source
stringlengths
3
14.5k
summary keyword
stringlengths
3
90
summary
stringlengths
265
1.86k
1 Tháp nhu cầu Maslow là gì?1.1 Phân nhóm nhu cầu Maslow1.2 Nguồn gốc1.3 Ý nghĩa của tháp nhu cầu. 2 5 cấp độ của tháp Maslow2.1 Nhu cầu sinh lý:2.2 Nhu cầu được an toàn2.3 Nhu cầu về xã hội2.4 Nhu cầu được kính trọng 2.5 Nhu cầu thể hiện bản thân. Tháp nhu cầu Maslow là một loại lý thuyết động lực trong tâm lý học. Tháp nhu cầu này bao gồm một mô hình 5 tầng giống như một kim tự tháp, nó thể hiện các nhu cầu tự nhiên của con người và phát triển dần dần từ nhu cầu cơ bản cho đến các nhu cầu cao hơn. Tháp nhu cầu Maslow được đề xuất bởi Abraham Maslow theo bài viết “A Theory of Human Motivation” vào năm 1943 trong đánh giá tâm lý học. Ngay sau đó thì Maslow đã mở rộng ý tưởng ra, trong đó bao gồm quan sát của ông về sự tò mò bẩm sinh của con người. Các lý thuyết mà ông đưa ra song song với nhiều lý thuyết khác về tâm lý học phát triển của con người và một số trong đó tập trung vào việc mô tả các giai đoạn tăng trưởng của con người. Sau đó, ông đã tạo ra một hệ thống phân loại phản ánh rõ rệt nhu cầu phổ biến của xã hội để làm cơ sở và sau đó tiến tới những cảm xúc có được nhiều hơn. Hệ thống nhu cầu của Maslow được dùng để nghiên cứu về cách mà con người tham gia vào động lực hành vi. Ông đã sử dụng các thuật ngữ như: “sinh lý”, “an toàn”, “thuộc về tình yêu”, “nhu cầu xã hội” hoặc “lòng tự trọng” và “tự thể hiện” để mô tả thực tế mô hình mà động lực của con người thường di chuyển. Điều này có nghĩa là để động lực phát sinh ở giai đoạn tiếp theo thì mỗi giai đoạn con người phải được thỏa mãn trong chính cá nhân họ. Bên cạnh đó, lý thuyết này còn là cơ sở chính để hiểu được nỗ lực và động lực có tương quan như thế nào khi thảo luận về các hành vi của con người. Mỗi cấp độ này đều chứa một lượng cảm giác mà bên trong nhất định phải đáp ứng được để một cá nhân hoàn thành hệ thống phân cấp của họ. Mục tiêu trong lý thuyết của Maslow chính là đạt được cấp độ hoặc giai đoạn thứ năm: tự thể hiện. Kim tự tháp nhu cầu mà Maslow đưa ra được ứng dụng vào rất nhiều lĩnh vực trong đời sống. Cụ thể: quản trị kinh doanh, quản trị ngân hàng, quản trị nhân sự, marketing và nhiều lĩnh vực khác trong cuộc sống. Kim tự tháp này đã lý giải cho các hành vi của con người trong khi chính họ lại không ý thức được điều đó. Các cấp độ trong tháp và những ứng dụng từ mô hình này đã được thể hiện một cách rõ rệt nhất. Hiểu được vai trò và nhận ra được khả năng ứng dụng của nó thì học thuyết của Maslow đã được in thành sách tháp nhu cầu Maslow. Tháp nhu cầu này sẽ bao gồm 5 tầng đi từ đáy tháp đến đỉnh tháp. Điều này có nghĩa là khi nhu cầu ở tầng dưới được đáp ứng thì họ sẽ dần chuyển sang những nhu cầu mới cao hơn. Nhu cầu sinh lý là loại nhu cầu cơ bản nhất của con người nên nó nằm ở đáy của kim tự tháp. Đây là những nhu cầu từ bên trong cơ thể để đảm bảo cho sự sống còn của họ. Nếu những yêu cầu này không được đáp ứng thì cơ thể con người không thể duy trì được sự sống. Trong cấp độ này thì các yếu tố như: thực phẩm, không khí, nước, ngủ,… sẽ nằm trong đây. Sau khi đã đáp ứng được các nhu cầu về thể chất của con người thì các nhu cầu về sự an toàn của họ cũng được ưu tiên. Những nhu cầu này sẽ bao gồm: an toàn về thể chất, sức khỏe, an ninh gia đình, tài chính hoặc việc làm,…. Sự phải triển từ nhu cầu sinh lý sang nhu cầu an toàn được thể hiện thể hiện rõ nhất trong câu thành ngữ đó là: Từ “Ăn chắc mặc bền” chuyển sang “Ăn ngon mặc đẹp”. Sau khi các nhu cầu về sinh lý và an toàn đã được đáp ứng thì con người sẽ chú ý nhiều vào nhu cầu giao lưu tình cảm. Theo tháp Maslow và theo thực tế cuộc sống thì con người luôn muốn được hòa nhập vào một cộng đồng, một gia đình hạnh phúc hay những người bạn bè gần gũi, thân thiết. Con người luôn khát khao tình yêu và được yêu, nếu không họ sẽ cảm thấy cô đơn, lo lắng và kéo theo nhiều hệ lụy khác. Tại cấp độ này thì nhu cầu của con người được thể hiện qua việc mong muốn được người khác coi trọng và chấp nhận họ. Vậy nên mà con người đã bắt đầu cố gắng, nỗ lực để được người khác công nhận. Nhu cầu này thể hiện rõ ở lòng tự trọng, sự tín nhiệm, tự tin, tin tưởng và mức độ thành công của một người. Mong muốn có được danh tiếng và sự tôn trọng từ người khác: Mong muốn này được thể hiện qua danh tiếng, địa vị hay những vị trí mà người khác đạt được trong xã hội hoặc trong một tổ chức tập thể nào đó. Lòng tự trọng với chính bản thân: Đây là một yếu tố có vai trò cực kỳ quan trọng để con người phát triển bản thân. Thực tế bạn có thể nhìn thấy nếu một người nào đó thiếu lòng tự trọng thì bản thân họ rất dễ trở nên mặc cảm, thường đầu hàng trước những khó khăn của cuộc sống. Trong cuộc sống những người thường xuyên nhận được sự tôn trọng và công nhận từ những người khác thì cũng sẽ có xu hướng tôn trọng bản thân, tự tin và hãnh diện về khả năng của bản thân mình hơn. Tuy nhiên để đạt được sự kính trọng từ người khác thì bản thân họ cũng cần phải nỗ lực, cố gắng để phát triển bản thân. Từ những thành tích và kết quả mà họ đạt được sẽ là cơ sở để người khác tôn trọng họ hơn. Sau khi đã đáp ứng được tất cả các nhu cầu trước đó thì con người sẽ bắt đầu tập trung vào việc nhận ra những tiềm năng đầy đủ của họ. Tháp nhu cầu của Maslow lúc này sẽ mô tả đây là mức mà con người muốn đạt được tất cả mọi thứ trong lĩnh vực của mình, họ muốn đứng đầu và không ngừng hoàn thiện những gì mình đang sở hữu. Nhu cầu này thường xuất hiện ở những người thành công, họ luôn phát huy ra các tiềm năng, sức mạnh và trí tuệ của mình để cho người khác thấy. Hầu hết tất cả họ đều làm điều này để thỏa đam mê, tìm những giá trị thật sự thuộc về mình. Vậy nên, nếu nhu cầu này mà không được đáp ứng thì con người sẽ cảm thấy hối tiếc bởi đam mê của mình vẫn chưa được thực hiện. Biểu hiện rõ nhất của nhu cầu này đó là có rất nhiều người sẵn sàng từ bỏ công việc mang lại địa vị cao, danh tiếng và mức lương hấp dẫn để chạy theo đam mê của mình. Trong mỗi chúng ta ai cũng đều tồn tại 5 nhu cầu này, tuy nhiên tùy thuộc vào mỗi cá nhân mà nhu cầu của họ là ít hay nhiều và nhu cầu khác nhau trong mỗi giai đoạn. Tháp nhu cầu của Maslow được ứng dụng vào rất nhiều các lĩnh vực khác nhau, nhưng nhiều nhất vẫn là trong quản trị kinh doanh và quản trị nhân sự. Ứng dụng tháp Maslow vào hai ngành này giúp doanh nghiệp hiểu được những mong muốn của nhân viên. Từ đó họ dễ khai thác và quản lý nguồn lực một cách hiệu quả hơn. Trong Marketing tháp nhu cầu của Maslow hỗ trợ rất nhiều cho việc nghiên cứu hành vi và nhu cầu của người tiêu dùng. Cụ thể từ 5 cấp độ của tháp nhu cầu thì các Marketers có thể tìm ra được insight của khách hàng sau đó ứng dụng vào các chiến lược marketing. Định vị phân khúc khách hàng: Tùy thuộc vào từng nhóm khách hàng thì họ sẽ có mục đích và nhu cầu về các sản phẩm khác nhau. Vậy nên bạn cần biết được nhu cầu của từng nhóm khách hàng và mục tiêu của doanh nghiệp đang nằm tại phân khúc nào từ đó lựa chọn được cách tiếp thị phù hợp. Nghiên cứu hành vi của khách hàng và truyền tải thông điệp: Sau khi đã nghiên cứu được phân khúc khách hàng thì tiếp theo sẽ là nghiên cứu hành vi khách hàng. Xác định được phân khúc khách hàng bạn sẽ biết được: sở thích, địa vị xã hội, giá cả, tính tiện dụng,… Sau khi đã làm được những điều này thì việc nghiên cứu thông điệp sẽ trở nên dễ dàng hơn. Tượng tự như ứng dụng của tháp nhu cầu Maslow trong Marketing thì ứng dụng của tháp vào các lĩnh vực khác như: quản trị kinh doanh, nhân lực, trong du lịch, trong tình yêu,… cũng được khai thác hết một cách triệt để. Nếu quan tâm bạn có thể tìm hiểu từ nhiều nguồn khác nhau. Học thuyết Maslow được nghiên cứu và xây dựng dựa trên nhu cầu cần thiết của con người, tuy nhiên nó không phải tuyệt đối. Tất cả các nhu cầu trên đây đều là mong muốn của rất nhiều người nhưng nó sẽ chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố như: hoàn cảnh và tình hình của mỗi người. Vậy nên chỉ có nhu cầu sinh lý nằm ở chân tháp là ai cũng giống nhau và nó trở thành nền tảng để phát triển các cấp độ tiếp theo của con người. Hầu hết mọi người đều muốn nâng cao nhu cầu của mình lên để đi từ chân tháp lên đỉnh tháp. Tuy nhiên, không phải lúc nào nhu cầu của con người cũng đi theo trình tự như vậy. Các yếu tố ngoại cảnh bên ngoài hoặc những biến cố trong cuộc sống đều có thể làm cho các nhu cầu này đảo lộn. Ví dụ các vấn đề như: thất nghiệp, ly hôn, nợ nần, tai nạn,… đều là tác nhân gây ra sự gián đoạn. Sau khi gains đoạn thì trình tự của các nhu cầu trên lại được thiết lập lại từ đầu thay vì tăng lên. Theo nghiên cứu của Maslow thì ông cho biết, một cấp độ nhu cầu của con người không nhất thiết phải đáp ứng đầy đủ 100% thì mới được chuyển sang các nhu cầu sau. Thay vào đó mà con người chỉ cần cảm thấy thỏa mãn nhu cầu của mình tại mức độ nào đó thì đã có thể xuất hiện nhu cầu mới. Bên cạnh 5 cấp bậc đã đề ra ở trên thì tháp nhu cầu Maslow còn được phát triển thêm ba nhu cầu mở rộng đó là: nhu cầu nhận thức, nhu cầu thẩm mỹ và nhu cầu về tự tôn bản ngã. Như vậy qua bài viết trên đây chắc hẳn bạn đọc đã biết tháp nhu cầu Maslow là gì, các cấp độ và ứng dụng của nó trong từng lĩnh vực. Hy vọng qua tìm hiểu về tháp nhu cầu của Maslow bạn đọc sẽ hiểu hơn về những nhu cầu và mục tiêu của mình trong quá trình sinh sống, học tập và làm việc.
Tháp nhu cầu của Maslow
Hệ thống nhu cầu của Maslow là một lý thuyết về tâm lý học được đề xuất bởi Abraham Maslow trong bài viết "A Theory of Human Motivation" năm 1943 trong Đánh giá Tâm lý học. Maslow sau đó đã mở rộng ý tưởng bao gồm những quan sát của ông về sự tò mò bẩm sinh của con người. Các lý thuyết của ông song song với nhiều lý thuyết khác về tâm lý học phát triển của con người, một số trong đó tập trung vào việc mô tả các giai đoạn tăng trưởng ở người. Sau đó, ông đã tạo ra một hệ thống phân loại phản ánh nhu cầu phổ biến của xã hội làm cơ sở và sau đó tiến tới những cảm xúc có được nhiều hơn. Hệ thống nhu cầu của Maslow được sử dụng để nghiên cứu cách con người thực sự tham gia vào động lực hành vi. Maslow đã sử dụng các thuật ngữ "sinh lý", "an toàn", "thuộc về tình yêu", "nhu cầu xã hội" hoặc "lòng tự trọng" và "tự thể hiện" để mô tả mô hình mà động lực của con người thường di chuyển. Điều này có nghĩa là để động lực phát sinh ở giai đoạn tiếp theo, mỗi giai đoạn phải được thỏa mãn trong chính cá nhân họ.
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành, cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL phải gửi văn bản đến cơ quan Công báo để đăng Công báo hoặc niêm yết công khai. + Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn thì theo Luật ban hành văn bản QPPL 2015 có thể có hiệu lực kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành văn bản, đồng thời phải được đăng ngay trên Cổng thông tin điện tử của cơ quan ban hành và phải được đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng; đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc Công báo tỉnh, thành phố chậm nhất là sau 03 ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành văn bản. - Ngưng hiệu lực văn bản quy phạm pháp luật: Quyết định đình chỉ việc thi hành, quyết định xử lý văn bản QPPL phải đăng Công báo, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng chậm nhất là 03 ngày kể từ ngày ra quyết định. - Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành, văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực. Việc áp dụng văn bản QPPL trong nước không được cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp. Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ở trung ương, Hội đồng nhân dân, UBND ban hành phải được đăng tải toàn văn trên cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành và đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng, trừ văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật về bí mật nhà nước. Văn bản quy phạm pháp luật đăng tải trên cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật có giá trị sử dụng chính thức. - Việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh được thực hiện trong trường hợp quy định của Hiến pháp, luật, pháp lệnh có cách hiểu khác nhau trong việc thi hành. Luật ban hành văn bản 2015 còn quy định thẩm quyền, nội dung, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật, giải thích, kiểm tra, giám sát, xử lý văn bản QPPL,… Luật ban hành văn bản pháp luật có hiệu lực từ ngày 01/07/2016. tự, thủ tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật. phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã). các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. pháp luật phải được nghiên cứu, tiếp thu trong quá trình chỉnh lý dự thảo văn bản. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong xây dựng, ban. luật về kết quả thẩm tra dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. pháp, tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật được phân công thực hiện. Dịch văn bản quy phạm pháp luật ra tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài. Luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ. Quốc hội được đánh số thứ tự theo từng loại văn bản và nhiệm kỳ của Quốc hội.
Văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật hay còn gọi là Văn bản pháp quy là một hình thức pháp luật thành văn (Văn bản pháp) được thể hiện qua các văn bản chứa được các quy phạm pháp luật do cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 của Việt Nam thì Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành. Việc ban hành luôn luôn theo thủ tục, trình tự luật định. Nội dung văn bản quy phạm pháp luật gồm những quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung (quy phạm pháp luật). Đó là những khuôn mẫu của hành vi mà mọi thành viên xã hội hoặc các cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức có liên quan phải xử sự theo.
Tất cả nội dung của iLive đều được xem xét về mặt y tế hoặc được kiểm tra thực tế để đảm bảo độ chính xác thực tế nhất có thể. Chúng tôi có các hướng dẫn tìm nguồn cung ứng nghiêm ngặt và chỉ liên kết đến các trang web truyền thông có uy tín, các tổ chức nghiên cứu học thuật và, bất cứ khi nào có thể, các nghiên cứu đã được xem xét về mặt y tế. Lưu ý rằng các số trong ngoặc đơn (, , v.v.) là các liên kết có thể nhấp vào các nghiên cứu này. Nếu bạn cảm thấy rằng bất kỳ nội dung nào của chúng tôi không chính xác, lỗi thời hoặc có thể nghi ngờ, vui lòng chọn nội dung đó và nhấn Ctrl + Enter. Cho dù những người khác nhau gọi bệnh gì vào những thời điểm khác nhau, những từ ngữ có thể truyền tải được bi kịch của một tình huống khi một linh hồn sống và một tâm trí lành mạnh trong một thời gian dài vẫn bị khóa bên trong một cơ thể hoàn toàn không cố định? Không có gì ngạc nhiên khi một trong những tên của một căn bệnh khủng khiếp như thế này - hội chứng của một người đàn ông bị khóa. Và có thể nói chính xác hơn khi một người ở một thời điểm nào đó trở thành con tin làm cơ thể anh ta bị mắc bệnh này?. Theo thống kê, hội chứng của một người bị khóa là một bệnh lý rất hiếm. Sự tỉnh táo mà bác sĩ chẩn đoán trong một bệnh nhân trên một triệu. Nhưng đây chỉ là những trường hợp khi chẩn đoán đã được cung cấp một cách kịp thời và chính xác. Có thể những bệnh nhân này thực sự có nhiều hơn, nhưng mức độ phát triển y tế ở một số nước thấp không chỉ cho phép họ xác định được, bởi vì đường biên giữa hôn mê và bệnh uốn ván rất mỏng. Hội chứng bị cô lập người đàn ông, bị nhốt trong hội chứng, đánh thức tình trạng hôn mê, hội chứng Monte Cristo, hôn mê Đêm Canh Thức, hội chứng thiếu chức năng vận động, hội chứng ly - tất cả các tên cho căn bệnh tương tự, bản chất trong số đó nắm thiếu bình thường, thông thường cho một phản ứng của con người khỏe mạnh với những gì đang xảy ra do sự phát triển của một số bệnh của não, hệ thống thần kinh cơ hoặc các mạch máu. Tài liệu cũng tên khác bệnh lý đưa ra: hội chứng deefferentatsii, hội chứng khóa giả hôn mê, hội chứng Pontina bụng, hội chứng bụng cầu "mạch" hội chứng khối tserebromodullyarny vv Tất cả chúng ở một mức độ lớn hơn hoặc thấp hơn cho thấy nguyên nhân có thể xảy ra tình trạng của người đó hoặc mối quan hệ của bệnh lý với một số sự kiện. Các yếu tố nguy cơ cho sự phát triển của hội chứng cô lập đã và vẫn là nhiều bệnh dễ bị biến chứng như vậy trong một số điều kiện nhất định. Nhồi máu não ảnh hưởng đến một số vùng chịu trách nhiệm về hoạt động của một số cơ quan và hệ thống của cơ thể (ví dụ nhồi máu gốc cơ hoặc nhồi máu cơ tim). chấn thương đầu (mặc dù khá hiếm, nhưng vẫn là nguyên nhân của hội chứng của người bị khóa), v.v . Sự tê liệt hoạt động của động cơ với ý thức được lưu lại và khả năng nghe, hiểu và hiểu được bài phát biểu cũng có thể được quan sát khi nhiều chất độc xâm nhập vào cơ thể người. Trong thời đại công nghệ thông tin gặp khó khăn của chúng ta, ngay cả trẻ nhỏ bị bắt, hội chứng của một người đàn ông bị khóa chỉ có thể được so sánh với một máy tính không kết nối Internet. Nó vẫn là một loại máy "thông minh" có khả năng "suy nghĩ", đếm, tích lũy thông tin, nhưng nó không thể thực hiện được nhiều chức năng quan trọng liên quan đến giao tiếp. Đúng vậy, mọi thứ có thể được khắc phục ở đây bởi kết nối thông thường với các mạng cục bộ, nhưng người ta không có cơ hội như vậy, và hội chứng cô lập có thể được coi là một câu cho cuộc sống. Sự phát triển của hội chứng của một người bị khóa có liên quan đến sự suy yếu trong công việc của một trong những phần não bộ - cầu variolium. Đó là phần của não, bao gồm chất trắng, nó có nhiệm vụ đảm bảo kết nối não và các cơ quan khác của con người, cũng như sự bảo vệ và sự nhạy cảm của các cơ quan và hệ thống. Chất trắng không chỉ là sợi thần kinh chịu trách nhiệm về hoạt động của động cơ và đảm bảo sự tương tác giữa các nơron não, tiểu não và tủy sống. Thiệt hại đối với cây variolium thường gặp nhất khi bị đau tim hoặc đột qu with vì vi phạm tính toàn vẹn của các mô hoặc mạch máu. Do đó, chỉ có các chức năng vận động và giao tiếp chịu đựng, và suy nghĩ vẫn ở mức tương đương. Người nghe mọi thứ, nhìn thấy và hiểu, nhưng vẫn không thể phản ứng lại những gì đang diễn ra thông qua lời nói, biểu hiện trên khuôn mặt và các phong trào. Thông thường, các chức năng hô hấp và tiêu hóa cũng bị ảnh hưởng (người không thể thở, nhai và nuốt thức ăn một cách độc lập). Các chuyển động mắt cũng bị giới hạn. Trạng thái này ở nhiều khía cạnh tương tự như trạng thái của một người đã rơi vào tình trạng hôn mê. Do đó, một trong những tên của bệnh lý là hôn mê tỉnh táo. Một đặc điểm khác biệt của hội chứng cô lập là nạn nhân có ý thức được tất cả thời gian này, có nghĩa là anh ta có thể nghe thấy lời nói và trải nghiệm cảm giác khác nhau. Nói về tình huống khó chịu của bệnh nhân và thảo luận về một tiên đoán cực kỳ không hấp dẫn của bệnh ở giường bệnh nhân có thể làm tổn thương tâm lý của một người đã biết về vị trí sai lầm của mình. Hình ảnh lâm sàng ở bệnh nhân có hội chứng của một người bị khóa có thể khác với triệu chứng của bệnh lý gây ra tình trạng như vậy cho phép. Đó là, hình ảnh mà bác sĩ xem, trong hầu hết các trường hợp, bao gồm các triệu chứng của hội chứng cô lập và biểu hiện của bệnh lý gây ra tình trạng tê liệt hoạt động của động cơ. Dấu ấn của nó trên bức tranh tổng thể của bệnh gây ra mức độ nghiêm trọng của nó, tùy thuộc vào việc chúng ta quan sát thấy một số triệu chứng có cường độ khác nhau. Những dấu hiệu đầu tiên, trong đó chú ý đến các bác sĩ trong việc chẩn đoán bị khóa trong hội chứng, coi tetraparesis đặc trưng rối loạn chức năng chi lên đến tê liệt toàn của họ khi được lưu trữ cơ bắp giai điệu và pseudobulbar bại, nhờ đó mà bị chức năng hành tủy (lời nói, nhai, nuốt, phát âm, bắt chước ). Đây là những biểu hiện chính của hội chứng cách ly. Từ phía hình ảnh trông như sau: trạng thái của một người như một tổng thể nhắc nhở một ai đó, anh ta không thể nói, nhai và nuốt thức ăn, hít thở. Sự chuyển động của bệnh nhân thường rất hạn chế, mặc dù sự nhạy cảm của da vẫn ở cùng mức độ. Sự kết nối duy nhất của bệnh nhân với thế giới là mắt với khả năng bảo quản để di chuyển chúng trong một mặt phẳng thẳng đứng (chuyển động mắt từ bên này sang bên kia là không thể). Một số bệnh nhân có thể di chuyển hàng thế kỷ, tức là đóng và mở mắt. Điều này cho họ cơ hội giao tiếp, với ý thức bảo toàn và hoạt động tinh thần, vẫn là một điều cần thiết cho bệnh nhân. Đó là khả năng này mà thường cứu các bệnh nhân ban đầu có một chẩn đoán hoàn toàn khác nhau, không để lại hy vọng cho tương lai. Thực tế là các chức năng của não trong hội chứng cô lập không bị ảnh hưởng, giải thích các chu kì ngủ và sự tỉnh táo ở những bệnh nhân như vậy. Trong trạng thái tỉnh dậy, một người nghe, thấy và hiểu mọi thứ đang xảy ra xung quanh anh ta, nhưng tất cả các phản ứng của anh ấy vẫn ẩn dấu từ bên ngoài (được khóa bên trong cơ thể). Tình trạng này có thể xảy ra đột ngột trên nền bệnh lý tiến bộ. Trong trường hợp này, một người ngay lập tức rơi vào tình trạng hôn mê, và sau khi bỏ lại nó sau một thời gian, không còn có thể trở lại cuộc sống bình thường, chỉ còn lại trên giường và bất động trong ý nghĩa thực sự của từ. Nhưng đôi khi bệnh phát triển dần dần. Hoạt động động cơ kém của bàn tay, chân, sau đó có những khó khăn trong việc phát âm và thở, người ta không thể tập trung vào một chủ đề cụ thể. Cuối cùng, bệnh nhân lại rơi vào trạng thái hôn mê trong một thời gian nhất định. Khi hôn mê, anh phát hiện ra rằng anh chỉ có thể giao tiếp với sự giúp đỡ của sự chuyển động của mắt, và đồng thời vẫn không thể phục vụ chính mình. Hội chứng cô lập ở những người khác nhau có thể tự biểu lộ theo những cách khác nhau. Một triệu chứng phổ biến trong trường hợp này vẫn là hoạt động điện tích trữ của não và khả năng nhận thức trên nền của một sự giảm đáng kể hoạt động động cơ của các chi, cơ mặt và khớp nối. Các triệu chứng trên của hội chứng của một người bị khóa là đặc trưng cho một trong các loại bệnh lý học - một trong những cổ điển. Đây là loại bệnh lý thông thường nhất liên quan đến cấu trúc thân não bị suy giảm. Nếu thêm vào các phong trào của mí mắt và phong trào nhãn cầu của bệnh nhân được lưu trữ một số nhóm cơ bắp nhiều hơn (mặc dù rất hạn chế), chúng ta đang nói về một không đầy đủ khóa trong hội chứng, mà là một bệnh nhẹ và cung cấp cho một người nhiều cơ hội để đánh bại căn bệnh này ở giai đoạn nào. Tổng cộng (hoặc hoàn thành) hình thức của hội chứng cô lập được nói trong trường hợp bệnh nhân thiếu bất kỳ phản ứng động cơ nào giúp anh ta giao tiếp với thế giới. Trong trường hợp này, não tiếp tục hoạt động tích cực, như được chỉ ra bằng cách bảo tồn hoạt động điện sinh học lành mạnh của nó (theo kết quả của encephalogram). Đây là dạng bệnh nặng nhất, có thể dễ bị nhầm lẫn với hôn mê, nếu không tiến hành một cuộc kiểm tra đặc biệt. Hội chứng của người bị khóa, mà trong nhiều trường hợp là một biến chứng của các bệnh thần kinh khác nhau, hoàn toàn thay đổi cuộc sống của bệnh nhân. Cơ thể của ông có thể hoạt động bình thường chỉ thông qua các thiết bị hô hấp nhân tạo và chăm sóc đặc biệt.
Hội chứng sợ bị trêu cười
Hội chứng sợ bị trêu cười, có tên khoa học là Gelotophobia, là nỗi sợ bị người khác cười vào mình, đây là một loại ám ảnh xã hội. Trong khi hầu hết mọi người không thích bị trêu cười, có một nhóm người cực kỳ sợ hãi việc bị trêu cười. Không có lý do rõ ràng gây nên hội chứng này, nó chỉ được biết đến như một nỗi ám ảnh liên quan đến tiếng cười mà họ nghe được và nó hướng vào chính họ. Kể từ năm 2008, hiện tượng này đã thu hút sự chú ý của các học giả về tâm lý học, xã hội học và tâm thần học, và đã được nghiên cứu sâu sắc. Trong các quan sát lâm sàng của mình, Tiến sĩ Michael Titze phát hiện ra rằng một số bệnh nhân của ông dường như chủ yếu lo lắng về việc bị trêu cười. Họ có xu hướng quan sát môi trường xung quanh của họ để đề phòng và phát hiện ra các dấu hiệu của tiếng cười và sự chế giễu. Ngoài ra, Titze quan sát một mô hình chuyển động cụ thể trong số những bệnh nhân khi họ nghĩ rằng họ đang bị trêu cười.
Trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam có rất nhiều nơi thờ cúng khác nhau như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am,…Nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó. Cho nên có rất nhiều người đi chùa mà không hiểu được ý nghĩa của việc đi chùa, ở gần nhà có cái đình mà cũng không hiểu vì sao cái đình lại “mọc” lên ở đó,…. Vì vậy, chúng tôi đã biên tập bài viết này để giúp bạn đọc dễ dàng phân biệt được các địa điểm thờ cúng khác nhau, hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng và những nhân vật được thờ cúng trong đó. Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo. Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư. Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam. Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề (ông tổ của nghề). Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới. Xem thêm kiến trúc của đình làng: Xung quanh ngôi đình thường có những cây đa cổ thụ, hồ sen và một khoảng sân vẫy gọi chim về làm tổ. Kiến trúc đình làng cũng mang đậm dấu ấn văn hóa độc đáo và tiêu biểu cho điêu khắc truyền thống. Đình thường cao ráo, thoáng mát, nóc có tượng đôi rồng lượn tranh lấy quả châu, trên các thanh xà ngang là những bức hoành phi câu đối. Nơi thiêng liêng nhất để thờ thần là điện thờ. Thời xưa, đình làng là trụ sở hành chính của chính quyền tựu trung đủ mọi lề thói từ rước xách hội hè, khao vọng quan trên, đón người đỗ đạt, họp việc làng, xử kiện cùng những quy củ nhất định, có sự phân biệt chiếu trên, chiếu dưới. Khi đi ăn cỗ, bậc hương lão, hương lý ngồi giữa đình, thấp hơn ngồi hai bên, dân thường ngồi ngoài sân. Đình làng được dựng lên bằng những cột lim tròn, to và thẳng tắp đặt trên những hòn đá tảng lớn. Kèo, xà ngang, xà dọc được làm bằng gỗ lim, tường xây bằng gạch nhưng cũng có khi không xây tường. Mái đình lợp ngói múi hài 4 góc có 4 đầu đao cong vút lên như đuôi chim phượng uốn cong. Sân đình lát gạch, trước đình có hai cột đồng trụ vút cao, trên đình có một con nghê lúc nào cũng nhe răng cười. Gian giữa có hương án thờ vị thần của làng. Chiếc trống cái được đặt trong đình để vang lên theo nhịp trống ngũ liên thúc giục người dân về đình tụ tập để bàn tính công việc của làng, của nước. Đến thế kỷ 18, Việt Nam có khoảng 11.800 làng xã, mỗi làng có một cụm kiến trúc với tôn giáo đình đền chùa với hàng trăm pho tượng và những đồ thờ cúng trang trí khác nhau. Có thể nói thế kỷ 16 – 18 chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của đình làng với những tên đình danh tiếng như: Thổ Hà, Trùng Thượng, Trùng Hà, Tây Đằng, Chu Quyến, Hoàng Sơn… Nhưng do tàn phá của chiến tranh, điều kiện môi trường, thiên nhiên, mưa nắng mà bóng dáng của những ngôi đình cổ truyền thống dần dần mai một. Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian. Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc. Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian. Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng. Ví dụ: miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ. Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa (nhân thần), ngày hiện hóa (thiên thần) làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị. Một hình thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều (Cẩm Giàng – Hải Dương). Nghè cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật, như Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh. Điện là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ Vua Chúa ở, chỗ Thần Thánh ngự. Như vậy Điện thờ là một hình thức của Đền, là nơi thờ Thánh trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Tuy vậy quy mô của Điện nhỏ hơn Đền và Phủ, lớn hơn so với Miếu Thờ. Điện thông thường thờ Phật, thờ Mẫu, Công đồng Tam tứ phủ, Trần Triều và các vị thần nổi tiếng khác. Điện có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác: tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mã,…. Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu (tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam). Một số nơi thờ tự (ở Thanh Hóa) gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương (tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật). Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII. Quán là một dạng đền gắn với đạo Lão (Đạo giáo). Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần thánh. Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa. Đó là Tam thanh (Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân), Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô) đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ (Ngọc Hoàng). “Thăng Long Tứ quán” bao gồm: Chân Vũ quán (tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh); Huyền Thiên cổ quán (nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai); Đồng Thiên quán (nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành); Đế Thích quán (nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên). Hiện được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của Am từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia. Với người Việt, Am là nơi thờ Phật (Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây…) cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV (thời Lê sơ) là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ thần linh ở các làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là Am. Hầu hết các địa điểm thờ cúng đều gắn với tôn giáo, tín ngưỡng, và tùy theo đối tượng được thờ mà có tên gọi khác nhau. Có thể tóm gọn lại như sau:. Am và Chùa đều là nơi thờ Phật nhưng Am có quy mô nhỏ hơn chùa và thường hoạt động riêng lẻ. Chùa là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni (mang tính chất tập thể). – Chùa mà có khoảng từ 20 vị tăng tu tập trở lên gọi là Tu Viện. – Những nơi tu tập có khu tăng, khu ni, có nhiều khu, nhiều chùa gọi là Đại Tòng Lâm. Đình, Đền, Miếu, Điện đều là nơi linh thiêng thờ Thánh, Thần. Đình thường thoáng, cao, rộng, phù hợp với hội họp làng xã. Còn Đền, Miếu, Điện thường tối hơn, tạo cảm giác thiêng liêng, huyền bí cho người tới cầu cúng lễ bãi. Nhìn chung, Miếu có cấu trúc nhỏ hơn Điện, Điện nhỏ hơn Đền và Đền nhỏ hơn Đình (Miễu < Miếu < Điện < Đền < Đình). Thông thường mỗi làng chỉ có 1 Đình nhưng có thể có nhiều Đền, Miếu. Phủ là nơi thờ Mẫu và truyền bá đạo Mẫu. Tuy nhiên cũng có nhiều phủ thờ cả Phật, đây được coi như sự giao thoa hòa nhập giữa các tôn giáo, tín ngưỡng. Ngay bản thân Đền, nếu đi sâu tìm hiểu sẽ rất phức tạp, khó phân loại. Có nơi thờ Nam thần, có nơi thờ Nữ thần. Thông thường đền thờ Nam thần thì to hơn Nữ thần nhưng đền thờ Nữ thần thì lại nhiều ban thờ hơn như ban Tứ phủ công đồng, ban Cô, ban Cậu. Tuy nhiên, hiện lại có 1 số đền thờ Nam thần lại cũng có ban thờ Mẫu, rồi thờ Cô, thờ Cậu… thành ra rất khó phân loại.
Chùa
Chùa là một công trình kiến trúc phục vụ mục đích tín ngưỡng. Chùa được xây dựng phổ biến ở các nước Nam Á như Ấn Độ, Nepal, Bhutan ,. cùng với một số nước Đông Á và Đông Nam Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và thường là nơi thờ Phật. Tại nhiều nơi, chùa có nhiều điểm giống với chùa tháp của Ấn Độ, vốn là nơi cất giữ Xá-lị và chôn cất các vị đại sư, thường có nhiều tháp bao xung quanh. Chùa là nơi tiêu biểu cho Chân như, được nhân cách hóa bằng hình tượng một đức Phật được thờ ngay giữa chùa. Nhiều chùa được thiết kế như một Man-đa-la, gồm một trục ở giữa với các vị Phật ở bốn phương. Cũng có nhiều chùa có nhiều tầng, đại diện cho Ba thế giới (tam giới), các cấp bậc tiêu biểu cho Thập địa của Bồ Tát. Có nhiều chùa được xây tám mặt đại diện cho Pháp luân hoặc Bát chính đạo. Chùa còn là nơi tập trung của các sư, tăng, (hay ni nếu là chùa nữ) sinh hoạt, tu hành, và thuyết giảng đạo Phật. Tại nơi này, mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ tôn giáo.
Sâu máy tính là một chương trình gây hại cho máy tính có khả năng tự nhân bản. Trong khi virus cần bám vào một tập tin khác để hoạt động thì sâu máy tính có khả năng hoạt động một cách độc lập. Khi lây lan nó cũng tự nhân bản mà không cần tác động bên ngoài. Sâu máy tính có khả năng khai thác thông tin và lây lan giữa các máy tính có kết nối mạng với nhau. Sâu máy tính đầu tiên được tạo ra bởi Robert T.Morris vào năm 1988. Morris tạo ra một chương trình có thể tự lan truyền qua mạng với mục đích đo kích thước internet. Morris chạy nó trong vòng vài giờ, nhưng nó lây lan quá nhanh và khiến hàng nghìn máy tính bị hỏng. Nó tự sao chép và lan qua các máy tính khác giống như cách người dùng truy cập. Sâu Morris tiếp tục tạo ra một chương trình nhỏ trên máy mới để tiếp tục nhân bản. Hiện nay, Worms chủ yếu lây lan qua các ứng dụng email (đặc biệt là outlook). Nó sử dụng tệp đính kèm có tính năng thu thập tất cả các địa chỉ email trong sổ địa chỉ và gửi bản sao của nó cho tất cả những người này. Sâu máy tính thường là các tập lệnh hoặc tệp thực thi được đính kèm mail. Nó được kích hoạt khi người dùng click vào tệp đính kèm. Để bản vệ máy tính của bạn khỏi sâu máy tính, cách tốt nhất là chỉ mở tập tin đính kèm khi chắc chắn nó an toàn. Bao gồm cả những tập tin đính kèm trên email và trong tin nhắn facebook. Khi gặp bất kỳ một tệp nào có phần mở rộng giống một trong số được nêu trên hoặc phần mở rộng mà bạn thấy lạ, bạn hãy quét chúng bằng phần mềm Antivirus trước khi mở. Khi sử dụng hệ điều hành Windows, bạn không nên ẩn phần mở rộng kiểu tệp (file types). Sâu máy tính có thể tận dụng điều này để lừa người dùng. Trong thực tế, các đuôi file trên vẫn có thể chứa virus, nhưng chỉ khi hệ thống của bạn đã từng bị nhiễm virus đó từ trước nó mới có thể gây hại.
Sâu máy tính
Sâu máy tính là một chương trình máy tính chứa phần mềm độc hại độc lập tự sao chép để lây lan sang các máy tính khác. Nó thường sử dụng mạng máy tính để tự lây lan, dựa vào các lỗi bảo mật trên máy tính mục tiêu để truy cập. Nó sẽ sử dụng máy này làm máy chủ để quét và lây nhiễm cho các máy tính khác. Khi các máy tính bị sâu mới này kiểm soát, sâu sẽ tiếp tục quét và lây nhiễm các máy tính khác sử dụng các máy tính này làm máy chủ và hành vi lây lan này sẽ tiếp tục. Sâu máy tính sử dụng phương pháp đệ quy để tự sao chép mà không cần chương trình chủ và tự phân phối dựa trên quy luật tăng trưởng theo cấp số nhân, sau đó điều khiển và lây nhiễm ngày càng nhiều máy tính trong thời gian ngắn. Sâu hầu như luôn gây ra ít nhất một số tác hại cho mạng, ngay cả khi chỉ bằng cách tiêu tốn băng thông, trong khi vi rút hầu như luôn làm hỏng hoặc sửa đổi các tệp trên máy tính được nhắm mục tiêu.
Ngày 19 tháng 5 năm 1967, một trong những điều ước quốc tế lớn đầu tiên được xây dựng để hạn chế sự phổ biến của các loại vũ khí hạt nhân có hiệu lực khi Liên Xô phê chuẩn một thỏa thuận cấm thử vũ khí hạt nhân ngoài không gian. Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, và nhiều quốc gia khác đã ký và/hoặc phê chuẩn hiệp ước này. Với sự ra đời của cái gọi là “chạy đua không gian” giữa Hoa Kỳ và Liên Xô từ năm 1957 khi Liên Xô phóng thành công vệ tinh Sputnik, một số người bắt đầu lo sợ rằng không gian vũ trụ có thể là biên giới tiếp theo cho việc mở rộng vũ khí hạt nhân. Để ngăn chặn tình huống đó, một nỗ lực do Liên Hợp Quốc định hướng đã được thực hiện vào tháng 1 năm 1967 khi Hoa Kỳ, Anh, Liên Xô, cùng hàng chục quốc gia khác ký một hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân ngoài không gian. Hiệp ước này cũng cấm các quốc gia sử dụng mặt trăng, các hành tinh khác, hay bất kỳ “thiên thể” nào làm tiền đồn hay căn cứ quân sự. Thỏa thuận này là một trong những bước tiến tới hạn chế vũ khí hạt nhân. Trong năm 1959, hàng chục quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ và Liên Xô, đã đồng ý cấm thử vũ khí hạt nhân ở Nam Cực. Đến tháng 7 năm 1963, hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân hạn chế được ký, cấm các hoạt động thử vũ khí hạt nhân ở trên không và dưới nước. Với động thái của Liên Xô được đưa ra vào tháng 5 năm 1967, không gian ngoài trái đất cũng chính thức trở thành vùng cấm vũ khí hạt nhân. Cách mạng Văn hóa, với tên gọi đầy đủ là Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản, là một trong những chiến dịch tuyên truyền lớn nhất và quan trọng nhất của Mao Trạch Đông, gây nên một giai đoạn hỗn loạn xã hội kéo dài suốt một thập kỷ tại Trung Quốc.
Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân một phần
Hiệp ước Cấm thử vũ khí hạt nhân trong khí quyển, ngoài vũ trụ và dưới nước, đã cấm tất cả vật nổ vũ khí hạt nhân ngoại trừ những thứ được tiến hành ngầm. Nó cũng được viết tắt là Hiệp ước cấm thử nghiệm có giới hạn và Hiệp ước cấm thử hạt nhân, mặc dù sau này có thể cũng tham khảo Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện, đã thành công PTBT cho các bên phê chuẩn. Các cuộc đàm phán ban đầu tập trung vào lệnh cấm toàn diện, nhưng điều này đã bị bỏ qua do các câu hỏi kỹ thuật xung quanh việc phát hiện các thử nghiệm ngầm và mối lo ngại của Liên Xô về sự xâm nhập của các phương pháp xác minh được đề xuất. Động lực cho lệnh cấm thử nghiệm được cung cấp bởi sự lo lắng gia tăng về mức độ thử nghiệm hạt nhân, đặc biệt là thử nghiệm vũ khí hạt nhân mới (bom hydro) và kết quả là bụi hạt nhân. Lệnh cấm thử nghiệm cũng được coi là một biện pháp làm chậm phổ biến hạt nhân và chạy đua vũ trang hạt nhân.
Bài viết hôm nay mình sẽ hướng dẫn các bạn cách giải bài toán mã đi tuần. Nào chúng ta cùng bắt đầu thôi !. Mã đi tuần (hay hành trình của quân mã) là bài toán về việc di chuyển một quân mã trên bàn cờ vua (8 x 8). Quân mã được đặt ở một ô trên một bàn cờ trống nó phải di chuyển theo quy tắc của cờ vua để đi qua mỗi ô trên bàn cờ đúng một lần. Có những hành trình, trong đó quân mã sau khi đi hết tất cả 64 ô của bàn cờ và từ ô cuối của hành trình không thể đi về ô xuất phát chỉ bằng một nước đi. Những hành trình như vậy được gọi là hành trình mở. Ví dụ sau đây là một lời giải cho bài toán mã đi tuần trên bàn cờ 5×5 (hành trình mở). Nước đi của một quân mã giống hình chữ L và nó có thể di chuyển tất cả các hướng. Ở một vị trí thích hợp thì quân mã có thể di chuyển đến được 8 vị trí. Khi đó ở một vị trí bất kì quân mã có có 8 đường có thể di chuyển. Chưa xét đến bước đi đó có hợp lệ hay không. Để đơn giản ta sẽ tạo hay mảng X, Y để chứa các giá trị trên. Với mỗi X, Y sẽ là một cách di chuyển của quân mã(0 ≤i≤ 7 ). Ta sẽ dùng một mảng hai chiều A để lưu vị trí của từng ô trong bàn cờ. Tất cả mảng đều khởi tạo giá trị là 0( quân mã chưa đi qua). Giọi x,y là vị trí hiện tại của quân mã, thì vị trí tiếp theo mà quân mã đi sẽ có dạng x+X, y+Y. Một vị trí được gọi là hợp lệ thì sẽ thỏa mãn tính chất sau:. Nếu bước đi đó là bước đi đúng thì ta sẽ lưu thứ tự của bước đi đó vào mảng A. Có lẽ hàm diChuyen() chính là hàm quan trọng nhất vì nó quyết định cách di chuyển của một quân mã. Ý tưởng của hàm là từ một vị trí ban đầu ta sẽ tìm một bước di chuyển hợp lệ và di chuyển đến vị trí đó. Tiếp tục tìm một bước đi và di chuyển tiếp đến khi không thể di chuyển được nữa (vào thế bí ) thì sẽ xóa bước đi đó. Chương trình chỉ dừng khi tìm được một hành trình hoặc đã thử di chuyển hết tất cả các bước đi nhưng vẫn không tìm thấy hành trình. Nếu bạn muốn tìm một chu trình đóng thì các bạn cần lưu lại vị trí ban đầu. Ví dụ xfirst, yfirst sau đó kiểm tra như sau:. Bài viết của mình đến đây là kết thúc. Cám ơn các bạn đã theo dõi !. Lập Trình Không Khó là một cộng đồng chia sẻ và đào tạo lập trình phi lợi nhuận hàng đầu tại Việt Nam.
Bài toán mã đi tuần
Mã đi tuần hay hành trình của quân mã là bài toán về việc di chuyển một quân mã trên bàn cờ vua (8 x 8). Quân mã được đặt ở một ô trên một bàn cờ trống nó phải di chuyển theo quy tắc của cờ vua để đi qua mỗi ô trên bàn cờ đúng một lần. Có rất nhiều lời giải cho bài toán này, chính xác là 26.534.728.821.064 lời giải trong đó quân mã có thể kết thúc tại chính ô mà nó khởi đầu. Một hành trình như vậy được gọi là hành trình đóng. Có những hành trình, trong đó quân mã sau khi đi hết tất cả 64 ô của bàn cờ (kể cả ô xuất phát), thì từ ô cuối của hành trình không thể đi về ô xuất phát chỉ bằng một nước đi. Những hành trình như vậy được gọi là hành trình mở. Nhiều biến thể của chủ đề này được các nhà toán học nghiên cứu, trong đó có nhà toán học Euler. Giảm nhẹ các yêu cầu trên đường đi của quân mãBài toán mã đi tuần là một dạng của bài toán tổng quát hơn là bài toán tìm đường đi Hamilton trong lý thuyết đồ thị, là một bài toán NP-đầy đủ.
Phóng xạ là hiện tượng hạt nhân không bền tự động phóng ra các tia phóng xạ (các hạt + sóng điện từ) và biến thành hạt nhân khác. Bài tập: ^Uto alpha +^Th. Người ta quy ước, gọi hạt nhân phóng xạ là hạt nhân mẹ và hạt nhân sản phẩm phân rã là hạt nhân con. +) Quá trình phân rã phóng xạ chỉ do các nguyên nhân bên trong gây ra và hoàn toàn không chịu tác động của các yếu tố thuộc môi trường ngoài như nhiệt độ áp suất,. Có 3 loại tia phóng xạ: alpha ,beta ,gamma không nhìn thấy được nhưng có những đặc điểm mà giúp ta có thể phát hiện ra, như kích thích một số phản ứng hóa học, ion hóa không khí, làm đen kính ảnh,. - Tia alpha có bản chất là chùm hạt nhân ^He mang điện tích dương nên bị lệch về phía bản tụ âm khi bay vào điện trường giữa hai bản của tụ điện. So với hạt nhân mẹ, hạt nhân con lùi 2 ô trong bảng HTTH và có số khối nhỏ hơn 4 đơn vị. +) Phóng ra với vận tốc khoảng /;, làm ion hóa môi trường và mất dần năng lượng. +) Khả năng đâm xuyên yếu, đi được chừng vài cm trong không khí, không xuyên qua được tấm thủy tinh mỏng. +) Tia có bản chất là chùm êlectrôn left( ^e right) mang điện tích âm nên lệch về phía bản tụ dương khi bay trong điện trường giữa hai bản tụ. overline là phản nơtrinô, không mang điện, có số khối A = 0, chuyển động với vận tốc ánh sáng. So với hạt nhân mẹ X, hạt nhân con Y tiến 1 ô trong bảng HTTH và có cùng số khối. +) Tia có bản chất là chùm hạt có khối lượng như electrôn nhưng mang điện tích (+e), gọi là các pôzitrôn left( ^e right) và lệch về phía bản tụ âm khi bay vào trong điện trường giữa hai bản tụ điện. So với hạt nhân mẹ X, hạt nhân con Y lùi 1 ô trong bảng HTTH và có cùng số khối. +) Khả năng đâm xuyên mạnh hơn tia alpha , đi được vài mét trong không khí và vài mm trong kim loại. Phóng xạ gamma không có sự biến đổi hạt nhân, chỉ có sự chuyển trạng thái và phát bức xạ: hf=-. +) Có khả năng đâm xuyên rất mạnh, có thể đi qua lớp chì hàng chục cm, gây nguy hiểm đối với cơ thể con người. Mỗi mẫu chất phóng xạ được đặc trưng bởi một thời gian T gọi là chu kỳ bán rã, là khoảng thời gian mà một nửa lượng chất phóng xạ bị phân rã thành hạt nhân nguyên tử khác. Với lambda =fracleft( right) gọi là hằng số phóng xạ, đặc trưng cho từng chất phóng xạ. - Là đại lượng đặc trưng cho tính phóng xạ mạnh hay yếu của một lượng chất phóng xạ, được đo bằng số phân rã trong 1 giây.
Hạt nhân phóng xạ
Một hạt nhân phóng xạ (hoặc đồng vị phóng xạ) là một nguyên tử có năng lượng hạt nhân dư thừa, làm cho nó không ổn định. Năng lượng dư thừa này có thể được sử dụng theo một trong ba cách: phát ra từ hạt nhân dưới dạng bức xạ gamma; chuyển đến một trong số các electron của nó để giải phóng nó dưới dạng electron chuyển đổi; hoặc được sử dụng để tạo và phát ra một hạt mới (hạt alpha hoặc hạt beta) từ hạt nhân. Trong các quá trình đó, hạt nhân phóng xạ được cho là trải qua quá trình phân rã phóng xạ. Những phát thải này được coi là bức xạ ion hóa vì chúng đủ mạnh để giải phóng một electron khỏi một nguyên tử khác. Sự phân rã phóng xạ có thể tạo ra một hạt nhân ổn định hoặc đôi khi sẽ tạo ra một hạt nhân phóng xạ không ổn định mới có thể trải qua quá trình phân rã hơn nữa. Phân rã phóng xạ là một quá trình ngẫu nhiên ở cấp độ của các nguyên tử đơn lẻ: không thể dự đoán khi nào một nguyên tử cụ thể sẽ phân rã.
Là người mới bắt đầu làm nghiên cứu, chắc hẳn bạn đã nghe rất nhiều đến hai cụm từ “nghiên cứu định tính” và “nghiên cứu định lượng”. Bạn đã thật sự hiểu rõ về hai phương pháp nghiên cứu này, hay vẫn còn đang băn khoăn chưa thật sự biết điểm khác biệt giữa chúng là gì? Tiếp tục loạt bài viết về phương pháp nghiên cứu, cộng đồng RCES sẽ giúp các bạn giải đáp điều đó thông qua bài viết này. Tiếp cận định lượng xem xét hiện tượng theo cách có thể đo lường được trên các đối tượng nghiên cứu. Nói chung, nghiên cứu định lượng thường được áp dụng đối với các hiện tượng có thể được diễn tả/quy đổi bằng số. Nghiên cứu định lượng thường được gắn liền với việc kiểm định (lý thuyết) dựa vào phương pháp suy diễn. Nói cách khác, nghiên cứu định lượng là nghiên cứu sử dụng các phương pháp khác nhau để lượng hóa, đo lường và phản ánh và diễn giải các mối quan hệ giữa các nhân tố (các biến) với nhau. Dữ liệu định lượng phản ánh mức độ, sự hơn kém và ta tính được giá trị trung bình. Nó thể hiện bằng con số thu thập được ngay trong quá trình thu thập. Nghiên cứu định lượng liên quan đến lượng và số trong khi định tính liên quan đến chất và mô tả. Mục đích của nghiên cứu định lượng là đo lường, kiểm tra sự liên quan giữa các biến số dưới dạng số đo và thống kê. Việc sử dụng các mô hình kinh tế lượng, mô hình toán là bắt buộc khi sử dụng phương pháp nghiên cứu này. Nghiên cứu định lượng được dùng để tổng quát hóa kết quả nghiên cứu thông qua phân phối ngẫu nhiên và lấy mẫu đại diện. Đối với các biến số có bản chất là định tính (không đo lường được), việc lượng hóa biến số là yêu cầu bắt buộc để thực hiện nghiên cứu định lượng. Ví dụ: Khi hỏi mức độ hài lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ, các câu trả lời nhận được là định tính như “Rất không hài lòng”, “Tương đối hài lòng”, “Rất hài lòng”, … Người nghiên cứu cần lượng hóa các dữ liệu định tính này dưới dạng số như 1 (tương ứng Rất không hài lòng) đến 5 (tương ứng với Rất hài lòng) để thực hiện các nghiên cứu định lượng. Các phương pháp thu thập dữ liệu có thể là cân, đo, sử dụng bảng câu hỏi có cấu trúc để khảo sát/phỏng vấn, quan sát và ghi chép dữ liệu, tập hợp lại dữ liệu định lượng trong quá khứ. Nghiên cứu định tính là hướng tiếp cận nhằm thăm dò, mô tả và giải thích dựa vào các phương tiện khảo sát kinh nghiệm, nhận thức, động cơ thúc đẩy, dự định, hành vi, thái độ. Chúng có thể hướng chúng ta đến việc xây dựng giả thuyết và các giải thích. Phương pháp nghiên cứu định tính phù hợp để trả lời cho các câu hỏi “Thế nào” (How), “Tại sao” (Why) hoặc “Cái gì” (What). Trong nghiên cứu định tính, dữ liệu được sử dụng có thể là dữ liệu định tính hoặc dữ liệu định lượng (đã được giải thích ở phần trên). Trong đó, dữ liệu định tính thường ở dạng chữ, phản ánh tính chất, đặc điểm hay sự hơn kém và ta không tính được trị trung bình của dữ liệu dạng định tính. Một số ví dụ về dữ liệu định tính: giới tính: nam hay nữ; kết quả học tập của sinh viên: giỏi, khá, trung bình, yếu…. Cần lưu ý rằng để phục vụ mục đích thống kê, mô tả trong nghiên cứu định tính thì việc mã hóa dữ liệu định tính thành dạng số (lượng hóa) có thể được thực hiện hoàn toàn tương tự như khi sử dụng nghiên cứu định lượng. Điểm khác biệt duy nhất là khi sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, người nghiên cứu không thực hiện các mô hình kinh tế lượng, mô hình toán với những dữ liệu đã được lượng hóa đó. Nghiên cứu định tính liên quan đến mô tả, giải thích và ít nhiều có yếu tố chủ quan của người nghiên cứu. Mục đích của nghiên cứu định lượng là trả lời các câu hỏi nghiên cứu bằng các dữ liệu mang tính chất giải thích, minh chứng cho kết quả mà người nghiên cứu tìm ra. Tuy nhiên, những kết quả đó không được chứng thực bằng các mô hình kinh tế lượng hay mô hình toán như trong nghiên cứu định lượng. Nghiên cứu định tính đặc biệt phù hợp để trả lời các câu hỏi mà nghiên cứu định lượng chưa thực hiện được, nhằm mở ra những hướng nghiên cứu mới sử dụng phương pháp khoa học. Do đó, đây cũng là thách thức cho nhà nghiên cứu khi sử dụng phương pháp này. Đây là phương pháp có vẻ dễ dàng để sử dụng nhưng không dễ dàng thuyết phục vì yếu tố này phụ thuộc rất lớn vào trình độ, năng lực tư duy và lí luận của người nghiên cứu; khác với nghiên cứu định lượng là phụ thuộc vào kết quả sau khi chạy các mô hình. Bạn thật sự am hiểu và có khả năng xử lý và phân tích dữ liệu thống kê. Vấn đề nghiên cứu có tính chất mô tả và dự báo mối quan hệ giữa các biến phụ thuộc và biến tác động (biến độc lập). Nếu chọn nghiên cứu định lượng, cần chú ý khả năng thu thập dữ liệu và khả năng thực hiện thiết kế nghiên cứu hoàn chỉnh. Bạn chưa thật sự am hiểu và có khả năng xử lý và phân tích dữ liệu thống kê tốt. Vấn đề nghiên cứu không nhằm mô tả và dự báo mối quan hệ giữa các biến phụ thuộc và biến tác động. Nếu chọn nghiên cứu định tính, nên chú ý khả năng tiếp cận và phỏng vấn chuyên gia hoặc thu thập dữ liệu thứ cấp. Để lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp, người nghiên cứu cần chú ý đến một số yếu tố sau: (i) vấn đề nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu; (ii) kĩ năng và sở trường của nhà nghiên cứu và (iii) khả năng thu thập dữ liệu nghiên cứu. Mặc dù chúng ta hay nhấn mạnh nghiên cứu dạng định tính, hoặc định lượng, tuy nhiên trong thực tế các phương pháp định tính và định lượng hoàn toàn có thể phối hợp và sử dụng trong cùng một nghiên cứu. Trong khi phương pháp nghiên cứu định lượng có thể khái quát hóa kết quả từ mô hình, thì nghiên cứu định tính có thể giúp các kết luận đưa ra được thuyết phục hơn bởi ý kiến của chuyên gia hoặc tình hình thực tế liên quan đến đối tượng/chủ đề được nghiên cứu. Xem thêm loạt bài về các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong nghiên cứu khoa học tại đây.
Nghiên cứu định tính
Nghiên cứu định tính là một phương pháp điều tra được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, không chỉ trong các ngành khoa học truyền thống mà còn trong nghiên cứu thị trường và các bối cảnh khác. Nghiên cứu định tính nhằm mục đích thu thập một sự hiểu biết sâu sắc về hành vi con người và lý do ảnh hưởng đến hành vi này. Các phương pháp định tính điều tra lý do tại sao và làm thế nào trong việc ra quyết định, không chỉ trả lời các câu hỏi cái gì, ở đâu, khi nào. Do đó, các mẫu nhỏ tập trung thường được sử dụng nhiều hơn hàng loạt mẫu lớn. Trong quan điểm thông thường, phương pháp định tính chỉ cung cấp thông tin trong những trường hợp đặc biệt được nghiên cứu, và bất cứ các kết luận tổng quát nào chỉ là các mệnh đề (xác nhận thông tin). Phương pháp định lượng sau đó có thể được sử dụng để tìm kiếm sự hỗ trợ thực nghiệm cho giả thuyết nghiên cứu này. Trong những năm 1900, một số nhà nghiên cứu bác bỏ chủ nghĩa thực chứng, những quan niệm lý thuyết rằng có một thế giới khách quan mà chúng ta có thể thu thập dữ liệu từ việc "xác minh" dữ liệu này thông qua thực nghiệm.
Vòng chung kết Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 1991 là Giải vô địch bóng đá nữ thế giới đầu tiên được tổ chức dành cho các đội tuyển quốc gia. Giải diễn ra tại Quảng Đông, Trung Quốc từ 16 tháng 11 tới 30 tháng 11 năm 1991. FIFA, cơ quan điều hành bóng đá thế giới, chọn Trung Quốc vì trước đó 3 năm nước này tổ chức giải đấu bóng đá nữ thử nghiệm, FIFA Women&aposs Invitation Tournament 1988. Các trận đấu diễn ra tại các thành phố Quảng Châu, Phật Sơn, Giang Môn và Trung Sơn. Hoa Kỳ là đội tuyển vô địch sau chiến thắng 2–1 trước Na Uy trước sự chứng kiến của 65.000 cổ động viên trên sân vận động Thiên Hà, thành phố Quảng Châu. Hoa Kỳ lên ngôi với bộ ba tiền đạo gồm đội trưởng April Heinrichs, Carin Jennings và Michelle Akers-Stahl, trong đó Jennings là cầu thủ xuất sắc nhất giải trong khi Akers-Stahl giành danh hiệu Chiếc giày vàng với 10 bàn thắng. Có tổng cộng 510.000 lượt khán giả tới xem các trận đấu tại giải. Có tất cả 12 đội tuyển giành quyền tham dự giải sau các giải đấu vòng loại khu vực. Tất cả sáu liên đoàn thành viên FIFA đều có đại diện của mình. Đây là lần đầu tiên trong một giải đấu của FIFA có sự hiện diện của trọng tài nữ. Cả sáu trọng tài nữ đều đóng vai trò trợ lý trọng tài, ngoại trừ Cláudia Vasconcelos, người đảm nhiệm trận tranh giải ba; đây là nữ trọng tài chính đầu tiên ở một giải đấu của FIFA. Giải được xem là thành công về chất lương chuyên môn và số lượng khán giả. Chủ tịch FIFA João Havelange viết rằng:. Thành công của giải đấu là nhân tố chính giúp bóng đá nữ góp mặt ở Thế vận hội Mùa hè 1996. Cựu cầu thủ Sue Lopez cho biết rằng tuy lượng khán giả là rất đông, nhưng nhiều vé vào sân là vé trao tay miễn phí. "Sự mới lạ" của những người phụ nữ ngoại quốc chơi bóng cũng thúc đẩy khán giả địa phương tới xem. Ba ngày trước trận chung kết cả hai đội đều trú chân tại Khách sạn Bạch Thiên Nga, một điều khiến các cầu thủ rất thất vọng do tính chất quan trọng của cuộc đối đầu.
Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 1991
Vòng chung kết Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 1991 là Giải vô địch bóng đá nữ thế giới đầu tiên được tổ chức dành cho các đội tuyển quốc gia. Giải diễn ra tại Quảng Đông, Trung Quốc từ 16 tháng 11 tới 30 tháng 11 năm 1991. FIFA, cơ quan điều hành bóng đá thế giới, chọn Trung Quốc vì trước đó 3 năm nước này tổ chức giải đấu bóng đá nữ thử nghiệm, FIFA Women s Invitation Tournament 1988. Các trận đấu diễn ra tại các thành phố Quảng Châu, Phật Sơn, Giang Môn và Trung Sơn. Giải được tài trợ bởi by Mars, Incorporated. Do FIFA vẫn lưỡng lự trong việc gán tên "World Cup" cho giải đấu nên nó có tên chính thức là 1st FIFA World Championship for Women s Football for the M&M s Cup. Hoa Kỳ là đội tuyển vô địch sau chiến thắng 2–1 trước Na Uy trước sự chứng kiến của 65.000 cổ động viên trên sân vận động Thiên Hà, thành phố Quảng Châu. Hoa Kỳ lên ngôi với bộ ba tiền đạo gồm đội trưởng April Heinrichs, Carin Jennings và Michelle Akers-Stahl, trong đó Jennings là cầu thủ xuất sắc nhất giải trong khi Akers-Stahl giành danh hiệu Chiếc giày vàng với 10 bàn thắng.
NBA là từ viết tắt của National Basketball Association, là giải đấu bóng rổ chuyên nghiệp nhà người Bắc Mỹ. Đây chính là giải đấu bóng rổ chuyên nghiệp lâu đời nhất thế giới và cũng là giải đấu bóng rổ được tất cả người hâm mộ chờ đợi. Hiện nay tham gia giải đấu này gồm có 30 câu lạc bộ cùng tranh tài trong đó có 29 câu lạc bộ bóng rổ của Mỹ và một câu lạc bộ của Canada. Vào ngày mùng 6 tháng 6 năm 1946 Đây là lần đầu tiên giải bóng rổ chuyên nghiệp ngành nghề Bắc Mỹ được tổ chức chạy tại New York. Giải đấu này được lấy tên là National Basketball Association (NBA) và được tổ chức quản lý dưới sự điều hành của Liên đoàn bóng rổ quốc gia Hoa Kỳ (BAA). Kể từ khi ra đời cho đến nay mặc dù đã trải qua hơn 70 năm phát triển nhưng giải bóng rổ nhà nghề Bắc Mỹ vẫn là giải bóng rổ hấp dẫn nhất thế giới, luôn thu hút được sự quan tâm theo dõi của đông đảo người hâm mộ môn bóng rổ. Đặc biệt giải bóng rổ này luôn chiếm sóng truyền hình ở Bắc Mỹ và rất nhiều quốc gia hâm mộ bóng rổ khác trên toàn thế giới như Philippines, Trung Quốc,…. Với sự hấp dẫn và và cạnh tranh vô cùng công bằng, giải bóng rổ NBA đã trở thành tâm điểm thu hút của các tuyển thủ bóng rổ cũng như huấn luyện viên hàng đầu thế giới đến tham gia tranh tài. Do đó doanh thu từ giải bóng rổ nhà nghề Bắc Mỹ này luôn thuộc hành top trong số các giải đấu thể thao trên thế giới. Và những cầu thủ nổi tiếng tham gia giải đấu này cũng là những vận động viên có thu nhập cao không thua kém gì những cầu thủ bóng đá tài năng như Lionel Messi hay Cristiano Ronaldo. Thể thức thi đấu của giải bóng rổ NBA các đội tham dự thành hai đoàn, tương đương với hai miền Đông và Tây của Hoa Kỳ. Mỗi đoàn lại được chia thành ba khu vực bao gồm 5 đội trong một khu vực. Thể thức thi đấu bao gồm 3 giai đoạn là Preseason, Regular Season và giai đoạn Play-off. Trong giai đoạn đầu tiên đây là giai đoạn khởi động đầu mùa của các đội bóng.Ở giai đoạn này thì các đội bóng sẽ đấu ngẫu nhiên không xếp hạng được xem như thi đấu giao hữu trong bóng đá vì vậy các đội có thể lựa chọn đối Tthủ ở bên ngoài khu vực Bắc Mỹ để thi đấu. Ở vòng 2 thì đây là giai đoạn quan trọng của một mùa giải NBA. Mỗi đội sẽ thi đấu gồm 82 trận, 4 trận với các đội trong cùng một khu vực và thi đấu 3 đến 4 trận với các đội trong một miền. Tiếp theo đó sẽ là đợt thi đấu gồm hai trận với các đội ở miền khác ví dụ như đội miền Đông đấu với đội miền Tây và ngược lại. Hết giai đoạn 2 này, 8 đội bóng nào được xếp hạng cao nhất mỗi miền sẽ vào vòng play off. Đối với đội bóng rổ đứng đầu bảng xếp hạng liền trong giai đoạn 2 sẽ được nhận một phần thưởng mang tính chất khuyến khích. Tại vòng playoff, đây là vòng đấu cuối cùng của một mùa giải NBA. Vòng đấu này sẽ xác định đội bóng vô địch của mùa trong vòng đấu sẽ bao gồm tổng cộng có 16 đội bóng rổ tham gia gồm 8 đội xếp hạng cao nhất ở mỗi miền. Và thể thức thi đấu ở vòng này sẽ là đấu chéo giữa các đội bóng rổ hay miền. Đội xếp hạng 1 của miền sẽ đấu với đội hạng 8 miền kia và tương tự như thế, các đội xếp thứ hai sẽ đấu với đội xếp thứ 7 đội thứ ba đấu với đội thứ 6 và đội thứ tư đấu với đội xếp hạng thứ 5. Đội thắng trong các cặp đấu sẽ tiếp tục thi đấu với nhau theo từng cặp đấu bất kỳ và đấu loại để chọn ra 2 đội chiến thắng vào chơi trận chung kết. Cho đến hiện tại. Golden State Warriors vẫn là cái tên thống trị giải bóng rổ nhà nghề Mỹ bên cạnh sự cạnh tranh khốc liệt của Los Angeles Lakers. tuy nhiên, xét trên bề dày lịch sử, Boston Celtics mới là đội bóng giàu tích nhất NBA với tổng cộng 17 chức vô địch. Có hàng tỷ người hâm mộ bóng rổ trên toàn thế giới và điều này không quá ngạc nhiên vì bóng rổ đã phát triển mạnh mẽ trong suốt những năm qua, được coi là một trong những môn thể thao giải trí hàng đầu hiện nay. Chúng ta cũng đã chứng kiến rất nhiều tài năng bóng rổ triển vọng và hầu hết các cầu thủ này đều là những huyền thoại bóng rổ NBA được gọi tên và đều đã nghỉ hưu. Họ là những NBA Hall Of Famers trong rất nhiều năm. Những tài năng đó đã tạo một tác động lớn cho và đưa nó ra khỏi khuôn khổ của một quốc gia. TÔI YÊU THỂ THAO – Trang tổng hợp tin tức bóng đá, thể thao mới nhất. Cập nhật nhanh – mới – chuẩn nhất 24/7
Giải vô địch bóng rổ thế giới
Giải vô địch bóng rổ thế giới (FIBA Basketball World Cup, trước là FIBA World Championship từ 1950-2010) là giải vô địch thế giới dành cho cấp độ đội tuyển quốc gia cho các đội tuyển nam do Liên đoàn bóng rổ quốc tế (FIBA) tổ chức 4 năm 1 lần. Đây là giải đấu quan trọng nhất trong khuôn khổ hoạt động của FIBA. Cấu trúc giải đấu có nhiều nét tương đồng với Giải vô địch bóng đá thế giới, và cả hai giải đấu này vẫn được tổ chức trong cùng một năm suốt giai đoạn 1970-2014. Đối với các đội tuyển nữ, FIBA tổ chức Giải vô địch bóng rổ nữ thế giới. Cũng trong giai đoạn 1986-2014, Giải vô địch bóng rổ thế giới của nam và nữ đều được tổ chức cùng năm, và thường tại các quốc gia khác nhau. Hiện tại, giải vô địch quy tụ 32 quốc gia trong đó có đội chủ nhà, và từ năm 1967 chức vô địch được mang tên Cúp Naismith. Tây Ban Nha đang là đương kim vô địch thế giới sau khi đánh bại Argentina ở trận chung kết năm 2019. Sau giải vô địch thế giới năm 2014, FIBA quyết định không tổ chức Giải vô địch bóng rổ nam trùng năm với Giải vô địch bóng đá thế giới, trong khi giải vô địch bóng rổ nữ vẫn tiếp tục trùng năm với Giải vô địch bóng đá thế giới.
Phụ nữ thường xuyên bị đau bụng trong kỳ kinh nguyệt là một trong những biểu hiện của lạc nội mạc tử cung. Đây là bệnh lý lành tính, nhưng gây ra nhiều bất tiện và đau đớn cho người bệnh mỗi khi đến kỳ hành kinh, thậm chí có thể dẫn đến vô sinh ở nữ giới. Lạc nội mạc tử cung là tình trạng xảy ra khi các tế bào nội mạc tử cung (hay màng trong tử cung, là loại mô hình thành nên lớp niêm mạc tử cung) được tìm thấy bên ngoài tử cung của phụ nữ. Bệnh có thể gây ra vô sinh do khả năng làm tổn thương vòi trứng và ống dẫn trứng, dẫn đến cản trở nhu động ống dẫn trứng và làm rối loạn sự phóng noãn. Cứ khoảng 10 phụ nữ trong độ tuổi sinh sản thì có 1 người gặp phải tình trạng lạc nội mạc tử cung. Bệnh thường được chẩn đoán ở phụ nữ trong độ tuổi 30 đến 40. Phúc mạc (hay màng bụng): Là một lớp thanh mạc che phủ mặt trong của thành bụng và bao bọc lấy tất cả các tạng thuộc ống tiêu hóa và một vài tạng khác trong ổ bụng. Túi cùng (không gian phía sau tử cung, thực chất là một khoang ảo, ở vào vị trí thấp nhất của ổ bụng). Tình trạng màng trong tử cung xuất hiện ở nhiều nơi trong cơ thể để nhằm đáp ứng với sự thay đổi của nội tiết tố nữ estrogen. Các mô “bị lạc” này có thể phát triển, gây chảy máu tương tự như niêm mạc tử cung trong chu kỳ kinh nguyệt. Ngoài ra, tình trạng này gây ảnh hưởng đến những mô xung quanh, gây kích thích, viêm và sưng. Sự phá hủy và gây chảy máu của các mô này mỗi tháng làm hình thành nên mô sẹo, gọi là sự kết dính. Đôi khi sự kết dính xảy ra có thể khiến các cơ quan bị dính vào nhau. Chảy máu, viêm và hình thành mô sẹo có khả năng gây ra đau, đặc biệt là trong khoảng thời gian trước và trong khi có kinh nguyệt. Theo thống kê, có đến gần 40% phụ nữ bị vô sinh có liên quan đến lạc nội mạc tử cung. Lý do là vì, tình trạng viêm do bệnh có thể làm hỏng tinh trùng hoặc trứng trong quá trình thụ tinh, hoặc cản trở sự di chuyển của chúng qua ống dẫn trứng và qua tử cung. Trường hợp nghiêm trọng hơn, lạc nội mạc tử cung có thể khiến ống dẫn trứng bị chặn bởi sự kết dính hoặc mô sẹo. Triệu chứng phổ biến nhất của lạc nội mạc tử cung là đau vùng chậu mãn tính, đặc biệt là ngay trước và trong kỳ kinh nguyệt. Ngoài ra, các cơn đau cũng xảy ra khi chị em quan hệ tình dục. Trường hợp mô nội mạc tử cung xuất hiện ở ruột, khi đi tiêu có thể bị đau. Nếu xuất hiện ở bàng quang, phụ nữ thường cảm thấy đau khi đi tiểu. Bên cạnh đó, máu kinh ra nhiều bất thường cũng là một triệu chứng khác của lạc nội mạc tử cung. Mặt khác, có nhiều phụ nữ tuy mắc bệnh nhưng không biểu hiện bất kỳ triệu chứng nào. Để chẩn đoán bệnh, trước tiên bác sĩ có thể chỉ định cho bệnh nhân thực hiện một bài kiểm tra thể chất, bao gồm kiểm tra vùng chậu. Tuy nhiên, cách duy nhất để xác định chắc chắn bệnh nhân mắc lạc nội mạc tử cung là thông qua thủ thuật nội soi. Đôi khi, bác sĩ sẽ lấy ra một phần mô để làm xét nghiệm. Thủ thuật này được gọi là sinh thiết nội mạc tử cung. Việc chữa trị bệnh phụ thuộc vào mức độ, triệu chứng bệnh và quyết định điều trị của bệnh nhân. Lạc nội mạc tử cung được điều trị bằng thuốc, phẫu thuật hoặc cả hai. Để giải quyết cơn đau do bệnh, thuốc là biện pháp được ưu tiên trước. Các loại thuốc được sử dụng trong điều trị lạc nội mạc tử cung, bao gồm: thuốc giảm đau, chẳng hạn như thuốc chống viêm không steroid (NSAID), và thuốc nội tiết tố; ví dụ như thuốc tránh thai, thuốc chỉ có progestin và thuốc chủ vận hormone tiết ra gonadotropin. Thuốc nội tiết tố giúp làm chậm sự phát triển của mô nội mạc tử cung và ngăn cản sự kết dính xảy ra. Những loại thuốc này thường không thể loại bỏ mô lạc nội mạc tử cung đã sẵn có. Phẫu thuật là biện pháp được thực hiện để giảm đau và cải thiện khả năng sinh sản. Trong quá trình phẫu thuật, các mô nội mạc tử cung xuất hiện ở những nơi khác nhau trong cơ thể sẽ được loại bỏ. Sau phẫu thuật, hầu hết phụ nữ đều chấm dứt cơn đau. Tuy nhiên, triệu chứng đau có thể quay trở lại, với mộ tỷ lệ nhất định. Cụ thể, khoảng 40-80% phụ nữ phải đối mặt với cơn đau quay trở lại 2 năm sau phẫu thuật. Điều này thường là do tại thời điểm phẫu thuật, các mô lạc nội mạc tử cung không thể xác định hoàn toàn hoặc không thể được loại bỏ. Mặt khác, bệnh càng nặng thì càng có nhiều khả năng tái phát sau phẫu thuật. Sử dụng thuốc tránh thai hoặc một số loại thuốc khác theo chỉ định sau khi phẫu thuật có thể giúp kéo dài thời gian trước khi xảy ra tái phát. Một số bệnh nhân gặp phải cơn đau nghiêm trọng và không biến mất sau khi điều trị, lúc này phẫu thuật cắt bỏ tử cung là lựa chọn cuối cùng. Như vậy, lạc nội mạc tử cung sẽ ít có khả năng dẫn đến đau trong tương lai. Dù thực hiện bằng cách nào đi nữa, thì mục tiêu điều trị phẫu thuật là loại bỏ càng nhiều càng tốt các mô lạc nội mạc tử cung được tìm thấy bên ngoài tử cung. Lạc nội mạc tử cung không phải là bệnh quá hiếm. Đa số trường hợp chỉ gây ảnh hưởng tới sinh hoạt, làm việc và học tập, một số khác có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của người phụ nữ. Tuy nhiên, bệnh gần như sẽ khỏi hẳn khi người phụ nữ bắt đầu mang thai và sẽ khỏi dứt điểm khi đến thời kỳ mãn kinh, vì khi ấy, buồng trứng của phụ nữ không còn duy trì các hoạt động nội tiết nữ. Xét về mặt tâm lý, khi phụ nữ đã nắm rõ về bệnh lạc nội mạc tử cung cũng như tính chất lành tính của nó, tình trạng đau đớn và khó chịu sẽ nhẹ đi rất nhiều. Phẫu thuật nội soi được ưu tiên lựa chọn trong lạc nội mạc tử cung vì có nhiều ưu điểm so với mổ mở, phẫu trường tốt, bệnh nhân hồi phục nhanh hơn. Phương pháp là sự kết hợp giữa các kỹ năng, chuyên môn của bác sỹ và sự chuẩn xác cao của công nghệ hiện đại. Công nghệ phẫu thuật nội soi sử dụng robot có khả năng khắc phục một vài khó khăn trong phẫu thuật thông thường, như cho hình ảnh camera 3D rõ nét thay vì hình ảnh 2D, cánh tay phẫu thuật nhanh nhẹn và linh hoạt giúp vết cắt, đốt nhanh và chính xác, góc nhìn rộng khắc phục khó khăn về tầm nhìn ở một số vị trí trên cơ thể mà bác sĩ khó quan sát. Tầm nhìn không bị hạn chế so với phương pháp phẫu thuật truyền thống và cho hình ảnh có độ chính xác cao hơn, chất lượng hình ảnh tối ưu hơn. Sử dụng robot phẫu thuật sẽ giúp hạn chế và loại bỏ các rung động không cần thiết bởi robot có 4 tay, tương đương với 2 phẫu thuật viên. Robot có khả năng phẫu thuật ở những vị trí khó bởi nó có thể di chuyển tự do ở 6 góc độ, luồn lách vào các khoang sâu và nhỏ nhất. Phẫu thuật bằng robot là an toàn và giảm thiểu tối đa các nguy cơ biến chứng, nhiễm trùng phẫu thuật. So với phương pháp thông thường thì sử dụng robot phẫu thuật sẽ giúp giảm đau. Mổ bóc tách u nang buồng trứng bằng phẫu thuật robot hiện đại là ít mất máu hơn, cho khả năng hồi phục nhanh và giảm thời gian nằm viện. Tính thẩm mỹ của phương pháp này cao hơn vì vết sẹo mổ nhỏ hơn. Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec với hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế hiện đại cùng đội ngũ chuyên gia, bác sĩ nhiều năm kinh nghiệm trong khám điều trị bệnh, người bệnh hoàn toàn có thể yên tâm thăm khám và điều trị, phẫu thuật nội soi lạc nội mạc tử cung tại Bệnh viện. Em chào bác sĩ! Hiện tại sức khỏe em không được ổn, rất mong được bác sĩ tư vấn. Em sinh mổ 3 lần,1 lần mổ lạc nội mạc tử cung, lần mổ lạc nội mạc tử cung là tháng . Em đau quặn thắt khi co kinh trong tháng này, sốt. Em co đi siêu âm và bác sĩ chẩn đoán lạc nội mạc tử cung. Bác sĩ cho em hỏi bị lạc nội mạc tử cung . Tôi bị u lạc nội mạc tử cung, bác sĩ chỉ định mổ. Cho tôi hỏi u lạc nội mạc tử cung phẫu thuật có khỏi hẳn không? Nếu không mổ liệu có ảnh hưởng đến sức . Khoảng 4 năm nay, mỗi lần hành kinh em đau bụng nên em đi khám thì kết quả bị lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng phải. Bác sĩ kê thuốc Amedolfen, uống xong em thấy cắt cơn đau . Mình bị lạc nội mạc vết mổ đẻ, mỗi lần đến kỳ kinh bị đau nhiều. Bác sĩ cho mình hỏi mình hỏi bị đau u lạc nội mạc tử cung mỗi lần đến kỳ kinh có .
Lạc nội mạc tử cung
Lạc nội mạc tử cung là một bệnh trong đó các mô bình thường phát triển bên trong tử cung lại phát triển bên ngoài tử cung. Các triệu chứng chính là đau vùng chậu và vô sinh. Gần một nửa số người bị bệnh có đau vùng chậu mãn tính, trong khi 70% cơn đau xuất hiện trong kỳ kinh nguyệt. Đau khi quan hệ tình dục cũng là phổ biến. Vô sinh xảy ra gần một nửa số phụ nữ bị ảnh hưởng. Các triệu chứng ít gặp hơn bao gồm các triệu chứng khi tiểu tiện hoặc đại tiện. Khoảng 25% phụ nữ không có triệu chứng nào. Lạc nội mạc tử cung có thể có cả hai tác động xã hội và tâm lý. Nguyên nhân là không hoàn toàn rõ ràng. Các yếu tố nguy cơ bao gồm một lịch sử gia đình mắc bệnh này. Thông thường buồng trứng, ống dẫn trứng, và các mô xung quanh tử cung và buồng trứng bị ảnh hưởng; Tuy nhiên, trong những trường hợp hiếm hoi nó cũng có thể xảy ra ở các bộ phận khác của cơ thể. Các khu vực của nội mạc tử cung chảy máu mỗi tháng, dẫn đến viêm nhiễm và thành sẹo.
Tôi tên Hữu Tuấn sinh sống và làm việc tại Điện Biên. Thỉnh thoảng khi xem báo tôi thấy Chính phủ có ban hành Nghị định về ngày thành lập, ngày truyền thống, ngày hưởng ứng của các bộ, ngành, địa phương. Ví dụ như: người ta có kỉ niệm các ngày như ngày thành lập Quân đội nhân nhân, ngày thành lập Công an nhân dân,. Vậy ngày thành lập là gì? Có được quy định cụ thể tại văn bản pháp luật nào không? Mong sớm nhận được phản hồi. - Ngày thành lập là ngày có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu sự ra đời bằng văn bản thành lập của cơ quan có thẩm quyền. - Bên cạnh đó, mình xin cung cấp thêm một số khái niệm để bạn tiện tham khảo thêm: Ngày truyền thống là ngày đánh dấu một sự kiện đáng ghi nhớ, quá trình hình thành hoặc phát triển được ghi nhận, có tính kế thừa, liên tục; Ngày hưởng ứng là ngày được xác định thời gian (ngày, giờ) cụ thể, tập trung vào một chủ đề nhất định để tổ chức các hoạt động nhằm kêu gọi cộng đồng hưởng ứng và thể hiện sự đồng tình ủng hộ bằng hành động.
Ngày thành lập
Ngày thành lập hoặc ngày sáng lập một tổ chức là ngày mà tổ chức đó lựa chọn để tuyên bố điểm khởi đầu của nó. Mỗi tổ chức có một định nghĩa riêng về ngày thành lập của mình. Tuy nhiên nhìn chung thì các tiêu chí hay tiêu chuẩn để xác định một ngày thành lập hoặc sáng lập của các tổ chức thường có ý nghĩa không rõ ràng.
Vũ trụ là tên gọi rất quen thuộc đối với các nhà thiên văn học. Đối với người bình thường có đi học có đọc báo thì vũ trụ cũng không xa lạ gì. Tuy vậy vũ trụ là cái vật vô cùng rộng lớn, vô cùng sâu thẳm, còn vô số bí mật mà con người chưa khám phá ra. Ngoài ra vũ trụ vật lý có liên quan gì đến tâm lý của con người lại là điều mà các nhà thiên văn hầu như chưa đề cập, vì vậy bài viết hôm nay chủ yếu nói về khía cạnh này. Trước khi chúng ta đi vào vũ trụ tâm lý, xin nhắc lại sơ qua về vũ trụ vật lý trước. Alexander Friedmann mô tả năm 1924 một không gian vũ trụ đang mở rộng dựa vào phương trình trường trong thuyết tương đối rộng (general theory of relativity) của Albert Einstein mà không sử dụng hằng số vũ trụ của Einstein. Năm 1927 một linh mục người Bỉ là Georges Lemaître phát triển thêm phương trình của Friedmann thành một vũ trụ giãn nở. Trong năm 1929, Edwin Hubble đã cung cấp những dữ liệu quan sát thực tế trên bầu trời củng cố lý thuyết của Lemaître. Trong năm 1931, Lemaître, trong tác phẩm Hypothèse de l’atome primitif (giả thuyết về nguyên tử nguyên thủy) là người đầu tiên đưa ra thuyết Big Bang tức là vụ nổ lớn hình thành vũ trụ, từ thực tế vũ trụ đang giãn nở, suy luận ngược về lúc bắt đầu của quá trình giãn nở là Vụ Nổ Lớn (Big Bang) từ một điểm kỳ dị (gravitational singularity) cực kỳ cô đặc và cực nóng. Thuyết Big Bang của Lemaître về sau được các nhà thiên văn bổ sung thêm. Trong giây đầu tiên sau khi vũ trụ hình thành, vũ trụ của chúng ta phình ra nhanh hơn cả tốc độ ánh sáng. Sự dao động lượng tử (quantum fluctuations) trong khu vực lạm phát vi mô, được phóng đại lên kích thước vũ trụ, khiến điểm kỳ dị trở thành hạt giống cho sự phát triển của cấu trúc trong vũ trụ. Đó là lạm phát vũ trụ (cosmic inflation còn gọi là cosmology hay gọi tắt là inflation). NASA tính toán rằng nhiệt độ xung quanh lúc này khoảng 5.5 tỷ độ C. Vũ trụ chứa một mảng lớn các hạt cơ bản như neutron, electron và proton. Theo thời gian, các electron tự do sẽ gặp hạt nhân do proton và neutron hình thành và tạo ra các nguyên tử trung hòa. Điều này cho phép ánh sáng chiếu xuyên qua và lúc này đã là 375 hay nói tròn là 380 nghìn năm sau Vụ Nổ Lớn. Kế đó là một thời kỳ tối tăm (dark ages) kéo dài khoảng 400 triệu năm trước khi ngôi sao đầu tiên hình thành. Tiếp theo là thời kỳ dài hình thành các thiên hà, các ngôi sao và hành tinh. Sự giãn nở của vũ trụ nhanh hơn cả tốc độ ánh sáng được cho là do ảnh hưởng của năng lượng tối (dark energy). Vũ trụ chỉ có 5% là vật chất và năng lượng thấy được còn 95 % là năng lượng tối và vật chất tối (năng lượng tối 68,3%, vật chất tối 26,8%). Vật chất tối cũng có vai trò quan trọng đối với sự tạo thành cấu trúc và sự tiến hóa thiên hà, và có ảnh hưởng đo được đến tính bất đẳng hướng (anisotropy) của bức xạ phông (tiếng Pháp fond=nền) vi sóng vũ trụ. Các hiện tượng này chỉ ra rằng vật chất quan sát thấy được trong các thiên hà, các cụm thiên hà, và cả vũ trụ mà có ảnh hưởng đến bức xạ điện từ chỉ là một phần nhỏ của tất cả vật chất: phần còn lại được gọi là “thành phần vật chất tối”. Bức xạ phông vi sóng vũ trụ (hay bức xạ tàn dư vũ trụ) là bức xạ điện từ được sinh ra từ thời kỳ sơ khai của vũ trụ (khoảng 380.000 năm sau Vụ Nổ Lớn). Năm 1964, Arno Penzias và Robert Wilson đã phát hiện ra bức xạ phông vũ trụ khi họ tiến hành nghiên cứu một máy thu tín hiệu vi sóng ở phòng thí nghiệm Bell. Khám phá của họ đã khẳng định tiên đoán về bức xạ phông vũ trụ, một bức xạ đẳng hướng và đồng nhất phân bố giống như phổ phát xạ của vật đen có nhiệt độ khoảng 3 độ K. Tốc độ giãn nở của vũ trụ nhanh hơn tốc độ ánh sáng thể hiện ở đường kính của vũ trụ hiện nay. Các nhà khoa học đã xác định được phần rìa vũ trụ đã di chuyển ra xa với khoảng cách 46,5 tỉ năm ánh sáng. Suy ra đường kính của vũ trụ hiện nay là 93 tỷ năm ánh trong khi thời gian từ lúc bắt đầu vụ nổ Big Bang đến nay chỉ là 13,8 tỷ năm. Như vậy tốc độ giãn nở của vũ trụ nhanh gấp 3,3 lần tốc độ ánh sáng. Kết luận rõ ràng là: Vụ nổ Big Bang chắc chắn đã xảy ra, nhưng không dãn nở để quay trở về trạng thái vô cùng đặc nóng ngẫu nhiên của điểm kỳ dị . Theo thuyết Vụ Nổ Lớn, vũ trụ bắt nguồn từ một trạng thái vô cùng đặc và vô cùng nóng (điểm dưới cùng gọi là điểm kỳ dị vụ nổ lớn = Big bang singularity). Theo thuyết mới thì không có Big bang singularity. Thay vào đó, Vũ trụ từ rất sớm trước đó đã trải qua một khoảng thời gian mà trước khi tất cả năng lượng tạo thành vật chất và bức xạ như hiện nay, thay vào đó là sự liên quan mật thiết giữa ý thức và vật chất trong chính lưới không gian của vũ trụ. Giai đoạn đó, được gọi là phình to vũ trụ, đã kết thúc và hình thành nên Big Bang, nhưng chưa bao giờ tạo ra một trạng thái đặc nóng ngẫu nhiên và cũng không tạo ra điểm kỳ dị. Điều gì đã xảy ra trước khi Vũ trụ phình to ra – hoặc liệu phình to vũ trụ có vĩnh cửu trong quá khứ hay không – vẫn là một câu hỏi mở, nhưng có một điều chắc chắn: Big Bang không phải là sự khởi đầu của vũ trụ!. Trong tác phẩm Lưới Trời Ai Dệt của tiến sĩ vật lý Nguyễn Tường Bách đã đề cập tới ý tưởng vũ trụ không có bắt đầu này tức là không có Big bang singularity hay nói cách khác, có nhưng không phải thật. Tóm tắt như sau : Khi con người ngắm nhìn vũ trụ thì đó là sự kiện của một cái giả hợp (con người) ngắm nhìn một cái giả hợp khác (vũ trụ) và tưởng cả hai đều thực có. Đó chính là sự nhầm lẫn lớn nhất của cảm quan và ý thức. Đó là “vọng tâm”, là nguyên thủy của thế giới và con người, là cơ nguyên của mọi dạng tồn tại. Trong vọng tâm thì mọi sự đều có, nhưng chúng không thực có. Thế nên tất cả đều có và tất cả đều không. Lý thuyết khoa học mới nói rằng : Big Bang không phải là sự khởi đầu của vũ trụ! Kết luận này lại phù hợp với Phật pháp. Phật pháp từ xa xưa đã nói rằng : Nhất thiết duy tâm tạo. Nghĩa là vũ trụ vật lý mà chúng ta đang thấy và đang sống trong đó chỉ nằm mơ giữa ban ngày, chỉ là tưởng tượng của bộ não chứ không phải có thật, không có khởi đầu, không có kết thúc, không gian, thời gian, số lượng đều không có thật. Thuật ngữ Phật giáo gọi đó là thế lưu bố tưởng nghĩa là tưởng tượng đã lưu truyền nhiều đời nhiều kiếp và phổ biến ở thế gian, đó chỉ là thuần túy tưởng tượng chứ không có gì là thật. “Mở mắt thì không chiêm bao, tâm chẳng khởi ý thì không đối đãi. Ý nghĩa hai câu này ta giảng sơ qua: Mắt mở cứ mở cho lớn thì không chiêm bao, mắt nhắm lại thì nằm chiêm bao, đại khái là như vậy. Nhưng ta nói: Mắt nhắm nằm chiêm bao, mắt mở to lại còn nằm chiêm bao hơn, các ông tin hay không? Các ông nghĩ rằng mắt nhắm thì ngủ nằm chiêm bao, tại sao mắt mở to cũng còn nằm chiêm bao? Tôi có chỗ không tin. Nhưng ta nói các ông đứng ngay đây đang nằm chiêm bao, suốt ngày suốt đêm chiêm bao. Nhắm mắt lại nằm chiêm bao thì còn có thể mau chóng tỉnh lại được, các ông mở mắt mà chiêm bao thì chẳng có lúc nào tỉnh, còn biết cái chiêm bao này kéo dài tới khi nào mới có thể tỉnh được không?. Người chưa liễu ngộ đều là mở mắt nằm chiêm bao mà không biết được đang nằm chiêm bao, muốn biết cái chiêm bao này lúc nào mới tỉnh lại được thì nhất thiết phải khai ngộ, khai ngộ rồi cũng như ngủ nằm chiêm bao thình lình tỉnh dậy. Ta hỏi các ông: cái chiêm bao này còn có kỳ hạn tỉnh dậy không?. Còn nói về cái tâm không khởi ý, ý tức là niệm, tâm có thể khởi thiện niệm, khởi ác niệm, nếu tất cả niệm đều không khởi ấy không có đối đãi, đại khái ý nghĩa là như vậy đó. Kỳ thật không phải thế, cần phải thánh bất khả đắc, phàm bất khả đắc, niệm bất khả đắc, tâm cũng bất khả đắc, nói không rơi vào hai (có đối đãi) thì đã rơi vào ba; luôn cả cái nhất cũng bất khả đắc, mới cho là có một tí tương ưng trong Thiền tông.”. Muốn hiểu được những điều của Lai Quả thiền sư nói, chúng ta bắt buộc phải nghiên cứu cuộc tranh luận trong thế kỷ 20 giữa hai nhà khoa học hàng đầu thế giới là Niels Bohr và Albert Einstein. Họ tranh luận về một vấn đề vô cùng cơ bản của vũ trụ. Đại khái vào thời của họ người ta đã biết vũ trụ vật chất được tạo thành từ những hạt cơ bản. Thời đó có thể hai ông chưa biết tới hạt quark nhưng khoa học đã khám phá ra các hạt sau :. Hai ông đều đã ý thức rõ ràng rằng nguyên tử được cấu tạo bởi hạt nhân và electron quay chung quanh. Và hạt nhân thì được cấu tạo bởi proton và neutron. Hai ông chỉ chưa biết rằng proton và neutron đều được cấu tạo bằng 3 hạt quark như nói trên. Ví dụ đây là nguyên tử Oxigen :. Nguyên tử Oxygen được cấu tạo bởi hạt nhân gồm có 8 proton và 8 neutron bên ngoài là 8 electron chia làm 3 tầng, hai tầng bên trong mỗi tầng có 2 electron, tầng ngoài cùng có 4 electron. Hai ông đều hiểu rõ cấu tạo của nguyên tử Oxygen. Nhưng hai ông tranh luận về vấn đề hạt photon hoặc hạt electron có sẵn đặc trưng hay không. Bohr nói rằng hạt cơ bản cô lập thì trừu tượng “Isolated material particles are abstractions” chúng không có sẵn đặc trưng, chỉ khi có người quan sát thì đặc trưng mới xuất hiện. Lập trường của Bohr thể hiện trong câu nói :. “Mọi thứ chúng ta gọi là có thực được cấu tạo bằng những thứ không được xem là thật. Nếu cơ học lượng tử chưa gây shock một cách sâu sắc cho bạn thì có nghĩa là bạn chưa hiểu gì về nó.”. Trái lại lập trường của Einstein thì cho rằng các đặc trưng của hạt cơ bản luôn luôn sẵn có, vật chất là có thật, là khách quan. Lập trường của Einstein thể hiện trong câu nói :. Cho đến khi cả hai nhà khoa học hàng đầu thế giới này qua đời, chưa ai chứng tỏ được ai đúng ai sai . Năm 1960 nhà vật lý John Bell người Ireland đã đưa ra một bất đẳng thức có khả năng kiểm chứng được hiện tượng rối hay liên kết lượng tử có xảy ra hay không. Nếu nó có xảy ra tức là nó chứng tỏ việc nhìn và đo đạc thuộc tính đặc trưng của một hạt cơ bản đã sửa đổi thuộc tính của hạt liên kết với nó một cách bí ẩn. Bất đẳng thức của Bell đòi hỏi phải tiến hành hai công tác đo đạc riêng biệt với hai hạt rối lượng tử (quantum entanglement), để xem kết quả của chúng ra sao. Muốn có hai hạt rối xuất hiện đồng thời phải chế tạo cái máy để làm được việc đó. Và năm 1967 một nhà vật lý trẻ người Mỹ là John Clauser đã chế tạo được cái máy đó và tiến hành thử nghiệm. Ông ta là người ủng hộ lập trường của Einstein và mục đích chế tạo cái máy là để chứng tỏ Einstein đúng. Nhưng kết quả thực nghiệm thì ngược lại, nó chứng tỏ Einstein sai, lập trường của Bohn mới đúng. Năm 1982 tại Paris, Alain Aspect dùng chiếc máy của John Clauser tiến hành một thí nghiệm thật sâu rộng để giải quyết cho dứt khoát vấn đề đúng sai của hai nhà khoa học hàng đầu thế giới nói trên. Và kết quả như chúng ta đã biết, thí nghiệm liên kết lượng tử đã tạo được hai photon xuất hiện đồng thời ở hai vị trí khác nhau trong không gian. Ông tiến hành đo đạc hai hạt rối và áp dụng bất đẳng thức của John Bell để kiểm chứng. “Bell đã chứng minh được rằng, theo các thông số thống kê, thì sự tương quan giữa các kết quả đã vượt qua ngưỡng giới hạn và không thể được giải thích bằng việc các hạt này có những thuộc tính ẩn được. Thay vào đó, kết quả cho thấy việc đo đạc một hạt đã sửa thuộc tính của hạt kia một cách bí ẩn”. Thí nghiệm đã chứng tỏ hiện tượng rối hay liên kết lượng tử là có thật. Thí nghiệm này đã bác bỏ lập trường duy vật khách quan (Objective Materialism) của Einstein, nó chứng tỏ lập trường của Niels Bohr là đúng, vô hình trung nó cũng chứng tỏ lời nói trong kinh điển Phật giáo là đúng : Nhất thiết duy tâm tạo. Những điều Lai Quả thiền sư nói trong Thiền thất khai thị lục là hoàn toàn có cơ sở khoa học. Con người trong thế gian đang mở mắt chiêm bao. Cái vũ trụ vật lý mà chúng ta đang sống trong đó thuần túy chỉ là tưởng tượng của con người chứ không có gì là thật cả. Quyển sách Lưới Trời Ai Dệt của tiến sĩ vật lý Nguyễn Tường Bách cốt yếu cũng nói lên ý tưởng đó. Các kết luận này được rút ra từ thí nghiệm liên kết lượng tử (quantum entanglement). Một photon có thể xuất hiện đồng thời ở hai hay nhiều vị trí khác nhau trong không gian chứng tỏ rằng hạt chỉ là ảo không có thật (non realism). Sự kiện vướng víu hay liên kết giữa các cặp hạt hay các nhóm hạt không tùy thuộc vào khoảng cách bao xa từ vài mét tới hàng ngàn km hay hàng năm ánh sáng chứng tỏ khoảng cách không gian và thời gian là không có thật (non locality). Sự kiện này trong kinh Kim Cang gọi là vô sở trụ 无所住 。 Mặt khác thí nghiệm cũng chứng tỏ số lượng là không có thật (non quantity). Chúng ta hãy nghe lại lời giảng của thầy Duy Lực cũng nêu ra khái niệm đó :
Hằng số vũ trụ
Trong phạm vi của ngành vũ trụ học, hằng số vũ trụ (hay hằng số vũ trụ học) là dạng mật độ năng lượng đồng nhất gây ra sự giãn nở gia tốc của vũ trụ. Nó được đề xuất từ lúc mới hình thành phát triển của thuyết tương đối rộng để có thể miêu tả một nghiệm vũ trụ tĩnh suy ra từ phương trình trường Einstein, nhưng sau đó các nhà thiên văn từ bỏ nó khi các quan sát thực nghiệm trong thập niên 1930 cho thấy vũ trụ đang giãn nở. Hiện tại, hằng số vũ trụ học được khôi phục trở lại nhằm giải thích kết quả quan sát vũ trụ đang giãn nở gia tốc. Hằng số vũ trụ học là cách giải thích đơn giản nhất cho năng lượng tối, nguyên nhân chưa được hiểu rõ gây ra sự giãn nở gia tốc này. Vật lý lượng tử cũng tiên đoán sự tồn tại của nó dưới dạng năng lượng chân không, mặc dù độ lớn tính toán từ lý thuyết lượng tử không khớp với giá trị đo được của vật lý vũ trụ học. Hằng số vũ trụ xuất hiện lần đầu tiên trong một bài báo năm 1917 của Einstein có tiêu đề "Những khía cạnh vũ trụ học của thuyết tương đối tổng quát".
