ra. Mỗi điểm gắn kết này (có thể là ổ đĩa hoặc chỉ là thư mục) sẽ được nhận dạng là ổ cứng được kết nối với PC. Nó cho phép chúng tôi kiểm soát trình điều khiển âm thanh được sử dụng và cấu hình các thiết bị đầu vào và đầu ra âm thanh. Như tên của nó đã chỉ ra, tab này sẽ cho phép chúng ta xem phiên bản của chương trình mà chúng ta đã cài đặt. Nó không được sử dụng để cấu hình bất cứ thứ gì. Bây giờ chúng ta đã cài đặt Wine và chúng ta biết cách cấu hình nó, chúng ta chỉ cần biết cách sử dụng nó. Theo mặc định, chương trình này sẽ là tích hợp vào Ubuntu để nó tự động nhận dạng các tệp .exe và .msi và mở chúng bằng cách nhấp đúp về họ. Tương tự như trong Windows. Chúng tôi cũng có thể mở các tệp này từ menu ngữ cảnh bằng cách nhấp chuột phải vào chúng. Rượu sẽ lo mọi thứ. Chúng tôi sẽ phải làm theo trình hướng dẫn như khi chúng tôi cài đặt chương trình trong Windows và khi kết thúc, chúng tôi sẽ có phần mềm sẵn sàng chạy. Rượu rất hữu ích, nhưng cũng phải thừa nhận rằng nó một chương trình khá nặng . Và nếu chúng ta cài đặt nhiều phụ thuộc trên PC (chẳng hạn như .NET chẳng hạn), nó cũng có thể chiếm nhiều dung lượng. Do đó, nếu chúng tôi không sử dụng chương trình này, chúng tôi sẽ có thể gỡ cài đặt nó một cách dễ dàng. Để làm điều này, tất cả những gì chúng ta phải làm là thực hiện lệnh sau (thay đổi "ổn định" thành phiên bản mà chúng ta đã cài đặt trước đó):. Hệ thống sẽ tự chăm sóc hoàn toàn hủy kích hoạt và xóa toàn bộ chương trình. Ngoài ra, chúng ta cần xóa các thư mục cấu hình và bộ nhớ cache sau bằng tay để giải phóng dung lượng. Chúng tôi phải đảm bảo hiển thị các tệp ẩn bằng phím tắt Control + R. Và cuối cùng, chúng tôi có thể xóa thủ công kho lưu trữ mà chúng tôi đã thêm từ các nguồn phần mềm của Linux này. Hiện nay có rất nhiều nền tảng cho phép chúng ta xem các kênh trực tuyến miễn phí qua Internet. Tuy nhiên, không nhiều người biết rằng, thông qua vệ tinh,. Trong thời gian gần đây, việc sử dụng thẻ từ dán vào mặt sau iPhone để luôn mang theo chứng minh nhân dân, bằng lái xe. IPhone có một số ứng dụng gốc thực sự hữu ích. Tuy nhiên, một số trong số chúng đã quá neo trong một thời gian và đối với một số chức năng, chúng bị rơi. Hàng ngày chúng ta sử dụng ứng dụng nhắn tin tức thời thông qua các giải pháp như WhatsApp hoặc Telegram. Đây là điều mà chúng ta thường làm. Khi bắt đầu làm việc với một tài liệu văn bản, chúng ta có thể lựa chọn vô số ứng dụng khí hậu cho nó. Nhưng nếu có một cái đó. Chế độ tối trên thiết bị di động Android đã xuất hiện cách đây một thời gian và có vẻ như nó không có ý định đi đâu cả. Hơn bất cứ điều gì bởi vì. Có một thực tế là ngày càng có nhiều người dùng chuyển từ đồng hồ analog sang đồng hồ thông minh. Điều tồi tệ là có, chúng tôi. Vào năm 2019, chúng ta đã chứng kiến sự xuất hiện được chờ đợi từ lâu của Mario Kart Tour trên các thiết bị di động của chúng tôi, cho cả thiết bị đầu cuối Android và iOS.
Wine (phần mềm)
Bài này nói về phần mềm Wine. Xem thêm nghĩa khác về wine (tiếng Anh) tại rượu vangWine (viết tắt của Wine is not an emulator - Wine không phải là chương trình giả lập) là một phần mềm tự do nguồn mở dùng để chạy các phần mềm viết cho Windows trên các hệ điều hành tương tự Unix (Linux, FreeBSD,.). Wine cũng cung cấp một thư viện phần mềm, được gọi là Winelib, dựa vào đó các nhà phát triển có thể biên dịch các ứng dụng Windows để giúp port chúng sang các hệ thống tương tự Unix. Wine cung cấp môi trường runtime Windows riêng để chuyển các lời gọi hệ thống Windows thành các lời gọi hệ thống tuân thủ POSIX, tạo lại cấu trúc thư mục của hệ thống Windows và cung cấp các triển khai thay thế của các thư viện hệ thống, dịch vụ hệ thống Windows thông qua wineserver và nhiều thành phần khác (như Internet Explorer, Windows Registry Editor, và msiexec). Wine chủ yếu được viết bằng kỹ thuật đảo ngược thử nghiệm hộp đen, để tránh các vấn đề bản quyền. Việc lựa chọn "Wine is Not an Emulator" làm tên của Wine Project là kết quả của một cuộc thảo luận đặt tên vào tháng 8 năm 1993 và ghi danh cho David Niemi.
Các bạch cầu đoạn ưa axit đóng một vai trò quan trọng trong cơ chế chống đỡ đối với các nhiễm ký sinh trùng. Chúng cũng có chức năng thực bào đối với các mảnh tế bào, song ở mức độ ít hơn so với bạch cầu đoạn trung tính và chỉ ở các giai đoạn muộn của quá trình viêm. Bạch cầu đoạn ưa axit cũng tham gia vào các phản ứng viêm. Định nghĩa: Bệnh chưa rõ nguyên nhân, có đặc đểm là số lượng hạch bạch cầu hạt ưa acid trong máu tăng mạnh (> 1.500/µl trong vòng hơn 6 tháng), kết hợp với tổn thương tạng, đặc biệt là ở tim, gan và lách. – Triệu chứng hô hấp: ho, đặc biệt là vào ban đêm, chụp X quang lồng ngực thấy hội chứng thâm nhiễm lan toả ở phổi. Những biểu hiện khác: biểu hiện thần kinh mắt, tiêu hoá, hoặc khớp, thường thay đổi. Những biểu hiện này là do những vật nghẽn mạch hoặc huyết khối vi mạch gây ra. Xét nghiệm cận lâm sàng: tăng bạch cầu hạt ưa acid trong máu ngoại vi với những tế bào bạch cầu hạt ưa acid có hốc, hay thấy giảm tiểu cầu, tăng gammaglobulin huyết ( nhất là IgE ). Tiên lượng: nếu không được điều trị và những thể kháng thuốc, thì thời gian sống thêm trung bình là một năm. Điều trị: bắt đầu cho corticoid trong hai tháng. Nếu bạch cầu hạt ưa cid vẫn tăng, thì cho thêm hydroxyure với liều 0,5-1g/ ngày. Trong trường hợp không có kết quả thì dùng interferon alpha.
Bạch cầu ưa acid
Bạch cầu ưa axit là một loại bạch cầu hạt. So với bạch cầu hạt trung tính, bạch cầu hạt ưa axit ít có khả năng vận động và thực bào. Bình thường, bạch cầu ưa axit không thực bào vi khuẩn. Các hạt lysosom của bạch cầu ưa axit chứa các enzym oxidase, peroxidase và phosphatase. Điều đó chứng tỏ rằng chức năng đầu tiên của bạch cầu ưa axit là khử độc các protein lạ và các chất khác. Bạch cầu ưa axit cũng có khả năng hoá ứng động nhưng yếu tố hấp dẫn chúng là sự có mặt của các kháng thể đặc hiệu với các protein lạ. Phức hợp kháng nguyên - kháng thể hấp dẫn bạch cầu ưa axit di chuyển từ máu vào các mô liên kết. Ở đó chúng thực bào và phá huỷ các phức hợp này. Bạch cầu hạt ưa kiềm và dưỡng bào (mastocyte) cũng giải phóng yếu tố hấp dẫn bạch cầu ưa axit đến vùng mô tổn thương. Bình thường, bạch cầu ưa axit có nhiều ở mô liên kết hơn ở trong máu, đặc biệt là ở phổi, tuyến vú, mạc treo, thành trong của ruột non. Số lượng bạch cầu ưa axit tăng cao trong các phản ứng miễn dịch và tự miễn dịch, trong quá trình phân huỷ protein của cơ thể và trong một số bệnh nhiễm ký sinh trùng.
Đầy rẫy thông tin sai lệch và thuyết âm mưu. Đó là một tổ chức ôn hòa hay có xu hướng lật đổ chính phủ?. Các tư liệu về hội Tam Điểm không đưa ra bất kỳ lời giải thích rõ ràng nào. Nó là một tổ chức ôn hòa hay có xu hướng lật đổ chính phủ? Nó là một cộng đồng tri thức hay huyền bí? Những câu hỏi như vậy không phải là mới. Kể từ khi được phát triển vào thế kỷ 18, hội Tam Điểm đã khơi dậy sự tức giận từ giáo hội Công giáo, các chính trị gia cánh hữu và gần đây hơn là Bộ Nội Vụ Anh. (Lo sợ rằng các thành viên hội Tam Điểm trong lực lượng cảnh sát và tư pháp đã dành sự đối xử ưu đãi cho các thành viên khác của hội, từ năm 1998 đến 2009, Bội Nội vụ Anh đã yêu cầu những người được bổ nhiệm trong ngành tư pháp phải tiết lộ việc họ có là thành viên của hội không.) Hội Tam Điểm dường như khó hiểu vì nó không chứa đựng bất kỳ ý thức hệ hoặc học thuyết nhất quán nào, và thay vào đó được xác định bởi một cam kết về tình huynh đệ phổ quát và sự tự tiến bộ. Cũng không tồn tại một cơ quan quản lý nào. Nó được tạo thành từ một mạng lưới lỏng lẻo các nhóm, được gọi là các hội quán, nằm dưới các đại hội quán quốc gia và khu vực. Vậy rốt cuộc, hội Tam Điểm là gì?. Hội Tam Điểm phát triển từ các nghiệp đoàn (guild) thợ xây đá thời trung cổ, vốn định mức tiền lương, đào tạo thợ học nghề và quy định ai có thể thực hành nghề. Ở châu Âu đầu thời kỳ hiện đại, các thợ xây đã nghiên cứu phép đo đạc, hình học và tính toán toán học – cũng như lát gạch. Các thợ xây lành nghề đóng vai trò kiến trúc sư và kỹ sư, họ đạt được vị thế cao hơn hầu hết các thương gia khác. Sự thăng tiến trong các nghiệp đoàn đi kèm với thẩm quyền, và con đường từ thợ học nghề đến thợ cả được đánh dấu bằng một nghi lễ. Để nâng cao phẩm giá nghề nghiệp của họ, các thợ xây đã tạo ra những lịch sử phức tạp có từ thời Ai Cập cổ đại. Các nghiệp đoàn cũng là những tổ chức xã hội nơi mà các thành viên gặp nhau một cách không chính thức để uống rượu trong các hội quán (lodge – một thuật ngữ ban đầu được dùng để chỉ chỗ ở tạm thời tại các công trường xây dựng.) Xuất phát từ nhu cầu tài chính, các nghiệp đoàn bắt đầu chấp nhận các thành viên không phải là thợ xây đá và thu hội phí vào đầu những năm 1600. Các thành viên này là những người có học vấn quan tâm đến toán học và kiến trúc cổ đại. Trong khi những người thợ bình thường sẽ “đẽo đá và nâng cao các thước vuông góc”, các thành viên quý tộc phải rèn luyện “tính bí mật, đạo đức và tình ái hữu”. Vào cuối thế kỷ 17, khi các nghiệp đoàn trở nên lỗi thời, phần lớn các thành viên đều là những quý ông có học và đam mê. Sự truyền bá nhanh chóng của hội Tam Điểm vào thế kỷ 18 – đầu tiên ở Anh và sau đó ở nước ngoài – tương ứng với một sự mở rộng số lượng thành viên các câu lạc bộ khi các thành phố phát triển hơn. Các hội quán Tam Điểm giống như các câu lạc bộ khác về nhiều khía cạnh: các thành viên gặp gỡ để nghe các bài giảng và ăn tối với nhau. Nhưng hội Tam Điểm có điều đặc biệt. Các nghi thức của nó bí mật hơn và phức tạp hơn so với các câu lạc bộ khác. Nó cũng là một tổ chức thế tục, phi đảng phái và bình đẳng, ít nhất là về mặt lý thuyết. Các hội quán nên “gây dựng tình ái hữu đích thực giữa những người mà nếu không gia nhập hội sẽ có một khoảng cách vĩnh viễn”, một hướng dẫn từ năm 1723 đã lý giải như vậy. Việc là thành viên tôn giáo nào đó không ảnh hưởng đến tư cách thành viên, và thảo luận chính trị bị cấm. “Chỉ có giá trị đích thực và phẩm chất cá nhân” mới cho phép các thành viên gia nhập hội, và điều này phải được nhất trí bởi các thành viên khác của hội quán. Lý tưởng khai sáng về chủ nghĩa quốc tế, sự tiến bộ và hoàn hảo đã định hình những tư liệu thời kỳ đầu về hội Tam Điểm. Người ta tin rằng kiến thức có thể làm dịu sự chia rẽ giai cấp và quốc gia, đồng thời đảm bảo sự đoàn kết phổ quát. Hội Tam Điểm không đạt được sự bao trùm như nó đề ra, với việc phụ nữ và tầng lớp lao động bình dân không thể tiếp cận được hội. Tuy nhiên, các hội quán cho phép một mức độ giao lưu hòa nhập giữa tầng lớp quý tộc và các chuyên gia có học thức vốn hầu như chưa từng thấy trước đó. Chúng cũng mang lại địa điểm cho những người thuộc tầng lớp thượng-trung lưu xây dựng các giá trị Khai sáng về sự bình đẳng, thế tục và phẩm giá. Margaret Jacob, một sử gia, lập luận rằng các hội quán đã trở thành các “trường học về quản trị chính phủ” và các phòng thí nghiệm cho sự tham gia của công dân. Các thành viên hội Tam Điểm đóng hội phí, tuyên thệ trung thành, bỏ phiếu, tranh luận và bầu ra các lãnh đạo hội. Ngày nay, ở mức 1,1 triệu người, số lượng thành viên hội Tam Điểm ở Mỹ hiện đang ở mức thấp nhất kể từ trước tới nay, giảm từ mức 4,1 triệu người vào năm 1959. Sự suy giảm này phản ánh sự suy giảm mức độ tham gia vào các nhóm dân sự nói chung. Pháp Việt giao binh ký là cuốn sách chép cuộc chiến tranh của nước Việt Nam với nước Pháp từ những năm đầu triều Nguyễn đến những năm 1880. Nội dung cuốn sách chủ yếu xoay quanh mấy vấn đề như địa lý, phong tục, sản vật, diên cách lịch sử Việt Nam, mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam cùng cách thức mà Trung Quốc và Việt Nam đối phó với Pháp.
Hội Tam Điểm
Thuật ngữ Hội Tam Điểm (tiếng Anh: Freemasonry; tiếng Pháp: Franc-maçonnerie, nghĩa là "Nền tảng tự do") dùng để chỉ một tập hợp những hiện tượng lịch sử và xã hội rất khác nhau tạo dựng từ một môi trường hội nhập mà việc tuyển chọn thành viên dựa theo nguyên tắc bổ sung và các nghi lễ gia nhập có liên hệ tới những ẩn dụ về người thợ xây đá. Tên gọi trong tiếng Việt của hội này là "Tam Điểm" được giải thích là do các hội viên người Pháp khi viết thư cho nhau thường gọi nhau là Sư huynh/Sư đệ (frère), hay Đại Sư phụ (maître), viết tắt F hay M và thêm vào phía sau 3 chấm như 3 đỉnh hình tam giác vuông cân. Lịch sử về Hội chưa thật rõ ràng, người ta cho rằng Hội đã xuất hiện vào cuối thế kỷ 16 ở Scotland, sau đó là Anh, rồi lan ra các quốc gia khác. Thay đổi theo từng thời kỳ và theo từng lãnh thổ, Hội Tam điểm tự mô tả mình như một "hiệp hội những người thông thái và bác ái", một "hệ thống luân lý miêu tả bằng các biểu tượng" hay một "bí tích gia nhập".
Từ rất sớm con người đã dùng kính viễn vọng phát hiện ra những thiên thể phát sáng giống như mây mù, gọi là tinh vân. Tinh vân có thể chia làm hai loại lớn. Một loại là tinh vân ngoại hà, một loại là tinh vân nội hà. Tuy đều gọi là tinh vân nhưng bản chất của chúng hoàn toàn khác nhau. Tinh vân ngoại hà là những tinh vân nằm bên ngoài hệ Ngân hà, chính xác hơn nên gọi là hệ sao ngoại hà. Nhìn chúng là những đốm nhỏ, trên thực tế giống như hệ ngân hà của chúng ta, chúng gồm hàng tỉ, hàng chục tỉ, thậm chí hàng trăm tỉ ngôi sao tổ chức thành một hệ thống hằng tinh khổng lồ. Chúng cách ta vô cùng xa. Ngày nay tổng số tinh vân ngoại hà đã quan sát được có trên 1 tỉ, có thể dùng mắt thường nhìn thấy được thì chỉ có tinh vân Magellan to và nhỏ và tinh vân chòm Tiên nữ. Tinh vân chòm Tiên nữ cách ta khoảng 220 vạn năm ánh sáng. Nếu ta ở trên một hành tinh của một hằng tinh nào đó của chòm sao này dùng kính viễn vọng nhìn lên hệ ngân hà thì hệ Ngân hà cũng trở thành những điểm sáng nho nhỏ mà thôi. Tinh vân với ý nghĩa chân chính nên là tinh vân nằm trong hệ Ngân hà. Chúng gồm những chất khí và bụi có mật độ vô cùng loãng cấu tạo nên tinh vân nội hà. Chúng lại có thể phân thành những đám mây tản mạn và tinh vân dạng hành tinh. Hình dạng tinh vân tản mạn không quy tắc, nói chung không có biên giới rõ rệt. Thể tích của nó tuy rất lớn nhưng mật độ lại cực nhỏ. Nếu gần nó có một hằng tinh rất sáng hoặc nhiệt độ rất cao thì có thể chiếu sáng hoặc kích phát đám tinh vân làm cho nó phát ra ánh sáng. Có người cho rằng tinh vân chính là "dạng nguyên thuỷ" của các hằng tinh. Trong đám tinh vân của chòm sao Lạp hộ nổi tiếng, người ta đã phát hiện được không ít các hằng tinh đang hình thành hoặc vừa hình thành có những hằng tinh mới ra đời hơn 1000 năm. Tinh vân dạng hành tinh là một loại thiên thể rất thú vị, ở giữa là một hằng tinh có nhiệt độ cao đến hàng vạn oC, chung quanh là một vành tròn phát sáng. Đó có thể là từ nhiều năm trước trong một lần hằng tinh bùng nổ đã phóng ra một lớp vỏ bằng khí. Tinh vân dạng hành tinh nhỏ hơn rất nhiều so với tinh vân tản mạn. Quan sát và nghiên cứu tinh vân trong Ngân hà sẽ giúp ta tìm hiểu nguồn gốc và tình hình diễn biến của các hằng tinh, do đó công tác này rất được các nhà khoa học coi trọng. Từ rất sớm con người đã dùng kính viễn vọng phát hiện ra những thiên thể phát sáng giống như mây mù, gọi là tinh vân. Tinh vân có thể chia làm hai loại lớn. Một loại là tinh vân ngoại hà, một loại là tinh vân nội hà. Tuy đều gọi là tinh vân nhưng bản chất của chúng hoàn toàn khác nhau. Tinh vân ngoại hà là những tinh vân nằm bên ngoài hệ Ngân hà, chính xác hơn nên gọi là hệ sao ngoại hà. Nhìn chúng là những đốm nhỏ, trên thực tế giống như hệ ngân hà của chúng ta, chúng gồm hàng tỉ, hàng chục tỉ, thậm chí hàng trăm tỉ ngôi sao tổ chức thành một hệ thống hằng tinh khổng lồ. Chúng cách ta vô cùng xa. Ngày nay tổng số tinh vân ngoại hà đã quan sát được có trên 1 tỉ, có thể dùng mắt thường nhìn thấy được thì chỉ có tinh vân Magellan to và nhỏ và tinh vân chòm Tiên nữ. Tinh vân chòm Tiên nữ cách ta khoảng 220 vạn năm ánh sáng. Nếu ta ở trên một hành tinh của một hằng tinh nào đó của chòm sao này dùng kính viễn vọng nhìn lên hệ ngân hà thì hệ Ngân hà cũng trở thành những điểm sáng nho nhỏ mà thôi. Tinh vân với ý nghĩa chân chính nên là tinh vân nằm trong hệ Ngân hà. Chúng gồm những chất khí và bụi có mật độ vô cùng loãng cấu tạo nên tinh vân nội hà. Chúng lại có thể phân thành những đám mây tản mạn và tinh vân dạng hành tinh. Hình dạng tinh vân tản mạn không quy tắc, nói chung không có biên giới rõ rệt. Thể tích của nó tuy rất lớn nhưng mật độ lại cực nhỏ. Nếu gần nó có một hằng tinh rất sáng hoặc nhiệt độ rất cao thì có thể chiếu sáng hoặc kích phát đám tinh vân làm cho nó phát ra ánh sáng. Có người cho rằng tinh vân chính là "dạng nguyên thuỷ" của các hằng tinh. Trong đám tinh vân của chòm sao Lạp hộ nổi tiếng, người ta đã phát hiện được không ít các hằng tinh đang hình thành hoặc vừa hình thành có những hằng tinh mới ra đời hơn 1000 năm. Tinh vân dạng hành tinh là một loại thiên thể rất thú vị, ở giữa là một hằng tinh có nhiệt độ cao đến hàng vạn oC, chung quanh là một vành tròn phát sáng. Đó có thể là từ nhiều năm trước trong một lần hằng tinh bùng nổ đã phóng ra một lớp vỏ bằng khí. Tinh vân dạng hành tinh nhỏ hơn rất nhiều so với tinh vân tản mạn. Quan sát và nghiên cứu tinh vân trong Ngân hà sẽ giúp ta tìm hiểu nguồn gốc và tình hình diễn biến của các hằng tinh, do đó công tác này rất được các nhà khoa học coi trọng.
Tinh vân
Tinh vân (từ Hán-Việt nghĩa là mây sao; tiếng Latinh: nebulae có nghĩa là "đám mây") là hỗn hợp của bụi, khí hydro, khí heli và plasma. Tinh vân sở hữu kích thước cực lớn và độ đậm đặc cực loãng, loãng hơn bất cứ môi trường chân không nào được tạo ra trên Trái Đất (VD: một tinh vân sở hữu đường kính của Trái Đất là 12 742 km sẽ chỉ nặng vài kilogam. Sự sụp đổ của các tinh vân chính là cách mà Mặt Trời và các hành tinh khác được hình thành. Tinh vân có thể là những đám bụi tập hợp lại với nhau do hấp dẫn (khối lượng chưa đủ để tạo thành một ngôi sao hay một thiên thể lớn) hoặc cũng có thể là vật chất được phóng ra do sự kết thúc của một ngôi sao. Các tinh vân thường tập trung thành những dải hẹp, dày từ vài chục đến vài trăm năm ánh sáng (1 năm ánh sáng = 9.460 tỷ km).
Cách thứ nhất trước khi tmê man gia không thiếu để so sánh thuật ngữ hội đồng đô thị hiện nay đang sở hữu họ, là cấu hình thiết lập bắt đầu trường đoản cú nguyên ổn của chính nó. lúc làm điều này, Shop chúng tôi phát chỉ ra rằng nó phát ra tự giờ Latin và chính xác rộng là tự "iugum", rất có thể được dịch là "ách".Bạn đang xem: Tòa thị chính là gì. Thành phố này là tập đoàn được ra đời vày thị trưởng hoặc thị trưởng với các ủy kinhdientamquoc.vnên hội đồng Chịu trách nhiệm làm chủ thiết yếu trị của một đô thị . Thuật ngữ này được áp dụng như một từ đồng nghĩa của đô thị hoặc cửa hàng thành phố . Ví dụ: "Hội đồng thành phố đã call một plebiscite để đưa ra quyết định định mệnh của các quỹ", "Romero thông tin rằng ông đã tnhãi nhép cử nlỗi một ứng cử kinhdientamquoc.vnên vào cuộc thai cử tiếp theo đến tòa thị chính", "Tòa bên tòa thị đó là một trong số những tòa bên đẹp tuyệt vời nhất thành phố . ". Thị trưởng là fan mở màn thị thành, người prúc trách nát tổ chức chính quyền địa phương . Thông thường, tòa thị chính là cơ quan hành chủ yếu gần nhất cùng với công dân theo cấp độ của chính nó, tuy vậy những thành phố lớn hơn có thể gồm các phân khu hành chính làm kinhdientamquoc.vnệc những quận, đoàn hoặc khu phố. Liên quan lại mang đến phương pháp thao tác được tiến hành do những ủy kinhdientamquoc.vnên hội đồng và thị trưởng nêu nhảy những biện pháp sau đây: • Ủy ban nhà nước. Nó bao gồm thị trưởng, fan đã nhà trì với các thị trưởng được bổ nhiệm vì chưng ông. Như vậy được tổ chức Lúc cả thị trưởng nói trên cùng phần sót lại của những ủy kinhdientamquoc.vnên hội đồng của các thành lập và hoạt động chính trị xuất hiện tòa thị thiết yếu đã họp. Vào đầu mỗi cơ sở lập pháp sẽ khẳng định đang diễn ra bao nhiêu và nó vẫn xử lý các vấn đề liên quan cho thai cử cùng thay thế điều đó, sự điều hành và kiểm soát với đo lường và tính toán của các cơ quan cơ quan chỉ đạo của chính phủ, các phép tắc cùng pháp lệnh cơ học, chuyển động tín dụng thanh toán hoặc tuyển chọn dụng của các dự án công trình hàng hóa và dịch vụ. Ngoài ra, đề nghị khẳng định rằng phiên họp tổng thể sẽ gồm một chương trình nghị sự được cấu hình thiết lập trước kia và những thỏa thuận hợp tác sẽ được trải qua, bên cạnh, theo phần nhiều phiếu. Ở Argentina, ví dụ, những địa phương thơm đáp ứng những đề xuất cố định tương quan mang lại dân số và phát triển kinh tế tài chính được Call là thành phố. Các tập đoàn này, tương tự nhỏng tòa thị chính của những non sông không giống, được điều hành và quản lý vị một thị trưởng (như thị trưởng) cùng một hội đồng có chủ kiến. Chile, Colombia với Peru là các giang sơn không giống, nơi có mang thông dụng độc nhất nhằm đề cập tới các tổ chức này là thành phố. Tại Tây Ban Nha, ngoài ra, cơ quan chính quyền thành phố nhận ra tên của thành phố. Khái niệm tòa thị chính cũng được áp dụng để đặt tên mang đến trụ slàm kinhdientamquoc.vnệc bao gồm của tập đoàn, cũng hoàn toàn có thể được Call là tòa thị chính : "Ngày mai sẽ sở hữu một cuộc biểu tình trước tòa thị chính", "Chuyến thăm được bố trí theo hướng dẫn cho tòa thị chính bao gồm Phần Trăm 200 peso và kéo dãn nhì giờ . "
Tòa thị chính
Trong chính quyền địa phương, một tòa thị chính, còn gọi là tòa nhà chính quyền địa phương hay trụ sở công đoàn (tiếng Anh: city hall, town hall, civic centre) là trụ sở hành chính trung ương của một thành phố, thị trấn, hay những đơn vị hành chính khác. Đây thường là nơi đặt hội đồng thành phố, các ban ngành liên quan, và nhân viên làm việc. Nơi này cũng thường là cơ sở của thị trưởng thành phố, thị trấn, hay hạt. Theo thông lệ, trước giữa thế kỉ 19, một sảnh lớn (tiếng Anh: hall) trở thành một phần quan trọng của tòa nhà đặt hội đồng. Sảnh này có thể được dùng cho các cuộc họp hội đồng và những sự kiện quan trọng khác. Sảnh thị trấn (hay sảnh thành phố) sau này được dùng để chỉ cả tòa nhà và cơ quan hành chính bên trong nó. Chính quyền địa phương có thể dùng tòa nhà để khuyến khích và nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng. Trong nhiều trường hợp, tòa thị chính không chỉ là tòa nhà để chính phủ làm việc, mà còn là cơ sở cho nhiều hoạt động dân sự và văn hóa, như là trưng bày nghệ thuật, biểu diễn sân khấu, triển lãm và lễ hội.
Âm thanh là một trong những yếu tố tồn tại hiển nhiên nhất trong cuộc sống của chúng ta. Tất cả mọi người đều “nghe” nhưng chắc ít người thắc mắc về thứ gọi là “âm thanh” mà chúng ta nghe được hàng ngày. Chính vì vậy, Trường Ca Audio sẽ dành bài viết này để chia sẻ một số kiến thức về điều “hiển nhiên” mà nhiều người thường bỏ qua kia. Đây sẽ là những thông tin hữu ích mà bạn không muốn bỏ qua đâu. Trước khi tìm hiểu các khái niệm liên quan đến âm thanh, bạn cần phải biết âm thanh là gì? Một cách dễ hiểu nhất, âm thanh là hiện tượng vật thể rung động phát ra tiếng và lan truyền đi trong không khí. Tai của chúng ta nghe được âm thanh là nhờ màng nhĩ. Màng nhĩ nối liền với hệ thống thần kinh. Quá trình thu nhận âm thanh diễn ra như sau: làn sóng âm thanh từ vật thể rung động phát ra, được lan truyền đi trong không gian tới tai ta, làm rung màng nhĩ theo đúng nhịp điệu rung động của vật thể đã phát ra tiếng. Nhờ đó mà ta nghe được âm thanh. Còn không khí chính là môi trường truyền dẫn âm thanh. Ngoài ra, âm thanh cũng truyền qua được một số chất khác như chất khí, chất lỏng, chất rắn… nhưng không lan truyền được qua khoảng chân không. Đây chính là lý do tại sao khi ở hai phòng cạnh nhau, chúng ta vẫn có thể nghe được tiếng động ở phòng bên kia. Bên cạnh đó, có một số chất truyền dẫn âm rất kém. Ví dụ như các chất mềm, xốp như bông dạ hay cỏ khô…Các chất này còn có tên gọi là chất hút âm. Các chất này thường được làm vật liệu để lót tường nhằm cách âm ở các rạp hát, các phòng hát karaoke, phòng cách âm… để hút ẩm, giảm tiếng vang của âm thanh. Vận tốc truyền lan của âm thanh phụ thuộc vào môi trường truyền âm. Trong hành trình truyền lan, nếu gặp phải các chướng ngại vật như tường, núi đá, hàng cây… thì phần lớn năng lượng của âm thanh sẽ bị phản xạ trở lại, một phần nhỏ tiếp tục truyền về phía trước. Phần bị phản xạ lại biến thành nhiệt năng tiêu tán đi. Tần số của một số âm đơn là số lần dao động của không khí truyền dẫn âm trong một dây đồng hồ. Tần số biểu thị độ cao của âm thanh, tiếng trầm có tần số thấp, tiếng bổng có tần số cao. Tần số âm thanh có đơn vị là Héc (Hz). Tai người có thể nghe thấy được các tần số thấp tới 15 Hz và tần số cao tới 20.000 Hz. Dải tần số 16Hz đến 20.000Hz gọi là siêu âm. Áp suất âm thanh còn có tên gọi khác là thanh áp. Âm thanh truyền đến đâu sẽ làm thay đổi áp suất không khí ở đó. Áp suất do âm thanh tạo thêm ra một điểm gọi là thanh áp. Đơn vị thanh áp là bar. Một bar là thanh áp tác động lên một diện tích 1cm2 một lực là 1 đin. Công suất âm thanh là năng lợng âm thanh đi qua một diện tích S trong một thời gian giây. Trong đó p là thanh áp, v là tốc độ dao động của một phần tử không khí tại đó và S là diện tích. Công suất âm thanh tính theo oát (W). Cường độ âm thanh là công suất âm thanh đi qua một đơn vị diện tích là 1cm2. Cả ba đều biểu thị độ lớn nhỏ của âm thanh. Âm thanh có năng lợng càng lớn thì công suất, cờng độ và áp suất của âm thanh càng lớn. Để tạo thành một bản nhạc số, người tạo nhạc cần phải thực hiện thu âm trong các phòng thu với rất nhiều thiết bị âm thanh hỗ trợ. Các thiết bị này có chức năng chuyển đổi sóng âm thành tín hiệu số. Tín hiệu số ở đay là những xung điện tử rời rạc. Những “mẩu” rời rạc đó chỉ có thể mô phỏng một cách gần giống nhất với âm thanh thực tế. Quá trình mô phỏng đó được đặc trưng bởi một số thông số:. - Sample: đây là thành phần nhỏ nhất của một bản nhạc số. Là giá trị biên độ của tần số sóng âm tại thời điểm lấy mẫu. Mẫu ở đây là các xung điện tử, mỗi mẫu là một sample. - Sample Rate: (Sampling Rate, Sample Frequency): đây là số lần lấy mẫu trên một giây, có đơn vị là Hz. Một bản nhạc có sample rate là 44100 Hz thì mỗi giây nhạc sẽ được lấy mẫu 44100 lần. - BitDepth: để lưu lại dưới dạng số, mỗi mẫu được biểu diễn bằng một lượng bit dữ liệu nhất định, gọi là BitDepth. Những bản nhạc hiện nay thường có BitDepth là 16 bits, 24 bits… BitDepth càng lớn, âm thanh càng sắc nét, trung thực nên nó còn có tên gọi khác là Resolution (độ nét). Bằng các thuật toán, tín hiệu số được chia thành các kênh để khi nghe bằng hệ thống loa thích hợp sẽ có cảm giác như khi đang nghe nhạc trong không gia thực tế. Bốn thông số cơ bản trên có thể giúp chúng ta biết được chất lượng và tính được dung lượng của bản nhạc. - BitRate: Là thông số thu gọn, đại diện cơ bản cho các thuộc tính trên. Với Bitrate, ta có thể xác định nhanh chóng dung lượng cũng như phần nào chất lượng của bản nhạc. Một phút nhạc 128 kbps có dung lượng khoảng 1 MB và bản nhạc 320 kbps thì chắc chắn sẽ hay hơn bản nhạc 128 kbps. Từ quá trình thu âm, chúng ta thu được một file nhạc WAV có dung lượng rất lớn do là bản gốc, khoảng 10 MB cho mỗi bản nhạc. Bởi vậy, để tiện việc lưu trữ hay chia sẻ, người ta bắt buộc phải tìm cách nén chúng lại dưới các định dạng. Mỗi định dạng là một thuật toán nén nhất định và tỉ lệ nén cũng như chất lượng sau khi nén của bản nhạc cũng khác nhau. Có hai cách nén chính là nén có mất (tạo ra các file mp3, wav, ogg…) và nén không mất (tạo ra các file nhạc flac, ape…). Khi nén có mất, chương trình nén sẽ cắt bớt đi những dải tần số âm thanh nhất định, từ đó giảm được dung lượng bản nhạc. Tuy nhiên, chất lượng âm thanh sẽ bị giảm đi rõ rệt. Chính vì vậy, bạn càng giảm iets thì định dạng nhạc hay thuật toán mã hóa càng tốt. Còn định dạng ogg, wav có chất lượng tốt hơn. Một lưu ý khác là việc chuyển đổi qua lại giữa các định dạng cũng sẽ làm giảm chất lượng của bản nhạc. + ABR (Average bitrate): stream có thể sử dụng bitrate thay đổi cho mỗi frame nhưng bitrate trung bình của toàn bộ stream là cố định gần giống VBR ngoại trừ kích thước file biết trước nhờ điều chỉnh mức thay đổi quanh giá trị bitrate trung bình ấn định trước. Vì vậy, bitrate trung bình không thể xác định trước khi encode hay tính toán cụ thể…. Lưu ý, việc convert lại để tăng bitrate không thể làm tăng chất lượng bản nhạc. Chính vì vậy bạn không nên quá mong chờ vào chất lượng hoàn hảo của nén có mất. Ngược lại với nén có mất, nén nhạc không mất tuy định dạng không cao (tối đa là 1/3 bản nhạc gốc) nhưng chất lượng âm thanh lại tương đương với bản nhạc gốc. Khi lưu trữ các đĩa nhạc, muốn tiết kiệm dung lượng mà chất lượng không đổi, bạn hãy rip thành các bản nhạc nén không mất. Với cấu trúc của rip hoặc rar, bạn có thể thấy rằng việc nén không mất lấy đầu vào là âm thanh gốc của CD rồi tìm ra quy luật âm thanh và nén nó lại. Việc nén này không cao vì dữ liệu âm thanh rất đa dạng và sử dụng nhiều dữ liệu. Mỗi album lossless có dung lượng khoảng 300 MB. Khi giải nén hoặc khi nghe nhạc, điều chắc chắn bạn cảm nhận được là tín hiệu gốc của âm thanh. Điều này là cứu nhân cho những người yêu âm nhạc luôn đòi hỏi âm thanh tủng thực nhưng không có điều kiện có CD gốc hoặc muốn dùng máy tính làm nơi lưu trữ albums.
Sampling (âm nhạc)
Trong âm nhạc, sampling là hành động lấy một phần nhạc, một mẩu âm thanh (ví dụ: tiếng trống, tiếng đàn organ, tiếng hát) của một bản nhạc đã được thu âm trước đó và sử dụng lại cho một bản nhạc khác. Các mẫu có thể gồm các yếu tố như nhịp điệu, giai điệu, lời nói, âm thanh hoặc toàn bộ thanh nhạc và có thể được phân lớp,cân bằng, tăng tốc hoặc giảm tốc độ, chuyển mạch lại, lặp nhạc, hoặc thao tác khác. Chúng thường được tích hợp bằng phần cứng (bộ lấy mẫu) hoặc phần mềm như máy trạm âm thanh kỹ thuật số. Một quy trình tương tự như lấy mẫu bắt nguồn từ thập niên 1940 với musique concrète, âm nhạc thử nghiệm được tạo ra với băng cát xét và đĩa than trên máy quay đĩa. Giữa thế kỷ 20 là sự ra đời của các nhạc cụ bàn phím phát âm thanh được ghi trên băng, chẳng hạn như Mellotron. Thuật ngữ sampling được đặt ra vào cuối thập niên 1970 bởi những người sáng tạo ra Fairlight CMI, một bộ tổng hợp có khả năng ghi và phát lại các âm thanh ngắn.
Đây là sân vận động chính được xây dựng để phục vụ cho Thế vận hội Mùa hè 1988 và Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 10 vào năm 1986. Đây là trung tâm của Khu liên hợp thể thao Seoul ở quận Songpa-gu, ở phía đông nam của thành phố, phía Nam sông Hán. Sân vận động đa năng này được thiết kế bởi Kim Swoo-geun. Các đường nét của mặt sân vận động mô phỏng những đường cong tao nhã của chiếc bình sứ thời kỳ triều đại Joseon của Hàn Quốc. Ghế ngồi của khán giả được phân bố trên hai tầng, có mái che hoàn toàn. Ban đầu được xây dựng với sức chứa khoảng 100.000 người, ngày nay sân có sức chứa 69.950 người. Trước khi xây dựng, các địa điểm lớn nhất tại Seoul là Sân vận động Dongdaemun và Sân vận động Hyochang. Số chỗ ngồi lần lượt là 30.000 và 20.000 chỗ ngồi, chúng quá nhỏ để tổ chức các sự kiện thể thao đẳng cấp thế giới. Việc xây dựng sân vận động mới bắt đầu vào năm 1977 với mục đích tổ chức Đại hội Thể thao châu Á vào năm 1986. Khi Seoul được trao quyền đăng cai Thế vận hội lần thứ XXIV vào tháng 9 năm 1981, sân vận động này đã trở thành tâm điểm. Sân vận động chính thức được khánh thành vào ngày 29 tháng 9 năm 1984 và là địa điểm tổ chức Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 10 hai năm sau đó, sau đó là Thế vận hội vào năm 1988. Tuy nhiên, sân đã không được sử dụng để tổ chức một sự kiện thể thao thế giới lớn kể từ đó. Sân hiện không có đội thuê, mặc dù Hiệp hội bóng đá Hàn Quốc đã bày tỏ sự quan tâm đến việc sử dụng sân vận động cho các trận đấu của đội tuyển quốc gia. Các sự kiện do sân vận động tổ chức trong Thế vận hội là Lễ khai mạc và bế mạc, điền kinh, chung kết môn bóng đá, và trận chung kết cá nhân môn cưỡi ngựa. Từ trận đấu với Nhật Bản vào ngày 30 tháng 9 năm 1984 đến trận đấu với Nam Tư vào ngày 28 tháng 5 năm 2000, Sân vận động Olympic là sân nhà của đội tuyển bóng đá quốc gia Hàn Quốc. Sân vận động World Cup Seoul mới được xây dựng sau đó trở thành địa điểm trung tâm tổ chức trận đấu của đội tuyển Hàn Quốc. Tuy nhiên, trong một nỗ lực nhằm khôi phục lại phong trào bóng đá trên toàn quốc, Hàn Quốc đã sử dụng Sân vận động Olympic cho Cúp bóng đá Đông Á 2013 trong trận thua 1–2 trước Nhật Bản vào 28 tháng 7 năm 2013. KFA đã bày tỏ sự quan tâm đến việc tiếp tục sử dụng địa điểm cho đội tuyển quốc gia trong tương lai. Kể từ năm 2015, câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp mới thành lập Seoul E-Land FC đang sử dụng sân vận động này.
Sân vận động World Cup Seoul
Sân vận động World Cup Seoul (tiếng Triều Tiên: 서울월드컵경기장), còn được biết đến với tên gọi là Sân vận động Sangam, là một sân vận động nằm ở 240, World Cup-ro, Mapo-gu, Seoul, Hàn Quốc. Sân được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá. Sân được xây dựng để phục vụ cho Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 và được khánh thành vào ngày 10 tháng 11 năm 2001. Hiện tại, đây là sân vận động lớn thứ hai ở Hàn Quốc chỉ sau Sân vận động Olympic Seoul và là sân vận động hình chữ nhật lớn nhất ở châu Á. Sân được thiết kế để đại diện cho hình ảnh của một con diều truyền thống của Hàn Quốc. Sân vận động có sức chứa 66.704 chỗ ngồi, bao gồm 816 ghế VIP, 754 ghế cho các nhà báo và 75 hộp sang trọng riêng, mỗi phòng có sức chứa từ 12 đến 29 người. Do lắp đặt ghế ngồi, sức chứa đã giảm từ 66.806 chỗ ngồi xuống còn 66.704 chỗ ngồi vào tháng 2 năm 2014. Sau kỳ World Cup 2002, nơi đây được quản lý bởi Tập đoàn quản lý cơ sở vật chất thành phố Seoul (SMFMC).
Bạn đã thực sự biết và hiểu về năng lượng, và năng lượng có từ đâu, chúng quan trọng như thế nào trong đời sống hàng ngày… Những kiến thức tưởng chừng đơn giản nhưng vẫn có khá nhiều người vẫn chưa biết, hoặc chưa hiểu đúng về năng lượng tietkiemnangluong.vn xin giới thiệu với bạn đọc một vài điều căn bản của năng lượng. Nói theo một cách đơn giản thì năng lượng là khả năng để làm một việc gì, năng lượng có trong mọi thứ xung quanh chúng ta và cần thiết cho tất cả các khía cạnh đời sống. Cơ thể chuyển thức ăn thành năng lượng để duy trì cuộc sống cho chúng ta. Nhiên liệu cung cấp năng lượng cho xe chạy. Năng lượng cũng tạo ra điện, cấp điện cho các hộ gia đình và doanh nghiệp. Tổng số năng lượng trong vũ trụ là có hạn – chúng ta không thể tạo ra hay tiêu hủy năng lượng, mà chỉ có thể chuyển đổi hay biến đổi nó. Khi chúng ta ăn một trái táo, cơ thể chúng ta chuyển đổi năng lượng từ trái táo thành năng lượng để chuyển động và chất bổ nuôi sống cơ thể. Khi đốt dầu, chúng ta biến đổi năng lượng trong dầu thành nhiệt. Truyền năng lượng từ hệ thống này sang hệ thống khác làm giảm số năng lượng có sẵn. Ví dụ, một số năng lượng bị “thất thoát” mỗi lần truyền từ nhà máy điện đến đường dây điện rồi về nơi sử dụng. Do đó hiệu quả năng lượng rất quan trọng. Bóng đèn LED mới hơn sẽ "làm thất thoát" ít năng lượng và lãng phí ít nhiệt hơn khi truyền và thắp sáng đến mắt của quý vị, so với bóng đèn nhiệt quang cũ kém hiệu quả. Jun (Joules, hay J), calo, éc, Oát (W) giờ và BTU là tất cả những đơn vị năng lượng dùng để đo năng lượng tạo ra và dùng cho những mục đích khác nhau. Rất dễ chuyển năng lượng từ đơn vị này thành đơn vị khác, giống như chuyển khoảng cách từ bộ thành dặm và km. Oát (W) là đơn vì dùng để đo công suất hay dòng năng lượng. Thiết bị gia dụng được đo công suất bằng W: W càng cao thì thiết bị càng mạnh (và cần nhiều năng lượng hơn). Máy nước nóng có công suất 1.000 W sẽ dùng 1.000 W cho mỗi khi sử dụng. Thời gian cũng là một phần để đo năng lượng. Máy nước nóng 1.000 W sử dụng trong 1 giờ sẽ tiêu tốn 1 kilo-oat giờ (kWh). Ví dụ: một bóng đèn có công suất là 20 W chiếu sáng trong 100 giờ sử dụng thì sẽ tiêu tốn 2.000 oát giờ, hay là 2 kWh. Nói theo một cách đơn giản thì năng lượng là khả năng để làm một việc gì, năng lượng có trong mọi thứ xung quanh chúng ta và cần thiết cho tất cả các khía cạnh đời sống. Cơ thể chuyển thức ăn thành năng lượng để duy trì cuộc sống cho chúng ta. Nhiên liệu cung cấp năng lượng cho xe chạy. Năng lượng cũng tạo ra điện, cấp điện cho các hộ gia đình và doanh nghiệp. Tổng số năng lượng trong vũ trụ là có hạn – chúng ta không thể tạo ra hay tiêu hủy năng lượng, mà chỉ có thể chuyển đổi hay biến đổi nó. Khi chúng ta ăn một trái táo, cơ thể chúng ta chuyển đổi năng lượng từ trái táo thành năng lượng để chuyển động và chất bổ nuôi sống cơ thể. Khi đốt dầu, chúng ta biến đổi năng lượng trong dầu thành nhiệt. Truyền năng lượng từ hệ thống này sang hệ thống khác làm giảm số năng lượng có sẵn. Ví dụ, một số năng lượng bị “thất thoát” mỗi lần truyền từ nhà máy điện đến đường dây điện rồi về nơi sử dụng. Do đó hiệu quả năng lượng rất quan trọng. Bóng đèn LED mới hơn sẽ "làm thất thoát" ít năng lượng và lãng phí ít nhiệt hơn khi truyền và thắp sáng đến mắt của quý vị, so với bóng đèn nhiệt quang cũ kém hiệu quả. Jun (Joules, hay J), calo, éc, Oát (W) giờ và BTU là tất cả những đơn vị năng lượng dùng để đo năng lượng tạo ra và dùng cho những mục đích khác nhau. Rất dễ chuyển năng lượng từ đơn vị này thành đơn vị khác, giống như chuyển khoảng cách từ bộ thành dặm và km. Oát (W) là đơn vì dùng để đo công suất hay dòng năng lượng. Thiết bị gia dụng được đo công suất bằng W: W càng cao thì thiết bị càng mạnh (và cần nhiều năng lượng hơn). Máy nước nóng có công suất 1.000 W sẽ dùng 1.000 W cho mỗi khi sử dụng. Thời gian cũng là một phần để đo năng lượng. Máy nước nóng 1.000 W sử dụng trong 1 giờ sẽ tiêu tốn 1 kilo-oat giờ (kWh). Ví dụ: một bóng đèn có công suất là 20 W chiếu sáng trong 100 giờ sử dụng thì sẽ tiêu tốn 2.000 oát giờ, hay là 2 kWh.
Năng lượng
Trong vật lý, năng lượng là đại lượng vật lý mà phải được chuyển đến một đối tượng để thực hiện một công trên, hoặc để làm nóng, các đối tượng. Năng lượng là một đại lượng được bảo toàn; định luật bảo toàn năng lượng cho biết năng lượng có thể được chuyển đổi thành các dạng khác nhau, nhưng không tự nhiên sinh ra hoặc mất đi. Đơn vị SI của năng lượng là jun, đó là công làm cho một đối tượng di chuyển với khoảng cách 1 mét để chống lại một lực có giá trị 1 newton. Các dạng năng lượng phổ biến bao gồm động năng của vật chuyển động, năng lượng tiềm tàng được lưu trữ bởi vị trí của vật trong trường lực (lực hấp dẫn, điện hoặc từ), năng lượng đàn hồi được lưu trữ bằng cách kéo căng vật thể rắn, năng lượng hóa học được giải phóng khi nhiên liệu bị đốt cháy, năng lượng bức xạ mang theo ánh sáng và năng lượng nhiệt do nhiệt độ của một vật thể. Khối lượng và năng lượng có liên quan chặt chẽ với nhau. Do sự tương đương năng lượng khối lượng, bất kỳ vật thể nào có khối lượng khi đứng yên (gọi là khối lượng nghỉ) cũng có một lượng năng lượng tương đương có dạng gọi là năng lượng nghỉ và bất kỳ năng lượng bổ sung nào (dưới mọi hình thức) mà vật thể có được ở trên năng lượng nghỉ sẽ tăng tổng khối lượng của vật thể giống như nó tăng tổng năng lượng của nó.
