text
stringlengths 199
386k
| id
stringlengths 18
18
| domain
stringclasses 25
values |
---|---|---|
Khu dự trữ sinh quyển Aya là một khu dự trữ sinh quyển nằm ở phía nam của đảo Kyushu, Nhật Bản. Đây là khu vực có chứa những cánh rừng thường xanh Laurel còn lại lớn nhất Nhật Bản. Nó có sự đa dạng sinh học cao với nhiều loài bản địa. Liệu pháp lâm nghiệp và nông nghiệp tái chế địa phương là một trong những điểm thu hút du lịch sinh thái nổi tiếng ở thị trấn Aya. Nơi đây được công nhận là khu dự trữ sinh quyển của thế giới vào năm 2012.
Đặc điểm
Khu dự trữ sinh quyển bao gồm một khu vực cao nguyên với các đỉnh núi, núi lửa và mỏ cát, cùng các đồng bằng hợp lưu của sông Ayakita và Ayaminami. Về mặt địa lý, khu vực này nằm gần trung tâm quận Miyazaki, đông nam đảo Kyushu, nơi có dãy núi Trung Kyushu và đồng bằng Miyazaki.
Khu rừng rậm của khu dự trữ này bao gồm nhiều loài đặc hữu của Nhật Bản. Đây là nơi duy nhất ở Đông Á có khu vực rừng lá vàng bao gồm các loài cây thường xanh và cây lá kim ôn đới có từ tiền Kỷ Creta. Khu dự trữ sinh quyển này có tới 88% (12.839 ha) là rừng, trong đó 16% là rừng nguyên sinh, 25% là thảm thực vật thứ sinh. Có tổng cộng 1033 loài thực vật, 145 loài nấm, 70 loài chim, 19 loài thú được xác định có mặt tại đây. Đây cũng là ranh giới môi trường sống phía nam của loài Tỳ linh Nhật Bản và Đại bàng vàng.
Tham khảo
Aya
Miyazaki | VI_open-0000004511 | Travel_and_Transportation |
, trước đây là , là một nhóm nhạc nữ thần tượng Nhật Bản do Akimoto Yasushi quản lý. Nhóm được thành lập vào ngày 21 tháng 8 năm 2015 với tên gọi Keyakizaka46 được đặt tên theo tên đường Keyakizaka thuộc quận Roppongi, Minato, Tokyo. Nhóm được đổi tên thành Sakurazaka46 sau buổi biểu diễn vào ngày 13 tháng 10 năm 2020, nhóm được đặt tên theo đường Sakurazaka trong Roppongi Hills ở Minato, Tokyo. Đây là nhóm nhạc chị em đầu tiên của Nogizaka46.
Tính đến năm 2020, nhóm phát hành 9 đĩa đơn, 8 trong số đó đứng đầu Bảng xếp hạng đĩa đơn Oricon và Billboard Japan Hot 100. Nhóm cũng đã phát hành 3 album tổng hợp, một trong số đó được phát hành bởi Hiragana Keyakizaka46, một nhóm con tách thành Hinatazaka46. Ngoài ra, nhóm còn tổ chức nhiều chương trình tạp kỹ, chương trình phát thanh và phim truyền hình.
Lịch sử
2015: Ra mắt & những bước tiến đầu tiên
Trước khi ra mắt với tên gọi Sakurazaka46, vào ngày 22 tháng 2 năm 2015, trong buổi diễn Nogizaka46 3rd Year Birthday Live tại Seibu Dome, Nogizaka46 thông báo kế hoạch tuyển thành viên thế hệ đầu tiên cho dự án mới. Tên nhóm mới được tiết lộ là , được đặt tên theo khu vực Toriizaka ở quận Roppongi của Minato, Tokyo và tuyển thành viên từ ngày 28 tháng 7. Kì tuyển chọn cuối cùng được tổ chức vào ngày 21 tháng 8, cùng ngày ra mắt của Nogizaka46, 22 thành viên được chọn từ 22,509 thí sinh. Trong buổi họp báo ngay sau đó, đại diện uỷ ban Nogizaka, Yoshio Konno bất ngờ thông báo đổi tên nhóm thành Keyakizaka46; tuy nhiên không có lí do cụ thể.
Từ ngày 4 tháng 10, nhóm có chương trình truyền hình riêng vào mỗi Chủ Nhật với tên trên TV Tokyo. Trong chương trình này, Sakurazaka46 thông báo thêm thành viên mới vào ngày 29 tháng 11, Nagahama đã vượt qua buổi thử giọng nhưng không tham gia do sự phản đối của cha mẹ cô. Cô làm thành viên của phân nhóm mới (thế hệ 2) (tên rút gọn là: Hiragana Keyaki) và quá trình tuyển thành viên cho phân nhóm mới cũng bắt đầu. Để phân biệt với phân nhóm mới, nhóm cũ (thế hệ 1) được gọi là Kanji Keyakizaka46.
Vào ngày 16 tháng 12, nhóm biểu diễn lần đầu tiên trên chương trình âm nhạc FNS Music Festival của kênh Fuji TV. Vị trí trung tâm của bài vũ đạo là , thành viên nhỏ tuổi nhất (14 tuổi) vào thời điểm đó.
2016-2017: Thành công sớm
Tháng 2 năm 2016, Sakurazaka46 công bố phát hành đĩa đơn đầu tiên vào ngày 6 tháng 4. Sau đó, tiêu đề đĩa đơn được công bố là Silent Majority. Bài hát cũng được sử dụng trong quảng cáo truyền hình cho ứng dụng điện thoại Mechakari. Khác với Nogizaka46, tất cả các thành viên (ngoại trừ Nagahama Neru) đều được chọn để hát ca khúc tiêu đề. Đĩa đơn bán được 261.580 bản trong tuần đầu và xếp hạng đầu tiên trên bảng xếp hạng hàng tuần Oricon. Nhóm đạt kỉ lục đĩa đơn có doanh thu cao nhất của các nhóm nhạc nữ trong tuần đầu tiên, phá kỉ lục của đĩa đơn Suki! Suki! Skip! HKT48 trong suốt 3 năm.
Ngày 9 tháng 4, Sakurazaka46 xuất hiện tại giải thuỏng GirlsAward 2016 Xuân/Hạ, một trong những sự kiện thời trang và âm nhạc lớn nhất tại Nhật Bản. Trong sự kiện này, Habu Mizuho ra mắt trên đường băng sân khấu. Từ 29 tháng 4 tới 5 tháng 5, một phần của quá trình tuyển chọn là chương trình truyền hình trực tiếp 18 thí sinh trên SHOWROOM. Các thí sinh sẽ được truyền hình trực tiếp từ nhà riêng, trả lời các câu hỏi và bình luận của khán giả. Ngày 11 tháng 5, 11 thí sinh chiến thắng vòng cuối cùng của vòng tuyển chọn được thông báo. Hiragana Keyakizaka46 ra mắt với ca khúc Hiragana Keyaki trong đĩa đơn thứ 2 Sekai ni wa Ai Shika Nai được phát hành vào ngày 10 tháng 8. Ca khúc được biểu diễn công khai lần đầu tiên tại sự kiện nhỏ bắt tay tại Nagoya vào ngày 13 tháng 8 năm 2016.
Bộ phim truyền hình đầu tiên của Sakurazaka46 Tokuyama Daigorō o Dare ga Koroshitaka? được phát sóng trên kênh TV Tokyo từ ngày 16 tháng 7 đến ngày 2 tháng 10. Đĩa đơn thứ 2 Sekai ni wa Ai Shika Nai được sử dụng làm nhạc nền cho phim. Từ ngày 5 tháng 7 đến 27 tháng 9, KeyaBingo! là phiên bản Keyakizaka46 của chương trình truyền hình tạp kĩ Bingo, tương tự AKBingo! và NogiBingo! phát sóng trên kênh NTV. Chương trình cũng phát trực tuyến trên Hulu Japan với những phần không được phát sóng trên truyền hình.
Ngày 25 tháng 9, trong Senbatsu lần thứ 2, Neru Nagahama được thông báo sẽ hoạt động ở cả hai nhóm Hiragana Keyakizaka46 và Kanji Keyakizaka46.
Ngày 8 tháng 10, Sakurazaka46 tham gia sự kiện GirlsAward 2016 Autumn/Winter. Trong sự kiện này, Hirate Yurina, Kobayashi Yui và Watanabe Risa ra mắt trên đường băng sân khấu. Ngày 24 và 25 tháng 12, Keyakizaka46 tổ chức buổi hoà nhạc đơn đầu tiên tại Ariake Coliseum cho khoảng 27000 người. Ngày 31 tháng 12, 21 thành viên bao gồm cả Nagahama xuất hiện lần đầu tiên trên chương trình NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 67 và thể hiện ca khúc ra mắt Silent Majority.
Vào tháng 1 năm 2017, Yūka Sugai và Akane Moriya lần lượt được bổ nhiệm làm đội trưởng và đội phó của nhóm. Vào tháng 7, Hiragana Keyakizaka46 ra mắt thế hệ thứ 2, với 9 thành viên mới. nhóm nhỏ được giới thiệu trên Re: Mind, một loạt phim kinh dị truyền hình được phát sóng trên Netflix. Vào tháng 8, Keyakizaka46 đã có buổi biểu diễn đầu tiên tại Rock in Japan Festival, và đã xuất hiện hàng năm kể từ đó.
Ngày 25 tháng 9, trong thông báo Senbatsu lần thứ 5, Neru Nagahama được tiếp tục hoạt động chỉ ở Kanji Keyakizaka46 thay vì ở cả hai phân nhóm.
Ngày 17 tháng 10, Keyakise là trò chơi thể loại giải đố bằng tiếng Nhật với 1800 câu chuyện xoay quanh các thành viên của nhóm Sakurazaka46 và người chơi sẽ đóng vai người quản lí. Trò chơi được phát triển bởi enish Inc. và hỗ trợ chơi trên máy tính hoặc thiết bị di động trên nền tảng iOS, Android.
Ngày 31 tháng 12, nhóm tham gia biểu diễn tại sự kiện thường niên NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 68. Tại sự kiện này, ở đoạn cuối trình diễn bài Fukyouwaon, thành viên Suzumoto Miyu bị ngất và hai thành viên Hirate Yurina và Shida Manaka quỵ xuống trên sân khấu. Theo NHK, cả 3 thành viên được chẩn đoán là bị tình trạng tăng thông khí (thở quá nhanh)..
2018-nay: Thay đổi đội hình & đổi tên thành Sakurazaka46
Tháng 8 năm 2018, thành viên của Kanji Keyakizaka46 thông báo tốt nghiệp, cô dự định theo đuổi các hình thức giải trí khác, Sau đó, nhiều thành viên rời nhóm, bao gồm Nanami Yonetani và Manaka Shida vào năm 2018 Trong khi đó, vào ngày 29 tháng 11, 2 nhóm Sakamichi Series đã tổ chức buổi thử giọng chung, nơi có 39 người đã vượt qua. Trong số đó, 11 người đến Nogizaka46, 9 người đến Kanji Keyakizaka46, 1 người đến Hiragana Keyakizaka46, và 15 người còn lại trở thành không được phân vào bất kỳ nhóm nào.
Ngày 11 tháng 2 năm 2019, Hiragana Keyakizaka46 thông báo tách nhóm hoạt động riêng biệt dưới tên Hinatazaka46, tên được đặt theo tên đường Hyūgazaka street thuộc Minato-ku, Tokyo. Nhóm Hinatazaka46 ra mắt vào ngày 27 tháng 3 năm 2019, phát hành đĩa đơn đầu tay "Kyun". Ngày 7 tháng 3 năm 2019, thành viên Nagahama Neru thông báo tốt nghiệp nhóm Sakurazaka46 trên blog cá nhân chính thức.
Trong thời gian này, Keyakizaka46 vẫn tổ chức nhiều buổi concert, trong đó có buổi concert lớn nhất từ ngày 18–19 tháng 9 năm 2019 tại Tokyo Dome, thu hút khoảng 50.000 người hâm mộ mỗi ngày. Vào ngày 24 tháng 9, trò chơi Uni's On Air được phát hành với sự góp mặt của Keyakizaka46 và Hinatazaka46.
Keyakizaka46 tổ chức senbatsu (Tổng tuyển cử) cho đĩa đơn thứ 9 trong chương trình Keyakitte, Kakenai? vào ngày 8 tháng 9 năm 2019. Ban đầu dự kiến phát hành vào cuối năm, nhưng việc phát hành bị trì hoãn lần đầu tiên do vấn đề sản xuất, và sau đó bị hoãn thêm với sự ra đi đột ngột của Yurina Hirate, center của đĩa đơn đã được lên kế hoạch trước đó.
Ngày 23/1/2020, trên trang chủ của Sakurazaka46 thông báo thành viên Oda Nana, Suzumoto Miyu tuyên bố tốt nghiệp, cùng đó "center cố định của nhóm" Hirate Yurina thông báo "rút khỏi nhóm" và Sato Shiori tạm ngưng hoạt động với nhóm để du học. Tin tức này đã làm fan của Sakurazaka46 vô cùng bất ngờ.
Vào ngày 16 tháng 2 năm 2020, 14 thành viên kenshūsei còn lại được chỉ định vào nhóm Sakamichi Series tương ứng thông qua Showroom. 6 trong số này trở thành một phần của thế hệ thứ 2 nhóm Keyakizaka46 Ngày 29/3, thành viên Nagasawa Nanako thông báo tốt nghiệp.
Ngày 16/7/2020, Sakurazaka46 đã phát trực tiếp một buổi hòa nhạc mang tên " Keyakizaka46 Live Online, but with YOU!". Buổi hòa nhạc lần đầu tiên được tổ chức kể từ khi concert Tokyo Dome diễn ra vào tháng 9 năm 2019 và lần đầu tiên không có Hirate Yurina.Trong suốt concert, nhóm thông báo đĩa đơn thứ 9, " Dare ga Sonokane wo Narasu no ka? ", được lên kế hoạch phát hành đĩa đơn vào ngày 21/8. Thêm vào đó, nhóm trưởng Sugai Yuuka thông báo nhóm sẽ thay đổi tên và tạm dừng hoạt động, với concert cuối cùng được lên kế hoạch vào tháng 10 Vào ngày 21 tháng 9, có thông báo Sakurazaka46 sẽ là tên mới, với sự thay đổi diễn ra sau buổi biểu diễn cuối cùng của họ vào ngày 12 và 13 tháng 10
Ngày 14/10/2020, nhóm sẽ tiếp tục chặng đường mới với tên gọi Sakurazaka46. Chương trình tạp kỹ hàng tuần Keyakitte, Kakenai? được đổi tên thành Soko Magattara, Sakurazaka? bắt đầu từ ngày 19 tháng 10. Đồng thời, nhóm giới thiệu đĩa đơn tiếp theo "Nobody's fault", đây cũng là đĩa đơn đầu tiên sau khi đổi tên với center là Morita Hikaru và đĩa đơn sẽ được ra mắt vào ngày 09/12/. Chỉ có 14 thành viên biểu diễn trong ca khúc chủ đề, thay vì tất cả các thành viên đều xuất hiện cho các đĩa đơn trước đây. Ngoài ra, đĩa đơn này còn chứng kiến sự ra đời của "Sakura Eight", các thành viên này xuất hiện ở mọi B-side. "Nobody's Fault" đã được trình diễn tại NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 71. Vào ngày 4 tháng 1 năm 2021, Rina Matsuda thay thế Akane Moriya làm đội phó của nhóm; Yūka Sugai vẫn là đội trưởng.
Tranh cãi
Năm 2016, Sakurazaka46 bị Trung tâm Simon Wiesenthal chỉ trích vì mặc trang phục giống quân phục của quân đội phát xít Đức và yêu cầu nhà sản xuất cũng như Sony Music xin lỗi.
Thành viên
Đĩa nhạc
Đĩa đơn
Album tổng hợp
Phim & Chương trình truyền hình
Chương trình và phim truyền hình
(TV Tokyo, 4 tháng 10 năm 2015 –)
KeyaBingo! (NTV, 5 July – ngày 26 tháng 9 năm 2016)
(TV Tokyo, 17 tháng 7 – 2 tháng 10 năm 2016)
KeyaBingo! 2 (NTV, 9 tháng 1 năm 2017 – 27 tháng 3 năm 2017)
Zankokuna Kankyakotachi
KeyaBingo!3 (NTV, 17 tháng 7 – 25 tháng 9 năm 2017)
Re:Mind (TV Tokyo & Netflix, tháng 10 năm 2017)
Hiragana Oshi (ひらがな推し) (TV Tokyo, 8 tháng 4 năm 2018 –)
KeyaBingo!4 Hiragana Keyakitte Nani? (KEYABINGO!4 ひらがなけやきって何?) (NTV, 16 tháng 4 năm 2018 –)
Chương trình radio
Keyakizaka46 no All Night Nippon (Nippon Broadcasting System, 5 tháng 1 năm 2016)
(Nippon Broadcasting System, 31 tháng 1, 28 tháng 2, và 27 tháng 3 năm 2016)
Keyakizaka46 Kochira Yūrakuchō Hoshizora Hōsōkyoku (Nippon Broadcasting System, 2016-)
Giải thưởng
Dưới đây là bảng giải thưởng tiêu biểu của nhóm
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sakurazaka46 trên Apple Music
Sakurazaka46 trên Spotify
Ban nhạc Nhật Bản
Thần tượng Nhật Bản
Âm nhạc năm 2015
Nghệ sĩ của Sony Music Entertainment
Nhóm nhạc pop Nhật Bản | VI_open-0000004515 | Arts_and_Entertainment |
Vụ bắt cóc Pascagoula là một hiện tượng UFO và người ngoài hành tinh bắt cóc được cho là xảy ra vào năm 1973 khi hai người đồng nghiệp Charles Hickson và Calvin Parker đã tuyên bố họ bị người ngoài hành tinh bắt cóc khi đang câu cá ở gần Pascagoula, Mississippi. Vụ việc đã thu hút sự chú ý của các phương tiện truyền thông đại chúng.
Diễn biến vụ bắt cóc
Vào chiều ngày 11 tháng 10 năm 1973, Charles Hickson 42 tuổi và Calvin Parker 19 tuổi đã kể lại cho viên cảnh sát tại trụ sở Cảnh sát trưởng ở Quận Jackson, Mississippi rằng họ đang câu cá trên bến tàu phía tây của sông Pascagoula ở Mississippi thì bất ngờ vang lên một tiếng rít, làm cho họ phải quay đầu lại. Một vật thể thon dài 30–40 feet và cao 8–10 feet với những tia lửa màu xanh da trời nhấp nháy tiến đến phía họ, rồi dừng lại cách mặt đất khoảng 1 m, cửa mở và xuất hiện ba vật gớm ghiếc, "bơi theo không khí". Tầm vóc gần 1,5 m với chiếc đầu dài, không thấy có cổ, những đôi tay dài ngoẵng với phần kết thúc trông tựa như cái kìm. Những con vật này không có quần áo, chỉ có một lớp da màu trắng, nhăn nheo phủ chúng thôi. Đầu hói, mắt là một khe hở, tai là hai cái hình nón nhô ra, ở vị trí của mũi cũng lồi như thế, miệng cũng chỉ là một khe hở. Hai vật này nhấc Hickson lên, vật thứ ba thì chăm sóc Parker đang nằm bất tỉnh nhân sự. Hickson tê liệt, mất cảm giác và mất trọng lượng cơ thể, "được kéo đi" trong không khí về hướng con tàu. Bên trong vật thể có ánh sáng chói không biết từ đâu phát ra. Hickson treo lơ lửng trong không khí, không cựa quậy được tí nào, rơi vào trước cỗ máy giống như "con mắt lớn". Sau đó, như lời Hickson và Parker kể lại là hai người chỉ đường cho "con mắt" đi khắp các ngả, rồi được đưa lên bờ và vật thể thon dài mất hút ngay trước mắt.
Công khai sự việc
Chỉ trong vòng vài ngày, Pascagoula đã trở thành tâm điểm của một câu chuyện tin tức quốc tế, với các phóng viên tràn ngập thị trấn. Nhà nghiên cứu UFO James Harder của Tổ chức Nghiên cứu Hiện tượng trên Không (Aerial Phenomena Research Organization) và J. Allen Hynek đã đến phỏng vấn cả hai người. Bằng nỗ lực thôi miên một cách khó nhọc và đưa ra kết luận là Hickson và Parker "đã trải nghiệm một hiện tượng ngoài hành tinh", trong khi Hynek tin rằng họ có "một trải nghiệm thực sự đáng sợ". Hickson về sau thường xuất hiện trên các buổi nói chuyện, đăng đàn diễn thuyết và trả lời các cuộc phỏng vấn, và năm 1983 đã sáng tác một cuốn sách tự xuất bản có nhan đề UFO Contact at Pascagoula. Hickson đã đưa ra lời tuyên bố về những cuộc gặp gỡ thêm nữa với người ngoài hành tinh vào năm 1974, xác nhận rằng người ngoài hành tinh nói với họ rằng họ là chủng loài "ôn hòa". Parker sau đó có tham dự những hội nghị toàn quốc về UFO và năm 1993 bắt đầu thành lập một công ty được gọi là "UFO Investigations" để sản xuất các câu chuyện truyền hình về UFO. Charles Hickson qua đời ở tuổi 80 vào ngày 9 tháng 9 năm 2011.
Hoài nghi tính xác thực
Nhà báo hàng không và người hoài nghi về UFO Philip J. Klass đã tìm thấy "sự khác biệt" trong câu chuyện của Hickson. Khi Hickson làm một cuộc kiểm tra qua máy phát hiện nói dối, cỗ máy xác định rằng Hickson tin tưởng chuyện bắt cóc, nhưng Klass cho rằng cuộc kiểm tra được thực hiện bởi một người vận hành "thiếu kinh nghiệm" và Hickson đã từ chối tham gia một cuộc kiểm tra khác dưới sự điều khiển của một viên cảnh sát giàu kinh nghiệm. Klass đã kết luận trường hợp này chỉ là một trò lừa bịp dựa trên những sai trái này và những sai trái khác. Nhà điều tra hoài nghi Joe Nickell đã viết rằng hành vi của Hickson trông thực "đáng nghi ngờ" và ông ta đã thay đổi hoặc thêm thắt cho câu chuyện của mình khi xuất hiện trên các chương trình truyền hình sau này. Nickell đoán rằng Hickson có thể đã tưởng tượng ra cuộc gặp gỡ với người ngoài hành tinh "trong lúc mơ màng", và thêm rằng sự chứng thực về câu chuyện của Parker có thể là do gợi ý kể từ khi anh ta nói với cảnh sát rằng anh đã "bỏ qua phần đầu vụ việc và lấy lại ý thức không thành công cho đến khi nó kết thúc".
Xem thêm
Danh sách tiêu biểu về những hiện tượng UFO
Tham khảo
Liên kết ngoài
All They Meant To Do Was Go Fishing (NICAP transcript of an interview with Hickson and Parker)
Mississippi năm 1973
Pascagoula, Mississippi
Báo cáo người ngoài hành tinh bắt cóc | VI_open-0000004516 | Sensitive_Subjects |
Chiến tranh tôn giáo hay Thánh Chiến () là một thể loại chiến tranh phát sinh chủ yếu vì các vấn đề tôn giáo. Trong giai đoạn hiện đại, có tranh luận phổ biến về mức độ của các khác biệt về tôn giáo, kinh tế, hoặc sắc tộc chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong một cuộc chiến tranh nhất định. Một số người cho rằng do khái niệm "tôn giáo" là một phát minh của thời hiện đại, thuật ngữ "chiến tranh tôn giáo" không áp dụng cho hầu hết các cuộc chiến tranh trong lịch sử. Trong một số xung đột bao gồm xung đột Israel–Palestine, nội chiến Syria, và các cuộc chiến tại Afghanistan và Iraq, các lập luận tôn giáo được trình bày công khai nhưng được miêu tả như là cơ sở hoặc cực đoan tôn giáo phụ thuộc vào quan điểm cá nhân. Tuy nhiên, các nghiên cứu về những trường hợp này thường kết luận rằng các mâu thuẫn sắc tộc là động lực chính của nhiều cuộc xung đột.
Tham khảo
Xem thêm
Thánh chiến
Sách tham khảo
Nigel Cliff, Holy War: How Vasco da Gama's Epic Voyages Turned the Tide in a Centuries-Old Clash of Civilizations, HarperCollins, , 2011.
Roger Crowley, 1453: The Holy War for Constantinople and the Clash of Islam and the West, Hyperion, , 2013.
Reuven Firestone, Holy War in Judaism: The Fall and Rise of a Controversial Idea, Oxford University Press, , 2012.
Sohail H. Hashmi, Just Wars, Holy Wars, and Jihads: Christian, Jewish, and Muslim Encounters and Exchanges, Oxford University Press, , 2012.
James Turner Johnson, The Holy War Idea in Western and Islamic Traditions, Pennsylvania State University Press, , 1997.
Dianne Kirby, Religion and the Cold War, Palgrave Macmillan, (2013 reprint)
Steven Merritt Miner, Stalin's Holy War: Religion, Nationalism, and Alliance Politics, 1941-1945, Univ of North Carolina Press, , 2003.
David S. New, Holy War: The Rise of Militant Christian, Jewish and Islamic Fundamentalism, McFarland, , 2013.
Liên kết ngoài
Wars of Religion
Maps of War, History of Religion
Chiến tranh tôn giáo
Trải nghiệm và hành vi tôn giáo
Chiến tranh theo loại | VI_open-0000004517 | People_and_Society |
Bệnh hiếm gặp là bất kỳ bệnh nào ảnh hưởng đến một tỷ lệ nhỏ dân số. Ở một số nơi trên thế giới, bệnh mồ côi là một bệnh hiếm gặp mà hiếm có nghĩa là thiếu một thị trường đủ lớn để có được sự hỗ trợ và nguồn lực để khám phá các phương pháp điều trị cho nó, ngoại trừ việc chính phủ tạo điều kiện thuận lợi về mặt kinh tế để tạo ra và bán các phương pháp điều trị đó.
Hầu hết các bệnh hiếm gặp là do di truyền và do đó có mặt trong suốt cuộc đời của người bệnh, ngay cả khi các triệu chứng không xuất hiện ngay lập tức. Nhiều bệnh hiếm gặp xuất hiện sớm trong cuộc đời, và khoảng 30 phần trăm trẻ em mắc bệnh hiếm gặp sẽ chết trước khi sinh nhật thứ năm. Chỉ với một bệnh nhân được chẩn đoán duy nhất, thiếu hụt ribose-5-phosphate isomerase được xem là bệnh di truyền hiếm nhất.
Không có số cắt đơn lẻ nào đã được đồng ý cho một căn bệnh được coi là hiếm. Bệnh có thể được coi là hiếm ở một phần của thế giới, hoặc ở một nhóm người cụ thể, nhưng vẫn phổ biến ở một quốc gia khác.
Các gen toàn cầu đã ước tính rằng hơn 300 triệu người trên thế giới đang sống với một trong số 7.000 bệnh mà họ xác định là "hiếm" ở Hoa Kỳ.
Định nghĩa
Không có một định nghĩa đơn lẻ nào được chấp nhận rộng rãi đối với các bệnh hiếm gặp. Một số định nghĩa chỉ dựa vào số người mắc bệnh, và các định nghĩa khác bao gồm các yếu tố khác, chẳng hạn như sự tồn tại của phương pháp điều trị thích hợp hoặc mức độ nghiêm trọng của căn bệnh.
Tại Hoa Kỳ, Đạo luật Bệnh hiếm năm 2002 xác định bệnh hiếm gặp theo mức độ phổ biến, cụ thể là "bất kỳ bệnh hoặc tình trạng nào ảnh hưởng đến ít hơn 200.000 người ở Hoa Kỳ", hoặc khoảng 1 trên 1.500 người. Định nghĩa này về cơ bản giống như Đạo luật về Thuốc Lá Orphan năm 1983, một luật liên bang được viết để khuyến khích nghiên cứu các bệnh hiếm gặp và các liệu pháp chữa bệnh có thể xảy ra.
Ở Nhật Bản, định nghĩa pháp luật về bệnh hiếm gặp là một bệnh có ảnh hưởng đến 50.000 bệnh nhân ở Nhật Bản, hoặc khoảng 1 trong 2.500 người.
Tuy nhiên, Ủy ban Châu Âu về Y tế công cộng xác định các bệnh hiếm gặp là "bệnh đe dọa đến tính mạng hoặc bệnh suy nhược kinh niên đang có tỷ lệ thấp như vậy cần nỗ lực kết hợp đặc biệt để giải quyết". Thuật ngữ tỷ lệ thấp sau đó được định nghĩa là nói chung có nghĩa là ít hơn 1 trên 2.000 người. Các bệnh hiếm gặp về mặt thống kê, nhưng cũng không đe dọa đến mạng sống, làm suy nhược mãn tính, hoặc điều trị không đầy đủ, được loại trừ khỏi định nghĩa của họ.
Các định nghĩa được sử dụng trong các tài liệu y tế và các kế hoạch y tế quốc gia được chia ra tương tự, với các định nghĩa khác nhau, từ 1 / 1.000 đến 1 / 200.000.
Đặc tính
Bệnh hiếm thường là do di truyền và do đó mãn tính. EURORDIS ước tính rằng ít nhất 80% trong số họ đã xác định nguồn gốc di truyền. Các bệnh hiếm gặp khác là kết quả của nhiễm trùng và dị ứng hoặc do các nguyên nhân thoái hoá và sinh sôi nảy nở.
Các triệu chứng của một số bệnh hiếm gặp có thể xuất hiện khi trẻ được sinh ra hoặc trong thời thơ ấu, trong khi những người khác chỉ xuất hiện khi đạt được tuổi trưởng thành.
Các ấn phẩm nghiên cứu nhấn mạnh đến các bệnh hiếm gặp có tính mãn tính hoặc không chữa được, mặc dù nhiều điều kiện y khoa ngắn hạn cũng là bệnh hiếm gặp.
Nghiên cứu cộng đồng và chính sách chính phủ
Văn phòng Nghiên cứu Bệnh hiếm của Bộ Y tế (ORDR) được thành lập bởi H.R. 4013 / Luật Công 107-280 năm 2002. H.R 4014, ký cùng ngày, đề cập đến "Đạo luật Phát triển Sản phẩm Trẻ Em Bệnh hiếm". Các sáng kiến tương tự đã được đề xuất ở Châu Âu. Tổ chức ORDR cũng điều hành Mạng lưới Nghiên cứu Lâm sàng về Bệnh hiếm (RDCRN). RDCRN cung cấp hỗ trợ cho các nghiên cứu lâm sàng và tạo điều kiện hợp tác, nghiên cứu tuyển sinh và chia sẻ dữ liệu.
Năm 2013, chính phủ Vương quốc Anh đã công bố Chiến lược phòng chống bệnh hiếm của Vương quốc Anh nhằm đảm bảo rằng không ai bị bỏ lại chỉ vì họ có một căn bệnh hiếm gặp với 51 khuyến cáo về chăm sóc và điều trị trên khắp Vương quốc Anh sẽ được thực hiện vào năm 2020. Các dịch vụ y tế ở bốn quốc gia thành viên đã đồng ý thông qua kế hoạch thực hiện vào năm 2014 nhưng đến tháng 10 năm 2016, Cơ quan Y tế Anh không đưa ra kế hoạch và nhóm nghị sĩ của tất cả các đảng đối với các Điều kiện về bệnh hiếm, di truyền học và chưa được chẩn đoán đã đưa ra một báo cáo Không để ai bị đằng sau: cần một kế hoạch thực hiện cho Chiến lược phòng chống bệnh hiếm của Anh vào tháng 2 năm 2017. Vào tháng 3 năm 2017, có thông báo rằng NHS England sẽ xây dựng một kế hoạch thực hiện.
Nhận thức cộng đồng
Ngày bệnh hiếm gặp được tổ chức tại Châu Âu, Canada và Hoa Kỳ vào ngày cuối tháng 2 để nâng cao nhận thức về các bệnh hiếm gặp.
Xem thêm
ICD coding for rare diseases
Health care rationing
List of rare disease organisations
Mystery Diagnosis
Rare Disease Day
Syndrome Without A Name
Undiagnosed Diseases Network
Tham khảo
Liên kết ngoài
NIH's Genetic and Rare Diseases Information Center
Database of rare diseases at Orphanet
National Organization for Rare Disorders
Rare diseases search engine
Dịch tễ học
Bệnh hiếm gặp | VI_open-0000004518 | Health |
Titani(III) nitride là một vật liệu gốm rất cứng, thường được sử dụng làm chất phủ trên các hợp kim titan, thép, carbide và nhôm để cải thiện tính chất bề mặt của chất nền. Công thức hóa học của hợp chất này là TiN. Hợp chất được sử dụng như một lớp phủ mỏng, được sử dụng để làm cứng và bảo vệ bề mặt cắt và bề mặt trượt, và cũng thường được sử dụng với mục đích trang trí (do màu sắc cảm qua bên ngoài của nó có màu giống như vàng) và cũng được sử dụng làm lớp phủ không độc hại cho ngành y tế cấy ghép. Trong hầu hết các ứng dụng, lớp phủ có độ dày dưới 5 µm (0,0002 in) được cho phép.
Sử dụng
Một ứng dụng quan trọng của lớp phủ titani(III) nitride là có tác dụng giữ cạnh và chống ăn mòn trên các máy công cụ, chẳng hạn như máy khoan và máy phay cắt, và thường giúp cải thiện chất lượng, kéo dài vòng đời công cụ.
Tồn tại trong tự nhiên
Osbornit là một dạng tự nhiên rất hiếm của hợp chất titan(III) nitride và thường được tìm thấy phần lớn chất này trong các thiên thạch.
Tham khảo
Hóa chất
Hợp chất titani
Hợp chất nitơ
Muối nitride | VI_open-0000004519 | Health |
Kumimanu biceae là một loài chim cánh cụt khổng lồ thời tiền sử đã tuyệt chủng, hóa thạch của chúng được tìm thấy ở New Zealand và khám phá này được công bố vào tháng 12 năm 2017. Việc mô tả một loài khổng lồ mới từ cuối kỷ Paleocene của New Zealand, mà chứng minh sự tiến hóa rất sớm của loài có kích thước cơ thể lớn trong các loài chim cánh cụt.
Phát hiện
Các nhà khoa học đã phát hiện xương chim cánh cụt cổ có kích thước bằng con người ở New Zealand. Những tàn tích hóa thạch của một con chim cánh cụt nặng 16 stone (101,6 kg) lớn như một con người vừa được khai quật ở bờ biển New Zealand. Một xương đùi 6 inch (15 cm), cùng với các bộ phận của xương cánh, xương vai, xương ngực và xương chân của K. biceae được phát hiện trên bãi biển Hampden ở Otago. Ngoài ra còn có là một phần của xương chậu cùng với ba đốt sống và các mảnh xương khác được khai quật từ một hình thành đá 186 dặm về phía tây nam của sông Waipara.
Độ tuổi của mẫu vật làm cho nó trở thành một trong những chú chim cánh cụt khổng lồ đầu tiên và sự phát hiện ra nó đã làm sáng tỏ sự tiến hóa của loài chim biển không biết bay. Hóa thạch mới là một trong những loài chim cánh cụt khổng lồ cổ nhất được tìm thấy cho đến nay chứng tỏ nguồn gốc khổng lồ trong các loài chim cánh cụt hóa thạch. Một bộ xương hóa thạch của chim cánh cụt to gần bằng kích thước con người mở ra nhiều nghi vấn mới về tổ tiên của loài chim không biết bay này.
