text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Susan Hayward (30.6.1917 – 14.3.1975) là nữ diễn viên người Mỹ, đã đoạt Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất năm 1958.
Sau khi làm người mẫu thời trang ở New York, Hayward đã kiếm được một hợp đồng đóng phim và đã tới Hollywood năm 1937 để đóng nhiều vai phụ trong vòng 5 năm. Cuối thập niên 1940, bà được đề cử lần đầu cho Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất trong vai người phụ nữ nghiện rượu ở phim "Smash-Up, the Story of a Woman" (1947). Sự nghiệp diễn xuất của bà tiếp tục thành công trong thập niên 1950, và bà tiếp tục được đề cử cho giải này trong những vai diễn ở các phim "My Foolish Heart" (1949), "With a Song in My Heart" (1952) và "I'll Cry Tomorrow" (1955). Sau 4 lần được đề cử, cuối cùng bà cũng đoạt Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho vai diễn nữ tù nhân Barbara Graham ở khu dành cho các tử tù trong phim "I Want to Live!" (1958).
Sau cuộc hôn nhân thứ hai, bà dọn về cư ngụ ở tiểu bang Georgia, và ít xuất hiện thường xuyên trên phim, nhưng vẫn tiếp tục diễn xuất trên truyền hình và phim tới năm 1972. Bà qua đời năm 1975 do bị ung thư não.
Thời niên thiếu.
Hayward có tên khai sinh là Edythe Marrenner, sinh tại Brooklyn, New York, là con út trong số 3 người con của Ellen (nhũ danh Pearson) và chồng là Walter Marrenner. Bà nội của Hayward là nữ diễn viên Kate Harrigan, ở County Cork, Ireland. Mẹ của Hayward gốc người Thụy Điển. Hayward có một người chị là Florence (sinh tháng 5 năm 1910) và một người anh là Walter, Jr. (sinh tháng 12 năm 1911).
Hayward học tại Trường công 181, tiếp theo là "Trường trung học thương mại cho nữ sinh" (sau này đổi tên là Prospect Heights High School). Trong những năm học trung học, bà thường diễn xuất trong nhiều vở kịch của nhà trường và được các bạn cùng lớp mệnh danh là "kịch nhất". Bà tốt nghiệp tháng 6 năm 1935.
Sự nghiệp.
Hayward bắt đầu sự nghiệp như một người mẫu chụp hình ở New York. Năm 1937 bà tới Hollywood, định xin diễn vai Scarlett O'Hara trong phim "Cuốn theo chiều gió". Mặc dù không được đóng vai này, nhưng Hayward đã được trao cho nhiều vai phụ khác cho tới khi được trao vai chính trong phim "Beau Geste" (1939) đóng cặp với Gary Cooper. Trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai bà diễn chung với John Wayne 2 lần: lần đầu trong vai nữ chính thứ hai "Drusilla Alsto" ở phim "Reap the Wild Wind" (1942), và lần sau trong vai nữ chính ở phim "The Fighting Seabees" (1944). Hayward cũng đóng vai chính trong phiên bản phim "The Hairy Ape" (1944). Tới năm 1956, bà được Howard Hughes trao cho vai "Bortai" trong phim "The Conqueror", đóng cặp với John Wayne.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, bà trở thành một trong các nữ diễn viên chính được ưa chuộng nhất của Hollywood, chẳng hạn như vai chính trong các phim "Tap Roots" (1948), "My Foolish Heart" (1949), "David and Bathsheba" (1951), và phim "With a Song in My Heart" (1952).
Năm 1947, lần đầu bà được đề cử cho Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất trong vai người ca sĩ hộp đêm nghiện rượu ở phim "Smash-Up, the Story of a Woman".
Trong thập niên 1950 bà được hoan nghênh trong các vai diễn như người vợ sầu muộn của tổng thống Andrew Jackson trong phim "The President's Lady" (1953); vai nữ ca sĩ nghiện rượu Lillian Roth trong phim "I'll Cry Tomorrow" (1955) - dựa trên quyển tự truyện bán chạy I'll Cry Tomorrow của Roth - vai diễn này đã mang lại cho bà Giải cho nữ diễn viên xuất sắc nhất (Liên hoan phim Cannes); và vai Barbara Graham - một phụ nữ phạm tội giết người có thật ở California - trong phim "I Want to Live!" (1958). Vai diễn này đã đem lại cho bà Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Năm 1959, bà đóng vai nhân vật chính - Mary Sharron – trong phim "Woman Obsessed".
Tuy Hayward chưa hề nổi tiếng là một ca sĩ vì bà ghét giọng hát của mình, nhưng bà đã đóng vai ca sĩ trong nhiều phim như phim I'll Cry Tomorrow chẳng hạn. Haward cũng đóng vai Jane Froman trong phim "With a Song in My Heart" (1952) - một phim về tiểu sử của nữ ca sĩ Froman – đã đem lại cho bà Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất. Trong phim này giọng của Jane Froman được lồng vào các bài hát do Hayward trình diễn.
Năm 1961, Hayward đóng vai cô gái lao động trong phim "Ada", người đã trở thành vợ của thống đốc tương lai của tiểu bang (do Dean Martin đóng) và cuối cùng bà vợ đã nắm chức thống đốc này. Cùng năm bà đóng vai Rae Smith trong phim "Back Street" của Ross Hunter cùng với John Gavin và Vera Miles. Năm 1967, Hayward đóng vai Helen Lawson thay cho Judy Garland trong phim "Valley of the Dolls" chuyển thể từ tiểu thuyết của Jacqueline Susann.
Hayward tiếp tục diễn xuất tới đầu thập niên 1970, khi bà bị chẩn đoán là mắc chứng ung thư não. Vai diễn chót trên phim của bà là vai Dr. Maggie Cole trong phim truyền hình "Say Goodbye, Maggie Cole" năm 1972. (Phim này được coi như một tập phim thử nghiệm cho một loạt phim truyền hình phát sóng vào cuối tuần, nhưng do bệnh và sức khỏe của bà bị suy yếu nên loạt phim này bị hủy bỏ)
Lần xuất hiện chót trước công chúng của bà là trong buổi lễ trao giải Oscar năm 1974. Tuy rất yếu, nhưng nhờ sự giúp đỡ của Charlton Heston, bà cũng đã trao được giải thưởng cho nữ diễn viên chính đoạt giải xuất sắc nhất.
Đời tư.
Hayward kết hôn với nam diễn viên Jess Barker trong 10 năm, họ có hai con trai song sinh: Gregory và Timothy, sinh ngày 19.2.1945. Cuộc hôn nhân này được các bài báo ngồi lê đôi mách của Hollywood mô tả là đầy sóng gió. Họ ly dị năm 1954. Hayward đã sống sót qua một vụ định tự tử sau cuộc ly dị này. Trong khi tiến hành các thủ tục ly dị, Hayward đang cùng Clark Gable đóng vai chính trong phim "Soldier of Fortune" quay ở Hồng Kông, nhưng bà đã ở lại Hollywood để làm thủ tục ra tòa ly dị, nên các cảnh có bà đóng chung với Clark Gable đã được quay tại trường quay ở Hollywod.
Năm 1957, Hayward tái hôn với Floyd Eaton Chalkley, một doanh nhân kiêm chủ trại chăn nuôi ở bang Georgia. Mặc dù đối với một ngôi sao điện ảnh Hollywood thì Chalkley là một ông chồng không bình thường, nhưng cuộc hôn nhân này là cuộc hôn nhân hạnh phúc. Vợ chồng họ sống trong một nông trại gần Carrollton, Ga. Họ cũng có tài sản ở Quận Cleburne, Alabama, ngay bên ngoài Heflin, Alabama. Tháng 12 năm 1964, vợ chồng bà theo đạo Công giáo và được Linh mục McGuire rửa tội tại nhà thờ Thánh Phêrô và Phaolô trên đường Larimar, thuộc khu East Liberty của Pittsburgh. Bà đã từng gặp linh mục McGuire khi du lịch Trung Quốc và có hứa với linh mục này là nếu có khi nào bà trở lại đạo Công giáo thì sẽ nhờ linh mục này làm lễ rửa tội cho mình. Chalkley qua đời ngày 9.1.1966. Hayward đau buồn, nên dọn về cư ngụ ở Florida, vì không muốn sống ở bang Georgia mà thiếu vắng chồng.
Hayward tin khoa chiêm tinh Bà rất tin tưởng lời khuyên của Carroll Righter - người tự xưng là "the Gregarious Aquarius" và "Astrologer to the Stars" – ông đã cho bà biết rằng giờ tốt nhất để ký một hợp đồng đóng phim là đúng 2 giờ 47 phút buổi sáng, bảo bà chỉnh đồng hồ báo thức vào lúc 2 giờ 45 phút để được chắc chắn là bà nghe theo lời hướng dẫn của ông ta.
Từ trần.
Năm 1973 Hayward được chẩn đoán là bị ung thư não. Ngày 14.3.1975, bà bị tai biến mạch máu não tại ngôi nhà của bà ở Beverly Hills và qua đời ở tuổi 57. Tang lễ của Hayward được cử hành ngày 16.3.1975 tại nhà thờ Công giáo Đức Mẹ hằng Cứu giúp ở Carrollton. Bà được mai táng ở nghĩa trang Đức Mẹ hằng Cứu giúp, bên cạnh người chồng thứ hai, Floyd Eaton Chalkley.
Có sự suy đoán rằng có thể Hayward đã bị ung thư do bụi phóng xạ từ các cuộc thử bom nguyên tử khi bà đóng phim "The Conqueror" chung với John Wayne. Nhiều thành viên trong đoàn làm phim này, kể cả John Wayne, Agnes Moorehead và Pedro Armendáriz, sau này đều chết vì chứng ung thư và những bệnh liên quan tới ung thư.
Susan Hayward có một ngôi sao trên Đại lộ danh vọng Hollywood ở 6251 Đại lộ Hollywood. | 1 | null |
Johann Wilhelm Ritter (1776-1810) là nhà hóa học, nhà vật lý, nhà triết học người Đức. Ông cùng với William Herschel phát hiện ra vùng quang phổ không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Đó chính là tia hồng ngoại. Năm 1801, Ritter còn tìm ra trong Mặt Trời còn có tia tử ngoại mà mắt người cũng không thể nhìn thấy. Ritter đã phát hiện đầu kia của quang phổ Mặt Trời vượt ra khỏi vùng nhìn thấy. Ông quan sát thấy bạc chloride nhanh chóng chuyển từ màu trắng sang màu đen khi phơi trong vùng quang phổ tối của ánh sáng Mặt Trời, gần cuối dải màu tím. Vùng quang phổ này sau đó được gọi là bức xạ cực tím. Phát hiện này đã giúp mở rộng quang phổ của Mặt Trời ra ngoài vùng tím của quang phổ ánh sáng nhìn thấy. Tên của ông được dùng để đặt cho 10781 Ritter. | 1 | null |
Kimberella là một chi động vật đa bào loài chỉ được biết đến từ lớp đá thuộc kỷ Ediacara. Sinh vật giống sên này kiếm ăn bằng cách bới tìm vi sinh vật trên bề mặt, tương tự như động vật thân mềm, mặc dù mối quan hệ của nó với nhóm này còn gây tranh cãi.
Mẫu vật đầu tiên được tìm thấy ở dãy đồi Ediacara của Úc, nhưng nghiên cứu gần đây đã tập trung vào nhiều phát hiện gần Biển Trắng ở Nga, khoảng từ . Cũng như nhiều hóa thạch từ thời kỳ này, mối quan hệ tiến hóa của sinh vật này với các sinh vật khác được tranh luận sôi nổi. Các nhà cổ sinh vật học ban đầu phân loại "Kimberella" như là một loại sứa, nhưng từ năm 1997 kĩ năng giải phẫu phát triển giúp tìm thấy các dấu hiệu cho thấy nó có thể là một động vật thân mềm. Mặc dù một số nhà cổ sinh vật học tranh cãi về việc phân loại nó như một động vật thân mềm, nó thường được chấp nhận như động vật đối sứng hai bên.
Từ nguyên.
Chi này được đặt theo tên của Mr. John Kimber, người đã mạng của ông trong một chuyến thám hiểm đến Trung Úc vào năm 1964. Ban đầu nó được mô tả với tên "Kimberia". N. H. Ludbrook nhận ra nằng tên "Kimberia" đã được tìm hữu bởi "Kimberia" Cotton and Woods, một phân chi rùa. Do đó, Mary Wade đề xuất tên mới "Kimberella" năm 1972. | 1 | null |
William Hyde Wollaston (1766-1828) là nhà vật lý, nhà hóa học người Anh. Năm 1802, Wollaston đã phát hiện ra rằng quang phổ của Mặt Trời không hề liên tục mà bị gián đoạn bởi một số vạch tối. Năm 1807, ông đã phát minh ra máy ảnh Lucida, một lăng kính bốn mặt gắn trên một trụ đỡ nhỏ trên một tờ giấy, cho phép phác họa các vật chính xác hơn. Ngoài ra, ông còn có những phát hiện về các nguyên tố hóa học, có thể kể tới: Paladi và Rhodi, (1803) Osmi (cùng với Smithson Tennant, 1804). Vào năm 1809, Wollaston đã so sánh cả hai oxide của columbi—columbit, có mật độ 5,918 g/cm³, và tantali—tantalit, với mật độ 7,935 g/cm³, và kết luận rằng đó là 2 oxide khác nhau đáng kể về mật độ, và do đó ông giữ tên gọi tantali. Tuy có những thành tựu trên, nhưng cả ông và Humphry Davy đều thất bại trong việc chế tạo động cơ điện. Tên của Wollaston đã được dùng để đặt cho khoáng vật Wollastonit và Huy chương Wollaston. | 1 | null |
Angry Birds Seasons ("Tên cũ: Angry Birds Halloween") là trò chơi thứ hai của Angry Birds.
Giới thiệu và cách chơi.
Cốt truyện.
Những chú chim Angry Birds đang tham gia các lễ hội trên toàn thế giới, thì những chú lợn lại phá phách và làm cho chú chim phải bực mình. Giờ là lúc chúng phải tấn công lũ lợn, và chúng rất cần sự giúp đỡ của bạn
Cách chơi.
Chơi như Angry Birds thông thường
Các mùa chơi.
Mua bán.
Từ v5.2.0, khi Bird Coins được giới thiệu, một số levels từ Seasons 2014 nằm trong mục download bị khóa. Người dùng phải mua để download về máy và chơi
Đồ hỗ trợ năng lượng.
Từ phiên bản của mùa thứ 3, mọi người sẽ được chứng kiến những loại Power-Ups đặc biệt. Game gồm các loại Power-Ups sau
Mighty Eagle.
Mighty Eagle trong Angry Birds Seasons gồm ba loại:
Mighty Eagle Classic.
Mighty Eagle Classic là loại Mighty Eagle của Angry Birds Classic. Giá bán: 0.99$
Mighty Dragon 2012.
Đây là loại Mighty Eagle miễn phí. Loại Mighty Eagle thay thế của Angry Birds Seasons là Mighty Dragon 2012. Thay thế con đại bàng thành một chú rồng đặc biệt chào đón năm mới. Đây cũng được mệnh danh là Power-Ups đầu tiên của Angry Birds Seasons (do nó có ngay từ khi tập: Year of the Dragon ra đời). Power-Ups này chỉ có thể dùng cho tập Year of the Dragons (Season 2).
Nhược điểm: Những nhược điểm của Mighty Dragon 2012 giống như nhược điểm của Mighty Eagle.
Mighty Spalding Ball.
Đây là loại trả tiền. Một quả bóng sẽ hiện lên và đập xuống sân bóng. Chỉ có trong episode: Ham Dunk và All-Star. Có thể mở khóa = cách mua 30 levels trả phí của Ham Dunk hoặc mua Mighty Eagle. Lưu ý là nếu mua 30 levels trả phí thì sẽ đồng thời mở khóa miễn phí Mighty Eagle
Coins.
Từ bản 5.2.0, game cập nhật hệ thống coins. Người chơi có thể mua power-ups bằng coins
Một số Power-Ups chung của game.
Only on Angry Birds Seasons.
Homing Birds: Đánh lợn qua rada
Telebird: Có từ bản 5.2.0, có khả năng di chuyển theo yêu cầu
Power-Ups from Angry Birds Rio.
Alaka-Bam: Có từ phiên bản 3.3.0, bắt nguồn từ năng lượng TNT Drop của Angry Birds Rio. Sử dụng phép thuật và độ nổ mạnh nhất để giết những con lợn
Power-Up Test Site.
Đây là episode cho phép người dùng sử dụng power-ups không giới hạn (như ván Power-Ups Practice của Angry Birds Friends bản mobile) với 5 levels, có từ v5.2.0 | 1 | null |
Augustin-Jean Fresnel (phiên âm thường gặp: Fre-nen, 1788-1827) là nhà vật lý và kỹ sư người Pháp. Năm 1808, Fresnel cùng François Arago phát hiện thấy hai chùm sáng bị phân cực theo hướng vuông góc với nhau, không giao thoa với nhau. Tiếp đó, vào năm 1816, Fresnel nêu ra luận giải toán học chặt chẽ của hiện tượng nhiễu xạ và giao thoa, giải thích chúng một cách thành công bằng lý thuyết sóng, đánh bại lý thuyết hạt ánh sáng. Ông độc lập với Thomas Young, nhà vật lý người Anh, cho rằng ánh sáng là loại sóng ngang (điều này đã nảy sinh lý thuyết ête sau này). Tuy nhiên, vào năm 1819, Siméon-Denis Poisson, một nhà vật lý người Pháp khác, đã phản đối lý thuyết về nhiễu xạ của Fresnel. Viện Hàn lâm Paris đã kêu gọi thí nghiệm để kiểm tra lại, chứng tỏ lý thuyết của Fresnel là đúng. Tiếp theo, vào năm 1821, Fresnel đã nêu ra định luật cho phép các nhà khoa học tính ra cường độ và sự phân cực của ánh sáng phản xạ và khúc xạ. Ông còn phát triển Nguyên lý Huygens-Fresnel giải thích sự truyền ánh sáng dưới dạng các sóng. Ngoài ra, Fresnle còn phát minh ra Thấu kính Fresnel dành cho các ngọn hải đăng. Tên của Augustin-Jean Fresnel được ghi trên tháp Eiffel, được đặt cho tiểu hành tinh 10111 Fresnel. Ông được chôn cất tại nghĩa trang Père-Lachaise. | 1 | null |
Étienne-Louis Malus (1775-1812) là nhà vật lý người Pháp. Năm 1808, ông có một phát hiện quan trọng, đó là ánh sáng Mặt Trời phản xạ bị phân cực phẳng. Chuyện bắt đầu khi Malus, trong nhà riêng tại Paris, đang chơi đùa với một miếng băng Iceland, một tinh thể nổi tiếng vì sự khúc xạ kép, tức là bất kỳ cái gì được nhìn qua nó cũng đều sinh ra hai ảnh. Malus quan sát qua nó ảnh của Mặt Trời bị phản xạ từ một cửa sổ bên kia đường. Lạ thay, tinh thể băng Iceland không hề cho ảnh kép mà lại chỉ cho một ảnh. Khi ánh sáng bị phản xạ khỏi bề mặt, hình như một phần ánh sáng đã bị lọc đi hoặc bị phân cực. Điều này chỉ có thể được giải thích bằng lý thuyết sóng ánh sáng. Phát hiện này khiến những người cùng thời với Malus ủng hộ lý thuyết rằng ánh sáng là sóng. Tên của Malus được ghi trên tháp Eiffel. | 1 | null |
Cầu Seohae là cầu dây văng nối Pyeongtaek và Dangjin, Hàn Quốc. Công trình xây dựng cầu bắt đầu vào năm 1993 và hoàn thành vào năm 2000 với chi phí 677.7 tỉ won. Trong quá trình xây dựng một đầu tiếp nối với phía nam đã bị sụp vào 5 tháng 8 năm 1999. Cây cầu mở cửa vào 9 tháng 11 năm 2000. | 1 | null |
Liên Trọng Ngộ (, ?-14 tháng 2 năm 945) là một nhân vật quân sự của nước Mân thời Ngũ Đại Thập Quốc, từng chủ mưu sát hại Khang Tông Vương Kế Bằng rồi Cảnh Tông Vương Diên Hy.
Liên Trọng Ngộ là người Quang Sơn. Trong thời gian trị vì của Huệ Tông Vương Diên Quân, người này tập hợp những binh sĩ thân tín của Thái Tổ Vương Thẩm Tri thành hai đội quân là Củng thần đô và Khống hạc đô. Vương Diên Quân bị sát hại trong một chính biến vào năm 935, kế vị là Vương Kế Bằng (Vương Sưởng). Vương Sưởng lại mộ 2.000 tráng sĩ để lập ra đội quân phúc tâm, có hiệu là Thần Vệ (宸衛) đô, lộc thưởng đều nhiều hơn so với hai đội quân kia. Vương Sưởng cũng thường hà hiếp hai quân sứ là Chu Văn Tiến và Liên Trọng Ngộ. Có người nói rằng binh sĩ Củng Thần và Khống hạc oán và muốn làm loạn, do vậy Vương Sưởng định phân họ đến đồn trú tại Chương châu và Tuyền châu, khiến họ càng thêm giận dữ.
Ngày Ất Tị (6) tháng 7 năm Kỉ Hợi (24 tháng 7 năm 939), Bắc cung của Mân bị hỏa hoạn thiêu hủy. Sau sự kiện, không bắt được kẻ phá hoại, Vương Sưởng mệnh Liên Trọng Ngộ đưa binh trong ngoài doanh đi quét dọn tro tàn, mỗi ngày có đến vạn người phải lao dịch, sĩ tốt hết sức khổ sở. Vương Sưởng nghi ngờ Liên Trọng Ngộ là người mưu phóng hỏa và dự định diệt trừ người này, Nội học sĩ Trần Đàm (陳郯) bí mật thông báo sự việc cho Liên Trọng Ngộ. Đêm ngày Tân Tị (12) tháng 7 nhuận (29 tháng 8), Liên Trọng Ngộ dẫn theo binh sĩ Củng thần và Khống hạc tấn công vào Trường Xuân cung (長春宮) do Vương Sưởng đang ở đó, cho người đến nghênh Hoàng thúc Vương Diên Hy làm hoàng đế. Vương Sưởng bị bắt trong lúc chạy trốn và bị giết. Khi đó Liên Trọng Ngộ bắt giữ được Thái Thủ Mông (蔡守蒙), người này nhiều lần bán chức quan dưới thời Vương Sưởng nên bị xử trảm.
Củng thần đô chỉ huy sứ Chu Văn Tiến, Các môn sứ Liên Trọng Ngộ do khi trước sát hại Vương Kế Bằng nên thường lo sợ cho tính mạng của bản thân, họ sử dụng việc kết hôn để củng cố quyền lực. Họ càng trở nên lo sợ khi Vương Diên Hy trong khi say rượu đã giết đồng đảng của họ là Khống hạc chỉ huy sứ Ngụy Tòng Lãng (魏從朗). Vương Diên Hy từng uống rượu rồi ngâm thơ của Bạch Cư Dị "duy hữu nhân tâm tương đối gian, chỉ xích chi tình bất năng liệu", khi đó hai người cũng có mặt. Hai người khóc lóc và vái lậy Vương Diên Hy nhiều lần, nói rằng sẽ trung thành, song Vương Diên Hy không đáp lại, khiến họ rất sợ hãi.
Trong khi đó, Lý hậu đố kỵ Thượng hiền phi do hiền phi được Vương Diên Hy sủng ái, Hoàng hậu muốn giết Vương Diên Hy để nhi tử của bà là Vương Á Trừng kế vị, vì thế sai người nói với Chu Văn Tiến và Liên Trọng Ngộ rằng Vương Hy nghi ngờ họ. Khi đó hậu phụ Lý Chân có bệnh, ngày Ất Dậu tháng (13) 3 năm Giáp Thìn (8 tháng 4 năm 944), Vương Hy đến phủ đệ của Lý Chân để thăm hỏi. Chu Văn Tiến và Liên Trọng Ngộ sai Củng thần mã bộ sứ Tiền Đạt (錢達) ám sát Vương Hy ngay trên ngựa. Họ triệu tập bá quân đến triều đường, tuyên bố rằng Mân Thái Tổ Vương Thẩm Tri lập Mân quốc song tử tôn dâm ngược hoang trụy, rằng Trời chán ghét Vương thị, nên đổi sang chọn người có đức để lập làm vua.
Quần thần chẳng ai dám có lời, Liên Trọng Ngộ liền suy Chu Văn Tiến thăng điện, khoác cổn miện, suất quần thần bái nhiều lần và xưng thần. Chu Văn Tiến cho Liên Trọng Ngộ đứng đầu lục quân.
Một thành viên của hoàng tộc Mân là Vương Diên Chính sau đó cho quân tiến công Phúc châu. Ngày Đinh Dậu (29) tháng 12 nhuận cùng năm (14 tháng 2 năm 945), Phúc châu nam lang thừa chỉ Lâm Nhân Hàn (林仁翰) tiến hành binh biến, đem 30 người đến phủ đệ của Liên Trọng Ngộ. Quân của Liên Trọng Ngộ thấy thế thì chạy trốn. Lâm Nhân Hàn cầm cây trượng dài đâm thẳng vào Liên Trọng Ngộ, sau đó cắt lấy thủ cấp để thị chúng, nói rằng Vương Diên Chính sắp đến và cần bắt Chu Văn Tiến để chuộc tội, dân chúng theo Lâm Nhân Hàn. Lâm Nhân Hàn giết Chu Văn Tiến rồi mở cổng thành Phúc châu nghênh Ngô Thành Nghĩa nhập thành, đem thủ cấp của Trọng Ngộ và Văn Tiến đến Kiến châu dâng Vương Diên Chính. | 1 | null |
Sir David Brewster (1781-1868) là nhà vật lý, nhà toán học, nhà thiên văn học, nhà phát minh, nhà văn, nhà sử học người Scotland. Năm 1815, Brewster đã mô tả mối liên hệ toán học đơn giản giữa chiết suất của một chất phản xạ với góc mà ánh sáng đi tới trên chất sẽ bị phân cực. Năm 1816 khi đang làm thí nghiệm về phân cực ánh sáng, ông đã phát minh ra kính vạn hoa. Năm 1849, Brewster phát triển mô hình kính nhìn nổi, một dụng cụ dùng để xem các bản in nổi trở nên phổ biến trong các phòng hội họa thời Victoria của Anh. Tên của ông được đặt cho tiểu hành tinh 10315 Brewster. | 1 | null |
Tập đoàn AT&T (thường được trang trí dưới dạng at&t) là một công ty viễn thông đa quốc gia có trụ sở tại Tháp Whitacre ở vùng trung tâm Dallas, Texas. AT&T là hãng cung cấp dịch vụ điện thoại di động lớn thứ hai và là hãng cung cấp dịch vụ điện thoại cố định lớn nhất ở Hoa Kỳ. Công ty cũng cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền băng thông rộng. AT&T là công ty lớn thứ ba ở Texas (công ty lớn nhất không hoạt động trong ngành dầu mỏ, chỉ sau ExxonMobil và ConocoPhillips, và là công ty lớn nhất ở Dallas). Tính đến tháng 5 năm 2013, AT&T là công ty lớn thứ 21 trên thế giới về giá trị giao dịch, và là công ty không hoạt động trong lĩnh vực dầu mỏ lớn thứ 13. Tính đến năm 2014, đây cũng là công ty viễn thông di động lớn thứ 20 trên thế giới, với trên 250 triệu người dùng di động.
Biểu đồ của tập đoàn AT&T Baby Bells.
| 1 | null |
François Jean Dominique Arago (1786-1853) là nhà toán học, nhà vật lý, nhà thiên văn học người Pháp. Ông còn là một Thủ tướng Pháp thời Đệ nhị Cộng hòa.
Những đóng góp.
Điện từ học.
Ngay sau báo cáo của Hans Christian Ørsted về khả năng tác dụng từ của dòng điện, Arago cùng với André-Marie Ampère, Siméon-Denis Poisson và Jean-Baptiste Biot trở thành những người hăng hái nhất của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp trong việc kiểm định kết quả của Ørsted. Arago biết đến công bố trên của nhà vật lý người Đan Mạch khi đang đi du lịch ở nước ngoài. Khi trở về Paris, ông mô tả lại thí nghiệm mà Ørsted đã làm vào ngày 11 tháng 9 năm 1820. Bài toán về sự liên hệ giữa lực điện và lực từ được nhiều nhà khoa học chú ý và chỉ trong vài tháng, nhiều khám phá đã xuất hiện. Arago đã tìm ra cảm ứng điện từ và chứng minh rằng một cuộc dây có dòng điện chạy qua có tính chất như một thanh nam châm. Arago đã báo cáo thí nghiệm của Ørsted lên Viện Hàn lâm Khoa học vào tháng 9 năm 1820 mà ông làm lại, khiến Ampère phải chú ý.
Quang học.
Ngoài ra, Arago cùng với Augustin-Jean Fresnel ủng hộ lý thuyết sóng ánh sáng của Thomas Young khi qua thí nghiệm của mình, cả hai đều thấy ánh sáng bị phân cực theo hướng vuông góc với nhau, không hề có sự giao thoa.
Thiên văn học.
Arago đã ủng hộ việc đặt tên cho sao Hải Vương là Le Verrier, mặc dù nó bị phản đối ở ngoài Pháp.
Khác.
Arago còn là người giúp cho Butte aux Cailles có một cái giếng, từ đó có một cái bể bơi vào năm 1866.
Tưởng nhớ.
Tên của Arago được đặt cho tiểu hành tinh 1005 Arago và được ghi trên tháp Eiffel. Ông được chôn cất tại nghĩa trang Père-Lachaise. Và nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông, trong các năm 1989-1994, người ta đã dựng lên 135 bức tượng dọc theo kinh tuyến đi qua Paris, trong đó có chín cái thuộc Công viên Montsouris. | 1 | null |
Giovanni Battista Amici (1786-1863) là nhà thiên văn học, nhà vật lý người Ý. Ông phát minh ra kỹ thuật dầu nhũ tương dành cho kính hiển vi vào năm 1840. Kỹ thuật đó chỉ đơn giản là nhúng vật đang nghiên cứu vào một màng dầu, nhưng kỹ thuật này rất quan trọng vì nó làm giảm độ quang sai. Năm 1855, ông trình diễn các thấu kính dìm trong nước dùng cho kính hiển vi. | 1 | null |
Jan Dismas Zelenka (ngày 16 tháng 10 năm 1679 - ngày 23 tháng 12 năm 1745) hay "Johann Dismas Zelenka" là nhà soạn nhạc ba rốc người cộng hòa Séc quan trọng nhất. Ông được ngưỡng mộ về đối âm hài hòa, sáng tạo.
Cuộc sống.
Zelenka sinh ra ở Launiowitz, một thị trấn nhỏ phía đông nam của Prague, ở Bohemia. Ông là con cả trong số tám người con của Marie Magdalena (nhũ danh Hajek) và Jiří Zelenka. Không được biết đến nhiều về những năm đầu của Zelenka. Ông được đào tạo âm nhạc tại trường Clementinum ở Prague. Zelenka phục vụ Baron von Hartig ở Prague, trước khi được bổ nhiệm làm nghệ sĩ violon ở dàn nhạc hoàng gia Dresden khoảng năm 1710.
Năm 1716 ông đến Vienna học, năm 1719 ông trở lại Dresden. Năm 1723 ông trở lại Praha và ra mắt một trong những tác phẩm thế tục của ông là "Sub olea pacis et palma virtutis conspicua orbi regia Bohemiae Corona", cũng trong thời gian ở tại đây ông tập trung vào các tác phẩm khí nhạc. Ông qua đời vào ngày 23 tháng 12 năm 1745 và được chôn cất vào đêm Giáng sinh.
Phong cách âm nhạc.
Các tác phẩm của ông có cấu trúc táo bạo và sự đối âm hài hòa; tác phẩm khí nhạc của ông (trio sonata, capricci, và concerto) là mô hình mẫu mực của phong cách ban đầu của ông (thập niên 1710). Sáu bản trio sonata yêu cầu sự điêu luyện cao và độ nhạy biểu cảm từ người biểu diễn như ông đã tự mình chơi các tác phẩm này.
Ông viết nhiều hình thức, thể loại được xuất phát từ nhiều nơi trên khắp châu Âu thời kỳ đó. Ông cũng chịu ảnh hưởng từ âm nhạc dân gian cộng hòa Séc.
Tác phẩm.
Có 249 tác phẩm của ông được biết đến bao gồm nhạc tôn giáo và thế tục.
Thế tục.
Tác phẩm thanh-khí nhạc
Tác phẩm khí nhạc
Tôn giáo.
Masses và requiems
Oratorios
Litanies
Psalms và hymn
Tác phẩm liturgical và spiritual khác | 1 | null |
Angry Birds Star Wars', dựa theo mô phỏng: Chiến tranh giữa các vì sao. Game đã có trên Android, iOS và PC.
Angry Birds Star Wars vừa đưa ra phiên bản cuối cùng (v.1.5.1)-năm 2014. Phiên bản cuối cùng mang tên Death Star 2. Trước đây, Angry Birds Star Wars đã từng có trên Facebook. Nó đã bị đóng cửa vào 3/3/2014.
Giới thiệu.
Ngày xửa ngày xưa ở một thiên hà xa xôi... một nhóm chim nổi loạn tuyệt vọng đã phải đối mặt với một mối đe dọa tầm cỡ thiên hà: Đế chế quân đội lợn xanh tàn ác! Những chú chim nổi loạn, đã giành được chiến thắng đầu tiên đối với Đế quốc Lợn xanh. Trong trận đấu, những chú chim do thám đã đánh cắp được bản kế hoạch vũ khí tối tân của Đế chế Lợn - Ngôi sao Chết. Và giờ đây các chú chim do thám phải thật nhanh chóng đi giao bản kế hoạch lại cho những chú chim nổi loạn. Để làm được việc này các chú chim sẽ cần tới sự giúp đỡ của bạn!
Nhân vật trong game.
Rất nhiều nhân vật có trong game. Chúng tôi chỉ tham khảo một số nhân vật sau đây:
Phiên bản mới.
Angry Birds Star Wars II sẽ tiếp nối với Angry Birds Star Wars. Phát hành vào tháng 7/11/2013.
Tập.
Tatooine.
Là phần đầu tiên của game. Người chơi phải hoàn thành mới được mở khoá các ván khác.
Cốt truyện.
Công chúa Leia (Stella) bị bắt dưới sự chỉ huy của Darth Vader (Anakin - Red), Leia đưa hai con droid là C-3PO (Mathilda) và R2-D2 (Egg) lên kén cứu sinh xuống Tatooine. Chúng bị thương nhân bán droid Jawa bắt cóc và đem bán cho gia đình Luke Skywalker (Red), sau đó Luke thất lạc R2-D2. Biết nó đã lên núi và Luke một mình đi tìm R2-D2 rồi bị lũ Tusken Raider đánh ngất. Một Jedi già tên là Obi-Wan Kenobi đã cứu Luke rồi đưa cho Luke thanh lightsaber của cha mình, Luke chấp nhận làm đệ tử của Obi-Wan và bắt đầu học những bài học đầu tiên để trở thành một Jedi. Obi-Wan Kenobi đã đưa Luke, C-3PO và R2-D2 gặp một số người bạn là Han Solo (Chuck) và Chewbacca (Terence) và tất cả chấp nhận lên đường giải cứu công chúa Leia trên tàu Mighty Falcon (Millenium Falcon).
Death Star.
Trong phần đầu của Death Star, lũ chim đã thâm nhập vào trụ sở và bị Darth Vader phát hiện nhanh chóng.
Cốt truyện.
Những chú chim đã thâm nhập vào Death Star để giải cứu công chúa Leia. Obi-Wan trực tiếp đánh Darth Vader và bị giết. Những chú chim cùng Leia đã ra khỏi Death Star và trở về căn cứ Rebel và huy động các phi công X-Wing tiến đánh Death Star, các phi công tấn công lò phản ứng gần như bị tiêu diệt, chỉ còn chiếc X-Wing của Luke đang trong tầm ngắm bắn của chiếc TIE Advanced x1 của Darth Vader thì được tàu Mighty Falcon giải cứu và Luke đã bắn nổ lò phản ứng khiến cho Death Star nổ tung cùng với một phần rất lớn Stormtrooper, TIE Pilot và các sĩ quan, đô đốc của Đế chế lợn nhưng Darth Vader đã trốn thoát.
Hoth.
Phần cuối cùng của phiên bản 1.2.0.
Path of the Jedi.
Hãy sẵn sàng cho sử thi của Jedi, với sự giúp đỡ của Yoda, đánh thắng những con lợn từ Dagobah. Đạt 3 sao tất cả các ván có trong game.
Cốt truyện.
Sau khi tiêu diệt Death Star, Đế chế Lợn trả thù bằng cách tấn công vào căn cứ Echo của Rebel ở Hoth do tướng quân Leia Organa dẫn đầu. Các binh lính và phi công của Quân Nổi dậy trong đó có Luke đã dũng cảm chống trả nhưng đã thất bại do thua về vũ khí và số lượng khiến Leia, Han Solo, Chewbacca và các tướng lĩnh phải chạy trốn ra vũ trụ. Theo lời nói của Obi-Wan, Luke đã ra khỏi hành tinh Hoth và đến hành tinh Dagobah, nơi mà người thầy mới của Luke, sư phụ Yoda sẽ giúp cậu trở thành Jedi thực sự.
Cloud City - Bespin.
Thành phố của Lando Calrissian. Boba Fett Missions là episode nằm trong này, mở khóa bằng cách kiếm năm con tàu ẩn, hoặc mua với giá 21.000đ.
Cốt truyện.
Được sự giúp đỡ của Lando Calrissian- một người bạn cũ của Han Solo (Chuck màu nâu), 3 người trong phi hành đoàn đã đáp xuống an toàn và sửa chữa tàu Mighty Falcon nhưng họ không biết rằng Đế chế đã tới đây trước do sự giúp đỡ của Boba Fett và khuất phục Lando.Trong giờ ăn trưa, Lando đã đưa Han, Leia và Chewie vào phòng của Darth Vader, hắn ra lệnh các Stormtrooper bắt lại. Han Solo chấp nhận số phận và rơi vào máy đóng băng. Boba Fett đưa Carbonite Han Solo về Tatooine và đưa cho Jabba. Còn Luke tham gia trận chiến với Vader và bị Vader chặt mất kiếm. Vader nói rằng Luke chính là con của ông ấy và muốn Luke cùng hắn thống trị thiên hà. Luke đã thét lên trong vô vọng. Không còn đường nào khác, Luke đã chấp nhận rơi xuống lỗ thông của Cloud City và được cứu trên tàu Mighty Falcon rồi đưa về tàu tuần dương của Quân Nổi dậy. Những chú chim nhìn qua cửa sổ, chờ đợi niềm hy vọng mới.
Moon of Endor.
Lạc trong rừng rậm âm nhạc của Ewok
Cốt truyện.
Ở Tatooine, Leia đóng giả thành một tên săn tiền thưởng và giải thoát cho Han Solo, không may thì bị Jabba bắt và Leia làm con điếm của ông ta, buộc Luke phải giải cứu. Sau đó, những chú chim bắt đầu cuộc hành trình của mình ở Endor, căn cứ lớn nhất của Đế chế Lợn. Những con Ewok tưởng chúng là những kẻ xâm chiếm và định đem vào nguyên liệu vào bữa tối của chúng, còn C-3P0 được phong là thần. C-3P0 yêu cầu giải thoát, nhưng không đồng ý, buộc Leia phải đến can ngăn. Rồi lũ lợn phát hiện Han Solo đã thoát, đã lập trạm kiểm soát vệ tinh ở đây để tìm, nhưng nó đã bị quân của Han đánh phá.
Death Star 2.
Đây là phần cuối cùng. Sau khi hoàn thành tất cả các ván, bạn sẽ phải gặp hoàng đế Palpatine.
Cốt truyện.
Luke đã đến Death Star để nói chuyện với Darth Vader, nhưng Darth Vader đã bắt Luke lên phòng của hoàng đế Palpatine, Palpatine đã trả thanh lightsaber cho Luke để đánh nhau với Vader với mục đích thầm kín là đưa Luke lên làm chúa tể bóng tối thay cho người cha già của mình nếu Luke thắng Vader. Bất cảm trước những lời nói của cha mình, Luke giận dữ và đánh bại Darth Vader, nhưng Luke vẫn không đồng ý tham gia mặt tối, khiến Darth Sidious giật điện Luke. Khi nhìn vào con mình đang bị sư phụ giật điện, ông đã chấp nhận số phận để tiêu diệt sư phụ cũng là để cứu con trai ông. Trước khi chết, Darth Vader đã được nhìn con lần cuối bằng ánh mắt của chính mình. Trong khi đó, tàu Mighty Falcon do Lando chỉ huy và một số phi công của Quân Nổi dậy đã tấn công vào lò phản ứng của Death Star II và khiê nó bị nổ tung, và may mắn là Luke và các phi công đã thoát chết, Đế chế Lợn bị tiêu diệt. Trong không khí chiến thắng, Luke đã nhìn thấy linh hồn của cha mình với sư phụ Yoda và thầy Obi-Wan. | 1 | null |
sinh 1981 là một đạo diễn phim hoạt hình Nhật Bản đến từ Hokkaido.
Sự nghiệp.
Sau khi tốt nghiệp Đại học Nihon khoa Nghệ thuật Cục phát thanh truyền hình, và thu hút được sự chú ý của giám sát Keiichi Hara vào năm 2005 và được tham gia vào Shin-Ei Animation Được chọn làm một trong những đội ngũ sản xuất phim Doraemon (loạt phim 2005) và trở thành một nhà phát triển sản xuất đầu tiên sau khi qua các chức vụ như đạo diễn, trợ lý đạo diễn. Năm 2014 lần đầu tiên được chọn làm đạo diễn cho phim "". | 1 | null |
Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines là mối quan hệ song phương giữa hai nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Philippines, được thiết lập vào ngày 12 tháng 7 năm 1976. Sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, cùng với việc mở rộng chính sách đối ngoại của Việt Nam, quan hệ giữa hai nước đã ấm lên và phát triển không ngừng trên nhiều lĩnh vực. Trước thềm hội nghị APEC 2015 ở Manila, chính phủ hai nước đã ký kết thoả thuận nâng cấp mối quan hệ lên tầm đối tác chiến lược.
Lịch sử.
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Philippines đã bắt đầu từ nhiều thế kỷ trước. Có bằng chứng cho thấy trước khi người châu Âu đến xâm lược Đông Nam Á, cư dân của hai bên đã có nhiều hoạt động trao đổi buôn bán hàng hoá với nhau. Tàu buôn từ đảo Luzon đã nhiều lần cập cảng Vân Đồn tại Vịnh Bắc Bộ để giao thương. Mối quan hệ buôn bán này chỉ bị gián đoạn khi người Tây Ban Nha đến xâm lấn Philippines và người Pháp tiến hành cai trị Việt Nam từ các thế kỷ 16 và 19.
Thời Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hoà.
Chính phủ Philippines chưa công nhận ngay Quốc gia Việt Nam khi nhà nước này mới thành lập năm 1947, mà mãi cho đến tháng 7 năm 1955, Tổng thống Philippines Ramon Magsaysay mới ký sắc lệnh công nhận Quốc gia Việt Nam như là một nhà nước độc lập, có chủ quyền. Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh tại Việt Nam, nhiều nhân viên y tế Philippines đã được cử sang đây giữa các năm 1954 và 1956 để tham gia cứu trợ người di cư Bắc Việt trong một chiến dịch có tên 'Tình Huynh đệ' do quốc tế bảo trợ. Trong bối cảnh cuộc chiến bắt đầu leo thang, chính phủ Manila của tổng thống Diosdado Macapagal bắt đầu gửi viện trợ kỹ thuật, máy móc, thiết bị cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Tháng 7 năm 1964, Chính quyền quân sự của Đại tướng Nguyễn Khánh gửi công hàm đề nghị Manila hỗ trợ về mặt quân sự để đối phó mối đe doạ ngày càng tăng của Bắc Việt. Ngày 14 tháng 4 năm 1965, thủ tướng Phan Huy Quát gửi thư cho tổng thống Philippines nhắc lại yêu cầu trên. Trong thư, ông kêu gọi Manila cử sang ít nhất 2.000 binh lính sang tham chiến tại Việt Nam. Đề xuất này đã được Macapagal chuyển lên Quốc hội vào cuối năm đó nhưng thất bại do sự chống đối kịch liệt từ phe đối lập do Ferdinand Marcos, chủ tịch Thượng viện, đứng đầu. Tuy nhiên, khi Marcos lên nhậm chức tổng thống, ông lại thúc đẩy cơ quan lập pháp gửi quân sang Việt Nam trong sự ngạc nhiên của công chúng. Với sự ủng hộ của Quốc hội, ngày 11 tháng 7 năm 1966, ông chính thức ký sắc lệnh cử 1.500 lính công binh. Đổi lại, phía Hoa Kỳ sẽ bảo trợ toàn bộ phí tổn hoạt động của tiểu đoàn Philippines cử sang tham chiến cũng như cung cấp thêm các ngân khoản viện trợ kinh tế và quân sự cho Manila. Trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh Manila của khối SEATO, tháng 10 năm 1966, bảy nước thành viên của khối này ra tuyên bố chung cam kết hỗ trợ về nhiều mặt cho Việt Nam Cộng Hoà, trong đó bao gồm chiến lược cải cách kinh tế và quân sự nhằm duy trì an ninh và hoà bình quốc tế.
Khi Việt Nam Cộng Hoà thất thủ, đại sứ quán Philippines ở Sài Gòn chấm dứt hoạt động và đóng cửa trong cuộc di tản của đồng minh ngày 29 tháng 4 năm 1975.
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Trước thời điểm Sài Gòn sụp đổ, chính quyền Manila đã xây dựng nhiều kênh liên lạc với chính quyền Hà Nội của Bắc Việt để tiến tới thiết lập quan hệ ngoại giao với nước này. Được biết, tổng thống Marcos đã uỷ quyền cho phu nhân của mình là Imelda Marcos gặp gỡ với giới chức Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong khi bà đang công du các nước Trung Đông. Đây không phải là điều gì đáng ngạc nhiên bởi vì trong nhiều năm trước đó, ông đã có ý định cải thiện quan hệ với khối xã hội chủ nghĩa nhằm mở rộng cơ hội hợp tác kinh tế và thương mại.
Ngày 9 tháng 7 năm 1976, phái đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền dẫn đầu đã đến Manila bắt đầu tiến trình thiết lập ngoại giao giữa hai nước. Ngày 12 tháng 7, quan hệ ngoại giao chính thức được xác lập. Philippines trở thành nước thứ tư trong khối ASEAN công nhận Việt Nam sau các nước Malaysia, Indonesia và Singapore. Hà Nội và Manila mở cửa đại sứ quán tại thủ đô của nhau năm 1978.
Nhiều vấn đề gây tranh cãi giữa hai nước trong giai đoạn này chủ yếu liên quan đến tàn dư của cuộc chiến, trong đó có việc hồi hương 14 gia đình Philippines và 10 gia đình Việt Nam vẫn còn ở Thành phố Hồ Chí Minh và việc một số người Việt Nam tự nhận là người Philippines để nhập cảnh trái phép vào nước này và việc đại sứ quán Việt Nam tiếp nhận một số bị can tình nghi liên quan đến thị trường ngầm vào trú ẩn. Bất đồng về cách giải quyết các vấn đề đó khiến quan hệ song phương trong thập niên 80 không ổn định và tiến triển chậm.
Sau khi Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi mới và cải cách kinh tế, đầu thập niên 90, quan hệ Việt Nam - Philippines bắt đầu tiến triển rõ nét. Hai bên đã ký kết nhiều văn kiện hợp tác quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư và khoa học-kỹ thuật trong giai đoạn này. Nhiều thành tựu lớn trong số này là việc thành lập Ủy ban hỗn hợp về hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật giữa hai chính phủ (tháng 3 năm 1994), Tuyên bố chung về nguyên tắc 9 điểm giải quyết tranh chấp ở Biển Đông (tháng 11 năm 1995), Hiệp định hợp tác giữa hai Chính phủ về phòng và chống các tội phạm hình sự (tháng 12 năm 1998).
Hai bên tiến hành nhiều chuyến thăm cấp Nhà nước. Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam tháng 11/2002 của Tổng thống Arroyo, hai nước đã ký "Khuôn khổ hợp tác song phương trong 25 năm đầu thế kỷ 21 và thời kỳ tiếp theo".
Trong nhiều năm gần đây, quan hệ hợp tác của hai nước phát triển tốt, mở rộng sâu sắc trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng. Trong đó, hợp tác trên biển và đại dương là một trong những trụ cột quan trọng trong mối quan hệ này.
Trong chuyến thăm cấp Nhà nước của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến Philippines nhân dịp tham dự Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) về Đông Á 2014 tổ chức tại Manila ngày 21 tháng 5 năm 2014, lãnh đạo chính phủ hai bên đã nhất trí cần đẩy mạnh hơn nữa quan hệ song phương, đưa mối quan hệ này lên tầm cao mới. Trong buổi hội đàm, ông Dũng và ông Aquino cũng thống nhất lập Ủy ban công tác chung để xây dựng lộ trình tiến tới quan hệ Đối tác chiến lược.