Tư duy chiến lược là gì? Tầm quan trọng của tư duy chiến lược như thế nào? Và làm sao để phát huy tư duy chiến lược hiệu quả nhất? Hãy tìm hiểu ngay trong bài viết sau nhé. Trong thực tế cuộc sống đến các chương trình về chính trị, kinh doanh trên sóng truyền hình chắc không ít lần bạn, bạn đã nghe qua thuật ngữ chiến lược đến tư duy chiến lược. Cụm từ này hay đi kèm cùng với chiến thuật. Do vậy, không ít trường hợp nhầm lẫn giữa hai định nghĩa này. Trước khi đi giải thích đầy đủ, cụ thể về “tư duy chiến lược là gì” hãy cùng điểm qua vài nét về khái niệm chiến lược nhé. “chiến lược” thực chất ra đời trong từ điển Hy Lạp với “phạm vi hoạt động” trong lĩnh vực quân sự mang ý nghĩa là những cách thức, mục tiêu, con đường đạt được những mục tiêu. Từ một lĩnh vực khô khan, chiến lược chính thức được sử dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau đặc biệt trong kinh doanh và trở thành một trong những thành tố quan trong tạo lập nên sự thành công trong một tổ chức. Một khi môi trường hoạt động ngày càng phức tạp, khó để dự đoán trước, kế hoạch đề án khó và vượt ngoài tầm kiểm soát việc tổ chức, doanh nghiệp phải đề ra chiến lược lược định hướng là điều bắt buộc. Khi làm việc với các nước phát triển như Nhật Bản hay Mỹ, thậm chí, cho giành đến 70% thời gian cho khâu chuẩn bị và lên kế hoạch, xác định những chiến lược phát triển. Để có thể xây dựng dẫn dắt hướng dẫn tổ chức, chèo lái con thuyền doanh nghiệp cập bến thành công, những người trong tổ chức cần biết tư duy chiến lược. Vậy chúng ta hiểu tư duy chiến lược là gì?. Heracleous mô tả mục đích của tư duy chiến lược là “ tìm ra một mục đích mới lạ, giàu trí tưởng tượng để hình dung ra tương lai tiềm năng khác so với hiện tại. Nó cũng được xác định là nghệ thuật vượt trên đối thủ trong lý thuyết trò chơi. Những giải thích đậm mùi triết học có thể phần nào đó, gây khó hiểu cho những không ít người, đặc biệt là khi họ không quá rành về quân sự. Hậu thế đã kết đúc quan điểm của Heracleous và ứng dụng cụ thể của nó để làm từng bước khai mở khái niệm này. Tư duy chiến lược thực chất được hiểu là cách thức, quy trình, năng lực tư duy, để định danh những chiến lược phát triển, các lợi thế, cơ hội, các điểm mạnh, yếu của tổ chức doanh nghiệp. Tư duy chiến lược cũng liên tục kiểm tra rà soát và khắc phục những mối nguy hại ngoài môi trường cho tổ chức.từ đây để làm sáng tỏ con đường và giải pháp đúng đắn dẫn lối doanh nghiệp đó đi đến thành công. Sự khác biệt giữa tư duy chiến lược với những sự định hướng hay suy nghĩ thông thường thông thường ở sự kết hợp giữa lối suy nghĩ có chiều sâu và tầm nhìn rộng và độ dài hạn. Trong đó, biểu hiện rõ nhất ở cách nhìn nhân toàn diện và có hệ thống về môi trường để thấy được sự biến đổi của môi trường bên ngoài và sự phân tích một cách sâu sắc về cơ hội, thách thức và những mục tiêu phía trước, nhận thức dự xu hướng thay đổi và làm cho tổ chức thích nghi với môi trường và đạt được những mục tiêu để ra. Tựu chung lại, chúng ta có thể khẳng định, tư duy chiến lược là một quá trình sáng tạo thể hiện tầm nhìn của một nhà lãnh đạo trong doanh nghiệp tổ chức. Quá trình bắt buộc những người lãnh đạo biết xác định những mục tiêu, chiến lược cho tổ chức và gắn chặt những mục tiêu này vào các hoạt động hằng ngày. Quá trình này mang tính trí tuệ vào và nhằm vào mục đích đổi mới tổ chức để có thể thích nghi tốt với sự biến động của môi trường, khó khăn, thách thức bên ngoài. Vậy tư duy chiến lược cho vai trò quan trọng như thế nào, vì sao nhà quản trị cần có tư duy chiến lược. Với tư cách “con chim đầu đàn” của doanh nghiệp, các lãnh đạo có yêu cầu cơ bản đó là nhìn thấy tương lai của tổ chức, doanh nghiệp của mình phát triển như thế nào? Bức tranh tương lai gần doanh nghiệp muốn hướng đến ra sao và cần làm gì để biến những mục tiêu, những chiến lược để ra đó trở thành sự thật. Khả năng hình dung ra tương lai cũng như vạch ra một con đường rõ ràng để định hướng lối đi của tổ chức đó là biểu hiện sự tư duy chiến lược ở người lãnh đạo. Nhiều chuyên gia về lãnh đạo, quản lý điều hành, những người ngồi ở vị trí này lâu năm đều khẳng định rằng, kỹ năng tư duy chiến lược là một trong những phẩm chất năng lực không thể thiếu ở người lãnh đạo. Thật vậy, những chiến lược kinh doanh được để ra trước khi tiến hành đều đảm bảo được tính chuẩn xác, chắc chắn cho những đường đi nước bước của tổ chức bởi việc phân tích, dự báo môi trường. Thiếu vắng đi những chiếc lược, việc doanh nghiệp có thể ứng phó nhất thời với những khó khăn và phát triển đúng hướng là cực kỳ khó khăn. Từ đây, việc hoàn thành những mục tiêu và nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường chung cũng khó lòng diễn ra suôn sẻ. Tư duy chiến lược đề ra những chiếc lược có sẵn giúp doanh nghiệp có thể nắm phần chủ động trong việc tận dụng được những cơ hội để tránh được những rủi ro phát sinh khi kinh doanh. Nó giống như việc bạn đọc sách và chuẩn bị bài trước ở nhà. Ở tư thế chủ động, việc nắm bắt được những cơ hội cũng như nhìn nhận được sử đầy đủ, tthừa thiếu, thế mạnh, yếu của các nguồn lực như cơ sở vật chất, nguồn nhân lực để có thể khai thác và sử dụng hợp lý nhất. Từ đây để tạo cơ sở cho việc nghiên cứu triển khai, đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực. Khi định hình ra một quỹ đạo chung cho doanh nghiệp, các phòng ban sẽ cụ thể hóa những chiến lược này thành những mục đích, đường lối cụ thể nhưng trên một tinh thần chung đồng nhất những lợi ích cá nhân với lợi ích doanh nghiệp để cùng phát triển. Giống như những quy định hay văn hóa chung của công ty, nó trở thành mối liên kết giữa những thành viên trong công ty với nhau, giữa cấp bậc lãnh đạo, nhà quản lý với nhân viên. Dẫn những nghiên cứu do Rich Howard, CEO của viện Tư duy chiến lược Mỹ đã chỉ ra rằng, có đến 96% người quản lý cảm thấy bị thiếu hụt thời gian cho tư duy chiến lược vì họ quá bận rộn để đi giải quyết các tình huống “chữa cháy” cho doanh nghiệp. Để có thể giúp các vị lãnh đạo, quản lý dễ dàng hơn trong việc đề xuất những phương án chiếc lược hợp lý:. Xác định chiến lược là sự định vị còn đường đi, những phương án chúng và đưa vào tiến hành chứ không phải là sự kỳ vọng và trông đợi.chứ không phải là kỳ vọng. Để có thể biến những quan điểm, nguyên tắc để ra được triển khai thành những ý tưởng chiến dịch thì người lãnh đạo phải tự xác định được vai trò của mình như thế nào, những nhiệm vụ mà mình cần phải hoàn thành ở vị trí lãnh đạo để hướng đến những mục tiêu. Những nhiệm vụ phải làm đó chính là các yêu cầu mang tính chiến lược khi ngồi vào vị trí lãnh đạo. Song tuy nhiên, nhiều lãnh đạo hay cấp quản lý khi được “trải nghiệm” vị trí này đều nghĩ, đó là vị trí để hưởng thụ và “sai bảo” nhiều hơn. Sau khi đã xác định được nhiệm vụ của mình hay sự đóng góp lâu dài của một nhà quản lý, họ phải tiến hành ngay bước khảo sát nguồn lực của công ty như thế nào, đã đủ yêu cầu để hoàn thành những ý tưởng chiến lược mà họ phác thảo chưa, đã đủ yêu cầu về trình độ chuyên môn chưa. Nếu khảo sát và chưa thể đáp ứng được, các nhà lãnh đạo phải đề xuất các định hướng để bên nhân sự có kế hoạch tuyển dụng hay phòng ban có nguồn lực không đảm bảo có kế hoạch bổ sung và đào tạo cho kịp thời. Nhưng trước hết, người lãnh đạo phải biết sử dụng dữ liệu để khai thác thị trường, từ đó vạch ra những định hướng cho phòng ban điều chỉnh các nguồn lực. Thường thì các lãnh đạo hay quản lý mới vẫn mắc sai lầm ở chỗ, khi phác thảo ra những chiến lược tự cho mình mình “quyền kiểm soát”. Có nghĩa là chỉ trình bày dưa trên Powerpoint theo kiểu thông báo một chiều đến nhân viên mà không chia sẻ, thảo luận, đưa ra những dữ liệu thực tế để nhân viên hiểu rõ bản chất của vấn đề. Nên nhớ rằng, các chiến lược được xem là một con đường dài của doanh nghiệp, cần có sự đồng thuận của cả tổ chức, không phải một cá nhân. Nhân viên cần có sự hiểu biết đầy đủ nhất về những chiếc lược này để cụ thể hóa những bằng hành động, nhiệm vụ thực tế và tốt nhất. Mong rằng, những thông tin trên đây xoay quanh tư duy chiến lược là gì, sẽ thật sự hữu ích với bạn trong quá trình định hướng phương pháp lãnh đạo quản lý đúng đắn cho doanh nghiệp của mình.
Tư duy chiến lược
Tư duy chiến lược (Tiếng Anh: Strategic thinking) là tố chất, năng lực và hoạt động đặc trưng của người lãnh đạo, chủ yếu là lãnh đạo cấp cao và trước hết là của người đứng đầu; đó là tư duy vĩ mô, tổng hợp về tầm nhìn và mục tiêu chiến lược; về vị trí hiện thời còn cách mục tiêu bao xa; về không gian chiến lược và phân tích so sánh giữa lợi thế và bất lợi; về phương châm và lộ trình chiến lược; về các nguồn lực và kế hoạch thực hiện; về phân công trách nhiệm chỉ huy, chỉ đạo, lãnh đạo; về dự kiến một số tình huống bất trắc và dự phòng các phương án xử lý. Những thành tố quan trọng của tư duy chiến lược gồm nhận thức về: mục tiêu chiến lược, không gian chiến lược, phương châm chiến lược, lộ trình và các nguồn lực thực hiện chiến lược. Mục tiêu chiến lược là mục tiêu gắn liền với sứ mệnh của từng tổ chức, thiết chế; mang tính sống còn, làm cho tổ chức, thiết chế khẳng định được sự tồn tại và vị trí của mình trong mỗi thời kỳ, giai đoạn cụ thể.
Thành Phố Vàng Đã Mất kể lại câu chuyện có thật về nhà thám hiểm người Anh, Percy Fawcett, người đã thám hiểm tới Amazon vào thế kỷ 20 và phát hiện ra một nền văn minh tiên tiến chưa từng được biết tới. Tuy bị các nhà khoa học lúc bấy giờ chế nhạo vì cho rằng người dân bản địa tại đây là "những người hoang dã" nhưng Percy Fawcett vẫn quyết tâm tìm ra sự thật. Với sự động viên và hỗ trợ hết mình từ người vợ tận tụy (Sienna Miller) và con trai (Tom Holland) cùng cộng sự của mình (Robert Pattinson). Percy bắt đầu cuộc hành trình và mất tích vào năm 1925. Âm thanh 5.1 (6 channel) thay vì stereo (2 channel) như các trang phim khác (kể cả Youtube)
Thành phố vàng đã mất (phim)
Thành phố vàng đã mất (tên gốc tiếng Anh: The Lost City of Z) là một phim điện ảnh tiểu sử chính kịch phiêu lưu của Mỹ năm 2016 do James Gray biên kịch và đạo diễn dựa trên cuốn sách cùng tên của nhà văn David Grann. Nội dung phim xoay quanh những sự kiện có thật trong cuộc đời của nhà thám hiểm người Anh Percy Fawcett từ thời điểm ông được gửi đến Bolivia để khảo sát và xây dựng bản đồ và bắt đầu bị cuốn hút bởi tàn tích của thành phố cổ đại có biệt danh "Z" ẩn sâu trong rừng mưa Amazon, cho tới lúc biến mất cùng với con trai của mình trong một cuộc thám hiểm vào năm 1925. Phim có sự tham gia của Charlie Hunnam trong vai Percy Fawcett, cùng với Robert Pattinson vào vai người bạn đồng hành Henry Costin và Sienna Miller trong vai người vợ Nina Fawcett. Thành phố vàng đã mất được công chiếu ra mắt vào tối ngày 15 tháng 10 năm 2016 tại sự kiện Liên hoan phim New York. Phim được khởi chiếu rộng rãi ở Mỹ vào ngày 14 tháng 4 năm 2017 bởi hãng Amazon Studios và Bleecker Street và tại Việt Nam vào ngày 19 tháng 5 năm 2017 bởi MVP Pictures.
Chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn đã có sự ảnh hưởng sâu sắc tới phong trào đấu tranh giành độc lập tại Việt Nam. Theo giới sử học Việt Nam nghiên cứu, Tôn Trung Sơn có mối liên hệ sâu rộng với cộng đồng người Hoa ở Chợ lớn - Sài Gòn và tại Hà Nội. Tháng 12/1942, ông tới Hà Nội lần đầu tiên. Từ tháng 3/1907, ông hoạt động tại Việt Nam trong hơn 1 năm. Theo nhà sử học Chương Thâu, từng là Trưởng phòng Lịch sử Cận đại của Viện Sử học Việt Nam cho biết, tư tưởng Tam Dân chủ nghĩa đã có ảnh hưởng tới lý tưởng chính trị của các nhà cách mạng Việt Nam như: Hồ chủ tịch, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Tôn Trung Sơn được tôn kính như một trong Tam Thánh ký Thiên Nhân Hòa ước lần thứ ba. Ngay chính điện của Thánh thấy Cao Đài tại tỉnh Tây Ninh vẫn còn treo bức tranh Tam Thánh ở nơi trang trọng nhất. Tam thánh trong bức tranh này gồm Tôn Trung Sơn, Victor Hugo và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông là một nhân vật lịch sử độc đáo trong số các nhà lãnh đạo của Trung Quốc ở thế kỷ 20. Ông là một nhân vật nổi tiếng cả ở Trung Quốc Đại Lục lẫn Đài Loan và Việt Nam. Tôn Trung Sơn qua đời vào ngày 12 tháng 3 năm 1925, ở Bắc Kinh, hưởng thọ 58 tuổi. Ngày 12-11 năm 1920: Thẩm phán Kenesaw núi Landis đã được bầu làm ủy viên đầu tiên của bóng chày. Ngày 12-11 năm 1927: Leon Trotsky bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản và Joseph Stalin đã trở thành người cai trị của Liên Xô. Ngày 12-11 năm 1954: Đảo Ellis ngừng phục vụ như một trạm di trú trưởng đối với Hoa Kỳ. Hai mươi triệu người nhập cư đã đi qua đảo Ellis trong 62 năm hoạt động. Ngày 12-11 năm 1970: Một cơn bão và sóng thần nhấn Đông Pakistan, giết chết hơn 200.000 người. Ngày 12-11 năm 1981: tàu con thoi Columbia đã được đưa ra lần thứ hai. Đây là lần đầu tiên một chiếc xe không gian được sử dụng nhiều hơn một lần. Ngày 12-11 năm 1997: Ramzi Yousef, người đứng đằng sau vụ đánh bom năm 1993 Trung tâm Thương mại Thế giới, đã bị kết án ở New York.
Tôn Trung Sơn
Tôn Trung Sơn (chữ Hán: 孫中山; 12 tháng 11 năm 1866 – 12 tháng 3 năm 1925), nguyên danh là Tôn Văn (孫文), tự Tải Chi (載之), hiệu Nhật Tân (日新), Dật Tiên (逸仙) là một chính khách, triết gia chính trị và bác sĩ người Trung Quốc, người đóng vai trò quan trọng trong cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911 lật đổ triều đại nhà Thanh và khai sinh ra Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1912, ông nhậm chức Đại Tổng thống Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc, nhưng một tháng sau, ông nhường chức này cho tướng Thanh là Viên Thế Khải với điều kiện Viên Thế Khải bắt vua nhà Thanh thoái vị để thành lập chế độ cộng hòa, nhưng sau đó Viên Thế Khải bội ước, khiến ông phải lưu vong sang Nhật. Ông được tôn xưng là Quốc phụ tại Trung Hoa Dân Quốc và được coi là người tiên phong của cách mạng (Cách mạng tiên hành giả) tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Vợ của ông là Tống Khánh Linh, cũng là một nhân vật cách mạng nổi tiếng. Ông cũng nổi tiếng nhờ việc đề xuất và phát triển chủ nghĩa Tam Dân.
Bạn không thể đăng nhập xã hội trên các trình duyệt riêng tư hoặc ở chế độ ẩn danh. Vui lòng đăng nhập bằng tên người dùng hoặc email của bạn để tiếp tục. Bài viết này đã được cùng viết bởi Alex Kwan. Ông cũng là phó chủ tịch của một trong năm công ty tư nhân hàng đầu. Với hơn mười năm kinh nghiệm làm kế toán viên công chứng, ông chuyên cung cấp dịch vụ kế toán và tư vấn lấy khách hàng làm trọng tâm, dịch vụ thuế nghiên cứu & phát triển và mảng doanh nghiệp nhỏ. Chi phí biên là chi phí mà bạn (hoặc doanh nghiệp của bạn) phải chịu khi sản xuất các đơn vị sản phẩm hoặc dịch vụ tăng thêm. Chi phí biên cũng có thể được nói đến như “chi phí của đơn vị cuối cùng”. Bạn cần biết chi phí biên để có thể tăng lợi nhuận đến mức tối đa. Để tính chi phí biên, bạn sẽ chia mức chênh lệch chi phí cho mức chênh lệch sản lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ. Tìm mức sản lượng mà ở đó các chi phí cố định sẽ thay đổi. Để tính chi phí biên, bạn cần biết tổng chi phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hoặc dịch vụ đầu ra. Các chi phí cố định sẽ giữ nguyên trong quá trình phân tích chi phí, do đó bạn cần tìm mức sản lượng mà tại đó bạn phải tăng các chi phí cố định. Ví dụ, nếu bạn làm chủ một tiệm bánh cupcake, lò nướng sẽ là chi phí cố định của bạn. Nếu các lò nướng có khả năng nướng 1.000 chiếc bánh một ngày, vậy thì 1.000 sẽ là số lượng bánh tối đa mà bạn sẽ dựa vào để phân tích chi phí. Nếu bạn sản xuất hơn 1.000 chiếc bánh, chi phí cố định của bạn sẽ thay đổi vì bạn sẽ phải mua thêm lò nướng. Ví dụ, giả sử bạn làm chủ một spa cung cấp dịch vụ mát-xa với 3-5 suất một ngày, và bạn muốn tính chi phí biên khi tăng thêm một suất mát-xa. Trong trường hợp này, 1 đơn vị là khoảng hợp lý. Nếu là một doanh nghiệp sản xuất sản phẩm, có thể bạn phải xem xét mức chênh lệch sản lượng lớn hơn. Ví dụ, nếu công ty của bạn sản xuất ra 500 sản phẩm mỗi ngày, có thể bạn muốn tính chi phí biên khi sản xuất thêm 100, rồi 200 sản phẩm, v.v…. Lời khuyên: Nếu bạn gặp khó khăn khi xác định khoảng mà bạn sẽ dùng để đánh giá, ban đầu bạn hãy sử dụng một khoảng nhỏ. Nếu chi phí biên mà bạn tính được có con số cực nhỏ, bạn có thể tính lại với khoảng lớn hơn. Ví dụ, giả sử bạn làm chủ một spa cung cấp dịch vụ mát-xa với 3-5 suất một ngày, và bạn muốn tính chi phí biên khi tăng thêm một suất mát-xa. Trong trường hợp này, 1 đơn vị là khoảng hợp lý. Nếu là một doanh nghiệp sản xuất sản phẩm, có thể bạn phải xem xét mức chênh lệch sản lượng lớn hơn. Ví dụ, nếu công ty của bạn sản xuất ra 500 sản phẩm mỗi ngày, có thể bạn muốn tính chi phí biên khi sản xuất thêm 100, rồi 200 sản phẩm, v.v…. Lời khuyên: Nếu bạn gặp khó khăn khi xác định khoảng mà bạn sẽ dùng để đánh giá, ban đầu bạn hãy sử dụng một khoảng nhỏ. Nếu chi phí biên mà bạn tính được có con số cực nhỏ, bạn có thể tính lại với khoảng lớn hơn. Lấy số đơn vị của mẻ sản xuất sau trừ đi số đơn vị của mẻ sản xuất trước. Mỗi khoảng là một mẻ sản xuất. Để tìm mức chênh lệch sản lượng, bạn chỉ cần lấy sản lượng mới trừ đi sản lượng cũ. Ví dụ, nếu công ty của bạn sản xuất ra 500 sản phẩm một ngày và bạn muốn tính chi phí biên khi sản xuất 600 sản phẩm một ngày, mức chênh lệch sản lượng của bạn sẽ là 100. Tính tổng chi phí sản xuất. Tổng chi phí bao gồm cả chi phí cố định và chi phí biến đổi của một số lượng cụ thể đơn vị sản phẩm hoặc dịch vụ. Chi phí cố định là các chi phí không thay đổi trong khoảng thời gian mà bạn đang đánh giá. Trái lại, chi phí biến đổi có thể thay đổi tăng hoặc giảm tuỳ vào tình huống. Các chi phí đầu tư, chẳng hạn như các thiết bị, thường là chi phí cố định. Số tiền thuê mặt bằng trả mỗi tháng cũng là chi phí cố định. Chi phí biến đổi bao gồm các chi phí tiện ích, lương nhân viên và nguyên vật liệu sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Các chi phí này là chi phí biến đổi vì chúng thường sẽ tăng khi mức sản xuất gia tăng. Tính chi phí biến đổi cho từng mức sản lượng hoặc khoảng sản xuất. Cộng các chi phí biến đổi với chi phí cố định để có tổng chi phí. Lời khuyên: Tổng chi phí cho từng mức sản lượng hoặc khoảng sản xuất là con số duy nhất mà bạn cần để tính chi phí biên. Bạn không cần biết chi phí cố định và chi phí biến đổi chiếm tỷ lệ bao nhiêu, mặc dù dữ kiện này có thể hữu ích trong các hoàn cảnh khác. Các chi phí đầu tư, chẳng hạn như các thiết bị, thường là chi phí cố định. Số tiền thuê mặt bằng trả mỗi tháng cũng là chi phí cố định. Chi phí biến đổi bao gồm các chi phí tiện ích, lương nhân viên và nguyên vật liệu sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Các chi phí này là chi phí biến đổi vì chúng thường sẽ tăng khi mức sản xuất gia tăng. Tính chi phí biến đổi cho từng mức sản lượng hoặc khoảng sản xuất. Cộng các chi phí biến đổi với chi phí cố định để có tổng chi phí. Lời khuyên: Tổng chi phí cho từng mức sản lượng hoặc khoảng sản xuất là con số duy nhất mà bạn cần để tính chi phí biên. Bạn không cần biết chi phí cố định và chi phí biến đổi chiếm tỷ lệ bao nhiêu, mặc dù dữ kiện này có thể hữu ích trong các hoàn cảnh khác. Ví dụ, nếu tổng chi phí để sản xuất 500 sản phẩm là is 500, chi phí trung bình cho từng đơn vị sẽ là 1. Nhưng nếu tổng chi phí để sản xuất ra 600 sản phẩm là 550, chi phí trung bình cho từng đơn vị của số lượng đó sẽ là 0,92. Bạn cũng có thể tính chi phí cố định trung bình và chi phí biến đổi trung bình. Lời khuyên: Mặc dù con số chi phí trung bình không được dùng để tính chi phí biên, nhưng các số này có thể giúp bạn tính toán mức sản xuất tốt nhất có thể để tăng tối đa lợi nhuận cho sản phẩm hoặc dịch vụ của bạn. Ví dụ, nếu tổng chi phí để sản xuất 500 sản phẩm là is 500, chi phí trung bình cho từng đơn vị sẽ là 1. Nhưng nếu tổng chi phí để sản xuất ra 600 sản phẩm là 550, chi phí trung bình cho từng đơn vị của số lượng đó sẽ là 0,92. Bạn cũng có thể tính chi phí cố định trung bình và chi phí biến đổi trung bình. Lời khuyên: Mặc dù con số chi phí trung bình không được dùng để tính chi phí biên, nhưng các số này có thể giúp bạn tính toán mức sản xuất tốt nhất có thể để tăng tối đa lợi nhuận cho sản phẩm hoặc dịch vụ của bạn. Lấy chi phí mới trừ đi chi phí cũ để có số chênh lệch chi phí. Mức chênh lệch chi phí được tính tương tự như mức chênh lệch số lượng. Lấy chi phí trong khoảng sản xuất hoặc mức sản lượng lớn hơn trừ đi chi phí trong mức sản lượng nhỏ hơn. Con số này là mức chênh lệch chi phí trong khoảng cụ thể đó. Ví dụ, nếu chi phí để sản xuất 500 sản phẩm là 500 và chi phí để sản xuất 600 sản phẩm là 550, mức chênh lệch chi phí của bạn sẽ là 50. Chia mức chênh lệch chi phí cho mức chênh lệch sản lượng. Công thức tính chi phí biên là lấy chênh lệch chi phí chia cho chênh lệch sản lượng. Khi đã tìm ra mức chênh lệch tổng chi phí và mức chênh lệch sản lượng, bạn có thể sử dụng hai con số này để tính chi phí biên một cách dễ dàng và nhanh chóng. Ví dụ, bạn muốn tính chi phí biên cho hoạt động sản xuất từ 500 tăng lên 600 sản phẩm một ngày. Chênh lệch chi phí là 50 và chênh lệch sản lượng là 100. Như vậy, chi phí biên sẽ là 0,50. Lặp lại phép tính cho các khoảng tăng thêm. Chi phí biên có thể tăng hoặc giảm khi bạn tiếp tục gia tăng sản xuất. Mục đích cuối cùng của bạn là sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ với mức chi phí biên thấp nhất có thể. Ví dụ, chi phí biên để sản xuất ra 600 sản phẩm thay vì 500 sản phẩm là 0,50. Tuy nhiên, chi phí biên để sản xuất 100 sản phẩm tăng thêm (700 sản phẩm) sẽ chỉ là 0,32. Như vậy, sản xuất 700 sản phẩm sẽ có mức chi phí hiệu quả hơn so với khi sản xuất 500 sản phẩm. Chi phí biên của bạn không phải lúc nào cũng giảm. Đến cuối cùng nó sẽ tăng. Ví dụ, nếu bạn phải thuê thêm một nhân công nữa để sản xuất 800 sản phẩm, chi phí biên có thể sẽ tăng lên thành 0,52. Ví dụ, chi phí biên để sản xuất ra 600 sản phẩm thay vì 500 sản phẩm là 0,50. Tuy nhiên, chi phí biên để sản xuất 100 sản phẩm tăng thêm (700 sản phẩm) sẽ chỉ là 0,32. Như vậy, sản xuất 700 sản phẩm sẽ có mức chi phí hiệu quả hơn so với khi sản xuất 500 sản phẩm. Chi phí biên của bạn không phải lúc nào cũng giảm. Đến cuối cùng nó sẽ tăng. Ví dụ, nếu bạn phải thuê thêm một nhân công nữa để sản xuất 800 sản phẩm, chi phí biên có thể sẽ tăng lên thành 0,52. Nhập dữ liệu vào bảng tính để tạo đường cong chi phí. Khi nhập dữ liệu vào bảng tính, bạn có thể tạo đồ thị thể hiện chi phí biên cho từng khoảng sản xuất hoặc mức sản lượng. Đường cong chi phí biên có dạng hình chữ U. Đường cong xuất hiện ngay đầu đồ thị, trong đó các đơn vị tăng thêm sẽ tốn thêm chi phí. Việc vẽ đồ thị với các dữ liệu sẽ cho phép bạn xác định mức sản xuất nào có chi phí hiệu quả nhất cho doanh nghiệp của bạn. Lời khuyên: Nếu đã tính toán tổng chi phí trung bình và chi phí biến đổi trung bình, bạn cũng có thể tạo đường cong đồ thị cho các chi phí này. Các đường cong này cũng có dạng chữ U, mặc dù chữ U sẽ xuất hiện trên trục muộn hơn so với đường cong biểu diễn chi phí biên. Việc vẽ đồ thị với các dữ liệu sẽ cho phép bạn xác định mức sản xuất nào có chi phí hiệu quả nhất cho doanh nghiệp của bạn. Lời khuyên: Nếu đã tính toán tổng chi phí trung bình và chi phí biến đổi trung bình, bạn cũng có thể tạo đường cong đồ thị cho các chi phí này. Các đường cong này cũng có dạng chữ U, mặc dù chữ U sẽ xuất hiện trên trục muộn hơn so với đường cong biểu diễn chi phí biên.
Chi phí biên
Chi phí biên là mức thay đổi trong tổng chi phí khi hãng tăng sản lượng thêm một đơn vị. Ở đây, chúng ta giả thiết là trang thiết bị sản xuất của hãng không thay đổi. Chi phí biên chính bằng đạo hàm của tổng chi phí theo sản lượng. Gọi tổng chi phí là TC, sản lượng là Q, còn chi phí biên là MC. Biểu diễn bằng hình vẽ, chi phí biên là đường có dạng hình chữ U. Hãng có thể thực hiện được tối đa hóa lợi nhuận khi làm cho chi phí biên, doanh thu biên và giá thành sản phẩm bằng nhau. Nếu doanh thu biên lớn hơn chi phí biên thì nó sẽ cho phép tăng sản lượng vì điều đó sẽ làm tăng thêm tổng lợi nhuận. Tương tự, nếu doanh thu biên nhỏ hơn chi phí biên thì lợi nhuận có thể tăng lên bằng cách giảm sản lượng.
Đầu tư giá trị và đầu tư tăng trưởng là một môn học đầu tư được phổ biến được giảng dạy và chia sẻ rất nhiều trong sách đầu tư giá trị. Đầu tư tăng trưởng tìm cách xác định các cổ phiếu bị định giá thấp đang giao dịch dưới giá trị nội tại của họ, và mua và giữ chúng cho đến khi họ quay lại. Các cổ phiếu giá trị như vậy thường giao dịch theo hệ số giá trên lợi nhuận một cổ phiếu (P/E) và giá trên sổ sách (P/B) thấp hơn đáng kể so với định giá mà thị trường hoặc các công ty và quỹ đầu tư cùng ngành giao dịch. Trong khi nhà đầu tư giá trị Warren Buffett đã tích lũy được một khối tài sản khổng lồ bằng cách tuân thủ các nguyên tắc đầu tư tăng trưởng, không có nghi ngờ gì đối với chúng ta, những người ít tiền hơn, đầu tư tăng trưởng còn có những khó khăn không thể phủ nhận. Chúng tôi thảo luận về một số ưu và nhược điểm dưới đây. Tiềm năng cho lợi nhuận ngoạn mục: Đầu tư tăng trưởng mang lại tiềm năng lợi nhuận cao, bởi vì họ tìm cách mua cổ phiếu khi giao dịch giảm giá so với giá trị nội tại và bán nó khi giao dịch ở mức hoặc cao hơn giá trị nội tại. Các cổ phiếu có thể quay vòng thành công có thể tạo ra lợi nhuận theo cấp số nhân theo thời gian, khi thu nhập của họ được cải thiện và họ được các nhà đầu tư đánh giá cao hơn. Rủi ro / Phần thưởng hấp dẫn: Các cổ phiếu giá trị thường giao dịch ở mức định giá khá thấp và cũng có thể có giá đô la thấp, điều đó có nghĩa là rủi ro giảm giá được giới hạn. Mặt khác, như đã lưu ý trước đó, tiềm năng cho lợi nhuận ngoạn mục tồn tại, nếu nhà đầu tư tăng trưởng đã đo lường chính xác cổ phiếu. Sự kết hợp này tạo ra một khoản thưởng rủi ro / phần thưởng hấp dẫn cho một cổ phiếu giá trị điển hình. Dựa trên nghiên cứu vững chắc thay vì những lời khuyên hấp dẫn: đầu tư tăng trưởng dựa trên việc xác định giá trị nội tại của cổ phiếu và biên độ an toàn của nó, đó là đệm giảm giá có sẵn cho nhà đầu tư tăng trưởng thông qua định giá chiết khấu của cổ phiếu. Điều này đòi hỏi nghiên cứu vững chắc được thực hiện trên một cổ phiếu giá trị, các đồng nghiệp của nó và khu vực. Các nhà đầu tư tăng trưởng không có khả năng tìm thấy các ứng cử viên chứng khoán của họ thông qua các mẹo cường điệu hoặc nóng. Skewed hướng tới Blue Chips: Các số liệu định giá mong muốn của một cổ phiếu giá trị như P / E thấp, P / B thấp hoặc tỷ suất cổ tức trên trung bình, nghiêng tỷ lệ đối với các blue-chip, thường an toàn hơn so với các đối tác có vốn hóa nhỏ hơn . Người tham gia sớm vào quay vòng: Các nhà đầu tư tăng trưởng thường là những người tham gia sớm nhất vào một cổ phiếu đang quay vòng. Điều này có nghĩa là giá vào cửa của họ có thể thấp hơn đáng kể so với các nhà đầu tư khác đến trễ bữa tiệc. Giá đầu vào thấp cho phép biến động cổ phiếu bị hấp thụ: Giá đầu vào thấp cũng có nghĩa là nhà đầu tư tăng trưởng có thể điều chỉnh biến động giá cổ phiếu vì điểm hòa vốn thấp hơn. Cần một cách tiếp cận tương phản: đầu tư tăng trưởng cần một cách tiếp cận trái ngược hoặc tuyên bố để chống lại bầy đàn, vì một người đang đặt cược chống lại quan điểm của đa số rằng cổ phiếu là một trường hợp rổ hoặc sắp trở thành một. Việc chấp nhận một quan điểm trái ngược nhất quán là nói dễ hơn làm. Rủi ro bị bắt trong bẫy giá trị của người khác: Nếu quan điểm của đa số hóa ra là đúng đối với một cổ phiếu giá trị, nhà đầu tư tăng trưởng có nguy cơ buộc vốn của mình vào bẫy giá trị, trong trường hợp anh ta hoặc cô ta có thể không có lựa chọn nào khác ngoài việc thoát khỏi vị trí thua lỗ đáng kể. Đây là một lý do chính tại sao đầu tư tăng trưởng thường được so sánh với việc cố gắng bắt một con dao rơi. Mất mát rất lớn có thể dẫn đến trung bình giảm: Một câu thần chú được một số nhà đầu tư tăng trưởng tán thành là nếu bạn thích một cổ phiếu ở mức 20 đô la, bạn nên yêu thích nó ở mức 10 đô la, gợi ý rằng người ta nên giảm trung bình một cổ phiếu giá trị tiếp tục giảm. Điều này thường có thể có hậu quả tai hại. Một ví dụ nổi tiếng là nhà quản lý quỹ ngôi sao Bill Miller, người có thành tích xuất sắc vượt trội so với S&P 500 trong thời gian 15 năm đã bị mờ nhạt khi ông nạp vào ngân hàng và các tổ chức tài chính vào năm 2008, khiến quỹ của ông mất 58% so với giai đoạn 12 tháng kết thúc vào tháng 12 năm 2008. Có thể bỏ lỡ các ngành nóng: Một trong những ngành nóng nhất trong thị trường tăng giá bắt đầu vào tháng 3 năm 2009 là ngành công nghệ sinh học, với các công ty công nghệ sinh học lớn nhất tăng trung bình 500% trong sáu năm tới. Trong lĩnh vực công nghệ sinh học, trong hầu hết các trường hợp sẽ là sự buộc tội đối với một nhà đầu tư tăng trưởng vì giá trị cao ngất trời của nó. Do đó, các nhà đầu tư giá trị có nguy cơ bỏ lỡ các lĩnh vực nóng có thể tăng hiệu suất danh mục đầu tư. Nồng độ danh mục đầu tư: Cổ phiếu giá trị có thể được tập hợp trong các lĩnh vực tạm thời không được ưa chuộng, chẳng hạn như cổ phiếu ngân hàng năm 2009 hoặc cổ phiếu năng lượng năm 2015. Điều này có thể dẫn đến một danh mục đầu tư theo định hướng giá trị tập trung vào một số lĩnh vực, và do đó không đầy đủ đa dạng. Khó tìm ứng viên giá trị trong thị trường Big Bull: Việc xác định ứng viên có giá trị tốt trong thị trường tăng trưởng dài và ngày càng khó khăn, vì hầu hết các cổ phiếu có thể được giao dịch ở mức định giá cao. Do đó, nhà đầu tư tăng trưởng có thể phải chờ đợi thời gian của mình cho đến khi có nhiều sự lựa chọn hơn trong vũ trụ của các cổ phiếu giá trị. Thời gian nắm giữ dài: Đầu tư giá trị đòi hỏi khả năng nắm giữ cổ phiếu trong nhiều năm, vì nó có thể mất rất nhiều thời gian trước khi có sự thay đổi trong vận may của cổ phiếu và tâm lý nhà đầu tư đối với nó. Đầu tư giá trị có lợi thế của nó, nhưng nó cũng có nhược điểm đáng kể. Các nhà đầu tư đang cân nhắc tuân theo kỷ luật đầu tư này nên nhận thức được cả hai. anhemtrader.com – Mạng xã hội mở giúp các thành viên của Cộng đồng Trader Việt Nam trò chuyện, chia sẻ kiến thức giao dịch ngoại hối, chứng khoán. Hơn nữa, chúng tôi tìm cách cung cấp nội dung giáo dục và kích thích tư duy để giúp giáo dục tốt hơn các thành viên của chúng tôi trong sự nghiệp giao dịch của họ.Giao dịch trên thị trường tài chính sử dụng đòn bẩy có thể rủi ro làm mất số vốn của bạn. Vui lòng đảm bảo bạn đã hiểu rõ các rủi ro này.
Đầu tư giá trị
Đầu tư giá trị là một phong cách đầu tư liên quan đến việc mua những loại cổ phiếu có mức giá thấp hơn giá trị thực thông qua một số hình thức phân tích cơ bản. Các hình thức đầu tư giá trị tuy khác nhau nhưng đều bắt nguồn từ triết lý đầu tư được giảng dạy lần đầu bởi Benjamin Graham và David Dodd tại Trường Kinh doanh Columbia vào năm 1928, sau đó các lý thuyết của phương pháp đầu tư này được phát triển thêm trong cuốn sách Phân tích Chứng khoán của họ vào năm 1934. Ban đầu, những cơ hội đầu tư giá trị được xác định bởi Graham và Dodd bao gồm cổ phiếu trong các công ty đại chúng đang có mức giá giao dịch thấp hơn so với mức giá trong giá trị sổ sách hoặc giá trị sổ sách hữu hình, những loại cổ phiếu có tỷ suất cổ tức cao, những cổ phiếu có tỷ lệ giá trên thu nhập (P/E) thấp hoặc tỷ lệ giá trên sổ sách thấp. Những nhà đầu tư giá trị thành công, trong đó có thể kể đến Warren Buffett, chủ tịch của Berkshire Hathaway, đã lập luận rằng bản chất của đầu tư giá trị là mua các cổ phiếu với mức giá thấp hơn giá trị nội tại của chúng.
Giải bóng đá vô địch thế giới 1950 (tên chính thức là 1950 Football World Cup – Brazil / IV Campeonato Mundial de Futebol) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ bốn. Giải đấu được tổ chức từ ngày 24 tháng 6 đến 16 tháng 7 năm 1950 tại Brasil. 2 mùa giải World Cup 1942 và 1946 không tổ chức do ảnh hưởng của chiến tranh thế giới thứ hai. Sau 23 ngày và 22 trận đấu, Uruguay đã trở thành vô địch thế giới lần thứ hai. Còn Ý trở thành đội đương kim vô địch đầu tiên bị loại ngay từ vòng bảng. 34 đội bóng tham dự vòng tuyển và được chia vào 10 nhóm để chọn ra 11 đội vào vòng chung kết cùng với nước chủ nhà Brasil và đội đương kim vô địch thế giới Ý. Đáng chú ý, ĐT Anh đã lần đầu tiên tham dự sau 3 kỳ từ chối tham dự. Trước giải ĐT Thổ Nhĩ Kỳ và ĐT Peru bỏ cuộc vì lý do riêng.
Giải vô địch bóng đá thế giới 1966
Giải bóng đá vô địch thế giới 1966 (tên chính thức là 1966 Football World Cup - England / World Cup 1966 - England) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 8 và đã được tổ chức từ ngày 11 đến ngày 30 tháng 7 năm 1966 tại Anh. Các trận đấu được diễn ra tại tám sân vận động trên khắp nước Anh, với trận chung kết được tổ chức tại sân vận động Wembley, có sức chứa 98.600 khán giả. Sự kiện này năm 1966 có số lượng đội tham gia cao nhất của bất kỳ giải đấu quốc tế nào cho đến lúc bấy giờ, với 70 quốc gia tham gia. Trước giải đấu, chiếc cúp Jules Rimet đã bị đánh cắp, nhưng đã được một chú chó tên Pickles tìm thấy 4 tháng trước khi giải đấu bắt đầu. Trận chung kết, được BBC phát sóng tại chỗ, là lần cuối cùng được giải đấu được chiếu hoàn toàn bằng truyền hình đen trắng. 31 quốc gia châu Á đã tẩy chay World Cup vì phản đối số lượng các đội hạt giống được FIFA bảo đảm vào vòng chung kết của giải năm đó. Sau 32 trận đấu, chủ nhà Anh đoạt chức vô địch thế giới sau khi đánh bại Tây Đức 4-2 trong trận chung kết để giành chức vô địch thế giới đầu tiên của họ; Trận đấu đã kết thúc với tỷ số 2–2 sau 90 phút và đến hiệp phụ, khi Geoff Hurst ghi hai bàn thắng để hoàn thành cú hat-trick (dù bàn thắng thứ 2 của ông đã gây ra nhiều tranh cãi dữ dội và cực kỳ gay gắt giống như ở tại World Cup 2010), đây là hat-trick lần đầu tiên được ghi trong một trận chung kết World Cup, với khán giả chạy thẳng vào sân sau bàn thứ tư.
Âm thanh vòm (Surround Sound) là một hệ thống các loa được đặt xung quanh người nghe dùng để tái tạo không gian âm thanh, người nghe sẽ được trải nghiệm âm thanh một cách chân thực nhất, giống như đang hòa mình vào những thước phim gay cấn. Đơn giản nhất là khi đi xem phim ở các rạp, bạn sẽ cảm nhận được âm thanh được phát ra từ nhiều hướng khác nhau, trước mặt, sau lưng, bên trái, bên phải thậm chí là từ trên xuống nữa. Nói một cách chính xác hơn, Các âm thanh này cho người nghe trải nghiệm giống như mình đang ở hiện trường sự việc. Tiếp theo là các loa trên bao quanh 2 bên vị trí người nghe tạo ra hiệu ứng hình vòm. Sau cùng là một loa đặt ở phía sau người nghe chuyên phát các âm thanh rất trầm, những tiếng động trầm, âm vang trong phim. Đó cũng là nền tảng để đưa ra các chỉ số loa (như 2.0. 5.1…) được sử dụng trong hệ thống âm thanh vòm. Con số đầu tiên dùng để chỉ các kênh riêng biệt, hoặc độc lập, toàn dải (có đáp tần từ 20Hz tới 20.000 Hz). Như vậy 2.0 có nghĩa là hệ thống có 2 kênh, sử dụng 2 loa còn được gọi là stereo, còn hệ thống 4.0 nghĩa là có 4 kênh truyền qua 4 loa riêng biệt trong hệ thống. Còn 5.1 có nghĩa là hệ thống có một loa siêu trầm chỉ từ từ 3Hz tới 120Hz. Như vậy thì hệ thống loa 5.1 có nghĩa là có năm loa riêng biệt gồm loa trung tâm, loa trái trước, phải trước, loa surround trái, surround phải và 1 loa siêu trầm. Ý tưởng đằng sau hệ thống âm thanh vòm truyền thống khá đơn giản: các loa được đặt xung quanh người nghe sẽ phát ra âm thanh bao quanh bạn. Nhưng các loa thanh (sound bar) thế hệ mới lại được quảng cáo là có khả năng phát ra âm thanh vòm, dù chỉ có một loa duy nhất đặt trước mặt bạn. Có thực sự như vậy không?. Tính năng "âm thanh vòm" mà các loa thanh quảng cáo, đặc biệt là các mẫu loa giá rẻ, thực ra chỉ là hiệu ứng âm thanh stereo mạnh hơn bình thường phát ra từ 2 hoặc nhiều trình điều khiển loa được tích hợp trong loa thanh đó. Các loa thanh đắt tiền hơn, đặc biệt là các loa thanh mới nhất có tính năng Dolby Atmos, thì có thể giả lập âm thanh vòm với hiệu quả cực kỳ đáng ngạc nhiên. Đây cũng không phải âm thanh vòm "thứ thiệt" - bạn không thể thay đổi quy luật vật lý được - nhưng nó tạo ra cảm giác rất thực nhờ việc làm cho các làn sóng âm dội vào tường trong phòng và vọng lại. Một bộ loa thanh thông thường, thường chỉ là một hệ thống loa stereo có chất lượng hơn đôi chút so với các loa trên TV. Các loa thanh này thậm chí không thể "làm giả" âm thanh vòm, nhưng ít ra, chúng cũng có sức mạnh tối thiểu 100 watts, âm thanh nghe rõ ràng và giàu âm hơn so với các hệ thống loa TV được tích hợp sẵn. Một số bộ loa thanh còn đi kèm một loa sub (hệ thống stereo 2.1), nhưng các trình điều khiển loa vẫn phải cần 2 luồng âm thanh để phát được âm thanh stereo tiêu chuẩn. Một số loa thanh được tích hợp chế độ âm thanh vòm, hoặc trong phần mềm điều khiển chúng có profile giả lập âm thanh vòm để tạo thêm không gian giữa các kênh trái - phải của âm thanh xuất ra nhờ thay đổi tần số và thời gian. Nhưng về cơ bản, bạn vẫn đang nghe 2 kênh âm thanh mà thôi, và cả hai kênh này đều phát ra từ trước mặt bạn. Ví dụ, một loa thanh Dunn của Thonet & Vander cũng hỗ trợ âm thanh của TV với mức tối ưu nhất. Vậy còn các loa thanh trung cấp với 5 trình điều khiển loa khác nhau, hay thậm chí là 7 trình điều khiển loa? Trong trường hợp này, mỗi trình điều khiển có thể chơi một kênh riêng biệt từ một đoạn nhạc 5.1 hoặc 7.1, và tai bạn sẽ nghe được mọi âm thanh phát ra. Ví dụ, một mẫu loa thanh của Thonet & Vander Dunn có 5 loa trong một thanh, tương ứng với kênh giữa, trái trước, phải trước, vòm trái, vòm phải. Bạn sẽ nghe được các kênh trước, bên và sau, giống hệt như chúng xuất phát từ các nguồn khác nhau, nhưng thực ra chúng đều phát ra từ ngay trước mặt bạn. Có còn hơn không, nhưng rõ ràng chất lượng âm thanh không thể bằng một hệ thống âm thanh vòm đích thực với các loa được đặt đúng vị trí xung quanh người dùng. Các loa thanh mà chúng ta đang nói đến ở đây thực ra chỉ là âm thanh đa kênh mà thôi. Với mức giá cao hơn, bạn sẽ được trải nghiệm âm thanh hấp dẫn hơn nhiều. Với sự xuất hiện của các công cụ phần mềm âm thanh vòm tiên tiến như Dolby Atmos và một số kỹ thuật thông minh, các hệ thống loa thanh phức tạp có thể tạo ra âm thanh vòm giả lập cực kỳ ấn tượng chỉ bằng một thiết bị duy nhất (thường được dùng thêm với 1 loa sub để tăng độ sâu cho bass). Điều này có thể thực hiện được nhờ việc chỉnh lại các trình điều khiển âm thanh theo những hướng nhất định để dội các làn sóng âm vào tường trong phòng và quay lại phía người nghe từ các hướng khác. Chọn lựa tai nghe phù hợp với nhu cầu sử dụng và tiêu chuẩn của mỗi người là điều khó khắn. Thonet & Vander gợi ý một số tiêu chí để chọn tai nghe hữu ích. Nhiều khi bạn không thể thưởng thức âm thanh tốt nhất vì bạn không thể khai thác tối đa thiết bị âm thanh của mình. Chúng ta thường không nhận ra âm thanh stereo của mình tốt như thế nào. Cho dù đó là loa 2.0, loa 2.1, hệ thống rạp hát gia đình, loa PC hay soundbar, chúng ta không bận. Cáp quáng Toslink Faser có các đầu vào đường truyền và kết nối Bluetooth, bao gồm đầu vào quang SPDIF, để bạn có thể thưởng thức âm thanh của Smart TV với chất. Đôi khi, các việc mà bạn thực hiện thường xuyên với pin của loa di động có thể gây hại. Trong lưu ý này ,mình muốn chia sẻ với bạn về cách chăm sóc pin của loa. Hôm nay, chúng tôi chia sẻ với bạn về cách âm nhạc tác động đến chỉ số IQ của trẻ em. Âm nhạc tạo thành một yếu tố biến đổi trong não bộ của trẻ, đến mức.
Âm thanh vòm
Âm thanh vòm là một kỹ thuật để làm phong phú độ trung thực và độ sâu của tái tạo âm thanh bằng cách sử dụng nhiều kênh âm thanh từ các loa bao quanh người nghe (các kênh vòm). Ứng dụng đầu tiên của nó là trong rạp chiếu phim. Trước âm thanh vòm, hệ thống âm thanh nhà hát thường có ba "kênh màn hình" âm thanh, từ các loa đặt trước khán giả ở bên trái, giữa và phải. Âm thanh vòm thêm một hoặc nhiều kênh từ loa phía sau người nghe, có thể tạo cảm giác âm thanh phát ra từ bất kỳ hướng ngang 360° nào xung quanh người nghe. Các định dạng âm thanh vòm khác nhau trong các phương pháp tái tạo và ghi âm cùng với số lượng và vị trí của các kênh bổ sung. Thông số âm thanh vòm phổ biến nhất, tiêu chuẩn 5.1 của ITU, yêu cầu 6 loa: Center (C) ở phía trước người nghe, Trái (L) và Phải (R) ở các góc 60 ° ở hai bên của trung tâm, và Left Surround (LS) và Right Surround (RS) ở các góc 100-120°, cộng với một loa siêu trầm có vị trí không quan trọng.
Năng suất lao động đo lường sản lượng tạo ra hàng giờ của nền kinh tế một đất nước. Cụ thể, nó biểu thị số lượng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực sự được tạo ra trong một giờ lao động. Tăng trưởng năng suất lao động phụ thuộc vào ba yếu tố chính: tiết kiệm và đầu tư vào vốn hiện vật, công nghệ mới và vốn nhân lực. Năng suất lao động được định nghĩa là sản lượng kinh tế thực tế trên mỗi giờ lao động. Tăng trưởng năng suất lao động được đo bằng sự thay đổi sản lượng kinh tế trên mỗi giờ lao động trong một khoảng thời gian xác định. Để tính năng suất lao động của một quốc gia, chia tổng sản lượng cho tổng số giờ lao động. Ví dụ: giả sử GDP thực tế của một nền kinh tế là 10.000 tỉ USD và tổng số giờ lao động trong nước là 300 tỉ giờ. Năng suất lao động sẽ là 10.000 tỉ USD chia cho 300 tỉ giờ, tương đương khoảng 33 USD mỗi giờ lao động. Nếu GDP thực tế của nền kinh tế đó tăng lên 20.000 tỉ USD vào năm tới và số giờ lao động tăng thành 350 tỉ giờ, tăng trưởng năng suất lao động của nền kinh tế sẽ xấp xỉ 72%. Tăng trưởng năng suất lao động đôi khi có thể được hiểu là mức sống trong nước được cải thiện. Năng suất lao động có liên kết trực tiếp với cải thiện mức sống dưới hình thức tiêu dùng cao hơn. Năng suất lao động của một nền kinh tế tăng tạo ra nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn cho cùng một lượng công việc. Sự gia tăng sản lượng này giúp mọi người có thể tiêu thụ nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn với giá ngày càng hợp lí. Tăng trưởng năng suất lao động có liên quan trực tiếp đến sự biến động của vốn hiện vật, công nghệ mới và vốn nhân lực. Năng suất lao động tăng lên thường bắt nguồn từ tăng trưởng ở một trong ba lĩnh vực trên. Đo lường năng suất lao động giúp đưa ra ước tính về tác động kết hợp của các xu hướng của ba lĩnh vực trên. Năng suất lao động cũng có thể chỉ ra những thay đổi ngắn hạn và thay đổi theo chu kì trong một nền kinh tế. Nếu sản lượng tăng trong khi số giờ lao động gần như không đổi, thì nó báo hiệu rằng lực lượng lao động đã trở nên năng suất hơn. Ngoài ba yếu tố nêu ở trên, hiện tượng này cũng xuất hiện trong thời kì suy thoái kinh tế, khi người lao động tăng cường nỗ lực lao động để tránh mất việc khi tỉ lệ thất nghiệp tăng và mối đe dọa sa thải xuất hiện. Đầu tư vào vốn hiện vật: chính phủ và khu vực tư nhân tăng đầu tư vào tư liệu sản xuất, bao gồm cơ sở hạ tầng có thể giúp tăng năng suất và đồng thời giảm chi phí kinh doanh. Chất lượng giáo dục và đào tạo: Tạo cơ hội cho người lao động nâng cao các kĩ năng của họ, và cung cấp giáo dục và đào tạo với chi phí phải chăng, giúp nâng cao năng lực của các doanh nghiệp và năng suất chung của nền kinh tế. Tiến bộ công nghệ: Phát triển các công nghệ mới, như máy tính hoặc robot và các phương thức cải cách hoạt động kinh doanh có thể nâng cao năng suất của người lao động.
Năng suất lao động
Năng suất lao động là một thuật ngữ để ám chỉ mức độ hiệu quả của việc sử dụng lao động. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, trong cuốn Đo lường năng suất, đo lường tốc độ tăng năng suất tổng thể và năng suất ngành xuất bản năm 2002, năng suất lao động là tỉ lệ giữa đầu ra và đầu vào. Nếu đầu ra là tổng giá trị quốc nội hoặc tổng giá trị gia tăng thì đầu vào lại là giờ công lao động, lực lương lao động và số lượng lao động đang làm việc.
Chữ ký số (token) là gì? Chữ ký số được dùng cho mục đích gì? Tại sao doanh nghiệp bắt buộc phải có? Cùng Anpha tìm hiểu về chữ ký số trong bài viết này. Có nhiều góc độ định nghĩa về token. Dưới góc độ doanh nghiệp sử dụng token thì chữ ký số/chứng thư số/token điện tử…là một thiết bị đã mã hóa tất cả dữ liệu, thông tin của một doanh nghiệp, dùng ký thay cho chữ ký trên các loại văn bản và tài liệu số thực hiện trong giao dịch điện tử hay qua mạng internet. Sự toàn vẹn nội dung của thông điệp dữ liệu kể từ khi thực hiện việc biến đổi nêu trên. + Chứng thư số là phần không thể tách rời của chữ ký số, chứa tất cả dữ liệu đã được mã hóa của doanh nghiệp. Thực chất, chứng thư số là phần mã hóa bên trong chữ ký số chứa đựng các thông tin định danh nhằm xác nhận cá nhân, doanh nghiệp nào là người sử dụng chữ ký số. Thông tin của doanh nghiệp mua chữ ký số như: Tên công ty, mã số thuế. Chữ ký số sử dụng để kê khai nộp thuế trực tuyến, kê khai hải quan điện tử, giao dịch ngân hàng điện tử, giao dịch chứng khoán điện tử, kê khai bảo hiểm xã hội điện tử, ký hóa đơn điện tử, cổng thông tin một cửa quốc gia, cơ quan hành chính…mà không phải in các tờ kê khai, đóng dấu đỏ của công ty. Cá nhân, doanh nghiệp có thể dùng chữ ký số để ký hợp đồng với các đối tác làm ăn trực tuyến mà không cần gặp nhau. Chỉ cần ký vào file hợp đồng và gửi qua email. Các hồ sơ trực tuyến được công nhận về mặt pháp lý tương đương các hồ sơ bản cứng (có chữ ký của người có thẩm quyền và con dấu của tổ chức/doanh nghiệp). Vì thế đây là bằng chứng chống chối bỏ trách nhiệm trên nội dung đã ký, giúp cá nhân/cơ quan/tổ chức yên tâm hơn với giao dịch điện tử của mình;. Ngoài ra, chữ ký số sẽ giúp việc trao đổi dữ liệu dễ dàng, nhanh chóng, đảm bảo tính pháp lý, tiết kiệm rất nhiều thời gian đi lại, chờ đợi, không phải in ấn hồ sơ. Việc ký kết cũng có thể diễn ra ở bất kì đâu, bất kì thời gian nào. Với chữ ký số, doanh nghiệp không còn phải in ấn và quản lý tài liệu giấy. Tổ chức/doanh nghiệp có thể điện tử hóa việc ký và lưu trữ các chứng từ, tài liệu như hợp đồng, chứng từ kế toán, báo cáo kế toán, báo cáo quản trị…. Vậy nên mua chữ ký số của nhà cung cấp nào? Hiện nay có hơn 15 tổ chức được Bộ thông tin và Truyền thông cho phép cung cấp dịch vụ chữ ký số như: VIETTEL, VNPT, FPT, BKAV, CK, VINA, NEWTEL, NACENCOMM, SAFE-CA…Chữ ký số của nhà cung cấp nào cũng đều tốt cả, tính năng sử dụng như nhau, quan trọng là bạn có chọn được đơn vị cung cấp dịch vụ (hay còn gọi là Đại lý/CTV chữ ký số) tốt hay không. Có 2 yếu tố bạn cần cân nhắc khi lựa chọn đại lý chữ ký số:. Về giá của chữ ký số: Trên thị trường có nhiều đại lý cạnh tranh không lành mạnh, họ thường bán cho doanh nghiệp gói dịch vụ chữ ký số thấp hơn các nhà cung cấp khác với nhiều ưu đãi như tặng kèm 500 số hóa đơn, phần mềm bảo hiểm xã hội. Nhưng để sử dụng được những khuyến mại này, doanh nghiệp phải chi trả thêm các chi phí khác để sử dụng như: Chi phí khởi tạo, cài đặt.Vì thế trước khi tìm hiểu giá bán bạn cần lưu ý:. Với kinh nghiệm nhiều năm cung cấp dịch vụ kế toán và làm việc với các nhà cung cấp dịch vụ chữ ký số, theo đánh giá của Anpha, Viettel-CA (chữ ký số Viettel) là đơn vị cung cấp chữ ký số uy tín hàng đầu ở Việt Nam, mặc dù giá thành cao hơn so với một vài nhà cung cấp khác nhưng chữ ký số của Viettel được đánh giá ổn định và đảm bảo được tính bảo mật cao. Ngoài ra, các vấn đề phát sinh trong quá trình sử dụng chữ ký số được Viettel xử lý rất nhanh. Bạn có thể tham khảo bảng giá và gói dịch vụ của Viettel tại đây. Chữ ký số hay token điện tử…là một thiết bị đã mã hóa tất cả dữ liệu, thông tin của một doanh nghiệp, dùng ký thay cho chữ ký trên các loại văn bản và tài liệu số thực hiện trong giao dịch điện tử hay qua mạng internet. Hay nói cách khác, chữ ký số là một dạng chữ ký điện tử. Nó có vai trò giống như chữ ký đối với cá nhân và con dấu đối với doanh nghiệp và được thừa nhận về mặt pháp lý. Chữ ký số sử dụng để kê khai nộp thuế trực tuyến, kê khai hải quan điện tử, giao dịch ngân hàng điện tử, giao dịch chứng khoán điện tử, kê khai bảo hiểm xã hội điện tử, cổng thông tin một cửa quốc gia, cơ quan hành chính, ký hợp đồng với đối tác làm ăn trực tuyến và gửi qua email. Trong chữ ký số sẽ chứa các thông tin như tên tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số, thông tin của doanh nghiệp như mã số thuế, tên công ty.và có các thông tin liên quan như số hiệu của chứng thư số, thời hạn có hiệu lực, khóa công khai. Doanh nghiệp có thể hoàn toàn yên tâm khi sử dụng chữ ký số. Bởi đây là thiết bị đảm bảo an toàn và chính xác, có tính bảo mật và toàn vẹn dữ liệu cao, là bằng chứng chống chối bỏ trách nhiệm trên nội dung đã ký, giúp cá nhân/cơ quan/tổ chức yên tâm hơn với giao dịch điện tử của mình. Gọi cho chúng tôi theo số 0938.268.123 (TP. HCM) hoặc 09844.777.11 (Hà Nội) để được hỗ trợ. Anpha là đại lý dịch vụ chữ ký số cấp 1 uy tín của Viettel. Anpha chuyên cung cấp chữ ký số đăng ký mới và. Hơn 14 năm kinh nghiệm cung cấp dịch vụ THÀNH LẬP CÔNG TY/DOANH NGHIỆP tại Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội và các. Hơn 13 năm kinh nghiệm, Anpha TỰ TIN hiểu những gì mà bạn và hơn 3500 doanh nghiệp đang sử dụng dịch vụ kế. Anpha sẽ hướng dẫn bạn cách tính 4 loại thuế chính (có ví dụ): lệ phí (thuế) môn bài, thuế giá trị gia. Chào chị, cảm ơn chị đã gửi thông tin, chữ ký số dùng để nộp tờ khai, phát hành, xuất hóa đơn, nộp báo cáo thuế.Vì vậy chị nên mua cks ngay sau khi có giấy phép đăng ký kinh doanh nhé. Tôi lo lắng vì chưa biết sử dụng. Chế độ hậu mãi của Anpha ra sao, Có giúp tôi làm và hướng dẫn cách lập các báo cáo thuế năm đầu được không. Nếu không thì giúp đến mức nào. Chào anh/chị, chuyên viên pháp lý Anpha sẽ gọi tư vấn cho anh/chị về chữ ký số và dịch vụ báo cáo thuế ạ. Cho e hỏi cty e chữ ký đã hết hạn.vậy giờ e muốn đăng ký tiếp thì mất bao lâu mới có ạ. Chào chị, thủ tục đăng ký gia hạn chữ ký số rất nhanh, không mất nhiều thời gian. Có thể xong trong ngày ạ. Nếu giao chữ ký số cho nhân viên toàn quyền sử dụng, thì chủ doanh nghiệp gặp rủi ro gì, khi nhân viên sử dụng sai mục đich? (ký khống các chứng từ, hóa đơn khác.)
Chữ ký số
Chữ ký số là một tập con của chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử là thông tin đi kèm theo dữ liệu (văn bản, hình ảnh, video.) nhằm mục đích xác định người chủ của dữ liệu đó. Cũng có thể sử dụng định nghĩa rộng hơn, bao hàm cả mã nhận thực, hàm băm và các thiết bị bút điện tử. Chữ ký số khóa công khai (hay hạ tầng khóa công khai) là mô hình sử dụng các kỹ thuật mật mã để gắn với mỗi người sử dụng một cặp khóa công khai - bí mật và qua đó có thể ký các văn bản điện tử cũng như trao đổi các thông tin mật. Khóa công khai thường được phân phối thông qua chứng thực khóa công khai. Quá trình sử dụng chữ ký số bao gồm 2 quá trình: tạo chữ ký và kiểm tra chữ ký. Khái niệm chữ ký điện tử - mặc dù thường được sử dụng cùng nghĩa với chữ ký số nhưng thực sự có nghĩa rộng hơn. Chữ ký điện tử chỉ đến bất kỳ phương pháp nào (không nhất thiết là mật mã) để xác định người chủ của văn bản điện tử.
Tôi vẫn thích gọi Vợ Ba là bộ phim tràn đầy tính nữ hơn là nữ quyền, vì nữ quyền nghe mạnh mẽ và quyết liệt quá, trong khi Vợ Ba đẹp như một bài thơ buồn và nữ tính như những cô gái mặc yếm đào xõa tóc ngồi bên dòng suối. Vợ Ba kể về cuộc sống và giá trị của người phụ nữ cuối thế kỷ 19. Nhân vật chính của phim là Mây, một cô gái nhỏ mới chỉ độ 13, 14 tuổi về làm dâu trong một gia đình giàu có. Sau khi phát hiện mình có sự rung cảm trước mợ Xuân và tận mắt chứng kiến những câu chuyện xảy ra trong gia đình nhà chồng, từ cô gái nhìn cuộc đời bằng đôi mắt ngây thơ và tò mò, Mây dần hiểu chuyện hơn và không khỏi cảm thấy bàng hoàng, đơn độc, bế tắc. Nhưng Mây không phải là nạn nhân duy nhất của chế độ đa thê, hôn nhân xếp đặt, và xã hội đầy rẫy những thành kiến bất công, bảo thủ đối với người phụ nữ. Nạn nhân ấy còn là mợ Hà – người chỉ có thể giữ địa vị của mình trong gia đình do sinh được con trai, hay mợ Xuân – người phụ nữ xinh đẹp, tài hoa nhưng lại có mối quan hệ vụng trộm. Nạn nhân ấy thậm chí còn là những cô gái chỉ tầm tuổi Mây. Đó là Tuyết – cô dâu mới về bị chồng ghẻ lạnh và sỉ nhục, còn bố đẻ thất vọng vì có mỗi chuỵên chiều chồng mà cũng không làm nổi, và Liên – con gái đầu của mợ Xuân – tự trói chặt giá trị bản thân vào việc đi lấy chồng, làm bà cả và sinh con trai. Nỗi thống khổ của những cô gái, những người đàn bà trong Vợ Ba thể hiện rất nhẹ nhàng và từ tốn như chính sự nhu mì và cam chịu của các nhân vật trong phim vậy. Kết thúc của phim là sự gợi mở về số phận của Mây và bé Nhàn – con thứ của mợ Xuân. Mây ngồi ở đó, giữa đất trời hoang vu, bên cạnh dòng sông đã đưa cô đến với cuộc sống quá nhiều ngang trái. Trong lòng cô là đứa con gái mới sinh, trên tay cô là hoa lá ngón. Mây lúc đó sao mà nhỏ bé, yếu đuối và đơn độc quá. Có thể Mây sẽ ăn lá ngón để tự giải thoát khỏi cuộc sống bế tắc và quẩn quanh, có thể Mây sẽ quay về nhà chồng và tiếp tục cuộc đời mờ nhạt như cái bóng sau khung cửa. Nhưng biết đâu Mây sẽ giống như Nhàn, tự định đoạt số phận của mình dù biết trước nó còn lắm chông gai, gập ghềnh. Còn con bé Nhàn, nó bảo nó đã cầu xin Phật Tổ kiếp sau cho nó được làm đàn ông để cưới nhiều vợ. Một câu nói hồn nhiên nhưng lại là một cái tát vào hiện thực trọng nam khinh nữ. Cảnh cuối của phim, Nhàn ngồi bên dòng sông cầm kéo cắt phăng mái tóc dài xinh đẹp của mình. Nhàn không cần Phật Tổ hay ai đó giúp mình, tự bản thân con bé có thể định đoạt số phận bản thân bằng sự cố chấp, bướng bỉnh và can đảm. Dù sự phản kháng của Mây và Nhàn chỉ thông qua những hành động dè dặt và nhỏ bé, nhưng chí ít nó cũng mở ra cánh cửa hy vọng về sự thay đổi của người phụ nữ sau này. Vợ Ba là phim art-house nên chắc chắn nó sẽ kén người xem. Nhịp phim từ tốn, trầm buồn, cao trào gần như không có, nhiều hình ảnh ẩn dụ và mang tính biểu tượng có thể khiến người xem thấy sốt ruột và khó hiểu. Nhưng có lẽ cũng chính vì mang cái mác art-house, phim nghệ thuật, nên một số khán giả kỳ vọng phim sẽ truyền tải thông điệp lớn lao hơn, thậm chí có thể có những tác động tích cực và giá trị đến xã hội. Cá nhân tôi cho rằng nếu một bộ phim có thể tạo ra giá trị nhân văn và bền lâu với thời gian thì đó là điều đáng quý, còn với một bộ phim đầu tay thì chúng ta cũng chưa cần khoác lên người nó một chiếc áo quá rộng. Với tôi, Vợ Ba là một tác phẩm đẹp, ý nghĩa và nhiều cảm xúc. Có một chút tiếc nuối khi những cảnh nhạy cảm của phim, về mặt pháp lý (dựa theo Luật lao động và Luật trẻ em) thì đoàn làm phim đã vi phạm. Dù rất yêu thích Vợ Ba nhưng cá nhân tôi cũng không ủng hộ những khán giả lấy nghệ thuật ra để giải thích cho cái sai trên, và dĩ nhiên tôi cũng không ủng hộ những cá nhân chê phim tới tấp theo đám đông dù chưa hề xem phim, thậm chí có những nhận xét không đứng đắn về diễn viên. Quan điểm từ trước đến nay của Watching Cafe là xem phim và đánh giá một cách công tâm. Những cảnh nhạy cảm trong phim Vợ Ba đẹp tinh tế, không dung tục, đặt vào trong bối cảnh và nội dung phim như vậy cũng không hề sai trai (và bản thân bộ phim này cũng chẳng có gì sai trái cả), chỉ là khi nó được thực hiện với một cô gái 13 tuổi thì không phù hợp và đoàn làm phim đã vi phạm pháp luật. Mùa hè năm ngoái là Nhắm Mắt Thấy Mùa Hè, mùa hè năm nay là Vợ Ba, một phim là phim độc lập, còn phim kia thuộc thể loại art-house. Tôi thấy thật may mắn khi đều kịp thời xem cả hai bộ phim này ngoài rạp và rất mong chờ được xem thêm nhiều bộ phim đẹp, cảm xúc của các nữ đạo diễn nước mình. Theo tôi, đây chính là giá trị lớn nhất mà những bộ phim như này mang lại ở thời điểm hiện tại. Watching Cafe (liên kết với Reading Cafe) là nơi tập hợp những bài giới thiệu, bình luận điện ảnh, kịch nghệ, hội họa. thông qua cảm xúc và quan điểm cá nhân, đồng thời giao lưu, chia sẻ với bạn đọc. Bất cứ ai cũng có thể tham gia Watching Cafe bằng cách gửi bài viết đến địa chỉ email sau và Watching Cafe sẽ xem xét và dĩ nhiên ghi rõ tên tác giả khi đăng bài. Watching Cafe (liên kết với Reading Cafe) là nơi tập hợp những bài giới thiệu, bình luận điện ảnh, kịch nghệ, hội họa. thông qua cảm xúc và quan điểm cá nhân, đồng thời giao lưu, chia sẻ với bạn đọc. Bất cứ ai cũng có thể tham gia Watching Cafe bằng cách gửi bài viết đến địa chỉ email sau và Watching Cafe sẽ xem xét và dĩ nhiên ghi rõ tên tác giả khi đăng bài. Mời bạn nhấn vào nút bên dưới để đồng hành cùng Watching Cafe và nhận bài viết mới qua email.
Vợ ba (phim)
Vợ ba hay Người vợ ba (tiếng Anh: The Third Wife) là một bộ phim cổ trang lịch sử tâm lý xã hội năm 2018 của đạo diễn Ash Mayfair (Nguyễn Phương Anh) và nhà sản xuất Nguyễn Thị Bích Ngọc. Bộ phim kể về hành trình của Mây – một cô gái 14 tuổi trở thành vợ ba của một gia đình địa chủ ở nông thôn miền Bắc vào khoảng thế kỉ 19. Phim được công chiếu lần đầu tại liên hoan phim quốc tế Toronto vào ngày 7 tháng 9 năm 2018 và chính thức phát hành tại Việt Nam từ ngày 17 tháng 5 năm 2019. Trước khi được phát hành tại Việt Nam, phim đã bán được bản quyền công chiếu thương mại cho 28 quốc gia trên thế giới. Đoàn làm phim được đề cử nhiều lần tại các giải thưởng và liên hoan phim lớn nhỏ trên toàn thế giới và giành chiến thắng hơn 20 giải. Giai đoạn 2015 đến 2017, khi công bố dự án, Vợ ba đã nhận được nhiều giải thưởng nhằm mục đích tài trợ kinh phí sản xuất tại Diễn đàn điện ảnh châu Á Hồng Kông và Gặp gỡ mùa thu.
Những căn phòng bị ma ám luôn luôn là một chủ đề vô cùng thu hút đối với người đọc cũng như là nguồn cảm hứng cho các biên kịch viết nên những tác phẩm vô cùng gay cấn nhưng cũng không kém rùng rợn. Được chuyển thể thành phim từ cuốn truyện cùng tên của nhà văn Stephen King với nội dung kể về một nhà văn chuyên đi điều tra các hiện tượng siêu nhiên, và lần này anh chàng chọn căn phòng khách sạn số 1408. Khi làm thủ tục nhận phòng, anh đã được quản lí khách sạn nói về những thứ siêu nhiên xuất hiện trong căn phòng này, và nỗi sợ mà nó mang lại cho những người từng ở đây, không một ai trong số họ có thể bình an trả phòng cả. Bên cạnh đó, đã từng có nhân viên bị kẹt trong phòng tắm trong vỏn vẹn 5 phút đồng hồ, nhưng khi được cứu ra thì cô đã tự móc hai mắt của mình ra rồi. Mặc kệ người ta nói anh chẳng tin người ta, nhân vật chính của chúng ta vẫn quyết định bước vào căn phòng bị nguyền rủa đó và tiến vào căn phòng. Vầng, vào phòng là vào tròng ngay và luôn. Sau khi thấy bộ cảm nhiệt trong phòng mình bị hư, anh đã gọi thợ lên sửa nhưng anh thợ cũng chỉ đứng ở ngoài và hướng dẫn anh sửa chứ không bước vào căn phòng đó một bước nào cả. Sau đó, mọi thứ bắt đầu trở nên cực kì lạ thường và đáng sợ như radio tự bật nhạc, vòi nước tự mở và những bức tranh trên tường sống động y như thật. Quá hoảng sợ, anh gọi lễ tân nhằm trả lại phòng nhưng không được.Lúc này, giọng nói đầu dây bên kia buộc anh phải chọn lựa giữa hai điều, một là trả phòng vào ngày mai, hai là tìm đến một giải pháp nhanh gọn, và giải pháp nhanh gọn là đây. Lúc này, chiếc radio tự dưng biến thành một chiếc đồng hồ đếm ngược với thời gian là 1 tiếng. Trong suốt 1 tiếng ấy, nhân vật chính của chúng ta đã phải trải qua vô vàn những cảm xúc sợ hãi, hoảng loạn, đau buồn cũng như sự thù hằn. Mọi phương án trốn thoát của anh từ leo qua phòng bên cạnh, phá cửa hay thậm chí trèo vào đường hầm thông gió đều không thể giúp anh thoát ra khỏi căn phòng quỉ quái ấy. Và cuối cùng, căn phòng tái hiện lại hình ảnh cô con gái đã mất của anh, đây dường như là một sự cứu rỗi cuối cùng, và cũng là điều tra tấn anh nhất trong suốt những năm vừa qua. Hình ảnh cô bé chết trong vòng tay anh khiến anh đau lòng và tuyệt vọng tới mức không thể nào phản kháng được sức mạnh vô hình trong căn phòng. Nhưng, cuối cùng anh đã tìm lại được sự dũng cảm, khi anh quyết định sẽ thiêu đốt toàn bộ căn phòng cho dù anh có phải mất đi mạng sống của mình đi chăng nữa. “Tao có chết nhưng mày cũng không thể nào thoát khỏi được”, một lời tuyên bố đầy mạnh mẽ và cũng là thứ giúp anh bình tĩnh lại. Căn phòng bốc cháy ngùn ngụt, và anh thì bình tĩnh châm một điếu thuốc rồi mỉm cười, đổ gục xuống sàn trong một tâm thế vui vẻ. Cuối phim, quản lí khách sạn đưa lại di vật cho vợ anh nhưng cô lại không muốn nhận. Ôm hộp di vật quay về, quản lí khách sạn bị hù dọa một phen khi thấy một bóng hình chết cháy vụt qua gương xe trong tích tắc. Ơ khoan bạn ơi, vì cái kết này đã làm rất nhiều người phản đối nên nhà sản xuất đành phải làm thêm một cái kết cục khác có hậu hơn, đỡ bi thảm hơn. Trong phiên bản mới, anh được đội cứu hộ tìm thấy và chữa trị kịp thời. Cuối phim là hình ảnh hai vợ chồng về chung một mái nhà như chưa từng có những phút lìa xa, anh cầm trên tay chiếc máy ghi âm đã cháy xém và nhận ra có những câu nói không hề được ghi lại xuất hiện trong đoạn băng. Hai vợ chồng nhìn nhau và có cảm giác rằng mọi thứ sẽ không đơn giản chỉ là kết thúc như thế. Nhà cái HappyLuke tặng ngay 100.000 VND chơi đánh bài trực tuyến ăn tiền, xổ số, slot, đánh bài miễn phí khi bạn đăng ký tài khoản thành công. Thắng chắc chắn 100% được phép rút tiền mặt về các tài khoản ngân hàng của bạn. Cùng với vị trí đường giữa, Xạ Thủ là vị trí có thể gây nhiều sát thương nhất trong đội hình LMHT. Chính vì lẽ đó, họ có một khả. Sát Thần VTC đã chính thức ra mắt vào hôm nay 16/09, Game4V cùng đông đảo người chơi đã có cơ hội trải nghiệm gMO này. Sau nhiều tháng chuẩn. HappyLuke chúng tôi là 1 trong những trang nhà cái cá cược chuyên về đánh bài casino online ăn tiền thật, cá cược thể thao, slot game,… số 1 Châu Âu và Việt Nam hiện nay.
1408 (phim)
1408 (tựa tiếng Việt: Căn phòng 1408 hoặc Căn phòng bí mật) là một bộ phim kinh dị Mỹ năm 2007 của đạo diễn Mikael Håfström. 1408 dựa theo một truyện ngắn cùng tên của nhà văn lừng danh Stephen King. Phim có câu khẩu hiệu chính thức là The Dolphin Hotel invites you to stay in any of its stunning rooms. Except one (dịch tiếng Việt: Khách sạn Dolphin mời bạn vào ở trong bất kỳ căn phòng đẹp nào. Mike Enslin là một nhà văn chuyên viết sách về những hiện tượng siêu nhiên. Anh đang sống xa cách với cô vợ Lily sau cái chết của đứa con gái Katie. Một hôm Mike tìm thấy tấm thiệp đề cập đến khách sạn Dolphin, một khách sạn ở thành phố New York, kèm theo lời nhắn "Đừng vào phòng 1408". Nghĩ rằng đây là lời thách thức, Mike liền đến khách sạn Dolphin để đặt phòng. Gerald Olin, quản lý khách sạn, giải thích với Mike rằng không ai có thể sống quá một giờ trong phòng 1408. Đã có 56 người chết, bao gồm tự tử và những cái chết "tự nhiên". Olin cảnh báo và ngăn cản Mike thuê phòng 1408, nhưng Mike nhất định đòi thuê.
Di sản thế giới là những di chỉ hay di tích, danh thắng của một quốc gia như rừng, dãy núi, hồ, sa mạc, quần thể kiến trúc, công trình nghệ thuật. do các nước tham gia vào Công ước di sản thế giới đề cử cho Ủy ban di sản thế giới, được xét duyệt, công nhận và quản lý bởi Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO). Những đề cử di sản của các quốc gia sẽ được UNESCO lập danh mục, đặt tên và bảo tồn. Những đề cử được đưa vào danh sách di sản thế giới có thể được nhận tiền từ Quỹ Di sản thế giới theo một số điều kiện nhất định. Theo Tạp chí The World Heritage Commitee tính đến năm 2016, có tất cả 1.052 di sản được liệt kê, trong đó có 814 di sản về văn hóa, 203 di sản về thiên nhiên và 35 di sản thuộc cả hai loại. Các di sản đó hiện diện tại 165 quốc gia. Italia là quốc gia có số lượng di sản thế giới được công nhận nhiều nhất với 50 di sản, tiếp theo là Trung Quốc với 47 di sản và Tây Ban Nha với 44 di sản. Công ước di sản thế giới là tên gọi tắt của Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Ngày 16-11-1972, tại kỳ họp lần thứ 17 diễn ra ở Thủ đô Paris (Cộng hòa Pháp), UNESCO đã thông qua Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Đây là Công ước quốc tế đầu tiên gắn khái niệm bảo vệ thiên nhiên với bảo vệ thiên nhiên với bảo vệ di sản văn hóa, mang đến một cách tiếp cận mới với những cơ sở pháp lý cần thiết, bảo đảm mối quan hệ cân bằng, hài hòa giữa con người với nhiên nhiên, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Công ước giúp các nước thành viên gắn kết việc bảo vệ di sản với chiến lược quy hoạch, phát triển địa phương; bảo vệ bền vững không chỉ di sản thế giới mà còn bảo vệ các di sản văn hóa của mỗi quốc gia. Công ước gồm 8 chương, 38 điều, đề cập những vấn đề hết sức quan trọng về di sản văn hóa thiên nhiên trên thế giới; trong đó có định nghĩa về di sản văn hóa và di sản thiên nhiên; Ủy ban liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (Ủy ban Di sản thế giới). Theo Công ước di sản thế giới 1972, di sản thế giới được phân thành ba loại: di sản văn hóa, di sản thiên nhiên và di sản hỗn hợp. 3) Các di chỉ (sites): các công trình của con người hoặc công trình kết hợp giữa con người và thiên nhiên, cũng như các khu vực có các di chỉ khảo cổ học mà xét theo quan điểm lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân học là có giá trị nổi tiếng toàn cầu. 3) Các di chỉ tự nhiên (natural sites) hoặc các khu vực tự nhiên đã được khoanh vùng cụ thể mà, xét theo quan điểm khoa học, bảo tồn hoặc vẻ đẹp thiên nhiên, có giá trị nổi tiếng toàn cầu. Đến năm 1992, Ủy ban Di sản thế giới mới đưa ra khái niệm di sản hỗn hợp hay còn gọi là di sản kép hay cảnh quan văn hóa thế giới để miêu tả các mối quan hệ tương hỗ nổi bật giữa văn hóa và thiên nhiên của một số khu di sản. Theo Điều 2, Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể do UNESCO thông qua ngày 17-11- 2003 đã quy định: “Di sản văn hóa phi vật thể” được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Di sản văn hóa phi vật thể được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, được các cộng đồng và các nhóm người không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người. Vì những mục đích của Công ước này, chỉ xét đến những di sản văn hóa phi vật thể phù hợp với các văn kiện quốc tế hiện hành về quyền con người, cũng như những yêu cầu về sự tôn trọng lẫn nhau giữa các cộng đồng, các nhóm người và cá nhân, và về sự phát triển bền vững. Di sản văn hóa phi vật thể thế giới còn có tên gọi khác là Kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Mỗi di sản văn hóa phi vật thể muốn có tên trong Danh mục Di sản văn hóa thế giới phải được một hoặc nhiều quốc gia đề cử cho UNESCO trước khi được một ủy ban của tổ chức này xem xét đưa vào danh mục. Tháng 11-2008, để nâng cao nhận thức về tính cấp thiết của vấn đề bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, Ủy ban Liên chính phủ về bảo tồn di sản phi vật thể đã đưa ra hai danh mục: Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; và Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Các kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại đã được công bố trước đây nay được chuyển vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Di sản thế giới
Di sản thế giới là một điểm mốc hay khu vực được lựa chọn bởi Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (viết tắt là UNESCO) là có giá trị về văn hóa, lịch sử, khoa học hoặc hình thức có ý nghĩa khác và được pháp luật bảo vệ bởi các điều ước quốc tế. Các địa điểm này được đánh giá là có tầm quan trọng đối với lợi ích tập thể nhân loại. Một địa điểm có thể là di chỉ, di tích hay danh thắng của một quốc gia như rừng, dãy núi, hồ, sa mạc, tòa nhà, quần thể kiến trúc hay thành phố. do các nước có tham gia Công ước Di sản thế giới đề cử cho Ủy ban Di sản thế giới, được công nhận và quản lý bởi UNESCO. Sau đó UNESCO sẽ lập danh mục, đặt tên và bảo tồn những vị trí nổi bật về văn hóa hay đặc điểm tự nhiên cho di sản nhân loại chung. Những vị trí được đưa vào danh sách di sản thế giới có thể được nhận tiền từ Quỹ Di sản thế giới theo một số điều kiện nào đó.
Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2018 (tiếng Anh: US Open 2018) là ấn bản thứ 138 của giải quần vợt Mỹ Mở rộng, giải Grand Slam thứ tư và cuối cùng trong năm. Giải được tổ chức trên mặt sân cứng tại Trung tâm Quần vợt Quốc gia USTA Billie Jean King ở thành phố New York. Đây là giải Grand Slam cuối cùng có 32 hạt giống trước khi trở về với thể thức 16 hạt giống kể từ mùa 2019. Rafael Nadal và Sloane Stephens lần lượt là những nhà đương kim vô địch ở nội dung đơn nam và đơn nữ, nhưng họ đã bảo vệ không thành công chức vô địch. Nadal phải bỏ cuộc trong trận bán kết gặp Juan Martín del Potro, trong khi Stephens bị Anastasija Sevastova, người từng bi cô hạ gục ở chính sân đấu này mùa trước, đánh bại ở tứ kết. Novak Djokovic là chủ nhân ngôi vô địch đơn nam sau khi đánh bại del Potro ở trận chung kết với tỉ số 6-3, 7-6 (7-4), 6-3. Đây là danh hiệu US Open thứ ba và Grand Slam thứ 14 của Novak, qua đó cân bằng kỷ lục vô địch Grand Slam thứ ba mọi thời đại với Pete Sampras. Ở nội dung đơn nữ, Naomi Osaka đánh bại Serena Williams ở trận chung kết với tỉ số 6-2, 6-4, trở thành tay vợt người Nhật Bản đầu tiên từng vô địch một giải Grand Slam. Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2018 là lần thứ 138 giải đấu được tổ chức và diễn ra tại USTA Billie Jean King National Tennis Center ở Flushing Meadows–Corona Park của Queens ở Thành phố New York, New York, Hoa Kỳ. Giải đấu được diễn ra trên 14 sân cứng DecoTurf. Giải đấu là một sự kiện được điều hành bởi Liên đoàn quần vợt quốc tế (ITF) và là 1 phần của lịch thi đấu ATP World Tour 2018 và WTA Tour 2018 theo thể loại Grand Slam. Giải đấu bao gồm các nội dung đơn và đôi của nam và nữ cũng như nội dung đôi nam nữ. Giải đấu cũng có các nội dung đơn và đôi cho các vận động viên nam trẻ và nữ trẻ (dưới 18 tuổi), là một phần ở thể loại Hạng A của giải đấu. Ngoài ra, còn có các sự kiện đơn và đôi quần vợt xe lăn cho nam, nữ và quad. Giải đấu được chơi trên mặt sân cứng và diễn ra trên 15 sân với mặt sân DecoTurf, trong đó có 2 sân chính – Sân vận động Arthur Ashe và the new Grandstand. Sân mới là Sân vận động Louis Armstrong cũng sẽ chuẩn bị cho giải đấu năm 2018 và thay thế cho sân vận động tạm thời cùng tên từ giải đấu năm 2017. Vòng loại được diễn ra tại USTA Billie Jean King National Tennis Center từ ngày 21–24 tháng 8 năm 2018. Những tay vợt sau đây đã được vào vòng đấu chính, nhưng rút lui vì bị chấn thương, đình chỉ hoặc những lý do cá nhân.
Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2014
Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2014 là một giải đấu quần vợt được chơi trên các sân cứng ngoài trời. Đó là phiên bản thứ 134 của Giải quần vợt Mỹ Mở rộng, sự kiện Grand Slam thứ tư và cuối cùng trong năm. Nó diễn ra tại Trung tâm quần vợt quốc gia USTA Billie Jean King. Rafael Nadal là nhà đương kim vô địch đơn nam; tuy nhiên, vào ngày 18 tháng 8, tay vợt người Tây Ban Nha tuyên bố rút lui sau khi không thể phục hồi chấn thương cổ tay, trong khi Serena Williams là nhà vô địch hai lần liên tiếp đơn nữ. Trong giải đơn nam, Marin ilić đã giành được danh hiệu Grand Slam đầu tiên; Trong khi đó, Serena Williams đã giành được kỷ lục số danh hiệu trong Kỷ nguyên Mở khi giành danh hiệu Mỹ Mở rộng thứ sáu trong giải đơn nữ, ngang bằng với Chris Evert, và đó là danh hiệu lớn thứ mười tám của cô, ngang với Evert và Martina Navratilova. Giành chiến thắng ở nội dung đôi nam, Bob Bryan và Mike Bryan trở thành đôi nam có nhiều chiến thắng nhất trong lịch sử Kỷ nguyên mở tại giải đấu, và đây là danh hiệu thứ 100 của hai người đánh đôi cùng nhau và danh hiệu lớn thứ mười sáu, ngang với Todd Woodbridge cho kỷ lục trong Kỷ nguyên mở.
Văn học Nhật Bản là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh của các bộ tộc Nhật Bản, rất lâu trước khi quốc gia Nhật Bản được thành lập. Những cội rễ của nền văn học này có từ thời tối cổ, và những kiệt tác thành văn đầu tiên có thể được xác định vào thế kỷ thứ 7 thậm chí sớm hơn. Lịch sử văn học Nhật Bản có thể được chia ra 3 thời kỳ chính: Cổ đại, Trung cổ và Hiện đại, tương đương với cách phân kỳ lịch sử thường gặp trong nhiều nền văn học thế giới nói chung. Tuy nhiên, trong cuốn Nhật Bản văn học toàn sử do Tokyo Kodanshā xuất bản, văn học Nhật Bản được chia làm 6 thời kỳ ứng với 6 tập của cuốn sách: Thượng đại, Trung cổ, Trung thế, Cận thế, Cận đại và Hiện đại. Thời thượng đại Nhật Bản có thể tính từ Thiên hoàng Jimmu lập quốc theo huyền sử năm 660TCN tới hết thời Nara năm 794, thậm chí xa hơn tới năm 807 (chồng lấn vài năm sang thời kỳ Heian). Đây là thời đại của dân ca, huyền thoại và cổ tích. Những sáng tác đầu tiên trong nền văn học khởi thủy của Nhật Bản là văn học truyền miệng, do trong thời kỳ sớm của sự phát triển lịch sử dân tộc Nhật Bản chưa hề có chữ viết. Khởi điểm là những câu chú, bài chú đọc trong lễ tế thần, về sau là văn học truyền miệng với thần thoại, ca dao, truyện cổ tích, truyền thuyết. Khi chữ viết mới xuất hiện đã trở thành đặc quyền của những đẳng cấp cao của bộ tộc Nhật Bản, lúc đầu là quý tộc thị tộc và bộ lạc, sau đó là giới quý tộc phong kiến. Những sáng tác thượng đại được biết đến ngày nay không phải là những biểu hiện sớm nhất mà có lẽ thuộc thời kỳ muộn hơn. Chúng được thực hiện bởi những đại biểu của đẳng cấp quý tộc, những người đã không chỉ sưu tầm mà còn biên tập tư liệu, và họ đã để dấu ấn của chính mình trên sản phẩm thông qua việc quyết định chất liệu và hình thức văn học cũng như lựa chọn những nội dung mà họ cho rằng có giá trị và cần thiết. Những dấu vết của sáng tác dân gian thời kỳ sớm có thể tìm thấy trong những công trình chữ viết thời cổ, đó là Kojiki (古事記, Cổ sự ký, 712), Nihon Shoki (日本書紀, Nhật Bản thư kỷ, 720) với những bài ca, thần thoại, truyền thuyết; Manyōshū (万葉集, khoảng 760) với các thi phẩm về tình yêu, thiên nhiên và cái chết; Fudoki (風土記, Phong thổ ký, 713) với những truyền thuyết và truyện hoang đường v.v. và tất cả đều thuộc thế kỷ 7. Chất liệu của các công trình này xuất xứ từ thời kỳ xa xưa, thậm chí từ thời kỳ đầu của chế độ công xã nguyên thủy, hoặc có nguồn gốc từ thời kỳ đó. Tất cả đều cho thấy một bức tranh văn học Nhật Bản thời cổ là văn học dân gian theo đúng nghĩa đầy đủ của từ này, tuy chúng đã ít nhiều được tư liệu hóa và biên soạn theo chủ quan của các tác giả. Thời Trung cổ Nhật Bản kéo dài chừng 4 thế kỷ từ khi vương triều Nhật Bản thiên đô về Heian (nay là Kyoto) và lập kinh đô (Heian kyo) theo mô hình kinh đô Trường An thời nhà Đường Trung Hoa năm 794, cho đến khi Mạc phủ Kamakura được thiết lập năm 1183. Đây là giai đoạn đỉnh cao của vương triều Nhật Bản, sau đó quyền lực chuyển dần sang dòng họ Fujiwara (từ năm 898). Sự phổ biến của chữ viết kana và sự thành lập các tông phái Phật giáo như Thiên Thai tông (năm 805), Chân ngôn tông (năm 806), Tịnh độ tông (1175). Đóng vai trò chủ yếu trong nền văn học trung cổ là quý tộc triều đình Heian quây quần chung quanh dòng họ Fujiwara (Đằng Nguyên) nắm quyền bính thời bấy giờ. Sự tiếp xúc lâu dài với nền văn hóa Trung Hoa thời tiền Heian là tiền đề cho sự ra đời của chữ viết và người Nhật Bản lần đầu tiên biết khái niệm “văn học” đến từ các nước lân cận. Họ biết có một loại văn học viết, văn học như một bộ môn riêng biệt. Điều này làm thay đổi toàn bộ bức tranh sáng tạo văn học của Nhật Bản: bên cạnh nhân dân và văn học truyền miệng sản phẩm của họ, đã xuất hiện một lớp người không hát những bài ca mà sáng tác thơ, không sáng tạo ra các thần thoại mà soạn những truyện ngắn. Văn học Heian trong các thế kỷ 9-12 cho thấy hai hệ thống riêng biệt: thứ nhất, đó là những sáng tác dân gian vẫn tồn tại và phát triển mạnh mẽ tuy ngày nay giới nghiên cứu hầu như chỉ còn biết đến diện mạo của chúng qua cái mà giới quý tộc Heian quan tâm, với các bài ca Sabara và Kagura-uta; là những truyện cổ tích và truyền thuyết dân gian trong Konjaku Monogatari (今昔物語集, Kim tích vật ngữ, khoảng năm 1120) và Kokon Chomonshū (古今著聞集, Cổ kim trứ văn tập). Thứ hai, xuất hiện nền văn học của một đẳng cấp hạn hẹp: thơ và văn xuôi Heian, tách biệt khỏi văn học dân gian bởi chất liệu là thế giới sinh hoạt và tư tưởng của quý tộc Heian. Về phương diện hình thức, thi pháp của thơ waka được hình thành với hợp tuyển Kokin Wakashū (古今和歌集, Cổ kim Hòa ca tập, năm 905 hay 914 niên đại Engi) hay còn gọi là Kokinshū (Cổ kim tập); hình thức tiểu thuyết đã xuất hiện cùng với những sáng tạo khởi đầu là Taketori Monogatari (竹取物語, Trúc thủ vật ngữ, tức “chuyện ông già đốn trúc”, cuối thế kỷ 9), đi được một nửa chặng đường đến Ise Monogatari (伊勢物語, Y Thế vật ngữ, “truyện Ise” đầu thế kỷ 10) và đạt đỉnh cao với Genji Monogatari (源氏物語, Nguyên Thị vật ngữ, khoảng 1004-1011, nhưng thường được lấy mốc 1010); nhật ký với Tosa Nikki (土佐日記, Thổ Tá nhật ký, 935) và tùy bút với Makura no Soshi (枕草子, Chẩm thảo tử, “sách gối đầu” 936 hay 1001?. Thời kỳ mới trải suốt thời kỳ Kamakura (1185-1333), Tân chính Kemmu (1333-1336), thời kỳ Muromachi (1336-1573 ) và thời kỳ Azuchi-Momoyama (1568-1603), bắt đầu với sự xuất hiện đẳng cấp samurai ghi dấu vào lịch sử bằng những cuộc nội chiến đẫm máu bao trùm toàn bộ nước Nhật giữa hai dòng họ lớn Taira và Minamoto kéo dài đến khi Minamoto Yorimoto trở thành tướng quân (Shogun), thiết lập chế độ Mạc phủ ở Kamakura miền Đông nước Nhật, mở đầu thời đại võ gia. Đây cũng là giai đoạn các võ sĩ Nhật Bản đương đầu với thủy binh Mông Cổ trong hai lần chống ngoại xâm (năm 1274/1275 và 1281). Năm 1333 tướng phủ Kamakura bị lật đổ và năm 1338 Ashikaga lập tướng phủ ở Kyoto. Năm 1500 nội chiến lan ra cả nước với nhiều phong trào nông dân nổi dậy và phải tới tận giai đoạn 1568-1598 đất nước mới thống nhất dưới thời Oda Nobunaga và Toyotomi Hideyoshi. Những cuộc chiến đã làm nảy sinh dạng thức sử thi dân gian mới với không gian không còn là thần thoại về các vị thần mà là truyền thuyết về những anh hùng, những gunki (quân ký) hay genki (chiến ký). Nhân vật trung tâm của tác phẩm chuyển hướng từ nhân vật thần thoại trở thành cá nhân lịch sử, những người tham dự và những anh hùng của sử ca dân gian. Dấu ấn văn chương trung thế là sự ra đời của những anh hùng ca phong kiến Nhật Bản, như tác phẩm Heike Monogatari (平家物語, Bình Gia vật ngữ, 1220-1371), mô tả những võ sĩ đạo và bóng trăng mờ ảo sau những trận mưa máu, mà cảm quan về sự phù du của cõi người còn in đậm ngay từ những dòng thơ mở đầu tác phẩm. Văn học của tầng lớp samurai tồn tại không ít hơn bốn thế kỷ, từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 15 và đã trải qua những hưng thịnh và suy vong. Các tác phẩm như Hogen Monogatari (Bảo Nguyên vật ngữ), Heiji monogatari (Bình Trị vật ngữ) và Heike monogatari của thế kỷ 13 gắn bó chặt chẽ với thực tế lịch sử của thời kỳ này: lịch sử cuộc chiến giữa hai tập đoàn quý tộc phong kiến Nhật Bản, dòng họ Minamoto (源, Nguyên) và dòng họ Taira (平, Bình). Những tác phẩm này thể hiện sự khốc liệt của cuộc chiến, và những người tham gia vào nó được diễn tả trọn vẹn cả lý tưởng và lối sống. Về sau những anh hùng ca này thay đổi tính chất và được tiểu thuyết hóa, tạo nên những truyện phiêu lưu hiệp sĩ vốn rất quen thuộc với phương Tây đương thời, mà tác phẩm anh hùng ca về nhân vật Yoshitsune, cuốn Gikeiki (義経記, Nghĩa kinh ký) là một điển hình. Nền văn học của các võ sĩ đạo đương thời cho thấy một bức tranh rộng lớn hơn nhiều so với văn học quý tộc thời Heian: văn học Heian được sáng tạo trong phạm vi hạn hẹp, thuộc tầng lớp cao của giai cấp quý tộc, trong khi đó văn học samurai mở rộng phạm vi giữa các chiến binh phong kiến, tầng lớp đông đảo đã thoát khỏi giai cấp nông dân còn chưa lâu hoặc về thực chất họ vẫn còn thuộc tầng lớp đó. Những sáng tác văn xuôi của thời trung thế cho thấy chất liệu gắn bó chặt chẽ với văn học dân gian truyền miệng và mang đậm đặc tính dân gian hơn giai đoạn trước. Trong văn học trung thế, bên cạnh tiến trình văn xuôi samurai, thi ca cũng tương tự. Những sáng tác dân gian đã xuất hiện những hình thức mới, như các bài ca imayo, được ghi lại bằng chữ viết từ mạt kỳ Heian nhưng phổ biến trước hết trong giới võ sĩ đạo. Trên mảnh đất của thi ca dân gian vui nhộn, bông lơn, hình thành nên thể loại thơ trào lộng haikai (俳諧, bài hài) mà những hình thức xa xưa hơn của chúng được hát tại các chùa chiền và ở các gia đình samurai tu hành, về sau đã được chú ý bởi các nhóm rộng rãi thuộc tầng lớp chiến binh, thương nhân và thợ thủ công nơi đô thị. Thời kỳ cận thế Nhật Bản nằm trọn trong thời kỳ Tokugawa (1603-1868). Năm 1600 Tokugawa Ieyasu đập tan các cuộc nổi loạn ở Sekigahara và tới 1603 Tokugawa Ieyasu thống nhất đất nước, thiết lập Mạc phủ ở Edo (nay là Tokyo). Trong 200 năm tỏa quốc sau đó (kéo dài cho tới tận 1853 khi Đô đốc Matthew C. Perry (1794-1858, người Mỹ) buộc Nhật Bản phải mở cửa thông thương với nước ngoài) đất nước thanh bình, kinh tế tiền tệ phát triển, giáo dục nâng cao và hầu hết người dân thành thị biết đọc biết viết. Người dân thành thị trở thành trung tâm của xã hội và cuộc sống của họ phản ánh rõ nét trong văn học nghệ thuật. Trong những năm cuối của thời kỳ Ashikaga, thế kỷ 15-16, những sáng tạo dân gian mà giai đoạn Kamakura được giới samurai quan tâm, đã không ngừng lại và được thẩm thấu tới một tầng lớp mới, hình thành một nền văn học khá đặc biệt so với giai đoạn trước đó: văn học của tầng lớp thị dân, nền văn học mất đi vẻ thanh tao nhưng tràn đầy sức sống của hiện thực với tất cả mọi khía cạnh như con người, cái đẹp, thiên nhiên, sắc dục. Đẳng cấp samurai giai đoạn đầu còn liên hệ chặt chẽ với nông dân, sau đó đã tách biệt trở thành quý tộc phong kiến và đóng kín trong phạm vi của mình. Ngược lại, giới thương nhân và thợ thủ công ngày càng liên hệ nhiều với đông đảo cư dân rộng lớn, với nông dân. Kết quả là sự ra đời của một loạt các thể tài sân khấu của giai cấp tư sản Nhật Bản thời phong kiến, những tác phẩm kịch nō (能) và kabuki (歌舞伎) thành thị thoát thai từ lối kể chuyện joruri (浄瑠璃, tĩnh lưu ly, một dạng múa rối). Loại truyện dân gian otogi zoshi (お伽草子) và những lối kể chuyện dân gian khác là khởi nguyên của các truyện ngắn theo thể kana zoshi (仮名草子). Rồi từ ngọn nguồn này nhiều thể loại khác của văn xuôi tự sự thời đại Tokugawa đã phát triển. Cùng với điều đó, những nhà hoạt động văn học, tức tầng lớp thị dân, đã góp phần mình vào folklore, nghĩa là vào ngọn nguồn của nền văn học viết mới với các truyện kể được gọi là kodan và rokugo. Hai hình thức truyền miệng này dần được ghi chép lại và tạo thành một bộ phận hoàn chỉnh của văn học thành thị đương thời, thêm vào đó chúng còn cung cấp chất liệu cho các bộ phận khác của nền văn học này. Về thơ, những thể loại thơ của quý tộc thời Heian được phổ cập rộng rãi trong cộng đồng đã dẫn đến sự sáng tạo ra thơ thành thị riêng của thời kỳ Tokugawa khi nó được kết hợp với folklore dân gian. Những tác gia tiêu biểu của thời đại có thể kể đến Matsuo Basho (1644-1694) với thơ haiku, Chikamatsu Monzaemon (1653-1725) với kịch và Ihara Saikaku (1642-1693) với tiểu thuyết. Thời kỳ cận đại trong văn học Nhật Bản bắt đầu từ Minh Trị Duy Tân năm 1868 tới kết thúc thời kỳ Đại Chính năm 1926. Năm 1867 Mutsuhito lên ngôi, hiệu là Meiji (Minh Trị) và năm 1868 dời đô về Edo đặt tên là Tokyo, bắt đầu kỷ nguyên hiện đại hóa đất nước theo mô hình phương Tây, thay đổi chính sách trục xuất người nước ngoài bằng chính sách khai hóa văn minh, phú quốc cường binh, văn minh phương Đông kỹ nghệ phương Tây, khiến quốc gia hưng thịnh và trở thành một mẫu hình hiện đại hóa đất nước thành công độc nhất vô nhị tại Đông Á đương thời. Bên cạnh việc đưa trí thức sang châu Âu học hỏi, Nhật Bản đã bắt đầu đưa quân vào lục địa như tiến đánh Đài Loan năm 1874; buộc Triều Tiên mở cửa năm 1875; chiến tranh Thanh-Nhật năm 1894-1895; chiến tranh Nga Nhật năm 1904-1905, và chiến thắng nước da trắng đầu tiên đã khiến Nhật manh nha ý thức đại đế quốc. Sự hình thành văn học viết của các đẳng cấp thị dân đã đưa kết quả là nó dần xa rời những cội nguồn dân gian ban đầu của mình và chuyển thành văn học của một giai cấp, văn học của tư sản Nhật Bản, văn học hậu kỳ phong kiến Nhật Bản.
Văn học Nhật Bản
Văn học Nhật Bản là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh của các bộ tộc Nhật Bản, rất lâu trước khi quốc gia Nhật Bản được thành lập. Những cội rễ của nền văn học này có từ thời tối cổ, và những kiệt tác thành văn đầu tiên có thể được xác định vào thế kỷ thứ 7 thậm chí sớm hơn. Lịch sử văn học Nhật Bản có thể được chia ra 3 thời kỳ chính: Cổ đại, Trung cổ và Hiện đại, tương đương với cách phân kỳ lịch sử thường gặp trong nhiều nền văn học thế giới nói chung. Tuy nhiên, trong cuốn Nhật Bản văn học toàn sử do Tokyo Kodanshā xuất bản, văn học Nhật Bản được chia làm 6 thời kỳ ứng với 6 tập của cuốn sách: Thượng đại, Trung cổ, Trung thế, Cận thế, Cận đại và Hiện đại. Vai trò của văn học và các nghệ thuật tạo hình trong nền văn hóa Nhật Bản có tầm quan trọng đặc biệt. Trong mọi thời đại lịch sử văn hóa Nhật Bản thể hiện khuynh hướng phi logic, phi hệ thống và phi trừu tượng hóa, và người Nhật đã thể hiện tư tưởng của mình không nhiều lắm trong các hệ thống triết học và tôn giáo trừu tượng như người châu Âu thời Trung Cổ nhưng lại biểu hiện trong các tác phẩm văn học cụ thể.