Khi Einstein lần đầu tiên tiên đoán rằng ánh sáng dịch chuyển với tốc độ giống nhau ở bất cứ đâu trong vũ trụ, nhà vật lý vĩ đại nhất thế kỉ 20 đã đóng nhãn tốc độ của nó là 299.792,458 km/giây. Nhưng đó không phải là tất cả. Trên thực tế, đây mới chỉ là bước khởi đầu của câu chuyện dài về tốc độ ánh sáng. Trước thế kỉ 20, khối lượng - thứ làm nên bạn, tôi và tất cả những gì chúng ta nhìn thấy - và năng lượng được coi là độc lập với nhau. Nhưng vào năm 1905, Lý thuyết Tương Đối Hẹp của Einstein đã thay đổi mãi mãi cách mà các nhà vật lý nhìn vũ trụ, bằng việc ràng buộc khối lượng và năng lượng vào một phương trình tuy đơn giản nhưng cực kì quan trọng E=mc^2. Về bản chất, phương trình này tiên đoán không có bất cứ thứ gì có khối lượng có thể đạt vận tốc bằng ánh sáng, chứ đừng nói là nhanh hơn. Nỗ lực thành công nhất của loài người trong việc tiệm cận tốc độ ánh sáng nằm trong các máy gia tốc hạt siêu mạnh như Máy Gia tốc Hạt Lớn (LHC) của CERN hay Tevatron của Mỹ. Các cỗ máy khổng lồ này (LHC thậm chí còn có chu vi vắt ngang qua dãy Alps, nằm trên cả lãnh thổ Pháp và Thụy Sĩ) có khả năng tăng tốc độ các hạ nguyên tử lên đến 99.99% tốc độ ánh sáng, tuy nhiên theo giải thích của nhà vật lý đạt giải Nobel David Gross, những hạt này sẽ không bao giờ chạm đến ngưỡng tốc độ vũ trụ. Bởi, để làm như thế cần vô hạn năng lượng (E), và trong quá trình đó, khối lượng (m) của vật thể cũng sẽ đi tới vô hạn, vốn là điều bất khả. Đó là lý do tại sao photon - phân tử của ánh sáng lại đạt được tốc độ này, vì chúng về bản chất không có khối lượng. Einstein là một biểu tượng điên rồ trong thời đại của ông. Tuy nhiên điên rồ lại luôn là đặc tính chung của các nhà vật lý, thế nên kể từ Einstein, họ đã luôn cố gắng tìm ra những thứ có khả năng đạt tốc độ nhanh hơn cả ánh sáng, mà vẫn tuân theo các nguyên tắc vũ trụ của Thuyết Tương Đối Hẹp. Rất nhiều ý tưởng sáng tạo trong số đó - trong khi không bác bỏ thế giới quan vũ trụ của Einstein - đã cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc hơn về đặc tính của ánh sáng cũng như địa hạt lượng tử. Bạn đã bao giờ tự hỏi, liệu có một luồng ánh sáng siêu mạnh nào có thể đi xuyên qua vũ trụ? Câu trả lời là KHÔNG. Đơn giản là vì vũ trụ của chúng ta không ngừng giãn nở với tốc độ cao hơn nhiều so với ánh sáng. Tốc độ này nằm khoảng 67.15 ± 1.2 (km/s)/Mpc, tức là gần 68 kilomet/ giây/ megaparcec. Điều này có nghĩa là bất cứ thiên hà nào đang cách chúng ta 10 megaparcec (khoảng 30 triệu năm ánh sáng) sẽ dần dần rời xa khỏi chúng ta với tốc độ 680 km/giây. Có hack trời thì ánh sáng từ Trái đất cũng không bao giờ có thể đến được thiên hà đó. Bạn ít nhất không cần phải dựa dẫm vào các nhà bác học điên với những thuyết kì dị để tìm ra những hạt "vô lượng" như thế. Khoảng không vũ trụ của chúng ta, do không chứa bất kì một thứ vật chất nào, chính là một vật thể không có khối lượng. Có thể nói thuyết tương đối áp dụng với tất cả những vật thể bên trong vũ trụ, nhưng không phải là chính bản thân vũ trụ. Đây chính là những gì mà các nhà vật lý Alan Guth và Andrei Linde giả thiết vào những năm 1980, về điều đã xảy ra ngay tức khắc sau Vụ Nổ Lớn Big Bang. Trong một phần một triệu tỉ tỉ (10^-24) của giây đầu tiên sau vụ nổ, vũ trụ đã liên tục tăng gấp đôi kích cỡ, và kết quả là rìa ngoài của nó mở rộng nhanh chóng, nhanh hơn tốc độ ánh sáng rất nhiều. Nghe qua thì Rối Lượng Tử có vẻ khó hiểu, bí hiểm và . hơi "rối", nhưng hiểu theo nghĩa sơ khai nhất thì đây chỉ là cách mà các hạt hạ phân tử "giao tiếp" với nhau. Và điều thú vị mà các nhà nghiên cứu đã chỉ ra, đó là quá trình giao tiếp này thậm chí còn nhanh hơn cả ánh sáng. "Nếu tôi đặt hai electron nằm rất gần nhau, chúng sẽ giao động cùng tần số theo thuyết lượng tử," nhà vật lý Kaku Michio lý giải với Big Think. Giờ nếu chia rẽ hai electron đó sao cho chúng cách nhau hàng trăm hoặc thậm chí hàng ngàn năm ánh sáng, và chúng sẽ giữ cho kết nối chốc lát này mở rộng. "Nếu tôi lắc nhẹ một electron, thì ngay lập tức electron còn lại sẽ cảm nhận được rung chấn, nhanh hơn so với tốc độ ánh sáng. Einstein cho rằng không có gì có thể đi nhanh hơn ánh sáng, vậy nên trong quá khứ ông đã là một trong những người phản đối thuyết lượng tử quyết liệt nhất," Kaku viết thêm. Trên thực tế vào năm 1935, Einstein cùng với Boris Podolsky và Nathan Rosen đã thử bác bỏ thuyết lượng tử bằng một thí nghiệm tư duy mà Einstein gọi là "các tác động ma quỷ ở khoảng cách xa". Khá hài hước khi thí nghiệm này của họ lại đặt nền móng cho cái mà ngày nay chúng ta gọi là nghịch lý EPR( Einstein-Podolsky-Rosen), một nghịch lý mô tả chính xác hiện tượng kết nối tức thì trong rối lượng tử vừa được miêu tả ở trên. Khả năng về một loại hạt dịch chuyển nhanh hơn ánh sáng lần đầu được đề xuất vào năm 1962 bởi nhà vật lý E.C.G Sudarshan và các đồng sự, mặc dù lúc đầu họ sử dụng thuật ngữ "siêu-hạt". Trong bài luận văn viết năm 1967 của mình, Gerald Feinberg đã lần đầu sử dụng thuật ngữ "Tachyon" - vốn bắt nguồn từ từ Tachy có nghĩa là nhanh trong tiếng Hy Lạp - đồng thời đề xuất các hạt tachyon có thể trở thành một lượng tử ( nghĩa là- một lượng nhỏ nhất của năng lượng phát xạ) trong vật lý với một khối lượng tưởng tượng". Tuy nhiên cộng đồng khoa học đã sớm nhận ra rằng sự kích thích trường khối lượng tưởng tượng như thế, về bản chất không truyền nhanh hơn ánh sáng, mà thay vào đó biểu diễn một trạng thái không ổn định được biết tới với cái tên ngưng tụ tachyon. Nếu một hạt như thế tồn tại, loài người có thể xây nên những "tachyonic antitelephone", một thiết bị tưởng tượng có khả năng truyền sóng nhanh hơn ánh sáng, và thậm chí, truyền ngược về quá khứ. Đây có thể chính là nền tảng của du hành thời gian!. Einstein (bạn còn kỳ vọng khác nữa?) một lần nữa bác bỏ điều này trong thí nghiệm nổi tiếng của mình năm 1907, khi chứng minh các tín hiệu nhanh hơn ánh sáng có thể dẫn đến việc vi phạm luật nhân quả. Nón không-thời gian là một biểu trưng vật lý quan trọng của luật nhân quả, được lấy cảm hứng từ hình ảnh ném 1 hòn đá xuống mặt nước. Bất cứ vật thể nào di chuyển nhanh hơn tốc độ ánh sáng đều vượt ra ngoài đường biên quá khứ(nón dưới) và tương lai (nón trên). Mặc dù Einstein đã chà đạp không thương tiếc lên giấc mộng du hành vũ trụ của chúng ta với thuyết Tương Đối Hẹp, nhưng may quá ông lại còn nghĩ ra thêm Thuyết Tương Đối rộng. Hẹp thì kết nối khối lượng với năng lượng lại, trong khi Rộng lại đan quện thời gian với không gian vào nhau. "Cách duy nhất để đạp đổ giới hạn tốc độ ánh sáng là thông qua thuyết Tương Đối rộng và sự bẻ cong không thời gian," Kaku viết. Sự bẻ cong này được chúng ta gọi thông tục là "lỗ giun" hay "cầu Einstein-Rosen", với giả định rằng nó sẽ giúp du hành một khoảng cách xa trong nháy mắt. Vào năm 1988, nhà vật lý lý thuyết Kip Thorne đã sử dụng các phương trình của thuyết tương đối rộng để tiên đoán về khả năng mở khóa lỗ giun thông qua cái gọi là "vật chất tối". Khi các vật thể dịch chuyển nhanh hơn vận tốc âm thanh, chúng tao ra vụ nổ âm thanh. Tương tự, khi thứ gì đó dịch chuyển nhanh hơn tốc độ ánh sáng, chúng cũng tạo ra một thứ gọi là "vụ nổ ánh sáng". Trên thực tế, đây là điều diễn ra hàng ngày ở khắp nơi - người ta gọi nó là bức xạ Cherenkov, lấy theo tên của nhà khoa học Xô Viết đạt giải Nobel Pavel Alekseyevich Cherenkov. Về mặt vật lý mà nói, ánh sáng dịch chuyển với tốc độ c/n ở môi trường có chỉ số khúc xạ n (không phải môi trường chân không). Điều thú vị là ở chỗ trong một vài môi trường như vậy, tồn tại các hạt di chuyển nhanh hơn tốc độ c/n (nhưng vẫn chậm hơn c), và điều nãy dẫn đến hiện tượng bức xạ Cherenkov. Bức xạ Cherenkov sở dĩ bừng sáng là bởi nguyên lý cốt lõi trong Lò phản ứng Thí nghiệm Cao cấp là việc giữ nó trong nước để làm lạnh. Trong nước, ánh sáng chỉ còn di chuyển với 75% tốc độ mà nó di chuyển trong chân không, tuy nhiên các electron được tạo nên bởi phản ứng trong lò di chuyển trong nước nhanh hơn cả ánh sáng . Các hạt như electron vượt qua tốc độ ánh sáng trong nước, hay các dung môi khác như thủy tinh, tạo nên các sóng kích tương tự như từ các vụ nổ âm thanh. Chiều 28/8, Bộ Y tế thông tin chính thức về cuộc họp khẩn cấp của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh quốc gia ngày 22/8, xem xét kết quả giữa kỳ thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3a ứng viên vắc xin Nanocovax.
Tốc độ ánh sáng
Tốc độ ánh sáng (một cách tổng quát hơn, tốc độ lan truyền của bức xạ điện từ) trong chân không, ký hiệu là c, là một hằng số vật lý cơ bản quan trọng trong nhiều lĩnh vực vật lý. Nó có giá trị chính xác bằng 299.792.458 mét trên giây, bởi vì đơn vị độ dài mét được định nghĩa lại dựa theo hằng số này và giây tiêu chuẩn. Theo thuyết tương đối hẹp, c là tốc độ cực đại mà mọi năng lượng, vật chất, và thông tin trong vũ trụ có thể đạt được. Nó là tốc độ cho mọi hạt phi khối lượng liên kết với các trường vật lý (bao gồm bức xạ điện từ như photon ánh sáng) lan truyền trong chân không. Nó cũng là tốc độ truyền của hấp dẫn (như sóng hấp dẫn) được tiên đoán bởi các lý thuyết hiện tại. Những hạt và sóng truyền với vận tốc c không kể chuyển động của nguồn hay của hệ quy chiếu quán tính của người quan sát. Trong thuyết tương đối, c có liên hệ với không gian và thời gian, và do vậy nó xuất hiện trong phương trình nổi tiếng sự tương đương khối lượng-năng lượng E = mc2.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng nhiệt huyết, hết lòng vì nước, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản tinh thần hết sức sâu sắc, cao cả không chỉ góp phần to lớn và quyết định vào thắng lợi của dân tộc trong những năm qua mà còn có ý nghĩa chỉ đạo lâu dài cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta. Tổng hợp những giá trị tinh thần đó là tư tưởng Hồ Chí Minh. “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”. – Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. – Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. – Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát huy giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hoá nhân loại. – Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua, tiếp tục soi sáng con đường cách mạng Việt Nam trong thời gian tới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết, hệ thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Các nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển gắn với các thời kì hoạt động của Hồ Chí Minh trong phong trào cách mạng Việt Nam và quốc tế vào đầu và giữa thế kỷ 20. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh nhận định Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh của văn hóa dân tộc Việt Nam, tư tưởng cách mạng Pháp, tư tưởng tự do của Hoa Kỳ, lý tưởng cộng sản Marx - Lenin, tư tưởng văn hóa phương Đông, văn hóa phương Tây và phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được xác định là một hệ tư tưởng chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam bên cạnh chủ nghĩa Mác-Lênin, được chính thức đưa ra từ Đại hội VII của Đảng.
Siêu cường trong tiếng Anh là Superpower. Siêu cường là khái niệm dùng để chỉ một quốc gia đứng hàng đầu trong hệ thống quốc tế, có khả năng gây ảnh hưởng tới nền kinh tế – chính trị quốc tế và phô trương sức mạnh của mình trên phạm vi toàn thế giới. Trong địa chính trị thế giới, người ta phân biệt hai khái niệm siêu cường và cường quốc trong đó siêu cường thường được coi có mức quyền lực cao hơn cường quốc. - Khái niệm "siêu cường" bản thân nó đã mang hàm ý rằng tồn tại một hệ thống thứ bậc giữa các quốc gia trên thế giới. - Trong hệ thống đó, quốc gia siêu cường đóng vai trò lãnh đạo chủ chốt và có khả năng giành được sự tôn trọng và trung thành của các quốc gia khác. Trong phạm vi ảnh hưởng của mình, quốc gia siêu cường có thể áp đặt ý chính chính trị của mình lên các quốc gia nhỏ khác mà không e ngại bị trả đũa hay trừng phạt. - Về mặt tiêu chí, quốc gia siêu cường không chỉ cần có khả năng triển khai quyền lực quân sự của mình một cách hiệu quả trên phạm vi toàn cầu hoặc ở xa lãnh thổ của mình mà cũng cần phải sở hữu những nguồn lực quân sự khổng lồ, như hệ thống vũ khí, trang thiết bị tối tân cùng với các công nghệ quân sự hiện đại. - Ngoài ra, quốc gia siêu cường cũng cần đảm nhận những nghĩa vụ đặc biệt liên quan đến việc duy trì trật tự quốc tế và được nắm giữ một địa vị đặc quyền trong các tổ chức quốc tế quan trọng, chẳng hạn như Liên Hiệp Quốc. Thuật ngữ "siêu cường" đã được sử dụng để miêu tả các quốc gia có vị thế lớn hơn vị thế cường quốc ngay từ đầu thập niên 1930, và đến giữa những năm 1940, lần đầu tiên thuật ngữ này được sử dụng để chỉ Hoa Kỳ, Liên Xô và Đế chế Anh sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tuy nhiên, sau đó Đế chế Anh dần mất ảnh hưởng, tan rã và Liên Xô cùng Hoa Kỳ được coi là hai siêu cường duy nhất trong thời kì Chiến tranh lạnh.
Siêu cường quốc
Siêu cường quốc hay Siêu cường là cấp độ cao nhất trong hệ thống phân loại và xếp hạng các Cường quốc trên thế giới ngày nay, dùng để chỉ một quốc gia có sức mạnh đặc biệt, đứng hàng đầu trong hệ thống quốc tế, có khả năng gây ảnh hưởng tới toàn bộ sự kiện cũng như phô trương sức mạnh trên phạm vi toàn cầu. Siêu cường quốc có sức mạnh, duy trì mức độ quyền lực cùng tầm ảnh hưởng quốc tế cao hơn Đại cường quốc. Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tiên năm 1943 để chỉ Liên bang Xô viết, Hoa Kỳ và Đế quốc Anh. Tuy nhiên, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống thuộc địa dần tan rã khiến cho Anh Quốc mất dần tầm ảnh hưởng, chỉ còn Liên bang Xô viết cùng Hoa Kỳ được coi là 2 siêu cường trong thời gian diễn ra Chiến tranh Lạnh, tuy nhiên, giai đoạn sau khi cuộc chiến này kết thúc cùng với sự tan rã và sụp đổ của Liên Xô thì chỉ còn có Hoa Kỳ được coi là hội tụ đầy đủ tất cả những sức mạnh, yếu tố, phẩm chất cùng điều kiện để được coi là 1 Siêu cường hoàn chỉnh hiện nay.
Gel vuốt tóc là một sản phẩm tạo kiểu tóc được sử dụng để hóa cứng tóc thành một kiểu tóc riêng biệt. Phân tích xác ướp Ai Cập cổ đại cho biết họ đã tạo kiểu tóc bằng gel có chất béo. Các nhà nghiên cứu đằng sau phân tích này cho rằng người Ai Cập đã sử dụng sản phẩm này để đảm bảo rằng phong cách của họ vẫn giữ được vị trí lúc sống và chết. Natalie McCreesh, một nhà khoa học khảo cổ từ Trung tâm nghiên cứu Ai Cập cổ đại Y sinh KNH tại Đại học Manchester, Anh và đồng nghiệp của bà đã nghiên cứu các mẫu tóc lấy từ 18 xác ướp. Người cao tuổi nhất là khoảng 3.500 năm tuổi, nhưng phần lớn được khai quật từ nghĩa trang ở Ốc đảo Dakhleh ở sa mạc phía Tây và niên đại từ thời kỳ Hy Lạp-La Mã, khoảng 2.300 năm trước. Thi hài đầm lầy người đàn ông Clonycavan ở Ailen đã có carbon phóng xạ niên đại từ năm 392 TCN đến 201 TCN, đã sử dụng một loại gel làm từ nhựa cây thông từ Tây Ban Nha hoặc tây nam nước Pháp. Năm 1929, công ty Chemico Works của Anh đã phát minh ra Brylcreem, trở thành đứng đầu thị trường trong số các sản phẩm tạo kiểu tóc ở cả Anh và Mỹ trong những thập kỷ tiếp theo. Trong những năm 1960, gel vuốt tóc hiện đại được phát minh ở Hoa Kỳ, bởi cái mà sau này được đổi tên thành Tổng công ty Dep. Gel tạo kiểu tóc hiện đại được nhà phát minh Luis Montoya ra mắt dưới tên nhãn hiệu Dep. Công thức này gồm chất dẻo đơn nhất, không béo nhờ: diethyl phthalate, thường được viết tắt là DEP. Nhiều nhãn hiệu gel vuốt tóc ở Bắc Mỹ và Anh phân loại phiên bản được đánh số. Loại gel có chỉ số cao hơn sẽ duy trì “dáng tóc” nhiều trên tóc, trong khi chỉ số thấp hơn không làm cho tóc cứng và một số sản phẩm tạo cho mái tóc ướt. Một loại thường được gọi là gel “sắc tộc” được thiết kế và sản xuất đặc biệt cho điêu khắc kết cấu tóc phổ biến cho người Mỹ gốc Phi. Một số dạng gel tóc được bán cho người tiêu dùng, những người muốn vuốt nhọn tóc họ theo phong cách xuất hiện từ tiểu văn hoá hardcore punk vào những năm 1980. Một số gel tóc bao gồm màu tóc tạm thời, bao gồm các biến thể màu sắc không tự nhiên liên quan đến các tiểu văn hoá khác nhau, như thời trang Gothic và văn hóa quẩy. Polyme cation là một trong những thành phần chức năng chính của gel tóc. Đặc tính tích cực trong polyme khiến chúng căng duỗi, làm cho gel nhớt hơn. Gel tóc chống lại các cấu tạo protein tự nhiên và cho phép tạo kiểu tóc và tạo bề mặt tóc, bởi vì polyme giãn ra chiếm nhiều không gian hơn polyme cuộn và do đó chống lại luồng phân tử dung môi xung quanh nó. Các điện tích dương cũng liên kết gel với các amino acid tích điện âm trên bề mặt các phân tử keratin trong tóc.
Gel vuốt tóc
Gel vuốt tóc là một sản phẩm tạo kiểu tóc được sử dụng để hóa cứng tóc thành một kiểu tóc riêng biệt. Phân tích xác ướp Ai Cập cổ đại cho biết họ đã tạo kiểu tóc bằng gel có chất béo. Các nhà nghiên cứu đằng sau phân tích này cho rằng người Ai Cập đã sử dụng sản phẩm này để đảm bảo rằng phong cách của họ vẫn giữ được vị trí lúc sống và chết. Natalie McCreesh, một nhà khoa học khảo cổ từ Trung tâm nghiên cứu Ai Cập cổ đại Y sinh KNH tại Đại học Manchester, Anh và đồng nghiệp của bà đã nghiên cứu các mẫu tóc lấy từ 18 xác ướp. Người cao tuổi nhất là khoảng 3.500 năm tuổi, nhưng phần lớn được khai quật từ nghĩa trang ở Ốc đảo Dakhleh ở sa mạc phía Tây và niên đại từ thời kỳ Hy Lạp-La Mã, khoảng 2.300 năm trước. Thi hài đầm lầy người đàn ông Clonycavan ở Ailen đã có carbon phóng xạ niên đại từ năm 392 TCN đến 201 TCN, đã sử dụng một loại gel làm từ nhựa cây thông từ Tây Ban Nha hoặc tây nam nước Pháp.
Hiện Mai Lệ Huyền sống cùng con gái tại tiểu bang California - Mỹ. Dù tuổi cao, sức yếu, làn hơi không còn như trước nhưng nữ ca sĩ này vẫn không có ý định giã từ sân khấu. Bà nhiệt tình tham gia các chương trình từ thiện gây quỹ giúp đỡ các mái ấm tình thương trong nước. Sau khi danh ca Hùng Cường qua đời, bà chọn nghệ sĩ Tuấn Châu (từng cộng tác cho đoàn cải lương tuồng cổ Minh Tơ, có vai diễn nổi tiếng là Trần Lâm trong vở "Bích Vân Cung kỳ án" do NSND Thanh Tòng dàn dựng những năm 1990), làm bạn diễn. Bà và Tuấn Châu thường xuyên bay sô sang các tiểu bang có đông khán giả kiều bào để tham gia diễn kịch, làm các sô truyền hình phục vụ cộng đồng. Cách đây 2 năm, Mai Lệ Huyền bị tai nạn giao thông nặng đến mức tưởng chừng không có cơ hội quay lại sàn diễn. Tuy nhiên, bằng nỗ lực luyện tập của mình và sự hỗ trợ từ các bác sĩ chuyên khoa, bà hồi phục và quay lại sân khấu. Bà tâm sự sẽ diễn đến khi không còn hơi thở. Nổi tiếng ở Sài Gòn những năm thập niên 1960 của thế kỷ trước, Mai Lệ Huyền (tên thật Nguyễn Thu Cúc, sinh năm 1946) vẫn là “nữ hoàng nhạc sôi động", “búp bê lửa” trong lòng người hâm mộ. Nhạc sĩ Mạc Thế Nhân, tác giả ca khúc “Cho vừa lòng em” mỗi khi nhắc về Mai Lệ Huyền thường dùng cụm từ “cô bé hát thế vụt thành sao”. Bởi ít ai biết dù ngoại hình xinh đẹp, giọng ca hút hồn nhưng Mai Lệ Huyền chưa bao giờ dám mơ trở thành ca sĩ, tính tình có phần nhút nhát. Nếu không có cơ duyên, có lẽ, làng nhạc Sài Gòn sẽ chẳng có "búp bê lửa" từng khuấy động một thời. “Năm đó, khi Mai Lệ Huyền đang học tại Trường Trung học Bình Long, nơi tổ chức chương trình văn nghệ do ban nhạc Tân Dân Nam tổ chức nhằm gây quỹ từ thiện. Do ca sĩ Yến Vỹ nổi tiếng thời đó bị bệnh đột xuất không thể có mặt tham gia chương trình, Lệ Huyền bị bắt ra hát thế bài “Duyên quê” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ. Cô được khán giả tán thưởng. Và đến bài "Lệ đá" của Trần Trịnh, Lệ Huyền thực sự chinh phục khán giả. Mai Lệ Huyền mang hai dòng máu Việt – Lào nên bà có một vẻ đẹp cuốn hút, nụ cười thân thiện, điệu nhảy rất “bốc lửa”. Ca sĩ Hồng Vân nhận định thời đó Lệ Huyền có cách mặc tân thời, kèm theo dòng nhạc sôi động, bà được xem là biểu tượng gợi cảm trong làng nhạc trẻ Sài Gòn. “Ngày xưa các ban nhạc ở vũ trường rất giỏi, họ rèn giũa ca sĩ kỹ lưỡng nên chúng tôi tập dữ dội. Mỗi bài hát mới trước khi được chính thức biểu diễn, chúng tôi phải tập đến hết hơi. Ngày nay, nhiều ca sĩ hát rồi thu đĩa bán, dùng kỹ thuật chỉnh sửa nhiều nên đôi lúc hát như cái máy, khó mà hay và giỏi nghề. Tôi nhớ mãi những kỷ niệm đẹp của đời ca sĩ, nhớ về khán giả, sân khấu quê nhà, nơi đã cho tôi những bước khởi đầu cuộc đời ca hát” – Mai Lệ Huyền tâm sự. Trong cuộc đời mình, Mai Lệ Huyền nhớ mãi cơ duyên gặp gỡ chồng là nhạc sĩ Trần Trịnh – tác giả của ca khúc "Hai sắc hoa ti gôn", "Lệ đá"… đã qua đời năm 2012. “Sau khi hát ở Bình Long trong đêm diễn của ban nhạc Tân Dân Nam, tôi và Trần Trịnh thường thư từ qua lại rồi nảy sinh tình cảm. Anh ấy đề nghị tôi về Sài Gòn tiếp tục con đường ca hát. Tôi nhận lời và chỉ sau một thời gian ngắn chúng tôi kết hôn và có với nhau một cô con gái tên Lệ Trinh, hiện cũng là ca sĩ. Trần Trịnh giới thiệu tôi đi hát ở tất cả những phòng trà, vũ trường nơi anh cộng tác. Khởi đầu là phòng trà Lệ Liễu, vì nhận thấy giọng hát của tôi thích hợp với thể loại nhạc tươi vui, anh ấy cùng nhạc sĩ Nhật Ngân sáng tác nhạc sôi động để tôi trình diễn song ca cùng ca sĩ Hùng Cường như: "Gặp nhau trên phố", "Vòng hoa yêu thương", "Hai trái tim vàng", "Túp lều lý tưởng" v.v…" - Mai Lệ Huyền nhớ lại. Năm 1971, bà và Trần Trịnh chia tay. Nhạc sĩ này ở lại quê hương và lập gia đình lần thứ hai, có 3 con trai. Bà nhớ Trần Trịnh không chỉ vì mối tình của hai người mà còn là sự biết ơn với người nhạc sĩ đã hỗ trợ, đưa tên tuổi bà lên hàng sao với những nhạc phẩm ấn tượng. Không chỉ dừng lại ở việc biểu diễn, khi nổi tiếng, số tiền thù lao tích lũy đủ để bà "thầu" vũ trường Đệ nhất khách sạn ở Tân Bình làm sân khấu riêng. Mỗi đêm, bà mời thêm các đồng nghiệp nổi tiếng cùng thời như: Thanh Tuyền, Phương Dung, Carol Kim, Phương Hồng Quế, Ngọc Hiếu, Mai Ly… cùng tham gia biểu diễn. Trong nghiệp “làm bầu”, Mai Lệ Huyền góp phần lăng xê ca sĩ Jeannie Mai và Thái Châu. “Do đó, mỗi khi nhắc đến chị Mai Lệ Huyền, chúng tôi rất cảm kích cách sống và nghĩa cử của chị” – ca sĩ Thái Châu nói. Ngoài ra, Mai Lệ Huyền còn tham gia đóng phim, diễn kịch. Bà đã đóng các bộ phim tâm lý xã hội, đầy màu sắc diễm tình như: "Gác chuông nhà thờ", "Mãnh lực đồng tiền", "Nhà tôi", "Còn gì cho nhau".
Mai Lệ Huyền
Mai Lệ Huyền tên thật là Nguyễn Thu Cúc (sinh năm 1946 tại Bình Long) là một nữ ca sĩ người Mỹ gốc Việt nổi tiếng từ trước 1975 tại miền Nam Việt Nam. Mai Lệ Huyền và Hùng Cường được mệnh danh là "cặp đôi sóng thần", đã cùng nhau tạo nên những hiện tượng chưa từng có trong làng nhạc, nhận được sự hâm mộ rất cuồng nhiệt của khán giả. Được giới mộ điệu đặt cho biệt danh Búp bê lửa và Nữ hoàng nhạc kích động. Bà Mai Lệ Huyền sinh tại tỉnh Bình Long với nguyên danh Nguyễn Thu Cúc, mang huyết thống Lào từ mẹ. Đầu thập niên 1960, khi cô Nguyễn Thu Cúc còn theo học trường Trung học Bình Long, ban giám hiệu mời được gánh Dân Nam với những Anh Lân, Túy Phượng, Yến Vỹ, Trần Trịnh, Đinh Việt Lang. trình diễn những ca khúc sôi nổi nhằm gây quỹ từ thiện. Hôm ấy, Yến Vỹ trở bịnh đột ngột, ông bầu Anh Lân bèn ngỏ ý mời trường cử một giọng ca học sinh thế chỗ. Ban văn nghệ trường bèn cử cô học trò Nguyễn Thu Cúc vừa đoạt giải Tiếng Hát Hay Nhất Trường ra diễn đêm ấy.
Ngữ hệ Ấn-Âu là một ngữ hệ lớn có nguồn gốc từ Tây và Nam đại lục Á-Âu. Nó bao gồm hầu hết ngôn ngữ của châu Âu cùng với các ngôn ngữ ở sơn nguyên Iran và miền bắc tiểu lục địa Ấn Độ. Một số ngôn ngữ Ấn-Âu, chẳng hạn như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Tây Ban Nha đã lan rộng nhờ làn sóng thuộc địa hóa của người châu Âu và hiện được sử dụng trên khắp thế giới. Hệ Ấn-Âu được chia thành nhiều nhánh, lớn nhất phải kể đến đó là các nhóm Ấn-Iran, German, Rôman và Balt-Slav. Các ngôn ngữ có số người nói lớn nhất là tiếng Tây Ban Nha, tiếng Anh, tiếng Hindustan (tiếng Hindi/Urdu), tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Bengal, tiếng Marathi, tiếng Punjab và tiếng Nga (mỗi thứ tiếng có hơn 100 triệu người nói). Tiếng Đức, Pháp, Ý và Ba Tư đều có hơn 50 triệu người nói. Tổng cộng, 46% dân số thế giới (3,2 tỷ người) có tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ Ấn-Âu, đông đảo nhất so với bất kỳ ngữ hệ nào khác. Theo ước tính của Ethnologue, có khoảng 445 ngôn ngữ Ấn-Âu đang được nói, hơn 2/3 (313) trong số đó thuộc nhánh Ấn-Iran. Tất cả các ngôn ngữ Ấn-Âu đều có nguồn gốc từ một ngôn ngữ duy nhất, được các nhà ngôn ngữ phục dựng thành tiếng Ấn-Âu nguyên thuỷ được nói ở một thời điểm nào đó vào thời đại đồ đá mới. Quê nhà chính xác của nó, được gọi là urheimat Ấn-Âu, vẫn chưa được tìm ra và là chủ đề của nhiều học thuyết cạnh tranh; được chấp nhận rộng rãi nhất là thuyết Kurgan, cho rằng urheimat là vùng thảo nguyên Pontus–Caspi, gắn với văn hóa Yamnaya có niên đại vào khoảng 3000 năm TCN. Vào thời điểm những bản ghi chép đầu tiên xuất hiện, ngữ hệ Ấn-Âu đã phân tách thành nhiều ngôn ngữ độc lập, được sử dụng trên hầu khắp châu Âu cũng như Tây và Nam Á. Văn liệu của ngôn ngữ Ấn-Âu xuất hiện vào thời kỳ đồ đồng dưới dạng tiếng Hy Lạp Mycenaea và các ngôn ngữ Anatolia (tiếng Hitti và tiếng Luwia). Còn tư liệu lâu đời nhất là một số từ vựng và tên riêng tiếng Hitti lẻ tẻ (xen kẽ trong các văn bản tiếng Assyria cổ thuộc ngữ tộc Semit) xuất hiện trong các văn bản cổ tại thuộc địa Kültepe của người Assyria miền đông Anatolia vào thế kỷ XX TCN. Mặc dù người Ấn-Âu nguyên thuỷ cổ hơn không để lại bất kỳ văn liệu nào, một số khía cạnh về văn hóa và tôn giáo của họ có thể được phục dựng từ những bằng chứng sau này của các nền văn hóa hậu duệ. Hệ Ấn-Âu có ý nghĩa quan trọng đối với lĩnh vực ngôn ngữ học lịch sử vì ngữ hệ này sở hữu lịch sử được ghi chép cổ thứ hai so với bất kỳ hệ nào được biết đến, chỉ đứng sau ngữ hệ Á-Phi với tiếng Ai Cập và các ngôn ngữ Semit. Việc phân tích mối liên hệ giữa các ngôn ngữ Ấn-Âu và việc phục dựng lại nguồn gốc chung giữa chúng là trọng tâm cho sự phát triển phương pháp luận của ngành ngôn ngữ học lịch sử thành một ngành khoa học hàn lâm vào thế kỷ XIX. Hệ ngôn ngữ Ấn-Âu hiện không có liên hệ với bất kỳ ngữ hệ nào khác, mặc dù một số đề xuất gây tranh vẫn đã được đưa ra. Vào thế kỷ XVI, những người châu Âu đi đến tiểu lục địa Ấn Độ bắt đầu nhận ra những nét tương tự giữa các ngôn ngữ Ấn-Arya, Iran, và châu Âu. Năm 1583, nhà truyền giáo Dòng Tên người Anh Thomas Stephens tại Goa đã viết một lá thư cho người thân (không được công bố cho tới tận thế kỷ XX), mà trong đó ông đề cập đến sự tương đồng giữa ngôn ngữ Ấn Độ (đặc biệt là tiếng Phạn) với tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh. Năm 1647, học giả và nhà ngôn ngữ học người Hà Lan Marcus Zuerius van Boxhorn chú ý đến nét tương tự ở một số ngôn ngữ châu Á và châu Âu nhất định, và cho rằng chúng xuất phát một ngôn ngữ chung gọi là Scythia. Các ngôn ngữ trong giả thuyết của ông gồm tiếng Hà Lan, tiếng Albania, tiếng Hy Lạp, tiếng Latinh, tiếng Ba Tư, và tiếng Đức, sau đó cho thêm vào các ngôn ngữ Slav, các ngôn ngữ Celt, và các ngôn ngữ gốc Balt. Ý kiến của Van Boxhorn không phổ biến và cũng không giúp khuyến khích nghiên cứu sâu hơn. Thomas Young lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ Indo-European năm 1813, dựa trên phân bố địa lý của hệ này: từ Tây Âu tới Bắc Ấn Độ. ), xuất hiện năm 1810 bằng tiếng Pháp (indo-germanique) trong nghiên cứu của Conrad Malte-Brun; thuật ngữ này hiện bị xem là lỗi thời và ít phổ biến hơn Indo-European, dù trong tiếng Đức indogermanisch vẫn là thuật ngữ chuẩn. Tiếng Albania, được chứng thực từ thế kỷ XIII; tiếng proto-Albania phát triển từ một ngôn ngữ Balkan cổ, thường được cho là tiếng Illyria; tuy nhiên, bằng chứng cho giả thuyết này không đủ để đi đến kết luận. Tiếng Anatolia, tuyệt chủng vào hậu kỳ cổ điển, được nói ở vùng Anatolia, được chứng thực bằng những thuật ngữ riêng biệt trong tiếng Luwian/Hittite được đề cập trong các văn bản viết bằng tiếng Assyria cổ của thế kỷ XX và XIX TCN, các văn bản Hittite từ khoảng 1650 TCN. Nhóm ngôn ngữ Balt-Slav, được hầu hết các học giả nghiên cứu Ấn-Âu cho là một nhánh riêng, trong khi một số ít cho rằng những điểm tương đồng là do sự tiếp xúc ngôn ngữ. Ngữ tộc Slav (từ tiếng Proto-Slav), được chứng thực từ thế kỷ thứ IX (có thể sớm hơn), các văn bản sớm nhất bằng tiếng Slav Giáo hội cổ. Nhánh Balt, được chứng thực từ thế kỷ XIV; so với các ngôn ngữ được chứng thực gần đây, chúng vẫn giữ nhiều đặc điểm rất cổ xưa của proto Ấn-Âu (PIE). Ví dụ còn tồn tại là tiếng Lithuania và tiếng Latvia. Ngữ tộc Celt (từ tiếng Proto-Celt), được chứng thực từ thế kỷ thứ VI TCN; Các bản khắc bằng tiếng Lepontic có niên đại sớm nhất là vào thế kỷ thứ VI TCN; tiếng Celtiberi từ thế kỷ thứ II TCN; Các bản khắc Ogham của người Ireland nguyên thủy từ thế kỷ IV hoặc V, các bản khắc sớm nhất trong tiếng Welsh Cổ từ thế kỷ VII. Các ngôn ngữ German (từ tiếng Proto-German), được chứng thực sớm nhất trong các bản khắc chữ runic từ khoảng thế kỷ thứ II, các văn bản mạch lạc sớm nhất của tiếng Goth, thế kỷ IV. Các thủ bản cũ của Anh từ khoảng thế kỷ thứ VIII. Nhóm ngôn ngữ Hy Lạp và tiếng Hy Lạp (từ tiếng Proto-Hy Lạp); các ghi chép rời rạc trong tiếng Hy Lạp Mycenaea từ giữa năm 1450 đến 1350 TCN đã được tìm thấy. Văn bản của Homeros có niên đại vào thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên. Các ngôn ngữ Ấn-Iran, được chứng thực vào khoảng những năm 1400 TCN, là hậu duệ của tiếng Proto-Ấn-Iran (có niên đại vào cuối thiên niên kỷ thứ 3 TCN). Ngữ chi Ấn-Arya (bao gồm cả tiếng Dardic), được chứng thực từ khoảng những năm 1400 TCN trong các văn bản Hittite từ Anatolia, có dấu vết của từ vựng Ấn-Arya. Các bản khắc kim thạch từ thế kỷ thứ 3 TCN dưới dạng tiếng Prakrit (Chỉ dụ của Ashoka). Tiếng Rigveda được cho là được lưu giữ nguyên vẹn thông qua truyền khẩu có niên đại từ khoảng giữa thiên niên kỷ thứ hai TCN dưới dạng Vedic Sanskrit. Nhánh Iran, được chứng thực từ khoảng năm 1000 TCN dưới dạng tiếng Avesta. Các bản khắc kim thạch từ năm 520 TCN dưới dạng chữ Ba Tư Cổ (chữ khắc Behistun). Nhóm ngôn ngữ gốc Ý (từ tiếng Proto-Ý), được chứng thực từ thế kỷ thứ VII TCN. Hai ngôn ngữ của nhánh này tồn tại (Turfani và Kuche, hoặc Tochari A và B), được chứng thực từ khoảng thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ IX. Các ngôn ngữ này bị mai một dưới sự cai trị của Vương quốc Hồi Cốt và có thể đã tuyệt chủng vào thế kỷ XX. Ngoài mười nhánh cổ điển được liệt kê ở trên, một số ngôn ngữ và nhóm ngôn ngữ đã tuyệt chủng và ít được biết đến đã tồn tại hoặc được đề xuất là đã tồn tại. Các đường đồng ngữ tiêu biểu của các ngôn ngữ hậu duệ của tiếng Proto Ấn-Âu vào khoảng 500 TCN. Việc phân chia các ngôn ngữ Ấn-Âu thành các nhóm satem và centum được nhà ngôn ngữ học Peter von Bradke đưa ra vào năm 1890, mặc dù Karl Brugmann đã đề xuất một kiểu phân loại tương tự vào năm 1886. Ở các ngôn ngữ satem, bao gồm nhánh Balto-Slav và Ấn-Iran, cũng như (về hầu hết các khía cạnh) Albania và Armenia, các âm ngạc mềm bị ngạc cứng hóa của Proto-Ấn-Âu được phục dựng vẫn khác biệt và thường bị xát hóa, trong khi các âm ngạc mềm-môi hòa lẫn với ‘các âm ngạc mềm thường’. Ở các ngôn ngữ centum, các âm ngạc mềm bị ngạc cứng hóa này hòa lẫn với các ngạc mềm thường, trong khi các âm ngạc mềm-môi vẫn khác biệt. Ví dụ như từ “một trăm” trong tiếng Avesta (satem) và tiếng Latinh (centum) — âm ngạc mềm bị ngạc cứng hóa ban đầu đã biến thành âm xát ở Avesta, nhưng thành âm ngạc mềm thường ở Latinh. Đặc điểm này không phải là sự phân tách theo phả hệ, sự phân chia centum–satem thường được coi là kết quả của những thay đổi lan rộng trên các nhánh phương ngữ PIE trên một khu vực địa lý cụ thể; đường đồng ngữ centum–satem giao với một số đường đồng ngữ khác đánh dấu sự khác biệt giữa các đối tượng địa lý trong các nhánh IE sớm. Có thể là các nhánh centum trên thực tế phản ánh tình trạng ban đầu của tiếng PIE, và chỉ các nhánh satem chia sẻ một loạt các đổi mới, ảnh hưởng đến tất cả các khu vực ngoại vi của liên tục phương ngữ PIE. Kortlandt đề xuất rằng tổ tiên của tiếng Balt và Slav đã bị satem hóa trước khi bị ảnh hưởng bởi tây Ấn-Âu. Tiếng Proto-Ấn-Âu (PIE) được đề xuất là tổ tiên chung được tái tạo của các ngôn ngữ Ấn-Âu, được nói bởi người Proto-Ấn-Âu (sắc tộc ngôn ngữ). Từ những năm 1960, kiến thức về tiếng Anatolia đã đủ chắc chắn để thiết lập mối quan hệ của nó với PIE. Sử dụng phương pháp nội phục dựng, một giai đoạn trước đó, gọi là Tiền Proto-Ấn-Âu, đã được đề xuất. PIE là một ngôn ngữ biến tố, trong đó các mối quan hệ ngữ pháp giữa các từ được báo hiệu thông qua các hình vị biến tố (thường ở cuối một từ). Từ gốc của PIE là những hình vị cơ bản mang một ý nghĩa từ vựng. Các hậu tố được thêm vào để tạo thành các thân từ, và bằng cách thêm vào các phần cuối, chúng lại tạo thành các từ biến tố (danh từ hoặc động từ). Hệ thống động từ Ấn-Âu được phục dựng rất phức tạp và giống như danh từ, thể hiện tính biến âm sắc. Về mặt lịch sử, sự đa dạng hóa ngôn ngữ mẹ thành các nhánh ngôn ngữ con chưa được chứng thực. Tuy vậy, dòng thời gian của sự tiến hóa của các ngôn ngữ con hầu như không còn gì để bàn cãi, bất kể câu hỏi về nguồn gốc Ấn-Âu. Khi tiếng Proto-Ấn-Âu (PIE) phân tách, hệ thống âm thanh của nó cũng thay đổi theo, theo các quy luật âm thanh khác nhau được minh chứng trong các ngôn ngữ con. PIE thường được phục dựng lại với một hệ thống phức tạp gồm 15 phụ âm dừng, bao gồm sự phân biệt ngữ âm ba hướng bất thường (âm kêu) giữa các âm dừng vô thanh, hữu thanh và “hữu thanh bật hơi”, và sự phân biệt ba hướng giữa các phụ âm ngạc mềm (âm loại k) giữa “âm vòm” ḱ ǵ ǵh, “ngạc mềm thường” k g gh và ngạc mềm-môi kʷ gʷ gʷh. (tính chính xác của các thuật ngữ âm vòm và âm ngạc mềm thường còn bị tranh cãi) Tất cả các ngôn ngữ con đều tiêu giảm số lượng sự khác biệt giữa các âm thanh này, thường là theo những cách khác nhau. Giống như trong các ngôn ngữ centum khác, các âm dừng “ngạc mềm thường” và “vòm/ngạc cứng” hợp nhất, giảm số âm dừng từ 15 âm xuống còn 12 âm.
Ngữ hệ Ute-Aztec
Ngữ hệ Ute-Aztec, Ute-Aztek hoặc (hiếm khi) Ute-Nahuatl là một ngữ hệ bản địa châu Mỹ, bao gồm hơn 30 ngôn ngữ khác nhau. Các ngôn ngữ Ute-Aztec chỉ được tìm thấy ở miền Tây Hoa Kỳ và Mexico. Ngữ hệ này được đặt tên theo hai ngôn ngữ nổi bật trong nhóm, đó là tiếng Ute của Utah và ngữ tộc Nahua (còn được gọi là Aztec) của Mexico. Ngữ hệ Ute-Aztec là một trong những ngữ hệ lớn nhất châu Mỹ về số lượng người nói, số lượng ngôn ngữ và phạm vi địa lý. Ngôn ngữ Ute-Aztec ở cực bắc là tiếng Shoshoni, được nói tại thành phố Salmon, Idaho, còn ngôn ngữ cực nam là tiếng Pipil ở El Salvador. Ethnologue liệt kê 61 ngôn ngữ nằm trong ngữ hệ này và tổng số người nói là 1.900.412. Trong đó, khoảng 1,7-1,9 triệu người nói các ngôn ngữ Nahuatl chiếm đến 78,9%. Ngữ hệ này được chia thành hai nhánh: nhánh phía Bắc, bao gồm tất cả các ngôn ngữ nằm trong Hoa Kỳ và nhánh phía Nam, bao gồm tất cả các ngôn ngữ nằm trong Mexico, mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi về việc liệu đây có phải là cách phân loại theo phả hệ hay chỉ là cách phân loại theo địa lý.
Bằng cao đẳng gọi là gì? Tốt nghiệp cao đẳng gọi là gì? hay Cử nhân cao đẳng là gì? là những thắc mắc của các bạn trẻ khi chuẩn bị lựa chọn trường Cao đẳng để theo học. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn hiểu chính xác về Hệ cao đẳng và trả lời được những lo lắng của bản thân. Là hệ đào tạo kiến thức chuyên môn về nhiều ngành nghề nhưng ở mức độ thấp hơn bậc đại học, thời gian đào tạo cũng rút ngắn hơn so với đại học. Năm 2016 các trường Cao đẳng được quản lý bởi Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) – cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp. Từ năm 2017, các trường Cao đẳng sẽ tuyển sinh theo quy chế do Bộ LĐTBXH ban hành phù hợp với Luật Giáo dục nghề nghiệp. Bằng Cao đẳng gọi là gì là câu hỏi được nhiều nhiều người quan tâm. Bằng Cao đẳng được trao bởi một trường Cao đẳng uy tín sau khi sinh viên hoàn thành chương trình học. Chỉ từ 2 – 3 năm, tùy từng chuyên ngành. Trong khi sinh viên đại học còn đang tiếp tục chương trình học, sinh viên cao đẳng đã ra trường, sớm tìm được việc làm đúng ngành nghề. Với thời gian đào tạo rút ngắn, sinh viên hệ cao đẳng hoàn toàn có thể tiết kiệm chi phí học tập và sớm kết thúc chương trình học. So với bậc đại học, kiến thức giảng dạy ở hệ cao đẳng đã được giảm tải phù hợp với trình độ của người học. Tại các trường nghề, chương trình giảng dạy đều mang tính thực tiễn cao, người học được giảng dạy chi tiết đến khi có thể thực hành được. Do đó, khi tốt nghiệp, có thể dễ dàng tìm được việc làm đúng ngành nghề đã học. Sinh viên sẽ không phải canh cánh nỗi lo thất nghiệp khi đăng ký học cao đẳng bởi các trường đều đào tạo theo nhu cầu thực tế của thị trường lao động. Khi tốt nghiệp, các bạn sẽ được các nhà tuyển dụng săn đón, chứ không phải mỏi mòn “rải” hồ sơ tới các công ty…. Học cao đẳng sinh viên không chỉ trau dồi kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn mà tấm bằng cao đẳng còn có giá trị hiện hành trên phạm vi cả nước, mang lại những cơ hội nghề nghiệp không hề kém cạnh so với bậc đại học. Hiện nay, hầu hết các nhà tuyển dụng đều thích tuyển lao động đã có tay nghề, bởi không mất thời gian đào tạo lại. Đây chính là lợi thế rất lớn đối với những bạn sở hữu tấm bằng tốt nghiệp Cao đẳng. Trên thực tế, dù giỏi đến đâu, năm đầu tiên vào làm việc cũng phải học hỏi thêm để hoàn thiện bản thân. Tuy nhiên, nhà tuyển dụng tuyển nhân sự tốt nghiệp trường cao đẳng được lợi rất nhiều như: Đầu tư thấp, lại có thể đào tạo dần nếu người đó gắn bó với công ty…
Trường cao đẳng
Trường cao đẳng là một loại hình cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam. Đây là trường đào tạo trình độ sau trung học nhưng thấp hơn bậc đại học, gọi là bậc cao đẳng, hệ cao đẳng, hay giáo dục cao đẳng. Các trường cao đẳng tuyển những người có bằng trung học phổ thông hoặc tương đương, và có chương trình đào tạo dài khoảng ba năm. Sinh viên học xong cao đẳng có thể tham gia thi tuyển để được chọn vào học "liên thông" lên bậc đại học ở một số trường đại học.