Ngày 17 tháng 11 năm 2015, trước thềm Hội nghị thượng đỉnh APEC diễn ra tại Manila, Tổng thống Benigno Aquino III đã tiếp đón Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang theo nghi thức cấp nhà nước. Tại đây, lãnh đạo hai nước đã ký kết thoả thuận nâng tầm quan hệ lên đối tác chiến lược.
Mặc dù là nạn nhân của cơn bão Haiyan, người Việt vẫn quyên góp để giúp Philippines trong nỗ lực phục hồi sau thảm họa thiên nhiên, thông qua Hội Chữ thập đỏ Việt Nam.
Kinh tế.
Hiệp định thương mại giữa hai nước được ký kết rất sớm, từ tháng 1 năm 1978 và được thay bằng hiệp định thứ hai ký năm 1995.
Tháng 3/1994, hai nước ký thoả thuận thành lập Ủy ban hỗn hợp về hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật giữa 2 chính phủ. Cho đến nay đã họp được 8 lần. Tại phiên họp lần thứ 4 vào 4-8/11/2005, hai bên dự kiến phấn đấu kim ngạch thương mại hai chiều đạt 2 tỷ USD vào năm 2007. Tại cuộc họp lần thứ 8 của Ủy ban Hợp tác song phương diễn ra tháng 10 năm 2015, hai bên nhất trí nâng kim ngạch hai chiều lên 3 tỷ USD vào năm 2016.
Việt Nam xuất khẩu nông sản (chủ yếu là gạo), linh kiện điện tử sang Philippines và nhập khẩu từ Philippines phân bón, máy móc thiết bị, phụ tùng, khoáng chất, khí hóa lỏng, xăng dầu, dược phẩm, vật liệu xây dựng.
Hiện nay, doanh nghiệp Philippines đang quan tâm đầu tư tại Việt Nam, chủ yếu vào các ngành công nghệ thực phẩm và đồ uống, cơ sở hạ tầng, bất động sản, cung cấp nước sạch, dược phẩm...
Thương mại song phương giữa Việt Nam và Philippines đạt gần 3 tỉ đô la trong năm 2015, và trong nửa đầu năm nay đã tăng trên 15% so với cùng kỳ năm ngoái. Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là nông sản và thực phẩm sang Philippines như gạo, cà phê, tiêu, bánh kẹo, vật liệu xây dựng, và nhập khẩu máy tính, linh kiện điện tử, máy móc thiết bị, phân bón. 2016, khoảng 1.000 sinh viên Việt Nam đang du học tại Philippines, và hàng trăm giảng viên Philippines đang làm việc tại Việt Nam.
Văn hóa.
Trong nhiều năm trở lại đây, hai nước đã tích cực giao lưu, mở rộng hợp tác trên lĩnh vực văn hoá nghệ thuật. Tháng 4 năm 2013, lần đầu tiên Những Ngày văn hóa Philippines tại Việt Nam được tổ chức tại Việt Nam với nhiều hoạt động giao lưu âm nhạc, ca vũ và triển lãm các sản phẩm dệt thủ công của các sắc tộc bản địa Philippines.
Người dân Philippines và người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên có những nét tương đồng trong văn hóa, ví dụ như các hoa văn dệt vải tương tự nhau.
Quốc phòng.
Việt Nam và Philippines là hai nước thành viên của ASEAN, cùng nỗ lực xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Hiện nay, Chính phủ và người dân hai nước Việt Nam - Philippines chia sẻ những quan ngại sâu sắc về việc Trung Quốc liên tục có những hành vi vi phạm Công ước của LHQ về Luật biển năm 1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
Năm 2010, Philippines và Việt Nam đã đạt được Biên bản ghi nhớ (MOU) về Hợp tác Quốc phòng. Một Quy trình Điều hành chuẩn (SOP) tạo điều kiện cho tuần tra chung trên biển giữa hai nước đã được ký kết trong chuyến thăm và đối thoại của Tư lệnh hải quân Philippines tới Hà Nội năm 2012.
Trong tình hình leo thang căng thẳng tại Biển Đông và việc Trung Quốc gia tăng các hoạt động quân sự trên các đảo và quần đảo có tranh chấp, hai bên đã tiến hành nhiều hoạt động hợp tác quân sự. Trong đó nổi bật nhất là hai chuyến giao lưu giữa quan chức cấp cao và lực lượng Hải quân trú đóng của hai nước tại các đảo Song Tử Tây (tháng 6 năm 2014) và Song Tử Đông năm 2015. Thông qua các hoạt động hội đàm, văn nghệ, giao hữu thể thao ngắn ngày, hai bên mong muốn củng cố và tăng cường mối quan hệ hữu nghị, hợp tác, sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau giữa hải quân hai nước nhằm phối hợp hoạt động tìm kiếm cứu nạn, chia sẻ thông tin, các vấn đề an ninh và an toàn hàng hải trong khu vực biển Đông . Vào ngày 23 tháng 11 năm 2014, hai tàu khu trục của Hải quân Nhân dân Việt Nam đã thực hiện ghé cảng đầu tiên đến Philippines. Tàu HQ-011 Đinh Tiến Hoàng và HQ-012 Lý Thái Để cập cảng Manila South Harbor cho chuyến thăm thiện chí kéo dài ba ngày. Động thái này được khởi xướng bởi cựu Tổng thống Benigno Aquino.
Tranh chấp lãnh thổ trên biển.
Philippines và Việt Nam có tranh chấp lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa, cùng với Brunei, Trung Quốc, Malaysia và Đài Loan. Cả Philippines và Việt Nam đều không tán thành bản đồ chín đoạn của Trung Quốc mà Trung Quốc sử dụng để biện minh cho yêu sách của mình ở Biển Đông. Cả hai nước cũng cam kết thực hiện một cách tiếp cận ngoại giao đa phương đối với việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông với UNCLOS được đưa vào điều khoản.
Vào tháng 12 năm 2015, những tên cướp biển được cho là từ Cướp biển Moro, những người Hồi giáo theo đạo Hồi lừa đảo muốn gây ra tội ác chiến tranh ở Philippines, đã sát hại một ngư dân Việt Nam gây ra sự phản kháng mạnh mẽ từ phía Việt Nam.
Năm 2016, sau một cuộc chiến pháp lý ở The Hague, Tòa án Công lý Quốc tế của Liên Hợp Quốc đã ra phán quyết ủng hộ mọi lập luận của Philippines chống lại yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông, phá hủy hiệu quả các yêu sách của Trung Quốc trên trường quốc tế. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫy phán quyết của tòa án quốc tế mặc dù là một bên ký kết về luật pháp quốc tế và UNCLOS và đã gửi thêm tàu quân sự ở Biển Đông, thay thế các rạn san hô bằng các đảo nhân tạo chứa các căn cứ quân sự và bệ phóng tên lửa. Việt Nam chính thức hỗ trợ Philippines trong vụ kiện trọng tài chống lại Trung Quốc liên quan đến yêu sách chín phần của Trung Quốc đối với Biển Đông từ đầu đến cuối. Vào tháng 8 năm 2017, Việt Nam đã thúc đẩy việc đưa vào một tuyên bố mạnh mẽ hơn đối với các tranh chấp của Trung Quốc ở Biển Đông, qua đó ủng hộ quan điểm của Philippines và các quốc gia khác về đường lãnh hải không được quốc tế công nhận của Trung Quốc (đường chín đoạn)
Đại sứ quán, lãnh sự quán.
- Tại Việt Nam:
- Tại Philippines: | 1 | null |
Sir John Frederick William Herschel, nam tước thứ nhất (1792-1871) là nhà toán học, nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà hóa học, nhiếp ảnh gia người Anh. Ông là con trai của nhà thiên văn người Anh gốc Đức William Herschel và có tới 11 đứa con.
Những đóng góp.
Những nghiên cứu về thiên văn học.
Omega Centauri.
John Herschel là người đầu tiên nhận ra Omega Centauri là một cụm sao cầu vào thập niên 1830.
Messier 100.
John Herschel đã mở rộng những phát hiện về nó vào năm 1833.
Tinh vân Omega.
Ý định đầu tiên nhằm vẽ ra chính xác tinh vân này (như một phần của loạt các phác họa về các tinh vân) đã được John Herschel thực hiện năm 1833 và công bố năm 1836. Ông miêu tả tinh vân này như là chữ cái Hy Lạp omega (Ω) hoa, hơi bị biến dạng và có độ sáng không đều.
NGC 2207 và IC 2163.
Cả hai thiên hà này đều được phát hiện bởi John Herschel vào năm 1835.
Centaurus A.
Sự dị thường của thiên hà này, cụ thể là nhìn từ Trái Đất, thiên hà nhìn giống như thiên hà thấu kính hoặc elip với các dải bụi chồng lên, lần đầu tiên được John Hersch miêu tả năm 1847, và thiên hà được liệt kê trong "Tập bản đồ các thiên hà dị thường" (xuất bản năm 1966) như là một trong những ví dụ tốt nhất về thiên hà bị "nhiễu loạn" với sự hấp thụ bụi..
Các vệ tinh.
Sao Thổ.
John Herschel đã đặt tên cho các vệ tinh này trong lần xuất bản năm 1847 cuốn "Results of Astronomical Observations Made at the Cape of Good Hope" của ông.. Những vệ tinh được ông đặt tên gồm Enceladus, Iapetus, Mimas, Rhea,Titan và Tethys.
Sao Thiên Vương.
Năm 1852, John Herschel đã đề xuất tên cho bốn vệ tinh của hành tinh này và vẫn còn được sử dụng đến ngày nay. Bốn vệ tinh đó là Ariel, Oberon, Titania và Umbriel.
Siêu đám Xử Nữ.
Năm 1863, John Herschel công bố những tinh vân có hình dạng lớn nằm trong chòm sao Thất Nữ (gần phía bắc của cực thiên hà).
Tinh vân Đại Bàng.
John Herschel xem nó là một đám mây với hàng trăm ngôi sao sáng.
Tinh vân Lagoon.
John Herschel đã đặt tên cho nó là tinh vân Đồng Hồ Cát.
Thiên thể NGC.
John Herschel đã thực hiện nhiều quan sát về các thiên thể bầu trời bán cầu nam.
Những vì sao.
John Herschel đã lặp lại nghiên cứu của người cha William ở bán cầu nam và tìm thấy điều tương tự về số lượng sao tăng ổn định theo cùng một hướng, theo hướng vào lõi Ngân Hà.
Những nghiên cứu khác.
Ngày Julius.
Trong quyển Outlines of Astronomy, xuất bản lần đầu năm 1849, nhà thiên văn John Herschel đã viết:
"Năm đầu tiên của chu kỳ Julius, cũng là năm số 1 của 3 chu kỳ thành phần, là vào năm 4713 TCN, và giữa trưa ngày 1 tháng 1 của năm đó, đối với kinh tuyến đi qua Alexandria, là thời điểm khởi nguyên, để xác định các sự kiện lịch sử, bằng việc tính số nguyên ngày giữa thời điểm khởi nguyên và giữa trưa (đối với Alexandria) của ngày. Thiên đỉnh của Alexandria được chọn vì Ptolemy đã dựa vào nó khi đề xuất kỷ nguyên Nabonassar, cơ sở của mọi tính toán của ông".
Phát hiện vach phổ.
Vào năm 1840, John Herschel đã phát hiện ra các vạch phổ Fraunhofer trong vùng hồng ngoại, vùng ánh sáng mà cha ông đã phát hiện 40 năm về trước.
Natri thiosunfat.
John Herschel còn khám phá ra khả năng xử lý ảnh của chất này. Và nó rất có ứng dụng trong nhiếp ảnh.
Kính áp tròng.
John Herschel cho rằng cho rằng có thể thu nhỏ thấu kính vẫn được sử dụng vào các công việc khác thành loại kính có thể đặt được vào mắt người thường.
Xác suất.
John Herschel cũng có chứng minh về định luật điều kiện của sai số trong xác suất.
Nicrophorus pustulatus.
John Herschel đã có miêu tả về loài bọ cánh cứng này vào năm 1807.
Vinh danh.
Tên của John Herschel được đặt cho một hố trên Mặt Trăng, một ngọn núi và một hòn đảo tại Nam Cực. Ông được chôn cất tại Tu viện Westminster, cạnh hai con người vĩ đại khác là Charles Darwin và Isaac Newton.
Trò đánh lừa mạo danh John Herschel.
"Trò đánh lừa về mặt trăng" là vụ đánh lừa của báo chí với công chúng, mạo danh John Herschel. Tháng 8/1835 tờ "The Sun" ở New York đăng trên trang nhất loạt bài liệt kê một chuỗi các khám phá thiên văn học không thể tin nổi, với sự trợ giúp của kính thiên văn cực lớn và những phương pháp đặc biệt, do nhà thiên văn học người Anh, Hiệp sĩ John Herschel thực hiện. Bài báo cho biết "một học thuyết mới về hiện tượng sao chổi" đã được phát triển, đã tìm ra các hành tinh trong những chòm sao khác và đã "giải và sửa chữa gần như mọi vấn đề toán học nghiêm trọng nhất trong ngành thiên văn học".
Sau đó báo đề cập đến thành quả tuyệt vời nhất của Herschel, là ông đã tìm thấy sự sống trí tuệ trên mặt trăng, thấy rừng, biển, các kim tự tháp màu hoa cà, những đàn bò rừng bizon, các con ngựa một sừng màu xanh... sống trên những ngọn đồi.
New York Sun còn đăng tới khi công chúng phát hiện ra đó là một trò đánh lừa, còn John Herschel thì không biết đến những vụ việc này. | 1 | null |
William Anthony "Tony" Parker, Jr. (sinh ngày 17 tháng 5 năm 1982) là một cựu vận động viên bóng rổ chuyên nghiệp người Pháp và là chủ sở hữu phần lớn của đội bóng ASVEL Basket thi đấu ở giải LNB Pro A.
Là con trai của một vận động viên bóng rổ chuyên nghiệp, Parker chơi hai năm cho đội Paris Basket Racing trong Giải Bóng rổ Pháp trước khi bước vào NBA năm 2001. Anh được chọn bởi San Antonio Spurs ở lượt thứ 28 trong kỳ NBA draft năm 2001. Anh chơi ở vị trí hậu vệ dẫn bóng và nhanh chóng trở thành người có tầm quan trọng của đội bóng, giúp Spurs giành được 4 chức vô địch NBA trong các năm 2003, 2005, 2007 và 2014. Với chiều cao và tốc độ của mình, Parker có hiệu suất ghi điểm tuyệt vời, Parker được tham gia trận đấu Các ngôi sao NBA, Đội hình tiêu biểu NBA và một đội All-NBA thứ ba. Năm 2007, anh giành Giải thưởng Bill Russell NBA. Anh cũng đã chơi cho ASVEL Basket ở Pháp khi giải NBA 2011 không hoạt động, và kết thúc sự nghiệp thi đấu của mình sau một mùa giải với Charlotte Hornets. Anh đã nghỉ hưu với tư cách là cầu thủ ghi điểm nhiều thứ chín và người chuyền bóng nhiều thứ năm trong lịch sử NBA playoffs (vòng đấu loại trực tiếp của NBA).
Parker giúp đôi tuyển bóng rổ Pháp giành Giải vô địch Bóng rổ châu Âu 2013 sau khi Pháp giành chiến thắng trước Litva (80-66) trong trận chung kết. Anh cũng là vận động viên chơi ở vị trí bảo vệ rổ ghi bàn hàng đầu tại giải đấu với trung bình 19 điểm mỗi trận.
Parker cũng là một nghệ sĩ âm nhạc với album âm nhạc "TP (album Tony Parker)" riêng của mình. Anh đã kết hôn với nữ diễn viên Eva Longoria vào ngày 7 tháng 7 năm 2007. Tháng 11 năm 2010, sau quãng thời gian chung sống, họ đã li dị. | 1 | null |
William Parsons, Bá tước thứ ba của Rosse (1800-1867) là nhà thiên văn học người Ireland. Ông đã quan sát tinh vân Con Cua tại lâu đài Birr những năm 1840, và đặt tên cho nó là như trên bởi vì hình vẽ của ông về tinh vân giống với hình ảnh một con cua. Năm 1845, ông đã hoàn tất việc xây dựng chiếc kính thiên văn phản xạ quang học 72 inches tại Lâu đài Birr ở Parsonstown, Ireland. Nhờ chiếc kính này, Bá tước Rosse đã phát hiện ra Thiên hà Xoáy Nước có hình xoắn ốc, quan sát thiên hà Chong Chóng và phác lại hình ảnh của nó và khám phá ra một số đặc điểm đặc trưng của các thiên hà elip và thiên hà xoắn ốc. Ông còn liệt kê 14 thiên hà xoắn ốc vào năm 1850. | 1 | null |
Nhà báo Xuân Ba, tên thật là Trịnh Huyên. Sinh năm Ngọ (1954) tại Làng Lon Biện Thượng, Thanh Hóa (nay là thôn Việt Yên, xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa).
Học khoa văn Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1976.
Mặc dù cũng có viết lách này khác và thi thoảng làm thơ, nhưng tự nhận xét về bản thân là người chuyên độc diễn (tòng sự mỗi một Sở làm-Báo Tiền Phong). Viết mỗi một thể loại Phóng sự Bút ký văn học. Cũng chính sự độc ấy đã đưa ông trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1998 (Nhà văn Nguyễn Khải giới thiệu).
Tác phẩm.
1. "Mọi linh hồn đều được đưa tiễn (Nhà xuất bản Hội Nhà văn"", 1991);"
2. "Vẫn phải tin vào những giọt nước mắt (Nhà xuất bản Văn Học"", 1995);"
3. "Thời chưa xa người chưa cũ (Nhà xuất bản Văn học, 2004);"
4. "Khang khác mây thường (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2004);"
5. "Chuyện buồn kể muộn (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2005);"
6. "Một tuần nước Mỹ (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2006);"
7. "Ngọn cỏ gió vờn (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2013);"
8. "Những cự ly thương mến (Nhà xuất bản Thanh Niên "", 2013);"
9. "Đêm dài lắm mộng (Nhà xuất bản Văn Học, 2014);"
Tham khảo.
1. Chẳng có ai tẻ nhạt trên đời;
2. Xuân Ba tìm chốn bình yên;
3. Xuân Ba, duyên phận với nghề
4. Đấy là ông Xuân Ba;
5. Nhà báo Xuân Ba kể về hai lần khởi tố; | 1 | null |
Aloysius Paulus Maria van Gaal, thường được gọi là Louis van Gaal (; sinh ngày 8 tháng 8 năm 1951) là một huấn luyện viên bóng đá Hà Lan. Ông từng là huấn luyện viên của Ajax, Barcelona, Bayern Munich, và Manchester United và đội tuyển Hà Lan.
Trước khi làm huấn luyện viên, Van Gaal từng là một cầu thủ ở vị trí tiền vệ cho Royal Antwerp, Telstar, Sparta Rotterdam, AZ và Ajax. Ông cũng là một giáo viên thể dục dụng cụ đầy đủ và đã làm việc như vậy tại các trường đại học trong giai đoạn khác nhau trong sự nghiệp của mình như là cầu thủ bóng đá bán chuyên nghiệp.
Van Gaal là một người ủng hộ cuồng nhiệt của bóng đá tấn công, giáo dục trong truyền thống của bóng đá tổng lực phong cách chơi của Ajax và đội tuyển quốc gia Hà Lan trong những năm 1970. Sau một thời gian ngắn làm HLV tại Ajax, Van Gaal từng là trợ lý HLV dưới quyền Leo Beenhakker tại Ajax và cuối cùng trở thành huấn luyện viên trưởng vào năm 1991. Dưới sự dẫn dắt của ông, câu lạc bộ giành được ba cúp vô địch Giải vô địch bóng đá Hà Lan, Cúp UEFA và Champions League. Van Gaal chuyển đến F.C. Barcelona vào năm 1997 và giành được hai chức vô địch Tây Ban Nha và một Cúp Nhà vua Tây Ban Nha. Sau khi một số bất đồng tại Barcelona, ông được bổ nhiệm huấn luyện viên của đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan, nhưng không vượt qua vòng loại World Cup 2002. Một giai đoạn ngắn ở Barcelona sau trước khi ông trở thành HLV của Ajax. Sau khi giành Eredivisie với Ajax trong 2008–09, ông ký hợp đồng với Bayern Munich vào ngày 1 tháng 7 năm 2009. Trong mùa giải đầu tiên của mình tại Bayern, một mặt ông giúp câu lạc vô địch giải bóng đá Đức Bundesliga, Cúp bóng đá Đức, và vào đến chung kết Champions League. Vào tháng 7 năm 2012, ông được bổ nhiệm làm HLV của Hà Lan lần thứ hai, và đã được dắt đội tuyển Hà Lan tham dự World Cup 2014.
Vào ngày 19 tháng 5 năm 2014 ông đã được CLB Manchester United bổ nhiệm làm HLV trưởng sau khi người tiền nhiệm David Moyes bị sa thải. Ông bắt đầu công việc tại Manchester United vào ngày 14 tháng 7 năm 2014 sau khi ông cùng Hà Lan giành hạng ba World Cup 2014.
Từ ngày 24.12.2015, bên cạnh việc José Mourinho của Chelsea bị sa thải do quản lý kém, thì xuất hiện tin đồn từ một số tờ báo Anh đăng tải rằng van Gaal đã bị sa thải. Tuy nhiên, tin tức này chỉ do phỏng đoán. Ngay lập tức, HLV Louis van Gaal đã yêu cầu báo giới Anh xin lỗi ông vì những gì báo giới viết trong những ngày qua khiến vợ con và các bạn ông có cảm tưởng rằng ông đã bị ban lãnh đạo Manchester United sa thải. Hiện tại, cho dù ông đã giúp CLB vô địch Cúp FA mùa giải 2015–16, danh hiệu lớn đầu tiên kể từ lúc Alex Ferguson nghỉ hưu vào năm 2013, tuy nhiên chỉ thành tích đó vẫn chưa thể làm hài lòng ban lãnh đạo và người hâm mộ, đến cuối tháng 5/2016, ông buộc phải rời khỏi vị trí huấn luyện viên trưởng câu lạc bộ.
Cuộc sống cá nhân.
Louis van Gaal là con út trong 9 anh chị em của một gia đình công giáo La Mã. Cha ông, 1 nhân viên bán hàng, qua đời khi ông được 11 tuổi. Vợ đầu tiên của van Gaal, Fernanda, với hai đứa con gái đầu lòng Brenda và Renate, qua đời vì ung thư tuyến tụy vào năm 1994. Ông kết hôn với người vợ hiện tại của mình, Truus, vào năm 2008.
Thành tích.
Cầu thủ.
Ajax Amsterdam | 1 | null |
Đại học Nhà vua Luân Đôn (King's College London, gọi tắt là KCL hoặc King's), là một trường đại học nghiên cứu công lập tại Vương Quốc Anh. Trường được thành lập dưới hiến chương hoàng gia ban hành bởi Vua George đệ tứ và Công tước xứ Wellington vào năm 1829 và là thành viên sáng lập của Viện Đại học Luân Đôn và Nhóm Russell. QS xếp hạng đại học này tốt thứ 35 thế giới.
Giảng viên và cựu sinh viên của King's bao gồm 14 người đạt giải Nobel, các nhà khoa học có công khám phá ra cấu trúc của DNA, Viêm gan B và hạt Higgs, người đi đầu trong nghiên cứu thụ tinh trong ống nghiệm và sử dụng tế bào gốc, cũng như các nhà phát minh quan trọng trong lĩnh vực radar, vô tuyến, truyền hình và điện thoại di động. Cựu học sinh bao gồm một số nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo các tổ chức quốc tế, 19 thành viên Hạ viện và 17 thành viên Thượng viện Anh, 3 người từng đoạt giải Oscars, 3 người thắng giải Grammy và 1 người thắng giải Emmy.
Các khóa học tại đây được giảng dạy tại 9 trường chuyên môn trải khắp 5 khuôn viên ở trung tâm Luân Đôn. Trường có tỉ lệ trúng tuyển 57% cho bậc cử nhân và 47% cho bậc cao học. | 1 | null |
Zospeum tholussum là một loài ốc sên sống trong hang động của họ Ellobiidae. Nó là một loài rất nhỏ với chiều cao vỏ dưới và chiều rộng vỏ khoảng . Cá thể "Z. tholussum" hoàn toàn mù và có vỏ với 5-6 vòng xoắn. "Zospeum tholussum" được phát hiện ở độ sâu ở hang Lukina jama–Trojama tại Croatia vào năm 2010 một chuyến thám hiểm hang động. Nó được mô tả chính thức như một loài mới vào năm 2013 bởi các nhà phân loại học Tiến sĩ Alexander M. Weigand. Vào năm 22 tháng 3 năm 2014 nó đã được đưa vào danh sách "Top 10 loài mới năm 2014 ", được lựa chọn từ một cơ sở quốc tế của các chuyên gia phân loại và công bố bởi "International Institute for Species Exploration" (IISE).
Mô tả.
"Zospeum tholussum" là ốc sên nhỏ với chiều cao vỏ chỉ khoảng và chiều rộng vỏ khoảng . Chiều cao vỏ tỷ lệ chiều rộng là giữa 1,34-1,62. Vỏ có khoảng 5-6 vòng xoắn. Vòng xoắn thứ hai đặc biệt vì rất to và hình dạng giống hình vòm, với độ cao khoảng đến của chiều cao của vòng xoắn thứ ba và thứ tư kết hợp.
Miệng vỏ (khẩu độ) dài khoảng và rộng khoảng , với chiều cao khẩu độ tỷ lệ chiều rộng 1,05 tới 1,30. Nó không có răng. Vỏ thường rất mỏng và dễ vỡ với một bề mặt nhẵn. Vỏ sạch hoặc vỏ những mẫu vật sống màu trong mờ, trong khi những con ốc sên già có màu dục hơn, với màu trắng sữa. | 1 | null |
Ngày 22 tháng 5 năm 2014, Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Thái Lan, lãnh đạo bởi Đại tướng Prayut Chan-o-cha, Tổng tư lệnh của , phát động cuộc đảo chính lần thứ 12 kể từ lần đầu tiên vào năm 1932 với chính phủ tạm quyền của Thái Lan. Đây là diễn biến tiếp theo sau 6 tháng khủng hoảng chính trị. Quân đội thành lập một chính phủ quân quản gọi là Hội đồng Hòa bình và Trật tự Quốc gia Thái Lan (NCPO) để kiểm soát đất nước. Sự kiện này kết thúc xung đột chính trị giữa chính quyền quân đội và chính quyền dân chủ, vốn đã kéo dài từ đảo chính Thái Lan 2006. 7 năm sau, nó trở thành biểu tình Thái Lan 2020 để yêu cầu cải cách chế độ quân chủ Thái Lan.
Sau khi giải tán chính phủ và Thượng viện, NCPO đặt hết mọi quyền thi pháp và lập pháp vào các lãnh đạo của họ và hệ thống tư pháp hoạt động dưới sự chỉ đạo của họ. NCPO cũng bãi bỏ Hiến pháp Thái Lan 2007, chỉ giữ lại điều thứ hai đề cập đến nhà vua, tuyên bố thiết quân luật và giờ giới nghiêm trên toàn quốc, cấm tụ tập chính trị, bắt giam và tạm giam các chính khách và những người phản đối, thiết lập kiểm duyệt internet và nắm quyền .
NCPO cho ban hành một cho phép họ quyền tự ân xá và quyền hành tuyệt đối. NCPO cũng thành lập một quốc hội thân quân đội, và sau đó nhất trí bầu Đại tướng Prayut làm tân thủ tướng của nước này.
Tháng 2 năm 2021, các bộ trưởng Puttipong Punnakanta, Nataphol Teepsuwan và Thaworn Senniam bị kết tội nổi loạn trong các cuộc biểu tình dẫn đến cuộc đảo chính năm 2014.
Bối cảnh.
Hệ thống chính trị Thái Lan đã thay đổi từ quân chủ chuyên chế sang dân chủ kể từ Cách mạng Xiêm 1932. Trước được thông qua, hơn 10 cuộc đảo chính đã diễn ra, một bước ngoặt trong cải cách hiến pháp dân chủ Thái Lan. Bốn năm sau, Thaksin Shinawatra trở thành thủ tướng Thái Lan đầu tiên mãn nhiệm, thời gian nắm quyền của ông được xem là một trong những điểm khác biệt nhất trong lịch sử hiện đại của nước này. Sau dẫn đầu bởi , Thaksin bị phế truất từ một cuộc đảo chính vào ngày 19 tháng 9 năm 2006 vì bị buộc tội khi quân. Đảng Người Thái yêu người Thái (Thai Rak Thai) của ông bị tuyên vô pháp và ông ta bị cấm hoạt động chính trị. Thaksin đã tự lưu vong đến nay. Ông ta bị 2 năm tù vì tội lạm dụng quyền lực. Ông tiếp tục tác động chính trị Thái Lan từ nước ngoài, thông qua Đảng Sức mạnh Nhân dân giữ quyền vào năm 2008, kế tục là Đảng Vì nước Thái (Pheu Thai), cũng như Mặt trận Dân chủ chống Độc tài hoặc phong trào mà sau bị đàn áp vào năm 2010 bởi quân đội của và Prayut Chan-o-cha và chính quyền đảng Dân chủ của Abhisit Vejjajiva và Suthep Thaugsuban.
Trong cuộc tổng tuyển cử 2011, Yingluck Shinawatra và đảng Pheu Thái (PTP) giành được chiến thắng áp đảo và thành lập chính phủ với Yingluck làm thủ tướng. Các cuộc biểu tình chống chính phủ bắt đầu vào tháng 11 năm 2013, dưới sự lãnh đạo của cựu tổng bí thư đảng Dân chủ Suthep Thaugsuban. Suthep sau đó thành lập (PDRC) với mục đích yêu cầu thành lập "hội đồng nhân dân" không qua bầu cử để giám sát "cải cách chính trị" như cách chối bỏ quyền lực của Thaksin. Suthep nói với người ủng hộ PDRC rằng ông ta đã nói chuyện với Tướng Prayut Chan-o-cha từ 2010 về việc loại bỏ quyền lực của Thaksin. Tương tự, tờ Reuters đưa tin năm 2013 rằng những người thân cận với Prayut, cựu tham mưu trưởng quân đội Anupong Paochinda và tướng Prawit Wongsuwan là những người ủng hộ của PDRC.
Các nhóm ủng hộ chính phủ, bao gồm phe , tổ chức các buổi mít tinh phản ứng trước diễn biến này. Bạo lực leo thang dẫn tới thương vong. Tháng 12 năm 2013, Yingluck giải tán Hạ viện và lên kế hoạch tổng tuyển cử vào ngày 2 tháng 2 năm 2014. Do các cuộc biểu tình chống chính phủ, bầu cử đã không thể diễn ra. sau đó bãi bỏ cuộc bầu cử vào ngày 21 tháng 3 năm 2014. Ngày 7 tháng 5 năm 2014, nhất trí cách chức Yingluck và một số bộ trưởng vì vụ điều chuyển sĩ quan an ninh cấp cao gây tranh cãi năm 2011. Các bộ trưởng còn lại trong chính phủ đưa Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Thương mại Niwatthamrong Boonsongpaisan thay Yingluck làm thủ tướng tạm quyền trong lúc biểu tình dâng cao.
Suthep khẳng định, trước khi thiết quân luật, Prayut nói với ông: "Khun (từ chỉ thân thiết) Suthep và người ủng hộ của ông đã mệt rồi. Bây giờ là nghĩa vụ của quân đội để tiếp quản công việc."
Ngay trước cuộc đảo chính.
Thiết quân luật.
Ngày 20 tháng 5 năm 2014, tư lệnh Quân đội Hoàng gia Thái Lan (RTA), Đại tướng Prayut, thi hành đạo luật do Quốc vương Vajiravudh (Rama VI) ban hành gọi là "Thiết quân luật, BE 2457 (1914)", nhằm thiết lập thiết quân luật toàn quốc kể từ 3 giờ sáng. Ông khẳng định trên truyền hình việc ban bố thiết quân luật là do bạo lực leo thang từ hai phía và nhằm cho phép quân đội khôi phục và gìn giữ hòa bình.
Khi thiết quân luật có hiệu lực, tướng Prayut cho giải tán Trung tâm Điều hành Hòa bình và Trật tự (CAPO), một cơ quan cảnh sát được chính phủ tạm quyền lập ra để giải quyết cuộc khủng hoảng. Prayut sau đó lập ra Trung tâm Chỉ huy Gìn giữ Hòa bình và Trật tự (POMC) mà ông ta làm tư lệnh. Với nhiệm vụ "khôi phục hòa bình cho nhân dân ở mọi nơi không chậm trễ", POMC được trao quyền "ngăn chặn, đàn áp, kiềm chế và xử lý" bất kỳ tình huống ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, thi hành các điều khoản trong thiết quân luật và triệu tập bất kỳ ai. Đại tướng Prayut ra lệnh các bộ phận cảnh sát, hải quân, không quân và phải đặt dưới sự chỉ đạo của POMC.
Ở Bangkok, quân lính đóng ở nhiều nơi và các tuyến đường chính bị phong tỏa. Quân đội chiếm Tòa nhà Chính phủ từ tay các người biểu tình PDRC, cắt sóng truyền hình ở Bangkok và các nơi khác của đất nước, sau đó cắt sóng các kênh bao gồm cả kênh của PDRC và của phong trào Áo đỏ. Tướng Prayut ra lệnh mọi phương tiện truyền thông phải thay chương trình thường nhật sang chương trình của POMC khi được chỉ định và cấm công bố mọi thông tin gây ảnh hưởng đến sứ mệnh của quân đội. Ông cũng yêu cầu tất cả lãnh đạo cơ quan chính phủ phải báo cáo cho ông ta.
Ngày 21 tháng 5 năm 2014, POMC thành lập đội tác chiến kiểm duyệt Internet và yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ Internet phải báo cáo để kiểm soát nội dung.
Chính phủ tạm quyền chỉ trích rằng không hề có sự tham vấn nào về các quyết định liên quan đến thiết quân luật của quân đội. Quân đội bác rằng đây không phải là đảo chính và chính phủ vẫn tại quyền.
Các cuộc đối thoại bất thành.
Sau khi được thành lập, POMC tổ chức đối thoại với các phe đối lập để tìm ra một phương án giải quyết. Những người tham dự tỏ rõ sự bất đồng quan điểm và không tuyên bố chung nào được đưa ra. Trong cuộc gặp, Ủy ban Bầu cử đề nghị chính phủ tạm quyền phải giải tán. Chính phủ phản đối, cho rằng sự tồn tại của chính phủ là đúng Hiến pháp. Hiến pháp Thái Lan 2007 quy định rằng nội các vẫn còn quyền hạn kể cả khi Hạ viện bị giải tán và hoạt động cho đến khi nội các khác lên thay.
Chiều ngày 22 tháng 5 năm 2014, POMC tổ chức một buổi đối thoại khác ở Câu lạc bộ Bóng đá Thái Lan. Buổi đối thoại kéo dài đến năm tiếng đồng hồ mà không đi đến một sự đồng thuận nào, trong khi chính phủ vẫn giữ lập trường về tính hợp pháp của sự tồn tại của chính phủ. Trong cuộc họp, tướng Prayut cuối cùng nói với Bộ trưởng Bộ Tư pháp Chaikasem Nitisiri, đại diện của chính phủ: "Cuộc nói chuyện sẽ không chấm dứt nếu các vị cứ nói về luật lệ. [...] Chính phủ nhất quyết không giải tán, phải không?" Chaikasem đáp: "Chắc chắn không". Tướng Prayut nói trong cuộc họp: "Xin lỗi, tôi bắt buộc phải giành chính quyền" và ra lệnh bắt giữ nội các và các lãnh đạo của PDRC, phong trào Áo đỏ và đảng phái chính trị trong buổi đối thoại, khiến các đại diện truyền thông tại đó thất vọng. Họ bị giam ở trụ sở của thuộc .
Đảo chính.
Phát động.
Tối ngày 22 tháng 5 năm 2014, Đại tướng Prayut phát một thông cáo trên truyền hình rằng Lực lượng Vũ trang Hoàng gia đang bắt đầu nắm quyền kiểm soát đất nước, chính thức phát động một cuộc đảo chính với chính phủ tạm quyền và thành lập cơ quan NCPO để quản lý quốc gia.
Trong đêm đó, NCPO bãi bỏ hiến pháp 2007, chỉ giữ lại điều hai đề cập đến nhà vua. Thêm vào đó, NCPO ra lệnh giải tán chính phủ tạm quyền, nhưng giữ nguyên Thượng viện cũng như các cơ quan quốc gia khác, bao gồm tòa án và các cơ quan độc lập. NCPO tuyên bố các điều sau:
NCPO sau đó tuyên bố họ sẽ thực thi mọi quyền hành và nghĩa vụ mà theo luật thuộc về thủ tướng và nội các cho tới khi có thủ tướng mới. Các thành viên của NCPO được quyền quản lý các bộ phòng chính phủ và cơ quan tương đương.
Ngày 24 tháng 5 năm 2014, NCPO cho giải tán Thượng viện và đặt quyền lập pháp thuộc về lãnh đạo của họ. Các cơ quan tư pháp cũng được chỉ thị phải hoạt động dưới sự chỉ đạo của họ. Đại tướng Adul bị đưa về một đơn vị đã không còn hoạt động trong Văn phòng Thủ tướng và thay thế bằng Đại tướng Cảnh sát Watcharapol Prasarnrajkit. Adul bị xem là trung thành với chính phủ bị lật đổ.
Bắt giam và tạm giam các nhân vật công chúng.
Ngay sau khi cuộc đảo chính được phát động, Thủ tướng tạm quyền Niwatthamrong, người đã không tham dự các cuộc đối thoại, đã rời khỏi văn phòng của ông ta ở Bộ Tài chính để tránh bị quân đội bắt. NCPO ra lệnh ông ta và các thành viên nội các chưa bị bắt phải báo lại cho quân đội trong hôm đó. Có thông tin Niwatthamrong có ý định thành lập một chính phủ lưu vong trong đại sứ quán Mỹ ở Bangkok, nhưng đại sứ quán đã bác bỏ thông tin này.
Đêm ngày 22 tháng 5 năm 2014, quân đội tạm giam thêm các chính khách khác, bao gồm Chalerm Yubamrung và các con trai. Ngày hôm sau, NCPO cho triệu tập các thành viên của PTP và gia tộc Shinawatra, kể cả Yingluck. Niwatthamrong và Yingluck đã đầu thú vào ngày hôm đó. Yingluck bị tạm giam trong một "nhà an toàn" bí mật. NCPO nói đã thả bà ta vào ngày 25 tháng 5.
NCPO tiếp tục triệu tập 114 nhân vật chủ chốt từ cả hai phe và nhấn mạnh rằng những ai không giao nộp sẽ bị bắt giam và truy tố. Nhà hoạt động Sombat Boonngamanong, thường được biết với tên "Dotty Editor" ("Nhà báo gàn dở"), là người đầu tiên tuyên bố không khuất phục: "Nực cười. Không báo cáo [cho chính quyền quân sự] là phạm tội à." Ông ta thách thức lời yêu cầu triệu tập bằng bài viết trên Facebook: "Thách các người bắt được tôi." NCPO đáp trả rằng sáng ngày 24 tháng 5, họ sẽ cử quân lính đến bắt giam những người không hiện diện. Một trong những người bị bắt là Panthongtae Shinawatra, anh họ của Yingluck. Sombat sau đó bị bắt vào ngày 5 tháng 6 năm 2014 ở tỉnh Chon Buri. Quân đội phát hiện ông ta qua Internet từ một địa chỉ IP mà ông ta dùng để đăng các bình luận. Không chỉ bị 2 năm tù giam vì vi phạm mệnh lệnh, Sombat phải đối mặt 7 năm tù vì tội kích động người dân vi phạm các mệnh lệnh mà họ gọi là "luật của quốc gia". Quân đội cũng tuyên bố những ai cho Sombat nương nhờ cũng sẽ bị xử lý 2 năm tù vì tội "chứa chấp tội phạm".
NCPO cũng triệu tập các cơ quan ngoại giao Bangkok đến trụ sở. Trong buổi triệu tập, NCPO nói rằng các cơ quan chỉ là được "mời" đến họp với quân đội, để họ có "sự thấu hiểu đúng đắn" về nhiệm vụ của họ. Nhiều đại sứ, kể cả Đại sứ Đức Rolf Peter Schulze, đã từ chối tham dự.
Cựu Bộ trưởng Bộ giáo dục Chaturon Chaisaeng là người đầu tiên bị xét xử trong tòa án quân đội vì không hiện diện theo lời triệu tập của NCPO. Quân lính bắt giữ Chaturon giữa đám đông báo chí nước ngoài ngay sau cuộc họp báo ở Câu lạc bộ Báo chí Nước ngoài Thái Lan ngày 27 tháng 8 năm 2014. Người phát ngôn của NCPO nói rằng tổ chức họp báo với báo chí nước ngoài được xem là không hợp pháp và đi ngược chính sách của NCPO. Chaturon đối mặt 14 năm tù vì các tội liên quan đến máy tính.
Thiết quân luật cho phép quân đội giam giữ người không quá bảy ngày. NCPO không hề quan tâm đến thời gian. Một số cá nhân đã biệt giam đến hơn ba tuần.
Kiểm soát hoạt động công cộng và truyền thông.
Sau khi thông báo đảo chính, NCPO phát lệnh cấm tụ tập chính trị và yêu cầu những người biểu tình phải giải tán. Họ cũng chỉ thị các cơ sở giáo dục cả công lẫn tư phải đóng cửa từ ngày 23 tới ngày 24 tháng 5 năm 2014. Một lệnh giới nghiêm được ban bố khắp toàn quốc, buộc người dân ở trong nhà từ 22:00 đến 05:00. Giờ giới nghiêm sau đó được thu hẹp từ 24:00 tới 4:00, hiệu lực từ ngày 28 tháng 5 năm 2014. Lệnh giới nghiêm được dỡ bỏ hầu hết kể từ ngày 13 tháng 6 năm 2014.
NCPO cũng yêu cầu tất cả kênh truyền hình và phát thanh phải dừng chương trình thường ngày và chỉ phát chương trình của RTA. Wanchai Tantiwittayapitak, phó giám đốc Đài Phát thanh - Truyền hình Công cộng Thái Lan điều hành kênh Thai PBS, đã bị bắt giữ sau khi ông này cho phát trực tiếp một chương trình đặc biệt về đảo chính trên YouTube thay vì trên truyền hình. Trong chương trình, một số học giả, kể cả giảng viên Đại học Chulalongkorn Gothom Arya, đã được phỏng vấn và đưa ra các bình luận tiêu cực về cuộc đảo chính. Thai PBS nói Wanchai đã bị đưa đến trụ sở Khu vực Quân đội Thứ nhất để "chấn chỉnh sự hiểu biết giữa truyền thông và quân đội."
Vào ngày 23 tháng 5 năm 2014, NCPO triệu tập tất cả người đứng đầu truyền thông đến Câu lạc bộ Quân đội Thái Lan và chỉ thị các nhà cung cấp mạng Internet phải kiểm duyệt mọi thông tin khiêu khích, gây xáo trộn dư luận, chứa bí mật quan chức, có khả năng ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, hoặc tổn hại danh dự của NCPO. Họ đe dọa đóng cửa mạng xã hội nếu những người điều hành không chặn những thông tin gây bất ổn hoặc "đối nghịch với tiến trình hòa bình".
Chiều cùng ngày, các kênh truyền hình tương tự (analog), trừ kênh Thai PBS, được phép phát sóng bình thường sau khi NCPO ra lệnh nhà cung cấp Internet ngăn chặn các hành vi chia sẻ truyền hình trên Internet và chỉ đạo Ủy ban Phát thanh, Truyền hình và Viễn thông Quốc gia phải đóng cửa mọi kênh truyền hình trên Internet. Các kênh truyền hình kỹ thuật số được phép tiếp tục phát sóng vào ngày hôm sau.
Ngày 24 tháng 5 năm 2014, các cơ quan truyền thông đệ một lá thư mở để thúc giục NCPO dỡ bỏ hạn chế tự do báo chí càng sớm càng tốt. NCPO đáp lại bằng cách triệu tập tất cả người điều hành truyền thông, bảo họ phải tham gia một cuộc họp với NCPO trước.
Hệ quả.
Chứng thực từ hoàng gia.
Ngày 24 tháng 5 năm 2014, NCPO nói Quốc vương Thái Lan Bhumibol Adulyadej đã được thông tin về cuộc đảo chính, nhưng không cho biết sự ủng hộ của hoàng gia. Tuy nhiên, vào ngày 26 tháng 5 năm 2014, nhà vua đã chính thức chỉ định Đại tướng Prayut Chan-o-cha để điều hành quốc gia. Triều đình rất được tôn trọng ở Thái Lan và việc chứng thực của hoàng gia được xem là sự hợp thức hóa của việc tiếp quản quyền lực.
Các vụ khi quân.
Tại buổi họp báo ngày 23 tháng 5 năm 2014, NCPO khẳng định một trong những nhiệm vụ chính là xử lý "nghiêm chỉnh" với các vụ khi quân và chỉ thị quan chức chính phủ ủng hộ nhiệm vụ này.
Ngày 25 tháng 5 năm 2014, NCPO ủy thác cho tòa án binh để để xét xử tất cả các vụ khi quân, kích động nổi loạn, an ninh quốc gia và vi phạm lệnh của NCPO.
Cùng ngày, NCPO khám xét nơi ở của Somyot Prueksakasemsuk, chủ biên tạp chí từng bị kết án 11 năm tù vào năm 2013 vì tội khi quân. NCPO cũng bắt giam vợ ông, nhà hoạt động tù nhân chính trị, và con trai ông, học sinh năm tư ở Khoa luật, Đại học Thammasat. Một số người chỉ trích luật khi quân cũng bị bắt giữ.
NCPO sau đó triệu tập một loạt các nhà hoạt động lưu vong bị kết tội khi quân, kể cả cựu giảng viên khoa học chính trị Đại học Chulalongkorn và cựu bộ trưởng Jakrapob Penkair. Họ được yêu cầu hiện diện ngày 9 tháng 6 năm 2014.
Hiến pháp lâm thời.
Một hiến pháp lâm thời được thông qua vào ngày 22 tháng 7 năm 2014, dọn đường cho việc thành lập cơ quan lập pháp quốc gia, một chính phủ tạm quyền và một ủy ban cải cách. Dự thảo của hiến pháp lâm thời này ban đầu viết rằng một dự thảo hiến pháp mới phải trải qua một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc trước khi được lấy chữ ký của nhà vua. Yêu cầu này sau không được NCPO chấp nhận và bị xóa bỏ. Wissanu Krea-ngam, một giảng viên luật ở Đại học Chulalongkorn và là người viết dự thảo hiến thảo lâm thời, giải thích rằng yêu cầu này bị bỏ để tránh "quy trình dông dài". | 1 | null |
là Công ty phân phối phim và sản xuất sân khấu Nhật Bản. Trung tâm của nó nằm ở Yūrakuchō, Chiyoda, Tokyo, và một trong những công ty chủ chốt của Hankyu Hanshin Toho Group. Bên ngoài Nhật Bản, nó còn được biết nhiều nhất như là nhà sản xuất và nhà phát hành của nhiều phim kaiju và tokusatsu, xuất bản phim truyền hình về Siêu anh hùng tokusatsu Chouseishin, những bộ phim của Kurosawa Akira, và những phim anime của Studio Ghibli. Những đạo diễn nổi tiếng khác bao gồm Ozu Yasujirō, Mizoguchi Kenji, Kobayashi Masaki và Naruse Mikio cũng đều làm đạo diễn phim cho Toho. Nó nổi tiếng khắp thế giới khi tạo ra Godzilla, chủ đề trong 29 phim. Godzilla, Mothra, King Ghidorah, Mechagodzilla, và Rodan được đánh giá như là "Siêu năm" (Big Five) của Toho thậm chí cả số lần xuất hiện của những con quái vật trong tất cả ba giai đoạn xuất bản, cũng như lợi nhuận. Toho cũng bao gồm vô số lần sản xuất tiêu đề anime. Nó được chia thành Toho Pictures Incorporated, Toho International Company Limited, Toho E. B. Company Limited, Toho Music Corporation & Toho Costume Company Limited. Công ty này cổ phần lớn nhất (7.96%) của Fuji Media Holdings Inc..
Lịch sử.
Toho được thành lập ở đường sắt Hankyu bởi Kobayashi Ichizo vào năm 1932 với tên gọi là . Nó quản lý nhiều kabuki ở Tokyo và hầu như nhiều thể loại khác, Tokyo Takarazuka Theater và Imperial Garden Theater ở Tokyo; Toho và Shochiku đứng ở vị trí độc tôn các rạp ở Tokyo trong nhiều năm.
