id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
184
322k
19821143
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B2a%20%C3%A1n%20Hi%E1%BA%BFn%20ph%C3%A1p%20%28%C3%81o%29
Tòa án Hiến pháp (Áo)
Tòa án Hiến pháp Áo () là cơ quan giám sát hiến pháp của Áo. Tòa án Hiến pháp có nhiệm vụ giám sát tính hợp hiến của luật, quyết định của một vài tòa án khác, tính hợp pháp của nghị định và những văn bản khác; phân định thẩm quyền giữa các tòa án, giữa tòa án và chính quyền, giữa chính quyền liên bang và chính quyền bang; giải quyết khiếu nại bầu cử; truy cứu trách nhiệm của quan chức; và xem xét trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Tòa án Hiến pháp gồm 14 thẩm phán và sáu thành viên dự khuyết do tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị của Chính phủ, Hạ nghị viện và Thượng nghị viện. Theo quy định, Tòa án Hiến pháp phải họp toàn thể và nghe ý kiến của hai bên nhưng thực tế là Tòa án Hiến pháp phân công xét xử cho một ban thẩm phán gồm năm hoặc chín thẩm phán. Tòa án Hiến pháp nghị án kín đối với phần lớn các vụ án. Quyết định của Tòa án Hiến pháp thường súc tích và hàn lâm. Nhiệm vụ, quyền hạn Trách nhiệm bồi thường của nhà nước Tòa án Hiến pháp giải quyết trách nhiệm bồi thường của nhà nước Áo. Phân định thẩm quyền Tòa án Hiến pháp phân định thẩm quyền giữa: tòa án và chính quyền; tòa án tư pháp và tòa án hành chính; những ngạch tòa án khác và Tòa án Hiến pháp; các chính quyền tỉnh; chính quyền tỉnh và chính quyền liên bang. Cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm quyền lợi vì một cơ quan nhà nước chiếm thẩm quyền của một cơ quan nhà nước khác có quyền thay mặt cơ quan nhà nước đó khiếu kiện cơ quan nhà nước kia. Trường hợp hai cơ quan nhà nước đùn đẩy thẩm quyền cho nhau thì cá nhân, pháp nhân có quyền yêu cầu Tòa án Hiến pháp xác định thẩm quyền thuộc về cơ quan nhà nước nào và yêu cầu cơ quan nhà nước đó thực hiện thẩm quyền. Chính quyền liên bang và chính quyền tỉnh có thể yêu cầu Tòa án Hiến pháp phân định thẩm quyền giữa hai bên trong một tình huống giả định trước khi xảy ra tranh chấp thực tế. Trường hợp Nghị viện đang xem xét một dự án luật có thể xâm phạm thẩm quyền của các tỉnh thì Chính phủ có thể yêu cầu Tòa án Hiến pháp xem xét dự án luật đó. Chính phủ có thể yêu cầu Tòa án Hiến pháp xem xét dự thảo nghị định, văn bản pháp luật khác của Chính phủ. Chính quyền tỉnh cũng có thể yêu cầu Tòa án Hiến pháp xem xét văn bản của tỉnh. Quyết định của Tòa án Hiến pháp được đăng trên công báo, có hiệu lực tối cao, và ràng buộc chính Tòa án Hiến pháp. Giám sát hiến pháp Tòa án Hiến pháp bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản pháp luật trong hệ thống pháp luật Áo: luật và điều ước quốc tế đã được Nghị viện ban hành như luật phải phù hợp với hiến pháp; nghị định và điều ước quốc tế thông thường phải phù hợp với luật; văn bản pháp luật cấp dưới phải phù hợp với văn bản pháp luật cấp trên. Ví dụ: một biển báo giao thông phải phù hợp với cả Luật Giao thông đường bộ và quy định của Bộ Công thương. Áo là một liên bang, các tỉnh đều có hiến pháp riêng nên luật tỉnh phải phù hợp với hiến pháp tỉnh và hiến pháp quốc gia. Tòa án Hiến pháp không giám sát pháp luật Áo có phù hợp với luật Liên minh châu Âu không. Luật, nghị định vi hiến bị hủy bỏ từ thời điểm quyết định của Tòa án Hiến pháp có hiệu lực. Thông thường quyết định của Tòa án Hiến pháp có hiệu lực sau khi được công bố nhưng Tòa án Hiến pháp có quyền cho thời gian ân hạn cho phép tiếp tục thi hành đạo luật vi hiến. Đối với nghị định thì thời gian ân hạn có thể kéo dài đến sáu tháng, đối với luật thì đến 18 tháng. Trường hợp một nghị định có hiệu lực như một đạo luật thì Tòa án Hiến pháp có thể cho ân hạn đến 18 tháng. Tòa án Hiến pháp được quy định quyết định có hiệu lực hồi tố. Tòa án Hiến pháp không có quyền hủy bỏ một điều ước quốc tế vì Áo không được đơn phương hủy bỏ một điều ước quốc tế nhưng có thể yêu cầu chính quyền ngưng thi hành điều ước đó. Trường hợp ngưng thi hành sẽ dẫn tới Áo vi phạm nghĩa vụ điều ước thì chính quyền có trách nhiệm đàm phán sửa đổi điều ước hoặc rút khỏi điều ước. Giống như đối với luật, nghị định, Tòa án Hiến pháp có thể cho thời gian ân hạn cho phép tiếp tục thi hành điều ước. Đối với điều ước sửa đổi hiến pháp Liên minh châu Âu thì thời gian ân hạn có thể kéo dài đến hai năm, đối với những điều ước khác thì thời gian ân hạn là một năm. Cá nhân, pháp nhân có quyền khiếu nại luật tại Tòa án Hiến pháp khi có căn cứ cho rằng luật đó xâm phạm quyền lợi của mình mà không còn biện pháp giải quyết nào khác. Tùy luật, nghị định hoặc điều ước mà chính quyền liên bang, chính quyền địa phương hoặc một tập thể nghị sĩ liên bang hoặc địa phương có thể khiếu nại lên Tòa án Hiến pháp. Một tòa án sơ thẩm áp dụng một luật trong quá trình xét xử có thể khiếu nại luật đó lên Tòa án Hiến pháp. Các bên tham gia tố tụng chỉ được khiếu nại luật được áp dụng trong phiên tòa lên Tòa án Hiến pháp sau khi đã có bản án, quyết định của tòa án. Cá nhân, pháp nhân có quyền khiếu kiện quyết định của tòa án hành chính khi có căn cứ cho rằng quyết định đó xâm phạm quyền lợi của mình. Trường hợp Tòa án Hiến pháp hủy bỏ quyết định của tòa án hành chính thì phải tổ chức xét xử lại. Khiếu nại bầu cử Có thể khiếu nại về kết quả bầu cử, trưng cầu ý dân lên Tòa án Hiến pháp. Kết quả bầu cử thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Hiến pháp gồm bầu cử tổng thống, Hạ nghị viện, Thượng nghị viện, Nghị viện châu Âu, hội đồng tỉnh, thành phố, địa phương, thống đốc tỉnh, thị trưởng, chủ tịch địa phương. Trường hợp có căn cứ cho rằng đã có vi phạm luật bầu cử mà có thể ảnh hưởng đến kết quả thì Tòa án Hiến pháp có quyền yêu cầu kiểm phiếu lại hoặc hủy bỏ toàn bộ hoặc một phần kết quả bầu cử. Tòa án Hiến pháp bắt buộc phải hủy bỏ kết quả bầu cử nếu người khiếu nại chứng minh rằng vi phạm thật sự ảnh hưởng đến kết quả. Năm 2016, Tòa án Hiến pháp hủy bỏ kết quả bầu cử tổng thống sau khi bên thất cử khiếu nại rằng có bất thường trong công tác bầu cử mặc dù không có căn cứ cho rằng những bất thường này khiến cho bên khiếu nại thất cử. Tòa án Hiến pháp thi hành luật bầu cử khá nghiêm ngặt và đã hủy bỏ kết quả bầu cử trên nguyên tắc vì có bất thường trong công tác bầu cử mặc dù không ảnh hưởng đến kết quả. Ví dụ: năm 1995, Tòa án Hiến pháp yêu cầu tổ chức lại bầu cử Hạ nghị viện tại thị trấn Reutte vì Bộ trưởng Gia đình Sonja Moser đã đi bỏ phiếu trong lúc thăm quê nhà mặc dù nơi đăng ký bỏ phiếu của bà là Viên chứ không phải Reutte. Cán bộ trông coi khu vực bỏ phiếu biết bà không có tên trên danh sách cử tri nhưng quyết định làm ngơ. Luận tội quan chức Tòa án Hiến pháp luận tội một số quan chức bị đàn hặc vì sai phạm trong khi thi hành chức vụ. Tổng thống chỉ bị đàn hặc trong trường hợp vi phạm hiến pháp. Hạ nghị viện quyết định đàn hặc thành viên Chính phủ. Chính phủ quyết định đàn hặc hầu hết những quan chức khác. Thành viên chính quyền tỉnh bị Hạ nghị viện, Chính phủ hoặc hội đồng tỉnh đàn hặc tùy theo tính chất sai phạm. Tổng thống chỉ có thể bị Nghị viện trong một phiên họp chung đàn hặc. Trường hợp quan chức bị kết tội thì Tòa án Hiến pháp cách chức quan chức đó. Tội nhẹ thì Tòa án Hiến pháp chỉ đơn thuần lưu ý về sai phạm đó. Tội nặng thì Tòa án Hiến pháp có quyền tước quyền chính trị của quan chức, cấm giữ chức vụ khác trong tương lai trong một thời hạn nhất định. Tổ chức Tòa án Hiến pháp gồm chủ tịch, phó chủ tịch, 12 thẩm phán và sáu thành viên dự khuyết. Thẩm phán do tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị của Chính phủ, Hạ nghị viện hoặc Thượng nghị viện: Chính phủ đề nghị bổ nhiệm chủ tịch, phó chủ tịch, sáu thẩm phán và ba thành viên dự khuyết. Hạ nghị viện đề nghị bổ nhiệm ba thẩm phán và hai thành viên dự khuyết. Thượng nghị viện đề nghị bổ nhiệm ba thẩm phán và một thành viên dự khuyết. Thẩm phán Tòa án Hiến pháp phải có bằng cử nhân luật và đã hành nghề cần phải có bằng cử nhân luật ít nhất mười năm nhưng không cần phải là luật sư. Thẩm phán do Chính phủ đề nghị bổ nhiệm phải là người trong ngạch thẩm phán (), công chức () hoặc giáo sư (). Người trong ngạch thẩm phán được định nghĩa là luật gia đã được đào tạo làm thẩm phán và đã trúng tuyển kỳ thi chọn thẩm phán nhưng không nhất thiết phải là thẩm phán. Thành viên Tòa án Hiến pháp không được kiêm nhiệm chức vụ trong chính quyền, cơ quan lập pháp liên bang, tỉnh hoặc cán bộ của một đảng chính trị. Ngoài quy định này ra thì không có quy định nào khác về xung đột lợi ích. Thành viên Tòa án Hiến pháp được làm thành viên hội đồng quản trị của một công ty đại chúng, kể cả công ty có kinh doanh với chính quyền; thậm chí họ được làm luật sư cho những công ty bị khởi kiện tại tòa. Thẩm phán, thành viên dự khuyết phải hưu trí trước khi hết ngày cuối cùng trong năm lên 70 tuổi. Thẩm phán, thành viên dự khuyết có thể bị cách chức vì lý do chính đáng nếu hai phần ba số thành viên Tòa án Hiến pháp biểu quyết tán thành. Quy trình Tòa án Hiến pháp xét xử theo nguyên tắc tranh tụng và thủ tục tố tụng dân sự thông thường. Trên nguyên tắc, phiên xét xử của Tòa án Hiến pháp là công khai. Trước tiên đơn khiếu nại được giao cho một thẩm phán nghiên cứu sơ bộ với sự trợ giúp của một văn phòng gồm khoảng 80 chuyên viên, trợ lý. Sau khi có báo cáo sơ bộ thì Tòa án Hiến pháp công bố ngày xét xử, tranh luận trên công báo. Chủ tịch Tòa án Hiến pháp chủ trì phiên xét xử, trường hợp vắng mặt thì phó chủ tịch chủ trì, trường hợp vắng mặt cả hai thì thẩm phán thâm niên nhất chủ trì. Tòa án Hiến pháp mở phiên xét xử và nghe báo cáo sơ bộ trước, rồi sau đó đến phần tranh luận của hai bên. Sau khi nghe tranh luận thì Tòa án Hiến pháp nghị án rồi tuyên án. Thực tế là có nhiều ngoại lệ đối với yêu cầu phải xét xử công khai, nghe tranh luận của hai bên. Tòa án Hiến pháp hiếm khi tuyên án mà thường chỉ gửi quyết định qua bưu điện đến các bên sau khi nghị án xong. Ban đầu Tòa án Hiến pháp phải họp toàn thể, có tất cả các thẩm phán tham dự thì mới được xét xử, nghị án nhưng hiện nay tùy tính chất vụ việc mà năm hoặc chín thẩm phán sẽ tham gia xét xử, phần lớn số vụ án do năm thẩm phán xem xét. Rất ít vụ án được đưa ra toàn thể Tòa án Hiến pháp xét xử. Tòa án Hiến pháp quyết định theo quá nửa số thẩm phán có mặt. Chủ tịch chỉ được biểu quyết trong trường hợp biểu quyết hòa. Quyết định của Tòa án Hiến pháp thường súc tích và hàn lâm, tổng cộng từ năm đến 50 trang giấy, nhận định của Tòa án Hiến pháp chỉ chiếm hai đến mười trang giấy. Tòa án Hiến pháp không công bố ý kiến phản đối hay đồng thuận của các thẩm phán. Đối tượng độc giả của Tòa án Hiến pháp là giới luật gia chứ không phải công chúng nên Tòa án Hiến pháp thường không giải thích những quyết định trước, những ấn phẩm học thuật được dẫn ra trong quyết định mà chỉ đưa vào mục tham khảo. Thực tiễn Năm 1950, Tòa án Hiến pháp thụ lý 303 vụ việc. Năm 1981, Tòa án Hiến pháp thụ lý 694 vụ việc. Năm 2012, Tòa án Hiến pháp phải thụ lý 4674 vụ việc mà một nửa là về xâm phạm quyền lợi trong quyết định hành chính. Từ năm 2015, thẩm quyền của ngạch tòa án hành chính được mở rộng đáng kể, Tòa án Hiến pháp không còn phải sơ thẩm những vụ án hành chính như thế này. Một phần lớn lượng công việc của Tòa án Hiến pháp là phân định thẩm quyền giữa các cấp chính quyền bởi hiến pháp quy định một chế độ liên bang trên lý thuyết nhưng thực tiễn thì lại là một nhà nước đơn nhất. Lịch sử Đế quốc Áo-Hung Tiền thân của Tòa án Hiến pháp là Tòa án Đế quốc do Hiến pháp tháng Mười Hai thành lập. Tòa án Đế quốc có nhiệm vụ phân định thẩm quyền giữa tòa án và chính quyền, giữa các địa phương và giữa địa phương với trung ương; giải quyết yêu cầu trách nhiệm bồi thường nhà nước giữa các địa phương, giữa địa phương và trung ương và giữa cá nhân, pháp nhân với chính quyền; xem xét khiếu nại của dân về việc bị xâm phạm quyền lợi. Tuy nhiên, Tòa án Đế quốc chỉ được tuyên bố chính quyền đã xâm phạm quyền lợi của dân mà không có quyền hủy bỏ quyết định đó. Tòa án Đế quốc không có quyền giám sát tính hợp hiến của luật. Ngoài ra, Hiến pháp tháng Mười Hai thành lập Tòa án Nhà nước, có nhiệm vụ truy cứu trách nhiệm chính trị của các bộ trưởng nhằm kiểm soát quyền lực của hoàng đế. Theo Luật trách nhiệm bộ trưởng năm 1867, sắc lệnh của hoàng đế phải được bộ trưởng tiếp ký nên trách nhiệm thuộc về bộ trưởng đó, buộc bộ trưởng phải giám sát hoạt động của hoàng đế. Hiến pháp tháng Mười Hai xác định lại rằng không được truy cứu trách nhiệm đối với hoàng đế, trách nhiệm hình sự thuộc về bộ trưởng đã tiếp ký văn bản vi phạm pháp luật. Cả hai tòa án tồn tại cho đến khi Đế quốc Áo-Hung sụp đổ vào năm 1918 tuy không có bộ trưởng nào bị đưa ra Tòa án Nhà nước xét xử. Đệ nhất Cộng hòa Sau khi Đế quốc Áo-Hung tan rã thì chính phủ lâm thời của nhà nước Áo mới giải thể Tòa án Nhà nước, tạm thời giao lại nhiệm vụ, quyền hạn cho một ủy ban đặc biệt của Quốc hội lâm thời. Tòa án Đế quốc được đổi tên thành Tòa án Hiến pháp và tiếp quản nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án Nhà nước cũ. Chính phủ lâm thời quy định cho Tòa án Hiến pháp quyền hủy bỏ một quyết định hành chính vi hiến; trước đó Tòa án Hiến pháp chỉ được lưu ý tính vi hiến của một quyết định hành chính. Chính phủ lâm thời thành lập Tòa án Bầu cử () với nhiệm vụ giải quyết khiếu nại về cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến sắp tới. Năm 1920, Quốc hội Lập hiến ban hành hiến pháp mới, chính thức quy định Tòa án Hiến pháp có quyền xem xét tính hợp hiến của luật và hủy bỏ luật vi hiến. Tòa án Bầu cử bị giải thể, nhiệm vụ, quyền hạn giao lại cho Tòa án Hiến pháp. Cá nhân, pháp nhân chưa có quyền khiếu kiện luật lên Tòa án Hiến pháp và Tòa án Hiến pháp chưa được giám sát hiến pháp đối với điều ước quốc tế. Hiến pháp năm 1920 quy định chủ tịch, phó chủ tịch, một nửa số thẩm phán và một nửa số thành viên dự khuyết của Tòa án Hiến pháp do Hạ nghị viện bầu ra, Thượng nghị viện bầu ra nửa số thẩm phán, thành viên dự khuyết còn lại. Không có quy định cấm thẩm phán kiêm nhiệm chức vụ khác hay yêu cầu thẩm phán phải có bằng cử nhân luật. Các đảng chính trị của Áo thỏa thuận với nhau phân chia số thẩm phán, thành viên Tòa án Hiến pháp ngay từ tháng 2 năm 1919, hơn 20 tháng trước khi hiến pháp bắt đầu có hiệu lực. Thời kỳ phát xít Phong trào phát xít Áo Heimwehr chủ trương thay đổi chế độ chính trị của Áo theo hướng Phát xít Ý, độc tài Hung, mục tiêu là tập trung quyền hạn vào tay tổng thống và phân quyền từ trung ương về các tỉnh. Từ năm 1929, phong trào Heimwehr đủ lớn mạnh để ép các đảng phái dân chủ thương lượng về cải cách hiến pháp. Nhằm biện hộ cho việc tước quyền bổ nhiệm thành viên Tòa án Hiến pháp khỏi Nghị viện, giao lại cho tổng thống, phong trào Heimwehr lập luận rằng cần phải "phi chính trị hóa" Tòa án Hiến pháp. Phong trào Heimwehr và các đảng phái dân chủ sau cùng thỏa hiệp như sau: chủ tịch, phó chủ tịch, sáu thẩm phán và ba thành viên dự khuyết do tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị của Chính phủ; ba thẩm phán và hai thành viên dự khuyết do tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị của Hạ nghị viện; hai thẩm phán và hai thành viên dự khuyết do tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị của Thượng nghị viện thẩm phán không được kiêm nhiệm nghị sĩ, chức vụ dân cử cấp cao khác, hoặc cán bộ đảng thẩm phán do Chính phủ đề nghị bổ nhiệm phải có bằng cử nhân luật và đã hành nghề luật ít nhất ba thẩm phán và hai thành viên dự khuyết không được sinh sống ở Viên. Tất cả các thành viên của Tòa án Hiến pháp, kể cả Hans Kelsen là cha đẻ của Hiến pháp năm 1920, đều bị miễn nhiệm và thay thế. Từ đầu năm 1932, phong trào Heimwehr đã kiểm soát được Chính phủ nhưng các đảng phái đối lập trong Hạ nghị viện vẫn có thể gây sức ép với chính quyền. Ngày 4 tháng 3 năm 1933, cả ba chủ tịch của Hạ nghị viện đều từ chức mà nội quy lại không dự liệu Hạ nghị viện được tiến hành công việc mà không có chủ tịch. Chính quyền phát xít bèn tuyên bố Hạ nghị viện đã "tự giải tán" và chỉ đạo cảnh sát ngăn các nghị sĩ nhóm họp lại. Phe đối lập lập tức khiếu kiện lên Tòa án Hiến pháp nhưng chính quyền sử dụng quyền khẩn cấp quy định Tòa án Hiến pháp chỉ được họp nếu tất cả thành viên đều có mặt, rồi chỉ đạo những thẩm phán thân chính quyền từ chức. Hiến pháp phát xít năm 1934 hợp nhất Tòa án Hiến pháp và Tòa án Hành chính Tối cao thành Tòa án Liên bang. Về pháp lý thì Tòa án Liên bang duy trì quyền giám sát hiến pháp đối với luật, nghị định, văn bản pháp luật nhưng thực tế là các thành viên đều do chính quyền bổ nhiệm và chính quyền có thể tùy ý thông qua luật hiến pháp hủy bỏ quyết định của Tòa án Liên bang. Tòa án Liên bang tiếp tục hoạt động sau khi Áo bị sáp nhập vào Đức Quốc Xã từ năm 1938 cho đến năm 1945. Đệ nhị Cộng hòa Sau khi Áo được giải phóng vào năm 1945, chính phủ lâm thời Đệ nhị Cộng hòa tái lập Tòa án Hiến pháp với quy chế bổ nhiệm từ năm 1929. Hai Đảng Dân chủ Xã hội Áo và Đảng Nhân dân Áo nhanh chóng thỏa thuận với nhau về thành phần của Tòa án Hiến pháp. Mỗi đảng cát cứ một số lượng thẩm phán riêng: thẩm phán theo Đảng Dân chủ Xã hội mà hưu trí thì sẽ bổ nhiệm thẩm phán khác theo Đảng Dân chủ Xã hội thay thế, tương tự đối với thẩm phán theo Đảng Nhân dân Áo. Tuy nhiên, lần này Tòa án Hiến pháp xét xử công bằng, độc lập với những quyết định mang tính thuyết phục cao, thường không can thiệp vào những vấn đề chính trị nhạy cảm. Thẩm quyền của Tòa án Hiến pháp về sau được mở rộng. Năm 1958, Tòa án Hiến pháp được trao quyền giám sát bầu cử tỉnh, bầu cử địa phương. Từ năm 1974, Tòa án Hiến pháp có quyền xem xét tính hợp hiến, tính hợp pháp của điều ước quốc tế. Trong cùng năm, cá nhân, pháp nhân được trao quyền khiếu kiện luật, nghị định lên Tòa án Hiến pháp. Tham khảo Thư mục Sách báo Tiếng Anh Tiếng Đức Luật Cũ Hiện hành Liên kết ngoài Thể loại:Khởi đầu năm 1920 ở Áo Thể loại:Tòa án hiến pháp
19821170
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Ch%C3%AD%20Th%C3%A0nh%20%28trung%20t%C3%A1%29
Nguyễn Chí Thành (trung tá)
Nguyễn Chí Thành (42 tuổi, quê Thái Bình), là một Trung tá Công an nhân dân Việt Nam. Ông hiện là Phó đội trưởng Đội Công tác chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, Phòng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2023, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Chú thích Trung tá Công an nhân dân Việt Nam Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
19821189
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%BAp%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20c%C3%A1c%20c%C3%A2u%20l%E1%BA%A1c%20b%E1%BB%99%20%E1%BA%A2%20R%E1%BA%ADp
Cúp vô địch các câu lạc bộ Ả Rập
Cúp vô địch các câu lạc bộ Ả Rập (World Cup Ả Rập) (, ) là một giải đấu giao hữubóng đá thường niên cấp câu lạc bộ khu vực được tổ chức bởi Hoàng gia Ả Rập (UAFA) và được tranh tài bởi các câu lạc bộ hạng cao nhất từ thế giới Ả Rập. Giải đấu được tranh tài bởi tổng cộng 10 đội. Được thành lập vào năm 1981, giải đấu được tổ chức cùng với Arab Cup Winners' Cup và Arab Super Cup trong suốt những năm 1990 và đầu những năm 2000, cho đến khi Cup Winners' Cup và Super Cup được hợp nhất với Champions Cup vào năm 2002. Nhà vô địch đầu tiên của giải đấu là câu lạc bộ Iraq Al-Shorta, đội đã đánh bại đội Lebanon Nejmeh trong trận chung kết trận chung kết hai lượt năm 1982. Các câu lạc bộ Ả Rập Xê Út đã tích lũy được nhiều chiến thắng nhất, với chín chiến thắng. Danh hiệu này đã được 20 câu lạc bộ giành được, 8 trong số đó đã nhiều lần giành được danh hiệu này. Kể từ khi giải đấu được hợp nhất với Cup Winners' Cup, chỉ ES Sétif của Algeria giành được chiến thắng liên tiếp, bảo vệ thành công danh hiệu của họ vào năm 2008. Câu lạc bộ Iraq Al-Rasheed và câu lạc bộ Tunisia Espérance de Tunis chia sẻ kỷ lục giành nhiều danh hiệu nhất, với ba danh hiệu mỗi đội. Các nhà đương kim vô địch là Al-Nassr của Ả Rập Xê Út, đội đã giành chức vô địch đầu tiên tại 2023. Tham khảo Liên kết ngoài UAFA Competitions - Al-Shorta SC Website Giải đấu cấp câu lạc bộ của các hiệp hội bóng đá Ả Rập Sự kiện thể thao định kỳ thành lập năm 1981 Thành lập năm 1981 ở châu Phi Thành lập năm 1981 ở châu Á
19821192
https://vi.wikipedia.org/wiki/Li%C3%AAn%20X%C3%B4%20t%E1%BA%A9y%20chay%20Li%C3%AAn%20H%E1%BB%A3p%20Qu%E1%BB%91c
Liên Xô tẩy chay Liên Hợp Quốc
Liên Xô tẩy chay Liên Hợp Quốc từ ngày 13 tháng 1 đến ngày 1 tháng 8 năm 1950. Cuộc tẩy chay bắt nguồn từ tranh chấp về quyền đại diện của Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc. Liên Xô yêu cầu rằng các đại diện của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) được tham gia Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, trong khi Liên Hợp Quốc công nhận các đại diện của Trung Quốc Quốc dân Đảng và Trung Hoa Dân Quốc. Sau khi nỗ lực bầu cho CHND Trung Hoa thất bại, họ đã quyết định tẩy chay tổ chức này. Bối cảnh Trung Quốc là thành viên sáng lập của Liên Hợp Quốc tại Hội nghị San Francisco năm 1945. Tham dự hội nghị vào tháng 4 năm 1945 có Tống Tử Văn, Ngụy Đạo Minh, Cố Duy Quân và Vương Sủng Huệ từ Quốc dân Đảng và Đổng Tất Vũ từ Đảng Cộng sản. Toàn bộ phái đoàn Trung Quốc đã có mặt tại hội nghị bế mạc vào tháng 6, và Chủ tịch Chính phủ Quốc dân Tưởng Giới Thạch đã tham gia ký Hiến chương Liên Hợp Quốc vào tháng 8 năm 1945. Sau khi CHND Trung Hoa thành lập chính phủ mới vào ngày 18 tháng 11 năm 1949, họ yêu cầu Liên Hợp Quốc công nhận họ là chính phủ Trung Quốc và trục xuất các đại diện của Quốc dân Đảng khỏi Liên Hợp Quốc. Cùng tháng, Liên Xô tán thành yêu cầu của CHND Trung Hoa, lập luận rằng Quốc dân Đảng chỉ kiểm soát một phần nhỏ Trung Quốc và từ chối tham gia ủy ban đầu tiên của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, yêu cầu của CHND Trung Hoa không được xem xét. Nhưng nghị quyết từ Úc về yêu cầu người dân Trung Quốc tự do lựa chọn thể chế chính trị của họ và không chịu ảnh hưởng của nước ngoài, đã được thông qua. Tẩy chay Ngày 8 tháng 1 năm 1950, Thủ tướng CHND Trung Hoa Chu Ân Lai đã gửi một bức thư tới Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, trong đó ông yêu cầu Hội đồng Bảo an không công nhận hợp pháp hóa Quốc dân Đảng. Ngày 10 tháng 1, Liên Xô chính thức đưa ra một kiến ​​nghị khai trừ các đại diện của Quốc dân Đảng khỏi Hội đồng Bảo an. Sau khi kiến ​​nghị của Liên Xô về việc bầu cho CHND Trung Hoa thay vì Trung Quốc Quốc dân Đảng không đạt được đa số vào ngày 13 tháng 1, đại sứ Liên Xô, Yakov Aleksandrovich Malik, rời khỏi cuộc họp và tuyên bố sẽ không trở lại chừng nào Tưởng Đình Phất, đại diện của Quốc dân Đảng, vẫn là thành viên của Hội đồng Bảo an và chưa được thay thế bởi đại diện của CHND Trung Hoa. Liên Xô đe dọa sẽ không thừa nhận bất kỳ quyết định nào của Hội đồng Bảo an chừng nào Quốc dân Đảng còn là một phần của các văn bản đó. Sau đó, Liên Xô cũng tẩy chay các cơ quan khác của Liên Hợp Quốc mà có đại diện của Quốc dân Đảng. Trong cuộc tẩy chay của Liên Xô, Hội đồng Bảo an đã thông qua nghị quyết cho phép triển khai quân đội Liên Hợp Quốc tới chiến tranh Triều Tiên nhằm bảo vệ Hàn Quốc chống lại các lực lượng cộng sản đang tiến quân của Triều Tiên. Hậu cảnh Liên Xô nghi ngờ tính hợp pháp của nghị quyết, vì theo quan điểm của họ, nó vốn chỉ được thông qua với sáu phiếu bầu, trong khi thực tế lại không có Liên Xô và cả Trung Quốc, bởi Liên Xô không công nhận phiếu bầu của Quốc dân Đảng trong Hội đồng Bảo an. Liên Xô lập luận rằng tất cả năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an phải được tham gia bất kỳ quyết định nào về một vấn đề quan trọng. Tuy nhiên, Tòa án Công lý Quốc tế phán quyết rằng việc một thành viên Hội đồng Bảo an vắng mặt trong phiên bỏ phiếu thì được coi là phiếu trắng và do đó nghị quyết là hợp pháp. Cuối tháng 7, Liên Xô thông báo cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Trygve Lie rằng vào ngày 1 tháng 8, Đại diện thường trực của Liên Xô Yakov Aleksandrovich Malik sẽ đảm nhận chức Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Tham khảo Tẩy chay Tẩy chay Trung Quốc và Liên Hợp Quốc Lịch sử Liên Hợp Quốc Liên Xô năm 1950 Trung Quốc năm 1950 Đài Loan năm 1950
19821196
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dendrochirus%20biocellatus
Dendrochirus biocellatus
Dendrochirus biocellatus là một loài cá biển thuộc chi Dendrochirus trong họ Cá mù làn. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1938. Từ nguyên Tính từ định danh biocellatus trong tiếng Latinh có nghĩa là “có hai đốm to như mắt”, có lẽ hàm ý đề cập đến hai đốm đen lớn ở phía sau vây lưng mềm của loài cá này. Phân bố D. biocellatus có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Line và Tuamotu, ngược lên phía bắc đến bờ nam Nhật Bản (tới bán đảo Kii) và quần đảo Mariana, giới hạn phía nam đến Tây Mascarene, các rạn san hô trên biển Timor (ngoài khơi tây bắc Úc) và Nouvelle-Calédonie. Ở bờ biển Việt Nam, D. biocellatus mới được ghi nhận trong vịnh Nha Trang và ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. D. biocellatus sống trên rạn san hô, đặc biệt là vùng nước trong với mật độ san hô dày, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 40 m. Mô tả Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở D. biocellatus là 13 cm. Loài này có màu đỏ cam, thường có 3 dải sọc mờ trên thân. Phần đầu từ trước hốc mắt đến rìa nắp mang rất sẫm màu, gần như đen. Có vạch trắng trước mắt. Vây ngực và vây hậu môn có các dải sẫm và trắng xen nhau. Vây lưng mềm đặc biệt có 2 đốm tròn đen viền trắng giúp phân biệt với các loài khác trong chi Dendrochirus. Vây đuôi trong mờ, có các hàng chấm đen. Có râu như xúc tu ở phía trước miệng. Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây hậu môn: 5; Số tia vây ngực: 20–21. Sinh thái D. biocellatus dành cả ngày để trốn trong hang và hải miên, và chỉ ra ngoài vào ban đêm để kiếm ăn. Tham khảo B Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Bình Dương Cá Tanzania Cá Mozambique Cá Réunion Cá Mauritius Cá Maldives Cá Sri Lanka Cá Thái Lan Cá Việt Nam Cá Philippines Cá Malaysia Cá Nhật Bản Cá Palau Cá Nouvelle-Calédonie Động vật quần đảo Solomon Động vật được mô tả năm 1938 Nhóm loài do Henry Weed Fowler đặt tên
19821197
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A1c%20%C4%91%E1%BB%99ng%20c%E1%BB%A7a%20du%20l%E1%BB%8Bch
Tác động của du lịch
Tác động của du lịch (Impacts of tourism) chỉ về sự ảnh hưởng tác động của du lịch đến các yếu tố thiên nhiên, xã hội và cá nhân trên nhiều phương diện và khía cạnh. Du lịch tác động đến các điểm đến du lịch theo cả cách tích cực và tiêu cực, bao gồm các khía cạnh kinh tế, văn hóa xã hội và môi trường. Các lĩnh vực tác động du lịch được mô tả theo truyền thống là kinh tế, văn hóa xã hội và môi trường. Khoảng 1,4 tỷ người đã đến thăm một quốc gia khác vào năm 2019, với chi tiêu của khách du lịch đóng góp khoảng 1,45 nghìn tỷ USD cho nền kinh tế toàn cầu. Châu Âu cho đến nay là khu vực xuất phát và điểm đến chủ yếu của khách du lịch, chiếm 51% lượng khách đến và 48% khách du lịch vào năm 2019. Đại cương Các tác động về mặt kinh tế của du lịch được ghi nhận bao gồm cải thiện doanh thu thuế, tăng thu nhập cá nhân, nâng cao mức sống và tạo thêm cơ hội việc làm. Các tác động văn hóa xã hội có liên quan đến sự tương tác giữa những người có nền tảng văn hóa, thái độ và hành vi khác nhau cũng như các mối quan hệ với của cải vật chất. Các tác động môi trường có thể được phân loại thành các tác động trực tiếp bao gồm suy thoái môi trường sống, suy thoái thảm thực vật, ảnh hưởng xấu đến chất lượng không khí, nguồn nước, mực nước ngầm, động vật hoang dã và những thay đổi trong hiện tượng tự nhiên và các tác động gián tiếp, chẳng hạn như tăng khai thác tài nguyên thiên nhiên để cung cấp thực phẩm từ đó ảnh hưởng gián tiếp đến nguồn nước, ngoài ra còn gây ô nhiễm không khí và nước (bao gồm từ các chuyến bay, vận chuyển và sản xuất thực phẩm và đồ lưu niệm cho khách du lịch). Du lịch cũng có những tác động tích cực và tiêu cực đến sức khỏe của người dân địa phương (nguồn lây lan các bệnh truyền nhiễm). Các tác động tiêu cực ngắn hạn của du lịch đối với sức khỏe của người dân có liên quan đến mật độ khách du lịch, nguy cơ lây lan dịch bệnh, tai nạn giao thông, mức độ tội phạm cao hơn, cũng như tắc nghẽn giao thông, tình trạng đông đúc và các yếu tố gây căng thẳng và ngột ngạt khác. Ngoài ra, cư dân có thể cảm thấy lo lắng và trầm cảm liên quan đến nhận thức rủi ro của họ về tỷ lệ tử vong, mất an ninh lương thực, tiếp xúc với khách du lịch bị nhiễm bệnh, chứng kiến, tiêm nhiễm các hành vi, nói năng, ăn bận khác lạ của du khách, mà có thể gây tế nhị, phản cảm, điều này có thể dẫn đến kết quả tiêu cực về sức khỏe tâm thần. Đồng thời, có những tác động tích cực lâu dài của du lịch đối với kết quả sức khỏe và hạnh phúc của cư dân thông qua việc cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe với những cảm xúc tích cực, sự mới lạ và các tương tác xã hội, các kinh nghiệm, trải nghiệm sống. Điểm đến du lịch được hưởng lợi từ những tác động tích cực, nếu có những cải thiện đối với môi trường tự nhiên, công viên quốc gia, hoặc cơ sở hạ tầng nhân tạo, nhà máy xử lý chất thải. Du lịch cung cấp các kích thích kinh tế để cho phép đa dạng hóa việc làm và tiềm năng thu nhập, và phát triển các nguồn lực trong cộng đồng. Cải thiện cơ sở hạ tầng và dịch vụ có thể mang lại lợi ích thiết thực cho cả người dân địa phương và khách du lịch Trong khi đó, du lịch di sản tập trung vào lịch sử địa phương hoặc các sự kiện lịch sử xảy ra trong khu vực và có xu hướng thúc đẩy giáo dục. Ảnh hưởng tích cực của du lịch bắt đầu khi có sự gia tăng cơ hội việc làm cho người dân địa phương khi ngành du lịch trở nên phát triển hơn. Ngoài ra còn có sự gia tăng thu nhập bình quân lan rộng khắp cộng đồng khi du lịch được đầu tư trên diện rộng tạo cơ hội cho sự tham gia của cư dân xa gần trong vùng và ngoài vùng. Chú thích Du lịch
19821202
https://vi.wikipedia.org/wiki/National%20Bank%20Open%202023%20-%20%C4%90%C6%A1n%20nam
National Bank Open 2023 - Đơn nam
Jannik Sinner là nhà vô địch, đánh bại Alex de Minaur trong trận chung kết, 6–4, 6–1. Đây là danh hiệu ATP Tour Masters 1000 đầu tiên và là danh hiệu đơn ATP Tour thứ 8 của Sinner. Pablo Carreño Busta là đương kim vô địch, nhưng rút lui trước khi giải đấu bắt đầu do chấn thương. Hạt giống 8 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2. Kết quả Chung kết Nửa trên Nhánh 1 Nhánh 2 Nửa dưới Nhánh 3 Nhánh 4 Vòng loại Hạt giống Vượt qua vòng loại Thua cuộc may mắn Kết quả vòng loại Vòng loại thứ 1 Vòng loại thứ 2 Vòng loại thứ 3 Vòng loại thứ 4 Vòng loại thứ 5 Vòng loại thứ 6 Vòng loại thứ 7 Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính Kết quả vòng loại National Bank Open
19821206
https://vi.wikipedia.org/wiki/National%20Bank%20Open%202023%20-%20%C4%90%C6%A1n%20n%E1%BB%AF
National Bank Open 2023 - Đơn nữ
Jessica Pegula là nhà vô địch, đánh bại Liudmila Samsonova trong trận chung kết, 6–1, 6–0. Đây là danh hiệu WTA 1000 thứ 2 của Pegula. Do trời mưa, Samsonova đã phải thi đấu hai trận (vòng 3 và vòng tứ kết) vào thứ Sáu và hai trận nữa (bán kết và chung kết) vào Chủ Nhật. Cô cũng chỉ có hai tiếng nghỉ ngơi giữa trận bán kết và trận chung kết. Trong khi đó, Pegula thi đấu một trận mỗi ngày từ thứ Tư đến Chủ Nhật của giải đấu. Simona Halep là đương kim vô địch, nhưng không bảo vệ danh hiệu do đang bị tạm đình chỉ thi đấu vì vi phạm các quy tắc chống doping. Iga Świątek và Aryna Sabalenka cạnh tranh vị trí số 1 bảng xếp hạng đơn WTA. Świątek giữ nguyên thứ hạng sau khi vào vòng tứ kết. Đây là giải đấu chuyên nghiệp đầu tiên của cựu tay vợt số 1 thế giới Caroline Wozniacki, người trước đó đã giải nghệ vào năm 2020. Cô thua ở vòng 2 trước Markéta Vondroušová. Hạt giống 8 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2. Kết quả Chung kết Nửa trên Nhánh 1 Nhánh 2 Nửa dưới Nhánh 3 Nhánh 4 Vòng loại Hạt giống Vượt qua vòng loại Thua cuộc may mắn Kết quả vòng loại Vòng loại thứ 1 Vòng loại thứ 2 Vòng loại thứ 3 Vòng loại thứ 4 Vòng loại thứ 5 Vòng loại thứ 6 Vòng loại thứ 7 Vòng loại thứ 8 Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính Kết quả vòng loại WTA Tour 2023
19821207
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA%20H%E1%BA%A3i%20Ch%C3%A2u
Lê Hải Châu
Lê Hải Châu (1926-2022) là nhà giáo nhân dân Việt Nam và là tác giả của nhiều tập sách giáo khoa thuộc bộ môn Toán học. Trong những năm đầu tiên, ông là một trong những thầy giáo có đóng góp giúp đoàn học sinh Việt Nam tham dự Olympic Toán quốc tế. Vào năm 2008, ông được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân. Tiểu sử Lê Hải Châu sinh ngày 5 tháng 2 năm 1926 tại xã Xuân Đan (nay là Đan Trường), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Thời nhỏ, Lê Hải Châu lên sống ở thành phố Vinh (cách quê 12km) vì người cha làm công cho hãng SIFA (cụ Lê Đình Cư là một nhà kế toán giỏi, trong kháng chiến chống Pháp làm trưởng phòng kế toán Ty Thương nghiệp Nghệ An và sau hòa bình lập lại ở miền Bắc, được mời ra dạy ở Trường kế toán trung ương, Hà Nội). Ở Vinh, cậụ bé Lê Hải Châu có điều kiên học tập thuận lợi hơn ở quê nhà vì ở đây đã có đến bậc trung học với bằng thành chung (điplôme). Lê Hải Châu được học sớm và học giỏi, đặc biệt là môn toán, ở bậc tiểu học và sau đó ở bậc tú tài, ông từng học vượt một lớp. Sau khi đỗ bằng Thành chung tại trường Quốc học Vinh, Lê Hải Châu được gửi ra Hà Nôi học ban Tú tài. Theo học tại trường tư thục Gia Long, Lê Hải Châu đã học rút ngắn chương trình 2 năm của bậc Tú tài phần 1 xuống còn một năm học và nằm trong khoảng hai chục người thi đỗ trong số hàng ngàn thí sinh. Sau đó, ông xin vào học ban Tú tài toàn phần tại trường Bảo Hộ (trường Bưởi), nhưng bị từ chối vì thời đó trường chỉ dành cho người xứ Bắc. Sau đó, ông vào Huế học tiếp một năm tại trường chuyên khoa Khải Định để đoạt tấm bằng Tú tài toàn phần, trở thành một trong hai người đạt mức Tú tài đầu tiên của xã Đan Trường. Trong những năm 1946 đến 1955, ông giảng dạy bộ môn toán tại các Quốc học Vinh (nay là Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, Nghệ An), Trường Sư phạm Trung cấp Liên khu 4; Trường cấp 3 Lam Sơn (Thanh Hóa) và Trung học Nguyễn Công Trứ (Vinh); Trung học Phan Đình Phùng (Hà Tĩnh). Thời gian giảng dạy về sau, Nhà nước đã cử ông đến Trường Sư phạm Cao cấp tại Nam Ninh, Trung Quốc để nâng cao trình độ. Ông cũng là người biên soạn bộ sách giáo khoa thuộc Ban Tu thư, Bộ Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo). Cộng tác cùng Hoàng Tụy, Lê Hải Châu đã biên soạn ra hàng chục đầu sách giáo khoa cung cấp cho các cấp học phổ thông nằm trong bộ môn Toán học. Từ năm 1957 - 1991, ông phụ trách công tác giảng dạy Toán cấp 3, bồi dưỡng học sinh giỏi Toán tại Vụ Giáo dục phổ thông cấp 2-3 (nay là Vụ Giáo dục trung học, Bộ Giáo dục và Đào tạo). Ở Ban Tu thư, ông là một trong những tác giả đầu tiên của các sách giáo khoa toán học bậc Trung học, đặt nền móng cho hệ thống sách giáo khoa của nền giáo dục cách mạng hiện đại sau này và là tác giả của gần 50 sách tham khảo về toán học. Cùng với viêc soạn sách, ông trực tiếp dạy thí điểm tại các trường phổ thông cấp III Hà Nội (sau đổi là trường Việt - Đức), trường phổ thông cấp III Trưng Vương và trường cấp III Tân Trào. Ngoài ra ông còn được mời đi giảng toán bằng tiếng Pháp cho các thầy giáo Cămpuchia, Lào và Pháp (ở Paris). Ông được các đời Bộ trưởng (Nguyên Văn Huyên, Tạ Quang Bửu) giao cho việc tổ chức lớp chuyên toán cấp III đầu tiên tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và sau đó mở rộng đến các tỉnh nhằm đào tạo, bồi dưỡng tài năng toán học trẻ. Ông là người đầu tiên và đã 10 lần làm trưởng đoàn hoặc phó trưởng đoàn dẫn dắt các tài năng toán trẻ Việt Nam đi dự các kỳ thi toán quốc tế kể từ năm 1974. Từ năm 1991, ông nghỉ hưu nhưng vẫn tiếp tục miệt mài nghiên cứu, say mê, trăn trở với việc dạy toán và học toán ở các trường phổ thông. Ông mất ngày 30 tháng 1 năm 2022, thọ 97 tuổi. Gia đình Vợ ông là bà Văn Thị Kim Oanh, giáo viên dạy môn Sinh học tại trường cấp 3 Lý Thường Kiệt (nay là trường PTTH Việt-Đức), Hà Nội. Con trai lớn là Lê Hải Khôi, Tiến sĩ Toán học, nguyên Viện trưởng Viện Công nghệ thông tin thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Con trai thứ hai là Lê Hải Thanh, nguyên Quản đốc phân xưởng tại Công ty Điện tử Hanel. Con trai út là Lê Hải An, Tiến sĩ, cố Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chú thích Liên kết ngoài Người Hà Tĩnh Nhà giáo Nhân dân Sinh năm 1926 Mất năm 2022
19821208
https://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%AAu%20c%C3%BAp%20Anh%202023
Siêu cúp Anh 2023
Siêu cúp Anh 2023 là trận đấu Siêu cúp Anh thứ 101, một trận đấu bóng đá thường niên trước mùa giải diễn ra giữa đội vô địch Ngoại hạng Anh mùa trước và đội vô địch Cúp FA mùa trước. Trận đấu diễn ra vào ngày 6 tháng 8 năm 2023 tại sân vận động Wembley. Do Manchester City đã vô địch cả hai giải đấu Ngoại hạng Anh và Cúp FA nên đối thủ của họ sẽ là á quân của Premier League mùa trước, Arsenal. Arsenal thắng 4–1 trên chấm luân lưu sau khi hòa 1–1 trong 90 phút. Đây là chiếc cúp cạnh tranh đầu tiên của Arsenal kể từ khi giành được Siêu cúp Anh 2020, khiến Man City trở thành câu lạc bộ đầu tiên thua ba trận Community Shield liên tiếp kể từ trận thua của đối thủ cùng thành phố Man United từ năm 1998 đến 2001. Arsenal cũng trở thành đội vô địch Community Shield đầu tiên không vô địch Ngoại hạng Anh hay FA Cup mùa trước kể từ Manchester United năm 2010. Trận đấu ban đầu được lên kế hoạch bắt đầu lúc 17:30 BST, tuy nhiên điều này đã vấp phải sự chỉ trích từ những người hâm mộ Manchester City, những người phàn nàn về việc có thể bị gián đoạn việc di chuyển đến trận đấu. Do đó, Liên đoàn bóng đá Anh đã dời trận đấu bắt đầu sang 16:00 cùng ngày. Trận đấu được truyền hình trực tiếp trên ITV1 và ITVX. Liverpool là đương kim vô địch, nhưng họ không đủ điều kiện tham dự giải đấu này do không thể giành chức vô địch Premier League hoặc FA Cup. Mùa giải trước Manchester City đủ điều kiện tham dự Siêu cúp Anh 2023 với tư cách là đội vô địch Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2022–23. Câu lạc bộ sau đó đối đầu với kình địch địa phương Manchester United trong trận chung kết Cúp FA 2023, tất nhiên là để hoàn tất cú ăn ba châu lục. Manchester City đã đánh bại đội bóng của Erik ten Hag để giành FA Cup lần thứ bảy và kết quả là Arsenal đã đủ điều kiện tham dự FA Community Shield 2023 với tư cách á quân Premier League. Đây là trận tái đấu của FA Charity Shield 1934 và FA Community Shield 2014, Arsenal thắng lần lượt và . Arsenal là đội chủ nhà của trận đấu. Trận đấu trở lại sân nhà của bóng đá Anh trong năm 2023 sau khi năm kỷ niệm 100 năm thành lập giải được chuyển đến Sân vận động King Power của Leicester City do trận chung kết Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 2022. Trận đấu Diễn biến Ở phút 77, Cole Palmer đưa Manchester City vượt lên dẫn trước sau khi anh nhận bóng bên cánh phải rồi cắt vào trong trước khi tung cú sút chân trái từ trong vòng cấm vào góc trái khung thành của Aaron Ramsdale. Leandro Trossard gỡ hòa cho Arsenal ở phút bù giờ thứ 11, sau khi anh ấy thực hiện một nỗ lực từ ngay trong vòng cấm, khiến hậu vệ Manuel Akanji phạm lỗi nặng, khiến thủ môn Stefan Ortega phạm sai lầm và đi vào lưới, trận đấu hòa 1-1 vào cuối trận và đưa trận đấu đến loạt sút luân lưu. Kevin De Bruyne và Rodri đều sút hỏng quả phạt đền và việc Fábio Vieira ghi bàn thắng quyết định ở góc trên bên trái giúp Arsenal giành được Community Shield lần thứ năm sau mười năm. Chi tiết Tham khảo
