source
stringlengths
3
14.5k
summary keyword
stringlengths
3
90
summary
stringlengths
265
1.86k
Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT): Là một hình thức tâm lý trị liệu giúp bệnh nhân hiểu rõ sự ảnh hưởng của suy nghĩ và cảm xúc lên hành vi. CBT thường được sử dụng để điều trị các rối liên quan đến sợ hãi, nghiện, trầm cảm và lo âu. Thông thường sẽ qua 3 bước: Suy nghĩ à Cảm xúc à Hành động, do vậy CBT can thiệp ngay ở bước Suy nghĩ, nếu Suy nghĩ tốt thì Cảm xúc tốt và Hành động sẽ tốt, quá trình này như 1 phản ứng dây chuyền. CBT thường được áp dụng trong một khoảng thời gian ngắn và tập trung giúp bệnh nhân đương đầu với một vấn đề cụ thể. Trong suốt quá trình điều trị, bệnh nhân sẽ học cách xác định và thay đổi các suy nghĩ tiêu cực gây ảnh hưởng xấu lên hành vi và cảm xúc. Nội dung cốt lõi của CBT: chính là suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta đóng một vai trò căn bản trong việc quyết định các hành vi mà ta thể hiện. Ví dụ, nếu một người dành nhiều thời gian suy nghĩ về một vụ rơi máy bay, tai nạn trên đường băng hay các thảm họa hàng không thì người này sẽ tránh né việc di chuyển bằng máy bay. Mục tiêu của CBT: Giúp cho bệnh nhân hiểu rằng mặc dù không thể điều khiển tất cả mọi thứ nhưng họ có thể kiểm soát cách mà họ hiểu, tiếp nhận và giải quyết các vấn đề trong cuộc sống của chính họ. Giá trị của CBT: Là một lựa chọn điều trị ngắn hạn, giúp bệnh nhân tiết kiệm chi phí hơn các liệu pháp khác. CBT cũng được chứng minh tính hiệu quả thông qua thực nghiệm và có thể giúp bệnh nhân vượt qua và loại bỏ được hàng loạt các hành vi không tốt. CBT đã và đang được sử dụng để điều trị cho một loạt các rối loạn bao gồm lo âu, sợ hãi và trầm cảm. CBT là một trong những liệu pháp được nghiên cứu kỹ lưỡng nhất và kết quả có thể được đo lường khá dễ dàng. Với sự nỗ lực không ngừng trong chăm sóc sức khỏe nói chung và chăm sóc sức khỏe tâm thần nói riêng, cùng sự tin yêu, tín nhiệm của khách hàng. Chúng tôi luôn mong muốn và khao khát những giá trị của y học hiện đại kết hợp y học cổ truyền vào trong cuộc sống hàng ngày. Vmood Vì sức khỏe cộng đồng đã trở thành địa chỉ tin cậy và dần nhận được sự tin tưởng cao từ khách hàng.
Liệu pháp nhận thức
Liệu pháp nhận thức hay trị liệu nhận thức (Cognitive Therapy) là một loại tâm lý trị liệu được phát triển bởi bác sĩ tâm thần người Mỹ Aaron T. Beck. CT là một trong những phương pháp trị liệu trong nhóm lớn hơn các liệu pháp hành vi nhận thức (CBT) và lần đầu tiên được Beck trình bày vào những năm 1960. Trị liệu nhận thức dựa trên mô hình nhận thức, trong đó nêu rõ rằng suy nghĩ, cảm xúc và hành vi đều được kết nối và các cá nhân có thể tiến tới vượt qua khó khăn và đáp ứng mục tiêu của họ bằng cách xác định và thay đổi suy nghĩ không có ích hoặc không chính xác, hành vi có vấn đề và phản ứng cảm xúc đau khổ. Điều này liên quan đến việc cá nhân hợp tác với nhà trị liệu để phát triển các kỹ năng kiểm tra và sửa đổi niềm tin, xác định suy nghĩ lệch lạc, liên quan đến người khác theo những cách khác nhau và thay đổi hành vi. Một khái niệm trường hợp nhận thức phù hợp được nhà trị liệu nhận thức phát triển như một lộ trình để hiểu thực tế bên trong của cá nhân, chọn các biện pháp can thiệp phù hợp và xác định các khu vực căng thẳng.
V.I.Lênin bàn về chuyên chính vô sản và ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay. Chuyên chính vô sản là nội dung quan trọng trong di sản lý luận và thực tiễn cách mạng của V.I. Lênin sau Cách mạng Tháng Mười. Đây là vấn đề cơ bản cần giải quyết trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đặc biệt ở những nước không qua giai đoạn phát triển TBCN như Việt Nam. Tuy nhiên, trước đây do chúng ta nhận thức chưa đầy đủ về vấn đề này nên vận dụng còn cực đoan, máy móc. Trong tình hình mới hiện nay, cần tiếp tục nhận thức và vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I. Lênin về chuyên chính vô sản nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy dân chủ XHCN; thực hiện tốt liên minh công nông trên cơ sở đảm bảo lợi ích của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội; phát triển lực lượng sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý nhằm tăng năng suất lao động. V.I. Lênin là học trò xuất sắc của C.Mác và Ph.Ăngghen, là lãnh tụ vĩ đại của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Công lao to lớn của V.I. Lênin là tiếp thu và phát triển sáng tạo những di sản lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện mới, đồng thời biến những di sản lý luận đó thành hiện thực cách mạng XHCN ở nước Nga. Trong hệ thống lý luận đó, vấn đề chuyên chính vô sản là một trong những lý luận quan trọng nhất, nó được V.I. Lênin kế thừa, vận dụng và bổ sung trong quá trình tổng kết thực tiễn cách mạng nước Nga. Nghiên cứu tư tưởng của V.I. Lênin về chuyên chính vô sản, có thể khái quát ở một số nội dung cơ bản sau:. Một là, về tính tất yếu của chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ. Sau Cách mạng Tháng Mười, trên cơ sở phân tích đặc trưng kinh tế, chính trị của thời kỳ quá độ ở nước Nga, V.I. Lênin đã nêu rõ quan điểm về tính tất yếu của chuyên chính vô sản. Theo V.I. Lênin, cơ cấu kinh tế thời kỳ quá độ ở nước Nga Xô viết gồm 5 thành phần kinh tế, trong đó còn: chủ nghĩa tư bản tư nhân và chủ nghĩa tư bản nhà nước, tức là còn đối kháng giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trong thời kỳ ấy, giai cấp vô sản đã trở thành giai cấp thống trị, nắm chính quyền nhà nước, chi phối tư liệu sản xuất chủ yếu, lãnh đạo các phần tử trung gian và giai cấp trung gian đang bấp bênh chao đảo, trấn áp sự chống đối ngày càng quyết liệt của bọn bóc lột. Còn giai cấp bóc lột trong thời kỳ quá độ là giai cấp, về chính trị đã bị lật đổ, về kinh tế đã bị tước đoạt tư liệu sản xuất chủ yếu. Chúng tuy “đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt. Chính vì chúng đã thất bại, nên sức phản kháng của chúng càng tăng lên, gấp trăm, gấp nghìn lần. “Nghệ thuật” quản lý nhà nước, quân đội, kinh tế tạo cho chúng một ưu thế rất và rất lớn, khiến cho tác dụng của chúng vô cùng to lớn hơn là số lượng của chúng trong toàn thể dân số”(1). Còn nông dân và những người tiểu tư sản khác là người lao động lại là người tư hữu, địa vị kinh tế đó tất nhiên khiến cho họ chao đảo giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Trên cơ sở phân tích như vậy, V.I. Lênin đã chứng minh tính tất yếu của chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ: “. chuyên chính của một giai cấp là tất yếu không những cho mọi xã hội có giai cấp nói chung, không những cho giai cấp vô sản sau khi đã lật đổ giai cấp tư sản, mà còn cho thời kỳ lịch sử từ chế độ tư bản chủ nghĩa đến “xã hội không có giai cấp”, đến chế độ cộng sản chủ nghĩa”(2). Trong lời tựa tác phẩm: Người ta bịp nhân dân bằng những khẩu hiệu tự do và bình đẳng, V.I. Lênin nói rõ thêm, chuyên chính là tất yếu trong xã hội còn tồn tại giai cấp. Chuyên chính vô sản là cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản đã giành được thắng lợi, đã giành được chính quyền chống lại giai cấp tư sản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn. Thực tiễn lịch sử xã hội loài người cũng đã chứng minh, mọi xã hội còn sự phân chia giai cấp là còn tồn tại chuyên chính. Ở các nước TBCN hiện nay, mặc dù tiềm lực kinh tế, chính trị của họ rất lớn, nhưng họ vẫn luôn thực hiện và thường xuyên tăng cường chuyên chính của mình. Chẳng hạn, cùng với những thể chế dân chủ vốn có, những thích nghi của nhà nước tư sản đã tạo cho nó một bộ mặt dân chủ hơn, đỡ tàn bạo và hà khắc hơn so với mấy thập kỷ trước. Nếu vào những năm 1950 - 1960 và những năm đầu của thập kỷ 70, các nhà nước tư sản sẵn sàng đối phó bằng bạo lực đối với phong trào giải phóng dân tộc (Công-gô 1963), phong trào dân chủ và XHCN (Chilê 1973) thì ngày nay, nhà nước tư sản cố tránh tình trạng sử dụng bạo lực trực tiếp như vậy. Bên cạnh đó, các chương trình viện trợ phát triển, viện trợ nhân đạo đã mang lại không ít những nét tiến bộ cho nhà nước tư sản, kể cả dưới góc độ chính trị, kinh tế lẫn góc độ tâm lý, xã hội. Nhà nước tư sản cũng đã thay đổi nhiều do áp lực của các phong trào dân chủ và độc lập dân tộc. Tuy nhiên, nhà nước tư sản bao giờ cũng là công cụ để duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, chống lại giai cấp vô sản và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Như V.I.Lênin đã từng khẳng định: “Những hình thức của nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau nhưng thực chất chỉ là một. Chung quy lại thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản”(3). Thực tế những năm gần đây chứng minh điều này, khi chính phủ các nước tư bản đua nhau tăng chi phí cho quân đội, cho nền chuyên chính tư sản. Chẳng hạn, chính quyền của Tổng thống Mỹ G.W.Busơ liên tục tăng ngân sách quốc phòng (năm 2008, chi phí quân sự của Mỹ khoảng 716,5 tỷ USD, chiếm 1/2 chi phí quân sự của toàn thế giới). Các nước Pháp, Đức, Nhật Bản. cũng nằm trong nhóm nước có chi phí cho quân đội lớn nhất từ trước đến nay. Việc tăng chi phí cho quân đội với mục đích gì? nếu không phải là tập trung cho chuyên chính tư sản? Điều đó cho thấy, tồn tại chuyên chính trong nhà nước là tất yếu và việc tồn tại chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên CNXH là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin đã khẳng định: Xô viết là hình thức tốt nhất của chuyên chính vô sản ở nước Nga. Đồng thời, Người cũng nhắc nhở rằng, mỗi một dân tộc khi trải qua chế độ XHCN sẽ sáng tạo ra những hình thức tổ chức nhà nước chuyên chính vô sản thích hợp với đặc điểm của dân tộc mình, “Vì nước ta là một nước tiểu tư sản và rất lạc hậu, cho nên nền chuyên chính vô sản ở Nga tất nhiên phải có một số đặc điểm khác với các nước tiên tiến”(4). Do đó, việc tồn tại các hình thức chuyên chính vô sản của mỗi dân tộc không thể hoàn toàn giống nhau. Những người cộng sản các nước phương Đông không nên sao chép một cách máy móc kinh nghiệm của nước Nga mà phải nắm vững đặc điểm của dân tộc mình để xác định hình thức cụ thể của cách mạng và chính quyền nước mình. Trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, V.I. Lênin lại có những định nghĩa khác nhau về chuyên chính vô sản. Do vậy, muốn nắm chính xác thực chất tư tưởng của V.I. Lênin về chuyên chính vô sản, không thể thoát ly hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, nếu không sẽ hiểu về chuyên chính vô sản phiến diện, thậm chí có thể làm cho tư tưởng chuyên chính vô sản của V.I. Lênin tự mâu thuẫn nhau, trái ngược nhau. Những năm đầu Cách mạng Tháng Mười, V.I. Lênin đặc biệt nhấn mạnh tính chất và chức năng trấn áp bằng bạo lực của chuyên chính vô sản: “Chuyên chính là một chính quyền dựa trực tiếp vào bạo lực và không bị một luật pháp nào hạn chế cả”(5). V.I. Lênin khẳng định: “Chuyên chính vô sản là một thuật ngữ khoa học quy định giai cấp nào là giai cấp có tác dụng quyết định về mặt này, cũng như quy định hình thức đặc thù của chính quyền nhà nước được gọi là chuyên chính, tức là: một chính quyền không dựa vào luật pháp, không dựa vào các cuộc bầu cử, mà trực tiếp dựa vào lực lượng vũ trang của bộ phận này hay bộ phận khác trong dân chúng. Ý nghĩa và tác dụng của chuyên chính vô sản là ở chỗ nào? Chính là ở chỗ đập tan sự phản kháng của bọn tư bản!”(6). Cần nhấn mạnh chức năng bạo lực trong giai đoạn này vì giai cấp bóc lột tuy đã bị lật đổ nhưng luôn nuôi hy vọng trở lại cầm quyền và muốn biến hy vọng đó thành hoạt động lật đổ. Hơn nữa, khi một xã hội mới hình thành, bên cạnh những nhân tố mới, tiến bộ, thì những tàn dư lạc hậu của xã hội cũ, những phần tử hủ bại. vẫn chưa mất đi hẳn, chúng ẩn dật, chờ thời cơ để thực hiện những hoạt động chống phá chính quyền cách mạng. Do đó, để bảo vệ chính quyền Xô viết non trẻ thì cần thực hiện chuyên chính vô sản, thậm chí nếu cần thiết thì phải có bàn tay sắt. Sau này, trước sự công kích của bọn Cauxky và giai cấp tư sản coi chuyên chính vô sản và Chính quyền Xô viết chỉ thuần túy là bạo lực, V.I. Lênin đã chỉ rõ, thực chất của “Chuyên chính không phải chỉ có nghĩa là bạo lực”(7) mà “chuyên chính của giai cấp vô sản nhất thiết phải đưa đến chỗ không những thay đổi hình thức và những thiết chế dân chủ nói chung, mà chính là phải thay đổi chúng thế nào để mở rộng nền dân chủ đến một mức độ chưa từng có trên thế giới cho những giai cấp lao động bị chủ nghĩa tư bản áp bức”(8). Khẳng định điều này, V.I. Lênin đã cho chúng ta thấy, trong cách mạng vô sản và sau Cách mạng Tháng Muời, do đất nước còn nhiều các thế lực chống đối, phản động thì tất yếu phải sử dụng bạo lực. Nhưng sau khi cách mạng đã thành công và đất nước dần đi vào ổn định thì thực hiện chuyên chính vô sản không chỉ là dùng bạo lực, không chỉ là sử dụng công cụ quân đội, cảnh sát để trấn áp các thế lực phản động, mà quan trọng hơn là xây dựng chính quyền, mở rộng dân chủ cho nhân dân lao động. Nói cách khác, chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ là xây dựng chính quyền nhà nước dân chủ kiểu mới, dân chủ thực chất hơn, tiến bộ hơn chính quyền chuyên chính tư sản, như V.I. Lênin viết: “. nhà nước trong thời kỳ đó tất nhiên phải là một nhà nước dân chủ kiểu mới (dân chủ đối với những người vô sản và nói chung những người không có của), và chuyên chính kiểu mới (chống giai cấp tư sản)”(9).
Chuyên chính vô sản
Chuyên chính vô sản hay nền chuyên chính vô sản là một lý thuyết của chủ nghĩa Marx là một bộ phận quan trọng của chủ nghĩa cộng sản khoa học theo đó chuyên chính vô sản là việc giai cấp công nhân nắm quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản để tiến hành xây dựng một xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính với những phần tử thù địch, chống lại nhân dân. Chuyên chính vô sản được những người cộng sản cho là một trong những tư tưởng đặc sắc và trọng yếu nhất của chủ nghĩa Marx về vấn đề Nhà nước, là đỉnh cao của vai trò cách mạng của giai cấp vô sản trong lịch sử và là sự phát triển của Lý luận về Nhà nước mà Karl Marx đề ra và được những người kế thừa tư tưởng của ông phát triển. Khái niệm Chuyên chính vô sản lần đầu xuất hiện trong loạt bài Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 - 1850 của Marx xuất bản lần đầu năm 1850.
Tôi cảm thấy khó mà định nghĩa được chân lý là gì. Một vài người bạn của tôi nói rằng chân lý là điều mà hầu hết mọi người cùng nghĩ như nhau. Nhưng điều đó đối với tôi thật vô nghĩa, bởi vì đôi khi đa số lại sai lầm. Thậm chí những gì mà mọi người cùng đồng ý có thể không phải là chân lý. Hẳn phải có những định nghĩa tốt hơn về chân lý?. Ông hoàn toàn đúng khi cảm thấy không thỏa mãn. Bạn bè ông đã không đi tới một định nghĩa về chân lý, họ mới đến được một trong những dấu hiệu của chân lý. Tuy nhiên trong một số trường hợp việc đa số người khẳng định điều gì đó về chân lý là một chỉ dẫn cho thấy nó có thể là chân lý. Nhưng đây chỉ là một trong những dấu hiệu của chân lý, và hoàn toàn không phải là dấu hiệu tốt nhất. Nó không trả lời được câu hỏi của ông và của Pilate(1) – “Chân lý là gì?”. Xem xét cái gì dính dáng tới việc nói dối có thể sẽ giúp cho chúng ta hiểu được bản chất của chân lý. Nếu một người đàn ông nói với một người phụ nữ “Tôi yêu em” nhưng ông ta không yêu, thì ông ta đang nói dối. Khi một đứa trẻ đã lấy trộm hộp bánh nhưng lại nói với mẹ nó “Con không lấy” thì nó đang nói dối. Nói dối là nói trái với những gì bạn biết, bạn nghĩ hoặc cảm nhận. Nó khác với sự lầm lẫn thành thực, chẳng hạn một trọng tài phạt một cầu thủ phạm lỗi trong khi thực sự cầu thủ ấy không phạm lỗi và ngược lại. Josiah Royce(2), nhà triết học vĩ đại người Mỹ vào đầu thế kỷ 20 định nghĩa kẻ nói dối là kẻ cố tình đặt không đúng chỗ các thuộc từ; nghĩa là, anh ta nói “có” trong khi muốn nói “không có”, hoặc nói “không có” trong khi muốn nói “có”. Định nghĩa của Royce về kẻ nói dối nhanh chóng dẫn chúng ta đến một định nghĩa mang tính triết học về chân lý nổi tiếng nhất của Plato(3) và Aristotle(4) cách đây hai mươi lăm thế kỷ; nó được lặp lại theo nhiều cách khác nhau kể từ thời ấy nhưng chưa hề bị vượt qua. Plato và Aristotle nói rằng những ý kiến được coi là đúng khi nào chúng khẳng định điều gì có, thì có, hoặc điều gì không có, thì không có; ngược lại, những ý kiến của chúng ta là sai khi chúng khẳng định điều gì có, thì không có, hoặc điều gì không có, thì có. Một khi cái “có” trong phát biểu của chúng ta phù hợp với phương cách mà sự vật có, lúc đó phát biểu của chúng ta là đúng, và chân lý của phát biểu nằm ở chỗ nó tương ứng với những dữ kiện hiện có của giới tự nhiên hay thực tại. Khi chúng ta nghĩ rằng một cái gì hiện hữu hoặc đã xảy ra mà nó lại không hiện hữu hoặc không xảy ra, thì chúng ta mắc sai lầm và do đó điều chúng ta nghĩ là sai. Vì vậy, như bạn thấy, chân lý rất dễ dàng định nghĩa, và để hiểu định nghĩa ấy cũng không khó lắm. Có lẽ Pilate thiếu kiên nhẫn hẳn đã vui lòng chờ đợi câu trả lời nếu ông ta biết rằng câu trả lời dành cho ông lại ngắn gọn đến thế. Nhưng cũng có thể ông ta đã nghĩ tới một câu hỏi khác, “Làm thế nào chúng ta chỉ ra được một phát biểu là đúng hay sai?” Đây chính là thắc mắc mà ông và các bạn của ông nêu ra và đòi được trả lời. Đối với thắc mắc này có ba mẫu câu trả lời chính. Mẫu câu thứ nhất khẳng định rằng một vài phát biểu là đúng một cách hiển nhiên, chẳng hạn, “Toàn thể thì lớn hơn thành phần.” Những phát biểu như thế hiển lộ chân lý cho ta một cách trực tiếp bởi một điều rõ ràng là ta không thể nào nghĩ trái với chúng được. Khi ta hiểu thế nào là một toàn thể và thế nào là một thành phần, ta không thể nghĩ rằng thành phần lớn hơn toàn thể (mà nó thuộc về) được. Bằng cách đó chúng ta biết được ngay lập tức chân lý của lời phát biểu rằng toàn thể lớn hơn bất cứ thành phần nào của nó. Một mẫu câu trả lời khác nói rằng chân lý của những lời phát biểu có thể kiểm chứng bằng kinh nghiệm và quan sát. Nếu một người nói rằng trời không mưa ở Chicago vào một ngày nào đó trong tháng qua, ta có thể kiểm chứng chân lý của lời phát biểu đó bằng cách tìm đọc sổ sách ghi chép những bản tin thời tiết. Hay như ta có thể nhúng một bàn chân xuống hồ bơi để xem nước có ấm như lời người bạn nói hay không. Tương tự, một sự tổng quát hóa có tính chất khoa học được coi là đúng chỉ khi nào ta không quan sát thấy những sự kiện trái ngược. Mẫu câu trả lời thứ ba có liên quan đến những lời phát biểu vừa không đúng một cách hiển nhiên, vừa không thể kiểm chứng bằng các sự kiện quan sát được. Đó có thể là thắc mắc về tính cách của một người, loại sản phẩm gì được ưa thích nhất cho những mục đích nào đó, hoặc con ngựa được ưa chuộng nhất có thắng trong đợt chạy tới hay không. Trường hợp này cho phép tìm kiếm sự nhất trí của một nhóm người nào đó, các nhà chuyên môn chẳng hạn. Một ý kiến được đa số đồng thuận có thể được coi như là dấu hiệu cho thấy ý kiến đó có khả năng đúng. Mẫu câu trả lời thứ ba là mẫu mà bạn ông đã làm. Tuy nhiên việc nó thể hiện sự nhất trí của một nhóm người không làm cho nó trở thành câu trả lời chính xác cho câu hỏi, “Chân lý là gì?”, cũng không phải là câu trả lời đầy đủ cho thắc mắc, “Làm thế nào để chỉ ra được một phát biểu đúng hay không đúng?” Định nghĩa chân lý thì dễ; biết một phát biểu cụ thể nào đó có đúng hay không thì khó hơn nhiều; và theo đuổi chân lý là khó khăn nhất. Định nghĩa về tư duy suy luận09/07/2005Tư duy suy luận nghĩa là cách suy nghĩ đúng đắn trong việc theo đuổi với tri thức thích hợp và đáng tin cậy về thế giới. Miêu tả cách khác đó là lối suy nghĩ đầy kỹ năng, có trách nhiệm, có suy tư và hợp lý được tập trung vào việc quyết định xem nên tin tưởng hoặc thực hiện điều gì.
Chân lý
Chân lý là khái niệm để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan; sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn. Nói cách khác chân lý là thực tại được nhận thức một cách đúng đắn. Tóm lại chân lý là một sự thật của loài người luôn luôn đúng và tồn tại mãi mãi theo thời gian. Tuy nhiên tri thức của con người ở một thời điểm chỉ tiệm cận chân lý chứ không phải là chân lý. Quá trình phát triển của tri thức là một quá trình tiến đến gần chân lý hơn. Sự tồn tại của chân lý và khả năng nhận thức của con người đạt đến chân lý là những vấn đề cơ bản của nhận thức luận. Theo Platon và Aristoteles, những ý kiến được coi là "đúng" khi nào ý kiến đó khẳng định điều gì "có" thì thực sự "có", khẳng định "không có" thì thực sự là "không có". Còn ý kiến sẽ "sai" khi mà nêu ra "có" nhưng thực sự "không có" hoặc nêu "không có" trong khi thực sự là "có". Khi ý kiến "đúng" thì nó phải phù hợp với phương cách của sự vật, hiện tượng của giới tự nhiên hay thực tại.
Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế xã hội trong những năm qua đã kéo theo nhu cầu sử dụng khí dầu mỏ hóa lỏng ngày càng lớn, nhân dân ta từ chỗ sử dụng các nguyên, nhiên liệu chất đốt truyền thống có nguồn gốc thực vật đã chuyển qua sử dụng nhiều các nhiên liệu hóa thạch và đặc biệt là khí dầu mỏ hóa lỏng. Khí dầu mỏ hóa lỏng với ưu điểm cho nhiệt lượng cao, sạch và không sinh khí độc hại nhưng lại tiềm ẩn những nguy cơ mất an toàn. Thực tế cho thấy, trong thời gian gần đây trên địa bàn cả nước đã để xảy ra nhiều vụ tai nạn nghiêm trọng liên quan đến khí dầu mỏ hóa lỏng; nguyên nhân chủ yếu là do sự chủ quan và thiếu thông tin về công tác an toàn của người sử dụng. Do đó, để nâng cao công tác an toàn trong sử dụng khí dầu mỏ hóa lỏng tại mỗi gia đình, người sử dụng cần nắm được những kiến thức cơ bản về khí dầu mỏ hóa lỏng và cách lựa chọn một bình gas an toàn:. Khí dầu mỏ hóa lỏng có tên tiếng Anh là Liquefied Petroleum Gas (viết tắt là LPG), nhân dân ta thường quen gọi là Gas; là sản phẩm của hoạt động khai thác dầu khí hoặc được tách ra từ quá trình xử lý dầu thô; có thành phần chủ yếu gồm Propane (C3H8) và Butane (C4H10), tỷ lệ Propane/Butane là 50/50 (±10% mol). Ở áp suất khí quyển LPG hóa hơi và tồn tại dưới dạng khí; tỷ trọng dung dịch là 0,5 kg/lít đối với Propane và 0,58 kg/lít đối với Butane; thể tích dung dịch lỏng khi hóa hơi tăng khoảng 250 lần. Ở dạng lỏng LPG nhẹ hơn 0,5 lần so với nước; khi ở dạng hơi LPG nặng hơn không khí từ 1,5 đến 2 lần; tỷ lệ giãn nở gấp khoảng 20 lần so với nước khi nhiệt độ thay đổi. Khi thoát ra ngoài nó sẽ lan truyền ở mặt đất và tập trung ở những chỗ thấp nhất như cống rãnh, hố ga… nó sẽ phân tán khi có gió. LPG không màu, không mùi, không vị; để dễ nhận biết LPG khi bị rò rỉ người ta pha thêm Ethyl Mercaptane có mùi đặc trưng (mùi trứng thối). Nhiệt lượng khi cháy từ 1.900 oC – 1.950 oC, có khả năng đốt cháy và nung chảy hầu hết các chất, khi cháy tạo ra CO2 và hơi nước. LPG có chất lượng tốt, không lẫn tạp chất khi cháy không tạo muội, khói và các khí độc khác như đốt than. Hỗn hợp LPG với không khí hoặc Oxy sẽ tạo thành hỗn hợp có tính phát nổ nên khi sử dụng cần hết sức cảnh giác vì tính chất có thể phát cháy lớn hoặc nổ mạnh. Vì hám lợi mà nhiều người đã bất chấp những quy định của pháp luật để chiết nạp và kinh doanh LPG trái phép. Đó cũng là nguyên nhân mà người tiêu dùng dễ mua phải hàng giả và hàng kém chất lượng; gas giả hoặc gas được sang chiết trái phép thường không đảm bảo về số lượng, chất lượng và càng không đảm bảo về an toàn. Để lựa chọn một bình gas 12 kg sử dụng trong gia đình vừa đảm bảo an toàn và không phải hàng giả, người tiêu dùng cần lưu ý:. Thứ nhất, nên mua gas tại đại lý, cửa hàng có giấy phép đủ điều kiện kinh doanh LPG do Sở Công Thương cấp; đại lý, cửa hàng phải chuyên nghiệp, có địa chỉ rõ ràng, có kiến thức để kiểm tra bảo dưỡng hệ thống gas dân dụng, tư vấn sử dụng gas hiệu quả và an toàn cho khách hàng (theo quy định giấy phép đủ điều kiện phải được đưa lên biển hiệu của cửa hàng). Thứ hai, lựa chọn các bình gas ngày kiểm định còn thời hạn hiệu lực, hình thức nguyên vẹn không bị móp méo, không bị han gỉ nhiều; kiểm tra van bình có bị xì gas bằng nước xà phòng pha loãng. Thứ ba, xem tên chủ sở hữu bình gas được dập nổi trên quai bình, vai xung quanh van bình và thương hiệu được dán hoặc sơn trên thân bình. Trường hợp thương hiệu là: Petrolimex Gas, Shell Gas, VT Gas hay Thành Lợi Gas… thì trên niêm phong van cũng phải có chữ Petrolimex Gas, Shell Gas, VT Gas hay Thành Lợi Gas… Ngoài ra, một số hãng còn có tem chống hàng giả để người tiêu dùng dễ nhận biết. Thứ tư, các thông số kỹ thuật trên vỏ bình phải được dập một cách rõ ràng, dễ đọc, đúng vị trí; thận trọng với những vỏ bình có biểu hiện sửa chữa các thông số nêu trên. Khi quan sát vỏ bình có một số từ viết bằng tiếng Anh được dập trên vỏ bình có ý nghĩa như sau:. Thứ năm, nên kiểm tra trọng lượng của bình gas; việc kiểm tra có thể tiến hành như sau: đem một bình gas lên cân thử, giả sử trọng lượng của cả khí và bình là 25 kg, mà trọng lượng của vỏ bình là 13 kg (thông số này được dập trên vỏ bình), điều đó cho ta biết khối lượng của khí trong bình chứa là 12 kg. Tuy nhiên, để chắc chắn không bị gian lận thì cần kiểm tra độ chính xác của cân; một cách đơn giản và hiệu quả là lấy vỏ bình gia đình cần đổi đưa lên cân thử, trường hợp trên vỏ bình ghi trọng lượng của bình là 13 kg mà khi cân có trọng lượng lớn hơn 13 kg thì có thể kết luận: cân không chính xác và khí nạp vào bình cũng không đảm bảo về khối lượng. - Không có nhãn hàng hóa được dán phía trong tay xách của bình hoặc có nhưng không thể hiện theo yêu cầu. Công tác an toàn trong sử dụng khí dầu mỏ hóa lỏng trong mỗi gia đình còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác: như chất lượng của bếp gas, ý thức của người sử dụng. Tuy nhiên, việc lựa chọn một bình gas đảm bảo về các thông số kỹ thuật và có chất lượng tốt là bước đầu tiên quan trọng trong quy trình sử dụng gas an toàn tại mỗi gia đình. Đồng thời người tiêu dùng còn được sử dụng sản phẩm an toàn, chất lượng, xứng đáng với chi phí bỏ ra; được đền bù thiệt hại khi có tai nạn hay sự cố đáng tiếc bởi các bình gas chính hãng đều được mua bảo hiểm theo quy định bắt buộc của pháp luật hiện hành. Do vậy, một lời khuyên dành cho người tiêu dùng là: “Hãy thận trọng mua gas để cả nhà hạnh phúc”. Nghị định số 97/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí dầu mỏ hóa lỏng.
Khí dầu mỏ hóa lỏng
Khí dầu mỏ hóa lỏng hay Khí hóa lỏng (tiếng Anh: Liquefied Petroleum Gas; viết tắt: LPG), hoặc LP Gas là "khí dầu mỏ hóa lỏng". Đây là cách diễn tả chung của propane có công thức hóa học là C3H8 và butane có công thức hóa học là C4H10, cả hai được tồn trữ riêng biệt hoặc chung với nhau như một hỗn hợp. LPG được gọi là khí dầu mỏ hóa lỏng vì các chất khí này có thể được hóa lỏng ở nhiệt độ bình thường bằng cách gia tăng áp suất vừa phải, hoặc ở áp suất bình thường bằng cách sử dụng kỹ thuật làm lạnh để làm giảm nhiệt độ. Nó ngày càng được sử dụng phổ biến như một thuốc phóng aerosol và một chất làm lạnh, thay thế chlorofluorocarbon (CFC) trong nỗ lực giảm thiệt hại gây thủng tầng ozone của CFC. Khi được sử dụng cụ thể làm nhiên liệu cho xe, nó thường được gọi là khí tự động. Các loại LPG được mua và bán bao gồm các hỗn hợp chủ yếu là propane (C3H8), phần lớn là butane (C4H10), và, thông thường nhất, các hỗn hợp bao gồm cả propan và butane.
Nước thải và cách xử lý nước thải là vẫn đề nhức nhối không chỉ các công ty, chính quyền địa phương, các cơ quan đoàn thể, mà ngay cả những người dân, thải ra nước thải từ sinh hoạt cũng đang gấp rút xử lý. Nước thải không được xử lý đúng cách sẽ gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước, gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người. Ở phần này, Green sẽ trình bày rõ định nghĩa về nước thải là gì? Nguồn gốc của nước thải và các loại nước thải thường gặp. Nước thải là gì? Nước thải tiếng anh là Wastewater - là nguồn nước đã qua sử dụng trong sinh hoạt, từ những người sống trong cộng đồng. Nước thải được sinh ra từ các hộ gia đình sau khi sử dụng cho các mục đích như rửa chén, giặt, nấu nướng, vệ sinh,. Từ đó hình hành nước thải. Ngoài ra, nước thải còn có nguồn gốc từ các hoạt động trong khu thương mại, khu công nghiệp. Nó bao gồm nước mưa, nước thải đô thị, nước thải nông nghiệp, làm vườn, nuôi trồng thủy hải sản. Hầu hết, nước thải chưa qua xử lý đều có màu xám và màu đen. Nước thải màu xám là nước thải từ việc tắm, rửa bát, nấu nướng hoặc giặt giũ. Còn nước màu đen là nước từ nhà vệ sinh (giấy vệ sinh, phân, nước tiểu). Đặc biệt, nước thải có đặc trưng đó là mùi hôi. Tóm lại, nước thải là nước đã qua quá trình sử dụng của con người và được thải ra cống, rãnh. - Nước từ sinh hoạt con người (vệ sinh cá nhân, quần áo, lau nhà, giặt giũ, nấu ăn,.). Bạn có biết không? Nước thải trên 95% là nước, còn lại là chất thải, chất ô nhiễm phân hủy sinh học. Tuy nhiên trong 5% lại chứa rất nhiều chất độc hại như:. BOD là tên viết tắt của cụm từ Biochemical Oxygen Demand hay còn được gọi là nhu cầu oxy sinh hóa. BOD là thước đo lượng oxy cần thiết để vi sinh vật oxy hóa các chất hữu cơ. Khi BOD được xả ra ao hồ sẽ cướp đi oxy của các loài cá. Do đó, trước khi xả nước thải cần phải xử lý nước thải, làm giảm BOD. (BOD trong nước của hộ gia đình thường là 200mg/ L). TDS là viết tắt của Total Bisolved Solids hay còn gọi là tổng chất rắn hòa tan. Đây là tổng lượng ion tích điện bao gồm các khoáng chất hoặc kim loại hòa tan trong một đơn vị thể tích nước. Chỉ số TDS trong nước liên quan trực tiếp tới chất lượng nguồn nước. Nó bao gồm khoáng chất, muối, kim laoji, Cation, Anion hòa tan trong nước,. Tổng chất rắn lơ lửng (TSS) là lượng chất rắn lơ lửng trong nước thải và có kích thước cụ thể. Khi thải trực tiếp vào môi trường nước mặt. TSS có thể làm môi trường bị ô nhiễm, mang theo vi sinh vật gây bệnh, làm tắc nghẽn mang của cá,. Trong nước thải còn có sự tồn tại của các mầm bệnh. Vì thế, nước thải được đánh giá một trong những thành phần gây nguy hiểm cho sức khỏe của con người. Trong nước thải không chircos các chất độc hại mà nó còn có các chất dinh dưỡng trong quá nấu nướng. Tuy nhiễn các chất dinh dưỡng này sẽ làm cho một số loài tảo độc hại nở hoa hay một số loài cá bị chết do có quá nhiều NIto trong nước. - Các tác nhân gây bệnh như: vi khuẩn, vi rus, mầm bệnh,. và các vi khuẩn vô hại. - Nước thải sinh hoạt: là nguồn nước được sản xuất từ những hoạt động của con người trong hộ gia đình, từ các khu dân cư, trường học, công sở,. Có nghĩa là nước thải từ nhà bếp, nấu nướng, tắm rửa, giặt giũ, rửa bát,. - Nước thải công nghiệp: là nước thải có nguồn gốc từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại, khai thác và chế biến thực phẩm nông nghiệp. Nước thải được sinh ra chủ yếu ở các khu công nghiệp, một phần được thải ra từ các cơ sở sản xuất, xí nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, tất cả nước thải không xác định là nước thải sinh hoạt đều được coi là nước thải công nghiệp. Nước thải tự nhiên: nước thải tự nhiên là loại nước thải do tự nhiên sinh ra như nước mưa, nước ao hồ sông suối nhưng khi đi qua các chất thải biến chúng thành nước thải. Nước thải đô thị: là một thuật ngữ chung chỉ chất lỏng trong hệ thống cống thoát của thành phố, thị xã; đó là hỗn hợp của các loại chất thải trên. Qcvn về nước thải qui định chi tiết giá trị giới hạn các thông số và nồng độ của các chất ô nhiễm trong nước thải theo tải lượng và lưu lượng của nước. Trong tiêu chuẩn này, nước thải công nghiệp được hiểu là các loại dung dịch thải hoặc nước thải do qua trình sản xuất, chế biến, kinh doanh,. của các loại hình công nghiệp thải ra.Qcvn nước thải dùng để kiểm soát chất lượng nước thải công nghiệp khi thải ra sông, hồ, ao, suối phải có chất lương nước dùng được cho mục đích cấp nước sinh hoạt. Nước thải sinh hoạt tiếng anh là Domestic Wastewater - có nguồn gốc từ các hoạt động của cong người trong các hộ gia đình như tắm giặt, nấu nướng, rửa bát, xử lý rác, nhà vệ sinh v.v. Nước thải sinh hoạt thường chứa một lượng nhỏ chất gây ô nhiễm, tuy nhiên một lượng nhỏ đó cũng có thể ảnh hưởng đến mồi trường và sức khỏe của con người.Thành phần của nước thải sinh hoạt sẽ không ổn định mà nó sẽ thay đổi theo giờ, theo ngày, theo mùa, phụ thuộc vào mức độ sử dụng, thói quen, chế độ ăn, lối sống của hộ gia đình. Nhưng lý do chính đó chính là sự thay đổi trong sử dụng nước của các hộ gia đình. Các thành phần nước thải sinh hoạt như là:. Chất hữu cơ khác: Chất tẩy rửa, thuốc trừ sâu, dầu mờ, hóa chất, dung môi,. Nước thải công nghiệp tiếng anh là Industrial Wastewater là nước thải từ các hoạt động trong công nghiệp hoặc thương mại. Nước thải sẽ là nước thải cửa các quá trình tạo ra sản phẩm từ các thiết bị, máy móc, từ các hoạt động trong nhà máy. Nước thải công nghiệp sẽ bao gồm như: Nước thải xi mạ, nước thải dệt nhuộm, nước thải nhà máy bia, nước giải khát, sản xuất giấy,.Trong nước thải công nghiệp sẽ được chia ra làm 2 loại: Nước thải sản xuất bẩn và nước thải sản xuất không bẩn- Nước thải sản xuất bẩn: Là nước thải sinh ra từ các quá trình sản xuất sản phẩm, tẩy rửa máy móc, các hoạt động của nhân viên,. Vì thế nước này chứa nhiều chất độc hại như: BOS, COD, TSS, vi khuẩn, virus,.- Nước thải sản xuất không bẩn: Đây là loại nước được dùng chủ yếu để làm nguội thiết bị nên nó được coi là nước sạchQuy chuẩn kỹ thuật (QCVN) về nước thải công nghiệp:. Trên thực thế có rất nhiều quá trình được sử dụng để làm sạch nguồn nước thải và tùy theo mỗi loại nước thải và mức độ nhiểm bẩn của nó thì sẽ được áp dụng những quy trình khác nhau. Nước thải thường được xử lý trong các nhà máy xử lý nước thải với các quá trình xử lý vật lý, hóa học và xử lý sinh học. Và dưới đây sẽ là 5 công nghệ xử lý nước thải tiên tiến nhất hiện nay:. Nước thải sau khi được xử lý có thể tái sử dụng cho các mục đích trong công nghiệp như làm mát, tẩy rửa …, trong nông nghiệp có thể sử dụng để phục hồi hệ sinh thái tự nhiên, trong sinh hoạt thì có thể sử dụng để làm nguồn nước uống nếu nó đã được xử lý một cách đảm bảo sức khỏe. Trụ sở Hà Nội: Tầng 4, số 57 Lê Quý Đôn, phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Nước thải
Nước thải là nước được thải ra sau khi đã sử dụng, hoặc được tạo ra trong một quá trình công nghệ và không còn có giá trị trực tiếp đối với quá trình đó nữa. Nước thải có thể có nguồn gốc từ hoạt động của các hộ gia đình, công nghiệp, thương mại, nông nghiệp, nước chảy tràn bề mặt, nước mưa bão, dòng vào cống ngầm hoặc nước thấm qua. Nước thải đô thị thường được chuyển tải kết hợp trong một hệ thống thoát nước hoặc cống rãnh vệ sinh và được xử lý tại nhà máy xử lý nước thải. Nước thải được xử lý được thải vào nơi tiếp nhận qua một đường ống nước thải. Nước thải được tạo ra ở khu vực không tiếp cận được với hệ thống thoát nước sẽ được xử lý bằng hệ thống xử lý nước tại chỗ. Hệ thống này thông thường bao gồm một bể phốt, ruộng tiêu nước, và một đơn vị xử lý tại chỗ. Việc quản lý nước thải thuộc về sự bao quát toàn bộ điều kiện hệ thống vệ sinh, giống như quản lý chất bài tiết của con người, chất thải rắn, nước mưa bão.
Đấu trường La Mã Colosseum - một Một trong những di tích lịch sử lịch sử dân tộc còn vĩnh cửu trường đoản cú thời thượng cổ danh tiếng độc nhất nước Ý. Cùng khám phá điểm đến chọn lựa này qua nội dung bài viết sau đây.Bạn đang xem: Đấu trường la mã tiếng anh. Giới thiệu phổ biến về trường đấu La Mã ColosseumĐấu ngôi trường La Mã Colosseum là 1 trong những vào 7 kỳ quan phong cách thiết kế của Thế giới được thừa nhận vào thời điểm năm 2007, địa điểm đây biết đến dưới cái thương hiệu Amphitheatrum Flavium theo giờ đồng hồ Latinh hoặc Anfiteatro Flavio giờ Ý, thời buổi này trường đấu mang tên Call là Colosseum tuyệt Colosseo. Được xem như là biểu tượng của nước Ý, Colosseum là một trường đấu lớn trưng bày làm việc thị trấn Rome, nước Ý - giữa những điểm đến lựa chọn phượt Châu Âu hấp dẫn nhất. Nơi trên đây tất cả sức đựng lên 50.000 người theo dõi và được áp dụng cho những quân sĩ giác đấu tranh tài và trình diễn Quần chúng. Đấu ngôi trường được thành lập khoảng năm 70 với 72 sau Công Nguim bên dưới thời hoàng đế Vespasian. Đây là dự án công trình lớn số 1 được xây ngơi nghỉ Đế chế La Mã được hoàn tất năm 80 sau Công Ngulặng dưới thời Titus , mang lại thời hoàng đế Domitian thì dự án công trình được sửa đổi lại không ít. Vào thời kỳ trung cổ, phía bên trong trường đấu được sản xuất một nhà thời thánh nhỏ, còn khuôn viên đấu trường thì biến hóa một nghĩa trang, đấy là một sự biến đổi Khủng so với Colosseum. Vào vào giữa thế kỷ 14, phía phái mạnh của trường đấu đã bị sụp đổ hoàn toàn vị một trận cồn khu đất bự, phần đa vật tư quý từ bỏ tàn tích các bị đánh tráo hoặc trưng dụng để thi công lại những công trình xây dựng khác. Ngày nay, di tích lịch sử trường đấu La Mã Colosseum đang trở thành một điểm đến lựa chọn du lịch thu hút những khác nước ngoài Châu Âu cùng thế giới. Khám phá phong cách thiết kế của đấu trường La MãĐấu trường La Mã Colosseum bao gồm chiều cao là 48m, chiều nhiều năm 189m và chiều rộng lớn là 156m. Đây là công trình được xây trên một khoảng tầm đất bằng vận cùng vật liệu chế tạo trọn vẹn bằng đá tạc travertine, links với nhau bằng 300 tấn vòng sắt chứ không hề cần sử dụng vữa xây, phong cách thiết kế của trường đấu Colosseum không theo lối kiến thiết của những tòa đơn vị xuất xắc công trình xây dựng La Mã thời bấy giờ cơ mà mang hơi hám tự do thoải mái. Có đến 80 lối đi ra vào bảo phủ đấu trường giành cho các người theo dõi có thể dịch rời hối hả tuy vậy sức đựng của trường đấu rất nhiều, trong các số ấy thì 76 cổng được đặt số đồ vật từ bỏ La Mã dành riêng cho mọi người theo dõi thường xuyên, chỉ một cổng dành riêng cho nhà vua cùng những cận thần, 3 cổng ra vào sót lại dành cho lứa tuổi quý tộc. Đối cùng với 4 cổng ra vào giành cho đơn vị vua với quý tộc hầu như được tô điểm bằng hầu như bức phù điêu tự xi măng tô, theo vết thời gian chỉ với lại các mảnh vỡ lẽ, tuy nhiên vị trí phía trên vẫn giữ giữ giàng được đa số phong cách xây dựng béo múp nguyên ổn gốc từ bỏ thời cổ đại. Đấu trường La Mã được chế tạo với mục tiêu là nơi thi đấu của những võ sư, nô lệ. Ước tính đang có rộng 500.000 người cùng rộng 1 triệu loại động vật đã yêu cầu chết giẫm sinh sống trường đấu bởi thua cuộc. Ngoài bài toán là địa điểm ship hàng những trận chiến mãn nhãn của fan La Mã, trường đấu còn từng là khu vực tổ chức các chương trình biểu diễn công bọn chúng, diễn kịch,. giai đoạn trong tương lai thì trường đấu được trưng dụng làm cho nhà ở, shop sắm sửa của bạn dân. quý khách rất có thể dịch rời cho đây bằng tàu cao tốc trên không, dừng chân tại trạm Metro line B, Colosseo. - Giá vé: 16 Euro (khoảng tầm 450.000đ), miễn chi phí với trẻ em dưới 18t và bạn to bên trên 65t. - Đấu trường Colosseum mê say mang lại 6 triệu khách du lịch Ý xịt thăm hàng năm, điều đó đồng nghĩa tương quan với câu hỏi bạn sẽ cần ngóng hơi thọ nhằm xếp hàng vào được đấu trường. Do kia chúng ta nên mang đến mau chóng để không hẳn xếp hàng lâu nhé. - Thời tiết ngơi nghỉ Rome khá lạnh vào mùa hè với bên trong đấu trường không có một láng râm như thế nào cả đề xuất các bạn chăm chú tách đi thăm quan vào mùa hè hoặc nếu như không thì hãy sẵn sàng mũ, kính, ô bịt thiệt kỹ càng. - Đấu trường là tàn tích của dự án công trình làm cho trường đoản cú đá yêu cầu bạn phải cẩn thận khi du lịch tham quan để rời bổ xẻ hoặc bị thương thơm tại đây, đặc biệt quan trọng trường hợp đi thuộc trẻ em thì nên chăm chú đến những bé. - Ngoài đấu trường Colosseum, các bạn còn có thể tham quan du lịch những di tích lịch sử khác bên trong quần thể nlỗi khải trả môn, công trường La Mã (Roman Forum), đồi Palatine,. đông đảo là gần như điểm đến chọn lựa thú vui vào quần thể La Mã cổ kính. - Bạn rất có thể tự sướng selfie, check in trên đầy đủ nngóc ngách vào trường đấu, tuy vậy tại chỗ này cấm thực hiện gậy từ hạnh phúc, tripod nên hãy lưu ý để tránh chạm mặt vấn đề với ban cai quản ở chỗ này. Trên đó là các tổng thích hợp của tracnghiem123.com về các báo cáo có lợi thuộc tay nghề du ngoạn trường đấu Colosseum, mong muốn để giúp ích cho chính mình Khi lên planer phượt Ý - non sông tất cả nền văn hóa truyền thống lâu đời này. Chúc bạn bao gồm một chuyến hành trình thiệt những chân thành và ý nghĩa.
Đấu trường La Mã
Đấu trường La Mã được biết đến đầu tiên dưới cái tên Amphitheatrum Flavium theo tiếng Latinh hoặc Anfitea tro Flavio tiếng Ý, sau này gọi là Colosseum hay Colosseo, là một đấu trường lớn ở thành phố Roma. Công suất chứa lúc mới xây xong là 50 000 khán giả. Đấu trường được sử dụng cho các võ sĩ giác đấu và nô lệ có nguồn gốc tù binh chiến tranh thi đấu và trình diễn công chúng. Đấu trường được xây dựng khoảng năm 70-80 sau Công Nguyên dưới thời hoàng đế Vespasian. Đây là công trình lớn nhất được xây ở Đế chế La Mã được hoàn thành năm 80 sau Công Nguyên dưới thời Titus, với nhiều chỉnh sửa dưới thời hoàng đế Domitian. Đấu trường Colosseum vẫn được sử dụng gần 500 năm với những bằng chứng ghi chép được về trận đấu thế kỷ 6 - rất lâu sau khi Đế chế La Mã sụp đổ năm 476. Ngoài sử dụng làm nơi đấu của võ sỹ, nơi đây còn được dùng làm biểu diễn công chúng, tập trận giả trên biển, săn thú, kịch cổ điển. Công trình này dần dần không được sử dụng làm nơi giải trí nữa thời Trung Cổ.
Mặc dù nhiệm vụ bất thành, nhưng đại tá Claus von Stauffenberg, người trực tiếp thực hiện Valkyrie, được lịch sử cận đại Đức gọi là “anh hùng” và trở thành biểu tượng cho phong trào chống đối Hitler. Sinh ngày 15/11/1907 tại Griefstein Castle ở Jettingen (cách Munich 90km), Stauffenberg là con út trong một gia đình truyền thống Công giáo. Gia đình có truyền thống phục vụ quân đội nhưng Stauffenberg thời niên thiếu lại đam mê nghệ thuật. Tuy nhiên, cuối cùng, Stauffenberg cũng gia nhập quân đội. Năm 1933, đảng Đức quốc xã leo lên đỉnh cao quyền lực. Tháng 4 cùng năm, mật vụ Gestapo được thành lập bởi Hermann Goering – một trong những "trợ thủ đắc lực" của Hitler. Các tác phẩm Do Thái, chủ nghĩa Marx và sách vở thuộc thành phần chống đối đều bị đốt nơi công cộng tại Berlin. Ba năm sau, năm 1937, làn sóng phản đối Hitler dâng cao. Thị trưởng Leipzig, Karl Goerdeler (từng ủng hộ Đức quốc xã) từ chức. Cùng lúc đó, một nhóm chính trị đối lập cũng hình thành, dưới sự lãnh đạo của Helmuth James von Moltke (anh em họ Claus von Stauffenberg). Ngày 30/1/1939, Hitler tuyên bố một cuộc chiến thế giới mới sẽ được thực hiện nhằm tiêu diệt chủng tộc Do Thái khắp châu Âu. Claus von Stauffenberg chứng kiến tất cả giai đoạn và tội ác không thể dung thư trên của Hitler và đồng đảng. Ngày 7/4/1943, Stauffenberg bị trọng thương (mất một mắt, cánh tay phải và hai ngón tay trái) tại mặt trận Tunisia. Trong khi nằm điều trị 3 tháng tại bệnh viện ở Munich, ông có thời gian để suy nghĩ và đi đến kết luận là, dù cho bị thương tật, ông phải thực hiện một nhiệm vụ thiêng liêng: Quyết tâm trừ khử Hitler. Ông nói với vợ, Nữ Bá tước Nina, mẹ của 4 đứa con của ông: "Anh nghĩ bây giờ anh phải làm gì đó để cứu nước Đức. Sĩ quan tham mưu quân đội như anh phải nhận lãnh một phần trách nhiệm.". Tại đây, Stauffenberg và bạn hữu đã hoàn tất một phương án có tên "Điệp vụ Valkyrie" (tiếng Đức là "Walküre"). Đấy là một cái tên thích hợp, vì trong huyền thoại Đức, Walküre là một nữ chiến binh trẻ đẹp nhưng gây kinh hoàng. Nàng thường bay lơ lửng trên vùng chiến địa và chọn đối thủ để tiêu diệt. Đối với Stauffenberg và các sĩ quan Đức thuộc nhóm âm mưu ám sát Hitler mang bí danh "Nhóm 20/7", kẻ cần phải tiêu diệt lần này không ai khác chính là Hitler. Stauffenberg cùng đồng sự gồm Tresckow, Friedrich Olbricht và Ludwig Beck dự định ám sát Hitler bằng một quả bom ngụy trang sau đó lợi dụng lực lượng quân dự bị để lật đổ các lãnh đạo cấp cao của Đức Quốc xã. Các kế hoạch đã sẵn sàng từ cuối năm 1943. Nhưng trong nhiều tháng, nhóm âm mưu không làm được gì nhiều. Đến tháng 6/1944, họ thấy thời gian càng lúc càng cấp bách. Có một lý do: Mật vụ đang càng ngày càng thu hẹp mành lưới. Những vụ bắt bớ người âm mưu đang tăng từng tuần, và đã có nhiều cuộc hành quyết. Cơ hội "trời cho" đã đến khi, ngày 1/7/1944, Stauffenberg được thăng lên đại tá và nhận chức Tham mưu trưởng lực lượng tập đoàn quân quân dự bị dưới quyền Tướng Tư lệnh Fromm. Chức vụ này cho phép Stauffenberg có cơ hội tiếp cận Hitler trong các phiên điều trần tình hình chiến sự. Thời cơ đã đến khi ngày 20/7/1944, Stauffenberg và một số sĩ quan quân đội phát xít được triệu tập tới phiên họp với Hitler tại "Hang sói". Stauffenberg sau đó trở thành nhân vật chủ chốt trong âm mưu. Vì không ai khác ngoài ông có thể xâm nhập tổng hành dinh của Hitler được canh phòng cẩn mật, và đặt bom ám sát Hitler. Theo kế hoạch, Stauffenberg đáp máy bay đến Rastenburg, thực hiện sứ mạng, rồi quay về Berlin cùng đồng sự đảo chính lật đổ chế độ Đức quốc xã. Như đúng kịch bản, khoảng 6 giờ sáng ngày 20/7/1944, Đại tá Stauffenberg cùng Trung úy tùy tùng Werner von Haeften đi qua những tòa nhà đổ nát vì bom đạn ở Berlin để đến sân bay Rangsdorf. Trong chiếc cặp dày cộm là hồ sơ về những sư đoàn dự bị mà ông sẽ trình bày cho Lãnh tụ tại phòng họp “Wolf Lair” (Hang Sói) ở Rastenburg, Đông Phổ. Giữa các hồ sơ là một quả bom kiểu Anh được bọc trong một chiếc áo sơ-mi. Trong gian tiền phòng, Stauffenberg nhanh chóng mở chiếc cặp, cầm cái kềm giữa ba ngón tay để bấm vỡ cái ve. Chỉ trong vòng 10 phút quả bom sẽ nổ, trừ khi có khuyết điểm gì khác. Hai người đi vào phòng họp. Khoảng 4 phút đã trôi qua kể từ khi Stauffenberg kích hoạt quả bom; còn 6 phút nữa. Phòng họp khá nhỏ, rộng chưa đến 5 mét và dài chưa đến 10m. Có nhiều cửa sổ mở, như thế sẽ làm giảm sức công phá của quả bom. Stauffenberg đến đứng giữa Korten và Brandt gần cái bàn, cách Hitler vài bước bên tay phải ông này. Ông đặt chiếc cặp trên mặt sàn, đẩy vào dưới bàn cho dựa vào mặt trong của cái bệ, chỉ cách chân của Hitler 2m. Sau đó, Stauffenberg tìm cớ ra ngoài. Stauffenberg phấn khích tin chắc rằng mọi người có mặt trong phòng họp đều đã chết hoặc đang hấp hối. Hành động kế tiếp của Stauffenberg là phải nhanh chóng thoát ra khỏi tổng hành dinh Rastenburg. Trái ngược với sự tin tưởng của Stauffenberg, Hitler không chết. Hành động vô tình của Brandt khi dời chiếc cặp ra mặt ngoài của cái bệ đã cứu mạng sống của Hitler. Ông bị một phen hốt hoảng nhưng chỉ bị thương nhẹ. Sau khi nghe nổ, Stauffenberg tưởng thành công và đáp máy bay về Berlin. Đến sở chỉ huy quân đội cấp cao lúc 16h30, Stauffenberg mới biết kế hoạch đảo chính bị xáo trộn, do vụ đảo chính lúc này đã lan khắp nơi từ khi có tin Hitler bị giết hụt. Đến 21h cùng ngày, chiến dịch đảo chính hoàn toàn thất bại. Stauffenberg bị thương nhẹ sau cuộc đấu súng với lực lượng trung thành Đức quốc xã. Sáng 21/7/1944, Stauffenberg bị hành quyết. Các thành viên còn lại trong nhóm đảo chính cũng bị số phận tương tự (có người bị treo cổ bằng dây đàn piano). Vụ ám sát bất thành này vô tình đã châm ngòi cho một cuộc thảm sát. Hitler đã cho điều tra âm mưu và những người tham gia vào việc lật đổ Quốc Xã. Sau đó lực lượng mật vụ Gestapo truy bắt gần 7.000 người. Nhiều sĩ quan quân đội bị kết án và tử hình. Hitler đồng thời ngầm giết hoặc bức tử nhiều tướng tá trong hàng ngũ của quân đội Đức. Theo báo cáo Nội vụ hải quân tại hội nghị Quốc trưởng thì có 4.980 người bị tử hình. Mặc dù ám sát bất thành, nhưng Stauffenberg trở thành người hùng trong lịch sử cận đại Đức. Con đường tại Berlin nơi Stauffenberg bị hành quyết đã được đổi thành Stauffenbergstrasse và sân bắn nơi Stauffenberg bị giết hiện trở thành địa điểm tưởng nhớ ông. Chiều 28/8, Bộ Y tế thông tin chính thức về cuộc họp khẩn cấp của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh quốc gia ngày 22/8, xem xét kết quả giữa kỳ thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3a ứng viên vắc xin Nanocovax.
Điệp vụ Valkyrie
Điệp vụ Valkyrie (tựa tiếng Anh: Valkyrie) là một bộ phim điện ảnh Mỹ năm 2008 lấy bối cảnh tại Đức Quốc Xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nội dung phim mô tả kế hoạch ám sát Adolf Hitler và sử dụng Điệp vụ Valkyrie vào ngày 20 tháng 7 năm 1944 của các sĩ quan quân đội Đức nhằm kiểm soát đất nước. Điệp vụ Valkyrie do Bryan Singer đạo diễn cho hãng phim United Artists, với sự tham gia của Tom Cruise trong vai Đại tá Claus von Stauffenberg, một trong những người bày mưu chính, cùng với Kenneth Branagh, Bill Nighy, Eddie Izzard, Terence Stamp và Tom Wilkinson vào vai các nhân vật phụ. Việc chọn Cruise vào vai diễn này đã dấy lên nhiều tranh luận giữa các nhà chính trị gia của Đức và các thành viên trong gia đình von Stauffenberg vì nam diễn viên có tham gia vào Khoa luận giáo. Cũng chính vì điều này, các nhà làm phim ban đầu gặp khá nhiều khó khăn trong việc tìm địa điểm quay phim tại Đức, nhưng sau đó họ cũng được cấp phép quay phim tại một số địa điểm, bao gồm tòa nhà phức hợp Bendlerblock ở Berlin.
Hiện nay mô hình thông tin BIM (Building Information Modeling) ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực hoạt động xây dựng và quản lý vận hành công trình. Vậy bạn đã biết BIM là gì chưa ?. BIM là một quy trình tiên tiến được ứng dụng trong ngành xây dựng (AEC) dựa trên các mô hình 3D kỹ thuật số được sử dụng xuyên suốt trong vòng đời của một dự án thiết kế, hạ tầng và xây dựng. Những mô hình BIM này cao cấp hơn nhiều so với các bản vẽ 2D, 3D. Chúng được tạo thành bởi các mô hình thông minh kèm theo rất nhiều thông tin, được thay đổi và cập nhật liên tục. Hình học: các kích thước dài, rộng, cao, khoảng cách giữa các cấu kiện công trình như dầm, cột, sàn, cửa, cầu thang, v.v…. Tất cả các cá nhân, tổ chức cộng tác trong việc thiết kế và xây dựng công trình đều có thể sử dụng những dữ liệu trong mô hình BIM này. Thông qua đó có thể phân tích được giá thành, thời gian thực hiện và phương pháp xây dựng, bảo trì công trình. Toàn bộ quá trình làm việc sẽ dựa trên cơ sở việc chia sẻ thông tin này, chúng luôn được cập nhật và bổ sung liên tục trong suốt quá trình làm việc, từ lúc phát thảo cho đến lúc công trình được hoàn thiện. Vào thời kỳ các bản vẽ của kiến trúc sư trên giấy, đến thời kỷ nguyên của Auto Cad với bảng vẽ điện tử chính xác và dễ hiệu chỉnh hơn. Ở thời điểm đấy, đa số mọi người không biết đến BIM là gì. Sau này, nhờ vào sự tiến hóa của công nghệ, và sự tăng trưởng sức mạnh của phầncứng và đồ họa máy tính, đã tạo điều kiện cho sự phát triển của mô hình CAD-3D.Vì thế, mọi người đã biết đến BIM là gì– 1 phần mềm mô phỏng lại từng chi tiết nhỏ nhất của công trình bằng hình họa3D với độ chính xác cao. Với BIM, một khi các thông tin được thiết lập chính xác, việc xây dựng sẽ trở nên nhanh hơn, chính xác hơn, chi phí thấp hơn. Đó chính là lý do tại sao mô hình BIM hiện nay đang trở thành một xu hướng mới và gần như là tiêu chuẩn bắt buộc trong ngành xây dựng trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, theo lộ trình của chính phủ thì vào năm 2021, mô hình BIM sẽ trở thành một tiêu chuẩn trong các công trình xây dựng, đây là một trong những giải pháp quan trọng để tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sắp tới trong ngành xây dựng. Các lớp học Revit ngắn hạn 1,5 tháng giúp các bạn trẻ tiếp cận, sử dụng mô hình làm việc BIM tại các công ty thiết kế trong tương lai. Kỹ sư, kiến trúc sư mới ra trường hoặc đang làm công tác thiết kế, thi công đang cần triển khai dự án theo BIM Concept. Học viên muốn phát triển thành Chuyên viên BIM cho dự án Kiến trúc - Xây dựng. Trực tiếp giảng dạy là các Tiến sỹ, Thạc sỹ Kiến trúc sư – Kỹ sư; hiện là giảng viên của khoa Xây dựng trường ĐH Bách Khoa TP. HCM. Chiêu sinh mở lớp hàng tháng. ƯU ĐÃI đặc biệt GIẢM 12% dành cho nhóm đăng ký từ 3 người trở lên. Bạn đang học tập, làm việc trong ngành xây dựng kiến trúc. Bạn đang muốn biết Revit là gì ? Bạn đang muốn tìm hiểu những lợi ích vượt trội của Revit là gì ? Cùng tìm hiểu nhé. Lớp học Revit Architecture ngắn hạn 1,5 tháng giúp các bạn trẻ tiếp cận, sử dụng mô hình làm việc BIM tại các công ty thiết kế trong tương lai. Lớp học Revit Structure ngắn hạn 1,5 tháng giúp các bạn trẻ tiếp cận, sử dụng mô hình làm việc BIM tại các công ty thiết kế trong tương lai. Lớp chuyên viên khai triển BIM thực hiện triển khai dự án cao tầng bằng các phần mềm liên quan như Revit, Naviswork cho các bộ môn kiến trúc, kết cấu, hệ thống kỹ thuật từ giai đoạn thiết kế đến tổ chức thi công. Lớp BIM dự án Project 3 tháng đảm bảo chất lượng đầu ra tổ chức đào tạo bởi BIM Lab Khoa Kỹ Thuật Xây dựng ĐH Bách Khoa TP. HCM & TT Đào tạo Kiến trúc CBS; giúp các bạn trẻ tiếp cận, sử dụng mô hình làm việc BIM tại các công ty thiết kế trong tương lai.
Mô hình thông tin xây dựng (BIM)
Mô hình thông tin xây dựng (BIM) là một quy trình liên quan tới việc tạo lập và quản lý những đặc trưng kỹ thuật số (được gọi là mô hình thông tin kỹ thuật số) trong các khâu thiết kế, thi công và vận hành các công trình (công trình ở đây có thể là công trình xây dựng hay các sản phẩm công nghiệp). Về bản chất, có thể xem BIM là một hồ sơ thiết kế gồm những tập tin hay dữ liệu kỹ thuật số, chứa các mối liên hệ logic về mặt không gian, kích thước, số lượng, vật liệu của từng cấu kiện, bộ phận trong công trình. Những thông tin này được trao đổi và kết nối trực tuyến với nhau thông qua các phần mềm, để hỗ trợ cho việc quản lý và ra những quyết định liên quan tới công trình. Việc kết hợp các thông tin về các bộ phận trong công trình với các thông tin khác như định mức, đơn giá, tiến độ thi công. sẽ tạo nên một mô hình thực tại ảo của công trình, nhằm mục đích tối ưu hóa thiết kế, thi công, vận hành quản lý công trình.
Mỹ phẩm đã trở thành một sản phẩm vô cùng phổ biến trong cuộc sống ngày nay. Tuy nhiên không phải ai cũng hiểu được bản chất mỹ phẩm là gì? Nhiều người thì cứ mường tượng rằng nó là dùng để làm đẹp trang điểm, nhưng cũng có người lại nghĩ nó có thể vừa làm đẹp vừa bảo vệ sức khỏe. Để làm rõ vấn đề này trong bài viết dưới đây Bao bì Đức Phát sẽ đưa ra cho bạn khái niệm chính xác về nó. Đồng thời cũng cung cấp những thông tin để bạn hiểu biết hơn. Mỹ phẩm có rất nhiều loại khái niệm khác nhau. Mọi người thường dựa vào mục đích sử dụng để định nghĩa nó. Tuy nhiên tất cả những định nghĩa đó chỉ mang tính nhỏ không bao quát. Để hiểu được đúng nhất và rộng nhất về mỹ phẩm thì chắc hẳn đó là khái niệm của Hoa Kỳ. Trong tiếng anh mỹ phẩm có tên gọi là Cosmetic. Mỹ phẩm là những chất hoặc sản phẩm được dùng để trang điểm hay thay đổi diện mạo hoặc mùi hương trên cơ thể người. Ngoài ra cũng có nhiều loại mỹ phẩm giúp bảo vệ hoặc tái tạo một số bộ phận trên cơ thể như tóc, da… Mỹ phẩm phần lớn là những hỗn hợp của các chất hóa học. Các chất này có thể có nguồn gốc chiết xuất từ thiên nhiên ( ví dụ như dầu dừa). Tuy nhiên cũng có nhiều chất là nhờ vào tổng hợp. Các loại mỹ phẩm phổ biến gồm có son môi, mascara, phấn mắt, kem nền, phấn má hồng, phấn phủ, sữa rửa mặt và sữa dưỡng thể, dầu gội, sản phẩm tạo kiểu tóc (gel vuốt tóc, gôm xịt tóc,…), nước hoa. Trên thực tế nhiều người hiểu lầm rằng xà phòng tắm cũng là mỹ phẩm. Tuy nhiên suy nghĩ này hoàn toàn sai lầm. Xà phòng không phải mỹ phẩm bởi vì mỹ phẩm là sản phẩm dùng để bôi. Mỹ phẩm handmade hay mỹ phẩm tự chế có thể được tự làm và được thực hiện thủ công ngay tại nhà. Đây là trào lưu bắt nguồn từ nỗi hoang mang với các loại mỹ phẩm công nghiệp, chứa nhiều hóa chất độc hại. Ban đầu trào lưu sử dụng mỹ phẩm handmade được một số người điều chế để tự sử dụng rồi tặng cho bạn bè, người quen. Sau đó ngày càng nhiều người tin dùng hơn, bởi vì thành phần chiết xuất tự nhiên không có chất độc hại và không ảnh hưởng đến làn da. Ngày nay mỹ phẩm đã không còn quá xa lạ. Nếu như trước đây mọi người chỉ thấy chị em phụ nữ dùng thì giờ đây tất cả mọi người đều dùng được từ nam đến nữ từ người già đến người trẻ…Đôi khi mọi người cũng ngồi nghĩ rằng “ Mỹ phẩm có nguồn gốc từ đâu”, hay mỹ phẩm có lịch sử hình thành như nào để có được các sản phẩm tuyệt vời như ngày hôm nay. Dưới đây là những dấu mốc vàng son trong lịch sử hình thành mỹ phẩm mà các bạn chưa hề biết. Cách đây khoảng 5000 năm lần đầu tiên son môi được xuất hiện. Nó được những người phụ nữ và đàn ông trong tộc người Sumer cổ đại sáng chế. Sau đó từ năm 3000 TCN đến năm 1500 TCN thì những loại son mới được người Ai Cập cổ đại phát hiện. Những loại son này đặc biệt nổi bật với những hiệu ứng ling linh trang trí môi và mặt. Dưới đây là những sản phẩm mỹ phẩm đầu tiên được phát hiện và tìm thây sau các công trình nghiên cứu về cổ đại. Để bảo vệ mắt thì người Ai Cập cổ đã dùng phấn kohl để vẽ và bảo vệ mắt. Theo người La Mã mô tả thì những sản phẩm kem xoa da cũng đã từng xuất hiện. Và nó được điều chế từ các sản phẩm tự nhiên như sáp ong, dầu ô liu, nước hoa hồng. Tiến hóa hơn chút là việc người Trung Quốc và Nhật Bản đã sử dụng các nguyên liệu thuốc đông y để làm mỹ phẩm. Ví dụ như sử dụng mộc nhĩ trắng để giữu ẩm da , giúp da trẻ hóa và căng mịn…. Đến thế kỷ 19 thì có công khai tuyên bố là sử dụng mỹ phẩm là bất lịch sự và chỉ cho diễn viên sử dụng. Công bố này được nữ hoàng Victoria tuyên bố. Mãi cho đến năm 1909 thì Pháp là đất nước cho ra hãng mỹ phẩm nổi tiếng L’Oréal đầu tiên. Và từ đó mỹ phẩm được sử dụng phát triển rộng rãi như ngày nay. Thành phần của mỹ phẩm thường là tổng hợp nhiều loại chất . Tuy nhiên thì có 2 nhóm thành phần xuất hiện chủ yếu trong các loại mỹ phẩm đó là hợp chất hữu cơ và hợp chất vô cơ. Hợp chất hữu cơ điển hình như dầu mỡ tự nhiên đã tinh chế. Còn hợp chất vô cơ là những khoáng chất được xử lý như oxit sắt, kẽm… Khoáng chất tạo màu không khả năng hòa tan trong dung môi. Sản phẩm được sản chiết xuất từ nguồn tự nhiên. Sản phẩm này đang trở nên được mọi người sử dụng bởi sự an toàn của nó đối với sức khỏe. Thuật ngữ “ Mỹ phẩm khoáng chất” được sử dụng nhiều trong các loại mỹ phẩm trang điểm mặt. Ví dụ như các sản phẩm kem nền, phấn mắt , phấn má hồng và bronzer. Được chế từ phấn khoáng chất rời rạc và khô sau đó được pha với nhũ tương dầu, nên các loại son môi hay kem thường ở dạng lỏng. Ngoài ra cũng có một số loại sản phẩm mỹ phẩm được chế ở dạng nén khoáng chất khô. Nên việc bảo quản của mỗi loại là khác nhau. Đối với loại mỹ phẩm dạng khô thì sẽ dễ bảo quản hơn. Còn đối với dạng lỏng thì phải bổ sung thêm chất bảo quản hay chất kết dính để đảm bảo được chất lượng cho sản phẩm. Trên thực tế thì các loại sản phẩm mỹ phẩm khoáng chất thường không chứa chất thơm tổng hợp. các loại thuốc mang tính hóa học. Nên các sản phẩm mỹ phẩm khoáng chất sẽ được bác sĩ da liễu cân nhắc cho sử dụng hơn là các sản phẩm mang những chất trên gây ảnh hưởng đến sức khỏe. Hiện nay thì một số khoáng chất được sử dụng chiết xuất từ các loại cât như xà cừ, ánh ngũ sẵ. Những loại này sẽ giúp cho da được vẻ tươi sáng và lấp lánh. Và cũng thực tế hiện nay thì có một số nhãn hiệu trang điểm dựa trên khoáng chất như : Bare Minerals, Tarte, Bobbi Brown và Stila. Tuy có chứa một số thành phần trong mỹ phẩm gây ra các mối quan ngại cho người dùng. Tuy nhiên cũng có rất nhiều thành phần được xem là có lợi cho người dùng. Ví dụ như Titan dioxit có trong kem chống nắng hoặc một số thành phần giúp kháng viêm khi xảy ra dị ứng. Các loại sản phẩm khoáng chất nếu như không có nguồn gốc tự nhiên thì cần phải đảm bảo 2 điều kiện. Điều kiện thứ nhất là khoáng chất không chứa talc. Điều kiện thứ hai là chứa một lượng nhẹ titan dioxit và oxit kẽm để bảo vệ tránh ánh nắng mặt trời. Cũng bởi vì các loại khoáng chất không chứa chất lỏng nên thời gian rất lâu. Để phân loại được các loại mỹ phẩm thì sẽ dựa vào một vào đặc điểm tính chất của loại mỹ phẩm đó. Và dựa vào đó thì người ta đã phân chia mỹ phẩm thành 2 loại chính như sau : Dược mỹ phẩm và Hóa mỹ phẩm. Dược mỹ phẩm là gì ? Khi gọi như thế chúng đã hiểu được một chút về nó. Ta phân tích từ này sẽ thấy Dược mỹ phẩm = Dược phẩm + mỹ phẩm . Như vậy với bản chất của nó ta đã thấy được giá trị nó đem đến. Kết hợp nếu như mỹ phẩm sẽ giúp làm đẹp da, thì dược phẩm sẽ giúp điều trị hoặc chăm sóc tình trạng làn da. Hiện nay dược mỹ phẩm được áp dụng rất rộng rãi trong ngành hàng mỹ phẩm, đặc biệt trong ngành spa. Trên thực tế, ngành dược mỹ phẩm hiện nay mặc dù mang đặc tính của mỹ phẩm. Tuy nhiên công dụng mà nó đem lại thì rất đáng kể giống như dược phẩm dùng để điều trị và phục hồi. Để có được điều này nó phải thực hiện qua quá trình nghiên cứu bào chế nghiêm ngặt giống như bào chế dược phẩm. Với sự phát triển của công nghệ áp dụng vào y học tiên tiến, đã giúp xử lý nhanh chóng các vấn đề chuyên sâu của làn da. Ví dụ như các bệnh về lão hóa da, viêm nhiễm, tổn thương, sạm nám… Đây chính là công dụng tối ưu mà các sản phẩm mỹ phẩm khác không thể làm được. Hiện nay những sản phẩm dược mỹ phẩm này thường chủ yếu được phân phối qua thương hiệu sản phẩm. Nếu bạn muốn tìm các loại sản phẩm này bạn có thể tìm hiểu qua các cơ sở bệnh viện uy tín hoặc một số cửa hàng mỹ phẩm chính hãng. Nó dùng để giúp cải thiện tình trạng làn da, lông tóc của bạn khi gặp phải các vấn đề bệnh lý. Hoặc đơn giản là nó giúp làm sạch hoặc tạo mùi cho bạn. Trong các sản phẩm hóa mỹ phẩm thì các nhà sản xuất thường thêm các hoạt chất tạo mùi thơm hoặc các hoạt chất để dưỡng da khỏe và đẹp hơn. Hóa mỹ phẩm chủ yếu được sử dụng trong các sản phẩm trang điểm công nghiệp. Thành phần cấu tạo chủ yếu của hóa mỹ phẩm thường dưới dạng sáp, bột, dầu, chất lỏng. Ngoài ra cũng có thể ở một số dạng khác. Về tác dụng của hóa mỹ phẩm trong chăm sóc và làm đẹp chủ yếu là: Làm sạch da, làm trắng, dưỡng da, bảo vệ da chống nẻ, khô, bong tróc, bảo vệ da và tóc,… Hay hóa mỹ phẩm có ở kem đánh răng, nước hoa, son môi, thuốc nhuộm tóc, bút kẻ mắt,…. Thứ nhất là mỹ phẩm dành cho mặt. Khuôn mặt chiếm phần quan trọng trong giao tiếp. Nên nhiều người cũng chú ý đến khuôn mặt của mình và sử dụng một vài sản phẩm dành riêng cho mặt như : sữa rửa mặt, phấn trang điểm, kính áp tròng màu, son, serum, kem điều trị da…. Thứ hai là mỹ phẩm dành cho cơ thể. Phần lớn những loại mỹ phẩm này có công dụng tạo mùi thơm hoặc làm sạch cơ thể. Ví dụ như lăn khử mùi, sữa tắm trắng, nước hoa…. Thứ 3 là là mỹ phẩm dành cho móng. Bởi vì đây cũng là 1 thị trường tiềm năng hiện nay. Nên loại mỹ phẩm này cũng rất được ưa chuộng. Ví dụ như sơn móng tay, móng chân, dung dịch rửa tay…. Thứ 4 là mỹ phẩm dành cho tóc. Ví dụ như thuốc nhuộm, dầu gội, dầu xả, gôm, gel…. Ngoài ra thì cũng còn một vài cách phân loại mỹ phẩm đặc trưng. Ví dụ như theo độ tuổi hoặc giới tính. Bởi vì ở mỗi lứa tuổi khác nhau, mỗi giới khác nhau thì sẽ có những đặc điểm khác nhau. Nên đây cũng là cách phân biệt cũng áp dụng nhiều ví dụ như mỹ phẩm dành cho trẻ sơ sinh sẽ khác hoàn toàn với trẻ vị thành niên và người lớn. Cũng do đặc điểm đó mà người ta thường sản xuất các loại mỹ phẩm dùng cho đàn ông con trai riêng, phụ nữ riêng. Ví dụ như sản phẩm sữa rửa mặt thì con trai vận động nhiều, sẽ ra nhiều chất nhờn … hơn nữ nên nó cũng phải được nghiên cứu một cách khác nhau để phù hợp. Sản phẩm mỹ phẩm handmade là thường được làm từ chính tay người có kinh nghiệm. Tuy nhiên vì thế mà nó bị giới hạn quy mô chỉ làm nhỏ lẻ. Hi vọng bài viết này đã giúp bạn hiểu rõ hơn mỹ phẩm là gì? Dược mỹ phẩm là gì? Qua đó giúp ích hơn cho bạn cho việc lựa chọn mỹ phẩm cho mình và bạn bè. Bao bì Đức Phát Chuyên sản xuất – kinh doanh và in ấn các sản phẩm Bao bì như Bao bì PP dệt, Chai lọ thủy tinh, Chai lọ nhựa, Hũ thủy tinh, Màng ghép phức hợp, Bao bì Ghép giấy Kraft, Màng đơn LDPE, HDPE, Túi Xốp….
Mỹ phẩm
Mỹ phẩm là những chất hoặc sản phẩm được dùng để trang điểm hoặc thay đổi diện mạo hoặc mùi hương cơ thể người. Nhiều mỹ phẩm được thiết kế để sử dụng cho mặt và tóc. Chúng thường là hỗn hợp các hợp chất hóa học; một số xuất phát từ nguồn gốc tự nhiên (như dầu dừa) và một số được tổng hợp. Các loại mỹ phẩm phổ biến gồm có son môi, mascara, phấn mắt, kem nền, phấn má hồng, phấn phủ, sữa rửa mặt và sữa dưỡng thể, dầu gội, sản phẩm tạo kiểu tóc (gel vuốt tóc, gôm xịt tóc,. ), nước hoa. Mỹ phẩm thường được thoa lên mặt để làm nổi bật diện mạo nên còn được gọi là đồ trang điểm hay đồ hóa trang. Tại Hoa Kỳ, Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA), kiểm soát mỹ phẩm, định nghĩa mỹ phẩm là "chất dùng để bôi thoa vào cơ thể người nhằm tẩy sạch, tô điểm, tăng cường độ thu hút hoặc thay đổi diện mạo mà không ảnh hưởng đến cấu trúc hoặc chức năng của cơ thể". Định nghĩa rộng này bao gồm bất kỳ chất liệu nào được sử dụng làm thành phần của một sản phẩm mỹ phẩm.
Trong năm 2014, cả thế giới Kitô giáo tổ chức semisotletie với sự xuất hiện trên trái đất của vĩ đại chân chính Sergiya Radonezhskogo. Trong bài này chúng tôi sẽ giới thiệu bạn với cuộc đời của vị trụ trì Nga vĩ đại, chúng tôi giải thích làm thế nào để gọi Nga tại St. Giải thích lý do tại sao như vậy một giá trị cao về hoạt động của mình trong lịch sử của quê hương chúng tôi. Kể từ thời thơ ấu, Bartholomew được đánh dấu bằng một ân sủng đặc biệt. Với Maria mỗi năm và Cyril thuyết phục của con trai Thiên Chúa tuyển chọn. Trong 1328 gia đình chuyển đến Radonezh, nơi Bartholomew bắt đầu để có một quan tâm đến đời sống đan tu và suy nghĩ đầu tiên về cách nhập một tu viện. Ý tưởng này thuộc về anh trai của mình, Stephen, người về hưu như một tu sĩ. Cha Bartholomew đã không hài lòng với quyết định này và cố gắng hết sức mình để ngăn cản con trai ông từ giữa bước này. Sergius không buồn bã của cha cô và ở lại với cha mẹ để giúp họ với công việc gia đình. Trong năm 1337, song thân của Thánh Sergius chết, và ông đã đưa ra một phần của ông về thừa kế cho người em trai, cùng với cao cấp Stephen bắt đầu dẫn dắt cuộc sống của một ẩn sĩ trong rừng sâu. tên Nga tại St. Nước ta đang trong những ngày đó được gọi là Rus, nơi mà từ thời xa xưa được coi là mức độ cao nhất bế quan tỏa cảng của sự hoàn hảo tu viện. Hai anh em xây dựng một tế bào và sống một cuộc sống đơn độc. Stefan không thể chịu được kiểm tra và rời khỏi tế bào. Sớm tin đồn lan truyền về ẩn dật như một người thánh thiện (chân chính). Để nó bắt đầu đi tu sĩ và tín đồ bình thường. Sergius được hình thành xung quanh các cộng đồng nhỏ của mười hai. Họ đã xây dựng một nhà thờ bằng gỗ nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ Thánh Sergius bắt đầu sự sùng bái của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là một cộng đồng, để làm sống lại tinh thần của sự nhất trí và tình huynh đệ. Họ rao giảng nguyên tắc "Đừng làm những gì bạn không muốn làm cho các ngươi." Đối với thời điểm đó nó là một cái gì đó mới và khác thường. Trong các tu viện nở rộ hận thù, âm mưu, tham lam. Tín đồ bắt đầu đi đến Sergius, để xác minh sự tồn tại của "phép lạ trần thế." Ngay sau đó, họ bắt đầu nói rằng bên cạnh họ sống một người đàn ông chân chính - sứ giả của Thiên Chúa. Và trong khi người ta tin rằng cuộc xâm lược của các bộ lạc Mông Cổ-Tatar - một sự trừng phạt cho tội lỗi của mình. Giúp cô trốn thoát chỉ là sự hồi sinh của ân sủng của Thiên Chúa. Cộng đồng của Thánh Sergius - một chỉ báo về một lối sống thực sự công bình. Một lần trong một tu viện, nơi mà vào thời điểm đó là Mục sư, trên mặt nước. Ông bắt đầu cầu nguyện với Thiên Chúa, ông đã tìm thấy nơi này, làm nên ngày thánh chéo, và một điều kỳ diệu đã xảy ra - tại nơi ghi thóp này, mà bây giờ được gọi là Sergius. Một lần, giữa đêm khuya, đại thánh cầu nguyện và đọc về cuộc sống của Đức Trinh Nữ. Một cơn gió mạnh thổi tắt ngọn đèn dầu. Sergius để nhen nhóm tinh thần của họ rằng cuốn sách cười rạng rỡ với ánh sáng trời. Có bao nhiêu thánh, Monk được ưu đãi với những món quà của Đấng Quan Phòng. Nó là thông qua quà tặng này của sự ban phước của ông về Hoàng tử Dmitry Donskoy nổi tiếng trong cuộc chiến với Tatars rất hiệu quả. Chiến thắng này đánh dấu sự khởi đầu của sự trưởng thành và tăng cường của Moscow Nga, như Nga được gọi tại St. Và đó là nguồn cảm hứng đằng sau cuộc Đại Righteous. Trong cuộc sống lâu dài và chính mình Sergius thành lập hai mươi tu viện, và không chỉ ở Moscow. Nga tại tu viện St. Sergius bắt đầu sử dụng để khám phá vùng đất mới. Ông có rất nhiều sinh viên, với tuổi nó trở nên chính quyền không thể lay chuyển. Ông không bao giờ tham gia vào hoạt động chiến đấu, không ai chiến đấu. Tuy nhiên, ý nghĩa lịch sử hoạt động của mình Sergius là chỉ huy cao hơn thời điểm đó. Bất cứ ai đã quan tâm đến lịch sử, biết rằng trong thế kỷ mười ba-XIV là tên gọi khác của Nga. Khi mọi người Sergii Radonezhskom Slav đoàn kết và tự hào dung lượng tên Nga (Moscow). Vĩ đại thánh là nhà ngoại giao đúng nhà thờ, người Kitô hữu lớn nhất, tác giả của tu viện mới, các giáo viên được đào tạo nhiều sinh viên và những người theo, người thực hiện những suy nghĩ và ý tưởng của mình. Sau cái chết của Sergei phong thánh các thánh tuyệt vời. Bà đã sống một cuộc sống lâu dài và công bình, ông đã có thể đoàn kết các hoàng tử Nga, để thuyết phục họ tuân theo Prince of Moscow, và cùng nhau đứng dựa vào Tatars. Nhiều tín đồ nghĩ rằng ngay cả ngày nay trong tu viện Thiên Chúa Ba Ngôi, được thành lập bởi Rev. sống linh hồn của Giáo Hội của Nga, vì Nga được gọi tại St. trụ trì Nga tôn kính bởi những người của chúng tôi, và các Kitô hữu khắp nơi trên thế giới như không có khác. Do đó, ở trong Thiên Chúa Ba Ngôi Lavra - nó luôn luôn ân sủng. Sergiy Radonezhsky - chỉ huy của chúng tôi trong những trận chiến có thể nhìn thấy và vô hình. Trong bảy thế kỷ, nhân dân Nga nói về đại thánh, rằng với anh ta chúng tôi không sợ bất kỳ rắc rối.
Tên của Rus', Nga và Ruthenia
Ban đầu, cái tên Rus (Русь) được dùng để chỉ người, khu vực và các quốc gia thời trung cổ (thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 12) của Rus Kiev. Trong văn hóa phương Tây, nó được biết đến nhiều hơn với cái tên Ruthenia từ thế kỷ 11 trở đi, Các lãnh thổ của nó ngày nay thuộc Belarus, Bắc Ukraina và Nga thuộc châu Âu. Thuật ngữ Россия (Rossija), xuất phát từ tiếng Hy Lạp Byzantine định nghĩa của Rus , Ρωσσία Rossía - đánh vần là Ρωσία (Rosía phát âm là ) trong tiếng Hy Lạp hiện đại. Một trong những tư liệu lịch sử sớm nhất đề cập đến những người được gọi là Rus (như Rhos) có từ năm 839 trong Annales Bertiniani. Biên niên này xác định họ là một bộ lạc Germanic được gọi là người Thụy Điển. Theo Biên niên sử chính (Primary Chronicle) của Kievan Rus , được biên soạn vào khoảng năm 1113, Rus là một nhóm người Varangians, Norsemen đã di chuyển đến một nơi nào đó từ vùng Baltic (nghĩa đen là "từ ngoài biển"), đầu tiên đến Đông Bắc Châu Âu, rồi đến phía nam nơi họ tạo ra nhà nước Kiev thời trung cổ.
Vương tử Andrew, Công tước xứ York (tên đầy đủ: Andrew Albert Christian Edward, sinh vào ngày 19 tháng 2 năm 1960), là người con thứ ba và cũng là con trai thứ hai của Nữ vương Elizabeth II và Vương tế Philip, Công tước xứ Edinburgh. Vào thời điểm ông ra đời, ông đứng thứ 2 trong danh sách thừa kế các ngai vàng của Vương quốc Anh và Khối thịnh vượng chung. Vương tử Andrew ngoài các tước hiệu hoàng gia như: Vương tử, Công tước xứ York thì ông còn là chuẩn đô đốc Hải quân Hoàng gia Anh, trong đó ông phục vụ như là một phi công máy bay trực thăng hoạt động nhiệm vụ và hướng dẫn. Ông từng tham gia Chiến tranh Falklands. Ngày 23 tháng 7 năm 1986, Vương tử Andrew kết hôn với cô Sarah Ferguson. Cuộc hôn nhân không mấy êm đẹp và nồng thắm, đến ngày 30 tháng 5 năm 1996 thì hai người ly dị, cuộc li hôn hoàng gia này đã thu hút nhiều dư luận và tốn nhiều giấy mực của truyền thông Anh thời bấy giờ. Cũng như thực hiện các nhiệm vụ khác nhau của Hoàng gia, ông làm Đặc phái viên của Vương quốc Anh về thương mại quốc tế và đầu tư đến tháng 7 năm 2011.
Vương tử Andrew, Công tước xứ York
Vương tử Andrew, Công tước xứ York (tên đầy đủ: Andrew Albert Christian Edward, sinh vào ngày 19 tháng 2 năm 1960), là người con thứ ba và cũng là con trai thứ hai của Nữ vương Elizabeth II và Vương tế Philip, Công tước xứ Edinburgh. Vào thời điểm ông ra đời, ông đứng thứ 2 trong danh sách thừa kế các ngai vàng của Vương quốc Anh và Khối thịnh vượng chung. Tuy nhiên, sự ra đời của 2 cháu trai (Vương tử William và Vương tử Harry), sau đó là 3 cháu trai (Công tử George, Công tử Louis và Archie) và 2 cháu gái (Công nữ Charlotte, Công nữ Lilibet), và sự thay đổi của Khối thịnh vượng chung, Vương tử Andrew xếp thứ 9 trong danh sách kế vị ngai vàng Vương quốc Anh và đứng đầu của 16 nước trong Khối thịnh Vượng chung: Vương quốc Anh, Canada, Australia, New Zealand, Jamaica, Barbados, Bahamas, Grenada, Papua New Guinea, Quần đảo Solomon, Tuvalu, Saint Lucia, Saint Vincent và Grenadines, Belize, Antigua và Barbuda, và Saint Kitts và Nevis. Vương tử Andrew ngoài các tước hiệu hoàng gia như: Vương tử, Công tước xứ York thì ông còn là chuẩn đô đốc Hải quân Hoàng gia Anh, trong đó ông phục vụ như là một phi công máy bay trực thăng hoạt động nhiệm vụ và hướng dẫn.
Việc dùng phương pháp Giá trị hiện tại thuần (Net Present Value – NPV) cho các quyết định đầu tư luôn hợp lý. Nếu các ước tính về dòng tiền là khách quan thì có thể tự tin các phép tính này sẽ đưa chúng ta tới những quyết định tốt về phương án đầu tư. Để tìm hiểu NPV là gì, chúng ta sẽ nghiên cứu về một ví dụ đơn giản bên dưới. Công ty của bạn đang cân nhắc mua một chiếc xe tải có giá khoảng 700 triệu đồng. Thời gian sử dụng dự kiến là 7 năm, sau đó sẽ thanh lý. Ước tính mỗi năm chiếc xe này sẽ mang về cho công ty 150 triệu đồng. Chúng ta sẽ dùng phương pháp tính giá trị hiện tại thuần để phân tích khoản mục đầu tư cơ bản này. Đây là phương pháp mà các chuyên gia tài chính thường sử dụng để đánh giá các khoản mục đầu tư bên cạnh phương pháp IRR. Giá trị hiện tại thuần – NPV là chênh lệch giữa giá trị hiện tại của dòng tiền vào (cash inflows) và giá trị hiện tại của dòng tiền ra (cash outflows). Phương pháp này sử dụng giá trị tiền tệ theo thời gian để khấu trừ dòng tiền tương lai thu về giá trị hiện tại của một khoản mục đầu tư cơ bản, dựa trên lãi suất chiết khấu kỳ vọng. Hãy nhìn vào ảnh bên trên để hình dung, tính NPV là chuyển chuỗi dòng tiền thuần ở các thời điểm trong tương lai (future) về giá trị hiện tại (now) theo tỉ suất chiết khấu. Sau đó, ta tiếp tục lấy kết quả trừ cho chi phí đầu tư ban đầu. Nếu bạn cảm thấy khó khăn với công thức trên, ta có thể dùng hàm NPV trong excel để tính toán cho mau. value0: Chi phí vốn ban đầu (theo ví dụ là 700 triệu đồng, để dấu âm). Dấu trong hàm NPV có thể là dấu “phẩy” hoặc “chấm” tuỳ thiết lập máy tính của bạn. Nếu giá trị hiện tại thuần NPV của một dự án đầu tư lớn hơn 0, dự án đó nên được thông qua (NPV > 0). Bởi vì thu nhập thu về đã lớn hơn ngưỡng hoà vốn. Ở đây, con số dòng tiền dương là khoảng 30 triệu đồng cho thấy nó có lợi tức cao hơn 10%. Nếu NPV = 0 đạt ngưỡng hoà vốn, có thể thông qua hoặc không tuỳ vào tỷ suất chiết khấu kỳ vọng của bạn đưa ra ban đầu là lạc quan hay thận trọng. Một là, NPV tính đến giá trị tiền tệ theo thời gian, theo đó nó khấu trừ dòng tiền tương lai để thu về giá trị hiện tại. Hai là, NPV xem xét đến chi phí đầu tư cơ bản (thường rất nhiều tiền) hoặc ngưỡng hoàn vốn của doanh nghiệp. Ba là, NPV cũng cho phép so sánh kế hoạch phân bổ ngân sách với giá trị hiện tại của dòng tiền thu về. Bạn là kế toán hoặc chuyên viên tài chính của doanh nghiệp, được giao nhiệm vụ xem xét khoản đầu tư vào chiếc xe theo ví dụ bên trên. Sau khi tính toán NPV, bạn làm thế nào để trình bày với giám đốc và các lãnh đạo khác để họ chấp nhận lập luận của bạn?. Giá trị đầu tư ban đầu thì dễ hiểu, còn thời gian hoàn vốn cũng tạm được. Nhưng giá trị hiện tại thuần là con số dựa trên giá trị chiết khấu của dòng tiền tương lai, um, nghe hơi khó hiểu với những người mà chuyên môn không thuộc tài chính. Và không phải lãnh đạo nào cũng có chuyên môn về tài chính để dễ dàng hiểu được NPV. Lúc này bạn cần kiên nhẫn, bởi vì các khoản đầu tư có NPV >0 đều sẽ làm gia tăng giá trị cho cổ đông. Với điều kiện là các ước tính của bạn phải hợp lý. Chúng ta thấy rằng để tính được NPV, bạn phải giả định các con số quá nhiều. Chi phí ban đầu của một dự án có thể dao động, tình trạng “đội vốn” rất dễ xảy ra. Đơn cử như ví dụ bên trên của chúng ta thì giá xe dễ dự đoán, nhưng nếu bạn đang muốn xây dựng một khu chung cư thì sao?. Dòng tiền mỗi năm cũng tương tự, chỉ là các phỏng đoán của bạn. Còn tỷ lệ chiết khấu nữa, bạn căn cứ vào đâu để đưa ra tỷ lệ này?. Đấy, một bài tập trên lớp thì khá đơn giản vì các con số đã được cho sẵn. Nhưng khi bước vào một tình huống thực tế tại công ty của bạn thì các con số này bạn phải tự ước tính rồi sau đó mới sử dụng công thức NPV để ra kết luận cuối cùng. Dân tài chính hay có từ lóng là “bốc thuốc” cho việc đánh giá các dự án đầu tư. Nghĩa là các con số do bạn đưa ra, NPV dương hay âm là do bạn. Bạn muốn NPV >0 thì chỉ cần cho các dòng tiền thu về hàng năm cao một chút hoặc thay đổi các con số khác, và ngược lại. Thế nên khi dùng NPV để đánh giá dự án đầu tư, việc ước tính các con số phải khách quan. Việc hiểu rõ cách tính NPV có thể giúp bạn đặt câu hỏi về giả định của người khác và tự tin hơn trong việc giải thích tại sao nên tiến hành đầu tư hay không.
Giá trị hiện tại thuần
Trong Tài chính,giá trị hiện tại thuần (NPV) hoặc "giá trị hiện tại ròng" (NPW) của chuỗi thời gian các dòng tiền, cả vào và ra, được định nghĩa là tổng các giá trị hiện tại (PV) của các dòng tiền cụ thể của cùng một thực thể. Trong trường hợp khi tất cả các luồng tiền trong tương lai là tiền vào (chẳng hạn như phiếu giảm giá và gốc trái phiếu) và dòng tiền ra duy nhất là giá mua, NPV chỉ đơn giản là PV của dòng tiền tương lai trừ đi giá mua (đó là PV của riêng nó). NPV là một công cụ trung tâm trong phân tích dòng tiền chiết khấu (DCF), và là một phương pháp tiêu chuẩn cho việc sử dụng giá trị thời gian của tiền để thẩm định các dự án dài hạn. Được sử dụng để lập ngân sách vốn, và rộng rãi trong suốt kinh tế, tài chính, kế toán, nó đo lường sự vượt quá hoặc thiếu hụt của các dòng tiền, về giá trị hiện tại, một khi các chi phí tài chính được đáp ứng. NPV của một chuỗi các dòng tiền có như là đầu vào dòng tiền mặt và tỷ lệ chiết khấu hoặc đường cong giảm giá và đầu ra một mức giá quá trình trò chuyện trong phân tích DCF - tham gia một chuỗi các dòng tiền và một mức giá như đầu vào và suy luận như sản lượng giảm giá tỷ lệ (tỷ lệ chiết khấu mà sẽ mang lại mức giá được đưa ra như NPV) - được gọi là năng suất, và được sử dụng rộng rãi trong kinh doanh trái phiếu.
Hong KongTrưởng đặc khu Carrie Lam thông báo rút dự luật dẫn độ trong bài phát biểu trên truyền hình chiều nay, đáp ứng một yêu sách của người biểu tình. "Trước hết, chính quyền sẽ chính thức rút dự luật để xóa tan mọi lo ngại của người dân. Người đứng đầu cơ quan an ninh sẽ thực hiện quyết định này theo Quy tắc Tố tụng khi Hội đồng Lập pháp làm việc trở lại", bà Lam nói trong bài phát biểu khoảng 10 phút được phát trên toàn bộ các kênh truyền hình ở Hong Kong lúc 17h50 (16h50 giờ Hà Nội). "Hong Kong còn là một nơi an toàn không? Người dân có những quan điểm khác nhau về việc bị bắt nạt. Những gì xảy ra trong hơn hai tháng qua đã gây sốc cho nhiều người", bà Lam cho hay. "Liên quan việc tiến hành điều tra độc lập, chúng tôi nghĩ rằng không nên lập ủy ban điều tra mà nên để sự việc cho Hội đồng Khiếu nại Cảnh sát Độc lập (IPCC)". Trưởng đặc khu Hong Kong cho biết kể từ tháng này, bà và quan chức đứng đầu các ngành sẽ tiếp cận người dân ở mọi cộng đồng để đối thoại trực tiếp, tìm cách giải quyết sự bất mãn trong xã hội. Bà cũng sẽ mời các lãnh đạo cộng đồng, chuyên gia và học giả độc lập kiểm tra, xem xét các vấn đề xã hội và tư vấn cho chính quyền thành phố tìm ra giải pháp. "Về vấn đề xem biểu tình là bạo loạn, chúng tôi đã giải thích rằng trên thực tế không có căn cứ pháp lý nào về việc phân loại hay mô tả các sự cố như vậy. Cơ quan tư pháp đã đảm bảo với công chúng rằng mọi quyết định truy tố đều dựa trên bằng chứng thu thập được và tuân thủ nghiêm ngặt theo luật pháp liên quan và Bộ luật truy tố", bà Lam cho hay, đề cập đến yêu cầu của người biểu tình. "Về việc hủy cáo buộc và không truy tố những người biểu tình, bạo loạn, tôi đã giải thích rằng điều này trái với quy định của pháp luật và không được chấp nhận. Nó cũng đi ngược lại Luật Cơ bản, trong đó quy định các vụ truy tố hình sự phải được cơ quan tư pháp xử lý mà không có bất kỳ sự can thiệp nào". Đối với việc thực hiện quyền bầu cử phổ thông ở Hong Kong, bà Lam nói đây cũng là mục đích cuối cùng của Luật Cơ bản, các cuộc thảo luận phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp lý và trong bầu không khí có lợi cho sự tin tưởng và hiểu biết lẫn nhau, không làm xã hội phân cực hơn nữa. Tuy nhiên, nhiều người biểu tình tỏ ra không hài lòng, cho rằng nhà chức trách phải thực hiện tất cả các yêu cầu của người biểu tình. Trước đó họ còn yêu cầu bà Lam phải từ chức. Bà Lam hồi tháng 7 tuyên bố hoãn thảo luận dự luật dẫn độ, song người biểu tình không chấp nhận điều này. Họ cho rằng nếu dự luật còn nằm trong chương trình nghị sự lập pháp, nó sẽ có mọi cơ hội để "hồi sinh" trước khi Hội đồng Lập pháp hiện tại kết thúc nhiệm kỳ vào năm tới. Hong Kong đang trải qua cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất kể từ khi được Anh trao trả cho Trung Quốc năm 1997. Biểu tình bùng phát từ ngày 9/6 gây ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của thành phố. Việc rút dự luật được xem là nỗ lực của chính quyền đặc khu nhằm hạ nhiệt căng thẳng. Trưởng đặc khu Hong Kong bắt đầu thay đổi suy nghĩ về việc rút dự luật sau cuộc gặp 19 lãnh đạo thành phố cách đây hai tuần. Bà đặc biệt chú ý đến quan điểm của họ về cách giảm căng thẳng. Nguồn tin cũng nói rằng việc rút hoàn toàn dự luật là cách đơn giản nhất để giảm căng thẳng. Tik Chi-yuen, lãnh đạo nhóm Third Side tham dự cuộc họp với bà Lam, nói rằng việc rút dự luật và khởi động cuộc điều tra độc lập là những cách thiết thực để chính phủ thể hiện sự chân thành đối thoại ở các lĩnh vực khác nhau. Hãng Reuters hôm 2/9 công bố đoạn ghi âm cuộc họp kín tuần trước giữa bà Carrie Lam và nhóm doanh nhân Hong Kong, trong đó bà nói rằng đã gây ra "tàn phá không thể tha thứ" cho Hong Kong và sẽ từ chức nếu có thể. Đáp lại thông tin này, bà Lam khẳng định chưa bao giờ cân nhắc thảo luận việc từ chức với chính quyền trung ương và bà cùng các cố vấn nên ở lại để giúp đỡ Hong Kong. Thị trường chứng khoán Hong Kong và châu Á tăng sau khi có tin tức về việc Hong Kong rút dự luật dẫn độ.
Dự luật dẫn độ Hồng Kông 2019
Dự luật đối với người phạm tội bỏ trốn và Hỗ trợ pháp lý lẫn nhau trong Lập pháp các vấn đề Hình sự (Sửa đổi) 2019 (phồn thể: 2019年逃犯及刑事事宜相互法律協助法例(修訂)條例草案) là một dự luật được đề xuất liên quan đến dẫn độ để sửa đổi Pháp lệnh người phạm tội bỏ trốn (Chương 503) liên quan đến các thỏa thuận dẫn độ đặc biệt và Hỗ trợ pháp lý lẫn nhau trong Pháp lệnh các vấn đề hình sự (Chương 525) để có thể sắp xếp hỗ trợ pháp lý lẫn nhau giữa Hồng Kông và bất kỳ nơi nào ngoài Hồng Kông. Dự luật được chính phủ Hồng Kông đề xuất vào tháng 2 năm 2019 để yêu cầu dẫn độ nghi phạm Hồng Kông trong vụ án giết người ở Đài Loan. Chính phủ đề xuất thiết lập một cơ chế chuyển giao những người chạy trốn không chỉ cho Đài Loan, mà còn cho Trung Quốc đại lục và Ma Cao, vốn không nằm trong luật hiện hành. Sự ra đời của dự luật đã gây ra sự chỉ trích rộng rãi trong và ngoài nước từ nghề luật, các tổ chức nhà báo, nhóm kinh doanh và chính phủ nước ngoài vì lo ngại sự xói mòn thêm của hệ thống pháp luật Hồng Kông và các biện pháp bảo vệ tích hợp, cũng như làm tổn hại môi trường kinh doanh của Hồng Kông.
Để đảm bảo chất lượng học và dạy cũng như chất lượng đầu ra cho sinh viên, năm 2021 Khoa nhận đào tạo 200 sinh viên đối với ngành Đại Học Điều Dưỡng và Dược tuyển sinh theo hình thức xét tuyển. Có học bổng cho sinh viên xuất sắc.+ Cam kết 100% sinh viên ra có việc làm, khoa giới thiệu việc làm ở các bệnh viện lớn trên cả nước.+ Cam kết thi tuyển dụng bệnh viện nào cũng đỗ. (trên 10.000 sinh viên hiện đang làm các bệnh viện). + Cam kết giới thiệu việc làm bên nước ngoài thu nhập trên 60.000.000đ. (trên 5.000 sinh viên đang làm việc tại nước ngoài). + Cam kết dạy miễn phí tiếng nước ngoài trước khi sang công tác và làm việc. + Cam kết giới thiệu việc làm bên nước ngoài thu nhập trên 60.000.000đ. (trên 5.000 sinh viên đang làm việc tại nước ngoài). + Cam kết dạy miễn phí tiếng nước ngoài trước khi sang công tác và làm việc. Ngành Tâm lý học giáo dục là một ngành học thế hệ và chưa có nhiều người biết đến. “Ngành Tâm lý học là gì? Ra trường làm gì?” là câu hỏi nhận được sự đon đả của hồ hết phụ huynh và thí sinh khi tò mò về ngành học này. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp cho Cả nhà những thông báo căn bản về ngành học này, từ đó có cơ sở cần thiết cho việc chọn lựa ngành nghề ngày mai. Tâm lý học (tiếng Anh là Psychology) là một bộ môn học thuật thuộc khoa học xã hội, tìm hiểu về các cá nhân và nhóm bằng cách thiết lập những phép tắc tầm thường và nghiên cứu những trường hợp cụ thể. Ngành Tâm lý học nghiên cứu việc xử lý thông báo và biểu thị hành vi ở con người, làm rõ thực chất của loài người bằng cách đi sâu vào mọi ngõ ngách của đời sống, từ kinh tế, chính trị, xã hội cho tới văn hóa, giáo dục, y học, triết học…. Tâm lý học giáo dục (tiếng Anh là Psychology and Education) là ngành học nghiên cứu về cách nhưng con người học được từ môi trường giáo dục xung quanh. Ngành học này liên quan đến những phương pháp học khác nhau, thường hội tụ vào những đối tượng người học có nhu cầu khác lạ như trẻ mỏ có năng khiếu và người khuyết tật về thể chất hay tinh thần. Ngành Tâm lý giáo dục huấn luyện những cử nhân có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để giảng dạy Tâm lý học và Giáo dục học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học; có thể nghiên cứu khoa học tâm lý và giáo dục tại các cơ sở nghiên cứu; có đủ năng lực tự học, tự nghiên cứu để có thể học tiếp lên trình độ cao hơn trong cùng lĩnh vực khoa học. Cả nhà tham khảo khung chương trình huấn luyện và các môn học chuyên ngành Tâm lý học giáo dục trong bảng dưới đây. Các bạn có thể tham khảo mức điểm chuẩn của các trường đại học tập huấn ngành Tâm lý học giáo dục những năm gần đây. Trong năm 2018, mức điểm chuẩn của ngành này từ 14 – 26 điểm tùy theo điểm các môn xét theo học bạ và các khối thi xét theo kết quả thi THPT tổ quốc. Giảng dạy Tâm lý học và một số chuyên đề có ảnh hưởng tại các trường đại học, cao đẳng, các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề; thiết kế và giáo dục kỹ năng sống cho cộng đồng. Đối với sinh viên thế hệ ra trường và ít kinh nghiệm làm việc tại các đơn vị, doanh nghiệp xã hội thì mức lương trung bình từ 5 – 7 triệu đồng/ tháng. Đối với những đã có kinh nghiệm làm việc trong ngành Tâm lý học giáo dục và tùy thuộc vào vị trí, năng lực sẽ có mức lương cao hơn từ 8 – 10 triệu đồng/ tháng hoặc có thể cao hơn. Có năng khiếu giao du, thuyết phục, thích khám phá nhân loại nội tâm bí mật và say mê làm việc trong lĩnh vực tâm lý. Dù còn khá thế hệ mẻ ở Việt Nam, nhưng ngành Tâm lý học giáo dục được đánh giá là ngành học có nhiều triển vọng nghề nghiệp trong mai sau, bởi vì đây là lĩnh vực đang thu được nhiều sự ân cần của xã hội. Theo học ngành này, game thủ sẽ có nhiều cơ hội việc làm với mức lương cực kì thu hút. Ngành kinh doanh quốc tế được đánh giá nhưng mà một ngành học vô cùng năng động và không thể thiếu ở bất cứ nước nhà nào. Trong xã hội hiện đại, ngành chính trị đang trở nên hot nhất và đang được các bạn trẻ. ngày nay, cùng với sự phát hành của đời sống và phát hành công nghiệp là sự ngày càng tăng liên tiếp về nhu cầu thẩm. Ngành Kỹ thuật công nghiệp cung ứng những tri thức về cả kỹ thuật và kinh doanh, xem xét các vấn đề từ tầm nhìn quản. Chuyên trang thông tin Tuyển Sinh cung cấp thông tin tuyển sinh chính thức từ Bộ GD & ĐT và các trường ĐH – CĐ trên cả nước.