Sau nhiều phim xuất sang Hoa Kỳ thành công trong thập niên 1950 thông qua Henry G. Saperstein, Toho đã mở rạp La Brea ở Los Angeles để giới thiệu những bộ phim của họ mà không cần bán cho nhà phân phối ở đó. Nó cũng được biết như là rạp Toho từ sau thập niên 1960 cho đến thập niên 1970. Toho cũng có một rạp ở San Francisco và mở một rạp ở New York vào năm 1963.
Công ty Shintoho tồn tại mãi đến 1964 với tên là Toho Mới (Shin-Toho) vì tách ra khỏi công ty ban đầu. Công ty này cũng đã tiến hành sản xuất phim gồm "Kế hoạch đơn giản" của Sam Raimi.
Sản xuất chính và phát hành.
Phim.
Anime TV.
Trong những năm và thập kỉ gần đây họ đã sản xuất những trò chơi điện tử. Một trong những công ty trò chơi điện tử đầu tiên của họ năm 1990 là NES với trò "Circus Caper". Sau này, họ tiếp tục với hàng loạt trò chơi dựa trên Godzilla và năm 1992 trò chơi có tên gọi "Serizawa Nobuo no Birdy Try". Nó được phát hành như là trò chơi "Super Aleste". Họ thậm chí còn làm việc với Bandai trên "Dr. Jekyll and Mr. Hyde", được phát hành ở Nhật Bản năm 1988 và ở Hoa Kỳ năm 1989.
Trụ sở.
Trụ sở chính của Toho ở Yūrakuchō, Chiyoda, Tokyo. Công ty này đã dời trụ sở chính tại đây hiện nay vào tháng tư 2005. | 1 | null |
Vườn quốc gia Rishiri-Rebun-Sarobetsu (利尻礼文サロベツ国立公園 "Rishiri Rebun Sarobetsu Kokuritsu Koen ?") là một vườn quốc gia trên các đảo Rishiri, Đảo Rebun, và một khu vực ven biển từ Wakkanai đến Horonobe, mũi tây bắc của đảo Hokkaido, Nhật Bản. Khu vực của vườn quốc gia có diện tích 212,22 km vuông (81,94 sq mi). Vườn quốc gia ghi nhận của các loài thực vật núi cao, các núi lửa và các khu vực được hình thành bởi sự xói mòn từ biển. Bao quanh vườn quốc gia này là các ngư trường cùng các vùng ven biển giàu tảo bẹ. Để đến được vùng ven biển thuộc vườn quốc gia này, du khách có thể truy cập từ Quốc lộ 40 của Nhật Bản, được gọi là Quốc lộ Wakkanai. Còn hai đảo Rishiri và Rebun có thể truy cập bằng phà từ Wakkanai.
Địa lý.
Vườn quốc gia được cấu thành bởi ba bộ phận, và tên của vườn cũng xuất phát từ tên của ba bộ phận này.
Đồng bằng Sarobetsu.
Đồng bằng Sarobetsu (サロベツ原野 "Sarobetsu Gen'ya ?") là một đầm lầy ngập nước ven biển của Nhật Bản. Nó được hình thành bởi sông Teshio và sông Sarobetsu. Đồng bằng trải dài khoảng 17 km (11 dặm) và có diện tích 150 km vuông (58 sq mi). Sarobetsu là đồng bằng có khí hậu cận Bắc Cực, bao gồm diện tích lớn là đầm lầy than bùn. Sarobetsu đã được thêm vào danh sách khu ngập nước có tầm quan trọng quốc tế theo Công ước Ramsar vào năm 2005, một công ước quốc tế ước cho việc bảo tồn các vùng đất ngập nước.
Đảo Rishiri.
Đảo Rishiri (利尻岛 "Rishiri-to ?"), cách đảo Hokkaido bởi eo Rishiri. Hòn đảo được tạo thành bởi đỉnh núi lửa hình nón đã tắt, núi Rishiri cao (). Hòn đảo có chu vi và có diện tích .
Đảo Rebun.
Đảo Rebun (礼文岛 "Rebun-to ?") cách khoảng 30 km (19 dặm) về phía tây của Wakkanai của Hokkaido. Hòn đảo này có chu vi và có diện tích . Điểm cao nhất trên đảo là đỉnh Rebundake. | 1 | null |
Austen Henry Layard (1817-1894) là nhà khảo cổ học, chính trị gia người Anh. Một trong những khám phá quan trọng nhất trong sự nghiệp khảo cổ học của ông là thấu kính Layard. Ngaòi ra, ông còn có những khám phá khác. Kết quả của các cuộc khảo cổ do ông đứng đầu đã cho thấy vào khoảng năm 3000 TCN, loài người ở Trung Đông, châu Phi và châu Á đã ngày một quan tâm hơn đến các hiện tương quang học và sử dụng chúng vào những mục đích khác nhau như khai thcs bóng của vật để giải trí, sử dụng kim loại và tinh thể có tính phản xạ hoặc khúc xạ. | 1 | null |
Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang (tiếng Anh: Tien Giang Radio - Television Station; viết tắt THTG), là đài phát thanh - truyền hình trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang. Ngoài ra, cơ quan này còn chịu sự quản lý nhà nước về báo chí, về truyền dẫn phát sóng của Bộ Thông tin và Truyền thông. Logo hiện nay của đài là THTG lấy từ tên tiếng Việt: Truyền hình Tiền Giang nằm trong biểu trưng của đài đã được đăng ký và bảo hộ độc quyền tại Việt Nam theo Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu số 165625 do Cục Sở hữu trí tuệ cấp ngày 14 tháng 6 năm 2011
Lịch sử.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, trên địa bàn tỉnh Tiền Giang không có cơ quan phát thanh, truyền thanh thống nhất để thực hiện công tác thông tin tuyên truyền. Năm 1978 Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh có chủ trương thành lập Đài Phát thanh Tiền Giang. Ông Cao Văn Sáu, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tuyên huấn Tỉnh ủy được bổ nhiệm làm kiêm Giám đốc đài.
Tỉnh được Trung ương điều động cho một máy phát thanh AM (Amplitude Modulation) 1 kW nhưng bị hư hỏng nặng, phải nhờ cơ quan thường trú của Đài Tiếng nói Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh và Đài Tiếng nói nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hỗ trợ linh kiện để sửa chữa. Bấy giờ, máy phát được đặt tạm tại trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh, ăng-ten phát sóng được làm dã chiến bằng hệ thống các dây văng, phòng thu sử dụng nhờ của Đài Truyền thanh Thành phố Mỹ Tho. Đầu năm 1979 phát sóng thử nghiệm, đến ngày 16 tháng 9 năm 1979, Đài Phát thanh Tiền Giang đã chính thức phát sóng trên tần số AM 820 kHz, tức 365 m và Tiền Giang là tỉnh cuối cùng ở Việt Nam phát sóng chương trình phát thanh. Nhạc hiệu của đài là bài "Ta lớn lên từ đất này" của nhạc sĩ Phạm Tuyên, được dùng trên cả phát thanh và truyền hình kể từ khi thành lập đài cho đến nay.
Trụ sở làm việc ban đầu của đài tuy được bố trí tại số 125 Lê Thị Hồng Gấm, phường 4, thành phố Mỹ Tho nhưng cơ sở vật chất rất thiếu thốn, máy thu âm lạc hậu, chỉ có công suất 1 kW, nhà làm việc bị nước mưa làm rong rêu bám đầy, chỉ có 2 tầng, phòng thu phát thanh tạm bợ, thời lượng phát sóng chỉ có 2 giờ trong ngày... Sau đó đài được cấp khu đất ở phường 6, thành phố Mỹ Tho để làm khu phát xạ. Để xây dựng được ăng-ten phát sóng, tỉnh đã đem gạo đổi cho tỉnh Sông Bé (nay là Bình Dương và Bình Phước) lúc bấy giờ để đổi lấy 30m ăng-ten và mua thép của Công ty Cấp thoát nước Tiền Giang hàn thêm 30m nữa cho đủ độ cao là 60m. Do phòng thu âm lúc đầu sử dụng nhờ của Đài Truyền thanh thành phố Mỹ Tho nên đến cuối năm 1979 đài tiếp tục dùng gạo để lên Sông Bé đổi gạch và mút cách âm về cải tại lại phòng ở thành phòng thu âm...
Tháng 4 năm 1984, Phòng Truyền hình thời sự thuộc Ty Văn hóa – Thông tin tỉnh (sau này được đổi tên thành Sở Văn hóa - Thông tin rồi đến Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) được sáp nhập vào Đài Phát thanh Tiền Giang. Đài được đổi tên thành Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang, giữ nhiệm vụ tổ chức thực hiện chương trình phát thanh, truyền hình và quản lý hệ thống truyền thanh trong toàn tỉnh. Tuy nhiên, bấy giờ công tác truyền hình của đài còn rất sơ khai với vài máy quay phim nhựa 16 mm, chỉ đủ khả năng thực hiện các tin thời sự gửi cộng tác với Đài Truyền hình Cần Thơ và Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1985, đài được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba. Trong những năm tiếp theo, đài được đầu tư một số trang thiết bị như máy phát thanh 5 kW, 10 kW, phòng bá âm mới, nhập một số thiết bị điện tử chuyên ngành cho truyền hình...
Năm 1994, UBND tỉnh Tiền Giang cho phép lập dự án đầu tư xây dựng Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang hoàn chỉnh từ khâu sản xuất chương trình đến truyền dẫn phát sóng truyền hình song song với sóng phát thanh hiện có. Theo đó, ngày 17 tháng 10 năm 1995 đã khởi công xây dựng các hạng mục của dự án Khu nhà kỹ thuật phát thanh truyền hình và cột ăng-ten phát sóng cao 110 m tại địa chỉ số 125 Lê Thị Hồng Gấm, phường 4, thành phố Mỹ Tho. Qua 2 năm khẩn trương triển khai thực hiện, đúng 18 giờ 00 phút ngày 19 tháng 12 năm 1996, nhân kỷ niệm 50 năm ngày Toàn quốc kháng chiến, đài đã chính thức phát sóng chương trình truyền hình tương tự (Analog Television) lần đầu tiên trên kênh 26 UHF (Ultra High Frequency). Đây là cột mốc quan trọng, đánh dấu sự ra đời loại hình báo chí mới của tỉnh, đó là báo hình. Biểu trưng (logo) của đài lúc bấy giờ là TTV (viết tắt của cụm từ Tien Giang Television). Tuy nhiên, trong những ngày đầu phát sóng trang thiết bị dành cho truyền hình cũng rất thiếu thốn, chỉ có 1 máy phát hình màu 5 kW, 2 đầu video VHS, 5 máy quay phim, 2 bàn dựng và 2 máy vi tính; lực lượng phóng viên và kỹ thuật viên chỉ khoảng 30 người, mỗi ngày thời lượng phát sóng chỉ 3,5 giờ (từ 18 giờ đến 21 giờ 30) với vỏn vẹn 4 thể loại chương trình.
Năm 2000, đài được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì. Từ năm 2008, logo TTV được đổi thành THTG (tức Truyền hình Tiền Giang).
Ngày 27 tháng 3 năm 2004, kênh truyền hình TTV bị dừng phát sóng đột ngột khiến tất cả khán giả trong vùng phủ sóng của đài không thể xem các chương trình truyền hình suốt 3 ngày liên tục, nguyên nhân là do trục trặc kỹ thuật ở bộ chia tín hiệu truyền sóng trên đỉnh ăng-ten vì đã sử dụng liên tục từ năm 1996. Sau 3 ngày khẩn trương khắc phục sửa chữa, đến 16 giờ 15 phút ngày 30 tháng 3 kênh truyền hình TTV chính thức phát sóng trở lại bình thường. Đây là lần đầu tiên, kênh truyền hình của đài bị dừng phát sóng một cách đột ngột và kéo dài. Cũng trong năm 2004, do phải bàn giao mặt bằng để xây dựng công trình cầu Rạch Miễu nên đài đã ngưng phát sóng chương trình phát thanh AM và được thay thế bằng chương trình phát thanh FM được phát trên tần số 102,7 MHz, từ ngày 23 tháng 12 năm 2010, sau khi kênh VOV3 chính thức lên sóng trên tần số 102,7 MHz tại TP.HCM (lên sóng lúc 7 giờ ngày 21 tháng 12 năm 2010), sóng phát thanh của đài đã thay đổi sang tần số 96,2 MHz từ đó đến nay.
Ngày 16 tháng 9 năm 2009, nhân kỷ niệm 30 năm thành lập, đài chính thức ra mắt trang thông tin điện tử tổng hợp với nhiều nội dung phong phú. Đây là nền tảng và sự khởi đầu cho sự phát triển về sau của báo điện tử phát thanh truyền hình, đồng thời nhằm cập nhật và nắm bắt kịp thời xu thế công nghệ truyền hình trong thời đại mới.
Năm 2013, Đài thực hiện đề án phát sóng các chương trình phát thanh và truyền hình lên vệ tinh Vinasat. Sau một thời gian triển khai đề án, ngày 20 tháng 6 năm 2013, Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang đã tiến hành phát sóng thử nghiệm chương trình phát thanh FM (Frequency Modulation) và truyền hình THTG qua sóng vệ tinh Vinasat để hiệu chỉnh các thông số kỹ thuật. Đến ngày 19 tháng 7 năm 2013 thì chính thức phát lên vệ tinh Vinasat 1 ở vị trí 132° kinh Đông thông qua đối tác VTC.
Thời gian đầu, chương trình phát thanh chỉ phát sóng 2 giờ trong ngày, hiện nay đã nâng lên 18 giờ trong ngày; truyền hình từ chỗ chỉ phát sóng 3,5 giờ trong ngày đến năm 1998 đã tăng lên 2 buổi với thời lượng phát sóng 7 giờ trong ngày, năm 2000 tăng lên 3 buổi với thời lượng phát sóng 9 giờ trong ngày, năm 2006 tăng thời lượng phát sóng lên 17 giờ trong ngày, năm 2011 phát sóng 19 giờ trong ngày và từ năm 2014 đến nay, truyền hình phát sóng liên tục 24/24 giờ trong ngày sau khi UBND tỉnh chấp thuận và được Bộ Thông tin & Truyền thông cấp phép, đánh dấu sự trưởng thành và lớn mạnh của Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang.
Tháng 4 năm 2014, Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang chính thức đưa dự án số hóa vào vận hành với quy trình khép kín từ tiền kỳ, hậu kỳ đến truyền dẫn phát sóng và thư viện số lưu trữ .
Ngày 16 tháng 9 năm 2014, nhân kỷ niệm 35 năm thành lập, Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang vinh dự đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất do Chủ tịch nước trao tặng.
Ngày 15 tháng 8 năm 2017, Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang đã ngừng phát sóng kênh truyền hình Tiền Giang (THTG) trên hạ tầng truyền hình tương tự (Analog Television) để chuyển sang phát sóng trên hạ tầng truyền hình kỹ thuật số mặt đất (DTT - Digital Terrestrial Television) theo Đề án số hóa truyền dẫn, phát sóng truyền hình mặt đất đến năm 2020 của Chính phủ. Cuối năm 2017, đài đưa vào sử dụng máy phát thanh FM ROHDE & SCHWARZ, công suất 5kW x 2 cùng hệ thống ăng-ten và cáp dẫn sóng mới.
Tháng 1 năm 2020, Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang phát sóng kênh truyền hình THTG theo chuẩn phân giải độ nét cao HDTV (High Definition Television) trên hạ tầng kỹ thuật số mặt đất DVB-T2 và các hạ tầng truyền dẫn phát sóng khác. Đánh dấu bước ngoặt phát triển, quyết tâm đổi mới để tạo đột phá và là cuộc cách mạng trong phương thức sản xuất, truyền dẫn phát sóng.
Ngày 11 tháng 12 năm 2020, Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang khởi công xây dựng trụ sở mới tại địa chỉ Đường N2, Quảng trường Hùng Vương, xã Đạo Thạnh, thành phố Mỹ Tho. Công trình do Công ty Cổ phần Tư vấn Kiến trúc và Xây dựng TP. Hồ Chí Minh (ACCCO) thiết kế, có tổng kinh phí xây dựng là 87,95 tỷ đồng, gồm 03 block: 01 block 06 tầng, 01 block 04 tầng, 01 block 03 tầng trên diện tích đất 9.770 m2, diện tích xây dựng 1.800 m2. Đây là công trình hiện đại, mang kiến trúc thẩm mỹ, là điểm nhấn mang biểu tượng văn hóa tại vị trí trung tâm của tỉnh đồng thời đánh dấu bước ngoặt phát triển sự nghiệp phát thanh và truyền hình Tiền Giang.
Theo theo lộ trình số hóa của Chính phủ và Đề án Phát triển tổng thể của Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030, đài sẽ đầu tư phim trường ngoài trời và trang thiết bị kỹ thuật chuyên ngành đồng bộ, hiện đại tại trụ sở mới, trong đó gồm xe truyền hình lưu động chuẩn HD và tháp ăng-ten truyền hình (giai đoạn 2021 - 2023); xin chủ trương mở thêm kênh giải trí truyền hình Tiền Giang 2 (THTG2) vào năm 2023 và phát triển Trang thông tin điện tử thành Báo điện tử phù hợp với xu hướng phát triển và hội nhập. Đối với lĩnh vực phát thanh, đài hướng đến kỹ thuật phát thanh có hình trên nền tảng internet theo xu hướng thế giới, xây dựng các chương trình mang tính tương tác cao và chủ trương mở rộng vùng phủ sóng, nâng công suất máy phát từ 10 kW đến 20 kW.
Thành lập và hoạt động.
Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang (tiền thân là Đài Phát thanh Tiền Giang) được thành lập và hoạt động theo Quyết định số 136/QĐ-UBND ngày 21 tháng 2 năm 1979 của Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang. Trụ sở đặt tại số 125 Lê Thị Hồng Gấm, phường 4, thành phố Mỹ Tho. Giai đoạn đầu, đài có trụ ăng-ten phát sóng truyền hình tương tự (Analog Television) cao 110 m và phát thanh FM ở độ cao 100 m dùng chung với trụ phát hình, phạm vi phát sóng chính của truyền hình tương tự là khu vực Tiền Giang và các tỉnh, thành lân cận (đã ngừng phát sóng kể từ 00 giờ 00 phút ngày 15 tháng 8 năm 2017 để chuyển sang phát sóng trên hạ tầng truyền hình kỹ thuật số mặt đất). Trong quá trình phát triển, đài còn thực hiện việc mở rộng vùng phủ sóng ở các tỉnh, thành khác trong nước và khu vực: Trang thông tin điện tử tổng hợp của đài đã được xây dựng và đưa vào sử dụng từ năm 2009, tiếp đến kênh truyền hình THTG và sóng phát thanh FM 96,2 MHz cũng chính thức được phát lên vệ tinh Vinasat 1 (132° kinh Đông) vào ngày 19 tháng 7 năm 2013, phủ sóng toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, biển Đông, các nước lân cận như Lào, Campuchia, Thái Lan và một phần Myanmar. Thực hiện Đề án số hóa truyền dẫn, phát sóng truyền hình mặt đất đến năm 2020 của Chính phủ, kể từ 00 giờ 00 phút ngày 15 tháng 8 năm 2017, Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang chính thức đưa kênh truyền hình Tiền Giang (THTG) phát sóng trên hạ tầng truyền hình kỹ thuật số mặt đất (chuẩn DVB-T2) của Công ty TNHH Truyền hình Kỹ thuật số Miền Nam (SDTV), phạm vi phủ sóng: Toàn bộ khu vực miền Nam. Tháng 1 năm 2020, Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang phát sóng kênh truyền hình THTG theo chuẩn phân giải độ nét cao HDTV (High Definition Television) trên hạ tầng kỹ thuật số mặt đất DVB-T2 và các hạ tầng truyền dẫn phát sóng khác. Từ đầu năm 2022, đài di dời toàn bộ về hoạt động ở trụ sở mới tại Đường N2, Quảng trường Hùng Vương, xã Đạo Thạnh, thành phố Mỹ Tho (trừ tháp ăng-ten phát sóng phát thanh và truyền hình vẫn còn hoạt động tại cơ sở cũ).
Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang truyền dẫn, phát sóng đa dạng trên các hạ tầng kỹ thuật như: hệ thống truyền hình kỹ thuật số mặt đất & vệ tinh: SDTV, VTC, AVG, K+; hệ thống truyền hình cáp như: SCTV, HTVC, VTVCab, MyTV, NextTV... và truyền hình trực tuyến.
Cơ cấu tổ chức.
Đài Phát thanh và Truyền hình Tiền Giang có 6 phòng chuyên môn và 1 trung tâm trực thuộc:
Các kênh sóng và trang thông tin điện tử.
Truyền hình.
Kênh truyền hình THTG của Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang phát sóng liên tục 24 giờ mỗi ngày trên các hệ thống:
Kênh phát sóng: 26 UHF.
Máy phát sóng: ROHDE & SCHWARZ
Công suất máy phát: 10 kW.
Độ cao ăng-ten: 110 m.
Phạm vi phủ sóng: Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Trà Vinh, Tp. Hồ Chí Minh, một phần các tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Tây Ninh.
(*) Kể từ 00 giờ 00 phút ngày 15 tháng 8 năm 2017, Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang đã ngừng phát sóng kênh truyền hình THTG trên hạ tầng truyền hình tương tự (Analog Television) để chuyển sang phát sóng trên hạ tầng truyền hình kỹ thuật số mặt đất (chuẩn DVB-T2) theo Đề án số hóa truyền dẫn, phát sóng truyền hình mặt đất đến năm 2020 của Chính phủ.
Phát trên hệ thống truyền hình cáp hòa mạng đài Tiền Giang như: SCTV, HTVC, VTVCab, MyTV, NextTV... tại địa bàn tỉnh Tiền Giang và ở các tỉnh, thành khác trong nước.
Phát sóng kỹ thuật số mặt đất (phát quảng bá) trên kênh 34 UHF, tần số 578 MHz.
Đơn vị truyền dẫn: Công ty TNHH Truyền hình Kỹ thuật số Miền Nam (SDTV).
Công nghệ truyền dẫn: DVB-T2 (Digital Video Broadcasting - Second Generation Terrestrial).
Định dạng tín hiệu: MPEG-4 (Moving Picture Experts Group - 4).
Kích cỡ FFT: 32K.
Khoảng bảo vệ: ⅛.
Mẫu PP: PP2.
Điều chế: 256 QAM.
Mã sửa sai (Fec): ⅔.
Chế độ thu: Thu trong nhà đối với khu vực đông dân cư, thu ngoài trời đối với khu vực thưa dân cư.
Phạm vi phủ sóng: Khu vực miền Nam.
Phát sóng kỹ thuật số mặt đất trên hạ tầng của VivaTV (AVG). Công nghệ truyền dẫn: DVB-T2. Định dạng tín hiệu: MPEG-4. Phạm vi phủ sóng: Khu vực miền Nam.
Phát sóng kỹ thuật số vệ tinh (phát quảng bá) trong gói chương trình của VTC. Thông số kỹ thuật phát trên vệ tinh trong gói chương trình của VTC (không khóa mã) như sau:
Tên vệ tinh phát sóng: Vinasat-1.
Hướng vệ tinh: 132° kinh Đông.
Băng tần phát sóng: Ku.
Công nghệ truyền dẫn: DVB-S2 (Digital Video Broadcasting - Second Generation Satellite).
Định dạng tín hiệu: MPEG-4.
Tần số LNB: 09750/10600.
Tần số thu (Freq): 11472 MHz.
Tốc độ mẫu (Symbol Rate): 23200 Msym/s.
Phân cực: H (Ngang).
Điều chế: 8PSK.
Mã sửa sai (Fec): ¾.
Phát sóng kỹ thuật số vệ tinh trong gói chương trình của VivaTV (AVG).
Phát sóng kỹ thuật số vệ tinh trong gói chương trình của K+.
Phạm vi phủ sóng qua vệ tinh: Toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, biển Đông, các nước lân cận như Lào, Campuchia, Thái Lan và một phần Myanmar.
Phát trên trang thông tin điện tử tổng hợp của Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang.
Phát trên cổng thông tin trực tuyến của Công ty TNHH Truyền hình Kỹ thuật số Miền Nam (SDTV).
Phát trên hệ thống truyền hình giao thức Internet (IPTV - Internet Protocol Television): MyTV của VNPT, NextTV của Viettel, FPT Play của FPT, VTVgo của VTV, VieON của Đất Việt VAC
Tích hợp qua các ứng dụng trên các thiết bị thông minh: FPT Play của FPT, VTVgo của VTV, THTG trên Google Play (hệ điều hành Android).
Phát thanh.
Chương trình phát thanh của Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang phát sóng liên tục từ 05 giờ đến 23 giờ (từ 23 giờ đến 5 giờ sáng hôm sau phát nhạc không lời trên phát thanh Online, riêng máy phát analog thì đài tắt sóng từ khoảng 23 giờ đến khoảng 04 giờ 40 phút sáng hôm sau) hàng ngày trên các hệ thống:
Tần số phát sóng: AM 820 KHz
Máy phát sóng: NAUTEL
Công suất máy phát: 10 kW
Độ cao ăng-ten: 100 m
Phạm vi phủ sóng: Tiền Giang, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh miền Đông Nam Bộ.
(*) Kể từ năm 2004, Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang đã ngừng phát sóng chương trình phát thanh AM và được thay thế bằng chương trình phát thanh FM từ đó đến nay.
Tần số phát sóng: FM 102,7 MHz (*), FM 96,2 MHz.
Máy phát sóng: ROHDE & SCHWARZ
Công suất máy phát: 10 kW
Độ cao ăng-ten: 100 m.
Phạm vi phủ sóng: Tiền Giang, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh miền Đông Nam Bộ.
(*) Kể từ ngày 23 tháng 12 năm 2010, Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang đã chuyển tần số phát sóng chương trình phát thanh FM từ 102,7 MHz sang 96,2 MHz để tránh can nhiễu sóng FM 102,7 MHz kênh VOV3 tại TP.HCM phủ sóng tại khu vực Long An, TP.HCM, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang và Bến Tre. .
Phát sóng kỹ thuật số vệ tinh (phát quảng bá) trong gói chương trình của VTC. Thông số kỹ thuật phát trên vệ tinh trong gói chương trình của VTC (không khóa mã) như sau:
Tên vệ tinh phát sóng: Vinasat-1.
Hướng vệ tinh: 132° kinh Đông.
Băng tần phát sóng: Ku.
Công nghệ truyền dẫn: DVB-S2.
Định dạng tín hiệu: MPEG-2.
Tần số LNB: 09750/10600.
Tần số thu (Freq): 11472 MHz.
Tốc độ mẫu (Symbol Rate): 23200 Msym/s.
Phân cực: H (Ngang).
Điều chế: 8PSK.
Mã sửa sai (Fec): ¾.
Phạm vi phủ sóng qua vệ tinh: Toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, biển Đông, các nước lân cận như Lào, Campuchia, Thái Lan và một phần Myanmar.
Thông tin điện tử.
Trang thông tin điện tử tổng hợp của Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang chính thức ra mắt ngày 16 tháng 9 năm 2009 nhân kỷ niệm 30 năm thành lập đài. Ngoài chức năng cung cấp thông tin bằng hình thức tin, bài, ảnh, website còn cho phép khán giả xem trực tuyến kênh truyền hình THTG và nghe trực tuyến chương trình phát thanh FM 96,2 MHz trên máy vi tính. Đặc biệt, ngày 09 tháng 6 năm 2015, Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang chính thức đưa vào sử dụng phiên bản di động Trang thông tin điện tử tổng hợp của đài. Phiên bản di động được thiết kế tương thích với mọi kích thước màn hình từ điện thoại đến máy tính bảng. Hướng tới sẽ nâng cấp trở thành Báo điện tử Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang...
Hiện nay, Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang đã cho ra mắt ứng dụng THTG trên Google Play (hệ điều hành Android). Riêng ứng dụng THTG trên App Store (hệ điều hành iOS) sẽ được ra mắt trong thời gian tới. Do đó chỉ cần điện thoại hoặc máy tính bảng có kết nối Wi-Fi (Wireless Fidelity) hoặc 3G, 4G, độc giả có thể truy cập vào Trang thông tin điện tử tổng hợp và các ứng dụng của đài một cách nhanh chóng, dễ dàng với đầy đủ thông tin hữu ích. Đồng thời, khán giả còn có thể lựa chọn xem lại tất cả các chương trình, chuyên mục mà mình yêu thích đã phát sóng trên THTG và FM 96,2 MHz ở bất kỳ thời điểm nào. | 1 | null |
Gian Domenico Romagnosi (1761-1835) là nhà triết học, nhà kinh tế học, luật sư người Ý. Trước cả Hans Christian Ørsted, Romagnosi đã phát hiện ra tác dụng từ của dòng điện vào năm 1802, báo chí Ý cũng đăng phát hiện đó lên, nhưng không hiểu sao nó lại không được giới khoa học chú ý đến. Thế nên, sau khi tìm ra điều đó, Ørsted lại được công nhận là người đã phát hiện ra đầu tiên. Thật đáng tiếc cho Romagnosi. | 1 | null |
Bộ Ngoại giao Cộng hòa Indonesia (tiếng Indonesia: "Kementerian Luar Negeri Republik Indonesia") là một bộ thuộc Chính phủ Indonesia. Trước khi luật UU 39/2008 được ban hành và có hiệu lực, bộ này được gọi là "Departemen Luar Negeri Republik Indonesia", ngắn gọn là "Deplu". Bộ Ngoại giao là một trong những bộ được nhắc đến trong Hiến pháp Indonesia, vì thế Thủ tướng Indonesia không có quyền giải tán bộ này.
Lịch sử.
Bộ Ngoại giao Indonesia được thành lập vào năm 1945 sau khi Indonesia tuyên bố độc lập khỏi Hà Lan. Trụ sở chính của bộ ban đầu nằm trong nhà để xe trong tư dinh của vị ngoại trưởng đầu tiên Achmad Soebardjo tại số 80-82 đường Cikini, Jakarta. Ban đầu bộ chỉ có sáu nhân viên.
Thành phần lãnh đạo.
Dưới đây là danh sách các lãnh đạo của Bộ Ngoại giao Indonesia:
Lịch sử.
Qua từng giai đoạn lịch sử, Bộ Ngoại giao Indonesia lại có chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Có thể tóm tắt như sau:
1945–50.
Nhiệm vụ chính trong giai đoạn này là hỗ trợ ngoại giao:
Năm năm đầu sau ngày độc lập là giai đoạn quyết định cuộc chiến giữ nền độc lập, là một phần của lịch sử đã hình thành nên tính cách hay bản chất của nền ngoại giao Indonesia.
Tinh thần của nền ngoại giao này đã giúp Indonesia giành được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế tại Liên Hợp Quốc vào năm 1950.
1966–98.
Các nghĩa vụ chính:
1998–nay.
Các nghĩa vụ chính: | 1 | null |
Trận chung kết giải vô địch bóng đá thế giới 1958 là trận đấu bóng đá diễn ra ngày 29 tháng 6 năm 1958 tại Sân vận động Råsunda, Solna, Thụy Điển giữa hai đội Brasil và Thụy Điển để xác định nhà vô địch của Giải vô địch bóng đá thế giới 1958. Chung cuộc Brasil đã giành thắng lợi 5–2 trước Thụy Điển để lần đầu tiên có được chức vô địch bóng đá thế giới.
Tóm tắt trận đấu.
Trận chung kết giải vô địch bóng đá thế giới 1958 được tổ chức tại Sân vận động Råsunda, Solna (phía bắc thủ đô Stockholm của Thụy Điển) dưới sự chứng kiến của 51.000 khán giả, trong đó có vua Thụy Điển Gustav.
Thụy Điển vươn lên dẫn trước chỉ sau bốn phút thi đấu với pha dứt điểm của đội trưởng Nils Liedholm. Tuy nhiên chỉ năm phút sau đó, Vavá đã gỡ hòa cho Brasil và đến phút 32 cũng chính Vavá đem về lợi thế dẫn bàn 2–1 cho Brasil cho đến khi kết thúc hiệp 1. Cả hai bàn thắng đều do Garrincha kiến tạo. Bàn thắng thứ ba của Brasil do Pelé ghi được coi là một trong những bàn thắng đẹp nhất lịch sử World Cup: Pelé lốp bóng qua một trung vệ trước khi sút quả bóng sống đang rơi xuống vào lưới thủ thành Kalle Svensson. Mário Zagallo ghi bàn thắng nâng tỉ số lên 4–1 ở phút 68. Thụy Điển ghi được một bàn nữa ở phút 80 do công Simonsson và Pelé ấn định tỷ số 5–2 của trận đấu ở phút cuối cùng với cú đánh đầu từ đường chuyền của Zagallo, chính thức đem về danh hiệu vô địch bóng đá thế giới đầu tiên cho Brasil.
Kết thúc trận đấu, để thể hiện tinh thần thể thao, các cầu thủ Brasil đã diễu hành quanh sân với quốc kỳ Thụy Điển và Pelé cũng nhận được sự tung hô từ đám đông khán giả. Toàn đội Brasil sau đó cũng nhận được sự chúc mừng của vua Thụy Điển Gustav.
Với chiến thắng này, Brasil cũng trở thành đội bóng đầu tiên vô địch một giải vô địch bóng đá thế giới mà không phải tổ chức trên châu lục của mình. Đây cũng là trận chung kết giải vô địch bóng đá thế giới có nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử. Với các bàn thắng trong trận chung kết này, Nils Liedholm trở thành cầu thủ lớn tuổi nhất ghi bàn trong một trận chung kết giải vô địch bóng đá thế giới, ngược lại Pelé lập kỷ lục cầu thủ trẻ nhất ghi bàn trong một trận chung kết giải vô địch bóng đá thế giới (17 tuổi và 249 ngày). | 1 | null |
Luciano Silva da Silva (sinh ngày 13 tháng 6 năm 1987), tên gọi tắt là Luciano Silva là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Brazil thi đấu cho Nguyên Lang ở giải bóng đá hạng nhất Hồng Kông với vị trí trung vệ.
Sự nghiệp cầu thủ.
Sau khi thi đấu cho một số câu lạc bộ ở các giải đấu thấp hơn của bóng đá Brazil, Silva ký hợp đồng với Hùng Vương An Giang. Anh thi đấu cho đội bóng với số áo 17. Anh có trận ra mắt đầu tiên trong trận hòa 1-1 trước XSKT Lâm Đồng trên sân nhà. Ở vòng đấu thứ 15 giải bóng đá hạng nhất quốc gia, anh đã phải nhận thẻ vàng ở phút thứ 37 sau trận thua 1-2 trước XSKT Lâm Đồng trên sân khách. Anh được bình chọn là cầu thủ xuất sắc nhất câu lạc bộ tại mùa giải 2012. Sau đó, anh thi đấu cho Tiêu chuẩn Rangers ở giải bóng đá hạng nhất Hồng Kông vào năm 2013 từ Hùng Vương An Giang. Anh có trận ra mắt cho câu lạc bộ trong một chiến thắng 1-2 trên sân của Kitchee. Anh ghi bàn thắng đầu tiên của mình trong trận đấu gặp Yokohama FC Hồng Kông. | 1 | null |
William Henry Fox Talbot (1800-1877) là nhà phát minh và nhiếp ảnh gia người Anh. Ông đã phát minh ra một quá trình nhiếp ảnh sử dụng giấy tráng một chất hóa học nhạy với ánh sáng. Sau đó, ông đem phơi sáng thông qua một buồng tối, tạo ra một âm bản từ đó có thể rọi thành nhiều bản sao. Vào cuối năm 1839, năm ông nghĩ ra kỹ thuật trên, Talbot tình cờ phát hiện ra hiện tượng ảnh ngầm, đó là sự sắp xếp không thể nhìn thấy bằng mắt thường của các tinh thể bạc halyde trên một miếng phim. Điều này làm giảm đáng kể thời gian phơi sáng từ 1 giờ xuống còn 3 phút. Đó chính là quá trình calotype. Tên của ông được đặt cho tiểu hành tinh 3151 Talbot. | 1 | null |
Raden Mohammad Marty Muliana Natalegawa (thường gọi: Marty Natalegawa; sinh ngày 22 tháng 3 năm 1963) là một nhà ngoại giao người Indonesia. Ông giữ chức Đại diện thường trực nước này tại Liên Hợp Quốc từ ngày 5 tháng 9 năm 2007 cho đến khi được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Indonesia. Ông cũng từng là Đại sứ Indonesia tại Anh Quốc và từng là phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Indonesia.
Học vấn.
Natalegawa học tại Ellesmere College và Concord College (Anh) từ năm 1976 đến năm 1981. Ông lấy bằng cử nhân tại Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị Luân Đôn vào năm 1984. Tiếp đó ông theo học Trường Đại học Corpus Christi (thuộc Đại học Cambridge) và lấy bằng thạc sĩ vào năm 1985. Ông đạt học vị tiến sĩ tại Đại học Quốc gia Úc vào năm 1993.
Tiểu sử.
Natalegawa sinh tại Bandung, Tây Java, là con trai út trong gia đình ông Sonson Natalegawa. Ông là người Sunda.
Năm 1986, ông vào làm việc tại bộ phận Nghiên cứu và Phát triển, Bộ Ngoại giao Indonesia. Về sau, ông là Trưởng Văn phòng Bộ Ngoại giao và Tổng Giám đốc Các vấn đề Hợp tác ASEAN trong Bộ Ngoại giao. Ngày 11 tháng 11 năm 2005, ông được Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono bổ nhiệm làm Đại sứ tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Ngày 5 tháng 9 năm 2007, ông trở thành Đại diện thường trực của Indonesia tại Liên Hợp Quốc. Ngày 21 tháng 10 năm 2009, Tổng thống Yudhoyono bổ nhiệm ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Đời tư.
Natalegawa kết hôn với một phụ nữ Thái Lan là Sranya Bamrungphong. Họ có ba con: Anantha, Annisa và Andreyka. | 1 | null |
Prayut Chan-o-cha (tiếng Thái: ประยุทธ์ จันทร์โอชา, phiên âm: Bơ-la-dút Chan-ô-cha, sinh ngày 21 tháng 3 năm 1954) là một tướng lĩnh đã xuất ngũ của Quân đội hoàng gia Thái Lan và là cựu Thủ tướng Thái Lan từ năm 2014 đến năm 2023. Vào tháng 10 năm 2010, ông được bổ nhiệm làm tư lệnh Quân đội hoàng gia Thái Lan. Ngày 22 tháng 5 năm 2014, ông đã chỉ huy cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính quyền đương nhiệm của nữ Thủ tướng Yingluck Shinawatra. Ngày 23 tháng 5, trong thông báo số 10 của Ủy ban bảo vệ trật tự quốc gia, tướng Prayuth Chan-ocha tuyên bố nắm giữ vị trí Thủ tướng tạm thời cho đến khi chọn được người nắm giữ vị trí này. Ông là người bảo hoàng mạnh, chống đối Thaksin Shinawatra.
Vào ngày 21 tháng 8 năm 2014, ông được chính thức được bầu làm Thủ tướng bởi Quốc hội tạm thời do quân đội kiểm soát. Sau khi nắm quyền, Prayut cho dập tắt ngay những ý kiến bất đồng. Ông cũng cấm tất cả những cuộc thảo luận về dân chủ và những chỉ trích nhắm chính quyền quân sự hiện tại. Ngày 5 tháng 6 năm 2019, ông tái đắc cử Thủ tướng Thái Lan. Ông rút khỏi chính trường sau thất bại tại cuộc tổng tuyển cử tháng 8 năm 2023.
Tiểu sử.
Prayut Chan-o-cha sinh ngày 21 tháng 3 năm 1954, là con cả trong một gia đình có bốn anh chị em. Cha ông là Đại tá quân đội, Prapat Chan-o-cha, quê ở Bangkok, và mẹ ông là Khemphet Chan-o-cha, giáo viên, quê ở tỉnh Chaiyaphum. Ông học tại trường Sahakit ở Lopburi (nay là trường cao đẳng kỹ thuật Lopburi), nơi mẹ ông dạy học. Ông chỉ học một năm tại trường trung học cơ sở Phibulwitthayalai Lopburi vì cha ông thường xuyên di chuyển. Sau đó vào năm lớp 8, ông chuyển đến trường Wat Nuannoradit ở Phasi Charoen, được chọn là một trong những học sinh giỏi nhất.
Năm 1971, Prayut học năm cuối trung học tại Khóa 12 của Trường Dự bị Học viện Lực lượng Vũ trang (AFAPS), và năm 1976, trở thành học viên sĩ quan khóa 23 của Học viện Quân sự Hoàng gia Chulachomklao. Ông tốt nghiệp với bằng cử nhân khoa học. Khi còn ở trong học viện, ông đã hoàn thành Khóa Cơ bản Sĩ quan Bộ binh Khóa 51 trong năm đầu tiên và Khóa Nâng cao Sĩ quan Bộ binh, Khóa 34 năm 1981. Trước khi bắt đầu sự nghiệp binh nghiệp, ông tốt nghiệp Khóa 63 Trường Cao đẳng Chỉ huy và Tham mưu (CGSC) năm 1985.
Đảo chính 2014.
Ngày 22 tháng 5 năm 2014, Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Thái Lan, lãnh đạo bởi Đại tướng Prayut Chan-o-cha, Tổng tư lệnh của Quân đội Hoàng gia Thái Lan, phát động cuộc đảo chính lần thứ 12 kể từ lần đầu tiên vào năm 1932 với chính phủ tạm quyền của Thái Lan. Đây là diễn biến tiếp theo sau 6 tháng khủng hoảng chính trị. Quân đội thành lập một chính phủ quân quản gọi là Hội đồng Hòa bình và Trật tự Quốc gia Thái Lan (NCPO) để kiểm soát đất nước. Sự kiện này kết thúc xung đột chính trị giữa chính quyền quân đội và chính quyền dân chủ, vốn đã kéo dài từ đảo chính Thái Lan 2006. 7 năm sau, nó trở thành biểu tình Thái Lan 2020 để yêu cầu cải cách chế độ quân chủ Thái Lan.
Nhiệm kỳ thủ tướng.
Giữa cuộc khủng hoảng chính trị đang diễn ra kể từ tháng 11 năm 2013, Prayut đã tuyên bố thiết quân luật vào ngày 20 tháng 5 năm 2014 và tự đặt mình đứng đầu "Bộ tự lệnh duy trì trật tự và hòa bình" với nhiều quyền hạn. Ban đầu, ông nhấn mạnh rằng chính phủ lâm thời vẫn còn tại vị và sự can thiệp này không phải là một cuộc đảo chính. Tuy nhiên, chỉ hai ngày sau, ông lật đổ chính phủ và tự mình nắm quyền trực tiếp, sau khi tuyên bố rằng các cuộc đàm phán với các lực lượng chính trị khác nhau để giải quyết xung đột đã thất bại. Kể từ đó, ông đứng đầu một chính phủ quân sự được gọi là Hội đồng gìn giữ hòa bình quốc gia (NCPO) và thực thi các quyền của thủ tướng và nội các cho đến khi có thông báo mới.
Vào ngày 21 tháng 8 năm 2014, hội đồng lập pháp quốc gia do giới lãnh đạo quân sự lựa chọn đã bầu ông làm Thủ tướng. Nhiệm kỳ tư lệnh quân đội của ông kết thúc như dự định vào ngày 30 tháng 9 năm 2014. Ông được kế nhiệm bởi Tướng Udomdej Sitabutr. Tuy nhiên, Prayut vẫn giữ các chức vụ chủ tịch NCPO và thủ tướng.
Tại cuộc Tổng tuyển cử năm 2023, liên minh của Prayut chỉ có được 15% số ghế tại Hạ viện. Ngày 11 tháng 7 năm 2023, ông tuyên bố rút khỏi chính trường cũng như thành viên của Đảng Liên minh Dân tộc Thái, tuy nhiên ông tiếp tục giữ chức Thủ tướng cho tới khi Thủ tướng mới chính thức được phê chuẩn. Ngày 22 tháng 8 năm 2023, Prayut chính thức nhường lại chức Thủ tướng cho Srettha Thavisin. Ngày 22 tháng 8, ông cùng Srettha đã có buổi lễ bàn giao tại Tòa nhà Chính phủ Thái Lan. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Thái Lan, một cựu Thủ tướng có buổi lễ bàn giao công việc cho Thủ tướng kế nhiệm. | 1 | null |
Thanh Bình (1932 – 2014) là nhạc sĩ người Việt Nam được biết đến nhiều qua hai ca khúc "Tình lỡ" và "Những nẻo đường Việt Nam".
Tiểu sử.
Thanh Bình tên thật là Nguyễn Ngọc Minh, sinh năm 1932, nguyên quán tại tỉnh Bắc Ninh.
Đầu thập niên 1950, khi còn sống ở miền Bắc, ông có viết truyện ngắn và đưa tin văn hóa văn nghệ cho nhiều tờ báo với bút danh Thanh Bình.
Từ năm 1950 đến 1954, ông xuôi ngược các nơi Bắc Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Sầm Sơn, Hà Nội rồi sau đó di cư vào miền nam Việt Nam.
Bản nhạc đầu tay của ông là "Những nẻo đường Việt Nam", còn ca khúc nổi tiếng được nhiều ca sĩ biểu diễn nhất của ông là "Tình lỡ".
Sau năm 1975, Thanh Bình sống trong gia cảnh nghèo lại cô đơn một mình. Ông từng kết hôn ba lần và có một con gái.
Cuối năm 2013, ca sĩ Ánh Tuyết tổ chức một đêm nhạc từ thiện để giúp đỡ ông. Tiền thu được từ đêm ấy cùng với tiền quyên góp là 230 triệu đồng được gửi vào sổ tiết kiệm để ông dùng dần.
Ông qua đời tại nhà riêng vào hồi 4h sáng, ngày 23 tháng 5 năm 2014, hưởng thọ 82 tuổi và hỏa táng tại Bình Dương. | 1 | null |
là một chính trị gia người Nhật Bản và là đương kim Thủ tướng Nhật Bản. Ông hiện đang giữ chức Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do và cũng là đảng viên Đảng Dân chủ Tự do trong Quốc hội Nhật Bản, thuộc Chúng Nghị viện (Hạ nghị viện Nhật Bản). Ông từng giữ chức Quốc vụ khanh Okinawa và Lãnh thổ phương Bắc sự vụ, chính sách khoa học và công nghệ, chính sách chất lượng sống và cải cách quy định, sau đó là Bộ trưởng Ngoại giao kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử lãnh đạo Đảng Dân chủ Tự do năm 2021 và đã được Nghị viện bầu làm Thủ tướng vào ngày 4 tháng 10 năm 2021. Kishida đã được mô tả là một chính trị gia ôn hòa trong Đảng LDP và đã tuyên bố rằng chức vụ thủ tướng của ông sẽ tập trung vào một "mô hình mới của chủ nghĩa tư bản", bằng cách tìm cách thực hiện chính sách phân phối lại để mở rộng tầng lớp trung lưu. Về chính sách đối ngoại, ông có kế hoạch tiếp tục củng cố Đối thoại Tứ giác An ninh để theo đuổi chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở.
Thân thế.
Kishida sinh ngày 29 tháng 7 năm 1957 trong một gia đình từng tham chính tại địa phương Minami. Cha của ông là Kishida Fumitake là một quan chức chính phủ trong Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp và là giám đốc của Cơ quan Doanh nghiệp Vừa và Nhỏ. Vì gia đình Kishida đến từ Hiroshima, gia đình này trở lại đó vào mỗi mùa hè. Nhiều thành viên của gia đình Kishida đã chết trong vụ đánh bom nguyên tử và Fumio lớn lên được nghe những câu chuyện từ những người sống sót sau vụ bom nguyên tử. Cha và ông nội đều là dân biểu trong Quốc hội. Gia đình Kishida cũng có họ với Thủ tướng Miyazawa Kiichi. Ông tốt nghiệp ngành Luật tại Đại học Waseda năm 1982.
Ông đã đến P.S. 013 Clement C. Moore trường tiểu học trong khu phố Elmhurst của quận Queens, New York, bởi vì cha anh ấy đã được đưa vào làm việc ở Hoa Kỳ vào thời điểm đó. Ông theo học tại trường tiểu học Kōjimachi và trường trung học cơ sở Kōjimachi. Kishida tốt nghiệp Học viện Kaisei, nơi anh cũng chơi trong đội bóng chày.
Sau nhiều lần bị Đại học Tokyo từ chối, Kishida theo học luật tại Đại học Waseda và tốt nghiệp năm 1982. Tại Waseda, ông là bạn với chính trị gia tương lai Iwaya Takeshi.
Sự nghiệp.
Sự nghiệp ban đầu.
Sau khi làm việc tại Ngân hàng Tín dụng dài hạn Nhật Bản và làm thư ký cho một dân biểu trong Quốc hội Nhật Bản, tháng 7 năm 1993, Kishida đắc cử vào Chúng Nghị chín kỳ, làm dân biểu đại diện Đơn vị bầu cử số 1, Hiroshima. Ông giữ chức Chủ tịch Ủy ban Sự vụ Quốc hội của Đảng Dân chủ Tự do cho đến tháng 9 năm 2012. Trong Đảng Dân chủ Tự do, ông là nhân vật gần gũi với chính trị gia Koga Makoto. Tháng 10 năm 2012, Kishida nắm quyền kiểm soát phe của Koga. Đảng vụ gần đây nhất Kishida được giao phó là chủ tịch các văn phòng phục hưng kinh tế Nhật Bản.