Đặc điểm
Loài động vật khổng lồ này cao 5 feet 8 inch (1,72m) và có niên đại từ 60 đến 55 triệu năm trước. K. biceace lớn hơn tất cả các loài chim cánh cụt hóa thạch khác có phần đáng kể xương được giữ gìn. Các phép đo bộ xương cho thấy tổ tiên của loài chim không biết bay này nặng khoảng 100 kg và cao 1,77 m. So với loài chim cánh cụt hoàng đế cao nhất hiện nay thì chỉ đạt được khoảng 1,2 m chiều cao tối đa khi trưởng thành.
Chúng có thể vóc cao đến 170 cm (67 in) từ điểm đầu đến điểm cuối cơ thể, khi đứng bình thường thì chúng cao khoảng 140 cm (55 in) và trọng lượng ước đạt 100 kg (220 lb). Chúng được coi là loài chim cánh cụt lớn nhất từng biết đến, chúng sống cách đây từ 60-56 triệu năm, và phát triển mạnh kể từ Sự kiện tuyệt chủng của khủng long.
K. biceae là một trong số những con chim cánh cụt hóa thạch lớn nhất được biết đến cho đến nay và có thể chỉ nhỏ hơn kích thước của P. klekowskii từ Eocene ở Nam Cực. Thay vì màu đen trắng thông thường, chim cánh cụt cổ có thể có màu nâu và mỏ dài hơn thế hệ ngày nay. Rất có thể nó cũng thon thả hơn và trông không được dễ thương như những loài cánh cụt bây giờ.
Giả thiết
Chim cánh cụt khổng lồ được ghi chép lại từ 50 đến 20 triệu năm trước nhưng những con chim cổ hơn thì hiếm và chỉ có hai loài khác được biết đến từ khoảng thời gian này. Một trong những đặc điểm nổi bật về sự tiến hóa của chim cánh cụt là sự xuất hiện các loài rất lớn trong thời kỳ đầu Đại Tân sinh mà có kích thước cơ thể vượt trội hơn chim cánh cụt lớn nhất hiện tại. Chim cánh cụt khổng lồ phát triển độc lập và sớm.
Một loài chim cánh cụt có khả năng cạnh tranh với loài lớn nhất từng được biết đến trước đây tồn tại trong kỷ Paleocen (kỷ đầu trong ba kỷ của Đại Tân sinh) cho thấy sự gia tăng ở chim cánh cụt đã nảy sinh ngay sau khi những con chim này trở thành thợ lặn không biết bay, chim cánh cụt khổng lồ dường như đã trở nên phổ biến sau khi kết thúc thời kỳ khủng long, vì khoảng thời gian này loài bò sát biển ăn thịt cũng đã tuyệt chủng. Điều này có thể cho phép chim cánh cụt chiếm vị trí chỗ trống trong chuỗi thức ăn.
Mặt khác, sự biến mất của loài chim cánh cụt khổng lồ lại trùng khớp với sự gia tăng của loài động vật có vú biển, như cá voi, cá heo, cá heo chuột và hải cẩu, nhưng nguyên nhân chính xác và cơ chế thay thế cạnh tranh sinh học này vẫn còn chưa được hiểu rõ, sự tiến hóa của chim cánh cụt dường như đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các động vật có xương sống không phải là chim.
Vào thời điểm loài chim không cánh được cho là đã sống, nó có thể đã chia sẻ môi trường cận nhiệt đới ấm áp với các loài chim biển khác, rùa và cá mập. Chim cánh cụt khổng lồ đã tuyệt chủng khoảng 20 triệu năm trước, khi động vật có vú ở biển như cá voi hay hải cẩu xuất hiện. Những con chim cánh cụt đã tiến hóa từ loài chim bay hàng chục triệu năm trước, nhưng rồi mất khả năng bay và trở thành động vật bơi lội. Sau khi nối đất, một số loài chim cánh cụt đã trở nên lớn hơn, tăng từ khoảng 80 cm đến gấp đôi kích thước.
Tham khảo
Gerald Mayr et al. A Paleocene penguin from New Zealand substantiates multiple origins of gigantism in fossil Sphenisciformes, in: Nature Communications 8 1927 (2017) (published online 12. December 2017). DOI: 10.1038/s41467-017-01959-6
Phát hiện dấu vết chim cánh cụt to bằng người
Phát hiện xương chim cánh cụt cổ có kích thước bằng con người ở New Zealand
Tổ tiên chim cánh cụt cao bằng con người
Bộ Chim cánh cụt
Động vật tuyệt chủng
Hóa thạch
New Zealand
Cổ sinh vật học | VI_open-0000004520 | Pets_and_Animals |
Grace Avery VanderWaal (sinh ngày 15 tháng 01 năm 2004) là nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ đến từ Suffern, New York. Cô được biết đến rộng rãi từ khi còn nhỏ với giọng hát đặc trưng và thường biểu diễn cùng cây đàn ukulele và đã nhận được nút vàng của Howie Mandel trong America's Got Talent mùa 11. Cô thắng trong cuộc thi America's Got Talent 2016
VanderWaal bắt đầu sự nghiệp âm nhạc của cô bằng việc đăng tải các bài hát do chính cô sáng tác và những bản cover được cô thể hiện lên YouTube. Cô cũng biểu diễn tại các buổi trình diễn nhỏ ngoài trời hoặc trong các quán café gần nơi cô sinh sống. Vào tháng 09 năm 2016, khi chỉ mới 12 tuổi, cô đã chiến thắng cuộc thi truyền hình nổi tiếng Tìm kiếm tài năng nước Mỹ (America's Got Talent) mùa thứ 11 của đài NBC. Trong suốt cuộc thi, cô luôn trình diễn tất cả các ca khúc do chính cô sáng tác. Vào tháng 12 năm 2016, Grace VanderWaal công bố đĩa mở rộng đầu tiên trong sự nghiệp của cô mang tên Perfectly Imperfect do hãng đĩa Columbia Records phát hành.
Cô từng biểu diễn tại Planet Hollywood Resort & Casino tại Las Vegas, Madison Square Garden, buổi lễ khai mạc và bế mạc Thế Vận hội mùa Đông 2017 diễn ra tại Áo, Liên hoan Âm nhạc Thành phố Austin và một số chương trình truyền hình khác. Vào năm 2017, cô đã chiến thắng giải thưởng Radio Disney Music Award cho hạng mục Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất và Teen Choice Awards, cô đã hai lần được xứng tên trong danh sách 21 ngôi sao trẻ dưới 21 tuổi của tạp chí Billboard, và đã nhận được Giải thưởng Ngôi sao Âm nhạc Rising Star năm 2017 của Billboard. Vào tháng 11 năm 2017, VanderWaal phát hành album đầu tay với tựa đề Just The Beginning và bắt đầu tour diễn đầu tiên của cô
Thời thơ ấu
Gia đình và giáo dục
Grace VanderWaal sinh vào ngày 15 tháng 01 năm 2004 gần Kansas City, Kansas, cha mẹ cô là Tina và David VanderWaal, vào thời điểm đó đang sinh sống tại Lenexa. Cha cô David là một người gốc Hà Lan và hiện đang làm phó chủ tịch tiếp thị của tập đoàn LG Electronics. VanderWaal chuyển đến Suffern, New York, nơi cô sinh sống cùng cha mẹ và người chị gái, cô cũng có một người anh trai. Sau khi chiến thắng cuộc thi America's Got Talent, VanderWaal đã chuyển sang học tại nhà và bắt đầu đăng ký tham gia các khóa học online dành cho học sinh thuộc khối lớp 7, sau đó cô quay trở lại trường học và tiếp tục học chương trình lớp 8.
Những nỗ lực âm nhạc đầu tiên
VanderWaal bắt đầu sáng tác những bài hát đầu tiên khi cô mới lên 3 với việc sử dụng một micro không dây khi sáng tác nhạc. Ở tuối thiếu niên, cô đã tìm thấy cảm hứng sáng tác nhạc bằng việc xem phim và cố gắng tưởng tượng nên những suy nghĩ của các nhân vật, và rằng "Sẽ ra sao nếu tôi là họ, và viết một bài hát?". Cô cũng quyết định chơi ukulele sau khi xem một người thân của gia đình chơi loại nhạc cụ này, cùng với đó cô cũng xem những video âm nhạc của Twenty One Pilots trên YouTube. Sau đó cô đã dành số tiền của mình mà cô đã nhận được trong lần sinh nhật lần thứ 11 của mình để mua một cây đàn ukulele. Cô cũng đã từng chơi saxophone khi còn trong ban nhạc của trường.
Tham khảo
Sinh năm 2004
Ca sĩ Mỹ thế kỷ 21
Ca sĩ thiếu nhi Mỹ
Nữ ca sĩ Mỹ
Người Mỹ gốc Hà Lan
Ca sĩ-người viết bài hát Mỹ
Nghệ sĩ của Columbia Records
Nhân vật còn sống
Người viết bài hát New York
Nữ ca sĩ thế kỷ 21 | VI_open-0000004521 | Arts_and_Entertainment |
là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản hiện tại thi đấu cho câu lạc bộ Nhật Bản V-Varen Nagasaki.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Cập nhật đến ngày 23 tháng 2 năm 2017.
1Bao gồm Cúp Hoàng đế Nhật Bản.
2Bao gồm J. League Cup.
3Bao gồm Giải bóng đá vô địch Suruga Bank và J1 Promotion Playoffs.
Thống kê sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Số lần ra sân trong các giải đấu lớn
Giải thưởng và danh hiệu
Câu lạc bộ
F.C. Tokyo
J2 League (1): 2011
Cúp Hoàng đế Nhật Bản (1): 2011
J. League Cup (1): 2009
Giải bóng đá vô địch Suruga Bank (1): 2010
Tham khảo
Liên kết ngoài
Profile at Avispa Fukuoka
Sinh năm 1985
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Nhật Bản
Cầu thủ bóng đá J1 League
Cầu thủ bóng đá J2 League
Cầu thủ bóng đá Avispa Fukuoka
Cầu thủ bóng đá FC Tokyo
Cầu thủ bóng đá Omiya Ardija
Cầu thủ bóng đá V-Varen Nagasaki
Hậu vệ bóng đá | VI_open-0000004522 | Sports |
Giáo hội Công giáo ở Liban là một phần của Giáo hội Công giáo Rôma có phạm vi trên toàn thế giới và dưới sự lãnh đạo tinh thần của Giáo hoàng tại Rôma.
Có khoảng 1,2 triệu người Công giáo ở Liban, phần lớn trong số họ không phải giáo dân theo nghi lễ Công giáo Latinh, mà thay vào đó theo nghi lễ Công giáo phương Đông, nhưng hiệp thông hoàn toàn, trở thành một bộ phận của Giáo hội Công giáo - chủ yếu là Giáo hội Công giáo Maronite, ngoài ra còn có nhiều nghi lễ Công giáo khác như các nghi lễ Melkite cũng như các nghi lễ Công giáo không có nguồn gốc ở Liban như Armenian, Chaldean và Syriac.
Giáo hội Công giáo Maronite là một trong những Giáo hội Công giáo lớn nhất không chỉ ở quốc gia này mà còn khắp vùng Trung Đông. "Vùng đất Cedars", như Li Băng, được biết đến, là địa điểm duy nhất trong khu vực mà người Công giáo đóng vai trò tích cực trong việc chính trị của một quốc gia. Bên cạnh Tổng thống Cộng hòa, theo Hiến pháp Liban phải là một Công giáo Maronite, trong Quốc hội Lebanon, có 43 chỗ dành cho người Công giáo trong tổng số 128 ghế. Người Công giáo cũng đóng vai trò đại diện tích cực trong chính phủ và công chúng.
Cho đến những năm 1960 người Công giáo cũng là thành phần chính của dân số và chiếm 43% trong tổng số dân của Liban. Ngày nay, họ chỉ còn chiếm 27% tổng dân số, trong đó Giáo hội nghi lễ Maronites chiếm 21%, Melkites 5% và không phải người bản xứ với các nghi lễ Công giáo Liban, người Công giáo Armenia chỉ chiếm 1%.
Lịch sử gần đây
Cộng đồng người Hồi giáo và Kitô giáo chung sống với nhau trong nhiều thế kỷ. Sự chung sống này được đưa vào Hiệp ước quốc gia, và được phê chuẩn vào năm 1943, tạo ra một nền dân chủ dựa trên các cộng đồng tôn giáo. Đất nước này đã trở thành một ví dụ tốt về sự chung sống của tôn giáo và dân tộc. Nhưng sự tốt đẹp này chỉ kéo dài vài thập kỷ. Các cộng đồng lớn hơn, Kitô giáo và Hồi giáo, đã gặp nhiều trở ngại bởi cuộc nội chiến lâu đời của Liban nổ ra trong khoảng thời gian từ năm 1975 đến năm 1990. Các phân khu của từng tôn giáo tại thủ đô Beirut được định lại: 65.000 người Hồi giáo Shiite rời bỏ khu vực của họ; từ các khu vực nội địa, ngược lại, với 80.000 người Maronites và Druzes di cư ồ ạt đến. Kết quả của cuộc nội chiến, các Kitô hữu dần dần rời bỏ Tây Beirut. Ngoài ra, một cuộc di dân, lẩn trốn tập thể bao gồm hàng chục ngàn thường dân, bao gồm cả Kitô hữu, người Druze và người Hồi giáo Sunni.
Không có những biến động nội bộ, trong khoảng thời gian này hàng chục ngàn người tị nạn Palestine đã di cứ vào nước này. Vào thời cuối của cuộc Nội chiến Liban, các Kitô hữu, đa số, đã trở nên thành phần thiểu số của quốc gia này.
Năm 1995, Liban được tổ chức một Hội đồng Giám mục đặc biệt, được triệu tập bởi Giáo hoàng Gioan Phaolô II tại Rôma.
Địa phận và thống kê
Từ năm 1954, Toà Thánh đã có trụ sở đại diện tại Liban, Tòa Sứ thần Tòa Thánh đặt tại Beirut [2]. Vào năm 2010, Liban có 15.000 người Công giáo Rôma, 161 linh mục và 8 giáo xứ trong năm 2010. Tính đến năm 2005, có 1.883.000 người Công giáo tại Li Băng (chủ yếu là người Công giáo thuộc các nghi lễ đông phương), với 23 giám mục, 1.603 linh mục và 1.253 giáo xứ thuộc sáu nghi thức Công giáo khác nhau.
Các nghi lễ của Giáo hội Công giáo ở Liban
Ngoài Giáo hội Công giáo Rôma với nghi lễ Latinh, còn có năm Giáo hội Công giáo khác, hiệp thông hoàn toàn với Rôma, gọi với thuật ngữ Sui iuris. Mỗi giáo hội này đều có tính đặc trưng bởi một nghi lễ phụng vụ khác biệt. Trong số đó, nghi lễ Công giáo phổ biến chính ở Liban là nghi lễ Syro-Antioch. Nghi lễ Công giáo Antioch lại hình thành hai nhóm riêng biệt: Giáo hội Công giáo Maronite (với giáo đô của nhánh này đặt tại Liban) và Giáo hội Công giáo Syria. Cả hai giáo hội này đều có Giáo khu Thượng phụ (Tòa Thượng phụ) của mỗi giáo hội đặt tại Liban. Ngoài các giáo hội kể trên, Giáo hội Công giáo Hy Lạp Melkite (nhánh Công giáo quan trọng thứ hai ở Liban), Giáo hội Công giáo Armenia và Giáo hội Công giáo Chaldean cũng tồn tại tại quốc gia này.
Sứ thần Tòa Thánh tại Liban
Chức vụ Sứ thần Tòa Thánh ở Liban được thiết lập ngày 21 tháng 3 năm 1947 bởi Giáo hoàng Piô XII.
Danh sách
Dưới đây là danh sách các Sứ thần Tòa Thánh tại Liban:
Alcide Marina, CM (1947 - 18 tháng 9 năm 1950, qua đời)
Giuseppe Beltrami (Sau thăng Hồng y) (4 tháng 10 năm 1950 - 31 tháng 1 năm 1959, thuyên chuyển làm Sứ thần Tòa Thánh tại Hà Lan)
Paolo Bertoli (Sau thăng Hồng y) (15 tháng 4 năm 1959 - 16 tháng 4 năm 1960, thuyên chuyển làm Sứ thần Tòa Thánh tại Pháp)
Egano Righi-Lambertini (Sau thăng Hồng y) (9 tháng 7 năm 1960 - 12 tháng 9 năm 1963, thuyên chuyển làm Sứ thần Tòa Thánh tại Chilê)
Gaetano Alibrandi (9 tháng 12 năm 1963 - 19 tháng 4 năm 1969, thuyên chuyển làm Sứ thần Tòa Thánh tại Ireland)
Alfredo Bruniera (23 tháng 4 năm 1969 - 6 tháng 11 năm 1978, thuyên chuyển làm Quyền Sứ thần Tòa Thánh tại Kuwait)
Carlo Furno (Sau thăng Hồng y) (25 tháng 11 năm 1978 - 21 tháng 8 năm 1982, thuyên chuyển làm Sứ thần Tòa Thánh tại Braxin)
Luciano Angeloni (21 tháng 8 năm 1982 - 31 tháng 7 năm 1989, thuyên chuyển làm Sứ thần Tòa Thánh tại Bồ Đào Nha)
Pablo Puente Buces (31 tháng 7 năm 1989 - 31 tháng 7 năm 1997, thuyên chuyển làm Sứ thần Tòa Thánh tại Anh)
Antonio Maria Vegliò (Sau thăng Hồng y) (2 tháng 10 năm 1997 - 11 tháng 4 năm 2001, bổ nhiệm thành Tổng Thư ký của Thánh bộ Các Giáo hội Công giáo Đông phương)
Luigi Gatti (28 tháng 6 năm 2001 - 16 tháng 7 năm 2009, thuyên chuyển làm Sứ thần Tòa Thánh tại Hy Lạp)
Gabriele Giordano Caccia, (16 tháng 7 năm 2009 - 12 tháng 9 năm 2017, thuyên chuyển làm Sứ thần Tòa Thánh tại Philippines).
Joseph Spiteri, (7 tháng 3 năm 2018 - nay)
Tham khảo
Liban | VI_open-0000004523 | People_and_Society |
Đây là thống kê của Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Bỉ mùa giải 1895-96.
Tổng quan
Giải có sự tham gia của 7 đội, và F.C. Liégeois giành chức vô địch.
Bảng xếp hạng
Xem thêm
Bóng đá Bỉ 1895-96
Tham khảo
1895
Giải bóng đá châu Âu 1895–96
Bóng đá Bỉ 1895–96 | VI_open-0000004526 | Sports |
Du khách đến Sierra Leone phải xin thị thực từ một trong những phái bộ ngoại giao Sierra Leone trừ khi họ đến từ những nước được miễn thị thực.
Bản đồ chính sách thị thực
Miễn thị thực
Công dân của 15 quốc gia sau có thể đến Sierra Leone không cần thị thực:
Thị thực tại cửa khẩu
Người sở hữu hộ chiếu ngoại giao và công vụ của Iran có thể được miễn thị thực tối đa 1 tháng.
Một thỏa thuận giữa Sierra Leone và Saint Kitts và Nevis về miễn thị thực song phương 90 ngày được ký vào tháng 2 năm 2017 nhưng chưa có hiệu lực.
Xem thêm
Yêu cầu thị thực đối với công dân Sierra Leone
Tham khảo
Sierra Leone
Quan hệ ngoại giao của Sierra Leone | VI_open-0000004527 | Travel_and_Transportation |
"Automatic" là bài hát được thu âm bởi nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Red Velvet cho mini album debut của họ Ice Cream Cake (2015). Lời được viết bởi Choi So-young của Jam Factory và produced bởi Daniel "Obi" Klein và Charli Taft, bài hát được phát hành như single đầu tiên của nhóm từ mini album vào ngày 14 tháng 3 năm 2015 bởi SM Entertainment, cùng với MV. Nó đánh dấu lần đầu tiên phát hành của nhóm kể từ khi thêm vào thành viên thứ năm Yeri, và cũng là single thứ hai của nhóm theo "Velvet" concept, kế tiếp single thứ hai của nhóm "Be Natural" vào năm 2014.
Background và phát hành
Trước khi chính thứ thông báo comeback, Red Velvet đã bị phát hiện đang quay MV ở sa mạc của Palmdale, California cho MV vào tháng 2 năm 2015 với thành viên SM Rookies Yeri (cuối cùng được tiết lộ là địa điểm quay của Ice Cream Cake). Vào ngày 11 tháng 3 năm 2015, SM Entertainment chính thức giới thiệu Yeri là thành viên mới của Red Velvet thông qua video đăng tải trên kênh YouTube của họ, cùng với ảnh teaser của Irene và Joy. Vào cùng ngày, họ tiết lộ tựa đề của album đầu tiên của nhóm là Ice Cream Cake, sẽ được phát hành vào ngày 18 tháng 3 năm 2015. Video chính thức cho "Automatic" được đăng tải trên kênh chính thức SMTOWN vào ngày 14 tháng 3, bài hát chính thức phát hành digital vào ngày 17 tháng 3.
MV và quảng bá
MV cho "Automatic" được directed bởi Shin Hee-won, người đã chỉ đạo cho một vài single của nhóm sau này "One of These Nights", "Russian Roulette" và "Rookie". Tất cả năm thành viên trong một hình ảnh nhẹ nhàng và trưởng thành hơn.
Như là một phần của quảng bá Ice Cream Cake, một short version của "Automatic" được trình diễn live trong tuần đầu tiên quảng bá trên các chương trình âm nhạc M Countdown, Music Bank và Inkigayo . Bài hát sau đó được trình diễn với vũ đạo lần đầu tiên thông qua concert đầu tiên của Red Velvet Red Room vào tháng 8 năm 2017.
Bảng xếp hạng
Bảng xếp hạng hàng tuần
Lịch sử phát hành
Liên kết khác
"Automatic" music video
Tham khảo
Đĩa đơn năm 2015
Bài hát năm 2015
Bài hát của Red Velvet | VI_open-0000004529 | Arts_and_Entertainment |
Anthony Soter Fernandez (1932-2020) là một hồng y người Malaysia của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Tổng giám mục chính tòa của Tổng giáo phận Kuala Lumpur, thủ đô Malaysia trong hai mươi năm từ 1983 đến 2003 và có hai lần đắc cử và phục vụ với cương vị Chủ tịch Hội đồng Giám mục Malaysia, Singapore và Brunei.
Tiểu sử
Hồng y Anthony Soter Fernandez sinh ngày 22 tháng 4 năm 1932 tại Sungai Patani, Malaysia. Sau quá trình tu học dài hạn theo Giáo luật quy định, ngày 10 tháng 2 năm 1966, ông được truyền chức linh mục. Tân linh mục là thành viên linh mục đoàn Giáo phận Penang.
Ngày 29 tháng 9 năm 1977, ở tuổi 45, Tòa Thánh loan báo thông tin về việc giáo hoàng đã quyết định tuyển chọn linh mục Anthony Soter Fernandez làm Giám mục chính tòa Giáo phận Penang. Lễ tấn phong cho vị tân chức được tổ chức sau đó khá lâu vào ngày 17 tháng 2 năm 1978. Ba giáo sĩ tham gia nghi lễ tấn phong giám mục là Gregory Yong Sooi Ngean, Tổng giám mục chính tòa Tổng giáo phận Singapore và hai vị phụ phong khác là Giám mục James Chan Soon Cheong, Giám mục chính tòa Giáo phận Melaka-Johor và Giám mục Anthony Lee Kok Hin từ Giáo phận Miri. Tân giám mục chọn cho mình châm ngôn: Keadilan dan keamanan.
Ngày 2 tháng 7 năm 1983, thông tin từ Tòa Thánh cho biết về việc thăng Giám mục Fernandez làm Tổng giám mục Tổng giáo phận Kualar Lumpur, thủ đô Malaysia. Sau hai mươi năm trên cương vị này, ngày 24 tháng 5 năm 2003, Tổng giám mục Fernandez từ nhiệm khỏi chức vị tại Kualar Lumpur, tuy chỉ mới 71 tuổi, nhưng vẫn được phía Tòa Thánh cho phép.
Trong Công nghị Hồng y 2016 cử hành ngày 19 tháng 11, Giáo hoàng Phanxicô bất ngờ loan báo vinh thăng nguyên tổng giám mục Kualar Lumpur lên tước vị Hồng y nhà thờ Sant'Alberto Magno. Tân hồng y cao tuổi đã đến nhận nhà thờ hiệu tòa của mình chỉ hai ngày sau đó. Vì quá 80 tuổi giới hạn về tuổi để được tham dự mật nghị hồng y chọn giáo hoàng, nên Hồng y Fernandez không bao giờ được quyền tham dự mật nghị Hồng y.
Ngoài các chức danh chính thức phía Tòa Thánh bổ nhiệm, ông còn đảm nhiệm chức danh Chủ tịch Hội đồng Giám mục Malaysia, Singapore và Bruniei trong hai khoảng thời gian gián đoạn: từ 1987 đến 1990 và từ 2000 đến 2003.
Ông qua đời ngày 28 tháng 10 năm 2020, thọ 88 tuổi.
Tham khảo
Sinh năm 1932
Hồng y
Giám mục Công giáo Malaysia
Mất năm 2020 | VI_open-0000004531 | People_and_Society |
Yosep VI Audo (1790 - 1878; cách phiên âm khác:Joseph VI Audu) là một Thượng phụ người Iraq của Giáo hội Công giáo nghi lễ Chaldeans, trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Thượng phụ Tòa Thượnh phụ Babylon nghi lễ Chaldeans, trong vòng ba mươi năm từ năm 1848 cho đến khi qua đời vào năm 1878. Trước đó, ông từng đảm nhận vị trí khác như Giám mục chính tòa các Giáo phận như: Giáo phận Amadiyah và Giáo phận Mossul.. Thượng phụ Yosep VI Audo cũng là một thượng phụ tham dự vào Công đồng Vatican I.
Tiểu sử
Thượng phụ Yosep VI Audo sinh năm 1790 tại vùng Alkosch, thuộc đất nước Iraq. Sau quá trình tu học dài hạn tại nhiều cơ sở chủng viện theo những quy định của Giáo luật, năm 1818, Phó tế Audo, 28 tuổi, tiến đến việc anh hằng mong đợi là được phong chức linh mục.
Sau bảy năm thực hiện các trách vụ của một người linh mục, Giáo hội Chaldeans ra quyết định tuyển chọn linh mục Audo, 35 tuổi vào hàng ngũ các Giám mục của Giáo hội này, với vị trí được bổ nhiệm chính thức là Giám mục chính tòa Giáo phận Mossul, tọa lạc tại Iraq. Lễ tấn phong cho vị giám mục tân cử được cử hành vào ngày 25 tháng 3 năm 1825, với phần nghi thức truyền chức chính yếu do chủ phong là Tổng giám mục Augustin Hindi, Tổng giám mục chính tòa Tổng giáo phận Diarbekir (Amida), thuộc Giáo hội nghi lễ Chaldeans.
Tám năm sau khi được tấn phong cho Giáo phận Mossul, năm 1833, Giám mục Audo được thuyên chuyển làm Giám mục chính tòa Giáo phận Amadiyah, nghi lễ Chaldeans. Trách vụ tại đây của Giám mục Audo cũng đột ngột chấm dứt bởi quyết định của hội đồng giáo hội Chaldeans, qua đó, hội đồng này đã thống nhất bầu chọn Giám mục Audo làm Thượng phụ Tòa Thượng phụ Babylon, nghi lễ Chaldeans, vào sau ngày Giáng sinh năm 1847, ngày 26 tháng 12. Phía Giáo hội Công giáo Rôma tái xác nhận và đồng ý với kết quả chọn lựa này vào ngày 11 tháng 9 năm 1878.
Ngày 14 tháng 3 năm 1878, Thượng phụ Yosep VI Audo qua đời sau 30 năm tại vị trí Thượng phụ, hưởng thọ 88 tuổi.
Tham khảo
Sinh năm 1790
Mất năm 1878
Thượng phụ
Giám mục Công giáo Iraq
Giám mục Công giáo nghi lễ Chaldean | VI_open-0000004534 | People_and_Society |
Jesus Yu Varela (1927 – 2018) là một Giám mục người Philipines của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Giám mục chính tòa Giáo phận Sorsogon. Trước đó, ông còn đảm trách nhiều vị trí khác như Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Zamboanga và Giám mục chính tòa Giáo phận Ozamis.
Tiểu sử
Giám mục Jesus Yu Varela sinh ngày 18 tháng 12 năm 1927 tại Bacolod, thuộc Philipines. Sau quá trình tu học dài hạn tại các cơ sở chủng viện theo quy định của Giáo luật, ngày 17 tháng 3 năm 1956, Phó tế Valera, 28 tuổi, tiến đến việc được truyền chức linh mục, buổi lễ truyền chức cử hành tại Cebu.
Sau hơn 10 năm thi hành tác vụ trên cương vị là một linh mục, ngày 28 tháng 3 năm 1967, từ Tòa Thánh loan đi tin báo về việc Giáo hoàng đã quyết định và tuyển lựa linh mục Jesus Yu Varela, 40 tuổi, gia nhập hàng ngũ các giám mục, cụ thể với vị trí Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Zamboanga và danh hiệu Giám mục Hiệu tòa Tatilti. Lễ tấn phong cho vị giám mục tân cử đã được tổ chức sau đó vào ngày 30 tháng 4 cùng năm, với phần nghi thức chính yếu của việc truyền chức được cử hành trọng thể bởi 3 giáo sĩ cấp cao. Chủ phong cho vị tân chức là Tổng giám mục Teopisto Valderrama Alberto, Tổng giám mục chính tòa Tổng giáo phận Caceres (Nueva Caceres). Hai vị còn lại trong vai trò phụ phong gồm có Giám mục Mariano Gaviola y Garcés, Giám mục chính tòa Giáo phận Cabanatuan và Giám mục Julio Xavier Labayen, O.C.D., Giám mục Giám quản Vùng Infanta. Tân giám mục chọn cho mình châm ngôn:Dum spiro spero.
Bốn năm sau khi được bổ nhiệm làm Giám mục Phụ tá Zamboanga, ngày 17 tháng 2 năm 1971, Tòa Thánh ra thông cáo về việc chấm dứt nhiệm vụ Giám mục phụ tá của Giám mục Yu Varela, đồng thời thuyên chuyển giám mục này làm Giám mục chính tòa Giáo phận Ozamis. Nhưng vị trí của Giám mục Yu vẫn chưa được cố định tại một nơi, khoảng chín năm sau đó, ngày 27 tháng 11 năm 1980, Tòa Thánh một lần nữa quyết định thuyên chuyển Giám mục Yu, và lần này chuyển giám mục này đến Giáo phận Sorsogo. Ông thực thi trách vụ tại đây cho đến khi được Tòa Thánh chấp thuận đơn xin từ nhiệm vì lí do tuổi tac theo Giáo luật vào ngày 16 tháng 4 năm 2003.
Giám mục Jesus Yu Varela qua đời ngày 23 tháng 2 năm 2018, thọ 91 tuổi.
Tham khảo
Giám mục Công giáo Philippines
Sinh năm 1927
Mất năm 2018 | VI_open-0000004535 | People_and_Society |
Nguyễn Minh Nhị (Bảy Nhị, sinh năm 1946) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2001-2004). Ông là tác giả của nhiều ý tưởng độc đáo, táo bạo từng đưa tỉnh An Giang trở thành địa phương đứng đầu Việt Nam về lúa gạo trên cả ba mặt: năng suất, diện tích, sản lượng.
Xuất thân
Ông sinh năm 1946, tại xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Huyện Tịnh Biên là một huyện biên giới sát với Campuchia. Huyện này có kênh Vĩnh Tế chảy qua.
Ông có anh trai ruột tên là Nguyễn Minh Đào.
Giáo dục
Lúc nhỏ, đang học lớp Nhất (tương đương lớp 5 hiện nay) thì ông bỏ học vì không có tiền làm giấy khai sinh để làm thủ tục thi lên lớp đệ thất (tương đương lớp 6 hiện nay). Sau đó ông tự học. Ông thường tự nhận "Tui dốt mà, có học hành bài bản quỷ gì đâu".
Theo lời ông thì ông chỉ có tấm bằng duy nhất là bằng lí luận chính trị do Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc cấp.
Sự nghiệp
Năm 1976, ông là Phó ban Tuyên huấn huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, phụ trách 3 xã: Tân Hòa, Phú Hưng và Phú Mỹ (nay là thị trấn). Trong năm này, ông đã đề xuất với Bí thư Huyện ủy huyện Phú Tân Nguyễn Văn Ba (Bảy Tạo) cho đắp đất tại 7 miệng mương nối ra sông Tiền, sông Vàm Nao, để vừa ngăn lũ tháng 8, bảo vệ lúa hè-thu, vừa tạo lối đi trong mùa ngập lũ. Đây chính là mô hình đê bao bảo vệ sản xuất nông nghiệp kết hợp giao thông nông thôn.
Năm 1988, 42 tuổi, ông được chuyển công tác từ Phó Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy An Giang sang làm Giám đốc Sở Nông nghiệp tỉnh An Giang. Lúc này ông là lãnh đạo trẻ nhất tỉnh.
Năm 1989, ông đề xuất xây dựng chương trình khuyến nông đầu tiên của cả nước Việt Nam. Ông ký quyết định thành lập Ban Khuyến nông của Sở Nông nghiệp An Giang.
Từ năm 2001 đến khi nghỉ hưu vào năm 2004, ông là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang.
Ông được người dân An Giang gọi với tên trìu mến là Ông Bảy Nhị tam nông do ông đã chỉ đạo tỉnh An Giang khôi phục sản xuất sau ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ, thực hiện những công trình lớn gắn bó mật thiết với vấn đề tam nông như chương trình khai phá Tứ giác Long Xuyên, công trình thoát lũ kênh Vĩnh Tế, đề án 31 giúp người nông dân vùng lũ cải thiện cuộc sống.
Năm 2003, ông cho làm tượng đài cá ba sa ngay ngã ba sông Châu Đốc, nơi phát tích của nghề nuôi cá ba sa trong lồng, bè và tượng đài bông lúa đặt trước trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang.
Ông nghỉ hưu vào năm 2004.
Sau khi nghỉ hưu
Ông hiện cư trú ở thành phố Long Xuyên.
Gia đình
Ông đã kết hôn. Vợ chồng ông có hai người con, con đầu là gái, con thứ là trai. Con gái hơn con trai 10 tuổi. Con trai ông chẳng may khi sinh thai bị ngộp quá lâu nên bị bệnh liệt não, sống đời sống thực vật và đã mất sớm.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang
Người An Giang
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam | VI_open-0000004537 | News |
FC Gorodeya (, FK Garadzeya) là một câu lạc bộ bóng đá Belarus đến từ Haradzeya, Nesvizh Raion, Minsk Voblast.
Lịch sử
Đội bóng được thành lập năm 2004 như một câu lạc bộ bóng đá trong nhà. Họ thi đấu ở giải vô địch Minsk Oblast và sau đó là Giải bóng đá trong nhà vô địch Belarus và giải cúp.
Năm 2007, đội bóng ra mắt ở giải bóng đá vô địch Minsk Oblast cũng như Cúp bóng đá Belarus. Năm 2008, họ gia nhập Giải bóng đá hạng nhì quốc gia Belarus, và sau khi vô địch ở mùa giải 2010, đội bóng ra mắt giải hạng nhất năm 2011.
Năm 2015, Gorodeya ra mắt ở Giải bóng đá ngoại hạng Belarus.