Sáng 20/2, TAND TP.HCM xét xử vụ ly hôn giữa ông Đặng Lê Nguyên Vũ (Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn cà phê Trung Nguyên) và bà Lê Hoàng Diệp Thảo (Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty cà phê hòa tan Trung Nguyên). Phần làm thủ tục kéo dài rất lâu, hai bên tranh cãi gay gắt khiến HĐXX phải vào hội ý sau đó quyết định tiếp tục phiên tòa. Tại tòa, chủ tọa yêu cầu bà Thảo trình bày trước tòa về yêu cầu ly hôn. Bà cho biết không ai muốn đứng ở tòa. Vợ chồng họ có quá trình chung sống hạnh phúc, có 4 người con, sự nghiệp tốt đẹp. Tuy nhiên, có nhiều sự việc xảy ra dẫn đến việc ly hôn. Nói về điều này, ông Vũ nói: “Thẩm phán là người hiểu hết nỗi niềm các bên, thật giả thế nào. Kéo dài làm gì. Vấn đề ở đây chỉ còn lương tri lương tính, thiếu 2 cái đó thì không còn là con người nữa”. Về vấn đề con cái, bà Thảo đề nghị tòa cho bà nuôi dưỡng 4 đứa con. “6 năm qua anh Vũ không quan tâm lo lắng cho các con. Giai đoạn các con trưởng thành, có khi đến chỉ được chơi với người giúp việc, không bao giờ được gặp ba. Bản thân tôi muốn dành mọi thứ, làm sao về mặt tinh thần cho các con đầy đủ. Làm sao cho các con được sống với mẹ”, bà Thảo trình bày. Về phần mình, ông Vũ nhắc lại việc bà Thảo muốn giao 4 đứa con cho bà nuôi. Ông hướng mắt về phía người vợ, nói: “Nói cái gì phải đúng với lòng mình. Ở đây còn gia đình, anh em trong công ty, ai cũng biết sự thật. Không ai giành giật cái gì cả. Điều cao nhất là đừng bao giờ làm tổn thương các con, mình đã sai rồi thì đừng bao giờ đưa tụi nó vào tranh chấp này. Nuôi con mà thiếu tình người. Nuôi con cũng như Trung Nguyên. Cô nuôi 3 năm không lên ký nào. Cô phải nói sự thật, phải nhìn lại bản thân của mình”, ông Vũ nói và cho biết 2 đứa con lớn học ở Úc, 2 đứa nhỏ ở Việt Nam. Lúc này, bà Thảo đứng dậy đề nghị HĐXX hướng ông Vũ vào câu hỏi. Ông chủ Trung Nguyên trình bày ông tôn trọng các con, trong lòng ông muốn nuôi các con, không yêu cầu bà Thảo phải chu cấp điều gì. “Tôi tôn trọng quyền quyết định các con của mình”, ông Vũ trình bày. Khi chủ tọa hỏi nguyên đơn về việc đề nghị chu cấp cho con, bà Thảo đề nghị cấp dưỡng mỗi người con 5% cổ phần của ông Vũ. “Mong anh Vũ có trách nhiệm của người cha, người hay nói về sự thiện lành, nguyện vọng các con là cho các con quyền kế nhiệm sản nghiệp cho gia đình phát triển lâu dài”, bà trình bày. Nghe người vợ nói, ông Vũ khẽ cười nhẹ. Được chủ tọa mời phát biểu, ông cho biết có mặt ở tòa ngoài ông còn có mẹ của mình, đó là người chị nhưng cũng giống mẹ. “Tuổi của tôi cũng đâu còn nhiều. Bản thân cô cũng biết tôi không bao giờ quan tâm gì về tiền…”, ông Vũ nhẹ nhàng nói rồi tiếp lời: “Ở đây không có ai vì tiền. Không ai đụng đến tiền. 20 năm nay, số tiền nó lớn lắm. Các ngân hàng chỉ ra trong đây chỉ là bề nổi mà thôi, không phải là bề chìm. Cô phải hiểu điều đó. Không có ai giành tiền. Mẹ, bà nội cũng không còn sống bao nhiêu. Tiền để làm gì? Tiền nhiều để làm gì mà để ngày hôm nay ngồi như thế này?”, ông Vũ hướng mắt về bà Thảo, lớn tiếng. Ông nhấn mạnh lại tiền với quyền không để làm gì. “Có ai đem thông tin giả cho cơ quan chức năng? Có ai mà đưa chồng vào nhà thương điên? Không còn chút lương tri lương tính nào mà làm như vậy. Còn giữ mấy đứa con làm con tin nữa. Không ai làm điều này hết”, ông Vũ nói có phần chua chát. Lúc này bà Thảo đứng dậy phản ứng, bà đề nghị ông Vũ không được quyền xúc phạm mình. Tuy nhiên, ông Vũ vẫn tiếp tục trình bày. “Lẽ ra Trung Nguyên có sách lược toàn cầu, 5-7 năm phải có khác biệt gì. Hơn 20 năm Trung Nguyên đâu còn tính mới nữa, đâu còn khác biệt nữa”, ông nói rồi dẫn ra một loạt thương hiệu cà phê ở Việt Nam và cho rằng không còn tính mới nữa, phải cần thay đổi. Muốn làm được điều đó, theo ông cần có sách lược, có khác biệt. “Bao nhiêu năm, bao nhiêu sách lược đâu triển khai được rồi cô nói nhục mạ, Không ai nhục mạ cô cả. Xưa giờ cô nói chứ không ai muốn nói gì cả. Vừa rồi cô đưa ra trước công chúng nên tôi buộc phải lên tiếng”, ông Vũ nói và cho biết phương thức trợ cấp cho các con ban đầu đưa ra là 5% cho mỗi người, sau đó chính bà Thảo đòi hỏi nên luật sư phải đưa ra con số cụ thể là 10 tỷ cho 4 con/1 năm. “Làm sao cho các cháu ổn định tinh thần. Cha mẹ ai đúng ai sai chưa biết nhưng đừng bao giờ làm tổn thương các cháu dù một khoảnh khắc nào. Hôm trước, đưa cả các cháu vào tòa, không ai làm chuyện đó”, ông Vũ kết thúc phần trình bày trước tòa. Trong phần thủ tục phiên tòa, luật sư của hai bên đương sự có những đối đáp gay gắt. Luật sư Phan Trung Hoài (bảo vệ quyền lợi cho bà Diệp Thảo) đề nghị HĐXX triệu tập Công ty TNHH Thẩm định giá Sài Gòn – Công ty ban hành 8 chứng thư thẩm định giá, để làm rõ căn cứ liên quan việc hình thành chứng thư thẩm định giá. Luật sư Trương Trọng Nghĩa (cùng bảo vệ quyền lợi cho bà Thảo), đề nghị tòa công nhận bà Thảo ngoài tư cách nguyên đơn trong vụ án thì còn tham gia với tư cách có quyền và nghĩa vụ liên quan. Bởi lẽ bà Thảo là cổ đông của Trung Nguyên, nếu đại diện Trung Nguyên phát biểu có ý kiến gây thiệt hại cho bà Thảo với tư cách cổ đông thì đề nghị HĐXX cho phép bà Thảo sẽ có quyền phát biểu, tranh luận. Trả lời các bên, chủ tọa cho biết việc mời cơ quan định giá đến tòa thì phụ thuộc vào quyết định của HĐXX, nếu cần thiết sẽ mời. Hiện chủ tọa nhận thấy việc này không cần thiết. HĐXX cũng cho rằng bà Thảo là nguyên đơn của vụ án, cũng là cổ đông lớn của Trung Nguyên. “Với tư cách nguyên đơn, bà vẫn có quyền tranh luận bảo vệ quyền của công ty với tư cách cổ đông”, chủ tọa nói. Sau đó, phía ông Vũ giao nộp cho tòa án 2 tập tài liệu dày. Lúc này, phía nguyên đơn lên tiếng phản đối. “Khi đương sự giao nộp tài liệu cho tòa án thì cũng giao cho các bên đương sự, đề nghị cho nguyên đơn tiếp cận tài liệu để sao chụp, tham khảo”, luật sư Hoài nêu ý kiến. “Vụ án đã kéo dài, nay bị đơn trưng ra tài liệu cả trăm trang, chúng tôi đề nghị tòa không công nhận là chứng cứ”, luật sư Trương Trọng Nghĩa gay gắt. Luật sư Trương Thị Hòa, người bảo vệ quyền lợi cho ông Vũ cho biết, đây không phải là chứng cứ mà là tài liệu tham khảo. Quy định của pháp luật cho phép tiếp nhận công khai chứng cứ chứ không phải quá trình giao nộp chứng cứ. “Không có quy định nào về việc không giao nộp tài liệu tham khảo, luật không cấm điều đó”, luật sư Hòa nói. HĐXX cho rằng đây là tài liệu tham khảo chứ không phải là chứng cứ. Chủ tọa thông báo tòa sẽ xem xét, có điều kiện sẽ đọc, không thì để đó xem xét sau. Tuy nhiên, luật sư phía nguyên đơn đề nghị HĐXX hỏi ý kiến đại diện VKS. Đại diện cơ quan công tố phát biểu, vào ngày 25/1/2019 VKS có công văn yêu cầu tòa án thu thập chứng cứ, đến ngày 19/2/2019, VKS tiếp tục có kiến nghị đề nghị khắc phục thiếu sót vi phạm nhưng đến nay tòa án chưa thực hiện đầy đủ. VKS đề nghị tòa án chấn chỉnh. Về việc bị đơn cung cấp tài liệu bị nguyên đơn cho rằng chứng cứ mới, VKS đề nghị HĐXX hỏi lại phía ông Vũ tại sao cung cấp chứng cứ. Bởi trước đây tòa có yêu cầu cung cấp tài liệu liên quan chia tài sản rồi, “Luật sư Hòa nói không phải là chứng cứ thì mục đích nộp làm gì?”, VKS đề nghị HĐXX hỏi bị đơn. Cơ quan công tố cũng yêu cầu HĐXX phải hỏi về yêu cầu khởi kiện và việc có thay đổi yêu cầu khởi kiện hay không trước khi bắt đầu xét hỏi. Có gì ‘Bên trong bộ não của Bill Gates’?Tỉ phú Bill Gates chưa bao giờ xa lạ với thế giới phim ảnh, có hàng chục phim tài liệu và phim truyện về ông. Nhưng trong thập niên vừa qua, ông xuất hiện dày đặc với vai trò nhà hoạt động nhân đạo.
Đặng Lê Nguyên Vũ
Đặng Lê Nguyên Vũ (sinh năm 1971) là một doanh nhân Việt Nam. Ông là người sáng lập, chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Trung Nguyên, Việt Nam. Ông là người được National Geographic Traveller và Forbes Asia vinh danh là "Vua Cà phê Việt Nam".Trưởng thành từ kinh doanh cà phê, Đặng Lê Nguyên Vũ muốn nâng dần ý nghĩa của việc kinh doanh cà phê từ kinh doanh thuần túy đến đạo cà phê, đưa Việt Nam thành thánh địa cà phê toàn cầu, và cuối cùng là đưa công ty thành một tôn giáo trong đó ông Vũ được thông linh và được trao sứ mệnh "cứu nhân loại". Trong quá trình này, vợ ông, Lê Hoàng Diệp Thảo đã bị đưa ra khỏi công ty và hai người đã tranh chấp quyền điều khiển công ty từ năm 2015 tới 2018. Ông và bà Thảo kết hôn từ năm 1998 và chia tay ngày 27/3/2019. Đặng Lê Nguyên Vũ sinh ngày 10 tháng 2 năm 1971 tại huyện Ninh Hòa,tỉnh Khánh Hòa trong một gia đình nông dân nghèo. Năm 1979, gia đình ông chuyển đến sinh sống ở huyện miền núi M’drak, tỉnh Đắk Lắk, Việt Nam.
Vũ trụ là tên gọi rất quen thuộc đối với các nhà thiên văn học. Đối với người bình thường có đi học có đọc báo thì vũ trụ cũng không xa lạ gì. Tuy vậy vũ trụ là cái vật vô cùng rộng lớn, vô cùng sâu thẳm, còn vô số bí mật mà con người chưa khám phá ra. Ngoài ra vũ trụ vật lý có liên quan gì đến tâm lý của con người lại là điều mà các nhà thiên văn hầu như chưa đề cập, vì vậy bài viết hôm nay chủ yếu nói về khía cạnh này. Trước khi chúng ta đi vào vũ trụ tâm lý, xin nhắc lại sơ qua về vũ trụ vật lý trước. Alexander Friedmann mô tả năm 1924 một không gian vũ trụ đang mở rộng dựa vào phương trình trường trong thuyết tương đối rộng (general theory of relativity) của Albert Einstein mà không sử dụng hằng số vũ trụ của Einstein. Năm 1927 một linh mục người Bỉ là Georges Lemaître phát triển thêm phương trình của Friedmann thành một vũ trụ giãn nở. Trong năm 1929, Edwin Hubble đã cung cấp những dữ liệu quan sát thực tế trên bầu trời củng cố lý thuyết của Lemaître. Trong năm 1931, Lemaître, trong tác phẩm Hypothèse de l’atome primitif (giả thuyết về nguyên tử nguyên thủy) là người đầu tiên đưa ra thuyết Big Bang tức là vụ nổ lớn hình thành vũ trụ, từ thực tế vũ trụ đang giãn nở, suy luận ngược về lúc bắt đầu của quá trình giãn nở là Vụ Nổ Lớn (Big Bang) từ một điểm kỳ dị (gravitational singularity) cực kỳ cô đặc và cực nóng. Thuyết Big Bang của Lemaître về sau được các nhà thiên văn bổ sung thêm. Trong giây đầu tiên sau khi vũ trụ hình thành, vũ trụ của chúng ta phình ra nhanh hơn cả tốc độ ánh sáng. Sự dao động lượng tử (quantum fluctuations) trong khu vực lạm phát vi mô, được phóng đại lên kích thước vũ trụ, khiến điểm kỳ dị trở thành hạt giống cho sự phát triển của cấu trúc trong vũ trụ. Đó là lạm phát vũ trụ (cosmic inflation còn gọi là cosmology hay gọi tắt là inflation). NASA tính toán rằng nhiệt độ xung quanh lúc này khoảng 5.5 tỷ độ C. Vũ trụ chứa một mảng lớn các hạt cơ bản như neutron, electron và proton. Theo thời gian, các electron tự do sẽ gặp hạt nhân do proton và neutron hình thành và tạo ra các nguyên tử trung hòa. Điều này cho phép ánh sáng chiếu xuyên qua và lúc này đã là 375 hay nói tròn là 380 nghìn năm sau Vụ Nổ Lớn. Kế đó là một thời kỳ tối tăm (dark ages) kéo dài khoảng 400 triệu năm trước khi ngôi sao đầu tiên hình thành. Tiếp theo là thời kỳ dài hình thành các thiên hà, các ngôi sao và hành tinh. Sự giãn nở của vũ trụ nhanh hơn cả tốc độ ánh sáng được cho là do ảnh hưởng của năng lượng tối (dark energy). Vũ trụ chỉ có 5% là vật chất và năng lượng thấy được còn 95 % là năng lượng tối và vật chất tối (năng lượng tối 68,3%, vật chất tối 26,8%). Vật chất tối cũng có vai trò quan trọng đối với sự tạo thành cấu trúc và sự tiến hóa thiên hà, và có ảnh hưởng đo được đến tính bất đẳng hướng (anisotropy) của bức xạ phông (tiếng Pháp fond=nền) vi sóng vũ trụ. Các hiện tượng này chỉ ra rằng vật chất quan sát thấy được trong các thiên hà, các cụm thiên hà, và cả vũ trụ mà có ảnh hưởng đến bức xạ điện từ chỉ là một phần nhỏ của tất cả vật chất: phần còn lại được gọi là “thành phần vật chất tối”. Bức xạ phông vi sóng vũ trụ (hay bức xạ tàn dư vũ trụ) là bức xạ điện từ được sinh ra từ thời kỳ sơ khai của vũ trụ (khoảng 380.000 năm sau Vụ Nổ Lớn). Năm 1964, Arno Penzias và Robert Wilson đã phát hiện ra bức xạ phông vũ trụ khi họ tiến hành nghiên cứu một máy thu tín hiệu vi sóng ở phòng thí nghiệm Bell. Khám phá của họ đã khẳng định tiên đoán về bức xạ phông vũ trụ, một bức xạ đẳng hướng và đồng nhất phân bố giống như phổ phát xạ của vật đen có nhiệt độ khoảng 3 độ K. Tốc độ giãn nở của vũ trụ nhanh hơn tốc độ ánh sáng thể hiện ở đường kính của vũ trụ hiện nay. Các nhà khoa học đã xác định được phần rìa vũ trụ đã di chuyển ra xa với khoảng cách 46,5 tỉ năm ánh sáng. Suy ra đường kính của vũ trụ hiện nay là 93 tỷ năm ánh trong khi thời gian từ lúc bắt đầu vụ nổ Big Bang đến nay chỉ là 13,8 tỷ năm. Như vậy tốc độ giãn nở của vũ trụ nhanh gấp 3,3 lần tốc độ ánh sáng. Kết luận rõ ràng là: Vụ nổ Big Bang chắc chắn đã xảy ra, nhưng không dãn nở để quay trở về trạng thái vô cùng đặc nóng ngẫu nhiên của điểm kỳ dị . Theo thuyết Vụ Nổ Lớn, vũ trụ bắt nguồn từ một trạng thái vô cùng đặc và vô cùng nóng (điểm dưới cùng gọi là điểm kỳ dị vụ nổ lớn = Big bang singularity). Theo thuyết mới thì không có Big bang singularity. Thay vào đó, Vũ trụ từ rất sớm trước đó đã trải qua một khoảng thời gian mà trước khi tất cả năng lượng tạo thành vật chất và bức xạ như hiện nay, thay vào đó là sự liên quan mật thiết giữa ý thức và vật chất trong chính lưới không gian của vũ trụ. Giai đoạn đó, được gọi là phình to vũ trụ, đã kết thúc và hình thành nên Big Bang, nhưng chưa bao giờ tạo ra một trạng thái đặc nóng ngẫu nhiên và cũng không tạo ra điểm kỳ dị. Điều gì đã xảy ra trước khi Vũ trụ phình to ra – hoặc liệu phình to vũ trụ có vĩnh cửu trong quá khứ hay không – vẫn là một câu hỏi mở, nhưng có một điều chắc chắn: Big Bang không phải là sự khởi đầu của vũ trụ!. Trong tác phẩm Lưới Trời Ai Dệt của tiến sĩ vật lý Nguyễn Tường Bách đã đề cập tới ý tưởng vũ trụ không có bắt đầu này tức là không có Big bang singularity hay nói cách khác, có nhưng không phải thật. Tóm tắt như sau : Khi con người ngắm nhìn vũ trụ thì đó là sự kiện của một cái giả hợp (con người) ngắm nhìn một cái giả hợp khác (vũ trụ) và tưởng cả hai đều thực có. Đó chính là sự nhầm lẫn lớn nhất của cảm quan và ý thức. Đó là “vọng tâm”, là nguyên thủy của thế giới và con người, là cơ nguyên của mọi dạng tồn tại. Trong vọng tâm thì mọi sự đều có, nhưng chúng không thực có. Thế nên tất cả đều có và tất cả đều không. Lý thuyết khoa học mới nói rằng : Big Bang không phải là sự khởi đầu của vũ trụ! Kết luận này lại phù hợp với Phật pháp. Phật pháp từ xa xưa đã nói rằng : Nhất thiết duy tâm tạo. Nghĩa là vũ trụ vật lý mà chúng ta đang thấy và đang sống trong đó chỉ nằm mơ giữa ban ngày, chỉ là tưởng tượng của bộ não chứ không phải có thật, không có khởi đầu, không có kết thúc, không gian, thời gian, số lượng đều không có thật. Thuật ngữ Phật giáo gọi đó là thế lưu bố tưởng nghĩa là tưởng tượng đã lưu truyền nhiều đời nhiều kiếp và phổ biến ở thế gian, đó chỉ là thuần túy tưởng tượng chứ không có gì là thật. “Mở mắt thì không chiêm bao, tâm chẳng khởi ý thì không đối đãi. Ý nghĩa hai câu này ta giảng sơ qua: Mắt mở cứ mở cho lớn thì không chiêm bao, mắt nhắm lại thì nằm chiêm bao, đại khái là như vậy. Nhưng ta nói: Mắt nhắm nằm chiêm bao, mắt mở to lại còn nằm chiêm bao hơn, các ông tin hay không? Các ông nghĩ rằng mắt nhắm thì ngủ nằm chiêm bao, tại sao mắt mở to cũng còn nằm chiêm bao? Tôi có chỗ không tin. Nhưng ta nói các ông đứng ngay đây đang nằm chiêm bao, suốt ngày suốt đêm chiêm bao. Nhắm mắt lại nằm chiêm bao thì còn có thể mau chóng tỉnh lại được, các ông mở mắt mà chiêm bao thì chẳng có lúc nào tỉnh, còn biết cái chiêm bao này kéo dài tới khi nào mới có thể tỉnh được không?. Người chưa liễu ngộ đều là mở mắt nằm chiêm bao mà không biết được đang nằm chiêm bao, muốn biết cái chiêm bao này lúc nào mới tỉnh lại được thì nhất thiết phải khai ngộ, khai ngộ rồi cũng như ngủ nằm chiêm bao thình lình tỉnh dậy. Ta hỏi các ông: cái chiêm bao này còn có kỳ hạn tỉnh dậy không?. Còn nói về cái tâm không khởi ý, ý tức là niệm, tâm có thể khởi thiện niệm, khởi ác niệm, nếu tất cả niệm đều không khởi ấy không có đối đãi, đại khái ý nghĩa là như vậy đó. Kỳ thật không phải thế, cần phải thánh bất khả đắc, phàm bất khả đắc, niệm bất khả đắc, tâm cũng bất khả đắc, nói không rơi vào hai (có đối đãi) thì đã rơi vào ba; luôn cả cái nhất cũng bất khả đắc, mới cho là có một tí tương ưng trong Thiền tông.”. Muốn hiểu được những điều của Lai Quả thiền sư nói, chúng ta bắt buộc phải nghiên cứu cuộc tranh luận trong thế kỷ 20 giữa hai nhà khoa học hàng đầu thế giới là Niels Bohr và Albert Einstein. Họ tranh luận về một vấn đề vô cùng cơ bản của vũ trụ. Đại khái vào thời của họ người ta đã biết vũ trụ vật chất được tạo thành từ những hạt cơ bản. Thời đó có thể hai ông chưa biết tới hạt quark nhưng khoa học đã khám phá ra các hạt sau :. Hai ông đều đã ý thức rõ ràng rằng nguyên tử được cấu tạo bởi hạt nhân và electron quay chung quanh. Và hạt nhân thì được cấu tạo bởi proton và neutron. Hai ông chỉ chưa biết rằng proton và neutron đều được cấu tạo bằng 3 hạt quark như nói trên. Ví dụ đây là nguyên tử Oxigen :. Nguyên tử Oxygen được cấu tạo bởi hạt nhân gồm có 8 proton và 8 neutron bên ngoài là 8 electron chia làm 3 tầng, hai tầng bên trong mỗi tầng có 2 electron, tầng ngoài cùng có 4 electron. Hai ông đều hiểu rõ cấu tạo của nguyên tử Oxygen. Nhưng hai ông tranh luận về vấn đề hạt photon hoặc hạt electron có sẵn đặc trưng hay không. Bohr nói rằng hạt cơ bản cô lập thì trừu tượng “Isolated material particles are abstractions” chúng không có sẵn đặc trưng, chỉ khi có người quan sát thì đặc trưng mới xuất hiện. Lập trường của Bohr thể hiện trong câu nói :. “Mọi thứ chúng ta gọi là có thực được cấu tạo bằng những thứ không được xem là thật. Nếu cơ học lượng tử chưa gây shock một cách sâu sắc cho bạn thì có nghĩa là bạn chưa hiểu gì về nó.”. Trái lại lập trường của Einstein thì cho rằng các đặc trưng của hạt cơ bản luôn luôn sẵn có, vật chất là có thật, là khách quan. Lập trường của Einstein thể hiện trong câu nói :. Cho đến khi cả hai nhà khoa học hàng đầu thế giới này qua đời, chưa ai chứng tỏ được ai đúng ai sai . Năm 1960 nhà vật lý John Bell người Ireland đã đưa ra một bất đẳng thức có khả năng kiểm chứng được hiện tượng rối hay liên kết lượng tử có xảy ra hay không. Nếu nó có xảy ra tức là nó chứng tỏ việc nhìn và đo đạc thuộc tính đặc trưng của một hạt cơ bản đã sửa đổi thuộc tính của hạt liên kết với nó một cách bí ẩn. Bất đẳng thức của Bell đòi hỏi phải tiến hành hai công tác đo đạc riêng biệt với hai hạt rối lượng tử (quantum entanglement), để xem kết quả của chúng ra sao. Muốn có hai hạt rối xuất hiện đồng thời phải chế tạo cái máy để làm được việc đó. Và năm 1967 một nhà vật lý trẻ người Mỹ là John Clauser đã chế tạo được cái máy đó và tiến hành thử nghiệm. Ông ta là người ủng hộ lập trường của Einstein và mục đích chế tạo cái máy là để chứng tỏ Einstein đúng. Nhưng kết quả thực nghiệm thì ngược lại, nó chứng tỏ Einstein sai, lập trường của Bohn mới đúng. Năm 1982 tại Paris, Alain Aspect dùng chiếc máy của John Clauser tiến hành một thí nghiệm thật sâu rộng để giải quyết cho dứt khoát vấn đề đúng sai của hai nhà khoa học hàng đầu thế giới nói trên. Và kết quả như chúng ta đã biết, thí nghiệm liên kết lượng tử đã tạo được hai photon xuất hiện đồng thời ở hai vị trí khác nhau trong không gian. Ông tiến hành đo đạc hai hạt rối và áp dụng bất đẳng thức của John Bell để kiểm chứng. “Bell đã chứng minh được rằng, theo các thông số thống kê, thì sự tương quan giữa các kết quả đã vượt qua ngưỡng giới hạn và không thể được giải thích bằng việc các hạt này có những thuộc tính ẩn được. Thay vào đó, kết quả cho thấy việc đo đạc một hạt đã sửa thuộc tính của hạt kia một cách bí ẩn”. Thí nghiệm đã chứng tỏ hiện tượng rối hay liên kết lượng tử là có thật. Thí nghiệm này đã bác bỏ lập trường duy vật khách quan (Objective Materialism) của Einstein, nó chứng tỏ lập trường của Niels Bohr là đúng, vô hình trung nó cũng chứng tỏ lời nói trong kinh điển Phật giáo là đúng : Nhất thiết duy tâm tạo. Những điều Lai Quả thiền sư nói trong Thiền thất khai thị lục là hoàn toàn có cơ sở khoa học. Con người trong thế gian đang mở mắt chiêm bao. Cái vũ trụ vật lý mà chúng ta đang sống trong đó thuần túy chỉ là tưởng tượng của con người chứ không có gì là thật cả. Quyển sách Lưới Trời Ai Dệt của tiến sĩ vật lý Nguyễn Tường Bách cốt yếu cũng nói lên ý tưởng đó. Các kết luận này được rút ra từ thí nghiệm liên kết lượng tử (quantum entanglement). Một photon có thể xuất hiện đồng thời ở hai hay nhiều vị trí khác nhau trong không gian chứng tỏ rằng hạt chỉ là ảo không có thật (non realism). Sự kiện vướng víu hay liên kết giữa các cặp hạt hay các nhóm hạt không tùy thuộc vào khoảng cách bao xa từ vài mét tới hàng ngàn km hay hàng năm ánh sáng chứng tỏ khoảng cách không gian và thời gian là không có thật (non locality). Sự kiện này trong kinh Kim Cang gọi là vô sở trụ 无所住 。 Mặt khác thí nghiệm cũng chứng tỏ số lượng là không có thật (non quantity). Chúng ta hãy nghe lại lời giảng của thầy Duy Lực cũng nêu ra khái niệm đó :
Vũ trụ tĩnh
Vũ trụ tĩnh, còn được gọi là vũ trụ "tĩnh" hoặc "vô hạn" hoặc "vô hạn tĩnh", là một mô hình vũ trụ trong đó vũ trụ là vô hạn về không gian và vô hạn theo thời gian, và không gian không mở rộng cũng không co lại. Một vũ trụ như vậy không có cái gọi là độ cong không gian; điều đó có nghĩa là nó là phẳng hoặc là dạng Euclide. Một vũ trụ vô tận tĩnh được đề xuất đầu tiên bởi Thomas Digges (1546. 1595).Trái ngược với mô hình này, Albert Einstein đã đề xuất một mô hình hữu hạn vô hạn nhưng không gian theo thời gian là vũ trụ học ưa thích của ông trong năm 1917, trong bài viết Cosmological Considerations in the General Theory of Relativity - Cân nhắc vũ trụ học trong Lý thuyết tương đối tổng quát. Sau khi phát hiện ra mối quan hệ dịch chuyển đỏ-xa (suy luận bởi mối tương quan nghịch đảo của độ sáng thiên hà để dịch chuyển đỏ) bởi Vesto Slipher và Edwin Hubble, các nhà thiên văn và linh mục Công giáo La Mã Georges Lemaître giải thích sự dịch chuyển đỏ như bằng chứng của việc mở rộng toàn cầu và do đó một Big Bang, trong khi Fritz Zwicky đề xuất rằng dịch chuyển đỏ là do các photon bị mất năng lượng khi chúng đi qua vật chất và/hoặc lực trong không gian liên thiên hà.
Tiểu sử ca sĩ Miu Lê ngày càng được nhiều người quan tâm và tìm kiếm nhiều hơn. Có lẽ vì tên tuổi cô nàng càng ngày càng nổi và gây được nhiều ấn tượng. Vậy Miu Lê có cuộc đời thế nào và vì sao cô lại nổi danh như thế? Bài viết sau đây sẽ tổng hợp đầy đủ thông tin nhất về cô nàng. 5 Tiểu sử ca sĩ Miu Lê có sự nghiệp thế nào?5.1 Tiểu sử ca sĩ Miu Lê có xuất phát điểm như thế nào?5.2 Tiểu sử ca sĩ Miu Lê bắt đầu thay đổi sự nghiệp ra sao?5.3 Tiểu sử ca sĩ Miu Lê trở lại sau sự cố trên truyền hình?. 6 Tiểu sử ca sĩ Miu Lê có bạn trai chưa?6.1 Tiểu sử ca sĩ Miu Lê có bạn trai thật không?6.2 Tiểu sử ca sĩ Miu Lê có bạn trai là ai?. Miu Lê có tên thật khá đẹp là Lê Ánh Nhật. Từ “Ánh Nhật” trong tên cô có nghĩa là vầng mặt trời chiếu sáng rực rỡ cho mọi nơi. Những người tên “Nhật” thường thông minh và tươi sáng giống như mặt trời. Có thể thấy đây là một cái tên khá đẹp và ý nghĩa. Tuy nhiên thì tên “Nhật” thường dùng để đặt cho con trai nhiều hơn con gái. Với cái tên khá ấn tượng nên từ nhỏ Miu Lê đã bị nhiều người nhầm tưởng là con trai. Đây cũng chính là lý do vì sao cô lại phải mang giới tính nam trong giấy khai sinh trong suốt 14 năm. Tuy vậy nhưng điều đặc biệt là Miu Lê lại có tính cách mạnh mẽ như con trai từ lúc còn nhỏ. Điều này khiến cô nàng trở nên cá tính và hấp dẫn hơn trong mắt người khác. Sau tất cả thì Miu Lê vẫn là một cô gái chính hiệu nhé!. Miu Lê sinh vào ngày 5 tháng 7 năm 1991 (Năm Tân Mùi) tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Cô sinh ra trong một gia đình theo Công Giáo nên có lẽ cô cũng theo Đạo giống gia đình. Hiện tại Miu Lê đang ở tuổi 30. Đây có thể xem là độ tuổi mà phụ nữ đang ở đỉnh cao của sự nghiệp và sắc đẹp. Miu Lê đang sinh sống và làm việc ở Sài Gòn. Hiện tại cô nàng đang là một ca sĩ chuyên nghiệp, một diễn viên, mẫu ảnh, quảng cáo. Sự nghiệp của cô cũng đang trên đà phát triển theo hướng tích cực. Miu Lê sở hữu chiều cao là 1m70 với khuôn mặt xinh đẹp và nụ cười tỏa nắng. Cô từng xuất hiện với nhiều kiểu tóc khác nhau, lúc ngắn lúc dài. Cho dù cô để kiểu tóc nào đi nữa thì cô vẫn xinh đẹp rạng ngời. Tuy nhiên sau một đêm biểu diễn tại một quán bar ở Hà Nội, hình ảnh của cô đã bất ngờ viral khắp mạng xã hội. Thế nhưng, những gì mà dân mạng quan tâm đến và bàn tán không phải là về phần trình diễn, giọng hát hay vũ đạo của cô. Mọi bàn tán chỉ xoay quanh trang phục biểu diễn và đặc biệt là thân hình của Miu Lê. Không khó để đọc được những dòng bình luận chứa đầy ý chê bai, miệt thị cơ thể của Miu Lê. Nhiều người miệt thị rằng cô đừng nên làm ca sĩ mà nên chuyển sang làm vận động viên thể hình. Có lẽ là vì tập thể hình nên tay chân của cô không khác gì đàn ông. Cho dù thế nào thì Miu Lê vẫn là một cô nàng mạnh mẽ và không dễ dàng gì để những lời bình luận không hay làm ảnh hưởng đến cô. Từ khi còn nhỏ thì Miu Lê đã được gia đình cho theo học lớp người mẫu để. Gia đình muốn cô giảm cân và sửa lại dáng người cho đẹp hơn. Tại đây thì cô tình cờ gặp được đạo diễn Lê Hoàng. Anh đã mời cô tham gia vào bộ phim Thủ tướng. Tuy nhiên bộ phim mà cô góp mặt lại không được công chiếu. Ngay sau đó cô tiếp tục được đạo diễn Lê Hoàng mời tham gia vào bộ phim tên “Những thiên thần áo trắng”. Và đây cũng chính là lần đầu tiên mà Miu Lê xuất hiện trước công chúng. Điều này đã đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp của Miu Lê. Sau một thời gian, đến năm 2011 thì nữ diễn viên lại chuyển hướng sang âm nhạc dưới sự quản lý của công ty NewGen Entertainment. Miu Lê lần lượt cho ra mắt nhiều sản phẩm và những ca khúc của cô cũng đã nhanh chóng trở thành hit. Những ca khúc ấy đều đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc trong lòng khán giả. Ca khúc thành công của Miu Lê lúc đó có thể kể đến như: Riêng mình em, Không gian vắng,…. Vì sở hữu chất giọng ngọt ngào và gương mặt khả ái nên Miu Lê đã nhanh chóng nhận được rất nhiều tình cảm từ người hâm mộ. Cho đến cuối năm 2011 thì Miu Lê đã chính thức rời khỏi công ty NewGen Entertainment. Cô đã bắt đầu cộng tác với công ty Avatar Entertainment. Ở công ty mới này thì Miu Lê đã thay đổi hoàn toàn phong cách biểu diễn so với trước đây. Với sự đầu tư khá kỹ càng về hình ảnh mới, chất lượng âm thanh của single “Ngày Anh Xa” liên tục đứng đầu nhiều BXH âm nhạc như Zing, Yan. Nó đã mang đến nhiều thành công rực rỡ cho nữ ca sĩ trong thời gian đầu cô bén duyên với âm nhạc. Thành công không dừng lại ở đó khi nữ ca sĩ liên tục thay đổi hình tượng của mình trong mắt khán giả. Trong năm 2011 thì Miu Lê lại tiếp tục góp mặt trong 3 bộ phim đình đám. Tên tuổi của Miu Lê ngày càng đến gần hơn với khán giả truyền hình. Tuy nhiên một sự cố trong việc xử lý tình huống trong chương trình “Ơn giời cậu đây rồi” đã khiến cho Miu Lê nhận không ít gạch đá từ phía dư luận. Đây cũng chính là thời điểm mà nữ ca sĩ xinh đẹp suy sụp nhất. Sau sự cố lần đó Miu Lê gần như im hơi lặng tiếng một thời gian khá dài. Mãi cho đến năm 2015 nữ diễn viên quay trở lại với màn ảnh qua bộ phim “Em là bà nội của anh”. Lối diễn xuất chân thật kết hợp với những ca khúc ngọt ngào trong phim đã giúp Miu Lê nhận được đánh giá cao từ khán giả. Bộ phim cũng chính là cầu nối để giúp cô nhận lại được sự yêu mến của khán giả sau những lùm xùm trước đó. Năm 2016 Miu Lê quay trở lại với vai trò chính là một ca sĩ. Cô phối hợp ăn ý với nhạc sĩ Only C để cho ra mắt bài hát hit “Yêu một người có lẽ”. Tiếp theo đó cô cho ra MV “Anh đang nơi đâu”. Và cũng trong thời gian này cô đã chính thức cộng tác với công ty tên BPro Entertainment. Đó là một trong những công ty của nam ca sĩ Trịnh Thăng Bình. Miu Lê là một diễn viên trẻ đầy triển vọng trong làng điện ảnh Việt. Chính vì thế mà cô cũng khiến nhiều người hâm mộ tò mò về chuyện tình cảm. Trong một bài phỏng vấn trước đó thì nữ diễn viên,ca sĩ cho biết mình dự định kết hôn vào năm 29 tuổi. Và sau khi lập gia đình cô sẽ tập trung phần lớn thời gian của mình vào việc chăm lo cho tổ ấm của mình. Nữ diễn viên còn bật mí với người hâm mộ và báo chí rằng hiện tại cô và bạn trai đã quen nhau hơn 2 năm. Được biết người bạn trai bí ẩn này có vẻ rất yêu thương Miu Lê. Ca sĩ Miu Lê còn thẳng thắn chia sẻ rằng cô hoàn toàn không hề phủ nhận việc mình quen một người thành đạt. Và cô cũng cho biết mình luôn nghĩ không biết đến bao giờ có thể tìm được một người đàn ông tốt như thế. Tin đồn bạn trai bí ẩn được hé lộ khi nhiều hình ảnh của một chàng trai có tên là Trần Lê Phước Hải cùng với những lời ngọt ngào yêu thương liên tục được đăng tải trên trang cá nhân của Miu Lê. Điều đó đã ngầm xác định cho mối quan hệ của 2 người. Trong số những hình ảnh mà Miu Lê đăng tải trên trang cá nhân của mình, người hâm mộ chắc hẳn sẽ ấn tượng nhất với hình ảnh dòng chữ “Miu Lê love you”. Dòng chữ ấy được xăm nổi bật trên cánh tay người đàn ông bí ẩn cùng với những lời khen ngợi từ người đẹp sinh năm 1991. Fan hâm mộ theo đó cũng dành tặng những lời khen ngợi về chuyện tình đẹp của 2 người. Miu Lê cũng không ngần ngại đăng tải video cô tự quay cùng với ca khúc tên “Love Paradise” với giọng hát ngọt lịm của mình để tặng riêng cho bạn trai. Những điều này giúp người hâm mộ cảm thấy yên tâm hơn về cuộc sống hạnh phúc hiện tại của cô cùng chàng trai Trần Lê Phước Hải. Như vậy bài viết vừa rồi về Tiểu sử ca sĩ Miu Lê đã tổng hợp đầy đủ mọi thứ về cô nàng. Qua đó giúp các bạn hiểu rõ hơn về Miu Lê và sự thành công của cô. Tất cả những tin tức mới nhất về cô nàng sẽ được cập nhật trong những bài viết sắp tới.
Miu Lê
Lê Ánh Nhật hay còn được khán giả biết đến với nghệ danh là Miu Lê, sinh ngày 05 tháng 07 năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh là một nữ ca sĩ, diễn viên người Việt Nam. Miu Lê tên khai sinh là Lê Ánh Nhật, sinh ngày 5 tháng 7 năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh trong một gia đình Công giáo. Cô từng học tại Trường Trung học phổ thông Võ Thị Sáu, Thành phố Hồ Chí Minh. Miu Lê chia sẻ rằng mẹ của cô bắt cô đi học lớp người mẫu để giảm cân và sửa dáng cho đẹp hơn. Tại lớp học này, Miu Lê được đạo diễn Lê Hoàng chọn để tham gia phim Thủ tướng nhưng tiếc là bộ phim không được công chiếu. Sau đó, cô tiếp tục hợp tác với đạo diễn Lê Hoàng trong phim Những thiên thần áo trắng, và đó là lần đầu tiên cô xuất hiện trước công chúng. Sau một thời gian, cô chuyển hướng sang ca hát dưới sự quản lý của công ty NewGen Entertainment (cũng là công ty quản lý Khổng Tú Quỳnh) với nghệ danh Miu Lê được ghép từ vai diễn July Miu và họ của cô.
Sóng vô tuyến có vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc sống con người hiện nay, khi mà các thiết bị điện tử như: tivi, điện thoại di động,… sử dụng ngày càng nhiều. Quan trọng là thế nhưng định nghĩa về sóng vô tuyến thì không phải ai cũng biết. Vậy nên hãy tham khảo ngay bài viết bên dưới để biết sóng vô tuyến là gì và có ứng dụng như thế nào nhé!. Sóng vô tuyến là một loại bức xạ điện từ với các bước sóng trong phổ điện từ, dài hơn ánh sáng hồng ngoại. Loại sóng này rất phổ biến và thường xuyên được sử dụng trong các công nghệ truyền thông, thiết bị điện tử hiện đại. Các thiết bị đó sẽ nhận sóng vô tuyến và chuyển đổi chúng thành các rung động cơ học trong loa và từ đó phát ra sóng âm thanh. Phổ tần số vô tuyến là một phần khá nhỏ của phổ điện từ EM. Phổ điện từ thì thường được chia ra bảy vùng theo thứ tự giảm bước sóng và tăng năng lượng của tần số. Các chỉ định phổ biến đó là: sóng vô tuyến, hồng ngoại (IR), sóng vi ba, ánh sáng nhìn thấy, tia cực tím (UV), tia X và tia Gamma. Sóng vô tuyến có bước sóng dài nhất trong phổ EM theo NASA và dao động từ khoảng 1mm đến hơn 100km. Tần số sóng vô tuyến thấp đó là từ khoảng 3000 chu kỳ cho mỗi giây hoặc 3KHz, lên tới khoảng 300GHz. Phổ vô tuyến là một nguồn tài nguyên hạn chế và thường hay được so sánh với đất nông nghiệp. Bởi phổ vô tuyến cũng phải được phân chia giữa những người dùng theo các cách hiệu quả nhất. Về vận tốc thì sóng vô tuyến sẽ truyền rất nhanh với vận tốc ánh sáng trong môi trường chân không. Trong quá trình di chuyển nếu sóng bị va đập vào các vật thể xung quanh thì nó sẽ đi chậm lại, phụ thuộc vào độ từ thẩm và hằng số điện môi của môi trường đó. Bước sóng của sóng vô tuyến là khoảng cách từ một đỉnh sóng này tới đỉnh sóng kế tiếp và tỉ lệ nghịch với tần số của sóng. Trong môi trường chân không thì V = 299.792.458 m/s, tần số của sóng là 1 Hz. Tạo ra tín hiệu nhận biết 1 Megahertz và sẽ có bước sóng lamda khoảng 299m. Ở Việt Nam thì sóng vô tuyến sẽ do Cục Tần số vô tuyến điện thuộc Bộ thông tin và truyền thông quản lý. Sự xuất hiện của sóng vô tuyến là do một nhà vật lý người Scotland James Clerk Maxwell – người đã phát triển một lý thuyết điện từ thống nhất năm 1870 tiên đoán. Đến năm 1886 thì Heinrich Hertz – một nhà vật lý người Đức đã áp dụng lý thuyết của Maxwell để sản xuất và thu sóng vô tuyến. Ông đã sử dụng các công cụ tự chế rất đơn giản gồm: một cuộn dây cảm ứng và bình Leyden (một loại tụ điện được làm từ 1 lọ thuỷ tinh và các lớp giấy bạc cả trong lẫn ngoài) để có thể tạo ra sóng điện từ. Từ đó, ông đã trở thành người đầu tiên truyền và nhận sóng vô tuyến có kiểm soát. Đơn vị tần số của sóng sẽ là EM – một chu kỳ mỗi giây và được gọi là Hertz (Hz). Sóng dài: thường có phản xạ tốt qua các tầng điện li. Sóng dài thì không bị ảnh hưởng bởi hiện tượng Fading (ảnh hưởng từ giao thoa sóng). Sóng trung: Được dùng để lan tỏa sóng trong các thành phố lớn, phản xạ thì kém hơn sóng dài và bị ảnh hưởng bởi hiện tượng fading. Sóng ngắn vô tuyến: Có tần số khá cao và thường bị các vật cản hấp thụ. Ưu điểm của sóng ngắn đó là có thể liên lạc rất xa. Sóng cực ngắn: Có khả năng xuyên qua mọi tầng và đi vào không gian vũ trụ cực lớn. Thường được ứng dụng trong liên lạc, phát thanh truyền hình. Vô tuyến truyền hình thường dùng các sóng cực ngắn và không truyền được xa trên mặt đất. Theo Cục Viễn thông và Thông tin Quốc gia Hoa Kỳ thì thường chia phổ vô tuyến thành 9 dải sóng vô tuyến và được biểu thị thông qua hình ảnh dưới đây. Thông thường để thu được tín hiệu vô tuyến, ví dụ như các đài vô tuyến: AM/FM thì đều cần một anten vô tuyến. Sóng vô tuyến thường được dùng vào trong thông tin liên lạc. Như trong truyền thanh người ta hay sử dụng sóng điện từ cao tần trong dải sóng vô tuyến hay còn gọi là sóng mang. Trong y tế thì năng lượng tần số vô tuyến đã được dùng vào điều trị bệnh hơn 75 năm qua. Sóng vô tuyến còn được áp dụng nhiều vào lĩnh vực y khoa, đặc biệt là trong các ca phẫu thuật nhờ đặc tính có thể xuyên qua của sóng. Ví dụ điển hình đó là: các ca phẫu thuật xâm lấn tối thiểu, bao gồm cả điều trị ngưng thở khi ngủ. Ngoài các ứng dụng trên thì sóng vô tuyến được ứng dụng trong các hệ thống vệ tinh, radar, mạng máy tính và rất nhiều các ứng dụng khác nữa. Như vậy bài viết trên vừa chia sẻ cho bạn đọc các thông tin chi tiết nhất, cũng như trả lời cho câu hỏi: Sóng vô tuyến là gì? Hy vọng bài viết trên sẽ cung cấp cho các bạn các thông tin hữu ích nhất.
Sóng vô tuyến
Sóng vô tuyến (tiếng Anh: radio wave, gọi tắt là radio) là một kiểu bức xạ điện từ với bước sóng trong phổ điện từ dài hơn vi sóng (vi ba). Sóng vô tuyến có tần số từ 3 kHz tới 300 GHz, tương ứng bước sóng từ 100 km tới 1 mm. Giống như các sóng điện từ khác, chúng truyền với vận tốc ánh sáng. Sóng vô tuyến xuất hiện tự nhiên do sét, hoặc bởi các đối tượng thiên văn. Sóng vô tuyến do con người tạo nên dùng cho radar, phát thanh, liên lạc vô tuyến di động và cố định, thông tin vệ tinh, các mạng máy tính, các hệ thống dẫn đường khác, và nhiều ứng dụng khác. Các tần số khác nhau của sóng vô tuyến có đặc tính truyền lan khác nhau trong khí quyển Trái Đất; sóng dài truyền theo đường cong của Trái Đất, sóng ngắn nhờ phản xạ từ tầng điện ly nên có thể truyền rất xa, các bước sóng ngắn hơn bị phản xạ yếu hơn và truyền trên đường nhìn thẳng.
Chúc MEDDOM tiếp tục phát triển sự nghiệp bảo tồn và phát huy di sản của các nhà khoa học Việt Nam
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam (tiếng Anh: Heritage Center for scientists and scholars of Vietnam) hoạt động với tư cách pháp nhân là một công ty, trực thuộc Công ty Công nghệ và Xét nghiệm y học MEDLATEC. Trung tâm có chức năng nghiên cứu, bảo tồn và lưu giữ những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể thông qua tư liệu hiện vật cá nhân, hồi ức của các nhà khoa học Việt Nam. Ý tưởng thành lập một Trung tâm có chức năng nghiên cứu, bảo tồn di sản các nhà khoa học Việt Nam mà hạt nhân là Công viên các nhà khoa học mang đậm nét dân tộc và thời đại là của những người sáng lập ra Bệnh viện MEDLATEC với mong muốn bày tỏ lòng tri ân và nghĩa tôn sư trọng đạo đối với các thầy cô giáo và các bậc tiền bối. Công viên các nhà khoa học sẽ là một công viên văn hóa - khoa học đáp ứng nhu cầu của quảng đại nhân dân, của khách du lịch, của thế hệ trẻ thông qua việc trưng bày, giới thiệu cuộc đời và những đóng góp của các nhà khoa học Việt Nam kết hợp với nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, du lịch văn hóa - lịch sử.
Thu nhập quốc dân (Gross National Income – GNI) là chỉ số kinh tế phản ánh kết quả thu nhập lần đầu. Được tạo ra từ các yếu tố sở hữu của một quốc gia tham gia vào hoạt động sản xuất trên lãnh thổ quốc gia đó, hay ở nước ngoài. Trong một thời gian nhất định, thường được tính là một năm. GNI là một trong những chỉ tiêu quan trọng. Dùng để đánh giá tăng trưởng kinh tế một cách đầy đủ và đo thực lực của một quốc gia. Là cơ sở nghiên cứu đánh giá các mối quan hệ sản xuất, phân phối, thu nhập cũng như các mối quan hệ kinh tế vĩ mô khác trong nền kinh tế. Thu nhập quốc dân có thể xem là giống với tổng sản lượng quốc gia – GNP. Chỉ khác ở chỗ GNP không trừ đi thuế gián thu và khấu hao. Ví dụ, lợi nhuận của một công ty Mỹ hoạt động tại Anh sẽ được tính vào GNI của Mỹ và GDP của Anh. Không tính vào GNI của Anh hay GDP của Mỹ. Các thành phần của GNI gồm có: tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ tạo ra trong quốc gia (GDP) + thu nhập nhận được từ bên ngoài (chủ yếu là lãi vay và cổ tức) – khoản tương tự phải trả ra bên ngoài. Thu nhập quốc dân bao gồm: chi tiêu dùng cá nhân, tổng đầu tư của dân cư, chi tiêu dùng của chính phủ, thu nhập thuần từ tài sản ở nước ngoài (sau khi trừ các thuế). Và tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu đã trừ đi hai khoản: tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu và thuế gián thu. GNI = GDP (Tổng sản phẩm trong nước) + Chênh lệch giữa thu nhập của người Việt Nam ở nước ngoài gửi về và thu nhập của người nước ngoài tại Việt Nam gửi ra + Chênh lệch giữa thu nhập sở hữu nhận được từ nước ngoài với thu nhập sở hữu trả cho nước ngoài. Chênh lệch (thuần) giữa thu nhập và chi trả là phần còn lại giữa các khoản thu nhập về tiền công lao động (bằng tiền hay hiện vật) và các khoản thu nhập khác mang tính chất trả công lao động cho công nhân và người lao động Việt Nam thường trú ở nước ngoài nhận được từ các tổ chức, đơn vị dân cư sản xuất không thường trú (nước ngoài) – (trừ đi) phần chi về tiền công lao động của các tổ chức, đơn vị dân cư sản xuất thường trú của Việt Nam chi trả cho công nhân và người lao động nước ngoài thường trú ở Việt Nam. Chênh lệch giữa thu nhập sở hữu nhận được từ nước ngoài với thu nhập sở hữu trả cho nước ngoài là phần còn lại của thu nhập sở hữu do đơn vị và dân cư thường trú Việt Nam nhận được từ nước ngoài (từ đơn vị và dân cư không thường trú) – (trừ đi) thu nhập sở hữu của đơn vị và dân cư không thường trú Việt Nam. Thu nhập hay chi trả sở hữu bao gồm các khoản sau:. Thu nhập hoặc chi trả về lợi tức đầu tư trực tiếp với nước ngoài. GNI = GNI theo giá thực tế năm báo cáo / Chỉ số giảm phát GDP của năm báo cáo so với năm gốc so sánh. Phân tổ chủ yếu: Tính theo thu nhập quốc gia gộp và thuần trên phạm vi cả nước (Thu nhập quốc gia thuần là thu nhập quốc gia gộp đã loại trừ khấu hao tài sản cố định).
Thu nhập quốc dân
Thu nhập quốc dân (Gross national income – GNI) là chỉ số kinh tế xác định tổng thu nhập của một quốc gia trong một thời gian, thường là một năm. Đây là chỉ tiêu đo thực lực của quốc gia. Thu nhập quốc dân tương tự như Tổng sản lượng quốc gia – GNP, chỉ khác biệt ở chỗ GNP không trừ đi thuế gián thu và khấu hao. Ví dụ, lợi nhuận của một công ty Mỹ hoạt động tại Anh sẽ được tính vào GNI của Mỹ và GDP của Anh, không tính vào GNI của Anh hay GDP của Mỹ.
Việc uống thuốc hạ huyết áp để duy trì một cuộc sống khỏe mạnh bình thường đối với những người bị bệnh huyết áp cao chính là điều vô cùng cần thiết. Nhưng nên uống thuốc nào, uống như thế nào và có những lưu ý gì khi sử dụng thuốc hạ huyết áp không phải ai cũng biết. Nếu không sử dụng thuốc đúng cách hay không dùng thuốc sẽ gây ra những biến chứng bệnh hậu quả. Tăng huyết áp là một căn bệnh mãn tính, vì vậy phải tuân thủ điều trị theo nguyên tắc và duy trì trong thời gian dài. Người bệnh không được tự ý bỏ thuốc hay tự ý tăng liều khi chưa được chỉ định. Dưới đây là các loại thuốc hạ huyết áp hiệu quả và tốt nhất đã được kiểm chứng lâm sàng. Khi bắt đầu được chẩn đoán là huyết áp cao, người bệnh cần tuân thủ nguyên tắc điều trị để có thể duy trì huyết áp bình thường, có cuộc sống như những người bình thường. Khi huyết áp cao là bệnh nhân phải xác định đây là bệnh mãn tính và uống thuốc cả đời. Thuốc hạ huyết áp giúp cho bệnh nhân duy trì huyết áp ở mức ổn định. Từ đó, ngăn ngừa được những biến chứng nguy hiểm do bệnh tăng huyết áp gây nên: tổn thương động mạch, gây gánh nặng cho tim, tổn thương não, tổn thương thận hay những bệnh về mắt và rối loạn tình dục. Hiện tại, theo lâm sàng bệnh học có 6 nhóm thuốc điều trị huyết áp cao theo những chức năng và cơ chế khác nhau. Mục đích cuối cùng vẫn là đưa huyết áp về mức trung bình không gây hại được. Thuốc lợi tiểu được sử dụng khá phổ biến rộng rãi trong điều trị huyết áp cao. Nhóm thuốc có tác dụng làm giảm áp lực tim, tác động vào Trung ương. Thuốc được sử dụng phổ biến với những bệnh nhân bị bệnh mạch vành và nhồi máu cơ tim. Ngăn ngừa được nguy cơ nhồi máu tái phát và đột tử. Làm ngưng sản xuất enzim Angiotensin II, từ đó hạn chế co mạch làm tăng huyết áp. Thuốc hạ huyết áp thường được điều chế không gây ảnh hưởng đến dạ dày, không liên quan đến bữa ăn, vì vậy dùng thuốc trước hay sau ăn đều có tác dụng như nhau. Uống thuốc hạ huyết áp trước khi đi ngủ thường có tác dụng kiểm soát huyết áp tốt hơn và giảm thiểu được nguy cơ các biến chứng của bệnh huyết áp cao. Không nên chỉ uống thuốc khi chỉ số huyết áp cao, nhức đầu mệt mỏi, hay nghỉ dùng thuốc khi huyết áp ổn định. Đó là quan niệm sai lầm, cần uống thuốc đúng giờ đều đặn hàng ngày. Uống thuốc khi phát hiện huyết áp cao và hỏi ý kiến bác sĩ, không đợi đến khi huyết áp lên cao quá mới uống, khi đó rất dễ xảy ra biến chứng. Điều chỉnh lối sống sinh hoạt lành mạnh: tập luyện thể thao nhẹ nhàng như đi bộ, tập yoga hoặc tập dưỡng sinh, ăn uống lành mạnh, giảm muối, tăng cường chất xơ, không ăn nội tạng động vật, và hạn chế dùng chất kích thích như nước trà đặc, cà phê, thuốc lá, bia rượu. Thiết lập chế độ giờ sinh học khoa học, giảm bớt căng thẳng stress, không lo lắng hay suy nghĩ, ngủ nghỉ đúng giờ đúng giấc. Theo dõi chỉ số huyết áp hàng ngày và thăm khám bác sĩ định kỳ. Dùng có hiệu quả cho cả những người: suy thận, tiểu đường, tăng lipid máu. Hapanix là thực phẩm chức năng có khả năng làm giảm mỡ máu, hạ huyết áp làm ổn định áp huyết. Thuốc được bào chế 100% từ dược liệu thiên nhiên, lành tính và an toàn cho người sử dụng. Thuốc dùng được cho những bệnh nhân đang mắc bệnh tim mạch và bệnh huyết áp cao mang lại hiệu quả nhất định.
Thuốc hạ huyết áp
Thuốc hạ huyết áp là một nhóm thuốc được sử dụng để điều trị tăng huyết áp (huyết áp cao). Điều trị bằng cách hạ huyết áp tìm cách ngăn ngừa các biến chứng của huyết áp cao, chẳng hạn như đột quỵ và nhồi máu cơ tim. Bằng chứng cho thấy giảm 5mmHg huyết áp có thể làm giảm 34% nguy cơ đột quỵ, bệnh tim thiếu máu cục bộ xuống 21% và giảm khả năng mắc chứng mất trí nhớ, suy tim và tử vong do các bệnh tim mạch. Có nhiều nhóm thuốc có tác dụng làm giảm huyết áp bằng các biện pháp khác nhau. Trong số các thuốc quan trọng nhất và được sử dụng rộng rãi nhất là thuốc lợi tiểu thiazide, thuốc chẹn kênh calci, thuốc ức chế men chuyển, thuốc đối kháng thụ thể angiotensin II (ARB) và thuốc chẹn beta. Những loại thuốc sử dụng ban đầu để điều trị tăng huyết áp đã là chủ đề của một số nghiên cứu lớn và kết quả hướng dẫn quốc gia. Mục tiêu cơ bản của điều trị nên là phòng ngừa các điểm cuối quan trọng của tăng huyết áp, chẳng hạn như đau tim, đột quỵ và suy tim.
Văn học Việt Nam là sự tích hợp của nhiều thể loại khác nhau, tạo nên dòng chảy xuyên suốt mọi thời đại. Vậy bạn đã nắm rõ được các thể loại văn học Việt Nam gồm những gì chưa? Đặc trưng của các thể loại này như thế nào? Cùng timviec365.vn khám phá ngay nhé. Sau quá trình đổi mới, sự quan tâm đến những giá trị phong phú của đời sống đã tác động vô cùng mạnh mẽ, đánh thức văn học trở lại với những chức năng, nhiệm vụ và đặc trực riêng. Văn học chính là nghệ thuật ngôn từ, do đó khi văn học đổi mới sẽ kéo theo sự chuyển biến đa dạng trong cấu trúc, các kiểu văn bản và phương thức biểu đạt, các thể loại nhằm phản ánh chân thực nhất nhu cầu của con người, cuộc sống. Theo đó, chúng ta có thể hiểu đơn giản về khái niệm thể loại văn học chính là phương thức để tái hiện lại đời sống và các thể thức để cấu tạo văn bản. Ví dụ như cùng viết về đề tài là người mẹ trong chiến tranh, nhà thơ Tố Hữu viết về người mẹ ở hậu phương Nam thông qua tâm hồn người lính với bài thơ lục bát trữ tình (bài Bầm ơi). Còn nhà thơ Nguyễn Thi thì lại về về người mẹ, người vợ (chị Út Tịch) đang cùng chồng, đồng bào quê hương cầm súng đánh giặc (tác phẩm Người mẹ cầm súng). Hiện nay, trong văn học Việt Nam có nhiều thể loại khác nhau, mời các bạn cùng tham khảo những thông tin chi tiết về thể loại văn học, các đặc trưng cơ bản của từng thể loại qua phần 2 của bài viết để tìm ra câu trả lời cho các bài tập văn học của bạn. Văn học dân gian hay còn được biết đến với cái tên khác là văn học khẩu truyền, tức là truyền miệng. Đây là thể loại văn học với những sáng tác truyền miệng của các tầng lớp nhân dân, phát sinh từ thời công xã nguyên thủy, phát triển dần qua từng thời kỳ lịch sử đến nay. - Tính nguyên hợp thể hiện sự hòa lẫn nhiều hình thức khác nhau của ý thức xã hội trong các thể loại văn học. Đối với văn học dân gian thì không chỉ là nghệ thuật ngôn từ thuần túy mà còn là sự kết hợp của rất nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau. Cụ thể các phương tiện này tồn tại dưới 3 dạng là ẩn (tồn tại trong trí nhớ của những tác giả dân gìn), cố định (thể hiện bằng văn tự) và hiện (tồn tại qua diễn xướng). - Văn học dân gian có tính tập thể bởi đó là những sáng tác của nhân dân nhưng không phải tất cả nhân dân đều là tác giả. Tính tập thể này thể hiện chủ yếu thông qua quá trình con người sử dụng các tác phẩm văn học. - Tính truyền miệng: đây là đặc trưng nổi bật của thể loại văn học dân gian và nó được lưu truyền từ đời này qua đời khác thông qua hình thức là kể chuyện. - Tính dị bản: cũng bởi văn học dân gian có tính truyền miệng từ đời này sang đời khác nên chắc chắn sẽ có dị bản khi được kể từ người này qua người kia. Thể loại thứ 2 trong hệ thống văn học Việt Nam đó chính là văn học viết. Khác với văn học dân gian, văn học viết từ khi hình thành đã tạo nên một thời kỳ lịch sử oanh liệt, rực rỡ. Văn học viết dù ra đời muộn hơn (khoảng thế kỷ 10) nhưng vẫn trở thành một bộ phận chủ đạo, đóng vai trò quan trọng trong văn học Việt Nam, có vị trí thống trị nền văn học của dân tộc. Sự phát triển của thể loại văn học viết dựa trên sự ảnh hưởng của các yếu tố truyền thống và quốc tế. Trên thực tế, thể loại văn học viết được xây dựng dựa trên văn hóa và văn học dân gian. Minh chứng rõ nhất đó là ca dao, tục ngữ đều xuất hiện ở các tác phẩm thơ Nôm, truyện Kiều hay Quốc âm thi tập. Các yếu tố cổ tích, thần thoại, truyền thuyết,… cùng thường xuyên có mặt trong các tác phẩm văn học viết. Bên cạnh đó, văn học viết Việt Nam trong giai đoạn chuyển từ văn học cổ điển sang văn học hiện đại còn chịu ảnh hưởng lớn từ văn học Pháp. Các thể thơ Đường luật đã dần bị phá bỏ trong những sáng tác của nhiều tác giả. Thay vào đó thì người ta thường làm thơ, văn theo thể loại tự do. Hàng loạt các phóng sự, truyện ngắn, tiểu thuyết của các tác giả lớn như là Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng,… đều được viết theo phong cách Tây hóa. Và trong văn học viết Việt Nam cũng có nhiều thể loại được chia thành 2 giai đoạn khác nhau. Cụ thể đối với từng giai đoạn sẽ phát triển những thể loại riêng bao gồm:. - Thời kỳ văn học trung đại (thế kỷ 10 – 19) có các thể loại là trữ tính, tự sự với các tác phẩm được viết chủ yếu bằng chữ Hán, trong diễn đạt thường có nhiều điển tích, điển cố, lối tượng trưng, ước lệ. Các tác phẩm chủ yếu tuân thủ theo thể loại cáo, hịch, tiểu thuyết, thơ Đường,…. - Thời kỳ văn học hiện đại (từ thế kỷ 20 đến nay) gồm các thể loại tự sự, trữ tình, kịch với các sáng tác chủ yếu viết bằng chữ quốc ngữ, lối diễn đạt giàu hình ảnh. Các tác phẩm như là phóng sự, ký sự, truyện ngắn, tùy bút,… hiện đang rất được ưa chuộng. Một trong những thể loại văn học đang rất được ưa chuộng trong hệ thống văn học Việt Nam hiện nay đó chính là văn học mạng – web fiction. Thể loại này thường xuất hiện trong các giáo trình, luận văn khoa học. Cụ thể thể loại này bao gồm các tác phẩm, luận văn phê bình được xuất bản trên không gian ảo qua mạng Internet. Theo quá trình phát triển nhanh chóng của làn sóng công nghệ toàn cầu thì dòng văn học này được xếp vào dạng tồn tại độc lập nhưng vẫn có sự tương hỗ với các thể loại lâu đời là văn học dân gian, văn học viết. Một tác phẩm nổi tiếng ở giai đoạn sơ khai cho văn học mạng chính là bài thơ “Đôi dép” của tác giả Nguyễn Trung Kiên. Tác phẩm này thường được giới khảo cứu dẫn chứng như một thành công của sức ảnh hưởng đến từ công nghệ thông tin. Đồng thời thì thể loại văn học mạng này cũng được đánh giá là nhân tố quyết định đến việc quảng bá văn học, ngôn ngữ Việt Nam đến các quốc gia khác trên toàn thế giới. Hy vọng rằng qua những thông tin được tổng hợp trên đây, bạn đọc đã nắm rõ được các thể loại văn học Việt Nam gồm những gì và giải đáp được những thắc mắc liên quan đến kiến thức giúp cho các bạn tìm được phương pháp làm sao để học giỏi văn trong quá trình học tập cũng như thi cử nhé. Có các kiểu văn bản và phương thức biểu đạt nào phổ biến hiện nay? Cách áp dụng các phương thức, kiểu văn bản như thế nào? Để giải đáp những thắc mắc này, mời bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây nhé.
Thể loại văn học
Thể loại văn học là một thể loại của sáng tác văn học. Thể loại có thể được xác định bằng kỹ thuật văn học, giọng điệu, nội dung hoặc thậm chí (như trong trường hợp tiểu thuyết). Sự khác biệt giữa các thể loại và thể loại là linh hoạt và được xác định một cách lỏng lẻo, thường có các nhóm nhỏ. Các thể loại chung nhất trong văn học là (theo thứ tự thời gian gần đúng) sử thi, bi kịch, hài kịch, và sáng tạo phi hư cấu. Tất cả các thể loại này đều có thể ở dạng văn xuôi hoặc thơ. Ngoài ra, một thể loại như châm biếm, ngụ ngôn hoặc mục vụ có thể xuất hiện trong bất kỳ mục nào ở trên, không chỉ dưới dạng một thể loại (xem bên dưới), mà là một hỗn hợp các thể loại. Cuối cùng, chúng được xác định bởi phong trào văn hóa chung của thời kỳ lịch sử mà chúng được sáng tác. Thể loại không nên nhầm lẫn với các loại tuổi, theo đó văn học có thể được phân loại là cho người lớn, người trưởng thành trẻ tuổi hoặc trẻ em.
Chúng ta rất dễ bắt gặp những hiện tượng tâm lý như vui buồn, cười khóc, đó chính là cảm xúc là hiện tượng tâm lý thường xuyên xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Vậy hiện tượng tâm lý là gì? Mà trong chúng ta ai cũng có, bạn hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé. Bạn nhìn thấy ảnh người yêu bạn, và bắt đầu hình dung hình ảnh của người ấy trong đầu, đó chính là biểu tượng của tâm lý. Hay cũng có thể nói hiện tượng tâm lý là những cảm xúc vui buồn của con người. Đặc biệt hơn, hiện tượng tâm lý không thể hiện bằng những cảm xúc, mà nó thể hiện ở một khía cạnh khác như: Khi chúng ta nói đến dũng cảm thì ngay lập tức trong đầu bạn đã hình dung ra bức tranh của một anh hùng. Hiện tượng tâm lý của con người rất đa dạng và phức tạp mà đến bản thân chúng ta cũng không thể nhận diện được hết những hiện tượng đó trong cuộc sống hàng ngày. Tâm lý và tâm hồn cũng có những điểm chung giống nhau, và đôi khi chúng là một, vì chữ “tâm” và chữ “hồn” đã được tách riêng. Tâm lý là những biểu hiện tình cảm, cảm xúc của con người, còn tâm hồn lại được biết đến như là “liều thuốc” làm sống động thế giới nội tâm bên trong của mỗi con người. Hiện tượng tâm lý được hiểu chính là sự phản ánh thế giới khách quan bên ngoài vào não của chúng ta, sau đó não sẽ chuyển những thứ mà bạn nhận được từ bên ngoài thành những biểu tượng tâm lý khác nhau, nó không dừng lại ở đó mà sẽ hiện tượng tâm lý này sẽ nhờ vào các giác quan của con người để làm cho quá trình này sống động hơn, và giúp cho con người có những nhận thức về thế giới quan thêm sinh động và đột phá. Trước đây khi chưa hình thành ngôn ngữ và tiếng nói thì tư duy của con người rất hạn chế, nhưng sau khi có ngôn ngữ thì tư duy của con người đã có những bước tiến vô cùng lớn, nó như một bước ngoặt khiến cho cuộc sống con người thay đổi hẳn, từ tư duy bằng tay chân chuyển sang tư duy bằng khái niệm. Nhờ vào những khái niệm đó mà con người đã có thể nhìn sâu và rõ hơn những vấn đề mà con người không nhìn thấy bằng mắt được. Tuy là những hiện tượng tâm lý và những hình ảnh khái quát từ bên ngoài phản ánh thế giới nội tâm bên trong thì nó cũng có những quy luật riêng của nó và không thể nhầm lẫn với những quy luật khác. - Hiện tượng tâm lý dựa vào thời gian tồn tại tâm lý: Có 3 loại là quá trình tâm lý, trạng thái tâm lý, thuộc tính tâm lý. - Tâm lý con người hình thành dựa trên sự giao tiếp và mối quan hệ giữa con người với con người. Thông qua mối quan hệ này, con người hình sẽ tiếp thu được những kinh nghiệm và nền văn hóa khác nhau. Ví dụ: Khi một đứa trẻ được sinh ra, chúng chưa hiểu được cũng chưa biết nói, nhưng sau một thời gian dài tiếp xúc với xã hội thì nó sẽ biết được nhiều thứ hơn về thế giới. - Tâm lý được hình thành và phát triển dựa trên nền tảng phát triển của lịch sử con người. Chính vì thế mà mỗi người sẽ chịu sự “khống chế” của lịch sử cá nhân và lịch sử cộng đồng. Tuy nhiên không phải như vậy mà tâm lý người trở thành bản sao của lịch sử mà nó sẽ có những điểm chung và những điểm riêng khác nhau. Ví dụ: Trước đây, xã hội định kiến rằng có thai trước khi cưới hay còn gọi là “không chồng mà chửa” sẽ bị cạo đầu bôi vôi và thả sông, phong tục và định kiến đó vô cùng gay gắt với người phụ nữ. Chính vì thế khi xã hội bây giờ phát triển hơn, quyền bình đẳng nhiều hơn thì vấn đề đó lại trở thành bình thường. Hiện tượng tâm lý con người không tự nhiên sinh ra, nó bị ảnh hưởng và chi phối một phần bởi chính xã hội và lịch sử. Chính vì thế mà muốn hoàn thiện được tâm lý con người thì cần phải nghiên cứu hoàn cảnh lịch sử và xã hội thật kỹ càng. Hiện tượng tâm lý tuy chỉ là những cảm xúc, tình cảm,.nhưng nó lại có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân chúng ta. Nếu không có hoạt động tâm lý thì cuộc sống con người cũng bị xáo trộn. - Thứ nhất, hiện tượng tâm lý có chức năng định hướng hoạt động con người. Cuộc sống con người luôn có những hoạt động, những mục tiêu và mục đích được đề ra, chính những hiện tượng tâm lý đã thôi thúc con người cần phải đạt được mục đích ban đầu. Đó cũng chính là bản đồ cho mọi hành động của bạn. Ví dụ: Bạn đặt ra mục tiêu cần phải hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công việc ngày hôm nay, thì chắc chắn không những cần sự nỗ lực mà còn cần phải đề ra các bước thực hiện. - Thứ hai, hiện tượng tâm lý có vai trò điều khiển và kiểm soát hoạt động hàng ngày của con người. Qua những mục tiêu đặt ra thì chúng sẽ điều khiển và kiểm soát hoạt động của chúng ta, nhắc nhở bạn nên làm gì và không nên làm gì trong cuộc sống. - Thứ ba, hiện tượng tâm lý điều chỉnh hoạt động của con người, nó giúp cho mỗi cá nhân hoạt động theo đúng những mục tiêu và chuẩn mực ban đầu, bên cạnh đó nó cũng làm cho hoạt động của con người phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế. Hiện tượng tâm lý có vai trò vô cùng quan trọng với cuộc sống của chúng ta, đặc biệt là ở mỗi cá nhân. Khi bạn đề ra mục tiêu thì chính những hoạt động tâm lý đó sẽ giúp bạn đạt được mục tiêu. Tuy nhiên, hiện tượng tâm lý cũng có tính hai mặt của nó, có thể hình thành những cá nhân tốt nhưng cũng có thể hình thành nên cá nhân xấu. Nếu như tuổi thơ của chúng gắn liền với hình ảnh bố say rượu, đánh mẹ,.thì chắc chắn hiện tượng tâm lý xấu cũng hình thành từ đó. Tâm lý được xem là một bệnh, một động lực thúc đẩy nhưng nó cũng là một nghề trong xã hội, thâm chí còn có xu thế ‘hot hit” trong tương lai không xa. Các công việc về tâm lý hiện nay ở Việt Nam chưa thật sự phát triển, nhưng nó đang hoạt động rất sôi nổi ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, một mặt là do xã hội đang dần phát triển đi lên, một mặt chúng ta cũng đang trong quá trình mở cửa hội nhập với nước ngoài. Chính vì thế mà ngành tâm lý đang dần dần khẳng định mình tại thị trường Việt Nam. Cơ hội việc làm đầu tiên dành cho những bạn học về tâm lý chính là làm bác sĩ tâm lý. Bác sĩ tâm lý không giống như các bác sĩ đa khoa chuyên khoa khác trong các bệnh viện. Họ điều trị chữa bệnh cho con người về sức khỏe bệnh tật bên ngoài cơ thể có thể nhìn thấy được và phát hiện được bằng máy móc. Thế nhưng bác sĩ tâm lý lại chữa bệnh về tâm lý, là những căn bệnh sâu bên trong tâm hồn con người mà không thể nhìn thấy và cảm nhận bằng mắt thường được. Bác sĩ tâm lý chính là những chuyên gia nghiên cứu về tâm lý con người, dựa vào những kiến thức chuyên môn, có thể phán đoán tình trạng tâm lý của bệnh nhân như thế nào. Từ đó bác sĩ sẽ đưa ra những lời khuyên cũng như cách điều trị dành cho bệnh nhân. Công việc của một bác sĩ tâm lý khá vất vả và phức tạp, họ thường xuyên phải làm công việc như: Tiến hành đánh giá nhu cầu và năng lực và hành vi của bệnh nhân bằng các biện pháp chuyên môn như trò chuyện, hỏi, quan sát hành động và sắc thái khuôn mặt, sau khi đã chuẩn đoán được bệnh của họ thì bác sỹ cần phải đưa ra lời khuyên cũng như đưa ra biện pháp, lộ trình điều trị bệnh. Bên cạnh đó, bác sĩ tâm lý còn phải phối kết hợp với ngành khác để đánh giá và điều trị bệnh cho bệnh nhân đúng nhất. Để trở thành một bác sĩ tâm lý bạn cần phải trang bị cho mình những kiến thức về chuyên môn và một số kỹ năng cần thiết cho công việc thì mới có thể trở thành người đi “khâu lành” vết thương tâm hồn cho con người. Hiện nay xã hội có nhiều những hoàn cảnh vô cùng éo le, có những trường hợp về tâm lý tình cảm mà con người không thể giãi bày và chưa biết cách giải quyết như thế nào. Trong những cuộc hôn nhân không hạnh phúc, những mối quan hệ về tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa đang bị rạn nứt. Chính những tình cảnh như vậy họ cần phải nhờ đến các chuyên gia tư vấn về tình yêu hôn nhân gia đình. Để nhận được những lời khuyên, những cách “chữa cháy” cho mối quan hệ đó. Chắc hẳn bạn không thể không biết đến Tiến sĩ Lê Thẩm Dương, Pepper,.họ là một trong những người đang hoạt động về mảng tâm lý, giúp con người tìm ra chân lý sống và cách sống. Bên cạnh những công việc mà chúng tôi gợi ý cho bạn thì bạn cũng có thể làm công việc tâm lý như: Chuyên viên tâm lý tại trường học, chuyên viên tâm lý của bệnh viện, chuyên viên tâm lý cho người mắc bệnh về tâm lý, giảng viên tâm lý,. Với sự đa dạng của công việc trong ngành này thì môi trường làm việc của họ cũng vô cũng đa dạng. Sinh viên sau khi học chuyên ngành tâm lý ra trường có thể làm tại các bệnh viện, tại trường học sẽ trở thành chuyên viên tâm lý học đường chuyên tư vấn cho học sinh. Định hướng lại nhân cách cho học sinh và có thể tư vấn hướng nghiệp cho các em học sinh. Tại các trung tâm hỗ trợ về tâm lý cho con người. Tuy nhiên, nếu không làm tại các địa điểm này thì bạn cũng có thể mở một phòng chữa bệnh về tâm lý riêng. Như vậy có thể thấy, công việc và môi trường làm việc của ngành tâm lý vô cùng đa dạng và phong phú. Nếu tự tin và có đam mê theo học thì đây chắc chắn sẽ là công việc đem lại cho bạn nhiều thăng hoa về cảm xúc, giúp bạn hiểu sâu hơn về con người về những thứ mà con người không thể nhìn thấy được. Và bạn sẽ trở thành một người “khâu vá tâm hồn” cho con người. Thật tuyệt vời đúng không nào?. Nếu bạn đang băn khoăn vì không có “đất dụng võ” cho ngành tâm lý thì Việt Nam hiện nay đang chính là một thị trường vô cùng tiềm năng cho bạn và ngành tâm lý phát triển. Nếu như bạn biết đến Nhật Bản và những thành công của khoa học kỹ thuật thì đằng sau mặt trái ấy chính là căn bệnh “trầm cảm” đang lan truyền khắp nơi. Thế còn Việt Nam, tuy không như Nhật Bản, thế nhưng hàng năm lại có vô cùng nhiều những trường hợp tự tử, các trường hợp sai lệch về nhân cách,.dẫn đến những bệnh về tâm lý phát triển khá nhanh chóng. Hiện nay, ngoài những căn bệnh về ung thư quái ác, hay những vi khuẩn ăn thịt người thì đi cùng với nỗi sợ hãi chính là bệnh về tâm lý như trầm cảm, tự kỷ, đa nhân cách, nhận thức sai lệch về nhân cách sống,. Những căn bệnh này thường xuyên xuất hiện ở phụ nữ sau sinh, trong giới trẻ và ở dân văn phòng. Không chỉ chịu áp lực lớn từ công việc mà họ còn gặp những đả kích tác động từ đời sống. Đây chính là mặt trái của xã hội phát triển. Chính vì thế mà nhu cầu cần có bác sỹ, chuyên viên tư vấn về tâm lý là vô cùng lớn. Sự phát triển nhanh của bệnh, nhu cầu tăng cao của con người, nhiều trung tâm, trường học, bệnh viện ra đời. Âu phải chăng đây chính là cái mà người ta hay gọi là “thiên thời địa lợi nhân hòa” chính là điều kiện thuận lợi cho ngành tâm lý phát triển mạnh. Với kiến thức chuyên môn giỏi và những kỹ năng phục vụ cho công việc thì bạn không còn khó khăn để tìm được một công việc ngành tâm lý học. Với một thị trường việc làm vô cùng năng động như hiện nay thì không có lý do gi khiến bạn từ chối công việc đúng không nào. Hy vọng với những thông tin mà chúng tôi cung cấp cho bạn trên đây thì bạn đọc đã có thêm hiểu biết về hiện tượng tâm lý và công việc của ngành tâm lý như thế nào.
Hiện tượng học
Hiện tượng học là nhánh triết học nghiên cứu cấu trúc của sự trải nghiệm(experience) và ý thức(consciousness). Trên bình diện là một phong trào triết học(philosophical movement), hiện tượng học được thành lập vào những năm đầu của thế kỷ 20 bởi Edmund Husserl và sau đó lan truyền trong nội bộ những người theo ông tại các đại học ở Göttingen và Munich, Đức. Sau đó, hiện tượng học được truyền bá sang Pháp, Mỹ và những nơi khác, với nội dung thường rất khác những tác phẩm ban đầu của Husserl. Hiện tượng học không phải là một phong trào thống nhất; trái lại, các tác giả khác nhau chia sẻ với nhau một sự tương đồng chung nhưng với những khác biệt đáng kể. Gabriella Farina cho rằng:Một định nghĩa duy nhất và chung quyết cho hiện tượng học là nguy hiểm và thậm chí còn có thể mâu thuẫn vì nó thiếu một sự tập trung theo chủ đề. Trên thực tế, đây không phải là một học thuyết cũng không phải một trường phái triết học, mà là một phong cách tư duy, một phương pháp, một trải nghiệm mở và luôn đổi mới, thứ có thể mang đến nhiều kết quả khác nhau, và điều này có thể khiến cho bất cứ ai muốn xác định ý nghĩa của hiện tượng học bị mất phương hướng.
Gọi Lê Văn Duyệt là Tả quân hay Chường Tả quân chỉ là nói tắt, chứ nói đầy đủ thì quan hàm này của ông là Khâm sai Chưởng Tả quân Đô thống phủ phủ sự (có khi viết là Khâm sai Tả quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự). Sau khi giết Đỗ Thanh Nhơn năm 1781, Nguyễn Ánh chia quân Đông Sơn thành bốn quân Tiền Hậu Tả Hữu, là tiền thân của các đơn vị bộ binh lớn được gọi là dinh tức Tiền quân, Hậu quân, Tả quân, Hữu quân về sau, lại lấy Tôn Thất Dụ làm Chưởng Trung quân tiết chế chư đạo bộ binh, đủ thấy trước khi chiếm lại được Gia Định lần cuối cùng năm 1788 quân đội của Nguyễn Ánh đã được chia làm năm dinh Tiền Hậu Trung Tả Hữu, đến 1788 sau khi tiếp nhận quân Kiến Hòa của Võ Tánh thì lập thêm dinh Tiên phong. Về sau mới có thêm các dinh như Thần võ quân, Chấn võ quân, Tượng dinh, Thần sách quân. Trung quân chủ yếu là thủy quân, là lực lượng cơ động nhất trong hoàn cảnh giao thông thời bấy giờ, Tượng dinh, Trung quân vừa là hai quân đoàn vừa là hai binh chủng. Tả quân là một quân đoàn bộ binh lớn, năm 1784 do Tôn Thất Huy làm Chưởng Tả quân. Qua 1792 Huy chết, đến 1793 Ánh phong hoàng tử Cảnh làm Đông cung, cho Cảnh làm Nguyên soái lãnh dinh Tả quân. Đầu năm 1801 Cảnh mắc bệnh đậu mùa chết, chức Chưởng Tả quân để khuyết một thời gian, trước khi đem quân ra Bắc năm 1802 Nguyễn Ánh đổi Tả quân cũ làm Chấn võ quân, giao cho Nguyễn Văn Nhơn quản lãnh, lấy Tả dinh quân Thần sách làm Tả quân, phong Đô Thống chế quản dinh này là Lê Văn Duyệt làm Chưởng Tả quân. Đây là viên Chưởng Tả quân nổi tiếng nhất trong quân đội Nguyễn Ánh đầu thế kỷ XIX. Lê Văn Duyệt tổ tiên là người huyện Chương Nghĩa Quảng Ngãi, cha là Toại dời tới ở dinh Vĩnh Trấn, sinh được bốn con trai, Duyệt là con trưởng, sinh ra không có ngọc hoàn, thân thể thấp nhỏ, tinh hãn có tài lực. Năm 15 tuổi thường than thở rằng sinh ở đời loạn mà không dựng được cờ đại tướng, chép công danh vào sách sử không phải là trượng phu. Năm 1780 Nguyễn Ánh xưng vương, Duyệt 17 tuổi được tuyển làm Thái giám, đổi bổ làm Thuộc nội Cai đội, theo đánh dẹp từng cùng các tướng bàn việc binh, Ánh thấy là người lạ bèn hỏi “Ngươi cầm quân được không?”, Duyệt thưa “Được”. Ánh lại hỏi “Ngươi làm tướng được không?”, Duyệt thưa “Được”. Ánh nói “Dùng binh là việc lớn, ngươi sao nói dễ thế?”. Duyệt nói “Tây Sơn vô đạo, không bao lâu sẽ tự diệt vong. Ta lấy nhân thay bạo, thế dễ như chẻ tre, quả thật tôi không thấy có gì là khó”, nhân xin mộ binh lệ thuộc theo Tả quân, Ánh ưng thuận. Năm 1797 thăng làm Vệ úy vệ Điều Vũ, kế đổi làm Chánh thống Tả đồn quân Thần sách, trấn thủ thành Diên Khánh. Năm 1801 Ánh định đánh thủy trại Tây Sơn ở Thi Nại, chọn tướng cầm quân. Tống Viết Phước xin đi, Ánh nghĩ Phước dũng mà vô mưu nên không cho, mật triệu Duyệt về. Kế sai Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương đem thuyền nhỏ đi trước lẻn vào đốt thủy đồn Tây Sơn ở Tam Tòa, Duyệt cùng Vũ Di Nguy đem thuyền lớn xếp hàng một nối theo xông vào. Quân Tây Sơn giữ đồn trên núi bắn xuống, đạn bay như mưa, Di Nguy trúng đạn chết, Duyệt càng đánh hăng. Nguyễn Ánh xót vì tướng sĩ thương vong quá nhiều, sai thuyền tiểu sai tới truyền dụ tạm lui, Duyệt thề tử chiến, nói chỉ tiến chứ không lui, chỉ vào chứ không ra, thúc quân đánh gấp qua được cửa biển thuận gió phóng hỏa đốt hết chiến thuyền Tây Sơn, sử thần triều Nguyễn chép trận này là võ công đệ nhất thời trung hưng. Hôm ấy là ngày 16 tháng giêng âl., quân Nguyễn Ánh đánh từ giờ Dần (từ 3 đến 5 giờ sáng) đến giờ Dậu (từ 7 đến 9 giờ tối) mới vào được cửa Thi Nại, thương vong rất nhiều. Sau 1802, năm nào đến ngày ấy Duyệt cũng bày lễ cúng tế các tướng sĩ chết trận, đích thân vào tế, khóc lóc rất đau thương. Cần nói thêm rằng từ 1778 trở đi, các lực lượng chống Tây Sơn ở Nam Bộ đã dần dần được hợp nhất lại dưới ngọn cờ của Nguyễn Ánh, song sống trên đất tranh chiếm quyết liệt trong hơn mười năm chiến tranh, những người đứng đầu các lực lượng này đều phải có năng lực thực tiễn cao, tức ngoài phần sức khỏe và lòng can đảm trời cho đều phải giỏi võ nghệ hay có thiên tư về việc hành quân đánh trận. Các danh tướng dưới quyền Nguyễn Ánh như Võ Tánh, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Huỳnh Đức… đều là những người như thế. Và ngoài một vài trường hợp như Nguyễn Huỳnh Đức mà sử quan triều Nguyễn chép là “Tính Đức kính cẩn, Thánh tổ (tức Minh Mạng) từng nói trong hàng võ thần chỉ có Đức là biết lễ”, phần lớn bọn họ đều là những kẻ ngang tàng cao ngạo, lại phải treo tính mạng nơi hòn tên mũi đạn để lập công danh nên ngoài sự cậy tài đều có ý cậy công, ít ai chịu phục ai. Cho nên sử quan triều Nguyễn về sau cũng chép về một số vụ lục đục tương đối nổi cộm giữa các danh tướng dưới quyền Nguyễn Ánh trước 1802, trong đó có sự bất hòa giữa Nguyễn Văn Thành với Lê Văn Duyệt. Nguyễn Văn Thành vốn là đại tướng của quân Nguyễn Ánh, còn Lê Văn Duyệt vốn là thái giám, tuy nhiều lần lập công nhưng so với Thành vẫn là tỳ tướng. Năm 1800 Thành là Khâm sai Chưởng Tiền quân điều bát chư đạo bộ binh, còn Duyệt chỉ mới là Đô Thống chế Tả đồn quân Thần sách. Trận Thị Dã, hai người và Tống Viết Phước phối hợp với nhau phá tan quân Tây Sơn, nhưng lại bất hòa vì một chén rượu. Trong trận này Thành và Duyệt đều cắm cờ tướng trên bành voi chỉ huy quân sĩ. Thành vốn thích rượu, sắp ra trận thì đem bầu ra tự rót uống, rót một chén đưa cho Duyệt. Duyệt không chịu uống, Thành cố ép, nói “Nay trời lạnh, uống một chén cho hăng thêm”. Duyệt nói “Ai nhát mới phải mượn rượu, còn tôi thì trước mắt không thấy có giặc nào mạnh, cần gì tới rượu”. Thành xấu hổ, từ đó căm Duyệt. Đến 1815 mâu thuẫn giữa hai người lên tới đỉnh điểm, Thành sai thuộc hạ lấy trộm ấn Tả quân của Duyệt, nên trong vụ án bài thơ phản của Nguyễn Văn Thuyên con Thành, Duyệt đã ra sức khép Thành vào tội chết. Cần nhắc lại rằng Lê Văn Duyệt từng có lần nói với Nguyễn Ánh rằng Tống Viết Phước dũng mà ít mưu, Nguyễn Văn Thành mưu mà ít dũng, không rõ lời bình phẩm ấy có tới tai Thành không, nhưng trong quân Nguyễn Ánh thì quả thật Duyệt thuộc hàng dũng tướng. Sử thần triều Nguyễn về sau cũng viết “Chư tướng thời trung hưng chỉ có Duyệt cùng Nguyễn Văn Trương đánh giặc không thua trận nào”, xem ra viên thái giám kiêu dũng này quả là tinh hoa não lòng của một thời loạn lạc trong lịch sử Việt Nam. Năm 1802, Gia Long đem quân ra Bắc, thăng Duyệt làm Khâm sai Chưởng Tả quân Bình Tây tướng quân cùng Chưởng Hậu quân Lê Chất thống lĩnh bộ binh đi trước, tới đâu quân Tây Sơn tan vỡ tới đó, tiến vào Thăng Long. Từ đó trở đi Duyệt cầm quân ra Bắc vào Nam, liên tiếp phá quân Đá Vách ở Quảng Ngãi, trấn áp Xiêm Lạp, kinh lược Thanh Nghệ, hai lần làm Tổng trấn Gia Định thành, oai vọng lừng lẫy, Xiêm La Diến Điện đều nghe danh, có thể nói là viên trọng thần bậc nhất của triều Nguyễn đầu đời Minh Mạng, cả Minh Mạng cũng phải e dè. Trong thời gian làm Tổng trấn Gia Định thành lần thứ hai, Lê Văn Duyệt nhiều lần chống lệnh cấm đạo Thiên chúa và có nhiều hành động đi ngược lại với chủ trương trọng nông ức thương của Minh Mạng, lại có lần vuốt mặt không nể mũi thẳng tay chém đầu Phó Tổng trấn Gia Định thành Hoàng Công Lý vốn là cha vợ Minh Mạng, nên Minh Mạng đã sợ lại ghét, để bụng căm hận. Đầu năm 1832 Duyệt nghe tin Bắc Thành đã chia hạt đặt quan thôi không đặt trấn, bèn xin nghỉ việc Gia Định thành để triều đình chia đặt tỉnh hạt theo lệ, Minh Mạng vẫn chưa dám nhận lời, ban chỉ sai Duyệt cứ giữ chức đợi lệnh sau. Cuối năm ấy Duyệt ốm chết, được tặng Thái bảo. Theo truyền thuyết, Lê Văn Duyệt cầm tinh Hắc hổ (cọp đen), được ngưởi ta coi như thần từ lúc còn sống, nên sau khi chết có nhiều giai thoại về sự linh ứng, thật ra chỉ là những lời đơm đặt thêu dệt không đáng tin cậy. Như có truyện kể có lần Thành Thái vào nam đi ngang mộ ông, xe hơi bị chết máy, phải sai bỏ cái xiềng trên mộ ông mới nổ máy được vân vân, nhưng cái xiềng ấy đã được bỏ đi ít nhất là từ đầu đời Tự Đức. Tuy nhiên xét từ một khía cạnh khác thì sự kính ngưỡng Lê Văn Duyệt của nhiều tầng lớp nhân dân địa phương lại ít nhiều phản ảnh tâm lý bất bình về hành động cạn tàu ráo máng của Minh Mạng, và từ 1862 trở đi họ còn kín đáo gói ghém vào tình cảm ấy cả lòng yêu nước, như một đôi câu đối cúng năm 1895 hiện còn ở Lăng Ông “Tá trung hưng phụ phượng phàn long, dữ quốc bách niên chiêu vĩ tích, Chế ngoại khổn an dân tức đạo, kim nhân thiên tải ngưỡng uy phong” (Cuộc trung hưng giúp phượng vin rồng, cùng nước trăm năm ngời sự nghiệp, Quyền ngoại khổn yên dân dẹp giặc, khiến người ngàn thuở mộ uy phong), nhắc tới công lao của Lê Văn Duyệt trong sự nghiệp trung hưng của nhà Nguyễn nhưng cũng gián tiếp kêu gọi lòng trung thành với đất nước của con người Việt Nam dưới ách đô hộ của thực dân phương Tây. Ngoài ra nhờ có chính sách kinh tế phù hợp với thực tế địa phương nên lúc sinh tiền Lê Văn Duyệt còn được nhiều thương nhân người Hoa mến mộ, có người như Lưu Hằng Tín còn tìm tới xin làm con nuôi của ông – trong cuộc binh biến thành Phiên An của Lê Văn Khôi người nghĩa tử phú thương quê Hải Nam này đã bỏ ra một ngàn quan tiền và hai mươi tấm áo thuê quân Hồi lương An Thuận (quân người Nghệ An chống triều đình được Lê Văn Duyệt thu phục đem vào nam sai phái) bắt sống Bố chánh Phiên An Bạch Xuân Nguyên để trả thù cho Lê Văn Duyệt “Tôi liền phát xuất gia tư, Tiền thì trăm chục áo thì mười đôi. Rằng này chẳng tiếc của tôi, Đam mua Nguyên sống đặng đôi mấy lời” (Bốn Bang thơ), trong cuộc binh biến thành Phiên An cũng có nhiều thương nhân người Hoa tham gia và bị nhà Nguyễn tàn sát thảm khốc sau đó, đây có thể là một lý do khiến nhiều người Hoa trước nay cũng thường tới cúng bái ở Lăng Ông…. Qua 1833 Minh Mạng giải thể Gia Định thành, sai Bố chánh Phiên An Bạch Xuân Nguyên bới móc những việc sai trái của Duyệt lúc sinh tiền, bắt giam các thuộc hạ thân tín cũ của Duyệt, dẫn tới việc Lê Văn Khôi làm binh biến ở thành Phiên An thời gian 1833 – 1835. Sau khi đàn áp được cuộc binh biến Lê Văn Khôi, Minh Mạng sai đình thần bàn định, kết án Lê Văn Duyệt có bảy tội đáng xử chém, hai tội đáng xử thắt cổ, một tội đáng xử sung quân, nhưng “còn cái xương khô trong mả không thèm gia hình” nên chỉ sai san phẳng nấm mộ, dựng bia đề tám chữ “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ” (Nơi tên hoạn quan chuyên quyền Lê Văn Duyệt chịu tội). Thật ra với tính khí của Minh Mạng thì khó mà độ lượng như vậy, nên đó chỉ là bắt không được tha làm phước, bởi ngôi mộ thật của Lê Văn Duyệt đã được vợ là Đỗ Thị Phẫn dời đi khỏi chỗ từ lâu (*). Năm 1848, Tự Đức vừa lên ngôi, theo lời tâu của đình thần khai phục cho Lê Văn Duyệt, từ đó nhân dân địa phương mới dựng miếu công khai thờ cúng. Năm 1894 Hoàng Cao Khải vào Nam có viết một bài văn bia chữ Hán tức bài Lê công miếu bi hiện còn ở Lăng Ông, toàn văn như sau (bản dịch):. “Công việc có khi không liên quan nhưng tình vì thế mà động, đó là lẽ tự nhiên của điều hay. Cảnh ngộ có khi không biết được nhưng thần vì thế mà cảm, đó là sự hạo nhiên của chính khí. Tôi đối với Tả quân Lê công rất là cảm phục. Mùa xuân năm Giáp ngọ (1894), quý Tổng thống Đông Dương Toàn quyền đại thần nước Đại Pháp La đại hiến (tức De Lanessan, được phong làm Toàn quyền Đông Dương từ 21. 1991, chính thức nhậm chức ngày 26. 1891, hết nhiệm kỳ ngày 29. Trong thời gian giữ chức, De Lanessan có về Pháp công cán từ 10. Hoàng Cao Khải vào tiễn De Lanessan là trong dịp này) phụng mệnh về nước, tôi tiễn đưa trú lại ở Gia Định. Gia Định là đất trung hưng của bản triều, từ khi thuộc về quý Đại Pháp quản hạt đến nay đã hơn ba mươi năm. Xe thuyền tới nơi, phong tục đều đổi, muốn tìm vết cũ cơ hồ không nhận ra được, nhưng riêng miếu mộ của công vẫn còn như xưa, phần mộ sâm nghiêm, khói hương nghi ngút. Hỏi dân quanh đó, họ nói quý Đại Pháp nghĩ tới công lao của công, làm thêm hàng rào sắt quanh mộ để biểu dương vậy. Kỳ lạ thay huân danh của công, rỡ ràng lúc đầu khai thác sáu châu, đến nay năm tháng xa vời, bể dâu dời đổi, thế mà tiếng tăm còn đó, cúng tế không suy. Từ đó thấy quý quốc giữ lòng nhân hậu, nên đối với người có công tuy xa đời khác việc vẫn tưởng niệm công lao mà coi trọng vậy. Công tự Văn Duyệt, tổ tiên là người Quảng Ngãi dời vào ở Định Tường, năm mười bảy tuổi khảng khái có chí lớn, theo Cao hoàng đế ta ở Gia Định, công trận rất lớn, sau khi đại định lãnh cờ mao cầm tiết việt xử trị Tiêm La, kinh lược Thanh Nghệ, hai lần bình ác Man, đều giết kẻ đầu sỏ, tới đâu người ta cũng đều sợ phục. Trước sau trấn thủ Gia Định gần hai mươi năm, ơn với dân sâu nặng đã lâu. Khi công qua đời, anh linh ngưng kết, núi sông phù hộ, lúc trời mờ đêm vắng vẫn nghe có tiếng người ngựa trên mộ, người sáu tỉnh kính trọng gọi đền thờ công là miếu, mộ công là lăng, đặt ra hộ được miễn thuế để chăm nom, thờ cúng không dứt. Phàm kẻ anh hùng phấn thân lập nghiệp lúc gió mưa thảo muội, sống thì vinh danh, mất thì lưu danh, cho dù ngày sau thế cục đổi dời nhưng phong thái oai hùng để lại vẫn còn hiển hách trước tai mắt mọi người như thế không dễ mà có được nhiều. Tôi kính ngưỡng anh phong đã lâu, nay may được tận mắt nhìn thấy, nhân đó biết quý quốc không hề thay đổi lễ tục của bản quốc, tín nghĩa rõ ràng, tương lai đại cuộc thanh bình có thể nắm chắc, căn cứ vào sự thật thì tôi rất mừng rỡ. Bèn xin với quý Toàn quyền đại thần Sa đại hiến (tức Chavassieux, được phong làm Quyền Toàn quyền Đông Dương trong thời gian De Lanessan về Pháp công cán) làm bia ghi lại, đại thần vui vẻ nghe theo, khắc chữ vào đá, để lại muôn đời. Phu nhân là Đỗ thị qua đời sau công, nay cũng thờ chung. Phan công Lương Khê (tức Phan Thanh Giản) Kinh lược Nam Kỳ, vì nghĩ tới công lao nên cũng đưa vào phối hưởng trong miếu thờ công vậy. Ngày 1 tháng 7 năm Thành Thái thứ 6 Hoàng triều (1. 1894), Phụ chính đại thần Thái tử Thiếu bảo Võ Hiển điện đại học sĩ, Khâm sai Bắc Kỳ Kinh lược đại sứ Hoàng Cao Khải kính đề”.
Lê Văn Duyệt
Lê Văn Duyệt (1763 hoặc 1764 – 28 tháng 8 năm 1832) còn gọi là Tả Quân Duyệt, là một nhà chính trị, nhà quân sự lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong các chỉ huy chính của quân đội chúa Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với Tây Sơn. Khi chiến tranh kết thúc và nhà Nguyễn được thành lập, ông trở thành một đại thần, phục vụ hai triều vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh) và Minh Mạng. Ông nội ông là người gốc Quảng Ngãi, vào Tiền Giang lập nghiệp nên ông sinh ra tại Tiền Giang. Lê Văn Duyệt gia nhập quân đội Gia Định, cùng chúa Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn từ năm 1781. Ông cầm quân thắng nhiều trận lớn, nên nhanh chóng thăng tiến trong hàng ngũ của quân Gia Định tới chức chỉ huy Tả Quân vào thời điểm cuộc chiến kết thúc. Sau khi nhà Nguyễn thành lập, ông trở thành một vị quan, tướng quân giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều đình, nhiều lần công cán ở cả phía Bắc thành và hai lần được cử làm Tổng trấn Gia Định Thành. Việc cai trị của ông đã góp công lớn giúp ổn định và phát triển khu vực Nam kỳ, khiến cho vùng này từ một khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh thành một khu vực bình yên và giàu có.
Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ giữa Mỹ, Canada và Mexico đã lộ những vết rạn nứt nghiêm trọng, do những bất cập và sự lỗi thời khi nền kinh tế thế giới đang vận động không tuân theo những toan tính chủ quan. Theo CNBC, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã quyết định tạm thời hoãn đàm phán lại Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) với Mexico và Canada. Tổng thống Donald Trump ngày 1/3 thông báo sẽ đánh thuế nặng lên thép và nhôm nhập khẩu để bảo vệ các nhà sản xuất Mỹ. Quyết định này làm dấy lên lo ngại về khả năng xảy ra một cuộc chiến thương mại toàn cầu và hàng loạt hệ lụy khác. Thâm hụt thương mại của Mỹ đã mở rộng lên mức cao nhất kể từ đợt suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 và xu hướng này có thể sẽ kéo dài trong năm nay. Theo phóng viên TTXVN tại Canada, sau đúng một tuần đàm phán căng thẳng với nhiều tín hiệu trái chiều, ngày 29/1, cuộc đàm phán vòng 6 về Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) giữa Mỹ, Canada và Mexico đã chính thức khép lại với việc 3 nước đạt được một số tiến bộ nhất định trong đàm phán nhưng không thể ra được tuyên bố chung. Trả lời phỏng vấn CNBC ngày 25/1, Tổng thống Donald Trump cho biết ông sẽ cân nhắc quay trở lại Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) nếu Mỹ có thể đạt được một thỏa thuận “tốt hơn đáng kể”. Ngày 23/1, Canada thông báo, sau hàng loạt vòng đàm phán, nước này sẽ cùng 10 quốc gia khác ký kết Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) vào tháng 3 tới. Và khi các vòng đàm phán ngày càng bế tắc, nguy cơ này có thể sớm trở thành hiện thực. Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) đang đứng trước tương lai bất định, trong bối cảnh có nhiều lo ngại về việc Mỹ sẽ sớm đưa ra quyết định rút khỏi thỏa thuận thương mại hơn 20 năm tuổi này. Reuters dẫn hai nguồn tin riêng cho biết Canada ngày càng tin rằng Tổng thống Donald Trump sẽ sớm công bố kế hoạch rút Mỹ khỏi Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Thông tin này khiến thị trường chứng khoán và đồng tiền của Canada và Mexico “chao đảo”. Ngày 8/1, sau nhiều lần trì hoãn, Mexico và Liên minh châu Âu (EU) có thể nối lại các cuộc đàm phán nhằm điều chỉnh nội dung thỏa thuận thương mại song phương đã tồn tại gần 20 năm qua. Việc Tổng thống Mỹ Donald Trump quyết định rút khỏi Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) sẽ có tác động thế nào là câu hỏi mà nhiều chuyên gia Canada đang đặt ra. Tương lai bất định của Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) có thể cản trở vốn đầu tư chảy vào ngành công nghiệp dầu khí Mexico, trong đó có buổi đấu giá giàn khoan nước sâu dự kiến diễn ra vào tháng 1/2018. Các quan chức ngoại giao của Mexico (Mê-xi-cô) và Canada (Ca-na-đa) đã bày tỏ tin tưởng rằng quá trình tái đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA, gồm Mexico, Mỹ và Canada) sẽ kết thúc vào đầu năm 2018, đồng thời cảnh báo những bất ổn về tương lai của thỏa thuận này đang khiến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp giảm mạnh.
Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ
Hiệp định Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ (tiếng Anh: North American Free Trade Agreement; viết tắt: NAFTA) là hiệp định thương mại tự do giữa Canada, Mỹ và Mexico, ký kết ngày 12 tháng 8 năm 1993, hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1994. Nội dung của hiệp định này là: Giúp cho kinh tế của Mỹ, Canada và Mexico được dễ dàng. Cụ thể là việc Mỹ và Canada có thể dễ dàng chuyển giao công nghệ sang México và México cũng dễ dàng chuyển giao nguồn nhân lực sang 2 nước kia. Ngoài ra, hiệp định này còn giúp cho 3 nước có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới về kinh tế với các khối như EU, AFTA,. Sau 18 năm tồn tại, Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) đang lộ những vết rạn nứt nghiêm trọng do những bất cập và sự lỗi thời khi nền kinh tế thế giới đang vận động không tuân theo những toan tính chủ quan. NAFTA đã là nền tảng cho sự thống nhất về kinh tế và chính trị giữa ba nước Bắc Mỹ, nhưng giờ đây nền tảng này đang có những chấn động dữ dội từ bên trong và đe dọa đến thành công của những bước tiến trong tương lai.
Đây là một trong Một trong những thắc mắc của rất nhiều người. Khái niệm Ln có liên quan gì đến Toán học hay chỉ là một trường đoản cú viết tắt thông thường? Bài viết dưới đây tuyendungviettel.coms.com để giúp đỡ các bạn hiểu rõ sự việc này!. Trong Tân oán học tập, Ln là kí hiệu của Logarit thoải mái và tự nhiên. Logarit tự nhiên tuyệt nói một cách khác là Loga Nepe. Khái niệm Logarit thoải mái và tự nhiên được đọc là Logarit cơ số e vị công ty Tân oán học tập đại tài John Napier sáng chế ra. Ta thường chạm chán 2 kí hiệu của thuật ngữ này là ln(x) Hay những log(x). Logarit trường đoản cú nhiêncủa số x chủ yếu bằng bậc số e làm thế nào để cho e lũy thừa lên thì bởi x. Thỏa mãn điều kiện: ln(x)=a lúc và chỉ còn Khi. Một số đặc điểm của Logarit thoải mái và tự nhiên như: Ln(e)=1 và Ln(1)=0. Một logarit tự nhiên và thoải mái được xác định với đa số số thực a (a 0) được khái niệm là phần bên dưới đồ thị y=1/x từ một đến a. Định nghĩa này còn được mở rộng mang đến số phức, được lý giải nhỏng sau:. Cho hai số dương a cùng b cùng với a≠1. Số α vừa lòng đẳng thức aα = b được điện thoại tư vấn là logarit cơ số a của b cùng kí hiệu là logab.
Logarit tự nhiên
Logarit tự nhiên (còn gọi là logarit Nêpe) là logarit cơ số e do nhà toán học John Napier sáng tạo ra. Ký hiệu là: ln(x), loge(x). Logarit tự nhiên của một số x là bậc của số e để số e lũy thừa lên bằng x. Tức là ln(x)=a ⇔ ea=x. Ví dụ, ln(7.389) bằng 2 vì e2=7.389. từ 1 đến a. Sự đơn giản của định nghĩa được sánh với các công thức khác kéo theo logarit tự nhiên, dẫn đến thuật ngữ "tự nhiên". Định nghĩa có thể được mở rộng đến số phức, được giải thích dưới đây. Hàm số của logarit tự nhiên, nếu được coi là hàm số có nghĩa của biến thực, là hàm số của hàm mũ. Do đó, hàm số logarit là một hàm số đơn điệu đi từ tập số thực dương dưới phép nhân vào tập số thực dưới phép cộng. Logarit được định nghĩa cho cơ số dương khác 1, không chỉ là số e. Tuy nhiên, logarit của các cơ số khác chỉ khác nhau bởi hàm số nhân liên tục từ logarit tự nhiên và thường được định nghĩa bằng thuật ngữ sau cùng.