Sự nghiệp bộ trưởng.
Kishida là Quốc vụ khanh Các vấn đề Okinawa từ 2007 đến 2008, lần đầu là trong nội các của Abe Shinzō, sau đó là trong nội các của Fukuda Yasuo. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm Quốc vụ khanh Các vấn đề Người tiêu dụng và An toàn thực phẩm trong nội các Fukuda vào năm 2008. Kishida cũng từng là Quốc vụ khanh Khoa học và Công nghệ trong nội các Fukuda. Ông thân thiết với Koga Makoto, hội trưởng của phe Kōchikai, một trong những người lớn tuổi nhất bên trong LDP, và nắm quyền kiểm soát nó vào tháng 10 năm 2012 sau khi Koga Makoto tuyên bố từ giã chính trường.Ngày 26 tháng 12 năm 2012, ông trở thành Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trong nội các của Thủ tướng Abe.
Ngoại trưởng (2012-2017).
Sau chiến thắng của LDP trong Tổng tuyển cử Nhật Bản 2012, Kishida được bổ nhiệm làm ngoại trưởng trong Nội các của Thủ tướng Abe Shinzō vào ngày 26 tháng 12 năm 2012. Ông trở thành ngoại trưởng tại vị lâu nhất trong lịch sử thời hậu chiến, vượt qua cả cha của Abe là Abe Shintarō. Ông đã giúp sắp xếp chuyến thăm lịch sử của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đến Hiroshima vào tháng 5 năm 2016 và gây chú ý vào năm 2017 khi ông xuất hiện cùng với diễn viên hài Piko Taro để quảng bá một chương trình của Liên hợp quốc.
Ông không ủng hộ việc Abe bổ nhiệm Nikai Toshihiro làm tổng thư ký LDP vào năm 2016 theo mong muốn của chính phe Kishida, được coi là một nỗ lực nhằm ngăn chặn sự thay đổi thế hệ trong LDP.
Năm 2017, Kishida rời Nội các để đảm nhận chức chủ tịch Hội đồng Nghiên cứu Chính sách LDP, một vị trí theo truyền thống được coi là bàn đạp để lãnh đạo đảng. Ông tìm kiếm vị trí này để cải thiện cơ hội kế nhiệm Abe, vì chức vụ ngoại trưởng có ảnh hưởng tương đối ít trong đảng.
Kishida đã cân nhắc tranh cử trong Cuộc Bầu cử Chủ tịch LDP năm 2018, nhưng ông đã bị Abe thuyết phục không tranh cử, với gợi ý rằng Abe sau này sẽ ủng hộ Kishida làm người kế nhiệm. Vào giữa năm 2020, một số nhà lập pháp cấp cao của LDP đã chuyển sự ủng hộ của họ từ Kishida sang Chánh văn phòng Nội các Suga Yoshihide. Phó Thủ tướng Asō Tarō chi trả kích thích cho các hộ gia đình trong Đại dịch COVID-19. Sau khi Suga giành chiến thắng trong Cuộc Bầu cử Chủ tịch LDP năm 2020 và trở thành Thủ tướng, Kishida không được đề nghị một vị trí nào trong nội các của Suga, mặc dù phe của ông đã giành được hai ghế trong nội các.
Thủ tướng (2021-nay).
Vào ngày 29 tháng 9 năm 2021, Kishida đã đánh bại Kōno Tarō trong một cuộc bỏ phiếu bầu người lãnh đạo của Đảng Dân chủ Tự do (Nhật Bản) (LDP) và thay thế lãnh đạo đảng sắp mãn nhiệm là Suga Yoshihide. Ông đã nhận được tổng cộng 257 phiếu bầu, từ 249 thành viên quốc hội và 8 thành viên Hội đồng các quận, để trở thành Thủ tướng tiếp theo của Nhật Bản. Nội các Kishida lần 1, nhậm chức vào ngày 4 tháng 10 năm 2021, bao gồm 21 thành viên, trong đó có 13 người tham gia Nội các lần đầu tiên đồng thời bao gồm 2 nhân vật cũ là Motegi Toshimitsu và Kishi Nobuo người được giữ lại từ nội các trước dưới thời Suga. Kishida tuyên bố ông sẽ tổ chức tổng tuyển cử vào ngày 31 tháng 10 năm 2021.
Sau tổng tuyển cử Nhật Bản 2021, Kishida vẫn giữ vị trí thủ tướng mặc dù LDP mất 25 ghế. Ông thành lập Nội các Kishida lần 2 bằng cách thay thế Motegi Toshimitsu bằng Hayashi Yoshimasa làm Bộ trưởng Ngoại giao; Motegi trở thành Tổng thư ký của đảng.
Kishida đã có bài phát biểu đầu tiên trên cương vị thủ tướng vào ngày 8 tháng 10 năm 2021, thề chiến đấu và chấm dứt đại dịch COVID-19 ở Nhật Bản cũng như công bố các biện pháp chống lại các mối đe dọa mà Trung Quốc và Triều Tiên nhận thấy.
Vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, sau khi bắt đầu Cuộc tấn công của Nga vào Ukraina, Kishida đã cùng với các nhà lãnh đạo khác của G7 áp đặt trừng phạt kinh tế trên Nga. Các biện pháp trừng phạt do Kishida đề xuất khắc nghiệt hơn nhiều so với các biện pháp trừng phạt phần lớn mang tính biểu tượng mà chính phủ của Abe Shinzō áp đặt lên Nga sau khi Nga sáp nhập Crimea năm 2014. Các nhà lãnh đạo Đảng Dân chủ Tự do lo ngại rằng phản ứng mờ nhạt của Nhật Bản đối với cuộc khủng hoảng Ukraine sẽ dẫn đến việc các đồng minh châu Âu của Nhật Bản thiếu sự ủng hộ trong trường hợp sự xâm lược tiềm tàng của Trung Quốc đối với Đài Loan.
Sau vụ ám sát Abe Shinzō vào ngày 8 tháng 7 năm 2022, Kishida lên án vụ ám sát,nhưng từ chối đình chỉ vận động chính trị để chứng minh rằng nền dân chủ sẽ không bị bạo lực cản trở. Sau đó ông đổ lỗi cho cảnh sát không đủ bảo vệ để cho phép vụ giết người xảy ra. Kishida đã cải tổ lại Nội các của mình vào ngày 10 tháng 8 năm 2022, bao gồm việc loại bỏ em trai của Abe, Kishi Nobuo, khỏi vai trò Bộ trưởng Quốc phòng. Trong khi phần lớn các thành viên của LDP, bao gồm Abe Shinzo và Kishi Nobuo, có liên quan đến nhà thờ ở nhiều mức độ khác nhau, bản thân Kishida được coi là vô tội trong vấn đề này. Tuy nhiên, nó đã được báo cáo trong số ra ngày 1 tháng 9 của "Shūkan Bunshun" rằng , chủ tịch của một nhóm ở Kumamoto vì ủng hộ việc đấu thầu chức thủ tướng của Kishida cũng là chủ tịch của một nhóm liên kết với Giáo hội Thống nhất đang vận động xây dựng Đường hầm dưới biển Nhật Bản-Hàn Quốc. Cả Kishida và Nakayama đều phủ nhận bất kỳ thông tin nào về việc nhóm vận động đường hầm có liên quan đến Giáo hội Thống nhất.
Vào tháng 11 năm 2022, Kishida đã chỉ thị cho chính phủ của mình tăng chi tiêu quân sự lên 2% GDP của Nhật Bản, tăng từ 1% trước đó, đến năm 2027.
Theo nghị quyết này của nội các, Kishida bắt đầu chuyến công du 5 quốc gia với tất cả các thành viên của Nhóm G7 vào tháng 1 năm 2023. Lần đầu tiên Kishida gặp Tổng thống Pháp Emmanuel Macron vào ngày 9 tháng 1 năm 2023. Ngày hôm sau, ông gặp Thủ tướng Ý Giorgia Meloni và đồng ý về một 'quan hệ đối tác chiến lược'. Vào ngày 11 tháng 1 năm 2023, Kishida đã gặp Thủ tướng Anh Rishi Sunak tại London, nơi cả hai đã ký một hiệp ước phòng thủ chung lịch sử. Ngày hôm sau, Kishida đã gặp Thủ tướng Canada Justin Trudeau tại Ottawa để thảo luận về thương mại và các vấn đề khác. Ngày hôm sau, Vào ngày 13 tháng 1, Kishida đến thăm Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden tại Washington, D.C.; một ngày trước đó, Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Quốc phòng đã gặp gỡ những người đồng cấp Mỹ của họ, nơi họ khẳng định liên minh Nhật-Mỹ vẫn không thay đổi.
Vào ngày 14 tháng 1 năm 2023, cựu Tổng thống Nga Dmitry Medvedev đã kêu gọi Kishida cam kết "seppuku" sau khi ông và Joe Biden cảnh báo Nga không được sử dụng vũ khí hạt nhân ở Ukraine.
Kishida đặt việc chăm sóc trẻ em là ưu tiên hàng đầu của chính phủ cho năm 2023. Ông nhấn mạnh những hậu quả tiềm tàng của việc giảm tỷ lệ sinh ở Nhật Bản và tuyên bố rằng chính quyền của ông sẽ tăng tiền trợ cấp trẻ em cho cha mẹ. Ông công bố kế hoạch tăng gấp đôi ngân sách liên quan đến trẻ em của đất nước vào tháng 6 năm 2023 và chỉ thị cho các bộ trưởng trong chính phủ vạch ra các kế hoạch chăm sóc trẻ em vào cuối tháng 3 năm 2023.
Vào tháng 2 năm 2023, Kishida đã sa thải một phụ tá sau khi người phụ tá này đưa ra những bình luận kỳ thị đồng tính trên phương tiện truyền thông địa phương. Theo báo cáo, cựu phụ tá Arai Masayoshi tuyên bố rằng người dân Nhật Bản sẽ chạy trốn khỏi đất nước nếu hôn nhân đồng giới được cho phép. Arai cũng tuyên bố rằng người Nhật không muốn các thành viên của cộng đồng LGBT là hàng xóm của họ.
Quan điểm chính trị.
Kishida được coi là người ôn hòa trong chính sách đối ngoại và thờ ơ với việc sửa đổi hiến pháp theo chủ nghĩa hòa bình của Nhật Bản. Theo triết lý chính trị của phe mình, Kishida đã cam kết một "chính sách ngoại giao nhân đạo" dựa trên Hiến pháp Hòa bình, liên minh Mỹ-Nhật, và Lực lượng Phòng vệ và rằng ông sẽ tìm cách tăng cường sức mạnh cho Nhật Bản - Hoa Kỳ. quan hệ và để thúc đẩy chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở (FOIP) trong khi đối trọng với sự quyết đoán chính trị và sự hiện diện quân sự của Trung Quốc trong khu vực.
Về ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Đài Loan và Hồng Kông, Kishida đã tuyên bố rằng eo biển Đài Loan có thể là "vấn đề ngoại giao lớn tiếp theo" sau "sự đàn áp của Trung Quốc đối với Hồng Kông" và Nhật Bản nên tìm kiếm hợp tác nhiều hơn với Đài Loan.
Mặc dù là thủ lĩnh của phe ôn hòa Kōchikai,Kishida có liên kết với liên minh nghị viện của tổ chức dân tộc cấp tiến và bảo thủ Nippon Kaigi tương tự như nhiều nhà lập pháp LDP khác.Tuy nhiên, ông cũng được mô tả là một chính trị gia trung lập.
Trong Cuộc đua Chủ tịch LDP năm 2021, ông kêu gọi Nhật Bản phấn đấu cho một hình thức chủ nghĩa tư bản mới để giảm chênh lệch thu nhập, nói rằng chủ nghĩa tân tự do và bãi bỏ quy định đã mở rộng khoảng cách kinh tế trong xã hội. Trong một phiên họp quốc hội vào ngày 20 tháng 2 năm 2022, ông nhắc lại rằng lợi ích của tăng trưởng không nên thuộc về một nhóm hạn chế và nói thêm rằng "chủ nghĩa tư bản không bền vững trừ khi nó là thứ thuộc về tất cả các bên liên quan".
Kishida ủng hộ việc giữ lại công nghệ điện hạt nhân, thứ mà ông cho rằng nên được coi là một lựa chọn năng lượng sạch, đồng thời kêu gọi thành lập quỹ đại học trị giá 90,7 tỷ USD để tiếp tục kích thích khoa học và thúc đẩy năng lượng tái tạo.
Là đại diện của Hiroshima, Kishida luôn ủng hộ chính sách ngoại giao của Nhật Bản nhằm thúc đẩy việc không phổ biến vũ khí hạt nhân và giải trừ quân bị trong khuôn khổ của Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT). Sau sự kiện Nga xâm lược Ukraine 2022, Kishida đã từ chối đề xuất của cựu Thủ tướng Abe Shinzō về việc Nhật Bản coi việc lưu trữ vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ như một biện pháp răn đe, gọi đó là "không thể chấp nhận được" do lập trường của nước này duy trì ba nguyên tắc phi hạt nhân.
Ông tuyên bố ủng hộ các cuộc thảo luận về việc cho phép các cặp vợ chồng Nhật Bản lựa chọn giữa họ thống nhất hoặc họ riêng biệt, trong khi nói về chủ đề hôn nhân đồng giới, Kishida đã tuyên bố rằng ông chưa đến mức phải chấp nhận nó, thay vào đó, ông nói rằng ý kiến của công chúng nên được hiểu rõ trước khi Quốc hội quyết định.
Vào năm 2017, khi giữ chức bộ trưởng ngoại giao, Kishida đã gây áp lực buộc Trung Quốc thúc đẩy Triều Tiên tiến tới phi hạt nhân hóa. Trong cuộc chạy đua giành vị trí lãnh đạo LDP, Kishida cũng đề cập đến vấn đề Người Nhật bị Triều Tiên bắt cóc và ủng hộ một hội nghị thượng đỉnh giữa Nhật Bản và Triều Tiên để chấm dứt vấn đề này. Kishida cũng có lập trường mạnh mẽ hơn so với các đối thủ khác về Trung Quốc và Triều Tiên, nói rằng Nhật Bản nên tăng cường khả năng phòng thủ, đồng thời nhận ra rằng có xung đột giữa chế độ độc tài và dân chủ trong khu vực, đặc biệt là về tình trạng của Đài Loan.
Đời tư.
Kishida thích món "okonomiyaki" kiểu Hiroshima do vợ ông Kishida Yuko chế biến. Họ kết hôn vào năm 1988, và có ba con trai. Trong một bài thuyết trình, Yuko được giới thiệu trong tin nhắn LDP ngay sau khi ông trở thành người được chỉ định làm Thủ tướng "de facto". Ông là một fan hâm mộ của bộ truyện tranh Kimetsu no Yaiba và đã cam kết hỗ trợ tài chính cho Ngành công nghiệp hoạt hình Nhật Bản trong thời gian ông thủ vai chính. Ông cũng là một fan hâm mộ của đội bóng chày Hiroshima Toyo Carp. | 1 | null |
The Economic Times là một nhật báo tiếng Anh được xuất bản tại Ấn Độ, lần đầu vào năm 1961. Với lượng độc giả trên 800.000 người, đây là tờ báo kinh doanh bằng tiếng Anh được đọc nhiều thứ hai thế giới, chỉ xếp sau tờ "The Wall Street Journal" của Mỹ. Báo được xuất bản cùng một lúc tại 12 đô thị của Ấn Độ, bao gồm Mumbai, Bangalore, Delhi, Chennai, Kolkata, Lucknow, Hyderabad, Jaipur, Ahmedabad, Nagpur, Chandigarh và Pune.
"The Economic Times" có trụ sở chính ở Mumbai, trong tòa nhà "The Times of India". Nội dung chính của báo là các vấn đề kinh tế Ấn Độ, tài chính quốc tế, giá cổ phiếu, giá hàng hóa (giao dịch trên sàn) và các vấn đề tài chính khác. Nhà sáng lập và cũng là tổng biên tập đầu tiên khi báo ra đời là P.S. Hariharan.
Tương tự tờ "Financial Times" của Anh, "The Economic Times" được in trên báo màu hồng cá hồi. Kênh phân phối đưa báo đến tất cả các thành phố lớn của Ấn Độ. Tháng 6 năm 2009, báo ra một kênh truyền hình tên là ET Now. | 1 | null |
Công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là công hàm do Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai vào ngày 14 tháng 9 năm 1958. Công hàm này được gửi sang Trung Quốc bằng điện báo, sau đó sáng ngày 21 tháng 9 năm 1958, Đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Trung Quốc Nguyễn Khang đã trình công hàm này cho Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Cơ Bằng Phi. Trong công hàm này Thủ tướng Phạm Văn Đồng thông báo cho Thủ tướng Chu Ân Lai biết Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa "tán thành và tôn trọng" "bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc".
Chính quyền Trung Quốc cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng là một trong những bằng chứng cho thấy chính quyền Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chính quyền Việt Nam thì cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng không hề công nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc vì trong công hàm không có chỗ nào nói tới hai quần đảo này. Cũng theo chính quyền Việt Nam giá trị pháp lý của nó phải được đánh giá theo bối cảnh lịch sử lúc đó khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có quyền quản lý hai quần đảo này.
Tên gọi.
Trước đây báo chí tiếng Việt ở trong và ngoài nước Việt Nam đều gọi bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là "công hàm". Trong cuộc họp báo do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức tại Hà Nội chiều ngày 23 tháng 5 năm 2014, ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia Bộ Ngoại giao Việt Nam, đã gọi công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là "công thư", và khẳng định "công thư" này là một "văn bản ngoại giao". Ông này không giải thích từ "công thư" mang hàm ý gì. Sau cuộc họp báo đó, một số bài viết của báo chí Việt Nam về sự kiện này và công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ dùng cách gọi "công thư", không gọi là "công hàm" và cũng không giải thích ý nghĩa của từ "công thư".
Trong bài viết "Không một quốc gia nào công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với Hoàng Sa" đăng trên báo Thanh Niên, công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng lại được gọi là "công điện". Cũng trong bài viết này, khi trả lời câu hỏi của phóng viên báo Thanh Niên, Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Bộ Công an Việt Nam, nói rằng "công điện" mà Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Chu Ân Lai là "một bức thư công" nhưng ông Cương không giải thích thế nào là "thư công".
Bối cảnh.
Tại Hội nghị San Francisco tháng 9 năm 1951 để giải quyết các vấn đề về lãnh thổ sau chiến tranh thế giới thứ hai, phái đoàn Liên Xô ngày 5 tháng 9 năm 1951 đã đề nghị trao trả 2 quần đảo cho chủ cũ. Hai ngày sau, ngày 7 tháng 9 năm 1951, tại hội nghị này Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu, trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam đã lên tiếng tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Trong đó có đoạn: "Và để tận dụng không ngần ngại mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống bất hòa, chúng tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ xưa đến nay vẫn thuộc cương vực Việt Nam". Lời tuyên bố này đã được Hội nghị San Francisco ghi vào biên bản. Và trong tất cả 51 phái đoàn các nước, không có phái đoàn nào phản đối, kể cả Liên Xô.
Từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1958 lần đầu tiên có hội nghị về Công ước Luật biển. Trong số 4 công ước được bàn thảo, có Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải. Tuy nhiên, hội nghị thất bại vì không thống nhất được khoảng cách lãnh hải là 12 hải lý vì nhiều quốc gia có quan điểm khác nhau, Mỹ chỉ chấp nhận 3 hải lý, có một số quốc gia cho là 4,5 hải lý thì tốt hơn, còn Trung Quốc đòi 12 hải lý, lại còn một số quốc gia Nam Mỹ muốn 200 hải lý.
Vào thời điểm 1958, quan hệ Mỹ-Trung Quốc cực kỳ căng thẳng về vấn đề Đài Loan. Trong bối cảnh đó, Thủ tướng Chu Ân Lai tuyên bố hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả "quần đảo Tây Sa" (Hoàng Sa) và "Nam Sa" (Trường Sa). Sau đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra công hàm công nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Năm 1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đổi ý và biện hộ rằng ông này đưa công hàm vào thời điểm đó là do các nhu cầu chiến tranh.
Bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của CHND Trung Hoa.
Bản tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có nội dung như sau:
Toàn văn công hàm.
Theo bài viết "Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam" đăng trên báo Đại Đoàn Kết thì toàn văn công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai như sau:
Ngày 22 tháng 9 năm 1958, công hàm trên của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã được đăng trên báo Nhân dân.
Ảnh hưởng.
Các học giả, các nhà ngoại giao Trung Quốc thường dùng Công hàm này để cho là Việt Nam đã từng đồng ý chấp nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là quần đảo Tây Sa và Nam Sa) là lãnh thổ của Trung Quốc. Việt Nam chỉ thay đổi lập trường sau khi đất nước thống nhất vào năm 1975 và như vậy là vi phạm nguyên tắc luật quốc tế estoppel.
Trước đây, nhiều nhà trí thức Việt Nam đã kiến nghị yêu cầu Bộ Ngoại giao Việt Nam cung cấp thông tin về quan hệ với Trung Quốc, trong đó kiến nghị có thông tin công khai về nội dung những buổi gặp gỡ của các cấp ngoại giao và về công hàm này, như trong tuyên cáo ngày 2 tháng 7 năm 2011 của nhiều trí thức, trong số đó có cựu đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh, các giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Hoàng Tụy, Chu Hảo, tiến sĩ Nguyễn Quang A, Nguyễn Xuân Diện, các nhà văn Nguyên Ngọc, ông Lê Hiếu Đằng...
Phản ứng cấp chính phủ.
Phía Việt Nam.
Ngày 7 tháng 8 năm 1979, Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra Tuyên bố về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, bác bỏ "sự xuyên tạc" của Trung Quốc trong việc công bố một số tài liệu của Việt Nam liên quan đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này, nhắc lại lập trường của Việt Nam về việc giải quyết sự tranh chấp về 2 quần đảo giữa hai nước bằng thương lượng hòa bình.
Ngày 23 tháng 5 năm 2014, trong cuộc họp báo quốc tế về tình hình Biển Đông do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức, ông Trần Duy Hải, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam, phát biểu: ""Công thư của cố thủ tướng là văn bản ngoại giao. Giá trị pháp lý nằm trong nội dung công thư. Việt Nam công nhận vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa, Trường Sa vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa. Giá trị công thư phải đặt trong bối cảnh cụ thể. Công thư gửi Trung Quốc lúc đó Hoàng Sa và Trường Sa đang thuộc quản lý của Việt Nam Cộng hòa, Trung Quốc chỉ là một bên tham gia. Không thể cho người khác cái gì mà bạn chưa có được. Vì thế công thư không có giá trị chủ quyền với Tây Sa, Nam Sa theo cách gọi của Trung Quốc"." Cũng theo ông Hải, "Đến nay không quốc gia nào công nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa"
Phía Trung Quốc.
Ngày 30 tháng 1 năm 1980, để phản ứng việc Việt Nam công bố sách trắng về chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa, Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã xuất bản một tài liệu với tên gọi "Chủ quyền không tranh cãi của Trung Quốc đối với hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa". Trong tiểu mục với tựa "Sự man trá của chính quyền Việt Nam", tài liệu nhắc đến việc báo "Nhân dân" ngày 6 tháng 9 năm 1958 in toàn văn tuyên bố về hải phận của Trung Quốc ở trang đầu, trong đó có đoạn nói về Nam Sa và Tây Sa, cũng như công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Trung Quốc cũng công bố công hàm trong tài liệu và nói rằng đây là bằng chứng cho thấy chính phủ Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo. Cùng với công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, tài liệu này cũng công bố một bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam [Dân chủ Cộng hòa] xuất bản tháng 5 năm 1972 cho thấy các quần đảo này có tên Tây Sa và Nam Sa.
Theo Trung Quốc, công hàm này và các tài liệu họ đưa ra là "các tài liệu nhà nước chính thức" và "các văn bản có hiệu lực pháp lý" mà phía Việt Nam luôn đòi hỏi để thiết lập chủ quyền lãnh thổ. Các tài liệu cho thấy cho đến năm 1974, Việt Nam vẫn công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa, và việc chính quyền Việt Nam nuốt lời và man trá là điều hoàn toàn không được phép làm dưới luật quốc tế.
Nhân Vụ giàn khoan HD-981, vào ngày 20 tháng 5 năm 2014, đại diện lâm thời Sứ quán Trung Quốc ở Indonesia, Lưu Hồng Dương, đăng bài lên báo Indonesia Jakarta Post lại mượn công hàm này để khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc: "Trong tuyên bố ngày 14/9/1958 thay mặt chính phủ Việt Nam, Thủ tướng Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa (tên của Trung Quốc gọi quần đảo Hoàng Sa) và các đảo khác ở Nam Hải (Biển Đông) là lãnh thổ Trung Quốc."
Tiến sĩ Ngô Sĩ Tồn, Giám đốc Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, có bài trả lời phỏng vấn hãng tin Đức "Deutsche Welle", được đăng trên mạng cùng ngày, cũng nói: "Năm 1958, Thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa trong công hàm gửi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Hà Nội chỉ thay đổi lập trường sau khi đất nước thống nhất năm 1975. Nhưng theo nguyên tắc estoppel, Trung Quốc không tin rằng Việt Nam có thể thay đổi lập trường về vấn đề chủ quyền".
Ngày 8 tháng 6 năm 2014, Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công bố tài liệu nêu quan điểm của Trung Quốc trong vụ giàn khoan, trong đó Trung Quốc lặp lại các tài liệu như đã công bố năm 1980, đồng thời còn đưa ra một tài liệu từ sách giáo khoa môn địa lý lớp 9 phổ thông xuất bản bởi Nhà xuất bản Giáo dục tại Hà Nội năm 1974. Trong đó, bài đọc về địa lý Trung Quốc có đoạn ghi rõ: "Vòng cung đảo từ các đảo Nam sa, Tây sa, đến các đảo Hải nam, Đài loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn... làm thành một bức "trường thành" bảo vệ lục địa Trung quốc".
Bình luận.
Phía Việt Nam.
Nhà nghiên cứu Biển Đông Hoàng Việt, một giảng viên về Luật Quốc tế ở TPHCM, cho là công hàm ở thời điểm đó không có thẩm quyền về quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Theo Hiệp định Geneve (1954) mà Trung Quốc đã ký, về mặt pháp lý quốc tế Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có trách nhiệm quản lý phần lãnh thổ phía Nam. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, chính quyền Việt Nam đã tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam rồi. Về mặt pháp lý quốc tế phù hợp, chính quyền có thẩm quyền quản lý Hoàng Sa, Trường Sa liên tục, từ nhà Nguyễn tới thời Pháp thuộc trong đó có nhiều chính phủ khác nhau và như vậy cho đến sau khi thống nhất các chính phủ có thẩm quyền đều khẳng định chủ quyền của mình và thực thi liên tục không đứt đoạn, vấn đề này thể hiện giá trị pháp lý quốc tế.
Cũng theo ông Việt, công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong hoàn cảnh quan hệ đặc thù, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Trung Quốc lúc đó đang "vừa là đồng chí vừa là anh em", năm 1955 Trung Quốc đã chiếm lại từ tay quân đội Tưởng Giới Thạch (Đài Loan) đảo Bạch Long Vĩ (quân Tưởng Giới Thạch chiếm đảo này từ năm 1949) và năm 1957 đã trao trả lại cho Việt Nam. Theo ông Việt, Công hàm năm 1958 là để nêu quan điểm công nhận tuyên bố lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, nhưng "sau này người ta diễn giải khác đi, đặc biệt là Trung Quốc. Chắc có lẽ ông Đồng cũng không ngờ là sau này công hàm của ông lại được diễn giải một cách khác nhau rất nhiều như vậy"..
Học giả Pháp, bà Duy Tân Joële Nguyễn, chuyên gia chính trị học và luật quốc tế, cho biết: "Trong pháp luật quốc tế, ngăn chặn là một nguyên tắc, theo đó một nhà nước phải được coi như liên hệ với hành vi của nó trong quá khứ và do đó không thể khẳng định một tuyên bố mới, không thể tuyên bố hoặc hành động mâu thuẫn với những gì mà nhà nước đó đã tuyên bố hoặc thực hiện từ trước, để bảo toàn tính chất chắc chắn pháp lý và sự tin cậy giữa các quốc gia. Tuy nhiên, ngăn chặn không có nghĩa là một nhà nước bị ràng buộc bởi tất cả những gì mà nhà nước đó đã tuyên bố.
Theo lý luận, có bốn điều kiện phải được đáp ứng.
Kết quả là, nhà nước phải bày tỏ ý định quả quyết muốn được ràng buộc bởi cam kết này và sẽ tôn trọng nó. Phân tích của chúng tôi đối với tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng thấy nó không hội đủ nguyên tắc ngăn chặn nói trên, một số điều kiện còn thiếu, đặc biệt, dự định nhằm công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không hề được trình bày rõ ràng trong bản tuyên bố này".
Theo Chương trình Nghiên cứu Biển Đông của Học viện Ngoại giao Việt Nam:
Cho dù những suy diễn về ý nghĩa của Công thư 1958 có đi xa như thế nào, cũng như phía Trung Quốc có đưa thêm bất kỳ bằng chứng gì để phản bác Việt Nam, thì những gì liên quan tới Hoàng Sa và Trường Sa xảy ra ngoài lãnh thổ miền Nam Việt Nam trước 24/06/1976 không hề ràng buộc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Với tư cách là nhà nước thừa kế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam, những gì liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa nếu có sự mâu thuẫn giữa hai chủ thể luật pháp quốc tế tiền bối thì những hành động (hơn nữa, đó là những hành động rõ ràng, kiên quyết và phù hợp với luật pháp quốc tế) của Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Chính phủ tồn tại song song với nó là Việt Nam Cộng hòa (quản lý hai quần đảo này trong thực tế) sẽ có hiệu lực ràng buộc đối với Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Điều này được luật pháp quốc tế quy định rõ ràng.
Theo Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh:
Và thêm nữa, đối với các sự chuyển nhượng lãnh thổ, thì Thủ tướng không có thẩm quyền quyết định việc ấy, mà phải là cơ quan quyền lực tối thượng ở Việt Nam là Quốc hội. Và cuối cùng, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thể quyết định hoặc chuyển giao một thứ mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có thẩm quyền quản lý theo công pháp quốc tế, và cũng không kiểm soát nó trong thực tế. Vì vậy, việc Thủ tướng Phạm Văn Đồng của Việt Nam công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong hồ sơ mà Trung Quốc trình lên Liên Hợp Quốc vào ngày 9-6-2014 là không có giá trị.
Phía Trung Quốc.
Cùng với công hàm năm 1958, các chuyên gia Trung Quốc còn nhắc đến một số sự kiện khác để chứng minh rằng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước năm 1975 và chỉ tráo trở thay đổi quan điểm sau khi đã chiến thắng Việt Nam Cộng hòa. Trong một cuộc họp mặt ngày 15 tháng 6 năm 1956, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Ung Văn Khiêm đã nói với đại biện lâm thời của Lãnh sự quán Trung Quốc tại Việt Nam, Lý Chí Dân, rằng: "Căn cứ vào tư liệu của phía Việt Nam, về mặt lịch sử thì quần đảo Tây Sa và Nam Sa là một phần lãnh thổ của Trung Quốc". Hơn thế nữa, khi báo "Nhân dân" đăng tuyên bố toàn văn về hải phận của Trung Quốc ở trang đầu trong số ngày 4 tháng 9 năm 1958, bao gồm cả Nam Sa và Tây Sa, tờ báo không đưa ra bất cứ một lời phản đối nào. Các bản đồ thế giới của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xuất bản năm 1960 và 1972, cũng như sách giáo khoa xuất bản năm 1974, đều công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với hai quần đảo. Một tuyên bố của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1965 cũng công nhận chủ quyền của Trung Quốc khi lên án Tổng thống Lyndon B. Johnson: "Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson đã chỉ định... một phần lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong quần đảo Tây Sa làm "vùng chiến sự" của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ".
Theo chính quyền Trung Quốc vì trong tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Trung Quốc nêu rõ phạm vi áp dụng của tuyên bố này bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hai quần đảo này nằm bên trong lãnh hải rộng 12 hải lý của Trung Quốc nên dù công hàm Phạm Văn Đồng không nhắc đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì việc Chính phủ Việt Nam công nhận lãnh hải rộng 12 hải lý của Trung Quốc cũng tức là đã công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc. | 1 | null |
Ultimate Fighting Championship (UFC) là một công ty giải trí võ thuật hỗn hợp (MMA) của Mỹ có trụ sở tại Las Vegas, Nevada, được sở hữu và điều hành bởi Endeavour Group Holdings cùng với Silver Lake Partners, Kohlberg Kravis Roberts và MSD Capital thông qua Zuffa, LLC. Đây là công ty quảng bá MMA lớn nhất thế giới và có một số võ sĩ cấp cao nhất trong môn thể thao này trong danh sách của mình. UFC sản xuất các sự kiện thi đấu trên toàn thế giới giới thiệu mười hai hạng cân nặng (tám hạng cân cho nam và bốn cho phụ nữ) và tuân thủ Quy tắc thống nhất của võ thuật hỗn hợp. Tính đến năm 2020, UFC đã tổ chức hơn 500 sự kiện. Dana White là chủ tịch UFC từ năm 2001. Dưới sự quản lý của White, UFC đã phát triển thành một doanh nghiệp trị giá hàng tỷ đô la nổi tiếng toàn cầu.
Sự kiện đầu tiên được tổ chức vào năm 1993 tại McNichols Sports Arena ở Denver, Colorado. Mục đích của các cuộc thi Ultimate Fighting Championship đầu tiên là xác định môn võ thuật hiệu quả nhất trong một cuộc thi với các quy tắc tối thiểu và không có hạng cân giữa các đối thủ của các môn chiến đấu khác nhau như đấm bốc, kickboxing, Brazil Jiu-Jitsu, Sambo, đấu vật, Muay Thai, Karate, Taekwondo và Judo. Trong các sự kiện tiếp theo, các chiến binh bắt đầu áp dụng các kỹ thuật hiệu quả từ nhiều môn phái, điều này gián tiếp giúp tạo ra một phong cách chiến đấu riêng biệt được gọi là võ thuật hỗn hợp ngày nay. Vào năm 2016, công ty mẹ của UFC, Zuffa, đã được bán cho một nhóm do William Morris Endeavour (WME-IMG), bao gồm Silver Lake Partners, Kohlberg Kravis Roberts và MSD Capital với giá 4,025 tỷ USD.
Với một thỏa thuận truyền hình và mở rộng ở Úc, Châu Á, Châu Âu, và các thị trường mới ở Hoa Kỳ, UFC đã tăng mức độ phổ biến và đạt được độ phủ sóng truyền thông chính thống lớn hơn; chương trình khuyến mãi mang lại tổng doanh thu 609 triệu đô la Mỹ trong năm 2015, và thỏa thuận quyền truyền thông trong nước tiếp theo với ESPN được định giá 1,5 tỷ đô la trong thời hạn 5 năm.
Luật thi đấu.
Luật hiện hành của giải UFC được thiết lập lúc ban đầu bởi Ban Điều Hành Thể thao New Jersey. Những điều lệ cho luật võ tổng hợp của New Jersey thiết lập cũng được áp dụng cho các bang khác, bao gồm Nevada, Louisiana, và California. Những luật đó cũng được sử dụng cho các hoạt động quảng bá khác trong nước Mỹ. Do đó đã trở thành tiêu chuẩn trên thực tế của luật thi đấu võ thuật tổng hợp trên cả nước.
Các trận đấu của UFC giới hạn trong khoảng thời gian tối đa, phụ thuộc vào các giải đấu khác nhau. Trong tất cả các trận đánh, mỗi hiệp không được quá 5 phút. Trong giải mới nhất cho phép tối đa 5 hiệp trong 1 trận đấu. Có 1 phút nghỉ trong thời gian giữa các hiệp. | 1 | null |
Oil and Natural Gas Corporation Limited (viết tắt: ONGC) là một công ty đa quốc gia của Ấn Độ, hoạt động trong ngành thăm dò, khai thác dầu mỏ và khí thiên nhiên. Công ty đặt trụ sở chính tại Dehradun, bang Uttarakhand. Đây là doanh nghiệp nhà nước do Chính phủ Ấn Độ nắm tỉ trọng vốn lớn, thuộc quyền quản lý của Bộ Dầu khí Ấn Độ. ONGC là công ty thăm dò và khai thác dầu khí lớn nhất toàn quốc, sản xuất khoảng chừng 69% lượng dầu mỏ của Ấn Độ (tương đương khoảng 30% tổng nhu cầu về dầu trong nước) và khoảng 62% khí thiên nhiên của Ấn Độ.
Ngày 31 tháng 3 năm 2013, giá trị vốn hóa thị trường của công ty đạt 2,6 ngàn tỉ rupee (48,98 tỉ đô la Mỹ), khiến công ty được xếp thứ hai trong danh sách các công ty đại chúng lớn nhất Ấn Độ. Trong cuộc khảo sát của chính phủ dành cho năm tài chính 2011-12, ONGC được xếp là doanh nghiệp nhà nước tạo ra lợi nhuận nhiều nhất Ấn Độ. ONGC đứng ở hạng 357 trong danh sách Fortune Global 500 (500 công ty lớn nhất thế giới) vào năm 2012. Công ty đứng hạng 22 trong danh sách 250 Công ty Năng lượng Hàng đầu ("Top 250 Global Energy Companies") của Platts.
ONGC được thành lập ngày 14 tháng 8 năm 1956. Hiện thời Chính phủ Ấn Độ đang sở hữu 69,23% vốn của công ty. ONGC tham gia thăm dò và khai thác dầu khí ở 26 bồn địa trầm tích của Ấn Độ, sở hữu và điều hành trên 11.000 km đường ống dẫn dầu khí trong nước. Công ty con Videsh có dự án ở 15 quốc gia. ONGC đã phát hiện được 6 trong 7 mỏ dầu đang khai thác thương mại ở bồn địa Ấn Độ. Mặc cho sự giảm sút sản lượng khai thác từ các mỏ cũ trên toàn cầu, ONGC vẫn duy trì được sản lượng nhờ sự hỗ trợ của việc đầu tư không tiếc tiền cho các dự án IOR ("Improved oil recovery") và EOR ("Enhanced oil recovery"). Tại nhiều mỏ cũ, tỉ lệ khôi phục của ONGC đạt 25-33%. | 1 | null |
Frederick B.Cohen (sinh năm 1957) là nhà khoa học người Mỹ chuyên nghiên cứu về máy tính. Khi còn là sinh viên của Đại học Nam California năm 1983, Cohen đã sử dụng từ virus trong luận án tiến sĩ của mình để chỉ các phần mềm sẵn sàng phá hoại các tín hiệu được sắp đặt từ trước. Cohen trở thành người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này. | 1 | null |
Virus Jerusalem là một loại virus xuất hiện trên máy tính. Xuất hiện vào năm 1988, Jerusalem cứ hoạt động vào thứ sáu ngày 13 trong gần tám năm trước khi bị phá hủy bởi phần mềm diệt virus. Nó là một trong những virus phá hoại nhiều nhất trên máy tính. | 1 | null |
Học viện Quốc phòng Úc, dịch đầy đủ là Học viện Lực lượng Quốc phòng Úc (tiếng Anh: Australian Defence Force Academy, viết tắt: ADFA) là một học viện quân sự tam quân (lục quân, không quân, hải quân) chuyên cung cấp các chương trình đào tạo quân sự và sau trung học cho các sĩ quan trẻ của Lực lượng Quốc phòng Úc trong Không lực Hoàng gia Úc, Lục quân Úc và Hải quân Hoàng gia Úc.
Tại ADFA, giáo dục sau trung học được khu trường sở Canberra thuộc Đại học New South Wales (UNSW) cung cấp (UNSW@ADFA), và ADFA được xem là một khoa của UNSW. UNSW cũng là tổ chức cấp các chứng chỉ của ADFA. Ngoài việc đào tạo ra các lãnh đạo tương lai của Lực lượng Quốc phòng Úc, khu trưởng sở Canberra của UNSW còn tổ chức giảng dạy các chương trình sau đại học và các khóa học ngắn hạn cho nhân viên Bộ Quốc phòng Úc và công chúng có nhu cầu.
Cơ ngơi của ADFA nằm ở vùng ngoại ô Campbell, Canberra, Lãnh thổ Thủ đô Úc, gần quận hành chính Russell của Chính phủ Úc. Trường nằm bên cạnh núi Pleasant. ADFA cũng nằm cạnh học viện quân sự của Lục quân Úc, tức Trường Quân sự Hoàng gia, Duntroon.
Những sĩ quan trẻ học tại ADFA sẽ mang quân hàm Chuẩn úy ("Midshipman") trong Hải quân Hoàng gia, "Officer Cadet" trong Lục quân và "Officer Cadet" trong Không lực Hoàng gia. Người chỉ huy học viện hiện là Chuẩn tướng Không quân Alan Clements. | 1 | null |
Herman Hollerith (1860-1929) là nhà thống kê học, nhà phát minh, doanh nhân người Mỹ. Vào cuối thế kỷ XIX, điện bắt đầu được sử dụng vào kỹ thuật. Lúc đó, Hollerith chế tạo thành công chiếc máy tính sử dụng bìa đục lỗ để lưu trữ và thống kê số liệu. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng vì dữ liệu đã được lưu trữ bằng thiết bị mà máy có thể đọc được. Loại máy kiểu này đã được sản xuất công nghiệp với số lượng lớn, được dùng ở nhiều quốc gia trên thế giới, chủ yếu là để xứ lý số liệu thống kê và trong công nghiệp dệt đê làm chương trình dệt hoa văn. Tiêu biểu là vào năm 1890, cuộc điều tra dân số Hoa Kỳ kéo dài chỉ có hai năm rưỡi so với lần trước năm 1880 cho kết quả kéo dài tới cả thập kỷ. Để có được thay đổi đáng kể đó, cuộc điều tra năm 1890 đã được số hóa với máy tính của Herman Hollerith. Một điều thú vị là công ty của Hollerith sau này trở thành IBM, một trong những công ty về máy tính lớn nhất và nổi tiếng nhất thế giới. | 1 | null |
Charles Xavier Thomas (hay còn gọi là Charles Xavier Thomas de Colmar) là nhà phát minh người Pháp. Năm 1829, ông phát minh ra một cỗ máy có đĩa số và cần điều khiển có thể thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân và chia. Máy tính cơ khí này được sử dụng rộng rãi cho đến Chiến tranh thế giới thứ nhất. | 1 | null |
Máy tính kiểm soát bắn Mark I (tiếng Anh: Automatic Sequence Controlled Calculator, viết tắt là ASCC hay còn gọi là Harvard Mark 1) là một trong những máy tính đầu tiên được ứng dụng vào quân sự. Nó được thiết kế bởi Howard Aiken. Máy tính này dùng các rơle điện từ để điều khiển tự động việc thực hiện liên tiếp một dãy các phép toán. Nó được sử dụng bởi Hải quân Hoa Kỳ. Thiết bị này có chiều dài bằng nửa sân vận động bóng đá với hpn 850 km mạng điện. và còn nhiều hơn thế ... | 1 | null |
Các hệ điều hành máy tính cung cấp một tập chức năng cần thiết và được dùng ở hầu hết các chương trình trên máy tính, và các liên kết cần để kiểm soát và đồng bộ phần cứng máy tính. Vào thế hệ máy tính đầu tiên, lúc đó không có hệ điều hành, mỗi chương trình phải cần đặc tả phần cứng đầy đủ để chạy đúng và thực hiện các nhiệm vụ tiêu chuẩn, và các driver riêng cho các thiết bị ngoại vi như máy in và bìa đục lỗ. Sự phát triển phức tạp của phần cứng và các chương trình ứng dụng cuối cùng cũng tạo ra các hệ điều hành dựa trên nhu cầu.
Bối cảnh.
Các máy tính đầu tiên là máy tính lớn không có bất kỳ hình thức hệ điều hành nào. Mỗi người dùng chỉ sử dụng máy trong một khoảng thời gian theo lịch trình và sau đó đến máy tính có chương trình và dữ liệu, thường là trên bìa đục lỗ và băng từ hoặc băng giấy. Chương trình sẽ được tải vào máy và máy sẽ được thiết lập để hoạt động cho đến khi chương trình hoàn thành hoặc gặp sự cố. Các chương trình thường có thể được gỡ lỗi thông qua bảng điều khiển bằng cách sử dụng quay số, chuyển đổi công tắc và đèn bảng.
Các ngôn ngữ tượng trưng, hợp ngữ và trình biên dịch đã được phát triển giúp cho các lập trình viên dịch mã chương trình tượng trưng thành mã máy vốn trước đây được mã hóa bằng tay. Các máy sau này đi kèm với các thư viện mã hỗ trợ trên bìa đục lỗ hoặc băng từ, sẽ được liên kết với chương trình của người dùng để hỗ trợ các hoạt động như vào/ra. Đây là nguồn gốc của hệ điều hành hiện đại; tuy nhiên, máy móc vẫn chạy một công việc duy nhất tại một thời điểm. Tại Đại học Cambridge ở Anh hàng đợi công việc đã có thời điểm phải dùng một dây phơi trên đó các băng được treo với các chốt quần áo có màu khác nhau để biểu thị mức độ ưu tiên công việc.
Khi máy móc trở nên mạnh mẽ hơn, thời gian để chạy các chương trình giảm dần và thời gian để trao thiết bị cho người dùng tiếp theo trở nên lớn hơn bằng cách so sánh. Ghi chép và thanh toán cho việc sử dụng máy được chuyển từ kiểm tra đồng hồ treo tường sang đăng nhập tự động bằng máy tính. Chạy hàng đợi phát triển từ một hàng người theo nghĩa đen ở cửa, đến rất nhiều phương tiện trên bàn chờ việc, hoặc hàng loạt thẻ đục lỗ xếp chồng lên nhau trên đầu đọc, cho đến khi chính máy có thể chọn và sắp xếp các ổ băng từ nào xử lý băng nào. Khi các nhà phát triển chương trình ban đầu có quyền truy cập để chạy các công việc của riêng họ trên máy, họ được thay thế bởi các nhà khai thác máy chuyên dụng chăm sóc máy và ngày càng ít quan tâm đến việc thực hiện các tác vụ theo cách thủ công.Khi các trung tâm máy tính có sẵn trên thị trường phải đối mặt với hệ lụy của dữ liệu bị mất do giả mạo hoặc lỗi vận hành, các nhà cung cấp thiết bị đã chịu áp lực phải tăng cường các thư viện thời gian chạy để ngăn chặn việc lạm dụng tài nguyên hệ thống. Giám sát tự động là cần thiết không chỉ cho việc sử dụng CPU mà còn để đếm các trang được in, thẻ đục lỗ, đọc thẻ, lưu trữ đĩa được sử dụng và để báo hiệu khi cần có sự can thiệp của nhà điều hành các công việc như thay đổi băng từ và mẫu giấy. Các tính năng bảo mật đã được thêm vào hệ điều hành để ghi lại các đoạn kiểm toán trong đó các chương trình đang truy cập vào file nào và để ngăn truy cập vào file biên chế sản xuất bởi một chương trình kỹ thuật chẳng hạn.
Tất cả các tính năng này được xây dựng theo hướng một hệ điều hành có khả năng đầy đủ. Cuối cùng, các thư viện thời gian chạy đã trở thành một chương trình hợp nhất được khởi động trước công việc của khách hàng đầu tiên và có thể đọc công việc của khách hàng, kiểm soát việc thực hiện, ghi lại việc sử dụng nó, gán lại tài nguyên phần cứng sau khi công việc kết thúc và ngay lập tức xử lý công việc tiếp theo. Các chương trình nền thường trú này, có khả năng quản lý các quy trình nhiều bước, thường được gọi là "giám sát" hoặc "giám sát chương trình" trước khi thuật ngữ "hệ điều hành" được hình thành.
Một chương trình cơ bản cung cấp quản lý phần cứng cơ bản, lập lịch phần mềm và giám sát tài nguyên có vẻ như là tổ tiên từ xa đối với các hệ điều hành hướng người dùng trong kỷ nguyên máy tính cá nhân. Nhưng đã có một sự thay đổi trong ý nghĩa của hệ điều hành. Ngay khi những chiếc ô tô đời đầu thiếu đồng hồ tốc độ, radio và điều hòa không khí mà sau này trở thành tiêu chuẩn, ngày càng có nhiều tính năng phần mềm tùy chọn trở thành tính năng tiêu chuẩn trong mọi gói hệ điều hành, mặc dù một số ứng dụng như Hệ quản trị cơ sở dữ liệu và bảng tính vẫn có giá tùy chọn và riêng biệt. Điều này đã dẫn đến nhận thức về một hệ điều hành như một hệ thống người dùng hoàn chỉnh với giao diện người dùng đồ họa tích hợp, các tiện ích, một số ứng dụng như trình soạn thảo văn bản và trình quản lý file và các công cụ cấu hình.
