text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Suiriri suiriri là một loài chim trong họ Tyrannidae. gồm các loài chim được tìm thấy trong môi trường sống bán mở ở Nam Mỹ. Trước đây chi được chia thành hai loài; "Chaco suiriri" ("S. suiriri") và "Campo suiriri" ("S. affinis"). Suiriri gồm các loài chim bản địa Guaraní, nơi nó là tên chung được sử dụng cho một số loài bắt ruồi bạo chúa cỡ trung bình.
1
null
Suiriri islerorum là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài này được tìm thấy ở cerrado của miền trung nam Brazil và vùng xa phía đông Bolivia liền kề. Phân loại. Loài này trước đây được xếp vào chi "Suiriri" và đã được chuyển sang chi mới được phát triển của riêng "Guyramemua" dựa trên một nghiên cứu phát sinh loài phân tử được công bố vào năm 2017.
1
null
Elaenia martinica là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài chim này được tìm thấy ở Tây Ấn và một phần của Trung Mỹ. Môi trường sống tự nhiên của nó là rừng lá rộng khô nhiệt đới và cận nhiệt đới, rừng ẩm thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trước đây bị suy thoái nặng nề.
1
null
Elaenia spectabilis là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài này được tìm thấy ở Nam Mỹ từ miền tây Amazonia đến miền đông Brazil và miền trung Bolivia. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng nhiệt đới ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trước đây bị suy thoái nặng nề.
1
null
Elaenia albiceps là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài có một số phân loài sinh sản trên khắp miền nam và miền tây của Nam Mỹ. Quần thể chim phương Nam di cư về phía bắc vào mùa đông. Môi trường sống tự nhiên của nó là rừng ôn đới, rừng ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng cây bụi nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, và rừng trước đây bị suy thoái nặng nề.
1
null
Elaenia parvirostris là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài này được tìm thấy ở Argentina, Argentina, Bolivia, Brazil, Colombia, Ecuador, Guiana thuộc Pháp, Guyana, Antilles của Hà Lan, Paraguay, Peru, Suriname, Trinidad và Tobago, Uruguay và Venezuela. Môi trường sống tự nhiên của nó là rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng ẩm thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trước đây bị suy thoái nặng nề
1
null
Elaenia pelzelni là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài này được tìm thấy dọc theo sông Amazon lưu vực Brazil; cũng phía bắc Peru và biên giới liền kề Colombia; còn Bôlivia. Các con sông là Xingu, Iriri, Madeira, và Juruá của Brazil và Ma-rốc của Peru. Môi trường sống tự nhiên của nó là rừng nhiệt đới ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới
1
null
Elaenia cristata là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài chim này được tìm thấy ở Bolivia, Brazil, Colombia, Guiana thuộc Pháp, Guyana, Peru, Suriname và Venezuela. Môi trường sống tự nhiên của chúng là thảo nguyên khô, vùng đất khô cằn nhiệt đới hoặc nhiệt đới, và đồng cỏ nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới theo mùa hoặc ẩm ướt. Hai phân loài được công nhận.
1
null
Elaenia chiriquensis là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài này được tìm thấy ở Argentina, Argentina, Bolivia, Brazil, Colombia, Costa Rica, Ecuador, Guiana thuộc Pháp, Guyana, Antilles của Hà Lan, Panama, Paraguay, Peru, Suriname, Trinidad và Tobago, và Venezuela. Môi trường sống tự nhiên của nó là thảo nguyên khô, vùng đất khô cằn nhiệt đới hoặc nhiệt đới, đồng cỏ nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới theo mùa hoặc vùng đồng bằng ngập nước và rừng trước đây bị suy thoái nặng nề.
1
null
Elaenia fallax là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài chim này được tìm thấy ở Cộng hòa Dominican, Haiti và Jamaica. Môi trường sống tự nhiên của loài chim này là rừng ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng nhiệt đới ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Phân loài. Hai phân loài hiện được công nhận. Khi chúng có sự khác biệt di truyền sâu sắc và cách phát âm khác nhau, chúng có thể là ứng cử viên cho sự phân chia loài trong tương lai:
1
null
Elaenia pallatangae là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài này được tìm thấy ở Bolivia, Brazil, Colombia, Ecuador, Guyana, Peru và Venezuela. Môi trường sống tự nhiên của nó là rừng ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. Năm phân loài hiện được công nhận:
1
null
Trịnh Mục công (chữ Hán: 鄭穆公; 649 TCN – 606 TCN), còn gọi là Trịnh Mâu công (鄭繆公), tên thật là Cơ Tử Lan (姬子蘭), là vị vua thứ chín của nước Trịnh - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 627 TCN đến năm 606 TCN, tổng 22 năm. Ông có bảy người con trai, về sau trở thành 7 thế lực lớn của nước Trịnh, thường thay phiên nhau thâu tóm quyền hành các vị Công tước nước Trịnh, đó gọi là Thất Mục. Lên ngôi vua. Cơ Tử Lan là con của Trịnh Văn công, vua thứ 8 của nước Trịnh. Mẹ ông là Yến Cật (燕姞). Năm 649 TCN, mẹ ông nằm mộng thấy hoa lan, nói với Trịnh Văn công. Trịnh Văn công cho là điềm tốt, từ đó sủng ái Yến Cật. Ít lâu sau Yến Cật sinh một người con trai, Trịnh Văn công yêu mến, đặt tên là Tử Lan (子蘭). Về sau, Trịnh Văn công lấy Trần Quy (陳媯), vợ của chú là Trịnh Tử Anh sinh ra Tử Hoa (子華) và Tử Tang (子臧). Và rồi, khi Tử Hoa và Tử Tang nổi loạn chống lại Văn công bị giết, Trịnh Văn công sau đó đuổi hết các công tử khỏi nước Trịnh. Tử Lan trốn sang nước Tấn. Năm 629 TCN, Tấn Văn công hội quân với Tần Mục công đánh Trịnh, có dẫn Tử Lan theo. Tấn Văn công vốn thích Tử Lan, ép Trịnh Văn công lập ông làm thế tử nước Trịnh và giết đại phu Thúc Thiêm, Thúc Thiêm bèn tự sát. Tuy nhiên, Tấn Văn công không chịu lui quân, đòi gặp Trịnh Văn công. Trịnh Văn công sai người gặp Tần Mục công, phân tích khuyên Tần Mục công rút quân, Tấn Văn công thấy thế cũng muốn rút quân, yêu cầu nước Trịnh lập công tử Lan làm Thế tử. Trịnh Văn công nghe theo. Năm 628 TCN, Trịnh Văn công qua đời, thế tử Lan lên làm vua, tức Trịnh Mục công. Năm đó ông 22 tuổi. Quan hệ với chư hầu. Được Huyền Cao ngăn quân Tần. Năm 628 TCN, cùng khi Trịnh Văn công mất thì Tấn Văn công qua đời. Nước Trịnh có người muốn bán nước bèn sang nói với Tần Mục công nên tập kích nước Trịnh đang sơ hở phòng bị. Dù Bách Lý Hề và Kiển Thúc can ngăn nhưng Tần Mục công không nghe theo, quyết điều quân đánh chiếm nước Trịnh và đánh luôn nước Tấn đang có tang. Năm 627 TCN, 3 tướng Tần là Tây Khất Thuất và Bạch Ất Bính đem quân đánh nước Trịnh. Đến đất Hoạt, có người buôn trâu bò tên là Huyền Cao buôn bán ở đất nhà Chu thấy quân Tần tập kích nước mình, vội mang 20 con trâu dâng cho quân Tần, giả là vâng mệnh Trịnh Mục công đến và phao tin nước Trịnh đã phòng bị rồi. Ba tướng Tần nghe thấy báo nước Trịnh đã phòng thủ bèn không đánh Trịnh nữa mà diệt ấp Hoạt là chỗ biên cương nước Tấn, sau đó bị quân Tấn đánh cho đại bại ở đất Hào. Giữa Tấn và Sở. Anh khác mẹ của Trịnh Mục công là công tử Hà, bị đuổi sang nước Sở, nước Sở lại đem quân đánh Trịnh nhằm phế Mục công để đưa Tử Hà lên làm vua, nhưng bị đẩy lui, công tử Hà bị giết. Trịnh Mục công ngả theo nước Tấn. Ông hội binh cùng vua Tấn và nước Trần đi đánh nước Hứa vì Hứa theo Sở. Năm 625 TCN, Trịnh Mục công đi hội chư hầu ở đất Thùy Lũng. Sau đó, ông hội binh với quân Tấn, Trần, Tống cùng đánh nước Tần, đánh bại quân Tần ở đất Uông. Sang năm sau, ông cùng liên quân đánh nước Thẩm, phá vỡ nước Thẩm. Năm 619 TCN, Tấn Linh công còn nhỏ lên ngôi, Sở Mục vương bèn đem quân đánh nước Trịnh để tranh ngôi bá chủ. Năm 618 TCN quân Sở đánh Trịnh. Đại phu Triệu Thuẫn nước Tấn bèn hội quân các nước Tống, Vệ, Hứa đi cứu Trịnh. Trong khi quân Tấn chưa tới thì quân Sở đã bắt được 3 tướng Trịnh, Trịnh Mục công phải dâng lễ vật cầu hoà, Trần Cung công nghe vậy xin hàng. Sở Mục vương bèn hội các nước Trịnh, Trần, Sái, rồi cùng xuất binh đánh Tống, Tống Chiêu công phải đích thân đến dâng lễ vật và hội thề với Sở. Sở Mục vương lui quân. Năm 612 TCN, Trịnh Mục công đến triều cống nước Tấn. Năm sau, 611 TCN nghe tin Tống Chiêu công bị giết, Trịnh hội quân với các nước Tấn, Tào, Trần đánh Tống Văn công tội giết anh. Nhưng sau đó liên quân chấp nhận vua mới nước Tống và rút quân. Năm 608 TCN, Trịnh Mục công lại theo Sở Trang vương cùng mang quân đánh nước Trần và nước Tống vì cớ Trần Linh công dự hội thề với nước Tấn. Đại phu Triệu Thuẫn nước Tấn mang quân đi cứu nước Trần, Tống. Sau khi giải vây, quân Sở và Trịnh rút lui. Trần Linh công lại hội binh với Tấn và Tống cùng đánh Trịnh. Tướng Sở là Vỉ Giả cứu Trịnh, bắt được tướng Tấn là Giải Dương. Quân Tấn phải rút lui. Năm 607 TCN, Hoa Nguyên nước Tống đem quân đánh Trịnh, nhưng thất bại, bị quân Trịnh bắt. Tống Văn công bèn đem của cải đút lót cho nước Trịnh chuộc Hoa Nguyên. Trịnh Mục công thả Hoa Nguyên về. Mùa hè năm 607 TCN, Triệu Xuyên nước Tấn hợp binh các nước Tống, Vệ cùng đánh Trịnh. Tướng Sở là Đấu Tiêu đóng quân cứu Trịnh. Liên quân phải rút về. Năm 606 TCN, Trịnh Mục công qua đời, thọ 44 tuổi. Ông ở ngôi được 22 năm. Thế tử Cơ Tử Di lên nối ngôi, tức Trịnh Linh công. Từ thời Tề Tương công, hậu duệ của Trịnh Mục công là các gia tộc Tứ thị, Hãn thị, Quốc thị, Lương thị, Ấn thị, Du thị, Phong thị luân phiên chấp chính, gọi gộp là Thất Mục.