Được xây dựng vào năm 1995 với kiến trúc cổ điển pha lẫn hiện đại, Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer nằm trong quần thể Khu di tích Ao Bà Om và chùa Âng, thành phố Trà Vinh. Nơi đây là địa chỉ bảo tồn rất nhiều hiện vật phản ánh đời sống văn hóa tinh thần và vật chất của người Khmer ở tỉnh Trà Vinh nói riêng cũng như người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long nói chung. Bảo tàng gồm có 4 phòng trưng bày với khoảng 800 hiện vật, tư liệu cổ, quý được sưu tầm hoặc khai quật tại địa phương, được chia thành 4 chủ đề: Tôn giáo và tín ngưỡng của người Khmer; Văn hóa – cuộc sống đời thường; Ngành nghề truyền thống của dân tộc Khmer và Văn hóa - nghệ thuật. Đến với Bảo tàng văn hóa dân tộc Khmer, du khách như được đi vào một thế giới khác - thế giới của các thần linh qua óc tưởng tượng bay bổng, lãng mạn và bàn tay tài hoa của các nghệ nhân. Với khuôn viên rất rộng, có nhiều cây xanh, bảo tàng văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh là nơi lưu giữ nhiều hiện vật quý như: kinh Phật viết trên lá Buông bằng các văn tự cổ, các lời huấn ca về đạo đức, lối sống, các truyện kể dân gian, tượng chim thần Kâyno hiện thân của nữ thần trong các truyền thuyết tôn giáo của người Khmer, tượng người chim Tết Pronam với nghệ thuật cách điệu tinh tế dùng để trang trí dưới các hiên chùa, các nông cụ truyền thống của người Khmer…. Cùng với Bảo tàng Văn hóa Khmer Sóc Trăng, Bảo tàng Văn hóa Khmer Trà Vinh là điểm tham quan hấp dẫn đối với du khách, các nhà khảo cổ, sưu tầm văn hóa dân tộc trong và ngoài nước. Đến đây, bạn sẽ có dịp hiểu được sâu hơn những giá trị văn hóa to lớn mà cộng đồng người dân tộc Khmer đã gìn giữ và phát huy qua nhiều thế kỷ.
Bảo tàng văn hóa dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh
Bảo tàng văn hóa dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh nằm trong quần thể Khu di tích Ao Bà Om và Chùa Âng; hiện tọa lạc tại khóm 4, phường 8, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, Việt Nam. Bảo tàng được xây dựng năm 1995, và đưa vào sử dụng năm 1997 trên diện tích 1.700 m2 trong một khuôn viên rộng 1 ha. Tòa nhà chính được xây theo kiểu kiến trúc truyền thống kết hợp với kiến trúc hiện đại, gồm một trệt một lầu. Tầng trệt là văn phòng làm việc của cán bộ, nhân viên bảo tàng. Tầng trên gồm có ba phòng dùng để trưng bày gần 1.000 hiện vật, phản ánh đời sống văn hóa, vật chất tinh thần rất phong phú của dân tộc Khmer ở Nam Bộ. Phòng đầu tiên dùng để trưng bày các hiện vật về mô hình các ngôi chùa của người Khmer, có sala dùng để các nhà sư ngồi. Phòng thứ hai trưng bày các nông cụ và các công cụ để đánh bắt thủy sản. Ngoài ra, ở đây còn trưng bày các loại trang phục truyền thống và chữ viết của dân tộc Khmer ở Nam Bộ.
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ là một tổ chức đa chính phủ được thành lập bởi các nước Iran, Irắc, Cô oét, Arập Xêút và Vênêxuêla tại Hội nghị Batđa. Vậy OPEC là gì? Chức năng và vai trò của tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa OPEC ra sao?. Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) là một tổ chức liên chính phủ được thành lập tại Hội nghị Baghdad năm 1960. OPEC là một tổ chức liên chính phủ thường trực của 14 quốc gia đang phát triển xuất khẩu dầu mỏ, là tổ chức điều phối và thống nhất các chính sách dầu khí của các quốc gia thành viên. Trong 5 năm đầu tiên trụ sở của OPEC đặt ở Genève, Thụy Sĩ, sau đấy chuyển về Viên, Áo từ tháng 9/1965. Trong năm năm đầu tiên trụ sở của OPEC đặt ở Genève, Thụy Sĩ, sau đấy chuyển về Wien, Áo từ tháng 91965. Các nước thành viên OPEC khai thác vào khoảng 40% tổng sản lượng dầu lửa thế giới và nắm giữ khoảng 3/4 trữ lượng dầu thế giới. OPEC có khả năng điều chỉnh hạn ngạch khai thác dầu lửa của các nước thành viên và qua đó có khả năng khống chế giá dầu. Hội nghị các bộ trưởng phụ trách năng lượng và dầu mỏ thuộc tổ chức OPEC được tổ chức mỗi năm hai lần nhằm đánh giá thị trường dầu mỏ và đề ra các biện pháp phù hợp để bảo đảm việc cung cấp dầu. Bộ trưởng các nước thành viên thay nhau theo nguyên tắc xoay vòng làm chủ tịch của tổ chức hai năm một nhiệm kỳ. Mục tiêu chính thức được ghi vào hiệp định thành lập của OPEC là ổn định thị trường dầu thô, bao gồm các chính sách khai thác dầu, ổn định giá dầu thế giới và ủng hộ về mặt chính trị cho các thành viên khi bị các biện pháp cưỡng chế vì các quyết định của OPEC. Nhưng thật ra nhiều biện pháp được đề ra lại có động cơ bắt nguồn từ quyền lợi quốc gia, thí dụ như trong các cơn khủng hoảng dầu, OPEC chẳng những đã không tìm cách hạ giá dầu mà lại duy trì chính sách cao giá trong thời gian dài. Mục tiêu của OPEC thật ra là một chính sách dầu chung nhằm để giữ giá. OPEC dựa vào việc phân bổ hạn ngạch cho các thành viên để điều chỉnh lượng khai thác dầu, tạo ra khan hiếm hoặc dư dầu giả tạo nhằm thông qua đó có thể tăng, giảm hoặc giữ giá dầu ổn định. Có thể coi OPEC như là một liên minh độc quyền (cartel) luôn tìm cách giữ giá dầu ở mức có lợi nhất co các thành viên. Mục tiêu hoạt động chính thức của OPEC được ghi trong Qui chế Thành lập của tổ chức là điều phối và thống nhất chính sách khai thác dầu giữa các nước thành viên nhằm ổn định giá dầu thế giới ở mức công bằng và ổn định cho các nước sản xuất, đảm bảo nguồn cung dầu hiệu quả, kinh tế và thường xuyên cho các nước tiêu dùng, đảm bảo mức lợi nhuận công bằng cho các nhà đầu tư, qua đó bảo vệ lợi ích của các nước thành viên. Nói cách khác, về bản chất, OPEC chính là một cartel (liên minh kinh tế) giữa các nước sản xuất dầu lửa nhằm duy trì một cơ cấu giá có thể phản ánh được lợi ích của các nước thành viên thông qua việc phối hợp định giá và xây dựng hạn ngạch sản xuất cho các nước thành viên. Vào ngày 10-14/9/1960, theo sáng kiến của Bộ trưởng Bộ Năng lượng và Mỏ Venezuelan Juan Pablo Pérez Alfonso và bộ trưởng Bộ Năng lượng và Mỏ Ả Rập Xê Út Abdullah al-Tariki, các chính phủ Iraq, Iran, Kuwait, Ả Rập Xê Út và Venezuela nhóm họp tại Baghdad để thảo luận các phương án nhằm tăng giá dầu thô sản xuất ở các quốc gia này. OPEC được thành lập nhằm thống nhất và phối hợp các chính sách về dầu mỏ của các quốc gia thành viên. Giữa năm 1960 và 1975, tổ chức này đã mở rộng bao gồm các thành viên mới như Qatar (1961), Indonesia (1962), Libya (1962), Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (1967), Algérie (1969), và Nigeria (1971). Ecuador và Gabon trước đây từng là thành viên của OPEC, nhưng Ecuador đã rút lui ngày 31/12/1992 do không thể chi trả 2 triệu đô la phí thành viên và có nhu cầu sản xuất nhiều dầu hơn chỉ tiêu mà OPEC cho phép, dù vậy họ gia nhập trở lại vào tháng 10/2007. Các mối quan tâm tương tự cũng đã thúc đẩy Gabon ngừng làm thành viên vào tháng 1/1995. Angola gia nhập đầu năm 2007. Na Uy và Nga tham dự các hội nghị của OPEC với tư cách là quan sát viên. Tháng 5/2008, Indonesia tuyên bố rời khỏi OPEC khi hết hạn thành viên và vào cuối năm đó, nước này trở thành quốc gia nhập khẩu dầu và không thể đạt được chỉ tiêu sản xuất dầu. 1 bản tuyên bố do OPEC đưa ra ngày 10/9/2008 đã xác nhận Indonesia rút khỏi tổ chức này, trong đó có đoạn “thật tiếc là chúng tôi phải chấp nhận mong muốn của Indonesia để dừng tư cách thành viên trong Tổ chức OPEC và hy vọng rằng Quốc gia này sẽ sẵn sàng gia nhập trở lại trong một tương lai không xa.”. Công cụ chính được OPEC sử dụng để điều chỉnh sản lượng dầu bán ra thị trường của các nước thành viên chính là hạn ngạch sản xuất. Đại diện các quốc gia thành viên nhóm họp mỗi năm 2 lần nhằm thiết lập chính sách sản xuất chung trong tương lai dựa trên dự báo toàn cầu về cung và cầu dầu lửa. Mỗi hội nghị OPEC đều đặt ra hạn ngạch sản xuất mới, chia theo tỉ lệ tương ứng cho các quốc gia thành viên. Cam kết của các nước thành viên đối với hạn ngạch sản xuất không phải lúc nào cũng nhất quán, và một số nước thành viên OPEC, đặc biệt là những nước có sản lượng nhỏ, thường xuyên vượt quá hạn ngạch được phép của mình. Các thành viên có sản lượng lớn, đặc biệt là Ả Rập Xê Út, thường phải cắt giảm sản lượng của mình để bù cho việc sản xuất quá hạn ngạch của các thành viên khác. Việc giá dầu sụt giảm giữa những năm 1980 và cuối những năm 1990 một phần là do các thành viên thiếu cam kết trong việc tuân thủ hệ thống hạn ngạch. Ngành công nghiệp dầu mỏ ngày nay mang những đặc điểm của một mô hình đa nhân tố. Có một số nhân tố quan trọng, song không một nhân tố nào có thể một mình duy trì được sự ổn định của thị trường. Tầm quan trọng của OPEC đã suy giảm sau giai đoạn được xem là đỉnh cao của tổ chức này vào giữa những năm 1970, nhưng chưa có một tổ chức nào có đủ khả năng để thay thế nó. Sự suy giảm về tầm quan trọng của OPEC cũng đi kèm với nỗ lực chung của thế giới trong việc tiết kiệm năng lượng và tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế. Trong cơ cấu doanh nghiệp của ngành, các công ty quốc doanh hiện giữ vai trò chủ đạo. Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (US Energy Information Administration), tính đến thời điểm năm 2007, xấp xỉ 78% sản lượng dầu thế giới do 50 công ty sản xuất, 70% số sản lượng này được sản xuất bởi các công ty dầu mỏ quốc doanh. – 1965: Dời trụ sở về Viên. Các thành viên thống nhất một chính sách khai thác chung để bảo vệ giá. – 1970: Nâng giá dầu lên 30%, nâng thuế tối thiểu áp dụng cho các công ty khai thác dầu lên 55% của lợi nhuận. – 1971: Nâng giá dầu sau khi thương lượng với các tập đoàn khai thác. Tiến tới đạt tỷ lệ quốc gia hóa 50% các tập đoàn. – 1973: Tăng giá dầu tăng từ 2,89 USD một thùng lên 11,65 USD. Thời gian này được gọi là cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, OPEC khai thác 55% lượng dầu của thế giới. – 1974 đến 1978: tăng giá dầu 5-10% hầu như mỗi nửa năm một lần để chống lại việc USD bị lạm phát. – 1979: Khủng hoảng dầu lần thứ hai. Sau cuộc cách mạng Hồi giáo giá dầu từ 15,5 USD một thùng được nâng lên 24 USD. Libia, Angiêri và Irắc thậm chí đòi đến 30 USD cho một thùng. – 1980: Đỉnh điểm chính sách cao giá của OPEC. Lybi đòi 41 USD, Ả Rập Saudi 32 USD và các nước thành viên còn lại 36 USD cho một thùng dầu. – 1981: Lượng tiêu thụ dầu giảm do các nước công nghiệp lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế và bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, do giá dầu cao, nhiều nước trên thế giới đầu tư vào các nguồn năng lượng khác. Lượng tiêu thụ dầu thế giới giảm 11% trong thời gian từ 1979 đến 1983, thị phần dầu của OPEC trên thị trường thế giới giảm xuống còn 40%. – 1982: Quyết định giảm lượng sản xuất tuy được thông qua nhưng lại không được các thành viên giữ đúng. Thị phần của OPEC giảm xuống còn 33% và vào năm 1985 còn 30% trên tổng số lượng khai thác dầu trên thế giới. Lượng khai thác dầu giảm xuống đến mức thấp kỷ lục là 17,34 triệu thùng một ngày. – 1983: Giảm giá dầu từ 34 USD xuống 29 USD một thùng. Giảm hạn ngạch khai thác từ 18,5 triệu xuống 16 triệu thùng một ngày. – 1986: Giá dầu rơi xuống đến dưới 10 USD một thùng do sản xuất thừa và do một số nước trong OPEC giảm giá dầu. – 1990: Giá dầu được nâng lên trong tầm từ 18 đến 21 USD một thùng. Nhờ vào chiến tranh vùng Vịnh giá dầu đạt ở mức cao. – 2000: Giá dầu đã dao động mạnh, vượt qua cả hai mức thấp và cao nhất trong lịch sử. Nếu trong quý I, chỉ với 9 USD người ta cũng có thể mua được một thùng dầu thì trong quý IV giá đã vượt trên 37 USD một thùng. Các thành viên của OPEC đồng ý giữ giá dầu ở mức 22-28 USD/thùng. – 2005: OPEC quyết định giữ nguyên lượng khai thác 27 triệu thùng. Các thành viên đã nhất trí “tạm ngưng” không giữ giá dầu ở mức 22-28 USD/thùng. Sau một thời gian dài từ năm 2007, giá dầu mỏ liên tục tăng, có thời điểm đạt mức xấp xỉ 150 USD/thùng, hiện nay (8-2008) giá dầu đang đứng ở mức trên dưới 110 USD/thùng.
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (tiếng Anh: Organization of Petroleum Exporting Countries, viết tắt OPEC) là tổ chức có là đảm bảo thu nhập ổn định cho các quốc gia thành viên và đảm bảo nguồn cung dầu mỏ cho các khách hàng. OPEC là tổ chức đa chính phủ được thành lập bởi các nước Iran, Iraq, Kuwait, Ả Rập Xê Út và Venezuela trong hội nghị tại Bagdad (10-14/9/1960). Các thành viên Qatar (1961), Libya (1962), UAE (1967), Algérie (1969) và Nigeria (1971) lần lượt gia nhập tổ chức sau đó. Ecuador (1973–1992), Indonesia (1962-2008) và Gabon (1975–1994) cũng từng là thành viên của OPEC. Trong 5 năm đầu tiên trụ sở của OPEC đặt ở Genève, Thụy Sĩ, sau đấy chuyển về Viên, Áo từ tháng 9/1965. Các nước thành viên OPEC khai thác vào khoảng 40% tổng sản lượng dầu lửa thế giới và nắm giữ khoảng 75% trữ lượng dầu thế giới. Vào ngày 10-14/9/1960, theo sáng kiến của Bộ trưởng Bộ Năng lượng và Mỏ Venezuelan Juan Pablo Pérez Alfonso và bộ trưởng Bộ Năng lượng và Mỏ Ả Rập Xê Út Abdullah al-Tariki, các chính phủ Iraq, Iran, Kuwait, Ả Rập Xê Út và Venezuela nhóm họp tại Baghdad để thảo luận các phương án nhằm tăng giá dầu thô sản xuất ở các quốc gia nàyOPEC được thành lập nhằm thống nhất và phối hợp các chính sách về dầu mỏ của các quốc gia thành viên.
Nguyên lý của an toàn sinh học là ngăn chặn các tác nhân vi sinh vật lây nhiễm.Thuật ngữ "ngăn chặn" nghĩa là sử dụng các phương pháp an toàn, cơ sở vật chất và trang thiết bịđể quản lý các vật liệu truyền nhiễm trong môi trường phòng thí nghiệm. Các yếu tố trong việc ngăn chặn để bảo vệ nhân viên phòng thí nghiệm và môi trường bên ngoài bao gồm kỹ thuật vi sinh an toàn, sử dụng trang thiết bị thích hợp an toàn và cơ sở tiện nghi. Đánh giá rủi ro trong công việc đối với các tác nhân lây nhiễm cụ thể sẽ quyết định cùng với việc lựa chọn sử dụng các yếu tố ngăn chặn phù hợp. Yếu tố quan trọng nhất trong việc ngăn chặn là phải tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩnthực hành kỹ thuật vi sinh . Nhân viên phải có nhận thức về mối nguy hiểm tiềm ẩn khi làmviệc với các tác nhân lây nhiễm hoặc các vật liệu có khả năng lây nhiễm. Nhân viên phảiđược đào tạo khi làm việc với tác nhân lây nhiễm, có kiến thức và thực hành thành thạo các quy trình kỹ thuật an toàn trong phòng thí nghiệm và phải chịu trách nhiệm khi làm việc với bất kỳ các tác nhân hay vật liệu lây nhiễm. Lãnh đạo hoặc người phụ trách phòng thí nghiệmcó trách nhiệm hướng dẫn hoặc đào tạo cho nhân viên trước khi thực hiện thao tác trong PTN. Mỗi phòng thí nghiệm cần xây dựng sổ tay về an toàn sinh học và quy định cụ thểtrong quy trình thực hành để giảm thiểu hoặc loại bỏ khi tiếp xúc với các tác nhân nguy hiểm. Nhân viên phải được thông báo về tác nhân nguy hiểm đặc biệt và yêu cầu phải làm theo các quy trình thực hành cần thiết. Các nhân viên nên tham khảo ý kiến với các chuyên gia an toàn sinh học. Khi tiêu chuẩn thực hành phòng thí nghiệm không đủ khả năng để kiểm soát các tác nhân nguy hiểm đặc biệt thì cần có biện pháp bổ sung . Lãnh đạo phòng thí nghiệm có trách nhiệm lựa chọn các biện pháp bổ sung phù hợp với các tác nhân nguy hiểm. Các biện pháp bổ sung có thể bao gồm thiết kế cơ sở tiện nghi phù hợp với tính năng, thiết bị an toàn và kỹ thuật thực hành an toàn. Thiết bị an toàn bao gồm tủ an toàn sinh học ( BSC) và các thiết bị kiểm soát khác có khả năng loại bỏ hoặc giảm thiểu khi tiếp xúc với tác nhân nguy hiểm. Tủ an toàn sinh học là thiết bị chính để ngăn chặn khí dung lây nhiễm được tạo ra trong qua trình thao tác với tác nhân lây nhiễm. Thiết bị an toàn cũng có thể bao gồm các thiết bị bảo hộ cá nhân như găngtay, áo choàng, giầy kín mũi, mặt nạ, kính bảo hộ.Thiết bị bảo hộ cá nhân được sử dụng cùng với tủ an toàn sinh học khi thao tác với tác nhân lây nhiễm. Thiết kế và xây dựng cơ sở tiện nghi phù hợp sẽ tạo một rào cản bảo vệ những người làm việc bên trong và bên ngoài phòng thí nghiệm tiếp xúc với các tác nhân lây nhiễmđược tạo ra từ phòng thí nghiệm. Lãnh đạo phòng thí nghiệm có trách nhiệm cung cấp cơ sở vật chất phù hợp với chức năng của phòng thí nghiệm và cấp độ an toàn sinh học đối với các tác nhân đang sử dụng. Thiết kế cơ sở tiện nghi trong phòng thí nghiệm bao gồm tách khu vực làm việc trong phòng thí nghiệm với khu vực hành chính, có nồi hấp tiệt trùng và phương tiện rửa tay trong phòng thí nghiệm. Khi tác nhân lây nhiễm tạo ra khí dung thì ở cấp độ an toàn sinh học càng cao thì khả năng ngăn chặn tác nhân thất thoát ra môi trường càng cao. Có bốn cấp độ an toàn sinh học kết hợp với các yếu tố về cơ sở tiện nghi phòng thí nghiệm, thiết bị an toàn và kỹ thuật thực hành phòng thí nghiệm. Sự kết hợp này phải phù hợp với chức năng hoạt động của phòng thí nghiệm. Các nhóm tác nhân lây nhiễm kết hợp với phương thức lây truyền sẽ xác định công việc được tiến hành ở cấp độ an toàn sinh học nào. Xem bảng 1: Tóm tắt cấp độ an toàn sinh học (BSL) theo nhóm tác nhân lây nhiễm. Sử dụng tủ an toàn sinh học và các thiết bị ngăn chặn vật lý khi tao tác với tác nhân lây nhiễm tạo ra khí dung. Các tác nhân có thể gây bệnhnghiêm trọng hoặc gây chết người qua đường hít . Sử dụng tủ an toàn sinh học hoặc các thiết bị ngăn chặn vật lý khi thao tác với tất cả các tác nhân lây nhiễm. Quần áo bảo hộ, găng tay, khẩu trang,kính mắt và thiết bị bảo vệđường hô hấp khi cần. Ngăn cách vật lý từ hành lang vào phòng thí nghiệm. Tạo luồng không khí âm trong phòng thí nghiệm.
Cấp độ an toàn sinh học
Cấp độ an toàn sinh học (tiếng Anh viết tắt là BSL) hoặc cấp độ bảo vệ/mầm bệnh là một tập hợp các biện pháp phòng ngừa diệt khuẩn cần thiết để cô lập các tác nhân sinh học nguy hiểm trong một phòng thí nghiệm kèm theo. Các mức độ ngăn chặn từ mức an toàn sinh học thấp nhất cấp 1 (BSL-1) đến cao nhất ở cấp độ 4 (BSL-4). Tại Hoa Kỳ, Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC) đã chỉ định các cấp độ này. Trong Liên minh châu Âu, các mức an toàn sinh học tương tự được xác định trong một chỉ thị. Ở Canada, bốn cấp độ được gọi là Cấp độ ngăn chặn. Các cơ sở có các chỉ định này đôi khi cũng được đưa ra từ P1 đến P4 (đối với cấp độ mầm bệnh hoặc Bảo vệ), như trong thuật ngữ "phòng thí nghiệm P3". Ở mức độ an toàn sinh học thấp nhất, các biện pháp phòng ngừa có thể bao gồm rửa tay thường xuyên và thiết bị bảo vệ tối thiểu. Ở cấp độ an toàn sinh học cao hơn, các biện pháp phòng ngừa có thể bao gồm hệ thống luồng không khí, nhiều phòng chứa, thùng kín, bộ quần áo áp lực dương, thiết lập các giao thức cho tất cả các quy trình, đào tạo nhân sự rộng rãi và mức độ bảo mật cao để kiểm soát truy cập vào cơ sở.
Bản phim năm 2006 được làm lại từ bản hoạt hình gốc Chú Khủng Long Lạc Loài năm 1980. Phần phim thứ 40 này bắt đầu từ một nguyên do rất “kinh điển”: lời hứa của Nobita về việc sẽ tìm ra và nuôi dạy một con khủng long thật sự cho Jaian và Suneo xem. Cậu vô tình nhặt được một quả trứng và nhờ khăn trùm thời gian của Doraemon mà quả trứng đã nở với một cặp song sinh khủng long vô cùng lạ. Nobita quyết tâm nuôi dạy hai chú khủng long này cho đến khi chúng quá lớn và không thể nào giữ nuôi tại nhà được nữa. Cuối cùng thì Nobita cũng quyết định đưa chúng về với giống loài và đúng thời đại trong sự buồn bã. Cùng nhóm bạn Jaian, Suneo, Shizuka dưới sự dẫn dắt của Doraemon, Nobita đã có một chuyến hành trình đầy thú vị và mang về được nhiều bài học ý nghĩa. Công tâm mà nói thì Nobita Và Những Bạn Khủng Long Mới có nội dung chính gần giống với phiên bản năm 2006. Cả tình huống và diễn biến đều theo một mô típ của sườn phim cũ. Cái mới chính là chú khủng long nhỏ Piisuke khi xưa giờ đây được thay bằng hai chú khủng long Kyu và Myu có đôi cánh rất ngộ nghĩnh. Bên cạnh đó, không đơn giản như phần phim cũ, việc chăm sóc cho hai chú nhóc khủng long này khiến Nobita như có một gia đình thật sự cho riêng mình. Kyu và Myu không khác gì là hai đứa con của Nobita. Cậu đã phải trải qua một quá trình nuôi dạy đúng kiểu của một người mẹ. Câu phải chăm sóc và nghĩ cách để một kẻ kén ăn như Kyu phải chịu ăn, hay hoảng sợ và lo lắng khi nhóc bị ốm, thức đêm để chăm lo cho nhóc, dạy cho nó học bay… Thậm chí Nobita còn buồn đau khi thấy Kyu bị tổn thương, không bằng chị của mình. Nhóc khủng long và Nobita chính là điểm tựa và là nhân tố tạo động lực cho đối phương. Người xem cũng có thể thấy Nobita cũng nhiều lúc bối rối vì còn non kinh nghiệm, hệt như những bậc cha mẹ lần đầu có con như việc bắt ép Kyu quá mức, nổi giận khi Kyu không nghe lời, nhưng tất cả mọi thứ cậu làm đều chỉ với mục đích muốn tốt cho nhóc Kyu mà thôi. Không giống như các bộ phim trước đây của Doraemon, tập phim kỷ niệm 50 năm này không hề có nhân vật phản diện thực sự. Tiêu điểm chính của câu chuyện là việc nhóm bạn của chúng ta phải đối mặt với những nguy hiểm từ các loài khủng long hung tợn, và chúng cũng không thể gọi là một phản diện, mà nó là một phần của tự nhiên. Chính môi trường thiên nhiên được bộ phim tạo ra là chất xúc tác để đẩy câu chuyện của movie này đến hồi kết. Thiên nhiên vừa cho các bé tìm hiểu được thêm về các loài khủng long, về thời tiền sử, cho các bé biết được nguyên nhân, và sự tận diệt của loài khủng long xảy ra như thế nào. Và kèm theo đó, câu chuyện của Nobita tạo cho người xem rất nhiều động lực. Cậu cuối cùng phải chấp nhận để Kyu và Myu rời khỏi tổ, cho chúng tiếp xúc với tự nhiên và học cách sinh tồn theo bản năng của chúng. Nobita nhận ra rằng cậu đã làm tất cả những gì tốt nhất cho chúng, và giờ là lúc chúng phải tự sinh tồn, đương đầu và hòa nhập với nơi chúng thật sự thuộc về. Tuy điều đó không dễ dàng với bất kỳ ai, nhưng đó mới là cuộc sống. Nhờ vào hành trình này mà Nobita nhận ra rằng việc giúp đỡ hai nhóc khủng long cũng chính là việc giúp đỡ bản thân mình. Cuối cùng thì Nobita cũng biết phải ra sức cố gắng, dù bản thân tệ, không bằng người khác, nhưng cố gắng một lần không được thì mười lần, nhất định điều gì người khác làm được thì mình cũng làm được. Và khi bạn muốn giỏi một điều gì đó, bạn cần phải tự tay mình làm cho đến khi tìm ra hướng đi chính xác, bạn phải tự đứng lên mỗi khi bạn ngã xuống. Nhân vật phản diện của phim sẽ là một cú twist khá bất ngờ điều mà bạn chưa từng thấy trong Doraemon trước đây. Dù chỉ là một phim hoạt hình nhưng chính người viết cũng đã bị bộ phim đánh lừa. Phim còn có một sự cameo thú vị mà tôi không thể tiết lộ vì nó có sự kết nối với phim cũ. Bài hát chủ đề Birthday do nhóm Mr.Children thể hiện có ca từ trong sáng, có nhịp điệu sôi nổi cực kì phù hợp với nội dung phim hướng đến trẻ em như thế này. Không hổ danh ban nhạc thiên tài Mr.Children có thể “cân” từ nhạc sôi động, nhạc buồn đến cả ca khúc ngập tràn màu sắc thiếu nhi. Và đây cũng là điểm cộng lớn cho cả series và movie của Doraemon khi những ca khúc được phát hành đều góp phần làm nên thành công của thương hiệu 50 năm Doraemon. Doraemon đã có một bước tiến mới, trưởng thành hơn trong những câu chuyện nhưng vẫn bám sát với phong cách trước giờ mà cả series này luôn hướng đến. Nét vẽ của movie lần này cũng có thể xem là trưởng thành hơn. Nếu là một fan trung thành của thương hiệu Doraemon hẳn bạn cũng nhận ra sự khác biệt. Các nhân vật cao và ốm hơn, Nobita cũng có vóc dáng và gương mặt không quá ngây ngô khù khờ như trước. Kết hợp với những hình ảnh của nét vẽ 3DCG đầy sống động của khủng long, càng tạo thêm nhiều sự thú vị về mặt hình ảnh. Nhà làm phim đã cố tình giữ những nhân vật quen thuộc và hai chú khủng long chính với nét vẽ 2D và những loài khủng long Kỷ phấn trắng với công nghệ 3DCG như một cú chuyển giao kỹ thuật hoạt hình Nhật Bản. Có thể bạn sẽ không quen với cách phối hợp này, nhưng hãy thử nhìn nó theo cách hoài niệm và hướng về sự tân tiến, không chừng bạn cũng sẽ có những cảm xúc dâng trào như người viết đấy. Các bé sẽ thích thú với câu chuyện về Nobita nuôi hai chú khủng long, thích thú với hành trình đầy thú vị và hài hước của nhóm bạn, được nhìn thấy thêm nhiều loài khủng long hơn và được học hỏi những bài học rất ý nghĩa về tình bạn, sự cố gắng. Người lớn vẫn sẽ thích thú bởi những thứ ngộ nghĩnh và hài hước mà bộ phim mang đến, đặc biệt hơn là việc làm cha mẹ. Phim có hai phiên bản chiếu ở Việt Nam, một là lồng tiếng dễ xem với dàn diễn viên quen thuộc của series trên HTV3 và những movie phát hành trước đây của CGV, một còn lại là phụ đề với chất giọng của các seiyuu gắn bó cùng cả chặng đường phát triển của Doraemon, bên cạnh đó còn có sự tham gia của các diễn viên nổi tiếng như Kimura Takuya, Watanabe Naomi, Kamiki Ryunosuke… Phiên bản nào cũng hấp dẫn cả, bạn đã sẵn sàng chưa?
Doraemon
Doraemon: Nobita no Shin Kyōryū (Nhật: ドラえもん のび太の新恐竜, Doraemon: Nobita no Shin Kyōryū) hay còn được biết với tên quốc tế Doraemon: Nobita s New Dinosaur và tên tiếng Việt chính thức Doraemon: Nobita và những bạn khủng long mới là phim điện ảnh anime thể loại khoa học viễn tưởng của đạo diễn Imai Kazuaki và biên kịch Kawamura Genki, nằm trong loạt manga và anime Doraemon. Đây là phim chủ đề thứ 40 của anime Doraemon. Tác phẩm đánh dấu 50 năm xê-ri Doraemon được xuất bản. Truyện phim kể về việc Nobita tìm thấy một quả trứng khủng long hóa thạch trong buổi triển lãm khủng long và nhờ vào bảo bối của Doraemon mà đã nở ra hai con khủng long, cậu đặt tên chúng là Kyū và Myū. Tuy nhiên, do không thể nuôi chúng trong thế giới hiện đại, Nobita quyết định đưa chúng đến Kỷ Phấn Trắng (66 triệu năm trước). Phim bắt đầu khởi chiếu tại Nhật Bản từ ngày 7 tháng 8 năm 2020 do Toho phân phối. Nobita vô tình tìm được một quả trứng khủng long hóa thạch xen lẫn đất đá trong khuôn viên triển lãm hóa thạch khủng long mà cậu đã đến tham quan trước đó.
Số VIN (vehicle identification number), được coi như “chứng minh thư” của một chiếc xe, bao gồm 17 ký tự chia làm 6 phần. Biết các đọc số VIN, chúng ta sẽ tra cứu được những thông tin cụ thể của chiếc xe mình muốn mua. Những loại xe sản xuất trước năm 1981 không theo tiêu chuẩn toàn cầu và chúng đòi hỏi phải có những thông tin đặc biệt từ phía hãng sản xuất để giải mã.Vậy điều gì làm nên sự khác biệt đáng giá ở những chiếc xe thời ISO? Đơn giản vì ý tưởng của tổ chức này giúp một chiếc xe không bị làm giả thành chiếc khác. Nếu biết cách đọc, số VIN sẽ cung cấp cho khách hàng nhiều thông tin hơn những gì họ vốn muốn biết.Theo tờ Driver Side, giải mã số VIN là cách dễ dàng để đảm bảo khách hàng không bị đánh lừa khi đi mua xe. Chẳng hiếm người trả tiền cho một chiếc Cobra phiên bản đặc biệt nhưng thực tế đó chỉ là chiếc Mustang làng nhàng, thậm chí phải vác về một đống sắt vụn đã được tân trang. Phần lớn những loại xe mới đều có số VIN gắn chỗ cần gạt nước và rất dễ đọc dù có hơi nhỏ. Tùy thuộc vào năm và giá thành của chiếc xe mà khách hàng đang nhắm tới, những miếng thẻ ghi số VIN có thể làm bằng nhôm hoặc nhựa rẻ tiền và đều được tán chặt, vì thế việc tháo bỏ chúng không hề dễ dàng.Thường số VIN được tìm thấy ở chỗ cần gạt nước, chắn bùn hoặc phần phía trước của động cơ. Ở những mẫu xe sản xuất hạn chế hay xe thể thao đắt tiền, số VIN có thể nằm ở ngay bậc cửa hoặc chắn bùn. Số VIN được chia thành 6 phần, tương ứng với các màu. Nhà sản xuất/Mẫu mã: (ba chữ số đầu tiên). Đặc tính xe: (chữ số từ 4 đến 8) giúp nhận dạng những đặc điểm riêng của mẫu xe như các trang bị hay tùy chọn đặc biệt. Xác minh: (chữ số thứ 9) xác định thông qua một công thức toán học phức tạp về những mối liên quan tới các chữ số khác trong VIN, được sử dụng để nhận dạng chính số VIN này là thật hay giả. Năm sản xuất: (chữ số thứ 10) hiển thị đời xe, không nên nhầm lẫn giữa năm sản xuất với năm chiếc xe được bán ra hay giao tới tay khách hàng. Nhà máy lắp ráp: (chữ số thứ 11) một con số mang tính nội bộ cho biết nơi chiếc xe được lắp ráp. Dãy số thứ tự của mẫu mã: (chữ số từ 12 đến 17) đây chính là số serie của xe. Chú ý: số VIN không bao giờ chứa những chữ cái I, O hoặc Q bởi chúng trông giống số 1 và 0. Bước 3: Giải mã nhà sản xuất Ở đây, lấy ví dụ là số VIN trong hình trên: 1ZVHT82H485113456Nhà sản xuất của chiếc xe hiển thị ở ba chữ số đầu tiên: 1ZV.Trong đó, số đầu tiên luôn là quốc gia của hãng sản xuất. Kiểm tra hai chữ số phía sau, có thể biết được hãng sản xuất. Chữ F là dành cho hãng Ford hoặc G là của GM. Ví dụ, 1GC có nghĩa xe tải Chevrolet của hãng General Motors, còn 1G1 dành cho xe dân dụng Chevrolet.Với ba chữ số 1ZV ở ví dụ bên trên, đó là mã của AutoAlliance International, một liên minh sản xuất xuất xe Mazda và Ford. Điều đó có nghĩa chiếc xe trên là một sản phẩm của Ford hoặc Mazda. Bước 4: Hình dung ra đặc điểm riêng của xe Không chỉ cho biết mẫu xe, khu vực từ chữ số thứ 4 đến 8 thường miêu tả dạng động cơ và cấu trúc của xe. Những chữ số này được sử dụng ra sao còn do yêu cầu của quốc gia và hãng sản xuất, nhưng phần lớn các công ty bán xe tại Bắc Mỹ đều cùng chung một kiểu. Theo kết quả bên trên, chiếc xe trong ví dụ có thể là Ford hoặc Mazda, từ đó dễ dàng giải mã những chữ HT82H có nghĩa là gì. Chữ đầu tiên, H, là mã an toàn. Nó chỉ ra rằng chiếc xe có túi khí trước và sau. Trong các số VIN khác, có thể đó là chữ B (có dây đai an toàn chủ động nhưng không túi khí), L, F hoặc K để thông tin về những thế hệ túi khí khác nhau.Tiếp theo, T82 cho biết loại xe. Sử dụng danh sách hướng dẫn cầm tay của Ford về số VIN, tra được rằng T8 được dành cho loại Mustang coupe. Chữ số quan trọng nhất, đặc biệt khi muốn xác định rõ loại động cơ, đó là chữ số thứ 8. Trong trường hợp này, chữ H chỉ ra rằng đây là một chiếc xe mang động cơ V8 dung tích 4,6 lít của Ford. Nếu nó là chữ N, tức là loại V6. Bước 5: Sử dụng chữ số kiểm tra Phần lớn các hãng xe thường dùng số thứ 9 (luôn là một con số) để làm số kiểm tra. Sử dụng một phép tính phức tạp, khách hàng xác định được số VIN là thật hay không. Bước 6: Xác định năm sản xuất Kể từ năm 1980, các quốc gia sử dụng những chữ số khác nhau chút ít để hiển thị năm sản xuất. Nhưng vẫn có một công thức chung được dùng cho chữ số thứ 10. Nếu chiếc xe ra đời từ năm 2001-2009, những con số từ 0-9 sẽ xuất hiện ở vị trí này. Trong trường hợp trên, số 8 cho biết chiếc xe sản xuất vào năm 2008.Nếu xe xuất xưởng từ năm 1980-2000, những chữ cái từ A đến Y sẽ được sử dụng, ngoại trừ I, O và Q. Ví dụ, xe sản xuất năm 1994 có mã là R, xe năm 2000 có mã Y.Bắt đầu từ năm 2010, phần lớn các hãng xe sử dụng lại chữ A và những năm sau, những chữ cái tiếp theo sẽ được "tái bản". Bước 7: Giải mã nơi chiếc xe ra đờiĐó là chữ số thứ 11. Tuy nhiên, không có mốc chuẩn cho điều này, vì thế khách hàng cần tra cứu danh sách các nhà máy của hãng sản xuất và mã VIN để biết cụ thể. Có thể biết được phần lớn thông tin qua trang Wikipedia. Ở đây lấy ví dụ với danh sách của Ford. Số 5 trong mã VIN khớp với nhà máy AutoAlliance tại Flat Rock (bang Michigan, Mỹ). Bước 8: Số thứ tự của mẫu xe Cụm số thứ 6 cho biết số serie của xe. Nhưng với phần lớn chủ xe, con số này không mang nhiều ý nghĩa. Bước 9: So sánh với số VIN gắn trên xe. Số VIN trên xe Ford Mustang Bullitt 2008. Từ những gì tra cứu được, số VIN trong ví dụ trên cho biết chiếc xe là Ford Mustang Bullitt đời 2008. Sau khi đã xác định được nhà sản xuất và quê hương của chiếc xế, thì một thông tin khác vô cùng quan trọng cho các bác đi mua xe cũ và mới đó chính là năm sản xuất. Cần lưu ý ở đây là năm sản xuất của chiếc xe đôi lúc khác với năm lắp ráp, cụ thể, một số xe được lắp ráp hoàn chỉnh năm 2012 nhưng máy và bộ linh kiện lại được sản xuất năm 2010. Thông thường, kí tự mã hóa năm sản xuất nằm ở vị trí số 10 của mã VIN, tuy vậy, có một số hãng có qui ước riêng, và kí tự này có thể nẳm ở vị trí số 11 của dãy số. Để biết được chiếc xe của mình sản xuất vào năm nào, chúng ta dựa vào bảng sau:. Chúng tôi chuyên cung cấp các loại xe RENAULT SAMSUNG nhập khẩu nguyên chiếc 100% với nhiều hỗ trợ vaf ưu đãi nhất trên cả nước. mình thấy khó hiểu quá về con số thứ 10 của số VIN thể hiện năm sản suất vì - từ năm 1980 đến năm 2000 người ta dùng chữ cái rồi từ 2001 đến 2009 họ dùng chữ số . thế nhưng đến năm 2010 họ lại dùng bằng chữ cái - vậy vấn đề ở đây mình băn khoăn là có khi nào ta nhâm lẫn ký tự chữ cái của thời gian 1980-2000 với chữ cái của giai đoạn 2010 trở đi không các bác. - từ năm 1980 đến năm 2000 người ta dùng chữ cái rồi từ 2001 đến 2009 họ dùng chữ số . thế nhưng đến năm 2010 họ lại dùng bằng chữ cái. có bác nào trong diễn đàn này tra cho em số VIN này với:ZFF74UHB000191287. xin cám ơn nhiêu. @dinhsonkd2 Chiếc này lạ quá tra không ra, chứ theo mình thì đều tuân theo chuẩn quốc tế hết. Đọc cho biết thôi chứ tính toán bộ và nhớ không nổi, dùng công cụ cho nó nhanh. Làm ơn kiểm tra dùm mã VIN của em , em ko tìm được KMFGA17BPAC133508.theo những sổ kiểm định và giấy tờ thì xe của em sx năm 2009 nhưng có lẽ 2010 mới lắp ráp vì kí tự thứ 10 là "A".em nhập mã VIN này ở mấy trang web khác nhau cũng ko tìm được.em cảm ơn trước
Số VIN
VIN (hay còn gọi là số khung) là từ viết tắt của Vehicle Identification Number, bao gồm 17 ký tự và được đánh số theo nhiều cách khác nhau. Hệ thống VIN ở châu Âu khác Bắc Mỹ và khác với ký hiệu VIN quốc tế và được quy định theo chuẩn ISO 3833. VIN được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1951. Từ 1954 đến 1981 không có tiêu chuẩn nào cho VIN, do đó nó rất nhiều định dạng khác nhau. Vào năm 1981, Mỹ mới đưa tiêu chuẩn này chuẩn chung. Tuy nhiên, chúng vẫn có một vài điểm chung như ký tự đầu tiên của VIN cho biết nước sản xuất như Mỹ (số 1 hoặc 4), Nhật Bản (J). Bên cạnh đó, ký tự thứ 10 của tất cả các tiêu chuẩn đều chỉ năm sản xuất. Đây là một trong những thông tin quan trọng nhất mà người mua cần biết khi kiểm tra xe cũ. Ký tự thứ 10 được ghi theo nguyên tắc sau: trước năm 2000 là chữ cái còn sau đó là chữ số. Ví dụ, 1990(L), 1991(M), 1992(N), 1993(P), 1994(R), 1995(S), 1996(T),1997(V), 1998(W), 1999(X), 2000(Y), 2001(1), 2002(2), 2003(3).
Giải pháp cho các doanh nghiệp ngành sản suất, số hóa sẽ là một lựa chọn vô cùng cần thiết ở thời điểm hiện nay, các doanh nghiệp đang phát triển với tốc độ quá chậm dẫn đến khó khăn trong việc phát triển và cạnh tranh với đối thủ lớn. Số hóa (Digitization) là quá trình chuyển đổi nội dung trên giấy và các công thức thủ công thành định dạng kỹ thuật số trong đó thông tin được tổ chức thành các bit và byte. giống như quét một bức hình hoặc chuyển đổi một báo cáo giấy thành PDF. Dữ liệu không bị chỉnh sửa – nó chỉ đơn giản được mã hóa theo định dạng kỹ thuật số. Số hóa có tầm trọng yếu rất lớn đối với việc giải quyết, lưu giữ và truyền dữ liệu, bởi vì nó “cho phép thông tin của tất cả các kiểu ở mọi định dạng được thực hiện với cùng đạt kết quả tốt và cũng đều được xen kẽ”. cho dù dữ liệu được lưu trữ ở dạng vật lý (analog data) thường ổn định hơn, nhưng dữ liệu số có thể dễ dàng được sẻ chia và truy cập hơn và theo lý thuyết, có thể được truyền đi vô thời hạn, không bị mất mát qua thời gian và qua các lần sao chép dữ liệu, miễn là nó được chuyển sang các định dạng mới, ổn định. Số hóa trong một tổ chức phân phối một lợi thế để thực thi Mọi thứ nhanh hơn, tốt hơn và rẻ hơn. Số hóa có thể gặt hái ích lợi đạt kết quả tốt khi dữ liệu số hóa được sử dụng để tự động hóa các công thức và cho phép khả năng truy cập tốt hơn – tuy nhiên số hóa không tìm cách sửa đổi và cải thiện các công thức hoặc dữ liệu. Từ đó, nó có thể phân phối lợi nhuận tốt hơn và có nhiều thời cơ sản xuất thành quả. Đặc thù vận hành mô hình JIT là sản phẩm được nhập và xuất kho trong khoảng thời gian cực ngắn (3-4 tiếng đồng hồ) mỗi ngày, ví dụ hàng nhập kho trước 7h sáng và ra khỏi kho lúc 9h sáng. Với lượng mã hàng lên đến gần 500, nhiều số LOT khác nhau, không gian kho không lớn, làm việc làm chủ hàng bằng giấy tờ là một thách thức lớn của nhân viên vận hành trong việc nhớ chuẩn xác thông tin sản phẩm. Bên cạnh đấy, vấn đề quản trị hạn sử dụng cũng phụ thuộc hoàn toàn vào trí nhớ của anh em vận hành kho vì không có bất kỳ cảnh báo nào về hạn dùng cùng với thói quen “lấy hàng tiện tay”. không chỉ vậy, các đơn hàng xuất mỗi ngày cũng cần được kiểm soát thời gian tránh giao hàng trễ (hàng phải ra khỏi kho trước 9h30 sáng) đòi hỏi các nghiệp vụ trong kho phải nhanh chóng và khai thác tối ưu nguồn tiềm lực. đây là những thách thức chung trong đặc thù phân phối sản phẩm ở nước ta. kiểm soát độ chính xác tồn kho lên đến 98%, người có nhiệm vụ quản lý kho chỉ cần scan mã vạch vị trí để hàng là biết chuẩn xác số tồn mà không cần cầm giấy tờ đối chiếu. đơn giản truy vết (tracebility) cả về nội dung tồn kho theo từng vị trí, số batch nào bán cho người mua hàng nào vào bất cứ lúc nào, bất cứ địa điểm đâu. Các anh/chị ở Văn phòng chính dễ dàng quan sát kết quả vận hành kho mà không xuống hiện trường). đo đạc được năng suất vận hành đến cấp độ từng nhân viên: nhân viên nào soạn hàng trong bao lâu, bao nhiêu mã hàng, bao nhiêu lượt di chuyển…, từ đấy có cơ sở để cải tiến về phương tiện, công cụ dụng cụ nhằm nâng cao năng suất. Giảm được các khoản chi về văn phòng phẩm (VPP) như: giấy tờ, bút viết. “Một điều tôi ghi nhận Smartlog là một đội ngũ trẻ và nhiệt huyết, dù bất cứ thời điểm nào trong suốt giai đoạn triển khai tôi luôn thấy được sự sẵn sàng hỗ trợ từ các bạn mà chưa hề thấy ở bất kỳ đội ngũ khai triển nào khác. Các bạn đồng hành cùng anh em kho từ 4-5h sáng cho đến hết ngày thực hiện công việc trong suốt quá trình triển khai.” – Bà Nguyễn Thị Hiền, GĐ Hậu cần Mesa Distribution chia sẻ. Hạnh phúc của Smartlog chính là nhìn thấy được sự ưng ý của khách hàng sau những lúc hoàn tất triển khai một dự án. Nhìn thấy được các anh/em trong kho giảm tải được áp lực hoạt động, nhà quản lý kho giảm thiểu được khoản chi vận hành… toàn bộ những điều đó là thành quả cốt lõi mà Smartlog luôn hướng đến!. Cuối cùng, các doanh nghiệp sản xuất ít chịu ảnh hưởng của kỹ thuật số? Không hoàn toàn như vậy. Hầu hết sẽ nói rằng sản xuất, robot, điều khiển tự động, in 3D, cảm biến và nền tảng kỹ thuật số sẽ cho phép một cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư cung cấp sự tùy biến đại chúng – một nền kinh tế vượt qua sự đánh đổi truyền thống giữa quy mô và tùy chỉnh. Cuộc cách mạng này cũng phá vỡ những ý tưởng truyền thống thúc đẩy thế giới hóa, cho phép sản xuất và tăng trưởng địa phương này tức thì với khoản chi thấp. Thách thức đối với các doanh nghiệp công nghiệp là gấp đôi. đầu tiên họ cần nắm lấy kỹ thuật số nhanh, giống như GE đang làm. thứ hai, họ cần phải chấp thuận sự gián đoạn và không được phòng thủ, kiểu như các nhà sản xuất ôtô đã dùng xe điện và tự lái. đây chính là bốn mô hình kinh doanh sẽ bị liên quan nhiều nhất bởi kỹ thuật số. Trong các lĩnh vực khác, con người cũng thấy rằng kỹ thuật số cho phép các công ty phát triển các mô hình kinh doanh mới (như Amazon phân nhánh thành dịch vụ đám mây) hoặc chuyển đổi hoàn toàn các mô hình kinh doanh (như IBM đã làm khi chuyển từ sản phẩm sang dịch vụ và giờ lại chuyển sang phân tích). Chúng tôi cũng thấy rằng kỹ thuật số cho phép các doanh nghiệp tự thay đổi (Netflix liên tục chuyển nền tảng phân phối là một VD điển hình).
Số hóa
Số hóa (Digitization) là quá trình chuyển đổi thông tin trên giấy và các quy trình thủ công thành định dạng kỹ thuật số trong đó thông tin được tổ chức thành các bit và byte. Giống như quét một bức ảnh hoặc chuyển đổi một báo cáo giấy thành PDF. Dữ liệu không bị thay đổi - nó chỉ đơn giản được mã hóa theo định dạng kỹ thuật số. Số hóa có tầm quan trọng rất lớn đối với việc xử lý, lưu trữ và truyền dữ liệu, bởi vì nó "cho phép thông tin của tất cả các loại ở mọi định dạng được thực hiện với cùng hiệu quả và cũng được xen kẽ". Mặc dù dữ liệu được lưu trữ ở dạng vật lý (analog data) thường ổn định hơn, nhưng dữ liệu số có thể dễ dàng được chia sẻ và truy cập hơn và theo lý thuyết, có thể được truyền đi vô thời hạn, không bị mất mát qua thời gian và qua các lần sao chép dữ liệu, miễn là nó được chuyển sang các định dạng mới, ổn định. Số hóa trong một tổ chức cung cấp một lợi thế để thực hiện mọi thứ nhanh hơn, tốt hơn và rẻ hơn.
Bài viết này mình xin chia sẻ về với các bạn những hiểu biết cơ bản về múi giờ khi làm việc và kiếm tiền trên mạng. Tìm hiểu xem giờ Thái Bình Dương so với Việt Nam là bao nhiêu, cách chuyển đổi múi giờ giữa giờ Việt Nam và giờ Thái Bình Dượng như thế nào nhé. Chắc rằng bạn cũng đã biết với mỗi quốc gia thì có những múi giờ khác nhau tùy thuộc vào vị trí địa lý của quốc gia đó. Vì vậy nếu như bạn làm việc trên mạng với thị trường nước ngoài thì bạn cần nắm rõ múi giờ của quốc gia đó để dễ dàng kiểm soát các công việc của mình hơn. Bạn cũng từng nghe Việt Nam đang ban ngày thì Mỹ đang là ban đêm phải không nào? Đó là do Trái đất tự quay quay trục nên tại một thời điểm cụ thể sẽ có nơi đang sáng và nơi đang tối. Nhiều bạn không hiểu rõ về múi giờ Việt Nam, múi giờ nước Mỹ và đang tìm hiểu múi giờ Thái Bình Dương so với Việt Nam thì bài viết này sẽ giúp bạn trả lời câu hỏi đó. Chính là do chênh lệch múi giờ giữa Việt Nam và Mỹ nên xảy ra hiện tượng nước này ban ngày còn nước kia thì đang ban đêm. Mọi múi giờ trên Trái Đất đều lấy tương đối so với giờ Quốc tế UTC (xấp xỉ bằng giờ GMT trong lịch sử) là giờ tại kinh tuyến số 0, đi qua Đài thiên văn Hoàng gia Greenwich, Greenwich, Luân Đôn, Anh. Tùy thuộc vào từng quốc gia bạn đang làm việc sẽ có những múi giờ khác nhau. Bạn có thể thấy hình ảnh bên dưới là ví dụ lựa chọn múi giờ để xem báo cáo hiệu suất trên Google Adsense. Tài khoản của mình mở tại Việt Nam nên mình có thể xem theo múi giờ Việt Nam là UTC+07:00. Cũng có thể lựa chọn theo múi giờ thanh toán là UTC-07:00 giờ Thái Bình Dương. Tại sao múi giờ thanh toán bên trên lại là UTC-7. Bạn có thể tra trên mạng sẽ thấy thông số múi giờ của Califonia như sau:. Như vậy, múi giờ hiện tại của Google lấy để tính thanh toán cho các đối tác theo giờ chuẩn PDT – Giờ ban ngày Thái Bình Dương và giờ Thái Bình Dương này là UTC-7. Múi giờ Thái Bình Dương là giờ tính bằng cách lấy Giờ phối hợp quốc tế (UTC) trừ đi 8 tiếng. Múi giờ này dựa theo thời gian Mặt trời trung bình của kinh tuyến 120 độ phía Tây Đài quan sát Greenwich. Trong thời gian dùng giờ tiết kiệm ánh sáng ngày, múi giờ này được chỉnh thành UTC-7. Giờ phối hợp quốc tế cũng còn được gọi là Giờ trung bình Greenwich (GMT). Được gọi là Giờ chuẩn Thái Bình Dương (Pacific Standard Time – PST, UTC-8) khi áp dụng giờ chuẩn trong mùa thu và mùa đông.Được gọi là Giờ ánh sáng ngày Thái Bình Dương (Pacific Daylight Time – PDT, UTC-7) khi áp dụng giờ tiết kiệm ánh sáng ngày trong mùa xuân, hè, và đầu mùa thu. Phụ thuộc vào vị trí địa lý trên bản đồ thế giới, múi giờ Việt Nam là UTC+7. Có nghĩa rằng, múi giờ Việt Nam nhanh hơn giờ chuẩn quốc tế UTC là 7h. Nhận thấy, múi giờ Việt Nam là UTC+7 trong khi giờ ánh sáng ban ngàyThái Bình Dương mùa hè (PDT) là UTC-7 mà mình đã đề cập ở trên. NHẬN NGAY PHẦN QUÀ 500KNếu chưa có Ví MoMo thì nhanh tay đăng ký và nhận phần quà 500k ngay trong tuần này. XEM NGAY TẠI ĐÂY.Bạn còn có cơ hội chia phần thưởng 12 tỷ trong Tết này. Bạn nhẩm tính ra rằng Việt Nam sẽ nhanh hơn so với múi giờ ánh sáng ban ngày Thái Bình Dương (PST) (tại California) là (7+7) =14h. Có nghĩa tại thời điểm 2h chiều ngày hôm sau tại Việt Nam thì sẽ là thời điểm bắt đầu ngày mới tại California (sử dụng giờ chuẩn Thái Bình Dương). Cũng có nghĩa Việt Nam đang ban ngày thì ở Mỹ đang vào đêm và ngược lại. Áp dụng giờ chuẩn Thái Bình Dương (PST) thì giờ Việt Nam sẽ nhanh hơn giờ Thái Bình Dương là 7+8=15h. Nhiều người vẫn nhẩm tính trung bình Việt Nam nhanh hơn Mỹ 12h nhưng nếu tính chính xác theo múi giờ Thái Bình Dương so với Việt Nam là 14h như trên. Nhiều bạn thắc mắc vấn đề chuyển đổi giờ Thái Bình Dương sang giờ Việt Nam để thuận tiện theo dõi hơn nhưng chưa biết cách thực hiện. Lấy giờ Thái Bình Dương hiện tại cộng với 14h (theo PDT) hoặc cộng với 15h (theo PST) sẽ được giờ Việt Nam, hoặc ngược lại lấy giờ Việt Nam trừ đi 14h hoặc 15h sẽ được giờ Thái Bình Dương. Ví dụ Việt Nam đang là 18h tối thì giờ ánh sáng ban ngày Thái Bình Dương (PDT) là (18h-14h)=4h sáng. Với 2 cách đơn giản ở trên thì bạn có thể chuyển đổi múi giờ Thái Bình Dương sang giờ Việt Nam dễ dàng. Vì vậy, các bạn đang làm việc hay kiếm tiền trên mạng ở Mỹ hay các quốc gia khác cần nắm rõ múi giờ từng quốc gia để tiện tính toán và xem thống kê báo cáo hiệu suất nhé. Lúc này bạn sẽ không phải băn khoăn là tại sao những thống kê khi bạn làm việc với đối tác nước ngoài lại khác so với thời điểm mình tính toán theo giờ Việt Nam. Như vậy bạn cần phải xác định mình đang làm việc với quốc gia nào để từ đó tra thông tin múi giờ hiện tại của quốc gia đó và thông tin thanh toán áp dụng theo múi giờ nào. Nhiều bạn săn các Coupon giảm giá trên mạng và được thông báo thời gian áp dụng các Coupon đó nhưng lại đối chiếu với giờ Việt Nam rồi lại than phiền không sử dụng được. Cơ bản do có sự chênh lệch múi giờ và bạn chưa xác định được múi giờ áp dụng của những dịch vụ đó. Cũng nhiều người xem thống kê hiệu suất của 1 một chương trình tiếp thị liên kết nước ngoài đang tham gia lại thắc mắc số về các đơn hàng đầu tháng hoặc cuối tháng. Cũng là do bạn chưa áp dụng đúng múi giờ thanh toán của chương trình, dịch vụ đó mà thôi. Như vậy bài viết giúp bạn có những hiểu biết cơ bản về múi giờ khi làm việc và kiếm tiền trên mạng, hiểu được giờ Thái Bình Dượng và giờ Việt Nam. Bạn đã hiểu rõ hơn múi giờ Thái Bình Dương so với Việt Nam, giờ Thái Bình Dương so với giờ Việt Nam là như thế nào?
Múi giờ Thái Bình Dương
Múi giờ Thái Bình Dương là giờ tính bằng cách lấy Giờ phối hợp quốc tế (UTC) trừ đi 8 tiếng. Múi giờ này dựa theo Thời gian Mặt trời trung bình của kinh tuyến 120 độ phía tây Đài quan sát Greenwich. Trong thời gian dùng giờ tiết kiệm ánh sáng ngày, múi giờ này được chỉnh thành UTC-7. Giờ phối hợp quốc tế cũng còn được gọi là Giờ trung bình Greenwich (GMT). Tại Hoa Kỳ và Canada, múi giờ này được gọi là Giờ Thái Bình Dương (Pacific Timezone - PT). Chi tiết là Giờ chuẩn Thái Bình Dương (Pacific Standard Time - PST) khi áp dụng giờ chuẩn trong mùa thu và mùa đông, được gọi là Giờ ánh sáng ngày Thái Bình Dương (Pacific Daylight Time - PDT) khi áp dụng giờ tiết kiệm ánh sáng ngày trong mùa xuân, hè, và đầu mùa thu. Múi giờ này đi trước Múi giờ Alaska 1 tiếng, đi sau Múi giờ miền núi một tiếng và sau Múi giờ miền Đông 3 tiếng. Tại Hoa Kỳ, các tiểu bang Washington và California nằm hoàn toàn trong Múi giờ Thái Bình Dương. Gần như cả Nevada, trừ các thị trấn West Wendover và Jackpot, là thuộc Múi giờ Thái Bình Dương.
Hệ tọa độ xích đạo là hệ tọa độ thiên văn được sử dụng nhiều cho các quan sát bầu trời từ Trái Đất. Nó là hệ tọa độ gắn bó chặt chẽ với hệ tọa độ địa lý, vì ở đây người ta sử dụng chung một mặt phẳng quy chiếu và chung các cực. Hình chiếu của xích đạo Trái Đất lên thiên cầu được gọi là xích đạo trời. Tương tự, chiếu các cực địa lý lên thiên cầu ta sẽ có thiên cực Bắc và thiên cực Nam. Hệ góc giờ cố định so với Trái Đất giống như hệ tọa độ địa lý. Hai tọa độ trong hệ này là:. Hệ xích kinh cố định so với các sao ở xa (thực ra không hẳn như vậy nếu tính đến các hiện tượng tiến động và chương động). Hai tọa độ trong hệ này là:. Hệ tọa độ xích đạo sử dụng tọa độ cầu. Mặt phẳng tham chiếu được tạo bởi hình chiếu của xích đạo Trái Đất lên thiên cầu, gọi là xích đạo thiên cầu. Hướng cơ bản được thiết lập bằng cách chiếu quỹ đạo Trái Đất lên thiên cầu, gọi là hoàng đạo, và thiết lập điểm nút lên của hoàng đạo lên xích đạo thiên cầu, gọi là điểm xuân phân. Xích kinh được đo theo chiều đông trên xích đạo thiên cầu, và xích vĩ được đo với chiều dương về phía bắc xích đạo thiên cầu. (Hai cặp tọa độ được thể hiện trên hình.) Hình chiếu của các cực địa lý bắc và nam Trái Đất tạo thành các thiên cực bắc và nam tương ứng. Trong một đêm hoặc vài đêm, khi quan sát từ mặt đất, hệ xích kinh có vẻ xoay trên trời cùng với các sao. Điều này là do hệ xích kinh gần như cố định với nền sao, còn Trái Đất quay dưới bầu trời cố định. Do hiện tượng tiến động và chương động, phương xuân phân (điểm xuân phân, vernal equinox) dùng để làm mốc tính xích kinh và xích vĩ thay đổi chậm trên nền sao. Khi xác định phương xuân phân và tính tọa độ các thiên thể theo mốc này cần dùng phương xuân phân của một kỷ nguyên gần với ngày quan sát. Hiện nay các quan sát thiên văn dùng phương xuân phân của thời đại J2000.0; các dữ liệu cũ hơn dùng B1950.0. Hướng cơ bản của một hệ quy chiếu thiên thể là một điểm mốc nằm trên mặt phẳng tham chiếu, cùng với một quy ước chiều dương để tính tọa độ kinh độ; ở hệ tọa độ xích đạo và hệ tọa độ hoàng đạo nó là điểm xuân phân. Trên thực tế điểm hướng mốc không hoàn toàn cố định. Một sự chuyển động chậm của trục Trái đất, gọi là tiến động trục quay hay tuế sai, gây ra sự quay chậm, liên tục của hệ tọa độ về phía tây về các cực hoàng đạo, hoàn thành một vòng quay theo chu kỳ khoảng 26.000 năm. Sự tiến động trục quay còn được tổng hợp với một sự tiến động nhỏ hơn của hoàng đạo, và một sự dao động nhỏ của trục quay Trái Đất gọi là chương động. Nhằm cố định vị trí chính xác của điểm mốc hướng cơ bản, các chuyển động này yêu cầu phải chỉ rõ điểm phân của một thời điểm ngày tháng, được gọi là một kỷ nguyên thiên văn, khi đưa ra một vị trí trong hệ tọa độ xích đạo. Ba loại điểm phân thường được sử dụng là:. Một vị trí trong hệ tọa độ hoàng đạo do đó thường được chỉ rõ, chẳng hạn theo điểm phân thực và hoàng đạo của ngày, điểm phân trung bình và hoàng đạo của J2000.0, hay tương tự. Lưu ý rằng không có “hoàng đạo trung bình”, bởi hoàng đạo không có sự dao động nhỏ theo chu kỳ. Tọa độ cầu của một ngôi sao thường được biểu diễn bằng một cặp tọa độ cầu, gọi là xích kinh và xích vĩ, nhưng thường bỏ qua khoảng cách. Hướng của các thiên thể đủ xa được coi là tương tự nhau đối với mọi người quan sát Trái Đất, nên thuận tiện khi chỉ cần xác định hướng này với cùng một tọa độ chung. Ngược lại, trong hệ tọa độ chân trời, vị trí của cùng một ngôi sao là khác nhau đối với những người quan sát ở các vị trí khác nhau của họ trên bề mặt Trái Đất và liên tục thay đổi theo chuyển động quay của Trái Đất. Kính thiên văn được trang bị giá đỡ xích đạo và các đĩa tròn điều chỉnh sử dụng hệ tọa độ xích đạo để tìm kiếm các thiên thể. Việc thiết lập các đĩa tròn kết hợp với bản đồ sao hoặc lịch thiên văn cho phép kính thiên văn dễ dàng quay và hướng vào các thiên thể đã biết trên thiên cầu. Góc kiểu vĩ độ của hệ tọa độ xích đạo được gọi là xích vĩ (ký hiệu “delta” δ, viết tắt theo tiếng Anh là Dec). Nó là khoảng cách góc giữa vectơ nối tâm Trái Đất với thiên thể (ở phía Bắc hay phía Nam xích đạo thiên cầu) và mặt phẳng xích đạo. Nó có giá trị dương với thiên thể ở phía Bắc xích đạo thiên cầu, và âm với các thiên thể ở phía Nam. Ví dụ, thiên cực Bắc có giá trị xích vĩ +90°. Gốc của xích vĩ là xích đạo thiên cầu, tức là hình chiếu của xích đạo Trái Đất lên thiên cầu. Xích vĩ là khái niệm tương tự với vĩ độ địa lý. Nhìn từ cực bắc Trái Đất, góc giờ địa phương (LHA) của một ngôi sao đối với một người quan sát gần New York. Trên hình cũng mô tả xích kinh và góc giờ Greenwich (GHA), the thời gian sao địa phương (LMST) và thời gian sao trung bình Greenwich (GMST). Ký hiệu ʏ là hướng của điểm xuân phân. Góc kiểu kinh độ được gọi là xích kinh (ký hiệu “alpha” α, viết tắt theo tiếng Anh là RA). Nó là khoảng cách góc dọc theo xích đạo thiên cầu, giữa vòng giờ đi qua thiên thể và mặt phẳng đi qua thiên cực và điểm xuân phân, tức là một trong hai giao điểm của hoàng đạo với xích đạo thiên cầu. Góc được quy ước có giá trị dương nếu thiên thể nằm ở phương Đông và âm nếu thiên thể nằm ở phương Tây. Khác với xích vĩ và khác với kinh độ, xích kinh thường được đo bằng giờ (phút, giây) thay vì bằng độ, bởi vì sự quay biểu kiến của hệ tọa độ xích đạo gắn chặt với thời gian sao và góc giờ. Một cách đo xích kinh là đo thời gian quá cảnh kinh tuyến của các thiên thể. Vì bầu trời quay trọn một vòng sau 24 giờ, nên một giờ xích kinh bằng 15 độ (360°/24h = 15°). Một tọa độ thay cho xích kinh là góc giờ hay góc giờ địa phương (viết tắt theo tiếng Anh là HA hay LHA, local hour angle), một tọa độ quy ước tay trái, là khoảng cách góc của một thiên thể theo chiều tây dọc theo xích đạo thiên cầu, từ kinh tuyến địa phương của người quan sát tới vòng giờ đi qua thiên thể. Không giống xích kinh, góc giờ luôn tăng với sự quay của Trái Đất. Góc giờ có thể được xem là một cách đo thời gian từ lúc đỉnh điểm trên, thời điểm mà một thiên thể tiếp xúc với kinh tuyến trực tiếp phía trên bầu trời tại nơi người quan sát. Một ngôi sao tại cực điểm nằm trên kinh tuyến của một người quan sát được gọi là có góc giờ bằng 0 (0h). Một giờ sao (khoảng 0,9973 giờ theo thời gian mặt trời) sau đó, sự tự quay của Trái đất sẽ đưa ngôi sao về phía tây của kinh tuyến, và góc giờ của nó sẽ là 1 giờ. Khi tính toán các hiện tượng trong hệ quy chiếu trên mặt đất, xích kinh có thể được chuyển đổi thành góc giờ như một bước trung gian. Với xích kinh và xích vĩ, hệ tọa độ xích đạo chỉ có thể xác định phương tới các thiên thể chứ không thể xác định khoảng cách tới các thiên thể. Để xác định cả khoảng cách tới các thiên thể trong không gian 3 chiều, người ta thêm tọa độ thứ ba, đó là khoảng cách (r) từ tâm Trái Đất tới thiên thể. Khi đó hệ tọa độ xích đạo này là hệ tọa độ cầu-cực. Hệ tọa độ xích đạo địa tâm. Gốc tọa độ đặt tại tâm Trái Đất. Mặt phẳng cơ bản là mặt phẳng tọa độ của Trái Đất. Hướng cơ bản (trục x) là hướng tới điểm xuân phân. Theo quy ước tay phải, trục y nằm ở 90° về phía đông của mặt phẳng cơ bản; trục z là trục cực Bắc. Hệ quy chiếu không quay với Trái Đất, thay vào đó Trái Đất quay quanh trục z. Hướng cơ bản (hướng của trục x) là hướng tới điểm xuân phân, tức là, vị trí nơi Mặt Trời cắt qua xích đạo thiên cầu về hướng bắc trong chuyển động biểu kiến chu kỳ hàng năm quanh hoàng đạo. Quy tắc bàn tay phải, xác định trục y nằm theo hướng về phía đông 90° so với trục x trên mặt phẳng cơ bản và trục z dọc theo trục cực bắc. Các hệ quy chiếu đều không quay cùng với Trái Đất (trái ngược với các hệ quy chiếu tâm Trái Đất và cố định Trái Đất), luôn hướng tới điểm phân và thay đổi chậm theo thời gian với các chuyển động tiến động và chương động. Vị trí của Mặt Trời thường được xác định trong các tọa độ trục vuông góc địa tâm X, Y, Z và một tọa độ thứ tư là khoảng cách R (= √X2 + Y2 + Z2), . Vị trí của các hành tinh và các thiên thể khác trong hệ Mặt Trời thường được xác định trong các tọa độ vuông góc địa tâm ξ, η, ζ và một tọa độ thứ tư là khoảng cách, Δ (bằng √ξ2 + η2 + ζ2), tính bằng đơn vị thiên văn. Các tọa độ vuông góc trên được liên hệ với tọa độ cầu tương ứng theo các công thức. Vị trí của Mặt Trời thường được xác định trong các tọa độ trục vuông góc địa tâm X, Y, Z và một tọa độ thứ tư là khoảng cách R (= √X2 + Y2 + Z2), . Vị trí của các hành tinh và các thiên thể khác trong hệ Mặt Trời thường được xác định trong các tọa độ vuông góc địa tâm ξ, η, ζ và một tọa độ thứ tư là khoảng cách, Δ (bằng √ξ2 + η2 + ζ2), tính bằng đơn vị thiên văn. Các tọa độ vuông góc trên được liên hệ với tọa độ cầu tương ứng theo các công thức. Hệ quy chiếu Địa tâm Thiên thể (GCRF) là hệ địa tâm tương ứng của Hệ quy chiếu Thiên thể Quốc tế (ICRF). Hướng cơ bản của hệ này là điểm phân của J2000.0, và không di chuyển theo tiến động và chương động, nhưng về mặt khác cũng tương đương với các hệ trên. Quy tắc bàn tay phải xác định trục y nằm theo hướng về phía đông 90° so với trục x trên mặt phẳng cơ bản và trục z dọc theo trục cực bắc của Trái Đất. Hệ quy chiếu này tương đương với hệ ξ, η, ζ ở trên về mọi mặt, ngoại trừ gốc tọa độ được đặt tại tâm Mặt Trời. Nó thường được sử dụng trong tính toán quỹ đạo hành tinh. Các tọa độ trục vuông góc thiên văn nói trên có liên hệ sau:. Hệ tọa độ xích đạo có thể được mở rộng để áp dụng cho các quan sát thiên văn từ hành tinh khác trong hệ Mặt Trời. Chúng cũng sử dụng xích đạo của hành tinh làm mặt phẳng tham chiếu, và điểm xuân phân của hành tinh làm điểm mốc tính kinh độ và vĩ độ. Chúng có thể được gọi với tên chung là hệ tọa độ tâm hành tinh.
Hệ tọa độ thiên văn
Trong thiên văn học, hệ tọa độ thiên văn là một hệ tọa độ mặt cầu dùng để xác định vị trí biểu kiến của thiên thể trên thiên cầu. Trong tọa độ Descartes, một vật thể có ba tọa độ trong không gian ba chiều được xác định trên ba trục x, y và z. Ngược lại hệ tọa độ thiên văn của thiên thể không xác định khoảng cách đến người quan sát mà chỉ xác định các hướng quan sát của nó trên thiên cầu. Có nhiều loại hệ tọa độ thiên văn khác nhau, được phân biệt và được đặt tên theo mặt phẳng tham chiếu (mặt phẳng cơ bản), hay các trục chính của hệ tọa độ. Mặt phẳng tham chiếu cắt thiên cầu tại đường tròn lớn nhất, chia thiên cầu thành hai nửa bằng nhau. Định nghĩa các trục và mặt phẳng trong các hệ tọa độ có thể dùng hệ thống B1950 hay hệ thống J2000 hiện đại hơn.
Bạch Công Khanh là nam ca sĩ - diễn viên Sài thành đang chiếm được thiện cảm trong lòng khán giả với nhiều hoạt động giải trí và phim ảnh. Công Khanh từng đoạt giải Quán quân ở cuộc thi Gương mặt thân quen mùa 4 và hiện anh đang nhận được sự quan tâm của đông đảo khán giả khi vào vai Xuân tại Tiếng Sét Trong Mưa. Cùng YAN tìm hiểu kỹ hơn về tiểu sử, đời tư và sự nghiệp của Bạch Công Khanh nhé!. Bài hát nổi bật: Em đang nơi nào, Ta Còn Nợ Gì Nhau, Tình Gió Mây Ngàn, Không Phải Anh. Bộ phim tham gia: Thứ ba học trò, Cạm Bẫy Thị Thành, Mẹ Hổ Dạy Con Dâu,. Bạch Công Khanh có niềm yêu thích âm nhạc từ khi còn trẻ, anh bắt đầu tham gia ca hát khi còn ngồi trên ghế nhà trường bằng việc tham gia cuộc thi Tiếng Ca Học Đường 2009 và đã giành giải nhì. Cũng từ đây, Công Khanh gia nhập vào showbiz, thế nhưng làng giải trí vốn rối ren và khắc nghiệt không chừa một ai, đối với Công Khanh cũng chẳng dễ dàng gì. Khi bước chân vào showbiz với tư cách là một ca sĩ, Bạch Công Khanh tiếp tục xây dựng hình ảnh của bản thân để đến gần với khán giả, anh lần lượt cho ra mắt single Sài Gòn Giáng Sinh và MV Một Lời Yêu. Song song với sự nghiệp ca hát, nam ca sĩ còn tham gia đóng phim, có lẽ con đường diễn xuất của nam ca sĩ thuận lợi hơn hẳn khi anh liên tục nhận được nhiều vai diễn trong các bộ phim: Nước Rút, Số Phận Bị Đánh Cắp.Không chỉ được các bạn bè và đạo diễn yêu mến, công nhận Bạch Công Khanh có duyên với diễn xuất và phần lớn anh còn được khán giả nhớ đến với vai trò là diễn viên nhiều hơn là một người cầm mic. Thế nhưng khi sự nghiệp đang gặt hái nhiều thành công thì vào khoảng cuối năm 2011, Bạch Công Khanh đột ngột rút khỏi showbiz vì lý do cá nhân. Năm 2013, nam ca sĩ trở lại và phát huy khả năng của mình nhiều hơn nữa, cố gắng và cống hiến nhiều hơn nữa. Mất hút sau 2 năm trong khoảng thời gian này có biết bao nhiêu người trẻ tài năng khác xuất hiện và vươn lên trở thành người nổi tiếng, việc quay trở lại lần này của Bạch Công Khanh đã đối mặt với nhiều thử thách. Bạch Công Khanh đánh dấu màn quay trở lại của mình với việc tham gia diễn xuất trong hai bộ phim Cạm Bẫy Thị Thành và Trả Giá. Dù tham gia diễn xuất nhiều là thế nhưng Bạch Công Khanh lại là một tay ngang, anh càng muốn khẳng định khả năng của mình khi chinh phục ngọn núi cao trong chương trình truyền hình thực tế Gương Mặt Thân Quen 2016 và xuất sắc đoạt giải quán quân. Chiến thắng này như một bước ngoặt cho sự nghiệp và cuộc đời của Bạch Công Khanh, anh đã thành công khẳng định lại tên tuổi của mình trong mắt công chúng. Tiếp sau đó, nam ca sĩ đầu tư vào âm nhạc theo hướng dòng nhạc trữ tình bolero và tiếp tục hướng đến hình ảnh nghệ sĩ đa tài khi tham gia nhiều hoạt động khác trong showbiz. Gần đây, vai Xuân có vẻ nhẹ nhàng, yếu đuối, thích thêu thùa, nũng nịu trong "Tiếng sét trong mưa" đang thực sự thu hút sự quan tâm của khán giả. Đây được xem và vai diễn ấn tượng của Khanh cũng như là điểm nhấn mới mẽ cho toàn bộ phim nhiều bi kịch và tranh cãi. Ngoài ca hát và diễn xuất, Bạch Công Khanh còn đảm đương vai trò MC tại VTV, truyền hình Vĩnh Long, một vài show diễn khác. Nhiều năm trôi qua, vắt vai nhiều vai diễn, cùng với nhiều vai trò khác nhau Bạch Công Khanh vẫn chưa thực sự gây bức phá ở lĩnh vực nào, dù hình ảnh của anh cũng đã phủ sóng tương đối ổn định. Hy vọng rằng trong tương lai gần, nam diễn viên Sài Thành sẽ có nhiều vai diễn để đời hơn và gặt hái nhiều thành công trong sự nghiệp của mình. Qua bài viết này chắc hẳn các bạn đã biết được Bạch Công Khanh là ai rồi nhỉ, bên cạnh đó là những thông tin về tiểu sử, đời tư của anh chàng diễn viên điển trai này rồi. Đừng quên theo dõi YAN để cập nhật những thông tin mới nhất về các diễn viên nổi tiếng Việt Nam nhé!. Bạch Công Khanh là nam ca sĩ kiêm diễn viên Sài Thành, anh từng đoạt giải Quán quân ở cuộc thi Gương mặt thân quen mùa 4. Hiện tại anh đang rất được quan tâm khi thủ vai Xuân trong bộ phim Tiếng Sét Trong Mưa. Là một người có niềm dam mê âm nhạc từ nhỏ, Bạch Công Khanh từng tham gia ca hát khi còn ngồi tại ghế giảng đường. Tuy rằng hoạt động nghệ thuật tích cực những Bạch Công Khanh vẫn chưa gây được nhiều ấn tượng với khán giả. Gần đây, Bạch Công Khanh đảm nhận vai Xuân trong bộ phim Tiếng sét trong mưa. Cùng với độ hot của bộ phim mà tên tuổi của anh cũng được nhiều khán giả quan tâm nhiều hơn. Tiểu sử Bạch Công Khanh. Tất tần tật về tuyệt chiêu yêu dù là FA, mới yêu, hay yêu lâu năm. Là phụ nữ, hãy sống vì chính mình, đừng âu lo phụ thuộc vào ai. Chỉ đơn giản rằng Just Love chia sẻ các bài hát mà có thể bạn chưa bao giờ được nghe. Là con gái, bận rộn mấy cũng phải xinh đẹp. Hãy biết chăm sóc bản thân và để ý tới ngoại hình. Tải ngay ứng dụng YAN - Theo dõi sự kiện giới trẻ mới nhất được cập nhật 24/7.
Bạch Công Khanh
Bạch Công Khanh (sinh ngày 23 tháng 11 năm 1990) là nam ca sĩ, diễn viên, người dẫn chương trình người Việt Nam. Tuy gia đình không ai theo nghệ thuật nhưng ngay từ nhỏ, Bạch Công Khanh đã bộc lộ đam mê về ca hát của mình khi tham gia rất nhiều những cuộc thi lớn nhỏ của trường, Quận và Thành phố. Năm 2009, sau chương trình Tiếng Ca Học Đường, anh quyết định bước vào sự nghiệp ca hát của mình. Cùng thời gian này, anh quyết định sắm vai Duy Lâm trong bộ phim đình đám "Thứ ba học trò" và để lại rất nhiều ấn tượng với khán giả. Tháng 2 năm 2010, Bạch Công Khanh chính thức đầu quân vào Công ty Nhạc Xanh và trở thành ca sĩ độc quyền trong 5 năm. Anh ra Single “Sài Gòn Giáng Sinh” vào cuối năm 2010 và MV “Một Lời Yêu” vào giữa năm 2011. Song song đó, Bạch Công Khanh vẫn tiếp tục khẳng định khả năng diễn xuất của mình với những phim truyền hình đình đám như “Lặng Lẽ Yêu Em”, “Nước Rút”, “Số Phận Bị Đánh Cắp”.v.v… Những tưởng con đường hoạt động nghệ thuật đang phát triển với nhiều thuận lợi thì bất ngờ sau đó không lâu, Bạch Công Khanh rút khỏi làng giải trí vào khoảng cuối năm 2011 vì một số lý do cá nhân.
Để đảm bảo chất lượng học và dạy cũng như chất lượng đầu ra cho sinh viên, năm 2021 Khoa nhận đào tạo 200 sinh viên đối với ngành Đại Học Điều Dưỡng và Dược tuyển sinh theo hình thức xét tuyển. Hồ sơ đăng ký gồm có giấy khai sinh photo công chứng, chứng minh thư photo công chứng, ảnh 3.4. Các hàm lượng giác nghịch đảo còn được gọi là “ Hàm Arc ” vì đối với một giá trị nhất định của các hàm lượng giác, chúng tạo ra độ dài cung cần thiết để có được giá trị cụ thể đó. Các hàm lượng giác nghịch đảo thực hiện hoạt động ngược lại của các hàm lượng giác như sin, cosine, tiếp tuyến, cosecant, secant và cotang. Chúng ta biết rằng các hàm lượng giác đặc biệt áp dụng cho tam giác vuông. Sáu hàm quan trọng này được sử dụng để tìm số đo góc trong tam giác vuông khi biết hai cạnh của số đo tam giác. Đặc biệt có sáu hàm lượng giác nghịch đảo cho mỗi tỷ lệ lượng giác . Nghịch đảo của sáu hàm lượng giác quan trọng là:. Hãy để chúng tôi thảo luận về tất cả sáu loại quan trọng của hàm lượng giác nghịch đảo cùng với định nghĩa, công thức, đồ thị, tính chất và các ví dụ đã giải của nó. Hàm arcsine là một nghịch đảo của hàm sin được ký hiệu là sin -1 x . Nó được biểu diễn trong biểu đồ như bên dưới:. Hàm arccosine là hàm ngược của hàm cos được ký hiệu là cos -1 x . Nó được biểu diễn trong biểu đồ như bên dưới:. Hàm Arctangent là hàm ngược của hàm tiếp tuyến được ký hiệu là tan -1 x . Nó được biểu diễn trong biểu đồ như bên dưới:. Hàm Arccotang là hàm ngược của hàm cotang được ký hiệu là cot -1 x . Nó được biểu diễn trong biểu đồ như bên dưới:. Hàm arcsecant là nghịch đảo của hàm secant được ký hiệu là sec -1 x . Nó được biểu diễn trong biểu đồ như bên dưới:. Hàm Arccosecant là nghịch đảo của hàm cosecant được ký hiệu là cosec -1 x . Nó được biểu diễn trong biểu đồ như bên dưới:. Hãy để chúng tôi viết lại ở đây tất cả các hàm lượng giác nghịch đảo với ký hiệu, định nghĩa, miền và phạm vi của chúng. Đạo hàm của hàm số lượng giác nghịch đảo là đạo hàm cấp một. Hãy để chúng tôi kiểm tra ở đây các đạo hàm của tất cả sáu hàm nghịch đảo. Các hàm lượng giác nghịch đảo còn được gọi là các hàm Arc. Hàm lượng giác nghịch đảo được xác định trong một khoảng nhất định (trong các miền giới hạn). Các kiến thức cơ bản về lượng giác bao gồm lượng giác cơ bản và các tỉ số lượng giác như sin x, cos x, tan x, cosec x, sec x và cot x. Do đó, không có giá trị nào của x mà sin x = 2; vì miền của sin -1 x là -1 đến 1 với các giá trị của x. Số nguyên tố và hợp số là hai loại số, khác nhau dựa trên số lượng các yếu tố mà. Quadratics hoặc phương trình bậc hai có thể được định nghĩa như là một phương trình đa thức của một mức. ĐỀ THI THỬ THPT MÔN LỊCH SỬ Môn sử được xem là một trong những môn học khó nhớ,. Dẫn chứng nghị luận xã hội Contents1. Khái niệm về Dẫn chứng nghị luận xã hội là gì?2. Chuyên trang thông tin Tuyển Sinh cung cấp thông tin tuyển sinh chính thức từ Bộ GD & ĐT và các trường ĐH – CĐ trên cả nước.
Các hàm lượng giác ngược
Trong toán học, các hàm lượng giác nghịch đảo (đôi khi còn được gọi là hàm arcus, hàm lượng giác ngược hoặc hàm cyclometric) là các hàm ngược của các hàm lượng giác (với các miền bị hạn chế phù hợp). Cụ thể, chúng là các nghịch đảo của các hàm sin, cosin, tang, cotang, sec và cosec,. và được sử dụng để thu được một góc từ bất kỳ tỷ lệ lượng giác nào của góc. Các hàm lượng giác nghịch đảo được sử dụng rộng rãi trong kỹ thuật, điều hướng, vật lý và hình học.
Mác bê tông là thuật ngữ vô cùng quen thuộc đối với ngành xây dựng tuy nhiên lại khá lạ lẫm nếu bạn không phải là người trong ngành. Để giúp bạn hiểu kỹ hơn về mác bê tông, chúng tôi sẽ cung cấp mọi thông tin về cấp độ và bảng tra mác bê tông cụ thể nhất. Mác bê tông là ký hiệu của bê tông theo đúng tiêu chuẩn của Việt Nam. Mác bê tông là cường độ chịu nén của những mẫu bê tông hình lập phương có kích thước 15x15x15cm và được bảo trì trong điều kiện tiêu chuẩn suốt 28 ngày. Chúng có đơn vị tính là kg/cm2. Đối với các dự án thông thường như nhà ở, trường học, bệnh viện thì sẽ sử dụng bê tông 250. Còn đối với nhà cao tầng thì sử dụng mác lớn hơn. Theo tiêu chuẩn của ngành xây dựng Việt Nam thì hiện nay ký hiệu bê tông đã được chuyển từ M sang B – đó chính là độ bền của bê tông. Cấp độ bền của bê tông được xác định bằng quả nén mẫu hình trụ. Có nghĩa là thqay vì dùng mẫu hình lập phương thì người ta dùng mẫu hình trụ sau đó nén để cho ra cường độ chịu nén. Cường độ chịu nén là ứng suất nén phá hủy của bê tông. Cường độ này được tính bằng lực tác động trên 1 đơn vị diện tích (kg/cm2 hoặc N/mm2). Trong xây dựng thì chỉ cần chú ý tới cường độ nén của bê tông còn cường độ chịu nén thường không được chú ý nhiều. Cấp phối bê tông được tính bằng tỷ lệ giữa các thành phần vật liệu xây dựng như xi măng, đá, cát/m3 bê tông. Cấp phối bê tông phụ thuộc vào kích thước cốt liệu, phụ gia, chất kết dính và mác bê tông. Cấp phối bê tông được quy định trong định mức dự toán của vật liệu theo mác bê tông. Những yếu tố ảnh hưởng đến cấp phối bê tông chính là nước (quá ít nước sẽ khiến bê tông bị khô hoặc nhiều nước quá sẽ khiến bị loãng lám hỗn hợp lâu kết dính). Chính vì thế, các công ty sản xuất bê tông đều thực hiện trộn bằng máy để có tỷ lệ vừa đú giúp hỗn hợp đồng nhất và mang lại hiệu quả cao hơn. Đối với kết cấu khung và các loại kết cấu mỏng (cột, dầm, bản, vòm.) thì cứ 20 m³ bê tông phải lấy một tổ mẫu;. Đối với bê tông nền, mặt đường (đường ô tô, sân bay,.) thì cứ 200 m³ bê tông phải lấy một tổ mẫu (nhưng nếu khối lượng < 200 m³ thì vẫn phải lấy một tổ). Khi khối lượng bê tông đổ trong mỗi khoang đổ (phân khu bê tông) > 1000 m³ thì cứ 300 m³ bê tông phải lấy một tổ mẫu. Sau khi kết thúc quá trình đổ bê tông thì giai đoạn bảo dưỡng cần được thực hiện nghiêm ngặt nhất để đảm bảo hiệu quả và độ bền của công trình. Bảo dưỡng bê tông cần đảm bảo 2 yếu tố:bê tông không bị mất nước nhanh gây nứt và tránh sự rung độ phá vỡ liên kết của bê tông. Đảm bảo độ khít của cốp pha để ngăn tình trạng chảy nước của bê tông. Nên phủ lên bê tông 1 lớp nilon mỏng để hạn chế sự bốc hơi nước. Độ sụt của bê tông chính là độ dẻo và tính dễ chảy của bê tông. Độ sụt phụ thuộc vào các biện pháp thi công bê tông như bơm cần hoặc bơm tĩnh, bê tông móng, bê tông cột. Bê tông Mac 100: 320kg xi măng + 1060 lít cá + 260 lít nước thì ta có tỷ lệ trộn là: 6,4 bao xi măng + 1060 lít cát + 260 lít nước tương đương với 1 bao xi măng: 165.6 lít cá : 40.6 lít nước.
Mác bê tông
Khi nói đến mác bê tông là nói đến khả năng chịu nén của mẫu bê tông. Theo tiêu chuẩn xây dựng cũ của Việt Nam (TCVN 3105:1993, TCVN 4453:1995), mẫu dùng để đo cường độ là một mẫu bê tông hình lập phương có kích thước 150 mm × 150 mm × 150 mm, được dưỡng hộ trong điều kiện tiêu chuẩn quy định trong TCVN 3105:1993, trong thời gian 28 ngày sau khi bê tông ninh kết. Sau đó được đưa vào máy nén để đo ứng suất nén phá hủy mẫu (qua đó xác định được cường độ chịu nén của bê tông), đơn vị tính bằng MPa (N/mm²) hoặc daN/cm² (kG/cm²). Trong kết cấu xây dựng, bê tông chịu nhiều tác động khác nhau: chịu nén, uốn, kéo, trượt, trong đó chịu nén là ưu thế lớn nhất của bê tông. Do đó, người ta thường lấy cường độ chịu nén là chỉ tiêu đặc trưng để đánh giá chất lượng bê tông, gọi là mác bê tông. Mác bê tông được phân loại từ 100, 150, 200, 250, 300, 400, 500 và 600. Khi nói rằng mác bê tông 200 chính là nói tới ứng suất nén phá hủy của mẫu bê tông kích thước tiêu chuẩn, được dưỡng hộ trong điều kiện tiêu chuẩn, được nén ở tuổi 28 ngày, đạt 200 kG/cm².
Căng cơ hoặc cơ bắp bị co kéo là một tình trạng khi các cơ bắp bị kéo giãn quá mức thậm chí bị rách. Đây là kết quả do mệt mỏi, lạm dụng quá mức hoặc sử dụng cơ bắp không đúng. Bất kỳ cơ bắp nào cũng có thể bị co kéo, nhưng phổ biến nhất là các cơ lưng dưới, cổ, vai và gân kheo. Khi một người bị tổn thương cơ bắp, các sợi cơ và dây chằng gắn vào bắp thịt bị xé rách một phần hoặc toàn bộ. Rách cơ ảnh hưởng đến các mạch máu nhỏ, dẫn đến chảy máu cục bộ hoặc bầm tím và đau tại chỗ tổn thương. Những trường hợp căng cơ ít nghiêm trọng thường kéo cơ ra khỏi quỹ đạo bình thường. Các trường hợp nghiêm trọng hơn thường xé sợi cơ và thậm chí có thể gây ra rách cơ hoàn toàn. Thông thường, căng cơ bắp chân xuất hiện sự rách nhỏ ở một số sợi cơ, nhưng phần lớn các mô cơ vẫn còn nguyên vẹn. Hiện nay có quan niệm sai lầm là chỉ những hoạt động quá sức hay cường độ mạnh mới dẫn đến căng cơ. Tuy nhiên theo một số tài liệu từ Hoa Kì, việc căng cơ thậm chí có thể xảy ra khi đi bộ hoặc khi: Trượt chân, nhảy, chạy, ném một vật, nâng vác vật nặng, nâng một vật ở tư thế không đúng. Căng cơ cấp tính còn thường xảy ra vào mùa lạnh. Đó là bởi vì cơ thường cứng khi nhiệt độ giảm thấp, cho nên việc khởi động hay làm nóng cơ thể rất cần thiết nhằm ngăn ngừa tình trạng căng cơ hay dãn cơ quá mức. Căng cơ mạn tính thường là hậu quả của những hoạt động lặp đi lặp lại. Tình trạng đau cơ, hay kéo căng cơ xảy ra khi cơ của bị dãn quá mức hoặc đứt rách cơ. Điều này thường là hậu quả của sự mệt mỏi, dùng hay vận động cơ quá mức và không hợp lí. Căng cơ có thể xuất hiện ở bất cứ cơ nào nhưng thường gặp nhất ở thắt lưng, cổ, vai và vùng khoeo ở sau đùi. Sự căng cơ có thể gây đau và giới hạn vận động ở nhóm cơ bị ảnh hưởng. Căng cơ từ nhẹ đến trung bình có thể điều trị hiệu quả tại nhà bằng cách chườm đá hay chườm nóng và thuốc kháng viêm. Căng cơ mức độ nặng hoặc bị rách cơ có thể sẽ cần những biện pháp điều trị can thiệp. Trường hợp căng cơ nhẹ, mặc dù cơ bị rách và thiếu linh hoạt, vẫn có thể sử dụng nó. Các trường hợp nặng khi cơ bị rách nghiêm trọng gây ra đau đớn cùng cực và hạn chế hầu hết các cử động. Căng cơ nhẹ đến trung bình sẽ tự khỏi sau một vài tuần, trong khi các trường hợp nặng có thể kéo dài trong nhiều tháng. Căng cơ xảy ra với tất cả với giới nam và giới nữ. Khi chúng ta không khởi động trước khi tập hoặc làm một việc gì vận động đến chân tay thì hầu hết đều bị căng cơ. Đừng ngồi yên một chỗ quá lâu: hãy thường xuyên đi lại, nghỉ giải lao và nên thay đổi tư thế, nên dùng loại ghế thích hợp cho công việc hoặc phù hợp với tư thế ngồi của lưng, có thể kê thêm gối phía sau để dựa cho thoải mái. Và hãy ngồi ở tư thế sao cho đầu gối ngang bằng với mức hông. Nâng vật nặng một cách cẩn thận: hãy giữ lưng thẳng, co đầu gối và từ từ nâng chân. Giữ vật nặng sát cơ thể và không được vừa nâng vừa xoay hay ném vật nặng cùng một lúc. Hãy lưu ý những nơi hay vị trí dễ gây té ngã ví dụ như cầu thang, bề mặt trơn trợt và nên giữ sàn nhà được gọn gàng, sạch sẽ. Tập thể dục thường xuyên có thể giúp cơ được săn chắc và khỏe, nhưng quan trọng hơn hết là cần tập đúng cách và đúng kỹ thuật để tránh bị căng giãn cơ quá mức. Luôn luôn khởi động cơ thể trước khi bước vào tập luyện thể lực. Tương tự, sau khi tập xong cũng nên thư giãn cơ và hoạt động nhẹ để ngăn ngừa cứng cơ. Nếu mới bắt đầu tập thể dục thì hãy bắt đầu chậm và từ từ nâng dần mức độ tập. Việc hiểu được giới hạn của cơ thể là rất quan trọng. Nếu có vật hay việc gì cảm thấy quá sức với cơ thể thì hãy dừng lại ngay lập tức. Khi bị chấn thương, bệnh nhân không được chườm nóng hoặc dùng dầu và rượu xoa bóp. Vì chườm nóng hoặc xoa bóp lại khiến các dây chằng bị xơ chai, mất đi độ đàn hồi. Chúng sẽ trở nên yếu hơn và dễ chấn thương trở lại khi có những cử động hơi mạnh. Thông thường, nếu tổn thương nhẹ, bệnh nhân sẽ hoàn toàn phục hồi sau khi điều trị được 2-3 ngày. Lúc này, người bệnh có thể tập luyện nhẹ nhàng (khoảng 50% sức), và tăng từ từ để cơ thể dễ thích nghi. Nếu là chấn thương nặng hoặc đã qua sơ cứu mà hoạt động vẫn còn khó khăn, cơn đau kéo dài hơn 2 tuần, bệnh nhân nên đến khám ở các bệnh viện chuyên khoa để được điều trị càng sớm càng tốt. Chụp cộng hưởng từ (MRI) có thể được chỉ định để xác định trường hợp rách cơ, tổn thương dây chằng hoặc gân tuy nhiên là không cần thiết trong nhiều trường hợp vì các chẩn đoán có thể khá rõ ràng trên lâm sàng. Khi bị căng cơ chân, căng cơ tay nên dừng ngay lao động, tập luyện, sau đó cần chườm lạnh. Vì chườm lạnh rất hữu hiệu bị chấn thương cấp tính. Chườm lạnh cũng làm giảm lượng máu lưu thông về khu vực được chườm lạnh, giúp giảm sưng tấy quanh chấn thương. Khi chúng ta đá bóng, cách chữa căng cơ khi đá bóng là chườm lạnh dùng khăn bọc đá cho mát hoặc dùng túi đựng đá (tránh lạnh trực tiếp) để chườm lạnh ngay tại chỗ 10 - 15 phút, mỗi lần cách nhau khoảng 1 giờ. Có thể lặp lại nhiều lần trong ngày. Có thể chườm lạnh trong 1 - 3 ngày đầu sau khi bị đau. Không nên chườm một lần quá lâu. Tuy nhiên, không sử dụng chườm lạnh nếu tuần hoàn kém hoặc bị trầy da. Cần dừng các hoạt động thể thao và khi tập lại cần điều chỉnh thể lực, giảm bớt khối lượng tập hoặc chọn một thể thức tập luyện khác. Lưu ý, không được chườm nóng hoặc dùng dầu và rượu xoa bóp. Vì chườm nóng hoặc xoa bóp lại khiến các dây chằng bị xơ chai, mất đi độ đàn hồi. Thông thường, nếu tổn thương nhẹ, bệnh nhân sẽ hoàn toàn phục hồi sau 2 - 3 ngày. Nếu là chấn thương nặng hoặc đã qua sơ cứu mà hoạt động vẫn còn khó khăn, cơn đau kéo dài, cần đến khám chuyên khoa xương khớp để được điều trị.
Kéo giãn cơ
Kéo giãn cơ là một hình thức tập thể dục trong đó một cơ hoặc gân cụ thể (hoặc nhóm cơ) được cố tình uốn cong hoặc kéo dài để cải thiện độ đàn hồi của cơ và để đạt được sự thoải mái của bắp thịt, giảm nguy cơ bị chấn thương. Kết quả là cảm giác gia tăng việc kiểm soát cơ bắp, tính linh hoạt và phạm vi chuyển động. Trong lĩnh vực vật lý trị liệu, kéo giãn cơ cũng được ứng dụng để giảm sự mất cân bằng cơ bắp và để khắc phục các vấn đề bệnh lý do cơ bị rút ngắn, cũng như tăng tốc độ phục hồi sau khi bị chấn thương. Kéo giãn cơ cũng được sử dụng trong điều trị để giảm bớt chuột rút. Trong hình thức cơ bản nhất của nó, kéo giãn cơ là một hoạt động tự nhiên và bản năng; nó được thực hiện bởi con người và nhiều động vật khác. Nó có thể được đi kèm với ngáp. Kéo giãn cơ thường xảy ra theo bản năng khi ngủ dậy, sau một thời gian dài không hoạt động, hoặc sau khi ra khỏi những chỗ hay khu vực bít bùng.