Hậu duệ thực sự của các hệ điều hành ban đầu là cái mà ngày nay được gọi là "kernel". Trong giới kỹ thuật và phát triển, ý thức hạn chế cũ của hệ điều hành vẫn tồn tại do sự phát triển tích cực của các hệ điều hành nhúng cho tất cả các loại thiết bị có thành phần xử lý dữ liệu, từ các thiết bị cầm tay cho đến robot công nghiệp và điều khiển thời gian thực - các hệ thống không chạy ứng dụng người dùng ở mặt trước. Một hệ điều hành nhúng trong một thiết bị ngày nay không còn bị loại bỏ như người ta có thể nghĩ từ tổ tiên của những năm 1950.
Các loại hệ thống và phần mềm ứng dụng rộng hơn sẽ được thảo luận trong bài viết về phần mềm máy tính.
Máy tính lớn.
Hệ điều hành đầu tiên được sử dụng cho công việc thực tế là GM-NAA I/O, được sản xuất vào năm 1956 bởi Bộ phận Nghiên cứu của General Motors cho IBM 704 của họ. Hầu hết các hệ điều hành ban đầu khác cho máy tính lớn của IBM cũng được sản xuất bởi khách hàng.
Các hệ điều hành ban đầu rất đa dạng, với mỗi nhà cung cấp hoặc khách hàng sản xuất một hoặc nhiều hệ điều hành dành riêng cho máy tính lớn của họ. Mỗi hệ điều hành, thậm chí từ cùng một nhà cung cấp, có thể có các mô hình lệnh, quy trình vận hành khác nhau và các phương tiện như các công cụ gỡ lỗi. Thông thường, mỗi lần nhà sản xuất đưa ra một máy mới, sẽ có một hệ điều hành mới và hầu hết các ứng dụng sẽ phải được điều chỉnh thủ công, biên dịch lại và kiểm thử lại.
Các hệ thống dựa trên phần cứng IBM.
Tình trạng tiếp diễn cho đến những năm 1960 khi IBM, đã là nhà cung cấp phần cứng hàng đầu, ngừng hoạt động trên các hệ thống hiện có và nỗ lực hết sức để phát triển loạt máy System/360, tất cả đều sử dụng cùng một kiến trúc vào/ra. IBM dự định phát triển một hệ điều hành duy nhất cho phần cứng mới, OS / 360. Các vấn đề gặp phải trong quá trình phát triển OS/360 là huyền thoại, và được Fred Brooks mô tả trong cuốn "The Mythical Man-Month"—một cuốn sách đã trở thành kinh điển của công nghệ phần mềm. Do sự khác biệt về hiệu năng trên phạm vi phần cứng và sự chậm trễ trong phát triển phần mềm, cả một họ hệ điều hành đã được giới thiệu thay vì một OS/360 duy nhất.
IBM cố gắng phát hành một loạt các khoảng trống theo sau bởi hai hệ điều hành tồn tại lâu hơn:
IBM duy trì khả năng tương thích hoàn toàn với bản tiền nhiệm, để các chương trình được phát triển vào những năm 1960 vẫn có thể chạy trên z/VSE (nếu được phát triển cho DOS/360) hoặc z/OS (nếu được phát triển cho MFT hoặc MVT) mà không thay đổi.
IIBM cũng đã phát triển TSS/360, một hệ thống chia sẻ thời gian cho System/360 Model 67. Bù đắp quá mức cho tầm quan trọng của họ trong việc phát triển hệ thống chia sẻ thời gian, họ thuê hàng trăm nhà phát triển làm việc cho dự án. Họ đã kết thúc với một dự án lỗi, đầy lỗi, mất nhiều thời gian để khởi động như nó đã bị crash, và kết thúc dự án mà không phát hành nó.
Một số hệ điều hành cho kiến trúc IBM S/360 và S/370 được phát triển bởi các bên thứ ba, bao gồm Michigan Terminal System (MTS) và MUSIC/SP.
Hệ điều hành máy tính lớn khác.
Control Data Corporation phát triển hệ điều hành SCOPE trong những năm 1960, cho xử lý theo lôvà sau đó phát triển hệ điều hành MACE cho hệ thống chia sẻ thời gian, là tiền thân của Kronos sau này. Hợp tác với Đại học Minnesota, Kronos và sau đó là các hệ điều hành NOS đã được phát triển trong những năm 1970, hỗ trợ đồng thời sử dụng hàng loạt và chia sẻ thời gian. Giống như nhiều hệ thống chia sẻ thời gian thương mại, giao diện của nó là một phần mở rộng của hệ thống chia sẻ thời gian DTSS, một trong những nỗ lực tiên phong trong các ngôn ngữ lập trình và chia sẻ thời gian.
Cuối những năm 1970, Control Data và Đại học Illinois đã phát triển hệ thống PLATO, sử dụng màn hình plasma và mạng chia sẻ thời gian dài. PLATOđã được đổi mới đáng kể cho thời gian của nó; mô hình bộ nhớ dùng chung của ngôn ngữ lập trình TUTOR của PLATO cho phép các ứng dụng như trò chuyện thời gian thực và trò chơi đồ họa đa người dùng.
Đối với UNIVAC 1107, UNIVAC, nhà sản xuất máy tính thương mại đầu tiên, đã sản xuất hệ điều hành EXECI và Computer Sciences Corporation đã phát triển EXEC II và giao cho UNIVAC. EXEC II đã được port sang UNIVAC 1108. Sau đó, UNIVAC phát triển EXEC 8 cho 1108; nó là cơ sở cho các hệ điều hành cho các thành viên sau này của gia đình. Giống như tất cả các hệ thống máy tính lớn đầu tiên, EXEC I và EXEC II là một hệ thống định hướng hàng loạt quản lý trống từ, đĩa, đầu đọc thẻ và máy in dòng; EXEC 8 hỗ trợ cả xử lý hàng loạt và xử lý giao dịch trực tuyến. IVào những năm 1970, UNIVAC đã sản xuất hệ thống Real-Time Basic (RTB) để hỗ trợ chia sẻ thời gian quy mô lớn, cũng được mô phỏng theo hệ thống Dartmouth BASIC.
Burroughs Corporation đã giới thiệu B5000 năm 1961 cùng với hệ điều hành MCP (Master Control Program). B5000 là một máy xếp chồng được thiết kế để hỗ trợ độc quyền các ngôn ngữ cấp cao, không có phần mềm, thậm chí không ở mức thấp nhất của hệ điều hành, được viết trực tiếp bằng ngôn ngữ máy hoặc hợp ngữ; MCP là hệ điều hành đầu tiên Ođược viết hoàn toàn bằng ngôn ngữ bậc cao - ESPOL, một phương ngữ của ALGOL 60 - mặc dù ESPOL có các câu lệnh chuyên biệt cho từng "âm tiết" trong tập lệnh của B5000. MCP cũng giới thiệu nhiều cải tiến đột phá khác, như là một trong những triển khai thương mại đầu tiên của bộ nhớ ảo. Việc viết lại MCP cho B6500 vẫn được sử dụng cho đến ngày nay trong dòng máy tính Unisys ClearPath / MCP.
GE giới thiệu GE-600 series cùng với hệ điều hành General Electric Comprehensive Operating Supervisor (GECOS) năm 1962. Sau này Honeywell mua lại doanh nghiệp máy tính của, nó được đổi tên thành General Comprehensive Operating System (GCOS). Honeywell đã mở rộng việc sử dụng tên GCOS để bao trùm tất cả các hệ điều hành của mình trong những năm 1970, mặc dù nhiều máy tính của nó không có gì giống với dòng GE 600 trước đó và hệ điều hành của chúng không có nguồn gốc từ GECOS ban đầu.
Project MAC tại MIT, làm việc với GE và Bell Labs, phát triển Multics, giới thiệu khái niệm về các mức đặc quyền bảo mật
Digital Equipment Corporation phát triển TOPS-10 cho ho dòng máy tính 36 bit PDP-10 của mình vào năm 1967. Trước khi sử dụng rộng rãi Unix, TOPS-10 là một hệ thống đặc biệt phổ biến trong các trường đại học và trong cộng đồng ARPANET thời kỳ đầu. Bolt, Beranek, and Newman phát triển TENEX fcho PDP-10 được sửa đổi, hỗ trợ phân trang theo yêu cầu; đây là một hệ thống phổ biến khác trong cộng đồng nghiên cứu và ARPANET, và sau đó được DEC phát triển thành TOPS-20.
Scientific Data Systems/Xerox Data Systems đã phát triển một số hệ điều hành cho loạt máy tính Sigma, như Basic Control Monitor (BCM), Batch Processing Monitor (BPM), và Basic Time-Sharing Monitor (BTM). Sau đó, BPM và BTM đã thành công nhờ Universal Time-Sharing System (UTS); nó được thiết kế để cung cấp các dịch vụ đa lập trình cho các chương trình người dùng trực tuyến (tương tác) ngoài công việc sản xuất chế độ hàng loạt, nó đã thành công nhờ hệ điều hành CP-V, kết hợp UTS với Hệ điều hành xử lý theo lô Xerox Operating System.
Máy tính mini.
Digital Equipment Corporation đã tạo một vài hệ điều hành cho dòng máy 16-bit PDP-11 của họ, bao gồm hệ thống RT-11 đơn giản, hệ điều hành chia sẻ thời gian RSTS, và gia đình hệ điều hành thời gian thực RSX-11, cũng như hệ thống VMS cho các máy VAX 32 bit.
Một số đối thủ của Digital Equipment Corporation như Data General, Hewlett-Packard, và Computer Automation đã tạo ra các hệ điều hành của riêng họ. Một vi dụ, "MAX III", được phát triển cho máy tính Modular Computer Systems Modcomp II và Modcomp III. Nó được đặc trưng bởi thị trường mục tiêu của nó là thị trường kiểm soát công nghiệp. Các thư viện Fortran bao gồm một thư viện cho phép truy cập vào các thiết bị đo lường và điều khiển.
Cải tiến quan trọng của IBM trong các hệ điều hành trong lớp này (mà họ gọi là "tầm trung"), là "CPF" cho System/38. Nó có địa chỉ dựa trên khả năng, đã sử dụng kiến trúc giao diện máy để cách ly phần mềm ứng dụng và hầu hết hệ điều hành khỏi các phụ thuộc phần cứng (bao gồm cả các chi tiết như kích thước địa chỉ và kích thước đăng ký) và bao gồm RDBMS tích hợp. OS/400 cho AS/400 không có tệp, chỉ có các đối tượng thuộc các loại khác nhau và các đối tượng này tồn tại trong bộ nhớ ảo phẳng rất lớn, được gọi là lưu trữ một cấp. i5/OS và sau đó là IBM i cho iSeries tiếp tục dòng hệ điều hành này.Hệ điều hành Unix được phát triển tại AT&T Bell Laboratories vào cuối thập niên 1960s, bản gốc cho PDP-7, và sau đó cho PDP-11. Bởi vì về cơ bản nó là miễn phí trong các phiên bản đầu tiên, dễ dàng có được và dễ dàng sửa đổi, nó đã đạt được sự chấp nhận rộng rãi. Nó cũng trở thành một yêu cầu trong các hệ điều hành hệ thống của Bell. Từ khi nó được viết bằng C,khi ngôn ngữ đó được port sang kiến trúc máy mới, Unix cũng có thể được port. Tính di động này cho phép nó trở thành sự lựa chọn cho thế hệ máy tính mini thứ hai và thế hệ máy trạm đầu tiên. Bằng cách sử dụng rộng rãi, nó đã minh họa ý tưởng về một hệ điều hành về mặt khái niệm giống nhau trên các nền tảng phần cứng khác nhau và sau đó trở thành một trong những gốc rễ của các dự án hệ điều hành tự do nguồn mở bao gồm GNU, Linux và Berkeley Software Distribution. MacOS của Apple cũng dựa trên Unix thông qua NeXTSTEP và FreeBSD.
Pick OS là một hệ điều hành khác có sẵn trên nhiều loại thương hiệu phần cứng. Được phát hành thương mại vào năm 1973, cốt lõi của nó là một ngôn ngữ tương tự BASIC có tên là Data/BASIC và một ngôn ngữ thao tác cơ sở dữ liệu kiểuSQL có tên là ENGLISH. Được cấp phép cho một loạt các nhà sản xuất và nhà cung cấp, vào đầu những năm 1980, các nhà quan sát đã thấy hệ điều hành Pick OS là đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ với Unix.
Máy vi tính.
Bắt đầu từ giữa những năm 1970, một lớp máy tính nhỏ mới xuất hiện trên thị trường. Nổi bật với bộ xử lý 8 bit, điển hình là MOS Technology 6502, Intel 8080, Motorola 6800 hay Zilog Z80, cùng với giao diện đầu vào và đầu ra thô sơ và càng nhiều RAM, thực tế, các hệ thống này khởi đầu là máy tính sở thích dựa trên bộ công cụ nhưng sớm phát triển thành một công cụ kinh doanh thiết yếu.
Máy tính gia đình.
Trong khi nhiều máy tính gia đình tám bit của thập niên 1980, như BBC Micro, Commodore 64, Apple II series, Atari 8-bit, Amstrad CPC, ZX Spectrum và các loại khác có thể tải hệ điều hành tải đĩa của bên thứ ba, chẳng hạn như CP/M hay GEOS, chúng thường được sử dụng một mình. Các hệ điều hành tích hợp của chúng được thiết kế trong thời đại mà các ổ đĩa mềm rất đắt tiền và hầu hết người dùng sẽ không sử dụng, do đó, thiết bị lưu trữ tiêu chuẩn trên hầu hết là ổ băng từ sử dụng băng cassette nhỏ gọn tiêu chuẩn. Hầu hết, nếu không phải tất cả, các máy tính này được cung cấp với trình thông dịch BASIC tích hợp trên ROM, cũng là giao diện dòng lệnh thô, cho phép người dùng tải một hệ điều hành đĩa riêng để thực hiện các lệnh quản lý tệp và tải và lưu vào đĩa. Máy tính gia đình, Commodore 64, là một ngoại lệ đáng chú ý, vì DOS của nó nằm trên ROM trong phần cứng ổ đĩa và ổ đĩa được gửi đến máy in, modem và các thiết bị bên ngoài khác.
Hơn nữa, các hệ thống được vận chuyển với số lượng bộ nhớ máy tính tối thiểu 4-8 kilobyte là tiêu chuẩn cho các máy tính gia đình đầu tiên cũng như bộ xử lý 8 bit không có mạch hỗ trợ chuyên dụng như MMU hoặc thậm chí là đồng hồ thời gian thực chuyên dụng. Trên phần cứng này, chi phí hoạt động của một hệ điều hành phức tạp hỗ trợ nhiều tác vụ và người dùng có thể sẽ làm giảm hiệu năng của máy mà không thực sự cần thiết. Vì các hệ thống đó phần lớn đã được bán hoàn chỉnh, với cấu hình phần cứng cố định, cũng không cần hệ điều hành để cung cấp trình điều khiển cho một loạt các phần cứng để loại bỏ sự khác biệt.
Video games và thậm chí cả bảng tính, cơ sở dữ liệu và bộ xử lý văn bản có sẵn cho máy tính gia đình hầu hết là các chương trình độc lập đã chiếm lĩnh hoàn toàn máy. Mặc dù phần mềm tích hợp tồn tại cho các máy tính này, nhưng chúng thường thiếu các tính năng so với các phần mềm độc lập tương đương, phần lớn là do giới hạn bộ nhớ. Trao đổi dữ liệu chủ yếu được thực hiện thông qua các định dạng tiêu chuẩn như văn bản ASCII hoặc CSV hoặc thông qua các chương trình chuyển đổi tệp chuyên biệt.
Hệ điều hành trên video games và consoles.
Vì hầu như tất cả các máy chơi game và arcade cabinets được thiết kế và chế tạo sau năm 1980 đều là những máy kỹ thuật số thực sự dựa trên bộ vi xử lý (không giống như các bản sao và dẫn xuất của "Pong" trước đó), smột số trong số chúng mang một dạng BIOS hoặc trò chơi tích hợp tối thiểu, như ColecoVision, Hệ thống Sega Master và SNK Neo Geo.
Các máy chơi game và trò chơi điện tử thời hiện đại, bắt đầu với PC-Engine, tất cả đều có một BIOS tối thiểu cũng cung cấp một số tiện ích tương tác như quản lý thẻ nhớ, phát lại CD âm thanh hoặc video, bảo vệ bản sao và đôi khi mang thư viện cho các nhà phát triển sử dụng, v.v. Tuy nhiên, một vài trong số những trường hợp này sẽ đủ điều kiện là một hệ điều hành thực sự.
Các ngoại lệ đáng chú ý nhất có lẽ là Dreamcast game console bao gồm BIOS tối thiểu, giống PlayStation, nhưng có thể tải hệ điều hành Windows CE từ đĩa game cho phép dễ dàng porting từ PC, và Xbox, đó là ít hơn một PC dựa trên Intel được ngụy trang đang chạy một phiên bản Microsoft Windows bí mật, được sửa đổi trong nền. Hơn nữa, có những phiên bản Linux cũng sẽ chạy trên máy chơi game Dreamcast và sau đó.
Trước đó, Sony đã phát hành một loại bộ công cụ phát triển có tên Net Yaroze cho nền tảng PlayStation đầu tiên của mình, cung cấp một loạt các công cụ lập trình và phát triển được sử dụng với một PC bình thường và một "Black PlayStation" được sửa đổi đặc biệt có thể giao tiếp với PC và tải các chương trình từ nó. Các hoạt động này yêu cầu nói chung một hệ điều hành chức năng trên cả hai nền tảng liên quan.
Nhìn chung, có thể nói rằng các máy chơi trò chơi điện tử và máy vận hành tiền xu arcade được sử dụng nhiều nhất là một BIOS tích hợp trong những năm 1970, 1980 và hầu hết những năm 1990, trong khi từ thời PlayStation và hơn thế nữa, chúng bắt đầu ngày càng tinh vi hơn, đến mức yêu cầu một hệ điều hành chung hoặc được xây dựng tùy chỉnh để hỗ trợ phát triển và mở rộng.
Máy tính cá nhân.
Sự phát triển của các bộ vi xử lý đã tạo ra tính toán rẻ tiền cho doanh nghiệp nhỏ và người có sở thích, từ đó dẫn đến việc sử dụng rộng rãi các thành phần phần cứng có thể hoán đổi cho nhau bằng cách sử dụng một kết nối chung (như S-100, SS-50, Apple II, ISA, và PCI), và nhu cầu ngày càng tăng đối với các hệ điều hành "tiêu chuẩn" để kiểm soát chúng. Nhân tố quan trọng nhất trong các hệ điều hành đầu tiên trên các máy này là CP/M-80 của Digital Research cho CPU 8080/8085/Z-80. Nó dựa trên một số hệ điều hành của Digital Equipment Corporation, chủ yếu dành cho kiến trúc PDP-11. Hệ điều hành đầu tiên của Microsoft, MDOS/MIDAS, được thiết kế cùng với nhiều tính năng PDP-11, nhưng dành cho các hệ thống dựa trên bộ vi xử lý. MS-DOS, hay PC DOS khi được IBM cung cấp, ban đầu dựa trên CP / M-80. Mỗi máy trong số này có một chương trình khởi động nhỏ trong ROM, bản thân nó đã tải hệ điều hành từ đĩa. BIOS trên các máy lớp IBM-PC là một phần mở rộng của ý tưởng này và đã tích lũy thêm nhiều tính năng và chức năng trong 20 năm kể từ khi IBM-PC đầu tiên được giới thiệu vào năm 1981.
Chi phí thiết bị và bộ xử lý hiển thị giảm khiến việc cung cấp giao diện người dùng đồ họa cho nhiều hệ điều hành trở nên thiết thực, chẳng hạn như X Window System chung được cung cấp với nhiều hệ thống Unix hoặc các hệ thống đồ họa khác như classic Mac OS và macOS của Apple, OS-9 Level II/MultiVue của Radio Shack Color Computer, AmigaOS của Commodore, Atari TOS, OS/2 của IBM, and Microsoft Windows. GUI ban đầu được phát triển trên hệ thống máy tính Xerox Alto tại Trung tâm nghiên cứu Xerox Palo Alto vào đầu những năm 1970 và được thương mại hóa bởi nhiều nhà cung cấp trong suốt những năm 1980 và 1990.
Kể từ cuối những năm 1990, đã có ba hệ điều hành được sử dụng rộng rãi trên máy tính cá nhân: macOS của Apple Inc., Linux nguồn mở và Microsoft Windows. Kể từ năm 2005 và Apple chuyển sang bộ xử lý Intel, tất cả đã được phát triển chủ yếu trên nền tảng x86, mặc dù macOS vẫn hỗ trợ PowerPC cho đến năm 2009 và Linux vẫn được chuyển sang vô số kiến trúc bao gồm 68k, PA-RISC và DEC Alpha, đã được thay thế từ lâu và không còn sản xuất, và SPARC và MIPS, được sử dụng trong các máy chủ hoặc hệ thống nhúng nhưng không còn dành cho máy tính để bàn. Các hệ điều hành khác như AmigaOS và OS/2 vẫn được sử dụng, nếu có, chủ yếu bởi những người đam mê máy tính retro hoặc cho các ứng dụng nhúng chuyên dụng.
Hệ điều hành di động.
Đầu những năm 1990, Psion đã phát hành chiếc máy PDA Psion Series 3, một thiết bị điện toán di động nhỏ. Nó hỗ trợ các ứng dụng do người dùng viết trên hệ điều hành có tên EPOC. Các phiên bản sau này của EPOC đã trở thành Symbian, một hệ điều hành được sử dụng cho điện thoại di động của Ericsson, Motorola và Nokia. Năm 1996, Palm Computing Nphats hành Pilot 1000 và Pilot 5000, chạy Palm OS. Microsoft Windows CE là cơ sở cho PocketPC 2000, đổi tên thành Windows Mobile năm 2003, lúc cao điểm nhất vào năm 2007 là hệ điều hành phổ biến nhất cho điện thoại thông minh ở Mỹ.
Năm 2007, Apple đã giới thiệu iPhone và hệ điều hành iOS, giống như Mac OS X, dựa trên bản phân phối tương tự Unix Darwin. Ngoài những nền tảng này, nó cũng giới thiệu một giao diện người dùng đồ họa mạnh mẽ và sáng tạo - sau này cũng được sử dụng cho máy tính bảng iPad. Một năm sau, Android được giới thiệu, dựa trên nhân Linux đã được sửa đổi và giao diện người dùng đồ họa của riêng nó và Microsoft đã gia nhập lại thị trường này với Windows Phone vào năm 2010, và được thay thế bởi Windows 10 Mobile vào năm 2015.
Ngoài ra, một loạt các hệ điều hành di động khác đang tranh chấp trong lĩnh vực này.
Sự trỗi dậy của ảo hóa.
Các hệ điều hành ban đầu chạy trực tiếp trên phần cứng và cung cấp dịch vụ cho các ứng dụng, nhưng với ảo hóa, hệ điều hành tự chạy dưới sự kiểm soát của một trình ảo hóa, thay vì kiểm soát trực tiếp phần cứng.
Trên các máy tính lớn, IBM đã giới thiệu khái niệm về một máy ảo vào năm 1968 với CP/CMS trên IBM System/360 Model 67, và đã mở rộng điều này sau đó vào năm 1972 với Virtual Machine Facility/370 (VM/370) trên System/370.
Trên các máy tính cá nhân dựa trên x86, VMware đã phổ biến công nghệ này với sản phẩm VMware Workstation năm 1999, và các sản phẩm VMware GSX Server và VMware ESX Server năm 2001 của họ. Sau đó, một loạt các sản phẩm từ những người khác, bao gồm Xen, KVM và Hyper-V, đến năm 2010 có hơn 80% doanh nghiệp đã có chương trình hoặc dự án ảo hóa, và 25% tổng khối lượng công việc của máy chủ sẽ ở trong một máy ảo.
Theo thời gian, ranh giới giữa các máy ảo, monitor và hệ điều hành đã bị xóa nhòa:
Theo nhiều cách, phần mềm máy ảo ngày nay đóng vai trò trước đây do hệ điều hành nắm giữ, bao gồm quản lý tài nguyên phần cứng (bộ xử lý, bộ nhớ, thiết bị I/O), áp dụng các chính sách lập lịch hoặc cho phép quản trị viên hệ thống quản lý hệ thống. | 1 | null |
Hệ điều hành mạng là hệ điều hành được thiết kế chuyên dụng cho các thiết bị mạng như router, switch hoặc firewall.
Từ trước đến nay, các hệ điều hành có khả năng kết nối mạng được mô tả là hệ điều hành mạng, vì nó cho phép máy tính cá nhân (PC) kết nối vào mạng máy tính, chia sẻ tập tin và máy in qua mạng nội bộ (LAN). Việc định nghĩa hệ điều hành ngày nay khá rộng lớn, chẳng hạn như hệ điều hành bao gồm chồng giao thức hỗ trợ mô hình client-server.
Hoàn cảnh ra đời.
Vào thập niên 1990, mạng cục bộ và mạng diện rộng ra đời. Điều đó đòi hỏi phải có một hệ điều hành có nhiều chức năng phục vụ quản lý mạng, đảm bảo an toàn vào bảo mật. Yêu cầu đó đã đạt ra sự xuất hiện của các hệ điều hành mạng. | 1 | null |
Simpulopsis rufovirens là một loài ốc sên nhiệt đới trong họ Simpulopsidae.
Tên riêng "rufovirens" đề cập đến màu sắc của loài này. Tên chứa hai từ tiếng Latin là "rufus", có nghĩa là màu đỏ hoặc hơi đỏ và "virens", có nghĩa là màu xanh lá cây.
Phân bố.
Phạm vi phân bố của "Simpulopsis rufovirens" bao gồm Brazil.
This article incorporates public domain text from the reference | 1 | null |
Windows NT là hệ điều hành đồ họa sở hữu độc quyền được sản xuất bởi Microsoft, trong đó phiên bản đầu tiên được phát hành vào tháng 7 năm 1993. Đây là một hệ điều hành độc lập bộ xử lý, đa nhiệm và đa người dùng.
Phiên bản đầu tiên của Windows NT là Windows NT 3.1 được sản xuất cho các máy trạm và máy chủ. Nó từng được dự định bổ sung cho các phiên bản tiêu dùng của Windows (bao gồm từ Windows 1.0 tới Windows 3.1x) đang dựa trên MS-DOS. Dần dần, họ Windows NT đã được mở rộng thành dòng sản phẩm hệ điều hành đa dụng dành cho tất cả các loại máy tính cá nhân, vượt lên dòng Windows 9x.
"NT" trước đó thường được coi là từ viết tắt của cụm từ "New Technology" ("Công nghệ mới") nhưng tới nay không còn mang bất cứ ý nghĩa cụ thể nào. Bắt đầu từ Windows 2000, cụm từ "NT" đã bị lược bỏ khỏi tên sản phẩm và chỉ còn được ghi lại ở một vài dòng mã cấp thấp trong hệ thống.
NT ban đầu là phiên bản thuần 32-bit của Windows, trong khi các phiên bản dành cho người tiêu dùng phổ thông, Windows 3.1x và Windows 9x, là các hệ điều hành lai 16-bit/32-bit. Nó là một hệ điều hành đa nền tảng. Ban đầu, nó hỗ trợ một vài nền tảng CPU, bao gồm IA-32, MIPS, DEC Alpha, PowerPC và sau đó là Itanium. Các phiên bản mới nhất nay đã hỗ trợ x86 (cụ thể hơn là IA-32 và x64) và ARM. Các tính năng chủ yếu của họ Windows NT bao gồm Windows Shell, Windows API, Native API, Active Directory, Group Policy, Hardware Abstraction Layer, NTFS, BitLocker, Windows Store, Windows Update, và Hyper-V.
Các phiên bản Windows NT được cài đặt bằng Windows Setup; kể từ Windows Vista thì trình cài đặt này sử dụng Windows Preinstallation Environment, một phiên bản kích thước nhẹ của Windows NT được thiết kế để triển khai hệ điều hành này. | 1 | null |
Bản ghi nhớ hay memo () là một thông điệp bằng chữ viết, thường được dùng trong các văn phòng doanh nghiệp. Trong tiếng Việt, tùy vào ngữ cảnh và mục đích mà chúng có thể được gọi với những thuật ngữ khác nhau, bao gồm biên bản, giác thư, bị vong lục, thư báo, và một số tên gọi khác.
Trong ngành luật, memo dùng để ghi lại các điều khoản của một giao dịch hay hợp đồng, như là biên bản chính sách, biên bản ghi nhớ, hoặc biên bản thành lập.
Trong kinh doanh, memo thường được các công ty dùng cho giao tiếp nội bộ, còn Thư thường được dùng cho những giao tiếp bên ngoài.
Một số dạng của memo bao gồm ghi chú tóm tắt, báo cáo, Thư. Chúng thường được coi là văn học xám. Tùy vào đối tượng người đọc mà định dạng của của memo có thể chặt chẽ, ngắn gọn, hoặc thoải mái hơn.
Bản ghi nhớ trong ngoại giao.
Bị vong lục.
Bị vong lục là hình thức văn thư ngoại giao dùng để tuyên bố, khẳng định lại lập trường của mình về một vấn đề, hoặc khái quát tình hình nào đó cần thông báo cho phía bên kia (những vấn đề trước đây phía bên kia đã biết).
Về từ nguyên, "bị vong lục" là "ghi chép lại để đề phòng khi quên".
Năm 2006, Việt Nam đang trong quá trình chuẩn bị để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Bước thứ ba của quá trình này là gửi bị vong lục gửi cho ban thư ký của WTO, nhằm làm nền tảng cho việc xem xét của Ban công tác xét duyệt. Bị vong lục đó chứa thông tin tóm tắt về hệ thống cơ chế, chính sách kinh tế, thương mại, và dịch vụ của Việt Nam.
Giác thư.
Dùng để nhắc nhở phía bên kia thực hiện một việc gì đó đã được thống nhất. Tương ứng với thuật ngữ "Diplomatic Memorandum" trong tiếng Anh. | 1 | null |
Phạm Đình Khánh Đoan (sinh 5 tháng 2 năm 1982 tại Cam Hiệp Nam, Cam Ranh, Khánh Hòa) là một vận động viên điền kinh Việt Nam. Chị đã giành huy chương vàng ở cự ly 800 m tại SEA Games 20 và hai cự ly 800 m và 1500 m tại SEA Games 21.
Sự nghiệp.
Thi đấu.
Tại SEA Games 20 năm 1999, Phạm Đình Khánh Đoan giành huy chương vàng ở cự ly 800 m nữ. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử SEA Games Việt Nam đoạt huy chương vàng ở cả hai nội dung chạy 800m nam và nữ. Ở kỳ SEA Games này chị còn giành được huy chương bạc ở cự ly 1500 m.
Tại SEA Games 21 năm 2001, dù cự ly 1500 m không phải sở trường, thi đấu với mục tiêu hỗ trợ cho đồng đội, tuy nhiên Khánh Đoan đã bất ngờ giành huy chương vàng, về đích trước đối thủ gần 10 m, đoạt cú đúp huy chương vàng cự ly chạy trung bình năm đó. Theo Khánh Đoan, đây là kỳ SEA Games đáng nhớ nhất trong sự nghiệp thi đấu của chị.
Tại SEA Games 22 năm 2003, Phạm Đình Khánh Đoan chỉ giành hai huy chương bạc ở các cự ly 800 và 1500 m. Giải điền kinh toàn quốc vào cuối năm 2004 là giải đấu cuối cùng chị tham dự. Chị chỉ về thứ 7 ở cự ly sở trường 800 m tại giải này.
Huấn luyện.
Từ cuối năm 2004, Phạm Đình Khánh Đoan nghỉ thi đấu để sinh con và bắt đầu theo học tại chức tại Đại học Thể dục Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh. Sau 4 năm huấn luyện theo hợp đồng và tốt nghiệp đại học năm 2008, chị được nhận biên chế chính thức ở tổ huấn luyện cự ly trung bình - dài của Trung tâm thể thao tỉnh Khánh Hòa năm 2009. Đầu năm 2013 Khánh Đoan phụ trách nhóm cự ly trung bình.
Cuộc sống riêng.
Năm 2004 Phạm Đình Khánh Đoan lập gia đình với một kĩ sư tin học. Hai vợ chồng có một con gái (sinh 2005) và một con trai (sinh 2007).
Em gái út của Phạm Đình Khánh Đoan, Phạm Đình Diễm Đoan (sinh 1996), cũng là một vận động viên điền kinh. | 1 | null |
Indrella ampulla là một loài ốc sên trong họ Ariophantidae.
Đây là loài điển hình của chi đơn loài Indrella, nó là loài đặc hữu của dãy Ghat Tây tại Ấn Độ.
Đây là loài duy nhất trong chi Indrella, tuy nhiên màu sắc của loài động vật này có thể có nhiều màu sắc khác nhau, bao gồm màu đỏ và màu vàng nhạt.
Phân bố.
Loài này xuất hiện ở dãy Ghat Tây, đặc biệt là trên sườn phía tây ẩm ướt của Wynaad, Nilgiri, và đồi Anaimalai, ở độ cao vừa phải (3000 ft).
Môi trường sống.
Loài này sống trong rừng ẩm ướt, tức rừng mưa nhiệt đới.
Thói quen ăn uống.
Đại tá Richard Henry Beddome của cơ quan lâm nghiệp Anh tại Ấn Độ tìm ra rằng loài này ăn nấm lớn.
Tham khảo.
Hình ảnh: | 1 | null |
Hỏa chúc quỷ (tựa gốc tiếng Hoa: 火燭鬼, tạm dịch: "Ma đuốc lửa", tựa tiếng Anh: Burning Sensation) là một bộ phim kinh dị - hài hước - tình cảm của Hồng Kông do đạo diễn Ngọ Mã thực hiện, được phát hành vào năm 1989. Phim có sự tham gia của diễn viên Chung Trấn Đào, Trịnh Du Linh, Ngọ Mã, Lê Yến San, Diệp Vinh Tổ và Hoàng Triêm.
Nội dung.
Phim kể về một nữ diễn viên hát tuồng có tên là A Linh, trong lúc đang biểu diễn thì một cơn hỏa hoạn xảy ra khiến Linh bị chết. Ba mươi năm sau, anh chàng lính cứu hỏa tên A Kiện cùng với đội của anh đến chữa cháy cho một khu chung cư. Kiện nhìn thấy vong hồn Linh kêu cứu trên lầu, anh cố vượt qua đám cháy và chạy lên lầu, cứu được bài vị của Linh.
Sau khi chứng kiến Kiện xả thân chỉ để cứu một cái bài vị, đội trưởng đội cứu hỏa cho Kiện nghỉ phép một tháng vì nghĩ rằng Kiện bệnh hoạn. Hồn ma của Linh xem Kiện là ân nhân, lúc nào cô cũng đi theo giúp đỡ Kiện. Ông anh trai của Kiện có tên Mã Hậu Pháo, làm nghề phát thanh viên trên đài, đồng ý cho Kiện về sống chung nhà. Vào thời điểm đó, Phiêu Hồng - một hồn ma hung dữ và độc ác, có mối thù sâu nặng với đàn ông, thường hay đi sát hại đàn ông mỗi đêm. Ông Mã và Phiêu Hồng gặp nhau tại quán bar, Phiêu Hồng giả vờ thân thiện rồi dụ ông Mã uống rượu thật say, sau đó Phiêu Hồng đưa ông Mã về nhà.
Phiêu Hồng định dùng cái lưỡi dài để giết ông Mã, may là Kiện bước ra đúng lúc. Kiện dìu ông Mã vào phòng ngủ, Phiêu Hồng liền quay qua quyến rũ Kiện. Linh sợ Phiêu Hồng làm hại Kiện nên đã hiện ra ngăn chặn Phiêu Hồng. Cảm thấy không có cơ hội giết hai anh em Kiện và ông Mã, Phiêu Hồng biến mất. Còn về phần Kiện và Linh, hai người thích nhau ngay từ lần đầu gặp mặt, họ yêu nhau. Kiện và ông Mã rất ngạc nhiên khi biết được Linh là ma, nhưng sự hiền lành của Linh cộng với tình yêu đích thực Linh dành cho Kiện đã giúp Kiện và ông Mã an tâm hơn.
Phiêu Hồng tuyên bố là sẽ đến giết hai anh em Kiện và ông Mã vào đêm mai. Linh dặn Kiện nếu như Phiêu Hồng đến thì mở tivi lên, Linh sẽ từ trong tivi nhảy ra cứu Kiện. Ông Mã đi nhờ ông Trần giúp đỡ, ông Trần bị mù nhưng hiểu biết nhiều điều, ông Trần kêu hai anh em ông Mã lấy bột trét vào người để Phiêu Hồng không nhìn thấy. Đêm hôm đó, Phiêu Hồng đến nhà ông Mã và hoàn toàn không nhìn thấy Kiện, ông Mã và ông Trần vì ba người đã trét bột khắp người. Tivi được mở lên, Linh nhảy ra đánh nhau với Phiêu Hồng.
Đến giờ thiêng, ánh trăng chiếu vào tượng Phật trong nhà, tượng Phật chiếu một tia sáng vào người Phiêu Hồng khiến ả bị tan biến. Linh cũng bị tia sáng kia chiếu vào người, cô bay vào tivi. Từ khi Linh biến mất, Kiện trở thành người mất trí nhớ. Quá thương em trai mình nên ông Mã hỏi ông Trần làm cách nào để cứu Kiện. Ông Trần làm phép cho Kiện bay vào tivi, trở về thời điểm ba mươi năm trước để cứu Linh khỏi cơn hỏa hoạn. Ông Mã đập vỡ cái tivi, giúp Kiện và Linh bay ra ngoài. Từ đó Kiện, Linh và ông Mã sống chung với nhau, gia đình họ rất hạnh phúc. | 1 | null |
Anicius Manlius Severinus Boëthius, thường được gọi là Boethius (477-524) là một nguyên lão, quan chấp chính, "magister officiorum", và triết gia La Mã hậu kỳ. Sinh ra trong thời nhiễu nhương khi Italia rơi vào sự cai trị của Vương quốc Ostrogoth, ông bước vào chính trường và phục vụ dưới triều vua Theodoricus Cả, người mà sau này tống giam và xử tử ông. Trong chốn lao tù, ông viết kiệt tác "De consolatione philosophiae" luận về thời vận, sự chết, và các vấn đề khác, sẽ trở thành một trong những tác phẩm triết học quan trọng có nhiều ảnh hưởng nhất thời Trung Cổ. Là tác giả của nhiều sổ tay và là dịch giả từ Platon and Aristoteles, Boethius đóng vai trò như cây cầu nối chính từ cổ đại cổ điển sang những thế kỷ tiếp theo.
Giáo dục và toán học.
Boethius đã dành một địa vị cho toán học khi ông đưa ra khái niệm tứ khoa (tiếng Latinh: "quadrivium") để chỉ các môn số học, hình học, thiên văn học, và âm nhạc. Ông viết "De institutione arithmetica", dịch thoáng nghĩa từ tiếng Hy Lạp tiêu đề của cuốn "Introduction to Arithmetic" của Nicomachus; "De institutione musica", cũng phát triển từ gốc Hy Lạp; và một loạt các đoạn lấy từ cuốn "Cơ sở" của Euclid. Công trình của ông mang tính lý thuyết hơn là thực hành, và là công trình nền tảng của toán học cho đến khi các công trình toán học của Hy Lạp và A Rập được phục hồi.
Văn học.
Boethius cùng với Cassiodorus và Quintus Aurelius Symmachus vẫn giữ gìn những nét truyền thống của La Mã trong hoàn cảnh mà Đế quốc La Mã đang đi vào những năm suy tàn.
Triết học.
Ông là người mang đến triết học thời đại mình chủ nghĩa kinh viện.
Cuộc hành quyết định mệnh.
Vào năm 520, ông trở thành "magister officiorum" (người đứng đầu các cơ quan, chức vụ của triều đình và chính quyền) dưới triều đại Theodoricus Cả. Boethius vốn là người say mê nghiên cứu khoa học, đã dốc sức hiến dâng cho khuynh hướng nghiên cứu văn hóa Hy Lạp bằng cách dịch toàn bộ các tác phẩm của Aristotle ra tiếng Latin và cân đối chúng với các tác phẩm của Plato. Ngoài ra, ông cũng định đo vận tốc ánh sáng. Cuối cùng Boethius đã mất đi ân huệ của Theodoricus, có thể do nhà vua nghi ngờ ông này có sự đồng cảm với Justin I, Hoàng đế Đông La Mã: Theodoricus là người theo thuyết Arius, cảm thấy phần nào giống như một kẻ ngoài cuộc với những tín đồ Cơ Đốc giáo theo Công đồng Nicaea. Do vậy Theodoricus, người bảo trợ cho chính Boethius, đã ra lệnh hành quyết ông vào năm 525 (có thể là năm 524).
Vinh danh.
Boëthius được ghi nhận là một đấng tử đạo trong "Martyrologium Romanum". Lễ kính vào ngày 23 tháng 10. Tên của ông được đặt cho tiểu hành tinh 6617 Boethius. | 1 | null |
Nicholas xứ Kues hay Nicolaus Cusanus hoặc Nicholas xứ Cusa (1401-1464) là nhà triết học, nhà thiên văn học, nhà thần học, tu sĩ người Đức. Ông tin tưởng ở một hình thức của thuyết duy tín mà ông gọi là "docta ignorantia" (sự thiếu hiểu biết một cách có tri thức), khẳng định rằng Chúa Trời vượt ra ngoài khả năng phạm trù hóa của con người và tri thức của chúng ta về Chúa chỉ nằm trong phạm vi của sự phỏng đoán. Về thiên văn học, 1440, Nicholas xứ Cusa phát biểu trong quyển De docta ignorantia (tiếng Việt: Về cái ngu dốt đã học được) rằng Trái Đất không nằm tại trung tâm của vũ trụ và là một trong số những thiên thể chiếm lĩnh vũ trụ. Sau đó, ông phát triển những phát biểu này trong các tác phẩm tiếp theo của mình. Thậm chí ông cùng với Nicole Oresme tranh luận về vấn đề này. Nicholas xứ Cusa còn có suy đoán tôn giáo và triết học về sự sống ngoài Trái Đất khiến việc tìm hiểu vấn đề của khoa học hiện đại với chủ đề này đã xuất hiện từ lâu.
Vài nét về cuộc đời.
Thời thơ ấu và niên thiếu.
Nicholas được sinh ra ở Cusa, vùng đất nằm trong thung lũng Moselle. Ông là con trai của một người giàu có và làm nghề trồng nho để làm rượu vang. Nicholas xa gia đình khi đã được 12 tuổi. Về nguyên nhân của việc này, có lời đồn cho rằng đó là bởi người cha của ông đã ghẻ lạnh đối với đứa con trai. Dù là vì lý do gì thì Nicholas đã phải sống một cuộc sống tự lập từ sớm. Và có thêm một sự kiện xảy ra trong giai đoạn cuộc đời này được thông qua những lời kể. Theo như một câu chuyện, vào năm 1413, ông được một người có tên là Bá tước xứ Manderscheid gửi đến tu viện Huynh Đệ Sống Chung, một tu viện ở Deventer, từ đó ông có cơ hội để học hành. Tại đây, có lẽ ông được học tiểu học và học trong một môi trường mộ đạo thần bí. Vào năm 1416, ông học tại Đại học Heidelberg. Sự kiện được ghi lại một cách rõ ràng. Năm 1417, Nicholas đã đến nước Ý, cụ thể là thành phố Padua và học ở đó đến 6 năm liền. Và ở đây ông làm quen và kết bạn với hai người Ý, đó là Paolo dal Pozzo Toscanelli và Giuliano Cesanni. Ở đây, Nicholas đã thể hiện lòng nhiệt huyết khi đi học tập nhiều môn học như toán học, vật lý, thiên văn học, y học, văn học cổ và chủ nghĩa nhân đạo mới. Tuy vậy, ông lại nghiên cứu luật học là chủ yếu và kết quả tuyệt vời: Nicholas lấy bằng tiến sĩ về luật Giáo hội vào năm 1423.
Khi trưởng thành.
Tiếp theo đó, Nicholas lao vào nghiên cứu môn thần học tại Đại học Cologne, nơi ông được đăng ký vào trường với tư cách là một vị tiến sĩ về luật giáo hội vào năm 1425. Hai năm sau, ông được bổ nhiệm vào chức vụ tu viện trưởng của Tổ chức Thánh Florin ở Coblenz. Tiếp theo nữa, vào năm 1430, ông được bổ nhiệm thêm một chức vụ tôn giáo nữa: Tổng giám mục của các linh mục vùng Trier. Ông được Giáo hoàng Nicôla V vinh thăng hồng y năm 1448. Hai năm sau đó, ông được bổ nhiệm làm Thân vương Giám mục của Brixen.
Trong các năm 1451 và 1452, Nicholas trở thành đại sứ của Giáo hoàng và ông thực hiện cuộc hành trình vòng quanh nước Đức với chức danh đó. Nhiệm vụ của ông trong chuyến đi này là cải cách nhà thờ và tu viện. Nhìn chung lại ông không thành công.
Từ khoảng thời gian cho đến khi qua đời, ông luôn làm việc dưới quyền của Giáo hoàng. Trong sáu năm cuối đời, ông giữ một chức vụ lớn mang tên Tổng đại diện Tòa thánh La Mã. Với chức vụ, ông trở thành nhà cố vấn tin cậy nhất của Giáo hoàng Piô II. Vị Giáo hoàng này chính là người bạn của Nicholas trong nhiều năm.
Qua đời.
Nicholas xứ Cusa qua đời khi đang thực hiện sứ mệnh cuối cùng của mình tại Todi. Ba ngày sau, Giáo hoàng Piô II cũng qua đời mà chưa chứng kiến được cuộc thập tự chinh chống lại người Thổ do ông phát động mặc cho Nicholas khuyên ngăn đi đến thất bại nhục nhã.
Tính cách và quan điểm sống.
Nicholas xứ Cusa là một con người sống khiêm tốn, xa lánh sự xa hoa. Ông sống giản dị mà không rơi vào sự khổ hạnh khắc nghiệt như điều người ta có thể nghĩ về một người theo đạo. Tất cả những điều đó khiến ông nhận được sự kính trọng của nhiều người. Ông là người có ý thức trách nhiệm, có sự tận hiến.
Sự nghiệp.
Tóm tắt chung.
Nicholas xứ Cusa là một người đa tài, có nhiều cống hiến trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Các tác phẩm của Nicholas đều được bắt nguồn từ thực tiễn. Nhưng việc lý thuyết và thực hành không thống nhất với nhau đã khiến ông cảm thấy thấy vọng. Ông muốn gắn kết những trí thức đón nhận Thương đế với thế giới, con người với giáo hội. Không đạt được kết quả bằng hành động, ông dùng lý thuyết triết học, nhưng nó lại chẳng đem lại bình yên gì cho ông. Thế giới không như ông nghĩ, ông thực sự không hề biết điều này và những hệ quả từ nó.
Những nghiên cứu.
Triết học.
Điều làm nên sự nổi bật cho triết học của Nicholas đó là sự ngu dốt trí thức ("De Docta ignorantia") và sự trùng hợp ngẫu nhiên của những cái đối lập. Ông có một tuyên bố rằng ông là tác giả của hai khái niệm này. Tuyên bó này có vẻ không có cơ sở. Nói về sự trùng hợp ngẫu nhiên của những cái đối lập, ta có thể khẳng định rằng chí ít những mầm mống về khái niệm này đã có từ thời đại của Plato, một nhà triết học của Hy Lạp cổ đại. Còn cái gọi là sự ngu dốt trí thức đã được đặt tên bởi Augustine xứ Hippo. Thế nên, nếu có thấy tầm quan trọng của suy nghĩ của Nicholas về hai khái niệm thì cũng chỉ chắc chắn rằng ông là người phát triển chúng mà thôi.
Đến đây, chúng ta sẽ hỏi: Có điều gì đáng nói ở Nicholas?. Câu hỏi này có một câu trả lời mà nửa phản của nó có thể gây ra nhiều người bất ngờ: Gần như là được nói hết. Nhưng chớ vội kết luận rằng chẳng có gì để nói về tư tưởng của Nicholas ở đây cả. Nửa kia của câu trả lời đó là: Hai khái niệm này chỉ đúng về cách diễn đạt ngôn ngữ đơn thuần chứ chưa đúng về mặt tư tưởng. Và đây chính là công việc mà Nicholas xứ Cusa làm để tạo nên sự độc đáo của riêng mình.
Nhìn vào tư tưởng của Nicholas xứ Cusa khi ông suy nghĩ về sự ngu dốt tri thức và sự trùng hợp ngẫu nhiên của những cái đối lập, có thể tóm tắt nền tảng của ông qua các ý sau đây:
Thiên văn học.
Phát biểu đáng chú ý nhất của Nicholas về thiên văn học đó là Trái Đất không ở trung tâm của vũ trụ. Đồng thời, ông cũng đề cập đến sự sống ngoài Trái Đất. | 1 | null |
Religulous () là một bộ phim tài liệu của Hoa Kỳ sản xuất vào năm 2008, với đạo diễn là Larry Charles và danh hài Bill Maher đóng vai người dẫn truyện.
Tựa đề phim "Religulous" là một sự kết hợp ("portmanteau") của hai từ "religion" (tôn giáo) và "ridiculous" (nhảm nhí). Nội dung bộ phim này có hàm ý chỉ trích các tôn giáo và tín ngưỡng.