Đội hình hiện tại
Tính đến tháng 2 năm 2018
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chủ
Trang web không chính thức
Gorodeya
Vùng Minsk
Khởi đầu năm 2004 | VI_open-0000004541 | Sports |
Tiến sĩ David Roy Lidington (sinh ngày 30 tháng 6 năm 1956) là một chính trị gia của Đảng Bảo thủ Anh, người đã từng là thành viên Quốc hội đại diện cho đơn vị bầu cử Aylesbury kể từ năm 1992 và Bộ trưởng Văn phòng Nội các và Pháp quan Lãnh địa Công tước Lancaster kể từ ngày 8 tháng 1 năm 2018.
Từ tháng 5 năm 2010 đến tháng 7 năm 2016, ông là Quốc vụ khanh Ngoại giao Châu Âu và sau đó là Nhà lãnh đạo Hạ viện Anh và Chưởng quan & Bộ trưởng Tư pháp Công lý.
Tiểu sử
Sinh ra ở Lambeth, Lidington học ở trường tiểu học Merchant Taylors (trước đây là trường tiểu học Northwood) sau đó là trường trung học nam sinh Haberdashers' Aske, Elstree, Hertfordshire, tiếp theo là Viện Sidney Sussex, Cambridge, nơi ông có bằng đại học ngành lịch sử và bằng tiến sĩ năm 1988 với đề tài "Việc thực thi các điều luật hình sự tại tòa của Bộ Tài chính khoảng1558-khoảng 1576" về lịch sử Elizabeth. Trong khi ở Cambridge, ông là Chủ tịch Hiệp hội Bảo tồn Đại học Cambridge và Phó Chủ tịch Hội Sinh viên Đại học Cambridge.
Các công việc ban đầu của Lidington bao gồm các chức vụ ở BP và Rio Tinto Group trước khi được bổ nhiệm vào năm 1987 với tư cách cố vấn đặc biệt cho Bộ trưởng Bộ Nội vụ Douglas Hurd. Ông chuyển đến Văn phòng Ngoại giao và Khối thịnh vượng chung năm 1989 khi Douglas Hurd được bổ nhiệm làm Ngoại trưởng.
Lidington và vợ Helen có bốn người con trai. Ông được nuôi dạy như một nhà theo chủ nghĩa giáo đoàn nhưng nay là người Anh giáo. Ông là Đại tá của trường Sidney Sussex College, đội Cambridge đã đoạt giải Thử thách Đại học năm 1979. Nhóm nghiên cứu cũng đã giành được Giải thưởng Đại học năm 2002 - Kết hợp lại "vô địch các nhà vô địch" trong 40 năm kỉ niệm của chương trình.
Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1987, Lidington đã không thành công trong bầu cử Vauxhall.
Tham khảo | VI_open-0000004543 | News |
Chu Thế Trân tên gốc là Chu Ngũ Tứ hay Chu Thất (1281 - 1344), là cha của vị Hoàng đế sáng lập nhà Minh Chu Nguyên Chương. Quê ở Cú Dung (nay là Cú Dung, Giang Tô), cha ông chuyển đến Tứ Châu (nay là Hu Dị, Giang Tô). Sau này ông chuyển đến Hào Châu (này là Phượng Dương, An Huy).
Vợ ông là Trần thị. Họ có 4 người con trai và 2 người con gái.
Năm Chí Chính thứ tư (1344), hạn hán ở Hoài Bắc, ông cùng vợ và con trai cả qua đời.
Năm 1363, Hàn Lâm Nhi truy phong ông là Khai phủ Nghi đồng tam ti, Trung thư hữu thừa tướng, Thái úy, Ngô quốc công.
Năm 1368, Chu Nguyên Chương lập nên nhà Minh truy tôn ông là Hoàng đế, miếu hiệu là Nhân Tổ (仁祖), thụy hiệu là Thuần Hoàng đế (淳皇帝). Lăng mộ ở Phượng Dương thuộc Minh Hoàng lăng.
Tham khảo
Người nhà Nguyên
Hoàng đế truy tôn Trung Quốc | VI_open-0000004546 | People_and_Society |
Đội tuyển Fed Cup Malta đại diện Malta ở giải đấu quần vợt Fed Cup và được quản lý bởi Liên đoàn Quần vợt Malta. Đội hiện tại thi đấu ở Nhóm III khu vực Âu/Phi.
Lịch sử
Malta tham dự kì Fed Cup đầu tiên vào năm 1986. Thành tích tốt nhất của đội là vào đến vòng 32 đội trong năm đầu ra mắt.
Xem thêm
Fed Cup
Đội tuyển Davis Cup Malta
Liên kết ngoài
Tennis Academy in Malta
Malta
Fed Cup
Quần vợt | VI_open-0000004548 | Sports |
Ashakhet là một vị Tư tế tối cao của Ptah trong giai đoạn đầu vương triều thứ 21.
Ashakhet được biết đến thông qua một bản gia phả mà được biết tới như là Berlin 23673, trên đó ông được nói là sống cùng thời với Pharaon Amenemnisu.
Ashaket là cha của vị Tư tế tối cao của Ptah Pipi A và là ông nội của vị Tư tế tối cao của Ptah Harsiese.
Chú thích
Các tài liệu liên quan tới Berlin 23673
L Borchardt, Die Mittel zur Zeitlichen Festlegung von Punkten de Aegyptischen Geschichte und ihre Anwendung, 1935, pg 96-112
Kees, Zeitschrift fur Agyptischer Sprache, 87 (1962), 146-9 (includes discussion of Louvre 96)
Tư tế tối cao của Ptah ở Memphis | VI_open-0000004550 | People_and_Society |
Igor Nedeljković (, sinh 24 tháng 9 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá Serbia thi đấu ở vị trí Tiền đạo cho câu lạc bộ Albania Flamurtari Vlorë.
Cuộc sống ban đầu
Nedeljković sinh ra ở Belgrade, Nam Tư từ gia đình Serbia.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Hong Kong Pegasus
Ngày 27 tháng 7 năm 2017. Nedeljković gia nhập đội bóng Giải bóng đá Ngoại hạng Hồng Kông Hong Kong Pegasus. Ngày 26 tháng 8 năm 2017, anh ra mắt trong trận thắng 0–1 trên sân khách trước Southern District sau khi được có mặt trong đội hình xuất phát và ghi bàn từ chấm phạt đền.
Flamurtari Vlorë
Ngày 7 tháng 12 năm 2017. Nedeljković ký hợp đồng với đội bóng Albanian Superliga Flamurtari Vlorë. Ngày 26 tháng 1 năm 2018, anh ra mắt trong chiến thắng 1–0 trên sân nhà trước Partizani Tirana sau khi thay người ở phút 46 cho Victor Juffo.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Profile at Hiệp hội bóng đá Hồng Kông
Sinh năm 1991
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Serbia
Cầu thủ Giải bóng đá Ngoại hạng Hồng Kông
Cầu thủ bóng đá Hong Kong Pegasus FC
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Albania
Cầu thủ bóng đá Flamurtari Vlorë | VI_open-0000004551 | Sports |
Myke Bouard Ramos (sinh 30 tháng 10 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá Brasil thi đấu ở vị trí tiền đạo cho Haladás mượn từ MTK Budapest FC.
Sự nghiệp bóng đá
Khởi đầu ở câu lạc bộ địa phương Paraná Clube, sau đó anh chuyển đến Hungary thi đấu cho Salgótarjáni BTC nơi anh ghi được 12 bàn trong 13 trận đấu. Mùa giải tiếp theo anh ký hợp đồng cho Varda SE. Anh bị bỏ lỡ vài trận đấu khi phải phục hồi từ chấn thương rách dây chằng mắt cá.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Brasil
Cầu thủ bóng đá MTK Budapest FC
Vận động viên Curitiba
Tiền đạo bóng đá
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1992 | VI_open-0000004552 | Sports |
Ognjen Čančarević (Огњен Чанчаревић, sinh 23 tháng 9 năm 1994) là một thủ môn bóng đá Serbia thi đấu cho U.S. Sassuolo Calcio.
Trước đó anh thi đấu cùng với FK Sloboda Užice, GP Zlatibor, FK Sloga Bajina Bašta và FK Sevojno. Anh gia nhập Radnički vào mùa hè 2009 và thi đấu 2 mùa giải ở Serbian First League, giành quyền chơi ở SuperLiga năm 2011.
Bố của anh, Milan, cũng là một cầu thủ bóng đá.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Ognjen Čančarević at Footballdatabase
Sinh năm 1989
Nhân vật còn sống
Vận động viên Užice
Cầu thủ bóng đá Serbia
Thủ môn bóng đá
Cầu thủ bóng đá FK Sloboda Užice
Cầu thủ bóng đá FK Sevojno
Cầu thủ bóng đá FK Radnički Kragujevac
Cầu thủ bóng đá OFK Beograd
Cầu thủ bóng đá FK Mladost Lučani
Cầu thủ bóng đá FK Radnik Surdulica | VI_open-0000004553 | Sports |
Khu bảo tồn linh dương Aïr và Ténéré là một khu bảo tồn thiên nhiên ở trung tâm miền bắc của Niger. Nó là một phần của Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia Aïr và Ténéré lớn hơn đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.
Được thành lập để bảo tồn loài Linh dương sừng xoắn châu Phi đang bị đe dọa bên bờ tuyệt chủng, một loài trước đây đã từng thấy nhiều tại khu vực Dãy núi Aïr và Ténéré. Khu bảo tồn được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1988, là khu bảo tồn IUCN loại Ia, khu bảo tồn thiên nhiên nghiêm ngặt và là khu bảo tồn hạn chế sự có mặt của con người nhất tại Niger.
Kế hoạch trong những năm 1990 về trại nuôi nhốt linh dương đã chưa thể thực hiện được bởi Cuộc nổi dậy Tuareg, và sau đó việc tái thực hiện cũng phải ngừng lại bởi Cuộc nổi dậy 2007.
Tham khảo
Vườn quốc gia Niger | VI_open-0000004556 | Pets_and_Animals |
Alfonso López Trujillo (1935–2008) là một Hồng y người Colombia của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm nhận vai trò Hồng y Đẳng Giám mục Nhà thờ Frascati, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình trong suốt 18 năm, từ năm 1990 đến năm 2008.
Vốn có xuất thân từ hàng giáo sĩ có vai trò lãnh đạo giáo hội địa phương, ông từng đảm trách nhiều vai trò khác nhau trước khi tiến đến trở thành Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình, như: giám mục phụ tá Tổng giáo phận Bogotá (1971–1978), Tổng giám mục Phó Tổng giáo phận Medellín (1978–1979), Tổng giám mục đô thành Tổng giáo phận Medellín (1979–1991). Ngoài lãnh đạo các giáo phận được bổ nhiệm, ông còn đảm nhận nhiều vị trí quan trong tại Hội đồng giám mục quốc gia cũng như khu vực. Ông từng giữ các chức vụ: Tông Thư kí Liên Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh (1972–1979), Chủ tịch Liên Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh (1979–1983), Chủ tịch Hội đồng Giám mục Colombia (1987–1990). Ông được vinh thăng Hồng y ngày 2 tháng 2 năm 1983, bởi Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Tiểu sử
Hồng y Alfonso López Trujillo sinh ngày 8 tháng 11 năm 1935 tại Villahermosa, Colombia. Sau quá trình tu học dài hạn tại các cơ sở chủng viện theo quy định của Giáo luật, ngày 13 tháng 11 năm 1960, Phó tế Trujillo, 25 tuổi, tiến đến việc được truyền chức linh mục. Tân linh mục là thành viên linh mục đoàn Tổng giáo phận Bogotá.
Sau 11 năm thi hành các công việc mục vụ với thẩm quyền và cương vị của một linh mục, ngày 25 tháng 2 năm 1971, Tòa Thánh loan tin Giáo hoàng đã quyết định tuyển chọn linh mục Alfonso López Trujillo, 36 tuổi, gia nhập Giám mục đoàn Công giáo Hoàn vũ, với vị trí được bổ nhiệm là giám mục phụ tá Tổng giáo phận Bogotá, danh nghĩa Tổng Giám mục Hiệu tòa Boseta, hàm Tổng giám mục. Lễ tấn phong cho vị giám mục tân cử được tổ chức sau đó vào ngày 25 tháng 3 cùng năm, với phần nghi thức chính yếu được cử hành cách trọng thể bởi 3 giáo sĩ cấp cao, gồm chủ phong là Tổng giám mục Aníbal Muñoz Duque, Nguyên Tổng giám mục đô thành Tổng giáo phận Bogóta; hai vị giáo sĩ còn lại, với vai trò phụ phong, gồm có giám mục Eduardo Francisco Pironio, giám mục phụ tá Tổng giáo phận La Plata, Argentina và Giám mục Pablo Correa León, giám mục phụ tá Tổng giáo phận Bogotá. Tân giám mục chọn cho mình khẩu hiệu: VERITAS ET CARITATE.
Sau 7 năm đảm nhiệm vai trò Giám mục phụ tá, Tòa Thánh quyết định thuyên chuyển Tổng giám mục Trujillo đến nhiệm sở mới là Tổng giáo phận Bogotá, với vị trí được bổ nhiệm làm Tổng giám mục Phó. Thông báo về việc bổ nhiệm này được công bố cách rộng rãi vào ngày 22 tháng 5 năm 1978. Ông nhanh chóng kế vị chức Tổng giám mục đô thành vào ngày 2 tháng 6 năm 1979.
Bằng việc tổ chức công nghị Hồng y năm 1983 được cử hành chính thức vào ngày 2 tháng 2, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đưa ra quyết định vinh thăng Tổng giám mục Alfonso López Trujillo tước vị danh dự của Giáo hội Công giáo, Hồng y. Tân Hồng y thuộc Đẳng Hồng y Linh mục và Nhà thờ Hiệu tòa được chỉ định là Nhà thờ Santa Prisca.
Ngày 8 tháng 11 năm 1990, ông được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình. Ông từ nhiệm chức Tổng giám mục đô thành Tổng giáo phận Medellín sau đó vào ngày 9 tháng 1 năm 1991.
Ngày 17 tháng 11 năm 2001, ông được thăng Hồng y Đẳng Giám mục, Nhà thờ Hiệu tòa được chỉ định là Nhà thờ Frascati. Tân Hồng y đã cử hành các nghi thức nhận nhà thờ hiệu tòa của mình vào ngày 27 tháng 4 năm 2002.
Ông qua đời ngày 19 tháng 4 năm 2008, thọ 73 tuổi.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Biography at The Cardinals of the Holy Roman Church web site
Humanae Vitae "On the Regulation of Birth", available on the Vatican's website
Family Values Versus Safe Sex, by Cardinal Trujillo, available on the Vatican's website
Obituary: Cardinal Alfonso López Trujillo: Hardline Colombian Roman Catholic leader opposed to condoms and abortion
Obituary: Anti-abortion cardinal Lopez Trujillo dies
Obituary: Cardinal Alfonso Lopez Trujillo: Arch conservative in the Vatican and staunch ally of John Paul II
Giám mục Công giáo thế kỉ 20
Giám mục Công giáo thế kỉ 21
Hồng y do Giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm
Chính trị cực hữu
Mất năm 2008 | VI_open-0000004558 | People_and_Society |
Chùa Minh Khánh (chùa Hương Đại, chùa Hương) tọa lạc ở làng Bình Hà thuộc thị trấn Thanh Hà, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; thuộc hệ phái Bắc tông, thờ thờ Phật và đức vua Trần Nhân Tông; là di tích lịch sử văn hóa Quốc gia năm 1990.
Lược sử
Chùa Minh Khánh được xây dựng vào thời Lý - Trần, được trùng tu nhiều lần vào các thế kỷ 16, 17, 18, 19. Năm 1992, sư trụ trì Thích Đàm tổ chức đại trùng tu ngôi chùa và xây tam quan.
Cổ vật
Hiện nay, chùa Minh Khánh có khuôn viên rộng hơn 1ha, bên trong còn bảo toàn được hệ thống tượng Phật, vườn tháp cổ và các di vật quý: lưu giữ trên 200 cổ vật như tượng, tháp, bia, cột đá, giếng nước...; 13 đạo phong của các triều Lê, Nguyễn (Vĩnh Khánh, Cảnh Hưng, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải Định...) và nghị định xếp hạng di tích của Toàn quyền Đông Dương năm 1925. Ở chánh điện, chùa còn lưu giữ 9 viên ngọc Xá lợi tương truyền là của Trúc Lâm đệ nhất tổ Trần Nhân Tông và tháp lưu huyết của Ngài.
Lễ hội
Lễ hội chùa Minh Khánh kéo dài 3 ngày liền, chính hội tổ chức vào ngày 1/11 Âm lịch hàng năm, kỷ niệm ngày đức vua Trần Nhân Tông viên tịch trên núi Yên Tử. Phần lễ có lễ rước sắc, rước mâm ngũ quả, lễ mộc dục và lễ tế. Phần hội gồm các trò chơi: cờ người, múa rối nước, chèo, thi mâm ngũ quả, thi làm bánh dầy….
Chú thích
Di tích tại Hải Dương
Chùa tại Hải Dương | VI_open-0000004559 | Travel_and_Transportation |
Corydoras nanus là một loài cá nước ngọt nhiệt đới thuộc chi Corydoras của họ Callichthyidae. Nó bắt nguồn từ vùng biển nội địa ở Nam Mỹ, và được tìm thấy trong lưu vực sông Suriname và sông Maroni ở Suriname và lưu vực sông Iracoubo ở Guiana thuộc Pháp.
Loài cá này đã được tìm thấy trong các con lạch với dòng chảy vừa phải, rộng 0,5 đến 3 m, nông (độ sâu 20 cm đến 50 cm) với cát, bùn cát và không được chiếu sáng. Nó sẽ phát triển dài tới 1,7 inch (4,5 cm). Nó sống trong khí hậu nhiệt đới trong nước với độ pH 6,0 - 8,0, độ cứng của nước từ 2 - 25 dGH và nhiệt độ từ 72 - 79 °F (22 - 26 °C). Nó ăn Giun, động vật giáp xác vùng đáy nước, côn trùng và thực vật. Nó đẻ trứng trong thảm thực vật dày đặc và cá trưởng thành không bảo vệ trứng. Trong điều kiện nuôi nhốt, trứng đã được đẻ hầu hết trên lá cây. Con cái có thể đẻ tới 600 quả trứng.
Corydoras nanus màu thường là bạc với sọc đen chạy từ đầu đến đuôi. Thỉnh thoảng, chúng có thể có điểm nổi bật màu hổ phách hoặc tím trong màu của chúng hoặc bụng màu xám.
Nếu giữ như một con vật cưng, mức độ chăm sóc là tương đối dễ dàng vì chúng có một tính khí ôn hòa. Các hồ cá nên được trồng cây và có nhiều nơi để ẩn. Sử dụng sỏi tròn hoặc cát mịn cho bể cá. Một quần xã có ít nhất sáu con cá là lý tưởng.
Corydoras nanus có tầm quan trọng trong ngành công nghiệp thương mại thủy sản.
Xem thêm
Danh sách các loài cá cảnh nước ngọt
Tham khảo
Corydoras
Cá Guyane thuộc Pháp
Cá Suriname | VI_open-0000004562 | Pets_and_Animals |
Katherine Litwack (sinh ngày 13/6/1986, nghệ danh: Kat Dennings) là một nữ diễn viên người Mỹ. Cô được biết tới qua các vai như Max Black trong sitcom 2 Broke Girls (2011–2017) hay Darcy Lewis trong các phim thuộc Vũ trụ Điện ảnh Marvel gồm Thor (2011), Thor: The Dark World (2013) và sê-ri truyền hình WandaVision (2021).
Kể từ khi bắt đầu sự nghiệp vào năm 2000, Dennings đã từng tham gia vào các phim như The 40-Year-Old Virgin (2005), Big Momma's House 2 (2006), Charlie Bartlett (2007), The House Bunny (2008), Nick and Norah's Infinite Playlist (2008), Defendor (2009) và Suburban Gothic (2014).
Thời thơ ấu
Katherine Victoria Litwack sinh năm 1986 ở khu Bryn Mawr, bang Pennsylvania, là con út trong một gia đình gốc Do Thái có năm anh chị em. Mẹ cô, bà Ellen Judith Litwack, là một nhà thơ, còn cha cô, ông Gerald J. Litwack, là một giảng viên đại học, nhà dược lý học.
Dennings học ở nhà từ nhỏ. Cô tốt nghiệp trung học năm 14 tuổi, sau đó cả nhà cô chuyển tới thành phố Los Angeles, đây cũng là nơi cô bắt đầu theo đuổi sự nghiệp diễn xuất dưới nghệ danh "Dennings".
Sự nghiệp
2000–2003: Sự nghiệp ban đầu
Dennings ra mắt chuyên nghiệp với sự xuất hiện trên HBO 's Sex and the City vào năm 2000, trong tập "Hot Child in the City", đóng vai một cô bé 13 tuổi đáng ghét thuê Samantha để xử lý công khai cho chú dơi mitzvah của mình. Sau đó, cô đóng vai chính trong bộ phim sitcom ngắn của WB nuôi dạy từ năm 2001 đến năm 2002 với vai Sarah, một cô gái 15 tuổi được nuôi dưỡng bởi người cha góa vợ (Bob Saget), với một em gái trước tuổi vị thành niên ( Brie Larson ). Năm 2002, Dennings xuất hiện trong bộ phim The Scream Team của Disney Channellà một thiếu niên tình cờ gặp một nhóm ma. Cô đã được chọn cho một bộ phim dài năm tập trên The WB's Everwood, nhưng vai diễn này đã được diễn lại với Nora Zehetner.
2004–2011: Phim truyện ra mắt và các vai diễn khác
Dennings tiếp tục làm việc trên truyền hình, đóng vai khách mời trong Without a Trace với vai một thiếu niên có bạn trai mất tích, và trong bộ phim Less than Perfect vào năm 2003. Vào tháng 2 năm 2004, cô được chọn làm phi công cho CBS có tựa đề Sudbury , kể về một gia đình hiện đại- ngày phù thủy, dựa trên bộ phim Phép thuật thực tế năm 1998 , nhưng loạt phim này không được chọn. Dennings có một vai định kỳ trên ER từ năm 2005 đến 2006 với vai Zoe Butler, và hai lần đóng vai khách mời trong loạt phim CSI : lần đầu trên CSI , với vai Missy Wilson trong tập phim "Early Rollout" năm 2004. Thứ hai, cô ấy đã chơi Sarah Endecott trênCSI: NY , trong tập phim " Manhattan Manhunt " năm 2005.
Dennings đã ra mắt bộ phim điện ảnh đầu tiên của cô trong bộ phim Raise Your Voice của Hilary Duff vào năm 2004 với vai Sloane, một sinh viên piano buồn bã. Năm 2005, cô đóng vai phụ là con gái của nhân vật của Catherine Keener trong phim The 40-Year-Old Virgin và April trong Down in the Valley. Năm 2006, Dennings đóng vai một thiếu niên nổi loạn trong bộ phim hài tội phạm Big Momma's House 2 , với sự tham gia của Martin Lawrence .
Dennings đóng vai chính trong Charlie Bartlett năm 2008, câu chuyện về một thiếu niên giàu có ( Anton Yelchin ), người hoạt động như một bác sĩ tâm lý cho các học sinh tại trường trung học công lập mới của anh ta. Cô đóng vai Susan Gardner, mối tình của Bartlett và con gái của Hiệu trưởng trường Gardner, do Robert Downey, Jr. thủ vai. Dennings xuất hiện trong The House Bunny năm đó, với vai Mona, một cô gái nữ quyền nữ quyền bị xuyên thủng .
Cô cũng đóng vai chính trong bộ phim hài lãng mạn dành cho tuổi teen Nick và Norah's Infinite Playlist cùng với Michael Cera . Dennings đóng vai Norah Silverberg, con gái của một nhà sản xuất băng đĩa nổi tiếng . Cô đã được đề cử cho Giải thưởng Vệ tinh của Học viện Báo chí Quốc tế cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho màn trình diễn của mình.
Vào tháng 9 năm 2008, Dennings tham gia vào dự án chuyển thể tiểu thuyết End Zone của Don DeLillo thành phim. Các diễn viên Sam Rockwell và Josh Hartnett cũng tham gia, nhưng dự án không được bật đèn xanh vì chủ đề chiến tranh hạt nhân được coi là quá gây tranh cãi.
Năm 2009, Dennings xuất hiện trong The Answer Man , một bộ phim về một tác giả nổi tiếng có tuyên ngôn trở thành một loại Kinh thánh mới . Cô cũng đóng vai chính trong bộ phim dành cho trẻ em đen tối của Robert Rodriguez trong năm đó. Cô đóng vai Stacey Thompson, chị gái tuổi teen của nhân vật chính Toe ( Jimmy Bennett ).
Dennings và các ngôi sao đang lên khác đã được xuất hiện trên tạp chí Vanity Fair số tháng 8 năm 2009 , được chụp lại những cảnh trong bộ phim Depression -era nổi tiếng. Cô ấy đã được thể hiện trong một bối cảnh từ They Shoot Horses, Don't They? (1969) của Sydney Pollack.
Dennings đã tham gia bộ phim hài lãng mạn Liars (A to E), do Richard Linklater đạo diễn. Nhưng dự án đã bị hủy bỏ do công ty mẹ của hãng phim là Disney cắt giảm phim tại Miramax Films. Dennings xuất hiện trong bộ phim siêu anh hùng Defendor năm 2009, với sự tham gia của Woody Harrelson và Sandra Oh , đóng vai một cô gái điếm nghiện crack.
Năm sau, cô đóng vai chính trong bộ phim độc lập Daydream Nation, trong vai một cô gái chuyển từ thành phố đến một thị trấn nông thôn xa lạ, và vướng vào mối tình tay ba với giáo viên trung học của cô ( Josh Lucas ) và một tay buôn ma túy tuổi teen ( Reece Thompson ). Phim bắt đầu bấm máy tại Vancouver vào đầu năm 2010, do Michael Golbach viết kịch bản và đạo diễn. Vào tháng 5 năm 2010, Dennings xuất hiện trong một video âm nhạc cho " 40 Dogs (Like Romeo và Juliet) ", một đĩa đơn của nhạc sĩ Bob Schneider ở Austin, Texas . Robert Rodriguezđạo diễn video, được quay ở nhiều địa điểm khác nhau xung quanh Austin.
Dennings là một phần của dàn diễn viên trong phim Thor của Marvel Studios, phát hành vào tháng 5 năm 2011, và do Kenneth Branagh làm đạo diễn. Cô đóng vai Darcy Lewis, một phụ tá am hiểu công nghệ và là trợ lý cho nhân vật Jane Foster của Natalie Portman. Bộ phim được sản xuất vào tháng 1 năm 2010, và được quay ở New Mexico trong sáu tuần vào đầu năm 2010.
2011–nay: 2 Broke Girls và các dự án trong tương lai
Vào tháng 2 năm 2011, Dennings được chọn tham gia 2 Broke Girls, một bộ phim sitcom của đài CBS do Michael Patrick King và diễn viên hài Whitney Cummings viết kịch bản và sản xuất. Bộ truyện ra mắt vào ngày 19 tháng 9 năm 2011, và kể về cuộc đời của hai cô gái thiếu việc làm. Beth Behrs đóng vai một nữ thừa kế Manhattan bị mất quyền thừa kế, trong khi Dennings vào vai một cô gái thẳng thắn cứng rắn đến từ Brooklyn. Dennings thích ý tưởng tiếp cận nhiều khán giả hơn với tác phẩm của mình, vì vậy cô ấy đã nhận lời tham gia bộ phim sitcom trên mạng. Vào ngày 12 tháng 5 năm 2017, CBS đã hủy bỏ loạt phim sau sáu mùa.
Dennings đóng vai chính trong bộ phim truyền hình To Write Love on Her Arms (tựa gốc là Renee) vào năm 2012, cùng với Chad Michael Murray và Rupert Friend . Cô đóng vai Renee Yohe, một thiếu niên Florida phải vật lộn với lạm dụng chất kích thích và tự gây thương tích, đồng thời là người truyền cảm hứng cho việc thành lập tổ chức phi lợi nhuận To Write Love on Her Arms. Bộ phim bắt đầu được sản xuất tại Orlando, Florida, vào tháng 2 năm 2011.
Vào giữa năm 2012, Dennings quay bộ phim độc lập Suburban Gothic, đóng vai một người pha chế rượu ở một thị trấn nhỏ. Phim khởi chiếu năm 2014.
Dennings giới thiệu The Black Keys tại Lễ trao giải Grammy lần thứ 55 vào ngày 10 tháng 2 năm 2013. Cô xuất hiện trong một video âm nhạc cho đĩa đơn Hanson "Get the Girl Back", cùng với Nikki Reed. Hai nữ diễn viên là bạn thân và đều là fan của nhóm nhạc pop.
Video được công chiếu vào ngày 4 tháng 4 năm 2013. Năm 2013, Dennings đóng lại vai Darcy Lewis trong bộ phim tiếp theo về siêu anh hùng Thor: The Dark World. Cô làm việc trên bộ phim và 2 Broke Girls cùng lúc, bay đến London để quay phim trong sáu tháng giữa các kỳ nghỉ cho bộ phim sitcom CBS của cô.
Vào năm 2018, có thông báo rằng Dennings sẽ đóng vai Abby trong bộ phim hài Friendsgiving .
Dennings đóng vai chính trong loạt phim hài Dollface của Hulu , bắt đầu vào tháng 11 năm 2019. Cô trở lại vai Darcy Lewis của mình trong Vũ trụ Điện ảnh Marvel với vai phụ trong loạt phim siêu anh hùng Disney + WandaVision, khởi chiếu vào ngày 15 tháng 1 đến ngày 6 tháng 3 năm 2021.
Đời tư
Năm 2008, Dennings nói rằng Do Thái giáo "là một phần quan trọng trong lịch sử của tôi, nhưng nhìn chung, tôn giáo không phải là một phần trong cuộc sống của tôi." Cô ấy tự cho mình là liên kết về mặt dân tộc và văn hóa hơn là tôn giáo.
Dennings từng viết blog từ tháng 1/2001 tới tháng 2/2010, trên website của cô và trên YouTube.
Vào tháng 12 năm 2008, Dennings nói với tạp chí BlackBook, "Tôi không uống rượu, không hút thuốc và tôi không thích ở gần những người làm như vậy." Năm 2013,The New York Times báo cáo rằng Dennings thực hành Thiền Siêu việt.
Dennings sống ở Los Angeles với con mèo của cô, Millie. Cô ấy là một người ủng hộ quyền lợi động vật.
Các mối quan hệ
Từ năm 2011 đến năm 2014, Dennings hẹn hò với bạn diễn Nick Zano trong 2 Broke Girls . Từ năm 2014 tới 2016, Dennings hẹn hò với nam ca sĩ Josh Groban. Vào ngày 6 tháng 5 năm 2021, người ta xác nhận rằng Dennings đang có mối quan hệ với nhạc sĩ Andrew WK ; hai người gặp nhau ở Los Angeles vào đầu năm đó. Một tuần sau, vào ngày 13 tháng 5 năm 2021, cặp đôi thông báo đính hôn trên Instagram . Dennings là một fan hâm mộ của WK ít nhất là từ năm 2014.
Danh sách phim
Điện ảnh
Truyền hình
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1986
Nữ diễn viên Mỹ thế kỷ 20
Nữ diễn viên Mỹ thế kỷ 21
Nữ diễn viên Philadelphia
Nữ diễn viên thiếu nhi Mỹ
Nữ diễn viên điện ảnh Mỹ
Nữ diễn viên truyền hình Mỹ
Josh Groban
Nhân vật còn sống | VI_open-0000004563 | Arts_and_Entertainment |
Gà Langshan Úc là giống gà Úc, có nguồn gốc từ Croad Langshan và được chấp nhận bởi Tiêu chuẩn Gia cầm Úc như một giống gà. Gà Langshan Úc ít được biết đến bên ngoài nước Úc nhưng là một giống phổ biến trong nước này. Loài này có cả loại gà bantam và kích thước chuẩn.
Gà Langshan Úc là một loại gà nhỏ màu đen, màu xanh hoặc màu trắng, với thân thẳng đứng, chân dài và vừa, mào thẳng thường có màu đỏ. Lý tưởng nhất, các ngón chân bên ngoài của mỗi bàn chân được lông phủ kín. Có các màu đen bóng với màu đen ánh xanh lá cây, trong khi gà màu xanh thường là đơn hoạc màu xám-xanh, mặc dù gà trống thường có màu xanh đậm trên đuôi. Gà Langshan Úc nếu trắng là màu trắng hoàn toàn.
Lịch sử
Loài gà Langshan của Úc được nuôi tại Úc vào đầu thế kỷ 20 nhờ lai tạo chọn lọc của các giống gà Croad Langshans, Orpingtons, Langshan Trung Quốc và Langshan hiện đại. Ít có thông tin về lịch sử của giống, nhưng vào những năm 1950, chúng là một giống phổ biến trên hầu hết nước Úc. Loài này được công nhận là một gà tiêu chuẩn gia cầm của Úc vào năm 1998 khi ấn bản đầu tiên của Tiêu chuẩn gia cầm Úc được công bố. Giống bantam được tạo ra ngay sau khi giống lớn của các nhà lai tạo ở New South Wales xuất hiện và được nhân giống từ một lượng nhỏ giống gà Langshan lớn của Úc.
Ghi chú
Tham khảo
Giống gà | VI_open-0000004566 | Food_and_Drink |
Pseudotropheus johannii (hay còn được gọi là bluebray mbuna) là một loài cá hoàng đế nước ngọt của châu Phi. Loài này là loài đặc hữu của các vùng duyên hải ở phía đông, cụ thể là bờ biển Mozambique của hồ Malawi, phía nam của Chuanga. Loài này là loài cá cảnh phổ biến và thường được nuôi trong bể cá hoàng đế. Trong việc buôn bán các sinh vật thủy sinh, loài cá này còn được gọi là mbuna bluegray hoặc electric blue johanni.
Sự khác nhau về giới tính của loài cá này là hoàn toàn rõ ràng. Con cái và con chưa trưởng thành có màu vàng. Còn con đực thì màu sắc của nó có sự kết hợp của màu xanh dương với màu tím và đen, cùng với một đường màu xanh chạy ngang trán ở trên đỉnh mắt và dọc theo phần thân trên đường giữa, dòng thứ hai xuất hiện bên dưới đường giữa.
Tình trạng bảo tồn của nó là có thể bị đe dọa. Có thể là do các hoạt động săn bắt để phục vụ cho việc buôn bán.
Trong bể cá
Đây là loài cá ưa sống trong nước kiềm với độ pH là từ 7 đến 9 và vì là loài cá nhiệt đới nên nhiệt độ nước của nó là từ 22 đến 28 °C (72 đến 82 °F). Độ cứng của nước từ 10-20. Chúng là loài rất hung dữ và chỉ được nuôi với các loài cá hoàng đế châu Phi hung hăng tương tự khác. Không được nuôi nhiều hơn một con đực trong cùng một bể nếu bể không to và có nhiều nơi ẩn nấp.