1
null
Mũi đất nhọn là một đối tượng địa lý có mặt ở các đường bờ biển và bờ hồ, hình thành qua quá trình bồi tụ cát và cuội chủ yếu dưới tác động của nhân tố dòng chảy dọc bờ. Chúng vươn ra biển với dạng hình tam giác. Hình thành. Hiện người ta còn tranh cãi về cách thức hình thành nên các mũi đất nhọn. Dù vậy, cách giải thích dựa vào dòng chảy dọc bờ là cách được công nhận rộng rãi nhất nhằm lý giải cho sự hình thành này. Ở nơi mà dòng chảy dọc bờ diễn ra theo những hướng đối nghịch nhau thì hai mũi nhô sẽ hợp làm một mũi đất nhọn hình tam giác. Sự hình thành này phụ thuộc vào hướng gió thịnh hành thổi theo các hướng nghịch nhau. Mũi đất nhọn cũng hình thành khi sóng biển bị khúc xạ xung quanh một đê cát chắn. Mũi đất nhọn có thể hình thành cả ở bờ biển và bờ hồ. Những mũi đất hình thành dọc đường bờ biển có thể xuất hiện tại (1) mặt khuất gió của một hòn đảo ngoài khơi hoặc (2) tại đường bờ nơi mà không có hòn đảo nào gần đó hoặc (3) tại cửa sông nơi diễn ra quá trình bồi tụ. Hình thành tại các eo biển hẹp hoặc đường bờ mở. Một mũi đất nhọn có thể hình thành tại một eo biển hoặc dọc theo một đường bờ mà gần đó không có đảo hay bãi cát nào. Trong trường hợp này, dòng chảy dọc bờ cũng như hướng gió và sóng biển chi phối sẽ mang trầm tích đến theo các hướng khác nhau. Nếu góc hợp thành giữa sóng và đường bờ đủ lớn thì trầm tích sẽ hội lại một chỗ và tạo nên gờ bãi biển. Qua thời gian, mũi đất nhọn thành hình do kết quả của tiến trình bồi tụ và lấn biển. Một ví dụ về hiện tượng này là mũi đất nhọn tại Dungeness thuộc bờ biển miền nam nước Anh. Mũi đất nhọn này hình thành do sự hợp nhất của các cơn sóng đến từ hướng tây nam của eo biển Manche và các cơn sóng đến từ hướng đông của eo biển Calais. Trong các trường hợp khác, các mũi nhô hình thành khi dòng chảy dọc bờ mang vật chất đi dọc bãi biển cho đến khi gặp một địa điểm mà tại đó đường bờ biển đổi hướng đột ngột khiến vật chất bồi tụ thành mũi cát nhô ra biển. Trong tình huống này, gió thịnh hành và gió thứ cấp (đủ mạnh) theo hướng ngược nhau sẽ mang đá cuội đi dọc đường bờ để đến nơi mà tại đó đường bờ đổi hướng và tạo nên một mũi đất nhọn. Đa số các mũi đất nhọn hình thành tại đường bờ thì vươn ra biển theo một góc đủ để cho phép các dòng chảy dọc bờ mang trầm tích đến bồi tụ cho mũi đất theo cả hai hướng ngược chiều nhau. Hình thành ở nơi khuất gió của một hòn đảo. Mũi đất nhọn có thể hình thành tại một vị trí khuất gió đằng sau một hòn đảo. Trong trường hợp này, những con sóng đến bị khúc xạ xung quanh đảo, và khi đó đảo đóng vai trò bảo vệ đường bờ khỏi những diện sóng. Trầm tích được vận chuyển dọc theo đường bờ thông qua các dòng chảy dọc bờ để rồi lắng đọng tại mặt khuất gió của hòn đảo - nơi có năng lượng sóng yếu hơn. Một ví dụ về loại mũi đất nhọn này là mũi đất tại bờ biển phía tây đảo Bắc (New Zealand), ở mặt khuất gió của đảo Kapiti. Sóng bị khúc xạ xung quanh đảo, từ đó tạo nên một vùng có năng lượng sóng thấp, cho phép trầm tích từ sông Waikanae tích tụ. Tuy nhiên, người ta còn chưa chắc chắn rằng liệu có phải mũi đất nhọn này hình thành từ trầm tích do các dòng chảy dọc bờ đến từ phía bắc mang lại hay hình thành từ vòng tuần hoàn trầm tích phức tạp từ thềm lục địa ra đại dương rồi lại từ đại dương quay ngược lại bờ biển. Hình thành ở bờ hồ. Ngoài việc hình thành tại các bờ biển thì mũi đất nhọn còn có thể xuất hiện dọc theo các bờ hồ. Một số ví dụ về loại mũi đất nhọn này là mũi Pelee ở đường bờ của hồ Erie (Bắc Mỹ) và các mũi đất nhọn dọc bờ hồ Victoria ở Úc. Có hai giả thuyết về sự hình thành của mũi Pelee. Giả thuyết đầu tiên cho rằng mũi Pelee hình thành từ quá trình lắng đọng trầm tích. Giả thuyết thứ hai cho rằng mũi Pelee là phần còn lại của một đối tượng địa lý đã bị xói mòn theo thời gian. Người ta quan sát thấy có vẻ như mũi Pelee đang dời dần về phía tây do diễn ra quá trình bồi tụ ở mạn tây trong khi xói mòn lại diễn ra ở mạn đông của mũi. Hồ Victoria (thuộc hệ thống hồ Gippsland) ở Úc cũng có nhiều mũi đất nhọn. Mũi Scott là một mũi đất nhọn thuộc hồ này, hình thành do quá trình tích tụ cát và sỏi theo thời gian. Đặc trưng. Có thể chia mũi đất nhọn ra làm ba khu vực riêng biệt, đó là khu vực mũi trung tâm (chóp) và hai cánh ở hai bên rìa. Chóp của mũi đất nhọn thường có các gờ chạy song song với đường bờ hội tụ. Mũi đất nhọn có thể mở rộng 5 kilômét từ đường bờ, và dải cát ngầm còn có thể kéo dài đến 15 km tính từ chóp mũi đất. Giữa nội địa và mũi đất nhọn thường là đầm phá hoặc đầm lầy. Dọc theo đường bờ tiểu bang Bắc Carolina của Mỹ, có một chuỗi các mũi đất nhọn hình thành cách nhau 100 km. Tại những khu vực có lượng đá cuội lớn, ví dụ tại mũi đất ở Dungeness (Anh), còn có cả gương nước ngọt. Chuyển dịch. Một khi đã hình thành thì mũi đất nhọn có thể ở yên vị trí và tiếp tục phát triển nhờ bồi tụ trầm tích, hoặc chúng có thể chuyển dịch dọc bờ biển do có một bên bị xói mòn và một bên được bồi tụ. Thường thì loại mũi đất nhọn có dịch chuyển là các mũi đất hình thành ở những đường bờ mở. Hướng dịch chuyển thường được biểu thị qua một chuỗi các gờ bãi biển liên tiếp nhau hình thành ở hướng bồi tụ (nơi có năng lượng sóng yếu hơn). Người ta thường giải thích rằng nhân tố chính thúc đẩy sự dịch chuyển này là các dòng chảy dọc bờ. Tuy nhiên, con người cũng quan sát thấy một số mũi đất mà tại đó hai mũi đất nhọn nằm tại cùng một đường bờ đã dịch chuyển theo hướng ngược nhau; điều này cho thấy dòng chảy dọc bờ không hẳn luôn luôn là cách giải thích trọn vẹn cho sự dời chuyển của mũi đất nhọn. Nếu có một bãi cát ngoài khơi thì vị trí của mũi đất nhọn thường phụ thuộc vào vị trí của bãi cát đó. Nếu có sự thay đổi nào trong vị trí của bãi cát thì vị trí của mũi đất nhọn thường sẽ thay đổi theo. Bãi cát ở đây không những đóng vai trò như một hòn đảo - gây khúc xạ sóng biển quanh nó - mà còn là nguồn cung trầm tích cho mũi đất nhọn. Cát bị xói mòn khỏi bãi cát sẽ bị đẩy về phía đường bờ biển và đóng góp cho sự hình thành của mũi đất nhọn. Điều này thường diễn ra theo hướng ngược với hướng của dòng chảy dọc bờ. Trong trường hợp mũi đất nhọn hình thành gần một hòn đảo thì có khả năng nó sẽ mở rộng về phía đảo và nối liền với đảo để trở thành một doi cát nối đảo. Tùy thuộc vào các điều kiện vật lý như bão mà mũi đất nhọn có thể trở thành doi cát nối đảo hay không. Một ví dụ về hiện tượng này là tại đảo Gabo ở tiểu bang Nam Úc. Sự phát triển của sinh vật. Sau khi thành hình, mũi đất nhọn bắt đầu bị chiếm cứ bởi các loài sinh vật tiên phong có thể sống sót trong điều kiện khắc nghiệt tại đây. Những loài này giúp bảo vệ mũi đất nhọn và cho phép lượng trầm tích lớn hơn tiếp tục bồi tụ vào mũi đất. Quá trình xâm chiếm và diễn thế sinh thái của thực vật phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Đầu tiên, nếu các hạt tạo nên mũi đất nhọn quá thô thì lượng trầm tích mịn giữa các khoảng trống của các hạt thô bị giảm đi, khiến khả năng nảy mầm của hạt cây chỉ ở mức thấp. Hạt cây cũng khó nảy mầm được nếu không có đủ lượng nước ngọt. Những mũi đất nhọn ổn định hình thành từ đá cuội thường có thảm thực vật ở phía trên ngấn nước triều cao. Khi thảm thực vật đã thành hình, những động vật nhỏ như bét và bọ đuôi bật bắt đầu phân hủy bộ phận của cây, như rễ, và chất thải của chúng là vật chất hữu cơ cung cấp cho mũi đất nhọn. Cây cũng giúp giữ đất và giữ nước, từ đó giúp tạo môi trường cho nhiều cây khác cùng phát triển. Các mũi đất hình thành từ đá cuội cũng là bãi làm tổ, sinh sản và nghỉ ngơi cho chim trong mùa di trú. Quản lý. Có nhiều vấn đề quản lý liên quan đến mũi đất nhọn, tuỳ theo nguồn gốc hình thành của chúng. Nếu các mũi đất hình thành từ quá trình lắng đọng thì những hoạt động của con người - làm thay đổi sự vận chuyển trầm tích từ đường bờ biển - có thể ảnh hưởng đến chúng. Tuy vậy, nếu mũi đất nhọn là phần còn lại của một đối tượng địa lý trong quá khứ đã bị xói mòn thì sự can thiệp của con người vào sự vận động của trầm tích dọc bờ có thể không gây tác động đáng kể lên mũi đất. Để mũi đất có thể tồn tại được thì lượng trầm tích bồi thêm phải lớn hơn lượng bị mất đi. Những hoạt động như xây dựng ven biển phải được quy định để trầm tích có thể tiếp tục vận động về hướng mũi đất. Ngay cả việc xây dựng trên mũi đất nhọn cũng tiềm ẩn nguy cơ như xói mòn, bão và nước biển dâng. Tại mũi Pelee, có khoảng 1.900 hecta đất nông nghiệp cũ trên mũi đất nhọn nay đã ngập chìm dưới nước do tác động xâm thực của gió và sự suy giảm đất hữu cơ trên mũi đất. Mũi đất nhọn này đặc biệt dễ bị tổn thương trước sự xói mòn khi mực nước hồ dâng lên kết hợp với gió xoáy trong các mùa xuân và thu. Nếu có tầng ngậm nước ở bên dưới mũi đất nhọn thì cần phải đặt ra quy định về khai thác nước. Ở Dungeness (Anh), người ta đề ra các hạn chế về khai thác nước để duy trì mức nước ngầm. Hoạt động quản lý đường bờ cần quan tâm đến các quá trình tự nhiên diễn ra trên mũi đất nhọn do mũi đất là môi trường sống cho chim. Các phương cách quản lý xói mòn ven biển cũng cần tính đến sử dụng các biện pháp "mềm" để bảo vệ bờ biển thay vì những cách thức "cứng" như xây đê chắn sóng.
1
null
Inezia caudata (tên tiếng Anh: "Pale-tipped Tyrannulet") là một loài chim trong họ Tyrannidae. Nó được tìm thấy ở Brasil, Colombia, Guyane thuộc Pháp, Guyana, Suriname, và Venezuela. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng ẩm đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng sú vẹt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề.
1
null
Tachuris rubrigastra là một loài chim theo truyền thống xếp trong họ Tyrannidae. Tên gọi thông thường trong tiếng Anh của nó là many-colored rush tyrant, nghĩa đen là "chim bạo chúa cói dùi nhiều màu". Môi trường sống của chúng là các vùng đất đầm lầy và các bụi lau sậy, cói, bấc xung quanh các sông, hồ. Loài này đặc biệt gắn liền với các bụi cói dùi chi "Scirpus". Tổ của chúng được làm giữa các thân cây cói dùi. Hệ thống học và phân loại học. Nghiên cứu DNA năm 2013 về các loài chim cận biết hót ở Nam Mỹ phát hiện ra rằng "Tachuris rubrigastra" thuộc về một nhánh cô lập, đã tách ra khỏi các loài chim cận biết hót khác khoảng 25 triệu năm trước. Các tác giả gợi ý rằng tốt nhất nên đặt nó trong họ đơn loài là Tachurididae. Sau đó người ta đã đề xuất tên gọi cho họ này nên là Tachurisidae. Vị trí trong họ tách biệt được Edward Dickinson và Leslie Christidis tuân theo trong lần xuất bản thứ tư sách "Howard and Moore Complete Checklist of the Birds of the World", nhưng các tác giả khác vẫn chưa chấp thuận. Bốn phân loài được công nhận, bao gồm: Mô tả. "T. rubrigastra" là loài chim nhỏ, dài . Như tên gọi thông thường của nó gợi ý, bộ lông của nó rất nhiều màu sặc sỡ. Lưng và phao câu có màu xanh lục trong khi phần bụng màu vàng và phần cổ màu trắng, với một dải lông ngực màu đen, các lông mặt dưới đuôi màu đỏ. Mặt có màu lam sẫm-xám, với dải lông màu vàng trên mắt, chỏm đầu sẫm màu với một vệt màu đỏ thường được che giấu. Cánh và đuôi sẫm màu với lông che phủ lông bay thứ cấp cũng như các lông đuôi bên ngoài có màu trắng. Chim mái xỉn màu hơn chim trống.