Nội dung.
Bộ phim giới thiệu các góc nhìn về thế giới của nhiều tôn giáo khác nhau khi Bill Maher du hành qua nhiều trung tâm tôn giáo khác nhau, ví dụ như Jerusalem, Vatican, Salt Lake City, phỏng vấn các tín đồ có xuất thân và nguồn gốc khác nhau. Trong số đó bao gồm các cựu tín đồ của hội thánh Kitô "Jews for Jesus", cựu tín đồ Kitô, Hồi giáo, Mormon, và Do Thái giáo Hasidi. Maher cũng du hành đến Góc Diễn thuyết tại Công viên Hyde, Luân Đôn, và "thuyết giảng" tín ngưỡng Khoa Luận giáo ("Scientology"). Ông cũng tham quan Bảo tàng Sáng tạo và công viên Holy Land Experience.
Sản xuất.
Maher nói rằng khi phỏng vấn các tín đồ, ông nói dối rằng tên của bộ phim là "Hành trình Tâm linh" ("A Spiritual Journey") để có thể được phép phỏng vấn. Tín đồ Thuyết sáng tạo Ken Ham, thành viên của tổ chức Answers in Genesis, một người được phỏng vấn trong phim, đã chỉ trích việc Bill Maher sử dụng tên phim giả để được thực hiện phỏng vấn.
"Religulous" được sản xuất bởi hãng Thousand Words và phát hành bởi Lions Gate Entertainment. Theo dự tính, thời điểm phim được phát hành trên diện quốc tế là ngày 23 tháng 3 năm 2008, đúng vào dịp Phục sinh, tuy nhiên điều này đã bị hoãn lại do ảnh hưởng của cuộc đình công 2007-2008 của giới biên kịch. Cuối cùng phim đã được phát hành vào ngày 3 tháng 10 năm 2008.
Doanh thu.
Doanh thu phòng vé của "Religulous" trong tuần đầu công chiếu tính từ ngày 1 tháng 10 tại Los Angeles và Thành phố New York và trong 502 rạp là 3,5 triệu Mỹ kim, trung bình doanh thu là 6.972 Mỹ kim/rạp, đứng hạng 10 trong số doanh thu của các bộ phim tuần đó. Doanh thu trung bình mỗi lần chiếu của nó cao gấp 3 lần so với "An American Carol", một bộ phim cổ xúy cho chủ nghĩa bảo thủ được báo giới so sánh như là đối trọng của "Religulous". "An American Carol" có tổng doanh thu tuần đó đứng hạng 9, cao hơn "Religulous", nhưng doanh thu trên 1 lần chiếu chỉ có 2.325 Mỹ kim. "Beverly Hills Chihuahua", bộ phim đứng hạng 1, là phim duy nhất có doanh thu trên lần chiếu cao hơn "Religulous" (9.020 Mỹ kim). Doanh thu phòng vé tuần 2 của "Religulous" giảm 35,5% và tụt xuống hạng 13 (2.200.000 Mỹ kim trên 568 rạp chiếu với doanh thu trung bình/rạp là 3.873 Mỹ kim).
Tổng doanh thu của "Religulous" là hơn 13 triệu Mỹ kim trong khi chi phí sản xuất là 2,5 triệu. Nó xếp thứ 2 trong nhóm các phim tài liệu có doanh thu cao nhất năm 2008 và đứng đầu bảng trong nhóm các phim phát hành hạn chế (Limited Relase) cùng năm đó.
Đánh giá.
Nhìn chung các đánh giá về "Religulous" là tích cực. Rotten Tomatoes chấm điểm bộ phim "69%" dựa trên 153 ý kiến bình luận, còn Metacritic cho điểm 56/100 dựa trên 31 bình luận. Nhà bình luận phim Roger Ebert chấm 3.5/4 điểm và nhận xét: ""Tôi xin nói thật là tôi cười liên hồi. Bạn có thể thích hoặc ghét bộ phim nhưng ít nhất bạn đã được cung cấp thông tin. Có thể là bạn sẽ thích các phim ảnh về các tôn giáo khác, rồi bỏ lơ khi tôn giáo của bạn bị xét hỏi. Đó là bản chất của con người"." Robert W. Butler của "The Kansas City Star" chấm 3 điểm trên 5 và bình luận: ""Bộ phim đánh giá 1 chiều, nó không đem ta một luận điểm được cân nhắc cẩn thận, mà chỉ là những lời xỉa xói và góc nhìn xù xì. Tuy nhiên bộ phim rất vui nhộn và điều này quan trọng hơn hẳn các yếu tố còn lại." Owen Gleiberman của "Entertainment Weekly" chấm điểm A- và viết: "Bộ phim tức cười cứ như là... địa ngục"." Kirk Honeycutt của "The Hollywood Reporter" cho rằng "Religulous" "rất tức cười" xét về phương diện phim hài châm biếm lẫn phương diện phân tích về tôn giáo và tâm linh. "The Canadian Press" nói rằng bộ phim tung ra một đòn đánh "cười hả hê" nhằm vào các lĩnh vực "thiêng liêng nhất". Christie Lemire của Associated Press bình phẩm: ""Nếu bạn là người vô thần hay bất khả tri, bạn sẽ thấy thích thú khi đi cùng với Maher trong chuyến du hành khắp thế giới và phỏng vấn tín đồ về các tín ngưỡng của họ - từ Jerusalem tới Vatican và Amsterdam - nơi ông không chỉ tìm thấy một hội thánh ủng hộ sử dụng cần sa mà còn một quán rượu Hồi giáo của người đồng tính luyến ái (với 2 người trong đó)." John Anderson của "Newsday" viết: "Bộ phim rất hài hước, sâu sắc và bắt người ta phải động não. Nhưng chắc chắn là nó không làm những tín đồ chùng lòng đi mấy."
Một số phản hồi tiêu cực về bộ phim, tỉ như Rick McGinnis của "Metro" nhận xét "Maher thuyết giảng tới những người ủng hộ ông ta bằng một sự giả dối trắng trợn tới mức mà chỉ có những tín đồ thật sự mới chịu tha thứ cho ông ta." James Berardinelli viết, "Nếu chủ đề tôn giáo quan trọng như Maher nói thì ông ta phải làm đúng như lời của mình và sản xuất một bộ phim tốt hơn là tập hợp của những phỏng vấn giả dối, những lời bỉ bác và những quan sát lộ liễu. Một số người có thể ủng hộ Maher nhưng phần lớn người xem sẽ phản đối"." Nick Schager của "Slant Magazine" chỉ trích "Religulous" là ""kiểu phân tích bất tài và vô thần về tôn giáo hiện đại.""
Kirk Honeycutt chỉ ra Bill Maher ít động chạm đến các tôn giáo phương Đông, tín ngưỡng địa phương Á, Mỹ, Phi và không mạo hiểm tranh luận những nhà thần học hay tín đồ không cố chấp vào giáo điều thánh kinh, ông cũng không nhấn sâu vào những quan điểm rất khác biệt của tôn giáo về các vấn đề xã hội như đồng tính. Maher chủ yếu phê phán các nhóm tôn giáo bảo thủ, cố cấp giáo điều, và đặc biệt chỉ trích mạnh mẽ những chính trị gia lợi dụng tôn giáo để mưu lợi cho mình. Kirk kết luận là khán giả yêu thích "Religulous" có lẽ chỉ giới hạn trong nhóm người không tôn giáo.
Trên tờ "The New York Times", Stephen Holden viết rằng khi Maher "chuyển từ lĩnh vực Kitô Phúc âm sang Do Thái giáo và sang đạo Hồi, sắc thái câu chuyện chuyển sang bất định và nhịp điệu trở nên biến động". Còn Sam Greenspan cho rằng Maher tiếp cận với người Do Thái như đối với một vật thể mong manh dễ vỡ. Người Hồi giáo thì bị mô tả như là những kẻ có tư tưởng bài Do Thái.
Stephen Holden cũng nhận xét rằng "Religulous" có cấu trúc phóng túng và thể hiện sự di chuyển qua nhiều nơi, giống như trong một bộ phim khác của Larry Charles là " và viết: "Phần lớn nội dung phim của Maher rất là vui nhộn theo một phong thái thoải mái và không theo quy ước lịch sự." Claudia Puig của "USA Today" bình phẩm: "những ai thích kiểu hài hước không gò bó vào quy tắc lịch sự và sự phân tích sắc sảo sẽ thấy bộ phim rất vui nhộn, giúp mở mang đầu óc và gây ra sự nhiễu loạn"." Kirk Honeycutt của "The Hollywood Reporter" xếp loại "Religulous" là "phim hài không theo quy chuẩn lịch sự" hoặc "bài giảng về sự không chính xác của chính trị" và nhận xét rằng Maher "không sợ chỉ trích, mà thật ra lại thích thú trước điều đó". Kirk cũng nhận định bộ phim như là ""Một đòn tấn công thoáng qua nhằm vào giáo điều tôn giáo theo kiểu cách hài hước nhưng không khoan nhượng" của Bill Maher. Louis Peitzman của "San Francisco Bay Guardian" cho rằng "Việc Maher sa đà quá mức vào chỉ trích tôn giáo không phải là vấn đề lớn vì ông luôn có đủ sự hài hước để xử lý nó." Scott Indrisek của "Style.com" viết: ""Religulous" gây cười chủ yếu từ kỹ năng biên tập tốt, trong đó các cuộc phỏng vấn của Maher trở nên tức cười bởi các đoạn phim ngắn"". Ben Kenigsberg của "Time Out New York" chấm "Religulous" điểm 3 trên 6, nhận định điểm trừ của phim là phương cách thực hiện, điểm cộng của phim là thông tin mà nó mang lại."
Ngày 18 tháng 5 năm 2009, "Religulous" được trao Giải thưởng thường niên Independent Investigative Group IIG lần 3 dành cho việc xúc tiến khoa học và tư duy phản biện trên truyền thông đại chúng.
Phát hành đĩa DVD.
Lions Gate Entertainment đã phát hành phiên bản đĩa DVD của "Religulous" vào ngày 17 tháng 2 năm 2009. Phiên bản DVD có thêm một đoạn bình luận của Bill Maher và đạo diễn Larry Charles và một số cảnh quay bị cắt bỏ trong đoạn phim gốc. | 1 | null |
Nokia X là điện thoại thông minh tầm trung phát triển bởi Nokia, công bố như một phần của Gia đình Nokia X mới vào 24 tháng 2 năm 2014. Nokia X chạy phiên bản sửa đổi của Android, gọi tắt là Phần mềm nền tảng Nokia X. Thiết bị được phát hành cùng ngày với ngày ra mắt, và mục tiêu của sản phẩm này là nhắm đến thị trường mới nổi.
X được phát triển dưới tên gọi là Normandy, Project N, Asha trên dự án Linux và MView.
Ra mắt.
Điện thoại được ra mắt bởi Stephen Elop tại 2014 Mobile World Congress ở Barcelona. Trái ngược với bản rò rỉ trước, hai biến thể, Nokia X và Nokia X+ đã được phát hành, với Nokia X+ có RAM 256 MB, trái ngược với RAM 64 mb như với thẻ nhớ microSD bao gồm trong hộp.
Một điện thoại thứ ba, Nokia XL, được công bố, với màn hình lớn, máy ảnh trước, flash, và thời lượng pin dài hơn.
Ngay sau khi phát hành, các lập trình viên đã root được thiết bị, và có thể cài thêm ứng dụng và dịch vụ của Google.
Tình trạng sẵn có.
Nokia chính thức phát hành Nokia X ở thị trường Ấn Độ với mức giá $140 (8599 đồng rupi Ấn Độ) vào 23 tháng 3 năm 2014. Airtel trong liên doanh với Nokia sẽ phát hành 'Nokia X' ở 17 quốc gia châu Phi từ giữa tháng 4 năm 2014. Ở Indonesia, Nokia X được phát hành với IDR 1,599,999 (USD 140). | 1 | null |
Hoạt hình tĩnh vật (tiếng Anh: "stop motion") là một kỹ thuật làm phim hoạt hình mà các con rối nhân vật được dựng lên theo từng động tác, sau đó được chụp hình lại các động tác riêng đó vấp thành một bộ phim. Các khung ảnh là một động tác riêng và khi ráp lại một cách liên tục ta có cảm giác như các nhân vật thực sự chuyển động. Những con rối bằng đất sét hoặc silicon với các khớp nối di động thường được sử dụng làm nhân vật trong phim. Hoạt hình tĩnh vật sử dụng đất sét để làm nhân vật gọi là hoạt hình đất sét.
Làm phim.
Đầu tiên, một người nghệ sĩ sẽ làm bất cứ hành động gì (vẽ tay, vẽ đồ họa, nặn đất sét hoặc sử dụng các đồ vật thật...) để có các cảnh chụp với các nhân vật trên giấy hoặc một chiếc máy tính bảng theo cốt truyện dựng sẵn. Sau đó, họ sẽ vẽ các hướng cần chuyển động của con rối.
Hình ảnh được gửi tới máy tính để ráp lại thành phim rồi in ra trên bảng ghi các cảnh. Sau đó chúng được chèn âm thanh. Sau khi chỉnh máy quay, cài đặt cảnh nền, họ chỉnh con rối theo thao tác và chụp hình. Các hình ảnh ghép với âm thanh và được xóa bớt các chi tiết phụ. Nhà làm phim chỉ cần in phim ra đĩa và quảng cáo để công chiếu.
Lịch sử.
Hoạt hình tĩnh vật có một lịch sử lâu đời. Nó được ứng dụng để làm hình ảnh chuyển động như có phép màu. Thuở sơ khai, hoạt hình tĩnh vật thường chỉ dành để làm phim về những nhân vật là đồ chơi, hình khối hay những đồ vật cứng, vô tri. Sau này, đối tượng trong những đoạn phim của hoạt hình tĩnh vật bắt đầu mở rộng hơn, làm những nhân vật bằng đất nặn, hình rối… Ví dụ như phim "Wallace and Gromit" Một trong những ví dụ điển hình của thể loại phim sử dụng phương pháp hoạt hình tĩnh vật có thể thấy trong bộ phim "The Humpty Dumpty Circus" được sản xuất vào năm 1898 và phim "Fun in a Bakery Shop" sản xuất vào năm 1902. Năm 1907, bộ phim "The Haunted Hotel" là một trong những bộ phim rất thành công với khán giả cùng thời. Vào năm 1912, một trong những bộ phim bằng hình nộm đất sét đầu tiên có sử dụng kỹ xảo hoạt hình tĩnh vật đã nhận được sự đón nhận và hoan nghênh nồng nhiệt. Đó là bộ phim có tên gọi "Modeling Extraordinary". Và năm 1916, nữ họa sĩ Helena Smith Dayton bắt đầu thử nghiệm loại hình hoạt hình tĩnh vật với hình nộm đất sét. Bà đã công chiếu bộ phim đầu tiên của mình vào năm 1917, phim "Romeo and Juliet".
Edwin Porter là đạo diễn của phim "Teddy Bear", một trong những bộ phim sử dụng loại hình hoạt hình tĩnh vật sớm nhất. Để tạo nên sự sinh động cho một cảnh ngắn trong phim dài 1 phút, miêu tả hoạt động của chú gấu Teddy, người ta đã phải mất đến 50 giờ đồng hồ.
Bộ phim "The Lost World" của đạo diễn Willis O’Brien với 49 sinh vật thời tiền sử được dựng trên kỹ thuật hoạt hình tĩnh vật đã tạo nên một bước tiến khổng lồ trong lịch sử của loại hình phim hoạt hình tĩnh vật.
Willis O’Brien cũng là đạo diễn của một bộ phim có tên "Mighty Joe Young",một phim rất nổi tiếng vào năm 1945, nhờ sự cộng tác của Ray Harryhausen và những họa sĩ hoạt hình tĩnh vật.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của công nghệ làm phim thì hoạt hình tĩnh vật đã ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới. Nó hỗ trợ đắc lực cho việc tạo nên những hiệu ứng đặc sắc cho phim. Phim hoạt hình 3D đầu tiên "Chicken Runs" (Phi đội gà bay), ra mắt năm 2000, sử dụng hoạt hình tĩnh vật trở thành bộ phim đáng nhớ với nhiều khán giả trên thế giới và phim "Coraline", "Shaun The Sheep" hay "Timmy Time" (cùng công chiếu trong năm 2009) cũng áp dụng kỹ thuật này để có được những hình ảnh sống động và đẹp mắt.
Từ khởi thủy phim tĩnh vật đến năm 1940.
Những dòng trên đây chỉ là lịch sử khái quát, còn những dòng tiếp theo đi sâu hơn vào lịch sử công chiếu phim hoạt hình tĩnh vật.
Bộ phim đầu tiên áp dụng kĩ thuật này là phim "The Humpty Dumpty Circus" (1897) của Albert E. Smith và J. Stuart Blackton sản xuất. Phim nói về các đồ chơi xiếc và con vật có thể sống được.
Năm 1902, phim "Fun In A Bakery Shop" dùng kỹ xảo "đèn chiếu điêu khắc" được ra mắt. Trưởng tổ chức sản xuất phim Georges Méliès sử dụng kỹ xảo hoạt hình tĩnh vật cho dòng chữ tiêu đề của phim này, nhưng các phim khác không thấy dùng. "The Haunted Hotel" (1907) là mot bộ phim hoạt hình tĩnh vật khác của J. Stuart Blackton và đã taọ nên một thành công vang dội khi phát hành. Segundo de Chomón (1871–1929), người Tây Ban Nha làm phim "El Hotel Eléctrico" (phim phát hành sau đó vài năm), và sử dụng kỹ xảo phim như của Blackton. Năm 1908, phim "A Sculptor's Welsh Rarebit Nightmare" và "The Sculptor's Nightmare" của Billy Blitzer được phát hành. Nhà làm phim Ý Roméo Bossetti làm khán giả ấn tượng với phim "The Automatic Moving Company" trong năm 1912. Nhà làm phim tĩnh vật lớn tại châu Âu Wladyslaw Starewicz (1892–1965) làm phim "The Beautiful Lukanida" (1910), "The Battle of the Stag Beetles" (1910), "The Ant and the Grasshopper" (1911).
Một trong những bộ phim hoạt hình đất sét sớm nhất là "Modelling Extraordinary", ra mắt khán giả vào năm 1912. Tháng Mười Hai năm 1916, bộ phim của Willie Hopkins 54 tập "Miracles in Mud" được công chiếu trên màn hình lớn. Cũng vào tháng 12 năm 1916, nhà làm phim nữ đầu tiên Helena Smith Dayton bắt đầu làm phim hoạt hình đất sét. Cô phát hành phim "Romeo and Juliet" dựa theo kịch của William Shakespeare.
Thế kỷ XX, xuất hiện nhà làm phim nổi tiếng Willis O' Brien (tên ngắn gọn hơn là O' Brien). Ông làm phim "The Lost World" (1925) và dành nhiều thời gian hơn cho phim "King Kong" (1933) là một cột mốc cho ngành phim tĩnh vật.
Người bảo trợ và thừa kế của O'Brien là Ray Harryhausen, sống tại Hollywood. Sau khi cùng làm việc với O' Brien trong phim "Mighty Joe Young" (1949), Harryhausen tiếp tục làm các hiệu ứng đặc biệt cho một loạt phim trong ba thập kỷ tới. Ví dụ như "It Came From Beneath The Sea" (1955), "Jason and the Argonauts" (1963), "The Golden Voyage of Sinbad" (1973) and "Clash Of The Titans" (1981).
Trong một bộ phim quảng cáo năm 1940, Autolite, một nhà cung cấp phụ tùng ô tô, quảng cáo các sản phẩm của minh theo một giai điệu của Franz Schubert "Military March" và dùng kỹ xảo hoạt hình tĩnh vật trong các quảng cáo của ông.. Một phiên bản của quá trình này đã được sử dụng trong quảng cáo truyền hình cho Autolite sau đó, đặc biệt là năm 1950 với chương trình "Suspense", mà Autolite tài trợ. | 1 | null |
Bộ Ngoại giao và Thương mại (tiếng Anh: Department of Foreign Affairs and Trade, viết tắt: DFAT) là một bộ trong Chính phủ Úc, có trách nhiệm đẩy mạnh lợi ích của nước Úc và công dân Úc trên trường quốc tế. Bộ này quản lý quan hệ ngoại giao và chính sách thương mại của Úc. Người đứng đầu Bộ Ngoại giao và Thương mại là Quốc vụ khanh Ngoại giao và Thương mại.
Bộ có trụ sở đặt tại tòa nhà R. G. Casey ở vùng ngoại ô Barton, Lãnh thổ Thủ đô Úc, gần Nhà Quốc hội của Úc.
Lịch sử.
Bộ Ngoại giao và Thương mại có gốc gác từ hai trong số bảy bộ Thịnh vượng chung được thành lập sau Liên bang Úc ra đời, đó là Bộ Thương mại và Hải quan và Bộ Ngoại giao (1901-1916).
Bộ bị giải thể vào ngày 14 tháng 11 năm 1916 và trách nhiệm của bộ thì thuộc về Văn phòng Thủ tướng và Nội các và Văn phòng Đối nội và Lãnh thổ. Bộ được tái lập ngày 21 tháng 12 năm 1921.
Cho đến Chiến tranh thế giới thứ hai, Úc vẫn là một đất bảo hộ của Đế quốc Anh, nằm trong Khối Thịnh vượng chung Anh nên chính sách đối ngoại của Úc chủ yếu được Anh Quốc định hình. Thời gian này, chiếm phần lớn các hoạt động ở hải ngoại của Úc là những hoạt động liên quan đến thương mại, buôn bán mặc dù chính sách đối ngoại dành sự quan tâm chủ yếu cho vấn đề nhập cư, thám hiểm và quảng bá hình ảnh. Tình hình chính trị và kinh tế đổi thay do Đại khủng hoảng và Chiến tranh thế giới thứ hai gây ra, cùng với sự ban hành Luật Westminster 1931 đã thúc đẩy thành lập và mở rộng sự hiện diện của Úc ở nước ngoài, độc lập với Văn phòng Đối ngoại của Anh Quốc. Úc bắt đầu thành lập phái đoàn ngoại giao (ngoài Luân Đôn) ở nước ngoài vào năm 1940 tại Washington, D.C., Mỹ và đến nay đã có trên 80 đại diện ngoại giao (và 22 đại diện thương mại).
Từ 1921 đến 1970, Bộ mang tên Bộ Sự vụ Đối ngoại ("Department of External Affairs"). Năm 1970, Úc đổi tên bộ này thành Bộ Ngoại giao ("Department of Foreign Affairs"). Ngày 24 tháng 7 năm 1987, Bộ Ngoại giao nhập cùng Bộ Thương mại thành Bộ Ngoại giao và Thương mại.
Cơ cấu.
Chịu trách nhiệm trong Bộ Ngoại giao và Thương mại là Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Thương mại & Đầu tư. Giúp việc cho Bộ trưởng Ngoại giao là Tổng trưởng ("Parliamentary Secretary").
Số nhân viên của Bộ hiện khoảng 3.000 người, trong đó 1.300 người là nhân viên người nước ngoài được thuê làm việc tại các phái đoàn ngoại giao, 1.500 người là nhân viên người Úc làm việc tại Úc và khoảng 500 người là nhà ngoại giao làm việc ở hải ngoại.
Thư ký bộ.
DFAT được quản trị bởi một ban điều hành cao cấp bao gồm một thư ký bộ và 5 phó thư ký. Toàn quyền Úc dựa theo lời đề nghị của Thủ tướng Úc để bổ nhiệm thư ký của Bộ Ngoại giao và Thương mại.
Các văn phòng.
Bộ có các văn phòng ở mỗi bang và lãnh thổ nội địa của Úc nhằm cung cấp dịch vụ lãnh sự và hộ chiếu, thực hiện dịch vụ liên lạc quan trọng cho doanh nghiệp ở Úc. Bộ còn có Văn phòng Liên lạc Điều ước Eo biển Torres ("Torres Strait Treaty Liaison Office") nằm trên đảo Thursday. Hiện mạng lưới của Bộ gồm hơn 90 phái đoàn ngoại giao hải ngoại, bao gồm đại sứ quán, cao ủy, tổng lãnh sự quán và lãnh sự quán.
Bộ có một số cơ quan dưới quyền:
Ngoài ra, bộ còn quản lý một số sáng hội, hội đồng và viện: | 1 | null |
Great Australian Bight là một vịnh lớn nằm ở phía tây nam lục địa Úc.
Phạm vi.
Có 2 định nghĩa về phạm vi của vịnh Great Australian Bight được xác định bởi tổ chức Thủy văn Quốc tế (IHO) và tổ chức thủy văn Australian (AHS).
Theo IHO xác định Great Australian Bight là có giới hạn sau:
Phía Bắc: Bờ biển Nam Úc.
Về phía nam: Từ Tây Cape Howe () kéo dài đến Tây Nam Cape, Tasmania.
Về phía Đông: Từ Cape Otway, Úc tới Đảo Vua,Cape Grim, cực Tây Bắc của Tasmania.
Theo AHS xác định Great Australian Bight với một diện tích nhỏ hơn, từ Cape Pasley, Tây Úc đến Cape Carnot, Nam Úc. Khoảng cách khoảng 1.160 km(720 dặm).
Phần lớn vịnh nằm phía nam của đồng bằng Nullarbor, nằm giữa hai bang South Australia và Western Australia.Đường cao tốc Eyre (A1), huyết mạch giữa đông và tây của Australia chạy dọc theo bờ biển cách vỉa đá khoảng 1 km bên trong đất liền.
Great Australian Bight đôi khi được coi là một phần của Ấn Độ Dương, AHS coi vịnh Great Australian Bight là một phần của vùng biển phía Nam của Ấn Độ Dương. IHO không xác định một cách rõ ràng, nhưng coi vịnh Great Australian Bight là một phần của Nam Thái Bình Dương, eo biển Bass và biển Tasman.
Lịch sử.
Great Australian Bight lần đầu được phát hiện bởi nhà thám hiểm François Thijssen người Hà Lan năm 1627 khi ông đi dọc theo bờ biển phía tây.Vịnh đã được xác định chính xác trên bản đồ bởi nhà thám hiểm người Anh, Matthew Flinders năm 1802,trong hành trình đi quanh lục địa Úc.Sau đó quá trình khảo sát hoàn thành bởi Edward John Eyre.
Đặc điểm tự nhiên.
Great Australian Bight là khu vịnh mở với dải đất trong bờ có bề mặt phẳng hướng mình ra đại dương mang tên Nullarbor Plain. Đây được xem là tảng đá vôi đơn lớn nhất thế giới phủ trên diện tích 270.000 km2 và trải dài khoảng 1.000 km từ Đông sang Tây.
Đường bờ biển của Great Australian Bight được đặc trưng bởi các vách đá (chiều cao lên đến 60 m). Vùng biển của Great Australian Bight mặc dù tương đối nông, không màu mỡ nhưng thềm lục địa rất giàu sinh vật biển. | 1 | null |
"Reflektor" là một bài hát của ban nhạc indie rock Canada Arcade Fire. Nó được phát hành ngày 9 tháng 9 năm 2013 như đĩa đơn đầu tiên từ album phòng thu thứ tư của ban nhạc, Reflektor.
Sản xuất bởi James Murphy, Markus Dravs và chính ban nhạc, bài hát có sự xuất hiện của giọng hát khách mời David Bowie và được phát hành trên một phiên bản giới hạn 12" vinyl dưới tên một ban nhạc hư cấu, The Reflektors.
Bài hát đứng vị trí thứ hai trên "danh sách bài hát hay nhất năm 2013" của NME chỉ sau "Get Lucky" của Daft Punk. | 1 | null |
Raúl García Escudero (sinh 11 tháng 7 năm 1986) là cầu thủ chơi ở vị trí tiền vệ cho Athletic Bilbao. Anh chơi tiền vệ cánh, tiền vệ công và hộ công. Anh là mẫu tiền vệ hiện đại, mạnh mẽ có khả năng ghi bàn, chọn vị trí tốt, đặc biệt ở nhũng tình huống không chiến. | 1 | null |
Dự luật chính thức cho phép mở thị trường cần sa (marijuana) đầu tiên trên thế giới được quốc hội Uruguay thông qua tối Thứ Ba ngày 10 tháng 12 năm 2013 và được Tổng thống Jose Mujica ký ban hành ngày 23 tháng 12.
Hợp thức hóa.
Julio Calzada, giám đốc cơ quan kiểm soát ma túy, nói trong một cuộc phỏng vấn tháng 12 năm 2013 rằng sẽ rất vất vả để đưa ra những quy định về hoạt động cho thị trường sẽ khỏi sự trong 120 ngày nữa vì cho đến nay chưa có một kế hoạch nào được chuẩn bị cho việc này: "Chúng tôi muốn áp dụng đường lối mới vì những biện pháp cũ không kiểm soát và hạn chế được việc sử dụng cũng như buôn bán ma túy".
Cho đến đầu thập niên 2010, có khoảng 200,000 người thường xuyên sử dụng cần sa tại quốc gia 3.3 triệu dân này. Như vậy chỉ cần 10 hecta (25 mẫu) trồng cần sa là đủ cung cấp cho thị trường nội địa. Như vậy để cho chính sách công khai hóa cần sa thành công sẽ phải làm sao giữ cho thị trường ở mức nhỏ, kiểm soát được và có lợi.
Thăm dò.
Thăm dò dư luận năm 2012-13 cho biết 2/3 dân chúng Uruguay chống kế hoạch hợp pháp hóa cần sa. | 1 | null |
Giáo sư Nguyễn Thúc Mậu (1919-1989) là một nhà y khoa danh tiếng tại Việt Nam. Ông cũng là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam với quân hàm Thiếu tướng quân y.
Thân thế sự nghiệp.
Ông sinh ngày 12 tháng 11 năm 1919 tại thôn Cao Bộ, xã Thanh Cao, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
Sinh trưởng trong một gia đình công chức, năm 1939, ông đỗ tú tài và thi vào Trường Y Đông dương. Khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 nổ ra, lúc bấy giờ ông đang là sinh viên năm cuối trường Y, ông tích cực tham gia các phong trào đoàn thể cũng như phong trào tình nguyện "Diệt giặc đói, truyền bá quốc ngữ, diệt giặc dốt", vừa tích cực học tập hoàn thành khóa học và trở thành một trong 50 người nhận bằng bác sĩ khóa đầu tiên do Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cấp ngày 27 tháng 5 năm 1946.
Ngay sau khi nhận bằng, 30 trong tổng số 50 bác sĩ khóa I đã tình nguyện nhập ngũ, trong đó có cả bác sĩ trẻ Nguyễn Thúc Mậu. Ông được phân công đến Lạng Sơn với chức vụ là Trưởng ban Quân y Trung đoàn 28 và cùng Trung đoàn tham chiến với quân Pháp khi chiến sự nổ ra đêm 18 tháng 11 năm 1946. Do thành tích của mình, ông được Tổng Tư lệnh Vệ quốc đoàn Võ Nguyên Giáp gửi thư khen ngợi và là người bác sĩ đầu tiên được khen thưởng ở ngoài mặt trận.
Từ năm 1946 đến 1954, ông lần lượt giữ các cương vị Trưởng ban Quân y Trung đoàn 28 Lạng Sơn, Quân y vụ trưởng Khu 12, Quân y vụ trưởng Liên khu I, Trưởng phòng Lưu động Cục Quân y; tham gia các chiến dịch Biên giới, Hoàng Hoa Thám (1950), Hà Nam Ninh (5/1951), Hòa Bình và Trung du Bắc bộ (11/1951), Tây Bắc (10/1952), chiến cuộc 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ (1954).
Sau khi chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát hoàn toàn miền Bắc, ông được cử đi học chuyên ngành Tổ chức Chỉ huy Quân y ở Liên Xô. Tháng 8 năm 1958, ông về nước, được cử giữ chức Trưởng phòng Huấn luyện Cục Quân y. Tháng 10 năm 1960, ông được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Quân y, rồi Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Y học Quân sự (3/1962), Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Quân y, kiêm Chủ nhiệm Khoa Tổ chức Chỉ huy Quân y (8/1966). Trong thời gian này, cùng với Giáo sư Hiệu trưởng Đỗ Xuân Hợp, ông đã góp công lớn trong việc đào tạo hàng trăm bác sĩ quân y, phục vụ cho các chiến trường miền Nam và phục vụ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc; tham gia xây dựng cơ sở lý luận và nguyên tắc chỉ đạo của ngành như các vấn đề: cứu chữa thương binh theo tuyến quân y, theo hướng hành quân, theo khu vực đóng quân, kết hợp quân y và dân y trong phục vụ chiến đấu.
Cuối năm 1969, ông được phân công vào Nam, giữ cương vị Phó Trưởng phòng Quân y Miền (B2) cho đến lúc Việt Nam thống nhất.
Tháng 5 năm 1976, ông trở về công tác tại Đại học Quân y, giữ chức Phó Hiệu trưởng thứ nhất rồi Hiệu trưởng. Tháng 11 năm 1981, ông là Giám đốc Học viện Quân y. Ông được phong hàm Giáo sư trong đợt phong hàm đầu tiên năm 1981 và được phong quân hàm Thiếu tướng năm 1983.
Cuối năm 1986, ông nghỉ hưu, nhưng vẫn tiếp tục tham gia công tác nhiên cứu và giảng dạy. Ngày 14 tháng 6 năm 1989, ông qua đời tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. | 1 | null |
Gabriel Fernández Arenas (sinh 10 tháng 7 năm 1983), hay còn được gọi là Gabi, cựu cầu thủ bóng đá chơi ở tiền vệ phòng ngự, hiện đang là huấn luyện viên của U-19 Getafe.
Sự nghiệp.
Atlético Madrid.
Gabi được sinh tại Madrid. Là sản phẩm của lò đào tạo trẻ Atlético Madrid trong giai đoạn 2003–04 La Liga.
Zaragoza.
Năm 2007 Gabi gia nhập Real Zaragoza với mức giá 9 triệu €,với bản hợp đồng 4 năm..
Trở lại Atlético.
Năm 2011 Gabi trở lại Atlético Madrid, với mức phí €3 triệu..
Tại đây anh thi đấu cùng với Mario Suarez cùng với vị trí tiền vệ phòng ngự. Khi Diego Simeone đến dẫn dắt CLB, anh đã được trao chiếc băng đội trưởng.Mùa giải 2013-2014 là mùa giải thăng hoa của Gabi khi lọt vào đội hình tiêu biểu La Liga của năm cho vị trí tiền vệ, góp phần không nhỏ cho ngôi vô địch La Liga 2013-2014 của đội bóng. | 1 | null |
João Miranda de Souza Filho, hay João Miranda hoặc Miranda (sinh 7 -9- 1984) là cựu trung vệ người Brazil. Với sự ổn định, Miranda chính là một trong những trung vệ hay nhất mùa giải 2013-2014 của La Liga, là hòn đá tảng trước khung thành Thibaut Courtois.
Miranda là mẫu trung vệ hiện đại khá toàn diện với tốc độ, khả năng chuyền bóng, phát động tấn công từ xa và không chiến tốt.
Ngày 12 tháng 1 năm 2023, Miranda chính thức giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế sau 19 năm thi đấu chuyên nghiệp. | 1 | null |
Juan Francisco Torres Belén (; sinh 9 -1- 1985), hay còn được gọi là Juanfran
là cựu cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha chơi ở vị trí hậu vệ phải. Anh là hậu vệ phải của năm mùa giải 2014-15 tại La Liga, một hậu vệ có sức bền, tốc độ và kĩ thuật tốt. | 1 | null |
Sir Charles Wheatstone (1802-1875) là nhà vật lý người Anh. Về viễn thông, Wheatstone đã phối hợp với Willoughby Smith thiết kế bị sản xuất và lắp đặt cáp tuyến. Về việc tổng hợp giọng nói, Wheatstone đã tạo ra máy nói dựa trên thiết kế của Wolfgang von Kempelen. Về quang học, vào năm 1838, Wheatstone mô tả lý thuyết sự nhìn lập thể và chiếc kính nhìn nổi do ông phát minh ra trước Hội Hoàng gia London. Để chứng minh cho lý thuyết của mình, Wheatstone cung cấp các ảnh lập thể gồm những mẫu hình giống nhau nhưng khác vị trí. Ngoài ra, ông còn chế tạo ra gương xoay, thiết bị mà Léon Foucault dùng để đo vận tốc ánh sáng. | 1 | null |
Diego Roberto Godín Leal (; sinh ngày 16 tháng 2 năm 1986) là cựu cầu thủ bóng đá người Uruguay chơi ở vị trí Trung vệ .
Godín dành phần lớn thời gian chơi bóng tại Tây Ban Nha, khi chơi cho Villarreal và Atlético Madrid và giành được 5 danh hiệu lớn nhỏ cùng các CLB này.
Anh và João Miranda là trụ cột ở hàng phòng ngự của Atlético Madrid, góp công lớn vào chức vô địch của CLB này mùa giải 2013-2014. Anh cũng lọt vào đội hình tiêu biểu của năm La Liga do Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha (LFP) bình chọn.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Uruguay và Villarreal.
Godín bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình với Cerro ở tuổi 17. Sau những màn trình diễn tốt của mình, anh ấy được chuyển đến đội bóng mạnh Primera División Nacional, nơi anh ấy nhanh chóng trở thành đội trưởng do sự trưởng thành và chuyên nghiệp của mình.
Vào tháng 8 năm 2007, Godín ký hợp đồng 5 năm với đội bóng La Liga Villarreal, ghi bàn chỉ trong trận đấu thứ hai của anh ấy, trận thua 3–2 trước Osasuna vào ngày 7 tháng 10, và tham gia với 24 trận đấu tốt nhất của họ. vị trí giải đấu từng (thứ hai). Anh ấy đã củng cố vị trí xuất phát của mình trong những mùa giải tiếp theo, chủ yếu hợp tác với Gonzalo Rodríguez người Argentina ở trung tâm của bộ tứ vệ.
Atlético Madrid.
Vào ngày 4 tháng 8 năm 2010, sau khi trải qua mùa giải tốt nhất của anh ấy tại Villarreal - 36 trận, ba bàn thắng - Godín gia nhập đội bóng đồng hương Atlético Madrid theo hợp đồng 5 năm, sau khi hai câu lạc bộ đồng ý mức phí ban đầu được cho là khoảng 8 triệu euro hoặc bảng Anh . 6,6 triệu. Anh có trận ra mắt chính thức cho "Colchoneros" vào ngày 27, chơi toàn bộ chiến thắng 2–0 trước Inter Milan ở Siêu cúp châu Âu.
Godín ký hợp đồng mới với Atlético vào ngày 1 tháng 11 năm 2013, giữ anh ấy ở lại câu lạc bộ cho đến năm 2018. Anh ấy đã ghi bốn bàn thắng ở giải đấu trong suốt chiến dịch, bao gồm một bàn vào ngày thi đấu cuối cùng vào ngày 17 tháng 5 2014 gặp Barcelona , trận đấu cân bằng tỷ số 1–1 để giúp đội bóng của anh ấy có chức vô địch giải đấu đầu tiên sau 18 năm. Một tuần sau, một lần nữa thông qua một cú đánh đầu, anh ấy lặp lại kỳ tích trong trận chung kết UEFA Champions League để đưa đội của mình vượt lên dẫn trước, nhưng cuối cùng Real Madrid đã giành chiến thắng với tỷ số 4–1.
Vào năm 2015, Godín từ chối chuyển đến Manchester City, được huấn luyện bởi cựu huấn luyện viên Villarreal, Manuel Pellegrini. Vào ngày 28 tháng 10 năm 2017, anh trở thành cầu thủ nước ngoài có nhiều lần ra sân nhất cho câu lạc bộ, vượt qua người đồng đội Luis Perea sau lần thứ 315 trong trận gặp Villarreal; anh được đề cử cho giải thưởng Quả bóng vàng 2016 và 2018.
Vào ngày 20 tháng 2 năm 2019, Godín ghi bàn thắng thứ hai trong chiến thắng 2–0 trên sân nhà trước Juventus ở vòng 16 đội Champions League. Vào ngày 7 tháng 5, cầu thủ 33 tuổi thông báo anh sẽ rời câu lạc bộ sau chín năm và vào ngày 1 tháng 6, anh đã trao lại chiếc băng đội trưởng cho Koke trong trận hòa 1-1 với Sevilla.
Inter Milan.
Vào ngày 1 tháng 7 năm 2019, Inter Milan thông báo họ đã ký hợp đồng với Godín miễn phí theo hợp đồng có thời hạn 3 năm. Có thông tin rằng anh ấy đã đồng ý với một hợp đồng trước vào tháng Giêng trước đó. Anh có trận ra mắt ở Serie A vào ngày 1 tháng 9, vào sân thay cho Antonio Candreva trong 11 phút cuối cùng trong chiến thắng 2-1 tại Cagliari .
Trong mùa giải mà Inter kém nhà vô địch Juventus một điểm, Godín ghi bàn thắng đầu tiên cho "Nerazzurri" vào ngày 13 tháng 7 năm 2020 trong chiến thắng 3-1 trên sân nhà trước Torino. Vào ngày 21 tháng 8, anh gỡ hòa trước Sevilla trong trận Chung kết UEFA Europa League 2020 tại Cologne, thất bại 3-2 cho đội bóng của anh ấy; chỉ có năm người đàn ông khác đã ghi bàn trong các trận chung kết của hai giải đấu hàng đầu của bóng đá châu Âu.
Cagliari.
Vào ngày 24 tháng 9 năm 2020, Godín gia nhập Cagliari theo hợp đồng ba năm. Anh chơi trận đầu tiên cho họ vào ngày 4 tháng 10, trong trận thua 5–2 trước Atalanta , nơi anh cũng ghi bàn.
Godín rời đi vào ngày 12 tháng 1 năm 2022 theo thỏa thuận chung.
Atlético Mineiro.
Vào ngày 12 tháng 1 năm 2022, Godín 36 tuổi đã đồng ý thỏa thuận một năm với Atlético Mineiro. Anh ghi bàn trong trận ra mắt vào ngày 6 tháng 2, trong chiến thắng 3–0 trước Patrocinense tại Campeonato Mineiro. | 1 | null |
Armand Hippolyte Louis Fizeau (1819-1896) là nhà vật lý người Pháp. Vào năm 1849, Fizeau trở thành người đầu tiên xác định bằng thực nghiệm một giá trị khá chính xác cho vận tốc ánh sáng. Thí nghiệm của ông sử dụng một bánh xe quay và một gương cố định đặt cách đấy vài dặm để xem ánh sáng truyền đi như thế nào từ nguồn sáng đến gương và phản hồi trở lại. Đến năm 1859, Fizeau lại xác định tốc độ của ánh sáng trong dòng nước đang chảy, trong thí nghiệm Fizeau. Ông cùng với Léon Foucault phát triển nguyên lý đo trên, cụ thể đó là sử dụng phản xạ của ánh sáng để đo vận tốc, với thiết bị có tên là dụng cụ Fizeau–Foucault. Họ còn thực hiện một chuỗi khám phá về mật độ ánh sáng của Mặt Trời và so sánh nó với mật độ cacbon trong đèn hồ quang điện và mật độ calci oxide trong đèn hàn ôxi-hiđrô, về sự giao thoa tia hồng ngoại và về sự phân cực màu sắc của ánh sáng. Tên của Fizeau được ghi trên tháp Eiffel. | 1 | null |
Leo Howard (sinh ngày 13 tháng 7 năm 1997) là một diễn viên và võ sĩ người Mỹ. Khởi đầu sự nghiệp ngay từ năm bảy tuổi, Howard được biết đến nhờ việc kết hợp kỹ năng karate của mình vào các vai diễn trong các phim chiếu rạp và phim truyền hình; như vai "Snake Eyes hồi nhỏ" trong bộ phim hành động "" năm 2009, vai "Conan còn nhỏ" trong bộ phim giả tưởng "Conan the Barbarian" năm 2011, và vai "Jack" trong loạt phim truyền hình của hãng Disney XD, "Kickin' It". Theo Hollywood Reporter ngày 23 tháng 5, Leo Howard đã được sách kỷ lục Guinness công nhận là đạo diễn truyền hình trẻ tuổi nhất thế giới.
Thời thơ ấu.
Leo Howard sinh ngày 13 tháng 7 năm 1997 tại Newport Beach, California, là con trai của Randye và Todd Howard "Gan lì". Bố mẹ anh là những người nuôi chó chuyên nghiệp, họ quản lý trại chăn nuôi The Big Bulldog, chuyên về chăn nuôi chó bun có nguồn gốc từ Anh và Pháp. Howard đi học tại Trường dòng Tri-City ở Vista, California và phần lớn tuổi thơ anh sống tại Fallbrook ở miền Bắc quận San Diego, trước khi giành toàn bộ thời gian cho nghiệp diễn xuất.
Sự nghiệp.
Võ thuật.
Howard bắt đầu hứng thú với võ thuật từ khi mới ba tuổi, và bắt đầu theo học vào năm bốn tuổi, khi bố mẹ đăng ký cho anh vào một võ đường ở Oceanside, California. Một năm sau, bố mẹ anh lại đưa anh tới một võ đường khác, chuyên về môn Okinawa của Shōrin-ryū và đến năm bảy tuổi, anh bắt đầu luyện tập võ thuật nặng bằng cách tập luyện thể dục hàng ngày. Howard bắt đầu tập luyện võ thuật dưới sự hướng dẫn của nhà vô địch thế giới Matt Mullins khi ông đặc cách nhận Howard làm học sinh nhỏ tuổi nhất trong lớp của mình. Đến năm tám tuổi, Howard đã giành đến ba giải vô địch thế giới. Chuyên môn của anh là Shōrin-ryū, anh đã giành được đai đen ở trường phái này.
Năm chín tuổi, Howard trở thành thành viên trẻ nhất tham gia đội biểu diễn Sideswipe của Mullins, một nhóm biểu diễn võ thuật lưu động chuyên biểu diễn võ thuật, nhảy và nhào lộn cho các khán giả trên khắp nước Mỹ. Tháng 6 năm 2011, Howard kể về trải nghiệm biểu diễn với nhóm Sideswipe như sau – "Tôi nghĩ rằng đó chính là điều đã thực sự lôi cuốn tôi vào nghiệp biểu diễn. Vai trò của tôi đã thay đổi kể từ khi tôi phát triển thành một vận động viên biểu diễn và vẫn đang tiếp tục đi lên. Tôi thấy ổn, ban đầu tôi không được giỏi như thế, thế là họ nhảy và biến! Đây này, tôi khi đó chỉ là một đứa trẻ đáng yêu chạy ra ngoài kia làm vài đường karate. Nhưng vài năm trở lại đây, tôi là một trong những người diễn chính."
Diễn xuất.
Từ khi còn nhỏ, Howard đã hâm mộ các bộ phim của Bruce Lee và Chuck Norris, và khâm phục tài năng phối hợp võ thuật với diễn xuất của họ. Năm bảy tuổi, Howard bảo mẹ rằng anh muốn trở thành diễn viên. Tại một cuộc thi võ thuật, Howard lần đầu tiên được ai đó để ý đến, cho rằng anh hợp với giới showbiz và coi anh là một tài năng của họ. Từ đó anh tham gia làm người mẫu nhỏ tuổi cho các tờ rơi và sau đó trở thành diễn viên trong một số đoạn băng quảng cáo. Năm 2010, Howard nhớ lại cảm xúc khi bước vào giới diễn viên – "Những đoạn băng quảng cáo ấy khiến tôi [sướng] phát điên. Với tôi được tham gia quảng cáo cũng giống như đóng vai chính trong phim vậy."
Năm 2005, Howard lần đầu tiên tham gia đóng phim truyền hình, không lâu sau sinh nhật lần thứ tám, với một vai diễn khách mời nhỏ trong series của hãng USA Network, "Monk" đóng vai một "cậu bé karate nhỏ tuổi" trong dịp lễ Halloween, câu nói duy nhất của anh trong tập phim đó là "Có lẽ cậu ấy sợ karate". Một vài năm sau đó Howard tập trung biểu diễn cho nhóm biểu diễn Sideswipe trước khi trở lại diễn xuất năm 2009.
Năm 2009, Howard có việc làm thường xuyên đầu tiên là phỏng vấn những người nổi tiếng với vai "Leo bé nhỏ", người dẫn chương trình trong series chương trình trò chuyện của Disney Channel, "Leo Little's Big Show" và lần đầu tiên tham gia đóng phim chiếu rạp với vai "Eric Brooks" trong bộ phim gia đình "Aussie and Ted". Tháng 8 năm đó, Howard được biết đến với kỹ năng võ thật điêu luyện với vai diễn "Snake Eyes hồi nhỏ" trong một phân cảnh hồi tưởng trong bộ phim phiêu lưu hành động của hãng Paramount "". Sau đó cùng tháng, anh xuất hiện với vai chính "Laser", một trong ba anh em nhà "Short" trong bộ phim hài gia đình có tên "Shorts", phim sau đó đã nhận được Giải Nghệ sĩ trẻ ở hạng mục "Dàn diễn viên trẻ xuất sắc nhất". Tháng 11 năm 2009, Howard bắt đầu đảm nhiệm vai diễn định kỳ "Hart Hamlin" trong loạt phim của Disney XD, "Zeke and Luther". Năm 2010, Howard lần đầu tiên đảm nhiệm một vai chính, đó là vai "Logan Hoffman" trong bộ phim điện ảnh độc lập có tên "Logan".