Chú thích
Tham khảo
Pseudotropheus
Động vật được mô tả năm 1973 | VI_open-0000004571 | Pets_and_Animals |
Parachromis managuensis là một loài cá hoàng đế lớn sống ở môi trường nước ngọt từ Honduras đến Costa Rica ở Trung Mĩ. Tên khoa học dựa trên hồ Managua ở Nicaragua, nơi lấy nguyên mẫu của loài này. Nó vừa làm cảnh, vừa làm thực phẩm. Ngoài ra nó còn có một số tên gọi khác là jaguar cichlid, managuense cichlid, managua cichlid, guapote tigre, Aztec cichlid, spotted guapote và jaguar guapote. Con đực trưởng thành có thể phát triển đến chiều dài 35 cm (14 in) và con cái là 30 cm (12 in). Con cái nhỏ hơn con đực và sắc tố màu đỏ nổi bật hơn ở mang. Vây lưng và vây bụng của con đực cũng được kéo dài nhiều hơn và kéo dài hơn của con cái.
Loài này là loài cá ăn thịt. Thức ăn của chúng chủ yếu là cá nhỏ và động vật không xương sống (tính kiềm). Môi trường ưa thích của loài Parachromis managuensis là các hồ đục, âm u, nước ấm và nghèo oxy. Chúng thích nước với độ pH 7,0–8,7, độ cứng của nước từ 10–15 dGH và nhiệt độ từ 25 đến 36 °C (77 đến 97 °F). Chúng thường được tìm thấy ở độ sâu từ 3 đến 10 mét (10 đến 33 ft). Đây là xâm hại ở khu vực quanh phía nam Florida.
Thức ăn của chúng khi nuôi trong bể cá là côn trùng, bọ gậy, giun đất, mysis, dế (đối với các cá thể lớn hơn). Thịt băm nhỏ cũng có thể được cho ăn cùng với trái tim bò (ở lượng ít do hàm lượng chất béo cao) cùng với tôm và cá (sống/đông lạnh). Cá đông lạnh là loại thức ăn ưc thích do cá sống có thể lây lan một số bệnh cho cá trong bể.
Chú thích
Tham khảo
The Jaguar Cichlid – Beautiful Predator Tropical Fish
Aquaticdatabase entry for Parachromis managuensis (Managuense cichlid).
Jaguar cichlid in Lake Apoyo, Nicaragua
Parachromis
Động vật được mô tả năm 1867 | VI_open-0000004572 | Pets_and_Animals |
Biellese là một giống cừu bản địa lớn ở tỉnh Biella, ở Piedmont ở phía tây bắc Ý, từ đó hình thành tên của nó. Nó cũng có thể được gọi là Razza d'Ivrea, theo tên thị trấn Ivrea, hoặc là Piemontese Alpina. Biellese là một trong mười bảy giống cừu Ý tự chế biến, trong đó một cuốn cẩm nang phả hệ được lưu giữ bởi Associazione Nazionale della Pastorizia, hiệp hội chăn nuôi cừu quốc gia Ý.
Lịch sử
Nguồn gốc của giống Biellese đến nay vẫn chưa rõ. Vào đầu thế kỷ XX, nó được coi là một loại phụ của giống cừu Bergamasca; những người khác không chia sẻ quan điểm này. Dẫn xuất nhiều báo cáo về nó, với giống Bergamasca và các giống cừu Alpine khác, từ cừu Sudan là một giả thuyết được công bố vào năm 1886 trong Traité de zootechnie của André Sanson; giả thuyết này không có nền tảng trong khoa học. Loài này rất nhiều trong khu vực Biella; năm 1942 con số ước tính là 40.000. Giống như nhiều giống cừu Ý khác, số lượng giống này giảm mạnh sau Thế chiến thứ hai. Tuy nhiên, sự quan tâm đến giống cừu này đã hồi sinh trong những năm 1960; giống này đã được chính thức công nhận vào năm 1985 bởi Bộ trưởng Bộ Nông Lâm nghiệp Ý, và một cuốn sách cá thể giống được thành lập vào năm 1986. Đến năm 1994 có hơn 50.000 con cừu này, trong đó 1900 con được đăng ký trong cuốn sách. Vào cuối năm 2013, tổng số đăng ký là 1016, không có điều tra gần đây về số cừu giống này chưa đăng ký.
Ghi chú
Giống cừu | VI_open-0000004573 | Food_and_Drink |
Winchester Model 1897, còn được gọi là Model 97, M97, hoặc Trench Gun, là khẩu shotgun có cơ chế nạp đạn là nạp đạn kiểu bơm (Pump-action). Nó được sản xuất chủ yếu bởi Công ty Winchester, một công ty "vừa có tiền, vừa có tiếng" trong giới vũ khí quân sự Mỹ. Công ty Winchester ngừng sản xuất khẩu súng này vào năm 1957 vì mẫu Ithaca 37 đã vượt qua mẫu súng này để được có chỗ đứng mới trong biên chế của quân đội Mỹ.
Winchester Model 1897 là phiên bản quân sự được công ty Winchester thay đổi từ phiên bản dân sự là Winchester Model 1893. Winchester Model 1893 được thiết kế bởi John Browning. Từ năm 1897 đến 1957, hơn một triệu khẩu đã được sản xuất. Model 1897 được có nhiều biến thể với độ dài khác nhau, sử dụng cỡ đạn 12 và 16. Loại đạn 16 gauge có chiều dài nòng tiêu chuẩn là 28 inch, trong khi đó 12 gauge có nòng dài 30 inch. Các nòng có chiều dài đặc biệt có thể được đặt hàng với chiều dài khoảng 20 inch, thậm chí là 36 inch. Kể từ khi Model 1897 lần đầu tiên được sản xuất, nó đã được sử dụng bởi lính Mỹ, cảnh sát và thợ săn. Tập đoàn Norinco đã cố gắng sản xuất mẫu này dưới tên gọi Norinco 97. Hiện nay, nó là một trong những khẩu shotgun được bán chạy hàng đầu tại Mỹ. Nó được ưa thích bởi các thợ săn, dân chơi súng, thậm chí là cả cảnh sát Mỹ (Mặc dù cảnh sát Mỹ đã có Remington Model 870 hay Benelli M4 mới hơn thay thế) vì nó rẻ, mạnh, dễ mua, dễ bảo quản và bền.
Cơ chế hoạt động
Winchester Model 1897 và Winchester Model 1893 đều do John Browning thiết kế. M97 là khẩu súng nạp đạn kiểu bơm thành công đầu tiên được sản xuất. Trong suốt thời gian Winchester 1897 được sản xuất, hơn một triệu khẩu được sản xuất ở nhiều phiên bản và độ dài nòng khác nhau. Đạn 16 gauge có chiều dài nòng tiêu chuẩn là 28 inch, trong khi 12 gauge có nòng dài 30 inch. Các nòng có chiều dài đặc biệt có thể được đặt hàng với chiều dài khoảng 20 inch đến 36 inch. Cùng với nhiều phiên bản và độ dài nòng khác nhau, Model 1897 có hai cỡ đạn khác nhau. Một là 12 gauge và loại còn lại là 16 gauge. Một biến thể của Model 1897 có thể chứa 6 viên đạn trong ống đạn. Khi bắn, cần bơm của Model 1897 được kéo về phía sau, cần bơm này được nối với một thanh trượt. Khi xạ thủ kéo nó về phía sau thì thanh trượt này sẽ đẩy búa đập về vị trí sẵn sàng. Đồng thời nó cũng kéo thoi nạp đạn và miếng che khe nhả đạn ra phía sau để hất vỏ đạn đã bắn ra bên ngoài. Đồng thời khi miếng che khe nhả đạn mở ra thì vách ngăn giữa ống đạn và khoang nạp đạn được mở ra và lò xo trong ống đạn sẽ đẩy viên đạn vào khoang, trong khoang nạp đạn có một đòn bẩy và viên đạn sẽ nằm trên đòn bẩy này. Đòn bẩy có một chốt để móc vào thanh trượt khi thanh trượt chuyển động ra phía sau. Khi cần bơm được đẩy về phía trước thì thanh trượt sẽ kéo miếng che khe nhả đạn cũng như vách ngăn giữa ống đạn và khoang nạp đạn sẽ đóng lại đồng thời kéo móc của đòn bẩy để đẩy đòn bẩy lên phía trên để đưa viên đạn lên và thoi nạp theo thanh trượt đi tới sẽ tiếp tục đẩy viên đạn vào khoang chứa để chuẩn bị bắn. Sau khi kết thúc chu kỳ đẩy lên thì móc đòn bẩy sẽ tách ra khỏi thanh trượt để đòn bẩy nằm trở lại chỗ cũ chờ viên đạn mới.
Quốc gia sử dụng
Tham khảo
Súng Shotgun
Vũ khí do John Browning thiết kế
Súng Hoa Kỳ
Vũ khí trong chiến tranh thế giới thứ nhất
Vũ khí trong Chiến tranh Việt Nam
Vũ khí cảnh sát
Trang bị của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ | VI_open-0000004577 | Sensitive_Subjects |
Synodontis batensoda là một loài cá da trơn thuộc họ Mochokidae. Nó phân bố không đều ở các vùng nước nội địa trên khắp châu Phi từ Sénégal đến Ethiopia. Nó được mô tả lần đầu tiên bởi Eduard Rüppell năm 1832 trong bài báo "Continuation of the description and figure of several new fish, in the Nile. p1-14".
Hiện tại, loài cá này đã tuyệt chủng ở vùng Bắc Phi, nhưng vẫn thường được tìm thấy ở Cairo vào mùa lũ. Ngoài ra, nó xuất hiện ở sông Nile trắng (White Nile), sông Nile xanh (Blue Nile), sông Baro ở phía đông bắc châu Phi và các lưu vực sông Chad, Niger, Sénégal, Gambia ở phía tây châu Phi. Nó thường sống ở các vùng nước có dòng chảy yếu và vùng đầm lầy giáp với các con sông lớn, nhiệt độ nước từ 23 đến 27 °C (73 đến 81 °F).
Synodontis batensoda có màu xanh bạc đến xám xanh, chúng có râu màu đen, phần dưới bụng hơi đen. Thỉnh thoảng, một vài cá thể của loài này có thể có màu nâu đỏ ở đó. Những cá thể gần trưởng thành sẽ có những đốm màu tối lớn ở hai bên. Ở mang, thay vì có 7 đến 33 lá mang như các loài thuộc chi Synodontis khác thì chúng lại có 39 đến 42 cái. Vây lưng và vây ngực liền kề nhau. Đôi mắt to, có màu xám đen với màu nâu. Và giống như các loài Synodontis khác, loài cá này hầu như luôn bơi lộn ngược. Cá này khi trưởng thành có thể phát triển lên đến 50 cm (20 in) và nặng tới 1,5 kg (3,3 lb).
nhỏ|Hình ảnh của Synodontis batensoda
Chúng là loài ăn tạp nên thức ăn của chúng là các sinh vật phù du, tảo, mảnh vụn, côn trùng bề mặt, bọ gậy, động vật giáp xác đáy và động vật thân mềm. Nó là loài đẻ trứng và có nọc độc.
Trong bể, nó là loài cá hiền lành, khỏe mạnh và thích hợp để nuôi chung với các loài cá nhỏ, nhưng nó có thể bị bắt nạt bởi các loài trong chi Synodontis hung hăng hơn.
Chú thích
Tham khảo
Eschmeyer, William N., ed. 1998. Catalog of Fishes. Special Publication of the Center for Biodiversity Research and Information, núm. 1, vol. 1-3. California Academy of Sciences. San Francisco, California, Estados Unidos. 2905. ISBN 0-940228-47-5.
Fenner, Robert M.: The Conscientious Marine Aquarist. Neptune City, Nueva Jersey, Estados Unidos: T.F.H. Publications, 2001.
Helfman, G., B. Collette y D. Facey: The diversity of fishes. Blackwell Science, Malden, Massachusetts, Estados Unidos, 1997.
Moyle, P. y J. Cech.: Fishes: An Introduction to Ichthyology, 4a. edición, Upper Saddle River, Nueva Jersey, Estados Unidos: Prentice-Hall. Año 2000.
Nelson, J.: Fishes of the World, 3a. edición. Nueva York, Estados Unidos: John Wiley and Sons. Año 1994.
Wheeler, A.: The World Encyclopedia of Fishes, 2a. edición, Londres: Macdonald. Año 1985.
AQUATAB
B
Động vật được mô tả năm 1832
Cá Cameroon
Cá Ethiopia
Cá có độc | VI_open-0000004579 | Pets_and_Animals |
Lungisa Dikana, (18 tháng 12 năm 1978 – 3 tháng 12 năm 2014), là một nghệ sĩ và ca sĩ thu âm Nam Phi. Sự nghiệp âm nhạc của cô đã trở nên nổi bật vào năm 2008 sau khi phát hành album đầu tay My Diary, My Thoughts. Cô qua đời vào ngày 3 tháng 12 năm 2014 sau một thời gian ngắn bị bệnh.
Cuộc đời và sự nghiệp
Sinh ra trong một gia đình âm nhạc ở Kwazakhele, một thị trấn nhỏ ở Eastern Cape, Port Elizabeth, Lulu bắt đầu hát với tư cách là một người hát thánh ca trong nhà thờ địa phương ở tuổi 15. Cha cô, Vuyiselie Dikana là một tay trống cho một ban nhạc được gọi là "Black Slave và Flamingo ". Lulu phát hành album đầu tay của cô có tiêu đề My Diary, My Thoughts in 2008. Album chứa các bài hit như "Real Love" và "Life and Death".
Sau sự thành công của album đầu tay, Lulu bắt đầu làm việc cho album thứ hai This Is the Life. Album được phát hành vào năm 2011 và tiếp tục được đề cử trong ba hạng mục tại Giải thưởng âm nhạc Metro FM năm 2013 và giành giải "Album R & B / Soul / Reggae hay nhất" tại Giải thưởng Âm nhạc Nam Phi lần thứ 19. Vào tháng 10 năm 2014, cô phát hành I Came To Love, album phòng thu thứ ba của cô đã giành được ba vị trí đề cử tại Giải thưởng Âm nhạc Nam Phi lần thứ 21.
Sự ra đi
Trong năm 2009, Lulu được chẩn đoán thủng thực quản và trải qua năm cuộc phẫu thuật thực quản. Vào ngày 3 tháng 12 năm 2014, cô qua đời tại một bệnh viện ở Nam Phi sau một thời gian ngắn bị bệnh.
Đời tư
Cô là chị gái của Zonke, một ca sĩ kiêm nhạc sĩ và là nhà sản xuất thu âm người Nam Phi. Cô có một con trai trước khi qua đời.
Tham khảo
Sinh năm 1978
Mất năm 2014
Nữ ca sĩ Nam Phi | VI_open-0000004581 | Arts_and_Entertainment |
{{Infobox pharaoh
| Name= Takelot II
| Image= Relief Takelot II Lepsius.jpg
| Caption= Takelot II (trái) và thần Amun tại đền Karnak
| HorusHiero= E1:D40-N28-G17-R19
| Horus= Kanakht Khaiemwaset
| PrenomenHiero= N5-S1-L1-N5-U21:n
| Prenomen= Hedjkheperre SetepenreHiện thân lộng lẫy của Ra, được Ra chọn
| NomenHiero= M17-Y5:N35:U7-Q1-H8-V13:V31:D21-U33
| Nomen= Takelot-siese-meramunTakelot, con trai Isis, Amun yêu quý
| Predecessor= Harsiese A
| Successor= Pedubast I
| Reign= k. 850 – 825 TCN
| Dynasty= Vương triều thứ 23
| Father= Nimlot C
| Mother= Tentsepeh C
| Spouse= Karomama II
| Children = Osorkon III xem văn bản}}
Hedjkheperre Setepenre Takelot II Si-Ese là một pharaon thuộc Vương triều thứ 23 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Takelot II lên ngôi trong thời kỳ Ai Cập bị chia cắt và chỉ nắm quyền kiểm soát Trung và Thượng Ai Cập. Phần lớn các nhà Ai Cập học đều cho rằng, niên đại của ông bắt đầu từ khoảng năm 850 đến 825 TCNMichael Rice (2002), Who's who in ancient Egypt, Nhà xuất bản Routledge, tr.200 .
Cả hai vị vua Takelot (I và II) đều sử dụng cùng một tên ngai: Hedjkheperre Setepenre. Tuy nhiên, chỉ có Takelot II là sử dụng tính ngữ Si-Ese (Con của Isis) trong tên gọi của mình.
Gia quyến
Takelot II là con của Đại tư tế của Amun Nimlot C và là cháu nội của pharaon Osorkon II. Ông được đồng nhất với tư tế Takelot F, người cũng được xem là con trai của Nimlot C. Ông cũng đã có nhiều người con với các bà vợ:
Chính cung Karomama II, chị em ruột với Takelot II
Đại tư tế Osorkon B của Thebes, về sau là vua Osorkon III.
Bakenptah, tướng của Heracleopolis, dựa trên một văn bản đánh dấu năm thứ 39 của Osorkon III.
Tabektenasket I, sinh được một con gái tên Isisweret II, về sau kết hôn với tể tướng Thebes Nakhtefmut C, được biết đến qua chữ khắc trên quan tài của con trai Ankhpakhered và con gái Tabektenasket II.
Tashep[...], sinh được một con trai tên Nimlot F. Tên của hai mẹ con xuất hiện trên một tấm bia gỗ (Turin 1468/Vatican 329), được cho là có liên quan đến Takelot II.
Những người con khác, không rõ mẹ:
Shebensopdet II, lấy Đại tư tế Djedkhonsefankh C (cháu ngoại của Harsiese A), sinh được con gái là Nehemsybast.
Karomama E, đảm nhận chức vị Kỹ nữ của Amun''.
3 người con gái Tentsepeh (D), Irast-udja-tjau, Di-Ese-nesyt. Có thể là con của Takelot II hoặc Takelot III.
Trị vì
thế=|trái|nhỏ|212x212px|Danh hiệu của Takelot II trên cổng đền thờ Ptah, Karnak
nhỏ|235x235px|Một bức tượng shabti của Takelot II
Takelot II nắm quyền kiểm soát Trung và Thượng Ai Cập trong khoảng những năm cuối của Osorkon II và 2 thập kỷ đầu tiên của Shoshenq III (tức khoảng từ 850 đến 825 TCN). Vào năm thứ 11, một cuộc tranh giành quyền lực nổ ra bởi Pedubast I. Takelot đã phái con trai mình, Osorkon B (Osorkon III sau này) để dẹp loạn. Quân của Osorkon B giành chiến thắng, và Osorkon đã tự xưng là Đại linh mục mới của Thebes.
Tuy nhiên, chỉ bốn năm sau, Pedubast I đã tái xâm chiếm Thebes và giành thắng lợi. Điều này gây ra bất ổn trong thời gian dài ở Thượng Ai Cập bởi các cuộc đấu tranh giữa 2 phe của Takelot II / Osorkon B và Pedubast I / Shoshenq VI. Cuộc xung đột này kéo dài 27 năm và cuối cùng Osorkon B cũng đánh thắng kẻ thù của mình và lên ngôi vua.
Các năm từ 11 đến 24 của Takelot II được chứng thực qua những hoạt động của Osorkon dưới thời trị vì của cha mình. Năm thứ 25 ngắn ngủi của Takelot II được chứng thực qua một tấm bia, mà theo đó, ông đã ban đất cho con gái mình, Karomama E. Cuộn giấy cói Berlin 3048 được ghi bởi một tư tế tên Harsiese cũng có đề cập đến các năm thứ 13, 14, 16, 23 và thậm chí cả năm 26, mặc dù năm này có thể liên quan đến một pharaon khác. Cho đến nay vẫn không tìm được mộ phần của Takelot II.
Chú thích
Pharaon Vương triều thứ Hai mươi ba của Ai Cập | VI_open-0000004584 | People_and_Society |
Oleg Zoteev (, Uzbek Cyrillic: Олег Зотеев; sinh ngày 5 tháng 7 năm 1989 ở Olmaliq, Uzbek SSR) là một cầu thủ bóng đá người Uzbekistan thi đấu cho câu lạc bộ quê nhà Lokomotiv Tashkent thi đấu ở Giải bóng đá vô địch quốc gia Uzbekistan ở vị trí tiền vệ.
Sự nghiệp
Ngày 26 tháng 12 năm 2012 anh ký hợp đồng với câu lạc bộ Bunyodkor sau 3 năm thi đấu tại Olmaliq FK.
Ngày 6 tháng 1 năm 2015, Lokomtiv Tashkent thông báo chuyển nhượng của Zoteev. Zoteev giành chức vô địch Siêu cúp Uzbekistan thứ hai với Lokomotiv ngày 8 tháng 3 năm 2015 trong trận đấu trước Pakhtakor.
Quốc tế
Tại Vòng loại bóng đá Thế vận hội 2012, anh được triệu tập vào the đội tuyển U-23 Uzbekistan và ghi 2 bàn cho đội bóng.
Tại Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2014, anh được triệu tập vào the đội tuyển quốc gia Uzbekistan.
Thống kê sự nghiệp
Bàn thắng quốc tế
Tỉ số và kết quả liệt kê bàn thắng của Uzbekistan trước.
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Bunyodkor
Giải bóng đá vô địch quốc gia Uzbekistan (1): 2013
Cúp bóng đá Uzbekistan (1): 2013
Á quân Cúp bóng đá Uzbekistan (1): 2014
Siêu cúp bóng đá Uzbekistan (1): 2013
Lokomotiv
Siêu cúp bóng đá Uzbekistan (1): 2014
Tham khảo
Liên kết ngoài
Oleg Zoteev - Eurosport UK
Sinh năm 1989
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Uzbekistan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Uzbekistan
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá Pakhtakor Tashkent FK
Cầu thủ bóng đá Olmaliq FK
Vận động viên Tashkent
Người Uzbekistan gốc Nga
Cầu thủ bóng đá Lokomotiv Tashkent | VI_open-0000004585 | Sports |
Pedro Miguel Baltazar Almeida (sinh ngày 5 tháng 4 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá người Bồ Đào Nha thi đấu cho C.D. Mafra ở vị trí hậu vệ phải.
Sự nghiệp bóng đá
Sinh ra ở Porto Salvo, Oeiras, Almeida thi đấu bóng đá trẻ cùng với S.L. Benfica từ 2001 đến 2011. Sau đó, anh gia nhập U.D. Leiria trong năm cuối cùng anh là cầu thủ trẻ.
Vào ngày 29 tháng 4 năm 2012, Almeida ra mắt tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha, là một trong 8 cầu thủ duy nhất được Leiria đưa vào sân – do khủng hoảng tài chính quá lớn – trong thất bại 0–4 trên sân nhà trước C.D. Feirense.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Đội tuyển quốc gia data
Sinh năm 1993
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha
Hậu vệ bóng đá
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha
Cầu thủ bóng đá U.D. Leiria
Cầu thủ bóng đá S.C.U. Torreense
Cầu thủ bóng đá Atlético Clube de Portugal
Cầu thủ bóng đá C.D. Mafra
Cầu thủ bóng đá Anorthosis Famagusta F.C.
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Bồ Đào Nha
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Síp
Cầu thủ bóng đá nam Bồ Đào Nha ở nước ngoài | VI_open-0000004588 | Sports |
Vicky Colbert (hay tên đầy đủ Clara Victoria Colbert de Arboleda) là tên của một người phụ trách chính của mô hình trường học mới tên là Escuela Nueva (Trong tiếng Tây Ban Nha, nó có nghĩa là "trường mới") mà bà đã phổ biến khắp Columbia và lan rộng ra nhiều quốc gia khác trong khoảng thời gian hơn 4 thập kỉ. Bà từng là thứ trưởng bộ giáo dục của Columbia và đã giành được nhiều giải thưởng cho công việc của mình. Hiện tại, bà đang là giám đốc điều hành của tổ chức Escuela Nueva. Năm 2013, bà nhận được giải thưởng Giáo dục sáng tạo của quỹ Qatar và vào tháng 9 năm 2017, bà nhận được giải phát triển giáo dục Yidan của quỹ giải thưởng Yidan.
Lí lịch
Gia đình của bà Colbert là một gia đình rất quan tâm đến vấn đề giáo dục. Chẳng hạn như cha đỡ đầu của bà là bộ trưởng bộ giáo dục của Colombia, mẹ bà là một giáo viên và cũng là người đã thành lập một trường đào tạo giáo viên. Bên cạnh đó, cha bà là một nhân viên văn phòng trong lực lượng hải quân Mỹ.
Bà nhận được học bổng của quỹ Ford và vì thế bà có cơ hội đi du học tại đại học Stanford. Sau đó bà về nước, nơi mà "Tôi muốn giải quyết các vấn đề về giáo dục tiểu học và làm việc với những người nghèo khổ nhất trong những ngôi trường nghèo và bị biệt lập".
Sự nghiệp
Bà làm việc ở vùng nông thông, nên vì thế thế có rất nhiều gia đình trồng cà phê. Và trẻ em thì thường xuyên nghỉ học để phụ giúp công việc này, điều đó đã dẫn đến một vấn đề nghiêm trọng khi những đứa trẻ ấy đi học lại. Vì thế vào giữa những năm 1970, bà cùng với Oscar Mogonlión và Beryl Levinger thành lập ra một mô hình dạy học tên Escuela Nueva để phù hợp với sự vắng mặt này.
Sau nhiều năm nỗ lực, hiện tại, mô hình này được sử dụng ở hơn 20000 trường học ở đó. Ngoài ra, nó đã được lan rộng đến 19 quốc gia bao gồm Brazil, Philippines và Ấn Độ.
Tham khảo
Người Colombia
Nhà hoạt động xã hội | VI_open-0000004594 | Jobs_and_Education |
Kürsat Güclü (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá người Áo. Anh thi đấu cho SC Austria Lustenau.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Anh ra mắt tại Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Áo cho SC Austria Lustenau vào ngày 21 tháng 7 năm 2017 trong trận đấu trước Floridsdorfer AC.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1994
Nhân vật thể thao từ Vienna
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Áo
Cầu thủ bóng đá Wiener Sport-Club
Cầu thủ bóng đá First Vienna FC
Cầu thủ bóng đá SC Austria Lustenau
Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Áo | VI_open-0000004595 | Sports |
Francisco Giovanni León Rodríguez (sinh ngày 12 tháng 3 năm 1992 ở Sinaloa, México) là một cầu thủ bóng đá người México thi đấu cho Murciélagos theo dạng cho mượn từ Club Atlas ở Liga MX.
Sự nghiệp
Năm 2007, lúc 16 tuổi, anh được ký hợp đồng bởi câu lạc bộ Primera División (First Division) Club Atlas và gia nhập hệ thống trẻ. Năm 2009, anh được triệu tập vào U-17 México. Sau 4 năm ở hệ thống trẻ Club Atlas, anh được gửi cho mượn đến First Division Puebla F.C. vào ngày 9 tháng 6 năm 2011.
Thống kê sự nghiệp
Liên kết ngoài
Player Under 17 call up
Ghi chú
Sinh năm 1992
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Puebla F.C.
Cầu thủ bóng đá Club Atlas
Cầu thủ bóng đá Liga MX
Cầu thủ bóng đá từ Sinaloa
Người Mazatlán
Hậu vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá México | VI_open-0000004597 | Sports |
Naldo Braidner Kwasie (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1986) là một cầu thủ bóng đá người Suriname thi đấu ở vị trí hậu vệ. Anh thi đấu tại vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2014.
Sự nghiệp quốc tế
Bàn thắng quốc tế
Tỉ số và kết quả liệt kê bàn thắng của Suriname trước.
Tham khảo
Sinh năm 1986
Nhân vật còn sống
Hậu vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá Suriname
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Suriname
Cầu thủ bóng đá SVB Hoofdklasse
Cầu thủ bóng đá Inter Moengotapoe | VI_open-0000004598 | Sports |
Libertina Inaviposa Amathila (nhũ danh Appolus, sinh ngày 10 tháng 12 năm 1940) là một bác sĩ và chính trị gia người Namibia. Bà là Phó Thủ tướng Namibia từ năm 2005 đến năm 2010.
Amathila được sinh ra ở Fransfontein, vùng Kunene. Theo chương trình SWAPO Nationhood, bà nhận được học bổng du học y học tại Ba Lan và tốt nghiệp Học viện Y khoa Warsaw năm 1969, trở thành nữ bác sĩ đầu tiên của Namibia. Tại Hội nghị tư vấn năm 1969 của SWAPO ở Tanzania, bà trở thành Phó Bí thư Y tế và Phúc lợi của Ủy ban Trung ương SWAPO và Giám đốc Hội đồng Phụ nữ SWAPO. Sau đó, bà làm việc trong các trại tị nạn SWAPO.
Ngay trước khi Namibia được độc lập, Amathila là thành viên SWAPO của Hội đồng đa thành phần, được thực hiện từ tháng 11 năm 1989 đến tháng 3 năm 1990, và kể từ khi độc lập vào tháng 3 năm 1990, bà đã là thành viên của Quốc hội Namibia. Bà là Bộ trưởng Bộ Chính quyền và Nhà ở khu vực và địa phương từ ngày 21 tháng 3 năm 1990 đến ngày 12 tháng 9 năm 1996, lúc đó bà trở thành Bộ trưởng Bộ Y tế và Xã hội,. Bà giữ cương vị này cho đến khi trở thành Phó Thủ tướng vào ngày 21 tháng 3 năm 2005.
Năm 2002, bà đặt tên con phố Brückenstrasse ở Swakopmund theo tên mình.
Amathila kết hôn với chính trị gia Ben Amathila.
Tham khảo
Sinh năm 1940
Nhân vật còn sống
Chính khách Namibia | VI_open-0000004599 | News |
Daniel Gyamfi (sinh ngày 28 tháng 9 năm 1984) là một cầu thủ bóng đá người Ghana. Hiện tại anh thi đấu cho Liberty Professionals FC.
Sự nghiệp
Gyamfi khởi đầu sự nghiệp cùng với Inter Millas F.C. và gia nhập Liberty Professionals FC vào tháng 1 năm 2006. Sau 2 năm cùng với Liberty Professionals FC anh ký hợp đồng cho mượn cùng với All Blacks F.C. vào ngày 11 tháng 7 năm 2008, nhưng lại trở về vào tháng 10 năm 2009.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Player profile
Sinh năm 1984
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Ghana
Tiền đạo bóng đá
Cầu thủ bóng đá Liberty Professionals F.C.
Cầu thủ bóng đá All Blacks F.C. | VI_open-0000004602 | Sports |
Issa Sarr (sinh ngày 9 tháng 10 năm 1986) là một cầu thủ bóng đá người Sénégal, thi đấu ở vị trí tiền vệ bởi Orlando Pirates.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1986
Nhân vật còn sống
Tiền vệ bóng đá
Người Thiès
Cầu thủ bóng đá Sénégal
Cầu thủ bóng đá Platinum Stars F.C.
Cầu thủ bóng đá Chippa United F.C. | VI_open-0000004604 | Sports |
Mxolisi Mthethwa (sinh ngày 18 tháng 9 năm 1978) là một cầu thủ bóng đá người Swaziland thi đấu ở vị trí tiền vệ. Tính đến tháng 2 năm 2010, anh thi đấu cho Royal Leopards ở Giải bóng đá ngoại hạng Swaziland và có 39 lần ra sân cùng 1 bàn thắng cho quốc gia.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1978
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Eswatini
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Eswatini
Cầu thủ bóng đá Manzini Wanderers F.C.
Cầu thủ bóng đá Royal Leopards F.C. | VI_open-0000004605 | Sports |
Đại tướng Suchinda Kraprayoon (tiếng Thái: สุ จินดา ครา ประยูร; Suchinda Khra-prayun, sinh ngày 6 tháng 8 năm 1933) là chính trị gia và sĩ quan quân đội người Thái Lan. Ông từng giữ chức thủ tướng Thái Lan từ ngày 7 tháng 4 năm 1992 đến ngày 24 tháng 5 năm 1992.
Suchinda từ chức từ chức Thủ tướng vào ngày 24 tháng 5 năm 1992. Phó thủ tướng Meechai Ruchuphan trở thành thủ tướng tạm quyền trong một thời gian ngắn cho đến khi chính phủ mới được thành lập.
Chú thích
Thủ tướng Thái Lan
Đại tướng Lục quân Thái Lan
Bộ trưởng Thái Lan
Người Thái gốc Mon
Đại tướng Hải quân Thái Lan
Đại tướng Không quân Thái Lan | VI_open-0000004606 | News |
Samuel Gbenga Ajayi (sinh ngày 2 tháng 7 năm 1987 ở Lagos) là một cầu thủ bóng đá người Nigeria hiện tại thi đấu cho Boeung Ket ở Giải bóng đá vô địch quốc gia Campuchia.
Sự nghiệp
Trước đó anh thi đấu cho đội bóng Campuchia Phnom Penh Empire nơi anh thu hút sự chú ý của 'Bankers' thi đấu ở Singapore Cup.
Câu lạc bộ
Phnom Penh Empire – 2007–2008
Bangkok Glass – 2008–2012
Chonburi – 2012–2013
Samut Songkhram – 2014
Boeung Ket – 2015–
Danh hiệu
2008 Hun Sen Cup
2009 Super Cup
2010 Queen's Cup
Mekong Club Championship 2015: Á quân
2016 Giải bóng đá vô địch quốc gia Campuchia
Giải bóng đá vô địch quốc gia Campuchia 2017
Tham khảo
Sinh năm 1987
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Nigeria
Cầu thủ bóng đá Chonburi F.C.
Cầu thủ bóng đá Boeung Ket Angkor FC
Cầu thủ bóng đá Niger Tornadoes F.C.
Vận động viên Yoruba
Cầu thủ bóng đá Phnom Penh Crown FC | VI_open-0000004609 | Sports |
Bò Nelore, còn được gọi với cái tên khác là Bò Nellore là một giống bò có nguồn gốc từ bò Ongole (Bos indicus) ban đầu được mang đến Brazil từ Ấn Độ. Chúng được đặt theo tên quận Nellore ở bang Andhra Pradesh, Ấn Độ. Bò Nelore có một bướu lớn riêng biệt trên đỉnh của vai và cổ. Giống bò này có đôi chân dài giúp họ đi bộ trong nước và khi chăn thả. Nelore có thể thích nghi với tất cả ngoại trừ khí hậu rất lạnh. Chúng tỏ ra chống chịu rất tốt với nhiệt độ cao và có tính kháng tự nhiên đối với nhiều loại ký sinh trùng và bệnh khác nhau. Brazil là quốc gia lai tạo lớn nhất của giống bò Nelore. Nelore có đôi tai ngắn nhất của hầu hết các loại Bos indicus. Có một chủng tự nhiên của giống bò này.
Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, giống bò zebu ưa thích ở Brazil là Bò Indubrasil hoặc Bò Indo-Brazilian, nhưng từ những năm 1960 trở đi, Nelore trở thành giống bò chính ở Brazil vì tính cứng rắn, chịu nhiệt và bởi vì nó phát triển mạnh trong khi được cho ăn thức ăn và giống chất lượng kém, và bê ít khi yêu cầu can thiệp của con người để sống sót. Hiện nay hơn 80% bò thịt ở Brazil (khoảng 167.000.000 cá thể) là bò thuần chủng hoặc lai Nelore, khiến chúng trở thành giống chủ yếu ở Brazil. Bò đực giống này đã được xuất khẩu sang nhiều nước khác ở Tây bán cầu, chẳng hạn như Hoa Kỳ và Venezuela trong những thập kỷ qua.
Tham khảo
Giống bò
Sơ khai bộ Guốc chẵn
Động vật Ấn Độ | VI_open-0000004612 | Pets_and_Animals |
Lina Attalah là nhân vật truyền thông và nhà báo người Ai Cập. Attalah hiện là người đồng sáng lập và là biên tập viên chính của Mada Masr, một tờ báo trực tuyến độc lập của Ai Cập và trước đây cô từng là biên tập viên của Egypt Independent trước khi tờ báo này đóng cửa vào năm 2013. Cô tích cực tham gia vào cuộc chiến chống lại sự hạn chế của báo chí trung thực. Tạp chí TIME đã công nhận cô là nhà lãnh đạo thế hệ mới, gọi cô là "Muckraker của thế giới Ả Rập."