Truyền hình cáp xuất hiện khá sớm và đã có chỗ đứng nhất định trong thị trường. Tuy nhiên, nhiều thể loại truyền hình mới đang dần xuất hiện, cải thiện những nhược điểm của thế hệ cũ. Một trong số đó là truyền hình kỹ thuật số. Vậy chúng có gì khác biệt?. Truyền hình kỹ thuật số (DTV) là một hình thức công nghệ phát sóng mới và tiên tiến, giúp cho việc truyền hình ảnh dễ dàng hơn dưới dạng dữ liệu qua sóng không khí. DTV cung cấp hình ảnh và âm thanh trong trẻo, sống động hơn, nhiều kênh và dịch vụ truyền hình chất lượng cao hơn cho khách hàng khi dùng vô tuyến chất lượng cao. Truyền hình kỹ thuật số có hai loại là Truyền hình số vệ tinh DTH và Truyền hình số mặt đất DTT. Truyền hình cáp tương tự như truyền hình kỹ thuật số, nhưng thu nhận thông tin qua hệ thống dây cáp quang và cáp đồng trục chứ không phải qua ăng ten lắp trên mái nhà. Theo lộ trình số hóa của Chính phủ, phương thức truyền tín hiệu Analog này rất có khả năng bị khai tử bởi những hạn chế của nó. Mỗi loại hình truyền hình đều có những ưu và nhược điểm riêng. Chúng ta sẽ xem xét truyền hình kỹ thuật số và truyền hình cáp trên một số khía cạnh sau:. Chất lượng âm thanh và hình ảnh: Xét ở điểm này, truyền hình kỹ thuật số chiếm ưu thế hơn hẳn khi sở hữu âm thanh và hình ảnh sắc nét, có chiều sâu, không có hiện tượng nhiễu và bóng ma, điều mà truyền hình cáp thông thường còn hạn chế. Ngoài ra, truyền hình kỹ thuật số cũng loại bỏ các tác hại của tia sóng phản xạ, không bị ảnh hưởng nhiễu từ các tác động bên ngoài như máy vi tính, sấm sét…. Số lượng và chất lượng kênh: Ngày nay, nhu cầu giải trí và văn hóa của người dân ngày càng đa dạng, phong phú. Do đó, bất kỳ loại hình truyền hình nào muốn tồn tại và phát triển thì đều phải không ngừng đổi mới và tăng chất số lượng, chất lượng các kênh. Xét về mặt này, truyền hình kỹ thuật số cũng chiếm ưu thế hơn. Với truyền hình kỹ thuật số, bạn có thể xem nhiều kênh với chất lượng cao hơn. Chi phí sử dụng dịch vụ: Cách đây một vài năm thì truyền hình cáp hoàn toàn chiếm lợi thế hơn vì giá thành rẻ. Tuy nhiên, truyền hình kỹ thuật số cũng ngày càng có nhiều chương trình, chính sách hấp dẫn về giá cước để thu hút khách hàng. Tính tiện lợi và dễ dàng khi lắp đặt và sử dụng: Về mặt này, một lần nữa truyền hình kỹ thuật số lại có nhiều ưu điểm hơn bởi việc lắp đặt dễ dàng, không cần phải kéo dây như truyền hình cáp. Chỉ cần một đầu thu nhỏ và một chảo thu là việc lắp đặt đã hoàn thành và có thể bắt sóng được. Việc di chuyển cũng vô cùng dễ dàng khi cần thiết. Do đó, truyền hình kỹ thuật số ngày càng phủ sóng rộng khắp, phù hợp với mọi điều kiện địa hình tại Việt Nam. Xem được nhiều tivi: Với truyền hình kỹ thuật số, bạn chỉ có thể lắp đặt với một chiếc tivi. Nhưng với truyền hình cáp, bạn có thể chia dây ra để xem nhiều tivi mà không mất thêm chi phí. Tuy nhiên, điều này cũng làm cho đường truyền tín hiệu kém hơn, làm giảm chất lượng kênh. Hi vọng với những thông tin trên, bạn đã có thể phân biệt được hai loại hình truyền hình này và lựa chọn được loại phù hợp nhất với nhu cầu của bản thân và gia đình. Vtvhue.vn – Cập nhật nhanh tin tức các kênh truyền hình: Chia sẻ đến mọi người những chương trình truyền hình, show thực tế, các bộ phim,… được chiếu trên các kênh vtv, vtc, htv,…. Và những MC, biên tập viên nổi tiếng nhất hiện nay.
Truyền hình kỹ thuật số
Truyền hình kỹ thuật số (tiếng Anh: Digital television - DTV) là một hệ thống viễn thông phát và nhận tín hiệu hình ảnh và âm thanh bằng các tín hiệu kỹ thuật số, trái với các tín hiệu tương tự (analog) được các đài truyền hình truyền thống sử dụng. Vào thời điểm phát triển, nó được coi là một tiến bộ đổi mới và đại diện cho sự phát triển quan trọng đầu tiên trong công nghệ truyền hình kể từ truyền hình màu vào những năm 1950. Truyền hình kỹ thuật số hiện đại được truyền ở độ phân giải cao (HDTV) lớn hơn so với TV analog. Nó thường sử dụng tỷ lệ khung hình màn hình rộng (thường là 16:9) khác với định dạng khung hình hẹp của TV analog. Nó làm cho việc sử dụng tiết kiệm hơn không gian phổ vô tuyến khan hiếm; nó có thể truyền tối đa mười kênh trong cùng dãy sóng như một kênh analog, và cung cấp nhiều tính năng mới mà truyền hình analog không thể. Một quá trình chuyển đổi tanalog sang kỹ thuật số bắt đầu vào khoảng năm 2000. Truyền dẫn Video Kỹ thuật số (DVB) sử dụng điều chế ghép kênh phân chia theo tần số trực giao (OFDM) được mã hóa và hỗ trợ truyền phân cấp.
Ngành Kinh tế phát triển là một trong các ngành thuộc khối ngành Kinh tế được đánh giá tốt nhất về mặt chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và cơ hội việc làm cho người học không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia khác trên thế giới. Để hiểu rõ hơn về ngành Kinh tế phát triển, các bạn hãy đọc bài viết dưới đây nhé!. Kinh tế phát triển (tiếng Anh là Development Economics) là một trong những khoa học kinh tế khám phá và giải thích quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Mục tiêu của Kinh tế phát triển là nhằm cung cấp một cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn trong phát triển kinh tế, để các nước đang phát triển có thể vận dụng vào hoàn cảnh riêng, tìm kiếm được con đường phát triển thích hợp, cải thiện tình trạng chưa tiến bộ của từng quốc gia. Chương trình đào tạo ngành Kinh tế Phát triển sẽ trang bị cho sinh viên các kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức chuyên môn về Kinh tế, Kinh tế Phát triển. Giúp sinh viên rèn luyện, phát triển các kỹ năng mềm, có nhiều cơ hội tìm được các vị trí việc làm phù hợp với ngành học thuộc nhiều lĩnh vực, khu vực như các doanh nghiệp, ngân hàng, tổ chức phi Chính phủ, cơ quan Nhà nước, trường đại học…. Theo học ngành này, sinh viên có khả năng phát triển chuyên sâu, có trình độ chuyên môn cao, phẩm chất tốt, có khả năng làm việc hiệu quả trong nhiều lĩnh vực khác nhau - đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng chiến lược, hoạch định chính sách và quản lý quá trình phát triển - góp phần tích cực vào việc đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước. Để tìm hiểu ngành Kinh tế phát triển học những gì, các bạn hãy tham khảo khung chương trình đào tạo và các môn học chuyên ngành trong bảng dưới đây. Các bạn có thể tham khảo mức điểm chuẩn của các trường đại học đào tạo ngành Kinh tế phát triển những năm gần đây. Trong năm 2018, mức điểm chuẩn của ngành này từ 13 - 22 điểm xét theo kết quả thi THPT Quốc gia. Ngành Kinh tế phát triển đào tạo cử nhân kinh tế có thể phân tích, tham gia hoạch định và tư vấn thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp, ngành và lĩnh vực; quản lý các quá trình phát triển; xây dựng, phân tích, thẩm định và chỉ đạo thực hiện các chương trình và dự án phát triển; phân tích và dự báo kinh tế - xã hội; mô hình hóa tăng trưởng kinh tế; tổ chức các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế, thực hiện các dự án phát triển với nước ngoài. Vì vậy, cơ hội việc làm ngành Kinh tế phát triển rất rộng mở. Nghiên cứu và giảng dạy tại các cơ sở nghiên cứu, cơ sở giáo dục đại học liên quan đến kinh tế học, kinh tế phát triển, chính sách công, kinh tế môi trường, phát triển bền vững. Bộ Kế hoạch - đầu tư, các vụ kế hoạch của các bộ, sở kế hoạch của tỉnh, phòng kế hoạch các quận (huyện). Đối với sinh viên ngành Kinh tế phát triển mới ra trường và ít kinh nghiệm làm việc tại các doanh nghiệp thì mức lương cơ bản từ 5 - 7 triệu đồng/ tháng. Ngoài ra, tùy vào vị trí công việc, năng lực và kinh nghiệm làm việc trong ngành Kinh tế phát triển thì mức lương từ 7 - 10 triệu đồng/ tháng hoặc có thể cao hơn. Có khả năng làm việc độc lập dưới áp lực về thời gian và khối lượng công việc. Hy vọng những thông tin bổ ích trong bài viết đã giúp các bạn nắm rõ hơn về ngành Kinh tế phát triển, để từ đó có lựa chọn ngành học phù hợp với sở thích và năng lực bản thân. Cùng vượt khó mùa Covid. CĐ Y Khoa Phạm Ngọc Thạch Miễn 100% năm 2021 đến hết 06/9. Chuyên trang thông tin Tuyển Sinh Số cung cấp thông tin tuyển sinh chính thức từ Bộ GD & ĐT và các trường ĐH - CĐ trên cả nước.
Kinh tế học phát triển
Kinh tế học phát triển là một chuyên ngành của kinh tế học ứng dụng đi tìm các phương thức để đưa một nền kinh tế kém phát triển thành một nền kinh tế thịnh vượng, nghiên cứu các đặc trưng kinh tế xã hội điển hình của một nền kinh tế kém phát triển từ quan điểm về nỗ lực của các hộ gia đình cũng như doanh nghiệp. Kinh tế học phát triển sử dụng tích cực các phương pháp nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô khi nghiên cứu các nguyên nhân của phát triển kinh tế, các phương pháp của kinh tế học vi mô, và có thể bao gồm cả việc sử dụng các phương pháp toán học trên cơ sở toán cơ học như các phương trình vi phân và tối ưu hóa liên thời gian, hoặc sử dụng sự kết hợp giữa các phương pháp định lượng và định tính. Kinh tế học phát triển kết hợp các chiến lược về chính trị và xã hội để đưa được ra những kế hoạch về phát triển tại các nước thế giới thứ ba.
“Người bi quan để cơ hội chìm vào khó khăn, người lạc quan biến khó khăn thành cơ hội”. “Phải đảm bảo học phí cũng là rào cản kỹ thuật, tránh việc học sinh lao vào học đại học trở thành “học đại”. Phải coi học phí đối với người học là nguồn đầu tư và theo thông lệ quốc tế, học phí bao giờ cũng bằng hai năm tiền lương sau khi tốt nghiệp”. LƯU Ý: Nội dung các bài viết có thể liên quan đến quy phạm pháp luật còn hiệu lực, không còn hiệu lực hoặc mới chỉ là dự thảo. KHUYẾN CÁO: Sử dụng thông tin trung thực, không ngoài mục đích hỗ trợ cho học tập, nghiên cứu khoa học, cuộc sống và công việc của chính bạn. MONG RẰNG: Trích dẫn nguồn đầy đủ, để kiến thức là năng lực của chính bạn, để tôn trọng quyền của tác giả và chủ sở hữu tác phẩm, cũng như công sức, trí tuệ của người đã xây dựng trang Thông tin này. LƯU Ý: Nội dung các bài viết có thể liên quan đến quy phạm pháp luật còn hiệu lực, không còn hiệu lực hoặc mới chỉ là dự thảo. KHUYẾN CÁO: Sử dụng thông tin trung thực, không ngoài mục đích hỗ trợ cho học tập, nghiên cứu khoa học, cuộc sống và công việc của chính bạn. MONG RẰNG: Trích dẫn nguồn đầy đủ, để kiến thức là năng lực của chính bạn, để tôn trọng quyền của tác giả và chủ sở hữu tác phẩm, cũng như công sức, trí tuệ của người đã xây dựng trang Thông tin này. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham gia Công ước vào 29/7/1980 phê chuẩn vào 27/11/1981. Tuân thủ quy định của Công ước, trong suốt những năm qua, Việt Nam đã tích cực tổ chức thực hiện và hoàn thành các báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện Công ước để trình lên Tổng thư ký Liên hợp quốc. Năm 2001, chúng ta đã bảo vệ thành công các báo cáo quốc gia lần thứ 2, 3 và 4 và được Uỷ ban CEDAW đánh giá là tiến hành nội luật hoá CEDAW khá thành công vì mục tiêu nâng cao quyền của phụ nữ trên thực tế. Những nỗ lực phân bổ nguồn lực nhằm đạt sự tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội, tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ cho việc thực hiện Công ước ở Việt Nam đã được Uỷ ban hoan nghênh. Tháng 6/2005, Báo cáo quốc gia lần thứ 5 và 6 về tình hình thực hiện Công ước CEDAW đã được đệ trình lên Tổng thư ký Liên hợp quốc. Có thể nói, sự ra đời của Công ước CEDAW là kết quả hơn 30 năm đấu tranh của Uỷ ban về địa vị phụ nữ Liên hợp quốc (CSW). Uỷ ban được thành lập năm 1946 nhằm giám sát địa vị và nâng cao quyền lợi của phụ nữ. Hoạt động của Uỷ ban đã góp phần thúc đẩy bình đẳng giới ở những nơi mà phụ nữ chưa được bình quyền như nam giới. Kết quả của những nỗ lực vì sự tiến bộ của phụ nữ là sự ra đời một số tuyên bố và điều ước quốc tế, trong đó CEDAW là văn kiện quan trọng và toàn diện nhất về quyền bình đẳng của phụ nữ. Tinh thần của Công ước được xây dựng trên cơ sở các mục tiêu của Liên hợp quốc nhằm bảo đảm nhân cách, phẩm giá và các quyền cơ bản của con người cũng như quyền bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới. Công ước không chỉ giải thích rõ ý nghĩa của bình đẳng mà còn chỉ ra phương thức giành quyền bình đẳng đó. Trong phần mở đầu, Công ước thừa nhận một cách rõ ràng rằng “sự phân biệt đối xử với phụ nữ vẫn còn tồn tại ở rất nhiều nơi” và nhấn mạnh sự phân biệt đối xử “vi phạm các nguyên tắc về quyền bình đẳng, xúc phạm tới nhân phẩm con người”. Sự phân biệt đối xử đã được định nghĩa ở Điều I là “bất kỳ sự phân biệt, loại trừ, hạn chế nào dựa trên cơ sở giới tính… trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, dân sự và các lĩnh vực khác”. Bản Công ước còn khẳng định rõ: tất cả các hình thức phân biệt đối xử đều bị lên án và các quốc gia thành viên phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp, bao gồm cả biện pháp pháp luật, nhằm bảo đảm cho phụ nữ được thực hiện và thụ hưởng đầy đủ quyền con người và tự do cơ bản trên cơ sở bình đẳng với nam giới (Điều 2 và 3). Các nội dung về bình đẳng được lần lượt quy định rõ ở 13 điều tiếp theo, từ Điều 4 đến Điều 16 và đề cập tới mọi khía cạnh đời sống của người phụ nữ. Quyền công dân và địa vị hợp pháp của phụ nữ được nêu rất chi tiết. Hơn nữa, không giống như các điều ước khác về nhân quyền, Công ước đã khẳng định quyền sinh sản của phụ nữ, nhấn mạnh tới yếu tố văn hoá và truyền thống bởi đó là những yếu tố hình thành nên vai trò giới và các mối quan hệ trong gia đình. Các quyền lợi cơ bản về chính trị không hề giảm đi kể từ khi Công ước về quyền chính trị của phụ nữ được thông qua vào năm 1952. Ngược lại, các điều khoản này được tuyên bố một cách rõ ràng hơn trong Điều 7 của Công ước, nhờ đó phụ nữ được đảm bảo quyền bầu cử, tham gia lãnh đạo trong cơ quan nhà nước và quyền thực thi các trách nhiệm xã hội của mình. Điều 8 quy định phụ nữ có cơ hội làm đại diện cho chính phủ ở cấp quốc tế và tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế. Công ước về Quốc tịch của phụ nữ đã kết hôn- thông qua năm 1957 – được tổng hợp trong Điều 9 nhằm nâng cao địa vị xã hội của phụ nữ trong vấn đề quốc tịch, không lệ thuộc vào tình trạng hôn nhân. Lần lượt các Điều 10, 11 và 13 khẳng định quyền bình đẳng của phụ nữ trong các lĩnh vực giáo dục, việc làm, kinh tế và các hoạt động xã hội. Điều 14 đòi hỏi các quốc gia đưa những vấn đề đặc biệt của phụ nữ nông thôn và vai trò quan trọng của họ trong đời sống gia đình vào trong quá trình hoạch định chính sách. Điều 15 yêu cầu sự bình đẳng toàn diện cho phụ nữ trong lĩnh vực dân sự và kinh doanh, cụ thể là bất kỳ phương thức trực tiếp nào làm hạn chế năng lực pháp lý của phụ nữ “sẽ bị coi là vô giá trị và không có hiệu lực thi hành”. Cuối cùng, trong Điều 16, Công ước đề cập tới quan hệ hôn nhân và gia đình, khẳng định quyền bình đẳng và nghĩa vụ của phụ nữ và nam giới trong việc lựa chọn bạn đời, làm cha mẹ, quyền nhân thân và làm chủ mọi tài sản của mình. Bên cạnh vấn đề quyền công dân, Công ước cũng chú trọng tới vấn đề sống còn của phụ nữ, đó là quyền sinh sản của họ. Trong phần mở đầu, Công ước tuyên bố vai trò của phụ nữ trong việc sinh đẻ không thể là cơ sở của sự phân biệt đối xử. Mối ràng buộc giữa phân biệt đối xử và vai trò sinh sản của phụ nữ là vấn đề thường xuyên được đề cập trong Công ước này. Ví dụ, trong Điều 5, Công ước thừa nhận sự hiểu biết đúng đắn nghĩa vụ làm mẹ như một chức năng xã hội và đòi hỏi cả 2 giới phải chia sẻ trách nhiệm một cách đầy đủ trong việc nuôi dạy con. Bởi vậy, các điều khoản về bảo vệ bà mẹ và chăm sóc trẻ em được nêu ra như những quyền cốt yếu và được quy định nhất quán trong mọi lĩnh vực của Công ước, kể cả lĩnh vực việc làm, hôn nhân gia đình, chăm sóc sức khoẻ hay giáo dục. Trách nhiệm của xã hội là thúc đẩy các loại hình dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ chăm sóc trẻ em để tạo điều kiện cho phụ nữ và nam giới có thể kết hợp thực hiện nghĩa vụ gia đình và công việc cơ quan (Điều 11.2c).
Công ước Quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức Phân biệt chủng tộc
Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (ICERD) là một công ước của Liên Hợp Quốc. Là một văn kiện nhân quyền thế hệ thứ ba, Công ước cam kết các thành viên của mình loại bỏ phân biệt chủng tộc và thúc đẩy sự hiểu biết giữa tất cả các chủng tộc. Công ước cũng yêu cầu các bên tham gia bất hợp pháp hóa phát ngôn thù ghét và hình sự hóa việc tham gia tổ chức phân biệt chủng tộc. Công ước cũng bao gồm một cơ chế khiếu nại cá nhân có hiệu lực thực thi với các quốc gia thành viên. Quy định này cho phép xây dựng một cơ chế tài phán hạn chế đối với việc giải thích và thực hiện Công ước. Công ước đã được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua và mở để ký vào ngày 21 tháng 12 năm 1965, và có hiệu lực vào ngày 4 tháng 1 năm 1969. Tính đến tháng 4 năm 2019, có 88 quốc gia ký kết, và 180 quốc gia là thành viên Công ước. Công ước được giám sát bởi Ủy ban về xóa bỏ phân biệt chủng tộc (CERD).
Tiền cơ sở là lượng tiền mặt đang lưu thông trong nền kinh tế và tiền gửi của các ngân hàng thương mại (NHTM) đang được giữ trong dự trữ của ngân hàng trung ương. Tiền cơ sở = Tiền mặt do công chúng nắm giữ, trao đổi hằng ngày + Phần DỰ TRỮ BẮT BUỘC của NHTM. Như vậy, nếu 1 quốc gia có 100 triệu lưu hành trong nền kinh tế (tiền mặt trao đổi hằng ngày, tiền trong thẻ ATM để chi tiêu …) và NHNN yêu cầu các NHTM giữ lại 10 triệu từ tiền gửi trong hệ thống ngân hàng, thì tiền cơ sở tại thời điểm đó là 110 triệu. Lưu ý là tiền trong thẻ ATM ghi nợ thì được xem là tiền cơ sở nhưng sẽ không bao gồm tiền tiêu thẻ tín dụng vì các giao dịch này chưa phải là giao dịch cuối cùng. Tiền cơ sở chính là M0 trong các cấp của CUNG TIỀN. Tiền cơ sở là cấp thanh khoản nhất, nó chỉ tính đến các tài sản thanh khoản cao – là tiền mặt đang lưu thông; mà không tính các khoản tiết kiệm hay các tài sản chuyển đổi thành tiền khác (như M1, M2…). Mọi sự thay đổi của lượng tiền cơ sở đều là tác nhân quan trọng gây ra thay đổi trong tổng lượng CUNG TIỀN. Chính vì vậy, tiền cơ sở còn được gọi là tiền có mãnh lực. Tổng lượng CUNG TIỀN có vai trò đối ứng với tổng lượng hàng hóa trong nền kinh tế, điều này có liên quan đến những hiện tượng như lạm phát hay giảm phát. Do đó, sự tác động tới mức tiền cơ sở được dùng để nhằm tới mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Tác động vào lượng tiền mặt trong lưu thông, chẳng hạn bằng nghiệp vụ thị trường mở (ngân hàng trung ương mua vào hoặc bán ra công trái vào để bơm vào hay hút ra tiền mặt trong lưu thông). Hãy nhìn vào sự thay đổi của tiền cơ sở theo thời gian ở một số quốc gia dưới đây. Tiền cơ sở tại Mỹ tăng lên nhanh chóng vào giai đoạn 2008-2013 sau cuộc suy thoái kinh tế năm 2008, nhằm vực dậy nền kinh tế sau đổ vỡ. Cung tiền cơ sở tiếp tục được mở rộng vào năm 2020 này, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, ngân hàng trung ương Mỹ (FED) đã giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở nhằm duy trì một nền thanh khoản cao cho hệ thống. Việc điều hành tiền tệ này cũng diễn ra tương tự tại Châu âu, Nhật Bản. Như vậy, một sự mở rộng trong lượng tiền cơ sở sẽ được áp dụng trong thời kỳ có dấu hiệu suy thoái, và thu hẹp tiền cơ sở có thể gặp nhiều trong thời kỳ được dự báo lạm phát tăng nhanh. Như có đề cập trong bài viết MỨC CUNG TIỀN, ở Việt Nam thì Ngân hàng nhà nước ta thống kê theo 2 cấp: tiền mặt lưu thông (chưa gồm khoản dự trữ bắt buộc) và tổng phương tiện thanh toán. Nên hiện tại mình chỉ xem xét M0 của Việt Nam là số liệu về lượng tiền mặt lưu thông, không bao gồm khoản dự trữ bắt buộc. Ta có thể tính được M0 của Việt Nam dựa trên số liệu từ website của Ngân Hàng Nhà Nước. Sau đó, xem về Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán: LINK NÀY. Ta có thể tính tạm M0 của Việt Nam tại tháng 9/2020 bằng 11,485,845 x 11.15% = 1,208,672 (tỷ đồng). Tùy cách lựa chọn điều hành ở các nơi, một cách thông dụng thì Tiền cơ sở là M0, Tổng phương tiện thanh toán là M2. Tiền cơ sở là tập con của cung tiền. Khoảng cách giữa 2 loại này chính là mục đích tối thượng trong điều hành chính sách tiền tệ. Khoảng cách giữa M0 và M2 càng rộng thì là chính sách tiền tệ mở rộng; ngược lại thì là chính sách tiền tệ thắt chặt. Quay lại ví dụ về trao đổi tiền tệ trong phần CHỨC NĂNG TẠO TIỀN CỦA NHTM; mình muốn nhấn mạnh lại rằng; chính nhờ việc các chủ thể trong xã hội trao đổi với nhau nên ngày càng mở rộng khoảng cách giữa tiền cơ sở và cung tiền. Mặc dù trong các tài liệu có thể giải thích mối quan hệ giữa tiền cơ sở và mức cung tiền bằng hệ số nhân tiền (money multiplier); nhưng thú thật bản thân mình lần đầu nhìn thấy công thức của hệ số nhân tiền thì thấy hơi rối (^^!). Nếu là các cơ quan điều hành tiền tệ thì sẽ cần thiết để đi sâu bóc tách các tác động liên quan trong thành phần của hệ số nhân tiền (từ tiền gửi, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và vân vân…). Nhưng nếu chỉ để hiểu một cách hình dung thì mình muốn hiểu cách 10 đồng nhân thành 1000 đồng do trao đổi cho 100 người (trao đổi ở đây có thể là mua bán, hay tín dụng…) trong việc nắm được ý nghĩa cơ bản của tiền cơ sở (monetary base) và cung tiền (monetary supply).
Tiền cơ sở
Tiền cơ sở là thuật ngữ kinh tế chỉ loại tiền có mức độ thanh khoản cao nhất trong các thành phần của cung tiền. Tiền cơ sở bao gồm tiền mặt trong lưu thông do các cá nhân (hộ gia đình và doanh nghiệp không phải ngân hàng nắm giữ) và dự trữ bắt buộc của ngân hàng thương mại tại ngân hàng trung ương. Đối với các loại tiền hàng hóa (như vàng hay Bitcoin), lượng tiền cơ sở ám chỉ toàn bộ lượng hàng hóa này và không bao gồm chứng chỉ thay thế. Mọi sự thay đổi của lượng tiền cơ sở đều là tác nhân quan trọng gây ra thay đổi trong tổng lượng cung tiền. Chính vì vậy, tiền cơ sở còn được gọi là tiền có mãnh lực.
Có nhiều điểm tương tự trong cách sắp xếp và sự xuất hiện của nhân vật chính giống như Doraemon, cũng được Fujio Fujiko sáng tác, mặc dù nội dung câu chuyện hoàn toàn khác. Kiteretsu là một cậu bé mới chỉ học tiểu học nhưng rất say mê nghiên cứu, chế tạo máy móc. Một lần, qua câu chuyện của bố, cậu tìm được những cuốn từ điển toàn giấy trắng và kính thần thông mà cụ cố Kiteretsu để lại, và nhận ra nếu đọc thông qua kính thần thông thì có thể thấy được nội dung trong đó – chính là những phát minh đầy thú vị. Cậu đã chế tạo ra Korosuke để giúp đỡ mình trong công việc chế tạo. Nhiều mẩu chuyện về những phát minh của Kiteretsu cũng có vẻ tương tự như Doraemon, thường là những phát minh được sử dụng quá đà hoặc sai mục đích hay dẫn tới tình huống trớ trêu. Tuy truyện có nhiều nét giống Doraemon nhưng khác biệt rõ nhất đó là cách xây dựng nhân vật. Tuy nhiên, những phát minh không phải đến từ tương lai mà là từ quá khứ (cuốn từ điển của cụ cố), Kiteretsu lại là một cậu bé thiên tài, rất say mê tìm tòi chứ không lười nhác như Nobita. Bên cạnh đó, nhân vật Korosuke lại khá hậu đậu, nhiều khi làm hỏng những phát minh của Kiteretsu. Vào ngày 23 tháng 2 năm 1990, Epoch đã xuất bản trò chơi hành động Kiteretsu Daihyakka trên hệ máy Famicom. Một trò chơi cùng tên Kiteretsu Daihyakka được xuất bản bởi Video System ngày 17 tháng 5 năm 1994 và một trò chơi khác mang tên Kiteretsu Daihyakka: Chōjikū Sugoroku ra mắt vào ngày 27 tháng 1 năm 1995 cũng bởi Video System trên hệ máy Super Famicom. Một trò chơi khác được làm bởi Sega Pico. Vào tháng 1 năm 2002, NHK đã trình chiếu một phim hành động hai giờ kết hợp công nghệ CGI, Korosuke được Mami Koyama lồng tiếng, Mami Koyama cũng là người đã tham gia lồng tiếng cho nhân vật Korosuke trong phiên bản hoạt hình. Dưới đây là danh sách các bài hát mở đầu, bao gồm tiêu đề theo tập và tên ca sĩ trong ngoặc đơn. Dưới đây là danh sách các bài hát kết thúc, bao gồm tiêu đề theo tập và tên ca sĩ trong ngoặc đơn.
Cuốn từ điển kì bí
Kiteretsu Daihyakka (キテレツ大百科 (だいひゃっか) (Kiteretsu Đại bách khoa), Kiteretsu Daihyakka) là một bộ manga khoa học viễn tưởng của Fujiko Fujio, được in nhiều kì trong tạp chí thiếu nhi Kodomo no Hikari từ tháng 4 năm 1974 đến tháng 7 năm 1977. Sau đó, bộ truyện tranh đã được chuyển thể thành 331 tập phim hoạt hình trên kênh truyền hình Fuji TV từ 27 tháng 3 năm 1988 đến 9 tháng 6 năm 1996. Một phần của bộ phim hoạt hình từng được chiếu trên đài phát thanh truyền hình Hải Phòng, và các nhân vật khi ấy bị gọi nhầm tên sang các nhân vật của Doraemon. Nhà xuất bản Kim Đồng đã mua bản quyền và phát hành tại Việt Nam với tên là Cuốn từ điển kì bí. Phim đã được phát sóng trên kênh HTV2 với định dạng lồng tiếng Việt. Có nhiều điểm tương tự trong cách sắp xếp và sự xuất hiện của nhân vật chính giống như Doraemon, cũng được Fujio Fujiko sáng tác, mặc dù nội dung câu chuyện hoàn toàn khác. Kiteretsu là một cậu bé mới chỉ học tiểu học nhưng rất say mê nghiên cứu, chế tạo máy móc.
Viện trợ nước ngoài trong tiếng Anh là Foreign aid. Viện trợ nước ngoài là các khoản ưu đãi tài chính, hàng hóa và dịch vụ được tài trợ dành cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy phát triển ở các quốc gia này, thường được thực hiện dưới hình thức hỗ trợ tài chính hoặc hỗ trợ kĩ thuật. Cũng có thể hiểu, viện trợ nước ngoài là khoản tiền mà một quốc gia tự nguyện chuyển sang một quốc gia khác, có thể dưới dạng một món quà, một khoản trợ cấp hoặc một khoản vay. Ở Hoa Kỳ, thuật ngữ này thường chỉ đề cập đến hỗ trợ quân sự và kinh tế mà Chính phủ liên bang cung cấp cho các Chính phủ khác. Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (Development Assistance Committee – DAC) thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đưa ra một định nghĩa chính xác hơn được sử dụng bởi câu lạc bộ các nhà tài trợ. Theo đó, viện trợ phải đáp ứng các điều kiện sau:. - Đến từ các nguồn chính thức, không bao gồm các quĩ được huy động bởi các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức tình nguyện tư nhân, ngoại trừ những khoản viện trợ từ các nguồn chính thức nhưng được giải ngân thông qua các tổ chức phi Chính phủ. - Được dành cho mục đích phát triển, vì vậy viện trợ không bao gồm viện trợ quân sự và các nguồn tài trợ phục vụ mục đích thương mại, ví dụ như tín dụng xuất khẩu. - Có mức độ ưu đãi cao (viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất 25% khoản viện trợ). - Được giành cho một quốc gia thuộc Phần I trên "Danh sách các nước nhận viện trợ" của DAC, trong đó bao gồm tất cả các nước thu nhập thấp và trung bình trên thế giới. - Các khoản tài chính quốc tế đáp ứng tất cả bốn điều kiện trên được gọi là Hỗ trợ Phát triển Chính thức (Official Development Assistance). - Những khoản đáp ứng tất cả các tiêu chí trừ điều kiện về mức độ ưu đãi được gọi là Tài chính Phát triển Chính thức (Official Development Finance). Viện trợ nước ngoài là một hiện tượng chủ yếu phát triển từ sau năm 1945, chủ yếu nhờ ba yếu tố. - Thứ nhất là thành công của Kế hoạch Marshall mà Mỹ viện trợ cho châu Âu. - Thứ hai, làn sóng giành độc lập của các quốc gia ở châu Á vào cuối những năm 1940, châu Phi vào những năm 1960 đã tạo ra động lực mới cho viện trợ phát triển giành cho các nước này. - Thứ ba chính là cuộc Chiến tranh Lạnh, khi mà các siêu cường sử dụng viện trợ như một công cụ để mở rộng ảnh hưởng và giúp xác lập các chế độ thân thiện với mình.
Viện trợ
Trong quan hệ quốc tế, viện trợ (còn được gọi là viện trợ quốc tế, viện trợ nước ngoài, viện trợ kinh tế) là - theo quan điểm của các chính phủ - một sự chuyển giao tài nguyên tự nguyện từ nước này sang nước khác. Viện trợ có thể phục vụ một hoặc nhiều chức năng: nó có thể được đưa ra như một tín hiệu của sự chấp thuận ngoại giao, hoặc để củng cố một đồng minh quân sự, để thưởng cho một chính phủ cho hành vi mà nhà tài trợ mong muốn, để mở rộng ảnh hưởng văn hóa của nhà tài trợ, để cung cấp cơ sở hạ tầng cần thiết cho nhà tài trợ để khai thác tài nguyên từ quốc gia nhận, hoặc để có được các loại truy cập thương mại khác. Các quốc gia có thể cung cấp viện trợ cho các lý do ngoại giao hơn nữa. Mục đích nhân đạo và vị tha thường là lý do cho sự trợ giúp của nước ngoài. Viện trợ có thể được các cá nhân, tổ chức tư nhân hoặc chính phủ thực hiện. Các tiêu chuẩn phân định chính xác các loại chuyển khoản được coi là "viện trợ" khác nhau giữa các quốc gia.
Đau răng sẽ khiến bạn cảm thấy rất tồi tệ và khó chịu. Những cơn đau thường dai dẳng, đột ngột làm ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ, sinh hoạt. Vậy đau răng do nguyên nhân nào gây nên, làm sao để điều trị cho phù hợp nhất?. Bệnh đau răng được hiểu là cảm giác đau gây ra ở xung quanh và bên trong răng. Nguyên nhân của cơn đau thường do cấu trúc quanh răng, bên trong răng như xương ổ răng, nướu. Tuỳ từng người sẽ gặp phải cơn đau gián đoạn hoặc dai dẳng. Các thay đổi liên quan tới nhiệt độ như uống nước lạnh, khi nhai răng gặp áp lực đều gây ra đau nhức. Với một số trường hợp, dù không có bất cứ kích thích nào răng vẫn bị đau nhức. Mỗi khi làm việc, ăn uống chúng ta rất khó để quên đi sự đau nhức. Tình trạng diễn ra lâu khiến bản thân bạn phải tìm kiếm giải pháp giảm đau răng. Các bác sĩ chuyên khoa cũng khẳng đinh, đau nhức răng là dấu hiệu cho biết răng miệng đang gặp phải vấn đề bạn cần phải tới gặp bác sĩ để thăm khám. Sâu răng: Đây là thủ phạm chủ yếu khiến chúng ta bị đau nhức răng. Khi ăn các thực phẩm chứa nhiều tinh bột và đường nhưng không vệ sinh răng miệng sạch sẽ khiến cho vi khuẩn có cơ hội phát triển. Chúng sẽ hoạt động mạnh mẽ tạo ra mảng bám trên bề mặt của răng. Vi khuẩn sinh ra axit hoà cùng lớp men răng và tạo thành lỗ sâu. Khi ăn các thực phẩm nóng, lạnh, đồ ngọt sẽ thấy cơn đau nhức nhẹ và răng rất nhạy cảm. Trên răng, những lỗ sâu sẽ có điểm màu nâu hoặc hoặc màu trắng. Trẻ em bị sâu răng sẽ càng có biểu hiện đau nhức nặng nề hơn do cấu trúc lợi nướu còn rất yếu ớt. Áp xe răng: Hiện áp xe răng được chia ra làm 2 loại cơ bản đó là áp xe nha chu và áp xe quanh chóp răng. Đây là một dạng biến chứng do nhiễm trùng răng miệng gây ra khiến cho vi khuẩn hình thành từ những mảng bám sinh ra mủ. Răng ăn phải đồ ăn cứng gây ra mẻ răng, nứt răng tạo điều kiện để cho vi khuẩn ăn sâu vào trong tuỷ răng và hình thành áp xe. Áp xe có thể hình thành ở một răng bị sâu, lâu ngày không có phương án điều trị gây ra áp xe. Mọc răng khôn: Răng khôn bắt đầu mọc từ độ tuổi 18 đến 26 tuổi, khi đó bạn sẽ cảm thấy những cơn đau nhức xuất hiện. Tuy nhiên, cơn đau sẽ nhiều hơn khi răng mọc lệch, mọc ngầm, mọc kẹt do bị xương hoặc lợi che mất, răng mọc nhưng đâm vào răng bệnh cạnh khiến nướu và răng kế bên bị tổn thương. Bệnh lý về nướu răng: Khi mắc phải bệnh về nướu sẽ thường tác động trực tiếp tới răng, nếu không có phương án điều trị kịp thời còn dẫn tới hỏng răng. Một số bệnh lý về nướu thường gặp gồm có viêm nướu, nhiễm trùng nướu, viêm nha chu… Chúng sẽ hình thành nên độc tố có hại khiến cho mảng bám răng hình thành. Với một vài trường hợp như thay đổi hormon ở phụ nữ mang thai hoặc tuổi dậy thì, sử dụng thuốc tây… cũng là nướu bị kích ứng. Sau khi điều trị nha khoa: Một số thủ thuật như bọc mão, trám răng cũng khiến răng trở nên nhạy cảm, nhất là trước đó răng có lỗ sâu. Tuy rằng điều trị nha khoa là giải pháp cần thiết nhưng nó cũng khiến tuỷ răng bị kích ứng. Răng nếu được phục hồi tốt cảm giác khó chịu sẽ hết. Viêm xoang: Xoang hàm sẽ nằm gần tại chân răng cối hàm. Với bệnh nhân bị viêm xoang hàm sẽ có dấu hiệu răng bị đau nhức, nhạy cảm hơn bình thường. Khi bị đau buốt răng, bạn thường sẽ thấy cơn đau xuất hiện âm ỉ, đau chói, đau đột ngột hoặc liên tục. Với nhiều trường hợp, cơn đau chỉ xảy ra khi nhai hoặc cắn thức ăn. Với trường hợp bệnh nhân bị đau nhức răng kèm theo khó nuốt, khó thở cần tới bệnh viện thăm khám ngay. Để điều trị đau răng, bạn có thể áp dụng 3 cách gồm có sử dụng bài thuốc dân gian, bài thuốc đông y và điều trị tây y. Mỗi loại sẽ đều sở hữu cho mình những ưu điểm khác nhau giúp loại bỏ triệu chứng khó chịu. Từ xa xưa, việc sử dụng thảo dược tự nhiên luôn được ông cha ta đánh giá cao về hiệu quả và độ lành tính. Với trường hợp mới đau răng hoặc đau mức độ nhẹ bạn có thể áp dụng sử dụng một số thảo dược sau đây:. Đây là nguyên liệu rất dễ kiếm, an toàn trong việc chữa đau lợi răng tại nhà. Toàn bộ nguyên liệu đem rửa sạch với nước, nhã nhuyễn rồi ngâm cùng với rượu. Thời gian ngâm khoảng từ 2 tuần cho tới 1 tháng. Khi sử dụng, lấy 1 cốc nhỏ đem đun cách thuỷ, để cho nguội rồi dùng bông chấm thuốc bôi trực tiếp vào khu vực răng bị đau nhức. Ngoài ra, hỗn hợp này có thể sử dụng để súc miệng mỗi ngày khoảng 5 phút. Áp dụng bài thuốc với lá trầu không khoảng vài ngày bạn sẽ thấy triệu chứng thuyên giảm đáng kể. Với người đang bị đau nhức răng khi ăn đồ lạnh, hoa cúc vàng sẽ giúp bạn giảm bớt sự khó chịu. Sử dụng 1 nắm cánh hoa cúc vàng, rửa sạch rồi để ráo nước, đặt trực tiếp vào vị trí răng đau rồi nhai trực tiếp. Nếu muốn điều trị lâu dài, bạn có thể sử dụng hoa cúc vàng ngâm cùng với rượu trắng. Mỗi ngày dùng nước này để súc miệng cũng làm giảm triệu chứng đau nhức sau 2 tuần áp dụng. Trong dân gian, lá lốt được sử dụng làm nguyên liệu trong khá nhiều bài thuốc giúp giảm đau, kháng viêm rất tốt. Bạn dùng 1 nắm rễ cây lá lốt, đem rửa sạch với nước, sau đó xay nhuyễn cùng với muối. Lọc lấy lần nước cốt, sử dụng tăm bông chấm lên vị trí răng bị đau. Hãy ngậm thuốc này từ 5 đến 7 phút, sau đó súc miệng với nước muối loãng. Trong y học cổ truyền, gừng tươi có tính nóng, ấm và vị cay nồng giúp giảm đau rất hiệu quả. Bạn chỉ cần dùng 1 củ gừng tươi đem rửa sạch với nước, sau đó giã nhuyễn rồi đắp trực tiếp lên khu vực đau nhức răng sâu. Mỗi ngày thực hiện 1 lần vào buổi tối trước khi đi ngủ, để miếng gừng bên trong miệng qua đêm, đến sáng hôm sau thì súc miệng với nước muối ấm. Áp dụng bài thuốc này từ 10 đến 15 ngày, triệu chứng đau răng sẽ khỏi hoàn toàn. Bạn dùng 1 quả đu đủ non đem cắt ra, lấy tăm bông chấm phần nhựa này bôi trực tiếp vào chỗ răng bị sâu. Thực hiện liên tục trong vòng vài ngày cho tới khi răng hết khó chịu thì thôi. Trong quá trình áp dụng bài thuốc cần đặc biệt chú ý không được nuốt nhựa, không dùng cho phụ nữ đang trong giai đoạn mang thai vì có thể gây ra tình trạng sảy thai. Lựa chọn một quả gấc chín, bóc hết phần hạt, sau đó tách phần nhân ra ngoài. Lấy phần nhân này đem nướng chín, tán thành bột mịn rồi trộn cùng dấm. Thời gian thực hiện tốt nhất là vào buổi chiều, thực hiện từ 3-4 lần để tối không mất ngủ. Trong thành phần của tỏi có chứa hợp chất giúp sát khuẩn, chống viêm từ đó chữa lành các vết thương do nhiễm trùng, nhất là đau răng. Bạn sử dụng 2 nhánh tỏi đem nghiền nát, sau đó trộn cùng với chút muối đắp trực tiếp vào khu vực răng đau. Cách làm này được đánh giá rất cao về hiệu quả mà nhiều người đã thực hiện thành công. Trong đông y quan niệm, răng thuộc tạng thận và là phần thừa của xương. Muốn điều trị dứt điểm trình trạng đau nhức cần phải trị tại chỗ, trị bản và trị tiêu kết hợp tác động toàn thân mới đạt được hiệu quả như mong muốn. Đông y cũng điều trị bệnh đau răng theo từng thể bệnh, cụ thể một vài thể thường gặp nhất như sau:. Chữa đau răng do phong thấp: Chỉ định sử dụng nhũ hương, cốt toái bổ với lượng bằng nhau, đem nghiền thành bột mịn rồi vo thành viên rồi nhét trực tiếp vào khu vực răng đau nhức. Bên cạnh đó, bạn có thể sử dụng nhựa mù u kết hợp với xạ hương tán thành bột mịn chấm vào khu vực đau răng sưng lợi. Chữa đau răng do sưng mộng răng: Sử dụng 30g thương nhĩ tử sắc thành nước đặc, ngậm khi còn nóng và nhổ ra khi nguội, áp dụng vài lần triệu chứng sẽ giảm. Ngoài ra, bạn còn có thể dùng lá hương phụ đem sắc nước nước đặc điểm ngậm hoặc bột hương phụ nghiền nát rồi thoa lên vị trí bị đau nhức, mỗi ngày áp dụng từ 2 đến 3 lần là khỏi. Chữa đau nhức răng do nhiệt: Dùng 16g sinh địa hoàng, 12g hoàng cầm, 8g các loại gồm có mẫu đơn bì, liên kiều, xích thược, cát căn, thăng ma. Toàn bộ nguyên liệu đem sắc thành nước uống trong ngày giúp giảm sưng trướng chân răng, thích thứ mát, đau tăng, khát nước. Với trường hợp bệnh nhân bị đau lâu ngày có thể kết hợp thêm 10g tri mẫu và 6g sài hồ. Chữa đau răng tái phát do nhiệt độc tích tụ: Với trường hợp này bệnh nhân cần phải giải độc, thanh nhiệt, sơ biểu, tiêu sưng bằng việc sử dụng 12g các loại gồm hậu phát, sinh địa hoàng, thạch hộc, kê kim, ngưu bàng tử; 10g các nguyên liệu gồm địa cốt bì, cát căn, phòng phong, bạc hà, bạch chỉ; 18g thạch cao, 6g hoàng liên. Các nguyên liệu đem sắc thành thang uống trong ngày. Để biết chính xác đau răng do đâu, các bác sĩ sẽ tiến hành thăm khám và chụp Xquang để quan sát rõ hình ảnh sâu răng và có phương án điều trị cụ thể. Tuỳ theo sâu răng ở mức độ nào, cách điều trị thường là điều trị tủy, trám răng hoặc nhổ răng. Với trường hợp bị sâu răng mức độ nhẹ, bác sĩ sẽ loại bỏ ổ sâu và sử dụng chất trám để trám kín răng. Còn nếu bị sâu răng cấp độ nặng đã xâm nhập vào tuỷ bệnh nhân sẽ được chỉ định điều trị tuỷ để loại bỏ viêm nhiễm. Bệnh nhân bị áp xe nhiễm trùng sẽ được chỉ định điều trị tuỷ và sử dụng thuốc kháng sinh. Còn nếu nhiễm trùng lan rộng cần sử dụng kháng sinh và thực hiện thoát nhiễm trùng cho đúng cách. Nhổ răng sẽ là giải pháp cuối cùng nếu nướu và răng xung quanh bị tổn thương nghiêm trọng không phục hồi được. Bác sĩ sẽ gây tê tại chỗ rồi thực hiện thủ thuật dẫn lưu. Bên cạnh đó, bệnh nhân sẽ được làm sạch túi nha chu để loại bỏ mảng bám, cao răng. Khi quá trình được hoàn thành, bác sĩ sử dụng dung dịch kháng khuẩn chuyên dụng để làm sạch hoặc thuốc kháng sinh tại chỗ để điều trị tiếp tục. Tuỳ theo mức độ của mỗi bệnh nhân có thể kê thêm thuốc kháng sinh để uống và nước súc miệng chứa chlorhexidine. Khu vực răng bị áp xe nha chu cần phải được vệ sinh sạch sẽ bằng việc súc miệng và đánh răng mỗi ngày nhẹ nhàng. Trong lần thăm khám tiếp theo bệnh nhân sẽ được giải quyết tình trạng răng miệng đang bị bệnh hoàn toàn. Cách điều trị thông thường đó là đặt mão răng để thay thế cho cấu trúc răng bị mất. Ngoài ra, điều này còn có tác dụng giúp răng không bị nhạy cảm, phá vỡ và suy yếu. nếu bệnh nhân bị sưng hàm hoặc sốt sẽ được chỉ định sử dụng thuốc kháng sinh. Áp dụng các phương pháp điều trị nha chu nếu cần thiết để làm sạch, loại bỏ mảng bám trên nướu răng. Trong quá trình điều trị các bệnh lý về răng miệng cho phụ nữ đang mang thai, các bác sĩ sẽ phải thực hiện các phương pháp an toàn nhất. Thời gian điều trị khuyến nghị thường vào 3 tháng giữa thai kỳ. Nhưng với trường hợp bệnh nhân bị đau buốt răng cửa nhiều, dữ đội, nhiễm trùng có thể phải điều trị vào bất cứ giai đoạn nào của thai kỳ. Lúc này, các bác sĩ chuyên khoa sản sẽ tư vấn lựa chọn phương pháp tốt nhất, đảm bảo an toàn và tránh biến chứng. Sử dụng thuốc phải theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ. Nhất là với các loại thuốc kháng sinh, gây tê tại chỗ trong điều trị nha khoa cần được thực hiện trước hay sau khi điều trị. Đặc biệt, những loại thuốc không kê đơn như ibuprofen, aspirin, naproxen đều không được dùng khi mang thai có thể gây ảnh hưởng đến em bé. Muốn kiểm soát cơn đau trong thời kỳ này thì Acetaminophen được coi là an toàn nhất. Tình trạng đau nhức răng kéo dài từ 1 đến 2 ngày nhưng không có dấu hiệu thuyên giảm. Nếu đau răng không tìm ra nguyên nhân và có phương pháp điều trị kịp thời có thể gây ra các biến chứng như viêm tủy cấp, áp xe răng khiến cơn đau càng trở nên dữ dội, nghiêm trọng, nhức lan lên thái dương khiến người bệnh mất ngủ, ăn không ngon.
Bệnh đau răng
Bệnh đau răng, còn được gọi là đau răng, là đau đớn bên trong răng và/ hoặc cấu trúc nâng đỡ của chúng, gây ra bởi bệnh về răng miệng hoặc đau dị nguyên trong răng mà không phải bệnh lý nha khoa. Khi bệnh trầm trọng hơn có thể ảnh hưởng đến giấc ngủ, ăn uống và các hoạt động hàng ngày khác. Các nguyên nhân phổ biến bao gồm viêm tủy, thường đáp ứng với sâu răng, chấn thương nha khoa, hoặc các yếu tố khác, như ngà quá mẫn (đau buốt và hết nhanh, thường liên quan đến bề mặt rễ lộ ra ngoài), viêm nha chu đỉnh (viêm dây chằng nha chu, và viêm xương đỉnh răng xung quanh đỉnh gốc), áp xe nha khoa (tụ chất mủ, như áp xe đỉnh, áp xe quanh thân răng và áp xe nha chu), viêm xương ổ răng ("dry socket", viêm khớp khô, có thể là một biến chứng của nhổ răng, với sự mất cục máu đông và làm lộ xương), hoại tử loét cấp tính (nhiễm trùng nướu, còn được gọi là "trenchmouth"), rối loạn về khớp thái dương hàm và những căn bệnh khác. Viêm tủy được phân loại là có thể đảo ngược khi cơn đau nhẹ đến trung bình và kéo dài trong một thời gian ngắn sau khi kích thích (ví dụ, lạnh hoặc ngọt), hoặc không thể đảo ngược khi cơn đau nặng, tự phát, và kéo dài một thời gian dài sau khi kích thích.