Tâm lý học giáo dục
Tâm lý học giáo dục là một nhánh của tâm lý học liên quan đến việc nghiên cứu khoa học của việc học tập của con người. Nghiên cứu về các quá trình học tập, từ cả quan điểm nhận thức và hành vi, cho phép các nhà nghiên cứu hiểu được sự khác biệt cá nhân trong trí thông minh, phát triển nhận thức, ảnh hưởng, động lực, khả năng tự điều chỉnh và tự khái niệm, cũng như vai trò của các yếu tố này trong việc học tập. Lĩnh vực tâm lý giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào các phương pháp định lượng, bao gồm kiểm tra và đo lường, để tăng cường các hoạt động giáo dục liên quan đến thiết kế giảng dạy, quản lý lớp học và đánh giá, nhằm phục vụ cho quá trình học tập trong các môi trường giáo dục khác nhau trong suốt thời gian sống. Tâm lý giáo dục một phần có thể được hiểu thông qua mối quan hệ của nó với các ngành khác. Nó được liên hệ chủ yếu với tâm lý học, mang một mối quan hệ với ngành học đó tương tự như mối quan hệ giữa y học và sinh học.
LTS: Sau nhiều tháng thương thuyết khẩn trương trong âm thầm và sau hơn 2 thập niên cởi mở từ phía Tòa Thánh Vatican, cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đức Thánh Cha Phanxicô và Đức Thượng Phụ Kirill I của Giáo Hội Chính Thống Nga, đã diễn ra lúc 2 giờ 15 phút chiều ngày 12-2-2016 tại phòng khánh tiết phi trường quốc tế José Marti ở Havana, thủ đô Nước Cộng Hòa Cuba. Sau khi hội kiến riêng với nhau, Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Đức Thượng Phụ Kirill I đã ký bản tuyên bố chung, trước sự chứng kiến của Chủ Tịch Raul Castro của Cuba. Dưới đây là toàn văn bản bản tuyên bố chung. Do ý muốn của Thiên Chúa Cha, mà từ Người mọi ơn phúc đã phát sinh, nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần An Ủi, chúng tôi, Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Đức Kirill I, Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống Moscow và Toàn Thể Nước Nga, hôm nay đã gặp nhau tại Havana. Chúng tôi tạ ơn Thiên Chúa, hiển vinh trong Ba Ngôi, vì cuộc gặp gỡ này, lần đầu tiên trong lịch sử. Chúng tôi đã hân hoan gặp nhau như anh em trong đức tin Kitô Giáo, những người gặp nhau “để nói với nhau mặt đối đối mặt” (2Ga 12), lòng với lòng, để thảo luận các liên hệ hỗ tương giữa các Giáo Hội, các vấn đề chủ yếu của các tín hữu của chúng tôi, và quan điểm đối với sự tiến bộ của văn minh con người. Cuộc gặp gỡ huynh đệ của chúng tôi diễn ra tại Cuba, ngã ba đường của Bắc và Nam, của Đông và Tây. Chính từ hòn đảo này, vốn là biểu tượng cho các niềm hy vọng của “Tân Thế Giới” và của các biến cố đầy cảm kích của lịch sử thế kỷ XX, chúng tôi muốn ngỏ lời với mọi người dân Châu Mỹ Latin và các lục địa khác. Quả là một nguồn vui khi thấy đức tin Kitô Giáo đang lớn mạnh một cách năng động tại đây. Tiềm năng tôn giáo mạnh mẽ của Châu Mỹ Latin, truyền thống Kitô Giáo nhiều thế kỷ của nó, đặt cơ sở trên kinh nghiệm bản thân của hàng triệu con người, là một bảo đảm cho tương lai vĩ đại của vùng này. Nhờ việc gặp gỡ cách xa các cuộc tranh cãi lâu dài của “Cựu Thế Giới”, chúng tôi đặc biệt cảm nhận được một cảm thức khẩn thiết phải có sự làm việc chung của người Công Giáo và người Chính Thống Giáo, những người vốn được kêu gọi giải thích bằng một sự hòa nhã và tôn trọng cho thế giới thấy lý do niềm hy vọng của chúng ta (x. 1Pr 3:15). Chúng tôi tạ ơn Thiên Chúa vì những hồng phúc nhận được từ việc xuống thế của Con Một Người. Chúng tôi vốn có chung cùng một Thánh Truyền thiêng liêng của thiên niên kỷ đầu tiên của Kitô Giáo. Các chứng tá của Thánh Truyền này là Mẹ Cực Thánh của Thiên Chúa, Đức Nữ Trinh Maria, và các Thánh mà chúng tôi vốn tôn kính. Trong số các vị Thánh này, có rất nhiều vị đã tử vì đạo, những vị đã làm chứng cho lòng trung thành của mình với Chúa Kitô và đã trở thành “hạt giống các Kitô Hữu”. Bất kể Thánh Truyền chung của mười thế kỷ đầu này, trải dài gần một nghìn năm nay, người Công Giáo và người Chính Thống Giáo đã bị tước mất sự hiệp thông Thánh Thể. Chúng ta đã chia rẽ bởi các vết thương gây ra do các tranh chấp cũ và mới, do các khác biệt truyền lại từ cha ông chúng ta, trong việc hiểu và phát biểu đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa, duy nhất trong Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúng ta đau đớn vì để mất hợp nhất, hậu quả của yếu đuối và tội lỗi con người, một sự mất mát vẫn xảy ra bất chấp lời khẩn cầu tư tế của Chúa Kitô, Cứu Chúa chúng ta: “Để chúng tất cả nên một như Cha, lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha… để chúng nên một, như chúng ta là một” (Ga 17:21). Ý thức được tính lâu dài của nhiều trở ngại, chúng tôi hy vọng rằng, cuộc gặp gỡ của chúng tôi sẽ góp phần vào việc tái lập sự hợp nhất mà Thiên Chúa muốn có và Chúa Kitô từng cầu nguyện cho việc này. Ước mong cuộc gặp gỡ của chúng tôi sẽ linh hứng các Kitô hữu khắp thế giới cầu xin Chúa với một lòng sốt sắng đổi mới cho sự hợp nhất trọn vẹn của mọi môn đệ Người. Trong một thế giới đang khát mong, không những lời nói của chúng tôi, mà còn các cử chỉ trông thấy, ước mong sao cuộc gặp gỡ này trở thành chỉ dấu hy vọng cho mọi người thiện chí!. Trong quyết tâm của mình, chúng tôi mong muốn thực hiện mọi điều cần thiết để vượt thắng mọi bất đồng lịch sử mà chúng tôi vốn thừa hưởng. Chúng tôi muốn phối hợp các cố gắng của chúng tôi nhằm làm chứng cho Tin Mừng của Chúa Kitô và di sản chung của Giáo Hội thiên niên kỷ thứ nhất, cùng nhau đáp ứng các thách thức của thế giới hiện thời. Người Công Giáo và người Chính Thống Giáo phải học cách đồng tâm nhất trí làm chứng tá trong các lãnh vực này khi có thể và cần thiết. Nền văn minh của con người đã bước vào một thời kỳ có những biến đổi có tính thời đại. Lương tâm Kitô Giáo và trách nhiệm mục vụ của chúng tôi buộc chúng tôi không được tiếp tục thụ động trước các thách đố đòi hỏi phải có những đáp ứng chung. Chúng tôi phải chú mục trước nhất vào các vùng thế giới, trong đó, các Kitô hữu đang là nạn nhân bị bách hại. Tại nhiều quốc gia ở Trung Đông và Bắc Phi, toàn bộ các gia đình, các làng mạc và thành phố của anh chị em chúng ta trong Chúa Kitô đang bị tận diệt. Các nhà thờ của họ đang bị tàn phá, cướp bóc man rợ, các đồ vật thánh của họ đang bị xúc phạm, các đền đài của họ đang bị phá hủy. Chúng tôi đau lòng nhắc đến tình hình ở Syria, Iraq và nhiều quốc gia khác ở Trung Đông, và việc di cư hàng loạt của Kitô hữu ra khỏi mảnh đất, nơi mà đức tin của chúng ta đã được gieo vãi và họ từng sinh sống từ thời các Tông Đồ, cùng với nhiều cộng đồng tôn giáo khác. Chúng tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế khẩn cấp hành động để ngăn chặn việc xua đuổi thêm nữa các Kitô hữu ra khỏi Trung Đông. Khi cất cao tiếng nói của chúng tôi nhằm bảo vệ các Kitô hữu bị bách hại, chúng tôi muốn nói lên lòng thương cảm của chúng tôi đối với nỗi đau khổ mà tín hữu của các truyền thống tôn giáo khác đang phải chịu đựng, họ cũng đang trở thành nạn nhân của nội chiến, của hỗn loạn và bạo lực khủng bố. Hàng nghìn nạn nhân đã được xác nhận trong cảnh bạo lực ở Syria và Iraq, một bạo lực đã khiến hàng triệu người khác không nhà hay phương tiện sinh sống. Chúng tôi thúc giục cộng đồng quốc tế tìm cách chấm dứt bạo lực và khủng bố; đồng thời, qua đối thoại, đóng góp vào việc mau chóng phục hồi hòa bình dân sự. Sự trợ giúp nhân đạo với quy mô lớn phải được bảo đảm cho những người dân đang thống khổ và cho nhiều người tỵ nạn đang tìm an ổn tại các lãnh thổ lân bang. Chúng tôi kêu gọi tất cả những ai có thể gây ảnh hưởng tới số phận những người bị bắt cóc, trong đó có các vị Tổng Giám mục của Aleppo, Paul và John Ibrahim, những vị bị bắt từ tháng Tư năm 2013, hãy hết sức cố gắng để bảo đảm cho những người này được mau chóng thả tự do. Chúng tôi dâng lời cầu nguyện của chúng tôi lên Chúa Kitô, Cứu Chúa của thế giới, xin cho hòa bình, “hoa trái của công lý” (Is 32:17), trở lại với Trung Đông, để sự sống chung huynh đệ giữa các sắc dân, các Giáo Hội và tôn giáo được củng cố, giúp các người tỵ nạn khả năng hồi hương, các vết thương lành lại, và linh hồn các nạn nhân bị giết được nghỉ ngơi trong an bình. Với lời kêu gọi tha thiết, chúng tôi ngỏ lời với mọi bên có liên hệ với các tranh chấp hiện nay hãy chứng tỏ thiện chí và ngồi vào bàn thương thuyết. Đồng thời, cộng đồng quốc tế phải thực hiện mọi cố gắng có thể có để chấm dứt chủ nghĩa khủng bố bằng một hành động chung và phối hợp. Chúng tôi kêu gọi mọi quốc gia can dự vào cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa khủng bố hãy có những hành động có trách nhiệm và khôn ngoan. Chúng tôi khuyên mọi Kitô hữu và mọi người tin vào Thiên Chúa, hãy cầu nguyện sốt sắng cùng Đấng Quan Phòng đã tạo nên thế giới, che chở tạo thế của Người khỏi họa diệt vong, và đừng cho phép một thế chiến mới. Để bảo đảm một nền hòa bình vững chắc và lâu dài, các cố gắng chuyên biệt phải được thực hiện để tái khám phá các giá trị chung vốn hợp nhất chúng ta, dựa trên Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Chúng tôi cúi đầu trước phúc tử đạo của những vị đã dùng chính giá chuộc đời mình mà làm chứng cho chân lý Tin Mừng, thà chết hơn chối bỏ Chúa Kitô. Chúng tôi tin rằng, những vị tử đạo thời chúng ta này, những người thuộc các Giáo Hội khác nhau nhưng cùng hợp nhất với nhau bằng các đau khổ chung của mình, là một bảo đảm cho sự hợp nhất các Kitô hữu. Chính với anh chị em, những người chịu đau khổ vì danh Chúa Kitô, mà Thánh Tông Đồ đã ngỏ những lời này: “Anh em thân mến,… anh em hãy vui mừng vì đã dự phần vào các đau khổ của Chúa Kitô, để khi vinh quang của Người mạc khải ra, anh em cũng được vui mừng hớn hở” (1Pr. Cuộc đối thoại liên tôn là điều không thể miễn chước trong thời nhiễu nhương này. Các dị biệt trong việc hiểu các chân lý tôn giáo không ngăn chặn người thuộc các tín ngưỡng khác nhau sống hòa bình và hòa hợp. Trong bối cảnh hiện nay của chúng ta, các nhà lãnh đạo tôn giáo có trách nhiệm đặc biệt phải giáo dục các tín hữu của các vị về tinh thần tôn kính đối với các xác tín của những người thuộc các truyền thống tôn giáo khác. Các mưu toan dùng các khẩu hiệu tôn giáo để biện minh cho các hành vi tội ác là hoàn toàn không thể chấp nhận được. Không một tội ác nào được vi phạm nhân danh Thiên Chúa cả, “vì Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của sự vô trật tự mà là của hòa bình” (1Cr 14:33). Khi khẳng định giá trị hàng đầu của tự do tôn giáo, chúng tôi tạ ơn Thiên Chúa vì sự canh tân đức tin Kitô Giáo chưa từng có hiện nay ở Nga, cũng như ở nhiều nước khác ở Đông Âu, trước đây dưới sự thống trị hàng mấy thập niên của các chế độ vô thần. Ngày nay, xiềng xích của chủ nghĩa vô thần đấu tranh đã bị bẻ gãy và tại nhiều nơi. Các Kitô hữu có thể tự do tuyên xưng đức tin của mình. Hàng nghìn nhà thờ mới đã được xây dựng trong một phần tư thế kỷ vừa qua, cũng như hàng trăm đan viện và định chế thần học. Các cộng đồng Kitô hữu đang đảm nhiệm những công trình đáng kể trong lãnh vực trợ giúp bác ái và phát triển xã hội, cung cấp nhiều hình thức trợ giúp đa dạng cho người thiếu thốn. Người Công Giáo và người Chính Thống Giáo làm việc bên cạnh nhau. Bằng cách làm chứng cho các giá trị của Tin Mừng, họ chứng thực sự hiện hữu của các nền tảng thiêng liêng chung cho việc sống chung của con người. Đồng thời, chúng tôi cũng quan tâm tới tình hình tại nhiều quốc gia, trong đó, các Kitô hữu đang càng ngày càng phải đương đầu với nhiều hạn chế về tự do tôn giáo, về quyền làm chứng cho các xác tín của mình và quyền được sống phù hợp với các xác tín này. Cách riêng, chúng tôi nhận thấy rằng, việc biến đổi tại một số quốc gia trở thành các xã hội tục hóa, xa lìa hẳn mọi tham chiếu về Thiên Chúa và chân lý của Người, đang tạo ra một đe dọa trầm trọng đối với tự do tôn giáo. Một nguồn gây lo ngại cho chúng tôi là việc hiện nay có sự tước đoạt các quyền lợi của Kitô hữu, nếu không muốn nói họ bị kỳ thị thẳng thừng, khi một số lực lượng chính trị, bị một ý thức hệ duy tục thường hết sức hiếu chiến hướng dẫn, đang tìm cách đẩy họ ra ngoài cuộc sống cộng đồng. Diễn trình hội nhập Âu Châu, một diễn trình khởi sự sau nhiều thế kỷ tranh chấp đẫm máu, được nhiều người đầy lòng hy vọng hoan nghênh, như là bảo đảm cho hòa bình và an ninh.
Tuyên bố chung của Giáo hoàng Phanxicô và Thượng phụ Kirill
Giáo hội Công giáo La Mã, và Thượng Phụ Kirilô của Moskva, lãnh đạo của Giáo hội Chính Thống giáo Nga. Đây là lần đầu tiên các nhà lãnh đạo của hai nhà giáo hội đã gặp nhau, một thời điểm mang tính biểu tượng tiếp tục quá trình thập kỷ dài dẫn đến mối quan hệ gần gũi hơn giữa Công giáo và Chính Thống giáo hội sau sự kiện Ly giáo Đông–Tây năm 1054. Cuộc gặp mặt và tuyên bố 30 điểm đã được các đưa tin bởi phương tiện truyền thông trên toàn thế giới, đặc biệt là ở Nga, làm nổi bật lời kêu gọi chung của hai nhà lãnh đạo giáo hội về việc chấm dứt cuộc đàn áp của các Kitô hữu tại Trung Đông và cuộc chiến tranh trong khu vực. Tuyên bố cũng bày tỏ hy vọng của họ rằng cuộc gặp mặt sẽ góp phần vào việc tái lập sự hiệp nhất Kitô giáo giữa hai giáo hội. Một loạt các vấn đề khác được đề cập trong tuyên bố, trong đó có chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa tiêu thụ, người di cư và tị nạn, tầm quan trọng của gia đình, hôn nhân, và mối quan tâm liên quan đến phá thai và an tử.
1 Tổng quan về trường1.1 Vị trí địa lý1.2 Lịch sử trường Đại học Wroclaw1.3 Cơ sở vật chất tại Đại học Wroclaw. 3 Hệ thống đào tạo3.1 Các chương trình học tại trường3.2 Các ngành học nổi bật tại Đại học Wroclaw. Ngôi trường này đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với nền giáo dục Ba Lan. Trường là nơi đào tạo các chương trình Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ với đầy đủ các chuyên ngành về Khoa học xã hội và Nhân văn. Đây là nơi đào tạo hơn 26.000 sinh viên Đại học và sau Đại học, trong đó, có 1400 sinh viên đang theo học bằng Tiến sĩ. Cùng INDEC tìm hiểu chi tiết về thông tin trường, các thành tích cũng như mức học phí và điều kiện đầu vào các bạn nhé!. Đại học Wroclaw nằm tại vùng Lower Silesia – nơi được xem là vùng hiện đại, hấp dẫn và thịnh vượng nhất tại đất nước Ba Lan. Wroclaw được xem là thành phố chính của Lower Silesia với những thành tựu về học thuật, giáo dục, du lịch và kinh tế đã được mệnh danh là “Đóa hoa của châu Âu”. Thành phố này từng chịu ảnh hưởng của văn hóa người Bohemia, người Áo và người Phổ, tạo nên những nét đặc sắc riêng của chính nó. Wroclaw cũng chính là thành phố nằm trong top 29 thành phố của các trường Đại học và Học viện trên toàn thế giới. Đại học Wroclaw có bề dày lịch sử hơn 3 thế kỷ. Nơi đây được thành lập bởi Leopold I Habsburg và được phát triển từ một trường học nhỏ do các tu sĩ Dòng Tên điều hành. Vào đầu thế kỷ 19, trường có 5 khoa: triết học, thần học Công giáo, thần học Phúc âm, luật và y khoa. Sau thế chiến thứ hai, một nhóm các giáo sư Ba Lan đã bắt đầu các hoạt động giảng dạy và nghiên cứu tại Đại học Wroclaw. Ban đầu, họ tạo ra các khoa về luật và quản lý, nghệ thuật, khoa học tự nhiên, nông nghiệp, thú y, y học, toán học, vật lý và hóa học. Một số khoa này nhanh chóng chuyển thành các trường Đại học khác. Đại học Wroclaw cung cấp cho sinh viên trang thiết bị hiện đại và phù hợp với các mục tiêu nghiên cứu, chuẩn mực mô phạm và giải trí của sinh viên. Trường bao gồm 31 tòa nhà giáo dục và hành chính, với tổng cộng 40 giảng đường và 100 khán phòng rộng rãi và hiện đại. Tổng thể cơ sở giáo dục của trường đạt gần 8000 chỗ ngồi. Các hoạt động nghiên cứu của trường đều được hỗ trợ từ các đơn vị tổ chức chuyên dụng, chẳng hạn như Thư viện chính, Viện Ngoại ngữ, Khoa Giáo dục Thể chất và Thể thao, Trung tâm máy tính và các Nhà xuất bản Đại học. Trường có 175 phòng thí nghiệm nghiên cứu, hệ thống nhà ăn rộng rãi, phòng hội nghị, bãi giữ xe nhiều tầng,… Thậm chí, trường còn có cả cáp treo qua sông Odra kết nối khuôn viên chính của trường với khuôn viên Geocentrum nằm tại phía đối diện của sông Odra. Chính vì lý do đó mà khuôn viên của trường đã được tạp chí uy tín thế giới “The Huffington Post” xếp hạng trong top 15 trường Đại học đẹp nhất trên thế giới. Đại học Wroclaw xếp thứ 52th trong bảng xếp hạng EECA và đứng thứ 4 trong Top 4 trường đại học công lập tại Ba Lan. Trường đứng thứ 430 trong bảng xếp hạng 2011 Webometrics Ranking of World Universities, thứ 185 ở châu Âu và thứ 9 đối với khu vực miền Trung Âu và Đông Âu. Đại học Wroclaw đã hai lần liên tiếp được xếp hạng là một trong những trường Đại học kỹ thuật tốt nhất tại Ba Lan bởi tạp chí “Wprost” (năm 2006 và 2007). Ngoài ra, trường còn nằm trong danh sách các trường đại học dẫn đầu về chất lượng giáo dục trong nhóm các ngành công nghệ hiện đại (chuyên ngành: khoa học máy tính, điện tử, khoa học vật liệu) theo xếp hạng của Where to study?. Đại học Wroclaw nổi tiếng là trường học đào tạo đa khoa các ngành như hóa học, xã hội học, luật, kinh tế. Hiện nay, trường còn đang tập trung đi sâu vào nghiên cứu khoa học, các chương trình học bổng tại Wroclaw được liên kết với các nhà nghiên cứu có trình độ cao và thành công từ các dự án khoa học đã đóng góp rất nhiều đất nước Ba Lan. Đại học Wrocław hiện là trường đại học lớn nhất trong khu vực. Đây là nơi đã dạy hơn 40.000 sinh viên, trong đó khoảng 9000 sinh viên tốt nghiệp và 1300 sinh viên tiến sĩ tại 10 khoa, từ các trường Đại học hàng năm. Trường cung cấp các trình độ cử nhân, thạc sĩ và trình độ tiến sĩ. Tất cả các khoa tại Đại học Wroclaw đều có ít nhất một chương trình thạc sĩ bằng tiếng Anh và một số chương trình ở cấp cử nhân. Giống như hầu hết các quốc gia khác, ở Ba Lan hệ thống đánh giá chất lượng quốc gia là một phần trong chiến lược quốc gia nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Cứ bốn năm một lần, Bộ Giáo dục sẽ đánh giá các khoa của tất cả các trường đại học Ba Lan. Vào lần kiểm tra gần đây nhất, đã có 9 trong số 10 khoa của trường đã đủ điều kiện trong hạng mục cao nhất. Hiện nay, Đại học Wroclaw là đối tác của 205 trường Đại học đến từ 49 quốc gia khác nhau. Cùng với đó, trường cũng là thành viên của các dự án lớn tại châu Âu như: Chương trình Erasmus+, Double Degree Master Programme T.I.M.E, cũng như các chương trình hợp tác với Đại học Fulbright giữa Mỹ và Ba Lan, chương trình DAAD,… nhằm tạo nhiều cơ hội học tập và trao đổi văn hóa cho sinh viên. Đại học Wroclaw nổi tiếng với các ngành học nghiên cứu, trường đào tạo đa dạng các ngành như hóa học, xã hội học, luật, kinh tế. Hiện nay, trường còn đang tập trung đi sâu vào nghiên cứu khoa học, các chương trình học bổng tại Wroclaw được liên kết với các nhà nghiên cứu có trình độ cao và thành công từ các dự án khoa học đã đóng góp rất nhiều đất nước Ba Lan. Thời gian học: 01 năm học dự bị (nếu bạn chưa đủ trình độ tiếng Anh theo yêu cầu) và 3 – 3.5 năm học Đại học. Đại học Wroclaw có hai ký túc xá dành cho sinh viên. Cả hai đều nằm trong phạm vi dễ dàng đi lại từ trung tâm thành phố, cung cấp cho sinh viên một môi trường học tập thân thiện và an toàn. Các module dành cho sinh viên bao gồm hai phòng ngủ, một phòng tắm chung và nhà bếp. Nhà bếp được trang bị đầy đủ tủ lạnh và nồi cơm điện. Mỗi phòng đều có thể truy cập Internet. Học sinh có thể sử dụng phòng sinh hoạt chung, câu lạc bộ, các phòng nghiên cứu và phòng giặt là. Là sinh viên ở Wroclaw không chỉ là một cơ hội tuyệt vời để học tập tại ngôi trường nổi tiếng có truyền thống hơn 300 năm, mà đây còn là một trải nghiệm cuộc sống không thể nào quên khi bạn đi du học. Bạn có thể gặp gỡ những người bạn mới, khám phá thêm về các truyền thống, phong tục của các nền văn hóa khác nhau. Đây đảm bảo là một cơ hội tuyệt vời giúp bạn nâng cao kỹ năng và kinh nghiệm cho bản thân để vững vàng bước vào cánh cửa tương lai đang rộng mở phía trước. Để giúp sinh viên thích ứng với cuộc sống mới, Đại học Wroclaw luôn chuẩn bị các tiện nghi hữu ích để sinh viên có thể cảm thấy thoải mái nhất. Trong buổi định hướng Orientation Day, sinh viên có cơ hội tuyệt vời để gặp gỡ tất cả các sinh viên quốc tế, tìm hiểu về cấu trúc của trường và hiểu hơn trong về các quy trình của tổ chức.
Đại học Khoa học Môi trường và Đời sống Wrocław
Đại học Khoa học Môi trường và Đời sống Wrocław (tên cũ: Trường Đại học Nông nghiệp , Đại học Nông nghiệp Wrocław ) - một tổ chức giáo dục đại học công lập được thành lập vào năm 1951. Một trong những trường đại học định hướng nghề nghiệp tốt nhất ở Ba Lan, nó được xếp hạng là nơi cấp phép bằng sáng chế lớn thứ hai của đất nước cũng như là trường đại học nông nghiệp và khoa học đời sống tốt thứ hai. 1856-1945 Học viện Thú y Lviv được thành lập năm 1881 với tư cách là tổ chức thứ ba của loại hình này ở Ba Lan, cùng với những người ở Vilnus và Warsaw. Khoa Nông nghiệp có từ năm 1856, khi Trường Nông nghiệp Nông thôn được mở tại Dublany gần Lvov, ở ngoại ô phía đông Ba Lan. Được khởi xướng bởi Nghị viện Galicia và sau đó được xác nhận bởi nghị định của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, trường được chuyển đổi thành Trường Nông nghiệp, sau này đã đạt được vị thế của Học viện Nông nghiệp Ba Lan vào năm 1901. Học viện được sáp nhập vào Đại học Bách khoa Lviv, cùng với Trường Lâm nghiệp, kết quả là sự thành lập Khoa Nông nghiệp và Lâm nghiệp vào năm 1919.
Với bất kỳ một công trình nào thì nội thất vẫn là yếu tố không thể thiếu để kiến tạo nên không gian sống, làm việc, giải trí… Tùy theo nhu cầu và lựa chọn đồ nội thất mà tạo ra giá trị mỗi không gian khác nhau. Đơn giản hay đẳng cấp phụ thuộc rất nhiều vào việc chọn và bố trì đồ nội thất. Như vậy nội thất là gì? Sự khác biệt giữa thiết kế nội thất và trang trí nội thất. Những thành phần quan trọng trong không gian nội thất là gì?. Trang trí nội thất và thiết kế nội thất.2.1 Nhà thiết kế nội thất2.2 Màu sắc trong thiết kế nội thất. Một không gian nội thất hoàn chỉnh gồm những gì?3.1. Thành phần cố định.3.2. Những trang thiết bị chức năng.3.3. Vật thể trang trí.3.4. Chất liệu, vật liệu sử dụng. Đồ nội thất hay vật dụng/thiết bị nội thất đôi khi được gói gọn là nội thất là thuật ngữ chỉ về những loại tài sản và các vật dụng khác được bố trí, trang trí bên trong một không gian nội thất như nhà, văn phòng, showroom, khách sạn… nhằm mục đích hỗ trợ cho các hoạt động khác nhau của con người trong công việc, học tập, sinh hoạt, nghỉ ngơi, giải trí phục vụ thuận tiện cho công việc, hoặc để lưu trữ, cất giữ tài sản… có thể kể đến một số hàng nội thất như ghế ngồi, bàn, giường, tủ đựng áo quần, tủ sách, tủ chè, chạn, đồng hồ treo tường…. Và tất nhiên bản thân của nội thất đã được bao gồm luôn phần không gian. Thiết kế nội thất là nghệ thuật và khoa học tìm hiểu hành vi của con người để tạo ra các không gian chức năng trong một tòa nhà. Trang trí là việc trang bị hoặc tô điểm một không gian bằng các yếu tố trang trí, đôi khi được bổ sung bằng lời khuyên và sự trợ giúp thiết thực. Tóm lại, nhà thiết kế nội thất có thể trang trí, nhưng người trang trí không thiết kế. Theo wiki Interior design – Nhà thiết kế nội thất ngụ ý rằng việc lập kế hoạch, thiết kế chức năng và sử dụng hiệu quả không gian được chú trọng nhiều hơn so với trang trí nội thất. Một nhà thiết kế nội thất trong lĩnh vực thiết kế tinh xảo có thể thực hiện các dự án bao gồm sắp xếp bố cục cơ bản của các không gian trong tòa nhà cũng như các dự án đòi hỏi sự hiểu biết về các vấn đề kỹ thuật như định vị cửa sổ và cửa ra vào, cách âm và ánh sáng . Mặc dù một nhà thiết kế nội thất có thể tạo ra bố cục của một không gian, nhưng họ không được thay đổi các bức tường chịu lực mà không được kỹ sư kết cấu đóng dấu thiết kế của họ để phê duyệt. Các nhà thiết kế nội thất thường làm việc trực tiếp với các kiến trúc sư, kỹ sư và nhà thầu. Các nhà thiết kế nội thất phải có tay nghề cao để tạo ra môi trường nội thất có chức năng, an toàn và tuân thủ các quy tắc xây dựng, quy định và yêu cầu. Họ vượt ra ngoài việc lựa chọn bảng màu và đồ nội thất và áp dụng kiến thức của mình vào việc phát triển các tài liệu xây dựng, tải trọng sử dụng, quy định chăm sóc sức khỏe và các nguyên tắc thiết kế bền vững, cũng như quản lý và điều phối các dịch vụ chuyên nghiệp bao gồm cơ khí, điện, hệ thống ống nước và cuộc sống an toàn — tất cả để đảm bảo rằng mọi người có thể sống, học tập hoặc làm việc trong một môi trường vô hại mà cũng đẹp về mặt thẩm mỹ. Ai đó có thể muốn chuyên môn hóa và phát triển kiến thức kỹ thuật cụ thể cho một lĩnh vực hoặc loại thiết kế nội thất, chẳng hạn như thiết kế nhà ở, thiết kế thương mại, thiết kế khách sạn, thiết kế chăm sóc sức khỏe, thiết kế phổ thông, thiết kế triển lãm, thiết kế đồ nội thất và thương hiệu không gian. Thiết kế nội thất là một nghề sáng tạo tương đối mới, không ngừng phát triển và thường gây nhầm lẫn cho công chúng. Nó không phải là một mục tiêu theo đuổi nghệ thuật và dựa vào nghiên cứu từ nhiều lĩnh vực để cung cấp sự hiểu biết được đào tạo bài bản về cách mọi người bị ảnh hưởng bởi môi trường của họ. Màu sắc là một công cụ thiết kế mạnh mẽ trong trang trí, cũng như trong thiết kế nội thất, là nghệ thuật sáng tác và phối hợp các màu sắc với nhau để tạo ra một phong cách trang trí kiến trúc nội thất của không gian. Điều cần thiết đối với các nhà thiết kế nội thất là phải có kinh nghiệm sâu sắc về màu sắc, hiểu tác động tâm lý của chúng và hiểu ý nghĩa của từng màu sắc trong các vị trí và tình huống khác nhau để tạo ra sự kết hợp phù hợp cho từng nơi. Việc kết hợp các màu sắc với nhau có thể dẫn đến việc tạo ra trạng thái tinh thần cho người quan sát và cuối cùng có thể dẫn đến những tác động tích cực hoặc tiêu cực đến chúng. Màu sắc làm cho căn phòng cảm thấy bình tĩnh hơn, vui vẻ, thoải mái, căng thẳng hoặc kịch tính. Sự kết hợp màu sắc làm cho một căn phòng nhỏ có vẻ lớn hơn hoặc nhỏ hơn. Vì vậy, đối với nghề thiết kế Nội thất là chọn màu sắc thích hợp cho một nơi hướng tới việc đạt được cách khách hàng muốn nhìn và cảm nhận trong không gian đó. Thông thường, các không gian nội thất đều được các kiến trúc sư thiết kế cố định một số thành phần chính. Có thể kể đến như: trần, cửa ra vào, sàn, tường, cửa sổ. Các thành phần này có ý nghĩa đặc biệt trong vấn đề quyết định thẩm mỹ căn nhà nói chung và màu sắc chủ đạo cho không gian nói riêng. Bên cạnh đó, bạn cần lưu ý đến việc chọn phong cách thiết kế cho căn hộ của mình theo hướng trẻ trung, hiện đại hay hoài cổ, mang hơi hướng đồng quê? Hiện nay, có một số xu hướng thiết kế nội thất phổ biến như: phong cách cổ điển, tân cổ điển, hiện đại, công nghiệp, Bắc Âu, nhiệt đới,… Tùy vào nhu cầu và sở thích của mình mà bạn có thể chọn lựa một phong cách thiết kế phù hợp nhất. Trang thiết bị chức năng đóng vai trò quan trọng đối với từng không gian của căn hộ. Các trang thiết bị này được hiểu là những vật dụng được dùng để phục vụ công năng cho không gian nội thất. Cụ thể, khi thiết kế nội thất căn hộ 2 phòng ngủ thì cần trang bị giường, tủ quần áo, bàn trang điểm (trường hợp phòng dành cho nữ); phòng khách thì nên để bộ bàn ghế sofa để tiếp bạn bè, người thân hay đối tác;…. Bên cạnh đó, một số trang thiết bị chức năng như: kệ sách, đèn chiếu sáng, màn cửa, khăn trải bàn, thảm trải trên sàn,… trở thành yếu tố không thể thiếu trong một không gian nội thất. Chúng vừa phục vụ tốt nhu cầu sử dụng của con người, lại vừa góp phần vào thẩm mỹ, phong cách kiến trúc của căn hộ. Căn nhà của bạn sẽ thiếu đi phần sinh động khi không sử dụng các vật trang trí. Tại sao lại như vậy? Bởi các vật trang trí sẽ giúp tổ ấm của bạn trông đầy sức sống hơn. Bạn có thể dùng một số vật dụng sau để trang trí: tượng theo phong thủy, tranh ảnh, lọ hoa, đồng hồ để bàn,…. Một trong những yếu tố quan trọng trong thiết kế không gian nội thất được chú ý hàng đầu chính là ánh sáng. Thông thường, có 2 loại ánh sáng chủ yếu được sử dụng, gồm: ánh sáng nhân tạo và ánh sáng tự nhiên. Nguồn ánh sáng tự nhiên được tạo ra bởi hệ thống cửa của căn nhà. Bởi thế mà khi tiến hành xây dựng, bạn nên xem qua hướng ánh sáng tự nhiên, hướng gió khu đất để có được sự bố trí hợp lý về mặt ánh sáng cũng như phong thủy. Hệ thống đèn điện chính là nguồn ánh sáng nhân tạo được sử dụng nhiều trong các không gian nội thất. Bạn có thể lựa chọn nhiều loại đèn nội thất đa dạng về cường độ, kiểu cách và chất lượng. Tùy vào sự bố trí không gian nội thất của bạn mà sẽ sử dụng ánh sáng nhân tạo khác nhau. Theo nghiên cứu của nhiều nhà khoa học thì âm thanh là một loại công cụ rất tốt giúp con người luôn cảm thấy hạnh phúc, cuộc sống đầy màu hồng. Trong không gian nội thất cũng vậy, âm thanh luôn là yếu tố được quan tâm. Bởi nó giúp cho căn hộ của bạn có thêm sự lãng mạn, mang lại nhiều cung bậc cảm xúc. Đồng thời, âm thanh còn giúp không gian sống của bạn đầy sự thoải mái, dễ chịu. Khi thiết kế các không gian nội thất, ngoài chọn phong cách phù hợp cho căn nhà của mình thì các chất liệu, vật liệu tái chế cũng là một thành phần không thể thiếu. Sử dụng những chất liệu, vật liệu này không những bạn đã góp phần làm giảm thiểu về vấn đề môi trường mà còn giúp cho căn hộ của mình rất xinh xắn và sang trọng. Như vậy qua các thông tin trên, các bạn đã nắm rõ nội thất là gì? đồ nội thất là gi? thiết kế nội thất là gì? những thành phần cơ bản trọng không gian nội thất là gì? Tùy theo không gian mỗi công trình mà sử dụng đồ nội thất khác nhau để tạo công năng và tiện ích tốt nhất.
Đồ nội thất
Đồ nội thất hay vật dụng/thiết bị nội thất đôi khi được gọi gọn là nội thất là thuật ngữ chỉ về những loại tài sản (thường là động sản) và các vật dụng khác được bố trí, trang trí bên trong một không gian nội thất như căn nhà, căn phòng hay cả tòa nhà nhằm mục đích hỗ trợ cho các hoạt động khác nhau của con người trong công việc, học tập, sinh hoạt, nghỉ ngơi, giải trí phục vụ thuận tiện cho công việc, hoặc để lưu trữ, cất giữ tài sản. có thể kể đến một số hàng nội thất như ghế ngồi, bàn, giường, tủ đựng áo quần, tủ sách, tủ chè, chạn, đồng hồ treo tường. Hàng nội thất có thể là một sản phẩm được thiết kế tinh xảo và được coi là một hình thức trang trí nghệ thuật nhằm tôn vinh lên vẻ đẹp, sự sang trọng, giàu có của ngôi nhà, sự hài hòa giữa các phòng, phản ánh gu thẩm mỹ, phong cách sống của chủ nhà. Ngoài vai trò chức năng truyền thống của hàng nội thất nó có thể phục vụ vào mục đích mang tính biểu tượng và tôn giáo.
Tiếng gọi nơi hoang dã của tác giả Jack London là một tác phẩm thực sự gây ấn tượng. Nó không chỉ đơn giản kể về cuộc đời một chú chó Buck nữa mà có lẽ đôi khi chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh của chính mình ở trong đó. Mời bạn theo dõi tóm tắt và review Tiếng gọi nơi hoang dã của Jack London. Jack London (1876-1916), là nhà văn nổi tiếng người Mỹ. Ông sinh ra và lớn lên tại thành phố San Fransico bang California. Trong hai mươi năm cầm bút, ông ủng hộ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, ông từng gia nhập Đảng xã hội năm 1896, tuy nhiên ông đã rời bỏ vì cho rằng Đảng này không đấu tranh mà chỉ thỏa hiệp. Những tác phẩm nổi tiếng của ông: Tiếng gọi nơi hoang dã (The Call Of The Wild), Gót Sắt (Iron Heel), Nanh Trắng (White Fang). Chú chó Buck – con lai giữa 2 loài St. Bernard và chó chăn cừu nòi Scotland, với vẻ ngoài to lớn chững chạc nhờ cuộc sồng sung túc nơi phương Nam ấm áp cùng gia đình thẩm phán Miller. Nhân lúc gia đình chủ nhân đi vắng, Buck đã bị bắt và đem bán. Lần đầu tiên trong cuộc đời- nó bị đánh, bị dạy dỗ bằng dùi cui, người cầm dùi cui là kẻ làm ra luật mà nó sẽ phải phục tùng. Buck được đưa đến sông Dyea cùng chủ nhân đầu tiên- Francois anh chàng đưa thư. Francois có một đàn chó khác, dẫn đầu là Spitz- con chó đầu đàn luôn nhăm nhe xé xác Buck, Dave- con chó già chỉ quan tâm đến việc phục vụ cho chủ nhân của nó, Pike- con chó luôn thích giả ốm để tránh việc, Billee và Joe- 2 anh em ruột nòi Eskimo nhưng trái ngược hoàn toàn về tính cách Billee nhu nhược còn Joe luôn gầm gừ ác ý, Sol-leks- con chó già trải qua trinh chiến với những vét sẹo khắp người. Trở thành chó kéo xe nó nhanh chóng học được cái cách thích nghi với cuộc sống khắc nghiệt nơi phương Bắc lạnh giá. Tính chất nguyên thủy trong Buck trỗi dậy, nó muốn trở thành kẻ đứng đầu, nó học được cách nhẫn nhịn mỗi khi con Spitz tranh giành. Trận chiến thực sự nổ ra khi Spitz cố cướp chỗ ngủ của nó, trong suy nghĩ của Spitz, Buck chỉ là một con chó phương Nam yếu đuối không chịu được đói rét, không chịu được cực nhọc. Cuộc chiến sẽ không bao giờ kết thúc chỉ khi môt trong hai phải chết, Spitz có đủ sự tự tin của một loài chó đầy kinh nghiệm chinh chiến nhưng bằng sự trỗi dậy bản năng nguyên thủy của loài thống soái, Buck- kẻ thống trị thực sự mới kẻ cuối cùng tồn tại. Như một lẽ đương nhiên Buck trở thành con đầu đàn, nó luôn chứng minh nó mới là kẻ dẫn đầu thực sự khi còn làm tốt hơn con đầu đàn cũ- kẻ đã bị nó hạ gục Spitz. Kết thúc cuộc hành trình 30 ngày gian khổ, Buck cùng lũ bạn nó tiếp tục bị bán cho Hal và Charles và Mercedes- 1 gia đình lữ hành cùng đống đồ lỉnh khỉnh. Sau hành trình mệt mỏi, lũ chó không được nghỉ ngơi mà phải tiếp tục kéo xe, để tiết kiệm thức ăn Hal đã nghĩ ra cách cho lũ chó ăn ít hơn nhưng phải kéo đoạn đường dài hơn. Sức cùng Buck cùng lũ bạn nó đã phản kháng bằng cách nằm lì mặc bị đánh đập. Nhưng vì thế nó gặp được Thornton- một chủ trang trại trên đường chúng đi qua. Buck tiêp tục bị ăn dùi cui vì không nghe lời. Bất bình trước sự việc, Thornton cắt dây thắng trên người Buck và đưa về nuôi, kể từ khi bị bắt khỏi nhà thẩm phán Milter chưa bao giờ lại có người ôm âu yếm nó đến thế. Sau khi khỏi Buck nhanh chóng hòa nhập nơi đây, lần đầu tiên nó cảm nhận được thế nào là tình yêu thương thực sự chứ không chỉ là tinh thần trach nhiệm bảo vệ con trai của thẩm phán như trước kia. Sống trong ngập tràn yêu thương, Buck càng trở thành một chú cho uy mãnh, thâm chí nó thể kéo được một ngàn pounds- điều chẳng ai nghĩ tin tưởng nó trừ Thornton. Với một ngàn sáu đô Buck kiếm được cho chủ nhân họ băt đầu cuộc hành trình về phương Đông. Đi vào rừng cùng môt con sói, sau bao năm Buck đã cảm nhận được sự hoang dã trỗi dậy thứ từ lâu đã ẩn sâu trong máu nó, nhưng nó lại nhớ đến Thornton. Trở về căn nhà ấm áp nơi có Thornton cùng bạn của nó chú chó Pete, Skeet và Nig. Tiếng gọi ấy cứ ngày càng thôi thúc nó, sau cuộc rong đuổi suốt 4 ngày đêm Buck như cảm nhận thấy điều khác lạ đang diễn ra nơi đây, điều ấy đã thành hiện thực Thornton- chủ nhân của nó đã chết bởi đám người da đỏ Yeehats. Bằng những gì nguyên thủy nhất nó chỉ biết lao vào cáu xé, tình yêu thương của Thornton giờ đây đã hoa thành những cơn giận dữ đánh thức bản năng trỗi dậy trong nó. Nó như đã nghe tiếng gọi từ nguyên thủy. Một tác phẩm thực sự gây ấn tượng, nó không chỉ đơn giản kể về cuộc đời một chú chó Buck nữa mà có lẽ đôi khi chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh của chính mình ở trong đó. Tác phẩm cũng phản ánh rất hiện thực về sự khốc liệt trong sinh tồn. Sống chưa bao giờ là dễ dàng, hình ảnh chú chó Buck trải qua những khổ cực cả thể xác lẫn tinh thần đến khi mất đi chủ nhân yêu thương nhất khiến nó trở nên hoang dã hơn lúc nào hểt; lúc này nó chỉ nghe theo tiếng gọi của hoang dã, của nguyên thủy nhất. Hình ảnh đàn chó dường như là ẩn dụ cho rất nhiều kiểu người: Spitz – kẻ đầu đàn hình ảnh của những người đi đầu nhưng không có sức mạnh giữ được vị trí cho mình; Dave – hình ảnh cho kiểu người đã quen việc bị áp bức họ chỉ biết làm việc phục vụ kẻ đứng đầu; Pike – hình ảnh của kiểu người không chịu làm việc, chỉ biết trốn tránh; Sol – hình ảnh cho những con người đầy kinh nghiệm với những vết sẹo đầy mình. Trong mỗi con người luôn có một phần bản năng tồn tại, nó sẽ chỉ trỗi dậy khi mình không thể làm chủ được nó, khi chúng ta phải trải qua những đau thương đến mức gục ngã. Và cũng hy vọng, sau khi đọc tác phẩm mỗi chúng ta sẽ yêu thương động vật hơn vì hơn hết chúng cũng có bản tính biết yêu thương, biết trân trọng. Bạn muốn trở thành tác giả đăng bài trên Cungdocsach.vn, hãy đăng ký ngay hôm nay. Cungdocsach.vn – Đọc sách vì tương lai, kênh chia sẻ kiến thức miễn phí. Chúng tôi hoan nghênh sự đóng góp của tất cả các bạn để website ngày càng hoàn thiện và có nhiều nội dung hấp dẫn hơn.
Tiếng gọi nơi hoang dã
Tiếng gọi của hoang dã (nguyên bản tiếng Anh: The Call of the Wild) là một tiểu thuyết của nhà văn Mỹ Jack London. Cốt truyện kể về một con chó tên là Buck đã được thuần hóa, cưng chiều. Nhưng một loạt các sự kiện xảy ra khi Buck bị bắt khỏi trang trại để trở thành chó kéo xe ở khu vực Alaska lạnh giá, trong giai đoạn mọi người đổ xô đi tìm vàng thế kỷ 19, thiên nhiên nguyên thủy đã đánh thức bản năng của Buck. Buck trở lại cuộc sống hoang dã. Buck trở về rừng, và sống chung với lũ sói. Xuất bản lần đầu năm 1903, Tiếng gọi nơi hoang dã là tiểu thuyết được nhiều người đọc nhất của Jack London và được xem là tác phẩm hay nhất của ông. Do nhân vật chính là một con chó, đôi khi người ta phân loại tiểu thuyết này là một tiểu thuyết dành cho thanh thiếu niên, phù hợp cho trẻ con, tuy trong tác phẩm không thiếu những cảnh hành hạ súc vật, sự chết chóc, sự tranh đoạt, và chứa đựng nhiều cảnh bạo lực thô bạo. Sau tiểu thuyết này, năm 1906 Jack London viết quyển Nanh Trắng (White Fang), một tiểu thuyết với bối cảnh tương tự (phương bắc lạnh giá), nhưng chủ đề lại trái ngược, kể về một con sói hoang dã được Weedon Scott, một chuyên gia khai khoáng đến từ San Francisco thuần hóa.
Tổng sản phẩm trên địa bàn hay còn gọi là GRDP, một trong những chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của hoạt động sản xuất của một địa phương, một khu vực. Vậy thực chất GRDP là gì, cách tính tổng sản phẩm trên địa bàn như thế nào sẽ được Infofinance.vn thông tin ngay dưới đây, mọi người tham khảo để có thể tính toán chính xác và nhanh chóng nhất. GRDP là viết tắt của Gross Regional Domestic Product hay được dịch ra là tổng sản phẩm trên địa bàn: Là kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất thực hiện bởi các đơn vị sản xuất thường trú trên địa bàn Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương (Việt Nam). Ở Việt Nam GRDP là chỉ tiêu Kinh tế tổng hợp phản ánh giá trị mới tăng thêm của Hàng hóa và Dịch vụ được tạo ra trên địa bàn tỉnh/thành phố trong một thời gian nhất định (6 tháng, năm). Cụm từ “hàng hóa và dịch vụ cuối cùng” được hiểu theo nghĩa không tính giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ sử dụng ở các khâu trung gian trong quá trình sản xuất sản phẩm. Để dễ hiểu hơn mọi người có thể hiểu GRDP là Toàn bộ kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất của tất cả các đơn vị thường trú trong nền kinh tế của tỉnh trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm); phản ánh các mối quan hệ trong quá trình sản xuất, phân phối thu nhập, sử dụng cuối cùng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế địa phương. GDP là thuật ngữ khá quen thuộc với nhiều người, đặc biệt là thuật ngữ kinh tế được xem là quan trọng đối với một đất nước. GDP là tổng sản phẩm trong nước hay tổng sản phẩm quốc nội là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ nhất định ( 1 quốc gia) trong một thời gian nhất định ( thường là 1 năm). Điểm khác biệt đó chính là GDP là tổng sản phẩm của 1 quốc gia đất nước còn GRDP là tổng sản phẩm của 1 vùng, tỉnh hay thành phố nhất định. Điểm khác biệt đó chính là phạm vị, bên GDP có phạm vi tính lớn hơn còn bên GRDP lại có phạm vi tính nhỏ hơn. GRDP bình quân đầu người là tổng sản phẩm trên mỗi người tại địa bàn tỉnh/ thành phố được tính là một trong những chỉ tiêu thống kê kinh tế tổng hợp quan trọng phản ánh kết quả sản xuất tính bình quân đầu người trong một năm. Căn cứ vào chỉ số đó mà có thể đánh giá, so sánh được mức thu nhập, tổng sản phẩm của vùng này với vùng khác trong nước, có thể thấy được tỉnh/ TP nào có nhiều sản phẩm hơn. Tăng trưởng GRDP là sự thay đổi theo hướng tịch cực theo chiều đi lên của các chỉ số GRDP. Nếu GRDP là tổng sản phẩm trên địa bàn thì tăng trưởng ở đây chính là tỷ lệ tăng trưởng của các sản phẩm, tất cả các hoạt động sản xuất. Hiện nay khi nhìn vào chỉ số tăng trường người ta thường mang đi so sánh để thấy được mức tăng trưởng như thế nào, có tăng trưởng hay không thì có thể so sánh với năm trước đó hoặc thời gian thống kê trước đó. Chỉ tiêu GRDP là mục tiêu nhưng con số đặt ra sau khi tổng kết năm cũ cho năm mới sẽ hoàn thành nhanh chóng và tiện lợi nhất. Chỉ tiêu GRDP là chỉ tiêu đặt ra về việc sản xuất sản phẩm và dịch vụ của 1 địa bàn nhất định. Có 2 loại chỉ tiêu được chú trọng vào nhất đó là chỉ tiêu đặt ra và chỉ tiêu đạt được để hoàn thành chỉ tiêu cần sự lãnh đạo sáng suốt từ trên xuống, từ cán bộ cho đến người dân. Với chỉ số mà GRDP đưa ra trong 1 thời gian nhất định đánh giá mặt bằng chung tình trạng kinh tế dựa trên tổng sản phẩm và dịch vụ trong mỗi lĩnh vực trên địa bàn. Do có phạm vi nhỏ nên việc tính toán dễ dàng, đưa ra con số chín xác hơn. Cung cấp số liệu cho 1 quốc gia, từ những số GRDP mà có thể đưa ra con số toàn cả nước và con số này chính xác hơn bởi do chính mỗi một tỉnh/ thành phố tính toán và thống kê, phản ánh kết quả sản xuất cuối cùng của tỉnh trong một năm. Đây cũng là con số để so sánh sự phát triển, so sánh sản phẩm và dịch vụ của các tỉnh thành trong cả nước để từ đó có thể từ đó hoạch định các chiến lược, chính sách để phát triển cũng như nắm được điểm mạnh và điểm yếu kinh tế của từng tỉnh/TP. Qua các con số GRDP có thê thấy sự phát triển, thu nhập và nhu cầu của từng tỉnh/tp để đưa ra những chỉ tiêu, phương án tốt nhất để phát uy ưu điểm và hạn chế những khuyết điểm. Đây là phương pháp dựa trên mức thu nhập của các cá nhân, hộ gia đình có hộ khẩu sinh sống và làm việc trên địa bàn tỉnh/ TP. Và các yếu tố của phương pháp này đó là:. Đây là 3 phương pháp tính trên lý thuyết sách vở ghi lại nên chi mang tín tương đối chứ không thể nào đưa ra một con số tuyệt đối chính xác về GRDP của một tỉnh nào đó. Hiện nay ở Việt Nam chủ yếu là áp dụng chỉ số GDP cho tỉnh/TP vì đơn giản và nhanh chóng nhưng phương pháp này cũng không chính xác hoàn toàn. Phương pháp này dựa chủ yếu vào thu nhập của người lao động nhưng hiện nay thu nhập của 1 người lao động từ sản xuất rất khó đưa ra con số cố định. Nếu như là thu nhập từ hoạt động sản xuất trong xưởng nhà máy thì có thể tính toán nhưng đối với hoạt động nông nghiệp cá nhân thì rất khó đưa ra con số cố định mà chỉ ước tính. Vậy nên với số ước tính thì bắt buộc các con số tính theo thu nhập cũng chỉ mang tính tương đối. Đối với sản xuất thì bắt buộc đáp ứng 4 yêu cầu đó là tổng giá trị tăng thêm của tất cả các nghành, thuế và Khấu hao tài sản cố định dùng trong sản xuất, Thặng dư hoặc thu nhập hỗn hợp vậy liệu rằng khi thống kê các con số này sẽ luôn có con số cố định, chính xác nhất. Mỗi một yếu tố tác động vào nhau nên chỉ cần số ở bên này tương đối thì các con số còn lại cũng sẽ tương đối và cuối cũng là tổng thể sẽ mang giá trị tương đối. Với phương pháp sử dụng khi nhìn vào công thức thấy khá nhiều yếu tố cần để có thể tính toán và chủ yếu là nhắm vào chi tiêu nhưng về vấn đề chi tiêu thì có rất nhiều nhưng khi kê khai chỉ có một con số ước tinh. Đằng sau các mức chi tiêu công khai các hộ gia đình, chính quyền doanh nghiệp còn có các khoản chi tiêu ngầm khác nên khi tính được GRDP cũng chỉ mang tính chất tương đối không hoàn toàn chính xác và có thể làm giả số liệu. Trước hết nhiều người đang hiểu nhầm là cách tính được GDP cả nước là tổng của các GRDP của các tỉnh lại với nhau. Nhưng thực chất không phải như vậy, cách tính GDP là hoàn toàn độc lập vậy nên GRDP không có ảnh hưởng gì đến tính toán GDP cả. Chỉ tiêu GRDP các tỉnh tính cao không ảnh hưởng đến GDP mà chỉ là các chỉ tiêu GDP bảo đảm độ xác thực, nên các chính sách xây dựng dựa trên chỉ tiêu GDP cũng được bảo đảm tính xác thực, thực tiễn và tính khả thi. 10+ năm kinh nghiệm Banker, hiện đang cố vấn tài chính đầu tư, bảo hiểm, mua xe ô tô cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp. Cảnh báo rủi ro: Các sản phẩm đầu tư tài chính tiềm ẩn nhiều rủi ro, nguy cơ làm bạn mất vốn, có thể phù hợp với nhiều nhà đầu tư. Hãy hỏi ý kiến nhà tư vấn đầu tư của bạn để đưa ra quyết định giao dịch. Tuyên bố từ chối trách nhiệm: Tất cả các nội dung ở trang website này chỉ dành cho mục đích thông tin. Chúng tôi tuyên bố từ chối trách nhiệm về tính chính xác, đầy đủ, phù hợp hoặc hợp lệ của bất kỳ thông tin nào trên website này. Và chúng tôi hoàn toàn không chịu trách nhiệm với bất kỳ lỗi hoặc thiếu sót hoặc bất kỳ thiệt hại nào phát sinh từ việc sử dụng thông tin trên web này.
Tổng sản phẩm trên địa bàn
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP - Gross Regional Domestic Product) là kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất thực hiện bởi các đơn vị sản xuất thường trú trên địa bàn Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương (Việt Nam). Trên phạm vi cấp tỉnh, GRDP được tính theo phương pháp sản xuất. Theo đó, GRDP bằng tổng giá trị tăng thêm theo giá cơ bản của tất cả các hoạt động kinh tế cộng với thuế sản phẩm trừ đi trợ cấp sản phẩm. Từ năm 2017, Tổng cục Thống kê sẽ tập trung tính và công bố số liệu GRDP cho các địa phương. Trong năm 2017, các Cục thống kê của 63 tỉnh, thành phố đã cung cấp thông tin đầu vào của 6 tháng, cả năm theo ngành kinh tế để các Vụ Thống kê chuyên ngành và Vụ Hệ thống Tài khoản quốc gia tính giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm của tất cả các ngành kinh tế, thuế sản phẩm và GRDP. Rút ngắn khoảng cách chênh lệch số liệu GDP giữa Trung ương và địa phương còn dưới 10%. Trước đây, sự chênh lệch này có thời kỳ lên đến 1,7 - 1,8 lần.
Cúp bóng đá châu Á 2015 là Giải vô địch bóng đá châu Á lần thứ 16 diễn ra từ ngày 9 đến ngày 31 tháng 1 năm 2015 do Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) tổ chức tại Úc. Đây là lần đầu tiên, Úc đăng cai giải đấu này, và là lần đầu tiên, được tổ chức ở bên ngoài lục địa châu Á. Giải đấu đã chứng kiến một loạt các kết quả không ngờ: đương kim vô địch Nhật Bản có kết quả kém nhất kể từ năm 1996 khi bị UAE loại ở tứ kết bởi loạt đá luân lưu 11m. Chủ nhà Úc giành chức vô địch đầu tiên, sau khi đánh bại Hàn Quốc với tỉ số 2–1 sau 120 phút ở trận chung kết. Úc trở thành đại diện của AFC giành quyền tham dự cúp Liên đoàn các châu lục 2017 diễn ra ở Nga, qua đó, trở thành đội tuyển duy nhất vô địch hai châu lục khác nhau với bốn cúp vô địch châu Đại Dương. Hàn Quốc đã có màn trở lại ngoạn mục khi xuất hiện tại chung kết sau 27 năm nhưng lại không thể đoạt được danh hiệu thứ 3. Uzbekistan đã đứt mạch tiến bộ của mình khi thua Hàn Quốc 0–2 tại tứ kết, trong khi Trung Quốc trở lại tứ kết kể từ giải đấu 2004. Iraq, đội bóng cựu vương, đã bất ngờ loại ứng cử viên Iran sau loạt penalty cân não với tỷ số 7–6, khi 2 đội hòa 3–3, trong khi UAE, vốn đang sa sút và chỉ mang đến một huấn luyện viên nội có gốc gác Iran, lại gây bất ngờ với vị trí thứ 3 chung cuộc. Qatar, một đội tuyển nặng ký cho chiếc cúp châu Á với thành tích vô địch Vùng Vịnh, lại bị loại ở vòng bảng mà không có điểm nào, trong khi Jordan đã không những lần đầu tiên thua tại vòng bảng, mà còn bị loại khỏi giải. Úc là ứng cử viên đăng cai duy nhất và chính thức trở thành chủ nhà vào ngày 5 tháng 1 năm 2011. Xem xét các nỗ lực của Liên đoàn bóng đá Úc trong việc phát triển các giải đấu trên lãnh thổ của họ và xem xét tất cả những thành tựu cũng đã được thực hiện đối với sự phát triển của bóng đá ở Úc và khuyến khích Úc thực hiện các bước theo hướng phát triển các giải đấu, tôi hạnh phúc và vinh dự thông báo rằng ban điều hành của Liên đoàn bóng đá châu Á đã phê duyệt Úc là quốc gia chủ nhà Cúp bóng đá châu Á 2015. Vòng loại giải đấu diễn ra theo thể thức của Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC), giữa 25 đội bóng mạnh nhất của châu lục nhằm xác định 10 suất giành quyền tham dự vòng chung kết Cúp bóng đá châu Á 2015 được tổ chức tại Úc. Trong số 25 đội bóng này, đội chủ nhà Úc, với 3 đội giành huy chương tại Cúp bóng đá châu Á 2011 là Nhật Bản, Úc và Hàn Quốc, cùng nhà vô địch Cúp Challenge AFC 2012 là CHDCND Triều Tiên và nhà vô địch Cúp Challenge AFC 2014 là Palestine đã chính thức đoạt vé đi dự vòng chung kết mà không cần qua vòng loại. 20 đội bóng còn lại được chia làm năm bảng đấu, thi đấu 2 trận lượt đi–lượt về theo thể thức sân nhà–sân khách, chọn lấy 2 đội đứng đầu mỗi bảng và đội xếp thứ 3 xuất sắc nhất giành quyền tới Úc. Lễ bốc thăm vòng chung kết được tổ chức tại nhà hát Opera Sydney vào ngày 26 tháng 3 năm 2014. 16 đội tham gia được chia thành bốn nhóm dựa theo bảng xếp hạng FIFA để bốc thăm vòng bảng. Lễ bốc thăm được công bố vào tháng 3 năm 2014. Dưới đây là 4 nhóm hạt giống. Năm thành phố chủ nhà bao gồm: Sydney, Melbourne, Brisbane, Canberra và Newcastle, được công bố vào ngày 27 tháng 3 năm 2013, với tổng số 5 địa điểm được sử dụng. Mỗi đội có một “trại đóng quân” cho vị trí của mình giữa các trận đấu. Từ danh sách ban đầu của 27 địa điểm, các hiệp hội quốc gia đã chọn vị trí của họ trong năm 2014. Các đội sẽ đào tạo và cư trú tại các địa điểm trên khắp các giải đấu, đi du lịch để tổ chức giải đấu đi từ căn cứ của họ. Giải đấu được truyền hình trực tiếp trên khoảng 80 kênh truyền hình khắp thế giới. Dự kiến khoảng 800 triệu người theo dõi các trận đấu, với các giải đấu đạt được một khán giả truyền hình tiềm năng của hơn 2.5 tỷ người. Dưới đây là danh sách xác nhận các quốc gia và vùng lãnh thổ sở hữu quyền phát sóng cho Cúp bóng đá châu Á 2015. Nike Ordem 2 được công bố là quả bóng trận đấu Cúp bóng đá châu Á 2015 chính thức vào ngày 1 tháng 10 năm 2014. Bóng thể hiện màu sắc truyền thống của giải đấu. Bóng chủ yếu là màu trắng có thiết kế đặc biệt với một đường nét đồ họa chủ yếu là màu đỏ và các chi tiết màu vàng để dễ nhìn thấy hơn. Bóng có biểu tượng Cúp bóng đá châu Á 2015 cũng như một hình Swoosh màu đen. Quả bóng được thiết kế sao cho đường bay, độ chính xác và kiểm soát thực sự chân thực, và các tính năng rãnh Nike Aerowtrac và một vỏ bọc vi kết cấu. Công nghệ Nike RaDaR (Rapid Decision and Response) độc đáo cũng được sử dụng trong thiết kế của nó để bóng nhanh hơn, trong khi 3 lớp tổng hợp trên được thực hiện cho cảm ứng tối ưu. Ngày 1 tháng 1 năm 2015, AFC công bố 43 trọng tài tham gia điều hành các trận đấu, bao gồm cả trợ lý trọng tài, 3 trọng tài dự bị, và 4 trợ lý trọng tài dự trữ. Mỗi tổ trọng tài (trong đó có 11) gồm 3 quan chức trận đấu từ cùng một quốc gia: một trọng tài chính và 2 trợ lý trọng tài. Mỗi quốc gia sẽ có đội hình cuối cùng gồm 23 cầu thủ phải nộp trước ngày 30 tháng 12 năm 2014. Nếu sau khi so sánh 4 tiêu chí trên vẫn có 2 hay nhiều đội bằng nhau thì lặp lại 4 tiêu chí đó với các đội này. Nếu vẫn bằng nhau thì xét đến các tiêu chí tiếp theo. Tỷ số sau khi thêm thời gian được chỉ định bởi (h.p) và đá luân lưu được chỉ định bởi (ph.đ). Trong giải đấu này, một cầu thủ bị treo giò trong trận đấu tiếp theo nếu nhận thẻ đỏ trực tiếp hoặc nhận đủ 2 thẻ vàng trong 2 trận đấu khác nhau. Tại giải đấu, các cầu thủ sau đây bị treo giò một hay nhiều trận do nhận thẻ đỏ hoặc nhận đủ số thẻ vàng:. 4 cầu thủ từ đội tuyển Úc vô địch và Á quân Hàn Quốc được lựa chọn vào đội hình tiêu biểu, trong khi tất cả các cầu thủ khác được thu từ 2 đội bóng thua trận bán kết. Cúp bóng đá châu Á 2015 có 20 trận đấu liên tiếp mà không có một trận hòa (trong đó vòng bảng không có một trận hòa nào), nhiều nhất trong bất kỳ giải đấu bóng đá lớn nào, phá vỡ kỷ lục 18 trận trước đó tại Giải bóng đá vô địch thế giới 1930 ở Uruguay. Ali Mabkhout phá vỡ kỷ lục ghi bàn nhanh nhất tại Cúp bóng đá châu Á, ghi bàn sau 14 giây cho UAE trước Bahrain. Palestine lần đầu tiên xuất hiện ở Cúp bóng đá châu Á và ghi bàn thắng đầu tiên của họ tại một kỳ Cúp bóng đá châu Á trong trận đấu thứ 2 vòng bảng gặp Jordan. Tour triển lãm cúp vô địch bắt đầu ở Trung Quốc vào tháng 9 năm 2014, sau đó đi đến Qatar, Ả Rập Saudi, Hàn Quốc và Nhật Bản trước khi tới Úc vào tháng 12, nơi nó được đưa đến tất cả năm thành phố chủ nhà Cúp bóng đá châu Á 2015. Lễ khai mạc diễn ra vào ngày 9 tháng 1 tại Sân vận động Melbourne Rectangular trước trận đấu khai mạc giải đấu giữa chủ nhà Úc và Kuwait. Buổi lễ được sản xuất bởi một đội ngũ các chuyên gia sự kiện thể thao Twenty3 Sports + Entertainment và công ty công nghệ sáng tạo Spinifex Group. Các tập đoàn đã làm việc tại các sự kiện thể thao quốc tế lớn như lễ khai mạc Thế vận hội Mùa đông 2010 và Thế vận hội Mùa hè 2008. Nó cũng có 80 trẻ em từ các câu lạc bộ bóng đá cơ sở địa phương và màn biểu diễn của hơn 120 vũ công người Úc, diễn viên nhào lộn, người biểu diễn bản địa và các cầu thủ bóng đá nghệ thuật. Logo chính thức cho giải đấu đã được công bố tại một sự kiện đặc biệt ở Melbourne, vào tháng 10 năm 2012. Logo mô tả một cầu thủ cách điệu, đá một quả bóng đá từ bờ biển phía đông của Úc vượt qua đất nước hướng về châu Á. Quả bóng cũng đại diện cho ánh nắng mặt trời mùa hè Úc vòng cung phía tây từ Úc đến châu Á. 4 dải vàng hình thành nên bản đồ của Úc đại diện cho 4 thành phố chủ nhà. Các thiết kế được chấp nhận bởi các thiết bị cầm AFC. Linh vật của giải đấu, “Gấu túi Nutmeg”, đã được công bố tại vườn thú hoang dã Sydney vào ngày 11 tháng 11 năm 2014. Các linh vật, một loài gấu túi có nguồn gốc từ Úc, mặc những màu sắc của Cúp bóng đá châu Á 2015, màu đỏ và màu vàng. Tên của linh vật này bắt nguồn từ một kỹ thuật trong bóng đá: cầu thủ đi bóng qua chân của đối thủ, được gọi là “nutmeg”. AFC công bố 10 nhà tài trợ chính thức và 6 người ủng hộ chính thức như hình dưới đây.
Cúp Liên đoàn các châu lục 2017
Cúp Liên đoàn các châu lục 2017 (tiếng Anh: 2017 FIFA Confederations Cup, tiếng Nga: Кубок конфедераций 2017, chuyển tự Latin: Kubok Konfederacij 2017) là Cúp Liên đoàn các châu lục lần thứ 10 và cũng là lần cuối cùng (do FIFA đã tuyên bố ngừng tổ chức giải vào ngày 15 tháng 3 năm 2019 vì lý do thời tiết) diễn ra tại Nga từ 17 tháng 6 đến 2 tháng 7 năm 2017. Đây cũng là đợt tổng diễn tập cho Giải vô địch bóng đá thế giới 2018. Nga trở thành chủ nhà vào ngày 2 tháng 12 năm 2010 sau khi giành quyền đăng cai Giải vô địch bóng đá thế giới 2018. Các trận đấu diễn ra tại 4 thành phố: Sankt-Peterburg, Moskva, Kazan và Sochi. Đội tuyển chủ nhà Nga được đặc cách vào thẳng giải đấu; họ sẽ thi đấu cùng sáu đội tuyển vô địch tại các giải bóng đá châu lục cũng như đương kim vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 2014, đội tuyển Đức. Đức đã giành chức vô địch đầu tiên và cũng là chức vô địch duy nhất trong lịch sử sau khi vượt qua Chile với tỉ số 1–0 bằng pha lập công duy nhất của tiền đạo Lars Stindl ở phút thứ 20.
Bệnh cơ tim phì đại là khi cơ tim bỗng dưng trở nên dày bất thường (phì đại). Cơ tim dày lên có thể khiến tim khó bơm máu hơn và gây ra các triệu chứng khó chịu. Bệnh cơ tim phì đại (HCM) thường không được chẩn đoán vì những người mắc bệnh hầu như không có triệu chứng rõ ràng và tin vui là họ có thể sống một cuộc sống bình thường không có vấn đề gì đáng kể. Tuy nhiên, ở một số ít người bị HCM, cơ tim dày lên có thể gây khó thở, đau ngực hoặc các vấn đề trong hệ thống điện của tim, dẫn đến nhịp tim bất thường đe dọa tính mạng (rối loạn nhịp tim). Bệnh cơ tim phì đại (Hypertrophic cardiomyopathy - HCM) có liên quan đến sự dày lên của cơ tim, phổ biến nhất là ở vách ngăn giữa tâm thất, bên dưới van động mạch chủ. Điều này dẫn đến cứng các thành của tim và chức năng van động mạch chủ và van hai lá bất thường, cả hai đều có thể cản trở lưu lượng máu bình thường ra khỏi tim. Nhiều người bị HCM không có triệu chứng hoặc chỉ có triệu chứng nhỏ, và sống một cuộc sống bình thường. Những người khác phát triển các triệu chứng, tiến triển và xấu đi khi chức năng tim xấu đi. Các triệu chứng của HCM có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi và có thể bao gồm:. Các bệnh về tim như bệnh mạch vành, nhồi máu cơ tim, bệnh cơ tim và các phẫu thuật liên quan đến tim mạch (đặt máy tạo nhịp tim, phẫu thuật thay van tim, phẫu thuật bắc cầu động mạch chủ, cắt màng ngoài tim…) đều là những bệnh được xếp vào danh sách bệnh hiểm nghèo được bảo trợ bởi gói Bảo hiểm bệnh hiểm nghèo VITA - Sống Lạc Quan của Generali. Để đề phòng rủi ro tài chính trước nguy cơ mắc các bệnh lý tim mạch, hãy chủ động mua bảo hiểm bệnh hiểm nghèo cho mình và người thân, nhất là cha mẹ già yếu - nhóm đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh tim ngay hôm nay bạn nhé!. HCM có thể di truyền trong các thế hệ gia đình, nhưng tình trạng này cũng có thể mắc phải do một phần của lão hóa hoặc huyết áp cao. Trong các trường hợp khác, nguyên nhân là không rõ. HCM được chẩn đoán dựa trên tiền sử bệnh (triệu chứng và tiền sử gia đình), khám thực thể và kết quả siêu âm tim. Các xét nghiệm bổ sung có thể bao gồm xét nghiệm máu, điện tâm đồ, X-quang ngực, kiểm tra căng thẳng tập thể dục, thông tim, chụp CT và MRI. Điều trị HCM phụ thuộc vào việc có hẹp trong đường dẫn máu đi ra khỏi tim hay không (gọi là đường ra); tim hoạt động như thế nào; có rối loạn nhịp tim hay không. Điều trị nhằm mục đích ngăn ngừa các triệu chứng và biến chứng và bao gồm xác định rủi ro và theo dõi thường xuyên, thay đổi lối sống, thuốc và các thủ tục khi cần thiết. Chế độ ăn uống: Uống ít nhất 6-8 cốc nước mỗi ngày là rất quan trọng, trừ các loại chất lỏng bị hạn chế. Trong thời tiết nóng, bạn nên tăng lượng chất lỏng cho cơ thể. Với một số bệnh nhân có triệu chứng suy tim hạn chế chất lỏng có muối. Tập thể dục: Bác sĩ sẽ nhắc nhở về việc có nên tập thể dục hay không. Hầu hết những người mắc bệnh cơ tim đều có thể tập thể dục nhịp điệu. Tuy nhiên, bác sĩ có thể yêu cầu bạn không tập thể dục, dựa trên các triệu chứng của bạn và mức độ nghiêm trọng của bệnh. Thăm khám định kỳ: Bệnh nhân HCM nên tái khám hàng năm với bác sĩ tim mạch để theo dõi tình trạng bệnh. Các cuộc hẹn tiếp theo có thể thường xuyên hơn khi HCM được chẩn đoán lần đầu tiên. Thuốc thường được sử dụng để điều trị các triệu chứng và ngăn ngừa các biến chứng tiếp theo của HCM. Thuốc có thể giúp thư giãn tim và giảm mức độ tắc nghẽn để tim có thể bơm máu hiệu quả hơn.Nếu bạn bị rối loạn nhịp tim, bác sĩ có thể kê đơn thuốc để kiểm soát nhịp tim hoặc giảm sự xuất hiện của chứng loạn nhịp tim. Bạn có thể được yêu cầu tránh một số loại thuốc, chẳng hạn như nitrat, vì chúng làm giảm huyết áp, hoặc digoxin, vì nó làm tăng lực co bóp của tim. Triệu chứng HCM không tắc nghẽn có thể được điều trị bằng thuốc. Nếu suy tim xảy ra, điều trị nhằm mục đích kiểm soát nó thông qua các loại thuốc điều trị suy tim và thay đổi chế độ ăn uống. Phẫu thuật cắt bỏ cơ (septal myectomy): Trong quá trình phẫu thuật này, bác sĩ phẫu thuật sẽ loại bỏ một lượng nhỏ vách ngăn dày lên của tim để mở rộng đường ra (đường dẫn máu đi) từ tâm thất trái đến động mạch chủ. Cắt bỏ etanol: Đầu tiên, một bác sĩ tim mạch (bác sĩ tim) thực hiện đặt ống thông tim để xác định vị trí của động mạch vành nhỏ cung cấp lưu lượng máu đến vùng kín. Một ống thông bóng được đưa vào động mạch và bơm phồng lên. Một tác nhân tương phản được tiêm để xác định vị trí của vách ngăn sưng bị thu hẹp lối đi từ tâm thất trái đến động mạch chủ. Khi chỗ phình ra, một lượng nhỏ rượu nguyên chất được tiêm qua ống thông. Rượu giết chết các tế bào khi tiếp xúc, gây ra cơn đau tim "có kiểm soát" nhỏ. Vùng kín sau đó co lại trở lại kích thước bình thường hơn trong những tháng tiếp theo, mở rộng lối đi cho lưu lượng máu. Một số ít người bị HCM có nguy cơ tử vong do tim đột ngột. Những người có nguy cơ bao gồm:. Những người bị HCM tắc nghẽn có thể tăng nguy cơ viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, một tình trạng có khả năng đe dọa tính mạng. Hỏi bác sĩ của bạn nếu bạn cần thực hiện các biện pháp phòng ngừa viêm nội tâm mạc. Bạn có thể chung sống “hòa bình” với bệnh cơ tim phì đại hay không còn phụ thuộc vào tình trạng bệnh. Tuy nhiên có một điều chắc chắn rằng lối sống lành mạnh sẽ góp phần hạn chế các nguy cơ của bệnh. Sơ cứu khi bị say nắng đúng cách sẽ giúp hạn chế những biến chứng không mong muốn, giảm thiểu nguy cơ tử vong. Tỉ lệ người mắc bệnh về tim mạch thường gia tăng khi thời tiết nắng nóng, nhiệt độ thay đổi thất thường. Chủ động các kiến thức chăm sóc sức khoẻ sẽ. Tầm quan trọng của việc sử dụng kem chống nắng mỗi khi ra ngoài thì ai cũng biết, nhưng làm thế nào để chọn kem chống nắng phù hợp thì không phải ai. Bạn có từng, đã hay đang bỏ bê sức khỏe của chính mình vì 2 chữ bận rộn không? Công việc, con cái hay bất kỳ lý do nào khác đều có thể được đưa ra để. Ngoài các biện pháp vệ sinh cá nhân phòng chống dịch COVID-19 thì việc vệ sinh, khử khuẩn tại gia là rất cần thiết để hạn chế tối đa nguy cơ lây lan. Sơ cứu đột quỵ não tại chỗ đúng cách sẽ giúp giảm quy cơ biến chứng nặng và tăng khả năng phục hồi của người bệnh sau khi điều trị tại các cớ sở y.
Bệnh cơ tim phì đại
Bệnh cơ tim phì đại (tiếng Anh:Hypertrophic cardiomyopathy, viết tắt là HCM) là một bệnh gây nên tình trạng một phần của tim trở nên dày lên mà không có nguyên nhân rõ ràng. Chính điều này dẫn đến việc tim giảm đi khả năng bơm máu hiệu quả. Các triệu chứng khác nhau của bệnh cơ tim phì đại có thể từ không có cảm giác gì đến mệt mỏi, sưng chân và khó thở. Chứng bệnh này cũng có thể dẫn đến đau ngực hoặc ngất xỉu. Các biến chứng bao gồm suy tim, nhịp tim không đều và đột tử do tim. Điều trị bệnh này có thể bao gồm việc sử dụng thuốc chẹn beta, thuốc lợi tiểu hoặc disopyramid. Một máy khử rung tim cấy ghép có thể được khuyến cáo ở những người có một số loại nhịp tim bất thường nhất định. Phẫu thuật, dưới hình thức cắt bỏ tủy hoặc cấy ghép tim, có thể được thực hiện ở những người không cải thiện khi áp dụng các biện pháp khác. Với phương cách điều trị, nguy cơ tử vong do bệnh này ít hơn một phần trăm mỗi năm. Bệnh cơ tim phì đại ảnh hưởng với tỉ lệ khoảng 1 trên 500 người.
Đảng viên (Adherent) là gì? Đảng viên tiếng Anh là gì? Nhiệm vụ, vai trò và quyền hạn của Đảng viên trong giai đoạn hiện nay. Các quy định đối với Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam?. Sự ra đời của Đảng là một cột mốc đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, những thành viên của Đảng giữ vai trò vị trí vô cùng quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ Đảng viên nói riêng và đối với Nhà nước nói chung. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện : thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, cá nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm,đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng. Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Trở thành một đảng viên là cả một quá trình nỗ lực phấn đấu không ngừng của bản thân trên các mặt công tác, sinh hoạt nơi cộng đồng, thể hiện là một công dân ưu tú thực thụ, được mọi người tín nhiệm giới thiệu cho Đảng. Khi đã được đứng trong hàng ngũ của Đảng, thì kể từ thời gian đó đảng viên phải nêu cao hơn nữa vai trò tiên phong, gương mẫu trong việc chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, là tấm gương tốt cho quần chúng noi theo. Người đảng viên dù ở bất cứ cương vị nào, cũng đều phải thực hiện hai nhiệm vụ bao trùm: vừa là người lãnh đạo, cũng vừa là người phục vụ, đầy tớ của Nhân dân. Hai đặc tính này hoàn toàn không mâu thuẫn, mà thống nhất, gắn bó chặt chẽ cho nhau xuất phát từ bản chất của Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của Nhân dân và của dân tộc Việt Nam, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Nhân dân lao động, lợi ích của cả dân tộc Việt Nam, có nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng, hết lòng hết sức phục vụ Nhân dân, thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, theo con đường xã hội chủ nghĩa. Do đó, mỗi đảng viên đều phải đặt lợi ích của dân tộc, của giai cấp lên trên hết. Vị trí, vai trò của người đảng viên vì thế rất quan trọng, bởi trong xã hội, đảng viên vừa thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, vừa thực hiện nhiệm vụ của một công dân gương mẫu. Khi đảng viên tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước trong quần chúng nhân dân, vận động mọi người tham gia các phong trào và phụ trách, hướng dẫn triển khai đạt kết quả, đó là lúc đảng viên thực hiện chức năng lãnh đạo của Đảng; khi đảng viên tích cực hoàn thành tốt nhiệm vụ của một công dân, không những thế còn gương mẫu, đi đầu, thể hiện tính tiên phong, ưu tú của người đảng viên. Ở cơ quan đơn vị, hay trong cộng đồng khu dân cư, cán bộ công chức, quần chúng nhân dân nhìn vào đảng viên để học tập, noi theo, nếu đảng viên không tốt, quần chúng sẽ không phục, không làm theo. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định. Trong giai đoạn mới của Cách mạng Việt Nam hiện nay, người đảng viên đứng trước những đòi hỏi mới và nhiệm vụ mới. Đó là nhiệm vụ tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa; là yêu cầu giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện đổi mới hệ thống chính trị, dân chủ hóa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa; là nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trong điều kiện mở cửa, hội nhập quốc tế và khu vực. Tình hình, nhiệm vụ đó đòi hỏi người đảng viên không thể như trước mà ngoài những phẩm chất chung, cần có sự phát triển phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng. Đảng viên phải kiên định lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, trung thành với lý tưởng cộng sản, đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa, vững vàng, không dao động trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Cùng với việc thể hiện vai trò tiên phong, gương mẫu, người đảng viên lúc này cần ủng hộ nhân tố mới, tích cực tham gia đấu tranh chống tham nhũng, chống các tiêu cực xã hội và tệ nạn xã hội, phê phán những biểu hiện mơ hồ, cực đoan hay tư tưởng sai lệch. Đổi mới là một cuộc vận động cách mạng toàn diện và sâu sắc, diễn ra trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế đến cơ chế quản lý, từ chế độ kinh tế đến hệ thống chính trị… Đó là một quá trình khó khăn, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, chưa có mô hình định sẵn. Đổi mới đụng chạm đến rất nhiều vấn đề, phá vỡ nhiều cái cũ, trong khi có những cái cũ đã tồn tại quá lâu, ăn sâu vào nếp nghĩ, cách làm, đã thành thói quen, thành cơ chế chính sách rất khó sửa. Mặt khác, thế giới cũng đang có nhiều chuyển biến mạnh mẽ với nhiều biến cố, nhiều cái cũ bị đảo lộn, nhiều vấn đề phức tạp mới được nảy sinh; trên một số vấn đề, dường như rất khó phân biệt, khó kết luận đâu là phải trái, đâu là trắng đen để có thể xử lý. Thời đại chúng ta là thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, thời đại tin học đạt nhiều thành tựu kỳ diệu, hằng ngày lượng thông tin ồ ạt dồn đến rất nhanh và rất nhiều, đòi hỏi phải có trình độ thu nhận, phân tích và xử lý đúng đắn. Để thúc đẩy công cuộc đổi mới tới những bước tiến và kết quả cụ thể theo quan điểm thực tiễn, cần phải tổ chức việc giáo dục đạo đức trong Đảng và trong xã hội sao cho mỗi người thấm nhuần sâu sắc rằng, đạo đức mới của những người tham gia đổi mới xã hội là đạo đức hành động, đạo đức trong lao động, trong công việc, trong quan hệ với con người, trong đấu tranh khắc phục mọi tệ nạn tha hóa để hướng tới sự cao đẹp, hướng tới việc lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Đảng ta đã xác định chế độ chính trị của nước ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng; sức mạnh vô địch của Đảng là mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Đảng chủ trương phát huy dân chủ, coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Mỗi đảng viên, trước hết đảng viên là cán bộ lãnh đạo, có chức có quyền, phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của dân, chăm lo đời sống hằng ngày của quần chúng, tìm hiểu nguyện vọng và lắng nghe ý kiến của quần chúng, giúp đỡ quần chúng khi gặp khó khăn, kiên quyết đấu tranh chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, gia trưởng, độc đoán, đặc quyền đặc lợi, trù dập ức hiếp quần chúng và mọi hành vi vi phạm quyền làm chủ của dân. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, một yêu cầu rất cần thiết đối với người đảng viên trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền. Nó quyết định sự tín nhiệm của nhân dân đối với đảng viên. Không phải ngẫu nhiên khi còn sống, Bác Hồ luôn luôn quan tâm đến vấn đề này, nói nhiều về vấn đề này. Người thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, trau dồi quan điểm và thái độ đúng đắn đối với quần chúng, coi việc tôn trọng quần chúng, học hỏi quần chúng, có quan hệ mật thiết với quần chúng là một vấn đề thuộc về phẩm chất, tư cách, đạo đức của đảng viên. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình. Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng. Định kỳ hằng tháng, theo hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Trung ương và cấp uỷ cấp trên, các cấp uỷ đảng thông tin cho đảng viên về tình hình và nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thời sự trong nước và thế giới phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, đặc điểm của đảng viên, góp phần nâng cao nhận thức, tạo điều kiện cho đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đảng viên được thông báo ý kiến nhận xét của cấp ủy nơi làm việc và nơi cư trú khi xem xét bổ nhiệm, giới thiệu bầu cử; được trình bày ý kiến với tổ chức đảng, cấp uỷ đảng khi xem xét thi hành kỷ luật đối với mình. Đảng viên được phê bình, chất vấn, báo cáo kiến nghị trực tiếp hoặc bằng văn bản trong phạm vi tổ chức của Đảng về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp, về những vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức đảng hoặc chức trách, nhiệm vụ, phẩm chất đạo đức của đảng viên đó; chịu trách nhiệm trước tổ chức đảng về ý kiến của mình. Khi nhận được ý kiến phê bình, chất vấn, báo cáo, kiến nghị, tổ chức đảng và đảng viên có trách nhiệm phải trả lời, chậm nhất là 30 ngày làm việc đối với tổ chức cơ sở đảng và đảng viên; 60 ngày làm việc đối với cấp huyện, tỉnh và tương đương và 90 ngày làm việc đối với cấp Trung ương; những trường hợp phức tạp cần phải kéo dài hơn thời gian quy định trên thì phải thông báo cho tổ chức đảng và đảng viên biết lý do. Hiện nay, bên cạnh phần lớn các đảng viên không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trong công tác cũng như trong sinh hoạt tại khu dân cư, luôn thể hiện là một đảng viên vừa hồng, vừa chuyên, được người dân yêu mến, thì cũng còn một số đảng viên xem nhẹ nhiệm vụ phục vụ Nhân dân. Biểu hiện rõ nhất là xa rời quần chúng, triển khai nhiệm vụ một cách quan liêu, mệnh lệnh, giấy tờ, yêu cầu người này làm cái này, người khác làm cái nọ, nhưng bản thân thì thiếu tính phụ trách, buông lỏng công việc, mặc ai nấy làm gì thì làm, kết quả tốt hay xấu không quan tâm, nhất là khi người dân cần đến mình hỗ trợ, hướng dẫn thì trốn tránh trách nhiệm; hoặc nói và làm không thống nhất, nói hay nhưng làm dở, nên tính nêu gương bị lu mờ…. Để được dân yêu, dân mến thì mỗi đảng viên cần đề cao trách nhiệm thể hiện tốt vị trí, vai trò nêu trên thông qua nói và làm theo tấm gương của Bác “Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”.
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là người gia nhập và được kết nạp vào đồng thời sinh hoạt trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở Việt Nam, từ Đảng viên có thể hiểu là thành viên của Đảng Cộng sản Việt Nam do chỉ có Đảng cộng sản tồn tại hợp pháp và lãnh đạo Việt Nam theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Một số vẫn gọi Đảng viên là Bôn-sê-vich hay Bôn, theo nghĩa tiếng Nga là Đảng viên của Đảng Cộng sản Liên Xô (cũ). Theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam thì đảng viên phải là công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên và người này phải thừa nhận và tự nguyện thực hiện các Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng (Chi bộ, Đảng bộ.) được nhân dân tín nhiệm, sau đó được giới thiệu kết nạp, thử thách, sinh hoạt và công nhận chính thức. Số lượng Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam tính đến kỳ đại hội XIII (năm 2021) ước tính là khoảng 5,3 triệu đảng viên, năm 2019 là 5,2 triệu Qua quá trình phát triển của lịch sử, số lượng đảng viên không ngừng gia tăng, trong lịch sử, nhiều đảng viên đã có đóng góp, hi sinh cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam và để lại nhiều tấm gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.
Năm Thiên Khải thứ nhất (tức năm 1621) đã mở ra một thời đại mới cho triều đại nhà Minh, một thời đại kéo dài 7 năm và được các sử gia đời sau đặt tên là “Thời đại Ngụy Trung Hiền”. Xuất thân là một kẻ vô học và chẳng biết điều gì ngoài rượu chè và cờ bạc, có lẽ chính bản thân Ngụy Trung Hiền cũng không thể tin được rằng có một ngày tên tuổi của mình lại được các sử gia dùng để đặt cho cả một giai đoạn lịch sử. Mọi chuyện đã thay đổi như thế nào? Tất cả đã diễn ra giống như một phép lạ. Nhưng điều đáng nói là người đã giúp đại hoạn quan Ngụy Trung Hiền xoay chuyển tình thế, vượt qua sóng gió để tạo nên phép lạ ấy lại là một người phụ nữ. Người đó không ai khác chính là Khách thị. Khách thị tên thật là Khách Ấn Nguyệt, một vú nuôi của Hoàng đế Minh Hy Tông Chu Do Hiệu. Chẳng hiểu tại sao, Hy Tông luôn gọi họ Khách là Ba Ba vì vậy, ngoài tên thật là Ấn Nguyệt, bà vú nổi tiếng này còn có tên là Khách Ba Ba. Khách Ấn Nguyệt vốn là vợ của Hầu Nhị, người vùng bắc Trục Lệ, phủ Bảo Định, huyện Vĩnh Hưng, nay thuộc Hà Bắc của Trung Quốc. Trước khi được đưa vào cung làm vú nuôi cho hoàng tử Chu Do Hiệu, người sau này trở thành Minh Hy Tông vào năm 25 tuổi, Khách thị đã có một đứa con với Hầu Nhị tên là Hầu Hưng Quốc. Việc Khách Ấn Nguyệt trở thành vú nuôi của hoàng tử Chu Do Hiệu cũng là một câu chuyện đậm chất truyền kỳ. Người ta kể rằng, ngay từ khi mới sinh ra, hoàng tử Chu Do Hiệu đã có tật “kén” vú nuôi. Hơn mấy chục vú nuôi đều không thể cho vị hoàng tử này bú sữa được. Vì vậy, các thái giám được lệnh đi tìm một vú nuôi có thể cho Chu Do Hiệu bú được để đưa về cung. Khách Ấn Nguyệt chưa bao giờ làm vú nuôi, tuy nhiên, cô ta lại là người duy nhất được vị hoàng tử Chu Do Hiệu chấp nhận. Khách Ấn Nguyệt vào cung được 2 năm thì chồng là Hầu Nhân mất. Thế nhưng, khi ấy, Khách Ấn Nguyệt vẫn thường xuyên lấy lý do chăm sóc con cái để được ra khỏi cung và về nhà nhưng thực ra là để quan hệ với người khác. Chính vì vậy, sử sách triều Minh mới nhận xét về Khách Ấn Nguyệt là “tính dâm mà thủ đoạn”. Thực tế, việc chồng mất ở tuổi 27 mà quan hệ với người khác trong thời đại ngày nay là chuyện bình thường, các sử gia triều Minh bình luận về họ Khách như vậy e là có phần khắt khe quá. Người không bình thường nhất có lẽ không phải Khách Ấn Nguyệt mà chính là thái tử Chu Do Hiệu. Theo quy định trong hậu cung thì khi hoàng tử 6-7 tuổi, vú nuôi phải ra khỏi cung. Có điều, Chu Hiệu dù tuổi đã lớn nhưng vẫn nhất định không chịu rời bỏ Khách Ấn Nguyệt. Sau này, khi đã lên làm Hoàng đế vào năm 15 tuổi vẫn y như vậy, thậm chí, một ngày mà Chu Do Hiệu không gặp vú nuôi của mình được một lần là cảm thấy vô cùng khó chịu và bứt rứt. Nguyên nhân có lẽ là vì mẹ của Chu Do Hiệu mất từ sớm, thành ra, ông ta ngay từ nhỏ đã thiếu sự chăm sóc của một người mẹ. Vì vậy, Khách Ấn Nguyệt thực tế trở thành người thay thế vị trí người mẹ đối với Chu Do Hiệu. Cũng có lẽ vì lý do này mà sau này, Hy Tông mới đặc biệt ưu ái và tin tưởng người vú nuôi này. Vào 21/9/1620, vừa lên ngôi vừa được nửa tháng, Hy Tông phong cho Khách Ấn Nguyệt là Phụng thánh phu nhân, lại ấm phong cho con trai của họ Khách là Hầu Hưng Quốc chức Cẩm Y Vệ chỉ huy sứ, sai bộ Hộ chọn 20 mẫu đất tốt ban cho họ Khách làm ruộng hương hỏa. Việc gia phong quá hậu hĩnh cho một người vú nuôi như vậy đương nhiên gặp phải sự phản đối kịch liệt từ phía các đại thần. Để dẹp yên dư luận, Hy Tông ra một chỉ dụ nói rất rõ công đức không ai có thể sánh bằng của Khách Ấn Nguyệt. Với chỉ dụ này, Khách Ấn Nguyệt từ một người dân thường đã trở thành một phu nhân cao quý, có thể hưởng hết những vinh hoa phú quý của thế gian. Tuy nhiên, việc phong tước vị cho Khách Ẩn Nguyệt không phải là ân sủng cuối cùng của Hy Tông dành cho người vú nuôi của mình. Càng về sau, Hy Tông càng sủng ái Khách thị hơn, thậm chí tới mức nhiều sử gia hiện nay cũng cảm thấy không thể lý giải nổi. Mùa đông năm 1620, Khách Ấn Nguyệt chuyển vào sống ở phía tây của cung Càn Thanh, Hoàng đế Hy Tông tới nơi chúc mừng. Hoàng thượng thưởng yến, Tư Chung Cổ dẫn đầu các thái giám đứng ra diễn trò, Hoàng thượng rất lấy làm vui nên cho phép Khách thị từ nay có thể ra vào cung bằng kiệu nhỏ, tự mình lựa chọn thái giám trong cung làm người khiêng kiệu, mọi lễ nghi đều không khác gì phi tần. Năm Thiên Khải thứ 2, Khách thị phụng chỉ chuyển tới cung Hàm An, thế lực càng lớn hơn. Hy Tông ban Khách Ấn Nguyệt các thái giám Thôi Lộc, Hứa Quốc Ninh… hơn mười người, cộng thêm những kẻ khác tự nguyện tới phục vụ chăm sóc cho có tới cả trăm. Mỗi lần tới sinh nhật của Khách Ấn Nguyệt, Hoàng đế đều tự tới nơi để chúc mừng, ban thưởng vô số. Tiền lương bổng dùng ở chỗ Khách Ẩn Nguyêt có khi còn được hối thúc gấp hơn cả ở chỗ của Hoàng đế. Mặc dù đã là Phụng Thánh phu nhân, ăn bổng lộc của Hoàng đế, tuy nhiên, cơm nước của Hy Tông vẫn do Khách thị đứng ra lo liệu. Mỗi ngày ba bữa, Hoàng đế ăn không hết ngự yến đều ban xuống cho Khách Ấn Nguyệt. Một ngày ba bữa nội thị mang đồ ăn trong cung phải đi lại không ngớt giữa hai nơi. Lưu Nhược Ngu, một thái giám Minh triều, tác giả của cuốn sách viết về những truyện thâm cung bí sử triều Minh cũng phải than về sự sủng ái mà Hy Tông dành cho Khách Ẩn Nguyệt rằng: “Thân làm vú nuôi mà ở hẳn trong một tòa cung điện, việc xa hoa cũng có thể biết là thế nào”. Ông còn nhớ lại rằng, khi đó mỗi lần Khách Ấn Nguyêt ra khỏi cung về nhà thì có thái giám đi theo chừng hơn mười người, áo bào hồng đai ngọc đi phía trước, sau kiệu còn có trăm người đi theo làm tùy tùng. Đội ngũ đèn đuốc chừng hai ba ngàn chiếc. Ra khỏi cổng cung, đổi thành kiệu tám người “Tiếng hô còn hơn cả tiếng thánh giá tuần du, đèn đuốc sáng như ban ngày, áo quần đẹp tự thần tiên, người như nước chảy, ngựa như rồng”. Lưu Nhược Ngu từng làm thái giám chấp bút, là người bên cạnh hoàng đế, đã gặp nhiều thấy nhiều mà còn cảm thán tới mức như thế thì có thể thấy sự sủng ái và xa hoa mà Khánh Thị nhận được lên tới mức nào Đến các sử gia triều Minh cũng phải khẳng định rằng: “Hoàng quý phi ở trong cung đều chẳng bằng vậy”. Trên thực tế, việc sau này Khách Ấn Nguyệt cùng với Ngụy Trung Hiền làm loạn triều chính không phải là có mưu đồ từ trước. Bản thân bà vú nuôi họ Khách này là một người dân thường và ban đầu khi vào cung, Khách Ấn Nguyệt chỉ làm biết hoàn thành trách nhiệm của một vú nuôi của mình. Những gì xảy ra sau đó chỉ là bà ta biết cách sử dụng triệt để những đặc quyền mà mình có được. Một người dưới đáy cùng của xã hội nay trở thành một phu nhân giàu sang và quyền lực, trong hoàn cảnh ấy, mấy ai giữ được sự tỉnh táo. Khi Khách Ấn Nguyêt vào cung làm vú nuôi cho Chu Do Hiệu, cung của Chu Do Hiệu là một nơi cực kì hoang vắng ít người để ý. Lý do là vì mẹ Chu Do Hiệu thì kém cỏi nhút nhát, cha thì sớm chẳng lo được tối vì vậy bọn thái giám coi đây là món hàng đầu tư không có tiềm năng nên cũng bỏ mặc. Vừa vào cung, Khách Ấn Nguyệt vốn không hiểu những chuyện ấy, chỉ làm những việc cần làm nhất của một vú nuôi, không hề cầu thả. Hoàng cung của nhà Minh có quy định hoàng tử hoàng tôn qua một trăm ngày đều phải cắt trọc, đến mười tuổi mới bắt đầu để tóc. Khách Ấn Nguyệt chăm sóc Chu Do Hiệu từ nhỏ nên có tình cảm đặc biệt với vị hoàng tử này. Vì vậy, từ nắm tóc cắt lúc sơ sinh của Do Hiệu cho tới tóc cắt hàng năm, rồi từng chiếc răng rụng, móng tay của Chu Do Hiệu đều được Khách Ấn Nguyệt giữ rất cẩn thận trong hộp. Sau khi Chu Do Hiệu ngừng bú sữa, việc làm của Khách Ấn Nguyệt trên thực tế là một bảo mẫu. Cho tới khi Do Hiệu làm Hoàng đế, Khách Ấn Nguyêt vào ở trong cung Hàm An, bà vẫn chưa thay đổi. Trời chưa sáng Khách Ấn Nguyệt đã tới cung Càn Thanh chờ đợi hoàng thượng tỉnh dậy. Hoàng thượng tỉnh rồi thì vội vàng lo lắng rửa mặt thay áo. Bận cả ngày cho tới đêm mới quay về nghỉ ngơi, ngày ngày như thế. Hơn 20 năm, Khách thị chăm sóc cho Hy Tông Chu Do Hiệu từng li từng tí như vậy, việc Hy Tông nảy sinh tình cảm mẹ con với bà ta là không phải là chuyện lạ. Và đó cũng là điều mà các sử gia không thể phủ nhận dù sau này, tội trạng của Khách Ấn Nguyệt gắn liền với tội ác của đại hoạn quan Ngụy Trung Hiền. Từ khi nhận được những ân sủng lớn của Hy Tông, Khách Ấn Nguyệt bắt đầu có phần ngang ngược. Những thái giám có tiếng thời đó như Tôn Xiêm, Vương Triêu Phụ, Lưu Ứng Thân, Lý Vĩnh Trinh… mỗi lần gặp Khách Ấn Nguyệt đều phải cúi đầu vấn an, làm lễ như con cháu. Những lão thần như Lương Đống tuy không phải khấu đầu thì khi đưa thiệp vẫn phải xưng với Khách Ấn Nguyệt là kẻ bề dưới. Nhà riêng của Khách Ấn Nguyệt ở phía tây đường Chính Nghĩa nhưng tên cũ của nó vốn là Phụng Thánh. Sở dĩ có tên đường này cũng là vì tước hiệu mà Hy Tông phong cho Khách Ấn Nguyệt cũng là Phụng Thánh. Mỗi lần Khách Ấn Nguyệt về nhà, trên đường đều có cảnh giới, người dân nhìn thấy đều phải tránh, người đi đường nếu tránh không kịp lập tức bị đánh đòn. Khi Khách Ấn Nguyệt về tới nhà gia nhân đều phải khấu đầu miện hô “Lão tổ thái thái vạn tuế” tiếng vang tận trời xanh. Thậm chí, Khách Ấn Nguyệt còn thường tự xưng mình là một trong tám vị hoàng mẫu của Vua. Tác oai tác quái đến như thế thì có thể nói Khách Ấn Nguyêt đã biến chất hoàn toàn. Triều thần đều bất mãn, thường dâng sớ, đòi Hy Tông đưa Khách Ấn Nguyệt ra khỏi cung. Do áp lực của bách quan, năm Thiên Khải thứ 9 hoàng đế đành phải đưa Khách Ấn Nguyệt ra khỏi cung trở về nhà. Thế nhưng, Khách Ấn Nguyệt vừa đi một hôm thì hoàng đế Hy Tông đã chịu không nổi, truyền chỉ cho nội các: “Khách thị… hôm nay mới ra khỏi cung, (trẫm) từ trưa tới tối chưa hề dùng thiện, sớm nghĩ tới tối, lòng đau như cắt”… thậm chí nhỏ lệ vì nhớ. Long thể làm sao có thể bị hủy hoại như vậy được. Vì thê, vài ngày sau lại có chỉ dụ triệu Khách Ấn Nguyệt trở lại cung. Các quan dâng sớ can ngăn nếu không bị bãi quan thì bị tước lộc. Có một điều thú vị rằng, những người dâng tấu đều không hẹn mà cùng nói tới chuyện bên ngoài lưu truyền những lời đồn không hay về mối quan hệ giữa Hy Tông và Khách Ấn Nguyệt. Nói cách khác, người ta nói rằng, Khách Ấn Nguyệt và Hoàng đế Hy Tông có mối quan hệ nam nữ bất chính. Sau này, sử gia nhà Thanh cũng có người nói chuyện Khách Ấn Nguyêt được sủng ái chính bởi vì chuyện đó. Sách “Minh Quý bắc lược” cũng nói tới Khách Ấn Nguyệt “tuổi 30, xinh đẹp, mê hoặc Hy Tông”. Trên thực tế, từ những biểu hiện của Khách Ấn Nguyệt cũng có thể nhìn thấy vài điểm không bình thường về mối quan hệ giữa bà ta và Hoàng đế Hy Tông. Năm Thiên Khải thứ 4 Hoàng đế tổ chức hôn lễ, lấy con gái của Trương Quốc Kỷ huyện Phù Tường, Hà Nam, tức là Trương Hoàng hậu. Trương Hoàng hậu là một người tốt, hiền lành đoan trang, hiểu biết lễ nghĩa, Hy Tông vì vậy vô cùng vừa lòng. Việc Hy Tông lập hoàng hậu vốn chẳng liên quan gì tới Khách Ấn Nguyêt, nhưng đột nhiên bà vú nuôi họ Khách nổi cơn ghen, làm khó Trương Hoàng hậu đến thìa múc cơm cũng không sắp xếp cho. Sau đó, Khách Ấn Nguyệt còn tức giận mà nói với Hy Tông rằng: “Có mới nới cũ!”. Hoàng đế Hy Tông không biết làm thế nào chỉ còn cách thêm bổng lộc để an ủi. Không chỉ Trương Hoàng hậu mà còn nhiều phi tần và cung nữ được hoàng đế sủng hạnh hoặc mang thai bị Khách thị hãm hại mà chết một cách oan uổng. Tuy nhiên, theo ghi chép của các sử gia, Khách thị lớn hơn Thiên Khải 25 tuổi. Như vậy, khi Hy Tông lấy Trương Hoàng hậu, Khách Ấn Nguyệt cũng đã ngoài 40 tuổi. Một người phụ nữ ngoài 40 có sức mê hoặc gì mà có thể giữ được mối tình nam nữ với một Hoàng đế tuổi mới 17 lại sở hữu cả tam cung lục viện. Đây là điều mà cho tới nay, các sử gia vẫn chưa thể lý giải được. Dưới triều Minh không có ai dám nói thẳng chuyện thầm kín đó ra. Các bản tấu sớ của các quan lại cũng chỉ là đánh tiếng, nói bóng nói gió chứ không dám đề cập thẳng. Tuy nhiên, Hy Tông cũng không phải không biết chuyện đó, chính vì vậy nên vị Hoàng đế này mới tức giận mà trừng trị những người dâng sớ. Nói đến đây chúng ta cũng có thể thấy Thiên Khải và Khách thị có một chút quan hệ “vừa là mẹ vừa là tình nhân”. Điều này tuy khó hiểu nhưng tồn tại được đều có lí. Bởi mối quan hệ đó mà trên một phần nào đó có ảnh hưởng rất lớn tới hoàng đế Hy Tông. Khách thị được phong làm Thánh phu nhân, đương nhiên Ngụy Trung Hiền cũng thơm lây. Lâu nay, khi nói về lịch sử triều Minh tới giai đoạn Ngụy Trung Hiền, người ta đều bắt đầu nói từ việc Ngụy Trung Hiền cấu kết với Khách Ấn Nguyệt, hình thành đảng hoạn quan, lũng đoạn triều chính. Tuy nhiên, trên thực tế, Ngụy Trung Hiền và Khách Ấn Nguyệt đã sớm quen biết nhau và ban đầu cả hai không hề có mục đích câu kết để làm loạn. Lúc trẻ y đã máu mê cờ bạc, ăn chơi trác táng. Sau vì thua hết tiền, nợ nần chồng chất, họ Ngụy bèn trốn vào tiệm rượu, bị bọn đòi nợ chửi mắng, đánh đập, thấy hổ thẹn, phẫn uất cùng cực mà quyết định tự thiến rồi thay tên đổi họ là Lý Tiến Trung, trốn đến Bắc Kinh và được tuyển vào cung năm 1589.
Ngụy Trung Hiền
Ngụy Trung Hiền (chữ Hán: 魏忠賢; 1568 - 16 tháng 10 năm 1627) là một trong những đại hoạn quan nổi tiếng nhất và nhiều quyền lực nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người cầm đầu "Đảng hoạn quan" dưới thời Minh Hy Tông trong việc lũng đoạn triều chính, thâu tóm mọi quyền lực trong tay, đồng thời tiêu diệt tất cả những người không cùng phe cánh với mình một cách không khoan nhượng. Triều Minh dưới thời Hy Tông suy tàn một cách trầm trọng một phần lớn là do Ngụy Trung Hiền. Ngụy Trung Hiền là người Túc Ninh tỉnh Hà Bắc, lúc đầu tên là Ngụy Tiến Trung. Lúc trẻ ông đã máu mê cờ bạc, ăn chơi trác táng, có vợ và một con trai. Vì thua hết tiền, nợ nần chồng chất, ông bèn trốn vào tiệm rượu, bị bọn đòi nợ chửi mắng, đánh đập, thấy hổ thẹn, phẫn uất cùng cực mà quyết định tự thiến rồi thay tên đổi họ là Lý Tiến Trung, trốn đến Bắc Kinh và được tuyển vào cung năm 1589, đổi lại tên cũ là Ngụy Tiến Trung. Tiến Trung nương dựa vào làm thủ hạ của vú nuôi vua Hy Tông là Khách thị (客氏), lời nói nịnh nọt nên rất được Khách thị thương yêu.