Học vấn và sự nghiệp
Attalah học về báo chí tại Đại học Hoa Kỳ ở Cairo và đã có một sự nghiệp thành công với các tin tức về những sự kiện đáng chú ý trong thế giới Ai Cập và những cuộc nổi dậy gần đây. Cô đã viết ấn bản tiếng Anh của Al-Masry Al-Youm, Reuters, Cairo Times, Daily Star và Christian Science Monitor. Cô làm việc với vai trò là nhà sản xuất radio và điều phối viên chiến dịch cho BBC World Service Trust vào năm 2005. Cô thực hiện nhiều dự án dựa trên nghiên cứu sử dụng các đầu ra đa phương tiện. Gần đây nhất, cô tập trung vào việc đưa tin bao quát các phong trào diễn ra ở Ai Cập.
Năm 2011, Attalah là một trong số các nhà báo bị tấn công bởi lực lượng an ninh trong khi đang trà trộn vào một cuộc biểu tình ở Cairo.
Attalah là một diễn giả thường xuyên được mời đến tham gia ngày Tự do Báo chí thế giới của UNESCOy, sự kiện Storyful ở Úc, Diễn đàn truyền thông Ả Rập và một loạt các sự kiện khác.
Cô có hơn 36,6 nghìn lượt theo dõi trên Twitter.
Xem thêm
Lists of Egyptians
Tham khảo
http://www.egyptindependent.com/staff/lina-attalah
http://www.jadaliyya.com/pages/index/13624/lina-attalah-on-media-in-egypt
Liên kết ngoài
https://twitter.com/Linaattalah
Nhân vật còn sống | VI_open-0000004617 | News |
Kirill Andreyevich Ushatov (; sinh ngày 24 tháng 1 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá người Nga thi đấu cho FSK Dolgoprudny.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Anh có màn ra mắt tại Giải bóng đá chuyên nghiệp quốc gia Nga cho FSK Dolgoprudny vào ngày 20 tháng 5 năm 2018 trong trận đấu với FC Znamya Truda Orekhovo-Zuyevo.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Profile by Giải bóng đá chuyên nghiệp quốc gia Nga
Sinh năm 2000
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Nga
Tiền vệ bóng đá | VI_open-0000004618 | Sports |
Alicia Borinsky (sinh ra ở Buenos Aires), là một nhà văn, nhà thơ và nhà phê bình văn học người Mỹ gốc Argentina. Alicia Borinsky là giáo sư văn học Mỹ Latinh, Văn học so sánh và Giám đốc Chương trình Viết văn của Chương trình Châu Mỹ tại Đại học Boston. Công việc quan trọng của cô đã giúp tạo ra khung thảo luận về các nhà văn của sự bùng nổ Mỹ Latinh hoặc Boom latinoamericano, một phong trào quan trọng trong văn học Mỹ Latinh. Trong số những thành tựu học thuật khác của bà là việc giới thiệu nhân vật Macedonio Fernández - chủ nhân của Borges - cho công chúng đọc rộng hơn, khám phá điểm chung giữa lý thuyết văn học, nghiên cứu văn hóa và giới và nhiều tác phẩm về thơ ca, văn học La tinh và văn học thế giới.
Đánh giá tác phẩm
Alicia Borinsky đã giành được nhiều giải thưởng cho tác phẩm của mình, bao gồm Giải thưởng Văn học Latino năm 1996 và Học bổng Guggenheim năm 2001. Nhà phê bình văn học và giáo sư tiếng Anh tại Đại học Princeton, Michael Wood, nói về Low Blows, "Low Blows là một cuốn sách bất ngờ. Đây là lý do tại sao nó lạ đến nỗi cuối cùng chúng ta cũng nên biết chúng ta đang ở đâu, và tại sao chúng ta may mắn trở lại với thế giới quen thuộc một lần. Chúng ta đã quen với thất bại của thị giác mà chúng ta hiếm khi biết phải làm gì với cái liếc nhìn nhẹ nhàng và tầm nhìn nhiều góc cạnh" Peter Bush, Giám đốc Trung tâm dịch thuật văn học, viết, "Không người viết văn nào khác có thể viết được một cuốn phim hoạt hình bằng văn xuôi như cô ấy, một cuộc hôn nhân shotgun giữa truyện tranh và cắm trại, giữa phong cách Borgesian và Barthesian. "
Tham khảo
Nhà văn Argentina
Nhân vật còn sống | VI_open-0000004619 | Books_and_Literature |
Elsie Elizabeth Esterhuysen (11 tháng 4 năm 1912 - ngày 1 tháng 1 năm 2006) là một nhà thực vật học Nam Phi. Bà được xem là "người thu thập hệ thực vật Nam Phi ấn tượng nhất từ trước đến nay ", với 36,000 mẫu vật.
Đầu đời và giáo dục
Elsie Elizabeth Esterhuysen sinh ra tại Đài quan sát, Cape Town, bà là con gái của Johannes Petrus le Roux Esterhuysen và Florence Ethel Larkin. Cha và anh trai bà đều là luật sư. Bà theo học tại trường Trung học nữ sinh Wynberg Girls High School và học lên Đại học Cape Town. Bà nhận bằng thạc sĩ về thực vật học vào năm 1933, và tiếp tục tiến hành nghiên cứu thực địa với nguồn kinh phí từ suất học bổng của Kirstenbosch.
Sự nghiệp
Năm 1936, bà bắt đầu làm trợ lý cho Maria Wilman tại Bảo tàng McGregor ở Kimberley. Từ năm 1938, bà làm việc tại Bolus Herbarium, xưởng sản xuất cũ nhất Nam Phi được thành lập năm 1856. Công việc không chính thức này tiếp tục kéo dài đến năm 1956, khi bài đăng dài kỳ dành của bà được đăng thông qua Đại học Cape Town. Bà tập trung vào việc thu thập mẫu vật từ vực cao độ Cape, bà là một người có khả năng leo núi. Ước tính, bà đã tìm ra khoảng 150 Nhóm (Taxa) thực vật, trong đó có 34 loài và 2 chi được đặt theo tên của bà. Vào năm 1984, bà phát hiện và thu thập được mẫu Protea nubigena, Cloud Protea rất hiếm được tìm thấy ở một địa điểm có độ cao.
Bà được trao tặng Bằng Thạc sĩ Khoa học danh dự của Đại học Cape Town vào năm 1989. Các thế hệ sinh viên UCT rất biết ơn về những mẫu vật mà bà đã dày công thu thập.
Cuộc sống cá nhân
Elsie Elizabeth Esterhuysen đạp xe hàng ngày đến và đi từ văn phòng. Bà là một nghệ sĩ dương cầm được đào tạo và cũng là một nghệ sĩ thực vật học thực thụ. Bà mất năm 2006, hưởng thọ 93 tuổi.
Công trình xuất bản
Tham khảo
Sinh năm 1912
Mất năm 2006
Nhà khoa học nữ thế kỷ 20 | VI_open-0000004620 | Science |
Maria Fernanda Barbato Alves (tiếng Bồ Đào Nha: [maˈɾi.ɐ feɾˈnɐ̃dɐ ˈawvis]; sinh ngày 17 tháng 4 năm 1983), còn được gọi là Nanda Alves, là một tay vợt người Brazil đã nghỉ hưu. Cô hiện đang được huấn luyện bởi cha cô Carlos và cựu cầu thủ quần vợt Thomaz Koch. Tính đến ngày 1 tháng 3 năm 2010, Alves được xếp hạng Thế giới số 262, và là cầu thủ được xếp hạng cao nhất của Brazil. Cô đã rất thành công tại ITF Circuit, giành được 18 giải đơn và 26 danh hiệu cho đến nay. Alves đã ra mắt WTA Tour tại Copa Colsanitas năm 2004. Alves nghỉ hưu với tư cách là cầu thủ quần vợt chuyên nghiệp, giải đấu cuối cùng của cô là vào năm 2016 Cúp quần vợt Brasil.
Đời tư
Alves sinh ngày 17 tháng 4 năm 1983 với Carlos José Alves và Maria Cristina Barbato Alves, cả hai đều là những tay vợt chuyên nghiệp. Cô sống ở quê nhà Florianópolis, Santa Catarina. Alves bắt đầu chơi quần vợt từ lúc bốn tuổi, cùng với chị gái Maria Cláudia. Cùng với quần vợt, môn thể thao yêu thích của cô bao gồm bóng chuyền và bóng đá, và cô trích dẫn Pretty Woman và Notting Hill là những bộ phim yêu thích của cô. Cô cũng ngưỡng mộ các môn thể thao bãi biển. Alves được nuôi dạy với tôn giáo Công giáo La Mã.
Alves thường làm việc với trẻ em trong trại quần vợt của cha cô ở Florida, Một số người chơi trong trại Carlos Alves là cựu cầu thủ số 1 thế giới điển hình như Gustavo Kuerten, Marcelo Melo, André Sá và những người khác. Cô hiện đang được huấn luyện bởi cha cô Carlos và cựu cầu thủ quần vợt Thomaz Koch.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Official Website
Maria Fernanda Alves at the Women's Tennis Association
Maria Fernanda Alves at the International Tennis Federation
Maria Fernanda Alves at the Fed Cup
Sinh năm 1983
Nhân vật còn sống | VI_open-0000004621 | Sports |
Một ngôi sao loại S (hoặc chỉ là sao S) là một sao khổng lồ nguội với số lượng cacbon và oxy xấp xỉ bằng nhau trong bầu khí quyển. Nhóm này lần đầu được định nghĩa vào năm 1922 bởi Paul Merrill cho những ngôi sao có vạch quang phổ và dải phân tử bất thường, giờ đã biết là do các nguyên tố quá trình s. Dải zirconi monoxit (ZrO) là đặc trưng giúp định nghĩa sao S.
Sao cacbon có nhiều cacbon hơn oxy trong bầu khí quyển. Ở hầu hết các ngôi sao, ví dụ như sao khổng lồ nhóm M, bầu khí quyền của chúng giàu oxy hơn cacbon và chúng thường được gọi là sao giàu oxy. Các sao loại S là loại ở giữa sao cacbon và sao khổng lồ thông thường. Chúng có thể bị chia thành hai nhóm: sao S thực chất, tức những sao mà có được phổ của chúng nhờ vào đối lưu các sản phẩm dung hợp và các nguyên tố quá trình s trên bề mặt; và sao S không thực chất, tức những sao được hình thành thông qua chuyển khối trong một hệ binary.
Đặc điểm quang phổ
Các ngôi sao nguội, cụ thể là nhóm M, cho thấy các dải phân tử, với titanium(II) oxide (TiO) đặc biệt mạnh. Một phần nhỏ những sao nguội này do đó cũng cho thấy những dải zirconium oxide (ZrO) mạnh. Sự tồn tại của các dải ZrO có thể phát hiển được rõ ràng trong phổ nhìn thấy được là định nghĩa của một sao loại S.
Tham khảo
Loại sao | VI_open-0000004626 | Science |
Suzuki Masae (鈴木 政江, sinh ngày 21 tháng 1 năm 1957) là một cựu cầu thủ bóng đá nữ người Nhật Bản.
Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Nhật Bản
Suzuki Masae thi đấu cho đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Nhật Bản từ năm 1984 đến 1991.
Thống kê sự nghiệp
Tham khảo
Sinh năm 1957
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nữ Nhật Bản | VI_open-0000004627 | Sports |
Trần Trung Hiếu (sinh năm 1993), tên thật là Geoffrey Kizito, là một cầu thủ bóng đá nhập tịch Việt Nam gốc Uganda hiện thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Becamex Bình Dương.
Câu lạc bộ sự nghiệp
Sinh ra ở Kampala, anh đã trải qua mùa giải 2012 và 2013 tại Việt Nam cùng với Xuân Thành Sài Gòn. Đầu tháng 1 năm 2014, anh đã ký một thỏa thuận chơi cho nhà vô địch giải Ngoại hạng Kenya là Gor Mahia. Anh trở lại Việt Nam ở mùa 2015, chơi cho Than Quảng Ninh. Kể từ đó tới nay, anh thi đấu cho nhiều câu lạc bộ khác nhau tại giải vô địch quốc gia Việt Nam (V-League 1).
Sự nghiệp quốc tế
Anh ra mắt quốc tế cho đội tuyển Uganda vào năm 2012. Anh tham dự Cúp bóng đá châu Phi 2017 cùng với đội tuyển Uganda.
Đời tư
Kizito được công nhận quốc tịch Việt Nam vào năm 2017, lấy tên Việt Nam là Trần Trung Hiếu.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Công dân nhập tịch Việt Nam
Người Việt gốc Uganda
Người nước ngoài Uganda ở Việt Nam
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá Uganda
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Việt Nam
Cầu thủ bóng đá Uganda ở nước ngoài
Cầu thủ giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam
Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Than Quảng Ninh
Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Xuân Thành Sài Gòn
Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Sài Gòn
Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Nam Định | VI_open-0000004628 | Sports |
Péricles Chamusca (sinh ngày 29 tháng 9 năm 1965) là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá người Brasil.
Sự nghiệp Huấn luyện viên
Péricles Chamusca đã dẫn dắt Vitória, Santa Cruz, São Caetano, Goiás, Botafogo, Oita Trinita, Sport Recife, Portuguesa, Coritiba và Júbilo Iwata.
Tham khảo
Sinh năm 1965
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Brasil
Huấn luyện viên bóng đá Brasil | VI_open-0000004629 | Sports |
Yutaka Matsushita (sinh ngày 13 tháng 9 năm 1968) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Yutaka Matsushita đã từng chơi cho Yokohama Marinos.
Tham khảo
Sinh năm 1968
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
Cầu thủ bóng đá Yokohama F. Marinos | VI_open-0000004630 | Sports |
Makoto Segawa (sinh ngày 26 tháng 11 năm 1974) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Makoto Segawa đã từng chơi cho Yokohama Flügels, Fukushima FC và Vegalta Sendai.
Tham khảo
Sinh năm 1974
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
Cầu thủ bóng đá Vegalta Sendai | VI_open-0000004631 | Sports |
Lâm Quang Đạt (sinh ngày 1 tháng 1
năm 99)2) là mộnhạc sĩ á ngườniệt Nam.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Hitoshi Morishita đã từng chơi cho Gamba Osaka, Consadole Sapporo và Júbilo Iwata.
Tham khảo
Sinh năm 1972
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
Cầu thủ bóng đá Hokkaido Consadole Sapporo
Cầu thủ bóng đá Gamba Osaka | VI_open-0000004632 | Sports |
Naoya Saeki (sinh ngày 18 tháng 12 năm 1977) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Naoya Saeki đã từng chơi cho Júbilo Iwata, Vissel Kobe, Omiya Ardija, Avispa Fukuoka, JEF United Chiba và Tokyo Verdy.
Tham khảo
Sinh năm 1977
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
Cầu thủ bóng đá Tokyo Verdy
Cầu thủ bóng đá Avispa Fukuoka | VI_open-0000004635 | Sports |
Nivaldo Lourenço da Silva (sinh ngày 28 tháng 9 năm 1975) là một cầu thủ bóng đá người Brasil.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Nivaldo Lourenço da Silva đã từng chơi cho Montedio Yamagata và Shonan Bellmare.
Thống kê câu lạc bộ
J.League
Tham khảo
Sinh năm 1975
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Brasil
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá J2 League
Cầu thủ bóng đá Montedio Yamagata
Cầu thủ bóng đá Shonan Bellmare | VI_open-0000004637 | Sports |
Shinichiro Kuwada (sinh ngày 6 tháng 12 năm 1986) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Shinichiro Kuwada đã từng chơi cho Sanfrecce Hiroshima, Fagiano Okayama và Nakhon Ratchasima.
Tham khảo
Sinh năm 1986
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
Cầu thủ bóng đá Fagiano Okayama | VI_open-0000004638 | Sports |
Thung lũng Trung tâm (tiếng Tây Ban Nha: Valles Centrales) của Oaxaca, cũng được gọi đơn giản là Thung lũng Oaxaca là một vùng địa lý nằm trong bang Oaxaca hiện đại ở miền nam Mexico. Về mặt hành chính, nó bao gồm các huyện Etla, Centro, Zaachila, Zimatlán, Ocotlán, Tlacolula và Ejutla. Thung lũng nằm trong dãy Sierra Madre de Oaxaca, là dãy núi có hình dạng chữ Y, bị bóp méo và gần như lộn ngược với cánh phía tây bắc tại Etla, đông ở Tlacolula và trung nam ở Valle Grande. Thung lũng là nơi sinh sống của nền văn minh Zapotec, một trong những tổ chức xã hội phức tạp sớm nhất tại Trung Bộ châu Mỹ và nền văn hóa Mixtec sau này. Một số địa điểm khảo cổ trong thung lũng này gồm Monte Albán, San José Mogote, Mitla, Yagul. Ngày nay, thủ phủ của bang Oaxaca là thành phố Oaxaca nằm tại trung tâm thung lũng.
Lịch sử
Người Zapotec thống trị thung lũng và phần lớn vùng cao nguyên Oaxaca từ thời kỳ đầu hình thành cho đến cuối thời kỳ cổ điển. Họ sau đó tiếp nối trở thành văn hóa Mixtec trong thời kỳ hậu cổ điển.
Tham khảo
Thung lũng Mexico
Địa mạo của Oaxaca
Địa lý của Mesoamerica
Di sản thế giới tại México
Vùng Oaxaca | VI_open-0000004639 | Travel_and_Transportation |
Trâu Romania, (tiếng Rumani: Bivol românesc), là một giống trâu nước có nguồn gốc từ Romania.
Số lượng
Năm 1994, số lượng con cái / con đực được sử dụng cho AI là 11800 (1.628 trong sách về đàn) / năm con đực. Năm 1996, tổng số trâu là 209.432 con được nuôi trong 86.480 đàn; số lượng con cái trưởng thành là 97.320 và số lượng con đực trưởng thành là 2510. Năm 2003, số lượng trâu cái trong sách về đàn chỉ còn 275.
Các đặc điểm sản xuất và sinh sản
Trâu Romania có công dụng chính là sữa, thịt và sức kéo. Năng suất sữa thay đổi tùy theo mùa sinh bê, số chu kỳ sữa, mức cho ăn và thời gian cho con bú. Năng suất sữa cho con bú (kg) là từ 958–1455 kg. Số ngày cho con bú mỗi năm là 252-285; tuổi sinh bê đầu tiên là 38-42 tháng; số lượng sữa trung bình là 6-9; tuổi giết mổ đối với trâu là 22-24 và 350–400 kg hoặc 3-4 tháng và 60–100 kg đối với con đực và con cái được giết mổ ở mức 500–600 kg, thường là sau khi cho con bú đầu tiên hoặc sau khi sinh sản. Năm 2003, con cái được đưa vào trong sách về giống, cho biết nhiều số liệu: có 1831 kg sữa, với 136 kg chất béo (7,48%) và 71 kg (3,93%) protein. Tuổi lúc sinh bê đầu tiên là 38 tháng và khoảng cách sinh bê của những con cái này là 456 ngày. Trung bình việc sản sinh bê / năm là 0,85.
Tham khảo
Giống trâu | VI_open-0000004640 | Pets_and_Animals |
Alison Henrique Mira (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá người Brasil.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Alison Henrique Mira đã từng chơi cho Shonan Bellmare.
Tham khảo
Sinh năm 1995
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Brasil
Tiền đạo bóng đá
Cầu thủ bóng đá J1 League
Cầu thủ bóng đá Shonan Bellmare
Người São Paulo (bang)
Cầu thủ bóng đá Campeonato Brasileiro Série A | VI_open-0000004643 | Sports |
Shuta Araki (sinh ngày 11 tháng 9 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Shuta Araki đã từng chơi cho Cerezo Osaka.
Tham khảo
Sinh năm 1999
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá Cerezo Osaka
Cầu thủ bóng đá J1 League | VI_open-0000004644 | Sports |
7.62×54mmR là loại đạn súng trường phát triển bởi Đế quốc Nga và được giới thiệu như một loại đạn tiêu chuẩn vào năm 1891. Được thiết kế cho súng trường Mosin Nagant, nó được sử dụng trong thời kỳ Sa hoàng cuối và trong suốt thời Liên Xô. 7.62×54mmR là một trong số ít những loại đạn vẫn được sử dụng trong quân sự và là một trong những loại đạn có tuổi thọ lâu nhất trên thế giới.
Khẩu Winchester Model 1895 của Mỹ cũng sử dụng đạn 7.62×54mmR theo hợp đồng với chính phủ Nga. 7.62×54mmR vẫn còn được sử dụng bởi quân đội Nga trong Dragunov SVD và nhiều khẩu súng bắn tỉa khác, cũng như một số loại súng máy đa năng hiện đại như súng máy PKM và PKP Pecheneg. Ban đầu, đạn được chỉ định là "Трехлинейный патрон образца 1891 года". Sau đó nó được biết đến rộng rãi dưới tên gọi "7.62мм винтовочный патрон" (đạn 7,62mm). Nhiều người vẫn tưởng chữ R trong 7.62×54mmR là Russia (Nga) nên thường gọi nó là "7.62mm Nga" (và vẫn thường được gọi là thông tục như vậy), nhưng thật ra, chữ R (7.62×54mmR) là viết tắt của từ rimmed (rãnh). Nó đôi khi bị nhầm lẫn với đạn "7.62 Liên Xô", loại đạn 7.62×39mm không vành được sử dụng trong súng trường CKC và họ AK (AK-47, AKM, AK-12, AEK-973).
7.62×54mmR là loại đạn lâu đời nhất vẫn còn được sử dụng trong một số lực lượng vũ trang lớn trên thế giới. Trong năm 2011, nó đã có 120 năm phục vụ. Tính đến tháng 12 năm 2013, 7.62×54mmR được sử dụng chủ yếu trong các súng bắn tỉa / súng trường thiện xạ như Dragunov SVD, SV-98 và súng máy như PKM. Do có tính năng tương tự như loại đạn .30-06 Springfield của Mỹ nên 7.62×54mmR thường được gọi là ".30-06 Russia".
Danh sách các loại súng sử dụng đạn 7.62×54mmR
Súng trường
Súng trường Mosin.
Winchester Model 1895 của Mỹ. Khoảng 300.000 khẩu được chế tạo cho quân đội Nga vào năm 1915-1916.
AVB-7.62
Dragunov SVD (bao gồm cả biến thể NDM-86 của Trung Quốc).
Dragunov SVU (phiên bản được phát triển từ Dragunov SVD vào năm 1991).
JS 7.62
SVT-40.
PSL
Zastava M76
Zastava M91
Berkut-2M1
IZH-18MH
SV-98
SVCh-308
SVK
Súng bắn tỉa Alejandro
Molot Vepr
MTs-13
TsVR, Rekord, Rekord-1, Rekord CISM, KO-13.
AVL
AV
TsVT
CAVIM Catatumbo
Súng máy
Súng máy Garanin
Degtyarov DP (DP-27, RP-46)
DS-39
GShG-7.62
Hua Qing Minigun
Súng máy Madsen
PK
PKP Pecheneg
PM M1910
Súng máy PV-1
RP-46
Savin–Norov
SG-43 Goryunov
Súng máy ShKAS
Súng máy Kiểu 53/57
Súng máy kiểu 67 và Súng máy Kiểu 80.
Súng máy Kiểu 73
Uk vz. 59
Zastava M84
Tham khảo
Đạn dược
Cỡ đạn súng ngắn và súng trường
Cỡ đạn quân sự | VI_open-0000004645 | Sensitive_Subjects |
Chính phủ lâm thời Priamurye () tồn tại vùng Priamurye trong Viễn Đông Nga, giữa ngày 27 tháng 5 năm 1921 và ngày 25 tháng mười, năm 1922. Đây là chính quyền cuối cùng Bạch vệ trong Nội chiến Nga.
Lịch sử
Chính phủ có nguồn gốc từ một cuộc đảo chính của Bạch vệ tại Vladivostok và phụ cận với mục đích là tách khỏi Cộng hòa Viễn Đông, sống sót sau một cordon sanitaire của quân Nhật Bản tham gia vào can thiệp Siberia. Cuộc đảo chính được bắt đầu vào ngày 23 tháng 5 bởi Kappelevtsy, tàn dư của Vladimir Kappel quân đội.
Chính phủ được lãnh đạo bởi anh em Merkulov: Spiridon Dionisovich Merkulov, cựu chức năng của Bộ Nông nghiệp và người đứng đầu chính phủ Priamurye; và Nikolai Merkulov, một thương gia. Cả hai đều là đại biểu của Chính phủ lâm thời Nga. Một ngày sau đó, ataman Cossack Grigory Semyonov đã cố gắng giành lấy quyền lực, nhưng, cuối cùng anh ta đã rút lui. Kappelevtsy và Semyonovtsy là đối thủ của nhau.
Xem thêm
Nội chiến Nga
Tham khảo
Chấm dứt năm 1922
Cựu quốc gia Slav
Cựu quốc gia Đông Á
Lịch sử Đông Bắc Á
Nhà nước hậu Đế quốc Nga | VI_open-0000004651 | Law_and_Government |
Arash Afshin (, sinh ngày 21 tháng 1 năm 1990) là một cầu thủ bóng đá người Iran hiện tại thi đấu cho Foolad ở Persian Gulf Pro League. Anh từng thi đấu cho đội tuyển Đội tuyển quốc gia Iran và U-23 Iran.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Afshin bắt đầu sự nghiệp thi đấu tại Foolad. Vào mùa đông năm 2012, anh được liên kết với Lille nhưng vụ chuyển nhượng không thành công. Ngày 1 tháng 7 năm 2013, anh gia nhập Sepahan on a one-year contract. Vào tháng 12 năm 2013, anh kết thúc hợp đồng với Sepahan để gia nhập Foolad một lần nữa.
Malavan
Sau vấn đề về nghĩa vụ, anh buộc phải đến một câu lạc bộ của quân đội,. Ngày 12 tháng 11 năm 2014, anh ký một bản hợp đồng 2 năm với Malavan của Hải quân Iran.
Ngày 31 tháng 7 năm 2015 trong màn ra mắt cho Malavan, Afshin ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1–0 trước Zob Ahan.
Sự nghiệp quốc tế
Sau màn trình diễn tốt với U-23 Iran ở Đại hội Thể thao châu Á 2010 và ở Foolad anh thuyết phục được Afshin Ghotbi gia nhập Team Melli.
Ngày 2 tháng 1 năm 2011, Afshin được triệu tập vào Iran thi đấu giao hữu với Angola và có màn ra mắt.
Anh cũng là một trong các cầu thủ Iran tham dự Cúp bóng đá châu Á 2011.
Bàn thắng quốc tế
Tỉ số và kết quả liệt kê bàn thắng của Iran trước.
Danh hiệu
Foolad
Iran Pro League (1): 2013–14
Đời sống cá nhân
He is currently Student of Civil Engineering at Islamic Azad University Ramhormoz Branch.
Tham khảo
Arash Afshin at Navad
Liên kết ngoài
Arash Afshin at PersianLeague.com
Sinh năm 1990
Nhân vật còn sống
Cầu thủ Foolad FC
Cầu thủ bóng đá nam Iran
Cầu thủ Cúp bóng đá châu Á 2011
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Iran
Người Khuzestan Province
Tiền đạo bóng đá
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá Đại hội Thể thao châu Á 2010
Cầu thủ Sepahan
Cầu thủ Malavan
Cầu thủ Esteghlal F.C. | VI_open-0000004652 | Sports |
Ung thư vú nam là một loại ung thư hiếm gặp ở nam giới xuất phát từ vú. Nhiều nam giới bị ung thư vú đã thừa hưởng đột biến BRCA, nhưng cũng có những nguyên nhân khác, bao gồm lạm dụng rượu và phơi nhiễm với một số kích thích tố và bức xạ ion hóa.
Vì thể hiện bệnh lý tương tự như ở ung thư vú nữ, những đánh giá và điều trị ung thư vú nam điều đang dựa trên kinh nghiệm và hướng dẫn đã được xây dựng ở bệnh nhân nữ. Điều trị tối ưu hiện vẫn chưa được biết rõ.
Bệnh lý học
Giống như ở nữ giới, ung thư biểu mô tuyến ống xâm lấm là loại ung thư phổ biến nhất. Trong khi ung thư nội mô, ung thư biểu mô viêm và bệnh Paget vú đã được mô tả, thì ung thư biểu mô tiểu thùy tại chỗ lại không tìm thấy ở nam giới. Ung thư vú ở nam giới di căn theo đường bạch huyết và dòng máu như ở ung thư vú nữ. Theo đó, hệ thống TNM (hệ thống thường dùng để phân giai đoạn đối với các khối u đặc) cho bệnh ung thư vú là giống nhau cho cả nam và nữ.
Kích thước tổn thương và sự tham gia của hạch bạch huyết giúp xác định tiên lượng; do đó các tổn thương nhỏ mà không có sự tham gia của hạch bạch huyết có tiên lượng tốt nhất. Xuất hiện thụ thể estrogen và progesterone và khuếch đại gen HER2/neu (Human Epidermal Growth Factor Receptor 2) cần phải được báo cáo vì chúng có thể ảnh hưởng đến các việc lựa chọn điều trị. Khoảng 85% các ca ung thư vú ở nam giới dương tính với thụ thể estrogen, và 70% dương tính với thụ thể progesterone
Mức độ phổ biến
Khoảng một phần trăm ung thư vú phát triển ở nam giới. Ước tính có khoảng 2.140 trường hợp mới hàng năm được chẩn đoán ở Hoa Kỳ và khoảng 300 ở Vương quốc Anh (Anh). Số ca tử vong hàng năm ở Mỹ là khoảng 440 (vào năm 2016 "nhưng khá ổn định trong vòng 30 năm qua"). Trong một nghiên cứu từ Ấn Độ, tám trong số 1.200 (0,7%) được chẩn đoán ung thư nam trong một đánh giá bệnh lý ung thư vú. Tỷ lệ mắc ung thư vú ở nam giới đang gia tăng làm tăng khả năng các thành viên khác trong gia đình cũng mắc bệnh. Nguy cơ tương đối của ung thư vú cho người phụ nữ có anh trai bị ảnh hưởng cao hơn khoảng 30% so với người phụ nữ có em gái bị ảnh hưởng. Khối u có thể xuất hiện trong một khoảng tuổi rộng, nhưng thường ở nam giới ở độ tuổi sáu mươi và bảy mươi.
Các yếu tố nguy cơ được biết đến bao gồm phơi nhiễm bức xạ, nội tiết tố nữ (estrogen) và yếu tố di truyền. Phơi nhiễm estrogen cao có thể xảy ra do thuốc, béo phì hoặc bệnh gan và các liên kết di truyền bao gồm tỷ lệ mắc ung thư vú ở phụ nữ cao trong họ hàng gần. Nghiện rượu mãn tính có mối liên quan đến ung thư vú nam. Nguy cơ ung thư vú nam cao nhất ở nam giới mắc hội chứng Klinefelter. Người nam mang đột biến gen BRCA cũng được cho là có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn, với khoảng 10% trường hợp ung thư vú nam mang đột biến BRCA2 và đột biến BRCA1 thuộc số ít.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Ung thư vú
Ung thư hiếm gặp | VI_open-0000004653 | Health |
Toán học Babylon (hay còn được biết đến là toán học Assyria-Babylon) là bất kỳ toán học nào được phát triển và thực tập bởi những người sống ở Lưỡng Hà, có niên đại từ đầu thời kỳ của những người Sumer cho đến khi Babylon sụp đổ vào năm 539 TCN. Các văn bản toán học Babylon phong phú và được chỉnh sửa tốt. Về mặt thời gian, nền toán học này gồm hai thời kỳ: Triều đại Babylon Thứ nhất (1830 TCN-1531 TCN và vương quốc Seleukos trong khoảng 3 hay 4 thế kỷ cuối trước Công nguyên. Về nội dung, những tác phẩm toán học Babylon không thể hiện sự khác biệt trong hai thời kỳ trên. Toán học Babylon đã duy trì sự nhất quán, cả về tính chất lẫn nội dung, trong gần 2 thiên niên kỷ.
Đối lập với sự tương phản về việc khan hiếm tài liệu của toán học Ai Cập, sự hiểu biết của toán học Babylon đã được chuyển hóa từ 400 tấm đất sét không tiếp đất từ thập niên 1850. Viết bằng chữ nêm, các tấm đất sét này được khắc khi chúng còn ẩm và được làm khô trong một cái lò hoặc phơi dưới ánh sáng Mặt Trời. Đa số của những tấm đất sét được khám phá có niên đại từ 1800 TCN đến 1600 TCN, và nói về các chủ đề bao gồm phân số, đại số, phương trình bậc hai, hàm số bậc ba và định lý Pythagoras. Bản YBC 7289 đã cho thấy giá trị xấp xỉ của căn bậc hai của hai chính xác đến 6 số sau dấu phẩy.
Xem thêm
Thiên văn học Babylon
Lịch sử toán học
Chú thích
Tham khảo
(1991 pbk ed. ).
Toán học Babylon
Lịch sử toán học | VI_open-0000004658 | Science |
Stegastes leucostictus, thường được gọi là cá thia Beau hay cá thia bụng vàng, là một loài cá biển thuộc chi Stegastes trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1848.
Phân bố và môi trường sống
S. leucostictus được phân bố ở phía tây Đại Tây Dương, và được tìm thấy từ mũi Canaveral (bang Florida), dọc theo bờ biển Hoa Kỳ (bao gồm cả Bermuda, Bahamas); trong vịnh Mexico từ Florida Keys và từ Tuxpan, Mexico dọc theo phía bắc Yucatan đến tây bắc Cuba; và trên khắp vùng biển Caribe đến Trinidad và Tobago. S. leucostictus thường sống xung quanh các rạn san hô hoặc những bãi đá ngầm, những khu vực nhiều rong biển, bọt biển có đáy cát, ở độ sâu khoảng 55 m trở lại.
Những cá thể được ghi nhận tại Brazil và phía đông Đại Tây Dương là sự nhầm lẫn giữa S. leucostictus với Stegastes variabilis và cá con của loài Similiparma hermani.
Mô tả
S. leucostictus trưởng thành dài khoảng 14 cm. Đỉnh đầu và lưng của S. leucostictus trưởng thành có màu xanh thẫm; rải rác những chấm xanh trên khắp cơ thể; vây hậu môn có những chấm trắng. Phần thân còn lại có màu vàng tươi. Vây lưng có đốm đen, nhỏ dần khi trưởng thành. Ngoại trừ vây đuôi, các vây còn lại có viền xanh nhạt. Cá con có màu sắc sáng hơn cá trưởng thành. S. leucostictus có hình dáng và màu sắc tương đồng với S. variabilis.
Số ngạnh ở vây lưng: 12; Số vây tia mềm ở vây lưng: 13 - 16; Số ngạnh ở vây hậu môn: 2; Số vây tia mềm ở vây hậu môn: 12 - 14; Số vây tia mềm ở vây ngực: 17 - 19.
Thức ăn của S. leucostictus là rong tảo và các loại động vật không xương sống (giun, giáp xác, ốc biển). S. leucostictus sinh sản theo cặp, trứng được đặt trong các hốc đá và được bảo vệ bởi cá đực. S. leucostictus có tính lãnh thổ.