1
null
Lophotriccus pileatus là một loài chim trong họ Tyrannidae. Nó được tìm thấy ở Colombia, Costa Rica, Ecuador, Panama, Peru, Venezuela và có thể cả Honduras. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trên núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó có những lông vũ nhỏ như vương miện trên đỉnh đầu. Những chiếc lông này dựng lên để thu hút bạn tình hoặc để trông to lớn hơn khi gặp nguy hiểm.
1
null
Đớp ruồi hoàng gia Amazonia ("Onychorhynchus coronatus") là một loài chim trong họ Tyrannidae. Đớp ruồi hoàng gia Amazonia (Onychorhynchus coronatus) là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài này được tìm thấy trong rừng và rừng trên hầu hết lưu vực Amazon ở phía bắc Bolivia, phía đông Peru, phía đông Ecuador, phía đông Colombia, Venezuela, Guianas và phía bắc và phía tây Brazil. Những con ruồi hoàng gia của Amazon có chiều dài 15–17,5 cm (5,9–6,9 in) và thích phóng ra khỏi cành để bắt côn trùng bay hoặc bắt chúng từ lá. Chúng xây tổ rất lớn (đôi khi dài tới 2 m (6 ft 7 in) dài) trên cành gần nước. Tổ bị treo trên mặt nước khiến cho kẻ săn mồi gặp khó khăn. Có hai phân loài:
1
null
Hirundinea ferruginea là một loài chim trong họ Tyrannidae. Đây là loài bản địa Nam Mỹ, nơi sinh sống tự nhiên của chúng là những vách đá và lởm chởm trong vùng lân cận của rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng ẩm thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. Mô tả. Cá thể trưởng thành dài khoảng 18,5 cm. Mỏ rộng và đôi cánh dài nhọn, giống như của một con én. Phần trên có màu nâu sẫm, với phần đuôi và phần đuôi đặc biệt. Các đầu của lông cánh sẫm màu, nhưng các phần còn lại là nâu đỏ quế và chúng được phơi ra trong chuyến bay. Phần dưới là quế nhợt nhạt, có một vài đốm màu xám trên cổ họng.
1
null
Empidonax difficilis là một loài chim trong họ Tyrannidae. Đây là loài bản địa các vùng ven biển phía tây Bắc Mỹ, bao gồm Thái Bình Dương và nam Vịnh California, xa về phía bắc như British Columbia và nam Alaska, nhưng được thay thế ở các vùng nội địa bằng loài đớp ruồi Cordiller. Hai loài này được xếp vào một loài duy nhất, thường được gọi là loài đớp ruồi phương Tây, bởi Hiệp hội các nhà điều khiển học Hoa Kỳ cho đến năm 1989. Vào mùa đông, cả hai loài di cư về phía nam đến Mexico, nơi chúng hầu như không thể phân biệt được với nhau.
1
null
Empidonax occidentalis là một loài chim trong họ Tyrannidae. Môi trường sinh sản ưa thích của loài chim đớp ruồi này là rừng thông sồi hoặc rừng lá kim, thường gần nước chảy. Chúng làm tổ to bằng cái cốc trên chạc cây, thường thấp trên cành ngang. Chim mái thường đẻ từ hai đến năm trứng. Những con chim này di cư đến Mexico vào mùa đông, nơi quần thể ở nam trung bộ Mexico là loài thường trú. Quần thể không thường trú ở bờ biển phía tây từ Jalisco trở lên phía bắc, và sau đó đến các vùng nội địa, trong dải hành lang ở sườn phía tây của Sierra Madre Occidental.
1
null
Sayornis saya là một loài chim trong họ Tyrannidae. Chúng là một loài chim phổ biến ở miền tây Hoa Kỳ. Loài này ưa thích các khu vực khô, hoang vắng. Loài chim này được đặt tên theo tên nhà tự nhiên học người Mỹ Thomas Say. Phân loại. Loài chim này được nhà tự nhiên học người Pháp Charles Lucien Bonaparte mô tả chính thức vào năm 1825 từ một mẫu vật được thu thập gần Pueblo, Colorado. Ông đã đặt cho chúng danh pháp hai phần là "Muscicapa saya", tên cụ thể của loài được chọn để vinh danh nhà tự nhiên học Thomas Say. Loài này hiện đang được xếp vào chi "Sayornis" do Bonaparte đề xuất vào năm 1854. Chúng có hai phân loài được công nhận:
1
null
Pyrocephalus rubinus là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài này được tìm thấy ở phía đông nam Bolivia và Brazil, Paraguay đến Argentina và Uruguay. Nó được công nhận là một loài bởi một số cơ quan phân loại, bao gồm cả Hội liên hiệp các nhà nghiên cứu về chim. Phân loại. Loài này được mô tả bởi polymath Georges-Louis Leclerc, Comte de Buffon vào năm 1779 trong cuốn "Histoire Naturelle des Oiseaux" của ông. Loài chim này cũng được minh họa trong một tấm màu được khắc bởi François-Nicolas Martinet trong "Planches Enluminées D'Histoire Naturelle", được sản xuất dưới sự giám sát của Edme-Louis Daubenton để đi kèm với văn bản của Buffon.
1
null
Lessonia oreas là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài chim này tìm thấy ở Andes ở Nam Mỹ. Loài này có liên quan chặt chẽ với, và từ lâu đã được coi là cùng một loài với, negrito Austral của miền nam Nam Mỹ. Đây là loài đơn loài, không có phân loài.
1
null
Knipolegus cyanirostris là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài chim này được tìm thấy ở Argentina, Bolivia, Brazil, Paraguay, và Uruguay. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ôn đới, rừng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, cận nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới trên cao vùng cây bụi và rừng trước đây suy thoái nghiêm trọng.
1
null
Knipolegus lophotes là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài chim này được tìm thấy ở miền trung và đông nam Brasil, Paraguay, và miền đông Uruguay. Môi trường sống tự nhiên của chúng là xavan khô và đồng cỏ. Cao độ sinh sống tối đa 1.250 m. Tên gọi thông thường trong tiếng Anh của nó là "crested black tyrant", nghĩa đen là bạo chúa chỏm đầu đen.
1
null
Muscisaxicola capistratus là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài chim này được tìm thấy ở miền tây Argentina, phía đông Andean Chile, tây nam Bolivia, và miền nam Peru. Môi trường sống tự nhiên của loài chim này là đồng cỏ ôn đới. Loài này sinh sản ở miền nam Argentina và Chile, miền bắc Tierra del Fuego, và di chuyển về phía bắc vào mùa đông ở Úc.
1
null
Xolmis cinereus là một loài chim trong họ Tyrannidae. Nó được tìm thấy ở Argentina, Bolivia, Brazil, Paraguay, Peru, Suriname và Uruguay. Môi trường sống tự nhiên của nó là xavan khô, vùng cận nhiệt đới hoặc nhiệt đới ẩm ướt theo mùa, đồng cỏ ngập nước, và đồng cỏ chăn thả gia súc.
1
null
Tumbezia salvini là một loài chim trong họ Tyrannidae. Đây là loài duy nhất trong chi Tumbezia. Đây là loài đặc hữu của Peru, nơi sinh sống tự nhiên của nó là rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng ẩm thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, và vùng cây bụi khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài chim này bị đe dọa bởi mất môi trường sống.
1
null
Myiarchus swainsoni là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài này có ở Argentina, Bolivia, Brazil, Colombia, Ecuador, Guiana thuộc Pháp, Guyana, Paraguay, Peru, Suriname, Trinidad và Tobago, Uruguay và Venezuela. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới.
1
null
Oxyruncus cristatus (tên tiếng Anh: sharpbill, nghĩa là chim mỏ nhọn) là một loài chim trong họ Oxyruncidae. Chim mỏ nhọn đã từ lâu được co là loài kỳ dị, với các mối quan hệ rất không chắc chắn. Các đặc điểm hình thái dễ dàng cho thấy nó thuộc về một nơi nào đó trong Tyrannida, nhưng không thể gán chính xác nó vào đâu trong nhóm này. Kết quả là người ta thường xếp nó trong họ của chính nó là Oxyruncidae. Trên thực tế, tên gọi cho họ này đã phát sinh từ năm 1831 (với thay đổi một chút về cách viết), làm cho nó trở thành lâu đời hơn cả tên gọi Tityridae (họ mà nó nhiều khi cũng bị gán vào). Chứng cứ di truyền cho thấy nó có quan hệ họ hàng gần hơn cả với các loài trong họ Tityridae hoặc là thuộc về họ này khi so với các nhánh chính khác. Tuy nhiên, quan hệ họ hàng này không phải là quá gần. Ohlson "et al." (2013) ước tính thời gian rẽ ra của nó khỏi Tityridae là khoảng 28 triệu năm trước, đủ xa để có thể coi là họ riêng biệt. Nó dường như là có quan hệ họ hàng hơi gần hơn với Onychorhynchidae, nhưng cũng không nhiều (tách ra ~27 triệu năm trước). Vì thế, tốt nhất nên xếp nó trong họ riêng của chính nó. Đặc điểm. Là loài chim nhỏ có trong khu vực miền núi ở khu vực nhiệtđới Nam Mỹ và miền nam Trung Mỹ (Panama và Costa Rica). Nó sinh sống trên các tán lá của các khu rừng ẩm ướt với thức ăn là quả và đôi khi là động vật không xương sống. Nó có một cái mào màu da cam dựng đứng, phần bụng màu ánh vàng với các ốm đen và tróc vay trên đầu và cổ. Như tên gọi thông thường gợi ý, nó có mỏ nhọn và thẳng. Chim mỏ nhọn nói chung được tìm thấy trong các khu rừng cây cao và rậm rạp nhưng đôi khi cũng thấy ở bìa rừng. Thức săn chủ yếu là hoa quả nhưng chúng cũng tìm kiếm và ăn sâu bọ, treo ngược mình trên các cành cây để bắt sâu. Chúng cũng di chuyển trog các đàn kiếm ăn hỗn hợp loài với các loài chim trong các họ Furnariidae, Thraupidae, Picidae (gõ kiến) và Cotingidae. Tổ của chim mỏ nhọn do chim mái xây thành hình chiếc chén nhỏ trên các cành cây nhỏ. Chim non được nuôi bằng cách mớm mồi từ thức ăn do chim bố mẹ tiết ra.
1
null
Pipreola riefferii là một loài chim trong họ Cotingidae. Loài chim này được tìm thấy ở Colombia, Ecuador, Peru, và Venezuela, nơi môi trường sống của chúng rừng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Do phạm vi phân bố và số lượng, loài này này không được phân loại là loài dễ bị tổn thương.
1
null
Pipreola aureopectus là một loài chim trong họ Cotingidae. Loài chim này được tìm thấy ở Colombia, và Venezuela, nơi mà môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Xem xét phạm vi và quy mô dân số, loài này không được coi là loài dễ bị tổn thương.
1
null
Pipreola lubomirskii là một loài chim trong họ Cotingidae. Những con chim loài này được tìm thấy ở Colombia, Ecuador, và Peru, chủ yếu ở phía đông của dãy núi Andes. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng núi ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới và IUCN liệt kê tình trạng của loài này là "loài ít quan tâm".
1
null
Pipreola frontalis là một loài chim trong họ Cotingidae. Loài chim này được tìm thấy ở Bolivia, Ecuador và Peru. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Được mô tả lần đầu tiên bởi nhà nghiên cứu chim của Anh Philip Sclater năm 1858, loài chim này là một trong mười một loài trong chi Pipreola. Mẫu tiêu biểu của loài này được lưu giữ tại Học viện Khoa học tự nhiên thuộc Đại học Drexel ở Philadelphia. Loài này có quan hệ gần gũi với chim ăn trái cây họng lửa, nhưng được tìm thấy ở độ cao cao hơn. Loài nàycó hai phân loài, trong đó một số nhà phân loại học cho là đại diện cho hai loài riêng biệt.
1
null
Pipreola chlorolepidota là một loài chim trong họ Cotingidae. Loài này được tìm thấy ở Colombia, Ecuador, Peru và nơi môi trường sống tự nhiên của loài chim này là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này đang trở nên hiếm do mất môi trường sống của rừng nhiệt đới của nó. Quy mô số lượng và phạm vi được hạn chế gây ra loài này được coi là gần bị đe dọa.
1
null
Pipreola formosa là một loài chim trong họ Cotingidae. Đây là loài đặc hữu của Venezuela. Hai quần thể của loài này sinh sống ở các khu vực miền núi phía Bắc, cách nhau 400 km (250 mi). Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới.
1
null
Pipreola whitelyi là một loài chim trong họ Cotingidae. Phạm vi được biết đến của loài này giới hạn trong các khu rừng vùng cao ẩm của tepuis ở phía đông nam của Venezuela và phía tây Guyana. Trong khi khả năng hiện nay, loài này vẫn chưa được xác nhận trong các khu vực lân cận của miền bắc Brazil. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế đã đánh giá tình trạng bảo tồn của loài này là "loài ít quan tâm". Duy nhất trong số các loài thuộc chi pipreola, mảng lông phần dưới của chim trống loài này chủ yếu là màu xám. Chim trống cũng có một ức và vòng cổ màu đỏ nổi bật.