Điểm kỳ dị về công nghệ là một điểm lý thuyết trong thời gian mà trí thông minh nhân tạo tự cải thiện có thể hiểu và điều khiển các khái niệm bên ngoài phạm vi của bộ não con người, đó là thời điểm mà nó có thể hiểu được con người, bằng thiết kế sinh học, có thể t. Sự mờ nhạt về điểm kỳ dị xuất phát từ thực tế là, từ điểm kỳ dị trở đi, lịch sử thực sự khó lường. Loài người sẽ không thể dự đoán bất kỳ sự kiện nào trong tương lai, hoặc giải thích bất kỳ sự kiện hiện tại nào, vì chính khoa học trở nên không có khả năng mô tả các sự kiện kích hoạt bằng máy. Về cơ bản, máy móc sẽ nghĩ về chúng ta giống như cách chúng ta nghĩ về loài kiến. Vì vậy, chúng ta có thể không đưa ra dự đoán nào qua điểm kỳ dị. Hơn nữa, như một hệ quả logic, chúng ta không thể xác định điểm mà tại đó điểm kỳ dị có thể xảy ra, hoặc thậm chí nhận ra nó khi nó xảy ra. Tuy nhiên, để sự kỳ dị diễn ra, AGI cần được phát triển, và liệu điều đó có khả thi hay không là một cuộc tranh luận sôi nổingay bây giờ. Hơn nữa, một thuật toán tạo ra trí thông minh siêu phàm từ các bit và byte sẽ phải được thiết kế. Theo định nghĩa, một lập trình viên con người sẽ không thể làm được điều đó, vì bộ não của anh ta / cô ta sẽ cần có khả năng hiểu các khái niệm vượt ra ngoài phạm vi của nó. Ngoài ra còn có lập luận rằng một vụ nổ trí thông minh (cơ chế mà một điểm kỳ dị công nghệ sẽ được hình thành về mặt lý thuyết) sẽ không thể xảy ra do khó khăn trong thách thức thiết kế khiến nó trở nên thông minh hơn, tỷ lệ thuận với trí thông minh của nó và khó khăn hơn bản thân thiết kế có thể vượt qua trí thông minh cần thiết để giải quyết thách thức nói trên (điểm cuối cùng cho thần llamas trong các bình luận). Ngoài ra, có những lý thuyết liên quan liên quan đến máy móc chiếm lĩnh loài người và tất cả những câu chuyện khoa học viễn tưởng đó. Tuy nhiên, điều đó khó có thể xảy ra, nếu luật pháp của Asimov được tuân thủ một cách thích hợp. Ngay cả khi luật pháp của Asimov chưa đủ, một loạt các ràng buộc vẫn sẽ là cần thiết để tránh sự lạm dụng AGI của các cá nhân bị hiểu lầm và luật pháp của Asimov là điều gần nhất chúng ta phải làm. Khái niệm "điểm kỳ dị" là khi máy móc vượt qua con người. Mặc dù ý kiến của Stephen Hawking là tình huống này là không thể tránh khỏi, nhưng tôi nghĩ sẽ rất khó đạt được điểm đó, bởi vì mọi thuật toán AI cần được lập trình bởi con người, do đó nó sẽ luôn bị hạn chế hơn so với người tạo ra nó. Có lẽ chúng ta sẽ biết khi nào nhân loại sẽ mất quyền kiểm soát Trí tuệ nhân tạo, nơi AI siêu thông minh sẽ cạnh tranh với con người và có thể tạo ra những sinh vật thông minh tinh vi hơn xảy ra, nhưng hiện tại, nó giống như khoa học viễn tưởng (hay còn gọi là Skynet của Terminator ). Nguy cơ có thể liên quan đến giết người (như tự bay chiến UAV đưa ra quyết định của riêng mình), các nước phá hủy hoặc thậm chí toàn bộ hành tinh (như AI kết nối với vũ khí hạt nhân (aka WarGames phim), nhưng nó không chứng minh quan điểm rằng máy móc sẽ thông minh hơn con người. Điểm kỳ dị, trong bối cảnh của AI, là một sự kiện lý thuyết, theo đó một hệ thống thông minh với các tiêu chí sau được triển khai. Bằng cách cảm ứng, lý thuyết sau đó dự đoán rằng một chuỗi các sự kiện sẽ được tạo ra với tốc độ tăng trí thông minh tiềm năng có thể vượt quá tốc độ tiến hóa của não. Làm thế nào bắt buộc thực thể tự cải thiện này hoặc dân số của các thực thể được điều trị sẽ là gì để bảo vệ cuộc sống và tự do của con người là không xác định. Ý tưởng rằng một nghĩa vụ như vậy có thể là một phần của hợp đồng phần mềm không thể hủy bỏ là ngây thơ trong bản chất của các khả năng gắn liền với các tiêu chí (1) đến (4) ở trên. Cũng như các công nghệ mạnh mẽ khác, các rủi ro cũng nhiều và sâu rộng như các lợi ích tiềm năng. Rủi ro cho nhân loại không đòi hỏi trí thông minh. Có những bối cảnh khác để sử dụng thuật ngữ số ít, nhưng chúng nằm ngoài phạm vi của diễn đàn AI này nhưng có thể đáng được đề cập ngắn gọn cho rõ ràng. Kỹ thuật di truyền, kỹ thuật hạt nhân, toàn cầu hóa và dựa trên nền kinh tế quốc tế dựa trên nguồn năng lượng hữu hạn được tiêu thụ nhanh hơn hàng ngàn lần so với nó phát sinh trên trái đất - Đây là những ví dụ khác về công nghệ rủi ro cao và xu hướng đại chúng gây ra rủi ro cũng như lợi ích đến nhân loại. Quay trở lại với AI, sự cảnh báo chính trong lý thuyết về điểm kỳ dị là sự thất bại trong việc kết hợp xác suất. Mặc dù có thể phát triển một thực thể phù hợp với các tiêu chí (1) đến (4) ở trên, nhưng nó có thể không đủ khả năng để sự kiện đầu tiên xảy ra lâu sau khi tất cả các ngôn ngữ hiện tại trên Trái đất đã chết. Ở một thái cực khác của phân phối xác suất, người ta có thể dễ dàng lập luận rằng có một xác suất khác không rằng sự kiện đầu tiên đã xảy ra. Dọc theo những dòng đó, nếu một sự hiện diện thông minh hơn nơi đã tồn tại trên Internet, thì có khả năng nó sẽ tìm thấy nó trong lợi ích tốt nhất của mình để tiết lộ cho những người thấp hơn. Chúng ta có tự giới thiệu về một con giòi đi qua không?. "Điểm kỳ dị", được xem hẹp, đề cập đến một điểm mà tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh đến mức chúng ta không thể đưa ra dự đoán hữu ích về quá khứ tương lai sẽ như thế nào. Nó thường được sử dụng thay thế cho "vụ nổ trí thông minh", đó là khi chúng ta có cái gọi là AI mạnh, đó là AI đủ thông minh để hiểu và cải thiện chính nó. Có vẻ hợp lý khi hy vọng rằng vụ nổ tình báo sẽ ngay lập tức dẫn đến một điểm kỳ dị về kinh tế, nhưng điều ngược lại không nhất thiết là đúng.
Điểm kỳ dị công nghệ
Điểm kỳ dị kỹ thuật là điểm quy chiếu giả định xảy ra khi nền công nghệ phát triển gia tốc tạo ra hiệu ứng phi mã khiến cho trí thông minh nhân tạo sẽ vượt qua trí tuệ và khả năng khống chế của con người. Những khả năng của một trí thông minh như vậy là bất khả tri, một khi xuất hiện kỳ dị kỹ thuật các sự kiện tiếp sau đó sẽ không thể dự đoán và tiên lượng được. Chính vì thế điểm kỹ dị kỹ thuật còn được coi là một chân trời sự kiện mà sau thời điểm này các sự kiện sẽ không thể tiên đoán hay hiểu được. Những người đề xuất ra điểm kỳ dị thường phát biểu rằng một sự "bùng nổ trí thông minh", nơi những siêu trí thông minh thiết kế liên tiếp ra những bộ óc ngày càng mạnh, có thể diễn ra rất nhanh chóng và sẽ không dừng lại cho tới khi các khả năng nhận thức của nó vượt quá khả năng của con người. Thuật ngữ này đã được tác gia về khoa học viễn tưởng Vernor Vinge quảng bá, ông cho rằng trí thông minh nhân tạo, sự nâng cao khả năng sinh học con người, hay các giao diện não-máy tính có thể là những nguyên nhân dẫn tới kỳ dị.
Bảo tàng văn hóa dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh tạo lạc tại khóm 4, phường 8, thành phố Trà Vinh. Bảo tàng này nằm trong quần thể Khu di tích Ao Bà Om, Chùa Âng. Bảo tàng này nằm trong quần thể Khu di tích Ao Bà Om, Chùa Âng. Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh được xây dựng và đưa vào sử dụng năm 1997. Hiện nay, Bảo tàng lưu giữ và trưng bày gần 1.000 hiện vật, phản ánh đời sống văn hóa, vật chất tinh thần rất phong phú của dân tộc Khmer, đặc biệt là những văn tự cổ chứ Kinh phật, các lời huấn ca về đạo đức, lối sống và các truyện nhân gian,.Trong số đó, đốc đáo nhất là sách viết trên lá Buông, giấy xếp bằng tiếng Phạn. Bảo tàng văn hóa dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh là nơi khách đến tham quan, nghiên cứu học tập. Thăm Bảo tàng Văn hóa Khmer tại Trà Vinh - Văn hóa Giải trí - Tuổi Trẻ Onlinetuoitre.vnTrà Vinh là tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, phía Đông và Đông Nam giáp biển, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Sóc Trăng (có ranh giới là sông Hậu dài hơn 60km), phía Tây và Tây Bắc giáp tỉnh Vĩnh Long (dài gần 60km), còn phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Bến Tre, có ranh giới là sông Cổ Chiên. Với hàng trăm hiện vật được lưu giữ, đây không chỉ là niềm tự hào của người Trà Vinh mà còn là nơi gìn giữ và tôn vinh nét văn hóa nhiều thế hệ của hơn 1,5 triệu đồng bào Khmer Nam bộ. Tiết mục sức sống đồng bằng hôm nay của VTV Cần Thơ xin chuyển.
Bảo tàng văn hóa dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh
Bảo tàng văn hóa dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh nằm trong quần thể Khu di tích Ao Bà Om và Chùa Âng; hiện tọa lạc tại khóm 4, phường 8, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, Việt Nam. Bảo tàng được xây dựng năm 1995, và đưa vào sử dụng năm 1997 trên diện tích 1.700 m2 trong một khuôn viên rộng 1 ha. Tòa nhà chính được xây theo kiểu kiến trúc truyền thống kết hợp với kiến trúc hiện đại, gồm một trệt một lầu. Tầng trệt là văn phòng làm việc của cán bộ, nhân viên bảo tàng. Tầng trên gồm có ba phòng dùng để trưng bày gần 1.000 hiện vật, phản ánh đời sống văn hóa, vật chất tinh thần rất phong phú của dân tộc Khmer ở Nam Bộ. Phòng đầu tiên dùng để trưng bày các hiện vật về mô hình các ngôi chùa của người Khmer, có sala dùng để các nhà sư ngồi. Phòng thứ hai trưng bày các nông cụ và các công cụ để đánh bắt thủy sản. Ngoài ra, ở đây còn trưng bày các loại trang phục truyền thống và chữ viết của dân tộc Khmer ở Nam Bộ.
Chào mọi người, đây là bài đầu tiên trong series Lập Trình Hướng Đối Tượng C++. Trong bài này chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu Lập Trình Hướng Đối Tượng là gì ? Những khái niệm và đặc điểm cơ bản của Lập Trình Hướng Đối Tượng. Lập trình hướng đối tượng (Tiếng Anh: Object Oriented Programming, viết tắt: OOP) là một mẫu hình lập trình dựa trên khái niệm “công nghệ đối tượng”. Các phương thức giúp cho đối tượng có thể truy xuất và hiệu chỉnh các trường dữ liệu của đối tượng khác, mà đối tượng hiện tại có tương tác (đối tượng được hỗ trợ các phương thức “this” hoặc “self”). Trong lập trình hướng đối tượng, chương trình máy tính được thiết kế bằng cách tách nó ra khỏi phạm vi các đối tượng tương tác với nhau. Ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng khá đa dạng, phần lớn là các ngôn ngữ lập trình theo lớp (class), nghĩa là các đối tượng trong các ngôn ngữ này được xem như thực thể của một lớp, được dùng để định nghĩa một kiểu dữ liệu. Các đối tượng có đặc tính tương như nhau sẽ được gom lại thành một lớp đối tượng. Ngoài ra, lớp cũng có thể được dùng để định nghĩa một kiểu dữ kiệu mới. Mục tiêu chính của nó là làm giảm sự phức tạp bằng cách ẩn các chi tiết không liên quan trực tiếp tới người dùng (người dùng ở đây không phải người dùng cuối mà là lập trình viên). Điều đó cho phép người dùng vẫn thực hiện được các công việc cần thiết dựa trên một thực thể trừu tượng được cung cấp mà không cần hiểu hoặc thậm chí không nghĩ về tất cả sự phức tạp ẩn giấu bên trong. Khi bạn ra quán cafe, gọi nhân viên “Em ơi, cho anh một cốc cafe đen đá “. Khoảng 5 phút sau là bạn có ngay một cốc cafe trên tay mà không cần biết nhân viên đã pha chế cốc cafe đó như thế nào. Việc của bạn đơn giản chỉ là thông báo cho nhân viên biết bạn cần mua cafe, sau đó trả tiền và thưởng thức. Tính đóng gói (Encapsulation) chỉ đơn giản là việc kết hợp một bộ các dữ liệu (data) liên quan đến nhau cùng với một bộ các hàm/phương thức (functions/methods) hoạt động trên các dữ liệu đó.Sau đó “gói” tất cả vào trong một cái gọi là lớp (class). Các thực thể của các class thì được gọi là các đối tượng (objects) trong khi class giống như một công thức được sử dụng để tạo ra các đối tượng đó. Tính đóng gói thể hiện ở đoạn code trên là kết hợp các thuộc tính ten, tuoi và phương thức input(), output() vào trong class connguoi. Che giấu dữ liệu (Data Hiding) là việc một số dữ liệu (data) và hàm/phương thức (functions/methods) được lớp (class) che giấu đi (ở dạng private) để đảm bảo rằng các dữ liệu đó sẽ được truy cập và sử dụng đúng mục đích, đúng cách thông qua các hàm/phương thức (functions/methods) ở dạng public mà class cung cấp. Che giấu dữ liệu chỉ là một phương pháp kỹ thuật mà bạn áp dụng để xây dựng nên class mà thôi, nó không phải là tính chất đặc trưng của lập trình hướng đối tượng, việc bạn có áp dụng phương pháp này hay không là hoàn toàn không bắt buộc. Tuy nhiên trong các hệ thống thật, để nâng cao tính bảo mật, giảm phụ thuộc giữa các class, tránh lỗi đọc ghi dữ liệu sai cách, … thì việc áp dụng phương pháp che giấu dữ liệu gần như là đương nhiên. Nhìn lại đoạn code bên trên có thể thấy là các dữ liệu như ten, tuoi được để ở dạng private. Bạn chỉ có thể truy cập chúng thông qua các phương thức public như: input(), output(). Đó chính là Data Hiding. Dạng 1 – Compile time Polymorphism: Một class có nhiều hàm cùng tên nhưng khác nhau về số lượng tham số hoặc kiểu dữ liệu của tham số. Khi gọi hàm cùng tên đó thì trong quá trình biên dịch, compiler sẽ quyết định hàm nào (trong số các hàm cùng tên) sẽ được gọi dựa trên số lượng tham số và kiểu dữ liệu của tham số truyển vào hàm. Việc định nghĩa các hàm cùng tên được gọi là overloading – nạp chồng hàm. Dạng 2 – Runtime Polymorphism: Cùng một class có thể cho ra nhiều biến thể, không phải được định nghĩa bởi lớp đó, mà bởi các lớp con của nó. Đây là một phương pháp để định nghĩa lại hành vi của lớp cơ sở mà không phải sửa code (còn gọi là Implementation) của lớp cơ sở. Nếu gọi hàm của đối tượng của lớp dẫn xuất thông qua con trỏ của lớp cơ sở thì việc hàm nào (của lớp cơ sở hay). Runtime Polymorphism được thực hiện bằng phương pháp overriding – ghi đè phương thức. Ta có lớp data có phương thức print cùng tên nhưng tham số truyền vào thuộc các kiểu dữ liệu khác nhau. Trong hàm main, ta gọi phương thức print 3 lần nhưng mỗi lần truyền một tham số thuộc kiểu khác, khi biên dịch chương trình sẽ tự nhận biết kiểu giá trị của tham số truyền vào từ đó xác định phương thức nào trong 3 phương thức cùng tên sẽ được gọi. Đặc tính này cho phép một đối tượng có thể có sẵn các đặc tính mà đối tượng khác đã có thông qua kế thừa. Điều này cho phép các đối tượng chia sẻ hay mở rộng các đặc tính sẵn có mà không phải tiến hành định nghĩa lại. Tuy nhiên, không phải ngôn ngữ định hướng đối tượng nào cũng có tính chất này. Bài viết đầu tiên của mình xin kết thúc tại đây. Rất mong mọi người đóng góp những ý kiến để bài viết của mình ngày càng hoàn thiện hơn. Cảm ơn tất cả. Chào tạm biệt và hẹn gặp lại mọi ngươi trong những bài viết tiếp theo của Series Hướng Đối Tượng C++ nhé. Lập Trình Không Khó là một cộng đồng chia sẻ và đào tạo lập trình phi lợi nhuận hàng đầu tại Việt Nam.
Lập trình dựa trên nguyên mẫu
Lập trình dựa trên nguyên mẫu (tiếng Anh: prototype-based programming) là một kiểu lập trình hướng đối tượng, trong đó việc tái sử dụng hành vi (được gọi là kế thừa) được thực hiện thông qua quá trình tái sử dụng các đối tượng hiện có thông qua ủy quyền đóng vai trò nguyên mẫu (prototype). Mô hình này cũng có thể được gọi là lập trình nguyên mẫu, hướng mẫu, không phân lớp hoặc lập trình dựa trên thực thể. Delegation (tiếng Việt: ủy nhiệm hàm hay ủy quyền) là tính năng ngôn ngữ hỗ trợ lập trình dựa trên nguyên mẫu. Lập trình dựa trên nguyên mẫu sử dụng các đối tượng tổng quát, sau đó có thể được nhân bản và mở rộng. Lấy trái cây làm ví dụ, một đối tượng "trái cây" sẽ đại diện cho các tính chất và chức năng của trái cây nói chung. Một đối tượng "chuối" sẽ được nhân bản từ đối tượng "trái cây" và các thuộc tính chung dành riêng cho chuối sẽ được thêm vào. Mỗi đối tượng "chuối" riêng lẻ sẽ được nhân bản từ đối tượng "chuối" chung. So sánh với mẫu hình dựa trên lớp, trong đó một lớp "trái cây" sẽ được mở rộng bởi một lớp "chuối".
Du lịch bụi có rất nhiều định nghĩa khác nhau do sự thay đổi về quan niệm cũng như sự phát triển của các hình thức du lịch mới. Một trong những định nghĩa chung nhất của du lịch bụi được trình bày như sau:. Du lịch bụi là một loại hình du lịch hoàn toàn tự túc còn được gọi là “đi phượt” hay du lịch ba-lô. Khi đi du lịch bụi bạn sẽ hoàn toàn tự lập kế hoạch và hoàn thành chuyến đi dựa trên lịch trình tự định sẵn. Thay vì thông qua các công ty du lịch, đại lí du lịch. Bạn sẽ toàn quyền lựa chọn phương tiện du lịch, địa điểm tham quan, nơi lưu trú và các vấn đề liên quan khác, …. Hình thức du lịch này được khai sinh bởi một người Ý mang tên Giovanni Francesco Gemelli Careri. Ông là một quan tòa làm việc tại tòa án Naples nhưng không gặt hái được nhiều thành công trong công việc. Để có thể tìm thấy niềm vui trong cuộc sống ông đã quyết định thực hiện một chuyến hành trình chu du qua nhiều nơi trên thế giới vào năm 1693. Cuộc hành trình này kéo dài 5 năm và đã được ông ghi chép lại thành sách. Cuốn sách này bán rất chạy và được dịch ra nhiều thứ tiếng và trở thành cẩm nang của những người đam mê xê dịch. Hiện nay, nhiều người trẻ định nghĩa du lịch bụi là một hình thức du lịch giá rẻ. Thường đối tượng du lịch bụi sẽ là một cá nhân hoặc một nhóm nhỏ. Mục đích chính của du lịch bụi ngoài việc thỏa mãn đam mê xê dịch nhưng với chi phí rẻ và tiết kiệm hơn. Còn là mong muốn được trải nghiệm những điều mới mẻ, những nền văn hóa bản địa đặc sắc, khám phá thiên nhiên và con người địa phương. Tiết kiệm chi phí bằng cách sử dụng các phương tiện công cộng làm hình thức di chuyển chính và nghỉ chân tại các hostel, homestay giá rẻ. Lịch trình du lịch mang tính cá nhân hóa và linh hoạt cao. Bạn là người làm chủ chuyến đi của mình, mọi khía cạnh hay trải nghiệm mà hành trình mang lại đều do bạn quyết định. Bởi vậy mà mỗi người du lịch bụi, dù có cùng điểm đến nhưng sẽ có những trải nghiệm không giống nhau. Mục đích chính của du lịch bụi chính là trải nghiệm, tìm hiểu và hòa mình vào nền văn hóa bản địa. Thời gian đi du lịch bụi thường sẽ kéo dài hơn phương thức đi theo tour. Bởi đây là loại hình du lịch chú trọng vào trải nghiệm cá nhân. Một trong những kĩ năng cần thiết nhất khi du lịch bụi chính là lên kế hoạch. Bạn cần phải vạch ra một kế hoạch cụ thể trước khi bắt đầu hành trình khám phá của mình. Tìm hiểu về những địa điểm tham quan, văn hóa bản địa, đặc điểm của khu vực đó, nơi lưu trú phù hợp và chọn lựa ăn uống. Để tiết kiệm chi phí cũng như tối đa hóa trải nghiệm trong chuyến du lịch của mình. Bạn cần phải dự tính được những điều có thể phát sinh trong thời gian đi du lịch bụi như bệnh tật, lạc đường hay hỏng hóc phương tiện di chuyển, …. Bạn vẫn có thể thay đổi lịch trình trong quá trình khám phá. Nhưng hay suy tính thật kĩ và đảm bảo mọi sự thay đổi vẫn luôn nằm trong những dự đoán ban đầu. Để tránh lãng phí tiền bạc hoặc gặp phải những trường hợp không may. Trong quá trình lên kế hoạch cho chuyến đi, bạn có thể liên hệ và làm quen với một người dân địa phương tại điểm đến mà bạn muốn khám phá. Bởi kiến thức sách vở là không hề đủ. Có một người thông thạo về địa hình, văn hóa bản địa làm bạn sẽ là một lợi thế giúp chuyến đi của bạn trở nên đáng nhớ và thuận lợi hơn bao giờ hết. Vậy nên đừng quên làm quen một vài người địa phương trước khi bắt đầu và trong suốt chuyến đi của bạn nhé!. Hi vọng bài viết du lịch bụi là gì và một vài kinh nghiệm nên biết khi đi du lịch bụi này của chúng tôi đã mang lại cho bạn những thông tin hữu ích. Để có thể trải nghiệm du lịch bụi là gì, bạn đừng quên trau dồi thêm kiến thức để có một chuyến đi du lịch bụi đáng nhớ nhé!
Du lịch bụi
Du lịch "bụi", còn gọi là du lịch ba-lô hay đi phượt, là loại hình du lịch mà chuyến đi do bạn tự lên kế hoạch và tự thực hiện. Khác với hình thức du lịch theo tour ở chỗ du lịch theo tour do bên cung cấp dịch vụ giúp bạn thực hiện chuyến đi bằng cách lên chương trình, đặt khách sạn, đặt dịch vụ ăn uống, đặt chỗ tham quan v.v. Có lịch trình được vạch sẵn nhưng cũng có thể tùy hứng thay đổi trong chuyến đi. Thường có các bài phân tích, đánh giá, nhận xét về nơi đến, cảnh quan, con người, kinh nghiệm chuyến đi để làm tư liệu cho các người đi du lịch bụi sau đó tham khảo. Người đi du lịch bụi phải tự lên kế hoạch, đặt phòng khách sạn, đặt chỗ tham quan, tự lo về phương tiện đi lại, cách thức liên lạc, đổi tiền tệ phù hợp với nơi đến v.v. Mọi thứ có thể được tham khảo qua tài liệu và từ những người từng đi du lịch bụi trước đó. Xét về góc độ lịch sử, Giovanni Francesco Gemelli Careri (1651-1725) được xem là người khai sinh ra loại hình du lịch bụi.
Bộ phim “Le Fabuleux Destin d’Amélie” là một giấc mơ Pháp đẹp đẽ mà ai cũng nên chìm đắm vào đó một lần. “Xưa có một cô gái vô cùng dễ thương, vô cùng nhút nhát. Nàng sống một mình, chẳng có ai bầu bạn, ngoài một con mèo không tên”. Có thể lấy ngay những dòng miêu tả trong Breakfast at Tiffany’s về nhân vật của Audrey Hepburn để giới thiệu về vai diễn của một cô nàng “Audrey” khác: Amélie Poulain của Audrey Tautou. Amélie là một cô gái mơ mộng và nhút nhát sống ở vùng ngoại ô Montmartre của Paris, Pháp. Nàng không có bạn trai, không có bạn thân, không đam mê, không một mục đích rõ ràng trong cuộc sống. Ngày qua ngày, nàng chìm đắm trong thế giới riêng và tìm thấy ở đó niềm vui từ những điều nhỏ bé, bình dị của cuộc sống. Một ngày nọ, định mệnh đến gõ cửa nhà nàng. Khi đang xem bản tin về cái chết của công nương Diana, Amélie vô tình đánh rơi nắp đậy lọ kem dưỡng. Một viên gạch trên tường bật ra, để lộ một chiếc hộp “kho báu” được một cậu bé cất giấu từ 40 năm trước. Ngỡ ngàng trước phát hiện kỳ diệu ấy, Amélie tìm cách trả lại cho cậu bé - giờ đã là một ông già - kỷ vật ngày nào. Đó cũng là khi Amélie tìm ra sứ mạng của đời mình: làm cho mọi người xung quanh được hạnh phúc. Như một phần thưởng cho cô gái dịu dàng, tốt bụng, trên hành trình làm việc thiện ấy, Amélie đã tìm thấy tình yêu. "Amélie Poulain" là bộ phim của Pháp được 5 đề cử Oscar 2002, trong đó có hạng mục "Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất". Amélie Pouland là một sáng tạo tuyệt vời của nhà biên kịch Guilaume Laurant. Thật khó để không phải lòng một cô gái dễ thương, trong sáng và kỳ lạ đến thế. Đó cũng là vai diễn để đời của Audrey Tautou, một hình tượng sẽ gắn mãi với tên tuổi và sự nghiệp của cô. Audrey Tautou đã mang đến cho khán giả một Amélie của mắt tròn ngơ ngác, lúc nào cũng lấp lánh những ánh sáng tươi vui, môi luôn nở những nụ cười bẽn lẽn. Amélie có khuôn mặt hóm hỉnh, như thể nàng biết một bí mật nào đó, như thể đầu óc nàng lúc nào cũng tràn ngập ý tưởng thú vị, những “âm mưu” nho nhỏ mà nàng chẳng hé miệng cho ai. Bé bỏng, xinh xắn, Amélie giống như một nàng tiên Tinker Bell của đời thực, luôn sẵn sàng giơ chiếc đũa thần bí mật lên, đem những điều kỳ diệu đến với cuộc sống của người khác. Đó là cô gái đẹp từ cái cái tên, một tia nắng mai lạc xuống trần gian, sưởi ấm Paris và tất cả những người có may mắn được quen nàng. Amélie thích giúp đỡ người khác nhưng không phải theo cách thông thường. Bản tính nhút nhát hay e thẹn khiến nàng chẳng bao giờ xuất đầu lộ diện. Nàng tìm những cách khác, lạ lùng hơn, kỳ quái hơn, để đạt được mục đích của mình. Khán giả hồi hộp dõi theo hành động của Amélie để rồi phải bật cười và ngày càng yêu mến cô gái không bao giờ lớn ấy. Cách Amélie yêu cũng thật ngọt ngào, trong sáng. Nàng phải lòng Nino, một anh chàng làm việc ở cửa hàng bán đồ người lớn, có sở thích sưu tầm những bức ảnh bị người ta bỏ lại. Hai người sinh ra là để dành cho nhau. Cả hai đều nhút nhát, nội tâm, khác biệt với những người xung quanh. Ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên, Amélie đã linh cảm rằng Nino là tất cả những gì nàng từng chờ đợi và tìm kiếm. Le Fabuleux Destin d’Amélie Poulain có những phân cảnh tuyệt vời để diễn tả tâm trạng khi yêu. Amélie trở về nhà, cõi lòng tan nát vì nghĩ rằng Nino đã theo người khác. Nàng định làm bánh nhưng hết men nở. Amélie tưởng tượng rằng ở một tương lai hạnh phúc nào đó, hai người sống chung với nhau, những lúc như thế này, Nino sẽ đội mưa, chạy ra cửa hàng gần nhất để mua đồ cho nàng. Rèm cửa khẽ lay động, Amélie mừng rỡ quay lại, nhưng đó chỉ là con mèo mà hàng ngày nàng vẫn hay chơi cùng. Tiếng piano trầm bổng, du dương hòa cùng tiếng mưa đem lại cho khán giả một cảm giác đau đớn ngọt ngào. Với Le Fabuleux Destin d’Amélie Poulain, khán giả sẽ nhận ra rằng không cần đến những cảnh ân ái hay những nụ hôn cuồng nhiệt để diễn tả một tình yêu mạnh mẽ. Đó là khi Amélie khẽ hôn lên khóe miệng và đôi mắt của Nino. Một phân đoạn hoàn toàn không sử dụng nhạc nền nhưng dịu dàng và gợi cảm vô cùng. Bộ phim hấp dẫn khán giả không chỉ ở nhân vật chính là nàng Amélie tuyệt vời, mà còn ở hệ thống nhân vật phụ kỳ khôi, lập dị. Thế giới trong Le Fabuleux Destin d’Amélie Poulain không hề có người xấu. Tất nhiên, bộ phim có những nhân vật khó ưa, thích làm tình làm tội người khác. Nhưng trong thế giới bọc đường của Le Fabuleux Destin d’Amélie Poulain, ngay cả sự xấu tính của họ cũng trở nên buồn cười và đáng yêu. Bộ phim đặt bối cảnh ở Paris hoa lệ - “thành phố ánh sáng”. Đó không phải là một Paris có thực mà là một Paris của những giấc mơ. Thành phố sạch sẽ, ấm áp, đẹp mơ màng trong ba màu chủ đạo: xanh lá, vàng mật ong và đỏ chín. Đó là một Paris của những quầy bán báo xinh xẻo, những cửa hàng rau quả tươi rói, những con mèo thích nghe chuyện cổ tích và những người dân hiền lành, đáng yêu. Đó là nơi phép màu ẩn trong từng góc phố và tình yêu ngập tràn trong khí quyển. Paris của Le Fabuleux Destin d’Amélie Poulain đem đến cho người xem một cảm giác êm ái, dễ chịu như được bọc trong một chiếc khăn bông mềm mại, dịu dàng vào một ngày trời mưa. Khi xem phim, gần như ai cũng bị xao xuyến bởi sự ngọt ngào, dễ mến của nhân vật Amélie. Một yếu tố nữa tạo nên sức hấp dẫn kỳ lạ ở Le Fabuleux Destin d’Amélie Poulain là cách nhìn thế giới qua đôi mắt của Amélie. Hầu hết sự kiện trong phim đều diễn ra vào những ngày bình thường, “trời hôm ấy không có gì đặc biệt” nhưng tất cả đều hiện lên đẹp đẽ, tinh khôi như thể vừa được ban phép lành. Đó là vì nhân vật chính của phim, Amélie, có một trái tim ấm áp và biết nhìn ra vẻ đẹp từ những điều bé nhỏ nhất của cuộc sống. Nàng tự tạo cho mình những niềm vui riêng. Đó là cảm giác dễ chịu khi bị ngập phủ bởi hàng nghìn hạt đậu tròn, trơn nhẵn mơn man trên da tay hay là khi Amélie chơi trò ném thia lia trên kênh Saint-Martin, nhìn những hòn đá bật nảy nhiều lần trên mặt nước. Nhiều người cứ than phiền rằng không đủ thời gian và tiền bạc để hưởng thụ cuộc sống mà không ngờ rằng mình có thể vui vẻ từ những điều giản dị như thế. Le Fabuleux Destin d’Amélie Poulain có thể không “thay đổi cuộc đời bạn” như những gì được quảng cáo trên tấm poster nhưng có thể khiến một ngày ảm đạm trở nên ấm áp, dễ chịu hơn. Giống như mật ngọt được rót thẳng vào tim, bộ phim là một món quà hoàn hảo cho những người phụ nữ mơ mộng, vẫn muốn tin vào những điều kỳ diệu của cuộc sống trong ngày 8/3.
Cuộc đời tuyệt vời của Amélie Poulain
Cuộc đời tuyệt vời của Amélie Poulain (tiếng Pháp: Le Fabuleux Destin d Amélie Poulain, tên tắt là Amélie) là bộ phim hài lãng mạn của Pháp, do Jean-Pierre Jeunet đạo diễn. Lấy bối cảnh ở Paris, phim kể câu chuyện về Amélie Poulain, một cô gái trong sáng, tốt bụng, với những kế hoạch tuy không lớn lao nhưng lại đem đến những thay đổi to lớn cho những người xung quanh. Phim giành giải phim xuất sắc nhất tại Giải thưởng Phim châu Âu, giành được bốn giải César (bao gồm cả phim xuất sắc nhất và đạo diễn xuất sắc nhất), hai giải BAFTA (bao gồm Kịch bản gốc xuất sắc nhất), và được đề cử cho 5 giải Oscar, giành giải tại các liên hoan phim Tokyo và Karlovy Vary. Bộ phim đã được The New York Times chọn là một trong "1000 phim xuất sắc nhất mọi thời", đặt số 2 của tạp chí Empire Magazine "100 phim hay nhất của điện ảnh thế giới". Khi Amélie Poulain còn nhỏ, bố mẹ cô tưởng rằng con gái mình bị mắc bệnh tim. Vì vậy, cô bé được mẹ nuôi dạy tại nhà. Không có bạn chơi, Amélie làm bạn với những người bạn tưởng tượng để xoá đi nỗi cô đơn.
Bò bít tết ngon hiện là món ăn quen thuộc đối với mọi người hiện nay, đặc biệt là với người dân Hà Thành. Thế những bít tết cũng có rất nhiều loại như bít tế bò truyền thống, bít tết New York áp chảo, bít tết bò Mỹ. Bít Tết Bò hiện là món ăn quen thuộc đối với mọi người hiện nay, đặc biệt là với người dân Hà Thành. Thế những bít tết cũng có rất nhiều loại như bít tế bò truyền thống, bít tết New York áp chảo, bít tết bò Mỹ. Vậy liệu bạn có bao giờ thắc mắc bít tết bò Việt Nam và Mỹ khác nhau như nào không? Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn giải đáp những thắc mắc đó. Bò bít tết hay còn được gọi là “Steak”, món này vồn được chế biến bằng cách nướng hoặc áp chảo với nhiều cấp độ chín khác nhau, đây là điểm đặc trưng của món bít tết. Tùy vòa nhiệt độ và thời gian chế biến mà bít tết có những hương vị khác nhau, độ mềm của thịt cũng khác nhau. Đặc biệt món này phải ăn kèm với sốt và các loại rau, vì vậy đây là món ăn khá dinh dưỡng. Thịt thăn bò: Thịt thăn chiếm rất ít trên tổng trọng lượng của một con bò, vì vậy nếu ăn bít tết loại này thì giá thành khá đắt, nhưng bù lại phần thịt này rất mềm, ngọt và mọng nước. Phần sườn bò: Phần sườn bò cũng rất hay được chọn để làm bít tết, đối với phần sườn non có các vân mỡ thì khi sử dụng nhiệt độ cao để chế biến, các vân mỡ sẽ chảy ra và thấm vào các thớ thịt, giúp miếng thịt mềm và đậm đà hơn. Bò bít tết ngon vốn là món ăn bắt nguồn từ Phương Tây, sau đó mới được du nhập vào Việt Nam, trong quá trình phát triển và hòa nhập thì món ăn này cũng biển thể đi phù hợp với khẩu vị của người dân Việt Nam. Từ cách nấu thịt bò, các nêm nếm gia vị thì steak Việt Nam đã không giống với Steak Mỹ. Ở Việt Nam chủ yếu là chế biến bít tết bò theo hai cấp độ tái và chín. Mức độ tái của thịt có thể điều chỉnh dựa vào nhiệt độ và thời gian những nhìn chung nó cũng không quá rõ ràng. Miếng thịt bò cũng được thái mỏng hơn so với nguyên bản ban đầu, ngoài ra mùi vị cũng là điểm khác nhau khá lơn khi bít tết Việt Nam thêm nếm khá nhiều gia vị. Bên cạnh đó cách ăn bít tết của người Việt cũng khá lạ khi kết hợp bít tết với trứng ốp la, xúc xích. Bít tết bò Mỹ hay còn gọi là Beefsteak, thông thường bít tết bò Mỹ sẽ được chế biến theo 7 cấp độ khác nhau khá rõ ràng, bao gồm: raw (sống), thịt chín 01% (blue rare), thịt chín 25 % (rare), chín 50% (medium rare), thịt chín 75% (medium), thịt chín 90% (medium well) và chín 100% (well done). Đây chính là điểm thu hút của bít tết bò Mỹ. Bên cạnh đó cách tẩm ướp bít tết bò Mỹ mang đậm nét phương tây. Nhìn chung cả hai loại bít tết bò Mỹ và Việt Nam có những các chế biến khác nhau, những mỗi loại lại mang được những hương vị đặc trưng riêng. Nếu bạn đang muốn tìm một địa điểm thịt bò bít tết ngon tại Hà Nội hãy liên hệ ngay đến nhà hàng Bít Tết Ngọc Hiếu để được thưởng thức món bít tết hảo hạn nức tiếng Hà Thành.
Bít tết
Bít tết (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp bifteck /biftɛk/ trong tiếng Anh cũng thường được gọi ngắn gọn là steak), là một món ăn bao gồm miếng thịt bò lát phẳng, thường được nướng vỉ, áp chảo hoặc nướng broiling ở nhiệt độ cao. Những miếng thịt mềm hơn được cắt ra từ phần thăn và sườn được làm chín nhanh chóng, sử dụng nhiệt khô và phục vụ toàn bộ. Những miếng thịt ít mềm hơn cắt ra từ thịt bả vai của con bò và thịt mông được chế biến với nhiệt ẩm hoặc được làm mềm theo phương pháp cơ học (cf. Bít tết là một món ăn được ưa chuộng tại châu Âu và nhất là châu Mỹ. Tại Việt Nam, món bít tết đúng nghĩa thường chỉ được phục vụ trong các nhà hàng loại sang trọng vì nguyên liệu thịt bò ở đây khá đắt đỏ. Những món bò thường bị nhầm lẫn với bít tết là bò né với nguyên liệu chỉ là những miếng bò thái lát mỏng và nhỏ, hoặc bò lúc lắc được thái khối vuông nhỏ. Cả hai món này thường chế biến bằng cách chiên với dầu, và được ăn kèm với bánh mì hoặc trứng ốp la thay vì khoai tây như bít tết.
Kể từ khi Tần Thủy Hoàng qua đời, Trung Hoa một lần nữa rơi vào cảnh bạo loạn, các chư hầu xưng bá. Nổi lên trong thời loạn có hai nhân vật xuất chúng hoàn toàn trái ngược nhau. Đó là Lưu Bang và Hạng Vũ. Hai người đi theo con đường khác nhau, với những sở trường và sở đoản khác nhau, nhưng chỉ có một người có thể thống nhất thiên hạ, lên ngôi hoàng đế. Lưu Bang nổi tiếng trong sử sách là xuất thân hèn kém, ít học, thời trẻ chỉ thích lông bông, quen ăn chơi đàn đúm, ham mê tửu sắc. Nhưng Tần Thủy Hoàng qua đời tạo cơ hội để ông thâu tóm quyền lực, giống như Hạng Vũ và các chư hầu khác. Theo các sử gia thời hiện đại, ngoài thời thế tạo anh hùng, Lưu Bang làm nên cơ nghiệp nhờ thuật dùng người vô cùng cao siêu. Văn thần võ tướng của Lưu Bang phần lớn đều xuất thân từ nhiều tầng lớp trong xã hội. Bất cứ ai có tài, Lưu Bang đều sẵn sàng trọng dụng, trao cơ hội. Ví dụ như Phàn Khoái là đồ tể. Hạ Hầu Anh và Lâu Kính là phu xe ngựa. Chu Bột mưu sinh bằng nghề dệt chiếu kiêm đánh trống hội và trống đám ma. Quán Anh chuyên buôn vải. Lệ Thực chỉ là học trò nghèo. Bành Việt, Kình Bố vốn là phường lưu mạnh trộm cướp. Đám đại thần của Lưu Bang đa phần đều có xuất thân bất hảo, nhưng điều kỳ lạ là dưới sự chỉ huy của Lưu Bang, họ đều trở thành những nhân vật xuất chúng. Điểm mạnh của Lưu Bang được cho là nằm ở khả năng dùng người như thần. Lưu Bang hơn người ở chỗ đã dùng người thì không bao giờ nghi ngờ, còn người nào đã nghi ngờ không bao giờ dùng. “Chiến thần” bách chiến bách thắng Hàn Tín là một điển hình như vậy. Bởi nếu cứ phụng sự dưới trướng Hạng Vũ, có lẽ Hàn Tín không bao giờ có thể lưu danh sử sách muôn đời. Theo các sử gia, chính vì sự tín nhiệm, sẵn sàng trao cơ hội mà các các tướng lĩnh, đại thần dưới quyền Lưu Bang mới cảm thấy mình được tôn trọng, dốc sức, trung lòng cống hiến. Sau khi đoạt được thiên hạ, Lưu Bang đã căn cứ vào công lao đóng góp của từng người mà ban thưởng xứng đáng. Không chỉ phong tước, tặng thưởng cho các công thần, những người mà ông từng “ghét cay ghét đắng” như Ung Xỉ cũng được thưởng. Ngược lại với hành trình lên ngôi hoàng đế đầy gian khổ của Lưu Bang, Hạng Vũ là người xuất thân từ gia đình danh gia vọng tộc. Hạng Vũ là cháu nội đại tướng Hạng Yên nước Sở thời Chiến Quốc, người bị tướng nhà Tần là Vương Tiễn giết. Theo sử ký của Tư Mã Thiên, họ Hạng đời đời làm tướng nước Sở, được phong đất ở Hạng cho nên lấy họ là họ Hạng. Cha Hạng Vũ mất sớm nên ông sống với chú là Hạng Lương. Khi Tần Thủy Hoàng đi chơi đất Cối Kê, vượt qua Chiết Giang, chú cháu Hạng Lương và Hạng Vũ cùng đi xem. Hạng Vũ trông thấy vua Tần, rồi nói: “Có thể cướp và thay thế hắn!”. Hạng Lương nghe vậy vội bịt miệng cháu: “Đừng nói bậy! Bị giết cả họ bây giờ!” Đó là lúc mà người ta nhận ra Hạng Vũ là người khác thường. So với Lưu Bang, Hạng Vũ sớm đạt thành công lừng lẫy hơn, thậm chí còn có những trận đánh ép Lưu Bang vào đường cùng. Nhưng đến cuối cùng, một mình Hạng Vũ thống lĩnh 10 vạn quân không địch nổi với 50 vạn quân do Lưu Bang, Hàn Tín và các tướng dưới quyền thống lĩnh. Từ trước khi Hán – Sở tranh hùng, Hạng Vũ luôn được khuyên xử lý hài hòa mối quan hệ với Lưu Bang, nhưng ông không bao giờ nghe theo. Theo các sử gia Trung Quốc, nguyên nhân dẫn tới thất bại nhanh chóng của Hạng Vũ là vì ông không biết lắng nghe lời khuyên chân thành, chuyên quyền độc đoán, nên dù trước đây sự nghiệp có hiển hách, vinh quang, lẫy lừng và oanh liệt tới mấy thì cũng đến hồi thất bại. Hạng Vũ có công lớn trong việc tiêu diệt nhà Tần, nhưng Lưu Bang mới là người thống nhất thiên hạ. Trải qua ngàn đời sau, người Trung Quốc vẫn nhớ đến cuộc đời thăng trầm của Hạng Vũ. Tước hiệu Tây Sở Bá Vương của Hạng Vũ thậm chí còn trở thành tên gọi riêng cho ông. Nhân vật Tôn Sách ở Đông Ngô thời Tam Quốc là một nhân vật anh dũng dị thường giống như Hạng Vũ, nên được gọi là "Tiểu Bá Vương". Trong Sử ký, sử gia Tư Mã Thiên không giấu sự thán phục đối với Hạng Vũ, đối thủ lớn nhất đời Lưu Bang – hoàng đế khai quốc nhà Hán. Tư Mã Thiên còn làm riêng "Hạng Vũ bản kỷ", coi ông sánh ngang với các hoàng đế Trung Quốc đầu tiên như Tần Thuỷ Hoàng, Lưu Bang chứ không phải là các chư hầu như Câu Tiễn hay Trần Thắng. “Hạng Vũ nổi lên từ thời loạn lạc, chỉ trong 3 năm đã bình định chư hầu, tiêu diệt nước Tần, phân chia thiên hạ, phong các vương hầu, ban ra chính lệnh và tự xưng là bá vương, địa vị tuy không trọn vẹn nhưng từ tận cổ đến nay, chưa hề có người nào được như thế”, Tư Mã Thiên chép. Sử gia Trung Quốc thời nhà Hán cũng chỉ ra sai lầm của Hạng Vũ. “Tự khoe khoang công trạng, chỉ dùng cái trí của mình mà không chịu bắt chước người xưa, nói rằng có thể lấy võ lực dẹp yên thiên hạ, dựng nghiệp bá vương. Nhưng chỉ được năm năm thì mất nước, thân chết ở Đông Thành, thế mà còn chẳng tỉnh ngộ, không tự trách mình, thật là có lỗi”. Trong văn học, thành ngữ Hữu dũng vô mưu thường được dùng để mô tả về Hạng Vũ. Có thể nói, Hạng Vũ là một trong những nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc. Nhắc đến Hạng Vũ, người ta nhớ đến một người đầy tham vọng, một vị tướng hùng dũng tả xung hữu đột trên chiến trường, nhưng lại chuyên quyền độc đoán và hết sức tàn ác. Về mặt này, Hạng Vũ có một chút gì đó giống với Tần Thủy Hoàng – hoàng đế đầu tiên của Trung Hoa. Ngược lại, Lưu Bang có thể không biết đánh trận, không giỏi binh pháp, không theo quy tắc lễ nghi thông thường của Nho giáo, nhưng ông lại là bậc thầy trong thuật dùng người. Đó là lý do Lưu Bang trở thành hoàng đế khai quốc nhà Hán, đưa Trung Hoa bước vào giai đoạn phát triển cực thịnh trong lịch sử, chứ không phải Hạng Vũ. Bài dài kỳ tới sẽ khai thác toàn cảnh cuộc chiến tiêu diệt nhà Tần của Hạng Vũ và vụ thảm sát 20 vạn hàng binh nước Tần. Lưu Bang diệt trừ chư hầu, trở thành hoàng đế khai quốc nhà Hán là nhờ công lớn của “chiến thần” Hàn Tín, nhưng đến.
Hạng Vũ
Hạng Tịch (chữ Hán: 項籍; 232 TCN - 202 TCN), biểu tự là Vũ (羽), do đó ông được biết đến rộng rãi qua cái tên Hạng Vũ (項羽) hoặc Tây Sở Bá vương (西楚霸王), là một nhà chính trị, một tướng quân nổi tiếng, người có công trong việc lật đổ Nhà Tần và tranh chấp thiên hạ với Hán Cao Tổ (Lưu Bang) đầu thời Nhà Hán. Hạng Vũ người đất Hạ Tương, là cháu nội đại tướng Hạng Yên nước Sở thời Chiến Quốc, người bị tướng nước Tần là Vương Tiễn giết. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, họ Hạng đời đời làm tướng nước Sở, được phong đất ở Hạng cho nên lấy họ là họ Hạng. Có thuyết cho rằng tổ tiên Hạng Vũ vốn mang họ Mị, là hoàng tộc nước Sở. Sau này, khi Sở diệt Lỗ năm 256 TCN, gia đình Hạng Yên lúc này do lập được nhiều công trạng nên được phong đất Hạng- trước kia thuộc nước Lỗ. Gia tộc Hạng Yên theo đó mà lấy Hạng làm họ. Cha Hạng Vũ không rõ tên, một số gia phả ghi chép thì lại có những cái tên khác nhau như Hạng Siêu (項超) hay Hạng Vinh (項榮).
Theo định nghĩa của Liên hợp quốc, một thành phố được xem là siêu đô thị khi có dân số từ 10 triệu người trở lên. Hiện nay trên thế giới, có 37 thành phố được xem là siêu đô thị. Năm 2017, Liên hợp quốc đã thống kê rằng Tokyo và Thượng Hải là hai thành phố có dân số đông nhất thế giới, với con số lần lượt là 38,8 và 35,5 triệu người. Theo ước tính, đến năm 2030, trên thế giới con số siêu đô thị sẽ tăng lên thành 41. Do dân số cao, dẫn đến việc các siêu đô thị phải đối mặt với nhiều thách thức. Những thách thức này xoay quanh sự gia tăng của các khu ổ chuột; tội phạm; tài nguyên – năng lượng; những người vô gia cư, và tắc nghẽn giao thông do qui hoạch đô thị không theo kịp tốc độ tăng trưởng dân số. Gia tăng dân số là một trong những lý do chính mang đến những thách thức. Đó là nguyên nhân sinh ra những khu ổ chuột, những khu định cư kém vệ sinh, ô nhiễm. Những cá nhân sống trong các khu ổ chuột không được tiếp cận đầy đủ về giáo dục hoặc y tế, dẫn đến dân trí thấp kém, bệnh tật hoành hành. Việc không đáp ứng đủ các nhu cầu thiết yếu như thực phẩm hay nước là một nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng tỉ lệ tội phạm gia tăng, tệ nạn xã hội hoành hành. Một thách thức nữa mà các siêu đô thị phải đối mặt là việc quản lý các nguồn năng lượng, tài nguyên. Tình trạng vô gia cư xảy ra thường xuyên ở các thành phố lớn. Qui hoạch đô thị yếu kém dẫn đến ách tắc giao thông; kinh tế chậm phát triển. Đô thị hóa là một quá trình thay đổi cảnh quan của toàn cầu. Các khía cạnh kinh tế xã hội như công ăn việc làm, lối sống văn minh, hiện đại càng ngày càng thu hút đông người dân hơn đến với các khu vực đô thị. Theo dự đoán, đến năm 2030, thế giới sẽ có 41 siêu đô thị. Phần lớn sẽ nằm ở châu Á, đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ, bên cạnh đó là các siêu đô thị ở những khu vực đang phát triển khác gồm châu Phi và Nam Mỹ. Đây là cơ hội cho nhiều doanh nghiệp phát triển và mở rộng cơ hội làm ăn. Các chính phủ cũng sẽ dựa trên cơ sở này để qui hoạch, quản lý đô thị, hoạch định các chính sách nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội còn nhiều bất cập như tình trạng bất bình đẳng xã hội. Điều thú vị về các siêu đô thị là không có hai cái giống nhau. Mỗi nơi sẽ có đặc điểm riêng, đòi hỏi những chiến lược riêng để xây dựng và phát triển. Các siêu đô thị cũng có thể sẽ có hướng phát triển khác, không giống như bức tranh toàn cảnh của quốc gia. Số lượng siêu đô thị gia tăng chắc chắn sẽ đặt ra nhiều thách thức cũng như cơ hội cho các doanh nghiệp thuộc những lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Sự phát triển về hạ tầng cũng kéo theo nhiều nhu cầu tăng lên như vận tải, nguồn tài nguyên gia tăng, bên cạnh đó là sự ô nhiễm môi trường, nguồn nước… cũng sẽ gây ra nhiều vấn đề sức khỏe cho con người.
Siêu đô thị
Siêu đô thị là một thuật ngữ để chỉ các khu vực đô thị có dân số hơn 10 triệu. Một số tài liệu cũng định nghĩa một siêu đô thị là khu đô thị có mật độ tối thiểu 2000 người/km2. Một siêu đô thị có thể là một vùng đô thị biệt lập hoặc hai hay nhiều đô thị nằm gần nhau. Năm 2000 có 18 siêu đô thị, trong đó có Mumbai, Tokyo, New York, và thủ đô Mexico City mỗi siêu đô thị có 10 triệu dân. Riêng khu vực Tokyo mở rộng (bao gồm Chiba, Kanagawa, Saitama, và Tokyo) đã có tới hơn 35 triệu, lớn hơn dân số của Canada. Năm 1800, chỉ 3% dân số thế giới là dân thành thị. Tới cuối thế kỷ 20, con số đã nhảy vọt lên 47%. Thành phố New York qua mặt Luân Đôn trở thành đô thị đông dân nhất trên thế giới vào đầu thập niên 1920, và vùng đô thị của nó vượt mốc 10 triệu người vào đầu thập niên 1930 để trở thành siêu đô thị đầu tiên trong lịch sử loài người. Năm 1950, có 83 thành phố có số dân trên một triệu; tới năm 2007, con số đã là 468.
Với 5 lý do sau đây hứa hẹn Mirai: Em gái đến từ tương lai sẽ là một trong những bộ phim đáng trông đợi nhất dịp hè này. Cũng chẳng biết từ khi nào mà các fan luôn bảo với nhau rằngNhững đứa con của sói (Wolf Children) là tác phẩm phải xem ít nhất một lần trong đời. Không ít người đã phải ngã mũ thán phục trước cách xây dựng nội dung đặc sắc của Cậu bé và quái vật (The Boy and The Beast), rồi còn tốn không biết bao nhiêu thời giờ để thảo luận về các chi tiết thú vị trong Cô gái vượt thời gian (The girl who leapt through time). Bấy nhiêu đó là quá đủ để chứng minh cho sức ảnh hưởng trên toàn thế giới của Hosoda Mamoru. Vị đạo diễn tựa như một thầy phù thủy ma mị, có thể dễ dàng lấy đi nước mắt của người xem, nhưng cũng có thể làm khán giả phấn khích với những cảnh chiến đấu quyết liệt. Chính vì thế mà các tác phẩm của ông luôn mang lại rất nhiều cảm xúc, mang nhân vật đến gần hơn với trái tim của khán giả. Giờ đây, với tác phẩm Mirai: Em gái đến từ tương lai này, vị đạo diễn được mệnh danh là Miyazaki kế tiếp chắc chắn sẽ không để người xem phải thất vọng. Mùa hè luôn là thời điểm thích hợp cho các bộ phim gia đình ra rạp vàMirai: Em gái đến từ tương lai cũng là một trong số đó. Gia đình cũng chính là đề tài sở trường của đạo diễn Hosoda Mamoru và ông luôn biết cách khai thác những khía cạnh mới mẻ từ đề tài ấy. Trong tác phẩm mới nhất này, ông không chỉ dừng lại ở việc tập trung diễn đạt mối quan hệ anh trai em gái giữa cậu bé Kun và cô em gái Mirai mà còn mở rộng để khắc họa mối liên kết giữa các thành viên trong gia đình. Bố, mẹ, ông, Kun, Mirai, mỗi người đều là một mảnh ghép riêng lẻ, chỉ khi được ráp lại với nhau mới có thể tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh. Sự chân thật, gần gũi, ấm áp của phim khiến người xem không khỏi thấm thía trước ý nghĩa của hai chữ gia đình. Cách xây dựng và giữ sự cân bằng giữa các nhân vật luôn là điểm nhấn để quyết định một bộ anime có nên được gọi là hay hay không. Và trong số những bộ được đánh giá là hay ấy thì lượng sở hữu tuyến nhân vật sinh động và thú vị nhưMirai: Em gái đến từ tương laithực sự không nhiều. Kun và Mirai thì vui vẻ cùng nhau nô đùa, khám phá, người ông thì hào sảng, phóng khoáng, còn ba và mẹ của Kun thì lại có vẻ như đang mang nỗi niềm riêng. Mỗi người một tính cách, một mối quan tâm riêng, bất kỳ ai cũng sẽ có khoảng trống để thể hiện những đặc điểm và thông điệp mà nhân vật của mình muốn mang lại đồng thời khán giả cũng sẽ không gặp quá nhiều khó khăn để nắm bắt được chúng. Gần như các nhân vật trong phim đều sẽ được thể hiện bằng nét vẽ bầu bĩnh quen thuộc trong các tác phẩm của Studio Chizu và đạo diễn Hosoda Mamoru. Đối với một bộ phim có trọng tâm xoay quanh cậu bé Kun 4 tuổi mà nói thì chẳng còn gì thích hợp hơn, bởi nó quá phù hợp để miêu tả những biểu cảm đáng yêu của cậu nhóc này. Bên cạnh đó, phần phông nền trong phim thực sự quá đẹp, từ khu vườn đến nhà ga đều được trau chuốt tỉ mỉ và kết hợp màu sắc một cách hài hòa. Gam màu sáng được ưu ái sử dụng góp phần làm tăng sự tươi vui và ngộ nghĩnh cho tác phẩm. Thêm vào đó là phần nhạc nền sống động cùng bài hát chủ đề da diết xen lẫn chút đáng yêu của Yamashita Tatsurou càng làm cho tác phẩm trở nên hoàn mỹ. Trong chuyến hành trình của mình, Kun lần lượt được gặp ông cậu bé lúc còn trai tráng, gặp mẹ cậu khi chỉ mới là một cô bé và gặp cô em gái Mirai lúc đã là học sinh cấp 3. Mỗi một lần gặp gỡ đều giúp cho cậu bé ngày càng trở nên trưởng thành hơn, ý thức được trách nhiệm của một người anh và nhận ra tình yêu thương vô bờ bến dành cho các thành viên trong gia đình mình. Và ở chiều ngược lại, những người lớn đôi khi cũng quên mất rằng mình đã từng là một đứa trẻ, và nhờ có sự trưởng thành của con cái, họ cũng dần nhận ra những thiếu sót, đồng thời không ngừng cố gắng để hoàn thiện bản thân mình hơn. Trong Mirai: Em gái đến từ tương lai, bất cứ ai cũng có thể bắt gặp hình bóng của bản thân, để rồi từ đấy rút ra những bài học ý nghĩa cho riêng mình. Mirai: Em gái đến từ tương lai mang trong mình những tâm tư, nỗi niềm, những ấp ủ của đạo diễn Hosoda Mamoru trong suốt khoảng thời gian qua. Tin chắc rằng đây sẽ là một món quà tinh thần quý giá dành tặng cho các fan anime nói riêng và những người yêu điện ảnh nói chung. Gửi ảnh dự thi Mùa hạ cuối để có cơ hội nhận được 5 triệu đồng và nhiều giải thưởng giá trị. Gửi về địa chỉ: [email protected] kèm tiêu đề, họ tên, SĐT, Facebook liên lạc. TP.HCM tiếp tục điều chỉnh quy định về đi đường, áp dụng từ ngày mai 29/8. 100% hộ kinh doanh dừng hoạt động ở TP.HCM đã nhận được hỗ trợ hơn 11,7 tỷ đồng
Mirai
Mirai: Em gái đến từ tương lai (未来のミライ, Mirai no Mirai) là một bộ phim hoạt hình Nhật Bản thuộc thể loại chính kịch, phiêu lưu kỳ ảo do Hosoda Mamoru đạo diễn và biên kịch, được Studio Chizu sản xuất. Nội dung kể về cuộc sống của cậu bé Kun sau khi cô em Mirai ra đời. Phim được công chiếu lần đầu tại Liên hoan phim Cannes vào ngày 16 tháng 5 năm 2018 và bắt đầu công chiếu tại Nhật Bản từ ngày 20 tháng 7 năm 2018. Kun, một cậu bé sinh ra từ một gia đình mà trong đó cha cậu là kiến trúc sư. Ngôi nhà Kun sống được thiết kế xung quanh một cái cây, tại đây Kun dành thời gian vui chơi với chú chó Yukko và bộ đồ chơi xe lửa của cậu. Khi Kun lên bốn tuổi, mẹ cậu sinh hạ em gái Mirai (未来, nghĩa là "tương lai"), Kun không vui vẻ khi thấy mẹ về nhà cùng người em mới. Cha mẹ cậu ngày qua ngày dành tình thương và chỉ tập trung vào Mirai, khiến Kun cảm thấy xa lánh và cậu quyết đánh cô em bằng một tàu xe lửa trong bộ đồ chơi.
Giới tính: là đặc điểm sinh học tạo nên sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới. Giới tính là bẩm sinh và đồng nhất, nghĩa là giữa nam và nữ ở khắp mọi nơi trên thế giới đều có những sự khác biệt như nhau về mặt sinh học, không thể thay đổi được giữa nam và nữ, do các yếu tố sinh học quyết định. Ví dụ, phụ nữ có bộ phận sinh dục nữ và có thể mang bầu, sinh con và cho bú bằng chính bầu sữa của mình, còn nam giới có bộ phận sinh dục nam và có thể sản xuất ra tinh trùng. Giới là sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam giới và phụ nữ như vai trò, thái độ, hành vi ứng xử và các giá trị. Vai trò giới được biết đến thông qua quá trình học tập và khác nhau theo từng nền văn hóa và thời gian, do vậy giới có thể thay đổi được. Phụ nữ cũng có thể mạnh mẽ và quyết đoán, trở thành lãnh đạo, phi công, thợ máy… Ngược lại nam giới có thể dịu dàng và kiên nhẫn, có thể làm đầu bếp, nhân viên đánh máy, thư ký v.v. Những đặc điểm có thể hoán đổi đó là những khái niệm, nếp nghĩ và tiêu chuẩn mang tính chất xã hội. Chúng thay đổi từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác trong một bối cảnh cụ thể của một xã hội, do các yếu tố xã hội, lịch sử, tôn giáo, kinh tế quyết định. Vì vậy, địa vị của người phụ nữ phương Tây khác với địa vị của người phụ nữ phương Đông, địa vị xã hội của phụ nữ Việt Nam khác với địa vị xã hội của phụ nữ Hồi giáo, địa vị của phụ nữ nông thôn khác với địa vị của phụ nữ vùng thành thị. Quá trình thay đổi các đặc điểm Giới thường cần nhiều thời gian bởi vì nó đòi hỏi một sự thay đổi trong tư tưởng, định kiến, nhận thức, thói quen và cách cư xử vốn được coi là mẫu mực của cả xã hội. Sự thay đổi về mặt xã hội này thường diễn ra chậm và phụ thuộc vào mong muốn và quyết tâm thay đổi của con người. Trong cuộc sống, nam và nữ đều tham gia vào các hoạt động đời sống xã hội, tuy nhiên mức độ tham gia của nam và nữ trong các loại công việc là khác nhau do những quan niệm và chuẩn mực xã hội quy định. Những công việc mà họ đảm nhận được gọi là vai trò giới. Vai trò giới: là tập hợp các hành vi ứng xử mà xã hội mong đợi ở nam và nữ liên quan đến những đặc điểm giới tính và năng lực mà xã hội coi là thuộc về nam giới hoặc thuộc về nữ giới (trẻ em trai hoặc trẻ em gái) trong một xã hội hoặc một nền văn hóa cụ thể nào đó. Vai trò giới được quyết định bởi các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội. Phụ nữ và nam giới thường có 3 vai trò giới như sau:. Vai trò sản xuất: là các hoạt động làm ra sản phẩm, hàng hóa hoặc dịch vụ để tiêu dùng và trao đổi thương mại. Đây là những hoạt động tạo ra thu nhập, được trả công. Cả phụ nữ và nam giới đều có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất, tuy nhiên do những định kiến trong xã hội nên mức độ tham gia của họ không như nhau và giá trị công việc họ làm cũng không được nhìn nhận như nhau. Xã hội coi trọng và đánh giá cao vai trò này. Vai trò tái sản xuất: là các hoạt động sinh đẻ, chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy dỗ, giúp tái sản xuất dân số và sức lao động bao gồm sinh con, các công việc chăm sóc gia đình, nuôi dạy và chăm sóc trẻ con, nấu ăn, dọn dẹp, giặt giũ, chăm sóc sức khoẻ gia đình v.v. Những hoạt động này là thiết yếu đối với cuộc sống con người, đảm bảo sự phát triển bền vững của dân số và lực lượng lao động; tiêu tốn nhiều thời gian nhưng không tạo ra thu nhập, vì vậy mà ít khi được coi là “công việc thực sự”, được làm miễn phí, không được các nhà kinh tế đưa vào các con tính. Xã hội thường không coi trọng và đánh giá cao vai trò này. Hầu hết phụ nữ và trẻ gái đóng vai trò và trách nhiệm chính trong các công việc tái sản xuất. Vai trò cộng đồng: bao gồm các sự kiện xã hội và dịch vụ: ví dụ như thăm hỏi động viên gia đình bị nạn trong thảm họa, thiên tai; nấu ăn hoặc bố trí nhà tạm trú cho những gia đình bị mất nhà ở; huy động cộng đồng đòng góp lương thực, thực phẩm cứu trợ người bị nạn, v.v. Công việc cộng đồng có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển văn hóa tinh thần của cộng đồng. Có lúc nó đòi hỏi sự tham gia tình nguyện, tiêu tốn thời gian, không được trả công, nhưng cũng có lúc nó được trả công. Cả nam và nữ đều có khả năng tham gia vào cả ba loại vai trò trên. Tuy nhiên, ở nhiều địa phương, phụ nữ hầu như đều phải đảm nhiệm vai trò tái sản xuất đồng thời cũng phải tham gia tương đối nhiều vào các hoạt động sản xuất. Gánh nặng công việc gia đình của phụ nữ cản trở họ tham gia một cách tích cực và thường xuyên vào các hoạt động cộng đồng. Kết quả là, đàn ông có nhiều thời gian và cơ hội hơn để đảm nhận vai trò cộng đồng và rất ít khi tham gia vào các hoạt động tái sản xuất. Thực tế cho thấy sự phân công lao động trong một xã hội nhất định thường có xu hướng dựa vào đặc điểm giới tính. Theo đó, công việc họ đảm nhiệm có tác động tới vị thế, cơ hội và chất lượng sống của mỗi người. Khi xem xét vai trò giới chính là xem xét phụ nữ và nam giới trong 3 vai trò: vai trò sản xuất, vai trò tái sản xuất, và vai trò cộng đồng.
Giới tính
Trong sinh học, giới tính là khái niệm dùng để chỉ giống đực và giống cái của sinh vật. Hầu hết các loài sinh vật được phân chia thành hai giới tính (giống) "đực" và "cái", mà mỗi giới tính được đặc trưng bởi nhiều đặc điểm khác nhau về hình thái, giải phẫu, sinh lí,. và nhất là cấu tạo cơ quan sinh sản, chất nội tiết (hoocmôn) và nhiễm sắc thể giới tính. Ví dụ như sự khác nhau giữa nam và nữ, sự phân biệt gà trống và gà mái, v.v. Ví dụ như với loài người chỉ tồn tại 2 kiểu giới tính: Nam giới và nữ giới. Một số báo chí còn dùng khái niệm "giới tính thứ ba" để chỉ người đồng tính hoặc chuyển giới, nhưng thực ra khái niệm này là sai về bản chất khoa học và pháp lý. Người đồng tính hoặc chuyển giới thực ra vẫn là "Nam giới" hoặc "Nữ giới" chứ không phải là 1 giới tính riêng (họ khác người thường ở vấn đề tâm lý chứ không phải về thể chất). Sinh sản hữu tính bao gồm sự kết hợp và pha trộn các đặc điểm di truyền: các tế bào chuyên biệt được gọi là giao tử kết hợp với nhau tạo thành phôi, thừa hưởng các tính trạng từ mỗi bố mẹ.
- Giai đoạn 1: Mầm răng của trẻ có từ trước khi sinh ra nhưng những chiếc răng đầu tiên của trẻ thường bắt đầu nhú lên khi trẻ được khoảng 6 tháng tuổi. Sau đó những chiếc răng sữa tiếp tục mọc lên cho đến khi trẻ được khoảng 3 tuổi thì sẽ có đủ một bộ răng sữa gồm 20 chiếc. - Giai đoạn 2: Từ sau khi trẻ được 5 – 6 tuổi, những chiếc răng sữa sẽ bắt đầu rụng dần, thay vào đó là các răng trưởng thành (hay còn gọi là răng vĩnh viễn). Khi được khoảng 14 tuổi, hầu hết trẻ sẽ rụng hết răng sữa và có đủ bộ răng vĩnh viễn (28 răng). Vào khoảng độ tuổi 20, sẽ có thêm bốn chiếc răng, thường gọi là răng khôn mọc lên ở tận cùng của mỗi hàm răng để hoàn thành bộ răng người lớn gồm 32 chiếc. Bộ răng của người gồm các loại răng với những chức năng khác nhau. Chúng ta chia bộ răng ra làm bốn phần hàm: trên trái, trên phải, dưới trái, dưới phải. Hai chiếc răng đầu tiên của mỗi phần hàm được gọi là răng cửa. Răng cửa có hình dáng như một lưỡi đục thường dùng để cắt và băm thức ăn ra. Những chiếc răng nhọn kế tiếp theo răng cửa được gọi là răng nanh. Răng nanh thường có hình dáng sắc nhọn và dùng để xé thức ăn. Tiếp theo răng nanh là hai chiếc răng tiền hàm ở mỗi phần hàm. Răng tiền hàm lớn hơn, chắc hơn răng nanh và răng cửa. Chúng có những rãnh dùng để nghiền và xay thức ăn. Tiếp theo răng tiền hàm là 2 răng hàm ở mỗi phần. Đây là những chiếc răng lớn hơn, khoẻ hơn và có nhiều rãnh khứa hơn răng tiền hàm. Những răng hàm có nhiệm vụ nghiền, xay nát thức ăn và cùng phối hợp với lưỡi giúp nuốt thức ăn xuống. Những chiếc răng khôn nằm ở tận cùng của mỗi phần hàm. Thường răng khôn không có chức năng gì và chúng thường được nhổ đi nếu gây ra những điều phiền toái như mọc lệch, đâm vào các răng lân cận,…. Cùng với các bộ phận khác trong miệng, răng cũng giúp chúng ta phát âm. Vì vậy, khi rụng hết răng thì việc phát âm của con người cũng sẽ bị thay đổi. - Đánh răng thường xuyên bằng kem đánh răng có chứa fluor là cách tốt nhất để bảo vệ răng. Nên đánh răng sau mỗi bữa ăn hoặc ít nhất là hai lần mỗi ngày. Đặc biệt, nên đánh răng trước khi đi ngủ; đánh răng theo chiều dọc từ trên xuống và ngược lại hơn là đánh theo chiều ngang. Đánh theo chiều dọc sẽ dễ dàng giúp làm sạch thức ăn và các bợn mắc kẹt giữa các răng. - Cần đi khám nha sĩ định kỳ để kiểm tra và làm vệ sinh răng (lấy cao răng). Để phòng các bệnh về răng thì cần bớt ăn những chất ngọt, đồ uống có nhiều đường. Đường là yếu tố dễ làm xuất hiện sâu răng nhất. Nếu bạn biết cách chăm sóc răng tốt, bộ răng của bạn có thể nhai khoẻ suốt đời. TTO - Thay vì tạm dừng, TP.HCM sẽ được tổ chức cho tài xế giao hàng sử dụng công nghệ (shipper) hoạt động tại TP Thủ Đức và 7 quận huyện vùng đỏ nhưng phải xét nghiệm COVID-19 vào mỗi buổi sáng. TTO - Trong ngày thứ 6 TP.HCM thực hiện tăng cường giãn cách xã hội, tỉ lệ F0 trong cộng đồng chiếm hơn 90% tổng số F0 mới. Nhưng chính quyền khuyến cáo người dân bình tĩnh vì điều này nằm trong kịch bản ứng phó của ngành y tế. TTO - Mỗi người lái xe ôm truyền thống được nhận 3 triệu đồng, người lao động thất nghiệp được nhận 1,2 triệu đồng từ gói hỗ trợ của TP.HCM, số tiền không quá lớn nhưng cũng đủ để người dân co kéo qua giai đoạn khó khăn. TTO - Tính từ 18h chiều 27-8 đến 18h chiều 28-8, trên Hệ thống quốc gia quản lý ca bệnh COVID-19 ghi nhận 12.103 ca nhiễm mới, trong đó 6 ca nhập cảnh và 12.097 ca ghi nhận trong nước. TTO - Tại họp báo chiều 28-8, ông Kajiwara Junichi, tổng giám đốc Công ty Acecook Việt Nam, đã có mặt phản hồi thông tin liên quan sản phẩm mì Hảo Hảo và miến Good được cho là phát hiện có chất cấm tại Ireland.
Phát triển răng ở người
Phát triển răng ở người là quá trình phức tạp của việc hình thành răng từ tế bào phôi, phát triển, và dẫn đến quá trình xuất hiện răng bên trong miệng. Để răng của người có môi trường răng miệng khỏe mạnh, tất cả các bộ phận của răng phải phát triển trong các giai đoạn phát triển của thai nhi. Răng sữa bắt đầu hình thành từ tuần thứ sáu đến thứ tám của sự phát triển trước khi sinh và răng vĩnh viễn bắt đầu hình thành trong tuần thứ hai mươi của thai kỳ. Nếu răng không bắt đầu phát triển tại hoặc gần những thời điểm này, chúng sẽ không phát triển gì cả, dẫn đến bệnh thiếu răng hoặc bệnh không răng bẩm sinh. Một lượng lớn nghiên cứu đã tập trung vào việc xác định các quá trình bắt đầu phát triển răng. Các nhà nghiên cứu chấp nhận rộng rãi rằng có một yếu tố trong các mô vòm họng đầu tiên là cần thiết cho sự phát triển của răng. Mầm răng là tập hợp các tế bào cuối cùng tạo thành một chiếc răng. Những tế bào này có nguồn gốc từ ngoại bì của vòm họng đầu tiên và ngoại trung bì của mào thần kinh.
Phần mềm máy tính (tiếng Anh: Computer Software) hay gọi tắt là Phần mềm (Software) là một tập hợpnhững câu lệnh hoặc chỉ thị (Instruction) được viết bằng một hoặc nhiều ngôn ngữ lập trình theo một trật tự xác định, và các dữ liệu hay tài liệu liên quan nhằm tự động thực hiện một số nhiệm vụ hay chức năng hoặc giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó.Phần mềm thực hiện các chức năng của nó bằng cách gửi các chỉ thị trực tiếp đến phần cứng (hay phần cứng máy tính, Computer Hardware) hoặc bằng cách cung cấp dữ liệu để phục vụ các chương trình hay phần mềm khác.Phần mềm là một khái niệm trừu tượng, nó khác với phần cứng ở chỗ là "phần mềm không thể sờ hay đụng vào", và nó cần phải có phần cứng mới có thể thực thi được. Phần mềm máy tính (tiếng Anh: Computer Software) hay gọi tắt là Phần mềm (Software) là một tập hợpnhững câu lệnh hoặc chỉ thị (Instruction) được viết bằng một hoặc nhiều ngôn ngữ lập trình theo một trật tự xác định, và các dữ liệu hay tài liệu liên quan nhằm tự động thực hiện một số nhiệm vụ hay chức năng hoặc giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó. Phần mềm thực hiện các chức năng của nó bằng cách gửi các chỉ thị trực tiếp đến phần cứng (hay phần cứng máy tính, Computer Hardware) hoặc bằng cách cung cấp dữ liệu để phục vụ các chương trình hay phần mềm khác. Phần mềm là một khái niệm trừu tượng, nó khác với phần cứng ở chỗ là "phần mềm không thể sờ hay đụng vào", và nó cần phải có phần cứng mới có thể thực thi được. 1)Phần mềm máy tính hay còn được gọi tắt là phần mềm (software) là một tập hợp các câu lệnh hoặc chỉ thị được viết bằng 1 hoặc nhiều ngôn ngữ lập trình theo một trận tự xác định nhằm tạo ra một nhiệm vụ hay chức năng năng hoặc một vấn đề cụ thể nào đó. Phần mềm ứng dụng : Các phần mềm văn phòng (Microsoft Office, OpenOffice), trò chơi điện tử (game), các công cụ & tiện ích khác,.v.v. 1)Phần mềm máy tính hay còn được gọi tắt là phần mềm (software) là một tập hợp các câu lệnh hoặc chỉ thị được viết bằng 1 hoặc nhiều ngôn ngữ lập trình theo một trận tự xác định nhằm tạo ra một nhiệm vụ hay chức năng năng hoặc một vấn đề cụ thể nào đó. Phần mềm ứng dụng : Các phần mềm văn phòng (Microsoft Office, OpenOffice), trò chơi điện tử (game), các công cụ & tiện ích khác,.v.v. Phần mềm (Software) có thể hiểu là một tập hợp các tập tin có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đảm bảo thực hiện một số nhiệm vụ, chức năng nào đó trên thiết bị điện tử. Các tập tin này có thể bao gồm: các file mã nguồn viết bằng một hoặc nhiều ngôn ngữ lập trình, các file dữ liệu (thư viện), các file hướng dẫn. Phần mềm hệ thống dùng để vận hành máy tính nói riêng và các thiết bị điện tử nói chung. Phần mềm ứng dụng : Các phần mềm văn phòng (Microsoft Office, OpenOffice), trò chơi điện tử (game), các công cụ & tiện ích khác,.v.v. Phần mềm dịch mã (trình dịch) gồm trình biên dịch và trình thông dịch, cụ thể là chúng dịch các câu lệnh từ mã nguồn của ngôn ngữ lập trình sang dạng ngôn ngữ máy sao cho thiết bị thực thi có thể hiểu được. Phần mềm (Software) có thể hiểu là một tập hợp các tập tin có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đảm bảo thực hiện một số nhiệm vụ, chức năng nào đó trên thiết bị điện tử. Các tập tin này có thể bao gồm: các file mã nguồn viết bằng một hoặc nhiều ngôn ngữ lập trình, các file dữ liệu (thư viện), các file hướng dẫn. Phần mềm hệ thống dùng để vận hành máy tính nói riêng và các thiết bị điện tử nói chung. Phần mềm ứng dụng : Các phần mềm văn phòng (Microsoft Office, OpenOffice), trò chơi điện tử (game), các công cụ & tiện ích khác,.v.v. Phần mềm dịch mã (trình dịch) gồm trình biên dịch và trình thông dịch, cụ thể là chúng dịch các câu lệnh từ mã nguồn của ngôn ngữ lập trình sang dạng ngôn ngữ máy sao cho thiết bị thực thi có thể hiểu được. Phần mềm (Software) có thể hiểu là một tập hợp các tập tin có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đảm bảo thực hiện một số nhiệm vụ, chức năng nào đó trên thiết bị điện tử. Các tập tin này có thể bao gồm: các file mã nguồn viết bằng một hoặc nhiều ngôn ngữ lập trình, các file dữ liệu (thư viện), các file hướng dẫn. Phần mềm máy tính, hay đơn giản là phần mềm, cũng được người Việt hải ngoại gọi là nhu liệu là tập hợp dữ liệu hoặc hướng dẫn máy tính cho máy tính biết cách làm việc. Điều này trái ngược với phần cứng vật lý, từ đó hệ thống được xây dựng và thực sự thực hiện công việc. Trong khoa học máy tính và kỹ thuật phần mềm, phần mềm máy tính là tất cả thông tin được xử lý bởi hệ thống máy tính, chương trình và dữ liệu. Phần mềm máy tính bao gồm các chương trình máy tính, thư viện và dữ liệu không thể thực thi liên quan, chẳng hạn như tài liệu trực tuyến hoặc phương tiện kỹ thuật số. Phần cứng và phần mềm máy tính yêu cầu lẫn nhau và không thể tự sử dụng một cách thực tế.
Phần mềm
Phần mềm máy tính, hay còn gọi đơn giản là phần mềm, cũng được người Việt hải ngoại gọi là nhu liệu là tập hợp dữ liệu hoặc các câu lệnh hướng dẫn máy tính cho máy tính biết cách làm việc. Điều này trái ngược với phần cứng vật lý, từ đó hệ thống được xây dựng và thực sự thực hiện công việc. Trong khoa học máy tính và kỹ thuật phần mềm, phần mềm máy tính là tất cả thông tin được xử lý bởi hệ thống máy tính, chương trình và dữ liệu. Phần mềm máy tính bao gồm các chương trình máy tính, thư viện và dữ liệu không thể thực thi liên quan, chẳng hạn như tài liệu trực tuyến hoặc phương tiện kỹ thuật số. Phần cứng và phần mềm máy tính yêu cầu lẫn nhau và không thể tự sử dụng một cách thực tế. Ở cấp độ lập trình thấp nhất, mã thực thi bao gồm các hướng dẫn ngôn ngữ máy được hỗ trợ bởi một bộ xử lý riêng lẻ, có thể là bộ xử lý trung tâm (CPU) hoặc đơn vị xử lý đồ họa (GPU). Một ngôn ngữ máy bao gồm các nhóm giá trị nhị phân biểu thị các lệnh hướng dẫn cách thực hiện của bộ xử lý thay đổi trạng thái của máy tính từ trạng thái trước đó.
món tâm rộng lớn không lường được”, đó là các tâm “Từ, Bi, Hỷ, Xả”. Đây là những đặc tính giúp con người trở nên tốt đẹp, hoàn thiện, là. lối sống của bậc thánh. Nếu mỗi người tự cố gắng thực hành “tứ vô lượng tâm”,. không phân biệt tôn giáo, chủng tộc v.v… thì mỗi người sẽ trở thành một công. Đạo Phật thường được gọi là đạo từ bi, đạo cứu khổ. Ở đâu có Đạo Phật, ở đó có. coi là tâm Phật. Trong quá trình truyền giáo, Đạo Phật chưa bao giờ gây chiến. tuyên thuyết ngay từ thời kỳ sơ khai thành lập giáo đoàn. Bốn món tâm rộng lớn. Tâm “Từ” là khả năng hiến tặng niềm vui cho tha nhân, cho người khác. là khả năng làm vơi đi nỗi khổ đang có mặt. Tâm “Hỷ” là niềm vui, lòng thanh. thản do từ bi đem tới. Tâm “Xả” là thư thái nhẹ nhàng, tự do, không kỳ thị. “Tâm từ” là cái gì làm cho lòng êm dịu, là lòng mong ước cho tất. cả chúng sinh đều được an lành vui vẻ. Tâm từ là lòng mong mỏi chân thành của. người bạn hiền muốn cho bằng hữu mình được an vui hạnh phúc. Ngược lại với tâm. phải là lòng trìu mến vị kỷ, lòng luyến ái đối với người nào. Tâm từ không phân. chúng sinh, bởi vì, loài cầm thú cũng cần đến sự giúp đỡ và tình thương. như đối với những người thân cận, dù không quen biết, dù có ác cảm với mình. chúng sinh, không còn sự khác biệt giữa mình và người. Cái gọi là “ta” không. Mọi sự chia rẽ đều biến mất như đám sương mù tan trong nắng sáng. Khi tâm từ xuất hiện thì lòng sân hận, ác ý, thù oán không thể phát sinh. Phật dạy chỉ có tâm từ mới dập tắt được lòng sân. Không những dập tắt được lòng. sân, tâm từ còn diệt được các mầm tư tưởng bất thiện. Nhìn thái độ của loài. được lòng sân hận. Để giảng hòa một cuộc tranh chấp giữa hai tiểu bang đang. Nhưng có lòng từ ái đối với người khác không có nghĩa là phải quên mình. Chỉ có một thầy Tỳ kheo, thay vì làm như các vị khác, lại rút về tịnh. thất chuyên cần hành thiền. Khi được hỏi về thái độ ấy, thầy trả lời vì trong. Đức Phật ngợi khen thầy và nhấn mạnh là “Không nên vì mục tiêu của người khác. mà lãng quên mục tiêu, sự an lành của chính mình. Hãy nhận định rõ ràng mục. cách vị tha, bất cầu lợi. Trái lại Đức Phật chỉ nhấn mạnh rằng trong khi phục. vụ lợi ích cho người cũng đừng quên mục tiêu tự giải thoát cho chính mình. có giác ngộ và giải thoát rồi sau đó đi giúp kẻ khác mới hữu hiệu được hơn. Bi là động lực làm cho tâm rung động trước sự đau khổ của kẻ khác. Tâm bi là vị thuốc có thể tiêu trừ bệnh hung bạo. Lòng của người có tâm bi thật. Lắm khi người có tâm bi không ngần ngại hy sinh đến cả tính mạng. hư hèn và cả những người có đời sống buông lung, phóng đãng tội lỗi. bi phải bao trùm tất cả chúng sinh đau khổ, rất bao la và bình đẳng. tên sát nhân tàn ác, toan hại Ngài. Về sau, cả hai đều theo Ngài và hoàn toàn đổi. Bên trong mỗi người, dù xấu xa thế nào cũng ngầm có những tính tốt. khi chỉ có lời nói phải, đúng lúc, cũng có thể làm đổi hẳn con người. Thế mà, khi nghe được lời nói phải của một thầy Sa di trẻ tuổi, ông đổi. nước mắt nhỏ suông gọi là thương xót. Kẻ thù gián tiếp của tâm bi là “âu sầu,. Tâm từ và tâm bi thường đi chung với nhau. Trước hết phải dùng tâm bi để trừ. giùm đau khổ cho chúng sinh, rồi kế đó dung tâm từ mà cho họ niềm vui. cái vui mới được hoàn toàn. Vậy “bi” là nhân mà “từ” là quả. Người sống có tâm. từ bi, có tình thương thì mọi hận thù trên thế gian này sẽ tiêu tan. Một người có hai bà vợ. Một bà có con và một bà không. Bà không con đem lòng. ganh tị, trộn thuốc độc vào thức ăn của bà kia, hại bà kia hai lần hư thai. lần thứ ba, thuốc độc làm cho bà kia đang có mang cùng chết với đứa bé. khởi tâm cương quyết báo oán và thực hành ý định. Bà không con bị trả thù, cũng. quyết tâm trả thù lại. Thù oán trả qua trả lại, hết bà này đến bà kia, qua lại. trong hai kiếp sống liên tục. Tuy nhiên, đến kiếp tái sinh thứ ba, cơ hội đưa. Cô hầu nhỏ của một ông chồng nọ bất chợt đem lòng ganh tị bà vợ lớn. nguyện rằng mình không sân hận, khiến cho bơ nguội lạnh, bà không bị phỏng. sau, cô hầu nhỏ ăn năn hối hận và xin sám hối. Bà bảo cô phải lên xin sám hối. với Đức Phật trước bà mới bằng lòng quên lỗi. Cô làm theo lời bà và được Đức. “Hỷ” là lòng vui, tự mình vui và mừng giùm cho người được điều thiện. nói cho đủ là tùy hỷ: vui theo, cùng vui với người khác. Phản nghĩa của hỷ là. cảm tình riêng đối với một người nào. Hỷ là lòng cùng vui thích với người khác. Lòng “ganh tị” là kẻ thù trực tiếp của hỷ. Nhiều người lấy làm bực tức khi thấy. người khác thành công hay vui khi thấy người khác thất bại. Chính tâm hỷ làm. Nếu so sánh với tâm từ và tâm bi, tâm hỷ lại càng khó thực hiện. Muốn có tâm hỷ, phải có ý chí mạnh mẽ và hết sức cố gắng. Để tạo sự an vui,. những người có họ hàng với chú. Đề cập đến bà con mình thời chú nói: “Ô!. của bà con tôi cung cấp đầy đủ cho các Sa môn tứ phương!”. Vài vị Sư khác muốn. tìm hiểu, điều tra và khám phá ra sự thật. Khi các vị này bạch lại vớí Đức Phật. bất mãn và đố kỵ về những phẩm vật bố thí thì tâm người ấy chưa được an tịnh. kẻ oán người thân. Xả là bố thí, bỏ đi, không chấp, không ghi giữ trong lòng.
Tứ vô lượng
catasso appamaññāyo), là "bốn trạng thái tâm thức vô lượng", còn được gọi là Tứ phạm trú (zh. caturbrahmavihāra), "bốn cách an trú trong cõi Phạm" hay gọi là Tứ vô lượng tâm và gọi tắt là Từ bi hỷ xả. Là thuật ngữ chỉ một phép thiền định, trong đó hành giả tạo điều kiện cho bốn tâm thức cao thượng phát sinh. upekkhā-appamaññā).Bốn tâm này đối trị bốn phiền não là sân hận, ganh tị, buồn bực và tham muốn. Trong Đại thừa, Bốn tâm vô lượng cũng được gọi là hạnh Ba-la-mật-đa (sa. Đó là tâm thức của Bồ Tát muốn cứu độ chúng sinh. Thực hành Tứ vô lượng, thiền giả sẽ tái sinh tại cõi Thiên (sa. Hỡi các tỉ-khâu, một người tràn đầy tâm từ (bi, hỉ, xả) sẽ phóng tâm đó đi một phương, hai phương, ba phương, bốn phương, rồi phía trên, phía dưới, xung quanh mình. Người đó phóng tâm đi khắp thế giới, chiếu rọi khắp nơi với tâm từ (bi, hỉ, xả), tâm thức vô lượng vắng bóng sân hận và phiền não. "Từ vô lượngCòn gọi là Tâm từ, tâm từ trầm tĩnh, bi mẫn khoan dung đối nghịch với sân hận, giận dữ.
Theo từ điển thuật ngữ văn học: Tiếp nhận văn học là quá trình chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tình cảm, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ của nhà văn … đến sản phẩm sau khi đọc: Cách hiểu, ấn tượng, trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo bản dịch. Theo SGK Ngữ văn 12, tập 2: Tiếp nhận văn học là quá trình người đọc hòa mình vào tác phẩm, rung động với nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được dựng lên bằng ngôn ngữ, lắng nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo. Bằng trí tưởng tượng, kinh nghiệm sống, vốn văn hóa và bằng cả tâm hồn mình, người đọc khám phá ý nghĩa của từng câu chữ, cảm nhận sức sống của từng hình ảnh, hình tượng, nhân vật, dõi theo diễn biến của câu chuyện, làm cho tác phẩm từ một văn bản khô khan biến thành một thế giới sống động, đầy sức cuốn hút. Như vậy, tiếp nhận văn học là hoạt động tích cực của cảm giác, tâm trí người đọc nhằm biến văn bản thành thế giới nghệ thuật theo tâm trí mình. Cần phân biệt tiếp nhận và đọc. Tiếp nhận rộng hơn đọc, vì trước khi có chữ viết và công nghệ in ấn, tác phẩm văn học đã được truyền miệng. Ngày nay, khi tác phẩm văn học chủ yếu được in ra, nhiều người vấn tiếp nhận văn học không phải do đọc bằng mắt mà nghe bằng tai, như nghe chính tác giả đọc thơ, nghe ―đọc truyện đêm khuya trên đài phát thanh …
Tiếp nhận văn học
Tiếp nhận văn học (tiếng Đức: rezeptions) là hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ tác giả cho đến sản phẩm sau khi đọc: cách hiểu, ấn tượng trong trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo, bản dịch, chuyển thể,. Qua tiếp nhận văn học, nhờ được tri giác, liên tưởng, cắt nghĩa, tưởng tượng của người đọc mà tác phẩm trở nên đầy đặn, sống động, hoàn chỉnh; ngược lại, người đọc nhờ tác phẩm mà được mở rộng vốn hiểu biết, kinh nghiệm về đời sống, tư tưởng và tình cảm cũng như năng lực cảm thụ, tư duy. Về thực chất, tiếp nhận văn học là một cuộc giao tiếp, đối thoại tự do giữa người đọc và tác giả qua tác phẩm. Nó đòi hỏi người đọc tham gia với tất cả trái tim, khối óc, hứng thú và nhân cách, tri thức và sức sáng tạo. Trong tiếp nhận văn học người đọc ở vào một tâm trạng đặc biệt, vừa quên mình, nhập thân, vừa sống và thể nghiệm nội dung của tác phẩm, vừa phân thân, duy trì khoảng cách thẩm mỹ để nhìn nhận tác phẩm từ bên ngoài, để thưởng thức tài nghệ hoặc nhận ra điều bất cập, hoặc cắt nghĩa khác với tác giả.
Mọi người chung sống với nhau tạo thành mối quan hệ xã hội, tồn tại và phát triển như một thực thể xã hội. Không ai có thể sống độc lập bên ngoài mối liên hệ với những người khác vì thế liên hệ xã hội là nền tảng cuộc sống của con người, mọi các nhân đều có mối liên hệ với người khác như quan hệ giữa cha mẹ, anh chị, em, ông bà, cô chú…. Trong cuộc sống, con người luôn thực hiện các hoạt động nhằm thỏa mãn như cầu lợi ích nhất định, dù được tự do thực hiện những hoạt động theo ý muốn cá nhân nhưng con người vẫn phải đặt mình trong các nhóm xã hội hoặc xã hội nói chung tuân theo những quy tắc, yêu cầu đòi hỏi của những người xung quanh để định hướng hành động của mình. Và chính con người với ý chí chung của nhóm xã hội giai cấp, tầng lớp xã hội… đã xác lập một hệ thống các quy tắc đòi hỏi đối với hành vi của một cá nhân hay nhóm xã hội từ đó hình thành nên các chuẩn mực xã hội. Vậy chuẩn mực xã hội là gì? Em xin đi tìm hiểu đề bài: “Phân tích khái niệm chuẩn mực xã hội, các đặc trưng cơ bản của chuẩn mực xã hội. Tác dụng của chuẩn mực xã hội đối với đời sống xã hội và pháp luật?”. Con người chung sống với nhau tạo thành xã hội, mỗi cá nhân là một thực thế cấu thành nên xã hội. Mỗi cá nhân đó luôn có mối liên hệ với nhau chứ không thể sống độc lập được từ những mối liên hệ đó mà nền tảng của xã hội được tạo nên.Ví dụ như : một người bình thường thì luôn có cha mẹ, anh chị em, bạn bè… và giữa họ và những người thân đó luôn có mối liên hệ với nhau. Trong cái cấu trúc xã hội phức tạp đó mỗi cá nhân thường xuyên phải thực hiện các hành vi xã hội nhằm thỏa mãn những nhu cầu hay lợi ích của mình. Ở mỗi quan hệ thì cá nhân phải có những hành vi ứng xử khác nhau, tức họ phải tuân theo những quy tắc, yêu cầu và những đòi hỏi của quan hệ đó. Mặc dù con người luôn có xu hướng mong muốn thực hiện những hành vi theo ý muốn cá nhân nhưng họ luôn phải đặt mình trong các nhóm hay xã hội nói chung. Chính vì vậy mà những hành vi mà họ thực hiện luôn phải phù hợp với những người xung quanh hay rộng hơn là cộng đồng xã hội. Ví dụ :những hành động mà cộng đồng xung quanh luôn mong đợi ở một cá nhân như: ăn mặc gọn gàng, lịch sự; kính trên nhường dưới; tôn trọng pháp luật; không xả rác bừa bãi… Như vậy chính con người bằng ý chí chung của các nhóm, giai cấp, tầng lớp… đã tạo nên một hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi đối với hành vi của mỗi cá nhân hay nhóm xã hội. Đó chính là cơ sở khiến cho xã hội hình thành và xuất hiện một hệ thống các chuẩn mực. Từ những căn cứ nêu ở trên có thể rút ra định nghĩa về chuẩn mực xã hội như sau:. “Chuẩn mực xã hội là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đối với mỗi cá nhân hay nhóm xã hội, trong đó xác định ít nhiều sự chính xác về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của cái có thể, cái được phép, cái không được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện trong hành vi xã hội của mỗi người, nhằm củng cố, đảm bảo sự ổn định xã hội, giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội”. Thứ nhất, chuẩn mực xã hội là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, do chính các thành viên của xã hội đặt ra nhằm định hướng cho hành vi của mỗi cá nhân. Như vậy, nguồn gốc của chuẩn mực xã hội được hình thành từ chính nhu cầu điều tiết các mối quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp của con người trong đời sống hàng ngày.Chuẩn mực xã hội đối với các thành viên trong cộng đồng được coi là một giá trị chi phối rộng rãi và được tuân theo một cách phổ biến. Thứ hai, chuẩn mực xã hội không phải là một cái gì đó chung chung, trừu tượng, mà nó luôn được xác định một cách cụ thể, rõ ràng ở mức độ ít hay nhiều về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của những khía cạnh, chỉ báo liên quan đến hành vi xã hội của mỗi người; bao gồm: cái có thể, cái được phép, cái không được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện. “Cái có thể” là khái niệm dùng để chỉ khả năng thực hiện hay không thực hiện một hành vi xã hội của cá nhân khi tham gia hoặc ở trong một tình huống, sự kiện hay một quan hệ xã hội nhất định. Chẳng hạn như một người nhìn thấy một người khác đang có nguy cơ chết đuối nếu không được cứu kịp thời. Trong tình huống này, người phát hiện nhảy xuống hay không nhảy xuống nước cứu người bị nạn phụ thuộc vào việc anh ta biết bơi hay không biết bơi; cùng với đó là cơ chế thúc đẩy hành vi của anh ta đó là sự tự nguyện, tự giác của người này. Đây chính là khả năng hành động hay không hành động. “Cái được phép” dùng để chỉ tất cả những hành vi, hoạt động mà các cá nhân đã và đang được phép thực hiện trong cuộc sống hàng ngày, phù hợp với các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực xã hội khi họ tham gia vào các sự kiện, quan hệ xã hội đó. “Cái không được phép” là khái niệm chỉ tất cả những hành vi, hoạt động mà chuẩn mực xã hội cấm các cá nhân thực hiện, vì chúng gây ra hoặc có thể gây ra trạng thái nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các quan hệ xã hội. Thông thường, “cái không được phép” được nêu và quy định trong các chuẩn mực pháp luật. Ví dụ: không được phép điều khiển xe gắn máy, ô tô lạng lách đánh võng khi tham gia giao thông, vì hành vi này có thể đe dọa đến tính mạng, tài sản của người tham gia giao thông khác. “Cái bắt buộc phải thực hiện” là khái niệm chỉ những hành vi, hoạt động mỗi cá nhân phải thực hiện, dù muốn hay không muốn khi tham gia hay đang ở trong một tình huống, sự kiện, quan hệ xã hội nhất định. Khía cạnh này của hành vi thường được quy định trong pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự. Ví dụ, theo quy định của Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999, người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 102, “Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng”. Trong trường hợp này, cái bắt buộc phải thực hiện chính là phải cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Thứ ba, với hệ thống các quy tắc, yêu cầu được đưa ra nhằm định hướng và điều chỉnh hành vi xã hội của con người, chuẩn mực xã hội hướng tới thực hiện các chức năng xã hội: giảm bớt tính hỗn tạp trong các ý kiến, quan điểm đánh giá hành vi; gạt đi các bất đồng, mâu thuẫn trong các tranh luận; tránh được những xung đột không cần thiết; tạo cơ sở, “khuôn mẫu” cho các quá trình hòa giải, thương lượng giữa các cá nhân để đi đến chấp nhận “mẫu số chung” nhỏ nhất của mọi hành vi. Trên cơ sở thực hiện các chức năng đó chuẩn mực xã hội góp phần tạo ra sự đồng thuận, đảm bảo sự ổn định xã hội, giữ gìn và bảo vệ trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội. Chuẩn mực xã hội có những hình thức biểu hiện khác nhau tùy thuộc vào các tiêu chí phân loại cũng như mục đích khảo sát, nghiên cứu. Thông thường, chuẩn mực xã hội được phân loại theo hai tiêu chí sau đây:. Chuẩn mực xã hội công khai: là những loại chuẩn mực xã hội được phổ biến rộng rãi, công khai trong xã hội, được đa số các thành viên trong xã hội, cộng đồng biết đến, thừa nhận và tuân theo. Chẳng hạn, chuẩn mực pháp luật là chuẩn mực xã hộicông khai, bởi nó vừa được nhà nước xây dựng, ban hành, đảm bảo thực hiện; lại vừa được công bố, phổ biến rộng rãi trong xã hội để mọi công dân biết, tôn trọng và thực hiện. Chuẩn mực xã hội ngầm ẩn: là những loại chuẩn mực xã hội chỉ được công bố và áp dụng trong một phạm vi hẹp, mang tính chất nội bộ hay trong những nhóm xã hội nhất định nhằm điều chỉnh hành vi của số ít người có trách nhiệm, nghĩa vụ phải tuân theo. “Ví dụ, luật omerta (im lặng hay là chết) lưu hành trong giới maphia ở Italia là một loại chuẩn mực ngầm ẩn, điều chỉnh hành vi của những kẻ tội phạm có tổ chức trong lĩnh vực buôn lậu ma túy xuyên quốc gia, bảo kê, rửa tiền, thủ tiêu, ám sát các quan chức, chính khách… Khi bị cảnh sát bắt giữ, điều tra, khai thác, các thành viên băng nhóm maphia buộc phải tuân thủ luật omerta, nghĩa là hoặc im lặng, không hợp tác, khai báo với cơ quan cảnh sát; hoặc là chết bởi bàn tay của trùm maphia do đã hợp tác và khai báo với cảnh sát”. Chuẩn mực xã hội thành văn là những loại chuẩn mực xã hội mà các nguyên tắc, quy định của chúng thường được ghi chép lại thành văn bản dưới những hình thức nhất định. Trong chuẩn mực xã hội thành văn có ba loại: chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực chính trị và chuẩn mực tôn giáo. Tính chất thành văn của chuẩn mực pháp luật thể hiện ở những điều khoản, những quy phạm pháp luật cụ thể, được ghi chép và thể hiện trong các bộ luật, các đạo luật hoặc các hình thức văn bản quy phạm pháp luật khác như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình… Mỗi điều khoản, quy phạm pháp luật đó đều thể hiện tính chất thành văn của chuẩn mực pháp luật. Chuẩn mực xã hội bất thành văn cụ thể là chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực phong tục, tập quán và chuẩn mực thẩm mỹ. Ví dụ, chuẩn mực đạo đức là loại chuẩn mực xã hội bất thành văn, thể hiện dưới hình thức là những giá trị đạo đức, những bài học về luân thường đạo lý, phép đối nhân xử thế giữa người với người trong đời sống xã hội. Chúng không được tập hợp, ghi chép trong một “bộ luật đạo đức” cụ thể nào. Các chuẩn mực xã hội có nguồn gốc từ thực tiễn đời sống xã hội; nó được hình thành, nảy sinh từ chính nhu cầu thiết yếu của xã hội. Nguyên nhân của việc hình thành các chuẩn mực này là do cộng đồng xã hội muốn điều chỉnh các quan hệ trong xã hội và định hướng những hành vi của con người. Chuẩn mực xã hội được tạo thành từ ý chí chung của các thành viên, các nhóm, các giai cấp trong xã hội nhằm củng cố, bảo vệ hay phục vụ cho các nhu cầu, lợi ích của họ. Nội dung chuẩn mực xã hội phản ánh bản chất bên trong của các quan hệ xã hội, nó chứa đựng những quy tắc, yêu cầu đối với hành vi của con người. Chính vì vậy, sự xuất hiện, tồn tại của các chuẩn mực xã hội trong đời sống đã mang lại những vai trò to lớn và nó được coi như tính khách quan, tính tất yếu xã hội.Điều đó nói lên bản chất xã hội của các chuẩn mực này; nó không chỉ thể hiện ở nguồn gốc xã hội mà còn thể hiện ở sức sống sau đó của các chuẩn mực xã hội trong thực tiễn cuộc sống. Chẳng hạn, chuẩn mực đạo đức nảy sinh từ quan hệ xã hội, thể hiện ra không chỉ ở các quy tắc đạo đức, mà còn ở hành vi thực tế của con người. Chừng nào mà chuẩn mực đạo đức không thể hiện ra trong xã hội hoặc trong một bộ phận của xã hội như một hành vi mà việc tuân theo và thực hiện nó chỉ mang tính chất thúc đẩy thì chuẩn mực đó không phải là chuẩn mực hành vi; nó chỉ là một cách nhìn được xem là đúng đối với một bộ phận lớn hay nhỏ trong xã hội mà thôi. Bên cạnh đó, các chuẩn mực xã hội còn mang tính lợi ích và tính bắt buộc thực hiện, nghĩa là mọi thành viên của cộng đồng xã hội, dù muốn hay không muốn, đều phải tuân theo các nguyên tắc, quy định của chuẩn mực xã hội. Sự tuân thủ và thực hiện các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực xã hội trong hành vi của mỗi người được coi là trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của người đó. Nếu đi lệch ra khỏi quỹ đạo chung này, hành vi của họ sẽ bị coi là bất bình thường, sai lệch hay là tội ác… Khi đó họ sẽ bị xã hội phê phán, lên án hoặc áp dụng các biện pháp trừng phạt tùy theo tính chất, mức độ của hành vi. Tính định hướng của chuẩn mực xã hội theo không gian, thời gian và đối tượng. Khái niệm “định hướng” là khái niệm chủ yếu được sử dụng trong các lĩnh vực hoạt động, trong đó có hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trong hoạt động quản lý, định hướng là hoạt động có căn cứ, có mục đích của chủ thể quản lý nhằm tác động vào đối tượng quản lý, hướng sự chú ý của đối tượng tới những nội dung, những vấn đề trọng tâm của sự việc, hiện tượng xảy ra trong đời sống theo mong muốn của chủ thể. Sự định hướng của chủ thể đối với một vấn đề xã hội luôn luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng, nó giúp cho chủ thể quản lý nắm bắt được tình hình của một vấn đề, một sự kiện xã hội; từ đó chủ động can thiệp, hướng dẫn quá trình vận động, phát triển của vấn đề, sự kiện phù hợp với lợi ích của xã hội nói chung, của công tác quản lý nói riêng; qua đó tránh được những “sự cố” đáng tiếc có thể xảy ra. *Chuẩn mực xã hội thường được định hướng theo không gian, thời gian và đối tượng. Điều đó có nghĩa là, tùy thuộc vào các đặc điểm, tính chất của đối tượng; phạm vi không gian; thời điểm, giai đoạn lịch sử mà các chuẩn mực xã hội thường được định hướng thay đổi, sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với thực tế hoặc phù hợp với lợi ích của nhóm đối tượng này hay nhóm đối tượng khác, của giai cấp này hay giai cấp khác. Theo không gian: các chuẩn mực xã hội được xác định có thể chỉ có giá trị, hiệu lực trong một phạm vi không gian, một khu vực địa lý nhất định; vượt ra ngoài phạm vi không gian đó chúng sẽ không còn vai trò, tác dụng nữa. Vì vậy, cần định hướng chuẩn mực xã hội sao cho phù hợp với các lợi ích chung của xã hội, với các đặc điểm về lịch sử, kinh tế, văn hóa, lối sống, phong tục, tập quán của từng vùng lãnh thổ hay khu vực địa lý nhất định.
Chuẩn mực xã hội
Chuẩn mực xã hội là quy tắc tường minh hoặc hàm ẩn nhằm xác định kiểu hành vi gì là chấp nhận được trong một xã hội hay một nhóm. Thuật ngữ xã hội-tâm lý này được định nghĩa sâu hơn là "các quy tắc mà một nhóm sử dụng cho những giá trị, niềm tin, thái độ và hành vi phù hợp và không phù hợp. Chúng cũng được mô tả là các quy tắc mang tính thói quen của hành vi nhằm điều tiết tương tác của chúng ta với người khác. Chuẩn mực xã hội là các quy tắc quy định hành vi được chờ đợi hoặc có thể chấp nhận được trong các tình huống cụ thể. Chuẩn mực xã hội không phải là một khái niệm tĩnh hay phổ quát mà chúng thay đổi theo thời gian và biến chuyển theo văn hóa, giai tầng xã hội và các nhóm xã hội. Một chiếc váy, một lời nói hay hành vi nào đó được coi là chấp nhận được với nhóm này lại có thể không chấp nhận được với nhóm khác. Sự tôn trọng với các chuẩn mực xã hội duy trì tính đồng thuận và phổ biến trong một nhóm cụ thể.
Tín chỉ các-bon là giấy phép hoặc giấy chứng nhận cho phép chủ sở hữu nó, ví dụ như công ty, phát thải khí CO2 hoặc các loại khí nhà kính khác. Mỗi tín chỉ giới hạn lượng phát thải đến một tấn CO2. Mục tiêu cuối cùng của tín chỉ các-bon là giảm phát thải khí nhà kính vào khí quyển. Tín chỉ các-bon về bản chất là giấy phép do chính phủ hoặc cơ quan quản lí khác cấp, cho phép chủ sở hữu của nó đốt một lượng nhiên liệu hydrocacbon xác định trong một khoảng thời gian được qui định. Mỗi tín chỉ các-bon có giá trị tương đương với một tấn nhiên liệu hydrocacbon. Các công ty hoặc quốc gia được phân bổ một lượng tín chỉ nhất định và có thể giao dịch chúng để giúp cân bằng tổng lượng khí thải trên toàn thế giới. Liên Hợp Quốc lưu ý, "Vì CO2 là khí nhà kính chính" nên "mọi người gọi đơn giản là kinh doanh các-bon.". Hội đồng liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) của Liên Hợp Quốc đã phát triển một đề xuất tín dụng các-bon thành một cơ chế định hướng thị trường để làm giảm lượng khí thải các-bon trên toàn thế giới. Một thỏa thuận năm 1997 được gọi là Nghị định thư Kyoto đặt ra các mục tiêu giảm phát thải ràng buộc cho các quốc gia đã kí kết, bắt đầu có hiệu lực vào năm 2005. Một thỏa thuận khác là Hiệp định Marrakesh nêu ra các qui tắc về cách thức thực hiện hệ thống. Các quốc gia được khuyến khích đạt được mục tiêu của họ thông qua cơ chế giao dịch khí phát thải. Thời hạn cam kết đầu tiên của Nghị định thư Kyoto đã kết thúc vào năm 2012 và giao thức này đã được sửa đổi vào năm đó trong một thỏa thuận được gọi là Sửa đổi Doha, nhưng vẫn chưa được thông qua. Trong khi đó, hơn 170 quốc gia đã kífa kết Thỏa thuận Paris 2015, cũng đưa ra các tiêu chuẩn khí thải và cho phép giao dịch khí thải. Theo chương trình mua bán phát thải, một công ty có lượng phát thải thực thấp hơn mức giới hạn của nó có thể bán phần tín chỉ chưa dùng cho một công ty khác phát thải vượt quá mức giới hạn. Ví dụ, giả sử công ty A có giới hạn 10 tấn nhưng tạo ra 12 tấn khí thải. Công ty B cũng có giới hạn phát thải 10 tấn nhưng chỉ phát thải 8 tấn, dẫn đến dư thừa 2 tín chỉ. Công ty A có thể mua các tín chỉ bổ sung từ công ty B để tuân thủ các qui định về môi trường. Nếu không mua các tín chỉ các-bon đó, công ty A sẽ phải đối mặt với các hình phạt. Tuy nhiên, nếu giá của các tín chỉ vượt quá mức phạt của chính phủ, một số công ty có thể lựa chọn chấp nhận các hình phạt và tiếp tục hoạt động bình thường. Bằng cách tăng tiền phạt, các cơ quan quản lí có thể làm cho việc mua bán tín chỉ trở nên hấp dẫn hơn. Họ cũng có thể giảm số tín chỉ phát hành mỗi năm, làm cho tín chỉ có giá trị hơn trong thị trường mua bán phát thải và tạo ra động lực cho các công ty đầu tư vào công nghệ sạch khi nó trở nên rẻ hơn so với việc mua tín chỉ các-bon hoặc nộp tiền phạt.