S. leucostictus ít được đánh bắt trong ngành thương mại cá cảnh và thường mắc vào lưới của các ngư dân.
Chú thích
Stegastes
Động vật được mô tả năm 1848
Cá Đại Tây Dương
Loài ít quan tâm | VI_open-0000004659 | Pets_and_Animals |
Sân vận động Hazza bin Zayed () là một sân vận động đa năng, tọa lạc tại Thành phố Al Ain, Tiểu vương quốc Abu Dhabi, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Đây là sân nhà của Al Ain FC thuộc UAE Pro-League. Sân vận động có sức chứa 22.717 khán giả và khánh thành vào năm 2014. Sân vận động được đặt theo tên chủ tịch câu lạc bộ, Sheikh Hazza bin Zayed bin Sultan Al Nahyan.
Sân vận động Hazza bin Zayed rộng 45.000 m² được chia thành bảy tầng, và là một trong những địa điểm thể thao hiện đại nhất ở Trung Đông. Đây là một trong những địa điểm thể thao tinh vi nhất trong khu vực.
Sân vận động được khởi công vào tháng 4 năm 2012 và được hoàn thành vào tháng 12 năm 2014. Theo kế hoạch, Al Ain sẽ đối đầu với Manchester City trong buổi lễ khánh thành sân vận động, nhưng Manchester City đã hòa 1–1 với Blackburn Rovers trong một trận đấu ở Cúp FA vào ngày 4 tháng 1 và dự kiến phải đá lại với Rovers vào ngày 15 tháng 1, do đó khiến nhà vô địch giải bóng đá Ngoại hạng Anh không thể tới UAE. Tuy nhiên, trận giao hữu được diễn ra sau khi mùa giải Ngoại hạng Anh kết thúc và Manchester City đánh bại Al Ain 3–0. Sân vận động cũng tổ chức các Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2017 và 2018, cũng như Cúp bóng đá châu Á 2019.
Địa điểm và thiết kế
Sân vận động có sức chứa 25.000 chỗ ngồi tọa lạc tại Al Ain, cách thủ đô Abu Dhabi khoảng 150 km (93 dặm) về phía đông, gần biên giới của Oman. Sân được thiết kế và xây dựng theo hợp đồng cho một sân vận động đa năng ở Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất.
Khách hàng được đại diện bởi AAFAQ Holdings. Dự án được thực hiện với sự hợp tác chặt chẽ của các công ty chị em BAM Sports, chuyên về xây dựng sân vận động và BAM Contractors từ Ireland. Phạm vi công việc bao gồm việc xây dựng một sân vận động đa chức năng với tổng diện tích sàn là 45.000 mét vuông. Ngoài ra, BAM đã xây dựng một tòa nhà văn phòng sáu tầng, một nhà thi đấu thể thao và các công trình bên ngoài bao gồm đường sá, bãi đậu xe ô tô, sân chơi và cảnh quan. Các kiến trúc sư của sân vận động là Pattern Design có trụ sở tại Luân Đôn.
Một trong những yếu tố đặc trưng nhất của sân vận động là mặt tiền bên ngoài bao gồm các yếu tố vải giống như thân cây cọ cũng có thể được chiếu sáng bằng đèn LED ở 15 chế độ nội dung khác nhau. Trên đỉnh của sân vận động, 200 đèn pha được lắp cố định để cung cấp ánh sáng cho các trận đấu bóng đá khi trời tối. Do nhiệt độ khắc nghiệt trong những tháng hè nóng nực, mái che hình bát úp cũng tạo điều kiện dễ chịu cho cả cầu thủ và người hâm mộ. Đây là một trong những tính năng độc đáo của sân vận động, được thiết kế theo cách mà các trận đấu có thể diễn ra sau 5 giờ chiều. Ở bên trong, nó cho thấy hình dạng phức tạp của các giàn thép hình học đúc hẫng của nó bằng cách sử dụng công nghệ hàn và cắt bằng robot. Sân vận động là sân vận động đầu tiên trên thế giới có mái che dù độc đáo được thiết kế đặc biệt để che nắng hoàn toàn cho tất cả người hâm mộ.
Sân vận động Hazza Bin Zayed được bầu chọn là Sân vận động của năm 2014.
Lịch sử và cơ sở vật chất
Sân vận động đã được hoàn thành sau dự án xây dựng đường đua cực nhanh kéo dài 16 tháng sau khi được khởi công vào ngày 1 tháng 6 năm 2012. Được xây dựng theo tiêu chuẩn FIFA, sân vận động có diện tích với sức chứa 25.000 chỗ ngồi. Phạm vi của dự án bao gồm một nhà thi đấu thể thao, các tòa nhà thương mại và cảnh quan bên ngoài rộng lớn. Sân vận động là một phần không thể thiếu của một cộng đồng mới, rộng lớn hơn. Nó được lên kế hoạch trở thành trung tâm của khu phát triển bao gồm một khách sạn 175 phòng, một cộng đồng 700 đơn vị dân cư trong một khu phức hợp gồm 700 căn hộ và không gian xanh, hai tòa nhà văn phòng, một trung tâm thể thao, khu bán lẻ cửa hàng và 50 nhà hàng. Khách sạn, Aloft Al Ain, được hoàn thành vào năm 2017.
Dự án là thành phần đầu tiên của sự phát triển rộng lớn hơn này sẽ có ảnh hưởng đầu tiên đối với thành phố Al Ain, nhưng cũng trên khu vực rộng lớn hơn, bao gồm các quốc gia láng giềng của Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh. Đó là một hợp đồng thiết kế và xây dựng. BAM đã đưa ra rất nhiều đề xuất kỹ thuật có giá trị phải được tích hợp vào thiết kế và do đó phải có giấy phép xây dựng mới trong vòng 18 tháng. BAM International bắt đầu dự án vào giữa năm 2012 và vẫn đúng tiến độ với tất cả các khâu của công trình, sử dụng 10,5 triệu giờ công. Lúc cao điểm, có 400 nhân viên nam cho đến cấp giám sát, và 4500 nhân viên tại chỗ.
Giao thông
Có một số tuyến đường để đến Sân vận động Hazza Bin Zayed. Sân vận động cách Sân bay quốc tế Al Ain 15 phút đi xe.
Tuyến A: Từ Thành phố Abu Dhabi:
Khi rời khỏi vùng ngoại ô Al Ain, đi qua khu vực Al Yahar và đi theo lối ra dẫn đến Al Salamat.
Đi thẳng qua bùng binh Al Salamat và tiếp tục đi qua Al Bateen đến EXTRA Mall.
Băng qua một số đường vòng cho đến khi bạn đến vòng xuyến Al Tawia Garden.
Đi thẳng qua bùng binh Al Tawia Garden và Sân vận động sẽ ở bên trái của bạn.
Tuyến B: Từ Abu Dhabi:
Đi qua Al Maqam và băng qua Vòng xoay Tawam đến (Vòng xoay Al Daiwan số 178).
Đi thẳng qua bùng binh và lối vào sân vận động ở bên phải.
Tuyến C: Từ Dubai:
Lái xe đến thành phố Al Ain qua Đường Dubai – Al Ain.
Đi qua khu vực Al-Hayer và tiếp tục đi trên đường cao tốc cho đến khi bạn đến trang trại bò sữa Al Ain ở bên phải.
Rẽ trái tại lối ra tiếp theo và tiếp tục đi thẳng và theo các biển báo đến Đại học UAE và Sân vận động Hazza Bin Zayed.
Tại vòng xuyến, rẽ trái và băng qua và lối vào sân vận động sẽ ở bên phải.
Tuyến D: Từ Fujairah:
Đi theo đường Sheikh Mohamed Bin Zayed (Đường Emirates) và vào Đường Dubai – Al Ain.
Đi qua khu Al Hayer và tiếp tục đi trên đường cao tốc cho đến khi bạn đến trang trại bò sữa Al Ain ở bên phải.
Rẽ trái tại lối ra tiếp theo và tiếp tục đi thẳng và theo các biển báo đến Đại học UAE và Sân vận động Hazza Bin Zayed.
Cúp bóng đá châu Á 2019
Sân vận động Hazza bin Zayed đã tổ chức tám trận đấu của Cúp bóng đá châu Á 2019, bao gồm một trận đấu vòng 16 đội, trận tứ kết và trận bán kết.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức sân vận động HBZ
Trang web chính thức câu lạc bộ văn hóa và thể thao Al Ain
Trang web chính thức sân vận động HBZ
Địa điểm bóng đá Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
Al Ain FC
Địa điểm điền kinh (trong sân vận động) Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
Sân vận động Cúp bóng đá châu Á
Sân vận động đa năng Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
Địa điểm thể thao hoàn thành năm 2014
Khởi đầu năm 2014 ở Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất | VI_open-0000004660 | Sports |
Alicia D'Amico (6 tháng 10 năm 1933 - 30 tháng 8 năm 2001) là một nhiếp ảnh gia người Argentina. Bà sinh ra ở Buenos Aires, nơi gia đình bà có một doanh nghiệp nhiếp ảnh. Bà đã điều hành một studio rất năng suất với Sara Facio trong hai mươi năm. Bà đã xuất bản sách nhiếp ảnh và trong hai mươi năm cuối đời, bà tập trung vào các vấn đề nữ quyền và các dự án cá nhân về vai trò của phụ nữ trong nhiếp ảnh. Bà dành cả cuộc đời cho nhiếp ảnh, và bà trở thành một nhân vật hàng đầu trong nhiếp ảnh Argentina.
Tuổi thơ
Alicia D'Amico sinh ngày 6 tháng 10 năm 1933 tại Buenos Aires. Cha của bà, Luis D'Amico là một nhiếp ảnh gia địa phương và quản lý công việc kinh doanh của gia đình, một cửa hàng tên là Foto-Arte D'Amico ở Buenos Aires. Trong cơ sở này có hai phần, một quầy dành cho công chúng nói chung và một xưởng, phòng tối và phòng trưng bày gắn liền với ngôi nhà của gia đình. Ở đó, D'Amico lớn lên giữa các thiết bị nhiếp ảnh, khi bà đi học và tham gia các buổi học vẽ và âm nhạc. Khi bà mười ba tuổi, bà đã được nhận vào Escuela de Bellas Artes "Manuel Belgrano". Ở đó, bà được đào tạo nghệ thuật và bắt đầu khám phá đời sống văn hóa Argentina bên cạnh những quan điểm mang tính quốc tế hơn. Những ý tưởng mới này khác xa với quá trình sáng tạo mà cha bà đã sử dụng trong nhiếp ảnh của mình, hoàn toàn mang tính thương mại và với mục đích quan liêu. Đây không phải là cách thể hiện mà Alicia D'Amico đang tìm kiếm.
Cha của bà đã làm việc để cải thiện liên đoàn lao động của các nhiếp ảnh gia. Ông là một trong những người sáng lập Sociedad de Fotógrafos Profesionales Establecidos, và ông đã tham gia vào nhóm hợp tác đầu tiên của các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp. Alicia D'Amico ngưỡng mộ cha vì điều đó, nhưng nó không đủ để liên kết bà với công việc nhiếp ảnh của gia đình.
Nghề nghiệp
Năm 1953, D'Amico tốt nghiệp từ Escuela Nacional với tư cách là một Profesora Nacional de Dibujo y Pintura. Bà gặp Sara Facio khi cả hai đang học và trở thành bạn rất thân. Năm 1955, hai người họ có một chuyến đi đến Châu Âu kéo dài một năm rưỡi. Họ có thể đủ khả năng làm việc này vì chính phủ Pháp cấp cho họ học bổng du học tại Paris. Từ Paris, họ đi du lịch đến Đức, Tây Ban Nha và Anh. Ở Paris, dự án mà họ phải phát triển để nhận học bổng là làm một cuốn sách lịch sử nghệ thuật. Điều này thúc đẩy hai người bạn đến thăm mọi bảo tàng, phòng trưng bày, trung tâm nghệ thuật và nhà hát mà họ có thể. Trong thời gian ở Paris, một ngày nọ, họ gặp một người đàn ông, người lúc đó nhận ra họ là người Argentina và đề nghị họ tham gia vào El Hogar, một tạp chí rất có liên quan vào thời điểm đó. Họ đã làm việc với một vài bài số báo được xuất bản trong tạp chí năm 1955.
Ở Đức D'Amico đã phát hiện ra một cách tiếp cận mới về nhiếp ảnh, khác với cách phát triển của cha mình. Ở đó, bà đã mua chiếc máy ảnh đầu tiên của mình, một chiếc Agfa Super Silette 35 mm. Trở về nhà, bà và Facio bắt đầu học nhiếp ảnh với cha mình, nhưng một thời gian sau đó ông qua đời. Alicia D'Amico phụ trách công việc kinh doanh của gia đình trong hai năm tiếp theo, nhưng sau đó bà quyết định đóng cửa studio.
Tham khảo
Nghệ sĩ Argentina
Sinh năm 1933
Mất năm 2001 | VI_open-0000004661 | Arts_and_Entertainment |
Angele Etoundi Essamba (Sinh năm 1962 ở Douala) là một nhiếp ảnh gia người Cameroon sống và làm việc ở Amsterdam, cô được biết đến với công việc chụp ảnh trắng đen của mình, nội dung chủ yếu về phụ nữ châu Phi. Essamba đã có hơn 200 triển lãm trên khắp thế giới và hơn năm mươi ấn phẩm trên các tạp chí phổ thông và chuyên ngành.
Tiểu sử
Angèle Etoundi Essaamba sinh ra ở Douala, Cameroon năm 1963 và lớn lên ở Yaounde. Bà chuyển đến Paris khi bà mười tuổi và được đào tạo tại Trường Nhiếp ảnh chuyên nghiệp Hà Lan ở The Hague. Sau đó, bà chuyển đến Amsterdam (Hà Lan) vào năm 1982, nơi bà học tại trường Nederlandse Fotovak (Trường Nhiếp ảnh chuyên nghiệp Hà Lan). Essamba tham dự Lyceum tại Paris, nơi bà học triết học, khiêu vũ và nhiếp ảnh.
Bà được liên kết với DUTA hoặc Douala Urban Touch of Arts, cho phép các nghệ sĩ thị giác Trung Phi ở Douala, Cameroon chia sẻ tác phẩm của họ.
Sự nghiệp nhiếp ảnh
Essaamba tập trung vào người phụ nữ châu Phi trong bộ ảnh đen trắng của mình. Triển lãm đầu tiên của bà là vào năm 1984 tại Gallerie Art Collective ở Amsterdam. Loạt ảnh đen trắng năm 1995 của bà, White Line, đã được trao giải thưởng Prix Spécial Afrique tại Festival des Trois Continents, Nantes năm 1996. Bà muốn tác phẩm của mình truyền cảm hứng cho các cuộc thảo luận giữa các nền văn hóa và con người. Nghệ thuật của bà chịu ảnh hưởng rất lớn từ dòng dõi châu Phi cũng như môi trường văn hóa đa dạng của bà. Dựa trên kinh nghiệm cá nhân và lịch sử, văn hóa, quan điểm và ảnh hưởng môi trường của bà, các bức ảnh của Essamba kết hợp kỹ thuật với cảm giác mạnh mẽ của cảm xúc. Bà đã thể hiện các tác phẩm của mình trong một số triển lãm ở Châu Phi, Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ Latinh, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất và Hoa Kỳ bao gồm: Bienal de La Habana (1994), Venice Biennale (1994), Johannesburg Biennale (1995), Festival of the Three Continents (1996).
Essemba rất quan tâm đến việc chụp những bức ảnh về phụ nữ da đen và cách bà đại diện cho họ đưa ra một thách thức chống lại những kỳ vọng của Eurrialric về cách phụ nữ châu Phi nên được thể hiện. Tác phẩm của bà là hiện thân của chủ nghĩa thần bí và khêu gợi, cho thấy phụ nữ có thân hình gợi cảm mạnh mẽ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Angele Etoundi Essamba's Artist Website
Artículo de El País
Entrevista e información
Nhiếp ảnh gia Pháp
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1975 | VI_open-0000004665 | Arts_and_Entertainment |
Neil Critchley (sinh ngày 18 tháng 10 năm 1978) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở Football League cho Crewe Alexandra. Lần ra sân duy nhất cho Crewe đến từ thất bại 3–0 trên sân khách trước Fulham trong mùa giải 1999–2000 Hiên tại ông là huấn luyện viên của U-23 Liverpool.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1978
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Anh
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá Crewe Alexandra F.C.
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Leigh Genesis F.C.
Cầu thủ bóng đá National League (bóng đá Anh)
Huấn luyện viên bóng đá Anh | VI_open-0000004668 | Sports |
Jack Egan (sinh ngày 16 tháng 10 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu cho Carlisle United, ở vị trí tiền vệ.
Sự nghiệp
Sau khi khởi đầu sự nghiệp tại Carlisle United, anh thi đấu dưới dạng cho mượn tại Workington vào tháng 9 năm 2017, và to Clitheroe vào tháng 2 năm 2018.
Tham khảo
Sinh năm 1998
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Anh
Cầu thủ bóng đá Carlisle United F.C.
Cầu thủ bóng đá Workington A.F.C.
Cầu thủ bóng đá Clitheroe F.C.
Tiền vệ bóng đá | VI_open-0000004670 | Sports |
Siêu cúp bóng đá Đông Nam Á - Đông Á (tiếng Anh: AFF-EAFF Champions Trophy) là một giải thi đấu bóng đá được tổ chức hai năm một lần, bắt đầu từ năm 2019. Giải này thực tế là sự đối đầu trong một trận đấu duy nhất giữa hai đội vô địch của Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á (Cúp AFF) và Cúp bóng đá Đông Á (Cúp EAFF E-1) của mùa giải liền kề phía trước.
Đại diện của Đông Nam Á (AFF) và Đông Á (EAFF) lần lượt đăng cai giải đấu này. Chủ nhà mùa đầu tiên vào năm 2019 sẽ là đội bóng đến từ Đông Nam Á (AFF) - Việt Nam.
Hai đội đương kim vô địch tương ứng hiện nay là Việt Nam và Hàn Quốc dự kiến sẽ gặp nhau trong mùa giải đầu tiên vào ngày 26 tháng 3 năm 2019 tại Hà Nội, Việt Nam, nhưng đã bị hoãn cho tới thời gian tương lai gần sau đó mới tổ chức.
Ý tưởng thành lập giải đấu liên vùng Đông Nam Á - Đông Á được lãnh đạo Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á đưa ra với mục đích tăng cường hợp tác, tiếp cận và học hỏi kinh nghiệm từ các nền bóng đá phát triển của Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Giải đấu được tổ chức dựa trên lịch thi đấu của các trận quốc tế của FIFA (FIFA day).
Danh sách các địa điểm thi đấu
2019: Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội, Việt Nam
Kết quả
Các đội giành quyền tham dự
Kỷ lục
Chú thích
Khởi đầu năm 2018 ở Đông Nam Á
Giải đấu của Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á
Giải đấu của EAFF | VI_open-0000004671 | Sports |
Kha Hoa (19 tháng 12 năm 1915 – 1 tháng 1 năm 2019) là nhà ngoại giao người Trung Quốc. Ông là Đại sứ Trung Quốc tại Guinée từ năm 1960 đến năm 1964, Đại sứ Trung Quốc tại Ghana từ năm 1972 đến năm 1974, Đại sứ Trung Quốc tại Philippines từ năm 1975 đến năm 1978 và Đại sứ Trung Quốc tại Vương quốc Anh từ năm 1978 đến năm 1983.
Tiểu sử
Kha Hoa tên thật là Lâm Đức Thường sinh ngày 19 tháng 12 năm 1915 tại trấn Lý Hồ, huyện Phổ Ninh, tỉnh Quảng Đông.
Năm 1935, ông vào Đại học Yên Kinh, trong những ngày ở trường, ông tham gia Phong trào ngày 9 tháng 12. Tháng 4 năm 1937, Kha Hoa thăm Diên An, nơi ông có cơ hội được gặp Mao Trạch Đông. Tháng 11 năm 1937, ông đến Lâm Phần, tỉnh Sơn Tây để tham gia Bát lộ quân.
Năm 1949, sau khi thành lập Nhà nước Cộng sản, ông trở thành Phó Bí thư Thành ủy Tây An, tỉnh Thiểm Tây. Tháng 12 năm 1954, ông được chuyển đến Bắc Kinh, thủ đô của Trung Quốc, nơi ông được bổ nhiệm làm Vụ trưởng Vụ Lễ tân, Bộ Ngoại giao. Tháng 3 năm 1960, ông được bổ nhiệm làm Đại sứ Trung Quốc tại Guinée, một vị trí ông giữ đến tháng 5 năm 1964. Sau đó, ông liên tục giữ chức Đại sứ Trung Quốc tại Ghana từ năm 1972 đến năm 1974, Đại sứ Trung Quốc tại Philippines từ năm 1975 đến năm 1978 và Đại sứ Trung Quốc tại Vương quốc Anh từ năm 1978 đến năm 1983. Kha Hoa trở về Trung Quốc năm 1983 và cùng năm đó, ông được bổ nhiệm làm cố vấn Văn phòng Các vấn đề Hồng Kông và Ma Cao của Quốc vụ viện.
Kha Hoa tham gia các cuộc đàm phán giai đoạn đầu của Trung Quốc và Anh về tương lai của Hồng Kông vào đầu những năm 1980. Năm 1988, ông trở thành Ủy viên Thường vụ Chính hiệp toàn quốc khóa VII. Năm 1995, ông nghỉ hưu. Ngày 1 tháng 1 năm 2019, ông qua đời vì bệnh tại Bắc Kinh, ở tuổi 103.
Đời sống cá nhân
Kha Hoa kết hôn với Trương Minh, đôi vợ chồng có ba con gái. Kha Linh Linh, con gái út của Kha Hoa, là vợ đầu tiên của Tập Cận Bình. Cuộc hôn nhân của Tập Cận Bình và Kha Linh Linh kéo dài 3 năm và kết thúc năm 1982. Sau đó, Kha Linh Linh chuyển đến Anh.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tiểu sử của Kha Hoa
Người Quảng Đông
Người thọ bách niên Trung Quốc | VI_open-0000004674 | Law_and_Government |
Linx Cargo Care Group là một cơ sở hạ tầng hậu cần đa dạng và giải pháp nhà cung cấp có trụ sở tại Sydney, Úc. Linx Cargo Care Group bao gồm Linx, Autocare Services, C3 và GeelongPort. Cùng với nhau, bốn doanh nghiệp của nhóm sử dụng hơn 3.800 người trên khắp Australia và New Zealand. Thương hiệu Linx nổi lên sau sự chia tay của Asciano vào tháng 8 năm 2016.
Kết cấu
Linx Cargo Care Group bao gồm bốn doanh nghiệp riêng biệt - Linx, Autocare Services, C3 và GeelongPort. Nhóm này của các doanh nghiệp trước đây được gọi là Patrick Bulk và ô tô Cảng Dịch vụ (BAPS) trước khi việc bán các tài sản BAPS đến một Asset Management Brookfield dẫn tập đoàn như một phần của $ 9050000000 Asciano TNHH giao dịch vào tháng năm 2016.
BAPS được đổi tên thành Linx Cargo Care Group sau giao dịch Asciano. Dịch vụ cảng hàng loạt Patrick, một phần của doanh nghiệp BAPS, đã được đổi tên thành Linx. Patrick Autocare đã được đổi thương hiệu Dịch vụ Autocare. C3 và GeelongPort duy trì thương hiệu sau giao dịch. Linx và C3 (sau này được mua lại bởi Asciano vào năm 2012) đều là các thực thể thuộc sở hữu của Linx Cargo Care Group, trong khi Autocare và GeelongPort là liên doanh.
Quyền sở hữu
Linx Cargo Care Group được thành lập vào tháng 8 năm 2016 sau khi chia tay Asciano. Nó thuộc sở hữu của một tập đoàn của Brookfield Asset Management, Tập đoàn quản lý đầu tư British Columbia, GIC Private Limited và Cơ quan đầu tư Qatar.
Hoạt động
Linx Cargo Care Group hoạt động từ hơn 60 địa điểm trên khắp Australia và New Zealand. Nhóm cung cấp các giải pháp hậu cần, cơ sở hạ tầng và chuỗi cung ứng đa dạng cho một loạt các ngành công nghiệp trong khu vực, bao gồm nông nghiệp và chăn nuôi, nhôm và thép, ô tô, xây dựng và xây dựng, hóa chất, chất thải môi trường, phân bón, thực phẩm và đồ uống, lâm nghiệp khai thác và tài nguyên, dầu khí, bao bì giấy và quản lý cảng.
Hậu cần
Của nhóm hậu cần dịch vụ bao gồm xử lý vật liệu, dịch vụ đường sắt, đường đường và quản lý vận tải, vận chuyển số lượng lớn, lưu kho, bảo quản và phân phối, hàng dự án (hạng nặng chuyên chở, out-of-gauge, hơn chiều), lâm nghiệp logistics và dịch vụ chăn nuôi.
Dịch vụ cảng
Các dịch vụ liên quan đến cảng của nhóm bao gồm bảo dưỡng chung, phá vỡ hàng loạt, PCC / RORO (Vận chuyển bằng xe nguyên chất / Roll-On / Roll-Off), quản lý cảng và dịch vụ dầu khí.
Chuyển tiếp toàn cầu
Các dịch vụ chuyển tiếp toàn cầu của nhóm bao gồm các thủ tục hải quan và hàng rào và tuân thủ tài liệu IMEX (Xuất nhập khẩu).
Đơn vị sự nghiệp
Linx Cargo Care Group bao gồm Linx, Autocare Services, C3 và GeelongPort.
Linx
Doanh nghiệp Linx cung cấp dịch vụ vận tải đường bộ và đường sắt, dịch vụ bốc xếp và giải pháp lưu trữ và xử lý hàng loạt, hoạt động trên hơn 50 địa điểm tại Úc và sử dụng hơn 1.250 nhân viên.
Autocare Services
Autocare vận hành một mạng lưới quốc gia về hậu cần xe thành phẩm và các dịch vụ liên quan trên mọi tiểu bang của Úc và Lãnh thổ phía Bắc, xử lý và xử lý hơn 600.000 xe mỗi năm và sử dụng hơn 800 nhân viên. Autocare được thành lập vào năm 1961, được Patrick mua lại vào năm 1996 và hiện là một phần của Linx Cargo Care Group sau khi hoàn thành giao dịch Asciano vào tháng 8 năm 2016.
GeelongPort
GeelongPort, tại cảng Geelong ở Victoria, cách Melbourne 75 km về phía tây nam, là cảng lớn thứ hai của Victoria, xử lý hơn 10,5 triệu tấn sản phẩm mỗi năm. Được tư nhân hóa vào năm 1996, GeelongPort thuộc sở hữu của Tập đoàn SAS Trustee (STC) và Linx Cargo Care Group, với quyền sở hữu 50% của mỗi bên.
C3
C3 chuyên về hậu cần liên kết lâm nghiệp, xử lý hơn 16 triệu tấn hàng hóa hàng năm, bao gồm các sản phẩm giấy, bột giấy, thép, sản phẩm chế biến gỗ và hàng rời như phân bón, hàng hóa nói chung và gỗ tròn. C3 sử dụng hơn 1.400 nhân viên làm việc tại 15 cảng trên khắp Australia và New Zealand.
Enfield Terminal đa phương tiện
Vào ngày 20 tháng 2 năm 2018, các cảng của NSW đã thông báo rằng Linx Cargo Care Group đã thành công trong nỗ lực tiếp quản Nhà ga đa phương thức Enfield ở Tây Sydney từ Aurizon. Linx Cargo Care Group cho thuê và vận hành nhà ga đa phương thức thuộc sở hữu của Cảng NSW nằm cách Cảng Botany 18 km. Vị trí của Enfield là một sân khấu chiến lược để nhập khẩu container từ Cảng Botany và xuất khẩu từ khu vực New South Wales.
Kể từ tháng 3 năm 2018, Linx đã làm việc với Tập đoàn Cảng và Goodman của NSW để hỗ trợ phát triển một trung tâm vận chuyển hàng hóa trên vùng đất xung quanh Nhà ga Đa phương tiện Enfield. Vào ngày 2 tháng 4 năm 2018, Linx Rail đã bắt đầu vận hành các dịch vụ đường sắt từ Cảng Botany thông qua Nhà ga đa phương Enfield đến nhà ga Carrington của Toll Holdings sau khi mua hai đầu máy xe lửa loại G và 34 toa xe container từ Aurizon. Những thứ này được hỗ trợ bằng cách thuê trong lực kéo của CFCL Australia theo yêu cầu.
Hạm đội đường sắt
Cảng nội địa Ruakura
Vào ngày 28 tháng 6 năm 2017, Tainui Group Holdings đã công bố hợp tác liên doanh với Linx Cargo Care Group để phát triển và vận hành một cảng nội địa Hamilton, New Zealand được thiết kế để cung cấp một liên kết vận tải đa phương giữa trung tâm nhập khẩu chính của New Zealand ở Auckland và trung tâm xuất khẩu chính ở Tauranga. Ruakura là một khu đất rộng 480 ha, khi hoàn thành sẽ là sự phát triển thương mại và lối sống tích hợp lớn nhất của New Zealand.
Xem thêm
Quản lý tài sản Brookfield
Công ty TNHH Asciano
Quản lý chuỗi cung ứng
Quản lý vật tư
Hậu cần bên thứ ba
Vận chuyển hàng hóa
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web của Linx Cargo Care Group
Quản lý chuỗi cung ứng
Công ty thành lập năm 2016
Quản lý tài sản
Xử lý vật liệu
Công ty có trụ sở tại Sydney
Xử lý vật liệu rời
Brookfield Asset Management
Công ty mẹ Úc
Công ty hậu cần Úc
Công ty vận tải Úc
Khởi đầu năm 2016 ở Úc | VI_open-0000004676 | Business_and_Industrial |
Chủ tịch Thượng viện chủ trì của Thượng viện Pháp, thượng viện của Quốc hội.
Ông có quyền lực hiến pháp quan trọng: đặc biệt, trong trường hợp cần giải tán Quốc hội Pháp, Tổng thống Cộng hòa có nghĩa vụ phối hợp vấn đề này với ông. Ngoài ra, Chủ tịch Thượng viện Pháp bổ nhiệm 3 trong số 9 thành viên của Hội đồng Hiến pháp Pháp, người mà ông có thể giới thiệu dự án này hoặc dự án hoặc thỏa thuận mà ông cho là trái với Hiến pháp.
Quyền hạn của tổng thống lâm thời Cộng hòa biến ông thành Người thứ hai của Nhà nước. Trong trường hợp trống, vì lý do này hay lý do khác, văn phòng của Tổng thống Cộng hòa, và nếu không thể hoàn thành nhiệm vụ chính thức của mình, Chủ tịch Thượng viện thực hiện - cho đến cuộc bầu cử tiếp theo - tất cả các nhiệm vụ của Tổng thống Cộng hòa, nhưng ông không có quyền triệu tập Quốc hội. Chủ tịch Thượng viện, Alain Poher, do đó hai lần giữ chức Tổng thống Cộng hòa: năm 1969 và năm 1974.
Chủ tịch Thượng viện
Ông được bầu, cũng như hội đồng của Thượng viện, trong tổng số các thượng nghị sĩ sau mỗi lần đổi mới một phần, diễn ra mỗi năm thứ ba, trong số một trong các thượng nghị sĩ. Chủ tịch của tổng thống thường được gọi là "Cao nguyên" (có nghĩa là "đồng bằng").
Kể từ ngày 1 tháng 10 năm 2011, chủ tịch của Thượng viện là Jean-Pierre Bel, thuộc Đảng Xã hội, được bầu cho "một nhiệm vụ mới.
Vai trò của nó là đại diện cho Thượng viện và tiến hành các cuộc tranh luận của căn phòng đó.
Chủ tịch Thượng viện tự động trở thành tổng thống lâm thời của Cộng hòa trong trường hợp bỏ trống chức tổng thống mà không giảm quyền hạn. Điều này đã xảy ra hai lần, nhân dịp ông Gaulle từ chức (1969) và về cái chết của Georges Pompidou (1974); Trong cả hai trường hợp, sự thay thế tổng thống đó được thực hiện bởi Alain Poher.
Chủ tịch Thượng viện đề cử:
ba trong số chín thành viên của Hội đồng Hiến pháp
hai trong số sáu nhân vật nổi tiếng của Hội đồng Phán quyết Tối cao
hai trong số bảy thành viên của Autorité de régulation des Communications électroniques et des postes,
một trong bảy thành viên của Autorité de régulation des activités ferroviaires,
một trong ba điểm nổi bật của nhà tài chính Autorité des marchés
Ba trong số chín thành viên của Conseil supérieur de l'audiovisuel
hai trong số chín thành viên của Haut Conseil de l'éducation
Xem thêm
Chủ tịch Hạ Pháp
Tham khảo | VI_open-0000004681 | Law_and_Government |
Joy Atim Ongom (nhũ danh Joy Atim), (sinh ngày 15 tháng 9 năm 1968) là một nữ doanh nhân và chính trị gia người Uganda, hiện đang là đại biểu Quốc hội đương nhiệm đại diện cho phụ nữ Cử tri quận Lira trong Quốc hội Uganda lần thứ 10 (2016-2021).
Bối cảnh và giáo dục
Bà sinh ra với tên khai sinh Joy Atim, vào ngày 15 tháng 9 năm 1968, tại Quận Lira, khu vực phía Bắc của Uganda. Atim theo học các trường địa phương cho giáo dục tiền đại học của mình. Năm 1989, bà được nhận vào trường Cao đẳng Thương mại Aduku, Aduku, quận Apac, tốt nghiệp hai năm sau đó với bằng Cao đẳng Nghiên cứu Kinh doanh (DipBS). Sau năm 2011, bà tốt nghiệp Đại học Quốc tế Kampala với bằng Cử nhân Hành chính công (BPA).
Kinh nghiệm làm việc
Năm 1993, cô được công ty có tên "Riclen Printers" thuê làm việc như một nhân viên thu ngân trong sáu năm, cho đến năm 1999. Sau đó, cô chuyển sang một doanh nghiệp khác gọi là "Jocent Enterprises", nơi cô làm giám đốc điều hành, cho đến năm 2011. Sau đó, từ năm 2005, cô là giám đốc quản lý tại một doanh nghiệp khác gọi là "Hillside Annex", một vị trí cô vẫn giữ trong khi là thành viên của quốc hội.
Sự nghiệp chính trị
Trong chu kỳ bầu cử 2006 - 2011, Joy Atim đã được bầu vào Chính quyền địa phương quận Lira, phục vụ ở đó với tư cách là Ủy viên hội đồng quận. Năm 2011, bà tranh cử đại diện cho phụ nữ ở quận Lira trong Quốc hội khóa 9 (2011 đến 2016). Trong lần đó, bà đã tranh cử như một ứng cử viên độc lập và giành chiến thắng.
Trong cuộc bầu cử năm 2016, Atim đã tranh cử với tư cách thành viên của đảng chính trị Đảng Dân chủ đối lập ở Ucraina (UPC), được bầu lại và là dân biểu đương nhiệm. Bà là một trong những thành viên của quốc hội Uganda, người phản đối việc sửa đổi hiến pháp, để xóa bỏ giới hạn tuổi tổng thống. Các cuộc biểu tình chính trị của bà đã bị Lực lượng cảnh sát Uganda nhắm đến, dẫn đến thương tích và phải nhập viện cho người tham gia.