19821209
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20tr%E1%BA%BB%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202002
Vòng loại Giải vô địch bóng đá trẻ châu Á 2002
Vòng loại Giải vô địch bóng đá trẻ châu Á 2002 là giải đấu bóng đá nam dành cho độ tuổi dưới 19 nhằm xác định 11 đội tuyển tham dự vòng chung kết Giải vô địch bóng đá trẻ châu Á 2002 cùng với chủ nhà Qatar. Tổng cộng 40 đội tuyển quốc gia thành viên của AFC đã tham dự vòng loại. Các cầu thủ sinh từ sau ngày 1 tháng 1 năm 1983 đủ điều kiện để tham gia giải đấu. Thể thức thi đấu Ở mỗi bảng, các đội thi đấu vòng tròn một lượt tại một địa điểm tập trung. Mười một đội đứng đầu bảng sẽ giành suất tham dự vòng chung kết. Các đội tham dự Các bảng đấu Bảng 1 Bảng 2 Bảng 3 Bảng 4 Bảng 5 Bảng 6 Bảng 7 Bảng 8 Bảng 9 Bảng 10 Bảng 11 Các đội vượt qua vòng loại Mười hai đội sau đây đủ điều kiện tham dự vòng chung kết. 1 In đậm chỉ ra nhà vô địch của năm đó. In nghiêng chỉ ra chủ nhà của của năm đó. Tham khảo Bóng đá trẻ năm 2002 Bóng đá châu Á năm 2002 Vòng loại giải vô địch bóng đá U-19 châu Á
19821229
https://vi.wikipedia.org/wiki/National%20Bank%20Open%202023%20-%20%C4%90%C3%B4i%20nam
National Bank Open 2023 - Đôi nam
Marcelo Arévalo và Jean-Julien Rojer là nhà vô địch, đánh bại Rajeev Ram và Joe Salisbury trong trận chung kết, 6–3, 6–1. Đây là danh hiệu ATP Tour Masters 1000 đầu tiên của Arévalo, và thứ 4 của Rojer. Wesley Koolhof và Neal Skupski là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 2 trước Hubert Hurkacz và Mate Pavić. Hạt giống 4 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2. Kết quả Chung kết Nửa trên Nửa dưới Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính National Bank Open
19821237
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%E1%BB%9Dn%20qu%E1%BB%91c%20gia%20Yuraygir
Vườn quốc gia Yuraygir
Yuraygir là một công viên quốc gia ở New South Wales, Úc, tọa lạc về phía đông bắc của Sydney. Địa điểm này được thành lập vào năm 1980, là kết quả của việc sáp nhập và mở rộng của hai công viên quốc gia khác là Công viên quốc gia Angourie và Red Rock, cả hai đều được thành lập vào năm 1975. Vào thời điểm thành lập năm 1980, Yuraygir đã bị chia cắt và các lô đất đã được mua trong hai thập kỷ sau đó để hợp nhất các phân khu thành một khu vực được bảo vệ liền kề hơn. Đôi khi, những thương vụ mua lại này đòi hỏi sự đàm phán kéo dài (và có cả tranh chấp pháp lý) với chủ sở hữu đất. Từ nguyên Cái tên của công viên là từ dịch phiên âm của bộ lạc bản địa sống trong khu vực, và trước đây đã được phiên âm thành những cái tên khác nhau như Jeigir, Jiegera, Jungai, Yagir, Yegera, Yegir, Yiegera và Youngai. Vị trí Công viên Yuraygir bao gồm đường bờ biển, đồng thời là công viên ven biển lớn nhất ở New South Wales. Đường bộ ven biển Yuraygir đi ngang qua bờ biển, và mất bốn ngày để đi qua hết. Yuraygir có 48 bãi biển, trong đó có bãi biển Shelley được đánh giá cao dài . Sinh vật Có ba mươi loài động vật có vú đã được ghi nhận trong công viên, bao gồm Aepyprymnus rufescens, mèo túi hổ (Dasyurus maculatus), Phascogale tapoatafa và Petaurus norfolcensis. Đầm lầy và cây thạch nam ẩm là môi trường sống của loài Pezoporus wallicus và cú lợn đồng cỏ châu Úc (Tyto longimembris) đang bị đe dọa. Các sinh vật gây hại hoang dã bao gồm lợn, mèo, chó, ngựa và cáo, trong khi cỏ dại có thể bao gồm Baccharis halimifolia, Chrysanthemoides monilifera, Bông ổi và Pinus elliottii. Tham khảo Khởi đầu năm 1980 ở Úc Vườn quốc gia New South Wales Tọa độ trên Wikidata IUCN Loại II
19821238
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20Chiang%20Mai
Giáo phận Chiang Mai
Giáo phận Chiang Mai (; ) là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Thái Lan. Lãnh đạo đuơng nhiệm của giáo phận là Giám mục Phanxicô Xaviê Vira Arpondratana. Địa giới Địa giới giáo phận bao gồm các tỉnh Chiang Mai, Lampang (ngoại trừ huyện Ngao), Lamphun và Mae Hong Son ở Thái Lan. Tòa giám mục và Nhà thờ chính tòa Thánh Tâm của giáo phận được đặt tại thành phố Chiang Mai. Giáo phận được chia thành 34 giáo xứ. Lịch sử Giáo hội Công giáo Chieng-Mai xuất hiện từ tháng 1/1931, khi hai linh mục của Hội Thừa sai Paris đến đây từ Bangkok. Trước đó đã có hai lần tiếp cận không thành, vào năm 1844 và 1914. Năm 1931, nhà thờ Thánh Tâm, nhà thờ đầu tiên của giáo phận đã được xây dựng, và đến năm 1959 nhà thờ này đã trở thành nhà thờ chính tòa của giáo phận. Hạt Phủ doãn Tông tòa Chieng-Mai được thành lập vào ngày 17/11/1959 theo tông sắc Caelorum regnum của Giáo hoàng Gioan XXIII, trên phần lãnh thổ tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Bangkok (nay là Tổng giáo phận Bangkok). Giám mục người Pháp Lucien Bernard Lacoste thuộc Dòng Linh mục Thánh Tâm Chúa Giêsu Bétharram đã được bổ nhiệm làm Giám quản Tông tòa giáo phận. Giám mục Lacoste là Giám mục chính tòa Giáo phận Đại Lý ở Trung Quốc, tuy nhiên ông đã không thể hoạt động tại đây vì ông đã bị trục xuất khỏi lãnh thổ Trung Quốc vào năm 1952. Vào ngày 28/2/1965 một nhà thờ chính tòa thứ hai lớn hơn được xây dựng, và bổn mạng nhà thờ vẫn là Thánh Tâm Chúa Giêsu. Vào ngày 18/12/1965 Hạt Phủ doãn Tông tòa được nâng cấp thành một giáo phận theo tông sắc Qui in fastigio của Giáo hoàng Phaolô VI. Giám mục Lacoste tiếp tục giữ chức Giám quản Tông tòa giáo phận. Vào ngày 2/7/1969 giáo phận đã đổi tên thành như hiện tại theo nghị định Cum Excellentissimus của Bộ Truyền giáo. Vào ngày 20/6/1970 tỉnh Uttaradit đã được giáo phận trao cho Giáo phận Nakhon Sawan quản lí. Năm 1975, giáo phận lần đầu được trao cho một giám mục người Thái quản nhiệm, Rôbertô Ratna Bamrungtrakul. Vào ngày 30/10/1999 nhà thờ chính tòa thứ ba của giáo phận được xây dựng, trong đó bổn mạng nhà thờ vẫn là Thánh Tâm Chúa Giêsu. Vào ngày 25/4/2018 một phần lãnh thổ giáo phận được tách ra để thành lập Giáo phận Chiang Rai. Giám mục quản nhiệm Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ. Trống tòa (1959-1975) Rôbertô Ratna Bamrungtrakul † (28/4/1975 - 17/10/1986 từ nhiệm) Giuse Sangval Surasarang † (17/10/1986 - 10/2/2009 từ nhiệm) Phanxicô Xaviê Vira Arpondratana, từ 10/2/2009 Thống kê Đến năm 2021, giáo phận có 55.601 giáo dân trên dân số tổng cộng 3.150.759, chiếm 1,8%. |- | 1970 || 5.807 || 2.920.297 || 0,2 || 25 || 2 || 23 || 232 || || 33 || 31 || |- | 1980 || 9.942 || 4.468.274 || 0,2 || 26 || 3 || 23 || 382 || || 33 || 35 || 18 |- | 1990 || 19.144 || 5.118.000 || 0,4 || 32 || 8 || 24 || 598 || || 35 || 50 || 20 |- | 1999 || 31.765 || 5.694.679 || 0,6 || 45 || 17 || 28 || 705 || || 42 || 72 || 24 |- | 2000 || 34.848 || 5.796.126 || 0,6 || 49 || 19 || 30 || 711 || || 60 || 79 || 25 |- | 2001 || 36.518 || 5.796.126 || 0,6 || 53 || 21 || 32 || 689 || || 60 || 100 || 26 |- | 2002 || 38.894 || 5.824.935 || 0,7 || 60 || 22 || 38 || 648 || || 62 || 97 || 26 |- | 2003 || 40.598 || 5.824.935 || 0,7 || 58 || 22 || 36 || 699 || || 64 || 101 || 26 |- | 2004 || 41.944 || 5.824.935 || 0,7 || 60 || 22 || 38 || 699 || || 61 || 110 || 27 |- | 2006 || 46.022 || 5.943.000 || 0,8 || 72 || 26 || 46 || 639 || || 68 || 109 || 32 |- | 2013 || 63.273 || 5.826.928 || 1,1 || 85 || 27 || 58 || 744 || || 102 || 151 || 45 |- | 2016 || 65.829 || 5.853.206 || 1,1 || 92 || 39 || 53 || 715 || || 98 || 170 || 47 |- | 2018 || 50.913 || 3.025.649 || 1,7 || 47 || 25 || 22 || 1.083 || || ? || 107 || 31 |- | 2019 || 55.489 || 3.140.056 || 1,8 || 82 || 43 || 39 || 676 || || 82 || 125 || 34 |- | 2021 || 55.601 || 3.150.759 || 1,8 || 81 || 42 || 39 || 686 || || 84 || 130 || 34 |} Ghi chú Tài liệu Bolla Caelorum regnum, AAS 52 (1960), p. 137 Decreto Cum Excellentissimus, AAS 62 (1970), p. 181 Liên kết ngoài Số liệu Annuario pontificio năm 2022 tại Trang mạng chính thức của giáo phận Đề mục của giáo phận trên trang mạng của Hội đồng Giám mục Thái Lan Chiang Mai
19821239
https://vi.wikipedia.org/wiki/National%20Bank%20Open%202023%20-%20%C4%90%C3%B4i%20n%E1%BB%AF
National Bank Open 2023 - Đôi nữ
Shuko Aoyama và Ena Shibahara là nhà vô địch, đánh bại Desirae Krawczyk và Demi Schuurs trong trận chung kết, 6–4, 4–6, [13–11]. Coco Gauff và Jessica Pegula là đương kim vô địch, nhưng rút lui trước trận đấu vòng tứ kết. Hạt giống 4 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2. Kết quả Chung kết Nửa trên Nửa dưới Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính WTA Tour 2023
19821240
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B3c%20em%20%C4%91u%C3%B4i%20g%C3%A0
Tóc em đuôi gà
"Tóc em đuôi gà" là một ca khúc nhạc trẻ của nhạc sĩ Thế Hiển sáng tác năm 1995. Ngay sau khi sáng tác, ca khúc được thế hệ trẻ Việt Nam đón nhận thời bấy giờ và được nhiều ban nhạc biểu diễn. Ca sĩ Quang Linh cũng đã lấy tên bài hát để đặt cho một album ca nhạc của mình. Hoàn cảnh sáng tác Trong chương trình Dấu ấn huyền thoại phát sóng trên HTV7 năm 2021, Thế Hiển chia sẻ vào năm 1995, khi đi ngang qua đường Công Lý (nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa của Thành phố Hồ Chí Minh) qua Trường Trung học phổ thông Marie Curie, ông đi xe máy và bị một cô gái đạp xe đạp đi ngược chiều tông vào xe. Hai người cùng ngã ra đường. Cô gái tỏ ra xin lỗi Thế Hiển và được ông mời đi uống nước. Trên đường về, ông hồi tưởng lại việc ngày xưa bản thân cũng từng đạp xe để theo đuổi những cô nữ sinh của trường nên bài hát dần được hình thành ngay ngày hôm đó để tặng cho thế hệ trẻ là học sinh. Nhắc đến ca khúc này, Thế Hiển còn kể lại "Tóc em đuôi gà" được ông viết giữa lúc nhiều bạn trẻ đang chạy theo trào lưu nhuộm tóc. Tuy nhiên giữa trào lưu đó vẫn có không ít cô gái vẫn để kiểu tóc giản dị, buộc cao sau gáy mà ông mô tả "nhìn như cái đuôi gà". Đón nhận "Tóc em đuôi gà" được Thế Hiển biểu diễn lần đầu trong một chương trình ca nhạc ở Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Bài hát đã từng có một thời được biểu diễn trên khắp các sân khấu lớn nhỏ trên toàn Việt Nam. Sau đó, ca sĩ Quang Linh xin sử dụng ca khúc này để thực hiện CD ca nhạc cho Hãng Phim Trẻ. "Tóc em đuôi gà" vẫn được xem là một trong những dấu mốc âm nhạc đặc biệt của Quang Linh. Chính nam ca sĩ cũng lấy tên bài hát để đặt cho một album ca nhạc của mình. Thế Hiển cho biết bản thân ông không nhớ đã hát ca khúc này bao nhiêu lần, khi tham gia nhiều đêm diễn vẫn được yêu cầu hát "tóc em đuôi gà". Tới năm 2022, ông vẫn nhận tiền tác quyền đều đặn với ca khúc này. Bản thân tên bài hát đã được sử dụng như một nội dung mang tính gây cười gán cho các ảnh chế mà nhiều báo điện tử tại Việt Nam đăng tải, thậm chí là việc so sánh với kiểu tóc của ca sĩ Đan Trường. Tại vòng loại Cúp bóng đá U-23 châu Á, Lại Văn Sâm đã xin phép Thế Hiển chế lại lời ca khúc "Tóc em đuôi gà" để tặng huấn luyện viên người Hàn Quốc Park Hang-seo. Sự việc có liên quan Năm 2004, do bức xúc trước thái độ của Thế Hiển khi những nội dung trả lời của anh được đăng tải trên một số tờ báo, nhiều độc giả đã liên lạc với báo Người Lao Động và cung cấp cho báo đĩa nhạc có ca khúc nói trên cũng như nhiều tài liệu liên quan về tác giả tác phẩm mà theo họ là Thế Hiển đã bắt chước khi sáng tác ca khúc "Tóc em đuôi gà". Theo đó, các độc giả cho rằng ca khúc có nét tương đồng với tác phẩm "Taka Takata" do Paul Mauriat trình bày trong album "Après Toi 1972". Một độc giả khẳng định phần điệp khúc của "Tóc em đuôi gà" giống hoàn toàn với điệp khúc của "Taka Takata". Tham khảo Ca khúc nhạc trẻ Bài hát năm 1995
19821241
https://vi.wikipedia.org/wiki/Generali%20Open%20Kitzb%C3%BChel%202023
Generali Open Kitzbühel 2023
Generali Open Kitzbühel 2023 là một giải quần vợt thi đấu trên mặt sân đất nện ngoài trời. Đây là lần thứ 79 giải Austrian Open Kitzbühel được tổ chức, và là một phần của World Tour 250 trong ATP Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại Tennis stadium Kitzbühel ở Kitzbühel, Áo, từ ngày 31 tháng 7 đến ngày 5 tháng 8 năm 2023. Điểm và tiền thưởng Phân phối điểm Tiền thưởng *mỗi đội Nội dung đơn Hạt giống 1 Bảng xếp hạng vào ngày 24 tháng 7 năm 2023. Vận động viên khác Đặc cách: Filip Misolic Thiago Seyboth Wild Dominic Thiem Bảo toàn thứ hạng: Guido Pella Miễn đặc biệt: Alexei Popyrin Vượt qua vòng loại: Guido Andreozzi Facundo Bagnis Hamad Medjedovic Dennis Novak Thua cuộc may mắn: Juan Manuel Cerúndolo Rút lui Roberto Bautista Agut → thay thế bởi Arthur Rinderknech Miomir Kecmanović → thay thế bởi Alex Molčan Alexei Popyrin → thay thế bởi Juan Manuel Cerúndolo Lorenzo Sonego → thay thế bởi Daniel Elahi Galán Botic van de Zandschulp → thay thế bởi Marc-Andrea Hüsler Nội dung đôi Hạt giống 1 Bảng xếp hạng vào ngày 24 tháng 7 năm 2023. Vận động viên khác Đặc cách: Filip Misolic / Joel Josef Schwärzler Sebastian Ofner / Dominic Thiem Nhà vô địch Đơn Sebastián Báez đánh bại Dominic Thiem, 6–3, 6–1 Đôi Alexander Erler / Lucas Miedler đánh bại Gonzalo Escobar / Aleksandr Nedovyesov, 6–4, 6–4 Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức (bằng tiếng Đức) Generali Open Kitzbuhel Austrian Open Kitzbühel Generali Open Kitzbühel
19821245
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20Jeonju
Giáo phận Jeonju
Giáo phận Jeonju (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Hàn Quốc. Giáo phận nằm trong giáo tỉnh Gwangju, Hàn Quốc, tuy nhiên các hoạt động truyền giáo của giáo phận do Bộ Truyền giáo quản lí. Địa giới Địa giới giáo phận bao gồm toàn bộ tỉnh Jeolla Bắc ở Hàn Quốc. Tòa giám mục và Nhà thờ chính tòa Thánh Tâm Chúa Giêsu của giáo phận được đặt tại thành phố Jeonju. Giáo phận được chia thành 109 giáo xứ. Lịch sử Hạt Phủ doãn Tông tòa Zenshu được thành lập vào ngày 13/4/1937 theo tông sắc Quidquid ad Christi của Giáo hoàng Piô XI trên phần lãnh thổ tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Taiku (hiện là Tổng giáo phận Daegu). Hạt Phủ doãn Tông tòa đã đổi tên thành Hạt Phủ doãn Tông tòa Jeonju vào ngày 12/7/1950. Vào ngày 26/1/1957 Hạt Phủ doãn Tông tòa được nâng cấp thành một Hạt Đại diện Tông tòa theo tông sắc In apostolica praefecturacủa Giáo hoàng Piô XII. Vào ngày 10/3/1962 Hạt Đại diện Tông tòa được nâng cấp thành một giáo phận theo tông sắc Fertile Evangelii semen của Giáo hoàng Gioan XXIII. Vào ngày 16/9/1983, giáo phận đã nhận bổn mạng là các thánh tử đạo Jeonju theo tông thư Clara veluti của Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Giám mục quản nhiệm Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ. Stêphanô Kim Yang-hong † (13/4/1937 - 1941 từ nhiệm) Phaolô Jae-yong Ju † (1941 - 1947 từ nhiệm) Bartôlômêô Kim Kyon Pae † (13/6/1947 - 30/4/1960 qua đời) Phêrô Han Kong-ryel † (3/1/1961 - 1971 được bổ nhiệm làm Tổng giám mục Tổng giáo phận Gwangju) Augustinô Kim Jae Deok † (29/1/1973 - 10/4/1981 từ nhiệm) Micae Pak Jeong-il (8/6/1982 - 15/12/1988 được bổ nhiệm làm Giám mục Giáo phận Masan) Vinh Sơn Ri Pyung-ho (8/2/1990 - 14/3/2017 về hưu) Gioan Kim Son-Tae, từ 14/3/2017 Thống kê Đến năm 2021, giáo phận có 201.734 giáo dân trên dân số tổng cộng 1.804.104, chiếm 11,2%. |- | 1970 || 52.141 || 2.626.222 || 2,0 || 52 || 50 || 2 || 1.002 || || 4 || 105 || 31 |- | 1980 || 63.634 || 2.748.000 || 2,3 || 78 || 78 || || 815 || || || 98 || 39 |- | 1990 || 107.874 || 2.157.384 || 5,0 || 107 || 105 || 2 || 1.008 || || 2 || 178 || 55 |- | 1999 || 146.377 || 2.014.561 || 7,3 || 149 || 147 || 2 || 982 || || 2 || 315 || 65 |- | 2000 || 151.204 || 2.015.534 || 7,5 || 153 || 151 || 2 || 988 || || 2 || 297 || 68 |- | 2001 || 154.132 || 2.006.500 || 7,7 || 156 || 154 || 2 || 988 || || 4 || 271 || 71 |- | 2002 || 157.558 || 2.013.923 || 7,8 || 161 || 159 || 2 || 978 || || 5 || 297 || 73 |- | 2004 || 163.933 || 1.962.867 || 8,4 || 175 || 174 || 1 || 936 || || 1 || 309 || 81 |- | 2006 || 171.151 || 1.885.335 || 9,1 || 178 || 174 || 4 || 961 || || 4 || 321 || 83 |- | 2013 || 188.449 || 1.873.341 || 10,1 || 205 || 202 || 3 || 919 || || 3 || 347 || 92 |- | 2016 || 195.094 || 1.869.711 || 10,4 || 188 || 181 || 7 || 1.037 || || 11 || 323 || 95 |- | 2019 || 200.349 || 1.836.832 || 10,9 || 192 || 191 || 1 || 1.043 || || 3 || 327 || 96 |- | 2021 || 201.734 || 1.804.104 || 11,2 || 195 || 193 || 2 || 1.034 || || 3 || 335 || 109 |} Ghi chú Tài liệu Bolla Quidquid ad Christi, AAS 29 (1937), p. 329 Bolla In apostolica praefectura, AAS 49 (1957), p. 398 Bolla Fertile Evangelii semen, AAS 54 (1962), p. 552 Liên kết ngoài Số liệu Annuario pontificio năm 2022 tại Sito ufficiale della diocesi Hồ sơ giáo phận trên trang mạng của Hội đồng Giám mục Triều Tiên Đề mục của giáo phận trên trang ucanews Jeonju
19821246
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20Masan
Giáo phận Masan
Giáo phận Masan (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Hàn Quốc. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Daegu. Địa giới Địa giới giáo phận bao gồm toàn bộ tỉnh Gyeongsang Nam ở Hàn Quốc, ngoại trừ các thành phố Gimhae và Miryang. Tòa giám mục được đặt tại thành phố Masan, cũng là nơi đặt Nhà thờ chính tòa Thánh Tâm của giáo phận. Giáo phận được chia thành 74 giáo xứ. Lịch sử Giáo phận được thành lập vào ngày 15/2/1966 theo tông sắc Siquidem catholicae của Giáo hoàng Phaolô VI, trên phần lãnh thổ tách ra từ Giáo phận Busan. Giám mục quản nhiệm Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ. Stêphanô Kim Sou-hwan † (15/2/1966 - 9/4/1968 trở thành Tổng giám mục Tổng giáo phận Seoul) Giuse Byeong Hwa Chang † (3/8/1968 - 15/12/1988 về hưu) Micae Pak Jeong-il (15/12/1988 - 11/11/2002 về hưu) Phanxicô Xaviê Ahn Myong-ok (11/11/2002 thừa kế chức vụ - 19/4/2016 từ nhiệm) Constantinô Bae Ki-hyen (19/4/2016 - 27/8/2022 từ nhiệm) Phaolô Shin Eun-geun, từ 27/8/2022 (Giám quản Tông tòa) Thống kê Đến năm 2021, giáo phận có 181.943 giáo dân trên dân số tổng cộng 2.537.000, chiếm 7,2%. |- | 1970 || 30.727 || 2.132.544 || 1,4 || 35 || 29 || 6 || 877 || || 6 || 60 || 23 |- | 1980 || 48.991 || 2.730.000 || 1,8 || 44 || 38 || 6 || 1.113 || || 13 || 88 || 39 |- | 1990 || 95.788 || 2.514.696 || 3,8 || 65 || 59 || 6 || 1.473 || || 22 || 225 || 47 |- | 1999 || 132.333 || 2.517.857 || 5,3 || 99 || 85 || 14 || 1.336 || || 32 || 318 || 62 |- | 2000 || 136.337 || 2.514.177 || 5,4 || 104 || 90 || 14 || 1.310 || || 25 || 289 || 62 |- | 2001 || 140.976 || 2.521.621 || 5,6 || 112 || 95 || 17 || 1.258 || || 40 || 302 || 63 |- | 2002 || 144.532 || 2.501.084 || 5,8 || 115 || 99 || 16 || 1.256 || || 42 || 314 || 63 |- | 2003 || 146.915 || 2.511.095 || 5,9 || 115 || 99 || 16 || 1.277 || || 33 || 315 || 63 |- | 2004 || 149.354 || 2.489.945 || 6,0 || 123 || 106 || 17 || 1.214 || || 43 || 335 || 63 |- | 2013 || 167.279 || 2.552.003 || 6,6 || 162 || 137 || 25 || 1.032 || || 52 || 317 || 74 |- | 2016 || 175.308 || 2.560.439 || 6,8 || 173 || 143 || 30 || 1.013 || || 63 || 301 || 75 |- | 2019 || 180.933 || 2.522.166 || 7,2 || 161 || 142 || 19 || 1.123 || || 40 || 244 || 72 |- | 2021 || 181.943 || 2.537.000 || 7,2 || 168 || 146 || 22 || 1.082 || || 45 || 272 || 74 |} Tài liệu Liên kết ngoài Số liệu Annuario pontificio năm 2022 tại Trang mạng chính thức của giáo phận Hồ sơ giáo phận trên trang mạng của Hội đồng Giám mục Triều Tiên Đề mục của giáo phận trên trang ucanews Masan
19821247
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shaun%20Derry
Shaun Derry
Shaun Peter Derry (sinh ngày 6 tháng 12 năm 1977) là một cựu cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Anh. Ông từng dẫn dắt Notts County và Cambridge United, trước đó từng thi đấu cho Crystal Palace, Leeds United và Queens Park Rangers cùng những câu lạc bộ khác. Derry nổi tiếng với lối chơi rắn và xông xáo, vị trí sở trường của ông là tiền vệ phòng ngự nhưng Derry cũng có thể chơi như một hậu vệ phải. Tham khảo Sinh năm 1977 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Anh Cầu thủ bóng đá Notts County F.C. Cầu thủ bóng đá Sheffield United F.C. Cầu thủ bóng đá Portsmouth F.C. Cầu thủ bóng đá Crystal Palace F.C. Cầu thủ bóng đá Nottingham Forest F.C. Cầu thủ bóng đá Leeds United F.C. Cầu thủ bóng đá Queens Park Rangers F.C. Cầu thủ bóng đá Millwall F.C. Huấn luyện viên bóng đá Huấn luyện viên bóng đá Anh
19821251
https://vi.wikipedia.org/wiki/Generali%20Open%20Kitzb%C3%BChel%202023%20-%20%C4%90%C6%A1n
Generali Open Kitzbühel 2023 - Đơn
Sebastián Báez là nhà vô địch, đánh bại Dominic Thiem trong trận chung kết, 6–3, 6–1. Đây là danh hiệu đơn ATP Tour thứ 3 của Báez. Đây cũng là lần đầu tiên Thiem vào trận chung kết ở một giải đấu ATP Tour sau ATP Finals 2020. Roberto Bautista Agut là đương kim vô địch, nhưng rút lui trước khi giải đấu bắt đầu. Hạt giống 4 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2. Kết quả Chung kết Nửa trên Nửa dưới Vòng loại Hạt giống Vượt qua vòng loại Thua cuộc may mắn Juan Manuel Cerúndolo Kết quả vòng loại Vòng loại thứ 1 Vòng loại thứ 2 Vòng loại thứ 3 Vòng loại thứ 4 Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính Kết quả vòng loại Generali Open Kitzbühel - Đơn Đơn 2023
19821253
https://vi.wikipedia.org/wiki/Generali%20Open%20Kitzb%C3%BChel%202023%20-%20%C4%90%C3%B4i
Generali Open Kitzbühel 2023 - Đôi
Alexander Erler và Lucas Miedler là nhà vô địch, đánh bại Gonzalo Escobar và Aleksandr Nedovyesov trong trận chung kết, 6–4, 6–4. Pedro Martínez và Lorenzo Sonego là đương kim vô địch, nhưng chọn không bảo vệ danh hiệu. Hạt giống Kết quả Kết quả Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính Generali Open Kitzbühel - Đôi Đôi 2023
19821261
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%A5c%20S%C6%A1n%20ki%E1%BA%BFm%20hi%E1%BB%87p%20truy%E1%BB%87n
Thục Sơn kiếm hiệp truyện
Thục Sơn kiếm hiệp truyện () là tiểu thuyết tiên hiệp trường thiên chưa hoàn thành do nhà văn người Tứ Xuyên Hoàn Châu Lâu Chủ sáng tác vào năm 1932. Tác phẩm này về sau được dựng thành phim điện ảnh năm 1983 mang tên Tân Thục Sơn kiếm hiệp. Bối cảnh Thục Sơn kiếm hiệp truyện là cuốn tiểu thuyết pha trộn thể loại thần thoại, chí quái, kiếm tiên và võ hiệp lấy Trung Quốc thời giả tưởng làm chủ đề. Hệ thống tư tưởng của nó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ thuyết ba nhà Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Bối cảnh của câu chuyện trong tác phẩm này là hai phe chính tà sẽ có một trận quyết chiến - cuộc đấu kiếm Nga Mi lần thứ ba. Cuộc đấu kiếm này là trận so tài cuối cùng giữa hai phe chính đạo và tà đạo, và mọi thứ ân oán từ trước đến nay giữa đôi bên đều được giải quyết tại đây. Sáng tác Tiểu thuyết bao gồm phần tiền truyện, chính truyện, biệt truyện và hậu truyện, với 5 triệu chữ, và phần chính truyện có tổng cộng 329 hồi. Tác giả bắt đầu sáng tác từ năm 1930, mãi đến năm 1948 mới hoàn thành. Sau năm 1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc chính thức lên nắm quyền kiểm soát đại lục, tác giả buộc phải ngừng cập nhật tác phẩm này. Chuyển thể Thục Sơn kiếm hiệp truyện được chuyển thể thành rất nhiều phiên bản, từ truyền hình cho đến điện ảnh: Tân Thục Sơn kiếm hiệp (phim Hồng Kông năm 1983) Thục Sơn kỳ hiệp (phim truyền hình Hồng Kông năm 1990) Thục Sơn kỳ hiệp chi tiên lữ kỳ duyên (phim truyền hình Hồng Kông năm 1991) Thục Sơn truyện (phim Hồng Kông năm 2001) Thục Sơn chiến kỷ chi kiếm hiệp truyền kỳ (phim truyền hình Trung Quốc năm 2015) Tham khảo Tiểu thuyết đầu tay năm 1932 Tiểu thuyết thần ma Tiểu thuyết tiên hiệp Tiểu thuyết kiếm hiệp Tiểu thuyết lấy bối cảnh ở Tứ Xuyên Tiểu thuyết thời Trung Hoa Dân Quốc Tiểu thuyết Trung Quốc được chuyển thể thành phim Tiểu thuyết Trung Quốc được chuyển thể thành phim truyền hình
19821263
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dendrochirus%20hemprichi
Dendrochirus hemprichi
Dendrochirus hemprichi là một loài cá biển thuộc chi Dendrochirus trong họ Cá mù làn. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2017. Từ nguyên Từ định danh hemprichi được đặt theo tên của Wilhelm Friedrich Hemprich, nhà tự nhiên học kiêm nhà thám hiểm người Đức, nhằm vinh danh những đóng góp của ông cho ngành động vật học Biển Đỏ, cũng là nơi thu thập mẫu định danh của loài cá này. Phân bố D. hemprichi có phân bố tập trung ở Tây Ấn Độ Dương, bao gồm Biển Đỏ, từ bờ nam bán đảo Ả Rập dọc theo Đông Phi đến Nam Phi, trải dài về phía đông đến Seychelles và Madagascar. D. hemprichi có thể được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 70 m. Mô tả Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở D. hemprichi là gần 11 cm. D. hemprichi nằm trong phức hợp loài Dendrochirus brachypterus. D. hemprichi có thể được phân biệt với các loài trong phức hợp có ít hàng vảy hơn giữa gốc gai vây lưng cuối và đường bên. Hơn nữa, có sự khác biệt di truyền rõ ràng giữa D. hemprichi và D. brachypterus. Tham khảo H Cá Ấn Độ Dương Cá biển Đỏ Cá Israel Cá Ai Cập Cá Oman Cá Yemen Cá Mozambique Cá Seychelles Cá Madagascar Cá Nam Phi Động vật được mô tả năm 2017
19821264
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B2a%20th%C6%B0%E1%BB%A3ng%20ph%E1%BB%A5%20Lisboa
Tòa thượng phụ Lisboa
Tòa thượng phụ Lisboa (; ) là một tòa thượng phụ tổng giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Lisboa, thủ đô của Bồ Đào Nha. Ngai tòa giám mục của tòa thượng phụ được đặt tại Nhà thờ chính tòa Đức Bà Cả ở Lisboa. Tòa thượng phụ còn có ba Tiểu Vuơng cung thánh đường: Ở Lisboa có Vương cung thánh đường Đức Mẹ các Thánh tử đạo và Vương cung thánh đường Thánh Tâm Chúa Giêsu Estrela; còn ở Mafra có Vương cung thánh đường Đức Mẹ và Thánh Antôn; và hai tu viện Di sản thế giới: Tu viện Dòng Thánh Jérôme ở Lisboa, và Tu viện Đức Bà Maria thành Alcobaça, ở Alcobaça. Tham khảo Lisboa
19821267
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%A1c%20Thi%E1%BA%BFu%20Th%C3%B4ng
Mạc Thiếu Thông
Mạc Thiếu Thông (Tên tiếng Anh : Max Mok hay còn gọi là Benny Mok) là một diễn viên, kiêm ca sĩ nổi tiếng Hồng Kông trong thập niên 80 và 90 thời kỳ hoàng kim của điện ảnh Hồng Kông. Anh từng ghi giấu ấn tên tuổi bằng nhiều tác phẩm điện ảnh đình đám như: Người thái giám cuối cùng (1988) , Loạt phim Hoàng Phi Hồng (phần II, III, IV và V) trong vai Lương Khoan (từ 1992 đến 1994), Tình anh thợ cạo (1988) , Võ lâm thánh hỏa lệnh (1983) , Nỗi niềm trẻ mồ côi (1989) , Trà lầu Long Phụng (1990) ... Trong lĩnh vực ca hát, với vai trò ca sĩ, anh cũng đã phát hành 5 album và sở hữu nhiều bản hit tại làng nhạc Hồng Kông, Đài Loan trong thập niên 90. Anh cũng từng hợp tác với điện ảnh Việt Nam trong bộ phim hành động Kế hoạch 99(2000) của nhà sản xuất phim Lý Huỳnh, đóng cùng Lê Tư và Lý Hùng. Tiểu sử gia đình Mạc Thiếu Thông sinh ngày 02 tháng 12 năm 1962 tại Hong Kong, nguyên quán tại quận Tam Thủy, thành phố Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Thời niên thiếu, anh từng theo học tại trường trung học Cao Lôi (ở phố Phúc Toàn, khu Tai Kok Tsui, Hồng Kông). Mạc Thiếu Thông sinh ra trong gia đình trung lưu và nề nếp tại Hồng Kông. Từ nhỏ Mạc Thiếu Thông mong muốn trở thành cảnh sát nên anh đã bắt đầu tập luyện Kung fu từ khi mới lên cấp 2 (12 tuổi) và đã ghi danh vào Học viện cảnh sát Hong Kong nhưng bị cha anh phản đối vì đó là một công việc vất vả và nguy hiểm. Cuối cùng anh đã từ bỏ giấc mơ trở thành cảnh sát và chuyển hướng sang gia nhập ngành giải trí. Gia đình anh có hai anh em trai, hai người cách nhau 10 tuổi . Sau khi cha qua đời, anh trở thành chủ kinh tế của gia đình, gia nhập làng giải trí từ năm 18 tuổi để giúp đỡ mẹ và nuôi em trai ăn học ở nước ngoài. Hiện em trai anh đang sống ở Los Angeles, Hoa Kỳ, còn mẹ thì đang sống ở Hồng Kông. Sự nghiệp Thập niên 80ː bước chân vào làng giải trí và sự nghiệp trải thảm đỏ Mạc Thiếu Thông gia nhập làng giải trí từ năm 1979 nhưng ban đầu gia đình chỉ chấp nhận cho anh xin làm thư ký của một công ty giải trí. Không lâu sau, đến tháng 4 năm 1980, anh tình cờ tham gia cuộc thi "Tìm kiếm Ngôi sao mới có đôi mắt to thông minh" trong vòng 3 tháng do Đài truyền hình Á Châu (ATV) tổ chức, nhờ có biểu hiện tốt và ngoại hình đẹp, sau khi cuộc thi kết thúc vào tháng 7 cùng năm đó anh đã được ký hợp đồng với đài truyền hình với thời hạn 2 năm. Ngay trong năm đó, anh đã có được vai diễn nặng ký đầu tiên trong bộ phim truyền hình cổ trang "Võ Hiệp Đế Nữ Hoa" được chuyển thể từ vở kịch Quảng Đông cùng tên, hợp tác với các tên tuổi hàng đầu lúc bấy giờ nhưː Lưu Tùng Nhân, Khương Đại Vệ, Mễ Tuyết, trong phim anh đóng vai Tả Vân Linh. Năm 1981, anh tiếp tục tham gia trong một số dự án truyền hình ăn khách bao gồmː "Khi IQ trưởng thành" (vai Cố Diệu Huy); "24 hương vị ngọt ngào" (hợp tác cùng Trương Quốc Vinh) trong vai nam sinh Lý Nhất Nam (Yor).... . Đến năm 1982, sau khi hết hạn hợp đồng với ATV, anh ký hợp đồng với hãng phim Thiệu thị huynh đệ, bắt đầu sự nghiệp đóng phim màn ảnh rộng. Nhờ ngoại hình sáng và khả năng diễn xuất tốt anh được hãng này tích cực lăng xê với nhiều vai diễn chính. Năm 1983, anh đóng vai Doãn Thiên Thù trong bộ phim Võ Lâm Thánh Hỏa Lệnh , ngay lập tức đã nổi tiếng và gây chú ý với truyền thông và khán giả yêu điện ảnh lúc bấy giờ. Thành công của bộ phim giúp anh được đề cử và thắng giải Nam diễn viên mới xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 3 (tức Giải Kim Tượng Hồng Kông) khi chỉ mới 21 tuổi . Sau đó, anh liên tiếp góp mặt trong nhiều dự án điện ảnh đình đám chẳng hạn nhưː Journey of the Doomed (1985), Magic Crystal (1986) đóng cùng Lưu Đức Hoa và đả nữ Cynthia Rothrock.... Đặc biệt, tác phẩm đưa anh lên đỉnh cao là Người Thái Giám Cuối Cùng (tựa tiếng Anhː Last Eunuch in China) sản xuất vào năm 1988. Đây là bộ phim kể về vị thái giám cuối cùng của triều đại nhà Thanh Lưu Lai Hỷ, do Trương Chí Lương đạo diễn, nhà sản xuất của bộ phim là ngôi sao võ thuật Hồng Kim Bảo. Thành công của bộ phim giúp tên tuổi anh lên như diều gặp gió và nhanh chóng được đề cử cho Hạng mục Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại các Giải thưởng điện ảnh uy tín nhưː Giải Kim Mã của Đài Loan lần thứ 24 và Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 8 vào năm 1989 cho vai diễn Thái giám Lai Hỷ. Kể từ sau thành công của vai diễn thái giám Lai Hỷ, danh tiếng của Mạc Thiếu Thông lại càng lên cao và trở thành ngôi sao hạng A được nhiều khán giả yêu thích tại khu vực Châu Á. Anh cũng là lựa chọn hàng đầu của nhiều đạo diễn nổi tiếng trong làng điện ảnh Hong Kong, trung bình mỗi năm anh đóng khoảng 6-10 phim. Anh liên tục tham gia nhiều dự án điện ảnh đình đám nhưː Tình Anh Thợ Cạo (1988) đóng cùng Trương Mẫn, Châu Tinh Trì, Trương Học Hữu; Long Gia Tộc (1988) cùng với Lưu Đức Hoa và Đàm Vịnh Lân; Nỗi Niềm Trẻ Mồ Côi (1989) cùng với Lưu Đức Hoa và La Mỹ Vy; Trung nghĩa quần anh (1989) với Lương Triều Vỹ, Trịnh Thiếu Thu... Song song với sự nghiệp đóng phim điện ảnh thì Mạc Thiếu Thông cũng tham gia một số dự án truyền hình tại Đài Loan, Hong Kong theo dạng ký hợp đồng từng đầu phim như Hiệp Khách Hành (1985), Ân Oán Giang Hồ (1988)... và tham gia các talkshow và gameshow của đài TVB. Thập niên 90: sự nghiệp điện ảnh tiếp tục thăng hoɑ & lấn sân nghiệp cầm ca Trong thập niên 90, tên tuổi của Mạc Thiếu Thông vẫn giữ được sức nóng với nhiều fan hâm mộ khi anh liên tiếp tham gia các dự án phim ăn khách như: Tráng Chí Hào Tình(1990) (tựa tiếng Anhː Whampoa Blues) anh vào vai một sinh viên của Học viện Quân sự Đài Loan; Duy Ngã Độc Tôn (1990) (tựa tiếng Anhː An Eye for an Eye) đóng cặp cùng đệ nhất mỹ nhân Vương Tổ Hiền; Đái Tử Hồng Lang (1991) (tựa tiếng Anhː Son on the Run) của đạo diễn Trần Mộc Thắng hợp tác với Ngô Mạnh Đạt, La Mỹ Vy; Trà lầu Long Phụng (1990) cùng với Châu Tinh Trì, Ngô Mạnh Đạt; Anh Hùng Xa Lộ (1991) cùng Trương Học Hữu, Lý Lệ Trân (1991); Người Thái Giám Cuối Cùng 2: Ánh sáng trên Tử Cấm Thành (1992)... Trong giai đoạn hoàng kim của sự nghiệp, Mạc Thiếu Thông không chỉ là nam thần tượng được giới trẻ ưa thích nhờ vẻ ngoài điển trai và tài năng diễn xuất mà khả năng kungfu của anh còn thuộc hàng thượng thừa, anh được giới báo chí bình chọn là một trong những ngôi sao có màn trình diễn võ thuật đẹp mắt nhất khi những thế võ của anh luôn dứt khoát và mạnh mẽ. Đặc biệt, Mạc Thiếu Thông còn là một trong những diễn viên hành động hiếm hoi có khả năng tự thực hiện những cảnh quay mạo hiểm mà không cần người đóng thế. Chẳng hạn như trong bộ phim hài hành động Trà lầu Long Phụng, anh đã đích thân thực hiện những pha hành động mạo hiểm, anh đã nhảy từ nhà cao tầng xuống và bị thương nặng ở cột sống thắt lưng phải tĩnh dưỡng hai năm, còn trong bộ phim Nỗi Niềm Trẻ Mồ Côi, thì đích thân anh thực hiện cảnh đu dây nhảy từ tầng 6 xuống mặt đất suýt nữa bị văng ra khỏi tán cây. Kể từ năm 1992, anh đóng vai Lương Khoan, đệ tử của Hoàng Phi Hồng trong loạt phim về Hoàng phi Hồng (tựa tiếng AnhːOnce Upon A Time In China) của đạo diễn nổi tiếng Từ Khắc, hợp tác với Lý Liên Kiệt, Quan Chi Lâm, Chân Tử Đan....thay thế cho diễn viên kungfu Nguyên Bưu ở phần 1. Vai diễn này đã đưa anh lên đỉnh cao mới trong sự nghiệp điện ảnh. Anh tham gia loạt phim điện ảnh đình đám này từ phần 2 đến phần 5 kể từ năm 1992 đến năm 1994 bao gồm: Hoàng Phi Hồng II: Nam nhi đương tự cường (1992); Hoàng Phi Hồng III: Sư vương tranh bá (1993); Hoàng Phi Hồng IV: Vương giả chi phong (1993) và Hoàng Phi Hồng V: Long thành tiêm bá (1994). Trong đó, vai diễn Lương Khoan trong Hoàng Phi Hồng II: Nam nhi đương tự cường (1992) đã giúp anh nhận được đề cử tại nhiều giải thưởng điện ảnh uy tín và giành được giải thưởng điện ảnh Kim Mã Đài Loan lần thứ 29 cho hạng mục Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất. Cũng trong giai đoạn này, anh bắt đầu lấn sân sang lĩnh vực ca hát trở thành ca sĩ solo và đã phát hành 5 album kể từ năm 1992 đến 1995 bao gồm: 半个情人 (Một nửa tình nhân) (1992), 還是愛妳 ( Vẫn còn yêu em ) (1993), 與你相逢 ( Tương phùng cùng em ) (1994), 牽絆一生的愛 ( Tình yêu một đời ) (1994) & 你在九月离开 ( Em ra đi vào tháng 9 )(1995). Mặc dù không đạt được thành công rực rỡ như sự nghiệp điện ảnh, nhưng với vai trò ca sĩ Mạc Thiếu Thông cũng được khán giả rất yêu thích với nhiều bản hit tại các bảng xếp hạng âm nhạc và thu về một lượng fan hâm mộ không hề nhỏ khi phát hành các album nhạc. Hai bản hit nổi tiếng nhất của Mạc Thiếu Thông là: Tương Phùng Cùng Em và Một Nửa Tình Nhân. Khoảng thời gian từ 1994 đến 1999, Mạc Thiếu Thông vẫn đều đặn đóng phim điện ảnh lẫn truyền hình cũng như tham gia các show truyền hình. Năm 1994, anh tham gia đóng chính bộ phim truyền hình về đề tài tâm lý xã hội Thời đại phụ tử mới của TVB, hợp tác với các diễn viên: Lương Tiểu Băng, Huỳnh Nhật Hoa, Trương Quốc Cường...vào vai Lý Thế Dân, bộ phim này rất được yêu thích tại nhiều quốc gia Châu Á bao gồm Việt Nam trong thập niên 90. Đến năm 1999, anh đã nhận lời tham gia dự án phim điện ảnh của Việt Nam Kế hoạch 99 (hay còn có tên gọi là Lưới Trời Lồng Lộng) của nhà sản xuất Lý Huỳnh, đóng cùng Lê Tư và diễn viên Việt Nam Lý Hùng. Sự kiện này đã trở thành"một cú nổ bom" đối với người hâm mộ và giới truyền thông vào thời điểm lúc đó . Cát sê cho 4 ngày quay tại Việt Nam lúc đó là khoảng hơn 100 ngàn đô la Mỹ, thái độ làm việc của anh được đánh giá là vô cùng chuyên nghiệp và thân thiện. Thập niên 2000-nayː sự nghiệp xuống dốc vì tai tiếng đời tư Từ đầu thập niên 2000, do dính phải scandal ruồng bỏ con trai ruột sau khi chia tay nữ diễn viên Hồng Hân, nên hình ảnh của Mạc Thiếu Thông bị ảnh hưởng tại Hong Kong . Anh phải chuyển hướng sang thị trường Trung Quốc đại lục để phát triển sự nghiệp. Anh bắt đầu tham gia đóng một số phim truyền hình tại đây như: Đại túy hiệp(2001), Thiên hạ kỳ mưu(2004), Nhất Giang Xuân Thủy (2005), Hoàng Phi Hồng và Ngũ đại tài tử (2006).... và tham gia một số vai khách mời trong các phim điện ảnh Hong Kong nhưː Star Runner(2003), Love Is a Many Stupid Thing (2004), Run Papa Run (2008)... Mặc dù anh cũng đạt được một số thành tựu nhất định nhưng tên tuổi không thể quay lại thời hoàng kim như trong thập niên 80,90 tại thị trường Hong Kong. Cho đến năm 2011, sự nghiệp đóng phim của anh bị chặn đứng khi dính phải scandal sử dụng cần sa. Kể từ đó anh gần như biến mất khỏi làng giải trí. Sau đó, anh chuyển qua đảm nhận vai trò đạo diễn phim tài liệu ngắn "A Man's Marathon" và phim tài liệu dài tập "Persistence and Dream". Tuy vậy, vào đầu năm 2012, bộ phim Just Try Me do Mạc Thiếu Thông đóng chính đã lọt vào danh sách rút gọn tại Liên hoan phim New York 2012 cho hạng mục Phim hay nhất. Năm 2016, anh sản xuất và viết kịch bản cho bộ phim kinh dị Khoái Tiên (tựa tiếng Anhː The Curse of Chopsticks). Những năm gần đây, anh chuyển hướng sang kinh doanh và mở tiệm trà tại Bắc Kinh và đi hát tại một số tụ điểm nhỏ lẻ để kiếm tiền do khó khăn về kinh tế, thỉnh thoảng tham gia đóng chính vài dự án điện ảnh tại Trung Quốc Đại Lục bao gồmː Ác Linh Chi Môn (2016), Cổ Mộ Thú Ảnh (2018), The Ancient City of Loulan (2022)... Đời tư Đời sống tình cảm Mạc Thiếu Thông có đời sống cá nhân khá phức tạp và gây nhiều tranh cãi. Năm 1982, anh dự định kết hôn với nữ diễn viên của đài ATV Tịnh Tử nhưng sau đó lại không thành. Sau đó, năm 1988 anh hẹn hò với nữ diễn mang hai dòng máu Nhật Trung Anna Ueyama sau khi hợp tác chung trong bộ phim hành động Blood Call. Đến năm 1993, anh hẹn hò với nữ hoàng phim khiêu dâm Trần Bảo Liên nhưng sau 2 năm thì chia tay . Đến năm 1996, anh bắt đầu hẹn hò với nữ diễn viên Hồng Hân khi gặp nhau lần đầu tiên tại phim trường bộ phim Vong mệnh thiên nhai (Bí Mật Tường Hạt Phủ). Ban đầu Hồng Hân đã giấu nhẹm chuyện cô đã kết hôn với một tỷ phú Hong Kong.Sau đó, Hồng Hân ly dị để chính thức đến với Mạc Thiếu Thông. Tuy nhiên, sau 4 năm bên nhau, vào đầu thập niên 2000, hai người đã chính thức đường ai nấy đi vì tính cách không hợp, nhưng cả hai lại có chung với nhau một cậu con trai tên Mạc Cao Liêm (sau này đổi tên thành Trương Cao Liêm) ra đời vào ngày 24 tháng 8 năm 2000. Nhưng thời điểm đó anh nhất quyết không nhận con và không muốn kết hôn với Hồng Hân, hành động tuyệt tình của anh khiến nhiều fan hâm mộ cảm thấy thất vọng, sự việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình tượng tốt đẹp anh từng gây dựng, sự nghiệp của anh cũng lao dốc từ sau scandal này.