Mua bán phát thải
Mua bán phát thải, thương mại phát thải, hoặc cap and trade, là một chính sách của nhà nước nhằm kiểm soát ô nhiễm môi trường bằng việc tạo ra sự thúc đẩy về kinh tế để làm giảm thiểu lượng phát sinh chất thải. Ngược lại, việc kiểm soát các quy định về môi trường như các tiêu chuẩn công nghệ (best available technology-BAT), trợ cấp của chính phủ và chương trình "cap and trade" (CAT) là một loại quy định môi trường linh hoạt hơn cho phép các tổ chức quyết định mức độ đáp ứng các mục tiêu trong chính sách. Với nhiều quốc gia, các tiểu bang và các công ty đã áp dụng các hệ thống như vậy, đặc biệt làm giảm hiện tượng biến đổi khí hậu. Một trung tâm có thẩm quyền (thường là cơ quan chính phủ) phân bổ hoặc bán một số lượng giới hạn giấy phép để xả một lượng chất thải cụ thể trong một khoảng thời gian. Người gây ô nhiễm được yêu cầu giữ giấy số phép tương ứng với lượng thải ra. Nếu họ muốn tăng lượng thải thì phải mua giấy phép từ những người sẵn sàng bán chúng.
Tối 28/8: Thêm 12.103 ca COVID-19; Miền Trung báo động bùng COVID-19 từ người hoàn thành cách ly. Hạt giống vàng (P.4): Những thanh niên Đài Loan đầu tiên tìm được Đại Pháp từ Internet. Theo tờ BLes, để có được ‘Trật tự Thế giới mới’, người ta phải tạo ra một kẻ thù chung, một kẻ thù khiến cho mọi người đều sợ hãi, và cảm thấy cần phải nhờ đến một ‘cường quốc thế giới’ để bảo vệ mình. Có những dấu hiệu và bằng chứng cho thấy các chính quyền Mỹ trước đây từ thời Tổng thống George HW Bush đến Tổng thống Obama đã sử dụng Triều Tiên, Iran, và người ngoài hành tinh, để tạo ra sự sợ hãi và đe dọa thế giới. Tuy nhiên, đến thời Tổng thống Trump, ông lại đứng lên chống lại âm mưu kinh hoàng này. Ông Trump, ông Putin và ông Tập có cùng mục tiêu, đó là chống lại âm mưu xây dựng Trật tự Thế giới mới và tất cả những nỗi kinh hoàng mà họ đã đang gây ra trong nhiều năm. Cũng theo tờ BLes, với những nỗ lực của Tổng thống Trump, âm mưu Thế chiến thứ 3 qua chiến tranh hạt nhân với Triều Tiên chắc chắn sẽ thất bại. Ngày 8/5/2018, tờ BLes của Tây Ban Nha có một bài viết gây chấn động giới báo chí toàn cầu, khi đưa ra phân tích khá thuyết phục về thuyết âm mưu có tên ‘Trật tự Thế giới mới’. Đại Kỷ Nguyên xin giới thiệu tóm lược đến độc giả bài viết này. Ngày 21/5/1992, phát biểu trong Hội nghị Bilderberg ở Evian, Pháp, ông Henry Kissinger ám chỉ đến một mối đe dọa từ bên ngoài về sự tồn tại của nhân loại, và vai trò của một Chính quyền Thế giới, theo tờ BLes. Theo băng nghi âm do một trong những đại biểu Thụy Sĩ thực hiện trong Hội nghị này, ông Kissinger nói: “Ngày nay, người Mỹ sẽ cảm thấy bị xúc phạm nếu quân đội LHQ tiến vào Los Angeles để khôi phục trật tự, thì ngày mai họ sẽ biết ơn. Điều này đặc biệt đúng nếu như họ được bảo rằng có một mối đe dọa từ bên ngoài, cho dù có thực hay chỉ là phao tin, đe dọa sự tồn tại của chúng ta. Sau đó, tất cả mọi người trên thế giới sẽ cầu xin các nhà lãnh đạo thế giới cứu họ ra khỏi thảm họa này. Điều mà mọi người sợ hãi, là không biết được. Khi kịch bản này xảy ra, các quyền cá nhân sẽ sẵn sàng được từ bỏ để đảm bảo sự hạnh phúc và thịnh vượng mà Chính quyền Thế giới (World Government) ban cho”. Theo nhà báo Tây Ban Nha Daniel Estulin, Hội nghị Bilderberg nhắm tới giấc mộng thống trị toàn cầu bằng cách tạo ra “Chính quyền Thế giới”, với thị trường toàn cầu duy nhất, do quân đội Chính quyền Thế giới quản lý, và được rót tài chính từ một ngân hàng trung ương toàn cầu với một dạng tiền tệ phổ biến chung thông qua IMF, WB và WTO. Một trong số những mục tiêu chính là tập trung hóa mọi chính sách đối ngoại và đối nội, xây dựng nhân dạng quốc tế chung và một bộ giá trị phổ biến; biến NATO thành sen đầm quốc tế… kiểm soát tư tưởng cũng như lối sống bằng truyền thông, internet và chủ nghĩa tiêu thụ…. Theo tờ BLes, chiến thuật tạo dựng một mối đe dọa từ bên ngoài là thường thấy, luôn được các chính phủ trên thế giới sử dụng. Chiến thuật này thường cần phải “thúc đẩy” mọi người, chuyển hướng sự chú ý của họ sang những vấn đề mà họ muốn nghe, hoặc khuyến khích một số loại cảm xúc v.v. Đó là lý do tại sao họ phải tạo ra một kẻ thù chung, một kẻ thù từ bên ngoài: kẻ thù khủng bố, mà mọi người đều sợ hãi, và cảm thấy cần phải nhờ đến một ‘cường quốc thế giới’ để bảo vệ cho mình, nếu như chính phủ của họ không thể bảo vệ được người dân. Năm 1990, Tổng thống George HW Bush ủng hộ một ‘Trật tự Thế giới Mới’ (New World Order), với một chính phủ và một đức tin, dựa trên uy thế quân sự không thể tranh cãi, và sự thống trị kinh tế phương Tây, không có đối thủ. Dưới đế chế thế giới mới này, LHQ sẽ duy trì quyền kiểm soát. Trong thực tế, ông Bush tiết lộ lý do cho việc thành lập LHQ và tầm nhìn của ông trong việc giải quyết những xung đột quốc tế. Theo tờ BLes, điều đó có nghĩa là quyền tự do và quyền tự quyết của các quốc gia có chủ quyền sẽ bị thay thế bởi Chính quyền Thế giới. Các khối khu vực sẽ phải quỳ gối trước ‘Chính quyền Thế giới’ độc tài này. Do đó phát sinh lý thuyết âm mưu về một ‘Chính quyền Thế giới’, với tư tưởng nô dịch tất cả nhân loại, còn lại sau một thảm họa ‘bị quét sạch’ trong tương lai, khiến cho dân số thế giới khi đó bị giảm xuống “một mức độ bền vững và hài hòa với thiên nhiên”, với khoảng 500 triệu người, một con số mà ‘Chính quyền Thế giới’ có thể dễ dàng thống trị. Nhưng dân số thế giới hiện nay đã khoảng 7,5 tỷ người. Có nghĩa là vẫn còn rất, rất nhiều người phải loại bỏ, theo thuyết âm mưu. Triều Tiên là một trong những kịch bản hoàn hảo, với những điều kiện cần thiết để tạo ra sự sợ hãi, và đe dọa thế giới bằng sức mạnh hạt nhân của họ. Nhưng Bình Nhưỡng đã có được vũ khí hạt nhân như thế nào? Họ không có đủ năng lực hay kiến thức, và liên tục bị trừng phạt nghiêm khắc trong nhiều năm. Vậy, ai đã giúp đỡ họ? Tờ BLes đặt câu hỏi. Kể từ khi ông Trump lên nắm quyền, FBI và CIA đang bị xem xét kỹ lưỡng vì quyền lực quá mức mà 2 cơ quan này đã được các chính quyền của 2 cha con Tổng thống Bush, Tổng thống Clinton và Tổng thống Obama trao cho trước đây. Theo các điều tra gần đây được chính quyền ông Trump tiến hành, vũ khí hạt nhân đã đến được Triều Tiên thông qua các công ty có mối liên hệ với CIA. Dưới thời các Tổng thống Mỹ trước đây, các công ty này có được rất nhiều tự do và quyền lực, tái đầu tư tiền từ thỏa thuận với Iran, để mua nguyên liệu hạt nhân, uranium và công nghệ cho Triều Tiên. Ngoài ra các công ty tư nhân, chẳng hạn như Space-X, đã từng chuyển giao công nghệ NASA, tên lửa, công nghệ thu nhỏ công nghệ hạt nhân. CIA có toàn quyền truy cập vào hệ thống hướng dẫn vũ khí. Tất cả kế hoạch này đã được thực hiện dưới thời ông Bill Clinton và ông Obama. Không ai biết được ông Clinton đã trao đổi những gì trong cuộc họp, mà sau đó chính quyền Triều Tiên đã có một bước tiến đáng kể trong chương trình tên lửa của họ. Tờ BLes cho rằng có vẻ như khi đó ông Clinton đã chọn Triều Tiên và con trai của nhà lãnh đạo Kim Jong-il để sử dụng như công cụ chính cho kịch bản khủng bố, gây sợ hãi trên khắp thế giới. Trong giai đoạn này, các cuộc đàm phán và liên hệ giữa Mỹ và Triều Tiên đã giảm đi rõ rệt, cố ý khiến cho Bình Nhưỡng càng bị cô lập và tách biệt hơn nữa. Ông Kim Jong-il qua đời vào tháng 12/2011 mà không có lý do rõ ràng. Người con trai út Kim Jong-un đã kế thừa vị trí lãnh đạo của cha. Sự “trẻ người’ và thiếu kinh nghiệm của ông Kim Jong-un, khiến cho việc thao túng trở nên dễ dàng. Để thực hiện kế hoạch nói trên, người chú Jang Song Thaek và anh trai Kim Jong Nam đã bị sát hại, được cho là theo lệnh của ông Kim, nhưng điều này chưa bao giờ được xác nhận. Sau đó, thông qua các phương tiện truyền thông chính thống của Mỹ, thế giới có ấn tượng tồi tệ nhất về ông Kim Jong-un, được thể hiện như một người kín đáo, tách biệt; một tên bạo chúa, kiểm soát người dân của mình với tình trạng nô lệ và đói kém. Vì vậy, cả thế giới cảm thấy kinh hãi bởi nhà độc tài điên rồ, với sức mạnh hạt nhân này. Vào đầu năm 2013, Giám đốc điều hành (CEO) Google Erich Schmidt cũng đến thăm Triều Tiên. Lý do cho chuyến thăm này, ngay sau khi ông Kim kế vị cha mình, là một điều khiến người ta phải suy nghĩ. Ngay cả báo chí Mỹ cũng cho rằng cuộc gặp gỡ này là kỳ lạ. Nếu đó là cho công việc kinh doanh, thì có cần thiết cho một CEO của một công cụ tìm kiếm trên Internet phổ biển nhất trên thế giới, đi đến một đất nước nghèo như vậy, để lập kế hoạch đầu tư vào thị trường đó?. Theo tờ Bles, ngày mà ông Erich Schmidt đến thăm Triều Tiên trùng với ngày ông Obama tái đắc cử tổng thống. Chuyến thăm đến Triều Tiên của ông Schmidt có liên quan gì đến kế hoạch mà người cung cấp tin tức bí danh “Q” đã đề cập đến, kế hoạch tàn phá nước Mỹ trong 16 năm của đảng Dân chủ, theo mệnh lệnh của ông Obama và bà Hillary Clinton ?. Do đó, với nhiệm kỳ thứ hai đã được đảm bảo của mình, ông Obama phải bắt đầu với kế hoạch gây ra Thế chiến thứ 3, để mở đường cho một Trật tự Thế giới Mới. Ai sẽ tốt hơn Google để số hóa Triều Tiên? Tờ BLes đặt câu hỏi. Với dữ liệu được xây dựng trong mã hóa của Google, Amazon Home, Facebook, Apple và các truy cập vệ tinh khác, CIA đã có thể truy cập vào hệ thống dẫn đường tên lửa hạt nhân của Bình Nhưỡng, để chuyển hướng chúng tới bất cứ đâu mà họ muốn. Tờ BLes cho rằng với sự lãnh đạo của ông Erich Schmidt, các kỹ thuật viên của Google đã cài đặt mọi thứ cần thiết. Điều này có nghĩa là việc kiểm soát hoàn toàn thông tin liên lạc của Triều Tiên đã được CIA thiết lập. Điều đó là để nói rằng mỗi bước đi và chuyển động của ông Kim sẽ bị CIA theo dõi và điều khiển từ xa. Do đó ông Kim không còn có thể nói bất cứ điều gì hoặc giao tiếp với ai đó, mà không ai biết. Đây là một sức mạnh tột cùng của CIA và những người được gọi là tầng lớp ưu tú. Với một quốc gia vũ trang hạt nhân thuộc sự kiểm soát của mình, CIA có thể ‘kín đáo’ xử lý Triều Tiên, yêu cầu những gì họ muốn đối với thế giới; đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân ở Triều Tiên để đảm bảo sự khuất phục. Theo cách này, với kho vũ khí hạt nhân “tư nhân” ở đất nước châu Á, cả thế giới bị bắt làm con tin. Và điều nghịch lý nhất là số tiền khổng lồ được sử dụng trong kế hoạch này lại đến từ chính tiền thuế của người dân Mỹ. Triều Tiên cũng được sử dụng để tiến hành các thí nghiệm không thể thực hiện được ở những nơi khác, ít biệt lập hơn và từ lâu đã có những hành động đáng ngờ, có liên quan đến buôn bán nội tạng và nhân bản người. Vì vậy, người ta tin rằng đây là lý do thực sự mà ông Erich Schmidt là một trong những CEO đầu tiên từ chức đột ngột mà không đưa ra có lý do, ngay sau khi ông Trump ký sắc lệnh hành pháp, tịch thu tài sản của những kẻ lạm dụng nhân quyền (trong số những lạm dụng này là buôn bán ma túy, buôn bán người và trẻ em). Sắc lệnh hành pháp này được ký vào ngày 20/12/2017. Một điều thú vị là ngay ngày hôm sau, 21/12/2017, đã có rất nhiều tin tức về việc từ chức sắp xảy ra của ông Erich Schmidt, với tư cách là CEO của Alphabet, công ty mẹ của Google. Không tin vào các phương tiện truyền thông chính thống, các phương tiện truyền thông khác tiến hành điều tra riêng biệt một cách toàn diện, đã liên hệ sự từ chức của ông Schmidt là không chỉ dính líu đến việc thao túng thông tin liên lạc ở Triều Tiên, mà còn đến các tội phạm khác, và các công việc kinh doanh có liên quan đến lạm dụng nhân quyền được tiến hành ở Triều Tiên.
Trật tự thế giới mới (thuyết âm mưu)
Theo các thuyết âm mưu khác nhau, Trật tự Thế giới Mới được cho là một chính phủ toàn cầu toàn trị bí mật đang nổi lên. Chủ đề chung trong các lý thuyết âm mưu về một trật tự thế giới mới là một thế lực quyền lực bí mật với một chương trình toàn cầu hoá đang âm mưu cai trị thế giới thông qua một chính phủ thế giới độc tài-sẽ thay thế các quốc gia có chủ quyền và một tuyên truyền toàn diện bao gồm hệ tư tưởng bắt đầu sự ra đời của trật tự thế giới mới là đỉnh cao của tiến bộ lịch sử. Nhiều hình ảnh lịch sử và đương đại có ảnh hưởng đã được coi như là một phần của một tổ chức hoạt động thông qua nhiều tổ chức phía trước nhằm điều phối các sự kiện chính trị và tài chính quan trọng, từ gây ra các cuộc khủng hoảng hệ thống để thúc đẩy các chính sách gây tranh cãi ở cả cấp quốc gia và quốc tế trong một âm mưu đang diễn ra để đạt được sự thống trị của thế giới. Trước những năm đầu thập niên 1990, thuyết âm mưu của Trật tự Thế giới Mới bị hạn chế đối với hai nền văn hoá đối kháng của Hoa Kỳ, chủ yếu là chống chính phủ một cách quân sự và thứ hai là một phần của Kitô giáo Cơ đốc có liên quan đến sự xuất hiện của Antichrist vào thời điểm cuối cùng.
Bệnh giun kim các biến chứng có thể gặp do ngứa gãi như chàm hóa, nhiễm trùng, viêm da vùng quanh hậu môn. Khi ký sinh trong ruột, giun trưởng thành hoặc ấu trùng có thể di chuyển vào ruột thừa gây viêm ruột thừa. Một số các trường hợp thủng ruột do giun kim xâm lấn sâu vào thành ruột đã được báo cáo. Bệnh giun kim được Linnaeus mô tả lần đầu tiên vào năm 1758 và người là ký chủ duy nhất. Năm 1983, Hugot phân lập được một loài giun kim khác ký sinh trên người, Enterobius gregorii. Tuy nhiên, một số tác giả cho rằng đây chỉ là một giai đoạn phát triển của E.vermicularis. Với chu trình phát triển đặc thù, giun kim đã thể hiện những nét riêng về khía cạnh dịch tễ, bệnh học cũng như việc kiểm soát bệnh, khác hẳn các loại giun khác ký sinh đường ruột. Khoảng 1/3 số người nhiễm giun kim không có triệu chứng, số còn lại với những biểu hiện không đáng kể, trừ trường hợp nhiễm nặng có thể dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng. Giun kim trưởng thành bám vào niêm mạc ruột già có thể tạo những vết loét nhỏ, gây viêm ruột xuất tiết nhẹ với biểu hiện rốt loạn tiêu hóa không điển hình như ăn không ngon, buồn nôn, đau bụng, chướng bụng, tiêu chảy. Giống như biểu hiện nhiễm bệnh sán chó. Nhiễm bệnh giun kim bạch cầu ái toan có thể tăng (4% - 12%), ít có giá trị báo hiệu bệnh như các bệnh giun sán khác. Dấu hiệu chính của bệnh là ngứa hậu môn vào buổi tối, lúc bệnh nhân ngủ, tương ứng với thời gian giun kim cái đẻ trứng, vì vậy dễ dàng tìm thấy giun cái ở vùng quanh hậu môn vào thời điểm này. Sự kích thích của các chất bài tiết và cử động co thắt của giun khi đẻ sẽ gây cảm giác ngứa, đôi khi dữ dội dẫn đến mất ngủ, bứt rứt. Sự mất ngủ và khó chịu có thể dẫn đến sụt cân, khóc đêm và những phản xạ thần kinh bất thường như nghiến răng, tiểu dầm, cắn móng tay, ngoáy mũi…. Các biến chứng có thể gặp do ngứa gãi như chàm hóa, nhiễm trùng, viêm da vùng quanh hậu môn. Khi ký sinh trong ruột, giun trưởng thành hoặc ấu trùng có thể di chuyển vào ruột thừa gây viêm ruột thừa. Một số các trường hợp thủng ruột do giun kim xâm lấn sâu vào thành ruột đã được báo cáo. Ngoài ra, giun trưởng thành có thể lạc chỗ đến nhiều vị trí với nhiều mức độ tổn thương khác nhau. Ở phái nữ, ký sinh trùng có thể lạc vào âm đạo, lên tử cung, đến vòi Fallop, rơi vào khoang phúc mạc gây viêm nhiễm hoặc tạo thành các u hạt. Vì vậy đôi khi tìm thấy trứng giun kim trên phết cổ tử cung. Các trường hợp giun kim lạc vào niệu đạo, bàng quang, tiền liệt tuyến cũng được ghi nhận. Ở niệu đạo, bàng quang, tiền liệt tuyến cũng được ghi nhận. Ở trẻ em, tình trạng nhiễm nặng và kéo dài có thể ảnh hưởng đến sự phát triển tâm thần, vận động của trẻ, giảm khả năng tập trung. Giun kim màu trắng ngà, hình trụ, đầu có ba môi bao quanh miệng. Đoạn gần cuối thực quản hơi dãn nở trước khi phình to thành một ụ tròn giống củ hành, tiếp giáp với ruột. Hình ảnh giun kim trưởng thành. Lớp biều bì (cuticle) hai bên thân dày lên ở phần đầu tạo thành hai cánh (alae), sau đó hẹp dần thành hai đường gờ chạy suốt chiều dài thân và là đặc điểm nhận dạng giun kim trưởng thành trên các mẫu mô giải phẫu bệnh cắt ngang. Kích thước giun cái khoảng 8 – 13mm x 0,3 – 0,5mm, với phần đuôi nhọn và thẳng, chiếm gần 1/3 chiều dài của thân. Giun đực nhỏ hơn (2-5mm x 0,2mm), đuôi cong về phía bụng, chứa một gai giao hợp. Trứng giun kim hình bầu dục, lép 1 bên, kích thước khoảng 50 – 60 µm x 20 – 30 µm, vỏ trong suốt, tương đối dày, gồm lớp albumine nhầy dính bên ngoài, kế đến là hai lớp chitine và một màng lipid trong cùng. Các lớp vỏ ngoài có chức năng bảo vệ về mặt cơ học trong khi vai trò của lớp lipid là chống lại các tác nhân hóa học. Giun trưởng thành ký sinh chủ yếu ở manh tràng. Tuy nhiên, trong trường hợp nhiễm nặng, chúng sẽ xâm lấn đến các phần lân cận như hồi tràng, đại tràng. Giun có thể lang thang tự do trong lòng ruột tử dạ dày đến hậu môn hoặc bám vào niêm mạc ruột nhờ ba môi. Đời sống giun kim rất ngắn, chỉ khoảng 4 – 13 tuần đối với con cái, 2 – 7 tuần đối với con đực. Sau giao hợp, giun đực chết ngay, giun cái di chuyển dần đến hậu môn với một tử cung chứa đầy trứng có phôi. Trứng đòi hỏi oxygen để phát triển hoàn toàn đến giai đoạn lây nhiễm. Vì vậy, ban đêm, giun cái bơi ra rìa hậu môn đẻ trứng và chết sau khi sinh. Số lượng trứng trung bình được phóng thích từ một giun cái là 11.000 trứng, có thể thay đổi từ 4.000 – 17.000. Lớp vỏ nhày albumin giúp trứng bám dính vào vùng da quanh hậu môn. Trong điều kiện khí hậu nhiệt độ thích hợp (35-420C), sau 4 – 8 giờ, trứng có phôi sẽ phát triển thành trứng chứa ấu trùng lây nhiễm. Dưới 220C và trên 460C trứng không phát triển. Trứng từ rìa hậu môn hoặc dính trên tay người bệnh do gãi hậu môn sẽ phát tán khắp nơi trong không gian sinh hoạt của người bệnh (giường, chiếu, chăn, sàn nhà, đồ ngủ, đồ chơi, tay nắm cửa,…). Ngoài ra, trứng giun kim rất nhẹ, có thể theo bụi khuếch tán vào không khí trong phòng. Với độ ẩm hơi cao và nhiệt độ phòng thích hợp, trứng lây nhiễm có thể tồn tại 2 – 3 tuần bên ngoài cơ thể người, nhưng chỉ vài giờ hoặc vài ngày trong điều kiện khô ráo. Sự ô nhiễm trứng trong môi trường chung quanh ký chủ đã tạo thuận lợi cho mầm bệnh lây nhiễm vào các thành viên khác sinh hoạt chung với người bệnh. Khi người nuốt trứng lây nhiễm, ấu trùng được phóng thích ở tá tràng, lột xác hai lần thành giun non sau đó di chuyển xuống manh tràng để trưởng thành. Thời gian từ lúc nuốt trứng chứa ấu trùng lây nhiễm đến khi giun trưởng thành đẻ trứng mất khoảng 4 – 8 tuần. Đặc điểm trứng được đẻ tại rìa hậu môn và nhanh chóng trở thành lây nhiễm đã dẫn đến hiện tượng tự tái nhiễm trong chu trình phát triển của giun kim:. Thói quen ngậm tay tạo cơ hội nuốt trứng dính trên tay người bệnh sau khi gãi hậu môn; II) tuy hiếm gặp nhưng ấu trùng có thể nở ở da quanh hậu môn sau đó bò ngược lên trực tràng gây hiện tượng nhiễm ngược (retroinfection). Các đặc trưng trong chu trình phát triển cho thấy sự phân bổ bệnh giun kim phụ thuộc chủ yếu vào vấn đề vệ sinh cá nhân hơn là yếu tố địa lý, khí hậu. Vì vậy bệnh phổ biến khắp nơi, nhất là những khu vực đông đúc, điều kiện sống chật chội và kém vệ sinh. Tuy nhiên, nhìn chung, tần suất bệnh chiếm ưu thế ở các nước ôn đới hơn là nhiệt đới. Có lẽ, ở các xứ lạnh, người dân hạn chế thay quần áo và không tắm rửa thường xuyên đã tạo thuận lợi cho bệnh phát triển và lây lan. Mặt khác, ở các nước nhiệt đới nhiễm giun kim ít được quan tâm nghiên cứu hơn các bệnh giun sán quan trọng khác. Trên thế giới, ước tính trên 200 triệu người nhiễm Enterobius vermicularic mỗi năm. Tỉ lệ nhiễm tại một số nước Châu Á thay đổi từ 21% - 74%. Ở Việt Nam, bệnh dao động từ 7% - 50%, có nơi lên đến 80% - 100%. Các điều tra tại huyện Củ Chi, Tp.Hồ Chí Minh năm 2007 – 2009 ghi nhận khoảng 22,7% - 53,5% trẻ mẫu giáo bị nhiễm giun kim. Mầm bệnh hiện diện khắp nơi trong môi trường sinh hoạt của người bệnh nên mức độ lây lan cao, dễ dàng nhiễm vào các thành viên sinh hoạt chung với ký chủ do ngậm tay, ngậm đồ chơi dính trứng, ăn thức ăn bị nhiễm,…hoặc do hít trứng từ bụi trong không khí. Do đó, tác hại của giun kim là nhiễm thường mang tính gia đình, tính tập thể; tập trung chủ yếu ở nhà trẻ, trường mẫu giáo, trại mồ côi, trường nội trú, nhà dưỡng lão, trại tâm thần,…Những điều cần biết về bệnh giun kim là điều cần thiết để phòng lây nhiễm cho gia đình và cộng động, đặc biết là trẻ nhỏ. Kiểu lây nhiễm hậu môn – ngón tay – miệng ở trẻ em là hình thức chính của tự tái nhiễm mầm bệnh thải ra từ chính cơ thể của trẻ. Một dạng tự tái nhiễm khác, rất hiếm gặp, là hiện tượng nhiễm ngược các ấu trùng giun được nở từ rìa hậu môn. Bệnh cũng có thể lây lan qua quan hệ tình dục nhất là ở những người đồng tính luyến ái (oral-anal sex). Sự ô nhiễm trứng cao trong không gian chung quanh ký chủ và hiện tượng tự tái nhiễm là yếu tố quan trọng chi phối tỷ lệ tái nhiễm cao trong quần thể sau những đợt xổ giun định kỳ mỗi 4 hoặc 6 tháng. Đồng thời cũng là nguyên nhân của tình trạng nhiễm giun kim kéo dài mặc dù tuổi thọ của giun trưởng thành ngắn hơn nhiều so với các loại giun khác ký sinh ở người. Ngứa hậu môn vào buổi tối hoặc ban đêm là dấu hiệu quan trọng trong định hướng nhiễm giun kim và việc tìm thấy giun trưởng thành hoặc trứng sẽ giúp xác định bệnh. Giun kim cái có thể tìm thấy ở vùng da quanh hậu môn hoặc vùng âm hộ vào buổi tối, đôi khi xuất hiện trên bề mặt phân, dính trên đồ lót hoặc tã, giấy vệ sinh. Trứng giun kim hiếm khi xuất hiện trong phân (<5% trường hợp) vì vậy không dùng xét nghiệm phân để chẩn đoán bệnh. Phương pháp thích hợp nhất là tìm trứng ở vùng da quanh hậu môn bằng kỹ thuật Graham (Scotch tape)…Quan sát tiêu bản dưới kính hiển vi sẽ thấy trứng giun kim chứa ấu trùng. Nếu trứng còn sống, ấu trùng sẽ chuyển động bên trong, nhất là khi kích thích bằng cách hơ nóng nhẹ lam kính. Nếu tiêu bản lẫn nhiều tạp chất, có thể nhỏ 1 giọt toluene hoặc xylene giữa lam kính và băng keo để làm trong mẫu bệnh phẩm. Bệnh giun kim nên trị cho cả gia đình, tại phòng khám chuyên khoa ký sinh trùng điều trị bệnh giun kim bằng các thuốc đặc trị tiêu diệt giun kim trưởng thành và trứng giun kim trong cơ thể, đồng thời điều trị cho các thành viên trong gia đình trong thời gian ngắn để diệt tận gốc nguồn lây bệnh tránh tái nhiễm. Thuốc điều trị bệnh giun kim. Một số thuốc khác để tăng tác dụng hiệp đồng. Mức độ lây lan của bệnh giun kim rất cao do trứng dễ dàng phát tán vào không khí, sàn nhà và các vật dụng trong không gian sinh hoạt của bệnh nhân. Vì vậy dự phòng bệnh bao gồm các biện pháp ngăn ngừa mầm bệnh phát tán ra xung quanh cũng như nhiễm vào cơ thể. Việc rửa sạch vùng quanh hậu môn, đáy chậu mỗi sáng thức dậy là hành vi mang tính quyết định nhằm cắt đứt chu trình phát triển của giun kim. Ngoài ra, phải cắt ngắn móng tay, rửa tay trước khi ăn, không cho trẻ mặc quần trủng đáy, nên hút bụi hoặc lau nhà bằng khăn ướt, tránh quét nhà, giặt sạch quần áo, chăn mền, chiếu gối, drap giường, đồ chơi… để giảm thiểu tối đa nguy cơ nhiễm trứng giun kim.
Nhiễm giun kim
Nhiễm giun kim (Tiếng Anh: Pinworm infection/enterobiasis) là một bệnh ký sinh trùng ở người do giun kim gây ra. Triệu chứng phổ biến nhất là ngứa ở vùng hậu môn. Điều này có thể gây khó ngủ. Khoảng thời gian từ khi nuốt trứng đến khi xuất hiện trứng mới quanh hậu môn là 4 đến 8 tuần. Một số người bị nhiễm bệnh không có triệu chứng nào. Bệnh lây lan giữa người với với nhau qua trứng giun kim. Trứng ban đầu tích tụ xung quanh hậu môn và có thể tồn tại đến ba tuần ngoài môi trường. Trứng có thể được nuốt vào cơ thể từ tay, thực phẩm hoặc các vật phẩm khác bị nhiễm. Những nhóm người có nguy cơ mắc bệnh là những người đang ở độ tuổi đi học, sống trong một cơ sở chăm sóc sức khỏe hoặc nhà tù, hoặc phải chăm sóc những người bị nhiễm bệnh. Những động vật khác không truyền bệnh này. Chẩn đoán bằng cách nhìn thấy những con giun dài khoảng một centimet hoặc trứng dưới kính hiển vi. Việc điều trị thông thường với hai liều thuốc mebendazole, pyrantel pamoate hoặc albendazole cách nhau hai tuần.
Sói rừng là một loài thực vật có cái tên đáng sợ nhưng lại có tác dụng rất lớn trong chữa trị bệnh ung thư và một số các bệnh khác. Cây sói rừng xuất hiện nhiều ở các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Hãy cũng Khbvptr.vn tìm hiểu về loài cây lạ này và những tác dụng bất ngờ của nó trong điều trị bệnh ung thư nhé!. 2 Tác dụng của cây sói rừng trong điều trị ung thư2.1 Tại sao cây sói rừng có tác dụng trong điều trị ung thư?2.2 Bài thuốc chữa ung thư. 3 Cây sói rừng có tác dụng gì trong điều trị một số loại bệnh phổ biến3.1 Một số bài thuốc tham khảo3.2 Cách ngâm rượu cây sói rừng3.3 Mua cây sói rừng ở đâu?. Cây sói rừng là một loài thực vật có nguồn gốc từ các nước Đông Nam Á. Tại Việt Nam loài cây này được tìm thấy ở các vùng phía Bắc như Lạng Sơn, Hòa Bình, Bắc Thái, Hà Tây, Lâm Đồng, Kontum. Cây chủ yếu mọc hoang ở những vùng đất trống, bìa rừng hay những nơi đất ẩm. Đây là loài cây bụi, thường mọc theo những bụi lớn, nhỏ. Chiều cao trung bình có thế đạt tới 1-2m tùy điều kiện sinh sống. Thân cây sói rừng khá nhẵn, không sần sùi mà chỉ có các mấu hơi gồ lên nhẹ. Nhánh cây tròn, nhỏ, không có lông, có màu xanh đậm hoặc nâu. Lá cay soi rung mọc rất cân đối, càng lên cao lá càng nhỏ đi, trên mặt lá có gân nhỏ, ngoài rìa có răng cưa. Trung bình một chiếc lá sói rừng dài khoảng 7-20cm, rộng 2-8cm, cách cuống lá 5-8mm. Khi ra hoa, cây sói rừng thường kết thành bông nhỏ, tròn, màu trắng. Quả cây sói rừng có hình tròn và màu đỏ nổi bật, vỏ bóng, mọc thành chùm nhỏ khoảng 8-12 quả. Tháng 8-9 là thời gian quả chín. Tác dụng cây sói rừng trong Đông Y khá đa dạng. Được miêu tả là có vị đắng, hơi cay, tính hơi ấm, hơi có độc, có tác dụng kháng viêm, giảm đau, khư phong trừ thấp và tiêu viêm giảm độc. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu đều nhận thấy rằng cây sói rừng có tác dụng rõ rệt, gây ức chế đối với tụ cầu khuẩn vàng staphylococcus aureus, trực khuẩn bacillus coli, trực khuẩn lỵ, trực khuẩn mủ xanh bacillus pyocyaneus, phó thương hàn salmonella typhosa,…. Cây sói rừng tuy có cái tên khá ghê gớm nhưng tác dụng của loài cây này trong điều trị ung thư khiến nhiều người phải bất ngờ. Như các bạn đều biết ung thư là một căn bệnh nan giải làm khó rất nhiều y bác sĩ trên toàn thế giới. Mỗi năm có hàng ngàn người chết vì ung thư, bởi vậy bất kì một loại thuốc nào có khả năng hỗ trợ điều trị ung thư đều được mọi người tìm kiếm. Khi cơ thể mắc bệnh ung thư có nghĩa là các tế bào ung thư bên trong đang dần phát triển và lớn lên. Quá trình dẫn đến ung thư có thể nói bắt nguồn từ quá trình oxy hóa. Khi Oxy hóa xảy ra sẽ tạo ra các gốc tự do – loại tết bào gây tổn thương các mô và tế bào khác, gây biến đổi DNS và dần hình thành tế bào ung thư. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và nhận ra rằng trong cay soi rung có các hoạt tính giúp làm chậm khả năng phát bệnh ung thư. Những thành phần này giúp làm chậm quá trình oxy hóa, nhờ đó mà giảm thiểu khả năng tái phát bệnh. Hơn nữa, cây sói rừng có thế kháng lại các gốc tự do, làm giảm đáng kể khả năng phát triển và lây lan của tế bào ung thư. Loại thuốc nam này thường được nhiều người tin tưởng và truyền tai nhau. Trong Đông Y các dược sĩ thường sử dụng cây sói rừng để hỗ trợ điều trị bệnh ung thư. Chủ yếu được dùng dưới dạng thuốc sắc, kết hợp với nhiều vị thuốc khác giúp tăng tác dụng. Lấy hai vị thuốc sắc với 1 lít nước tinh khiết trong lửa nhỏ, khi nước cạn còn khoảng 300ml thì tắt bếp, để nguội, chia thành 3 lần uống trong ngày. Bài thuốc này khá đơn giản và dễ dùng nên bạn hoàn toàn có thể dùng tại nhà. Thuốc nam hay thuốc bắc đều có tác dụng rất tốt và lâu dài, ít tác dụng phụ nhưng phải sử dụng một thời gian mới thấy được hiệu quả. Ưng thư là ăn bệnh khó chữa nhưng có thể làm giảm thời gian phát bệnh, vì vậy cần kiên trì sử dụng hàng ngày để có tác dụng tốt nhất. Đau lưng: lấy khoảng 10-15g cành, lá sói rừng sắc chung với rượu và nước theo tỉ lệ 1-1. Lưu ý chỉ nên uống trong ngày để có tác dụng tốt nhất. Gãy xương, viêm khớp phong thấp: Giã nhuyễn lá cây, trộn với rượu và đắp vào chỗ bị thương. Hoặc có thể dùng 15-30g rễ cây sắc với nước để uống. Vết thương loét không liền miệng: sử dụng cành, lá rửa sạch, đun với nước tinh khiết, để nguội và rửa hàng ngày 1-2 lần cho đến khi lành. Bỏng: lấy lá sói rừng đem phơi khô rồi giã nhuyễn, mịn, sau đó trộn thêm 2 thìa dầu vừng hoặc dầu hạt sở, bôi mỗi ngày 2 lần vào vết bỏng đến khi khỏi. Viêm nhiễm: dùng 30-40g cành và lá sói rừng còn tươi đem sắc với 1 lít nước sạch, chia thành 3 lần uống trong ngày và uống đến khi khỏi hẳn. Bệnh cảm mạo: mùa đông đem 10-15g lá sói rừng khô sắc với 6g tía tô, có thể sử dụng hàng ngày thay cho trà. Còn vào mùa hè cho thêm 6g lá kim ngân hoa, sắc với liều lượng tương tự. Trong dân gian, người ta thường ngâm sói rừng với rượu để uống giúp chữa bệnh đau túi ngực, đau nhức xương khớp hoặc sắc thuốc uống để chữa các bệnh như cảm mạo, viêm phổi hay rối loạn kinh nguyệt. Hơn nữa, cây sói rừng còn có tác dụng chữa các vết rắn cắn bằng cách giã nhuyễn rồi đắp vào vết thương. Đầu tiên đem cây sói rừng rửa sạch và phơi thật khô. Sau đó đem ngâm với rượu trắng theo tỷ lệ 1 kg sói rừng – 3 lít rượu trắng, đóng nắp và để nơi khô ráo. Sau 1 tháng có thể đem ra sử dụng. Lưu ý phải lau hũ rượu thật khô và nên sử dụng bình thủy tinh. Cây sói rừng khá phổ biến ở Việt Nam và được bán với giá trên dưới 190 ngàn đồng/kg. Bạn có thể tìm mua ở các hiệu thuốc bắc hoặc các cửa hàng online. Đơn giản nhất hay search Google để có những địa chỉ mua bán cây sói rừng uy tín. Bạn nên kiểm tra kỹ càng trước khi nhận hàng để đảm bảo lá cây không bị mốc. Lưu ý khi sử dụng cây sói rừng: Cây sói rừng kiêng kị với phụ nữ mang thai và người âm hư hỏa vượng.
Sói rừng (thực vật)
Sói rừng, Sói láng, Sói nhẵn, Thảo san hô (cao shan hu, 草珊瑚), danh pháp hai phần Sarcandra glabra là một loại thực vật có hoa thuộc họ Hoa sói (Chloranthaceae). Sói rừng là loài cây bụi thường xanh, có nguồn gốc ở vùng Đông Nam Á. Hiện nay cây phân bổ ở các quốc gia và vùng lãnh thổ như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Ấn Độ, Việt Nam và Malaysia, tại Việt Nam cây có thể tìm thấy ở các khu vực Lạng Sơn, Bắc Thái, Hoà Bình, Hà Tây đến Kon Tum, Lâm Ðồng, mọc hoang ở những vùng núi đất, bìa rừng và ven đồi ẩm. Cây Sói rừng có chiều cao 1-2 mét, thân nhẵn, các mấu hơi phồng. Nhánh cây tròn, không có lông, với các lá mọc đối, phiến dài hình bầu dục hay hình ngọn giáo, chiều dài 7–20 cm và rộng 2–8 cm với 5-7 cặp gân bên. Mép lá có răng cưa nhọn và thô, kèm với các tuyến. Bông kép, ít nhánh, nhánh ngắn với hoa nhỏ màu trắng không có cuống và có một nhị. Bầu nhụy có hình trứng và không có vòi. Cây ra quả mọng nhỏ, hình gần tròn đường kính 3–4 mm, khi chín có màu đỏ hay đỏ gạch.
Chủ nghĩa cấp tiến trong chính trị Hoa Kỳ đề cập đến một phong trào cải cách ủng hộ sự tiến bộ - thay đổi và cải thiện - thay vì chủ nghĩa bảo thủ, giữ nguyên hiện trạng. Thuật ngữ này đã được sử dụng theo nhiều cách, nhưng chủ yếu đã đề cập đến phong trào Progressive vào cuối 19 ngày và đầu 20 thứ nhiều thế kỷ. Từ thời Khai sáng ở châu Âu đã nảy sinh ý tưởng rằng cả tri thức và tăng trưởng kinh tế sẽ thúc đẩy nền văn minh và tình trạng con người. Nhà triết học Kant đã nói về sự tiến bộ từ chủ nghĩa man rợ sang nền văn minh, và với những người tán thành chủ nghĩa tiến bộ, phong trào này rõ ràng là một trong những phản ứng đạo đức đối với các thực hành và điều kiện được coi là dã man, và hướng tới các thực hành và điều kiện được coi là thúc đẩy sự phát triển của con người. Trước đó trong 19 ngày thế kỷ, một lĩnh vực tư tưởng riêng biệt mường tượng một bộ phận nghiêm ngặt của lĩnh vực công và tư nhân - với phụ nữ chịu trách nhiệm về nhà hoặc khu vực trong nước hay tư nhân, và người đàn ông của lĩnh vực công cộng, bao gồm cả chính phủ và doanh nghiệp. (Tất nhiên những người bị bắt làm nô lệ và thường là những người thuộc tầng lớp nghèo nhất có rất ít kinh nghiệm về sự chia cắt như vậy.) Một số hình dung việc phụ nữ tham gia các phong trào cải cách như một phần mở rộng trách nhiệm trong lĩnh vực tư nhân của họ: công việc nhà. Chủ nghĩa tiến bộ là một phản ứng đối với sự bất bình đẳng kinh tế ngày càng tăng, là sản phẩm của cuộc Cách mạng Công nghiệpvà chủ nghĩa tư bản hầu như không được kiểm soát, bao gồm cả việc bóc lột sức lao động. Một làn sóng nhập cư vào Hoa Kỳ và một sự di chuyển lớn người dân từ các trang trại đến các khu vực thành thị, thường làm việc trong các ngành công nghiệp mới với mức lương thấp và điều kiện làm việc tồi tệ, đã tạo ra các khu ổ chuột, nghèo đói, lao động trẻ em, xung đột giai cấp và tiềm ẩn đáng kể cho tình trạng bất ổn . Sự kết thúc của Nội chiến có hai ảnh hưởng lớn đến chủ nghĩa tiến bộ. Một là nhiều nhà cải cách tin rằng việc chấm dứt chế độ nô lệ, sau sự kích động của các nhà hoạt động Da đen ở thế kỷ 19 ở Bắc Mỹ, đã chứng tỏ rằng các phong trào cải cách có khả năng tạo ra nhiều thay đổi. Một điều khác là, với việc giải phóng những người đã bị bắt làm nô lệ nhưng những ảnh hưởng còn sót lại của câu chuyện về sự kém cỏi “tự nhiên” của những người gốc Phi,. Thần học Tin lành , vốn đã phát triển khi đối mặt với sự phát triển của các tôn giáo tự do như Chủ nghĩa Phổ thông và ngày càng đặt câu hỏi về thẩm quyền và tư tưởng truyền thống vì những ý tưởng bắt nguồn từ việc phê bình văn bản của Khai sáng, đã đáp ứng với sự bóc lột ngày càng tăng về kinh tế và xã hội của nhiều người bằng một học thuyết về Phúc âm xã hội. Phong trào này đã áp dụng các nguyên tắc Kinh Thánh vào các vấn đề xã hội (xem Ma-thi-ơ 25), và cũng dạy rằng việc giải quyết các vấn đề xã hội trong cuộc sống này là tiền đề cần thiết cho Chúa tái lâm. Năm 1879, nhà kinh tế học Henry George xuất bản Tiến bộ và Nghèo đói: Một cuộc điều tra về nguyên nhân của suy thoái công nghiệp và sự gia tăng ham muốn cùng với sự gia tăng của cải: Biện pháp khắc phục. Cuốn sách rất phổ biến và đôi khi được sử dụng như một điểm đánh dấu cho sự khởi đầu của Kỷ nguyên Tiến bộ. Trong tập này, Henry George đã giải thích làm thế nào mà tình trạng nghèo đói kinh tế có thể phát triển đồng thời với sự mở rộng và tăng trưởng kinh tế và công nghệ. Cuốn sách cũng giải thích cách thức tạo ra các chu kỳ bùng nổ kinh tế và phá sản từ chính sách xã hội. Cũng có những lĩnh vực khác, nhưng đây là những lĩnh vực chính của cải cách xã hội do chủ nghĩa tiến bộ giải quyết. Phong trào “thuế đơn lẻ”, bắt nguồn từ bài viết kinh tế của Henry George, đã thúc đẩy ý tưởng rằng tài chính công chủ yếu dựa vào thuế giá trị đất, hơn là đánh thuế lao động và đầu tư. Conservationism: chương trình khuyến mãi của thiên nhiên và hoang dã có nguồn gốc tại siêu việt luận và lãng mạn của trước đó 19 ngày thế kỷ, nhưng các tác phẩm Henry George đã quyết định cho một sự biện minh kinh tế cũng cho ý tưởng về “commons” và bảo vệ nó. Chất lượng cuộc sống trong các khu ổ chuột: chủ nghĩa tiến bộ cho rằng sự phát triển của con người là ít khả thi hơn trong điều kiện nghèo đói của các khu ổ chuột - từ đói nghèo đến nhà ở không an toàn, căn hộ thiếu ánh sáng đến thiếu vệ sinh đến sưởi ấm trong thời tiết lạnh giá. Quyền và điều kiện lao động: Vụ cháy nhà máy Triangle Shirtwaist là vụ tai nạn nghiêm trọng nhất trong số nhiều vụ tai nạn công nghiệp khiến công nhân thiệt mạng hoặc bị thương vì điều kiện làm việc tồi tệ. Tổ chức lao động thường được ủng hộ bởi phong trào Tiến bộ, và việc tạo ra các quy tắc an toàn cho các nhà máy và các tòa nhà khác cũng vậy. Ngày làm việc ngắn hơn: tám giờ ngày được thực thi theo yêu cầu làm thêm giờ là một cuộc chiến lâu dài của phong trào Tiến bộ và phong trào lao động, lúc đầu, với sự phản đối tích cực từ các tòa án cho thấy rằng những thay đổi trong luật lao động đã can thiệp vào quyền cá nhân của doanh nghiệp những chủ sở hữu. Lao động trẻ em: những người tiến bộ phản đối việc cho phép trẻ em ở độ tuổi thanh niên có thể làm những nghề nguy hiểm, từ trẻ em bốn tuổi bán báo trên đường phố đến trẻ em trong hầm mỏ đến trẻ em vận hành máy móc nguy hiểm trong các nhà máy dệt và nhà máy. Các nhà hoạt động chống trẻ em lao động tiếp tục vào 20 thứ thế kỷ, và các tòa án cao nhất lúc đầu làm cho nó khó khăn để vượt qua pháp luật như vậy. Quyền của phụ nữ : mặc dù phong trào quyền của phụ nữ bắt đầu được tổ chức trước Kỷ nguyên Tiến bộ và được cho là đã giúp bắt đầu nó, nhưng Kỷ nguyên Tiến bộ đã chứng kiến sự mở rộng quyền của phụ nữ từ quyền nuôi con đến luật ly hôn tự do hơn đến thông tin về các biện pháp tránh thai và kế hoạch hóa gia đình đến “luật lao động bảo ”Để phụ nữ có thể vừa làm mẹ vừa là người lao động. Phụ nữ cuối cùng đã có thể nhận được một bản sửa đổi hiến pháp vào năm 1920, loại bỏ giới tính như một rào cản đối với việc bỏ phiếu. Sự khoan dung và cấm đoán : do ít chương trình xã hội và ít quyền phụ nữ, việc uống rượu quá mức có thể đe dọa sinh kế và thậm chí tính mạng của các thành viên trong gia đình người uống rượu, nhiều phụ nữ và nam giới đã tranh nhau gây khó khăn hơn trong việc mua và tiêu thụ rượu. Nhà định cư : phụ nữ và nam giới có trình độ học vấn cao hơn chuyển đến các khu dân cư nghèo và “định cư” ở đó để thử nghiệm những gì người dân trong khu phố cần để cải thiện cuộc sống của họ. Nhiều người làm việc trong các ngôi nhà định cư đã tiếp tục làm việc cho các cải cách xã hội khác. Chính phủ tốt hơn: đối mặt với không chỉ sự tập trung tiền vào tay các công ty ngày càng tăng, mà còn cả sự trỗi dậy của bộ máy chính trị ở các thành phố lớn, việc cải tổ chính phủ để đưa nhiều quyền lực hơn vào tay người Mỹ bình thường là một phần chính của chủ nghĩa tiến bộ. Điều này bao gồm việc thiết lập một hệ thống sơ cấp trong đó các cử tri, không phải các nhà lãnh đạo đảng, được lựa chọn các ứng cử viên cho đảng của họ và nó bao gồm bầu cử trực tiếp các Thượng nghị sĩ, thay vì để họ được bầu bởi các cơ quan lập pháp của bang. Giới hạn quyền lực doanh nghiệp: ngăn chặn và điều chỉnh độc quyền và thiết lập luật chống độc quyền là những chính sách không chỉ mang lại lợi ích cho nhiều người hơn và ngăn ngừa chênh lệch giàu nghèo vô lương tâm, mà còn là cách để chủ nghĩa tư bản hoạt động hiệu quả hơn thông qua một thị trường cạnh tranh hơn. Báo chí châm biếm đã giúp vạch trần tham nhũng trong chính trị và kinh doanh, đồng thời thúc đẩy các giới hạn đối với quyền lực của cả chính phủ và doanh nghiệp. Chủng tộc: Một số nhà cải cách đã hoạt động vì sự hòa nhập chủng tộc và công bằng chủng tộc. Người da đen thành lập các tổ chức cải cách của riêng họ, chẳng hạn như NACW , hoạt động cho các vấn đề như giáo dục, quyền phụ nữ, cải cách lao động trẻ em. Các NAACP đã quy tụ Trắng và Đen nhà cải cách để đáp ứng với cuộc bạo loạn phá hoại. Những người tiến bộ khác (như Woodrow Wilson ) đã thực thi và thúc đẩy sự phân biệt chủng tộc. Các cải cách khác bao gồm hệ thống Dự trữ Liên bang , các phương pháp tiếp cận khoa học (tức là các phương pháp tiếp cận dựa trên bằng chứng) đối với giáo dục và các lĩnh vực khác, các phương pháp hiệu quả áp dụng cho chính phủ và doanh nghiệp, cải tiến y học, cải cách nhập cư, tiêu chuẩn và độ tinh khiết của thực phẩm, kiểm duyệt phim ảnh và sách ( được bảo vệ như thúc đẩy gia đình lành mạnh và quyền công dân tốt), và nhiều hơn nữa. Từ hóa học đến lập trình máy tính, nghệ thuật cho đến Thế chiến II, Chúng tôi cung cấp hướng dẫn, mẹo và tài nguyên để giúp bạn hiểu thêm về thế giới xung quanh chúng ta.
Chủ nghĩa tiến bộ
Chủ nghĩa tiến bộ hay chủ nghĩa cấp tiến (tiếng Đức: Progressivismus từ tiếng Latinh: Progressio, Tiến bộ) biểu thị một triết lý chính trị được xây dựng trên ý tưởng về sự tiến bộ, khẳng định sự tiến bộ trong khoa học, công nghệ, phát triển kinh tế, tổ chức xã hội là rất quan trọng để cải thiện tình trạng của con người. Vì vậy, nó là phong trào chống lại chủ nghĩa bảo thủ. Nguồn gốc của chủ nghĩa tiến bộ bắt đầu từ thời đại Khai sáng, từ lòng tin tưởng là châu Âu đang chứng minh các xã hội có thể tiến bộ trong khuôn khổ từ những điều kiện dã man lên nền văn minh qua sự tăng cường cơ sở kiến thức thực nghiệm là nền tảng của xã hội. Nhiều nhân vật thời Khai sáng tin tưởng rằng tiến bộ có thể áp dụng phổ quát cho tất cả các xã hội và những ý tưởng này sẽ lây lan ra toàn thế giới từ châu Âu. Nhà xã hội học Robert Nisbet định nghĩa năm "cơ sở quan trọng" của ý tưởng của tiến bộ: giá trị của quá khứ; sự cao quý của nền văn minh phương Tây; giá trị tăng trưởng kinh tế / công nghệ; kiến thức khoa học / học thuật thu thập được thông qua lý trí hơn là đức tin; tầm quan trọng của thực chất và giá trị của sự sống trên Trái Đất.
Nhãn hiệu hay Nhãn hiệu hàng hóa (viết tắt là NH) là những thuật ngữ được sử dụng vô cùng rộng rãi trong nền kinh tế thị trường. Nó gắn liền với quá trình sản xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch vụ,… từ thời cổ xưa, khi mà nền kinh tế tự cung, tự cấp bị phá vỡ, sản xuất và trao đổi hàng hóa được hình thành và chiếm vị trí quan trọng trong tiến trình phát triển của nhân loại. Thế nhưng hiện nay vẫn còn những chủ doanh nghiệp không biết nhãn hiệu là gì, không nhận thức được giá trị của nhãn hiệu đối với doanh nghiệp, vì thế họ cũng thờ ơ với việc đăng ký bảo hộ cho loại tài sản trí tuệ này. Nhãn hiệu (trademark) là thuật ngữ đã được chuẩn hóa quốc tế. Pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều đưa ra định nghĩa nhãn hiệu dựa trên những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của quốc gia đó nên cũng có những điểm khác nhau. Là quốc gia phát triển sau, các nhà lập pháp Việt Nam đã tiếp thu kinh nghiệm của các nước phát triển để đưa ra khái niệm mang tính khái quát, bao trùm hơn:. Là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Mặc dù có những điểm khác nhau trong quy định pháp luật của mỗi quốc gia nhưng điểm giống nhau cơ bản là nhãn hiệu phải có chức năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các chủ thể khác nhau. Bên cạnh đó, pháp luật các nước cũng như các Điều ước quốc tế đều không liệt kê một danh sách các dấu hiệu cụ thể mà chỉ đưa ra các loại dấu hiệu phổ biến có thể đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. Trên thế giới có rất nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất, kinh doanh 1 loại sản phẩm. Hiện nay thuật ngữ “thương hiệu” được sử dụng một cách rộng rãi. Khi nói đến thương hiệu thì luôn đi kèm với giá trị của nó. Ví dụ: “Thương hiệu top 1 Việt Nam”, “Thương hiệu đắt giá nhất”… Thương hiệu được gọi tên trùng với nhãn hiệu nên hai khái niệm này thường có sự nhầm lẫn với nhau. Thương hiệu có một số đặc điểm sau:. – Thương hiệu được hình thành từ quá trình sản xuất, kinh doanh và sử dụng sản phẩm. Hàng hóa, dịch vụ được sử dụng rộng rãi và được nhiều công nhận thì thương hiệu sẽ trở nên nổi tiếng, có giá trị. – Thương hiệu không được pháp luật bảo hộ mà chỉ được xã hội và người tiêu dùng công nhận. – Thương hiệu không có các dấu hiệu nhìn thấy dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh như nhãn hiệu. Luật Hoa Kỳ và một số quốc gia phát triển cho phép các dấu hiệu 3 chiều, âm thanh, mùi vị và cách thức trình bày sản phẩm cũng có thể bảo hộ là nhãn hiệu. Còn pháp luật Việt Nam chưa có quy định để bảo hộ và thực tiễn cũng không thừa nhận các loại dấu hiệu này. Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hóa do mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp. Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng do người khác sản xuất nếu người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký đó. Tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu tập thể để các thành viên của mình sử dụng theo quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể. Đối với dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ, tổ chức có quyền đăng ký là tổ chức tập thể của các tổ chức, cá nhân tiến hành sản xuất, kinh doanh tại địa phương đó. Tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính, nguồn gốc hoặc tiêu chí khác liên quan đến hàng hóa, dịch vụ có quyền đăng ký nhãn hiệu chứng nhận với điều kiện không tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó. Dây rút nhựa là gì? Ứng dụng của chúng và sự đặc biệt của nó là gi.
Nhãn hiệu
Nhãn hiệu hàng hóa hay nhãn hàng được định nghĩa như sau: là những dấu hiệu dùng phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh, biểu trưng hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Nhãn hiệu được coi là một loại tài sản vô hình của người hoặc công ty thực hiện hoặc sản xuất và là một trong các đối tượng sở hữu công nghiệp được pháp luật bảo hộ, nhưng tùy theo luật ở mỗi quốc gia, nhãn hiệu cần đăng ký để trở thành thương hiệu được bảo hộ theo luật định (Registered Trademark: "Thương hiệu đã đăng ký" hay là "nhãn hiệu cầu chứng"). Nhãn hiệu dịch vụ gắn vào phương tiện dịch vụ để phân biệt dịch vụ cùng loại của các cơ sở kinh doanh, dịch vụ khác nhau. Chữ hoặc tập hợp các chữ kết hợp với hình vẽ, ảnh chụp. Được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố độc đáo, dễ nhận biết. Không trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hóa đăng ký của người khác đã nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa (đơn nhãn hiệu hàng hóa) tại Cục Sở hữu Công nghiệp hoặc đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký thương hiệu.
Mình đến với cuốn sách này vì mình rất thích bộ phim Howl’s moving castle của Studio Ghibli. Thường thì khi mình đọc sách thì sẽ không xem phim hoặc ngược lại để tránh so sánh và thất vọng về một trong hai. Nhưng Howl’s moving castle lại là một trong những ngoại lệ hiếm hoi, cả hai đều thành công và hấp dẫn theo cách riêng của nó và mình đã thật sự coi đây là hai tác phẩm độc lập. Truyện kể về một cô gái trẻ tên là Sophie Hatter là chị cả trong một gia đình có 3 chị em gái. Một cô gái thông minh tốt bụng và rất ra dáng chị cả. Cô làm việc trong của hàng mũ của gia đình và thường xuyên nói chuyện với những chiếc mũ. Việc này đã vô tình truyền phép thuật của mình vào chúng và làm cho chúng trở lên sinh động. Điều này làm Phù thủy xứ Waste ghen ghét và biến cô thành một bà lão. Cô trốn khỏi nhà để đi tìm ai đó có thể giải lời nguyền cho mình rồi tình cờ trở thành người quét dọn trong tòa lâu đài di động của Pháp sư Howl – một gã trai đẹp luôn chú trọng ngoại hình và được đồn là chuyên ăn tim của những cô gái trẻ, con quỷ Calcifer đáng yêu và chú bé học việc Michael ngây thơ nhưng cũng cực kỳ đáng yêu. Ở đây cô giao ước với Calcifer giải lời nguyền trói buộc giữa nó và Howl. Nếu cô làm được, con quỷ hứa sẽ làm cho cô trở lại hình dáng ban đầu…. Cả cuốn sách mở ra một thế giới, một thế giới tuyệt đẹp và tràn ngập những điều kỳ diệu: cảnh sắc tuyệt đẹp, lâu đài biết chuyển động, một cánh cửa mở đến nhiều địa điểm khác nhau, những phép thuật nhiệm màu, những lời nói truyền sự sống cho những đồ vật vô tri vô giác… Mình rất thích tuyến nhân vật trong truyện, mỗi nhân vật được tạo ra với những cá tính riêng, rất thật với cả những mặt tốt và mặt xấu góp phần tạo nên những kịch tính hấp dẫn (Riêng tính cách của Sophie nhiều lúc làm mình cảm thấy hơi ngán nhưng cũng rất đáng yêu). Phần đầu cuốn sách tưởng chừng như chỉ miêu tả cuộc sống tẻ nhạt trong lâu đài nhưng từng tình tiết trong câu truyện xuất hiện đều có dụng ý của nó, Diana Wynne Jones đã rất tài tình dẫn dắt người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, nhiều bí mật từ từ được hé mở dẫn dắt, mở nút một hoàn hảo, có hậu cho các nhân vật (Ngay cả bà phù thủy xứ Waste mình nghĩ đó cũng là giải thoát cho bà ta). Điều mình không thích ở cuốn sách và văn phong của bản dịch làm cho câu truyện khô cứng, không khí trong truyện hơi nặng nề đôi khi làm mình cụt hứng.
Lâu đài bay của pháp sư Howl (phim)
Lâu đài bay của pháp sư Howl (ハウルの動く城, Hauru no Ugoku Shiro, tựa tiếng Anh là Howl s Moving Castle), hay Lâu đài di động của Howl, là một bộ phim điện ảnh hoạt hình Nhật Bản thuộc thể loại kỳ ảo năm 2004 do Miyazaki Hayao đạo diễn kiêm viết kịch bản, dựa trên tiểu thuyết cùng tên năm 1986 của nữ tác giả người Anh Diana Wynne Jones. Bộ phim do Suzuki Toshio sản xuất, với phần đồ hoạ hoạt hình thuộc về Studio Ghibli và được phân phối bởi Toho. Hai diễn viên lồng tiếng chính cho phiên bản tiếng Nhật bao gồm Baisho Chieko và Kimura Takuya, trong khi đó các diễn viên lồng tiếng Anh gồm có Jean Simmons, Emily Mortimer và Christian Bale. Lấy bối cảnh một vương quốc hư cấu nơi mà cả phép thuật và công nghệ tiên tiến đầu thế kỷ 20 cùng tồn tại, câu chuyện xoay quanh Sophie, cô thợ làm mũ trẻ luôn bằng lòng với cuộc sống bình lặng của mình. Sau khi bị một mụ phù thủy yểm bùa biến thành bà già, Sophie gặp được pháp sư Howl và cùng anh đối đầu với nhà vua, người yêu cầu anh tham gia vào cuộc chiến tranh với nước láng giềng.
Rủi ro tín dụng là gì? Nguyên nhân và những hậu quả của rủi ro tín dụng thường rất được ít người quan tâm. Thay vào đó mọi người chỉ quan tâm tới khái niệm tín dụng ngân hàng mà thôi. Tuy nhiên nếu bạn không hiểu rõ hết những thuật ngữ này thì hậu quả xảy ra sẽ cực kỳ nghiêm trọng khi vay vốn. Vậy để giải đáp được những câu hỏi này thì bạn hãy theo dõi những thông tin được banktop.vn cung cấp trong bài viết sau. Rủi ro tín dụng (Credit risk) là những rủi ro khi khách hàng vay không làm theo đúng điều khoản quy định của hợp đồng tín dụng, trong đó phổ biến nhất là không thu hồi được khoản tiền cho vay do khách hàng không có khả năng chi trả. Bạn có thể hiểu đây là tình trạng tổn thất về tài chính khi gặp sự cố trong giao dịch. Khi rủi ro tín dụng xảy ra bạn sẽ không trả được tiền gốc và lãi đúng thời hạn cho ngân hàng. Lúc này ngân hàng sẽ bị tổn thất nghiêm trọng. Nếu tình trạng này để lâu thì nó còn gây ảnh hưởng tới nền kinh tế chung của đất nước. Rủi ro tín dụng không bị giới hạn ở hoạt động cho vay tiền trả góp. Mà tình trạng này xảy ra ở nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng. Rủi ro tín dụng bao gồm rủi ro danh mục (Portfolio risk) và rủi ro giao dịch (Transaction risk), trong đó rủi ro danh mục được phân ra hai loại rủi ro nội tại (Intrinsic risk) và rủi ro tập trung (Concentration risk). Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố mang tính riêng biệt của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành kinh tế. Rủi ro tập trung là mức dư nợ cho vay được dồn cho một số khách hàng, một số ngành kinh tế hoặc một số loại cho vay hoặc một khu vực địa lý. Rủi ro giao dịch có 3 thành phần: rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ. Rủi ro lựa chọn là rủi ro liên quan đến thẩm định và phân tích tín dụng. Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến quản trị hoạt động cho vay. Rủi ro tín dụng xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó nguyên nhân chính chủ yếu đến từ các trường hợp sau đây. Ngân hàng là một trong những tổ chức hoạt động quy mô lớn vì vậy ngân hàng cũng chịu ảnh hưởng từ các tác nhân bên ngoài một cách mạnh mẽ. Trong đó rủi ro tín dụng bị tác động nhiều bởi môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,… Vì vậy khi nền kinh tế đất nước ổn định thì rủi ro tài chính ít khi xảy ra. Rủi ro tài chính ngoài bị ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài thì ảnh hưởng từ chính ngân hàng cao hơn. Ngân hàng sẽ cho các đối tượng có khả năng chi trả vay vốn bằng cách xem xét số lượng tài sản, nguồn thu nhập chính, phụ,…. Tuy nhiên đến thời điểm hoàn trả gốc và lãi người vay không có đủ khả năng chi trả. Vì thế ngân hàng phải điều chỉnh lại phương án dự phòng rủi ro tín dụng. Dù vậy nó vẫn làm ảnh hưởng đến quy trình xoay vòng vốn của ngân hàng. Điều này làm xác suất rủi ro tín dụng chiếm tỷ lệ cao. Mục đích vay tín chấp, vay thế chấp của mỗi người là khác nhau và người vay sử dụng số tiền vay như thế nào ngân hàng không thể kiểm soát. Do đó khi có người cố tình lừa đảo không thanh toán đúng hạn cho ngân hàng thì nó sẽ khiến hệ thống gặp vấn đề. Như vậy tổ chức cho vay sẽ không thể quản trị rủi ro tín dụng chính vì thế đây cũng là nguyên nhân gây ra tình trạng rủi ro này. Nguyên nhân rủi ro tín dụng do khách hàng có thể xuất phát từ khách hàng cá nhân lẫn doanh nghiệp. Khi tình trạng rủi ro tín dụng xảy ra, hậu quả của để lại là cực kỳ nghiêm trọng. Nó không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân người vay mà cả ngân hàng và nền kinh tế chung. Riêng ngân hàng thì rủi ro tín dụng làm cho tổ chức này bị mất cơ hội nhận được tiền lãi. Ngoài ra nó còn gây tổn thất đến lợi nhuận và vốn tự có của ngân hàng. Nếu tình trạng trở nên nghiêm trọng thì ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản. Tình trạng nợ xấu của một ngân hàng do không thu hồi được vốn vay dẫn đến việc bị giám sát bởi Ngân hàng nhà nước, từ đó điểm uy tín bị giảm sút và tầm hoạt động củng bị ảnh hưởng củng là một hệ quả của rủi ro tín dụng. Củng bắt nguồn từ hiện trạng ngân hàng có tỉ lệ nợ xấu cao, dẫn đến uy tín bị ảnh hưởng gây mất lòng tin ở Khách hàng. Từ đó, các khách hàng đang có tiền gửi tiết kiệm tại Ngân hàng này sẽ đến rút tiền gây một số hậu quả nghiêm trọng như:. Trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro tín dụng được đánh giá dựa trên các tiêu chí như nợ quá hạn, nợ xấu và dự phòng rủi ro tín dụng. Đây là chỉ tiêu cơ bản để phản ánh rủi ro tín dụng. Nợ quá hạn là khoản nợ sẽ phát sinh khi đến thời hạn trả nợ theo cam kết trên hợp đồng mà người vay không có khả năng trả được nợ một phần hay toàn bộ khoản vay cho người cho vay và được phân chia vào các nhóm nợ xấu. Nếu ngân hàng có chỉ tiêu nợ quá hạn và số khách hàng có nợ quá hạn lớn thì ngân hàng đó đang có mức rủi ro cao và ngược lại. Theo định nghĩa, nợ xấu là các khoản nợ quá hạn trên 90 ngày và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn. Tỉ lệ nợ xấu sẽ phản ánh rõ ràng chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu một ngân hàng có tỉ lệ nợ xấu cao điều đó chứng tỏ ngân hàng này đang làm chưa tốt ở khâu quản trị rủi ro và đánh giá khách hàng đầu vào. Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu/Tổng dư nợ. Theo ngân hàng thế giới, tỷ lệ này ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận được và tốt nhất là ở mức 1-3%. Dự phòng rủi ro là số tiền được trích lập và hạch toán vào chi phí hoạt động để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Dự phòng RRTD được tính trên số dư nợ gốc của khách hàng bao gồm:. Dự phòng chung – bảo hiểm các rủi ro chung không xác định trong danh mục tín dụng và toàn bộ dự phòng được tính vào chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Rủi ro tín dụng là gì? Nguyên nhân và những hậu quả của vấn đề này là gì? Tất cả đã được chia sẻ rất cụ thể ở bài viết trên. Hi vọng thông qua những thông tin này bạn sẽ có được cái nhìn sâu sắc hơn về hệ quả của rủi ro tín dụng. Ngoài ra bạn có thể truy cập website: để tìm hiểu thêm. Founder Banktop với hơn 5 năm kinh nghiệm làm trong lĩnh vực Tài chính sẽ chia sẽ đến bạn những kiến thức, kinh nghiệm mà mình đã đúc kết được.
Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là ngôn từ thường được sử dụng trong hoạt động cho vay của ngân hàng hoặc trên thị trường tài chính. Đó là khả năng không chi trả được nợ của người đi vay đối với người cho vay khi đến hạn phải thanh toán. Luôn là người cho vay phải chịu rủi ro khi chấp nhận một hợp đồng cho vay tín dụng. Bất kỳ một hợp đồng cho vay nào cũng có rủi ro tín dụng.
Phát triển bền vững là sự phát triển để đáp ứng những nhu cầu của ngày hôm nay mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai. Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesbug (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002 đã xác định: Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển, gồm tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Phát triển bền vững tại Việt Nam là sự phát triển trong mối liên hệ gắn kết chặt chẽ thực hiện nhóm mục tiêu lớn: Mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội, mục tiêu môi trường và mục tiêu an ninh quốc phòng. - Khai thác hợp lí và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao chất lượng sống. Đòi hỏi kinh tế phải tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và GDP bình quân đầu người cao, cơ cấu kinh tế hợp lí, đảm bảo tăng trưởng GDP ổn định, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chí phấn đấu cho tăng trưởng. Để đáp ứng yêu cầu bền vững về xã hội cần thiết phải mở rộng các cơ hội lựa chọn cho mọi người, nâng cao năng lực cho mọi người, mọi người cùng tham gia vào quá trình phát triển và được hưởng lợi từ quá trình phát triển này.
Phát triển bền vững
Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong xã hội hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa. riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó. Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học". Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland).
Giữa mùa đông lạnh giá, bầu trời tuyết rơi nhiều và trắng như bông. Có 1 bà hoàng hậu ngồi bên cửa sổ bằng gỗ mun khâu vá, bà mải ngắm nhìn tuyết ngoài trời nên kim đâm phải tay bà, 3 giọt máu rơi xuống làn tuyết trắng xóa. Thấy máu đỏ hòa lẫn với màu trắng tinh của tuyết tạo nên 1 màu vô cùng đẹp, bà nghĩ thầm trong bụng: “Ước gì ta sinh được 1 đứa con gái, da trắng như bông tuyết, môi đỏ như son và tóc đen như gỗ mun”. Thế rồi điều ước của bà Hoàng Hậu đã trở thành sự thật, sau đó ít lâu, bà sinh hạ được 1 cô con gái rất xinh đẹp, có làn da trắng như tuyết, môi đỏ như son và mái tóc đen như gỗ mun; chính vì vậy bà đã đặt tên cho con là Bạch Tuyết sau đó vài hôm thì hoàng hậu qua đời. Sau 1 năm, qua đã cưới người vợ khác. Bà này nhìn cũng rất xinh đẹp nhưng mà tính tình rất kiêu ngạo tự phụ, và rất độc ác. Bà ta không muốn bất cứ ai đẹp bằng mình. Bà ta sở hữu 1 chiếc gương thần, khi soi gương, bà ta hỏi:. Trong lúc ấy Nàng Bạch Tuyết càng lớn lên lại càng xinh đẹp, ai nhìn cũng yêu mến. Thấy vậy, mụ hỏi gương liền:. Hoàng hậu nghe xong bất ngờ và tái mặt đi. Kể từ khi đó mỗi hoàng hậu nhìn thấy Bạch Tuyết, bà ta lại trỗi dậy trong lòng sự ghen ghét đố kị. – Ngươi hãy mang Bạch Tuyết vào trong rừng giết chết nó đi, sau đó đem quả tim và lá gan nó về đây cho ta. Người thợ săn tuân lệnh bà hoàng hậu, bắt cóc Bạch Tuyết mang đi vào rừng. thấy vậy Bạch Tuyết đã van xin bác thợ săn:. Thấy Bạch Tuyết đáng thương nên tha cho nàng, người thợ săn bắn tên trúng con hoẵng, mổ bụng lấy tim gan của nó để mang về đưa cho mụ hoàng hậu, giả là tim gan của Bạch Tuyết. Không hề nghi ngờ gì, mụ ta sai người hầu xào số tim gan đó lên ăn ngấu nghiến. Quá sợ hãi, Bạch Tuyết cắm đầu chạy một mạch vào rừng sâu chân chảy cả máu. Trong rừng rất nhiều thú dữ nhưng không có con nào đụng tới nàng. Chạy nhiều quá đôi chân mỏi rã rời, nhưng may thay đến chập tối nàng thấy có một ngôi nhà nhỏ ở giữa chốn rừng sâu. Quá mệt mỏi nên nàng vào trong nhà để nghỉ mà để ý đến nhà của ai, nguy hiểm gì không?. Trong nhà vật dụng gì cũng nhỏ ti ti, nhưng rất đẹp và sạch sẽ. Trên bàn có bày 7 xuất đồ ăn. Vì bụng đang rất đói, Bạch Tuyết liền ăn ở mỗi đĩa một chút. Ăn xong Bạch Tuyết tìm một chiếc giường để ngủ. Nhưng nàng mãi mới tìm được chiếc phù hợp. Vì quá mệt mỏi nên nàng đặt lưng xuống là ngủ thiếp đi. Trời tối sẩm, những người chủ thực sự của căn nhà mới trở về, đó là bảy chú lùn làm công việc đào mỏ. Họ thắp bảy ngọn nến lên, họ cảm thấy rằng hình như có người lạ đã vào nhà. Một chú nói: “Có ai đã ngồi vào chiếc ghế của tôi?”. Chú thứ hai nói: “Có ai đã ăn thức ăn trong chiếc đĩa của tôi?”. Chú thứ ba nói: “Hình như ai đó đã ăn một phần chiếc bánh của tôi?”, chú thứ tư nói: “Tôi cũng vậy, có ai đó đã ăn ít rau của tôi?”, chú thứ năm nói: “Có ai đó đã dùng chiếc dĩa của tôi”, chứ thứ sáu nói: “Có ai đó đã dùng chiếc dao của tôi”, cuối cùng chú thứ bảy nói: “Còn tôi thì chắc chắn rằng có ai đó đã uống nước trong chiếc cốc của tôi?”. Các chú lùn nhìn quay, họ chạy lại chiếc giường của mình để xem, chú thứ bảy ngạc nhiên thấy trên giường của chú, Bạch Tuyết đang ngủ rất say. Chú gọi cho sáu chú lùn còn lại tới xem, ai nấy cũng đều rất ngạc nhiên, họ cầm bảy ngọn đèn soi vào Bạch Tuyết và reo lên: “Lạy chúa! Cô bé này đẹp quá”. Thấy Bạch Tuyết ngủ rất say, các chú để yên cho nàng ngủ. Sáng hôm sau, khi tỉnh giấc, thấy bảy chú lùn, nàng hoảng sợ. Bảy chú lùn tới gần Bạch Tuyết thân mật hỏi nàng:. Sau đó nàng kể cho bảy chú lùn nghe về chuyện bà gì ghẻ muốn giết cô, người thợ săn vì thương cô nên đã cho cô chốn thoát vào rừng sâu. Truyện cổ tích Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn bắt đầu từ đấy. Kể từ khi đó, Bạch Tuyết ở lại chung sống cùng bảy chú lùn vui tính. Nàng rất chăm chỉ trong nhà, bảy chú lùn cũng tích cực hơn cho công việc khai thác mỏ. Trước khi đi làm bảy chú lùn không quên dặn nàng: “Ở nhà phải hết sức cẩn thận, đừng cho bất kể ai vào nhà”. Nói về mụ hoàng hậu, từ lúc ăn ngon lành món “tim gan giả” của Bạch Tuyết, mụ ta đinh ninh là Bạch Tuyết đã chết rồi, từ nay mụ ta sẽ là người đẹp nhất thế gian. Nge xong mụ đã cải trang thành một bà lão bán hàng, rồi mụ vượt qua bảy ngọn núi, đi vào rừng sâu tới nhà của bảy chú lùn. Tới nơi, mụ gõ cửa nói:. – Ta có nhiều đồ đẹp lắm con, đủ thứ từ dây buộc tóc rất đẹp. Nàng bèn mở cửa chính cho mụ vào nhà. Bạch Tuyết cho mụ buộc hộ mà không có chút đề phòng. Mụ đứng sau ra sức thít thật chặt dây áo khiến nàng bất tỉnh. Giết xong Bạch Tuyết mụ vội vã quay trở về lâu đài. Khi về bảy chú lùn thấy vậy liền cắt chiếc áo. Bạch Tuyết dần dần tỉnh trở lại. Sau khi nghe Bạch Tuyết về chuyện vừa sảy ra. Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn chắc chắn bà già bán hàng là mụ phù thủy giả dạng. Có khả năng mụ ta còn tiếp tục quay trở lại đây nếu như biết cô vẫn còn sống. Nghe gương nói vậy, mụ ta lại sôi máu vì biết Bạch Tuyết đã được bảy chú lùn cứu sống. Mụ nghĩ trong tức tối. Mụ lập tức chế thuốc độc rồi tẩm vào trong một chiếc lược rất đẹp. Sau khi tẩm độc xong, mụ lại cải trang thành một bà lão bán hàng với bộ dạng khác. – Ta không vào nhà đâu, nhưng con hãy xem đồ của ta qua cửa sổ, chắc con sẽ rất thích. Rồi mụ giơ chiếc lược đã tẩm thuốc độc cho Bạch Tuyết xem. Vì thấy lược quá đẹp nên Bạch Tuyết ra mở cửa để mụ vào nhà. Bạch Tuyết không chút đề phòng để cho mụ chải đầu cho mình. Khi lược mới chạm vào tóc, Bạch Tuyết đã bị trúng độc tẩm trong chiếc lược rồi lăn đùng ra sàn nhà bất tỉnh. – Lần này thì thần may mắn không mỉm cười với ngươi đâu, thuốc độc ta làm là kịch độc. May sao trời cũng muộn nên các chú lùn về kịp. Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn nhìn nhau có phần lo lắng. Mụ đi vào một căn phòng bí mật tối tăm của mụ trong lâu đài, nơi mà không có ai được bước chân tới. Mụ lấy một quả táo, tẩm thuốc độc vào, phù phép cho quả táo nhìn trông rất ngon, nửa đỏ nửa trắng thơm ngon tuyệt. Lần này mụ giả làm một bà nông dân. Vượt qua bảy ngọn núi, cuối cùng mụ cũng tới được nhà của bảy chú lùn. Mụ lại gõ cửa như mọi khi. Bạch Tuyết khéo léo từ chối nhưng. – Đừng lo cháu gái xinh đẹp? Táo rất ngon, ta sẽ bổ táo ra và ăn một nửa xanh, còn nửa chín ta sẽ cho con. Thấy bà ta ăn ngon lành Bạch Tuyết vừa cắn miếng táo, nàng đã bị trúng độc và lăn ra chết mà đâu biết thuốc độc chỉ được tẩm ở nửa chín. Thấy vậy mụ rất hả hê. Khi quay trở về đến cung, mụ lại không quên hỏi gương:. Cho tới lúc này, mụ phù thủy mới thực sự yên tâm và thư thái. Như mọi lần các chú lùn cũng về ngay sau đó nhưng làm mọi cách đều vô tác dụng. Không cứu được các chú lùn ngồi quanh mà khóc. Nhìn nàng ai cũng nghĩ nàng chỉ đang ngủ nên không ai nỡ vùi nàng xuống đất đen. Xác Bạch Tuyết được đặt trong một chiếc quan tài được làm bằng thủy tinh được canh gác mỗi ngày. Dường như các loài thú, chim muông trong khu rừng cũng vô cùng thương tiếc Bạch Tuyết đều đến ghé thăm nàng. Mặc dù đã được vài ngày nhưng sắc mặt bạch tuyết không hề thay đổi. Một hôm, có một vị hoàng tử đi rừng xin ghé thăm ngủ nhờ một đêm. Thấy Bạch Tuyết quá xinh đẹp nên hoàng tử vẫn đem lòng yêu mến, muốn xin bảy chú lùn được cho mình chở chiếc quan tài đó về cung. Thấy được tấm chân tình, các chú lùn động lòng nên đồng ý. Trên đường đi đá sỏi gập ghềnh chiếc quan tài cứ nẩy lên liên tục giúp Bạch Tuyết nôn ra được miếng táo độc trong người. Nàng tỉnh dậy, mở nắp chiếc quan tài và thốt lên:. – Bạch Tuyết, ta muốn được cưới nàng làm vợ. Ta thực sự rất yêu nàng. Thế là nàng theo hoàng tử về cung. Lễ cưới được diễn ra rất long trọng. Mụ gì ghẻ độc ác cũng được mời tới dự lễ thành hôn. Trước khi đi mụ trang điểm đẹp và tới gương tự tin hỏi: Nhưng lần này gương nói có một người khác tại lễ cưới. Mụ gì ghẻ nổi cơn tức tối, mụ muốn đi để xem ai là người xinh đẹp hơn mụ. Khi mụ vừa bước vào, mụ thất thần khi nhận ra đó chính là Bạch Tuyết, vì quá kinh ngạc và sợ hãi, tim của mụ vỡ tung, mụ lăn đùng ra chết.
Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn
Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn là nhan đề một đồng thoại do anh em Grimm công bố tại Đức năm 1812. Vào năm 1812, trong hợp tuyển Truyện cho thiếu nhi và gia đình (Kinder- und Hausmärchen) mà anh em Grimm san hành tại Đức, đoản thiên Công chúa Bạch Tuyết (Schneeweißchen / Schneewittchen) được đánh số hiệu ATU 709. Nhan đề này khiến độc giả bị sót lầm trong thời gian rất dài bởi sự gần giống truyện Bạch Tuyết và Hồng Hoa cũng của anh em Grimm. Bởi vậy, hậu thế thường đặt cho tác phẩm tục danh Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn (Schneewittchen und die sieben Zwerge), mặc dù theo kết cấu truyện thì bảy chú tí hon có vai trò rất phụ. Năm 1845, tác gia Ludwig Bechstein đã đưa truyện này vào trứ tác Dân thoại Đức của ông và đánh số hiệu 1845 Nr. Mùa đông, bà hoàng hậu ngồi thêu bên cửa sổ, bất giác kim đâm ngón tay, bà liền ước sinh được mụn con gái "da trắng như tuyết, môi hồng như máu, tóc đen như gỗ khung cửa". Ít lâu sau, điều ước thành hiện thực. Bà hoàng sinh lệnh ái và đặt là Bạch Tuyết, nhưng bà mất ngay khi vượt cạn.
Rối loạn phổ tự kỷ là một dạng rối loạn phát triển lan tỏa được biểu hiện thông qua những khiếm khuyết về mặt trí tuệ, hành vi, ngôn ngữ hay các kỹ năng xã hội khác. Đây được đánh giá là một hội chứng nghiêm trọng vì đến giờ vẫn chưa có cách để điều trị triệt để, bệnh nhân tự kỷ phải mang theo các triệu chứng đến suốt đời và có thể phải sống phụ thuộc hoàn toàn vào gia đình. Rối loạn phổ tự kỷ có tên khoa học là Autism Spectrum Disorder (ASD) thuộc nhóm rối loạn phát triển lan tỏa. Trong đó thuật ngữ “spectrum” (phổ) dùng để miêu tả những biểu hiện đa dạng và mức độ nghiêm trọng ASD. Các triệu chứng xuất hiện trên hầu hết khía cạnh như nhận thức, trí tuệ, hành vi, ngôn ngữ, biểu cảm, vận động hay kể cả các kỹ năng xã hội cơ bản cần thiết. Thống kê cho thấy tỷ lệ mắc bệnh trên thế giới hiện nay là 1/150, trong đó tỷ lệ nam/nữ là 3:1. Thông thường hình thức bên ngoài của bệnh nhân ASD không khác người bình thường, tuy nhiên họ thường gặp rắc rối trong việc giao tiếp, tương tác, hành xử, suy nghĩ. Một số người có thể bộc lộ những tài năng trong một lĩnh vực nào đó, chẳng hạn biết đọc từ 2 tuổi dù không được dạy, nhưng cũng có bệnh nhân suy yếu hoàn toàn về nhận thức và cần phải phụ thuộc vào người thân. Gia đình có người bị tự kỷ cần luôn sẵn sàng tinh thần sẽ sống cùng bệnh nhân suốt đời. Rất tiếc hiện nay vẫn chưa thể tìm ra chính xác đâu là nguyên nhân gây ra rối loạn phổ tự kỷ. Một số nghiên cứu được thực hiện trên những bệnh nhân ASD nhằm xác định nguyên nhân gây hội chứng này, theo đó kết quả là. Di truyền: chiếm đến 80% nguy cơ gây bệnh. ASD có thể di truyền trong nhiều đời, nếu đời bố mẹ không bị nhưng đời ông bị thì đời cháu vẫn có nguy cơ cao bị tự kỷ. Đồng thời nếu trong gia đình có anh/ chị sinh ra trước bị tự kỷ thì người em có nguy cơ cao gấp 4 lần. Các vấn đề khi mang thai: cha mẹ mang thai khi lớn tuổi, mẹ sử dụng các loại thuốc (như acid valproic và thalidomide) hay lạm dụng bia rượu trong thời kỳ mang thai. Yếu tố môi trường: Mẹ tiếp xúc hay làm việc trong môi trường hóa chất độc hại trong suốt thời kỳ mang thai. Bất thường về gen: Hội chứng Down, hội chứng X mỏng giòn, rubella bẩm sinh,. Tuy nhiên các nguyên nhân vẫn chỉ là giả thuyết được cho là có liên quan đến ASD, không được khẳng định hoàn toàn. Các yếu tố di truyền được cho là nguyên nhân chủ yếu nhưng vẫn chưa thể xác định mã gen nào gây ra tình trạng này. Điều này gây ra rất nhiều khó khăn trong quá trình điều trị cũng như chẩn đoán trước các yếu tố nguy cơ trong quá trình mang thai. Theo các chuyên gia, các triệu chứng rối loạn phổ tự kỷ được biểu hiện ngay từ những năm tháng đầu đời, bắt đầu rõ rệt hơn trong 12- 36 tuổi thông qua các cư xử, nói chuyện, khả năng tiếp nhận thông tin và các hành vi có tính chất lặp lại. Một số nghiên cứu cho rằng có thể nhận biết trẻ tự kỷ qua tiếng khóc, tuy nhiên vẫn còn chưa hoàn toàn chính xác nếu chỉ nghe bình thường mà cần có các thiết thị ghi âm và phân tích âm thanh chuyên nghiệp. Theo chẩn đoán của ICD-10, chẩn đoán ASD đòi hỏi bệnh nhân phải đảm bảo có các khiếm khuyết về 3 mặt tương tác xã hội, giao tiếp ngôn ngữ và có những hành vi định hình lặp lại. Tùy từng dạng bệnh và từng giai đoạn mà mức độ biểu hiện khác nhau. Mặc dù vậy các biểu hiện của rối loạn phổ tự kỷ lại dễ nhầm lẫn với các hội chứng chậm nói, rối loạn tăng động giảm chú ý hay hội chứng Apraxia dẫn đến nhiều nhầm lẫn khi điều trị. Vì vậy phụ huynh cần đưa con đến các trung tâm y tế chuyên nghiệp có thăm khám và điều trị tự kỷ để đảm bảo chẩn đoán an toàn chính xác nhất. Các triệu chứng của ASD có thể thay đổi và được cải thiện trong từng giai đoạn, tùy theo thời điểm phát hiện và can thiệp. Cụ thể các triệu chứng điển hình được biểu hiện như sau. Không có bạn bè, gặp khó khăn khi kết bạn. Người ASD không phải không muốn kết bạn mà rào cản về ngôn ngữ, biểu đạt khiến họ không biết làm sao. Học hành yếu kém, khả năng tiếp thu thông tin chậm chạp, mặc dù nhiều trẻ có tài tăng như tính toán nhanh, biết đọc sớm nhưng lại không hiểu được ý nghĩa hay cách làm. Rập khuôn về ngôn ngữ, hành vi và sở thích. Ví dụ lặp đi lặp lại một câu nói một cách máy móc, chỉ thích chơi cùng 1 đồ chơi nhất định. Các dấu hiệu rối loạn phổ tự kỷ có thể tăng dần theo thời gian và rất khó để cải thiện nếu phát hiện quá muộn. ASD ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cuộc sống, tinh thần của bệnh nhân. Người bệnh mất dần các kỹ năng xã hội cơ bản, không có khả năng giao tiếp hay tương tác cùng trí tuệ yếu kém sẽ không thể tự nuôi sống bản thân và hoàn toàn phụ thuộc vào gia đình. Thống kê cho thấy chỉ có khoảng 1- 2% bệnh nhân tự kỷ có thể sống độc lập. 98% bệnh nhân sống cùng gia đình và hơn 1 nửa trong số này phải phụ thuộc hoàn toàn vào gia đình từ những công việc nhỏ nhất, thậm chí là đánh răng hay thay quần áo. Các chẩn đoán rối loạn phổ tự kỷ còn phân chia thành 3 dạng chính với mức độ hành vi, nhận thức khác nhau. Tùy vào từng các dạng rối loạn phổ tự kỷ để đưa ra hướng điều trị và phục hồi cho con phù hợp nhất. Các triệu chứng của tự kỷ (Autistic Disorder) hoàn toàn tương tự ASD nhưng được biểu hiện với mức độ khác nhau, do đó hầu hết người ta thường dùng hai khái niệm này tương đương nhau. Tự kỷ có thể được đánh giá là dạng chức năng cao của rối loạn phổ tự kỷ và có mức độ trầm trọng nhất. Bệnh nhân thường có những thiếu hụt về cả trí tuệ, nhận thức, hành vi, ngôn ngữ và có khả năng phải phụ thuộc hoàn toàn vào gia đình rất cao. Asperger còn được gọi là hội chứng tự kỷ thông thái bởi các bệnh nhân mắc hội chứng này thường có IQ ở mức độ trung bình hoặc cao hơn trung bình được biểu hiện thông qua một số tài năng nhất định. Chẳng hạn bé có tính toán cực kỳ nhanh, có thể đọc chữ vanh vách hoặc liệt kê hàng ngàn các loại cá từ rất sớm, khoảng 2- 3 tuổi dù chưa được bất cứ ai dậy. Ngoài ra các đánh giá cũng cho thấy người mắc chứng tự kỷ thông thái có khả năng ngôn ngữ trung bình vì vậy nhiều gia đình thường nhầm thưởng còn là thần đồng hay vì đưa con đi khám bệnh. Tuy nhiên người mắc hội chứng Asperger dù có thể đọc chữ nhưng lại không thể hiểu ý nghĩa của nó là gì, có khả năng ngôn ngữ nhưng việc diễn đạt, nói chuyện lại gặp nhiều khó khăn. Đồng thời các nghiên cứu cũng thấy với các bệnh nhân Asperger nếu không sớm được can thiệp thì các kỹ năng sẽ dần mất đi khi lên tới 10 tuổi. Rối loạn phát triển bao quát – không phân định rõ (PDD-NOS) cũng thuộc nhóm rối loạn phổ tự kỷ và được đánh giá ở mức độ nhẹ. Theo đó bệnh nhân PDD – NOS có biểu hiện của tự kỷ hoặc Asperger nhưng không thể đáp ứng toàn bộ các tiêu chuẩn chẩn đoán ở cả hai hội chứng này. Chẳng hạn bệnh nhân có thể biết đọc sớm nhưng lại chậm về mặt ngôn ngữ hay nếu có IQ thấp nhưng khả năng giao tiếp cũng ở trung bình. Đồng thời các triệu chứng cũng xuất hiện khá muộn, thường trong giai đoạn 2- 3 tuổi khiến các phụ huynh dễ dàng nhầm lẫn và chủ quan. Bên cạnh đó thực tế các thuật ngữ PDD-NOS vẫn chưa được phổ biến trong tự kỷ nên đôi khi chính các bác sĩ cũng có thể gặp những nhầm lẫn và gây ra những sai lầm trong điều trị. Autism Spectrum Disorder được các bác sĩ gọi là hội chứng, không phải là bệnh bởi không có thuốc đặc trị. Chính vì vậy các biện pháp can thiệp sớm chỉ có thể kiểm soát một phần các triệu chứng, không thể loại bỏ bệnh hoàn toàn. Mục đích chính của điều trị với bệnh nhân tự kỷ để cải thiện các kỹ năng, nhận thức, khả năng giao tiếp để có thể hòa nhập với cộng đồng, nâng cao chất lượng sống, khả năng học hỏi tiếp thu và giúp bệnh nhân có một tương lai tốt hơn. Theo các bác sĩ, thời điểm tốt nhất để can thiệp trong bệnh nhân tự kỷ là trong 3 năm đầu đời. Trải qua giai đoạn này việc điều trị cho trẻ tự kỷ sẽ khó khăn hơn rất nhiều, trẻ sẽ mất rất nhiều thời gian để học tập các kỹ năng cơ bản hay khả năng tương tác với xung quanh. Gia đình ngay khi phát hiện con có các triệu chứng bất thường cần nhanh chóng tiến hành gặp gỡ trao đổi với bác sĩ để thực hiện các kiểm tra cần thiết. Việc xem xét các dấu hiệu chẩn đoán có thể phải kéo dài trong vài tháng liên tiếp để đảm bảo chính xác nhất. Bên cạnh đó, gia đình cũng nên xem xét đưa con đến các cơ sở giáo dục dành cho trẻ tự kỷ từ sớm để giúp bé có môi trường học tập và phát triển tốt nhất. Mặc dù cha mẹ chính là người bác sĩ, người thầy tốt nhất của bệnh nhân tự kỷ nhưng nếu không có các biện pháp hỗ trợ phù hợp thì cũng rất khó để giúp đỡ con. Chăm sóc và nuôi dạy trẻ tự kỷ không chỉ cần có chuyên môn mà còn cần có sự kiên trì, quyết tâm rất lớn. Những người mắc rối loạn phổ tự kỷ cũng được cho là có một thiên phú nào đó, có thể là độ nhạy với âm thanh, mùi vị, khả năng tính toán hay ghi nhớ tốt. Gia đình và nhà trường cần có các biện pháp phối hợp phát hiện sớm những khả năng đặc biệt của con để tạo môi trường thuận lợi nhất giúp bé phát triển các kỹ năng này và giúp ích cho tương lai. Mặc dù đã được đưa ra rất nhiều thông báo về mức độ nguy hiểm của các dạng rối loạn phổ tự kỷ tuy nhiên thực tế vẫn cho thấy tỷ lệ mắc các hội chứng này vẫn không ngừng tăng lên. Gia đình cần dành thêm nhiều thời gian quan tâm đến con trẻ để sớm phát hiện những vấn đề bất thường ngay từ những giai đoạn đầu đời, qua đó có các biện pháp can thiệp kịp thời nhất để tránh những hệ lụy xấu ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai của trẻ.
Rối loạn phổ tự kỷ
Phổ tự kỷ, còn được gọi là rối loạn phổ tự kỷ (ASD), là một loạt các rối loạn tâm thần thuộc loại rối loạn thần kinh. Nó bao gồm tự kỷ và hội chứng Asperger. Các cá nhân mắc chứng này thường gặp vấn đề với giao tiếp và tương tác xã hội; và các hành vi, sở thích hoặc hoạt động hạn chế và lặp đi lặp lại. Các triệu chứng thường được nhận ra từ một đến hai tuổi. Các vấn đề trong dài hạn có thể bao gồm những khó khăn trong việc thực hiện các nhiệm vụ hàng ngày, tạo và giữ mối quan hệ và duy trì công việc. Nguyên nhân của phổ tự kỷ là không chắc chắn. Các yếu tố rủi ro bao gồm có cha mẹ lớn tuổi, tiền sử gia đình mắc chứng tự kỷ và một số điều kiện di truyền nhất định. Ước tính có từ 64% đến 91% rủi ro là do tiền sử gia đình. Chẩn đoán dựa trên các triệu chứng. DSM-5 xác định lại các rối loạn phổ tự kỷ để bao gồm các chẩn đoán tự kỷ trước đó, hội chứng Asperger, rối loạn phát triển lan tỏa không được chỉ định khác (PDD-NOS) và rối loạn phân rã ở trẻ em.
Có một nghịch lý là, trong khi ở các nền điện ảnh lớn trên thế giới như Mỹ, châu Âu, hay kể cả nền điện ảnh mới nổi gần đây như Trung Quốc, Hàn quốc, phần lớn các đạo diễn nổi tiếng đều tìm cách kể những câu chuyện cá nhân (các “tiểu tự sự”) bằng một ngôn ngữ điện ảnh của riêng mình, thì ở những nền điện ảnh kém phát triển như Việt nam, nhiều đạo diễn lại muốn xây dựng những bộ phim mang tính biểu tượng, với những “nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình”, phản ánh hay đại diện cho các thời kỳ khác nhau của lịch sử Việt nam (các “đại tự sự”). Có lẽ, lịch sử đặc biệt của Việt nam trong thế kỷ qua đã tạo ra một nỗi ám ảnh thường trực cho những người làm phim Việt nam, là mặc cảm cái sáng tạo không bao giờ có đủ độ tàn khốc, nghiệt ngã và trung thực của cái hiện thực, và những câu chuyện cá nhân không bao giờ đủ để nói lên cái mất mát và hi sinh của cả một dân tộc như Việt nam. Mặc cảm đó khiến cho các bộ phim Việt nam thường không dám “cá nhân hóa” các bi kịch, luôn phải dựa vào những khái quát và biểu tượng mang tính áp đặt, và bởi bị ám ảnh bởi một hệ thống các biểu tượng chung nên rất dễ đi vào con đường dập khuôn, thiếu sáng tạo của một hệ thống tư duy cũ kỹ. Bộ phim nhựa mới đây nhất của đạo diễn Lưu Huỳnh, phim Áo lụa Hà đông cũng mắc phải lối mòn đó khi cố tìm mọi cách hình tượng hóa chiếc áo dài trắng thành biểu tượng cho sự bền bỉ, đức hi sinh của người phụ nữ Việt nam, vượt qua thời gian, vượt qua hoàn cảnh đau khổ, chiến tranh tàn khốc, thiên tai bi thảm mà vẫn giữ được nét đoan trang của người con gái Việt, như lời một nhân vật trong phim. Cần nhớ, áo dài mới chỉ xuất hiện ở các đô thị lớn của Việt nam vào những năm 30, và khi ra đời, nó là biểu tượng của sự tân tiến, nữ quyền, khác hẳn với chiếc áo tứ thân và khăn mỏ quạ của truyền thống Việt nam. Chiếc áo dài chỉ bắt đầu được coi là trang phục truyền thống của phụ nữ Việt nam vào nửa sau của thế kỷ XX, và đại diện cho vẻ đẹp gợi cảm, nữ tính và bí ẩn của người phụ nữ Việt nam, hơn là cho đức hi sinh và bền bỉ (vốn là của chiếc áo tứ thân ở miền Bắc hay chiếc áo bà ba ở miền Nam). Lịch sử ngắn ngủi của chiếc áo dài hiện đại và sự thay đổi trong tính biểu tượng của nó đã khiến đạo diễn tỏ ra rất lúng túng trong việc xử lý tính nhất quán của một biểu tượng mang tính kế thừa, dẫn đến những sai lầm về lịch sử chết cười và chết người trong Áo lụa Hà đông. Không biết do yếu kém về hiểu biết lịch sử hay cố tình “cắt may” lịch sử cho vừa với chiếc áo lụa Hà đông mà ở đoạn đầu, chúng ta được cho biết hành động của phim xảy ra năm 1954 ở Hà Đông, nhưng bối cảnh trên phim lại hoàn toàn là nông thôn Việt nam trước cách mạng tháng 8. Bất chấp lịch sử, đạo diễn cho ông Phán (không biết làm chức gì trong làng, vì nếu là phán sự thì thuộc ngạch công chức chứ không phải là ngạch quan chức) được bảo vệ bởi mấy anh lính khố xanh khố đỏ, đầu đội nón chóp tay cầm gậy hèo, mà quên rằng thời điểm 1954 đã là thời điểm của quân đội Liên hiệp Việt Pháp. Cảnh nông dân vùng lên đốt nhà, giết vợ chồng ông Phán, đi rầm rập trên đường đê với đuốc, cuốc xẻnh gậy gộc, với những câu khẩu hiệu về ý thức của quần chúng lao động…vv cũng hoàn toàn là cảnh của Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng 8, thậm chí là của phong trào Xô viết Nghệ tĩnh, chứ không thể là cảnh tại Hà đông vào thời điểm quân đội viễn chinh Pháp sắp rút khỏi Hà nội và quân đội Việt nam sắp tiếp quản thủ đô. Bởi không xử lý được thời gian lịch sử cho hợp với ý đồ của mình nên bố cục của phim rất bất hợp lý. Muốn nhấn mạnh vào tính “thế hệ này truyền sang thế hệ khác” nên thông qua câu chuyện nửa thần thoại nửa hiện thực của bé Hội An, đạo diễn đã kể về xuất xứ của chiếc áo dài: mẹ anh Gù quấn anh trong chiếc áo dài đó để trên đường làng Hà đông khi anh còn nhỏ. Nếu tính giật lùi lại theo mốc thời gian (vì phim đã cho chúng ta biết khi anh Gù và Dần bỏ đi là năm 1954) ta có thể hiểu câu chuyện đó xảy ra khoảng những năm 30. Nhưng chiếc áo dài chỉ mới ra đời vào những năm 30. Muốn tạo một độ lùi về thời gian cho hợp với tính chất của một biểu tượng, nhưng lịch sử của chiếc áo dài lại không cho phép đạo diễn làm chuyện đó, khiến anh không thể khai thác được gì từ quá khứ để người xem thấy được sự liên hệ giữa đức hi sinh và bền bỉ của người mẹ anh Gù chuyển sang thế hệ của Dần. Không xây dựng được tính kế thừa, bộ phim phải tập trung khai thác vào câu chuyện của Dần, với cách kể chuyện dài lê thê, tiết tấu quá chậm chạm, nhất là ở hai phần ba đầu. Và đến đoạn cuối của phim, khi nhân vật Dần đã chết, đạo diễn không còn biết kết thúc câu chuyện của mình ra sao để tạo ra được một mối dây liên hệ liên tục giữa biểu tượng chiếc áo lụa Hà đông của quá khứ đối với đời sống hiện tại. Cũng bởi muốn tạo nên lớp bụi của lịch sử trên biểu tượng của mình, muốn nó “Việt nam” hơn nó vốn có, Áo lụa Hà đông của Lưu Huỳnh đầy rẫy những cảnh phim phong tục dập khuôn nhàm chán, như cảnh Dần đi bắt ốc, cảnh ông Phán hút thuốc phiện, cảnh trai gái làng gặp gỡ nhau, và tất nhiên, không thể thiếu cảnh cô gái quê tắm nước mưa rồi hiến thân cho người mình yêu trong ánh đèn dầu và tiếng nhị não nuột. Hàng loạt chi tiết và mô-típ trong Áo lụa Hà đông của Lưu Huỳnh như được “sao y bản chính” từ Tắt đèn của Ngô Tất Tố hay truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (đến nỗi ta có thể gọi Ao lụa Hà đông là Tắt đèn phần 2 hay làĐời cô Dần mới chính xác), từ những lời đay nghiến của bà chủ với Dần, cảnh anh Gù bị đòn vì ăn cắp thóc cho người nghèo, cho đến cảnh Dần đi làm vú sữa cho ông Thoòng, cảnh sữa của Dần bị đổ cho chó ăn…vv. Không tiết chế mình, nên Lưu Huỳnh rất hay bị cuốn theo rất nhiều những đoạn “trữ tình ngoại đề” làm không liên quan gì đến mạch phim, khiến cho phim bị nát vụn (như cảnh hai người lính Pháp bên đống xác người bị thảm sát bình luận về kết cuộc của bi thảm những người Việt nam muốn độc lập tự do, cảnh ông Thoòng nằm trong lòng Dần trong trí tưởng tượng của anh Gù, cảnh võng lọng của ông Phán tìm thấy anh Gù qua câu chuyện của bé Hội An). Đặc biệt, sự áp đặt thô sơ của tính biểu tượng thể hiện rõ nhất ở cảnh quay “siêu thực” như cảnh anh Gù lao vào ngôi nhà đang cháy của mình để cứu chiếc áo, nhưng khi mang ra lại đang bế Dần, rồi bé Hội An (những người đã chết) mặc áo dài trắng vụt ra khỏi ngôi nhà đang bốc cháy, hay cảnh bé Ngô phất chiếc áo dài trắng như một ngọn cờ trong dòng người chạy nạn. Những ý tưởng tưởng chừng giàu tính “triết học” này thực chất chỉ là giải pháp tung hỏa mù của một cách kể chuyện không thuyết phục được người xem, một cách làm dáng hoàn toàn không cần thiết của đạo diễn. Cần phải ghi nhận sự cố gắng của các diễn viên trong bộ phim, đặc biệt xuất sắc là những diễn viên nhí đóng vai phụ trong vai bé Hội An, bé Ngô, bé Lụt, bé Giàu…. Trương Ngọc Anh cũng đã có vai diễn tốt nhất trong các vai diễn từ trước đến nay của cô. Dù có những trường đoạn cô đóng chưa tốt (như cảnh đem bé Hội An đi chôn, cảnh trước lúc cô chết với vẻ hớn hở không đáng có ở một người mẹ vừa mất con), nhưng trường đoạn cô thất thểu bước ra từ trại giam, vô hồn đuổi theo những mảnh vải đã cắt của tấm áo dài, hay khi lật từng manh chiếu tìm xác bé Hội An là những trường đoạn cô diễn thành công. Đáng tiếc những động tác hình thể trong lao động của nhân vật Dần chưa được đầu tư đúng mứa, cô lại không được hóa trang cho phù hợp với hình ảnh một người mẹ bốn con, nên khuôn mặt của cô không có dấu ấn thời gian của bao vất vả, đau đớn, tủi nhục, mất mát, mà cứ một vẻ đẹp bất biến, với cặp chân mày quá sắc gây cho người xem cảm giác không thật. Quốc Khánh cũng thoát ra được khuôn mặt hài quen thuộc để vào với vai anh Gù, nhưng có cảm giác anh vẫn không chạm được vào chiều sâu của nhân vật, vì diễn xuất của anh không làm người xem thấy cái gánh nặng của cái lưng gù trong nhân vật này (những mặc cảm, trăn trở của anh là mặc cảm, trăn trở của bất cứ người đàn ông nghèo sống kiếp nô bộc bình thường nào, không có những dằn vặt của một người tàn tật- vậy thì tại sao lại phải cố đặt đặt lên lưng nhân vật một cái bướu gù?). Nhưng cái “tiêu diệt” những cố gắng đáng khích kệ của các diễn viên là những câu thoại sáo rỗng và “kịch” dầy đặc trong phim, khiến cho họ trở nên giả tạo, thiếu tự nhiên (ai có thể tưởng tượng được một cô gái đi ở đợ từ bé lại nói năng như một tiểu thư mới bước ra từ trong sách của Tự lực văn đoàn, hay một một người đàn ông tàn tật, thất học, viết cái tên mình còn chưa xong mà khi nhớ về người vợ đã qua đời lại trầm ngâm “giờ này em ở đâu, thiên đường hay địa ngục, cầu cho nơi đấy được bình yên!”). Như nhiều phim của các đạo diễn Việt kiều khác Áo lụa Hà đông có nhiều cảnh quay đẹp, nhưng không cần thiết. Đạo diễn Lưu Huỳnh đã sử dụng rất nhiều đại cảnh quay công phu, trong đó có cả một cảnh quay từ trên máy bay xuống, chỉ để diễn tảhành trình vào Nam “ngày đi đêm nghỉ, đói ăn khát uống, vượt suối băng rừng”của đôi vợ chồng Gù- Dần trên đôi chân của chính mình, trong khi ai cũng biết vào thời điểm ấy (1954), vào Nam có nghĩa là xuống Hải phòng lên tầu há mồm của quân đội viễn chinh Pháp. Hình ảnh trong Áo lụa Hà đông chỉ biết chăm chút cho những góc quay đẹp về “non sông cẩm tú Việt nam” hoặc như cảnh cào hến trên sông, mà không cần biết cảnh quay đẹp như tranh đó có phản ánh được nội dung muốn truyền tải hay không. Đành rằng với điện ảnh hình đẹp là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công của bộ phim, nhưng tư duy quay “đẹp” kiểu như vậy không giúp ích được bao nhiêu cho giá trị của bộ phim, mà còn khiến nó càng bình bình dàn trải. Áo lụa Hà đông thiếu vẻ đẹp của một câu chuyện bình dị, được kể bằng một thứ ngôn ngữ điện ảnh mộc mạc và dồn nén của Mùa len trâu, thiếu một cái kết độc đáo của Thời xa vắng…Thành công của âm nhạc trong phim với tài năng của nhạc sĩ Đức Trí, diễn xuất hồn nhiên của các diễn viên phụ nhí và một vài cảnh xử lý thành công của đạo diễn (như xử dụng phương pháp đồng hiện trong cảnh cắt áo dài cho Hội An) không đủ để làm nên một bộ phim hay. Có lẽ chừng nào đạo diễn còn quá lệ thuộc những mô-típ dập khuôn, vào những biểu tượng đã bị khai thác cũ mòn, còn không tự tin bởi sức quyến rũ của những câu chuyện cá nhân, chừng đó đường đi tới trái tim khán giả hãy còn xa lắm.
Áo lụa Hà Đông (phim)
Áo lụa Hà Đông (tựa tiếng Anh: The White Silk Dress) là một bộ phim chiến tranh - tâm lý - tình cảm Việt Nam dài 135 phút của đạo diễn Lưu Huỳnh thực hiện, công chiếu vào năm 2006. Phim có sự tham gia của diễn viên, người mẫu Trương Ngọc Ánh. Bộ phim đã giành giải Cánh diều vàng 2006 hạng mục "Phim truyện nhựa xuất sắc nhất". Phim lấy bối cảnh năm 1954 tại tỉnh Hà Đông khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang dần tiến tới hồi kết. Khi những người nông dân nổi dậy giết địa chủ, tiến tới lật đổ chính quyền bù nhìn, Dần (Trương Ngọc Ánh) và Gù (NSUT Quốc Khánh) - hai người hầu nhà địa chủ, tất tả dắt díu nhau vào Nam, mong tìm được nơi để họ có thể sống yên ổn bên nhau, thoát khỏi kiếp tôi tớ cực khổ đọa đày. Tài sản quý giá nhất hai người mang theo là chiếc áo dài bằng lụa Hà Đông mà Gù lấy làm quà cưới Dần. Đó chính là chiếc áo quấn quanh người chú bé Gù khi người địa chủ tìm thấy chú nằm trơ trọi dưới gốc cây đa đầu làng.