Nếu bạn đang có ý định theo nghề pha chế nhưng lại chưa hiểu rõ về nghề này thì đây chắc chắn sẽ là một bài viết hữu ích khi tổng hợp tất tần tật những thông tin bạn cần biết về nghề pha chế. Sau bài viết này, chắc chắn bạn sẽ có cái nhìn tổng quan và những cân nhắc kỹ càng khi quyết định học nghề pha chế đấy!. Nghề pha chế là nghề mà ở đó người làm nghề pha chế sẽ làm công việc chế biến và sáng tạo ra những món đồ uống thơm ngon, hấp dẫn, đẹp mắt phục vụ nhu cầu thức uống đa dạng của khách hàng. Đây là một nghề thuộc nhóm ngành Nhà hàng – Khách sạn. Người ta thường hay gọi chung người làm nghề pha chế là Bartender, và nhiều người còn nhầm lẫn giữa Bartender và Barista. Barista là những người pha chế thiên chủ yếu về pha chế cà phê, có kiến thức chuyên sâu về cà phê, việc của một Barista là làm thế nào để tạo nên một ly cafe ngon nhất, biết cách pha chế nhiều loại cà phê khác nhau và biết tạo hình nghệ thuật cũng như khiến cà phê lưu giữ được hương vị thật thơm ngon. Bartender lại là những người pha chế chủ yếu các loại đồ uống có cồn như rượu, cocktail,… và các loại đồ uống không cồn như sinh tố, soda, đá xay,… Bartender phải tạo được những món đồ uống đẹp, hương vị ngon, thu hút. Những Bartender làm trong các quán bar, khách sạn, nhà hàng còn phải có kỹ thuật biểu diễn điêu luyện khi pha chế đồ uống. Nghề pha chế không chỉ có mỗi làm Bartender hay Barista không thôi đâu, nghề pha chế còn nhiều công việc khác nhau cũng như yêu cầu những kỹ năng khác nhau nữa đấy. Và nghề pha chế cũng có một lộ trình thăng tiến vô cùng hấp dẫn trong vị trí làm việc cũng như thay đổi trong lương bổng. Những công việc trong nghề pha chế cũng là một phần của lộ trình thăng tiến: từ phụ bar, nhân viên pha chế (Bartender/Barista), bar trưởng, giám sát bộ phận pha chế, quản lý bộ phận pha chế. Những phụ bar là những nhân viên ở bên cạnh Bartender để hỗ trợ các công việc trong quầy bar. Đây là một vị trí khởi điểm khôn ngoan để tiếp cận và dấn thân vào nghề pha chế dễ dàng có được nhiều kinh nghiệm nhất từ việc quan sát và học hỏi từ các Bartender chuyên nghiệp. Chuẩn bị nguyên vật liệu và dụng cụ: Chuẩn bị nguyên liệu, kiểm tra lại nguyên liệu, đảm bảo nguyên liệu đầy đủ và sẵn sàng cho quầy Bar hoạt động. Bên cạnh đó, phụ Bar cũng chuẩn bị các dụng cụ pha chế đầy đủ và cần thiết cho Bartender. Dọn dẹp khu vực làm việc: Phụ Bar sẽ là người làm công việc về sinh quầy Bar, vệ sinh dụng cụ pha chế, sắp xếp khu vực pha chế để nó luôn gọn gàng sạch sẽ lúc Bartender pha chế xong hoặc lúc đóng cửa quầy Bar. Cùng với Bartender phục vụ khách hàng: Phụ Bar cũng tham gia vào việc phục vụ khách hàng như giao tiếp khách hàng và có thể bán hàng khi cần thiết. Đặc biệt, phụ Bar phải luôn giữ được sự hài lòng của khách hàng. Với những người có ý định theo nghề pha chế thì đây là một bước đệm và là nền tảng vững chắc để dễ dàng và thuận tiện hơn khi trên chặng đường trở thành nhân viên pha chế chuyên nghiệp. Phụ Bar sẽ rèn được các kỹ năng về ghi nhớ, tính cẩn thận, thuộc nằm lòng quầy Bar và là cơ hội tuyệt vời để học hỏi các “bí quyết” của nhân viên pha chế chuyên nghiệp. Sau hơn một năm giữ vị trí phụ Bar, khi tiến lên học để trở thành nhân viên pha chế dễ dàng hơn hẳn vì lúc này bạn đã quen với quầy Bar và trang bị được một số kỹ năng nền tảng. Rất nhiều người muốn trở thành một Barista hay một Bartender để tự tay làm nên, sáng tạo nên những món đồ uống thơm ngon, đẹp mắt, ngoài ra được trình diễn quá trình tạo ra một ly cocktail vô cùng điêu luyện nghệ thuật. Không chỉ đem lại thu nhập ổn định, đây là một ngành nghề hot được nhiều người lựa chọn trong những năm gần đây. Sau khi trải qua nhiều năm kinh nghiệm, những người có đủ tố chất sẽ được cân nhắc lên làm Bar trưởng. Bar trưởng ở đây có nghĩa là người quản lý và điều hành quầy Bar để quầy Bar có thể hoạt động một các trơ tru và hiệu quả nhất. Người làm ở chức vụ quản lý bộ phận pha chế phải có kinh nghiệm hơn năm năm ở bộ phận pha chế và từng làm ở bộ phận Bar trưởng. Giám sát hoạt động của nhân viên, phân bổ ca làm hợp lý, phân chia công việc, hạn chế việc bỏ ca làm của nhân viên quầy Bar. Quản lý bộ phận pha chế là cấp bậc cao nhất khi “dấn thân” vào nghề pha chế. Lúc này, khi đã ở bộ phận quản lý bộ phần pha chế, bạn sẽ nhận được mức lương hấp dẫn và một công việc đáng mơ ước của bất cứ ai yêu thích và theo đuổi nghề pha chế này. Chịu trách nhiệm về toàn bộ bộ phận pha chế của mình ở nhà hàng, khách sạn, quầy bar,… và chịu trách nhiệm trước quản lý bộ phận ẩm thực. Phối hợp gắn kết nhịp nhàng giữa giám sát bộ phận pha chế, Bar trưởng, nhân viên. Đảm bảo doanh số, lợi nhuận, tối ưu chi phí, nâng cao chất lượng đồ uống. Pha chế luôn là một trong những ngành được quan tâm nhiều nhất và được nhiều bạn lựa chọn theo đuổi bởi nhu cầu của thị trường. Hàng loạt các nhà hàng, quán bar, khách sạn, quán cafe “mọc” lên thì nhu cầu về nhân viên làm trong ngành pha chế cũng càng nhiều. Tùy theo vị trí công việc và nơi làm việc mà lương của người làm trong ngành pha chế cũng từ ổn định đến cao. Hoặc nhiều bạn trẻ vẫn chọn học pha chế để tự kinh doanh riêng cho mình là điều phổ biến hiện nay. Vì vậy chọn học ngành pha chế cũng không quá lo lắng vì tỷ lệ thất nghiệp thấp. Nếu các bạn không thích gò bó trong sấp giấy tờ công sở mà yêu thích các loại nước uống mang hương vị riêng hay tạo ra những món thức uống của riêng mình thì đây là một lựa chọn thú vị và phù hợp. Tùy thuộc vào sở thích và đam mê của mỗi người mà đánh giá được nghề nghiệp có thực sự phù hợp và có tốt với họ hay không. Chỉ cần bạn là người khéo léo một chút, có thể ghi nhớ, tinh thần học hỏi cao, tỉ mỉ và luôn cố gắng hết mình trong công việc là có thể phù hợp để theo ngành pha chế rồi. Miễn là cố gắng học hỏi thật nhiều, bạn sẽ dễ dàng thuần thục và làm tốt công việc pha chế. Một trong những điều quan trọng nhất. Chắc chắn một nhân viên pha chế giỏi phải là một nhân viên chứa trong đầu hàng trăm công thức pha chế để sử dụng mà không nhầm lẫn. Các công thức pha chế đều cần sự ghi nhớ có tính chính xác cao để không gây ra những “nhầm lẫn tai hại” làm hỏng món thức uống ngon lành phục vụ khách hàng. Tất nhiên kỹ năng này là một kỹ năng có thể rèn luyện. Chỉ cần chú tâm học hỏi và thực hành thật nhiều thì tự nhiên bạn sẽ thuộc “nằm lòng”. Ghi nhớ giúp tạo ra sự khác biệt dẫn đến một nhân viên pha chế chuyên nghiệp và là bước đệm vững chắc cho thăng tiến đấy. Đa số các công thức, kỹ năng pha chế được dạy ở các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề pha chế cũng sẽ “đổ sông đổ bể” nếu bạn chỉ học rồi để mớ kiến thức pha chế ở đó hoặc chỉ dừng lại ở những kiến thức đó mà thôi. Vì thời gian đào tạo trung bình cho các khóa học pha chế không quá dài, nên việc tự học, tự rèn luyện, cập nhật xu hướng đồ uống và luôn tìm tòi, khám phá, sáng tạo ra những món đồ uống mới là vô cùng quan trọng. Làm nghề pha chế đặc biệt yêu cầu sự tỉ mỉ và cẩn thận, vì bạn sẽ tiếp xúc nhiều với các loại ly tách dễ vỡ cũng như khi pha chế các món đồ uống. Hãy luôn rèn luyện cho mình tính cẩn thận, tỉ mỉ để hoàn thành công việc một cách khéo léo nhịp nhàng nhất. Nếu không rèn được sự tỉ mỉ cẩn thận này, rất khó để có thể trở thành một pha chế giỏi. Không chỉ pha chế ngon, nếu muốn làm việc ở các quầy bar của các quán bar, nhà hàng, khách sạn, kỹ năng biểu diễn khi pha chế là vô cùng quan trọng. việc này liên quan trực tiếp đến mức lương của bạn trong ngành pha chế. Càng có kỹ năng biểu diễn và tay nghề giỏi, bạn càng được các chủ nhà hàng, quán bar, khách sạn săn đón với mức lương cao hơn. Kỹ năng biểu diễn không phải dễ dàng mà đạt được, kỹ năng này yêu cầu bạn phải tham gia các khóa học, tập luyện thường xuyên, chăm chỉ để không ngừng nâng cao trình độ cũng như kết hợp với tính tỉ mỉ, khéo léo và tinh thần tự học hỏi cao. Cho dù làm nghề pha chế để phục vụ cho đam mê của mình, nhưng bạn không mở quán riêng mà phục vụ cho các nhà hàng, quán bar, khách sạn, quán cafe thì điều những nơi này hướng đến cuối cùng cũng là mục đích làm hài lòng khách hàng và thu về lợi nhuận. Vì vậy kỹ năng phục vụ, giao tiếp khách hàng, thấu hiểu nhu cầu khách hàng là vô cùng quan trọng. Việc nâng cao kỹ năng phục vụ và giao tiếp khách hàng cũng là một cách để người làm pha chế có những cơ hội được cân nhắc lên những vị trí cao hơn phía trên như Bar trưởng hay giám sát, quản lý quầy bar đấy. Theo nghề pha chế có rất nhiều ưu điểm, đặc biệt là nếu có đam mê và nhiệt huyết với nghề, bạn sẽ có cơ hội thăng tiến lên những chức vụ cao với mức lương ổn định. Tuy nhiên, có một số bất lợi khi theo nghề pha chế có thể kể đến môi trường làm việc nhiều áp lực, phải làm việc khuya, thâu đêm ở một số nơi, có thể bị truy cứu trách nhiệm nếu phục vụ rượu cho khách hàng dưới tuổi. Nhờ internet và sự xuất hiện ngày càng nhiều của các trang web hỗ trợ tìm việc, các trang web tìm việc có vai trò như một cầu nối giữa người tìm việc với các nhà tuyển dụng, do đó cung cấp thông tin đầy đủ, nhiều cơ hội việc làm. Tuy nhiên, trước khi apply bất cứ một công việc hoặc thống tin tuyển dụng nào trên web tìm việc cũng cần cân nhắc kỹ, kiểm tra thông tin chính xác, đảm bảo địa điểm làm việc có thực và uy tín để tránh bị lừa. Tương tự các website tìm việc làm, mạng xã hội như đặc biệt là Facebook có các hội nhóm cũng như fanpage tìm việc làm cho nghề pha chế rất nhiều. Tuy nhiên, hãy đặc biệt cân nhắc, kiểm tra kỹ thông tin nhà tuyển dụng trước khi ứng tuyển để tránh cách rủi ro lừa đảo nha.
Người pha chế đồ uống có cồn
Nhân viên pha chế (tiếng Anh: Bartender) là một người chế biến và phục vụ đồ uống có cồn hoặc nước ngọt sau quầy bar, thường là trong một cơ sở được cấp phép. Người pha chế cũng thường phụ trách duy trì nguồn cung cấp và quản lý hàng tồn kho cho bar. Một nhân viên pha chế thường có thể pha chế các loại cocktail cổ điển như Cosmopolitan, Manhattan, Old Fashioned và Mojito. Bartender cũng thường chịu trách nhiệm xác nhận rằng khách hàng đáp ứng các yêu cầu về độ tuổi uống rượu hợp pháp trước khi phục vụ đồ uống có cồn cho khách. Tại một số quốc gia, chẳng hạn như Canada, Vương quốc Anh và Thụy Điển, người pha chế có quyền hợp pháp để từ chối thêm đồ uống có cồn với những khách hàng đã say. Trong lịch sử, pha chế là một nghề có uy tín thấp. Công việc này được nhìn nhận qua lăng kính về các vấn đề đạo đức và các ràng buộc pháp lý khác nhau liên quan đến việc phục vụ đồ uống có cồn. Những người tiên phong trong nghề pha chế như một nghề nghiêm túc xuất hiện vào thế kỷ 19.
Trong vận hành chuỗi cung ứng có vấn đề về nhu cầu và quản lý nhu cầu, vậy cụ thể đó là những gì? Câu trả lời sẽ có ngay sau đây. Chuỗi cung ứng trong dây chuyền sản xuất và kinh doanh được hiểu là một mạng lưới sử dụng để chuyển sản phẩm dịch vụ từ nguyên liệu thô đến khách hàng cuối thông qua việc cấu trúc dòng thông tin, phân phối và tiền. Theo đó, nhu cầu và quản lý nhu cầu trong vận hành chuỗi cung ứng là yếu tố đóng vai trò quan trọng và nòng cốt trong vận hành chuỗi cung ứng. Hiểu về chúng sẽ giúp nhà quản lý phần nào định hướng được những bước đi cụ thể, rõ ràng hơn trong hành trình của mình. Nhu cầu trong vận hành chuỗi cung ứng được hiểu là việc đặt ra một yêu cầu cụ thể cho hệ thống hoạt động cung cấp hàng hóa dịch vụ bằng phân bổ tồn kho và thời gian xử lý. Theo đó, quản lý nhu cầu nhận diện và quản lý các nhu cầu về sản phẩm trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Trong vận hành chuỗi cung ứng, nhà quản lý cần nắm bắt được tình hình cụ thể ở từng giai đoạn trong thị trường chung. Song song đó cần hiểu được đâu là những nhân tố có khả năng ảnh hưởng đến nhu cầu, đó là:. Như vậy, để những nhân tố trên không tác động mạnh và ảnh hưởng nhiều đến chuỗi cung ứng chung, nhà quản lý cần biết kết hợp chặt chẽ giữa kế hoạch nhu cầu, quản lý marketing và quản lý quan hệ khách hàng trong vận hành chuỗi cung ứng. Song song đó, nhà quản lý cần nắm được quy trình quản lý nhu cầu sao cho ổn định và hiệu quả. Quy trình này thường được tiến hành qua 4 bước cơ bản:. Để hiểu hơn về lượng ATP, mối liên hệ giữa MPC cũng như các vấn đề khác trong quản lý nhu cầu, các nhà quản lý cần nắm vững kinh nghiệm, kỹ năng và kiến thức về chuỗi cung ứng, vận hành chuỗi cung ứng. Những cái đó không tự nhiên có mà đòi hỏi họ phải tích cực học tập, rèn luyện qua công việc, qua thực tiễn và tham gia các khóa học liên quan là điều cần thiết. Theo đó, tìm kiếm một khóa học quản lý chuỗi cung ứng thật sự mang lại kết quả như mong muốn chưa hẳn là chuyện đơn giản bởi hiện có rất nhiều trung tâm, cơ sở đào tạo lĩnh vực này một cách đại trà và không có sự đánh giá nhất định về chất lượng. Hiểu được thực trạng này, chúng tôi cung cấp Khóa học về chuỗi cung ứng tại FMIT, mang tới giải pháp tuyệt vời cho các nhà quản lý. SCOR® là mô hình tham chiếu hoạt động chuỗi cung ứng (Supply Chain Operation Reference) theo tiêu chuẩn quốc tế. Mô hình này định ra các ứng dụng tốt nhất, các thước đo hiệu quả hoạt động và yêu cầu chức năng của các phần mềm cho từng quy trình cốt lõi, quy trình con và các hoạt động của chuỗi cung ứng). SCOR® đã trở thành một trong những chuẩn mực về chuỗi cung ứng hàng đầu thế giới được nhiều công ty ở các lĩnh vực khác nhau tham chiếu và vận dụng để phát triển chuỗi cung ứng của họ hiệu quả. Chuẩn hóa các kỹ thuật, khái niệm, mô hình theo chuẩn quốc tế mà không phải là các kinh nghiệm cá nhân rời rạc và thiếu hệ thống. Nếu bạn muốn hạn chế sự rủi ro khi vận hành sản phẩm trong chuỗi cung ứng để đáp ứng đúng nhu cầu của người tiêu dùng, hãy tham gia khóa học Quản lý chuỗi cung ứng theo tiêu chuẩn SCOR® tại viện FMIT® để quản lý nhu cầu trở nên dễ dàng hơn. Liên hệ ngay với chúng tôi tại:. Văn phòng đại diện tại Hà Nội: Tầng 7, 18 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Chuỗi nhu cầu
Chuỗi nhu cầu đề cập đến sự gia tăng nhu cầu hoặc giảm cầu hoặc giảm nhu cầu. Phân tích các hoạt động của doanh nghiệp như một chuỗi liên kết là một cách thử và kiểm chứng để tiết lộ các cơ hội tạo ra giá trị. Nhà kinh tế kinh doanh Michael Porter của Trường Kinh doanh Harvard đi tiên phong trong phương pháp tiếp cận chuỗi giá trị này: "chuỗi giá trị phân tách doanh nghiệp thành các hoạt động có liên quan chiến lược của nó để hiểu chi phí và nguồn tiềm năng hiện tại của sự khác biệt". Đây là cơ chế vi mô ở cấp độ công ty cân bằng cung và cầu ở cấp độ thị trường vĩ mô. Các ứng dụng ban đầu trong phân phối, sản xuất và mua chung đã dẫn đến một chủ đề được gọi là chuỗi cung ứng. Các chuỗi cung ứng cũ đã được chuyển thành chuỗi cung ứng hiện đại nhanh hơn, rẻ hơn và đáng tin cậy hơn nhờ vào đầu tư vào công nghệ thông tin, phân tích chi phí và phân tích quy trình. Tiếp thị, bán hàng và dịch vụ là một nửa khác của chuỗi giá trị, tập hợp và thúc đẩy nhu cầu, và được gọi là Chuỗi nhu cầu.
Diệp Tương Luân (Châu Kiệt Luân) là một học sinh chuyên ngành piano được chuyển đến Trường Trung học Đạm Giang - ngôi trường nổi danh dành cho các học sinh có năng khiếu âm nhạc, đặc biệt là piano. Vào ngày trước nhất đến trường, tự nhiên anh nghe được một nhạc điệu kì lạ đang được chơi bởi một nữ sinh - cũng là một nhân tài piano, tên là Lộ Tiểu Vũ (Quế Luân Mỹ). Khi Tương Luân hỏi tên bản nhạc đó là gì, Tiểu Vũ nói với anh đó là một kì lạ chẳng thể nào nói được. thời kì qua đi, Tương Luân và Tiểu Vũ trở nên có tình cảm với nhau. Cho đến khi Tương Luân nhắc đến việc phòng tập piano sẽ bị hủy hoại vào ngày anh tốt nghiệp, Tiểu Vũ mới dạy cho anh chơi bản nhạc kì lạ kia. Thế nhưng câu chuyện chưa giới hạn lại ở đó. Những kì lạ về bản nhạc cỗ máy thời kì và cô gái Tiểu Vũ là gì? Cùng đón xem bộ phim "Bí mật chẳng thể nói", một bộ phim điện ảnh âm nhạc kinh điển của Đài Loan và Hoa ngữ.
Bí mật không thể nói (phim 2007)
Bí mật không thể nói (tựa tiếng Anh: Secret, phồn thể: 不能說的秘密; giản thể: 不能说的秘密; bính âm: Bùnéng shuō de mìmì, Hán-Việt: Bất năng thuyết đích bí mật) là một bộ phim tình cảm lãng mạn của Đài Loan công chiếu năm 2007. Đây là bộ phim đầu tay của nhạc sĩ, ca sĩ, nhà sản xuất âm nhạc Đài Loan Châu Kiệt Luân. Trong phim, anh thủ vai nam chính và giữ vai trò đồng tác giả kịch bản. Album nhạc phim được phát hành bởi JVR Music ngày 13 tháng 8 năm 2007. Bộ phim đã nhận được 6 đề cử tại Giải Kim Mã lần thứ 44 và giành phần thắng trong các hạng mục phim Đài Loan xuất sắc nhất của năm, Nhạc phim xuất sắc nhất với ca khúc Bí mật không thể nói (不能說的祕密) của Châu Kiệt Luân và Kỹ xảo hình ảnh xuất sắc nhất năm 2007, đồng thời cũng được đề cử cho hạng mục Phim châu Á xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 27 năm 2008. Diệp Tương Luân (Châu Kiệt Luân) là một học sinh chuyên ngành piano được chuyển đến Trường Trung học Đạm Giang - ngôi trường nổi tiếng dành cho các học sinh có năng khiếu âm nhạc, đặc biệt là piano.
Nguồn gốc của thuật ngữ “vận động hành lang” hay “lobbying” vốn bắt nguồn từ chữ “lobby” nghĩa là khu vực sảnh hay hành lang chính của một tòa nhà. Có hai ý kiến về sự ra đời của thuật ngữ vận động hành lang trên thế giới, đó là vào những năm 1870, tổng thống thứ 18 của Mỹ Ulysses S. Grant đã sử dụng thuật ngữ này để gọi những nhà hoạt động chính trị thường chờ đợi ông ở khu vực sảnh của khách sạn Willard ở Washington D.C. nhằm tìm cách tiếp cận và trao đổi các vấn đề với tổng thống. Cũng có ý kiến khác cho rằng thuật ngữ “vận động hành lang” bắt nguồn từ những năm 1840 tại quốc hội Anh, khi công dân Anh có quyền đến hành lang quốc hội để bày tỏ những nguyện vọng của mình. Dần dần, cùng với sự phát triển của lịch sử, thuật ngữ vận động hành lang nay đã được sử dụng phổ biến và rộng rãi để miêu tả nỗ lực tiếp cận, thiết lập quan hệ với các nhà hoạch định chính sách của một người hay một nhóm người, nhằm gây ảnh hưởng lên một chính sách hoặc quyết định nhất định của chính phủ, bảo vệ và tối đa hóa lợi ích của nhóm người đó. Cho tới nay, ngay cả ở Mỹ, nơi các hoạt động vận động hành lang diễn ra sôi nổi với mức độ công khai và tính hợp pháp cao nhất, cũng chưa có một khái niệm thống nhất về vận động hành lang, đồng thời cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ này. Chủ thể thực hiện vận động hành lang thường là các nhóm lợi ích (interest group) và các chuyên gia vận động hành lang (lobbyist). Nhóm lợi ích là những nhóm công dân tập hợp lại với nhau dựa trên cơ sở lợi ích chung về kinh tế, sắc tộc… Các chuyên gia vận động hành lang thường là các nghị sĩ, cựu nghị sĩ hoặc các quan chức cấp cao của chính quyền, những luật sư giàu kinh nghiệm… Chính vì vậy, đây là những nhân vật có khả năng tiếp cận với các quan chức cấp cao trong chính phủ, duy trì được các mối quan hệ chính trị và có khả năng gây ảnh hưởng bằng uy tín của mình. Hoạt động vận động hành lang được thực hiện thông qua nhiều hoạt động đa dạng và phức tạp, bao gồm cả những biện pháp vận động trực tiếp và gián tiếp, như: gặp gỡ trực tiếp các nhân vật cần tác động; liên lạc thông qua emails, fax, điện thoại; chiêu đãi, tiệc tùng; tổ chức các buổi hội thảo tại nước ngoài; xuất bản các bản tin, tài liệu; tác động thông qua các kênh thông tin đại chúng, tạo sức ép từ dư luận, tổ chức các cuộc biểu tình, sử dụng uy tín của những người đứng đầu tổ chức, tổ chức các chiến dịch công chúng (mít-tinh, viết thư kêu gọi, ký tên tập thể,…); soạn thảo những dự luật có khả năng được đệ trình; tổ chức các buổi điều trần, trả lời chất vấn chính thức và không chính thức,. Nhìn chung, vai trò và ảnh hưởng của vận động hành lang đối với các chính sách đối nội lớn hơn nhiều so với các chính sách đối ngoại. Tuy nhiên, dưới tác động của toàn cầu hóa, nhiều vấn đề vốn thuần túy mang tính chất đối nội đã trở thành những vấn đề đối ngoại. Các chính phủ nước ngoài cũng quan tâm thực hiện vận động hành lang hơn nhằm tác động lên một chính sách ngoại giao hay kinh tế cụ thể của một quốc gia. Bởi vậy, sự xuất hiện và tham gia gây ảnh hưởng của các nhóm vận động hành lang trên các vấn đề đối ngoại cũng đang ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Thứ nhất, vận động hành lang đóng vai trò như một chiếc cầu nối giữa xã hội với các nhà hoạch định chính sách. Vận động hành lang đem lại cơ hội tiếp xúc, trao đổi và lắng nghe lẫn nhau giữa công chúng với các quan chức trong chính phủ, từ đó, các chính sách được đưa ra sẽ phù hợp và thiết thực hơn. Thứ hai, vận động hành lang là một công cụ giúp cho những nhóm công chúng cụ thể có thể góp phần tham gia vào quá trình hoạch định chính sách của nhà nước. Vận động hành lang là biện pháp hiệu quả nhất để các nhóm lợi ích bảo vệ tối đa lợi ích của mình, hạn chế đến mức thấp nhất các chính sách bất lợi. Thứ ba, vận động hành lang còn là con đường giúp các chính phủ nước ngoài tiếp cận dễ dàng hơn với chính phủ và các chính sách của một quốc gia, thông qua việc thuê các nhà vận động hành lang chuyên nghiệp. Nhiều chính phủ nước ngoài đã thành công trong việc giải quyết các mâu thuẫn, những vấn đề nhạy cảm trong quan hệ hai nước vốn không dễ hóa giải được trên các bàn đàm phán ngoại giao. Tuy nhiên, vận động hành lang cũng bị chỉ trích là làm phân tán quyền lực của nhà nước, và đôi khi lợi ích quốc gia của một nước bị các nhóm sắc tộc hay chính phủ nước ngoài ảnh hưởng. Bên cạnh đó, vận động hành lang cũng không thật sự công bằng và tích cực khi chính sách quốc gia bị tác động bởi một nhóm thiểu số công dân có quyền lực và sức mạnh về tài chính. Vận động hành lang ở Mỹ vốn là một hoạt động hợp pháp, công khai và tồn tại từ lâu đời với sự hoạt động của rất nhiều các nhóm lợi ích khác nhau. Có khoảng 3.700 nhóm lợi ích đang hoạt động trong hệ thống chính trị Mỹ, và có tới gần 60% người dân Mỹ là thành viên của các nhóm lợi ích này. Nước Mỹ đang chứng kiến một sự gia tăng đáng kể của các nhóm, các nhà vận động hành lang, cả về mặt số lượng lẫn mức độ tác động. Trong hầu hết các lĩnh vực, hệ thống hoạch định chính sách của Mỹ đang chịu tác động mạnh mẽ từ nhiều kênh, nhiều hình thức của các nhóm lợi ích/vận động hành lang. Theo một báo cáo của Public Citizen, tính từ năm 1998 đến nay, có tới 43% trong tổng số 198 cựu thành viên Quốc hội Mỹ đã rời khỏi chính trường để hành nghề vận động hành lang. Pháp Việt giao binh ký là cuốn sách chép cuộc chiến tranh của nước Việt Nam với nước Pháp từ những năm đầu triều Nguyễn đến những năm 1880. Nội dung cuốn sách chủ yếu xoay quanh mấy vấn đề như địa lý, phong tục, sản vật, diên cách lịch sử Việt Nam, mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam cùng cách thức mà Trung Quốc và Việt Nam đối phó với Pháp.
Vận động hành lang
Trong chính trị, vận động hành lang (tiếng Anh: lobby) là hành động cố gắng gây ảnh hưởng hợp pháp đến các hoạt động, chính sách hoặc quyết định của các quan chức chính phủ, thường là các nhà lập pháp hoặc thành viên của các cơ quan quản lý nhà nước. Ở một khía cạnh nào đó, những kiểu "chạy" giấy phép, "chạy" dự án của các doanh nghiệp Việt Nam có thể xem là một phần của hoạt động lobby. Ở Việt Nam hoạt động này bị xem là bất hợp pháp và bị coi là tham nhũng, nhưng tại một số nước phát triển như Hoa Kỳ, Anh. lobby là một hoạt động được luật pháp công nhận, có cả những công ty lớn chuyên hoạt động lobby theo đặt hàng. Tham nhũng ở nhiều nước phát triển được thực hiện một cách tinh vi dưới những vỏ bọc hợp pháp với danh nghĩa lobby. Đó là việc gián tiếp đưa hối lộ bằng nhiều hình thức hợp pháp như thông qua việc quyên góp, ủng hộ quỹ cho các chiến dịch của các chính trị gia, các nghị sĩ… Tổ chức minh bạch đã lên tiếng cảnh báo về thực trạng vận động hành lang đã thao túng các quyết sách của giới lãnh đạo châu Âu, dẫn đến tình trạng tham nhũng nghiêm trọng trong giới lãnh đạo.
Khác với là các loại thuyền chạy bằng động cơ máy móc, thuyền buồm là một loại thuyền chạy bằng sức gió nhờ vào một bộ phận gọi là buồm. Và điều thú vị là thuyền buồm có thể chạy ngược gió. Con người đã bắt đầu biết cách sử dụng thuyền buồm ngay từ buổi đầu của nền văn minh. Người La Mã cổ đại là những người đầu tiên gắn những lá buồm vào con thuyền chèo để kết hợp cả hai loại năng lượng sức người và sức gió. Tại Việt Nam có lẽ nơi có nhiều thuyền buồm nhất chính là vịnh Hạ Long. Bạn có thể trải nghiệm về vể đẹp của thuyền buồm trên vịnh Hạ Long theo chương trình du lịch Hạ Long – Cát Bà – Tuần Châu 4 ngày 3 đêm hấp dẫn từ hãng lữ hành Du lịch Khát Vọng Việt. Ngày nay, thuyền buồm được sử dụng phổ biến và thông dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ở nhiều quốc gia phương Tây như Mỹ, Úc, New Zealand, đua thuyền buồm trở thành một môn thể thao chuyên nghiệp rất được ưa chuộng. Ở các nước châu Á như Singapore và Thái Lan, thuyền buồm cũng được sử dụng rất phổ biến. Riêng ở Việt Nam, kể từ khi các tàu thuyền chạy bằng động cơ máy móc xuất hiện, thì những con thuyền buồm cũng ngày càng thưa thớt dần. Chỉ có ở Vịnh Hạ Long, thuyền buồm vẫn là phương tiện chính mà người dân chài vẫn dùng để đi đánh bắt xa bờ và là một hình thức kinh doanh dịch vụ du lịch mới rất nổi tiếng ở Việt Nam. Như đã nói ở trên, người đầu tiên chế tạo ra thuyền buồm là người La Mã cổ đại. Đứng trước sự khó khăn khi di chuyển những chiếc thuyền khi đi ra biển. Vì phụ thuộc vào hướng gió, nên khi muốn đi hướng ngược lại thì phải huy động một lực lượng lớn, mất sức rất nhiều. Đặc biệt vào khi gió lớn, sức người không thể đối chọi với sức trời. Hiện tượng đó đã gây nhiều trở ngại cho việc di chuyển trên biển lớn, làm trì tắc sự chuyển hóa hàng hóa trong giao thương. Dựa trên những tính toán về mặt vật lý và am hiểu về hướng gió, người La Mã cổ đại đã gắn thử những lá buồm vào con thuyền để có thể tổng hợp cả sức người và sức gió. Và thử nghiệm ấy đã thành công. Vì những thuận tiện của nó, thuyền buồm ngày càng được sử dụng phổ biến trong việc vận chuyển đa dạng hàng hóa qua biển. Nhờ sự sáng tạo của con người mà dần dần, thuyền buồm có những kiểu mẫu tân tiến, hiện đại hơn. Cũng chính vì vậy mà nó trở thành một phương tiện đắc lực trong các cuộc chiến tranh, trở thành “thuyền chiến” oai phong lẫm liệt. Lịch sử đã ghi nhận con thuyền buồm chiến cổ nhất trên biển Baltic. Theo một cuộc khai quật khảo cổ học ở Salme, người ta thu được bằng chứng rằng một con thuyền đã bị chôn vùi cùng với 35 chiến binh và quý tộc này có một sống thuyền, điều đó dẫn tới kết luận con thuyền đã sử dụng những cánh buồm. Điều này đã chứng minh cho việc sử dụng thuyền buồm sớm nhất trong các cuộc chiến tranh bạo lực. Trong những năm sau đó, thuyền buồm vẫn được sử dụng để chuyên chở và đánh bắt thủy hải sản và được tận dụng trong những chiến tranh ngoại quốc. Nhưng sau đó, khi tàu thuyền có động cơ tự động thì thuyền buồm dần trở nên thưa thớt dần. Thân thuyền thường được làm từ những nguyên vật liệu sau: gỗ,sắt, nhôm, nhựa polyester hay nhựa epoxy. Xét về chất lượng, nhôm là vật liệu tốt nhất và thích hợp nhất để đóng thuyền, nhưng giá thành rất cao, vì thế sắt và nhựa được dùng thay thế nhiều hơn. Tuy nhiên, khi đóng những con thuyền nhỏ dưới 10m, người ta thường dùng ván ép bọc nhựa epoxy vì một phần giá thành rẻ và một phần vì có độ bền cao. Gỗ cũng là loại vật liệu rất tốt để đóng thuyền, đặc biệt là những chiếc du thuyền sang trọng bởi màu nâu trầm cổ kính. Lợi thế của gỗ là nó nhẹ, đẹp, cách âm tốt. Đây là lựa chọn lý tưởng và ưu tiên để đóng những chiếc thuyền buồm mang phong cách truyền thống. Tại Việt Nam ở nhiều năm trước đây, khi điều kiện kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu, các thuyền buồm xưa của ngư dân ven biển dài 12 m thường làm một cách thủ công. Họ dùng nan cật tre, đan lại thành tấm xong gắn với nhau bằng 2 nẹp gỗ. Hai tấm hoặc ba tấm ván gỗ chò chỉ, bằng cách khoan lỗ cấy chốt bằng gốc tre ghép 2 tấm lại với nhau, cuối cùng dùng dầu rái và phân bò sơn lên tám nước sơn có đồ sền sệt như keo hồ. Đây là bộ phận quan trọng trong một chiếc thuyền buồm, nằm ở dưới đáy thuyền theo trục dọc, kéo dài từ trước ra sau. Nó đóng vai trò như xương sống của một con thuyền, giúp điều hòa xuyên suốt mọi hoạt động, bộ phận của chiếc thuyền. Long cốt chính là điểm tựa để từ đó người ta gắn với các bộ phận khác, tạo thành bộ khung hoành chỉnh, có tác dụng “chẻ nước”, giúp con thuyền thăng bằng, tiến thẳng về phía trước thay vì lệch hẳn sang một phía. Long cốt có thể không quan trọng, thậm chí không cần thết đối với các loại thuyền chèo hoặc thuyền máy, nhưng đối với thuyền buồm thì nó là bộ phận không thể thiếu. Long cốt của thuyền buồm có điểm rất đặc biệt. Nó thường sâu hơn rất nhiều so với long cốt thuyền máy, và thỉnh thoảng họ còn đổ chì vào để tăng thêm trọng lượng của long cốt, có tác dụng làm cho con thuyền hoạt động vững vàng hơn và không bị lật giữa sự dao động của sóng nước. Tuy nhiên, ở một số thuyền buồm nhỏ người ta không muốn có long cốt sâu, vì vô hình chung, trọng lượng của nó sẽ cản trở con thuyền khi đi vào những vùng nước cạn. Để khắc phục điều đó, người ta đã phát minh ra các loại long cốt giả. Nó có thể được kéo lên khi thuyền đi vào vùng nước cạn, và hạ xuống khi đi vào vùng nước sâu để có thể linh hoạt di chuyển trên nhiều vùng nước khác nhau mà không gặp trở ngại nào. Có hai loại long cốt giả: Loại có thể kéo lên bằng cách bật về phía sau và loại có thể kéo thẳng lên. Bánh lái nằm ở phía sau chót của con thuyền. Nếu long cốt giúp con thuyền giữ thăng bằng để tiến về phía trước, thì bánh lái lại giúp ta dễ dàng điều khiển hướng đi của con thuyền. Những tay lái lụa thường lái những đường đi rất nhẹ trên biển, tạo thành những vệt dài trắng trên mặt biển xanh trong. Thông thường, bánh lái gồm 2 bộ phận chính là bánh lái và tay lái. Bánh lái, cũng như thông thường, là vòng xoay tròn được gắn quanh trục xoáy trái phải để điều chỉnh hướng đi. Tay lái là một trục dài có thể đẩy lên xuống để thay đổi tốc độ du chuyển. Tuy nhiên ở một số con thuyền, người ta không dùng tay lái mà dùng vô lăng để lái. Buồm là bộ phận đặc trưng nhất của thuyền buồm. Nó là một tấm vật liệu mỏng, có thể được làm từ vải hay nhựa được may thành hình tam giác hoặc tứ giác. Người ta căng lá buồm lên trên cột buồm nhờ vào 1 hệ thống dây kéo và ròng rọc. Tác dụng của lá buồm là để bắt gió và chuyển thành lực đẩy để đẩy con thuyền lướt trên mặt biển, tiến về phía trước. Quy luật vận động của buồm thuyền khác với các loại thuyền khác. Thông thường, thuyền đi trên mặt nước mà không cần có động cơ máy móc chủ yếu là xuôi theo dòng chảy của nước, hướng đi của gió. Nhưng thuyền buồm có hướng đi đặc biệt lạ lùng: đi theo hướng chếch ngược với hướng gió. Trước hết chúng ta cần hiểu về quy luật tác động của gióa đến buồm. Ta cần hiểu rằng: Bản thân thuyền buồm không có động lực, nó chỉ lợi dụng sức gió tác động vào buồm theo cơ chế: dù thổi về hướng nào đi nữa, gió vẫn đẩy vuông góc với mặt phẳng của buồm. Để hiểu rõ về nguyên lý này, chúng ta hãy nhớ lại một chút kiến thức về tổng hợp lực và phân tích lực. Giả sử gió thổi theo chiều được chỉ bằng các mũi tên trên hình, đường AB biểu thị cánh buồm. R là lực đẩy của gió tác dụng vào cánh buồm. Lực này phân thành hai lực: lực Q vuông góc với cánh buồm và lực P song song theo chiều dọc của cánh buồm. Vì sự ma sát của gió với cánh buồm là không đáng kể, nên lực P chỉ trượt qua chứ không tác dụng gì tới buồm. Chỉ còn lại lực Q đẩy buồm dưới một góc vuông với mặt buồm mà thôi. Nếu như đã hiểu về sự tác động của gió đến cánh buồm, chúng ta có thể dễ dàng giải thích được một hiện tượng đáng ngạc nhiên: thuyền buồm có thể chạy theo góc nhọn ngược chiều gió như thế nào. Giả sử đường KK biểu diễn đường sống thuyền. Gió thổi dưới một góc nhọn đến đường này theo hướng chỉ bằng các mũi tên. Đường AB biểu diễn cánh buồm. Người cầm lái phải bố trí vị trí sao cho mặt phẳng của cánh buồm chia góc tạo nên giữa hướng gió và hướng của sống thuyền thành hai phần bằng nhau. Sức gió đẩy vào buồm biểu thị bằng lực Q, mà như chúng ta đã phân tích ở trên, nó phải vuông góc với buồm. Lực này được phân thành hai lực: lực R vuông góc với sống thuyền, và lực S hướng về phía trước dọc theo đường sống thuyền. Bởi vì chuyển động của thuyền về phía R gặp phải sức cản rất lớn của nước (thuyền buồm có long cốt rất sâu), nên lực R hầu như cân bằng với lực cản của nước, coi như không có tác dụng gì. Chỉ còn lại lực S, như các bạn thấy đấy, lực này hướng về phía trước và đẩy thuyền tiến lên. Hướng đi này tạo thành một góc nhọn ngược với chiều gió. Nhưng để di chuyển trên một chặng đường dài, thuyền phải đi theo đường zic zắc như được trình bày ở hình dưới, để điểm cuối không bị lệch nhiều so với điểm xuất phát. Tuy nhiên, không phải lúc nào thuyền buồm cũng có thể hoạt động như thế. Mà khi di động theo một góc nhọn nhất định đối với chiều gió, thì nguyên lý trên mới hoạt động được. Góc đó rất nhỏ, chỉ gần bằng một phần tư của góc vuông, khoảng 22 độ. Đua thuyền buồm là môn thể thao truyền thống ở các kỳ Olympic mùa hè, bắt đầu yêu thích thuyền buồm trong 4 năm gần đây, tôi dành phần lớn thời gian để viết bài và đưa tin về những hội đùa thuyền buồm, đặc biệt là các giải đua tại Việt Nam. Thuyền buồm không còn đơn thuần là một sở thích, đó còn là cuộc sống của tôi. Chuyên trang DUATHUYENBUOM.VN cập nhật những thông tin mới nhất, hấp dẫn nhất về lĩnh vực thuyền buồm trong nước và quốc tế: sưu tập những thuyền buồm đẹp nhất, tổng hợp những cuộc thi đua thuyền hấp dẫn đang diễn ra khắp mọi nơi.
Thuyền buồm (thể thao)
Lướt thuyền buồm sử dụng gió trên các cánh buồm, cánh buồm hoặc diều để đẩy một chiếc thuyền trên mặt nước (thuyền buồm, lướt gió hoặc kitesurfer), trên băng (thuyền băng) hoặc trên đất liền (du thuyền trên đất liền) trên một đường đã chọn, thường là một phần của kế hoạch điều hướng lớn hơn. Một đường đi được xác định liên quan đến hướng gió thực sự được gọi là một điểm của cánh buồm. Thuyền buồm thông thường không thể lấy được năng lượng từ những cánh buồm trên một điểm buồm quá gần gió. Trên một điểm nhất định của cánh buồm, thủy thủ điều chỉnh sự liên kết của mỗi cánh buồm theo hướng gió rõ ràng (theo cảm nhận trên tàu) để huy động sức mạnh của gió. Các lực lượng được truyền qua các cánh buồm được chống lại bởi các lực lượng từ thân tàu, keel và bánh lái của một chiếc thuyền buồm, bởi các lực lượng từ các vận động viên trượt băng của một chiếc thuyền băng, hoặc bởi các lực lượng từ các bánh xe của một tàu thuyền mặt đất để cho phép điều khiển khóa học.
Ông được xem là ông tổ thứ hai của Nho giáo và được hậu thế tôn làm “Á thánh Mạnh Tử” (chỉ đứng sau Khổng Tử). Mạnh Tử, tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương, nhà Chu, quê gốc ở đất Trâu, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông mồ côi cha, chịu sự nuôi dạy nghiêm túc của mẹ là Chương thị (người đàn bà họ Chương). Chương thị sau này được biết tới với cái tên Mạnh mẫu (mẹ của Mạnh Tử). Mạnh mẫu đã ba lần chuyển nhà để Mạnh Tử được ở trong môi trường xã hội tốt nhất cho việc học tập, tu dưỡng. Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Tư, tức là Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử. Vì vậy, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng Khổng giáo. Mạnh Tử là đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời Chiến Quốc, thời kỳ nở rộ hàng trăm trường phái tư tưởng lớn như Pháp gia, Nho gia, Mặc gia. Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Mạnh Tử phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử với chủ trương dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, ông cũng là người đưa ra thuyết tính thiện của con người rằng con người sinh ra đã là thiện rồi nhân chi sơ tính bản thiện, đối lập với tư tưởng của Tuân Tử rằng nhân chi sơ tính bản ác. Ông cho rằng “kẻ lao tâm trị người còn người lao lực thì bị người trị”. Ông đem học thuyết của mình đi truyền bá đến vua chúa các nước chư hầu như Tề Tuyên Vương (nước Tề), Đằng Văn Công (nước Đằng), Lương Huệ vương (nước Nguỵ) nhưng không được trọng dụng. Về cuối đời, ông dạy học và viết sách. Sách Mạnh Tử của ông là một trong những cuốn sách đặc biệt quan trọng của Nho giáo. Mạnh Tử cho rằng bản tính của con người lúc ban đầu là Thiện, Đức của một người là quà tặng của thiên thượng (Trời), và được liên thông với thiên thượng. Ông tin rằng bản chất của con người là tốt, và nếu một người thủ đức và nỗ lực tu thân, anh ta có thể trở thành người giống như các vị vua Nghiêu, vua Thuấn. Mạnh Tử chỉ ra rằng để trở thành một con người có lý niệm, người đó cần phải giữ được 4 tiêu chuẩn, “lòng trắc ẩn, thuộc về lòng nhân từ; sự hổ thẹn, thuộc về nghĩa khí; tâm khiêm nhường, thuộc về lễ nghi; tâm thị phi, thuộc về trí tuệ”. (trích từ “Cuốn đầu tay của Công Tôn Sửu” trong ‘các tác phẩm của Mạnh Tử’). Bốn đặc tính của con người này cùng các hành vi tương ứng của họ trở thành nền tảng tạo thành bốn đức tính của lòng nhân từ, nghĩa khí, lễ nghi, và trí tuệ. Mạnh tử cả đời vững tin vào chân lý, có trí tuệ dồi dào, giỏi trình bày và phân tích lý luận triết học. Ông kiên định khích lệ người ta làm điều thiện, lời nói nào cũng có tinh thần cổ vũ và dẫn dắt người ta. “Nhân tâm nhất tân” (Lòng của người, một mới) – Mạnh Tử viết: Nhân, nhân tâm dã; nghĩa, nhân lộ dã (仁人心也、義人路也), nghĩa là ‘Nhân’ (yêu người), ấy là lòng của người; ‘nghĩa’ (lẽ phải chăng) ấy là đường để làm người. “Vương đạo lạc thổ” (Đường vua, đất vui) – Mạnh Tử viết: Dưỡng sinh táng tử vô hám, vương đạo chi thủy dã (養生喪死無憾、王道之始也), nghĩa là “Nuôi sự sống, mất sự chết, đừng tiếc, ấy là bắt đầu của Vương đạo”. “Quân tử tam lạc” (Quân tử, ba vui) – Mạnh Tử viết trong sách “Tận Tâm – Thượng (盡心上)”: Phụ mẫu câu tồn, huynh đệ vô cố, nhất lạc dã. Ngưỡng bất quý ư thiên, phủ bất tạc ư nhân, nhị lạc dã. Ngửa mặt lên trời mà không hổ, cúi đầu đối với người mà không thẹn, ấy là vui thứ nhì. Được và dạy anh tài trong thiên hạ, ấy là vui thứ ba”. “Nhất thiên vạn thặng” (Một trời, muôn xe) – Thầy Mạnh khuyên: Thị thích vạn thặng chi quân, nhược thích hạt phu (視刺萬乘之君、若刺褐夫) nghĩa là “Giết một ông vua có vạn cỗ xe thì cũng không khác việc giết một kẻ thường dân (làm nhục mình)”.
Mạnh Tử
Mạnh Tử (chữ Hán: 孟子; bính âm: Mèng Zǐ) (372 TCN – 289 TCN) là triết gia Nho giáo Trung Quốc và là người tiếp nối Khổng Tử. Ông được xem là ông tổ thứ hai của Nho giáo và được hậu thế tôn làm "Á thánh Mạnh Tử" (chỉ đứng sau Khổng Tử). Mạnh Tử, tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương, nhà Chu, quê gốc ở đất Trâu, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông mồ côi cha, chịu sự nuôi dạy nghiêm túc của mẹ là Chương thị (người đàn bà họ Chương). Chương thị sau này được biết tới với cái tên Mạnh mẫu (mẹ của Mạnh Tử). Mạnh mẫu đã ba lần chuyển nhà để Mạnh Tử được ở trong môi trường xã hội tốt nhất cho việc học tập, tu dưỡng. Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Tư, tức là Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử. Vì vậy, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng Khổng giáo. Mạnh Tử là đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời Chiến Quốc, thời kỳ nở rộ hàng trăm trường phái tư tưởng lớn như Pháp gia, Nho gia, Mặc gia.