Tổng hợp tóm tắt tất các chương trong Harry Potter và chiếc cốc lửa. Đến với tomtat.net để đọc những tóm tắt những truyện mà bạn yêu thích. Tập này dài tomtat.net sẽ chia ra thành 3 phần mọi người thông cảm. Harry Potter và Chiếc cốc lửa là cuốn sách thứ tư trong bộ Harry Potter . Cuốn đầu tiên, Harry Potter và hòn đá triết gia , được Bloomsbury xuất bản vào ngày 26 tháng 6 năm 1997. Lần thứ hai, Harry Potter và Phòng chứa bí mật , được xuất bản vào ngày 2 tháng 7 năm 1998. Lần thứ ba, Harry Potter và Tù nhân Azkaban , tiếp theo 8 tháng 7 năm 1999. Chiếc cốc lửa có kích thước gần gấp đôi ba cuốn sách đầu tiên (phiên bản bìa mềm là 636 trang). Rowling tuyên bố rằng cô “biết ngay từ đầu, nó sẽ là lớn nhất trong cuốn harry Potter.” Cô nói rằng cần phải có một “bước chạy phù hợp” cho kết luận và vội vã “cốt truyện phức tạp” có thể khiến độc giả nhầm lẫn. Cô cũng tuyên bố rằng “mọi thứ đều ở quy mô lớn hơn”, điều này mang tính biểu tượng, khi chân trời của Harry mở rộng cả nghĩa đen và nghĩa bóng khi anh lớn lên. Cô cũng muốn khám phá thêm về thế giới phép thuật. Harry Potter và Chiếc cốc lửa là cuốn sách đầu tiên trong bộ Harry Potter được phát hành tại Hoa Kỳ cùng ngày với Vương quốc Anh, vào ngày 8 tháng 7 năm 2000, chiến lược vào thứ bảy để trẻ em không phải lo lắng về việc xung đột trường học với việc mua sách. Nó đã được in lần đầu tiên kết hợp hơn năm triệu bản. Nó đã được đưa ra một bản in kỷ lục 3,9 triệu. Ba triệu bản của cuốn sách đã được bán vào cuối tuần đầu tiên ở Mỹ. FedEx đã gửi hơn 9.000 xe tải và 100 máy bay để thực hiện việc giao sách. Harry không thể tin được. Weasley đã mời anh ta đến Quidditch World Cup, điều đó có nghĩa là anh ta sẽ phải rời khỏi nhà của Dursley sớm và đi xem một trò chơi mà bất cứ ai cũng sẽ giết để xem. Trò chơi rất căng thẳng, nhưng không chỉ vì những người chơi xuất sắc và hành động không ngừng nghỉ. Những người hầu của Voldemort, Tử thần Thực tử, xuất hiện và thế giới phù thủy bị sốc khi dấu hiệu của Voldemort xuất hiện trên bầu trời sau trận đấu. Khi Harry, Ron và Hermione cuối cùng trở lại Hogwarts vài tuần sau đó, họ đã bị sốc khi thấy rằng trường là nơi tổ chức Giải đấu Triwizard năm nay. Đó là cuộc cạnh tranh giữa ba trường phù thủy Hogwarts, Durmstrang và Beauxbatons. Chiếc cốc lửa chọn một nhà vô địch cho mỗi trường. Ở đó, họ cũng học được rằng, có một giáo viên mới cho môn Bảo vệ chống lại nghệ thuật bóng tối. Khi các học sinh từ các trường khác đến vào tháng 10, các học sinh bắt đầu ghi tên mình vào Chiếc cốc lửa để được chọn tại Halloween với tư cách là nhà vô địch của trường. Nhà vô địch của Hogwarts là Cedric Diggory, nhà vô địch của Durmstrang là Victor Krum, một người chơi Quidditch nổi tiếng và nhà vô địch của Beauxbatons là Fleur Delacour. Điều tồi tệ hơn nữa là Ron không tin rằng Harry đã không ghi tên mình vào chiếc cốc. Họ tham gia vào một cuộc chiến lớn và Ron ngừng nói chuyện với Harry. Phần còn lại của Hogwarts cũng cho rằng Harry “đang tìm kiếm danh tiếng nhiều hơn”, và người duy nhất đứng bên cạnh Harry là Hermione. Trong giải đấu, các nhà vô địch phải đánh cắp một con mắt vàng từ một con rồng. Harry hoàn thành nhiệm vụ này và sự nguy hiểm của cuộc chiến chống lại con rồng đã thuyết phục Ron, rằng Harry đã luôn nói sự thật và anh ta đã hòa giải với anh ta. Khi năm học trôi qua, Harry gặp nhiều rắc rối. Nhà báo rình mò, Rita Skeeter, tiếp tục xuất bản những bài báo tầm phào về Harry khiến anh ta xa lánh phần còn lại của trường, anh ta đã từ chối người yêu của mình, Cho Chang, khi anh ta hỏi cô về Yule Ball, và trong những ngày dẫn đến Nhiệm vụ thứ hai của giải đấu, bao gồm lấy một thứ gì đó quan trọng từ đáy hồ chứa đầy những người có công, anh ta gần như không tìm ra cách để hoàn thành những gì mình phải làm. Được lưu vào phút cuối, tuy nhiên, Harry một lần nữa nhận được điểm gần như đầy đủ và được xếp ở vị trí đầu tiên. Sirius trở lại để theo dõi Harry, cũng như những sự việc bí ẩn đang diễn ra tại Hogwarts. Có một người ở trường muốn Harry chết, nhưng không ai biết đó là ai. Trong nhiệm vụ cuối cùng của giải đấu, các nhà vô địch đang ở trong một khu vườn hôn nhân, họ cần tìm kiếm Cup Cup chiến thắng. Những cái cây xây dựng mê cung đã bắt được Cedric, nhà vô địch khác của Hogwarts, nhưng Harry giúp anh ta. Harry và Cedric quyết định trở thành người chiến thắng chung, vì vậy họ đặt tay lên chiếc cúp chiến thắng, nhưng trong thời điểm này, họ được chuyển đến một nghĩa địa nơi Cedric bị giết bởi Wormtrail. Harry chứng kiến sự trở lại quyền lực của Voldemort và hầu như không quay trở lại Hogwarts còn sống, bám lấy cơ thể của Cedric. Trở lại Hogwarts, Giáo sư Moody an ủi anh ta, nhưng sau đó Harry phát hiện ra rằng anh ta là một kẻ phản bội, đã xâm nhập Hogwarts theo thứ tự của Voldemort. Anh ta là Tử thần Thực tử, người đã biến đổi cơ thể mình bằng Polyjuice Potion. Harry cảnh báo Dumbledore và Bộ trưởng Pháp thuật, Cornelius Fudge về sự xuất hiện của Voldemort, nhưng chỉ Dumbledore tin anh ta. Anh ta bắt đầu sắp xếp phòng thủ cho sự trở lại của chúa tể bóng tối. Thomas và Mary Riddle , cùng với con trai trưởng thành Tom Riddle Senior , đã được coi là những người không phổ biến nhất chiếm ngôi nhà Riddle , nằm trên một ngọn đồi nhìn xuống ngôi làng Little Hangleton của quận Yorkshire , nhiều thập kỷ trước. Thomas là một người hợm hĩnh, người có thái độ tồi tệ nhất mà không ai muốn ở một người đứng đầu làng, trong khi Mary bán lẻ cho chi nhánh Lady Margaret Nurseryeries thuộc Hiệp hội các Trung tâm Vườn của Anh . Câu chuyện bắt đầu trong tháng tám của năm 1943 , nơi một thảm kịch vô lý xảy ra bên trong nhà mà không ai có thể tìm hiểu làm thế nào nó xảy ra. Khi màNgười giúp việc của Riddles đi làm vào ngày hôm đó, cô phát hiện ra cả ba Riddles đã chết trong phòng vẽ, “vẫn còn trong đồ ăn tối của họ”. Cảnh sát không tìm thấy bằng chứng giết người hoặc tự sát, tuyên bố có sức khỏe hoàn hảo ngoại trừ thực tế là họ đã chết. Họ bắt giữ người làm vườn của Riddles Frank Bryce để thẩm vấn, vì cửa ra vào và cửa sổ không bị buộc mở hoặc vỡ trong đêm giết người của họ, và đầu bếp của Riddles đã làm chứng rằng anh ta là người duy nhất có chìa khóa nhà. Tuy nhiên, Frank cho biết người duy nhất anh nhìn thấy đêm đó là một cậu bé tóc đen bí ẩn và được thả ra vì thiếu bằng chứng, nhưng nhiều người vẫn tin rằng anh ta đã thực hiện vụ giết người. Ngày hôm sau, tiết lộ rằng dì Petunia đã đưa cả gia đình vào chế độ ăn kiêng, điều mà Harry không tuân theo. Đột nhiên, một lá thư từ Molly Weasley gửi đến Dursley , cô hỏi Harry có thể cùng Hermione và gia đình Weasley đi đến trận chung kết World Cup Quidditch giữa Ireland và Bulgaria không . Thật không may, bức thư làm đảo lộn Vernon Dursley vì có rất nhiều tem trên phong bì mà người đưa thư thực sự bấm chuông cửa để cười về nó. Tuy nhiên, một đề cập đến Sirius Black là đủ để thuyết phục Vernon Dursley để Harry đi. Harry viết lại choRon (sau khi một lá thư từ Ron được gửi bởi con cú của Ron là Pigwidgeon ) xác nhận rằng họ có thể đến đón anh ta. Harry viết thêm một hoặc hai câu cho bức thư của Sirius giải thích rằng anh ta sẽ đến The Burrow trước khi gửi bức thư qua Hedwig. Vào chiều Chủ nhật, Weasley cố gắng sử dụng Floo Powder để truy cập vào gia đình Dursley, không biết rằng họ có một lò sưởi điện. The Dursley bị sốc sau khi ông Weasley phá hủy một nửa phòng khách. Ông Weasley gửi các chàng trai trở lại, nhưng không phải trước khi Fred cố tình làm rơi một viên kẹo bơ cứng Ton-Tongue trên sàn nhà. Dudley Dursley , không thể cưỡng lại do chế độ ăn kiêng mà gia đình đã tuân theo và anh ta thích đồ ngọt đủ loại, cố gắng ăn nó và trải nghiệm tác dụng kỳ diệu của một chiếc lưỡi lớn hơn. Harry ra khỏi Burrow khi chú Vernon bắt đầu ném những bức tượng nhỏ của Trung Quốc vào ông Weasley. Trước khi họ có cơ hội nói chuyện, ông Weasley trở về nhà và giận dữ giải thích rằng lưỡi của Dudley đã dài đến bốn feet và chuyển sang màu tím trước khi ông được phép sửa nó. Anh ta chỉ ra rằng sự cố này có thể làm suy yếu mối quan hệ phù thủy Muggle mà anh ta đã làm việc rất chăm chỉ để cải thiện ngay cả sau khi cặp song sinh nói với anh rằng họ đã làm điều đó vì Dudley bắt nạt Harry. Bà Weasley biết được những gì đã xảy ra và tham gia vào những lời trách mắng của cặp song sinh. Trong khi đó, Harry rời khỏi phòng và biết rằng Molly rất buồn về Phù thủy phù thủy của Weasley , một anh em doanh nghiệp của Ron, Fred và George đã thành lập để bán đồ ngọt và đồ chơi khăm tự phát minh của họ. Bà Weasley buộc họ phải dừng lại, vì bà muốn họ có một sự nghiệp có uy tín hơn trong Bộ sau khi tốt nghiệp. Sau khi nhổ, Weasley, Harry và Hermione thưởng thức bữa tối dễ thương trong vườn. Tại bàn, rất nhiều chủ đề được thảo luận: World Cup Quidditch sắp tới, sự xuất hiện cá nhân của Bill, nơi ở của Sirius Black (một cuộc trò chuyện riêng của Harry, Ron và Hermione), một Phù thủy Bộ mất tích tên Bertha Jorkins. Percy (người đã gia nhập Bộ sau khi tốt nghiệp gần đây) đề cập đến một sự kiện tuyệt mật mà anh dự định sẽ ở Bộ, sẽ diễn ra sau Chung kết Quidditch. Ông chủ của Percy, Barty Crouch , người đứng đầu Bộ Hợp tác Pháp thuật Quốc tế sau đó đến tìm Bagman, mặc dù ông phải trốn tránh Bagman khi ông bắt đầu nói về một sự kiện lớn sắp diễn ra tại Hogwarts. Tối hôm đó, sau khi nhận được một số quà lưu niệm, cả nhóm đi đến trận đấu. Khi ở Top Box trong sân vận động World Cup, Harry gặp Winky the elf , một người bạn của Dulk , người đang dành một chỗ cho Mr Crouch (người không bao giờ xuất hiện). Các tướng Magic , Cornelius Fudge , cũng như Lucius Malfoy với anh vợ và Draco(mặc dù cả Weasley và Malfoys đều phải kiềm chế bản thân vì tôn trọng Fudge), cũng nằm trong hộp. Sau khi Bagman giới thiệu linh vật của cả hai đội, trận đấu diễn ra căng thẳng và hấp dẫn, với kỹ năng đáng kinh ngạc được thể hiện ở cả hai phía, đặc biệt là từ Krum. Một cuộc chiến nổ ra giữa Mascots hai đội sau khi Ireland được trao nhiều mũi chích ngừa hình phạt, mà gây tức giận với Veela . Ireland nhanh chóng giành được vị trí dẫn đầu lớn và giành chiến thắng trong trận đấu, mặc dù Krum đã bắt được Golden Snitch . Sau trận đấu, cả hai đội đều hướng đến Top Box và Fudge trao giải Ireland World Cup Quidditch, trong khi Fred và George vui mừng về chiến thắng cá cược với Bagman. Sau khi các pháp sư xung quanh khu cắm trại ăn mừng trước khi đi ngủ, tối hôm đó, một nhóm phù thủy đeo mặt nạ tấn công trại và hành hạ một số người Muggles địa phương . Trong khi ông Weasley ra ngoài với những đứa con lớn của mình để đối mặt với chúng, những người còn lại trốn trong rừng. Họ tình cờ gặp Draco Malfoy , người đã kích động họ về cuộc bạo loạn và bảo họ hãy giữ Hermione, “con bùn “, an toàn. Ngay sau đó, Harry nhận ra cây đũa phép của mình bị mất tích và họ thấy Winky cư xử kỳ lạ, như thể cô đang cố gắng kiềm chế thứ gì đó. Sau khi tìm được một nơi để ẩn nấp, họ nghe thấy ai đó gần đó ” Morsmordre “, và họ xemDark Mark lơ lửng trên bầu trời. Các Bộ là một cách nhanh chóng tại hiện trường, cảnh quan tuyệt đẹp bất cứ điều gì mà di chuyển. Sau khi xác định Harry, Ron và Hermione không liên quan gì đến Dark Mark, họ tìm kiếm gần đó để tìm Winky cầm đũa phép của Harry. Một câu thần chú nhanh chóng chứng minh rằng cây đũa phép của Harry đã tạo ra Dấu ấn bóng tối. Mặc dù không ai nghĩ rằng Winky đã làm điều đó, Barty Crouch đã công khai sa thải cô, khiến Hermione nổi giận. Ông Weasley bị buộc phải đưa nhóm trở về lều của họ, nơi những người khác đang ở. Sau vụ tấn công, ông Weasley đề cập rằng Dark Mark là dấu hiệu cho thấy những người ủng hộ Voldemort rời đi bất cứ khi nào họ giết người. Nhóm cũng biết rằng các pháp sư trùm đầu là Tử thần Thực tử , tín đồ của Voldemort. Bill đề cập rằng những người từ đêm nay đã rời khỏi hiện trường một cách kỳ lạ khi Dark Mark bị ném lên bầu trời, rất có thể vì họ sợ Voldemort sẽ trừng phạt họ vì đã không trung thành với anh ta sau khi anh ta sụp đổ. Ông Weasley sau đó khăng khăng họ trở lại giường, vì họ sẽ rời khỏi Portkey sau vài giờ nữa. Harry không thể ngủ được vì coi đây là dấu hiệu cho thấy Voldemort đang thực hiện một kế hoạch khác để lấy lại sức mạnh của mình. Sáng hôm sau, cả nhóm nhanh chóng rời khỏi khu cắm trại và đến Burrow, nơi một bà Weasley lo lắng chào đón họ. Bà Weasley cho họ xem bài báo Tiên tri hàng ngày về cuộc tấn công đêm qua, trong đó có một số chi tiết không chính xác được chấp bút bởi Rita Skeeter , một nhà báo nổi tiếng với những câu chuyện tiêu cực nặng nề của bà. Điều này buộc ông Weasley phải đến Bộ với Percy để nói thẳng ra, vì ông được đề cập gián tiếp trong bài báo. Đi vào phòng của Ron, Harry nói với Ron và Hermione về vết sẹo đau đớn và lá thư của anh gửi cho Sirius, cũng như giấc mơ. Ba nhận xét về sự kỳ lạ của vết sẹo của Harry rất sớm trước khi Dark Mark xuất hiện lần đầu tiên sau mười ba năm. Vào ngày cuối cùng trước khi họ trở về Hogwarts, Harry nghe rằng Bộ Pháp thuật đã bị hỏa hoạn nặng nề vì không ngăn được cuộc bạo loạn tại World Cup Quidditch hoặc bắt giữ bất kỳ thủ phạm nào vì bài báo của Rita Skeeter. Ông Weasley đề cập rằng Rita cũng đang tấn công Bộ vì sự biến mất của Bertha Jorkins . Trong khi đó, Ron mất tinh thần bởi những chiếc áo choàng tay gớm ghiếc, mà anh ta sẽ cần mặc tại Hogwarts cho một dịp trang trọng vào cuối năm.
Harry Potter và Chiếc cốc lửa
Harry Potter và chiếc cốc lửa (tiếng Anh: Harry Potter and the Goblet of Fire) là một quyển sách thuộc thể loại giả tưởng kỳ ảo được viết bởi tác giả người Anh J. K. Rowling và đây cũng là phần thứ tư trong bộ tiểu thuyết Harry Potter. Câu chuyện kể về cậu bé Harry Potter, một phù thủy trong năm học thứ tư của mình tại Trường Phù thủy và Pháp sư Hogwarts cùng vời những bí ẩn xung quanh việc thêm tên của Harry vào giải đấu Tam Pháp Thuật, buộc cậu phải nỗ lực hết mình để chiến đấu. Cuốn sách được xuất bản ở Anh bởi Nhà xuất bản Bloomsbury và ở Hoa Kỳ bởi Nhà xuất bản Scholastic; việc phát hành sách ở cả hai quốc gia cùng vào ngày 8 tháng 7 năm 2000, và đây cũng là lần đầu tiên một quyển trong bộ truyện này được xuất bản ở hai quốc gia cùng một lúc. Cuốn tiểu thuyết này đã đoạt giải Hugo Award, quyển duy nhất trong bộ Harry Potter đạt được giải này vào năm 2001. Quyển sách cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh, và được phát hành trên toàn thế giới vào ngày 18 tháng 11 năm 2005, cùng với một trò chơi điện tử của Electronic Arts.
Ai cũng biết công dụng của sữa rửa mặt là làm sạch da. Nhưng liệu đó có phải là tất cả những gì về sản phẩm này. Cùng mình tìm hiểu kỹ hơn về sữa rửa mặt – sản phẩm mà mọi cô gái trên thế giới này đều cần nhé nàng. 2 Có 4 dạng sữa rửa mặt phổ biến nhất hiện nay 2.1 Sữa rửa mặt bạng bọt2.2 Sữa rửa mặt dạng kem đặc2.3 Sữa rửa mặt dạng gel2.4 Sữa rửa mặt dạng hạt. 5 Công dụng của sữa rửa mặt5.1 Làm sạch da5.2 Cân bằng độ ẩm (pH)5.3 Loại bỏ vi khuẩn và sạch lỗ chân lông5.4 Ngăn ngừa nguy cơ bị nổi mụn5.5 Giúp các sản phẩm dưỡng da hoạt động tốt nhất vào da. 6 Các tiêu chí đánh giá sửa rữa mặt tốt6.1 Làm sạch da thấy rõ – mịn màng – thông thoáng6.2 Không làm khô da6.3 Không làm kích ứng da và đem lại cảm giác dễ chịu khi sử dụng6.4 Giúp chữa trị những vấn đề da. 6.3 Không làm kích ứng da và đem lại cảm giác dễ chịu khi sử dụng. 7 Cách chọn sữa rửa mặt7.1 Độ pH phù hợp với da7.2 Lựa chọn dạng sữa rửa mặt cho từng loại da7.2.1 Da dầu7.2.2 Da khô7.2.3 Da hỗn hợp7.2.4 Da thường7.3 Sữa rửa mặt đặc trị7.3.1 Sữa rửa mặt cho da mụn7.3.2 Sữa rửa mặt chống lão hoá7.3.3 Sữa rửa mặt trắng da7.4 Giá cả7.4.1 Cho sinh viên7.4.2 Người đi làm7.5 Thương hiệu sữa rửa mặt tốt. 7.2 Lựa chọn dạng sữa rửa mặt cho từng loại da7.2.1 Da dầu7.2.2 Da khô7.2.3 Da hỗn hợp7.2.4 Da thường. 7.3 Sữa rửa mặt đặc trị7.3.1 Sữa rửa mặt cho da mụn7.3.2 Sữa rửa mặt chống lão hoá7.3.3 Sữa rửa mặt trắng da. 8 Rửa mặt và dùng sữa rửa mặt đúng cách8.1 Bước 1: Tẩy trang8.2 Bước 2: Rửa mặt8.3 Bước 3: Rửa lại với nước lạnh8.4 Bước 4: Lau mặt. 9 Những lưu ý khi sử dụng sữa rửa mặt9.1 Không làm sạch tay9.2 Rửa mặt bằng nước quá nóng hoặc quá lạnh9.3 Không tạo bọt9.4 Lưu sữa rửa mặt trên da quá lâu9.5 Để da khô tự nhiên. Sữa rửa mặt là một sản phẩm có tác dụng làm sạch mọi thứ bám trên bề mặt làn da, bao gồm lớp trang điểm, bụi bẩn từ môi trường, bã nhờn, tế bào chết,… Từ đó, tạo điều kiện “dọn dẹp” cho bề mặt da thông thoáng, giảm nguy cơ hình thành mụn và hấp thu tốt hơn các sản phẩm chăm sóc da. Trong quy trình skincare, làm sạch được xem là bước quan trọng nhất, tạo tiền đề cho việc chăm sóc một làn da khỏe, đẹp. Chức năng chính là làm sạch da nhưng sữa rửa mặt được nghiên cứu và phát triển thành 5 dạng khác nhau, phù hợp với từng làn da đặc trưng của phái nữ. Đây loại phổ biến nhất trên thị trường hiện nay với kết cấu sản phẩm dạng sữa. Khi cho sản phẩm ra lòng bàn tay, bạn sẽ tạo nên một lớp bọt lớn (foam). Ưu điểm của sản phẩm rửa mặt dạng bọt chính là có tính kiềm, giúp cân bằng bã nhờn, làm sạch sâu lỗ chân lông và giúp đánh bay các loại vi khuẩn. Kết cấu sản phẩm là chất kem đặc, có thể tạo bọt nhiều hoặc ít tùy sản phẩm. Ưu điểm của rửa mặt dạng kem chính là làm sạch nhẹ nhàng và mang đến cảm giác mềm mịn sau mỗi lần sử dụng. Với đặc tính làm sạch da nhưng vẫn giữ được độ ẩm mịn, mượt mà, đây là loại sữa rửa mặt thích hợp với các bạn gái có làn da khô. Đặc trưng của sản phẩm là kết cấu gel nhẹ, không chứa nhiều dầu và cũng không tạo bọt khi rửa mặt. Sản phẩm dạng gel có ưu điểm là làm sạch nhẹ nhàng, dịu nhẹ với làn da, không gây khô căng sau mỗi lần rửa mặt. Các bạn gái có làn da mỏng, nhạy cảm hoặc đang bị mụn nên dùng sữa rửa mặt dạng gel. Chắc chắn những bạn gái có làn da dầu sẽ thích sữa rửa mặt dạng hạt. Bởi vì kết cẩu sản phẩm có những hạt nhỏ, vừa giúp làm sạch lỗ chân lông, bã nhờn, vừa có tác dụng cuốn trôi lớp tế bào chết. Cảm giác mỗi lần dùng sữa rửa mặt dạng hạt xong rất dễ chịu và sạch bong kin kít. Tuy nhiên, bạn không nên lạm dụng loại sữa rửa mặt này vì có thể làm mỏng da. Sữa rửa mặt ra đời từ nhu cầu làm sạch da của mọi người, cả nữ giới lẫn nam giới. Xưa kia, khi ngành mỹ phẩm chưa phát triển, người ta chủ yếu dùng bánh xà phòng để làm sạch cho da mặt. Tuy nhiên, xà phòng chứa chất tẩy rửa mặt, về lâu dài sẽ gây tổn hại đến hàng rào bảo vệ tự nhiên cho làn da. Khoảng 20 năm trở lại đây, ngành mỹ phẩm phát triển và cho ra đời các dòng sữa rửa mặt khác nhau. Bao gồm các loại riêng biệt cho da thường, da khô, da dầu, da nhạy cảm,… với nhiều kết cấu dạng kem, gel hay dạng sữa tạo bọt. Các sản phẩm rửa mặt ra đời không chỉ phục vụ cho việc làm sạch da mà còn hỗ trợ cho việc điều trị các vấn đề về da. Đó là lý do mà bạn sẽ thấy có rất nhiều dòng khác nhau như sữa rửa mặt đặc trị dành cho da mụn, da lão hóa, da lỗ chân lông to,…. So với các sản phẩm chăm sóc da khác như serum, kem dưỡng,… thì sữa rửa mặt gần như không mang lại một tác dụng thấy rõ nào cho làn da, ngoại trừ việc làm sạch. Nhưng trên thực tế, yếu tố làm sạch lại là công dụng quan trọng nhất. Bởi nếu một làn da không sạch, mọi việc chăm sóc, dưỡng da sau đó đều trở nên vô nghĩa. Bạn gái cần sữa rửa mặt để tạo điều kiện tốt nhất cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng da về sau. Nếu so sánh việc dưỡng da và trồng cây, bạn có thể thấy việc rửa mặt giống như khâu làm đất trước khi gieo hạt. Việc cày cuốc làm sạch đất giúp loại bỏ các vi khuẩn và côn trùng gây hại. Từ đó, giúp cho cây trồng sau này phát triển tốt. Làn da chúng ta cũng vậy. Làm sạch là công dụng chính của mọi loại sữa rửa mặt trên thế giới. Bất kể sản phẩm dành cho da gì, kết cấu ra sao thì tác dụng đầu tiên là lấy đi toàn bộ bụi bẩn, mồ hôi, dầu thừa,… trên bề mặt da. Đây đều là những tạp chất có hại cho da, chúng khiến gương mặt xỉn màu, sạm đi và kém sức sống. Chưa kể, các tạp chất này không dễ dàng cuốn trôi bởi nước sạch thông thường. Nhất là bã nhờn vốn được hình thành từ các axit béo có liên kết khá bền. Chỉ có sữa rửa mặt với thành phần chuyên sâu, kích thước phân tử nhỏ mới đủ khả năng lên lỏi vào từng lỗ chân lông, phá vỡ và lấy đi dầu thừa một cách nhẹ nhàng. Sau khi rửa mặt xong, có phải cảm giác của bạn chính là sự mát mẻ, nhẹ tênh và tươi tỉnh hẳn ra? Đó chính là công dụng tuyệt vời mà các sản phẩm rửa mặt mang lại. Ngoài khả năng làm sạch, sữa rửa mặt còn có tác dụng giúp cân bằng độ pH. Giúp cho lớp màng ngoài của làn da là Moisture Barrier giữ nước, diệt khuẩn và tránh khỏi nhiều tác nhân gây hại cho da. Theo đó, lớp màng Moisture Barrier này hoạt động tốt trong môi trường pH từ 4 – 6. Và lý tưởng nhất là pH 5.5. Vì thế, khi chọn sữa rửa mặt, bạn nên ưu tiên các sản phẩm có độ pH cân bằng 5.5. Bởi nếu pH cao hơn sẽ làm cho làn da dễ bị kiềm và xuất hiện mụn. Trên bề mặt da luôn luôn có sự xuất hiện của các loại vi khuẩn. Vì thế, sữa rửa mặt có tác dụng lấy đi các vi khuẩn gây hại, ngăn không cho chúng cư ngụ trên mặt quá lâu, nhất là khu vực lỗ chân lông. Việc làm sạch vi khuẩn, bụi bẩn, bã nhờn,… cũng góp phần giữ cho lỗ chân lông được thông thoáng hơn. Vi khuẩn chính là thủ phạm gây ra những vấn đề về da, nhất là mụn nhọt. Chúng thường tụ tập ở khu vực lỗ chân lông để “kết bè, kết phái” 😂 với bụi bẩn, bã nhờn, khiến lỗ chân lông tắc nghẽn và sản sinh ra các loại mụn. Từ mụn bọc, mụn mủ đến mụn đầu đen, đầu trắng. Vì thế, công dụng của các loại sữa rửa mặt là giúp loại bỏ đi các vi khuẩn có hại cho làn da, giữ cho lỗ chân lông luôn được thoáng sạch. Từ đó, giúp giảm nguy cơ nổi mụn, mang đến một làn da sạch mịn, khỏe đẹp cho bạn gái. Trước khi muốn dưỡng da đẹp, bạn phải làm cho da thật sạch. Bởi vì một làn da dày cặn trang điểm, dầu thừa sẽ không thể nào hấp thu trọn vẹn các dưỡng chất chăm sóc da. Chưa kể, các loại mỹ phẩm dưỡng da khi được thoa lên một làn da kém sạch không những không phát huy hiệu quả dưỡng da mà còn làm cho lỗ chân lông tắc nghẽn, sinh ra các loại mụn. Ngược lại, làn da được làm sạch bong kin kít gần như hấp thụ một cách tối ưu nhất mọi sản phẩm dưỡng da mà bạn thoa lên da mặt. Hiệu quả làm đẹp nhờ đó cũng tăng lên. Vậy nên, nếu bạn gái nào dưỡng da mãi mà thấy vẫn chưa đẹp, hãy xem lại khâu làm sạch, cụ thể là bước rửa mặt nhé. Trên thị trường hiện nay có vô vàn sản phẩm rửa mặt khác nhau, dễ khiến bạn gái hoang mang không biết sản phẩm đang dùng đã tốt hay chưa, đã phù hợp với mình hay chưa. Vì công dụng chính cửa sữa rửa mặt là giúp sạch da, vậy nên tiêu chí đầu tiên chính là độ sạch của sản phẩm bạn đang dùng. Nếu sau khi rửa mặt, bạn thấy bề mặt da sạch mịn, không còn bụi bẩn bã nhờn hay cặn mỹ phẩm, lỗ chân lông thoáng nhẹ,… thì có nghĩa là sản phẩm đang dùng có khả năng làm sạch tốt. Tiêu chí thứ hai để đánh giá độ tốt của sữa rửa mặt, chính là không làm khô da. Vì có nhiều sản phẩm rửa mặt trong thành phần chứa chất tẩy rửa mạnh (nhất là các sản phẩm chứa quá nhiều bọt). Chúng sẽ lấy đi lớp màng lipid tự nhiên của da, khiến độ ẩm bị bốc hơi hoàn toàn.Từ đó, làm cho bề mặt da bị khô căng, dễ gây lão hóa sớm và xuất hiện nhiều vấn đề khác. Một sản phẩm rửa mặt chỉ được xem là tốt khi không gây ra bất kỳ cảm giác châm chích, ngứa ngáy, bỏng rát nào khi tiếp xúc với làn da. Ngay từ lần đầu tiên sử dụng, nếu bạn thấy sữa rửa mặt mình đang dùng gây ra cảm giác khó chịu thì hãy bỏ ngay. Vì đó là hiện tượng kích ứng da. Nếu vì tiếc tiền mà bạn tiếp túc dùng sản phẩm có thể khiến da bị kích ứng nặng. Ngoài ra, các sản phẩm có mùi thơm quá nồng nặc, mùi hóa học quá nhiều sẽ cũng khiến bạn thấy khó chịu khi rửa mặt. Tốt nhất, hãy chọn các sản phẩm không hương liệu để làn da được nâng niu nhất có thể. Cuối cùng, với các cô nàng đang có vấn đề về da như mụn, da dầu, sạm nám,… thì sản phẩm rửa mặt tốt sẽ mang lại hiệu quả điều trị những vấn đề này. Ví dụ, bạn đang gặp phải tình trạng mụn, các loại sữa rửa mặt tốt sẽ giúp cải thiện hoạt động của các tuyến bã nhờn. Từ đó, giúp giảm mụn sau một thời gian sử dụng. Hiện nay, mọi vấn đề về da đều có các dạng rửa mặt tương ứng đi kèm. Bạn gái nên cân nhắc để chọn sản phẩm rửa mặt phù hợp nhất. Chọn sữa rửa mặt có pH phù hợp với làn da là yếu tố quan trọng để duy trì một làn da vừa khỏe, vừa đẹp cho bạn gái. Bởi pH tự nhiên của da chỉ dao động từ 5.5 – 5.9 và pH lý tưởng nhất là 5.5. Do đó, nếu bạn chọn pH cao hơn hoặc thấp hơn khoảng này sẽ làm phá vỡ lớp màng axit tự nhiên của da. Vậy nên khi chọn sữa rửa mặt, bạn cần tìm hiểu kỹ độ pH của sản phẩm nhé. Làn da như một cái “chảo dầu” là nổi khổ của tất cả bạn gái sở hữu làn da dầu mụn. Việc chọn mỹ phẩm chăm sóc da, nhất là sữa rửa mặt cũng là vấn đề quan trọng các nàng cần cân nhắc. Sữa rửa mặt dành cho da dầu nên có thành phần Salicylic Acid giúp làm sạch sâu và ngăn ngừa mụn cho làn da. Nàng da dầu nên cân nhắc các sản phẩm rửa măt dạng bọt, giúp lấy sạch cặn bẩn bã nhờn sâu trong da.
Sữa rửa mặt
Sữa rửa mặt là một sản phẩm tẩy rửa da mặt được sử dụng để loại bỏ lớp trang điểm, tế bào da chết, dầu, bụi bẩn, và các loại chất ô nhiễm khác từ da trên mặt. Giúp rửa sạch lỗ chân lông và ngăn ngừa các tình trạng da như mụn trứng cá. Sữa rửa mặt có thể được sử dụng như một phần của chế độ chăm sóc da cùng với nước cân bằng da và kem dưỡng ẩm. Xà phòng cục có độ pH cao (trong khoảng từ 9 đến 10), và độ pH bề mặt da đạt trung bình 4,7. Điều này có nghĩa xà phòng có thể thay đổi cân bằng bề mặt trong da khiến gia tăng sự phát triển một số loại vi khuẩn, tăng mụn trứng cá. Xà phòng rửa mặt có chất cô đặc cho phép chúng mang hình dạng thỏi cục. Những chất cô đặc này có thể làm tắc nghẽn lỗ chân lông, dẫn đến mụn trứng cá. Sử dụng xà phòng cục trên mặt có thể loại bỏ chất dầu tự nhiên khỏi da tạo thành rào cản chống lại sự mất nước. Điều này khiến tuyến bã nhờn sản sinh quá mức dầu, một tình trạng được gọi là phản ứng tiết nhiều bã nhờn, sẽ dẫn đến lỗ chân lông bị tắc nghẽn.
Chất giọng trầm khàn, chậm rãi khá riêng biệt từ lâu đã là “đặc sản” của Nguyễn Hữu Chiến Thắng. Cũng có lần, đồng nghiệp trêu đùa, “cạnh khóe”: “Nếu xét về chuẩn mực thì giọng Thắng đâu có hay, “khê” là đằng khác”. Anh thủng thẳng đáp lại: “Thì tôi cũng chẳng hiểu tại sao giọng tôi lại được mọi người thương? Nhưng xét cho cùng, cái giọng cũng chỉ là phương tiện. Điều quan trọng hơn cả đối với tôi là nói cái gì và nói như thế nào. Tôi cố giữ mình để thiên hạ không ngứa mắt”. Những ai đã quen Nguyễn Hữu Chiến Thắng trong vai trò MC vẫn “mắt tròn mắt dẹt” chứng kiến anh cầm mic hát nhạc Văn Cao, Đoàn Chuẩn – Từ Linh, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn. bằng chất giọng ấm áp, rền vang và lối biểu cảm mộc mạc, giàu cảm xúc. Nhiều người được dịp chỉ trỏ, xì xào “Ơ, thế ra thằng này biết hát à?”, nhưng với Nguyễn Hữu Chiến Thắng, được “khen” như thế cũng quý rồi. Anh ý thức rõ, mình không phải tên tuổi lớn, cũng không sở hữu chất giọng tuyệt hay mà chỉ có cái tình. Cái tình ấy ảnh hưởng từ cha anh, người đã chìm nổi với nhạc tiền chiến như một tín đồ. Thời theo học khoa Văn học dịch (Trường đại học Maxim Gorki), Nguyễn Hữu Chiến Thắng từng là giọng ca quen thuộc tại các phòng trà, vũ trường của người Việt tại Nga. Tính đến nay, dù vẫn đi hát, vẫn “xài” tiền thiên hạ đều nhưng anh chưa bao giờ “vỗ ngực” xưng mình là ca sĩ. Nguyễn Hữu Chiến Thắng chia sẻ: “Tôi không được học hành thanh nhạc tử tế, lại không được may mắn hát liên tục. Hồi nhỏ ba mẹ “vứt” tôi vào trường nhạc vì… quá nghịch. Thế là tôi ngoan liền. Học hành được vài năm, mẹ tôi như sợ nghiệp xướng ca nên tôi không học nhạc nữa, chuyển sang chuyên Văn trường Ams. Giờ đúng kiểu “chạy trời không khỏi nắng”!”. “Người vào cởi áo, lau son phấn/ Trả cả vinh hoa lẫn đoạn trường”. Câu ấy đúng với Nguyễn Hữu Chiến Thắng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng sau mỗi đêm thất thểu từ phòng trà nào đó trở về nhà. Thế nhưng “gã” MC ấy vẫn khát khao được hát, được ra sân khấu, được nhìn thấy khán giả. Anh thú nhận: “Một ngày nào đó, không còn âm thanh nào bay ra khỏi cái miệng rộng ngoác như cá ngão của tôi thì tôi vẫn mong có ai đấy, dù chỉ một người ở bên tôi”. Thế rồi, bước qua những phút giây chống chếnh, anh lại lao vào bếp tự tay muối vại cà, kho nồi cá, xong xuôi mặc quần vải áo hoa thong dong đi ra phố, miệng véo von như chưa hề có chuyện gì. Nguyễn Hữu Chiến Thắng là một cá tính lạ. Lắm khi gặp sự bất bình, anh sẵn sàng “xù lông”, “chửi” rất bài bản, chua ngoa. Lại có lúc, hễ mở miệng ra là anh kêu mệt… Một người sống chậm, sống kỹ đến mức nào âu cũng không thoát khỏi guồng quay cuộc sống. Anh nói đùa: “Thỉnh thoảng tôi tự hỏi mình là trâu hay ngựa mà chỉ biết chạy show như con thoi, còn bao nhiêu thời gian dành hết cho bạn bè, âm nhạc. Nhưng đời sống không dí dao vào cổ tôi để bắt tôi lựa chọn cách sống cho mình. Tự tôi chọn nên tôi chấp nhận những khi hẫng hụt, những điều không vui”. Nhưng con người ấy luôn ấm áp, chân tình và hào phóng dù với bất cứ ai. Thế nên, căn nhà nhỏ của anh chẳng khi nào vãn khách. Nhiều lần chứng kiến anh làm MC “free”, mọi người vẫn thắc mắc: “Lẽ nào “hắn” định hít không khí để sống?”. Anh nói rất cởi mở: “Xung quanh tôi, bạn bè nghệ sỹ không ai giàu. Đôi khi phải vắt kiệt hầu bao để ra một CD hay xuất bản một tập sách. Không có tiền giúp bạn thì thôi, sao cứ phải kì kèo mặc cả. Có thêm mấy trăm ngàn hay mấy triệu đồng cũng có giàu thêm được đâu?”. Nhớ thời điểm xảy ra trận bão lũ lịch sử ở miền Trung năm 2011, Nguyễn Hữu Chiến Thắng mượn tầng 2 của một quán trà nhỏ để tổ chức đêm nhạc do chính anh làm MC kiêm ca sĩ nhằm ủng hộ đồng bào bị thiên tai. Nhiều bạn bè, nghệ sĩ kéo nhau đến góp sức với anh. Đó là những gương mặt quen thuộc như: Vương Dung, Thái Thùy Linh, Hoàng Hiệp… Họ đến hát miễn phí và cùng khán giả rút tiền túi bỏ vào thùng từ thiện. Cuối chương trình, nói về những con người đang gồng mình chống chọi với bão lũ, Nguyễn Hữu Chiến Thắng đột nhiên bật khóc, vừa khóc vừa cố giữ câu nói không đứt quãng. Đêm biểu diễn thành công ngoài mong đợi. Trong phút chốc, “gã” MC kiêm ca sĩ ấy như “lột xác” trở thành bà nội trợ đảm đang, lên kế hoạch tỉ mỉ với số tiền hơn 30 triệu đồng vừa quyên góp được để làm từ thiện như thế nào, quyết không lãng phí một xu. Xong việc, anh hồ hởi vác đàn, chở loa đi trả. Hỏi Nguyễn Hữu Chiến Thắng về động lực làm từ thiện, anh giải thích ngắn gọn: “Vì tôi tự thấy mình là một kẻ vô tích sự. Mà đã là kẻ vô tích sự thì phải cố gắng làm được gì đó cho đời, dù chỉ là rất nhỏ bé.”. Con người Nguyễn Hữu Chiến Thắng dễ cho người ta cảm giác về những góc khuất đời sống u uẩn, xa xôi như chính dòng nhạc anh đang theo đuổi. Công việc đi đây đó nhiều, Nguyễn Hữu Chiến Thắng rút ruột viết ra những kí sự dọc đường khiến người đọc không thể nào rời mắt, rời tai vì sự quyến rũ, sâu lắng và xót xa của từng câu chữ. Ở anh như còn có nỗi đồng cảm đặc biệt về phận đàn bà, từ những cơn mưa miền ngược hoà trong bóng đêm mà anh gọi là “núi khóc” cho đến cách ví von khói hương mềm như tà áo dài lụa của người mẹ đã qua đời… Tất cả làm nên cái chất khác biệt không thể trộn lẫn của anh trong đời sống, công việc.
Nguyễn Hữu Chiến Thắng
Nguyễn Hữu Chiến Thắng (sinh năm 1973 tại Hà Nội) là một người dẫn chương trình Việt Nam. Anh được biết đến với chất giọng trầm khàn đầy truyền cảm, đặc biệt là khi dẫn trong các chương trình ca nhạc. Từ nhỏ, Thắng đã mê hát. Hát hay nên đương nhiên được lựa chọn vào đội văn nghệ của trường, rồi đi thi nơi này nơi kia Đang hát hò tưng bừng thì bỗng nhiên một ngày mẹ anh có lệnh: “Thôi, đàn hát thế đủ rồi tập trung vào học hành đi”. Thích con trai mình trở thành kiến trúc sư, bố mẹ anh cậy nhờ thầy dạy vẽ nổi tiếng. Được một thời gian thì thầy ngao ngán lắc đầu trả anh về cho phụ huynh vì anh không có năng khiếu vẽ vời. Lòng vòng rồi đỗ chuyên Văn trường Hà Nội - Amsterdam, rồi đỗ Đại học Tổng hợp đủ điểm sang Nga học Đại học Maxim Gorki, rồi đi làm MC, giờ thì đứng chân vai trò phóng viên VTV6…. Thời theo học khoa Văn học dịch (Trường đại học Maxim Gorki), Nguyễn Hữu Chiến Thắng từng là giọng ca quen thuộc tại các phòng trà, vũ trường của người Việt tại Nga.
UPC bổ sung 5 số có thể là UPC-A, UPC-E (ngày nay còn có thêm cả EAN-13, EAN-8) với một mã vạch bổ sung ở bên phải của mã vạch chính. Nó được in bên phải và thấp hơn mã vạch chính. Mã vạch phụ này thông thường có các số in phía trên nó (nhưng cũng có thể in phía dưới như mã vạch chính), được sử dụng để mã hóa các thông tin bổ sung sử dụng trong in ấn và phát hành sách. Người ta cũng có thể bổ sung loại mã vạch mã hóa thêm 2 số nhưng mục đích, cách thức mã hóa và lĩnh vực ứng dụng của chúng không giống với loại bổ sung 5 số. Mã vạch phụ 5 số thể hiện giá bán lẻ của sách được đề nghị. Số đầu tiên thể hiện loại tiền tệ mà giá bán của sách được niêm yết. Giá trị 0 thể hiện đơn vị tiền tệ là bảng Anh, 5 là đôla Mỹ. Bốn số còn lại thể hiện giá của cuốn sách đó. Ví dụ 52239 là giá của cuốn sách đó bằng 22,39 đôla Mỹ. Có lẽ những người ở UCC cho rằng sách không có giá quá 99,99 USD (hay bảng Anh), ngoại trừ một số ngoại lệ dưới đây. Cụm số "90000" chỉ ra rằng cuốn sách này không có quy định cụ thể về giá bán lẻ. Các cụm số từ "90001" đến "98999" chỉ sử dụng trong nội bộ của một số nhà xuất bản. Cụm số "99990" chỉ ra rằng đây là sách đã qua sử dụng (do US National Association of College Stores quy định). Cụm số "99991" chỉ ra rằng đây là bản copy mang tính chất để biếu (miễn phí). Mã hóa của ký tự đầu tiên, được mã hóa theo mẫu tính chẵn lẻ dưới đây. Mã hóa của ký tự thứ hai, được mã hóa theo mẫu tính chẵn lẻ dưới đây. Mã hóa của ký tự thứ ba, được mã hóa theo mẫu tính chẵn lẻ dưới đây. v.v cho đến hết. Ở đây không có ký tự "kết thúc" hay "dừng" cụ thể. Mã vạch được tính là kết thúc khi sau ký tự phân tách (01) không có ký tự hợp lệ nào nữa. Các thành phần số được mã hóa trong mã vạch này sử dụng "tính chẵn" hay "tính lẻ" trong tiêu chuẩn mã hóa bên trái của EAN-13 và có tính số kiểm tra. Lấy tổng của tất cả các số ở vị trí lẻ, sau đó nhân với 3 được số A. Lấy tổng của tất cả các số ở vị trí chẵn, sau đó nhân với 9 được số B. Sử dụng chuỗi số "12345" làm ví dụ, tính được số kiểm tra bằng 1 (xem trên đây). Xét bảng tính chẵn lẻ trên đay thì chuỗi này được mã hóa theo trật tự "Chẵn/Lẻ/Chẵn/Lẻ/Lẻ". Vì thế, quá trình mã hóa giá trị "12345" như là mã vạch bổ sung 5 số của mã vạch UPC sẽ như sau:. Số đầu tiên có giá trị được mã hóa theo tính chẵn, có giá trị bit là 0110011. Số thứ hai có giá trị được mã hóa theo tính lẻ, có giá trị bit là 0010011. Số thứ ba có giá trị được mã hóa theo tính chẵn, có giá trị bit là 0100001. Số thứ tư có giá trị được mã hóa theo tính lẻ, có giá trị bit là 0100011. Số thứ năm có giá trị được mã hóa theo tính lẻ, có giá trị bit là 0110001.
UPC bổ sung 2 số
UPC bổ sung 2 số có thể là UPC-A, UPC-E (ngày nay còn có thêm cả EAN-13, EAN-8) với một mã vạch bổ sung ở bên phải của mã vạch chính. Nó được in bên phải và thấp hơn mã vạch chính. Mã vạch phụ này thông thường có các số in phía trên nó (nhưng cũng có thể in phía dưới như mã vạch chính), được sử dụng để mã hóa các thông tin bổ sung sử dụng trong báo chí và các ấn phẩm định kỳ khác. Người ta cũng có thể bổ sung loại mã vạch mã hóa thêm 5 số nhưng mục đích, cách thức mã hóa và lĩnh vực ứng dụng của chúng không giống với loại bổ sung 2 số.
Những năm gần đây, tình trạng trẻ vị thành niên phạm tội có xu hướng gia tăng. Đặc biệt, xuất hiện những vụ án giết người, cố ý gây thương tích mà đối tượng gây án là học sinh và nạn nhân chính là bạn học và thầy cô giáo của họ. Bên cạnh đó là sự bùng phát hiện tượng học sinh phổ thông hút thuốc lá, tiêm chích ma túy, quan hệ tình dục sớm,… thậm chí là tự sát khi gặp vướng mắc trong cuộc sống. Nhiều em học giỏi, nhưng ngoài điểm số cao, khả năng tự chủ và kỹ năng giao tiếp lại rất kém. Các em sẵn sàng đánh nhau, chửi bậy, sa đà vào các tệ nạn xã hội, thậm chí liều lĩnh từ bỏ cả mạng sống,…. Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng trên, nhưng theo các chuyên gia giáo dục, nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu kỹ năng sống. Các em chưa bao giờ được dạy cách đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống như mẹ cha ly hôn, kết quả học tập kém,…Các em không được dạy để hiểu về giá trị của cuộc sống. Ngày nay, chúng ta đang nói rất nhiều đến kỹ năng sống ( KNS ) và giáo dục kỹ năng sống. Dư luận xã hội và các cơ quan quản lý, giáo dục trong thời gian qua rất quan tâm về một số biểu hiện về tâm lý, cách ứng xử và giải quyết các vấn đề xảy ra trong cuộc sống một cách thiếu định hướng giáo dục của giới trẻ, trong đó có đa phần là đối tượng thanh thiếu niên. Hàng loạt các vụ, việc xảy ra như bạo lực học đường, vi phạm đạo đức, có hành vi cấu thành tội phạm… đã đặt ra câu hỏi “đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng này?”. Phải chăng do các em thiếu kiến thức, kỹ năng sống và hòa nhập xã hội. KNS chính là những kỹ năng tinh thần hay những kỹ năng tâm lý – xã hội giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống. KNS còn được xem như một biểu hiện quan trọng của năng lực tâm lý xã hội giúp cho cá nhân vững vàng trong cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại.Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy giới trẻ Việt Nam vẫn còn rất thiếu các kỹ năng sống cần thiết và điều này đã gây ra nhiều khó khăn cho họ trong công việc và thích ứng trong cuộc sống. Kỹ năng sống (Life Skills) là cụm từ được sử dụng rộng rãi nhằm vào mọi lứa tuổi trong mọi lĩnh vực hoạt động, gợi lên nhiều khả năng, thao tác, thực hiện một hoạt động nào đó.Luôn có một khoảng cách giữa thông tin – nhận thức và hành động. Hiện nay đã có rất nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau về KNS.Theo từ điển Tiếng Việt: Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế. Còn theo từ điển trên mạng Wikipedia: Kỹ năng là sự thành thạo, sự dễ dàng, hoặc khéo léo có được thông qua đào tạo hoặc trải nghiệm. Có ba thành tố cơ bản của kỹ năng là kết quả, sự chắn chắn/ổn định và hiệu quả. Sống là một quá trình hoạt động đòi hỏi con người phải có những kỹ năng nhất định. Khó có thể liệt kê một cách đầy đủ những kỹ năng con người cần có trong quá trình sống. Và mỗi định nghĩa được thể hiện dưới những cách thức tiếp cận khác nhau nhưng thống nhất trên nội dung cơ bản. Thông thường, KNS được hiểu là những kỹ năng thực hành mà con người cần để có được sự an toàn, cuộc sống khỏe mạnh với chất lượng cao. + Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO).KNS gắn với 4 trụ cột của giáo dục:. Học để chung sống (learning to live together): gồm các kỹ năng xã hội như giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông. Như vậy theo quan niệm của UNESCO thì “Kỹ năng sống là năng lực cá nhân để họ thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày”. + Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO): “Giáo dục kỹ năng sống được thiết kế nhằm hỗ trợ và củng cố việc thực thi các kỹ năng tâm lý xã hội một cách phù hợp với nền văn hóa và sự phát triển, nó đóng góp vào sự phát triển của cá nhân và xã hội, việc phòng chống các vấn đề xã hội và sức khỏe, và sự phát triển quyền con người””. Nhìn chung, dựa trên quan điềm này, những kỹ năng thiết thực mà con người cần để có cuộc sống an toàn và khoẻ mạnh, đó là những kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với những người khác một cách hiệu quả hoặc ứng phó với những vấn đề hay những thách thức của cuộc sống hàng ngày như khả năng duy trì trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần biểu hiện qua các hành vi phù hợp khi tích cực tương tác với người khác, với người xung quanh cũng như nền văn hóa xã hội. + Theo UNICEFF, KNS là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Từ KNS có thể thể hiện thành những hành động cá nhân và những hành động đó sẽ tác động đến hành động của những người khác cũng như dẫn đến những hành động nhằm thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở nên lành mạnh. + Trong tài liệu tập huấn hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của Bộ GD- ĐT, KNS là khả năng thực hiện những hành vi thích ứng tích cực, những cách hành xử hiệu quả, giúp cá nhân hoà nhập vào môi trường xung quanh (gia đình, 5 lớp học, thế giới bạn bè…), giúp cá nhân hình thành các mối quan hệ xã hội, phát triển những nét nhân cách tích cực thuận lợi cho sự thành công học đường và thành công trong cuộc sống. Kỹ năng là hành vi giao tiếp ứng xử (quan điểm xem kỹ năng không chỉ là kỹ thuật thực hiện thao tác, mà kỹ năng gắn với nhận thức, giá trị, niềm tin của mỗi cá nhân). Tóm lại, khi xem xét kỹ năng cần lưu ý. Kỹ năng trước hết phải được hiểu là mặt kỹ thuật của hành động, kỹ năng bao giờ cũng gắn với hành động, với nhiệm vụ, lĩnh vực, ngữ cảnh và con người cụ thể. Tính đúng đắn, sự thành thạo, linh hoạt, mềm dảo là tiêu chuẩn quan trọng để xác điinh sự hình thành và phát triển của kỹ năng. Một hành động chưa thể được gọi là có kỹ năng nếu còn mắc nhiều lỗi vụng về, thao tác diễn ra theo khuôn mẫu cứng nhắc. Kỹ năng không phải sinh ra đã có, kỹ năng là sản phẩm của hoạt động thực tiễn. Đó là quá trình con người vận dụng những tri thức và kinh nghiệm vào hoạt động thực tiễn để đạt được mục đích đề ra. Đó là một quá trình luyện tập theo một quy trình nhất định. ♦ Trung tâm huấn luyện dã ngoại Biển: 16 Hồ Quý Ly (27/16 Phó Đức Chính), khu vực Bãi sau, TP. Vũng Tàu, Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Trung tâm Thanh thiếu niên miền Nam (The Southern Youth Center – SYC) là đơn vị đầu tiên tại Việt Nam nghiên cứu, xây dựng và triển khai tổ chức mô hình Học kỳ Quân đội.
Kỹ năng sống
Kỹ năng sống là tập hợp các hành vi tích cực và khả năng thích nghi cho phép mỗi cá nhân đối phó hiệu quả với các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày; nói cách khác là khả năng tâm lý xã hội. Đó là tập hợp các kỹ năng mà con người tiếp thu qua giáo dục hoặc trải nghiệm trực tiếp được dùng để xử lý các vấn đề và câu hỏi thường gặp trong đời sống con người. Các chủ đề rất đa dạng tùy thuộc vào chuẩn mực xã hội và mong đợi của cộng đồng. Kỹ năng sống có chức năng đem lại hạnh phúc và hỗ trợ các cá nhân trở thành người tích cực và có ích cho cộng đồng.
Phân tích đoạn thơ sau: "Những đường Việt Bắc của ta.Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng" trong bài Việt Bắc. Phân tích đoạn thơ sau: "Mình về mình có. mái đình, cây đa" trong bài Việt Bắc. - Tố Hữu được biết đến là lá cờ đầu trong thơ ca cách mạng Việt Nam.- Các tác phẩm thơ Tố Hữu có người đã ví nó như một thước phim quay chậm những trang sử vẻ vang của dân tộc.- “Việt Bắc” là một trong những bài thơ tiêu biểu của Tố Hữu. Tố Hữu được biết đến là lá cờ đầu trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Hồn thơ Tố Hữu là sự kết hợp hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Chính vì vậy mà đọc các tác phẩm thơ của Tố Hữu người đọc có thể thấy được những dấu mốc lịch sử quan trọng của đất nước. Nói về các tác phẩm thơ Tố Hữu có người đã ví nó như một thước phim quay chậm những trang sử vẻ vang của dân tộc. “Việt Bắc” là một trong những bài thơ như thế. “Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc thắng lợi. Đây là lúc mà các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ từ Việt Bắc trở về Hà Nội. Tố Hữu đã tái hiện lại cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người cán bộ với nhân dân Việt Bắc sau thời gian dài sống, chiến đấu và gắn bó cùng nhau trải qua mọi gian khổ. Trong bài thơ tác giả sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc kết hợp lối hát đối đáp như ca dao dân ca để tái hiện cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Câu mở lời đầu tiên giống lời chia tay của những cặp tình nhân đầy ý nhị mà sâu sắc. Nhà thơ đã khéo léo mượn sắc màu tình yêu để thể hiện tình cách mạng. Cách sắp xếp câu chữ, “mình” mở đầu câu thơ, “ta” kết thúc câu thơ cũng gián tiếp thể hiện được sự xa cách, nhớ nhung. Chữ “nhớ” được nhắc lại ba lần đã mở ra dòng cảm xúc lưu luyến, nhớ nhung, tình nghĩa của toàn bài thơ. Tiếng lòng của người ở lại khiến người ra đi không khỏi bồn chồn, xúc động. Tất cả điều đó đã khơi dậy rất nhiều kỉ niệm khó quên trong tâm trí của người chiến sĩ. Nỗi niềm ấy khiến cho cuộc chia ly trở nên bịn rịn, lưu luyến. Nó như một sợi dây níu kéo người ở và người đi. Mười lăm năm dài đằng đẵng đã gắn kết người với người lại với nhau. Họ đã cùng nhau chung sống, cùng nhau trải qua biết bao khó khăn, chia sẻ cho nhau từng miếng cơm, manh áo để đến giờ phút chia ly cảm xúc trào ra thành câu chữ:. Lúc này, “ta với mình” – “mình với ta” như hòa quyện làm một, cộng hưởng cùng nhau thành một khối thống nhất, không tách rời. Hai chữ “đinh ninh” như một sự khẳng định chắc chắn về tình cảm mà người ra đi dành cho những người ở lại. Đó là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý không gì có thể thay thế được. Trở về cuộc sống thành thị, rời xa Việt Bắc, những người cán bộ chiến sĩ mang theo một nỗi nhớ núi rừng, nhớ những ngày gian khổ, nhớ những kỷ niệm kháng chiến gian khó mà nghĩa tình. Một bức tranh tứ bình nhiều màu đã làm hiện lên một bức tranh sinh vùng cao sinh động với những hình ảnh gần gũi, quen thuộc. Trong bức tranh ấy có màu xanh của núi rừng, màu đỏ của hoa chuối, sắc trắng tinh khôi của hoa mơ. Không chỉ là màu sắc, bức tranh còn rộn rã âm thanh tiếng ve, còn là ánh sáng lấp lánh của ánh trăng hiền hòa. Trong bức tranh sinh động đó, hình ảnh con người được hiện lên trong hình ảnh lao động khỏe khoắn: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”, “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hình ảnh con người hiện lên thật giản dị, mộc mạc giữa núi rừng. Thiên nhiên nhiều màu sắc cùng hình ảnh lao động đã làm nên một đoạn thơ trữ tình nhất trong Việt Bắc. Giọng điệu tha thiết đã chuyển sang giọng hào hùng, khí thế. Tố Hữu đã nhân hóa núi rừng Việt Bắc trở thành một sinh thể có linh hồn, thành bức tường bảo vệ vững chắc cho nhân dân Việt Bắc cùng những người cán bộ kháng chiến khỏi vòng vây của quân thù. Rồi Việt Bắc còn hiện lên với những cuộc hành quân sôi động. Ở cuối bài thơ, người đi đã trả lời câu hỏi của người ở:. Qua lời đáp này người đi muốn nhắn ngủ với người ở lại rằng dù cuộc sống thành thị có sung túc, đủ đầy thì tình cảm với những người dân nơi đây vẫn luôn còn mãi. Như vậy tác giả đã khép lại bài thơ bằng tấm chân tình của người ở lại. Kết cấu đầu cuối tương ứng này một lần nữa khẳng định tấm lòng thủy chung son sắc của người đi và người ở. Người ta gọi “Việt Bắc” là một điển hình của thơ ca cách mạng bởi nó là sự kết hợp của chất trữ tình và chính trị. Không chỉ vậy, bài thơ còn thể hiện rất rõ tính dân tộc qua việc sử dụng thể thơ truyền thống cùng lối hát đối đáp quen thuộc, giản dị, gần gũi. Chính bởi những điều đó mà bài thơ đã khơi gợi được những tình cảm cao đẹp nhất của truyền thống dân tộc là tấm lòng thủy chung son sắc. “Việt Bắc” không chỉ là câu chuyện nhỏ chứa đựng câu chuyện lớn. Nó không chỉ kể về cuộc chia tay giữa người cán bộ kháng và đồng bào Việt Bắc mà nó còn cho người đọc thấy được mười lăm năm chiến đấu khó khăn, gian khổ mà hào hùng của dân tộc. Bởi lẽ đó mà đã bao năm nay Việt Bắc vẫn luôn có một vị trí nhất định trong tâm chí độc giả. Nếu nói Phan Bội Châu là người đã mở đường cho nền thơ ca trữ tình chính trị thì có lẽ mấy mươi năm sau Tố Hữu chính là người đã mang đạt đến đỉnh cao, trở thành một hiện tượng có giá trị lâu dài trong nền văn chương hiện đại Việt Nam nói chung và nền thơ ca cách mạng nói riêng. Ngay từ khi còn trẻ Tố Hữu đã thể hiện mình là một nhà thơ, một người chiến sĩ cách mạng tận tâm, tận lực cả trong sáng tác và chiến đấu. Sự giác ngộ lý tưởng cách mạng từ khi mới 18 tuổi và trở thành một trong những Đảng viên trẻ tuổi nhất lúc bấy giờ đã trở thành bước đệm cho sự nghiệp sáng tác nhiều vẻ vang của nhà thơ. Mà đường thơ của Tố Hữu thì luôn gắn liền với các sự kiện quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, phục vị và đóng góp nhiều cho kháng chiến, có thể xem như là những tư liệu lịch sử được viết bằng văn chương, kết tinh của hai tính trữ tình và tính chính trị xuyên suốt. Thật không quá khi nói Tố Hữu là một nhà thơ lý tưởng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, với phong cách sáng tác ổn định, dồi dào, luôn hướng đến cái ta chung, hướng đến những tình yêu lớn, bộc lộ lòng trung thành với cách mạng, sự ca ngợi Đảng và đất nước. Nếu như Từ ấy khiến tên tuổi Tố Hữu bất chợt vụt sáng trên thi đàn Việt Nam, thì Việt Bắc chính là chiến công vang dội nhất của nhà thơ trong sự nghiệp sáng tác, thể hiện rõ ràng sự trưởng thành và hoàn chỉnh trong tư tưởng, phong cách cũng như bút lực của nhà thơ. Việt Bắc đã ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt, tháng 7/1954 chiến dịch Điện Biên Phủ trên không nổ ra và giành thắng lợi tuyệt đối, hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết, pháp rút quân về nước, miền Bắc lập lại hòa bình, chuẩn bị bước sang giai đoạn xây dựng và khôi phục đất nước sau chiến tranh. Đến tháng 10/1954, nhận thấy tình hình đất nước có nhiều chuyển biến tích cực, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị dời toàn bộ cơ quan đầu não của đất nước từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội để phục vụ cho các giai đoạn chính trị tiếp theo của đất nước. Như vậy sau gần 15 năm trời gắn bó, sống và chiến đấu cùng nhau như những người thân ruột thịt, nếm trải nhiều cay đắng ngọt bùi, thì đến hôm nay những chiến sĩ cách mạng phải chia tay vùng đất và những con người thấm đẫm ân tình thủy chung để trở về miền xuôi chờ nhiệm vụ mới. Nhân sự kiện lịch sử có tính thời sự ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc để bộc lộ những tình cảm, những ân tình của người ra đi đối với người ở lại, đồng thời cũng là một bản tổng kết kháng chiến có tính chất chính trị, điểm lại những mốc sự kiện lịch sử quan trọng trong suốt 10 năm trời kháng chiến chống Pháp tại núi rừng Việt Bắc. Có thể nói rằng ở phương diện tổng kết quá trình kháng chiến này, Việt Bắc và Bình Ngô đại cáo cũng có những nét tương đồng nhất định, dù rằng bản chất của hai tác phẩm là hoàn toàn khác nhau. Trước hết khung cảnh chia tay đã được mở ra với những vần thơ rất mực ân tình, lưu luyến, tái hiện lại khung cảnh chia ly của người ra đi và người ở lại, những con người đã từng có một khoảng thời gian dài sống và chiến đấu bên nhau, rất mực gắn bó, thân thuộc, mang trong mình những tình cảm sâu nặng, ấn tượng khó quên. “ Mình về mình có nhớ ta?Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.Mình về mình có nhớ không?Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn. - Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân lyCầm tay nhau biết nói gì hôm nay.”. Người ở lại là người lên tiếng trước, giọng thơ bùi ngùi, xúc động, không chỉ bộc lộ cảm xúc níu kéo sự tiếc nuối khi phải chia xa người chiến sĩ cách mạng sau một thời gian dài gắn bó mà còn là sự khéo léo nhắc lại, gợi mở ra cả một vùng trời kỷ niệm “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Bên cạnh đó cũng thể hiện tình cảm lưu luyến, buồn bã nhân buổi phân ly không chỉ là đối với người ở lại mà còn là của cả người ra đi về miền xuôi, nỗi xúc động khiến đôi bên đều “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Mạch cảm xúc, hay lối nói đối đáp “ta-mình”, cách xưng hô tựa như buổi chia tay của những người yêu nhau mà Tố Hữu sử dụng, đã mang đến những rung cảm mới lạ, đậm âm hưởng vùng miền Tây Bắc, rất thiết tha, ân tình, sự gắn bó sâu sắc, bền chặt giữa đôi bên. Dễ dàng đưa người đọc hòa vào một bầu trời ký ức mà cả hai nhân vật trữ tình “ta” và “mình” luân phiên nhau đối đáp, gợi lại một cách dịu dàng, đằm thắm, như những lời tâm tình, thủ thỉ đầy bịn rịn của đôi lứa yêu nhau. - Ta với mình, mình với taLòng ta sau trước mặn mà đinh ninhMình đi, mình lại nhớ mìnhNguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu.Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nươngNhớ từng bản khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi về.Nhớ từng rừng nứa bờ treNgòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầyTa đi, ta nhớ những ngàyMình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi. Thương nhau, chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùngNhớ người mẹ nắng cháy lưngÐịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngôNhớ sao lớp học i tờÐồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoanNhớ sao ngày tháng cơ quanGian nan đời vẫn ca vang núi đèo.Nhớ sao tiếng mõ rừng chiềuChày đêm nện cối đều đều suối xa. Người ở lại đã nhắc nhở người ra đi về những ký ức sâu nặng trong suốt một chặng đường chiến đấu dài lâu của dân tộc. Đó là sự gian khổ trong sinh hoạt khi cách mạng phải đối mặt với chốn rừng sâu nước độc, nhiều thiếu thốn, hoàn cảnh chiến đấu khó khăn “Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”, sự thiếu thốn cái ăn, cái mặc trong những năm đầu với “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”. Thế nhưng sự vất vả, khó khăn chồng chất ấy cũng không thể nào đánh gục được ý chí của những người làm cách mạng, bởi Việt Bắc đã cho ta những “trám bùi”, “măng mai” dồi dào, những con người Việt Bắc “đậm đà lòng son” và cả núi rừng thủy chung gắn bó, từ thuở còn kháng Nhật, còn là Việt Minh với những sự kiện, những trận chiến gắn liền với các địa danh nổi tiếng như “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”. Đối đáp lại với những lời gợi nhắc kỷ niệm, thấm đẫm tình cảm, sự gắn bó tha thiết, sâu nặng, người ra đi đã một lòng khẳng định tình cảm của mình dành cho Việt Bắc và cả con người Việt Bắc, những người mà sắp tới đây sẽ phải chia xa, ngày gặp lại chưa biết là khi nào. Rằng “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh/Mình đi, mình lại nhớ mình/Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu./Nhớ gì như nhớ người yêu”. Đó là thứ tình cảm dạt dào “đinh ninh” trong dạ trước sau một lòng, đi rồi hãy vẫn còn mãi nhớ, nghĩa tình sâu nặng tựa như nước chảy trong nguồn, gắn bó, tha thiết, nhớ thương như tình cảm của những người yêu nhau. Đồng thời nhân vật “ta” cũng bộc lộ nỗi nhớ, những kỷ niệm khắc ghi trong lòng về thiên nhiên Việt Bắc với cảnh “trăng lên”, “nắng chiều”, “bản khói cùng sương”, “rừng nứa bờ tre”, “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”, nhớ cả những ngày sóng vai, cùng nhau chia sẻ “ngọt bùi đắng cay”. Mà mai đây khi về miền xuôi, xa rời Việt Bắc, người ra đi vẫn sẽ giữ nguyên những kỷ niệm đáng nhớ, những xúc động khó quên về một vùng đất lắm ân tình, những con người chân chất, thật thà, đùm bọc cách mạng bằng cả tấm lòng son sắt “Thương nhau, chia củ sắn lùi/Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Nỗi nhớ ấy không chỉ bộc lộ trong ký ức về những cảnh điểm của Việt Bắc, mà còn là ký ức về những ngày tháng cùng hoạt động, cùng sinh hoạt với những con người nơi đây, vượt qua tất cả mọi gian khó, sao có thể quên những “lớp học i tờ”, những người mẹ địu con lên núi bẻ ngô nuôi cách mạng, những giờ liên hoan vui vẻ, những ngày tháng sinh hoạt cơ quan nhiều khó khăn, những tiếng chày, tiếng mõ vang vọng núi rừng,… Tất cả đã khắc sâu vào trí nhớ của người ra đi bằng những tình cảm quý giá và trân trọng nhất.
Việt Bắc (bài thơ)
Xem các nghĩa khác về Việt Bắc tại bài Việt Bắc (định hướng)Việt Bắc là một bài thơ lục bát dài 150 câu, cấu trúc theo hình thức đối đáp của lối hát giao duyên trong dân ca, do nhà thơ Tố Hữu sáng tác năm 1954 và được xuất bản trong tập thơ mang tên Việt Bắc. Về nội dung, "Việt Bắc" là một bài thơ trữ tình cách mạng, Tố Hữu đã diễn tả một cách hình tượng hóa trong bài thơ Việt Bắc mối tình trong 15 năm của hai nhân vật văn học là chiến khu Việt Bắc với người cán bộ cách mạng, như một mối tình riêng mà người cán bộ cách mạng và Việt Bắc là đôi bạn tình; cũng là nỗi nhớ quê hương và con người Việt Bắc của người cán bộ cách mạng, nhớ những kỉ niệm kháng chiến khó khăn hào hùng. Về nghệ thuật, bài thơ Việt Bắc sử dụng thể thơ lục bát với những hình ảnh ví von, so sánh gần với lời ăn tiếng nói của dân tộc.
- Nước trên Sao Hỏa là một chủ đề được bàn luận nhiều trong các nghiên cứu và quá trình thám hiểm Sao Hỏa. Vậy Nước trên Sao Hỏa có gì đặc biệt?. Nước là một yếu tố quan trọng bậc nhất để giúp duy trì sự sống, trong quá khứ của hành tinh Sao Hỏa, cũng như trong tương lai thám hiểm hành tinh này. Hiện tại có rất nhiều bằng chứng khoa học cho thấy nước tồn tại với lượng nhỏ trên hành tinh đỏ. Hàng tỉ năm trước, Sao Hỏa đã có thể còn có nhiều nước hơn hiện nay, và có thể có vị mặn cao. Các dấu hiệu xói mòn của nước trên bề mặt Sao Hỏa là chứng cứ thuyết phục nhất về những thay đổi thời tiết và sự tồn tại nước lỏng trong quá khứ của Sao Hỏa. Việc sử dụng nguồn nước còn tồn tại ngày nay là yếu tố sống còn cho sự đổ bộ của con người lên hành tinh này. Theo các quan sát thu được từ các dụng cụ đo đạc đã đưa lên hành tinh và các vệ tinh bay quanh nó, cùng các quan sát từ Trái Đất, chúng ta hiện có được hiểu biết chi tiết về chu trình thay đổi của hơi nước trong khí quyển Sao Hỏa diễn ra theo mùa trong năm Sao Hỏa. Nguồn cung cấp lớn nhất cho hơi nước đến từ vùng băng tuyết quanh cực Bắc, cứ đến cuối mùa xuân đầu mùa hè trên bắc bán cầu, một lượng lớn nước đá trên bề mặt ở vùng này lại thăng hoa và được gió đưa xuống phía nam. Sự đều đặn của chu trình hơi nước quan sát được cho phép chúng ta tạo ra các mô hình tiên đoán trước lượng hơi nước trong khí quyển Sao Hỏa bất cứ ngày nào. Toàn bộ lượng hơi nước trong khí quyển Sao Hỏa rất nhỏ. Nếu toàn bộ nước trong khí quyển này rơi thành mưa trong một thời điểm, chúng sẽ tạo ra một biển nước chỉ dày vài trăm cm bao quanh bề mặt, ngoài ra còn có thêm các dữ kiện khác về nước lỏng đã từng tồn tại trên bề mặt Hỏa Tinh nhờ việc xác định được những chất khoáng đặc biệt như hematit và goethit, cả hai đôi khi được hình thành trong sự có mặt của nước lỏng. Một số chứng cứ trước đây được cho là ám chỉ sự tồn tại của các đại dương và các con sông cổ đã bị phủ nhận bởi việc nghiên cứu từ các bức ảnh được gửi về từ tàu Mars Reconnaissance Orbiter. Khoáng chất này chỉ có trong môi trường nước axít, đây cũng là biểu hiện của việc nước lỏng đã từng tồn tại trên Sao Hỏa. Các mô phỏng thực tế ảo trên máy tính cho thấy hơi nước trong khí quyển Sao Hỏa còn phải tương tác với một nguồn nước nữa khá lớn nằm dưới bề mặt hành tinh. Một lượng nước lớn khoảng 10 lần toàn bộ nước có trong khí quyển có thể được hấp thụ trong vài xentimét đất đá trên bề mặt. Đây có thể là nguồn thu nước quan trọng và là mục tiêu khai thác cho các chuyến đổ bộ tương lai lên hành tinh. Các tính toán cho thấy nguồn nước hấp thụ trên mặt đất cung cấp hơi nước cho khí quyển và được trao đổi qua lại giữa hai bán cầu nhờ gió thổi, quanh năm trên Sao Hỏa. Giới khoa học đã quyết định lấy tên cô đặt cho thiên thạch mà cô khám phá ra bên ngoài Thái Dương hệ của chúng ta. Đó là giáo sư Jane Lưu. Ngày 20/3, giải thưởng Toán học danh giá Abel năm 2018 đã được được công bố với vinh dự thuộc về nhà toán học người Canada Robert Langlands. Khoảng 6.000 nhà khoa học cả nước đủ các chuyên ngành, lĩnh vực đang gấp rút biên soạn bách khoa toàn thư Việt Nam. Những nỗ lực ứng phó với dịch bệnh Covid-19 vừa qua và quyết tâm tiên phong chuyển đổi số thời gian tới của ngành Giáo dục Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế như UNICEF, AUF, cùng giáo sư Trường ĐH Harvard ghi nhận, đánh giá cao. Ngày 14/10, hai chiếc băng ca áp lực âm do Trường ĐH Bách khoa Hà Nội nghiên cứu, thiết kế và chế tạo vừa được trao cho Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương và Bệnh viện Bạch Mai. Hội đồng Giáo sư Nhà nước vừa công bố danh sách ứng viên được hội đồng giáo sư ngành, liên ngành đề nghị xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư năm 2020. Khi được bổ nhiệm làm giáo sư, GS Ngô Bảo Châu nghĩ từ đây mình sẽ có cuộc sống dư dả hơn. Nhưng ông đã sốc trong ngày nhận tháng lương đầu tiên. Với số tiền này, còn không đủ để mua vé máy bay về Việt Nam. ".Chúng ta đang đối mặt với tình trạng chảy máu chất xám, đội ngũ trí thức ưu tú được đào tạo ở nước ngoài thì không về và một số trí thức trong nước cũng tìm kiếm cơ hội ra làm việc ở nước ngoài". Từ một cậu bé thích chơi trò nói chuyện qua những ống sữa bò, ở tuổi 41, GS Dương Quang Trung vừa được bổ nhiệm vào vị trí Chủ tịch nghiên cứu về vấn đề của mạng viễn thông 6G của Hội Kỹ thuật Hoàng gia Anh. Một nhóm các nhà khoa học tại ĐH Quốc gia Hà Nội đã sử dụng năng lượng mặt trời để thắp sáng các bóng đèn mà không cần sử dụng đến điện, thân thiện với môi trường. Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST) vẫn là đơn vị dẫn đầu về số lượng công bố quốc tế trên cả nước trong giai đoạn từ 1/7/2019 – 30/6/2020. Theo đó, có sự thay đổi về tiêu chí bài báo khoa học đối với ứng viên các chuyên ngành thuộc ngành Khoa học quân sự và ngành Khoa học an ninh liên quan đến bí mật nhà nước. Ngày 18/8, Bộ GD-ĐT đã tổ chức khai mạc Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa (SGK) lớp 2 chương trình giáo dục phổ thông mới. “Việc so sánh đẳng cấp giữa trường này với trường khác thông qua xếp hạng; phân định thứ hạng trên dưới quá rõ ràng dẫn tới việc các trường đại học chuyển từ ‘hợp tác’ sang ‘cạnh tranh’ và ‘ganh đua’”. Bảng xếp hạng đối sánh và gắn sao cho 30 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và ASEAN do một nhóm các nhà khoa học thuộc ĐH Quốc gia Hà Nội thực hiện đã cho thấy những kết quả thú vị. Hai nữ sinh Ấn Độ đã phát hiện ra một tiểu hành tinh đang dần chuyển quỹ đạo và di chuyển về Trái đất. Sáng 23/7, ĐH Quốc gia Hà Nội phối hợp Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức hội nghị tổng kết chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước “Khoa học và công nghệ phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc”. Sáng nay (21/7), Bộ GD-ĐT đã tổ chức lễ phát động cuộc thi “Học sinh, sinh viên với ý tưởng khởi nghiệp” năm 2020. Nhóm sinh viên đạt giải Nhất sẽ có cơ hội tham gia đàm phán để nhận đầu tư số tiền 40 nghìn USD. Tổ chức xếp hạng đại học Shanghai Ranking Consultancy (Trung Quốc) vừa công bố bảng xếp hạng 500 đại học tốt nhất thế giới theo lĩnh vực năm 2020. Theo đó, ngành Vật lý của ĐH Quốc gia Hà Nội xếp hạng 401 – 500, đứng thứ 1 tại Việt Nam. Khi xây dựng chương trình phổ thông mới, Bộ GD-ĐT đã chỉ đạo tích hợp giáo dục tài chính vào 6 môn học gồm Toán, Ngữ văn, Giáo dục công dân, Tự nhiên và Xã hội, Công nghệ, Hoạt động trải nghiệm. Bắt đầu nghiên cứu từ 20 năm trước, đến nay, hệ thống thiết bị sấy thăng hoa của PGS.Nguyễn Tấn Dũng, Trưởng khoa Công nghệ Hóa (Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM) đã đạt một bước tiến mới, giúp nhiều sản phẩm của Việt Nam tăng cao giá trị. Tạp chí Vật liệu và Linh kiện tiên tiến là tạp chí khoa học đầu tiên của Việt Nam lọt vào top 25% uy tín thế giới trong lĩnh vực khoa học vật liệu.
Nước trên Sao Hỏa
Nước trên Sao Hỏa là một chủ đề khoa học quan trọng trong các nghiên cứu và quá trình thám hiểm Sao Hỏa. Lý do chính vì nước ở thể lỏng là một yếu tố quan trọng bậc nhất để giúp duy trì sự sống, trong quá khứ của hành tinh này; cũng như trong tương lai thám hiểm hành tinh này. Hiện tại có rất nhiều bằng chứng khoa học cho thấy nước tồn tại với lượng nhỏ trên hành tinh đỏ. Trong quá khứ, Sao Hỏa đã có thể còn có nhiều nước hơn hiện nay, và có thể có vị mặn cao. Các dấu hiệu xói mòn của nước trên bề mặt hành tinh là chứng cứ thuyết phục nhất về những thay đổi thời tiết và sự tồn tại nước lỏng trong quá khứ của Sao Hỏa. Việc sử dụng nguồn nước còn tồn tại ngày nay là yếu tố sống còn cho sự đổ bộ của con người lên hành tinh này. Theo các quan sát thu được từ các dụng cụ đo đạc đã đưa lên hành tinh và các vệ tinh bay quanh nó, cùng các quan sát từ Trái Đất, chúng ta hiện có được hiểu biết chi tiết về chu trình thay đổi của hơi nước trong khí quyển Sao Hỏa diễn ra theo mùa trong năm Sao Hỏa.
Nói chung thì cũng có duyên, vì quyển này mỏng lét và chỉ để gáy dọc lúc được bày ở hiệu sách nên rất khó nhìn thấy. Tác phẩm mở đầu từ Ông Luật sư Utterson và từ lời kể của một người bạn của ông, ông biết đến sự tồn tại của một con người tán ác, bất nhân, đã dã man giẫm đạp lên đứa bé hắn lỡ đụng phải rồi bỏ đi. Càng bất ngờ hơn, con người hung ác này lại có mối liên hệ không tầm thường đến một trong những người bạn thân của ông luật sư – Bác sĩ Jekyll. Bị thúc đẩy bởi tò mò, ông Utterson đã tự mình tìm kiếm người đàn ông kỳ lạ này, nhờ vào những thông tin ông có được. Cuối cùng ông cũng gặp được ông ta, người đàn ông nhỏ thó, bụi bặm và… gây cho người khác một mối ác cảm, ghê sợ không giải thích được. Qua vài câu hỏi chuyện, ông Utterson biết được tên người đàn ông này là Hyde. Cái tên này khiến ông luật sư giật mình, vì trong ngăn bàn ông chính là bản di chúc của Bác sĩ Jekyll. Trong đó viết rằng, mọi tài sản của Bác sĩ Jekyll, một khi ông chết đi hay biến mất quá ba tháng, sẽ được chuyển nhượng cho ông Hyde. Chính sự kỳ lạ của bản di chúc này đã khiến ông nhớ rõ cái tên Hyde. Ông đã nhiều lần đến hỏi Bác sĩ Jekyll về cái tên Hyde này và ý nghĩa thật sự của bản di chúc như một trò đùa kia. Ông lo sợ rằng bạn mfinh đang gặp một kẻ tống tiền, và hắn ta đang nắm giữ một điều bí mật gì đó, một quá khứ tối tăm của bạn mình và lấy đó làm cớ khống chế vị Bác sĩ này. Thế nhưng tất cả những gì ông nhận được chỉ là những lần tránh gặp mặt, tránh giải thích và tránh đề cập đến. Sự việc dần trôi qua. Nhưng bất chợt một vụ án mạng kỳ lạ đã xảy đến, làm rúng động cả Luân Đôn, vụ án giết ngài Huân tước Danvers Carew. Cảnh sát vào cuộc nhưng mãi không tìm ra bất cứ dấu vết nào. Bản thân luật sư Utterson biết được kẻ gây án thực chất chính là Hyde, nhưng qua sự nài nỉ của Bác sĩ Jekyll, ông đã không khơi vụ này ra, nhằm tránh ảnh hưởng đến danh tiếng bạn mình. Mọi việc sau vụ án mạng dần quay lại bình thường. Bác sĩ Jekyll đã trở lại là chính mình, thậm chí còn tốt bụng, thân thiện với mọi người, hơn hết thảy là với bạn bè. Nhưng đột nhiên, Bác sĩ khép mình lại, không chào đón bất cứ ai đến thăm nữa. Luật sư Utterson cũng kinh ngạc về việc cắt đứt liên hệ của Bác sĩ Jekyll với người bạn thân còn lại của cả hai, Bác sĩ Lanyeon. Sau cái chết khó hiểu của Bác sĩ Lanyeon và sự biến mất kỳ lạ của Bác sĩ Jekyll, Luật sư Utterson đã quyết định phá vỡ bức tường bí mật bao quanh nhân vật Hyde này. Hai bức thư cuối tác phẩm, một là chúc thư của Lanyeon, một là chúc thư của Bác sĩ Jekyll, đã hé lộ toàn bộ câu chuyện. Có vẻ nhiều người không còn lạ lùng với thuật ngữ “Bác sĩ Jekyll và Ông Hyde”. Nếu có ai chưa biết , thì đó là nói về Hai mặt của một con người. Đây là phân theo hai mặt cơ bản nhất, Mặt tốt và Mặt xấu. Bản thân Bác sĩ Jekyll cũng đã từng công nhận: “Con người là tập hợp của rất nhiều mặt.”. Cũng không thể gọi là nhân cách, vì mỗi nhân cách cũng đều bao gồm khía cạnh tốt và xấu. Nhưng không, cái nhân cách chúng ta đọc được trong tác phẩm vẫn là của Bác sĩ Jekyll, nhưng Bác sĩ Jekyll là Mặt tốt, còn Ông Hyde lại là Mặt xấu. Có thể nói, Bác sĩ Jekyll chính là chủ thể. Chính cái niềm đam mê nghiên cứu, thêm vào đó là ham muốn thỏa mãn những nhu cầu xấu xa của mình mà không cần kiềm chế, Bác sĩ đã tạo ra Hyde. Nhờ vậy ông đã có thể thỏa mãn những ham muốn ác độc của bản thân mà không làm ảnh hưởng đến sự nghiệp và bộ mặt cái thiện của mình. Chính vì Bác sĩ có thể kiềm chế, nên Jekyll, một người nhân hậu, tốt bụng mới là mặt chiếm ưu thế, thế nên ông Hyde bao giờ cũng nhỏ thó, khắc khổ như chính mặt xấu trong vị Bác sĩ này. Nhưng rồi dần dần, cơn thỏa mãn ngày càng chiếm ưu thế và Hyde ngày càng vuột khỏi tầm kiểm soát, dần giết chết Bác sĩ Jekyll. Tác phẩm không chỉ đơn giản kể về câu chuyện của một con người lẫn lộn giữa hai mặt của tính cách mà xa hơn, còn khẳng định rằng mỗi người, dù tốt dù xấu, đều có những mặt trái ngược nhau trong tiềm thức, ảnh hưởng đến nhau nhưng chỉ có mặt nào chiếm ưu thế mà thôi. Bất cứ lúc nào, bất cứ thời điểm nào, tùy vào cách ta suy nghĩ mà từng mặt thích hợp sẽ được thể hiện. Bạn chẻ còn thích một điểm nữa. Bác sĩ Jekyll trước đó là chủ thể, nên ông cảm thấy hối hận, ghê tởm, lo sợ cho chính những hành động của mình. Trong khi đó, ông Hyde, vốn lúc này chỉ là một thế thân, lại không có những cảm xúc như thế. Sau này, khi Hyde chiếm vị trí chủ thể, mặc dù có lẽ chính ông ta cũng không để ý, nhưng ông ta lại mang tính “người” nhiều hơn. Quyển này mỏng tanh nên nếu có thời gian tí chút thì đọc nháng là hết, cũng không đến nỗi rắc rối đến mức não khó tiêu hóa. Mình cũng đang kiếm lại nó bạn ơi, lần trước MF của mình bị xóa với máy cũng sửa lại nên bị mất. Đương nhiên ai hiểu được dòng này thì cũng hiểu được đây là Bản dịch tiếng Việt. Và mặc dù có vẻ hoành tráng trông rất giả tạo, nhưng đây cũng không phải Bản dịch chính thức. Thế nên, mong mọi người đừng xách đi lung tung rồi bị túm cổ bởi một thế lực nào đó mà bạn chẻ cũng không biết được. Mọi người có thể Email riêng cho Bạn chẻ để nhận Bản dịch tiếng Anh của Truyện. (Nhưng bạn chẻ rất mong là đừng ai Email, vì đọc Bản Anh rồi thì sẽ thấy Bản dịch của bạn chẻ dở như, à không, HƠN HẠCH!. Email của bạn chẻ, lẩn đâu đó tại Trang này. Nhưng một lần nữa, mong mọi người đừng cố tìm kiếm. Bởi vì, cái Bản dịch nó dở như, à không, HƠN HẠCH!. Ngoài Truyện thì Bạn chẻ cũng đôi lúc bung lụa tí chút trong Wordpress, mà cái "tí chút" ấy có thể là "khá nhiều". Thế nên mong thiên hạ không quá bận tâm về vấn đề này. Chúng Ta, nói chung là chấp nhận nhau chút, cho nó yên ổn cả làng. Mà có chấp nhận hay không thì cái Làng nó vẫn như vậy thôi nghen. Thêm dòng này để kết thúc phần lảm nhảm thôi. Tại bạn chẻ khoái số 7.
Bác sĩ Jekyll và ông Hyde
Bác sĩ Jekyll và ông Hyde (nguyên tác: Strange Case of Dr. Jekyll and Mr. Hyde, dịch nghĩa: Vụ án kỳ lạ của bác sĩ Jekyll và ông Hyde) là một tác phẩm của Robert Louis Stevenson sáng tác năm 1886. Tác phẩm còn được biết đến với tên gọi đơn giản Jekyll & Hyde. Truyện kể về một luật sư ở Luân Đôn tên Gabriel John Utterson đang điều tra về sự hiện diện kỳ lạ giữa người bạn cũ của ông, Henry Jekyll và tên khốn Edward Hyde. Tiểu thuyết đã được chuyển thể thành các ngôn ngữ khác nhau, và cụm từ "Jekyll & Hyde" đã được sử dụng để nói về một người có tính cách và đạo đức rất khác nhau trong nhiều trường hợp, mà tiếng Việt thường hay gọi là "đừng trông mặt mà bắt hình dong", "nhìn vây nhưng không phải vậy". Gabriel John Utterson và anh họ Richard Enfield tiến đến gần một cánh cổng của một ngôi nhà lớn trong khi đi dạo. Enfield kể với Utterson rằng tháng trước ông có chạm mặt một tên trông có vẻ nham hiểm tên Edward Hyde, chà đạp một cô gái trẻ sau khi lỡ va vào người hắn.
Bệnh HIV- AIDS- SIDAlà tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh Human Immuno-deficiency Virus (Virusgây suy giảm miễn dịch ở người). là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh Human Immuno-deficiency Virus (Virusgây suy giảm miễn dịch ở người). AIDS là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh: Acquired Immuno Deficiency Syndrom (Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải). Trước đây, bệnh được gọi là SIDA (viết tắt từ tiếng Pháp: Syndrome dImmuno Deficience Acquise), nhưng do tên này trùng với tên của Tổ chức phát triển quốc tế Thụy Điển SIDA và tên của Tổ chức CIDA (Canađa) cũng gọi là "Si đa" nên thống nhất gọi là AIDS để tránh nhầm lẫn và phù hợp với tên quốc tế. là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh: Acquired Immuno Deficiency Syndrom (Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải). Trước đây, bệnh được gọi là SIDA (viết tắt từ tiếng Pháp: Syndrome dImmuno Deficience Acquise), nhưng do tên này trùng với tên của Tổ chức phát triển quốc tế Thụy Điển SIDA và tên của Tổ chức CIDA (Canađa) cũng gọi là "Si đa" nên thống nhất gọi là AIDS để tránh nhầm lẫn và phù hợp với tên quốc tế. AIDS là một bệnh mạn tính do HIV gây ra. HIV phá huỷ các tế bào của hệ miễn dịch, khiến cơ thể không còn khả năng chống lại các virus, vi khuẩn và nấm gây bệnh. Do đó bệnh nhân dễ bị một số loại ung thư và nhiễm trùng cơ hội mà bình thường có thể đề kháng được. là một bệnh mạn tính do HIV gây ra. HIV phá huỷ các tế bào của hệ miễn dịch, khiến cơ thể không còn khả năng chống lại các virus, vi khuẩn và nấm gây bệnh. Do đó bệnh nhân dễ bị một số loại ung thư và nhiễm trùng cơ hội mà bình thường có thể đề kháng được. Bản thân virus và nhiễm trùng được gọi là HIV. Thuật ngữ AIDS được dùng để chỉ giai đoạn muộn hơn của bệnh. Như vậy, thuật ngữ nhiễm HIV/AIDS được dùng để chỉ những giai đoạn khác nhau của cùng một bệnh. HIV được lây truyền qua các dịch cơthể, nhưmáu, tinh dịch, dịch tiết âm đạo và sữa mẹ. Nó gây bệnh bằng cách gắn vào các tế bào T giúp đỡ CD4+ (còn gọi là limpho bào T4), một loại bạch cầu tham gia quá trình đáp ứng miễn dịch chống lại nhiễm trùng và ung thư. Khi số lượng tế bào T CD4+ giảm, người đó dễ mắc một số bệnh mà cơthể người khoẻ mạnh bình thường đủ sức chống lại. Các bệnh nhiễm trùng cơhội này là nguyên nhân tử vong chính ở người mắc AIDS. HIV cũng nhiễm vào các tế bào não, gây một số rối loạn thần kinh. Trước đây việc một người đã chuyển sang giai đoạn AIDS hay chưa được xác định dựa trên các bệnh cơhội và các biểu hiện của chúng ở người nhiễm HIV. Ngày nay, chẩn đoán dựa vào việc đếm số lượng tế bào CD4+, điều này cho phép đưa ra chẩn đoán sớm hơn. Dùng chung nhà tắm, bể bơi, bồn tắm, mặc chung quần áo, ngồi chung ghế,. Côn trùng và súc vật không lây truyền HIV: ruồi, muỗi, chấy, rận, chó, mèo, gà, chim,. - Nổi hạch ít nhất là 2 nơi trên cơ thể (không kể hạch bẹn) kéo dài trên 3 tháng. Khi có ít nhất 2 triệu chứng chính + 1 triệu chứng phụ, mà không do các nguyên nhân ngoài HIV như: ung thư, suy dinh dưỡng, thuốc ức chế miễn dịch,. Xét nghiệm kháng thể. Là loại xét nghiệm được tiến hành phổ biến nhất, gián tiếp chỉ ra sự có mặt của HIV thông qua việc phát hiện kháng thể kháng HIV. Qui trình gồm sàng lọc ban đầu bằng sét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết enzym (ELISA). Nếu kết quả (+), xét nghiệm ELISA được làm lại, nếu vẫn dương tính, kết quả được xác nhận bằng một phương pháp khác, thường là Western blot hoặc xét nghiệm miễn dịchhuỳnh quang. Là loại xét nghiệm được tiến hành phổ biến nhất, gián tiếp chỉ ra sự có mặt của HIV thông qua việc phát hiện kháng thể kháng HIV. Qui trình gồm sàng lọc ban đầu bằng sét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết enzym (ELISA). Nếu kết quả (+), xét nghiệm ELISA được làm lại, nếu vẫn dương tính, kết quả được xác nhận bằng một phương pháp khác, thường là Western blot hoặc xét nghiệm miễn dịchhuỳnh quang. Xét nghiệm trực tiếp: Phát hiện chính bản thân HIV, bao gồm các xét nghiệm kháng nguyên (kháng nguyên p24), nuôi cấy HIV, xét nghiệm acid nucleic của tế bào lympho máu ngoại ci, và phản ứng chuỗi polymerase. Các xét nghiệm máu hỗ trợ chẩn đoán và giúp đánh giá mức độ suy giảm miễn dịch, gồm đếm tế bào T CD4+ và CD8+, tốc độ máu lắng, đếm tế bào máu toàn phần, mỉcoglobulin beta huyết thanh , kháng nguyên p24. hỗ trợ chẩn đoán và giúp đánh giá mức độ suy giảm miễn dịch, gồm đếm tế bào T CD4+ và CD8+, tốc độ máu lắng, đếm tế bào máu toàn phần, mỉcoglobulin beta huyết thanh , kháng nguyên p24. Các xét nghiệm phát hiện bệnh lây qua đường tình dục và nhiễm trùng cơ hội như giang mai, viêm gan B, lao. Việc điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS khá phức tạp và tốn kém nhưng chỉ giúp kéo dài sự sống chứ không chữa khỏi được bệnh. iệc điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS khá phức tạp và tốn kém nhưng chỉ giúp kéo dài sự sống chứ không chữa khỏi được bệnh. - Thuốc chống virus: CÁc thuốc chống virus ức chế sự phát triển và nhân lên của HIV ở những giai đoạn khác nhau trong vòng đời của virus. Hiện có một số nhóm như:. + Các chất ức chế men phiên mã ngược tương tự nucleosid (NRTI): đây là nhóm thuốc chống retrovirus đầu tiên được triển khai. Chúng ức chế sự sao chép của một enzym HIV là men phiên mã ngược. Một thuốc mới hơn là emtricitabine phải được dùng phối hợp với ít nhất là 2 thuốc AIDS khác, điều trị cả HIV và viêm gan B. + Các chất ức chế protease (PI): Nhóm thuốc này cản trở sự nhân lên của HIV ở giai đoạn muộn hơn trong vòng đời của nó bằng cách tác động vào enzym protease của virus, khiến cho HIV bị rối loạn cấu trúc và không gây nhiễm. + Các chất ức chế men phiên mã ngược phi nucleosid (NNRTI). Những thuốc này gắn trực tiếp với men phiên mã ngược, gồm các thuốc nevirapine, delavirdine và efavirenz. + Các chất ức chế men phiên mã ngược nucleotid (NtRTI). Những thuốc này hoạt động rất giống chất ức chế men phiên mã ngược tương tự nucleotid nhưng tác dụng nhanh hơn. Thuốc duy nhất trong nhóm này là tenofovir ức chế cả HIV và viêm gan B, tỏ ra có hiệu quả ở bệnh nhân kháng NRTI. + Các chất ức chế hoà nhập: không cho virus nhân lên bằng cách ngăn không cho màng virus hoà nhập với màng của tế bào khỏe mạnh. Thuốc đầu tiên trong nhóm này là enfuvirtide tỏ ra ức chế được ngay cả những chủng HIV kháng thuốc mạnh nhất. - Thuốc điều hoà miễn dịch: Giúp tăng cường hệ miễn dịch, như: Alpha-interferon, interleukin 2, Ioprinasine,. - Thuốc phòng ngừa và điều trị bệnh cơ hội: Nhiều thuốc được sử dụng có hiệu quả để phòng ngừa và điều trị một số bệnh cơ hội xuất hiện ở người nhiễm HIV/AIDS. - Sống lành mạnh, chung thuỷ một vợ một chồng và cả hai người đều chưa bị nhiễm HIV. Không quan hệ tình dục bừa bãi. - Trong trường hợp quan hệ tình dục với một đối tượng chưa rõ có bị nhiễm HIV không, cần phải thực hiện tình dục an toàn để bảo vệ cho bản thân bằng cách sử dụng bao cao su mới (condom, áo mưa, bao kế hoạch) đúng cách. - Dùng thuốc diệt tinh trùng và HIV: phổ biến là Nonoxynol-9 (Menfagol) được làm dưới dạng kem bôi, viên đặt, hoặc tẩm vào màng xốp, bao cao su. - Chỉ truyền máu và các chế phẩm máu khi thật cần thiết, và chỉ nhận máu và các chế phẩm máu đã xét nghiệm HIV. - Hạn chế tiêm chích. Chỉ sử dụng bơm kim tiêm vô trùng. Không dùng chung bơm kim tiêm. Sử dụng dụng cụ đã tiệt trùng khi phẫu thuật, xăm, xỏ lỗ, châm cứu. - Phụ nữ nhiễm HIV không nên mang thai, vì tỷ lệ lây truyền HIV sang con là 30%. Nếu có thai thì uống thuốc dự phòng theo hướng dẫn của bác sĩ. là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh Human Immuno-deficiency Virus (Virusgây suy giảm miễn dịch ở người). AIDS là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh: Acquired Immuno Deficiency Syndrom (Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải). Trước đây, bệnh được gọi là SIDA (viết tắt từ tiếng Pháp: Syndrome dImmuno Deficience Acquise), nhưng do tên này trùng với tên của Tổ chức phát triển quốc tế Thụy Điển SIDA và tên của Tổ chức CIDA (Canađa) cũng gọi là "Si đa" nên thống nhất gọi là AIDS để tránh nhầm lẫn và phù hợp với tên quốc tế. là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh: Acquired Immuno Deficiency Syndrom (Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải). Trước đây, bệnh được gọi là SIDA (viết tắt từ tiếng Pháp: Syndrome dImmuno Deficience Acquise), nhưng do tên này trùng với tên của Tổ chức phát triển quốc tế Thụy Điển SIDA và tên của Tổ chức CIDA (Canađa) cũng gọi là "Si đa" nên thống nhất gọi là AIDS để tránh nhầm lẫn và phù hợp với tên quốc tế. AIDS là một bệnh mạn tính do HIV gây ra. HIV phá huỷ các tế bào của hệ miễn dịch, khiến cơ thể không còn khả năng chống lại các virus, vi khuẩn và nấm gây bệnh. Do đó bệnh nhân dễ bị một số loại ung thư và nhiễm trùng cơ hội mà bình thường có thể đề kháng được. là một bệnh mạn tính do HIV gây ra. HIV phá huỷ các tế bào của hệ miễn dịch, khiến cơ thể không còn khả năng chống lại các virus, vi khuẩn và nấm gây bệnh. Do đó bệnh nhân dễ bị một số loại ung thư và nhiễm trùng cơ hội mà bình thường có thể đề kháng được. Bản thân virus và nhiễm trùng được gọi là HIV. Thuật ngữ AIDS được dùng để chỉ giai đoạn muộn hơn của bệnh. Như vậy, thuật ngữ nhiễm HIV/AIDS được dùng để chỉ những giai đoạn khác nhau của cùng một bệnh. HIV được lây truyền qua các dịch cơthể, nhưmáu, tinh dịch, dịch tiết âm đạo và sữa mẹ. Nó gây bệnh bằng cách gắn vào các tế bào T giúp đỡ CD4+ (còn gọi là limpho bào T4), một loại bạch cầu tham gia quá trình đáp ứng miễn dịch chống lại nhiễm trùng và ung thư. Khi số lượng tế bào T CD4+ giảm, người đó dễ mắc một số bệnh mà cơthể người khoẻ mạnh bình thường đủ sức chống lại. Các bệnh nhiễm trùng cơhội này là nguyên nhân tử vong chính ở người mắc AIDS. HIV cũng nhiễm vào các tế bào não, gây một số rối loạn thần kinh. Trước đây việc một người đã chuyển sang giai đoạn AIDS hay chưa được xác định dựa trên các bệnh cơhội và các biểu hiện của chúng ở người nhiễm HIV. Ngày nay, chẩn đoán dựa vào việc đếm số lượng tế bào CD4+, điều này cho phép đưa ra chẩn đoán sớm hơn. Dùng chung nhà tắm, bể bơi, bồn tắm, mặc chung quần áo, ngồi chung ghế,. Côn trùng và súc vật không lây truyền HIV: ruồi, muỗi, chấy, rận, chó, mèo, gà, chim,. - Nổi hạch ít nhất là 2 nơi trên cơ thể (không kể hạch bẹn) kéo dài trên 3 tháng. Khi có ít nhất 2 triệu chứng chính + 1 triệu chứng phụ, mà không do các nguyên nhân ngoài HIV như: ung thư, suy dinh dưỡng, thuốc ức chế miễn dịch,. Xét nghiệm kháng thể. Là loại xét nghiệm được tiến hành phổ biến nhất, gián tiếp chỉ ra sự có mặt của HIV thông qua việc phát hiện kháng thể kháng HIV. Qui trình gồm sàng lọc ban đầu bằng sét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết enzym (ELISA). Nếu kết quả (+), xét nghiệm ELISA được làm lại, nếu vẫn dương tính, kết quả được xác nhận bằng một phương pháp khác, thường là Western blot hoặc xét nghiệm miễn dịchhuỳnh quang. Là loại xét nghiệm được tiến hành phổ biến nhất, gián tiếp chỉ ra sự có mặt của HIV thông qua việc phát hiện kháng thể kháng HIV. Qui trình gồm sàng lọc ban đầu bằng sét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết enzym (ELISA). Nếu kết quả (+), xét nghiệm ELISA được làm lại, nếu vẫn dương tính, kết quả được xác nhận bằng một phương pháp khác, thường là Western blot hoặc xét nghiệm miễn dịchhuỳnh quang.
AIDS
Hội chứng nhiễm virut làm suy giảm miễn dịch ở người (viết tắt HIV/AIDS); tiếng Anh: human immunodeficiency virus infection / acquired immunodeficiency syndrome; hoặc SIDA theo tiếng Pháp Syndrome d immunodéficience acquise), còn gọi là bệnh liệt kháng (tê liệt khả năng đề kháng), là một dạng bệnh tấn công vào hệ miễn dịch, gây ra do bị nhiễm virus suy giảm miễn dịch ở người (HIV). Giai đoạn đầu khi vừa nhiễm virus, người bệnh thường có những triệu chứng giống bệnh cúm trong một thời gian ngắn. Sau đó, bệnh nhân không có dấu hiệu gì trong một thời gian dài. Khi bệnh tiến triển, nó gây ảnh hưởng ngày càng nhiều đến hệ miễn dịch, làm cho bệnh nhân dễ mắc phải các nhiễm trùng, như các loại nhiễm trùng cơ hội hoặc các khối u, là những bệnh mà người có hệ miễn dịch hoạt động bình thường khó có thể mắc phải. HIV lây truyền chủ yếu qua quan hệ tình dục không an toàn (bao gồm cả quan hệ tình dục qua đường hậu môn và thậm chí bằng miệng), qua việc truyền máu từ nguồn đã bị nhiễm bệnh, qua dùng chung kim tiêm với người nhiễm bệnh (tuy nhiên việc bị muỗi đốt không làm lây HIV), và từ mẹ sang con: trong khi mang thai, khi sinh (lây truyền chu sinh), hoặc khi cho con bú.