1
null
Rupicola rupicola là một loài chim trong họ Cotingidae. Nó dài khoảng và nặng khoảng . Chúng được tìm thấy ở rừng mưa nhiệt đới. Bộ lông của con trống có màu cam sáng và có một cái mào hình bán nguyệt nổi bật. Con mái màu hơi nâu, và nói chung màu tối hơn con trống. Nó một trong hai loài của chi "Rupicola", loài còn lại là "Rupicola peruvianus". "Rupicola rupicola" sống dọc vùng rừng ở đông bắc Nam Mỹ. Chế độ ăn của nó chủ yếu gồm trái cây, nhưng đôi khi cũng có rắn nhỏ và thằn lằn.
1
null
Perissocephalus tricolor là một loài chim trong họ Cotingidae. Nó được tìm thấy trong các khu rừng ẩm ướt (lên đến 1.400 m nhưng chủ yếu là dưới 600 m) ở đông bắc Nam Mỹ, gần như hoàn toàn về phía bắc của sông Amazon và phía đông của Rio Negro (Colombia, Venezuela, Brazil và Guianas). Chim trưởng thành nặng từ 340–420 gram và thường dài khoảng 40 cm. Bộ lông tổng thể có màu nâu đậm, chuyển dần sang màu cam ở bụng và dưới đuôi, đuôi ngắn có màu đen. Đặc điểm nổi bật nhất là chiếc đầu trần như kền kền được bao phủ bởi lớp da xanh xỉn. Chim non giống chim trưởng thành, ngoại trừ một số lông tơ trên đầu. Tiếng hót của nó rất kỳ quặc và khó mô tả chính xác, mặc dù một số người đã so sánh nó với âm thanh xa của cưa máy hoặc tiếng bò kêu. Thức ăn chủ yếu của chúng là trái cây và côn trùng.
1
null
Lipaugus vociferans là một loài chim trong họ Cotingidae. Loài chim này được tìm thấy trong các khu rừng ẩm ướt ở Amazon và các vùng nhiệt đới của Mata Atlântica ở Nam Mỹ. Chúng thích nghi tốt với các khu vực định cư của con người như vườn và công viên. Chúng được coi là mối quan tâm ít nhất của BirdLife International. Cả hai giới đều có bộ lông màu xám xỉn (cánh và đuôi thường hơi nâu hơn) và giọng nói cực kỳ to, đạt tới 116 dB. Con trống thường tụ tập trong những nơi tán tỉnh con mái, nơi chúng hót để thu hút chim mái.
1
null
Procnias albus là một loài chim trong họ Cotingidae. Loài chim này được tìm thấy trong các khu rừng ở Guianas, với số lượng nhỏ ở Venezuela và Brazil bang Pará. Chỉ có chim trống màu trắng; con mái có tổng thể ô liu với các vệt màu vàng bên dưới và giống với chim chuông. Theo một nghiên cứu được công bố vào năm 2019, chim chuông trắng thực hiện cuộc gọi lớn nhất từng được ghi nhận ở chim, đạt được 125 dB. Kỷ lục trước đây được giữ bởi lipaugus vociferans.
1
null
Carpodectes hopkei là một loài chim trong họ Cotingidae. Loài này được tìm thấy ở Colombia, Ecuador, và Panama, nơi môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chim trống có màu trắng, dễ nhìn thấy, nhưng nói chung nó là một loài hiếm.
1
null
Carpodectes antoniae là một loài chim trong họ Cotingidae. Loài này được tìm thấy ở gần bờ biển ở Costa Rica và một phần cực tây của Panama. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới ẩm vùng đất thấp, rừng ngập mặn nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng cây bụi và ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chúng bị đe dọa do mất môi trường sống.
1
null
Carpodectes nitidus là một loài chim trong họ Cotingidae. Loài này được tìm thấy ở Trung Mỹ, nơi môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trước đây suy thoái nghiêm trọng. Chim trống có màu trắng còn chim mái có màu xám nhạt.
1
null
Conioptilon mcilhennyi là một loài chim trong họ Cotingidae. Nó chủ yếu được tìm thấy ở lưu vực sông Amazon phía đông Peru cũng như các khu vực biên giới liền kề ở phía tây Brazil và tây bắc Bolivia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới.
1
null
Calyptura cristata là một loài chim theo truyền thống xếp trong họ Cotingidae, nhưng hiện nay được coi là thành viên của họ Tyrannidae. Nghiên cứu năm 2012 của Ohlson "et al." cho thấy nó có quan hệ chị em với "Platyrinchus" và "Neopipo", và nhóm tác giả đề xuất họ Platyrinchidae để bao gồm 3 chi này. Một số tác giả sau này công nhận họ Platyrinchidae. Loài chim này sinh sống tại đông nam Brasil, trong một khu vực rất hạn chế ở phía bắc thành phố Rio de Janeiro. Phân loại. "Calyptura cristata" ban đầu được Louis Jean Pierre Vieillot mô tả năm 1818 dưới danh pháp "Pardalotus cristatus" trong sách "Nouveau Dictionnaire d'Histoire Naturelle" trên cơ sở mẫu vật thu được gần Rio de Janeiro. Sau đó nó được chuyển sang chi đơn loài "Calyptura". Tên gọi "Calyptura" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại "καλύπτω" nghĩa là "che phủ", và "ούρά" nghĩa là "đuôi", một chỉ dẫn về cái đuôi của nó rất ngắn, khó có thể vượt ra ngoài các lông che phủ gốc đuôi của nó. Tính từ định danh "cristata" có nguồn gốc từ tiếng Latinh "cristatus" nghĩa là "mào, chỏm đầu". Các tên gọi thông thường trong tiếng Anh của nó là "kinglet calyptura", "kinglet cotinga". Sinh thái học và tập tính. "Calyptura cristata" thường được tìm thấy thành đôi. Loài này tìm kiếm thức ăn bằng cách leo trèo theo mọi hướng dây các dây leo thân gỗ để tìm sâu bọ và các quả mọng nhỏ, tùy theo mùa. Nó ưa thích ăn quả của "marianeira" (tên gọi tại Brasil để chỉ hai loài cây bụi khác nhau trong họ Solanaceae là "Acnistus cauliflorus" và "Aureliana lucida". Người ta cũng ghi nhận chúng lục lọi các nơ lá các loài dứa (Bromeliaceae để uống các giọt sương đọng lại ở đó.
1
null
Manacus candei là một loài chim trong họ Pipridae. Loài chim này thường trú sinh sả tại các vùng nhiệt đới New World từ đông nam Mexico đến Costa Rica và cực tây của Panama. Loài này hiện diện ở những vùng đất thấp và chân dốc Caribbea lên đến 700 m, được thay thế trên các sườn núi Thái Bình Dương của Costa Rica và Panama bởi loài "Manacus aurantiacus]]" liên quan chặt chẽ và "Manacus vitellinus".
1
null
Chiroxiphia lanceolata là một loài chim trong họ Pipridae. Loài chim này sinh sản ở vùng nhiệt đới Trung và Nam Mỹ từ Costa Rica đến bắc Venezuela. Loài này khá phổ biến của rừng rụng lá khô và ẩm, nhưng không phải rừng nhiệt đới. Chim mái xây tổ chén trên cây; mỗi tổ có hai quả trứng kem nâu đốm, và chỉ mỗi chim mẹ ấp trứng trong khoảng 20 ngày thì nở.
1
null
Chiroxiphia linearis là một loài chim trong họ Pipridae. Loài chim này được tìm thấy ở Costa Rica, El Salvador, Guatemala, Honduras, Mexico, và Nicaragua. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới khô, rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, và rừng trước đây suy thoái nghiêm trọng.
1
null
Chiroxiphia pareola là một loài chim trong họ Pipridae. Loài chim này sinh sản Chim này ở vùng nhiệt đới Nam Mỹ. Chúng được tìm thấy ở miền nam Colombia, phía đông Venezuela, các Guyanas, đông bắc Brazil, các lưu vực sông Amazon ở Brazil, Bolivia, Colombia, Ecuador và Peru; và Tobago. Một số quần thể không liên tục tồn tại trên dải bờ biển phía đông nam Brazil, dài khoảng 3000 km. Chúng không có ơ phía tây bắc lưu vực Amazon, một khu vực từ trung ương Venezuela đến biên giới phía nam của Colombia. Chúng hiện diện khá phổ biến của rừng rụng lá khô và ẩm, nhưng không phải rừng nhiệt đới. Chim mái xây tổ trên cành cây; mỗ tổ đẻ hai quả trứng màu trắng nâu đốm, chỉ chim mẹ ấp trứng khoảng 20 ngày thì trứng nở.
1
null
Chiroxiphia caudata là một loài chim trong họ Pipridae. Chúng được tìm thấy ở đông bắc Argentina, miền nam và tây nam Brasil, và Paraguay. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, cận nhiệt đới hoặc rừng núi ẩm nhiệt đới, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề.
1
null
Pipra pipra là một loài chim trong họ Pipridae. Đây là một loài khá phổ biến và là một trong những loài dễ nhận biết nhất, ngay cả với bộ lông của chim mái. Chúng phân bố từ Costa Rica đến đông bắc Peru và đông Brazil. Theo truyền thống, nó được xếp vào chi Pipra, nhưng hiện nay được xếp vào chi đơn loài Pseudopipra của riêng nó. Nó là một loài chim nhỏ, dài khoảng 10 cm (3,9 in). Chim trống có bộ lông đen với vương miện trắng có thể dựng lên như mào, là thành viên duy nhất của họ Pipridae sở hữu cả thân đen tuyền và vương miện trắng lấp lánh. Chim mái và chim non có màu xanh ô liu, đầu và cổ họng màu xám, phần dưới màu xanh xám hoặc ô liu.
1
null
Pipra filicauda là một loài chim trong họ Pipridae. Nó được tìm thấy ở thượng nguồn phía tây lưu vực sông Amazon và các quốc gia lân cận phía bắc Peru, đông Ecuador và Colombia, và các phần phía nam và phía tây của Venezuela. Ở Venezuela, nó xuất hiện ở thượng nguồn lưu vực sông Orinoco, nhưng không phải 1300 km cuối cùng; phạm vi của nó ở Venezuela tiếp tục xung quanh dãy núi Andes đến bờ biển phía tây bắc. Ở tây bắc Brazil, loài này trải dài từ Roraima và Amazonas về phía tây đến Venezuela và Colombia, và phía tây nam từ Rondônia và Acre đến Peru và Ecuador.
1
null
Pipra mentalis là một loài chim trong họ Pipridae. Loài chim này được tìm thấy ở Belize, Colombia, Costa Rica, Ecuador, Guatemala, Honduras, Mexico, Nicaragua, Peru và Panama. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài chim này dài 4 10 cm và cân nặng 16 g. Chim trống có bộ lông nhung đen trừ đầu và gáy màu đỏ tươi, đùi màu vàng nhẹ, cằm và rìa cánh màu vàng.
1
null
Piprites chloris là một loài chim theo truyền thống xếp trong họ Pipridae. Tên gọi thông thường trong tiếng Anh của nó là "wing-barred piprites", nghĩa đen là đớp ruồi đẹp cánh vằn. Trong phân loại gần đây cả SAAC và IOC xếp nó trong họ Tyrannidae, trong khi Ohlson đề xuất xếp nó trong họ riêng biệt là Pipritidae.
1
null
Piprites griseiceps là một loài chim theo truyền thống xếp trong họ Pipridae. Tên gọi thông thường trong tiếng Anh của nó là "grey-headed piprites", nghĩa đen là đớp ruồi đẹp đầu xám. Trong phân loại gần đây IOC xếp nó trong họ Tyrannidae, trong khi Ohlson đề xuất xếp nó trong họ riêng biệt là Pipritidae. Loài này có tại Costa Rica, Panama (sinh sống) và Guatemala, Honduras, Nicaragua (sinh sản). Môi trường sống tự nhiên của nó là các rừng mưa vùng đất thấp ẩm ướt nhiệt đới và cận nhiệt đới, ở cao độ 100–750 m.