Tháng 6 năm 2011, Howard đóng vai chính "Jack", một chuyên gia karate tuổi teen chuyên giúp đỡ một nhóm học sinh trung học cá biệt trong loạt phim truyền hình của Disney XD, "Kickin' It". Howard kể lại cảm giác của mình khi lần đầu tiên nhận được kịch bản để chuẩn bị thử vai – "Tôi coi đó là một buổi trình diễn võ thuật và nghĩ rằng, 'Ôi! Mình phải tham gia!'" Với vai diễn chính do Howard đảm nhận và phô diễn đầy đủ tài nghệ của anh, loạt phim này nhanh chóng trở thành loạt phim số 1 của Disney XD trong lịch sử mạng lưới truyền hình này, và vào tháng 9 năm 2011, Disney XD thông báo sẽ sản xuất mùa thứ hai. Ngày 5 tháng 11 năm 2012 họ thông báo series sẽ có mùa thứ ba và quá trình sản xuất bắt đầu từ tháng 1 năm 2013. Howard trở lại trường quay Kickin' It vào tháng 1/2013. Mùa thứ ba của loạt phim này bắt đầu công chiếu vào ngày 1 tháng 4 năm 2013.
Đời tư.
Howard ở nội trú tại trường vì lịch quay "Kickin' It" dày đặc và phần lớn thời gian anh sống tại ngôi nhà của gia đình Howard ở Studio City, California, nhưng nói rằng anh vẫn coi thị trấn tuổi thơ của mình là ở căn nhà tại Fallbrook. Mặc dù vẫn đam mê võ thuật, Howard từng tuyên bố rằng anh sẽ cẩn trọng hơn khi dính dáng tới các trận đấu dính dáng tới "đánh nhau" và "ẩu đả" vì nguy cơ chấn thương sẽ ảnh hưởng tới công việc diễn xuất của anh.
Sở thích của Howard bao gồm nấu ăn, chơi guitar và sưu tầm vũ khí cổ, trong đó có dao và kiếm. Hiện vật độc đáo nhất trong bộ sưu tập của anh là thanh kiếm "Conan" lớn mà anh được tặng sau khi quá trình quay phim "Conan the Barbarian" hoàn tất. Howard ngoài ra còn là người yêu thích động vật và nuôi một con chó bun có tên là "Bella". Anh cũng tỏ ra hứng thú với ngành bác sĩ thú y và làm việc tình nguyện tại một phòng khám dành cho vật nuôi của địa phương mỗi khi có thời gian rảnh. | 1 | null |
Gustavo Adrián Ramos Vásquez (sinh 22 -1- 1986), hay Adrián Ramos, là tiền đạo người Colombia hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ América de Cali và đội tuyển bóng đá quốc gia Colombia.
Anh ra mắt đội tuyển bóng đá quốc gia Colombia vào năm 2008 và đã ra sân 37 lần
Thống kê sự nghiệp câu lạc bộ.
1
2
"Nguồn": | 1 | null |
Sir William Huggins (1824-1910) là nhà thiên văn học người Anh. Năm 1868, ông phát triển một cách tân đối với việc sử dụng quang phổ trong thiên văn học. Ông là người đầu tiên đo vận tốc xuyên tâm (chuyển động theo đường nhìn) của một ngôi sao bằng cách đo độ lệch Doppler của các vạch phổ của nó. Vào năm 1864, ông nghiên cứu về Tinh vân Mắt Mèo. Cũng vào năm đó, Huggins quan sát quang phổ của Andromeda và phát hiện ra rằng nó khác với quang phổ của một tinh vân bình thường vốn chứa đầy khí. Đồng thời, ông kiểm tra phổ của rất nhiều tinh vân, đã khám phá một trong số những tinh vân này, trong đó có M57, xuất hiện vạch phổ phát xạ sáng đặc trưng bởi khí phát sáng huỳnh quang. Huggins kết luận là nhiều tinh vân hành tinh không phải là tổ hợp của các ngôi sao chưa được nhìn rõ, như đã từng được nghĩ trước đây, mà thực ra chúng thực sự là các tinh vân. Ngoài ra, ông cùng vợ mình xác nhận giả thuyết của William Herschel về tinh vân Lạp Hộ bằng cách dùng phổ kế để quan sát nhiều loại tinh vân khác nhau, đồng thời còn tìm ra nhiều điều đáng ngạc nhiên. Tên của ông được đặt cho tiểu hành tinh 2635 Huggins. | 1 | null |
Ernst Karl Abbe (23 tháng 1 năm 1840 - 14 tháng 1 năm 1905) là nhà vật lý, nhà thiên văn học, doanh nhân người Đức. Năm 1872, Abbe gặp Carl Zeiss. Nỗ lực của họ kết hợp dẫn đến việc khám phá ra điều kiện sine. Theo lý thuyết, điều kiện sine có thể cải thiện cách chế tạo thấu kính rất nhiều. Tuy nhiên, loại kính đủ chắc để thực hiện thử nghiệm lại không tồn tại vào thời điểm đó. Sau đó Abbe gặp Otto Schott, một nhà hóa học thủy tinh 30 tuổi người mới vừa nhận bằng tiến sĩ. Họ hợp tác và không lâu sau đã sản xuất ra một loại thủy tinh mới vào năm 1886 có thể đáp ứng hoàn toàn cho điều kiện sine của Abbe. Loại thủy tinh mới này đã đưa ra một mục tiêu mới cho kính hiển vi: độ tán xạ (apochromaticoften - thường được viết gọn là 'apo'). Zeiss đã sử dụng ngâm nước để tạo ra kính ngắm bù sáng cho ra ảnh với sai sắc thấp hoặc hầu như không có sai sắc. Năm 1873, Abbe nêu ra một lý thuyết chi tiết của sự tạo ảnh trong kính hiển vi. Ông liên hệ bước sóng của ánh sáng dùng để chiếu sáng và khe hở của kính hiển vi với khả năng phân giải các cấu trúc nhỏ trong các mẫu vật hiển vi. Năm 1876, trong khi làm thí nghiệm với các hiệu ứng nhiễu xạ trên sự tạo ảnh, ông phát hiện nếu điều chỉnh toàn bộ quang sai của thấu kính thì độ phân giải gần bằng giá trị của độ phân giải lý thuyết cực đại. Ông đề xuất các lý thuyết khác nhau để cải tiến các kính hiển vi đương thời. Vào năm 1878, ông cùng với Zeiss chế tạo vật kính nhúng dầu cải tiến. Ngoài ra, cả Abbe, Zeiss và Schott đều lập ra Carl Zeiss AG, một trong những công ty sản xuất quang cụ lâu đời nhất thế giới. Cuộc đời của cả ba còn được kể lại qua các hiện vật tại Bảo tàng Quang học Jena. Ngoài ra, ông còn là bạn, là thầy của Gottlob Frege. Khi dạy Frege, Abbe giảng về lý thuyết trọng trường, điện sinh lý học và điện động học, giải tích phức của hàm số phức, ứng dụng của vật lý, một số phân ngành chọn lọc của cơ học và cơ học chất rắn. Abbe là một người bạn đáng tin cậy. Ông là giám đốc của nhà máy quang học Carl Zeiss AG, vị trí mà nhờ đó, ông nâng đỡ sự nghiệp của Frege. Sau khi Frege tốt nghiệp, họ trao đổi thư từ gần gũi hơn. Tên của Abbe được dùng để đặt cho tiểu hành tinh 5224 Abbe. | 1 | null |
Chiến dịch Từ Táo (chữ Hán: 磁灶戰役, Từ Táo chiến dịch) là một chiến dịch diễn ra trong 3 ngày 25 đến 26 tháng 5 năm 1651 giữa quân Nam Minh và quân Thanh tại Từ Táo (nay thuộc Long Hải, Chương Châu). Kết quả quân Nam Minh do Trịnh Thành Công thống lĩnh đã đại phá thành công quân Thanh và chiếm được Hải Trừng.
Diễn biến.
Thuận Trị năm thứ 7 (năm 1651) tháng 5, Trịnh Thành Công soái lĩnh quân Trịnh tiến đánh Hải Đăng (nay là Long Hải phố). Thanh tổng binh Chương Châu là Vương Bang Tuấn cũng soái 1000 kỵ binh và 2000 bộ binh tại các vùng phụ cận Từ Táo ứng chiến. Trịnh Thành Công dự đoán Vương Bang Tuấn kiêu ngạo khinh địch nên quyết định sử dụng chiến thuật phục kích phá địch. Trịnh Thành Công cho quân mai phục tại phía nam và bắc núi Từ Táo rồi phái một đạo quân ra ứng chiến dụ địch. Quả nhiên quân Thanh trúng kế bị bao vây, tuy nhiên quân Thanh dựa vào ưu thế kỵ binh ngoan cường chiến đấu. Nhưng Trịnh Thành Công đã sớm trang bị đằng giáp binh để đối phó với kỵ binh Mãn Thanh, quân Trịnh toàn lực tấn công mãnh liệt. Quân Thanh đại bại, Vương Bang Tuấn dẫn tàn quân tháo chạy về thành Chương Châu. Quân Trịnh giành chiến thắng tại núi Từ Táo.
Chiến thắng Từ Táo tại Mân Nam đã cổ vũ sĩ khí nghĩa quân kháng Thanh, các tướng cũ của họ Trịnh là Hoàng Ngô và Hoàng Hưng quy hàng Trịnh Thành Công. | 1 | null |
Annie Jump Cannon (1863-1941) là nhà thiên văn học người Mỹ. Vào năm 1902, Cannon cho xuất bản tập đầu tiên của Danh mục sao Henry Draper, phân loại sao bằng cỡ sao (nhiệt độ bề mặt). Tổng cộng 9 danh mục đã được xuất bản vào năm 1924, liệt kê hơn 225000 ngôi sao, trong đó cso 300 ngôi sao do Cannon phát hiện ra. Bà là người phát triển hình thức phân loại sao mới trong thập niên 1900. | 1 | null |
Phần thứ ba của loạt phim hài kịch tình huống truyền hình dài tập Hoa Kỳ How I Met Your Mother được công chiếu từ ngày 24 tháng 9 năm 2007 và kết thúc ngày 19 tháng 5 năm 2008. Phần phim này bao gồm 20 tập, mỗi tập kéo dài xấp xỉ 22 phút. Đài CBS công chiếu phần này vào các tối thứ Hai lúc 8:00 tại Hoa Kỳ, cho đến khi bị gián đoạn bởi cuộc đình công của các tác giả Mỹ năm 2007-2008. Phim phải dời lại đến ngày 17 tháng 3 năm 2008 trong khung giờ 8:30 tối. Trọn bộ phần ba được phát hành dưới dạng DVD tại Khu vực 1 ngày 7 tháng 10 năm 2008. Tại Anh, bộ phim được trình chiếu trên đài E4 hàng đêm kể từ ngày 30 tháng 10 năm 2009 lúc 7:30.
Các tập phim.
<onlyinclude>
</onlyinclude> | 1 | null |
Giải Oscar cho hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất là giải Oscar trao cho những thành tựu xuất sắc nhất trong lĩnh vực hiệu ứng hình ảnh của năm.
Lịch sử giải thưởng.
Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh Hoa Kỳ lần đầu tiên ghi nhận những đóng góp kỹ thuật về hiệu ứng hình ảnh với các tác phẩm điện ảnh trong bữa tiệc khai trương giải thưởng vào năm 1928, bằng việc trao bảng chứng nhận "Hiệu ứng kỹ thuật xuất sắc nhất" cho bộ phim đầu tiên giành giải Oscar ở hạng mục phim hay nhất, tác phẩm chính kịch về chiến tranh thế giới thứ nhất "Wings".
Nhà sản xuất David O. Selznick, sau đó là trưởng bộ phận sản xuất của hãng RKO Studios, đề nghị Ban lãnh đạo Viện hàn lâm công nhận họa sĩ hoạt hình Willis O'Brien cho những thành tựu xuất sắc của ông trong phim "King Kong" năm 1933.
Nhưng phải đến năm 1938 mới có bộ phim đầu tiên được chính thức công nhận về mặt hiệu ứng hình ảnh, khi giải "Thành tựu đặc biệt cho hiệu ứng hình ảnh" được trao cho bộ phim "Spawn of the North" của hãng Paramount. Năm sau đó, "Hiệu ứng đặc biệt xuất sắc nhất" trở thành hạng mục chính thức, mặc dù thỉnh thoảng Viện Hàn lâm chọn vinh danh một bộ phim duy nhất thay vì đề cử hai hay ba phim cho một năm. Từ năm 1939 đến 1963, giải này được trao cho cả hiệu ứng hình ảnh và hiệu ứng âm thanh của phim, nên nó thường được trao cho từ hai người trở lên, mặc dù có những năm chỉ hoặc hiệu ứng hình ảnh hoặc hiệu ứng âm thanh được vinh danh. Từ năm 1964, giải này chỉ còn được trao cho hiệu ứng hình ảnh, và năm sau đó tên của hạng mục này được thay đổi thành "Hiệu ứng hình ảnh đặc biệt xuất sắc nhất".
Từ năm 1972 đến 1977, không có giải thưởng riêng biệt nào trao cho hiệu ứng hình ảnh. Những thành tựu trong mảng này chỉ được trao dưới bóng của một loại giải gọi là Giải Oscar cho thành tựu đặc biệt. Năm 1977, một hạng mục giải riêng biệt được khôi phục với tên như hiện nay, "Hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất", mặc dù đến tận năm 1995, đôi lúc hiệu ứng hình ảnh vẫn được trao dưới dạng giải thưởng cho thành tựu đặc biệt. Năm 1990 là năm cuối cùng Viện hàn lâm chỉ trao giải "Thành tựu đặc biệt" thay vì đề cử các phim vào hạng mục này một cách chính thức. | 1 | null |
Thuận Yến, tên thật là Đoàn Hữu Công (15 tháng 8 năm 1932 tại Quảng Nam – 24 tháng 5 năm 2014 tại Hà Nội) là nhạc sĩ Việt Nam. Ông nổi tiếng với những ca khúc kháng chiến thời kỳ Cách mạng, và sau này là những đóng góp cho dòng nhạc trữ tình và nền nhạc nhẹ hiện đại. Ông còn là Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thuận Yến tham gia Đoàn văn công Khu ủy Liên khu V từ năm 1949, sau đó theo học lớp Trung cấp sáng tác tại Nhạc viện Hà Nội vào năm 1961. Năm 1965, ông trở lại chiến trường, sáng tác nhiều ca khúc kháng chiến nổi tiếng như "Mỗi bước ta đi", "Bài ca tiếp vận", "Mỗi dòng thư Bác sáng ngời niềm tin". Sau khi chấm dứt chiến tranh Việt Nam và hòa bình lập lại, ông được cử tới Đoàn Văn công Tổng cục Xây dựng kinh tế, sáng tác nhiều ca khúc ca ngợi lãnh tụ như "Bác Hồ, một tình yêu bao la" hay "Lê-nin, Người đến đất nước tôi". Ông cũng được biết tới với nhiều ca khúc trữ tình nổi tiếng sau này như "Chia tay hoàng hôn", "Màu hoa đỏ", "Em tôi", "Khát vọng"... Sự nghiệp sáng tác đồ sộ của ông bao gồm tới hơn 500 ca khúc. Thuận Yến từng giữ chức Trưởng ban Âm nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam. Khi nghỉ hưu, ông đã được phong tới quân hàm Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thuận Yến lập gia đình với Nghệ sĩ ưu tú đàn tranh Hồ Thanh Hương. Họ có hai người con đều tham gia trong lĩnh vực âm nhạc là ca sĩ Thanh Lam và DJ, nhà sản xuất âm nhạc Trí Minh.
Tiểu sử.
Đoàn Hữu Công sinh năm 1932 tại xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Từ nhỏ đã được tiếp xúc với âm nhạc. Năm 1949, gia đình ly tán, ông tới Bình Định gia nhập Khu ủy Liên khu V và quyết định tham gia cách mạng. Khi đó nhiệm vụ của ông chỉ là liên lạc chuyển thư báo, trông coi kho sách. Tìm được cuốn "Ký âm pháp và hòa âm" của nhạc sĩ Ngọc Trai, ông đã theo đó mà mày mò tự học và tập sáng tác. Được tham gia cùng những nghệ sĩ đương thời như Phan Thao, Tế Hanh, Nguyễn Thành Long, Phan Huỳnh Điểu, Bích Sơn... ông sớm được phát triển niềm đam mê âm nhạc. Công việc lúc rảnh rỗi của ông là ngồi xem các nghệ sĩ đóng kịch, hát bài chòi, rồi không lâu sau ông được một người chơi guitar chỉ dẫn những nốt nhạc đầu tiên.
Năm 1953, ông được biệt phái sang quân đội. Chiến dịch Đông–Xuân năm 1953–1954, ông theo Khu ủy mở mặt trận Bắc Tây Nguyên và được giao nhiệm vụ văn nghệ cho bộ đội và dân công. Tại đây, ông đã viết những ca khúc đầu tay như "Hò dân công" hay "Thi đua sản xuất". Năm 1961, ông được cử ra Bắc học tại Trung cấp sáng tác tại Trường âm nhạc Việt Nam. Để đảm bảo được đăng ký đúng khung giới hạn tuổi 25, ông buộc phải khai năm sinh của mình là 1935.
Năm 1965, ông xung phong đi chiến trường B cùng với đoàn Văn công Quân giải phóng Trị Thiên, trở vào Nam chiến đấu. Ông quyết định chọn bút danh Thuận Yên, ghép từ các chữ Duy Thuận (quê cha) và Duy Yên (quê mẹ). Khi gửi tác phẩm về Hà Nội, người biên tập và phát thanh viên của Đài Tiếng nói Việt Nam đều tưởng là Thuận Yến, nên đọc là Thuận Yến. Không có điều kiện cải chính, từ đó ông chấp nhận bút danh trên. Trong quãng thời gian này, ông viết nên những ca khúc động viên thanh niên lên đường như "Ba lô ta buộc cho chặt", "Vành lá ngụy trang rất xanh"... rồi sau đó là những ca khúc cách mạng được nhiều người biết tới như "Hát mừng quê ta giải phóng", "Mỗi bước ta đi", "Bài ca tiếp vận", "Mỗi dòng thư Bác sáng ngời niềm tin", "Người mẹ miền Nam tay không thắng giặc"... Năm 1968, ông sáng tác nên bản tình ca "Chia tay hoàng hôn" (thơ Hoài Vũ) khi vợ chồng ông phải chia tay giữa chiến trường Quảng Trị để nghệ sĩ Thanh Hương trở về Bắc điều trị bệnh khớp. Đây cũng chính là ca khúc mà Thuận Yến tâm đắc nhất sự nghiệp. Ca sĩ Thanh Lam ra đời vào năm 1969, nhưng phải tận tới 2 năm sau, cô mới được gặp cha. Năm 1991, chính Thanh Lam đã giành giải Nhất tại Cuộc thi đơn ca nhạc nhẹ toàn quốc khi trình diễn thành công ca khúc trên.
Năm 1969, ông theo học sáng tác tại Nhạc viện Hà Nội, viết nên một số tác phẩm như bản sonate "Tự nguyện" và Trang giao hưởng 5 chương "Khúc nhạc miền Trung" và hành khúc "Những bàn chân không mỏi". Không lâu sau, ông công tác tại Đoàn văn công Tổng cục xây dựng kinh tế. Trong thời gian này, ông viết nhiều ca khúc như "Bác Hồ, một tình yêu bao la", "Vầng trăng Ba Đình", "Người về thăm quê", "Lê-nin, Người đến đất nước tôi"...
Thời kỳ hòa bình, Thuận Yến còn sáng tác nhiều ca khúc trữ tình như "Màu hoa đỏ", "Khát vọng"... và cả viết nhạc cho múa (các vở "Bông sen đỏ", "Anh còn sống mãi"), nhạc cho phim ("Khoảng trời chiến sĩ", "Hát ở chiến hào") hay "Duy Tân khúc tâm giao" (1999, dành tặng Đại học Duy Tân, Đà Nẵng).
Từ cuối thập niên 2000, ông mắc bệnh Alzheimer làm cho trí nhớ bị suy giảm nghiêm trọng. Ngoài ra, ông còn mắc chứng hen suyễn ảnh hưởng lớn tới khả năng giao tiếp và hô hấp. Năm 2001, ông là một trong số những nghệ sĩ được trao tặng Giải thưởng Nhà nước.
Ông qua đời vào tháng 5 năm 2014 tại nhà riêng sau thời gian dài lâm bệnh.
Thuận Yến không có tên trong danh sách Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật vào năm 2016. Ông được truy tặng giải thưởng này đúng 1 năm sau cho các tác phẩm: "Vầng trăng Ba Đình", "Người về thăm quê", "Gửi em ở cuối sông Hồng", "Con gái mẹ đã trở thành chiến sĩ", "Chia tay hoàng hôn".
Gia đình.
Thuận Yến gặp gỡ nghệ sĩ đàn tranh Hồ Thanh Hương (sinh năm 1942) trong thời gian theo học tại Nhạc viện Hà Nội vào năm 1960. Họ kết hôn vào năm 1968. Ngoài "Chia tay hoàng hôn", ông từng viết tặng cho bà những tình khúc như "Tình yêu không lời", "Tiếng đàn thập lục"... Sau khi đất nước thống nhất, Thuận Yến cùng gia đình sống tại đường Đê La Thành, Hà Nội. Cả hai người con của ông cùng theo nghề nhạc: ca sĩ Thanh Lam (sinh năm 1969, tên đầy đủ là Đoàn Thanh Lam) và DJ, nhà sản xuất âm nhạc Trí Minh (sinh năm 1972, tên thật là Đoàn Hữu Thắng) từng tổ chức liveshow "Thuận Yến – Tình yêu không lời" tôn vinh cha vào năm 2009 với nhiều nghệ sĩ nổi tiếng tham gia trong tư cách khách mời. Liveshow được trình diễn 2 đêm tại Nhà hát Lớn Hà Nội vào tháng 9, sau đó có thêm một đêm tri ân vào đầu tháng 12 tại Nhà hát Trưng Vương, thành phố Đà Nẵng. Nói về chương trình, Thuận Yến nhận xét: "Tôi rất hài lòng về đêm nhạc. Một chương trình hay và vừa vặn. Thanh Lam và các ca sĩ khách mời đều hát tốt và chọn bài rất đúng".
Tháng 10 năm 2014, một đêm nhạc khác mang tên "Bản tình ca cha viết" cũng đã được gia đình Thuận Yến cùng nhạc sĩ Quốc Trung, các ca sĩ Trọng Tấn, Tùng Dương, Anh Thơ... tổ chức tại Cung văn hóa hữu nghị Việt–Xô, Hà Nội.
Đánh giá.
Suốt sự nghiệp sáng tác âm nhạc, Thuận Yến đã được trao nhiều giải thưởng, bao gồm Giải nhất ca khúc của Bộ Văn hoá năm 1987 (ca khúc "Vầng trăng Ba Đình"), Giải ca khúc xuất sắc của Bộ Quốc phòng năm 1994 (ca khúc "Màu hoa đỏ"), Giải bài hát được nhiều người ưa thích năm 1992 – 1993 của Đài Tiếng nói Việt Nam (ca khúc "Chia tay hoàng hôn")... và danh giá nhất là Giải thưởng Nhà nước năm 2001 với 5 ca khúc được chọn và Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2017 cũng với 5 ca khúc được chọn. Ông từng được nhận Huân chương Lao động Hạng Ba và hạng Nhất, cùng 2 lần nhận Huân chương Lao động hạng Hai. Với 26 ca khúc, nhạc sĩ Thuận Yến cũng là tác giả "Có nhiều sáng tác nhất về Hồ Chí Minh".
Thuận Yến được coi là một trong những "cây đại thụ" của nền âm nhạc Việt Nam, người dìu dắt và tạo cảm hứng cho nhiều ca sĩ, nghệ sĩ lớn sau này như Nghệ sĩ Nhân dân Thu Hiền, ca sĩ Việt Hoàn, Quang Linh, Tùng Dương... Nghệ sĩ ưu tú Quang Lý đánh giá cao những sáng tác của Thuận Yến ""là những bản hùng ca hay trữ tình thấm đượm tình yêu quê hương, đất nước, con người"."
Nhiều nghệ sĩ gạo cội cũng bày tỏ sự tôn trọng lớn lao đối với nhạc sĩ Thuận Yến. Nghệ sĩ nhân dân Trung Kiên, người từng là "thông gia" với gia đình Thuận Yến, nhớ về ông là người "hiền lành sôi nổi" và ""vẫn lấy các sáng tác của Thuận Yến để dạy cho học trò của mình"." Ngay từ năm 2014, nhạc sĩ An Thuyên đã đề nghị Thuận Yến nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về những đóng góp cho nền âm nhạc nước nhà vì ông "là người nghệ sĩ chiến sĩ, là tấm gương sáng để các nghệ sĩ trẻ noi theo...""
Nhạc sĩ Tường Lân cũng đánh giá cao "chất nhân văn và văn học" trong các sáng tác của Thuận Yến, đặc biệt với những ca khúc về tình yêu. Nhạc sĩ Tôn Thất Lập, Chủ tịch Hội âm nhạc Thành phố Hồ Chí Minh đồng thời là Phó chủ tịch Hội nhạc sĩ Việt Nam và cũng là Tổng biên tập của tạp chí "Âm nhạc Việt Nam" thì ca ngợi ""sự sáng tạo nhưng vẫn mang đậm phong cách của âm nhạc dân tộc" và "giữ được bản sắc riêng... rất truyền cảm và đậm chất dân tộc... [với] sự sáng tạo cả về hình thức, âm điệu, ca từ..."" Các nhạc sĩ Phú Quang và Trần Tiến cũng là những người rất ấn tượng với những sáng tác đồ sộ của Thuận Yến.
Thuận Yến cũng được coi là một trong những người có đóng góp lớn vào sự phát triển của nền âm nhạc trữ tình cũng như nhạc nhẹ Việt Nam trong thời kỳ mới. Những đóng góp của ông về âm thanh, tiết tấu càng được coi trọng và phát huy khi ông nắm giữ vai trò trưởng ban âm nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam, như chia sẻ từ nhạc sĩ Cát Vận "[Thuận Yến là] người luôn trăn trở với nền âm nhạc Việt Nam". Báo "Tin tức" từng viết về ông vào năm 2017: "Gia tài âm nhạc của ông, nếu thời chiến tranh mang âm hưởng của tình yêu đất nước của một thời cuộc gian nan nhưng đầy khí phách, thì gia tài âm nhạc của ông ở thời bình lại rất thiết tha, đậm đà tình yêu nam nữ, với đủ "cung bậc người" – nỗi buồn đau, niềm hạnh phúc, nỗi thất vọng, khát khao..." | 1 | null |
Ví đựng xu (hay còn gọi là túi đựng xu, ví đựng tiền xu, tiếng Anh gọi chung là "purse", mặc dù trong tiếng Anh purse còn ám chỉ các loại ví khác nhau ) là một loại ví hay túi nhỏ đựng đồng xu. Ví đựng xu có nhiều loại khác nhau, thông thường là loại ví có nút thắt ở một đầu, siết nút thắt này để đóng nắp ví, khi mở ví thì tháo nút thắt ra hoặc loại có dây kéo hoặc loại khóa bằng nắp đóng mở bằng kim loại. | 1 | null |
Frank Mugisha sinh ngày 17.6.1969 là nhà hoạt động người Uganda đấu tranh cho quyền của giới người LGBT, đã đoạt Giải Nhân quyền Robert F. Kennedy và Giải tưởng niệm Thorolf Rafto cho hoạt động của mình. Cùng với Val Kalende, Victor Mukasa và Kasha Jacqueline Nabagesera, Mugisha là một trong những người biện hộ xuất sắc cho quyền của người LGBT ở Uganda.
Tiểu sử.
Mugisha sinh tại vùng ngoại ô thành phố Kampala, Uganda. Được nuôi dạy trong một gia đình Công giáo nghiêm ngặt, Mugisha đã bộc lộ xu hướng đồng tính luyến ái cho anh mình biết khi lên 14 tuổi. Mặc dù sự thú nhận này khiến cho vài người trong gia đình xa lánh anh, nhưng những người khác trong gia đình và bạn bè vẫn tiếp tục hỗ trợ anh.
Khi học đại học năm 2004, anh đã lập ra tổ chức "Icebreakers Uganda", một tổ chức hỗ trợ cho những người LGBT Uganda bị gia đình và xã hội ghét bỏ. Ngày nay Mugisha là giám đốc điều hành của tổ chức Sexual Minorities Uganda (SMUG), một tổ chức mẹ ("umbrella organization") gồm 4 nhóm, trong đó có "Icebreakers Uganda".
Mugisha là bạn thân với luật sư David Kato - người sáng lập tổ chức SMUG - bị giết chết trong tháng 1 năm 2011 sau khi đã kiện thành công tờ báo khỗ nhỏ ("tabloid") Rolling Stone của Uganda về việc công bố danh tính 100 người LGBT Uganda với lời kêu gọi "hãy treo cổ chúng". Mugisha là một trong các nguyên đơn của tổ chức SMUG đã nhờ Center for Constitutional Rights đại diện - sử dụng điều luật Alien Tort Statute - để kiện mục sư truyền giáo Scott Lively người Mỹ về Tội ác chống lại loài người vì việc làm của ông đối với Uganda Anti-Homosexuality Act, 2014 ("Đạo luật chống Đồng tính luyến ái Uganda, 2014"), một việc làm được mô tả là kích động việc bách hại những người nam và nữ đồng tính luyến ái và "cách ứng xử... cố gắng tích cực để làm hại và tước đoạt các quyền của những người khác [đó] là định nghĩa của sự bách hại".. Tháng 8 năm 2013, thẩm phán Michael A. Ponsor của Tòa án liên bang quận hạt Massachusetts đã phán quyết là bên kiện có lý do vững chắc theo luật liên bang và luật quốc tế, bác bỏ sự phản đối (của luật sư) về thẩm quyền xét xử vụ kiện. | 1 | null |
Henry Clifton Sorby (1826-1908) là nhà địa chất học người Anh. Năm 1849, Sorby sử dụng kính hiển vi phân cực lần đầu tiên để khảo sát các mẫu đá. Điều này đã thu hút sư chú ý của Samuel Allport, một trong những người tiên phong trong việc nghiên cứu đá bằng kính hiển vi. | 1 | null |
là một seri light novel được sáng tác và minh họa bởi "Kamiya Yū" (tên thật là "Thiago Furukawa Lucas", một người Brasil gốc Nhật). Cho đến tháng 3 năm 2023, 12 cuốn đã được phát hành bởi Media Factory - MF Bunko J. Một manga phỏng theo câu chuyện dưới nét vẽ của Mashiro Hiiragi bắt đầu được in trên tạp chí Media Factory "seinen" manga "Monthly Comic Alive" từ 27 tháng 1 năm 2013. Chuyển thể anime cũng đã được công chiếu bởi Madhouse vào 9 tháng 4 năm 2014.
Cốt Truyện.
Hai anh em Sora (空) và Shiro (白) đã cùng nhau trở thành huyền thoại game thủ với thành tích quán quân trong tất cả bảng xếp hạng game dưới cái tên 『 』 (). Bước ra khỏi thế giới ảo, họ là NEET chính hiệu, không việc làm, không ăn học, cách ly và sợ tiếp xúc với bên ngoài, luôn nghĩ mình sinh nhầm thế giới. Một ngày nọ, có một tên kì lạ tự cho mình là thần tên Tet đã hỏi 1 câu hỏi kì lạ "2 người muốn vào 1 thế giới chỉ định đoạt bằng game ?? nếu nó thực sự tồn tại ?? " và hai anh em được đưa tới một thế giới khác - một nơi mà mọi thứ đều được quyết định bởi những trò chơi, từ các dụng cụ, tiền tệ, quốc gia, thậm chí là cả mạng sống đều quyết định qua game. Khi tới đây, 2 anh em đã tự đặt ra mục tiêu của họ chỉ là: đánh bại 16 tộc - đoạt lấy quân cờ chủng tộc (là thứ cốt lõi của một quốc gia nơi đây) để thách đấu với Tet một lần nữa.
Nhân vật.
• Nhân vật chính.
Anh trai của Shiro, 18 tuổi. Giỏi về tính toán bước đi, động thái tiếp theo của đối thủ cũng như hay tinh mắt phát hiện được những trò gian lận của đối phương.
Em gái của Sora tên là Shiro, 11 tuổi, giỏi về tính toán, chơi cờ vua, ngoài ra cô còn là một FPS giỏi nhất thế giới. Shiro rất giỏi suy luận logic để giải quyết các vấn đề. Cô cũng hiếm khi biểu hiện cảm xúc ở trên khuôn mặt. Mặc dù rất trí tuệ, cô ta luôn nói những câu rất ngắn.
Sora và Shiro luôn chơi kết hợp cùng nhau với cái tên "Kuuhaku" trong các trò chơi và trở nên bất khả chiến bại. Hai người họ cũng phải luôn bên nhau ở một khoảng cách nhất định, nếu không cả hai đều bị sợ hãi.
• Chủng tộc Imanity (con người).
Stephanie là một cô gái tuổi teen và là cháu gái của quốc vương tiền nhiệm của vương quốc Elkia, quốc gia có con người sinh sống. Cô có rất nhiều kiến thức rõ ràng nhưng lại thiếu trực giác để giành chiến thắng trong các trò chơi. Ông nội của cô nổi tiếng với việc liên tiếp thua trong các trò chơi và đất đai của Elkia bị đoạt mất do cá cược. Kết quả là, Stephanie cố gắng khôi phục danh dự của ông nội và nhân loại. Khi Sora và Shiro đăng quang, cô trở thành trợ lý của họ và giải quyết vấn đề kinh tế và chính trị của Elkia. Họ phát hiện ra ông nội của cô đã lưu trữ những thông tin ẩn về các loài chủng tộc khác mà ông kiếm được qua vô số lần thua cuộc và nó trở thành thứ giúp họ chiến thắng; kinh nghiệm của cô với Sora và Shiro cải thiện kỹ năng của mình đến mức cô có thể chiến thắng người bình thường.
Jibril (ジ ブ リ ー ル, "Jiburīru" ).
Jibril là Flugel cuối cùng và mạnh mẽ nhất được tạo ra bởi Old Deus Artosh và phục vụ dưới quyền của ông cho đến khi chết. Trong chiến tranh của các vị thần, cô đã phá hủy thủ đô của Elven Garde bằng một câu thần chú, gọi là "Heaven's Strike", kết quả là Jibril không thể sử dụng phép thuật trong 5 năm. Sau đó Jibril lấy trộm tất cả các cuốn sách trong Elven Garde mặc dù Elves đã cố gắng ngăn chặn điều này. Do mất rất nhiều sách, Elves đã mất một lượng ma thuật đáng kể, và theo như, mất hơn 800 năm để lấy lại được tất cả năng lực bị mất. Cô xuất hiện với hình ảnh của mái tóc màu tím hồng dài đến tận đầu gối và hai cánh màu trắng nhô ra ở bên hông.
Warbeast là kemonomimis có khả năng thể chất cao; quốc gia của họ được gọi là Liên Hiệp Đông Bộ. Họ được cai trị bởi một kẻ vô danh "Miko-sama" một người phụ nữ cáo bí ẩn đã giúp Liên Hiệp Đông Bộ phát triển mạnh mẽ trong năm mươi năm qua. Cô sở hữu một khả năng hiếm có tên Huyết Diệt, giúp cơ thể và giác quan tăng cường khả năng đáng kinh ngạc. Cô liên minh với Sora và Shiro sau khi thua một trò chơi do chính Sora đưa ra, những người hứa hẹn mang lại lợi ích cho nhân loại và linh thú.
Izuna Hatsune (初 瀬 い づ な, Hatsuse Izuna)
Đại sứ quán Warbeast trực thuộc Elkia được đại diện bởi Izuna Hatsuse, một đứa trẻ tám tuổi. Cô có thái độ như một đứa trẻ và sử dụng từ desu để kết thúc một câu nhưng cũng sở hữu trí tuệ cao và Huyết Diệt. Sau liên minh giữa con người và linh thú, cô là bạn đồng hành của Sora và Shiro, những người mà cô yêu quý và tin tưởng.
Ino Hatsune (初 瀬 い の, Hatsuse Ino)
Bên cạnh Izuna là ông nội của cô, Ino Hatsuse và là phó đại sứ. Ông ta tin rằng Sora có động cơ thầm kín ích kỷ và không thích anh. Sau khi liên minh giữa con người và linh thú, ông làm việc cùng với Stephanie để chính thức hóa liên minh. Ông rất yêu thương cháu gái mình và khi bất cứ ai làm hại hay đụng cháu gái ông, ông sẽ bắt đầu chửi tục các kiểu.
Những nhân vật khác.
Tet (テ ト, Teto)
Là một deus cũ, một thực thể kỳ diệu được sinh ra từ những điều ước và lời cầu nguyện. Trong thời đại mà mười sáu chủng tộc còn chiến tranh với nhau, một con người tên là Riku Dola và một Ex Machina là vợ của Riku, Shuvi Dola, tưởng tượng về sự tồn tại của một vị thần trò chơi; điều này dẫn đến sự ra đời của Tet. Do những nỗ lực của Riku, Tet đã sở hữu một vật thể được gọi là Chén sao, cho phép anh ta trở thành vị thần của thế giới tên Disboard. Sử dụng sức mạnh của mình, Tet thi triển Mười minh ước trên thế giới, kết thúc chiến tranh và biến thế giới trở thành trung tâm của các trò chơi.
Các chuyển thể.
Light Novel.
Là bộ light novel của Kamiya Yū, do chính tác giả minh họa bởi. Hãng sản xuất là Media Factory. Tập đầu tiên được phát hành vào ngày 25 tháng 4 năm 2012 - nay
Anime.
Được chuyển thể từ light novel cùng tên No game No life. Với hãng sản xuất là Madhouse, đạo diễn là Ishizuka Atsuko. Anime bao gồm 12 tập và một số Specials đi kèm đĩa Blu-ray. Công chiếu tập đầu tiên ngày 9 tháng 4 năm 2014 đến ngày 25 tháng 6 năm 2014. | 1 | null |
Nuôi cá hồi là việc nuôi, thu hoạch các loại cá hồi trong điều kiện kiểm soát để lấy thịt cá hồi và trứng cá hồi. Cá hồi cùng với cá chép, là hai nhóm cá quan trọng nhất trong nuôi trồng thủy sản. Cá hồi thường được nuôi là cá hồi Đại Tây Dương. Nhóm cá thường nuôi khác bao gồm nuôi cá rô phi, nuôi cá da trơn, nuôi cá bóp, cá chẽm và cá tráp. Hiện đang có nhiều tranh cãi về tác động sinh thái và sức khỏe của cá hồi nuôi trồng thủy sản. Có mối quan tâm đặc biệt về tác động đối với cá hồi hoang dã và sinh vật biển khác. Việc nuôi cá hồi cũng dễ rũi ro khi cá hồi thường bị mắc bệnh và ký sinh.
Tổng quan.
Sản lượng.
Việc nuôi cá hồi là một ngành đóng góp lớn vào sản lượng cá nuôi, chiếm khoảng US$10 tỷ hàng năm. Các giống cá thường được nuôi khác gồm: tilapia, cá da trơn, cá vược biển, cá chép và cá tráp. Ngành nuôi cá hồi phát triển tại Chile, Na Uy, Scotland, Canada và Đảo Faroe, và là nguồn gốc hầu hết cá hồi được tiêu thụ tại châu Mỹ và châu Âu. Cá hồi Đại Tây Dương cũng được nuôi, dù với số lượng rất nhỏ, tại Nga và đảo Tasmania, Australia. Việt Nam hiện nay cũng là quốc gia nuôi cá hồi và có nhiều vấn đề được đặt ra chung quanh việc nuôi trồng loài cá này. Tính đến năm 2007, nuôi trồng thủy sản của cá hồi có giá trị 10,7 tỷ USD. Sản xuất nuôi trồng thủy sản cá hồi lớn hơn mười lần trong 25 năm 1982-2007. Nhà sản xuất hàng đầu của cá hồi nuôi là Na Uy với 33%, Chile với 31%, và các nhà sản xuất ở châu Âu khác với 19%.
Sản lượng cá hồi của Na Uy trong năm 2011-2012 lên tới xấp xỉ 172 ngàn tấn, bỏ xa Anh Quốc, đứng hàng thứ hai, với sản lượng chỉ là 23 ngàn tấn rưỡi. đối với Na Uy, nuôi trồng và đánh bắt hải sản là nguồn thu nhập đứng hàng thứ hai, 6,6 tỷ euro trong năm 2012, chỉ sau dầu lửa, trong số này, riêng xuất khẩu cá hồi là 3,8 tỷ euro. Chỉ trong vòng 3 thập niên, Na Uy đã thúc đẩy sự bùng nổ của thị trường rất có lãi này. Hầu như không tồn tại đầu những năm 1980, giờ đây, sản lượng cá hồi nuôi trong các trang trại trên thế giới đã vượt qua ngưỡng 2 triệu tấn, trong số này, 60% là của Na Uy.
Ở Việt Nam, Sa Pa được mệnh danh là thiên đường của loài cá nước lạnh bởi khí hậu đặc trưng và nguồn nước dồi dào. Loài cá nuôi ở đây là cá hồi vân (còn gọi là cá hồi ráng) giờ được nuôi ngay dưới chân đỉnh Phanxipăng, tại thác Bạc, huyện Sa Pa (Lào Cai)... và được nuôi ở Hà Giang, trên đỉnh Tây Côn Lĩnh. Mặc dù vậy, nghề nuôi cá bạc hồi ở SaPa điêu đứng vì phá giá, nhiều tư thương đã nhập lậu cá tầm Trung Quốc vào Việt Nam chiếm các thị trường lớn. Cá lậu được bán với giá chỉ bằng nửa cá Sa Pa, cá tầm Sa Pa phải nuôi 2 năm mới có thể xuất bán thì cá Trung Quốc chỉ vài tháng đưa ra thị trường. Đầu năm 2013 cá bán được giá 250.000 - 270.000 đồng/kg, đến giữa năm chỉ còn 150.000 - 170.000 đồng/kg, sau lũ quét hồi 9, giá cá nhích được lên 200.000 - 220.000 đồng/kg. Cá Sa Pa có vị ngọt, thịt thơm, có độ dai, trong khi thịt cá lậu rất bở, thiếu cảm giác ngon miệng.
Phương pháp.
Cá hồi là loài cá dữ và ăn những loại cá hoang dã khác cũng như sinh vật biển. Việc nuôi cá hồi dẫn tới nhu cầu cao về cá mồi hoang dã. Cá hồi đòi hỏi lượng tiêu thụ dinh dưỡng và protein lớn, và vì thế, cá hồi nuôi tiêu thụ nhiều cá hơn sản phẩm cuối cùng chúng tạo ra. Để tạo ra được một pound cá hồi nuôi, đòi hỏi nhiều poun cá tự nhiên để cho chúng ăn. Khi ngành công nghiệp nuôi cá hồi phát triển, nó đòi hỏi thêm lượng lớn cá tự nhiên làm thức ăn, ở thời điểm 75% ngành đánh cá có kiểm soát của thế giới đã hay hầu như vượt quá ngưỡng duy trì tối đa. Mức độ khai thác cá tự nhiên cho ngành nuôi trồng cá hồi đã ảnh hưởng tới khả năng tồn tại của các loài cá ăn thịt tự nhiên cũng dựa vào những loại cá đó để làm thức ăn.
Việc nghiên cứu vẫn đang được tiếp tục trong việc đưa các protein thực vật thay protein động vật trong chế độ ăn của cá hồi. Không may thay, dù sự thay đổi này làm giảm mức độ hàm lượng axít béo omega-3 giá trị cao giảm đi trong những sản phẩm nuôi trồng. Những trang trại nuôi cá hồi số lượng lớn hiện nay đòi hỏi những lồng nuôi cá lưới mở, vốn có chi phí sản xuất thấp, nhưng lại có điểm bất lợi là cho phép dịch bệnh và rận biển lan tràn trong các quần thể cá hồi hoang dã địa phương. Trên cơ sở trọng lượng khô, cần 2–4 kg cá đánh bắt tự nhiên để sản xuất ra một kg cá hồi.
Một hình thức sản xuất cá hồi khác, an toàn hơn, nhưng ít khả năng kiểm soát hơn, là nuôi cá hồi trong những nơi ấp trứng cho tới khi chúng đủ lớn để trở nên độc lập. Sau đó chúng được thả về các công sông, thường trong một nỗ lực để làm gia tăng số lượng cá hồi. Hệ thống này được gọi là trại nuôi, và rất phổ thông tại các quốc gia như Thụy Điển trước khi người Na Uy phát triển việc nuôi cá hồi, nhưng chỉ hiếm khi được thực hiện bởi các công ty tư nhân, bởi bất kỳ ai cũng có thể bắt cá hồi khi chúng quay trở về để đẻ trứng, hạn chế cơ hội kiếm lợi tài chính của công ty từ khoản đầu tư. Vì thế, phương pháp này chủ yếu được các cơ quan nhà nước và các nhóm phi lợi nhuận như Cook Inlet Aquaculture Association sử dụng như một phương pháp nhân tạo để làm gia tăng số lượng cá trước thực tế chúng đang suy giảm vì khai thác quá mức, xây dựng đập, và phá hủy môi trường sống hay làm tan rã môi trường sống của cá hồi. Không may thay, cách thức này có thể dẫn tới những hậu quả không mong muốn, gồm cả việc "pha loãng" gen của các quần thể hoang dã, và hiện có nhiều sự khuyến khích cho việc nuôi thêm cá bằng phương pháp kiểm soát nuôi trồng và cải thiện cũng như bảo vệ môi trường sống của cá hồi. Một biện pháp thay thế khác là cung cấp cá, được gọi là nuôi tại đại dương, cũng đang được phát triển ở Alaska. Tại đây những con cá hồi non được thả về biển xa khỏi bất kỳ khu vực cá hồi hoang dã nào khác. Sau đó khi tới thời gian chúng đẻ, chúng quay về nơi được thả và các ngư dân có thể thu hoạch chúng.
Một biện pháp thay thế khác cho việc ấp trứng là sử dụng các kênh đẻ trứng. Trong đó những dòng suối nhân tạo, thường song song với một dòng suối thiên nhiên được làm bằng bê tông hay các bờ rip-rap và đáy rải sỏi. Nước từ dòng suối lân cận được bơm phía trên kênh, thỉnh thoảng qua một ao phía trên, để ngăn cặn lắng. Tỷ lệ trứng nở trong kênh thường cao hơn tại dòng suối bên cạnh bởi việc kiểm soát dòng nước, vốn trong vài năm có thể rửa trôi redd tự nhiên. Vì không có lũ, các kênh ấp trứng thỉnh thoảng phải được rửa sạch để loại bỏ cặn lắng tích tụ. Cũng những con nước phá hủy các redd tự nhiên làm sạch cho những dòng kênh. Các kênh ấp trứng giữ được sự lựa chọn tự nhiên của các dòng suối tự nhiên, bởi không có lợi ích, như trong việc ấp trứng, sử dụng các hóa chất phòng bệnh để kiểm soát dịch bệnh. Những con cá hồi nuôi được cho ăn các carotenoid astaxanthin và canthaxanthin để có màu sắc thịt giống với cá hồi tự nhiên.
Một biện pháp thay thế được đề xuất khác để sử dụng cá bắt tự nhiên làm mồi cho cá hồi, là dùng các sản phẩm gốc đậu tương. Điều này có thể tốt hơn cho môi trường trại nuôi, tuy nhiên, việc sản xuất đậu tương cũng có ảnh hưởng lớn tới môi trường nơi trồng trọt. Một giải pháp thay thế có thể các là sản xuất các đồng sản phẩm ethanol sinh học, proteinaceous lên men sinh học. Việc thay thế những sản phẩm đó cho việc nuôi cá có thể dẫn tới kết quả tăng trưởng tương đương (thỉnh thoảng còn cao hơn) ở cá. Với khả năng áp dụng ngày càng cao, việc này có thể giải quyết vấn đề chi phí gia tăng cho chi phí mua cá nuôi cá hồi. Một biện pháp thay thế hấp dẫn khác là gia tăng sử dụng tảo biển. Tảo biển cung cấp các khoáng chất và vitamin thiết yếu cho sự phát triển của sinh vật. Nó có ưu thế vì có thể cung cấp một lượng chất xơ tự nhiên và có độ glycemic thấp hơn thịt cá nuôi bằng ngũ cốc. Trong tình huống tốt nhất, việc sử dụng rộng rãi tảo biển có thể tạo ra một tương lai cho ngành nuôi trồng thủy sản hạn chế nhu cầu sử dụng đất, nước ngọt hay phân bón để nuôi cá. | 1 | null |
Battlefield Online () là một game bắn súng góc nhìn thứ nhất trực tuyến miễn phí được phát triển bởi các hãng Neowiz Games, Electronic Arts và EA Digital Illusions CE, phân phối bởi Neowiz Games. Đây là một bản làm lại của "Battlefield 2". Tuy nhiên, game engine của nó lại chính là Refractor Engine 2 sửa đổi của "Battlefield 2142", với đồ họa cải tiến hơn "Battlefield 2". Game do hãng Neowiz Games của Hàn Quốc phát triển với sự giám sát từ người giữ giấy phép Electronic Arts. Đã bắt đầu quá trình thử nghiệm phiên bản beta thứ hai, "Battlefield Online" không giống như "Battlefield 2" thể hiện việc hỗ trợ qua các trận đấu chứa tối đa 100 người chơi. Giai đoạn thử nghiệm open beta của trò chơi được bắt đầu vào ngày 30 tháng 3 năm 2010. | 1 | null |
Derby County Football Club / dɑrbi kaʊnti / là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Anh có trụ sở tại Derby, Anh. Là một trong mười hai thành viên của Liên đoàn bóng đá Anh vào năm 1888.Trong năm 2009,câu lạc bộ được xếp hạng thứ 137 trong 200 đội bóng hàng đầu châu Âu của thế kỷ 20 bởi Liên đoàn Thống kê và Lịch sử bóng đá quốc tế..