Chó hay Chó nhà (Danh pháp khoa học: Canis lupus familiaris hoặc Canis familiaris; từ Hán Việt gọi là “cẩu” (狗) hoặc “khuyển” (犬), hay cầy, những chú chó con còn được gọi là “cún“), là một loài động vật thuộc chi Chó (Canis), tạo nên một phần tiến hóa của sói, đồng thời là loài động vật ăn thịt trên cạn có số lượng lớn nhất. Chó và sói xám thuộc nhóm chị em, giống như những loài sói hiện đại đều không có họ hàng gần đến những loài sói được thuần hóa đầu tiên, đồng nghĩa với tổ tiên gốc của chó đã bị tuyệt chủng. Chó cũng là loài động vật đầu tiên được con người thuần hóa và đã được chọn giống qua hàng thiên niên kỷ với nhiều hành vi, khả năng cảm nhận và đặc tính vật lý. Loài vật này được sử dụng để giữ nhà hoặc làm thú chơi. Răng của chúng dùng để giết mồi, nhai thịt và gặm thịt, thỉnh thoảng để cắn nhau. Chó là loài động vật được nuôi nhiều trên thế giới, có thể trông coi nhà, chăn cừu, dẫn đường, kéo xe, cũng là thực phẩm giàu đạm. Chó giúp con người rất nhiều việc như trông nhà cửa, săn bắt, và được xem như là loài vật trung thành, tình nghĩa nhất với con người. Ngày nay, nhu cầu nuôi chó cảnh đang được phát triển nên những giống chó nhỏ như Fox, Chihuahua hoặc chó thông minh như Collie được nhiều người chơi quan tâm đến. Tổ tiên của loài chó bao gồm cả cáo và chó sói là một loài động vật có vú gần giống như chồn sinh sống ở các hốc cây vào khoảng 40 triệu năm trước. Còn loài chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một loài chó nhỏ, màu xám. Vào cuối kỳ Băng hà, cách đây khoảng 40.000 năm, chó sói và người chung sống với nhau thành nhóm săn mồi theo bầy. Chó sói và người thường tranh nhau con mồi, thậm chí còn giết nhau. Nhưng hẳn là chó sói đã bắt đầu tìm bới những mẩu thức ăn thừa do con người bỏ lại. Con người đã thuần hóa chó sói con và qua lai giống nhiều thế hệ, chó sói tiến hóa thành chó nhà ngày nay. Năm 1758, nhà phân loại học Carl Linnaeus đã công bố trong cuốn Systema Naturae về việc phân loại loài, trong đó Canis (chi chó) là một từ tiếng Latin nghĩa là chó. Ông phân loại loài chó nuôi là Canis familiaris (Linnaeus, 1758) và trong trang kế tiếp về một loài riêng biệt, ông phân loại chó sói là Canis lupus (Linnaeus, 1758). Năm 1926, Ủy ban Quốc tế về Danh mục Động vật học (ICZN) đã đưa ra luận điểm 91 rằng loài chó nuôi Canis familiaris (Linnaeus, 1758) được đưa vào danh sách chính thức. Năm 1957, ICZN quy định trong luận điểm 451 rằng ”Canis dingo (Meyer, 1793) là tên sử dụng cho loài chó dingo và được đưa vào danh sách chính thức của loài này. Chó còn được con người lai tạo ra nhiều giống chó khác nhau, rất đa dạng. Giống chó lai là giống chó vốn được ghép bởi 2 loài chó bố, mẹ khác nhau (về màu sắc, hình dạng,…). Hai con bố, mẹ này sau khi giao phối sẽ tạo ra một giống chó mới mang thuộc tính của bố mẹ, tổ tiên. Giống chó là nhóm các con chó nhà có liên quan chặt chẽ và tương tự nhau, đó là tất cả các loài có những đặc điểm đặc trưng được lựa chọn và duy trì bởi con người. Các giống chó cũng là dùng để chỉ giống tự nhiên hoặc các giống mà phát sinh thông qua thời gian để đáp ứng với một môi trường cụ thể trong đó có con người, với ít hoặc không có giống chọn lọc của con người. Giống chó không được khoa học xác định phân loại sinh học, mà là các nhóm xác định bởi các câu lạc bộ của người có sở thích chơi chó được gọi là câu lạc bộ giống. Một giống chó được đại diện bởi một số lượng đủ của các cá nhân để ổn định chuyển đặc điểm cụ thể của nó qua nhiều thế hệ. Một con chó được cho là thuần chủng nếu cha mẹ của họ đã được thuần chủng và nếu con chó đáp ứng các tiêu chuẩn của giống chó này. Sự khác biệt di truyền rõ ràng giữa các giống chó đã làm chó giống cụ thể đối tượng tốt cho nghiên cứu y học và di truyền của con người. Các giác quan như thị giác, thính giác và khứu giác phát triển mạnh: Chó có mắt to, tai dựng và mũi nhạy, nhờ đó chúng có thể theo dấu con mồi thành công, dù là săn đơn độc hay theo bầy. Tất cả các loài chó trừ chó bụi rậm Nam Mỹ đều có chân dài thích nghi với chạy nhanh khi săn đuổi mồi. Chó là loài “đi bằng đầu ngón chân” và có các bàn chân đặc trưng, năm ngón ở chân trước và bốn ngón ở chân sau. Đôi khi có trường hợp chó nhà có năm ngón ở chân sau (móng thứ năm gọi là móng huyền). Chó rừng có đuôi dài, lông dày, thường đồng màu và không có đốm sọc. Thời gian mang thai trung bình của chó kéo dài khoảng 60 đến 62 ngày, có thể sớm hơn hoặc kéo dài đến 65 ngày. Lúc mới ra đời, chó con không có răng nhưng chỉ sau 4 tuần tuổi đã có thể có 28 chiếc răng. Giống như tất cả các động vật có vú, sau khi con non được sinh ra con mẹ cho con non bú và chăm sóc con non vài tháng, với sự giúp đỡ của các thành viên khác trong gia đình, lúc này con mẹ sẽ trở nên hung dữ. Bộ hàm đầy đủ của loài thú này là 42 chiếc. Mắt chó có đến 3 mí: một mí trên, một mí dưới và mí thứ ba nằm ở giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khỏi bụi bẩn. Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa vào chuyển động sau đó đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng. Vì thế thị giác của chúng rất kém, chó có thể nhìn thấy màu lam, màu vàng, nhưng không phân biệt được đỏ và lục. Cụ thể thì bên trong mắt của chó có hai loại tế bào hình nón có thể cảm nhận màu sắc, trong khi ở người là ba. Bù lại, chúng có thể quan sát khá rõ trong đêm tối. Tai của chúng rất thính, chúng có thể nhận biết được 35.000 âm rung chỉ trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất thính như tai. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con nằm sâu trong rừng, vì chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi khác nhau. Với mỗi con chó, sống mũi và nếp nhăn trên mũi sẽ tạo ra những đường vân độc nhất – gọi là vân mũi, là thứ giúp nhận định danh tính của chúng. Não chó rất phát triển. Trí tuệ của loài chó có thể tương đương với một đứa trẻ 2 tuổi. Não bộ của chó có tiết ra oxytocin khi tương tác với con người và đồng loại. Điều này cũng giống như phản ứng của não người khi được ôm hoặc hôn. Có thể thấy vào mùa đông lạnh, thỉnh thoảng chó hay lấy đuôi che cái mũi ướt át, đấy là cách chúng giữ ấm cơ thể cho mình. Thân nhiệt của chó là 38°C. Chó có đến 2 lớp lông: lớp bên ngoài dễ thấy, còn lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong nhũng ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ “hạ nhiệt” trong những ngày oi bức. Về sức khỏe, người ta đã tính được rằng: chó 1 năm tuổi tương ứng với người 16 tuổi. Chó 2 tuổi tương ứng với người 24 tuổi, chó 3 năm tuổi – người 30, và sau đó cứ thêm một năm tuổi chó bằng 4 năm tuổi người. Một số thức ăn thông thường của con người và hộ gia đình có thể gây độc cho chó, như Sô-cô-la, hành và tỏi, nho và nho khô, mắc ca, xylitol cũng như nhiều loài thực vật và chất liệu có thể gây ngộ độc khác. Các dấu hiệu ngộ độc có thể là nôn mửa nhiều, ngất hoặc thậm chí tử vong. Trong văn hóa tâm linh của một số dân tộc, chó là con vật thân thiết gắn bó thủy chung với người chủ nói riêng và con người nói chung, những đặc tính của chó được tôn vinh, thậm chí có nơi chó được thờ cúng tại các đền thờ, miếu mạo. Theo một nhà dân tộc học người Nga, tục thờ chó khá phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới, và có ở hầu khắp thần thoại các dân tộc ở Đông Nam Á lục địa. Ban đầu tục này xuất phát từ các dân tộc chăn nuôi gia súc khu vực Tây Nam Á, với vai trò canh giữ đàn gia súc. Sau đó có thể người Ấn–Âu từ thời đồng thau đã mang vào Đông Á truyền thống chăn nuôi cùng với tín ngưỡng thờ chó. Trong thần thoại vùng Địa Trung Hải và Cận Đông, hình tượng chó, kẻ canh giữ gia súc đã sớm chuyển thành kẻ canh giữ thế giới âm phủ. Văn hóa về chó trong nghệ thuật đã có niên đại hàng ngàn năm khi chó được vẽ tại tường trong các hang động. Việc miêu tả chó trở nên tinh vi hơn khi nhiều giống được phát triển và quan hệ giữa người và chó phát triển. Những cảnh đi săn phổ biến trong thời Trung Cổ và Phục Hưng. Chó được phác họa để biểu tượng cho sự dẫn dắt, bảo vệ, lòng trung thành, trung tín,, tin tưởng, quan tâm và yêu thương. Rhyton Hy lạp Cổ đại trong hình dạng đầu chó, được làm bởi Brygos, đầu thế kỷ thứ V TCN. Thuật từ “chó nhà” (tiếng Anh: domestic dog) bao gồm cả chó nuôi và chó hoang. Từ chó trong tiếng Anh, “dog” xuất phát từ một từ tiếng Anh cổ docga, nghĩa là “một giống chó mạnh” (powerful dog breed). Thuật ngữ này cũng có thể bắt nguồn từ *dukkōn (một từ tiếng Proto-Germanic), viết trong tiếng Anh cổ là finger-docce (“finger-muscle”). Piotr Gąsiorowski từng gợi ý rằng từ tiếng Anh cổ docga thực chất xuất phát từ một tính từ tiếng Anh cổ chỉ màu sắc dox. Chó còn được dùng huấn luyện đặc biệt để hỗ trợ trong công việc của cảnh sát và quân đội (gọi là cảnh khuyển hay chó nghiệp vụ). Ngoài ra, trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chó chống tăng còn được Quân đội Liên Xô để chống lại xe tăng Đức vào các năm 1941–1942. Con chó đầu tiên được đưa vào không gian là con Laika của Liên Xô trong chuyến bay năm 1957. Laika đã chết vì đau tim trong chuyến bay, xác của nó đã bị bốc cháy cùng con tàu khi rơi vào bầu khí quyển. Ở Philipines, một chú chó tên Kabang đã bị mất mõm vì cứu con gái và cháu gái của chủ. Nó trở nên nổi tiếng cũng nhờ hành động ”dũng cảm” đó. Ngoài hai chú chó đã nói trên, chú chó Hachiko (1924 – 1935) của Nhật Bản cũng là một biểu tượng của sự trung thành trên toàn thế giới khi nó đứng ở sân ga đợi chủ đến 10 năm. Thịt chó là một món ăn thông thường tại một số nước châu Á như Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam, nó vừa có tính cách bình dân lại vừa được xếp vào hàng đặc sản.Theo quan niệm ở một số địa phương Việt Nam thì thịt chó còn là món ăn giải xui. Tuy nhiên, tại nhiều quốc gia Tây phương và Hồi giáo, việc giết chó làm thịt và ăn thịt chó (và mèo) được coi là tàn bạo và bị cấm. Tại Việt Nam, chó dùng làm thịt thường là chó cỏ không phải là “chó cảnh”, “chó Tây”, vì theo đánh giá thì hai loại đó vừa đắt vừa không ngon. Thịt chó ngoài việc cung cấp thực phẩm còn có một giá trị y học nhất định theo quan niệm người Á Đông (trừ Nhật Bản). Thịt chó theo Trung y có vị mặn, tính ấm và có rất nhiều chất đạm. Theo công văn Cục Thú y ban hành vào ngày 23.1.2014, chỉ riêng tại Việt Nam, hàng năm ước tính có khoảng 5 triệu cá thể chó bị giết phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ thịt.
Chọi chó
Chọi chó hay đấu chó là một loại hình thể thao máu me theo đó người ta cho hai con chó (gọi là chó chọi hay đấu khuyển) cắn xé với nhau trong một không gian nhất định (trước đây ở Anh người ta cho xuống một cái hố) nhằm mục đích giải trí đem lại sự hài lòng cho khán giả, thậm chí còn có yếu tố cá độ điều này dẫn đến thực tế chọi chó cũng giống như chọi gà. Là những hình thức giải trí phản ánh tính hiếu võ và chiến tranh của con người. Chó là loài hung dữ và hiếu chiến. Vì vậy,những trận đấu chó thường diễn ra rất khốc liệt, để phục vụ cho thú vui của đám đông,người điều khiển trận đấu chó cũng thường không có hành động nào để ngăn chặn những con vật khỏi chết hoặc bị thương. Vì lý do này,đấu chó bị nhiều người lên án là dã man và phi nhân tính. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để bảo tồn một nét đặc trưng văn hóa mà không biến nó trở thành một tệ nạn,đồng thời bảo vệ những chú chó chiến khỏi bị thương và ngược đãi.
chưa bao giờ các tác phẩm nghệ thuật lại lạm phát dữ dội như bây giờ. cuốn tiểu thuyết và các tập thơ. Hàng trăm bộ phim truyền hình và các vở sân khấu. Còn các ca khúc thì sao? Nhất là các băng đĩa ca khúc trữ tình xuất. xưởng liên tục nhiều không thể đếm xuể. Chưa bàn đến chất lượng hay dở các tác. phẩm nghệ thuật đó và tác động của nó đến đời sống xã hội. Nếu coi những tác phẩm. nghệ thuật thật là náo nhiệt, tưng bừng. Và phản ứng của nhân dân hay là các. tới giới phê bình nghệ thuật câu hỏi trên. Đó là câu hỏi ân tình và cũng là. mong mỏi nguyện vọng của biết bao người. Quả bóng này xin thân ái đặt ở chấm phạt. gặp một nhà phê bình nghệ thuật đa năng khá có tên tuổi. Gọi là đa năng vì lâu. mỹ thuật, âm nhạc v.v. nghĩa là nghệ thuật có bao nhiêu hội thì ông "phê. Gọi là có tên tuổi vì ông có thâm niên trong giới và có thể. phân tích, cắt nghĩa 4 nguyên nhân đó cho mọi người cùng nghe. Ông có vẻ hào hứng. lắm, nhưng vẫn hơi lo lo. Tôi hỏi vì sao ông lo. Ông bảo: ông sợ ai đó trong giới. phê bình nó thù. Cái anh sáng tác thù đã dai rồi. Nhưng cái anh phê bình họ còn. Vì cái thù đó ngoài cảm tính còn có lý luận. Nhưng rồi sau khi suy. tính ông bèn thỏa mãn yêu cầu của tôi. Ông bảo: Tôi cứ nói thẳng ra, trong anh. em trong giới phê bình ai có giận, có thù, thì tôi xin chịu. Mong rằng anh em. hiểu cho tôi chân thành đang làm bản tự kiểm điểm bản thân tôi mà thôi. riêng bản thân ông mà thôi). Tuy nhiên ông đề nghị tôi dấu tên ông. ông lại xấu hổ mang tiếng với hàng xóm ở khu tập thể mà gia đình ông đang sống. hãi: Phê bình là có khen có chê. Khen thì chẳng nói làm gì, nhưng một khi đã. chê thì thường chuốc thù chuốc oán vào người. Đã làm người ai mà chẳng sợ hãi sự. Cái ông phê bình viết văng mạng, chê bôi chửi bới lung tung thì có bị. thù bị oán cũng đáng lắm. Bây giờ cũng có nhà phê bình vẫn thích chơi võ Đốt đền. những người phê bình tử tế, công tâm thì họ rất ngại sự oán thù. Người tử tế đều. ông nghệ sĩ "sinh đẻ" ra tác phẩm nghệ thuật đó. Còn bây giờ ư?. chỉ có một mình cái ông nghệ sĩ đó. Mà đằng sau ông ta còn có cả một hệ thống. cơ quan trả tiền, bảo lãnh và phát hành tác phẩm nghệ thuật. Thí dụ nhỡn tiền,. gần đây có vài ba bài báo liên tiếp phê bình phim truyền hình. Lập tức có những. hình nào đó gửi tới tòa soạn: kỳ lạ thế. Đáng lí phải viết bài trao đổi, tranh. luận thì lại phôn, lại nhắn miệng v.v. Cái sự phản ứng linh hoạt không bình. hãi một sự va chạm giữa hai cơ quan: bản báo và hãng phim. Và sự va chạm giữa. người viết báo và hãng phim. Kết quả là: ông biên tập gặp riêng ông phóng viên. viết bài: "Thôi nhé. (đô đây là cái gì?) Tôi đặt ông viết cho 1 bài. Ông biên tập nói vậy. Ông phóng viên gân cổ lên định cãi, định lý sự thì nhận. luôn 1 câu: Cậu vớ vẩn. Tờ báo của chúng tớ bao năm nay luôn đứng đắn, nghiêm. túc, chưa bao giờ vướng vào những chuyện rắc rối, xì căng đan. Bây giờ người ta. chỉ cần 2 chữ bình an và chúa sợ sự rắc rối. Cậu là nhà báo kiêm phê bình nghệ. thuật mà không biết sợ ạ. Hãy học tập dần sự sợ hãi đi. Vì sự sợ hãi nó dẫn đến. đi ngẫm lại, lời của ông biên tập rất chí lý. Một khi biết sợ hãi thì các bài. viết của anh mới đắc dụng. Mà đã sợ hãi thì làm sao có thể phê bình nghệ thuật. được nữa cơ chứ. Tóm lại, bi kịch rơi vào đầu nhà phê bình nghệ thuật trước. Một cái chép miệng - thế là không viết lách gì nữa. Đi câu, đi hát ca ra. ô kê còn bổ ích, thích thú hơn viết phê bình nghệ thuật. Nói cho oai cho sĩ diện. chứ thật ra, sự sợ hãi đã làm nhà phê bình chùm. bút. Vì mình mà gây ra sự. Cái chản nản thứ nhất là nhuận bút trả cho các bài phê bình nghệ thuật. quá rẻ mạt, ít ỏi. Và hình như trong thang nhuận bút thì phê bình nghệ thuật đứng. Ở nước ta hiện nay đã có văn nghệ sĩ sáng tác: viết kịch bản. chưa có nhà phê bình nào sống bằng ngòi bút phê bình của mình. Trừ những bậc đại. con thì sau cơn cảm hứng lập tức dẫn đến sự chán nản khủng khiếp. Cái chán nản thứ hai còn trầm trọng hơn. Ây là những áp lực từ. kiến, suy nghĩ của riêng nhà phê bình. Nhất là đối với những tác phẩm có vấn đề. luận phát biểu theo sự chỉ đạo ngầm hoặc công khai của tờ báo đó. công mừng công đại hội". Phê bình như vâỵ là thiếu dân chủ, là áp đặt. kết quả đau đớn nhất là thủ tiêu phê bình. Đây là cách tổ chức công ăn việc làm. cho các nhà phê bình đã cũ xưa như trái đất, đã quá lạc hậu. Tuy vậy hiện nay vẫn. còn và có triêụ chứng hồi sinh lại. Cần phải chấn chỉnh cái cách phê bình này. rối: Đây là nguyên nhân rất lớn khiến các nhà phê bình nghệ thuật bị liệt bút. sáng tác nghệ thuật khá tự do, phóng khoáng hiện nay. Sân bãi nghệ thuật nước. ta hiện nay thực chất khá rộng rãi và ồn ã. Trừ 3 trường phái sáng tác dâm ô,. phái khác thì tha hồ vùng vẫy. Chỉ nói riêng trong hội họa thôi cũng thấy ngoài. mặt đủ các loại trường phái hội họa đã tồn tại trên thế giới. Thôi thì đủ cả ấn. hồn nhiên v.v. và v.v. Các nhà phê bình nghệ thuật của ta được đào tạo tại. sắc nhuần nhuyễn của một họa phẩm hiện thực, tả thực. Vì vậy khi phải đối đầu với. những họa phẩm nghệ thuật siêu thực, mô đéc v.v. họ vẽ cứ loạn cả lên rối. Nói nôm na là hơi cuống. Mà đã cuống rồi thì còn phê bình, lý luận. là loại nhạc sến, còn ướt và rẻ hơn nhạc vàng. Nhưng rồi không thể viết được vì. nên mới được các cơ quan truyền hình liên tục phát trên sóng. Nhà phê bình âm. nhạc bối rối đâm ra nghi ngờ ngay chính cái sự hiểu biết,cảm thụ của mình. ta già rồi chăng. Ta lạc hậu quá rồi chăng. Ông ta tự hỏi như vậy với tâm trạng. bối rối liên tục. Và thế là khi được mời đi làm giám khảo cho 1 liên hoan ca. khúc trữ tình mùa thu gì đó, ông bèn cáo ốm xin rút. Bối rối đến mất cả lòng. tin vào chính mình thì còn giám khảo gì nữa, nói gì định viết phê bình âm nhạc. công chúng đang khao khát mong họ xỏ găng đi giầy xông ra sân bãi. nhà phê bình có tên tuổi và ở lứa tuổi từ 50 đến 70. (không có trong giới phê. tượng đồng đen, bát chiết yêu v.v.mà họ chơi các sự kiện văn học nghệ thuật. Họ gọi tất cả các sự kiện văn nghệ và các cố văn nghệ sĩ này là
Nhà phê bình nghệ thuật
Nhà phê bình nghệ thuật là một người chuyên phân tích, giải thích và đánh giá nghệ thuật. Các bài phê bình hoặc đánh giá bằng văn bản của họ góp phần phê bình nghệ thuật và chúng được xuất bản trên báo, tạp chí, sách, tài liệu triển lãm và danh mục và trên các trang web. Một số nhà phê bình nghệ thuật ngày nay sử dụng blog nghệ thuật và các nền tảng trực tuyến khác để kết nối với lượng khán giả rộng lớn hơn và mở rộng tranh luận về nghệ thuật. Khác với lịch sử nghệ thuật, không có một khóa đào tạo thể chế nào cho các nhà phê bình nghệ thuật (chỉ có một vài ngoại lệ); các nhà phê bình nghệ thuật đến từ các nền tảng khác nhau và họ có thể hoặc không được đào tạo bậc đại học. Các nhà phê bình nghệ thuật chuyên nghiệp dự kiến sẽ có một con mắt sắc sảo cho nghệ thuật và kiến thức kỹ lưỡng về lịch sử nghệ thuật. Điển hình là nhà phê bình nghệ thuật xem nghệ thuật tại các triển lãm, phòng trưng bày, bảo tàng hoặc xưởng vẽ của các nghệ sĩ và họ có thể là thành viên của Hiệp hội phê bình nghệ thuật quốc tế có các bộ phận quốc gia.
Kinh doanh theo chuỗi là quá trình một chủ thể kinh doanh đầu tư các nguồn lực vào một hình thức phân phối, theo đó sở hữu và quản lí tập trung một nhóm các cửa hàng/điểm bán lẻ khác nhau, bao gồm cả cửa hàng/điểm bán lẻ hàng hóa hữu hình và cửa hàng/điểm bán lẻ dịch vụ. - Chuỗi cửa hàng thông thường (Regular Chain) là hệ thống cửa hàng chuỗi do một doanh nghiệp sở hữu. - Chuỗi tự nguyện (Voluntary Chain) bao gồm một loạt các nhà bán lẻ độc lập kinh doanh cùng một mặt hàng/nhóm hàng hoặc cùng một lĩnh vực kinh doanh tự nguyện liên kết với nhau để thực hiên các hoạt động trong quá trình kinh doanh nhằm đạt được lợi thế kinh tế nhờ qui mô. - Một hệ thống kinh doanh theo chuỗi gồm từ hai hay nhiều hơn cửa hàng được sở hữu và quản lí tập trung. Với sự sắp xếp như vậy, một hệ thống thường có một trụ sở trung tâm được kết nối với hệ thống cửa hàng bán lè và/hoặc chi nhánh tọa lạc rộng khắp thị trường. Một trong những đặc điểm quan trọng của hệ thống kinh doanh theo chuỗi là kinh doanh một mặt hàng hoặc một nhóm mặt hàng. - Các phần tử trong chuỗi có thể hội nhập theo chiều ngang, nghĩa là với việc thêm một cửa hàng mới thì toàn bộ hệ thống lại tiếp cận thêm một nhóm khách hàng mới. - Các phần tử trong chuỗi cũng hội nhập theo chiều dọc thông qua việc duy trì các trung tâm phân phối nơi họ có thể mua từ các nhà sản xuất, dự trữ hàng hóa và từ đó phân phối cho các cửa hàng trong hệ thống. - Hệ thống kinh doanh theo chuỗi thực hiện các hoạt động giao dịch trực tiếp, không qua trung gian nên các dòng vận động trong kinh doanh vận động thẳng và nhanh, mang lại hiệu quả quản trị cao. - Nếu một cửa hàng nào đó hoạt động không hiệu quả và phải đóng cửa, sẽ không gây ảnh hưởng tiêu cực lớn lắm đến khả năng sinh lời của toàn hệ thống bởi cách thức tính toán các chỉ tiêu tài chính của từng cửa hàng tách riêng. - Không cung cấp được cho khách hàng sự lựa chọn đa dạng và chủng loại sản phẩm hàng hóa/dịch vụ do hệ thống thường chỉ tập trung chuyên môn hóa một nhóm hoặc một chủng loại sản phẩm. - Nếu hệ thống có quá nhiều chi nhánh/cửa hàng, sẽ tạo áp lực lớn cho công tác quản lí một cách hiệu quả với yêu cầu đảm bảo tính tiêu chuẩn hóa cao. - Quản lí của từng cửa hàng có quyền lực hạn chế và thiếu tính chủ động, linh hoạt trong hoạt động. - Do tính chất mua hàng và dự trữ tập trung, nguy cơ "dự trữ chết" khá cao do nhà cung cấp khó có khả năng điều chỉnh chủng loại, số lượng, chất lượng.sản phẩm theo yêu cầu kinh doanh một cách nhanh chóng và đồng thời cho toàn bộ hệ thống.
Chuỗi cửa hàng
Chuỗi cửa hàng hoặc chuỗi bán lẻ là một cửa hàng bán lẻ trong đó một số địa điểm chia sẻ thương hiệu, quản lý trung tâm và thực tiễn kinh doanh được tiêu chuẩn hóa. Họ đã thống trị thị trường bán lẻ và ăn uống, và nhiều loại dịch vụ, ở nhiều nơi trên thế giới. Một cơ sở bán lẻ nhượng quyền là một hình thức của chuỗi cửa hàng. Năm 2004, chuỗi bán lẻ lớn nhất thế giới, Walmart, đã trở thành tập đoàn lớn nhất thế giới dựa trên tổng doanh thu. Năm 1792, Henry Walton Smith và vợ Anna thành lập WH Smith như một doanh nghiệp bán hàng tự động ở London sẽ trở thành mối quan tâm quốc gia vào giữa thế kỷ 19 dưới sự quản lý của cháu trai William Henry Smith. Công ty đã tận dụng sự bùng nổ của đường sắt bằng cách mở các quầy bán báo tại các nhà ga bắt đầu vào năm 1848. Công ty, hiện được gọi là WHSmith, đã có hơn 1.400 địa điểm tính đến năm 2017. Tại Mỹ, các chuỗi cửa hàng bắt đầu với việc thành lập Công ty chè Đại Tây Dương & Thái Bình Dương (A & P) vào năm 1859.
Trong năm nay, sự gia tăng các cuộc tấn công khủng bố của những người theo chủ nghĩa dân tộc da trắng bao gồm các vụ thảm sát ở thành phố Christchurch (51 người chết) và El Paso (22 người chết). Thông thường, những kẻ giết người viện dẫn nỗi sợ hãi về việc người da trắng bị “thay thế” và lấy cảm hứng từ những hành vi tàn bạo tương tự khác, đặc biệt là cuộc thảm sát 77 người ở Oslo và một hòn đảo gần đó của Anders Breivik vào năm 2011. Nhưng chủ nghĩa dân tộc da trắng là gì, và nó đến từ đâu?. Hiện tượng này rất khó xác định vì sự tản mát về mặt ý thức hệ và địa lý. Nhìn chung, những người theo chủ nghĩa dân tộc da trắng muốn đạt được trạng thái thuần chủng cho người da trắng. Một số người cố hết sức để tránh tuyên bố công khai rằng các chủng tộc khác là thấp kém hơn, cho rằng mỗi chủng tộc nên đạt được trạng thái thuần chủng riêng. Tuy nhiên, phần lớn trong số đó là những người chủ trương người da trắng là thượng đẳng, họ tin rằng các chủng tộc tạo thành một hệ thống thứ bậc chuẩn mực với người da trắng ở trên cùng. Họ đòi hỏi các chính sách từ kiểm soát nhập cư chặt chẽ hơn đến thuần hóa chủng tộc trên quy mô lớn, hoặc thậm chí diệt chủng. Tất cả những điều này thường gắn liền với nỗi sợ hãi về “người da trắng bị diệt chủng”, hay người da trắng bị “thay thế”, tức ý tưởng rằng “chủng tộc da trắng” đang bị chèn ép đến mức diệt vong thông qua tỷ lệ sinh thấp, hôn nhân khác chủng tộc và tỷ lệ sinh cao hơn của những người không phải da trắng. Chủ nghĩa dân tộc da trắng hiện đại, nay đã lan rộng khắp thế giới, lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ sau cuộc nội chiến. Với sự chấm dứt chế độ nô lệ, các tiểu bang đã hành động để bảo vệ vị trí đặc quyền của những người theo đạo Tin lành Mỹ cùng di sản Tây Âu, bao gồm các đạo luật “Jim Crow” để thực thi chính sách tách biệt chủng tộc. Những người khác đã dùng đến bạo lực bán quân sự và giết người ngoài pháp luật. Sự định hình tư duy về địa vị người da trắng cũng tăng lên với sự gia tăng nhập cư, đặc biệt là của người Trung Quốc, người Công giáo Ailen, người Nam Âu và người Do Thái. Các đạo luật về nhập cư mới được thiết kế để hạn chế số lượng người mới đến. Cuốn sách “Sự kết thúc của Chủng tộc Vĩ đại (“The Passing of the Great Race”) của Madison Grant, xuất bản năm 1916, đã kết hợp quan điểm của những người theo chủ nghĩa bản địa bài ngoại với thuyết ưu sinh để tạo ra một học thuyết về quyền lực tối cao của người da trắng và thuyết “tự sát chủng tộc”. Adolf Hitler được cho là đã viết thư cho Grant, nói rằng cuốn sách đó là “thánh kinh” của mình. Mặc dù bị mất uy tín bởi cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít và sau đó là các cuộc đấu tranh dân quyền vào những năm 1950 và 1960, chủ nghĩa dân tộc da trắng đã trải qua sự hồi sinh vào cuối thế kỷ 20, dẫn đến một số cuộc tấn công bạo lực ở Mỹ và châu Âu. Năm 1988, David Lane đã viết cuốn “Tuyên ngôn Diệt chủng Người da trắng” (The White Genocide Manifesto), trong đó đưa ra một cái tên mới thay thế cho thuyết “tự sát chủng tộc” của Grant. Văn bản này đã lần đầu đưa ra lời hiệu triệu mạnh mẽ cho sự ủng hộ chủ nghĩa dân tộc da trắng: “Chúng ta phải bảo đảm sự tồn tại của dòng giống chúng ta và một tương lai cho những đứa trẻ da trắng” (We must secure the existence of our people and a future for white children), một cụm từ được những người theo chủ nghĩa dân tộc da trắng ca tụng là “14 chữ thiêng liêng”. Ngoài một niềm tin cốt lõi về ưu thế thượng đẳng của người da trắng, những người theo chủ nghĩa dân tộc da trắng có quan điểm rất khác nhau về các vấn đề khác. Một số người chia sẻ sự nghi ngờ sâu sắc đối với chính phủ liên bang; một số người ủng hộ câu chuyện lịch sử của những người theo chủ nghĩa xét lại về cuộc nội chiến trong đó tôn vinh Hợp bang miền Nam; một số người tin vào thuyết âm mưu bài Do Thái cho rằng người Do Thái muốn kiểm soát toàn cầu, bao gồm một thuyết cho rằng giới tinh hoa Do Thái theo chủ nghĩa quốc tế phải chịu trách nhiệm về việc khuyến khích nhập cư. “Nhật ký Turner” (The Turner Diaries), một câu chuyện giả tưởng theo chủ nghĩa dân tộc da trắng xuất bản năm 1978 bởi William Luther Pierce, kể câu chuyện về một cuộc nổi dậy vũ trang chống lại chính phủ liên bang bởi những người bảo vệ chủng tộc da trắng. Nó đã ảnh hưởng đến cả Lane và Timothy McVeigh, một cựu chiến binh bị vỡ mộng và nhiệt tình bảo vệ quyền sử dụng súng, người đã thực hiện vụ đánh bom thành phố Oklahoma, giết chết 168 người vào năm 1995. Chủ nghĩa dân tộc da trắng phát triển nhanh chóng với sự ra đời của internet. Nó đã lợi dụng ý tưởng về những góc tối của không gian mạng để che giấu quan điểm chính trị trong những câu chuyện hài hước để không bao giờ tiết lộ liệu người viết có nghiêm túc hay không. Điều này cho phép những người theo chủ nghĩa dân tộc da trắng sử dụng những người không tin vào thuyết gia trắng thượng đẳng, chỉ vào đó “để giải trí”, nhằm truyền bá thông điệp của họ đến một bộ phận độc giả rộng lớn hơn. Trong khi đó, tại châu Âu, những người theo chủ nghĩa dân tộc da trắng đã giận dữ về cuộc xâm lược tưởng tượng của người Hồi giáo, đặc biệt là sau sự kiện 11/9 và sự trỗi dậy của chủ nghĩa thánh chiến toàn cầu. Trong cuốn sách “Sự Thay thế Vĩ đại” (“The Great Replacement”), Renaud Camus tuyên bố những người Pháp thực thụ đang bị thay thế bởi những người nhập cư từ châu Phi và Trung Đông, được khuyến khích bởi một giới tinh hoa theo “chủ nghĩa thay thế”. Những người theo chủ nghĩa dân tộc da trắng Mỹ đã xếp người Hồi giáo vào nhóm các chủng tộc xâm lược, nhưng vẫn chủ yếu tập trung vào người Latinh, người da màu, và người Do Thái. Những người chỉ trích Donald Trump cáo buộc ông là một người theo chủ nghĩa dân tộc da trắng. Điều đó không có bằng chứng. Tuy nhiên, những lời nói của ông thể hiện sự ủng hộ hệ tư tưởng da trắng thượng đẳng. Ví dụ, vào năm 2017, ông đã mô tả một cuộc tuần hành “Unite the Right” (Đoàn kết cánh hữu) tại Charlottesville, Virginia, là việc “những người biểu tình phản đối một cách rất lặng lẽ việc tháo dỡ bức tượng của Robert E. Lee”, một cách nói nhẹ nhàng đến đáng ngạc nhiên để mô tả những kẻ phát xít tự xưng mang những ngọn đuốc và hô khẩu hiệu “Người Do Thái sẽ không thay thế chúng ta”. Năm ngoái, những người cực đoan cánh hữu đã giết nhiều người ở Mỹ hơn bất kỳ thời điểm nào kể từ năm 1995, năm xảy ra vụ đánh bom thành phố Oklahoma. Phần lớn trong số này được thực hiện bởi các những người theo thuyết da trắng thượng đẳng. Đó là một mối đe dọa mà các chính quyền ở phương Tây đã quá xem nhẹ. Cách mạng Văn hóa, với tên gọi đầy đủ là Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản, là một trong những chiến dịch tuyên truyền lớn nhất và quan trọng nhất của Mao Trạch Đông, gây nên một giai đoạn hỗn loạn xã hội kéo dài suốt một thập kỷ tại Trung Quốc.
Khủng bố trắng
Khủng bố trắng là những hành động bạo động của phong trào đối nghịch (thường là những người theo chủ nghĩa Quân chủ (phe Bảo hoàng) hay có tư tưởng Bảo thủ) để chống lại các cuộc cách mạng. Trong thế kỷ thứ 20 tại nhiều quốc gia, khủng bố trắng được áp dụng chống lại những người có tinh thần Xã hội chủ nghĩa và những người Cộng sản hoặc chỉ bị nghi ngờ là thuộc những thành phần này. Ngoài ra đây cũng là những biện pháp được dùng bởi các nước thực dân nhằm đập tan các cuộc đấu tranh giành lại Độc lập của nhiều dân tộc. Các chính sách bạo lực phát xuất từ các nhóm cách mạng, những người theo chủ nghĩa Cộng sản nhằm chống lại những nhóm phản cách mạng thì được gọi là Khủng bố Đỏ. Từ này bắt đầu từ thời Cách mạng Pháp và từ màu trắng biểu hiệu cho triều đại Bourbon đã cai trị nước Pháp vào thời trước đó, đối nghịch với màu đỏ, được dùng bởi phe cách mạng hay cộng hòa. Sau khi Maximilien de Robespierre, dẫn đầu Ủy ban An ninh công cộng (Comité de salut public), bị xử tử vào năm 1794, phe bảo hoàng thắng thế và đã săn đuổi và tiêu diệt những người thuộc phe, hoặc bị nghi ngờ là phe Jacobin, một thời kỳ rất rối ren.
Danh từ đếm được và không đếm được trong tiếng Anh tưởng chừng không có gì phức tạp nhưng lại khiến rất nhiều bạn gặp khó khăn trong việc phân biệt và sử dụng chúng. Các bạn hãy cùng Language Link Academic tìm hiểu và hy vọng sau bài viết này, bạn sẽ không bao giờ nhầm lẫn giữa danh từ đếm được và không đếm được nữa. Danh từ đếm được là những danh từ có thể sử dụng với số đếm. Ví dụ, bạn có thể nói một quyển sách, hai quyển sách (one book, two books) hay một con chó, hai con chó (one dog, two dogs), nên book và dog là danh từ đếm được. Danh từ đếm được có 2 hình thái: số ít và số nhiều. Số nhiều là khi danh từ này có số lượng từ 2 trở lên. Thông thường, để biến một danh từ đếm được từ số ít sang số nhiều, bạn chỉ cần thêm ‘s’ vào cuối danh từ đó là được. Các bạn hãy theo dõi ví dụ dưới đây nhé. Nếu danh từ kết thúc bằng ‘s’, khi chuyển sang số nhiều, bạn cần thêm ‘es’. Nếu danh từ kết thúc bằng ‘y’, khi chuyển sang số nhiều, trước hết, bạn cần chuyển ‘y’ thành ‘i’ sau đó thêm ‘es vào. Bạn cần lưu ý là có một số danh từ đếm được khi chuyển sang số nhiều sẽ không theo Quy tắc chung. Số lượng các danh từ bất quy tắc này không nhiều nên bạn chỉ cần ghi nhớ chúng là sẽ không lo sử dụng sai. Ngoài ra, có một số danh từ như aircraft, sheep, fish có dạng số ít và số nhiều như nhau. Bạn chỉ phân biệt được chúng là số ít hay số nhiều dựa vào số đếm đứng trước chúng thôi. Danh từ không đếm được là những danh từ không thể sử dụng với số đếm. Ví dụ, bạn không thể nào nói một sữa, hai sữa đúng không nào, nên sữa (milk) là danh từ không đếm được. Danh từ không đếm được chỉ có 1 hình thái duy nhất, vì nó không thể sử dụng với số đếm. Cách phân biệt danh từ đếm được và không đếm được khá dễ dàng. Ở phần này, Language Link sẽ giúp bạn tổng hợp 5 nguyên tắc chính mà bạn cần ghi nhớ để phân biệt danh từ đếm được và không đếm được nhé. Một số các danh từ không đếm được như food, meat, money, sand, water … đôi khi được dùng như các danh từ đếm được số nhiều để chỉ các dạng, loại khác nhau của vật liệu đó. Bạn thấy đấy, danh từ đếm được và không đếm được đâu có quá khó khăn để phân biệt đúng không nào? Hy vọng sau bài này, bạn sẽ luyện tập và sử dụng chính xác, không bao giờ nhầm lẫn giữa danh từ đếm được và không đếm được nữa nhé.
Danh từ không đếm được
Trong ngôn ngữ học, một danh từ không đếm được (tiếng Anh: mass noun, uncountable noun, non-count noun) hay danh từ khối là một danh từ chung (tiếng Anh: common noun) biểu diễn các thực thể như một khối vô hạn. Vì các ngôn ngữ khác nhau có các tài nguyên ngữ pháp khác nhau, nên kết quả kiểm tra một danh từ là đếm được hay không đếm được giữa các ngôn ngữ có nhiều khác biệt. Trong tiếng Anh, các danh từ không đếm được đặc trưng bởi việc chúng không thể bị biến đổi trực tiếp bởi một số từ không xác định chính xác đơn vị đo lường, và việc chúng không thể kết hợp với một mạo từ bất định (a (một) hoặc an (một)). Do đó, danh từ không đếm được "water" (nước) được định lượng thành "20 liters of water" (20 lít nước) trong khi đó danh từ đếm được "chair" (cái ghế) được định lượng thành "20 chairs" (20 cái ghế). Tuy nhiên, danh từ không đếm được (cũng như danh từ đếm được) có thể được định lượng bằng các thuật ngữ quan hệ không xác định rõ đơn vị (ví dụ: "much water" (nhiều nước), "many chairs" (nhiều ghế)).
Chúng tôi xin thành thật phân ưu cùng tang quyến GS Đặng Đình Áng. Cầu chúc hương linh Giáo Sư sớm được về cõi Vĩnh Hằng. Năm 1953 đến 1955, ông học môn Kỹ thuật hàng không vũ trụ tại Đại học Kansas và nhận bằng cử nhân tại đó. Sau đó, ông vào Viện Công nghệ California (Caltech) và nhận bằng tiến sĩ với một luận án về giải tích và cơ họcnăm 1958.Ông làm việc tại CalTech hai năm rồi về nước năm 1960. Tại Việt Nam, ông đảm nhận Trưởng ban Toán của Trường Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Với địa vị trưởng ban, ông đã hiện đại hóa chương trình giảng dạy và đưa vào một số môn chưa từng được dạy như toán học tô pô, đại số trừu tượng, và giải tích hàm. Ba năm sau, ông thành lập chương trình chứng chỉ sau đại học “toán học thâm cứu” (Mathematiques Approfondies). Ông làm trưởng ban cho đến năm 1975, sau đó ông làm Giám đốc Viện nghiên cứu Giải tích cho đến năm 1994.Năm 1988, ông làm chủ tịch đầu tiên của Hội Toán học Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1995 ông chịu trách nhiệm chính cho sự thành công của hội nghị toán học quốc tế lần đầu tiên được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh đã thu hút nhiều nhà toán học lớn đến từ Mỹ, Đức, Nga, Trung Quốc, Pháp tại Hà Nội. Ông kết hôn với bà Bùi Thị Minh Thy năm 1950. Ông bà có năm người con, ba gái và hai trai. Họ cũng là những người thành đạt: người con gái lớn của ông là một bác sĩ nhi khoa, hai cô gái út là tiến sĩ toán học và thạc sĩ dạy Anh ngữ, còn hai người con trai đều là tiến sĩ toán học tại các viện đại học tại Hoa Kỳ.Gia đình Giáo sư Đặng Đình Áng có nhiều người thành danh trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật như: Nhà thơ Đặng Đình Hưng là anh ruột; nhạc sĩ Thái Thị Liên là chị dâu và các nghệ sĩ piano Đặng Thái Sơn và Đặng Hồng Quang là cháu ruột của ông. Nhà sư phạm, Nhà nghiên cứu toán học, nghệ sĩ thổi sáo. Năm 1982, Giáo sư Đặng Đình Áng đã hướng dẫn bảo vệ thành công cho tiến sĩ toán học đầu tiên ở miền Nam. Giáo sư Áng cũng đã đào tạo được 12 tiến sĩ toán học Việt Nam có trình độ quốc tế và nhiều thạc sĩ, cử nhân toán học. GS Đặng Đình Áng là giáo sư toán học nổi tiếng của Việt Nam. Ông nguyên là Trưởng ban Toán của Trường Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài Gòn và là chủ tịch đầu tiên của Hội Toán học Thành phố Hồ Chí Minh. Ông cũng là người đầu tiên đưa toán học hiện đại vào miền Nam Việt Nam. Ngoài ra, ông còn được biết đến như một nghệ sĩ thổi sáo (flute) tài hoa với nhiều CD nhạc hòa tấu thính phòng hay. Ông được xem là một nhà giáo tiêu biểu có nhiều đóng góp cho ngành toán học Việt Nam. “Trong Ngần Bóng Gương”. Đây là một tuyển tập của các đồng nghiệp và học trò của Thầy Áng viết về Thầy. Hai người chủ biên là Nguyễn Dũng và Nguyễn Xuân Xanh. TTCN – Những ngày giữa tháng ba này nhiều người trong giới toán học TP.HCM đón nhận một tin vui: GS Đặng Đình Áng tròn 80 tuổi! Thật đáng vui mừng vì thầy Áng vẫn còn khỏe mạnh, vẫn còn tự chạy xe máy, tiếp tục làm toán và thổi sáo, rất hăng say với công việc, như một dòng sông lúc sắp đổ ra biển: chảy càng mạnh càng rộng lớn ra và càng mang nặng phù sa.GS Đặng Đình Áng là người đã đóng góp đúng 46 năm liền không mệt mỏi cho ngành toán học nước nhà, không chỉ căn cứ trên 130 bài báo về nhiều đề tài nghiên cứu trong toán học đăng trên các tạp chí quốc tế và nhiều đầu sách chuyên đề, trong đó có một chuyên đề được xuất bản bởi NXB nổi tiếng Pringer (CHLB Đức), mà còn ở ý nghĩa GS là người được giới toán học thế giới công nhận như một nhà toán học uy tín của VN trong chuyên ngành của mình.GS Đặng Đình Áng đã từng là khách mời phát biểu ở nhiều hội nghị quốc tế, là giáo sư thỉnh giảng ở Đại học Utah (Mỹ), ĐH Paris, ĐH Orléans (Pháp), Viện nghiên cứu Mauro Picone (Roma), từng được học bổng DFG (Deutsche Forschungsgesellschaft) của Đức làm việc tại Berlin, một học bổng nghiên cứu dành cho những nhà nghiên cứu nổi tiếng; học bổng nghiên cứu tại ĐH Tokyo;GS còn là người kết nối VN với năm châu, hướng dẫn và cùng hướng dẫn chung với các GS nước ngoài cho nghiên cứu sinh VN; và qua GS Áng, nhiều GS nước ngoài đã tham dự các hội nghị toán học tại VN; GS đã đào tạo được rất nhiều nghiên cứu sinh thành đạt đang làm việc trong và ngoài nước (trong đó có ba người con của ông). Người đầu tiên đưa toán học hiện đại vào miền Nam. Nhìn lại nền toán học non trẻ VN những năm 1960; ở miền Nam có thể nói nó mới manh nha cũng vào lúc GS Áng sau khi tốt nghiệp tiến sĩ ở Hoa Kỳ về nước, được giao ngay trọng trách làm trưởng khoa toán của ĐH Khoa học Sài Gòn khi mới 34 tuổi (1960), vào lúc đại học đang cần chuyển ngữ và chuyển quyền.Ngày ấy, chứng chỉ toán đại cương là cái cửa ải “rùng rợn” nhất đối với hàng trăm SV mới, bởi mỗi năm chỉ có vài người lọt qua được! GS Áng đã giúp thay đổi tình hình thi “thách đố” đó, đưa nó về tình trạng bình thường. GS cũng là người đầu tiên đã mang toán học hiện đại vào miền Nam như một luồng gió mới, đào tạo ngay những lớp toán học hiện đại đầu tiên cho SV khoa toán và sư phạm. Toán học phía Nam đã nhanh chóng có tính chất hiện đại của thế giới, lan dần ra như một đốm lửa nhóm lên xung quanh GS Áng và các học trò. Các SV của GS sau khi tốt nghiệp, khi ra nước ngoài tiếp tục học không bị bỡ ngỡ. Mặt bằng trình độ cũng được nâng cao bằng chứng chỉ toán thâm cứu nhằm đưa SV sau cử nhân đến gần với nghiên cứu và sáng tạo.Từ đó, có những SV trước khi lên đường du học đã có những bài nghiên cứu đầu tay được đăng trên báo nước ngoài hoặc nhờ đó mà tìm được học bổng du học. “Cả sự nghiệp của đời tôi là đào tạo. Muốn dạy giỏi, người thầy phải nắm vững những kiến thức mới mẻ nhất. Muốn nắm vững, bản thân ông thầy phải có đóng góp chứ không thể nhắc lại kiến thức của người khác” và “Tôi rất thích học, học từ thời Pháp, rồi thời gian vào Sài Gòn, lúc ở Trường CalTech, về đây vẫn tiếp tục học, bây giờ cũng còn học, học những bậc thầy đi trước” – GS khiêm tốn nói. Đó chính là tinh thần kết hợp giảng dạy và nghiên cứu của nhà cải cách đại học Đức Wilhelm Humboldt đầu thế kỷ 19. Sau 30-4-1975, GS đã chọn con đường ở lại đất nước để tiếp tục đóng góp cho ngành toán học TP.HCM và đào tạo các lớp SV trẻ có năng khiếu, một quyết định cũng không phải là đương nhiên đối với một nhà khoa học được đào tạo theo Tây học từ nhỏ, từng du học, từng sống và từng được mời ở lại nước ngoài giảng dạy.Ông được Nhà nước phong GS trong đợt phong học hàm đầu tiên sau giải phóng (năm 1980).
Đặng Đình Áng
Đặng Đình Áng là giáo sư toán học nổi tiếng của Việt Nam. Ông nguyên là Trưởng ban Toán của Trường Đại học Khoa học Sài Gòn và là chủ tịch đầu tiên của Hội Toán học Thành phố Hồ Chí Minh. Ông cũng là người đầu tiên đưa toán học hiện đại vào Nam Bộ. Ngoài ra, ông còn được biết đến như một nghệ sĩ thổi sáo tài hoa với nhiều CD nhạc hòa tấu thính phòng hay. Ông được xem là một nhà giáo tiêu biểu có nhiều đóng góp cho ngành toán học Việt Nam. Ông qua đời lúc 10 giờ ngày 29 tháng 8 năm 2020, hưởng thọ 94 tuổi. Giáo sư Đặng Đình Áng sinh năm 1926 tại Thụy Hương, Chương Mỹ, Hà Nội. Năm 1953 đến 1955, ông học môn Kỹ thuật hàng không vũ trụ tại Đại học Kansas và nhận bằng cử nhân tại đó. Sau đó, ông vào Viện Công nghệ California (Caltech) và nhận bằng tiến sĩ với một luận án về giải tích và cơ học năm 1958. Ông làm việc tại CalTech 2 năm rồi về nước năm 1960. Tại Việt Nam, ông đảm nhận Trưởng ban Toán của Trường Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài Gòn.