Thẩm Mỹ Viện (Beauty Salon) là một cơ sở kinh doanh chuyên về chăm sóc và điều trị da, trang điểm sắc đẹp, ngoại hình cho cả nam và nữ cùng các loại mỹ phẩm điều trị. Đây là nơi làm đẹp chuyên sâu, tư vấn các vấn đề liên quan đến chăm sóc sắc đẹp. Ngoài ra, Thẩm Mỹ Viện còn được biết đến là nơi kinh doanh về các phương pháp thẩm mỹ, làm đẹp có tác động vào cơ thể bằng các máy móc thiết bị công nghệ hiện đại. Khi bạn không hài lòng về vẻ bề ngoài của bản thân, bạn có thể đến các Thẩm Mỹ Viện để nhan sắc và thay đổi ngoại hình rõ rệt. Thẩm Mỹ Viện cung cấp hầu hết các dịch vụ liên quan đến thẩm mỹ và làm đẹp, từ chăm sóc da mặt, đến các liệu pháp oxy, tắm trắng, hút mỡ, căng da, cắt mí,…để các đường nét trên khuôn mặt hài hòa hơn. Cụ thể, bao gồm các danh mục sau đây:. Phục vụ liệu trình mát xa (massage) là một phương pháp điều trị làm đẹp phổ biến, với các thủ thuật làm đẹp cho da, có sử dụng những sản phẩm làm đẹp và để thư giãn, tạo cảm giác thoải mái cho khách hàng. Thẩm Mỹ Viện cung cấp các liệu trình trị mụn – thâm – sẹo, trị nám, tàn nhang phù hợp với từng loại da và theo từng cơ địa của mỗi người. Bằng các phương pháp tân tiến, hiệu quả và an toàn. Chẳng hạn: trị thâm nám bằng công nghệ ELight, Vi kim Tảo biển, hay công nghệ Laser Carbon. Với chu trình từng bước đạt chuẩn Y khoa, các liệu trình ở các Thẩm Mỹ Viện có thể giải quyết triệt để các vấn đề về da lâu năm, lấy lại vẻ đẹp tự nhiên cho khuôn mặt. Hiện nay, sự xuất hiện tràn lan của các dòng mỹ phẩm được quảng cáo rầm rộ, tuy nhiên lại rất khó để xác định xem nó có an toàn và phù hợp hay không. Do đó, có nhiều trường hợp da gặp những sản phẩm có chứa các kim loại nặng như paraben, chì, thủy ngân, asen. Các chất này khiến da hay bị mẩn đỏ và rất nhạy cảm, nguyên nhân có thể do trên da tồn đọng quá nhiều độc tố chì, làm cho khả năng miễn dịch của da yếu đi. Đồng thời cũng để lại những vấn đề về da mặt kèm theo. Khi chúng ta càng trưởng thành, thời gian trôi qua, các sợi collagen và elastin trong lớp hạ bì bị phá vỡ, làm cho da lão hóa nhanh chóng. Nhan sắc dễ tàn phai theo năm tháng. Để ức chế quá trình lão hóa da, các Thẩm Mỹ Viện cung cấp các dịch vụ tái tạo da, tăng sinh collagen, bổ sung các dưỡng chất cho da như vitamin C, E vào sâu lỗ chân lông. Nâng cao tính đàn hồi và độ săn chắc cho da mặt. Chẳng hạn các liệu trình như: ủ mầm tái tạo da, liệu trình chạy vitamin C, cấy phấn, cấy tảo xoắn, cấy hồng sâm…. Các liệu trình tắm trắng Baby Face, ủ trắng, tắm trắng bằng sữa, vừa có thể nâng tone cho mặt, vừa có thể tắm trắng cho body. Các liệu trình này để thấy được hiệu quả của nó thì cần một thời gian tầm 3-6 tháng với các buổi điều trị đan xen nhau. Bạn đừng mong chờ kết quả rõ ràng chỉ sau 1 buổi điều trị. Ngoài ra, còn cung cấp dịch vụ khá phổ biến là liệu trình hút mỡ. Với sự bận rộn trong công việc và cuộc sống như hiện nay, các chị em văn phòng thường tự ti với vóc dáng chảy xệ do ngồi nhiều, ít vận động cơ thể, mỡ tích tụ ở bụng và đùi. Biện pháp cơ bản là đi hút mỡ thừa ra ngoài bằng các máy móc tân tiến nhất. Các dạng tiểu phẫu là dạng cao hơn ở Thẩm Mỹ Viện. Muốn có được giấy phép hành nghề kinh doanh các dịch vụ tiểu phẫu, Thẩm Mỹ Viện phải có một quy trình an toàn, uy tín. Các dạng tiểu phẫu như:. Nhấn mí: thông thường nhấn mí sẽ giải quyết được các vấn đề mắt 1 mí, mí lót, mí lần, mắt mí không đều. Nhấn mí (bấm mí) sẽ tạo hình mí đôi, giúp khách hàng có được đôi mắt với hai hàng mí to, đẹp và rõ nét. Tạo điểm nhấn trên khuôn mặt. Nâng mũi: rất nhiều chị em không hài lòng về hình dạng hay liên quan đến phong thủy, nên việc nâng mũi ngày càng phổ biến hơn. Các biện pháp để nâng mũi: ghép sụn tự thân, ghép sụn silicon, tiêm filler (chất làm đầy). Nâng mũi có thể tăng khí chất và nhan sắc của bạn so với trước, làm cho khuôn mặt hài hòa và ngũ quan được rõ nét hơn. Các dịch vụ ở Thẩm Mỹ Viện hầu hết có tác động đến cơ thể của chúng ta, đặc biệt là chăm sóc da mặt và các dạng tiểu phẫu. Do vậy, chúng ta cần phải cẩn thận khi lựa chọn một Thẩm Mỹ Viện để làm đẹp. Nếu chúng ta đến những Thẩm Mỹ Viện không uy tín hay Thẩm Mỹ Viện ma thì không những không giải quyết được vấn đề gì mà còn làm da mặt trầm trọng thêm. Có nhiều trường hợp chị em đến các Thẩm Mỹ Viện không đạt tiêu chuẩn chất lượng, làm chui. Các Thẩm Mỹ Viện này tư vấn cam kết có kết quả sau 1-2 buổi điều trị với giá liệu trình “cắt cổ”. Cuối cùng, tiền mất tật mang, họ lan truyền niềm tin là Thẩm Mỹ Viện nào cũng lừa đảo hay đi tư vấn với bạn bè, người thân là không nên đi Thẩm Mỹ Viện. Vậy khi muốn tới trải nghiệm dịch vụ Thẩm Mỹ Viện nào, chúng ta cần xem xét rằng đó có phải là một nơi uy tín, an toàn và đáng tin cậy hay không. Bạn có thể tham khảo một số tiêu chuẩn sau:. Cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại, đạt tiêu chuẩn của Sở Y tế về những quy định về ngành làm đẹp. Các bác sĩ/chuyên viên phải có đủ bằng cấp liên quan, dày dặn kinh nghiệm trong nghề và được đào tạo bài bản qua các trường uy tín. Công nghệ làm đẹp mà Thẩm Mỹ Viện sử dụng là công nghệ thật, đã đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền hoặc được chuyển giao từ các nước phát triển có chứng nhận hợp pháp. Trong quá trình điều trị, Thẩm Mỹ Viện phải làm đúng quy trình và đảm bảo an toàn, đáp ứng tiêu chuẩn về sức khỏe, những điều kiện cần và đủ để mang lại sự an toàn cho khách hàng đang trải nghiệm dịch vụ tại Thẩm Mỹ Viện. Các review, đánh giá của các khách hàng đã từng đến Thẩm Mỹ Viện mà bạn đang nhắm đến. Những câu chuyện chữa trị thành công của họ như thế nào và số lượng khách hàng đến Thẩm Mỹ Viện có ngày càng nhiều hay không. Giấy chứng nhận ĐKKD số 3702598386 do Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.HCM cấp ngày 07/09/2017
Thẩm mỹ viện
Thẩm mỹ viện hay tiệm làm đẹp hay mỹ viện (tiếng Anh: Beauty Salon) là một cơ sở kinh doanh chuyên về dịch vụ chăm sóc, trang điểm sắc đẹp, ngoại hình của nam và nữ với mỹ phẩm phục vụ điều trị cho nam giới và phụ nữ, thẩm mỹ viện còn có chức năng tư vấn các vấn đề liên quan đến chăm sóc sắc đẹp. Các biến thể khác của loại hình kinh doanh này bao gồm các tiệm làm tóc, tiệm làm móng và spa. Thẩm mỹ viện cung cấp dịch vụ tổng quát liên quan đến sức khỏe, sắc đẹp từ thẩm mỹ da mặt, chăm sóc bàn chân, liệu pháp oxy, tắm bùn, và vô số các dịch vụ khác.
Đối xứng (từ tiếng Hy Lạp συμμετρία symmetria “hòa hợp về kích thước, tỷ lệ, sắp xếp”) trong ngôn ngữ hàng ngày đề cập đến một cảm giác tỷ lệ hài hòa đẹp và cân đối; chất lượng được tạo thành từ các phần tương tự chính xác với nhau hoặc xung quanh một trục. Trong toán học, “đối xứng” có định nghĩa chính xác hơn, đó là một đối tượng bất biến dưới một phép biến đổi, chẳng hạn như phản xạ qua gương (đối xứng trục), nhưng trong đó có cả biến đổi khác nữa. Mặc dù hai ý nghĩa của “đối xứng” này đôi khi có thể coi là khác nhau, nhưng có liên quan, vì vậy chúng đều được thảo luận ở đây. Có thể quan sát được tính đối xứng trong toán học khi xét tương ứng với sự biến đổi thời gian; như một mối quan hệ không gian; thông qua biến đổi hình học như biến đổi tỷ lệ, sự phản xạ và phép quay; thông qua các loại biến đổi hàm số; và là một khía cạnh của các đối tượng trừu tượng, các mô hình lý thuyết, ngôn ngữ, âm nhạc và thậm chí cả kiến thức. Bài viết này mô tả đối xứng từ bốn khía cạnh: trong hình học, loại đối xứng quen thuộc nhất đối với nhiều người nói chung, trong toán học như một tổng thể; trong bối cảnh liên quan đến khoa học và thiên nhiên; và trong nghệ thuật, bao gồm kiến trúc, nghệ thuật và âm nhạc. Các loại đối xứng quen thuộc nhất đối với nhiều người là đối xứng hình học. Một số hình học đối tượng có đối xứng nếu có một “hoạt động” hoặc “chuyển đổi” để các hình hay đối tượng trung khít với chính nó; và người ta nói rằng các đối tượng là bất biến theo biến đổi trên. Ví dụ, một hình tròn quay tại tâm của nó sẽ có cùng hình dạng và kích thước như nhau, tất cả điểm ban đầu và sau khi chuyển đổi sẽ không thể phân biệt. Do vậy Một hình tròn được cho là đối xứng khi quay hoặc có đối xứng quay. Nếu phép đối xứng là sự phản xạ qua một mặt phẳng, hình ảnh được cho là có tính đối xứng phản xạ hoặc đối xứng trục. Hơn nữa, một hình hay đối tượng có thể có nhiều hơn một trục đối xứng. Các loại đối xứng có thể có đối với một đối tượng hình học phụ thuộc vào các thiết lập của biến đổi hình học có sẵn, và những thuộc tính đối tượng nào là không thay đổi sau khi thực hiện phép chuyển đổi. Bởi vì hàm hợp của hai phép biến đổi cũng là một phép biến đổi và mỗi chuyển đổi đều có chuyển đổi nghịch đảo của nó, nên tập hợp các biến đổi trên một đối tượng là một nhóm toán học. Các nhóm phổ biến nhất của phép biến đổi áp dụng cho các đối tượng được gọi là nhóm Euclide của “phép đẳng cự” – là các biến đổi duy trì khoảng cách trong không gian thường là hai chiều hoặc ba chiều (ví dụ, trong hình học phẳng hoặc hình học không gian Euclide). Những phép đẳng cự bao gồm phản xạ, quay, tịnh tiến, và sự kết hợp của các phép biến đổi cơ bản trên. Theo một phép chuyển đổi đẳng cự, một đối tượng hình học được cho là đối xứng nếu sau khi chuyển đổi, các đối tượng giống hệt các đối tượng trước khi chuyển đổi. Một đối tượng hình học thường là đối xứng chỉ trong một tập hợp con hoặc “nhóm” của tất cả các phép biến đổi đẳng cự. Các loại nhóm con của phép biến đổi đẳng cự được mô tả dưới đây, tiếp theo là các loại nhóm chuyển đổi và các loại của đặc điểm bất biến có thể có trong hình học. Một tam giác cân với đối xứng gương. Đường gạch đứt là trục đối xứng. Gấp tam giác theo trục đối xứng cho kết quả hai nửa tam giác trùng khít nhau. Đối xứng phản xạ, đối xứng gương, đối xứng qua gương, hoặc đối xứng song phương là đối xứng liên quan đến phản xạ. Trong không gian một chiều, có một điểm đối xứng; không gian hai chiều có một trục đối xứng, và trong không gian ba chiều có một mặt phẳng đối xứng. Một đối tượng hoặc hình giống hệt hình ảnh sau khi chuyển đổi của nó được gọi là hình có đối xứng gương. Trục đối xứng của một hình trong không gian hai chiều là một đường thẳng nếu một đường vuông góc được dựng, bất kỳ hai điểm nằm trên đường vuông góc đều ở khoảng cách bằng nhau so với trục đối xứng. Nói cách khác là nếu hình được gấp lại dọc theo trục đối xứng, hai nửa của hình sẽ giống hệt nhau: hai nửa là hình ảnh phản chiếu của nhau. Vì vậy, một hình vuông có bốn trục đối xứng, bởi vì có bốn cách khác nhau để gấp nó thành hai hình trùng khít. Một hình tròn có vô số trục đối xứng đi qua tâm của nó, với cùng lý do trên. Nếu chữ T được phản xạ qua một trục thẳng đứng, nó vẫn là chính chữ T. Việc này đôi khi được gọi là đối xứng theo chiều dọc. Có thể sử dụng một cách nói rõ ràng; ví dụ, “T có một trục đối xứng dọc” hoặc “T là đối xứng trái-phải”. Các tam giác có đối xứng gương là tam giác cân, các tứ giác có đối xứng gương là hình thoi và hình thang cân. Đối với mỗi trục hoặc mặt phẳng đối xứng, các nhóm đối xứng là đẳng cấu với Cs (xem nhóm điểm trong không gian ba chiều), một trong ba loại nghịch đảo bậc hai, do đó nó là đại số đẳng cấu với C2. Các miền cơ bản là một nửa mặt phẳng hay nửa không gian. Hai tam giác cho thấy đối xứng điểm trên mặt phẳng. Tam giác A’B’C’ có thể được tạo ra từ tam giác ABC bằng cách quay 180° quanh điểm O. trong một hệ thống tọa độ Descartes nhất định. Điều này phản ánh không gian trên một (‘m’ – k)-chiều không gian con. Nếu k = m thì một sự thay đổi như vậy được gọi là một đối xứng điểm. Trên mặt phẳng (m = 2) một đối xứng điểm tương đương với một phép quay 180°, xem dưới đây. Đối cực đối xứng là một cái tên khác của một đối xứng điểm qua điểm gốc. Đối xứng phản xạ như trên chỉ bảo toàn hướng khi và chỉ khi k là một số chẵn. Điều này có nghĩa rằng đối với m = 3(cũng như cho các số m lẻ khác) một đối xứng điểm thay đổi định hướng của không gian, giống như một hình ảnh đối xứng qua gương. Đó là lý do tại sao trong vật lý thuật ngữ P-đối xứng được sử dụng cho cả đối xứng điểm và đối xứng gương (P là viết tắt của parity – tính chẵn lẻ. Vì một đối xứng điểm trong không gian ba chiều thay đổi một hệ trục tọa độ thuận tay trái vào một hệ trục tọa độ thuận tay phải, đối xứng điểm cũng được gọi là đối xứng trái-phải.
Nhóm đối xứng
Trong lý thuyết nhóm, nhóm đối xứng của một đối tượng (hình ảnh, tín hiệu, v.v.) là nhóm của tất cả các phép biến đổi hình học theo đó đối tượng là bất biến với phép hàm hợp như là phép toán của nhóm. Đối với không gian có khoảng cách, nó là một nhóm con của nhóm đồng đẳng của không gian có liên quan. Nếu không có quy định khác, bài viết này xem xét các nhóm đối xứng trong hình học Euclid, nhưng khái niệm này cũng có thể được nghiên cứu trong các ngữ cảnh tổng quát như mở rộng dưới đây. Các "đối tượng" có thể là hình hình học, hình ảnh và mẫu lặp lại, chẳng hạn như mẫu hình giấy dán tường. Định nghĩa có thể được thực hiện chính xác hơn bằng cách xác định hình ảnh hoặc mô hình có nghĩa là gì, ví dụ: một hàm của vị trí với các giá trị trong một bộ màu sắc. Đối với sự đối xứng của các vật thể vật lý, người ta cũng có thể muốn xem xét thêm thành phần vật lý của chúng. Nhóm đẳng hướng của không gian tạo ra một nhóm hành động cho các đối tượng trong đó.
Sốt xuất huyết Dengue là bệnh truyền nhiễm gây ra do vector truyền qua vết đốt từ muỗi vằn mang mầm bệnh. Virus gây bệnh sốt xuất huyết Dengue có 4 loại tương ứng với 4 tuýp huyết thanh là DEN-1, DEN-2, DEN-3 và DEN-4. Sốt xuất huyết Dengue (Dengue hemorrhagic fever, DHF) là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, lây truyền qua vết đốt của muỗi vằn mang virus gây bệnh (giống muỗi Aedes aegypti). Bệnh thường bùng phát thành dịch vào mùa mưa, chủ yếu tập trung tại những khu vực có điều kiện vệ sinh môi trường chưa được đảm bảo, nhiều ao nước đọng. Đây là môi trường thuận lợi cho sự sinh sôi và phát triển của muỗi. Trước đây, trẻ em là đối tượng chủ yếu mắc sốt xuất huyết Dengue, nhưng hiện tại rất nhiều trường hợp người lớn cũng mắc bệnh và nguy cơ tử vong khá cao. Cho đến nay, chưa có thuốc đặc trị sốt xuất huyết Dengue. Nếu bệnh nhẹ, bệnh nhân có thể tự khỏi sau khoảng một tuần. Đối với những trường hợp nặng, việc điều trị bệnh chủ yếu là hạ sốt, truyền dịch và chống sốc tích cực. Những triệu chứng của sốt xuất huyết Dengue tương tự như cúm, thường kéo dài khoảng từ 2 - 7 ngày. Sau khi bị đốt bởi muỗi mang mầm bệnh, các triệu chứng thường chưa xuất hiện ngay mà theo sau bởi một thời gian ủ bệnh từ 4 đến 10 ngày. Sốt cao (40°C) là biểu hiện điển hình của sốt xuất huyết, kèm theo ít nhất hai trong số những triệu chứng sau, bao gồm:. Giai đoạn biến chứng nghiêm trọng thường xảy ra vào ngày thứ 3 - 7 sau khi khởi phát triệu chứng. Vào lúc này, thân nhiệt giảm, song điều đó không có nghĩa là người bệnh đang hồi phục. Ngược lại, bệnh nhân cần được tích cực theo dõi, vì bệnh có nguy cơ tiến triển thành sốt xuất huyết Dengue thể nặng, đặc biệt với những dấu hiệu cảnh báo như sau:. Những triệu chứng này có thể dẫn đến tử vong nếu bệnh nhân không được điều trị đúng cách và kịp thời. Sốt xuất huyết Dengue gây ra bởi 1 trong 4 loại huyết thanh virus gần gũi nhưng khác nhau về mặt kháng nguyên, được ký hiệu là DEN-1, DEN-2, DEN-3 và DEN-4. Loại virus này thuộc chi Flavivirus. Bệnh nhân nhiễm một loại virus sẽ tạo nên miễn dịch suốt đời với loại virus đó, tuy nhiên cơ thể chỉ có thể chống lại chính loại huyết thanh virus đó mà thôi. Chính vì vậy, bệnh nhân có thể mắc sốt xuất huyết Dengue nhiều hơn một lần trong đời do mắc phải các loại huyết thanh virus khác nhau, nhất là những người sống trong vùng lưu hành dịch Dengue. Sự lây lan về mặt địa lý của vector truyền bệnh là muỗi và cả virus gây bệnh dẫn đến sự tăng cao tỷ lệ bệnh trong hàng chục năm qua cũng như khả năng bùng phát dịch và diễn biến ngày càng phức tạp do nhiều loại huyết thanh virus Dengue khác nhau ở những đô thị trong vùng nhiệt đới. Muỗi vằn được xem là trung gian truyền bệnh chủ yếu. Loại muỗi này thường tập trung ở những nơi bùn lầy, nước đọng xung quanh nhà, những vùng ẩm thấp, tối tăm trong nhà. Nếu nghi ngờ mắc phải sốt xuất huyết Dengue, bệnh nhân cần đến cơ sở y tế thăm khám. Để chẩn đoán khả năng mắc bệnh, bác sĩ sẽ dựa vào:. Hỏi tiền sử dịch tễ bệnh nhân đã từng đi, đến, ở vùng lưu hành dịch sốt xuất huyết. Kết quả xét nghiệm máu làm xét nghiệm tìm kháng nguyên Dengue NS1 từ ngày tứ 3 đến ngày thứ 5 và kháng thể virus Dengue (Dengue IgM và Dengue IgG). Việc chẩn đoán bệnh sốt xuất huyết có thể gặp nhiều khó khăn, bởi vì các dấu hiệu của bệnh có thể dễ nhầm lẫn với những bệnh lý khác cũng có triệu chứng tương tự, chẳng hạn như bệnh sốt rét, sốt virus hoặc sốt thương hàn. Khoa nhi tại hệ thống Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là địa chỉ tiếp nhận và thăm khám các bệnh lý mà trẻ sơ sinh cũng như trẻ nhỏ dễ mắc phải: Sốt virus, sốt vi khuẩn, viêm tai giữa, viêm phổi ở trẻ,.Với trang thiết bị hiện đại, không gian vô trùng, giảm thiểu tối đa tác động cũng như nguy cơ lây lan bệnh. Cùng với đó là sự tận tâm từ các bác sĩ giàu kinh nghiệm chuyên môn với các bệnh nhi, giúp việc thăm khám không còn là nỗi trăn trở của các bậc cha mẹ. Nguyễn Thị Nhật đã có hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực thận nhân tạo, và trong lĩnh vực truyền nhiễm, khám và quản lý các bệnh nhân mắc bệnh thận và các bệnh truyền nhiễm. Hiện đang là Bác sĩ Chuyên khoa truyền nhiễm Khoa Nội tổng hợp Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hải Phòng. Sốt xuất huyết Dengue là bệnh truyền nhiễm rất thường gặp ở các nước nhiệt đới như Việt Nam và được chẩn đoán xác định dựa vào xét nghiệm kháng nguyên NS1 Ag. Tuy có độ chính xác cao nhưng . Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), các căn bệnh lan truyền từ muỗi hàng năm làm khoảng 750.000 người chết trên toàn thế giới, trong đó đa số là trẻ em. Dưới đây là một số bệnh do . Bác sĩ cho cháu hỏi khi bị sốt xuất huyết Dengue thì có nên điều trị tại nhà không? Việc điều trị triệu chứng của bệnh đến nào thì ngưng được? Có nên sử dụng tổ yến để bổ sung . Con em được 14 tháng tuổi, bé bị ho với sổ mũi khò khè, mấy hôm nay, em cho bé uống thuốc nhưng hôm nay bé bị nổi mẩn đỏ quanh bụng, bé không bị sốt. Bác sĩ cho em . Sau khi xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu và Dengue NS1, kết quả Dengue NS1 là âm tính, kết quả tế bào máu có dấu hiệu của bệnh của ngày thứ 2 xuất hiện dấu hiệu bệnh.
Bệnh dengue
Sốt xuất huyết Dengue (IPA: , tiếng Việt thường đọc là Đăng-gơ) (dengue fever, DF), Sốt xuất huyết Dengue (dengue hemorrhagic fever, DHF) và biểu hiện nặng nề nhất của bệnh là Hội chứng sốc Dengue (Dengue Shock Syndrome, DSS) đều được gây nên bởi một trong bốn loại huyết thanh virus gần gũi nhưng lại khác nhau về mặt kháng nguyên là DEN-1, DEN-2, DEN-3 và DEN-4. Nhiễm một loại virus có khả năng tạo nên miễn dịch suốt đời nhưng chỉ chống lại chính loại huyết thanh virus đó mà thôi. Chính vì vậy mà những người sống trong vùng lưu hành dịch Dengue có thể mắc bệnh nhiều hơn một lần trong đời. Sốt Dengue và Sốt xuất huyết Dengue chủ yếu là bệnh ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nhiễm virus Dengue gây nên triệu chứng lâm sàng khác nhau tùy từng cá thể. Bệnh có thể chỉ biểu hiện như một hội chứng nhiễm virus không đặc hiệu hoặc bệnh lý xuất huyết trầm trọng và đưa đến tử vong (1). Trong bài này, thuật ngữ Dengue được sử dụng để chỉ chung cho ba thể bệnh nêu trên. Khi nói đến từng thể riêng biệt thì tên chính xác của thể bệnh đó sẽ được sử dụng.
Sự phát triển như vũ bão của công nghệ trong thời đại 4.0. Buộc các nhà phát triển phải không ngừng học hỏi những xu hướng mới. Để bắt kịp sự đổi mới trong công nghệ Docker ra đời là cứu cánh tuyệt vời cho việc thiết kế, phát triển ứng dụng. Giúp triển khai các ứng dụng một cách dễ dàng nhất. Vậy Docker là gì và tại sao Docker lại quan trọng như vậy? Hãy dành chút thời gian cùng chúng tôi để tìm hiểu tổng quan về Docker ngay chia sẻ dưới đây. Docker được biết đến là một công cụ hữu ích. Được thiết kế để phục vụ cho việc tạo và triển khai, chạy các ứng dụng. Bằng cách sử dụng các container cho phép nhà phát triển đóng gói ứng dụng. Với mọi phần cần thiết nhất và gửi tất cả chúng dưới dạng một package. Cũng nhờ vào những container docker này mà ứng dụng sẽ chạy tốt trên các máy Linux khác. Trên bất kể các cài đặt, tùy chỉnh khác với máy được sử dụng trong viết và kiểm tra code. Tuy nhiên điểm khác biệt là Docker cho phép ứng dụng sử dụng cùng một nhân Linux. Chỉ yêu cầu những ứng dụng này được vận chuyển những thứ chưa được chạy trên máy chủ. Nhằm tăng hiệu suất, giảm kích thước đáng kể của ứng dụng. Docker là một mã nguồn mở nên việc đóng góp và mở rộng là không giới hạn. Đáp ứng tốt nhu cầu riêng nếu cần những tính năng bổ sung không có sẵn. Câu hỏi Docker là gì đã được giải đáp phía bên trên. Vậy Docker gồm có những thành phần chính nào? Docker được thiết kế với 3 thành phần chính bao gồm:. Cho phép người dùng đóng gói các ứng dụng. Cũng như tạo và khởi chạy Docker container từ những Docker image. Trong một Docker image có chứa các OS và môi trường lập trình đã được cài đặt sẵn. Người dùng cũng có thể tải các image từ người khác. Thành phần này là nơi diễn ra hoạt động upload. Chia sẻ các image Docker mà mình có (khoảng 300.000 image). 3 thành phần này hoạt động bổ trợ cho nhau. Làm nên một ứng dụng Docker hoàn hảo như mong đợi của người dùng. Với những tính năng hữu ích và được thiết kế hết sức thông minh theo xu hướng công nghệ mới. Hiện tại, Docker là công cụ đóng vai trò rất quan trọng. Mang đến lợi ích cho cả các developer cũng như các quản trị viên của hệ thống. Làm cho Docker trở thành một trong những thành phần quan trọng của nhiều công cụ DevOps. Sử dụng Docker, cho phép họ có thể tập trung vào code. Mà không cần lo lắng đến hệ thống cuối mà nó sẽ chạy. Cho phép các developer và các quản trị viên bắt đầu tốt. Bằng việc sử dụng một trong hàng ngàn những chương trình đã được cài đặt trong bộ nhớ. Giống như một phần ứng dụng của họ. Không những thế, công cụ Docker còn rất hữu dụng với các Operation. Bởi nó mang lại sự linh hoạt, khả năng giảm được số lượng hệ thống nhờ chi phí thấp. Docker được tạo ra với mục đích tạo và triển khai, chạy các ứng dụng. Vì vậy, công cụ này rất quan trọng bởi chúng mang lại nhiều lợi ích thiết thực:. Sự ra đời của Docker có khả năng hỗ trợ quá trình phát triển nhanh chóng. Bằng cách giúp cho các nhà phát triển được làm việc trong một môi trường tiêu chuẩn hóa. Sử dụng các container cục bộ để cung cấp ứng dụng và các dịch vụ. Docker container là nền tảng cho phép khối lượng công việc di động cao. Có thể chạy mượt mà trên máy tính xách tay của nhà phát triển. Chạy trên máy vật lý, máy ảo trong các trung tâm dữ liệu. Và cả trên những dịch vụ của nhà cung cấp đám mây hoặc trong nhiều môi trường khác. Tính chất di động này của Docker giúp dễ dàng quản lý tốt khối lượng công việc. Giúp mở rộng và thu hẹp những ứng dụng, dịch vụ theo yêu cầu. Tính hữu dụng của Docker là cho phép chạy nhiều khối lượng công việc trên cùng một phần cứng. Bởi tính chất của Docker chính là nhẹ và nhanh. Cung cấp đến người dùng giải pháp thay thế khả thi nhất. Mang lại hiệu quả cao về chi phí cho máy ảo dựa trên hypervisor. Có thể tận dụng tối đa nguồn tài nguyên đang có. Phục vụ tốt nhất cho mọi mục đích kinh doanh. Đây là một giải pháp tuyệt vời cho những môi trường có mật độ triển khai vừa và nhỏ. Tiết kiệm tài nguyên hơn. Nếu như container LXC thường chỉ được tham chiếu trên các cấu hình máy cụ thể. Thì Docker container chỉ cần chạy mà không cần cải biến trên máy tính để bàn. Chạy tốt trên cả các trung tâm dữ liệu và bất kỳ môi trường đám mây nào. Sử dụng Docker container chỉ với một tiến trình mới vẫn có thể chạy trong mỗi container. Giúp cho chúng ta có thể xây dựng một ứng dụng tiếp tục chạy. Trong khi có một trong số những phần khác của nó đã bị gỡ xuống. Vì lý do để cập nhật hay sửa chữa. Ngoài việc Docker có thể tự động tạo ra các container dựa trên mã nguồn ứng dụng. Docker còn cho phép theo dõi những phiên bản của image container. Có thể quay trở lại những phiên bản trước. Theo dõi được việc ai đã tạo ra phiên bản này và cách thức tạo ra như thế nào. Thậm chí nó còn cho phép tải lên các delta giữa phiên bản hiện có và phiên bản mới. Chính thư viện Docker được chia sẻ rộng rãi. Do đó tạo cơ hội cho các nhà phát triển truy cập sổ đăng ký mã nguồn mở. Trong đó có chứa hàng ngàn container do người dùng đóng góp. Vì thế Docker tiếp tục lan rộng và trở thành công cụ tuyệt vời trong tương lai. Docker là công cụ hữu ích trong mọi trường hợp. Trước khi quyết định có nên sử dụng Docker hay không? Bạn phải căn cứ vào hai trường hợp dưới đây:. Tuy vậy, tùy từng công ty mà có thể các DevOps engineer không nhất thiết phải biết sử dụng Docker. Vẫn có một số công ty vẫn đang dung VPS máy chủ ảo. Chỉ dừng lại ở mức độ nên biết sử dụng chứ không bắt buộc. Công cụ Docker hoạt động bằng việc cung cấp phương thức tiêu chuẩn để chạy mã. Docker được xem là hệ điều hành dành cho các container. Công việc này tương tự như cách máy ảo ảo hóa. Loại bỏ nhu cầu quản lý trực tiếp phần cứng của máy chủ. Các container ảo hóa hệ điều hành máy chủ. Docker sẽ được cài đặt trên từng máy chủ và cung cấp những lệnh đơn giản. Bạn có thể sử dụng để dựng và khởi động hay dừng container. Sử dụng các dịch vụ AWS sẽ giúp dễ dàng chạy các container ở quy mô lớn. Với vai trò hoạt động vô cùng hữu ích. Docker thực sự là nền tảng đáng để bạn quan tâm. Sử dụng Docker vào quá trình phát triển sẽ mang đến lợi ích lớn. Cải thiện khả năng tận dụng và tiết kiệm chi phí nhất cho bạn. Hy vọng bài viết đã giúp bạn hiểu hơn về Docker là gì cũng như một số kiến thức liên quan đến Docker. Liên tục nhiều năm ngành lập trình luôn nằm trong top những ngành nghề hot nhất cả ở Việt Nam và thế giới. Với nhiều cơ hội nghề nghiệp và mức lương cao chót vót đã làm người người, nhà nhà theo học ngành lập trình, từ những học sinh lớp 12 chuẩn bị bước. Quản lý dự án thực hiện hiệu quả là yêu cầu quan trọng bởi nó đảm bảo giúp quá trình hoàn thành công việc được thực hiện tốt như yêu cầu. Với phần mềm hỗ trợ thích hợp, có thể thực hiện theo đúng quy trình sẽ giúp công việc được hoàn thành tốt như
Docker (phần mềm)
Docker là một dự án mã nguồn mở giúp tự động triển khai các ứng dụng Linux và Windows vào trong các container ảo hóa. Docker cung cấp một lớp trừu tượng và tự động ảo hóa dựa trên Linux. Docker sử dụng những tài nguyên cô lập của Linux như cgroups, kernel, quản lý tệp để cho phép các container chạy độc lập bên trong một thực thể Linux. Các thay đổi được lưu trữ trong các Docker image, các lớp tệp hệ thống được tạo ra và lưu lại dựa theo từng lớp (layer). Điều này giúp cho ảnh Docker giảm dung lượng đáng kể so với máy ảo (VM). Các ứng dụng muốn chạy bằng Docker phải là ứng dụng chạy được trên Linux. Gần đây, Docker có hỗ trợ thêm việc chạy ứng dụng Windows trong các Windows container. Docker có thể được tích hợp vào các công cụ, bao gồm cả Amazon Web Services, Ansible, CFEngine, Chef, Google Cloud Platform, IBM Dấu, Jelastic, Jenkins, Microsoft Azure, OpenStack Nova, OpenSVC, HPE Helion Stackato, Puppet, Salt, Vagrant, và VMware vSphere Containers. Dự án Cloud Foundry Diego tích hợp Docker vào Cloud Foundry PaaS.Red Hat cũng tích hợp Docker vào OpenShift.
Anh có cha là Châu Diệu Trung, mẹ là Diệp Huệ Mỹ – bà một giáo viên âm nhạc. Nhận thấy được niềm yêu thích âm nhạc của con trai từ sớm, bà Diệp Huệ Mỹ đã cho Châu Kiệt Luân học piano ngay từ lên năm 4 tuổi. Sau này, Châu Kiệt Luân tiếp tục học thêm cello và đã phát triển niềm đam mê với nhạc lý của mình. Vào năm 16 tuổi, Châu Kiệt Luân tốt nghiệp Trường Trung học Tam Khang với chuyên ngành là piano, phụ là cello. Tốt nghiệp trung học, Châu Kiệt Luân đã hai lần ghi danh thi vào Khoa Âm nhạc của trường Đại học quốc lập Đài Bắc nhưng đều liên tiếp bị đánh trượt. Năm 18 tuổi, Châu Kiệt Luân được miễn nghĩa vụ quân sự vì ông bị mắc viêm thoái hóa đốt sống. Vào năm 1997, bà Diệp Huệ Mỹ đã hối thúc con trai của mình ghi danh để tham gia một cuộc thi tìm kiếm tài năng của một đài truyền hình Đài Bắc lúc bấy giờ. Tại cuộc thi này, dù diễn không được tốt trước ống kính nhưng Châu Kiệt Luân vẫn thu hút được sự chú ý đông đảo nhờ vào bài hát “Giấc mộng có cánh”. Tài năng của anh đã lọt vào tầm ngắm của người dẫn chương trình truyền hình đó là Ngô Tông Hiến. Sau đó ông đã mời Châu Kiệt Luân gia nhập vào công ty âm nhạc Alfa Music của mình cùng với vai trò là nhạc sĩ. Châu Kiệt Luân tích cực hoạt động rất nhiều năm, và cũng đã ra mắt với vai trò ca sĩ. Cho đến năm 2012, Forbes đã xếp Châu Kiệt Luân ở vị trí quán quân trong danh sách những người nổi tiếng có mức thu nhập cao nhất của làng giải trí Trung Quốc. Theo một thống kê vào năm 2017, Châu Kiệt Luân đã bán được khoảng hơn 30 triệu bản album từ trước đến nay. Các bài hát của anh cũng đã thu hút được một số lượng người nghe cực kỳ khổng lồ, với số lượt tải về vượt trội còn hơn cả Madonna cùng hàng trăm tên tuổi lớn khác trong làng nhạc thế giới. Phong cách âm nhạc của Châu Kiệt Luân được thể hiện qua những sản phẩm mà được kết hợp hài hòa giữa phong cách hiphop và R&B phương Tây cùng với bản sắc truyền thống Trung Hoa. Anh từng đưa rất nhiều yếu tố âm nhạc thế giới khác nhau vào trong sản phẩm của mình. Như là tiếng guitar Tây Ban Nha ở trong bài hát “Mô phỏng sự nổi tiếng” (紅模仿), nhạc techno/electronica Mỹ ở trong bài “Bản thảo cương mục” (本草綱目), màu nhạc cổ điển phương Tây đặc biệt trong bài “Kháng cự” (逆鳞) và điệu Bossa nova ở trong bài hát “Mê điệt hương” (迷迭香). Âm nhạc của Châu Kiệt Luân đã mang đến cho người nghe một hiệu ứng âm thanh đến từ cuộc sống thường nhật, như là tiếng của quả bóng rơi xuống sàn nhà, hay là tiếng quay số điện thoại. Thậm chí là tiếng mưa nhỏ từng giọt hay có cả tiếng ồn của radio. Nội dung của các bài hát do Châu Kiệt Luân sáng tác thật sự rất khác lạ. Chúng đề cập tới vấn nạn bạo lực gia đình, chiến tranh, đô thị hóa. Thật sự rất giàu ý nghĩa cuộc sống và buộc người nghe nghiền ngẫm và suy ngẫm. Bài hát nổi tiếng “Nghe lời mẹ dạy” (聽媽媽的話) đã từng được chọn để đưa vào chương trình học lớp 1 ở Đài Loan. Vì nó có phần lời mang ý nghĩa rất lớn về sự giáo dục tình mẫu tử. Châu Kiệt Luân đã bắt đầu sự nghiệp diễn xuất của mình vào năm 2005 cùng với bộ phim Khúc cua quyết định. Đạo diễn của Khúc cua quyết định – Mạch Triệu Huy. Ban đầu thì ông thật sự đã hoài nghi về năng lực diễn xuất của Châu Kiệt Luân. Và ông đã thay đổi suy nghĩ đó cho đến khi anh diễn thử những cảnh không thoại. Bộ phim “Khúc cua quyết định” đứng đầu những bảng xếp hạng về doanh thu tại nhiều nước và vùng lãnh thổ ở châu Á ngay ở trong tuần đầu tiên công chiếu. Những ca khúc ở trong phim, phần lớn là do Châu Kiệt Luân trình bày cũng đã từng gây sốt trên các trang nghe nhạc trực tuyến lúc bấy giờ. Với bộ phim Khúc cua quyết định, Châu Kiệt Luân đã nhận một giải Kim Tượng tại hạng mục Diễn viên mới xuất sắc nhất cực danh giá. Sự nghiệp diễn xuất của Châu Kiệt Luân nở rộ ở quốc tế. Điển hình là vào năm 2016, Châu Kiệt Luân đã cùng với Daniel Radcliffe trở thành hai diễn viên khách mời của bộ phim Phi vụ thế kỷ 2.
Châu Kiệt Luân
Châu Kiệt Luân (sinh ngày 18 tháng 1 năm 1979) là một ca sĩ, nhạc sĩ, rapper, nhà sản xuất âm nhạc, diễn viên, đạo diễn, doanh nhân người Đài Loan. Từng được mệnh danh là “ông hoàng nhạc pop châu Á”, Châu Kiệt Luân là nghệ sĩ có lượt tải xuống nhiều thứ ba thế giới vào năm 2010, bán được hơn 30 triệu bản album tính đến năm 2017. Châu Kiệt Luân được phát hiện vào năm 1997 tại một cuộc thi tìm kiếm tài năng. Anh khởi đầu sự nghiệp âm nhạc trong vai trò là một nhạc sĩ. Kể từ khi phát hành album đầu tay Kiệt Luân (杰倫) vào năm 2000, âm nhạc của Châu Kiệt Luân luôn nhận được sự đón nhận nồng nhiệt trên khắp châu Á. Một số bài hát của Châu Kiệt Luân từng được đưa vào giảng dạy ở các trường phổ thông tại Trung Quốc đại lục và Đài Loan. Châu Kiệt Luân bắt đầu sự nghiệp diễn xuất với bộ phim Khúc cua quyết định (2005). Tiếp đó, anh thủ một vai chính trong tác phẩm sử thi Hoàng kim giáp (2006). Châu Kiệt Luân ra mắt Hollywood vào năm 2011 với Chiến binh bí ẩn, và sau đó là Phi vụ thế kỷ 2 (2016).
Bất kỳ vấn đề gì cũng tồn tại 2 mặt, cuộc sống cũng thế. Tệ nạn xã hội được xem như là mặt tiêu cực của đời sống mà mỗi chúng ta nên biết để phòng, chống. Trong bài viết Tệ nạn xã hội là gì? Allavida.org gửi đến bạn đọc các kiến thức về tệ nạn xã hội cũng như các quy định của pháp luật về vấn đề phòng, chống tệ nạn xã hội. Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã hội tiêu cực, biểu hiện bằng những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức xã hội và có dấu hiệu vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu đời sống xã hội. Bản chất của tệ nạn xã hội là các hiện tượng trái với bản chất xã hội chủ nghĩa, thuần phong mỹ tục, pháp luật và đạo đức. Tệ nạn xã hội là biểu hiện cụ thể của lối sống vô tổ chức, coi thường các chuẩn mực đạo đức, xã hội và pháp luật, làm tha hóa các giá trị tốt đẹp của phong tục tập quán, văn hóa, phá vỡ tình cảm, hạnh phúc gia đình, phá hoại nhân cách, phẩm giá con người, ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế, sức khoẻ, giống nòi dân tộc… là con đường nhanh nhất dẫn đến tội phạm. Tệ nạn xã hội là hiện tượng có tính tiêu cực, biểu hiện thông qua các hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức, pháp luật hiện hành, phá vỡ thuần phong mỹ tục, lối sống lành mạnh, tiến bộ trong xã hội, có thể gây những hậu quả nghiêm trọng cho các cá nhân, gia đình và xã hội. Một trong những tệ nạn bùng phát trong những ngày lễ, Tết đó là cờ bạc, đặc biệt là ở nhiều vùng quê gây ra nhiều bất ổn trong chính cuộc sống gia đình và an ninh xã hội. Trong những ngày lễ Tết nhiều điểm chơi cờ bạc bắt đầu rộ lên ở nhiều địa phương với nhiều dạng thức như bầu cua, xóc đĩa, tiến lên hay tá lả, thậm chí là những người còn nghèo khó tại các vùng quê cũng bị thu hút bởi cờ bạc, mỗi lần chơi có người đặt đến nửa triệu đồng, thậm chí là đến 1 triệu 2 triệu đồng. Có những người khi đã đam mê trò đỏ đen có bao nhiêu tiền cũng đánh, đặt cả điện thoại, xe máy sau Tết thì trắng tay. Hiện pháp luật nước ta đã nghiêm cấm đánh bạc được thực hiện dưới bắt kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Hiện nay, bên cạnh sự phát triển kinh tế xã hội, thì các hoạt động văn hóa giải trí cũng phát triển khá mạnh, các cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú, dịch vụ karaoke, vũ trường tăng đột biến. Đây là lĩnh vực khá nhạy cảm dễ phát sinh nhiều tệ nạn xã hội nhất là tệ nạn ma túy, mại dâm. Các tệ nạn xã hội này hoạt động dưới các hình thức khác nhau, diễn biến phức tạp len lỏi khắp các địa phương vùng miền có chiều hướng tăng về tính chất mức độ quy mô và gây dư luận xấu trong đời sống nhân dân. Các tệ nạn xã hội có thể gây những tổn thương nghiêm trọng đối với sức khỏe của chính bản thân người tham gia (gây các bệnh về hệ hô hấp, hệ tim mạch, hệ thần kinh đối với người nghiện ma túy…); làm tha hóa về nhân cách, rối loạn về hành vi, rơi vào lối sống buông thả, dễ vi phạm pháp luật và phạm tội. Đối với các gia đình có người thân tham gia các tệ nạn xã hội sẽ có thể bị khủng hoảng về mặt tài chính cũng như tinh thần. Ví dụ như tệ nạn cờ bạc sẽ làm phát sinh các mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân – gia đình của những người nghiện cờ bạc, gây sứt mẻ tình cảm, đổ vỡ niềm tin giữa vợ chồng và có thể dẫn tới tình trạng bạo lực gia đình. Tệ nạn cờ bạc không những làm mất đi thời gian, tiền bạc của người lao động mà còn dẫn đến nhiều hệ lụy khác. Thực tế cho thấy, những người thường xuyên tham gia đánh bạc dễ rơi vào lối sống buông thả mất cân đối về kinh tế, nếu tham gia đánh bạc thắng số tiền cũng chỉ sử dụng cho mục đích cá nhân đáp ứng cho lối sống buông thả còn nếu thua dễ túng quẫn dẫn đến những vi phạm pháp luật. ”Cờ bạc là bác thằng bần, đánh đề ra đề mà ở”, đối với nhiều trường hợp đã trở thành hiện thực các đối tượng tổ chức đánh bạc và tham gia đánh bạc đã vướng vào vòng lao lý. Những người nông dân ham lợi từ trò đỏ đen dẫn đến hết tiền, hết của, những chị me phụ nữ đánh bạc chơi đề dẫn đến mất hạnh phúc gia đình. Đó là những hậu quả nhãn tiền của những ai có ý định tham gia tệ nạn này. – Có tính lây lan nhanh trong xã hội: tệ nạn xã hội là những hiện tượng có tính chất cộng đồng nên thường dễ nhanh chóng lan tỏa trong một khoảng thời gian ngắn. – Tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức như mại dâm, may túy, cờ bạc… Đối tượng tham gia rất đa dạng và phức tạp về thành phần. – Các đối tượng hoạt động có nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi để đối phó với lực lượng chức năng và che mắt quần chúng nhân dân thường cấu kết với nhau thành đường dây, ổ nhóm. – Tệ nạn xã hội thường có quan hệ chặt chẽ với tội phạm hình sự như các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, các tội phạm về ma túy, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Đó là biểu hiện của các hiện tượng tiêu cực xã hội và có sự chuyển hoá lẫn nhau. – Địa bàn tập trung hoạt động thường là những nơi tập trung đông người, các khu công nghiệp, du lịch, nơi người dân có trình độ dân trí thấp, có xu hướng tập trung thành băng đảng, ô nhóm. Để phòng chống ma túy trong học đường, học sinh cần hiểu rõ trách nhiệm của mình trong phòng, chống ma tuý. Không sử dụng ma tuý dưới bất kỳ hình thức nào; không tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc làm những việc khác liên quan đến ma tuý; khuyên nhủ bạn học, người thân của mình không sử dụng ma tuý hoặc tham gia các hoạt đông vận chuyển, mua bán ma tuý; khi phát hiện những học sinh, có biểu hiện sử dụng ma tuý hoặc nghi vấn buôn bán ma tuý phải báo cáo kịp thời cho thầy, cô giáo để có biện pháp ngăn chặn, nâng cao cảnh giác tránh bị đối tượng xấu rủ rê, lôi kéo vào các việc làm phạm pháp, kể cả việc sử dụng và buôn bán ma tuý; có ý thức phát hiện những đối tượng có biểu hiện nghi vấn dụ dỗ học sinh, sinh viên sử dụng ma tuý hoặc lôi kéo học sinh, sinh viên vào hoạt động vận chuyển, mua bán ma tuý; báo cáo kịp thời cho thầy, cô giáo. Hiện nay, một bộ phận giới trẻ cho rằng, khi xã hội ngày càng phát triển thì những kiểu ăn chơi sành điệu là hợp thời, là tiên tiến. Tâm lý tuổi mới lớn luôn muốn thử những điều mới mẻ và rất dễ sa vào những “cái bẫy tệ nạn”. Do đó, các bạn học sinh, sinh viên cần hết sức cảnh giác, thận trọng và phải đủ tỉnh táo trước khi quyết định tham gia vào các trò chơi dễ dẫn tới tệ nạn xã hội, không phù hợp với đạo đức, pháp luật. Tệ nạn xã hội luôn là vấn đề nhức nhối được nhà nước quan tâm. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định, điều chỉnh các vấn đề liên quan tệ nạn xã hội cụ thể Allavida.org xin được liệt kê trong một số lĩnh vực dưới đây. Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Bộ luật Hình sự 2015 quy định các tội danh liên quan hành vi mua bán người, ví dụ: Tội mua bán người (điều 150), Tội mua bán người dưới 16 tuổi (điều 151), Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (điều 154). Qua đây chúng ta cũng có thể thấy được nỗ lực của nhà nước trong việc phòng, chống tệ nạn xã hội, người dân cần nắm rõ các quy định pháp luật về những vấn đề này để bảo vệ bản thân cũng như tích cực phối hợp với nhà nước trong việc đẩy lùi tệ nạn xã hội. Trên đây, Allavida.org đã cung cấp cho độc giả các thông tin liên quan Tệ nạn xã hội. Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết liên quan tại mảng Hỏi đáp pháp luật
Xã hội học
Xã hội học là khoa học về các quy luật và tính quy luật xã hội chung, và đặc thù của sự phát triển và vận hành của hệ thống xã hội xác định về mặt lịch sử; là khoa học về các cơ chế tác động và các hình thức biểu hiện của các quy luật đó trong các hoạt động của cá nhân, các nhóm xã hội, các giai cấp và các dân tộc. Xã hội học là môn khoa học xã hội còn rất non trẻ, mặc dù vậy nó cũng có một lịch sử phát triển riêng biệt. Trước thế kỷ XIX, xã hội học chưa tồn tại như một môn khoa học độc lập mà bị hòa tan vào trong các khoa học khác như nhân chủng học, dân tộc học, nhân học, tâm lý học, tâm lý học xã hội và đặc biệt là triết học - môn khoa học của mọi khoa học. Xã hội học xuất hiện ở châu Âu thế kỷ XIX với tư cách là một tất yếu lịch sử xã hội. Tính tất yếu đó thể hiện ở nhu cầu và sự phát triển chín muồi các điều kiện và tiền đề biến đổi và nhận thức đời sống xã hội.
Khoa học, văn hóa, giáo dục, tâm lý, thể thao và một lối sống lành mạnh. các cộng đồng học tập ảo là cộng đồng của những người chia sẻ các giá trị và sở thích chung và giao tiếp thông qua các công cụ giao tiếp khác nhau được cung cấp bởi các mạng điện thoại, cho dù là đồng bộ hay không đồng bộ. Có một số loại cộng đồng ảo, mặc dù trong bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung vào việc học vì tác động của chúng đối với giáo dục. Những người tham gia vào cộng đồng ảo giao tiếp thông qua các công nghệ mới như điện thoại di động và máy tính. Vì các loại thiết bị này được sử dụng, nó giúp chúng linh hoạt hơn theo thời gian. Kiến thức mới thường được tạo ra và xây dựng, cũng như trao đổi thông tin giữa những người tham gia cộng đồng. Họ không phải chia sẻ giá trị hoặc niềm tin mặc dù nếu có, cộng đồng ảo sẽ lành mạnh hơn. Thông qua các loại công cụ truyền thông khác nhau, cả không đồng bộ và đồng bộ, cũng như văn bản và nghe nhìn, tương tác xảy ra trong loại cộng đồng này. Như chúng ta có thể thấy, tất cả các loại cộng đồng ảo sẽ có điểm chung là các đặc điểm được đề cập ở trên, những gì sẽ phân biệt chúng sẽ là mục tiêu của chúng hoặc mục đích hoặc mục tiêu mà chúng muốn đạt được. Ngoài ra, những người tham gia vào mỗi người trong số họ có tầm quan trọng lớn bởi vì họ phải được thống nhất bởi một lợi ích chung mà họ có và tham gia tích cực vào đó. Chúng ta có thể tìm thấy bốn loại cộng đồng ảo khác nhau theo Cabero và Llorente (2010). Điều quan trọng là tạo sự khác biệt này để không nhầm lẫn chúng:. Nói: Hiện tại chúng tôi có thể nói chuyện với những người ở xa chúng tôi thông qua Internet và các thiết bị điện tử, do đó chia sẻ lợi ích của chúng tôi hoặc bất kỳ loại thông tin nào với họ. Thực hành: tạo các nhóm với những người khác trong đó mỗi người thực hiện một chức năng nhất định. Như tên gọi của nó, các cộng đồng thực hành có mục tiêu đào tạo chuyên nghiệp và cung cấp kiến thức cho sinh viên để tìm việc làm. Xây dựng kiến thức: Khi mục tiêu là hỗ trợ sinh viên theo đuổi chiến lược và tìm cách biến mục tiêu học tập. Công nghệ có thể đóng một vai trò quan trọng trong loại cộng đồng này, vì nó cho phép lưu trữ, sắp xếp và cải tổ ý tưởng. Học tập: một cộng đồng ảo sẽ được hiểu là học tập khi mục tiêu chính của nó là những người tham gia vào đó có được kiến thức, học tập, kỹ năng và năng lực. Trong những điểm tiếp theo, chúng tôi sẽ tập trung vào loại cộng đồng ảo này vì tầm quan trọng của nó trong lĩnh vực giáo dục. Cuối cùng, chúng ta cũng phải đề cập đến mối quan hệ tồn tại giữa các cộng đồng vật lý và ảo. Theo Aoki (1994) được trích dẫn trong Salinas (2003) có ba nhóm:. Tùy thuộc vào chủ đề sẽ làm việc, cũng như lý do và lợi ích của những người tham gia vào nó, có thể có các loại khác nhau. Một số ví dụ theo Coll (2001) và Sallán (2006) là:. Tất cả các loại đào tạo, cả ban đầu và vĩnh viễn, được thực hiện trong các tổ chức giáo dục. Ngoài ra đào tạo cho sinh viên cũng như đào tạo nghề nghiệp và chuyên nghiệp. Ngoài ra các hoạt động hợp tác giữa các chuyên gia hoặc sinh viên các cấp giáo dục, cộng đồng người dùng của một số dịch vụ nhất định, v.v . Mặc dù có nhiều lợi thế, các vấn đề cản trở sự phát triển của họ hoặc thậm chí cản trở thành công của họ có thể phát sinh trong các cộng đồng học tập ảo. Chúng được tóm tắt dưới đây:. Mặc dù các cộng đồng học tập ảo được giáo viên kiểm duyệt trong một số trường hợp, nhưng khả năng tiếp cận đối với tất cả các thành viên sáng tác cũng như họ tham gia ở tất cả các cấp là phức tạp. Trong một số trường hợp, thường là khó khăn cho những người hình thành ý thức cộng đồng, hợp tác và tham gia. Để tham gia vào loại cộng đồng học tập ảo này, mọi người cần được đào tạo tối thiểu về các công nghệ mới và điều này ở người già thường là một vấn đề. Với khối lượng lớn thông tin tồn tại qua Internet, có thể đôi khi cả nội dung và thông tin được đưa ra trong cộng đồng đều không có chất lượng. Tất cả điều này sẽ phụ thuộc vào vai trò của giáo viên cũng như những người tham gia. Để cộng đồng làm việc, những người tham gia cần phải cam kết và có động lực. Điều thuận tiện là họ biết các quy tắc và quy tắc tồn tại trong đó. Giáo viên nên cố gắng tạo ra một môi trường tin cậy để học sinh có thể phơi bày những nghi ngờ của mình và ngay cả khi cần thiết, tham gia vào một cuộc đối thoại với điều này. Cộng đồng phải được lên kế hoạch với một phương pháp làm việc rõ ràng. Cuối cùng, phải có một bầu không khí khuyến khích, trong số những thứ khác, sự sáng tạo và động lực để học hỏi, cũng như sự đổi mới. Do xã hội hiện tại mà chúng ta đang sống, được đặc trưng bởi tốc độ, sự đổi mới và sự không chắc chắn của nó; giáo dục phải có chất lượng. Đúng là bối cảnh giáo dục đã thay đổi, nhưng nó đã không được thực hiện cho đến khi có liên quan đến chức năng của nó, vì nó phải đào tạo học sinh học tập suốt đời. Tầm nhìn truyền thống về đào tạo đã thay đổi hoàn toàn, mở ra cánh cửa học tập trong môi trường chính thức, không chính quy và không chính thức. Do đó, một người giờ đây có thể được đào tạo cả từ kinh nghiệm và tương tác của họ, cũng như từ các cơ sở đào tạo được quy định, cũng như từ những người có được thông qua các hoạt động được tổ chức bởi các tổ chức phi giáo dục khác và thông qua tương tác với gia đình hoặc bạn bè. Nó sẽ cho phép chúng tôi có các tài nguyên và tài liệu khác nhau, cả trực quan và nghe nhìn, do đó giải phóng một môi trường thông tin phong phú và đa dạng hơn. Chúng ta có thể mở các không gian khác nhau để thảo luận về một chủ đề, điều này sẽ tạo điều kiện cho các chuyên gia có thể thích nghi với phong cách học tập và nhiều trí tuệ của học sinh. Cách thức hình thành các nhân vật chính của quá trình dạy và học đã thay đổi những gì đã giúp suy nghĩ lại về cách thức kiến thức được xây dựng. Đó là một môi trường hoàn toàn tương tác, trong đó mọi người tương tác và chia sẻ thông tin. Họ mở ra những cánh cửa linh hoạt cho phép mỗi người tham gia vào lịch trình thoải mái nhất và từ nơi bạn muốn. Xuất phát từ môi trường trước, trong những môi trường này, mọi người từ khắp nơi trên thế giới dễ dàng tham gia hơn, do đó mở rộng đa văn hóa. Cho rằng học sinh kiểm soát nhịp độ học tập của chính mình, anh ta tham gia nhiều hơn vào quá trình, lý do tại sao anh ta có động lực hơn (Cabero và Llorente, 2010). Các giáo viên nhờ sự kết hợp của các công nghệ mới trong giảng dạy đã thay đổi vai trò truyền thống của họ là người nói và người truyền tải thông tin đơn thuần. Ông hiện đang được hình thành như một nhà thiết kế và người hỗ trợ học tập, đồng thời là cố vấn và người điều hành của nhóm và người đánh giá kinh nghiệm. Vai trò của nó rất cần thiết để sự kết hợp giữa công nghệ, học tập và giảng dạy thành công, do đó, đối với các cộng đồng học tập ảo (CVA), nó sẽ thực hiện các hoạt động sau: tham gia và tham gia tích cực, tăng tính tự chủ của học sinh để họ có sự phụ thuộc lẫn nhau tích cực và cảm giác tin tưởng với bạn cùng lớp cũng như trách nhiệm trong quá trình học tập (Cabero và Llorente, 2010). Khuếch đại thông tin. Đó là, chịu trách nhiệm phân phối nội dung cho các công cụ khác nhau đang được sử dụng để tiếp cận với thế giới. Thông qua các công cụ như diễn đàn, giáo viên phải làm trung gian để làm nổi bật các chủ đề quan trọng trong các môn học đang làm việc. Báo hiệu và tạo ý nghĩa xã hội. Với số lượng lớn thông tin có sẵn, giáo viên phải hiểu được những gì đang được xem. Nó cũng phải được tái chế và biết về các công nghệ mới để xử lý hiệu quả các công cụ khác nhau. Giáo viên phải hướng dẫn học sinh trong các đơn vị để làm phong phú và tạo điều kiện học tập. Trung bình và có sự hiện diện liên tục. Một giáo viên giỏi của thế kỷ 21 phải biết cách hành động trong môi trường học tập ảo, cũng như có mặt trong đó. Vai trò của học sinh trong giảng dạy đã thay đổi đáng kể, vì anh không còn phải tích lũy kiến thức như đã làm cho đến gần đây. Bây giờ anh ta cần phải có những năng lực sẽ giúp anh ta quản lý trong xã hội thông tin. Do đó, nó sẽ yêu cầu đào tạo liên quan đến việc sử dụng, sử dụng, lựa chọn và tổ chức thông tin. Điều này sẽ giúp bạn quản lý CNTT và tham gia phù hợp vào các cộng đồng học tập ảo. Việc kết hợp các công nghệ mới vào quá trình dạy và học đã mở ra một thế giới mới về khả năng trong lĩnh vực giáo dục, được làm phong phú bởi nhiều lợi ích mà nó mang lại. Các cộng đồng học tập ảo là kết quả của sự kết hợp với sự hợp nhất này đã cho phép các mô hình giảng dạy khác thông qua môi trường ảo mang lại khả năng đào tạo cho tất cả những người muốn tìm hiểu về một chủ đề nhất định, không giới hạn thời gian biểu và địa điểm. Các cộng đồng này được cấu thành bởi tập hợp các mối quan hệ xảy ra giữa những người tham gia và phát triển trong các không gian quan hệ khác nhau. Sự giao tiếp này giữ cho cộng đồng tồn tại và nếu không có nó, nó sẽ không thành công. Do đó, giáo viên có được một vai trò hoàn toàn mới, do đó là một gia sư quản lý quá trình, tạo ra không gian để giao tiếp và liên hệ cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập của học sinh. Do đó, anh sẽ đảm nhận vai trò hướng dẫn trong quá trình giảng dạy. Vai trò của sinh viên cũng đã phát triển. Bây giờ bạn phải có kiến thức và kỹ năng cần thiết để tham gia vào các môi trường ảo này và do đó được làm giàu bằng nhiều lợi ích của nó. Cuối cùng, chúng ta không thể quên đề cập rằng vì trong học tập trực diện, các vấn đề cũng có thể nảy sinh trong học tập hỗn hợp hoặc từ xa. Đó là lý do tại sao là các chuyên gia giáo dục, chúng ta phải nhận thức được những vấn đề này để giải quyết chúng để đào tạo chất lượng. Cộng đồng ảo để học tập. Tạp chí điện tử về công nghệ giáo dục, (34). Cộng đồng ảo để học tập. Công dụng của nó trong giảng dạy. Edutec: Tạp chí điện tử về công nghệ giáo dục, (20), 1. Cộng đồng học tập ảo: Cầu nối mới cho giao tiếp giữa nam giới. Đóng góp cho Khoa học xã hội, (2011-10). Các cộng đồng học tập ảo. Công thức mới, thách thức cũ trong quá trình giáo dục. Trong hội nghị quốc tế lần thứ tư về đa phương tiện và công nghệ thông tin và truyền thông trong giáo dục. Cộng đồng học tập ảo như một công cụ giáo khoa để hỗ trợ công việc giảng dạy.
Cộng đồng ảo
Cộng đồng ảo là một mạng lưới xã hội của các cá nhân tương tác thông qua các phương tiện truyền thông cụ thể, có khả năng vượt qua những ranh giới địa lý và chính trị để theo đuổi lợi ích hay mục tiêu chung. Một trong những loại hình cộng đồng ảo phổ biến nhất là các dịch vụ mạng xã hội, trong đó gồm nhiều cộng đồng trực tuyến khác nhau. Thuật ngữ cộng đồng ảo (tiếng Anh: virtual community) ra đời từ cuốn sách cùng tên của Howard Rheingold, xuất bản vào năm 1993. Cuốn sách có thể được coi là một cuộc điều tra xã hội, nghiên cứu các ngành khoa học xã hội, thảo luận về các cuộc tìm tòi của tác giả về ưu điểm và đưa vào giao tiếp thông qua liên lạc sử dụng máy tính làm trung gian và thông qua các nhóm xã hội, mở rộng chúng thành khoa học thông tin. Các công nghệ bao gồm Usenet, MUD (Multi-User Dungeon), MUSHes và Moos, IRC, các phòng tán gẫu và danh sách gửi thư điện tử, World Wide Web mà ngày nay như chúng ta biết, chúng vẫn chưa được nhiều người sử dụng.
Kế toán chi phí - Một loại kế toán quản trị, là một lĩnh vực chuyên môn liên quan đến việc phân tích chi phí của các sản phẩm được sản xuất hoặc phân phối của một doanh nghiệp. Kế toán chi phí là gì? Để một doanh nghiệp có lợi nhuận, điều quan trọng là phải hiểu chi phí chính xác liên quan đến sản phẩm và sử dụng thông tin đó để đặt giá phù hợp. Kế toán chi phí làm điều đó, họ có vai trò quan trọng trong quyết định tài chính tổng hợp của doanh nghiệp. Tìm hiểu ngay về mô tả công việc kế toán chi phí trong bài viết này bạn nhé!. Có thể bạn đã nghe rất nhiều về công việc kế toán, tuy nhiên lĩnh vực này không phải chỉ bó hẹp trong một phạm vi nhất định. Chẳng hạn như nó có thể bao gồm: kế toán kho, kế toán tổng hợp, kế toán nội bộ, kế toán tài chính,. và kế toán chi phí. Vậy Kế toán chi phí là gì? Đó là một hình thức của kế toán quản trị( hay còn gọi là kế toán nội bộ), nhằm mục đích nắm bắt tổng thể chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Nó xác định chi phí thực tế liên quan đến sản xuất sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ bằng cách xem xét tất cả các chi phí trong chuỗi cung ứng. Kế toán chi phí được thực hiện cho mục đích chuẩn bị ngân sách và phân tích lợi nhuận. Thông tin thu được từ quá trình này rất hữu ích cho các nhà quản lý trong việc xác định sản phẩm, bộ phận hoặc dịch vụ nào có lợi nhất và sản phẩm nào được cải thiện. Kế toán chi phí được sử dụng bởi đội ngũ quản lý nội bộ của doanh nghiệp, nhằm xác định tất cả các chi phí biến đổi và cố định liên quan đến quy trình sản xuất. Đầu tiên nó sẽ đo lường và ghi lại các chi phí này một cách riêng lẻ, sau đó so sánh chi phí đầu vào với kết quả đầu ra để hỗ trợ đo lường hiệu quả tài chính và đưa ra các quyết định kinh doanh trong tương lai. Có rất nhiều loại chi phí liên quan đến Kế toán chi phí, được xác định cụ thể như sau:. - Chi phí cố định: là chi phí không thay đổi tùy thuộc theo mức độ sản xuất. Đây thường là những thứ như thế chấp hay thanh toán tiền thuê trên một tòa nhà hoặc một phần thiết bị được khấu hao theo tỷ lệ cố định hàng tháng, Việc tăng hoặc giảm mức sản xuất không gây ra thay đổi trong các chi phí này. - Chi phí biến đổi: là chi phí gắn liền với mức độ sản xuất của công ty. Ví dụ, một cửa hàng hoa tăng cường kiểm kê việc sắp xếp hoa của họ cho ngày lễ Tình nhân sẽ phải chịu chi phí cao hơn khi họ mua số lượng hoa từ vườn ươm hoặc tại các trang trại tại địa phương. - Chi phí hoạt động: là chi phí liên quan đến hoạt động hàng ngày của một doanh nghiệp. Các chi phí này có thể là cố định hoặc thay đổi tùy thuộc vào tình huống duy nhất. - Chi phí trực tiếp: là chi phí liên quan cụ thể đến việc sản xuất một sản phẩm. Nếu một người rang cà phê dành năm tiếng để thực hiện, chi phí trực tiếp của thành phẩm bao gồm giờ lao động của người rang cà phê và chi phí của hạt cà phê. - Chi phí gián tiếp: là chi phí không thể liên kết trực tiếp với sản phẩm. Trong ví dụ về máy rang cà phê, chi phí năng lượng để làm nóng máy ràng sẽ là chi phí gián tiếp vì nó không chính xác và khó theo dõi cho từng sản phẩm( còn được gọi là chi phí chung). Trong khi tìm hiểu khái niệm về Kế toán chi phí, có khá nhiều thắc mắc và nhầm lẫn liên quan đến cả Kế toán tài chính. Vậy sự khác biệt giữa Kế toán tài chính và Kế toán chi phí là gì?. Mặc dù Kế toán chi phí thường được quản lý trong một doanh nghiệp sử dụng để hỗ trợ cho việc ra các quyết định tài chính. Tuy nhiên, Kế toán tài chính là hình tượng thực tế hơn mà các nhà đầu tư hay các khách hàng bên ngoài nhìn thấy. Kế toán tài chính trình bày tình hình tài chính của doanh nghiệp và hiệu suất đối với các nguồn bên ngoài thông qua các báo cáo tài chính, bao gồm thông tin về doanh thu, chi phí, tài sản, công nợ của doanh nghiệp. Kế toán chi phí có thể có lợi nhất như một công cụ để quản lý ngân sách và thiết lập các chương trình kiểm soát chi phí, có thể cải thiện tỷ suất lợi nhuận ròng cho doanh nghiệp trong tương lai. Một điểm khác biệt chính giữa Kế toán chi phí và Kế toán tài chính là: Trong khi Kế toán tài chính, chi phí được phân loại tùy thuộc vào loại giao dịch, thì Kế toán chi phí phân loại theo chi phí nhu cầu thông tin của ban quản lý. Bởi vì nó được sử dụng như một công cụ nội bộ của ban quản lý doanh nghiệp, không phải đáp ứng bất kỳ tiêu chuẩn cụ thể nào, chẳng hạn như tuân thủ theo Chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRS). Trên thực tế, công việc Kế toán chi phí là gì và vai trò của nó ra sao, nhiều cá nhân vẫn còn chưa xác định được một cách chính xác, cụ thể. Các cá nhân trong vai trò là Kế toán chi phí, chịu trách nhiệm chính cho việc thu thập, xác nhận và truyền đạt dữ liệu, nhằm hướng đến mục đích minh bạch tài chính và cải tiến quy trình kế toán. Họ chịu trách nhiệm khởi xướng các quy trình đóng và báo cáo cuối tháng, sau đó họ lần lượt nộp cho ban lãnh đạo. Họ thiết lập chi phí tiêu chuẩn của quy rình kinh doanh như lao động, vận chuyển, sản xuất và quản lý. Họ phối hợp với kế toán số liệu đòn bẩy thu được từ các hệ thống quản trị bán hàng, Kế toán chi phí thực hiện điều chỉnh liên tục các báo cáo chi phí khác nhau đối với các hệ thống phần mềm để đảm bảo độ chính xác. Một số thực hiện nhiệm vụ kiểm tra hàng tồn kho vật lý với các hệ thống thông tin quản lý nhân viên tài chính bằng cách giúp đỡ với các khoản phải trả, hóa đơn,. Kế toán chi phí đã quen thuộc với tất cả các phương pháp kế toán chi phí và các chương trình phần mềm kế toán liên quan hỗ trợ công việc của họ. Phải nói rằng, thực tế có bốn loại phương pháp Kế toán chi phí khác nhau. Vì vậy Kế toán chi phí có thể chuyên về một số lĩnh vực nhất định:. - Đầu tiên, các hệ thống chi phí tiêu chuẩn ấn định chi phí trung bình cho mọi chi phí trực tiếp, chẳng hạn như nhân công, vật liệu, chi phí chung,. được liên kết với mỗi sản phẩm. Phương pháp kế toán chi phí này khá phổ biến với các doanh nghiệp nhỏ vì cách tiếp cận đơn giản hóa tiêu chuẩn hóa. - Thứ hai, chi phí dựa trên hoạt động xác định chi phí cố định và chi phí biến đổi bằng cách so sánh chi phí trực tiếp liên quan đến các dòng sản phẩm cụ thể. - Thứ ba, kế toán thông lượng tập trung vào việc tăng hiệu quả thông qua việc giảm thiểu các tắc nghẽn trong quá trình và sản xuất để tối đa hóa sản lượng. - Thứ tư, phân tích chi phí - khối lượng - lợi nhuận, xác định biến số và tổng chi phí cố định phù hợp với mức độ sản phẩm. Trong khi hầu hết các Kế toán viên chi phí làm việc ở các cơ quan, đơn vị Nhà nước hoặc các doanh nghiệp, tập đoàn lớn, thì một số người sẽ làm việc như một chuyên gia tư vấn thông qua các công ty kế toán công hoặc thực hành độc lập của riêng họ. Các chuyên gia tư vấn thường sẽ được yêu cầu thực hiện các dịch vụ cho các doanh nghiệp nhỏ hoặc vừa không thể chứng minh việc làm toàn thời gian của một kế toán viên chi phí. Những người được tuyển dụng toàn thời gian sẽ thực hiện một loạt các nhiệm vụ như sau:. Sử dụng phần mềm để phân bổ chi phí gián tiếp cho các quá trình nội bộ. Như chúng ta đã biết về Kế toán chi phí là gì, nó mang lại khá nhiều lợi ích, giữ tầm quan trọng đối với nhiều bên kinh doanh khác nhau. Nhà quản lý, nhà đầu tư, nhân viên, chính phủ và thậm chí là cho chính người tiêu dùng hưởng lợi từ Kế toán chi phí. Hãy xem xét một số vai trò của Kế toán chi phí đối với việc quản lý của một doanh nghiệp, tổ chức. Chi phí là một thuật ngữ rất chung chung, nó cần được phân loại để được sử dụng đúng mục đích, Kế toán chi phí liên quan đến việc ghi lại và phân loại các chi phí đó. Một số chi phí là chi phí chính, chi phí trực tiếp, chi phí bán hàng, chi phí nhà máy,. Việc phân loại như vậy cho phép doanh nghiệp kiểm soát được chi phí và xác định lợi nhuận của bất kỳ quy trình và hoạt động nào nhất định. Nó cũng giúp tính toán có hiệu quả hơn. Một doanh nghiệp hiệu quả tập trung vào việc kiểm soát chi phí hàng tồn kho, lao động và các chi phí khác. Kế toán chi phí cho phép họ làm như vậy. Tương tự, bằng cách phân tích chi phí lao động và năng lực của máy móc, hiệu quả của họ cũng có thể được cải thiện. Kế toán chi phí cũng phân loại các chi phí thành cố định, thay đổi hoặc kiểm soát, không kiểm soát được để đạt được kiểm soát chi phí. Kế toán chi phí làm cho sự khác biệt cơ bản giữa chi phí cố định và chi phí biến đổi. Điều này sau đó được quản lý sử dụng để cố định giá thành của sản phẩm, theo chi phí của sản phẩm. Nó cho phép doanh nghiệp tìm mức giá lý tưởng nhất cho sản phẩm hay dịch vụ, không quá cao và cũng không quá thấp. Các tổ chức sử dụng các tiêu chuẩn để lập dự toán và ngân sách cho tương lai. Họ sử dụng chúng làm cơ sở để đo lường hiệu quả thực tế của quy trình hoặc bộ phận. Có một chi nhánh trong Kế toán chi phí được gọi là chi phí tiêu chuẩn dành riêng cho quy trình này. Những người muốn theo đuổi nghề kế toán cần có kỹ năng toán học mạnh mẽ hay kiến thức về thống kê. Họ nên có khả năng diễn giải nhanh các sự kiện và so sánh dữ liệu để tổng hợp thông tin kinh doanh có thể hành động. Bất kỳ công việc nào trong kế toán sẽ yêu cầu bằng cấp liên quan đến tài chính, kế toán hoặc quản trị kinh doanh. Những bằng cấp này nhằm cung cấp cho người tham gia một sự hiểu biết cơ bản về các khái niệm kế toán tổ chức. Các chủ đề bao gồm tài sản, nợ phải trả, phân tích lợi nhuận, quy định về thuế hay vòng đời kế toán. Các cá nhân nên chắc chắn tham gia các lớp học được chỉ định liên quan đến kế toán chi phí. Một khóa học giới thiệu sẽ nhấn mạnh sự phát triển của các chiến lược hợp lý nhằm thúc đẩy việc ra quyết định hiệu quả liên quan đến ngân sách, dự toán chi phí,. Nhìn chung các kỹ năng và tổ chất đặc biệt cần có của một Kế toán chi phí có thể là: kỹ năng toán học, phân tích, ghi phép, đọc số liệu, tổng hợp, báo cáo, chi tiết, cẩn thận, logic, trung thực, hoạch định, quản trị,. Các sinh viên mới ra trường muốn ứng tuyển công việc này, trước hết các bạn cần tìm hiểu kỹ doanh nghiệp, thêm đó là các yêu cầu cụ thể cho công việc như thế nào. Mặt khác, một mẫu CV xin việc ngành kế toán cũng rất quan trọng để bạn có thể quảng bá được những giá trị cho bản thân, tiến gần hơn với một cuộc phỏng vấn. Đối với các bạn sinh viên trong thời kì kiến tập có thể tham khảo mẫu cv thực tập sinh kế toán. Ngoài ra Timviec365.vn còn cung cấp đầy đủ cho các bạn những mẫu cv kế toán tổng hợp, cv kế toán trưởng, hồ sơ xin việc kế toán,. Đây chính là những thứ cần thiết để bạn bắt đầu xin một công việc mới cũng như tạo ấn tượng tốt với nhà tuyển dụng. Hãy truy cập vào Timviec365.vn - Địa điểm kết nối các doanh nghiệp và người tìm việc, hơn hết bạn sẽ nhận được các thông tin việc làm kế toán tại Hà Nội và tất cả tỉnh thành trên cả nước nhanh chóng, miễn phí mẫu CV xin việc kế toán chi trong 3 phút tạo và tải.
Kế toán chi phí tiêu chuẩn
Kế toán chi phí tiêu chuẩn là một phương pháp kế toán chi phí truyền thống được giới thiệu vào năm 1920s, thay thế cho phương pháp kế toán chi phí truyền thống dựa trên chi phí lịch sử. Kế toán chi phí tiêu chuẩn sử dụng các tỷ lệ được gọi là hiệu quả so sánh lao động và vật liệu thực sự được sử dụng để sản xuất hàng hóa với những hàng hóa tương tự sẽ yêu cầu trong điều kiện "tiêu chuẩn". Miễn là điều kiện thực tế và tiêu chuẩn là tương tự, vài vấn đề phát sinh. Thật không may, phương pháp kế toán chi phí chuẩn được phát triển khoảng 100 năm trước, khi lao động bao gồm chi phí quan trọng nhất của hàng hóa sản xuất. Các phương pháp tiêu chuẩn tiếp tục nhấn mạnh đến hiệu quả lao động mặc dù tài nguyên đó bây giờ là một phần rất nhỏ của chi phí trong hầu hết các trường hợp. Kế toán chi phí tiêu chuẩn có thể làm tổn thương các nhà quản lý, công nhân và công ty theo nhiều cách. Ví dụ: quyết định chính sách tăng hàng tồn kho có thể gây hại cho đánh giá hiệu suất của người quản lý sản xuất.
Em trai tôi năm nay 28 tuổi, làm công nhân khai thác đá ở Quảng Ninh. Mới đây, các bác sỹ chẩn đoán em tôi bị bệnh bụi phổi. Xin hỏi viemphequan.net bệnh bụi phổi là gì? Tại sao lại bị bệnh bụi phổi? Xin cảm ơn rất nhiều! – Hữu Hưng (35 tuổi, Thạch Thất, Hà Nội). 1 Bệnh bụi phổi là gì?1.1 Bệnh bụi phổi nguyên nhân do đâu?1.2 Triệu chứng bệnh bụi phổi. 2.1 Bệnh bụi phổi silic2.1.1 Các công việc gây nguy cơ mắc bệnh bụi phổi silic2.1.2 Triệu chứng bệnh bụi phổi silic2.1.3 Điều trị bệnh bụi phổi slic. 2.3 Bệnh bụi phổi bông2.3.1 Những công việc dễ mắc bệnh bụi phổi bông2.3.2 Triệu chứng bệnh bụi phổi bông2.3.3 Điều trị bệnh bụi phổi bông. Chào bạn Hữu Hưng, trước tiên viemphequan.net cảm ơn bạn đã yêu mến và tin tưởng chuyên mục Hỏi – Đáp của trang tin chia sẻ kiến thức sức khỏe của chúng tôi. Về câu hỏi thắc mắc của bạn, chúng tôi xin trả lời như sau:. Theo thống kê, hiện nay số người bị bệnh bụi phổi nghề nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất trong 28 bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm hiện nay ở nước ta. Đặc biệt, bụi phổi silic và bụi phổi bông là hai dạng bệnh phổ biến nhất. Bệnh bụi phổi là gì? Theo các nhà khoa học, bệnh bụi phổi là bệnh phổi do bụi tích lũy trong phổi thông qua quá trình người bệnh hít thở khói bụi bẩn vào trong cơ thể thường xuyên. Nếu kích thước bụi lớn nó sẽ bắt giữ ở đường thở và đào thải ra ngoài dễ dàng. Tuy nhiên, nếu bụi có kích thước nhỏ sẽ tiến sâu vào trong phế nang dẫn tới việc đào thải chậm hơn. Lâu dần, những hạt bụi đó sẽ gây nên bệnh bụi phổi. Như vậy, nguyên nhân gây bệnh bụi phổi chủ yếu là do tiếp xúc với vật liệu có tính phân tán thành những hạt rất nhỏ có khả năng xâm nhập vào phổi. Bụi phổi silic là một dạng bệnh phổ biến ở ngành khai thác đá liên quan tới mài, cắt, chế tạo vật liệu xây dựng. Trong câu hỏi của bạn Hữu Hưng không nói rõ em trai đang bị bệnh bụi phổi gì nhưng với ngành nghề em bạn đang làm thì có thể đang mắc bệnh bụi phổi silic. Những người bị bệnh bụi phổi ở giai đoạn đầu thường không có bất cứ dấu hiệu nào. Chỉ đến khi bệnh tiến triển nặng sẽ có các triệu chứng:. Tức ngực, khó thở, thở nhiều hơn hoặc thở gấp khi hoạt động. Một số trường hợp thấy khó thở ngay cả khi nghỉ ngơi. Là trạng thái bệnh lý của phổi do hít phải bụi silic tự do trong môi trường lao động. Đặc điểm của bệnh bụi phổi silic là xơ hóa và phát triển các hạt ở 2 phổi gây khó thở. X – quang phổi là những hình ảnh tổn thương đặc biệt. Về lâm sàng là tình trạng khó thở. Giai đoạn đầu rất ít, tần suất thưa. Khi bệnh nặng hơn, ho và khạc đờm kéo dài, liên tục. Đó là dấu hiệu viêm phế quản mãn tính. Là dấu hiệu cơ bản, đặc trưng của bệnh bụi phổi silic do khí thũng hoặc xơ hóa phổi. Triệu chứng ho ra máu thường xuất hiện khi kết hợp với bệnh lao phổi. Ho khạc đờm đen trong và lỏng gặp ở công nhân ngành than. Bệnh bụi phổi silic tiến triển chậm, xơ hóa ngày càng lan tỏa. Bệnh hầu như không chữa trị được và thường tử vong ở độ tuổi 45 – 50. Tuy nhiên, nếu phát hiện kịp thời và ngừng tiếp xúc với bụi silic thì nhiều trường hợp bệnh ổn định. Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu bệnh. Chỉ có thuốc chữa trị triệu chứng và nâng cao thể trạng giúp làm giảm và ngăn ngừa bệnh tiến triển. Điều trị viêm phế quản mãn tính: Thuốc kháng sinh, giảm ho và thuốc long đờm. Thuốc bổ dưỡng nâng cao thể trạng cho người bệnh, các loại sinh tố hoa quả. Điều tri biến chứng suy tim: Thuốc digital và lợi tiểu. Người bệnh cần nghỉ ngơi, ăn nhạt. Hợp chất hóa học Amiăng dạng sợi và được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp và tiêu dùng. Người tiếp xúc với amiăng thường xuyên có thể mắc bệnh bụi phổi amiăng. Tình trạng tổn thương xơ hóa (không ác tính) lan tỏa trong nhu mô phổi được gọi là bệnh bụi phổi amiăng. Bệnh mang tính đặc thù nghề nghiệp, xuất hiện sau 5 – 20 năm tiếp xúc. Thao tác khô với amiăng trong chế tạo xi – măng amiăng, chế tạo bìa giấy, má phanh ô tô bằng amiăng. Đây là hai dấu hiệu điển hình của bệnh. Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp bị bệnh bụi phổi amiăng không xuất hiện các triệu chứng. Khi gắng sức sẽ đau tức ngực, khó thở. Bệnh tổn thường xơ hóa lan tỏa không phục hồi nên chỉ điều trị triệu chứng. Điều trị biến chứng bệnh bụi phổi amiăng như suy hô hấp, suy tuần hoàn. Ngừng tiếp xúc với amiăng. Tuy nhiên, sau nhiều năm ngừng tiếp xúc thì tổn thương xơ hóa phổi vẫn tiến triển. Tiếp xúc với amiăng còn có thể gây ra tràn dịch, vôi hóa màng phổi, ung thư phổi, ung thư biểu mô. Đây là bệnh bụi phổi nghề nghiệp do tiếp xúc với bụi bông trong môi trường làm việc không thông thoáng. Công việc cán bông, đóng kiện bông. Bộ phận cào, xé, chải bông, ghếp và kéo sợi thơ, xe và dệt vải. Chế biến và kéo sợi gai – lanh, dứa sợi, bụi phát sinh ở bộ phận chải, làm mềm và kéo sợi. Bệnh bụi phổi bông có thể gây hẹp đường thở, sẹo phổi và tử vong do suy hô hấp hoặc nhiễm trùng. Tương tự như các loại bệnh bụi phổi khác, bệnh không có thuốc điều trị đặc hiệu nên chỉ điều trị triệu chứng. Sử dụng thuốc kháng histamin và thuốc giãn phế quản. Bệnh ở giai đoạn nặng chỉ có thể làm giảm các triệu chứng tạm thời. Khi bệnh bụi phổi bông đã biến chứng gây bệnh tâm phế mạn, điều trị như bệnh lý này về mặt nội khoa. Những phương pháp điều trị bệnh phổi rất khó khăn và phức tạp, chủ yếu là sử dụng thuốc kháng sinh, rửa phổi hoặc thở oxy. Bệnh bụi phổi có thể dẫn tới biến chứng nguy hiểm như viêm phế quản mãn tính, suy hô hấp hoặc nhiễm khuẩn cấp tính phế quản phổi. Do đó, việc ngăn chặn cũng như bệnh trở nặng hơn là rất quan trọng. Người lao động thường xuyên tiếp xúc với bụi khoáng luôn luôn sử dụng các thiết bị bảo hộ. Đồ bảo hộ gồm quần áo, kính mắt, khẩu trang chống bụi theo đúng chỉ dẫn của nhà sản xuất. Nếu bạn đang sở hữu một ngôi nhà cũ nát sẽ rất nguy hiểm bởi chất amiăng trong các thiết bị nhà bạn không được an toàn có thể gây tăng nặng bệnh bụi phổi. Qua những thông tin trên, mong rằng Hữu Hưng biết được bệnh bụi phổi là gì? Những loại bệnh bụi phổi thường gặp. Triệu chứng, nguyên nhân, cách điều trị và ngăn ngừa bệnh bụi phổi hiệu quả. Từ đó, Hữu Hưng sẽ có lời khuyên hữu ích cho em trai. Với nhiều năm làm việc và tìm hiểu về các bệnh hô hấp, tôi đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm sức khỏe hữu ích cho mọi người. Nhờ vậy mà mọi người được trang bị những kiến thức cần thiết giúp bảo vệ sức khỏe bản thân và gia đình tốt hơn.
Bệnh bụi phổi amiăng
Bệnh bụi phổi amiăng - asbestosis là tình trạng viêm lâu dài và gây sẹo phổi do sợi amiăng. Các triệu chứng có thể bao gồm khó thở, ho, thở khò khè và đau ngực. Các biến chứng có thể bao gồm ung thư phổi, ung thư trung biểu mô và bệnh tim phổi. Bệnh bụi phổi amiăng là do hít phải sợi amiăng. Nói chung, nó đòi hỏi người bệnh phơi nhiễm tương đối lớn trong một khoảng thời gian dài. Mức độ tiếp xúc như vậy thường chỉ xảy ra ở những người làm việc với vật liệu này và không sử dụng các biện pháp bảo hộ an toàn lao động đúng cách. Tất cả các loại sợi amiăng có liên quan đến tăng nguy cơ mắc bệnh. Người ta thường khuyến nghị rằng amiăng hiện tại không bị xáo trộn. Chẩn đoán dựa trên tiền sử phơi nhiễm cùng với hình ảnh y tế. Asbestosis là một loại xơ phổi mô kẽ. Hiện tại không có điều trị đặc hiệu. Các khuyến nghị có thể bao gồm tiêm phòng cúm, tiêm vắc-xin phế cầu khuẩn, liệu pháp oxy và ngừng hút thuốc. Bệnh bụi phổi amiăng ảnh hưởng đến khoảng 157.000 người và khiến 3.600 người tử vong trong năm 2015.
Tên miền là một chuỗi ký tự được chia bởi các dấu chấm. Nhìn hình bên trên bạn thấy rõ tên miền cấp cao nhất nằm ở vị trí nào. Đó chính là phần sau dấu chấm cuối cùng. Tên miền cấp cao nhất giúp chúng ta ngay lập tức hình dung được trang web đó là về cái gì trên tổng thể chung. Thí dụ trang web nào có đuôi tên miền .edu giúp ta hiểu được trang web đó là về giáo dục. Còn .vn thì chúng ta biết ngay là người đăng ký này hướng đến người dùng thuộc lãnh thổ Việt Nam. Mỗi một tên miền cấp cao nhất phục vụ cho mục đích riêng. Có lẽ ít nhiều bạn đã hiểu phần nào ý nghĩa của đuôi .vn hoặc .com do sự phổ biến của chúng. Một số tên miền cấp cao nhất mở cho tất cả mọi người đăng ký, trong khi một số khác yêu cầu phải đạt được tiêu chuẩn nhất định. Với người dùng Việt Nam về cơ bản quan tâm đến hai cái đầu là chủ yếu, nhưng chúng ta vẫn đề cập hai cái sau trong bài viết này. Đây là kiểu tên miền phổ biến có khả năng cao bạn thấy quen mặt nhất. Nhiều đuôi mở cho bất kỳ ai muốn đăng ký, ví dụ:. Tuy có ý nghĩa ban đầu như vậy, nhưng các tổ chức hoặc cá nhân có thể đăng ký đuôi trên hoàn toàn tự do cho mục đích sử dụng (miễn không trái pháp luật). Dĩ nhiên chính vì thế mà giá trị định hướng dựa trên đuôi tên miền của nhóm tên miền cấp cao nhất này bị giảm. .int (quốc tế, viết tắt của international): Được sử dụng bởi các tổ chức quốc tế cho mục đích liên quan đến hiệp ước, yêu cầu phải có số đăng ký của Liên Hiệp Quốc. .edu (giáo dục, viết tắt của education): Giới hạn chỉ cho các tổ chức giáo dục. .gov (chính phủ, viết tắt của government): Giới hạn chỉ cho các tổ chức thuộc chính phủ Hoa Kỳ. .mil (quân đội, viết tắt của military): Giới hạn chỉ cho quân đội Hoa Kỳ. .jobs (việc làm): Phải đăng ký bằng tên hợp pháp của công ty hoặc tổ chức. .mobi (di động, viết tắt của mobile): Có thể phải tuân theo các hướng dẫn tương thích với điện thoại di động. .tel (telnic): Giới hạn lưu trữ những thứ liên quan đến thông tin liên hệ, không phải website. Ví dụ .vn là tên miền quốc gia cấp cao nhất cho Việt Nam. ccTLD dựa trên mã ISO bao gồm chỉ 2 ký tự của quốc gia tương ứng. Bên dưới liệt kết một số tên miền quốc gia cấp cao nhất thường gặp:. Hầu hết các tên miền quốc gia cấp cao nhất đều có thể mua được dễ dàng từ các nhà đăng ký tên miền lớn. Giá của chúng tùy thuộc rất nhiều vào đuôi tên miền cụ thể muốn mua. Có thể đắt hơn hoặc rẻ hơn các đuôi tên miền cấp cao nhất dùng chung. Đuôi tên miền này là viết tắt của từ tiếng Anh address and routing parameter area – là kiểu mà người thường như chúng ta ít quan tâm nhất. Nó được sử dụng cho mục đích cơ sở hạ tầng kỹ thuật, như phân giải tên miền từ địa chỉ IP cho trước. Đây là đuôi tên miền được hiển thị theo bảng chữ cái của ngôn ngữ bản địa. Chương trình chủ yếu tập trung vào việc lên kế hoạch và triển khai cho tên miền cấp cao nhất IDN, bao gồm cả IDN tên miền quốc gia cấp cao nhất và gTLD. Chương trình IDN cũng hỗ trợ các dự án hướng đến việc sử dụng hiệu quả các IDN ở lớp tên miền cấp hai trong Hệ Thống Tên Miền. Vì Việt Nam sử dụng bảng chữ cái Latinh, chỉ có vài từ có dấu là khác nên các đuôi viết tắt không dấu không có gì khác biệt cả. Do vậy hầu như chúng ta không ý thức được sự tồn tại của kiểu đuôi IDNs. Các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, hay Nga có bảng chữ cái khác hẳn và họ có đuôi tên miền theo ngôn ngữ riêng. Lấy ví dụ .рф là tên miền cấp cao nhất đa ngữ cho Liên Bang Nga. Chắc bạn sẽ đoán đúng gần hết danh sách 6 tên miền cấp cao nhất này, chúng bao gồm: .com, .net, .edu. symbolics.com là tên miền là tên miền đầu tiên trên thế giới được đăng ký vào ngày 15 tháng 3 năm 1985. Trong đó 2 đuôi tên miền đầu tiên chiếm thế áp đảo so với phần còn lại với tổng cộng hơn 89% thị phần. Nếu bạn đọc từ đầu thì khi đến phần này hẳn đã có câu trả lời cho chính mình. Khá dễ để nói rằng .com là đuôi tên miền sáng giá nhất cần lựa chọn trước tiên. Trong bài viết về cách chọn tên miền hay tôi cũng nói đến việc hướng đến đuôi tên miền phổ biến nhất này. Tuy nhiên trong một vài trường hợp .com không phải là đuôi tốt nhất cho bạn, chẳng hạn nếu bạn là tổ chức giáo dục, .edu có thể thích hợp hơn. Một vấn đề thường gặp khác với đuôi .com là vì mọi người đều hướng đến việc dùng nó, nên số lượng tên miền hay, ngắn gọn, nhất là kiểu tên miền chứa từ khóa một phần hoặc toàn bộ có khả năng cao được người khác mua rồi. Hoặc vẫn sử dụng tên thương hiệu lúc đầu bạn chọn nhưng thử với các đuôi ít phổ biến hơn như .net, .org, .com.vn, .vn xem có còn không. Ngoài ra hiện có rất nhiều đuôi tên miền mới ra đời để bạn lựa chọn, bạn có thể chọn chúng nếu các đuôi trên không còn hoặc bạn cảm thấy đuôi mới thích hợp hơn. Các đuôi mới này khá chuyên biệt nên bạn cần lựa chọn cẩn thận, thêm vào đó phải cân nhắc đến tính phổ biến của chúng, rất nhiều đuôi tên miền mới hầu hết mọi người chưa gặp lần nào, và có thể làm họ e ngại khi truy cập. – Và nếu anh vẫn giữ nguyên lựa chọn của mình, thì cho e hỏi tại sao web làm affiliate, MMO tại Việt nam lại không nên chọn đuôi .VN đầu tiên ạ?. A vẫn giữ thứ tự ưu tiên đó em à. Vì tên miền .com rẻ hơn hẳn mà, trong khi chất lượng đâu có thua kém .vn; Chọn đuôi .vn cũng rất ổn, nếu e không ngại vấn đề chi phí, cung cấp thông tin đầy đủ rõ ràng cho nhà quản lý dịch vụ. – Và nếu anh vẫn giữ nguyên lựa chọn của mình, thì cho e hỏi tại sao web làm affiliate, MMO tại Việt nam lại không nên chọn đuôi .VN đầu tiên ạ?. A vẫn giữ thứ tự ưu tiên đó em à. Vì tên miền .com rẻ hơn hẳn mà, trong khi chất lượng đâu có thua kém .vn; Chọn đuôi .vn cũng rất ổn, nếu e không ngại vấn đề chi phí, cung cấp thông tin đầy đủ rõ ràng cho nhà quản lý dịch vụ.
Tên miền cấp cao nhất
Tên miền cấp cao nhất (tiếng Anh: Top-level Domain - TLD) là phần cuối cùng của một tên miền Internet; hay nói cách khác, nó là những chữ đi sau dấu chấm cuối cùng của một tên miền. Ví dụ, trong tên miền www.example.com, tên miền cấp cao nhất là com (hoặc COM, vì tên miền không phân biệt dạng chữ). tên miền quốc gia cấp cao nhất (ccTLD): Được sử dụng bởi một quốc gia hoặc lãnh thổ phụ thuộc. Nó có hai ký tự, ví dụ .vn cho Việt Nam. tên miền cấp cao nhất dùng chung (gTLD): Về mặt lý thuyết, được sử dụng bởi một kiểu tổ chức nào đó (ví dụ, .com cho những tổ chức thương mại). Nó có ba ký tự trở lên. Phần lớn các tên miền dùng chung có thể được dùng trên toàn thế giới, nhưng vì những lý do lịch sử tên miền .mil (quân đội - military) và .gov (chính phủ - government) bị giới hạn chỉ được dùng cho các cơ quan tương ứng của Hoa Kỳ. Tên miền dùng chung được chia nhỏ thành các tên miền cấp cao nhất có tài trợ (sTLD), như.aero,.coop và.museum, và tên miền cấp cao nhất không có tài trợ (uTLD), như .biz, .info, .name và .pro.
Thất nghiệp là hiện tượng người lao động bị ngừng thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm thích hợp trong trường hợp người đó có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc. Thất nghiệp hiểu đơn giản là trạng thái một cá nhân ở độ tuổi lao động không có việc làm. Đây là thực trạng xảy ra phổ biến ở tất cả các quốc gia, nó càng trở lên trầm trọng hơn trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp. Cụ thể thất nghiệp là gì?, các tiêu chí để xác định một người lao động là gì?, hỗ trợ liên quan đến người thất nghiệp được xác định như thế nào?, mời Quý Khách hàng theo dõi nội dung bài chia sẻ của Luật Hoàng Phi dưới đây:. Thất nghiệp là hiện tượng người lao động bị ngừng thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm thích hợp trong trường hợp người đó có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc theo Điều 20, Công ước 102 (1952) của Tổ chức lao động quốc tế (ILO). Như vậy, thất nghiệp là hiện tượng xã hội khi người lao động có khả năng lao động, không có việc làm, không có nguồn thu nhập dưới dạng tiền hưu trí, tiền mất sức lao động hay các nguồn thu nhập khác do người sử dụng lao động trả và đang tích cực tìm kiếm công việc. Bên cạnh việc giải đáp thất nghiệp là gì? chúng tôi sẽ tiếp tục gửi tới bạn đọc các thông tin hữu ích có liên quan trong các phần tiếp theo của bài viết, do đó, Quý độc giả đừng bỏ lỡ. Người thất nghiệp là người đang đóng bảo hiểm thất nghiệp mà bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc nhưng chưa tìm được việc làm theo quy định tại khoản 4, Điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội 2006. Tuy nhiên, khái niệm trên chỉ mang tính chất tham khảo do Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã thay thế cho Luật Bảo hiểm xã hội 2006, không còn quy định về khái niệm này. + Nhập mới (new entrant): là những người đầu tiên bổ sung vào lực lượng lao động, nhưng chưa tìm được việc làm, đang tích cực tìm kiếm việc làm. + Thất nghiệp tự nhiên (natural unemployment): là mức thất nghiệp bình thường mà nền kinh tế trải qua, là dạng thất nghiệp không mất đi trong dài hạn, tồn tại ngay khi thị trường lao động cân bằng. + Thất nghiệp chu kỳ (cyclical unemployment): là mức thất nghiệp tương ứng với từng giai đoạn trong chu kỳ kinh tế, do trạng thái tiền lương cứng nhắc tạo ra,là dạng thất nghiệp sẽ mất đi trong dài hạn. Trên thực tế, không phải Người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khỏe, khả năng lao động để hoàn thành nhiệm vụ lao động. Người nào cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, bệnh tật, tai nạn,… hoặc thiếu công việc do những ảnh hưởng khách quan. Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh, giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động phải được sự bảo trợ của cộng đồng và xã hội. Bảo hiểm thất nghiệp ra đời và phát triển, trở thành một trong những chính sách an sinh xã hội quan trọng nhất hỗ trợ liên quan đến vấn đề người lao động và người lao động thất nghiệp. Một số chính sách nằm trong bảo hiểm thất nghiệp nằm hỗ trợ Người lao động thất nghiệp có thể kể đến như: giới thiệu việc làm, hỗ trợ học nghề, trợ cấp thất nghiệp,…. Như vậy, bên cạnh hỗ trợ một khoản tài chính đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động trong thời gian thất nghiệp thì mục đích chính của bảo hiểm thất nghiệp là thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp tìm được một công việc mới thích hợp và ổn định. Đây là một khoản tiền hỗ trợ người lao động thất nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để được hưởng trợ cấp thất nghiệp, Người lao động thất nghiệp phải đáp ứng một số điều kiện cụ thể và thực hiện trình tự theo quy định. + Đã đóng Bảo hiểm thất nghiệp theo tối thiểu mức thời hạn theo quy định. + Đã đăng ký thất nghiệp, nộp hồ sở hưởng trợ cấp và chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ. + Trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, người lao động nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm do cơ quan quản lý nhà nước về việc làm thành lập. + Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày trung tâm dịch vụ việc làm tiếp nhận đủ hồ sơ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp; trường hợp không đủ điều kiện để hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp thì phải trả lời bằng văn bản cho người lao động. + Tổ chức bảo hiểm xã hội thực hiện việc chi trả trợ cấp thất nghiệp cho người lao động trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp. Thất nghiệp là điều không người lao động nào mong muốn trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động với người sử dụng lao động. Thất nghiệp gây ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế và cuộc sống xã hội. Việc giải quyết thất nghiệp không chỉ là câu chuyện an sinh của Nhà nước mà mỗi cá nhân cần nhận thức và hành động để tìm kiếm một công việc mới phù hợp. Thất nghiệp đôi khi là cơ hội mở để bạn kiếm tìm một vị trí phù hợp với năng lực của bản thân.
Thất nghiệp
Thất nghiệp trong kinh tế học, là tình trạng người lao động muốn có việc làm mà không tìm được việc làm hoặc không được tổ chức, công ty và cộng đồng nhận vào làm. Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao động không có việc làm trên tổng số lực lượng lao động xã hội. Thất nghiệp có mối liên hệ với lạm phát được biểu hiện bằng đường cong Phillips. Lịch sử của tình trạng thất nghiệp chính là lịch sử của công cuộc công nghiệp hóa. Ở nông thôn, mặc dù có tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp một phần, làm việc ít thời gian ở nông thôn, nhưng thất nghiệp không bị coi là vấn đề nghiêm trọng.
Dưới 1% quần áo được tái chế thành sản phẩm may mặc mới. Theo ước tính, ngành công nghiệp thời trang là tác nhân dẫn đến lượng rác thải trung bình 13kg/người trên hành tinh. Hãy tưởng tượng điều đó tương tự với viễn cảnh thế giới có một bãi rác khổng lồ với kích thước bằng nước Pháp, chỉ chứa đầy quần áo và hàng dệt may…. Ngành công nghiệp thời trang hiện tại không chỉ lãng phí mà còn tham lam khi việc khai thác khối lượng vật liệu thô khổng lồ đòi hỏi vắt kiệt nguồn tài nguyên đất, nước, dầu và hóa chất cũng như gây ô nhiễm trong quá trình sản xuất. Trong bối cảnh đó, dù chỉ mới xuất hiện vào năm 2014, từ “tuần hoàn” (circular) đã nhanh chóng trở thành một khái niệm bền vững được đón nhận nồng nhiệt trong lĩnh vực thời trang. Ngành công nghiệp thời trang tuần hoàn được định nghĩa là ngành công nghiệp giảm thiểu chất thải và ô nhiễm, đồng thời giữ cho sản phẩm và vật liệu được sử dụng lâu nhất có thể, thông qua việc tái sử dụng và tái chế, và có các hệ thống phân loại tự nhiên tự tái tạo. Nền kinh tế hiện nay chủ yếu dựa trên mô hình vận hành theo đường thẳng hay mô hình tuyến tính (linear economy). Theo đó, tài nguyên được lấy đi một cách vô tội vạ từ hành tinh, làm thành sản phẩm và sau đó bị vứt bỏ khi không còn cần thiết nữa. Dù một số sản phẩm có thể được tái sử dụng và tái chế đi chăng nữa thì cuối cùng quá trình đó vẫn là “khai thác – sản xuất – thải bỏ”. Ngược lại, một mô hình kinh tế bền vững hơn có tính chất tuần hoàn hơn. Sau khi được khai thác, tài nguyên được giữ lại trong vòng tuần hoàn lâu nhất có thể thông qua việc sử dụng và tái sử dụng sản phẩm, và sau đó tái chế thành vật liệu thô dùng cho sản xuất mà không cần khai thác tài nguyên mới. Quỹ Ellen MacArthur đề cập đến mô hình này như là “một hoạt động kinh tế tách rời khỏi việc tiêu thụ tài nguyên vốn có hạn và loại bỏ chất thải ra khỏi hệ thống”. Mô hình kinh tế tuần hoàn không chỉ là một cách tiếp cận phi tuyến tính (non-linear), tập trung vào việc không có rác thải mà còn phải đảm bảo hai công đoạn “ khai thác” và “sản xuất”. Việc khai thác tài nguyên vật chất và tạo ra sản phẩm cũng cần mang tính bền vững và tái tạo được. Ví dụ, Chứng nhận Cradle2Cradle đưa ra một tiêu chuẩn tiếp cận cho vòng tuần hoàn của vật liệu. Nó đánh giá xem liệu sản phẩm đã được thiết kế phù hợp và được sản xuất đúng với đặc tính của nền kinh tế tuần hoàn, dựa trên năm hạng mục quan trọng: sức khỏe vật chất, tái sử dụng vật liệu, quản lý carbon và tái tạo năng lượng, quản lý nước, và công bằng xã hội. Sau cùng thì một mô hình tuần hoàn cũng xem xét giai đoạn cuối cùng trong vòng đời của một sản phẩm. Nếu sản phẩm không thể sử dụng được nữa (dù toàn bộ hay một phần) hoặc không thể được tái chế thành vật liệu thô thì có thể được thải bỏ mà không gây hại cho môi trường. Tác phẩm bạn thấy ở trên là một sản phẩm nâng cấp (upcycling) từ nguyên liệu vải đã qua sử dụng, bị hư hại đến mức không thể sửa chữa được nữa, đến từ Eileen Fisher, thương hiệu thời trang đến từ Mỹ. Kể từ năm 2009 đến nay, Eileen Fisher đã thu gom được 1.4 triệu sản phẩm quần áo đã qua sử dụng từ chính thương hiệu của họ. Những thứ người ta cho là rác thải, trong mắt họ, là một sự sống mới. Tạo dựng thời trang tuần hoàn đòi hỏi chúng ta phải thay đổi cách tiếp cận đến toàn bộ hệ thống. Để ngành công nghiệp thời trang chuyển từ mô hình vận hành theo đường thẳng sang mô hình tuần hoàn. Theo đó, các vấn đề sau đây cần được giải quyết. Không chỉ đơn giản là loại bỏ chất thải và sử dụng vật liệu thô, thời trang tuần hoàn còn phải xem xét ở góc độ thiết kế sản phẩm từ khâu sản xuất, sử dụng và xử lý cuối cùng. Các vấn đề thiết kế cần xem xét bao gồm việc sử dụng sợi đơn thay vì sợi pha trộn, đảm bảo các loại phụ liệu may mặc có thể tháo ráp dễ dàng và có thể được phục hồi để tái sử dụng, và việc sử dụng thuốc nhuộm và thành phẩm đảm bảo an toàn. Kể từ khi ra mắt thương hiệu thời trang mang tên mình năm 2001, nhà thiết kế Stella McCartney luôn là người tiên phong trong việc cho ra mắt các thiết kế sử dụng chất liệu bền vững và thân thiện với môi trường. Video trên là chia sẻ của nhà thiết kế về sự kết hợp với Bolt Threads để cho ra mắt các thiết kế sử dụng chất liệu tơ nhện nhân tạo 100%. Một đặc tính quan trọng của thời trang tuần hoàn là cách sử dụng tài nguyên thiên nhiên cho phép chúng được phục hồi và tái sinh thay vì tận dụng cạn kiệt và gây ô nhiễm, dù là vật liệu thô hay vật liệu sản xuất. Ví dụ, ưu tiên sử dụng năng lượng tái tạo, bông hữu cơ, sản xuất vòng kín hoặc sợi từ các sản phẩm phụ của quy trình sản xuất thực phẩm. Thời trang tuần hoàn không chỉ hướng đến việc tạo ra quần áo, giày dép và phụ kiện sử dụng được lâu mà còn xem xét lại quyền sở hữu thông qua việc bán lại, chia sẻ, cho thuê mô hình và thiết kế lại các sản phẩm hiện có, chẳng hạn như tăng giá trị thông qua việc nâng cấp (upcycling). Dưới đây là một ví dụ đến từ Môi Điên Studio, để làm chất liệu mới cho bộ sưu tập, đội ngũ thiết kế đã sử dụng hàng trăm mảnh vải vụn sản xuất từ thương hiệu V-SIXTYFOUR. Các hệ thống và cơ sở thu gom, tái sản xuất và tái chế hiện nay đang thiếu rất nhiều thứ cần thiết để giữ cho tất cả hàng may mặc và giày dép hiện hữu luân chuyển trong vòng tuần hoàn cho dù thông qua hoạt động bán lại, nâng tầm đồ cũ hay tái chế. Các công nghệ mới đang nổi lên để tái chế hàng may mặc, bao gồm cả những sản phẩm được pha trộn, trở lại thành sợi có chất lượng tương tự vật liệu thô (thay vì chỉ có thể sản xuất sợi và sợi xuống cấp ít phù hợp hơn cho may mặc.). Ví dụ, len cashmere tái tạo tác động đến môi trường ít hơn 87% so với cashmere mới được làm ra từ lông của những chú dê Cashmere. Những thuật ngữ kỹ thuật như là “phân huỷ sinh học” và “hữu cơ” thường không xuất hiện trong ngành thời trang, thì giờ đây là những quy trình quan trọng trong thời trang tuần hoàn (vì không phải tất cả chất thải đều có thể được loại bỏ hoàn toàn). Đây cũng là các khái niệm mới mà các chuyên gia thời trang cần làm quen để có thể đưa ra các quyết định sáng suốt. Vật liệu nên được phân huỷ trong đất nhanh chóng, dễ dàng và không gây ô nhiễm khi chúng không còn khả năng sử dụng được. Vì khái niệm tuần hoàn ngày một phổ biến nên cũng đã có không ít nhầm lẫn về bản chất của nó. Liệu “tuần hoàn” có nguy cơ trở thành một từ ngữ sáo rỗng, một thứ “cực chất” tiếp theo để một nhãn hiệu thời trang nói rằng hùng hồn tuyên bố rằng họ đang làm?. Chúng ta dễ thấy ngày càng có nhiều những món đồ được nâng cấp hoặc làm từ vật liệu tái chế hoặc có thể tái chế thì đã được gán mác là “thời trang tuần hoàn”. Tuần hoàn không chỉ đơn thuần là sự tái sinh vật chất. Nó cũng không chỉ đơn thuần là quần áo mang về rồi bán lại hoặc cho thuê hoặc thiết kế cho tuổi thọ dài hơn. Tuần hoàn là sự kết hợp của tất cả những hoạt động nêu trên và nhiều hơn thế nữa. Ví dụ, thương hiệu quần jeans lâu đời nhất thế giới, Levi’s, hợp tác với chương trình The Blue Jeans Go Green™ để thu hồi quần jeans đã sử dụng và tái chế thành vật liệu cách nhiệt sử dụng trong xây dựng. Có thể nói, nền kinh tế thời trang tuần hoàn là một hệ thống. Các nhà máy tái chế, các chương trình mua-trả (take-back), quần áo được tái chế, nhà máy không ô nhiễm và nhiều thứ khác đều là những mấu chốt để tạo nên một nền kinh tế thời trang tuần hoàn. Chúng ta cần hiểu rằng chúng chỉ là một phần trong hệ thống và không thể nào tạo nên một vòng tuần hoàn riêng lẻ được. Mô hình tuần hoàn không phải là liều thuốc chữa bách bệnh cho ngành thời trang tại thời điểm này. Nó có thể đầy tiềm năng, nhưng các hệ thống cần thiết để giữ cho tất cả các sản phẩm may mặc và giày dép hiện đang được lưu hành, tái sử dụng và xử lý mà không gây hại vẫn chưa được thiết lập hoàn thiện. Trong khi đó, chúng ta vẫn không ngừng sản xuất các sản phẩm mới từ vật liệu thô với tốc độ nhanh chóng. Tiến trình này không đủ để bù đắp cho tốc độ tăng trưởng đó. Hiện tại các công ty điều hành có chương trình mua-trả đang khuyến khích người mua sắm mang trả quần áo đã qua sử dụng bằng cách cho họ các phiếu mua hàng (voucher) để mua thêm. Theo báo cáo Tương lai của Thời trang Tuần hoàn của Fashion for Good thì “80% khách hàng trả lại hàng may mặc đã sử dụng phiếu mua hàng của họ để mua một mặt hàng mới từ cùng thương hiệu đó”. Liệu việc chuyển sang nền kinh tế thời trang tuần hoàn có thể giải quyết được tác động của các mô hình kinh doanh vốn dựa vào sự tăng trưởng liên tục, khối lượng sản xuất ngày càng tăng và mong muốn sự mới mẻ từ người tiêu dùng thì vẫn đang là dấu chấm hỏi lớn. Tuy nhiên, tại thời điểm này, chỉ cần nỗ lực để chuyển hướng sang một mô hình tuần hoàn hơn cũng đã mang lại lợi ích, ít nhất là đã giúp giảm thiểu chất thải và ô nhiễm.