Phương pháp nghiên cứu định tính là một dạng nghiên cứu thường sử dụng để thăm dò, tìm hiểu ý kiến, quan điểm nhằm tìm ra insight các vấn đề. Ngoài ra, phương pháp này còn có thể được sử dụng để phát hiện các xu hướng của khách hàng trong tương lai. Những phương thức thu thập dữ liệu của nghiên cứu định tính khá đa dạng và thường không có một cấu trúc cụ thể như nghiên cứu định lượng. Một số phương pháp có thể kể đến như focus group, phỏng vấn cá nhân và quan sát. Mẫu của phương pháp này thường nhỏ và được lựa chọn kỹ hơn. Nghiên cứu định tính thường tiếp cận đối tượng nghiên cứu một cách tự nhiên nhất, nhằm đảm bảo những hành vi, ý kiến, quan điểm mà đối tượng nghiên cứu đưa ra sẽ khách quan và chính xác nhất. Nghiên cứu định tính thường trả lời câu hỏi “như thế nào” và “tại sao” về một hiện tượng, hành vi,… Ví dụ điển hình như phương pháp phỏng vấn cá nhân, người phỏng vấn sẽ đặt những câu hỏi mở để người trả lời có thể thoải mái đưa ra những quan điểm của mình, qua đó có thể thu thập được những thông tin đa dạng, thậm chí chưa bao giờ nghĩ tới. Nghiên cứu định tính đòi hỏi sự sáng tạo và linh hoạt. Những nhà nghiên cứu không thể chỉ dựa vào những dữ liệu thô thu được từ cuộc khảo sát để viết báo cáo, hoặc đưa ra kết luận. Rất nhiều phương pháp và kỹ thuật phân tích cần được sử dụng để giải mã những dữ liệu này, như:. Đây là một phương pháp quy nạp cung cấp một quy trình để thu thập, tổng hợp, phân tích và khái niệm hóa dữ liệu định tính cho mục đích xây dựng lý thuyết. Phân tích theo chủ đề là một trong những hình thức phân tích phổ biến nhất trong nghiên cứu định tính, được đánh giá là phương pháp phân tích linh hoạt bởi nó cho phép linh hoạt lựa chọn khung lý thuyết. Tuỳ vào từng phần hay từng chủ đề, nhà nghiên cứu có thể áp dụng bất kỳ lý thuyết nào. Thông qua tính linh hoạt này, phân tích theo chủ đề cho phép mô tả dữ liệu phong phú, chi tiết và phức tạp hơn. Phân tích biện luận bao gồm nói chuyện và tương tác trực tiếp hoặc thông qua hình ảnh, biểu tượng và tài liệu để giải thích cách thức và ý nghĩa của những hành vi thu thập được. Vấn đề được nhìn nhận dưới góc nhìn của người trong cuộc: Việc người nghiên cứu đóng vai trò quan trọng sẽ giúp ta tìm hiểu rõ hơn những vấn đề mà nghiên cứu định lượng dễ bị bỏ qua. Nghiên cứu định tính giúp làm rõ được các yếu tố về hành vi, thái độ của đối tượng nghiên cứu. Vì nghiên cứu định tính sử dụng các phương pháp nghiên cứu không cấu trúc nên tính linh hoạt rất cao. Thời gian tiến hành một dự án nghiên cứu định tính thường ngắn hơn và tốn ít chi phí hơn so với nghiên cứu định lượng. Hạn chế về độ tin cậy của kết quả nghiên cứu: Vì những vấn đề liên quan đến chi phí và thời gian nên việc thiết kế một nghiên cứu định tính không thể có mẫu quy mô lớn và kết quả của nghiên cứu định tính mang rất nhiều tính chủ quan. Thời gian cần thiết để thu thập và phân tích dữ liệu cho một lần nghiên cứu định tính khá dài và khó khăn. Thời gian trung bình của một cuộc khảo sát định tính thường kéo dài khoảng 30’, điều này có thể khiến cho đáp viên cảm thấy không thoải mái và chán nản. Thường người nghiên cứu phải nắm rõ về lĩnh vực nghiên cứu cũng như các kỹ thuật đào sâu, phân tích để thu được những thông tin chính xác, có giá trị nhất và không làm cho người khảo sát cảm thấy khó chịu. Vì mang tính chủ quan nên việc khái quát hóa kết quả nghiên cứu lên tổng thể bị hạn chế.Tình minh bạch của nghiên cứu định tính thấp hơn nghiên cứu định lượng ví dụ đối với một số vấn đề nhạy cảm, nhà nghiên cứu sẽ giữ kín danh tính của người trả lời. Phương pháp nghiên cứu định lượng là việc thu thập, phân tích thông tin trên cơ sở các số liệu thu được từ thị trường. Mục đích của việc nghiên cứu định lượng là đưa ra các kết luận thị trường thông qua việc sử dụng các phương pháp thống kê để xử lý dữ liệu và số liệu. Nghiên cứu định lượng phù hợp trong nghiên cứu về thái độ, ý kiến, hành vi của người được khảo sát. Các kết quả định lượng từ một nhóm mẫu sẽ được tổng quát hóa lên một tổng thể mẫu lớn hơn. Nghiên cứu định lượng thường được gắn liền với việc dựa vào các lý thuyết, suy luận để lượng hóa, đo lường các yếu tố nghiên cứu, kiểm tra mối tương quan giữa các biến dưới dạng số đo và thống kê. Sử dụng kỹ thuật thống kê để tóm tắt dữ liệu, mô tả các mẫu, mối quan hệ và kết nối các biến số với nhau, từ đó hình thành báo cáo với các thông tin hữu ích, dễ xem giúp đưa ra quyết định chính xác hơn. Có hai loại gồm:. Gồm các phương pháp liên quan đến việc thu thập số liệu, tóm tắt, trình bày, tính toán và mô tả để phản ánh một cách tổng quát đối tượng nghiên cứu. Gồm các phương pháp ước lượng, phân tích mối liên hệ giữa các hiện tượng nghiên cứu, dự đoán hoặc ra quyết định trên cơ sở thu thập thông tin từ kết quả quan sát mẫu. Tính khách quan khoa học: Dữ liệu định lượng có thể được giải thích bằng phân tích thống kê và vì thống kê dựa trên các nguyên tắc toán học, nên phương pháp định lượng được xem là phương pháp khoa học và hợp lý. Vì thế nghiên cứu định lượng hoàn toàn phù hợp để kiểm định các giả thiết được đặt ra. Độ tin cậy cao của kết quả nghiên cứu, tính đại diện cao nên kết quả nghiên cứu định lượng có thể khái quát hóa lên cho tổng thể mẫu. Phân tích nhanh chóng: Các phần mềm phân tích giúp việc xử lý lượng lớn dữ liệu một cách nhanh chóng và chính xác. Hạn chế đến mức thấp những lỗi kỹ thuật có thể phát sinh do yếu tố con người trong xử lý số liệu. Nghiên cứu định lượng không làm rõ được hiện tượng về con người (nghiên cứu hành vi). Yếu tố chủ quan của người khảo sát: Nhà nghiên cứu có thể bỏ lỡ các chi tiết giá trị của cuộc khảo sát nếu quá tập trung vào việc kiểm định các giả thiết đặt ra. Sự khác nhau trong cách hiểu các câu hỏi: Xảy ra khi đối tượng phỏng vấn không hiểu câu hỏi đặt ra như ý định của nhà nghiên cứu mà lại hiểu khác đi và trả lời theo cách hiểu của họ. Đối với nghiên cứu định lượng, phần lớn các hình thức nghiên cứu người phỏng vấn không có khả năng can thiệp, giải thích hay làm rõ các câu hỏi cho người trả lời. Những sai số do ngữ cảnh có thể ảnh hưởng đến nội dung cuộc khảo sát. Phương pháp nghiên cứu định lượng giả định rằng hành vi và thái độ của con người không thay đổi theo ngữ cảnh. Tuy nhiên, câu trả lời của đối tượng có thể thay đổi phụ thuộc vào những ngữ cảnh khác nhau. Nghiên cứu định lượng sử dụng các phương pháp nghiên cứu phức tạp hơn định tính vì thế sẽ tốn nhiều thời gian hơn để thiết kế quy trình nghiên cứu. Vì cần mẫu lớn để có thể khái quát hoá cho tổng thể nên chi phí để thực hiện một nghiên cứu định lượng thường rất lớn, lớn hơn nhiều so với nghiên cứu định tính. Dữ liệu của nghiên cứu định tính thường không thể đếm được, nó là những chuỗi văn bản, video, hình ảnh,… Trong khi đó, dữ liệu của nghiên cứu định lượng lại có thể đo đếm được. Một ví dụ đơn giản: Các các câu trả lời cho câu hỏi mở “Đâu là kiểu chào hỏi phổ biến nhất trong email?” là dữ liệu định tính với nhiều nội dung trả lời khác nhau, chúng ta có thể phân loại các dạng câu chào hỏi thành các nhóm và đo lường tần suất xuất hiện của các nhóm đó, vậy là bạn đã có thể biến dữ liệu định tính thành định lượng rồi. Dữ liệu định lượng có thể giúp bạn trả lời câu hỏi người tiêu dùng làm gì, còn dữ liệu định tính sẽ giúp giải đáp tại sao họ làm vậy. Hãy xét một ví dụ khác: Nếu bạn đo lường hành vi của người dùng trên một trang web, bạn có thể biết rằng 25% số người đã nhấp vào nút A, sau đó là một nút B,… Điều đó rất cần thiết và ta có thể chạy thử nghiệm phân tách (A/B Testing) để thử các phiên bản khác nhau của trang web để xem liệu bạn có thể thay đổi hành vi của mọi người hay không. Nghiên cứu định tính thường tập trung nhiều hơn vào góc độ con người – mọi người đang nghĩ gì và cảm thấy gì? Điều gì khiến họ làm thế? Thái độ của họ sẽ ra sao?… Và bạn có thể nhận được nhiều thông tin phong phú, sâu sắc hơn so với dữ liệu định lượng, bởi vì bạn thực sự có thể hiểu được những suy nghĩ đằng sau hành động đó và có thể điều chỉnh luồn hành vi một cách tự nhiên và chính xác. Vì vậy, nếu muốn cải thiện trải nghiệm trên trang web của một người nào đó thì có lẽ bạn nên quan sát dữ liệu định lượng của mình để xem mọi người đang làm gì và sau đó bạn sẽ thực hiện một số nghiên cứu định tính để tìm hiểu lý do tại sao họ lại làm như thế. Trong nghiên cứu thị trường, nên cân nhắc sử dụng cả hai phương pháp định tính và định lượng để có được những kết quả có giá trị nhất. Để có được câu trả lời hoàn hảo nhất về hành vi, thái độ của khách hàng và lý do của những hành vi đó, từ đó kết quả nghiên cứu có thể góp phần tạo nên những quyết định quản trị có tính chính xác cao hơn. 1.3 Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp nghiên cứu định tính1.3.1 Ưu điểm1.3.2 Nhược điểm. 2 Phương pháp nghiên cứu định lượng2.1 Nghiên cứu định lượng là gì? 2.2 Kỹ thuật phân tích dữ liệu định lượng2.2.1 Thống kê mô tả (Descriptive statistics)2.2.2 Thống kê suy luận (Inferential statistics) 2.3 Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp nghiên cứu định lượng2.3.1 Ưu điểm2.3.2 Nhược điểm. 2.2 Kỹ thuật phân tích dữ liệu định lượng2.2.1 Thống kê mô tả (Descriptive statistics)2.2.2 Thống kê suy luận (Inferential statistics). 2.3 Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp nghiên cứu định lượng2.3.1 Ưu điểm2.3.2 Nhược điểm
Nghiên cứu định lượng
Trong khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, nghiên cứu định lượng là điều tra thực nghiệm có hệ thống về các hiện tượng quan sát được qua số liệu thống kê, toán học hoặc số hoặc kỹ thuật vi tính. Mục tiêu của nghiên cứu định lượng là phát triển và sử dụng mô hình toán học, lý thuyết hoặc các giả thuyết liên quan tới các hiện tượng. Quá trình đo lường là trung tâm của nghiên cứu định lượng bởi vì nó cung cấp các kết nối cơ bản giữa quan sát thực nghiệm và biểu thức toán học của các mối quan hệ định lượng. Số liệu định lượng là bất kỳ dữ liệu ở dạng số như số liệu thống kê, tỷ lệ phần trăm, v.v. Trong điều kiện thường, điều này có nghĩa là các nhà nghiên cứu định lượng yêu cầu một câu hỏi cụ thể và thu thập một mẫu dữ liệu số từ hiện tượng quan sát hay từ nghiên cứu người tham gia trả lời các câu hỏi. Các nhà nghiên cứu phân tích các dữ liệu với sự giúp đỡ của các số liệu thống kê. Các nhà nghiên cứu hy vọng con số sẽ mang lại một kết quả không thiên vị mà có thể được khái quát hóa cho một số lượng dân số lớn hơn.
In phun là một kỹ thuật in trực tiếp mà các khuôn in không cần phải tiếp xúc với bề mặt in, chúng sử dụng các giọt mực nhỏ thông qua phần đầu in mà đầu in sẽ di chuyển liên tục trên băng truyền cho đến khi quá trình in ấn hình ảnh được hoàn thành. Máy in phun là loại máy in được sử dụng phổ biến nhất bao gồm cả những máy nhỏ giá rẻ đến các máy chuyên nghiệp đắt tiền. Khái niệm in phun bắt nguồn từ thế kỷ 20. Công nghệ này được phát triển rộng rãi lần đầu tiên vào những năm 1950. Bắt đầu từ cuối những năm 1970, các máy in phun có thể in hình ảnh kỹ thuật số đã được phát triển chủ yếu bởi Epson, Hewlett- Packard (HP) và Canon. 3 Ưu, nhược điểm của in phun3.1 Ưu điểm của in phun3.2 Nhược điểm của in phun. Giấy sử dụng cho máy in card visit nói riêng và các loại in ấn khác nói chung là loại giấy có tráng phủ lên mặt một lớp hợp chất vô cơ. Chủ yếu để ngăn mực in phun loang ra trong giấy, giúp bản in có được màu sắc chính xác, sắc sảo, trong trẻo, nét và có tuổi thọ lâu dài. Giấy in phun được thiết kế đặc biệt cho các máy in phun thường có thể nhận biết được thông qua định lượng, độ sáng, độ mịn và độ đục của tờ giấy. In phun chuẩn đòi hỏi giấy in phải có độ hút nước vừa đủ để bắt mực nhưng phải tránh độ loang của dung môi mực trên bề mặt và trong lòng tờ giấy. Các loại giấy văn phòng thông dụng có định lượng từ 80 đến 100gsm đều có thể dùng để in phun. Tuy nhiên, những loại giấy này chỉ cho kết quả in phun tốt khi chỉ in chữ hoặc hình vẽ đồ họa không đòi hỏi độ chính xác về màu sắc cao. Quy trình in phun tương đối đơn giản vì sử dụng công nghệ in trực tiếp nên file được truyền trực tiếp từ hệ thống máy tình điều khiển đến máy in sau khi thông qua phần mềm RIP. Các file đầu vào được sử dụng thường là PDF, PS, ÉP, TÌ, JPI; nhưng thông dụng nhất là TIFF. Về độ phân giải thì đối với bản in có kích thước nhỏ để bản in được rõ nét và đẹp. Bước 2: Chuẩn bị màu in cho máy, kiểm tra các bộ phận của máy in để đảm bảo máy hoạt động tốt. Bước 3: Kết nối thiết bị máy tính với máy in để truyền các dữ liệu file. Lúc này, phần mềm sẽ hỗ trợ một số chức năng phụ như ghép, thu phóng hoặc di chuyển các hình ảnh để người dùng định hướng được hình ảnh sau khi hoàn tất công đoạn in. Bước 4: Khởi động máy, tiến hành in phun tự động. Lúc này, cartridge mực của máy in sẽ di chuyển nhịp nhàng trong phạm vi 2 đầu của máy in và chạy dài hết khổ in với nguyên tắc phun mực dựa trên tín hiệu dữ liệu đầu vào và di chuyển theo hướng vuông góc với hướng di chuyển của Cartrige mực. Sau khi in xong, vật liệu sẽ được di chuyển qua hệ thống sấy bằng nhiệt hoặc hồng ngoại tùy theo trang bị của máy. Bên cạnh những ưu điểm vượt trội mà kỹ thuật in phun mang lại, nó cũng có những nhược điểm nhất định. Cụ thể ưu, nhược điểm của in phun như sau:. So với các máy in màu trước đây, máy in phun có một số lợi thế. Chúng hoạt động êm hơn so với máy in ma trận điểm ảnh hoặc máy in daisywheel. Chúng có thể in các chi tiết mịn hơn, mượt mà hơn thông qua độ phân giải cao hơn. So với các công nghệ như sáp nhiệt và in laser, máy in phun có ưu điểm là thực tế không có thời gian làm nóng và chi phí thường thấp hơn. Một số loại máy in phun công nghiệp hiện nay có khả năng in ở tốc độ rất cao, ở định dạng rộng hoặc cho nhiều ứng dụng công nghiệp khác nhau, từ bảng hiệu, dệt, gốm sứ và in 3-D vào các ứng dụng y sinh và mạch dẫn điện. Công nghệ in phun phù hợp để in ấn phẩm số lượng nhỏ và không yêu cầu quá gấp về thời gian. Các máy in phun có yêu cầu khá cao về loại giấy và chất liệu in để tránh tình trạng nhòe màu, màu in không thấm giấy, chất lượng hình ảnh kém chân thực. Mực in phun cũng là điều đáng lo ngại. So với các hình thức in khác, mực in phun khá đắt do vật giá thành của in phun cũng vì thế mà tăng lên đáng kể. Nhiều nhà sản xuất máy in phun không khuyến khích khách hàng sử dụng mực của bên thứ ba. Họ nói rằng điều đó có thể làm hỏng đầu in do không cùng công thức hoặc gây rò rỉ và tạo ra chất lượng in kém hơn. Do kỹ thuật in phun là in màu trực tiếp trên giấy vì vậy không thể tránh khỏi tình trạng bay màu nhanh hơn so với các công nghệ in khác.
Giấy in phun
Giấy in phun là loại giấy có tráng phủ lên mặt một lớp hợp chất vô cơ, chủ yếu để ngăn mực in phun loang ra trong giấy, giúp bản in có được màu sắc chính xác, trong trẻo, sắc sảo, nét và tuổi thọ lâu. Giấy in phun được thiết kế đặc biệt cho các máy in phun, thường có thể nhận biết thông qua định lượng, độ sáng, độ mịn và độ đục của tờ giấy. In phun chuẩn đòi hỏi giấy in phải có độ hút nước vừa đủ để bắt mực nhưng lại phải tránh độ loang của dung môi mực (và do đó, mực in phun) trên bề mặt và trong lòng tờ giấy. Các loại giấy văn phòng thông dụng (định lượng 80-100gsm) đều có thể dùng để in phun được, tuy nhiên, đạt kết quả in tốt nếu chỉ in chữ hoặc hình vẽ đồ họa không đòi hỏi độ chính xác về màu sắc cao. Những bản in có vùng in (phần tử in) lớn, ví dụ trong các bản in hình ảnh hoặc hình vẽ đồ họa có mảng màu rộng có thể làm co giãn dẫn tới cong giấy, đặc biệt là khi in phun lên hai mặt giấy; khi đó, giấy không chuyên dụng sẽ bị hút, ngấm mực từ cả hai phía vào dẫn tới màu in có thể nhìn xuyên qua tờ giấy từ mặt này qua mặt kia.
1 Định nghĩa về trận đấu Derby1.1 Derby là gì ? Những ý nghĩa của sâu sắc của nó1.2 Derby có nguồn gốc của từ đâu?. Derby được gọi là những trận tranh tài bóng đá giữa các đối thủ trong cùng một vùng hay cùng một địa phương. Thuật ngữ này người ta còn thường được sử dụng rộng rãi một cách thường xuyên trong bóng đá, ngụ ý để kể về những trận thi đấu giữa các câu lạc bộ trong cùng một thành phố hay trong cùng một vùng thậm chí có thể là trong cả một quốc gia. Có thể nói rằng, hầu hết các trận derby trong bóng đá đều mang tính gay cấn và rất hấp dẫn người xem. Trong những trận đấu này, chiến thuật bóng đá sẽ là một yếu tố quan trọng quyết định chiến thắng của trận đấu đó. Đối với nhiều người hâm mộ, những trận Derby không chỉ mang ý nghĩa thể thao đơn thuần mà còn đôi khi còn mang nhiều điều thú vị khác nữa. Những trận đấu này góp phần tăng thêm tính hấp dẫn, kịch tính và cuốn hút khán giả cho toàn bộ giải đấu. Những trận Derby góp phần nâng cao giá trị cho các giải bóng đá. Sự cạnh tranh giữa các đội bóng thuộc nổi tiếng và việc gặp gỡ các cầu thủ mà mình yêu thích của địa phương hay thành phố mình đang sinh sống luôn mang lại nhiều điều thích thú và những trải nghiệm đặc biệt. Từ “Derby” trở nên thông dụng và được nhiều người biết đến khi thuật ngữ này xuất hiện lần đầu tiên trong một câu trích dẫn trên tờ báo Daily Express, được xuất bản tháng 10/1914: “A local Derby between Liverpool and Everton” (tạm dịch là “trận Derby giữa Liverpool và Everton”). Đối với người yêu thích bóng đá thế giới, đặc biệt nhất là tại Châu Âu, thì các trận derby luôn được nhiều người hâm mộ quan tâm và chú ý. Sau đây là một số trận đấu derby được coi là kinh điển nổi tiếng và thu hút nhất trong lịch sử. Đây được coi là trận đấu derby hấp dẫn nhất và thu hút khá đông người hâm mộ. Diễn ra tại xứ sở sương mù Vương quốc Anh. Hai đội bóng đã cống hiến cho người hâm mộ bóng đá những trận đấu tinh tế và đẹp mắt. Lần đầu tiên hai đội bóng gặp nhau vào năm 1894, và từ đó cho đến nay, Derby Merseyside đã trải qua tổng cộng 231 trận đấu. Trong đó, Liverpool đang dẫn đầu với 92 trận thắng, Everton đạt được 66 trận thắng và số lần 2 đội hòa nhau là 73. Theo thống kê, từ lúc tham gia các trận đấu Manchester derby nước Anh trang tài với nhau cho đến năm 2018, Man Utd và Man City đã gặp nhau trong 176 trận derby thành Manchester. Đội quỷ đỏ đã lập thành tích chiến thắng với tổng cộng 73 trận, Man City mới đạt được 51 lần vượt qua MU và hai đội hòa nhau với số lần là 52. Đến năm 2018 đã diễn ra 195 trận derby tại Bắc London. Lịch sử đối đầu trận Lodon derby đang nghiêng về đội Arsenal với tổng cộng 81 lần chiến thắng. Trong derby Lodon Tottenham mới đạt được 63 lần vượt qua pháo thủ và hai đội hòa nhau cả thảy 51 lần. Đây được coi là trận đấu được nhiều fan hâm mộ và quan tâm nhất ở giải vô địch quốc gia Italia giữa đội tuyển Inter Milan và AC Milan. Tính đến tháng 10 năm 2018 đã có tổng cộng 22 trận derby diễn ra tại thành Milan. Đây còn được coi là hai đội bóng giàu tài năng và có nhiều thành tích bậc nổi bật, không chỉ nổi tiếng tại thành phố Milan mà còn được đông đảo người hâm mộ biết đến trên toàn bộ lãnh thổ nước Ý. Trận đấu này được coi là 1 trong những trận chung kết Champions League, mang đến sự thích thú và hào hứng cho nhiều người hâm mộ, bởi sự kịch tính cũng như hấp dẫn nhất lịch sử giải của đấu. Trận Derby mang đến cho khán giả những giây phút hồi hộp và gay cấn khiến người hâm mộ nhiều lần gần như nghẹt thở theo từng đường bóng. Trận đấu này được coi là một trong những trận derby Madrid lớn nhất và đáng được xem nhất. Đó chính là trận tranh tài giữa 2 đội bóng Barcelona và Real Madrid. Ngoài ra, trận đấu derby thành Madrid này còn có tên gọi khác là El Clasico. Người hâm mộ cho rằng cuộc chạm trán giữa 2 đội được coi là một trong những trận Derby kinh điển nhất lịch sử vì để lại cho khán giả hâm mộ nhiều cảm xúc đặc biệt và đáng nhớ. Ở các giải đấu V-league 2011 của các đội tuyển quốc gia Việt Nam đã diễn ra 1 số trận derby cực kỳ hấp dẫn và cũng không kém phần kịch tính và căng thẳng so với các trận đấu derby tại Châu Âu của các chàng trai giữa: đội tuyển Hà Nội ACB và Hà Nội T&T, trận đấu derby thủ đô Hà Nội giữa Hà Nội T&T và Câu lạc bộ bóng đá Hà Nội. Ngoài ra, Derby Thành phố Hồ Chí Minh giữa câu lạc bộ Navibank Sài Gòn và Sài Gòn Xuân Thành…. Mình là admin chính, đồng thời cũng là Founder của Cộng đồng Fifa, mình rất thích bóng đá và có nhiều năm kinh nghiệm trong việc viết lách chuyên ngành bóng đá. Gần đây, mình cũng khá hứng thú với game bài và cá cược, mình đang dành thời gian nghiên cứu về nó để có nhiều bài viết chất lượng cho các bạn như các bài viết về bóng đá hiện tại vậy. Hãy luôn ủng hộ và theo dõi mình nhé.
Derby (bóng đá)
Trận đấu derby (tiếng Anh là "local derby" hay "derby game") là cụm từ ám chỉ những trận thi đấu giữa các đối thủ trong cùng một vùng, một địa phương. Theo một câu chuyện dân gian kể lại thì thuật ngữ này bắt nguồn từ thị trấn Ashbourne, Derbyshire, nước Anh. Ở đó, từ thế kỷ 12, thường diễn ra trận bóng Royal Shrovetide. Trong trận đấu đó hai đội bóng từ hai đầu thị trấn sẽ gặp mặt và thi đấu với nhau. Trận đấu thường diễn ra hết sức căng thẳng, quyết liệt. Mỗi đội phải tìm mọi cách để đưa bóng vào khung thành đối phương. Hai khung thành chỉ cách nhau 3 dặm và một trong số các luật chơi là cấm các hành vi bạo lực không cần thiết. Các trận đấu như vậy thường được tổ chức vào các ngày hội trên khắp nước Anh và thậm chí đến nay hàng năm vẫn còn diễn ra ở Ashbourne. Với một câu chuyện như vậy, nếu có bằng chứng rõ ràng để chứng minh thì hẳn mọi người sẽ cảm thấy rất thuyết phục. Tuy nhiên chẳng có gì ngoài những chuyện kể dân gian để minh chứng cho mối liên hệ trên đây giữa thuật ngữ chúng ta đang tìm hiểu với một sự kiện hấp dẫn như thế.
Trả lời: Thuyết bất khả tri là quan điểm cho rằng không thể chứng minh hay biết được sự tồn tại của Đức Chúa Trời. Từ “bất khả tri” về cơ bản có nghĩa là “không hiểu biết.” Thuyết bất khả tri là một dạng trí tuệ trung thực hơn về chủ nghĩa vô thần. Chủ nghĩa vô thần tuyên bố rằng Đức Chúa Trời không tồn tại, một vị trí không thể chứng minh. Thuyết bất khả tri cho rằng sự tồn tại của Đức Chúa Trời không thể chứng minh hay chưa được chứng minh, nó cho rằng không thể biết có hay không có sự tồn tại của Đức Chúa Trời. Trong điều này, thuyết bất khả tri đúng. Sự tồn tại của Đức Chúa Trời không thể được chứng minh bằng thực nghiệm hoặc bác bỏ. Kinh Thánh nói với chúng ta rằng chúng ta phải chấp nhận bằng đức tin rằng Đức Chúa Trời hiện hữu. Hê-bơ-rơ 11: 6 nói rằng “Nếu không có đức tin không thể ở vừa lòng Đức Chúa Trời, bởi vì bất cứ ai đến với Ngài phải tin rằng Ngài tồn tại và Ngài hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài.” Đức Chúa Trời là thần (Giăng 4:24) vì thế không thể nhìn thấy hay chạm rờ vào Ngài. Trừ khi Đức Chúa Trời chọn cách mặc khải chính mình Ngài, Ngài là vô hình với các giác quan của chúng ta (Rô-ma 1:20). Kinh Thánh tuyên bố rằng sự tồn tại của Đức Chúa Trời có thể được nhìn thấy rõ ràng trong vũ trụ (Thi Thiên 19: 1-4), cảm nhận được trong thiên nhiên (Rô-ma 1: 18-22), và khẳng định trong tấm lòng của chúng ta (Truyền đạo 3:11). Thuyết Bất khả tri không sẵn sàng thực hiện một quyết định hoặc ủng hộ hoặc chống lại sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Nó chủ yếu làm vai trò “rào cản”. Hữu thần tin rằng Đức Chúa Trời hiện hữu. Người vô thần tin rằng Đức Chúa Trời không tồn tại. Bất khả tri tin rằng chúng ta không nên tin hoặc hoài nghi vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, bởi vì cả hai cách đều không thể biết. Vì cớ ích lợi của lý luận, hãy trưng ra những chứng cứ rõ ràng và không thể phủ nhận sự tồn tại của Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta đặt vị trí của chủ thuyết hữu thần và thuyết bất khả tri trên cơ sở bình đẳng, làm cho “ý thức” cao nhất tin vào mối liên quan có thể có của sự sống sau khi chết không? Nếu không có Đúc Chúa Trời, hữu thần và bất khả tri cũng tương tự như tất cả đơn giản chấm dứt sự hiện hữu của họ khi chết. Nếu có Đức Chúa Trời, cả hữu thần và bất khả tri sẽ có người trả lời với họ khi họ chết. Từ quan điểm này, chắc chắn sẽ có nhiều “cảm tình” với một người hữu thần hơn là một bất khả tri. Nếu không chứng minh vị trí có thể hoặc phải bác bỏ, việc dường như khôn ngoan để làm là nỗ lực kiểm tra kỷ lưỡng các vị trí đó, có thể có một kết quả cuối cùng vô hạn và vĩnh viễn hơn mong muốn. Những nghi ngờ là việc bình thường. Có rất nhiều thứ trên thế giới này mà chúng ta không hiểu. Thông thường, người ta nghi ngờ sự thực hữu của Đức Chúa Trời, vì họ không hiểu hay đồng ý với những điều Ngài làm và cho phép. Tuy nhiên, vì cớ con người hữu hạn chúng ta không nên mong đợi để có thể hiểu được Đức Chúa Trời vô hạn. Rô-ma 11: 33-34 kêu lên, “Ôi, sâu nhiệm thay sự giàu có, khôn ngoan và thông biết của Đức Chúa Trời!. Thật lạ lùng không thể hiểu thấu sự đoán xét của Ngài, và đường lối của Ngài vượt ra ngoài ý tưởng! “Ai biết ý tưởng của Chúa? Hoặc ai là người bàn luận của Ngài?” Chúng ta phải tin vào Đức Chúa Trời bằng đức tin và tin cậy đường lối của Ngài bằng đức tin. Đức Chúa Trời đã sẵn sàng và sẵn lòng bày tỏ chính mình Ngài theo đường lối diệu kỳ cho những ai tin vào Ngài. Phục Truyền 4:29 tuyên bố: “Ở đó ngươi sẽ tìm cầu Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và khi nào hết lòng hết ý tìm cầu Ngài thì mới gặp.”
Thuyết bất khả tri
Thuyết bất khả tri (Tiếng Anh: agnosticism) là quan điểm triết học cho rằng tính đúng hay sai của một số tuyên bố nhất định - đặc biệt là các tuyên bố thần học về sự tồn tại của Chúa Trời hay các vị thần - là chưa biết và không thể biết được hay không mạch lạc. Một số người theo thuyết bất khả tri suy diễn từ đó rằng các tuyên bố đó không liên quan đến ý nghĩa của cuộc sống. Có lẽ nhà tư tưởng bất khả tri (hay hoài nghi) đầu tiên là Sanjaya Belatthiputta (Samjayin Vairatiputra), một người cùng thời với Phật Thích Ca Mâu Ni, như đã được ghi trong kinh Phật. Người ta kể rằng khi được hỏi có cuộc sống sau cái chết hay không ông đã trả lời là có thể có và có thể không, và từ chối phỏng đoán xa hơn. Thuật ngữ "bất khả tri" (agnosticism) được đưa ra năm 1869 bởi Thomas Henry Huxley (1825-1895), một nhà tự nhiên học người Anh, người đã lấy cảm hứng từ các tư tưởng của David Hume và Emmanuel Kant. Thuật ngữ này còn được dùng để miêu tả những người chưa bị thuyết phục hay cố tình chưa đưa ra quan điểm về sự tồn tại của các vị thần thánh cũng như các vấn đề tôn giáo khác.
Đối với lĩnh vực kinh và đầu tư thì cụm từ “Qũy đầu tư mạo hiểm” chắc chắn đã không còn gì xa lạ với những người trong ngành. Hình thức này được phát triển thành các quỹ, các tập đoàn đầu tư lớn với số vốn không hề nhỏ. Đây cũng được xem là một loại hình kinh kinh tế mà các nhà đầu tư sẽ dùng số tiền có ở trong quỹ để đầu tư vào các công ty, startup nhỏ. Nhưng lại có sự phát triển nhanh chóng và vượt bậc trong mô hình kinh doanh của các startup. Trong bài viết dưới đây, Xóm Đầu Tư sẽ giải thích cho bạn hiểu rõ hơn về quỹ đầu tư mạo hiểm cũng như Top 8 quỹ đầu tư uy tín hàng đầu hiện nay. Qua đó giúp cho các doanh nghiệp hay startup nhỏ có thêm những kiến thức, sự hiểu biết để chuẩn bị kêu gọi vốn cho doanh nghiệp của mình?. Qũy đầu tư mạo hiểm là một hình thức đầu tư mà các nhà đầu tư như được rót vốn cho một công ty mới khởi nghiệp. Và chưa được niêm yết trên thị trường chứng khoán nhưng lại được đánh giá cao về tốc độ tăng trưởng trong tương lai. Tuy nhiên loại hình đầu tư này cũng đi kèm với rất nhiều rủi ro. Tại Việt Nam, thị trường kênh đầu tư mạo hiểm đóng vai trò khá quan trọng và có ý nghĩa đến nền kinh tế của xã hội vì tạo ra được nguồn vốn các điều kiện phát triển cho các công ty mới thành lập nói riêng về các startup nói chung. Các nhà đầu tư mạo hiểm có thể tham gia vào bất kỳ giai đoạn nào của doanh nghiệp đang hiện hành. Từ lúc bắt đầu sản phẩm cho đến lúc tạo ra doanh thu. Với nhà đầu tư mạo hiểm thường đầu tư lâu dài và chiếm giữ vai trò quan trọng đối với ban điều hành doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hay các doanh nghiệp startup, thì việc huy động vốn đóng vai trò hết sức quan trọng. Vì trong giai đoạn đầu phát triển của công ty, cho đến giai đoạn chiếm lĩnh thị trường hay phát triển sản phẩm. Thì các doanh nghiệp nhỏ, startup sẽ cần một số vốn để vận hành cho hoạt động của công ty. Do đó mà việc huy động vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm chính là cơ hội mà các startup sẽ mong muốn có được khi bắt đầu dự án. Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều quỹ đầu tư hiểm được lập ra, tuy nhiên thì không phải các doanh nghiệp nhỏ, các nhà khởi nghiệp nào cũng có thể tiếp cận được. Ngoài quỹ đầu tư mạo hiểm thì hiện tại cũng có nhiều quỹ đầu tư hay các dạng đầu tư khác giúp bạn nhanh chóng sinh lời. Trên thực tế, quỹ đầu tư mạo hiểm có ý nghĩa với nhà đầu tư và doanh nghiệp được đầu tư. Tuy nhiên thì bài viết này của Xóm Đầu Tư sẽ đứng ở góc nhìn của nhà đầu tư để phân tích những ưu và nhược điểm của hình thức đầu tư này nhé. Các nhà đầu tư của quỹ này sẽ góp một phần vào vốn của chủ sở hữu tại công ty mà họ đầu tư vào. Điều này đồng nghĩa với việc họ sẽ có quyền lực trong việc phát triển và triển khai chiến lược của công ty. Nhiều nhà đầu tư thường chiếm được số lượng lớn cổ phần của các doanh nghiệp mà được rót vốn. Chính vì vậy, nếu doanh nghiệp được phát triển tốt trong tương lai thì sẽ đem lại nguồn lợi nhuận cho nhà đầu tư rất lớn. Vì vậy nếu bạn muốn rót vốn vào một doanh nghiệp bạn hãy tìm hiểu về lĩnh vực hoạt động cũng như những kiến thức mà bạn cần có nhé. Khi nhà đầu tư rót vốn cho một doanh nghiệp, startup mới hoàn toàn, các nhà đầu tư sẽ thật sự không biết hết tất cả các rủi ro có thể xảy ra. Bởi vì doanh nghiệp đó chỉ mới ở giai đoạn đầu và đang có nhiều vấn đề. Bên cạnh đó nếu như không quản lý chặt chẽ doanh nghiệp thì nhà đầu tư sẽ có thể dẫn đến kết quả thua lỗ số vốn của mình. Qũy đầu tư mạo hiểm mỹ vào vào Việt Nam bắt đầu từ năm 2004, trong giai đoạn từ 2004 đến 2010, IDG đã đầu tư mạo hiểm với số vốn từ 80 đến 100 triệu đô cho các lĩnh vực sản xuất, các tổ chức triển lãm hội nghị thuộc các lĩnh vực công nghệ. Đây cũng được xem là một trong những quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tiên tại Việt Nam. VinaCapital là doanh nghiệp đầu tư với hơn 200 doanh nghiệp đa dạng ở tất cả các lĩnh vực. FPT là tập đoàn mong muốn đưa Việt Nam trở thành một cường quốc về kinh tế với hệ thống bao gồm các công ty khởi nghiệp nhỏ . Hiện nay FPT đã đang hợp tác với hơn 5000 công ty công nghệ vừa và quy mô lớn. Qũy đầu tư mạo hiểm này sẽ ưu tiên rót vốn cho các doanh nghiệp đã trải qua thời kỳ phát triển và đưa sản phẩm vào thị trường. Với các nhà Startup ngoài việc được hỗ vốn, thì khi tham gia vào quỹ đầu tư mạo hiểm của FPT sẽ được đào tạo và hỗ trợ trong lĩnh vực công nghệ, mobile … giúp bản thân doanh nghiệp đó ngày càng được hoàn thiện. Đây được xem là quỹ đầu tư tổ chức phủ của nước Mỹ, tổ chức này được thành lập từ 2007 và được cho phép hoạt động như một tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam. Điểm mạnh của quỹ là sự phát triển và đồng cùng các dự án và các vấn đề thường xuyên sảy ra của trẻ em, môi trường hay kinh tế. Đây là quỹ đầu tư mạo hiểm và phát triển chủ yếu trong lĩnh vực bất động sản, xây dựng. Trong đó doanh nghiệp nhận được nhiều đầu tư nhất từ Kudo có thể nói đến là Coteccons. Đây là quỹ đầu tư mạo hiểm có khả năng rót vốn từ 5 ngàn đô cho đến 250 ngàn đô. Một quỹ đầu tư tiềm năng cho các doanh nghiệp startup khởi nghiệp với số tiền nhỏ. Qũy này được thành lập từ năm 2011, cho đến hiện tại GGV đã đầu tư hơn 30 công ty cho 7 quốc gia tại Châu Á, và trong đó có Việt Nam. Hoạt động của quỹ chỉ tập trung chủ yếu và các công ty khởi nghiệp về lĩnh vực thương mại, điện tử, trực tuyến
Đầu tư mạo hiểm
Đầu tư mạo hiểm (tiếng Anh: Venture capital) là việc cung cấp vốn tài chính cho các công ty ở giai đoạn khởi động tăng trưởng ban đầu. Quỹ đầu tư mạo hiểm làm ra tiền bằng cách sở hữu cổ phần trong các công ty, các công ty này thường có một công nghệ mới hoặc mô hình kinh doanh trong ngành công nghiệp công nghệ cao, chẳng hạn như công nghệ sinh học, CNTT, phần mềm, vv. Các đầu tư mạo hiểm điển hình xảy ra sau vòng cấp vốn gieo mầm cũng như như vòng tài trợ tăng trưởng (còn gọi là vòng chuỗi A) trong sự quan tâm của việc tạo ra hoàn vốn thông qua một sự kiện được hiện thực hóa được xảy ra, chẳng hạn như IPO hoặc bán công ty. Điều quan trọng là cần lưu ý là đầu tư mạo hiểm là một tập hợp con của vốn chủ sở hữu tư nhân. Ngoài ra đối với việc đầu tư chơi vơi và các tùy chọn cấp vốn gieo mầm khác, đầu tư mạo hiểm là hấp dẫn đối với các công ty mới với lịch sử hoạt động hạn chế, quá nhỏ để huy động vốn trên thị trường công cộng và đã không đạt đến điểm mà họ có thể đảm bảo một khoản vay ngân hàng hoặc hoàn thành một lời đề nghị nợ.
Trong các phim viễn tưởng, có một số nhân vật sở hữu cho mình siêu năng lực gần như “bất tử”, hay trong phim: Người Bất Tử – một bộ phim Việt chiếu rạp mới ra mắt gần đây, nhân vật chính cũng sở hữu cho mình siêu năng lực này. Những tưởng việc bất tử chỉ có trong phim truyện và sự tưởng tượng thì điều đó lại là sự thật trong thế giới tự nhiên, một bước cải lão hoàn đồng và gần như “bất tử”. Thật vậy, loài sứa Turritopsis Tutricula có thể mang trong mình khả năng phi thường này. Bạn hãy cùng Giải Đáp Việt tìm hiểu về kiến thức thú vị này nhé. Có thể bạn đã nghe về sự “bất tử” của loài sứa này, tuy nhiên sự thật chưa chắc đã như bạn nghĩ và cũng không giống với khả năng bất tử của các siêu anh hùng trong phim ảnh. Loài sứa này vẫn có thể bị gi.ế.t chế.t như bình thường. Tuy nhiên tại sao người ta lại nói nó “bất tử”?. Điều này xuất phát từ khả năng “cải lão hoàn đồng” khá thú vị của chúng, khiến tuổi thọ của chúng nếu như không có thiên địch hoặc các tác động khác ảnh hưởng (bệnh tật, bị ăn thịt…) thì gần như là rất dài. Và trước khi đi đến khả năng thú vị này, chúng ta tìm hiểu qua về loài này trước nhé!. Sứa Turritopsis Nutricula hay còn gọi là Sứa bất tử, là một loại Thủy Tước giống Sứa thuộc ngành Cnidaria thường được tìm thấy ở vùng biển Địa Trung Hải và vùng biển Nhật Bản. Sứa Turritopsis Nutricula có hình dạng giống như một cái chuông, với đường kính tối đa chưa đến 5mm, và chiều dài lớn hơn chiều rộng. Bức màng của loài sứa này khá mỏng, ngoài trừ một ít phần dày ở trên đỉnh. Dạ dày của chúng tương đối lớn, có màu đỏ tươi và có hình chữ thập trong phần chéo. Một cá thể non có đường kính 1 mm và chỉ có 8 xúc tu mọc đều nhau dọc theo mép, trong khi các cá thể trưởng thành có 80-90 xúc tu. Hầu hết các loài Sứa đều có tuổi thọ tương đối cố định, tuổi thọ dài hay ngắn thay đổi theo loài, từ vài giờ cho đến nhiều tháng (sứa trưởng thành tồn tại lâu dài và đẻ trứng mỗi ngày hay đêm, thời gian cũng khá cố định theo từng loài cụ thể). Tuy nhiên, riêng loài Sứa Turritopsis Nutricula là loài duy nhất biết đến với khả năng “cải lão hoàn đồng”, giúp chúng có khả năng như “bất tử”. Cụ thể, chúng có thể tự mình biến đổi hàng loạt các mô tế bào trong giai đoạn trưởng thành cho đến hệ tuần hoàn trở lại trạng thái Polip và sau đó từ một Polip chúng biến thành con sứa mới cho phép chuyển đổi từ sứa trưởng thành và sứa sơ sinh trong vòng hai tháng. Và trong cuộc đời của chúng thì có tới 12 chu kì thực hiện như thế. Khả năng đảo ngược vòng đời này là độc nhất vô nhị trong thế giới động vật, và cho phép loài sứa này thoát khỏi cái chết, khiến Turritopsis nutricula có khả năng bất tử. Điều này quả thật là đáng kinh ngạc, mặc dù vậy hầu hết các loài sứa Turritopsis đều có thể trở thành nạn nhân về các nguy hiểm chung của cuộc sống tự nhiên như sinh vật phù du bao gồm cả việc bị động vật khác ăn thịt hoặc là bị mắc bệnh. Đúng là trong giới tự nhiên, không gì là không thể. Trong những bài viết loài cá nuôi con bằng sữa hay cả loài chim nuôi con bằng sữa đều đã cho ta thấy những điều thú vị đến đáng kinh ngạc của giới tự nhiên. Và hôm nay, Giải Đáp Việt lại cung cấp thêm cho bạn một sự thật thú vị trong tự nhiên quanh ta nữa nhé! Nếu bạn thấy bài viết này hay, đừng quên chia sẻ nó nhé!
Sứa bất tử
Turritopsis nutricula (hay còn được biết đến là Sứa bất tử) là một loại thủy tức giống sứa thuộc ngành Cnidaria có khả năng quay ngược vòng đời của chúng từ thời kỳ trưởng thành trở lại thời kỳ sinh vật đơn bào và từ đó lại tiếp tục phát triển. Đây là trường hợp duy nhất từng được phát hiện ra về một loại sinh vật đa bào có khả năng quay ngược vòng đời khi giao phối sau khi đã trưởng thành về mặt tình dục. Điều này được thực hiện thông qua một quá trình phát triển tế bào, mà được gọi là "sự chuyển dịch tế bào", theo đó một dạng tế bào này có thể chuyển đổi thành dạng tế bào khác. Trong quá trình này giống sứa của loài sứa bất tử sẽ được chuyển hóa thành các Polip trong nhóm Polip mới. Về mặt lý thuyết, quá trình này diễn ra vô hạn, và dẫn đến việc loại sứa này bất tử, mặc dù, trên thực tế, các loài Turritopsis cũng như các loài khác trong họ sứa sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề, như phải chống chọi với việc bị săn bắt hay mắc bệnh trong giai đoạn là sinh vật phù du, điều này sẽ khiến nó mất khả năng chuyển hóa các Polip.
Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu… nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. Đây là một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa đặc biệt: lực lượng sản xuất xã hội đang chuyển từ kinh tế tài nguyên sang kinh tế tri thức, nền văn minh loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng dễ chấp nhận nhất hiện nay là định nghĩa của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra năm 1995: Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Với định nghĩa trên, có thể hiểu kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội, theo đó trong quá trình lao động của từng người lao động và toàn bộ lao động xã hội, trong từng sản phẩm và trong tổng sản phẩm quốc dân thì hàm lượng lao động cơ bắp, hao phí lao động cơ bắp giảm đi vô cùng nhiều trong khi hàm lượng tri thức, hao phí lao động trí óc tăng lên vô cùng lớn. Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Đó có thể là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao (như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học…); nhưng cũng có thể là những ngành kinh tế truyền thống (như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) được ứng dụng khoa học, công nghệ cao. Một ngành kinh tế có thể coi là đã trở thành ngành kinh tế tri thức khi giá trị do tri thức tạo ra chiếm tỷ lệ áp đảo (khoảng 70%) trong tổng giá trị sản xuất của ngành đó. Một nền kinh tế được coi là đã trở thành nền kinh tế tri thức khi tổng sản phẩm các ngành kinh tế tri thức chiếm khoảng 70% tổng sản phẩm trong nước (GDP). Trên thế giới hiện nay, ở các nước thuộc tổ chức OECD, các ngành kinh tế tri thức đã đóng góp trên 50% GDP (Mỹ 55,3%, Nhật Bản 53%, Canađa 51%…). Nhiều nước công nghiệp mới và các nước đang phát triển cũng đang hướng mạnh vào kinh tế tri thức, tập trung nỗ lực để phát triển nhanh một số ngành kinh tế tri thức, như công nghệ thông tin, internet, thương mại điện tử, công nghệ phần mềm…. Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn quý nhất, là nguồn lực quan trọng hàng đầu, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế có những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng; trong đó các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ ngày càng tăng và chiếm đa số. Trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập được các mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước, nối với hầu hết các tổ chức, các gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất của nền kinh tế. Trong nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa; sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người và phát triển con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội. Trong nền kinh tế tri thức, mọi hoạt động đều có liên quan đến vấn đề toàn cầu hóa kinh tế, có tác động tích cực hoặc tiêu cực sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã hội trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Những đặc điểm trên đòi hỏi trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, nhất thiết phải tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới; công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải gắn với kinh tế tri thức, phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại; kết hợp quá trình phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu; từng bước phát triển kinh tế tri thức, để vừa phát triển kinh tế- xã hội nhanh, bền vững vừa rút ngắn được khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Khu vực một của nền kinh tế
Khu vực thứ nhất của nền kinh tế hay khu vực/lĩnh vực sản xuất sơ khai là một bộ phận của nền kinh tế, bao gồm các hoạt động biến đổi tài nguyên thiên nhiên thành sản phẩm sơ khai, sơ khởi. Những sản phẩm này là nguyên liệu cho các ngành kinh tế khác. Các hoạt động kinh tế chủ yếu của lĩnh vực này gồm nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, khai mỏ, khai khoáng và khai thác đá. Các ngành công nghiệp chế tạo mà quá trình sản xuất gắn chặt với nguyên liệu thô như thu gom, bao gói, làm sạch, xử lý ban đầu và đặc biệt là các nguyên liệu này còn ở dạng thô sơ, chưa sử dụng được hoặc khó chuyên chở đi xa được coi thuộc về khu vực sản xuất sơ khai. Khu vực sản xuất sơ khai chiếm phần quan trọng trong nền kinh tế các nước đang phát triển, ví dụ ngành chăn nuôi phổ biển ở Châu Phi nhưng chiếm tỷ lệ nhỏ ở Nhật Bản. Ngành khai mỏ ở miền nam xứ Uên là một điển hình cho thấy một nền kinh tế, một cộng đồng sẽ ra sao khi chỉ dựa vào một hoạt động kinh tế sơ khai.
Hà Văn Thắm (sinh năm 1972) là doanh nhân người Việt Nam, Chủ tịch Tập đoàn Đại Dương, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Đại Dương cho tới ngày 24 tháng 10 năm 2014. Năm 2012, ông đứng thứ tám trong số những người giàu nhất thị trường chứng khoán Việt Nam với lượng cổ phiếu trị giá 1800 tỷ đồng. Năm 2014, với tổng tài sản ước lượng trên 1 tỷ USD, ông Thắm được cho là người giàu có thứ hai sau ông Phạm Nhật Vượng, Chủ tịch Tập đoàn Vingroup. Tháng 10 năm 2014 ông Thắm bị bắt và ra tòa ngày 27 tháng 2 năm 2017 với các tội danh: Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng; Lợi dụng chức vụ quyền hạn khi thi hành công vụ; Cố ý làm trái quy định của Nhà nước xảy ra tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương (Oceanbank). Ông là cử nhân Đại học Thương mại, Thạc sĩ trường Đại học Columbia Commonwealth (USA) và Tiến sĩ Quản trị Kinh doanh tại trường Đại học Công nghệ Paramount, Mỹ. Ông bắt đầu khởi nghiệp từ rất sớm, từ năm 1993 – 1997 ông là Giám đốc Doanh nghiệp tư nhân Bình Minh. Tiếp đó, từ năm 1997 – 2001 ông giữ vai trò Tổng giám đốc Công ty TNHH VNT. Sau đó, từ 2001 – 2003 ông là Giám đốc Công ty Liên doanh. Từ năm 2003 đến năm 2004 ông Hà Văn Thắm là Phó Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Nông thôn Hải hưng. Từ năm 2004 đến năm 2007 ông giữ cương vị là Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Nông thôn Hải hưng. Kể từ năm 2007 đến nay ông Hà Văn Thắm đã khẳng định vị thế của mình khi trở thành một doanh nhân tài ba với vai trò là Chủ tịch HĐQT Công ty CP Tập đoàn Đại Dương. Hiện tại, Hà Văn Thắm đang sở hữu khối tài sản lớn bao gồm: Cổ phần Tập đoàn Đại Dương (OGC), Tài sản của doanh nghiệp tư nhân Hà Bảo… Cho đến năm 2012, ông là người giàu thứ tám trên thị trường chứng khoán Việt Nam với lượng cổ phiếu OGC trị giá hơn 1.800 tỷ đồng. Ông Thắm từng đạt danh hiệu “Doanh nhân Việt Nam tiêu biểu” và “Cúp Thánh Gióng” năm 2009, nhận bằng khen và cúp “Vì sự nghiệp Văn hóa Doanh nhân Việt Nam” năm 2008 do Trung tâm Văn hóa Doanh nhân Việt Nam trao tặng, là một trong 10 doanh nhân trẻ được vinh danh “Giải thưởng Sao Đỏ 2011”. Ông Hà Văn Thắm là em trai ông Hà Trọng Nam (Chủ tịch Kem Tràng Tiền) và vợ ông là bà Hồ Thị Quỳnh Nga (sinh năm 1977), cả hai cùng có một người con gái tên Hà Bảo Linh, hai người con trai tên Hà Bảo Minh và Hà Bảo Long. Chiều 24 tháng 10 năm 2014, Ngân hàng Nhà nước thông báo, là đã phát hiện một số vi phạm pháp luật nghiêm trọng của cá nhân ông Hà Văn Thắm, nên đã đình chỉ quyền, nghĩa vụ của Chủ tịch, thành viên HĐQT ngân hàng này với ông Thắm. Thông cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết: Trong quá trình triển khai Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng đã được Bộ Chính trị, Chính phủ phê duyệt, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiến hành thanh tra pháp nhân, thanh tra chất lượng tín dụng đối với các tổ chức tín dụng. Qua thanh tra, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phát hiện một số vi phạm pháp luật nghiêm trọng của cá nhân ông Hà Văn Thắm. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã tống đạt quyết định khởi tố bị can Hà Văn Thắm, thực hiện lệnh bắt tạm giam 4 tháng với ông Thắm để điều tra về tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, theo Điều 179 Bộ luật hình sự. Tại phiên họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 10 diễn ra ngày 29 tháng 10, bộ trưởng Nguyễn Văn Nên cho biết, thanh tra NHNN đã phát hiện những bất ổn và thông báo cho ông Thắm để khắc phục, nhưng ông này không tự khắc phục được sai lầm nên dẫn đến kết cục bị khởi tố và bắt tạm giam. Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết thêm, Trong quá trình thực hiện đề án tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, NHNN thấy rằng tại Ocean Bank chưa khắc phục những sai phạm và lại phát sinh thêm những sai phạm mới. Theo truyền thông trong nước ngày 22/12/2014, Viện KSND Tối cao đã khởi tố, bắt tạm giam ông Nguyễn Văn Hoàn, nguyên Phó Tổng Giám đốc ngân hàng TMCP Đại Dương (OceanBank) để điều tra về hành vi “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”, theo Điều 179 Bộ luật Hình sự. Theo đó, “Nguyễn Văn Hoàn đóng vai trò đồng phạm với ông Thắm để ra các quyết định cho Cty Trung Dung vay số tiền lớn mặc dù biết hồ sơ vay vốn không đủ điều kiện.” Đây là “bước đầu xác định ông Hà Văn Thắm đã ký cho Cty TNHH TMDV Trung Dung vay khoảng 500 tỷ đồng không đúng quy định”. Ngày 28-1-2015, Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã khởi tố, bắt tạm giam 4 tháng bà Nguyễn Minh Thu – nguyên Chủ tịch HĐQT OceanBank, người vừa kế nhiệm ông Hà Văn Thắm hơn 3 tháng, để điều tra về hành vi “cố ý làm trái các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại Điều 165 Bộ luật Hình sự. Ngày 12/3/2015, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Bộ Công an (C46) đã thực hiện lệnh bắt tạm giam 4 tháng, khám xét đối với ông Nguyễn Xuân Thắng (SN 1979), Phó Giám đốc Khối khách hàng lớn và Đối tác chiến lược Ngân hàng TMCP Đại Dương (Oceanbank) cũng về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Ngày 19.7, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định cách chức Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) của ông Nguyễn Xuân Sơn. Ngày 21/7, Cơ quan Cảnh sát điều tra (C46) – Bộ Công an đã tống đạt Quyết định khởi tố bị can và thi hành Lệnh bắt, khám xét đối với Nguyễn Xuân Sơn về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” và tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, cho là ông trong thời gian làm Tổng Giám đốc Oceanbank, đã đồng phạm với Hà Văn Thắm. Ông Nguyễn Xuân Sơn từng giữ chức Tổng giám đốc Ngân hàng Ocean Bank từ cuối năm 2008 đến đầu năm 2011. Ngày 30 tháng 10 năm 2014, trả lời BBC, tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho rằng “Trong việc ông Hà Văn Thắm bị bắt, có thể coi đây là một trong các ví dụ nhà nước bắt đầu có thái độ nghiêm khắc hơn trong đối xử với các đại gia. Và ông Hà Văn Thắm bị bắt, trong giới chuyên môn đã có những phỏng đoán từ khá lâu rồi. Việc ông Thắm bị bắt, đối với giới chuyên môn, không có gì đột ngột, bởi vì ông Thắm đã tay không bắt giặc, đã giàu lên rất nhanh, từ một người không có tích lũy gì, không có vốn gì lớn mà đã phát triển lên rất nhanh, qua rất nhiều ngành và cũng có nhiều dự án tham vọng.”. Ngày 30 tháng 10 năm 2014, trả lời BBC, luật sư Trần Đình Triển cho rằng: “Trong quá trình giải quyết các sai phạm, không chỉ riêng trong trường hợp ông Thắm, mà còn nhiều trường hợp khác, nhà nước Việt Nam dùng đòn bẩy kinh tế để giải quyết các sai phạm đó. Các doanh nghiệp và cá nhân được cho cơ hội khắc phục hậu quả và chấn chỉnh lại thì sẽ được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên đối với ông Hà Văn Thắm thì việc cho khắc phục và khả năng khắc phục được là không thể có.”. Ngày 2 tháng 11 năm 2014, trả lời BBC, tiến sĩ Phạm Chí Dũng cho rằng: “Ở Việt Nam bây giờ có vấn đề là quan hệ giữa các nhóm lợi ích và kéo theo là quan hệ giữa các nhóm chính khách với nhau, tôi cho là đã đến điểm mà không chỉ dung hòa được mà chỉ có bên thắng, hoặc bên thua. Và nếu như một chính khách mất, đổ, thì khi đó sẽ kéo theo sự sụp đổ của một nhóm lợi ích bảo vệ cho chính khách đó. Và như vậy, đó là điều mà các nhóm lợi ích không bao giờ mong muốn và họ phải luôn luôn làm sao giữ cho sự tồn tại. Về phía quan chức lãnh đạo rất cao cấp ở Việt Nam, một nhóm nào đó đang tính toán tới việc cần phải loại trừ đi những tập đoàn mafia cũ. Vì những tập đoàn này đã bóc lột người dân nhiều quá rồi và làm cho uy tín cũng như chân gốc của Đảng rệu rã quá, và cần phải thanh loại nó đi. Và cách khác mạnh hơn nữa là cần phải thay máu nó giống như điều mà Tập Cận Bình đang làm ở Trung Quốc.”. Tập đoàn Đại Dương được ông Hà Văn Thắm cùng một số thành viên gia đình sáng lập vào năm 2007. Chỉ sau 6 năm thành lập công ty này đã tăng vốn từ 10 tỷ đồng lên 3.000 tỷ đồng. Theo báo cáo tài chính quý 3 năm 2013 Công ty Cổ phần Tập đoàn Đại Dương (HOSE-OGC) tuyển thêm 1.036 nhân sự trong 9 tháng đầu năm, nâng lượng nhân viên lên 2.563 người, gấp 6 lần cách đây 4 năm. Tập đoàn Đại Dương nắm giữ cổ phần chi phối tại các công ty con như:. Trong lãnh vực tài chính Công ty cổ phần Chứng khoán Đại Dương (Ocean Securities) có vốn điều lệ 300 tỷ đồng và ngân hàng OceanBank. Ocean Hospitality (OCH) trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn với hai thương hiệu khách sạn StarCity tiêu chuẩn 4 sao và Sunrise tiêu chuẩn 5 sao. Hiện Ocean Hospitality đang sở hữu 96,92% vốn tại Công ty cổ phần Sài Gòn Givral (Saigon Givral), 74% cổ phần của Công ty cổ phần Dịch vụ hỗ trợ và Phát triển đầu tư (IOC), 62% cổ phần Công ty cổ phần Tân Việt, 83% cổ phần của Công ty cổ phần du lịch Khách sạn Suối Mơ và sở hữu Kem Tràng Tiền. Công ty cổ phần bán lẻ và quản lý bất động sản Đại Dương (Ocean Retail) được thành lập tháng 9/2010 với vốn điều lệ 300 tỷ đồng, đến 2013 vốn điều lệ là 3.000 tỷ đồng. Như vậy, Ocean Retail đã tăng vốn lên 10 lần trong khoảng thời gian hơn 3 năm và trở thành công ty thành viên có vốn điều lệ lớn nhất trong Ocean Group. Tuy nhiên vào đầu tháng 10, Ocean Group đã công bố chuyển nhượng toàn bộ cổ phần tại Ocean Retail cho Vingroup. Dù ông Thắm chỉ trực tiếp đứng tên sở hữu 1,11% ở Tập đoàn Đại Dương nhưng tỷ lệ sở hữu gián tiếp qua các công ty con của ông lại khá lớn. Doanh nghiệp tư nhân Hà Bảo, mà ông Thắm là chủ sở hữu, đang nắm giữ 44,37% Ocean Group. Ngày 7 tháng 1 năm 2015, Ocean Group công bố tài khoản của họ tại Ocean Bank bị phong tỏa từ ngày 6/1. Việc phong tỏa tài sản được thực hiện theo yêu cầu của Cơ quan cảnh sát điều tra – Bộ Công an. Truyền thông trong nước nói khoản đầu tư của Ocean Group tại Ocean Bank là 986,5 tỷ đồng. Năm 2007, Ngân hàng Nông thôn Hải Hưng đổi tên thành Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại Dương (OceanBank), chủ tịch HĐQT là ông Hà Văn Thắm, có các cổ đông lớn là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (nắm 20% cổ phần), Tập đoàn Đại Dương (20% cổ phần), Công ty TNHH VNT (20% cổ phần),… Tính tới tháng 12 năm 2013, OceanBank trở thành nhà băng có vốn tới 4.000 tỷ đồng, và mới được chấp thuận tăng vốn lên 5.350 tỷ đồng. Ngân hàng Nhà nước tuyên bố ngày 25/4/2015 mua lại với giá 0 đồng, trở thành sở hữu 100% vốn điều lệ của OceanBank, chấm dứt toàn bộ quyền, lợi ích và tư cách cổ đông của các cổ đông hiện hữu. Trong số các cổ đông mất tiền có Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN)(đã nắm 20% cổ phiếu). Ngày 19.7, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định cách chức Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam của ông Nguyễn Xuân Sơn. Việc này có liên quan đến số vốn đầu tư 800 tỷ đồng của PVN tại Ngân hàng Ocean Bank. Ông Nguyễn Xuân Sơn từng giữ chức Tổng giám đốc Ngân hàng Ocean Bank từ cuối năm 2008 đến đầu năm 2011. Thống đốc Nguyễn Văn Bình cho biết, “Ngân hàng Nhà nước mua lại với giá 0 đồng, để nói với người dân rằng giá trị cổ phần của ngân hàng đó không còn nữa”. Giá trị thật của VNCB và Ocean Bank khi Ngân hàng Nhà nước mua lại đã là âm. Vốn điều lệ bị âm và tự thân họ không thể bù đắp nổi để có được một mức dương trên 0 đồng. Viện kiểm sát nhân dân Tối cao vào ngày 23/12/2016 đã tống đạt cáo trạng truy tố đối với bị can Hà Văn Thắm, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại Dương (OceanBank). Cáo trạng đưa ra ba tội: vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ và cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Ngoài ra 46 người khác cũng bị truy tố, trong đó có một số bị can là lãnh đạo cấp cao của OceanBank như Nguyễn Xuân Sơn, Nguyễn Minh Thu (đều nguyên tổng giám đốc); Nguyễn Văn Hoàn, Lê Thị Thu Thủy (nguyên phó tổng giám đốc). Cáo trạng xác định trong quá trình hoạt động, OceanBank đã xảy ra nhiều vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng trong việc cho vay, huy động tiền gửi, chi lãi suất vượt trần, chi lãi suất ngoài hợp đồng gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng cho OceanBank và các cổ đông. Cáo trạng xác định đến ngày 31-3-2014, hành vi của ông Thắm và các đồng phạm dẫn đến nợ xấu của OceanBank hơn 14.000 tỉ đồng và mô tả việc làm của các bị cáo “không chỉ gây thiệt hại cho OceanBank” mà còn còn gây ảnh hưởng đến điều được gọi là “các chủ trương điều hành thị trường tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách tiền tệ của Chính phủ.
Hà Văn Thắm
Hà Văn Thắm (sinh năm 1972) là doanh nhân người Việt Nam, Chủ tịch Tập đoàn Đại Dương, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Đại Dương cho tới ngày 24 tháng 10 năm 2014. Năm 2012, ông đứng thứ tám trong số những người giàu nhất thị trường chứng khoán Việt Nam với lượng cổ phiếu trị giá 1800 tỷ đồng. Năm 2014, với tổng tài sản ước lượng trên 1 tỷ USD, ông Thắm được cho là người giàu có thứ hai sau ông Phạm Nhật Vượng, Chủ tịch Tập đoàn Vingroup. Tháng 10 năm 2014 ông Thắm bị bắt và ra tòa ngày 27 tháng 2 năm 2017 với các tội danh: Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng; Lợi dụng chức vụ quyền hạn khi thi hành công vụ; Cố ý làm trái quy định của Nhà nước xảy ra tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương (Oceanbank). Hà Văn Thắm sinh ngày 11 tháng 12 năm 1972 tại xã An Hà, huyện Lạng Giang, Bắc Giang, Việt Nam; hiện ông thường trú tại Phường Quảng An, Quận Tây Hồ, Hà Nội. Ông là cử nhân Đại học Thương mại, Thạc sĩ trường Đại học Columbia Commonwealth (USA) và Tiến sĩ Quản trị Kinh doanh tại trường Đại học Công nghệ Paramount, Mỹ.
Được hiểu là: một chất màu được đưa lên môi để cải thiện hoặc thay đổi màu sắc của chúng. Có nghĩa là: Son môi là một chất có màu ở dạng thỏi mà mọi người đưa lên môi. Nhằm giúp các bạn hiểu rõ về cách dùng của “ lipstick - son môi”. Chúng mình sẽ cung cấp cho các bạn những ví dụ về “ lipstick” để các bạn nắm rõ được cách dùng nhé!. Nhưng tôi chấp nhận rằng một số người hơi sợ son đỏ và phấn mắt màu tím điện. Cô ấy nói chuyện với tôi tại nhà riêng ở Brooklyn, trông thật quyến rũ với màu son đỏ đậm. Dan đặt son môi và gương trên ghế ngồi của mình và xoay chiếc xe tập đi của mình sao cho lưng của cô ấy hướng vào tường. Lấy son môi màu cam bóng và sơn một lớp phủ lên trên màu hồng. Son môi là một loại mỹ phẩm dùng để tạo màu, tạo kết cấu và bảo vệ cho môi. Nhiều màu sắc và nhiều loại son môi tồn tại. Một số loại son môi cũng là chất dưỡng môi, để thêm cả màu sắc và dưỡng ẩm. Son môi thu hút sự chú ý vào đôi môi và làm cho chúng nổi bật. Đôi môi được coi là một bộ phận gợi cảm của cơ thể, và việc làm nổi bật chúng có thể khiến phụ nữ trở nên hấp dẫn hơn với người khác phái. Son môi đối với phụ nữ, cũng giống như trang điểm nói chung, từ lâu đã mang một chức năng đa năng là tự tuyên bố bản thân - cho dù đó là địa vị của họ khi trưởng thành, tinh thần trẻ trung, sức quyến rũ tình dục, niềm tin chính trị hay đáng kể là quyền tự định nghĩa bản thân.
Son môi
Son môi là mỹ phẩm có chứa sắc tố, dầu, sáp, chất làm mềm da; có tác dụng tô thoa tạo màu sắc, tạo bề mặt và bảo vệ đôi môi. Nhiều màu sắc và kiểu loại son môi tồn tại. Như với hầu hết nhiều loại mỹ phẩm, son môi khá phổ biến, nhưng không phải độc quyền dành cho phái nữ. Sử dụng son môi đã tồn tại từ thời Trung Cổ. Một số son môi cũng là chất dưỡng môi, để gia tăng màu sắc và độ ẩm. Đàn ông và phụ nữ Sumer cổ đại có thể là những người đầu tiên phát minh và thoa son môi, khoảng 5.000 năm trước. Họ nghiền đá quý và sử dụng chúng để trang trí khuôn mặt, chủ yếu trên môi và xung quanh mắt. Khoảng năm 3500 trước công nguyên, nữ hoàng Schub-ad người Sumer được cho là người đầu tiên sử dụng son môi màu. Bà đã làm đẹp cho đôi môi của mình bằng màu sắc được tạo ra từ chì trắng và đá đỏ nghiền vụn. Dù lúc ấy son môi khá độc hại nhưng nó không thể cản được những người phụ nữ muốn sử dụng và trải nghiệm loại sản phẩm này.
Đảng có tên gọi đầy đủ là Đảng phái chính trị, là một tổ chức chính được nắm trong tay quyền lực nhất định. Các thành viên trong tổ chức được chỉ định thông qua hình thức bầu cử. Đảng xây dựng một đường lối, tư tưởng chính trị nhất định. Nhiệm vụ của Đảng là thực hiện lý tưởng, nguyện vọng của tầng lớp, giai cấp, quốc gia và đảm bảo quyền lợi của tầng lớp, giai cấp hoặc quốc gia đó. Là đảng cầm quyền,chỉ có Đảng này mới được hoạt động tại Việt Nam, được đảm bảo bằng điều 4 tại Hiến pháp năm 1980. Đảng Cộng sản Việt Nam là của ai? Chính là của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam (theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức được công bố). Đường lối chính trị: lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm gốc rễ để điều chỉnh và xây dựng mọi hoạt động của Đảng. Bên cạnh đó đường lối của Đảng cũng bị ảnh hưởng không nhỏ từ tư tưởng phong kiến, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa tư bản. Trong bộ máy của Đảng cơ quan cao nhất là Đại hội Đại biểu, Ban Chấp hành Trung ương được bầu ra từ đây. Trung ương Đảng thông qua các đại hội Đảng để bầu ra Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương và xác định xem ai đảm nhận vị trí Tổng Bí thư. Trước khi ban hành Hiến pháp, nước ta từng có một số Đảng khác qua các thời kỳ. Ví dụ thời pháp thuộc, có một số Đảng như: Việt Nam Quốc dân Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Tân Việt Cách mạng Đảng…. Hiện nay Đảng Cộng sản Việt Nam là chính Đảng duy nhất tại Việt Nam. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là những người ưu tú cả về trí tuệ và phẩm chất được kết nạp và gia nhập đồng thời sinh hoạt tại tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam. Để trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam bạn phải có độ tuổi từ 18 trở lên và cam kết thừa nhận và tự nguyện tham gia thực hiện các Cương lĩnh, Điều lệ Đảng cùng các quy định, nhiệm vụ khác của người Đảng viên. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930, là bước ngoặt mang ý nghĩa lịch sử to lớn cho sự phát triển bền vững của nước ta. Mở đầu là con đường tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh ngày 5/6/1911. Người đã đi qua rất nhiều quốc gia châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và học hỏi được rất nhiều điều từ chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc và đường lối cứu nước theo Lê-nin. 7/1920, “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin đã giúp Bác tìm ra con đường cứu nước. Giai đoạn 1921 – 1930, người thanh niên sục sôi tinh thần yêu nước ấy ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác, Lênin, phong trào công nhân, phong trào yêu nước để chuẩn bị tốt mặt tư tưởng cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên năm 1925, lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu hay gửi cán bộ đi học tập tại phương Đông… là những bước chuẩn bị về tri thức lẫn tinh thần cho cán bộ. 1929: là thời điểm chín muồi để cho ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời gian 6/1 – 7/2/1930 Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc được tiến hành. Kết quả Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời bằng cách thức hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Vào Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, ngày 03/02 được quyết định làm ngày kỉ niệm thành lập Đảng hàng năm. Hy vọng với những thông tin hữu ích trên đây có thể giải đáp những thắc mắc của bạn. Một bầu trời tri thức tại DINHNGHIA.VN đang chờ bạn khám phá ngay tại đây. Nếu bạn có bất cứ băn khoăn nào về bài viết đảng là gì hay định nghĩa, khái niệm về đảng thì hãy nhận xét bên dưới để chúng mình cùng trao đổi thêm nhé!
Đảng phái chính trị
Đảng phái chính trị, thường hay gọi chính đảng, chỉ tổ chức chính trị xã hội của những người có chính kiến giống nhau hoặc những người có cùng quan điểm chính trị, và những người ứng cử cho các cuộc bầu cử, trong nỗ lực để họ được bầu và do đó thực hiện chương trình nghị sự của đảng. Ở bên trong chính thể dân chủ đại nghị, chính đảng tranh đoạt nắm giữ chính quyền thông thường lấy hình thức tham gia bầu cử làm phương pháp và hành động nhằm đoạt lợi ích về phía mình, và lại có lúc kết thành liên minh chính trị, lúc ắt phải cần thì liên hợp nắm giữ chính quyền. Chính đảng có mục tiêu chính trị và ý thức cụ thể, có chủ trương của bản thân mỗi chính đảng nhắm vào vấn đề quốc gia và xã hội, chế định chính cương phô bày cảnh nguyện. Xã hội thừa nhận nó có sẵn quyền lực hợp pháp để mà tổ chức và mở rộng chủ trương của nó, nó cũng tích cực tiến hành can dự vào trong sinh hoạt chính trị, để cho lấy được hoặc che chở giữ gìn chính quyền, hoặc ảnh hưởng việc sử dụng thật thi quyền lực chính trị cho nên phát huy tác dụng của bản thân nó.
"Có gì trong một cái tên của tôi ." một lần tôi đã viết Pushkin trong album Sobanskaya Carolina, nổi tiếng trong giới quý tộc các polka đẹp, địa chỉ của mình một trong những tác phẩm trữ tình hay nhất của ông. Để diễn giải của nhà thơ nổi tiếng, nói cách khác: và đó có nghĩa là tên của chúng tôi, tại sao một số có vẻ hấp dẫn, du dương, trong khi những người khác gây ra một phản ứng tiêu cực?. Về là những gì họ phổ biến nhất ở Nga, không có bằng chứng người ta có thể tranh luận dài. Sau khi tất cả, bao nhiêu người, rất nhiều thị hiếu, và do đó ý kiến về số tiền tương tự. Nhưng nếu chúng ta phân tích dữ liệu thống kê và nhắc lại rằng hiện thân của tất cả mọi thứ của Nga là "Ivan", không có gì đáng ngạc nhiên trên thực tế khác là. Tất cả bắt nguồn từ nó như tần số cao và phổ biến rộng rãi. Do đó rõ ràng là phổ biến nhất ở Nga họ, kêu gọi thẻ, có thể nói, các anthroponimics trong nước - Ivanov. Nó được đeo trên được đa số nông dân thế kỷ - lớp đông đảo nhất của người dân. Mặc dù vậy có một câu nói: "Chúng tôi Ivanov, như toadstools, nấm." là những gì đáng chú ý: để "nâng cao" nguồn gốc bình dân trong những cái tên của một số chủ sở hữu của nó trong cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20 bắt đầu thay đổi với giọng vào âm tiết cuối cùng của người đầu tiên, với âm thanh "o" thành "một". Ví dụ, cũng như một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của Silver Tuổi Vyacheslav Ivanov. thay như vậy không ảnh hưởng đến thực tế là nó là điều này là phổ biến nhất ở Nga, họ, và nó vẫn còn cho đến ngày nay. Có lẽ nhiều người sẽ ngạc nhiên bây giờ, rằng một khi đã được phổ biến trong tên gọi chung của Smyrna. Vì vậy, các bậc cha mẹ trong gia đình đông con, ồn ào và ồn ào nơi những đứa trẻ, đậu Hà Lan trong lĩnh vực này, và sự vâng phục của đặc biệt không khác biệt, bình tĩnh cô lập, im lặng, con nestroptivyh. Sau đó, như thường lệ, nó được hình thành từ tên của các nickname. Và bởi vì nó đã nhận thêm một trong các họ phổ biến nhất của Nga - Smirnov. Nổi tiếng với nhiều đại diện của mình tại khu vực phía Bắc sông Volga, Kostroma và Yaroslavl, cũng như các tỉnh lân cận khác và các huyện. Toàn bộ loại mất nguồn gốc của biệt danh của mình từ những khu định cư, nơi tổ tiên của họ giải quyết lần đầu. Và đây là một hiện tượng onomastics: phổ biến nhất của Nga họ "chim" nguồn gốc - Sokolov. Không có gì đáng ngạc nhiên là. Săn bắn - không chỉ là một trong những phương tiện chính của sản xuất lương thực trong Slav cổ đại, bao gồm cả những người nông dân Nga, mà còn dân làng sau nhiều thế kỷ. Nuôi chim ưng đang săn lùng - trò chơi quốc gia của chúng tôi. Tại tòa án của nhà vua-linh mục, cũng như các nhà quý tộc giàu có nhất (boyars) là một người nuôi chim ưng - một công việc đặc biệt. Chiếm nó ta phải huấn luyện và giữ trong các hình thức thích hợp của chim ưng săn bắn. Từ loạt cùng nó đã được phổ biến trong tên Nga Orlov, Lebedev. Dù sao, những cái tên của các loài chim và động vật - một trong những nguồn chính của biệt danh của chúng tôi. Volkov, thịt nai, sư tử, Medvedev, cá chép, cá trê, Ershov, vv - . Một bằng chứng rõ ràng về điều đó. Nhà ngôn ngữ học Boris Genrihovich Unbegaum vào đầu thế kỷ trước, phân tích dữ liệu số liệu và sổ địa chỉ trong năm 1910, được xác định như bây giờ có thói quen nói, phía trên một trăm thường gặp nhất ở bang tên họ của Nga. Mở danh sách, tất nhiên, Ivanova. Tức là sự cố chúng tôi đã mô tả các nguyên tắc - thay mặt cho một biệt danh. Tục ngữ Nga và ý nghĩa của chúng. Châm ngôn và ý nghĩa của chúng trong câu chuyện cổ tích của Nga. tục ngữ nổi tiếng người Nga và những câu nói
Tên của Rus', Nga và Ruthenia
Ban đầu, cái tên Rus (Русь) được dùng để chỉ người, khu vực và các quốc gia thời trung cổ (thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 12) của Rus Kiev. Trong văn hóa phương Tây, nó được biết đến nhiều hơn với cái tên Ruthenia từ thế kỷ 11 trở đi, Các lãnh thổ của nó ngày nay thuộc Belarus, Bắc Ukraina và Nga thuộc châu Âu. Thuật ngữ Россия (Rossija), xuất phát từ tiếng Hy Lạp Byzantine định nghĩa của Rus , Ρωσσία Rossía - đánh vần là Ρωσία (Rosía phát âm là ) trong tiếng Hy Lạp hiện đại. Một trong những tư liệu lịch sử sớm nhất đề cập đến những người được gọi là Rus (như Rhos) có từ năm 839 trong Annales Bertiniani. Biên niên này xác định họ là một bộ lạc Germanic được gọi là người Thụy Điển. Theo Biên niên sử chính (Primary Chronicle) của Kievan Rus , được biên soạn vào khoảng năm 1113, Rus là một nhóm người Varangians, Norsemen đã di chuyển đến một nơi nào đó từ vùng Baltic (nghĩa đen là "từ ngoài biển"), đầu tiên đến Đông Bắc Châu Âu, rồi đến phía nam nơi họ tạo ra nhà nước Kiev thời trung cổ.
BB Trần được mọi người bắt đầu biết đến với vị trí trưởng nhóm của nhóm hài đình đám BB&BG – nhóm hài đầu tiên của Việt Nam đoạt nút vàng Youtube. BB Trần được mọi người yêu mến với lối diễn xuất duyên dáng và đặc biệt là những vai diễn hóa trang giả gái vô cùng xuất sắc. Từ nhỏ, BB Trần là người có nhiều sở thích. Anh thích hát, thích làm người mẫu, thích hội họa… Có chút khả năng về mỹ thuật, bạn bè người thân khuyên đi thi ngành Thiết kế thời trang. Nhưng rồi, bản năng vẫn chưa đủ, anh cần thêm kiến thức về chuyên môn nên đã “trượt vỏ chuối” trong kỳ thi tuyển. Tham gia lớp đào tạo ngắn hạn về người mẫu sau đó, anh làm quen với nhiều bạn mới – là những thành viên của nhóm BB&BG hiện tại. Anh và nhóm chơi thân, ghi lại những kỷ niệm chung bằng clip tự quay và từ đó, những clip ấy đã nhận được nhiều sự yêu thích của mọi người. Lập nhóm hài và là trưởng nhóm, thế nhưng BB Trần chưa từng tự tin khi diễn xuất. Anh đảm nhận việc nghĩ kịch bản, đứng sau máy quay để các bạn cùng nhóm tỏa sáng. Một lần cùng thành viên trong nhóm đi tham gia casting phim, BB Trần bất ngờ khi diễn xuất của mình được các anh chị trong ê-kíp đón nhận. Cũng từ đó, anh trở về và tự tin hơn khi hòa nhập cùng các bạn. Có thể nói BB&BG với dẫn dắt của trưởng nhóm BB Trần là hiện tượng đình đám một thời của Youtube Việt Nam với rất nhiều clip hàng chục triệu view, đã nhanh chóng giúp nhóm trở thành nhóm hài đầu tiên của Việt Nam đạt được nút vàng của Youtube. Nhưng rồi bất ngờ tháng 06/2017, BB Trần tuyên bố rời nhóm để hoạt động độc lập. Ngay sau đó các thành viên khác của BB&BG cũng thông báo nhóm sẽ chính thức ngừng hoạt động, để lại tiếc nuối cho hàng triệu fan hâm mộ. Sau khi rời khỏi BB&BG, BB Trần đã bắt đầu con đường đi của riêng mình với các clip hài Parody (nhạc chế) , đặc biệt là series Chị Em Song Sinh kết hợp cùng với bạn thân Hải Triều thu hút sự quan tâm của rất đông khán giả. Hầu như các clip hài mới của BB Trần đều đạt hàng triệu đến hàng chục triệu view cho thấy sức hút của BB Trần sau khi tách khỏi BB Trần không bị giảm sút mà còn tăng trưởng. Năm 2019, BB Trần tham gia Running Man Việt Nam 2019 với tên gọi phiên bản Việt là Chạy Đi Chờ Chi. Sự láu lỉnh và mưu mẹo của BB Trần khiến khán giả thích thú và đặt cho anh biệt danh “thánh chơi dơ”. BB Trần nói điều anh hối hận nhất là việc ít có thời gian chăm sóc mẹ khi bà bị bệnh ung thư phổi và qua đời ở tuổi 51. Mẹ từng trách anh đem lại niềm vui cho người ngoài, còn gia đình thì không. Bên ngoài anh nói nhiều, đem lại tiếng cười nhiều nhưng ở nhà rất ít nói. Càng lớn, anh càng ít gần ba mẹ. Ra đường nói nhiều, làm nhiều nên về nhà, anh chỉ muốn thư giãn, nghỉ ngơi. Gặp ba mẹ, anh chỉ nói được vài câu. Lời nói của mẹ đã ám ảnh anh mãi. Anh tự hỏi tại sao không làm cho mẹ vui, để khi bà mất vẫn còn buồn. Anh hối hận cả cuộc đời chứ không chỉ giây phút khi mẹ nói câu đó. Mỗi khi thắp hương cho mẹ, anh không dám nhìn di ảnh vì cảm giác có lỗi. Mất mẹ là nỗi đau đớn nhất cuộc đời anh. Thời gian mẹ nằm viện, gia đình BB Trần phải thuê nhà ở TP.HCM, thu nhập của ba anh khiêm tốn, anh chỉ còn cách lao ra ngoài kiếm tiền lo cho mẹ nếu không gia đình cũng không biết xoay sở thế nào. Tuy nhiên những lời nói của mẹ khiến anh tỉnh ngộ, dù thế nào cũng cần dành thời gian cho người thân. Bây giờ, BB Trần dành thời gian cho ba nhiều hơn. Anh đưa ba đi du lịch, nói chuyện với ba. Anh nghĩ mục tiêu của mình là bù đắp cho ba. Anh đã mua xe, sắp tới sẽ mua nhà. BB Trần khiến nhiều người ngưỡng mộ với mối tình 5 năm với bạn đời Quang Lâm. BB Trần tiết lộ trước khi đến với Quang Lâm, anh từng có người yêu và “thích” quản lý bạn đời. Anh không đồng ý “nửa kia” dùng phần mềm hẹn hò để “thả thính” trên mạng xã hội. Và trong một lần cãi vã với người đó, anh quyết định tải app hẹn hò đồng giới và làm quen được Quang Lâm. “Ngày hôm đó, tôi đã thề sẽ không chào hỏi ai trên phần mềm hẹn hò. Nhưng khi nhìn thấy ảnh Quang Lâm đúng gu của mình, mập và dễ thương nên đã làm quen. Cả hai quyết định gặp mặt ngay trong buổi tối làm quen rồi nảy sinh tình cảm khi đi hát karaoke. Sau buổi hẹn hò, Quang Lâm đã dọn đồ sang nhà tôi sống luôn”, BB Trần chia sẻ. BB Trần cho hay bạn đời là người có tính cách mềm yếu và hay nhõng nhẽo. Chính vì điều này, thời gian đầu dọn về sống chung, anh luôn chủ động nhường nhịn. “Mỗi lần Lâm dọa chia tay là sợ lắm, tôi toàn phải nhường. Tuy nhiên, sau này tôi cứng rắn hơn, Lâm chịu nghe và hòa thuận trong cuộc sống chung của hai đứa. Lâm nói ai ‘nắm đầu’ được Lâm thì mới có thể tính tới mối quan hệ lâu dài”, BB kể. Về phía gia đình, BB Trần cho biết họ rất ủng hộ mối quan hệ của 2 người. Thậm chí, cha mẹ anh coi Lâm như con cái trong nhà khi về ra mắt. “Tôi là người không bao giờ tính trước vì nói trước sẽ bước không qua. 5 năm bên nhau nhưng chúng tôi đã có không ít kỉ niệm. Cả hai dự định cứ sống như vậy, để mọi thứ tự nhiên, điều gì đến sẽ đến”, BB Trần nói về dự định đám cưới của họ trong tương lai.
BB Trần
Trần Phan Quốc Bảo (sinh 20 tháng 8 năm 1990 tại An Giang), thường được biết đến với nghệ danh BB Trần, là một diễn viên hài, nhà sản xuất phim, youtuber, người mẫu người Việt. Anh nổi tiếng khi là trưởng nhóm hài BB&BG và phát triển với các chương trình truyền hình, parody,. BB Trần có tên khai sinh là Trần Phan Quốc Bảo. Sinh ngày 20 tháng 8 năm 1990 tại An Giang. Từ nhỏ, BB Trần là người có nhiều sở thích. Anh thích hát, thích làm người mẫu, thích hội họa… Anh có chút khả năng về mỹ thuật và được bạn bè người thân khuyên anh đi thi ngành Thiết kế thời trang nhưng anh đã thi trượt kỳ thi tuyển. Anh tham gia lớp đào tạo ngắn hạn về người mẫu và bắt đầu làm quen với nhiều bạn mới – là những thành viên của nhóm BB&BG về sau. Bắt đầu từ năm 2009, anh là trưởng nhóm hài youtube BB&BG. Nhóm được khán giả chú ý với hàng loạt clip "Anh không đòi quà", "Cô bé bán diêm", "Tình yêu tuổi học trò", "Tiên hám chuối" … Tuy nhiên sau đó, anh đã dần tách ra để hoạt động riêng và đạt được những thành công nhất định.
Hiện nay cùng với sự phát triển không ngừng của các ngành nghề thì ngành xuất bản cũng không nằm ngoài guồng quay đó. Những thành phẩn của ngành ngày càng đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường cả về số lượng (sự đa dạng), chất lượng (nội dung). Xuất bản là việc tổ chức, khai thác bản thảo, biên tập thành bản mẫu để in và phát hành hoặc để phát hành trực tiếp qua các phương tiện điện tử. Ngoài ra trên một số trang tìm kiếm lớn chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy một số định nghĩa khác của xuất bản. Cụ thể trên trang Wikipedia định nghĩa như sau:. Xuất bản là việc phổ biến âm nhạc, văn học, hoặc thông tin. Đây là hoạt động cung cấp thông tin cho công chúng. Trong một số trường hợp, các tác giả có thể là nhà xuất bản của riêng họ, nghĩa là người khởi tạo và phát triển nội dung đồng thời cũng là người cung cấp phương tiện để phân phối và hiển thị nội dung của họ. Ngoài ra, từ “nhà xuất bản” có thể đề cập đến cả một cá nhân lãnh đạo một công ty xuất bản hoặc một nhà xuất bản và một cá nhân sở hữu / đứng đầu một tạp chí. Theo truyền thống, thuật ngữ này đề cập đến việc phân phối các tác phẩm in, chẳng hạn như sách (“buôn bán sách”) và báo chí. Với sự ra đời của hệ thống thông tin số và Internet, phạm vi xuất bản đã mở rộng để bao gồm các tài nguyên điện tử như phiên bản điện tử của sách và tạp chí, cũng như xuất bản vi mô, trang web, blog, nhà phát hành trò chơi video và những thứ tương tự. Xuất bản cơ bản bao gồm các công đoạn sau: mua bản quyền (từ tác giả hoặc nhà xuất bản gốc), biên tập, dàn trang, thiết kế bìa, xin giấy phép xuất bản, in ấn (hoặc xuất bản dưới định dạng điện tử như pdf, epub, mobi…), tiếp thị và phân phối. Các nhà xuất bản truyền thống hoặc thương mại: Không thu phí tác giả để xuất bản sách của họ, đối với một số quyền nhất định để xuất bản tác phẩm và trả tiền bản quyền cho sách được bán. Tự xuất bản: Tác giả phải đáp ứng tổng chi phí để có được cuốn sách được xuất bản. Tác giả thường giữ toàn quyền, còn được gọi là xuất bản phù phiếm. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật Xuất bản năm 2012 có định nghĩa về xuất bản như sau: “Xuất bản là việc tổ chức, khai thác bản thảo, biên tập thành bản mẫu để in và phát hành hoặc để phát hành trực tiếp qua các phương tiện điện tử.’. Xuất bản là việc tổ chức, khai thác bản thảo, biên tập thành bản mẫu để in và phát hành hoặc để phát hành trực tiếp qua các phương tiện điện tử. Thứ nhất: Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch, chính sách phát triển hoạt động xuất bản; tổ chức lập nội dung phương án phát triển cơ sở xuất bản trong quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, cơ sở xuất bản, quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh theo quy định của pháp luật về quy hoạch; ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động xuất bản và bản quyền tác giả trong hoạt động xuất bản; (điểm này trong Luật được sửa đổi bởi khoản 1 – Điều 19 – Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của 37 Luật có liên quan đến quy hoạch 2018). Thứ tư: Nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ trong hoạt động xuất bản, đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn, nghiên cứu nghiệp vụ về hoạt động xuất bản. Thứ sáu: Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động xuất bản. Thứ bảy: Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công tác thi đua, khen thưởng trong hoạt động xuất bản; tuyển chọn và trao giải thưởng đối với xuất bản phẩm có giá trị cao. Bước 2: Tổ chức nộp hồ sơ tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, sở Thông tin và Truyền thông (Đường Mê Linh, Phường Khai Quang, Thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc). Thời gian tiếp nhận hồ sơ: Các ngày trong tuần (trừ ngày nghỉ và ngày lễ, tết). – Nếu hồ sơ đã đầy đủ, hợp lệ thì viết giấy hẹn trao cho người nộp. – Nếu hồ sơ thiếu, hoặc không hợp lệ thì công chức tiếp nhận hồ sơ hướng dẫn tổ chức hoàn thiện quy định. Bước 4: Công chức chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền giải quyết và trả kết quả theo giấy hẹn. Bước 5: Tổ chức nhận kết quả tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, sở Thông tin và Truyền thông. Trong trường hợp nhận hộ, người nhận hộ phải có thêm giấy uỷ quyền và chứng minh thư của người uỷ quyền. Thời gian nhận kết quả: Các ngày trong tuần (trừ ngày nghỉ và ngày lễ, tết). Bước 6: Tổ chức nộp lưu chiểu: Sau khi in xuất bản phẩm thì cơ quan, tổ chức in xuất bản phẩm phải nộp lưu chiểu cho Sở Thông tin và Truyền thông (tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, sở Thông tin và Truyền thông) và Cục Xuất bản. – 02 Bản thảo (trường hợp tài liệu bằng tiếng nước ngoài, tiếng dân tộc thiểu số Việt Nam phải kèm theo bản dịch tiếng việt). – Tài liệu lịch sử đảng, chính quyền địa phương; tài liệu phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương sau khi có ý kiến của tổ chức đảng, cơ quan cấp trên. + Trường hợp xuất bản phẩm điện tử được chứa trong thiết bị lưu trữ dữ liệu thì phải gửi qua đường bưu chính hoặc nộp trực tiếp tại Cục Xuất bản, In và Phát hành, Sở Thông tin và Truyền thông, Thư viện Quốc gia Việt Nam. Tài liệu không kinh doanh phải phù hợp chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức đề nghị cấp giấy phép xuất bản. + Xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, danh nhân, anh hùng dân tộc; không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia; vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Kết luận: Nội dung của xuất bản liên quan đến quyền tác giả của nhân thân người sáng tạo ra tác phẩm đó. Việc nội dung và các yêu cầu đã được trình bày phía trên, các tổ chức cá nhân nên tham khảo để thực hiện theo đúng quy định pháp luật. Quy định của pháp luật về xuất bản tác phẩm. Đăng ký xuất bản. Điều kiện đăng xuất bản tác phẩm. Thủ tục xuất bản tác phẩm.
Xuất bản
Chế bản hay xuất bản là việc phổ biến, công bố rộng rãi các tác phẩm văn học, âm nhạc, phần mềm máy tính hoặc thông tin nói chung. Đây là hoạt động cung cấp thông tin cho công chúng. Trong một số trường hợp, các tác giả có thể là nhà xuất bản của riêng họ, nghĩa là người khởi tạo và phát triển nội dung đồng thời cũng là người cung cấp phương tiện để phân phối và hiển thị nội dung của họ. Ngoài ra, từ "nhà xuất bản" có thể đề cập đến cả một cá nhân lãnh đạo một công ty xuất bản hoặc một nhà xuất bản và một cá nhân sở hữu / đứng đầu một tạp chí. Theo truyền thống, thuật ngữ này đề cập đến việc phân phối các tác phẩm in, chẳng hạn như sách ("buôn bán sách") và báo chí. Với sự ra đời của hệ thống thông tin số và Internet, phạm vi xuất bản đã mở rộng để bao gồm các tài nguyên điện tử như phiên bản điện tử của sách và tạp chí, cũng như xuất bản vi mô, trang web, blog, nhà phát hành trò chơi video và những thứ tương tự.
Thang cuốn là thiết bị dùng để vận chuyển người hoặc hàng hóa. Thang cuốn bao gồm hệ thống băng tải hoặc bậc thang có thể chuyển động lên trên, xuống dưới liên tục và luân phiên thành vòng khép kín. Không phải chờ đợi: Khi sử dụng thang máy, thường bạn sẽ ơhaor chờ thang máy lần lượt di chuyển đến vị trí của mình mới có thể sử dụng. Với thang cuốn bạn có thể sử dụng bất cứ lúc nào, tiết kiệm thời gian. Dễ sử dụng: Không cần bất kì thao tác nào, bạn chỉ cần cẩn thận đứng lên thang cuốn và chờ đến vị trí cần đến rồi bước ra. Có nhiều cách phân biệt thang cuốn theo chức năng, theo tốc độ, theo kích thước thang cuốn cũng có khi theo tải trong thang cuốn. Với mỗi một tiêu chí lại có những loại thang cuốn khác nhau như sau:. Ngoài ra tác loại thang máy (thang cuốn) có thể phân loại theo hệ thống động lực. Khi đó có các loại thang cuốn thủy lực, thang cuốn sử dụng máy kéo theo dạng tời quấn, thang cuốn kéo theo dạng ròng rọc, thang cuốn sử dụng bánh vít- trục vít, thang cuốn sử dụng chân không,…. Thang cuốn với nhiều lợi ích nên ngày càng được sử dụng phổ biến và rộng rãi. Vậy khi nào nên sử dụng thang cuốn? Sau đây sẽ là đáp án cho thắc mắc này cũng như một số hình ảnh cấu tạo chi tiết của thang cuốn kèm thông số kích thước bạn có thể tham khảo để hiểu rõ hơn về sản phẩm này. Tùy thuộc vào mục đích sử dụng, diện tích mà bạn nên cân nhắc về việc có nên sử dụng thang cuốn hay không. Thang cuốn thường phù hợp với những nơi có diện tích rộng, kích thước thang cuốn thường tốn diện tích hơn so với thang máy. Thang cuốn được sử dụng khi vị trí di chuyển không quá xa. Lưu lượng người sử dụng thang thường xuyên và liên tục. Thang cuốn phù hợp sử dụng trong các khu trung tâm thương mại hay siêu thị, nơi có lượng khách hàng ra và và di chuyển liên tục kèm theo nhiều hàng hóa. Tay vịn thang cuốn: Thang cuốn phải có phần tay vịn di chuyển theo thang giúp người đi giữ thăng bằng. Tấm đệm ở đầu và dưới thang cuốn: 2 tấm đệm này giúp người đi thang cuốn giảm áp lực khi rời khỏi thang, đảm bảo an toàn cho người sử dụng. Vạch ranh giới đầu cuối: Vạch cần được làm nổi bật với đèn chiếu sáng huỳnh quang, đảm bảo người dùng dễ dàng nhìn và nhận biết sắp đến vị trí kết thúc của thang, chuẩn bị rời khỏi thang cuốn. Vạch phân ranh giới bậc: Vạch ranh giới này thường được sơn vàng, giúp người dùng dễ nhìn thấy và chọn được chỗ đứng an toàn khi thang cuốn di chuyển. Thang cuốn thường được phân làm 2 luồng lên – xuống để thuận tiện cho việc di chuyển cúa khách hàng cũng như tránh ùn tắc. Cần có biển cảnh báo nguy hiểm và cẩn thận khi sử dụng thang máy ở 2 đầu thang cuốn. Với những thông tin về kích thước thang cuốn, chi tiết cấu tạo thang cuốn cũng như những điểm lưu ý khi thiết kế thang cuốn, mong rằng bài viết đã mang đến những thông tin hữu ích. Hẹn gặp lại trong những bài chia sẻ hữu ích khác của Vinapad. Vinapad – Nhà thầu thi công nội thất khách sạn chuyên nghiệp trên cả nước. Chúng tôi sở hữu kỹ thuật sơn hoàn thiện với độ khó cao, có khả năng tạo ra sắc độ nổi tom trắng cho gỗ độc đáo, mang đến khách hàng những sản phẩm tinh tế, chất lượng với mức giá thành hợp lý.
Thang cuốn
Thang cuốn, trong một số trường hợp cũng được gọi là thang máy hay cầu thang máy, là một thiết bị vận chuyển người, dạng băng tải. Thang cuốn gồm hệ thống những bước thang có thể chuyển lên trên hay xuống dưới liên tục luân phiên nhau thành vòng tròn khép kín, và ăn khớp với nhau bằng những khe sâu trên bề mặt. Đường đi của thang cuốn phổ biến là đường thẳng nhưng một số khác được thiết kế dạng xoắn ốc để tiết kiệm diện tích. Thang cuốn thường được lắp đặt ở các sân bay, siêu thị, trung tâm thương mại, các ga tàu điện. Thang cuốn hiện đại được sử dụng từng đôi với một chiều lên và một chiều xuống. Đa số, thang cuốn có tay vịn chuyển động theo kịp sự chuyển động bước thang để giúp người đi giữ thăng bằng khi thang dừng đôt ngột bởi lý do nào đó. Có tấm đệm chân ở đầu trên và đầu dưới chiều dài thang giúp người đi giữ thăng bằng khi kết thúc. Có ánh sáng phân ranh giới các bước thang bằng đèn huỳnh quang được nhuộm màu xanh lục, được gắn bên trong cơ chế vận hành của thang.
Một số ít trong số tài liệu hiếm hoi tìm được có đề cập về một hội kín được cho là bí ẩn, quyền lực và có sự ảnh hưởng lớn nhất đến thế giới đó chính là Illuminati (Hội Khai Sáng). Có những tin đồn cho rằng tổ chức Illuminati vẫn chưa tan rã và vẫn còn hoạt động cho đến này nay, thành viên gia nhập Illuminati đều là những người có địa vị và tầm ảnh hưởng lớn đến xã hội. Vậy, liệu đó có phải là sự thật hay không thì hãy cùng mình tìm hiểu trong bài viết dưới đây nhé!. Những giả thuyết về bí mật của Illuminati1. Biểu tượng “Khai Sáng”2. Thuyết âm mưu “Trật tự Thế giới mới”4. Có nhiều mối liên hệ với Hội Tam Điểm. Một vài tin đồn khác về Illuminati1. Thành viên hội đều chung huyết thống4. Nhiều nghệ sĩ nổi tiếng tham gia hội. Illuminati (tạm dịch là “khai sáng“, “thức tỉnh” hoặc “giác ngộ“) là tên của một hội nhóm có thật trong lịch sử được thành lập ngày mùng 1 tháng 5 năm 1776 tại Bavaria với cái tên ban đầu là Bavarian Illuminati vào Thời kỳ Khai Sáng ở Châu Âu. Illuminati được tạo ra với mục đích chống mê tín dị đoan, ảnh hưởng tôn giáo và lạm dụng chính quyền tác động tiêu cực đến đời sống của người dân, ủng hộ giáo dục cho phụ nữ và “bình đẳng giới”. Do lo sợ tầm ảnh hưởng quá lớn đến quốc gia, Illuminati cùng với các hội nhóm bí mật khác bị cấm thông qua lệnh của chính quyền vào năm 1785. Đến năm 1787, chính quyền quyết định xử tử hình những thành viên còn lại của tổ chức thông qua quyết định của người dân Bavaria. Tổ chức tan rã, phần lớn tài liệu mật đã được tiết lộ. Tuy nhiên, những năm sau đó, nhiều giả thuyết cho rằng tổ chức Illuminati vẫn ngấm ngầm hoạt động cho đến ngày nay. Theo thuyết âm mưu, những biến cố xảy ra trên thế giới có thể là do những kế hoạch bí mật của tổ chức này sắp xếp đằng sau chính phủ. Một số tổ chức khác ngày nay tự khai nhận là hậu duệ của tổ chức này nhưng sự liên hệ này hoàn toàn vô căn cứ. Để tham gia hội, người được đề cử phải đạt đủ các điều kiện của hội đề ra. Các hội viên của tổ chức đều thông qua tuyển chọn hầu hết là những người trí thức và có địa vị trong xã hội. Người tham gia phải được đề cử bởi thành viên và trải qua nghi thức rửa tội. Sau đó, người này sẽ được giao cho những nhiệm vụ bí mật và phải hoàn thành nó. Thành viên của hội được gọi là “Perfectibilists” (Người theo chủ nghĩa hoàn hảo) và được đưa vào những vị trí quan trọng của các quốc gia và được cho là đứng sau thao túng quyền lực của chính phủ. Phụ nữ, mục sư, người Do Thái và kẻ ngoại đạo không được hoan nghênh. Có một sự mâu thuẫn khó hiểu là mục đích hội nhóm này được thành lập có một phần đề cập đến “bình đẳng giới” nhưng điều kiện tham gia lại trái ngược hoàn toàn với điều này. Hội kín Illuminati có nhiều bí ẩn, những tài liệu tìm kiếm được về tổ chức này vô cùng ít ỏi. Dưới đây là một số ít những phát hiện của các học giả. Trên tờ 1 đô la có biểu tượng “Khai Sáng” được cho là biểu tượng của Illuminati. Đầu tiên, hãy nhìn vào dòng chữ “Annuit Coeptis Novus Ordo Seclorum” xung quanh vòng tròn, theo tiếng La-tin nó có nghĩa là “Chủ chương trật tự Thế giới mới“. Dưới đáy kim tự tháp là dãy số La Mã “MDCCLXXVI” (năm 1776) là năm thành lập của Illuminati cũng là năm khai sinh nước Mỹ. Con mắt trên đỉnh kim tự tháp được gọi là “Thiên nhãn” mang ý nghĩa nhìn thấu tất cả. Được biết với người phương Tây con số 13 mang nhiều dấu hiệu xui xẻo nên họ thường cố lảng tránh sự hiện diện của nó. Law of 13 (tạm dịch “Luật pháp của 13” hoặc “Hội đồng 13“) là một tổ chức tội phạm ngầm cực kỳ nguy hiểm, chúng sẽ thực hiện sứ mệnh giáng 13 sự kiện tai họa vào nhân loại. Law of 13 thực chất là một tổ chức con của hội kín Illuminati bắt nguồn từ tư tưởng của hội là chống mê tín dị đoan, tôn giáo và quyền lực. Tuy nhiên, do bị cấm và giải thể năm 1785 chúng chuyển sang một tư tưởng mới là lập nên chính quyền do mình làm chủ sắp đặt những biến cố nhằm xây dựng lại “Trật tự Thế giới mới“. Theo một số tài liệu khác, Law of 13 là 13 dòng máu đứng đầu Illuminati, một đại gia đình lớn có con cháu nắm quyền lực trong chính quyền của quốc gia. Law of 13 hay Hội đồng 13 theo thuyết âm mưu được cho rằng đang nắm quyền kiểm soát thế giới. Trật tự Thế giới mới (New World Order) được cho là thuyết âm mưu của một tổ chức bí mật nổi lên nhằm mục đích cai trị thế giới theo chế độ độc tài. Trật tự Thế giới mới (thuyết âm mưu) của Law of 13 hay Illuminati được cho rằng đã được sắp đặt các sự kiện trong lịch sử như: Cách mạng Pháp, Cách mạng Nga, Chiến tranh Thế giới thứ nhất, Chiến tranh Thế giới thứ hai, Chiến tranh Việt Nam, Trận Waterloo, các vụ ám sát Tổng thống và quan chức cấp cao,v.v… Ngoài ra, có tài liệu khác còn cho rằng, Illuminati đã lan truyền dịch bệnh chết người để kiểm soát mật độ dân số trên thế giới. Ban đầu, người sáng lập Illuminati là giao sư Adam Weishaupt không hài lòng về những điều lệ của Hội Tam Điểm nên thành lập tổ chức cho riêng mình và lấy hình cú của Minerva làm biểu tượng. Trong thời điểm còn hoạt động mạnh mẽ, Illuminati đã nhiều lần cố gắng lôi kéo thành viên của Hội Tam Điểm bởi cả hai hội nhóm đều muốn có thêm những thành viên tri thức và nắm quyền lực tham gia. Sau đây là một số lời đồn khác về Illuminati. Những lời đồn này hoàn toàn chỉ là giả thiết và chưa được chứng thực. Mặc dù mục tiêu ban đầu của hội là chống mê tín, tôn giáo và quyền lực. Tuy nhiên, trải qua nhiều biến động, Illuminati mang một sứ mệnh khác là thay đổi Trật tự Thế giới mới gây ra những biến động lịch sử tiêu diệt hàng triệu người theo sự sắp đặt từ trước. Tội ác Illuminati gây ra được coi là sự hiến tế cho quỷ dữ. Có tin đồn cho rằng Illuminati được hình thành bởi 300 gia tộc trong đó có 13 người nắm quyền cao nhất. Việc kết hôn với những người cùng tổ chức giúp hội kiểm soát được quyền hành để thực hiện những kế hoạch thống trị. Âm nhạc có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn thế giới, sự nghi ngờ này đến từ thuyết âm mưu về những dấu hiệu kỳ lạ của những ngôi sao trên thế giới được cho là thành viên của hội. Không ít ngôi sao trên thế giới đã vướng vào nghi ngờ này có thể kể đến như: Katy Perry, Miley Cyrus, Beyoncé, Jay-Z, Kesha, Lady Gaga, Rihanna, Sơn Tùng M-TP (Chạy ngay đi), Chi Pu,v.v… Những tin đồn này không thể xác định được độ chính xác và chỉ mang tính chất tham khảo. Đó hoàn toàn là những thông tin được chính cựu Bộ trưởng Quốc phòng Canada – Paul Hellyer nói đến. Ông cho biết Illuminati là một tổ chức đang kiểm soát thế giới, họ nắm giữ những tinh hoa của công nghệ trong đó có cả HAARP và không công bố với công chúng. Nhưng khi được hỏi nguyên nhận tại sao thì ông chỉ úp mở rằng họ muốn hỗ trợ cho ngành dầu khí. Thành viên của hội có lợi trong ngành dầu khí và muốn giữ kín công nghệ cho đến khi kiếm được hàng nghìn tỉ đô tiền bán dầu mỏ. Paul Hellyer được biết đến với nhiều nghiên cứu và tranh luận về “Người ngoài hành tinh”, ông cáo buộc chính phủ của các cường quốc đã che dấu sự tồn tại của họ. Sự thật ra sao thì chúng ta vẫn không thể biết được chính xác bởi các thông tin tìm được hầu hết đến từ các học giả và số ít tài liệu còn sót lại sau sự kiện thanh trừng của chính quyền lúc bấy giờ. Nhưng tầm ảnh hưởng của Illuminati là điều không thể phủ nhận. Nó thâm nhập vào nhiều các ấn phẩm, phim ảnh, truyện và cả game như một đề tài thú vị để các nhà sản xuất tập trung khai thác. Liệu Illuminati có còn tồn tại hay không và bạn có ý kiến gì khác về vấn đề này thì hãy để lại comment cho mọi người cùng biết nhé!. Mình là Phúc, tác giả của Phúc Nguyễn Blog. Mình đam mê công nghệ thông tin, thích nghiên cứu khoa học và những thủ thuật tối ưu hóa. Với kinh nghiệm và kiến thức tích lũy được, mình hy vọng những chia sẻ trên blog này sẽ hữu ích cho bạn trong công việc và cuộc sống.
Trật tự thế giới mới (thuyết âm mưu)
Theo các thuyết âm mưu khác nhau, Trật tự Thế giới Mới được cho là một chính phủ toàn cầu toàn trị bí mật đang nổi lên. Chủ đề chung trong các lý thuyết âm mưu về một trật tự thế giới mới là một thế lực quyền lực bí mật với một chương trình toàn cầu hoá đang âm mưu cai trị thế giới thông qua một chính phủ thế giới độc tài-sẽ thay thế các quốc gia có chủ quyền và một tuyên truyền toàn diện bao gồm hệ tư tưởng bắt đầu sự ra đời của trật tự thế giới mới là đỉnh cao của tiến bộ lịch sử. Nhiều hình ảnh lịch sử và đương đại có ảnh hưởng đã được coi như là một phần của một tổ chức hoạt động thông qua nhiều tổ chức phía trước nhằm điều phối các sự kiện chính trị và tài chính quan trọng, từ gây ra các cuộc khủng hoảng hệ thống để thúc đẩy các chính sách gây tranh cãi ở cả cấp quốc gia và quốc tế trong một âm mưu đang diễn ra để đạt được sự thống trị của thế giới. Trước những năm đầu thập niên 1990, thuyết âm mưu của Trật tự Thế giới Mới bị hạn chế đối với hai nền văn hoá đối kháng của Hoa Kỳ, chủ yếu là chống chính phủ một cách quân sự và thứ hai là một phần của Kitô giáo Cơ đốc có liên quan đến sự xuất hiện của Antichrist vào thời điểm cuối cùng.