Derby County F.C. được thành lập vào năm 1884,bởi William Morley, là một nhánh của câu lạc bộ cricket quận Derbyshire,câu lạc bộ đã từng 4 mùa giải đứng đầu bảng xếp hạng bóng đá Anh. Thời kỳ đỉnh cao của câu lạc bộ vào những năm 1970, khi 2 lần vô địch Football League First Division và 4 lần tham dự các giải đấu cúp châu Âu,trong đó 1 lần lọt tới bán kết Cúp châu Âu, cũng như chiến thắng nhiều danh hiệu nhỏ khác.
Màu đen và trắng là màu sắc truyền thống của câu lạc bộ trong những năm 1890 và biệt danh câu lạc bộ là The Rams,The sheep nhằm tưởng nhớ đến mối liên hệ giữa những con cừu đực với trung đoàn đầu tiên của dân quân Derby,linh vật của câu lạc bộ là một con cừu đực tên Rammie và bài hát " The Derby Ram" là bài hát truyền thống của câu lạc bộ . Trụ sở câu lạc bộ tại sân vận động Pride Park, nằm ở Pride Park, Derby,là nơi câu lạc bộ chuyển đến trong năm 1997. Tính đến năm 2013, câu lạc bộ hiện đang chơi ở giải Hạng nhất Anh và được quản lý bởi Steve McClaren. Nhưng ở mùa giải 2007/08 derby county đã phải lãnh trọn những trận đấu tệ nhất giải và nhận thành tích tệ nhất giải chi chỉ dành được đúng 11 điểm sau 38 vòng đấu những mùa giải premier league 1996/97 cho đến 2000/01 derby county đã phải cố gắng trụ hạng nhưng đến 2001/02 derby county xuống hạng
Danh sách các huấn luyện viên.
Danh sách của tất cả các HLV của CLB Derby County kể từ khi bổ nhiệm Harry Newbould vào năm 1900.Huấn luyện viên trưởng của CLB hiện tại là Wayne Rooney. | 1 | null |
HMAS "Arunta" (I30/D5/D130) là một tàu khu trục lớp Tribal của Hải quân Hoàng gia Australia. Được đặt theo tên người Arrernte bản địa của Australia, nó được đặt lườn năm 1939 và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Australia vào năm 1942. "Arunta" đã chiến đấu trong giai đoạn sau của Chiến tranh Thế giới thứ hai, thoạt tiên như một tàu tuần tra và hộ tống, rồi trong nhiệm vụ bắn phá bờ biển và hỗ trợ các cuộc đổ bộ khi được phối thuộc cùng Đệ Thất hạm đội Hoa Kỳ; từng đánh chìm tàu ngầm Nhật Bản "RO-33" ngoài khơi Port Moresby vào ngày 24 tháng 8 năm 1942, và được tặng thưởng năm danh hiệu Vinh dự Chiến trận (cùng một danh hiệu khác sau đó bị rút lại). Sau chiến tranh, nó từng hai lần được bố trí đến Nhật Bản trong thành phần Lực lượng Chiếm đóng khối Thịnh vượng chung Anh.
Con tàu trải qua một đợt hiện đại hóa kéo dài từ năm 1949 đến năm 1952, và được xếp lại lớp như một tàu khu trục chống tàu ngầm. Sau khi cải biến, "Arunta" phục vụ tại vùng biển Triều Tiên sau khi đạt được thỏa thuận ngừng bắn kết thúc cuộc xung đột, rồi trở thành một trong những tàu chiến Australia đầu tiên phục vụ cùng lực lượng Dự bị Chiến lược Viễn Đông. Nó được đưa về lực lượng dự bị vào cuối năm 1956, và bị bỏ không trong mười hai năm. Đến năm 1968, nó bị bán để tháo dỡ, nhưng không bao giờ được tháo dỡ bị đắm trên đường kéo đi ngoài khơi vịnh Broken vào ngày 13 tháng 2 năm 1969.
Thiết kế và chế tạo.
Được đặt tên theo người Arrernte, một sắc tộc bản địa Australian, "Arunta" được Ủy ban Hải quân đặt hàng vào tháng 1 năm 1939, và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Cockatoo Docks and Engineering Company Ldt. ở Sydney, New South Wales vào ngày 15 tháng 11 năm 1939. Nó là chiếc đầu tiên trong số ba tàu khu trục lớp Tribal của Australia.
Chiếc tàu khu trục được hạ thủy vào ngày 30 tháng 11 năm 1940, được đỡ đầu bởi Lady Zara Gowrie, phu nhân Toàn quyền Australia, nhưng bị kẹt lại nửa chừng trên triền đà, khiến buổi lễ hạ thủy chỉ kết thúc vào ngày hôm sau. Hoàn tất với chi phí 500.000 Bảng Australia, "Arunta" được nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Australia vào ngày 30 tháng 3 năm 1942, đúng một tháng trước khi mọi công việc trên con tàu hoàn tất.
Vũ khí và cảm biến.
Vào lúc hoàn tất, chiếc tàu khu trục được trang bị sáu pháo QF trên ba tháp pháo nòng đôi; hai pháo QF Mk. XVI trên một tháp pháo nòng đôi, sáu khẩu 20 mm Oerlikon phòng không nòng đơn, một khẩu đội QF 2 pounder "pom pom" bốn nòng, một dàn ống phóng ngư lôi gồm bốn ống, và hai máy phóng mìn sâu với tổng cộng 46 quả mìn được mang theo. Dàn radar của "Arunta" bao gồm một bộ SG1, một bộ SG4, một bộ 285P4 và một bộ 253P.
Vào tháng 9 năm 1945, cả sáu khẩu pháo Oerlikon được thay thế bằng pháo Bofors 40 mm phòng không nòng đơn. Trong đợt hiện đại hóa bắt đầu từ năm 1949, khẩu pháo 4,7 inch phía đuôi cùng các máy phóng mìn sâu được tháo dỡ, lấy chỗ để trang bị súng cối chống tàu ngầm Squid. Pháo QF 2 pounder phòng không bốn nòng được thay bằng pháo Bofors 40 mm nòng đôi. Bộ radar cũng được nâng cấp, đòi hỏi phải thay thế cột ăn-ten ba chân bằng kiểu dạng lưới chắc chắn hơn.
Lịch sử hoạt động.
Thế Chiến II.
"Arunta" được đưa ra hoạt động vào ngày 17 tháng 5 năm 1942, khởi đầu bằng các cuộc tuần tra chống tàu ngầm ngoài khơi New South Wales. Hoạt động này bao gồm một cuộc truy tìm đặc biệt dựa trên việc chiếc tàu Nga "Wellen" phát hiện và tấn công một vào ngày 16 tháng 5, khi các tàu khu trục "Arunta", và HNLMS "Tromp" truy lùng tàu ngầm đối phương không có kết quả. Vào ngày 18 tháng 5, cùng với "Tromp", nó hộ tống đoàn tàu vận tải "ZK.8" rời Sydney, bao gồm các tàu Hà Lan "Bantam", "Bontekoe", "Van Heemskerk" và "Van Heutsz" để đi đến Port Moresby, với 4.735 binh lính thuộc Lữ đoàn Bộ binh 14 Australia trên tàu.
Một tháng sau, chiếc tàu khu trục được giao nhiệm vụ hộ tống vận tải dọc theo bờ biển Australia, rồi bắt đầu hộ tống các đoàn tàu đi đến New Guinea vào đầu tháng 8. Trong vai trò này, "Arunta" lần đầu tiên tham gia chiến đấu khi nó tấn công và đánh chìm chiếc tàu ngầm kiểu "Kaichū" ’'RO-33" ngoài khơi Port Moresby vào ngày 24 tháng 8 năm 1942, làm thiệt mạng toàn bộ 42 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu. Đến tháng 1 năm 1943, nó tham gia triệt thoái lính du kích Đồng Minh khỏi Timor trước khi quay trở lại nhiệm vụ hộ tống vận tải. Nó được tách khỏi nhiệm vụ hộ tống vận tải vào tháng 5 năm 1943, và trải qua một đợt tái trang bị ngắn trước khi gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 74.
"Arunta" tham gia cuộc đổ bộ trong khuôn khổ Chiến dịch Chronicle, rồi được cho tách khỏi Lực lượng Đặc nhiệm 74 vào tháng 7, quay trở về vùng biển để tuần tra, hộ tống, rồi được tái trang bị trước khi gia nhập trở lại lực lượng đặc nhiệm tại Brisbane vào ngày 29 tháng 10 năm 1943. Vào ngày 5 tháng 11, lực lượng đặc nhiệm, bao gồm HMAS "Australia", HMAS "Shropshire", , HMAS "Warramunga", "Arunta" và , có mặt tại vịnh Milne.
Vào cuối tháng 11, "Arunta" bắn phá vào các kho đạn dược của quân Nhật tại New Guinea trước khi hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ lên Arawe, Cape Gloucester và Saidor trong tháng 12 năm 1943 và tháng 1 năm 1944. Sang tháng 3, chiếc tàu khu trục vận chuyển Trung đoàn 7 Kỵ binh Hoa Kỳ đến quần đảo Admiralty trước khi hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của họ lên cảng Hayne. Từ tháng 4 đến tháng 9, nó bắn pháo hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ lên Hollandia, Wakde (nơi nó bắt được một binh lính Nhật), Biak, Noemfoor, mũi Sansapor và Morotai. Vào ngày 13 tháng 10, nó nằm trong thành phần hạm đội Đồng Minh hướng đến vịnh Leyte thuộc Philippines, và được phối thuộc vào lực lượng phục kích hạm đội Nhật Bản phía Nam vào ngày 25 tháng 10, vốn đã đưa đến Trận chiến eo biển Surigao. Sang tháng 1 năm 1945, nó hỗ trợ cho cuộc đổ bộ vịnh Lingayen, nơi một cú đâm suýt trúng của máy bay cảm tử kamikaze đã làm thiệt mạng hai thủy thủ. Từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 2, nó cùng tàu chị em "Warramunga" khởi hành từ vịnh Lingayen đi đến một điểm cách về phía Tây Manila nhằm chuẩn bị cứu vớt các phi công Hoa Kỳ có thể bị bắn rơi khi tấn công hai thiết giáp hạm cùng các tàu hộ tống cho chúng đang thực hiện Chiến dịch Kita, cuộc rút lui từ Singapore về Nhật Bản. Tuy nhiên điều này tỏ ra vô ích; do cuộc tấn công bị trở ngại do thời tiết xấu.
Sau một đợt tái trang bị vào tháng 3-tháng 4, Arunta đã hỗ trợ cho Sư đoàn 6 Australia trong cuộc đổ bộ lên Wewak vào ngày 10-11 tháng 5, rồi tiếp tục bắn phá bờ biển hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên vịnh Brunei của sư đoàn này vào ngày 10 tháng 6. Đến cuối tháng 6, nó bắn phá các vị trí của đối phương tại Luton và Balikpapan, hoạt động sau này là nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ của Đồng Minh vào ngày 1 tháng 7. "Arunta" sau đó quay trở lại Sydney cho một đợt tái trang bị tại Cockatoo Island, và vẫn đang ở trong ụ tàu khi Thế Chiến II kết thúc.
Do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, "Arunta" được tặng thưởng năm danh hiệu Vinh dự Chiến trận. Con tàu từng được tặng thưởng một Vinh dự Chiến trận khác cho "Chiến dịch Guadalcanal 1942", nhưng sau đó bị rút lại do không đủ tiêu chuẩn. "Arunta" hoạt động cùng các lực lượng đặc nhiệm của Đệ Thất hạm đội Hoa Kỳ trong hầu hết thời gian trong chiến tranh; và là một trong số các tàu chiến Hải quân Hoàng gia Australia nổi tiếng nhất đối với các lực lượng Hoa Kỳ.
Sau chiến tranh.
Sau khi hoàn tất việc tái trang bị vào tháng 10 năm 1945, "Arunta" được gửi đến Nhật Bản để phục vụ cùng Hạm đội Thái Bình Dương Anh Quốc trong thành phần Lực lượng Chiếm đóng khối Thịnh vượng chung Anh. Nó ở lại vùng biển Nhật Bản cho đến tháng 3 năm 1946, và quay trở lại đây vào giữa tháng 12 sau một hành trình đi qua Papua New Guinea và Philippines cho một đợt bố trí thứ hai cùng Hạm đội Thái Bình Dương, vốn kéo dài cho đến đầu tháng 4 năm 1947. Vào tháng 6 năm 1948, nó viếng thăm nhiều đảo thuộc quần đảo Melanesia. Vào cuối năm 1949, chiếc tàu khu trục chuẩn bị cho một đợt hiện đại hóa vốn bắt đầu vào năm 1950. Việc tái trang bị bao gồm nâng cấp hay thay thế nhiều hệ thống vũ khí và cảm biến của con tàu. Cho dù công việc nâng cấp được dự định sẽ thực hiện trong vòng sáu tháng, công việc đã mất tổng cộng đến hai năm, khi một số thiết bị nâng cấp cho nó đã tỏ ra lạc hậu.
Vào ngày 11 tháng 11 năm 1952, "Arunta" được xếp lại lớp như một tàu khu trục chống tàu ngầm, và được đưa vào hoạt động trở lại. Nó trải qua trọn năm 1953 tại vùng biển Australia, và vào tháng 1 năm 1954 đã lên đường đi sang Triều Tiên để hỗ trợ lực lượng Liên Hợp Quốc trong việc thực thi thỏa thuận đình chiến vào tháng 6 năm 1953 vốn đã giúp kết thúc cuộc Chiến tranh Triều Tiên. "Arunta" quay trở về Australia vào tháng 8, và ở lại đây cho đến tháng 5 năm 1955, khi nó tham gia một hải đội hỗn hợp Hải quân Hoàng gia Australia và Hải quân Hoàng gia New Zealand, đi đến Malaya để thực hành cùng Hạm đội Thái Bình Dương Anh Quốc. Thay vì quay trở về nhà vào cuối tháng 6, "Arunta" và "Warramunga" được tái trang bị tại Singapore trước khi trở thành những tàu chiến Australia đầu tiên phục vụ cùng lực lượng Dự bị Chiến lược Viễn Đông, và hoạt động cho đến tháng 12. "Arunta" được bố trí đến phía Bắc Australia cho một chuyến đi vào tháng 3 và tháng 4 năm 1956, viếng thăm đảo Norfolk và quần đảo Pitcairn vào tháng 6 trước khi về đến Sydney vào ngày 14 tháng 6, chuẩn bị để được cho ngừng hoạt động.
"Arunta" được đưa về lực lượng dự bị vào ngày 21 tháng 12 năm 1956. Trong suốt quãng đời hoạt động, nó đã di chuyển tổng cộng . Chiếc tàu khu trục được giữ lại cho đến ngày 1 tháng 11 năm 1968, khi nó được bán cho hãng China Steel Corporation tại Đài Bắc để tháo dỡ. "Arunta" được chiếc tàu kéo Nhật Bản "Tokyo Maru" kéo đi vào ngày 12 tháng 2 năm 1969. Đến ngày 13 tháng 2, con tàu bắt đầu bị tràn nước; và bất chấp các nỗ lực để ngăn ngập nước, người ta xác định việc cứu hộ không đem lại hiệu quả. "Arunta" được để cho lật úp và đắm ngoài khơi vịnh Broken, ở tọa độ . | 1 | null |
HMCS "Huron" (G24) là một tàu khu trục lớp Tribal được xưởng tàu của hãng Vickers-Armstrongs tại sông Tyne, Anh Quốc chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Canada, và đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Canada mang cái tên này.
"Huron" được đưa về thành phần dự bị vào ngày 20 tháng 4 năm 1963; nó bị tháo dỡ tại vào tháng 8 năm 1965.
Tháp pháo nòng đôi trên bệ góc cao Mk XIX tháo dỡ từ "Huron" được trao tặng cho Học viện Quân sự Hoàng gia Canada tại Kingston, Ontario. | 1 | null |
Nai sừng xám núi Rocky (Danh pháp khoa học "Cervus canadensis nelsoni") là một phân loài của nai sừng tấm tìm thấy ở dãy núi Rocky và dãy liền kề ở Tây Bắc Mỹ. Phạm vi phân bố phổ biến nhất của chúng vào mùa đông trong các khu rừng và đầm lầy ngập mở trong độ cao thấp hơn. Vào mùa hè nó di chuyển đến các khu rừng sườn núi và lưu vực núi cao. Tổng số tự nhiên là khoảng một triệu con.
Đặc điểm.
Kích cỡ của chúng từ khi là con bê cho đến lúc trưởng thành là 700 pound Anh tại thời điểm hoàn toàn trưởng thành. Nai sừng tấm núi Rocky tạo ra một âm thanh kì quặc để thu hút bạn tình trong mùa sinh sản. Âm thanh của nó bắt đầu bằng một tiếng rít, rồi kéo dài khoảng vài giây trước khi tạo ra một chuỗi các âm thanh nhỏ khác, giống như âm thanh đầy thách thức của tiếng kèn trận trong chiến tranh.
Tổng quan.
Nai sừng tấm Rocky đã được tái du nhập vào năm 1913 đến Colorado từ Wyoming sau sự tuyệt chủng gần như toàn bộ của đàn nai này trong khu vực. Trong khi đó việc săn hươu là một yếu tố góp phần quan trọng dẫn đến việc nai sừng tấm gần như tuyệt chủng và nguyên nhân chủ yếu là do sự xâm lấn của con người và phá hủy môi trường sống tự nhiên của chúng và hành lang di trú.
Tính đến năm 2010, đàn nai sừng tấm Rocky đã được chẩn đoán là rối loạn nghiêm trọng được gọi là bệnh mãn tính CWD. CWD ảnh hưởng đến mô não của nai sừng tấm bị nhiễm và cũng tương tự như các triệu chứng BSE, thường được gọi là bệnh bò điên (MCD). Không có bằng chứng để kết luận rằng nai sừng tấm CWD là biến hoá cùng với con người, và nghiên cứu liên quan đến nai bị khuyết tật và ảnh hưởng của nó trên hệ sinh thái vẫn tiếp tục. Vấn đề môi trường và nai khuyết tật Estes Park, Colorado, và trên một quy mô lớn hơn, trong suốt miền Tây Hoa Kỳ và Bắc Mỹ có các nhà hoạch định chính sách địa phương, hiện tiểu bang và liên bang tìm kiếm các giải pháp.
Công viên quốc gia núi Rocky và Công viên môi trường Estes là môi trường có thể bị gián đoạn bởi sự di cư của nai sừng tấm. Nhiều bướm và cây loài bản địa bị tổn thương, đặc biệt là dương Groves rằng đàn nai sừng tấm có lẽ 3.000 loài động vật xâm lấn trong việc tìm kiếm thức ăn. Dân số nai sừng tấm, trong khi việc đánh thuế tài nguyên thực phẩm phổ biến cũng ảnh hưởng xấu đến các loài bản địa mà chia sẻ cung cấp thực phẩm giống nhau, chẳng hạn như hải ly bản địa. | 1 | null |
Nai sừng xám Tule (Danh pháp khoa học: "Cervus canadensis nannodes") là một phân loài của nai sừng tấm chỉ được tìm thấy ở California từ vùng đồng cỏ và vùng đầm lầy của Thung lũng trung tâm đến các ngọn đồi cỏ trên bờ biển. Tên loài có nguồn gốc từ "Tule" mà nó bắt nguồn từ những loại cỏ mọc ở vùng đầm lầy.
Phân bố.
Khi những người châu Âu đầu tiên đến vùng này thì ước tính có 500.000 nai sừng tấm Tule đi lang thang các khu vực này nhưng năm 1870 chúng đã được cho là tuyệt chủng. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1874-1875 một cặp sinh sản duy nhất được phát hiện trong các đầm lầy của Tule Lake Buena Vista trong phía nam Thung lũng San Joaquin. Biện pháp bảo tồn đã được thực hiện để bảo vệ các loài trong những năm 1970. Ngày nay, dân số tự nhiên vượt quá 4.000. Nai sừng tấm Tule có thể được tìm thấy trong Di tích quốc gia đồng bằng Carrizo, thuộc Bờ biển Quốc gia Point Reyes, các phần của thung lũng Owens từ Lone Pine cho tới Coyote Ridge trong thung lũng Santa Clara, San Jose, California.
Lịch sử.
Sebastián Vizcaíno mô tả cảnh thăm dò về những con hươu này vào năm 1602 của ông về vùng Monterey, Trong số các loài động vật lớn, gấu và các động vật khác gọi là nai sừng tấm, từ đó họ làm cho áo jacket bằng da nai sừng tấm. Sự xuất hiện của người Tây Ban Nha trong những năm cuối thế kỷ 18 đưa gia súc và ngựa để các đồng cỏ của thung lũng trung tâm, cạnh tranh với các nai sừng tấm bản địa. Săn bắn không hạn chế giảm hơn nữa các đàn nai này. Vào thời gian săn nai sừng tấm đã bị cấm bởi cơ quan lập pháp nhà nước năm 1873, những con nai Tule được cho là đã tuyệt chủng.
Bá tước Henry Miller đã bảo vệ nai Tule sau khi một cặp đã được phát hiện trên trang trại của mình trong các đầm lầy gần Tule Lake Buena Vista bởi AC Tibbett năm 1874. Miller ra lệnh những bộ hạ của mình để bảo vệ nai sừng tấm và được ghi cho sự sống còn của các loài. Sau khi ông chết, trang trại lớn Miller-Lux đã được chia và các cuộc săn nai sừng tấm nối lại. Dân số đã giảm xuống còn 72 cá thể. Năm 1895, mất môi trường sống và săn trộm đã làm giảm dân số của chúng chỉ là 28 cá thể. Trong những năm sau đó, nai sừng tấm đã cấy 21 lần, mỗi lần thất bại là một nỗ lực.
Năm 1933, chủ trại Walter Dow mất một nhóm nhỏ của nai sừng tấm đã cho trang trại của mình trong Owens Valley, phía đông của Sierra Nevada. Mặc dù không có nguồn gốc môi trường sống cho nai sừng tấm, chúng phát triển mạnh. Trong cùng năm đó, Nhà nước đưa một đàn nhỏ tại Cache Creek. Đàn này đã không ở tình trạng tốt do điều kiện nhiều người nghèo. Đàn này có thể lai giống với những con nai sừng tấm núi Rocky đã được du nhập gần Mount Shasta.
Năm 1960, nhà nước đã tổ chức một buổi điều trần tại Owens Valley để xác định có bao nhiêu nai nên được phép sống ở đó. Họ quyết định nên bị săn nai sừng tấm để hạn chế số lượng của họ đến dưới 500 loài động vật. Thông qua những nỗ lực của California, ba bầy nai sừng tấm vĩnh viễn được thành lập ở California. Đến năm 1969, Cục Dự trữ Nhà nước Tupman (32), Cache Creek (80) và Owens Valley, Inyo County (300 nai sừng tấm) được đặt ra.
Một công dân từ Los Angeles, Beula Edmiston, thành lập một nhóm để cố gắng một chương trình bảo quản, nai sừng tấm. Sau hơn 10 năm vận động trên cả cấp liên bang và tiểu bang, trong năm 1971, California thông qua luật yêu cầu nai có thể không được săn bắn cho đến khi số lượng của chúng vượt 2.000 cá thể trên toàn tiểu bang hoặc cho đến khi nó có thể được xác định rằng môi trường sống thích hợp nai sừng tấm không còn tồn tại trong tiểu bang, và bắt buộc các cơ quan hữu quan California áp dụng lại nai vào cư trú trước kia bất cứ nơi nào có thể.
Năm 1976, Quốc hội Mỹ đã thông qua một nghị quyết trong đó nói 2000 nai sừng tấm Tule là một mục tiêu quốc gia phù hợp, và chỉ đạo cho các cơ quan liên bang để làm cho vùng đất liên bang dành cho bảo tồn nai sừng tấm Tule. Một Interagency Task Force của các đại diện từ các quốc gia Dịch vụ công viên, Dịch vụ Lâm nghiệp Mỹ, các lực lượng vũ trang, Cục Quản lý đất đai, Sở Công Viên và Giải Trí California, và các Sở California được chọn cho sự trở lại của nai sừng tấm Tule.
Một đàn được thành lập tại San Luis Wildlife Refuge vào năm 1974, và nai sừng tấm đã được du nhập tại Naval Weapons Station Concord trong năm 1977. Trong năm 1978, đàn nai đã được du nhập tại núi Hamilton tại Santa Clara County, Hồ Pillsbury ở Lake County, Jawbone Canyon ở Kern County, Point Reyes, khu quân sự Fort Hunter Liggett Reservation, và trại Roberts.
Đặc điểm.
Được coi là có kích thước nhỏ nhất của các loài hươu ở Bắc Mỹ, nai sừng tấm Tule là động vật móng guốc lớn chiếm ưu thế ở California trước khi sự xuất hiện của người Tây Ban Nha. Nó thường được mô tả như là phân loài nhỏ nhất của tất cả các nai sừng tấm Mỹ, với trọng lượng trung bình của con đực trưởng thành chỉ 450-550 lb (200-250 kg) và con cái trung bình 375-425 lb (170-193 kg). Mặc dù nai sừng tấm Tule đã được báo cáo như là một nửa kích thước của nai sừng tấm Roosevelt và đôi khi được gọi là nai sừng tấm lùn, biệt danh này có thể gây hiểu nhầm như kích thước nhỏ hơn của một số nai sừng tấm Tule có thể phản ánh dinh dưỡng kém của nai sừng tấm tồn tại bằng môi trường sống bên rìa như đầu nguồn sông Owens.
Hồ sơ nai sừng tấm bò gần đây trên đảo Grizzly trong Vịnh Suisun nặng tới 900 pound (410 kg). Đây là một kích thước tương tự như con nai đực Roosevelt có cân nặng từ 700 pounds (320 kg) và 1.100 pounds (500 kg). Có mô tả một nai sừng tấm từ Buttonwillow ở thung lũng San Joaquin, sân golf tại Monterey đã lên đến kích thước của một nai sừng tấm núi Rocky. Cũng thợ săn mô tả nai sừng tấm Tule trong những năm 1850 là không có sự khác biệt về kích thước giữa các nai sừng tấm và Oregon, Washington, Wyoming và Colorado nai sừng tấm, và cảm thấy chắc chắn rằng các con nai đực sẽ cân 700-800 pounds. Những con nai tơ tương tự như nai với bộ da màu nâu và đốm trắng.
Bảo tồn.
Nghiên cứu di truyền dựa trên DNA ti thể và hạt nhân khẳng định rằngnai sừng tấm Tule, nai sừng tấm Roosevelt và Nai sừng tấm núi Rocky cần được xem xét phân loài riêng biệt. Nghiên cứu DNA hạt nhân 2010 cho thấy năm alen tại một locus, chỉ ra rằng đã có một trong hai là một đột biến tại đây locus tiếp theo để các cặp sinh sản đơn báo cáo của Henry Miller và XIX hoặc có ba sống sót nai sừng tấm Tule tại nút cổ chai di truyền. Sebastián Vizcaino mô tả nhìn thấy nai nhân việc thăm dò năm 1602 của ông về khu vực Monterey. Sự xuất hiện của người Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ 18 đã du nhập gia súc và ngựa vào đồng cỏ của miền Trung Valley, cạnh tranh với các nai sừng tấm bản địa. Săn bắn không hạn chế tiếp tục giảm đàn gia súc. Do thời gian săn nai sừng tấm đã bị cấm bởi cơ quan lập pháp nhà nước năm 1873, nai sừng tấm Tule được cho là đã tuyệt chủng.
Ông trùm gia súc California Henry Miller bảo vệ nai sừng tấm Tule sau khi một cặp được phát hiện trên trang trại của mình trong các đầm lầy gần Tule Lake Buena Vista năm 1874. Miller đã ra lệnh đàn ông tôi tớ của mình để bảo vệ nai sừng tấm và được ghi cho sự tồn tại của các phân loài. Sau khi ông chết, Miller -Lux trang trại lớn được chia và săn bắn nai sừng tấm trở lại. Dân số đã giảm xuống còn 72. Bởi năm 1895, mất môi trường sống và săn bắt trộm đã làm giảm dân số nai sừng tấm để chỉ có khoảng 28 cá thể. Trong những năm sau đó, nai sừng tấm đã được cấy ghép 21 lần, mỗi lần thất bại bất chấp nỗ lực. Năm 1933, trang trại Walter Dow đưa một nhóm nhỏ của nai sừng tấm cho trang trại của mình ở Thung lũng Owens, phía đông của Sierra Nevada. Mặc dù không có nguồn gốc môi trường sống cho nai sừng tấm nhưng chúng phát triển mạnh. Trong cùng năm đó, nhà nước đưa một đàn nhỏ tại Cache Creek. Đàn này đã không ở tình trạng tốt do điều kiện nhiều người nghèo. Đàn này có thể giao phối với nai sừng tấm núi Rocky đã được du nhập gần Mount Shasta.
Năm 1960, nhà nước đã tổ chức một buổi điều trần trong Thung lũng Owens để xác định có bao nhiêu nai sừng tấm nên được phép sống ở đó. Họ quyết định nên bị săn nai sừng tấm để hạn chế số lượng của chúng đến dưới 500 loài động vật. Thông qua những nỗ lực của Sở Cá và game California, ba đàn nai sừng tấm thường trực đã được thành lập ở California. Năm 1969, Cục Dự trữ Nhà nước Tupman (32), Cache Creek và Owens Valley, Inyo County (300 nai sừng tấm) được đặt ra. Một công dân từ Los Angeles, Beula Edmiston, thành lập một nhóm để cố gắng một chương trình bảo quản cho nai sừng tấm. Sau hơn 10 năm vận động hành lang ở cả cấp liên bang và tiểu bang, trong năm 1971, California thông qua luật quy định nai sừng tấm có thể không được săn bắn cho đến khi số lượng của chúng vượt qua 2.000 cá thể trên toàn tiểu bang hoặc cho đến khi nó có thể được xác định rằng môi trường sống phù hợp nai sừng tấm không còn tồn tại trong tiểu bang, và bắt buộc California để du nhập lại các nai sừng tấm vào môi trường sống trước đây bất cứ nơi nào có thể.
Năm 1976, Quốc hội Mỹ đã thông qua một nghị quyết trong đó nói rằng 2000 nai sừng tấm Tule là một mục tiêu quốc gia thích hợp, và chỉ đạo các cơ quan liên bang để làm cho vùng đất liên bang có sẵn để bảo quản nai sừng tấm Tule. Năm 1986 dân số đã tăng lên hơn 2.000 cá nhân được phân phối trong số 22 người dân khắp tiểu bang California, chủ yếu là do các chương trình chuyển hướng thành công. Năm 1998, dân số nai sừng tấm Tule California vượt quá 3.200. Năm 2007, dân số toàn tiểu bang được ước tính khoảng 3.800. Hai cặp nai đực và tám cặo nai cái đã được chuyển từ Merced County, California để Tomales điểm vào điểm Reyes Bờ biển quốc gia trong tháng Ba, năm 1978. Các nai sừng tấm đã có dấu hiệu căng thẳng về dinh dưỡng bao gồm cả thiếu đồng hóa và dị hóa thường nhung vào mùa hè năm 1979 và hai cá thể nai sừng tấm đã chết. Giải thích có thể bao gồm sự thất bại để loại bỏ gia súc cho đến năm 1979 và thực tế là năm 1977 và 1978 là những năm hạn hán. Tỷ lệ sinh vẫn không đáng kể cho đến năm 1981
Một nghiên cứu gần đâycho thấy nai sừng tấm Tule xuất hiện để đóng một vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa tiếp của đồng cỏ mở cửa cho, các hệ sinh thái cây bụi chiếm ưu thế ít đa dạng. Cũng chăn thả nai sừng tấm đã có một tác động tích cực về sự phong phú các loài cỏ bản địa và đa dạng nhưng cũng dường như tăng sự phong phú và sự phong phú của một số loài kỳ lạ trong khi giảm Holcus lanatus cỏ ngoại lai xâm hại cao mà là một vấn đề lớn trong đồng cỏ lâu năm. | 1 | null |
là một vườn quốc gia ở hai tỉnh Kumamoto và Ōita, trên đảo Kyushu, Nhật Bản. Tên của vườn quốc lập xuất phát từ tên của núi Aso, ngọn núi lửa hoạt động mạnh nhất tại Nhật Bản, và các ngọn núi của núi Kujū.
Lịch sử.
Vườn quốc lập Aso khởi đầu vào năm 1934, và đến năm 1986 sau khi được mở rộng, vườn quốc gia này được đổi tên thành Vườn quốc lập Aso Kujū. | 1 | null |
Thịt rắn là món ăn chế biến từ thịt của các loài rắn, còn được biết đến với tên gọi là xà nhục. Thịt rắn được xếp vào hàng những món ăn cao cấp và bổ dưỡng. Mỗi loại rắn có vị hơi khác nhau nhưng chúng đều là món ăn bài thuốc chống đau nhức khớp, chữa bệnh phong thấp và tăng cường sức khỏe. Thịt rắn được cho là đặc sản ở Việt Nam. Ở Indonesia, người ta cho rằng, thịt rắn có thể chữa được bệnh hen suyễn cũng như là thuốc bổ thận, tráng dương cho nam giới.
Tổng quan.
Trong khi đa phần các nền văn hóa không dùng rắn làm thực phẩm thì tại một số quốc gia việc sử dụng rắn làm thực phẩm lại được chấp nhận hay thậm chí còn được coi là đặc sản, do các thức ăn chế biến từ rắn được đánh giá cao về tác dụng y học. Món xúp rắn trong ẩm thực Quảng Đông được người dân tại đây dùng trong mùa thu do họ coi nó có tác dụng làm ấm cơ thể. Trong các nền văn hóa phương Tây thì việc ăn thịt rắn cũng từng xảy ra khi gặp phải những năm đói kém. Việc ăn thịt rắn chuông đã nấu chín là một ngoại lệ, với việc tiêu thụ nói chung phổ biến tại các khu vực ở miền trung tây nước Mỹ.
Tại các quốc gia châu Á, như Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Indonesia, Việt Nam và Campuchia, việc uống rượu pha tiết rắn—cụ thể là rắn hổ mang—được cho là làm gia tăng khả năng tình dục. Việc lấy tiết rắn được thực hiện khi con rắn còn sống và nó được pha với một vài loại rượu mạnh hay rượu mùi để cải thiện mùi vị. Các học viên của lực lượng đặc nhiệm Quân đội Hoa Kỳ cũng được huấn luyện bắt, giết và ăn thịt rắn để có thể sống sót trong các hoàn cảnh đặc biệt; và điều này đã làm người ta gán cho họ tên hiệu là "snake eaters" (những kẻ ăn rắn).
Đặc điểm.
Theo Đông Y, thịt rắn đã được công nhận là một vị thuốc quý, chúng có vị ngọt, mặn, mùi tanh, tính ấm, vào kinh can, có tác dụng khử phong, giảm đau, trừ thấp, tiêu độc chữa các bệnh thần kinh đau nhức, bán thân bất toại, khớp xương sưng đau, chân tay tê mỏi, kinh phong, nhọt độc, lở loét, giang mai, tràng nhạc. Người ta thường dùng thịt rắn (bỏ da) dưới dạng món ăn - vị thuốc như rim, làm ruốc hoặc băm với lá lốt, mùi tàu và xương sông rồi nướng ăn trong đó có nhũng loại cần thiết cho cơ thể như leucin, lysin, arginin, valin, chất mỡ và chất saponosid. Từ thịt rắn có thể chế biến thành nhiều món ăn ngon, bổ dưỡng, và các tác dụng chữa bệnh.
Thịt rắn biển tên thuốc là hải xà nhục, có vị mặn, mùi tanh, tính ẩm, có tác dụng tăng trọng và chống viêm, giảm đau rõ rệt, đặc trị viêm đa khớp dạng thấp, thoái hóa và đau cột sống, viêm thần kinh tọa. Thịt rắn biển chứa protid và nhiều amino acid như arginin, cystin, corin, glycin, isolencin, lysin, leucin, histidin, acid glutamic, ornithin, hydroxy prolin, treonin, tyrosin, valin.
Từ rắn có thể chế biến thành trên dưới 10 món ăn khác nhau như thịt rắn xúc bánh đa, rắn xé phay, xào lăn, chả rắn, rắn hầm xả, rắn tiềm thuốc bắc, cháo rắn đấu xanh, rắn nhồi thịt… Trong đó, rắn tiềm thuốc bắc là món bổ nhất trong các món rắn, có công dụng chống đau nhức và mát gan. Lưu ý khi làm thịt rắn là dùng nước gừng hoặc dùng cồn lau sạch, tuyệt đối không rửa bằng nước. Tuy nhiên cũng cần lưu ý đến các loài rắn độc có thể gây ngộ độc khi ăn thịt rắn. nhiều người bị dị ứng sau khi ăn rắn và dấy lên nhiều lời đồn đại.
Thịt rắn biển chống viêm, giảm đau, thịt rắn biển là một thực phẩm ngon và vị thuốc tốt của nhân dân vùng biển. Người Việt Nam và nhiều nước châu Á khác thích ăn thịt rắn biển vì rất ngon và bổ dưỡng. Dạng dùng thông thường là băm thịt cho thật nhỏ với lá lốt, xương sông và mùi tàu rồi nướng ăn. | 1 | null |
Phép phản chứng hay phương pháp phản chứng (còn được goi là reductio ad absurdum, tiếng La tinh có nghĩa là "thu giảm đến sự vô lý") là một trong các phương pháp chứng minh gián tiếp. Phương pháp này chứng minh một phát biểu bằng cách cho thấy rằng kịch bản ngược lại sẽ dẫn đến một điều vô lý hoặc một sự mâu thuẫn.
Chứng minh bằng mâu thuẫn trong toán học.
Nội dung.
Phép phản chứng trong toán học thường được biết đến dưới dạng "chứng minh bằng mâu thuẫn" hay "chứng minh bằng phản chứng". Nếu ta muốn chứng minh kết luận của bài toán là đúng thì phải chúng minh cái ngược lại với nó là sai, vậy ta giả thiết cái ngược lại với nó, và tìm một kết luận mâu thuẫn.
Tác dụng.
Phương pháp phản chứng có tác dụng rất lớn trong toán học. Nó rất hiệu quả với những bài toán có ít dữ kiện và khó có thể làm theo cách trực tiếp thông thường.
Lưu ý.
Một "điều vô lý" trong toán học thường được hiểu là một kết luận "mâu thuẫn với các kiến thức đã học".
Triết học Hy Lạp cổ đại.
"Reductio ad absurdum" được sử dụng trong triết học Hy Lạp cổ đại. Ví dụ sớm nhất về phép phản chứng là một bài thơ châm biếm được gán với Xenophanes xứ Colophon (c. 570 – c. 475 BCE). Chỉ trích việc Homer gán các tánh xấu của con người cho thần thánh, Xenophanes phát biểu rằng con người tin rằng thần thánh có hình dạng của con người. Nhưng nếu ngựa và bò biết vẽ, chúng sẽ vẽ thần thánh giống như bò và ngựa. Nhưng thần thánh không thể có tất cả các hình dạng ấy. Do đó thần thánh không thể có hình dạng của con người. Tương tự, việc gán các đặc tính khác của con người cho thần thánh, ví dụ như các tánh xấu, cũng là sai lầm.
Các nhà toán học cổ đai Hy Lạp cũng đã sử dụng "reductio ad absurdum". Euclid xứ Alexandria và Archimedes xứ Syracuse là hai ví dụ khá sớm. | 1 | null |
là một anime slice of life được sáng tác bởi Okeya Akira (tác giả ' và '), Iku, Anzai Takeshi và Amino Tetsuro (đạo diễn của "Blue Comet SPT Layzner"). Được sản xuất bởi Daume và Japan Digital Entertainment, loạt này được đạo diễn và được viết bởi Okeya Akira và sản xuất bởi Nozawa Katsuhiko, nhà sản xuất phim hoạt hình "Please Twins!". Nhân vật được thiết kế bởi Ochi Shinji. Loạt phim đầu tiên được phát sóng trên NHK từ ngày 8 tháng 4 năm 1999 đến ngày 25 tháng 11 năm 1999 với tổng cộng 25 tập phim.
Season 2 có tựa là được chiếu 2 năm sau trên NHK từ ngày 3 tháng 4 năm 2001 đến ngày 29 tháng 11 năm 2001, với số tập là 25. Phim cũng được chiếu ở nước ngoài trên kênh GMTV2 (Anh Quốc), Raidue (Ý), TRT (Thổ Nhĩ Kỳ), ABS-CBN (Philippines) và Hero TV (Philippines).
Tại Việt Nam, phim từng được Công ty Cổ phần Truyền thông Trí Việt (TVM Corp. và nay là Purpore Media) mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3 (2008) và phát lần 3 năm 2018.
Nội dung.
Buddy là cậu bé 3 tuổi cậu ta rất yêu chú chó của mình là Chacha. Một ngày nọ, Buddy đang đi dạo với Chacha thì có chiếc xe lao tới, để bảo vệ cậu bé Chacha đã chạy tới đỡ và bị chết. Và có phép màu kì diệu đã xảy ra trong đêm sau vụ tai nạn, linh hồn của Chacha đã nhập vào chiếc xe hơi đồ chơi màu vàng nhờ vậy Bubu và Chacha có thể mãi bên nhau không rời. Đã có nhiều chuyến phiêu lưu thú vị và cả hai đã học được nhiều điều hay trong cuộc sống. Câu chuyện diễn ra ở trên thị trấn Greenhill, và mở rộng ra tới Los Angeles, California.
Âm nhạc.
Những ca khúc trong cả hai season đều được Tsuno Gori thể hiện, được chọn làm soundtrack cho "Bakusō Kyōdai Let's & Go!!". Sản xuất âm thanh của anime được quản lý bởi Half HP Studio. | 1 | null |
Bộ Cánh da, còn gọi là bộ Sâu tai ("earwig"), tên khoa học Dermaptera, bao gồm các loài côn trùng được tìm thấy khắp châu Mỹ, châu Phi, Á-Âu, Úc và New Zealand. Bộ này có khoảng 2.000 loài được xếp vào 12 họ.
Phân loại.
Dermaptera (= Euplecoptera, Euplexoptera, hay Forficulida) là một bộ khá nhỏ so với các bộ Insecta khác, với chỉ khoảng 2,000 loài, 3 phân bộ và 15 họ, bao gồm phân bộ tuyệt chủng Archidermaptera và Eodermaptera với các họ tuyệt chủng Protodiplatyidae, Dermapteridae, Semenoviolidae, và Turanodermatidae.
Phân bộ Archidermaptera †
Phân bộ Eodermaptera †
Phân bộ Neodermaptera | 1 | null |
West Valley City là một thành phố tại Salt Lake County và thuộc vùng ngoại ô của thành phố Salt Lake, bang Utah, Hoa Kỳ. Dân số là 129.480 theo kết quả điều tra dân số năm 2010, là thành phố lớn thứ hai ở bang Utah. Thành phố được sáp nhập từ các khu vực như Granger, Hunter, Chesterfield, và Redwood vào năm 1980. Thành phố được biết đến nhiều với Trung tâm Maverik và nhà hát USANA Amphitheater.
Địa lý.
Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, thành phố có tổng diện tích 35,5 dặm vuông (91,8 km ²), trong đó, 35,4 dặm vuông (91,7 km ²) là đất và 0,1 dặm vuông (0,2 km ²) là diện tích mặt nước.
West Valley nằm ở phía tây bắc của Thung Lũng Salt Lake, nằm giữa Salt Lake City ở phía bắc, phía đông là Nam Salt Lake. Quận Magna ở phía tây, và Taylorsville và Kearns Township ở phía nam. Dãy núi Oquirrh có thể thấy lờ mờ trên thành phố về phía tây, trong khi sông Jordan đánh dấu ranh giới ở phía đông.
Nhân khẩu học.
Có 38.535 hộ gia đình, trong đó 47,1 % có trẻ em dưới 18 tuổi sống cùng với họ, 61,3 % là các cặp vợ chồng sống với nhau, 13,2 % có một chủ hộ là nữ không có mặt chồng, và 19,6 % không gia đình. 14,7 % các hộ gia đình chỉ có 1 cá nhân và 3,9 % có người sống một mình và có độ tuổi 65 tuổi trở lên.
Dân số của thành phố có 33,7 % ở độ tuổi dưới 18, 12,9 % 18 - 24, 30,7 % 25 - 44, 17,4 % từ 45 đến 64, và 5,4 % từ 65 tuổi trở lên. Tuổi trung bình là 27 tuổi. Đối với mỗi 100 nữ có 102,3 nam giới. Đối với mỗi 100 nữ 18 tuổi trở lên, có 100,5 nam giới.
Thu nhập bình quân của một hộ gia đình trong thành phố là $ 45.773. Nam giới có thu nhập trung bình $ 32.116 so với 22.693 $ cho nữ giới. Thu nhập bình quân đầu người thành phố là 15.031 $. Khoảng 6,7 % gia đình và 8,7 % dân số sống dưới mức nghèo khổ, trong đó có 11,0 % những người dưới 18 tuổi và 3,5 % là những người 65 tuổi trở lên. | 1 | null |
HMCS "Nootka" (R96/DDE 213) là một tàu khu trục lớp Tribal được xưởng tàu của hãng Halifax Shipyards, tại Halifax, Canada chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Canada, và đã phục vụ từ năm 1946 đến năm 1964. Tên nó được đặt theo tên người Nuu-chah-nulth bản địa của Canada.
Nó được mang cái tên "Nootka" đang khi được chế tạo sau khi Hải quân Hoàng gia Canada đổi tên chiếc tàu quét mìn lớp "Fundy" HMCS "Nootka" (J35) thành HMCS "Nanoose" (J35) vào năm 1943.
"Nootka" được nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Canada vào ngày 7 tháng 8 năm 1946 tại Halifax. Nó phục vụ như một tàu huấn luyện cho Hạm đội Đại Tây Dương cho đến khi được cải biến thành một tàu khu trục hộ tống sau khi được cho xuất biên chế vào ngày 15 tháng 8 năm 1949.
Trong quá trình cải biến, các khẩu pháo 4,7 inch được thay thế bằng pháo 4 inch, và tháp pháo "Y" được tháo dỡ để thay thế bằng hai bệ Squid Mark IV chống tàu ngầm ba nòng. Nó cũng được nhận hai bệ pháo Boffin và một khẩu Bofors 40 mm nòng đơn trên bệ Oerlikon 20 mm vận hành bằng điện. Nó được nhận ký hiệu lườn mới DDE 213 vào tháng 1 năm 1950, và đã rời Halifax để đi sang Triều Tiên vào tháng 12 năm 1950; băng qua kênh đào Panama cho lượt đầu tiên trong hai lượt phục vụ trong Chiến tranh Triều Tiên.
Con tàu quay trở về Halifax ngang qua Địa Trung Hải vào cuối năm 1952, trở thành chiếc tàu thứ hai của Hải quân Hoàng gia Canada đi vòng quanh thế giới, sau chiếc HMCS "Quebec" (C66). "Nootka" trải qua một đợt cải biến và hiện đại hóa khác vào năm 1953-1954, rồi tiếp nối các nhiệm vụ huấn luyện cùng Hạm đội Đại Tây Dương. Nó tham gia vào đợt huy động rộng rãi lực lượng Hải quân Hoàng gia Canada trong cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba vào năm 1962; "Nootka" được phân công một khu vực tuần tra mũi phía Bắc của Cuba trong cuộc khủng hoảng.
Vào mùa Hè năm 1963, "Nootka" tham gia cùng chiếc tàu chị em HMCS "Haida" (G63) cho một chuyến viếng thăm Ngũ đại hồ. Lượt bố trí cuối cùng của nó là trong một cuộc tập trận của khối NATO tại vùng biển quần đảo Bermuda vào mùa Thu năm 1963, nơi nó chịu đựng một hư hại cho lườn tàu đang khi cặp mạn lúc biển động mạnh. Nó được tạm thời tách ra và quay trở về Halifax để sửa chữa, nơi nó được cho xuất biên chế vào ngày 6 tháng 2 năm 1964. Chiếc tàu khu trục bị tháo dỡ tại Faslane, Scotland vào năm 1965. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.