Đến ngày 10 tháng 9 năm 2016, trên mạng xã hội weibo, anh đã đăng bức ảnh anh và mẹ đang bồng con trai lúc mới sinh, anh cho biết chính Hồng Hân mới là người chủ động chia tay và không cho anh gặp con trong nhiều năm qua. Năm 2011, Mạc Thiếu Thông kết hôn với một phụ nữ trẻ, nhỏ hơn anh 28 tuổi quê ở Đại Liên, Trung Quốc tên Tôn Vân Linh, có chung với nhau một cô con gái tên Mạc Chỉ Yên (sinh năm 2011) . Nhưng sau 5 năm, đến năm 2016, anh và vợ tuyên bố ly hôn và anh nhận toàn quyền nuôi con gái. Tuy vậy, vào ngày 07 tháng 08 năm 2023 anh đã chính thức lên tiếng bác bỏ tin đồn này và khẳng định mình vẫn đang sống hạnh phúc cùng vợ và con gái ở Bắc Kinh. Scandal sử dụng ma túy Ngày 17 tháng 4 năm 2011, Mạc Thiếu Thông bị bắt tại nhà riêng ở Quận Triều Dương, Bắc Kinh, Trung Quốc. Vụ việc này đã gây chấn động làng giải trí Hoa Ngữ lúc bấy giờ.Anh khai với phía cảnh sát là anh không nghiện ma túy, vì nể bạn nên mới dùng thử. Mạc Thiếu Thông bị tạm giam 14 ngày, sau đó anh trở về Hong Kong để tổ chức họp báo. Vào ngày 9 tháng 5 năm 2011, anh tổ chức họp báo tại Hong Kong, đứng trước ống kính của truyền thông, anh thừa nhận lỗi lầm của mình cầu xin sự tha thứ nhưng không được khán giả bỏ qua. Kể từ đó, Mạc Thiếu Thông bị liệt vào danh sách đen của các nhà làm phim Hong Kong, sự nghiệp đóng phim bị đóng băng, anh phải rút lui khỏi giới điện ảnh. Quan điểm chính trị; tín ngưỡng tôn giáo & hoạt động thiện nguyện Mạc Thiếu Thông từng tham gia sự kiện " Hòa nhạc ủng hộ nền dân chủ Trung Quốc 1989 " (Concert For Democracy In China) cùng các nghệ sĩ đình đám khác của Hong Kong nhưː Châu Nhuận Phát, Lưu Đức Hoa, Mai Diễm Phương, Đặng Lệ Quân... để ủng hộ phong trào dân chủ của Trung Quốc tại Bắc Kinh vào năm 1989. Mạc Thiếu Thông là người theo đạo Phật và có niềm tin vào tín ngưỡng Phật giáo kể từ năm 1987 sau khi thoát chết trong gang tất trong một lần đua xe trái phép tại Vịnh Thanh Thủy nhờ vào lá bùa hộ mệnh giấu trong ví. Năm 2003, Mạc Thiếu Thông đã đến các vùng xa xôi ở Tây Tạng và dành 7 năm để quay bộ phim tài liệu dài tập "Nhật ký tâm linh và giấc mơ của Thiếu Thông", bộ phim đã ghi chép lại hành trình của Mạc Thiếu Thông tìm hiểu về văn minh Phật giáo tại Tây Tạng, Thanh Hải và nhiều nơi khác. Mặc dù có đời tư tranh cãi, nhưng Mạc Thiếu Thông lại là một trong những nghệ sĩ hoạt động từ thiện tích cực nhất của làng giải trí Hong Kong. Anh tự lập quỹ từ thiện mang tên mình và đã đi đến nhiều vùng xa xôi hẻo lánh tại Trung Quốc, Châu Phi... để tham gia công tác tình nguyện. Vào tháng 4 năm 2010, trận động đất Ngọc Thụ đã xảy ra ở tỉnh Thanh Hải, Mạc Thiếu Thông đã thành lập đội cứu trợ thiên tai mang tên "Shao Cong Caring Care Action",anh đã mời nhiều ngôi sao Hồng Kông cùng đến các vùng thiên tai để phân phát hàng hóa cứu trợ. Hoạt động của đội cứu trợ vẫn đang diễn ra cho đến ngày nay, nhưng phạm vi không chỉ giới hạn ở Trung Quốc Đại Lục. Những phim đã tham gia Điện ảnh Truyền hình ATV Hồ Hải Song Hiệp (1980) (On The Waterfront) ... Tiểu Đức Xương Đại Nội Quần Anh (1980) (Dynasty) ... Hoàng Cửu Tử (Doãn Đường) Phong Trần Lệ (1980) ... Ngô Thế Phàm Tứ Khẩu Chi Gia (1980) ... Vi Tử Dương Nữ Oa Hành Động (1981) (Newark File) ... Minh Tử Du Hiệp Trương Tam Phong (1981) ... Tấn Vương Khi IQ trưởng thành (1981) (IQ Cheng Shou Shi) ... Cố Diệu Huy Võ Hiệp Đế Nữ Hoa (1981) (Princess Cheung Ping) ... Tả Vân Linh 24 Hương Vị Ngọt Ngào (1981) (Agency 24) ... Lý Nhất Nam (Yor) Tôi Muốn Bay Cao (1981) (I Want To Fly) Hoàng Phi Hồng Tân Truyện (1995) (Wong Fei Hung Series) ... Lương Khoan (Từ Khắc đạo diễn) Binh Pháp Tôn Tử (1997) ... Tôn Tẩn Bí Mật Tường Hạt Phủ (1997) (The Immortal Fugitive) ... Hoa Quang TVB Ân Oán Giang Hồ (1988) (Nghĩa Bạc Vân Thiên) ... Châu Vĩnh Thời Đại Phụ Tử Mới (1994) (Love Cycle) ... Lý Thế Dân Đài Loan Ngạo Khiếu Giang Hồ (1985) ... Kim Tiểu Hoán Hiệp Khách Hành (1985) (Ode to Gallantry) ... Thạch Trung Ngọc / Tiểu Cẩu Tử Phong Diệp Minh (1985) (Maple Leaf Saga) ... Long Phi Phượng Hoàng Lửa( (1986) (Fire Phoenix) ... Bất Tường Vòng Tròn Huynh Đệ (1987) ... Đinh Trung Nghĩa Lục Tiểu Phụng (2001) (Master Swordsman Lu Xiaofeng) ... Sa Man Trung Quốc Đại Lục Thư Tình (1999) ... Nghiêm Xuân Sanh Hào Giang Hữu Tình (1999) ... Cổ Lực Cường Vương Sùng Hoán Truyền Kỳ (1999) ... Vương Sùng Hoán Sinh Mệnh Đào Vong (2001) Đại Túy Hiệp (2002) ... Sở Mặc Tâm Thiên Hạ Kỳ Mưu (2004) ... Đồng Vân Khai Nhất Giang Xuân Thủy (2005) ... Ngụy Gia Bảo Hoàng Phi Hồng & Ngũ Đại Tài Tử (2006) ... Lương Khoan Thần Nữ Hồ Chi Mặc Tiên (2012) ... Tất Điêu Liệt In Love (2013) ... Lam Khải Minh Hồng Môn Huynh Đệ (2013) ... Thôi Dương Sản xuất & Biên kịch Khoái Tiên (2016) (The Curse of Chopsticks) Các đĩa hát đã phát hành Các album Các đĩa đơn 有一天 (One day) ːphát hành 2017 雨傘 (Umbrella) ːphát hành 2017 多謝 (Thank you) ːphát hành 2023 dưới dạng đĩa EP Nhạc phim 人之初 (Nhân Chi Sơ):Bài hát chủ đề phim "Thời Đại Phụ Tử Mới" (phim truyền hình TVB) 我走了 (Tôi đi rồi) :Bài hát phụ phim "Thời Đại Phụ Tử Mới" (phim truyền hình TVB) Giải thưởng và đề cử Tham khảo Liên kết ngoài MAX MOK SIU CHUNG Filmography ở HK Cinemagic.com Sinh năm 1962 Nam diễn viên điện ảnh Hồng Kông Nam diễn viên Hồng Kông Nam diễn viên truyền hình Hồng Kông Nhà sản xuất điện ảnh Hồng Kông Người Phật Sơn Người Quảng Đông Diễn viên Hồng Kông Ca sĩ Hồng Kông Nam ca sĩ Hồng Kông Diễn viên điện ảnh Hồng Kông Diễn viên truyền hình Hồng Kông
19821269
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kang%20Kon
Kang Kon
Kang Kon (, , phiên âm Hán Việt: Khương Kiện; 23 tháng 6 năm 1918 – 8 tháng 9 năm 1950), còn được phiên âm thành Kang Kŏn hay Gang Geon, là một nhà lãnh đạo quân sự và chính khách Triều Tiên, hoạt động ở Mãn Châu và bán đảo Triều Tiên. Ông từng giữ chức Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Triều Tiên, là sĩ quan cao cấp nhất của phía Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên tử trận trong Chiến tranh Triều Tiên. Cuộc đời và sự nghiệp Tham gia cuộc chiến kháng Nhật Nguyên tên ông là Kang Shin-tae (, , Khương Tín Thái) sinh ngày 23 tháng 6 năm 1918, tại Sangju, Gyeongsangbuk-do (nay thuộc Hàn Quốc), Gia đình ông chuyển đến Cát Lâm, Mãn Châu khi ông còn nhỏ và ông đã lớn lên ở đó. Khi còn là một thiếu niên, ông đã hoạt động tích cực tuyển mộ quân du kích chống Nhật cho người bạn lâu năm của mình, Kim Il Sung, và được nhớ đến là người có chiều cao bất thường, vượt trội so với những người khác. Kang tham gia cuộc chiến tranh chống Nhật ở Mãn Châu năm 1932, bị truy bắt và trốn sang lãnh thổ Liên Xô vào đầu những năm 1940. Tại đây, ông trở thành một sĩ quan của Lữ đoàn Độc lập 88 Hồng quân, một đơn vị đặc biệt, bao gồm các binh sĩ Triều Tiên và Trung Quốc, cũng như người bạn Kim Il Sung. Trở về Triều Tiên Mùa hè năm 1946, Kang từ Liên Xô trở về Triều Tiên để giúp thành lập Quân đội Nhân dân Triều Tiên và đến năm 1948, ông được bổ nhiệm làm Tổng tham mưu trưởng. Ông cũng là thành viên của Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên và là thành viên của Hội đồng Nhân dân Tối cao. Mặc dù Kang (và một số sĩ quan gốc Triều Tiên khác từng chiến đấu ở Mãn Châu) có trình độ quân sự tốt hơn Kim, nhưng Kim được khuyến khích nắm quyền lãnh đạo đất nước mới vì khả năng chính trị cũng như sự thân cận với phía Liên Xô. Trên cương vị Tổng tham mưu trưởng, Kang giữ vai trò quan trọng trong việc hoạch định kế hoạch tấn công lãnh thổ Nam Triều Tiên với sự giúp đỡ của các nhà chiến lược chiến tranh Nga và ông cũng là người được chọn để lãnh đạo cuộc tấn công này. Kang được biết đến như một người lính tàn nhẫn, thể hiện qua các đội quân mà ông chỉ huy; họ hiếu chiến, mạo hiểm và khát khao một chiến thắng nhanh chóng trước ngày 15 tháng 8, như mục tiêu mà lãnh tụ Kim đề ra. Cuộc chiến Triều Tiên Chiến tranh nổ ra, Kang Kon lãnh đạo các hoạt động tác chiến của Quân đội Nhân dân Triều Tiên, nhanh chóng tiến quân về phía đông nam tới Busan. Những nỗ lực quân sự của ông đã thành công và đã đẩy các lực lượng quân đội Hàn Quốc và Liên Hợp Quốc xuống Vành đai Pusan. Vào sáng ngày 4 tháng 8 năm 1950, Triều Tiên đã sẵn sàng giáng đòn cuối cùng và chiếm được khu vực do Liên Hợp Quốc kiểm soát cuối cùng trên bán đảo. Tuy nhiên, ngay vào sáng ngày 4 tháng 8, khi Trận chiến Vành đai Pusan bắt đầu, Kang đã bị thương khi sở chỉ huy tạm thời của ông (đóng trong một nhà máy đóng gói thịt bị bỏ hoang, do những bức tường bê tông dày, ban đầu được xây dựng để làm lạnh, che đỡ) bị một quả bom nặng 500 pound tấn công. bom. Vụ nổ đã giết chết 3 người và làm bị thương 8 người, một trong số đó là Kang. Khi đó, ông đang ở trong phòng radio để kiểm tra tin nhắn vào thời điểm vụ nổ xảy ra và bị thương ở đầu và gãy cẳng tay. Cái chết Chỉ 4 ngày sau, ngày 8 tháng 9 năm 1950, Kang và một số người khác đã bị giết bởi một quả mìn ở Andong, Gyeongbuk, không xa quê hương của ông. Tài liệu phía Trung Quốc cho rằng ông bị tử thương do không kích. Tang lễ của ông được người bạn cũ Kim Il Sung tổ chức trọng thể tại Bình Nhưỡng 2 ngày sau khi ông tử thương. Ông được phong tặng danh hiệu "Anh hùng Cộng hòa" và đích thân Kim Il-sung và Pak Hŏnyŏng khiêng quan tài di quan. Di sản Năm 1968, Kim Il Sung đã dựng một bức tượng cho Kang, và có một trường quân sự ở Bắc Triều Tiên mang tên ông, Học viện quân sự Kang Kon . Chú thích Liên kết ngoài Tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Triều Tiên Chính khách Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
19821274
https://vi.wikipedia.org/wiki/Murasaki%20Shikibu%20Nikki%20Emaki
Murasaki Shikibu Nikki Emaki
là một cuộn tranh (cuộn tranh truyền thống của Nhật Bản) được vẽ vào giữa thế kỉ 13. Bên cạnh việc lấy cảm hứng từ cuốn nhật ký riêng tư () của Murasaki Shikibu, một vị Nữ quan thời Heian sống vào thế kỉ 10–11, đồng thời cũng là tác giả của Truyện kể Genji, cuộn tranh còn thuộc về một trường phái hội họa cổ điển Nhật Bản được gọi là , cũng như được công nhận là đã làm sống lại hình tượng của thời kỳ Heian. Ngày nay, chỉ còn 4 cuộn vẫn còn trong tình trạng nguyên vẹn và được trưng bày trong 4 bộ sưu tập khác nhau: Hachisuka, Matsudaira, Hinohara (Tokyo), và Fujita (tại Bảo tàng Nghệ thuật Fujita, Osaka). Trong số các cuộc tranh còn tồn tại đó, cuộn tranh đầu tiên đã mô tả về buổi lễ mừng ngày chào đời cho Hoàng tử Atsunari (tức Atsuhira, sau này là Thiên hoàng Go-Ichijō) vào năm 1008 và cuộn tranh cuối cùng đã đề cập tới buổi lễ tương tự cho Hoàng tử Atsunaga (về sau là Thiên hoàng Go-Suzaku) năm 1009. Sự chênh lệch về thời gian này cũng cho ta thấy rằng bản nguyên gốc có chứa nhiều cuộn tranh hơn so với lượng cuộn tranh vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Mô tả là một tác phẩm ghi lại cuộc sống thường nhật của tác giả, đồng thời cũng là vị Nữ quan nổi tiếng sống vào thời Heian là Murasaki Shikibu, cũng là người đã sáng tác ra trường thiên tiểu thuyết Truyện kể Genji. Cuốn Nhật ký được cho là đã được viết trong khoảng thời gian từ năm 1008 đến năm 1010, phần lớn nhất trong tác phẩm chủ yếu xoay quanh việc Hoàng hậu Shōshi (hay Akiko) hạ sinh các vị Hoàng tử (về sau trở thành Thiên hoàng Go-Ichijō và Go-Suzaku) đi kèm những lễ hội liên quan, với các chi tiết nhỏ mô tả cuộc sống chốn hậu cung và mối quan hệ giữa Murasaki với những nữ quan khác, cũng như những văn sĩ cung đình như Izumi Shikibu, Akazome Emon và Sei Shōnagon. Nó cũng cho ta thấy những tình tiết sống động dưới thời đại nắm quyền của Fujiwara no Michinaga. Giống như tiểu thuyết Genji, cuốn nhật ký cũng mô tả những cảm xúc và những mối quan hệ giữa người với người , đặc biệt hơn, nó đã mô tả sự ràng buộc giữa Murasaki Shikibu với "triều đình" riêng của Hoàng hậu Akiko, cũng như sự cô đơn và đau khổ sau cái chết của chồng bà vào năm 1001. Trong đó bao gồm cả những lời nhận xét của tác giả đối với những người có tầm ảnh hưởng cùng thời, những cách cư xử thiếu lịch thiệp của đàn ông (trong đó có cả Fujiwara no Michinaga) và phụ nữ thời bấy giờ với sự hạn chế về mặt kinh nghiệm và học thức của họ. Cuốn nhật ký được xem là một tuyệt tác của trường phái . là loại tranh cuộn truyền thống của Nhật với mục đích kể chuyện thông qua những bức vẽ cùng lời dẫn đi kèm, được du nhập vào Nhật Bản thông qua việc giao lưu văn hóa với Trung Quốc vào khoảng thế kỷ thứ 6 và được lưu truyền rộng rãi trong tầng lớp quý tộc thời Heian. Sau thời Heian là thời kỳ Kamakura được đánh dấu bởi những cuộc chiến tranh và xung đột giữa các thế lực trong nước. Trong thời kỳ đó, nền nghệ thuật Emaki vẫn phát triển. Nếu như các chiến binh Mạc phủ yêu thích những "cuộn tranh với chuyển động nhanh" như truyền thuyết và những câu chuyện thời chiến thì việc sản xuất kiểu Heian vẫn tồn tại trong cung đình. Những bức họa kể lại tuyệt tác Truyện kể Genji đã tiếp tục được phổ biến vào đầu thời kỳ Kamakura dẫn đến việc hồi sinh lại mối quan tâm đối với tác giả của nó, Murasaki Shikibu. Vào cuối thế kỷ 13, nền nghệ thuật thời Heian đã thu hút sự quan tâm trở lại của nhiều người, dẫn đến việc nhiều họa sĩ thời đó đã quay trở lại phong cách hội họa cung đình; có rất nhiều bức đã được sản xuất trong thời kỳ này. được vẽ trong bối cảnh nền nghệ thuật đang bước vào thời kỳ hoàng kim và theo lời của Penelope Mason thì "nó là một trong những ví dụ tốt nhất về loại hình tường thuật bằng thơ và tranh minh họa kể từ thời Kamakura". Bức họa này đã được vẽ vào khoảng thời gian 200 năm sau khi cuốn nhật ký được viết, tức là vào giữa thế kỉ 13. Cũng giống như nội dung nguyên gốc của cuốn nhật ký, bức họa đã ghi lại sự cô độc cũng như góc nhìn của tác giả về cuộc sống chốn Hoàng cung, song đã được thêm vào một số dòng chữ hoài niệm về quá khứ huy hoàng của cung đình thời Heian - một trong những chi tiết tiêu biểu trong các cuốn Emaki vào thế kỉ 13, nhằm đem lại cho người xem cảm giác về "thời hoàng kim đã mất ", theo Mason, kể cả những bức họa mô tả những sự kiện vui vẻ như yến hội. Ngoài ra, các ghi chú trong bức vẽ, tức là những phần văn bản không được sơn lên, cũng có sự khác biệt so với cuốn nhật ký. Một bức emaki trong nhật ký của Murasaki Shikibu đã đề cập đến một tác phẩm khác có tên là , nhật ký của nhà thơ kiêm học giả Fujiwara no Teika. Theo cuốn nhật ký này, vào năm 1233, một số quý tộc thân cận với Thiên hoàng Go-Horikawa đã lên kế hoạch tạo ra một bức mới cho Truyện kể Genji (sau bức được vẽ vào thế kỉ 12, cũng là bức họa được biết tới nhiều nhất), kèm theo một tác phẩm khác thuộc thể loại nhật ký của Murasaki. Tuy nhiên, không có bằng chứng nào cho thấy những cuộn tranh mà Fujiwara no Teika đề cập tới là có thật, mặc dù tính nhất quán trong thời gian sản xuất những cuộn tranh ấy được xem là trường hợp khả thi, Những bức được xem là bằng chứng xác thực gồm có tác phẩm được thủ bút bởiFujiwara Nobuzane và những dòng chú thích của nhà thư pháp ưu tú . Phong cách và bố cục Có hai yếu tố cơ bản được tìm thấy trong các cuộn : Những người trong nhà sẽ có những hoạt động phổ biến trong giới quý tộc lúc bấy giờ như viết thư, chơi nhạc cụ, đối đáp văn thơ hay nói chuyện với những người khác; tiếp đó là cảnh khu vườn bên ngoài nơi họ đang sống. Vì lý do trên, Mason đã gọi những người trong là những người "bị ràng buộc ở trong nhà (house bound)". Hướng đọc cuộn tranh từ phải sang trái được thể hiện rất rõ thông qua bố cục của từng bức hình, và thường các chi tiết cao trào của cốt truyện sẽ tăng dần theo hướng từ phải sang trái; hay những sự việc chính sẽ được vẽ ở bên phải và kết quả/hậu quả của nó sẽ được vẽ ở bên trái . Về mặt phong cách, các bức luôn tuân thủ nguyên tắc của thể loại thuộc và điều này cũng tương tự với Nguyên Thị Vật Ngữ Hội Quyển (1120–1140) song cũng có những điểm khác nhau. Một chi tiết điển hình trong đó chính là những bức vẽ mô tả cuộc sống cung đình theo cách hoài cổ , vượt thời gian và được bảo tồn mọt cách tối đa, nhưng những chi tiết như phong cảnh và góc nhìn chiêm nghiệm về nó đã được khắc họa một cách thuần túy. Hình minh họa trong các tác phẩm thể loại này tương đối ngắn nếu so với nói về chiến tranh hay những câu chuyện dân gian, và theo lời Mason thì "tác phẩm đã nâng tầm hình ảnh biểu tượng cho các chi tiết hoa văn phi hình mẫu". Kỹ thuật vẽ đã được sử dụng phổ biến trong cung đình vào thế kỉ 12, cho đến ngày nay vẫn còn được sử dụng. Muốn làm ra sản phẩm phong cách này, người làm phải trải qua 3 giai đoạn: đầu tiên, người ta sẽ phác thảo khung cảnh bằng mực Tàu (có thể được làm bởi một bậc thầy trong nghề), sau đó mực sẽ được đổ trên bề mặt của giấy theo thứ tự từ phông nền rộng lớn cho đến các chi tiết nhỏ. Cuối cùng, người ta sẽ vẽ thêm đường viền để tái tạo lại hình ảnh nhằm khắc họa các chi tiết rõ ràng hơn. Tuy nhiên, người ta cũng ghi nhận sự thay đổi về phong cách được thực hiện một lần nữa, bởi vì các sắc tố ở đó mờ nhạt hơn bình thường, và các sắc thái tinh tế đã được làm nổi bật bởi các đường viền đẹp được vẽ bằng mực. Ngoài ra, những chi tiết trang trí có thể được làm nổi bật với bụi vàng và đôi khi là bạc. Theo Mason, kĩ thuật này dường như được làm ít tỉ mỉ hơn so với quá khứ, ví dụ như những chi tiết có thể được tìm thấy trong việc khắc họa nội thất kiến trúc (chẳng hạn như cửa trượt và bình phong) với những chi tiết cụ thể cũng như nguyên liệu bột bạc được sử dụng ít thường xuyên hơn so với vàng. Những thay đổi về mặt văn hóa kể từ sau thời Heian đã dẫn đến việc mô tả những chuyển động cùng cử chỉ, điệu bộ của các nhân vật một cách chân thực và sống động . Sau khi từ bỏ phong cách vào thời kỳ Heian, các hình đã được vẽ với những đặc điểm riêng lẻ và tâm trạng cảm xúc được thể hiện rõ ràng hơn . Một cách tổng quát hơn, M. Murase đã ghi chú rằng các đường nét cảm xúc đã được thay đổi một cách tinh tế hơn so với các cuộn tranh được vẽ vào thế kỉ 12 ; ví dụ như những căn phòng (hoặc là không gian nội cảnh, tùy thuộc vào ), trong những cung điện rộng lớn và có ít sự thân mật hoặc riêng tư hơn, và những quý tộc trong đó cũng có những bước đi tự nhiên và bạo dạn hơn. Khác với những cuộn tranh được vẽ thuở sơ khai như , với những kiến trúc và cảnh quan được sử dụng như những hình ảnh ẩn dụ "làm nền" cho cảm xúc con người , trong những cuộn tranh về sau, cảm xúc con người trong từng cuộn giấy hiện ra một cách trực tiếp thông qua biểu hiện trên gương mặt và cử chỉ, nó còn phụ thuộc vào vị trí của từng nhân vật trong các cảnh. Bên cạnh đó, những chi tiết kiến trúc khác như cột nhà, xà hay nền nhà vẫn tiếp tục được sử dụng để bày tỏ tâm trạng. Trong những cuộn tranh đó, phong cảnh sẽ tự đứng vững khi chúng tách rời khỏi cảm xúc của các nhân vật và còn có chức năng mới là nơi thoát khỏi những ràng buộc của cuộc sống cung đình. Giống như những bức khác, để vẽ ra những bức họa miêu tả những thứ có trong cuốn nhật ký của Murasaki Shikibu, người làm ra nó cần phải sử dụng kỹ năng , tức là kỹ năng phối cảnh theo chiều từ trên xuống nhằm đem lại cho người xem cái nhìn sâu sắc về tác phẩm . Hơn nữa, người ta cũng sử dụng các đường chéo để đánh dấu độ sâu của từng chi tiết. Nếu ta so sánh với những cuộn tranh đời đầu, trong những cuộn tranh đó, ta có thể thấy không gian riêng tư được mô tả với góc nhìn bình thường hơn thông qua những mành tre ()) được cuộn lại hay những không gian có tấm trượt () vốn được biểu hiện trong cuộn tranh kiểu cũ đã bị loại bỏ sau này. Tốc độ chuyển động của các nhân vật được cố tình làm chậm lại trong , về sau đã được đẩy lên khá nhanh với những bức họa mô tả một lần xuất hiện duy nhất trong thời gian và các sự kiện liên quan đến thời gian được định vị gần nhau trong các . Phong cách trang trí trong những bức vẽ cung đình () chịu ảnh hưởng từ những chủ đề văn học đã được thể hiện rõ trong những tác phẩm khác được vẽ vào thời kỳ Kamakura, như ( là bức minh họa cho tác phẩmCâu chuyện Ise ), (hay ) và cả những tác phẩm lãng mạn (ví dụ như tác phẩm " "). Ảnh hưởng về mặt lịch sử Cuộn tranh Emaki này đã vẽ lên cuộc sống thường nhật và những lễ hội diễn ra bên trong cung đình Heian, đôi khi trong đó có chứa những chi tiết như chơi trò chơi ven hồ, mặc dù có thể có những nhận thức khác nhau về điều này tùy thuộc vào từng thời điểm sản xuất. Tương tự như những cuộn tranh khác mô tả cuộc sống cung đình như hay , chúng đã cung cấp cho người xem kiến thức về kiến trúc theo phong cách (đặc biệt là về nội thất bên trong) với kiểu cách bài trí đặc trưng pha trộn giữa phong cách thời Đường với phong cách truyền thống của Nhật Bản. Các cuộn tranh mở rộng Một bức hoàn chỉnh thường chứa từ 10–12 cuộn tranh. Trước thời kỳ Edo (1603–1867), di sản tổ tiên của không hề được nhắc đến. Về sau, vào thời kỳ Minh Trị (1868–1911), người ta mới phát hiện ra bốn cuộn tranh còn sót lại, mỗi cuộn có chiều cao và dài khoảng . Tuy nhiên, chủ sở hữu của những cuộn tranh này cũng như tình trạng bảo quản của chúng đã bị thay đổi . Những phần còn lại chỉ chiếm 15% tổng dung lượng của toàn bộ cuốn nhật ký và được sắp xếp không theo một thứ tự nào cả. Chúng bao gồm 24 cảnh có độ rộng khác nhau, được phân bổ trong 3 cuộn tranh, 6 tờ tranh đơn lẻ và 2 cuộn tranh treo được trưng bày ở sáu địa điểm khác nhau: trong đó chỉ có 3 địa điểm trưng bày công cộng bao gồm Bảo tàng nghệ thuật Fujita, Bảo tàng Gotoh, Bảo tàng Quốc gia Tokyo cùng 3 bộ sưu tập tư nhân khác. Mỗi cuộn tranh đều bắt đầu bằng lời dẫn chuyện và thường có những lời miêu tả phong cảnh xung quanh xen lẫn với hình ảnh minh họa, và thường được kết thúc với một bức tranh hoàn chỉnh. Hình thức trình bày được chia làm 2 trường hợp: Trường hợp thứ nhất, một phần văn bản dài sẽ được chia làm 2 phần và trường hợp thứ 2, cuộn tranh Hachisuka sẽ có 3 phần hình minh họa không được phân tách bởi văn bản, và 2 phần văn bản độc lập sẽ không được tách rời mà sẽ được gắn liền thành một thể thống nhất . Cuộn tranh Hachisuka Các thứ tự thời gian chuyển cảnh trong một kiểu cũ kết hợp với một số giai thoại trong cuốn nhật ký nguyên gốc đều được thể hiện trong cuộn tranh Hachisuka. Được đặt tên theo chủ sở hữu trước đây của nó, tức gia tộc Hachisuka cai trị lãnh địa Tokushima thuộc tỉnh Awa, cuộn tranh này được coi là sản phẩm sở hữu tư nhân. Cuộn tranh này có chứa 8 bức họa và 7 đoạn văn bản dẫn truyện kéo dài khoảng 16 trang giấy. Đoạn lời dẫn thứ 3 trong tác phẩm dài tới mức nó đã được chia làm 2 phần và theo sau đó là 3 bức vẽ minh họa. Trong khi đó, đoạn dẫn truyện thứ 7 được thêm ngay sau đoạn thứ 6 mà không hề có bức tranh minh họa nào nằm giữa hai phần này. Toàn bộ cuộn tranh dài và được thừa nhận là Tài sản văn hóa quan trọng của đất nước. Các cảnh từ 1–5 tương ứng với phần tiếp theo của cuốn nhật ký và cũng là phần lâu đời nhất của tác phẩm gốc được thể hiện bởi bất kỳ cuộn tranh nào trong số 4 cuộn tranh . Các cảnh 6 và 7 tương ứng với những phần tiếp đó và xuất hiện trong nhật ký sau một vài cảnh được mô tả trong 3 cuộn tranh được bổ sung sau này. Ngày thứ ba trong lễ kỷ niệm ngày sinh của Thân vương Atsuhira Cuộn tranh Hachisuka mở đầu với cảnh yến tiệc được sắp xếp bởi Hoàng hậu và được chủ trì bởi thống đốc tỉnh Ōmi vào ngày 13 tháng 9 năm Kankō thứ 5 (tức ngày 14 tháng 10 năm 1004), vào buổi tối thứ 3 trong lễ kỉ niệm ngày sinh của Thân vương Atsuhira, sau là Thiên hoàng Go-Ichijō. Vào dịp này, sinh mẫu của Thân vương, tức Hoàng hậu Shōshi đã nhận được những món quà như trang phục và đồ dùng cho trẻ em. Trong bức tranh minh họa cảnh này, ta có thể thấy cảnh các quý tộc đứng trên ban công bên ngoài tẩm cung của Hoàng hậu . Vào ngày kỉ niệm ngày sinh thứ năm của Thân vương Atsuhira Cảnh 2 - 5 của cuộn tranh Hachisuka mô tả yến hội vào buổi tối ngày 15 tháng 9 năm Kankō thứ 5 (tức ngày 16 tháng 10 năm 1008). Vào ngày đó, vị Nhiếp chính quan bạch cũng là ông ngoại của Hoàng tử mới sinh - Fujiwara no Michinaga đã tổ chức lễ kỷ niệm ngày sinh cho cháu trai mình. Trong cảnh thứ hai của , Murasaki Shikibu đã mô tả niềm vui và hạnh phúc của mọi người trong cung bao gồm cả người hầu, quan chức nhỏ và giới quý tộc. Bức Emaki đã khắc họa lên khung cảnh yến tiệc với hình ảnh những chiếc bàn với được đặt trong vườn, ánh trăng rằm tỏa sáng tuyệt đẹp và những ngọn đuốc làm cho khung cảnh sáng rực như ban ngày. Cũng có một bức vẽ khác ngay sau cảnh này Lời dẫn thứ ba được chia thành hai phần, theo sau là ba bức vẽ minh họa. Lời dẫn là những đoạn văn mô tả chi tiết về bữa tối của Hoàng hậu với các quan khách bao gồm tên của các thị nữ xuất thân cao quý cùng với cha của họ. Bức Emaki đã miêu tả những thị nữ không được chọn tham dự với bộ dạng "khóc lóc thảm thiết". Những người khác được phép tham gia buổi lễ bao gồm các (phụ nữ được chọn vì nhan sắc), (quan viên phụ trách giếng, nước tương và hầm băng), (những người hầu cận cài trâm lên tóc), (những người quản gia của Thiên hoàng, (người dọn dẹp) và người giữ cửa. Theo Murasaki Shikibu, buổi lễ có quá nhiều người tham gia đến mức khó có thể đi qua chỗ đông người ấy. Cảnh thứ tư tương đối ngắn với đoạn mô tả cảnh các thị nữ cấp cao rời khỏi tẩm cung của Hoàng hậu, một căn phòng được ngăn cách bởi rèm để bước vào khu vườn và thắp đuốc. Bức họa cũng cung cấp thêm cho người xem chi tiết, cũng như giải thích về trang phục của một trong những người hầu gái tham dự buổi tiệc đó là Nữ quan Oshikibu. Lời dẫn thứ năm dẫn dắt người xem đến phần tiếp theo của các sự kiện trước đó, cũng như kể lại cuộc trao đổi xã giao giữa các cung nữ và một nhà sư, người đã kể những câu chuyện tôn giáo và những câu chuyện khác xuyên đêm. Trong tấm Emaki, ta có thể thấy những lời Murasaki Shikibu nói với nhà sư ấy: "Ngài không thể nhìn thấy thứ đáng yêu như vậy mỗi ngày được", và nhà sư trả lời rằng: "Thật vậy! Thật vậy!" , sau đó vỗ tay mừng rỡ mà quên đi phép tắc Phật giáo của mình. Ta có thể thấy một linh mục lớn tuổi ở gần đường viền bên trái của bức tranh đang mở một tấm bình phong gấp mà bên ngoài có ba cung nữ đang ngồi. Trong đó, Murasaki Shikibu ngồi gần nhà sư nhất, ngay phía sau bức bình phong. "Biên niên sử nữ quan" Cảnh thứ sáu của cuộn tranh Hachisuka nói về một giai thoại được viết vào một ngày không xác định vào năm 1009. Đó là phần miêu tả về Nữ quan Saemon no Naishi, người mà Murasaki Shikibu không ưa. Trong cuốn nhật ký, nữ văn sĩ viết rằng Naishi là người đã lan truyền tin đồn rằng Murasaki Shikibu rất tự hào về việc học chữ Hán của mình (vào thời kỳ Heian, chỉ có nam giới mới được sử dụng Hán tự) và đặt cho Murasaki biệt danh là "Nữ quan biên chép của nước Nhật ". Trong giai thoại này, Murasaki Shikibu đã giải thích rằng bà học chữ Hán từ nhỏ và được dạy rằng phải khiêm tốn về việc học của mình, cũng như phải giữ điều đó làm bí mật trong suốt cuộc đời với nỗi sợ bị đánh giá bởi con mắt của người ngoài. Lời dẫn trong bức emaki cũng liên quan đến việc Hoàng hậu Shōshi lệnh cho Murasaki Shikibu đọc Hán tự và bà đã bí mật dạy cho Hoàng hậu về các tác phẩm thi ca của Bạch Cư Dị (đặc biệt là về một phần trong đó gọi là ). Tuy nhiên, Thiên hoàng và Nhiếp chính quan đã phát hiện ra điều này và gửi tặng cho Hoàng hậu rất nhiều tác phẩm thơ ca. Những vũ công múa điệu Gosechi Cảnh cuối cùng trong cuộn tranh Hachisuka là một cảnh được cắt ra từ cảnh múa Gosechi, một điệu múa cổ xưa được biểu diễn bởi các thiếu nữ trẻ đẹp để ăn mừng lễ hội mùa màng được tổ chức vào tháng 11 hàng năm. Lời dẫn của emaki được mở đầu bằng những dòng miêu tả ngoại hình và trang phục của hai thiếu nữ trong đoàn vũ công và kết thúc là cảnh các vũ nữ ném quạt xuống khi một vị quan lục phẩm tiếp cận và lấy đi những chiếc quạt ấy. Trong nhật ký, Murasaki Shikibu viết rằng bà coi họ là những vũ nữ duyên dáng nhưng lại không giống các thiếu nữ chút nào . Sự kiện này được diễn ra cụ thể vào ngày 22 tháng 11 năm Kankō thứ 5 (tức ngày 22 tháng 12 năm 1008). Những phần chỉ vẽ cảnh Bên cạnh những bức họa mô tả các cảnh được biểu hiện trong cuốn nhật ký, cuộn tranh Hachisuka còn chứa những bản vẽ mà các chi tiết của nó không liên quan đến bất kỳ lời dẫn nào trong cuộn tranh. Bức tranh thứ 5 trong cuộn tương ứng với một cảnh được miêu tả trong lời dẫn thứ hai trong cuộn tranh Hinohara, nơi nữ sĩ Murasaki Shikibu nhìn lại thời gian lần đầu tiên bà bước chân vào chốn cung đình. Bức tranh đã cho chúng ta thấy Murasaki Shikibu đang ở trong một căn phòng với cánh cửa tsumado (một loại cửa ván có bản lề) khép kín cùng với shitomido (cửa có lưới mắt cáo). Bên cạnh bà là chiếc đèn cố định nội thất kiểu cũ với cấu tạo từ một chiếc cột gỗ với chiếc đĩa đầy dầu với phần bấc ở trên đó (tōdai). Bức vẽ cuối cùng trong cuộn tranh Hachisuka không có bất cứ liên quan gì tới những lời dẫn trong những mảnh emaki còn tồn tại. Tuy nhiên, nội dung trong bức vẽ ấy có thể liên quan đến một cảnh xuất hiện trong nhật ký của Murasaki Shikibu với cảm xúc âu sầu của bà sau khi chồng mất, cũng như nỗi lo lắng về tương lai. Trong đó, nữ văn sĩ kể lại rằng bà đã nhìn lên ánh trăng với tâm trạng "vô vọng não nề" và cảm thấy cô đơn. Việc chơi đàn koto vào một buổi tối mát trời chỉ khiến bà sầu não hơn. Trong cảnh này cũng có một đoạn mô tả ngắn về căn phòng có chứa hai giá sách của bà , một chiếc giá đựng sách của chồng bà và kể từ khi ông qua đời, không còn ai chạm tới chúng lần nào nữa; chiếc còn lại dùng để đựng "những vần thơ lãng mạn và xưa cũ", có vẻ như chúng là tác phẩm của chính bà. Quang cảnh được mô tả vào khoảng thời gian không xác định, vào năm Kankō thứ 6 (1009). Có một bức tranh trong tấm emaki cho ta thấy Murasaki Shikibu đang chơi đàn koto trong một căn phòng trải chiếu tatami cùng với một nữ quan khác đang đi bộ bên ngoài ban công (engawa). Cuộn tranh Fujita Ban đầu, cuộn tranh thuộc quyền sở hữu của gia tộc , một gia tộc cai quản lãnh địa Tatebayashi thuộc tỉnh Kōzuke. Cuộn tranh bổ sung Fujita này bao gồm 5 đoạn lời dẫn chuyện cùng năm bức tranh xen kẽ nhau. Dựa trên di sản mà tổ tiên chủ sở hữu để lại trước đây mà đôi khi nó cũng được gọi là cuộn tranh cũ của nhà Akimoto. Ngoài ra, phần lời dẫn thứ 6 đã được bảo tồn từ một bản sao của bức emaki nguyên gốc vào thế kỉ 19. Cuộn tranh mở rộng có chiều dài , hiện đang được sở hữu bởi Bảo tàng nghệ thuật Fujita, Osaka và được coi là Quốc bảo của Nhật Bản kể từ ngày 28 tháng 6 năm 1956. Cuộn tranh mô tả quãng thời gian buổi tối vào ngày thứ 5 trong buổi lễ mừng ngày sinh của Thân vương Atsuhira, sau này là Thiên hoàng Go-Ichijō, và kết thúc với cảnh miêu tả nội thất trong tư dinh của Nhiếp quan Michinaga khi Thiên hoàng Ichijō tới thăm. Lễ kỷ niệm ngày sinh thứ năm của Thân vương Atsuhira Lấy bối cảnh ngay sau cảnh thứ 5 của cuộn tranh Hachisuka, bức vẽ đã mô tả một sự kiện vào tối ngày 15 tháng 9 năm Kankō thứ 5, (tức ngày 16 tháng 10 năm 1008), vào ngày Michinaga tổ chức lễ kỉ niệm ngày sinh cho Thân vương Atsuhira. Một số người đã làm thơ vào dịp này. Murasaki Shikibu sau đó đã ca ngợi tài đối đáp cũng như năng khiếu thi ca của Fujiwara no Kintō; mặc dù ông không hề tham gia vào việc trao đổi thơ ca vào tối hôm đó. Trong đêm ấy, Hoàng hậu đã tặng áo choàng và trang phục trẻ em cho những nữ quan có phẩm hàm cao nhất; lớp áo kimono lót cho các nữ quan tứ phẩm; và hakama cho những nữ phòng có địa vị thấp hơn hàm lục phẩm. "Một bữa tiệc trên thuyền" Ngay sau cảnh vẽ trước chính là lời dẫn chuyện dẫn dắt người xem đến phần tiếp theo, với việc mô tả sự kiện trong ngày kế tiếp. Những người hầu trẻ tuổi, mặc trang phục màu trắng và ngồi trên chiếc thuyền với khung cảnh tràn ngập ánh trăng (vào ngày 16 tháng 9 năm Kankō thứ 5, tức ngày 17 tháng 10 năm 1008 dương lịch). Theo lời của Murasaki Shikibu, những nữ quan đã có cảm xúc ganh tị khi họ bị bỏ lại phía sau và không được lên thuyền. Tiếp nối cảnh trước là một khung cảnh mới cho ta thấy sự bối rối của mọi người ở trên thuyền khi xe bò kéo của các Nữ quan làm việc cho Thiên hoàng xuất hiện ở gần đó. Các nữ quan đã được Michinaga thết đãi nồng hậu và được nhận những món quà từ chính tay Nhiếp chính quan. "Lễ sinh nhật do triều đình tổ chức" Vào ngày 17 tháng 9 năm Kankō thứ 5 (tức ngày 18 tháng 10 năm 1008), đích thân Thiên hoàng đã tổ chức buổi lễ vào ngày thứ 7 trong chuỗi sự kiện mừng ngày sinh của Thân vương Atsuhira. Những món quà trong buổi lễ đã được trao đổi giữa Thiên hoàng và các nữ quan. Trong suốt buổi tối diễn ra buổi lễ, ánh mắt Murasaki Shikibu đều đánh về phía Hoàng hậu, người có bộ dạng ủ rũ, gầy yếu và xanh xao đi rất nhiều. Theo lời của Murasaki Shikibu thì "mái tóc của Hoàng hậu nếu được cột lên sẽ đẹp hơn" ; tuy nhiên sau đó bà đã dừng mô tả vì thấy lời lẽ bình phẩm của mình quá khiếm nhã so với bậc "mẫu nghi thiên hạ" như Hoàng hậu Akiko. "Chuẩn bị cho chuyến thăm của Hoàng gia" Sự kiện mô tả trong bản vẽ được diễn ra trong khoảng thời gian từ ngày 13 tháng 10 năm Kankō thứ 5 đến buổi sáng ngày 16 ( từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 11 năm 1008 theo dương lịch). Cảnh trong cuộn tranh được mở đầu bằng việc trồng hoa cúc trước cửa dinh thự của Nhiếp chính Quan bạch Michinaga nhằm chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của Thiên hoàng. Trong phần cảnh mô tả thứ hai, ta có thể thấy Murasaki Shikibu đang trầm ngâm về cuộc đời sầu muộn của mình với một "nỗi buồn sâu sắc", cùng với mong muốn có thể thích nghi với cuộc sống đó mà không cần phải suy nghĩ thêm nữa. Bà luôn dằn vặt rằng mình đã sống một cuộc đời đầy tội lỗi và mong muốn được hiến thân cho tôn giáo. Khi nhìn những con chim thủy điểu đang vui đùa vô tư trong hồ nước, nữ văn sĩ đã thủ bút một bài thơ waka: Ngày của chuyến viếng thăm của Hoàng gia (bản sao của Tanaka Shinbi) Phần lời dẫn thứ 6 trong cuộn tranh Fujita đã được bảo tồn dưới dạng một bản sao từ bản thảo gốc được viết bởi (1875–1975), nhà nghiên cứu và sưu tầm những tác phẩm nghệ thuật tuyệt tác của Nhật Bản, cũng là người đã tiến hành phục chế lại những văn tự cổ trong Genji Monogatari Emaki. Kể từ năm 1894, ông đã bắt đầu phục chế lại những đoạn dẫn chuyện trong Murasaki Shikibu Nikki Emaki. Những đoạn văn bản này không chứa bất kỳ hình ảnh minh họa nào và ngày nay là vật sở hữu của gia đình Tanaka. Cảnh được mô tả trong cuốn nhật ký nối tiếp cảnh thứ 5 trong cuộn tranh Fujita, nói về việc trao đổi thư từ giữa Murasaki Shikibu và một vị nữ quan tên là Koshosho. Việc bà gấp gáp phản hồi lại thư của đối phương đúng lúc mưa rào để không khiến người bên kia phải chờ đợi như "một vùng trời dữ tợn và đe dọa ", Murasaki Shikibu đã thêm những vần thơ sau đây vào lá thư của mình: Sau trời tối, bà liền nhận được hồi âm từ nữ quan Koshosho: Để thay đổi chủ đề viết, Murasaki Shikibu đã đề cập tới một sự kiện khác xảy ra cùng ngày, đó là việc Michinaga đi quan sát hai chiếc thuyền mới của ông, một chiếc được trang trí với hình rồng ở đầu mũi thuyên và chiếc còn lại được trang trí bằng đầu phượng hoàng, đã nhắc nhở nữ sĩ về những hình tượng sống động. Bức vẽ thể hiện điều đó trong emaki được vẽ theo sau phần lời dẫn thứ năm, thuộc phần cuối của cuộn tranh Fujita và trong bản gốc nó nằm trước cảnh dẫn thứ sáu, với việc minh họa cảnh chiêm ngưỡng những chiếc thuyền. Penelope Mason đã coi sự đa dạng trong những thành phần xuất hiện trong các tình tiết giống như những thứ đại diện cho sự hoài cổ vào thế kỉ 13, khi đó nội cung Hoàng gia Nhật Bản đã qua quá khứ hoàng kim của nó, mặc dù tác phẩm đã "khắc họa thoáng qua bản chất vui vẻ trong những khung cảnh tươi đẹp và lộng lẫy." Cuộn tranh cũ của gia tộc Morikawa/ Cuộn tranh gia tộc Matsudaira Vào năm 1920, Morikawa Kanichirō (森川勘一郎, 1887–1980) đến từ Nagoya đã phát hiện ra một cuộn tranh gồm 5 mảnh bức vẽ của Murasaki Shikibu Nikki Emaki, trong đó có chứa 5 bản vẽ và 5 đoạn dẫn truyện nằm đan xen nhau . Trước đây, cuộn tranh thuộc quyền sở hữu của gia tộc Matsudaira,gia tộc cai trị lãnh địa Saijō thuộc tỉnh Iyo, do đó, cuộn tranh này được tham khảo như là một "bản hiệu đính của gia tộc Matsudaira" và sau này nó còn được gọi là "Bản hiệu đính cũ của nhà Morikawa" (đừng nhầm lẫn với ấn bản Morikawa dưới đây đề cập trực tiếp đến gia tộc Morikawa ). Hai năm sau khi khám phá ra cuộn tranh, Morikawa đã bán nó cho một thương gia kiêm bậc thầy trà đạo đến từ vùng Niigata là Masuda Donō (益田鈍翁, 1847-1938, người đã cắt cuộn tranh ra làm 2 phần. Một phần thuộc bản hiệu đính với lời dẫn thứ 5 đã được truyền cho các thế hệ sau trong gia tộc Morikawa và hiện đang là bộ sưu tập riêng tư. Một năm sau, vào năm 1933, Donō đã tách riêng đoạn lời dẫn thứ 3 ra và định dạng lại tác phẩm dưới dạng tranh cuộn treo (hiện tại tác phẩm đang được quản lý bởi Bộ văn hóa Nhật Bản). Thông qua gia tộc Takanashi, ba cảnh còn lại (các cảnh số 1, 2, 4) đã được đóng khung vào năm 1934, một lần nữa lại bị đổi chủ sau khi nó được đưa vào bộ sưu tập của Bảo tàng Gotoh. Do đó, nó còn được biết với cái tên khác dựa trên bộ sưu tập là "bản hiệu đính Gotoh". Ngày nay, cuộn tranh của nhà Matsudaira đã được trưng bày ở 3 nơi khác nhau, một trong số đó là Quốc bảo và hai cuộn còn lại được xem là Tài sản Quốc gia quan trọng của nước Nhật. Trong khi cuộn tranh này không còn nguyên vẹn, người ta có thể đo được bản chế tác lại vào thế kỉ 20 dài khoảng . Ngoại trừ cảnh đầu tiên của bản phục chế Gotoh, cuộn tranh của gia tộc Matsudaira đã mô tả những sự kiện diễn ra vào ngày 1 tháng 11 năm Kankō thứ 5 (tức ngày 1 tháng 12 năm 1008), đó là ngày ika-no-iwai, tức lễ kỷ niệm 50 ngày sinh của Thân vương Atsuhira, về sau là Thiên hoàng Go-Ichijō. Bản hiệu đính Gotoh Bản hiệu đính Gotoh tương ứng với các cảnh 1, 2 và 4 trong cuộn tranh của gia tộc Matsudaira và đã được phân vùng từ cuộn gốc trong khoảng thời gian từ năm 1932 đến năm 1933 bởi Masuda Donō. Nó bao gồm 3 bức vẽ cùng với 3 đoạn chú thích