Tham khảo
Sinh năm 1969
Nhân vật còn sống | VI_open-0000004682 | News |
Linda Sarsour (sinh 1980) là một nhà hoạt động chính trị người Mỹ. Cô là đồng chủ tịch của Tháng Ba Phụ Nữ 2017, Ngày Không Có Phụ Nữ 2017 và Tháng Ba Phụ Nữ 2019, và là cựu giám đốc điều hành của Hiệp hội Người Mỹ Ả Rập ở New York. Cô và các đồng chủ tịch March March của cô đã được đưa vào tạp chí Time "100 người có ảnh hưởng nhất" năm 2017. Sarsour là người Hồi giáo gốc Palestine.
Sarsour lần đầu tiên gây chú ý trong việc phản đối cảnh sát giám sát người Hồi giáo Mỹ, sau đó dính líu đến các vấn đề dân quyền khác như sự tàn bạo của cảnh sát, nữ quyền, chính sách nhập cư và giam giữ hàng loạt. Cô cũng đã tham gia vào các cuộc biểu tình của Black Lives Matter và là nguyên đơn chính trong vụ kiện thách thức tính hợp pháp của lệnh cấm du lịch Trump.
Hoạt động chính trị của cô đã được một số người tự do và cấp tiến ca ngợi, trong khi lập trường và nhận xét của cô về cuộc xung đột Palestine của Israel đã bị một số người bảo thủ và các tổ chức và tổ chức Do Thái chỉ trích. Sarsour đã ủng hộ người Palestine ở các vùng lãnh thổ do Israel chiếm đóng và bày tỏ sự chỉ trích về chủ nghĩa Zion và ủng hộ chiến dịch Tẩy chay, thoái vốn, trừng phạt (BDS) chống lại Israel.
Tiểu sử
Sinh ra ở Brooklyn, New York, Sarsour là con cả trong bảy người con của người nhập cư Palestine. Cha cô sở hữu một khu chợ nhỏ ở Crown Heights, Brooklyn, được gọi là Linda's. Cô lớn lên ở Sunset Park, Brooklyn và đến trường trung học John Jay ở Park Slope. Sau trung học, cô tham gia các khóa học tại Kingsborough Community College và Brooklyn College với mục tiêu trở thành giáo viên tiếng Anh.
Tham khảo
Nữ hoạt động xã hội người Mỹ | VI_open-0000004684 | People_and_Society |
Annabelle: Ác quỷ trở về (tiếng anh: Annabelle Comes Home) là một bộ phim kinh dị siêu nhiên của Mỹ năm 2019 do Gary Dauberman đạo diễn, trong tác phẩm đầu tay của ông, từ kịch bản của Dauberman và một câu chuyện của Dauberman và James Wan, người cũng đóng vai trò là nhà sản xuất với Peter Safran. Nó đóng vai trò là phần tiếp theo của Annabelle 2014 và Annabelle: Creation năm 2017, và là phần thứ bảy trong Vũ trụ kinh dị Conjuring. Phim có sự tham gia của Mckenna Grace, Madison Iseman và Katie Sarife, cùng với Patrick Wilson và Vera Farmiga, đảm nhận vai trò của họ là Ed và Lorraine Warren.
Annabelle Comes Home đã được phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày 26 tháng 6 năm 2019. Bộ phim nhận được nhiều ý kiến trái chiều từ các nhà phê bình và đã thu về 228,6 triệu đô la trên toàn thế giới.
Nội dung
Các nhà quỷ học Ed và Lorraine Warren đã tịch thu búp bê Annabelle từ các y tá Debbie và Camilla, những người cho rằng búp bê thường thực hiện các hoạt động bạo lực trong căn hộ của họ. Trong quá trình lái xe trở về nhà, con búp bê triệu tập tinh thần để tấn công Ed, nhưng anh ta vẫn sống sót trong gang tấc. Annabelle bị nhốt trong hộp kính thiêng trong phòng tạo tác của cặp vợ chồng được Cha Gordon ban phước để đảm bảo chứa đựng tà ác.
Một thời gian sau, Warlings chào đón Mary Ellen, người sẽ chịu trách nhiệm trông trẻ con gái của họ, Judy, tại nhà trong khi họ đi qua đêm để điều tra một trường hợp khác. Ở trường, Judy nhận thấy tinh thần của một linh mục bắt đầu theo cô. Bạn của Mary Ellen, Daniela, không mời đến nhà của Warlings, người đang bí mật tò mò về việc nói chuyện với người chết. Cô lẻn vào phòng hiện vật và bắt đầu kiểm tra chúng, cuối cùng cố gắng liên lạc với người cha quá cố của mình. Cô đột ngột để chiếc hộp kính của Annabelle được mở khóa, và nỗi kinh hoàng bắt đầu ngay sau đó với linh hồn của Annabelle "Bee" Mullins được giải phóng. Đêm đó, Annabelle bắt đầu giải phóng tinh thần khác, chẳng hạn như những người lái đò, các cô dâu, một Feeley Meeley bảng trò chơi, và Đen vỏ đậu.
Người tình của Mary Ellen, Bob Palmeri đến bên ngoài và thanh trừng cô, nhưng sau đó bị Black Shuck tấn công và trốn trong sân sau của Warlings. Mary Ellen bị hành hạ bởi Người lái đò, trong khi Judy phải đối mặt với Annabelle trong phòng ngủ của cô. Daniela đã rời đi trước đó, nhưng lẻn trở lại để trả lại chìa khóa của phòng hiện vật. Cô bị nhốt trong phòng và bị hành hạ bởi nhiều đồ vật khác nhau, chẳng hạn như đàn piano và một chiếc tivi cũ có thể dự đoán tương lai gần. Cô tìm thấy Vòng tay của Mourner và thấy cha mình bị biến thành một linh hồn độc ác. Một Daniela đẫm máu và la hét xuất hiện trên màn hình tivi sau khi trả lời điện thoại bị nguyền rủa. Daniela thực sự sau đó vô tình đưa tay ra để trả lời điện thoại, nhưng bị Judy và Mary Ellen cắt ngang.
Judy giải thích rằng họ phải khóa Annabelle trong trường hợp của cô một lần nữa để các linh hồn khác sẽ nghỉ ngơi. Bob bảo vệ Judy khỏi Black Shuck khi cô lấy thuốc hít hen suyễn của Mary Ellen, trong khi Daniela bị Cô dâu tấn công và chiếm hữu. Cuối cùng, Mary Ellen và Judy tìm thấy con búp bê khi linh hồn của linh mục, đóng vai trò là người bảo vệ của Judy, hướng dẫn họ đến Người lái đò. Họ tìm cách lấy chìa khóa của chiếc hộp kính sau khi họ bị tấn công bởi bàn tay quỷ từ trò chơi trên bảng Feeley Meeley và một Daniela bị chiếm hữu, nhưng đấu tranh để bảo vệ vụ án khi con quỷ của con búp bê tấn công họ. Daniela hồi phục khi Judy đóng những thước phim được ghi lại của Ed về phép trừ tà của cô dâu và giúp thay thế con búp bê. Sau khi vụ án được khóa, sự xáo trộn chấm dứt khi các linh hồn trở lại giấc ngủ của họ, và Bob tái hợp với bộ ba.
Ed và Lorraine trở lại vào sáng hôm sau và các cô gái tiếp cận họ để kể lại đêm đầy sự kiện. Daniela xin lỗi Lorraine, người đã gửi cho cô một tin nhắn an ủi từ cha cô. Sau đó, nhiều người bạn tụ tập để ăn mừng bữa tiệc sinh nhật của Judy.}
Vai diễn
Mckenna Grace trong vai Judy Warren
Madison Iseman trong vai Mary Ellen
Katie Sarife trong vai Daniela Rios
Patrick Wilson trong vai Ed Warren
Vera Farmiga trong vai Lorraine Warren
Stephen Blackehart trong vai Thomas
Steve Coulter trong vai Father Gordon
Samara Lee trong vai Annabelle "Bee" Mullins
Brittany Hoza vai Young Woman in Car
Joana Bartling vai The Flashback Bride
James William Ballard vai Parents At School
Kenzie Caplan vai Nurse#1
Sheila McKellan vai Cemetery Ghost
Sade Katarina vai Nurse#2
Eddie J. Fernandez vai Truck Driver
Luca Luhan vai Anthony Rios
Anthony Wemyss vai Darling Dad
Michael Patrick McGill vai Cop
Sản xuất
Phát triển
Tháng 4 năm 2018, Warner Bros. thông báo ngày 3 tháng 7 năm 2019 là thời gian phát hành một bộ phim mới, mà không nêu rõ đó là tên phim gì trong nhượng quyền thương mại Vũ trụ The Conjuring. Tháng sau, nó được xác định là nằm trong series phim Annabelle, với Gary Dauberman giám sát kịch bản và đạo diễn, được dựa trên một câu truyện của Dauberman và James Wan. Wan và Peter Safran cùng nhau phát triển dự án này.
Ở San Diego Comic-Con 2018, James Wan và Peter Safran chỉ rằng sự kiện của bộ phim diễn ra sau Annabelle và sẽ giữ con búp bê lại vào một tủ kính trong phòng hiện vật của Ed và Lorraine Warren. Gary Dauberman sau đó xác nhận bối cảnh sẽ lấy sau phần mở đầu Ám ảnh kinh hoàng, khi mà Annabella được giới thiệu.
Ngày 5 tháng 9 năm 2018, Michael Burgess được thuê làm người quay phim. Vào 30 tháng 3 năm 2019, Kirk Morri được thuê làm người dựng phim.
Vai diễn
Cuối tháng 9 năm 2018, Mckenna Grace được chọn diễn vai Judy Warren, cô con gái 10 tuổi của nhà Warren, Madison Iseman sẽ có vai là Daniela, người trông trẻ của Judy. Đến tháng 10, Katie Sarife, sau đó có thông báo rằng Patrick Wilson và Vera Farmiga sẽ trở lại với vai cũ của họ là Ed và Lorraine Warren.
Quay phim
Việc quay phim bắt đầu vào ngày 18 tháng 10 năm 2018 ở Los Angeles. Ngày 7 tháng 12, Patrick Wilson thông báo rằng đã xong các cảnh trong bộ phim. Quay phim hoàn thành vào ngày 14 tháng 12.
Âm nhạc
Tháng 2 năm 2019, Joseph Bishara, người từng soạn nhạc cho Ám ảnh kinh hoàng, Annabelle, Ám ảnh kinh hoàng 2 và Mẹ ma than khóc La Llorona đã trở lại để soạn nhạc cho Annabelle: Ác quỷ trở về.
Tiếp thị
Ngày 15 tháng 3 năm 2019, New Line Cinema ra mắt một video để giới thiệu tên phim. Trailer đầu tiên của bộ phim được phát vào ngày 30 tháng 3 năm 2019.
Phát hành
Bộ phim được lên kế hoạch phát hành vào 28 tháng 6 năm 2019 bởi Warner Bros. Pictures và New Line Cinema. Nó còn được lên kế hoạch phát hành vào ngày khác là 3 tháng 7 năm 2019.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim kinh dị
Phim của Warner Bros.
Phim hãng New Line Cinema
Phim tiền truyện
Phim tiếng Anh
Phim năm 2019
Phim đạo diễn đầu tay
Phim huyền bí Mỹ
Phim kinh dị năm 2019
Phim kinh dị có liên quan đến tôn giáo
Phim phụ
Phim Mỹ
Phim tiếp nối Mỹ
Phim về lễ trừ tà
Phim lấy bối cảnh năm 1968
Phim lấy bối cảnh năm 1972
Loạt phim Ám ảnh kinh hoàng | VI_open-0000004686 | Arts_and_Entertainment |
Cổ tử cung (tiếng Latin: cervix uteri) là phần dưới của tử cung trong hệ sinh dục nữ. Cổ tử cung thường dài từ 2 đến 3 cm (~ 1 inch) và hình dạng gần như hình trụ, có sự thay đổi trong thai kỳ. Ống cổ tử cung nằm ở trung tâm và hẹp, chạy dọc theo toàn bộ chiều dài của tử cung, kết nối khoang tử cung với lòng của âm đạo. Lỗ mở vào tử cung gọi là lỗ trong ống cổ tử cung, và lỗ mở vào âm đạo gọi là lỗ ngoài ống cổ tử cung. Phần dưới của cổ tử cung gọi là phần âm đạo của cổ tử cung (hay lỗ ngoài ống cổ tử cung), phình ra ở phía trên của âm đạo. Các ghi chép về chi tiết giải phẫu này có từ thời Hippocrates hơn 2000 năm trước.
Ống cổ tử cung là một đoạn mà tinh trùng phải di chuyển để thụ tinh cho một tế bào trứng sau khi quan hệ tình dục. Một số phương pháp tránh thai như đặt mũ cổ tử cung và màng ngăn âm đạo giúp ngăn chặn sự di chuyển của tinh trùng qua ống cổ tử cung. Chất nhầy cổ tử cung được sử dụng trong một số phương pháp ngừa thai dựa trên nhận thức sinh sản (như mô hình Creighton và phương pháp Billings) do những thay đổi của nó trong suốt chu kỳ kinh nguyệt. Trong quá trình sinh con qua âm đạo, cổ tử cung bị giãn ra và bị xóa để thai nhi lọt ra ngoài. Hộ sinh và bác sĩ xem xét mức độ giãn và xóa cổ tử cung để ra quyết định.
Ống cổ tử cung được lót bằng một lớp tế bào biểu mô trụ, trong khi đó, lỗ ngoài ống cổ tử cung được bao phủ bởi nhiều lớp tế bào biểu mô trụ tầng. Hai loại biểu mô gặp nhau tại vùng tiếp giáp lát trụ. Nhiễm virus papilloma ở người (HPV) gây ra những thay đổi trong biểu mô, có thể dẫn đến ung thư cổ tử cung. Xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung thường phát hiện ung thư cổ tử cung và dấu hiệu tiền ung thư, cho phép điều trị sớm và tăng khả năng thành công. Để tránh HPV cần tránh quan hệ tình dục không an toàn, cần sử dụng bao cao su và tiêm vắc-xin HPV. Vắc-xin HPV phát triển vào đầu thế kỷ 21 đã làm giảm nguy cơ ung thư cổ tử cung bằng cách ngăn ngừa nhiễm trùng từ các chủng virus gây ung thư.
Cấu trúc giải phẫu
Cổ tử cung là một phần của hệ sinh dục nữ, dài khoảng . Lỗ ngoài và lỗ trong ống cổ tử cung hẹp hơn phần thân cổ tử cung. Phần dưới của cổ tử cung nhô ra qua thành trước của âm đạo, gọi là phần âm đạo của cổ tử cung (hoặc phần ngoài cổ tử cung), phần trên của cổ tử cung gọi là phần trên âm đạo của cổ tử cung (hoặc phần trong cổ tử cung). Ống trung tâm gọi là ống cổ tử cung, chạy dọc theo chiều dài của cổ tử cung và nối tử cung với âm đạo, tạo thành lỗ trong ống cổ tử cung và lỗ ngoài ống cổ tử cung. Niêm mạc lót trong ống cổ tử cung được biết đến với tên gọi là cổ trong cổ tử cung, niêm mạc bao phủ phần bên ngoài của cổ tử cung, chỗ nhô vào âm đạo gọi là cổ ngoài cổ tử cung. Cổ tử cung có lớp niêm mạc lót bên trong, có lớp cơ trơn dày, phía sau phần trên âm đạo cổ tử cung có lớp thanh mạc cấu tạo bởi mô liên kết và phúc mạc bên trên.
Ở mặt trước phần trên của cổ tử cung là bàng quang ngăn cách bởi mô liên kết được gọi là mô cận tử cung. Mô liên kết này phủ hai bên cổ tử cung. Ở mặt sau phần phía trên âm đạo cổ tử cung được bao phủ bởi phúc mạc, phúc mạc chạy vào mặt sau của thành âm đạo và sau đó quay lên trên và đi vào trực tràng, tạo thành túi cùng trực tràng-tử cung. Cổ tử cung liên kết chặt chẽ hơn với các cấu trúc xung quanh so với phần còn lại của tử cung.
Ống cổ tử cung rất khác nhau về chiều dài và chiều rộng giữa các phụ nữ hoặc trong suốt cuộc đời của phụ nữ, đường kính rộng nhất đo được là 8 mm (0,3 inch) ở người tiền mãn kinh. Ống cổ tử cung phình ra giữa và hẹp ở hai đầu. Thành trước và thành sau của ống đều có một nếp gấp dọc, từ đó các đường gờ chạy chéo lên trên và ra ngoài. Những nếp gấp này gọi là nếp lá cọ, vì nhìn giống lá cây cọ. Các gờ trước và gờ sau sắp xếp để thông với nhau, có thể đóng ống cổ tử cung lại. Các gờ này thường xuất hiện sau khi mang thai.
Phần ngoài cổ tử cung (còn gọi là phần âm đạo của cổ tử cung) lồi, hình elip và thông vào cổ tử cung ở vị trí giữa các túi cùng âm đạo trước và sau. Trên phần ngoài cổ tử cung là một lỗ nhỏ, lõm bên ngoài, liên kết cổ tử cung với âm đạo. Kích thước và hình dạng của phần ngoài cổ tử cung và lỗ ngoài ống cổ tử cung có thể thay đổi tùy theo độ tuổi, tình trạng hormone và quá trình sinh con tự nhiên. Ở những phụ nữ không sinh con qua đường âm đạo, lỗ ngoài ống cổ tử cung có hình tròn và nhỏ, còn ở những phụ nữ đã sinh con qua đường âm đạo, lỗ ngoài ống cổ tử cung trồn giống như cái khe. Trung bình, lỗ ngoài ống cổ tử cung dài và rộng .
Cổ tử cung được nhánh xuống của động mạch tử cung nuôi dưỡng, sau đó máu đi vào tĩnh mạch tử cung. Các dây thần kinh tạng chậu hông (hay thần kinh cương), có nguyên ủy S2 – S3, truyền cảm giác đau từ cổ tử cung đến não. Những dây thần kinh này đi dọc theo dây chằng tử cung cùng đi từ tử cung đến mặt trước xương cùng.
Có ba hội lưu bạch huyết từ cổ tử cung. Bạch huyết từ cổ tử cung trước và cổ tử cung ngoài đổ vào các hạch bạch huyết chạy dọc theo động mạch tử cung, đi dọc theo dây chằng ngang cổ tử cung ở dưới dây chằng rộng đến các hạch chậu ngoài và cuối cùng là đến các hạch cạnh động mạch chủ. Bạch huyết cổ tử cung sau và cổ tử cung ngoài chảy dọc theo các động mạch tử cung đến các hạch chậu trong và cuối cùng là đến các hạch cạnh động mạch chủ, còn bạch huyết phần sau của cổ tử cung chạy vào đến các hạch bạch huyết bịt và hạch bạch huyết trước xương cùng. Tuy nhiên, ở một số người có những biến thể khi dẫn lưu bạch huyết từ cổ tử cung đi đến các nhóm khác nhau của hạch vùng chậu. Điều này có ý nghĩa trong việc tìm và phát hiện hạch liên quan đến ung thư cổ tử cung.
Sau khi hành kinh và chịu tác động trực tiếp của estrogen, cổ tử cung trải qua một loạt các thay đổi về vị trí và cấu trúc. Trong hầu hết chu kỳ kinh nguyệt, cổ tử cung vẫn vững chắc, ở vị trí thấp và đóng lại. Tuy nhiên, khi ngày rụng trứng đến gần, cổ tử cung trở nên mềm hơn và mở ra để đáp ứng với estrogen nồng độ cao. Những thay đổi này cũng đi kèm với những thay đổi trong chất nhầy cổ tử cung.
Phát triển
Cổ tử cung là một phần của hệ sinh dục nữ, có nguồn gốc từ hai ống cạnh trung thận (còn gọi là ống Müller), phát triển vào khoảng tuần thứ sáu của thời kỳ phôi thai. Trong quá trình phát triển, các phần bên ngoài của hai ống hợp nhất, tạo thành một ống niệu-sinh dục, sau này phát triển thành âm đạo, cổ tử cung và tử cung. Cổ tử cung phát triển với tốc độ chậm hơn so với thân tử cung, do đó kích thước tương đối của cổ tử cung theo thời gian giảm dần. Thời kỳ bào thai, cổ tử cung lớn hơn nhiều so với thân tử cung. Thời kỳ nhũ nhi, cổ tử cung rộng gấp đôi thân tử cung và đến sau dậy thì, cổ tử cung nhỏ hơn thân tử cung. Trước đây người ta cho rằng trong quá trình phát triển của bào thai, biểu mô lát nguyên thủy của cổ tử cung có nguồn gốc từ xoang niệu-sinh dục và biểu mô trụ nguyên thủy có nguồn gốc từ ống cạnh trung thận. Điểm mà hai biểu mô ban đầu này gặp nhau gọi là điểm giao nhau giữa các biểu mô nguyên thủy. Tuy nhiên, các nghiên cứu mới cho thấy rằng tất cả cổ tử cung cũng như một phần lớn của biểu mô âm đạo đều có nguồn gốc từ mô ống Müller và sự khác biệt về kiểu hình có thể là do nhiều nguyên nhân khác.
Mô học
Niêm mạc lót trong cổ tử cung dày khoảng và được lót bằng một lớp tế bào niêm mạc hình trụ. Niêm mạc chứa nhiều tuyến nhầy hình ống, có chức năng bài tiết chất nhầy vào lòng mạch. Ngược lại, phần ngoài cổ tử cung được bao phủ bởi biểu mô lát không sừng hóa, giống biểu mô lát của âm đạo. Điểm nối giữa hai loại biểu mô này gọi là vùng tiếp giáp lát-trụ. Phía dưới biểu mô là lớp collagen cứng cáp. Niêm mạc của phần trong cổ tử cung không bong ra trong thời kỳ kinh nguyệt. Cổ tử cung có nhiều mô xơ, collagen và elastin hơn phần còn lại của tử cung.
Ở các bé gái trước tuổi dậy thì, điểm giao nhau của biểu mô lát-trụ tìm thấy ở ngay trong ống cổ tử cung. Khi bước vào tuổi dậy thì hay trong thời kỳ mang thai, do ảnh hưởng của hormone mà biểu mô trụ sẽ di chuyển sang đến đầu ngoài ống cổ tử cung. Kết quả, vùng tiếp giáp lát trụ di chuyển ra ngoài, vào phần âm đạo của cổ tử cung và tiếp xúc với môi trường âm đạo có tính acid. Biểu mô trụ ở bề mặt niêm mạc có thể chuyển sản sinh lý, trở thành biểu mô lát cứng cáp trong vài ngày hoặc vài tuần, có hình thái rất giống với biểu mô lát ban đầu khi trưởng thành. Do đó, vùng tiếp giáp lát trụ mới nằm trong hơn so với vùng tiếp giáp lát trụ ban đầu, và vùng biểu mô không ổn định giữa hai điểm giao nhau trên gọi là vùng chuyển tiếp của cổ tử cung. Về mặt mô học, vùng chuyển tiếp là vùng tiếp giáp giữa biểu mô lát tầng và biểu mô trụ.
Sau mãn kinh, các cấu trúc tử cung không hoạt động và vùng tiếp giáp lát trụ di chuyển vào ống cổ tử cung.
Nang Naboth hình thành trong vùng biến đổi nơi lớp lót của biểu mô chuyển sản đã thay thế biểu mô niêm mạc và làm co cửa ra của một số tuyến nhầy, Khi biểu mô cổ tử cung tiết dịch, chất dịch này không chảy đi đâu được nên phình căng lên tạo thành nang. Sự tích tụ chất nhày trong các tuyến tạo thành u nang Naboth, thường có đường kính ít hơn khoảng , Sự phát triển nang Naboth thường là quá trình sinh lý và có thể tiến triển thành bệnh lý. Nang Naboth rất hữu ích để xác định vị trí vùng chuyển tiếp.
Chức năng
Khả năng sinh sản
Sau khi quan hệ tình dục, và một số hình thức thụ tinh nhân tạo, tinh trùng sẽ đi theo ống cổ tử cung và âm đạo. Một số tinh trùng vẫn còn sót lại ở cổ tử cung, các nếp ở lỗ trong ống cổ tử cung giống như một bể chứa, giải phóng tinh trùng trong vài giờ và tối đa hóa cơ hội thụ tinh. Một giả thuyết cho rằng cổ tử cung và tử cung co thắt trong khi đạt cực khoái sẽ hút tinh dịch vào tử cung. Mặc dù giả thuyết được chấp nhận, nhưng vẫn tranh cãi do thiếu bằng chứng, cỡ mẫu nhỏ và có sai sót về phương pháp luận trong nghiên cứu.
Một số phương pháp nhận biết khả năng sinh sản (chẳng hạn như mô hình Creighton và phương pháp Billings) ước tính thời kỳ sinh sản và vô sinh của phụ nữ bằng cách quan sát những thay đổi sinh lý trong cơ thể. Trong số những thay đổi này, có một số thay đổi liên quan đến chất lượng của chất nhầy cổ tử cung: cảm giác mà nó gây ra ở âm hộ, độ xốp của chất nhày (Spinnbarkeit), độ trong suốt và Fern test dương tính (hình ảnh dương xỉ trên tiêu bản chất nhày âm đạo).
Chất nhầy cổ tử cung
Một ngày 20–60 mg dịch nhầy cổ tử cung được tiết ra mỗi ngày, và con số này sẽ là 600 mg vào khoảng thời gian rụng trứng. Dịch có đặc tính nhày vì nó chứa các protein lớn được gọi là mucin. Độ nhớt và hàm lượng nước thay đổi trong chu kỳ kinh nguyệt; chất nhầy gồm khoảng 93% nước, có thể đạt 98% khi đang trong giai đoạn giữa chu kỳ kinh nguyệt. Những thay đổi này cho phép chất nhày hoạt động như một hàng rào bảo vệ hoặc một phương tiện vận chuyển đến tinh trùng. Chất nhày chứa các chất điện giải như calci, natri và kali; thành phần hữu cơ: glucose, amino acid và protein hòa tan; các nguyên tố vi lượng: kẽm, đồng, sắt, mangan và seleni; acid béo tự do; prostaglandin, các enzym như amylase. Thành phần phụ thuộc vào nồng độ hormone estrogen và progesteron. Vào khoảng thời gian rụng trứng (thời kỳ có nồng độ estrogen cao) chất nhầy loãng giống huyết thanh để cho tinh trùng đi vào tử cung, và có tính kiềm hơn để tinh trùng dễ thích nghi. Nồng độ điện giải cao, thực hiện Fern test sẽ cho kết quả dương tính. Cơ chế của Fern test là lấy tiêu bản chất nhày âm đạo; khi chất nhầy khô đi, các muối kết tinh lại tạo thành hình ảnh lá cây dương xỉ. Thuật ngữ Spinnbarkeit dùng để mô tả chất ngày khoảng thời gian rụng trứng.
Vào những thời điểm khác trong chu kỳ kinh nguyệt, chất nhầy đặc và có tính acid hơn do tác động của progesteron. Chất nhầy "vô sinh" này có tác dụng như một hàng rào không cho tinh trùng vào tử cung. Phụ nữ uống thuốc tránh thai cũng có chất nhầy đặc do tác dụng của progesterone. Chất nhầy đặc cũng ngăn không cho mầm bệnh xâm nhập vào bào thai.
Nút nhầy cổ tử cung hình thành bên trong ống cổ tử cung khi mang thai, tạo ra một lớp bảo vệ tử cung chống lại sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh và chống lại sự rò rỉ của dịch tử cung. Nút nhầy được biết là có đặc tính kháng khuẩn. Nút này giải phóng khi cổ tử cung giãn ra, trong giai đoạn đầu tiên của quá trình chuyển dạ hoặc một thời gian ngắn trước đó, nhìn thấy dưới dạng dịch nhầy nhuốm máu.
Sinh sản
Cổ tử cung đóng một vai trò quan trọng trong quá trình sinh con. Khi bào thai đi xuống tử cung để chuẩn bị chào đời, phần ngôi (phần của thai nhi trình diện trước eo trên, phần nhô ra đầu tiên, thường là ngôi đầu) được cổ tử cung hỗ trợ. Khi quá trình chuyển dạ tiến triển, cổ tử cung trở nên mềm hơn và ngắn hơn, bắt đầu giãn ra và hướng về phía trước của cơ thể. Sự hỗ trợ của cổ tử cung cung cấp để đầu của thai nhi giảm dần, nhường chỗ khi lực co bóp của tử cung. Trong quá trình sinh nở, cổ tử cung phải giãn ra, có đường kính trên đầu của thai nhi lọt qua được khi đi xuống từ tử cung đến âm đạo. Cổ tử cung ngày càng rộng và ngắn hơn, dẫn đến một hiện tượng gọi là xóa cổ tử cung.
Hộ sinh và bác sĩ sử dụng mức độ xóa cổ tử cung (cùng một số yếu tố khác) để hỗ trợ việc đưa ra quyết định trong quá trình sinh nở. Nói chung, giai đoạn đầu tiên của quá trình chuyển bắt đầu khi cổ tử cung giãn ra nhiều hơn , khi đó các cơn co thắt tử cung trở nên mạnh mẽ và đều đặn. Giai đoạn thứ hai của quá trình chuyển dạ bắt đầu khi cổ tử cung giãn ra , được coi là sự giãn nở tối đa, và là khi quá trình rặn đẻ và co bóp tích cực đẩy em bé dọc theo ống sinh dẫn đến sự ra đời của em bé. Số lần sinh qua đường âm đạo là một yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến tốc độ cổ tử cung giãn trong quá trình chuyển dạ. Thời gian để cổ tử cung giãn ra và xóa cổ tử cung là một yếu tố trong thang điểm Bishop. Đây là thang điểm khuyến nghị xem có nên sử dụng các biện pháp can thiệp như sinh con bằng kẹp forcep, đẻ can thiệp hay mổ lấy thai hay không.
Bất sản cổ tử cung (hở eo tử cung) là tình trạng cổ tử cung ngắn lại do giãn ra và mỏng đi trước khi mang thai đủ tháng. Chiều dài cổ tử cung ngắn là yếu tố dự báo sinh non đặc hiệu nhất.
Tránh thai
Có một số biện pháp tránh thai liên quan đến cổ tử cung. Màng ngăn âm đạo là dụng cụ bằng nhựa có gọng cứng, có thể tái sử dụng, phụ nữ đưa vào trước khi giao hợp để che cổ tử cung. Áp lực lên các thành âm đạo duy trì vị trí của màng ngăn, và màng ngăn âm đạo là hàng rào vật lý ngăn chặn sự xâm nhập của tinh trùng vào tử cung, ngăn cản thụ tinh. Đặt mũ cổ tử cung là một phương pháp tương tự, kích cỡ nhỏ hơn và dính chặt vào cổ tử cung bằng giác hút. Màng ngăn và mũ cổ tử cung thường được sử dụng cùng với thuốc diệt tinh trùng. Trong một năm, 12% phụ nữ sử dụng màng ngăn sẽ mang thai ngoài ý muốn, và khi sử dụng tối ưu, tỷ lệ này giảm xuống còn 6%. Tỷ lệ hiệu quả của mũ cổ tử cung thì ít hơn: 18% phụ nữ mang thai ngoài ý muốn và 10–13% khi sử dụng tối ưu. Hầu hết các loại thuốc viên chứa progestogen đều có hiệu quả như một biện pháp tránh thai, vì thuốc làm đặc chất nhầy cổ tử cung, khiến tinh trùng khó di chuyển dọc theo ống cổ tử cung. Thuốc cũng có thể ngăn cản sự rụng trứng. Ngược lại, thuốc tránh thai có chứa cả estrogen và progesterone (thuốc tránh thai kết hợp) hoạt động chủ yếu bằng cách ngăn chặn sự rụng trứng. Chúng cũng làm đặc chất nhầy cổ tử cung và làm mỏng niêm mạc tử cung, tăng cường hiệu quả ngăn cản tinh trùng.
Ý nghĩa lâm sàng
Bệnh ung thư
Năm 2008, ung thư cổ tử cung là bệnh ung thư phổ biến thứ ba ở phụ nữ trên toàn thế giới, tỷ lệ thay đổi theo vùng địa lý từ <1 đến hơn 50 trường hợp trên 100.000 phụ nữ. 12 năm sau đó, năm 2020, ung thư cổ tử cung là bệnh ung thư phổ biến thứ tư ở phụ nữ trên toàn cầu, ước tính có khoảng 604 000 ca mắc mới và 342 000 ca tử vong. Khoảng 90% số ca mắc mới và tử vong trên toàn thế giới vào năm 2020 xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung xếp thứ 12 trong số ca mắc mới năm 2020, với 4132 ca, chiếm 2,3% số ca ung thư mắc mới; và xếp thứ 12 trong số ca tử vong năm 2020, với 2223 ca, chiếm 1,8% số ca tử vong do ung thư.
Đây là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở các nước nghèo, nơi chẩn đoán bệnh muộn khiến tiên lượng bệnh kém. Việc áp dụng sàng lọc định kỳ làm giảm trường hợp mắc và tử vong do ung thư cổ tử cung, nhưng phần lớn được thực hiện các nước phát triển. Hầu hết các nước đang phát triển đều không sàng lọc hoặc công tác sàng lọc tỏ ra nhiều hạn chế. 85% gánh nặng toàn cầu xảy ra ở các nước đang phát triển.
Ung thư cổ tử cung gần như luôn liên quan đến nhiễm virus u nhú ở người (human papillomavirus, HPV). HPV là virus có nhiều chủng, một số chủng có khuynh hướng gây ra những thay đổi tiền ung thư trong biểu mô cổ tử cung, đặc biệt là ở vùng chuyển tiếp, là khu vực phổ biến nhất để xuất hiện ung thư cổ tử cung. Vắc-xin HPV (Gardasil và Cervarix) làm giảm tỷ lệ mắc ung thư cổ tử cung.
Những thay đổi tiền ung thư ở cổ tử cung có thể phát hiện bằng cách sàng lọc cổ tử cung, sử dụng các phương pháp phết tế bào cổ tử cung, các tế bào biểu mô cạo từ bề mặt cổ tử cung được kiểm tra dưới kính hiển vi. Máy soi cổ tử cung (phát minh vào năm 1925) là dụng cụ dùng để để phóng đại cổ tử cung. Phết tế bào cổ tử cung do Georgios Papanikolaou phát triển vào năm 1928. Kỹ thuật Khoét chóp cổ tử cung bằng vòng điện (LEEP) sử dụng một vòng platin nung nóng để loại bỏ một mảng mô cổ tử cung. Kỹ thuật này do Aurel Babes phát triển vào năm 1927. Ở một số khu vực của thế giới phát triển bao gồm cả Vương quốc Anh, Phết tế bào cổ tử cung được thay thế bằng kỹ thuật tế bào học trong chất lỏng (E-prep PAP, còn có tên xét nghiệm Pap nhúng dịch, tiếng Anh: liquid-based cytology, viết tắt là LBC).
Một giải pháp thay thế rẻ, hiệu quả và thiết thực ở các nước nghèo hơn là xét nghiệm trực quan bằng acid acetic (VIA). Việc thiết lập và duy trì các chương trình dựa trên tế bào học ở những vùng này có thể khó khăn do cần nhân lực, trang thiết bị và cơ sở vật chất được đào tạo và khó khăn trong việc theo dõi. Với VIA, kết quả và điều trị có thể có ngay trong ngày. VIA là một xét nghiệm sàng lọc, có thể so sánh với tế bào học cổ tử cung trong việc xác định chính xác các tổn thương tiền ung thư.
Nếu kết quả của loạn sản thì cần phải làm thêm xét nghiệm, chẳng hạn như bằng cách lấy sinh thiết hình nón, cũng có thể loại bỏ tổn thương ung thư. Tân sinh trong biểu mô cổ tử cung là kết quả có thể có của sinh thiết và đại diện cho những thay đổi loạn sản mà cuối cùng có thể tiến triển thành ung thư xâm lấn. Hầu hết các trường hợp ung thư cổ tử cung được phát hiện theo cách này mà không gây ra bất kỳ triệu chứng nào. Các triệu chứng gồm chảy máu âm đạo, tiết dịch hoặc gây khó chịu.