Mọi người có nhu cầu tìm kiếm các ngân hàng Thương mại Cổ phần tại Việt Nam. Muốn biết cụ thể ngân hàng nào là ngân hàng TMCP. Tại sao gọi như vậy? Đặc điểm, chức năng của ngân hàng TMCP là gì? Cách phân loại ngân hàng TMCP? Ngân hàng TMCP nào uy tín. Bài viết của Infofinance.vn dưới đây sẽ giải đáp những thắc mắc cho bạn. Ngân hàng thương mại cổ phần là loại hình ngân hàng thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận. Ngân hàng thương mại cổ phần là loại hình ngân hàng phổ biến nhất hiện nay. Đây là tổ chức nhận tiền gửi, đóng vai trò là trung gian tài chính huy động tiền nhàn rỗi thông qua các dịch vụ nhận tiền gửi rồi cung cấp cho những chủ thể cần vốn chủ yếu dưới hình thức các khoản vay trực tiếp. Các ngân hàng TMCP huy động vốn chủ yếu dưới dạng: tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn. Vốn huy động được dùng để cho vay: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng ,cho vay bất động sản và để mua chứng khoán chính phủ, trái phiếu của chính quyền địa phương. + Ngân hàng thương mại cổ phần liên doanh (có đối tác nước ngoài góp vốn vào). + Ngân hàng bán lẻ: với quy mô nhỏ hướng tới cá nhân chủ yếu là cho vay tiêu dùng. + Ngân hàng bán buôn (bán sỉ): chỉ cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp, tổ chức. + Ngân hàng thương mại cổ phần dưới hình thức chi nhánh,phòng giao dịch(là đơn vị phụ thuộc chi nhánh). Ngân hàng thương mại có quy mô lớn về tổng tài sản và vốn chủ sở hữu. Để thành lập một ngân hàng thương mại phải có vốn điều lệ tối thiểu 3000 tỷ đồng. Mạng lưới chi nhánh rộng khắp trải dài trên khắp cả nước. Nguồn vốn của ngân hàng chủ yếu là tiền huy động vốn của người dân thông gửi tiết kiệm. Hình thức này có đặc điểm là có thể bị rút trước hạn, số lượng không dự báo trước được. Vì thế kinh doanh ngân hàng chịu rất nhiều rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro ngoại hối,…. Các ngân hàng trong khối ngân hàng Thương mại có xu hướng liên kết với nhau. Họ không cấu xé, tranh giành khách hàng mà liên kết giúp họ chăm sóc của riêng mình tốt hơn. Chẳng hạn việc dùng thẻ thẻ ATM của ngân hàng này rút tiền ở cây ATM cũng là lợi ích của mạng lưới liên kết ngân hàng Napas. Ngân hàng Vietcombank là ngân hàng thương mại Nhà nước đầu tiên được Chính phủ lựa chọn thực hiện thí điểm cổ phần hoá. Theo đó, VietcomBank được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/04/1963 với tên gọi đầy đủ là Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (Tên tiếng anh là Joint Stock Commercial Bank for Foreign Trade of Vietnam, được gọi tắt là Vietcombank). Ngân hàng Vietcombank cũng là đại diện Việt Nam duy nhất góp mặt trong bảng xếp hạng 30 ngân hàng lớn mạnh nhất Châu Á – Thái Bình dương. Dẫn đầu bảng xếp hạng Top 10 Ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín năm 2020 (Theo Vietnam Report). Trụ sở: số 11 Láng Hạ, phường Thành Công, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (Bank for Investment and Development of Vietnam) Đây là ngân hàng thương mại nhà nước hợp tác kinh doanh với hơn 800 ngân hàng trên thế giới. Theo trang web về BIDV cập nhật ngày 24/02/2021 số cán bộ, nhân viên của BIDV lên đến 25.000 người và có tất cả 190 chi nhánh, 871 phòng giao dịch, 57.825 ATM và POS trải dài khắp 63 tỉnh thành để phục vụ cho tất cả khách hàng trên cả nước. Thành lập năm 1993, Techcombank là một trong những NHTM lớn nhất Việt Nam và một trong những ngân hàng hàng đầu ở Châu Á. Techcombank cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính đa dạng cho hơn sáu triệu khách hàng cá nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh nghiệp lớn ở Việt Nam trên mạng lưới 313 chi nhánh trên toàn quốc cũng như trên kênh ngân hàng internet và ngân hàng số. Techcombank được xếp hạng tín dụng ở mức cao nhất trong số các ngân hàng ở Việt Nam với xếp hạng Ba31 từ Moody’s và BB-2 từ S&P. Cổ phiếu TCB được niêm yến trên Sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) với mã giao dịch TCB. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Tiên Phong (gọi tắt là “TPBank”) được thành lập từ ngày 05/05/2008. Đây là một trong những ngân hàng dẫn đầu xu thế về ngân hàng số. Việc làm thẻ ATM lấy liền tại điểm giao dịch Livebank Tpbank không qua trực tiếp ngân hàng là một trong những bức phá lớn. Do vậy mà Nhiều tổ chức uy tín trong nước và quốc tế cũng liên tục đánh giá cao TPBank với nhiều giải thưởng danh giá: Ngân hàng số sáng tạo nhất Việt Nam, Ngân hàng bán lẻ tốt nhất Việt Nam. TPBank cũng nhận được nhiều sự quan tâm từ các nhà đầu tư nước ngoài như Tổ chức Tài chính quốc tế IFC và Quỹ đầu tư Phần Lan PYN Elite Fund. Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn thương tín (tên giao dịch:Sacombank) là ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam được thành lập vào năm 1991. Với tổng số vốn điều lệ lên tới hơn 18 nghìn tỷ, lượng giao dịch tài chính mỗi ngày của hệ thống Sacombank luôn đứng nhất nhì trong xếp loại bảng giao dịch chung của toàn hệ thống ngân hàng. Ngân hàng MB là ngân hàng TMCP Quân đội, trực thuộc Bộ Quốc Phòng và là một trong những ngân hàng lớn nhất Việt Nam hiện nay. Kể từ khi thành lập từ năm 1994 đến nay, ngân hàng đã có mặt khắp cả nước. Hệ thống phát triển với hơn 100 chi nhánh và 190 điểm giao dịch, trải dài trên khắp mảnh đất chữ S Việt Nam. Ngân hàng còn có văn phòng đại diện ở nước ngoài, cụ thể như: Nga, Lào, Campuchia,…. Đây là mô hình kinh doanh truyền thống của hầu hết các ngân hàng Thương mại. Và là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng TMCP trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Người ta nghĩ Ngân hàng rất giàu, có quyền uy đòi nợ. Tuy nhiên, ngân hàng cũng là “người đi vay”. Với uy tín của mình, ngân hàng nhận tiền gửi của người có tiền nhàn rỗi để cho người cần vốn đầu tư, kinh doanh vay. Họ sẽ thu lợi nhuận từ khoản chênh lệch lãi suất. Ngân hàng ở vị trí trung gian tạo lợi ích cho cả 3 bên: người gửi tiền, người vay và cả chính ngân hàng. Trách nhiệm của ngân hàng là phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho số tiền của người gửi. Vì đây được xem là cột sống của ngân hàng. Ngân hàng có trách nhiệm thẩm định hồ sơ vay vốn khắt khe để đảm bảo khả năng hoàn vốn là cao nhất. Chức năng in tiền và phát hành tiền Polyme được Chính phủ giao phó cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện. Nhưng các ngân hàng TMCP vẫn có chức năng tạo tiền. Bằng chứng là khả năng phát hành thẻ tín dụng. Tiền chi tiêu của chủ thẻ tín dụng trong hạn mức ngân hàng quy định. Lấy hoạt động trả tiền lương hàng tháng của doanh nghiệp cho nhân viên thông qua chuyển khoản ngân hàng thì sẽ rõ. Hay hoạt động thu hộ học phí của các ngân hàng TMCP áp dụng cho các trường cao đẳng, đại học trong cả nước. Chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng TMCP đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo trong việc giảm lưu thông tiền mặt, dẫn đến tiết kiệm chi phí in ấn, đếm nhận, bảo quản. Đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn. Vừa góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế vừa đảm bảo an toàn cho dòng tiền. Các ngân hàng TMCP với đa dạng các gói sản phẩm dịch vụ phục vụ nhu cầu của khách hàng. Cho vay tiêu dùng để thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của cá nhân . Nên mua trái phiếu hay gửi tiết kiệm. So sánh lợi nhuận và rủi ro
Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội (tên giao dịch tiếng Anh là Military Commercial Joint Stock Bank), gọi tắt là Ngân hàng Quân đội, viết tắt là MB, là một ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam, một doanh nghiệp trực thuộc Bộ Quốc phòng. Thời điểm năm 2018, vốn điều lệ của ngân hàng là 21.605 nghìn tỷ đồng, tổng tài sản của ngân hàng năm 2018 là 362.325 nghìn tỷ đồng. Các cổ đông chính của Ngân hàng Quân đội là Viettel, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà nước, Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam và Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn. Ngoài dịch vụ ngân hàng, Ngân hàng Quân đội còn tham gia vào các dịch vụ môi giới chứng khoán, quản lý quỹ, kinh doanh địa ốc, bảo hiểm, quản lý nợ và khai thác tài sản bằng cách nắm cổ phần chi phối của một số doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Hiện nay, Ngân hàng Quân đội đã có mạng lưới khắp cả nước với trên 100 chi nhánh và trên 190 điểm giao dịch trải dài khắp 48 tỉnh thành phố. Ngân hàng còn có văn phòng đại diện tại Liên bang Nga, chi nhánh tại Lào và Campuchia.
Cùng tham gia cộng đồng vì sức khỏe và cuộc sống hạnh phúc hơn! Hãy điểm qua những nội dung mới của Hello Bacsi. Khi cơ thể khỏe mạnh, móng tay thường có màu hồng nhạt, phần bán nguyệt gần gốc móng tay có màu trắng, bề mặt trơn, không có gờ rãnh hay đổi màu khác lạ. Bạn có thể xem móng tay đoán bệnh khi nó xuất hiện bất kỳ thay đổi nào về hình dạng hay màu sắc. Đây có thể là móng tay đang muốn báo hiệu cho bạn rằng cơ thể đang có vấn đề. Nếu như bạn thường xuyên kiểm tra tình trạng nốt ruồi xuất hiện trên da vì lo ngại về ung thư da thì cũng nên dành sự chú ý đến sự thay đổi màu sắc của móng. Ung thư hắc tố là dạng nghiêm trọng nhất của ung thư da. Nó cũng có thể biểu hiện qua sự thay đổi màu móng. Nếu trên móng tay có sọc đen dài bất thường trên bất kỳ ngón tay nào, hãy đến gặp bác sĩ để được kiểm tra nhé!. Ung thư da thể hiện rõ nét nhất qua sự thay đổi ở màu sắc của nốt ruồi, móng tay và móng chân. Một vết thương hở không lành cũng có thể là dấu hiệu của ung thư da cần được kiểm tra. Móng tay có sọc ngang có khả năng là dấu hiệu cho thấy cơ thể bạn đang thiếu kẽm hoặc protein. Giai đoạn phát triển móng tay khi ấy sẽ bị gián đoạn do không có đủ lượng chất dinh dưỡng hay máu cần thiết để nuôi móng. Hãy bổ sung ngay kẽm để nâng cao chất sức khỏe của mình nhé! Ngoài ra, sọc ngang xuất hiện trên móng tay cũng có thể là dấu hiệu của những vấn đề nghiêm trọng hơn như các bệnh về thận hay gan. Thịt đỏ như thịt bò, thịt lợn và thịt cừu nằm trong số những nguồn cung cấp kẽm và protein tốt nhất. Ngoài ra, bạn có thể tìm thấy nguồn chất dinh dưỡng tương đương dồi dào trong hàu, ngao, tôm, cua, hạt ngũ cốc…. Nếu bạn nhận thấy có nhiều sọc dọc xuất hiện trên móng và thấy móng ngày càng trở nên thô ráp hơn thì đó có thể chỉ là dấu hiệu của tuổi tác. Đây là dấu hiệu không đáng lo ngại. Sọc dọc trên móng cũng như nếp nhăn trên da sẽ xuất hiện nhiều hơn khi bạn lớn tuổi, đặc biệt là khi bước qua độ tuổi 50. Nếu xuất hiện các dấu hiệu lão hóa, bạn có thể cải thiện bằng cách kết hợp với chế độ ăn uống lành mạnh và chăm sóc cơ thể với các bài tập thể dục phù hợp. Dạng móng tay này trông khá kỳ quặc nên bạn có thể nhận thấy ngay. Hình dạng này của móng có thể là dấu hiệu cho thấy cơ thể bạn đang thiếu máu và thiếu sắt. Trong trường hợp này, móng sẽ mỏng dẹt đến nỗi lõm xuống thay vì phải nhô lên hơi cao. Ngoài ra triệu chứng thiếu sắt hoặc triệu chứng thiếu máu cũng gây ảnh hưởng đến nhiều bộ phận khác trên cơ thể, bạn hãy lưu ý nhé!. Khoáng chất sắt bị mất trong phân, nước tiểu, da, mồ hôi, tóc và móng tay. Đặc biệt ở phụ nữ, sắt dễ mất trong khi hành kinh nên cần phải bổ sung sắt bằng viên uống hoặc các loại thịt đỏ, cá, trứng, chocolate, ngũ cốc… qua chế độ ăn. Biotin còn được gọi là vitamin H hay vitamin B7 là một vitamin nhóm B tan trong nước, có nhiều vai trò quan trọng trong cơ thể, giúp nuôi dưỡng da, tóc đẹp, móng tay, móng chân chắc khỏe. Móng tay nứt nẻ, khô, giòn sẽ dễ bị gãy hơn bình thường. Đây là tình trạng móng tay biểu hiện sức khỏe của bạn đang gặp vấn đề do bị thiếu biotin. Thông thường, mọi người chúng ta đều có hình bán nguyệt trên móng tay, mặc dù không phải móng của ngón tay nào cũng có. Nhiều người có thể chỉ thấy hình bán nguyệt trên móng của ngón tay cái. Thoạt nhìn hình bán nguyệt này như là một bộ phận của móng tay, trên thực tế thì chúng thuộc phần da ngay dưới móng tay. Một hình bán nguyệt bình thường, khỏe mạnh sẽ có hình lưỡi liềm, màu trắng ngà, và cao khoảng 1/5 độ dài của móng tay. Nếu bạn nhận thấy hình bán nguyệt có kích thước lớn hơn bình thường thì dấu hiệu móng tay biểu hiện sức khỏe với gan. Một số bệnh về gan có thể cải thiện nhờ việc thay đổi lối sống tích cực như ngưng uống rượu hay giảm cân. Tình trạng suy gan thì cần được chẩn đoán sớm để điều trị kịp thời. Những sọc đỏ trông như màu máu là dấu hiệu bất thường, đặc biệt nếu những vệt đỏ này xuất hiện ở nửa dưới móng gần hình bán nguyệt. Đây có thể là dấu hiệu bạn bị nhiễm trùng van tim. Viêm nội tâm mạc hay viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là tình trạng nhiễm trùng và viêm các van tim cũng như lớp lót bên trong các buồng tim (nội tâm mạc). Nguy cơ mắc bệnh sẽ tăng cao trong trường hợp bạn vừa cấy ghép tim, có khuyết tật tim bẩm sinh hay bị suy tim. Ngoài những dấu hiệu bất thường ở móng tay, cơ thể bạn cũng sẽ xuất hiện những triệu chứng giống bị cúm như sút cân, đau cơ, ho…. Tùy thuộc vào tình trạng của bạn, bác sĩ có thể khuyên phẫu thuật van tim bị hỏng hay thay thế bằng một van nhân tạo khác. Móng bong tróc, xuất hiện những mảng nhỏ nổi trên móng là triệu chứng thường thấy nếu bạn mắc bệnh vẩy nến. Bệnh sẽ gây ngứa, khô da, xuất hiện vẩy óng ánh bạc trắng hơi nhô lên bề mặt da với rìa đỏ hay hồng. Vẩy nến là bệnh về da mãn tính thường xuất hiện và sau đó tự hết. Bệnh có thể nhẹ, xuất hiện rồi tự hết nhưng cũng có thể diễn tiến nghiêm trọng. Bệnh vảy nến móng tay, móng chân không phải là dạng bệnh chính thức của bệnh vẩy nến mà là một biểu hiện của bệnh vảy nến. Quá trình điều trị có thể rất tốn thời gian vì cần đánh giá tác động của phương pháp điều trị qua biểu hiện của phần móng mới mọc ra. Nếu móng của bạn bị lồi lên như cái muỗng úp ngược và trông móng như bị sưng thì đó có thể là kết quả của các tình trạng bệnh về phổi, dẫn đến lượng oxy trong máu thấp hơn bình thường. Ung thư phổi có thể là nguyên nhân phổ biến nhưng tình trạng này cũng có thể liên quan đến bệnh về gan hay tuyến giáp. Cơ thể chúng ta rất kỳ diệu và mỗi bộ phận nếu có sự khác biệt đều có thể là dấu hiệu cho thấy cơ thể bạn đang gặp vấn đề cần quan tâm. Ngoài da hay tóc thì bạn cũng nên lưu ý móng tay biểu hiện sức khỏe để kịp thời nhận thấy những điểm bất thường. Đừng bỏ qua bất cứ sự thay đổi nhỏ nào trên cơ thể vì đó rất có thể là khởi đầu của nhiều căn bệnh đáng lo ngại hơn đấy!. Các bài viết của Hello Bacsi chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa. Hello Bacsi mong muốn trở thành nền tảng thông tin y khoa hàng đầu tại Việt Nam, giúp bạn đưa ra những quyết định đúng đắn liên quan về chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ bạn cải thiện chất lượng cuộc sống.
Móng tay giả
Móng tay giả, còn được gọi là móng tay thời trang, khoác móng tay hay nối dài móng tay là vật bao phủ trên móng tay như là phụ kiện thời trang. Một số móng tay giả được thiết kế cố gắng bắt chước vẻ ngoài của móng tay thật sao cho giống nhất có thể. Trong khi các mẫu thiết kế khác có thể cố tình lạc hướng so với vẻ ngoài móng tay thật nhằm mang tính nghệ thuật. Không giống hầu hết móng tay cắt sửa, móng tay giả đòi hỏi phải được bảo dưỡng thường xuyên. Lời khuyên rằng người dùng nên chăm chút, trung bình, hai tuần một lần, tuy nhiên cũng có thể kéo dài chu kỳ đến khoảng một tháng. Dù sao, tính linh hoạt về hình dạng và thiết kế cùng độ bền tương đối cao là một số lợi thế mà móng tay giả có so với các loại móng tay cắt sửa khác. Vào triều đại nhà Minh của Trung Quốc, phụ nữ quý tộc đeo móng tay giả rất dài như một biểu tượng địa vị ra dấu, không giống như thường dân, họ không phải lao động chân tay.
Sinh năm 1954, đại gia Đào Hồng Tuyển từng là chiến sĩ trong binh đoàn tàu không số thời chống Mỹ. Rời quân ngũ vào những năm 80 với số tiền trợ cấp xin việc ít ỏi, Đào Hồng Tuyển ở lại TPHCM lập nghiệp. Thời gian này, ông phải lang thang hè phố để bươn chải mưu sinh, với công việc là dọn chuồng lợn, bưng bia tại các quán nhậu. Nhiều lúc, ông phải lang thang khắp Sài Gòn, ngủ trên vỉa hè, gara ô tô, công viên và trên chính ngoài thềm ngôi nhà tại TPHCM của mình bây giờ. Ông Tuyển cho hay, sau khi thành đạt ông đã mua lại căn nhà như một lời nhắc nhở bản thân về thưở hàn vi. Vào những năm đầu thập kỷ 90, Đào Hồng Tuyển mua lại những nhà xưởng từ chế độ cũ và xây dựng nhà máy sản xuất nước giải khát, phân bón. Ông từng nắm tới 80% thị phần nước giải khát ở miền Nam và có một số sản phẩm nổi tiếng ở miền Bắc. Khi Coca và Pepsi đổ bộ vào Việt Nam, phần lớn nhà máy sản xuất nước giải khát của Đào Hồng Tuyển dừng sản xuất. Hiện nay một số sản phẩm của ông vẫn còn trên thị trường như nước khoáng Đảnh Thạnh, phân bón Bình Điền 2. Ông từng giữ các chức danh như: Phó TGĐ Công ty Xuất nhập khẩu Trung ương Đoàn, Giám đốc Trung tâm chuyển giao và xuất nhập khẩu công nghệ, Phó chủ tịch Hội phân bón Việt Nam. Bấy giờ, dù gặt hái được nhiều thành công, kiếm được hàng chục triệu USD từ nước giải khát và phân bón những ông Đào Hồng Tuyển vẫn là “người thường” vì các lĩnh vực này khá phổ biến và không có gì đặc biệt. Về sau, Đào Hồng Tuyển ôm hàng chục triệu USD từ Tp.HCM ra miền Bắc, tự thành lập Công ty TNHH Âu Lạc mà ông là Chủ tịch HĐQT. Cũng từ ấy, ông Tuyển trở thành “quái kiệt” vì những việc làm động trời và điên rồ. Thuở hàn vi, "chúa đảo" từng phải bươn chải mưu sinh với công việc dọn chuồng lợn, bưng bia tại các quán nhậu. Năm 1997, dưới danh nghĩa là chủ tịch công ty TNHH Âu Lạc, ông Tuyển đã thực hiện một dự án được xem là điên rồ nhất vào thời đó là đổ 80 tỷ đồng để lấy đất lấp biển, xây dựng con đường độc đạo dẫn từ đất liền ra đảo Tuần Châu, 55 công trình giải trí và biệt thự, bến du thuyền lớn nhất thế giới. Đây bước ngoặt giúp ông "phất" lên trong sự nghiệp: đưa diện tích khai thác trên đảo từ 98 ha lên gần 700 ha. Ba năm sau, con đường hoàn thành, rồi trong 15 năm tiếp theo, ông Tuyển cho xây dựng 110 km đường quanh đảo, 55 công trình giải trí và biệt thự, bến du thuyền lớn nhất thế giới, đưa diện tích khai thác trên đảo từ 98 ha lên gần 700 ha. Làm đường ra đảo Tuần Châu là việc làm động trời nhất, tạo nên thương hiệu "Chúa đảo" cho ông Đào Hồng Tuyển. Dù sau này, không "điên rồ" nữa nhưng ông Tuyển vẫn ghi tên mình trong danh sách những người "mỗi lần tới đều mang theo ồn ào". Trong nhiều sự kiện đấu giá từ thiện, ông Tuyển thường nổi bật khi trả giá rất cao các đồ vật đấu giá. Không chỉ vậy, ông còn đấu giá căn biệt thự lên tới 12 tỷ đồng để ủng hộ cho đồng bào gặp bão lụt. Chuyện ông tặng biệt thự triệu đô cho GS Ngô Bảo Châu cũng thu hút được sự chú ý của dư luận. Và gần đây là hành động tặng siêu xe Rolls-Royce gần 40 tỷ cho người dân bị thiệt hại tại vùng mưa lũ Quảng Ninh, hay mời người dân vùng mưa lũ đến ăn ở miễn phí tại khách sạn 4 sao của mình. Chiếc Rolls-Royce gần 40 tỷ được ông Tuyển ủng hộ cho người dân vũng lũ lụt. Đến tháng 1/2015, người ta lại một lần nữa nhắc đến sự "ngông" của ông khi doanh nghiệp của ông Đào Hồng Tuyển đề nghị với UBND tỉnh Quảng Ninh về phương án điều chỉnh quy hoạch khu du lịch - giải trí quốc tế Tuần Châu (thành phố Hạ Long). Ý tưởng chủ đạo của phương án là đổ hơn 20 triệu m3 đất, đá, bùn, cát xuống vịnh Hạ Long phục vụ cho việc xây dựng 3 khu biệt thự lấn biển hình 3 đóa hoa. Cũng giống như dự án Tuần Châu, dự án lấp biển lần này cũng ông Tuyển nhận không ít "gạch đá" từ dư luận cũng như giới chuyên gia. Hiện tại, dự án này của ông Tuyển đã "nguội" đi. Nhưng điều đó không có nghĩa ông Tuyển chấp nhận đầu hàng. Biết đâu một ngày nào đó ông Tuyển sẽ trở lại với dự án này vì trước kia ông cũng đã phải vượt qua "cả một rừng chông gai và một biển đau thương" cùng những ý tưởng điên rồ để hoàn thành Tuần Châu. Mới đây nhất, “chúa đảo” Đào Hồng Tuyển đã hé lộ tham vọng đầu tư xây dựng hàng loạt dự án mang tính đột phá tại huyện Củ Chi. Trong đó, dự án Thành phố Mới (New City) và Đại lộ ven sông Sài Gòn (nối huyện Củ Chi với quận 1) được xem là nổi bật nhất. Theo đó, dự án New City có diện tích khoảng 15.000 ha (gấp 15 lần diện tích dự án Khu đô thị Phú Mỹ Hưng và Khu đô thị Thủ Thiêm cộng lại) thuộc các xã phía đông bắc huyện Củ Chi. Với quy mô này, sẽ hình thành một trung tâm đô thị mới của thành phố thích ứng với tình trạng biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Trong thành phố mới, sẽ hình thành nên các khu nhà ở xã hội, nhà ở thương mại giá rẻ, tạo được công ăn việc làm, có đầy đủ dịch vụ và tiện ích phục vụ cư dân. Trong khi đó, dự án Đại lộ ven sông Sài Gòn (nối huyện Củ Chi về đến quận 1) tận dụng quỹ đất ven sông, với chiều dài khoảng 59 km, tốc độ xe dự kiến 100 km/h, sẽ chỉ mất khoảng 20-30 phút để đi từ Củ Chi về quận 1. Chủ đầu tư dự kiến thi công xong đưa vào sử dụng trong 18 tháng. Đại lộ này sẽ tạo điều kiện kết nối với quốc lộ 22, và các tuyến đường của tỉnh Bình Dương. Nói về độ giàu có của mình, “chúa đảo” từng không ngần ngại thừa nhận rằng tổng tài sản của ông lên tới 2 tỷ USD. Tuy sau đó ông phủ nhận con số này nhưng nhìn vào khối tài sản, những dự án mà ông đang sở hữu thì ông vẫn được liệt vào hàng ngũ những doanh nhân giàu nhất Việt Nam. Nữ nhân viên y tế 32 tuổi, ở Đông Anh, Hà Nội, trước khi đi làm trở lại được xét nghiệm COVID-19, phát hiện dương tính. Chị cho biết 2 tuần nay không đi đâu xa ra khỏi địa phương. Các chiến sĩ lữ đoàn 77, quân khu 7 phân loại, đóng gói rau củ quả rồi đi từng ngõ, gõ từng nhà để hỗ trợ lương thực cho người dân phường 9, quận Gò Vấp, TP.HCM. Giá vàng giao ngay tăng 1,4% lên 1.817,21 USD/ounce. Trong khi giá vàng kỳ hạn của Mỹ tăng 0,9% và khép phiên ở mức 1.819,50 USD/ounce. Chi 2.000 tỷ hỗ trợ lao động tự do đợt 2, TPHCM có gói hỗ trợ riêng. Theo thống kê của Bộ LĐ-TB&XH, tới nay, đã có gần 1,2 triệu người lao động tự do trong cả nước đã được nhận hỗ trợ với tổng kinh phí gần 2.180 tỷ đồng từ gói an sinh lần 2. Việc giảm tiền điện và nước sinh hoạt là một chính sách ý nghĩa giúp doanh nghiệp và người lao động giảm bớt các khó khăn do ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch COVID-19.
Đào Hồng Tuyển
Đào Hồng Tuyển (sinh năm 1954) là Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Tuần Châu, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Cựu chiến binh Đoàn tàu Không số Việt Nam. Ông được nổi tiếng bởi sự giàu có với vai trò "chúa đảo" Tuần Châu tại Quảng Ninh. Từng có ý kiến xem ông là một trong những người giàu nhất Việt Nam. Đào Hồng Tuyển sinh ra và lớn lên trên đất Quảng Yên - nhưng lại lập nghiệp ở TP. Hồ Chí Minh sau ngày Giải phóng. Năm 1969, khi mới 15 tuổi, Đào Hồng Tuyển gia nhập Đoàn tàu Không số hoạt động dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. Năm 1979, tham gia quân tình nguyện chiến đấu ở chiến trường Campuchia ở độ tuổi 25. Sau khi xuất ngũ, ông từng làm nhiều nghề khác nhau và là chủ sở hữu của 34 nhà máy, xí nghiệp trong lĩnh vực nước giải khát và phân bón rồi chuyển sang lĩnh vực làm bánh kẹo, làm giấy trước khi đảm nhận các chức vụ: Phó Tổng Giám đốc Công ty Xuất nhập khẩu Trung ương Đoàn, Giám đốc Trung tâm chuyển giao và xuất nhập khẩu công nghệ, Phó Chủ tịch Hội phân bón Việt Nam.
Tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế là vấn đề tất yếu đối với mỗi quốc gia hiện nay. Khi tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế, thì các quốc gia có thể tham gia vào những quan hệ có nhiều bên tham gia hoặc tham gia vào quan hệ chỉ có hai bên tham gia, quan hệ chỉ có hai bên tham gia đó chính là quan hệ thương mại song phương. Việc tham gia vào quan hệ thương mại song phương được thể hiện qua việc tham gia các điều ước quốc tế song phương với tên gọi là Hiệp định thương mại song phương. Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ cung cấp các thông tin về thương mại song phương. Có thể khẳng định ngay rằng quan hệ thương mại song phương chính là quan hệ thương mại quốc tế. Về khái niệm thương mại quốc tế, thì trước tiên, hoạt động thương mại được hiểu là hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm việc mua bán hàng hóa, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động khác nhằm mục đích sinh lợi (Luật Thương mại năm 2005). Thương mại quốc tế thường được hiểu là hoạt động thương mại liên quan tới hai hay nhiều quốc gia khác nhau. Dựa vào chủ thể và tính chất của quan hệ thương mại thì thương mại quốc tế được chia thành hai nhóm chính: thương mại quốc tế công (International trade) và thương mại quốc tế tư (International commerce). Thương mại quốc tế công là các hoạt động thương mại diễn ra giữa các thực thể công (quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế liên chính phủ). Bản chất của hoạt động thương mại quốc tế công là việc các thực thể công tự mình ban hành hoặc cam kết cách chính sách thương mại quốc tế (kí kết tham gia các điều ước quốc tế hay các liên kết kinh tế quốc tế). Thương mại quốc tế tư là hoạt động thương mại quốc tế diễn ra giữa các thương nhân (cá nhân, tổ chức kinh tế có thể là quốc gia khi quốc gia tham gia với tư cách như một thương nhân). Tính “quốc tế” hay sự liên quan tới hai hay nhiều quốc gia khác nhau của hoạt động thương mại quốc tế tư phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật, điều ước quốc tế. Các tiêu chí thường được dùng để xác định tính “quốc tế” của hoạt động thương mại quốc tế tư, quan hệ thương mại quốc tế tư gồm:. Quan hệ thương mại quốc tế giữa thương nhân và quốc gia (quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ, quan hệ giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư…) có thể được coi là một dạng quan hệ thương mại quốc tế tư đặc biệt. Dù quan hệ này có sự tham gia của quốc gia- chủ thể có quyền miễn trừ tư pháp, ngày nay, quốc gia thường từ bỏ quyền miễn trừ này khi tham gia quan hệ thương mại quốc tế với thương nhân, theo đó, biến vị thế của quốc gia trở nên tương tự như thương nhân trong quan hệ thương mại giữa hai bên. Từ đó có thể hiểu quan hệ thương mại song phương là quan hệ thương mại quốc tế được tiến hành giữa hai quốc gia nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm việc mua bán hàng hóa, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động khác nhằm mục đích sinh lợi. Khi xác lập quan hệ thương mại song phương, các quốc gia thông thường sẽ kí kết điều ước quốc tế song phương, mà có thường dùng với tên gọi là Hiệp định thương mại song phương. Hiệp định Thương mại Song phương là một hiệp định (điều ước quốc tế) do hai bên chủ thể trong quan hệ quốc tế ký kết với mục đích xác lập mối quan hệ pháp lý giữa hai bên trong hoạt động thương mại quốc tế. Nội dung của từng loại hiệp định thương mại song phương sẽ đề cập đến từng lĩnh vực khác nhau như thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ,…. Những quy định trong hiệp định thương mại song phương điều chỉnh các quan hệ pháp lý giữa hai bên kí kết hiệp định. Với bản chất là một điều ước quốc tế, nên hiệp định thương mại song phương mang những đặc điểm chung của các điều ước quốc tế. Hiệp định thương mại song phương là văn bản pháp lý quốc tế do các chủ thể của pháp luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng nhằm ấn định, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong quan hệ thương mại quốc tế. hiệp định thương mại song phương có những đặc điểm cơ bản sau :. Văn bản là hình thức tồn tại rất phổ biến của điều ước quốc tế. Khi đề cập đến điều ước quốc tế nói chung và hiệp định thương mại song phương nói riêng dù trong thực tiễn hay trong các văn bản pháp luật, điều ước quốc tế được nhắc đến thường chỉ là những điều ước thành văn. Công ước Viên năm 1969 cũng như pháp luật kí kết điều ước quốc tế của các quốc gia đều quy định hình thức có giá trị pháp lý ghi nhận kết quả thỏa thuận giữa các quốc gia là bằng văn bản. Do vậy mà các hiệp định thương mại song phương thường được thể hiện bằng văn bản. Xác định rõ tư cách chủ thể của hiệp định thương mại song phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi đó là một trong những yếu tố quyết định giá trị pháp lý của văn bản điều ước được ký kết. Bản chất của luật quốc tế là hình thành từ sự thỏa thuận nên trong quan hệ quốc tế không có cơ quan lập pháp chuyên trách. Hiệp định thương mại song phương là văn bản chứa đựng các nguyên tắc, quy phạm pháp luật thương mại quốc tế do chủ thể luật quốc tế xây dựng, tạo lập nên. Bởi vậy, về mặt nguyên tắc, những thực thể không có tư cách chủ thể luật quốc tế thì không phải là chủ thể của hiệp định thương mại song phương hay nói cách khác chủ thể của hiệp định thương mại song phương là chủ thể luật quốc tế. Ngoài quốc gia – chủ thể cơ bản của luật quốc tế và có quyền tham gia ký kết điều ước quốc tế thì còn có các chủ thể khác của luật quốc tế mà điển hình là tổ chức quốc tế liên chính phủ ( Ví dụ : Liên hợp quốc, ASEAN… ) đang tham gia ngày càng nhiều vào quan hệ thương mại quốc tế nói chung và quan hệ thương mại song phương nói riêng. Trong hầu hết các trường hợp, các quốc gia đều trực tiếp tham gia ký kết hiệp định thương mại song phương (thông qua các đại diện đương nhiên hoặc đại diện được ủy quyền của quốc gia). – Thứ ba, bản chất pháp lý của hiệp định thương mại song phương là sự thỏa thuận. Trong điều kiện luật quốc tế không tồn tại một cơ chế quyền lực chung để xây dựng và cưỡng chế việc thực thi, tuân thủ pháp luật thì thỏa thuận là phương thức nền tảng để hình thành hệ thống quy phạm pháp luật quốc tế. Mặt khác cơ sở cho việc thiết lập các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý quốc tế của các thành viên điều ước là ý chí thỏa thuận giữa các chủ thể ký kết. Sự thỏa thuận không chỉ thể hiện ở nội dung mà cả trong hình thức của hiệp định. Hiệp định thương mại song phương ra đời không những phải dựa trên sự thỏa thuận mà sự thỏa thuận đó còn phải phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Một hiệp định thương mại song phương được ký kết mà không dựa trên sự thỏa thuận hoặc thỏa thuận trái với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế thì sẽ không có hiệu lực pháp lý. Như vậy tiêu chí đánh giá tính hợp pháp của sự thỏa thuận giữa các bên là các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Tiêu chí này khi được đáp ứng thì nội dung thỏa thuận, hình thức của thỏa thuận, số lượng các văn bản ghi nhận sự thỏa thuận… được các bên thống nhất sẽ có trị ràng buộc. Đối với hiệp định thương mại song phương bất thành văn, khi đã được các chủ thể luật quốc tế nhất trí sử dụng hình thức này thì giá trị hiệu lực của điều ước này phải được bảo đảm và công nhận. Sự thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ hiệp định thương mại song phương không chỉ được thể hiện thông qua các hành vi cụ thể như : đàm phán, ký, phê chuẩn… điều ước đó mà còn có thể được thông qua việc chủ thể chấp nhận hiệu lực của điều ước có sẵn. – Thứ tư, hiệp định thương mại song phương được điều chỉnh bởi luật quốc tế. Quá trình hình thành các văn bản hiệp định thương mại song phương phải được tiến hành trên cơ sở các quy định của luật quốc tế. Luật quốc tế không chỉ điều chỉnh quá trình ký kết, nội dung ký kết mà còn điều chỉnh cả việc thực hiện hiệp định thương mại song phương sau khi có hiệu lực. Điển hình như các nguyên tắc : tự nguyện, bình đẳng, phù hợp giữa nội dung của hiệp định với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, Pacta sunt servanda… chính là cơ sở quan trọng xác định hiệu lực của hiệp định, xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ điều ước. Một thỏa thuận thương mại quốc tế giữa hai quốc gia sẽ không có giá trị của một hiệp định thương mại song phương nếu thỏa thuận đó không được điều chỉnh bởi luật quốc tế. Nói cách khác khi thỏa thuận được tiến hành giữa các quốc gia nhưng luật áp dụng lại là luật của một trong các bên ký kết thì văn kiện hình thành không có giá trị pháp lý của một điều ước. Đặc điểm này là một trong những dấu hiệu phân biệt hiệp định thương mại song phương với một văn bản không phải là hiệp định thương mại song phương.
Thương mại song phương
Thương mại song phương hoặc thương mại thanh toán bù trừ là thương mại độc quyền giữa hai quốc gia, đặc biệt là thương mại trao đổi dựa trên các thỏa thuận song phương giữa các chính phủ và không sử dụng tiền cứng để thanh toán. Các hiệp định thương mại song phương thường nhằm mục đích giữ thâm hụt thương mại ở mức tối thiểu bằng cách giữ một tài khoản thanh toán bù trừ nơi thâm hụt sẽ tích lũy. Liên Xô đã tiến hành thương mại song phương với hai quốc gia, Ấn Độ và Phần Lan. Về phía Liên Xô, thương mại đã được quốc hữu hóa, nhưng mặt khác, các nhà tư bản tư nhân cũng đàm phán các thỏa thuận. Mối quan hệ với các chính trị gia phụ trách chính sách đối ngoại đặc biệt quan trọng đối với những doanh nhân như vậy. Khung giới hạn hàng hóa giao dịch đối với những sản phẩm được sản xuất trong nước và do đó, tạo thành một khoản trợ cấp cho ngành công nghiệp trong nước. Thương mại song phương rất phổ biến trong giới kinh doanh Phần Lan, vì nó cho phép thực hiện các đơn đặt hàng rất lớn, ngoài ra với các yêu cầu ít nghiêm ngặt hơn về độ tinh vi hoặc chất lượng, nếu so với các thị trường phương Tây.
Năm 1871, khi diễn ra Công xã Paris, ông vừa tròn 30 tuổi, ông đã sống trọn sự kiện to lớn đánh dấu thời kỳ hiện đại đó, chịu chấn động dữ dội và sâu sắc của nó, càng đặc biệt đối với một con người đã quyết định đi theo con đường trở thành nhà tâm lý học. Trong một tác phẩm viết trước đó, cuốn Qui luật tâm lý về sự phát triển của các dân tộc, ông từng cho rằng mỗi dân tộc “đều có một cấu tạo tinh thần cố định như tính chất giải phẫu học của nó”, là một thứ bản chất di truyền của nó. Cấu tạo đó núp bóng trong mỗi cá nhân cấu thành dân tộc, chi phối mọi hành động, ham muốn, xung năng của anh ta, tạo nên vô thức tập thể của anh ta. Với Công xã Paris mà ông trực tiếp nếm trải và Cách mạng Pháp năm 1789 và 1848 mà ông hết sức chăm chú nghiên cứu, nhận thức trên đây của ông có sự chuyển động lớn: trong thời hiện đại xuất hiện một yếu tố còn quan trọng hơn cả bản chất di truyền vừa nói, đó là đám đông, sức mạnh của đám đông, nó làm lung lay cả bản chất di truyền nọ, chồng lên đó và đôi khi khác biệt sâu sắc với bản chất ấy, chi phối cả những chuyển động lịch sử lớn lẫn hành vi của từng cá nhân. “Thời đại mà chúng ta đang bước vào sẽ thật sự là thời đại của những đám đông”. Đứng trước hiện tượng vô cùng quan trọng đó của thời đại, Gustave Le Bon chủ trương một thái độ nghiên cứu có tính khách quan khoa học tối đa. Một mặt ông khẳng định “nhà bác học tìm cách nhận biết một hiện tượng không cần bận tâm tới các lợi ích mà những ghi nhận của mình có thể động chạm”; mặt khác ông cho rằng “nhà bác học nghiên cứu những hiện tượng xã hội phải luôn nhớ rằng bên cạnh giá trị lý thuyết, những hiện tượng này còn có giá trị thực tiễn, và đứng về phương diện tiến hóa của các nền văn minh thì chỉ riêng giá trị thực tiễn là có tầm quan trọng nào đó.”. Với một thái độ như vậy, ông chỉ ra rằng đám đông bao giờ cũng vô thức, dù là bất cứ đám đông nào, dù đó là đám đông cao sang và bác học nhất, như đám đông nghị viện chẳng hạn; dù những cá nhân hợp thành nó là như thế nào, là nông dân, người bình thường, người vô học, hay là nhà trí thức, nhà khoa học, nhà chính trị tinh tường., khi đã tham gia đám đông, chuyển thành đám đông, lập tức tính cách hay trí tuệ của từng cá nhân trong đó hoàn toàn biến đổi, họ hành động hoàn toàn theo những qui luật khác. Và Gustave Le Bon không ngần ngại chỉ ra rằng “họ xử sự như người nguyên thủy, không còn khả năng suy nghĩ, suy luận, mà chỉ cảm nhận bằng hình ảnh, bằng liên kết các ý tưởng; họ rất thất thường, có thể đi từ trạng thái nhiệt tình cuồng loạn đến ngây dại ngớ ngẩn nhất; họ cần một người thủ lĩnh, người cầm đầu, kẻ có thể dắt dẫn họ và cho bản năng của họ một ý nghĩa.”. Tức nói cách khác, trong thời hiện đại, với đám đông như là nhân tố chi phối chủ yếu, những bản năng nguyên thủy đang bừng thức dậy, và hãy coi chừng, chính nó đang dắt dẫn lịch sử!. Một lý thuyết như vậy đương nhiên không thể tránh khỏi những chỉ trích từ nhiều phía, của nhiều người và nhiều thế lực. Cũng có thể có chỗ tác giả đã có phần cực đoan trong phân tích của mình. Tuy nhiên, không dễ bác bỏ những luận cứ và những bằng chứng đầy tính khách quan khoa học, vô tư và giàu ý nghĩa thực tiễn của chúng. Đối với công tác nghiên cứu khoa học, nó cho thấy thế nào là một nghiên cứu khoa học thật sự. Còn đối với chúng ta, những người đọc bình thường, thật có ích khi làm quen dần với những cuốn sách có tiếng nói hơi khác lạ như thế này, để trong việc nhỏ việc lớn đời sống xã hội có cách nhìn nhiều chiều hơn, đa dạng hơn, và do đó tỉnh táo hơn, một sự tỉnh táo càng cần thiết trong thời đại đầy biến động, giàu triển vọng mà cũng lắm hiểm nguy này. TTO - Chương trình “Dân hỏi - Thành phố trả lời” tối 28-8 sẽ giải đáp trực diện các thắc mắc của bà con xoay quanh chủ đề “Cung ứng hàng hoá cho người dân và khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh”. TTO - Thay vì tạm dừng, TP.HCM sẽ được tổ chức cho tài xế giao hàng sử dụng công nghệ (shipper) hoạt động tại TP Thủ Đức và 7 quận huyện vùng đỏ nhưng phải xét nghiệm COVID-19 vào mỗi buổi sáng. TTO - Tính từ 18h chiều 27-8 đến 18h chiều 28-8, trên Hệ thống quốc gia quản lý ca bệnh COVID-19 ghi nhận 12.103 ca nhiễm mới, trong đó 6 ca nhập cảnh và 12.097 ca ghi nhận trong nước. TTO - Tại họp báo chiều 28-8, ông Kajiwara Junichi, tổng giám đốc Công ty Acecook Việt Nam, đã có mặt phản hồi thông tin liên quan sản phẩm mì Hảo Hảo và miến Good được cho là phát hiện có chất cấm tại Ireland. TTO - Sở Công thương TP.HCM vừa có văn bản đề xuất lên UBND TP.HCM cho phép những shipper đã được tiêm ít nhất một mũi vắc xin ngừa COVID-19 được tham gia hoạt động trong thời gian tăng cường giãn cách xã hội.
Tâm lý học đám đông
Tâm lý học đám đông là một nhánh của Tâm lý học xã hội nghiên cứu về tâm lý và hành xử của một người bình thường trong những hoạt động mang tính chất tập thể. Theo Gustave Le Bon, những đám đông luôn bị vô thức tác động, họ xử sự như người nguyên thuỷ, hành động theo bản năng, không có khả năng suy nghĩ, suy luận, mà chỉ cảm nhận bằng hình ảnh, bằng sự liên kết các ý tưởng, họ không kiên định, thất thường, và đi từ trạng thái nhiệt tình cuồng loạn nhất đến ngây dại ngớ ngẩn nhất. Vả lại, do thể tạng của mình, những đám đông ấy cần có một thủ lĩnh, một người cầm đầu, kẻ có thể dẫn dắt họ và cho bản năng của họ một ý nghĩa.
Ly Tao là một trong những tác phẩm thi ca nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc do Khuất Nguyên sáng tác. Bài thơ là lời oán thán buồn phiền của một bậc trung quân ái quốc. Là áng thơ chất chứa lí tưởng cao đẹp và tinh thần bất khuất của tác giả. Đây là tác phẩm bất hủ của Khuất Nguyên. Ly Tao được ra đời vào thời kì chiến quốc trong bối cảnh triều đình xã hội nhà Sở. Tựa đề bài thơ dịch sang tiếng Việt có nghĩa là lời than vãn của một quân tử với những muộn phiền và tâm trạng xáo trộn lo toan. Một nét đặc sắc trong bài trường thi này là nỗi buồn bi thảm của tác giả được khéo léo miêu tả qua lối tượng trưng, lối nhân cách hóa và hàm ý thâm sâu khi mượn những điển cố thần thoại mà bộc bạch tâm tình. Khuất Nguyên (340 trước Công nguyên – 278 trước Công nguyên), ông được biết đến là một thi nhân, một chính trị gia nổi tiếng thời bấy giờ. Xuất thân từ một gia đình danh gia vọng tộc, thuộc hoàng tộc của nước Sở. Ngay từ khi còn nhỏ Khuất Nguyên đã bộc lộ tinh thần ham học hỏi, và dung bồi tu đạo trọng đức. Học rộng hiểu nhiều, tài đức vẹn toàn. Ông ôm giữ tấm lòng tận trung báo quốc với tài năng, đức độ và sự chính trực của mình. Khuất Nguyên dốc tâm dốc sức phò trợ Sở Vương, đưa ra kế sách giúp Sở Vương với lí tưởng xây dựng nước Sở trở thành một Sở quốc phú cường. Ông khích lệ Sở Vương học theo những tấm gương trị quốc của những minh quân trong lịch sử. Ông đưa ra chính sách cải cách triều đình, ông vạch trần sự xa hoa, tham lam vô độ của những quý tộc trong triều. Những tham quan và tình trạng sâu mọi trong đội ngũ quan lại. Những chính sách này đã động chạm tới lợi ích của rất nhiều người. Chính vì thế mà chúng đã không ngừng đả kích, phỉ báng, chửi bới rồi rắp tâm vu oan giá họa Khuất Nguyên. Sở Vương ban đầu hết mực yêu quý, trọng dụng Khuất Nguyên. Nhưng sau này lại nghe theo đám quan lại ganh tài, tìm cách vu cáo hãm hại. Vua nghe lời gièm pha và dần xa lánh Khuất Nguyên. Khiến ông ôm trong lòng nỗi buồn bi thảm. Trong tâm trí của Khuất Nguyên ông chỉ mong muốn được tận tâm báo quốc, ông coi trọng nhân tài quốc gia nên đã gia sức bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài. Một lòng muốn thanh sạch bộ máy quan lại, loại bỏ quan tham và phơi bày sự hủ bại của giới quan lại để giảm đi sự sách nhiễu dân chúng. Thế nhưng có lẽ ông chỉ là một ngọn đuốc lẻ loi, một kỵ binh đơn thương độc mã. Tấm lòng trong sáng muốn báo quốc, ý chí và tư tưởng của đại quân tử không thể đấu lại với vô lại, tiểu nhân. Sở Vương tin theo lời gièm pha, xa lánh và cuối cùng trục xuất Khuất Nguyên. Những nhân tài mà ông dày tâm trí bồi dưỡng lâu nay cũng trở nên biến chất tha hóa. Ông như cánh buồm cô lập. Thấy cảnh dân sinh trong gian khó, đất nước rơi vào đường u muội. Chứng kiến điều ấy mà một bậc quân tử kì tài như ông ôm nỗi thống khổ cực độ cào xé nội tâm ông. Những vần thơ bi ai thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một trung thần dưới trướng một vị vua không phân biệt được trung- gian, ưa nịnh hót mà không tin lời nói thật. Ông đau đớn khôn nguôi khi con dân khổ sở, đám tham quan kết bè kết phái bán nước hại dân. Con thuyền nước Sở như sắp lật nhào mà ông không thể làm gì thay đổi. Nhìn thấy trước con đường suy vong trước mắt, ông lại càng ôm nỗi hận ngàn thu. Sự phẫn uất trước thời cuộc làm cho đại thần với lòng yêu nước nồng nhiệt đau đáu nỗi đau như thể nó có thể giết chết ông. Điểm đặc sắc là tác giả vận dụng nhiều thần thoại, truyền thuyết, thể hiện trí tưởng tượng phong phú với ngôn từ trong sáng, bay bổng mà giáo hóa, mà thức tỉnh vương quân đang u muội tối tăm. Những câu thơ giữa bài, nhân vật ‘‘ta’’ tưởng tượng đi từ mộ vua Thuấn tới nhiều địa danh rồi lên thiên đình, ông đi nhờ sự giúp đỡ của các vị thần. Rồi Thần giữ cửa thiên đình không cho ông vào, các nữ thần khác cũng cự tuyệt. Tới đoạn này phải chăng ông đã ngộ ra được, thịnh suy của vương triều là an bài của thiên tượng, là thiên ý. Bành Hàm là một nhân sĩ đời Ân, do can vua mà vua không nghe nên ôm đá tự trầm. Nỗi đau đớn xót xa của một sĩ phu yêu nước muốn dùng cái chết thanh sạch của mình mà thức tỉnh sự ngu muội của bậc vương tử. Cảm xúc và sự bế tắc bất lực của ông lúc này lên tới đỉnh điểm, chán nản muốn đi gặp Thượng Đế. Và cuối cùng Khuất Nguyên không chịu nổi họa mất nước, liền ôm bọc đá nhảy xuống sông Mịch La tự trầm. Truyền thuyết cho rằng ông chết vào ngày 5/5 âm lịch, nên nhân dân Trung Quốc cúng Tết Đoan Ngọ tưởng nhớ người trung nghĩa. Với cách sử dụng ngôn từ chắt lọc, ngắn gọn, kín đáo, chí ông trong sạch, nết ông thanh cao; tuy nói những điều vụn vặt, nhưng ý nghĩa rất rộng; việc nhắc đến tuy gần, nhưng nghĩa thì xa. Chí ông trong sạch nên hay nói đến cái hoa thơm. Nết ông cao cho nên dù chết cũng không được dung nạp. ông thoát khỏi cái thế giới bùn lầy như con ve bỏ lốt ở nơi dơ đục, để cất mình ra khỏi đám bụi trần chẳng để cho đời làm dơ bẩn. Thật là ở bùn mà trong trắng chẳng lây đen. Suy cái chí ấy thì ông có thể thi sáng với Mặt Trăng, Mặt Trời vậy!. Phải nói rằng, Ly Tao là một áng bi phẫn thi đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật văn chương. Người đọc thơ ông mà như đang đọc tự truyện. Nỗi đau khổ trong nội tâm của người trung nghĩa với tình yêu nước thiết tha được bày tỏ rất tinh tế. Mượn cây mượn cỏ, mượn cảnh mà tả tình. Nỗi đau tưởng chừng như không thể nào bộc bạch thì người yêu thơ lại có thể cảm thụ được từng cơn cào xé tâm can. Bài thơ được ví là những tiếng khóc thảm, than dài của một mảnh hồn trong sạch và đau thương, gọi tới người thiên cổ.