được đóng khung riêng rẽ (có tất cả tổng cộng 6 phần trong cuộn tranh đó). Bộ cuộn tranh này đã được coi là Quốc bảo vào ngày on 28 tháng 6 năm 1956,và hiện tại tác phẩm đang được trưng bày tại bảo tàng Gotoh. "Một đêm đầy trăng" Cảnh trong bức tranh trên diễn ra vào ngày 17 tháng 10 năm Kankō thứ 5 (tức ngày 17 tháng 11 năm 1008), cho ta thấy hai kẻ say rượu đang cố gắng đột nhập vào nơi ở của Murasaki Shikibu sau khi bà đi ra ngoài và tận hưởng quang cảnh khu vườn. Trong bức tranh, ta có thể thấy Murasaki đã giữ cửa sổ bên trong nhà mình nhằm tránh mặt những người đàn ông. Người đầu tiên đến cung của bà là viên quan tổng quản (bên phải bức tranh), cũng là người đã mở phần trên của cánh cửa chéo trong nhà của Murasaki và hỏi xem có ai ở trong đó không. Theo lời của Murasaki Shikibu, ông ta dường như có ý định nhắm vào Hoàng hậu Akiko. Sanenari có thể đột nhập vào đây được là nhờ sự giúp sức của một vị quan tổng quản của các phi tần (có mối liên hệ với Akiko), tức người đã hỏi rằng: "Có ai ở đây không?" Murasaki thì thầm đáp lại, nhằm tránh đi bất cứ lời mời nào có thể coi là lời tán tỉnh. Cả hai vị quan này đều yêu cầu bà mở phần dưới cùng của cánh cửa ra. Vào thời kỳ Heian, việc một vị quan thượng cấp đột nhập vào nơi ở của những người thuộc cấp thấp hơn được coi là điều đáng hổ thẹn và có thể khiến họ mất thể diện; việc này chỉ có thể bao biện bằng cách nói rằng hai vị tỏng quản này vẫn còn rất trẻ . Ở góc trên bên trái, ta có thể thấy một thị nữ có tên là Saishō no Kimi, một người bạn của Murasaki. Khu vườn rộng lớn chiếm hơn nửa bức tranh trong khi nội cảnh chỉ chiếm một góc nhỏ được coi là một cách sắp xếp cảnh táo bạo. Theo lời của Penelope Mason thì "đây là một trong những cảnh buồn nhất và đẹp nhất trong cuộn tranh", diễn tả sự tương phản giữa vẻ đẹp của khu vườn tràn ngập ánh trăng và hồ nước trong veo với sự ngột ngạt, gò bó chốn cung đình. Cánh cửa shitomi cùng những vị quan tổng quản đã ngăn cách Murasaki Shikibu với thế giới bên ngoài, biến bà thành một tù nhân trong chính căn phòng của mình. Lễ kỷ niệm 50 ngày sinh của Thân vương Atsuhira Giống như những cảnh khác trừ cảnh đầu tiên của cuộn tranh Matsudaira, bức tranh này đã mô tả một sự kiện diễn ra vào ngày 1 tháng 11 năm Kankō thứ 5 (tức ngày 1 tháng 12 năm 1008 dương lịch), vào ngày Ika-no-iwai kỷ niệm ngày sinh của Thân vương Atsuhira, sau này là Thiên hoàng Go-Ichijō. Bức vẽ cho ta thấy một căn phòng bên trong shinden được phân vùng bởi căn phòng kichō có vách ngăn được làm từ những thân cây mục nát. Hoàng hậu Shōshi đang bế đứa con mới sinh ở trên tay, mọi người có thể nhìn thấy bà đang ngồi ở trên cùng, trong khi các nữ quan đang phục vụ rất nhiều món ăn được dùng cho nghi lễ ở phía dưới. Bức tranh vẽ cảnh thứ 3 đã được trưng bày tại Bảo tàng Gotoh ban đầu thuộc về phân đoạn thứ 4 trong cuộn tranh của gia tộc Matsudaira. Do đó, ban đầu tác phẩm do Bộ Văn hóa Nhật Bản nắm giữ và tiếp đó là phân đoạn thứ 5 của cuộn tranh Matsudaira được sở hữu bởi gia tộc Morikawa. Giống như những mảnh tranh trước đó, cảnh trong bức tranh này đã mô tả về lễ Ika-no-iwai được tổ chức cho Thân vương Atsuhira. Trong bức tranh đó, ta có thể thấy cảnh tượng các quan viên quý tộc say xỉn đang đùa giỡn và tán tỉnh cung nữ. Bức tranh này đã được chú ý đến vì đã khắc họa từng khuôn mặt và biểu cảm đời thường của từng nhân vật theo cách sinh động và chân thực nhất . Cuộn tranh cũ của gia tộc Ōkura Đây là loại cuộn tranh chỉ chứa một bức vẽ kèm với lời dẫn phía sau. Ban đầu ,nó thuộc về cảnh 3 của cuộn tranh của gia tộc Matsudaira trước khi được định dạng lại dưới dạng tranh cuộn bởi Masuda Donō vào năm 1933. Tại một số thời điểm, nó đã thuộc quyền sở hữu của gia tộc Ōkura (大倉家), nhưng hiện tại nó đang được sở hữu bởi Cục Văn hóa Nhật Bản và được bảo quản bởi Bảo tàng Quốc gia Tokyo. Cuộn tranh này đã được công nhận là Tài sản Văn hóa quan trọng vào ngày 31 tháng 3 năm 1953. Giống như những cảnh trước và sau của cuộn tranh (tức cảnh 2 và 3 lấy từ bản hiệu đính Gotoh), tác phẩm hội họa này đã mô tả lễ kỷ niệm 50 ngày sinh của Thân vương Atsuhira, sau này là Thiên hoàng Go-Ichijō vào buổi tối ngày 1 tháng 11 năm Kankō thứ 5 (tức ngày 1 tháng 12 năm 1008). Những nhân vật chính trong buổi lễ đều xuất hiện trong trang phục chỉn chu và bước vào một căn phòng được ngăn cách bởi những tấm kichō. Ông ngoại của Thân vương, tức Fujiwara no Michinaga ngồi ở phía dưới và làm nghi thức dâng bánh gạo (mochi) cho cháu trai mình như một nghi thức của buổi lễ. Vị nữ quan ngồi bên phải ông được cho là tác giả của cuốn nhật ký - Murasaki Shikibu. Bản vẽ thuộc gia tộc Morikawa ] Bản vẽ cuối cùng trong 5 bản vẽ thuộc cuộn tranh gia tộc Matsudaira đã được phân chia vào năm 1932 và đã được gắn lại dưới dạng cuộn tranh treo. Đoạn tranh này rộng khoảng Tên của nó được đặt theo tên của chủ sở hữu giống với bản hiệu đính của gia tộc Morikawa. Cuộn tranh có chứa các đoạn đơn lẻ với những bức vẽ minh họa ngắn mô tả nội thất bên trong căn phòng truyền thống Nhật Bản với cửa trượt fusuma, chiếu tatami cùng một bức rèm. Giống với hầu hết những phân đoạn tranh khác ngoại trừ đoạn đầu tiên của các cuộn tranh khác, cảnh trong cuộn tranh đã mô tả một buổi lễ diễn ra vào buổi tối ngày 1 tháng 11 năm Kankō thứ 5 (tức ngày 1 tháng 12 năm 1008), vào dịp kỷ niệm 50 ngày sinh của Thân vương Atsuhira, tức Thiên hoàng Go-Ichijō sau này. Trong buổi tối đó, Murasaki Shikibu và Saishō no Kimi đã ẩn mình khỏi đêm tiệc rượu no say của các quý tộc, nhưng cuối cùng họ lại bị Michinaga, Saishō no Chūjō và những người khác tìm thấy. Ta có thể thấy bố cục bản vẽ trên đã bị chi phối bởi hình tượng đồ sộ Fujiwara no Michinaga với trang phục áo khoác và quần thổ cẩm được đặt ở giữa phòng, còn Murasaki Shikibu và Saishō no Kimi được đặt bên rìa bức vẽ và cúi đầu xuống để thể hiện sự tôn trọng. Khi phát hiện ra hai nữ quan đang lẩn trốn, Michinaga đã yêu cầu một trong hai người viết một bài thơ cho ông ta. Murasaki đã cảm thấy vô cùng sợ hãi và bất lực, và bà đã viết nên bài thơ waka sau: Mặc dù đang trong cơn say, Michinaga vẫn viết một bài thơ khác hồi đáp lại: Theo những lời của Murasaki viết trong nhật ký thì "bài thơ trên xuất phát từ mong muốn sâu thẳm nhất của ngài Nhiếp chính". Dựa vào chủ đề mà nữ sĩ đã đề cập, ta có thế nhận thấy rằng cảnh trong bản vẽ trên có nét tương đồng với bản hiệu đính Azumaya trong "Genji emaki" với khoảnh khắc các quan viên quý tộc yêu cầu thơ phản hồi từ một người phụ nữ. Phần cuộn tranh này đã được công nhận là Tài sản văn hóa quan trọng của Nhật Bản vào ngày 19 tháng 7 năm 1952. Cuộn tranh cũ của gia tộc Hisamatsu/ Cuộn tranh gia tộc Hinohara Trước đây, cuộn tranh này thuộc quyền sở hữu của gia tộc Hisamatsu-Matsudaira, một nhánh của gia tộc Matsudaira nắm quyền cai trị lãnh địa Iyo-Matsuyama thời bấy giờ. Hiện tại, cuộn tranh đang thuộc về bộ sưu tập tư nhân của gia tộc Hinohara (日野原家, Nhật Dã Nguyên Gia). Do nguồn gốc di sản tổ tiên đa dạng, nó còn được gọi theo những cái tên khác nhau như "cuộn tranh cũ của gia tộc Hisamatsu" hoặc "cuộn tranh Hinohara". Cuộn tranh có chiều dài khoảng và bao gồm sáu phần lời dẫn chuyện xen kẽ với sáu bức tranh trải dài trên 13 trang giấy. Phần dẫn chuyện thứ tư tương đối dài và đã được chia đôi. Cuộn tranh Hinohara này đã được chỉ định là Tài sản văn hóa quan trọng của Nhật Bản. "Lễ hội Loài chim" Được đặt trong bối cảnh buổi tối ngày 29 tháng 12 năm Kankō thứ 5 (ngày 27 tháng 1 năm 1009), trong cảnh này, Murasaki Shikibu đã trở lại Hoàng cung sau chuyến thăm về nhà cha mẹ đẻ. Nhân dịp kỉ niệm ngày hồi cung ấy, nữ văn sĩ đã nhìn lại cuộc sống trước kia của mình với con mắt hoài cổ. Bà đã thì thầm những vần thơ waka này trong giấc ngủ và sự cô đơn: Bức vẽ đi kèm với lời dẫn chuyện đã cho người xem thấy cảnh tượng một người đàn ông đang đứng trên cầu thang của một ngôi nhà và hai người đàn ông khác đang đứng trên con thuyền ở bên ngoài. Phần tranh minh họa có sự kết nối với cảnh được mô tả trong lời dẫn chuyện mà hiện tại đang là phần tranh vẽ thứ năm trong cuộn tranh Hachisuka. "Sự cố buổi đêm" ] Cảnh truyện trên diễn ra vào một ngày không xác định vào năm Kankō thứ 6 (1009) với cảnh nữ quan Murasaki ngủ say trong đêm, trong một căn phòng với cửa ra vào khép kín; một người đàn ông đã gõ cánh cửa ấy. Với nỗi sợ khi phải mở cửa, bà đã thức cả đêm mà không hề tạo ra tiếng động nào. Sáng hôm sau, vị khách buổi đêm ấy đã tiết lộ mình là Michinaga thông qua một bài thơ ông ta gửi cho bà. Bà đã phản hồi lại bằng những dòng sau: "Ngày thứ ba trong lễ kỷ niệm ngày sinh của Thân vương Atsuhira" Các cảnh từ 4 đến 6 đã mô tả cho người xem về lễ kỷ niệm 50 năm ngày sinh của Thân vương Atsunaga, tức Thiên hoàng Go-Suzaku sau này. Buổi lễ được tổ chức vào ngày 15 tháng 1 năm Kankō thứ 7 (tức ngày 1 tháng 2 năm 1010 dương lịch). Phần dẫn truyện thứ tư dài của văn bản được chia thành hai phần. Murasaki Shikibu đã đề cập ngắn gọn về mối quan hệ thân thiết giữa bà với một vị Nữ quan tên Kokosho và nói rằng bà đã ở chung với bằng hữu của mình trong một căn phòng được ngăn cách bởi vách ngăn kichō chỉ khi cả hai đều ở nhà. Hành vi này khiến Michinaga cho rằng họ đang ngồi lê đôi mách về người khác. Murasaki Shikibu sau đó mô tả chi tiết về các lễ hội trong ngày: về Hoàng hậu và các quan khách của bà, về trang phục cùng tên và chức danh của những người tham gia bao gồm Thiên hoàng, vị Thân vương mới sinh và các cung nữ. Lóa mắt trước sự hiện diện của họ, nữ sĩ đã trốn vào một căn phòng bên trong. Với tư cách là vú nuôi của vị Thân vương sơ sinh, vị phu nhân tên Nakadaka bế Thân vương trên tay và bước theo sau Thiên hoàng và Hoàng hậu. Murasaki Shikibu đã ca ngợi phong thái trang nghiêm, yên tĩnh và nghiêm túc của vị phu nhân ấy. Bức tranh liên quan đến cảnh này mô tả cảnh bốn cận thần trên ban công ( engawa ) của một ngôi nhà được xây dựng theo phong cách truyền thống Nhật Bản với những tấm vải rủ kín bên ngoài, những người đi qua không thể nhìn thấy những gì đang xảy ra bên trong. Bức tranh mô tả hai người đàn ông đang đi bộ, những người khác đang quỳ và dường như đang nói chuyện với một người bên trong tòa nhà hoặc đang đưa thứ gì đó cho người ở bên trong, còn hai người khác thì đang mang khay đựng cốc. Trong cảnh tiếp theo, ta có thể thấy những chiếc bục mà các nhân vật trong tranh thường ngồi, được che chắn bởi tấm rèm misu, được mở ra và Murasaki Shikibu ghi chú thêm rằng chỉ có những người có địa vị cao và các nữ quan mới có thể ngồi trên những chiếc bục được đặt bên ngoài ban công. Những người có phẩm cấp thấp hơn sẽ ngồi ở những bậc thang phía dưới nơi các vị Hoàng thất đang ngồi và biểu diễn các loại nhạc cụ như đàn tỳ bà (biwa), đàn hạc (koto) và sáo (shō). Bức tranh cũng đã khắc họa cảnh hai người phụ nữ quyền quý ngồi trên ban công và vén bức mành misu lên. Cả hai dường như đang tụ lại ở một góc và trò chuyện cùng nhau. Tiếp đó là một đoạn dẫn chuyện ngắn, với cảnh cuối cùng trong cuộn tranh và cùng là phần cuối cùng mà chúng ta biết của cuốn nhật ký. Những nhạc công chính thức được chọn để biểu diễn trong yến hội là những người ở bên ngoài, một trong số đó đã "phạm phải sai lầm ở những nốt nhạc và hơi huýt sáo". Một vị Hữu Đại thần đã phạm phải một lỗi sai trầm trọng khi tán dương một điệu đàn koto sáu dây. Những lời trong bức Emaki (và cả cuốn nhật ký) kết thúc với hình ảnh món quà gồm hai chiếc hộp đựng sáo của Michinaga. Hình ảnh đã cho ta thấy cảnh ba vị viên quan quý tộc ngồi ở dãy ban công phía bên ngoài. Bên trái bức vẽ là hình ảnh cây đàn koto truyền thống của Nhật ở trước mặt một trong những người đàn ông ấy, đầu của anh ta hướng về phía hai người còn lại, bọn họ đều đang tập trung vào thứ đang ở ngay trước mặt mình (có thể đó là những nhạc cụ). Xem thêm Danh sách Quốc bảo Nhật Bản (về hội họa) Chú thích Tham khảo Tài liệu tham khảo : Original text, Romaji, Modern Japanese, Annotated version, Reprint, Emaki Ghi chú Thư mục tham khảo . Emakimono Quốc bảo Nhật Bản thế kỷ 13 Văn học Nhật Bản Hội họa Nhật Bản Tài sản Văn hóa quan trọng ở Nhật Bản Murasaki Shikibu Văn học thế kỷ 13
19821276
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anoscopus%20albifrons
Anoscopus albifrons
Anoscopus albifrons là một loài côn trùng trong họ Họ Rầy xanh. Loài này được Carl Linnaeus mô tả lần đầu tiên vào năm 1758, trong ấn bản thứ 10 của cuốn sách Systema Naturae của ông. Nó phân bố trên khắp châu Âu, quần đảo Azores, một phần của Hoa Kỳ và Canada. Nó sinh sống ở những vùng đồng cỏ và trên cây thân thảo, có hoa lá rộng. Phân loài Anoscopus albifrons có hai phân loài hiện được công nhận. Tuy nhiên, loài này không khác nhiều so với A. limicola và A. duffieldi, và có khả năng là cùng loài với chúng. Nó tạo thành một quần thể giao phối với limicola, và duffieldi có thể được coi là một phân loài thích nghi đặc biệt. A. a. albifrons (Linnaeus, 1758) A. a. mappus Guglielmino và Bückle, 2015 Miêu tả Con đực Anoscopus albifrons dài 3–4 mm (0,12–0,16 in), trong khi con cái dài 4–5 mm (0,16–0,20 in). Giống như các loài khác trong chi Anoscopus, A. albifrons có đỉnh đầu tròn và hoa văn đặc biệt. Tuy nhiên, cả con đực và con cái vẫn khó phân biệt, mặc dù đôi khi có thể xác định được con đực từ các bức ảnh. Con đực của loài này có các dải ngang màu nhạt thay đổi và chỉ có thể được phân biệt với A. limicola, A. albiger và A. duffieldi bằng cách kiểm tra thể giao cấu của chúng. Con cái có màu hơi nâu và nhiều đốm, với các đặc điểm tương tự con cái của A. duffieldi. Phân bố và môi trường sống Loài này có nguồn gốc từ châu Âu, được tìm thấy ở Bồ Đào Nha, Pháp, Ý, Đức, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, Áo, Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan, Latvia, Estonia, Vương quốc Anh và Đảo Man. Ngoài ra, nó đã được đưa đến Azores. A. albifrons cũng đã được du nhập vào Bắc Mỹ, ở vùng Ngũ Đại Hồ và Tây Bắc Thái Bình Dương. Tham khảo 1758. Tomus I. Holmiæ (Stockholm): impensis direct. Laurentii Salvii. 824 pp. }}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}|}} }}}} . <noinclude> : deemed to have been published on 1 January 1758 by ICZN Article 3.1 . Reference templates Linnaeus, C. (1758a) II. Hemiptera. In Systema naturae per regna tria naturae, secundum classes, ordines, genera, species, cum characteribus, differentiis, synonymis, locis. Tomus I. Editio decima, reformata. Laurentius Salvius, Holmiae. pp. 434–439. [iv + 823] https://doi.org/10.5962/bhl.title.542 Liên kết ngoài Côn trùng mô tả năm 1758 Nhóm loài do Carl Linnaeus đặt tên A Côn trùng châu Âu Côn trùng Hoa Kỳ Côn trùng Canada Động vật được mô tả năm 1758
19821278
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gian%20Piero%20Ventura
Gian Piero Ventura
Gian Piero Ventura (; sinh ngày 14 tháng 1 năm 1948) là huấn luyện viên bóng đá người Ý. Sự nghiệp thi đấu của ông với tư cách là một tiền vệ đã trải qua ở các giải đấu thấp hơn, không đạt được thành tích tại Sampdoria, nơi ông bắt đầu sự nghiệp huấn luyện của mình với đội trẻ vào năm 1976. Ông ra mắt tại Serie A với Cagliari vào năm 1998, và cũng huấn luyện Udinese, Messina, Bari, Torino và Chievo ở hạng đấu hàng đầu. Ventura là huấn luyện viên của Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý từ năm 2016 đến năm 2017. Ông đã bị sa thải khi họ không thể vượt qua vòng loại FIFA World Cup 2018, lần đầu tiên họ vắng mặt tại giải đấu kể từ năm 1958. Tham khảo Huấn luyện viên Sinh năm 1948 Người còn sống
19821280
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2n%20Th%E1%BB%A5c%20S%C6%A1n%20ki%E1%BA%BFm%20hi%E1%BB%87p
Tân Thục Sơn kiếm hiệp
Tân Thục Sơn kiếm hiệp () là bộ phim võ hiệp kỳ ảo siêu nhiên của Hồng Kông công chiếu năm 1983 do Từ Khắc đạo diễn và dựa trên cuốn tiểu thuyết tiên hiệp Thục Sơn kiếm hiệp truyện của Hoàn Châu Lâu Chủ. Bộ phim gây tiếng vang vì đã kết hợp các yếu tố của điện ảnh hành động Hồng Kông với công nghệ hiệu ứng đặc biệt do nhóm nghệ sĩ phương Tây bao gồm Robert Blacack cung cấp. Phim này từng đem lại ảnh hưởng cho bộ phim Mỹ năm 1986 mang tên Big Trouble in Little China. Tân Thục Sơn kiếm hiệp đã nhận được năm đề cử tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 3: Biên đạo hành động xuất sắc nhất cho Nguyên Khuê, Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho Lâm Thanh Hà, Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất cho Trương Thúc Bình, Biên tập phim xuất sắc nhất cho Trương Diệu Tông và Hình ảnh xuất sắc nhất cho Hoàng Trọng Tiêu. Cốt truyện Dưới thời Ngũ Hồ Thập lục quốc, nhiều quốc gia giao chiến ở Thục Sơn, lính trinh sát Địch Minh Kỳ từ Tây Thục tình cờ đi lạc vào khu vực cấm của Huyết Ma và được kiếm tiên phái Nam Hải là Đinh Dẫn cứu thoát. Địch Minh Kỳ cầu xin Đinh Dẫn chọn mình làm đồ đệ với lý do cứu nhân độ thế nhưng bị từ chối. Sau đó, Địch Minh Kỳ gặp được sư đệ của Đinh Dẫn là Hiểu Như với tư cách là trưởng môn phái Côn Luân, và đệ tử Nhất Chân, cùng hợp lực với Trường My đạo nhân, lão tổ phái Nga Mi, hòng trấn áp Huyết Ma, kết quả là Trường My đạo nhân đã sử dụng pháp bảo Kính Hạo Thiên để khuất phục Huyết Ma nhưng rốt cuộc Hiểu Như bị Huyết Ma đoạt lấy thân thể. Bốn người bèn trốn thoát khỏi hang động của Huyết Ma và đến tiên bảo Dao Trì điều trị vết thương, thế rồi nơi đây đã diễn ra một cuộc chiến khốc liệt. Cuối cùng, Đinh Dẫn bị Huyết Ma chiếm hữu thân xác, và Bảo Chủ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đóng băng tiên bảo, chỉ có Nhất Chân, Địch Minh Kỳ và môn đồ tiên bảo là Nhược Lan thoát chết. Cả ba kết thành bạn thân rồi cùng nhau đến Đỉnh Thiên Đao để tìm kiếm tiên Lý Diệc Kỳ, thỉnh cầu vị này xuống núi lấy song kiếm màu tím và xanh lam cứu giúp dân tình đang gặp khổ nạn. Diễn viên Hồng Kim Bảo vào vai Trường My đạo nhân và tên lính áo đỏ Nguyên Bưu vào vai Địch Minh Kỳ Trịnh Thiếu Thu vào vai Đinh Dẫn Lâm Thanh Hà vào vai Bảo Chủ Lý Tái Phụng vào vai Nhược Lan Ông Thiến Ngọc vào vai Lý Diệc Kỳ Nguyên Khuê vào vai Hộ pháp Ma giáo Lưu Tùng Nhân vào vai Hiểu Như Mạnh Hải vào vai Nhất Chân Từ Thiếu Cường vào vai Thiên Đao lão nhân Chung Phát vào vai tướng lĩnh quân áo xanh Địch Uy vào vai tướng lĩnh quân áo xanh Hạ Quang Lê vào vai Cơ Vô Sương Gia Ly vào vai tên lính áo cam Phùng Khắc An vào vai Hộ pháp Ma giáo Nguyên Vũ vào vai tên lính áo cam Tây Qua Bào vào vai người lái đò Từ Khắc vào vai tên lính áo xanh Jørn Bertram vào vai Đại phu Đón nhận Trong một bài báo trên Fangoria năm 1991 của Tim Paxton và Dave Todarello, Tân Thục Sơn kiếm hiệp được mệnh danh là "một bộ phim tự do đan xen giữa truyền thuyết và thần thoại Trung Quốc với FX đặc biệt của Hollywood và hành động theo kiểu truyện tranh. Đó là chuyến tàu lượn siêu tốc của kung fu, ma thuật, quái vật, hài hước, căng thẳng, cảnh tượng trực quan và những điều ghê rợn". Craig Lines của Den of Geek viết rằng Tân Thục Sơn kiếm hiệp "là một bộ phim quan trọng cho phong trào 'Làn sóng mới' của điện ảnh Hồng Kông đã cách mạng hóa ngành công nghiệp này vào cuối thập niên 1970", đặc trưng bởi "các nhà làm phim trẻ [những người] đã thoát khỏi hệ thống studio truyền thống để tạo ra những bộ phim kỳ lạ, tràn đầy năng lượng và mang tính thử nghiệm". Lines ca ngợi màn diễn xuất của các diễn viên và chỉ đạo võ thuật, đồng thời ghi nhận "thông điệp ấm áp, đầy tình cảm về lòng nhân ái và sự tán thưởng" của bộ phim này". Tân Thục Sơn kiếm hiệp được coi là có ảnh hưởng đến bộ phim năm 1986 Big Trouble in Little China của John Carpenter. Truyền thông Bản DVD tại Vương quốc Liên hiệp Anh của Hong Kong Legends có phần bình luận bằng âm thanh với Từ Khắc và nhà phê bình phim Bey Logan. Bản DVD tại Hồng Kông của Fortune Star Media có phiên bản tiếng Quảng Đông của đoạn giới thiệu phim, cũng như một cuộc phỏng vấn với nam diễn viên Nguyên Bưu. Tham khảo Liên kết ngoài Phim năm 1983 Phim võ thuật năm 1983 Phim hành động năm 1983 Phim phiêu lưu kỳ ảo thập niên 1980 Phim siêu nhiên thập niên 1980 Phim làn sóng mới Hồng Kông Phim hành động Hồng Kông Phim võ thuật Hồng Kông Phim kỳ ảo Hồng Kông Phim võ hiệp Phim võ thuật kỳ ảo Phim do Từ Khắc đạo diễn Phim lấy bối cảnh ở Tứ Xuyên Phim Hồng Kông thập niên 1980 Phim lấy bối cảnh nhà Tấn (266–420) Thập lục quốc trong tác phẩm giả tưởng
19821283
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sonata%20s%E1%BB%91%208%20cho%20d%C6%B0%C6%A1ng%20c%E1%BA%A7m%20%28Mozart%29
Sonata số 8 cho dương cầm (Mozart)
Bản sonata cho piano số 8 cung La thứ , K. 310/300d là một bản sonata của Wolfgang Amadeus Mozart sáng tác vào năm 1778. Tác phẩm này là bản sonata đầu tiên trong số hai bản sonata dành cho piano của Mozart được viết ở một điệu thứ (bản còn lại là số 14 cung đô thứ, K. 457). Tác phẩm được sáng tác vào mùa hè năm 1778, vào khoảng thời gian mẹ Mozart qua đời, một trong những thời điểm đen tối nhất trong cuộc đời của ông. Hoàn cảnh sáng tác Có rất ít thông tin về hoàn cảnh chính xác xung quanh việc sáng tác bản sonata số 8, không giống như bản Sonata số 7 cung đô trưởng trước đó, K. 309/284b vì tác phẩm này ít được đề cập trong thư từ của ông. Bản nhạc còn sót lại của sonata số 8 được viết từ cùng một loại giấy được sử dụng cho Bản giao hưởng số 31 cung Rê trưởng, K. 297/300a mà Mozart đã mua khi ở Paris. Bản sonata là một trong những sáng tác ít ỏi mà Mozart viết ở giọng thứ trong danh mục của Mozart. Được sáng tác cùng với Bản sonata cho vĩ cầm số 21 cung Mi thứ, K. 304/300c, có ý kiến cho rằng sự qua đời đột ngột của mẹ Mozart có thể đã dẫn đến tâm trạng u ám hơn trong những bản nhạc này. Cấu trúc Tác phẩm thông thường trình diễn trong khoảng 22 phút, gồm ba chương: Tham khảo Nguồn Đọc thêm Articles with hAudio microformats Nhạc khúc La thứ Bài viết có nguồn tham khảo tiếng Đức (de) Tác phẩm của Wolfgang Amadeus Mozart
19821285
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Sinpo%20%28Incheon%29
Ga Sinpo (Incheon)
Ga Sinpo (Tiếng Hàn: 신포역, Hanja: 新浦驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Suin–Bundang, nằm ở Sa-dong, Jung-gu, Incheon. Lịch sử 27 tháng 2 năm 2016: Khai trương đoạn Songdo ~ Incheon của Tuyến Suin và khai trương nhà ga. 29 tháng 5 năm 2020: Sửa đổi điểm đầu và khoảng cách theo sửa đổi của bảng khoảng cách đường sắt. 12 tháng 9 năm 2020: Kết nối trực tiếp với Tuyến Bundang với việc khai trương đoạn Suwon ~ Oido 12 tháng 9 năm 2020: Số nhà ga được đổi thành K271 do mở Tuyến Suin–Bundang Bố trí ga Xung quanh nhà ga Thành phố đô thị Incheon Văn phòng Jung-gu Sở cảnh sát trung tâm Incheon Cảng vụ Incheon Bưu điện Incheon Jungdong Chi nhánh KT Hangdong Trạm cứu hỏa Incheon Jungbu Văn phòng Đại dương và Nghề cá khu vực Incheon Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1 Ga Dongincheon Siêu thị điện tử Dongincheon Chợ quốc tế Sinpo Trường trung học thương mại nữ Incheon Trường trung học Songdo Trường tiểu học Incheon Sinheung Bến tàu cảng Incheon 1 Trung tâm phúc lợi hành chính Sinpo-dong Nhà ga hành khách quốc tế Incheon Nhà thờ Dap-dong Ga kế cận Tham khảo Sinpo Sinpo Sinpo Sinpo
19821303
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C3%B2%20ch%C6%A1i%20gia%20t%C4%83ng
Trò chơi gia tăng
Trò chơi gia tăng, còn được gọi là trò chơi nhấn, trò chơi nhấp chuột (trên máy tính) hoặc trò chơi chạm (trong các trò chơi di động), là những trò chơi video mà lối chơi bao gồm việc người chơi thực hiện các hành động đơn giản như nhấp lên màn hình một cách lặp đi lặp lại. Việc "cày" này giúp người chơi kiếm được tiền tệ trong trò chơi, tiền tệ này có thể được sử dụng để tăng tỷ lệ thu thập tiền tệ. Trong một số trò chơi, thậm chí việc nhấp trở nên không cần thiết tại một số thời điểm, vì trò chơi sẽ tự chơi, ngay cả khi người chơi không có mặt, vì vậy còn có tên gọi là trò chơi nhàn rỗi. Cơ chế Tiến triển mà không có tương tác, hoặc tương tác rất hạn chế Trong một trò chơi gia tăng, người chơi thực hiện các hành động đơn giản, thường là nhấp vào một nút hoặc đối tượng và nhận được tiền tệ như phần thưởng. Người chơi có thể sử dụng tiền tệ để mua các vật phẩm hoặc khả năng cho phép người chơi kiếm tiền nhanh hơn hoặc tự động mà không cần thực hiện hành động ban đầu. Một chủ đề phổ biến là cung cấp cho người chơi các nguồn thu nhập được hiển thị dưới dạng các tòa nhà như nhà máy hoặc trang trại. Những nguồn này tăng tỷ lệ sản xuất tiền tệ, nhưng những nguồn cấp cao hơn thường có giá cao hơn theo cấp số nhân, vì vậy việc nâng cấp giữa các cấp độ thường mất thời gian tương tự hoặc thậm chí càng ngày càng lâu hơn. Cơ chế này mang lại một trải nghiệm ít áp lực (người chơi không cần phải chơi liên tục), không có điều kiện thua, và sự tăng trưởng và phản hồi liên tục, lý tưởng cho các kiểu chơi trên mạng xã hội hoặc trên thiết bị di động, và thường dẫn đến tỷ lệ giữ chân người chơi rất cao. Nó thường dựa vào tăng trưởng theo cấp số nhân (hoặc có thể là tăng trưởng theo đa thức bậc cao), vốn bị hạn chế bởi quy luật hiệu suất giảm dần. Tăng trưởng nhanh Sự tăng trưởng nhanh chóng của chi phí, sức mạnh và phần thưởng là điều làm cho trò chơi gia tăng thú vị và đầy thoả mãn. Các trò chơi gia tăng thường xuyên kết hợp các con số rất lớn trong việc tính toán phần thưởng/sức mạnh, sử dụng ký hiệu khoa học (1x1034), ngắn gọn (1M, 1T, v.v.), viết tắt (1a, 1b, 1aa, 1ab), hoặc từ mới được sáng tạo (ví dụ "duoquadragintillion"), đôi khi làm cho việc ghi lại điểm cao trở thành một vấn đề đối với máy chủ. Bản chất của cơ chế này liên quan đến một vòng lặp: người chơi đăng nhập, tiêu hết tiền tệ của họ và đăng xuất trong vài giờ. Điều này tương tự (hoặc thậm chí là xuất phát từ) khái niệm "tiền tệ năng lượng" trong các trò chơi xã hội, nơi người chơi nhận được một năng lượng mỗi giờ. Khác biệt là trong các trò chơi nhàn rỗi này, cơ chế này là tự nhiên, trong khi trong các trò chơi xã hội khác, nó là được tạo ra để hạn chế người chơi. Cơ chế này có thể được chấp nhận hơn đối với những người chơi chính không thích trò chơi xã hội. Nó kết hợp với hộp thoại trong thế giới thực (ví dụ: "Tôi hết tiền; tôi cần trở lại khi tôi có nhiều hơn.") và mang lại cho người chơi nhiều sự kiểm soát hơn về quyết định của họ. Nhiều mục tiêu và thành tựu Cơ chế này cung cấp những khoảnh khắc vui vẻ trải dài trong suốt quá trình chơi, nhằm chống lại cảm giác nhàm chán. Cơ chế này cũng có thể liên quan đến cơ chế trước đó của việc cung cấp sức mạnh/phần thưởng hơn khi đạt được mục tiêu hoặc thành tựu, điều này dẫn đến quyết định tối ưu và hướng đi có ý nghĩa. New Game Plus Là một cơ chế trong giai đoạn cuối của trò chơi hoặc cơ chế nâng cao, một số trò chơi có hệ thống dựa trên việc thiết lập lại hoặc "New Game Plus", thuật ngữ được đặt bởi Chrono Trigger (1995), nơi người chơi thiết lập lại tiến trình trò chơi của họ và đạt được một loại tiền tệ khác (prestige). Loại tiền tệ mới này thường được sử dụng để nhận các phần thưởng chung mà không biến mất sau một lần thiết lập lại, cho phép người chơi tiến xa hơn so với lần thiết lập lại trước đó, hoặc để người chơi chơi lại trò chơi với sức mạnh lớn hơn, thường với một số lựa chọn khi khởi động lại. Điều này cuối cùng sẽ tạo ra một vòng lặp không giới hạn của trò chơi và nhiều chiến lược chơi khác nhau. Nó tạo ra một lớp lặp khác: người chơi chơi từ đầu. Tap Titans (2014, bởi Game Hive) là một trong những trò chơi tiên phong của cơ chế prestige trong các trò chơi di động. Cơ chế này thường là tùy chọn; người chơi có thể chọn "prestige" khi họ cảm thấy họ đã chạm tới một "bức tường" và cảm thấy tiến trình của họ đang bị chậm lại (so với chi phí). Cơ chế này mang lại cho người chơi cảm giác tiến triển nhanh chóng, mà cảm giác này rất đáng được thưởng thức. Một số trò chơi bao gồm nhiều tầng prestiging, từ đó tạo ra nội dung mới, siêu tiền tệ hoặc lối chơi khả dụng. Realm Grinder bởi Divine Games (2015), giới thiệu việc từ bỏ, tái sinh và thăng cấp. Kết thúc mở hoặc vòng lặp đóng Các trò chơi gia tăng khác nhau về việc có điều kiện chiến thắng hay không: như trong trò chơi Cookie Clicker, người chơi có thể chơi mãi mãi, trong khi các trò chơi như Candy Box! hoặc Universal Paperclips có các kết thúc có thể đạt được sau một số tiến trình nhất định. Kiếm tiền Được tiên phong bởi trò chơi AdVenture Capitalist, nhà phát triển có thể bán các tính năng tăng cường cao cấp như thu nhập tiền tệ nay lập tức (thường là một phần trăm của tỷ lệ thu nhập hiện tại) hoặc đôi khi được gói gọn dưới dạng "time-warp" (đạt ngay x giờ thu nhập tương lai), bội số tăng cường vĩnh viễn sau mỗi lần trở lại ban đầu, trở lại ngay sau khi nâng cấp, bảo vệ chống lại các sự kiện xấu, hệ thống gacha (rút thăm ngẫu nhiên để nhận nhân vật hoặc phần thưởng vĩnh viễn), và tiền tệ sự kiện. Mặt khác, họ cũng có thể cung cấp quảng cáo để người chơi nhận được phần thưởng nhỏ, chẳng hạn như một khoản tiền nhỏ, gấp đôi thu nhập ngoại tuyến, một lượng nhỏ tiền tệ cao cấp, tăng cường mạnh trong thời gian ngắn/tăng cường nhỏ trong thời gian trung bình, điểm thăng cấp bổ sung sau mỗi lần nâng cấp, giảm trạng thái xấu, v.v. Lịch sử Theo Anthony Pecorella trong các cuộc nói chuyện tại hội nghị GDC của anh ấy, trò chơi nhàn rỗi đầu tiên được xem là Progress Quest (2002) bởi Eric Fredriksen, đây là một trò chơi nhại lại các chỉ số và tự động tấn công của MMORPG. Anh ấy lập luận rằng Kongregate là nền tảng ban đầu cho thể loại này, vì một số người chỉ muốn trò chuyện, vì vậy, trò chơi đầu tiên của thể loại này có tựa đề thích hợp là Kongregate Chat (24 tháng 7 năm 2007, bởi John Cooney), trong đó trò chơi chỉ tự chạy và mọi người chỉ trò chuyện trong phần trò chuyện của trò chơi. Trong khi một trong những trò chơi nhàn rỗi trực quan đầu tiên ("RPG thô sơ" theo Pecorella) là Ayumilove's HackerStory v1 (2008, bởi Ayumilove), vốn là một trò nhại lại việc quét bot trong trò chơi Maple Story, một trò chơi MMORPG nổi tiếng của Hàn Quốc lúc bấy giờ. Những người tiên phong đầu tiên của trò chơi nhàn rỗi cũng thấy một số trò chơi nhại lại trò chơi nhàn rỗi, chẳng hạn như Anti-Idle (2009, bởi tukkun) có cả yếu tố của trò chơi hoạt động và trò chơi nhàn rỗi, đồng thời cực kỳ phức tạp, nội dung phong phú và được cập nhật liên tục; nó đã giúp phổ biến thể loại này. Một trò chơi nhàn rỗi trên nền tảng Facebook, được gọi là Cow Clicker (2010, bởi Ian Bogost), mà theo tác giả, "một lý thuyết châm biếm và có thể chơi được về các trò chơi xã hội vào thời đại đó,... Các trò chơi trên Facebook đã chắt lọc được bản chất của chúng.", là người đầu tiên nhận được sự chú ý của giới truyền thông chính thống. Một trò chơi nhại lại trò chơi nhàn rỗi khác (và nhại lại chủ nghĩa tư bản) có tên AdVenture Capitalist (2015, bởi Cody Vigue / Hyper Hippo Games) cũng đạt được thành công như một trò chơi trên trình duyệt và sau đó đã được cung cấp trên nhiều nền tảng. Đây là một trong những trò chơi đầu tiên triển khai kiếm tiền cũng như thu nhập ngoại tuyến tính toán tiến trình của người chơi trong thời gian họ ngoại tuyến, không giống như các trò chơi nhàn rỗi dựa trên trình duyệt trước đây chỉ chạy khi mở trong cửa sổ trình duyệt. Một số trò chơi nhàn rỗi không đi theo kết thúc vô hạn mà thay vào đó chọn kết thúc hữu hạn, giống như dựa trên khám phá và giải đố hơn, chẳng hạn như A Dark Room (2013, bởi Doublespeak Games) và Candy Box! (2013, bởi aniwey). Trò chơi gia tăng đã trở nên phổ biến vào năm 2013 sau thành công của Cookie Clicker, mặc dù các trò chơi trước đó như Cow Clicker và Candy Box! đều dựa trên cùng một nguyên tắc. Make It Rain (2014, bởi Space Inch) là trò chơi nhàn rỗi lớn đầu tiên trên thiết bị di động thành công, mặc dù các yếu tố nhàn rỗi trong trò chơi bị hạn chế nhiều, yêu cầu check-in để tiến triển. Vào năm 2015, giới báo chí về trò chơi điện tử đã quan sát thấy những trò chơi như vậy phát triển nhanh chóng trên nền tảng phân phối Steam với các tựa game như Clicker Heroes (2014, bởi Playsaurus). Các trò chơi nhàn rỗi khác đã trở thành cổ điển bao gồm Sandcastle Builder (2013, bởi Eternal Density) dựa trên truyện tranh xkcd 1190: Time, Sharky Clicker (2014, bởi Cirr), Crank (bởi FaeDine), và Kitten Game (2014, bởi Bloodrizer). Trong quá trình phát triển của thể loại này, khả năng kiếm tiền (thông qua quảng cáo hoặc các chỗ khác), nội dung cao cấp và các cơ chế trò chơi khác đang dần được thêm vào. Đón nhận Nathan Grayson của Kotaku đã cho rằng sự phổ biến của các trò chơi nhàn rỗi đến từ khả năng cung cấp sự giải trí không đòi hỏi quá nhiều thách thức, phù hợp với thói quen hàng ngày của một người, trong khi sử dụng các chủ đề và tính thẩm mỹ của các trò chơi phức tạp hơn để hấp dẫn những người chơi chính. Grayson cũng nhận xét rằng thể loại này cho phép một loạt cơ chế và chủ đề trò chơi khác nhau, chẳng hạn như kỳ ảo, khoa học viễn tưởng và nội dung kích dục, nhằm cung cấp đủ chiều sâu về mặt cảm nhận để tránh làm người chơi nhàm chán. Justin Davis của IGN mô tả thể loại này như được điều chỉnh để tạo ra một cảm giác không ngừng của việc tăng lên, khi các nâng cấp và vật phẩm đắt đỏ trở nên có sẵn một cách nhanh chóng, chỉ để trở nên tầm thường và bị thay thế bằng những thứ khác. Điều này dẫn đến việc người chơi cảm thấy mạnh mẽ và yếu đuối cùng một lúc trong việc theo đuổi sự tiến triển theo cấp số nhân. Julien "Orteil" Thiennot (người sáng tạo của các trò chơi như Cookie Clicker) miêu tả những tác phẩm của mình là "không phải trò chơi". Vào đầu năm 2014, Orteil đã phát hành phiên bản sớm của Idle Game Maker, một công cụ cho phép tạo ra các trò chơi nhàn rỗi tùy chỉnh mà không cần kiến thức về lập trình. Bình luận về tính chất giễu nhại của thể loại này, Pecorella nhận xét rằng "[trò chơi nhàn rỗi] là một thể loại gần như không muốn tồn tại; đó là một trò đùa, mặc dù vậy, nó vẫn tiếp tục thành công", và về các trò chơi nhàn rỗi phổ biến nói chung, "rất nhiều trong số này chỉ là bảng tính được trang trí với một số cơ chế thú vị trong đó." Ảnh hưởng Thể loại trò chơi nhàn rỗi theo nhiều cách đã ảnh hưởng đến các thể loại khác. Pecorella (2015) đã xác định một số thể loại bao gồm các yếu tố nhàn rỗi trong cơ chế của chúng: Trò chơi xã hội và chiến lược thời gian thực: Hay Day, Mafia Wars, Game of War MMORPG Trung Quốc (bỏ qua phần đầu trò chơi thông qua "chế độ AFK" và đi thẳng đến phần cuối trò chơi): Mythborne sử dụng chế độ đường dẫn tự động, Wartune, trong số những trò chơi khác Trò chơi bắn súng, trò chơi nhập vai và các thể loại khác cũng bắt đầu giới thiệu các trò chơi nhàn rỗi nhỏ hoặc vòng lặp prestige ngắn bên trong, trong khi một số giới thiệu tiến trình ngoại tuyến để lôi kéo người chơi quay trở lại, cho phép kết hợp các thể loại, từ trò chơi nhịp điệu nhàn rỗi đến trò chơi nhập vai, đến trò chơi giải đố và mô phỏng hẹn hò. Auto clicker Một auto clicker là một phần mềm tự động hoặc một macro thường được sử dụng để tự động hóa quá trình nhấp chuột (hoặc chạm) trong các trò chơi nhàn rỗi. Một số trò chơi nhàn rỗi sử dụng việc nhấp chuột như một phương pháp để thu thập tiền tệ khi hoạt động (để bổ sung cho phần nhàn rỗi), và người chơi đôi khi có thể sử dụng một auto clicker để tự động hóa phần này, từ đó có được tài nguyên/tiền tệ nhanh hơn. Pecorella, trong bài nói chuyện tại hội nghị GDC năm 2016, lập luận rằng auto clicker được coi là cần thiết đối với bất kỳ người chơi trò chơi nhàn rỗi "nghiêm túc" nào và rằng điều này không phải là gian lận, mà thay vào đó là một sự khám phá về một sai lầm trong thiết kế. Tham khảo Thể loại trò chơi điện tử Thuật ngữ trò chơi điện tử
19821304
https://vi.wikipedia.org/wiki/Richard%20Abel
Richard Abel