Sự phát triển của văn minh loài người mang lại những tiến bộ và suy tàn nhất định. Hợp chất hữu cơ dạng lỏng/rắn – sự tiến bộ của loài người hay sự sụt giảm về sức khỏe? là vấn đề mà chúng ta sẽ được bàn luận trong bài viết sau đây. Môi trường sống của con người ngày nay bị ảnh hưởng bởi sự ô nhiễm nặng nề bởi nhiều nguyên nhân cả khách quan và nguyên nhân chủ quan. Chính điều đó là một trong những nhân tố gây hại trực tiếp đến sức khỏe con người. Vậy để nâng cao tinh thần, ý thức trách, nhiệm cao chúng ta nên làm gì? Việc dùng quá nhiều hay lạm dụng các đồ dùng có chứa VOC có hại như thế nào đến môi trường bên ngoài và sức khỏe con người? chúng ta cùng tìm hiểu kĩ hơn về khái niệm này trong phần nội dung tiếp sau đây. VOC là một cụm từ trong tiếng anh viết tắt của Volatile Organic Compounds – nghĩa là hợp chất hữu cơ dạng lỏng hoặc rắn và nó có thể bay hơi trong điều kiện gặp áp suất khí quyển cao hoặc thậm chí là nhiệt độ thường ở trong phòng. Áp suất khí quyển cao ở đây chính là kết quả của việc điểm sôi thấp trong không khí, điều này xảy ra khi mà một số lượng lớn các hạt điện tích tạo nên điện chất di chuyển trong không khí bằng cách bay hơi hoặc chuyển sang dạng khí từ một hợp chất hữu có ở dạng thể lỏng hay thể rắn, được biết như là một sự mất ổn định giữa các hạt điện tích. VOC ở đây chủ yếu bàn về vấn đề độc hại của chính những hợp chất hữu cơ có thể bay hơi – từ những đồ vật được sử dụng thực tế trong cuộc sống như sơn, và các loại keo, nhựa,…được con người tạo ra phục vụ cho chính mục đích sinh hoạt của con người. Một ví dụ để minh chứng điều này, số lượng lớn các hạt điện tích bay hơi từ các loại sơn và được giải phóng ra từ các chất liệu trong keo dính dưới dạng hợp chất hóa học có điểm sôi rất thấp là 19 độ C(-2F). Vậy điều gì sẽ xảy ra khi những người như: Công nhân trong nhà máy sản xuất sơn, thợ quét sơn họ phải đối mặt với vấn đề sức khỏe như thế nào? Trong khi họ phải thường xuyên phải làm việc với các chất độc hại như vậy trong một thời gian dài. Chúng ta không thể phủ nhận vai trò của các hợp chất hóa học này là một thành phần quan trọng để tạo nên vẻ đẹp, và sự tiện dụng trong công việc cũng như đời sống sinh hoạt con người. Tuy nhiên nó cũng mang lại những tác hại mà không ai có thể ngờ tới. Do đó mà ngành hóa học, hóa dược hiện nay luôn luôn phải điều chế nghiên cứu ra cách để giảm thiểu sự độc hại đó. Một sự thật cay đắng ở đây là những hợp chất hữu cơ dễ bay hơi này do chính con người tạo phục vụ cho công việc, đời sống hằng ngày và kể cả trong sản xuất. Và giờ đây chính con người phải gánh chịu hậu quả do VOC hàm lượng hợp chất hữu cơ dễ bay hơi gây ra. Ngoài ra VOC còn có trong các hợp chất hóa học được sử dụng trong công nghiệp hóa học như là dung môi: Toluen, Xylen và dung môi thơm. Bên cạnh đó VOC cũng được tìm thấy trong các quy trình vệ sinh khô. Và các chất có trong công việc tẩy rửa, vệ sinh. Đây là những vật dụng mà ta cần sử dụng hàng ngày nhưng có ai biết được những hậu quả của việc sử dụng hợp chất này ảnh hưởng nghiêm trọng như thế nào đối với sức khỏe con người. Điều đó sẽ được làm sáng tỏ bằng những dẫn chứng cụ thể sau đây. Khi hít phải những chất hóa học độc hại lại dù là ở trong một thời gian ngắn hay thời gian dài cũng đều gây cho con người sự suy giảm trực tiếp về sức khỏe. Và đây chính là những bệnh lý mà con người có thể mắc phải:. - Đau đầu, chóng mặt, run rẩy, buồn ngủ hoặc có thể bất tỉnh nếu hít phải một lượng VOC trong một thời gian ngắn với hàm lượng cao. Cái chết luôn rình rập con người nếu chúng ta không có một giải pháp chung và quá quan tâm đến giá trị vật chất tầm thường. - Dung môi Toluen có trong VOC có thể ảnh hưởng đến môi trường đặc biệt là rừng và thảm thực vật và đối với người khi hợp chất này bay hơi và tạo sương mù,và sẽ làm cho môi trường sống tự nhiên này bị phá hủy, gây hậu quả gián tiếp đến đời sống sức khỏe của cả con người. Tại Việt Nam VOC cũng là một vấn đề gây nhiều sự quan tâm của cả phía công ty sản xuất và người tiêu dùng đặc biệt là các sản phẩm về sơn như sau như các loại sơn dầu, sơn Polyurethane và sơn Nitrocellulose vẫn còn được các công ty sản xuất và sử dụng các loại sơn này có hàm lượng VOC rất cao gây nguy hiểm trực tiếp đến sức khỏe người lao động và người sử dụng sản phẩm. Quy định đối với hàm lượng VOC trong việc xác định hàm lượng VOC trong phạm vi 15% theo khối lượng theo quy định TCVN 10370-1:2014 ( ISO 11890-1), và đối với hàm lượng VOC từ 0,1 – đến 15% ( theo khoois lượng) có quy định TCVN 10370-2: 2014. Và đối với hàm lượng VOC từ 0,1 – 0,1 % ( khối lượng)cũng có sự khác nhau trong hai quy định được nếu trên và quy định này áp dụng cho hàm lượng VOC có nhiệt độ sôi là trên 250 độ C. - Chọn và mua các sản phẩm sơn nhà có chất lượng tốt và đặc biệt là hàm lượng VOC phải đúng theo quy định của quốc gia và thậm chí là theo quy chuẩn quốc tế. - Hạn chế sử dụng các chất tẩy rửa vệ sinh hoặc tự pha chế dung trong gia đình. Cách này có dễ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cho chính sức khỏe của những người thân trong gia đình bạn. - Hạn chế dùng các loại đồ nhựa trong gia đình đặc biệt là trong nấu ăn. Thay vào đó hãy chọn các sản phẩm mà bạn có thể dùng được trong một thời gian dài như thủy tinh, túi giấy, tủ gỗ, . các loại vật dụng thân thiện với môi trường và có khả năng phân hủy tốt. - Tiếp đến là đầu tư trong việc mua các thiết bị hoặc vật dụng lọc khí trong nhà. Tạo môi trường không khí luôn trong lành, tốt cho cả sức khỏe thể chất và tinh thần. Một thức tế cho thấy lượng VOC nếu được sơn trong nhà sẽ tăng cao lên đến cả ngàn lần so với VOC bên ngoài. Vì vậy việc hạn chế thậm chí loại bỏ việc các đồ đạc có hàm lượng cao VOC trong nhà là điều nhất thiết nên làm đối với sức khỏe chung của mọi người trong gia đình. - Các công ty sản xuất cần tuân theo các quy chuẩn chung của quốc gia và quốc tế về việc quy định hàm lượng VOC được phép sử dụng trong công nghiệp sản xuất chế biến. Điều này có lợi cho cả người lao động vì không phải đối mặt với nguy cơ bệnh tật do nhiễm VOC trong một thời gian dài một cách trực tiếp. hơn nữa các công ty doanh nghiệp cũng tạo được sự uy tín về chất lượng sản phẩm đối với người tiêu dùng. Mỗi cá nhân cần có thêm nhiều ý thức hơn trong việc bảo vệ môi trường bằng cách hạn chế nhất có thể trong việc sử dụng và thải các loại đồ vật, vật dụng ra môi trường bên ngoài. Bởi trong thực tế hợp chất hóa học hữu cơ VOC này có thể phá hủy môi trường sống chung một cách nhanh chóng, khi mà mỗi ngày con người tạo ra và sử dụng ngày càng nhiều các sản phẩm phẩm có chứa loại hợp chất hóa học này. vô hình chung chúng ta tự phá hủy môi trường sống của chính mình, trong khi tình trạng hiệu ứng nhà kính, ô nhiễm môi trường và các thiên tai xảy ra ngày càng nhiều trên thế giới. Chính vì vậy, điều quan trọng hàng đầu là hãy cùng nhau bảo vệ môi trường bằng việc giảm đi sức ép, áp lực cho mẹ thiên nhiên bằng cách sống gần gũi với thiên nhiên hơn. Dùng các sản phẩm được tạo ra từ chất liệu tự nhiên, trồng nhiều cây xanh, tiết kiệm (mua quá nhiều đồ dùng không cần thiết) để hạn chế việc thải các chất thải (tái chế và không tái chế được) ra môi trường. Qua bài viết VOC là gì? Hợp chất hữu cơ dễ bay hơi - Sự tiến bộ của xã hội hay sự sụt giảm về sức khỏe? hy vọng qua bài viết này càng bạn có sự nhận biết đúng đắn và hiểu thêm được sự nguy hại trực tiếp đối với sức khỏe con người. để từ đó có những biện pháp phòng tránh tốt nhất cho bản thân gia đình và xã hội. Thêm vào đó là việc nâng cao tinh thần bảo vệ môi trường. Có tinh thần trách nhiệm trong việc tuyên truyền, giáo dục của cá nhân về tầm nguy hại của VOC đối với sức khỏe của cả con người và môi trường xung quanh.
Hội chứng sợ những đồ vật gia dụng và môi trường xung quanh nhà
Trong tâm thần học, Hội chứng sợ những đồ vật gia dụng và môi trường xung quanh nhà, có tên khoa học là oikophobia (đồng nghĩa với domatophobia và ecophobia), là một ác cảm với môi trường xung quanh nhà ở. Nó cũng có thể được sử dụng rộng rãi hơn để có nghĩa là một nỗi sợ hãi bất thường (một ám ảnh) đối với ngôi nhà, hoặc tất cả mọi thứ có trong một ngôi nhà ("sợ thiết bị gia dụng, thiết bị, bồn tắm, hóa chất gia dụng và các vật dụng phổ biến khác trong nhà"). Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp oikos, có nghĩa là gia đình, nhà cửa, hoặc gia đình, và phobia, có nghĩa là "sợ hãi". Năm 1808 nhà thơ và nhà viết tiểu luận Robert Southey sử dụng từ ngữ này để mô tả một mong muốn rời khỏi nhà và đi du lịch của mình. Việc sử dụng của Southey như là một từ đồng nghĩa cho việc đi lang thang được các nhà văn thế kỷ XIX khác thu nhận. Thuật ngữ này cũng đã được sử dụng trong các ngữ cảnh chính trị để chỉ trích những ý thức hệ chính trị mang tính phê bình đến việc loại bỏ văn hóa của chính mình và tán dương những nền văn hóa khác.
Người tiêu dùng ở mỗi thời kỳ thường có hành vi tiêu dùng tương đồng với nhau. Mỗi thế hệ người tiêu dùng có những đặc điểm tiêu dùng riêng, độc nhất mà không thế hệ nào khác có được. Thế hệ X, còn được gọi là Gen X, thế hệ chốt, hay có thể gọi là thế hệ con bị lãng quên bao gồm những người sinh từ năm 1965 đến 1980 (tuổi 39-54 năm 2019). Họ là thế hệ sau Baby Boomer và trước thế hệ Y. Thế hệ này lớn lên với tỷ lệ ly hôn cao hơn và nhiều hộ gia đình có thu nhập cao hơn, dẫn đến thiếu sự hiện diện chung của người lớn trong thời thơ ấu và tuổi thiếu niên. Do đó, Gen X thường được xem là có tinh thần đồng đẳng và có tinh thần kinh doanh. Millennials, còn được gọi là Thế hệ Y, bao gồm bất kỳ ai sinh từ năm 1981 đến 1996 (tuổi từ 23 đến 38 vào năm 2019). Phần lớn nhóm thế hệ này đã gia nhập lực lượng lao động ở đỉnh cao của cuộc Đại suy thoái, và đã phải vật lộn với sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo thế hệ sau đó. Millennials đã dẫn đầu các thế hệ cũ trong việc áp dụng công nghệ và nắm lấy các giải pháp kỹ thuật số. Tình trạng tài chính và sự hiểu biết về công nghệ của họ đã thay đổi căn bản cách họ sống và làm việc – mang lại cho họ những định kiến mà họ làm việc và đã giết chết một số ngành công nghiệp. Trước Gen Z, millennials là thế hệ đa dạng nhất về chủng tộc và dân tộc. Thế hệ Z (còn gọi là Gen Z, iGen hoặc centennials), đề cập đến thế hệ được sinh ra trong giai đoạn 1996-2010, sau thế hệ Millennials (Gen Y). Thế hệ này đã được sinh ra trong môi trường internet và phương tiện truyền thông xã hội (social media), và đang gia nhập vào lực lượng lao động. Chính vì vậy, nhóm thế hệ này đã và đang trở thành khách hàng tiềm năng của rất nhiều thương hiệu. Thế hệ Z, là thế hệ trẻ nhất. Theo Pew Research gần đây đã định nghĩa Gen Z là bất kỳ ai sinh sau năm 1997. Gen Z lớn lên với công nghệ, internet và phương tiện truyền thông xã hội, đôi khi khiến họ bị rập khuôn là những chiến binh công lý xã hội nghiện công nghệ, chống đối xã hội, hay Hồi giáo. Một số thành viên của Gen Alpha (bất kỳ ai sinh sau năm 2010), nhưng nó đã được coi là thế hệ biến đổi nhất. Alphas chưa trưởng thành với công nghệ – họ đã hoàn toàn đắm chìm trong đó kể từ khi sinh ra. Đầu năm hình thành, những đứa trẻ này thoải mái nói chuyện với trợ lý giọng nói và vuốt trên điện thoại thông minh. Họ không coi công nghệ là công cụ được sử dụng để giúp đạt được các nhiệm vụ, mà là những phần tích hợp sâu sắc trong cuộc sống hàng ngày. Thế hệ Alpha mang không mang ý nghĩa tiếp nối với thế hệ cũ (thế hệ X, Y, Z), mà là bắt đầu một thế hệ mới hoàn toàn, sinh ra trong thiên niên kỷ mới. Thế hệ Alpha có thể tự tạo cho bản thân một màu sắc riêng biệt. Cụ thể bạn có thể xem thêm: Khám phá đặc điểm và lối sống thế hệ Alpha – Download PDF. Mỗi thế hệ dù là X, Y, Z hay Alpha thì đặc điểm của các thế hệ này không phải là bất biến. Mỗi thế hệ luôn giữ cho mình những đặc điểm riêng mà không thế hệ nào khác có được. Đồng thời thì các đặc điểm hành vi khác của họ cũng dần thay đổi theo thời gian, theo sự phát triển của cả yếu tố bên trong và bên ngoài. Bao gồm tuổi tác cũng như các tác nhân kinh tế, công nghệ. Thế hệ Z hiện nay chắc chắn sẽ có những đặc điểm khác biệt so với thế hệ Z của 20 năm sau. Vẫn những con người đó, nhưng chỉ tính riêng về tuổi tác đã có sự thay đổi và sự thay đổi về tuổi cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hành vi của họ trong tiêu dùng.
Thế hệ Z
Thế hệ Z (tiếng Anh: Generation Z, viết tắt: Gen Z) là nhóm nhân khẩu học nằm giữa thế hệ Millennials và thế hệ Alpha. Các nhà nghiên cứu và các phương tiện truyền thông phổ biến xem khoảng thời gian từ giữa thập niên 1990 đến những năm đầu thập niên 2010 (hoặc từ năm 1997 đến 2012) là khoảng thời gian được sinh ra của nhóm này. Hầu hết các thành viên của thế hệ Z là con của những người thuộc thế hệ X. Thế hệ Z là thế hệ đầu tiên được cho là lớn lên với sự tiếp cận Internet cùng các thiết bị kỹ thuật số và điện tử từ khi bé.
Còn hiểu một cách đơn giản thì Big Data là khái niệm đề cập đến việc thu thập, lưu trữ, xử lý “dữ liệu lớn” mà các hệ thống truyền thống không thể xử lý được. Volume: khối lượng dữ liệu được tạo ra, lưu trữ và xử lý. Bao nhiêu thì là lớn? Ít nhất nó nên được tính bằng hàng tram Terabyte, còn thông thường thì nó là Petabyte hoặc Exabyte, thậm chí Zettabyte. Một số ví dụ: Facebook tạo ra khoảng 500TB dữ liệu mỗi ngày, con số này ở Twitter là khoảng 8TB. Velocity: tốc độ dữ liệu được tạo ra. Câu hỏi cũ, bao nhiêu thì là lớn? Câu trả lời thì rất đa dạng, vì nó phụ thuộc vào loại dữ liệu mà bạn đang xử lý, nhưng có thể lấy một vài ví dụ trực quan của các tên tuổi lớn như 90 triệu bức ảnh được upload lên Facebook mỗi ngày, con số cho Twitter là 500 triệu tweets được post, 0.4 triệu giờ video được upload lên Youtube hay 3.5 tỷ lượt tìm kiếm được thực hiện mỗi ngày trên Google. Variety: tính đa dạng của dữ liệu. Cái này chắc dễ hiểu rồi, Big Data là không ngán dạng nào, từ dữ liệu có cấu trúc (structure) như các bảng nơi có hàng và cột trong cơ sở dữ liệu quan hệ RDBMS hay bảng tính excel; đến dữ liệu phi cấu trúc (unstructured) như văn bản (text), ảnh (pictures), video, audio, …; và thậm chí cả dữ liệu bán cấu trúc (semi-structure) như file json hay file xml. Variability: tính biến thiên của dữ liệu phản ánh sự không nhất quán trong dữ liệu, đặc biệt là trong xử lý ngôn ngữ tự nhiên, cùng một từ vựng nhưng trong các ngữ cảnh khác nhau nó sẽ mang các ý nghĩa khác nhau. Tính biến thiên của dữ liệu cũng còn được thể hiện qua sự biến thiên về kích thước và tốc độ dữ liệu được sinh ra, do dữ liệu được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau. Veracity : mức độ tin cậy của dữ liệu. Đặc tính này đi ngược chiều với các đặc tính khác của Big Data, khi khối lượng dữ liệu ngày càng tăng, tính đa dạng của dữ liệu ngày càng phong phú và tính biến thiên của dữ liệu ngày càng lớn thì mức độ tin cậy của dữ liệu ngày càng giảm xuống. Value: giá trị của dữ liệu. Sẽ không thể nhắc đến Big Data nếu không thể get value từ dữ liệu. Hàng loạt các công ty đã khai thác “mỏ vàng mới” dữ liệu và phát triển mạnh mẽ: Google, Facebook, Amazon, …. Một trong số những ngành có lượng dữ liệu khổng lồ từ người dùng dịch vụ, với sự bùng nổ của smartphone trong những năm gần đây. Các ứng dụng Big Data trong viễn thông có thể kể đến như:. Tối ưu mạng lưới (Optimize Network Capacity): bằng việc phân tích lưu lượng sử dụng từ hàng tỷ cuộc gọi, tin nhắn, sử dụng dữ liệu mỗi ngày các nhà mạng có thể xác định các khu vực, vị trí có dung lượng vượt mức và định tuyến lại băng thông khi cần thiết nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ, tăng mức độ hài lòng của khách hàng. Ngoài ra, việc phân tích dữ liệu còn có thể giúp nhà mạng lập kế hoạch đầu tư cơ sở hạ tầng phù hợp nhất với nhu cầu của khách hàng, giảm chi phí đầu tư cho nhà mạng. Dự đoán thuê bao có khả năng rời bỏ dịch vụ (Telecom Customer Churn): với sự hỗ trợ của các công nghệ Big Data, các nhà mạng có thể phân tích dữ liệu về chất lượng dịch vụ (cuộc gọi nghe có rõ ràng không, người dùng xem video trên mạng di động có bị giật không, …. ), sự tiện lợi của dịch vụ, mức độ tiêu dùng của khách hàng dành cho viễn thông, … để dự đoán mức độ hài lòng của khách hàng. Khi mức độ hài lòng của khách hàng thấp dẫn có khả năng dẫn đến việc rời bỏ dịch vụ trong tương lai, các nhà mạng có thể chủ động thực hiện các chiến dịch chăm sóc khách hàng một cách chủ động để lấy lại mức độ hài lòng của khách hàng. Khuyến nghị sản phẩm mới (New Product Offerings): tương tự như 2 use case trên, các nhà mạng có thể dựa trên sở thích, hành vi của khách hàng để xây dựng thiết kế các sản phẩm có các đặc tính phù hợp với mối quan tâm của từng lớp khách hàng. Xây dựng các mô hình dự đoán để có thể cung cấp cho khách hàng đúng cái họ cần vào đúng thời điểm trên đúng kênh họ mong muốn (right customer, right product, right time, right channel). Phát hiện gian lận (Fault Detection): bằng việc sử dụng Big Data, các công ty/ tổ chức tài chính có thể xác định được các mẫu (pattern) biểu thị hành vi gian lận trong giao dịch tài chính từ đó áp dụng các biện pháp cần thiết để chống lại các hành vi gian lận này. Quản lý rủi ro (Risk Management): là một trong số các yếu tố vô cùng quan trọng đối với các tổ chức tài chính, ngân hàng, hệ thống quản lý rủi ro dựa trên Big Data để phát hiện rủi ro, gian lận tiềm ẩn trong thời gian thực sẽ giúp các tổ chức tài chính, ngân hàng không phải chịu tổn thất về doanh thu. UOB một ngân hàng của Singapore đã sử dụng các công nghệ Big Data trong hệ thống quản lý rủi ro để giảm thời gian tính toán rủi ro từ 20 giờ xuống vài phút, điều này giúp cho các quyết định của UOB mang lại lợi nhuận rất cao và giảm thiểu tổn thất. Cùng với viễn thông, y tế và chăm sóc sức khỏe là lĩnh vực có nguồn dữ liệu khổng lồ. Sử dụng Big Data, các tổ chức y tế và chăm sóc sức khỏe đã có thể dự đoán được các xu hướng bệnh, phát hiện sớm các biểu hiện các bệnh hiểm nghèo cũng như cung cấp cho bệnh nhân các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe tốt hơn:. Nghiên cứu gen (Genomic Research): Big Data đóng một vai trò rất quan trọng trong nghiên cứu bộ gen. Thông qua sử dụng lượng dữ liệu khổng lồ từ các nguồn khác nhau, các nhà nghiên cứu có thể xác định được các gen bệnh cũng như các dấu hiệu lâm sàng để giúp bệnh nhân xác định được chính xác các vấn đề sức khỏe mà họ có thể gặp phải trong tương lai. Các kết quả dự đoán này có thể cho phép các tổ chức y tế và chăm sóc sức khỏe thiết kế phương pháp điều trị sớm cho cá nhân. Dự đoán số lượng bệnh nhân (Patients Predictions): bằng cách thu thập dữ liệu đầy đủ dữ liệu quá khứ thông qua các công nghệ Big Data, các tổ chức y tế và chăm sóc sức khỏe có thể dự báo được số lượng bệnh nhân có thể có trong tương lai thông qua các kỹ thuật “time series analysis”. Việc dự đoán chính xác số lượng bệnh nhân có thể giúp các tổ chức quy hoạch cơ sở hạ tầng, cung ứng thuốc, vật tư, đội ngũ y bác sỹ phù hợp với từng địa bàn trong từng thời điểm, nhằm tối ưu chi phí đầu tư. Tăng mức độ hài lòng của bệnh nhân (Patient Experience): tương tự như các ngành kinh doanh lấy khách hàng làm trọng tâm (Customer Centric), các tổ chức y tế và chăm sóc sức khỏe cũng có thể sử dụng Big Data để cung cấp các cách điều trị tốt hơn và cải thiện chất lượng chăm sóc bệnh nhân mà không làm tăng chi phí thông qua những hệ thống như Patient 360 để cung cấp một cái nhìn đa chiều của từng bệnh nhân. Không chỉ có 3 use cases ở trên, Big data thực sự đã len lỏi đến khắp mọi ngóc ngách của cuộc sống, trên đây mới chỉ giới thiệu các use cases có tầm ảnh hưởng lớn với human. Trong các bài viết sau, tôi sẽ giới thiệu về cách implement Big Data trong Retail Industry.
Dữ liệu lớn
Dữ liệu lớn (Tiếng Anh: Big data) là một thuật ngữ cho việc xử lý một tập hợp dữ liệu rất lớn và phức tạp mà các ứng dụng xử lý dữ liệu truyền thống không xử lý được. Dữ liệu lớn bao gồm các thách thức như phân tích, thu thập, giám sát dữ liệu, tìm kiếm, chia sẻ, lưu trữ, truyền nhận, trực quan, truy vấn và tính riêng tư. Thuật ngữ này thường chỉ đơn giản đề cập đến việc việc sử dụng các phân tích dự báo, phân tích hành vi người dùng, hoặc một số phương pháp phân tích dữ liệu tiên tiến khác trích xuất giá trị từ dữ liệu mà ít khi đề cập đến kích thước của bộ dữ liệu. "Vài nghi ngờ cho rằng số lượng của dữ liệu có sẵn hiện nay thực sự lớn, nhưng đó không phải là đặc trưng phù hợp nhất của hệ sinh thái dữ liệu mới này. "Phân tích tập dữ hợp liệu có thể tìm ra tương quan mới tới "xu hướng kinh doanh hiện tại, phòng bệnh tật, chống tội phạm và vân vân". Các nhà khoa học, điều hành doanh nghiệp, y bác sĩ, quảng cáo và các chính phủ cũng thường xuyên gặp những khó khăn với các tập hợp dữ liệu lớn trong các lĩnh vực bao gồm tìm kiếm internet, thông tin tài chính doanh nghiệp.
Giải vô địch bóng đá thế giới được FIFA bắt đầu tổ chức từ năm 1930. Ngoại trừ 2 năm 1942 và 1946 bị gián đoạn bởi Chiến tranh thế giới thứ hai, cứ 4 năm 1 lần, các đội tuyển bóng đá quốc gia lại quy tụ tại vòng chung kết, cùng thi đấu để tìm ra nhà vô địch mới. Tính tới năm 2018, đã có 21 Giải vô địch bóng đá thế giới được tổ chức, trong đó 10 giải tại châu Âu, 8 giải tại châu Mỹ, 1 giải tại châu Á và 1 giải tại châu Phi. Trong lịch sử, đã có 4 quốc gia từng hai lần đăng cai Giải vô địch bóng đá thế giới là Ý, Pháp, México và Brasil. Cùng với thời gian, số đội bóng tham dự vòng chung kết dần tăng lên, từ 13 đội năm 1930 lên 24 đội năm 1982 và 32 đội từ năm 1998. Brasil là đội bóng duy nhất góp mặt ở tất cả các vòng chung kết từng được tổ chức. Trong lịch sử, tất cả các Giải vô địch bóng đá thế giới đều được kết thúc bởi một trận chung kết, ngoại trừ năm 1950. Tại giải đấu này, các đội tuyển Uruguay, Brasil, Thụy Điển và Tây Ban Nha đứng đầu bốn bảng và tiếp tục thi đấu vòng tròn tính điểm. Chiến thắng 2–1 của Uruguay trước Brasil ở lượt trận cuối cùng đã giúp Uruguay giành ngôi vô địch. Liên đoàn Bóng đá Thế giới ghi nhận đây là trận chung kết của Giải vô địch bóng đá thế giới năm 1950. Từ năm 1930 đến nay, 79 đội tuyển đã tham dự vòng chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới, và trong số đó chỉ có 8 đội tuyển từng giành ngôi cao nhất. Có 6 đội tuyển bước lên vinh quang trong những giải đấu tổ chức tại quốc gia của mình, gồm Uruguay, Ý, Anh, Tây Đức, Argentina và Pháp. Đội tuyển giàu thành tích nhất tại Giải vô địch bóng đá thế giới là Brasil với 5 cúp vô địch và 2 lần đoạt huy chương bạc. Tiếp theo Brasil là đội tuyển Đức với 4 lần vô địch và 4 lần đạt vị trí á quân, Ý với 4 lần vô địch và 2 lần đạt vị trí á quân. Với trận thắng 4-2 trước Croatia tại trận chung kết năm 2018, đội tuyển Pháp hiện nay là nhà vô địch của Giải vô địch bóng đá thế giới năm 2018. “Danh sách Giải bóng đá vô địch thế giới” là một danh sách chọn lọc của Wikipedia tiếng Việt.Mời bạn xem phiên bản đã được bình chọn vào ngày 26 tháng 11 năm 2011 và so sánh sự khác biệt với phiên bản hiện tại.
Giải vô địch bóng đá thế giới 1938
Giải bóng đá vô địch thế giới 1938 (tên chính thức là Coupe du Monde 1938) là giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 3, và đã được tổ chức từ ngày 4 tháng 6 đến ngày 19 tháng 6 năm 1938 tại Pháp. Sau 16 ngày và 18 trận đấu, Ý đã bảo vệ được danh hiệu vô địch thế giới của mình. Đây cũng là kỳ World Cup cuối cùng trong 3 kỳ World Cup đầu tiên trước khi Giải đấu bị gián đoạn trong 2 kỳ tiếp theo (1942 và 1946) vì Chiến tranh thế giới thứ hai.
Mấy con gà chúng tôi đang "nghía" là của một người đàn ông mang đến bán “ké“ ở vựa cây kiểng này. Một chú gà trống nhốt trong cái lồng tre tuềnh toàng nhưng người bán ra giá tới 1,5 triệu đồng. Tại vựa cây cảnh trên đường Hoàng Văn Thụ, khách vào mua hoa, nhưng rồi xoay qua xem gà vì mấy chú gia cầm nhìn đẹp quá, không cầm lòng nổi. Không như gà nuôi thường, thả ra là chạy tán loạn, mấy con gà tre này ra khỏi lồng rồi vẫn bước đi khoan thai, người nào muốn vuốt ve, bồng lên để chụp ảnh cứ thoải mái. Có 11 cái lồng gà, chủ yếu là gà trống, đi kèm với mấy con gà mái. Những con gà trống chỉ nặng chừng bảy, tám lạng nhưng đã trổ mã với bộ lông dài đủ màu. “Con này tên chuối tuyết (lông trắng điểm màu), con kia là gà điều (lông màu đỏ điểm đen, vàng)… Mua một cặp về nuôi chơi đi anh” - người bán mời gọi. Có con gà trống cao chừng 20cm nhưng bộ lông đuôi rực rỡ vươn lên cao tới 35cm, rồi phủ xuống tha thướt. Lại có con khác lông đuôi cũng bình thường, nhưng hai cánh lại như vạt áo dài che hết cả chân, nhìn từ đằng sau thật bệ vệ, giống người chắp hai tay sau lưng đi dạo, trông rất buồn cười. Khi đến trước mấy cái lồng nuôi con mái, chú gà trống đột ngột xoay người, xòe cánh và múa một bài như chim công. Múa xong thì gáy rất hãnh diện. Người bán cho biết mấy con gà này thuộc giống gà tre Tân Châu, An Giang. Gà tre được chuộng vì gáy suốt ngày, tiếng gáy nhỏ nhưng nghe thanh và vang, rất lạ giữa chốn phố thị. Gà tre dễ ăn, chỉ cần nuôi bằng thóc trộn với cám tổng hợp. Một cái chuồng nhỏ bằng thép hoặc gỗ tạp là đủ. Người bán còn đưa ra chục chiếc giỏ mây có chọc mấy lỗ thủng. Anh cho biết ban ngày thả gà trong lồng vậy để bán, còn tối cho chúng ngủ một cách đơn giản trong mấy chiếc giỏ mây này. Gà còn được bày bán rải rác ở ga Bình Triệu, quận 8… và thường gắn với nơi bán cây cảnh. Dân chơi cũng có thể mua gà kiểng tại những vựa chuyên nuôi gà tre. Anh Dương, một chủ vựa gà ở quận 7, có một đàn chừng vài chục con cùng một hệ thống lồng ấp trứng theo công nghệ khép kín. Vừa bước vào nhà đã sực lên mùi gà, ồn ào tiếng gáy. Những chiếc lồng ấp có đồng hồ báo nhiệt độ đang sấy chừng chục quả trứng. Mấy chú gà con mới nở nằm lim dim mắt trong một cái hộp khác…. Thật ra, đối với dân chơi, phong trào nuôi gà tre làm kiểng chẳng phải là mới. “Tín đồ” gà tre trải rộng khắp từ Nam chí Bắc, nhưng sôi nổi nhất phải là tại TP.HCM. Ông Cường, ở Bình Thạnh, chỉ nuôi một cặp gà tre Tân Châu trong mảnh vườn bé nhưng rất mãn nguyện: “Nhìn con gà đi thơ thẩn trong vườn, thỉnh thoảng lại giương cổ lên gáy, thấy nhớ tuổi thơ ở quê gì đâu”. Không ở tuổi trung niên như ông Cường, Minh - nhân viên mới 21 tuổi, làm ở một tiệm quảng cáo - lại nuôi gà vì thấy nó giống như… chim mà lại rất dạn dĩ, gần gũi với người. Cặp gà mua cách đây bảy tháng với giá 1,6 triệu đồng, đang ở trong một cái lồng nhỏ nơi bancông chật hẹp của nhà Minh…. Dân chơi gà kiểng có lý lẽ riêng của họ rằng gà thế nào là đẹp, rằng giá bao nhiêu thì vừa phải. “Nếu định nuôi gà kiểng thì tốt nhất cứ tìm hiểu cho kỹ, hỏi han mấy người đi trước rồi hãy quyết” - ông Cường nói. Có những cặp gà người bán hét giá tới 4-5 triệu đồng nhưng nhìn cũng không khác mấy so với loại 1-2 triệu đồng. Phải quen rồi mới biết được. Rất nhiều người ở TP.HCM đang nuôi gà như thế. Nhưng họ khá ngại ngùng khi nói về gà với người ngoài vì rất nhiều những vấn đề liên quan đến dịch cúm gia cầm. “Người ta nuôi chim cảnh, thú cảnh đầy ra đó thì không sao, nhưng cứ nghe đến gà là ngại vì đã chết tên dịch cúm gà rồi” - một dân chơi nói. Người chơi trong giới vì thế thường chỉ giao lưu với nhau, ít khi phô trương ra ngoài. Thực tế dân nuôi gà kiểng là những người rất chi li, cẩn thận. Họ tiêm phòng dịch, vệ sinh chuồng kỹ lưỡng. Và ngày nào cũng ngồi ngắm gà hàng giờ, nên thấy chúng có biểu hiện gì lạ là lo sốt vó kiếm thuốc này thang kia. Bạc triệu mỗi con chứ ít đâu!. Bằng nhiều cách khác nhau, chủ yếu là đường bộ, gà được đưa về TP.HCM từ An Giang, từ Thái Lan… Rồi dân chơi gà trao đổi với nhau khi “đổ” (cho đẻ) được gà con. Việc chơi gà tre cứ thế mà lan ra. Gà tre không chỉ là niềm vui nuôi vật cảnh của dân ở tỉnh - nơi nhiều người có mảnh vườn rộng để thải mái thả gà. Mà ngạc nhiên thay tại Sài thành đông đúc, gà cảnh lại “lên hương” nhất, trở thành phong trào sôi nổi nhất vì việc chơi gà càng trở nên đặc biệt trong đời sống của một bộ phận thị dân. "Càng sống chật chội, người ta lại càng khát khao những thú vui gắn với thiên nhiên, mang cảm giác thư thái", chàng trai trẻ tên Minh bế chú gà yêu quý trên tay, vuốt ve âu yếm và nhìn con vật cưng bằng ánh mắt say đắm như của một người tình, nói. TTO - Thay vì tạm dừng, TP.HCM sẽ được tổ chức cho tài xế giao hàng sử dụng công nghệ (shipper) hoạt động tại TP Thủ Đức và 7 quận huyện vùng đỏ nhưng phải xét nghiệm COVID-19 vào mỗi buổi sáng. TTO - Trong ngày thứ 6 TP.HCM thực hiện tăng cường giãn cách xã hội, tỉ lệ F0 trong cộng đồng chiếm hơn 90% tổng số F0 mới. Nhưng chính quyền khuyến cáo người dân bình tĩnh vì điều này nằm trong kịch bản ứng phó của ngành y tế. TTO - Mỗi người lái xe ôm truyền thống được nhận 3 triệu đồng, người lao động thất nghiệp được nhận 1,2 triệu đồng từ gói hỗ trợ của TP.HCM, số tiền không quá lớn nhưng cũng đủ để người dân co kéo qua giai đoạn khó khăn. TTO - Tính từ 18h chiều 27-8 đến 18h chiều 28-8, trên Hệ thống quốc gia quản lý ca bệnh COVID-19 ghi nhận 12.103 ca nhiễm mới, trong đó 6 ca nhập cảnh và 12.097 ca ghi nhận trong nước. TTO - Tại họp báo chiều 28-8, ông Kajiwara Junichi, tổng giám đốc Công ty Acecook Việt Nam, đã có mặt phản hồi thông tin liên quan sản phẩm mì Hảo Hảo và miến Good được cho là phát hiện có chất cấm tại Ireland.
Gà kiểng
Gà kiểng hay gà cảnh là các giống gà đã được thuần hóa, chọn giống, lai tạo, phát triển và được nuôi như thú vật cưng, phục vụ cho nhu cầu thưởng lãm, chiêm ngưỡng vẻ đẹp mang lại niềm vui, thỏa mãn sở thích, niềm đam mê của con người. Người chơi gà kiểng thường chú trọng đến màu sắc, hình dáng và tiếng gáy mà không quan tâm đến chất lượng thịt. Bình quân một con gà kiểng trưởng thành chỉ nặng từ 400-800g nhưng giá trị kinh tế lại rất cao, gà kiểng đẹp, phải có giọng gáy gãy gọn, to, rõ ràng, không bị gáy thiếu âm, gãy âm. Giữ gà như là vật nuôi làm kiểng ngày càng trở nên phổ biến trong những năm qua trên thế giới trong các cư dân đô thị và ngoại thành. Phần lớn các loại gà được nuôi ở các trang trại sản xuất nông nghiệp để lấy thịt và trứng nhưng một số gà được lưu giữ như là vật nuôi cho lý do giải trí cùng với việc lấy trứng và thịt. Khác với việc nuôi gà thông thường, thú nuôi gà kiểng mang một giá trị nghệ thuật cao hơn.
Sơ yếu lý lịch tự thuật là một phần không thể thiếu trong bộ hồ sơ xin việc. Vậy cách khai sơ yếu lý lịch sao cho đúng chuẩn nhất ra sao?. Mục Lục1 Sơ yếu lý lịch là gì?2 Sơ yếu lý lịch tiếng Anh là gì?3 Điểm khác nhau cơ bản giữa sơ yếu lý lịch và CV4 Cách viết sơ yếu lý lịch xin việc4.1 Một sơ yếu lý lịch xin việc gồm:4.2 Cách viết sơ yếu lý lịch4.2.1 Mẫu sơ yếu lý lịch xin …. Sơ Yếu Lý Lịch là bản tóm tắt những thông tin chính về cá nhân như: học vấn, bằng cấp, kinh nghiệm làm việc, nghiên cứu cũng như giảng dạy, các tác phẩm đã được xuất bản, giảI thưởng, các xác nhận về tư cách tác giả và những thông tin cá nhân khác.Bạn đang xem: Lý lịch trích ngang là gì. Mẫu sơ yếu lý lịch tự thuật tiêu chuẩn được nhiều doanh nghiệp, tổ chức lớn chấp nhận. Bạn cần biết sơ yếu lý lịch là một phần quan trọng của hồ sơ xin việc. Đó là tất cả về ấn tượng đầu tiên. Tạo ấn tượng tốt và tìm thấy một việc làm ngay lập tức. Cái Lý lịch trích ngang bản mẫu - Mẫu sơ yếu lý lịch 2019 tinh vi nhưng đơn giản này cho phép bạn tạo một cv với một bức ảnh và thể hiện bản thân theo cách tốt nhất có thể. Nhấn mạnh giáo dục và kỹ năng của bạn. Chọn một mẫu resume resume và điền nó với các chi tiết cá nhân của bạn. Một người tạo ra cv tuổi cho các ứng dụng công việc với các phần logic và cấp độ kỹ năng sẽ góp phần vào diện mạo chuyên nghi. Mẫu sơ yếu lý lịch xin việc giúp bạn nhanh chóng hoàn thành thông tin một mình căn bản gửi đến nhà tuyển dụng. Nhưng nếu không nắm rõ được nội dung cần điền ở các mục sẽ khiến bạn. HƯỚNG DẪN KHAI LÝ LỊCH CỦA NGƯỜI XIN VÀO ĐẢNG Theo Hướng dẫn số 05/HD TCTW ngày 2622002 về Hướng dẫn cụ thể về nghiệp vụ công tác đảng viên I. Yêu cầu: Người vào Đảng tự khai trung thực, đầy đủ, rõ ràng các nội dung trong lý lịch; không tẩy xoá, sửa.
Lý lịch trích ngang
Lý lịch trích ngang hay còn gọi là sơ lược lý lịch là một hình thức văn bản, tài liệu được sử dụng để làm bản trình bày tóm tắt quá trình làm việc và kỹ năng của những ứng viên và thường sử dụng là một thành phần trong hồ sơ xin việc. Hồ sơ xin việc có thể được sử dụng cho một loạt các lý do khác nhau, nhưng chúng lại thường được sử dụng để tìm kiếm việc làm mới. Một lý lịch trích ngang điển hình có hàm chứa một bản tóm tắt những kinh nghiệm làm việc có liên quan và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, việc đào tạo, giáo dục, bằng cấp, chứng chỉ. Nó là một tài liệu tiếp thị bản thân, cần thu hút cả về nội dung lẫn hình thức. Trong bộ hồ sơ xin việc, lý lịch trích ngang thường là một trong những hạng mục đầu tiên, cùng với một lá thư xin việc và đôi khi là đơn xin việc mà một nhà tuyển dụng tiềm năng sẽ nhìn thấy những vấn đề liên quan đến công việc của người tìm việc và thường được sử dụng để sàng lọc các ứng viên, thường theo sau đó là một cuộc phỏng vấn.
Nếu bạn là một người yêu thích âm nhạc và quan tâm đến các chương trình như giọng hát việt. thì chắc chắn cái tên Hồ Hoài Anh sẽ không mấy xa lạ đối với các bạn. Nhưng vẫn có rất nhiều người chưa biết Hồ Hoài Anh là ai? tiểu sử và sự nghiệp của anh chàng này ra sao. Vậy thì hãy cùng 35Express tìm hiểu chi tiết qua nội dung bài viết dưới đây nhé!. Hồ Hoài Anh là một nhạc sĩ nổi tiếng ở Việt Nam. Anh sinh năm 1979 và lớn lên tại Hà Nội là cha để của nhiều ca khúc đình đám và nhiều bài hát gây ấn tượng. Cụ thể trong đó phải kể đến những ca khúc như: “Giọt sương và chiếc lá”, “Dẫu có lỗi lầm”,…. Ngoài ra anh còn là một trong những gương mặt kỳ cựu của làng nhạc Việt. Tham gia khá nhiều các chương trình âm nhạc lớn nhỏ, đặc biệt là vai trò là huấn luyện viên của Giọng hát Việt. Anh có rất nhiều học trò và trong đó phải kể đến là Andiez, Bùi lan Hương hay Gin Tuấn Kiệt. Hiện tại, Hồ Hoài Anh đang có cuộc sống hạnh phúc bên vợ là Lưu Hương Giang và hai cô con gái xinh xắn. Nhạc sĩ Hồ Hoài Anh sinh ngày 4/3/1979 tại Hà Nội. Anh sinh ra trong gia đình có truyền thống nghệ thuật. Mẹ của Hồ Hoài Anh chính là nghệ sĩ đàn bầu nổi tiếng, NSND Thanh Tâm. Bà nguyên là trưởng khoa nhạc cụ dân tộc ở nhạc viện. Dì của anh là NSUT Thanh Hằng, phó khoa âm nhạc truyền thống Học viện âm nhạc Quốc gia Việt Nam. Chính vì được sinh ra trong môi trường nghệ thuật từ nhỏ nên khi 8 tuổi, Hồ Hoài Anh đã được tiếp xúc với các loại nhạc cụ. Anh được mẹ hướng theo đàn bầu. Khi lên 13, Hồ Hoài Anh rất tự hào khi được sang Nhật tham dự Festival âm nhạc thiếu nhi châu Á – Thái Bình Dương. Đến năm 18 tuổi, anh xuất sắc dành được giải nhất cuộc thi độc tấu nhạc cụ dân tộc toàn quốc năm (1998). Thừa hưởng từ bố mẹ, Hồ Hoài Anh có một tài năng thiên bẩm về âm nhạc. Đây chính là tiền đề đưa anh đến với con đường nhạc sĩ sau này. Sau những thành công đầu đời và tài năng, Hồ Hoài Anh trở thành giảng viên của Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. Trong thời gian làm việc tại đây, anh được tiếp cận với các phong cách nhạc mới. Từ đó, anh đã có cảm hứng và viết ra nhiều bài hát ấn tượng. Những bài hát “Dẫu có lỗi lầm”, “Tình yêu muôn màu”,… bắt đầu được khán giả chú ý. Từ đó, mỗi ca khúc mà Hồ Hoài Anh viết ra đều là những bản nhạc trẻ được nhiều người mến mộ. Trong thời gian từ năm 2005 – 2015, Hồ Hoài Anh nhận về rất nhiều giải thường danh giá. Anh cũng tích cực tham gia các chương trình tìm kiếm tài năng âm nhạc. Năm 2015, Hồ Hoài Anh được nhà nước phong tặng danh hiệu nghệ sĩ ưu tú. Đây được xem là cột mốc đánh dấu cho sự thành công của Hồ Hoài Anh. Hiện tại, Anh vẫn là cái tên không thể thiếu trong các mùa Giọng hát Việt và Giọng hát Việt nhí. Hồ Hoài Anh và Lưu Hương Giang là một trong số ít cặp đôi nghệ sĩ giữ được hạnh phúc bền đẹp. Cả hai gặp nhau tại Sao mai điểm hẹn – 2004. Ban đầu, anh còn nhầm tưởng Lưu Hương Giang chính là Lưu Thiên Hương (chị gái). Hồ Hoài Anh đã mất đến 4 năm để theo đuổi Lưu Hương Giang. Cặp đôi đã có 5 năm hẹn hò cho đến khi đi đến đám cưới vào tháng 12/2009. Sau khi kết hôn, Lưu Hương Giang lui về hậu trường để giúp đỡ chồng. Là người sống kín tiếng, gia đình Hồ Hoài Anh rất ít khi phát ngôn với báo chí. Chỉ có một số lần hiếm hoi họ chia sẻ về nhau. Mới đây, tin đồn Hồ Hoài Anh và Lưu Hương Giang ly hôn khiến nhiều người quan tâm. Ngay sau đó, phía quản lý cũng đã lên tiếng xác nhận chuyện này. Nhưng anh cho biết cả hai vẫn đang sống chung và đã vượt qua giai đoạn khó khăn. Mới đây, Hồ Hoài Anh còn dành tặng vợ mình chiếc nhẫn kim cương khủng nhân ngày 8/3. Có thể thấy gia đình của Hồ Hoài Anh và Lưu Hương Giang vẫn luôn hạnh phúc bên nhau. Mới đây, trên mạng xuất hiện hình ảnh Hồ Hoài Anh đau đớn và phải nhờ Lưu Hương Giang dìu xuống xe. Gương mặt lộ rõ sự đau đớn của anh khiến nhiều khán giả tỏ ra lo lắng. Sự việc diễn ra vào ngày hai vợ chồng Hồ Hoài Anh đi quay show của chương trình Gọng hát Việt nhí. Việc nam nhạc sĩ gặp vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe đã khiến chương trình đang quay phải tạm dừng ngay lập tức. Liệu rằng Hồ Hoài Anh có thể tiếp tục làm huấn luyện viên trong mùa này không? Đây là câu hỏi mà nhiều khán giả đặt ra. Hiện tại, vợ chồng Hồ Hoài Anh và Lưu Hương Giang vẫn chưa lên tiếng về vấn đề này. Có thể nam nhạc sĩ đang gặp vấn đề gì đó khá nghiêm trọng về sức khỏe của mình. Bài viết mà 35Express chia sẻ ở trên thì chắc bạn cũng biết Hồ Hoài Anh là ai rồi phải không nào. Hãy theo dõi những bài viết tiếp theo để cập nhật thông tin sớm nhất nha. Blog The 35Express là website tổng hợp chia sẻ kiến thức đời sống công nghệ, thủ thuật, sức khỏe, thể thao, giải trí, làm đẹp, lời bài hát, người nổi tiếng, hotgirl…hoàn toàn miễn phí đến đọc giả với mong muốn mang đến cho bạn đọc những kiến thức bổ ích trong đời sống.
Hồ Hoài Anh
NSƯT Hồ Hoài Anh (sinh năm 1979) là một nhạc sĩ - nghệ sĩ ưu tú của Việt Nam, từng giành được 2 đề cử và 1 giải Cống hiến. Anh được phong tặng danh hiệu nghệ sĩ ưu tú năm 2015. Anh đã sáng tác nhiều ca khúc như Giọt sương và chiếc lá, Dẫu có lỗi lầm. Học vị thạc sĩ âm nhạc. Hồ Hoài Anh sinh năm 1979 (tại Nghệ An) trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật. Dì của anh là NSƯT Thanh Hằng, nguyên phó khoa âm nhạc truyền thống Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam, mẹ anh là NSND Thanh Tâm, nghệ sĩ đàn bầu nổi tiếng, nguyên trưởng khoa nhạc cụ dân tộc ở Nhạc viện,. Vì thế, lên 8 tuổi Hồ Hoài Anh bắt đầu được làm quen với nó. 13 tuổi, Hồ Hoài Anh đã sang Nhật tham gia Festival âm nhạc thiếu nhi châu Á - Thái Bình Dương. 18 tuổi, Hoài Anh đoạt giải nhất Cuộc thi độc tấu nhạc cụ dân tộc toàn quốc năm 1998. Anh là một tín đồ Công giáo tại Việt Nam. Hồ Hoài Anh là giảng viên dạy đàn bầu của Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
Cây cần sa là gì, được dùng làm gì trong y tế? Các thông tin về cần sa và cần sa y tế sẽ giúp các bạn hiểu rõ về loại “biệt dược” này. Đây là một trong những “chất cấm” lưu hành rộng rãi. Việc sử dụng chúng không đúng mục đích sẽ bị pháp luật nhà nước trừng trị đích đáng. Các bạn có thể tìm hiểu thêm về cần sa thông qua nội dung bên dưới. Cần sa là một trong những loại cây mang tính độc hại cao. Một khi sử dụng lâu ngày sẽ gây ra nghiện. Chỉ khi cần sa được sử dụng vào mục đích y tế mới mang lại các hiệu quả thiết thực. Nghiên cứu tác dụng của cây cần sa hay còn gọi là Cannabis Sativa có hàng trăm chất hóa học khác nhau. T rong đó có chất hóa học mạnh nhất là Delta 9 tetrahydrocannobinol được ký hiệu là THC. THC khi đưa vào cơ thể sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hệ thần kinh và nhận thức của người sử dụng. THC đưa bào bằng đường hút sẽ vào máu và tràn qua phổi. Nếu THC đi vào bằng đường ăn uống sẽ hấp thu ở màng bao tử và ruột non. Dù đi đường nào thì chúng cũng theo máu và truyền lên não tạo cảm giác “phê” và ảo giác. Theo đường hút sẽ có tác dụng nhanh hơn. Một số người nhai và nuốt nhựa thì sẽ hấp thu chậm nhưng hiệu quả sẽ tác dụng kéo dài hơn. Cần sa kích thích mạch đập nhanh hơn 50% so với mức hoạt động bình thường. Nếu đang sử dụng các loại thuốc có tác dụng làm tim đập nhanh hơn như nortrptyline mà lại dùng thêm cần sa sẽ cực kỳ nguy hiểm. Đỏ kết mạc mắt, mất thăng bằng, tay chân không phối hợp chính xác, cảm giác đói nhiều và thèm đồ ngọt là những tác dụng khác của cần sa về thể xác. Về tinh thần, lần đầu tiên sử dụng sẽ bồn chồn, lo lắng, nhưng cảm giác này sẽ hết rất nhanh., Thay vào đó sẽ là cảm giác sảng khoái, kích thích trí tưởng tượng, cười không tự chủ và có nhiều ảo giác. Nam giới nghiệm cần sa sẽ bị giảm lượng testosterone (nội tiết tố sinh dục nam). Việc này sẽ khiến tinh hoàn kém phát triển, chất lượng tinh trùng kém và giảm ham muối tình dục. Ở những người này thì cơ hội thụ thai và duy trì nói giống sẽ thấp hơn những người bình thường. Nữ giới sử dụng cần sa sẽ gây rối loạn kinh nguyệt. THC trong cần ra sẽ ức chế việc rụng trứng, kèm theo đó là giảm ham muốn và khó mang thai. Hashish hay Hash mạnh hơn rất nhiều so với Đây là chiết xuất từ lá cần sa phơi khô và ép thành cục. Chúng có màu nâm hoặc đen hay còn được gọi là nhựa cần sa. Ăn trực tiếp, tộn với thuốc lá để hút đều được. Dầu Hashish được tinh chế từ nhựa Hash. Các loại bôi trên giấy bạc hoặc thuốc để hút chính là chúng. Đây là loại có tác dụng mạnh nhất trong 3 chiết xuất từ cần sa này. Tạo cảm giác phê, bay bỏng, quên đi lo lắng và muộn phiền. Những hưng phấn về thể xác và trí não này có thể dẫn đến những hành động sai lầm. Đặc biệt là người sử dụng sẽ có khả năng vô sinh, mất ý thức lao động. Nếu nghiện về lâu dài có thể dẫn đến tử vong. Chưa kể đến các hành vi trộm cắp, phạm pháp cũng từ đây mà ra. Vì thế, cần sa sử dụng trong trường hợp này là phạm pháp. Chúng được cấm sử dụng trên toàn cầu. Cần sa được dùng để chữa bệnh hay còn gọi là cần sa y tế. Chúng được sử dụng với một liều lượng thích hợp để chữa các bệnh lý cần thiết. Cây cần sa chứa hơn 100 chất hóa học khác nhau, mỗi chất sẽ mang đến những côn dụng khác nhau. Trong một số đặc biệt chúng sẽ cần cho việc điều trị các bệnh lý. Cần sa được phê duyệt trong việc sử dụng cho mục đích chữa bệnh với liều lượng thích hợp. Buồn nôn và nôn khi hóa trị với một liều lượng nhỏ sẽ hạn chế được các trạng thái này. Người HIV chán ăn, người có bệnh lý dẫn đến các cơn co thắt cơ sẽ được cải thiện đáng kể. Bệnh nhân trầm cảm, tự kỷ, bệnh Alzheimer sẽ được cải thiện tâm trạng khá tốt với cần sa. Một số nghiên cứu cho thấy cần sa còn được sử dụng cho bệnh động kinh ở trẻ em. Tuy nhiên, phải rất thận trọng khi sử dụng và có điều chỉnh liều lượng, dùng dưới sự giám sát của bệnh viện và bác sĩ. Những thông tin về cần sa của chúng tôi nhằm cung cấp cho sự hiểu biết và tìm kiếm thông tin của quý vị. Khuyến cáo không nên sử dụng dưới dạng tìm hiểu trực quan, giải trí hoặc dùng để chữa bệnh khi chưa có phác đồ điều trị của bác sĩ.
Cần sa y tế
Cần sa y tế là cần sa và các cannabinoid được các bác sĩ khuyên dùng cho bệnh nhân của họ. Việc sử dụng cần sa làm thuốc chưa được kiểm tra nghiêm ngặt do hạn chế sản xuất và các quy định khác của chính phủ. Bằng chứng hạn chế cho thấy cần sa có thể làm giảm buồn nôn trong quá trình hóa trị liệu, cải thiện sự thèm ăn ở những người nhiễm HIV/AIDS, làm giảm đau mãn tính và co thắt cơ bắp. Sử dụng ngắn hạn cần sa làm tăng nguy cơ tác dụng phụ nhỏ và lớn. Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm chóng mặt, cảm thấy mệt mỏi, nôn mửa và ảo giác. Tác dụng lâu dài của cần sa là không rõ ràng. Mối quan tâm bao gồm các vấn đề về trí nhớ và nhận thức, nguy cơ nghiện, tâm thần phân liệt ở người trẻ tuổi và nguy cơ trẻ em sử dụng nó một cách tình cờ. Cây cần sa có lịch sử sử dụng dược liệu có niên đại hàng ngàn năm ở nhiều nền văn hóa. Một số tổ chức y tế đã yêu cầu loại bỏ cần sa khỏi danh sách các chất được kiểm soát theo Lịch trình I, sau đó là đánh giá theo quy định và khoa học.
Đề: Phân tích những vẻ đẹp khác nhau của dòng sông Hương dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cố đô Huế là cái nôi nuôi dưỡng một phần nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Huế mang vẻ đẹp thâm trầm thanh lịch, bao đời sống giữa những câu hò điệu lí, những vần thơ trữ tình ngâm nga. Có lẽ vì thế mà đây là nơi sinh thành của bao thi nhân, văn nhân tên tuổi. Cũng giống như Tố Hữu, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người con của xứ Huế. Ông từng tích cực tham gia các phong trào yêu nước chống Mĩ-Ngụy và là một cây bút uyên bác tài hoa với phong cách độc đáo và đặc biệt sở trường về thể bút kí, tùy bút. Trong số các tác phẩm của ông, nổi bật nhất có lẽ là tập bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” viết ngay sau chiến thắng mùa xuân 1975. Trong tập bút kí này, con sông huyền thoại của đất cố đô được vẽ nên bởi ngòi bút thấm đượm lòng yêu nước và tinh thần dân tộc của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Dòng sông Hương đã hiện lên với một vẻ đẹp khuynh thành của cảnh sắc thiên nhiên, văn hóa và lịch sử. Là thành phố du lịch nhưng ngày nay Huế vẫn giữ vẻ thâm trầm thanh tịnh mà không một thành phố nào ở nước ta có được. Một phần làm nên vẻ đẹp ấy chính là dòng sông Hương. Con sông đã đi vào thi ca với vẻ quyến rũ lạ kì:. Nhìn ở khía cạnh thiên nhiên, sông Hương mang vẻ đẹp kiều diễm của người con gái xứ Huế trong làn sương mờ ảo. Nó không còn đơn thuần là một dòng chảy vô tri mà đã trở thành một cái gì sống động, có đầy đủ cảm xúc, tính cách. Sông Hương như một con người mà mỗi bước đi là một suy tư, trăn trở, là một nỗi niềm vương vấn với thành phố quê hương. Ở thượng nguồn, dòng sông là “một bản trường ca của rừng già”. Nó đã phải vượt qua biết bao thác ghềnh, đáy vực. Dòng sông “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn”. Nó được sinh thành từ lòng Trường Sơn, được rừng già hun đúc “một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Vẻ đẹp của dòng sông mang một nét “phóng khoáng và man dại”. Dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương ở thượng nguồn dường như có một tâm hồn non nớt nhạy cảm, một tư tưởng tự do, mạnh mẽ nhưng cũng dịu dàng say đắm. Khi về tới đồng bằng, Hương giang có những thay đổi lớn về tính cách. Bằng một cách nào đó, rừng già đã “chế ngự sức mạnh bản năng” của dòng sông, làm nó bỗng trở nên “dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Con sông phải trãi qua một một hành trình gian truân trước khi về tới thành phố. Dòng sông uốn lượn và nhiều đoạn ngột ngột đổi hướng. Nó “uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Con sông Hương thơ mộng chảy qua biết bao địa danh gắn liền với xứ Huế, từ ngã ba Tuần qua điện Hòn Chén, chuyển hướng xuôi về Nguyệt Biều, Lương Quán, rồi đột ngột vẽ một đường cung thật tròn ôm lấy chân đồi Thiên Mụ,… Khi chảy giữa hai dãy đồi, Hương giang đã hoàn toàn bị thuần hóa. Nó lột bỏ cái man dại của rừng già. Sông Hương chảy qua thành phố Huế mang một vẻ đẹp dịu dàng, hiền hòa như cách nói của Hoàng Phủ Ngọc Tường “dòng sông mềm như tấm lụa với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi”. Hương giang mang theo một “vẻ đẹp trầm mặc”, triết lí và cổ thi. Có lẽ bởi vì nó đã tắm mình với cái uy nghiêm của bao cung điện thành quách, với “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa”, những lăng tẩm kiêu hãnh đồ sộ… Ra đến vùng ngoại ô Kim Long, sông Hương bỗng vui tươi hẳn lên. Dòng sông chảy qua cầu Tràng Tiền với 12 nhịp điệu đà kiêu sa như là một món đồ trang sức đẹp nhất tạo cho dòng sông vẻ dịu dàng quý phái của người con gái Huế. Hương giang uốn những đường mong mềm mại “như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Sông Hương chảy giữa lòng thành phố, mang một vẻ đẹp biến ảo của không gian và màu sắc. Nước sông Đà thay đổi theo mùa còn sông Hương thì biến hóa theo từng khoảnh khắc trong ngày “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Nó quả là một dòng sông có phép màu bí hiểm. Dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc ường, sông Hương không còn đơn thuần là một dòng sông. Nó đã hóa thân thành một nàng thiếu nữ e lệ trước tiếng gọi tình yêu. Nàng từ rừng núi xa xôi đã không ngại hành trình vất vả gian truân, cố ý tìm về với thành phố. Sông Hương chảy giữa lòng cố đô như một điểm hẹn hò. Vì lẽ đó mà nhịp điệu của dòng sông là một “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Dòng chảy thật chậm rãi như đang e ấp ngại ngùng cũng giống như lưu luyến không muốn rời xa. Hội ngộ, gắn bó rồi cũng phải chia tay. Đó là cuộc chia tay bịn rịn và đầy bâng khuâng lưu luyến. Nó đã ra tới vùng ngoại ô Vĩ Dạ nhưng rồi như “sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói”, con sông đột ngột đổi dòng và gặp lại thành phố lần cuối cùng. Có lẽ dòng sông muốn gởi gắm một lời thể hẹn nào đó. Lời hẹn ước son sắc đó đã đọng lại ở những giọng hò dân gian, ở tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở. Hương giang không chỉ là một dòng sông thơ mộng và tuyệt đẹp bởi cảnh sắc thiên nhiên. Nó còn là con sông của âm nhạc, thi ca, của những phong tục xứ Huế và gắn bó với vẻ đẹp tâm hồn Huế. Sông Hương là “một người thiếu nữ đánh đàn giữa đêm khuya”. Âm nhạc của dòng sông là một bàn hòa ca sống động mà không một sân khấu, nhà hát nào diển tả được. Chính nơi đây, đại thi hào Nguyển Du đã viết nên khúc đàn của nàng Kiều:. Dòng sông Hương còn là đề tài cảm hứng cho các nghệ sĩ để tạo nên một dòng thi ca mà ở đó nó không bao giờ lập lại mình. Mỗi nhà thơ đều nhận ra một vẻ đẹp riêng của Hương giang. Trong thơ Tản Đà, sông Hương thay màu một cách bất ngờ:. Trong thơ Cao Bá Quát, nó mang một khí phách hào hùng như “kiếm dựng trời xanh” để rồi chuyển thành nỗi “quan hoài vọng cổ” trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan. Đối với Tố Hữu, dòng sông quê ông đã đột ngột “khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn”. Như vậy, với mỗi tác phẩm, mỗi thi nhân sông Hương là một đề tài bất tận và luôn gợi cảm hứng mới mẻ. Tiếp tục cuộc hành trình khám phá vẻ đẹp của sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xoay ngược bánh xe thời gian, tìm về những khoảnh khắc lịch sử đã qua để rồi ông nhận ra “sông Hương đã sống những thế kỉ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó”. Từ thời các vua Hùng nó đã là “dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước”. Trong trang viết của Nguyễn Trãi, sông Hương đã “chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam Đại Việt”. Sông Hương từng kiêu hãnh soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Suốt một bề dày lịch sử, sông Hương luôn gắn bó với quê hương đất nước, nó là một chứng nhân của biết bao thăng trầm lịch sử, đã chứng kiến các triều đại phong kiến từ mở đầu đến giây phút cuối cùng khi vua Bảo Đại thoái vị ngay bên cạnh dòng sông. Bước vào giai đoạn chống Pháp-Mĩ, Hương giang lại tiếp tục chứng kiến những bi thương của phong trào Cần Vương và còn “tự hiến mình làm một chiến công” góp phần cho Cách mạng Tháng Tám. Tết Mậu Thân, sông Hương cũng góp mình vào chiến dịch mong muốn giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Sông Hương từ một nàng thiếu nữ non trẻ với tình yêu đã biến thành một người con gái anh hùng của Tổ quốc. Bao giờ cũng vậy, nhà văn luôn xem dòng sông là một cô gái với những tính cách, phẩm chất cao quý. Từng có lúc nàng là cô gái Di-gan dũng cảm, man dại rồi trở nên dịu dàng e ấp trước tình yêu. Tâm hồn người con gái ấy đa tình mà kín đáo, tài hoa và sâu sắc, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình. Không chỉ vậy, sông Hương còn là một người con gái yêu nước, anh hùng. Người dânViệt Nam ta đều được sinh ra và lớn lên bên cạnh sông nước. Mỗi người thường gắn bó tuổi thơ, cuộc đời mới một dòng sông như lời bài hát: “Trong ta, ai cũng có một dòng sông” hay lời thơ của một nhà thơ trẻ:. Người Hà Nội yêu con sông Hoàng Hà trĩu nặng phù sa, người miền Tây thương mến hai dòng Vàm Cỏ giản dị mà anh hùng, người Tây Bắc có sông Đà vừa hung tợn vừa trữ tình còn người dân xứ Huế gắn bó với Hương giang mộng mơ đằm thắm. Hoàng Cầm tạo cho thi ca một dáng “nằm nghiêng trong kháng chiến trường kì” của dòng sông Đuống quê hương Kinh Bắc. Nguyễn Tuân viết về sông Đà trữ tình mà hung tợn với dòng chảy cuồn cuộn, thác nước gầm thét để tôn vinh con người lao động. Còn Hoàng Phủ Ngọc Tường làm nên sông Hương một dòng sông văn hóa với điệu chảy lặng lờ như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Vẻ đẹp của sông Hương là ở nét truyền thống và bản sắc văn hóa xứ Huế, ở cảnh đẹp thiên nhiên thơ mộng và hành trình lịch sử quang vinh. Chính vì vậy mà sông Hương có được vẻ đẹp đặc biệt không giống bất kì con sông nào của Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nhận xét: “kí Hoàng Phủ Ngọc Tưởng có rất nhiều ánh lửa”. Đó là sự phóng túng, am hiểu kiến thức văn hóa, lịch sử, điạ lí, văn chương. Ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường còn giàu chất trữ tình, cảm xúc tinh tế và một trí tuệ nghiên cứu minh mẫn. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một tác phẩm đúc kết từ tư duy khoa học và tư duy nghệ thuật. Ở đó nhà văn đã thể hiện sự tài hoa trong cách phép so sánh, những từ ngữ được sử dụng đắc địa, miêu tả hấp dẫn, giàu hình ảnh. Đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông là một đọan văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương-dòng sông văn minh, chứng nhân lịch sử. Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của đoạn văn là những cảm xúc sâu lắng được tổng hợp từ một vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lí cùng một văn phong tao nhã, hướng nội tinh tế. Tác phẩm đã tạo cho người đọc một tình yêu thuần khiết và sâu nặng đối với sông Hương như người ta yêu Hà Nội khi đọc văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân. “Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người con của xứ Huế” ???!!! ‘.’ ,không phải là Quảng Trị sao 😕
Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Ai đã đặt tên cho dòng sông? ban đầu có tên là Hương ơi, e phải mày chăng? là bài bút ký do nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ở Huế vào ngày 4 tháng 1 năm 1981, và được in trong tập sách cùng tên vào năm 1986. Một phần bài bút ký này đã được đưa vào giảng dạy trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam, và được đánh giá là một đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Bút ký này đã được đưa vào đề văn quốc gia 2019. Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một bút ký đặc sắc, thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài ký đã ca ngợi dòng sông Hương như một biểu tượng của Huế. Vẻ đẹp dòng sông được phát hiện rất đa dạng. Có lúc trữ tình êm ả, hiền hòa như "một thiếu nữ dịu dàng, duyên dáng"; có lúc phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt như một "bản trường ca của rừng già". Có khi dịu dàng và trí tuệ như "người mẹ phù sa"; có khi biến ảo "sớm xanh, trưa vàng, chiều tím"; hoặc khi thì vui tươi, khi thì như một mặt hồ yên tĩnh v.v.Tất cả được miêu tả bằng một tình cảm thiết tha với Huế, với một vốn văn hóa phong phú và một vốn ngôn từ giàu có và đậm chất thơ của tác giả.
Kéo dài từ năm 1968 cho tới tận khi chiến tranh Việt Nam kết thúc vào năm 1975, chiến dịch Phụng Hoàng (phượng hoàng) ban đầu được thực hiện bởi cơ quan tình báo CIA của Mỹ và cơ quan tình báo CIO của ngụy quyền Sài Gòn. Đây là một chiến dịch tình báo, ám sát, bắt cóc, tra tấn và thủ tiêu nhằm vào các cán bộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Mặc dù vậy, Mỹ và tay sai lại tra tấn và giết hại dã man rất nhiều đồng bào ta cho dù họ chỉ là dân thường. Ban đầu, chiến dịch này do lực lượng tình báo Mỹ và tình báo Sài Gòn thực hiện. Tuy nhiên, vì sự leo thang của cuộc Chiến tranh Việt Nam mà quy mô của chiến dịch Phụng Hoàng đã phải mở rộng ra và được thực hiện bằng mọi lực lượng quân sự mà Mỹ có trong tay. Điều này đồng nghĩa với việc, từ một chiến dịch tình báo, chiến dịch Phụng Hoàng đã biến tướng trở thành một chiến dịch quân sự. Với sự tham gia của quân đội Mỹ, và quân đội Sài Gòn, hai lực lượng này đã tiến hành nhiều cuộc càn quét, bắt bớ rất vô lý nhắm vào người dân thường vô tội. Do Quân đội Mỹ có rất ít cơ sở tình báo trong dân và lực lượng Quân đội Sài Gòn cũng vậy nên thông tin tình báo của họ phần lớn là thiếu chính xác và thậm chí là mâu thuẫn nhau. Cách hành xử của các lực lượng này cũng hoàn toàn khác, thay vì chỉ bắt bớ, tra khảo và ám sát thủ tiêu, họ sẵn sàng đốt phá cả một ngôi làng, bắt giữ và tra khảo từ trẻ em tới người già chỉ vì "nghi" có cán bộ ta nằm vùng. Chỉ tính riêng trong năm 1970, năm cao điểm nhất của chiến dịch Phụng Hoàng đã có tới 8119 đồng bào ta bị Mỹ và đồng minh giết hại trong các vụ bắt bớ, ám sát liên quan tới chiến dịch này. Được coi là một phần trong chiến lược "Việt Nam hóa Chiến tranh", chiến dịch Phụng Hoàng đã đưa dân tộc Việt Nam vào cảnh "nồi da xáo thịt" khi sử dụng chính Quân đội Sài Gòn để bắt bớ, giết hại người dân và phá hoại làng mạc. Cũng trong thời gian diễn ra chiến dịch Phụng Hoàng, CIA, Quân đội Mỹ và cả Quân đội Sài Gòn cũng như lực lượng tình báo của chúng luôn bị dư luận cả nước cũng như quốc tế chỉ trích về việc sử dụng những hình thức tra tấn dã man, mang tính chất ép cung khi tra khảo những người mà chúng tình nghi. Theo lời K. Barton Osborn, một sĩ quan tình báo của Quân đội Mỹ tham gia vào chiến dịch, các hình thức tra tấn thường được sử dụng khi ép cung bao gồm đóng đinh vào tai, trích điện vào chỗ kín,. và nhiều hình thức dã man khác. Trong suốt 18 tháng viên sĩ quan này tham gia chiến dịch, anh ta không thấy bất cứ ai sống sót sau quá trình bị hỏi cung. Thậm chí, từng có thông tin phía CIA trao thưởng tới 11.000 USD cho mỗi cán bộ nằm vùng bị bắt sống, một nửa số đó cho mỗi cán bộ nằm vùng của ta bị giết hại. Chính vì việc treo giải "săn đầu người" này mà rất nhiều người dân thường vô tội đã phải chết một cách oan uổng chỉ để lực lượng thi hành chiến dịch "vơ tiền đầy túi". Chưa hết, phía CIA thậm chí còn đưa ra "chỉ tiêu" (quota) cho mỗi địa phương ở miền Nam Việt Nam. Theo đó, dựa vào xác định phần trăm lực lượng cán bộ, du kích địa phương nằm vùng, phía CIA sẽ đưa ra một số lượng nhất định tùy thuộc vào từng địa phương và nhiệm vụ của lực lượng Quân đội Sài Gòn đóng tại địa phương đó là phải "gom đủ" số lượng đã được CIA giao từ trước. Ảnh: Người già và trẻ em cũng là nạn nhân thường xuyên của chiến dịch Phụng Hoàng. Kết quả của chiến dịch Phụng Hoàng qua các năm được phía CIA đánh giá rất khả quan, tuy nhiên trong mắt người dân miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, điều này không làm họ an toàn hơn mà dường như chiến dịch Phụng Hoàng đã "mang chiến tranh tới tận căn bếp mỗi nhà". Xét về mặt chiến lược, từ sau chiến dịch Mậu Thân 1968, lực lượng nằm vùng của ta đã gần như bị bại lộ gần hết và đã rút lui về những chiến khu kháng chiến, ít còn nằm vùng trong dân. Vậy nên, chiến dịch Phụng Hoàng dù không có bất cứ thống kê chi tiết nào nhưng rõ ràng đã giết hại rất nhiều đồng bào ta. Đây là một tội ác dã man của Mỹ Ngụy mà tới tận ngày nay, chúng ta vẫn chưa thể biết hết được chiến dịch này dã man tới nhường nào. Kéo dài từ năm 1968 cho tới tận khi chiến tranh Việt Nam kết thúc vào năm 1975, chiến dịch Phụng Hoàng (phượng hoàng) ban đầu được thực hiện bởi cơ quan tình báo CIA của Mỹ và cơ quan tình báo CIO của ngụy quyền Sài Gòn. Đây là một chiến dịch tình báo, ám sát, bắt cóc, tra tấn và thủ tiêu nhằm vào các cán bộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Mặc dù vậy, Mỹ và tay sai lại tra tấn và giết hại dã man rất nhiều đồng bào ta cho dù họ chỉ là dân thường. Ban đầu, chiến dịch này do lực lượng tình báo Mỹ và tình báo Sài Gòn thực hiện. Tuy nhiên, vì sự leo thang của cuộc Chiến tranh Việt Nam mà quy mô của chiến dịch Phụng Hoàng đã phải mở rộng ra và được thực hiện bằng mọi lực lượng quân sự mà Mỹ có trong tay. Điều này đồng nghĩa với việc, từ một chiến dịch tình báo, chiến dịch Phụng Hoàng đã biến tướng trở thành một chiến dịch quân sự. Với sự tham gia của quân đội Mỹ, và quân đội Sài Gòn, hai lực lượng này đã tiến hành nhiều cuộc càn quét, bắt bớ rất vô lý nhắm vào người dân thường vô tội. Do Quân đội Mỹ có rất ít cơ sở tình báo trong dân và lực lượng Quân đội Sài Gòn cũng vậy nên thông tin tình báo của họ phần lớn là thiếu chính xác và thậm chí là mâu thuẫn nhau. Cách hành xử của các lực lượng này cũng hoàn toàn khác, thay vì chỉ bắt bớ, tra khảo và ám sát thủ tiêu, họ sẵn sàng đốt phá cả một ngôi làng, bắt giữ và tra khảo từ trẻ em tới người già chỉ vì "nghi" có cán bộ ta nằm vùng. Chỉ tính riêng trong năm 1970, năm cao điểm nhất của chiến dịch Phụng Hoàng đã có tới 8119 đồng bào ta bị Mỹ và đồng minh giết hại trong các vụ bắt bớ, ám sát liên quan tới chiến dịch này. Được coi là một phần trong chiến lược "Việt Nam hóa Chiến tranh", chiến dịch Phụng Hoàng đã đưa dân tộc Việt Nam vào cảnh "nồi da xáo thịt" khi sử dụng chính Quân đội Sài Gòn để bắt bớ, giết hại người dân và phá hoại làng mạc. Cũng trong thời gian diễn ra chiến dịch Phụng Hoàng, CIA, Quân đội Mỹ và cả Quân đội Sài Gòn cũng như lực lượng tình báo của chúng luôn bị dư luận cả nước cũng như quốc tế chỉ trích về việc sử dụng những hình thức tra tấn dã man, mang tính chất ép cung khi tra khảo những người mà chúng tình nghi. Theo lời K. Barton Osborn, một sĩ quan tình báo của Quân đội Mỹ tham gia vào chiến dịch, các hình thức tra tấn thường được sử dụng khi ép cung bao gồm đóng đinh vào tai, trích điện vào chỗ kín,. và nhiều hình thức dã man khác. Trong suốt 18 tháng viên sĩ quan này tham gia chiến dịch, anh ta không thấy bất cứ ai sống sót sau quá trình bị hỏi cung. Thậm chí, từng có thông tin phía CIA trao thưởng tới 11.000 USD cho mỗi cán bộ nằm vùng bị bắt sống, một nửa số đó cho mỗi cán bộ nằm vùng của ta bị giết hại. Chính vì việc treo giải "săn đầu người" này mà rất nhiều người dân thường vô tội đã phải chết một cách oan uổng chỉ để lực lượng thi hành chiến dịch "vơ tiền đầy túi". Chưa hết, phía CIA thậm chí còn đưa ra "chỉ tiêu" (quota) cho mỗi địa phương ở miền Nam Việt Nam. Theo đó, dựa vào xác định phần trăm lực lượng cán bộ, du kích địa phương nằm vùng, phía CIA sẽ đưa ra một số lượng nhất định tùy thuộc vào từng địa phương và nhiệm vụ của lực lượng Quân đội Sài Gòn đóng tại địa phương đó là phải "gom đủ" số lượng đã được CIA giao từ trước. Ảnh: Người già và trẻ em cũng là nạn nhân thường xuyên của chiến dịch Phụng Hoàng. Kết quả của chiến dịch Phụng Hoàng qua các năm được phía CIA đánh giá rất khả quan, tuy nhiên trong mắt người dân miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, điều này không làm họ an toàn hơn mà dường như chiến dịch Phụng Hoàng đã "mang chiến tranh tới tận căn bếp mỗi nhà". Xét về mặt chiến lược, từ sau chiến dịch Mậu Thân 1968, lực lượng nằm vùng của ta đã gần như bị bại lộ gần hết và đã rút lui về những chiến khu kháng chiến, ít còn nằm vùng trong dân. Vậy nên, chiến dịch Phụng Hoàng dù không có bất cứ thống kê chi tiết nào nhưng rõ ràng đã giết hại rất nhiều đồng bào ta. Đây là một tội ác dã man của Mỹ Ngụy mà tới tận ngày nay, chúng ta vẫn chưa thể biết hết được chiến dịch này dã man tới nhường nào. Đây là một chiến dịch tình báo, ám sát, bắt cóc, tra tấn và thủ tiêu nhằm vào các cán bộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Mặc dù vậy, Mỹ và tay sai lại tra tấn và giết hại dã man rất nhiều đồng bào ta cho dù họ chỉ là dân thường. Ban đầu, chiến dịch này do lực lượng tình báo Mỹ và tình báo Sài Gòn thực hiện. Tuy nhiên, vì sự leo thang của cuộc Chiến tranh Việt Nam mà quy mô của chiến dịch Phụng Hoàng đã phải mở rộng ra và được thực hiện bằng mọi lực lượng quân sự mà Mỹ có trong tay. Điều này đồng nghĩa với việc, từ một chiến dịch tình báo, chiến dịch Phụng Hoàng đã biến tướng trở thành một chiến dịch quân sự. Với sự tham gia của quân đội Mỹ, và quân đội Sài Gòn, hai lực lượng này đã tiến hành nhiều cuộc càn quét, bắt bớ rất vô lý nhắm vào người dân thường vô tội. Do Quân đội Mỹ có rất ít cơ sở tình báo trong dân và lực lượng Quân đội Sài Gòn cũng vậy nên thông tin tình báo của họ phần lớn là thiếu chính xác và thậm chí là mâu thuẫn nhau. Cách hành xử của các lực lượng này cũng hoàn toàn khác, thay vì chỉ bắt bớ, tra khảo và ám sát thủ tiêu, họ sẵn sàng đốt phá cả một ngôi làng, bắt giữ và tra khảo từ trẻ em tới người già chỉ vì "nghi" có cán bộ ta nằm vùng. Chỉ tính riêng trong năm 1970, năm cao điểm nhất của chiến dịch Phụng Hoàng đã có tới 8119 đồng bào ta bị Mỹ và đồng minh giết hại trong các vụ bắt bớ, ám sát liên quan tới chiến dịch này. Được coi là một phần trong chiến lược "Việt Nam hóa Chiến tranh", chiến dịch Phụng Hoàng đã đưa dân tộc Việt Nam vào cảnh "nồi da xáo thịt" khi sử dụng chính Quân đội Sài Gòn để bắt bớ, giết hại người dân và phá hoại làng mạc.
Chiến dịch Phụng Hoàng
Chiến dịch/Kế hoạch/Chương trình Phụng Hoàng/Phượng Hoàng (tiếng Anh: Phoenix Program) (1968-1975) là chiến dịch tình báo, ám sát bí mật trong Chiến tranh Việt Nam được tiến hành bởi Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo Việt Nam Cộng hòa (CIO) với sự phối hợp của Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA). Chương trình này được hoạch định với mục đích phát hiện và "vô hiệu hóa" – bắt giam, chiêu hàng, giết, hoặc kiềm chế – các cán bộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (MTGP) nằm vùng, những người tuyển dụng và đào tạo cơ sở cho quân Giải phóng tại các xã ấp Miền Nam Việt Nam, cũng đồng thời là những người hỗ trợ các nỗ lực đấu tranh vũ trang. Đầu tiên, chương trình được chỉ đạo bởi Evan J. Parker, sau đó bởi Ted Shackley cùng các cấp phó Thomas Clines, Donald Gregg và Richard Secord. Tuy ban đầu chương trình được CIA khởi xướng, nhưng sau đó nó được chuyển giao cho Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Khi trở thành một phần của chương trình "Việt Nam hóa chiến tranh", chiến dịch này được chuyển thành một chương trình của Quân lực Việt Nam Cộng hòa với sự hỗ trợ của cố vấn quân sự Mỹ.
Một cuộc tranh luận được cho là một cuộc bất đồng dân sự giữa các cá nhân sử dụng các dữ kiện về chủ đề để hỗ trợ các quan điểm được đưa ra trong cuộc tranh luận. Hãy đối mặt với nó. Nhiều khi các cuộc tranh luận hoàn toàn không mang tính dân sự và có thể dẫn đến những trận đấu la hét và tấn công cá nhân dẫn đến cảm giác bị tổn thương và oán giận. Điều quan trọng là phải giữ bình tĩnh, điềm tĩnh và thu thập khi tranh luận về ai đó về một chủ đề như sự tiến hóa vì nó chắc chắn sẽ xung đột với niềm tin và đức tin của ai đó. Tuy nhiên, nếu bạn bám sát sự kiện và bằng chứng khoa học, chắc chắn người chiến thắng trong cuộc tranh luận sẽ không còn nghi ngờ gì nữa. Nó có thể không làm đối thủ của bạn thay đổi suy nghĩ của bạn, nhưng hy vọng, nó sẽ mở ra cho họ và khán giả, ít nhất là nghe bằng chứng và ngưỡng mộ phong cách tranh luận dân sự của bạn. Cho dù bạn được chỉ định là phe ủng hộ sự tiến hóa trong một cuộc tranh luận ở trường hay bạn đang nói chuyện với một người mà bạn biết tại một buổi họp mặt, những mẹo sau đây sẽ giúp bạn chiến thắng trong cuộc tranh luận về chủ đề này bất cứ lúc nào. Điều đầu tiên mà bất kỳ nhà tranh luận giỏi nào cũng sẽ làm là nghiên cứu chủ đề. Bắt đầu với định nghĩa của sự tiến hóa . Tiến hóa được định nghĩa là sự thay đổi của các loài theo thời gian. Bạn sẽ khó gặp phải bất kỳ ai không đồng ý rằng các loài thay đổi theo thời gian. Chúng ta luôn thấy điều đó khi vi khuẩn trở nên kháng thuốc và chiều cao trung bình của con người đã cao hơn nhiều như thế nào trong một trăm năm qua. Rất khó để phản bác lại quan điểm này. Biết nhiều về chọn lọc tự nhiên cũng là một công cụ tuyệt vời. Đây là một lời giải thích hợp lý về cách thức tiến hóa xảy ra và có rất nhiều bằng chứng chứng minh cho điều đó. Chỉ những cá thể của một loài thích nghi tốt với môi trường của chúng mới sống sót. Một ví dụ có thể được sử dụng trong một cuộc tranh luận là làm thế nào côn trùng có thể miễn nhiễm với thuốc trừ sâu. Nếu ai đó phun thuốc trừ sâu lên một khu vực với hy vọng đuổi côn trùng, chỉ những côn trùng có gen giúp chúng miễn dịch với thuốc trừ sâu mới tồn tại đủ lâu để sinh sản. Điều đó có nghĩa là con cái của chúng cũng sẽ miễn dịch với thuốc trừ sâu và cuối cùng, toàn bộ quần thể côn trùng đều miễn dịch với thuốc trừ sâu. Trong khi những vấn đề cơ bản của quá trình tiến hóa rất khó để tranh cãi, hầu hết tất cả các quan điểm phản tiến hóa đều tập trung vào sự tiến hóa của con người. Nếu đây là một cuộc tranh luận được chỉ định dành cho trường học, hãy đảm bảo các quy tắc được đặt ra trước thời hạn về chủ đề chính. Giáo viên của bạn muốn bạn chỉ tranh luận về sự tiến hóa của con người hay tất cả sự tiến hóa đều bao gồm?. Bạn vẫn sẽ cần hiểu những điều cơ bản về sự tiến hóa và có thể sử dụng các ví dụ khác, nhưng hãy đảm bảo rằng lập luận chính của bạn là về sự tiến hóa của loài người nếu đó là chủ đề. Nếu tất cả sự tiến hóa đều có thể chấp nhận được đối với cuộc tranh luận, hãy cố gắng hạn chế đề cập đến sự tiến hóa của loài người vì đó là “chủ đề nóng” khiến khán giả, giám khảo và đối thủ nổi gai ốc. Điều đó không có nghĩa là bạn không thể ủng hộ sự tiến hóa của con người hoặc đưa ra bằng chứng cho nó như là một phần của lập luận, nhưng bạn có nhiều khả năng chiến thắng hơn nếu bạn kiên định với những điều cơ bản và sự thật mà người khác khó tranh cãi. Hầu như tất cả những người tranh luận về phe chống tiến hóa sẽ đi thẳng vào lập luận về sự tiến hóa của con người. Hầu hết các cuộc tranh luận của họ có thể sẽ được xây dựng xung quanh đức tin và các ý tưởng tôn giáo, hy vọng sẽ đánh bại cảm xúc và niềm tin cá nhân của mọi người. Mặc dù điều này có thể xảy ra trong một cuộc tranh luận cá nhân và rất có thể được chấp nhận trong một cuộc tranh luận ở trường học, nhưng nó không được hỗ trợ bởi các sự kiện khoa học như sự tiến hóa. Các cuộc tranh luận có tổ chức có các vòng phản bác cụ thể mà bạn phải lường trước các lập luận của phía bên kia để chuẩn bị. Gần như chắc chắn phe chống tiến hóa sẽ sử dụng Kinh thánh hoặc các văn bản tôn giáo khác làm tài liệu tham khảo của họ. Điều này có nghĩa là bạn cũng sẽ phải quen thuộc với Kinh Thánh để chỉ ra các vấn đề với lập luận của họ. Hầu hết những lời ngụy biện chống tiến hóa đều xuất phát từ Cựu Ước và câu chuyện về Sự Sáng Tạo. Các giải thích theo nghĩa đen của Kinh thánh sẽ đặt Trái đất vào khoảng 6000 năm tuổi. Điều này dễ dàng bị bác bỏ với hồ sơ hóa thạch . Chúng tôi đã tìm thấy một số hóa thạch và đá trên Trái đất có tuổi đời vài triệu và thậm chí hàng tỷ năm. Điều này đã được chứng minh bằng kỹ thuật khoa học xác định niên đại bằng bức xạcủa các hóa thạch và đá. Những người phản đối có thể cố gắng thách thức tính hợp lệ của các kỹ thuật này, vì vậy, một lần nữa điều quan trọng là phải hiểu kỹ lưỡng cách chúng hoạt động một cách khoa học để sự phản bác của họ là vô hiệu. Các tôn giáo khác ngoài Cơ đốc giáo và Do Thái giáo có những câu chuyện Sáng tạo của riêng họ. Tùy thuộc vào loại tranh luận, có thể là ý kiến hay khi tra cứu một vài trong số các tôn giáo “phổ biến” hơn và xem chúng được giải thích như thế nào. Nếu vì lý do nào đó, họ đưa ra một bài báo “khoa học” khẳng định sự tiến hóa là sai, thì con đường tấn công tốt nhất là làm mất uy tín của cái gọi là tạp chí “khoa học” này. Rất có thể, đó là một loại tạp chí mà bất cứ ai cũng có thể xuất bản bất cứ thứ gì nếu họ trả tiền, hoặc nó được đưa ra bởi một tổ chức tôn giáo với một chương trình nghị sự. Mặc dù sẽ không thể chứng minh được điều trên trong khi tranh luận, nhưng có thể thông minh nếu tìm kiếm trên internet một số loại tạp chí “phổ biến” mà họ có thể tìm thấy để làm mất uy tín của họ. Chỉ cần biết rằng không có tạp chí khoa học hợp pháp nào in một bài báo phản tiến hóa bởi vì tiến hóa là một sự thật được chấp nhận trong cộng đồng khoa học. Không có nghi ngờ gì rằng nếu phe đối lập tập trung cuộc tranh luận của họ xung quanh ý tưởng về sự tiến hóa của con người rằng bạn sẽ phải đối mặt với "liên kết bị thiếu". Có một số cách để tiếp cận lập luận này. Trước hết, có hai giả thuyết được chấp nhận khác nhau về tốc độ tiến hóa . Chủ nghĩa dần dần là sự tích lũy chậm của sự thích nghi theo thời gian. Đây là cách được biết đến nhiều nhất và thường được sử dụng bởi cả hai bên. Nếu có sự tích lũy chậm của sự thích nghi theo thời gian, cần có các dạng trung gian của tất cả các loài có thể được tìm thấy ở dạng hóa thạch. Đây là nơi xuất phát ý tưởng "thiếu liên kết". Ý tưởng khác về tốc độ tiến hóa được gọi là trạng thái cân bằng ngắt quãng và nó loại bỏ sự cần thiết của việc có một “liên kết bị thiếu”. Giả thuyết này nói rằng các loài giữ nguyên trạng thái trong thời gian rất dài và sau đó có nhiều sự thích nghi nhanh chóng khiến toàn bộ loài thay đổi. Điều này có nghĩa là không có bất kỳ chất trung gian nào được tìm thấy và do đó không có liên kết nào bị thiếu. Một cách khác để lập luận về ý tưởng "liên kết bị thiếu" là chỉ ra rằng không phải mọi cá thể từng sống đều trở thành hóa thạch. Hóa thạch thực sự là một điều rất khó xảy ra một cách tự nhiên và nó chỉ cần những điều kiện thích hợp để tạo ra một hóa thạch có thể được tìm thấy vào thời điểm hàng nghìn hoặc hàng triệu năm sau. Khu vực này cần phải ẩm ướt và có bùn hoặc các trầm tích khác mà cá thể có thể được chôn nhanh chóng sau khi chết. Sau đó, cần một lượng áp lực rất lớn để tạo ra đá xung quanh hóa thạch. Rất ít cá thể thực sự trở thành hóa thạch có thể được tìm thấy. Ngay cả khi "liên kết bị thiếu" đó có thể trở thành hóa thạch, thì rất có thể nó vẫn chưa được tìm thấy. Các nhà khảo cổ và các nhà khoa học khác đang hàng ngày tìm thấy các hóa thạch khác nhau của các loài mới và chưa được phát hiện trước đây. Rất có thể họ vẫn chưa tìm đúng chỗ để tìm thấy hóa thạch "bị mất liên kết" đó. Ngay cả trên và ngoài dự đoán các lập luận chống lại sự tiến hóa, biết một số quan niệm sai lầm phổ biến và lập luận của phe chống tiến hóa là cấp thiết. Một lập luận phổ biến là "sự tiến hóa chỉ là một lý thuyết." Đó hoàn toàn là một tuyên bố đúng, nhưng nó là sai lầm tốt nhất. Tiến hóa LÀ một lý thuyết. Đó là một lý thuyết khoa học. Đây là lúc mà đối thủ của bạn bắt đầu thua trong tranh luận. Hiểu được sự khác biệt giữa lý thuyết khoa học và cách sử dụng ngôn ngữ thông thường hàng ngày của lý thuyết thuật ngữ là chìa khóa để chiến thắng trong lập luận này. Trong khoa học, một ý tưởng không thay đổi từ giả thuyết thành lý thuyết cho đến khi có một loạt bằng chứng để chứng minh cho nó. Một lý thuyết khoa học về cơ bản là một thực tế. Các lý thuyết khoa học khác bao gồm lực hấp dẫn và Lý thuyết tế bào. Dường như không ai đặt câu hỏi về tính hợp lệ của những điều đó, vì vậy nếu sự tiến hóa ngang hàng với bằng chứng và khả năng chấp nhận trong cộng đồng khoa học, thì tại sao nó vẫn còn được tranh cãi?. Từ hóa học đến lập trình máy tính, nghệ thuật cho đến Thế chiến II, Chúng tôi cung cấp hướng dẫn, mẹo và tài nguyên để giúp bạn hiểu thêm về thế giới xung quanh chúng ta.
Các cuộc chống đối thuyết tiến hóa
Các cuộc chống đối thuyết tiến hóa bắt đầu kể từ khi các ý tưởng về sự tiến hóa gây được sự chú ý vào thế kỷ 19. Ban đầu, vào năm 1859, khi Charles Darwin phát hành cuốn sách Nguồn gốc muôn loài, học thuyết tiến hóa dựa trên chọn lọc tự nhiên của ông bị cho là trái ngược với các học thuyết khoa học khác, nhưng sau đó nó lại được công nhận rộng rãi bởi cộng đồng khoa học. Trong suốt gần một thế kỷ, các nhà sinh học không bất đồng khi quan sát các quá trình tiến hóa đang diễn ra cũng như là về học thuyết tiến hóa hiện đại. Từ đó về sau, hầu như mọi chỉ trích về thuyết tiến hóa đều có nguồn gốc từ tôn giáo hơn là từ cộng đồng khoa học. Mặc dù đã có nhiều tôn giáo thừa nhận sự tồn tại của tiến hóa chẳng hạn như ủng hộ thuyết tiến hóa tạo bởi đấng sáng tạo, vẫn có các tín ngưỡng khác bác bỏ cách giải thích về sự tiến hóa mà thay vào đó là ủng hộ thuyết sáng tạo, một thuyết cho rằng có một vị thần siêu nhiên đã tạo dựng toàn bộ thế giới hiện tại.
Sau
Sikh giáo
Sikh giáo (; tiếng Punjab: ਸਿੱਖੀ, Sikkhī) hay Tích-khắc giáo hay Sích giáo theo phiên âm Hán Việt, cũng gọi là đạo Sikh, đạo Sích do Guru Nanak sáng lập vào thế kỷ 15 tại vùng Punjab, truyền dạy những giáo lý của Guru Nanak (người lập đạo và cũng là guru đầu tiên) và 10 vị guru khác truyền lại (người cuối cùng thành thánh trong Guru Granth Sahib). Những khai thị của Guru Nanak và các Guru tiếp theo (cùng với những Thánh Hindu hiện đại và các vị Thánh Hồi giáo khác), được Guru viết thành những câu thơ trong kinh thánh của đạo Sikh, Guru Granth Sahib. Các tín đồ của đạo Sikh (gọi là người Sikh) coi Guru Granth Sahib là lời trực tiếp của Thượng đế: thực vậy, trong rất nhiều các câu thơ, Guru Nanak đã tuyên bố tương tự như vậy (Khi Ngôi Lời từ Chúa tới tôi, Oh Lalo, vì vậy tôi đã thuật lại lời này, Guru Nanak, trang 722 của Guru Granth Sahib). Không giống như kinh thánh của các tôn giáo lớn khác trên thế giới, nói chung là được các tín đồ của tôn giáo biên soạn ra chứ không phải bởi các vị tiên tri; các câu trong Guru Granth Sahib được viết theo thể thơ bắt chước các raga cổ điển khác nhau, được Sikh Guru tự mình sáng tác, một khía cạnh mà đã được các nhà sử học và học giả nhấn mạnh trong khi thảo luận về tính xác thực của những lời giảng của các tiên tri khác nhau của thế giới mà chúng ta đã biết ngày nay.
Máy thở nhân tạo (thường được gọi là máy thở), là thiết bị giữ cho phổi hoạt động khi bệnh nhân được gây mê hoàn toàn trong các cuộc phẫu thuật. Đây cũng là thiết bị cần thiết cho những bệnh nhân bị nhiễm trùng đường hô hấp nghiêm trọng gây khó thở. Máy thở có thể cung cấp khí oxy đến phổi và giúp giảm nồng độ CO2, điều hòa không khí ra vào trong phổi bằng cách đưa một ống dẫn khí vào miệng hoặc mũi bệnh nhân rồi sau đó đưa xuống vùng khí quản. Bằng cách điều chỉnh thiết lập (tăng áp suất, lượng khí hoặc luồng khí từ máy thở), các bác sĩ có thể đồng bộ luồng khí từ máy thở với tốc độ bệnh nhân thở thông thường, giúp họ thở tốt hơn. Máy thở được sử dụng trong trường hợp người bệnh mắc các loại bệnh như viêm phổi, làm suy yếu chức năng phổi để thay thế chức năng của phổi khi bộ phận này không hoạt động trong thời gian ngắn. Thời gian một người bệnh phải thở bằng máy tùy thuộc vào tình trạng bệnh của họ, có thể dao động từ vài giờ đến vài tuần. Đối với những bệnh nhân bị suy hô hấp, họ phải gắn bó với máy thở trong nhiều năm. Dịch bệnh Covid-19 có thể gây ra hội chứng suy hô hấp cấp tính, dẫn đến tổn thương phổi và khiến bệnh nhân khó thở. Vì vậy, bệnh nhân nhiễm Covid-19 cần sử dụng đến máy thở.
Máy thở
Máy thở cũng gọi là máy trợ thở hay máy hô hấp là một bộ máy cơ khí cung cấp hơi thở cho bệnh nhân bằng cách đưa không khí ra vào hai buồng phổi, hỗ trợ cho người có hơi thở quá yếu hoặc không có khả năng thở được. Máy hô hấp ngày nay thường là loại vi điều khiển máy tính hoá, nhưng bệnh nhân cũng có thể được thở máy bằng một mặt nạ túi van đơn giản, vận hành bằng tay. Máy thở được sử dụng chủ yếu trong chăm sóc đặc biệt, chăm sóc tại nhà và cấp cứu (như đơn vị độc lập) và trong gây mê (như thành phần của một máy gây mê).
Nhiên liệu hóa thạch là một dạng năng lượng đã được phát triển và sử dụng phổ biến trong hàng ngàn năm nay. Nó đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong công nghiệp cũng như toàn bộ quá trình phát triển của xã hội. Vậy nhiên liệu hóa thạch là gì? Tác hại của nó đối với môi trường xã hội và con người như thế nào? Tương lai của nhiên liệu hóa thạch ra sao sẽ được chúng tôi trả lời qua bài viết dưới đây. Như đã đề cập ở trên, sự khác biệt quan trọng giữa năng lượng tái tạo và nhiên liệu hóa thạch là chúng có thể tồn tại trong bao lâu. Vì năng lượng tái tạo được khai thác từ các quá trình tự nhiên vô tận, nên năng lượng này có thể được sử dụng hết lần này đến lần khác mà không bị cạn kiệt. Năng lượng tái tạo bao gồm:. Lưu ý rằng một số nguồn sinh khối, đặc biệt là gỗ, thực sự thải ra nhiều CO2 hơn trong quá trình đốt cháy so với than đá. Tuy nhiên, nó vẫn được coi là một nguồn năng lượng tái tạo vì cây có thể được trồng lại để thay thế những gì đã mất, nó không thể được dán nhãn là ‘sạch’. Mặt khác, nhiên liệu hóa thạch bổ sung một cách tự nhiên theo thời gian, nhưng điều này mất hàng triệu năm. Đôi khi, khí tự nhiên được mô tả là một nguồn điện ‘sạch’ vì nó cháy sạch hơn than, tuy nhiên, nó vẫn thải ra một số CO2 trong quá trình đốt cháy, vì vậy điều này không hoàn toàn đúng – nó chỉ sạch so với một thứ như than đá. Như đã biết, quá trình hô hấp của con người và các loài vật liên tục tiêu thụ một lượng lớn oxy và thải ra CO2 trong bầu khí quyển. Bên cạnh đó, quá trình đốt nhiên liệu hóa thạch và sinh năng lượng cũng đòi hỏi cần có oxy để duy trì sự cháy. Vì vậy, không quá khi nói rằng oxy là một dưỡng khí không thể thiếu để duy trì sự sống trên Trái Đất. Đốt nhiên liệu hóa thạch tạo ra các axít như sulfuric, cacbonic và nitric,… Các chất này có nhiều khả năng tạo thành mưa axít và ảnh hưởng đến các vùng tự nhiên và hủy hoại môi trường. Các tượng điêu khắc làm bằng cẩm thạch và đá vôi cũng phần nào bị phá hủy do axít hòa tan cacbonat canxi. Năng lượng hóa thạch cũng chứa các chất phóng xạ chủ yếu như urani và thori,… chúng được phóng thích vào không khí. Năm 2000, có khoảng 12.000 tấn thori và 5.000 tấn urani đã bị thải ra từ việc đốt than. Bốt than cũng tạo ra một lượng lớn xỉ và tro bay. Do đó, đây cũng là một trong các nguyên nhân gây ô nhiễm không khí ngày càng nặng nề. Các nhà máy lọc dầu cũng có những tác động tiêu cực đến môi trường nước. Đặc biệt là việc khai thác dầu ở môi trường biển. Dầu thô được vận chuyển bằng các tàu chở dầu. Các hoạt động này đòi hỏi phải đốt nhiên liệu hóa thạch truyền thống. Đặc biệt, có rất nhiều trường hợp tàu chìm gây hiện tượng tràn dầu. Ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường biển và các sinh vật thủy sinh. Ngoài ra, việc khai thác dầu trên cạn cũng làm ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường. Việc khai thác dầu sẽ tác động trực tiếp tới nước mặt và cả hệ thống nguồn nước ngầm. Nếu nguồn nước bị nhiễm dầu sẽ gây những tác hại và ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người sử dụng. Theo đó, nhờ công nghệ hiện đại hiện nay. Có rất nhiều các loại máy lọc nước ra đời. Nhằm phục phục vụ và đảm bảo sức khỏe người dân. Trong đó, nổi bật nhất là các loại dầu như dầu diezen, styren,…. Khi tiếp xúc với dầu trong thời gian ngắn, cơ thể con người có thể có các phản ứng dễ nhận thấy. Như bị kích ứng da, mắt và mũi. Đây là các cơ quan tiếp xúc trực tiếp khi dầu ở trong không khí hoặc nước sinh hoạt. Ngoài ra, nó có thể ảnh hưởng không tốt cho hệ hô hấp, hệ tiêu hóa. Thậm chí là gây tổn thương hệ thần kinh. Chính vì thế, các nhà nghiên cứu hiện nay đã phát minh ra những công nghệ lọc nước Nano. Đây là dòng máy lọc nước với những công nghệ hiện đại. Giúp lọc sạch các cặn bẩn, kim loại nặng cũng như các loại dầu có trong nước. Năng lượng mặt trời và năng lượng gió ngày càng trở nên phổ biến và có thể sớm trở thành nguồn điện tiêu chuẩn. Miễn là công nghệ năng lượng tái tạo không ngừng cải tiến để tăng hiệu quả và độ tin cậy của loại năng lượng này, không có lý do gì năng lượng tái tạo không thể thay thế nhiên liệu hóa thạch. Khi ngành công nghiệp nhận thức rõ hơn về các vấn đề môi trường và khi các tập đoàn lớn bắt đầu đầu tư nhiều hơn vào năng lượng tái tạo, giá sẽ giảm hơn nữa để người tiêu dùng năng lượng trên toàn thế giới dễ tiếp cận hơn. Phong điện – đây là một nguồn năng lượng sạch, nơi động năng từ gió được chuyển đổi thành năng lượng cơ học bằng cách sử dụng tuabin gió. Giá điện gió là từ 0,07 đến 0,15 cent / kWh. Tua bin có nhiều kích cỡ khác nhau nhưng có thể đứng ở độ cao 328 feet, vì vậy chúng đòi hỏi nhiều không gian, chẳng hạn như ở vùng nước mở. Năng lượng mặt trời – một nguồn năng lượng sạch khác, các tấm pin mặt trời được sử dụng để chuyển đổi ánh sáng mặt trời thành điện năng. Điều này có thể được sử dụng trên cơ sở thương mại, với các trang trại năng lượng mặt trời lớn hoặc trên cơ sở trong nước với các tấm pin mặt trời được lắp đặt trên mái nhà của một ngôi nhà. Các tấm pin mặt trời khá kín đáo và năng lượng mặt trời có giá 0,12 cent / kWh, mặc dù các tấm pin mặt trời trong nước sẽ loại bỏ hóa đơn tiền điện, bạn sẽ chỉ cần trả chi phí trả góp ban đầu. Thủy điện – đây là nơi năng lượng điện được tạo ra khi nước chảy qua tuabin và cung cấp năng lượng cho máy phát điện. Với chi phí trung bình chỉ 0,03 cent / kWh, đây là nguồn năng lượng thay thế rẻ nhất. Phần tốt nhất về các nguồn năng lượng tái tạo này? Bạn có thể tận dụng tất cả chúng và hơn thế nữa để cung cấp năng lượng cho ngôi nhà của mình với nguồn điện sạch 100%! Nhấp vào biểu ngữ bên dưới để tìm hiểu thêm về cách cung cấp năng lượng tái tạo cho gia đình hoặc doanh nghiệp của bạn từ các nguồn năng lượng mặt trời, gió và thủy điện. Độ tin cậy của năng lượng tái tạo phụ thuộc phần lớn vào cách năng lượng được tạo ra, vị trí của nó và liệu năng lượng có thể được lưu trữ hay không. Ví dụ, năng lượng gió là không liên tục, tức là bạn không thể đảm bảo rằng nó sẽ luôn có gió, vì vậy nó có thể được coi là không đáng tin cậy theo nghĩa này. Đối với điện mặt trời cũng vậy. Tuy nhiên, năng lượng được tạo ra từ các nguồn tái tạo có thể được lưu trữ trong pin chì và công nghệ lưu trữ này đang được cải tiến mọi lúc. Nếu năng lượng tái tạo được sử dụng để đóng góp vào lưới điện, nó có thể giúp tăng cường độ tin cậy và an ninh của lưới điện do tăng tính linh hoạt. Năng lượng tái tạo có khả năng đáp ứng tốt hơn với những thay đổi trong việc sử dụng năng lượng và có một số giải pháp năng lượng tái tạo. Chúng cũng mang lại cơ hội tạo ra một hệ thống lưới điện mạnh mẽ hơn vì chúng có thể thích nghi hơn với nhiều vị trí khác nhau. Với công nghệ và giải pháp không ngừng phát triển, rất có thể độ tin cậy của năng lượng tái tạo sẽ chỉ tăng lên trong những năm tới. Theo một cuộc khảo sát do Trung tâm Nghiên cứu Pew thực hiện, 77% người Mỹ đồng ý rằng việc phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, thay thế ở Hoa Kỳ quan trọng hơn nhiều so với việc tiếp tục làm cạn kiệt nguồn dự trữ nhiên liệu hóa thạch. Với nhu cầu ngày càng tăng về năng lượng tái tạo và giá cả giảm với tốc độ ổn định, thị trường năng lượng tái tạo đang phát triển nhanh chóng. Rất may, nhiều nhà cung cấp dịch vụ tiện ích đã nhận thấy sự thay đổi này và đang nỗ lực thực hiện các bước để tận dụng tốt hơn năng lượng tái tạo, nhưng vẫn chưa loại bỏ hoàn toàn nhiên liệu hóa thạch. Mặc dù nhiên liệu hóa thạch vẫn có thể là nguồn năng lượng chính ở Mỹ và trên khắp thế giới, nhưng năng lượng tái tạo chắc chắn sẽ thống trị thị trường năng lượng trong tương lai.