Khuất Nguyên
Khuất Nguyên (chữ Hán: 屈原, 340 TCN - 278 TCN), tên thực Bình (平), biểu tự Nguyên, lại có biệt tự Linh Quân (霛均), là một chính trị gia, một nhà thơ yêu nước nổi tiếng thời Chiến Quốc thuộc nước Sở trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người trong hoàng tộc nước Sở, làm chức Tả Đồ cho Sở Hoài vương. Ông học rộng, nhớ kĩ giỏi về chính trị, lại có tài văn chương. Lúc đầu ông được vua yêu quý, sau có quan lại ganh tài ông, tìm cách hãm hại. Sở vương nghe lời gièm pha nên ghét ông. Ông âu sầu, ưu tư viết thiên Ly Tao để tả nỗi buồn bị vua bỏ. Ngoài tập Ly tao là tập thơ bất hủ của ông để lại, ông còn có nhiều sáng tác thơ khác như Sở từ, Thiên Vấn (Hỏi trời). Đến cuối đời ông bị Sở Tương Vương đày ra Giang Nam (phía nam sông Dương Tử). Ông thất chí, tự cho mình là người trong sống trong thời đục, suốt ngày ca hát như người điên, làm bài phú Hoài Sa rồi ôm một phiến đá, gieo mình xuống sông Mịch La tự tử.
Nếu được chọn một trong những tác phẩm tiêu biểu và ấn tượng nhất của Agatha Christie, thì “Mười người da đen nhỏ” sẽ là một cuốn sách tuyệt vời cho những ai hâm mộ nữ văn sĩ này. Không chỉ bởi cách kể chuyện tài tình, ngắn gọn và dễ hiểu, cách Agatha khắc họa tâm lý nhân vật là đỉnh cao của tập truyện này. “Mười người da đen nhỏ” vốn là một bài hát cho trẻ em có từ rất lâu với nội dung chính là nói về mười cái chết khác nhau của họ. Trùng hợp thay, khi bắt đầu truyện, 10 người khác nhau, không có mối liên hệ gì với nhau, với những câu chuyện khác nhau, được mời tới một hòn đảo hoang xa lạ. Ngay trong buổi đầu tiên, họ, từng người, đã bị kết tội và tuyên án tử vì những tội ác của họ mà pháp luật không thể hành xử được. Sau đó, lần lượt từng người bị sát hại giống như cái chết của mười người da đen nhỏ. Những ngày tiếp theo, họ phải sống trong nỗi sợ hãi tột độ và không thể nào lần ra được tên thủ phạm giết người. Họ bị đẩy vào thế tách ra thì chết, mà tập hợp lại thì không thể vì ai cũng nghi ngờ, đề phòng lẫn nhau. Số người càng ít nhưng danh tính thủ phạm càng không thể nào tìm ra được. Và cuối cùng, tất cả đều chết hết. Danh tính tên thủ phạm được tiêt lộ ngay ở phần cuối qua bức thư tự thú của hắn – trái với phong cách thường thấy là sẽ tìm ra thủ phạm hay kẻ sống sót cuối cùng là thủ phạm. Nhưng không, tất cả đều đã chết. Chính điều đó đã tạo nên sự độc đáo của tác phẩm này. Theo phong cách thường thấy, mới đầu Agatha Christie đã đồng loạt đưa ra nhiều nhân vật với các tình tiết khác nhau khiến cho độc giả dễ cảm thấy hơi khó bắt kịp và bị rối. Tuy nhiên, đến cuối, bạn sẽ vô cùng bất ngờ khi biết được tại sao bọn họ lại được chọn đến nơi đây. Không đơn thuần chỉ là một vụ án thông thường, chỉ có hung thủ gây án, lời khai, đối tượng tình nghi rồi phá án là xong; mà nó còn cho thấy biệt tài xây dựng và miêu tả tâm lý nhân vật cực kỳ xuất sắc. 10 con người không quen biết nhau được đưa lên một hòn đảo xa lạ rồi bị buộc tội chết để trả giá cho lỗi lầm của mình. Từng người từng người một bị giết theo như bài hát “Mười người da đen nhỏ”. Nỗi sợ hãi, lo lắng được đẩy lên cao độ và từng người bắt đầu bộc lộ hết phần tính cách của mình. Đọc từng trang mà mình cảm thấy rõ rệt được tâm lý của họ ngay lúc đó như thế nào như thể mình là một trong những vị khách ấy vậy. Vô cùng sinh động và thu hút người đọc tù tì cả quyển chẳng muốn dừng. Trong số các tác phẩm của Agatha thì “Mười người da đen nhỏ” có vẻ đi theo mô-típ khá khác biệt vì mình nghĩ nó thiên về “khoe tài” xây dựng cốt truyện và kể chuyện hơn là tập trung vào thủ thuật gây án như các tác phẩm khác. Đọc đến gần cuối, khi các nạn nhân đều chết hết, điều duy nhất còn sót lại trong mình đó là bầu không khí nghẹt thở của truyện chứ không còn muốn tìm ra thủ phạm là ai hay cách thức thế nào nữa. Nó có chút gì đó ám ảnh, có chút hồi hộp và cũng có gì đó không thỏa mãn một cách thỏa mãn. Nói thật, đọc một tác phẩm nào mà nó gây cảm giác phải đọc xong chứ không được bỏ giữa chừng hay tạm dừng thì biết là hay cỡ nào rồi đó. Quả thực, “Mười người da đen nhỏ” xứng đáng là một trong các tác phẩm trinh thám xuất sắc của Agatha Christie cũng là một tác phẩm trinh thám bạn tuyệt đối nên đọc. Với phần cốt truyện quá hấp dẫn, lôi cuốn, cái kết bất ngờ cùng cách kể chuyện không thể nào xuất sắc hơn, bạn sẽ phải ngả mũ thán phục tài năng của bà. Hãy đọc ngay đi nhé!
Mười người da đen nhỏ
Và rồi chẳng còn ai (tựa gốc tiếng Anh: And Then There Were None) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được nhà xuất bản Collins Crime Club phát hành lần đầu ở Anh ngày 6 tháng 11 năm 1939. Tác phẩm đôi khi còn được xuất bản (và chuyển thể thành phim) dưới tên Ten Little Indians (10 gã da đỏ nhỏ). Tiểu thuyết nói về vụ án bí ẩn trên hòn đảo Soldier Island với 10 người bằng cách này hay cách khác đã thiệt mạng mà không hề có sự hiện diện hay dấu vết của thủ phạm. Đây được coi là một trong những tiểu thuyết hình sự xuất sắc và nổi tiếng nhất của Agatha Christie, trên 100 triệu bản sách đã được bán ra khiến tác phẩm này trở thành tiểu thuyết hình sự bán chạy nhất trong lịch sử xuất bản thế giới. Và rồi chẳng còn ai cũng là tác phẩm của Agatha Christie được chuyển thể nhiều lần nhất, cả trực tiếp và gián tiếp, dưới dạng phim điện ảnh, truyền hình và kịch sân khấu. Cuối năm 1930, có 8 vị khách thuộc đủ mọi tầng lớp và lứa tuổi được mời nghỉ tại ngôi biệt thự trên Soldier Island, một hòn đảo nằm trơ trọi ngoài khơi vùng Devon.
Lý do để tôi viết nên bài này là từ một cuộc tranh luận giữa tôi – một người ủng hộ tình yêu đồng tính thật sự, chứ không phải tình yêu theo phong trào – ủng hộ hôn nhân đồng tính và hai page khác. Một page gọi đồng tính là bệnh, còn page còn lại là phản đối hôn nhân đồng tính. Trong cuộc tranh luận đó, tôi bàn về Gender Dyphoria – GD , đã từng được gọi là Gender Identity Disorder – GID, được người Việt Nam mình biết dưới tên Rối loạn bản dạng giới. DSM-5 ra đời, đã đổi tên bệnh lại, thông qua đó, cũng thay đổi trọng tâm chẩn đoán bệnh. Bệnh này nay được gọi là Muộn phiền giới tính. Trước tiên tôi sẽ nói sơ về bệnh này, sau đó sẽ nói về phần mà tôi tranh luận và hy vọng rằng các bạn sẽ hiểu về hơn nội dung. Cảm nhận của mỗi con người về việc mình là nam hay là nữ chính là bản dạng giới. Bản dạng giới gần như phản ánh cơ quan sinh lý của một đứa trẻ: Trẻ sơ sinh có bộ phận sinh dục nam học được nó là con trai, còn những trẻ có bộ phận sinh dục nữ học được nó là con gái. Bản dạng giới khác hẳn với vai trò giới – vốn là những tính cách, hành vi và kỹ năng được xác định là phù hợp với nam giới hoặc nữ giới tùy theo văn hóa mỗi nước. Giống như ở Việt Nam mình, đàn ông là phải giỏi giang, gánh vác được cả gia đình, phụ nữ là phải giỏi chăm chồng chăm con. Còn ở Mỹ thì đàn ông phải ga lăng, mở cửa xe, kéo ghế cho bạn gái ngồi mới là quý ông lịch sự, phụ nữ thì có thể không lấy chồng, hoặc lấy chồng mà không sinh con là chuyện bình thường. Có một số người khẳng định rằng cơ quan sinh dục của họ và giới tính không phù hợp với nhau. Ở đàn ông, họ cảm thấy rằng mình là phụ nữ bị mắc kẹt trong cơ thể của một người con trai. DSM-5 xếp loại sự phiền muộn, khó chịu với cơ quan sinh dục là Muộn phiền giới tính. Những người này không hẳn tin tưởng rằng họ thuộc về giới tính còn lại mà họ cảm giác rằng, ngoại trừ là ngoại trừ bộ phận sinh dục thì họ có xu hướng thiên về giới tính bên kia hơn. Những báo cáo về những người chuyển giới cho thấy họ nhận thức rõ những cảm giác khó chịu, phiền muộn này từ khi còn rất nhỏ. Nhiều báo cáo nói rằng họ mặc đồ và hành xử theo vai trò giới tính của giới tính còn lại. Nghĩa là đối với một bé trai mắc chứng này, sẽ có xu hướng mặc đồ và có hành vi như những bé gái. Mức độ nặng nề của sự khó chịu thay đổi tùy theo mỗi người. Nó sẽ ít dao động và dẩn dần chuyển nặng hơn khi đứa trẻ ấy bước vào tuổi vị thành niên với những sự thay đổi sinh lý cơ thể như con gái thì bắt đầu có ngực, và hông bự ra, còn con trai thì bắt đầu thay giọng, mọc râu và có cơ bắp. Những đặc điểm này khiến đứa trẻ khó tham gia vào các hoạt động và hành xử theo giới tính trái ngược. Có rất nhiều trẻ trong độ tuổi này bắt đầu bận tâm với mong muốn phẫu thuật thay đổi cơ quan sinh dục. Mối liên hệ giữa Muộn phiền giới tính và xu hướng tình dục đến nay vẫn còn nằm trong vòng tranh luận. Một số nhà khoa học nói rằng những người chuyển giới chính là những người đồng tính tự nhận mình thuộc về giới tính còn lại như một cách để tránh sự kỳ thị của xã hội và những giá trị đạo đức không ủng hộ quan hệ đồng tính. Ý kiến này không hợp lý vì hai điều, thứ nhất, đồng tính nữ và đồng tính nam không hề bất mãn với cơ quan sinh dục của họ. Điều này chứng tỏ những người chuyển giới không chỉ đơn giản là muốn trốn khỏi kỳ thị xã hội về đồng tính. Thứ hai, nghiên cứu cho thấy người chuyển giới và người đồng tính có xu hướng gợi dục khác nhau khi tiếp xúc với cùng một kích thích. Cái này tôi đoán là những nhà nghiên cứu dùng biểu đồ điện não để so sánh. Muộn phiền giới tính là một chứng bệnh tâm lý hiếm so với các bệnh tâm lý khác. Đàn ông chuyển giới sang phụ nữ nhiều hơn là phụ nữ chuyển giới sang đàn ông dựa trên tài liệu từ các văn phòng bác sĩ. Một số nghiên cứu ước tính tỷ lệ mắc chứng này là 1 trên 12,000 người với đàn ông và 1 trên 30,000 người với phụ nữ. Khởi nguồn về giới tính ở đàn ông và đàn bà bình thường vẫn còn chưa biết rõ, thế nên chẳng lạ gì khi chúng ta không biết được nguyên nhân gây ra muộn phiền giới tính. Vì nhiều nguyên nhân mà nhiều người tin rằng bản dạng giới bị ảnh hưởng mạnh bởi các chất hóc môn sinh dục, đặc biệt là trong thời kỳ mang thai. Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện trên động vật, nhưng đặc biệt nhất là những dữ liệu đến từ những người “giả lưỡng tính (đồng thể)” (Pseudohermaphroditism). Những người này sinh ra theo di truyền học là đàn ông (XY) nhưng họ không thể sản xuất ra được hóc môn chịu trách nhiệm cho việc định hình cơ quan sinh dục. Thế nên đứa trẻ sinh ra với hình dạng bộ phận sinh dục không phân biệt được là nam hay nữ. Nhiều đứa trẻ như thế này được nuôi dưỡng như con gái trong gia đình. Khi đến tuổi thành niên, hàm lượng hormone (nội tiết tố) testosterone đột nhiên tăng cao dẫn đến nhiều sự thay đổi to lớn với bộ phận sinh dục, khiến nó dần dần trở nên giống bộ phận sinh dục nam hơn. Giọng nói của trẻ sẽ trở nên trầm hơn, cơ bắp nhiều hơn và đứa trẻ sẽ nhanh chóng nhận định nó là con trai. Tốc độ chấp nhận và sự thoải mái trong việc thay đổi, xác nhận giới tính nam ở những đứa trẻ này tạo nên giả thuyết rằng bộ não đã được lập chương trình về thay đổi, lựa chọn giới tính này từ khi còn là phôi thai. Đối với bạn, Rối loạn bản dạng giới và Muộn phiền giới tính có gì khác nhau khi triệu chứng của hai chứng này gần như giống nhau? Đối với bạn có lẽ nó không có gì khác mấy ngoại trừ cái tên thay đổi nhưng đối với những chuyên viên chẩn trị tâm lý và những đứa học tâm lý như tôi, đó là sự thay đổi rất lớn bao gồm luôn cả trọng tâm chẩn đoán bệnh. Nếu như ở DSM-4 nó là một bệnh (các tác giả dùng chữ Rối loạn – Disorder) thì ở DSM-5 họ không coi nó là bệnh. Trọng tâm chứng này nằm ở những nỗi phiền muộn khó chịu với giới tính làm cho những người mắc chứng này gặp khó khăn trong việc hòa nhập xã hội và làm việc (Bỏ chữ rối loạn, thay vào đó là buồn bực – Dysphoria). Phương pháp chữa bệnh tập trung vào việc giải tỏa những nỗi muộn phiền này. Trong phần cập nhật mới nhất cho DSM-5, các tác giả đã nói rõ rằng việc cảm thấy không thoải mái bực bội với giới tính của mình không phải là bệnh mà là những hệ quả từ việc không thoải mái này như khó chịu, trầm cảm mới là điều quan tâm chính của bệnh này. Điều này có thể thấy rõ từ phương thức chữa trị của chứng này . Dễ dàng nhận thấy có hai cách để chữa chứng này: một là thay đổi định dạng giới của một người để cho phù hợp với cơ quan sinh dục mà họ đang có. Hai là thay đổi bộ phận sinh dục để cho phù hợp với giới tính của một người. Có rất nhiều dạng chữa trị phân tâm học cố gắng thay đổi nhận định giới tính của một người (giống như thuyết phục người nam đang mắc chứng này rằng họ là nam, chứ không phải là nữ). Nhưng kết quả đến giờ đa số là tiêu cực. Một phương pháp khác nhận được nhiều phản hồi tích cực chính là phẫu thuật chuyển giới. Người làm phẫu thuật chuyển giới phải ít nhất 18 tuổi và trước khi thực hiện phẫu thuật phải trải qua một thời sống vài tháng với giới tính mà họ mong muốn chuyển thành để chắc rằng đó là cuộc sống mà họ muốn. Đa số những người thực hiện phẫu thuật chuyển giới xong, nhiều năm sau cho biết họ sống rất tốt, biểu hiện tích cực. Các bài kiểm tra tâm lý cũng cho thấy với những người hoàn toàn phẫu thuật xong thì mức độ trầm cảm và lo lắng giảm dần so với những người chưa làm phẫu thuật. Phẫu thuật chuyển giới chính là cách giải tỏa nỗi muộn phiền về giới tính và khiến cho những người đó có thể hòa nhập tốt hơn. Có nhiều bạn ủng hộ quan hệ, hôn nhân đồng tính giơ cao biểu ngữ cổ vũ “giới tính thứ ba”. Cái này là hoàn toàn không đúng. Không phải các bạn không đúng mà là biểu ngữ không đúng. Ở các nước phương Tây, giới tính có hai loại là nam và nữ được xác định bởi Bộ phận sinh dục trên người từ khi sinh ra. Tuy nhiên, ở một số nước không phải phương Tây khác, giới tính không hẳn phải gắn liền với định dạng của Bộ phận sinh dục, thế nên họ có giới tính thứ ba, thứ tư, thứ năm…. Ví dụ, toà án tối cao ở Ấn Độ đã thông qua điều luật cho phép những người chuyển giới (transgender) tự xác nhận mình là giới tính thứ ba (identify as third gender). Tuy nhiên, xu hướng tình dục là khái niệm khác hẳn với giới tính. Nó là mối gắn kết, thu hút về mặt cảm xúc, tình dục giữa bạn và một người khác có thể là đồng giới, khác giới hoặc cả hai. mặc dù chúng ta có các danh mục về các xu hướng tình dục, thế nhưng không phải lúc nào xu hướng tình dục cũng được xác định rõ rệt như thế. Các nhà khoa học cho rằng xu hướng tình dục có tính tiếp diễn (continuum) và những đề tài về mặt này còn đang được nghiên cứu thêm. Khuynh hướng tình dục và giới tính là hai khái niệm hoàn toàn khác biệt nhưng có rất nhiều bạn vẫn nhầm lẫn hai khái niệm này. Đó cũng chính là một phần tranh luận của tôi với các thành viên của hai page mà tôi nói ở bài trên. Một thành viên trong đó lấy trích dẫn từ một cuốn sách phát hành năm 2014 của APA,. (Trong một nghiên cứu với 66 trẻ em trai được chẩn đoán mắc chứng rối loạn định dạng giới ở trẻ em, có khoảng 75% trong số này lớn lên tự nhận mình là đồng tính, chứ không phải là người chuyển giới). Sau đó bạn ấy bảo rằng, từ cái study này có thể kết luận được, “Đồng tính luyến ái không phải là rối loạn định dạng giới. Nhưng ngược lại, Rối loạn định dạng giới nếu không được phát hiện và chữa trị thì bệnh nhân sẽ chuyển biến thành Đồng tính luyến ái hoặc sẽ đi tiến hành chuyển đổi giới tính.”. Kết luận này thiếu cơ sở và thiếu cả sự chính xác. Chỉ dựa vào một nghiên cứu mà đưa ra một kết luận chung với tất cả những người mắc chứng Muộn phiền giới tính là hơi cẩu thả và thiếu độ tin cậy. Hơn nữa, nghiên cứu này còn dùng DSM-III làm cơ sở chẩn đoán, thời điểm sách dùng trích dẫn là năm 1987, nghĩa là nghiên cứu được thực hiện trong năm đó hoặc còn lâu hơn nữa. Điều này nói lên cái gì, nói lên kết quả nghiên cứu này có thể không còn áp dụng được với những tiêu chuẩn mới hiện nay. Bạn nào học tâm lý học sẽ biết, một khi DSM thay đổi thì tất cả các sách tâm lý đều thay đổi. Điều thứ hai là trong nghiên cứu không đề cập đến việc những người mắc bệnh rối loạn định dạng giới có đi chưa trị hay không, nên không thể bảo Rối loạn định dạng giới không được phát hiện và chữa trị sẽ dẫn đến đồng tính. Muộn phiền giới tính / Rối loạn bản dạng giới là về những nỗi phiền muộn khi bị mắc kẹt trong cơ thể không phù hợp với giới tính của mình, chứ nó không liên quan gì đến xu hướng tình dục cả. Có nhiều trường hợp nhiều người đi chuyển giới xong về vẫn có những mối quan hệ đồng giới. Tôi đã xem vài video nói về những người nam chuyển giới sang nữ và sau khi chuyển giới xong họ có bạn đời là nữ. Đó chính là khuynh hướng tình dục của họ. Vì vậy không thể nói rằng Rối loạn định dạng giới dẫn đến Đồng tính luyến ái được. Cái này hoàn toàn sai lầm. Bất cứ ai khi tìm nghiên cứu để đọc hoặc để viết, thì nên cẩn thận tránh việc kết luận cẩu thả như vậy. Một kết luận chung về một tập thể khó có thể dựa trên một nghiên cứu. Bản thân tôi cho rằng Muộn phiền giới tính là bệnh phần nhiều do xã hội mang lại bởi vì sự kỳ thị, chỉ trỏ và định kiến hơn là căn bệnh mang lại cho chủ nhân của nó. Vậy tại sao DSM-5 không loại trừ nó ra khỏi danh sách các bệnh tâm lý? Những người khó chịu, buồn bực với giới tính của mình cần sự “chẩn đoán” để họ có thể nhận được sự chăm sóc và chữa trị. Phẫu thuật chuyển đổi giới tốn rất nhiều tiền, lên đến hàng trăm ngàn đô, nếu họ không có sự “chẩn đoán” từ bác sĩ là họ cần phẫu thuật để cảm thấy khỏe hơn, sống tốt hơn thì bảo hiểm sẽ không chi trả tiền để họ có thể có được sự chăm sóc cần thiết. Nếu loại bỏ bệnh này ra khỏi DSM-5 thì dẫn đến những khó khăn như vậy thế nên các tác giả của DSM-5 vẫn giữ lại bệnh này nhưng bắt đầu sự thay đổi về những định kiến từ việc chọn từ thích hợp như bỏ từ rối loạn và thay vào bằng muộn phiền như tôi đã nói trên. Như vậy thì tên sẽ giống hơn với triệu chứng và cũng loại bỏ ý nghĩ là bệnh nhân bị “bệnh”. Tỷ lệ người mắc GD theo sách tôi là hiếm so với các bệnh tâm lý khác. Khoảng 1 trong 12,000 nam và 1 trong 30,000 nữ. Nếu chúng ta loại trừ những nước châu Âu, Mỹ và các nước có khoa học tiên tiến và chuyên ngành tâm lý học phát triển thì số người mắc GD nhưng thiếu kiến thức dẫn đến ngộ nhận là con số rất ít. Có thể vì thế nên nó không được ghi dữ liệu lại hoặc không có nghiên cứu nào nói về nó. Nếu bạn nào tìm ra tài liệu nào nói người mắc GID (Rối loạn bản dạng giới) không được chữa trị dẫn đến ngộ nhận đồng tính thì hãy comment ở dưới. Và lúc đó chúng ta có thể bàn tiếp về vấn đề này. Tại sao tôi nói là loại trừ các nước châu Âu, Mỹ và các nước có nền tâm lý học phát triển? Do từ ở trường tiểu học cho tới đại học đều có chuyên viên tâm lý để các trẻ em, thanh niên đều có thể tìm đến khi gặp khó khăn.
Bản dạng giới
Bản dạng giới (tiếng Anh: gender identity), hay còn được gọi là nhân dạng giới là sự nhận thức chủ quan của một người về giới của bản thân họ. Bản dạng giới của một người có thể đồng nhất hoặc không đồng nhất với giới được chỉ định sau sinh dựa trên giới tính sinh học của họ. Thể hiện giới thường phản ánh bản dạng giới của một người, nhưng điều này không phải lúc nào cũng chính xác trong mọi trường hợp. Một người có thể có những hành vi, thái độ và ngoại hình đồng nhất với một vai trò giới cụ thể, nhưng cách thể hiện ấy không nhất thiết phải phản ánh chính xác bản dạng giới của họ. Bản dạng giới của một người có thể là nam, nữ, hay thuộc vào nhóm phi nhị nguyên giới, trong đó bao gồm các nhãn giới khác như vô giới, linh hoạt giới, androgyne, hay song giới, bán giới,.Thuật ngữ "Bản dạng giới" được đặt ra vào năm 1964 bởi Robert J. Stoller. Trong hầu hết mọi xã hội đều tồn tại sự phân chia các thuộc tính về giới được chỉ định cho nam và nữ.
2 Tầm quan trọng của túi giấy trong cuộc sống hiện nay2.1 Đối với môi trường2.2 Đối với công ty, các doanh nghiệp. 3 Các tiêu chí đánh giá mẫu túi giấy đạt chuẩn3.1 Tính thẩm mỹ3.2 Chất liệu giấy3.3 Hiệu ứng của túi3.4 Dây quai túi. Túi giấy là một dạng bao bì được sản xuất từ các chất liệu giấy với mục đích chính là chứa đựng hàng hóa. Chất liệu sản xuất túi khá đa dạng, như là giấy Kraft nâu, giấy Ford, giấy Duplex hay giấy Bristol,… Mỗi loại giấy đều có những ưu điểm nổi bật khác nhau nhưng đều đảm bảo rằng sẽ mang đến hiệu quả túi chất lượng cao và dễ dàng thiết kế theo ý tưởng của người sản xuất. Loại túi này được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực kinh doanh: mỹ phẩm, đồ tiêu dùng, trang sức, đồ uống, sản phẩm hoa quả tươi,…. Các khách hàng đặc biệt yêu thích túi giấy nhỏ bởi sự tiện dụng mà nó mang lại khi sử dụng. Nếu như so với túi nilon có giá thành vô cùng rẻ thì túi sản xuất bằng giấy lại có giá thành hơi cao chút. Vậy tại sao túi giấy vẫn ngày càng được nhiều người lựa chọn và sử dụng trong cuộc sống?. Giấy được sản xuất với thành phần chính là gỗ – nguồn nguyên liệu thô có thể tái tạo và cũng là nguồn tài nguyên không ngừng phát triển. Việc sử dụng những loại túi sản xuất bằng giấy giúp góp phần bảo vệ rừng tự nhiên, làm giảm lượng phát thải khí C02. Bên cạnh đó, do đặc tính có thể phân hủy trong tự nhiên với thời gian không quá dài từ 2 – 5 tháng, loại túi này sẽ không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng nguồn nước và đời sống của các sinh vật biển. Hơn nữa, việc sử dụng túi giấy tái chế trong các hoạt động thường ngày cũng giúp giảm chất lượng chất thải rắn bị thải ra môi trường, giúp bảo vệ môi trường trong sạch đẹp cho tương lai của con người sau này. Ngoài việc bảo vệ môi trường, loại túi này cũng đem lại lợi ích kinh doanh lớn dành cho các tổ chức, các cửa hàng nhỏ lẻ cũng như các doanh nghiệp lớn. Một số lợi ích của túi giấy sang trọng đối với các doanh nghiệp phải kể đến như là:. Việc sử dụng túi giấy bảo vệ môi trường, sẽ giúp doanh nghiệp tạo được ấn tượng tốt đối với khách hàng. Từ đó, thể hiện được trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường và kêu gọi người tiêu dùng hưởng ứng vấn đề này. Mỗi ngành nghề khác nhau thì sẽ tương ứng với những tiêu chí thẩm mỹ khác nhau. Chính vì vậy, tùy thuộc vào từng ngành nghề và các sản phẩm mà bạn kinh doanh để lựa chọn mẫu túi thiết kế phù hợp. Từ đó, thu hút ánh nhìn và tạo được ấn tượng mạnh mẽ đối với khách hàng. Chất liệu giấy khi sản xuất cũng phụ thuộc khá nhiều vào mẫu mã cũng như kích thước khi thiết kế. Thường thì giấy Kraft, giấy Couche, giấy Duplex,… là những loại giấy được sử dụng làm túi giấy đẹp phổ biến nhất hiện nay. Ngoài ra, định lượng của giấy dao động từ 80g/m2 đến 300g/m2 là định lượng tiêu chuẩn nhằm mang đến những chiếc túi chắc chắn và có độ bền cao khi sử dụng. Những loại túi có tính thẩm mỹ cao, đẹp mắt thường thu hút nhìn ánh nhìn từ người tiêu dùng. Để tạo được hiệu ứng như vậy, các mẫu túi có thể thực hiện gia công bao gồm các khâu như: ép kim, cán màng lên túi, dập chìm tiểu tiết hay khắc nổi hoa văn,… Tất cả sẽ làm cho túi thêm phần sang trọng và tinh tế hơn rất nhiều. Quai xách túi cũng một phần quan trọng không thể thiếu khi sản xuất túi giấy. Hiện tại, có khá nhiều loại dây quai túi khác nhau. Một số mẫu dây quai túi phổ biến như: quai xách từ sợi cotton, dây ruy băng, dây quai giấy, dây dù hoặc sợi PE,… Tùy thuộc vào từng mẫu mã túi mà các bạn có thể lựa chọn loại dây quai túi phù hợp. Cùng với sự phát triển của các công nghệ hiện đại, vải không dệt ngày. Bản in hiện là một trong những công cụ hỗ trợ đắc lực trong in ấn. Ép kim và ép nhũ là hai kỹ thuật gia công sau in khá phổ biến trong công nghiệp.
Túi giấy
Túi giấy là một loại túi được làm bằng giấy, thường là giấy kraft. Túi giấy thường được sử dụng làm túi mua sắm, bao bì sản phẩm, bao giấy. Năm 1852, Francis Wolle, một giáo viên, đã phát minh ra chiếc máy đầu tiên để sản xuất hàng loạt túi giấy. Wolle và anh trai của mình đã được cấp bằng sáng chế cho chiếc máy này và thành lập ra công ty Túi giấy Union. Năm 1871, nhà phát minh Margaret E. Knight đã thiết kế một chiếc máy có thể tạo ra những chiếc túi giấy có đáy phẳng, có thể đựng được nhiều thứ hơn so với thiết kế kiểu phong thư trước đây. Năm 1883, Charles Stilwell được cấp bằng sáng chế cho một chiếc máy tạo ra túi giấy đáy vuông với các cạnh xếp nếp, giúp chúng dễ dàng gấp lại và cất giữ. Kiểu túi này được gọi là S.O.S., hay "Túi tự mở". Năm 1912, Walter Deubener, một người bán tạp hóa ở Saint Paul, Minnesota, đã sử dụng dây để gia cố túi giấy và thêm quai xách. Những chiếc "Túi mua sắm Deubener" này có thể đựng 75 pound cho một lần mang và trở nên khá phổ biến, bán được hơn một triệu túi mỗi năm vào năm 1915.
Thuyết nhật tâm là gì? Thuyết nhật tâm (heliocentrism) là lý thuyết cho rằng Mặt Trời nằm ở trung tâm của vũ trụ và/hay của Hệ Mặt Trời. Thuyết nhật tâm đối lập với thuyết địa tâm, cho rằng Trái Đất nằm ở trung tâm. Đối với bất kỳ một người nào đứng nhìn lên bầu trời, có vẻ rõ ràng rằng Trái Đất đứng yên vị trong khi mọi vật trên bầu trời mọc và lặn hay quay quanh nó hàng ngày. Quan sát trong một thời gian lâu hơn, họ sẽ thấy nhiều chuyển động phức tạp hơn. Mặt Trời chuyển động chậm chạp theo hình tròn trong năm; các hành tinh có các chuyển động tương tự nhau, nhưng thỉnh thoảng chúng quay vòng và di chuyển ngược lại trong một khoảng thời gian (chuyển động lùi). Khi các chuyển động đó ngày càng được tìm hiểu kỹ hơn, càng ngày càng cần có những miêu tả tỉ mỉ hơn, cách miêu tả nổi tiếng nhất là hệ Ptolemy, được hình thành từ thế kỷ thứ 2. Những dấu vết sớm nhất về một ý tưởng đi ngược trực giác cho rằng Trái Đất trên thực tế đang quay quanh Mặt Trời và Mặt Trời là trung tâm của Hệ Mặt Trời (và đó chính là khái niệm của thuyết nhật tâm) đã được tìm thấy trong nhiều văn bản kinh Vệ Đà tiếng Phạn được viết trong thời Ấn Độ cổ đại. Yajnavalkya (khoảng thế kỷ 9–thế kỷ 8 TCN) ghi nhận rằng Trái Đất có hình cầu và rằng Mặt Trời là “trung tâm của vũ trụ” như được miêu tả trong kinh Vệ đà ở thời ấy. Trong bài viết về thiên văn học của mình Shatapatha Brahmana (8.7.3.10) cho rằng: “Mặt Trời treo các thế giới – Trái Đất, các hành tinh, khí quyển – vào mình bằng một sợi chỉ.” Ông nhận rằng Mặt Trời lớn hơn nhiều so với Trái Đất, và đây là điều ảnh hưởng tới khái niệm thuyết nhật tâm sơ khai này. Ông cũng đã đo chính xác các khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời và Mặt Trăng bằng 108 lần đường kính các thiên thể đó, khá gần với con số ngày nay là 107.6 với Mặt Trời và 110.6 với Mặt Trăng. Ông cũng đã miêu tả một loại lịch trong cuốn Shatapatha Brahmana. Văn bản Vệ Đà tiếng Phạn Aitareya Brahmana (2.7) (khoảng thế kỷ 9–8 TCN) cũng nói rằng: “Mặt Trời không lặn cũng không mọc. Khi con người nghĩ rằng Mặt Trời đang lặn, nó không làm như vậy; vì thế đó là sự hiểu lầm.” Văn bản này chỉ ra rằng Mặt Trời đứng yên (vì thế Trái Đất di chuyển quanh nó), điều này đã được trình bày chi tiết hơn trong một bản bình luận thời sau Vishnu Purana (2.8) (khoảng thế kỷ thứ 1), nói rằng: “Mặt Trời luôn đứng yên, trong ngày. Vì Mặt Trời, luôn đứng yên tại chỗ, nên nó không lặn cũng không mọc.”. Ở thế kỷ thứ 4 TCN, trong Chương 13 Quyển hai bộ Về bầu trời (On the heavens), Aristotle đã viết rằng “Ở trung tâm, họ nói, là ngọn lửa, và Trái Đất là một trong những ngôi sao, tạo nên ngày và đêm bởi các chuyển động hình tròn của chúng quanh trung tâm.” Những lý do của sự sắp đặt này là vì triết học dựa trên các nguyên tố cổ điển chứ không phải khoa học; ngọn lửa có tầm quan trọng lớn hơn Trái Đất theo quan điểm của trường phái Pytago, và vì lý do này ngọn lửa phải nằm ở trung tâm. Tuy nhiên ngọn lửa trung tâm không phải là Mặt Trời. Những người theo Pytago tin rằng Mặt Trời cũng như toàn bộ các vật thể khác đều quay quanh ngọn lửa trung tâm. Aristotle đã từ bỏ lý thuyết này và ủng hộ thuyết địa tâm. Heraclides xứ Pontus (thế kỷ thứ 4 TCN) đã giải thích chuyển động biểu kiến hàng ngày cảu các thiên thể thông qua sự tự quay của Trái Đất, và có lẽ cũng đã nhận ra rằng Sao Thủy và Sao Kim quay quanh Mặt Trời. Tuy nhiên, người đầu tiên đề xuất hệ nhật tâm là Aristarchus xứ Samos (khoảng 270 TCN). Không may thay những ghi chép của ông về hệ nhật tâm không còn nữa, nhưng chúng ta có được một số thông tin chủ chốt của hệ thống nay thông qua các tác giả khác (người quan trọng nhất là Archimedes, ông sống ở thế kỷ thứ 3 TCN và vì thế có được kiến thức trực tiếp từ các tác phẩm của Aristarchus). Khi Aristarchus viết các tác phẩm của mình, kích thước Trái Đất đã được Eratosthenes tính toán khá chính xác. Aristarchus cũng đo đạc kích thước Trái Đất, và kích thước cũng như khoảng cách của Mặt Trăng và Mặt Trời, chúng được ghi lại trong một bản luận văn may mắn còn tồn tại. Phương pháp hình học của ông là chính xác, nhưng nó đòi hỏi phải vượt qua khó khăn khi đo góc giữa Mặt Trời và Mặt Trăng khi Mặt Trăng nằm ở góc một phần tư thứ nhất và cuối cùng, hơi nhỏ hơn 90 độ. Aristarchus đã ước tính góc quá rộng và vì thế ước tính kích thước cũng như khoảng cách của Mặt Trời nhỏ hơn thực tế (dù các con số của ông về Mặt Trăng khá chính xác). Tuy nhiên, điều quan trọng là cách tiếp cận khoa học của Aristarchus, và kết luận rằng Mặt Trời lớn hơn nhiều so với Trái Đất. Có lẽ, như nhiều người đã từng đề xuất, khi xem xét những con số đó Aristarchus đã cho rằng có lẽ cho Trái Đất đang chuyển động thì đúng hơn là Mặt Trời vĩ đại chuyển động quanh Trái Đất. Công trình đầu tiên của Aristarchus về hệ nhật tâm không còn nữa và chỉ được biết tới thông qua ghi chép của những người khác; vì thế ta không chắc chắn được về sự lý luận của ông với vấn đề đó. Dù có lẽ rằng ông đã hiểu vấn đề thị sai của các ngôi sao: nếu Trái Đất chuyển động qua những khoảng cách lớn khi quay quanh Mặt Trời, thì ở khoảng cách gần hơn các định tinh phải có khác biệt so với khoảng cách xa, tương tự như những quả đồi ở gần sẽ có vị trí sai khác so với các ngọn núi ở xa khi ta di chuyển. Aristarchus đã giải thích hiện tượng không quan sát thấy thị sai đó bằng cách cho rằng các ngôi sao ở những khoảng cách quá xa: khoảng cách mặt cầu của các định tinh so với quỹ đạo Trái Đất tương tự với bề mặt của một mặt cầu so với tâm của nó. (Archimedes đã miêu tả và cho rằng lý lẽ này do Aristachus đưa ra ở lời mở đầu cuốn Người đếm cát (The Sand Reckoner).) Điều này khiến các ngôi sao nằm ở khoảng cách rất lớn; dù ông muốn dùng đúng nghĩa đen, hay chỉ muốn thể hiện một tỷ lệ khoảng cách cực lớn, thì hiện nay ta cũng không thể xác định chắc chắn điều đó. (Vì cách giải thích của ông tỏ ra chính xác, dù các khoảng cách là có hạn; thị sai sao chỉ được quan sát thấy ở thế kỷ 19.). Mô hình nhật tâm của Aristarchus được Archimedes đề cập tới trong cuốn Người đếm cát. Mục đích của cuốn sách này là chứng minh rằng những con số cực lớn, thậm chí số lượng những hạt cát đủ để lấp đầy vũ trụ, cũng có thể được thể hiện bằng toán học và không nên biểu diễn chúng một cách ước lượng là “vô vàn”. Ông đã lấy mô hình vũ trụ rộng lớn nhất từng có, mô hình vũ trụ Aristarchus, để tính toán số lượng cát cần thiết đổ đầy vào đó. Chỉ ra rằng về mặt toán học, sẽ không có ý nghĩa gì khi nói về một tỷ lệ giữa bề mặt của một mặt cầu và tâm của nó, bởi vì nó không có độ rộng lớn, Archimedes kết luận rằng khoảng cách giữa các định tinh có cùng quan hệ với bán kính của quỹ đạo Trái Đất bởi vì quỹ đạo đó cũng có quan hệ với chính Trái Đất. Theo những điều kiện đó, chúng ta có thể chứng minh rằng thị sai sao đã vượt quá khả năng quan sát để phát hiện thấy của thời kỳ đó, đúng như thực tế. Tuy nhiên, không có dấu hiệu cho thấy cả Aristarchus hay Archimedes đã thực sự tranh luận vấn đề thị sai sao và coi đó là cách để xác định việc liệu Trái Đất có thực sự chuyển động không. Một nhà thiên văn Hy Lạp khác, Seleucus xứ Seleucia, đã chấp nhận mô hình nhật tâm của Aristarchus, và theo Plutarch ông đã chứng minh nó. Nhà thiên văn học-toán học người Ấn Độ Aryabhata (476–550), trong kiệt tác Aryabhatiya của mình đã đề xuất một mô hình nhật tâm theo đó Trái Đất quay quanh trục của nó và các chu kỳ của các hành tinh cũng được tính toán dựa trên mô hình Mặt Trời đứng yên. Ông cũng là người đầu tiên khám phá ra rằng ánh sáng từ Mặt Trăng và các hành tinh là sự phản xạ ánh sáng từ Mặt Trời, và rằng cách hành tinh chuyển động theo một quỹ đạo hình elip quanh Mặt Trời, và vì thế đề xuất một mô hình elíp lệch tâm của các hành tinh, dựa theo đó ông đã tính toán chính xác nhiều hằng số thiên văn học, như những khoảng thời gian nhật thực và nguyệt thực, và chuyển động ở một thời điểm nào đó của Mặt Trăng (được thể hiện như một phương trình vi phân). Bhaskara (1114–1185) đã mở rộng mô hình nhật tâm của Aryabhata trong bản luận thiên văn học Siddhanta-Shiromani của mình, trong đó ông đã đề cập tới định luật hấp dẫn, khám phá ra rằng các hành tinh không quay quanh Mặt Trời với một tốc độ đồng nhất, và tính toán chính xác nhiều hằng số thiên văn học dựa trên mô hình đó, như nhật thực và nguyệt thực, các tốc độ và các chuyển động ở một thời điểm nào đó của các hành tinh. Bản dịch tiếng Ả Rập cuốn Aryabhatiya của Aryabhata đã có từ thế kỷ thứ 8, trong khi các bản dịch tiếng Latin mãi tới thế kỷ 13 mới xuất hiện, trước khi Copernicus viết cuốn Về chuyển động quay của các thiên thể, vì thế có lẽ tác phẩm của Aryabhata đã có ảnh hưởng trên ý tưởng của Copernicus. Mặt Trời chạy tới điểm ngừng cố định của nó; đó là lệnh của Đấng toàn năng và Nhà tiên tri. Và Mặt Trăng, chúng ta đã xác định nó trong những pha cho tới khi nó quay trở lại như một cành cọ khô. Mặt Trời không chạy nhanh hơn Mặt Trăng, cũng như ngày không nhanh hơn đêm. Mỗi cái đều trôi nổi trên một quỹ đạo. Nhà khoa học Hồi giáo Ba Tư Nasir al-Din Tusi (1201–1274) đã giải quyết các vấn để chủ yếu trong hệ thống Ptolemy bằng cách phát triển Tusi-couple thành thứ thay thế cho tâm sai khó hiểu về vật lý của Ptolemy. Nhà thiên văn học Hồi giáo Ả Rập ibn al-Shatir (1304–1375), trong tác phẩm Kitab Nihayat as-Sul fi Tashih al-Usul (Tìm hiểu lần cuối về sự sửa chữa Lý thuyết hành tinh) của mình đã loại bỏ tâm sai bằng cách đưa ra một ngoại luân nữa, thoát khỏi hệ thống của Ptolemy theo cách sau này Copernicus cũng đã thực hiện. Ibn al-Shatir đề xuất một hệ chỉ tương tự với mô hình địa tâm, chứ không hoàn toàn chính xác như vậy, khi đã chứng minh theo lượng giác rằng Trái Đất thực sự không phải là trung tâm vũ trụ. Sự sửa đổi của ông sau này đã được dùng lại trong mô hình Copernicus, cùng với Tusi-couple và bổ đề Urdi. Những bản ghi chép còn sót lại về Tusi, al-Urdi và Ibn al-Shatir đều thuộc mô hình địa tâm, theo chiều hướng cho rằng Trái Đất đứng yên (thậm chí nếu nó không ở chính trung tâm của mọi chuyển động). Vai trò của những lý thuyết này đối với sự phát triển thuyết nhật tâm sau này hiện vẫn chưa được hiểu rõ. Cần lưu ý quan niệm thông thường ở phương Tây cho rằng trước Copernicus khái niệm hệ nhật tâm chưa bao giờ xuất hiện, hay không được biết tới ở Châu Âu là sai lầm. Không chỉ vì những văn bản tiếng Ả Rập ngày càng được dịch nhiều sang tiếng Latin sau thế kỷ 11 (nhờ ngày càng có nhiều sự tiếp xúc với thế giới Ả Rập/Hồi giáo do những chiến binh thập tự chinh mang lại), mà còn bởi những nhà thám hiểm, các thương gia xuất hiện nhiều hơn ở Châu Âu (có điều kiện thuận lợi hơn nhờ Pax Mongolica) khiến phương Tây biết được về truyền thống ủng hộ thuyết nhật tâm ở Ấn Độ với chi tiết như được trình bày ở trên. Và tất nhiên các học giả biết rõ về những cuộc tranh luận của Aristarchus và Philolaus, cũng như việc nhiều nhà tư tưởng cổ đại khác đã đề xuất (hay được cho là đã đề xuất) mô hình nhật tâm hay các quan điểm gần thuyết nhật tâm, như Hicetas và Heraclides Ponticus (Copernicus tất nhiên cũng biết điều này). Hơn nữa, một số nhà tư tưởng Châu Âu cũng đã tranh luận về thuyết nhật tâm từ thời Trung Cổ: ví dụ Nicolas Oresme và Nicholas of Cusa. Tuy nhiên, đối với đa số các học giả ở giai đoạn này, thuyết nhật tâm có một vấn đề lớn và dễ nhận thấy: theo trực giác thông thường, nếu Trái Đất quay quanh trục và chuyển động quanh Mặt Trời, con người và đồ vật ở trên đó sẽ có xu hướng rơi hay bay vào vũ trụ; một vật thể rơi xuống từ trên tháp sẽ chạm đất ở đằng tây xa phía sau tháp bởi vì tháp đã quay đi cùng Trái Đất; và các ví dụ tương tự. Một câu trả lời cho những vấn đề đó đòi hỏi con người phải có hiểu biết sâu hơn về vật lý. Dù có những vấn đề như vậy, ở thế kỷ 16, lý thuyết nhật tâm được Nicolaus Copernicus làm sống lại, ở hình thức thích hợp với những quan sát thực tế thời đó. Lý thuyết này đã giải quyết các vấn đề về chuyển động lùi của hành tinh bằng cách lập luận rằng chuyển động đó chỉ là cái quan sát thấy bên ngoài và là chuyển động biểu kiến, chứ không phải chuyển động thực tế: đó là một hiệu ứng thị sai, giống như khi ta vượt qua một chiếc xe thì ta có cảm giác chiếc xe đó đang chuyển động lùi về phía chân trời. Vấn đề này cũng đã được giải quyết trong hệ thống địa tâm của Tycho; tuy nhiên, trong khi tìm cách bỏ đi các ngoại luân ông vẫn giữ lại và coi chuyển động tiến lùi của các hành tinh là chuyển động thực tế, chuyển động này được Kepler cho rằng có đặc điểm giống một “hình xoắn”. Trong khi phát triển các lý thuyết của mình về chuyển động hành tinh, có lẽ Copernicus đã lấy ý tưởng từ trong các công trình của nhà thiên văn học người Ấn Độ là Aryabhata cho về thuyết nhật tâm của mình, và các nhà khoa học/thiên văn học Hồi giáo Nasir al-Din Tusi, Mu’ayyad al-Din al-‘Urdi và ibn al-Shatir để giải quyết các vấn đề quan trọng trong hệ thống Ptolemy. Tôi là cây viết tự do, viết về các lĩnh vực giáo dục, sức khỏe và công nghệ, khoa học. Gia nhập Group Reference.vn để thảo luận, chia sẻ các vấn đề bạn quan tâm. Reference Việt Nam tồn tại để cung cấp cho độc giả những thông tin tham khảo chính xác, không thiên vị và độc lập về mọi lĩnh vực thiết yếu trong đời sống.
Thuyết địa tâm
Trong thiên văn học, mô hình địa tâm (tiếng Anh: geocentric model; từ tiếng Hy Lạp: geo "Trái Đất" và kentron "trung tâm") của vũ trụ là lý thuyết cho rằng Trái Đất là trung tâm của vũ trụ và Mặt Trời cùng các thiên thể khác quay quanh nó. Hệ này được coi là hình mẫu tiêu chuẩn thời Hy Lạp cổ đại, được cả Aristotle và Ptolemaios, cũng như đa số các nhà triết học Hy Lạp đồng thuận rằng Mặt Trời, Mặt Trăng, các ngôi sao, và những hành tinh có thể quan sát được bằng mắt thường đều quay quanh Trái Đất. Các ý tưởng tương tự cũng đã xuất hiện ở thời Trung Quốc cổ đại. Aristarchus xứ Samos đã đưa ra một mô hình nhật tâm của hệ mặt trời, nhưng rõ ràng ông ở phe thiểu số tin rằng Trái Đất không nằm ở trung tâm. Người Hy Lạp cổ đại và các nhà triết học thời Trung Cổ thường cho mô hình địa tâm đi cùng với Trái Đất hình cầu, không giống với mô hình Trái Đất phẳng từng được đưa ra trong một số thần thoại. Người Hy Lạp cổ đại cũng tin rằng những sự chuyển động của các hành tinh đi theo đường tròn chứ không phải hình elíp.