Thời trang
Thời trang là một sự thể hiện thẩm mỹ phổ biến tại một thời gian, địa điểm cụ thể, trong một bối cảnh cụ thể bằng cách sử dụng quần áo, giày dép, lối sống, phụ kiện, cách trang điểm, kiểu tóc và tỷ lệ cơ thể. Không như xu hướng thường chỉ bao hàm một sự thể hiện thẩm mỹ riêng biệt và thường kéo dài ngắn hơn một mùa, thời trang là sự thể hiện đặc biệt, được hỗ trợ bởi ngành công nghiệp thời trang mà thường gắn liền với các mùa và bộ sưu tập. Phong cách là một biểu hiện kéo dài qua nhiều mùa và thường được kết nối với các phong trào văn hóa và các dấu hiệu xã hội, biểu tượng, giai cấp và văn hóa (ví dụ: Baroque, Rococo.). Theo nhà xã hội học Pierre Bourdieu, thời trang có nghĩa là "thời trang mới nhất, sự khác biệt mới nhất".Dù thường được sử dụng cùng nhau, thuật ngữ thời trang khác với quần áo và trang phục. Thuật ngữ đầu tiên mô tả chất liệu và kỹ thuật may mặc, trong khi thuật ngữ thứ hai được dùng để chỉ sự cảm nhận đặc biệt như ăn mặc sang trọng hoặc hóa trang.
Xem phim Atonement trực tuyến online với hình ảnh sắc nét chuẩn HD 1080p và âm thanh sống động cho bạn một không gian xem phim lý tưởng và hoàn hảo. Link tải và download phim Atonement miễn phí, với tốc độ tối ưu cho bạn dễ dàng tải những bộ phim yêu thích lưu trữ. Tất cả những bộ phim đăng tải được xét duyệt và đăng ký bản quyền đầy đủ. Chuộc lỗi- Atonement 2007 là một bộ phim tình cảm chiến tranh Anh quốc được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Ian McEwan và do Joe Wright đạo diễn. Bộ phim tái hiện lại câu chuyện về một lỗi lầm khủng khiếp của Briony Tallis (Saoirse Ronan đóng) đối với Cecilia Tallis (Keira Knightley đóng) và đặc biệt là với Robbie Turner (James McAvoy đóng). Mọi chuyện bắt đầu vào khoảng những năm 1930, khi đó Briony là một cô bé 14 tuổi, sinh ra trong một gia đình quý tộc Anh và sớm bộc lộ tài năng văn học của mình. Một lần, cô phát hiện tình cảm giữa chị gái mình là Cecilia và Robbie người mà cô cũng có tình cảm. Vì một sự nhầm lẫn, Robbie đã vô tình gửi nhầm một bức thư với những từ ngữ gợi dục cho Cecilia và Briony vô tình là người nhận nó. Cùng một số lần bắt gặp chị gái mình cùng Robbie có những hành động thân mật khác, đã khiến Briony mặc định rằng Robbie là một kẻ biến thái. Để rồi cô tố cáo cho anh là kẻ hiếp dâm chị họ của mình, dù cho cô đã thấy thủ phạm thật sự là ai. Lời tố cáo của một cô bé xinh xắn, với vẻ ngoài dịu dàng năm ấy đã huỷ hoại hai con người và tình cảm của họ. Đó có thể là một sự ngây thơ của một cô bé khi cho rằng bạn trai của chị mình là kẻ xấu và muốn chị tránh xa anh ta. Cũng có thể là một sự ganh tị vô hình nào đó trong đầu óc một nhà văn tài năng này. Dù là lý do gì đi nữa thì điều mà Briony làm đã khiến cô hối hận mãi về sau để rồi cô chuộc lỗi bằng một hành động đã quá muộn màng. Đã từng nhận được quả cầu vàng cho giải thưởng bộ phim chính kịch xuất sắc nhất, Chuộc lỗi là một tác phẩm gây ám ảnh và cho ta nhiều chiêm nghiệm khi xem nó. Hãy xem bộ phim để biết kết thúc của câu chuyện như thế nào và có những suy ngẫm về hành động chuộc lỗi của Briony bạn nhé!. Atonement là một bộ phim tình cảm chiến tranh Anh quốc, được sản xuất vào năm 2007 và đạo diễn bởi Joe Wright, dựa vào cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Ian McEwan. Phim là câu chuyện đầy dằn vặt và ám ảnh về lời nói dối làm thay đổi hơn một cuộc đời. Một buổi trưa hè cô bé Briony nhìn thấy chị gái mình Cecilia ướt sũng trong bộ đồ lụa lụa bó sát trước mặt Robbie – con trai người quản gia của gia đình cô. Bằng sự ngây thơ của trẻ con Briony đã diễn giải những hành động của Robbie và đưa ra lời buộc tội cưỡng hiếp cô em họ Lola Quincey. Từ đó cuộc đời của Robbie, Cecilia, và cả Briony vĩnh viễn thay đổi. Gay cấn quá đi, cô bé làm hỏng việc hết rồi. Lúc đầu mình thấy cô bé nhìn nhìn qua cửa sổ mình không nghĩ là chuyện đến như vậy. Đúng là gây ra tội thì dễ chứ chụộc thì biết đến khi nào trời. Cô bé này là nhà tiểu thuyết gia sau này hả? sách này bán chạy lắm!. Cái tội vu khống Nhưng mà từ một đứa con nít haizzz. Cuộc đời sẽ có những chuyện như vậy nhưng mình không gặp phải là may rồi
Chuộc lỗi (phim)
Chuộc lỗi (tên gốc tiếng Anh: Atonement) là một bộ phim tình cảm chiến tranh Anh Quốc, được sản xuất vào năm 2007 và đạo diễn bởi Joe Wright, dựa vào cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Ian McEwan, với Keira Knightley, James McAvoy, Saoirse Ronan, Romola Garai và Vanessa Redgrave trong các vai chính. Bộ phim kẻ về một án oan và những hệ luỵ kéo dài suốt hơn 6 thập kỉ, từ những năm 1930. Bộ phim công chiếu ở Anh và Ireland ngày 7 tháng 9 năm 2007 và ở Bắc Mỹ ngày 7 tháng 12 năm 2007, cuối cùng thu về doanh thu hon 129 triệu USD và giành được 6 đề cử tại Giải Oscar lần thứ 80, trong dó có hạng mục Phim hay nhất, Nữ phụ xuất sắc nhất cho Ronan, Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất và chiến thắng tại hạng mục Nhạc phim hay nhất. Ngoài ra, phim còn chiến thắng hạng mục Phim chính kịch hay nhất tại Giải Quả cầu vàng lần thứ 65 và nhân được 14 đề cử tại Giải BAFTA lần thứ 61. Năm 1935, cô bé 13 tuổi Briony Tallis say mê văn chương, xuất thân từ một gia đình quý tộc Anh giàu có vừa mới viết xong một vở kịch.
Những khách hàng tiềm năng luôn là đối tượng chính mà các cửa hàng cần tiếp cận và tạo mối quan hệ tốt. Điều này được thể hiện rất rõ trong hoạt động quản lý khách hàng trọng yếu của mỗi cửa hàng. Vậy quản lý khách hàng trọng yếu là gì và yêu cầu của công việc này như thế nào, hãy cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé. Những đối tượng được xem là khách hàng trọng yếu thường là những khách hàng có tiềm năng mua hàng cao cùng hành vi mua hàng tương đối phức tạp. Hiện nay có khá nhiều định nghĩa khác nhau về mô hình quản lý khách hàng trọng yếu, nhưng nhìn chung quản lý khách hàng trọng yếu là hoạt động lựa chọn những khách hàng quan trọng và tập trung nguồn lực để phục vụ những khách hàng đó. Các công việc chính của chiến lược này là lên kế hoạch xây dựng và phát triển mối quan hệ bền vững với nhóm khách hàng lớn. Bên cạnh đó quản lý khách hàng trọng yếu cũng bao gồm việc huy động, tập hợp nhân lực nhằm thực hiện những hoạt động đặc biệt dành cho những khách hàng đó. Trong các cửa hàng, công việc xây dựng mối quan hệ và đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng lớn là vô cùng cần thiết. Bởi nó không chỉ giúp thực hiện tốt hơn hoạt động quản lý khách hàng nói chung mà còn đưa đến rất nhiều lợi ích cho cửa hàng. Hoạt động quản lý khách hàng trọng yếu sẽ giúp cửa hàng theo dõi và kiểm soát thông tin khách hàng một cách nhanh chóng. Dữ liệu về khách hàng trọng yếu sẽ là cơ sở để cửa hàng có được những chiến lược kinh doanh hiệu quả. Từ những thông tin cá nhân như ngày sinh, địa chỉ hay thông tin về hành vi, thói quen mua sắm, cửa hàng sẽ có thể điều chỉnh những chương trình ưu đãi dành cho nhóm khách hàng này. Giữ chân khách hàng cũ luôn tốn ít chi phí và hiệu quả hơn nhiều so với việc thu hút khách hàng mới. Do đó, đây luôn là hoạt động được nhiều cửa hàng quan tâm và chú trọng. Quản lý khách hàng trọng yếu góp phần đưa ra những chương trình ưu đãi, chăm sóc phù hợp với những nhóm khách hàng này. Từ đó giúp cửa hàng duy trì giữ chân những khách hàng lớn với sức mua lớn, góp phần làm tăng doanh thu cửa hàng cũng như có được lượng khách hàng trung thành ổn định. Một trong những yếu tố tạo nên thành công cho cửa hàng là chính sách chăm sóc khách hàng. Hoạt động quản lý khách hàng trọng yếu sẽ giúp chủ cửa hàng lắng nghe được ý kiến cũng như phản hồi của khách hàng, từ đó dễ dàng điều chỉnh và nâng cao chất lượng của dịch vụ chăm sóc khách hàng. Đặc biệt đối với những khách hàng lớn, công việc này giữ vai trò cực kì quan trọng trong việc tạo dựng và duy trì mối quan hệ tốt đẹp với nhóm khách hàng đó. Hoạt động quản lý khách hàng tiềm năng không còn quá xa lạ nhưng chưa có nhiều cửa hàng thực hiện hiệu quả công việc này. Những lưu ý khi quản lý khách hàng tiềm năng sau đây sẽ giúp các bạn hiểu và xây dựng tốt hơn hệ thống này. Mỗi cửa hàng cần có một người quản lý chuyên phụ trách các khách hàng quan trọng, giúp các công việc được diễn ra một cách suôn sẻ và hiệu quả nhất. Các bộ phận trong cửa hàng phải phối hợp chặt chẽ với nhau để thực hiện công việc này từ chủ cửa hàng, thu ngân, nhân viên bán hàng,. Những ưu đãi dành cho khách hàng trọng yếu không được cung cấp cho những đối tượng khách hàng khác, ví dụ như ưu đãi đặc biệt về giá, cung cấp dịch vụ, phân phối và chia sẻ thông tin cho khách hàng. Hiểu biết về ngành, về cửa hàng và về khách hàng trọng yếu của cửa hàng. Khả năng lắng nghe, tiếp nhận thông tin và nắm bắt được tâm lý của khách hàng. Điều này sẽ giúp cửa hàng có thể tìm ra những phương thức phù hợp đáp ứng nhu cầu khách hàng. Có thể phối hợp nhuần nhuyễn với các bộ phận khác trong cửa hàng nhằm thực hiện hiệu quả công việc. Có khả năng bao quát quan hệ khách hàng và đo lường hiệu quả của hoạt động. . Hiện nay, với sự phát triển của công nghệ thông tin, hoạt động quản lý khách hàng tiềm năng đã được tích hợp vào các phần mềm hiện đại, đưa đến thuận tiện nhất cho các chủ cửa hàng. Trong đó, phần mềm KiotViet là một trong những công cụ được nhiều người sử dụng và đạt được hiệu quả tốt nhất. Bên cạnh các chức năng quản lý bán hàng thông thường, KiotViet cũng có rất nhiều tính năng hữu ích hỗ trợ cho chương trình quản lý khách hàng tiềm năng của cửa hàng. Chức năng quản lý nhóm khách hàng của của KiotViet sẽ giúp chủ cửa hàng có thể phân nhóm khách hàng dựa vào tuổi tác, doanh thu, công nợ. Từ đó bạn sẽ thiết lập được các nhóm khách hàng VIP, khách hàng quen thuộc của cửa hàng. Nhờ đó, chủ cửa hàng có thể theo dõi, quản lý thông tin khách hàng theo nhóm dễ dàng cũng như triển khai các chương trình ưu đãi hiệu quả hơn. Tính năng gửi tin nhắn SMS/Zalo và email marketing của KiotViet sẽ góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc khách hàng của các cửa hàng. Thông qua những phương tiện này, chủ cửa hàng có thể gửi tới khách hàng thông tin về chính sách ưu đãi, về sản phẩm hay các thông báo khác. Đặc biệt bạn còn có thể chăm sóc khách hàng với những tin nhắn chúc mừng sinh nhật, qua đó tạo mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng và gia tăng lượng khách hàng trung thành cho cửa hàng. Quản lý khách hàng trọng yếu là một mô hình cực kì cần thiết cho sự phát triển bền vững của cửa hàng. Để thực hiện hiệu quả việc quản lý nhóm khách hàng này, cửa hàng cần đảm bảo một chiến lược phù hợp và một đội ngũ nhân viên có chuyên môn. Hy vọng những chia sẻ trên đã giúp các bạn hiểu hơn phần nào về tầm quan trọng và yêu cầu của một hệ thống quản lý khách hàng trọng yếu hiệu quả. Luôn trả lời các thông tin nhanh nhất thông qua các phản hồi trên Facebook.
Quản lý khách hàng tiềm năng
Quản lý khách hàng tiềm năng là tập hợp các phương pháp, hệ thống và thực tiễn được thiết kế để tạo ra khách hàng kinh doanh tiềm năng mới, thường được điều hành thông qua nhiều chiến dịch hoặc chương trình tiếp thị khác nhau. Quản lý khách hàng tiềm năng tạo điều kiện cho kết nối của doanh nghiệp giữa quảng cáo tiêu dùng đi và phản hồi của quảng cáo đó. Các quy trình này được thiết kế cho các chiến lược doanh nghiệp với doanh nghiệp và trực tiếp đến người tiêu dùng. Quản lý khách hàng tiềm năng trong nhiều trường hợp là tiền thân của quản lý bán hàng và quản lý quan hệ khách hàng. Kết nối quan trọng này tạo điều kiện cho lợi nhuận kinh doanh thông qua việc mua lại khách hàng mới, bán cho khách hàng hiện tại và tạo thương hiệu thị trường. Quy trình này cũng được gọi chính xác là quản lý sở hữu khách hàng. Các nguyên tắc chung của quản lý khách hàng tiềm năng tạo ra một cấu trúc được sắp xếp để quản lý khối lượng yêu cầu kinh doanh, thường được gọi là khách hàng tiềm năng.
Terabyte (xuất phát từ tiền tố tera- và thường được viết tắt là TB) là một thuật ngữ đo lường để chỉ dung lượng lưu trữ máy tính. Giá trị của một terabyte dựa trên cơ số thập phân (cơ số 10) và được định nghĩa là một ngàn tỷ (1.000.000.000.000) byte, hay 1000 gigabyte. Một terabyte đôi khi có nghĩa tương đương với 1099 x 109 byte. Sự khác nhau này xuất phát từ sự mâu thuẫn giữa truyền thống lâu dài sử dụng tiền tố nhị phân và cơ số 2 trong giới tin học, và tiêu chuẩn thập phân (SI) trực quan và phổ biến hơn đã được chấp nhận rộng tại trong ngành công nghiệp. Các tổ chức tiêu chuẩn như IEC, IEEE và ISO đề nghị sử dụng thuật ngữ thay thế là tebibyte (TiB) để biểu thị số đo truyền thống cho 10244 byte, hay 1024 Gibibyte, dẫn đến những định nghĩa sau:. Theo tiêu chuẩn SI và cách dùng hiện nay, một terabyte chứa 1.000.000.000.000 byte = 10004 hay 1012 byte. Theo số học nhị phân và theo truyền thống, một terabyte chứa 1.099.511.627.776 byte = 10244 hay 240 byte. Lượng số này hiện nay được dùng thay thế là tebibyte, để tránh nhầm lẫn. Dung lượng của thiết bị lưu trữ máy tính được quảng cáo, từ trước đến nay luôn sử dụng giá trị tiêu chuẩn SI. Một giờ Video độ phân giải cực cao (Ultra High Definition Video – UHDV) tốn khoảng 11,5 terabyte dữ liệu. Một Đĩa quang học 3 chiều đa năng (Holographic Versatile Disc – HVD) có thể chứa tới 3,9 terabyte. Máy tính cá nhân và những thiết bị liên quan như TiVo (một thiết bị dùng để lưu nội dung truyền hình vào ổ cứng gắn trong) có dung lượng lưu trữ 1 terabyte hoặc hơn đã trở nên thực tế nhờ sử dụng ổ cứng sản xuất hàng loạt có dung lượng cao. Vào ngày 5 tháng 1 năm 2007, Hitachi đã công bố ổ đĩa đầu tiên được bán ra cho người dùng có dung lượng, ổ cứng có 5 đĩa 200 GB và công nghệ ghi thẳng góc. Rapidshare có không gian lưu trữ trên 4000 terabyte (4 petabyte) dùng để lưu trữ tập tin. Ancestry.com xác nhận có 600 terabyte dữ liệu phả hệ bao gồm cả dữ liệu điều tra dân số Hoa Kỳ từ năm 1790 đến 1930. IsoHunt, một chương trình Dò BitTorrent xác nhận rằng họ đã dò được trên 291,09 TBs tập tin địa chỉ Torrent. Trung khu thần kinh của con người có bộ nhớ là 1,25 terabyte, theo như nghiên cứu của Raymond Kurzweil được viết trong The Singularity Is Near, trang 126. Tuy nhiên, điều này chưa được chấp nhận rộng rãi. Seagate, cũng có ổ đĩa 1TB, có thể là ổ cứng TB đầu tiên được loan báo, nhưng Hitachi mới là hãng đầu tiên bán ra ổ cứng TB. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
Tiền tố nhị phân
Trong tính toán, tiền tố nhị phân được dùng để định lượng những con số lớn mà ở đó dùng lũy thừa hai có ích hơn dùng lũy thừa 10 (như kích thước bộ nhớ máy tính). Mỗi tiền tố kế tiếp nhau hơn kém nhau 1024 lần (210) thay vì 1000 lần (103) như trong hệ tiền tố SI. Tiền tố nhị phân thường được viết và phát âm hệt như tiền tố SI, mặc dù điều này gây ra nhầm lẫn, do tiền tố SI từ xưa đến nay chính thức có nghĩa liên quan đến hệ thập phân. Những máy tính đầu tiên sử dụng một trong hai cách mô tả địa chỉ để nói về bộ nhớ hệ thống; hệ nhị phân (cơ số 2) hoặc hệ thập phân (cơ số 10). Máy IBM 701 (1952) sử dụng hệ nhị phân và có thể mô tả được 2048 "word", mỗi word có 36 bit. Máy IBM 702 (1953) sử dụng hệ thập phân và có thể mô tả 10.000 "word", mỗi word có 7 bit. Một trong những máy tính thành công nhất thời đó là IBM 1401, được giới thiệu vào năm 1959 và đến 1961 cứ 4 máy tính điện tử thì có 1 chiếc IBM 1401, sử dụng cách ghi địa chỉ theo hệ thập phân và có thể có 1400, 2000, 4000, 8000, 12.000 hoặc 16.000 ký tự (mỗi ký tự có 8 bit) trong bộ lưu trữ nhân.
5S là nền tảng cơ bản để thực hiện các hệ thống đảm bảo chất lượng xuất phát từ quan điểm: Nếu làm việc trong một môi trường lành mạnh, sạch đẹp, thoáng đãng, tiện lợi thì tinh thần sẽ thoải mái hơn, năng suất lao động sẽ cao hơn và có điều kiện để việc áp dụng một hệ thống quản lý chất lượng hiệu quả hơn. Phương pháp 5S được phát mình bởi người Nhật và họ cũng rất tự hào khi cả thế giới áp dụng phương pháp này của họ. SERI (Sàng lọc): Là xem xét, phân loại, chọn lựa và loại bỏ những thứ không cần thiết tại nơi làm việc. Mọi thứ (vật dụng, thiết bị, nguyên vật liệu, đồ dùng hỏng …) không/chưa liên quan, không/chưa cần thiết cho hoạt động tại một khu vực sẽ phải được tách biệt ra khỏi những thứ cần thiết sau đó loại bỏ hay đem ra khỏi nơi sản xuất. Chỉ có đồ vật cần thiết mới để tại nơi làm việc. S1 thường được tiến hành theo tần suất định kì. SEITON (Sắp xếp): Sắp xếp là hoạt động bố trí các vật dụng làm việc, bán thành phẩm, nguyên vật liệu, hàng hóa … tại những vị trí hợp lý sao cho dễ nhận biết, dễ lấy, dễ trả lại. Nguyên tắc chung của S2 là bất kì vật dụng cần thiết nào cũng có vị trí quy định riêng và kèm theo dấu hiệu nhận biết rõ ràng. S2 là hoạt động cần được tuân thủ triệt để. SEISO (Sạch sẽ): Là giữ gìn vệ sinh tại nơi làm việc, máy móc, thiết bị, dụng cụ làm việc hay các khu vực xung quanh nơi làm việc để đảm bảo môi trường, mỹ quan tại nơi làm việc. S3 cũng là hoạt động cần được tiến hành định kì. SEIKETSU (Săn sóc): Săn sóc được hiểu là việc duy trì định kì và chuẩn hóa 3S đầu tiên (Seri, Seiton và Seiso) một cách có hệ thống. Để đảm bảo 3S được duy trì, người ta có thể lập nên những quy định chuẩn nêu rõ phạm vi trách nhiệm 3S của mỗi cá nhân, cách thức và tần suất triển khai 3S tại từng vị trí. S4 là một quá trình trong đó ý thức tuân thủ của CBCNV trong một tổ chức được rèn rũa và phát triển. SHITSUKE (Sẵn sàng): Là tạo thói quen tự giác tuân thủ nghiêm ngặt các qui định tại nơi làm việc. Sẵn sàng được thể hiện ở ý thức tự giác của người lao động đối với hoạt động 5S. Các thành viên đều nhận thức rõ tầm quan trọng của 5S, tự giác và chủ động kết hợp nhuần nhuyễn các chuẩn mực 5S với công việc để đem lại năng suất công việc cá nhân và năng suất chung của Công ty cao hơn. Bắt nguồn từ truyền thống của Nhật bản, ở mọi nơi, trong mọi công việc, người Nhật luôn cố gắng khơi dậy ý thức trách nhiệm, tự nguyện, tính tự giác của người thực hiện các công việc đó. Người Nhật luôn tìm cách sao cho người công nhân thực sự gắn bó với công việc của mình. Ví dụ, trong phân xường, người quản lý sẽ cố gắng khơi dậy ý thức trong người công nhân đây là “công việc của tôi”, “chỗ làm việc của tôi”, “máy móc của tôi”. Từ đó người lao động sẽ dễ dàng chấp nhận chăm sóc “chiếc máy của mình”, “chỗ làm việc của mình” và cố gắng để hoàn thành “công việc của mình” một cách tốt nhất. Cán bộ công nhân viên tự hào về nơi làm việc sạch sẽ và ngăn nắp của mình. Khi thực hiện 5S thành công trong công ty, 5S sẽ đưa lại sự thay đổi kỳ diệu. Những thứ không cần thiết sẽ được loại bỏ khỏi nơi làm việc, những vật dụng cần thiết được xếp ngăn nắp, gọn gàng, đặt ở những vị trí thuận tiện cho người sử dụng, máy móc thiết bị trở nên sạch sẽ, được bảo dưỡng, bảo quản. Từ các hoạt động 5S sẽ nâng cao tinh thần tập thể, khuyến khích sự hoà đồng của mọi người, qua đó người làm việc sẽ có thái độ tích cực hơn, có trách nhiệm và ý thức hơn với công việc. 5S có thể áp dụng đối với các doanh nghiệp ở bất kỳ lĩnh vực nào: sản xuất, thương mại hay dịch vụ. Triết lý của 5S đơn giản, không đòi hỏi phải biết các thuật ngữ khó. Bản chất mọi người đều thích sạch sẽ, thoải mái và sự ngăn nắp tại nơi làm việc. Những nơi công cộng (phòng ăn, tủ đồ đạc, nhà vệ sinh .) không sạch sẽ. 5S là một phương pháp rất hiệu quả để huy động con người, cải tiến môi trường làm việc và nâng cao năng suất doanh nghiệp.Mục tiêu chính của chương trình 5S bao gồm:. Phát triển vai trò lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý thông qua các hoạt động thực tế. Bắt đầu bằng đào tạo: Đào tạo cho mọi người nhận thức được ý nghĩa của 5S, cung cấp cho họ những phương pháp thực hiện là khởi nguồn của chương trình. Khi đã có nhận thức và có phương tiện thì mọi người sẽ tự giác tham gia và chủ động trong các hoạt động 5S. Lặp lại vòng 5S với tiêu chuẩn cao hơn: Thực hiện chương trình 5S là sự lặp lại không ngừng các hoạt động nhằm duy trì và cải tiến công tác quản lý. Hai cái đầu luôn tốt hơn một cái đầu – phát huy tối đa phương pháp huy động trí não . Luôn ý thức tìm ra những nơi làm việc không ngăn nắp để cải tiến. Chú ý tới các khu vực công cộng như căng tin, nhà vệ sinh, vườn, hành lang ngoài và bãi đỗ xe. Chỉ ra những bằng chứng mà nhân viên cần phải tăng cường hoạt động 5S.
5S (phương pháp)
5S là tên của một phương pháp quản lý, sắp xếp nơi làm việc. Nó được viết tắt của 5 từ trong tiếng Nhật gồm: Seiri (整理 Sàng lọc), Seiton (整頓 Sắp xếp), Seiso (清掃 Sạch sẽ), Seiketsu (清潔 Săn sóc), và Shitsuke (躾 Sẵn sàng). Sàng lọc: Seiri hay Sàng lọc có nghĩa là phân loại, tổ chức các vật dụng theo trật tự. Đây chính là bước đầu tiên doanh nghiệp cần làm trong thực hành 5S. Nội dung chính của S1 là phân loại, di dời những thứ không cần thiết, có thể bán đi hoặc tái sử dụng. Sắp xếp: Tổ chức các vật dụng còn lại một cách hiệu quả theo tiêu chí dễ tìm, dễ thấy, dễ lấy, dễ trả lại. Sạch sẽ: Thường xuyên vệ sinh, giữ gìn nơi làm việc sạch sẽ thông qua việc tổ chức vệ sinh tổng thể và tổ chức vệ sinh hàng ngày máy móc vật dụng và khu làm việc. S3 hướng tới cải thiện môi trường làm việc, giảm thiểu rủi ro, tai nạn đồng thời nâng cao tính chính xác của máy móc thiết bị (do ảnh hưởng của bụi bẩn). Săn sóc: Luôn luôn kiểm tra, duy trì 3S ở trên.
Quách Tĩnh (tiếng Trung: 郭靖, bính âm: Guō Jìng) (Bản cũ dịch là Quách Tỉnh) là nhân vật chính trong tiểu thuyết Anh hùng xạ điêu của Kim Dung. Quách Tĩnh cũng là nhân vật phụ trong tiểu thuyết Thần điêu hiệp lữ (phần thứ hai của Xạ Điêu Tam Bộ Khúc, bao gồm: Anh hùng xạ điêu, Thần điêu hiệp lữ và Ỷ Thiên Đồ Long Ký). Như vậy Quách Tĩnh gọi Quách Thịnh (nhân vật trong truyện Thủy Hử, một trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc) là cụ tổ. Cái tên Quách Tĩnh là do đạo sĩ phái Toàn Chân, Trường Xuân Tử Khưu Xứ Cơ đặt cho với ý nghĩa mong chàng và người anh em kết nghĩa Dương Khang không quên báo thù mối nhục Tĩnh Khang của Đại Tống ngày trước. Theo tiểu thuyết mô tả, Quách Tĩnh là người khờ và chậm chạp, mồm mép vụng về, hơi ngốc nghếch. Ngoại hình: mày rậm, mắt to, mặt vuông vức đầy đặn, có tướng mạo của bậc đại trượng phu. Tính tình hào sảng, vô tư, chăm chỉ, chân thật, dũng cảm, hay làm việc nghĩa. Quách Tĩnh lớn lên tại Mông Cổ sau khi cha bị vương gia nước Kim Hoàn Nhan Hồng Liệt sát hại. Chàng học võ công của họ trở thành một trong những người giỏi nhất đương thời, được người đời gọi là Bắc Hiệp. Môn võ công nổi tiếng của Quách Tĩnh là Hàng Long thập bát chưởng – võ công trấn phái của Cái Bang. Quách Tĩnh lấy Hoàng Dung, con gái Hoàng Dược Sư (một trong Thiên hạ ngũ tuyệt) làm vợ, sinh được ba người con: Quách Phù, Quách Tương và Quách Phá Lỗ. Thành tích lớn nhất của Quách Tĩnh là lãnh đạo quần hùng võ lâm tham gia bảo vệ thành Tương Dương trước sự xâm lăng của người Mông Cổ trong nhiều năm. Khi thành Tương Dương thất thủ, trừ Quách Tương đang ở Tứ Xuyên nên không về kịp, toàn bộ gia đình Quách Tĩnh đều hy sinh để thể hiện tấm lòng tận trung báo quốc (theo lời kể lại của Diệt Tuyệt sư thái trong truyện Ỷ Thiên Đồ Long ký). Võ công của Quách Tĩnh học được từ rất nhiều người, đầu tiên là từ Giang Nam thất quái. Được Mã Ngọc chân nhân (đại sư huynh của Toàn Chân Thất Tử) truyền dạy bí quyết luyện nội công của phái Toàn Chân khi còn lưu lạc ở sa mạc Mông Cổ. Sau là học được từ Hồng Thất Công môn Hàng Long Thập Bát Chưởng. Về sau lên Đào Hoa đảo, gặp được Chu Bá Thông, được ông truyền thụ hai môn võ lợi hại là Song Thủ Hỗ Bác và bảy mươi hai lộ Không Minh Quyền, lại bị Chu Bá Thông “chơi xấu” dạy Cửu Âm Chân Kinh. Do tính cách cương nghị, khí phách nên Quách Tĩnh phù hợp hoàn toàn bộ chưởng pháp cương mãnh đệ nhất là “Hàng Long Thập Bát chưởng” (Quách Tĩnh cũng là số ít người sử dụng thành thạo bộ chưởng pháp này). Hàng Long thập bát chưởng là một trong 2 môn võ công trấn phái của cái bang song hành cùng Đả cẩu bổng pháp. Nhờ Hoàng Dung đã dụ Hồng Thất Công bằng những món ăn ngon nên ông đã truyền lại Hàng Long Thập Bát Chưởng lại cho Quách Tĩnh nhưng chỉ truyền 15 chiêu vì nếu truyền hết thì Quách Tĩnh sẽ là đệ tử của ông. Sở dĩ Hồng Thất Công lại có sĩ diện cao, thấy Quách Tĩnh tư chất vốn kém nên không muốn nhận làm đệ tử. Sau này khi Âu Dương Khắc đến bắt nạt các ăn mày trong cái bang (vì một số người trong cái bang đang làm chuyện trượng nghĩa: cứu người ra khỏi tay của Âu Dương Khắc và định dạy cho y 1 bài học). Nhưng võ công của Âu Dương Khắc cao hơn bọn họ nên tất cả đã thua. Quách Tĩnh và Hoàng Dung thấy nên đã ra tay cứu giúp nhưng Quách Tĩnh võ công lúc đó còn kém nên đánh thua. Hồng Thất Công thấy vậy định ra tay nhưng bị Âu Dương Khắc chọc tức rằng cao nhân một đời mà đánh với loại tiểu bối, thắng cũng mất mặt. Lúc đó, Hồng Thất Công đã nhận Quách Tĩnh và Hoàng Dung làm đệ tử rồi truyền nốt 3 chiêu còn lại cho Quách Tĩnh. Quách Tĩnh hoàn thiện 18 chiêu Hàng long thập bát chưởng. Quách Tĩnh là người duy nhất học và hiểu trọn vẹn bộ “Cửu Âm chân kinh”. Chu Bá Thông tìm hiểu lâu năm hơn cả (từ trong vô thức đã tự luyện võ công này) nhưng thiếu mất phần tổng cương chữ Phạn. Nam Đế, Bắc Cái luyện công chương chữ Phạn được dịch sang tiếng Hán nhằm chữa thương nhưng chỉ dừng ở đó. Vương Trùng Dương không luyện Cửu âm chân kinh mà chỉ học một đoạn để khắc chế Ngọc Nữ Tâm Kinh (chính đoạn này được khắc lại và về sau Dương Quá học được), như vậy cũng chỉ là một đoạn thiếu khuyết. Sau này Quách Tĩnh học được thêm 72 lộ Không Minh Quyền của Chu Bá Thông, cương nhu kết hợp, lấy tinh túy của Cửu Âm chân kinh làm nền tảng, thuật “song thủ hỗ bác” độc nhất vô nhị. Về sau Quách Tĩnh tự nghiên cứu ra nhiều điều như trận pháp của Toàn Chân Thất Tử. Cuối cùng bị Âu Dương Phong ép luyện công, trong vòng một hai tháng võ công đã đại tiến triển. Trong lần Hoa Sơn luận kiếm thứ hai, Hoàng Dược Sư và Hồng Thất Công đều thầm khen ngợi dù cho tuổi đời còn rất trẻ nhưng đã có thể tiếp hơn trăm chiêu với hai người. Khi đến tuổi trung niên thì có thể nói võ công của Quách Tĩnh đã đạt tới mức cao thủ hạng nhất. Trong thiên hạ khi đó, số người có thể đấu ngang ngửa hoặc mạnh hơn ông có lẽ không quá 5 người. Về nội công thì trích dẫn suy nghĩ của Trương Tam Phong (Ỷ Thiên Đồ Long ký): “Trong một sát na, Trương Tam Phong thấy một luồng lực đạo vô cùng mạnh mẽ theo lòng bàn tay đi vào mình, tuy còn kém xa nội lực của ông về mặt tinh thuần chuyên nhất, nhưng hàng hàng lớp lớp, liên miên bất tuyệt dường như không bao giờ dứt, không bao giờ cùng. Ông kinh hoảng, định thần nhìn kỹ mặt Trương Vô Kỵ, thấy mắt chàng không lộ quang hoa, chỉ ẩn dấu một nét trong sáng, ôn hòa, hiển nhiên đã đạt tới cảnh giới tuyệt đỉnh, bình sinh ông gặp chỉ có vài người như Giác Viễn đại sư, đại hiệp Quách Tĩnh, thần điêu đại hiệp Dương Quá là đạt đến cảnh giới này thôi. Còn đương thời, ngoại trừ chính ông ra, không tìm ra một người thứ hai có mức độ tương đương…” (Trận Hoa Sơn luận kiếm lần thứ 3, Trương Tam Phong khi đó còn là cậu bé đã có dịp gặp được tất cả cao thủ thời đó: Đông Tà Hoàng Dược Sư, Tây Cuồng Dương Quá, Nam Tăng Đoàn Trí Hưng, Bắc Hiệp Quách Tĩnh, Chu Bá Thông, Tiểu Long Nữ, Hoàng Dung, Anh Cô… đến cả Doãn Khắc Tây, Tiêu Tương Tử… không sót một ai. Đến khi về già, ngẫm lại ông cho rằng trong tất cả những người đó nội lực của Quách Tĩnh, Dương Quá và sư phụ Giác Viễn là mạnh nhất). Năng lực của Quách Tĩnh rất mạnh nhưng chỉ thật sự ấn tượng trong bộ Thần điêu hiệp lữ. Một mình Quách Tĩnh vừa chống chọi rất nhiều binh sĩ Mông Cổ vừa đánh trả Kim Luân Pháp Vương; và nhiều lần một mình địch trăm người để bảo vệ thành Tương Dương. Chỉ có duy nhất Hoàng Dung (vợ Quách Tĩnh) mới thấu hiểu cách triển khai chiêu thức và cách vô hiệu hóa võ công của Quách Tĩnh mà thôi. Quách Tĩnh tuy trí tuệ không có gì nổi trội nhưng cuối cùng võ công lại thuộc hàng đệ nhất. Thậm chí ông còn thông thạo nhiều tài nghệ khác như: đấu vật, bắn cung, binh pháp… Thông qua nhân vật Quách Tĩnh, nhà văn Kim Dung muốn gửi tới thông điệp rằng: một người có tính cách trung hậu, ý chí kiên cường, giàu lòng yêu nước thương dân thì luôn xứng đáng được hưởng những thành quả tốt đẹp nhất. Anh hùng xạ điêu: đã nhiều lần được dựng thành phim cả ở Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan. Quách Tĩnh trong tiểu thuyết của Kim Dung được lấy hình mẫu từ nhân vật lịch sử là Quách Bảo Ngọc. Theo Kim Dung chia sẻ, nhân vật Quách Tĩnh được ông lấy nguyên mẫu từ một danh tướng của Thành Cát Tư Hãn – Quách Bảo Ngọc. Ông là hậu duệ của Quách Tử Nghi – vị đại tướng từng giúp nhà Đường dẹp loạn An Lộc Sơn. Theo Nguyên sử, Quách Bảo Ngọc được miêu tả là người thông minh, đặc biệt thông hiểu thiên văn, giỏi bắn cung, cưỡi ngựa. Ông làm quan dưới triều nhà Kim, được phong tước Phần Dương quận công, trấn thủ Định Châu (nay là tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc). Năm 1211, dân gian bỗng nhiên truyền tụng lời đồng dao rằng: “Vẫy vẫy mũ cao, đến Hà Nam, phong Yên chi”, Quách Bảo Ngọc thấy điềm lạ, bèn xem thiên văn, thấy sao Thái Bạch hiện ra giữa ban ngày. Ông than rằng: “Quân bắc nam hạ, Biện Lượng sắp hàng, trời đổi họ rồi” (ý nói việc nhà Kim sắp bị diệt, thiên hạ sẽ rơi vào tay người khác). Quả nhiên sau đó không lâu, Thành Cát Tư Hãn đem quân chinh phạt nhà Kim. Khi quân Mông Cổ đánh tới, Quách Bảo Ngọc đành phải đem quân ra hàng. Ông là một trong bốn tướng lĩnh người Hán đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ thời Thành Cát Tư Hãn (ba viên tướng còn lại là Sử Bỉnh Trực, Trương Nhu và Phạm Chu Cát).
Quách Tĩnh
Quách Tĩnh (tiếng Trung: 郭靖, bính âm: Guō Jìng) (Bản cũ dịch là Quách Tỉnh) là nhân vật chính trong tiểu thuyết Anh hùng xạ điêu của Kim Dung. Quách Tĩnh cũng là nhân vật phụ trong tiểu thuyết Thần điêu hiệp lữ (phần thứ hai của Xạ Điêu Tam Bộ Khúc, bao gồm: Anh hùng xạ điêu, Thần điêu hiệp lữ và Ỷ Thiên Đồ Long Ký). Quách Tĩnh là con của dũng sĩ chống Kim Quách Khiếu Thiên và Lý Bình. Như vậy Quách Tĩnh gọi Quách Thịnh (nhân vật trong truyện Thủy Hử, một trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc) là cụ tổ. Cái tên Quách Tĩnh là do đạo sĩ phái Toàn Chân, Trường Xuân Tử Khưu Xứ Cơ đặt cho với ý nghĩa mong chàng và người anh em kết nghĩa Dương Khang không quên báo thù mối nhục Tĩnh Khang của Đại Tống ngày trước. Theo tiểu thuyết mô tả, Quách Tĩnh là người khờ và chậm chạp, mồm mép vụng về, hơi ngốc nghếch. Ngoại hình: mày rậm, mắt to, mặt vuông vức đầy đặn, có tướng mạo của bậc đại trượng phu. Tính tình hào sảng, vô tư, chăm chỉ, chân thật, dũng cảm, hay làm việc nghĩa.
Đài phun nước trong tiếng Anh là “Fountain”. Tạm dịch là “dòng nước bị đẩy lên không trung qua một lỗ nhỏ, đặc biệt cho hiệu ứng trang trí, hoặc công trình trong hồ hoặc bể bơi mà từ đó dòng nước chảy ra“. Việc tra cứu cụm từ đài phun trong tiếng Anh sẽ giúp ta hiểu thêm, tham khảo nhiều hình ảnh, bản vẽ các công trình ở nước ngoài. Cũng như học hỏi, tiếp thu kiến thức rộng lớn hơn trong thi công thiết kế đài phun nước nghệ thuật. Ngày xưa, công trình đài phun nước kết nối với suối hoặc bể chứa có nhiệm vụ cung cấp nước sinh hoạt tắm, uống cho các dân cư thành phố, thị trấn. Theo thời gian, đài phun nước trở thành công trình trang trí, là biểu tượng để vinh danh trang trí người có công quan trọng. Thời kỳ La Mã, đài phun được thiết kế mặt nạ hình người hoặc động vật chất liệu đồng, đá giúp trang trí. Thời trung cổ, công trình đài phun trong khu vườn được ví như thiên đường cổ tích. Vua Louis XIV của Pháp sử dụng đài phun nước trong Vườn Versailles để thể hiện quyền lực trước thiên nhiên. Các đài phun nước phong cách Baroque ở Roma thế kỷ 17 – 18 đánh dấu sự trở lại của các cống phun nước phong cách La Mã và tôn vinh những vị Giáo hoàng. Trên đây, toàn bộ thông tin đài phun nước tiếng Anh là gì mà Union chia sẻ. Hi vọng kiến thức bổ ích trong bài giúp các bạn được phần nào!
Đài phun nước
Đài phun nước là một dạng công trình kiến trúc, đài phun nước thường dùng để phun nước vào bồn chứa nước hoặc bắn các tia nước vào trong không khí với mục đích cung cấp nước uống hoặc tạo ra hiệu ứng trang trí hoặc làm mát không khí. Trước kia, đài phun nước thường được kết nối với các suối nước hoặc các bể chứa nước nhằm cung cấp nước uống, nước sinh hoạt cho các cư dân thành phố, thị trấn, làng mạc. Cho đến thế kỷ 19 thì các đài phun nước vẫn được hoạt động bởi trọng lực và cần một nguồn nước cao hơn đài phun, ví dụ như bể chứa hay cống nước, để đẩy nước lên cao. Ngoài mục đích cung cấp nước uống thì đài phun nước còn được sử dụng với mục đích trang trí hoặc vinh danh những nhà xây dựng. Các đài phun nước thời La Mã thường được trang trí các mặt nạ hình người hoặc động vật bằng đồng hoặc đá. Đến thời trung cổ, các khu vườn của người Moor và người Hồi giáo thường sử dụng đài phun nước để tạo nên một phiên bản thu nhỏ về thiên đường.
Phân tích nhân tố khám phá EFA là gì? Lấy hệ số tải Factor Loading bao nhiêu mới là đúng? Cách tạo nhân tố và biến đại diện trong SPSS như thế nào? Tất cả những thắc mắc này của bạn sẽ được Luận Văn Việt chuyên dịch vụ SPSS uy tín sẽ giải đáp trong bài viết này. Nhân tố Factor là gì? Lấy hệ số tải nhân tố Factor Loading bao nhiêu là đúng?. Như vậy, có thể hiểu phân tích nhân tố là tên chung của một nhóm các thủ tục được sử dụng chủ yếu để thu nhỏ và tóm tắt các dữ liệu. Trong nghiên cứu, ta có thể thu thập được một số lượng biến khá lớn và hầu hết các biến này có liên hệ với nhau và số lượng của chúng phải được giảm bớt xuống đến một số lượng mà chúng ta có thể sử dụng được. Các biến quan sát đưa vào EFA sẽ được rút gọn thành một số nhân tố. Mỗi nhân tố gồm có một số biến quan sát thỏa mãn các điều kiện thống kê. Người phân tích sẽ xem các biến quan sát trong mỗi nhân tố là những biến nào, có ý nghĩa là gì, và cũng cần dựa trên lý thuyết … từ đó đặt tên cho nhân tố. Tên này cần đại diện được cho các biến quan sát của nhân tố. EFA thường được sử dụng nhiều trong các lĩnh vực quản trị, kinh tế, tâm lý, xã hội học,…khi đã có được mô hình khái niệm (Conceptual Framework) từ các lý thuyết hay các nghiên cứu trước. Trong các nghiên cứu về kinh tế, người ta thường sử dụng thang đo scale) chỉ mục bao gồm rất nhiều câu hỏi (biến đo lường) nhằm đo lường các khái niệm trong mô hình khái niệm, và EFA sẽ góp phần rút gọn một tập gồm rất nhiều biến đo lường thành một số nhân tố. Khi có được một số ít các nhân tố, nếu chúng ta sử dụng các nhân tố này với tư cách là các biến độc lập trong hàm hồi quy bội thì khi đó, mô hình sẽ giảm khả năng vi phạm hiện tượng đa cộng tuyến. Về mặt ứng dụng, EFA được áp dụng đối với các khái niệm không thể đo lường trực tiếp. Ví dụ như sự hài lòng của khách hàng, hạnh phúc của người Việt Nam. EFA được thực hiện bằng cách gom nhiều biến lại với nhau để tạo thành các nhân tố quan trọng mà chúng ta có thể giải thích được. Ý tưởng chính của EFA là các biến có thể quan sát được có một số đặc điểm chung nào đó mà chúng ta lại không thể quan sát trực tiếp. Ví dụ: Nhiều người khi được hỏi các câu hỏi về thu nhập, giáo dục, nghề nghiệp đều có cách trả lời khá giống nhau vì họ có đặc điểm chung về địa vị kinh tế xã hội. Địa vị kinh tế xã hội chính là nhân tố chi phối thu nhập, giáo dục và nghề nghiệp của họ. Hệ số tải nhân tố càng cao, nghĩa là tương quan giữa biến quan sát đó với nhân tố càng lớn và ngược lại. Trong phân tích nhân tố khám phá, mỗi nhân tố có chức năng giống như một biến, nó đo lường phương sai tổng thể của các biến quan sát được và chúng ta thường hay liệt kê theo thứ tự khả năng giải thích của nhân tố đó. Factor Loading ở mức ± 0.3: Điều kiện tối thiểu để biến quan sát được giữ lại. Tuy nhiên, giá trị tiêu chuẩn của hệ số tải Factor Loading cần phải phụ thuộc vào kích thước mẫu. Với từng khoảng kích thước mẫu khác nhau, mức trọng số nhân tố để biến quan sát có ý nghĩa thống kê là hoàn toàn khác nhau. Cụ thể, chúng ta sẽ xem bảng dưới đây:. Trên thực tế áp dụng, việc nhớ từng mức hệ số tải với từng khoảng kích thước mẫu là khá khó khăn, do vậy người ta thường lấy hệ số tải 0.45 hoặc 0.5 làm mức tiêu chuẩn với cỡ mẫu từ 120 đến dưới 350; lấy tiêu chuẩn hệ số tải là 0.3 với cỡ mẫu từ 350 trở lên. Ma trận xoay dưới đây nằm trong bài nghiên cứu có cỡ mẫu 220, nên mình lấy tiêu chuẩn hệ số tải là 0.5. Tại ma trận xoay, các biến quan sát có hệ số tải nhỏ hơn 0.5 và các biến quan sát tải lên 2 nhóm nhân tố sẽ bị loại bỏ. Các biến B5, B7, B6 bị loại do không đảm bảo hệ số tải từ 0.5 trở lên. Biến A7 bị loại bởi không đảm bảo tính phân biệt trong EFA. Lưu ý, nếu 1 biến tải lên cả 2 nhân tố và đều đảm bảo trên mức hệ số tải tiêu chuẩn, các bạn cần xem xét rằng 2 giá trị hệ số tải ở 2 nhóm nhân tố có chênh nhau từ 0.3 trở lên hay không. Nếu chênh lệch là lớn hơn hoặc bằng 0.3 thì biến đó không bị loại và sẽ được xếp vào nhóm có hệ số tải cao hơn. Nếu chênh lệch nhỏ hơn 0.3 thì biến đó bị loại, điển hình là biến A7 ở hình trên. (Nguồn: Nguyễn Đình Thọ, Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh, NXB Tài chính, Tái bản lần 2, Trang 420). Sau khi thực hiện xong phân tích nhân tố khám phá, để tiến hành phân tích tương quan Pearson và xa hơn nữa là hồi quy, bạn cần tạo các biến đại diện từ kết quả xoay nhân tố cuối cùng. Bước thực hiện phân tích nhân tố khám phá, khi kết quả phân tích cuối cùng chấm dứt. Các biến quan sát được sắp xếp theo các nhóm nhân tố mới theo 2 tiêu chí: hội tụ và phân biệt. Dưới đây là một ví dụ về ma trận xoay nhân tố hoàn chỉnh:. Kết quả xoay nhân tố lần cuối chúng ta có được 6 nhân tố mới. Mỗi nhân tố sẽ gồm các biến đại diện nằm chung trên 1 cột. Để tiến hành đánh giá tương quan Pearson và hồi quy, chúng ta sẽ phải tạo các biến đại diện trung bình thông qua lệnh Mean trong Compute Variable. Giao diện cửa sổ mới hiện ra như hình dưới. Ở ô Target Variable, các bạn sẽ gõ tên biến đại diện mới (X1, X2, X3….). Mục Type & Label để các bạn điền vào chú thích cho biến, vai trò của nó giống như Lable khi các bạn tạo biến trong cửa sổ giao diện Variable View. Ví dụ biến X1 là đại diện cho nhóm biến quan sát: TN3, TN2….TN4, bạn chú thích biến này là biến Thu nhập thì sẽ gõ vào mục Type & Label. Như vậy là bạn đã tạo xong các biến đại diện sau khi phân tích EFA để sử dụng các biến này vào phân tích tương quan Pearson và hồi quy về sau. Nếu bạn gặp khó khăn trong phân tích nhân tố khám phá EFA, bạn có thể tham khảo dịch vụ xử lý số liệu SPSS của Luận văn Việt. Với kinh nghiệm hơn 10 năm hoạt động trong lĩnh vực này, chúng tôi chắc chắn mang đến chất lượng dịch vụ cũng như giá cả phải chăng nhất cho bạn. Hiện tại tôi đang đảm nhiệm vị trí Content Leader tại Luận Văn Việt. Tất cả các nội dung đăng tải trên website của Luận Văn Việt đều được tôi kiểm duyệt và lên kế hoạch nội dung. Tôi rất yêu thích việc viết lách ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Và đến nay thì tôi đã có hơn 5 năm kinh nghiệm viết bài. Chúng tôi chuyên nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn sẽ giúp bạn hoàn thành đề tài của mình.
Phân tích nhân tố
Phân tích nhân tố là một phương pháp thống kê dùng để mô tả sự biến thiên của những biến có tương quan được quan sát bằng một số nhỏ hơn các biến không quan sát được gọi là nhân tố. Ví dụ, sự biến thiên của bốn biến quan sát được có thể chỉ thể hiện sự biến thiên của hai biến không quan sát được. Những biến quan sát được mô hình hoá bằng tổ hợp tuyến tính của những nhân tố tiềm năng, cộng với số hạng lỗi. Thông tin có được từ sự tương thuộc giữa những biến quan sát được có thể được dùng về sau để giảm số biến trong một bộ dữ liệu. Về mặt tính toán kỹ thuật này tương đương với low-rank approximation của ma trận biến quan sát được. Phân tích nhân tố bắt nguồn từ tâm lý lượng và được sử dụng trong khoa học hành vi, khoa học xã hội, tiếp thị, quản lý sản phẩm, vận trù học và các khoa học ứng dụng khác làm việc với lượng dữ liệu lớn.
Tầng lửng tiếng Anh là gì?1. Tầng lửng trong tiếng Anh là gì?2. Vậy tầng lửng có được xem như 1 tầng hay không?. Tầng lửng hay còn được gọi là gác xép, gác lửng là bộ phận dùng để phân chia không gian giữa sàn nhà và trần. Trước kia, ở nước ta, tầng lửng thường xuất hiện trong các ngôi nhà mái bằng. Tuy nhiên, theo sự phát triển của đời sống, xã hội, tầng lửng ngày càng được áp dụng nhiều hơn trong các mẫu nhà khác nhau tạo nên sự tiện ích và tính thẩm mỹ cao. Vậy tầng lửng tiếng Anh là gì? Hãy tìm hiểu trong bài viết dưới đây. Entresol: từ này có nguồn gốc từ tiếng Tây Ban Nha và có từ gốc là entresuelo. Mezzanine: từ này bắt nguồn từ tiếng Ý và Pháp và trong cả 2 ngôn ngữ này đều được viết là: mezzanino. Nếu xát về mặt ý nghĩa thì cả 2 từ này đều được dùng để chỉ 1 tầng thấp thiết kế nằm giữa tầng trệt và tầng thứ nhất của ngôi nhà. Đối với nhà cấp 4 không có tầng thì tầng lửng, gác lửng chỉ đơn thuần là 1 tầng thấp nằm trên tầng trệt. Theo như các chuyên gia trong lĩnh vực xây dựng thì tầng lửng là tầng trung gian và nó không được tính là 1 tầng của ngôi nhà. Bất cứ vật dụng nào ra đời đều mang theo mục đích sử dụng nhất định. Các anh em thiết kế cũng chẳng nhàn rỗi đến mức vẽ thêm 1 cái gác lửng trong nhà mà chẳng dùng để làm gì. Tầng lửng cũng vậy, bộ phận này được thiết ra nhằm những mục đích sau:. Sử dụng tầng lửng làm phòng khách hoặc phòng sinh hoạt chung đối với những hộ gia đình sử dụng tầng trệt để trưng bày hàng hóa phục vụ cho việc kinh doanh buôn bán. Tầng lửng diện tích nhỏ dùng làm phòng học, phòng làm việc hay phòng thờ cúng. Thêm 1 tầng lửng, gác lửng sẽ giúp cho ngôi nhà có thêm diện tích sử dụng và trở thành 1 điểm nhấn nổi bật cho ngôi nhà. Nhưng đôi khi, nó cũng có thể đem lại cho gia chủ 1 số điểm hạn chế như:. Tầng lửng tạo cảm giác chật chội cho người sử dụng: Đối với những ngoi nhà có diện tích nhỏ hẹp nhưng vì cần thêm diện tích sử dụng mà lại không thể mở rộng thêm thì việc thiết kế thêm tầng lửng là 1 ý kiến không tồi. Tuy nhiên, cũng chính vì điều này, không gian sẽ trở nên chật hẹp, tù túng hơn nhiều. Hạn chế việc sử dụng trần thạch cao, đèn chùm hay đèn thả trang trí. Không nên sử dụng vách ngăn để chia thêm tầng cho tầng lửng vì sẽ khiến không gian trở nên bí bách, tù túng. Việc xây dựng tầng lửng còn phụ thuộc vào quy định của từng đơn vị quy hoạch hoặc từng quận. Theo quy định thì diện tích của tầng lửng chỉ có thể chiếm khoảng 80% diện tích sàn nhà. Nếu như chủ nhà, chủ công trình lấp ô thông tầng ở tầng lửng sẽ bị coi là xây dựng vượt quá số tầng được phép và sẽ bị phạt. Đối với nhà ở sở hữu cá nhân, nếu việc thay đổi kiến trúc bên trong công trình không ảnh hưởng đến kết cấu tổng thể, sức chịu lực thì không phải chịu xử phạt về hành vi xây dựng sai giấy phép. Trong trường hợp chủ đầu tư xây dựng đúng số tầng, có phát sinh thêm tầng lửng nhưng không vượt quá chiều cao của công trình đã đăng ký giấy phép thì không bị xử phạt hành chính.
Tầng lửng
Tầng lửng hay còn gọi đơn giản là lửng là một tầng trong kiến trúc của một tòa nhà hoặc một ngôi nhà. Đó là một tầng trung gian giữa các tầng của một tòa nhà chính và do đó thường không tính trong số các tầng tổng thể của một tòa nhà. Thông thường, tầng lửng là trần thấp và nằm ở tầng một (tầng dưới cùng). Thuật ngữ tầng lửng bắt nguồn từ tiếng Ý là "mezzano". Thiết kế tầng lửng là một trong những cách để tăng diện tích sử dụng theo chiều cao. Việc làm này rất thích hợp với những căn nhà có diện tích hẹp hoặc nằm trong khu vực bị khống chế chiều cao. Nhưng ngay cả với những ngôi nhà lớn, cũng có thể thiết kế tầng lửng để tạo ra không gian đẹp và thoáng. Những ngôi nhà có được thiết kế tầng lửng này thường được gọi một cách ngắn gọn là nhà gác lửng.
Cúp bóng đá nữ thế giới hay Giải vô địch bóng đá nữ thế giới tên đầy đủ là FIFA Women’s World Cup. Đây là giải đấu bóng đá do Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) tổ chức 4 năm 1 lần cho tất cả các đội tuyển bóng đá nữ quốc gia của những nước hội viên FIFA. Giải vô địch bóng đá nữ thế giới đầu tiên diễn ra vào năm 1991 tại Trung Quốc với tên gọi là Women’s World Championship. Giải đấu có sự tham gia của 12 đội với nhà vô địch là đội tuyển Mỹ khi đánh bại Na Uy 2-1 trong trận chung kết. Cho đến nay, 7 kỳ World Cup đã chứng kiến sự lên ngôi của 4 đội tuyển quốc gia. Trong đó, đội đoạt chức vô địch nhiều lần nhất là Mỹ (4 lần vô địch năm 1991, 1999, 2015, 2019). Theo sau Mỹ lần lượt là Đức với 2 lần đăng quang (2003, 2007). Na Uy và Nhật Bản mỗi đội đã có 1 lần vô địch. Trung Quốc và Mỹ là hai quốc gia có số lần đăng cai Giải vô địch bóng đá nữ thế giới nhiều nhất (2 lần). Trong khi đó, Thụy Điển, Đức, Canada, Pháp đã từng tổ chức 1 lần. Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023 tới đây sẽ được tổ chức tại Australia và New Zealand từ tháng 7 đến tháng 8/2023. Giải đấu sẽ tăng từ 24 lên 32 đội, bao gồm cả đội chủ nhà. Đây là lần đầu tiên Giải vô địch bóng đá nữ thế giới được tổ chức tại châu Đại Dương và là lần đầu tiên được tổ chức đồng thời ở hai quốc gia. Để đến được VCK Giải vô địch bóng đá nữ thế giới, các đội tuyển từ những khu vực gồm châu u, châu Á, châu Phi, Nam Mỹ, châu Đại Dương và CONCACAF (Bắc Trung Mỹ & Caribe) sẽ phải trải qua giai đoạn thi đấu vòng loại ở khu vực của mình. Hầu hết các liên đoàn châu lục trực thuộc FIFA đều lấy các giải vô địch nữ châu lục làm vòng loại World Cup, ngoại trừ Liên đoàn bóng đá châu u tổ chức vòng loại riêng kể từ vòng chung kết 1999. Bên cạnh những suất được tham dự nhờ thành tích tốt, đạt thứ hạng cao tại vòng loại, FIFA cũng trao thêm một số suất cho vài đội tuyển sau khi vượt qua vòng đấu play-off liên lục địa. Nước chủ nhà sẽ được đặc cách vào thẳng vòng chung kết không cần thi đấu vòng loại. Theo quy định của FIFA, mỗi châu lục lại có số suất tham dự Giải vô địch bóng đá nữ thế giới khác nhau. Cụ thể như sau:. 10 đội sẽ tham dự vòng play-off để quyết định 3 suất cuối cùng tham dự Giải vô địch bóng đá nữ thế giới. Các suất được phân bổ như sau:. Tin tức thể thao về học sinh, sinh viên toàn quốc, tin thể thao quốc tế được cập nhật liên tục hàng ngày. Mọi thông tin thể thao về học sinh, sinh viên vui lòng gửi về [email protected] và sẽ được tính nhuận bút theo quy định của trang.
Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2003
Giải vô địch bóng đã nữ thế giới 2003 được tổ chức tại Hoa Kỳ và đội vô địch là đội tuyển Đức. Giải đấu ban đầu được dự định tổ chức tại Trung Quốc. Vào ngày 3 tháng 5 năm 2003, giải đấu bất ngờ chuyển qua Hoa Kỳ, do đợt bùng phát bệnh SARS năm 2003 ở Trung Quốc. Do Hoa Kỳ đã tổ chức World Cup 1999, nên FIFA cho rằng Hoa Kỳ sẽ là nước thích hợp nhất để tổ chức với thời gian chuẩn bị rất ngắn trước khi giải bắt đầu. Thêm vào đó, những người yêu bóng đá nữ Mỹ hy vọng rằng giải đấu tổ chức ở đó sẽ cứu được giải chuyên nghiệp nữ của Mỹ là WUSA khỏi bị giải tán. Để bù cho Trung Quốc, FIFA đã quyết định giải năm 2007 sẽ được tổ chức tại quốc gia này. Đội tuyển Trung Quốc cũng được đặc cách vào thẳng vòng chung kết World Cup 2003.
Giai đoạn này của lịch sử Campuchia bắt đầu từ ngày 7 tháng 1 năm 1979, khi chính quyền Campuchia Dân chủ của Khmer Đỏ bị lật đổ do Chiến dịch phản công biên giới Tây Nam của Việt Nam. Tại hàng trăm ngôi làng Campuchia, quân đội Việt Nam được chào đón với sự mừng vui và khó tin là đã được cứu thoát. Khoảng 300 ngàn dân từ các tỉnh phía Tây và từ Phnom Penh bị buộc phải đi cùng quân Khmer Đỏ rút lui vào rừng. Đối với phần còn lại của Campuchia, người ta xem như đã được hồi sinh. Nhưng Campuchia giờ đây là một đất nước không có tiền tệ, thị trường, bưu điện hay trường học. Cả nước đầy rẫy những khu mộ tập thể và nhà chứa hài cốt. Những người dân yếu ớt còn sống sót đang đối mặt với nạn đói. Thay vì được hoan nghênh do đã lật đổ một chế độ mà cả thế giới lên án, Việt Nam phải chịu sự chỉ trích của quốc tế. Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia chỉ được một số ít nước công nhận, trong khi Khmer Đỏ dù bị nhiều nước lên án nhưng vẫn được thừa nhận là thành viên hợp pháp của Liên Hợp Quốc. Sau khi Quân đội Việt Nam rút toàn bộ khỏi Campuchia năm 1989, và các nỗ lực khôi phục hòa bình và hòa giải dân tộc diễn ra sau đó, thời kì Cộng hòa Nhân dân Campuchia chấm dứt, Campuchia trở thành quốc gia quân chủ lập hiến. Khmer Đỏ rút chạy về phía Tây, hướng biên giới với Thái Lan, và chốt lại tại các căn cứ gần biên giới. Ieng Sary chạy khỏi Phnom Penh trên chuyến tầu cuối cùng sáng ngày 7 tháng 1, ra đến biên giới Thái Lan ngày 11 tháng 1 trong tình trạng đói, kiệt sức và mất dép. Trực thăng Thái đưa đoàn của Ieng Sary cùng Đài phát thanh của Khmer Đỏ đến sân bay Đôn Mường rồi từ đó đoàn bay tiếp đến Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình phê phán chiến dịch thanh trừng của Khmer Đỏ hơi quá đáng và quá rộng về phạm vi, gây cho Trung Quốc những sự bất tiện và mang lại nhiều kết quả xấu. Ông khuyên Khmer Đỏ nếu muốn được Trung Quốc giúp đỡ thì nên giữ Sihanouk ở vị trí đứng đầu chính phủ, Pol Pot làm thủ tướng tổng tư lệnh chịu trách nhiệm về quốc phòng, Cùng ngày hôm đó, ủy viên bộ chính trị Geng Biao (耿飚? ), thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Han Nianlong, cùng một vài thành viên trong Bộ tổng tham mưu quân đội Trung Quốc bay đến Bangkok bắt đầu bàn bạc về cách thức hợp tác giữa Trung Quốc và Thái Lan trong cuộc chiến tại Campuchia để hỗ trợ Khmer Đỏ. Thái Lan đồng ý cho Khmer Đỏ sử dụng lãnh thổ của mình cho các công tác hậu cần, đồng ý cung cấp các phương tiện giao thông vận tải phục vụ Khmer Đỏ, đồng ý để các lãnh đạo Khmer Đỏ đi qua đất Thái Lan khi ra nước ngoài. Ngày 16 tháng 1, Đài Campuchia Dân chủ bắt đầu phát sóng trờ lại từ trong lãnh thổ Trung Quốc. Cuộc xâm lược Việt Nam ở biên giới phía Bắc – “bài học” quân sự mà Trung Quốc dành cho Việt Nam – đã không lay chuyển quyết tâm của Việt Nam trong việc đóng quân lâu dài ở Campuchia. Mục tiêu của Trung Quốc là khôi phục quyền lực của đồng minh Khmer Đỏ, kể cả khi khả năng Khmer Đỏ trở lại nắm quyền tại Phnom Penh là cực kỳ nhỏ nhoi, việc Khmer Đỏ tiếp tục chiến tranh cũng đủ có lợi cho mục tiêu trung hạn của ngoại giao Trung Quốc. Một trong những lí do quan trọng cho việc Trung Quốc muốn để cho xung đột tại Campuchia tiếp tục kéo dài là mối lo sợ rằng một sự dàn xếp nhanh chóng sẽ chỉ có lợi cho Hà Nội, rằng khi một chính quyền Campuchia thân Việt Nam được hợp pháp hóa thì cả khối Đông Dương sẽ nằm dưới tầm ảnh hưởng của Hà Nội, gây thiệt hại lớn cho thế lực của Trung Quốc trong khu vực. Việc giải quyết xung đột tại Campuchia vả khôi phục quan hệ thân thiện giữa Việt Nam và ASEAN sẽ chấm dứt liên minh giữa Trung Quốc và ASEAN. Ngược lại, một cuộc chiến dai dẳng tại Campuchia sẽ giữ Việt Nam và Liên Xô ở thế cô lập bị phần còn lại của thế giới phản đối, sẽ hút tiền của của Liên Xô và cứa cho Việt Nam chảy máu. Trong khi Trung Quốc vẫn công khai đòi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, tháng 12 năm 1979, Đặng Tiểu Bình đã nói riêng với Thủ tướng Nhật Bản Masayoshi Ohira rằng “Trung Quốc nên giữ chân Việt Nam ở Campuchia vì như vậy họ sẽ phải chịu đựng thiệt hại ngày càng nhiều.”. Về phần Thái Lan, mất Campuchia làm vùng đệm với Việt Nam, theo truyền thống trong lịch sử thì Thái Lan sẽ đem quân vào Campuchia để đánh quân Việt Nam. Nhưng trong thời hiện đại khả năng can thiệp trực tiếp đã bị loại bỏ tại một cuộc tranh luận nảy lửa đầu năm 1979 vì lí do không có chính danh (“Chúng ta nhảy vào với danh nghĩa gì? Khmer Đỏ ư?”) Nhưng nhờ có hoạt động quân sự bền bỉ của Khmer Đỏ và quyết tâm của Trung Quốc trong việc tước bỏ sức mạnh của Việt Nam, chính cuộc xung đột kéo dài tại Campuchia đã có tác dụng như một vùng đệm mà Thái Lan muốn giữ. Để hỗ trợ Khmer Đỏ, liên minh không chính thức giữa Bắc Kinh và Bangkok đã thiết lập một tuyến đường bí mật trên đất Thái tiếp tế cho Khmer Đỏ. Tàu Trung Quốc chở vũ khí đạn dược đến các cảng Sattahip và Klong Yai, từ đó, quân đội Thái chuyển hàng đến cho các trại đóng quân của Khmer Đỏ dọc theo biên giới Thái Lan – Campuchia. Sứ quán Trung Quốc tại Bangkok phối hợp với các thương gia người Thái gốc Hoa cùng quân đội Thái chịu trách nhiệm cung cấp lương thực, thuốc men, và hàng dân dụng cho Khmer Đỏ. Đổi lại, Trung Quốc trả phí vận chuyển cho quân đội Thái và cho phép quân đội Thái giữ lại một phần vũ khí. Trung Quốc cũng chuyển giao cho Thái công nghệ chế tạo vũ khí chống tăng với điều kiện một phần sản lượng sẽ được chuyển cho Khmer Đỏ. Nhờ có sự giúp đỡ của Trung Quốc và quốc tế, từ tình trạng chỉ còn là những nhóm du kích đói rách sốt rét hồi cuối năm 1979, đến cuối năm 1980 lực lượng Khmer Đỏ đã hồi phục đầy đủ sức mạnh, với quân số tăng từ 20.000 lên 40.000. Đến cuối năm 1981, chiến tranh du kích của Khmer Đỏ thực hiện tại Campuchia lan rộng mạnh mẽ, gây mất an ninh tại những khu vực rộng lớn. Ngày 9 tháng 1 năm 1979, Sihanouk được Khmer Đỏ đưa đến New York với tư cách đại diện tối cao của Campuchia Dân chủ tại Liên Hợp Quốc. Trả lời báo chí, ông lên án Việt Nam đã xâm lược Campuchia, đồng thời gọi Pol Pot là “một tên đồ tể coi nhân dân Campuchia như gia súc dành cho lao động cưỡng bức hay như lợn dành cho lò mổ”. Tại cuộc họp bất thường của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, ông kêu gọi Liên Hợp Quốc trục xuất quân đội Việt Nam ra khỏi Campuchia. Ông đã nhận được nhiều ủng hộ, nhưng cuộc họp kết thúc bằng phiếu chống của Liên Xô. Ngày 13 tháng 1, Sihanouk bí mật đề nghị và được Mỹ giúp thoát khỏi sự giam lỏng và kiểm soát của Khmer Đỏ và Trung Quốc. Ông muốn được tị nạn chính trị để thoát khỏi Khmer Đỏ. Mỹ từ chối do lo ngại ảnh hưởng xấu tới quan hệ giữa nước này và Trung Quốc. Pháp đồng ý nhưng với điều kiện ông bỏ hoàn toàn mọi hoạt động chính trị. Việt Nam gửi thông điệp qua đại sứ một nước không liên kết rằng ông được hoan nghênh trở về Phnom Penh giữ vị trí đứng đầu chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Cuối cùng Đặng Tiểu Bình thuyết phục được Sihanouk đến sống ở Trung Quốc với lời hứa rằng ông sẽ không bị buộc phải tham gia liên minh với Khmer Đỏ. Bắc đầu cuộc sống tại Bắc Kinh từ tháng 2 năm 1979, Sihanouk được Trung Quốc cung cấp một cuộc sống rất tiện nghi, nhưng quan hệ giữa hai bên ngày càng xấu đi. Trái với lời hứa của Đặng Tiểu Bình tại Washington, Trung Quốc nhanh chóng bắt đầu gây áp lực để Sihanouk nhận vị trí lãnh đạo một mặt trận liên minh. Ông liên tiếp từ chối, thậm chí còn kêu gọi loại bỏ Campuchia Dân chủ khỏi Liên Hợp Quốc và bỏ trống ghế của Campuchia cho đến khi một chính quyền đại diện được thành lập. Sihanouk tiếp tục lên án Khmer Đỏ và phê phán chính sách của Trung Quốc về cái mà ông gọi là “đánh Việt Nam đến người Khmer cuối cùng”. Theo ông, giải pháp duy nhất để giải quyết vấn đề Campuchia là một hội nghị quốc tế cam kết đảm bảo an ninh cho Việt Nam và khôi phục độc lập của Campuchia. Đầu năm 1980, ông thậm chí còn tuyên bố muốn trở về Campuchia làm một công dân bình thường. Những tuyên bố kiểu này của Sihanouk từ chính Bắc Kinh đã dẫn tới việc Sihanouk gần như bị cách ly. Các cuộc gặp gỡ của ông với phó tổng thống Mỹ Walter Mondale năm 1979, và với ngoại trưởng Thái Lan năm 1980, đã bị Trung Quốc ngăn cản. Được Việt Nam hậu thuẫn, ngày 8 tháng 1 năm 1979 Hội đồng Nhân dân Cách mạng nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch đã được thành lập. Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia về danh nghĩa là đảng cầm quyền tại Campuchia. Nhưng tổ chức này mới được thành lập nên chưa đủ sức đảm nhận công việc vực dậy và đưa hoạt động của đất nước về trạng thái bình thường, lại càng chưa thể bảo vệ chính phủ mới khỏi trước sức mạnh quân sự của Khmer Đỏ. Hàng ngàn công chức và kỹ thuật viên Việt Nam đã được đưa sang Campuchia để khôi phục hệ thống điện, nước ở Phnom Penh, đưa hệ thống đường sắt vào hoạt động trở lại. Các bệnh viện và trạm xá được mở lại với các bác sĩ dân y và quân y Việt Nam cùng một số bác sĩ Campuchia còn sống sót qua thời Khmer Đỏ. Hàng trăm người Campuchia được gửi sang Việt Nam học các khóa cấp tốc về chăm sóc sức khỏe, giáo dục, ngân hàng, ngoại thương, và an ninh. Hệ thống chuyên gia Việt Nam được thiết lập. A-40 là ban chuyên gia cao cấp gồm một số ủy viên trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam có trách nhiệm giữ liên lạc giữa hai đảng và cố vấn tất cả các vấn đề quan trọng. Nhóm B-68 gồm các chuyên gia trung cấp làm việc tại các bộ trong chính phủ Campuchia và tham gia việc ra quyết định hằng ngày. Nhóm A-50 gồm các chuyên gia làm việc với chính quyền cấp tỉnh. Ở các vùng nông thôn, chuyên gia Việt Nam từ các tỉnh kết nghĩa cũng làm việc tại các công sở cấp tỉnh. Dưới cấp tỉnh, hoạt động chuyên gia do quân tình nguyện Việt Nam đảm nhận. Nhà nước Campuchia phát hành đồng riel mới năm 1980, sau thời kỳ thị trường vận hành bằng gạo và vàng. Thị trường phát triển mạnh nhờ buôn lậu quy mô lớn tại biên giới Thái Lan. Sự giúp đỡ của quốc tế giúp đẩy lui nạn đói. Năm 1981, một hiến pháp mới được thông qua, tiếp theo là bầu cử toàn quốc chọn ra Quốc hội gồm 117 thành viên từ 148 ứng cử viên gồm các cựu thành viên Khmer Đỏ, Khmer Issarak, và các trí thức còn sống sót qua chế độ Pol Pot. Quân đoàn 4 của Việt Nam chịu trách nhiệm bảo vệ Campuchia với lực lượng khoảng 180.000 quân. Không chỉ Trung Quốc coi việc Việt Nam đóng quân ở Campuchia là một sự thách thức, các nước ASEAN cũng rất lo ngại cuộc chiến sẽ lan rộng do Campuchia không còn vùng đệm truyền thống giữa Thái Lan và Việt Nam – hai quốc gia trong lịch sử đã luôn cạnh tranh về quyền kiểm soát vùng đồng bằng sông Mekong. Trong khi cuộc chiến tranh đã mở ra cơ hội chưa từng có cho lợi thế quân sự của Liên Xô trong khu vực, các đồng minh trong khu vực và phương Tây của Thái Lan cũng bị kéo vào cuộc xung đột. Liên Xô cùng 11 quốc gia và tổ chức trong 88 thành viên của Phong trào các nước không liên kết chính thức công nhận chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Nhưng Việt Nam vẫn phải chịu chỉ trích của thế giới về sự can thiệp vào Campuchia, tiếp theo là những lệnh cấm vận kinh tế. Do đó, các chính sách ngoại giao của Việt Nam đã đặt ưu tiên hàng đầu cho mục tiêu hợp pháp hóa chính quyền Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Nỗ lực này đã làm Khmer Đỏ không còn tiếng nói tại Phong trào các nước không liên kết, tuy không loại bỏ được ghế của họ. Tại kì họp tháng 9 năm 1979, nỗ lực của Việt Nam trong việc loại bỏ ghế của Campuchia Dân chủ thất bại. Dù có quyền phủ quyết của Liên Xô, 6 phiếu ủng hộ (trong đó có Mỹ) của Credential Commitee đã đủ để giữ ghế cho Campuchia Dân chủ. Hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua quyết định đó ngày 21 tháng 9 với 71 phiếu thuận, 35 chống, và 34 trắng. Chính quyền Pol Pot nay chỉ còn là một nhóm du kích trong rừng nhưng lại được bầu là đại diện hợp pháp duy nhất của nhân dân Campuchia. Từ đây, cuộc đấu tranh ngoại giao tại Liên Hợp Quốc đòi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia để giành quyền tự quyết cho người Campuchia đã tạo ra một liên minh gồm hơn 100 quốc gia hỗ trợ Khmer Đỏ – chính thể mà nhiều nước trong số đó đã và vẫn đang lên án mạnh mẽ. Việc Liên Hợp Quốc tiếp tục công nhận Khmer Đỏ đồng nghĩa với việc Việt Nam tiếp tục bị cô lập về chính trị. Trên trường quốc tế, tuy Khmer Đỏ vẫn giữ được ghế tại Liên Hợp Quốc nhờ các nỗ lực liên minh của Mỹ-ASEAN-Trung Quốc, sự hỗ trợ quốc tế có nguy cơ giảm dần. Từ năm 1980, báo chí phương Tây được mở rộng cửa vào Campuchia, tự do đi lại lấy tin tức. Các phóng sự và phim của họ đã làm toàn thế giới rùng mình và dẫn đến việc Anh và Úc rút sự thừa nhận đối với chính phủ Campuchia Dân chủ. Mùa thu năm 1980, ngoại trưởng Mỹ Edmund Muskie đã muốn dùng phiếu trắng cho cuộc bỏ phiếu tín nhiệm đối với Campuchia Dân chủ tại Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, do sức ép mạnh mẽ từ Trung Quốc, từ các đại sứ Mỹ tại các nước ASEAN, và từ Brzezinski, Muskie đồng ý bỏ phiếu thuận. Các vận động hành lang của liên minh Mỹ-Trung Quốc-ASEAN đã giúp đạt được 97 phiếu thuận cho nghị quyết Liên Hợp Quốc kêu gọi Việt Nam rút quân. Dù vậy, các nước ASEAN ngày càng nhận rõ rằng không chỉ cần cải thiện hình ảnh của Khmer Đỏ mà còn phải mở rộng cơ sở của phong trào chống Việt Nam để giữ được sự hỗ trợ của thế giới phi cộng sản đối với chính thể Campuchia Dân chủ. Ý tưởng về một liên minh Khmer chống Việt Nam được hình thành, dù không được Trung Quốc ủng hộ do lo ngại một liên minh như vậy với các nhân vật như Sihanouk và Son Sann sẽ làm suy giảm quyền lực của Khmer Đỏ. Tháng 7 năm 1981, dự thảo nghị quyết Hội nghị Quốc tế về Campuchia ICK do ASEAN đề xuất (Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu là người viết chính) có nội dung mang xu hướng hòa giải với Việt Nam. Dự thảo phản ánh quan điểm đồng thuận của ASEAN rằng chính sách của Trung Quốc làm Việt Nam chảy máu không phục vụ lợi ích chung của khối; một nước Việt Nam suy yếu và sự khôi phục quyền lực của chính quyền Khmer Đỏ thân Trung Quốc sẽ đảo lộn nghiêm trọng cân bằng trong khu vực; việc thiết lập một chính phủ độc lập và không liên kết tại Campuchia qua bầu cử sẽ giải quyết các mối quan ngại về an ninh của Thái Lan và Việt Nam, và làm cho Trung Quốc không còn lý do can thiệp vào vùng Đông Nam Á lục địa. Bản dự thảo còn hứa hẹn sau khi giải quyết vấn đề Campuchia sẽ có hỗ trợ quốc tế cho việc tái thiết nước Việt Nam đã bị chiến tranh tàn phá.
Lịch sử Campuchia (1979–1993)
Giai đoạn này của lịch sử Campuchia bắt đầu từ ngày 7 tháng 1 năm 1979, khi chính quyền Campuchia Dân chủ của Khmer Đỏ bị lật đổ do Chiến dịch phản công biên giới Tây Nam của Việt Nam. Tại hàng trăm ngôi làng Campuchia, quân đội Việt Nam được chào đón với sự mừng vui và khó tin là đã được cứu thoát. Khoảng 300 ngàn dân từ các tỉnh phía Tây và từ Phnom Penh bị buộc phải đi cùng quân Khmer Đỏ rút lui vào rừng. Đối với phần còn lại của Campuchia, người ta xem như đã được hồi sinh. Nhưng Campuchia giờ đây là một đất nước không có tiền tệ, thị trường, bưu điện hay trường học. Cả nước đầy rẫy những khu mộ tập thể và nhà chứa hài cốt. Những người dân yếu ớt còn sống sót đang đối mặt với nạn đói. Thay vì được hoan nghênh do đã lật đổ một chế độ mà cả thế giới lên án, Việt Nam phải chịu sự chỉ trích của quốc tế. Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia chỉ được một số ít nước công nhận, trong khi Khmer Đỏ dù bị nhiều nước lên án nhưng vẫn được thừa nhận là thành viên hợp pháp của Liên Hợp Quốc.
Bạn đang quan tâm đến tín hiệu Analog là gì? Ứng dụng và sự khác nhau giữa bộ truyền tín hiệu Analog và Digital như thế nào? Có thể nói sự khác biệt giữa 2 tín hiệu phổ biến này rất rõ nét. Để tìm hiểu kỹ hơn về sự khác nhau đó, chúng ta cùng đến với bài viết ngay sau đây để có thông tin hữu ích hơn nhé. Analog là một tín hiệu liên tục, không ngắt quãng và được biểu thị bằng đồ thị biểu diễn là một đường liên tục. Mặt khác, tín hiệu Analog cũng có nghĩa là tương tự có thể hiểu tín hiệu được truyền và phát ra đúng bản chất nhưng, tuy nhiên cường độ tín hiệu của thời điểm sau so với thời điểm trước. Bản chất tín hiệu sẽ giữ nguyên hình dạng giống như biểu đồ nhưng thực tế đã cho thấy, tín hiệu Analog sẽ bị nhiễu và khuếch đại âm thanh tín hiệu không còn đúng với bản chất lúc đầu. Một số tín hiệu Analog hàng ngày chúng ta bắt gặp như: âm thanh, nhiệt độ, cường độ ánh sáng,…. Dễ hình dung hơn, chúng tôi sẽ đưa ra một ví dụ cho bạn dễ hiểu hơn về Analog: Khi bạn nghe một bản nhạc, một bộ phim, tiếng chim hót hoặc tiếng nói âm thanh của chúng ta phát ra thì đó là 1 dạng tín hiệu Analog. Bởi tín hiệu được truyền ra không ngắt quãng, tín hiệu Analog được lưu trong ổ cứng hoặc băng đĩa,…. Tín hiệu này chỉ có 2 mức thấp và cao tức là không liên tục, hay gọi tín hiệu có sự ngắt quãng. Do vậy, trong các thiết bị điện tự tín hiệu này được truyền ra theo cách bị động có sự điều khiển của con người, nhận biết bằng với số 0-1 thiết bị công nghiệp thì đó là tín hiệu ON/OFF. Tín hiệu Digital lưu trữ dữ liệu trên máy tính tốt hơn vì máy tính có thể phân tích được mã nhị phân khi nhập dữ liệu. Là dạng tín hiệu không phải tự nhiên mà được sinh ra bởi kỹ thuật công nghệ gọi là công nghệ số. Mọi thông tin về tín hiệu âm thanh, hình ảnh đều thể hiện qua thông số kỹ thuật và độ chính xác truyền tải thông tin đều rất chuẩn. Về ưu điểm của Digital là bộ phát/ nhận tín hiệu linh hoạt hơn so với Analog. Cách chuyển đổi tín hiệu Analog sang Digital bằng cách thông qua sóng tín hiệu từ Analog đi qua thiết bị chuyển đổi tín hiệu khi đó tín hiệu âm thanh/hình ảnh sẽ hiển thị ở dạng các con số. Về cơ bản thông qua thiết bị chuyển đổi mọi âm thanh, tần suất hay cường độ được phát ra ở Digital đều rõ ràng và chuẩn xác. Vì vậy, trong một số lĩnh vực như truyền hình đã và đang chuyển đổi tín hiệu âm thanh, hình ảnh từ Analog sang Digital, giải pháp chống nhiễu và hình ảnh chân thực sắc nét hơn. Thực tế, tín hiệu Analog không còn được ứng dụng trong 1 số lĩnh vực nhưng trong công nghiệp, tín hiệu này đã và đang là giải pháp hữu ích. Thực chất, ứng dụng lớn nhất của tín hiệu Analog trong các nhà máy bởi ưu điểm có thể truyền đi xa mà không bị giảm tín hiệu. Nó được dùng nhiều trong các ứng dụng của PLC với các tín hiệu cần được xử ly. Ngoài ra, việc sử dụng tín hiệu Analog trong nhà máy đó là hầu hết hiện nay các loại PLC đều tích hợp tín hiệu Analog để chuẩn hóa tín hiệu cho toàn hệ thống của mình. Sử dụng nhiều trong các thiết bị, máy móc công nghiệp với tiện ích dễ dàng quản lý và điều khiển. Các tín hiệu trong cuộc sống như: âm thanh, ánh sáng, độ ẩm, hình ảnh, áp suất,…. PLC là thiết bị điện tử, hoạt động dựa trên các thông số dữ liệu, nhiệm vụ là xử lý tín hiệu ở dạng con số 0/1. Khi nguồn tín hiệu cần được xử lý quá tải thì cần bộ chuyển đổi tín hiệu Analog như Module biến tín hiệu từ PLC thành các tín hiệu số chứa trong 1 chuỗi giá trị mã hóa cho PLC hiểu được và xử lý nhanh gọn. Một số tín hiệu Analog mặc định cần được xử lý trong PLC bao gồm tín hiệu điện áp và dòng điện. Các tín hiệu dòng điện cần được xử lí trong PLC hiện nay như: Tín hiệu Analog dòng điện 4-20mA, tín hiệu 0-20mA….Các tín hiệu điện áp như, 0-5V, 0-10V. Như phần trên đã trình bày, bạn muốn xử lý được các tín hiệu Analog một cách dễ dàng nhất là dùng một thiết bị chuyển đổi Module có 2 đầu In/ Out để đọc tín hiệu về PLC cách tốt nhất. Ví dụ: Bạn đang cần xử lý tín hiệu trong PLC S7-1200 của Mitsubishi với một Module mở rộng AL 4 kênh, Input Analog 4-20mA. PLC cần xử lý và đọc các tín hiệu từ: Cảm biến nhiệt độ Pt100 xuất ra tín hiệu 3 dây 0-200 độ C, cảm biến nhiệt độ K( có tín hiệu ngõ ra 2 dây 0-1200 độC), đồng hồ đo nước có tín hiệu ngõ ra từ 0-1Khz, cảm biến áp suất ngõ ra dạng Analog 0-10V. Bên cạnh đó, còn có một số thiết bị thường dùng: như bộ chuyển đổi tín hiệu nhiệt độ sang 4-20mA, bộ chuyển đổi và chia tín hiệu 4-20mA, bộ khuếch đại tín hiệu, bộ trộn tín hiệu Analog, bộ phát tín hiệu,…. Công ty hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu và phân phối các thiết bị công nghiệp.
Tín hiệu analog
Tín hiệu analog hay tín hiệu tương tự là bất kỳ tín hiệu liên tục nào có tính năng thay đổi thời gian (biến) của tín hiệu là đại diện cho một số lượng thay đổi thời gian khác, nghĩa là tương tự với tín hiệu thay đổi thời gian khác. Ví dụ, trong tín hiệu âm thanh analog, điện áp tức thời của tín hiệu thay đổi liên tục theo áp suất của sóng âm. Nó khác với tín hiệu số, trong đó đại lượng liên tục là biểu diễn của một chuỗi các giá trị rời rạc, chỉ có thể đảm nhận một trong số các giá trị hữu hạn. Thuật ngữ tín hiệu tương tự thường đề cập đến tín hiệu điện tử; tuy nhiên, cơ khí, khí nén, thủy lực, lời nói của con người và các hệ thống khác cũng có thể truyền tải hoặc được coi là tín hiệu tương tự.
Điều trị u quái xương đuôi, tinh hoàn và buồng trứng nói chung bằng phẫu thuật. U quái tinh hoàn buồng trứng và chưa trưởng thành cũng thường được điều trị bằng hóa trị. U quái xảy ra ở xương đuôi cột sống ở khoảng một trong 30.000 trẻ sơ sinh, khiến chúng trở thành một trong những khối u phổ biến nhất ở lứa tuổi này. Nữ giới bị ảnh hưởng thường xuyên hơn nam giới. U quái buồng trứng đại diện cho khoảng một phần tư u buồng trứng và thường được chú ý trong tuổi trung niên. U quái tinh hoàn chiếm gần một nửa số bệnh ung thư tinh hoàn. Chúng có thể xảy ra ở cả trẻ em và người lớn. Thuật ngữ teratoma trong tiếng Anh xuất phát từ các từ Hy Lạp”quái vật”và”khối u”.
U quái
U quái (tiếng Anh: teratoma) là một khối u được tạo thành từ nhiều loại mô khác nhau, chẳng hạn như tóc, cơ, răng hoặc xương. Chúng thường hình thành ở buồng trứng, tinh hoàn hoặc xương đuôi và ít gặp hơn ở các khu vực khác. Các triệu chứng có thể là tối thiểu nếu khối u nhỏ. Một khối u quái tinh hoàn có thể xuất hiện dưới dạng cục u không đau. Các biến chứng có thể bao gồm xoắn buồng trứng, xoắn tinh hoàn hoặc chảy nước thai nhi. Chúng là một loại u tế bào mầm (một khối u bắt đầu trong các tế bào làm phát sinh tinh trùng hoặc trứng). Chúng được chia thành hai loại: trưởng thành và chưa trưởng thành. U quái trưởng thành bao gồm u nang da và thường lành tính. U quái chưa trưởng thành có thể là ung thư. Hầu hết các u quái buồng trứng là dạng trưởng thành. Ở người lớn, u quái tinh hoàn nói chung là ung thư. Chẩn đoán xác định dựa trên sinh thiết mô. Điều trị u quái xương đuôi, tinh hoàn và buồng trứng nói chung bằng phẫu thuật. U quái tinh hoàn buồng trứng và chưa trưởng thành cũng thường được điều trị bằng hóa trị.
Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ là một tướng quân nổi tiếng thời Hán-Sở tranh hùng, từng có công trong việc lật đổ nhà Tần và tranh chấp thiên hạ với Hán Cao Tổ Lưu Bang. Sở dĩ Hạng Vũ có thể xưng hùng xưng bá trong thiên hạ là nhờ có sự phò tá của một bậc quân sư kỳ tài, đó là Phạm Tăng. Việc Anh Bố phản Sở để theo Hán là một đòn nặng đối với Hạng Vũ, nhưng tuyệt đối không phải là đòn trí mạng. Sau khi Hàn Tín bỏ đi, dưới trướng của Hạng Vũ vẫn còn một viên tướng trí dũng song toàn là Chung Ly Muội. Hơn nữa, quân sư Phạm Tăng vẫn còn, hệ thống “túi khôn” vẫn chưa bị tê liệt. Giữa sông Hoàng Hà và đại bản doanh, Lưu Bang cho làm một tuyến đường vận chuyển. Nhưng được Chung Ly Muội đưa ra kế sách, Hạng Vũ không ngừng sai quân khinh kỵ tập kích quấy nhiễu con đường vận chuyển lương thực này của quân Hán, khiến quân Hán cơ cực chịu cái khổ thiếu lương thực. Lưu Bang và Trần Bình thương lượng, Trần Bình nói: “Thần có biện pháp, có điều Hán Vương phải trao cho thần toàn quyền xử lý việc này”. Lưu Bang phê chuẩn, chi cho một khoản kinh phí khá lớn là 4 vạn cân tiền đồng, trực tiếp do Trần Bình tùy ý sử dụng. Trần Bình vốn đã từng ở trong doanh trại quân Hạng Vũ, có rất nhiều người quen, liền đem tiền đi tạo quan hệ khắp trên dưới. Người ta tự nhiên là vui cười tít mắt:. Tục ngữ nói, tam nhân thành hổ. Những lời đồi thổi như thế này lan truyền rất nhanh trong doanh trại quân Sở, khó tránh khỏi truyền đến tai Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ. Hạng Vũ cũng bán tín bán nghi: “Lẽ nào có chuyện như thế này?”. Tuy không thể khẳng định được tin đồn là thật hay giả, nhưng sự tín nhiệm và trọng dụng của Hạng Vũ đối với nhóm người Chung Ly Muội từ đó đã bị giảm đi nhiều. Đây mới chỉ là chiêu thứ nhất của Trần Bình. Tiếp theo, Hán Vương giả ý cầu hòa, hai bên tiến hành vòng đàm phán. Khi sứ giả của Tây Sở đến Huỳnh Dương, Trần Bình hạ lệnh mở tiệc lớn, thui nguyên con bò tốt nhất cho sứ giả ăn. Sứ giả của Tây Sở được sủng ái quá nên kinh hãi, bất giác than rằng: “Tuy uy danh của Bá Vương hiển hách, Hán Vương cũng phải khách khí vài phần. Tại hạ nhận được sự tiếp đãi thế long trọng này, quả không xứng, mà khước từ lại bất kính…”. Sứ giả Tây Sở cũng trấn tĩnh tự tại, nhưng trong lòng thấp thỏm, lẽ nào còn có chiêu đãi thịnh soạn hơn cả nguyên con bò tốt? Đợi đến khi bữa ăn mới được đem lên, thấy chỉ toàn cơm với rau mà thôi. Trở về doanh trại quân Sở, đem tình hình như trên, thêm mắm thêm muối báo cáo với Hạng Vũ. Hạng Vũ vốn đã nghe những lời gièm pha Á phụ có tâm bất mãn, nên càng không tín nhiệm đối với Phạm Tăng nữa. Phạm Tăng là người sáng suốt, trí tuệ, rất mau chóng phát hiện ra người trẻ tuổi mà ông đặt toàn bộ hy vọng này đã ghét bỏ mình như thế này rồi, nổi giận cáo từ bỏ đi: “Đại sự thiên hạ đã định rồi, là quân vương tự định. Xin ban cho để hài cốt về quê chết”. Phạm Tăng nói “Đại sự thiên hạ đã định rồi…”, có nghĩa là, “đại thế trong thiên hạ đã được quyết định rồi, nằm trong tay Hạng Vương, ngài tự làm tiếp đi, thần già yếu xin về quê dưỡng lão, được chết ở quê”. Nhưng câu nói đó còn có ý là, “đại thế trong thiên hạ đã được quyết định, ngài đã tự tạo ra như vậy. Tôi đã già, không nỡ lòng nhìn ngài thân bại danh liệt, nên để tôi cho lá rụng về cội đi”. Khi Phạm Tăng rời đi, Hạng Vũ cũng không cố gắng giữ lại. Hạng Vũ như chim ưng mới lớn, đôi cánh đã đủ lông mạnh mẽ, luôn muốn mau chóng rời khỏi vòng tay ôm ấp của chim mẹ, để tự do bay liệng trên bầu trời bao la. Thanh niên như chim mới ra ràng, thường chán ngán những lời khuyên của cha mẹ. Tây Sở Bá Vương tuổi trẻ anh hùng, đã sớm có được danh tiếng vang khắp thiên hạ, có lẽ từ lâu đã chán ngán với những lời khuyên răn của Á phụ, càng không hài lòng với những lời giáo huấn dạy bảo của ông. Phạm Tăng rời đi, tự nhiên đầy lòng thương cảm, Tây Sở Bá Vương ngày hôm nay đã hoàn toàn không còn là Hạng Vũ tuổi trẻ năm xưa khi thúc phụ đột tử, rối bời không biết xoay sở thế nào. Nếu như khi đó cái đầu đã dựa vào vai Á phụ khóc lóc, thì hôm nay đã ngẩng cao ngạo nghễ, không còn coi ai ra gì nữa!. Phạm Tăng là người Cư Sào (Sào Hồ, An Huy ngày nay), ông về giữa đường, mọc nhọt độc trên lưng mà chết. Nhọt độc là một loại mụn do khí huyết bị tà độc đình trệ, phát ra ở giữa gân cốt và cơ bắp. Phạm Tăng chết, có lẽ là kết quả do u uất phiền muộn tích lũy dẫn đến tâm lực đều mang bệnh. Cái chết của Phạm Tăng khiến người ta cảm khái. Còn bên Hạng Vũ, thực sự chỉ còn có mỗi Phạm Tăng là có tài phò tá vua. Khi Hạng Lương (chú của Hạng Vũ, và cũng là mưu thần có tài) chết ở trận chiến Định Đào, Hạng Vũ mới tròn 25 tuổi, Phạm Tăng đã ngoài 70 rồi. Nhân sinh thất thập cổ lai hy, cao quan hậu lộc, châu báu mỹ nhân, đối với Phạm Tăng mà nói cũng đã không còn ý nghĩa gì nữa rồi, do đó ông phò tá Hạng Vũ là hoàn toàn xuất phát từ cái nghĩa như huynh đệ với cố nhân Hạng Lương, và cái tình như phụ tử với Hạng Vũ. Do đó thân phận Phạm Tăng không giống với các mưu sỹ thông thường, vừa là thầy của Hạng Vũ, lại vừa là tham mưu của Hạng Vũ. Hạng Vũ gọi Phạm Tăng là Á phụ, chính là sự khẳng định quan hệ không tầm thường. Nhưng cũng chính quan hệ như thế này khiến Phạm Tăng trước mặt Hạng Vũ biết được điều gì đều nói, nói không bao giờ hết. Khẩu khí, tư thái ông nói với Hạng Vũ luôn luôn là bậc bề trên, chẳng nể nang thể diện. Khi Hạng Vũ cự tuyệt kiến nghị của ông, Phạm Tăng luôn luôn dốc sức dùng lý lẽ tranh luận, to tiếng quát nạt, khiến Hạng Vũ cảm thấy như là đứa trẻ bị phụ thân nghiêm khắc mắng chửi, từ đó nảy sinh tâm lý phản nghịch, chính là cơ hội để Trần Bình dùng kế ly gián. Do đó, kế ly gián của Trần Bình cũng chỉ là chất xúc tác mà thôi. Nhân tố chân chính quyết định chia rẽ Phạm Tăng và Hạng Vũ đã có từ lâu rồi, đó là sự kiện Hồng Môn yến, Hạng Vũ nghe theo kế Phạm Tăng mở tiệc ở Hồng Môn rồi giết Lưu Bang, nhưng cuối cùng, Hạng Vũ đã mủi lòng không giết, khiến Phạm Tăng nổi giận. Cái chết của Phạm Tăng tuyên cáo Tây Sở Bá Vương cuối cùng trở thành vị vua cô độc, đây là đòn trí mạng. Từ đó Hạng Vũ như đã mất đi người chỉ dẫn, tuy sức lực vô song, nhưng chỉ là con rối bị Lưu Bang, Hàn Tín, Bành Việt đùa giỡn, dẫn đến kết cục sức lực cạn kiệt. Lúc đó là năm 204 TCN, mùa hạ năm Hán Vương thứ 3, cuộc chiến Hán Sở đã trải qua 3 năm, xem ra Tây Sở Bá Vương vẫn còn rất mạnh, thực tế thì cán cân thắng lợi đã lặng lẽ nghiêng về Hán Vương Lưu Bang rồi. 7 đại quân sư nổi danh trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam (P.2): Trương Lương và khúc Sở ca khiến Hạng Vũ ôm hận
Hạng Vũ
Hạng Tịch (chữ Hán: 項籍; 232 TCN - 202 TCN), biểu tự là Vũ (羽), do đó ông được biết đến rộng rãi qua cái tên Hạng Vũ (項羽) hoặc Tây Sở Bá vương (西楚霸王), là một nhà chính trị, một tướng quân nổi tiếng, người có công trong việc lật đổ Nhà Tần và tranh chấp thiên hạ với Hán Cao Tổ (Lưu Bang) đầu thời Nhà Hán. Hạng Vũ người đất Hạ Tương, là cháu nội đại tướng Hạng Yên nước Sở thời Chiến Quốc, người bị tướng nước Tần là Vương Tiễn giết. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, họ Hạng đời đời làm tướng nước Sở, được phong đất ở Hạng cho nên lấy họ là họ Hạng. Có thuyết cho rằng tổ tiên Hạng Vũ vốn mang họ Mị, là hoàng tộc nước Sở. Sau này, khi Sở diệt Lỗ năm 256 TCN, gia đình Hạng Yên lúc này do lập được nhiều công trạng nên được phong đất Hạng- trước kia thuộc nước Lỗ. Gia tộc Hạng Yên theo đó mà lấy Hạng làm họ. Cha Hạng Vũ không rõ tên, một số gia phả ghi chép thì lại có những cái tên khác nhau như Hạng Siêu (項超) hay Hạng Vinh (項榮).