Richard Abel (sinh năm 1955) là một nhạc sĩ và nghệ sĩ dương cầm người Canada. Ông đã được đề cử cho giải thưởng Juno award ba lần. Cuộc đời sớm Con trai của một tài xế taxi, người sau này trở thành một thợ thủ công, Richard Abel đến từ một gia đình rất khiêm tốn. Sự thích thú với âm nhạc và dương cầm đến từ người mẹ của ông. Ông bắt đầu chơi theo tai khi còn là một đứa trẻ, nhưng không học dương cầm cho đến khi ông 14 tuổi với các ni cô. Kinh nghiệm biểu diễn đầu tiên của ông trước khán giả là vào các ngày Chủ Nhật tại nhà thờ Marie-Reine-des-Cœurs ở Montreal, trong những gì được gọi là các lễ trình diễn nhịp điệu (còn được gọi là "gogo masses"). Ông đã làm điều này trong hai năm và ông nói rằng cũng tại nhà thờ này, ông trình diễn buổi biểu diễn solo đầu tiên của mình khi 18 tuổi. Sau đó, ông học nhạc tại École normale de musique ở Westmount và tại Cégep de Saint-Laurent ở Montreal, với Armas Maiste, nghệ sĩ dương cầm của Dàn nhạc giao hưởng Montreal. Để trang trải cho việc học, ông trở thành một nghệ sĩ dương cầm accompanist tại trường hát nổi tiếng của Roger Larivière, người cũng là giáo viên của Ginette Reno. Sự nghiệp Richard Abel bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp đầu tiên của mình là vai trò nghệ sĩ dương cầm và nhạc trưởng cho ca sĩ Quebec Michel Louvain. Sau đó, ông đồng hành cùng cặp đôi hài Ti-Gus et Ti-Mousse (Réal Béland - cha, Ti-gus và Denyse Émond, , điều này cho phép ông trở thành một nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng bằng cách cho phép ông biểu diễn nhiều solo trong các buổi biểu diễn của họ. Sau đó, ông tham gia vào sân khấu âm nhạc trong các buổi hòa nhạc nổi tiếng của nghệ sĩ Guilda. Richard Abel cho rằng sân khấu âm nhạc đã giúp ông học hỏi nhiều nhất. Ông phải học cách múa bước (thậm chí ông nhận được bằng cấp cấp ba từ Trường Al Gilbert ở New York City vào năm 1983), hát, diễn xuất, thay đổi trang phục nhanh chóng và quan trọng nhất là thu hút sự chú ý của khán giả. Ngoài ra, ông cũng đã đồng hành cùng nghệ sĩ Alys Robi và các nghệ sĩ nổi tiếng khác, giúp ông biểu diễn tại nhiều khách sạn lớn và quán piano tại tỉnh Quebec. Ông đã gặp nghệ sĩ dương cầm người Mỹ Liberace ba lần, ảnh hưởng của Liberace đã ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp của ông, đặc biệt là trong việc chọn bản nhạc và một số kỹ thuật biểu diễn. Tuy nhiên, Richard Abel khẳng định ông không bao giờ bắt chước Liberace. Ông cho rằng khác với Liberace, ông không mặc trang phục, trừ khi khái niệm chương trình yêu cầu, như trong buổi biểu diễn kiểu Viên - Elegancia của mình. Ông đã ghi âm đĩa đầu tiên của mình, một đĩa vinyl 45 vòng/phút hoặc đĩa đơn, vào năm 1980 bao gồm hai tác phẩm Clin d'œil (tiếng Pháp có nghĩa là nháy mắt) và Thaïs. Tuy nhiên, chỉ khi ra mắt album đầu tiên của mình (Enfin - nghĩa là Cuối cùng, năm 1988) thì sự nghiệp của ông dưới vai trò nghệ sĩ solo mới thực sự bắt đầu phát triển. Mặc dù vậy, sự nghiệp của ông ít được tiết lộ trên phương tiện truyền thông chínhstream, thu nhập của ông khiêm tốn và Richard Abel phải đối mặt với khó khăn trong việc kiếm đủ sống. Ông đã tổ chức các chuyến lưu diễn quảng cáo để quảng bá âm nhạc của mình. Ông đã thực hiện các chuyến lưu diễn quảng cáo tại các trung tâm thương mại ở tỉnh Quebec, tăng doanh số bán đĩa và lòng trung thành của khán giả. Ông đã tổ chức một buổi hòa nhạc riêng tư dành cho Hoàng tử Philip, Công tước Edinburgh, tham gia các bữa tiệc tiếp khách quốc gia (Jeanne Sauvé, Tổng thống Costa Rica, Tổng thống Iceland) và thậm chí đã đóng góp vào nhạc nền của loạt phim truyền hình He Shoots, He Scores. Ông cũng đã thực hiện hai chuyến lưu diễn đi khắp Canada cùng với Dàn nhạc Glenn Miller. Album Mélodies của ông đã được đề cử cho Album của năm cho âm nhạc nhạc cụ tại Lễ trao giải ADISQ năm 1991. Năm 1992, album Giáng sinh đầu tiên của ông, Noël au piano (nghĩa là Giáng sinh trên piano), đã giúp ông giành được giải Félix Award đầu tiên của ADISQ cho Album nhạc cụ của năm. Album Instrumental Memories năm 1993 và album Pour le Plaisir/Just for fun năm 1995 của ông cũng đều được đề cử cho giải Félix cho Album nhạc cụ của năm. Pour le Plaisir/Just for fun đã được chứng nhận Bạch kim tại Canada vào năm 1996 với hơn 100.000 bản bán ra. Vào ngày 3 tháng 1 năm 1996, ông đã trúng vé số, Lotto 6/49, với một vé mà ông mua cùng cha mình. Phần thưởng của ông là 714.000 đô la. Richard Abel khẳng định rằng việc trúng xổ số này không có liên quan gì đến sự thành công về doanh số bán của album Pour le plaisir/Just for fun. Trái với tin đồn, Richard Abel chưa bao giờ trúng giải xổ số lần thứ hai. Câu chuyện này chỉ là một trò đùa vào ngày 1 tháng 4 năm 1997 được khởi xướng bởi nhà báo Jean-Paul Sylvain của báo Journal de Montréal. Richard Abel giành giải Félix thứ hai cho Album nhạc cụ của năm với Pour le plaisir, just for fun vol. 2. Album này đã đạt được chứng nhận Vàng vào năm 1997 với 50.000 bản bán ra tại Canada. Năm 2000, ông ghi âm một album, Inspiration Classique (nghĩa là Cảm hứng Cổ điển), cùng với Prague Philharmonic Orchestra (Dàn nhạc giao hưởng Prague). Bản thu này đã được chứng nhận Bạch kim và giúp ông giành được giải Félix thứ ba cho album nhạc cụ xuất sắc nhất tại Lễ trao giải ADISQ. Romance (2001) và Élegancia (2006) đều giúp ông được đề cử cho giải Félix cho Album nhạc cụ của năm. Sau đó, ông trình diễn tại các sân khấu lớn hơn tại Québec, bao gồm La salle Wilfrid-Pelletier vào các năm 2001, 2004, 2006 và 2008, làm phần mở màn hoặc trong một chương trình và là một nghệ sĩ solo tại Théâtre Maisonneuve tại Place des Arts vào năm 1986, và năm 2015 như một phần mở màn. Ông đã biểu diễn tại Bell Centre năm 2005 và Place Bell năm 2017. Năm 2005, ông ghi âm một album Hommage aux compositeurs canadiens et québécois (tạm dịch là Tưởng nhớ các nhà soạn nhạc Canada và Québec) cho Reader's Digest World tại Brussels (Bỉ), album này đã giành giải Félix cho Album nhạc cụ của năm. Năm 2006, với tư cách là người phát ngôn cho Hiệp hội Bại não, ông đã tổ chức một buổi diễn tại Paris tại phòng UNESCO. Ông cũng đã tổ chức một buổi hòa nhạc khác tại Lyon tại Bourse du travail trước 2000 khán giả, cùng với Nanette Workman, Martin Deschamps và Yves Duteil. Ông giành giải Félix khác cho Album nhạc cụ của năm với album Noël, Christmas, Navidad, Weihnachten, Natale, Kerstmis, Jul năm 2008. Ông đã ghi âm một chương trình truyền hình có tên Elegancia, được phát sóng trên PBS vào năm 2009. Nhờ lời mời từ các tổ chức từ thiện, bao gồm Atmavishwas, Richard Abel đã thực hiện 4 chuyến lưu diễn tại Ấn Độ vào các năm 2011, 2012, 2014 và 2019. Vào tháng 11 năm 2016, ông đã xuất bản cuốn hồi ký của mình, Richard Abel: mon histoire en noir et blanc. Cuốn sách này đã có hơn 5000 bản bán ra và được coi là một cuốn sách bán chạy ở Québec. Trong suốt sự nghiệp của mình, Richard Abel đã bán được hơn một triệu album và DVD. Các giải thưởng Richard Abel đã được đề cử cho giải Juno Award cho nghệ sĩ nhạc cụ tốt nhất vào năm 1996 và 1997 và cho album nhạc cụ tốt nhất vào năm 2002. Ngoài ra, Abel cũng đã giành được năm giải Felix Award. Chú thích Liên kết ngoài Sinh 1955 Nhân vật còn sống Nghệ sĩ dương cầm thế kỷ 21
19821306
https://vi.wikipedia.org/wiki/Los%20Cabos%20Open%202023
Los Cabos Open 2023
Giải quần vợt Los Cabos Mở rộng 2023 (còn được biết đến với Mifel Tennis Open by Telcel Oppo vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt ATP thi đấu trên mặt sân cứng ngoài trời. Đây là lần thứ 7 giải đấu được tổ chức, và là một phần của ATP Tour 250 trong ATP Tour 2023. Giải đấu diễn ra ở Los Cabos, Mexico từ ngày 31 tháng 7 đến ngày 5 tháng 8 năm 2023. Điểm và tiền thưởng Phân phối điểm Tiền thưởng *mỗi đội Nội dung đơn Hạt giống Bảng xếp hạng vào ngày 24 tháng 7 năm 2023. Vận động viên khác Đặc cách: Ernesto Escobedo Nicolás Jarry Rodrigo Pacheco Méndez Vượt qua vòng loại: Omni Kumar Gonzalo Lama Skander Mansouri Beibit Zhukayev Thua cuộc may mắn: Jason Jung Rút lui Nuno Borges → thay thế bởi Gabriel Diallo Karen Khachanov → thay thế bởi Jason Jung Nội dung đôi Hạt giống 1 Bảng xếp hạng vào ngày 24 tháng 7 năm 2023. Vận động viên khác Đặc cách: Luis Carlos Álvarez / Luca Lemaitre Ernesto Escobedo / Rodrigo Pacheco Méndez Nhà vô địch Đơn Stefanos Tsitsipas đánh bại Alex de Minaur, 6–3, 6–4 Đôi Santiago González / Édouard Roger-Vasselin đánh bại Andrew Harris / Dominik Koepfer, 6–4, 7–5 Tham khảo Liên kết ngoài Los Cabos Open Los Cabos Open 2023
19821311
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0n%20Ch%C3%A2u%20L%C3%A2u%20Ch%E1%BB%A7
Hoàn Châu Lâu Chủ
Lý Thọ Dân (; ngày 28 tháng 2 năm 1902 – Tháng 2 năm 1961), tên lúc đầu là Lý Thiện Cơ (李善基), sau đổi thành Lý Hồng (李红), nổi tiếng với bút danh Hoàn Châu Lâu Chủ (), người Trường Thọ, Tứ Xuyên (nay là Trùng Khánh), là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết kiếm hiệp và tiên hiệp của Trung Quốc. Cuốn tiểu thuyết năm 1946 của ông có nhan đề Liễu Hồ hiệp ẩn (), phần tiền truyện của kiệt tác Thục Sơn kiếm hiệp truyện (), là một trong những tiểu thuyết kiếm hiệp đầu tiên được dịch sang tiếng Anh. Những tác giả kiếm hiệp khác có tiểu thuyết nằm trong số những tác phẩm đầu tiên được dịch sang tiếng Anh bao gồm Vương Bảo Tường, Cung Bạch Vũ, Trịnh Chứng Nhân và Chu Trinh Mộc. Tiểu sử Hoàn Châu Lâu Chủ chào đời vào năm Quang Tự thứ 28 thời Thanh (1902), xuất thân từ nhà thế gia hoạn quan, tên ban đầu là Lý Thiện Cơ (sau đổi tên thành Lý Thọ Dân và Lý Hồng được sử dụng sau năm 1949). Cha ông là Lý Nguyên Phụ từng một thời ra làm Tri phủ Tô Châu dưới thời Quang Tự. Hồi còn trẻ, Lý Thọ Dân thường cùng cha du ngoạn nam bắc, thưởng ngoạn phong cảnh các nơi, sau khi cha qua đời, gia đình lâm vào cảnh nghèo khó nên ông chỉ học ở Tô Châu vài năm rồi bỏ học ra đi làm sớm. Từ nhỏ ông đã say mê cựu học, đọc rộng kinh điển Phật giáo và Đạo giáo, đồng thời luyện tập võ thuật và khí công. Ông thông thạo học thuyết lý luận ba nhà Nho, Phật, Lão, giỏi thuật số học, y học, bói toán và chiêm tinh. Người ta đồn rằng trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Trung Quốc trong Thế chiến thứ hai, ông đã tính toán được vận may của viên đại tá người Nhật và cứu ông này thoát khỏi tai họa chết người. Năm 19 tuổi, ông làm công chức chính phủ Bắc Dương ở Bắc Bình (nay là Bắc Kinh). Năm 1932, Thục Sơn kiếm hiệp truyện được xuất bản nhiều kỳ trên Thiên Phong báo ở Thiên Tân, toàn sách hơn một triệu chữ, có ảnh hưởng sâu sắc đến các thế hệ tiểu thuyết và điện ảnh Trung Quốc sau này. Trong giai đoạn sau, do số lượng lời mời ngày càng nhiều, tham vọng của tác giả dần tăng lên, đồng thời, ông tiếp tục viết thêm phần tiền truyện, hậu truyện, tân truyện, ngoại truyện và biệt truyện cho Thục Sơn kiếm hiệp truyện. Nó kéo dài nhiều thế hệ trước sau theo thời gian và không gian được mô tả trong Thục Sơn kiếm hiệp truyện. Kết quả là cái đuôi quá lớn đến mức không thể đưa ra phần tổng kết cuối cùng của Thục Sơn kiếm hiệp truyện, khiến cho ba trận đấu kiếm của phái Nga Mi trở nên bí ẩn hơn trong lòng độc giả. Sau đó bộ truyện được Lệ Lực xuất bản xã ấn hành, viết đến năm 1949 vẫn chưa xong tập này. Cũng có nhiều tin đồn khác về cuốn Thục Sơn kiếm hiệp truyện chưa hoàn thành, bao gồm cả việc sau Thế chiến thứ hai, mạng lưới văn học ở Trung Quốc đại lục ngày càng trở nên bó buộc hơn, do đó tác giả không còn có thể viết tiểu thuyết kỳ ảo được nữa, và Hoàn Châu Lâu Chủ đành phải mưu sinh bằng nghề viết kịch bản hí khúc cho đến lúc mất vì ung thư thực quản vào năm 1961. Về phần kết của tập này, có tin đồn rằng con trai ông từng tiết lộ với bạn bè của cha mình rằng cha ông đã hoàn thành bản thảo trước khi qua đời và giao cho bạn mình xuất bản ở Hồng Kông, nhưng vì sao cuốn này chưa bao giờ được xuất bản hiện giờ vẫn còn là một bí ẩn. Tháng 3 năm 1949, ông dừng việc sáng tạo và xuất bản cuốn Thục Sơn kiếm hiệp hậu truyện còn dang dở ở Thượng Hải, kể từ đó, ông cống hiến hết mình để thể hiện sự sáng tạo của võ hiệp trong thời đại mới mang hơi hướng trừ bạo an dân và Đào Nguyên nhạc thổ. Từ năm 1949 đến tháng 5 năm 1951, ông viết và xuất bản 13 tiểu thuyết kiếm hiệp, trong đó có bộ Nữ hiệp Dạ Minh châu. Về sau, do tình hình chính trị chấm dứt, truyện này được cải biên để tạo kịch bản cho Thượng Tiểu Vân và những người khác trình diễn. Năm 1958, tờ Văn nghệ học tập đăng bài viết mang tên "Đừng để Hoàn Châu Lâu Chủ tiếp tục thả độc", khiến ông bị kích động mạnh đến nỗi mắc chứng xuất huyết não; ít lâu sau thì qua đời vì ung thư thực quản vào tháng 2 năm 1961, hưởng dương 59 tuổi. Bộ truyện Thục Sơn kiếm hiệp truyện là tác phẩm đầu tay và tiêu biểu của tác giả. Hoàn Châu Lâu Chủ là bút danh mà ông sử dụng trong tất cả các tác phẩm của mình. Tác phẩm Năm 1932: Thục Sơn kiếm hiệp truyện tổng cộng 50 hồi, 309 chương, 4,1 triệu chữ. Nội dung được xếp vào thể loại tiểu thuyết kiếm hiệp. Truyện được đăng nhiều kỳ trên Thiên Phong báo ở Thiên Tân vào đầu tháng 7 năm đó; do Thiên Tân Lệ Lực ấn thư cục (sau đổi tên thành Lệ Lực xuất bản xã) xuất bản thành các tập riêng biệt; từ tháng 10 năm 1946, tập 36 do Thượng Hải Chính khí thư cục xuất bản cho đến năm 1948, tập 50 được xuất bản vào tháng 9. Do sự thay đổi chế độ tại đại lục, truyện vẫn chưa kết thúc và phần tiếp theo là Thục Sơn kiếm hiệp hậu truyện gồm 5 tập. Có tin đồn rằng 5 tập này là giả mạo, không phải do Hoàn Châu Lâu Chủ viết. Năm 1934: Man Hoang hiệp ẩn 5 tập. Năm 1935: Thanh Thành thập cửu hiệp (Thục Sơn biệt truyện) 25 tập. Năm 1938: Biên Tắc anh hùng phổ (Biên Tắc anh hùng truyện) còn gọi là Thục Sơn tân truyện 3 tập. Năm 1941: Luân đề. Năm 1943: Cao Lan dị nhân truyện, Thiên Sơn phi hiệp 2 tập. Năm 1946: Võ Đang dị nhân truyện (Thục Sơn biệt truyện) 3 tập, Liễu hồ hiệp ẩn (Thục Sơn tiền truyện) 6 tập, Nga Mi thất nụy, (Thục Sơn chính truyện) 3 tập. Năm 1947: Lãnh hồn dục (Biên Tắc anh hùng truyện tục tập) 2 tập, Bắc Hải đồ long ký, (Thục Sơn tiền truyện) 3 tập, Hổ Trảo sơn vương 1 tập, Hiệp cái Mộc Tôn Giả 1 tập, Hắc hài nhi, Thục Sơn kiếm hiệp tân truyện, câu chuyện trong tập này không liên quan gì đến nguyên tác Thục Sơn mà chỉ kể về biến cố của nhiều thế hệ phái Nga Mi, bản thân câu chuyện này không có gì nổi bật và không thể so sánh với nguyên tác. Năm 1948: Thanh Môn thập tứ hiệp 4 tập, Quan Trung cửu hiệp, Vạn Lý cô hiệp, Đại Mạc anh hùng 4 tập, Đại hiệp Địch Long Tử 8 tập, Trưởng Mi chân nhân chuyên tập, Chinh Luân hiệp ảnh 7 tập, Thục Sơn kiếm hiệp hậu truyện, Nữ hiệp Dạ Minh châu 5 tập. Năm 1949: Võ Đang thất nữ (Võ Đang dị nhân truyện tục tập) 2 tập, Binh thư hạp 1 tập, Long Sơn tứ hữu 3 tập, Độc thủ cái 2 tập. Năm 1950: Hắc mã nghĩ, Hắc sâm lâm 2 tập, Tửu hiệp thần y, Thiết địch tử 1 tập, Dực nhân ảnh vô song 2 tập. Năm 1951: Quyền vương, Bạch khô lâu 1 tập. Năm 1956: Nhạc Phi truyện. Năm 1957: Du hiệp Kịch Mạnh. Năm 1958: Thập ngũ quán, Du hiệp Quách Giải. Năm 1960: Đỗ Phủ (tác phẩm truyền miệng do thư ký của tác giả là nữ sĩ Hầu Tăng ghi chép lại, đã không được xuất bản vào thời điểm đó, rồi sau được thu thập vào bộ Hoàn Châu Lâu Chủ toàn tập do Nhà xuất bản Văn nghệ Bắc Nhạc và Nhà xuất bản Nhân dân Sơn Tây đồng xuất bản). Vân Hải tranh kỳ ký (Thục Sơn ngoại truyện), không rõ năm xuất bản. Hắc hài nhi 3 tập, không rõ năm xuất bản. Vạn Lý cô hiệp 2 tập, không rõ năm xuất bản. Lực, không rõ năm xuất bản. Chuyển thể Thục Sơn kiếm hiệp truyện được chuyển thể thành rất nhiều phiên bản, từ truyền hình cho đến điện ảnh: Tân Thục Sơn kiếm hiệp (phim Hồng Kông năm 1983) Thục Sơn kỳ hiệp (phim truyền hình Hồng Kông năm 1990) Thục Sơn kỳ hiệp chi tiên lữ kỳ duyên (phim truyền hình Hồng Kông năm 1991) Thục Sơn truyện (phim Hồng Kông năm 2001) Thục Sơn chiến kỷ chi kiếm hiệp truyền kỳ (phim truyền hình Trung Quốc năm 2015) Tham khảo Liên kết ngoài Giới thiệu về Hoàn Châu Lâu Chủ Sinh năm 1902 Mất năm 1961 Người Trùng Khánh Nhà văn Trung Quốc Tiểu thuyết gia kiếm hiệp Nam tiểu thuyết gia Trung Quốc Tiểu thuyết gia Trung Quốc thế kỷ 20
19821316
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hu%E1%BB%B3nh%20T%C3%BA%20Anh
Huỳnh Tú Anh
Huỳnh Tú Anh tên đầy đủ là Huỳnh Thị Tú Anh (sinh 29 tháng 12 năm 2002) là một nữ người mẫu Việt Nam. Cô đạt danh hiệu Quán quân The Face Vietnam 2023 và cô chính thức trở thành đại sứ quảng bá cho thuơng hiệu mỹ phẩm MAC Cosmetics 2023. Trước đó cô từng lọt vào Top 24 Tiktok FashUP 2022. Tiểu sử Huỳnh Tú Anh sinh năm 2002 tại Bình Dương, cô từng học tại THPT Võ Minh Đức và hiện tại đang học tập và làm việc tại TPHCM. Sự nghiệp Tiktok FashUp 2022 Cô tham dự và cô đã lọt vào top 24 chung cuộc. The Face Vietnam 2023 Cô chính thức ghi danh tại The Face Vietnam - Gương mặt người mẫu Việt Nam 2023 và cô thuộc đội của HLV Anh Thư, được đánh giá là một trong những thí sinh có gương mặt đậm chất thời trang cao cấp (high fashion) trong top 15. Ngay từ vòng casting, Tú Anh được biết đến với câu chuyện truyền cảm hứng về hành trình giảm cân để thực hiện đam mê người mẫu và cô chính thức đạt danh hiệu quán quân chung cuộc. Thành tích Top 24 Tiktok FashUP 2022 Quán Quân The Face Vietnam 2023 Chiến thắng Master Class tập 6 Chiến thắng thử thách M.A.C Cosmetics tập 9 Được xuất hiện trên trang bìa tạp chí thời trang Harper's Bazaar Vietnam Trở thành gương mặt đại diện cho Tuần lễ Thời trang Quốc tế Việt Nam – Vietnam International Fashion Week Thu Đông 2023 Liên kết ngoài Tham khảo Người Bình Dương Người họ Huỳnh tại Việt Nam Nữ người mẫu Việt Nam
19821322
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%91i%E1%BB%87n%20t%E1%BB%AD%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022
Thể thao điện tử tại Đại hội Thể thao châu Á 2022
Thể thao điện tử sẽ là một trong những bộ môn được thi đấu tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 và được tổ chức tại thành phố Hàng Châu, Trung Quốc từ ngày 24 tháng 9 năm 2023 đến ngày 02 tháng 10 năm 2023. Đây sẽ là lần đầu tiên Thể thao điện tử trở thành một bộ môn tranh huy chương chính thức tại Đại hội Thể thao châu Á và là lần thứ 4 được tổ chức tại một Sự kiện thể thao nhiều bộ môn với lần cuối tổ chức tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2019 ở Philippines, Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021 ở Việt Nam và Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023 ở Campuchia. Tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 được tổ chức tại Jakarta, Indonesia, năm bộ môn được đưa vào thành các nội dung trình diễn. Tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 sẽ có tổng cộng 8 nội dung tranh huy chương và 2 nội dung trình diễn. Các bộ môn thi đấu Thể thao điện tử đã được giới thiệu tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 như là một Thể thao biểu diễn, do vậy, các huy chương giành được trong môn thể thao này sẽ không được tính vào tổng số huy chương chính thức. Tại Đại hội Thể thao châu Á 2022, có tổng cộng 8 bộ môn tranh huy chương trong Thể thao điện tử và 2 bộ môn biểu diễn là Robot and VR. Thể thao điện tử sẽ nằm trong hạng mục thể thao trí tuệ. AliSports, bộ phận thể thao của Công ty công nghệ đa quốc gia Trung Quốc, Tập đoàn Alibaba, đã hợp tác với Hội đồng Olympic châu Á để tổ chức Thể thao điện tử tại Đại hội Thể thao châu Á. Tháng 3 năm 2023, Hội đồng Olympic châu Á đã thông qua quyết định loại bỏ Hearthstone khỏi danh sách các sự kiện do đóng cửa dịch vụ của Blizzard tại Trung Quốc đại lục. Danh sách những bộ môn thi đấu Bộ môn tranh huy chương PUBG Mobile (phiên bản Đại hội Thể thao châu Á) Dota 2 Liên Minh Huyền Thoại Dream Three Kingdoms 2 FIFA Online 4 Street Fighter V Liên Quân Mobile (phiên bản Đại hội Thể thao châu Á, tựa game Vương giả vinh diệu) Bộ môn biểu diễn AESF Robot AESF Thể thao Thực tế ảo Lịch thi đấu Địa điểm Tất cả các bộ môn Thể thao điện tử tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 sẽ được tổ chức tại Trung tâm Thể thao điện tử quận Hạ Thành, sau được đổi tên thành Trung tâm Thể thao điện tử Hàng Châu. Trung tâm khởi công xây dựng ngày 24 tháng 9 năm 2020, và chính thức đi vào hoạt động ngày 15 tháng 3 năm 2022. Trung tâm có diện tích 80,000 m2 và sẽ có tổng cộng 4,087 chỗ ngồi. Road to Asian Games 2022 Một giải đấu dùng để xét điều kiện tham gia gọi là AESF Road to Asian Games 2022 (Đường đến Đại hội thể thao châu Á 2022) được tổ chức tại Ma Cao, Trung Quốc từ ngày 15 tháng 6 đến ngày 15 tháng 7 cho tất cả 7 bộ môn. Kết quả của giải đấu sẽ được sử dụng để xác định trước việc phân chia những quốc gia tham dự và không có quốc gia nào bị loại thông qua giải đấu này. Hàn Quốc và Nhật Bản không tham gia giải đấu này. Vì một số lý do, đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại Việt Nam đã không kịp hoàn thành các thủ tục để tham dự giải đấu này. Theo thông báo từ ban tổ chức AESF Road to Asian Games 2022, đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại Việt Nam được xếp vào nhóm 3 - khu vực Đông Nam Á. Việc vắng mặt ở AESF Road to Asian Games 2022 sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến vị thế cũng như việc phân chia bảng đấu của đội tuyển Liên Minh Huyền Thoại Việt Nam tại Đại hội Thể thao châu Á 2022. Tham khảo
19821357
https://vi.wikipedia.org/wiki/Odontorrhina
Odontorrhina
Odontorrhina là một chi bọ cánh cứng thuộc phân họ Cetoniinae, gồm bốn loài và hai phân loài. Cơ thể của tất cả các loài được bao phủ bởi lớp lông nhỏ. Chúng được cho là có quan hệ họ hàng gần nhất với chi Trichostetha. Các loài thuộc chi đã được ghi nhận ở các tỉnh Bắc Cape và Tây Cape của Cộng hòa Nam Phi, với một ghi nhận chưa được xác nhận ở miền nam Namibia. Chúng là loài đặc hữu của vùng Fynbos và Succulent Karoo. Các loài O. hispida Odontorrhina hispida có màu đồng kim loại nhạt và toàn bộ lưng của chúng được bao phủ bởi lớp lông ngắn màu cam xỉn hoặc vàng. Chúng dài khoảng 18 mm và ngang 11 mm. Ấu trùng của O. hispida đã được tìm thấy cùng với ấu trùng của Ichnestoma coetzeri dưới các cây họ Cúc hoặc họ Táo. Các nhà sưu tập coi chúng là loài hiếm. Phạm vi của loài tập trung hơn ở trong đất liền và về phía đông so với các loài khác của chi Odontorrhina. Môi trường sống chủ yếu của chúng là miền núi. O. krigei Odontorrhina krigei gần như màu đen hoàn toàn, bao gồm cả lớp lông cứng của chúng ở hầu hết các cá thể. Loài này dường như dành phần lớn thời gian trưởng thành của mình trong hoặc xung quanh các gò mối, nơi chúng cũng phát triển dưới dạng ấu trùng. Giống như O. hispida, phạm vi phân bố của loài tập trung nhiều hơn trong đất liền so với các loài khác và chúng bị giới hạn ở nhiều vùng núi hơn. O. maraisi Odontorrhina maraisi có màu từ đồng đến đen trên lưng và xanh ôliu đến đồng ở mặt dưới. Tiêu bản thu được của loài này khác với O. hispida ở chỗ lông của chúng có màu trắng thay vì nâu vàng hoặc vàng, và với O. pubescens ở chỗ màu sẫm hơn. Loài này có thể dài khoảng 17,5–22 mm và có chiều ngang 10–12 mm. Tên loài, maraisi, được đặt theo tên của Andre P. Marais, người dẫn đầu các quan sát về loài này. O. pubescens O. pubescens có lớp lông cứng mỏng trên lưng và lông dày ở mặt dưới. Lưng có màu xanh đồng và chân có màu xanh lục sáng. Loài này có hai phân loài: O. p. hantam và O. p. pubescens. O. p. hantam bị giới hạn ở khu vực cao hơn. Tình trạng bảo tồn Mặc dù không có loài Odontorrhina nào được đưa vào Sách đỏ IUCN, một bài báo năm 2012 cho rằng các loài thuộc chi này có khả năng bị đe dọa nếu tác động của biến đổi khí hậu ở các khu vực mà chúng là loài đặc hữu trở nên tồi tệ hơn. Vòng đời Hầu hết các loài Odontorrhina phát triển dưới dạng ấu trùng dưới các bụi cây, tận dụng bóng râm để bảo vệ khỏi cái nóng hoặc mất nước. Chỉ trừ Odontorrhina krigei sử dụng các gò mối với mục đích tương tự. Ấu trùng O. krigei ăn chất thải từ gò mối, trong khi ấu trùng của các loài khác ăn lá mục. Hình ảnh Tham khảo Cetoniinae Côn trùng châu Phi Động vật Nam Phi
19821361
https://vi.wikipedia.org/wiki/Whisnu%20Sakti%20Buana
Whisnu Sakti Buana
Whisnu Sakti Buana (22 tháng 10 năm 1974 – 27 tháng 5 năm 2023) là một chính trị gia người Indonesia. Ông giữ chức thị trưởng Surabaya trong thời gian ngắn từ tháng 12 năm 2020 đến tháng 2 năm 2021, chủ yếu với chức vụ quyền thay thế Tri Rismaharini. Ông là phó thị trưởng Surabaya dưới sự lãnh đạo của Tri Rismaharini từ năm 2014 đến 2015 và từ năm 2016 đến năm 2020. Đầu đời Whisnu sinh ngày 22 tháng 10 năm 1974 tại Surabaya. Cha của Whisnu, , là chính trị gia cấp cao của Đảng Dân chủ - Đấu tranh Indonesia (PDI-P), và là phó chủ tọa của Hội nghị Hiệp thương Nhân dân. Whisnu học kỹ thuật tại Học viện Công nghệ tháng 11 Sepuluh ở Surabaya và đạt bằng cử nhân. Sự nghiệp Whisnu là thành viên của hội đồng thành phố Surabaya, ông là phó chủ tọa của cơ quan lập pháp với tư cách là thành viên của PDI-P. Trong khi là phó chủ tọa vào năm 2010, ông bị chủ tọa Wisnu Wardhana mời ra khỏi phòng trong cuộc tranh cãi về loại thuế được đề xuất. Ông được chỉ định kế nhiệm Bambang Dwi Hartono giữ chức phó thị trưởng dưới quyền Tri Rismaharini (Risma) vào ngày 8 tháng 11 năm 2013, nhưng ông chỉ nhậm chức vào ngày 24 tháng 1 năm 2014. Với vai trò cấp phó của Risma, Whisnu công khai phản đối quyết định đóng cửa của bà vào năm 2014, dẫn chứng việc phụ thuộc kinh tế của cư dân địa phương và mất việc làm ngoại trừ những lao động tình dục. Bất chấp mâu thuẫn trên, Risma vẫn chọn Whisnu là ứng cử viên liên danh và cả hai được bầu lại sau cuộc bầu cử thị trưởng năm 2015 với hơn 86% phiếu bầu. Nhiệm kỳ đầu tiên của Risma và Whisnu kết thúc vào ngày 28 tháng 9 năm 2015, và nhiệm kỳ thứ hai bắt đầu vào ngày 17 tháng 2 năm 2016. Risma được bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ Xã hội vào ngày 23 tháng 12 năm 2020, Whisnu giữ quyền thị trưởng vào ngày hôm sau. Ông chính thức nhậm chức thị trưởng vào ngày 11 tháng 2 năm 2021, mặc dù nhiệm kỳ của ông chỉ kéo dài một tuần, vì kết thúc vào ngày 17 tháng 2 năm 2021. Whisnu đăng ký tranh cử với tư cách là ứng cử viên của PDI-P trong cuộc bầu cử thị trưởng năm 2020, nhưng đảng này đã ủng hộ Eri Cahyadi với ứng cử viên liên danh , và Whisnu vận động cho Cahyadi trong cuộc bầu cử. Whisnu dự định tranh cử một ghế trong Hội đồng Đại diện Nhân dân Khu vực Đông Java trong cuộc tổng tuyển cử năm 2024. Qua đời Whisnu qua đời vào ngày 27 tháng 5 năm 2023 do nhồi máu cơ tim. Ông được an táng vào ngày hôm sau tại Nghĩa trang Công cộng Keputih ở Surabaya. Gia đình Whisnu kết hôn vào năm 2017 với người bạn từ thời trung học cơ sở Dini Syafariah Endah. Cả hai có bốn người con. Chú thích Chính khách Indonesia
19821364
https://vi.wikipedia.org/wiki/Blue%20Angels
Blue Angels
Blue Angels (tạm dịch: Thiên thần xanh), tên chính thức là Phi đội Máy bay biểu diễn Hải quân Hoa Kỳ, là một phi đội biểu diễn máy bay của Hải quân Hoa Kỳ. Được thành lập vào năm 1946, đơn vị này là đội nhào lộn trên không chính thức lâu đời thứ hai thế giới, sau Patrouille de France của Pháp được thành lập vào năm 1931. Đội gồm sáu phi công biểu diễn của Hải quân và một Thủy quân Lục chiến, lái chiếc Boeing F/A-18E/F Super Hornet. Chú thích Đọc thêm (2012). "My incredible flight aboard the Blue Angels" By Charles Atkeison Blue Angels Timeline (1946–1980) accessed 10 November 2005. "Grumman and the Blue Angels" article by William C. Barto at the Grumman Memorial Park official website, accessed 15 October 2005. "First Blue: The story of World War II Ace Butch Voris and the Creation of the Blue Angels" by Robert K. Wilcox, Thomas Dunne Books/St.Martins Press, 2004, robertkwilcox.com Liên kết ngoài Blue Angels, official U.S. Navy web site Complete Blue Angels History The Navy’s Blue Angels (1966), Texas Archive of the Moving Image Blue Angels Sneak Pass video on Youtube.com
19821365
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20%C4%91o%C3%A0n%20Gi%E1%BA%A3i%20tr%C3%AD%20v%C3%A0%20Tr%C3%B2%20ch%C6%A1i%20Philippines
Tập đoàn Giải trí và Trò chơi Philippines
Tập đoàn Giải trí và Trò chơi Philippines (viết tắt là PAGCOR, tiếng Filipino: Korporasyon sa Libangan at Palaro ng Pilipinas)) là một công ty sở hữu và kiểm soát của chính phủ được thành lập vào năm 1977 thông qua Nghị định Tổng thống số 1869. PAGCOR là nguồn góp thu lớn nhất của Philippines đóng góp vào ngân sách chính phủ sau Cục Thuế nội vụ và Cục Hải quan. PAGCOR thuộc dưới sự quản lý của Văn phòng Tổng thống Philippines. Lịch sử Tập đoàn này được thành lập trong giai đoạn chế độ quân chế dưới thời Tổng thống Ferdinand Marcos bằng Nghị định Tổng thống số 1067-A, ban hành vào ngày 1 tháng 1 năm 1977, như một phản ứng trước lời kêu gọi từ phía chính phủ Philippines để chấm dứt sự gia tăng của hoạt động casino bất hợp pháp lan rộng tại nhiều vùng của đất nước vào thời điểm đó. Sau khi được thành lập, PAGCOR ký kết hợp đồng với Tổng công ty Quản lý Casino Philippines (PCOC) để vận hành sòng casino nổi trên Vịnh Manila vào năm 1977. Tuy nhiên, sau khi sòng casino nổi bị cháy nát vào năm 1979, PAGCOR chuyển trọng tâm sang sòng casino trên cạn và ký kết hợp đồng khác với PCOC để quản lý sòng casino tại tòa nhà Provident International and Resources Corporation (PIRC) trên Đại lộ Imelda, Parañaque, Thủ đô Metro Manila, Philippines. Sau đó, dưới Nghị định Tổng thống số 1869, được ban hành vào năm 1983, PAGCOR được ủy quyền hoạt động như một công ty chính phủ chịu trách nhiệm tổ chức và thành lập hồ bơi cờ bạc và sòng casino trên toàn quốc. Năm 1986, nó được tái thành lập và tổ chức lại bởi Tổng thống Philippines Corazon Aquino dưới dạng một PAGCOR mới nhằm góp phần gây quỹ cho chính phủ; Norberto Quisumbing được bổ nhiệm làm Chủ tịch đầu tiên của nó, sau đó là cựu Chủ tịch Ngân hàng Phát triển Philippines Alicia L. Reyes trở thành Chủ tịch và CEO. Reyes được kế nhiệm bởi Ephraim Genuino dưới sự bổ nhiệm của Tổng thống Gloria Macapagal Arroyo vào năm 2001. Tập đoàn này vận hành các sòng casino của riêng mình cùng với một số câu lạc bộ máy đánh bạc VIP tại các thành phố lớn trên khắp đất nước. Ngoài ra, nó cũng giám sát và quy định các sòng casino sở hữu tư nhân, hơn 180 phòng bingo, cũng như các quán cafe e-games trên khắp đất nước. Tổng công ty này có hơn 11.000 nhân viên làm việc. Vào tháng 6 năm 2007, PAGCOR được hưởng lợi từ một đoạn lập pháp, Đạo luật Cộng hòa số 9487, trao quyền cho tập đoàn trò chơi do nhà nước điều hành, lúc đó dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Genuino, thêm 25 năm để quy định và vận hành các trò chơi may rủi, cấp giấy phép, và ký kết các hợp đồng liên doanh, quản lý hoặc đầu tư với các tổ chức tư nhân cho Khu Giải trí ở khu vực Vịnh Manila, Parañaque, và đặc biệt là ở Newport City, Pasay. Chủ tịch Genuino đã thành công trong việc thu hút các nhà đầu tư cho dự án xây dựng các khu du lịch tích hợp kiểu Las Vegas. Hai khu du lịch tích hợp đã được mở cửa vào ngày 1 tháng 11 năm 2014. Vào ngày 13 tháng 7 năm 2018, PAGCOR thông báo việc bổ nhiệm Angeline Papica-Entienza làm trưởng phòng Điều phối và Phát triển Trò chơi của cơ quan, cùng với tư cách là Phó Chủ tịch của tập đoàn. PAGCOR thông báo rằng họ sẽ ra mắt một sòng casino trực tuyến hướng tới quốc tế vào đầu năm 2024 dưới thương hiệu 'Casino Filipino'. Vào ngày 11 tháng 7 năm 2023, PAGCOR đã trình làng logo mới để kỷ niệm 40 năm thành lập. Chủ tịch kiêm CEO Alejandro Tengco đã mô tả logo này như việc tích hợp yếu tố của ngọn lửa, biểu tượng cho năng lượng, cảm hứng, đam mê và sự biến đổi. Logo này đã gây ra các cuộc thảo luận và tranh luận trên các nền tảng truyền thông xã hội, bao gồm sự tương đồng về mặt hình thái giữa logo này với của Công ty Petron. Tái thương hiệu logo của PAGCOR Vào ngày 27 tháng 6 năm 2023, Tập đoàn Giải trí và Trò chơi Philippines (PAGCOR) đã ủy quyền cho Dịch vụ Đồ họa Printplus tạo ra một logo mới với tổng chi phí là . Dịch vụ Đồ họa Printplus thuộc sở hữu của Francisco D. Doplon, người hiện đang là Giám đốc điều hành và Đạo diễn Nghệ thuật của ArtOne Design. Doplon cũng đã làm việc với nhiều cơ quan chính phủ và tổ chức tư nhân khác, bao gồm việc thiết kế lại logo cho Trung tâm Văn hóa Philippines và logo của Đại học Santo Tomas trong dịp kỷ niệm 400 năm vào năm 2008. Danh sách các Chủ tịch Norberto B. Quisumbing (1986) Alicia L. Reyes (1987–2001) Hildegarde A. Palacios (Tháng 6 năm 2001) Efraim C. Genuino (2001–2010) Cristino L. Naguiat Jr. (2010 – Tháng 6 năm 2016) Andrea D. Domingo (Tháng 7 năm 2016 – Tháng 6 năm 2022) Alejandro H. Tengco (Tháng 8 năm 2022–nay) Xem thêm Casino Filipino Chú thích Công ty cá cược tại Philippines Công ty do chính phủ sở hữu và kiểm soát tại Philippines Công ty Philippines
19821366
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%C3%AAn%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
Viên (định hướng)
Viên có thể dùng để chỉ: Viên, họ người châu Á, xuất hiện ở Việt Nam, Triều Tiên và Trung Quốc Viên, thủ đô của Áo Từ dùng để chỉ từng đơn vị những vật thường là nhỏ và tròn, được làm bằng cùng một chất liệu, có hình khối giống nhau, kích thước bằng nhau
19821367
https://vi.wikipedia.org/wiki/Los%20Cabos%20Open%202023%20-%20%C4%90%C6%A1n
Los Cabos Open 2023 - Đơn
Stefanos Tsitsipas là nhà vô địch, đánh bại Alex de Minaur trong trận chung kết, 6–3, 6–4. Đây là danh hiệu đơn ATP Tour thứ 10 của Tsitsipas. Daniil Medvedev là đương kim vô địch, nhưng chọn không bảo vệ danh hiệu. Đây là lần đầu tiên trong Kỷ nguyên Mở có năm tay vợt Chile tham dự vòng đấu chính ở một giải đấu ATP Tour tổ chức bên ngoài Chile. Hạt giống 4 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2. Kết quả Chung kết Nửa trên Nửa dưới Vòng loại Hạt giống Vượt qua vòng loại Thua cuộc may mắn Kết quả vòng loại Vòng loại thứ 1 Vòng loại thứ 2 Vòng loại thứ 3 Vòng loại thứ 4 Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính Kết quả vòng loại Los Cabos Open - Đơn Đơn 2023
19821369
https://vi.wikipedia.org/wiki/Los%20Cabos%20Open%202023%20-%20%C4%90%C3%B4i
Los Cabos Open 2023 - Đôi
Santiago González và Édouard Roger-Vasselin là nhà vô địch, đánh bại Andrew Harris và Dominik Koepfer trong trận chung kết, 6–4, 7–5. William Blumberg và Miomir Kecmanović là đương kim vô địch, nhưng Kecmanović chọn không tham dự giải đấu. Blumberg đánh cặp với Rinky Hijikata, nhưng thua ở vòng tứ kết trước Diego Hidalgo và Cristian Rodríguez. Hạt giống Kết quả Kết quả Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính Los Cabos Open - Đôi
19821373
https://vi.wikipedia.org/wiki/Prague%20Open%202023
Prague Open 2023
Prague Open 2023 (còn được biết đến với Livesport Prague Open 2023 vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt nữ chuyên nghiệp thi đấu trên mặt sân cứng ngoài trời. Đây là lần thứ 14 giải đấu được tổ chức, và là một phần của WTA 250 trong WTA Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại TK Sparta Praha ở Prague, Cộng hòa Séc từ ngày 31 tháng 7 đến ngày 6 tháng 8 năm 2023. Sự tham dự của các vận động viên Nga & Belarus Trước giải đấu, cảnh sát Cộng hòa Séc đã không cho phép tay vợt Nga Anastasia Pavlyuchenkova nhập cảnh. Các tay vợt Nga và Belarus sau đó được yêu cầu không đến Cộng hòa Séc và buộc phải rút lui khỏi giải đấu. Dù đã thi đấu với tư cách trung lập, không có quốc kỳ hoặc biểu tượng, nhưng chính phủ Cộng hòa Séc đã thông qua một nghị quyết cấm tất cả các vận động viên Nga và Belarus nhập cảnh vào nước này do cuộc tấn công của Nga vào Ukraina. Nội dung đơn Hạt giống † Bảng xếp hạng vào ngày 24 tháng 7 năm 2023. Vận động viên khác Đặc cách: Lucie Havlíčková Tereza Martincová Barbora Palicová Bảo toàn thứ hạng: Jaqueline Cristian Barbora Strýcová Patricia Maria Țig Miễn đặc biệt: Heather Watson Vượt qua vòng loại: Emiliana Arango Viktória Hrunčáková Elvina Kalieva Gabriela Knutson Tamara Korpatsch Dayana Yastremska Thua cuộc may mắn: Nao Hibino Ankita Raina Rút lui Barbora Krejčíková → thay thế bởi Kaia Kanepi Kristína Kučová → thay thế bởi Lucrezia Stefanini Tatjana Maria → thay thế bởi Ankita Raina Rebeka Masarova → thay thế bởi Nao Hibino Evgeniya Rodina → thay thế bởi Jule Niemeier Aliaksandra Sasnovich → thay thế bởi Yuan Yue Nội dung đôi Hạt giống † Bảng xếp hạng vào ngày 24 tháng 7 năm 2023. Vận động viên khác Đặc cách: Nikola Bartůňková / Tereza Valentová Barbora Palicová / Dominika Šalková Rút lui Lucie Havlíčková / Miriam Kolodziejová → thay thế bởi Luksika Kumkhum / Peangtarn Plipuech Nhà vô địch Đơn Nao Hibino đánh bại Linda Nosková 6–4, 6–1 Đôi Nao Hibino / Oksana Kalashnikova đánh bại Quinn Gleason / Elixane Lechemia 6–7(7–9), 7–5, [10–3] Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức WTA Tour 2023 2023 Prague Open Thể thao Cộng hòa Séc năm 2023
19821374
https://vi.wikipedia.org/wiki/Prague%20Open%202023%20-%20%C4%90%C6%A1n
Prague Open 2023 - Đơn
Nao Hibino là nhà vô địch, đánh bại Linda Nosková trong trận chung kết, 6–4, 6–1. Cô trở thành tay vợt thua cuộc may mắn thứ 5 trong lịch sử WTA Tour giành một danh hiệu đơn, và là tay vợt thứ hai làm được trong vòng một tháng (sau Maria Timofeeva ở Budapest). Marie Bouzková là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 1 trước Jaqueline Cristian. Hạt giống Kết quả Chung kết Nửa trên Nửa dưới Vòng loại Hạt giống Vượt qua vòng loại Thua cuộc may mắn Kết quả vòng loại Vòng loại thứ 1 Vòng loại thứ 2 Vòng loại thứ 3 Vòng loại thứ 4 Vòng loại thứ 5 Vòng loại thứ 6 Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính Kết quả vòng loại WTA Tour 2023 Prague Open 2023 - Đơn
19821375
https://vi.wikipedia.org/wiki/Prague%20Open%202023%20-%20%C4%90%C3%B4i
Prague Open 2023 - Đôi
Nao Hibino và Oksana Kalashnikova là nhà vô địch, đánh bại Quinn Gleason và Elixane Lechemia trong trận chung kết, 6–7(7–9), 7–5, [10–3]. Đây là lần thứ hai Hibino vô địch cả nội dung đơn và đôi tại cùng một giải đấu WTA Tour, sau Japan Women's Open 2019. Anastasia Potapova và Yana Sizikova là đương kim vô địch, nhưng không tham dự giải đấu. Hạt giống Kết quả Kết quả Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính Prague Open - Đôi Đôi 2023
19821376
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5%20tr%E1%BA%ADt%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20ray%20Hazara%20Express%202023
Vụ trật đường ray Hazara Express 2023
Vào ngày 6 tháng 8 năm 2023, lúc 13:18 PKT (08:18 UTC), mười toa xe của tàu Hazara Express đang hành trình từ Karachi đến Rawalpindi ở Pakistan đã bị trật đường ray gần Nawabshah, tỉnh Sindh. Ít nhất 30 người đã thiệt mạng và hơn 100 người bị thương. Bối cảnh Do các hệ thống lạc hậu, trong đó một số không được cập nhật kể từ thời kỳ thuộc địa, các vụ tai nạn và trật ray trên đường sắt Pakistan không phải là điều hiếm thấy. Chính phủ đã đối mặt với sự chỉ trích vì lơ là hệ thống tín hiệu và các tuyến đường già cỗi. Người dân cho biết các tuyến đường ray vẫn ở trong tình trạng xấu sau lũ lụt năm 2022. Một ngày trước đó, tàu Allama Iqbal Express bị lật gần Padidan mà không có thương vong. Tai nạn đường sắt Ghotki năm 2021 cũng đã xảy ra tại tỉnh này. Theo các báo cáo địa phương từ năm 2013 đến 2019, có 150 người thiệt mạng trong các sự cố liên quan đến tàu hỏa. Vụ việc Lúc 13:18 PKT (08:18 UTC), mười toa xe của tàu Hazara Express đã bị trật đường ray gần Trạm Đường sắt Sarhari, giữa Shahdadpur và Nawabshah, trong hành trình từ Karachi đến Sargodha. Chuyến tàu vận chuyển khoảng 1.000 hành khách. Những người bị thương được đưa đến Bệnh viện Đại học Y Nhân dân gần đó ở Nawabshah và mọi hoạt động trên đường sắt chính đã bị tạm ngừng khi đội sửa chữa đến. Các nhà điều tra đang xác định nguyên nhân. Hậu cảnh Đội cứu hộ Rescue 1122, Đường sắt Pakistan, Quân đội Pakistan, các Ranger và cảnh sát đã tiến hành hoạt động cứu hộ và cứu trợ tại hiện trường vụ tai nạn. Ông Younis Chandio, Phó Thanh tra trưởng Cảnh sát Benazirabad, cho biết chín trong số mười toa xe bị hỏng đã được sơ tán người chết và người bị thương. Điều tra Bộ trưởng Đường sắt Khawaja Saad Rafique nói rằng không có lỗi nào được báo cáo trên đoạn đường ray nơi xảy ra vụ tai nạn, và ông đã ra lệnh điều tra. Báo cáo sơ bộ do một nhóm sáu thành viên trình lên vào ngày 8 tháng 8 năm 2023 cho biết các tấm kẹp đĩa cá kim loại nối các đường ray tại hiện trường tai nạn đã bị mất và một phần của đường ray đã được thay thế bằng gỗ. Báo cáo cũng ghi nhận rằng bánh xe trên đầu máy xe lửa bị hỏng và không thể loại trừ khả năng bị phá hoại. Sau đó, sáu nhân viên, trong đó có ba quan chức, đã bị đình chỉ. Vào ngày 9 tháng 8 năm 2023, Rafique đã bác bỏ các báo cáo trước đó rằng các tấm kẹp kim loại bị thất lạc và rằng gỗ đã được sử dụng cho các công việc sửa chữa. Nguyên nhân chính của vụ tai nạn, theo ông, là hai bánh xe lửa nằm kẹt và một phần đường ray bị hỏng. Phản ứng Thủ tướng Shehbaz Sharif đã đăng tweet: "Tôi đã yêu cầu báo cáo về sự cố từ các cơ quan đường sắt.". Bộ trưởng Nội vụ Rana Sanaullah cũng đã tweet: "Lời chia buồn sâu sắc của tôi đến gia đình các hành khách đã qua đời. Những người bị thương nên được cung cấp các cơ sở chăm sóc sức khỏe tốt nhất tại các bệnh viện.". Tham khảo Tai nạn đường sắt Tai nạn ở Pakistan Sự kiện năm 2023
19821398
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c%20tang%20Tr%E1%BA%A7n%20%C4%90%E1%BA%A1i%20Quang
Quốc tang Trần Đại Quang