1
null
Piprites pileata là một loài chim theo truyền thống xếp trong họ Pipridae. Tên gọi thông thường trong tiếng Anh của nó là "black-capped piprites", nghĩa đen là đớp ruồi đẹp chỏm đầu đen. Trong phân loại gần đây cả SAAC và IOC xếp nó trong họ Tyrannidae, trong khi Ohlson đề xuất xếp nó trong họ riêng biệt là Pipritidae. Phân bố. Loài chim này được tìm thấy trong các khu rừng Đại Tây Dương, đặc biệt là với rừng thông Paraná ("Araucaria angustifolia"), mọc trong vùng cao nguyên ở độ cao 500-2.000 m; ở đông nam Brasil, như tại các bang Minas Gerais (trong khối núi Itatiaia và khu vực cận kề), Rio de Janeiro (gần đây chỉ tại Itatiaia, trừ ghi chép năm 1988 tại Visconde de Mauá), São Paulo (Serra da Bocaina và Campos do Jordão), Paraná (gần đây tại Fazenda Santa Rita), Santa Catarina (gần đây tại khu vực São Joaquim) và Rio Grande do Sul (Fazenda das Amoreiras và Aparados da Serra) cũng như ở đông bắc Argentina (tỉnh Misiones). Cho tới sự phát hiện lại năm 2006 tại Khu dự trữ sinh quyển Yabotí ở Argentina thì ghi chép được xác nhận duy nhất tại quốc gia này là mẫu vật thu được tại Tobuna (Misiones) năm 1959. Tại khu vực này nó là hiếm và cục bộ, và vì thế nó được BirdLife International đánh giá là loài sắp nguy cấp. Nó chỉ được biết đến trong một số khu bảo tồn, như Vườn quốc gia Itatiaia tại bang Rio de Janeiro và Vườn bang Campos do Jordão tại bang São Paulo.
1
null
Laniocera hypopyrra là một loài chim trong họ Tityridae. Loài này theo truyền thống được đặt trong họ Cotingidae, nhưng bằng chứng đã cho thấy rõ ràng rằng loài này nên đặt trong họ Tityridae, nơi mà hiện nay được đặt bởi SACC. Loài này được tìm thấy ở Bolivia, Brazil, Colombia, Ecuador, Guiana thuộc Pháp, Guyana, Peru, Suriname, và Venezuela. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chim non có bộ lông và cách di chuyển trông như loài sâu bướm độc.
1
null
Xenopsaris albinucha là một loài chim trong họ Tityridae. Loài chim này được tìm thấy ở Nam Mỹ, hầu hết các nước phía đông Andes: Venezuela, Brazil, Bolivia, Paraguay, Uruguay và Argentina. Chúng sinh sống trong rừng mở và các sinh cảnh rừng mở khác, nó hầu như là tĩnh tại, mặc dù một số quần thể có thể di cư. Loài này, có liên quan mật thiết với "Pachyramphus" và "Tityra", được coi là một đớp ruồi bạo chúa hoặc "contingidae", trước khi nó được đặt trong "Tityridae". Loài chim này có thân dài 12,5 đến 13 cm, có phần dưới màu trắng, chóp đầu màu đen và màu xám nâu phía trên. chim trống và chim mái có bộ lông giống nhau, mặc dù chim mái có phần trên mờ hơn. Loài chim này ăn côn trùng trong lá cây và cây bụi, và đôi khi trên mặt đất. Tổ hình bát được xây trong chảng ba của cây. Chim bố và chim mẹ luân phiên ấp trứng và nuôi chim con. Loài này không phổ biến và rất ít người biết về nó, nhưng nó không bị đe dọa tuyệt chủng, và đã được Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế liệt kê là loài ít quan tâm. Phân loại. Loài này được mô tả bởi nhà khoa học Hermann Burmeister năm 1869, dựa trên một mẫu vật thu được gần Buenos Aires. Burmeister ban đầu đặt nó trong chi chi,"Pachyramphus". Loài này được di chuyển đến chi đơn vị Xenopsaris của Robert Ridgway năm 1891, nhưng vẫn được biết là có liên quan chặt chẽ đến Pachyramphus. Một nghiên cứu về giải phẫu học năm 1989 đã xác định Pachyramphus là một loại phân loại của chị em đối với "Xenopsaris", nhưng loài này được giữ trong chi riêng bởi một số khác biệt hình thái và hành vi, cụ thể là kích thước nhỏ hơn, hình dáng của chân, chiều dài Lông vũ bay chính của nó, sự thiếu nam tính giới tính (sự khác biệt bộ lông giữa chim trống và chim mái) và việc xây dựng tổ. Việc xác định loài này thuộc về họ nào vẫn chưa được giải quyết trong hơn một thế kỷ. Theo Xenopsaris và các đồng minh của nó là "các loại phân loại có tính toán về vấn đề phân loại được hơn một trăm năm đã được dịch chuyển qua lại giữa cotingas (Cotingidae) Và Tyrannidae ". Khi được đặt cùng với những loài đớp ruồi bạo chúa, Tyrannidae, Tyrannidae, nó được xem là liên quan chặt chẽ đến các giống "Suiriri", "Serpophaga" và "Knipolegus ". Sự không chắc chắn không chỉ dừng lại ở loài này, vì có một sự nhầm lẫn chung về nơi để vẽ đường giữa cotingas, kẻ trộm bay chiến đấu và manakin Phương án đã được cung cấp bởi cùng một nghiên cứu năm 1989 đã xác nhận mối liên hệ giữa "Xenopsaris" và "Pachyramphus". Trong đó, "Xenopsaris" và sáu chi khác trước đây được tổ chức trong ba gia đình đã được tìm thấy thực sự thành lập một họ thứ tư, sau đó được gọi là [Tityridae]. Chi này bây giờ được đặt bởi Ủy ban phân loại Nam Mỹ của Hội Điểu học Hoa Kỳ Một nghiên cứu năm 2007 về DNA ty thể DNA đã xác nhận vị trí loài này trong Tityridae và mối quan hệ gần gũi với "Pachyramphus" cũng như chi Tityra. Ba giống này được tìm thấy có mối quan hệ xa hơn với một chi Iodopleura thứ tư, mặc dù cần phải nghiên cứu thêm để hiểu được mối quan hệ hoàn toàn giữa bốn chi này. "/> Tên chi " Xenopsaris " có nguồn gốc từ từ [x] cổ Hy Lạp, có nghĩa là "người lạ", và "Psaris", đồng nghĩa với "Tiyra", dựa trên tiếng Hy Lạp cổ đại nghĩa là chim sáo described by Georges Cuvier in 1817. Tên cụ thể "albinucha" từ tiếng Latin đề cập đến chóp đầu trắng ("albus") của nó ("nuchus"). The species is also known as the reed becard, white-naped becard and simply xenopsaris. Có hai phân loài của loài này, phân loài chỉ định và phân loài hạn chế hơn "X. a. minor" của Venezuela, được mô tả bởi Carl Eduard Hellmayr in 1920. Hành vi. Đây là loài ăn côn trùng, nhưng chưa có nghiên cứu nào được thực hiện về chế độ ăn của chim trưởng thành. Chim con được nuôi bằng các loài trong họ "Acrididae", "Mantispidae", bọ ngựa và muỗi. Chim trưởng thành Người trưởng thành thường săn một mình hoặc đôi khi theo cặp, và các cặp sinh sản thường có thể quan sát thấy việc săn bắt khá xa nhau. Chúng nhút nhát, nói chung là không ồn ào và không dễ thấy. Chúng thường săn bắt từ một chỗ đậu ở ở mép bên ngoài của tán lá cây, quan sát con mồi và sau đó tự phóng 0,5-1,5 m để chụp lấy con mồi từ lá cây. Chúng cũng tấn công từ một vị trí lơ lửng trên lá cây, và có thể đuổi theo con mồi nhào lộn trong một khoảng cách. Chúng thường bắt mồi ở gần mặt đất và đôi khi lấy con mồi từ mặt đất cũng như từ thực vật.
1
null
Sericulus chrysocephalus là một loài chim trong họ Ptilonorhynchidae. Đây là một loài chim có kích thước trung bình, dài đến 25 cm, lưỡng hình giới tính. Chim trống màu đen với một chỏm đầu, nửa sau cánh và trên cổ màu vàng cam. Nó có mỏ màu vàng, chân màu đen và mống mắt màu vàng. Chim mái màu nâu với những mảng màu trắng hoặc màu vàng nhạt, hóa đơn màu xám, chân và chỏm đầu màu đen. Chim trống xây tổ, có thể đơn giản cào trên mặt đất hoặc các cấu trúc phức tạp, để thu hút chim mái bạn tình. Chúng đặc biệt được biết đến với việc trộn "sơn nước bọt" bùn màu xám, màu xanh hoặc đậu màu xanh lá cây vào miệng mà chúng sử dụng để trang trí tổ của chúng. Chúng đôi khi sử dụng các nùi xốm lá cây màu xanh lá cây làm "bút vẽ" để giúp phết chất liệu ra, đại diện cho một trong số ít trường hợp được biết đến của các công cụ được sử dụng bởi các loài chim. Là loài đặc hữu Úc, loài chim này phân bố ở các khu rừng nhiệt đới và rìa phía đông Australia, từ trung bộ Queensland đến New South Wales. Chế độ ăn uống bao gồm chủ yếu là các loại trái cây, quả mọng và côn trùng. Có loài lai hiếm trong tự nhiên giữa loài này và loài Ptilonorhynchus violaceus được biết đến như Bowerbird Rawnsley Ptilonorhynchus violaceus x Sericulus chrysocephalus. Một loài phổ biến khắp phạm vi của nó, loài chim này được đánh giá là loài ít quan tâm trong Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa.
1
null
Ptilonorhynchus violaceus là một loài chim trong họ Ptilonorhynchidae. Chim trống trưởng thành có mắt màu xanh da trời trong và màu đen đồng nhất nhưng óng ánh xanh da trời bóng. Chim mái màu xanh lá cây/nâu hoặc phía trên màu nâu và dưới màu nhạt hơn. Phạm vi phân bố loài chim này ở rừng mưa và rừng sclerophyll cao ẩm ướt Đông Úc tù Nam Queensland đến Victoria. Cũng có các quần thể cô lập ở Tây Nhiệt Đới của Bắc Queensland.
1
null
Malurus elegans là một loài chim trong họ Maluridae. Loài chim này ít di chuyển xa và loài đặc hữu của vùng phía tây nam của Tây Úc. Chúng có tính lưỡng hình giới tính cao, chim trống có bộ lông vào mùa sinh sản màu sắc rực rỡ, với chỏm đầu, lông rìa tai và trên lưng màu xanh da trời-bạc óng ánh, vai màu đỏ, tương phản với màu đen cổ họng, đuôi và cánh màu xám nâu, dưới bụng màu nhạt. Chim trống ngoài mùa sinh sản, chim mái và chim sắp trưởng thành có bộ lông chủ yếu là màu nâu xám, mặc dù chim trống có thể có bộ lông màu đen và xanh da trời cô lập. Không có phân loài riêng biệt được công nhận. Tương tự về bề ngoài và có mối liên quan chặt chẽ với loài "malurus lamberti" và "malurus pulcherrimus", loài chim này được coi là một loài riêng biệt do không có hình thức trung gian đã được ghi nhận khi phạm vi phân bố chồng lấn. Mặc dù loài chim này phổ biến tại địa phương, có bằng chứng của sự suy giảm về số lượng.
1
null
Malurus leucopterus là một loài chim trong họ Maluridae. Loài này phân bố ở các khu vực khô hơn ở trung bộ Úc. Thức ăn của nó là côn trùng. Dài 11-13,5 cm (4,3-5,3 in) chiều dài, loài này là một trong hai loài nhỏ nhất của chi "malurus". Chim trống thường nặng khoảng 7,2 và 10,9 gram (0,25 và 0,38 oz) trong khi chim mái nặng khoảng 6,8 và 11 gram (0,24 và 0,39 oz). Mỏ dài trung bình 8,5 mm (0,3 in) ở chim trống và 8,4 mm (0,3 in) ở chim mái, mỏ tương đối dài, hẹp và nhọn hơn và rộng hơn tại các chân mỏ.
1
null
Malurus melanocephalus là một loài chim trong họ Maluridae. Đây là loài đặc hữu của Australia và có thể được tìm thấy ở gần sông và ven biển dọc theo bờ biển phía bắc và phía đông từ Kimberley ở phía tây bắc đến khu vực Hunter ở New South Wales. Chim trống có bộ lông giống nổi bật, với đầu và phần lưng và đuôi màu đen, và cánh và lưng màu đen đỏ màu sắc rực rỡ.