Cuộc đời Diệp Vấn có rất nhiều bí ẩn và những góc khuất chưa được kể tới trong bộ phim mang tên ông đang được trình chiếu. Một trong những hình ảnh hiếm hoi ghi lại màn tập đấu võ giữa Diệp Vấn (phải) và Lý Tiểu Long, học trò ông. Võ sư bạch mi Lương Tướng tự hào thi triển một kỹ thuật tự vệ trước lớp học của ông: đá sang bên, túm lấy, đấm vào đối phương. Lương Tướng biểu diễn các chiêu thức này một cách nhuần nhuyễn và chuẩn xác, điều mà người ta có thể kỳ vọng từ bất kỳ bậc thầy võ thuật nào đã có 20 năm luyện tập. Sau đó, các võ sinh tập theo động tác của ông. Nhưng ở phía dưới phòng, một người đàn ông lớn tuổi quay mặt đi, cố giấu lấy một tiếng cười. Đấm!” Người đàn ông dựa lưng vào tường khi tiếng hô của Lương vẫn đều đều vang lên. Giờ thân hình ông rung lên, do phải cố che giấu cảm giác buồn cười đang trào lên bên trong mình. Cuối cùng, nỗ lực kiềm chế thất bại và những tiếng cười thầm đột nhiên biến thành một tràng cười lớn, khoái trá. Ngay lập tức Lương Tướng dừng lớp học, gương mặt đỏ lựng vì tức. “Này lão kia!” ông hét tướng lên. “Lão cười cái quái gì thế?”. “Ồ chẳng có gì đâu”, người đàn ông trả lời. “Làm ơn hãy tiếp tục. Tôi sẽ không làm phiền tới các vị nữa”. Lương Tướng hít một hơi căng lồng ngực rồi rảo bước về phía cuối phòng. Ông vẫn đang rất cáu. “Này lão kia, cách đây vài tháng, chúng tôi thấy ông đang sống bên cạnh mấy thùng rác ở Macau,” Lương cất lời. “Chúng tôi đã đưa ông tới võ đường. Chúng tôi cho ông đồ ăn, cho chỗ để ngủ. Ít nhất ông cũng phải thể hiện sự tôn trọng khi tôi đang dạy học chứ”. Người đàn ông lớn tuổi sững người. Có phải Lương vừa nói tới từ “tôn trọng”?. “Vậy thì ít nhất ông cũng phải thể hiện chút tôn trọng với món võ mà mình đang dạy chứ”, ông vặc lại. “Tất cả những gì ông làm chỉ là yêu cầu học trò đấm vào không khí”. Rồi ông nhanh chóng lướt qua các chiêu thức của Lương: đá sang bên, túm, đấm. “Nhưng không khí có đánh lại người ta đâu. Liệu chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ đối mặt với một kẻ thù sẽ đánh lại mình?”. Rồi ông lắc đầu nói tiếp: “Nếu muốn học võ, anh phải thật nghiêm túc, còn không thì dẹp đi!”. “Nghe này lão kia”, Lương Tướng cáu tiết hét ầm lên, “nếu lão nghĩ mình biết gì đó, sao không lên đây múa vài đường cho ta mở mắt xem sao?”. Với lời thách thức từ Lương Tướng, trong ngày đó của năm 1952, Diệp Vấn (Yip Man) chính thức mở cánh cửa sự nghiệp dài 20 năm trong vai trò một bậc thầy võ thuật, sư phụ của phái Vịnh Xuân. Bậc thầy võ thuật Hoàng Thuần Lương cũng là một đệ tử của Diệp Vấn. Có chiều cao chỉ gần 1 mét 6 và nặng hơn 50kg, Diệp Vấn đã dễ dàng ném Lương, người có chiều cao tới 1 mét 8 và nặng tới gần 100kg về phía bên kia của phòng tập mà chẳng gặp khó khăn gì. Không cần biết Lương tấn công ra sao, Diệp Vấn luôn tấn vững trên sàn tập. Sau màn đối đầu ấy, Lương Tướng đã dâng tặng võ đường của ông tại Tổng hội công chức Hương Cảng Cửu Long Phạn Điếm cho Diệp Vấn và trở thành đệ tử đầu tiên của bậc thầy này. Diệp Vấn không vui vẻ chấp nhận vai trò mới này trong cuộc đời. Trước Thế chiến 2, ông là thành viên của một gia đình buôn bán giàu có tại thành phố Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Ông sở hữu một dinh thự lớn, một hoạt động kinh doanh phát đạt và một nông trại. Ông an hưởng cuộc sống êm ấm với vợ con, gia đình. Từ năm 1937 tới năm 1941, Diệp Vấn phục vụ trong quân đội Trung Quốc chống lại hoạt động xâm lược của phát xít Nhật. Ông trở lại Phật Sơn trong những năm quân Nhật chiếm đóng. Đó là giai đoạn khó khăn. Nông trại của ông bị tàn phá và vợ ông thì ốm nặng. Cuộc kháng chiến chống phát xít Nhật kết thúc không mang tới nhiều thay đổi. Trung Quốc cần tái xây dựng các thành phố và thị trấn bị tàn phá, nhưng lại vướng vào nội chiến. Chính quyền Quốc dân đảng tuyển dụng Diệp Vấn, bổ nhiệm ông vào vị trí đại úy phụ trách lực lượng cảnh sát tuần tra Quận Nam Hải, thành phố Phật Sơn. Dù công việc này giúp cải thiện đời sống của Diệp Vấn, nó đã không giúp ông cứu sống được vợ mình. Bà chết vì căn bệnh nan y. Sau khi những người cộng sản giành chính quyền ở Trung Quốc vào năm 1949, Diệp Vấn để hai đứa con trai đã trưởng thành ở Phật Sơn rồi lẩn trốn tới Hong Kong. Nếu ở lại, vai trò đại úy cảnh sát của chế độ cũ sẽ khiến ông sẽ gặp kết cục không hay. Vì thế, ở tuổi 51, Diệp Vấn phải bắt đầu lại cuộc sống của mình. Thành phố Phật Sơn ngày nay, nơi Diệp Vấn sinh ra. (Ảnh: Chính quyền thành phố Phật Sơn). “Khi thay đổi thể chế diễn ra, ông mất phần lớn của cải”, Trương Trác Khánh, một trong các học trò của Diệp Vấn cho biết. “Ông chỉ còn lại chút tài sản mang theo bên mình, gồm tiền mặt, các thoi vàng… Nhưng Phật Sơn là một chốn rất nhỏ bé nếu so với Hong Kong và Macau. Có rất nhiều gã lừa đảo hoạt động ở đó và Diệp Vấn lập tức mất tiền vì những kẻ này”. “Sau đó, nỗi đau khổ của việc mất nhà, mất vợ và xa cách các con đã đánh quỵ ông. Diệp Vấn trở nên mất phương hướng và có lẽ là tủi hổ về con người mình. Chẳng mấy chốc, ông lâm vào cảnh sống cơ cực, bần hàn”, Trác Khánh kể. Đó là khi Lương Tướng và một anh bạn có tên Thành Khảo tìm thấy Diệp Vấn đang lang thang quanh mấy thùng rác ở Macau. Ông dường như đã sống cảnh vô gia cư. Họ không hề biết ông là bậc thầy võ thuật. Họ chỉ tỏ ra tử tế với ông. Thực tế họ sẵn lòng giúp bất kỳ ai nên đã đưa ông về võ đường ở Tổng hội công chức Hương Cảng Cửu Long Phạn Điếm. Khi Diệp Vấn bắt đầu dạy võ ở đây, Lương Tướng, Lạc Diệu và Thành Khảo là các học trò đầu tiên. Rồi những người khác tìm tới, như Từ Thượng Điền. Tất nhiên, do đã là một bậc thầy võ thuật, Lương Tướng tiến bộ nhanh hơn nhiều những người khác. Diệp Vấn nhanh chóng chứng tỏ mình là một bậc thầy khác người. Trương Trác Khánh nhớ lại rằng trong 7 năm theo học Diệp Vấn, ông hiếm khi thấy thầy trực tiếp dạy học. Diệp Vấn thường ở phía sau võ đường, giám sát các trợ giảng và chỉnh sửa các động tác sai của những võ sinh ông thích nhất. Hoạt động dạy học thực sự thường do Lương Tướng, Lạc Diệu, Từ Thượng Điền, Hoàng Thuần Lương và Trương Trác Khánh đảm nhiệm. Trương Trác Khánh nói Diệp Vấn chỉ tự dạy học trò trong vài tình huống, như với các khách hàng sẵn sàng chi nhiều tiền để được ông làm “gia sư”. Nhưng ông cũng chỉ biểu diễn kỹ thuật một lần trên mộc nhân, còn phần luyện tập lại để cho Trương Trác Khánh chỉ đạo. Các buổi dạy của Diệp Vấn thường gồm nhiều hình thức luyện tập khác nhau, gồm tập đòn khóa tay, luyện tập với mộc nhân và giao chiến tự do. Không có công thức chung nào cho từng buổi tập. Mỗi trợ giảng được phép thêm các yếu tố cá nhân vào những bài tập. Thi thoảng, Diệp Vấn lại đấu đòn khóa tay với một vài học trò. Nhưng các màn đấu đó cũng chỉ kéo dài có vài giây. Diệp Vấn sợ rằng nếu đấu quá nhiều với một người trình độ thấp hơn, kỹ thuật của ông sẽ suy giảm. Ví dụ ông sẽ phải giảm tốc độ xuống để khai mở chiêu thức cho người này. Diệp Vấn có phong cách nói năng nhẹ nhàng. Ông thích dạy dỗ bằng cách đưa ra nhiều gợi ý và ví dụ hơn là dùng lời nói sáo rỗng. Ông yêu cầu học trò không được bắt nạt người khác, hoặc hành xử thô lỗ, ngạo mạn. Ông cũng cố để tránh không cho học trò chiến đấu với các băng đảng ở Hong Kong, dù có khuyến khích học trò tham gia các cuộc thi. Trong cuốn Bruce Lee: The Man Only I Knew ( Lý Tiểu Long: Người đàn ông duy nhất mà tôi hiểu – Warner Books, 1975), Linda Lee Cadwell đã trích dẫn một bài luận mà chồng bà, chính là Lý Tiểu Long, viết trong một lớp học tiếng Anh vào năm 1961. Bài luận đã nêu bật các chiến thuật mà Diệp Vấn sử dụng để gây ảnh hưởng lên các học trò. “Sau 4 năm tập luyện võ thuật vất vả, tôi bắt đầu hiểu và cảm nhận được nguyên tắc dùng nhu khắc cương – nghệ thuật vô hiệu hóa nỗ lực tấn công của đối phương và giảm tiêu hao sức lực tối đa. Tất cả những điều này phải được thực hiện trong sự bình tâm, không vội vã. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng thực hành vô cùng khó khăn. Khoảnh khắc tôi giao chiến với một đối phương, tâm trí của tôi hoàn toàn hỗn loạn và bất ổn. Đặc biệt là sau khi lãnh một vài đòn đấm đá của đối phương, lý thuyết về dùng nhu chế cương của tôi tan biến. Suy nghĩ duy nhất còn đọng lại trong đầu tôi là phải hạ đối thủ bằng mọi giá”, Lý Tiểu Long viết. “Thầy Diệp Vấn của tôi, đứng đầu một trường dạy Vịnh Xuân quyền, thường nói với tôi rằng: “Hãy thư giãn và bình tâm. Hãy quên bản thân con đi và xoay chuyển theo động tác của đối phương. Hãy để tâm trí con và những gì đang diễn ra trong thực tế tự tạo ra các phản đòn mà con không phải suy tính quá nhiều. Trên hết, hãy học nghệ thuật tháo gỡ”. Tôi phải thư giãn. Tuy nhiên tôi lại làm ngược lại điều đó. Khi tự nhủ rằng mình phải thư giãn, ngay cả từ “phải” đã đi ngược lại với đặc điểm “không cần cố gắng để đạt được” của sự thư giãn. Khi tôi gặp bế tắc trong việc tìm sự bình tâm, thầy đã khuyên tôi rằng ông chưa bao giờ đẩy mình đối mặt trực diện với mọi vấn đề mà tìm cách mềm dẻo để lách qua. “Đừng vội tập luyện trong tuần này. Hãy về nhà và suy nghĩ đi”, thầy bảo tôi”, Lý Tiểu Long viết. “Tuần tiếp theo tôi đã ở nhà. Sau khi dành nhiều giờ ngồi thiền và tập luyện, tôi bỏ cuộc và lên tàu ra khơi. Trên biển, tôi nghĩ về những lần tập luyện trước đây và điên tiết với bản thân nên đã đấm xuống nước. Khoảnh khắc đó, một suy nghĩ lóe lên trong tôi: Chẳng phải nước, thứ vật chất rất cơ bản, chính là tinh hoa của võ thuật sao? Tôi đánh vào nước, nhưng nó chẳng hề bị tổn thương. Một lần nữa tôi lại dùng hết sức chém xuống nước, nhưng nó chẳng hề hấn gì cả. Tôi cố dùng tay vốc nước, nhưng giữ nước lại là điều không thể thực hiện. Nước, thứ vật chất mềm nhất trên Trái đất, có thể nằm vừa bất kỳ thứ gì chứa nó. Và dù trông có vẻ yếu ớt, nước lại có thể xuyên thủng mọi loại chất cứng nhất trên thế giới. Đúng là như thế! Tôi muốn có được các đặc điểm tự nhiên của nước”. Dù Lý Tiểu Long có thêm các tình tiết riêng của ông vào câu chuyện, nhưng nội dung bài luận cho thấy sự thông thái và các đỉnh cao kỹ thuật của Diệp Vấn, đã truyền cảm hứng cho các học trò. 2 năm sau khi Diệp Vấn bắt đầu dạy võ Vịnh Xuân, ông được yêu cầu phải rời khỏi võ đường ở Tổng hội công chức. Khi ấy võ đường của ông đã có quy mô rất lớn và mang dáng dấp của một trường võ chuyên nghiệp. Vậy là Diệp Vấn cùng các môn đệ mở trường võ Vịnh Xuân thương mại đầu tiên ở phố Lôi Dật, tại quận Du Ma Địa, Hongkong. Nhưng dù Diệp Vấn đã có thể tự nuôi sống bản thân, nắm trong tay một hoạt động kinh doanh thành công, cuộc sống của ông vẫn không hạnh phúc. “Ông tái hôn vào năm 1954”, Trác Khánh nói. “Ông đã 56 tuổi còn vợ mới thì 40 tuổi. Ông gặp bà trong một nhà hàng thì phải. Dù sao, một số người nghĩ rằng bà có một quá khứ không sạch sẽ lắm. Tất cả các môn đệ của ông đều có vẻ coi thường bà và đó là điều khiến ông rất tức giận”. “Nhiều người không nhận ra rằng cuộc sống có sự thay đổi. Nó diễn ra theo các chu kỳ lặp lại. Lúc thịnh, lúc suy. Đôi khi người ta phải quên đi quá khứ để sống tiếp. Các học trò của Diệp Vấn đều là những kẻ có suy nghĩ khá nông cạn. Họ không thể hiện sự tôn kính với thầy của mình. Họ thường gọi ông là lão già và nhiều lần thể hiện sự bất kính”, Trác Khánh chia sẻ. “Đây là một trong những lý do Diệp Vấn không bao giờ tự dạy một lớp học võ. Và tôi không nghĩ ông có gì sai khi làm thế. Chỉ sau khi Lý Tiểu Long trở nên nổi tiếng, người ta mới nhận ra rằng Diệp Vấn quá vĩ đại và phong cách dạy của ông quá tuyệt vời, bởi nó giúp sinh ra những học trò kiệt xuất như Lý Tiểu Long”. Cũng theo Trương Trác Khánh, mối quan hệ không tốt đẹp giữa Diệp Vấn với các học trò càng trở nên tồi tệ thêm do ông nghiện ma túy. Đôi khi ông không có tiền trả phí thuê trường. Năm 1956, Diệp Vấn bị đuổi khỏi ngôi trường do ông và môn đệ lập ra ở Du Ma Địa. Trường học sau đó dọn tới một căn hộ chung cư, nơi Diệp Vấn tiếp tục sống và dạy dỗ học trò. Các môn đệ của ông thành lập một ủy ban chuyên thu học phí để trả tiền thuê nhà và giúp Diệp Vấn có một khoản tiền sinh hoạt. Trương Trác Khánh nhớ rằng trong giai đoạn này, thầy mình có lúc đã phải chiến đấu để sinh tồn: “Khi chúng tôi dọn tới căn hộ chung cư, nước nôi ở đó không được dư dả. Người ta chỉ cấp nước 4 ngày một lần, trong khoảng 2 giờ. Vì thế bạn phải xách nước về tích trữ và dùng dần. Thường thì tôi đi xách nước, nhưng hôm đó tôi phải đi chợ nên thầy Diệp Vấn đã tự đi xếp hàng lấy nước, tại một vòi nước do chính quyền cấp. Lần ấy, một băng đảng địa phương đã tới tuyên bố chúng kiểm soát vòi nước và đòi mỗi người nộp 50 xu cho một xô nước. Diệp Vấn không vui với điều đó nên ông thách đấu chúng”. “Khi trở về từ chợ và chạy tới chỗ lấy nước, tôi thấy thầy đang đấu với 6 hay 7 tên. Những tay anh chị kia đều cầm đòn gánh nước và có lẽ chúng dùng các cây đòn này để dọa người ta. Thầy tôi đã tước đòn gánh từ một tên và rồi chỉ trong nháy mắt đã đánh hạ cả bọn.
Diệp Vấn (phim)
Diệp Vấn (Hán phồn thể: 葉問; Hán giản thể: 叶问; bính âm: Yè Wèn; Việt bính: Jip6Man6; tựa tiếng Anh: Ip Man) là một bộ phim điện ảnh võ thuật bán tiểu sử của Hồng Kông, công chiếu vào năm 2008. Phim nói về một quãng đời của Diệp Vấn (1893 - 1972), một trong những danh sư của võ phái Vịnh Xuân quyền. Bối cảnh của phim bắt đầu từ thập niên 30 của thế kỷ 20, khi Diệp Vấn đang sống ở Phật Sơn cùng gia đình, cho đến khi Chiến tranh Trung-Nhật nổ ra. Đây là lần thứ tư ngôi sao võ thuật Chân Tử Đan đóng vai chính trong phim của Diệp Vĩ Tín đạo diễn. Hai con trai của Diệp Vấn là ông Diệp Chuẩn, Diệp Thành cùng nhiều môn sinh Vịnh Xuân quyền cũng xuất hiện trong phim. Dàn diễn viên phụ được giao cho những diễn viên gạo cội: Nhậm Đạt Hoa, Lâm Gia Đống, Thích Hành Vũ. Vai vợ của Diệp Vấn được giao cho Hùng Đại Lâm, một diễn viên mới từng rất nổi tiếng với vai trò người mẫu ở Hồng Kông. Diệp Vấn là bộ phim đầu tiên được dàn dựng dựa trên cuộc đời của Diệp Vấn.
Vốn lưu động (Working Capital) là một trong các khái niệm đã không còn xa lạ đối với những chuyên gia tài chính. Tuy nhiên nó lại thường bị lãng quên bởi các nhà đầu tư chứng khoán. Nếu là một nhà đầu tư bạn hãy theo dõi bài viết sau để nắm rõ vốn lưu động là gì cũng như tầm quan trọng đối với các hoạt động của doanh nghiệp nhé. Thuật ngữ vốn lưu động là gì trong tiếng anh đó là Working Capital (WC). Đây chính là nguồn vốn của các doanh nghiệp để phục vụ cho việc vận hành cũng như nhu cầu mua sắm, giúp cho toàn bộ quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp hoặc tổ chức sẽ không bị gián đoạn. Nguồn vốn lưu động này rất quan trọng, nó thường được sử dụng ở trong phương pháp để định giá dòng tiền chiết khấu (DCF), sử dụng để ước tính giá trị của các khoản đầu tư dựa vào dòng tiền trong tương lai của doanh nghiệp. Vốn lưu động cùng với những loại tài sản cố định khác như thiết bị và nhà máy đều được coi là một phần trong nguồn vốn hoạt động. Việc quản lý nguồn vốn lưu động còn liên quan tới tiền mặt, hoạt động quản lý hàng tồn kho, những khoản phải thu và khoản chi. Doanh nghiệp dù cho lợi nhuận đạt được cao là bao nhiêu, nhưng nếu như không có nguồn vốn lưu động tương ứng thì cũng sẽ làm cho quá trình kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có thể dẫn đến việc phá sản. Đối với hoạt động sản xuất: Ngoại trừ những tài sản cố định cần phải có như nhà xưởng, thiết bị, máy móc…thì để có thể sản xuất, các tổ chức, doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra một khoản tiền mua sắm nguyên vật liệu, hàng hóa. Chính vì thế vốn lưu động là một yêu cầu đầu tiên để tổ chức, doanh nghiệp có thể hoạt động. Đối với hoạt động kinh doanh: Trong khi kinh doanh thì những doanh nghiệp, tổ chức sẽ phải huy động vốn đầu tư. Sử dụng vốn lưu động có thể giúp nắm bắt được cơ hội đồng thời tạo ra được lợi thế cạnh tranh, mở rộng được quy mô hoạt động. Tác động tới giá thành sản phẩm: Vốn lưu động ảnh hưởng lớn tới khả năng hoạt động, sản xuất của doanh nghiệp cũng như tác động tới giá thành của sản phẩm và sức cạnh tranh thương hiệu ở trên thị trường. Tất cả những hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tổ chức sẽ đều phải được lên kế hoạch trước. Tiếp sau đó sẽ thực hiện theo một lộ trình đã vạch sẵn, đồng thời sẽ ghi chép một cách cẩn thận trong các báo cáo tài chính tuần, tháng hoặc là quý. Mỗi một giai đoạn riêng sẽ có phát sinh cần sử dụng tới nguồn vốn lưu động. Từ đó giúp cho doanh nghiệp có thể nắm được thời gian cũng như khả năng đáp ứng được ngắn hạn tới đâu. Khoản nợ ngắn hạn phải trả là những khoản nợ đang có thời hạn dưới một năm. Gồm có những khoản nợ ngân hàng cùng với những khoản nợ mua chịu. Ta có vốn lưu động = 176.000 – 154.000 = 22.000 tỷ đồng. Điều này có nghĩa hiện Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đang dư nguồn vốn luân chuyển. Nguồn vốn lưu động dương: Điều này thể hiện rằng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp hiện lớn hơn những khoản nợ ngắn hạn. Các hoạt động sản xuất sẽ vẫn được diễn ra một cách bình thường để có thể chuyển đổi loại tài sản ngắn hạn sang tiền mặt và thanh toán những khoản nợ đã đến hạn phải trả. Nguồn vốn lưu động âm: Điều này có nghĩa tài sản ngắn hạn hiện đang nhỏ hơn các khoản nợ ngắn hạn, việc luân chuyển các tài sản ngắn hạn sang tiền mặt vẫn sẽ không đủ để có thể đáp ứng được chi tiêu của doanh nghiệp. Trường hợp này mặc dù doanh nghiệp hiện đang đặt lợi nhuận tốt tuy nhiên nếu như không có được khả năng thanh toán khoản nợ ngắn hạn thì khả năng bị phá sản vẫn sẽ xảy ra. Ngoài vốn lưu động là gì thì hầu hết tất cả những doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh hay chính phủ sẽ đều phải tính toán tỷ lệ của vốn lưu động. Nếu tỷ lệ này nằm trong khoảng 1,2 tới 2,0: Công ty hiện đang hoạt động tốt, nguồn tài chính ổn định. Nếu tỷ lệ vốn lưu động ở dưới mức 1,0: Có nghĩa là nguồn vốn lưu động hiện đang bị thâm hụt, đồng thời sẽ dễ xảy ra những vấn đề về tính thanh khoản. Nếu như tỷ lệ vốn lưu động trên 2,0 thì điều này có nghĩa là công ty hiện đang lãng phí tài sản thừa. Để có thể tính được vốn lưu động thì trước hết bạn cần phải nắm rõ vốn lưu động là gì cũng như xác định được những thành phần gồm tài sản ngắn hạn cùng với các khoản nợ ngắn hạn. Những khoản thu ngắn hạn gồm có các khoản bán nợ cho đại lý, người mua trong khoảng thời gian ngắn. Các loại hàng tồn kho: Vật liệu, nguyên liệu, hàng hóa, thành phẩm có liên quan tới các hoạt động kinh doanh sản xuất và bán hàng của công ty. Thông qua cách tính vốn lưu động có thể thấy rằng đây là một tỷ lệ cực kỳ quan trọng, nó quyết định tới sự thành bại cho doanh nghiệp, công ty trong hoạt động kinh doanh. Việc nắm được cách quản lý tài sản lưu động cùng những nguồn tài chính ngắn hạn có thể giúp cho công ty hoạt động một cách hiệu quả và phát triển bền vững. Quản lý tiền mặt: Cần phải tính toán cũng như lên phương án dự trù đủ số dư tiền mặt để doanh nghiệp có thể đáp ứng được những chi phí hàng ngày phải chi. Trong trường hợp cần thiết sẽ phải cắt giảm chi phí nhằm nắm giữ được tiền mặt. Quản lý hàng tồn kho: Cần phải xác định rõ số lượng hàng tồn kho ở trong một khoảng cho phép nhằm đảm bảo duy trì được việc sản xuất liên tục. Ngoài ra còn có thể cắt giảm các nguồn nguyên liệu cũng như những chi phí khác nhằm tăng nguồn vốn lưu động bằng tiền mặt. Các loại thành phẩm hàng hóa tồn kho cần phải được giữ với một mức thấp nhằm tránh xảy ra trường hợp sản xuất lãng phí. Quản lý nợ: Xây dựng một chính sách tín dụng hợp lý, xác định được những khoản nợ khó đòi và dễ đòi nhằm đưa ra được phương án giải quyết cụ thể nhất. Ngoài ra cần phải thu hút thêm nhiều khách hàng để có thể đẩy các sản phẩm ra bên ngoài thị trường đạt hiệu quả cao. Như vậy bài thông qua bài viết chắc hẳn bạn đọc đã có cho mình các thông tin về vốn lưu động là gì, vai trò vốn lưu động trong doanh nghiệp, biết được công thức tính cũng như cách quản lý vốn lưu động hiệu quả. Nếu bạn còn thắc mắc hãy truy cập ngay website để có thêm thông tin nhé. Chúc các bạn thành công.
Vốn lưu động
Vốn lưu động (thuật ngữ tiếng Anh: Working capital, viết tắt WC) là một thước đo tài chính đại diện cho thanh khoản vận hành có sẵn cho một doanh nghiệp, tổ chức hoặc thực thể khác, bao gồm cả cơ quan chính phủ. Cùng với các tài sản cố định như nhà máy và thiết bị, vốn lưu động được coi là một phần của vốn hoạt động. Vốn lưu động được tính như tài sản hiện tại trừ nợ ngắn hạn. Nó là một nguồn gốc của vốn lưu động, thường được sử dụng trong các kỹ thuật định giá như DCFS (các dòng tiền chiết khấu). Nếu tài sản hiện tại ít hơn nợ ngắn hạn, một thực thể có một thiếu vốn lưu động, còn được gọi là thâm hụt vốn lưu động. Một công ty có thể được ưu đãi với tài sản và lợi nhuận nhưng có khả năng thanh khoản thấp nếu tài sản của nó không thể dễ dàng được chuyển đổi thành tiền mặt. Vốn lưu động lớn hơn 0 là cần thiết để đảm bảo rằng một công ty có thể tiếp tục các hoạt động của nó và nó có đủ các quỹ để đáp ứng cả nợ ngắn hạn trưởng thành cũng như các chi phí vận hành sắp tới.
Bạn hiểu rằng mục tiêu cuối cùng mà doanh nghiệp hướng đến đó là đem về doanh thu tốt nhất cho doanh nghiệp, thế nhưng trước hơn hết tất cả đó là phải tạo ra các sản phẩm đem đến giá trị cho khách hàng. Để xác định được những giá trị trong sản phẩm của bạn bạn sẽ cần phải sử dụng mô hình chuỗi các giá trị. Vậy Chuỗi giá trị là gì? Cùng tìm hiểu chi tiết nhất về mô hình này nhé!. Khái niệm Chuỗi giá trị là gì (hay Value chain là gì) là khái niệm dùng để chỉ một loạt các công việc nhằm mục đích tăng giá trị cho sản phẩm/dịch vụ cuối cùng thông qua các bước hoàn thiện chúng như khâu lựa chọn nguyên vật liệu, khâu sản xuất, khâu PR, quảng cáo tiếp thị. Trong tiếng Anh người ta gọi mô hình này là Porters Value Chain Analysis - mô hình phân tích chuỗi giá trị của Michael Porter. Khái niệm này lần đầu tiên xuất hiện trong cuốn sách “Competitive Advantage” nổi tiếng của Michael Porter được sản xuất năm 1985. Theo đó có hai bước chính quan trọng để phân tích chi tiết chuỗi các giá trị mà sản phẩm/dịch vụ bạn cung cấp, gồm có:. - Xác định và phân tích chi tiết những khả năng có thể tăng thêm giá trị cho sản phẩm trong từng hoạt động riêng lẻ, liên hệ cụ thể với khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Trong mô hình này có thể nhìn ra hai loại hoạt động chính và hoạt động hỗ trợ trong tổng thể các hoạt động của doanh nghiệp. - Vận chuyển đầu vào (Inbound Logistics) gồm các công việc như tiếp nhận, dự trữ, phân phối và sử dụng nguyên vật liệu được sử dụng trong quá trình sản xuất tạo sản phẩm của doanh nghiệp. - Chế tạo (Operations) là bước chuyển hóa nguyên liệu thô ban đầu thành các sản phẩm cuối cùng. - Vận chuyển đầu ra (Outbound Logistics) là sau khi hoàn thành sản phẩm, các sản phẩm đó sẽ được phân phối cung ứng sản phẩm cuối cùng tới thị trường và tay người dùng. - Tiếp thị và bán hàng (Marketing and Sales) sử dụng các hình thức quảng cá hoặc các kênh truyền thông để thu hút khách hàng mua sản phẩm. Có thể kể đến các hoạt động marketing trực tiếp và marketing online, các chương trình ưu đãi, hội chợ, khuyến mãi giảm giá, hoặc truyền thông trên các kênh như truyền hình, audio, tạp chí sách báo, quản lý sản phẩm, đội ngũ tiếp thị. để đưa được sản phẩm đến tay người dùng mục tiêu. - Dịch vụ (Service) là các hoạt động nhằm mục đích duy trì và nâng cao hơn hiệu quả của sản phẩm sau khi được tung ra thị trường, cụ thể các dịch vụ đi kèm khi mua sản phẩm có thể nói ngay đến dịch vụ bảo dưỡng, bảo trì sản phẩm, cài đặt, lắp ráp, ưu đãi bảo hành, đổi trả, tư vấn sau sản phẩm. - Hoạt động mua hàng (Procurement) hay chính xác hơn là mua nguyên vật liệu, liên quan đến nguồn cung nguyên liệu, giá thành nguyên liệu, vận chuyển, chất lượng nguyên liệu, bên thứ ba cung cấp,. - Công nghệ phát triển sử dụng trong quá trình sản xuất sản phẩm (Technology development). Không chỉ trong quá trình sản xuất thành phẩm cho các sản phẩm, công nghệ còn có thể được ứng dụng trong hầu như các giai đoạn khác như nghiên cứu, thu thập thông tin về khách hàng, về tiềm năng sản phẩm phát triển trên thị trường, nhu cầu thị trường; hoặc trong quá trình thiết kế, xây dựng bao bì sản phẩm; trong quá trình tiếp thị và bán sản phẩm ra thị trường; trong quá trình cung cấp dịch vụ cho khách hàng,. - Quản lý nguồn nhân lực (Human resource management) hiện tại của doanh nghiệp, bao gồm các hoạt động liên quan đến nhân sự trong doanh nghiệp như tuyển dụng, các chế độ đãi ngộ nhân viên, hợp đồng làm việc, chế độ lương bổng, hoa hồng,. cũng như các chính sách dừng hợp đồng nếu nhân sự đó không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và công việc. - Cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp (Firm infrastructure) sẽ liên quan đến kế hoạch tổ chức doanh nghiệp, tài chính, cơ sở tài sản của doanh nghiệp cũng như các cơ chế quản lý phù hợp. Thực hiện phân tích mô hình chuỗi giá trị của Michael Porter sẽ đem đến cho bạn rất nhiều thông tin quý báu để đưa doanh nghiệp của minh đi lên. - Giúp chủ doanh nghiệp nhìn ra cần tối ưu bước nào trong quá trình tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh, đồng thời giảm các chi phí và nguồn lực không cần thiết như khâu lựa chọn nguyên vật liệu sản xuất, khâu sản xuất sử dụng công nghệ tiên tiến,. - GIúp doanh nghiệp xác định được giá trị tốt nhất để đem đến cho khách hàng, cùng hướng đến mục đích tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Tăng giá trị được hưởng cho khách hàng của doanh nghiệp với giá cả phù hợp. Việc xác định và tạo ra chuỗi giá trị cho doanh nghiệp luôn là một trong những phần tất yếu đối với bất cứ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển mạnh mẽ trên thị trường. Nếu có thể vận dụng một cách khôn khéo, linh động mô hình Value chain của Michael Porter các chủ doanh nghiệp hoàn toàn có thể tối ưu được hầu như các yếu tố hiện tại và đem về giá trị lợi nhuận cao nhất. Như vậy chúng tôi đã đem đến cho bạn những thông tin cơ bản nhất về mô hình chuỗi giá trị của Michael Porter. Xin cảm ơn và chúc bạn thành công!
Chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị (tiếng Anh: Value chain), cũng được biết đến như là chuỗi giá trị phân tích, là một khái niệm từ quản lý kinh doanh đầu tiên đã được mô tả và phổ cập bởi Michael Porter vào năm 1985 trong cuốn sách best-seller của ông có tựa đề: Competitive Advantage: Creating and Sustaining Superior Performance (Tạm dịch: Lợi thế Cạnh tranh: Tạo và duy trì có hiệu suất ở mức cao).Chuỗi giá trị là chuỗi của các hoạt động. Sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động của các chuỗi theo thứ tự và tại mỗi hoạt động sản phẩm thu được một số giá trị nào đó. Chuỗi các hoạt động cung cấp cho các sản phẩm nhiều giá trị gia tăng hơn tổng giá trị gia tăng của tất cả các hoạt động cộng lại. Điều quan trọng là không để pha trộn các khái niệm của chuỗi giá trị với các chi phí xảy ra trong suốt các hoạt động. Việc cắt kim cương có thể được dùng làm ví dụ cho sự khác nhau này. Việc cắt có thể chỉ tốn một chi phí thấp, nhưng việc đó thêm vào nhiều giá trị cho sản phẩm cuối cùng, vì một viên kim cương thô thì rẻ hơn rất nhiều so với một viên kim cương đã được cắt.
Tính dân tộc và Đại đoàn kết dân tộc là một trong những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cho đến tận bây giờ tư tưởng đó vẫn được Đảng và nhà nước ta áp dụng. Đất nước Việt Nam ta, để được hòa bình như đến ngày hôm nay chúng ta đã phải cùng nhau đi qua rất nhiều cuộc chiến tranh giữ nước, chiến thắng nhiều đế quốc, thực dân xâm lược. Và có lẽ một yếu tố tất yếu để dân tộc Việt Nam có thể cùng nhau đi qua những tháng năm khó khăn, gian truân vất vả ấy là nhờ tính dân tộc và nhờ sự đại đoàn kết dân tộc. Vậy tính dân tộc là gì? Đại đoàn kết dân tộc là gì? Và Làm sao để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc như trước kia? Để có được câu trả lời đúng đắn nhất, Luật Hoàng Phi mời Khách hàng cùng tham khảo nội dung bài viết dưới đây của tổng đài tư vấn pháp luật 1900.6557. Trong nhiều bài báo, hay tại những phát biểu Chủ tịch Hồ Chí Minh đều đưa ra nhận định rằng: Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Từ những nhận định của Bác, chúng ta hiểu Bác muốn nhắc đến điều gì. Đất nước muốn đưa cách mạng thành công trước tiên phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới. Và muốn có lực lượng cách mạng mạnh bắt buộc phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Muốn mạnh từ lực lượng cách mạng thì bắt buộc phải xây dựng được tính dân tộc, lòng yêu nước trong mỗi bộ phận nhân dân. Như vậy không cần phải đưa ra khái niệm tính dân tộc là gì? Đại đoàn kết dân tộc là gì? Thì thông qua nhận định của chủ tịch Hồ Chí Minh mọi thứ đều sáng tỏ. Dân tộc là gì và đại đoàn kết dân tộc là những yếu tố làm nên sự thành công của cách mạng, và cho đến tận ngày hôm nay thì đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân vẫn luôn đúng. Chúng ta đều là 54 anh em dân tộc, không phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng, không phân biệt già trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, khi đất nước có vấn đề phải tập hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung để bảo vệ sự hòa bình nước nhà. Để phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc cũng như tính dân tộc tại thời điểm đất nước đã hòa bình thì Đảng và nhà nước cần phải áp dụng, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người và phải Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân. Chỉ khi nhà nước, Đảng ta làm được như lời Bác dạy thì từ đó mới tạo nên cơ sở thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước. Ngoài ra để phát huy cao độ sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc thì phải đoàn kết thống nhất trong Đảng đồng, xây dựng đội ngũ đảng viên gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến góp ý xây dựng của nhân dân.
Tính dân tộc
Tính dân tộc (tiếng Pháp: caractère national) là khái niệm thuộc phạm trù tư tưởng – thẩm mỹ chỉ mối liên hệ khăng khít giữavăn học và dân tộc, thể hiện qua tổng thể những đặc điểm độc đáo tương đối bền vững chung cho các sáng tác của một dân tộc, được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử và phân biệt với văn học của các dân tộc khác. Tính dân tộc thể hiện ở mọi yếu tố từ nội dung cho đến hình thức của sáng tác văn học. Về nội dung, dễ dàng nhận thấy trước hết, tính dân tộc biểu hiện trong sự phản ánh "màu sắc" dân tộc của thiên nhiên, của đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Đọc sáng tác của một dân tộc, ta như sống cuộc sống của dân tộc đó với những đặc điểm của một thế giới riêng. Tuy nhiên, tính dân tộc của văn học không biểu hiện ở những vật thể, đường nét, màu sắc có thể nắm bắt được. Nội dung căn bản của tính dân tộc là ở tinh thần dân tộc thể hiện ở tính cách dân tộc và cái nhìn dân tộc đối với cuộc đời.
Trong lĩnh vực công nghệ thông tin, sự phát triển luôn đi kèm với rủi ro. Bên cạnh những tiến bộ vượt bậc của công nghệ Điện Toán Đám Mây, Big Data, AI,… là những vụ tấn công mạng xuất hiện thường xuyên hơn, gây hậu quả nặng nề cho người dùng internet. Tuy vậy, chưa nhiều người hiểu rõ được các khái niệm trong An toàn thông tin như: Tấn công mạng là gì? Làm sao để sử dụng internet an toàn, chống lại các cuộc tấn công? Bài viết dưới đây sẽ cung cấp đầy đủ kiến thức xoay quanh vấn đề này!. Khái niệm tấn công mạng (hoặc “tấn công không gian mạng“) trong tiếng Anh là Cyber attack (hoặc Cyberattack), được ghép bởi 2 từ: Cyber (thuộc không gian mạng internet) và attack (sự tấn công, phá hoại). Tấn công mạng là tất cả các hình thức xâm nhập trái phép vào một hệ thống máy tính, website, cơ sở dữ liệu, hạ tầng mạng, thiết bị của một cá nhân hoặc tổ chức thông qua mạng internet với những mục đích bất hợp pháp. Mục tiêu của một cuộc tấn công mạng rất đa dạng, có thể là vi phạm dữ liệu (đánh cắp, thay đổi, mã hóa, phá hủy), cũng có thể nhắm tới sự toàn vẹn của hệ thống (gây gián đoạn, cản trở dịch vụ), hoặc lợi dụng tài nguyên của nạn nhân (hiển thị quảng cáo, mã độc đào tiền ảo). Tấn công mạng khác với pentest (kiểm thử xâm nhập). Mặc dù cả 2 đều chỉ việc xâm nhập vào một hệ thống, tuy nhiên tấn công mạng là xâm nhập trái phép gây hại cho nạn nhân, còn pentest là xâm nhập với mục đích tìm ra điểm yếu bảo mật trong hệ thống để khắc phục. nhà nước, thậm chí đối tượng có thể là cả một quốc gia. Tuy nhiên, đối tượng. phổ biến nhất của các cuộc tấn công mạng là các doanh nghiệp. Đơn giản vì mục. Ban đầu, những kẻ tấn công mạng được gọi là Cyber-crime (tội phạm mạng), tuy nhiên công chúng thường biết đến họ dưới cái tên “hacker” (kẻ xâm nhập), ở Việt Nam gọi là tin tặc. Các hacker đều là những người có kiến thức cực kỳ chuyên sâu về an ninh mạng, khoa học máy tính, khoa học mật mã, cơ sở dữ liệu,…Thậm chí, kiến thức của hacker còn được đánh giá là sâu và rộng hơn các kỹ sư CNTT thông thường. mạng trên thế giới được thực hiện bởi hacker. Nổi bật trong số đó phải kể đến. hiện các hành vi gian lận, chiếm đoạt số tiền lên tới hơn 3 tỷ đồng. Bên cạnh những hacker “xấu” kể trên, trong cộng đồng tồn tại một bộ phận không nhỏ những hacker “tốt”, được biết đến với cái tên Hacker mũ trắng hay White-hat hacker. Họ là những người đam mê tìm hiểu về lĩnh vực an ninh mạng và an toàn thông tin, có kiến thức sâu rộng không hề kém Hacker mũ đen. Sự khác biệt là Hacker mũ trắng có mục đích tốt. Khi họ xâm nhập thành công vào hệ thống của một tổ chức, họ thường cố gắng liên hệ với tổ chức để thông báo về sự không an toàn của hệ thống. Tại Việt Nam, từng có sự kiện một học sinh cấp 2 hack thành công vào hệ thống website của cảng hàng không Tân Sơn Nhất, trang chủ website khi đó hiển thị thông điệp của cậu bé này thay vì các thông tin như bình thường. Tấn công malware là hình thức phổ biến nhất. Malware bao gồm spyware (phần mềm gián điệp), ransomware (mã độc tống tiền), virus và worm (phần mềm độc hại có khả năng lây lan nhanh). Thông thường, tin tặc sẽ tấn công người dùng thông qua các lỗ hổng bảo mật, cũng có thể là dụ dỗ người dùng click vào một đường link hoặc email (phishing) để phần mềm độc hại tự động cài đặt vào máy tính. Một khi được cài đặt thành công, malware sẽ gây ra:. Phishing là hình thức giả mạo thành một đơn vị/cá nhân uy tín để chiếm lòng tin của người dùng, thông thường qua email. Mục đích của tấn công Phishing thường là đánh cắp dữ liệu nhạy cảm như thông tin thẻ tín dụng, mật khẩu, đôi khi phishing là một hình thức để lừa người dùng cài đặt malware vào thiết bị (khi đó, phishing là một công đoạn trong cuộc tấn công malware). xâm nhập vào một giao dịch/sự giao tiếp giữa 2 đối tượng. Khi đã chen vào giữa. nhân và mạng Wifi đó. Vô tình, những thông tin nạn nhân gửi đi sẽ rơi vào tay. Một hình thức biến thể của DoS là DDoS (Distributed Denial of Service): tin tặc sử dụng một mạng lưới các máy tính (botnet) để tấn công nạn nhân. Điều nguy hiểm là chính các máy tính thuộc mạng lưới botnet cũng không biết bản thân đang bị lợi dụng để làm công cụ tấn công. Đọc thêm: Sự nguy hiểm của Tấn công DDoS. chủ trả về những thông tin quan trọng mà lẽ ra không được tiết lộ. Lỗ hổng Zero-day (0-day vulnerabilities) là các lỗ hổng bảo mật chưa được công bố, các nhà cung cấp phần mềm chưa biết tới, và dĩ nhiên, chưa có bản vá chính thức. Chính vì thế, việc khai thác những lỗ hổng “mới ra lò” này vô cùng nguy hiểm và khó lường, có thể gây hậu quả nặng nề lên người dùng và cho chính nhà phát hành sản phẩm. Ngoài ra, còn rất nhiều hình thức tấn công mạng khác như: Tấn công chuỗi cung ứng, Tấn công Email, Tấn công vào con người, Tấn công nội bộ tổ chức, v.v. Mỗi hình thức tấn công đều có những đặc tính riêng, và chúng ngày càng tiến hóa phức tạp, tinh vi đòi hỏi các cá nhân, tổ chức phải liên tục cảnh giác & cập nhật các công nghệ phòng chống mới. Cẩn trọng khi duyệt email, kiểm tra kỹ tên người gửi để phòng tránh lừa đảo. Tuyệt đối không tải các file hoặc nhấp vào đường link không rõ nguồn gốc. Lựa chọn các phần mềm, đối tác một cách kỹ càng. Ưu tiên những bên có cam kết bảo mật và cam kết cập nhật bảo mật thường xuyên. Tổ chức các buổi đào tạo, training kiến thức sử dụng internet an toàn cho nhân viên. Chúng tôi đã gửi tài liệu vào địa chỉ email của bạn, hãy mở mail và khám phá những kiến thức bảo mật hữu ích.
Tấn công mạng
Một cuộc tấn công không gian mạng là bất kỳ hình thức tấn công nào của các quốc gia, cá nhân, nhóm hoặc tổ chức nhắm vào các hệ thống thông tin máy tính, cơ sở hạ tầng, mạng máy tính hoặc các thiết bị máy tính cá nhân bằng nhiều cách khác nhau của các hành vi độc hại thường có nguồn gốc từ một nguồn giấu tên, mà đánh cắp, thay đổi, hoặc hủy hoại một mục tiêu cụ thể bằng cách hack vào một hệ thống dễ bị tổn thương . Đây có thể là các chiến dịch không gian mạng, chiến tranh mạng hoặc khủng bố không gian mạng trong các ngữ cảnh khác nhau. Tấn công mạng có thể là từ việc cài đặt phần mềm gián điệp trên máy tính cá nhân để cố gắng để phá hủy cơ sở hạ tầng của cả quốc gia. Tấn công mạng ngày càng trở nên phức tạp và nguy hiểm như những con sâu Stuxnet gần đây đã chứng minh. Phân tích hành vi người sử dụng (User behavior analytics) và Quản lý các biến cố và thông tin an ninh (Security information and event management (SIEM)) được ứng dụng để ngăn chặn các cuộc tấn công.
Trước khi đi sâu hơn về các tiêu chuẩn chúng ta sẽ làm rỏ về hai thuật ngữ: khẩu trang và khẩu trang phòng độc. Được thiết kế bảo vệ một chiều để giữ chất lỏng cơ thể của người sử dụng. Ví dụ – trong phẩu thật để ngăn ngừa ho hắt xì hơi ,. sẽ ảnh hưởng đến bệnh nhân. Khẩu trang phòng độc là loại được thiết kế vừa vặn với khuôn mặt người đeo. Khẩu trang phòng độc loại KHÔNG có Van có khả năng bảo vệ hai chiều tốt bằng cách có hiệu suất lọc hơi thở vào và hơi thở ra tốt. Khẩu trang phòng độc được thiết kế bảo vệ người đeo khi đeo đúng cách và chúng được xếp loại an toàn theo tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn khẩu trang phòng độc N95 là một phần của thiết bị bảo vệ được khuyến cáo trong Bộ Câu hỏi thường gặp về Covid-19 và hướng dẫn SARS của Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) (SARS là một loại vi rút Corona tương tự). Điều này cho thấy rằng khẩu trang N95 hoặc tốt hơn có thể được chấp nhận. Khẩu trang phòng độc có hiệu suất lọc cao đạt tiêu chuẩn EN 149:2001 + A1: 2009 FFP2 NR D và EN 14683:2019 type I, II hoặc IIR, NIOSH-42C FR84 (ví dụ Khẩu trang phòng độc / khẩu trang N95 hoặc FFP2 hoặc tương đương). Khẩu trang phòng độc – Khẩu trang (Filtering facepiece respirators Viết tắt FFR), được gọi là Khẩu trang phòng độc sử dụng một lần. Khẩu trang FFR phải tuân theo các tiêu chuẩn quy đinh khác nhau. Các tiêu chuẩn này quy định về: đặc tính vật lý, đặt tính hoạt động bắt buộc nhất định với khẩu trang để có thể khẳng định khả năng phù hợp sử dụng trong trường hợp cụ thể. Trong các tính huống đại dịch các cơ quan y tế thường tham chiếu các tiêu chuẩn để đưa ra khuyến nghị sử dụng cho một số đối tượng được chỉ định sử dụng N95, FFP2 hoặc tương đương. Như được trình bày trong bảng tóm tắt sau mặt nạ phòng độc đáp ứng được các tiêu chuẩn này có thể hoạt động rất giống nhau dựa trên các yêu cầu về tính năng. Một điểm so sánh đáng chú ý là tốc độ dòng chảy được quy định này để kiểm tra sức cản hít vào – thở ra. Tốc độ dòng chảy kiểm tra khả năng hít vào từ 40 – 160L/Phút. Tốc độ dòng chày kiểm tra khả năng thở ra nằm trong khoảng 30 đến 95L/Phút. Lưu ý rằng: Khẩu trang có thể được thiết kế để phù hợp với những người có đặc điểm khuôn mặt phổ biến ở một quốc gia hoặc khu vực cụ thể. Ví dụ, mặt nạ phòng độc KN95 có thể được thiết kế đặc biệt để phù hợp với những người có đặc điểm khuôn mặt phổ biến ở Trung Quốc và các nước khác ở Châu Á. Do đó, một số cá nhân có các đặc điểm khác nhau trên khuôn mặt có thể không đạt được sự phù hợp ưng ý. Điều này cần được cân nhắc khi lựa chọn và sử dụng khẩu trang đã được phê duyệt theo tiêu chuẩn của các quốc gia và khu vực khác. Hiệu suất của bộ lọc – bộ lọc được đánh giá để đo sự giảm nồng độ của các sol khí cụ thể trong không khí đi qua bộ lọc. Chất thử nghiệm – sol khí được tạo ra trong quá trình kiểm tra hiệu suất bộ lọc. Tổng rò rỉ vào bên trong (TIL) – lượng khí dung cụ thể đi vào mặt nạ phòng độc được thử nghiệm thông qua cả độ xuyên thấu của bộ lọc và rò rỉ khẩu trang, trong khi người đeo thực hiện một loạt bài tập trong buồng thử nghiệm. Rò rỉ vào trong (IL) – lượng khí dung cụ thể đi vào khẩu trang phòng độc được thử nghiệm, trong khi người đeo thực hiện thở bình thường trong 3 phút trong buồng thử nghiệm. Kích thước bình xịt thử nghiệm (đường kính trung vị đếm) là khoảng 0,5 micro mét. Giảm áp suất – không khí chịu lực cản khi nó di chuyển qua một phương tiện, chẳng hạn như bộ lọc của khẩu trang phòng độc. Châu Âu sử dụng hai tiêu chuẩn khác nhau. Xếp hạng phần lọc (FFP) theo tiêu chuẩn EN 149:2001. Nhưng trong thực tế các loại khẩu trang (mặt nạ phòng độc) KN95 đeo cố định qua tai thì khả năng khít với khuôn mặt có thể yếu hơn. Tuy nhiên nếu sử dụng đúng thao tác với hướng dẫn điều này có thể được khắc phục. Khẩu trang/Khẩu trang phòng độc có Van giúp thở ra khí dễ dàng và thoải mái hơn khi mang. Và đều này làm tích tụ hơi ẩm bên trong khẩu trang. Vấn đề với khẩu trang/Khẩu trang phòng độc có Van là không có hiệu suất lọc với hơi thở ra. Sự bảo vệ một chiều này khiến các người khác xung quanh không được bảo vệ. Vì vậy trong tình huống như Covid-19 các bệnh viện và cơ sở y tế không sử dụng khẩu trang/Khẩu trang phòng độc có Van. Để tôn trọng người khác khi đeo khẩu trang hoặc Khẩu trang phòng độc thì nên chọn loại có hiệu suất lọc hơi thở ra. Khẩu trang phòng độc có hiệu suất cao ở kích thước hạt 0,3 micron (N95 / FFP2 hoặc cao hơn) về lý thuyết có thể lọc các hạt có kích thước xuống tới kích thước của coronavirus (khoảng 0,1 micron). Điều đó không cho chúng ta biết là khẩu trang phòng độc sẽ cung cấp khả năng bảo vệ chống lại coronavirus như thế nào khi được sử dụng – chúng ta sẽ cần đợi các nghiên cứu trong tương lai để xác nhận. Khẩu trang được đo bằng hiệu quả lọc các hạt có kích thước từ 0,3 micron trở lên (lưu ý rằng coronavirus nhỏ hơn thế). Tuy nhiên hiệu quả lọc được xác minh khả năng lọc kích thước hạt theo chuyển động Brownian motion. Theo báo cáo từ các chuyên gia từ 3M nghiên cứu có thấy 6 loại khẩu trang phòng độc N95 đã được thử nghiệm với kích thước nhỏ hơn 0.1 Micron với hiệu suất xấp xỉ 94% hoặc cao hơn. Tham khảo biểu đồ dưới đây. Hình ảnh bên dưới (nhấp vào nó để mở rộng) cho thấy kích thước của coronavirus, so với các phân tử nhỏ khác như hồng cầu, hoặc kích thước hạt PM2.5 thường được nói đến. Trong thực tế, điều này có nghĩa là đối với các cơ sở công nghiệp, nơi không khí có thể chứa nhiều hạt dầu, nếu khẩu trang không được xếp hạng P, thì theo thời gian, dầu có thể làm biến chất và giảm hiệu suất của bộ lọc. Đối với đại đa số những người đang cố gắng giảm tiếp xúc với Covid-19, sẽ không cần thiết phải bảo vệ khỏi dầu – điều này chủ yếu được thiết kế cho các cơ sở sử dụng công nghiệp. Bên cạnh khẩu trang phòng độc “thông thường”, còn có nhữngkhẩu trang thường được gọi là khẩu trang “phẫu thuật” hoặc “được phẫu thuật phê duyệt”.Chúng đạt các xếp hạng đã nói ở trên như N95 / FFP2, và cũng được chấp thuận cho khả năng chống chất lỏng. Chứng chỉ được điều chỉnh bởi ASTM F1862 – bao gồm trường hợp cạnh trong đó động mạch bị thủng và máu áp suất cao được phun trực tiếp vào khẩu trang phòng độc. Để đạt được tiêu chuẩn này, mặt nạ phải chịu được tia phun này mà không làm rò rỉ chất lỏng bên trong mặt nạ. Bạn có thể thấy lý do tại sao loại khẩu trang này lại quan trọng đối với phẫu thuật, nhưng không rõ bên ngoài thiết lập đó nó sẽ cung cấp thêm bao nhiêu lợi ích. Khẩu trang N95 / FFP2 thông thường sẽ chặn những thứ như ho và hắt hơi.Bảng dưới đây so sánh các loại khẩu trang N95 khác nhau. “ASTM F1862 là phương pháp thử nghiệm tiêu chuẩn về khả năng chống thấm máu tổng hợp của khẩu trang y tế. Thử nghiệm này là bắt buộc vì trong một số quy trình y tế nhất định, một số mạch máu có thể bị thủng đôi khi dẫn đến dòng máu có tốc độ cao tác động khẩu trang y tế bảo vệ. Quy trình thử nghiệm chỉ định rằng khẩu trang hoặc khẩu trang phòng độc được điều hòa trong môi trường có độ ẩm cao để mô phỏng hoạt động sử dụng của con người và được đặt trên giá đỡ thử nghiệm. Máu tổng hợp (2cc) được bắn theo chiều ngang vào mặt nạ ở khoảng cách 30 cm (12 inch). Khẩu trang phẫu thuật và khẩu trang phòng độc được thử nghiệm trên cơ sở đạt / không đạt ở ba vận tốc tương ứng với phạm vi huyết áp của con người (80, 120 và 160 mmHg). Sau đó, bên trong khẩu trang được kiểm tra để xem có máu tổng hợp nào thấm vào bên trong khẩu trang hay không. Điện trở chất lỏng theo phương pháp thử nghiệm này là khi thiết bị vượt qua ở bất kỳ mức nào. Về bản chất, cả 3 khẩu trang này đều phải đủ, theo hướng dẫn của CDC về 2019-nCoV và SARS. Như đã đề cập ở trên, 1860 và 1870+ vượt trội hơn 8210 khi phải đối mặt với việc phun chất lỏng tốc độ cao – điều này có thể xảy ra trong quá trình phẫu thuật (ví dụ như động mạch bị thủng), nhưng không chắc khi sử dụng hàng ngày. Khẩu trang phòng độc không vừa và đeo khẩu trang phòng độc đúng cách không thể bảo vệ bạn hoàn toàn nếu nó không vừa với khuôn mặt của bạn. Điều quan trọng là phải đảm bảo rằng khẩu trang phòng độc mà chúng ta sử dụng phải vừa khít với khuôn mặt của chúng ta, sao cho tất cả không khí được lọc và không đi qua các bên. Bạn sẽ “kiểm tra” khẩu trang phòng độc bằng cách đeo chặt, sau đó kiểm tra xem bạn có ngửi thấy hoặc nếm được hóa chất mà bạn cầm gần đó không. Nếu bạn có thể, mức độ bịt kín có thể không đủ. Nếu bạn không thể, điều đó cho thấy khẩu trang đã vượt qua bài kiểm tra độ vừa vặn. Xem thêm về quy trình này trên trang web của OSHA – bao gồm thông tin chi tiết về danh sách các hóa chất được phê duyệt để kiểm tra độ vừa vặn. Tuy nhiên, hiện tại chúng ta đang ở trong điều kiện đại dịch với sự thiếu hụt cả khẩu trang phòng độc và các hóa chất được sử dụng để kiểm tra độ phù hợp của chúng. Vì vậy, chúng ta phải cố gắng hết sức có thể với những gì chúng ta có sẵn. Xem hướng dẫn của OSHA về kiểm tra độ vừa vặn và kiểm tra độ vừa vặn để biết thêm thông tin. Chạm vào mặt trước của khẩu trang phòng độc (có tác dụng lấy vi rút, v.v.) và sau đó chuyển nó sang các vật khác như thức ăn,., cuối cùng có thể dẫn trở lại miệng và mũi của bạn. Mặt trước của khẩu trang có thể được coi như một tấm lưới bắt và lọc vi rút và vi khuẩn khi chúng ta hít thở. Sau đó, vấn đề xảy ra nếu chúng ta chạm vào mặt trước của khẩu trang và sau đó chạm vào khuôn mặt của mình. Về bản chất, chúng ta cần coi mặt trước của khẩu trang như một vật liệu nguy hiểm, và luôn rửa tay cẩn thận sau khi chạm vào. Ngoài ra, tránh chạm vào bên ngoài, và sau đó là bên trong của mặt nạ, vì bên trong phải tiếp xúc chặt chẽ với da mặt của bạn, và rất khó làm sạch. Đừng để nó mang lại cho bạn sự tự tin sai lầm. Điều an toàn nhất là duy trì khoảng cách xã hội. Đừng để việc đeo khẩu trang khiến bạn tự tin mà gặp phải những rủi ro không đáng có. Thật không may, hiệu quả của khẩu trang phòng độc thấp hơn 100%. Cả hai do giới hạn khả năng lọc của chúng (<100%) và do 2 điểm đã thảo luận ở trên. Vì vậy, chẳng hạn, đừng đến một sự kiện có nhiều người (đặc biệt nếu nó ở trong nhà) và nghĩ rằng nó an toàn vì bạn đang đeo khẩu trang phòng độc. Điều an toàn nhất bạn có thể làm là tập cách xa xã hội. Khẩu trang y tế nói chung là thiết kế 3 lớp (ba lớp), với 2 tấm vải “không dệt” kẹp một lớp “melt-blown” ở giữa. Đó là lớp Melt-Blown cung cấp khả năng lọc. Vật Melt Blown cũng được sử dụng trong khẩu trang phòng độc và do đó nó đắt hơn và khó mua trong thời gian gần đây do nhu cầu tăng rất nhiều. Chọn khẩu trang y tế đã được thử nghiệm theo một bộ các phương pháp thử nghiệm tiêu chuẩn hóa (ASTM F2100, EN 14683 hoặc tương đương) sẽ giúp tránh các sản phẩm chất lượng thấp. Tiêu chuẩn ASTM cho khẩu trang y tế đặc biệt là cấp độ 2 & 3) chủ yếu tập trung vào khả năng chống chất lỏng trong quá trình phẫu thuật. Các cấp độ cao hơn này không cung cấp nhiều hơn trong cách bảo vệ khỏi Covid-19 trong điều kiện không phẫu thuật. Nói một cách chính xác, khẩu trang y tế phẫu thuật chủ yếu được thiết kế để bảo vệ bệnh nhân dễ bị tổn thương khỏi các chuyên gia y tế. Ngăn người mặc (ví dụ như bác sĩ phẫu thuật) lây lan vi trùng của họ khi ho / hắt hơi / nói. Vì vậy, chúng được thiết kế để bảo vệ bệnh nhân chứ không phải để bảo vệ người đeo. Một khuyết điểm rõ ràng của khẩu trang y tế so với khẩu trang phòng độc là chúng không vừa khít với khuôn mặt, để lại những khoảng trống xung quanh các cạnh. Hiện chưa có nghiên cứu cụ thể nào về hiệu quả của khẩu trang y tế (hoặc thậm chí là khẩu trang phòng độc) để bảo vệ người đeo chống lại coronavirus. Thay vào đó, phần dưới đây xem xét nghiên cứu xung quanh việc sử dụng khẩu trang phẫu thuật và khẩu trang N95 trong bối cảnh dịch cúm, xem xét cụ thể biện pháp bảo vệ được cung cấp cho người đeo.
Khẩu trang N95
Khẩu trang N95 hay N95 là một khẩu trang y tế che mặt lọc hạt đáp ứng tiêu chuẩn của Viện Quốc gia Hoa Kỳ về An toàn vệ sinh lao động (NIOSH) phân loại N95 lọc không khí, có nghĩa là nó lọc ít nhất 95% số hạt trong không khí. Tiêu chuẩn này không yêu cầu mặt nạ phòng độc phải chịu được dầu; một tiêu chuẩn khác, P95, bổ sung thêm yêu cầu đó. Loại N95 là khẩu trang có mặt nạ lọc hạt phổ biến nhất. Đó là một ví dụ về khẩu trang có bộ lọc cơ học, cung cấp khả năng bảo vệ chống lại các hạt nhưng không chống lại khí hoặc hơi. Khẩu trang N95 được coi là tương đương về mặt chức năng với một số khẩu trang được quản lý theo các khu vực pháp lý ngoài Hoa Kỳ, chẳng hạn như khẩu trang FFP2 của Liên minh Châu Âu và khẩu trang KN95 của Trung Quốc. Tuy nhiên, các tiêu chí hơi khác được sử dụng để chứng nhận hiệu suất của chúng, chẳng hạn như hiệu quả của bộ lọc, tác nhân thử nghiệm và tốc độ dòng chảy, và độ giảm áp suất cho phép.
Giới thiệu chung về Trường đại học Quốc gia Singapore 1.1 2. Các chương trình giảng dạy1.6 7. Yêu cầu đầu vào cơ bản1.6.1 Đối với xét tuyển:1.6.2 Đối với thi tuyển:1.7 8. Trường đại học Quốc gia Singapore (NUS) là đại học công lập lâu đời nhất của Singapore. Trường được thành lập vào năm 1905 và là trường đại học đa ngành tốt nhất trong 3 viện Đại học công lập. Trường có 16 trường đại học thành viên với hơn 300 chuyên ngành Cử nhân, đào tạo liên thông Thạc sĩ và Tiến sĩ. Mỗi năm, trường đại học Quốc gia Singapore tuyển sinh hơn 5000 sinh viên, trong đó có 1500 sinh viên quốc tế. Hiện trường đang đứng vị trí 2 trong Top các trường đại học tốt nhất châu Á. Đối với các du học sinh, đây thực sự là một ngôi trường lý tưởng để du học Singapore. Trường đại học Quốc gia Singapore tọa lạc ở phía Tây Nam Singapore. Trường có 3 khuôn viên khác nhau là khuôn viên Kent Ridge, khuôn viên Bukit Timah và khuôn viên Outram. Cơ sở vật chất đại học Quốc gia Singapore được trang bị đầy đủ và tiện nghi cho các sinh viên theo học. Khu KTX Công viên Hoàng tử George là nơi ở của hơn 3000 sinh viên trong nước và quốc tế. Nó được biết đến là một khu ký túc khép kín, được thiết kế kiểu căn hộ. Nhờ đó, toàn bộ sinh viên cảm thấy thoải mái và riêng tư hơn nhiều. Khu ký túc này cũng có phòng hội thảo, phòng đọc, phòng tập thể dục thể thao. Không chỉ thế, ở đây còn có siêu thị mini, 4 cửa hàng thực phẩm và các dịch vụ khác, sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của sinh viên. Trường đại học Quốc gia Singapore bao gồm 7 thư viện. Tất cả phục vụ độc giả là các sinh viên, giảng viên, các nhà nghiên cứu. Hiện tại, thư viện đã có hơn 1,5 triệu đầu sách độc đáo thuộc nhiều lĩnh vực trong đời sống. Năm 2000, tạp chí Asia Week xếp NUS đứng thứ 5 trong số 77 Viện đại học lớn của Châu Á Thái Bình Dương. NUS đã vượt qua cả các trường hàng đầu ở Úc. Tại Mỹ, đại học Quốc gia Singapore được Viện kiểm tra giáo dục Carnegie xếp vào nhóm “Đại học hàng đầu”. Bởi lẽ trường có khả năng đào tạo từ Cử nhân lên Tiến sĩ và có thể nghiên cứu đa ngành. Theo Times Higher Education 2018, trường ở vị trí số 1 châu Á. Và xếp thứ 22 trong Top 100 trường đại học tốt nhất thế giới. Theo bảng xếp hạng của Times Higher Education, đại học quốc gia Singapore là trường duy nhất của châu Á lọt top 30. Tỷ lệ giảng viên / học sinh sinh viên: 1/10. Yêu cầu quan tâm tới từng sinh viên được đảm bảo. Trường là nơi đào tạo hàng loạt các cá nhân kiệt xuất của Singapore. Hay ông Trần Khánh Viêm – Bộ trưởng Quốc phòng(1995-2003). Trường đại học Quốc gia Singapore là trường đào tạo đa ngành. Trường có 17 ngành với hơn 300 chuyên ngành. Thêm vào đó, bạn có thể học nhiều ngành. Và lấy hai bằng cùng một lúc. Ngoài Singapore, các bạn còn có thể được học và thực tập tại Âu Mỹ và các nước tiên tiến khác. GPA ( kỳ 2 lớp 11 ) >= 8.0 ( trường sẽ xét điểm các môn: Anh – Toán – Hóa – Lý – Sinh, tùy ngành chọn. Trong đó, Anh và Toán >= 8.0 và 1 trong 3 môn KH >= 8.0 )
Đại học Quốc gia Singapore
Đại học Quốc gia Singapore (tiếng Anh: National University of Singapore, tiếng Mã Lai: Universiti Nasional Singapura, tiếng Tamil: சிங்கப்பூர் தேசிய பல்கலைக்கழகம், tiếng Hoa: 新加坡国立大学), thường được gọi tắt là NUS là viện đại học lâu đời và lớn nhất về số lượng sinh viên tại Singapore. Là viện đại học đầu tiên được thành lập ở Singapore vào năm 1905, theo dạng công lập tự chủ, và là trường đại học nghiên cứu tổng hợp với các chuyên ngành khác nhau. Năm 2021, NUS đứng thứ 11 trong bảng xếp hạng các trường đại học danh tiếng nhất trên thế giới và là đại học đứng đầu châu Á theo bảng xếp hạng đại học QS World University Ranking. NUS cũng xếp thứ 21 trong bảng Xếp hạng đại học thế giới Times Higher Education, và thứ 29 trên US News World Ranking trong năm 2021. NUS được đánh giá là một trong những trường đại học danh giá nhất tại Singapore và Châu Á nói chung, với tỉ lệ chấp thuận tương đối cạnh tranh, chất lượng giáo dục tiên phong tại khu vực, và chất lượng đầu ra uy tín. Khuôn viên chính của NUS tọa lạc ở khu vực tây nam của Singapore, gần với dốc Kent Ridge, bao phủ hơn 150 hecta.
Một trò chơi đánh cờ dành cho 2 người chơi có xuất xứ từ Trung Hoa. Là một biến thể của Cờ tướng, Cờ úp đòi hỏi người chơi phải tập trung cao độ và thậm chí còn cần phải có tư duy chiến lược cao hơn Cờ tướng. Để chơi được Cờ úp trước tiên bạn cần phải hiểu cả cách chơi Cờ tướng để biết được luật chơi, cách di chuyển trong bàn cờ cũng như nước đi của từng quân cờ. Khi chơi Cờ úp, ngoài trí tuệ và tư duy chiến lược, bạn còn cần thêm một chút may mắn nữa. Chỉ một nước đi hay phán đoán sai lầm, bạn cũng có thể đẩy quân của mình vào thế bị động và gặp nhiều bất lợi. Số lượng trên bàn cờ úp cũng giống như Bàn cờ tướng, gồm 32 quân cờ chia ra làm 2 người chơi mỗi người 16 quân cờ – các quân cờ được úp lại và sắp xếp một cách ngẫu nhiên trừ quân tướng. Khi sắp cờ các quân cờ của 2 bên được xáo trộn ngẫu nhiên, bị úp sau đó sắp xếp theo thế trận cờ úp thông thường. Cờ úp là trò chơi trí tuệ, qua đó thể hiện tài đấu trí, óc phán đoán của người chơi. So với Cờ tướng thì Cờ úp có nước đi phong phú và đa dạng hơn. Một khi đã hiểu Cờ úp là gì, bạn sẽ khó lòng từ chối chơi ngay một ván. Chơi Cờ úp online ngày nay không còn xa lạ với các game thủ mê cờ nữa, trò chơi này đang trở thành cơn sốt hấp dẫn hơn cờ tướng vì những bí ẩn sau ván cờ úp mở đó. Các webgame chơi bài cũng lần lượt đưa ra các sản phẩm về cờ úp với giao diện bắt mắt nhất. Sảnh Rồng hiện nay cũng đi theo xu hướng làm bao trái tim yêu cờ hướng đến đã cung cấp ra ngoài thị trường sản phẩm game Cờ úp để làm thỏa mãn đam mê của những game thủ. Trong luật chơi Cờ úp, nước đi đầu tiên của mỗi quân cờ sẽ đi theo đúng cách đi mà luật chơi Cờ tướng quy định tại vị trí mà quân đó đang đứng. Sau nước đầu, quân cờ sẽ được lật và từ đó trở đi phải đi theo đúng luật của quân cờ ngửa. Lưu ý: Khi ăn được quân cờ úp của đối phương, người chơi không được tiết lộ cho đối phương biết đó là quân gì. Tương tự như Cờ tướng, các quân cờ trong cờ úp về bản chất khi di chuyển sẽ không có gì sai khác. Cụ thể như sau. Quân Sĩ không bị giới hạn khu vực mà được di chuyển khắp bàn cờ theo đúng luật đi chéo 2 ô của nó. Quân Tốt được phép xuất phát từ cuối đường biên ngang bên phần sân nhà và đi thẳng, sau khi qua sông thì được phép đi ngang. Chiếu bí: Nếu một bên chiếu (bắt Tướng) và đối phương không còn khả năng đỡ thì bên chiếu Tướng thắng. Cầu hòa: Người chơi cầu hòa và đối phương đồng ý. Ván chơi được xử hòa. Những thuật ngữ được dùng trong cờ Úp 1. Ăn quân: Khi quân di chuyển đến một vị trí đang đứng của quân đối phương, quân đối phương bị ăn và bị lấy ra khỏi bàn cờ. Chống tướng: 2 tướng trên bàn không được nằm trên cùng một cột dọc mà không có quân cản ở giữa. Nước đi để 2 quân tướng ở vị trí chống tướng là không hợp lệ. Chiếu Tướng: Bất kỳ nước đi nào làm cho Tướng của đối phương bị ăn ở nước tiếp theo. Quân được bảo vệ: Một quân bị đuổi được gọi là bảo vệ nếu quân đuổi của đối phương nếu ăn nó có thể bị ăn lại ngay trong nước tiếp. Ngoại trừ trường hợp là Xe không bao giờ được gọi là được bảo vệ khi nó bị đuổi bởi Pháo hay Mã của quân đối phương. Ăn quân: Khi quân di chuyển đến một vị trí đang đứng của quân đối phương, quân đối phương bị ăn và bị lấy ra khỏi bàn cờ. Chống tướng: 2 tướng trên bàn không được nằm trên cùng một cột dọc mà không có quân cản ở giữa. Nước đi để 2 quân tướng ở vị trí chống tướng là không hợp lệ. Chiếu Tướng: Bất kỳ nước đi nào làm cho Tướng của đối phương bị ăn ở nước tiếp theo. Quân được bảo vệ: Một quân bị đuổi được gọi là bảo vệ nếu quân đuổi của đối phương nếu ăn nó có thể bị ăn lại ngay trong nước tiếp. Ngoại trừ trường hợp là Xe không bao giờ được gọi là được bảo vệ khi nó bị đuổi bởi Pháo hay Mã của quân đối phương.
Cờ úp
Cờ úp hay còn gọi là cờ Triều Châu (chữ Hán gọi là 揭棋) vì nó được phổ biến ra thế giới từ Hồng Kông, Trung Quốc, là một biến thể của cờ tướng. Cờ úp là một trò chơi biến thể của cờ tướng. Khởi đầu ván cờ, các quân cờ của mỗi bên (trừ quân Tướng) đều bị úp và xáo trộn ngẫu nhiên sau đó sắp theo thế trận cờ tướng thông thường. Thời đầu người ta chỉ úp ngược quân cờ để giấu đi ký hiệu của nó. Nước đi đầu tiên của cờ úp phải tuân theo luật đi của cờ tướng tại vị trí mà nó đang chiếm giữ. Sau nước đi đầu tiên, các quân cờ được lật ra và từ nước thứ hai (của quân đó) trở đi quân cờ sẽ đi theo luật của cờ tướng. Sĩ Tượng có thể xuất hiện ngoài cung và có thể vượt sông sang tấn công bên đất địch. Tốt có thể xuất hiện ở những hàng sâu bên dưới nhưng vẫn phải đi thẳng khi còn ở đất nhà và được đi ngang khi sang đất địch. Tuy cùng gốc nhưng do không có hệ thống phòng ngự giống cờ Tướng và các quân Sĩ, Tượng không còn giới hạn, các quân xuất hiện ngẫu nhiên nên cờ Úp có khai cuộc và các chiến thuật, kỹ thuật rất khác với cờ Tướng.
Sàn Giao dịch Chứng khoán New York (tiếng Anh: New York Stock Exchange – NYSE), biệt danh là “Big Board“, là một sàn giao dịch chứng khoán của Mỹ đóng tại số 11 phố Wall, Hạ Manhattan Thành phố New York . Đây là sàn giao dịch chứng khoán lớn nhất thế giới nếu tính về giá trị vốn hóa thị trường bằng đô la Mỹ và là sàn giao dịch chứng khoán lớn thứ nhì thế giới nếu tính theo số lượng công ty niêm yết. Số lượng cổ phiếu của sở này vượt quá số lượng cổ phiếu tại sàn NASDAQ trong thập niên 1990. Sàn giao dịch chứng khoán New York có một giá trị vốn hóa thị trường toàn cầu lên đến hơn 30.000 tỷ dollar Mỹ tính đến tháng 2 năm 2018. Giá trị giao dịch hàng ngày là khoảng 169 tỷ USD vào năm 2013. Phòng giao dịch NYSE tọa lạc ở số 11 Phố Wall và bao gồm 21 phòng được sử dụng để thuận tiện cho các hoạt động giao dịch. Phòng giao dịch thứ 5 từng được đặt ở số 30 phố Broad nhưng đã bị đóng cửa và tháng 2 năm 2007. Tòa nhà chính và tòa nhà nhà tại số 11 Phố Wall được liệt kê trong danh sách Di tích lịch sử quốc gia (National History Landmarks) vào năm 1978. NYSE Thuộc sở sữu của Intercontinental Exchange, một công ty cổ phần của Mỹ cũng đang được niêm yết trên trên sàn NYSE (NYSE: ICE). Trước đây nó là một phần của NYSE Euronext (NYX) được thành lập từ sự sáp nhập năm 2007 của NYSE Group với Euronext. Giao dịch trên sàn của Sở giao dịch chứng khoán New York luôn luôn được thực hiện theo kiểu giao tiếp mặt-đối-mặt. NYSE là nơi cung cấp cơ sở, vật chất kỹ thuật nhằm tạo điều kiện cho người mua và người bán giao dịch cổ phiếu của các công ty đã có đăng ký niêm yết trên thị trường chứng khoán. NYSE mở cửa giao dịch từ thứ hai đến thứ sáu hàng tuần, từ 9 giờ 30 đến 16 giờ 00, ngoại trừ các ngày nghỉ lễ như New Year’s Day, Martin Luther King, Jr. NYSE giao dịch theo hình thức đấu giá liên tục, nơi các nhà giao dịch có thể thực hiện các giao dịch chứng khoán thay mặt cho các nhà đầu tư. Họ sẽ tập hợp xung quanh bài đăng thích hợp nơi một nhà môi giới chuyên nghiệp, được thuê bởi một công ty thành viên NYSE (nghĩa là anh/cô ta không phải là nhân viên của Sở giao dịch chứng khoán New York), hoạt động như một nhà đấu giá trong môi trường thị trường đấu giá mở để mang người mua và người bán lại với nhau và để quản lý đấu giá thực tế. Đôi khi, họ làm (khoảng 10% thời gian) tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch bằng cách tự cam kết vốn của mình và như một vấn đề tất nhiên là phổ biến thông tin đến đám đông giúp mang người mua và người bán lại với nhau. Quá trình đấu giá chuyển sang tự động hóa vào năm 1995 thông qua việc sử dụng máy tính cầm tay không dây (HHC). Hệ thống cho phép các nhà giao dịch nhận và thực hiện các lệnh điện tử thông qua truyền dẫn không dây. Vào ngày 25 tháng 9 năm 1995, Michael Einersen, thành viên NYSE, người đã thiết kế và phát triển hệ thống này, đã thực hiện 1000 cổ phiếu của IBM thông qua HHC này, kết thúc 203 năm quá trình giao dịch bằng giấy và mở ra kỷ nguyên cho giao dịch tự động. Kể từ ngày 24 tháng 1 năm 2007, tất cả các cổ phiếu NYSE có thể được giao dịch thông qua thị trường lai điện tử của nó (ngoại trừ một nhóm nhỏ các cổ phiếu có giá rất cao). Bây giờ khách hàng có thể đặt lệnh để thực hiện điện tử ngay lập tức, hoặc đặt lệnh trực tuyến đến sàn để giao dịch trên thị trường đấu giá. Trong ba tháng đầu năm 2007, vượt quá 82% tổng khối lượng đơn hàng đã được chuyển đến sàn điện tử. NYSE hợp tác với các cơ quan quản lý của Hoa Kỳ như SEC và CFTC để phối hợp các biện pháp quản lý rủi ro trong môi trường giao dịch điện tử thông qua việc thực hiện các cơ chế như bộ ngắt mạch và điểm bổ sung thanh khoản. Cho đến năm 2005, quyền giao dịch trực tiếp cổ phiếu trên sàn giao dịch đã được trao cho chủ sở hữu của 1.366 “ghế”. Thuật ngữ này xuất phát từ thực tế cho đến những năm 1870, các thành viên NYSE ngồi trên ghế để giao dịch. Năm 1868, số lượng ghế đã được cố định ở mức 533 và con số này đã tăng lên nhiều lần trong những năm qua. Năm 1953, số lượng ghế được đặt ở mức 1.366. Những chiếc ghế này là một mặt hàng được tìm kiếm vì chúng có khả năng giao dịch trực tiếp chứng khoán trên NYSE và những người nắm giữ ghế thường được gọi là thành viên của NYSE. Gia đình Barnes là dòng dõi duy nhất được biết đến có năm thế hệ là thành viên của NYSE: Winthrop H. Barnes (được thừa nhận năm 1894), Richard W.P. Barnes (được thừa nhận năm 1926), Richard S. Barnes (được thừa nhận năm 1951), Robert H. Barnes (được thừa nhận năm 1972), Derek J. Barnes (được thừa nhận năm 2003). Giá ghế rất đa dạng trong những năm qua, thường giảm trong thời kỳ suy thoái và tăng trong thời kỳ mở rộng kinh tế. Ghế điều chỉnh lạm phát đắt nhất được bán vào năm 1929 với giá 625.000 đô la, mà ngày nay, sẽ là hơn sáu triệu đô la. Trong thời gian gần đây, số ghế đã được bán với giá cao tới 4 triệu đô la vào cuối những năm 1990 và thấp nhất là 1 triệu đô la vào năm 2001. Năm 2005, giá ghế đã tăng lên tới 3,25 triệu đô la khi trao đổi ký kết thỏa thuận sáp nhập với Archipelago và trở thành một tổ chức vì lợi nhuận, công ty giao dịch công khai. Chủ sở hữu ghế đã nhận được 500.000 đô la tiền mặt mỗi ghế và 77.000 cổ phiếu của tập đoàn mới thành lập. NYSE hiện bán giấy phép một năm để giao dịch trực tiếp trên sàn giao dịch. Giấy phép giao dịch sàn có sẵn với giá 40.000 đô la và giấy phép giao dịch trái phiếu có sẵn ít nhất là 1.000 đô la vào năm 2010 Không thể bán lại, nhưng có thể được chuyển nhượng trong khi thay đổi quyền sở hữu của một công ty có giấy phép giao dịch. Lợi tức trước thuế hàng năm trong 2 năm cuối:US 2 Triệu, năm gần nhất phải có lời.
Sàn Giao dịch Chứng khoán New York
Sàn Giao dịch Chứng khoán New York (tiếng Anh: New York Stock Exchange - NYSE), biệt danh là "Big Board", là một sàn giao dịch chứng khoán của Mỹ đóng tại số 11 phố Wall, Hạ Manhattan, Thành phố New York . Đây là sàn giao dịch chứng khoán lớn nhất thế giới nếu tính về giá trị vốn hóa thị trường bằng đô la Mỹ và là sàn giao dịch chứng khoán lớn thứ nhì thế giới nếu tính theo số lượng công ty niêm yết. Số lượng cổ phiếu của sở này vượt quá số lượng cổ phiếu tại sàn NASDAQ trong thập niên 1990. Sàn giao dịch chứng khoán New York có một giá trị vốn hóa thị trường toàn cầu lên đến hơn 30.000 tỷ dollar Mỹ tính đến tháng 2 năm 2018. Giá trị giao dịch hàng ngày là khoảng 169 tỷ USD vào năm 2013. Phòng giao dịch NYSE tọa lạc ở số 11 Phố Wall và bao gồm 21 phòng được sử dụng để thuận tiện cho các hoạt động giao dịch. Phòng giao dịch thứ 5 từng được đặt ở số 30 phố Broad nhưng đã bị đóng cửa và tháng 2 năm 2007. Tòa nhà chính và tòa nhà nhà tại số 11 Phố Wall được liệt kê trong danh sách Di tích lịch sử quốc gia (National History Landmarks) vào năm 1978.
”’Giải César”’ là một lớn của , còn được ví như giải Oscar của Pháp, được trao hàng năm cho các cống hiến xuất sắc trong ngành , thuộc nhiều thể loại khác nhau. Năm , lập ra (”Académie des arts et techniques du cinéma”) nhằm tưởng thưởng cho các thành tựu nghệ thuật đáng chú ý trong ngành điện ảnh, để có một giải của tương đương với của . Trước đó, từ năm tới , đã có (Giải thưởng lớn của điện ảnh Pháp), thưởng cho một phim duy nhất mỗi năm; và trên thực tế đã bị “Giải César” truất phế từ năm 1975. Trong thập niên 1950 cũng có giải ”Victoires du Cinéma français” (Chiến thắng của điện ảnh Pháp) được trao hàng năm vào tháng 6; nhưng giải này không được quần chúng hâm mộ và trước năm 1960 đã biến mất. Ban đầu, giải có 13 thể loại, ngày nay gồm 20 thể loại, với sự xuất hiện của “Giải cho các triển vọng xuất sắc” và “Giải cho phim tài liệu” từ năm 2007. Giải César cho tờ quảng cáo và cho nhà sản xuất đã không còn nữa. Các cuộc bỏ phiếu bầu chọn trong giải César diễn ra 2 vòng: vòng đầu bầu ra các phim hoặc người được đề cử (5 hoặc 3 tùy theo thể loại), vòng sau bầu chọn phim hay người thắng giải. ** ”” (năm 1981): phim hay nhất, đạo diễn xuất sắc nhất (), nam diễn viên chính xuất sắc nhất (), nữ diễn viên chính xuất sắc nhất (), kịch bản hay nhất ( & ), nhạc phim hay nhất (), biên tập (), âm thanh (), dàn cảnh () và quay phim (). Phim này được 12 đề cử. ** ”” (năm 2006): phim hay nhất, đạo diễn xuất sắc nhất (), nam diễn viên phụ xuất sắc nhất (), nữ diễn viên triển vọng (), nhạc phim hay nhất (), kịch bản chuyển thể hay nhất ( & ), quay phim () và biên tập (). Phim này được 10 đề cử. ** ”” (năm 1988): phim hay nhất, đạo diễn xuất sắc nhất (), kịch bản hay nhất (), quay phim (), âm thanh ( & ), dàn cảnh () và biên tập (). ** ”” (năm 1992): phim hay nhất, đạo diễn xuất sắc nhất (), nữ diễn viên phụ (), quay phim (), âm thanh (, , & ), nhạc phim hay nhất () và thiết kế trang phục (). ** ”” (năm 1998): phim hay nhất, kịch bản hay nhất ( & ), nam diễn viên chính (), nam diễn viên phụ (), nữ diễn viên phụ (), biên tập () và âm thanh ( & ). ** ”” (năm 2008): nữ diễn viên chính (), nhạc phim (, & ), quay phim (), dàn cảnh (), thiết kế trang phục (). Nữ diễn viên đoạt nhiều giải César nhất, là với 4 trong 7 đề cử. Nam diễn viên chính đoạt nhiều giải César nhất, là với 3 trong 8 đề cử. Lễ trao giải César đưọoc truyền hình trực tiếp trên các đài truyền hình công cộng (Antenne 2, rồi France 2) từ lần đầu tiên, năm 1976 tới 1993. Từ năm , đài chính thức phát sóng truyền hình trực tiếp buổi lễ này.
Giải César
Giải César là một giải thưởng điện ảnh quốc gia của Pháp. Giải thưởng có tên gọi cũ là Nuit des César và lần đầu tổ chức vào năm 1976. Các đề cử được lựa chọn bởi những thành viên của 12 hạng mục – những nhà làm phim chuyên nghiệp và được hỗ trợ bởi Bộ Văn hóa Pháp. Lễ trao giải lên sóng truyền hình trên toàn nước Pháp và được tổ chức tại Nhà hát Châtelet hàng năm vào tháng 2. Viện Hàn lâm Kỹ thuật và Nghệ thuật Điện ảnh – tổ chức ra đời vào năm 1975 là đơn vị đưa ra sáng kiến tổ chức giải. Giải César được coi là giải thưởng điện ảnh danh giá nhất tại Pháp, tương đương với giải Molière cho lĩnh vực kịch nghệ và Victoires de la Musique cho mảng âm nhạc. Trong điện ảnh, giải thưởng còn được ví như giải Oscar của Pháp. Nhà sáng lập của giải thưởng là Georges Cravenne – người đồng sáng lập giải Molière cho kịch nghệ. Tên của giải thưởng đặt theo tên của nhà điêu khắc César Baldaccini. Năm 1975, Georges Cravenne lập ra Hàn lâm viện Nghệ thuật và Kỹ thuật điện ảnh (Académie des arts et techniques du cinéma) nhằm tưởng thưởng cho các thành tựu nghệ thuật đáng chú ý trong ngành điện ảnh, để có một giải của Pháp tương đương với giải Oscar của Hoa Kỳ.
Động từ correr, “chạy” trong tiếng Tây Ban Nha, được chia trong một số trường hợp, từ vị là “corr-“. Màu đỏ thể hiện người nói (“tôi”), tím là người nghe (“bạn”) và xanh là người thứ ba (“anh/cô ta”).Một người thể hiện số ít, hai người thể hiện số nhiều.Bình minh là quá khứ, trưa là hiện tại và tối là tương lai. Trong ngôn ngữ học, sự chia động từ (tiếng Anh: conjugation /ˌkɒndʒʊˈɡeɪʃən/) là tạo nên những dạng biến đổi của một động từ bằng cách biến tố phần chính của từ (sự biến đổi này phải theo những quy tắc của ngữ pháp). Việc chia động từ có thể được ảnh hưởng bởi ngôi, số, giống, thì, thể, thức, trạng, và những thể loại ngữ pháp khác. Thường thì phần chính là gốc của từ. Tất cả những dạng khác nhau của cùng một động từ tạo nên một từ vị. Thuật ngữ conjugation chỉ dùng để chỉ được biến đổi của động từ (sự biến đổi của danh từ và tính từ được gọi là biến cách – declension). Các thứ tiếng thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu thường biến đổi động từ trong nhiều trường hợp ngữ pháp khác nhau, dù một số, như tiếng Anh, đã đơn giản hóa việc chia động từ ở mức độ lớn. Dưới là bản chia động từ to be (là, thì) ở thì hiện tại trong các ngôn ngữ như tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Iceland, tiếng Faroe, tiếng Thụy Điển, tiếng Latvia, tiếng Bulgaria, tiếng Serbia, tiếng Croatia, tiếng Ba Lan, tiếng Hindi, tiếng Latinh, tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Nga, tiếng Albania, tiếng Hy Lạp cổ đại và hiện đại. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
Chia động từ
Trong ngôn ngữ học, sự chia động từ (tiếng Anh: conjugation ) là tạo nên những dạng biến đổi của một động từ bằng cách biến tố phần chính của từ (sự biến đổi này phải theo những quy tắc của ngữ pháp). Việc chia động từ có thể được ảnh hưởng bởi ngôi, số, giống, thì, thể, thức, trạng, và những thể loại ngữ pháp khác. Thường thì phần chính là gốc của từ. Tất cả những dạng khác nhau của cùng một động từ tạo nên một từ vị. Thuật ngữ conjugation chỉ dùng để chỉ được biến đổi của động từ (sự biến đổi của danh từ và tính từ được gọi là biến cách - declension).
Hệ Thống Cà-Phê máy chất lượng cao tiên phong bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng. Nhượng quyền thương mại đang được coi là hình thức kinh doanh hiện đại và là xu thế kinh doanh trong tất cả các lĩnh vực, nghành nghề. Xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển, nhượng quyền thương mại (Franchise) đã không ngừng thay đổi, cải tiến, nâng cấp để trở thành một trong những hình thức kinh doanh hấp dẫn, tạo ra những gam màu rất sáng trong bức tranh chung của kinh tế thế giới. Tại Việt Nam, hình thức kinh doanh này rất phát triển, đặc biệt là trong ngành F&B. Vậy hãy cùng E-Coffee VietNam tìm hiểu: Nhượng quyền là gì? Tại sao hình thức kinh doanh này lại phát triển mạnh mẽ trong ngành F&B đến vậy?. Không khó để các bạn có thể tìm thấy định nghĩa của nhượng quyền. Theo Wikipedia, Nhượng quyền kinh doanh (nguyên văn từ tiếng Pháp: franchise, nghĩa là trung thực hay tự do) là việc cho phép một cá nhân hay tổ chức (gọi là bên nhận nhượng quyền) được kinh doanh hàng hoá hay dịch vụ theo hình thức và phương pháp kinh doanh đã được thử thách trong thực tế của bên nhượng quyền ở một điểm, tại một khu vực cụ thể nào đó trong một thời hạn nhất định để nhận một khoản phí hay một tỷ lệ phần trăm nào đó từ doanh thu hay lợi nhuận.1. Bên nhượng quyền (franchisor) phải đảm bảo cung cấp đúng, đủ và hỗ trợ thành viên gia nhập hệ thống đó; còn bên nhận nhượng quyền (franchisee) phải đảm bảo thực hiện theo đúng các khuôn mẫu, tiêu chuẩn nghiêm ngặt của hệ thống, từ cách trang trí đến nội dung hàng hóa và dịch vụ, giá cả được chuyển giao. Trong ngành F&B, nhượng quyền kinh doanh xuất hiện chủ yếu ở mô hình kinh doanh các nhà hàng, cửa hàng cà phê…Những “ông lớn” trong lĩnh vực F&B của thế giới cũng đã thâm nhập vào thị trường F&B Việt Nam với tấm “passport” là mô hình nhượng quyền kinh doanh. Thế nhưng cũng không ít các doanh nghiệp Việt Nam đã tự tin tự xây dựng thương hiệu với mong muốn phát triển các cửa hàng nhượng quyền trên toàn quốc, thậm chí là vươn tầm thế giới. Trong nhượng quyền tham gia quản lý Management Franchise, bên nhượng quyền hỗ trợ cung cấp người quản lý và điều hành doanh nghiệp ngoài việc chuyển nhượng sở hữu thương hiệu và mô hình, công thức kinh doanh. Bên mua nhượng quyền có trách nhiệm thanh toán cho bên nhượng quyền hai khoản phí cơ bản: phí nhượng quyền ban đầu (up-front fee) và phí hoạt động (royalty fee), thường được tính theo doanh số bán định kỳ. Equity Franchise có nghĩa là bên nhượng quyền tham gia vốn đầu tư với tỉ lệ nhỏ dưới dạng liên doanh để trực tiếp tham gia kiểm soát hệ thống. Bên nhượng quyền có thể tham gia vào Hội đồng quản trị của công ty mặc dù số vốn tham gia đóng góp chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ.
Nhượng quyền kinh doanh
Nhượng quyền kinh doanh (nguyên văn từ tiếng Pháp: franchise, nghĩa là trung thực hay tự do) là việc cho phép một cá nhân hay tổ chức (gọi là bên nhận nhượng quyền) được kinh doanh hàng hoá hay dịch vụ theo hình thức và phương pháp kinh doanh đã được thử thách trong thực tế của bên nhượng quyền ở một điểm, tại một khu vực cụ thể nào đó trong một thời hạn nhất định để nhận một khoản phí hay một tỷ lệ phần trăm nào đó từ doanh thu hay lợi nhuận. Bên nhượng quyền (franchisor) phải đảm bảo cung cấp đúng, đủ và hỗ trợ thành viên gia nhập hệ thống đó; còn bên nhận nhượng quyền (franchisee) phải đảm bảo thực hiện theo đúng các khuôn mẫu, tiêu chuẩn nghiêm ngặt của hệ thống, từ cách trang trí đến nội dung hàng hóa và dịch vụ, giá cả được chuyển giao. Các tài sản hữu hình và vô hình khác, như quảng cáo, tập huấn quốc tế và quốc nội cũng như các dịch vụ hỗ trợ khác nói chung được bên nhượng quyền thực hiện, và trên thực tế có thể được bên nhượng quyền yêu cầu, nói chung là đòi hỏi sổ sách kế toán phải được kiểm toán và buộc bên nhận nhượng quyền và/hoặc các đại lý phải chấp nhận việc kiểm tra định kỳ và đột xuất.
Đại học Ngoại ngữ Thượng Hải ( Shanghai International Studies University ) là trường đại học trọng điểm của thành phố Thượng Hải và quốc gia, được xây dựng theo “chương trình 211”. Đại học Ngoại ngữ Thượng Hải ( Shanghai International Studies University ) là trường đại học trọng điểm của thành phố Thượng Hải và quốc gia, được xây dựng theo “chương trình 211”. Trường được thành lập tháng 12 năm 1949, là học phủ ngoại ngữ đầu tiên từ khi thành lập chính quyền Trung Quốc “mới”. Đại học Ngoại ngữ Thượng Hải có hệ thống giáo dục từ cao đẳng, đại học, nghiên cứu sinh đến giáo dục cho người thành niên, giáo dục qua mạng, giáo dục cho lưu học sinh…với 28 chuyên ngành như tiếng Anh, Nga, Đức, Pháp, Tây Ban Nha, A-rập, Nhật, Ba-tư, Triều Tiên, Thái Lan, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Ý, Indonexia, Hán ngữ đối ngoại, Kinh tế và Thương mại quốc tế, Tài chính, Luật học, Chính trị quốc tế, Công nghệ giáo dục học, Báo chí, Phát thanh Truyền hình, Quảng cáo, Quản lý thông tin và hệ thống thông tin, Quản trị kinh doanh, Kế toán, Ngôn ngữ văn học Hán ngữ, Quan hệ công cộng; có 23 cơ sở đào tạo bậc thạc sĩ, 10 cơ sở đào tạo bậc tiến sĩ; một trạm lưu động sau tiến sĩ. Tính đến tháng 4 năm 2015, trường có 2 khu học xá , tổng diện tích của trường là 74,7 ha. Thư viện của trường là một trong những thư viện lớn của toàn quốc, có hơn 100 triệu đầu sách. Tính đến tháng 7 năm 2014, trường có khoảng 20 khoa với 38 chuyên ngành đại học. Số cán bộ công nhân viên chức là 1305 người, học sinh trong trường có tất cả 10.063 học sinh, trong đó sinh viên đại học là 5972 người, nghiên cứu sinh là 2827 người, lưu học sinh là 757 học sinh. Đội ngũ giáo viên của trường gồm hơn 300 giáo sư, phó giáo sư và đông đảo giảng viên trẻ có thành tích nổi trội trong các chuyên ngành. Tính đến tháng 4 năm 2014, trường đã thiết lập mối quan hệ hợp tác với gần 290 trường đến từ 55 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Từ năm 2010 – 2014, mỗi năm có gần 4000 lưu học sinh từ khắp thế giới đến Đại học Ngoại ngữ Thượng Hải học tập ngắn học. Ngoài ra, trường cũng thiết lập 7 học viện Khổng tử ở một số nước trên thế giới nhằm thúc đẩy văn hóa truyền thống Trung Quốc đến thế giới. Bộ phận tư vấn sẽ liên hệ sớm với em để giúp em tìm hiểu học bồng ĐH Thượng Hải em nhé. Mong em để ý điện thoại giùm ad ạ. Trường hợp của bạn đi được bạn nhé. Không biết bạn đã biết tiếng trung chưa? Bạn muốn xin học theo diện đại học hay thạc sĩ ạ? Bộ phận tư vấn đã nhận được contact của bạn rồi Hằng nhé. Mong bạn để ý điện thoại giùm ad ạ. Cảm ơn bạn đã tin tưởng tư vấn du học Vinahure!. Về câu hỏi của bạn ad xin trả lời là được bạn nhé. Điều kiện cần thiết đó là bảng điểm học tập của bạn ở THPT bạn nhé. Nếu có bất cứ thắc mắc gì hãy liên hệ với Vinahure mọi người sẵn sàng giúp đỡ bạn Le Anh nha. Về câu hỏi của bạn ad xin trả lời là được bạn nhé. Điều kiện cần thiết đó là bảng điểm học tập của bạn ở THPT bạn nhé. Nếu có bất cứ thắc mắc gì hãy liên hệ với Vinahure mọi người sẵn sàng giúp đỡ bạn Le Anh nha. Về câu hỏi của bạn ad xin trả lời là được bạn nhé. Điều kiện cần thiết đó là bảng điểm học tập của bạn ở THPT bạn nhé. Nếu có bất cứ thắc mắc gì hãy liên hệ với Vinahure mọi người sẵn sàng giúp đỡ bạn Le Anh nha. Trường đó hiện không có học bổng em nhé, nếu em vẫn muốn đi trường đó thì phải tự túc, bên trung tâm sẽ hỗ trợ em làm hồ sơ. Để tiện trao đổi, xin hỏi em sinh năm bao nhiêu, đã tốt nghiệp gì rồi và muốn xin học bổng hệ gì. Học tiếng có chương trình học bổng k ạ? Cho em xin từ vấn về chương trình du học đại học ngoại ngữ thượng hải mới ạ. Sđt: 0366195634. Chào em, chị đã add zalo của em nhé, có gì thắc mắc em liên hệ với chị qua zalo. Học tiếng có chương trình học bổng k ạ? Cho em xin từ vấn về chương trình du học đại học ngoại ngữ thượng hải mới ạ. Sđt: 0366195634. Chào em, chị đã add zalo của em nhé, có gì thắc mắc em liên hệ với chị qua zalo. Hi trung tâm, e muốn đi du học 1 năm tiếng thì như thế nào ạ, e đã có chứng chỉ HSK 4. - VINAHURE chúc mừng bạn Trần Thị Thúy Duy đã nhận được visa trường đại học Bắc Kinh. - Vinahure chúc mừng bạn Lê Minh Định đã nhận được visa du học trường Đại học Thượng Hải. - VINAHURE chúc mừng bạn Hoàng Mạnh Long đã nhận được visa du học trường Đại học Trùng Khánh.
Đại học Ngoại ngữ Thượng Hải
Đại học Ngoại ngữ Thượng Hải (tiếng Anh: Shanghai International Studies University, SISU; tiếng Trung: 上海外国语大学) là trường đại học trọng điểm của thành phố Thượng Hải và quốc gia, được xây dựng theo "chương trình 211". Trường được thành lập tháng 12 năm 1949, là học phủ ngoại ngữ đầu tiên từ khi thành lập chính quyền Trung Quốc "mới". Đại học Ngoại ngữ Thượng Hải có hệ thống giáo dục từ cao đẳng, đại học, nghiên cứu sinh đến giáo dục cho người thành niên, giáo dục qua mạng, giáo dục cho lưu học sinh…với 28 chuyên ngành như tiếng Anh, Nga, Đức, Pháp, Tây Ban Nha, A-rập, Nhật, Ba-tư, Triều Tiên, Thái Lan, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Ý, Indonexia, Hán ngữ đối ngoại, Kinh tế và Thương mại quốc tế, Tài chính, Luật học, Chính trị quốc tế, Công nghệ giáo dục học, Báo chí, Phát thanh Truyền hình, Quảng cáo, Quản lý thông tin và hệ thống thông tin, Quản trị kinh doanh, Kế toán, Ngôn ngữ văn học Hán ngữ, Quan hệ công cộng; có 23 cơ sở đào tạo bậc thạc sĩ, 10 cơ sở đào tạo bậc tiến sĩ; một trạm lưu động sau tiến sĩ.
Sau khi trải qua cuộc vượt cạn đầy vất cả, thì không phải người mẹ đã được an toàn. Hậu sản là một việc đáng lo ngại với các chị em vì không cẩn thận sẽ để lại biến chứng khó lường.Vậy hậu sản là gì? Các bệnh hậu sản bạn cần lưu ý sẽ được giải đáp trong bài viết này. Bệnh hậu sản là những bệnh xuất hiện trong thời kì hậu sản ở phụ nữ. Phụ nữ nào sau khi sinh đều trải qua giai đoạn hậu sản. Nếu cơ thể không được chăm sóc kỹ lưỡng sẽ rất có thể mắc phải các bệnh hậu sản. người ta thường nghĩ rằng 3 tháng sau sinh là thời kỳ hậu sản. Bầy giờ, Y học hiện đại thì giai đoạn 6 tuần (42 ngày) kể từ ngày sinh là thời kỳ hậu sản. Vì trong thời kỳ mang thai, các cơ quan sinh dục của người phụ nữ phát triển để thích nghi với việc có em bé và 6 tuần sau sinh là thời gian các cơ thể hồi phục như thời trước khi có con. Đây là cơ hội mà chứng bệnh này người phụ nữ dễ mắc phải nhất. Cảm thấy suy sụp tinh thần, cáu gắt, khó chịu với mọi thứ diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Trước và trong khi sinh, mẹ không được chăm sóc đặc biệt, chăm sóc không đúng hoặc chịu nhiều vất vả về mặt tinh thần, thể chất. Do mẹ k ăn uống đầy đủ, ăn khó vì sau sinh mẹ cần cung cấp chất dinh dưỡng gấp 2 đến 3 lần bình thường. Quan hệ sớm cũng có thể khiến người phụ nữ mất sức, ảnh hưởng tới sức khoẻ và là nguyên nhân gây hậu sản. Bác sĩ khuyên bạn không nên quan hệ trong 2 tháng sau sinh. Con đến bên mình là một niềm hạnh phúc lớn nhưng sinh con xong cũng gây ra nhiều áp lực về thể chất lẫn tâm hồn. Trong quá trình sinh nở không được thuận lợi, hoặc vệ sinh không đúng cách dẫn đến các bệnh phụ khoa, ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như sinh hoạt đời sống hàng ngày. Trong thời kỳ hậu sản thường gặp các bệnh dưới đây:. Khi tử cung vẫn còn máu cục, sản dịch… nên tử cung có cơn co bóp mạnh để đẩy các chất dư thừa ra ngoài nên xuất hiện những cơn đau tử cung. Những người sinh con đầu lòng thường ít gặp vì tử cung còn tốt, thường hay gặp ở những người đã đẻ nhiề con, tử cung họ yếu dần, cần phải co bóp nhiều và mạnh hơn để đẩy sản dịch ra ngoài. Băng huyết sau sinh là tai biến sản khoa, là trường hợp hay gặp nhất và là một nguyên nhân chính gây tử vong cho sản phụ. Băng huyết là hiện tượng chảy máu nhiều khi sinh. Mất máu nhiều, khiến sản phụ có thể bị choáng, mạch đập nhanh, hạ huyết áp, chân tay lạnh, vã mồ hôi… Tùy từng nguyên nhân mà có thêm những triệu chứng đặc trưng khác nên cần có những biện pháp can thiệp kip thời. Nhiễm khuẩn hậu sản là xảy ra ở sản phụ sau sinh mà bắt đầu là từ đường sinh dục. Cơ thể sản phụ có thể lây bệnh từ đồ dùng, dụng cụ đỡ đẻ, nguồn nước, mọi người xung quanh, …. Bổ sung thực phẩm chức năng, các bài thuốc Đông y bồi bổ sức khoẻ. Phục hồi sức khỏe sau khi sinh là 1 vấn đề vô cùng quan trọng. Việc mẹ phục hồi sức khỏe, tinh thần thoải mái thì càng giúp cho việc hạn chế tối đa các bệnh hâu sản xuất hiện. Với những tổng hợp về khái niêm hậu sản là gì, nguyên nhân, triệu chứng, cách khắc phục, phòng ngừa sẽ phần nào giúp cho mẹ và người thân có thêm những kiến thức hữu ich. Những thông tin của Hello Bà Bầu chỉ mang tính chất tổng hợp tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.
Giai đoạn hậu sản
Giai đoạn hậu sản (hoặc thời kỳ hậu sản hay giai đoạn sau khi sinh) bắt đầu ngay sau khi người mẹ sinh con, bao gồm cả mức độ hormone và kích thước tử cung, trở về trạng thái không mang thai. Các thuật ngữ thời kỳ hậu sản, hoặc giai đoạn hậu sản ngay lập tức thường được sử dụng để ám chỉ thời gian 6 tuần đầu sau khi sinh. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) mô tả giai đoạn sau khi sinh là giai đoạn quan trọng nhất và bị bỏ qua nhiều nhất trong cuộc đời của các bà mẹ và trẻ sơ sinh; hầu hết các trường hợp tử vong mẹ và/hoặc trẻ sơ sinh xảy ra trong giai đoạn hậu sản. Trong các tài liệu khoa học, thuật ngữ này thường được viết tắt là Px, trong đó x là một số; ví dụ: "ngày P5" phải được đọc là "ngày thứ năm sau khi sinh". Điều này không được nhầm lẫn với danh pháp y khoa sử dụng G P để nói về về số lượng và số trẻ em của thai kỳ (sức chịu đựng và tính chẵn lẻ - gravidity and parity).
Máy cắt laser tạo ra các mẫu và thiết kế bằng cách cắt vật liệu. Một chùm tia laser mạnh làm tan chảy, đốt cháy hoặc làm bay hơi vật liệu. Về cơ bản, cắt laser là một quá trình chế tạo sử dụng chùm tia laser hẹp, hội tụ, để cắt và khắc các vật liệu thành các mẫu được thiết kế, hoa văn và hình dạng tùy chỉnh. Quá trình chế tạo dựa trên nhiệt này phù hợp để sử dụng cắt các vật liệu như gỗ, thủy tinh, giấy, kim loại, nhựa và đá quý. Nó cũng có khả năng sản xuất các bộ phận phức tạp mà không cần một công cụ chuyên biệt nào cả. Ngày nay, cắt laser có trong các ngành công nghiệp như điện tử, y học, hàng không vũ trụ, ô tô. Một trong những ứng dụng phổ biến nhất là cắt kim loại – như là vonfram, thép, nhôm, đồng thau hoặc niken – bởi vì laser mang lại vết cắt sạch và hoàn thiện bề mặt mịn. Laser cũng được sử dụng để cắt gốm, silicon và các phi kim loại khác. Một trong những ứng dụng hấp dẫn nhất của công nghệ cắt laser là trong lĩnh vực phẫu thuật, nơi các chùm tia laser hiện đang thay thế dao mổ và đang được sử dụng để làm cắt mô. Điều này đặc biệt hữu ích trong các ca phẫu thuật cần có độ chính xác cao như phẫu thuật mắt. Một chùm tia cắt laser thường có đường kính trong khoảng 0,1 đến 0,3 mm và công suất trong khoảng từ 1 đến 3 kW. Công suất này cần được điều chỉnh tùy thuộc vào vật liệu được cắt và độ dày của nó. Ví dụ, để cắt các vật liệu phản chiếu như nhôm, bạn có thể cần công suất laser lên tới 6 kW. Cắt laser không mấy lý tưởng cho các kim loại như nhôm và hợp kim đồng vì chúng có tính chất dẫn nhiệt và phản xạ ánh sáng, nghĩa là chúng cần một loại laser mạnh hơn laser cắt các kim loại thông thường. Bộ cộng hưởng Laser: Chùm tia laser phát ra từ bộ cộng hưởng laser, một ống thủy tinh kín khí với hai gương đối diện nhau. Ống chứa đầy C02 và các loại khí khác như hydro, nitơ và heli. Sự pha trộn của các khí này được kích hoạt bởi điốt hoặc phóng điện phát ra năng lượng dưới dạng ánh sáng. Đầu cắt: Ánh sáng chiếu theo nhiều hướng khác nhau với sự hỗ trợ của một số gương được đặt ở vị trí cần thiết để đảm bảo nó chạm tới đầu cắt laser. Khi chùm tia tới đầu cắt, nó đi qua một thấu kính cong và được phóng to và tập trung vào một điểm duy nhất. Chính trong đầu cắt này, tia laser được biến thành một chùm mỏng, hội tụ, có thể cắt hoặc khắc. Các chùm tia laser hội tụ đi qua một vòi trước khi chạm vào tấm, với khí nén như nitơ hoặc oxy cũng chảy qua vòi này. Ví dụ, nếu bạn đang cắt nhôm hoặc thép không gỉ, chùm tia laser sẽ làm nóng chảy vật liệu trước khi nitơ có áp suất cao thổi kim loại nóng chảy ra khỏi rãnh. Thông thường, đầu cắt được gắn vào một hệ thống cơ học được điều khiển bởi dây xích hoặc dây đai, cho phép nó thực hiện các chuyển động chính xác trong một khu vực hạn chế. Tiêu điểm của ống kính cần phải nằm trên bề mặt vật liệu được cắt để tia laser để thực hiện cắt. Khoảng cách vòi phun: Tại mọi thời điểm, khoảng cách chính xác được duy trì giữa tấm và vòi phun. Không gian này là rất quan trọng vì nó xác định tiêu điểm. Thông thường, chất lượng của vết cắt sẽ bị ảnh hưởng bằng cách thay đổi tiêu điểm. Một số biến khác có thể ảnh hưởng đến chất lượng cắt bao gồm cường độ và tốc độ chùm tia. Ngọn lửa / phản ứng bốc cháy: Khí hỗ trợ là oxy, được thổi vào rãnh ở áp suất cao (lên đến sáu bar). Các vật liệu nóng (kim loại, trong trường hợp này) phản ứng với oxy và bắt đầu đốt cháy và oxy hóa. Phản ứng này sản xuất nhiều năng lượng hơn và hỗ trợ chùm tia laser. Hợp nhất cắt / nóng chảy và thổi: Một loại khí trơ (thường là nitơ) thổi vật liệu nóng chảy ra khỏi rãnh, làm giảm đáng kể năng lượng cần thiết. Vật liệu đầu tiên được làm nóng lên cho đến khi nó đạt đến điểm nóng chảy sau đó khí thổi ra. Cắt từ xa: Một chùm tia laser cường độ cao làm bay hơi một phần (loại bỏ) vật liệu, cho phép cắt các tấm mỏng mà không cần khí hỗ trợ. Nói chung, một máy cắt laser nên có thêm khả năng đánh dấu và khắc. Trên thực tế, sự khác biệt duy nhất giữa cắt, khắc và đánh dấu là mức độ sâu của tia laser và cách nó thay đổi diện mạo tổng thể của vật liệu. Trong cắt laser, nhiệt từ laser sẽ cắt toàn bộ vật liệu. Nhưng đó không phải là trường hợp với dấu laser và khắc laser. Khắc bằng laser làm mất màu bề mặt của vật liệu, trong khi khắc laser loại bỏ một phần của vật liệu. Sự khác biệt chính giữa các phương pháp khắc là độ sâu mà tia laser xuyên qua. Đánh dấu bằng laser: Trong việc đánh dấu bằng laser, tia laser không đi xuyên suốt vật liệu mà thay vào đó chỉ làm thay đổi tính chất hoặc sự bề mặt của vật liệu. Laser tạo ra các dấu có độ tương phản cao bởi vì nhiệt của laser phân phối lại carbon trong vật liệu được đó. Khắc laser: Trong khắc laser, chùm tia sẽ loại bỏ bề mặt vật liệu để lại một hốc lộ ra thiết kế sẵn. Tia laser làm nóng vật liệu đến nhiệt độ rất cao, khiến nó bốc hơi và tạo ra lỗ trống. Sự khác biệt trong máy cắt laser đến từ các loại laser trong máy và loại laser xác định loại độ dày vật liệu mà laser có thể cắt được. Thông thường, laser công suất cao sẽ rất lý tưởng cho các ứng dụng chuyên nghiệp, nơi cần cắt các phần lớn bằng nhựa hoặc kim loại. Mặt khác, laser công suất thấp có hiệu quả đối với các vật liệu mỏng hơn như nhựa, thẻ kho, giấy và gỗ. Việc cắt được thực hiện bằng cách sử dụng CO2 kích thích điện. Laser CO2 được sản xuất trong một hỗn hợp bao gồm các loại khí khác như nitơ và helium. Laser C02 phát ra bước sóng 10,6 mm và laser CO2 có đủ năng lượng để xuyên qua vật liệu dày hơn so với laser sợi quang có cùng công suất. Những laser này cũng cho hoàn thiện mượt hơn khi được sử dụng để cắt các vật liệu dày. Laser CO2 là loại máy cắt laser phổ biến nhất vì chúng hiệu quả, rẻ tiền và có thể cắt và raster một số vật liệu. Chúng có thể cắt xuyên qua các vật liệu dày hơn và mạnh hơn vì chúng có bước sóng nhỏ hơn so với laser C02, có nghĩa là chúng có cường độ cao hơn. Nhưng vì chúng có công suất cao, các bộ phận của chúng bị hao mòn nhanh chóng. Cắt được thực hiện bằng cách sử dụng sợi thủy tinh. Các tia laser có nguồn gốc từ một loại “hạt Laser” trước khi được khuếch đại thông qua các sợi đặc biệt. Laser sợi quang cùng loại với laser đĩa và nd: YAG, và gọi là laser rắn trạng thái Hồi. So với laser khí, laser sợi quang không có bộ phận chuyển động, tiết kiệm năng lượng gấp hai đến ba lần và có khả năng cắt vật liệu phản chiếu mà không sợ phản xạ ngược. Những laser này có thể làm việc với cả vật liệu kim loại và phi kim loại. Mặc dù hơi giống với laser neodymium, laser sợi quang đòi hỏi ít bảo trì hơn. Do đó, thay thế rẻ hơn và lâu dài hơn so với laser tinh thể. Trong số ba, laser C02 được sử dụng phổ biến nhất, bởi cả các nhà sản xuất và chuyên gia. Chúng được sử dụng chủ yếu để cắt các vật liệu phi kim loại, và mặc dù chúng đã cải tiến để cắt xuyên qua kim loại, chúng vẫn phù hợp hơn với các vật liệu phi kim loại và hữu cơ (gỗ, da, cao su) và khắc vật liệu cứng. Kích thước: Kích thước bàn đặt giới hạn về kích thước của vật liệu bạn có thể làm việc. Một chiếc bàn đặt lớn sẽ cho phép bạn cắt nhiều mảnh cùng một lúc trong khi một chiếc bàn đặt nhỏ hơn sẽ chỉ cho phép bạn làm việc trên một vật liệu cùng một lúc. Công suất: Công suất càng nhiều, máy của bạn càng mạnh. Và hãy nhớ rằng, nhiều sức mạnh hơn có nghĩa là bạn sẽ cắt nhanh hơn và đáng tin cậy hơn. Vật liệu tương thích: Bạn có thể chọn bất kỳ vật liệu nào và bắt đầu cắt nó bằng tia laser. Ngoài ra, lưu ý rằng một số vật liệu bắt lửa trong khi những vật liệu khác tạo ra khói độc. Thiết kế phải đáp ứng các thông số kỹ thuật của máy cắt. Các tập tin hoàn thành phải đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật của máy. Nếu không, cố gắng chuyển đổi một tập tin có thể dẫn đến mất chi tiết hoặc không hoàn hảo. Biết kích thước cắt laser tối đa và tối thiểu và vị trí đặt chính xác. Kích thước của thiết kế của bạn bị giới hạn bởi kích thước của bàn cắt. Nếu bảng là 1100 x 1100 mm, bạn không thể thiết kế lớn hơn kích thước đó đó. Chi tiết không thể nhỏ hơn độ dày vật liệu. Tránh các chi tiết nhỏ hơn độ dày của vật liệu. Nếu bạn muốn tạo lỗ thì đường kính của nó phải lớn hơn độ dày của vật liệu. Duy trì khoảng cách tối thiểu giữa các dòng. Đối với độ dày vật liệu cho sẵn, khoảng cách tối thiểu phải được duy trì. Theo nguyên tắc chung, hãy để khoảng cách giữa các phần bằng 2 lần độ dày vật liệu. Định luật vật lý luôn được áp dụng. Khi bạn cắt ra một mảnh kim loại, nó sẽ rơi ra trừ khi có một mảnh kết nối trong thiết kế. Thiết kế thêm phần cố định chi tiết. Thiết kế của bạn sẽ sụp đổ hoặc dễ vỡ khi bạn có nhiều đường cắt nhau tại cùng một điểm. Kiểm tra chặt chẽ các chi tiết. Phóng to chi tiết và đảm bảo các nút giao đáp ứng khi cần thiết. Cẩn thận những chỗ uốn cong. Những chỗ uốn cong sẽ khiến đường cắt laser không đi theo đúng bản vẽ. Sau khi thiết kế đã sẵn sàng và đã được tải lên máy, đầu cắt laser sẽ di chuyển qua tấm kim loại theo hướng dẫn của thiết kế để cắt phần theo ý muốn. Các tia laser đi theo tệp vectơ được thiết kế để cắt vật liệu cho đến khi hình dạng / mẫu được hoàn thành.