Ngày 21 tháng 9 năm 2018, Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đại Quang qua đời khi đang điều trị tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Hà Nội ở tuổi 61. Theo ông Nguyễn Quốc Triệu, Trưởng ban bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương thì ông Quang bị nhiễm "virus hiếm và độc hại", căn bệnh này chưa có thuốc để điều trị khỏi hoàn toàn mà chỉ có thể chặn lại và đẩy lùi một thời gian. Việt Nam đã tổ chức tang lễ cho ông theo nghi thức quốc tang. Mắc bệnh và qua đời Trước khi qua đời đã có thời điểm ông Quang vắng mặt và không xuất hiện trước công chúng. Tại buổi gặp mặt cử tri vào ngày 5 tháng 5 năm 2018, ông đã không xuất hiện, theo lời của Đại biểu Quốc hội Phan Nguyễn Như Khuê, Phó Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh thì ông Quang vắng mặt với lí do bận công tác nước ngoài và đang chuẩn bị cho Hội nghị trung ương 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 12. Khi Trần Đại Quang qua đời vào ngày 21 tháng 9 năm 2018 sau khi hôn mê được 1 ngày thì lý do ông vắng mặt mới được tiết lộ. Theo đó ông Quang đã mắc bệnh hiểm nghèo và phải đi Nhật Bản 6 lần để chữa trị. Kế hoạch tang lễ Tang lễ của ông Trần Đại Quang được tổ chức theo nghi thức quốc gia. Căn cứ Công điện số 4288/CĐ-BVHTTDL ngày 24 tháng 9 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch về việc ngừng các hoạt động vui chơi, giải trí trong những ngày Lễ quốc tang Chủ tịch nước Trần Đại Quang. Theo đó quốc tang sẽ diễn ra trong hai ngày 26 và 27 tháng 9 năm 2018. Lễ viếng bắt đầu từ 7 giờ ngày 26 tháng 9 năm 2018 tại Nhà tang lễ quốc gia, số 5 đường Trần Thánh Tông, phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Lễ trụy điệu được tổ chức vào 7 giờ 30 phút vào ngày 27 tháng 9 năm 2018 đến 15 giờ 30 phút cùng ngày. Trần Đại Quang được an táng tại nghĩa trang huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Lễ viếng và lễ trụy điệu tổ chức ở thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Ninh Bình. Phó Thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình là trưởng ban tang lễ. Trong thông báo của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình, gia đình Chủ tịch nước có nguyện vọng xin được miễn nhận tiền phúng viếng, chấp điếu của các tổ chức, cá nhân khi đến viếng. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đề nghị các cơ quan, công sở trong cả nước và các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài treo cờ rủ trong 2 ngày Lễ Quốc tang. Các đoàn đến viếng chỉ mang băng tang, không mang vòng hoa đến viếng. Quốc tang Ngày 26 Vào lúc 7 giờ, lễ viếng bắt đầu tại Nhà tang lễ quốc gia, số 5 đường Trần Thánh Tông, phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Tại Hội trường Thống nhất ở thành phố Hồ Chí Minh và tại xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình cũng tổ chức lễ viếng. Theo Ban Tổ chức Lễ quốc tang, tính đến 17 giờ ngày 26 tháng 9, có khoảng 1.500 đoàn trong nước, quốc tế với số lượng ước tính khoảng 50.000 người đến viếng Chủ tịch nước Trần Đại Quang. Một số lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước do điều kiện không đến được đã gửi vòng hoa viếng, chia buồn cùng gia đình. Ngày 27 Từ 5 giờ 30 phút, cảnh sát giao thông, cơ động đã chốt trực ở các ngả đường từ Trần Hưng Đạo dẫn vào Nhà tang lễ quốc gia. Phía trước cổng nhà tang lễ, đoàn xe di quan Chủ tịch nước gồm chín chiếc xếp thành hàng ngay ngắn, đánh số từ 1 đến 9. Trong sân, có xe kéo pháo chở linh cữu, xe chở di ảnh và vòng hoa. Tại thành phố Hồ Chí Minh ngay từ sớm lãnh đạo thành phố cũng có mặt tại Hội trường Thống Nhất chuẩn bị lễ truy điệu Chủ tịch nước Trần Đại Quang diễn ra cùng thời điểm với Hà Nội. Đúng 7 giờ 30 phút, Phó thủ tướng Trương Hòa Bình thay mặt Ban Lễ tang tuyên bố lễ truy điệu Chủ tịch nước Trần Đại Quang bắt đầu. Quốc ca vang lên, tất cả mọi người cả trong và ngoài nhà tang lễ quốc gia đứng nghiêm trang, dành một phút mặc niệm. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng bước lên bục đọc điếu văn, nêu rõ ông Trần Đại Quang “là nhà lãnh đạo có nhiều cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân đã vĩnh biệt chúng ta. Đây là tổn thất lớn đối với Đảng, Nhà nước, nhân dân ta và gia quyến”. Trần Quân, con trai Trần Đại Quang đã thay mặt gia đình cảm ơn lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành, đoàn thể trung ương, địa phương, Ban bảo vệ chăm sóc sức khỏe Trung ương, Bệnh viện 108, các giáo sư, bác sĩ trong nước và Nhật Bản đã quan tâm, chăm sóc, điều trị cho cha ông trong thời gian lâm bệnh cho đến những giây phút cuối đời, tổ chức tang lễ trọng thể, chu đáo. Vào lúc 8 giờ, lễ di quan diễn ra. 8 giờ 15 phút, đoàn xe di quan bắt đầu rời nhà tang lễ. Đoàn gồm hai xe chở di ảnh và quân kỳ đi đầu, tiếp đến đoàn xe thùng chở đội danh dự 127, gồm: lục quân, hải quân và không quân. Đội 127 gồm 127 người biểu tượng cho biển, đất và trời. Tiếp đến là xe kéo pháo chở linh cữu Chủ tịch nước, phía sau là hai xe hoa. Theo sát xe chở di hài là đoàn hơn 100 xe chở gia quyến Chủ tịch nước cùng những người đưa tiễn. Những người có mặt tại hội trường Thống Nhất và hội trường ở quê Trần Đại Quang đứng theo dõi lễ truy điệu và di quan Chủ tịch nước, được truyền hình trực tiếp từ Nhà tang lễ quốc gia ở Hà Nội. 11 giờ 47 phút, xe chở linh cữu ông Trần Đại Quang đã đi đến Ninh Bình. Đến 13 giờ 50 phút xe chở linh cữu đã đến nơi an táng. Tại Ninh Bình đã có hàng nghìn người dân địa phương đã tập trung ở nghĩa trang để đón đoàn xe chở linh cữu Chủ tịch nước Trần Đại Quang. 15 giờ 30 phút lễ an táng Trần Đại Quang bắt đầu. 16 giờ, lễ hạ huyệt hoàn thành, tất cả những người có mặt tại nơi an táng đã dành một phút mặc niệm. Trương Hòa Bình, Trưởng ban tổ chức Lễ tang đã phát biểu cảm ơn. Ban tổ chức Lễ quốc tang cho biết, đã có 1.658 đoàn với khoảng 50.000 người đại diện các cơ quan đoàn thể địa phương, nhân sĩ, trí thức, chức sắc, tôn giáo, các tổ chức trong nước và quốc tế đến viếng Chủ tịch nước Trần Đại Quang tại ba điểm, trong đó có 164 đoàn ngoại giao và tổ chức quốc tế, 16 đoàn lãnh đạo cấp cao các nước. Nơi ông chôn cất đã được xây dựng thành một quần thể kiến trúc để phục vụ người dân tới viếng. Các sự kiện khác Người dân một số nơi ở Ninh Bình đã lập bàn thờ ông Trần Đại Quang. Một số ngôi chùa trên nước đã tổ chức lễ cầu siêu cho ông Trần Đại Quang. Phản ứng Quốc tế – Ngày 21 tháng 9 năm 2018, Tổng thư ký Antonio Guterres gửi lời chia buồn sâu sắc nhất đến gia đình Trần Đại Quang, gọi ông là "một người bạn của Liên Hợp Quốc" và là người quảng bá cho sự phát triển của Việt Nam. Trước khi bắt đầu phiên họp toàn thể thứ ba của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc khóa 73 ngày 21 tháng 9 năm 2018 (giờ UTC−4), Chủ tịch Đại hội đồng María Fernanda Espinosa thông báo về sự ra đi của Chủ tịch nước Trần Đại Quang và đề nghị đại diện các nước tham dự phiên họp dành một phút mặc niệm. ASEAN – Ngày 25 tháng 9 năm 2018, Ban thư ký ASEAN gửi lời chia buồn đến gia đình, người thân, chính phủ và người dân Việt Nam. Tổ chức này bày tỏ sự biết ơn và tưởng niệm những đóng góp của ông cho các quốc gia thành viên. Cờ rủ cũng được treo từ ngày 25 đến 27 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Ban thư ký ASEAN tại Jakarta, Indonesia. – Hội đồng Nhà nước Cuba đã ra sắc lệnh quyết định tổ chức quốc tang, cụ thể Cuba sẽ để tang trong vòng hơn một ngày từ 22 tháng 9 đến 23 tháng 9, và nghi thức quốc tang sẽ diễn ra trong cả ngày 24 tháng 9. Trong thời gian cử hành quốc tang Trần Đại Quang, mọi hoạt động vui chơi, giải trí công cộng ở Cuba đều bị hủy. Cuba cũng đã cử đoàn đến viếng Chủ tịch nước Trần Đại Quang. – Thủ tướng Campuchia Hun Sen dẫn đầu đoàn đại biểu Campuchia đã tới viếng. – Ngày 24 tháng 9, Văn phòng Thủ tướng Lào ra thông báo tổ chức quốc tang Trần Đại Quang từ ngày 26 đến 27 tháng 9. Thời gian này tại Lào sẽ dừng toàn bộ các hoạt động vui chơi giải trí, chính phủ cũng yêu cầu các cơ quan công quyền tổ chức đoàn đi viếng, đặt vòng hoa và ghi sổ tang tại Đại sứ quán Việt Nam ở thủ đô Viêng Chăn và Tổng Lãnh sự quán Việt Nam ở các địa phương. Đoàn lãnh đạo nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào dẫn đầu là Phó chủ tịch nước Phankham Viphavanh đã đến viếng Chủ tịch nước Trần Đại Quang. – Ngày 22 tháng 9, Thủ tướng Thái Lan Prayuth Chan–ocha ra công điện chỉ đạo các cơ quan ban ngành chính phủ treo cờ rủ tưởng niệm từ ngày 24 đến 26 tháng 9. Thái Lan cũng đã cử đoàn đến viếng. – Ngày 26 tháng 9, Úc tưởng niệm bằng cách treo cờ rủ tại tất cả trụ sở nhà nước và chính quyền bang trên khắp nước này, theo quy định về việc cử quốc kỳ Úc khi nguyên thủ quốc gia mà Úc có quan hệ ngoại giao qua đời. – Đoàn đại biểu Singapore do Phó thủ tướng Tiêu Chí Hiền dẫn đầu đã đến viếng Chủ tịch nước Trần Đại Quang. – Thủ tướng Hàn Quốc Lee Nak-yon đã đến viếng Chủ tịch nước Trần Đại Quang. – Đoàn Cộng hòa Belarus do Chủ tịch Thượng viện Mikhail Myasnikovich làm trưởng đoàn, đã đến viếng Chủ tịch nước Trần Đại Quang. Đoàn Liên hiệp Công đoàn thế giới (WFTU) do Tổng thư ký George Mavrikos làm trưởng đoàn, đã đến viếng Chủ tịch nước Trần Đại Quang. – Đoàn Tòa thánh Vatican đã đến viếng. – Tổng Thư ký Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản Nikai Toshihiro đã tới viếng Chủ tịch nước Trần Đại Quang. – Đoàn Trung Quốc do Triệu Lạc Tế dẫn đầu đã đến viếng. – Đoàn đại biểu nước Cộng hòa Indonesia đã đến viếng. – Đoàn đại biểu Cộng hòa Liên bang Myanmar đã đến viếng. – Phó chủ tịch Hội đồng Liên bang (Thượng viện), bà Olga Nikolaevna Yepifanova làm trưởng đoàn đã đến viếng. – Đoàn Hoa Kỳ đã đến viếng. – Đoàn đại biểu Cộng hòa Mozambique đã đến viếng. Tổng lãnh sự các nước cũng đã đến dâng hoa tại tang lễ Trần Đại Quang. Nhận xét Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về chính trị Việt Nam từ Úc, nhận định: "Sau khi ông Trần Đại Quang rời vị trí Bộ trưởng Bộ Công an, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thực hiện các bước cắt giảm cơ cấu nặng nề của Bộ này, nơi có quá nhiều tướng lĩnh được hưởng đặc quyền nhưng lại có quá ít việc để làm. Rõ ràng là những quyền lợi đặc biệt mà Bộ này đã tận hưởng đang bị cắt giảm trong một nỗ lực để làm cho Bộ có trách nhiệm hơn. Những quyết định này được đưa ra trong khi ông Quang là thành viên của Bộ Chính trị. Chức năng cơ bản của Bộ Công an sẽ không thay đổi nhưng bây giờ bộ này sẽ chịu sự giám sát của các quan chức cấp cao hơn." Báo AFP ngày 21 tháng 9 năm 2018 viết: "Mặc dù ông giữ một trong bốn vị trí hàng đầu trong bộ máy lãnh đạo của Việt Nam, và chính thức giữ chức chủ tịch nước, vai trò của ông chỉ được xem là mang tính nghi lễ, chào mừng các nhà lãnh đạo đến thăm và tổ chức các sự kiện ngoại giao nhằm củng cố hình ảnh của Việt Nam trên thế giới."; "Là một thành viên của Bộ Chính trị, ông Quang có tiếng là cứng rắn và có ảnh hưởng trong guồng máy của Đảng Cộng sản, mặc dù thường xuất hiện với vẻ không thoải mái trong mắt công chúng và không được các đồng sự cao cấp của Đảng Cộng sản tín nhiệm. Trong một cuộc phỏng vấn với AFP vào năm 2016 trước chuyến thăm của cựu Tổng thống Pháp Francois Hollande, ông Quang chỉ đọc một báo cáo đã được chuẩn bị sẵn và nhanh chóng được hộ tống rời khỏi phòng sau khi nhận được các câu hỏi không nằm trong kịch bản." Nhân vật bất đồng chính kiến, cựu nhà báo Phạm Chí Dũng bình luận: "[Di sản] đáng kể nhất của ông là thời còn Bộ trưởng Bộ Công an, tôi nghĩ là dấu ấn đáng kể nhất của ông là đã chỉ huy những chiến dịch đàn áp nặng nề đối với giới đấu tranh, hoạt động dân chủ nhân quyền ở Việt Nam và bắt nhiều người. Di sản thứ hai mà ông Trần Đại Quang để lại, tôi nghĩ rằng dấu ấn lớn nhất của ông thời Bộ trưởng Bộ Công an trước khi làm Chủ tịch nước là ông đã có một chuyến đi Washington tiền trạm cho Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để ông Trọng đi Washington sau đó gặp Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama. Và trong chuyến đi tiền trạm đó vào tháng 3/2015, ông Trần Đại Quang đã được rất nhiều quan chức của Mỹ tiếp, kể cả quan chức của Bộ Quốc phòng, FBI, CIA,…, nhưng mà sau đó vai trò của ông mờ nhạt và mờ nhạt hẳn kể từ tháng 7/2017." Luật sư Trần Quốc Thuận cho rằng: "Ông Trần Đại Quang để lại một di sản nặng nề, là Bộ Công an, với một cuộc cải cách hay là ‘thay máu toàn diện’. Từ 12 Tổng cục giải thể hết và chỉ còn lại là các Cục, rõ ràng là hàng loạt tướng lĩnh, rồi sĩ quan cấp tá, cấp này kia ra đi phải được bố trí trở lại. Việc sắp xếp bộ máy khổng lồ như thế, rồi phong tướng, phong quan hàng loạt như thế, thì bây giờ việc bố trí như thế nào?... và những dấu hiệu tiêu cực mà bây giờ đã thành tội phạm rồi, như vụ án Vũ Nhôm, rồi một số tướng lĩnh bị điều tra tiêu cực." Đài CNN dẫn lời ông Phil Robertson, Phó giám đốc đặc trách Á Châu của tổ chức Human Rights Watch nói: "Di sản của Chủ tịch Quang là cuộc đàn áp kéo dài nhiều năm đối với quyền con người, và tống giam các tù nhân chính trị nhiều hơn so với những người tiền nhiệm." Tham khảo Việt Nam năm 2018 Trần Đại Quang
19821399
https://vi.wikipedia.org/wiki/Caoimh%C3%ADn%20Kelleher
Caoimhín Kelleher
Caoimhín Odhrán Kelleher (sinh ngày 23 tháng 11 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ireland hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Liverpool tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh và Đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Ireland. Đầu đời Kelleher được sinh ra tại thành phố Cork, Hạt Cork, nơi anh theo học tại trường Presentation Brothers College. Sự nghiệp thi đấu Liverpool Kelleher gia nhập học viện của câu lạc bộ Liverpool từ Ringmahon Rangers vào mùa hè năm 2015. Anh thường xuyên ra sân cho đội bóng trong những trận giao hữu tiền mùa giải 2018 của họ và là một phần của đội bóng đã đến Hoa Kỳ cho chuyến du đấu mùa hè của Liverpool. Vào tháng 8 năm 2018, anh ký bản hợp đồng mới với Liverpool. Anh có tên trên băng ghế dự bị trong trận Chung kết UEFA Champions League 2019 gặp Tottenham Hotspur. Khi vô địch Champions League, anh trở thành cầu thủ Ireland thứ 12 làm được điều này và là người đầu tiên trong hơn một thập kỷ. Mặc dù đã hồi phục sau ca phẫu thuật cổ tay, nhưng Kelleher vẫn ngồi trên băng ghế dự bị trong chiến thắng của Liverpool tại Siêu cúp châu Âu 2019 trước Chelsea ở Istanbul do thiếu vắng sự lựa chọn hàng đầu của đội bóng, Alisson. Anh ra mắt cho câu lạc bộ vào ngày 25 tháng 9 năm 2019, trong trận đấu thuộc khuôn khổ vòng 3 Cúp FA, giữ sạch lưới trong chiến thắng 2-0 trước Milton Keynes Dons. Ngày 1 tháng 12 năm 2020, anh xuất phát ngay từ đầu và giữ sạch lưới trong chiến thắng 1–0 trước Ajax tại UEFA Champions League. 5 ngày sau, Kelleher có tên trong đội hình xuất phát cho trận đấu tại Premier League gặp Wolverhampton Wanderers. Anh đã giữ sạch lưới trong chiến thắng 4–0, đây là trận ra sân thứ ba liên tiếp của anh cho câu lạc bộ. Ở 22 tuổi và 13 ngày, Kelleher trở thành thủ môn trẻ thứ ba của Liverpool giữ sạch lưới tại Premier League và là cầu thủ trẻ nhất làm được điều này trong trận đầu tiên ra sân ở giải đấu. Sau một số màn trình diễn ấn tượng, huấn luyện viên Jürgen Klopp xác nhận rằng Kelleher đã trở thành sự lựa chọn thứ 2, sau Alisson và trước Adrián. Cũng có thông tin cho rằng Liverpool đang tìm cách ký hợp đồng dài hạn với Kelleher với các điều khoản được cải thiện. Vào ngày 24 tháng 6 năm 2021, Kelleher đã ký một bản hợp đồng dài hạn mới với câu lạc bộ cho đến năm 2026, nói rằng "Đối với tôi, đó là một thời điểm tích cực để cam kết tương lai của tôi với câu lạc bộ trong vài năm tới. Đó là một câu lạc bộ lớn và là một vinh dự được là một phần của nó, vì vậy khi tôi có cơ hội ký hợp đồng thêm vài năm nữa, rõ ràng là tôi rất vui mừng." James Pearce, người đưa tin về Liverpool F.C. cho tờ The Athletic nói rằng đó là "Phần thưởng cho sự tiến bộ ấn tượng của anh trong mùa giải trước" và rằng anh hiện là "Alisson thứ 2". Vào ngày 27 tháng 2 năm 2022, Kelleher đá chính trong trận Chung kết Cúp EFL 2022 và thực hiện thành công loạt sút quyết định, giúp đội bóng thắng 11–10 trước Chelsea trên loạt luân lưu để lên ngôi vô địch. Vào ngày 9 tháng 11 năm 2022, Kelleher ra sân trận đầu tiên cho câu lạc bộ ở mùa giải 2022–23, và cản phá ba quả phạt đền trong chiến thắng 3–2 trên loạt sút luân lưu trước Derby County ở vòng ba của Cúp EFL 2022–23 trên sân Anfield. Anh đã cản phá được tổng cộng 6 quả phạt đền trong 4 loạt luân lưu cho Liverpool, một kỷ lục của câu lạc bộ. 4 trong số 8 lần ra sân của anh ở Cúp EFL đã đều tiến tới loạt sút luân lưu và Liverpool giành chiến thắng trong tất cả các trận đấu đó. Ngày 1 tháng 6 năm 2023, huấn luyện viên của Đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Ireland, Stephen Kenny cho biết ông mong Kelleher rời câu lạc bộ vì anh có quá ít cơ hội để thi đấu. “Anh không được thi đấu trong nhiều trận đấu trong mùa giải này và đó là một vấn đề đối với anh,” Kenny nói. Sự nghiệp thi đấu Kelleher thi đấu cho đội tuyển U-17 Cộng hòa Ireland tại Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu 2015. Anh đã đại diện cho quốc gia của mình ở cấp độ U-17 vào năm 2014, có trận ra mắt trước Malta. Anh cũng đã được triệu tập lên đội tuyển U-19 và U-21. Ngày 6 tháng 11 năm 2018, anh có tên trong đội hình của đội tuyển Cộng hòa Ireland chuẩn bị cho trận giao hữu gặp Bắc Ireland vào ngày 15 tháng 11 và trận đấu thuộc khuôn khổ UEFA Nations League gặp Đan Mạch vào ngày 19 tháng 11 năm 2018. Anh lại tiếp tục được gọi lên đội tuyển quốc gia vào tháng 3 năm 2019, khi vẫn còn là thành viên của đội U-21. Vào ngày 8 tháng 6 năm 2021, Kelleher có trận ra mắt đội tuyển Ireland, khi vào sân thay người trong hiệp 2, trong trận hòa 0-0 trước Hungary. Sau đó, anh có tên trong đội hình cho một trận giao hữu với Qatar vào tháng 11 năm 2021. Đời tư Kelleher là em trai của Fiacre Kelleher. Anh có ba người anh trai khác chơi hurling. Thống kê sự nghiệp Câu lạc bộ Quốc tế Danh hiệu Liverpool Cúp FA: 2021–22 Cúp EFL: 2021–22 UEFA Champions League: 2018–19, á quân: 2021–22 Siêu cúp bóng đá châu Âu: 2019 Tham khảo Liên kết ngoài Caoimhín Kelleher trên trang web của câu lạc bộ Liverpool Caoimhín Kelleher trên trang web của Giải bóng đá Ngoại hạng Anh Sinh năm 1998 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Ireland Cầu thủ bóng đá Ireland ở nước ngoài Thủ môn bóng đá Thủ môn bóng đá nam Cầu thủ bóng đá Liverpool F.C. Cầu thủ bóng đá Premier League Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Cộng hòa Ireland Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Cộng hòa Ireland Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Ireland Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
19821404
https://vi.wikipedia.org/wiki/Porta%20Nigra
Porta Nigra
Porta Nigra (tiếng Latinh có nghĩa là "Cổng đen"; trước đây còn được gọi là Porta Martis và Römertor) là một cổng thành La Mã cũ được xây dựng từ năm 170 sau Công nguyên trên Quảng trường Porta Nigra và là biểu tượng của thành phố Trier. Cái tên Porta Nigra có từ thời Trung Cổ. Người dân Trier thường chỉ gọi cổng là "Porta". Cổng ban đầu dài 36 mét, rộng 21,5 mét và cao 29,3 mét. Porta Nigra là một phần của Di sản Thế giới được UNESCO công nhận ở Trier từ năm 1986. Hơn nữa, nó là một tài sản văn hóa được bảo vệ theo Công ước Hague. Porta Nigra là cổng thành La Mã được bảo tồn tốt nhất ở Đức. Tham khảo Công sự Đức
19821405
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dapanji
Dapanji
Dapanji () hoặc (, чоң тәхсә тоху қорумиси; hay còn được đọc là ), là một món súp gà hầm. Nó là một món ăn phổ biến và có nguồn gốc từ Tân Cương, Trung Quốc. Từ nguyên Dapanji có nghĩa là "đĩa gà lớn" trong tiếng Trung Quốc. Còn trong tiếng Duy Ngô Nhĩ, (, Чоң, qong) nghĩa là "lớn", (, Тәхсә, təhsə) mang nghĩa là "đĩa", (, Тоху, ) nghĩa là "gà" và (, Қорумиси, ⱪorumisi) nghĩa là "chiên". Lịch sử ra đời Dapanji lần đầu được xuất hiện tại Sa Loan cuối những năm 1980. Món ăn trở nên phổ biến ở Tân Cương từ giữa đến cuối những năm 1990. Nó được cho là đã được phát minh ở Sa Loan, phía bắc Tân Cương, bởi một người di cư từ Tứ Xuyên, đã trộn ớt với thịt gà và khoai tây để cố gắng tái tạo hương vị của Tứ Xuyên. Mặc dù Sa Loan thường được coi là nơi xuất xứ của món ăn, nhưng cũng có những tuyên bố về nguồn gốc khác, bao gồm cả phát minh của một người ở tỉnh Hồ Nam tại Hồ Chaiwopu gần Ürümqi. Một số người tin rằng món ăn ban đầu được phục vụ trong một số đĩa nhỏ hơn, nhưng sau đó, một đĩa lớn hơn đã được thay thế, điều này đã tạo nên tên gọi của nó. Món ăn này được các chủ nhà hàng dọc theo đường cao tốc Tân Cương phục vụ như một món ăn nhanh cho những tài xế xe tải thường đến vào thời điểm bất thường trong ngày. Hương vị đậm đà và ngon miệng của nó nhanh chóng khiến món ăn trở thành món ăn được yêu thích trong vùng và sau đó món ăn này lan rộng ra phần còn lại của Trung Quốc. Nguyên liệu và chuẩn bị Những nguyên liệu chính của món ăn bao gồm thịt gà, ớt chuông và khoai tây, được nấu cùng với hành tây, tỏi, gừng, ớt, bột thì là Ai Cập, đại hồi, tiêu Tứ Xuyên, dầu ăn, hoặc cũng có thể là xì dầu và bia. Thịt gà được cắt thành từng miếng vừa ăn (thường không rút xương), xào với gia vị và rau củ thái nhỏ rồi ninh trong nước dùng, mang đến món hầm có vị mặn và cay. Nó thường được phục vụ với laghman (sợi mì to, dài được làm thủ công bằng tay; được gọi là latiaozi hoặc kudaimian ở Trung Quốc) và được chia sẻ bởi gia đình và bạn bè một cách cộng đồng. Các biến thể khác của món ăn có thể được phục vụ với nan (馕包大盘鸡), một loại bánh mì chủ yếu được tiêu thụ rộng rãi ở Tân Cương, thường được nướng hoặc quay trong các nhà hàng Tân Cương và những nơi khác. Với nước sốt, bánh mì trở nên rất mềm và ẩm, tạo ra kết cấu thơm ngon, tan chảy trong miệng. Xem thêm Dak-bokkeum-tang Ẩm thực Trung Quốc Tham khảo Ẩm thực Duy Ngô Nhĩ Ẩm thực Tân Cương Ẩm thực Trung Quốc Món ăn Trung Quốc Văn hóa Trung Hoa Món ăn gà Món hầm
19821407
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bom%20khinh%20kh%C3%AD%20c%E1%BA%A7u%20Fu-Go
Bom khinh khí cầu Fu-Go
là một loại bom khinh khí cầu không người lái được Nhật Bản chế tạo để tấn công phá hoại Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Loại vũ khí này bao gồm một quả bóng giấy chứa khí hydro có đường kính , giá gắn bom gây cháy nặng hoặc một quả bom nổ mạnh chống người nặng . Những quả khí cầu này sẽ được thả từ Nhật Bản, di chuyển tự do qua Thái Bình Dương tới Bắc Mỹ bằng một hệ thống phản lực ở độ cao lớn, và sử dụng một hệ thống dằn bằng bao cát để giữ thăng bằng cho mỗi quả khinh khí cầu. Mục đích chính của loại bom này là tạo ra những đám cháy rừng quy mô lớn ở Bắc Mỹ và gieo mầm hoảng loạn trong lòng nước Mỹ. Từ tháng 11 năm 1944 tới tháng 4 năm 1945, Lục quân Đế quốc Nhật Bản đã phóng tổng cộng khoảng 9.300 quả bom khinh khí cầu từ vùng biển Honshu, và khoảng 300 quả đã được tìm hoặc quan sát thấy ở Canada, Hoa Kỳ và Mexico. Các quả bom này được cho là không hiệu quả trong việc tạo ra các đám cháy rừng do điều kiện thời tiết ẩm ở Bắc Mỹ, và không có vụ cháy rừng nào gây ra bởi những quả Fu-Go trong chiến tranh. Vào ngày 5 tháng 5 năm 1945, một quả Fu-Go đã phát nổ ở khu vực thị trấn Bly ở Oregon, khiến sáu thường dân thiệt mạng - thương vong duy nhất của người Mỹ ở lục địa Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Các nhà chức trách Mỹ đã ra lệnh cho báo chí không đưa tin về những vụ nổ để ngăn không cho người Nhật biết rằng các vũ khí thử nghiệm của họ trên thực tế đã bay đến được nước Mỹ, do đó, người Nhật không thể biết được kết quả của các cuộc tấn công trên. Bom khinh khí cầu Fu-Go được cho là hệ thống vũ khí liên lục địa đầu tiên trên thế giới, trước khi các loại tên lửa liên lục địa được ra đời. Bối cảnh Bom khinh khí cầu được phát triển bởi Viện Nghiên cứu Kỹ thuật số 9 (Viện Noborito) của Lục quân Đế quốc Nhật Bản - cơ quan có nhiệm vụ thiết kế chế tạo các loại vũ khí đặc biệt. Vào năm 1933, Trung tướng Tada Reikichi cho bắt đầu một chương trình thử nghiệm bom khinh khí cầu tại Viện Noborito, được gọi là Fu-Go. Fu-Go ban đầu gồm một quả khí cầu chứa đầy hydro, có đường kính và một cầu chì hẹn giờ, có khả năng mang bom và di chuyển được tối đa . Tuy nhiên, dự án không đạt được kết quả khả thi và phải ngừng lại vào năm 1935. Sau cuộc không kích Doolittle vào tháng 4 năm 1942, với việc máy bay ném bom Mỹ bất ngờ tấn công đảo quốc Nhật Bản, Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc đã chỉ đạo Viện Noborito nghiên cứu và phát triển một loại vũ khí có khả năng ném bom chống lại Hoa Kỳ. Vào mùa hè năm 1942, Viện Noborito đã đưa ra một số đề xuất, bao gồm các loại máy bay ném bom tầm xa có khả năng thực hiện các chuyến xuất kích một chiều từ Nhật Bản đến các thành phố ở Bờ Tây Hoa Kỳ, và thủy phi cơ nhỏ mang bom có thể phóng từ tàu ngầm. Ngày 9 tháng 9 năm 1942, một thủy phi cơ Yokosuka E14Y của Chuẩn úy Fujita Nobuo được phóng từ tàu ngầm I-25 ở ngoài khơi Oregon, Hoa Kỳ. Fujita đã bay vào sâu bên trong địa phận bang Oregon, và thả hai quả bom cháy xuống Rừng Quốc gia Siskiyou nhằm tạo ra các đám cháy rừng lớn trước khi quay trở về I-25 an toàn. Tuy nhiên, đội kiểm lâm Mỹ đã phát hiện ra chiếc máy bay từ sớm, nên các đám cháy nhanh chóng được họ xử lý. Chương trình thủy phi cơ này sau đó đã bị Hải quân Đế quốc hủy bỏ. Cũng trong tháng 9 năm 1942, Thiếu tướng Kusaba Sueki, cấp dưới của Trung tướng Tada trong thời gian thực hiện chương trình bom khinh khí cầu vào những năm 1930, được luân chuyển về Viện Noborito và ông đã cho tái khởi động chương trình Fu-Go, lần này tập trung vào các chuyến bay dài hơn. Cuộc không kích ở Oregon dù không đạt được các kết quả chiến lược đề ra, nhưng đã chứng minh được tiềm năng sử dụng các khinh khí cầu không người lái chi phí thấp để tạo ra các đám cháy rừng quy mô lớn. Căn cứ theo các báo cáo phỏng vấn của Hoa Kỳ với các nhà chức trách Nhật Bản sau chiến tranh, các chiến dịch phá hoại bằng bom khinh khí cầu được thực hiện "hầu như chỉ dành cho mục đích tuyên truyền trong nước" và các nhà lãnh đạo của Lục quân Đế quốc Nhật Bản không mấy kỳ vọng về sự hiệu quả của nó. Thiết kế và phát triển Vào tháng 3 năm 1, nhóm của Kusaba đã phát triển một loại khinh khí cầu dài và có khả năng leo đến độ cao trong tối đa 30 giờ. Những quả bóng này được làm từ bốn đến năm lớp giấy Hòa Thị (washi) mỏng, một loại giấy bền có nguồn gốc từ dướng (kōzo), được dán lại với nhau bằng bột nưa trồng (konnyaku). Quân đội Nhật đã huy động hàng ngàn nữ sinh sơ trung, cao trung trên khắp đất nước vào làm nhiệm vụ ép và dán các tấm vải lại với nhau. Đợt lắp ráp cuối cùng và quá trình kiểm tra bơm phồng khinh khí cầu được tiến hành tại các khu nhà rộng rãi như hội trường sumo, nhà hát và sân khấu âm thanh ở Tokyo. Nhóm của Kusaba ban đầu đề xuất rằng những quả bom nên được thả từ tàu ngầm vào ban đêm, từ địa điểm cách bờ biển Hoa Kỳ khoảng để các khí cầu có thể bay tới các mục tiêu trong khoảng 10 giờ. Mỗi quả bom được gắn một bộ hẹn giờ để có thể tự động thả quả bom cháy nặng vào cuối chặng bay. Hai tàu ngầm I-34 và I-35 đã được huy động để thả 200 quả bom khinh khí cầu vào Hoa Kỳ trong tháng 8 năm 1943, nhưng các nhiệm vụ này sau đã bị hoãn lại do nhu cầu sử dụng tàu ngầm để vận chuyển vũ khí và lương thực ở khu vực Nam Thái Bình Dương. Các kỹ sư Nhật tiếp tục nghiên cứu tính khả thi của việc phóng khinh khí cầu từ đất liền Nhật Bản về Hoa Kỳ qua một khoảng cách ít nhất là . Họ đã tìm cách tận dụng các luồng gió thổi nhanh theo mùa từ tây sang đông, ngày nay được gọi là dòng tia, để giúp đẩy những quả khinh khí cầu từ Nhật Bản ở độ cao lớn. Các luồng hải lưu đã được nhà khoa học Nhật Bản Ōishi Wasaburō nghiên cứu vào những năm 1920; vào cuối năm 1943, Lục quân Đế quốc đã tham khảo ý kiến của nhà nghiên cứu Arakawa Hidetoshi công tác tại Trạm quan trắc Khí tượng Trung ương, người đã sử dụng dữ liệu của Ōishi để ngoại suy các luồng khí trên Thái Bình Dương. Arakawa ước tính rằng một nếu thả quả bom khinh khí cầu vào mùa đông và duy trì ở độ cao thì chúng sẽ bay đến được lục địa Bắc Mỹ trong vòng 30-100 giờ. Nghiên cứu của Arakawa còn phát hiện ra rằng những cơn gió mạnh nhất xuất hiện từ khoảng tháng 11 tới tháng 3 có thể đạt tốc độ tới gần . Việc thay đổi mức áp suất trong một quả bóng có thể tích cố định đã tạo ra những thách thức kỹ thuật với kỹ sư Nhật Bản. Vào ban ngày, sức nóng của Mặt Trời sẽ làm tăng áp suất, khiến những quả khinh khí cầu bay lên cao hơn các luồng không khí hoặc vỡ tung. Do đó, một van giảm áp đã được lắp thêm vào hệ thống động cơ để cho phép khí thoát ra bên ngoài khi áp suất bên trong lớp vỏ tăng quá mức cho phép. Vào ban đêm, nhiệt độ thấp sẽ khiến các quả khinh khí cầu không thể bay lên được khu vực có các luồng gió mạnh. Để giải quyết vấn đề trên, các kỹ sư đã phát triển một hệ thống dằn phức tạp với 32 bao cát gắn xung quanh một cái bánh xe bằng nhôm đúc, mỗi bao cát được gắn vào một lỗ chứa thuốc súng ở trên bánh xe, và liên kết với một bộ ba áp kế dự phòng được hiệu chỉnh ở độ cao khoảng . Khi khinh khí cầu hạ độ cao xuống dưới 9.000 m, áp kế sẽ giúp kích nổ các lỗ chứa thuốc súng để cắt các bao cát khỏi bánh xe. Thêm một máy đo độ cao riêng biệt đã được hiệu chỉnh ở độ cao để kiểm soát việc thả bom sau đó. Một hệ thống tự hủy cũng được gắn vào khinh khí cầu, một ngòi nổi ba phút sẽ được kích hoạt khi quả bom cuối cùng được thả khỏi giá treo, nhằm đốt cháy một khối đựng axit picric và phá hủy giá treo, nối tiếp bởi một ngòi nổ kéo dài 82-84 phút nhằm đốt cháy toàn bộ quả khinh khí cầu và khí hydro bên trong đó. Cuối năm 1942, Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc đã chỉ đạo Hải quân Đế quốc nghiên cứu và phát triển chương trình bom khinh khí cầu của riêng họ, song song với dự án của Lục quân. Thiếu tá Tanaka Kiyoshi và nhóm nghiên cứu của ông đã thiết kế được một loại bom khinh khí cầu bằng lụa cao su dài , được đặt tên là Kiểu B (Type B). Lụa sẽ giúp tạo ra một lớp vỏ mềm dẻo hơn và có thể thích nghi được với sự thay đổi về áp suất. Mẫu thiết kế bắt đầu được thử nghiệm vào tháng 8 năm 1944, nhưng quả khinh khí cầu đã nổ tung khi lên được độ nhất định, và nguyên nhân vụ nổ xuất phát từ các đường khâu nối cao su bị lỗi. Chương trình này sau đó được hợp nhất với bên Lục quân, một phần do nguồn cung cao su ngày càng bị cắt giảm vào giai đoạn cuối của cuộc chiến. Khinh khí cầu Kiểu B sau được áp dụng hệ thống dằn của Kiểu A và trong buổi thử nghiệm ngày 2 tháng 11 năm 1944, một quả khinh khí cầu không mang bom đã bay thành công đến đất Mỹ. Đây là quả khi cầu đầu tiên bay được đến lục địa Bắc Mỹ, và nó được tìm thấy ở ngoài khơi San Pedro, California, vào ngày 4 tháng 11. Thông số kỹ thuật cuối cùng của mẫu khinh khí cầu Lục quân - được đặt tên là Kiểu A (Type A), có đường kính , thể tích khí đạt và có sức nâng lên đến ở độ cao yêu cầu. Loại vũ khí và bom được trang bị cho những quả khinh khí cầu này thường là: Bốn quả bom gây cháy nhiệt nhôm có trọng lượng , được gắn vào một ống thép dài , đường kính dài và được lắp đặt ngòi nổ va chạm cơ học. Một quả bom nổ mạnh chống người Type 92 có trọng lượng , kèm theo một khối axit picric hoặc trinitrotoluen được các dây chứa mảnh văng bọc xung quanh. Một quả bom cháy Type 97 có trọng lượng , kèm theo ba thùng magnesi nhiệt nhôm. Sử dụng Ba tiểu đoàn vận hành loại bom khinh khí cầu Kiểu A đã được thành lập để chuẩn bị cho đợt phóng đầu tiên. Tiểu đoàn đầu tiên bao gồm ban chỉ huy và ba đại đội, tổng cộng là 1.500 người, chia đều cho chín bãi phóng ở Kitaibaraki, Ibaraki. Tiểu đoàn thứ hai gồm 700 người chia thành ba đại đội và trực tại sáu bãi phóng ở Ichinomiya, Chiba. Tiểu đoàn thứ ba có 600 người, phân đều cho hai đại đội và chịu trách nhiệm vận hành sáu bãi phóng ở Nakoso, Fukushima. Khu vực Kitaibaraki thì đã có sẵn một nhà máy sản xuất hydro, trong khi các bãi phóng ở Kitaibaraki và Ichinomiya phải sử dụng khí hydro được vận chuyển từ các nhà máy ở ngoại ô Tokyo. Các bãi phóng có thể phóng tổng cộng 200 quả Fu-Go mỗi này, và họ đặt ra mục tiêu 15.000 lượt phóng cho đến tháng 3 năm 1945. Lục quân Nhật ước tính rằng chỉ có 10% số khinh khí cầu sẽ vượt qua được Thái Bình Dương để đến Bắc Mỹ. Mỗi bệ phóng bao gồm các con vít lớn được khoan xuống đất theo một đường tròn có cùng đường kính với các quả khinh khí cầu. Sau khi quả khinh khí cầu được móc vào vít, khoảng khí hydro sẽ được bơm vào quả bóng thông qua các đường ống dẫn mềm, sau đó dùng dây néo buộc chặt lại và tháo móc ra khỏi các con vít. Giá mang bom sẽ được buộc vào quả khinh khí cầu bằng các sợi dây dù, sau đó họ sẽ tháo dây néo ra. Mỗi bệ phóng yêu cầu khoảng 30 người và sẽ mất khoảng 30 phút tới một tiếng để lắp đặt xong quả Fu-Go, tùy thuộc vào sức gió xung quanh. Thời điểm thích hợp nhất để phóng các quả Fu-Go là khi các khu vực áp suất cao đã tan và trước khi xuất hiện các cơn gió biển vào lúc mặt trời mọc. Điều kiện trên được mong đợi xuất hiện trong khoảng ba đến năm ngày mỗi tuần, khoảng 50 ngày trong mùa đông - thời điểm được cho là có các dòng tia mạnh nhất. Những quả Fu-Go đầu tiên được phóng vào ngày 3 tháng 11 năm 1944. Một vài quả khinh khí cầu được gắn thiết bị vô tuyến thay vì bom để các trạm dò hướng vô tuyến có thể theo dõi được lộ trình của các quả khinh khí cầu. Hai tuần sau khi một quả bom Kiểu B được phát hiện ở San Pedro, một quả Kiểu A đã được tìm thấy ở ngoài khơi Kailua, Hawaii, vào ngày 14 tháng 11. Thêm nhiều quả nữa được tìm thấy ở gần Thermopolis, Wyoming, vào ngày 6 tháng 12 (các nhân chứng báo cáo đã nghe thấy một vụ nổ, và hố bom được phát hiện không lâu sau đó) và gần Kalispell, Montana, vào ngày 11 tháng 12, theo đó là ở các khu vực Marshall và Holy Cross ở Alaska, và Estacada, Oregon, vào cuối tháng 12. Các nhà chức trách Hoa Kỳ đã tuyên bố tình trạng báo động cao độ, và lực lượng kiểm lâm được giao nhiệm vụ tìm kiếm, báo cáo các khu vực khinh khí cầu hạ cánh và thu hồi các bằng chứng liên quan. Các quả Fu-Go tiếp tục được tìm thấy ở nhiều nơi khác dọc Bắc Mỹ, có quả còn nguyên vẹn hoặc chỉ còn các mảnh vụn, như các tiểu bang Alaska, Arizona, California, Colorado, Hawaii, Idaho, Iowa, Kansas, Michigan, Montana, Nebraska, Nevada, North Dakota, Oregon, South Dakota, Texas, Utah, Washington, và Wyoming của Hoa Kỳ; các tỉnh bang Alberta, British Columbia, Manitoba, Saskatchewan, Các Lãnh thổ Tây Bắc và Yukon của Canada; bang Baja California Norte và Sonora của Mexico; cùng nhiều quả khác ở ngoài khơi. Đến tháng 8 năm 1945, Lục quân Hoa Kỳ báo cáo ghi nhận 285 vụ việc liên quan đến các quả khinh khí cầu bom của Nhật Bản (28 vụ vào tháng 1, 54 vụ vào tháng 2, 114 vụ vào tháng 3, 42 vụ vào tháng 4, 16 vụ vào tháng 5, 17 vụ vào tháng 6, 14 vụ vào tháng 7). Hầu hết các kế hoạch phòng thủ của Hoa Kỳ chỉ được tiến hành toàn diện sau khi người Nhật ngừng tấn công bằng Fu-Go vào tháng 4 năm 1945. Để đối phó với nguy cơ cháy rừng ở Tây Bắc Thái Bình Dương trong những tháng mùa hè, Bộ Tư lệnh Phòng thủ Phía Tây (WDC), Không lực 4 và Bộ Tư lệnh Quân lực số 9 đã cho triển khai Dự án Firefly (Firefly Project), huy động một số lượng lớn máy bay Stinson L-5 Sentinel và Douglas C-47 Skytrain cùng 2.700 binh sĩ, trong đó có 200 lính dù da màu từ Tiểu đoàn Bộ binh Nhảy dù 555. Lục quân Hoa Kỳ cũng ủy quyền cho Cục Kiểm lâm Hoa Kỳ trong việc điều phối, thống nhất hoạt động phòng cháy chữa cháy giữa các cơ quan liên bang và tiểu bang, đồng thời phát triển dịch vụ chữa cháy có sử dụng các đơn vị, trang thiết bị và chiến thuật của quân đội. Trong Dự án Lightning của WDC, các quan chức y tế và nông nghiệp, bác sĩ thú y và tổ chức 4-H được hướng dẫn báo cáo lại bất kỳ loại bệnh mới nào đối với cây trồng hoặc vật nuôi gây ra bởi các cuộc chiến tranh sinh học tiềm tàng. Nhiều loại thuốc tẩy, khử hóa chất đã được vận chuyển tới những điểm quan trọng ở các bang phía tây, nhưng cuối cùng cũng không được sử dụng đến. Mặc dù chiến tranh sinh học là một vấn đề gây nhiều quan ngại trong nhiều tháng, nhưng các kế hoạch chống chiến tranh sinh học của WDC đã không được chính thức hóa và triển khai toàn diện cho đến tháng 7 năm 1945. Dự án Lightning còn có một nhiệm vụ con là "Arrow," với mục tiêu chính là vận chuyển nhanh chóng các loại khinh khí cầu bom Fu-Go thu hồi được tới các phòng nghiên cứu của Trung tâm Tình báo Kỹ thuật Hàng không ở Washington, D.C., để phân tích về mặt sinh học. Một cuộc điều tra của Hoa Kỳ sau chiến tranh đã kết luận rằng, người Nhật chưa bao giờ lên kế hoạch hoặc ý tưởng về việc sử dụng vũ khí sinh học, hóa học cho những quả khinh khí cầu Fu-Go. Các đơn vị tiêm kích của Hải quân và Không lực Lục quân đã tiến hành nhiều đợt xuất kích để đánh chặn những quả khinh khí cầu bom, nhưng đạt được rất ít thành công do các báo cáo quan sát thiếu chính xác, thời tiết xấu hoặc các quả Fu-Go vẫn còn bay ở độ cao rất lớn. Chỉ có 20 quả Fu-Go bị các phi công Hoa Kỳ và Canada bắn hạ. Hệ thống quan sát của Mỹ cũng thu được 95 tín hiệu đáng ngờ từ các quả Fu-Go mang máy vô tuyến, nhưng điều này không giúp ích được nhiều do có rất ít quả Fu-Go mang máy vô tuyến, và các tín hiệu trên yếu dần khi chúng bay đến gần các cột do thám. Các thí nghiệm xác định hệ số phản xạ radar của các quả Fu-Go được thu hồi và phục hồi vào tháng 2 năm 1945 cũng không đạt được nhiều kết quả. Không lực 4 đã bắt đầu Dự án Sunset vào tháng 4 vầ đi vào hoạt động toàn diện vào tháng 6 năm 1945, với mục tiêu tìm kiếm và phát hiện các quả khinh khí cầu bằng radar đặt tại vùng duyên hải ở tiểu bang Washington. Tuy vậy, họ không bắt được bất kỳ tín hiệu nào và dự án bị hủy bỏ vào đầu tháng 8. Ban đầu, chỉ có vài quan chức chính phủ của Hoa Kỳ tin rằng các quả khinh khí cầu này được thả trực tiêp từ Nhật Bản. Lúc đầu, có nhiều giả thuyết suy đoán các quả Fu-Go được phóng từ các trại tù binh chiến tranh Đức hoặc các trại giam tập trung người Mỹ gốc Nhật ở Mỹ. Sau khi thu hồi được những quả bom đầu tiên, nhiều người phỏng đoán chúng được phóng từ tàu ngầm Nhật Bản ở ngoài khơi Hoa Kỳ. Những mẫu cát và khoáng chất thu được từ những quả Fu-Go đã được Đơn vị Địa chất Quân sự thuộc Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ nghiên cứu kỹ lưỡng. Họ kết luận rằng nguồn gốc của những mẫu cát trên đến từ Nhật Bản, cụ thể là vùng Shiogama, Miyagi hoặc ít khả năng hơn là vùng Ichinomiya, Chiba. Những bức ảnh trinh sát tại khu vực Shiogama vào tháng 5 năm 1945 cũng cho thấy một vài chi tiết bị nhầm lẫn thành những quả khinh khí cầu và khả năng cao là một bãi phóng đặt ở bãi biển. Kiểm duyệt thông tin Ngày 4 tháng 1 năm 1945, Văn phòng Kiểm