1
null
Chim ăn mật đốm vàng (danh pháp khoa học: "Meliphaga notata") là một loài chim trong họ Ăn mật. Loài chim này là loài đặc hữu của miền bắc Queensland. Tên thông thường của loài chim này dùng để chỉ đốm lớn màu vàng phía sau mắt chúng. Chim ăn mật đốm vàng có màu ô liu, nâu và xám. Trọng lượng của chúng dao động từ 23 đến 30 gram, sải cánh dài từ 8 đến 9 cm. Loài này có hai phân loài: "Meliphaga notata notata" và "Meliphaga notata mixta". Chim ăn mật đốm vàng hung dữ và có tiếng kêu to như âm thanh của kim loại. Phân loại. Chim ăn mật đốm vàng thuộc bộ Sẻ và họ Ăn mật. Loài này bao gồm hai phân loài: "Meliphaga notata notata" và "Meliphaga notata mixta". Phân loài đầu được Gould mô tả năm 1867 và phân loài sau được Matthews mô tả vào năm 1912. Danh pháp riêng "notata" xuất phát từ "notatus" trong tiếng Latin, có nghĩa là 'có đốm' hoặc 'có dấu'. Cũng có một loài chim tương tự như loài chim ăn mật đốm vàng đã được mô tả vào năm 1844. Mô tả. Chim ăn mật đốm vàng có màu nâu ô liu ở phần thân trên và màu xám ô liu ở phần thân bên dưới. Tuy nhiên, trên đầu chim có những vùng màu vàng sáng hơn. Chúng có đôi chân, bàn chân, mắt và mỏ màu nâu, với chiều dài thân thể từ . Khối lượng của chim ăn mật đốm vàng trống dao động từ 24 đến 29,5 gam, với khối lượng trung bình là 27 gam. Con mái dao động từ 23,5 đến 30 gam, với khối lượng trung bình 25,9 gam. Đối với phân loài "Meliphaga notata notata", sải cánh trung bình của chim trống có thể lên đến , trong khi con mái là . Đối với phân loài "Meliphaga notata mixta", sải cánh của con trống dao động từ và từ đối với cá thể mái. Môi trường sống. Loài chim này chủ yếu sống trong các rừng mưa nhiệt đới ởBắc Queensland, cực đông bắc Australia, từ Mackay đến phía bắc bán đảo Cape York. Năm 1901, chúng cũng được cho là từng sinh sống tại New Guinea. Chim ăn mật đốm vàng thường sống ở độ cao hơn , nhưng đôi khi có thể được quan sát thấy ở độ cao lên tới so với mực nước biển, mặc dù hiếm khi xuất hiện ở độ cao trên . Mặc dù loài chim này thường sống trong rừng, nhưng thi thoảng cũng đến thăm các vùng ngoại ô với đủ cây cối che phủ. Chúng thậm chí đã được quan sát thấy ở một số thành phố có trồng cây làm cảnh. Loài này sống ở cả hai môi trường rừng cây thưa lẫn rừng cây dưới các tán cây bụi. Chim ăn mật đốm vàng cùng sinh sống hòa hợp với loài chim ăn mật duyên dáng. Quần thể. Chim ăn mật đốm vàng nằm trong danh mục ít được quan tâm nhất của Sách đỏ IUCN. Tổng quần thể của loài dường như ổn định. Phạm vi phân bố của chúng rộng trong một khoảng hơn 110.000 km vuông. Tập tính. Tiếng kêu của chim ăn mật đốm vàng nghe giống như một tiếng kim loại, the thé, "réo rắt với bốn đến năm lần 'ee-yeu' lặp lại liên tiếp". Tiếng kêu của loài chim này cũng được cho là giống như tiếng "súng máy". Nguồn thức ăn của loài bao gồm côn trùng, mật hoa và trái cây. Khi đậu trên cây, cơ thể của chúng nằm ngang một phần. Chim ăn mật đốm vàng là loài ồn ào và hung dữ, có xu hướng sống đơn độc hoặc sống theo nhóm từ hai đến vài cá thể. Loài chim này không di trú. Sinh sản. Tổ của loài ong mật đốm vàng có hình cái chén, thường được đặt cố định ở ba điểm và làm bằng vỏ cây đan xen với những vật liệu nhẹ lấy từ thực vật. Tổ của chúng thường nằm trong các bụi rậm. Trong một vài trường hợp, loài chim này cũng làm tổ trên cây. Kích thước tổ thường sâu đến , rộng từ đến . Khi ấp trứng, diện tích thực tế của chiếc tổ dao động từ theo chiều sâu; đến theo chiều ngang. Trứng của loài chim ăn mật đốm vàng hơi nghiêng, có hình elip với bề mặt nhẵn bóng. Hầu hết các trứng thường có màu trắng, nhưng một số quả có màu tím hoặc nâu ở trên đỉnh. Chim mái đẻ hai quả một lần, nhưng đôi khi chúng có thể đẻ đến ba quả cùng một lúc. Mùa sinh sản của chim ăn mật đốm vàng kéo dài từ tháng 8 đến tháng 1. Chim non nở sau khoảng hai tuần ấp và rời tổ sau hai tuần tiếp theo hoặc lâu hơn. Mỗi thế hệ của loài chim này kéo dài khoảng 5,5 năm.
1
null
Caligavis obscura là một loài chim trong họ Meliphagidae. Loài chim này được tìm thấy ở New Guinea. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng cận nhiệt đới hoặc nhiệt đới đất thấp ẩm và rừng núi cao cận nhiệt đới hoặc nhiệt đới ẩm. Loài chim này trước đây được xếp vào chi "Lichenostomus" nhưng đã được chuyển sang "Caligavis" sau khi một phân tích phát sinh chủng loại phân tử được công bố vào năm 2011 cho thấy rằng chi ban đầu là đa ngành.
1
null
Caligavis chrysops là một loài chim trong họ Meliphagidae. Tiếng kêu trong và lớn của loài chim này thường bắt đầu hai mươi hoặc ba mươi phút trước bình minh. Phạm vi phân bố lan rộng khắp miền đông và đông nam Australia, trong các khu rừng xơ cứng mở từ cồn cát ven biển đến các khu vực dưới nước cao độ, và rừng cây dọc theo những con lạch và sông. Mỏ tương đối ngắn cho loài ăn mật ong, loài này được cho là đã thích nghi với chế độ ăn của ruồi, nhện và bọ cánh cứng, cũng như mật hoa và phấn hoa từ hoa của cây như "Banksia" và "Grevillea", và trái cây mềm. Chúng bắt côn trùng khi bay cũng như lượm lặt chúng từ tán lá của cây và bụi cây. Một số loài ít di cư nhưng hàng trăm ngàn con di cư về phía bắc trong khoảng từ tháng 3 đến tháng 5 để dành mùa đông ở miền nam Queensland và trở lại vào tháng 7 và tháng 8 để sinh sản ở miền nam New South Wales và Victoria. Chúng tạo thành các cặp xã hội đơn thuần và đẻ hai hoặc ba quả trứng trong một cái tổ hình chén tinh tế. Tỷ lệ thành công có thể thấp và các cặp làm tổ nhiều lần trong mùa sinh sản. Môi trường sống trong rừng ưa thích của loài chim này dễ bị ảnh hưởng bởi ảnh hưởng của việc phát quang, chăn thả và cỏ dại. Vì nó là phổ biến và phổ biến, loài ong mật mặt vàng được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) coi là ít quan tâm nhất để bảo tồn. Nó được coi là một loài gây hại trong vườn cây ở một số khu vực.
1
null
Ptilotula penicillata là một loài chim trong họ Meliphagidae. Đây là loài đặc hữu của Úc. Loài chim này phổ biến ở xung quanh nước và thường được nhìn thấy ở các sân sau và vùng ngoại ô có thảm thực vật che phủ. Bộ lông không khác nhau giữa chim trống và chim mái. Đặc điểm phân biệt là chùm lông trắng dễ thấy trên cổ từ họng đến mép gáy. Đỉnh đầu và cổ có màu vàng ô liu, với vành mắt màu vàng bao quanh mắt màu nâu đen đến nâu ô liu. Lông che phủ má và tai có màu vàng ô liu, với phần che phủ phía sau có màu đen, tạo ra một sọc đen ngắn dọc theo mép trước của chùm lông cổ. Cằm và cổ họng có màu vàng ô liu.
1
null
Purnella albifrons là một loài chim trong họ Meliphagidae. Loài chim này chủ yếu phân bố khắp các cảnh quan khô cằn và bán khô cằn. Chim ăn mật mặt trắng có màu sắc khác biệt với lông khuôn mặt trắng, lông ức phía trên màu đen hoặc nâu với các đốm trắng và các mảng màu vàng trên đôi cánh màu nâu của chúng.. Loài ăn mật mặt trắng được John Gould người Anh mô tả vào năm 1841 và được đặt tên danh pháp hai phần "Glyciphila albifrons". Tên cụ thể kết hợp "albus" nghĩa là 'trắng' với "frons" nghĩa là 'trán' hoặc 'mặt'. Loài ăn mật mặt trắng trước đây thuộc chi "Phylidonyris", nhưng nay đã được phân loại trong chi riêng, "Purnella". Tên chung được chọn để vinh danh nhà nghiên cứu trứng chim và nhà sưu tập, Herbert A. Purnell. Sinh học. Chế độ ăn. Loài chim này chủ yếu tiêu thụ mật hoa từ hoa. Các nghiên cứu đã được thực hiện để mở rộng lĩnh vực kiến ​​thức này và người ta đã xác định rằng khi không có mật hoa hoặc nguồn cung cấp tối thiểu, loài chim ăn mật mặt trắng có thể ăn nhiều loại nguyên liệu khác như hạt, thực vật và côn trùng. Mức độ thay đổi trong chế độ ăn uống này cho phép loài ăn mật mặt trắng có thể thích nghi với các môi trường khác nhau và tồn tại ở những khu vực khô cằn. Chế độ ăn của loài ăn mật mặt trắng đã được xác định bằng các nghiên cứu quan sát trước đây cũng như phân tích thành phần mề.
1
null
Acanthagenys rufogularis là một loài chim trong họ Meliphagidae. "Acanthagenys rufogularis" là loài duy nhất trong chi đơn loài Acanthagenys. Đây là loài chim ăn mật ong lớn có chiều cao từ và cân nặng khoảng 52 gram. Những con này sống thành đàn, hung hăng, và thường được quan sát kiếm ăn trong các đàn lớn. Chúng chủ yếu là ăn quả, nhưng cũng ăn mật hoa, hoa, côn trùng, bò sát và chim non. Môi trường sống của loài chim này bao gồm sa mạc, bụi cây ven biển và rừng khô. Loài chim này cũng được tìm thấy trong rừng ngập mặn và vườn cây ăn quả. Phạm vi phân bố phần lớn Australia, ngoại trừ Tasmania, các khu vực nhiệt đới phía bắc và bờ biển đông nam.
1
null
Anthochaera carunculata là một loài chim trong họ Meliphagidae. Loài này được tìm thấy ở đông Queensland, New South Wales, Victoria, Nam Úc và tây nam Tây Úc trong rừng thưa, rừng, và gần nơi cư trú của con người. Tổ được làm bằng que và lá lót bằng vỏ cây và lông, giữa độ cao từ 2 đến 16 mét so với mặt đất, thường là trên các nhánh cây chia hai của một cây hoặc cây bụi. Mỗi tổ có hai hoặc ba quả trứng, trứng có màu hồng nhạt với đốm nâu. Chúng ăn mật hoa, ngoài ra cũng ăn côn trùng và sinh vật nhỏ khác, và cũng ăn hoa quả và trái cây khác.
1
null
Anthochaera chrysoptera là một loài chim trong họ Meliphagidae. Loài chim này được tìm thấy ở ven biển và gần bờ biển đông nam nước Úc. Loài này được mô tả ban đầu bởi nhà nghiên cứu chim John Latham trong năm 1802. Tên cụ thể của loài chim này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ đại chryso "vàng", và pteron "cánh".
1
null
Anthochaera paradoxa là một loài chim trong họ Meliphagidae. Chúng là loài chim ăn mật lớn nhất, và là loài đặc hữu của Tasmania. Chúng thường có chiều dài 375–450 mm. Loài này sinh sống trong nhiều môi trường sống bao gồm cả rừng khô và ướt và từ mực nước biển đến khu bán núi cao. Chúng sinh sống trong các rừng đất nghèo dinh dưỡng ven biển, rừng và các khu vườn gần cây bạch đàn. Chúng cũng có thể được tìm thấy trong khóm núi và rừng mở, đặc biệt là những nơi thống trị bởi "Banksia". Chúng cũng được tìm thấy trên các sân golf, vườn cây ăn trái, vườn và công viên.
1
null
Anthochaera phrygia là một loài chim trong họ Meliphagidae. Đây là loài đặc hữu của đông nam Australia. Loài này thường được coi là một loài biểu trưng trong phạm vi của phân bố, với những nỗ lực bảo tồn nó có tác động tích cực đến nhiều loài khác có chung môi trường sống. Nghiên cứu di truyền gần đây cho thấy loài này có liên quan mật thiết với loài chim Anthochaera.
1
null
Sugomel nigrum là một loài chim trong họ Meliphagidae. Đây là loài duy nhất trong chi "Sugomel". Đây là loài dị hình giới tính, con trống có lông màu đen và trắng còn con mái có màu nâu xám lốm đốm, chim non có màu lông giống chim mái. Đây loài là loài đặc hữu của Úc, và có phạm vi phân bố rộng rãi trên khắp các khu vực khô cằn của châu lục này, qua rừng mở và vùng cây bụi, đặc biệt là ở những nơi có bụi cây emu và các loài liên quan hiện diện. Chúng ăn mật hoa, và có mỏ cong dài để đưa mỏ tận đáy của hoa hình ống như những bụi cây emu. Chúng cũng bắt côn trùng khi đang bay, và thường xuyên ăn đóm tàn lửa trại. Là một loài chim ăn mật hoa, loài chim này có mỏ cong dài để có thể với tới gốc của những bông hoa hình ống như những bông hoa của bụi cây emu. Loài này cũng bắt côn trùng trong không trung, và thường xuyên ăn tro bỏ lại trong lửa trại. Tổ có hình cốc được xây trong dĩa của những cây nhỏ hoặc cây bụi. Con trống bay vút lên và hót trong mùa giao phối, nhưng đóng góp rất ít vào việc xây tổ hoặc ấp trứng, mỗi tổ hai đến ba quả trứng. Cả chim bố và chim mẹ đều cùng nuôi và chăm sóc chim non. Trong khi dân số dường như đang giảm, số lượng đủ lớn và phổ biến rộng rãi nên loài này được coi là loài ít quan tâm trong Sách đỏ các loài có nguy cơ tuyệt chủng của Liên minh Bảo tồn Quốc tế (IUCN).