Viêm
Viêm lộ tuyến cổ tử cung được gọi chung là viêm cổ tử cung. Viêm có thể ở lỗ trong hoặc lỗ ngoài ống cổ tử cung. Nếu viêm ở lỗ trong ống cổ tử cung, thì tình trạng viêm này có liên quan đến tiết dịch nhày âm đạo và các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục như chlamydia và lậu. Có tới một nửa số phụ nữ mang thai bị nhiễm trùng cổ tử cung qua đường tiểu không có triệu chứng. Các nguyên nhân khác: sự phát triển quá mức của hệ vi sinh vật hội sinh tại âm đạo. Nếu viêm ở lỗ ngoài ống cổ tử cung, tình trạng viêm có thể do virus herpes simplex gây ra. Tình trạng viêm nhiễm thường được điều tra thông qua việc quan sát trực tiếp cổ tử cung bằng cách sử dụng mỏ vịt, dịch có thể có màu trắng đục, làm xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung và xét nghiệm vi khuẩn gây bệnh. Các xét nghiệm đặc biệt có thể được sử dụng để chẩn đoán xác định các vi khuẩn cụ thể. Nếu tình trạng viêm là do vi khuẩn thì điều trị bằng thuốc kháng sinh.
Bất thường giải phẫu
Hẹp cổ tử cung thường liên quan đến chấn thương do cắt bỏ mô để điều tra hoặc điều trị ung thư, hoặc do chính ung thư cổ tử cung làm hẹp. Thuốc Diethylstilbestrol được sử dụng từ năm 1938 đến năm 1971 để ngăn ngừa chuyển dạ sinh non và sẩy thai, cũng có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của chứng hẹp cổ tử cung và các bất thường khác ở con gái của những phụ nữ dùng thuốc. Các bất thường khác: hẹp âm đạo, trong đó biểu mô lát của lỗ ngoài ống cổ tử cung trở thành biểu mô trụ; các bệnh ung thư như ung thư biểu mô tuyến tế bào sáng; bất thường gờ cổ tử cung; và sự phát triển của cổ tử cung có hình giống hoa mào gà đỏ. Khoảng một phần ba phụ nữ được sinh ra từ những bà mẹ điều trị bằng diethylstilbestrol (tức là những người phụ nữ này tiếp xúc với thuốc trong tử cung của mẹ) phát triển cổ tử cung dạng hoa mào gà.
Các nếp hoặc gờ của mô đệm cổ tử cung (mô sợi) và biểu mô tạo thành cổ tử cung dạng hoa mào gà. Tương tự đối với các polyp dạng hoa mào gà ở biểu mô lót cổ tử cung. Bản thân đây được coi là một bất thường lành tính; Tuy nhiên, sự hiện diện của nó thường là dấu hiệu của phơi nhiễm diethylstilbestrol, và vì vậy những phụ nữ gặp phải những bất thường này nên nhận thức được nguy cơ gia tăng các bệnh lý liên quan của họ.
Dày cổ tử cung là một tình trạng bẩm sinh hiếm gặp, trong đó cổ tử cung không phát triển hoàn toàn, thường liên quan đến việc âm đạo phát triển không tương xứng. Các bất thường cổ tử cung bẩm sinh khác tồn tại, thường kết hợp với các bất thường của âm đạo và tử cung. Có thể có 2 cổ tử cung trong trường hợp tử cung hai sừng và tử cung kép.
Polyp cổ tử cung là sự phát triển quá mức lành tính của mô nội mạc cổ tử cung, nếu xuất hiện có thể gây chảy máu hoặc có thể có một khối phát triển quá mức lành tính trong ống cổ tử cung. Tăng sinh cổ tử cung đề cập đến sự phát triển quá mức theo chiều ngang của biểu mô trụ lót nội mạc cổ tử cung ở lỗ ngoài ống cổ tử cung.
Động vật có vú khác
Động vật có túi có tử cung và cổ tử cung xếp theo đôi. Hầu hết loài động vật có vú Eutheria có một cổ tử cung duy nhất và một hoặc hai tử cung. Bộ thỏ, động vật gặm nhấm, lợn đất và Bộ Đa man có một tử cung và hai cổ tử cung. Bộ Thỏ và động vật gặm nhấm có chung nhiều đặc điểm hình thái và được nhóm lại với nhau trong nhánh Glires. Động vật ăn kiến thuộc họ Myrmecophagidae khác thường ở chỗ chúng không có cổ tử cung rõ ràng. Ở lợn nhà, cổ tử cung chứa 5 miếng đệm đan xen giữ dương vật hình xoắn ốc của lợn đực trong quá trình giao cấu.
Từ nguyên và cách phát âm
Từ cervix () trong tiếng tiếng Anh có nguồn gốc từ tiếng Latin nghĩa là "cổ". Ý nghĩa của cervix không chỉ mô tả bộ phận cổ [của cơ thể sinh vật] mà còn để mô tả đoạn thắt hẹp của sự vật.
Cervix của tiếng Latin xuất phát từ Tiếng Ấn-Âu nguyên thủy ker-, đề cập đến "cấu trúc của một công trình".
Cổ tử cung được ghi lại trong y văn giải phẫu học từ thời Hippocrates; ung thư cổ tử cung lần đầu tiên được Hippocrates và Aretaeus mô tả cách đây hơn 2000 năm. Tuy nhiên, một số tác giả của các tài liệu y văn xưa sử dụng thuật ngữ này để chỉ cả cổ tử cung và lỗ trong của tử cung. Cổ tử cung định nghĩa lại một cách chính xác từ năm 1702.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sức khỏe nữ giới
Cơ quan sinh sản nữ | VI_open-0000004689 | Health |
Trần Ngọc Kỳ là nữ diễn viên Trung Quốc đại lục thuộc công ty Phong Cảnh Thịnh Đường - SunLight Media (doanh nghiệp mà Đường Yên là một trong những người sáng lập với vốn điều lệ 3 triệu nhân dân tệ), Trần Ngọc Kỳ được biết đến qua vai diễn trong Cẩm Tú Vị Ương, Hương mật tựa khói sương, Ỷ Thiên Đồ Long Ký (phim truyền hình 2019), Nguyệt Thượng Trùng Hỏa, Kính Song Thành, Xưa Kia Có Ngói Lưu Ly và nhiều bộ phim đang chờ phát sóng.
Sự nghiệp
Trước khi ra mắt
Trần Ngọc Kỳ được xem là gương mặt nữ diễn viên trẻ đầy triển vọng của thế hệ 9x. Năm 2011, Trần Ngọc Kỳ thi đỗ chuyên ngành Biểu diễn của Học viện Cẩm Thành - Đại học Tứ Xuyên. Vì muốn rèn luyện thể hình mà ngay từ năm thứ nhất đại học, Ngọc Kỳ đã bắt đầu học vũ đạo. Tháng 5 năm 2014, cô tham gia vở kịch tốt nghiệp Đấu tranh cuối cùng (最后的斗争) trong vai một bà lão hơn 60 tuổi. Cùng năm này, Trần Ngọc Kỳ làm giám chế đồng thời cũng là nữ chính trong ngắn về thanh xuân vườn trường có tên Những năm tháng đã từng để lỡ (被错过的那些年), bộ phim này sau đó đã lọt vào vòng đề cử của giải Kim Mao lần thứ 2. Trần Ngọc Kỳ còn có chứng chỉ nhỏ về chuyên ngành kế toán.
Ra mắt và hoạt động
Tên Fandom chính thức của Trần Ngọc Kỳ là "Cookie", tiếng Trung là 曲奇 (phát âm: qū qí), tiếng Việt là "Bánh Quy", phiên âm Hán Việt là Khúc Kỳ, chữ "Kỳ" đồng âm với tên Trần Ngọc Kỳ. Màu tiếp ứng là màu vàng.
Năm 2015, Trần Ngọc Kỳ có cơ hội hợp tác cùng Đường Yên trong bộ phim Đại thoại tây du 3 (大话西游3), sau đó cô chính thức ký hợp đồng và trở thành nghệ sĩ trong studio của đàn chị.
Năm 2016, Trần Ngọc Kỳ vào vai Cửu công chúa Thác Bạt Địch trong bộ phim Cẩm Tú Vị Ương (锦绣未央) của Đường Yên và La Tấn. Dù chỉ thể hiện vai phụ, nhưng cô vẫn giành được nhiều thiện cảm của khán giả. Tháng 2 năm 2017, cô giành giải thưởng "Ngôi sao sắc nét mới của năm" trong Liên hoan phim chất lượng phim truyền hình Trung Quốc.
Năm 2017, Trần Ngọc Kỳ gia nhập đoàn phim Tư Lập Thục Sơn Học Viện (私立蜀山学园) đóng cùng Vương Nhất Bác, trong phim cô đóng vai nữ chính Tinh Tuệ.
Năm 2018, Ngọc Kỳ góp mặt trong bộ phim truyền hình ăn khách Hương mật tựa khói sương (香蜜沉沉烬如霜) do Đặng Luân và Dương Tử đóng chính. Trong phim cô vào vai Biện Thành công chúa Lưu Anh.
Đặc biệt, năm 2019, Trần Ngọc Kỳ được chọn vào vai nữ chính Triệu Mẫn trong bộ phim Tân Ỷ Thiên Đồ Long ký (倚天屠龙记).
Năm 2020, Trần Ngọc Kỳ đóng chính hai bộ phim Lưỡng Thế Hoan (đóng với Vu Mông Lung) và Nguyệt Thượng Trùng Hỏa (đóng với La Vân Hi), từng bước tạo dấu ấn trong sự nghiệp diễn xuất của cô.
Cũng trong năm này, Trần Ngọc Kỳ hoàn thành vai diễn Bạch Anh trong bộ phim Kính Song Thành (đóng cùng Lý Dịch Phong, Trịnh Nghiệp Thành) và vai nữ chính Thiệu Tuyết trong phim Xưa Kia Có Ngói Lưu Ly - cũng là bộ phim "hiện đại" đầu tiên mà Trần Ngọc Kỳ thủ vai nữ chính. Bộ phim xoáy sâu vào tình cảm gia đình, tình yêu, cũng như các giá trị văn hóa lịch sử.
Năm 2021, Trần Ngọc Kỳ gia nhập đoàn phim Chuyện Tình Lãng Mạn Vượt Thời Không cùng Hồ Nhất Thiên, trong phim cô vào vai biên kịch nhỏ đáng yêu Kim A Ngân. Phim đóng máy vào tháng 6 cùng năm.
Cuối tháng 6/2021, Trần Ngọc Kỳ gia nhập đoàn phim Phù Đồ Duyên, bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết "Tháp Phù Đồ" của tác giả Vưu Tứ Tỷ, trong phim cô vào vai Bộ Âm Lâu, một phi tần mới nhập cung. Phim đóng máy vào tháng 11 cùng năm.
Tháng 11/ 2021, kịch bản tiếp theo tìm đến Trần Ngọc Kỳ với vai diễn Phạm Tư Tư, một nhân viên công sở trong tựa phim Hôm Nay Phải Cố lên. Phim đóng máy vào tháng 1/2022.
Kì nghỉ Tết 2022, sau hai tháng nghỉ ngơi, Trần Ngọc Kỳ tiếp tục vào vai Xuân Dương trong bộ phim dân quốc Băng Mỏng. Đến năm 2023, cô trở lại màn ảnh rộng với vai diễn A Châu trong Thiên long bát bộ: Kiều Phong truyện.
Tác phẩm diễn xuất
Giải thưởng và đề cử
Tham khảo
陈钰琪-百度百科
Liên kết ngoài
陈钰琪-百度百科
Nữ diễn viên truyền hình Trung Quốc
Người Tứ Xuyên
Sinh năm 1992
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên điện ảnh Trung Quốc
Diễn viên Trung Quốc
Nữ diễn viên Trung Quốc
Nghệ sĩ Trung Quốc sinh năm 1992
Người họ Trần
Nữ diễn viên thế hệ 9X được kì vọng nhất
Công chúa mặt mộc | VI_open-0000004690 | Arts_and_Entertainment |
Chlidichthys cacatuoides, thường được gọi là cá đạm bì Cockatoo, là một loài cá biển thuộc chi Chlidichthys trong họ Cá đạm bì. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1994.
Phân bố và môi trường sống
C. cacatuoides phân bố ở phía tây Ấn Độ Dương, và chỉ được biết đến qua 3 mẫu vật tại ngoài khơi phía tây nam đảo Al-Sawda thuộc quần đảo Khuriya Muriya (nam Oman); ngoài ra còn tìm thấy tại Socotra. C. cacatuoides thường sống xung quanh các rạn san hô trên đáy cát, đá ở độ sâu khoảng 19 – 25 m.
Mô tả
C. cacatuoides trưởng thành dài khoảng 4 cm. Thân và đầu của C. cacatuoides có màu nâu xám nhạt hoặc vàng cam, sậm hơn ở lưng. Sau gốc vây ngực có màu hơi hồng hoặc vàng nâu. Bụng màu lam nhạt hoặc cẩm quỳ. Vây ngực màu hồng trong suốt, vây bụng màu lam nhạt. Vây lưng và vây hậu môn có màu hơi đỏ, cam hoặc vàng nâu. Đuôi màu nâu lục nhạt hoặc phớt hồng.
Số ngạnh ở vây lưng: 2; Số vây tia mềm ở vây lưng: 23 - 24; Số ngạnh ở vây hậu môn: 3; Số vây tia mềm ở vây hậu môn: 14 - 15; Số vây tia mềm ở vây bụng: 17 - 18; Số ngạnh ở vây bụng: 1; Số vây tia mềm ở vây bụng: 4.
Thức ăn của C. cacatuoides có lẽ là rong tảo và các sinh vật phù du nhỏ.
Xem thêm
Gill, A.C. & A.J. Edwards (2011), Revision of the Indian Ocean dottyback fish genera Chlidichthys and Pectinochromis (Perciformes: Pseudochromidae: Pseudoplesiopinae), Smithiana Bull. 3:1-52
Chú thích
Chlidichthys
Động vật được mô tả năm 1994 | VI_open-0000004691 | Pets_and_Animals |
Associazione Sportiva Dilettantistica Battipagliese là một câu lạc bộ bóng đá Ý đến từ Battipaglia, Campania.
Lịch sử
Thành lập
Lịch sử của Battipagliese có thể được bắt nguồn từ khi thành lập Battipaglia. Câu lạc bộ bóng đá được thành lập vào năm 1929, cùng năm với thị trần và vì vậy hai đội đã cùng nhau phát triển. Nó được thành lập bởi chủ tịch Giuseppe Agnetti, giám đốc thể thao Fioravante Di Cunzolo và cựu cầu thủ bóng đá, và huấn luyện viên Salvatore De Crescenzo.
Trong mùa giải 1933, họ đã được đưa vào giải đấu liên khu vực của Seconda Divisione, đối mặt với các đội từ Campobasso và Potenza.
Serie C1-C2
Trong lịch sử của nó, Battipagliese đã chơi nhiều năm ở Serie C1 và Serie C2. Câu lạc bộ đã thăng hạng vào Serie C1 trong các mùa 1989-90 và 1996-97. Trong năm 1997, Battipagliese đã gây sốc cho US Città di Palermo khi bất ngờ đánh bại họ trong một trận đấu trụ hạng Serie C1.
Serie D
Đội đã xuống hạng từ Serie D trong mùa giải 2004-05 sau khi kết thúc thứ 18.
Đội một lần nữa được thăng hạng lên Serie D trong mùa giải 2009-10 và chơi ở giải đấu này trong mùa thứ 3 liên tiếp.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chủ chính thức
Câu lạc bộ bóng đá Ý
Khởi đầu năm 1929 ở Ý
Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 1929 | VI_open-0000004695 | Sports |
Gruppo Sportivo Bagnolese Associazione Sportiva Dilettantistica là một câu lạc bộ bóng đá Ý đến từ Bagnolo ở Piano, Emilia-Romagna. Đội bóng hiện tại thi đấu ở Eccellenza.
Lịch sử
Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1914.
Trong mùa giải 2009-10, Bagnolese lần đầu tiên được thăng hạng từ Eccellenza Emilia, Romagna/A đến Serie D, nơi đội bóng đã chơi năm thứ 3 liên tiếp.
Màu sắc và huy hiệu
Màu sắc của câu lạc bộ là đỏ và xanh.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Câu lạc bộ bóng đá Ý | VI_open-0000004697 | Sports |
Quắc Quốc phu nhân Dương thị (chữ Hán: 虢國夫人楊氏; ? - 756), tên thật chưa rõ, một trong những người chị của Dương Quý phi.
Bà nổi tiếng có nhan sắc mà không cần trang điểm, được vinh hiển phong làm Mệnh phụ do em gái Dương Quý phi đắc sủng, đồng thời bị đồn có quan hệ loạn luân với anh họ Dương Quốc Trung.
Tiểu sử
Dương thị là người huyện Vĩnh Nhạc, Bồ Châu (nay là Vĩnh Tế, Vận Thành, tỉnh Sơn Tây), con gái thứ ba của Tư mã Tham quân Thục Châu Dương Huyền Diễm (楊玄琰). Thuở nhỏ, Dương thị ở cùng cha tại đất Tứ Xuyên, cũng có tài mạo. Lớn lên, Dương thị gả cho người họ Bùi, sinh ra một con trai là Bùi Huy (裴徽) và một con gái. Sau khi Dương Quý phi được Đường Huyền Tông sủng ái, là chị của Quý phi, Dương thị được Huyền Tông gọi là Tam di (三姨) và thụ phong tước hiệu [Quắc Quốc phu nhân], trong khi người chị cả Đại di là Hàn Quốc phu nhân còn người em gái Bát di là Tần Quốc phu nhân.
Cũng vì là chị của sủng phi, Quắc Quốc phu nhân cùng chị gái Hàn Quốc phu nhân và em gái Tần Quốc phu nhân được ân điển, có xe ngựa đưa rước, vải lụa châu báu chất đầy, trở nên vô cùng rựa rỡ. Mỗi khi Quắc Quốc phu nhân cùng hai người chị Tần Quốc, Hàn Quốc nhập triều, các mệnh phụ thậm chí công chúa cũng đều kiêng dè nhường trước. Con trai Bùi Huy của bà, được cưới con gái của Thái tử Lý Hanh, tức là Cáo Quốc công chúa.
Được một thời gian, Tần Quốc phu nhân qua đời, chị của Quý phi chỉ còn Hàn Quốc và Quắc Quốc thụ ân sủng. Do còn khá trẻ đã trở thành góa phụ, bản tính lại lẳng lơ thiếu giữ gìn, nên Quắc Quốc phu nhân một mặt dựa vào thế của Quý phi em mình mà sống sung túc, mặt khác lại liếc mắt đưa tình với Đường Huyền Tông, không hề có chút tránh kỵ mà ở cùng một phòng với anh họ Dương Quốc Trung của mình.
Trong thời gian đầu của Loạn An Sử, Đường Huyền Tông cùng Dương Quý phi đến đất Thục, Hàn Quốc và Quắc Quốc đi theo. Khi Chính biến Mã Ngôi xảy ra, Dương Quốc Trung bị binh sĩ giết chết, Dương Quý phi bị ban chết. Nghe tin bạo loạn cũng như cái chết của Dương Quốc Trung lẫn Quý phi, Quắc Quốc phu nhân cùng con cái và vợ của Quốc Trung là Bùi thị chạy đến Trần Thương (nay là Bảo Kê, tỉnh Thiểm Tây). Huyện lệnh Tiết Cảnh Tiên (薛景仙) nghe tin, cho người truy đuổi, Quắc Quốc phu nhân hoảng sợ đưa những người chạy trốn vào một khu rừng trúc, sau đó dùng vũ khí giết chết chính con trai, con gái của bà đồng thời cũng giết luôn Bùi thị, hòng sau đó tự mình cũng tự sát. Huyện lệnh Tiết Cảnh Tiên truy bắt đến đúng lúc Quắc Quốc phu nhân chỉ vừa thắt cổ, nên đem xuống và giải về quan phủ. Trong ngục, Quắc Quốc phu nhân do vết thương ứ đọng ở cổ mà cũng chết. Bà được mai táng ở vùng ngoại ô Trần Thương. Chị của bà là Hàn Quốc phu nhân cũng bị giết trong cơn loạn binh.
Truyền thuyết và thi ca
Giai thoại về Quắc Quốc phu nhân: Một lần, vào sinh nhật của Đường Huyền Tông, bà đã chuẩn bị một tiết mục đặc biệt mừng sinh nhật hoàng thượng. Nhưng do luyện tập mệt mỏi nên đã thức dậy muộn, chưa trang điểm đã vội vàng vào cung. Huyền Tông thấy Quắc Quốc phu nhân tuy chưa trang điểm nhưng lại có vẻ đẹp khác thường, ánh mắt long lanh đa tình, đôi môi đỏ mọng hình như muốn mời gọi nam nhân, đôi má ửng hồng, những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, sức sống rào rạt như đóa phù dung sau cơn mưa.
Thi nhân Trương Hỗ (張祜) đã viết bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của bà:
Nhà thơ Đỗ Phủ cũng có bài thơ nói về sự vinh sủng và nhan sắc của Quắc Quốc phu nhân:
Xem thêm
Đường Huyền Tông
Dương Quý phi
Dương Quốc Trung
Tham khảo
Cựu Đường thư
Tân Đường thư
Mất năm 756
Nữ giới nhà Đường
Mỹ nhân Trung Hoa | VI_open-0000004698 | People_and_Society |
Colombia có một múi giờ, Giờ Colombia (COT), nằm trong khu vực UTC−05:00, sau 5 giờ Giờ phối hợp quốc tế (UTC). Viết tắt múi giờ tiêu chuẩn của nó là COT.
Colombia không quan sát quy ước giờ mùa hè, nhưng đã sử dụng nó trong mười một tháng trong khoảng thời gian từ tháng 5 năm 1992 đến tháng 4 năm 1993.
Cơ sở dữ liệu múi giờ IANA
Trong Cơ sở dữ liệu múi giờ IANA Colombia có múi giờ sau:
Mỹ/Bogota (CO)
Tham khảo
Liên kết ngoài
GMT: Giờ chuẩn Greenwich - Giờ thế giới/Giờ trong mọi múi giờ
Thời gian ở Colombia | VI_open-0000004699 | Computers_and_Electronics |
Allen Catherine Kagina là một quản trị viên người Uganda. Bà là giám đốc điều hành của Cơ quan Đường bộ Quốc gia Uganda (UNRA), được bổ nhiệm vào vị trí đó vào ngày 27 tháng 4 năm 2015. Trước đó, từ năm 2004 đến năm 2014, bà là tổng giám đốc của Cơ quan quản lý doanh thu Uganda (URA).
Bối cảnh và giáo dục
Kagina được sinh ra ở quận Rukungiri, khu vực phía Tây của Uganda, vào năm 1961 tại Hezron và Catherine Kakuyo . Kagina học tại trường trung học Gayaza, một trường trung học phổ thông, tư thục, nội trú cho nữ. Bà có bằng Cử nhân Khoa học về tâm lý học lấy từ Đại học Makerere, trường đại học công lập lâu đời nhất và lớn nhất ở Uganda. Bà cũng có bằng Thạc sĩ Quản trị công tại Đại học Liverpool ở Vương quốc Anh.
Kinh nghiệm làm việc
Kagina bắt đầu sự nghiệp của mình vào năm 1985 với tư cách là trợ giảng tại Đại học Makerere. Sau đó, bà chuyển đến Văn phòng của Tổng thống. Năm 1992, bà gia nhập URA với tư cách là một cán bộ doanh thu chính cao cấp, phục vụ trong khả năng đó cho đến năm 1998. Năm 2000, bà được thăng cấp bậc phó ủy viên hải quan tại URA, phục vụ trong khả năng đó cho đến năm 2001. Bà được bổ nhiệm làm tổng ủy viên của URA năm 2004. và được ghi nhận với việc cải thiện hiệu suất tài chính của URA. Kagina đã được trao giải thưởng Lãnh đạo doanh nghiệp vào tháng 2 năm 2006, bởi Destiny Consulting, một nhóm ngành, vì đã xoay quanh hoạt động của cơ quan thuế kể từ khi được bổ nhiệm làm người đứng đầu tổ chức vào năm 2004. Vào tháng 10 năm 2010, hợp đồng của bà đã được gia hạn thêm ba năm. Mức lương hàng tháng của bà được báo cáo là UGX: 28 triệu (khoảng: 11.250 USD). Vào ngày 27 tháng 4 năm 2015, John Byabagambi, Bộ trưởng Bộ Công trình và Giao thông tại thời điểm đó, đã bổ nhiệm bà làm giám đốc điều hành của UNRA, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 5 năm 2015.
Tham khảo
Sinh năm 1961
Nhân vật còn sống | VI_open-0000004700 | Business_and_Industrial |
Leonard Henson (6 tháng 8 năm 1921 - 8 tháng 5 năm 2008) là một cầu thủ bóng đá người Anh.
Sinh ra ở Kingston upon Hull, ông gia nhập Gillingham sau kết thúc của Thế chiến thứ II, và thi đấu thường xuyên khi đội bóng vô địch Kent League ở mùa giải 1945–46. Sau khi câu lạc bộ chuyển lên Southern League năm 1946 cơ hội của ông ở đội một bị hạn chế, nhưng ông cũng có 12 lần ra sân ở mùa giải 1948–49 khi đội vô địch Southern League. Ông vẫn còn nằm trong đội hình chủ Sân vận động Priestfield ngay cả sau khi Gillingham được chọn vào Football League năm 1950, nhưng chỉ thi đấu 8 trận trong 3 mùa giải trước khi chuyển đến đội bóng non-league Whitstable Town với tư cách cầu thủ-huấn luyện viên. Ông giải nghệ năm 1956. Năm 1967, ông được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của đội bóng non-league khác từ Kent, Maidstone United, nhưng khoảng thời gian đảm nhiệm lại ngắn.
Tham khảo
Sinh năm 1921
Mất năm 2008
Cầu thủ bóng đá Anh
Cầu thủ bóng đá Gillingham F.C.
Cầu thủ bóng đá Whitstable Town F.C.
Cầu thủ bóng đá English Football League
Tiền vệ bóng đá | VI_open-0000004701 | Sports |
Vanessa Alfaro là một nhà thiết kế và doanh nhân thời trang người Mỹ gốc Bolivia, có trụ sở tại Hoa Kỳ. Alfaro là chủ tịch và CEO của Sonne Global Inc., một công ty chuyên thiết kế, sáng tạo, cấp phép thương hiệu, tiếp thị và quan hệ công chúng. Alfaro đã tạo ra dòng sản phẩm may sẵn dành cho phụ nữ đầu tiên và duy nhất cho FIFA trong World Cup 2014 tại Brazil. Cô là nhà thiết kế duy nhất hợp tác với FIFA cho chuỗi sản phẩm phụ nữ sử dụng logo chính thức của World Cup.
Alfaro đã làm việc trong thiết kế thời trang, cấp phép sản phẩm và tiếp thị cho các tập đoàn như Pepsi, Toyota, Nestle, Truper, Petrobras, Suzuki và FIFA.
Bộ sưu tập riêng của Vanessa Alfaro chuyên về áo choàng couture, trang phục cô dâu, sẵn sàng để mặc, đồ da và trang sức cao cấp.
Alfaro là một trong số ít các nhà thiết kế chuyên thiết kế kỹ thuật số 3D. Cô tạo ra các mẫu và tác phẩm kỹ thuật số độc đáo và độc đáo của riêng mình cho các loại vải được thêu và đính cườm. Tất cả các bản phác thảo của cô là một trăm phần trăm kỹ thuật số và bằng với các sản phẩm may mặc cuối cùng.
Vanessa Alfaro thiết kế và sản xuất các loại vải tôn tạo của riêng mình, làm cho bộ sưu tập của cô trở thành những tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Cô tạo ra một trong những sản phẩm may mặc để đáp ứng mong muốn cá nhân của những khách hàng thân thiết của mình.
Tuổi thơ
Alfaro bắt đầu làm người mẫu ở Bolivia năm 17 tuổi. Cô có một sự nghiệp tích cực là một người mẫu biên tập và đường băng, và cũng được trao vương miện với nhiều danh hiệu cuộc thi sắc đẹp khác nhau bao gồm "giải nhất ăn ảnh" và "Đẹp nhất giữa các người mẫu."
Năm 19 tuổi, Alfaro đã tạo ra Sonne Imagen & Sản xuất tại Cochabamba, Bôlivia trong khi cô vẫn còn là sinh viên Kỹ thuật Thương mại tại Đại học Công giáo ở Bôlivia. Cô tốt nghiệp loại giỏi và tiếp tục lấy bằng Thạc sĩ Tài chính. Cô cũng chuyên thiết kế đồ họa và thời trang. Khi Alfaro 24 tuổi, cô kết hôn và chuyển đến Hoa Kỳ. Khi ở Hoa Kỳ, cô tiếp tục con đường của mình là một doanh nhân và nhà thiết kế thời trang.
Tham khảo
Doanh nhân người Mỹ | VI_open-0000004702 | Shopping |
Duchy of Jawor () là một trong những Lãnh địa công tước xứ Silesia được thành lập năm 1274 với tư cách là một phân khu của Lãnh địa Legnica. Nó được cai trị bởi Silesian Piasts, với thủ đô tại Jawor ở Lower Silesia.
Địa lý
Lãnh địa ban đầu trải dài từ Jawor trên sông Nysa Szalona về phía tây dọc theo sườn phía bắc của Sud Sud miền Tây đến dãy núi Jizera và sông Kwisa, tạo thành biên giới Silesian với vùng đất Milceni cũ của Upper Lusatia. Ở phía bắc, nó giáp với Lãnh địa Legnica còn lại và ở phía đông Công tước Silesia-Wrocław.
Nó bao gồm các thị trấn Bolków, Kamienna Góra, Lubawka, Lwówek, Świerzawa và (từ 1277) Strzegom.
Lịch sử
Lãnh địa Silesian của Legnica từ năm 1248 đã nằm dưới sự cai trị của Công tước Bolesław II Rogatka. Khi con trai cả của Bolesław là Henry V the Fat kế vị cha mình là Công tước Legnica vào năm 1278, ông đã trao phân khu Jawor cho các em trai của mình là Bolko I the Strict và Bernard the Lightsome. Năm 1281, Bernard đã trở thành Công tước xứ Lwówek ở phía tây của vùng đất Jawor.
Vào năm 1286, Bolko I lại thừa kế Lwówek từ anh trai mình và năm 1291 tiếp tục mở rộng lãnh thổ của mình bằng cách nhận Świdnica và Ziębice từ anh trai Henry V của Legnica. Những vùng lãnh thổ này đã hình thành phần phía nam của Công tước Silesia-Wrocław, mà Henry V đã có được sau cái chết của anh họ ông ấy - Công tước Henry IV Probus năm trước. Henry V, mặc dù được hậu thuẫn bởi Vua Wenceslaus II của Bohemia, nhưng cũng cần được hỗ trợ để giữ lại các thương vụ mua lại Wrocław của ông, chống lại tuyên bố của đối thủ là Công tước Henry III của Głogów. Từ 1288 Bolko, tôi đã có một nơi cư trú mới được xây dựng tại Lâu đài Książ ở vùng đất Świdnica. Trong một thời gian ngắn, công tước của ông đôi khi được gọi là Lãnh địa Jawor-Świdnica.
Những nỗ lực của Bolko để giành được Lãnh địa Nysa đã thất bại, tuy nhiên ông đã chiếm Paczków và có được Chojnów từ Công tước Henry III của Głogów. Sau khi ông qua đời vào năm 1301, cuối cùng các con trai của ông đã phân chia lãnh thổ của họ vào năm 1312: các vùng đất xung quanh Świdnica và Ziębice một lần nữa được tách ra thành các lãnh địa riêng biệt, trong khi Jawor được cai trị bởi Công tước Henry I. Sau khi ông qua đời vào năm 1346, lãnh địa đã được sáp nhập lại với Świdnica dưới sự cai trị của cháu trai Bolko II the Small.
Bolko II là công tước Piast cuối cùng giữ được độc lập khỏi Vương quốc Bohemia, tuy nhiên vì không có người thừa kế nam nên ông đã ký một hiệp ước thừa kế với vua Charles IV của Luxembourg, người kết hôn với cháu gái của Bolko là Anna von Schweidnitz vào năm 1353. Công tước đã chết vào năm 1368 và sau cái chết của góa phụ Agnes of Habsburg vào năm 1392, lãnh địa của ông cuối cùng đã bị Bohemian Crown sáp nhập.
Hình ảnh
Xem thêm
Lãnh địa xứ Silesia
Tham khảo
Lịch sử Kommission für Schlesien (Hrsg.): Geschichte Schlesiens, Bd. 1. Sigmaringen 1988,
Hugo Weczerka: Handbuch der historyischen Stätten: Schlesien. Stuttgart, 1977, , tr. 206 bóng210 và 491 bóng496, phả hệ trên p. 593.
Joachim Bahlcke: Schlesien und die Schlesier, Langen-Müller-Verlag, 2000,
Rudolf Žáček: Dějiny Slezska v datech. Prague 2004, , tr. 420f. và 446 Điện448.
Lãnh địa Silesia | VI_open-0000004703 | Law_and_Government |
Trương Công (sinh ngày 10 tháng 4 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá người Trung Quốc hiện tại thi đấu cho Quảng Châu Phú Lực tại Giải bóng đá Ngoại hạng Trung Quốc.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Năm 2011, Trương Công bắt đầu sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp khi anh gia nhập đội bóng Giải hạng Nhất Trung Quốc Thẩm Dương Trung Trạch. Ngày 26 tháng 7 năm 2014, anh ghi bàn thắng đầu tiên trong chiến thắng 2-0 trên sân nhà trước Viện Công nghệ Bắc Kinh. Anh đã trở thành một cầu thủ tự do vào cuối mùa giải 2014 sau khi Thẩm Dương Trung Trạch giải thể.
Tháng 3 năm 2016, Trương Công gia nhập đội bóng Giải hạng Nhất Trung Quốc Đại Liên Siêu Việt. Ngày 13 tháng 3 năm 2016, anh có trận đấu ra mắt cho Đại Liên trong chuyến làm khách thắng 3-1 trước Thượng Hải Thân Hâm, vào sân từ băng ghế dự bị thay cho Quyền Hằng ở phút 66. Ngày 23 tháng 7 năm 2016, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho đội bóng trong trận derby Đại Liên mà Đại Liên Siêu Việt đã bảo toàn thắng lợi 2-1 trước Đại Liên Nhất Phương.
Ngày 19 tháng 11 năm 2016, anh chuyển đến thi đấu cho đội bóng Giải bóng đá Ngoại hạng Trung Quốc Quảng Châu Phú Lực. Ngày 4 tháng 3 năm 2017, anh có trận đấu ra mắt cho câu lạc bộ trong chiến thắng 2-0 trên sân nhà trước Thiên Tân Quyền Kiện, vào sân thay cho Trần Chí Chiêu ở phút 86.
Thống kê sự nghiệp
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá Trung Quốc
Tiền vệ bóng đá
Người Bắc Kinh
Người họ Trương | VI_open-0000004704 | Sports |
Subsets and Splits
No saved queries yet
Save your SQL queries to embed, download, and access them later. Queries will appear here once saved.