Cắt bằng laser
Cắt bằng laser là kĩ thuật dùng laser để cắt vật liệu, và dùng trong công nghiệp sản xuất. Cắt bằng laser là chiếu laser có cường độ sáng cao vào vật liệu cần cắt. Vật liệu có thể bị chảy ra, cháy hay bốc hơi để lại cạnh cắt với chất lượng bề mặt tốt. Máy cắt laser công nghiệp dùng để cắt vật liệu tấm phẳng cũng như cấu trúc hay ống. Một vài laser 6-trục có thể thực hiện cắt lên phần đã được tạo hình trước bằng cách đúc hay chế tạo cơ khí. Cắt bằng laser quang học di động thường dựa trên bàn trục X và Y cố định nơi mà tia laser di chuyển theo cả hai hướng nằm ngang. Kiểu cắt này phổ biến với giá rẻ vì bàn cắt cố định. Một số máy cắt theo trục Y (bàn trục có khả năng di chuyển theo chiều Y). Các tia laser xung cung cấp cường độ sáng cao trong khoảng thời gian ngắn, nên rất hiệu quả trong một số quá trình cắt laser.
Được kỹ sư, kiến trúc sư người Thụy Điển Johan Axel Eriksson phát minh ra vào giữa những năm 1920 để phục vụ nhu cầu xây các đồn bốt quân sự. Đây là vật liệu xây dựng nhẹ, đúc sẵn tại nhà máy hoặc sản xuất theo dây truyền. Sản phẩm được dùng làm các cấu kiện, có khả năng cách âm, cách nhiệt, chịu lửa.Các sản phẩm bao gồm gạch AAC, Panel tường, Panel sàn, Panel mái chống thấm, dầm lanh tô. Tại Việt Nam bắt đầu sử dụng sản phẩm bê tông khí chưng áp từ những năm 2008 đến nay. Sản phẩm bê tông khí chưng áp mang đến khá nhiều ưu điểm cho công trình xây dựng nên đã tạo được làn sóng sử dụng rộng rãi từ nhà dân dụng, nhà cao tầng , nhà công nghiệp. Gạch bê tông khí chưng áp được sản xuất từ các loại nguyên liệu như xi măng, vôi, cát vàng (có thể thay thế cát bằng các khoáng silic hoạt tính như xỉ than dưới dạng nghiền mịn), nước và phụ gia tạo khí. Hỗn hợp vật liệu được trộn đều, tạo hình bằng khuôn thép. Trong thời gian bắt đầu ninh kết phản ứng sinh khí tạo ra các lỗ rỗng kín là cho hỗn hợp bê tông trương nở, nhờ đó khối bê tông có khối lượng thể tích thấp. Sau khi đóng rắn sơ bộ sản phẩm được tháo khuôn, dùng dây cắt thành tứng Block theo kích thước yêu cầu sau đó được đưa vào thiết bị chưng áp (Autoclaved). Tại đây, sản phẩm phát triển cường độ trong môi trường hơi nước bão hòa ở nhiệt độ và áp suất cao. Với bán chất là một loại bê tông, nhờ quá trình chưng áp bằng hơi nước bão hòa trong điều kiện áp suất cao, Bê tông khí chưng áp có tính đồng nhất cao và cấu trúc tinh thể bền vững chắc. Đây là vật liệu có cường độ chịu lực cao nhất trong các loại vật liệu dạng xốp và ổn định hơn gạch bê tông thông thường. Nhờ cấu trúc bọt khí, gạch có cách tản âm tự nhiên cùng khả năng hấp thụ âm thanh vượt trội. Vì vậy, gạch bê tông khí chưng áp rất phù hợp cho các công trình đòi hỏi tiêu chuẩn cách âm cao như khách sạn, văn phòng, trường học, bệnh viện…. Gạch bê tông khí chưng áp AAC, ALC là vật liệu vô cơ không bắt cháy, có khả năng chống cháy lên tới 4 giờ, được chứng nhận theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt bởi những phòng thí nghiệm uy tín tại Australia, Singapore và Việt Nam. Với cấu tạo bọt khí, trọng lượng gạch bê tông khí chưng áp nhẹ hơn đến 1/3 so với gạch đất nung và chỉ bằng 1/4 bê tông thông thường. Đây là đặc tính nổi trội giúp tiết kiệm kết cấu khung, móng cọc cũng như giúp dễ dàng vận chuyển và thi công tại công trường. Cũng nhờ cấu tạo nhiều bọt khí, gạch bê tông khí chưng áp AAC, ALC có hệ số dẫn nhiệt rất thấp và khả năng cách nhiệt tuyệt vời, tạo ra hiệu ứng Đông Ấm Hạ Mát. Điều này giúp tiết kiệm rất nhiều năng lượng điện tiêu thụ cho công trình khi đưa vào sử dụng. Gạch bê tông khí chưng áp AAC, ALC rất dễ dàng thao tác tại công trường: cắt bằng cưa gỗ, mài phẳng, tạo rãnh kỹ thuật, khoan và bắt tắc kê treo vật nặng. Hơn nữa, khả năng linh động của gạch bê tông khí chưng áp AAC, ALC giúp việc thi công trở nên nhẹ nhàng và đơn giản hơn rất nhiều. So với các vật liệu khác, Gạch bê tông khí chưng áp AAC, ALC có kích thước lớn và sai số vật liệu rất nhỏ (chỉ ± 1∼2mm) giúp việc xây dựng tường có độ chính xác cao, giảm lượng vữa sử dụng và thời gian thi công để tô trát tạo mặt phẳng. Với trọng lượng cực nhẹ cùng mạch vữa mỏng, hệ tường Gạch bê tông khí chưng áp AAC, ALC có thể giúp công trình tiết kiệm nhiều chiều dài cọc móng, khối lượng thép, vữa trong công trình. Qua đó có thể giúp tiết kiệm 5-10% tổng chi phí đầu tư xây thô cho toàn bộ tòa nhà. Gạch bê tông khí chưng áp AAC, ALC là loại vật liệu xanh thân thiện môi trường và con người, kể từ nguồn nguyên liệu cho đến quy trình sản xuất. Gạch bê tông khí chưng áp AAC, ALC đã đạt được nhiều chứng chỉ xanh uy tín trong nước và quốc tế, được khuyến khích sử dụng bởi Hội Đồng Công Trình Xanh Việt Nam. Việc thi công lắp dựng tấm panel ALC không khó. Tuy nhiên hiện nay nhiều người vẫn chưa biết làm, chính vì vậy chúng tôi đưa ra các bước hướng dẫn thi công của nhà sản xuất. Keo dán gạch đá Mater dùng để lát các loại gạch thông thường với mọi kích thước như gạch ceramic, gạch mosaic, gạch gốm nung , đá tự nhiên và nhân tạo ở khu vực trong và ngoài nhà. Tấm Cemboard hay còn gọi là tấm Cementboard là một loại vật liệu hết sức hữu ích cho các công trình xây dựng hiện nay. Vậy tấm Cemboard là gì và những giá trị mà nó đem lại như thế nào thông qua bài viết sau
Bê tông khí chưng áp
Bê tông khí chưng áp (tiếng Anh: Autoclaved aerated concrete hay Autoclaved cellular concrete (AAC) - hoặc Autoclaved lightweight concrete (ALC)) được kĩ sư và kiến trúc sư người Thụy Điển Johan Axel Eriksson phát minh ra vào giữa những năm 1920 để phục vụ nhu cầu xây các đồn bốt trong quân sự. Đây là vật liệu xây dựng nhẹ, được đúc sẵn hoặc sản xuất theo dây chuyền. Nó được dùng làm các cấu kiện, có khả năng cách âm, cách nhiệt, chịu lửa,. Các sản phẩm từ AAC bao gồm gạch bê tông, panel tường, panel sàn, panel mái chống thấm, dầm lanh tô. Bê tông khí chưng áp được sử dụng nhiều trong vật liệu bê tông cách nhiệt cho cả kết cấu trong nhà và ngoài nhà. Bên cạnh khả năng cách nhiệt tốt của AAC, nó còn có ưu điểm nữa là chế tạo nhanh, dễ lắp đặt cho vật liệu, dễ dàng cắt, đục, khoan.
Cáp đồng trục là loại cáp truyền dẫn tín hiệu điện với một lõi dẫn điện được bao bọc lại bởi một lớp điện môi không có tính dẫn điện, xung quanh sợi cáp quấn thêm một lớp lưới bện kim loại và ngoài cùng lại có một lớp vỏ bọc cách điện. Từ “ đồng trục” xuất phát từ việc tất cả các lớp cáp từ lõi đến lớp bên kim loại ngoài cáp đều có chung một trục hình học, chạy dọc thân cáp. Cáp đồng trục được nhà toán học và cũng là kỹ sư người Anh tên là Oliver Heaviside phát minh ra và được cấp bằng sáng chế năm 1880. Ưu điểm của cáp đồng trục là tín hiệu số truyền trên cáp đồng trục chỉ tồn tại bên trong lõi cáp, mà lõi cáp lại được bao bọc bởi lớp điện môi không có tính dẫn điện và lớp lưới bên kim loại. Nhờ đó mà người ta có thể đi kéo cáp đồng trục bên cạnh các vật liệu kim loại mà hoàn toàn không sợ suy hao tín hiệu thường xảy ra với các loại cáp kiểu cũ hơn. Tín hiệu ở trong sợi cáp đồng trục cũng không bị gây nhiễu từ các nguồn điện bên ngoài khi chạy cùng các đường cáp điện. Cáp đồng trục được dùng phổ biến trong đường truyền cho tín hiệu vô tuyến, phục vụ cho việc truyền dẫn tín hiệu có tần số cao và ngăn chặn nhiễu điện từ (EMI) và nhiễu tần số vô tuyến (RFI) từ môi trường bên ngoài. Ứng dụng của cáp đồng trục là cung cấp tín hiệu giữa các thiết bị thu phát sóng vô tuyến và ăng ten của chúng, các kết nối mạng máy tính, và kết nối tín hiệu truyền hình. Cáp đồng trục cũng thường được sử dụng trong truyền tín hiệu truyền hình cáp, tivi. Ngoài ra cáp đồng trục còn có nhiều ứng dụng khác, như truyền tín hiệu và kết nối hệ thống camera giám sát, kết nối internet băng thông rộng, các trạm BTS, …. Lớp lõi đồng: có thể là lõi rỗng (các loại cáp feeder 7/8, 1-5/8 – được sử dụng chuyên trong ngành viễn thông và thấy nhiều nhất ở các trạm BTS) hoặc lõi đặc ( feeder 1/2, các loại cáp RG 59, RG6, RG11…). Lõi cáp đồng trục có thể là bằng đồng hoặc dây hợp kim mạ đồng tùy thuộc vào nhu cầu sư dụng và hạ giá thành sản phẩm. Lớp điện môi cách điện: làm từ vật liệu phi kim, nhìn giống như nhựa nhưng khá mềm, màu trắng dùng cách ly 2 lớp dây dẫn. Lớp bện kim loại: Đối với cáp đồng trục lõi đặc có thể làm bằng đồng hoặc bằng nhôm được bện lại dạng lưới nhằm giảm suy hao và có chức năng chống nhiễu. Với cáp đồng trục lõi rỗng (cáp feeder) là lớp đồng hoặc thiếc mỏng dạng sóng giống như ống ruột gà thường thấy. Lớp vỏ bọc: cấu tạo bằng nhựa PVC… dùng để bảo vệ toàn bộ sợi cáp dưới tác động của các yếu tố từ môi trường bên ngoài. – Cáp đồng trục nhăn (Cáp Feeder – Cáp đồng trục Feeder dùng để truyền sóng tín hiệu giữa ăng ten và BTS, do cáp có lớp vỏ bọc đồng nhăn giúp chống nhiễu cực tốt, giảm suy hao tối đa và giúp tín hiệu truyền đi bị thất thoát ít nhất. Có 3 Loại dây cáp đồng trục phổ thông nhất hiện nay là RG-59 và RG-6, và RG-11. Cả 3 loại cáp này được sử dụng hầu hết trong nhà, bạn có thể thấy nó ở khắp mọi nơi, trong dịch vụ truyền hình cáp, hệ thống camera giám sát. Về cơ bản 3 loại cáp đồng trục đó như sau:. Cáp RG59: Với cấu tạo gồm nhiều sợi đồng nhỏ bện xoắn lại với nhau tạo độ mềm dẻo cho sợi cáp nên đây là loại cáp đồng trục chuyên dùng cho hệ thống camera quan sát trong thang máy, thường được dùng cho camera analog hoặc các ứng dụng yêu cầu sợi cáp mềm dẻo có thể uống cong thường xuyên được. Cáp đồng trục RG59 thường sử dụng với khoảng cách nhỏ hơn 225m. Cáp RG6: dùng cho các ứng dụng có băng tần cơ bản (Base band) với khoảng cách truyền tín hiệu ngắn, thường được sử dụng để truyền dữ liệu camera quan sát, kết nối các thiết bị tivi, truyền hình trong nhà. Cáp RG6 có thể truyền xa khoảng 225m đến dưới 545m. Ngoài ra người ta còn sản xuất các loại cáp đồng trục để phục vụ các nhu cầu riêng như cáp đồng trục có dầu chống ẩm, cáp đồng trục kèm nguồn chuyên dụng cho hệ thống camera analog. Về cơ bản qua so sánh trên ta có thể thấy Cáp đồng trục RG-6 có lõi trung tâm lớn hơn so với RG59, lớp dung môi cách điện cũng mỏng hơn, có thể có từ 2 đến 4 lớp bảo vệ, ngược lại cáp đồng trục RG-59 chỉ có 1 lớp vỏ bảo vệ. Cáp đồng trục RG-59 phù hợp với việc truyền dẫn tín hiệu ở tần số thấp và ở khoảng cách gần, trong khi đó cáp RG6 thích hợp với việc truyền dẫn tín hiệu ở tần số cao và ở khoảng cách xa hơn. Cũng tương tự với cáp đồng trục RG11, có lớp lõi to và khả năng truyền tín hiệu ở tần số cao, khoảng cách xa hơn. Tuy nhiên ưu điểm cũng là nhược điểm của cáp RG11 là do đường kính to nên sẽ thiếu linh hoạt trong việc sử dụng ở những khúc cua, do đó thường chỉ sử dụng ở những đoạn trục chính kết nối các thiết bị ở khoảng cách xa. Lớp vỏ PVC bảo vệ của mỗi loại cáp đồng trục cũng được tiêu chuẩn hóa theo phạm vi của từng loại, có nghĩa là cáp đồng trục RG59 phù hợp với những ứng dụng có dải tần cơ bản, phạm vi khoảng cách ngắn, còn cáp đồng trục RG6 sử dụng cho những dải tần cao hơn. Về cơ bản với các thông tin trên quý bạn và các vị đã nắm được khái niệm cáp đồng trục, cấu tạo và công dụng của chúng, để đi sâu chi tiết so sánh các loại cáp đồng trục tôi sẽ viết ở một bài khác. Đây là câu hỏi mà ai cũng sẽ phải đặt ra trước khi chọn mua cáp đồng trục, tuy nhiên thực tế là Cáp đồng trục hiện đang được phân phối ở Việt Nam bởi rất nhiều đơn vị khác nhau và có quá nhiều loại khác nhau. Cáp đồng trục của tất cả các hãng, các nhà phân phối đều có các tính năng, tác dụng về cơ bản giống nhau, sự khác nhau chỉ được thể hiện ở chất liệu cấu thành cáp, độ bền, khả năng truyền dẫn, các chỉ số suy hao, và tính thẩm mỹ của sản phẩm., điều này thì không phải khách hàng nào cũng đủ am hiểu để mua được đúng sản phẩm tốt, đáp ứng nhu cầu mà giá thành lại không bị chặt chém. Ở Việt Nam hiện có nhiều thương hiệu cáp đồng trục nhưng nổi bật hơn cả là cáp đồng trục của các hãng như Alantek, Sino, HD Link,.vì có mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, độ suy hao thấp và giá cả rất hợp lí. Ở đây chắc chắn quý vị sẽ tìm được đúng loại cáp mình cần với giá thành phải chăng nhất.
Cáp đồng trục
Cáp đồng trục (Coaxial) là loại cáp điện với một lõi dẫn điện được bọc lại bởi một lớp điện môi không dẫn điện, chung quanh quấn thêm một lớp bện kim loại, ngoài cùng lại có vỏ bọc cách điện. Từ đồng trục đến từ việc tất cả các lớp cáp đều dùng chung một trục hình học. Cáp đồng trục được nhà toán học và kỹ sư người Anh Oliver Heaviside phát minh, bằng sáng chế được cấp năm 1881. Cáp đồng trục thường dùng làm đường truyền cho tín hiệu vô tuyến. Ứng dụng của nó bao gồm các đường cấp giữa thiết bị thu phát sóng vô tuyến và ăng ten của chúng, các kết nối mạng máy tính, và làm cáp truyền hình. Một ưu điểm của cáp đồng trục là tín hiệu số truyền trên cáp chỉ tồn tại bên trong lõi cáp. Nhờ đó người ta có thể lắp cáp bên cạnh các vật liệu kim loại mà không sợ thất thoát năng lượng thường xảy ra với các loại cáp cũ hơn. Tín hiệu trong cáp đồng trục cũng không bị gây nhiễu từ các nguồn bên ngoài. Cáp đồng trục theo lý thuyết có độ suy hao 200m nhưng trong thực tế là 50m.
Tâm lý học là một ngành rộng lớn bao gồm các nghiên cứu về suy nghĩ, hành vi, sự phát triển, nhân cách, cảm xúc, động lực,… của con người. Nắm được tâm lý học có thể giúp ta thấu hiểu, lý giải hành động của bản thân cũng như của những người xung quanh. Định nghĩa đơn giản nhất: Tâm lý học là ngành khoa học nghiên cứu tâm trí và hành vi. Các nghiên cứu trong tâm lý học sẽ đi tìm hiểu và lý giải phương thức con người suy nghĩ, hành động và cảm nhận. Các nhà tâm lý học cũng nỗ lực nghiên cứu các yếu tố có khả năng tác động lên suy nghĩ và hành vi, bao gồm cả ảnh hưởng sinh học lẫn các áp lực mang tính xã hội. Tâm lý học có ứng dụng đa dạng trong trị liệu sức khỏe tâm thần, tăng cường hiệu suất, tự lực, công thái học, và nhiều lĩnh vực sức khỏe và đời sống khác. Rất khó để có thể tóm gọn tất cả những nội dung của ngành này trong một định nghĩa, tuy nhiên những chủ đề về phát triển, nhân cách, suy nghĩ, cảm xúc, động lực và hành vi xã hội là những nội dung lớn mà tâm lý học luôn hướng đến tìm hiểu, dự đoán và giải thích. Hiện nay vẫn còn rất nhiều hiểu lầm về tâm lý học. Không may thay, việc mọi người hiểu sai về tâm lý học phần nhiều là do những hình dung rập khuôn về những nhà tâm lý mà truyền thông phim ảnh vẽ nên, cũng do trong thực tế, những người có bằng tâm lý thường làm ở những ngành nghề khác nhau. Như thường thấy trên truyền hình và phim ảnh, nhà tâm lý học là những người với năng lực phán đoán siêu phàm, có thể dùng khả năng thấu hiểu tâm trí con người để phá án và dự đoán bước đi kế tiếp của tội phạm. Một số người khác lại hình dung nhà tâm lý học thường là những người già dặn, khôn ngoan, hay ngồi trong văn phòng trang nghiêm xếp đầy sách và lắng nghe thân chủ lan man về tuổi thơ khó khăn của mình. Vậy tâm lý học thực sự là gì? Thực tế là những hình dung kể trên cũng có điểm đúng, tuy nhiên tâm lý học vẫn còn nhiều điều vượt xa hơn thế nữa. Ngành nghề về tâm lý học cực kỳ đa dạng và chính sự đa dạng này có lẽ cũng góp một phần gây ra các hiểu lầm về tâm lý học cũng như công việc của những người làm việc trong lĩnh vực này. Dĩ nhiên, vẫn sẽ có nhứng nhà tâm lý học tham gia phá án và có rất nhiều chuyên gia giúp đỡ mọi người giải quyết các vấn đề sức khỏe tâm thần. Tuy nhiên, vẫn có những người đang cố gắng tạo dựng một nơi làm việc lành mạnh cho nhân viên ở các công ty. Vẫn có những người thiết kế và thực hiện các chương trình y tế công cộng. những người khác đào sâu các chủ đề về an toàn hàng không, thiết kế máy tính, và quân sự. Bất kể làm việc ở đâu, mục tiêu chính của họ là mô tả, giải thích, dự đoán hành vi và tác động lên hành vi đó. Các cuộc thảo luận về hai ngành học này đã diễn ra từ xa xưa, thời của các nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại như Aristotle và Socrates. Từ “Psychology” có gốc từ chữ Hy Lạp “psyche”, có nghĩa “cuộc sống” hoặc “hơi thở”. Nghĩa gốc của từ bao hàm “tâm hồn” hay “bản thân”. Tâm lý học chính thức xuất hiện với tư cách một ngành độc lập, riêng lẻ khi Wilhelm Wundt thực hiện thí nghiệm tâm lý đầu tiên tại Đại học Leipzig, Đức năm 1879. Wundt tập trung mô tả các cấu thành của tâm trí. Nội dung này chủ yếu dựa vào sự phân tích cảm giác và cảm xúc thông qua quá trình tự xem xét nội tâm (còn gọi là “phương pháp nội quan”) – một quá trình mang tính chủ quan. Wundt tin rằng nếu được huấn luyện đúng cách, đối tượng có thể xác định chính xác các quá trình tâm thần xảy ra cùng lúc với các cảm xúc, cảm giác và suy nghĩ của mình. Trong suốt lịch sử phát triển, rất nhiều trường phái tâm lý học đã được hình thành nhằm lí giải tâm trí và hành vi con người. Đôi khi, một trường phái nhất định sẽ thống trị ngành tâm lý học trong một khoảng thời gian nhất định. Các trường phái đôi khi được xem là các lực lượng đối đầu nhau, nhưng mỗi trường phái đưa ra đều hướng đến mục tiêu chung trong việc thấu hiểu tâm lý học. Chủ nghĩa cấu trúc của Wundt và Titchener là trường phái đầu tiên. Những trường phái khác cũng sớm xuất hiện ngay sau đó. Không lâu sau đó, các trường phái sơ khai đã dọn đường cho các trường phái khác, thống trị và ảnh hưởng sâu rộng hơn trong ngành tâm lý học. Thuyết phân tâm học của Sigmund Freud chú trọng vào quá trình trạng thái vô thức tác động lên hành vi ở con người. Trường phái tâm lý hành vi đã chuyển hướng không còn chỉ tập trung vào các tác động bên trong cơ thể ảnh hưởng đến hành vi mà còn nghiên cứu các hành vi bên ngoài có thể quan sát được. Sau này, các trường phái tâm lý nhân văn chú trọng đến tầm quan trọng của sự phát triển cá nhân và tự khẳng định bản thân. Vào những năm 60 – 70, cuộc cách mạng về nhận thức đã khuyến khích các nhà khoa học đào sâu hơn các quá trình tâm thần bên trong cơ thể như tư duy, đưa ra quyết định, phát triển ngôn ngữ, và trí nhớ. Tâm lý học vừa là một ngành khoa học ứng dụng vừa là một ngành mang tính lý thuyết. Tâm lý học vừa là một ngành học thuật vừa là một ngành ứng dụng, nghiên cứu tâm trí và hành vi con người. Các nghiên cứu tâm lý học nhằm tìm hiểu và giải thích cách thức con người tư duy, hành động và cảm nhận. Các nhà khoa học giúp ta lý giải tại sao người ta lại cư xử theo một cách thức nào đó cũng như các yếu tố khác nhau có thể ảnh hưởng lên tâm trí và hành vi con người. Hâu hết chúng ta biết một phần lớn tâm lý học là dành cho việc chẩn đoán và điều trị các vấn đề về sức khỏe tâm thần, nhưng đó chỉ là bề nổi của tảng băng khi người ta nhắc đến ứng dụng của tâm lý học. Bên cạnh sức khỏe tâm thần, tâm lý học có thể được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực đa dạng ảnh hưởng đến sức khỏe và cuộc sống bao gồm sống khỏe, công thái học, động lực, hiệu suất, v.v…. Tâm lý học có nhiều phân ngành đa dạng There Are Many Different Specialty Areas in Psychology. Tâm lý học và một lĩnh vực rộng lớn và đa dạng. Theo thời gian thì một số phân ngành và ngành đặc thù đã xuất hiện. Sau đây là một số các phân ngành chính trong nghiên cứu và ứng dụng tâm lý học:. Tâm lý học dị thường là một ngành nghiên cứu các hành vi dị thường và bệnh học tâm thần. Nhóm ngành đặc thù này tập trung vào nghiên cứu và điều trị hàng loạt các rối loạn tâm thần, có liên hệ mật thiết với tâm lý học trị liệu và tâm lý học lâm sàng. Tâm lý sinh học, còn gọi là sinh tâm lý học, nghiên cứu sự tác động của các quá trình sinh học tác động lên tâm trí và hành vi. Đây là lĩnh vực gần với Khoa học thần kinh và tận dụng các công cụ như chụp MRI và PET để quan sát tổn thương thần kinh hoặc các biểu hiện dị thường của não bộ. Tâm lý học lâm sàng tập trung đánh giá, chẩn đoán và điều trị các rối loạn tâm thần. Đây cũng được xem là lĩnh vực nghề nghiệp rộng lớn nhất của tâm lý học. Tâm lý học nhận thức là ngành học nghiên cứu quá trình tư duy và nhận thức của con người. Các nhà tâm lý học nhận thức nghiên cứu các chủ đề về sự tập trung, trí nhớ, nhận thức, ra quyết định, giải quyết vấn đề và lĩnh hội ngôn ngữ. Tâm lý học so sánh là phân ngành liên quan đến nghiên cứu hành vi động vật. Nghiên cứu dạng này có thể giúp ta hiểu sâu hơn và rộng hơn tâm lý trên con người. Tâm lý học phát triển là ngành quan tâm đến sự sinh trưởng và phát triển của con người qua các giai đoạn trong vòng đời. Các học thuyết thường tập trung vào phát triển khả năng nhận thức, đạo đức, chức năng xã hội, bản sắc cá nhân và các lĩnh vực khác của đời sống. Tâm lý học pháp chứng là ngành khoa học ứng dụng, tập trung vào việc ứng dụng các nghiên cứu và nguyên tắc trong tâm lý học trong hệ thống tư pháp và pháp ly nói chung. Tâm lý học tổ chức và công nghiệp là ngành ứng dụng các nghiên cứu tâm lý để tăng cường hiệu suất làm việc và phục vụ công tác tuyển chọn nhân viên. Tâm lý học nhân cách tập trung tìm hiểu quá trình phát triển của nhân cách cũng như các kiểu tư duy, hành vi và các đặc tính tạo nên sự khác biệt của mỗi cá nhân. Tâm lý học xã hội chú trọng nghiên cứu hành vi của một nhóm người cũng như sự tác động của các yếu tố xã hội lên hành vi của cá nhân. Các chủ đề thuộc ngành này bao gồm thái độ, định kiến, sự phục tùng và sự hung hăng.
Tâm lý học công nghiệp và tổ chức
Tâm lý học công nghiệp và tổ chức, còn được gọi là tâm lý học nghề nghiệp, tâm lý học tổ chức, hoặc tâm lý học công việc và tổ chức; là một môn học ứng dụng trong tâm lý học. Tâm lý học công nghiệp, công việc và tổ chức (IWO) là thuật ngữ toàn cầu rộng lớn hơn cho lĩnh vực quốc tế. Ngành này là khoa học về hành vi của con người liên quan đến công việc và áp dụng các lý thuyết và nguyên tắc tâm lý cho các tổ chức và cá nhân tại nơi làm việc cũng như cuộc sống làm việc của cá nhân nói chung. Các nhà tâm lý học IO được đào tạo theo mô hình học viên- nhà khoa học. Họ đóng góp vào thành công của một tổ chức bằng cách cải thiện hiệu suất, động lực, sự hài lòng trong công việc, an toàn và sức khỏe nghề nghiệp cũng như sức khỏe và phúc lợi chung của nhân viên. Một nhà tâm lý học IO tiến hành nghiên cứu về hành vi và thái độ của nhân viên, và làm thế nào để cải thiện chúng thông qua các hoạt động tuyển dụng, chương trình đào tạo, phản hồi và hệ thống quản lý.
Công nghệ môi trường đã có và được phát triển ở trên thế giới từ lâu. Điển hình là các nước phát triển như mỹ, nhật, hàn… Mang đến nhiều giá trị to lớn giải quyết các vấn đề môi trường, thúc đẩy kinh tế bền vững. Vậy công nghệ môi trường là gì? tiềm năng phát triển của ngành công nghệ này thế nào trong tương lai. Cùng tìm hiểu rõ hơn về công nghiệp môi trường này ở bài viết dưới đây. Khái niệm công nghiệp môi trường ở VIệt Nam có lẽ là rất mới, chỉ có ít các đơn vị tư vấn, xử lý vấn đề môi trường. Khiến tình hình môi trường ngày càng xấu đi, theo số liệu thống kê thì rất có thể năm 2030 trái đất sẽ nóng lên, tầng ozon sẽ bị thủng,. chính vì thế mà sự phát triển công nghệ môi trường là điều cần phải làm cấp bách hiện nay. Công nghiệp môi trường là ngành kinh tế tổng hợp các biện pháp vật lý, hóa học sinh học vào nhằm phục vụ các yêu cầu về bảo vệ môi trường được phát sinh từ các quá trình sản xuất và hoạt động của con người. Công nghệ môi trường hiểu đơn giản sẽ là tổ hợp các nguyên lý, quy trình và các thiết bị kỹ thuật thực hiện nguyên lý và quy trình đó để ngăn chặn phát triển ô nhiễm môi trường. Hiện nay môi trường sống có rất nhiều chức năng khác nhau mang tới không gian sống cho con người, sinh vật, cung cấp thông tin chứa đựng các nguồn tài nguyên thiên nhiên do con người phế thải đi. Việc ra đời công nghệ môi trường sẽ mang tới sự cần thiết, giúp việc nghiên cứu, giữ gìn và bảo vệ môi trường sống trở nên trong lành hơn, loại bỏ đi ô nhiễm. Do đó, đây là ngành cần được đầu tư và quan tâm nhiều hơn hiện nay để cống hiến, góp sức mình và tháo gỡ những thách thức của môi trường hiện nay. – CÔng tác tại các nhà máy xí nghiệp, công ty xử lý rác thải . Có thể làm ở các trung tâm bảo vệ môi trường, khu chế xuất của các sở khoa học các cấp huyện, thành phố,. – Làm ở các viện nghiên cứu và đào tạo như làm giáo viên dạy, làm nghiên cứu sinh môi trường. Cơ hội được đi ra nước ngoài học hỏi thêm kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn,. Để theo ngành công nghệ môi trường, bạn phải có được những trang bị kiến thức và kỹ năng thực hành cần thiết. Có rất nhiều người lo lắng và thắc mắc liệu công nghệ môi trường có thể ổn định và có mức lương đảm bảo không. Vì nó không thuộc lĩnh vực kinh doanh hay kinh tế gì cả. Bạn hoàn toàn có thể yên tâm khi theo công nghệ môi trường, đây là một ngành làm giàu không khó. Bạn có thể hoàn toàn kiếm ra tiền hoặc rất nhiều tiền nhé. Việc học công nghệ môi trường sẽ giúp bạn có những kiến tạo, tìm ra nhiều giải pháp, phương pháp mới để tối ưu cho quá trình xử lý môi trường. Đã có rất nhiều minh chứng cho việc này. Ví dụ như ý tưởng tái sử dụng bột bã thải dầu kim loại nặng để sản xuất men màu trong gốm sứ của các bạn trẻ đến từ khoa công nghệ môi trường của đại học quốc gia hà Nội. Đã khiến 3 cô gái trẻ lĩnh được giải thưởng tới 10000 USD để nghiên cứu và ứng dụng sang quy mô lớn. Và còn rất rất nhiều các giải pháp khoa học công nghệ môi trường mang tới nhiều thành công cho người làm công nghệ môi trường. Vì thế mà cơ hội việc làm và phát triển của công nghệ môi trường luôn luôn mở rộng và trào đón người có đam mê, sự kiên trì sẽ được thành công. Việc học công nghệ môi trường bằng tiếng anh là điều cần thiết. Vì giáo trình ngành công nghệ môi trường là vô cùng mới lạ có thể từ nhiều tài liệu nước ngoài. Đặc biệt khi bạn phải nghiên cứu, thiết kế một công trình xử lý nước thải, khí thải, lò đốt sẽ phải tham khảo các tài liệu nước ngoài bắt buộc. Đặc biệt là các chất thải thuộc loại cứng đầu như nước thải của nhà máy, nước thải chế biến,. Và ở việt Nam hiện nay việc tối ưu xử lý vấn đề công nghệ sẽ phải làm trong vòng thí nghiệm và tài liệu. Mà tài liệu nước ngoài là rất nhiều vì thế bạn chắc chắn phải đọc, hiểu và dịch được chúng. Việc bắt tay vào đầu tư nghiên cứu một công trình sẽ vô cùng vất vả. Phải test làm thí nghiệm lên xuống vài lần thậm chí chục lần để tìm ra kết quả. Bên cạnh đó nếu không có đam mê sẽ không thể nào chịu đựng được mùi khó chịu, hôi thối,. Cả những cực nhọc vất vả để theo nghề. Cơ hội việc làm cho ngành công nghiệp môi trường là vô cùng lớn. Khi mà nhu cầu nguồn nhân lực về ngành môi trường ngày càng nhiều, thời điểm hiện tại vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển kinh tế. Vì thế mà cơ hội việc làm ngành môi trường này rất hót và vô cùng đa dạng. Bạn có thể dễ dàng tìm được một vị trí phù hợp, được nhà tuyển đánh giá cao. Cụ thể như các công việc liên quan sau:. – Nghiên cứu khắc phục và xử lý tình trạng ô nhiễm để bảo vệ môi trường. Tư vấn thiết kế quy trình xử lý ô nhiễm hiệu quả. – Theo dõi và giám sát các đối tượng vi phạm quản lý môi trường. Đưa ra biện pháp xử lý kịp thời, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm. – ứng tuyển vào các cơ quan nhà nước có ngành quản lý và công nghệ môi trường của đất nước. Làm việc tại các bộ, các sở, trung tâm quan trắc địa môi trường. – Tham gia vào các công ty tư vấn môi trường, làm báo cáo, tư vấn các dự án, đánh giá mức độ ảnh hưởng tới môi trường của các công ty lớn tại VIệt Nam như Nike Vietnam, clover technologies,… trung tâm phát triển năng lượng EDEC,. – Tham gia vào các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước như IUCN việt nam, CARE việt nam, tổ chức liên hiệp hội nước và bảo vệ môi trường…. Tất cả đều rất cần các kỹ sư ngành công nghiệp môi trường hot này. Một số phát minh vô cùng nổi bật trong thời đại hiện nay áp dụng công nghệ môi trường vào. Nhằm giảm đi sự ô nhiễm và cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên. Thay vào đó là sử dụng giấy điện tử để có tái sử dụng thường xuyên. Khí co2 đang là khí thải tạo nên hiệu ứng nhà kính,làm trái đất nóng lên. Vì thế công nghệ môi trường đã bơm khí thải xuống lòng đất hạn chế làm ô nhiễm môi trường. Nhằm để hạn chế nhiễm chất độc asen, các nhà khoa học tạo các giống cây mới có khả năng chuyển đổi ô nhiễm từ rễ ra bên ngoài. nhằm hút khí co2 và thải 02 ra không khí. Giúp giảm điện năng sử dụng máy lạnh. Tận dụng nguồn năng lượng dồi dào để tạo ra điện, cung cấp cho năng lượng cho máy phát điện. Có thể chế tạo dầu mỏ từ các chất thải có chứa cacbon như phân gà, lốp xe cũ, chai lọ,. biến thành dầu hỏa. Đó là tất cả những gì tổng quan nhất về công nghệ môi trường. Mong nó sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về ngành công nghệ môi trường này. Cũng như giúp các doanh nghiệp , công ty ở việt nam hiểu rõ về tầm quan trọng của công nghệ môi trường trong thời đại hiện nay. Để có thể có kiến thức và phương pháp bảo vệ môi trường ổn định hơn, mang tới cuộc sống hạnh phúc hơn cho mọi người. tôi là Quang, một SEO excutive. tôi tự học SEO được hơn 1 năm. Mong muốn của tôi là chia sẻ, hỗ trợ kiến thức digital marketing cho newbie. Adobe Animate là công cụ rất hữu ích cho mọi người dùng. Tuy nhiên, để sử dụng phần mềm này,. Một blog chia sẻ về thủ thuật và công nghệ những gì có thể bạn cần mà tác giả biết.
Công nghệ môi trường
Công nghệ môi trường, công nghệ xanh, hoặc công nghệ sạch là sự ứng dụng khoa học môi trường, hóa học xanh, quan trắc môi trường, sử dụng các thiết bị điện tử để theo dõi, mô hình hóa và giữ cho môi trường tự nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên ít bị ảnh hưởng do những tác động tiêu cực của con người. Thuật ngữ này cũng được dùng để mô tả công nghệ sản xuất năng lượng bền vững như điện mặt trời, Turbine gió, Bioreactor.v.v. Phát triển bền vững là cốt lõi của Công nghệ môi trường. Công nghệ môi trường còn được dùng để mô tả các thiết bị điện tử chuyên hỗ trợ quản lý bền vững các nguồn tài nguyên. Luật bảo vệ Môi trường Việt Nam, 1994, Điều 2, khoản 8 quy định "Công nghệ sạch là quy trình công nghệ hoặc giải pháp kỹ thuật không gây ô nhiễm môi trường, thải hoặc phát ra ở mức thấp nhất chất gây ô nhiễm môi trường".
Ngọn hải đăng nổi tiếng của Alexandria, được gọi là Pharos, được xây dựng vào khoảng năm 250 trước Công nguyên để giúp những người hàng hải điều hướng cảng Alexandria ở Ai Cập. Nó thực sự là một kỳ quan về kỹ thuật, cao ít nhất 400 feet, khiến nó trở thành một trong những công trình kiến trúc cao nhất thế giới cổ đại. Ngọn hải đăng Alexandria cũng được xây dựng kiên cố, sừng sững trong hơn 1.500 năm, cho đến khi bị động đất lật đổ vào khoảng năm 1375 sau Công nguyên. Ngọn hải đăng Alexandria rất đặc biệt và được coi là một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại . Thành phố Alexandria được thành lập vào năm 332 trước Công nguyên bởi Alexander Đại đế . Tọa lạc tại Ai Cập, chỉ cách 20 dặm về phía tây của sông Nile , Alexandria được một cách hoàn hảo nằm để trở thành một cảng lớn Địa Trung Hải, giúp thành phố phát triển. Chẳng bao lâu, Alexandria đã trở thành một trong những thành phố quan trọng nhất của thế giới cổ đại, được biết đến rộng rãi với thư viện nổi tiếng. Trở ngại duy nhất là những người lính thủy đánh bộ khó tránh được những tảng đá và bãi cạn khi tiếp cận bến cảng của Alexandria. Để giúp đỡ điều đó, cũng như để đưa ra một tuyên bố rất vĩ đại, Ptolemy Soter (người kế vị Alexander Đại đế) đã ra lệnh xây dựng một ngọn hải đăng. Đây là tòa nhà đầu tiên từng được xây dựng chỉ để làm ngọn hải đăng. Có rất nhiều điều chúng ta chưa biết về Ngọn hải đăng Alexandria, nhưng chúng ta biết nó trông như thế nào. Vì Ngọn hải đăng là biểu tượng của Alexandria nên hình ảnh của nó đã xuất hiện ở nhiều nơi, kể cả trên các đồng tiền cổ. Được thiết kế bởi Sostrates of Knidos, Hải đăng Alexandria là một công trình kiến trúc cao nổi bật. Nằm ở cuối phía đông của đảo Pharos gần lối vào của bến cảng Alexandria, Ngọn hải đăng sớm được gọi là “Pharos”. Ngọn hải đăng cao ít nhất 450 feet và được làm bằng ba phần. Phần dưới cùng là hình vuông, là văn phòng chính phủ và chuồng ngựa. Phần giữa là một hình bát giác và có một ban công để khách du lịch có thể ngồi, ngắm cảnh và được phục vụ đồ uống giải khát. Phần trên cùng có hình trụ và giữ ngọn lửa liên tục được thắp sáng để giữ an toàn cho các thủy thủ. Trên đỉnh là một bức tượng lớn của Poseidon , vị thần biển của Hy Lạp. Thật ngạc nhiên, bên trong ngọn hải đăng khổng lồ này là một đoạn đường dốc xoắn ốc dẫn lên đỉnh của phần dưới cùng. Điều này cho phép ngựa và xe ngựa chở vật tư đến các phần trên cùng. Không rõ chính xác thứ gì đã được sử dụng để tạo ra ngọn lửa trên đỉnh Ngọn hải đăng. Không có gỗ vì nó khan hiếm trong khu vực. Dù được sử dụng, ánh sáng vẫn có hiệu quả - những người hàng hải có thể dễ dàng nhìn thấy ánh sáng từ xa hàng km và do đó có thể tìm đường đến cảng một cách an toàn. Ngọn hải đăng Alexandria tồn tại 1.500 năm - một con số đáng kinh ngạc khi coi đây là một cấu trúc rỗng có chiều cao bằng một tòa nhà 40 tầng. Điều thú vị là hầu hết các ngọn hải đăng ngày nay đều giống với hình dạng và cấu trúc của Ngọn hải đăng Alexandria. Cuối cùng, Ngọn hải đăng tồn tại lâu hơn các đế chế Hy Lạp và La Mã. Sau đó, nó được thâm nhập vào đế chế Ả Rập, nhưng tầm quan trọng của nó giảm dần khi thủ đô của Ai Cập được chuyển từ Alexandria đến Cairo . Một số khối của nó đã được lấy và sử dụng để xây dựng lâu đài cho vua Ai Cập; những người khác rơi xuống đại dương. Năm 1994, nhà khảo cổ học người Pháp Jean Yves Empereur , thuộc Trung tâm Nghiên cứu Quốc gia Pháp, đã điều tra cảng Alexandria và tìm thấy ít nhất một vài khối đá này vẫn còn trong nước. Từ hóa học đến lập trình máy tính, nghệ thuật cho đến Thế chiến II, Chúng tôi cung cấp hướng dẫn, mẹo và tài nguyên để giúp bạn hiểu thêm về thế giới xung quanh chúng ta.
Hải đăng Alexandria
Hải đăng Alexandria, đôi khi được gọi Hải đăng của Alexandria (; tiếng Hy Lạp cổ đại: ὁ Φάρος τῆς Ἀλεξανδρείας, Koine đương thời phát âm tiếng Hy Lạp: ), là một Hải đăng được xây trong triều đại của Ptolemy II Philadelphos (280–247 BC) của Ai Cập thuộc Hy Lạp. Chiều cao của tháp được ước tính tổng thể là 100 mét (330 ft). Một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại, trong nhiều thế kỷ sau đó nó đã từng là một trong những cấu trúc nhân tạo cao nhất trên thế giới. Ngọn hải đăng bị tàn phá nghiêm trọng bởi ba trận động đất từ năm 956 AD đến năm 1323 và trở thành đống đổ nát. Nó là kỳ quan có tuổi thọ cao thứ ba (chỉ sau Lăng mộ của Mausolus) và Kim tự tháp Kheops). Một phần của nó tồn tại đến năm 1480 khi những viên đá cuối cùng còn sót lại của nó được sử dụng để xây dựng Lâu đài Qaitbay trên cùng địa điểm. Năm 1994, một nhóm các nhà khảo cổ học người Pháp đã lặn xuống biển ở phía đông cảng Alexandria và phát hiện ra một số tàn tích của ngọn hải đăng dưới đáy biển.
Có phải mình đang mang thai? Câu hỏi này luôn nằm trong tâm trí của những người phụ. Sẽ có vài sự chuyển biến phức tạp xảy ra với bộ não và cơ quan sinh sản khiến bạn cảm thấy bứt rứt. Chuyển dạ là quá trình chín tháng "thèm của lạ", cơ thể ngày càng trở. Ăn dặm là một bước quan trọng và thú vị trong quá trình phát triển của trẻ sơ sinh. Hình dung về sự phát triển của bé tập đi, chúng ta nôm na thường gọi bé như miếng bọt biển, vì ở giai đoạn này bé bắt đầu ghi nhớ,. Đảm bảo cho bé một môi trường an toàn để lớn lên là ưu tiên hàng đầu của các bậc cha mẹ. Những bất cẩn nho nhỏ bé như để thuốc. Bài viết của mẹ đã được đưa vào mục bài viết yêu thích. Mẹ có thể xem lại trong mục Hugges của tôi. Bệnh tiểu đường thai kỳ là một dạng bệnh tiểu đường chia thành hai loại: bệnh tiểu đường tuýp 1 và bệnh tiểu đường tuýp 2. Bệnh tiểu đường thai kỳ sẽ xuất hiện trong suốt thời kỳ mang thai và thường chấm dứt sau khi em bé chào đời. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều rủi ro phát triển thành bệnh tiểu đường tuýp 2 ở phụ nữ đã từng mắc chứng bệnh tiểu đường thai kỳ. 10-50% phụ nữ có bệnh tiểu đường thai kỳ sẽ phát triển thành bệnh tiểu đường tuýp 2. Bệnh tiểu đường là khi nội tiết tố insulin của tụy bị thiếu hay giảm tác động cơ thể con người, hoặc cơ thể không chuyển hoá tốt insulin. Glucose là chất dinh dưỡng thiết yếu có vai trò cung cấp năng lượng cho hoạt động của các tế bào trong cơ thể. Tuy nhiên, lượng đường glucose không thể di chuyển một mình từ mạch máu vào tế bào mà phải cần insulin hỗ trợ trong quá trình vận chuyển. Chúng ta bị bệnh tiểu đường là do có quá nhiều lượng đường vào mạch máu và các biến chứng từ đó phát sinh. Bệnh tiểu đường thai kỳ là tình trạng lượng đường trong máu cao hơn mức bình thường. Bệnh phát triển và xảy ra trong quá trình mang thai từ tuần thai 24 – 28. Bệnh ảnh hưởng đến khả năng sử dụng đường (glucose) của các tế bào trong cơ thể, gây ra lượng đường cao trong máu. Phụ nữ có thai nếu không phát hiện sớm tình trạng bệnh sẽ không tốt cho cả mẹ và thai nhi. Vì vậy, khám thai định kỳ và kiểm tra đường huyết thường xuyên giúp mẹ bầu đảm bảo sức khỏe cho mẹ và con trong suốt thai kỳ. Bình thường, tụy tạng có nhiệm vụ sản xuất ra insulin để điều hòa đường trong máu. Tuy nhiên, trong quá trình mang thai, các hormone của nhau thai tạo ra nội tiết tố đặc biệt để giúp thai nhi lớn và phát triển, khiến rối loạn việc sản xuất insulin này. Tụy tạng cần phải sản xuất nhiều insulin hơn, có khi gấp 2 lần, do đó xuất hiện hiện tượng “kháng insulin”. Tuy nhiên, trong trường hợp cơ thể không thể sản xuất đủ lượng insulin trong suốt quá trình thai kỳ sẽ dẫn đến bệnh tiểu đường thai kỳ. Vì vậy, cần giảm hoặc tăng lượng insulin hoặc làm cả hai động tác đó. Chủng tộc: Châu Á là chủng tộc có nguy cơ mắc đái tháo đường thai kỳ cao. Tiền sử bất thường về dung nạp glucose bao gồm tiền sử đái tháo đường thai kỳ trước, glucose niệu dương tính. Tiền sử sản khoa bất thường: thai chết lưu không rõ nguyên nhân, sẩy thai liên tiếp không rõ nguyên nhân, sanh non, thai dị tật. Vào khoảng tuần thứ 20 của thai kỳ, quá trình và hoạt động liên quan đến việc sản sinh insulin đều bị ảnh hưởng bởi nội tiết tố sinh sản. Đây là nguyên nhân tại sao việc kiểm tra sàng lọc bệnh tiểu đường thai kỳ được yêu cầu theo định kỳ đối với phụ nữ mang thai dù họ có tiền sử bệnh hay không. Thời điểm xuất hiện bệnh thông thường từ tuần mang thai thứ 24 – 28, mặc dù vẫn có thể có những dấu hiệu tiểu đường thai kỳ vài tuần trước hoặc sau giai đoạn này. Trong quá trình mang thai, cơ thể người mẹ có nhu cầu tăng lượng đường vì nhu cầu tăng năng lượng. Tình huống lý tưởng là khi việc sản xuất insulin vừa đủ để phù hợp với lượng đường đang cần được gia tăng. Nhưng không phải thai phụ nào nào cũng đạt được trạng thái lý tưởng này. Do đó, Mayo clinic khuyến cáo phụ nữ có nguy cơ trung bình mắc tiểu đường thai kỳ nên làm xét nghiệm trong tam cá nguyệt thứ 2 (tuần 24 - tuần 28). Nếu bạn thuộc nhóm nguy cơ cao thì việc xét nghiệm có thể diễn ra trong lần khám thai đầu tiên. Quá trình kiểm tra sàng lọc được yêu cầu theo sự hướng dẫn của bác sĩ trong tuần mang thai thứ 26-28. Công cụ để chẩn đoán thông thường là kiểm tra lượng đường, GCT, hay phương pháp kiểm tra mức độ dung nạp đường glucose, OGTT. Xét nghiệm tiểu đường thai kỳ thông qua mẫu máu để kiểm tra lượng đường glucose và sau một tiếng đồng hồ tiếp theo sẽ xét nghiệm lại mẫu máu sau khi uống nước có nhiều đường. Dựa vào kết quả kiểm tra đầu tiên, để xác nhận lại chẩn đoán bệnh tiểu đường thai kỳ có thể phải cần có thêm xét nghiệm mức độ dung nạp đường glucose (OGTT) trong vòng 2 tiếng đồng hồ. Xét nghiệm mẫu máu cơ bản sau mẫu máu chuẩn 1 hoặc 2 giờ đồng hồ sau khi cho bệnh nhân uống dung dịch đường glucose. Phương pháp đơn giản hơn là có thể qua việc kiểm tra lượng đường từ nước tiểu. Một trong những xét nghiệm trong mỗi lần khám thai là kiểm tra lượng đường bằng que thử. Lượng đường huyết được đo bằng millimoles trên một lít máu. Lượng đường huyết (BSL) bình thường là ở mức 4-6 mmol/L. Hai tiếng sau khi ăn, trung bình sẽ đo được là 4-7 mmol/L. Lý tưởng nhất là lượng đường huyết được giữ ở mức bình thường nếu được, nhưng mỗi cá thể đều có mức “chấp nhận được” riêng. Triệu chứng tiểu đường thai kỳ có thể không rõ ràng và bạn không thể nhận ra cho đến khi bạn kiểm tra nước tiểu và lượng đường. Vài phụ nữ có những biểu hiện tiểu đường thai kỳ tương tự như sau khi bị bệnh tiểu đường tuýp 1 hoặc tuýp 2:. Đi tiểu ra nhiều nước và có nhu cầu nhiều lần hơn so với nhu cầu của các phụ nữ mang thai bình thường khác. Vùng kín bị nhiễm nấm và không thể làm vệ sinh sạch sẽ bằng các thuốc/kem xức chống khuẩn thông thường. Nếu bệnh tiểu đường thai kỳ được kiểm soát và giám sát bởi người bệnh và bác sĩ thì rủi ro sẽ được giảm rất nhiều. Mục đích chính trong việc điều trị bệnh tiểu đường là giảm lượng đường huyết trong máu đến mức bình thường và sản sinh lượng insulin phù hợp so với nhu cầu cần thiết của từng cá thể. Phải mất thời gian để ước lượng cân bằng lượng insulin cần thiết trong ngày. Phụ nữ mang thai bi bệnh tiểu đường thai kỳ cần được giám sát suốt quá trình mang thai và sinh đẻ. Biến chứng xảy ra khi cơn đau đẻ bị kéo dài và người mẹ có lượng đường không phù hợp. Bé được sinh ra dễ bị thừa cân, béo phì, mắc các bệnh về hô hấp và dễ bị bệnh về đường huyết hơn các bé bình thường. Nếu không kiểm soát, lượng đường glucose thừa trong máu sẽ làm thai nhi phát triển khá to. Do phải tương thích với lượng đường tăng qua nhau thai đến nguồn cung cấp máu, thai nhi sẽ tăng tiết lượng insulin để tiêu thụ lượng đường này và dự trữ năng lượng dưới lớp mỡ của thai nhi.
Bệnh tiểu đường thai kỳ
Bệnh tiểu đường thai kỳ là tình trạng người phụ nữ không mắc bệnh tiểu đường phát triển tăng đường huyết khi mang thai. Bệnh tiểu đường thai kỳ thường dẫn đến một vài triệu chứng; tuy nhiên, nó làm tăng nguy cơ tiền sản giật, trầm cảm và cần phải sinh mổ. Trẻ sinh ra từ những bà mẹ bị tiểu đường thai kỳ được điều trị kém có nguy cơ quá lớn, có lượng đường trong máu thấp sau khi sinh và vàng da. Nếu không được điều trị, nó cũng có thể dẫn đến thai chết lưu. Về lâu dài, trẻ em có nguy cơ thừa cân và phát triển bệnh tiểu đường loại 2 cao hơn. Bệnh tiểu đường thai kỳ là do không đủ insulin trong tình trạng kháng insulin. Các yếu tố nguy cơ bao gồm thừa cân, trước đây bị tiểu đường thai kỳ, tiền sử gia đình mắc bệnh tiểu đường loại 2 và mắc hội chứng buồng trứng đa nang. Chẩn đoán bằng xét nghiệm máu. Đối với những người có nguy cơ bình thường, sàng lọc được khuyến khích giữa 24 và 28 tuần mang thai. Đối với những người có nguy cơ cao, xét nghiệm có thể xảy ra ở lần khám tiền sản đầu tiên.
Tác phẩm Sự dai dẳng của kí ức (The Persistence of Memory) của nghệ sĩ Tây Ban Nha đồng thời là biểu tượng của trường phái siêu thực Salvador Dalí là một trong những tác phẩm nghệ thuật hiếm hoi có thể gợi liên tưởng đến hai từ đơn giản: những chiếc đồng hồ tan chảy. Cũng giống như Starry Night của Van Gogh (1889) và Les Demoiselles d’Avignon (1907) của Picasso, tác phẩm The persistence of Memory thu hút du khách từ khắp nơi trên thế giới đến Bảo tàng nghệ thuật Hiện đại để chiêm ngưỡng tác phẩm đại diện cho hẳn một phong trào nghệ thuật. Cái nhìn Siêu thực mang đến một cảnh quan kỳ lạ cho cuộc sống với độ chính xác đáng kinh ngạc — khi bạn tưởng tượng một chiếc đồng hồ sẽ tan chảy như thế nào – chảy xệ, biến dạng và kéo dài. “Toàn bộ tham vọng của tôi trong phương diện hình ảnh là hiện thực hóa những hình ảnh về sự phi lý cụ thể của tôi với sự cuồng nhiệt chính xác nhất,” Dalí viết trong cuốn sách Conquest of the Irrational. Và chính “sự cuồng nhiệt chính xác” này là thứ khiến The Persistence of Memory trở nên siêu thực. Thay vì vẽ ra một thế giới huyền ảo bằng những nét vẽ vội vàng và màu sắc tùy tiện, Dalí đã vẽ những đồ vật quen thuộc theo những cách khác lạ. Nhà thơ André Breton sáng lập Chủ nghĩa Siêu thực vào năm 1924 để đối lập với các lý tưởng Khai sáng thịnh hành vốn đã chi phối phần lớn nghệ thuật và văn học trong thế kỷ 17 và 18. Trong hàng trăm năm, chủ nghĩa duy lý đã là trung tâm của xã hội, và Breton tin rằng nó đã góp phần vào “sự nghèo nàn và khan hiếm các quá trình tư duy”. Những lý tưởng của thời Khai sáng nhấn mạnh tính khách quan, tính khoa học và chủ nghĩa duy lý, đồng thời bóp chết sự sáng tạo – vì vậy tư tưởng phi lý trí phải là liều thuốc chữa. Breton và những người theo thuyết Siêu thực là những tín đồ nhiệt thành của nhà phân tâm học người Áo Sigmund Freud, và lý thuyết phân tâm học của ông về nhân cách đã mang lại cho nhóm nghệ sĩ và nhà văn một “Sao Bắc Đẩu” cho quy trình sáng tạo. Bằng cách truy cập vào tiềm thức – tập hợp những suy nghĩ, ký ức, giấc mơ và sự thúc giục không bị điều khiển bởi tâm trí có ý thức – những nghệ sĩ này sẽ tham gia vào một hình thức nghệ thuật thuần túy chưa bị “diệt trùng” bởi những những thuần phong mỹ tục hay các bất an của xã hội. Những người theo chủ nghĩa siêu thực đã tìm đến các phương pháp khác nhau để tiếp cận lượng thông tin bị chôn vùi tồn tại bên dưới bề mặt ý thức, nhưng nhiều người đã chấp nhận những hành động vô thức, một phương tiện làm nghệ thuật chấp nhận cơ hội và cố gắng xóa bỏ ý thức. Bằng cách để sơn bắn tung tóe, cho phép vật liệu rơi xuống và được sắp đặt tuỳ hứng, vẽ nguệch ngoạc xung quanh các hình dạng và bố cục kết quả, nghệ sĩ về cơ bản đã loại bỏ quyền tự quyết của họ càng nhiều càng tốt khỏi quá trình sáng tạo. Điều này dẫn đến các tác phẩm như Battle of Fishes (1926) của André Masson, một tác phẩm đa phương tiện có sự kết nối ngẫu hứng để hình thành một dãy núi với những mảng màu đỏ rỉ ra như máu từ miệng những con cá. Những nghệ sĩ khác như Dalí lại tìm kiếm nguồn cảm hứng từ những giấc mơ. Mơ là một chức năng của tiềm thức, và Dalí tận dụng những giấc mơ của mình để gia tăng thực hành nghệ thuật. Ông nổi tiếng vì có những buổi ngủ ngắn xuyên suốt trong ngày. Những giấc ngủ ngắn và nhanh cũng cung cấp cả những lợi ích về vật chất lẫn sáng tạo. Nghỉ ngắn cho phép Dalí đi vào trạng thái mộng mị – dù rất ngắn có thể dễ dàng biến những ý tưởng và các mối liên hệ trở nên dễ dàng hơn. Dalí sinh năm 1904 tại Figueres, Tây Ban Nha, bắt đầu nghiên cứu và triển lãm nghệ thuật ngay từ khi còn nhỏ. Mặc dù được nhận vào Học viện Mỹ thuật Hoàng gia San Fernando ở Madrid từ năm 17 tuổi, nhưng ông nhanh chóng nhận ra mình hứng thú hơn với những cuộc cách tân nghệ thuật đang diễn ra ở Paris. Dalí thần tượng người đồng hương Tây Ban Nha Pablo Picasso và gặp ông trong một chuyến đi đến Paris năm 1926. Năm đó, Dalí bị đuổi khỏi trường sau khi xúc phạm các giáo sư. “Tôi thông minh hơn ba vị giáo sư này, và do đó tôi từ chối việc họ đánh giá tôi. Tôi biết môn này quá rõ. Năm 1929, ông được giới thiệu với André Breton trong một lần tới Paris và bắt đầu cộng tác với các nghệ sĩ Siêu thực Pháp. Ông đã gặp Gala, người phụ nữ sau này ông sẽ cưới (vào thời điểm đó bà đã kết hôn với Paul Éluard) trong một chuyến đi đến Cadaques cùng một nhóm các nhà Siêu thực. Ông nhanh chóng say mê bà, ngay cả khi mối quan hệ này không thành. Trong suốt những năm 1930, Dalí đã tạo ra một số bức tranh mang tính biểu tượng nhất của mình và hợp tác với những người khác trong nhóm về các dự án viết lách và làm phim. Mặc dù không ngừng sáng tạo tác phẩm Siêu thực, nhưng Dalí đã bị Breton trục xuất khỏi nhóm trước cuối thập kỷ vì lý do chính trị, vốn có liên quan mật thiết với chủ nghĩa phát xít lúc bấy giờ. Ông và Gala chuyển đến thành phố New York vào năm 1940, nơi họ ở lại cho đến năm 1948. Tại Mỹ, Dalí thiết kế sân khấu cho các vở ba lê, bắt đầu tạo ra đồ trang sức và xây dựng quan hệ với Philippe Halsman, nhiếp ảnh gia đã chụp Dalí với phong cách được dàn dựng một cách kỳ lạ. Trong suốt nửa sau của cuộc đời, Dalí đã tận dụng tối đa cái tên quen thuộc của mình, tham gia The Dick Cavett Show và xuất hiện trong các quảng cáo cho mọi thứ, từ sô cô la Lanvin đến Old Angus scotch. Ông cũng vẽ minh họa cho các tác phẩm văn học cổ điển như Don Quixote và Alice in Wonderland, thậm chí còn đưa tác phẩm Siêu thực của mình vào Kinh thánh. Dalí được biết đến là một nhân vật lập dị, và tình yêu của ông với ánh đèn sân khấu thể hiện qua những pha nguy hiểm như mặc một bộ đồ lặn dưới đáy biển sâu (kết quả là gần như nghẹt thở) đến một cuộc triển lãm khai mạc vào năm 1936; không ngần ngại tuyên bố mình là một thiên tài, nổi bật nhất là trong cuốn sách có tựa đề Diary of a Genius (1963); và đi dạo quanh Paris với một con thú ăn kiến bị xích. Các trò hề này dường như làm lu mờ sự nghiêm túc trong công việc của ông. Trong khoảng thời gian cho đến tận cuối đời và ngay sau khi ông qua đời vào năm 1989, các học giả dường như không đánh giá cao nhiều tác phẩm của Dalí, mà cho rằng ông chỉ đạt đến đỉnh cao là một nghệ sĩ trong những năm 1920 và 30. Sau đó, sự tôn trọng đã được phục hồi đối với bậc thầy Siêu thực, ảnh hưởng lâu dài của ông là không thể xóa nhòa. Dalí vẽ The Persistence of Memory vào năm 1931 khi ông mới 28 tuổi, và phong trào Siêu thực lúc này vẫn đang ở đỉnh cao. Vào thời điểm này, ông đã chính thức tham gia với những người theo chủ nghĩa Siêu thực và phát triển “phương pháp phê bình paranoiac” để thực hành nghệ thuật. Thông qua phương pháp này, Dalí tự tạo ra trạng thái thôi miên cho phép mình thoát khỏi thực tại. Hy vọng của ông là một khi không còn lo lắng, tầm nhìn về những bức tranh của ông có thể bắt đầu. Sự bền bỉ của ký ức là một tác phẩm nhỏ về kích cỡ so với danh tiếng nghệ thuật, lịch sử và văn hóa đại chúng mà nó nắm giữ — bức tranh chỉ rộng hơn một vài inch so với một tờ giấy tiêu chuẩn. Tác phẩm có vẻ bắt nguồn từ thế giới tưởng tượng, nhưng những vách đá ở hậu cảnh đã được xác định là bờ biển của Catalonia, quê hương của Dalí. Mặc dù các vách đá mang lại yếu tố hiện thực cho khung cảnh mơ hồ, những chiếc đồng hồ méo mó tan chảy trên một cái cây chết, một nền tảng không thể giải thích được và một hình dạng vô định hình màu da thịt (được cho là chân dung tự hoạ của nghệ sĩ). Đàn kiến kéo đến một chiếc đồng hồ kín như thể nó bằng xương bằng thịt, và cảnh quan mang đến ấn tượng về sự tĩnh lặng kỳ lạ hoàn toàn. Dalí tuyên bố rằng ông không biết ý nghĩa của tác phẩm — điều này đã cho các học giả và những người yêu nghệ thuật có nhiều khoảng trống để áp đặt ý nghĩa cho bức tranh. Trong khi những chiếc đồng hồ được cho là biểu tượng cho sự tồn tại của thời gian, Dalí từ chối kết hợp chúng với bất cứ thứ gì khác ngoài pho mát Pháp: Ông gọi chúng là “camembert của thời gian”. Dalí lấy những vật cứng, máy móc và làm mềm nhão chúng – mặc dù thời gian kiểm soát thời gian thức dậy của xã hội, nhưng nó thường bị uốn cong trong giấc mơ và trong trí nhớ. Những con kiến tụ tập (và một con ruồi, đậu trên đồng hồ) xuất hiện như thể chúng đang đậu trên đống thịt thối rữa, ám chỉ cái chết và sự thối rữa. Những đối tượng này quen thuộc, nhưng bị bóp méo và được đưa ra khỏi bối cảnh, như những thứ thường trong giấc mơ. Hình dạng giống như khuôn mặt nằm ngủ ở trung tâm tác phẩm thoạt nhìn giống như một cái sọ bò khô. Theo thời gian, hộp sọ bắt đầu bộc lộ các đặc điểm của con người: lông mi dài, mũi và thậm chí cả bộ ria mép cong vút. Đây không phải là lần cuối cùng Dalí đưa nhiều biểu tượng này vào tác phẩm của mình, và khoảng 30 năm sau, ông quay trở lại The Persistence of Memory với The Disintegration of the Persistence of Memory (1952–54). Tác phẩm lấy bức tranh vẽ năm 1931 của ông và cập nhật nó để phản ánh nỗi lo hiện đại hơn về chiến tranh hạt nhân. Dalí gọi công việc từ đầu những năm 1950 là một phần của “thời kỳ Tê giác ” của ông – sừng tê giác giống như tên lửa phóng dưới nước. Thật kỳ lạ, nguồn gốc của The Persistence of Memory là một bí ẩn — một nhà tài trợ giấu tên đã đưa tác phẩm cho MoMA vào năm 1934. Một khi xuất hiện tại MoMA, không mất nhiều thời gian để bức tranh trở thành một trong những điểm thu hút chính của bảo tàng, với hàng dài người chờ vào xem. Tính phổ biến của tác phẩm kể từ đó đã được củng cố nhờ các cảnh quen trên The Simpsons và Sesame Street. Mặc dù The Persistence of Memory là tác phẩm thời kì đầu của Dalí, nhưng đây là tác phẩm định hình sự thể nghiệm của Dalí trên hiện hiện thực hóa các lý tưởng Siêu thực. Trong “Tuyên ngôn về chủ nghĩa siêu thực”, Breton đã viết: “Chủ nghĩa siêu thực dựa trên niềm tin vào thực tại siêu việt của một số dạng liên kết bị bỏ quên trước đây, vào sự toàn năng của giấc mơ, vào trò chơi vô tư của tư tưởng.”. Tác phẩm mang tính biểu tượng của Dalí tạo ra những liên tưởng mới, tái cấu trúc cơ chế toàn năng của thời gian và mang đến cho bức tranh cảm giác phi lý trí, kinh ngạc đầy mộng mị. Gần 100 năm sau khi ra đời, The Persistence of Memory vẫn là bức chân dung thể hiện tầm nhìn không giới hạn của một nghệ sĩ vĩ đại.
Sự dai dẳng của ký ức
Sự dai dẳng của ký ức (tên gốc tiếng Catalunya: La persistència de la memòria, tiếng Anh: The Persistence of Memory) là tác phẩm tranh sơn dầu tiêu biểu của họa sĩ người Tây Ban Nha, Salvador Dalí. Bức tranh được Dalí sáng tác năm 1931 và được trưng bày lần đầu tiên trong phòng triển lãm của Julien Levy năm 1932; đến năm 1934, tranh được đưa vào bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại (MoMA) tại thành phố New York. Tác phẩm thuộc trường phái siêu thực khắc họa hình ảnh của những chiếc đồng hồ quả quýt đang tan chảy, thể hiện quan điểm của Dalí về sự "mềm mại" và "cứng rắn", những yếu tố mà nhà họa sĩ đương thời bận tâm. Sử gia nghệ thuật Dawn Adès viết, "những chiếc đồng hồ là biểu trưng không rõ ràng về thuyết tương đối không gian - thời gian, là quan điểm siêu thực về sự sụp đổ các khái niệm trong một trật tự vũ trụ cố định". Adès cho rằng Dalí đang quan sát thế giới bằng việc thấm nhuần thuyết tương đối hẹp của Albert Einstein. Tuy nhiên, khi giải đáp thắc mắc trong một buổi trao đổi với nhà hóa học Ilya Prigogine, Dalí cho biết chúng không phải lấy cảm hứng từ thuyết tương đối, mà chỉ là từ những nhận biết thực tế khi ông quan sát một miếng pho mát Camembert tan chảy dưới ánh nắng.
Lý thuyết thị trường hiệu quả là một trong những lý thuyết chính thống, nền tảng của ngành tài chính. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, lý thuyết này lại càng tỏ ra mạnh hơn bất kỳ lý thuyết nào, nó là kim chỉ nam cho nhiều học giả phân tích chứng khoán. Bài viết giới thiệu về lý thuyết này và ứng dụng của nó, đặc biệt trong thị trường chứng khoán. Lý thuyết thị trường hiệu quả có một ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn cũng như trong lý thuyết của ngành tài chính. Nhà kinh tế học Samuelson đã từng nhận xét: “Kinh tế học tài chính được coi là các món phục sức của nhà vua trong các dịp lễ tộc thì Lý thuyết thị trường hiệu quả sẽ chiếm một nửa các đồ trang sức đó!”. Việc tiếp cận Lý thuyết thị trường hiệu quả trong phân tích tài chính phải xuất phát từ khái niệm thị trường hoàn hảo trong kinh tế học. Một thị trường được coi là hoàn hảo khi nó đảm nhiệm được chức năng của nền kinh tế cạnh tranh hoàn hảo, tức là nó sử dụng các đầu vào khan hiếm một cách hiệu quả. Trong nghiên cứu kinh tế nói chung và trong phân tích tài chính nói riêng, một thị trường được coi là hoàn hảo (hiệu quả) khi nó hiệu quả về các mặt: Phân phối, tổ chức hoạt động, thông tin…. Một thị trường được coi là hiệu quả về mặt phân phối khi thị trường đó có khả năng đưa được các nguồn lực khan hiếm đến người sử dụng, sao cho trên cơ sở nguồn lực có được, người ta sẽ tạo ra kết quả đầu ra lớn nhất, tức là họ sử dụng được một cách tối ưu. Người sử dụng tốt nhất cho nguồn lực huy động được là người có khả năng trả giá cao nhất cho quyền được sử dụng nguồn lực đó. Đối với thị trường chứng khoán, tính hiệu quả trên phương diện tổ chức hoạt động thể hiện rõ bởi khả năng làm cực đại hóa quy mô giao dịch trên một thị trường chứng khoán cụ thể. Một thị trường được coi là hiệu quả về mặt thông tin khi giá cả của loại hàng hóa giao dịch trên thị trường được phản ánh đầy đủ và tức thời bởi các thông tin có liên quan. Những thông tin đó bao gồm nhiều loại khác nhau, như thông tin về môi trường kinh tế vĩ mô, thông tin về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh, thông tin về thị trường…. Các nghiên cứu thường xem xét lý thuyết thị trường hiệu quả về mặt thông tin, đánh giá mức độ hiệu quả của thị trường mà ít đi sâu vào góc độ tìm hiểu về thị trường hiệu quả trên phương diện phân phối hay tổ chức của thị trường, bởi vì trong thị trường chứng khoán, tính hiệu quả về mặt thông tin có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của toàn thị trường. Cụ thể hơn, lý thuyết thị trường hiệu quả (trên phương diện thông tin) luôn cho rằng khi tham gia vào một thị trường hiệu quả, nhà đầu tư sẽ ít có cơ hội vượt trội hơn so với những người khác vì hiệu quả của thị trường chứng khoán sẽ khiến cho giá của các cổ phiếu hiện có trên thị trường luôn gắn kết và cung cấp các thông tin tương thích, tức là mọi người đều có khả năng tiếp cận thông tin như nhau. Theo thuyết này thì các chứng khoán sẽ được mua/bán, trao đổi ngang giá trên các sàn giao dịch chứng khoán, do đó sẽ không có cơ hội một cách hệ thống để một số “đại gia” mua ép giá cổ phiếu hoặc thổi phồng mức giá khi bán (hiện tượng làm giá). Người chơi luôn được tin tưởng rằng thị trường đối xử công bằng với tất cả mọi người. Việc phân chia thành các dạng thức hiệu quả của thị trường chứng khoán cho đến nay chúng ta được thấy thực sự hữu ích. Trong lịch sử, Euge Fama (1970) là người đầu tiên phân chia ra các dạng hiệu quả của thị trường thành ba giả thuyết thành phần tương ứng với ba tập thông tin được xem xét:. – Tập thông tin dạng yếu: Tập thông tin chỉ bao hàm các dữ liệu lịch sử về loại chứng khoán đang phân tích. – Tập thông tin dạng trung bình: Tập thông tin bao gồm tất cả các dữ liệu phù hợp đã được công bố ra công chúng trong quá khứ và hiện tại. – Tập thông tin dạng mạnh: Tập thông tin bao gồm tất cả các dữ liệu được biết, không kể các dữ liệu đó có được công bố hay không. Tương ứng ba tập thông tin trên, thị trường hiệu quả được phân chia ra thành ba cấp độ hiệu quả (hay ba dạng hiệu quả), đó là thị trường hiệu quả dạng yếu, thị trường hiệu quả dạng trung bình và thị trường hiệu quả dạng mạnh. Lý thuyết thị trường hiệu quả dạng này cho rằng, giá chứng khoán hiện tại là sự phản ánh đầy đủ mọi thông tin của thị trường chứng khoán, bao gồm các chuyển dịch liên tục của giá, tỷ suất thu nhập, khối lượng giao dịch và các thông tin chung khác như: Mua bán lô lẻ, giao dịch lô lớn và các thương vụ của các chuyên gia ngoại hối hay của các nhóm độc quyền khác. Vì nó giả định rằng, mức giá thị trường hiện tại này đã phản ánh tất cả các thu nhập trong quá khứ và mọi thông tin trên thị trường nên giả thuyết này có nghĩa là lợi suất – suất sinh lời của chứng khoán trong quá khứ cũng như các thông tin khác không có mối liên hệ với tương lai (các lợi suất độc lập với nhau). Nói cách khác, không thể dự báo được giá chứng khoán trong tương lai hay là có thể kiếm được lợi nhuận vượt trội bằng những căn cứ từ thông tin về giá của chúng trong quá khứ. Lý thuyết thị trường hiệu quả dạng trung bình cho rằng, giá chứng khoán sẽ điều chỉnh nhanh chóng trước bất kỳ thông tin công khai nào, tức là mức giá hiện tại phản ánh đầy đủ mọi thông tin công khai trong hiện tại cũng như trong quá khứ, chính vì vậy mà giả thuyết này bao trùm lên giả thuyết hiệu quả dạng yếu. Thông tin công khai cũng bao gồm: Các báo cáo tài chính công khai của doanh nghiệp, các thông báo về thu nhập và cổ tức, chia cổ phần, chia tách cổ phiếu, thưởng cổ phiếu, và các thông tin về kinh tế cũng như chính trị. Đối với người tham gia thị trường chứng khoán, Lý thuyết thị trường hiệu quả dạng này có ý nghĩa rằng, các nhà đầu tư khi ra quyết định dựa trên các thông tin sau khi nó được công bố sẽ không thu được lợi nhuận cao hơn mức trung bình bởi mức giá chứng khoán này đã phản ánh mọi thông tin công khai đó. Lý thuyết thị trường hiệu quả dạng mạnh cho rằng, giá chứng khoán phản ánh tất cả các thông tin từ công khai đến nội bộ. Như vậy, trong một thị trường hiệu quả dạng mạnh, người sử dụng tất cả những thông tin có thể có, dù rằng các thông tin đó có được phổ biến ra công chúng hay không, sẽ không thể thu được lợi nhuận vượt trội so với người khác. Tuy nhiên, chúng ta không chờ đợi rằng thị trường hiệu quả dạng mạnh lại thể hiện đúng theo định nghĩa, bởi vì đây là một giả thuyết về một hình ảnh gần như phi thực tế. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra không thể có thị trường nào mà khi có những thông tin nội gián, người sử dụng chúng lại không thu được lợi ích bất thường (thị trường bất động sản là minh chứng rõ nhất: Khi có thông tin nội bộ về những vùng đất đai quy hoạch thì những người có được thông tin này thực sự có được những đặc lợi khó sánh). Việc nhận dạng được thị trường hiệu quả ở cấp độ nào có ý nghĩa lớn trong thực tiễn. Đối với thị trường chứng khoán Việt Nam, việc kiểm định tính hiệu quả của thị trường, đánh giá mức độ hiệu quả (trên phương diện thông tin) bằng các nghiên cứu định lượng hầu như chưa có. Hy vọng trong thời gian gần đây, các nhà nghiên cứu sẽ xây dựng được các mô hình đánh giá nhằm đưa ra được dạng thức hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam, qua đó các nhà quản lý sẽ có các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao tính hiệu quả của thị trường. Học viện Tài chính (2006), Giáo trình phân tích và đầu tư chứng khoán, NXB Tài chính.
Giả thuyết thị trường hiệu quả
Giả thuyết thị trường hiệu quả (hay lý thuyết thị trường hiệu quả) (tiếng Anh: efficient market hypothesis) là một giả thuyết của lý thuyết tài chính khẳng định rằng các thị trường tài chính là hiệu quả (efficient), rằng giá của chứng khoán trên thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán, phản ánh đầy đủ mọi thông tin đã biết. Do đó không thể kiếm được lợi nhuận bằng cách căn cứ vào các thông tin đã biết hay những hình thái biến động của giá cả trong quá khứ. Có thể nói một cách ngắn gọn là các nhà đầu tư không thể khôn hơn thị trường. Có ba phiên bản của "lý thuyết thị trường hiệu quả": dạng yếu (weak form), dạng bán-mạnh (semi-strong form) và dạng mạnh (strong form). Phiên bản weak form của lý thuyết này cho rằng: giá chứng khoán phản ánh đầy đủ thông tin đã công bố trong quá khứ (nghĩa là dựa vào thông tin trong quá khứ thì nhà đầu cơ không thắng được thị trường). Phiên bản dạng semi-strong form của lý thuyết cho rằng: giá chứng khoán đã chịu tác động đầy đủ của thông tin công bố trong quá khứ cũng như thông tin vừa công bố xong.
Bệnh viêm tuyến tiền liệt nam tuy không gây nguy hiểm đến tính mạng nhưng có thể ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe tâm sinh lý của bệnh nhân, đồng thời có thể gây ra nhiều biến chứng, trong đó có vô sinh nam. Tiền liệt tuyến là tuyến đặc biệt ở nam giới, có kích thước và hình dạng gần giống như quả hồ đào, nằm ở phía dưới bàng quang bao quanh đoạn đầu của niệu đạo. Tuyến tiền liệt có chức năng chính là sản xuất tinh dịch, giúp nuôi dưỡng, vận chuyển tinh trùng (Ở nữ cũng có tuyến tiền liệt nhưng phát triển không đầy đủ như nam giới). Tuyến tiền liệt nam giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe sinh sản. Do đó, các vấn đề, bệnh lý về tuyến tiền liệt ở nam giới nếu không được điều trị sớm có thể dẫn đến tình trạng vô sinh. Viêm tuyến tiền liệt là tình trạng nhiễm trùng tại tuyến tiền liệt do vi khuẩn hoặc không do vi khuẩn. Viêm tuyến tiền liệt là bệnh lý thường xảy ra ở độ tuổi trung niên. Bệnh viêm tuyến tiền liệt gây ra các rối loạn chức năng sinh lý, có thể ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống thường ngày cũng như đời sống tình dục của nam giới. Viêm tuyến tiền liệt có thể xảy ra ở nam giới mọi lứa tuổi, trong đó phổ biến là ở nam giới từ 50 tuổi trở xuống. Ngoài ra, những đối tượng sau dễ có nguy cơ mắc bệnh viêm tuyến tiền liệt:. Viêm tuyến tiền liệt do vi khuẩn là dạng bệnh thường gặp. Vi khuẩn có thể gây viêm nhiễm các cơ quan lân cận tuyến tiền liệt trước đó như gây viêm niệu đạo, viêm bàng quang, có khi ngược đường dẫn tinh, gây ra viêm mào tinh, viêm tinh hoàn. Người có sức đề kháng yếu, rối loạn hệ miễn dịch dễ bị nhiễm khuẩn gây ra viêm tuyến tiền liệtNgười mắc các bệnh nền từ trước như viêm niệu đạo, viêm bàng quan và các khu vực lân cận tuyến tiền liệt làm vi khuẩn sinh sôi gây ra viêm tuyến tiền liệtQuan hệ tình dục không an toàn: Không sử dụng bao cao su khi quan hệ, quan hệ với nhiều người làm tăng nguy cơ mắc bệnh viêm tuyến tiền liệt do vi khuẩn có nhiều nguy cơ xâm nhập vào cơ thểLạm dụng thủ dâm, thủ dâm quá độ: Nam giới thủ dâm với tần suất cao, nhiều lần trong ngày có thể dẫn đến tổn thương tuyến tiền liệt, gây ra viêm nhiễmThói quen sống, sinh hoạt không lành mạnh, sử dụng chất kích thích thường xuyên như rượu, bia, thuốc lá,. cũng khiến nguy cơ viêm tuyến tiền liệt cao hơn. Người mắc các bệnh nền từ trước như viêm niệu đạo, viêm bàng quan và các khu vực lân cận tuyến tiền liệt làm vi khuẩn sinh sôi gây ra viêm tuyến tiền liệtQuan hệ tình dục không an toàn: Không sử dụng bao cao su khi quan hệ, quan hệ với nhiều người làm tăng nguy cơ mắc bệnh viêm tuyến tiền liệt do vi khuẩn có nhiều nguy cơ xâm nhập vào cơ thểLạm dụng thủ dâm, thủ dâm quá độ: Nam giới thủ dâm với tần suất cao, nhiều lần trong ngày có thể dẫn đến tổn thương tuyến tiền liệt, gây ra viêm nhiễmThói quen sống, sinh hoạt không lành mạnh, sử dụng chất kích thích thường xuyên như rượu, bia, thuốc lá,. cũng khiến nguy cơ viêm tuyến tiền liệt cao hơn. Quan hệ tình dục không an toàn: Không sử dụng bao cao su khi quan hệ, quan hệ với nhiều người làm tăng nguy cơ mắc bệnh viêm tuyến tiền liệt do vi khuẩn có nhiều nguy cơ xâm nhập vào cơ thểLạm dụng thủ dâm, thủ dâm quá độ: Nam giới thủ dâm với tần suất cao, nhiều lần trong ngày có thể dẫn đến tổn thương tuyến tiền liệt, gây ra viêm nhiễmThói quen sống, sinh hoạt không lành mạnh, sử dụng chất kích thích thường xuyên như rượu, bia, thuốc lá,. cũng khiến nguy cơ viêm tuyến tiền liệt cao hơn. Lạm dụng thủ dâm, thủ dâm quá độ: Nam giới thủ dâm với tần suất cao, nhiều lần trong ngày có thể dẫn đến tổn thương tuyến tiền liệt, gây ra viêm nhiễmThói quen sống, sinh hoạt không lành mạnh, sử dụng chất kích thích thường xuyên như rượu, bia, thuốc lá,. cũng khiến nguy cơ viêm tuyến tiền liệt cao hơn. Thói quen sống, sinh hoạt không lành mạnh, sử dụng chất kích thích thường xuyên như rượu, bia, thuốc lá,. cũng khiến nguy cơ viêm tuyến tiền liệt cao hơn. Viêm tuyến tiền liệt có hai dạng chính là viêm tuyến tiền liệt cấp tính và viêm tuyến tiền liệt mãn tính. Tùy từng giai đoạn sẽ có những triệu chứng viêm tuyến tiền liệt khác nhau:. Viêm tuyến tiền liệt nếu các triệu chứng kéo dài ít nhất là ba tháng sẽ được coi là mạn tính. Trong một số trường hợp, bệnh nhân có thuyên giảm triệu chứng theo thời gian mà không cần điều trị. Biểu hiện viêm tuyến tiền liệt mạn tính không do vi khuẩn khá giống với viêm tuyến tiền liệt nhiễm khuẩn mạn tính, tuy nhiên người bệnh không có biểu hiện sốt, khi xét nghiệm nước tiểu và tinh dịch không phát hiện thấy vi khuẩn. Ngoài ra, viêm tiền liệt tuyến mạn tính không do khuẩn còn gây ra tình trạng tiểu nhiều và hơi buốt. Bệnh nhân có thể gặp các triệu chứng đau ở giữa bìu và hậu môn, trục trặc trong việc phóng tinh. Sự khác nhau chủ yếu giữa viêm tuyến tiền liệt mạn tính có nhiễm khuẩn và không do vi khuẩn là không thấy vi khuẩn khi làm xét nghiệm nước tiểu và trong dịch của tuyến tiền liệt. Viêm tuyến tiền liệt không do vi khuẩn là trường hợp hiếm gặp hơn so với viêm tuyến tiền liệt nhiễm khuẩn. Dù là dạng viêm tuyến tiền liệt nào, bệnh nhân cũng nên đi khám sớm nhất có thể để tránh biến chứng. Bệnh viêm tuyến tiền liệt xảy ra chủ yếu ở nam giới trong độ tuổi trưởng thành, gây nhiều mệt mỏi, phiền toái tới sinh hoạt thường ngày và làm giảm chất lượng cuộc sống. Viêm tuyến tiền liệt rất khó phát hiện bởi có nhiều triệu chứng giống với viêm bàng quang hoặc viêm niệu đạo. Ở giai đoạn đầu, viêm tuyến tiền liệt không quá nguy hiểm, chưa gây ra nhiều ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe khiến người bệnh coi thường, bỏ qua triệu chứng và không điều trị ngay. Tuy nhiên, viêm tuyến tiền liệt không khắc phục khiến ngay sẽ làm xuất hiện nhiều triệu chứng phức tạp, gây khó khăn trong việc điều trị và có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm. Nhiễm trừng đường tiết niệu: Viêm tuyến tiền liệt khiến bàng quang chịu nhiều áp lực, nước tiểu không kịp bài tiết, lượng vi khuẩn ở nước tiểu tăng lên gây ra tình trạng nhiễm trùng đường tiết niệu, ảnh hưởng tới thận nếu để lâu.Rối loạn nội tiết tố nam do viêm tuyến tiền liệt ảnh hưởng trực tiếp đến việc sản sinh đồng thời làm giảm chất lượng tinh trùng. thậm chí có thể dẫn đến vô sinh nam.Vi khuẩn dễ dàng xâm nhập vào máu, gây ra tình trạng viêm nhiễm như nhiễm trùng máu, viêm nội mạc cơ tim, viêm tinh hoàn.Tuyến tiền liệt bị tổn thương có thể dẫn đến nguy cơ phát triển thành các u xơ, xơ cứng bàng quang, gây nên hiện tượng chảy mủ, chảy máu kèm nước tiểu, có thể gây ra ung thư tiền liệt tuyến. Rối loạn nội tiết tố nam do viêm tuyến tiền liệt ảnh hưởng trực tiếp đến việc sản sinh đồng thời làm giảm chất lượng tinh trùng. thậm chí có thể dẫn đến vô sinh nam.Vi khuẩn dễ dàng xâm nhập vào máu, gây ra tình trạng viêm nhiễm như nhiễm trùng máu, viêm nội mạc cơ tim, viêm tinh hoàn.Tuyến tiền liệt bị tổn thương có thể dẫn đến nguy cơ phát triển thành các u xơ, xơ cứng bàng quang, gây nên hiện tượng chảy mủ, chảy máu kèm nước tiểu, có thể gây ra ung thư tiền liệt tuyến. Vi khuẩn dễ dàng xâm nhập vào máu, gây ra tình trạng viêm nhiễm như nhiễm trùng máu, viêm nội mạc cơ tim, viêm tinh hoàn.Tuyến tiền liệt bị tổn thương có thể dẫn đến nguy cơ phát triển thành các u xơ, xơ cứng bàng quang, gây nên hiện tượng chảy mủ, chảy máu kèm nước tiểu, có thể gây ra ung thư tiền liệt tuyến. Tuyến tiền liệt bị tổn thương có thể dẫn đến nguy cơ phát triển thành các u xơ, xơ cứng bàng quang, gây nên hiện tượng chảy mủ, chảy máu kèm nước tiểu, có thể gây ra ung thư tiền liệt tuyến. Có thể thấy, viêm tuyến tiền liệt là bệnh lý không thể coi thường. Bệnh nhân nên đi khám sớm nhất có thể khi nhận thấy các triệu chứng hoặc thường xuyên đi khám tổng quát định kì để phát hiện bệnh sớm. Nam giới nên đi khám trực tiếp với bác sĩ tại các bệnh viện, phòng khám nam khoa uy tín hoặc bác sĩ Nam khoa online từ xa để được chẩn đoán viêm tuyến tiền liệt chính xác và tư vấn phương pháp điều trị phù hợp. Bệnh viêm tuyến tiền liệt có thể được chẩn đoán dựa trên các yếu tố về bệnh sử, tiền căn của bệnh nhân, các triệu chứng lâm sàng và cách xuất hiện triệu chứng. Bác sĩ sẽ thăm khám tuyến tiền liệt qua ngả trực tràng để xác định độ lớn, mật độ, chạm vào tuyến tiền liệt để xác định triệu chứng đau, mức độ đau và nhạy cảm khi sờ chạm. Xét nghiệm nước tiểu: các thành phần sinh hóa, tế bào, vi khuẩn, nuôi cấy nước tiểu phân lập vi khuẩn gây bệnhXét nghiệm máu: công thức bạch cầu, PSA. Nhiều trường hợp PSA tăng cao do viêm tuyến tiền liệtXét nghiệm dịch từ niệu đạoSiêu âm tuyến tiền liệt qua ngả trực tràngChụp cắt lớp điện toán vùng chậu hoặc chụp cộng hưởng từ vùng chậu nhằm đánh giá tuyến tiền liệt chính xác. Xét nghiệm máu: công thức bạch cầu, PSA. Nhiều trường hợp PSA tăng cao do viêm tuyến tiền liệtXét nghiệm dịch từ niệu đạoSiêu âm tuyến tiền liệt qua ngả trực tràngChụp cắt lớp điện toán vùng chậu hoặc chụp cộng hưởng từ vùng chậu nhằm đánh giá tuyến tiền liệt chính xác. Sử dụng thuốc kháng sinh điều trị viêm đường tiết niệu do nhiễm khuẩn. Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể chỉ định thuốc kháng sinh trong điều trị viêm tuyến tiền liệt không do nhiễm khuẩn với mục đích ngăn ngừa các biến chứng nhiễm khuẩn. Việc điều trị viêm tuyến tiền liệt bằng thuốc cần phải có chỉ định của bác sĩ, bệnh nhân không nên tự ý dùng thuốc và ngừng thuốc vì có thể gây ra các tác dụng phụ nguy hiểm và nguy cơ đề kháng kháng sinh. Bên cạnh việc dùng thuốc, bệnh nhân có thể áp dụng một số biện pháp bổ trợ vật lý trị liệu: Thể dục nằm duỗi thẳng, xoa bóp massage tuyến tiền liệt giúp giảm sung huyết, thư giãn cơ mu dưới,. Tắm nước ấm và xoa bóp có tác dụng thư giãn tuyến tiền liệtTránh hoặc hạn chế sử dụng chất kích thích như uống rượu bia, cà phêHạn chế ăn các loại thực phẩm có tính cay hoặc có tính axitKhông nên ngồi quá lâu một chỗ một , nên chuẩn bị đệm lót khi ngồi để giảm bớt áp lực lên tuyến tiền liệtUống nhiều nước giúp lợi tiểuTránh các hoạt động gây nhiều áp lực lên tuyến tiền liệt như đạp xe,. Tránh hoặc hạn chế sử dụng chất kích thích như uống rượu bia, cà phêHạn chế ăn các loại thực phẩm có tính cay hoặc có tính axitKhông nên ngồi quá lâu một chỗ một , nên chuẩn bị đệm lót khi ngồi để giảm bớt áp lực lên tuyến tiền liệtUống nhiều nước giúp lợi tiểuTránh các hoạt động gây nhiều áp lực lên tuyến tiền liệt như đạp xe,. Hạn chế ăn các loại thực phẩm có tính cay hoặc có tính axitKhông nên ngồi quá lâu một chỗ một , nên chuẩn bị đệm lót khi ngồi để giảm bớt áp lực lên tuyến tiền liệtUống nhiều nước giúp lợi tiểuTránh các hoạt động gây nhiều áp lực lên tuyến tiền liệt như đạp xe,. Không nên ngồi quá lâu một chỗ một , nên chuẩn bị đệm lót khi ngồi để giảm bớt áp lực lên tuyến tiền liệtUống nhiều nước giúp lợi tiểuTránh các hoạt động gây nhiều áp lực lên tuyến tiền liệt như đạp xe,. Uống nhiều nước giúp lợi tiểuTránh các hoạt động gây nhiều áp lực lên tuyến tiền liệt như đạp xe,.
Viêm tiền liệt tuyến
Viêm tiền liệt tuyến hay viêm tuyến tiền liệt là một dạng viêm nhiễm tại bộ phận tuyến tiền liệt và thường biểu hiện dưới hai dạng cấp tính và mạn tính với một số triệu chứng tiêu biểu như đi tiểu nhiều lần, tiểu gấp, tiểu đau, kèm theo sốt. viêm tuyến tiền liệt mạn tính biểu hiện chủ yếu là cảm giác khó chịu vùng bụng dưới, tinh hoàn, đau vùng dưới thắt lưng, tiểu nhiều lần. Tuyến tiền liệt là một tuyến đặc biệt chỉ có ở nam giới, kích thước và hình dạng như hạt của quả hồ đào nằm phía dưới bàng quang bao quanh đoạn đầu của niệu đạo. Khi mới sinh, kích thước tuyến tiền liệt của một bé trai chỉ bằng hạt đỗ. Tuyến này lớn dần theo thời gian và phát triển tăng vọt vào tuổi dậy thì. Cho đến 20 tuổi tuyến tiền liệt đạt đến kích thước của người lớn. Chức năng chính của tuyến tiền liệt là sản xuất tinh dịch, giúp cho việc nuôi dưỡng, vận chuyển tinh trùng đồng thời có chức năng giúp kiểm soát nước tiểu và sản xuất một số chất có trong tinh dịch.
Trong thần thoại Hy Lạp có rất nhiều các vị thần. Nhưng bài viết này sẽ chỉ liệt kê ra 12 vị thần tiêu biểu và quyền lực nhất của Olympus. Sau khi đánh bại Cronus và các Titan, Zeus được các vị thần khác tôn làm thủ lĩnh. Ông trở thành người cai trị Olympus và toàn thể trần gian. Vũ khí của Zeus là những tia sét do những Cyclops tạo ra. Ông thường dùng chúng để trừng phạt những kẻ ông căm ghét, đặc biệt là những kẻ nói dối và thất hứa. Zeus lấy chị gái mình là Hera làm vợ. Tuy vậy, ông vẫn nổi tiếng là vị thần trăng hoa, có rất nhiều con rơi con vãi trong nhân gian. Zeus được coi là vị thần của bầu trời. Ông có sức mạnh điều khiển thiên nhiên, tạo ra mưa giông, gió bão thay đổi mùa màng trong năm. Sau khi chiến thắng cha mình là Titan Cronus, các vị thần chia nhau địa bàn cai quản, và Poseidon trở thành người cai quản đại dương, vị thần bảo trợ cho những người đi biển. Ông cưới Amphitrite – một trong những cháu gái của Titan Oceanus. Poseidon cũng là một vị thần si tình. Ông từng đem lòng yêu nữ thần Demeter. Bà yêu cầu ông hãy tạo ra một sinh vật đẹp đẽ chưa từng có trên đời để tặng bà, và Poseidon đã tạo ra con ngựa đầu tiên trên trần thế ( mặc dù con ngựa này trông hơi bị lỗi). Vũ khí của Poseidon là một cây đinh ba giúp ông điều khiển biển cả và tạo ra động đất. Poseidon được coi là vị thần quyền năng thứ nhì chỉ sau thần Zeus. Cùng với 2 người em của mình, họ trở thành bộ 3 vị thần quyền lực nhất trong thần thoại Hy Lạp. Ông là chúa tể của thế giới dưới lòng đất, cai quản người chết và những linh hồn. Người ta sợ hãi cái tên Hades đến nỗi không dám gọi thẳng tên ông ta mà phải gọi bằng một cái tên khác là Plouton – theo tiếng Hy Lạp nghĩa là sự giàu có. Bởi những mỏ quặng, đá quý dưới lòng đất cũng thuộc sở hữu của Hades. thế nên ông ta còn được coi là vị thần của sự giàu có. Tuy thuộc một trong những vị thần trên Olympus, nhưng Hades rất hiếm khi rời khỏi vương quốc ngầm của mình. Hades sử dụng một cây gậy thần có sức mạnh tạo ra động đất giống với cây đinh ba của Poseidon, ngoài ra, ông ta còn có một chiếc mũ giáp tàng hình – quà tặng của các Cyclops mà ông dùng trong suốt cuộc chiến với các Titan. Nàng là con gái của nữ thần Demeter. Hades say mê sắc đẹp của Persephone và bắt cóc nàng về thế giới lòng đất. Hera là chị gái và cũng là vợ chính thất ( nôm na là chính cung hoàng hậu) của Zeus. Bà là vị thần của Hôn nhân và sự Sinh đẻ, người bảo trợ cho những phụ nữ có chồng và thành phố Argos. Bò cái và công được cho là 2 loài vật thiêng tượng trưng cho Hera. Ban đầu, Zeus tìm cách tán tỉnh Hera nhưng không thành công. Ông đã hóa thành một con chim cúc cu. Khi Hera ôm con chim vào lòng, Zeus hiện nguyên hình và cưỡng hiếp Hera. Hera đành chấp nhận lấy Zeus để khỏi nỗi ô nhục. Cuộc hôn nhân của 2 vị thần này thường không được tốt đẹp, yên ả. Trên thực tế, Hera đã từng lôi kéo các vị thần khác vào một cuộc phản loạn nhằm lật đổ Zeus, nhưng một Hecatoncheires là Briareus đã báo trước cho Zeus. Thần Zeus đập tan kế hoạch làm phản đó. Zeus tha thứ cho các vị thần mà chỉ trừng phạt Hera. Here bị phạt treo trên bầu trời bằng những sợi xích vàng cả đêm. Đến sáng hôm sau, Zeus thả Hera ra với điều kiện bà ta hứa sẽ không bao giờ làm phản. Tuy vậy Hera vẫn thường ngấm ngầm phá hoại các công việc của Zeus. Cũng có rất nhiều câu chuyện về việc Hera đánh ghen, hãm hại những người tình và con riêng của Zeus. Thật là một trò đùa khi Hera là vị thần của Hôn nhân và Gia đình, nhưng lại không thể ngăn chính chồng mình ngủ với người đàn bà khác. Nữ thần của Tình yêu và Sắc đẹp. Không cần bàn cãi về nhan sắc tuyệt trần của Aphrodite, nàng còn có phép thuật khiến mọi người đều phải si mê nàng. Có hai truyền thuyết về nguồn gốc của Aphrodite. Một cho rằng, nàng là con của thần Zeus và nữ thần Dione – nữ thần của xứ Dodona. Một truyền thuyết được chấp nhận nhiều hơn, thì cho rằng Aphrodite sinh ra từ biển cả, bên trong một con sò khổng lồ, sau khi Cronus cắt dương vật của Uranus và ném xuống biển. Mặc dù là nữ thần của sắc đẹp, nhưng éo le thay, Aphrodite lại được gả cho Hephaestus – một vị thần xấu xí ( thật chẳng khác gì Phan Kim Liên và Võ Đại Lang). Nàng ngoại tình với người em trai của Hephaestus là Ares. Hephaestus phát hiện ra và đã trừng phạt bằng cách làm nhục 2 người trước mặt các vị thần khác. Ares là vị thần Chiến tranh, con trai của Zeus và Hera. Ông là đại diện cho bạo lực và sự hung bạo. Ares thường chỉ nhận được sự ghẻ lạnh và căm ghét của cha mẹ. Trong các truyền thuyết, ông cũng thường xuất hiện trong vai trò của kẻ phản diện. Tuy vậy, trước khi xuất quân tham chiến, các đội quân thường có tập tục hiến tế người sống cho thần Ares để cầu xin chiến thắng. Đồng hàng cùng Ares trên chiến trường là những người tùy tùng của ông: Deimos – vị thần của nỗi kinh hoàng, Phobos – vị thần của sự sợ hãi và Iris – nữ thần của sự bất hòa. Hephaestus là vị thần thợ rèn thọt chân, nhà điều khắc, nhà luyện kim, người cai quản ngọn lửa, người tạo ra vũ khí và áo giáp cho các vị thần. Theo truyền thuyết, Hera mang thai Hephaestus, nhưng Zeus không phải cha của đứa trẻ nên Hera đã vứt đứa con vừa sinh của mình xuống biển. May thay ông lại được nữ thần Thetis nuôi nấng và trở thành thợ rèn. Lại có một truyền thuyết khác thì nói rằng Hephaestus vì muốn bảo vệ mẹ mình trước cơn giận của Zeus, đã bị trừng phạt và ném xuống trần, Hephaestus rơi xuống đảo Lemos, bị què một chân. Theo năm tháng ông trở thành một thợ rèn bậc thầy, và được trở lại hàng ngũ các vị thần trên Olympus. Việc lấy được Aphrodite – nữ thần của tình yêu và sắc đẹp làm vợ, có vẻ như là một sự bù đắp cho những mất mát của Hephaestus. Thế nhưng, đáng tiếc là vợ ông lại phản bội ông, ngoại tình với người anh em của ông là thần Ares. Hermes là con trai của thần Zeus và một người phụ nữ tên Maia. Ông là sứ giả của Olympus, người truyền tin của các vị thần, người bảo trợ cho thương nghiệp, những mục đồng và những kẻ trộm cắp. Hermes rất hay ăn trộm đồ của các vị thần hoặc bày trò chọc phá họ. Nhờ có đôi hài có cánh, Hermes có tốc độ di chuyển rất nhanh và có thể đi lại dễ dàng giữa các thế giới. Nhờ thế, ông còn có nhiệm vụ là người dẫn đường cho linh hồn người chết đi đầu thai. Hermes cũng là người tạo ra cây đàn lyre – một nhạc cụ dân gian rất phổ biến của người Hy Lạp. Đó là món quà mà Hermes đền cho Apollo vì tội chọc phá của mình. Ông là vị thần ánh sáng, chân lý, người đại diện cho âm nhạc và nghệ thuật. Apollo thường mang theo một cây cung bạc cùng cây đàn lyre, điều khiển cỗ xe ngựa chở Mặt Trời đi đến từ phương Đông, vì vậy trong dân gian ông cũng thường được người ta đồng nhất chung với thần Mặt Trời Helios. Thần Apollo còn nổi tiếng bởi khả năng tiên tri của mình. Ông được thờ tại một ngôi đền ở Delphi – nơi người dân từ khắp nơi hành hương đến để được ông giải đáp tương lai thông qua những nữ thầy đồng. Một tài năng khác của Apollo đó là thuật chữa bệnh. Ông đã truyền dạy y thuật của mình cho người con trai là Asclepius. Asclepius trở thành một thầy thuốc nổi tiếng, tuy vậy lại đắc tội với thần Hades vì khiến dân số dưới địa ngục của ông ta sụt giảm. Artemis là chị gái song sinh của thần Apollo. Nàng được coi là nữ thần Săn bắn, đại diện cho sự Trinh trắng, Mặt Trăng và thiên nhiên hoang dã. Artemis đã cầu xin cha nàng là thần Zeus ban cho nàng sự tinh khiết vĩnh hằng. Nàng trở thành nữ thần thuần khiết nhất của Olympus bởi nàng không bao giờ yêu. Đam mê duy nhất của Artemis là săn bắn. Hằng đêm, nàng trinh nữ xinh đẹp lại vận lên người bộ đồ săn, đeo cung vàng và tên bạc, cùng những nàng tiên nữ tùy tùng vào rừng săn bắn. Nàng là con gái của Zeus và một công chúa người trần tên Methis. Athena là nữ thần trí tuệ, nghề thủ công mỹ nghệ, đại diện cho chiến tranh chính nghĩa, người bảo trợ cho thủ đô Athens của Hy Lạp. Nàng là một chiến binh dũng cảm trên chiến trường. Tuy đều được coi là thần chiến tranh, nhưng không hung bạo như Ares, Athena chỉ ủng hộ cho hành động phản kháng tự vệ trước sự xâm lăng của quân thù. Không những mạnh mẽ trên chiến trường, Athena còn là một vị thần có trí tuệ . Rất nhiều phát minh của nàng đã trở thành những vật dụng thiết yếu trong nông nghiệp như dây cương ngựa, bình đựng nước, cây cời cỏ…. Theo truyền thuyết khi đó, cả thần Poseidon và Athena đều muốn trở thành người bảo hộ cho miền Atikes. Poseidon tạo ra những cột nước muối để tặng cho dân miền này, nhưng Athena lại tặng họ những cây ô-liu – loại cây sẽ trở nên thiết yếu trong đời sống của người dân Hy Lạp. Vì vậy người dân đã chọn Athena làm vị thần bảo trợ, và đổi tên thành phố thành Athens cũng kể từ đó. Bà được mệnh danh là vị thần của bếp lửa, sự đoàn tụ, người giữ gìn hạnh phúc gia đình. Hestia là một vị thần lương thiện, tài giỏi và khéo léo. Bà được rất nhiều nam thần ngỏ lời cầu hôn nhưng đều từ chối. Hestia thậm chí còn bỏ lại ngôi vị của mình trên Olympus để xuống trần chăm lo cho những người dân mà bà bảo hộ.
Deimos (thần thoại)
Deimos (tiếng Hy Lạp cổ: Δεῖμος, phát âm , có nghĩa là sợ hãi, là vị thần khủng bố trong thần thoại Hy Lạp. Deimos là con trai của Ares và Aphrodite, và là anh em sinh đôi của Phobos; Deimos là thần đại diện cho những cảm giác sợ hãi xảy ra giữa những người chiến đấu, trong khi Phobos nhân cách hóa cảm giác sợ hãi và hoảng loạn. Giống như Phobos, Deimos từng là một trong những người hầu của Ares và hai người họ thường đi cùng cha mình khi Ares chiến đấu trong cỗ xe của mình, cùng với Enyo, nữ thần chiến tranh và đổ máu, và Eris, nữ thần xung đột. Vệ tinh Deimos, vệ tinh nhỏ hơn trong hai mặt trăng của sao Hỏa, được đặt theo tên của nhân vật thần thoại này. Tương đương với La Mã của thần này là Formido hoặc Metus.