Thuyết vật linh là ý tưởng cho rằng tất cả mọi thứ - vô tri và vô tri giác đều xuất hiện một tinh thần hoặc một bản thể. Lần đầu tiên được đặt ra vào năm 1871, thuyết vật linh là một đặc điểm chính trong nhiều tôn giáo cổ đại, đặc biệt là các nền văn hóa bộ lạc bản địa. Thuyết vật linh là một yếu tố nền tảng trong sự phát triển tâm linh của con người cổ đại, và nó có thể được xác định dưới các hình thức khác nhau trong các tôn giáo lớn trên thế giới hiện đại. Thuyết vật linh là khái niệm rằng tất cả các yếu tố của thế giới vật chất - mọi người, động vật, vật thể, đặc điểm địa lý và hiện tượng tự nhiên đều sở hữu một tinh thần kết nối chúng với nhau. Thuyết vật linh là một đặc trưng của các tôn giáo cổ xưa và hiện đại, bao gồm Thần đạo, tôn giáo dân gian truyền thống của Nhật Bản. Ngày nay, thuyết vật linh thường được sử dụng như một thuật ngữ nhân học khi thảo luận về các hệ thống niềm tin khác nhau. Định nghĩa hiện đại của thuyết vật linh là ý tưởng rằng tất cả mọi thứ, bao gồm cả con người, động vật, đặc điểm địa lý, hiện tượng tự nhiên và các vật thể vô tri giác, sở hữu một tinh thần kết nối chúng với nhau. Thuyết vật linh là một cấu trúc nhân học được sử dụng để xác định các chủ đề tâm linh phổ biến giữa các hệ thống tín ngưỡng khác nhau. Thuyết vật linh thường được sử dụng để minh họa sự tương phản giữa tín ngưỡng cổ xưa và tôn giáo có tổ chức hiện đại. Hầu hết các trường hợp, thuyết vật linh không được coi là một tôn giáo theo đúng nghĩa của nó, mà là một đặc điểm của các thực hành và tín ngưỡng khác nhau. Thuyết vật linh là một đặc điểm chính của cả thực hành tâm linh cổ đại và hiện đại, nhưng nó đã không được đưa ra định nghĩa hiện đại cho đến cuối những năm 1800. Các nhà sử học tin rằng thuyết vật linh là nền tảng cho tâm linh của con người, có từ thời Cổ sinh và các vượn nhân hình tồn tại vào thời điểm đó. Trong lịch sử, những nỗ lực đã được thực hiện để xác định trải nghiệm tâm linh của con người bởi các nhà triết học và các nhà lãnh đạo tôn giáo. Khoảng năm 400 trước Công nguyên, Pythagoras đã thảo luận về sự kết nối và kết hợp giữa linh hồn cá nhân và linh hồn thiêng liêng, cho thấy niềm tin vào một "linh hồn" bao trùm của con người và đồ vật. Ông được cho là đã tăng cường những niềm tin này trong khi nghiên cứu với người Ai Cập cổ đại, sự tôn kính đối với sự sống trong tự nhiên và nhân cách hóa cái chết cho thấy niềm tin vật linh mạnh mẽ. Plato đã xác định một linh hồn ba phần ở cả cá nhân và thành phố ở Cộng hòa, được xuất bản vào khoảng năm 380 trước Công nguyên, trong khi Aristotle định nghĩa các sinh vật sống là những thứ sở hữu một linh hồn trong On the Soul, được xuất bản vào năm 350 trước Công nguyên Ý tưởng về một linh vật hoạt hình, hoặc một linh hồn thế giới, bắt nguồn từ những triết gia cổ đại này, và nó là chủ đề của triết học và, sau này, tư tưởng khoa học trong nhiều thế kỷ trước khi được xác định rõ ràng trong Thế kỷ 19 sau đó. Mặc dù nhiều nhà tư tưởng nghĩ rằng để xác định mối liên hệ giữa thế giới tự nhiên và siêu nhiên, định nghĩa hiện đại về thuyết vật linh không được đặt ra cho đến năm 1871, khi Sir Edward Burnett Tyler sử dụng nó trong cuốn sách của mình, Văn hóa nguyên thủy, để định nghĩa các tập tục tôn giáo lâu đời nhất . Do kết quả của công việc của Tyler, thuyết vật linh thường được kết hợp với các nền văn hóa nguyên thủy, nhưng các yếu tố của thuyết vật linh có thể được quan sát thấy trong các tôn giáo có tổ chức lớn của thế giới. Shinto, ví dụ, là tôn giáo truyền thống của Nhật Bản được thực hành bởi hơn 112 triệu người. Cốt lõi của nó là niềm tin vào các linh hồn, được gọi là kami, cư ngụ của tất cả mọi thứ, một niềm tin liên kết Thần đạo hiện đại với các thực hành hoạt hình cổ xưa . Trong các cộng đồng bộ lạc bản địa Úc, tồn tại một truyền thống tôtem mạnh mẽ. Vật tổ, thường là thực vật hoặc động vật, sở hữu sức mạnh siêu nhiên và được tổ chức là sự tôn kính như một biểu tượng hoặc biểu tượng của cộng đồng bộ lạc. Thông thường, có những điều cấm kỵ liên quan đến việc chạm, ăn hoặc làm hại vật tổ. Nguồn gốc của tinh thần của vật tổ là thực thể sống, thực vật hoặc động vật, chứ không phải là một vật vô tri. Ngược lại, người Inuit ở Bắc Mỹ tin rằng các linh hồn có thể sở hữu bất kỳ thực thể nào, hoạt hình, vô sinh, sống hoặc chết. Niềm tin vào tâm linh rộng lớn và toàn diện hơn nhiều, vì tinh thần không phụ thuộc vào thực vật hay động vật, mà là thực thể phụ thuộc vào tinh thần cư ngụ trong đó. Có ít điều cấm kị hơn liên quan đến việc sử dụng thực thể vì niềm tin rằng tất cả các linh hồn, con người và con người không phải là con người đan xen. Con người hiện đại có xu hướng đặt mình trên một mặt phẳng của Cartesian, với tâm trí và vật chất trái ngược và không liên quan. Ví dụ, khái niệm chuỗi thức ăn chỉ ra rằng sự kết nối giữa các loài khác nhau chỉ nhằm mục đích tiêu thụ, phân rã và tái sinh. Các họa sĩ hoạt hình từ chối sự tương phản đối tượng này của thuyết nhị nguyên của Cartesian, thay vào đó định vị tất cả mọi thứ trong mối quan hệ với nhau. Ví dụ, Jains tuân theo chế độ ăn chay hoặc ăn chay nghiêm ngặt phù hợp với niềm tin bất bạo động của họ. Đối với Jains, hành động ăn uống là hành động bạo lực chống lại thứ được tiêu thụ, vì vậy họ hạn chế bạo lực đối với các loài có ít giác quan nhất, theo học thuyết của Jainist. Các hệ thống tổng thể của thổ dân Úc Úc: Cấu trúc của quyền lực. 58, không 3, 1988, trang 212 Hàng2230., Doi: 10.1002 / j.1834-4461.1988.tb02273.x. Các yếu tố phổ biến của tôn giáo. Nhân chủng học về tôn giáo: Giới thiệu về tôn giáo và ma thuật dân gian, Khoa Khoa học hành vi, Đại học Palomar, ngày 11 tháng 12 năm 2011, www2.palomar.edu/anthro/reluda/rel2.htm.
Thuyết vật linh
Thuyết vật linh hay thuyết sinh khí là một quan niệm triết học, tôn giáo hay tinh thần cho rằng linh hồn hay sự linh thiêng có trong mọi vật (người, động vật, thực vật, đá, sông, núi v.v), trong mọi hiện tượng tự nhiên (sấm, chớp, mây, mưa) hay các thực thể khác trong môi trường tự nhiên. Nó là một phần của thuyết vật hoạt trong triết học. Thuyết vật linh cũng gán linh hồn cho các khái niệm trừu tượng như lời nói, các ẩn dụ trong thần thoại. Các tôn giáo nhấn mạnh thuyết vật linh là các tín ngưỡng dân gian, chẳng hạn như Shaman giáo, Shintō (thần đạo Nhật Bản) hay một số giáo phái của Hindu giáo. Các tộc người đều tìm một biểu tượng linh thiêng, là vật thiêng niềm tin trừ diệt ma quỷ.
Có rất nhiều khái niệm mà một người có thể dùng để gọi tên các cảm nhận về giới của mình. Cùng điểm qua 20 khái niệm thường gặp. Có rất nhiều khái niệm mà một người có thể dùng để gọi tên các cảm nhận về giới của mình. Những khái niệm này có thể liên quan tới bản dạng giới và xu hướng tính dục, hoặc liên quan tới sự thân mật mà họ muốn ở trong mối quan hệ. Người ta vẫn thường nói vui rằng “tình yêu không có tình dục là tình. đồng chí”. Nhưng sự thật là có những người chỉ phát triển cảm xúc với người khác nhưng lại không có nhu cầu quan hệ tình dục. Một số từ khác còn dùng để chỉ giai đoạn hoặc quá trình mà họ chấp nhận và công khai giới tính của bản thân (ví dụ: come out). Một Asexual không hình thành sự hấp dẫn giới tính với người khác, mặc dù vẫn có cảm xúc lãng mạn. Aromantic không phát triển mối quan hệ lãng mạn với người khác. Tuy nhiên họ vẫn thấy đối phương "ưa nhìn" (về vẻ bề ngoài) và vẫn có thể bị hấp dẫn về mặt tình dục. Từ “curious” trong Bicurious có nghĩa là “tò mò”. Đây là thuật ngữ mô tả những người đang băn khoăn hoặc trong quá trình khám phá giới tính của mình. Những Bicurious tò mò liệu mình có cảm xúc hoặc cảm thấy bị hấp dẫn về mặt tình dục đối với người cùng giới hay khác giới. Đối với một số người, “coming out” không phải là sự kiện chỉ diễn ra một lần. Một người có thể “come out” nhiều lần trong đời. Ví dụ, một người chọn “come out” với bạn bè hoặc những người thuộc cộng đồng của mình trước, rồi mới “come out” với gia đình khi tìm được thời điểm phù hợp. Closeted có thể được hiểu là “in the closet” (nghĩa đen: trong tủ quần áo). Khác với “coming out”, “closeted” là từ ngữ ẩn dụ dành cho những người đang trong quá trình quyết định liệu có nên công khai giới tính của mình hay không. Do nỗi sợ bị kỳ thị, có những người chỉ công khai cho vài người và muốn giữ bí mật với số khác. Một Demisexual chỉ có thể trải qua sự hấp dẫn về tình dục sau khi mối quan hệ tình cảm hình thành. Hãy tưởng tượng Gender Fluid giống như một con lắc, di chuyển liên tục từ nam tính sang nữ tính. Điều này thể hiện qua cách họ ăn mặc, bộc lộ và mô tả bản thân. Ví dụ, một người có thể tỉnh dậy vào buổi sáng cảm thấy họ là một cô gái và rồi đột nhiên vào giữa ngày họ cảm thấy mình là một chàng trai. Gay (đồng tính nam) và Lesbian (đồng tính nữ) là hai khái niệm phổ biến nhất nằm trong Homosexual. Một cách dễ hiểu, hệ nhị nguyên (binary system) tức là nếu bạn không phải là nam thì chỉ có thể là nữ và ngược lại. Hệ thống này đã tồn tại từ lâu trong xã hội, gò ép mọi người hành xử theo một khuôn mẫu giới nhất định. Ví dụ, “con trai không được khóc” hay “con gái phải biết bếp núc”. “Nam tính độc hại” (toxic masculine) là một trong những hệ quả của hệ nhị nguyên giới. Ví dụ, một bạn nam thích trang điểm, sơn móng tay (ngược với khuôn mẫu thể hiện giới) hay một người phụ nữ đảm đương vị trí “trụ cột gia đình” (ngược với vai trò giới). Ban đầu được sử dụng như một từ ngữ nhằm kỳ thị người thuộc cộng đồng LGBT+. Nhưng dần dà trong tuyên truyền, mọi người đã đưa ý nghĩa của từ này về sắc thái trung lập hơn. Tuy nhiên, tương tự như với các định nghĩa khác về giới, từ ngữ này vẫn nên được sử dụng một cách tinh tế và cẩn trọng. Họ có thể hẹn hò với cả nam, nữ hoặc những người không thuộc hệ nhị nguyên giới. Họ nhìn nhận nửa kia như một con người đơn thuần hơn là một người có giới tính nhất định, hay còn gọi là “gender-blind sexual attraction” (tạm dịch: thu hút giới tính mù). Cùng có nghĩa là toàn tính nhưng Omnisexual có nhận thức về giới tính của đối phương hơn Pansexual, chỉ là họ không quan tâm tới việc đó. Bị thu hút về cảm xúc với mọi giới không đồng nghĩa với việc Panromantic thích tất cả mọi người. Điều này chỉ đơn giản là giới tính của đối phương không phải là yếu tố mà họ quan tâm. Khác với Pansexual, Panromantic chỉ đơn thuần là sự thu hút về mặt cảm xúc, không bao gồm yếu tố tình dục. Việc thích một người không đồng nghĩa với việc muốn quan hệ tình dục với người đó. Để dễ hiểu, hãy nhớ về "crush" (người trong mộng) của bạn khi còn học cấp 2, cấp 3. Hấp dẫn về mặt tình dục không bắt buộc bạn phải có cảm xúc với họ. Sexual orientation có thể dùng để chỉ khía cạnh cảm xúc hoặc tình dục, trong khi romantic orientation chỉ đề cập tới cảm xúc. Vì thế, để xác định xu hướng tính dục, bạn có thể đặt ra hai câu hỏi: “bạn yêu ai?” và “bạn muốn quan hệ tình dục với ai?”. Đôi khi, câu trả lời cho hai câu hỏi này sẽ không giống nhau.
Công khai xu hướng tính dục
Công khai tính dục (coming out of the closet, thường được nói ngắn gọn là coming out), là một cụm ẩn dụ cho việc người thuộc cộng đồng LGBT tự tiết lộ về xu hướng tính dục hoặc bản dạng giới của họ. Việc công khai tính dục đã được đóng khung và bàn luận như một vấn đề riêng tư, và được miêu tả và cảm nhận theo nhiều cách khác nhau: một quá trình hoặc hành trình tâm lý học; một sự quyết định hoặc mạo hiểm; một chiến thuật hoặc kế hoạch; một sự kiện đông người hoặc công khai; một hành động diễn thuyết và một vấn đề về danh tính cá nhân, một nghi thức công nhận; một sự giải phóng hoặc tự do khỏi sự áp bức; một thử thách; một cách thức hướng tới niềm tự hào đồng tính thay vì sự hổ thẹn hoặc kỳ thị xã hội; hoặc thậm chí một sự mạo hiểm đối với sự nghiệp. Tác giả Steven Seidman đã viết rằng: “Sự giấu kín xu hướng tính dục có sức mạnh thay đổi cốt lõi cuộc đời của một con người. Chính điều đó đã khiến cho đồng tính luyến ái trở thành một vấn đề nổi cộm về cá nhân, xã hội và chính trị tại nước Mỹ thế kỷ XX.”Cụm coming out of the closet là nguồn gốc của nhiều cụm từ lóng trong cộng đồng LGBT liên quan đến việc tồn tại hay thiếu đi sự công khai tự nguyện.
Taylor Swift là một nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ. Bắt đầu sự nghiệp, cô nàng tuổi tỵ nhẹ nhàng uốn lượn với những bản nhạc đồng quê mềm mại và ngay từ album đầu tay “Our song”, cô đã đạt giải nghệ sĩ trẻ nhất đứng đầu trong bảng xếp hạng Hot Country Songs của tạp chí Billboard. Sau đó là một loạt những bài hát mà các bạn thế hệ 8x, 9x chắc không thể quên được như Teardrops on My Guitar, You belong with me, Love story, Fearless, mean, Shake It Off, Blank Space. Ca từ các bài hát là lời tường thuật từ trải nghiệm cá nhân được lồng vào theo từng giai đoạn đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm của công chúng và tạo ra nét riêng đặc trưng của âm nhạc Taylor Swift. Sau đây, hãy cùng điểm qua một số tác phẩm cực hay đã và đang càng quét youtube cũng như các giải thưởng khác của cô nàng nhé. 22 là ca khúc Taylor Swift viết dành tặng riêng cho những cô bạn thân của mình trong đó có nữ ca sĩ Selena Gomez. Ca khúc nói lên những điều tuyệt vời nhất của một cô gái ở lứa tuổi 22. Chính Taylor Swift cũng từng tâm sự rằng đối với cô tuổi 22 luôn là một điều thật đẹp đẽ khi có thể tự do học hỏi và làm những điều mình mong ước. 22 được đánh giá cao bởi giới phê bình âm nhạc của nhạc Âu Mỹ mới nhất với những giai điệu trong trẻo mà nó đem lại. MV ca khúc được thực hiện như một bữa tiệc sinh nhật mừng Taylor Swift ở tuổi 22. Bài hát đã nhận được nhiều đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, họ khen ngợi sự hợp tác giữa Swift với Martin và Shellback cùng với những âm thanh pop mới lạ mà họ tạo ra cho cô ấy. Ca khúc đã giành được vị trí số 20 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và trở thành đĩa đơn thứ 6 trong album Red lọt vào top 20. "You Need to Calm Down" được phát hành vào ngày 14 tháng 6, 2019, dưới dạng đĩa đơn thứ hai từ album phòng thu thứ bảy sắp ra mắt của cô, Lover. Swift sáng tác và sản xuất bài hát cùng Joel Little, người đã đồng sáng tác và sản xuất cùng cô đĩa đơn trước đó "Me!". Swift đã nhắc đến những người kì thị thiên hướng tính dục thiểu số và những chỉ trích về phía cô trong bài hát. Một video lời bài hát cho bài hát được phát hành vào ngày 14 tháng 6, 2019, trong khi video âm nhạc chính thức của bài hát được phát hành ngày 17 tháng 6. là bài hát của nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Taylor Swift hợp tác cùng thành viên Brendon Urie từ ban nhạc Panic! at the Disco, phát hành bởi Republic Records vào ngày 26 tháng 4 năm 2019, là đĩa đơn chính cho album phòng thu thứ bảy sắp tới của cô, Lover. Đây là đĩa đơn thứ hai của Swift được phát hành bởi Republic Records, sau "I Dont Wanna Live Forever" từ album nhạc phim Fifty Shades Darker năm 2016. là bài hát thuộc thể loại bubblegum pop viết bởi Taylor Swift, Brendon Urie, Joel Little và được sáng tác bởi cả cô cùng Little. Swift mô tả giai điệu pop của bài hát, "có thể giữ âm điệu trong đầu người nghe và khiến họ cảm thấy tốt hơn về bản thân mình, mà không xấu". sau ba ngày công bố đã đạt được vị trí 100 của bảng xếp hạng Bilboard Hot 100. Đây là ca khúc thứ 78 của Swift có mặt trên bảng xếp hạng này. Ca khúc "Lover" là bài hát chủ đề cho album phòng thu sắp tới của Taylor Swift, được đại đa số các bình luận về ca khúc đều vô cùng tích cực. Sau quãng thời gian chờ đợi sau "ME! ", "You Need To Calm Down" và "The Archer", thì trưa 16/8 (theo giờ Việt Nam), Taylor Swift đã cho ra mắt ca khúc "Lover", ca khúc chủ đề cùng tên với album phòng thu của cô nàng. Ngay lập tức, ca khúc đã nhận được sự khen ngợi nhiệt liệt từ người hâm mộ, đại đa số đều cho rằng đây là một tình khúc thực sự vô cùng ngọt ngào và tràn đầy cảm xúc. Mang một chút âm hưởng từ album "Red" và phần hòa âm độc đáo của album "1989", "Lover" là một ca khúc Taylor Swift dành tặng cho anh chàng Joe Alwyn với phần lời hát vô cùng đáng yêu, được cho là lấy ý tưởng từ những kỉ niệm tình yêu giữa hai ngôi sao. Phần nhạc cũng nhận được sự tán thưởng nồng nhiệt từ người hâm mộ lẫn khán giả nói chung vì sự dịu dàng, âu yếm cũng như ngọt ngào trong từng câu hát. "Style" là bài hát nằm trong album phòng thu thứ 5 1989 của Taylor Swift. Được sáng tác bởi chính Swift cùng Max Martin, Shellback và Ali Payami, bài hát được ra mắt trên sóng phát thanh bởi hãng thu âm Republic Records vào ngày 10 tháng 2 năm 2015, dưới dạng đĩa đơn thứ 3 trích từ album. Từ khi phát hành, "Style" mở đầu tại vị trí thứ 60 trên Billboard Hot 100 Hoa Kỳ và vị trí thứ 39 trên Pop Songs. "Style" là bài hát thứ ba nằm trong album phòng thu thứ năm của Taylor Swift, 1989. Nó được ra mắt trong quảng cáo của Target cho phiên bản cao cấp của album Swift. Style được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ ba chính thức từ năm 1989, sau Blank Space.Bài hát kết hợp chặt chẽ việc sử dụng trống và dụng cụ phối nhạc tổng hợp, cũng như guitar, và giới thiệu âm điệu sử dụng Ostinato, cùng một giai điệu lặp đi lặp lại. Điệp khúc có chất âm thanh pop đầy đủ hơn, điển hình hơn.Swift đã nêu, Style nói về một cặp đôi không bao giờ hoàn toàn kết thúc với nhau, sử dụng phép ẩn dụ "tình yêu của hai ta sẽ không bao giờ đi vào quên lãng đâu" để tượng trưng cho những thời gian họ cuốn sâu vào nhau. Video âm nhạc chính thức được công chiếu vào ngày 13 tháng 2 năm 2015, và có sự tham gia của diễn viên Shadowhunters Dominic Sherwood. Taylor xác nhận bài hát này nói về Harry Styles trong buổi phỏng vấn năm 2014 với tạp chí Rolling Stone. "I Knew You Were Trouble" là một ca khúc của nữ ca sĩ-nhạc sĩ người Mỹ Taylor Swift trích từ album phòng thu thứ tư của cô, Red (2012). Ca khúc được phát hành vào ngày 9 tháng 10 năm 2012 bởi Big Machine Records và là đĩa đơn quảng bá thứ ba của album. Sau đó, "I Knew You Were Trouble" được chọn làm đĩa đơn chính thức thứ ba từ Red, phát hành vào ngày 27 tháng 11 năm 2012 tại Mỹ. Ở Anh, đây là đĩa đơn thứ hai và được phát hành vào ngày 10 tháng 12 năm 2012. Ca khúc này được sáng tác bởi Taylor Swift, cùng với Max Martin và Shellback. "I Knew You Were Trouble" nhận được khá nhiều những ý kiến tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Nhờ doanh số tải về cao, ca khúc ra mắt tại vị trí 6 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, với 416,000 bản được bán ra trong tuần đầu tiên, đồng thời trở thành đĩa đơn thứ 14 của Swift lọt vào Top 10. Sau khi quay trở lại bảng xếp hạng với việc phát hành như là đĩa đơn chính thức, bài hát bắt đầu đi lên trên bảng xếp hạng và nhảy vọt lên một đỉnh cao mới ở vị trí số 2 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, sau khi bán được 582.000 lượt tải tại Mỹ. "Wildest Dreams" là bài hát nằm trong album phòng thu thứ 5 "1989" (2014) của Taylor Swift. Về mặt nhạc lý, "Wildest Dreams" là bản ballad với các ảnh hưởng chính của dream-pop, có nội dung về ước muốn được người tình nhớ đến của Swift. Bài hát đã đạt đến hạng 5 trên Bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Video âm nhạc của bài hát được đạo diễn bởi Joseph Kahn. Video được công chiếu trên truyền hình trước buổi trao giải MTV VMAs 2015 vào ngày 30/4/2015. Nam diễn viên, người mẫu Scott Eastwood cũng có góp mặt diễn xuất trong video. "Back to December" được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ hai từ album phòng thu thứ ba của cô "Speak Now" vào ngày 15/11/2010. Theo Swift, "Back to December" là lần đầu tiên cô xin lỗi một người qua bài hát. Và nam tài tử Taylor Lautner, bạn trai cũ của Swift, đã xác nhận anh là người được nói đến trong ca khúc. "Back to December" cũng nhận được nhiều lời bình luận tích cực từ phía các nhà đánh giá, nhiều người cho rằng đây là điểm nhấn của album "Speak Now". Các nhà phê bình cũng khen bài hát vì lời nhạc ấn tượng, giai điệu mang chút hơi hướng indie, và giọng của Swift đã có nhiều cải thiện. Bài hát cũng đạt đến vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100. "All Too Well" là một bài hát trong album phòng thu thứ tư Red của nữ ca sĩ, nhạc sĩ người Mỹ Taylor Swift. Bài hát nhận được nhiều ý kiến đánh giá tích cực từ những người hâm mộ cũng như các nhà phê bình âm nhạc và đã được biểu diễn tại lễ trao giải Giải Grammy lần thứ 56 dù ban đầu, cô đã định biểu diễn một bài hát khác nổi tiếng hơn. Swift chia sẻ về câu chuyện đằng sau ca khúc: “All Too Well là ca khúc tôi sáng tác đầu tiên cho album Red. Ca khúc thực sự rất cảm xúc đối với tôi vì nó kể một câu chuyện vô cùng hoàn chỉnh, nó bắt đầu với việc gặp gỡ một người rồi tất cả những cảm xúc trong sáng đó tiếp diễn theo dòng chảy của câu chuyện cho tới khi kết thúc một cách cay đắng. Ca khúc thực sự rất tâm trạng vì nó cho thấy vì sao mất mát lại đau đớn đến thế, bởi mọi chuyện từng rất tốt đẹp và bạn nhớ tất cả từng chi tiết”.Trước khi biểu diễn ca khúc này tại Red Tour vào tháng 3 năm 2013, cô chia sẻ “Đối với tôi, khi viết nhạc, tôi luôn cố gắng sáng tác về những gì tôi biết, vì thế mà rất nhiều ca khúc đều viết về cuộc sống của tôi và những điều đã xảy ra. Cảm xúc tuyệt vời nhất là khi được viết chính xác những gì bạn cảm thấy. Đôi khi nó trở nên phức tạp bởi cảm xúc không chỉ có một. Đôi khi nó trở nên hỗn độn trong tâm trí. Và điều này dường như xảy ra khi bạn đánh mất hoặc cố gắng quên đi một ai đó. Nó từng xảy ra với tôi một lần và có quá nhiều cảm xúc xuất hiện đến nỗi tôi không biết phải lột tả chúng thế nào khi sáng tác. Hóa ra đôi khi điều tốt nhất có lẽ là viết chính xác những gì đã xảy ra, bởi đó là tất cả những gì trong tâm trí tôi”. "Delicate" nằm trong album phòng thu thứ sáu của Taylor Swift, Reputation (2017). Bài hát được phát hành vào 12 Tháng Ba năm 2018, và là đĩa đơn thứ sáu từ album. "Delicate" có thời lượng ba phút năm mươi hai giây, và có nhịp độ là 95 nhịp mỗi phút. Swift thể hiện bài hát ở khóa Đô trưởng trong một quãng giọng từ G3 đến A4. Đây là một "bản tình ca trên nền nhạc pop-điện tử". Nữ ca sĩ đã sử dụng một bộ chỉnh sửa âm để tạo ra một vài âm thanh "đầy cảm xúc" và "dễ bị tổn thương" cho bài hát. Cô giải thích về cảm hứng sáng tác bài hát đến từ "chuyện gì sẽ xảy ra khi bạn gặp một ai đó, người mà bạn thực sự muốn trở thành một phần trong cuộc đời bạn, và rồi sau đó bạn bắt đầu lo lắng suy nghĩ về những gì mà người đó đã nghe về bạn trước khi gặp bạn". "Sparks Fly" là một bài hát nằm trong album thứ ba của Taylor Swift mang tên Speak Now (2010). Taylor Swift là tác giả duy nhất và người đã phối hợp để phát hành bài hát với cô là nhà sản xuất lâu năm của mình, Nathan Chapman. Bài hát nhạc đồng quê này kể về việc phải lòng một ai đó nhưng có thể không thích hợp để làm điều đó. "Sparks Fly" được phát trên các đài phát thành nhạc đồng quê từ ngày 18 tháng 7 năm 2011. Bài hát sau đó được hãng Big Machine Records phát hành dưới dạng đĩa đơn vào ngày 10 tháng 8 năm 2011 và đây là đĩa đơn thứ năm trong album Speak Now. "Sparks Fly" đã có được những lới nhận xét đa chiều từ các nhà phê bình. Một số người tin rằng bài hát bài hát có thể khiến không gian xung quanh bị cuốn theo Taylor Swift và khen ngợi bài hát, trong khi những người khác nói rằng Taylor Swift đang trải qua điều mà họ gọi là "kiệt sức". Một số khác ca ngợi tính trữ tình của bài hát và cho rằng bài hát đã vượt qua giới hạn giữa nhạc pop và nhạc đồng quê. Trước khi phát hành đĩa đơn, bài hát đứng thứ 17 tại Billboard Hot 100 với doanh thu mạnh mẽ từ doanh thu tải nhạc. Ngoài ra, cũng ở thời điểm trước khi đĩa đơn được phát hành, bài hát đã đứng thứ 28 trên Canadian Hot 100. Bài hát sau đó lại tiến vào Billboard Hot 100 và đứng ở vị trí 84 sau khi đĩa đơn được phát hành. Âm nhạc của Taylor Swift thay đổi theo từng năm từ trong trẻo hồn nhiên như một con rắn nhỏ, dần dần lột xác thành một con rắn thực thụ với các bản nhạc mạnh hơn, đầy ẩn trắc hơn. Cùng với đó ngoại hình cũng được thay đổi, từ nàng công chúa nhạc đồng quê mong manh nàng biến hình thành một cô nàng sexy, quyến rũ với đúng hình tượng con rắn trong Look What You Made Me Do. Mặc dù đời tư, nhất là chuyện tình cảm của Taylor Swift khá rắc rối, tuy nhiên, với nỗ lực hoạt động nghiêm túc, sản phẩm âm nhạc chất lượng thì Taylor Swift vẫn được công chúng ủng hộ và công nhận tài năng cũng như các sản phẩm của cô. Là top 3 tiêu chí mà Toplist.vn luôn luôn hướng tới để đem lại những thông tin hữu ích nhất cho cộng đồng
Delicate (bài hát của Taylor Swift)
"Delicate" là một bài hát của nữ ca sĩ-nhạc sĩ người Hoa Kỳ Taylor Swift, nằm trong album phòng thu thứ sáu của cô, Reputation (2017). Nó được phát hành vào 12 Tháng Ba năm 2018, và là đĩa đơn thứ sáu từ album. Swift đã viết bài hát cùng với nhà sản xuất Max Martin và Shellback.
Nó được gọi là “ Chén Thánh của Toán học ” và không nghi ngờ gì nữa, nó là một trong những bài toán khó và nổi tiếng nhất trong toán học. Khả năng tiếp cận về độ phức tạp toán học không giúp ích chính xác trong việc hiểu vấn đề. Trong bài viết này, tôi sẽ bắt đầu bằng cách cung cấp cho bạn mô tả vấn đề cổ điển. Sau đó, tôi sẽ nêu vấn đề mà không sử dụng số phức và lý thuyết phân tích liên tục với hy vọng làm cho bài toán hay này có thể tiếp cận được với nhiều người hơn. Không có lý do gì để che giấu vẻ đẹp của viên ngọc trai toán học này và chỉ dành nó cho những người có kiến thức toán học chuyên ngành. Lưu ý rằng định nghĩa này cho hàm zeta chỉ hợp lệ cho các số phức có phần thực lớn hơn 1 . Điều này để đảm bảo sự hội tụ của chuỗi. Tuy nhiên, thông thường khi chúng ta nói về hàm Riemann zeta, chúng ta muốn nói đến hàm Riemann zeta được tiếp tục giải tích mà có miền tất cả các số phức ngoại trừ 1 là một cực đơn giản. Vì vậy, chúng ta có thể xem định nghĩa trên là cung cấp cho chúng ta một biểu thức cho hàm zeta Riemann bị giới hạn trong nửa mặt phẳng Re (s)> 1 . Mối quan hệ này thâm nhập vào toàn bộ lý thuyết và liên kết các tính chất giải tích của hàm zeta với phân phối của các số nguyên tố (được xem như một tập con có thứ tự của các số tự nhiên trong ngữ cảnh này). Điều này làm cho lý thuyết của hàm Riemann zeta giống như một giao điểm giữa lý thuyết số và phân tích phức tạp. Ví dụ, cách dễ nhất, đơn giản nhất và theo quan điểm của tôi là cách chứng minh thanh lịch nhất (được biết đến) của định lý số nguyên tố, trong đó nói rằng số lượng các số nguyên tố phát triển gần bằng x / ln (x), sử dụng hàm zeta. Mặc dù nó không có bất kỳ số 0 nào trên dòng trên, hàm zeta được tiếp tục giải tích có vô số số 0, đó là nghiệm của phương trình ζ (s) = 0. Những số không này rất quan trọng vì chúng cho chúng ta biết các số nguyên tố được phân phối như thế nào. Do đó, chúng tôi rất muốn biết những số không này nằm ở đâu trong mặt phẳng phức. Kiến thức đó theo một nghĩa nào đó sẽ cung cấp cho chúng ta sự ràng buộc tốt nhất có thể về sự phát triển của các số nguyên tố. Chúng tôi biết rằng số không có trong hai họ. Một được gọi là các số không tầm thường. Đó chính xác là những số nguyên chẵn âm. Tất cả các số không tầm thường phải có một phần thực từ 0 đến 1 . Điều này đã được chứng minh. Trên thực tế, khá dễ dàng để chứng minh rằng một khi chúng ta biết rằng không có số 0 nào trên các dòng Re (s) = 1 và Re (s) = 0 . Điều đó cho chúng ta các số không nhỏ ở các số chẵn âm theo số hạng sin và không có số 0 nào khác có phần thực âm theo phép đối xứng. Phương trình chức năng đã được Bernhard Riemann chứng minh trong một bài báo ngắn nhưng mang tính đột phá vào năm 1859. Trong cùng một bài báo, bản thân Riemann đã thực sự tính toán một số số không nhỏ đầu tiên và nhận thấy rằng tất cả chúng đều nằm trên một đường thẳng, cụ thể là đường thẳng đứng Re (s) = 1/2 . Câu hỏi này đã ám ảnh các nhà toán học (kể cả người viết) từ năm 1859. Không ai biết cách chứng minh (hoặc bác bỏ) câu nói này. Có nhiều công thức tương đương của giả thuyết Riemann. Hầu hết chúng liên quan đến phân tích phức tạp hoặc những hiểu biết phức tạp đến mức vô vọng về lý thuyết số nguyên tố mà chúng ta còn lâu mới trả lời được, chẳng hạn như giới hạn sắc nét của tổng hàm số chia hoặc phân phối chính xác (nhiều hơn hoặc ít hơn) của các số nguyên tố. Tôi không khẳng định rằng cách tiếp cận mà tôi sẽ thực hiện ở đây là cách tốt hơn. Trong thực tế, tôi nghĩ nó có thể là một điều tồi tệ hơn nhưng đó không phải là quan điểm của tôi. Quan điểm của tôi là bằng cách tạo ra sự tương đương về mặt chỉ phân tích thực và không có lý thuyết số rõ ràng hoặc các hàm số tổng thể trên đường chân trời, chúng ta có thể thu hút được nhiều người quan tâm hơn đến việc tự mình thực hiện nhiệm vụ khổng lồ này. Điểm bắt đầu của cách tiếp cận này sẽ là xem xét một chức năng có liên quan và sau đó chia nó thành các phần thực và phức tạp. Cuối cùng, chúng ta sẽ thực hiện một vài thao tác sẽ tạo ra một bài toán tương đương với RH . Như tôi đã đề cập rất ngắn gọn ở trên, định nghĩa chuỗi của hàm zeta sẽ cho chúng ta sự hội tụ chỉ trong nửa mặt phẳng Re (s)> 1 , điều này khá vô ích khi nghiên cứu các số không vì các số không quan tâm nằm trong dải tới hạn 0 < (Các) lại <1. May mắn thay, có một hàm liên quan rất thú vị được gọi là hàm Dirichlet eta . Nó được định nghĩa như sau:. Chuỗi trên hội tụ cho Re (s)> 0 . Đây thực sự không phải là điều hiển nhiên nhưng là một bài tập hay để nghĩ đến khi bạn đã uống quá nhiều cà phê và không thể ngủ được. Về cơ bản, các chuỗi dạng này (như hàm zeta và eta) được gọi là chuỗi Dirichlet và tất cả chúng đều có cái được gọi là abscissa hội tụ α. Đối với một chuỗi Dirichlet cụ thể, cơ số hội tụ α là một số thực đánh dấu giới hạn giữa nửa mặt phẳng hội tụ và nửa mặt phẳng phân kỳ. Về mặt hình thức, nếu Re (s)> α , thì chuỗi hội tụ. Thông thường, vì chuỗi cho hàm eta hội tụ cho bất kỳ số thực nào s> 0 và phân kỳ cho các số thực s ≤ 0 , nên abscissa của hội tụ phải bằng 0. Điều này thật thú vị vì chúng ta thấy ngay một số dữ kiện về các số không của hàm eta từ phương trình này. Trước hết, η có tất cả các số không mà ζ có. Trên hết, η có vô hạn số không trên dòng Re (s) = 1 xuất phát từ thừa số đầu tiên ở trên. Điều thú vị là, trong dải quan trọng nơi chúng ta biết tất cả các số không tầm thường của hàm zeta nằm ở vị trí nào, thì hàm eta có chính xác các số không giống nhau. Nói cách khác, cũng có giả thuyết Riemann cho hàm eta. Điều này nói rằng tất cả các số không không tầm thường của eta (có nghĩa là các số không bên trong dải tới hạn) có phần thực là 1/2. Điều này tương đương với giả thuyết Riemann bình thường nhưng định nghĩa chuỗi của hàm eta có giá trị bên trong dải tới hạn. Định nghĩa chuỗi của Zeta là không. Vì s là một số phức, trước tiên chúng ta cần hiểu ý của chúng ta khi một số thực nâng lên lũy thừa của một số phức. Bằng vẻ đẹp của một thực tế , chúng tôi kết luận rằng hàm số mũ là tuần hoàn với chu kỳ tưởng tượng. Hãy sử dụng điều này để tách hàm eta. Trước tiên, hãy lưu ý rằng nếu chúng ta viết s = σ + it , thì. Không hoàn toàn rõ ràng tại sao chúng ta được phép chia chuỗi thành chuỗi phần thực và phần ảo và sau đó giả sử hội tụ. Tôi khuyến khích người đọc suy nghĩ về điều này. Chúng ta có thể dừng lại ở đây và phát biểu rằng giả thuyết Riemann tương đương với phát biểu rằng nếu cả α và β biến mất và 0 <σ <1, thì σ = 1/2. Tuy nhiên, hơi khó chịu là chúng ta phải loại trừ các số không trên dòng σ = 1 và do đó, phải hạn chế các chức năng. Hãy làm thêm một lần nữa. Chúng ta sẽ thay thế σ bằng một hàm logistic đôi khi được gọi là hàm sigmoid. Lưu ý rằng số mũ của n khi được coi là một hàm của r, là hàm logistic σ (r) = 1 / (1 + exp (-r)). T: ℝ² → ℝ² được xác định bởi (r, t) → (f (r, t), g (r, t)) là vectơ thực 2 chiều. Khi đó tất nhiên RH là T ((r, t)) = (0, 0) , thì r = 0 . Giả thuyết Riemann là một bài toán hấp dẫn và việc biến nó thành một bài toán phân tích thực tế không nhất thiết phải là câu trả lời. Trên thực tế, phân tích phức tạp có lý thuyết phong phú hơn nhiều và các công cụ mạnh mẽ hơn nhiều. Nhưng thỉnh thoảng, chúng ta cần nhìn nhận một vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau cùng một lúc. Tôi hy vọng rằng cách tiếp cận này đã làm cho vấn đề trở nên dễ hiểu và dễ tiếp cận hơn đối với những người chưa có lý thuyết hàm số phức tạp và cho những bạn đã có một góc nhìn mới về nó. Nếu không có gì khác, luôn luôn thú vị khi nghĩ về chủ đề này ngay cả khi bạn đã đi xuống con đường này trước đó, bởi vì RH giống như một cuốn sách hay. Không quan trọng bạn đã đọc nó bao nhiêu lần, luôn là một niềm vui khi được xem lại. Quy đổi thô Phương pháp quy đổi thô là: Chuyển đổi chính xác Phương pháp nêu dưới đây chỉ nặng hơn một chút về mặt tính toán so với phương pháp thô nhưng có phạm vi chính xác khoảng một độ. ⚠️ Vì vậy, đây là một cảnh báo: Phương pháp dưới đây thường không phù hợp với nhiệt độ cơ thể. Naive Bayes là một thuật toán phân loại được sử dụng cho các bài toán phân loại nhị phân và đa lớp. Naive Bayes dựa trên một kỹ thuật dựa trên xác suất được gọi là Định lý Bayes. Bạn có một câu chuyện mà bạn sẽ thay đổi điều đầu tiên khi nhận được cỗ máy thời gian? Tất cả chúng ta đều có ít nhất một câu chuyện khiến chúng ta đau lòng mãi mãi, không phải vì mức độ mất mát một mình, mà là do sự ngu ngốc kéo dài mà chúng ta đã thể hiện. Nếu bạn bình thường, bạn sẽ có một đội quân những câu chuyện như vậy. Ý tưởng về một thuật toán học máy giống hệt với bất kỳ thuật toán nào khác trong khoa học máy tính. Thuật toán học máy là một phương pháp theo hướng dữ liệu để phát triển mô hình học máy sẵn sàng sản xuất. Vào tháng 6 năm 1968, Robert Kennedy, tái sinh như một người tiến bộ hưng phấn, đã gây bão cho Đảng Dân chủ. Cả nước đã theo dõi. Mùa hè này, tôi đã dành một vài tuần ở Hoa Kỳ (US). Ở đó, tôi biết được một thực tế cay đắng. Người hâm mộ Grace and Frankie sẽ có thêm tám tập nữa để thưởng thức trước khi bộ phim có dấu hiệu khởi sắc. Họ có một số ý tưởng về những gì sẽ xảy ra. Bây giờ, nhiều năm sau khi nhiều khán giả nhảy tàu, một số bị hấp dẫn bởi sự tự phụ của loạt phim mới, The Walking Dead: World Beyond. Hoàng tử Harry và Meghan Markle có thể sẽ phá vỡ truyền thống hoàng gia với con gái Lilibet của họ khi nói đến nghi thức thông hành cụ thể này. Quán cà phê Alice Waters mở ở Berkeley, California, vào năm 1971, đã khởi xướng phong trào ẩm thực California và từ trang trại đến bàn ăn. Năm mươi năm sau Chez Panisse vẫn là một trong những nhà hàng có ảnh hưởng nhất của nước Mỹ. FDA đã hoàn toàn chấp thuận vắc-xin Pfizer COVID-19 cho những người từ 16 tuổi trở lên, nhưng điều đó vẫn khiến trẻ em dưới 12 tuổi không đủ điều kiện để tiêm chủng. Có nên xem xét việc sử dụng ngoài nhãn để bảo vệ chúng không?. Hai chuyên gia khủng bố cân nhắc về nhóm đứng sau vụ tấn công sân bay Kabul chết người và sự cạnh tranh của lực lượng này với Taliban. Tốt hơn bạn nên đo nó trước khi đeo nhẫn. Ít nhất thì đó là những gì Beyoncé đã nói, và cô ấy đã có cho mình một viên kim cương 18 carat. Come From Away Cho đến khi "vở nhạc kịch 11/9" đi, ít thành công hơn, hoặc được giới phê bình đánh giá cao như Come From Away sản xuất của Canada. Được chỉnh sửa lần đầu vào năm 2012 — và ra mắt lần đầu trên sân khấu Broadway vào năm 2017 — vở nhạc kịch từng đoạt giải Tony kể về câu chuyện của một số người trong số hàng nghìn người bị máy bay chuyển hướng đến một thị trấn nhỏ ở Newfoundland vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 và những nỗ lực của người dân thị trấn để hỗ trợ và an ủi làn sóng khổng lồ của những người lạ bị sốc. Hàng loạt đề cử Emmy mà Lovecraft Country nhận được vào ngày 13 tháng 7 nhanh chóng trở thành một khoảnh khắc buồn vui lẫn lộn cho dàn diễn viên và những người sáng tạo ra loạt phim. Chỉ 11 ngày trước, HBO đã hủy bỏ bộ phim kinh dị siêu nhiên của Misha Green, người đã chuyển thể tiểu thuyết cùng tên của Matt Ruff lên màn ảnh nhỏ. Vào thứ Sáu, hai tay đua Công thức 1 đã xác nhận rằng họ sẽ ở lại với các đội của mình cho mùa giải 2022. Trong nhà để xe Alpine, đội từ Enstone đã tái ký hợp đồng với Fernando Alonso, 40 tuổi, để hợp tác với người chiến thắng Grand Prix Esteban Ocon. Tôi vừa trở về từ Bảo tàng Mô tô Lane ở Nashville, nơi tôi đang quay phần mới của Jason Drives, vì vậy nếu bạn muốn hào hứng với điều đó, tôi sẽ không ngăn cản bạn. Một trong những chiếc xe mà tôi thực sự muốn cho mùa giải này là Velorex Oskar, một chiếc xe siêu nhỏ của Séc, được chế tạo giống như thể ai đó kéo bộ quần áo gimp da trên một phòng tập thể dục nhỏ trong rừng. Từ Hollywood đến New York và mọi nơi ở giữa, hãy xem các ngôi sao yêu thích của bạn đang làm gì!. Drew Barrymore được phát hiện trong chiếc váy dạ hội màu hồng xếp nếp mang tính biểu tượng của nhân vật Never Been Kissed ở thành phố New York. Công ty luật của Tom Girardi tuyên bố ngôi sao biết lối sống đắt giá để trở thành tôi của cô đang được công ty của chồng cô trả tiền.
Giả thuyết Riemann
Trong toán học, giả thuyết Riemann, nêu bởi Bernhard Riemann (Riemann (1859)), là một phỏng đoán về các không điểm phi tầm thường của hàm zeta Riemann tất cả đều có phần thực bằng 1/2. Tên gọi này đôi khi cũng có nghĩa tương tự cho một số giả thuyết khác như giả thuyết Riemann cho các đường cong trên trường hữu hạn. Giả thuyết Riemann hàm ý kết quả về sự phân bố các số nguyên tố. Cùng với những dạng tổng quát hóa phù hợp, các nhà toán học coi nó là một trong những bài toán quan trọng nhất chưa được giải trong toán học thuần túy (Bombieri 2000). Giả thuyết Riemann, cùng với giả thuyết Goldbach thuộc về bài toán thứ tám của Hilbert trong danh sách 23 bài toán chưa giải được của David Hilbert; nó cũng là một trong bảy bài toán của Giải thưởng Bài toán Thiên niên kỷ do Viện Toán học Clay khởi xướng. Hàm zeta Riemann ζ(s) là hàm với đối số s là một số phức bất kỳ khác 1, và giá trị của hàm cũng là giá trị phức. Các không điểm của hàm (nghiệm) bao gồm tại các số nguyên âm chẵn; tức là ζ(s) = 0 khi s nhận các giá trị −2, −4, −6, .
Nhận dạng chữ viết tay tiếng anh là: Handwriting recognition – HWR. Nó còn có tên gọi khác là Nhận dạng văn bản viết tay (tiếng anh là: Handwriten Text Recognition - HTR). Nhận dạng chữ viết tay là một công nghệ giúp người dùng nhận và giải thích dữ liệu chữ viết tay dễ hiểu từ các nguồn như tài liệu giấy, ảnh, màn hình cảm ứng và các thiết bị khác trên máy tính. Nó ứng dụng hai công nghệ số tiêu biểu là trí tuệ nhân tạo (Artifical Intelligent) và học máy (Machine Learning). Nhận dạng chữ viết tay được coi là một phiên bản nâng cấp hơn của công nghệ nhận dạng chữ quang học OCR. Một công nghệ vốn được biết đến nhờ khả năng nhận dạng chữ in từ hình ảnh. Ngày nay, công nghệ nhận dạng chữ viết tay ngày càng được ứng dụng phổ biến hơn. Nó góp phần không nhỏ vào các công tác số hóa tài liệu, sổ đỏ, hộ khẩu,…. Hằng ngày văn thư tại các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhận được rất nhiều loại văn bản cần phải nhập lại vào phần mềm. Tuy nhiên việc gõ văn bản với nhiều form khác nhau được thực hiện thủ công tốn nhiều thời gian công sức nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ sai sót. Các đơn vị điều tra dân cư sử dụng phương thức nhập thủ công các phiếu điều tra với số lượng lớn không chỉ gây lãng phí nhân lực mà hiệu quả đạt được còn không cao. Hoặc nhiều đơn vị nghiên cứu thị trường có nhiều phiếu điều tra khảo sát ý kiến khách hàng, các trường học nhận phiếu dự thi từ thí sinh, các đơn vị ngân hàng – bảo hiểm – viễn thông có nhiều biểu mẫu thông tin khách hàng cần phải quản lý, doanh nghiệp cần quản lý hồ sơ của người lao động,… Hầu hết những thông tin từ các biểu mẫu này cần phải lưu trữ và tra cứu thường xuyên, việc nhập lại các trường thông tin tốn nhiều thời gian và dễ dẫn đến sai sót. H-IONE là một nền tảng công nghệ tổng thể có thể triển khai, tích hợp nhiều ứng dụng trong quản lý tác nghiệp đồng thời cung cấp một môi trường cộng tác hiện đại, đơn giản, thân thiện với người sử dụng. Công nghệ nhận dạng chữ viết tay thường được sử dụng trong việc nhận dạng thông tin từ các tài liệu dạng biểu mẫu. Trên các tài liệu dạng này, một số thông tin được điền bằng tay tại các vị trí cố định (tờ khai mở tài khoản ngân hàng, tờ khai hải quan, phiếu đăng ký,.)Công nghệ H-IONE là công nghệ nhận dạng chữ, số viết tay được phát triển bởi FSI. Một số chức năng lõi của công nghệ này bao gồm:. - Phân hoạch chữ viết tay: Phân hoạch chữ viết tay, cho ra các vùng của các từ viết tay và giá trị nhận dạng của các từ viết tay đó. Hiện H-IONE cũng đã được đưa vào tích hợp trong công nghệ IONE để nâng cao hiệu quả trong công tác bóc tách và nhận dạng thông tin khi triển khai số hóa. Mặc dù là một công nghệ mới được ra mắt của FSI, song với những ưu điểm nổi bật của mình. H-IONE được kì vọng sẽ mang lại nhiều thắng lợi cho FSI trong thời gian sắp tới.
Nhận dạng chữ viết tay
Nhận dạng chữ viết tay (Handwriting recognition - HWR), còn được gọi là Nhận dạng văn bản viết tay (Handwriten Text Recognition - HTR), là khả năng máy tính nhận và giải thích dữ liệu chữ viết tay dễ hiểu từ các nguồn như tài liệu giấy, ảnh, màn hình cảm ứng và các thiết bị khác. Hình ảnh của văn bản viết có thể được cảm nhận "tắt dòng" từ một mảnh giấy bằng cách quét quang học (nhận dạng ký tự quang học) hoặc nhận dạng từ thông minh. Ngoài ra, các chuyển động của đầu bút có thể được cảm nhận "trên đường", ví dụ như bề mặt màn hình máy tính dựa trên bút, một công việc thường dễ dàng hơn vì có nhiều manh mối hơn. Một hệ thống nhận dạng chữ viết xử lý định dạng, thực hiện phân đoạn chính xác thành các ký tự và tìm các từ hợp lý nhất.