duyệt Hoa Kỳ đã gửi một bản ghi mật tới các biên tập viê tờ báo và đài phát thanh, yêu cầu họ không được công khai tất cả các thông tin về những quả bom khinh khí cầu Fu-Go. Các thông tin về Fu-Go được giữ kín và hiệu quả đến mức trong một bản ghi mật khác được gửi vào ba tháng sau, Văn phòng Kiểm duyệt đã tuyên dương đó là một sự hợp tác "tuyệt vời" và rằng "việc các bạn từ chối công bố và phát đi những thông tin về quả khinh khí cầu này đã cản trở người Nhật, khiến họ bối rối, khó chịu và là một đóng góp an trọng cho an ninh quốc gia." Lục quân Đế quốc Nhật Bản chỉ biết về kết quả của các cuộc tấn công khinh khí tại Kalispell, Montana, thông qua một bài báo trên tờ Đại Công báo của Trung Quốc ngày 18 tháng 12 năm 1944. Vụ việc ở Kalispell đã được Western News, một tờ báo tuần được xuất bản ở Libby, Montana, đưa tin vào ngày 14 tháng 12 năm 1944. Sự kiện trên được đăng tải một lần nữa trong các ấn bản ngày 1 tháng 1 năm 1945 của tờ Time và Newsweek, cũng như trên trang nhất của ấn bản ngày 2 tháng 1 của tờ The Oregonian ở Portland, Oregon, trước khi được Văn phòng Kiểm duyệt gửi bản ghi mật. Từ giữa tháng 2 năm 1945, bộ máy tuyên truyền của Nhật Bản bắt đầu phát đi hàng loạt thông báo sai sự thật rằng đã có nhiều vụ hỏa hoạn lớn và khiến công chúng Mỹ hoảng sợ, đồng thời tuyên bố thương vong do những quả Fu-Go gây ra đã lên đến hàng trăm hoặc hàng nghìn người. Cuối tháng 2 năm 1945, một sự cố an ninh đã xảy ra khi Dân biểu Arthur L. Miller của Hạ viện Hoa Kỳ vô tình nhắc đến những quả khinh khí cầu trong một chuyên mục thông tin hàng tuần mà ông thường xuyên gửi đến 91 tờ báo ở Khu vực 4 của tiểu bang Nebraska, trong đó có đoạn: "Trong một nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng, quân Nhật có thể đang thả những quả bóng bay gây cháy vào những khu rừng lớn của chúng ta ở phía tây bắc." Văn phòng tình báo của Bộ tư lện Quân lực 7 ở Omaha đã phải liên hệ tới các biên tập viên của tất cả 91 tờ báo để yêu cầu họ kiểm duyệt lại thông tin, và đã ngăn lại thành công. Vào cuối tháng 3, hãng thông tấn United Press (UP) đã viết một bài báo chi tiết về những quả khinh khí cầu trước khi chuyển tới các văn phòng xuất bản ở Hoa Kỳ. Báo cáo của Lục quân Hoa Kỳ ghi lại rằng vụ vi phạm này bao gồm "rất nhiều chi tiết máy móc về thứ đó, bên cạnh đó là một câu chuyện kinh dị." Các nhà kiểm duyệt đã liên hệ tới UP, và được trả lời rằng bài báo vẫn chưa được in ra, và toàn bộ năm bản sao đã được thu hồi để tiêu hủy. Các nhà điều tra sau xác định được rằng thông tin trên bắt nguồn từ cuộc họp giao ban với các nhà lập pháp bang Colorado, và đã bị rò rỉ ra ngoài trong một phiên họp mở. Vào cuối tháng 4, các nhà kiểm duyệt bắt đầu điều tra bộ truyện tranh nổi tiếng toàn quốc là Tim Tyler's Luck của Lyman Young, do bộ truyện có vẽ phân cảnh thủy thủ đoàn của một tàu ngầm Hoa Kỳ đi thu hồi một quả khinh khí cầu Nhật Bản. Trong những tập truyện tiếp theo, nhân vật chính của truyện đã chiến đấu với những con quái vật dây leo được mọc ra từ những hạt giống mà quả khinh khí cầu mang theo, được tạo ra bởi một người làm vườn xấu xa Nhật Bản. Một bộ truyện tranh khác, Smilin' Jack của Zack Mosley, còn có cảnh một chiếc máy bay đâm vào một quả bóng bay của Nhật Bản và phát nổ, trước khi bốc cháy và rơi xuống đất. Dù vậy, Văn phòng Kiểm duyệt quyết định việc kiểm duyệt chuyên mục truyện tranh này là không cần thiết. Sự kiện ngày 5 tháng 5 Ngày 5 tháng 5 năm 1945, sáu thường dân đã thiệt mạng ở một cánh rừng gần thị trấn Bly, Oregon, sau khi phát hiện ra một trong những quả khinh khí cầu Fu-Go ở Rừng Quốc gia Fremont. Đây là những thường dân Mỹ đầu tiên và duy nhất thiệt mạng bởi hỏa lực của phe Trục ở lục địa Bắc Mỹ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Mục sư Archie Mitchell và vợ Elsie đang mang thai năm tháng, cùng với năm đứa trẻ là học sinh trường Chúa Nhật, tuổi từ 11-14, đã tham gia buổi cắm trại ngoài trời ở khu rừng trên núi Gearhart. Khi Mitchell đang lấy đồ ra khỏi xe, Elsie và những đứa trẻ phát hiện ra một quả khinh khí cầu gắn một giá thuốc nổ nằm trên mặt đất. Một vụ nổ lớn xảy ra, cướp đinh sinh mạng của bốn đứa trẻ là Edward Engen (13 tuổi), Jay Gifford (13 tuổi), Dick Patzke (14 tuổi), và Sherman Shoemaker (11 tuổi). Elsie và Joan Patzke (13 tuổi) sống sót qua vụ nổ nhưng không qua khỏi vì vết thương quá nặng. Cuộc điều tra của Lục quân Hoa Kỳ đã kết luận rằng quả bom có thể đã bị đá vào hoặc bị thả xuống đất sau hơn một tháng nằm nguyên vẹn trên mặt đất. Ngày 22 tháng 5, việc kiểm duyệt thông tin báo chí được xóa bỏ để giúp công chúng Hoa Kỳ cảnh giác hơn về mối đe dọa của những quả khinh khí cầu bom. Một đài tưởng niệm - Đài tưởng niệm Mitchell, đã được xây dựng tại nơi diễn ra vụ tai nạn thương tâm vào năm 1950, và được đặt trong Khu giải trí Mitchell. Nơi này được công nhận là một địa danh lịch sử trong Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ vào năm 2003. Một cây thông Ponderosa ở gần địa điểm trên vẫn còn mang những vết sẹo trên thân do trúng mảnh văng của quả bom. Năm 1987, một hội phụ nữ Nhật Bản, những người từng tham gia sản xuất khinh khí cầu Fu-Go khi còn là nữ sinh, đã trao tặng 1.000 con hạc giấy cho gia đình nạn nhân như một biểu tượng của hòa bình và hàn gắn vết thương chiến tranh. Sáu cây hoa anh đào đã được trồng tại Khu Mitchell vào năm 1995, nhân dịp kỷ niệm 50 năm sự kiện trên. Từ bỏ và kết quả Đến giữa tháng 4 năm 1945, Nhật Bản không còn đủ tài nguyên vật liệu để duy trì việc sản xuất khinh khí cầu bom, khi cả nguồn cung giấy và khí hydro đều ở mức rất thấp. Ngoài ra, vì sự kiểm duyệt thông tin chặt chẽ của Hoa Kỳ nên Lục quân Đế quốc Nhật Bản không nắm bắt rõ được kết quả của các đợt phóng Fu-Go của họ. Chiến dịch phóng Fu-Go sau đó được tạm dừng, và người Nhật không có ý định tiếp tục dù các luồng tia đã mạnh trở lại vào mùa thu năm 1945. Quả Fu-Go cuối cùng được phóng vào ngày 20 tháng 4, nâng tổng số khinh khí cầu bom được người Nhật sử dụng lên đến 9.300 quả (khoảng 700 quả vào tháng 11 năm 1944, 1.200 quả vào tháng 12 năm 1944, 2.000 quả vào tháng 1 năm 1945, 2.500 quả vào tháng 2, 2.500 quả vào tháng 3 và khoảng 400 quả vào tháng 4). Chỉ có khoảng 300 quả Fu-Go đã được phát hiện hoặc tìm thấy ở Bắc Mỹ. Bom khinh khí cầu Fu-Go được coi là hệ thống vũ khí đầu tiên trong lịch sử có tầm bắn xuyên lục địa, một sự phát triển quan trọng trong chiến tranh, theo sau đó là sự ra đời của tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) đầu tiên trên thế giới, R-7 "Семёрка" của Liên Xô, vào năm 1957. Theo báo cáo của Hoa Kỳ, chỉ có "một hoặc hai" đám cháy cỏ nhỏ được cho là do bom khinh khí cầu gây ra. Như các quan chức của Lục quân Đế quốc Nhật bản dự đoán được, việc phóng các quả Fu-Go vào mùa đông và mùa xuân đã làm hạn chế khả năng tạo các đám cháy do lượng mưa cao ở khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương, cùng với đó là các khu rừng ở Bắc Mỹ thường bị tuyết bao phủ hoặc quá ẩm ướt để bắt lửa. Ngoài ra, phần lớn khu vực miền tây Hoa Kỳ ghi nhận được lượng mưa cao một cách bất thường vào năm 1945, với một số khu vực ghi nhận được lượng mưa từ nhiều hơn bất kỳ năm nào khác trong thập kỷ. Thiệt hại nghiêm trọng nhất gây ra bởi bom Fu-Go là vào ngày 10 tháng 3 năm 1945, khi một quả khinh khí cầu bom bay về vùng Toppenish, Washington và va chạm với đường dây điện cao thế. Sự cố này đã gây ra hiện tượng đoản mạch và khiến Công trường Công binh Hanford (HEW) của Dự án Manhattan bị mất điện, cùng với ba lò phản ứng hạt nhân phải dừng hoạt động. Nguồn điện nhanh chóng được khôi phục lại nhờ vào hệ thống phát điện dự phòng, nhưng người Mỹ phải mất đến ba ngày để có thể khôi phục các lò phản ứng hạt nhân làm giàu plutoni về công suất hoạt động ban đầu. Plutoni sản xuất tại đây sau được sử dụng để làm lõi cho quả bom nguyên tử "Fat Man," được thả xuống Nagasaki vào ngày 9 tháng 8 năm 1945. Sau chiến tranh Toàn bộ hồ sơ, ghi chép của Nhật Bản về dự án Fu-Go đã bị phá hủy theo chỉ thị ngày 15 tháng 8 năm 1945, ngày Nhật Bản tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Do đó, cuộc phỏng vấn với Trung tá Kunitake Terato và Thiếu tá Inouye đã trở thành nguồn thông tin duy nhất về nội dung, các mục tiêu của dự án đối với các nhà điều tra Hoa Kỳ. Thông tin thu được từ cuộc phỏng vấn đã được tổng hợp lại trong bộ báo cáo gồm năm tập, bởi một nhóm nghiên cứu do Karl T. Compton (Văn phòng Nghiên cứu và Phát triển Khoa học) và Edward L. Moreland (Viện Công nghệ Massachusetts) lãnh đạo, trước khi được đề trình lên Tổng thống Harry S. Truman. Các quả khinh khí cầu tiếp tục được tìm thấy ở nhiều nơi nhiều năm sau chiến tranh. Ít nhất tám quả đã được tìm thấy vào những năm 1940, ba quả vào những năm 1950, hai quả vào giai đoạn năm 1960 và một quả vào những năm 1970. Năm 2014, một giá treo gắn bom đã được tìm thấy ở Lumby, British Columbia và được đội xử lý bom mìn của Hải quân Hoàng gia Canada tiến hành hủy nổ. Thêm một quả Fu-Go nữa được tìm thấy tại McBride, British Columbia vào năm 2019. Các hiện vật liên quan đến khinh khí cầu Fu-Go hiện đang được trưng bày tại nhiều bảo tàng chiến tranh ở Hoa Kỳ và Canada, bao gồm Bảo tàng Chiến tranh Canada và Bảo tàng Hàng không và Vũ trụ Quốc gia Smithsonian. Xem thêm Khinh khí cầu bom E77 – một loại vũ khí sinh học của Hoa Kỳ trong thập niên 1950, phát triển dựa trên bom Fu-Go Chiến dịch Outward – chiến dịch tấn công Đức Quốc Xã bằng khinh khí cầu của Anh WS-124A Flying Cloud – dự án khinh khí cầu bom của Không quân Hoa Kỳ trong thập niên 1950 Tham khảo Ghi chú Chú thích Tài liệu Đọc thêm Liên kết ngoài Report on Fu-Go balloons by the U.S. Technical Air Intelligence Center, May 1945
19821421
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20Udon%20Thani
Giáo phận Udon Thani
Giáo phận Udon Thani (; ) là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Thái Lan. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Thare và Nonseng. Địa giới Địa giới giáo phận bao gồm 5 tỉnh tại Thái Lan: Khon Kaen, Loei, Nongbua Lamphu, Nong Khai và Udon Thani. Tòa giám mục và Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp của giáo phận được đặt tại thành phố Udon Thani. Giáo phận được chia thành 72 giáo xứ. Lịch sử Hạt Đại diện Tông tòa Udon Thani được thành lập vào ngày 7/5/1953 theo tông sắc Nos quibus của Giáo hoàng Piô XII, trên phần lãnh thổ tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Thare (hiện là Tổng giáo phận Thare và Nonseng). Vào ngày 18/12/1965 Hạt Đại diện Tông tòa được nâng cấp thành một giáo phận theo tông sắc Qui in fastigio của Giáo hoàng Phaolô VI. Vào ngày 2/7/1969 giáo phận đã đổi tên thành như hiện tại theo nghị định Cum Excellentissimus của Bộ Truyền giáo. Giám mục quản nhiệm Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ. Clarence James Duhart, C.SS.R. † (1953 - 2/10/1975 từ nhiệm) George Yod Phimphisan, C.SS.R. † (2/10/1975 - 14/11/2009 về hưu) Giuse Luechai Thatwisai, từ 14/11/2009 Thống kê Đến năm 2020, giáo phận có 19.943 giáo dân trên dân số tổng cộng 5.491.650, chiếm 0,4%. |- | 1970 || 9.655 || 2.005.642 || 0,5 || 21 || || 21 || 459 || || 25 || 26 || 17 |- | 1980 || 13.002 || 3.777.885 || 0,3 || 23 || 1 || 22 || 565 || || 50 || 72 || 51 |- | 1990 || 16.565 || 4.804.503 || 0,3 || 27 || 3 || 24 || 613 || 1 || 35 || 93 || 57 |- | 1999 || 15.208 || 5.267.331 || 0,3 || 31 || 9 || 22 || 490 || 1 || 24 || 99 || 55 |- | 2000 || 15.415 || 5.284.691 || 0,3 || 33 || 10 || 23 || 467 || 1 || 26 || 104 || 56 |- | 2001 || 15.612 || 5.285.002 || 0,3 || 31 || 9 || 22 || 503 || 1 || 28 || 109 || 56 |- | 2002 || 15.801 || 5.285.002 || 0,3 || 33 || 10 || 23 || 478 || || 28 || 106 || 57 |- | 2003 || 16.265 || 5.317.240 || 0,3 || 38 || 12 || 26 || 428 || || 31 || 110 || 60 |- | 2004 || 16.359 || 5.318.718 || 0,3 || 41 || 12 || 29 || 399 || || 33 || 100 || 60 |- | 2010 || 16.822 || 5.371.000 || 0,3 || 44 || 19 || 25 || 382 || || 27 || 100 || 32 |- | 2014 || 18.204 || 5.377.000 || 0,3 || 45 || 16 || 29 || 404 || || 32 || 100 || 69 |- | 2017 || 19.263 || 5.527.000 || 0,3 || 52 || 20 || 32 || 370 || || 34 || 100 || 73 |- | 2020 || 19.943 || 5.491.650 || 0,4 || 63 || 35 || 28 || 316 || || 30 || 100 || 72 |} Tài liệu Bolla Nos quibus, AAS 45 (1953), p. 712 Decreto Cum Excellentissimus, AAS 62 (1970), p. 181 Liên kết ngoài Số liệu Annuario pontificio năm 2021 tại Trang mạng chính thức của giáo phận Đề mục của giáo phận trên trang mạng của Hội đồng Giám mục Thái Lan Udon Thani
19821424
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20Ubon%20Ratchathani
Giáo phận Ubon Ratchathani
Giáo phận Ubon Ratchathani (; ) là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Thái Lan. Lãnh đạo đuơng nhiệm của giáo phận là Giám mục Philípphê Banchong Chaiyara. Địa giới Địa giới giáo phận bao gồm 7 tỉnh : Amnat Charoen, Maha Sarakham, Roi Et, Sisaket, Surin, Ubon Ratchathani và Yasothonở Thái Lan. Tòa giám mục và Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội của giáo phận được đặt tại thành phố Ubon Ratchathani. Giáo phận được chia thành 60 giáo xứ. Lịch sử Hạt Đại diện Tông tòa Ubon được thành lập vào ngày 7/5/1953 theo tông sắc Nos quibus của Giáo hoàng Piô XII trên phần lãnh thổ tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Thare (nay là Tổng giáo phận Thare và Nonseng). Vào ngày 22/3/1965 một phần lãnh thổ giáo phận được tách ra để thành lập Hạt Đại diện Tông tòa Nakhorn-Rajasima (nay là Giáo phận Nakhon Ratchasima). Vào ngày 18/12 cùng năm, Hạt Đại diện Tông tòa được nâng cấp thành một giáo phận theo tông sắc Qui in fastigio của Giáo hoàng Phaolô VI. Vào ngày 2/7/1969 giáo phận đã đổi tên thành như hiện tại theo nghị định Cum Excellentissimus của Bộ Truyền giáo. Giám mục quản nhiệm Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ. Claude-Philippe Bayet, M.E.P. † (7/3/1953 - 13/8/1969 từ nhiệm) Claude Germain Berthold, M.E.P. † (9/4/1970 - 24/5/1976 từ nhiệm) Micae Bunluen Mansap † (21/5/1976 - 25/3/2006 về hưu) Philípphê Banchong Chaiyara, C.SS.R., từ 25/3/2006 Thống kê Đến năm 2020, giáo phận có 24.609 giáo dân trên dân số tổng cộng 7.918.291, chiếm 0,3%. |- | 1970 || 12.706 || 3.900.000 || 0,3 || 3 || 3 || || 4.235 || || 3 || 130 || 20 |- | 1980 || 17.291 || 6.392.242 || 0,3 || 26 || 5 || 21 || 665 || || 24 || 126 || 57 |- | 1990 || 20.371 || 6.967.970 || 0,3 || 34 || 17 || 17 || 599 || || 24 || 134 || |- | 1999 || 23.590 || 7.573.620 || 0,3 || 35 || 24 || 11 || 674 || || 14 || 143 || 25 |- | 2000 || 24.310 || 7.725.668 || 0,3 || 35 || 24 || 11 || 694 || || 14 || 148 || 25 |- | 2001 || 24.760 || 7.770.793 || 0,3 || 37 || 27 || 10 || 669 || || 12 || 154 || 22 |- | 2002 || 24.967 || 7.838.608 || 0,3 || 40 || 30 || 10 || 624 || || 12 || 146 || 22 |- | 2003 || 25.201 || 7.841.117 || 0,3 || 42 || 32 || 10 || 600 || || 12 || 156 || 24 |- | 2004 || 25.571 || 7.921.032 || 0,3 || 42 || 32 || 10 || 608 || || 12 || 161 || 55 |- | 2010 || 26.242 || 7.785.113 || 0,3 || 40 || 32 || 8 || 656 || || 13 || 169 || 58 |- | 2014 || 25.905 || 8.010.073 || 0,3 || 40 || 31 || 9 || 647 || || 12 || 135 || 60 |- | 2017 || 25.201 || 7.916.177 || 0,3 || 42 || 32 || 10 || 600 || || 13 || 132 || 60 |- | 2020 || 24.609 || 7.918.291 || 0,3 || 40 || 36 || 4 || 615 || || 7 || 146 || 60 |} Ghi chú Tài liệu Bolla Nos quibus, AAS 45 (1953), p. 712 Decreto Cum Excellentissimus, AAS 62 (1970), p. 181 Liên kết ngoài Số liệu Annuario pontificio năm 2021 tại Đề mục của giáo phận trên trang mạng của Hội đồng Giám mục Thái Lan Udon Thani
19821427
https://vi.wikipedia.org/wiki/Helmuth%20Reymann
Helmuth Reymann
Helmuth Reymann (1921-1944) là một đại úy trong quân đội Đức trong giai đoạn Thế chiến II. Ông sinh ngày 15 tháng 6 năm 1921 tại thành phố Neuruppin, Đức. Reymann đã gia nhập quân đội Đức vào năm 1940 và được gắn vào sư đoàn thiết giáp số 23. Vào tháng 6 năm 1944, Helmuth Reymann đã được bổ nhiệm làm chỉ huy sư đoàn thiết giáp số 5. Ông đã tham gia chiến dịch phòng không Caen và tham gia cuộc chiến hành quân Ardennes vào tháng 12. Reymann đã chết trong trận chiến tại Arnhem, Hà Lan vào ngày 10 tháng 2 năm 1944, hưởng thọ 23 tuổi.
19821430
https://vi.wikipedia.org/wiki/Griot%20%28m%C3%B3n%20%C4%83n%29
Griot (món ăn)
Griot (, ) là một món ăn có nguồn gốc từ Haiti. Nó bao gồm thịt nạc vai lợn ướp trong hỗn hợp nước ép cam quýt, được om và sau đó chiên ngập dầu. Nó thường được phục vụ trong các bữa tiệc. Griot, cùng với diri ak pwa wouj (đậu đỏ và gạo) được một số người coi là "món ăn quốc gia" của đất nước này. Từ nguyên Từ "Griot" cũng có thể được đọc thành griyo hoặc grillots. Chuẩn bị Griot thường được làm từ thịt nạc vai lợn. Đầu tiên, thịt được rửa sạch, sau đó cho vào hỗn hợp nước ép cam quýt để tăng thêm hương vị. Sau khi ngâm trong nước ép cam quýt, thịt được ướp trong epis, là hỗn hợp của các loại thảo mộc, rau và gia vị của Haiti. Tiếp theo, thịt được om hoặc nướng cho đến khi mềm. Chất lỏng nấu ăn được tạo ra được sử dụng để pha chế nước sốt đi kèm, được gọi là sòs ti-malis. Cuối cùng, thịt được chiên ngập dầu cho đến khi có màu vàng nâu và độ giòn. Griot hầu như luôn được phục vụ với pikliz cũng như cơm hoặc bannann peze. Xem thêm Thịt lợn Món ăn quốc gia Tham khảo Ẩm thực Haiti Văn hóa Haiti Haiti Thức ăn nhẹ Món lợn Món chiên Món ăn quốc gia
19821436
https://vi.wikipedia.org/wiki/Katherine%20Oppenheimer
Katherine Oppenheimer
Katherine " Kitty " Oppenheimer ( Puening ; 8 tháng 8 năm 1910 – 27 tháng 10 năm 1972) là một nhà sinh vật học, thực vật học người Mỹ gốc Đức và là cựu thành viên của Đảng Cộng sản Hoa Kỳ. Bà được biết đến nhiều nhất với tư cách là vợ của nhà vật lý J. Robert Oppenheimer, giám đốc phòng thí nghiệm Los Alamos của Dự án Manhattan trong chiến tranh thế giới thứ hai. Tham khảo Thư mục Liên kết ngoài Hồ sơ FBI của Katherine Oppenheimer Những bức thư từ Tây Ban Nha của Joe Dallet, Tình nguyện viên người Mỹ, gửi cho vợ của ông Chôn cất tại biển Mất năm 1972 Sinh năm 1910 Phụ nữ tham gia dự án Manhattan Người hạt Allegheny, Pennsylvania Người Los Alamos, New Mexico Người tham gia dự án Manhattan Cựu sinh viên Đại học Pittsburgh Cựu sinh viên Đại học Pennsylvania J. Robert Oppenheimer Đảng viên Đảng Cộng sản Hoa Kỳ Người di cư từ Đế quốc Đức đến Hoa Kỳ
19821438
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leslie%20Groves
Leslie Groves
Leslie Richard Groves Jr. (17 tháng 8 năm 1896 – 13 tháng 7 năm 1970) là một sĩ quan Công binh Lục quân Hoa Kỳ. Ông là người giám sát việc xây dựng Lầu Năm Góc và là người phụ trách chỉ đạo dự án Manhattan. Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài 11 hours of interviews with Groves on the Manhattan Project. Memorandum for the Secretary of War, Groves describes the first Trinity (nuclear test) tại New Mexico. Papers of Leslie Groves at the National Archives and Records Administration Arlington National Cemetery Tướng Lục quân Hoa Kỳ Người Mỹ gốc Pháp Người Mỹ gốc Wales Người Mỹ gốc Anh Kỹ sư Mỹ thế kỷ 20 Mất năm 1970 Sinh năm 1896 Quân nhân Công binh Lục quân Hoa Kỳ Kỹ sư quân sự Hoa Kỳ Quân nhân Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất An táng tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington Nhân vật tham gia Người dự án Manhattan
19821439
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jean%20Tatlock
Jean Tatlock
Jean Frances Tatlock (21 tháng 2 năm 1914 – 4 tháng 1 năm 1944) là một nhà tâm thần học người Mỹ. Bà là thành viên của Đảng Cộng sản Hoa Kỳ, là phóng viên kiêm nhà báo cho ấn phẩm Western Worker của đảng. Chú thích Tham khảo   Nữ nhà văn Mỹ thế kỷ 20 Cựu sinh viên Đại học California tại Berkeley Cựu sinh viên Đại học Stanford Người Ann Arbor, Michigan Mất năm 1944 Sinh năm 1914
19821440
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20vi%C3%AAn%20s%C3%B4ng%20H%C3%A1n
Công viên sông Hán
Công viên sông Hán hay Công viên Hangang (Tiếng Hàn: 한강공원, Hanja: 漢江公園) hay tên gọi chính thức là Công viên công dân Hangang (Tiếng Hàn: 한강시민공원, Hanja: 漢江市民公園) là một công viên được tạo ra với mục tiêu hồi sinh sông Hán thành một dòng sông sạch như trong quá khứ. Được thực hiện từ năm 1982 đến 1986, đoạn sông Hán dài 41,5km ở Seoul (Hail-dong - Gaehwa-dong) đã bị biến thành sông có độ sâu nước trung bình 2,5m và chiều rộng sông 1km. Ngoài ra, ven sông còn có công viên nghỉ ngơi dân sinh, sân bóng đá, sân bóng chuyền, sân bóng rổ, hồ bơi, sân bóng cổng, khu thể thao, sân học tự nhiên, khu trượt nước, bến taxi nước, sân du thuyền, sân chèo thuyền, sân câu cá, bãi đậu xe để người dân có thể sử dụng nó như một khu giải trí và nghỉ dưỡng. Lịch sử Công viên Hangang được xây dựng từ năm 1982 đến năm 1986, với sự khởi động của Dự án Phát triển Sông Hangang của chính phủ. Mục tiêu chính của dự án là tạo ra một không gian thân thiện với môi trường mà người dân Seoul, người Hàn Quốc, người nước ngoài và khách du lịch có thể tận hưởng. Trong khi xây dựng Công viên Hangang, một phần của Hangang dài 41,5 km và rộng 39.9 km2 đã biến thành một con sông có độ sâu trung bình 2,5 m và chiều rộng trung bình 1 km. Năm 2007, Dự án Phục hưng Hangang được triển khai với cùng mục tiêu và sẽ kết thúc vào năm 2030. Dự án sẽ biến Công viên Hangang và các khu vực xung quanh Hangang thành một địa điểm văn hóa, nghệ thuật, giải trí và thành phố ven sông. Chủ đề chính là sáng tạo và phục hồi, và mỗi khu vực công viên được chỉ định một chủ đề đặc biệt sẽ được sử dụng làm cơ sở để phát triển công viên và khu vực xung quanh. Khu vực Seoul Gangnam Công viên Gangseo Hangang Công viên Yanghwa Hangang Công viên Banpo Hangang nằm giữa cầu Hannam, cầu Dongjak và cầu Banpo. Nó có chiều dài 7,2 km và diện tích của công viên là 567,600m2. Nó là một phần và là kết quả đầu tiên của Dự án phục hưng sông Hàn, một trong những chính sách lớn của Oh Se-hoon, thị trưởng Seoul. Công viên Jamwon Hangang Công viên Jamsil Hangang Công viên Gwangnaru Hangang Gangbuk Công viên Nanji Hangang nằm ở Sangam-dong, Mapo-gu, giữa cầu Nanjicheon và cầu Hongjecheon. Nó có chiều dài 4,02 km và diện tích 776,000m2. Công viên là một trong năm công viên tổ chức World Cup để kỷ niệm 2002 FIFA World Cup. Nó được xây dựng với việc bãi bỏ trung tâm rác thải Najido, một bãi rác dọc theo sông Hàn. Sau đó, nó được xây dựng lại như một phần của dự án Phục hưng Hangang, bao gồm một công viên giải trí, một cây cầu kết nối trung tâm với công viên bầu trời và một lối đi kết nối phức hợp. Công viên Mangwon Hangang Công viên Ichon Hangang Công viên Ttukseom Hangang Đảo Công viên Seonyudo Công viên Yeouido Hangang tọa lạc tại Yeouido. Nó có diện tích 1,487,374m2 và chiều dài 8,4 km. Nó có thể truy cập bằng phương tiện giao thông công cộng như tàu điện ngầm và xe buýt. Nó cũng có nhiều sự kiện khác nhau như Lễ hội hoa mùa xuân Hangang, Lễ hội pháo hoa quốc tế Seoul, các buổi biểu diễn khác nhau và các sự kiện chạy marathon. Gyeonggi-do Công viên Guri Hangang Công viên thể thao Namyangju Hangang Công viên Sampae Hangang Điểm thu hút khách du lịch Đảo Sebitseom Sebitseom () là một hòn đảo nhân tạo do Chính quyền thành phố Seoul tạo ra vào năm 2006 theo đề xuất của công dân Seoul Kim Pun-sun, và nó nằm trong Công viên Banpo Hangang. Cầu Banpo Cầu Banpo () là cây cầu có 6 làn xe với chiều dài 1.490m và rộng 25m, nối Seobinggo-dong, Yongsan-gu và Banpo-dong, Seocho-gu. Saetgang Saetgang () là con sông giữa Yeouido và đất liền. Ở Saetgang có cầu Saetgang, trông giống như một con sếu. Quán cà phê Cafe of Light Quán cà phê Cafe of Light nằm gần ga Yeouinaru với tầm nhìn toàn cảnh ra công viên Hangang. Đồ uống có sẵn để mua. Hoạt động Một loạt các hoạt động được tiến hành trong công viên trong suốt cả năm. Bể bơi Có bảy bể bơi trong Công viên Hangang. Các bể bơi Nanji, Mangwon, Yeouido, Jamwon, Jamsil, Ttukseom và Gwangnaru thường mở cửa từ tuần thứ ba của tháng Sáu đến tuần đầu tiên của tháng Bảy. Nơi đây mở cửa từ 9:00 đến 19:00 và có thể tránh nóng trên bể bơi gần Seoul nhất. Có hồ bơi dành cho người lớn, thác nước và hồ bơi dành cho trẻ em với độ sâu của nước rất thấp và có thể tìm thấy đài phun nước LED ở một số hồ bơi. Có vòng nước và cầu trượt nước, du khách có thể tận hưởng kỳ nghỉ hè như đang ở trong công viên nước khổng lồ. Hoạt động mùa đông Ở Công viên Hangang, xe trượt tuyết được mở ở Yeouido. Nó mở cửa hàng ngày trong tuần và suốt cả năm. Nó mở cửa từ 9:00 đến 17:00 và không mở cửa từ 12:00 đến 1:00 để tuyết rơi trở lại. Ngoài ra, trong năm 2015, xe đạp mini, xe lắc, xe đạp điện cũng được sản xuất mới nhằm đáp ứng nhu cầu của trẻ em. Ngoài ra, còn có nhiều hoạt động khác như đánh bắt cá và nhảy bungee. Khác Sông Hàn có nguồn lợi thủy sản nên có thể câu cá trừ vùng cấm. Bất cứ ai cũng có thể đánh cá mà không cần tuân thủ các luật liên quan đến việc cấm. Nhiều môn thể thao dưới nước có thể được thực hiện trên sông Hàn bao gồm trượt nước, thuyền máy, du thuyền và du thuyền, và có thể được thực hiện ở hầu hết các công viên trên sông Hàn. Các chương trình và lễ hội Lễ hội hoa xuân Hangang Lễ hội hoa xuân Hangang (), còn được gọi là lễ hội hoa xuân Yeouido (), được tổ chức tại Yeouiseo-ro () ở Yeongdeungpo-gu, Seoul, thường vào đầu tháng 4, khi hoa anh đào hoa đang nở rộ. Những cây hoa anh đào trải dài trên Yunju-ro khoảng 6 km. Các loài hoa khác như tảo xoắn, đỗ quyên và forsythias cũng nở rộ. Các sự kiện đặc biệt được chuẩn bị trong Lễ hội hoa mùa xuân Hangang. Lễ hội pháo hoa Lễ hội pháo hoa quốc tế Seoul () là sự kiện trình diễn pháo hoa ở Seoul do công ty Hanwha tổ chức. Các quốc gia khác nhau tham gia sự kiện này hàng năm. Lễ hội mùa hè Hangang Lễ hội mùa hè Hangang () được tổ chức hàng năm vào mùa hè. Các hoạt động dưới nước, rạp xiếc và các trải nghiệm khác được cung cấp. Năm 2017, khoảng 80 chương trình đã được tổ chức trong Lễ hội mùa hè Hangang. Nỗ lực bảo tồn Công viên Hangang Với mục đích bảo tồn Công viên Hangang, Thành phố Seoul quản lý Khu bảo tồn cảnh quan sinh thái, Công viên sinh thái và Đường cá. Khu bảo tồn cảnh quan sinh thái Trong Công viên Hangang, Godeok-dong, Bamseom và Amsa-dong được chỉ định là Khu bảo tồn cảnh quan sinh thái. Công viên sinh thái Trong Công viên Hangang, lạch Yeouido, vùng đất ngập nước Gangseo, bờ sông Godeok, vùng đất ngập nước Nanji và bờ sông Amsa được chỉ định là Công viên sinh thái. Bờ sông Amsa Có một khu vực bờ sông Amsa () trong công viên. Bờ biển nhân tạo và đường dành cho xe đạp của bờ sông Amsa-dong đã bị phá bỏ và một công viên sinh thái với hoa dại, đường mòn đi bộ, cộng đồng lau sậy và hến được tạo ra để mở rộng môi trường sống của sinh vật và cải thiện tầm nhìn ra quang cảnh. Thư viện Xem thêm Sông Hán Yeouido Công viên Yeouido Tham khảo Liên kết ngoài Explanations of each park of Hangang Park by Seoul Metropolitan Government Hanwha Seoul International Fireworks Festival 2017 Hangang Summer Festival(English) Sông Hán (Triều Tiên) Công viên ở Seoul
19821443
https://vi.wikipedia.org/wiki/Boris%20Pash
Boris Pash
Boris Theodore Pash (tên khai sinh là Boris Fedorovich Pashkovsky, tiếng Nga : Борис Фёдорович Пашковский; 20 tháng 6 năm 1900 – 11 tháng 5 năm 1995) là một sĩ quan tình báo lục quân Hoa Kỳ. Ông là người phụ trách chỉ huy sứ mệnh Alsos trong chiến tranh thế giới thứ hai. Chú thích Tham khảo Beyda, Oleg (2019). "Za veru i bombu": udivitel'naia zhizn' polkovnika Borisa Pashkovskogo-Pesha [For God and Nukes: The Astonishing Life of Colonel Boris Pashkovskii-Pash]. Neprikosnovennyi zapas: Debaty o politike i kul'ture, no. 2 (124). Đọc thêm Liên kết ngoài Người Mỹ gốc Nga Cựu sinh viên Đại học Nam California Quân nhân Nga Thế chiến thứ nhất Mất năm 1995 Sinh năm 1900 Người tham dự án Manhattan Đại tá Lục quân Hoa Kỳ Quân nhân Nga trong Chiến tranh thế giới thứ nhất Nhân vật tham gia Bạch vệ Quân nhân người San Francisco Người Mỹ gốc Serbia Người Mỹ gốc Ukraina Người Mỹ chống cộng Cựu sinh viên Đại học Springfield (Massachusetts)
19821453
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20c%C3%A1c%20Ho%C3%A0ng%20h%E1%BA%ADu%20Nh%E1%BA%ADt%20B%E1%BA%A3n
Danh sách các Hoàng hậu Nhật Bản
Tại Nhật Bản,vào thời kỳ cổ đại, hầu hết các Hoàng hậu đều xuất thân từ gia đình Hoàng thất, ngoại trừ trường hợp của Iwa no hime (Hoàng hậu của Thiên hoàng Nintoku). Sau khi Hoàng hậu Kōmyō (chính phi của Shōmu) tiến cung, các con gái đến từ gia tộc Fujiwara hay những gia tộc khác mới có thể trở thành Hoàng hậu. Trong ngôn ngữ gốc, từ Chūgū (Trung cung) (中宮) được dùng để chỉ nơi ở của Hoàng hậu (Kōgō (皇后)), Hoàng Thái hậu (Kōtaigō (皇太后), hay Thái hoàng Thái hậu (Tai-Kōtaigō (太皇太后)). Cho đến tận giữa thời kỳ Heian, Thiên hoàng vẫn chỉ có một Hoàng hậu, và vị Hoàng hậu đó cũng được gọi là Trung cung (Chūgū). Đến triều đại của Thiên hoàng Ichijō, khi ấy các vị Thiên hoàng có thể thiết lập nhiều hơn một Hoàng hậu trong hậu cung, một trong số họ sẽ được gọi là Kōgō (Hoàng hậu) và người còn lại sẽ được gọi là Chūgū (Trung cung). Sau trường hợp một người phụ nữ trinh bạch là Nội Thân vương Yasuko trở thành Hoàng hậu ( Kōgō), danh vị này bắt đầu được dùng để phong cho các chuẩn mẫu (准母) của Thiên hoàng và do đó, những vị nữ quyến Hoàng thất trong trường hợp tương tự đều có thể sử dụng danh hiệu Kōgō. Dưới đây là danh sách các Hoàng hậu Nhật Bản từ thời kỳ lập quốc đến nay: Tham khảo Danh sách Tước vị Quý tộc Hoàng gia Nhật Bản
19821474
https://vi.wikipedia.org/wiki/Betty%20Ong
Betty Ong
Betty Ann Ong (Giản thể: 邓月薇, Phồn thể: 鄧月薇, bính âm: Dèng Yuèwēi; Hán Việt: Đặng Nguyệt Vi, 5 tháng 2 năm 1956 – 11 tháng 9 năm 2001) là một tiếp viên hàng không người Mỹ. Cô là tiếp viên trên chuyến bay 11 của American Airlines, chiếc máy bay đầu tiên bị cướp trong vụ tấn công ngày 11 tháng 9. Cô cũng là người đầu tiên báo cho các nhà chức trách trên mặt đất về vụ cướp máy bay diễn ra vào ngày hôm đó. Tiểu sử Ong sinh ngày 5 tháng 2 năm 1956 tai San Francisco. Cha cô là người Mỹ gốc Hoa thế hệ thứ hai đến từ Ohio, trong khi mẹ cô là người Hoa nhập cư từ Khai Bình, Quảng Đông. Cô có hai chị gái và một anh trai. Betty đã từng được mời làm người mẫu, nhưng mẹ cô không đồng ý với sự lựa chọn nghề nghiệp đó. Vào những năm 1980, cô bắt đầu sự nghiệp của mình trong thế giới hàng không khi làm việc với Pacific Southwest Airlines và Delta Air Lines. Năm 1987, cô trở thành tiếp viên hang không của American Airlines. Trước khi qua đời, Ong song ở Andover, Massachusetts và cô đã đính hôn với Robert Landrum. Vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, Ong đã tự chỉ định mình trên chuyến bay 11 của American Airlines từ Boston đến Los Angeles, để cô có thể đi nghỉ ở Hawaii cùng chị gái. Trong vụ không tặc, cô ấy đã sử dụng thẻ điện thoại để gọi đến trung tâm điều hành của American Airlines và cung cấp thông tin quan trọng về vụ không tặc. Bằng cách cung cấp số ghế mà những tên không tặc chiếm giữ, cô đã giúp các nhà chức trách xác định danh tính của chúng. Cuộc gọi kéo dài 25 phút cho đến 8:46 sáng khi những kẻ không tặc lao máy bay vào Tháp Bắc của Trung tâm Thương mại Thế giới ở New York. Vào ngày 21 tháng 9 năm 2001, khoảng 200 thành viên của cộng đồng người Mỹ gốc Hoa ở San Francisco đã tập trung tại một công viên nhỏ để bày tỏ lòng kính trọng đối với Ong. Thị trưởng San Francisco Willie Brown, người có mặt, đã tuyên bố vinh danh những người đã chết trong thảm kịch và gọi ngày 21 tháng 9 là "Ngày Betty Ong". Năm 2011, trung tâm giải trí ở Khu phố Tàu của San Francisco nơi cô từng chơi khi còn nhỏ đã được đổi tên để vinh danh cô. Xem thêm Sự kiện 11 tháng 9 Chuyến bay 11 của American Airlines Bối cảnh Lịch sử Sự kiện 11 tháng 9 Tham khảo Ong, Betty Ong, Betty Sinh năm 1956 Mất năm 2001 Người San Francisco Người Mỹ gốc Hoa Tiếp viên hàng không
19821477
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C4%83m%20ng%C3%B3n%20tay%20%28phim%20truy%E1%BB%81n%20h%C3%ACnh%29
Năm ngón tay (phim truyền hình)
Năm ngón tay (tiếng Hàn: 다섯손가락; Romaja: Daseotsongarak) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc năm 2012 với sự tham gia của các diễn viên Joo Ji-hoon, Chae Shi-ra, Ji Chang-wook và Jin Se-yeon. Phim được phát sóng vào thứ Bảy và Chủ nhật hàng tuần trên SBS lúc 22:00, từ ngày 18 tháng 8 đến ngày 25 tháng 11 năm 2012, với tổng cộng 30 tập. Cốt truyện Bốn tập đầu tiên của bộ phim kể về thời thơ ấu của hai anh em cùng cha khác mẹ, Yoo Ji-ho và Yoo In-ha. Yoo Ji-ho khi đó đã 12 tuổi vẫn sống với bà ngoại nuôi của mình mà không hay biết cha mẹ của cậu là ai. Một ngày nọ, trong một cơn giông bão, bà của cậu bị giết sau khi bị một chiếc ô tô màu đen bí ẩn cán qua. Sau đó, Yoo Ji-ho được cha ruột của mình, Yoo Man-se - CEO giàu có của công ty chuyên sản xuất piano Boo-sung, đưa vào gia đình của Yoo In-ha để nuôi dưỡng. Yoo In-ha lúc đó 11 tuổi là con trai chính thống của chủ tịch Yoo Man-se và phu nhân Chae Yeong-rang. Cậu là một thần đồng piano đầy kiêu ngạo, luôn chiến thắng trong tất cả các cuộc thi piano mà mình tham gia. Sau khi cha cậu đưa con trai ngoài giá thú Yoo Ji-ho đến sinh sống cùng mình, Yoo In-ha bắt đầu cảm thấy vị trí của mình bị đe dọa vì Yoo Ji-ho có tiềm năng phát triển âm nhạc không kém gì cậu, nên luôn tỏ ra ganh ghét đố kỵ với anh trai. Chae Yeong-rang, mẹ của Yoo In-Ha, buộc phải nhận Yoo Ji-ho là con trai mình. Bà ấy vô cùng không hài lòng về điều này, đặc biệt là sau khi phát hiện ra rằng chồng có kế hoạch chuyển giao công ty cho Ji-ho, thay vì In-ha. Trong một lần cãi nhau với chồng, bà đã vô tình đẩy chồng ngã xuống đất khiến ông ấy bất tỉnh với vết thương nặng ở đầu. Thay vì cứu chồng, bà tìm cách bỏ trốn nhưng phát hiện ra ngôi nhà đang bị cháy do mẹ chồng cô vô ý gây ra do ngủ quên lúc thắp nến trên chiếc bánh sinh nhật. Đến khi tỉnh dậy và thấy đám cháy đã lớn, người mẹ chồng lao ra khỏi nhà, cầu xin một người bán hàng rong bị câm điếc giúp bà cứu con trai mình cùng hai đứa cháu nội. Con gái của người bán hàng rong đó là bạn của cả Yoo Ji-ho và Yoo In-ha, tên là Hong Da-mi. Yoo Ji-ho đã dạy cho cô bé bản nhạc piano đầu tiên của cô ấy, trong khi Yoo In-ha dạy cô ấy những bài học piano chính thức. Nhận thấy con trai In-ha vẫn còn ở trên lầu, Chae Yeong-rang vội chạy lên lầu dập lửa để cứu con mình. Bà đã vô tình cứu Yoo Ji-ho thay vì Yoo In-ha do trong lúc nguy cấp đã tưởng rằng Ji-ho là con trai ruột của mình, vì cậu ấy đang mặc bộ đồ ngủ hình con thỏ mà chính bà trước đó đã tặng cho Yoo In-ha. Sau khi nhận ra rằng mình đã cứu đứa con rơi của chồng, bà đã cố gắng vào lại tòa nhà để cứu In-ha nhưng bị lính cứu hỏa chặn lại. Yoo In-ha bị thương nặng do trận hỏa hoạn, nhưng may mắn được người bán hàng rong khiếm khuyết cứu sống. Thật không may, người bán hàng đó đã chết sau khi một chiếc đèn chùm rơi xuống đầu anh ta trong nỗ lực giải cứu In-ha. Yoo In-ha phát hiện ra rằng các ngón tay của mình đã bị hủy hoại do lửa. Mẹ cậu yêu cầu bác sĩ phẫu thuật ghép da để In-ha có thể tiếp tục chơi piano. Sau cuộc phẫu thuật, Yoo In-ha phát hiện ra rằng ngón tay út của mình không thể cử động được nữa, khiến cậu vô cùng đau khổ. Giữa lúc tuyệt vọng, Yoo In-ha đã cố gắng tự tử bằng cách nhảy qua lan can của tòa nhà bệnh viện, nhưng được Yoo Ji-ho giải cứu kịp thời. Chủ tịch Yoo Man-se qua đời sau vụ hỏa hoạn và Chae Yeong-rang bị tình nghi là hung thủ. Sau khi bị cảnh sát thẩm vấn, bà đã đổ lỗi cho người bán hàng rong gây ra vụ hỏa hoạn và cho rằng anh ta là một tên trộm đã giết chồng của mình để cướp tài sản. Do đó, gia đình của Hong Da-mi vì quá xấu hổ trước những lời thị phi của hàng xóm, đã buộc phải dọn đi nơi khác. 14 năm sau, Yoo Ji-ho và Yoo In-ha gặp lại Hong Da-mi, tranh giành tình yêu của cô. Ai sẽ thắng? Phân vai Vai chính Joo Ji-hoon vai Yoo Ji-ho, con trai ngoài giá thú của chủ tịch tập đoàn Boo-sung, một người có tài năng piano xuất chúng, được cha tin tưởng trao lại quyền thừa kế công ty. Anh là một người giàu tình cảm, khiêm tốn và cao thượng, luôn yêu thương mẹ kế Yeong-rang và em trai In-ha bất chấp cả hai bọn họ đều căm ghét và tìm cách hãm hại anh. Kang Yi-seok vai Yoo Ji-ho hồi nhỏ Ji Chang-wook vai Yoo In-ha, em trai cùng cha khác mẹ của Ji-ho. Khác với anh trai, anh là một thiếu gia ngạo mạn, trịch thượng và hay đố kỵ, luôn ganh ghét với Ji-ho không chỉ vì anh ta chơi piano giỏi hơn hay được cha trao quyền thừa kế, mà còn vì chiếm được tình yêu của Hong Da-mi - người con gái mà chính anh cũng đem lòng yêu mến. Vì thế, anh đã dùng mọi thủ đoạn hèn hạ nhất để hạ bệ Ji-ho, nhằm đạt được mục đích riêng của mình. Kim Ji-hoon vai Yoo In-ha lúc nhỏ Chae Shi-ra vai Chae Yeong-rang, mẹ ruột của Yoo In-ha. Khác với chồng, bà luôn cưng chiều, bao bọc In-ha hết mực, luôn đứng về phía con trai ruột của mình trong mọi hoàn cảnh. Cũng giống như In-ha, bà rất căm ghét Ji-ho, nhưng luôn giả vờ là một người mẹ tốt để khiến Ji-ho không nghi ngờ gì, dù thực tế bà luôn đứng phía sau để giúp In-ha đánh bại anh. Jin Se-yeon vai Hong Da-mi, bạn gái của Yoo Ji-ho. Là người tốt bụng và hiếu thảo, cô sẵn sàng bỏ cả việc học đại học âm nhạc để kiếm tiền nuôi gia đình. Cô cũng có niềm đam mê với piano, và đem lòng yêu Yoo Ji-ho do ngưỡng mộ tài năng và đức độ của anh. Tuy nhiên, do In-ha cũng yêu cô, điều này đã khiến cho quan hệ giữa Ji-ho và In-ha càng thêm rạn nứt. Kim Sung-kyung vai Hong Da-mi lúc nhỏ Vai phụ Jeon Mi-seon vai Song Nam-joo, mẹ của Da-mi. Bà có mối hận thù sâu sắc với Chae Yeong-rang do chính Yeong-rang đã đổ oan tội giết chủ tịch Yoo Man-se cho chồng của bà. Jung Eun-woo vai Hong Woo-jin, anh trai của Da-mi. Từng đặt mục tiêu tốt nghiệp Đại học Y, nhưng sau đó anh đã từ bỏ tất cả để theo đuổi mục tiêu trả thù Chae Yeong-rang giúp cha. Jeon Gook-hwan vai Ha Yoon-mo, một giáo sư âm nhạc có tiếng, từng dạy piano cho Yoo Ji-ho. Ông đánh giá rất cao cậu học trò và luôn muốn Ji-ho trở thành người thừa kế của mình. Lee Hae-in vai Jung So-yeol, con gái của giáo sư âm nhạc Ha Yoon-mo. Cô có tình cảm với Yoo Ji-ho. Jo Min-ki vai Yoo Man-se, cha của Ji-ho và In-ha, chủ tịch tập đoàn Boo-sung. Ông là một người cha nghiêm khắc nhưng rất yêu thương hai cậu con trai, đặc biệt là Yoo Ji-ho. Đêm trước khi qua đời, ông đã viết di chúc trao lại quyền thừa kế cho Ji-ho, nên đã bị bà vợ Yeong-rang hại chết trong trận hỏa hoạn. Na Moon-hee vai Min Ban-wol, bà nội của Ji-ho và In-ha, người có chứng mất trí nhớ rất nặng và sau trận hỏa hoạn thì mắc thêm bệnh tâm thần. Oh Dae-gyu vai Hong Soo-pyo, cha của Da-mi. Ông là một người bán hàng rong bị câm điếc, rất yêu thương gia đình và có quan hệ tốt với bà nội của Ji-ho, do bà hay lui tới ăn hàng rong của ông. Ông đã cứu sống Yoo In-ha trong trận hỏa hoạn, nhưng không may tử nạn ngày hôm đó. Tuy nhiên, Yeong-rang đã đổ tội giết Yoo Man-se cho ông nhằm đánh lạc hướng dư luận sau cái chết của chồng. Jeon No-min vai Kim Jung-wook, chủ tịch công ty xây dựng Geum-dan, người có tham vọng lật đổ tập đoàn Boo-sung. Ông là người yêu cũ của Chae Yeong-rang trước khi bà kết hôn với Yoo Man-se. Cha Hwa-yeon vai Na Gye-hwa, bà ngoại của Ji-ho và In-ha, mẹ kế của Yeong-rang. Bà thường xuyên tìm con gái mình để xin tiền tiêu vặt, về sau còn dọn sang ở cùng nhà. Jang Hyun-sung vai Choi Seung-jae, luật sư của tập đoàn Boo-sung. Mặc dù luôn cố tỏ ra trung thành với Yeong-rang, trong thâm tâm của ông lại có âm mưu chiếm đoạt tập đoàn của bà. Jeong Jun-ha vai Louis Kang, chủ tiệm nhà hàng mì Ý mà Hong Da-mi làm việc. Tranh cãi Tác giả của tiểu thuyết Blood Rhapsody cáo buộc bộ phim truyền hình này đã đạo lại nội dung của ông, nhưng nhà sản xuất đã phủ nhận. Ham Eun-jung ban đầu được chọn vào vai nữ chính Hong Da-mi, và cô thậm chí đã xuất hiện trong các đoạn clip giới thiệu và cả áp phích quảng cáo, cũng như tham dự buổi họp báo của bộ phim. Nhưng do sức ép tiêu cực của dư luận bắt nguồn từ vụ xung đột nội bộ của nhóm nhạc T-ara mà Ham khi đó đang là thành viên, nhà sản xuất đã loại cô khỏi dự án làm phim và thay thế cô bằng Jin Se-yeon. Ham đã đệ đơn kiện các nhà sản xuất, và Hiệp hội Quản lý Giải trí Corea (CEMA) đã đưa ra lệnh tẩy chay đối với công ty sản xuất Yein E&M (nay là Jidam Inc.). Vào tháng 2 năm 2013, Yein E&M đã đưa ra lời xin lỗi chính thức vì đã sa thải Ham mà không báo trước. Xếp hạng Phát sóng quốc tế Bộ phim được phát sóng tại Nhật Bản trên TBS bắt đầu từ ngày 24 tháng 7 năm 2013. Tại Việt Nam, phim được phát sóng trên kênh VTVCab7 D-Drama từ ngày 17 tháng 7 năm 2013. Tại Thái Lan, bộ phim được phát sóng trên 3SD trong mạng của Channel 3 với tựa đề ทำนองรักทำนองชีวิต (thảnxng rạk bỏxng chīwit; nghĩa đen: Nhịp điệu tình yêu, Nhịp điệu cuộc sống) bắt đầu từ ngày 28 tháng 6 năm 2016. Bộ phim cũng được phát sóng vào năm 2013 tại Hồng Kông. Chú thích Liên kết ngoài Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2012 Phim truyền hình SBS, Hàn Quốc