Nhiên liệu hóa thạch
Nhiên liệu hóa thạch là các loại nhiên liệu được tạo thành bởi quá trình phân hủy kỵ khí của các sinh vật chết bị chôn vùi cách đây hơn 300 triệu năm. Các nguyên liệu này chứa hàm lượng cacbon và hydrocarbon cao. Các nhiên liệu hóa thạch thay đổi trong dải từ chất dễ bay hơi với tỷ số cacbon:hydro thấp như methane, dầu hỏa dạng lỏng, đến các chất không bay hơi chứa toàn là cacbon như than đá. Methane có thể được tìm thấy trong các mỏ hydrocarbon ở dạng riêng lẻ hay đi cùng với dầu hỏa hoặc ở dạng methane clathrates. Về tổng quát chúng được hình thành từ các phần còn lại của thực vật và động vật bị hóa thạch khi chịu áp suất và nhiệt độ bên trong vỏ Trái Đất hàng triệu năm. Học thuyết phát sinh sinh vật được Georg Agricola đưa ra đầu tiên vào năm 1556 và sau đó là Mikhail Lomonosov vào thế kỷ 18. Cơ quan thông tin năng lượng Hoa Kỳ (EIA) ước tính năm 2006 rằng nguồn năng lượng nguyên thủy bao gồm 36,8% dầu mỏ, than 26,6% (bao gồm than nâu và than đá), khí thiên nhiên 22,9%, chiếm 86% nhiên liệu nguyên thủy sản xuất trên thế giới.
Nằm ven bờ sông Hoài, một đô thương cảng đã từng sầm uất với cái tên Faifo nay là đô thị cổ Hội An. Trải qua năm tháng, Hội An để lại những tình cảm sâu đậm trong người dân, du khách ghé thăm. Từ đó, sáng tác. Hội An mộc mạc, giản dị và nên thơ với hàng trăm lễ hội được tổ chức thương xuyên. Hội An không chỉ nổi tiếng với những ngôi nhà cổ, những món ăn ngon mà còn có những chiếc đèn lồng lung linh. Hát bài chòi là một trong những trò chơi dân gian nổi tiêng của miên trung Việt Nam. Tuy nhiên, loại hình nghệ thuật. Nằm ven bờ sông Hoài, một đô thương cảng đã từng sầm uất với cái tên Faifo nay là đô thị cổ Hội An. Trải qua năm tháng, Hội An để lại những tình cảm sâu đậm trong người dân, du khách ghé thăm. Từ đó, sáng tác. Hội An mộc mạc, giản dị và nên thơ với hàng trăm lễ hội được tổ chức thương xuyên. Hội An không chỉ nổi tiếng với những ngôi nhà cổ, những món ăn ngon mà còn có những chiếc đèn lồng lung linh. Hát bài chòi là một trong những trò chơi dân gian nổi tiêng của miên trung Việt Nam. Tuy nhiên, loại hình nghệ thuật. Đặc sản Hội An trước nay vô cùng phong phú và đa dạng. Với nền ẩm thực độc đáo tại nơi đây, sẽ mang. Còn gì tuyệt hơn khi thưởng thức tô mì quảng ngay trên xử Quảng. Về với phố cổ Hội An với nét ẩm thực. Đã đặt chân đến phố cổ Hội An mà chưa nếm thử mùi vị món cao lầu thì mất đi sự trọn vẹn cho. Hầu như mọi miền trên đất nước ta đều có món bánh bèo. Ở phố Hội cũng vậy, du khách có thể dễ dàng. Là một trong những đặc sản ẩm thực của Hội An, cơm gà nơi đây thơm ngon với những hạt cơm vàng ươm và. Đặc sản Hội An trước nay vô cùng phong phú và đa dạng. Với nền ẩm thực độc đáo tại nơi đây, sẽ mang. Còn gì tuyệt hơn khi thưởng thức tô mì quảng ngay trên xử Quảng. Về với phố cổ Hội An với nét ẩm thực. Đã đặt chân đến phố cổ Hội An mà chưa nếm thử mùi vị món cao lầu thì mất đi sự trọn vẹn cho. Hầu như mọi miền trên đất nước ta đều có món bánh bèo. Ở phố Hội cũng vậy, du khách có thể dễ dàng. Là một trong những đặc sản ẩm thực của Hội An, cơm gà nơi đây thơm ngon với những hạt cơm vàng ươm và. Khác với sự náo nhiệt của những ngày nắng, Mùa mưa ở hội an lại vô cùng yên bình và lãng mạn mà bạn. Ngồi một góc phố cổ nhâm nhi ly cafe ngắm nhin cuộc sống hằng ngày của người dân nơi phố Hội là một trong. Rừng dừa Bảy Mẫu là một địa điểm chưa được du khách Việt biết đến nhiều tại Hội An. Nơi đây được ví như. Với vẻ đẹp trường tồn, nhà cổ Tấn Ký luôn hấp dẫn du khách khi khám phá vẻ đẹp cổ kính của phố Hội. Nếu đã đến Hội An thì bạn không thể bỏ qua bãi biển An Bàng trong xanh là một trong 25 bãi biển đẹp. Khác với sự náo nhiệt của những ngày nắng, Mùa mưa ở hội an lại vô cùng yên bình và lãng mạn mà bạn. Ngồi một góc phố cổ nhâm nhi ly cafe ngắm nhin cuộc sống hằng ngày của người dân nơi phố Hội là một trong. Rừng dừa Bảy Mẫu là một địa điểm chưa được du khách Việt biết đến nhiều tại Hội An. Nơi đây được ví như. Với vẻ đẹp trường tồn, nhà cổ Tấn Ký luôn hấp dẫn du khách khi khám phá vẻ đẹp cổ kính của phố Hội. Nếu đã đến Hội An thì bạn không thể bỏ qua bãi biển An Bàng trong xanh là một trong 25 bãi biển đẹp.
Phố cổ Hội An
Phố cổ Hội An là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía Nam. Nhờ những yếu tố địa lý và khí hậu thuận lợi, Hội An từng là một thương cảng quốc tế sầm uất, nơi gặp gỡ của những thuyền buôn Nhật Bản, Trung Quốc và phương Tây trong suốt thế kỷ XVII và XVIII. Trước thời kỳ này, nơi đây cũng từng có những dấu tích của thương cảng Chăm Pa hay được nhắc đến cùng con đường tơ lụa trên biển. Thế kỷ XIX, do giao thông đường thủy ở đây không còn thuận tiện, cảng thị Hội An dần suy thoái, nhường chỗ cho Đà Nẵng khi đó đang được người Pháp xây dựng. Hội An may mắn không bị tàn phá trong hai cuộc chiến tranh và tránh được quá trình đô thị hóa ồ ạt cuối thế kỷ 20. Bắt đầu từ thập niên 1980, những giá trị kiến trúc và văn hóa của phố cổ Hội An dần được giới học giả và cả du khách chú ý, khiến nơi đây trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn của Việt Nam.
Động cơ Stirling là một động cơ nhiệt đốt ngoài sử dụng piston. Nó được sáng chế và phát triển bởi Reverend Dr Robert Stirling năm 1816. Đây là loại động cơ nhiệt có hiệu suất cao, có thể đạt tới 50% đến 80% hiệu suất lý tưởng của chu trình nhiệt động lực học thuận nghịch (như chu trình Carnot) trong việc chuyển hóa nhiệt năng thành công năng, chỉ bị mất mát do ma sát và giới hạn của vật liệu. Nó có hiệu suất cao hơn, không gây nhiều tiếng ồn, hoạt động ổn định và bền, không cần bảo dưỡng nhiều, và có thể hoạt động với chênh lệch nhiệt độ giữa nguồn nóng và nguồn lạnh trong dải rộng từ cỡ chục độ C đến hàng nghìn độ C. Các thiết kế khác nhau của động cơ Stirling thường có một khối khí bao bọc trong buồng kín, trong đó chất khí có thể là không khí, hydro hay heli Buồng chứa chất khí có hai phần, một phần tiếp xúc với nguồn nhiệt có nhiệt độ cao, phần kia tiếp xúc với nơi có nhiệt độ thấp. Trong quá trình hoạt động, khối khí trong buồng sẽ được đẩy qua đẩy lại từ phần nóng sang phần lạnh hoặc ngược lại, nhờ vào sự di chuyển của các piston hoặc các con chạy có chức năng hoán đổi thể tích chứa khí giữa hai phần. Khối khí khi dao động qua lại giữa phần nóng và phần lạnh sẽ thực hiện công lên một piston chịu lực. Piston chịu lực sẽ vận hành bánh đà và máy móc bên ngoài, đồng thời có thể điều khiển sự di chuyển của các piston hoặc con chạy để di chuyển khối khí qua lại giữa hai phần nóng và lạnh. Trong hầu hết các thiết kế, không cần thiết có van để đóng mở dòng lưu thông của khí, do đó hệ thống cơ học khá đơn giản và có độ tin cậy cao. Một bộ phận quan trọng trong động cơ Stirling là phần giữ nhiệt, nằm trên đường di chuyển của khối khí từ phần nóng sang phần lạnh, thường làm bằng khối dây kim loại Nó có tác dụng hấp thụ nhiệt của khối khí từ phần nóng đi qua, lưu giữ nhiệt năng này, và hâm nóng khối khí đi từ phần lạnh tới. Phần này có tác dụng làm tăng đáng kể hiệu suất của động cơ, và là một chi tiết quan trọng trong sáng chế của Robert Stirling năm 1816. Trong một số thiết kế, con chạy vừa đóng vai trò đẩy khí qua lại giữa phần nóng và phần lạnh, vừa có vai trò giữ nhiệt. Hiện nay việc mua động cơ Stirling Những hướng dẫn làm động cơ stirling sẽ được đề cập trong bài viết tiếp theo.
Động cơ Stirling
Động cơ Stirling là một động cơ nhiệt đốt ngoài sử dụng piston. Nó đã được sáng chế và phát triển bởi Robert Stirling vào năm 1816. Đây là loại động cơ nhiệt có hiệu suất cao, có thể đạt tới 50% đến 80% hiệu suất lý tưởng của chu trình nhiệt động lực học thuận nghịch (như chu trình Carnot) trong việc chuyển hóa nhiệt năng thành công năng, chỉ bị mất mát do ma sát và giới hạn của vật liệu. Động cơ này cũng hoạt động được trên nhiều nguồn nhiệt, từ năng lượng Mặt Trời, phản ứng hóa học đến phản ứng hạt nhân. Động cơ Stirling có thể có giá thành cao hơn các động cơ đốt trong cùng công suất, nhưng có những đặc tính thích nghi cho nhiều ứng dụng. Nó có hiệu suất cao hơn, không gây nhiều tiếng ồn, hoạt động ổn định và bền, không cần bảo dưỡng nhiều, và có thể hoạt động với chênh lệch nhiệt độ giữa nguồn nóng và nguồn lạnh trong dải rộng từ cỡ chục độ C đến hàng nghìn độ C. Với giá thành năng lượng đang tăng những năm đầu thế kỷ 21, cùng với lo lắng về sự nóng lên của Trái Đất, các động cơ Stirling đang dần được quan tâm để đưa vào các nhà máy phát điện với năng lượng tái tạo và lĩnh vực hàng không vũ trụ.
Fifty Shades of Grey (tiếng Việt: Năm mươi sắc thái) là một bộ phim tình ái lãng mạn Anh-Mỹ năm 2015 được đạo diễn bởi Sam Taylor-Johnson với phần kịch bản được viết bởi Kelly Marcel, dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của nữ nhà văn E. L. James, kể về mối quan hệ giữa một doanh nhân tỉ phú giàu có và một cô sinh viên trẻ. Bộ phim có sự góp mặt của Dakota Johnson trong vai Anastasia Steele, một sinh viên đã tốt nghiệp cao đẳng đang bắt đầu một mối quan hệ ác dâm với tỉ phú trẻ Christian Grey (Jamie Dornan). Bộ phim được biên kịch sau thành công lớn của cuốn tiểu thuyết với doanh số 100 triệu bản và được dịch ra 52 thứ tiếng. Fifty Shades of Grey ra mắt tại Liên hoan phim quốc tế Berlin lần thứ 65 vào ngày 11 tháng 2 năm 2015, và được phát hành rộng rãi tại các rạp chiếu phim vào ngày 13 tháng 2 năm 2015 bởi Universal Pictures. Bộ phim đã ngay lập tức tạo được thành công tại các phòng vé, đồng thời phá vỡ nhiều kỉ lục phòng vé khác nhau và đã thu về tổng cộng hơn 530 triệu USD trên toàn thế giới. Hiện tại đây đang là bộ phim có doanh thu cao thứ 12 trong năm 2015. Phần tiếp theo của bộ phim được dự kiến phát hành trong tháng 2/2017. Tới đầu năm 2013, nhiều xưởng phim Hollywood đã mua được bản quyền phim cho bộ ba cuốn tiểu thuyết bán chạy của tờ New York Times, Fifty Shades. Universal Pictures và Focus Features đã có được bản quyền cho bộ phim từ tháng 3 năm 2012. Nữ nhà văn James cũng tham gia kiểm soát quá trình sáng tạo của bộ phim. Dù nhà biên kịch cho American Psycho, Bret Easton Ellis đã công khai bày tỏ mong muốn được viết phần kịch bản cho bộ phim, Kelly Marcel, người đã biên kịch cho Saving Mr. Banks, lại được thuê vào vị trí này. Patrick Marber được giới thiệu bởi Taylor-Wood cho công việc chỉnh sửa kịch bản. Universal thuê Mark Bomback cho công việc biên tập kịch bản. Mark Bridges là nhà thiết kế trang phục cho bộ phim. Entertainment Weekly ước lượng kinh phí thực hiện bộ phim vào khoảng 40 triệu USD. Tới ngày 9 tháng 5 năm 2013, xưởng phim đã suy nghĩ tới việc cho Joe Wright đảm nhận công việc đạo diễn, nhưng do lịch làm việc, anh không thể đảm nhận công việc này. Tháng 6, 2013, E. L. James công bố Sam Taylor-Johnson sẽ là nhà đạo diễn chính thức cho bộ phim chuyển thể. Vào tháng 9, công việc quay phim được dự kiến sẽ bắt đầu vào ngày 5 tháng 11 năm 2013 tại Vancouver, British Columbia. Tháng kế tiếp đó, nhà sản xuất Michael De Luca thông báo việc quay phim sẽ được thực hiện bắt đầu từ ngày 13 tháng 11 năm 2013. Việc quay phim cuối cùng lại bị trì hoãn thêm một lần nữa và cuối cùng được bắt đầu vào ngày 1 tháng 12 năm 2013. Các cảnh quay chủ yếu được thực hiện tại Gastown, Vancouver. Tòa Bentall 5 được trưng dụng làm tòa nhà Grey Enterprises. Trường Đại học British Columbia được chọn làm Washington State University Vancouver, nơi Ana tốt nghiệp. Trong khi đó khách sạn Fairmont Hotel Vancouver được chọn để mô tả khách sạn Heathman ở trong tiểu thuyết. Bộ phim ngoài ra cũng được quay tại North Shore Studios. Công việc sản xuất của bộ phim chính thức kết thúc vào ngày 21 tháng 2 năm 2014. Một số cảnh cần quay lại giữa Dornan và Johnson diễn ra tại Vancouver vào tuần lễ ngày 13 tháng 10 năm 2014. James phát biểu rằng phần nhạc của bộ phim sẽ được phát hành vào ngày 10 tháng 2 năm 2015. Đĩa đơn đầu tiên, “Earned It”, trình bày bởi The Weeknd, được phát hành vào ngày 24 tháng 12 năm 2014. Ngày 7 tháng 1 năm 2015, đĩa đơn thứ hai, “Love Me Like You Do” của Ellie Goulding, được phát hành, sau đó đĩa đã lọt vào top 3 của bảng xếp hạng Billboard Hot 100, và trở thành một bản hit của phần nhạc phim. Tới đầu tháng 3 năm 2015, album nhạc phim đã đạt tới doanh số 451,000 bản tại Mỹ. Tháng 2, 2013, chủ tịch của Universal, Adam Fogelson nói rằng bộ phim “sẽ sẵn sàng phát hành… sớm nhất là vào mùa hè kế tiếp.” Hãng phim ban đầu thông báo ngày phát hành bộ phim là 1 tháng 8 năm 2014. Tuy nhiên vào tháng 11 năm 2013, lịch chiếu phim bị đẩy lùi xuống ngày 13 tháng 2 năm 2015, vào thời điển có ngày Valentine. Fifty Shades of Grey ban đầu được công chiếu tại Liên hoan phim quốc tế Berlin lần thứ 65 vào ngày 11 tháng 2 năm 2015. Bộ phim cũng được phát hành trên 75 rạp chiếu phim IMAX xuyên suốt nước Mỹ vào ngày 13 tháng 2 năm 2015.
Vũ nữ (phim)
Burlesque (chiếu ở các rạp Việt Nam với tên gọi "Vũ nữ") là một bộ phim ca nhạc được thực hiện bởi đạo diễn Steve Antin, kịch bản viết bởi Steve Antin và Susannah Grant. Bộ phim có sự xuất hiện của hai ngôi sao ca nhạc hàng đầu Cher và Christina Aguilera trong hai vai nữ chính. Tuy đây là bộ phim điện ảnh đầu tay của Aguilera nhưng diễn xuất của cô trong phim được đánh giá khá tốt, trong khi đàn chị từng đoạt giải Oscar là Cher lại bị đề cử một giải Mâm xôi vàng. Bộ phim được khởi quay vào cuối năm 2009, và ra mắt vào ngày 24 tháng 11 năm 2010 tại các rạp ở Mỹ và Canada. Tuy bị các báo lá cải gọi là một "thất bại của Aguilera cùng với Bionic" nhưng trên thực tế đây là bộ phim khá thành công với doanh thu gần 90 triệu USD tại các rạp phim. Burlesque được đề cử giải Quả Cầu Vàng năm 2011 cho hạng mục "Phim hài/nhạc kịch xuất sắc nhất". Bài hát "Bound to You" do Christina Aguilera trình bày được đề cử cho hạng mục "Bài hát trong phim hay nhất".
Trên thế giới, người ta gọi Khúc côn cầu là Hockey, để chỉ các môn thi đấu theo đồng đội, có tính đối kháng, các cầu thủ sẽ sử dụng một cây gậy đặc chế để đưa bóng vào trong lưới của đối thủ. Tùy theo mức độ phổ biến của môn thể thao này mà sẽ có cách gọi khác nhau, nhưng ở một số quốc gia thì có nhiều loại hình khúc côn cầu khác nhau, vì thế mà cũng có nhiều tên gọi khác nhau để phân biệt trò chơi được chơi trên sân băng, hoặc sân cỏ. Nếu xét về nguồn góc thì cho đến nay vẫn chưa có tài liệu xác đáng về việc đâu là nguồn gốc và ai là người sáng tạo ra trò chơi khúc côn cầu. Tuy nhiên, nếu xét về phương diện các trò chơi trong lịch sử cổ đại, thì người ta phát hiện có nhiều quốc gia có trò chơi dùng một cây gậy có đầu cong để đánh bóng. Ở Hy Lạp, người ta tìm thấy dấu tích của trò chơi dạng này trên một bức phù điêu có từ 600 năm trước Công Nguyên – người Hy Lạp gọi đó là trò chơi kerētízein hay kerhtízein (κερητίζειν). Ở vùng Nội Mông của Trung Quốc, người dân tộc Daur có trò chơi gọi là beikou, đã được hình thành từ khoảng 1000 năm trước. Các nhà nghiên cứu còn cho hay là môn khúc côn cầu đã được đề cập trong một tài liệu, được gọi là văn bản Luật Galway – luật này được thông qua tại Ireland vào năm 1527, cấm tất cả các loại hình trò chơi liên quan đến bóng, trong đó có trò chơi sử dụng gậy. Vào thế kỷ 19, môn thể thao này có sự phát triển và phân tách thành nhiều thể thức khác nhau để phù hợp với điều kiện của các nước. Dẫn đến sự ra đời tất yếu của các tổ chức, nhằm luật hóa các quy định và quy tắc được áp dụng trong khúc côn cần. Ban đầu trò chơi này chủ yếu được chơi ngoài sân cỏ, sau đó thì vì thời tiết ở Canada và Mỹ có những tháng rất lạnh, nhiều tuyết và có băng, nên đã phân tách thêm thành khúc côn cầu trên băng. Bandy là môn thể thao được chơi trên một sân băng ngoài trời có kích thước tương đương với một sân bóng đá, với các luật lệ cũng giống như bóng đá. Tại Nga và Thụy Điển thì Bandy được coi là môn thể thao chuyên nghiệp, riêng ở Nga thì đây là môn thể thao quốc gia, cũng vì thế mà còn có người gọi Bandy là Khúc côn cầu Nga. Bandy phổ biến từ thế kỷ 19, bắt nguồn từ Anh và sau đó lan ra các nước châu Âu. Hằng năm đều có các giải đấu Bandy diễn ra đều đặn để tìm ra các nhà vô địch, và các giải đấu lớn diễn ra định kỳ như Bandy World Championship và Women’s Bandy World Championship. Khi chơi ngoài sân cỏ hoặc trên sân sỏi thì môn này được gọi là Field Hockey để phân biệt với các nhánh khác của khúc côn cầu. Đôi khi người ta cũng chơi trò này ở sân cỏ trong nhà. Yêu cầu về mặt sân khá khắt khe để đảm bảo an toàn cho người chơi và hiệu quả của trận đấu: mặt sân bằng phẳng có rải sỏi; hoặc sân cỏ tự nhiên; nếu chơi trong nhà thì sân cỏ nhân tạo có rải cát, hoặc làm ngập nước. Cơ quan điều hành của Field Hockey là Liên đoàn Khúc côn cầu Quốc tế – gọi tắt là FIH. Có các giải đấu cho các đội bóng nam và đội bóng nữ, đôi khi cũng có những giải đấu cho phép đội thi đấu có thành viên hỗn hợp nam và nữ. Thi đấu khúc côn cầu trên cỏ thì có nhiều quy định hơn, có thể nguyên do là bởi thể thức này của Hockey được ra đời đầu tiên, trong đó có nhiều quy tắc nghiêm ngặt về kích thước sân đấu, kích thước gậy, kích thước và chất liệu chế tạo bóng. Khúc côn cầu trên băng là trò chơi “sinh sau đẻ muộn” so với field hockey, lý do là bởi vì thời tiết ở Canada và Mỹ vào mùa đông thì không thích hợp để chơi ngoài trời. Do đó mà người ta chuyển sân thi đấu vào trong các sân băng trong nhà. Do đó mà các cầu thủ chơi hockey trên băng phải sử dụng giày trượt băng để di chuyển. Và thay vì dùng quả bóng thông thường thì họ sẽ dùng một quả punk – có hình dáng giống một chiếc đĩa tròn nhỏ, sản xuất từ chất liệu cao su lưu hóa, trước khi thi đấu sẽ được giữ ở nhiệt độ thấp để giảm ma sát khi thi đấu. Liên đoàn Khúc côn cầu trên băng Quốc tế, viết tắt là IIHF được thừa nhận là cơ quan điều hành cấp quốc tế của hockey trên băng. Giải đấu National Hockey League – NHL – là một trong những giải đấu lớn và chuyên nghiệp nhất thế giới. Khúc côn cầu Inline là một nhánh nhỏ hơn, được phân tách ra từ hockey trên băng, cơ quan quản lý cũng là IIHF. Cũng có hai đội thi đấu với nhau nhưng số cầu thủ có mặt trên sân ở mỗi đội sẽ giảm xuống. Trong đó, sẽ có 1 thủ môn và chỉ còn lại 4 cầu thủ, loại giày mà các cầu thủ dùng là giay patin (có gắn bánh xe ở đế giày). Sân thi đấu là sân khô ráo và họ chơi với bóng chứ không phải đĩa punk. Nói về độ tương đồng thì Quad tương đồng với Hockey Inline hơn là hockey trên băng. Vì các cầu thủ chơi Quad sẽ phải di chuyển trên giày trượt patin và sẽ di chuyển bóng. Điểm khác biệt cơ bản và về cấu tạo ở giày di chuyển của các cầu thủ. Ở inline hockey thì giày trượt có 4 bánh xe xếp thành 1 hàng dọc. Còn Quad thì cầu thủ dùng giày có 4 bánh xe được gắn thành 2 hàng ngang. Do tính chất của việc sử dụng sân băng và giày trượt băng nên các cầu thủ khi chơi môn thể thao này trên băng đều sẽ phải trang bị đầy đủ các biện pháp hạn chế chấn thương do va chạm, như các đệm bảo vệ đầu gối, bảo vệ khủy tay, mặt nạ bảo vệ mặt và mũ bảo hiểm. Khi chơi trên sân cỏ thì các cầu thủ sẽ phải tuân thủ các quy tắc để tránh phạm phải các lỗi va chạm, luật chơi trên cỏ sẽ gắt gao hơn về mặt cản bóng và va chạm giữa cầu thủ của đội tấn công và đội phòng thủ. Hầu hết các thể thức hockey đều không chấp nhận gậy đánh bóng dành cho người thuận tay trái. Nếu cầu thủ muốn thực hiện một cú đánh thuận tay thì bắt buộc phải xoay mặt gậy lại để đánh. Hầu hết các thể thức hockey đều có giải đấu dành cho các cầu thủ ở mọi lứa tuổi, nhưng phổ biến nhất đối với các cầu thủ trẻ tuổi là hockey trên băng. Sân được dùng để thi đấu inline hoặc quad hockey phải được đảm bảo khô ráo, để đảm bảo các cầu thủ khi di chuyển bằng giày patin sẽ không bị trượt. Như vậy là bạn đã có một kiến thức tổng quát về môn thể thao này. Đây là một môn thể thao hấp dẫn, đòi hỏi các cầu thủ phải có tinh thần đồng đội tốt và sức bền đủ để chịu được áp lực của trận đấu. Nếu bạn có hứng thú với bất kỳ một thể thức nào của hockey, thì đừng ngại mà hãy tìm hiểu thử nhé, biết đâu bạn sẽ sớm yêu thích môn thể thao này. Link vào nhà cái uy tín bk8 để thể hiện trình độ chơi các môn thể thao. Được quy định và cấp phép bởi Chính phủ Curacao và hoạt động theo Giấy phép chính của Nhà cung cấp dịch vụ trò chơi, N.V. 365 / JAZ
Khúc côn cầu trên cỏ
Khúc côn cầu trên cỏ hay hockey trên cỏ (tiếng Anh: field hockey) là một môn thể thao đồng đội thuộc họ khúc côn cầu. Nguồn gốc đầu tiên của môn thể thao này có niên đại từ thời Trung cổ ở Scotland, Hà Lan, và Anh. Các trò chơi có thể được chơi trên một sân cỏ tự nhiên hoặc một sân cỏ nhân tạo trong nhà. Mỗi đội chơi với mười một người bao gồm cả thủ môn. Người chơi sử dụng gậy làm bằng gỗ hoặc sợi thủy tinh để đánh một quả bóng hình tròn, cứng, giống cao su. Chiều dài của gậy phụ thuộc vào chiều cao của từng người chơi. Không có gậy tay trái ở khúc côn cầu, và chỉ có một bên của gậy được phép sử dụng. Đồng phục bao gồm bảo vệ ống chân, giày thể thao, váy hoặc quần short và áo. Vào đầu thế kỷ 21, trò chơi này phổ biến trên toàn thế giới, đặc biệt nổi tiếng khắp Tây Âu, tiểu lục địa Ấn Độ, Úc, New Zealand, miền Nam và Đông bắc Hoa Kỳ (như Mississippi, Alabama, Florida, Kentucky, Massachusetts và Pennsylvania), Argentina và Nam châu Phi.
Hậu cần vốn là một khái niệm vô cùng quen thuộc được sử dụng nhiều trong cuộc sống hàng ngày, chính vì vậy đa phần chúng ta nghĩ sẽ rất dễ dàng để hiểu bản mô tả công việc nhân viên hậu cần. Vậy thực chất, việc hiểu về các công việc của nghề này có đơn giản như bạn đang nghĩ hay không?. Cùng Bích Phượng đọc bài viết này và tìm kiếm câu trả lời Nhân viên hậu cần họ làm những công việc gì nhé. Trước khi tìm kiếm đúng bản mô tả công việc của nghề hậu cần thì chúng ta sẽ phải hiểu đúng về nghề hậu cần. Từ câu chuyện bất cứ ai cũng có thể hiểu về nghề hậu cần một cách đơn giản nhưng lại không chắc chắn nghề hậu cần mà Phượng đang nhắc tới có giống với những gì mọi người đang nghĩ tới hay không thì chứng tỏ rằng khái niệm này có phạm vi vô cùng rộng lớn. Trong thực tế, rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực có sử dụng chung thuật ngữ hậu cần tuy nhiên phải đi vào cụ thể từng ngành nghề, lĩnh vực đó chúng ta mới phân biệt được các chức năng công việc. Ví thử như việc làm hậu cần trong doanh nghiệp sẽ khác hoàn toàn với các công việc của hậu cần trong nghề công an. Hoặc công việc hậu cần trong nhà nước khác với các công việc hậu cần tại những dơn vị tư nhân. Vì thế, rất cần thiết để hiểu rõ về giá trị của nghề hậu cần và cách biểu thị của thuật ngữ này trong từng lĩnh vực. Hiểu chi tiết về nghề hậu cần là căn cứ để bạn xác định bản mô tả công việc chi tiết và chính xác. Vậy nhân viên hậu cần là gì?. Trong tiếng Anh, hậu cần được viết là Logistics, nói tới đây chắc chắn bạn đã có định hướng đến lĩnh vực nào rồi đúng không? Đừng vội, hãy đọc tiếp nhé. Xét riêng Logistics, đó là một lĩnh vực thuộc khoa học có nhiệm vụ, chức năng nghiên cứu quy luật của mọi hoạt động cung ứng, từ đó đảm bảo được các yếu tố về vật chất, kỹ thuật, về tổ chức,… giúp cho quá trình diễn ra thuận lợi và đi đến được mục tiêu. Logistics được coi là một nhánh trong quá trình tạo hệ thống, hệ thống này có liên quan tới quan người nhiều hơn máy móc. Do đó, nguồn lực trong logistics tập trung chủ yếu vào yếu tố con người. Khi đó, con người đứng trong ba vai trò cụ thể, vừa là đối tượng, là công cụ tác động và đồng thời cũng là chủ thể của quá trình. Trong ngôn ngữ, hậu cần dùng để chỉ việc đứng sau, ở phía sau. Mở rộng hơn, hậu cần sẽ là tất cả mọi quy trình, công đoạn người bên ngoài không thể nhìn thấy trước khi sản phẩm, dịch vụ ra đời. Ví dụ như người hậu cần của một ban nhạc nào đó sẽ có nhiệm vụ chăm lo toàn bộ yếu tố bao gồm ánh sáng, kỹ thuật, âm thanh, trang phục cho nghệ sĩ trước khi lên sân khấu biểu diễn. Người hậu cần phục cụ trong quân đội thì sẽ chăm lo chu đáo việc ăn ngủ, mặc của những quân nhân. Đặc điểm của công tác hậu cần đó là chuẩn bị đúng số lượng ở đúng thời điểm với việc sử dụng mức chi phí hợp lý. Có thể bày ra trước mắt bạn chỉ một sản phẩm như vậy đấy và bạn cho rằng sản phẩm đó chỉ thuộc một lĩnh vực mà thôi, nhưng đằng sau đó, nhân viên hậu cần sẽ phải phối hợp toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của sản xuất lại với nhau để đem đến một kết quả cuối cùng hoàn hảo nhất. Với giá trị ý nghĩa thể hiện khá rộng cho nên sẽ không có một bản mô tả công việc hậu cần nào khái quát chung được toàn bộ nhiệm vụ của nghề hậu cần. Bởi thế mà chúng ta sẽ chỉ có thể tìm hiểu riêng biệt hậu cần trong từng lĩnh vực cụ thể. Tại bài viết này, Phượng mạn phép được bàn luận sâu hơn về nghề hậu cần trong lĩnh vực kinh tế. Những thông tin bên dưới cũng sẽ cung cấp cho bạn quan tâm bản mô tả công việc nhân viên hậu cần trong các lĩnh vực kinh tế. Rõ ràng, qua nội dung trên chúng ta đã hiểu rõ công việc hậu cần thực hiện các nhiệm vụ sắp xếp, bố trí và phối hợp toàn bộ hoạt động trên khuôn khổ nhất định nào đó, do vậy mà nhân viên hậu cần sẽ là người thực hiện những nhiệm vụ đó một cách trực tiếp. Xã hội hiện đại đã xác định rất rõ vai trò của người nhân viên hậu cần cho nên nhiều chương trình giáo dục đào tạo ngành nghề này đã xuất hiện trong các trường đại học như Đại học Kinh tế, Đại học Giao thông Vận tải, Đại học Quốc tế, Đại học Ngoại thương,… đây đều là những ngôi trường có tiếng bậc nhất Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp, nguồn nhân lực hậu cần chủ yếu thực hiện các công việc như xây dựng kế hoạch, triển khai kế hoạch và kiểm soát chặt chẽ mọi luồng di chuyển của thông tin nguồn nguyên – nhiên vật liệu và hàng hóa cũng như sản phẩm được tạo ra ở khâu cuối cùng để đưa vào tiêu thụ trong thị trường. Nhận hàng hóa – vận chuyển hàng hóa – lưu kho hàng – tiến hành làm thủ tục hải quan và giấy tờ khác – tư vấn – đóng gói sản phẩm, ký mã hàng – giao hàng. Nhân viên hậu cần sẽ chịu trách nhiệm tập hợp lại toàn bộ dữ liệu trong hoạt động cung ứng của doanh nghiệp và xác định vấn đề, phát triển khả năng hỗ trợ việc quản lý đối với chuỗi cung ứng. Nhân viên hậu cần sẽ xác định rõ nguồn hàng cung ứng, đưa ra các đánh giá và sự chọn lựa về nguồn cung ứng, thực hiện việc đàm phán hợp đồng với các đối tác cung ứng và giữ gìn mối quan hệ với họ. Với công tác kiểm kê, người nhân viên hậu cần sẽ thực hiện việc kiểm kê chất lượng, độ chính xác khi làm việc với hàng hóa, giám sát từng nguồn hàng ở mức độ chi tiết nhất. Ngoài ra trong công tác này, nhân viên hậu cần còn trực tiếp làm việc với bên kho hàng, đưa ra các đề xuất về chiến lược phân phối nguồn hàng nhằm tối ưu luồng phân phối công việc, tối ưu hóa năng suất lao động tại tất cả các đơn vị, cơ sở phân phối nguồn hàng. Quản lý nguồn hàng hóa sẽ được kết hợp cùng với nhiệm vụ thu mua. Đôi khi còn kết hợp trực tiếp với bộ phận phân phối, cung ứng nhằm giúp cho cả quá trình phân phát nguồn hàng được đảm bảo, uy tín và hiệu quả. Điều phối là quá trình thực hiện công việc liên quan chủ yếu tới hoạt động vận tải. Người nhân viên hậu cần sẽ phụ trách quản lý để đảm bảo giữ gìn tốt các mối quan hệ với khách hàng và với các nhà vận tải. Điều này sẽ giúp họ đảm bảo được nguồn hàng hóa được giao đi đúng kế hoạch. - Thường thì nhà tuyển dụng sẽ ưu tiên nam giới vào vị trí này hơn là nữ giới bởi công việc có những áp lực lớn, đòi hỏi cường độ làm việc cao và dành nhiều thời gian. Nhà tuyển dụng cũng sẽ lựa chọn những người có bằng cử nhân tốt nghiệp từ các trường vừa nêu ở trên với nghiệp vụ đào tạo chuyên môn hậu cần. Nhiều nhà tuyển dụng kén số năm kinh nghiệm của bạn hoạt động trong nghề, do đó, bạn có thể được đòi hỏi phải đáp ứng đã làm việc trong lĩnh vực này từ khoảng 3 cho tới 5 năm. Nếu như kinh nghiệm của bạn chỉ có chừng 1 năm thì rất có thể sẽ chưa được chấp thuận vào vị trí nhân viên hậu cần hoặc phải chứng minh được năng lực thực sự của bạn hay sự phù hợp ở những phương diện khác. Tiếp theo là sự đáp ứng về trình độ ngoại ngữ. Nhân viên hậu cần với nghiệp vụ khá đa dạng, chủ yếu thực hiện trong ác giao dịch là nhiều, chính vì thế mà yêu cầu đáp ứng trình độ tiếng Anh giao tiếp là một yêu cầu cơ bản phải có. Ngoài ra, bạn còn phải thể hiện được tinh thần tích cực đối với công việc, luôn sẵn sàng đón nhận, tiếp thu tất cả các ý kiến đóng góp của người khác trong công việc. Đem thái độ chân thành, sự tỉ mỉ cẩn trọng và tính tình kiên nhẫn vào trong công việc thì sẽ giải quyết công việc một cách dễ dàng hơn. Bạn có thể tìm việc làm hậu cần kinh tế trong nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngành nghề logistics. Tuy nhiên, không dễ để nắm được các tin tuyển dụng việc làm tại đó nếu như bạn không có một công cụ hỗ trợ tìm kiếm đắc lực cho bản thân. Ngay sau đây Phượng sẽ cung cấp đến bạn đọc đang có mối quan tâm với ngành nghề này một gợi ý hấp dẫn, đó là timviec365.vn. Tại đây bạn có thể gõ từ khóa tìm kiếm việc làm nhân viên hậu cần trên thanh search và sẽ được dẫn đến với rất nhiều lựa chọn việc làm tại đúng mục đích tìm kiếm. Thậm chí nếu nhu cầu đó có địa chỉ cụ thể thì website vẫn có thể đáp ứng. Điều đặc biệt mà người dùng yêu thích khi tìm việc làm tại timviec365.vn đó chính là họ sẽ có cơ hội nhận về tay những bản mô tả công việc nhân viên hậu cần chi tiết, đầy đủ thông tin. Từ đó sẽ giúp bạn dễ dàng nắm bắt những điều cần phải chuẩn bị để chủ động bước đến với cơ hội ứng tuyển việc làm thành công. Như vậy, chỉ với một vài thông tin trên chúng ta đã có được những hiểu biết cơ bản đối với vị trí nhân viên hậu cần. Để tìm thấy những bản mô tả nhân viên hậu cần phù hợp nhất, bạn hãy lựa chọn timviec365.vn để giúp bản thân dễ dàng sở hữu công việc ưng ý nhất.
Hậu cần
Hậu cần (hay nói chính xác hơn mà không mang nặng tính quân sự, thay vào đó là tính dân dụng là trữ vận hàng hóa, ngành hóa trữ vận, ngành trữ vận hàng, có thể dùng các từ mượn tiếng Trung như là vật lưu, hóa vận) là hoạt động chuyên chở, lưu giữ và cung cấp hàng hóa. Trong sản xuất kinh doanh, đây là nghệ thuật và khoa học của quản lý và điều chỉnh luồng di chuyển của hàng hóa, năng lượng, thông tin và những nguồn lực khác như sản phẩm, dịch vụ và con người, từ nguồn lực của sản xuất cho đến thị trường. Thật là khó khi phải hoàn thành việc tiếp thị hay sản xuất mà không có sự hỗ trợ của hậu cần. Nó thể hiện sự hợp nhất của thông tin liên lạc, vận tải, tồn kho, lưu kho, giao nhận nguyên vật liệu, bao bì đóng gói. Trách nhiệm vận hành của hoạt động hậu cần là việc tái định vị (theo mục tiêu địa lý) của nguyên vật liệu thô, của công việc trong toàn quá trình, và tồn kho theo yêu cầu chi phí tối thiểu có thể.
Dinh dưỡng – món ngon Sản phụ khoa Nhi khoa Nam khoa Làm đẹp – giảm cân Phòng mạch online Ăn sạch sống khỏe cungdaythang.com – Thảm họa Chernobyl không chỉ cướp đi nhiều sinh mạng, ảnh hưởng sức khỏe, gây thiệt hại lớn về kinh tế…, mà còn góp phần làm tan rã Liên Xô. Truyền thông phương Tây thông báo với cả thế giới về thảm kịch vào tối 26/4 nhưng tại Liên Xô, chính quyền đã giữ im lặng về chủ đề này trong một thời gian dài. Khi các đám mây phóng xạ bao phủ ngày càng nhiều vùng lãnh thổ ở phương Tây thì ở Liên Xô, chỉ vào ngày 29/4 báo chí đưa tin “rò rỉ nhẹ chất phóng xạ” tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl. Các tài liệu liên quan đến thảm họa Chernobyl ngay lập tức được Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô bảo mật, Gorbachev im lặng trong hơn hai tuần. Trên thực tế, nhà nước Liên Xô chưa sẵn sàng để khắc phục kịp thời hậu quả của thảm họa – hầu hết các liều kế phóng xạ không hoạt động, không có viên kali iodide, mọi việc giải quyết bị động và kém hiệu quả. Ban đầu, các đơn vị bộ đội phòng hóa của Lục quân Liên Xô được phái đến giúp nhà máy điện hạt nhân Chernobyl, họ được huấn luyện tốt, nhưng theo điều kiện của một cuộc chiến tranh hạt nhân và làm việc với các nhóm bức xạ khác. Do đó, người ta đã quyết định trưng dụng các “nhà hóa học” hải quân – những người đã nhiều lần phải đương đầu với tai nạn phóng xạ trên tàu ngầm hạt nhân. Kinh nghiệm của các nhà hóa học hải quân đã giúp sớm ổn định tình hình. Hàng ngàn tấn đất đã được đưa ra khỏi khu vực nhiễm xạ, máy móc và thiết bị bị ô nhiễm đã được chôn cất trong khu chôn cất đặc biệt. Một khu vực cách ly 30km đã được tạo ra xung quanh nhà máy, dân chúng đã được sơ tán. Theo dữ liệu chính thức, sau thảm họa Chernobyl, các vùng lãnh thổ của 17 quốc gia châu Âu với tổng diện tích là 207,5 nghìn km² được ghi nhận ô nhiễm phóng xạ bởi caesium-137; ở Ukraine – 37,63 nghìn km²; ở Belarus – 43,5 nghìn km², ở phần lãnh thổ châu Âu của Nga – 59,3 nghìn km². 19 khu vực của Liên bang Nga nằm trong vùng ô nhiễm phóng xạ bởi caesium-137, bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất là các tỉnh Bryansk, Kaluga, Tula và Oryol. Theo thống kê chính thức, ngay sau vụ tai nạn, 31 người chết, 600 nghìn người xử lý hậu quả của vụ nổ Chernobyl đã nhận được liều phóng xạ cao; tổng thể, khoảng 8.4 triệu người Nga, Belarus và Ukraina đã được ghi nhận phơi nhiễm phóng xạ. Theo ước tính gần đúng nhất (kể từ khi Liên Xô sụp đổ), khoảng 30 nghìn người đã chết vì hậu quả của thảm họa Chernobyl, và hơn 70 nghìn người bị tàn tật. Một tác động kinh tế đáng kể vào thời điểm đó là loại bỏ 784.320 ha đất nông nghiệp và 694.200 ha từ rừng sản xuất. Về kinh tế, theo Gorbachev, Liên Xô đã chi 18 tỷ rúp (tương đương 18 tỷ USD vào thời điểm đó) để ngăn chặn và tẩy xạ. Tại Belarus tổng chi phí khắc phục hậu quả trong 30 năm ước tính khoảng 235 tỷ USD (năm 2005). Chi phí liên tục những năm sau đó đều được công khai, trong báo cáo 2003-2005, Diễn đàn Chernobyl nói rằng từ 5% đến 7% chi tiêu chính phủ ở Ukraine vẫn liên quan đến Chernobyl, trong khi ở Belarus hơn 13 tỷ USD được cho là đã được chi tiêu từ năm 1991 đến năm 2003, với 22% ngân sách quốc gia có liên quan đến Chernobyl năm 1991, giảm xuống 6% vào năm 2002. Phần lớn chi phí hiện tại liên quan đến việc chi trả các lợi ích xã hội liên quan đến Chernobyl cho khoảng 7 triệu người tại 3 quốc gia. Thảm họa Chernobyl dấy lên những lo ngại về sự an toàn trong ngành công nghiệp năng lượng hạt nhân Xô viết, làm đình trệ sự phát triển của ngành này trong nhiều năm, đồng thời buộc chính phủ Liên Xô phải công bố một số thông tin. Về mặt chính trị, vụ tai nạn đã tác động to lớn đối với chính sách Glasnost của Liên Xô, và giúp thúc đẩy quan hệ Xô-Mỹ gần gũi hơn vào cuối Chiến tranh Lạnh, thông qua sự hợp tác về mặt sinh học. Vào năm 1997, Quỹ Mái ấm Quốc tế Chernobyl được thành lập để thiết kế và xây dựng một vỏ bọc lâu dài hơn cho chiếc “quan tài” bằng beton phủ kín lò phản ứng số 4 không ổn định và kém an toàn. Nhận được hơn 810 triệu euro và được quản lý bởi Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Châu Âu (EBRD), quan tài mới có tên là New Safe Confinement được bắt đầu xây dựng vào năm 2010. Đó là một vòm kim loại cao 105m dài 257m được xây dựng trên đường ray liền kề với tòa nhà lò phản ứng số 4, hoàn thành vào năm 2016. Không giống như kết cấu cũ, New Confinement được thiết kế để có thể tháo dỡ an toàn lò phản ứng bằng thiết bị hoạt động từ xa. Sai lầm đã phải trả giá quá đắt, trên thực tế, một vùng diện 1.600 dặm vuông xung quanh vị trí cũ của nhà máy điện là không thể ở được, trong khi tổng số sinh mạng bị mất và bị ảnh hưởng là không xác định, hàng ngàn trường hợp ung thư được cho là do bức xạ phát ra từ tàn dư của lò phản ứng. 23% lãnh thổ cũ của Belarus mức phóng xạ hiện đang ở trên ngưỡng; chi phí ước tính cho việc dọn dẹp sẽ không bao giờ có con số cuối cùng…. Và trên tất cả, thảm họa Chernobyl cũng chỉ ra, điều cực kỳ quan trọng là phải áp dụng mọi biện pháp, mọi giải pháp để ngăn chặn mọi khả năng xảy ra sự lặp lại của vụ Chernobyl trong tương lai; mọi quốc gia đều vẫn phải cân nhắc nghiêm túc, toàn diện mọi vấn đề khi xây dựng và vận hành các nhà máy điện hạt nhân; có các giải pháp đối phó với mọi rủi ro mà một trong những rủi ro cao của các nhà máy điện hạt nhân là nguy cơ của các cuộc tấn công khủng bố và và việc lùng mua lại vật liệu phân hạch; bản chất khép kín và bí mật của ngành công nghiệp điện hạt nhân góp phần rất lớn vào những khó khăn và ứng phó một khi có sự cố, vì vậy, đòi hỏi mức độ minh bạch cao nhất có thể./. Ban đầu, các đơn vị bộ đội phòng hóa của Lục quân Liên Xô được phái đến giúp nhà máy điện hạt nhân Chernobyl, họ được huấn luyện tốt, nhưng theo điều kiện của một cuộc chiến tranh hạt nhân và làm việc với các nhóm bức xạ khác. Do đó, người ta đã quyết định trưng dụng các “nhà hóa học” hải quân – những người đã nhiều lần phải đương đầu với tai nạn phóng xạ trên tàu ngầm hạt nhân. Kinh nghiệm của các nhà hóa học hải quân đã giúp sớm ổn định tình hình. Hàng ngàn tấn đất đã được đưa ra khỏi khu vực nhiễm xạ, máy móc và thiết bị bị ô nhiễm đã được chôn cất trong khu chôn cất đặc biệt. Một khu vực cách ly 30km đã được tạo ra xung quanh nhà máy, dân chúng đã được sơ tán. Theo dữ liệu chính thức, sau thảm họa Chernobyl, các vùng lãnh thổ của 17 quốc gia châu Âu với tổng diện tích là 207,5 nghìn km² được ghi nhận ô nhiễm phóng xạ bởi caesium-137; ở Ukraine – 37,63 nghìn km²; ở Belarus – 43,5 nghìn km², ở phần lãnh thổ châu Âu của Nga – 59,3 nghìn km². 19 khu vực của Liên bang Nga nằm trong vùng ô nhiễm phóng xạ bởi caesium-137, bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất là các tỉnh Bryansk, Kaluga, Tula và Oryol. Theo thống kê chính thức, ngay sau vụ tai nạn, 31 người chết, 600 nghìn người xử lý hậu quả của vụ nổ Chernobyl đã nhận được liều phóng xạ cao; tổng thể, khoảng 8.4 triệu người Nga, Belarus và Ukraina đã được ghi nhận phơi nhiễm phóng xạ. Theo ước tính gần đúng nhất (kể từ khi Liên Xô sụp đổ), khoảng 30 nghìn người đã chết vì hậu quả của thảm họa Chernobyl, và hơn 70 nghìn người bị tàn tật. Một tác động kinh tế đáng kể vào thời điểm đó là loại bỏ 784.320 ha đất nông nghiệp và 694.200 ha từ rừng sản xuất. Về kinh tế, theo Gorbachev, Liên Xô đã chi 18 tỷ rúp (tương đương 18 tỷ USD vào thời điểm đó) để ngăn chặn và tẩy xạ. Tại Belarus tổng chi phí khắc phục hậu quả trong 30 năm ước tính khoảng 235 tỷ USD (năm 2005). Chi phí liên tục những năm sau đó đều được công khai, trong báo cáo 2003-2005, Diễn đàn Chernobyl nói rằng từ 5% đến 7% chi tiêu chính phủ ở Ukraine vẫn liên quan đến Chernobyl, trong khi ở Belarus hơn 13 tỷ USD được cho là đã được chi tiêu từ năm 1991 đến năm 2003, với 22% ngân sách quốc gia có liên quan đến Chernobyl năm 1991, giảm xuống 6% vào năm 2002. Phần lớn chi phí hiện tại liên quan đến việc chi trả các lợi ích xã hội liên quan đến Chernobyl cho khoảng 7 triệu người tại 3 quốc gia. Thảm họa Chernobyl dấy lên những lo ngại về sự an toàn trong ngành công nghiệp năng lượng hạt nhân Xô viết, làm đình trệ sự phát triển của ngành này trong nhiều năm, đồng thời buộc chính phủ Liên Xô phải công bố một số thông tin. Về mặt chính trị, vụ tai nạn đã tác động to lớn đối với chính sách Glasnost của Liên Xô, và giúp thúc đẩy quan hệ Xô-Mỹ gần gũi hơn vào cuối Chiến tranh Lạnh, thông qua sự hợp tác về mặt sinh học. Vào năm 1997, Quỹ Mái ấm Quốc tế Chernobyl được thành lập để thiết kế và xây dựng một vỏ bọc lâu dài hơn cho chiếc “quan tài” bằng beton phủ kín lò phản ứng số 4 không ổn định và kém an toàn. Nhận được hơn 810 triệu euro và được quản lý bởi Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Châu Âu (EBRD), quan tài mới có tên là New Safe Confinement được bắt đầu xây dựng vào năm 2010. Đó là một vòm kim loại cao 105m dài 257m được xây dựng trên đường ray liền kề với tòa nhà lò phản ứng số 4, hoàn thành vào năm 2016. Không giống như kết cấu cũ, New Confinement được thiết kế để có thể tháo dỡ an toàn lò phản ứng bằng thiết bị hoạt động từ xa. Sai lầm đã phải trả giá quá đắt, trên thực tế, một vùng diện 1.600 dặm vuông xung quanh vị trí cũ của nhà máy điện là không thể ở được, trong khi tổng số sinh mạng bị mất và bị ảnh hưởng là không xác định, hàng ngàn trường hợp ung thư được cho là do bức xạ phát ra từ tàn dư của lò phản ứng. 23% lãnh thổ cũ của Belarus mức phóng xạ hiện đang ở trên ngưỡng; chi phí ước tính cho việc dọn dẹp sẽ không bao giờ có con số cuối cùng…. Và trên tất cả, thảm họa Chernobyl cũng chỉ ra, điều cực kỳ quan trọng là phải áp dụng mọi biện pháp, mọi giải pháp để ngăn chặn mọi khả năng xảy ra sự lặp lại của vụ Chernobyl trong tương lai; mọi quốc gia đều vẫn phải cân nhắc nghiêm túc, toàn diện mọi vấn đề khi xây dựng và vận hành các nhà máy điện hạt nhân; có các giải pháp đối phó với mọi rủi ro mà một trong những rủi ro cao của các nhà máy điện hạt nhân là nguy cơ của các cuộc tấn công khủng bố và và việc lùng mua lại vật liệu phân hạch; bản chất khép kín và bí mật của ngành công nghiệp điện hạt nhân góp phần rất lớn vào những khó khăn và ứng phó một khi có sự cố, vì vậy, đòi hỏi mức độ minh bạch cao nhất có thể./. Theo dữ liệu chính thức, sau thảm họa Chernobyl, các vùng lãnh thổ của 17 quốc gia châu Âu với tổng diện tích là 207,5 nghìn km² được ghi nhận ô nhiễm phóng xạ bởi caesium-137; ở Ukraine – 37,63 nghìn km²; ở Belarus – 43,5 nghìn km², ở phần lãnh thổ châu Âu của Nga – 59,3 nghìn km². 19 khu vực của Liên bang Nga nằm trong vùng ô nhiễm phóng xạ bởi caesium-137, bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất là các tỉnh Bryansk, Kaluga, Tula và Oryol. Theo thống kê chính thức, ngay sau vụ tai nạn, 31 người chết, 600 nghìn người xử lý hậu quả của vụ nổ Chernobyl đã nhận được liều phóng xạ cao; tổng thể, khoảng 8.4 triệu người Nga, Belarus và Ukraina đã được ghi nhận phơi nhiễm phóng xạ. Theo ước tính gần đúng nhất (kể từ khi Liên Xô sụp đổ), khoảng 30 nghìn người đã chết vì hậu quả của thảm họa Chernobyl, và hơn 70 nghìn người bị tàn tật. Một tác động kinh tế đáng kể vào thời điểm đó là loại bỏ 784.320 ha đất nông nghiệp và 694.200 ha từ rừng sản xuất. Về kinh tế, theo Gorbachev, Liên Xô đã chi 18 tỷ rúp (tương đương 18 tỷ USD vào thời điểm đó) để ngăn chặn và tẩy xạ. Tại Belarus tổng chi phí khắc phục hậu quả trong 30 năm ước tính khoảng 235 tỷ USD (năm 2005). Chi phí liên tục những năm sau đó đều được công khai, trong báo cáo 2003-2005, Diễn đàn Chernobyl nói rằng từ 5% đến 7% chi tiêu chính phủ ở Ukraine vẫn liên quan đến Chernobyl, trong khi ở Belarus hơn 13 tỷ USD được cho là đã được chi tiêu từ năm 1991 đến năm 2003, với 22% ngân sách quốc gia có liên quan đến Chernobyl năm 1991, giảm xuống 6% vào năm 2002. Phần lớn chi phí hiện tại liên quan đến việc chi trả các lợi ích xã hội liên quan đến Chernobyl cho khoảng 7 triệu người tại 3 quốc gia. Thảm họa Chernobyl dấy lên những lo ngại về sự an toàn trong ngành công nghiệp năng lượng hạt nhân Xô viết, làm đình trệ sự phát triển của ngành này trong nhiều năm, đồng thời buộc chính phủ Liên Xô phải công bố một số thông tin. Về mặt chính trị, vụ tai nạn đã tác động to lớn đối với chính sách Glasnost của Liên Xô, và giúp thúc đẩy quan hệ Xô-Mỹ gần gũi hơn vào cuối Chiến tranh Lạnh, thông qua sự hợp tác về mặt sinh học. Vào năm 1997, Quỹ Mái ấm Quốc tế Chernobyl được thành lập để thiết kế và xây dựng một vỏ bọc lâu dài hơn cho chiếc “quan tài” bằng beton phủ kín lò phản ứng số 4 không ổn định và kém an toàn. Nhận được hơn 810 triệu euro và được quản lý bởi Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Châu Âu (EBRD), quan tài mới có tên là New Safe Confinement được bắt đầu xây dựng vào năm 2010. Đó là một vòm kim loại cao 105m dài 257m được xây dựng trên đường ray liền kề với tòa nhà lò phản ứng số 4, hoàn thành vào năm 2016.
Thảm họa Chernobyl
Thảm hoạ Chernobyl (Tiếng Ukraina: Чорнобильська катастрофа; Tiếng Nga: Чернобыльская катастрофа) là một vụ tai nạn hạt nhân xảy ra vào Thứ bảy ngày 26 tháng 4 năm 1986 khi nhà máy điện hạt nhân Chernobyl ở Pripyat, Ukraina (khi ấy còn là một phần của Liên bang Xô viết) bị nổ tại lò phản ứng số 4. Nó được coi là thảm họa hạt nhân tồi tệ nhất trong lịch sử cả về phí tổn và thương vong. Do không có tường chắn, đám mây bụi phóng xạ từ nhà máy lan rộng ra nhiều vùng phía tây Liên bang Xô viết, Đông Âu và Tây Âu, Scandinavia, Anh quốc, và đông Hoa Kỳ. Nhiều vùng rộng lớn thuộc Ukraina, Belarus và Nga bị ô nhiễm nghiêm trọng, dẫn tới việc phải sơ tán và tái định cư cho hơn 336.000 người. Khoảng 60% đám mây phóng xạ đã rơi xuống Belarus. Theo bản báo cáo năm 2006 của TORCH, một nửa lượng phóng xạ đã rơi xuống bên ngoài lãnh thổ ba nước cộng hoà Xô viết. Thảm hoạ này phát ra lượng phóng xạ lớn gấp bốn trăm lần so với quả bom nguyên tử được ném xuống Hiroshima.
Hồi đầu Xuân 2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bỗng đi thăm một số trí thức lão thành, trong đó có GS. Khi đó, GS đã không còn minh mẫn. Nhưng cuộc viếng thăm của Thủ tướng tới tận nhà ông, chứng tỏ sự trọng thị trí thức của Chính phủ mới, đó là tín hiệu tốt lành cho thời kỳ kiến tạo và phát triển. Tôi đón nhận tin này với tâm trạng rất vui bởi GS. Diệu là đồng nghiệp, một nhà khoa học lớn, một nhân sỹ đáng kính với sự chính trực của một trí thức theo đúng nghĩa. Có một kỷ niệm nho nhỏ. Năm 1977, tôi đang học năm cuối của khoa Toán Tin của Đại học Tổng hợp Warsaw, tốt nghiệp thì về nước, còn trẻ nên chả lo tìm việc. Nhớ trưa đó, có người gõ cửa và bảo, muốn nhờ tôi cắt tóc cho một vị khách từ trong nước. Gặp một người trán rộng, rất trẻ khoảng trên dưới 40 tuổi, giọng Nghệ Tĩnh khỏe và khá thân thiện, tự giới thiệu là Phan Đình Diệu, Viện trưởng Viện Khoa học Tính toán và Điều khiển, tiền thân của Viện Công nghệ Thông tin bây giờ. Sinh viên học nước ngoài 5-6 năm nên chả biết trong nước ra sao, chẳng có thông tin như bây giờ, thư đi cả tháng mới tới so với thời internet có thể inbox nhắn nhau vài giây với khoảng cách hàng chục ngàn km. Tôi vừa cắt tóc cho anh (thực là xén qua cho gọn bằng kéo) vừa được anh hỏi chuyện thân tình. Hỏi cậu học gì. Dạ em học tin học ạ. Ôi, viện mình đang tìm người tốt nghiệp ngành này đây. Mình thật thà, nhưng em học kém lắm, không có bằng đỏ. Mình lấy người về làm việc chứ không lấy bằng đỏ. Và anh ghi cho tôi mảnh giấy hẹn, nếu về Hà Nội thì tìm anh. Cứ nghĩ anh hứa cho qua, nhưng tốt nghiệp về Hà Nội mới thấy xin việc với bán kính quanh hồ Gươm vài km, mốt thời thượng hồi đó, là không hề dễ vì ngành tin mới quá. Chợt nhớ ra địa chỉ liên lạc, tìm lên khu Đồi Thông trong làng Liễu Giai hoang vắng, nhà cửa tồi tàn, dân trồng hoa tưới phân tươi, thế mà vẫn có một viện khoa học đầu ngành với những cán bộ nghiên cứu trẻ măng đang miệt mài bên những trang sách với những giấc mơ đưa đất nước bay xa. Thật bất ngờ, GS Diệu vẫn nhớ bạn trẻ cắt tóc ấy và bằng một cái giấy viết tay lên Bộ Đại học, sau vài tuần, tôi nhận việc ở viện mà không hề tốn một điếu thuốc nào. Làm việc với giáo sư sau gần hai chục năm, tôi hiểu ông nhìn vào hiệu quả công việc chứ không dựa vào bằng đỏ bằng xanh hay học vị, học hàm. Chỉ cần chi tiết đó thôi đã làm cho lớp trẻ khoa học như tôi lao động hết mình, cơm cặp lồng rau muống luộc nhưng thức thâu đêm để tìm lỗi cho hàng ngàn dòng lệnh ngôn ngữ máy. Đi theo ông là những nhà khoa học trẻ, muốn cống hiến hết mình cho cái máy vi tính đầu tiên tại Việt Nam cũng như ở châu Á, mà bản thân ông cũng phải xách tay những chip từ Pháp về thay vì mua xe máy Peugeot tương đương với một căn hộ cao cấp. Nhưng theo một nghĩa nào đó, chúng tôi chỉ là những thợ lập trình, thợ công trình khoa học, thợ các dự án, nhưng chưa phải một trí thức biết suy nghĩ về thời cuộc. Nói chuyện với ông lúc trà dư tửu hậu mới biết sự trăn trở của ông về hệ thống, về phe Liên Xô, Đông Âu, bên này bên kia, mà ông từng phát biểu trong các hội nghị, nói với các nhà lãnh đạo cao cấp thời đó, cái được và chưa được với những giải pháp cấp bách. Cách đây gần 30 năm, khi bàn về vai trò của trí thức, GS cho rằng, nước ta có nhiều nhà toán học, nhà vật lý học, nhà sinh học, kỹ sư, và nhà kinh tế. Theo GS, đào tạo những “nhà trên” thành chuyên viên thì dễ nhưng thành trí thức khó hơn bởi họ phải học để độc lập trong tư duy và luôn suy nghĩ về những vấn đề của xã hội. So sánh ba thời kỳ, ông chỉ rõ, trí thức thời Pháp thuộc có những người dũng cảm và đáng kính, lớp người được đào tạo sau 1954 mang bóng dáng các chuyên viên, lớp trí thức miền Nam sau 1975 thì phần lớn đã ra đi hoặc chọn sự im lặng, nếu họ muốn quay về phục vụ thì cũng khó bởi họ xa rời môi trường trong nước mà hải ngoại không phải là mảnh đất thuận lợi cho lực lượng trí thức tích cực. Theo ông, lực lượng trí thức phải độc lập về xã hội và chính trị, là cánh chim báo bão cho thời đại. Thế hệ chúng tôi quả là thiếu vắng tầm nhìn đó bởi cơm áo gạo tiền, ăn chưa đủ, nước điện phập phù, bụng đói làm sao nghĩ được vĩ mô, có tâm chưa đủ. Làm việc một thời gian dài, tôi biết ông sinh ra trong một gia đình giầu truyền thống hiếu học ở Can Lộc, Hà Tĩnh, cha là giáo viên thường xa nhà, mẹ làm ruộng nuôi 7 người con ăn học, từ nhỏ ông đã tỏ ra là học sinh xuất sắc trong vùng. Năm 1954 tốt nghiệp cấp 3, cậu học trò Diệu đi bộ 10 ngày từ Hà Tĩnh ra học ĐH Sư phạm ở Hà Nội. Từ đó là đam mê toán học và sau này thành tài năng khi đi nghiên cứu sinh năm 1962 ở Liên Xô, bảo vệ tiến sỹ khoa học lúc 30 tuổi, công trình Tiến sỹ này được in như một cuốn sách của tạp chí khoa học uy tín Steklov của Nga và năm 1974 được Hiệp hội Toán học Mỹ dịch và xuất bản bằng tiếng Anh. Nhớ hồi về viện dự các buổi seminar do ông giảng về otomat hữu hạn, lưới Petri, dù kiến thức toán tin rất cao siêu nhưng cách giảng của ông rất dễ hiểu, hội trường lúc nào cũng đông nghịt. Nhưng ít ai biết vị giáo sư này thường dậy từ 3 giờ sáng đợi hứng nước và xách lên tầng 5 cho vợ đang nuôi con nhỏ ở cái thời mà “ban ngày cả nước lo việc nhà, ban đêm cả nhà lo việc nước”. Dù kinh qua nhiều chức vụ quan trọng như Viện phó Viện Khoa học Việt Nam, Viện trưởng KH Tính toán và Điều khiển, sáng lập Hội Tin học và Chủ tịch đầu tiên, Đại biểu Quốc hội 1976-1981, nhiều chức danh khác hay chủ trì nhiều dự án lớn tầm quốc gia, nhưng có lẽ ông không thích nhắc đến. Nhưng là người biết ông khá rõ, tôi tin ông sẽ rất vui khi được nhắc đến như một người đóng góp lớn cho nền toán tin và nhất là khởi xướng thời đại vi tính tại Việt Nam ngay từ đầu những năm 1980 và coi đây là cuộc cách mạng lớn thay đổi nhân loại. Năm 1981, chiếc máy vi tính đầu tiên sản xuất tại VN và Đông Á có tâm huyết không nhỏ của ông. Ngoài chuyện làm khoa học, với tư duy độc lập, logic và kết hợp với triết học của người làm toán, GS Diệu đã có những cách nhìn sâu rộng về thời cuộc, xu hướng phát triển và những sự đổi thay cần thiết để đổi mới đất nước. Những ý kiến phản biện thẳng thắn và chân thành của ông có ý nghĩa lớn vào sự đổi mới, góp phần giúp đất nước phát triển hơn, dân chủ hơn. Những bài viết của ông được xây dựng trên cơ sở khoa học, phân tích các dữ liệu thực tế, phân tích các vấn đề cốt lõi của sự phát triển nền kinh tế và xã hội, mang một tầm nhìn xa và vẫn còn giá trị sau nhiều thập kỷ. Không phải bỗng nhiên mà ông được gọi là trí thức – nhân sỹ bởi sự trung thực, tâm tài song toàn, những bài viết, những phát biểu để đời, những tiếng nói lay động thuyết phục, nhằm đóng góp chung. 40 năm trước ông đi tìm người cho nền tin học nước nhà và tôi may mắn gặp được ông. Giữ một lời hứa mà tôi có việc làm tại Hà Nội và nhân cách của ông giúp tôi hiểu thêm, trí thức ngoài việc giỏi chuyên môn cũng cần một tầm nhìn thời cuộc, biết chắp cánh ước mơ cho tuổi trẻ, dù đời thường vẫn phải xách nước giúp vợ đẻ. Rất có thể từ một chuyện nhỏ GS Diệu nhớ cậu sinh viên trẻ cắt tóc bên Warsaw, nên một hôm có Thủ tướng nhớ tới ông có tâm và tầm của trí Việt để hỏi về chính phủ kiến tạo, bởi kiến tạo thì không thể thiếu giới trí thức đúng nghĩa.
Phan Đình Diệu
Phan Đình Diệu (1936-2018) là giáo sư, nhà toán học, nhà khoa học máy tính của Việt Nam. Ông là một trong những người được ghi nhận là có công đầu trong kế hoạch đào tạo và phát triển ngành tin học tại Việt Nam. Ông là chuyên gia trong các lĩnh vực: toán học kiến thiết, lôgíc toán, lý thuyết thuật toán, ôtômat và ngôn ngữ hình thức, lý thuyết mật mã và an toàn thông tin. Ông sinh ngày 12 tháng 6 năm 1936, lớn lên tại huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1954, ông tốt nghiệp trung học tại trường kháng chiến Phan Đình Phùng - Hà Tĩnh, ra Hà Nội thi vào trường Đại học Khoa học. Hết năm thứ nhất, ông chọn trường Đại học Sư phạm Khoa học. Cũng chính tại đây, Phan Đình Diệu đã tìm thấy sự say mê đối với ngành toán học. Năm 1957, ông tốt nghiệp thủ khoa và được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy. Năm 1962, ông được cử đi Liên Xô làm nghiên cứu sinh tại Khoa Toán học tính toán và Điều khiển học, trường Đại học Tổng hợp quốc gia Moskva mang tên Lomonosov.
Tái chế rác là rất quan trọng để bảo vệ môi trường và để hành tinh trong tình trạng tốt hơn chúng ta đã tìm thấy nó. Một trong những vấn đề lớn nhất trên thế giới hiện nay là lượng chất thải điện tử được sản xuất. Chỉ có 2% rác thải chôn lấp, nhưng tới 70% chất thải độc hại. Nó đầu độc đất, nước, cây cối và các tài nguyên quý giá khác. Tin tốt là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện phần của mình để tái chế. Nếu trẻ học từ sớm để tái chế, chúng sẽ mang theo thói quen tốt đó bên mình suốt đời. Với một số nỗ lực và hướng dẫn dễ dàng, trẻ em có thể học cách trở thành một phần của giải pháp tái chế cho một hành tinh khỏe mạnh hơn. Tái chế là cách chúng ta lấy rác và biến nó thành sản phẩm mới. Có một số loại quy trình tái chế cho phép một số vật liệu được sử dụng một hoặc nhiều lần. Tái chế là tốt cho chúng ta và môi trường vì nó làm giảm việc sử dụng nguyên liệu mới để sản xuất sản phẩm mới. Nó cũng làm giảm năng lượng chúng ta sử dụng; cải thiện chất lượng không khí và nước và chống lại biến đổi khí hậu. Tất cả các loại điều có thể được tái chế. Một số quy trình phổ biến nhất được sử dụng ngày nay tái chế:. Soda lon, chai nước bằng nhựa, hộp sữa nhựa, báo, hộp ngũ cốc và máy tính cũ chỉ là một số mặt hàng phổ biến được tái chế mỗi ngày. Nếu tất cả chúng ta chỉ tái chế một vài vật phẩm mỗi ngày mà chúng ta vứt đi, chúng ta có thể đi một chặng đường dài để cải thiện môi trường cho tương lai và thế hệ tương lai của chúng ta. Giống như chúng ta học được tầm quan trọng của việc tái chế rác, chúng ta cũng nên tìm hiểu về việc tái sử dụng. Tái sử dụng có nghĩa là kết hợp việc tái sử dụng các vật liệu và sử dụng các vật phẩm có thể được tái sử dụng. Đĩa giấy không thể được tái sử dụng và dao kéo có thể tái sử dụng làm giảm năng lượng cần thiết để tạo ra các sản phẩm mới và nó cũng có thể được tái sử dụng để ngăn chặn nhiều chất thải trong bãi rác. Tái sử dụng những thứ có thể được tái sử dụng có nghĩa là ít ô nhiễm hơn và nhiều tài nguyên thiên nhiên quý giá của chúng ta vẫn còn nguyên vẹn. Nếu vậy, bạn hãy thử cách làm các sản phẩm handmade từ đĩa giấy dùng một lần xem sao!. Hãy suy nghĩ về khả năng của một sản phẩm trước khi bạn vứt nó đi; nó có thể được tái sử dụng cho mục đích khác. Thế còn cái áo phông cũ đó? Nó có thể được sử dụng như một miếng giẻ xe hơi. Tái sử dụng khác với tái chế, nhưng nó dẫn đến giảm tiêu thụ – luôn luôn là một điều tốt. Một điều quan trọng khác để tìm hiểu, ngoài việc tái chế và tái sử dụng, là giảm bớt. Giữ cho các giao dịch mua mới ở mức tối thiểu là một cách để giảm việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Giảm tiêu thụ các vật thể là rất quan trọng, cũng như giảm việc sử dụng điện, nước và khí đốt để tạo ra các sản phẩm mới. Giảm có nghĩa là để sử dụng thấp hơn ngay từ đầu. Cắt giảm mua hàng bạn không thực sự cần giảm việc sử dụng vật liệu và cũng giảm chất thải năng lượng thông qua chi phí gas và vận chuyển. Giảm cũng có thể áp dụng trong các lĩnh vực khác của cuộc sống. Đi chung xe, đi xe đạp hoặc sử dụng phương tiện giao thông công cộng khi có thể. Hãy tắm ngắn hơn và yêu cầu cha mẹ của bạn thay thế các thiết bị cũ bằng các thiết bị Energy Star. – Nếu bạn xếp hàng các chai nhựa bị ném đi mỗi năm, chúng sẽ vòng quanh hành tinh của chúng ta bốn lần. – Năng lượng tiết kiệm được từ việc tái chế một chai thủy tinh có thể thắp sáng bóng đèn miễn là bốn giờ. – Tái chế tiết kiệm tiền cho cộng đồng. Bạn có biết rằng chi phí chỉ 30 mỗi tấn để tái chế hầu hết các vật liệu? Mặt khác, chi phí lên tới 50 mỗi tấn để đưa rác đến bãi rác. Phải mất 60 – 75 để đốt nó, gây ô nhiễm không khí. – Mọi người đã tái chế rác của họ trong hàng ngàn năm; các nền văn minh cổ đại sẽ làm tan chảy các sản phẩm kim loại cũ như dao và kiếm và các đồ gia dụng bằng kim loại khác nhau để tạo ra tiền xu và các mặt hàng mới khác. – Người điển hình sử dụng 17 cây mỗi năm trong các sản phẩm gỗ và giấy. Nhiều trong số những sản phẩm đó có thể được tái chế. – Chúng ta ném đủ giấy và gỗ hàng năm để sưởi ấm 50.000 ngôi nhà trong hai thập kỷ. – Người điển hình nhận được 500 mẩu thư rác hàng năm. Hầu hết điều này chỉ đơn giản là vứt đi. Phải mất hàng triệu cây để sản xuất tất cả các thư rác. – Tái chế túi nhựa bằng cách tái sử dụng chúng khi bạn ở cửa hàng tạp hóa hoặc mang theo túi vải có thể tái sử dụng. – Một nhôm duy nhất có thể ngồi trong bãi rác ít nhất 500 năm. Tất cả các lon nhôm có thể được thu mua phế liệu sau đó đi tái chế. – 17 triệu thùng dầu được sử dụng để sản xuất các chai nước bằng nhựa được tiêu thụ mỗi năm. Tái chế là rất quan trọng vì nhiều lý do ảnh hưởng đến tương lai của tất cả trẻ em. Ngày nay, hơn 500 triệu người tái chế. Đó là một cách dễ dàng để bảo vệ môi trường và kích thích nền kinh tế quốc gia. Điều quan trọng cần nhớ là tái chế vì những lý do sau:. Tái chế giúp giảm rác trong các bãi chôn lấp có thể mất hàng trăm năm để phân hủy. Nó cũng giúp bảo tồn cây bằng cách giảm nhu cầu giấy mới. Nếu chúng ta làm nhiều hơn để bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, chúng ta cũng giúp hỗ trợ động vật hoang dã để chúng ta tận hưởng trong suốt cuộc đời. Bán vật liệu được tái chế bù đắp chi phí bổ sung cho chế biến và thu thập vật liệu tái chế. Điều này làm cho nó trở thành một lựa chọn rẻ hơn cho hầu hết các cộng đồng Mỹ. Sử dụng vật liệu tái chế thay vì lấy nguyên liệu thô cho các sản phẩm mới tránh tác hại đến môi trường. Nó tránh khai thác mới cho kim loại, khoan dầu và khai thác hàng loạt cây. Sử dụng giấy trắng tái chế tạo ra ô nhiễm không khí ít hơn 75% và ô nhiễm nước ít hơn 35% so với làm giấy mới. Sử dụng lon tái chế tạo ra không khí ít hơn 95% và ô nhiễm nước ít hơn 97%. Chúng ta tái chế khoảng 30% chất thải mỗi năm. Điều này giúp tiết kiệm 12 tỷ gallon xăng và giảm khí thải nhà kính tương đương với việc loại bỏ 25 triệu xe hơi khỏi đường của chúng ta. Tái chế giúp các công ty giảm tiêu thụ năng lượng vì họ không phải sản xuất sản phẩm mới từ nguyên liệu thô. Họ có thể tái sử dụng tất cả các loại hàng hóa tái chế, bao gồm:. Khi xe chở rác đến khu phố của bạn để nhặt rác, họ mang nó đến bãi rác. Các bãi chôn lấp theo thời gian lấp đầy và có thể gây hại cho môi trường. Đối với mỗi một công việc tại bãi rác hoặc lò đốt rác, có 10 công việc tái chế và 25 công việc sản xuất dựa trên tái chế. Bạn có biết rằng ngành tái chế có nhiều công việc hơn ngành ô tô?. Có nhiều quy trình được sử dụng ngày nay để tái chế tất cả các loại chất thải. Dưới đây là thông tin thêm về cách các loại cụ thể được tái chế mỗi ngày. Một trong những thiết bị điện tử được tái chế phổ biến nhất là máy tính cũ. Các tổ chức từ thiện như Thiện chí chấp nhận những thứ như ổ cứng, máy tính, màn hình và máy in đã qua sử dụng. Thiết bị không còn hoạt động được tháo rời và kính, kim loại và nhựa được tái chế tại các cơ sở tái chế địa phương. Tạp chí và báo đã sử dụng được thu thập tại các điểm tái chế giấy và được đưa đến nhà máy giấy. Giấy trắng, chẳng hạn như từ các văn phòng, cũng được thu thập nhưng đây là một loại giấy khác và được tái chế riêng. Tại nhà máy giấy, băng chuyền lớn cung cấp giấy đã sử dụng cho nhà máy chuẩn bị sợi, nơi nó được đưa vào máy nghiền bột khổng lồ. Nước và hóa chất được trộn với giấy cũ và làm thành bột giấy. Điều này rửa mực và các chất gây ô nhiễm khác từ giấy. Kết quả là một loại giấy sũng nước, nhão gọi là bột giấy. Bột giấy được tiêm giữa các tấm lưới thép để tạo thành một tờ giấy ướt. Đây là giấy khô và giấy mới được làm từ giấy tái chế. Sau khi khô, giấy được đánh bóng và cuộn thành cuộn lớn. Một số trong số này rộng 30 feet và nặng tới 30 tấn! Các cuộn giấy được cắt thành các kích cỡ nhỏ và bán cho các công ty cần giấy cho sản phẩm của họ. Sự thật thú vị về tái chế giấy: Phải mất 17 cây để tạo ra một tấn giấy! Một số loại giấy có thể được tái chế bảy lần. Chai nhựa được tái chế được thu thập từ các điểm tái chế và từ các thùng tái chế trong khu phố của bạn. Các chai được lấy đi trong các xe tải lớn để được phân loại và đập thành các khối nhựa lớn. Các khối có thể dài nhiều feet và được đưa đến một yếu tố tái chế. Chúng được cắt thành những mảnh nhựa nhỏ – nghĩ những mảnh ngô nhỏ, nhiều màu sắc. Các mảnh được rửa và sấy khô và được nấu chảy và làm thành các vật phẩm nhựa mới. Sự thật thú vị về tái chế nhựa: Một chai nhựa tái chế có thể tiết kiệm nhiều năng lượng như cần thiết để thắp sáng bóng đèn 60 watt trong sáu giờ! Ngoài ra, chai nhựa cũ có thể được biến thành các sản phẩm mới như phụ tùng xe hơi, thảm và quần áo. Bạn có thể giúp ích cho môi trường từ chính những điều đơn giản nhất là thu gom các chai nhựa không dùng, có sẵn trong nhà và tiếp theo là đem đến nơi hỗ trợ dịch vụ thu mua phế liệu nhựa. Bạn sẽ phải bất ngờ về số tiền mình kiếm được cũng như lợi ích to lớn là bảo vệ môi trường đấy!. Thủy tinh đặc biệt quan trọng để tái chế vì nó sẽ không bao giờ bị phân hủy trong các bãi chôn lấp. Đây là cách nó có thể được tái chế:. Chai thủy tinh được ném vào thùng tái chế, và thủy tinh được nhặt trong xe tải và đưa đến cơ sở xử lý thủy tinh. Kính được phân loại bằng tay theo màu và rửa để loại bỏ chất gây ô nhiễm. Các chai thủy tinh được nghiền nát và tan chảy và đúc vào lọ và chai mới. Kính được gửi trở lại các cửa hàng trong các sản phẩm mới để được sử dụng lại. Sự thật thú vị về tái chế thủy tinh: Thủy tinh không suy giảm thông qua tái chế, vì vậy nó có thể được sử dụng vô tận. Ngoài ra, chai thủy tinh cũ có thể được sử dụng cho các sản phẩm mới như gạch và cho nhiều mục đích trang trí. Người tiêu dùng ném lon nhôm vào thùng tái chế. Nhôm được thu thập trong xe tải và đưa đến một nhà máy xử lý nhôm đặc biệt. Các lon nhôm và các mặt hàng khác được sắp xếp và làm sạch. Nó được làm lại và biến thành nhôm lỏng. Điều này loại bỏ các chất màu và lớp phủ. Nhôm được chế tạo thành các khối khổng lồ gọi là thỏi. Mỗi thỏi có khoảng 1,6 triệu lon nước uống bằng nhôm trong đó. Các thỏi được chuyển đến các nhà máy nơi chúng được lăn ra; điều này cung cấp cho nhôm với sức mạnh và tính linh hoạt hơn. Các tấm nhôm tái chế sau đó được chế tạo thành các vật chứa mới, như lon, bao bì thực phẩm và giấy gói sô cô la. Chỉ trong vài tuần, các sản phẩm nhôm tái chế đã trở lại trong các cửa hàng và sẵn sàng để được bán lại. Thực tế thú vị về tái chế nhôm: Hầu hết bauxite được sử dụng để sản xuất lon nhôm được khai thác trong các khu rừng nhiệt đới. Vì vậy, tái chế nhôm tiết kiệm rừng nhiệt đới quý giá của chúng ta!. Các tông đã qua sử dụng được lấy từ các trung tâm tái chế cộng đồng, văn phòng, cửa hàng và nhà máy. Tất cả các tông được gửi đến một công ty bìa cứng đặt nó vào các thùng lớn để vận chuyển nó đến nhà máy giấy.
Tái chế máy tính
Tái chế máy tính, tái chế điện tử hoặc tái chế chất thải điện tử là việc tháo rời và phân tách các thành phần và nguyên liệu thô của đồ điện tử đã qua sử dụng. Mặc dù các quy trình tái sử dụng, quyên góp và sửa chữa không được tái chế nghiêm ngặt, đây là các cách phổ biến để xử lý chất thải điện tử. Năm 2009, 38% máy tính và một phần tư tổng số chất thải điện tử được tái chế ở Hoa Kỳ. Từ khi được khởi xướng vào đầu những năm 1990, ngày càng có nhiều thiết bị được tái chế trên toàn thế giới nhờ nhận thức của người dân và các khoản quyên góp ngày càng tăng. Mục đích chủ yếu của tái chế điện tử là phục hồi các tài nguyên đang dần cạn kiệt như kim loại đất hiếm và kim loại quý, cũng như nhựa và kim loại. Chúng được bán lại hoặc được sử dụng cho các thiết bị mới sau quá trình làm sạch, từ đó tạo ra một nền kinh tế tuần hoàn.
Quản trị thương hiệu là công việc quản lý hình ảnh của thương hiệu mình làm sao để tăng độ tin cậy của hình ảnh của doanh nghiệp trong mắt khách hàng. Từ đó tạo tâm lý tin tưởng cho khách hàng để thiết lập nên mối quan hệ lâu dài với khách hàng tiềm năng của mình, biến khách hàng tiềm năng thành khách hàng thân thiết của công ty. Chính vì hình ảnh của thương hiệu trong mắt khách hàng rất quan trọng, nó quyết định khách hàng có mua hàng của công ty không cho nên mỗi doanh nghiệp cần duy trì, cải thiện chất lượng thương hiệu của mình để không làm khách hàng mất niềm tin vào thương hiệu của mình. Quản trị thương hiệu cần được tiến hành cải biến liên tục vì xã hội ngày một phát triển, hàng hóa thì đa dạng không ngừng, thị trường cạnh tranh khốc liệt. Quản trị thương hiệu là công việc cần thiết trong tình hình nền kinh tế xã hội như hiện nay, nó sẽ giúp củng cố niềm tin nơi khách hàng về doanh nghiệp. Công việc phát triển quản trị thương hiệu ngày nay là điều quyết định tiên quyết sống còn cho mọi doanh nghiệp, doanh nghiệp nào muốn hoạt động tốt, có nhiều doanh thu lãi mẹ đẻ lãi con thì cần phải quản trị thương hiệu thật tốt. Muốn phát triển thương hiệu tốt còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác biệt. Thế kỷ 21 rồi, doanh nghiệp nào cũng cần xây dựng thương hiệu cho công ty mình để tạo nên bản sắc riêng không lẫn vào đâu được của doanh nghiệp. Làm sao để khách hàng hài lòng với doanh nghiệp đồng thời tránh rủi ro trong quản lý thương hiệu chính là bạn phải biết truyền đạt thông điệp đúng cách. Nhiệm vụ của nhân viên quản trị thương hiệu là phải đảm bảo tên doanh nghiệp và tên miền trên web của công ty bạn truyền đạt đúng thông điệp mà doanh nghiệp của bạn muốn hướng độc giả biết đến. Tuy nhiên, khi thực hiện việc chuyển tên miền sang tên miền khác đáng nhớ hơn, họ không chỉ tăng sức cạnh tranh lên trên đối thủ cạnh tranh lớn mà còn làm thương hiệu của họ nổi bật hơn. Phương pháp này giúp người dùng có dịp để tiến hành trải nghiệm và ghi lại dấu ấn đáng nhớ hơn về thương hiệu đó trong óc của khách hàng. Nhân viên làm marketing của công ty bạn phải chú ý chăm sóc tới những đơn vị có thẩm quyền làm việc đánh giá chất lượng thương hiệu của công ty bạn. Nếu cần giúp đỡ khẩn cấp bạn có thể nhờ vào mối quan hệ với bộ phận này để trợ giúp. Bạn có thể nhờ các chuyên gia vào đánh giá thương hiệu của bạn để sản phẩm công ty bạn sản xuất có được sự kiểm chứng đáng tin cậy từ các cơ quan chức năng, để từ đó xây dựng niềm tin của khách hàng với thương hiệu của bạn ngày một bền vững tới không thể đạp đổ. Bạn không cần phải chi quá nhiều tiền cho những đơn vị kiểm định chất lượng như thế mà bạn có thể bắt đầu xây dựng các mối quan hệ với các blog có thẩm quyền cũng là một cách để kiểm định chất lượng của thương hiệu. Đôi khi, để có được bảo hiểm và sự đánh giá tốt bạn sẽ phải trả tiền và đôi khi bạn sẽ nhận được sự kiểm định tốt một cách miễn phí thông qua việc xây dựng mối quan hệ và quảng bá thương hiệu của bạn vào đúng thời điểm. Tuy nhiên, bài học mà bạn không bao giờ được quên đó chính là làm mọi cách để chắc chắn rằng bạn kiểm soát được những lời ra tiếng vào mà mọi người nói về thương hiệu của bạn trên các trang mạng xã hội, tối thiểu là phải kiểm soát được ở một mức độ nhất định nếu là tất cả thì càng tốt. Nếu bạn chưa tạo được một bộ hồ sơ của doanh nghiệp mình trên các trang web truyền thông xã hội, ngay bây giờ là lúc bạn cần phải xây dựng hồ sơ của công ty bạn. Quản trị thương hiệu là gì? Là bạn sẽ phải tạo một hồ sơ chi tiết đăng lên các mạng xã hội như FB, Twitter. Hầu hết nào là từ Facebook đến Twitter đều có tên miền được google xếp top cao. Nếu bạn có hồ sơ thương hiệu đang hiển thị trên Twitter, Facebook, Google+ và các mạng xã hội có giá trị khác, thì khả năng cao là hồ sơ này cũng sẽ được hiển thị trên google khi ai đó cố gắng tìm kiếm thông tin về hàng hóa công ty bạn đang bán đấy. Hiện nay, tầm quan trọng của content marketing là vô cùng vô tận mà doanh nghiệp nào cũng đều nhận ra tầm quan trọng đó. Thay vì đau buồn với các đánh giá không hay do khách hàng để lại bình luận về doanh nghiệp của bạn, bạn có thể chú ý xây dựng blog của riêng công ty bạn. Hãy tận dụng các bài viết trên blog để nâng tầm thương hiệu của bạn, giúp doanh nghiệp tiếp cận với lượng khách hàng lớn. Những đánh giá trên blog sẽ quyết định rất nhiều hành vi mua hàng hóa của khách hàng đấy. Dần dần, các hồ sơ có thẩm quyền của công ty bạn sẽ được tạo ra, nội dung trên các trang web này và hồ sơ của bạn ngày càng dày đặc và chi tiết , cuối cùng khách hàng sẽ tiến hành xếp hạng cho các cụm từ khóa có liên quan hay thể hiện đặc trưng thương hiệu của bạn. Để quản trị thương hiệu tốt, bạn cần cho khách hàng biết rằng sản phẩm và dịch vụ của bạn là số một và đặc biệt hơn so với các dòng sản phẩm tương tự khác. Mặc dù các phương án nâng cao thương hiệu được trình bày ở trên có thể giúp doanh nghiệp của bạn duy trì niềm tin thương hiệu trong một khoảng thời gian nhất định nhưng nếu sản phẩm hoặc dịch vụ của bạn không đặc biệt, số người phản hồi tiêu cực về dịch vụ của bạn ngày càng tăng cao thì thương hiệu của bạn cũng không thể cứu vãn được. Nếu sản phẩm của công ty bạn mang lại trải nghiệm tốt cho khách hàng của bạn thì tự họ sẽ tìm mọi cách để phản hồi tốt về doanh nghiệp của bạn trên khắp các mạng xã hội từ đó nâng cao tầm ảnh hưởng của thương hiệu của bạn.
Quản trị thương hiệu
Trong Marketing, quản trị thương hiệu là phân tích và lên kế hoạch để thương hiệu được nhận diện trên thị trường. Sự phát triển mối quan hệ tốt với thị trường mục tiêu là điều cần thiết cho quản trị thương hiệu. Các yếu tố hữu hình của quản trị thương hiệu bao gồm sản phẩm, bề ngoài, giá cả, đóng gói.Các yếu tố vô hình được thể hiện qua việc hiểu biết về thương hiệu của khách hàng cũng như mối quan hệ giữa họ và thương hiệu đó. Một người quản trị thương hiệu sẽ phải nhìn bao quát được tất cả mọi thứ. Nguồn gốc của thương hiệu có thể được tìm thấy từ thời cổ đại, khi mà các nhà chuyên môn thường đặt thương hiệu cá nhân trên các hàng hóa thủ công. Việc xây dựng thương hiệu của động vật nông nghiệp tại Ai Cập vào năm 2700 trước công nguyên dùng để tránh trộm cắp được xem là một hình thức sớm nhất của thương hiệu, đúng theo nghĩa đen của nó. Như hơn một nửa các công ty lớn hơn 200 tuổi tại Nhật Bản (đọc Danh sách các công ty lâu đời nhất),nhiều hình thức doanh nghiệp “mon” hoặc con dấu là một hình thức thương hiệu hay nhãn hiệu của Đông Á.
(Tiếng Nga: “притча”; tiếng Pháp “parabole”.- ND) là thể tự sự cỡ nhỏ, mang tính quá độ, chuyển từ folklore qua văn học viết. Khác với giai thoại (tiếng Nga “анекдот”; tiếng Pháp “anecdote”.- ND), nhưng giống với ngụ ngôn (tiếng Nga “басня”, tiếng Pháp: “fable”.- ND), DỤ NGÔN là câu chuyện bóng gió về một trường hợp không phải là sự hiếu kì, mà là minh chứng hiển nhiên cho một qui luật phổ quát buộc người ta phải tuân thủ, chứ không khiến người ta kinh ngạc (do đó, DỤ NGÔN bao giờ cũng nghiêm túc, có tính chất giáo huấn, khác hẳn giọng bỡn cợt của giai thoại, còn tính cách và giọng điệu của ngụ ngôn lại có tính hai mặt). Trong DỤ NGÔN, hai bình diện mô tả – cụ thể và phổ quát – hoàn toàn độc lập và bình đẳng với nhau (trong ngụ ngôn, bình diện cụ thể giữ vai trò chủ đạo), chúng nối kết với nhau theo nguyên tắc đối sánh và song hành, chứ không theo nguyên tắc hoán dụ (“câu chuyện” trong ngụ ngôn là sự minh họa cho những chuẩn mực phổ quát, đồng thời cũng hết sức ước lệ và ẩn ý của nó thoạt nghe là thấy ngay); dù mang tính sơ đồ thế nào, các nhân vật DỤ NGÔN bao giờ cũng “hiện lên trước mắt ta như những chủ thể lựa chọn luân lí”, chứ không phải như những khách thể quan sát nghệ thuật (S.S. Averinsev), trong khi đó, các nhân vật ngụ ngôn lại hành động đúng theo vai có sẵn của nó (những hình tượng mang tính biểu trưng, như lừa, sư tử…). Tình huống lựa chọn của nhân vật và việc đánh giá sự lựa chọn ấy của người kể chuyện và người nghe xét theo quan điểm các chuẩn mực đạo đức đáng tin cậy tuyệt đối sẽ là tiêu chí đối sánh hai bình diện của dụ ngôn, là hạt nhân ngữ nghĩa của thể loại làm nên tổng thể các đặc điểm cấu trúc cố định của nó. Cả trong nguồn cội của nó, lẫn trong suốt lịch sự tồn tại lâu dài nhiều thế kỉ, DỤ NGÔN có một số biến thể chính được thực hiện vừa như những khả năng phân cực được hình thành trong cấu trúc thể loại, vừa như mực thước riêng của mình. Trước hết, có sự khác nhau giữa DỤ NGÔN “cỡ lớn” và DỤ NGÔN “cỡ nhỏ”, giữa “trần thuật mở rộng về một chuỗi sự kiện” và “trần thuật tĩnh lược hoặc châm ngôn”. Ở cực này, trong một câu chuyện tối giản, sự giảm thiểu văn bản và chuyện kể đến một giới hạn nào đó vẫn phải dừng lại, vì nếu vượt quá, tính hai bình diện sẽ bị phá vỡ: sự phản ánh dưới hình thức châm ngôn về “sự lựa chọn của cá nhân giữa các tình huống lựa chọn”. Rốt cục, dụ ngôn bị biến thành tỉ dụ giống như tục ngữ (chỉ khác tục ngữ ở chỗ, nó cần có sự bình chú và diễn giải), hoặc trở thành sự minh họa một chiều cho tư tưởng trong việc giáo huấn, thuyết giảng – trong trường hợp này, có thể không cần tới sự diễn giải, vì bình diện thứ hai đã bị thay thế bởi ngữ cảnh luận giải. Thí dụ tiêu biểu cho trường hợp này là DỤ NGÔN trong Truyện về Akire Thông thái: “Con trai giống như chú hươu húc dầu vào núi, tự bẻ gẫy sừng mình” (Dụ ngôn Nga cổ). Chính những DỤ NGÔN như thế đã tập hợp thành Sách dụ ngôn Solomon” và những văn bản tương tự như vậy. Ở cực kia, câu chuyện mở rộng truyện kể, DỤ NGÔN bao gồm hàng loạt nhân vật với những chức năng khác nhau, nó có ý nghĩa hoàn toàn độc lập. Nó được tiếp nhận không giống như một thí dụ – đối sánh, mà như một câu chuyện truyền thống đặc biệt, ở đó nội dung trung tâm là sự thử thách của nhân vật (tức là kết quả việc lựa chọn của nó), đồng thời, trong trường hợp này, sự lựa chọn luân lí được thực hiện bằng một trong số phương án lựa chọn đường đời, chứ không phải lựa chọn hành vi. Về phía mình, người kể chuyện và người nghe sẽ đánh giá kết quả của sự thử thách. Có thể tìm thấy những DỤ NGÔN như thế, ví như, trong Cựu ước: Sách Job, Sách Tiên tri Jonah; trong Tân ước: DỤ NGÔN về đứa con hoang đàng, vô số truyện về các nhà truyền giáo trong Akade, hoặc Philokalia. Nhưng việc mở rộng DỤ NGÔN thành câu chuyện về sự thử thách cũng có giới hạn riêng, nếu vượt ra ngoài, cấu trúc hai mặt của nó cũng bị xóa bỏ, khi ấy thể loại sẽ thành truyện vừa. Biến thể trung gian (theo nghĩa, trung tâm) là loại DỤ NGÔN gần nhất với khái niệm “parabole” (vừa có nghĩa là đường “parabole”, vừa có nghĩa là văn bản “dụ ngôn”.- ND), tức là, việc mở rộng câu chuyện “giống như theo đường cong, bắt đầu và kết thúc ở cùng một đối tượng, nhưng đến phần giữa lại tách xa tưởng như tới một khách thể hoàn toàn khác”. Nói cách khác, bản thân truyện kể (theo kiểu xâu chuỗi) được tổ chức qua quan hệ tương liên và tương tác của hai bình diện đối lập với nhau. DỤ NGÔN của Đức Kitô về hạt cải thuộc loại như thế: câu chuyện bắt đầu bằng sự giống nhau giữa Xứ sở Thiên Đàng với hạt cải, tiếp theo là câu chuyện về hạt cải mà con người “đem ra gieo trên thửa ruộng của mình” lớn lên, nhưng vốn chỉ là một hạt giống, nó hóa thành một cái cây, và câu chuyện kết thúc bằng cảnh những con “chim trời” bay về trú ẩn trên cành của cái cây ấy. Rõ ràng, câu chuyện này là một chỉnh thể – hình tượng phúng dụ về mối liên hệ nội tại với Bầu Trời phát triển dần lên và về sự thấm nhuần của người có đức tin đối Xứ sở Thiên Đàng ngày một lớn thêm: của người lựa chọn đức tin và nuôi dưỡng nó trong tâm hồn mình. Chỉnh thể hữu cơ của một cấu trúc như thế, khoảng cách đều nhau giữa hai thái cực như đã được cắt nghĩa ở trên cắt nghĩa vì sao bất kì loại DỤ NGÔN nào cũng được các từ điển tra cứu ở phương Tây diễn giải như là parabol (ngụ ngôn). Số phận lịch sử của DỤ NGÔN (trong phạm vi văn hóa châu Âu) có thể chia thành hai giai đoạn. Trước thế kỉ XVIII, thể văn này hoạt động theo truyền thống – tất cả có ba biến thể, vừa hoạt dộng độc lập, vừa là bộ phận của văn thuyết giáo và văn giáo huấn. Bước ngoặt diễn ra ở thời đại Khai sáng, khi hiện thực lịch sử được nhận thức không chỉ như một hiện thực kinh nghiệm, mà còn như hiện thực có quy luật riêng (có thể biện giải bằng truyền thuyết và phong tục): do đó, xuất hiện xung đột gay gắp giữa hiện thực lịch sử và chuẩn mực đạo đức muôn thủa. Từ cơ sở thế giới quan phi truyền thống này (trên nền văn hóa Kitô giáo thời trung đại), dần dần hình thành hai nguyên tắc và hai con đường sử dụng DỤ NGÔN trong biến thể mở rộng của nó (nền tảng là truyện kể thử thách). Thứ nhất, nó trở thành mô hình (mẫu gốc) được dùng, hoặc là để tạo ra các DỤ NGÔN mới, DỤ NGÔN có tác giả, nhất là trong sáng tác của L. Tolstoi thời kì cuối (ví như Ba dụ ngôn, Vua Esarhaddon của Assyria), trong sáng tác của Franz Kafka (Cây cầu), hoặc là để tăng cường tính chất DỤ NGÔN cho các thể loại khác. Trong văn học Nga, mô hình DỤ NGÔN đã trở thành qui tắc thể loại của truyện vừa, quy tắc này hình thành ở thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX; trong truyền thống châu Âu, nó là cơ sở của truyện triết học (từ Voltaire qua Ghersen (Bác sĩ Kupov), Dostoievski (Giấc mơ của người lố bịch) và L. Tolstoi (Người ta sống bằng gì?) Xin nhấn mạnh, rằng trong những trường hợp như thế, tiểu thuyết xích lại gần truyện vừa. Thứ hai, DỤ NGÔN trở thành một trong những thể loại lồng ghép hết sức phổ biến trong truyện vừa (Người con gái viên đại úy của Pushkin, Cây thập ác và Karma của L. Tolstoi), trong tiểu thuyết (câu chuyện về Kif Mokievich và Moki Kifovich trong Những linh hồn chết của Gogol, về Cổng Luật trong Vụ án của Kafka), cũng như trong truyện ngắn (Sinh viên của Chekhov, Trẻ và Già của Bunhin), trong kịch (M. Gorki, Bertolt Brecht). Đôi khi cả hai tuyến nói trên giao cắt nhau: tác phẩm vừa có bản chất DỤ NGÔN, vừa có DỤ NGÔN truyền thống được lồng vào (Phục sinh của L. Tolstoi).
Ngụ ngôn
Ngụ ngôn là một thể loại của văn học giáo huấn, mang nội dung đạo đức,giáo dục có hình thức thơ hoặc văn xuôi tương đối ngắn, sử dụng phúng dụ như một nguyên tắc tổ chức tác phẩm. Ngụ ngôn là một trong những thể loại tự sự cổ xưa nhất, ở olklore của mọi dân tộc đều có thơ hoặc truyện ngụ ngôn. Ngụ ngôn xuất hiện trước công nguyên trong kho tàng văn hóa các dân tộc như Hy Lạp, Ấn Độ, Ai Cập, Trung Hoa. và xa xưa nhất có thể tính đến là những tác phẩm ngụ ngôn nửa thực nửa truyền thuyết tương truyền do Ezop sáng tác, có tầm ảnh hưởng sâu rộng sang cả vùng Trung Đông rồi ngược về phương Tây với Panchatantra của Ấn Độ thế kỷ 3 trước công nguyên, Calila và Dimna thế kỷ 8 ở Syria, Arab; Stefanit và Ichnilat ở Byzance và Nga v.v. Một dòng khác tiếp tục tồn tại ở đế chế La Mã, vùng Tây Âu thời trung đại với Romul bằng tiếng Latinh, Isopette bằng tiếng Pháp, và cận đại với ngụ ngôn J. La Fontaine, K. F. Hellert, T. de Iriarte, L. Holberg, I. Krasicki v.v.).