1
null
Myzomela blasii là một loài chim trong họ Meliphagidae. Nó là loài đặc hữu của các đảo Seram, Boano và Ambon ở Indonesia. Môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trên núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới.
1
null
Myzomela erythrocephala là một loài chim trong họ Meliphagidae. Loài chim này được tìm thấy ở Australia, Indonesia và Papua New Guinea. Loài này được John Gould mô tả vào năm 1840. Hai phân loài được công nhận, với phân loài chỉ định "M. e. erythrocephala" phân bố xung quanh đường bờ biển nhiệt đới của Úc, và "M. e. infuscata" ở New Guinea. Mặc dù được phân phối rộng rãi, nhưng nó không phong phú trong phạm vi này. Trong khi IUCN liệt kê số lượng ở Úc của "M. e. infuscata" gần như bị đe dọa, nói chung là phạm vi rộng khắp có nghĩa là việc bảo tồn loài này được xếp vào nhóm loài ít quan tâm.
1
null
Myzomela adolphinae là một loài chim trong họ Meliphagidae. Loài này được tìm thấy ở New Guinea. Môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trên núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này được đặt tên để vinh danh Adolphine Susanna Wilhelmina Bruijn.
1
null
Myzomela wakoloensis là một loài chim trong họ Meliphagidae. Đây là loài đặc hữu của Indonesia, nơi nó xuất hiện ở quần đảo Molucca của Buru và Seram. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng ngập mặn cận nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trên núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới.
1
null
Myzomela boiei là một loài chim trong họ Meliphagidae. Đây là loài đặc hữu của Indonesia. Loài chim này được tìm thấy ở quần đảo Banda, Babar và Tanimbar. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng ngập mặn cận nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trên núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới.
1
null
Myzomela caledonica là một loài chim trong họ Meliphagidae. Loài này đôi khi được coi là cùng loài với "Myzomela sanguinolenta" của Úc. Nó là loài đặc hữu của New Caledonia, nơi nó xuất hiện trên đảo Grande Terre và Isle of Pines. Ở New Caledonia môi trường sống tự nhiên của nó là rừng nhiệt đới ẩm, rừng đồi còi cọc và rừng xavan. Nó cũng đã chuyển sang môi trường sống đã được sửa đổi như đồn điền và vườn.
1
null
Myzomela sanguinolenta là một loài chim bản địa Australia trong họ Meliphagidae. Loài chim này được mô tả bởi nhà điểu học người Anh John Latham vào năm 1801. Dài 9–11 cm, đây là loài chim ăn mật nhỏ nhất ong mật ở Australia. Loài này có một cái đuôi ngắn và cái mỏ dài tương đối dài. Bộ lông lưỡng hình giới tính; chim trống có màu đỏ tươi nổi bật với đôi cánh đen, trong khi chim mái có màu nâu hoàn toàn. Loài này hót nhiều hơn hầu hết các loài chim ăn mật và một loạt các cuộc gọi đã được ghi lại, bao gồm cả tiếng leng keng như chuông. Loài chim này được tìm thấy dọc theo hầu hết đường bờ biển phía đông, từ Cape York ở cực bắc đến Gippsland ở Victoria. Nó là loài di cư ở các phần phía nam trong phạm vi của nó, với các quần thể di chuyển về phía bắc vào mùa đông. Môi trường sống tự nhiên của loài chim này là rừng, nơi chúng kiếm ăn chủ yếu ở các tán cây tầng trên. Chúng là loài ăn tạp, ăn côn trùng cũng như mật hoa. Chim mẹ có thể nuôi 3 chim non một lứa trong suốt một mùa sinh sản. Con mái đẻ hai hoặc hiếm khi ba quả trứng màu trắng lốm đốm trong một cái ổ hình cốc có đường kính 5 cm trên cây cao. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) đã đánh giá loài này thuộc loài ít quan tâm do có phạm vi rộng lớn và quần thể có vẻ ổn định.
1
null
Ăn mật lưỡi liềm, tên khoa học Phylidonyris pyrrhopterus, là một loài chim trong họ Meliphagidae, bản địa vùng đông nam Úc. Nó là thành viên chi "Phylidonyris", họ hàng gần nhất của nó là ăn mật New Holland ("P. novaehollandiae") và ăn mật má trắng ("P. niger"). Hai phân loài được công nhận, vo81i "P. p. halmaturinus" phân bố hạn chế ở đảo Kangaroo và vùng Mount Lofty ở Nam Úc. Phân loài. Ăn mật lưỡi liềm ban đầu được mô tả bởi nhà điểu học John Latham năm 1801 với tên "Certhia pyrrhoptera", vì Latham cho rằng nó là một loài đuôi cứng của chi "Certhia". Loài này sau đó được tái danh "Certhia australasiana" bởi George Shaw năm 1812, "Melithreptus melanoleucus" bởi Louis Jean Pierre Vieillot năm 1817, và "Meliphaga inornata" bởi John Gould năm 1838. Tên chi ("Phylidonyris") xuất phát từ "phylidonyre" trong tiếng Pháp. Tên loài ("pyrrhopterus") có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, "pyrrhos" có nghĩa là "lửa", và "pteron" có nghĩa là "cánh". Hai phân loài được công nhận, phân loài danh định "P. p. pyrrhopterus" sống ở hầu hết khu vực phân bố của loài này, và phân loài "P. p. halmaturinus" bị giới hạn tại đảo Kangaroo và vùng Mount Lofty. Nghiên cứu cho thấy họ hàng gần của ăn mật lưỡi liềm là ăn mật New Holland và ăn mật má trắng, cả ba tạo nên chi "Phylidonyris".
1
null
Phylidonyris novaehollandiae là một loài chim trong họ Meliphagidae. Loài này phân bố ở phía nam Úc. Loài này có 5 phân loài. Loài này thu nhận hầu hết nhu cầu carbohydrate từ mật hoa của các bông hoa. Do đó, chúng là những tác nhân thụ phấn quan trọng của nhiều loài thực vật có hoa, trong đó có nhiều loài đặc hữu của Úc như "Banksia", "Hakea", "Xanthorrhoea" (Yacka), và cây keo. Loài này cũng có thể tiêu thụ dưa mật, một loài cây tiết mật được tạo ra bởi các thành viên của họ "Psyllidae". Mặc dù thức ăn chủ yếu là mật ong, loài chim này không đúng hẳn là loài chỉ ăn mật. Mật ngọt không chứa protein nên chúng phải bổ sung chế độ ăn uống với động vật không xương sống như nhện và dế mà rất giàu protein. Đôi khi chúng ăn một mình, nhưng thường tập trung trong các nhóm lớn.
1
null
Phylidonyris niger là một loài chim trong họ Meliphagidae. Loài chim này sinh sống ở bờ biển phía đông và góc tây nam của Úc. Loài chim này có một mảng trắng lớn trên má, mắt nâu và một mảng màu vàng trên cánh. Hai phân loài được công nhận: "Phylidonyris niger niger" ở miền đông Australia; và "P. n. gouldii " (Schlegel, 1872) ở tây nam Tây Úc. Phân loài sau có má trắng hẹp hơn, trên ngực hơi đen hơn và tiếng kêu khác, trong tương lai có thể dẫn đến việc phân loại nó thành một loài riêng biệt.
1
null
Plectorhyncha lanceolata (tên tiếng Anh: striped honeyeater) là một loài ăn mật trong họ Meliphagidae sống ở Úc. Đây là loài ăn mật kích thước trung bình, chiều dài khoảng . Dù là ăn mật, côn trùng là nguồn thích ăn chính của "Plectorhyncha lanceolata", và mỏ của nó cũng thích nghi cho việc này.
1
null
Vosea whitemanensis là một loài chim trong họ Meliphagidae. Nó là loài chim đặc hữu Papua New Guinea. Môi trường sống là các khu rừng miền núi ẩm ướt với khí hậu nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Từng được coi là có quan hệ họ hàng gần với các loài trong chi "Melidectes", nhưng phân tích phát sinh chủng loài của Andersen "et al." (2014) cho thấy nó có quan hệ họ hàng gần với các loài "Myzomela" và "Sugomel niger" hơn là với "Melidectes".
1
null
Pardalotus striatus là một loài chim trong họ Pardalotidae. Loài chim này có phạm vi phân bố gồm các loại môi trường sống từ rừng nhiệt đới núi cao đến khô cằn cây bụi, và được tìm thấy trong tất cả các khu vực của Úc, ngoại trừ một số trong những sa mạc Tây Úc.
1
null
Origma solitaria là một loài chim trong họ Acanthizidae. Đây là loài đặc hữu New South Wales ở Australia. Nghệ sĩ và nhà tự nhiên học người Anh John Lewin đã mô tả loài chim này trong năm 1808. Trong nhiều năm, nó là thành viên duy nhất trong chi của nó cho đến khi công trình nghiên cứu di truyền cho thấy loài này có liên quan đến hai loài chim khác từ New Guinea. Loài này đã tách ra khỏi tổ tiên chung của hai loài còn lại vào khoảng 9 triệu năm trước. "Origma solitaria" đã được chỉ định tên chính thức bởi Liên minh các nhà điều trị học quốc tế (IOC).
1
null
Chthonicola sagittatus (đồng nghĩa "Pyrrholaemus sagittatus") là loài chim duy nhất thuộc chi Chthonicola trong họ Acanthizidae. Nó là loài chim đặc hữu của Australia, sinh sống trong các khu rừng ôn đới. Loài này được tìm thấy từ tây nam Victoria tới trung Queensland ở vùng đông nam Australia, chủ yếu là trên các vùng dốc và đồi núi đỉnh bằng thuộc dãy núi Great Dividing.
1
null
Acanthiza pusilla là một loài chim trong họ Acanthizidae. Loài chim này thường được tìm thấy ở đông và đông nam Úc, bao gồm Tasmania. Loài chim này có thể dài tới 10 cm (3,9 in) và ăn côn trùng. Loài chim này có bộ lông màu nâu, xám và trắng. Loài này có năm phân loài.
1
null
Acanthiza apicalis là một loài chim nhỏ ăn côn trùng trong họ Acanthizidae. Loài chim này thường hay bị nhầm lẫn với loài "Acanthiza pusilla" do màu lông tương tự nhau. Loài này có 4 phân loài sau: Loài chim này có thân dài 9–11 cm, trung bình 10 cm và cân nặng lên đến 7 gram. Chúng có bộ lông màu nâu xám, lông ở đít màu hơi đỏ và đuôi màu đen với chóp đuôi màu trắng. Lông dưới bụng màu kem với các dải đen. Chim trống và chim mái có màu lông giống nhau dù chim trống thường có cơ thể hơi lớn hơn chim mái. Mùa sinh sản từ tháng 7 đến tháng 12. Mỗi tổ có trung bình 3 quả trứng và ấp trong 19 ngày thỉ nở. Chim non rời tổ sau 17 ngày. Loài chim này phân bố khắp nội địa đảo Úc của Great Dividing Range, nhưng không hiện diện ở các khu vực khí hậu phía bắc nhiệt đới ở Tasmania. Loài này có phạm vi chồng lấn với loài "Acanthiza pusilla" dọc theo Great Dividing Range, khiến người ta thường bị nhầm lẫn hai loài với nhau. Loài chim này sinh sống ở rừng và cây bụi khô. Ở Tây Nam Úc, chúng cũng sinh sống ở rừng trên cát cằn và các rừng karri và jarrah. Chúng ăn côn trùng và nhện nhỏ và thỉnh thoảng ăn thực vật.
1
null
Acanthiza chrysorrhoa là một loài chim trong họ Acanthizidae. Chi này đã từng được đặt trong họ Pardalotidae nhưng họ này đã được tách ra và bây giờ chi thuộc họ Acanthizidae. Có bốn phân loài thuộc loài này. Đây là loài chim màu nâu nhỏ với một mông màu vàng đặc biệt và mỏ mỏng và tối màu. Chúng sinh sống ở thảo nguyên, cây bụi và rừng trên toàn nhất của Australia và ăn côn trùng. Chúng sinh sản thành nhóm.
1
null
Acanthiza lineata là một loài chim trong họ Acanthizidae. Đây là loài đặc hữu của Úc, nơi sinh sống tự nhiên của chúng là rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Phân loại. John Gould đã mô tả "Acanthiza lineata" vào năm 1838, đặt cho nó cái tên thông thường là acanthiza vạch (striated acanthiza). Các tên thường gọi khác bao gồm thornbill hoặc tit-warbler mào sọc, tit-warbler hoặc tit vạch, và thornbill xanh. "Acanthiza lineata" có tên ban đầu là "thornbill vạch". Một nghiên cứu di truyền năm 2017 sử dụng cả DNA ty thể và nhân cho thấy tổ tiên của loài này được tách ra từ "Acanthiza nana" khoảng 6 triệu năm trước. Bốn phân loài được công nhận. Mô tả. Con trưởng thành có chiều dài và nặng khoảng . Phần đầu chúng có một mào màu nâu đỏ hoặc màu nâu cam với các vệt màu kem, phần trên màu vàng ô liu xỉn, mạn sườn màu xám ô liu và phần dưới có vệt đen. "Acanthiza pusilla" cũng có những đặc điểm tương tự nhưng phần đầu không có màu nâu cam và sống trong các tán cây bụi. Tìm kiếm thức ăn. "Acanthiza lineata" chủ yếu ăn côn trùng trong tán cây bạch đàn, lượm lặt lá để săn con mồi. Chúng thường treo ngược mình trong khi tìm kiếm thức ăn. Chúng cũng thường đến thăm và ăn các loại mật hoa trên lá của những cây keo ("Acacia terminalis"), giúp thụ phấn cho cây khi cọ vào đầu hoa trong khi tìm thức ăn. Sinh sản. "Acanthiza lineata" sống thành đàn từ 7 đến 20 cá thể ngoài mùa sinh sản từ cuối mùa hè đến mùa đông, trước khi chia thành các nhóm 2 đến 4 cá thể, gồm một cặp giao phối và các cá thể hỗ trợ.
1
null
Philesturnus carunculatus là một loài chim trong họ Callaeidae. Đây là loài chim bản địa New Zealand trước đây hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng. Nó có màu đen bóng với lưng giống "yên ngựa" màu hạt dẻ. Loài này có hai phân loài. Loài chim này đã được mô tả lần đầu tiên bởi nhà tự nhiên học người Đức Johann Friedrich Gmelin vào năm 1789. Tên thông thường trong tiếng Anh của loài này là "yên ngựa" bắt nguồn từ bộ lông giống như yên ngựa trên lưng của nó.
1
null
Heteralocha acutirostris là một loài chim trong họ Callaeidae. Đây là loài Callaeidae lớn nhất đặc hữu của Đảo Bắc của New Zealand. Việc tuyệt chủng của nó trong đầu thế kỷ 20 có hai nguyên nhân chính. Nguyên nhân đầu tiên là do nạn săn bắt quá mức tràn lan để lấy da loài chim này làm mẫu vật nhồi bông trên toàn thế giới ở các bảo tàng và sưu tập tư nhân giàu có. Chúng cũng bị săn bắn để lấy lông đuôi dài nổi bật cho trang trí mũ thời trang tại địa phương. Nguyên nhân thứ hai gây tuyệt chủng là nạn phá rừng phổ biến rộng rãi ở các vùng đất thấp của đảo Bắc bởi những người định cư châu Âu để tạo ra đồng cỏ cho nông nghiệp. Hầu hết các khu rừng này là cổ đại, rừng nguyên sinh phức tạp sinh thái, và loài chim này không thể để tồn tại trong rừng thứ sinh tái tạo. Xác nhận cuối cùng nhìn thấy một con chim Huia là ngày 28 tháng 12 năm 1907 ở các dãy núi Tararua Ranges. Lần nhìn thấy đáng tin cậy hơn nữa gần Wellington đã được báo cáo cho đến khi năm 1922, và trong vườn quốc gia Te Urewera trong những năm 1960. Chim Huia thuộc về một họ chỉ có ở New Zealand, một họ quá cổ đại đến nỗi không tìm thấy của nó ở những nơi khác. Trước khi người châu Âu đến khu vực này, loài này đã hiếm hoi, giới hạn ở Ruahine, Tararua, Rimutaka và Kaimanawa dãy núi ở phía đông nam của đảo Bắc. Đây là loài lưỡng hình giới tính rõ rệt nhất ở hình dạng mỏ trong các loài chim trên thế giới. Mỏ của con cái dài, mỏng và cong xuống, trong khi của con trống ngắn và mập mạp, giống như của con quạ. Màu sắc bộ lông tương tự. Loài chim này sinh sống trong rừng, ở cả rừng núi và rừng thấp, chúng được cho là đã di chuyển theo mùa, sống ở khu vực có độ cao cao hơn vào mùa hè và giảm dần độ cao thấp hơn trong mùa đông. Chim Huia là ăn tạp và ăn côn trùng, ấu trùng và nhện, cũng như quả của một số ít các thực vật bản địa. Chim trống và chim mái sử dụng mỏ để ăn theo nhiều cách khác nhau: chim trống sử dụng mỏ đục gỗ mục, trong khi chim mái có mỏ dài hơn, linh hoạt hơn dùng dò mồi ở khu vực sâu hơn. Mặc dù chim Huia là thường xuyên được đề cập trong sách giáo khoa sinh học và điểu học do nó có đặc tính lưỡng hình nổi bật, không có nhiều được biết về sinh học của nó, nó ít được nghiên cứu trước khi nó được đưa tới tuyệt chủng. Huia là một trong những loài chim đã tuyệt chủng nổi tiếng nhất của New Zealand vì hình dạng mỏ của nó, vẻ đẹp của nó và vị trí đặc biệt trong văn hóa và truyền thống truyền khẩu của người Māori. Loài chim này được người Maori xem là Tapu (thiêng), và mặc da hoặc lông của nó đã được dành riêng cho những người có địa vị cao. Phân loại. Tên chi, "Heteralocha", xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ đại ἕτερος nghĩa là "khác biệt" và ἄλοχος "vợ". Nó dùng để chỉ sự khác biệt nổi bật trong hình dạng mỏ giữa chim trống và chim mái. Tên cụ thể, "acutirostris", xuất phát từ "acutus" trong tiếng Latin, có nghĩa là "nhọn sắc", và rostrum, có nghĩa là "mỏ", và đề cập đến chiếc mỏ của chim mái.. John Gould mô tả Huia vào năm 1836 như là hai loài: "Neomorpha acutirostris" dựa trên một mẫu vật chim mái, và "N. crassirostris" dựa trên một mẫu vật chim trống-tên chi tiết "crassirostris" xuất phát từ tiếng Latin "Crassus", có nghĩa là "dày" hoặc "nặng", và đề cập đến mỏ ngắn của chim trống. Năm 1840, George Robert Gray đề xuất danh pháp "N. gouldii", với lập luận rằng không có danh pháp nào của Gould áp dụng được đối loài chim này. Năm 1850, Jean Cabanis thay thế danh pháp "Neomorpha", mà đã được trước đó được sử dụng cho một chi chim cu, bằng Heteralocha. Năm 1888, Sir Walter Buller đã viết: "Tôi đã cho rằng đó là phù hợp hơn với các quy tắc được chấp nhận của danh pháp động vật để áp dụng hai danh pháp đầu tiên cho loài này bởi ông Gould và danh pháp "Neomorpha" đã được sử dụng trước đó trong ngành điểu học, cần chọn danh pháp Heteralocha theo đề xuất của tiến sĩ Cabanis cho dạng này ". Huia dường như là những gì còn sót của sự mở rộng ban đầu của các loài sẻ ở New Zealand, và là loài lớn nhất trong ba thành viên của họ Callaeidae, chim yếm thịt New Zealand, những loài khác là chim lưng yên ngựa và Kōkako. Loài bà con thân thiết duy nhất của họ này là chim mũi khâu; mối quan hệ phân loại các loài chim khác vẫn phải được xác định. Một nghiên cứu phân tử của các gen RAG-1 và c-mos hạt nhân của ba loài trong họ này tỏ ra không thuyết phục, dữ liệu được ủng hộ nhiều nhất là Kokako phân nhánh cơ sở hoặc Huia. Phân bố và môi trường sống. Các trầm tích bán hóa thạch và midden còn lại cho thấy rằng chim Huia đã từng phổ biến ở cả đồng bằng và núi rừng tự nhiên trên khắp đảo Bắc, kéo dài từ mũi cực bắc ở Cape Reinga đến Wellington và dãy núi Aorangi ở xa về phía nam. Chỉ có một vài con chim Huia được biết đến từ các trầm tích hầm bẫy rộng rãi trong các vùng núi đá vôi của các khu vực hang động Waitomo và chúng là cũng hiếm hoặc vắng mặt trong các trầm tích thạch trong các trung tâm Bắc Đảo và vịnh Hawke; ường như có môi trường sống ưa thích không được cho làm tiêu biểu bởi các trầm tích được biết đến hiện nay. Phạm vi của loài chim này dường như đã xuất hiện đã thu nhỏ theo các khu định cư người Maori trong giữa thế kỷ thứ 12. Cho đến trước khi có khu định cư châu Âu vào những năm 1840, loài chim này đã được tìm thấy trong các khu rừng của miền Bắc Đảo Nam, phía nam của một tuyến từ dãy núi Raukumara ở phía đông, ngang qua dãy Kaimanawa, sông Turakina Rangitikei trong phía tây. Ở phía nam, phạm vi của nó mở rộng đến Wairarapa và dãy núi Rimutaka phía đông của Wellington. Báo cáo được thu thập bởi Walter Buller và waiata duy nhất (bài hát Māori) cho thấy chim Huia đã từng được tìm thấy trong Marlborough và huyện Nelson ở đảo Nam; tuy nhiên, nó chưa bao giờ được xác định trong các trầm tích hóa thạch giàu phía nam của eo biển Cook, và không có bằng chứng khác về sự hiện diện của này. Chim Huia sinh sống ở hai loại rừng chủ yếu ở New Zealand. Chúng chủ yếu được tìm thấy trong rừng lá rộng ôn đới nơi có tầng dưới rậm, nhưng thỉnh thoảng cũng hiện diện ở rừng sồi phía Nam ("Nothofagus"). Loài chim này được quan sát thấy trong thực vật bản địa: Mataī ("Prumnopitys taxifolia"), Rimu ("Dacrydium cupressinum"), Kahikatea ("Dacrycarpus dacrydioides"), Rātā Bắc ("Metrosideros robusta"), Maire ("Nestegis"), Hinau ("Elaeocarpus dentatus"), Totara ("Podocarpus totara"), Rewarewa ("Knightia excelsa"), Mahoe ("Melicytus ramiflorus"), và Taraire ("Beilschmiedia tarairi"), và at sea level in Karaka ("Corynocarpus laevigatus") các cây ở mũi Turakirae.Nó không bao giờ nhìn thấy trong rừng bị cháy hoặc đất được khai hoang cho nông nghiệp.
1
null
Notiomystis cincta là một loài chim trong họ Notiomystidae. Đây là loài chim hiếm trông giống ăn mật, nó là loài bản địa Đảo Bắc và các hải đảo lân cận của New Zealand. Nó đã trở nên tuyệt diệt ở khắp mọi nơi ngoại trừ đảo Little Barrier nhưng đã được du nhập lại tới ba khu bảo tồn hòn đảo khác và hai địa điểm trên đất liền Đảo Bắc. Mối quan hệ tiến hóa của nó từ lâu đã bối rối các nhà điểu cầm học, nhưng ngày nay nó được phân loại như là thành viên duy nhất của họ riêng của mình, Notiomystidae. Phân loại. Loài chim này ban đầu được miêu tả là một thành viên của họ chim ăn mật chủ yếu ở Úc và New Guinea Meliphagidae. Nó có còn được phân loại như vậy cho đến gần đây. Phân tích gen cho thấy rằng nó không liên quan chặt chẽ với ăn mật và các đồng minh của chúng và những loài bà con còn sống gần gũi nhất của nó trong đặc hữu New Zealand Callaeidae. Năm 2007, một họ sẻ mới đã được thiết lập chứa loài chim này, họ Notiomystidae.
1
null
Dryoscopus gambensis là một loài chim trong họ Malaconotidae. Loài này được tìm thấy ở Angola, Benin, Burkina Faso, Burundi, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Chad, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Bờ Biển Ngà, Guinea Xích Đạo, Eritrea, Ethiopia, Gabon, Gambia, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Kenya, Liberia, Mali, Mauritania, Niger, Nigeria, Rwanda, Senegal, Sierra Leone, Somalia, Sudan, Tanzania, Togo, và Uganda. Môi trường sống tự nhiên của loài chim này là rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng ngập mặn nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, và xavan ẩm.
1
null
Machaerirhynchus flaviventer là một loài chim trong họ Machaerirhynchidae, được tìm thấy ở New Guinea. Nó cũng được tìm thấy ở Bán đảo Cape York ở cực Bắc Queensland, Australia. Môi trường sống tự nhiên của nó chủ yếu là các vùng cận nhiệt đới hoặc nhiệt đới, đặc biệt là các khu rừng ẩm.
1
null
Leptopterus chabert là một loài chim trong họ Vangidae. Đây là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới khô, rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, và rừng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới.
1
null