19821478
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1n%20tu%E1%BA%A7n%20k%C3%ADch
Đạn tuần kích
Đạn tuần kích (còn được gọi là UAV tự sát, máy bay không người lái kamikaze,) là một loại vũ khí trên không có đạn tích hợp (đầu đạn), có thể lảng vảng (chờ thụ động) xung quanh khu vực mục tiêu cho đến khi xác định được mục tiêu; sau đó nó tấn công mục tiêu bằng cách đâm vào nó. Đạn tuần kích cho phép thời gian phản ứng nhanh hơn trước các mục tiêu ẩn xuất hiện trong thời gian ngắn mà không cần đặt các bệ có giá trị cao gần khu vực mục tiêu, đồng thời cho phép nhắm mục tiêu có chọn lọc hơn vì cuộc tấn công có thể được thay đổi giữa chuyến bay hoặc bị hủy bỏ. Đạn tuần kích bù đắp vào khoảng trống giữa tên lửa hành trình và phương tiện bay chiến đấu không người lái (UCAV hoặc máy bay không người lái chiến đấu), có chung đặc điểm với cả hai. Chúng khác với tên lửa hành trình ở chỗ chúng được thiết kế để lảng vảng trong một thời gian tương đối dài xung quanh khu vực mục tiêu và khác với UCAV ở chỗ một loại đạn tuần kích được dự định sử dụng trong một cuộc tấn công và có đầu đạn tích hợp. Như vậy, chúng cũng có thể được coi là vũ khí tầm xa phi truyền thống. Đạn tuần kích lần đầu tiên xuất hiện vào những năm 1980 để sử dụng trong vai trò trấn áp lực lượng phòng không của kẻ thù (SEAD) chống lại tên lửa đất đối không (SAM) và được triển khai trong vai trò đó với một số lực lượng quân sự trong những năm 1990. Bắt đầu từ những năm 2000, đạn tuần kích đã được phát triển cho các vai trò bổ sung, từ các cuộc tấn công tầm xa và hỗ trợ hỏa lực cho đến các hệ thống chiến trường tầm ngắn, chiến thuật có thể nhét vừa trong một chiếc ba lô. Đạn tuần kích có thể đơn giản như một phương tiện bay không người lái (UAV) có gắn chất nổ được gửi đi thực hiện một nhiệm vụ kamikaze tiềm năng, và thậm chí có thể được chế tạo bằng những chiếc quadcopters thương mại có gắn chất nổ. Các loại đạn được chế tạo có mục đích phức tạp hơn về khả năng bay và điều khiển, kích thước và thiết kế đầu đạn cũng như các cảm biến trên tàu để định vị mục tiêu. Một số loại đạn tuần kích sử dụng người điều khiển để xác định vị trí mục tiêu trong khi những loại khác, chẳng hạn như IAI Harop, có thể hoạt động tự tìm kiếm và khởi động các cuộc tấn công mà không cần sự can thiệp của con người. Một ví dụ khác là các giải pháp UVision HERO – các hệ thống lảng vảng được vận hành từ xa, được điều khiển trong thời gian thực bởi một hệ thống liên lạc và được trang bị một camera quang điện mà trạm chỉ huy và điều khiển sẽ nhận được hình ảnh. Một số loại đạn tuần kích có thể quay trở lại và được người điều khiển thu hồi nếu chúng không được sử dụng trong một cuộc tấn công và có đủ nhiên liệu; đặc biệt đây là đặc điểm của UAV có khả năng nổ thứ cấp. Các hệ thống khác, chẳng hạn như Delilah không có tùy chọn thu hồi và tự hủy khi nhiệm vụ hủy bỏ. Một số thiết bị đạn tuần kích nổi tiếng: AeroVironment Switchblade 300 và 600; ZALA Lancet; Geran-2 IAI Harop NCSIST Chien Hsiang Hình ảnh Tham khảo Đạn tuần kích
19821480
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nomogram
Nomogram
Nomograph (còn gọi là bảng đồ, biểu đồ căn chỉnh hoặc abac) là một thiết bị tính toán đồ họa, một biểu đồ hai chiều được thiết kế để cho phép tính toán xấp xỉ đồ họa của một hàm toán học. Tên gọi "Nomograph" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp: nomos νόμος, "luật" và grammē γραμμή, "đường thẳng"). Lĩnh vực nomography được phát minh vào năm 1884 bởi kỹ sư người Pháp Philbert Maurice d'Ocagne (1862-1938) và đã được sử dụng rộng rãi trong nhiều năm để cung cấp cho người kỹ sư các tính toán đồ họa nhanh chóng của các công thức phức tạp với độ chính xác thực tế. Nomogram sử dụng hệ tọa độ song song được d'Ocagne phát minh thay vì hệ tọa độ Descartes tiêu chuẩn. Một Nomogram bao gồm một bộ n các thang đo, một cho mỗi biến trong phương trình. Bằng cách biết giá trị của n-1 biến, giá trị của biến chưa biết có thể được tìm ra, hoặc bằng cách cố định giá trị của một số biến, mối quan hệ giữa các biến chưa cố định có thể được nghiên cứu. Kết quả được thu về bằng cách đặt một cạnh thẳng qua các giá trị đã biết trên các thang đo và đọc giá trị chưa biết từ vị trí nó cắt thang đo cho biến số đó. Đường thẳng ảo hoặc được vẽ bằng cạnh thẳng được gọi là đường chỉ số (index line) hoặc đường thẳng phương tuyến isopleth. Các Nomogram phát triển mạnh mẽ trong nhiều ngữ cảnh khác nhau khoảng 75 năm qua vì chúng cho phép tính toán nhanh chóng và chính xác trước thời kỳ của máy tính cầm tay. Bảng đồ cho ra kết quả rất nhanh chóng và đáng tin cậy chỉ bằng cách vẽ một hoặc nhiều đường thẳng. Người dùng không cần phải biết cách giải phương trình đại số, tìm kiếm dữ liệu trong bảng, sử dụng thước trượt, hoặc thay thế số vào phương trình để thu về kết quả. Người dùng thậm chí chẳng cần phải biết phương trình cơ bản mà bảng đồ đại diện. Ngoài ra, bảng đồ được tích hợp một cách tự nhiên kiến thức miền ẩn hoặc rõ ràng vào thiết kế của chúng. Ví dụ, để tạo ra các nomogram lớn hơn để đạt được độ chính xác cao hơn, người lập bảng đồ thường chỉ bao gồm các phạm vi đo lường hợp lý và liên quan đến vấn đề. Nhiều bảng đồ bao gồm các đánh dấu hữu ích khác như nhãn tham chiếu và các vùng màu sắc. Tất cả những điều này cung cấp những dấu chỉ hữu ích cho người dùng. Giống như thước trượt, nomogram (bảng đồ) là một thiết bị tính toán tương tự đồ họa. Cũng giống như thước trượt, độ chính xác của nó bị giới hạn bởi độ chính xác mà các đánh dấu vật lý có thể được vẽ, sao chép, quan sát và căn chỉnh. Khác với thước trượt, một công cụ tính toán đa dụng, nomogram được thiết kế để thực hiện một phép tính cụ thể với các bảng giá trị được tích hợp vào các thang đo của thiết bị. Nomogram thường được sử dụng trong các ứng dụng mà mức độ chính xác mà nó cung cấp là vừa đủ và hữu ích. Nói theo cách khác, nomogram có thể được sử dụng để kiểm tra một kết quả thu được từ phép tính chính xác hơn nhưng dễ mắc lỗi. Các loại máy tính đồ họa khác - như biểu đồ chặn, biểu đồ tam tuyến và biểu đồ lục giác - đôi khi cũng được gọi là các bảng đồ nomogram. Những thiết bị này không đáp ứng định nghĩa của monogram như là một thiết bị tính toán đồ họa mà giải pháp được tìm ra thông qua việc sử dụng một hoặc nhiều đường đẳng phương tuyến. Mô tả Một nomogram cho một phương trình ba biến thông thường có ba thang đo, mặc dù cũng có những nomogram chỉ có hai hoặc thậm chí cả ba thang đo phổ biến. Ở đây, hai thang đo đại diện cho các giá trị đã biết và giá trị thứ ba của thang đo là kết quả. Ví dụ đơn giản nhất đó là phương trình u1 + u2 + u3 = 0 cho ba biến u1, u2 và u3. Một ví dụ cho loại nomogram này được thể hiện ở bên phải, được chú thích với các thuật ngữ được sử dụng để mô tả các bộ phận của một nomogram. Các phương trình phức tạp hơn thỉnh thoảng có thể được thể hiện dưới dạng tổng của các hàm số ba biến. Ví dụ, nomogram Ở trên đầu của bài viết này có thể được xây dựng như một nomogram thang song song bởi vì nó có thể được biểu đạt dưới dạng một tổng sau khi lấy các lô-ga-rít ở cả hai đầu của phương trình. Thang đo cho biến không xác định có thể nằm giữa hai thang đo khác hoặc bên ngoài chúng. Các giá trị đã biết của phép tính được đánh dấu trên thang đo cho các biến đó, và một đường thẳng được kẻ giữa những đánh dấu này. Kết quả được đọc trên thang đo cho biến không xác định tại điểm mà đường thẳng giao cắt thang đo đó. Các thang đo bao gồm 'các dấu tick' để chỉ những vị trí số chính xác, và chúng cũng có thể bao gồm các giá trị tham chiếu đã được gắn nhãn. Các tấm đo này có thể là tuyến tính, logarithmic, hoặc có mối quan hệ phức tạp hơn. Ví dụ phương tuyến isopleth được thể hiện bằng màu đỏ trên nomogram tại đỉnh của bài viết này tính toán giá trị của T khi S = 7.30 và R =1.17. Đường phương tuyến isopleth chạy qua thang của T tại chỉ dưới 4.65; một hình ảnh được in ở độ phân giải cao trên giấy sẽ cho ra T = 4.64 chính xác tới ba chữ số thập phân. Lưu ý rằng bất kỳ biến số nào có thể được tính toán từ hai giá trị khác, một tính năng của nomogram đặc biệt hữu dụng trong các phương trình mà theo đó, một biến số không thể được phân tách theo cách đại số từ các giá trị biến khác. Các thang thẳng rất hữu hiệu đối với các tính toán đơn giản, nhưng đối với các tính toán phức tạp hơn, việc sử dụng hoặc tích hợp các thang cong có thể là cần thiết. Các nomogram cho ba biến số trở lên có thể được xây dựng bằng cách tích hợp một lưới các thang đo cho hai trong số các biến số, hoặc bằng cách kết nối nhiều nomogram đơn lẻ vào trong một nomogram tổng hợp. Ứng dụng Nomogram được sử dụng trong nhiều tình huống khác nhau trong nhiều ngành nghề. Một thí dụ bao gồm: Ứng dụng ban đầu của d'Ocagne, tự động hóa các tính toán cắt và đắp phức tạp để loại bỏ đất trong quá trình xây dựng hệ thống đường sắt quốc gia Pháp. Đây là một bằng chứng quan trọng về mặt khái niệm, bởi vì các phép tính không hề tầm thường chút nào và kết quả của nó đã tiết kiệm đáng kể thời gian, công sức và tiền bạc. Thiết kế các kênh đào, đường ống và dây dẫn để điều phối dòng chảy của nước. Công trình của Lawrence Henderson, theo đó, các nomogram được sử dụng để liên hệ nhiều yếu tố của thông số máu. Đây là ứng dụng chính đầu tiên của nomogram tại Hoa Kỳ và cũng là nomogram y tế đầu tiên tại bất cứ đâu. [cần dẫn nguồn] Các ngành y học, ví dụ như dược học và ung thư học. Các tính toán về đường đạn trước khi có hệ thống điều khiển phóng hoả, khi việc tính toán thời gian là rất quan trọng. Các tính toán trong xưởng máy móc, chuyển đổi kích thước từ bản vẽ kỹ thuật và thực hiện tính toán dựa trên kích thước và thuộc tính của vật liệu. Những nomogram thường bao gồm các đánh dấu cho các kích thước tiêu chuẩn và cho các bộ phận được sản xuất sẵn. Trong thống kê, các nomogram được sử dụng để tính các phép toán phức tạp các thuộc tính của phân phối và trong nghiên cứu về quản lý hoạt động bao gồm thiết kế các bài test kiểm tra kiểm soát chất lượng. Nghiên cứu các toán tử, để nhận lấy các kết quả cho một loạt các bài toán tối ưu hoá khác nhau. Trong lĩnh vực hóa học và kỹ thuật hóa học, nomogram được sử dụng để tổng hợp cả mối quan hệ vật lý chung và dữ liệu thực nghiệm cho các hợp chất cụ thể.. Công nghệ hàng không, trong đó nomogram đã được sử dụng trong nhiều thập kỷ trong buồng lái của các loại máy bay khác nhau. Là một công cụ hỗ trợ điều hướng và kiểm soát chuyến bay, bảng đồ (nomogram) là các máy tính nhanh, nhỏ gọn và dễ sử dụng. Các tính toán thiên văn, cũng như các tính toán quỹ đạo sau khi phóng của Sputnik 1 bởi P.E. Elyasberg. Mọi loại công việc kỹ thuật: Thiết kế điện cho các dây lọc và dây truyền tải, tính toán cơ học stress và tải, tính toán quang học, và còn nữa. Quân sự, khi các tính toán phức tạp cần phải được thực hiện ngay tại chiến trường và với mức độ tin cậy cao, không phụ thuộc vào các thiết bị điện tử. Địa chấn học, nơi mà Nomogram được phát triển để ước tính cường độ động đất và trình bày kết quả của các phân tích nguy cơ xác suất địa chấn. Các ví dụ Điện trở song song/thấu kính mỏng Nomogram dưới đây thực hiện phép tính toán: Nomogram này là một công cụ thú vị bởi nó thực hiện một phép tính phi tuyến tính chỉ bằng cách sử dụng đường thẳng. Trong khi đường chéo có thang đo gấp lần lớn hơn các thang đo trục, các con số trên đó trùng khớp hoàn toàn với các số bên dưới hoặc về bên trái nó, và do đó nó có thể dễ dàng được tạo ra bằng cách vẽ một đường thẳng chéo trên tờ giấy đồ thị. A và B được truy nhập trên các thang đo trục hoành và trục tung. Kết quả được đọc ra từ thang đo chéo. Bởi nó tỷ lệ với trung bình điều hoà của cả A và B, công thức này có một số áp dụng nhất định. Ví dụ, đó chính là công thức điện trở song song trong điện tử học, và phương trình thấu kính mỏng trong quang học. Trong ví dụ, đường màu đỏ thể hiện rằng, các điện trở song song 56 và 42 Ohm có điện trở tổng là 24 Ohm. Nó cũng thể hiện rằng, một vật thể ở khoảng cách 56 cm từ một thấu kính với tiêu cự 24 cm sẽ tạo ra một hình ảnh thực có khoảng cách 42 cm. Tính toán test kiểm tra Chi-square (Chi bình phương) Nomogram bên dưới có thể được sử dụng để thực hiện một phép ước lượng các giá trị cần thiết khi làm một phép thử xác suất thống kê quen thuộc, test kiểm tra Chi bình phương của Pearson. Nomogram này thể hiện việc sử dụng các thang đường cong với mật độ gradient không đồng đều. Biểu thức liên quan là: Thang đo dọc theo phần đỉnh được chia cho năm phạm vi giá trị quan sát khác nhau: A, B, C, D và E. Giá trị quan sát được tìm thấy ở một trong các phạm vi này, và dấu tick kiểm được sử dụng trên thang đo đó nằm ngay phía trên giá trị đó. Sau đó, thang đo cong được sử dụng cho giá trị dự kiến được chọn dựa trên phạm vi. Ví dụ: giá trị được quan sát là 9 sẽ sử dụng dấu tick kiểm phía trên số 9 trong phạm vi A, và thang đo cong A sẽ được sử dụng cho giá trị dự kiến. Giá trị được quan sát là 81 sẽ sử dụng dấu tick kiểm trên 81 trong phạm vi E và thang đo cong E sẽ được sử dụng cho giá trị dự kiến. Điều này cho phép kết hợp năm biểu đồ nomogram khác nhau vào một đồ thị duy nhất. Theo đó, đường màu xanh dương diễn đạt phép tính của: (9 − 5)2 / 5 = 3.2 và đường màu đỏ diễn đạt phép tính của: (81 − 70)2 / 70 = 1.7 Khi thực hiện thử nghiệm, điều chỉnh của Yates cho tính liền mạch thường được áp dụng, và đơn giản chỉ là trừ đi 0.5 từ các giá trị quan sát. Một nomogram thực hiện thử nghiệm với sự hiệu chỉnh của Yates có thể được xây dựng một cách đơn giản bằng cách di chuyển mỗi "thang đo quan sát" một nửa đơn vị sang bên trái, để các độ chia 1.0, 2.0, 3.0, ... được đặt tại những giá trị 0.5, 1.5, 2.5, ... xuất hiện trên biểu đồ hiện tại. Đánh giá nguy cơ thực phẩm Mặc dù bảng nomogram đại diện cho mối quan hệ toán học, nhưng không phải tất cả đều dựa trên toán học. Nomogram sau này được phát triển bằng đồ họa để đạt được các kết quả cuối cùng thích hợp, có thể được xác định dễ dàng bằng tích của các mối quan hệ của chúng theo đơn vị chủ quan thay vì theo số lượng. Việc sử dụng các trục không song song cho phép tích hợp các mối quan hệ phi tuyến tính vào mô hình. Các số trong ô vuông biểu thị các trục yêu cầu đầu vào sau khi được đánh giá thích hợp. Cặp Momogram ở đầu hình xác định xác suất xảy ra và tính sẵn có, sau đó được tích hợp vào nomogram đa tầng ở phía dưới. Các đường 8 và 10 là 'đường nối' hoặc 'đường trục' và được sử dụng để chuyển đổi giữa các giai đoạn của nomogram hợp chất. Cặp thang đo song song cuối cùng (12) không phải là một nomogram như vậy, mà là các thang đo chuyển đổi điểm số rủi ro (11, từ rất thấp đến cực cao) thành tần suất lấy mẫu để giải quyết các khía cạnh an toàn và các khía cạnh 'bảo vệ người tiêu dùng' tương ứng. Giai đoạn này đòi hỏi sự ủng hộ chính trị có cân nhắc giữa chi phí và rủi ro. Ví dụ sử dụng tần suất tối thiểu ba năm cho mỗi tần suất, tuy nhiên với đầu cuối rủi ro cao của các thang đo khác nhau cho hai khía cạnh, cho hai tần suất khác nhau, nhưng đều phải tuân theo một tần suất lấy mẫu tối thiểu chung cho tất cả khía cạnh của tất cả các loại thực phẩm ít nhất một lần mỗi ba năm. Bảng nomogram đánh giá rủi ro này được phát triển bởi UK Public Analyst Service của Vương quốc Anh với nguồn tài trợ từ UK Food Standards Agency để sử dụng như một công cụ chỉ dẫn tần suất thích hợp của việc lấy mẫu và phân tích thực phẩm cho mục đích kiểm soát thực phẩm chính thức, dự định cho sử dụng đánh giá tất cả các vấn đề tiềm ẩn với mọi loại thực phẩm, mặc dù vẫn chưa được áp dụng. Một số bảng đồ nomogram gọn và tiện dụng Sử dụng một cây thước thẳng, ta có thể dễ dàng đọc được biến số còn bị thiếu của định lý sin hoặc nghiệm của các phương trình bậc hai hoặc bậc ba. Xem thêm Cartogram Bài toán thứ mười ba của Hilbert Dòng tải (điện tử) Đồ thị log-log Đồ thị bán log Chú thích và Tham khảo Đọc thêm D.P. Adams, Nomography: Theory and Application, (Archon Books) 1964. H.J. Allcock, J. Reginald Jones, and J.G.L. Michel, The Nomogram. The Theory and Practical Construction of Computation Charts, 5th ed., (London: Sir Isaac Pitman & Sons, Ltd.) 1963. (1st edition 1932) S. Brodestsky, A First Course in Nomography, (London, G. Bell and Sons) 1920. D.S. Davis, Empirical Equations and Nomography, (New York: McGraw-Hill Book Co.) 1943. M. d'Ocagne: Traité de Nomographie, (Gauthier-Villars, Paris) 1899. M. d'Ocagne: (1900) Sur la résolution nomographique de l'équation du septième degré. Comptes rendus (Paris), 131, 522–524. R.D. Douglass and D.P. Adams, Elements of Nomography, (New York: McGraw-Hill) 1947. R.P. Hoelscher, et al., Graphic Aids in Engineering Computation, (New York: McGraw-Hill) 1952. L. Ivan Epstein, Nomography, (New York: Interscience Publishers) 1958. L.H. Johnson, Nomography and Empirical Equations, (New York: John Wiley and Sons) 1952. M. Kattan and J. Marasco. (2010) What Is a Real Nomogram?, Seminars in oncology, 37(1), 23–26. A.S. Levens, Nomography, 2nd ed., (New York: John Wiley & Sons, Inc.) 1959. F.T. Mavis, The Construction of Nomographic Charts, (Scranton, International Textbook) 1939. E. Otto, Nomography,(New York: The Macmillan Company) 1963. H.A. Evesham The History and Development of Nomography, (Boston: Docent Press) 2010. T.H. Gronwall, R. Doerfler, A. Gluchoff, and S. Guthery, Calculating Curves: The Mathematics, History, and Aesthetic Appeal of T. H. Gronwall's Nomographic Work, (Boston: Docent Press) 2012. Các liên kết ngoài The Art of Nomography mô tả việc thiết kế các nomogram sử dụng hình học, các determinant, và các phép chuyển đổi. The Lost Art of Nomography là một bài báo tạp chí toán học khảo sát ngành nomography. Nomograms for Wargames một ứng dụng thú vị của nomogram. PyNomo – phần mềm mã nguồn mở cho phép xây dựng các nomogram. Java Applet khởi tạo các nomogram đơn giản. Nomograms for visualising relationships between three variables - video và các slide của cuộc hội thoại được mời bởi Jonathan Rougier cho useR!2011. Biểu đồ Máy tính tương tự Công cụ toán học Lý thuyết tính toán
19821481
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A1ng%20ki%E1%BA%BFn%20L%C3%A1%20ch%E1%BA%AFn%20B%E1%BA%A7u%20tr%E1%BB%9Di%20ch%C3%A2u%20%C3%82u
Sáng kiến Lá chắn Bầu trời châu Âu
Sáng kiến Lá chắn Bầu trời châu Âu (tiếng Anh: European Sky Shield Initiative, viết tắt: ESSI) là dự án xây dựng một hệ thống phòng không tích hợp trên mặt đất của châu Âu, bao gồm khả năng chống tên lửa đạn đạo. Tính đến tháng 7 năm 2023, có 19 quốc gia châu Âu tham gia sáng kiến. Bối cảnh Sáng kiến ​​này ban đầu được Thủ tướng Đức Olaf Scholz đề xuất vào tháng 8 năm 2022. Đề xuất này được đưa ra trong giai đoạn Nga tấn công cơ sở hạ tầng Ukraina 2022–2023, và trong bối cảnh gia tăng lo ngại về khả năng hạn chế của châu Âu trong việc phòng thủ trước các mối đe dọa như hệ thống tên lửa đạn đạo 9K720 Iskander của Nga được triển khai ở Kaliningrad. Tháng 10 năm 2022, 15 quốc gia châu Âu (Bỉ, Bulgaria, Cộng hòa Séc, Estonia, Phần Lan, Đức, Hungary, Latvia, Litva, Hà Lan, Na Uy, Slovakia, Slovenia, România và Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland) ký tuyên bố tham gia sáng kiến ​​do Đức dẫn đầu. Dự án này liên quan đến việc mua sắm chung các hệ thống phòng không. Tất cả các quốc gia sáng lập đều là thành viên của NATO (với Phần Lan sẽ gia nhập tổ chức vào năm 2023), và sáng kiến ​​này cũng nhằm tăng cường Hệ thống Phòng không Tích hợp NATO. Tháng 2 năm 2023, Đan Mạch và Thụy Điển tham gia dự án. Tháng 7 năm 2023, các quốc gia trung lập Áo và Thụy Sĩ ký tuyên bố tham gia sáng kiến. Điều này đặt ra câu hỏi về tương lai và tính thực tiễn trong chính sách trung lập của họ. Trong khi đó, Pháp đã công kích sáng kiến, cho rằng các bên tham gia phụ thuộc quá nhiều vào các kế hoạch của Đức về thiết bị và công nghệ vốn được sản xuất bên ngoài châu Âu. Có ý kiến ​​cho rằng chính phủ Pháp không hài lòng với việc hệ thống SAMP-T của Pháp-Ý bị loại khỏi ESSI. Tháng 6 năm 2023, Pháp đưa ra đề xuất phản đối và kêu gọi các quốc gia khác xem xét các giải pháp thay thế. Kể từ tháng 7 năm 2023, một số quốc gia lớn ở châu Âu, cụ thể là Pháp, Ba Lan, Ý và Tây Ban Nha quyết định không tham gia ESSI. Khả năng ESSI sẽ sử dụng hệ thống phòng thủ nhiều lớp, với các hệ thống dự tính gồm: Tầm trung: chủ yếu là IRIS-T SLM Tầm xa: MIM-104 Patriot Tầm rất xa (tầng ngoài khí quyển): Arrow 3 Tháng 12 năm 2022, Thủ tướng Đức bày tỏ hy vọng rằng hệ thống này sẽ được phát triển trong năm năm tới. Tháng 6 năm 2023, Quốc hội Liên bang Đức đồng ý cấp gần 4 tỷ euro cho việc mua lại hệ thống tên lửa chống tên lửa đạn đạo Arrow 3 từ Israel. Tham khảo Tên lửa chống tên lửa đạn đạo Quân sự châu Âu Phòng thủ tên lửa
19821482
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A5u%20k%C3%ADnh%20m%E1%BB%8Fng
Thấu kính mỏng
Trong quang học, thấu kính mỏng là thấu kính có độ dày (khoảng cách dọc theo trục quang học giữa hai bề mặt của thấu kính) không đáng kể so với bán kính cong của các bề mặt thấu kính. Thấu kính có độ dày không đáng kể đôi khi được gọi là thấu kính dày. Phép tính xấp xỉ thấu kính mỏng bỏ qua các hiệu ứng quang học do độ dày của thấu kính và đơn giản hóa các phép tính dò tia . Nó thường được kết hợp với phép tính ước lượng trục trong các kỹ thuật như phân tích ma trận truyền tia . Tiêu cự Tiêu cự f của một thấu kính trong không khí được cho bởi phương trình thấu kính: trong đó n là chiết suất của vật liệu thấu kính và R 1 và R 2 là bán kính cong của hai bề mặt. Đối với một thấu kính mỏng, d nhỏ hơn nhiều so với một trong các bán kính cong ( R 1 hoặc R 2 ). Trong những điều kiện này, số hạng cuối cùng của phương trình thấu kính trở nên không đáng kể và tiêu cự của một thấu kính mỏng trong không khí có thể xấp xỉ bằng Ở đây, R1 là dương nếu như bề mặt đầu tiên là bề mặt lồi và âm nếu như bề mặt là lõm. Các dấu được đảo ngược cho bề mặt phía sau của kính: R2 là dương nếu bề mặt là lõm và âm nếu bề mặt là lồi. Đây là một quy ước dấu tùy ý; một số tác giả chọn quy ước dấu khác nhau cho bán kính, điều này làm thay đổi phương trình tiêu cự. Đạo hàm sử dụng định luật Snell Xem xét một thấu kính mỏng có bán kính bề mặt thứ nhất là và một mặt phẳng phía sau, làm bằng vật liệu có chiết suất . Áp dụng định luật Snell, ánh sáng đi vào bề mặt thứ nhất bị khúc xạ theo , theo đó, là góc tới trên giao diện và là góc khúc xạ. Đối với bề mặt thứ hai, , theo đó là góc tới và là góc khúc xạ. Đối với góc nhỏ, . Hình học của bài toán sau đó cho ta thấy: Nếu tia tới song song với trục chính và khoảng cách từ trục chính tới tia tới là , ta có Thay thế vào biểu thức trên, ta nhận được Tia này đi qua trục quang học ở khoảng cách , được cho bởi Kết hợp hai biểu thức ta được . Thêm vào đó, có thể chỉ ra rằng nếu như hai thấu kính có bán kính như vậy, Và được đặt gần nhau, độ dài tiêu cự có thể được cộng lại để tạo ra công thức thấu kính mỏng: Tạo ảnh Một số tia tuân thủ theo các quy tắc đơn giản khi đi qua một thấu kính mỏng, trong phương pháp xấp xỉ tia cận trục: Bất kỳ tia tới nào song song với trục trên một mặt của thấu kính đều tiến tới tiêu điểm ở mặt bên kia. Bất kỳ tia nào tới thấu kính sau khi đi qua tiêu điểm ở phía trước, sẽ đi ra song song với trục thấu kính ở phía bên kia. Bất kỳ tia nào đi qua tâm của thấu kính đều sẽ không thay đổi hướng của nó. Nếu có ba tia như vậy được vạch ra từ cùng một điểm trên một vật thể nằm phía trước thấu kính (chẳng hạn như đỉnh), giao điểm của chúng sẽ đánh dấu vị trí của điểm tương ứng trên ảnh của vật. Bằng cách lần theo đường đi của các tia này, mối quan hệ giữa khoảng cách đối tượng s và khoảng cách hình ảnh s′ có thể được chỉ ra là: hay còn được gọi là phương trình thấu kính mỏng. Quang vật lý Trong quang học sóng vô hướng, một thấu kính là một bộ phận gây dịch chuyển pha của mặt sóng. Về mặt toán học, có thể hiểu điều này như việc nhân mặt sóng với hàm sau: . Chú thích và Tham khảo Thấu kính Quang học Quang học vật lý
19821493
https://vi.wikipedia.org/wiki/Namiki
Namiki
Namiki là một thương hiệu chuyên sản xuất bút viết của Nhật Bản, đặc biệt là bút máy, thuộc sở hữu của công ty Pilot Corporation. Namiki chủ yếu nổi tiếng với các thiết kế thủ công maki-e (nghề thủ công sơn mài Nhật Bản với nhiều loại hình nghệ thuật và trang trí) trên bề mặt lớp sơn mài làm từ urushi. "Namiki" là họ của Ryosuke Namiki, người sáng lập Pilot Corporation, được đặt tên là "Công ty Sản xuất Namiki" cho đến năm 1938 khi nó trở thành "Công ty TNHH Pilot Pen". Thương hiệu Namiki trở nên nổi tiếng vào đầu thế kỷ 20 khi Dunhill bán tại thị trường phương Tây bút Maki-e do Pilot sản xuất dưới thương hiệu "Dunhill-Namiki". Sự hợp tác này vẫn tiếp tục cho đến ngày nay (thỉnh thoảng Namiki tạo ra một Phiên bản Giới hạn cho Dunhill) mặc dù Namiki luôn thuộc sở hữu của Pilot. Lịch sử Hầu hết các bút máy đều được làm bằng ebonit, vật liệu kết hợp giữa lưu huỳnh và cao su. Tuy nhiên, ebonit đổi màu và mất đi độ sáng bóng theo thời gian. Nhận thức được điều này, Namiki Co. Ltd. ("Pilot Corporation") bắt đầu thử các phương pháp và vật liệu khác nhau để khắc phục vấn đề. Sau một số nỗ lực, họ phát hiện ra rằng lớp phủ sơn mài có thể chịu được sự xuống cấp và làm cho bút bền hơn. Họ cũng thử sơn các thiết kế trên thân bút máy, sử dụng kỹ thuật maki-e, Quá trình này sau đó đã được cấp bằng sáng chế cho Pilot. Năm 1925, thương hiệu Namiki được tung ra thị trường, với các nghệ sĩ sơn mài Shisui Rokkaku và Gonroku Matsuda được mời làm bút máy. Ryosuke Namiki và Masao Wada (người sáng lập Pilot Co. năm 1918) đã đi quảng bá bút maki-e của họ tại các nước phương Tây. Năm 1926, văn phòng thí điểm được mở tại London, Anh, và 4 năm sau, hợp đồng được ký kết với Alfred Dunhill Ltd. để thương mại hóa bút Namiki tại các thành phố lớn của Châu Âu và Hoa Kỳ dưới thương hiệu "Dunhill-Namiki Sản xuất tại Nhật Bản". Thương hiệu này sau đó mở rộng sang New York, Thượng Hải và Singapore. Các mẫu mã Bút máy Namiki và bút máy Pilot không dùng một lần sử dụng chung hộp tiếp mực converter độc quyền của Pilot/Namiki, với các loại mực nhiều màu. Converter mực của cả loại pít-tông và loại bóp cũng có sẵn cho phép tiếp mực bút máy Namiki và Pilot từ lọ mực. Lọ mực Namiki thiết kế cong có một ống mực bên trong, giữ cho ngòi ổn định trong quá trình châm mực và cũng cho phép lấy gần hết những giọt mực cuối cùng từ lọ vào bút. Kể từ tháng 11 năm 2019, các bộ sưu tập được Namiki thương mại hóa bao gồm "Emperor" (Hoàng đế), bộ sưu tập nổi tiếng nhất của thương hiệu Namiki. Tất cả các mô hình đều có lớp nền Urushi với nghệ thuật Maki-e được vẽ trên lớp nền. Có bảy mẫu trong bộ sưu tập này, Cá vàng (金魚), Rồng (龍), Cú (梟), Kỳ lân (麒麟), Cá chép thác nước (鯉の滝登り) và Châu báu (宝). Các bộ sưu tập khác là Yukari, Yukari Royale, Chinkin, Nippon Art, Urushi và Limited Edition. Xem thêm Pilot Corp. – chủ sở hữu và nhà sản xuất maki-e Đồ sơn mài nhật bản Chú thích và Tham khảo Liên kết ngoài Văn phòng phẩm Bút máy Thương hiệu Nhật Bản Bút
19821496
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rom%C3%A9o%20Lavia
Roméo Lavia
Roméo Lavia (sinh ngày 6 tháng 1 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bỉ thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ Premier League Chelsea và đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ. Tham khảo Sinh năm 2004 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá người Bruxelles Cầu thủ bóng đá nam Bỉ Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Bỉ Vận động viên người Bỉ da đen Người Bỉ gốc Ghana Cầu thủ bóng đá Manchester City F.C. Cầu thủ bóng đá Southampton F.C. Cầu thủ bóng đá Premier League Tiền vệ bóng đá nam Cầu thủ bóng đá nam Bỉ ở nước ngoài
19821497
https://vi.wikipedia.org/wiki/Robert%20S%C3%A1nchez
Robert Sánchez
Robert Lynch Sánchez (sinh ngày 18 tháng 11 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha chơi ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Chelsea tại Premier League và đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha . Tham khảo Cầu thủ bóng đá Premier League Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Tây Ban Nha Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha Thủ môn bóng đá nam Cầu thủ bóng đá Cartagena FC Cầu thủ bóng đá Levante UD Cầu thủ bóng đá Brighton & Hove Albion F.C. Cầu thủ bóng đá Forest Green Rovers F.C. Cầu thủ bóng đá Rochdale A.F.C. Cầu thủ bóng đá Chelsea F.C. Cầu thủ bóng đá English Football League Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020 Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022
19821498
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%9D%20cong%20nh%E1%BB%8F%20d%E1%BA%A1%20d%C3%A0y
Bờ cong nhỏ dạ dày
Dạ dày gồm tâm vị, đáy vị, thân vị, hang vị, môn vị với hình dạng chữ J. Trong đó phần thân vị là phần ở giữa phình ra to nhất của dạ dày. Do cấu trúc dạ dày hình chữ J mà phần thân vị sẽ có 2 bờ cong gồm: Bờ cong lớn (greater curvature): có chiều dài dài hơn, dạng lồi, vị trí nằm phía bên ngoài bên trái ổ bụng Bờ cong nhỏ (lesser curvature): có chiều dài ngắn hơn, dạng lõm và nằm ở phía trong. Bờ cong nhỏ cũng là một phần nối giữa tâm vị và môn vị, nó đi xuống dưới như một phần tiếp theo của bờ phải dạ dày thực quản, sau đó quay sang phải, đi qua đốt sống thắt lưng đầu tiên và kết thúc ở môn vị. Bờ cong nhỏ còn gắn vào 2 lớp của dây chằng gan dạ dày, giữa 2 lớp này là hệ thống mạch máu giúp cấp máu nuôi dưỡng dạ dày. Nguyên nhân bờ cong nhỏ hay bị viêm loét Thức ăn từ thực quản khi đi xuống dạ dày có xu hướng tiếp xúc với bờ cong nhỏ nhiều hơn so với bờ cong lớn. Khi tiếp xúc với thức ăn, dạ dày kích hoạt khả năng co bóp và tiết acid để tiêu hóa, bờ cong nhỏ là vị trí sẽ hoạt động liên tục nhiều nhất lại có áp lực từ thức ăn nhiều tạo điều kiện hình thành các vết loét, viêm nhiễm. Cũng chính vì lý do này mà bở cong nhỏ dạ dày khi bị tổn thương thường lâu lành và dễ tiến triển nặng. Bên cạnh cơ chế hoạt động thì các nguyên nhân khác tác động gây tổn thương cho bờ cong nhỏ dạ dày gồm: Vi khuẩn H. pylori Thuốc giảm đau Bia rượu Căng thẳng, stress kéo dài.... Ăn uống không khoa học Triệu chứng bệnh Bờ cong nhỏ dạ dày bị viêm loét có thể có các triệu chứng như đau bụng vùng thượng vị, buồn nôn và nôn, đầy hơi, chán ăn và ợ nóng. Trường hợp nặng hơn có thể nôn ra máu, đi tiêu phân đen. Ngoài ra nếu không được điều trị, viêm loét bờ cong nhỏ dạ dày có thể gây thủng dạ dày, xuất huyết dạ dày, hẹp môn vị hoặc ung thư dạ dày. Chẩn đoán Để chẩn đoán kết hợp chẩn đoán lâm sàng dựa vào triệu chứng kết hợp cùng các phương pháp cận lâm sàng như: Nội soi dạ dày CT cắt lớp có dùng thuốc cản quang Xét nghiệm máu và xét nghiệm phân có thể giúp chẩn đoán tìm nguyên nhân ký sinh trùng, vi khuẩn. Trường hợp nghi ngờ ung thư, tiền ung thư sẽ lấy mô bệnh học mẫu sinh thiết Điều trị Sử dụng thuốc để điều trị triệu chứng, nguyên nhân đồng thời kết hợp với lối sống sinh hoạt Các loại thuốc có thể được chỉ định như: thuốc kháng sinh diệt vi khuẩn H.pylori, thuốc ức chế bơm Proton, thuốc kháng thụ thể histamin H2, thuốc trung hòa acid, thuốc bảo vệ niêm mạc dạ ày. Thay đổi lối sống: ăn đúng giờ, ngủ đủ giấc; chia nhỏ bữa ăn; tránh ăn quá no hoặc quá đói; hạn chế thực phẩm gây kích ứng như đồ cay, rượu bia... Tham khảo
19821502
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ramy%20Bensebaini
Ramy Bensebaini
Amir Selmane Ramy Bensebaïni (; sinh ngày 16 tháng 4 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Algérie thi đấu ở vị trí hậu vệ trái hoặc trung vệ cho câu lạc bộ Borussia Dortmund tại Bundesliga và đội tuyển bóng đá quốc gia Algérie . Tham khảo Sinh năm 1995 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá người Constantine, Algérie Hậu vệ bóng đá nam Tiền vệ bóng đá nam Cầu thủ bóng đá nam Algérie Cầu thủ bóng đá nam nước ngoài ở Bỉ Cầu thủ bóng đá nam nước ngoài ở Pháp Cầu thủ bóng đá Lierse S.K. Cầu thủ bóng đá Paradou AC Cầu thủ bóng đá Montpellier HSC Cầu thủ bóng đá Stade Rennais F.C. Cầu thủ bóng đá Borussia Mönchengladbach Cầu thủ bóng đá Ligue 1 Cầu thủ bóng đá Belgian Pro League Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Algérie Cầu thủ Cúp bóng đá châu Phi 2017 Cầu thủ Cúp bóng đá châu Phi 2019 Cầu thủ Cúp bóng đá châu Phi 2021
19821503
https://vi.wikipedia.org/wiki/Julian%20Ryerson
Julian Ryerson
Julian Ryerson (sinh ngày 17 tháng 11 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Na Uy , chơi ở vị trí hậu vệ phải cho câu lạc bộ Bundesliga Borussia Dortmund và Đội tuyển bóng đá quốc gia Na Uy . Tham khảo Sinh năm 1997 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Na Uy Hậu vệ bóng đá nam Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Na Uy Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Na Uy Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Na Uy Cầu thủ bóng đá Eliteserien Cầu thủ bóng đá Norwegian First Division Cầu thủ bóng đá 2. Bundesliga Cầu thủ bóng đá Bundesliga Cầu thủ bóng đá Viking FK Cầu thủ bóng đá 1. FC Union Berlin Cầu thủ bóng đá Borussia Dortmund
19821504
https://vi.wikipedia.org/wiki/Guglielmo%20Vicario
Guglielmo Vicario
Guglielmo Vicario (sinh ngày 7 tháng 10 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Tottenham Hotspur tại Premier League. Tham khảo Sinh năm 1996 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Ý Thủ môn bóng đá nam Cầu thủ bóng đá Serie A Cầu thủ bóng đá Serie B Cầu thủ bóng đá Serie C Cầu thủ bóng đá Serie D Cầu thủ bóng đá Udinese Calcio Cầu thủ bóng đá Venezia FC Cầu thủ bóng đá Cagliari Calcio Cầu thủ bóng đá AC Perugia Calcio Cầu thủ bóng đá Empoli FC Cầu thủ bóng đá Tottenham Hotspur F.C.
19821505
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tijjani%20Reijnders
Tijjani Reijnders
Tijjani Reijnders (sinh ngày 29 tháng 7 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hà Lan thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ AC Milan tại Serie A. Tham khảo Sinh năm 1998 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan Cầu thủ bóng đá người Overijssel Tiền vệ bóng đá nam Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Hà Lan Cầu thủ bóng đá Eredivisie Cầu thủ bóng đá Eerste Divisie Cầu thủ bóng đá AZ Alkmaar Cầu thủ bóng đá Jong AZ Cầu thủ bóng đá RKC Waalwijk Cầu thủ bóng đá PEC Zwolle Cầu thủ bóng đá AC Milan
19821506
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fod%C3%A9%20Ballo-Tour%C3%A9
Fodé Ballo-Touré
Fodé Ballo-Touré (sinh ngày 3 tháng 1 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Sénégal gốc Pháp chơi ở vị trí hậu vệ trái cho câu lạc bộ Serie A AC Milan. Anh thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia Senegal.. Tham khảo Sinh năm 1997 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Pháp Hậu vệ bóng đá nam Người Conflans-Sainte-Honorine Cầu thủ bóng đá người Yvelines Cầu thủ bóng đá nam Senegal Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Sénégal Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Pháp Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Pháp Cầu thủ bóng đá Ligue 1 Cầu thủ bóng đá Serie A Cầu thủ bóng đá Lille OSC Cầu thủ bóng đá AS Monaco FC Cầu thủ bóng đá AC Milan Cầu thủ Cúp bóng đá châu Phi 2021 Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022 Cầu thủ vô địch Cúp bóng đá châu Phi Cầu thủ bóng đá nam Pháp ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá nam Senegal ở nước ngoài
19821507
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ot%C3%A1vio%20Edmilson%20da%20Silva%20Monteiro
Otávio Edmilson da Silva Monteiro
Otávio Edmilson da Silva Monteiro (sinh ngày 9 tháng 2 năm 1995), thường được gọi là Otávio hoặc Otaviho , là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công hoặc tiền vệ chạy cánh cho câu lạc bộ Primeira Liga Porto và Đội tuyển bóng đá quốc gia Bồ Đào Nha . Anh ấy đã đến Internacional , trước khi ký hợp đồng với câu lạc bộ Bồ Đào Nha Primeira Liga với Porto vào năm 2014 với tư cách là cầu thủ tự do. Anh ấy ngay lập tức được gửi đến Vitória de Guimarães theo hợp đồng cho mượn hai năm , trước khi trở lại vào năm 2016. Sau khi trở lại, anh ấy trở thành người bắt đầu và giành được ba danh hiệu Primeira Liga , hai Taça de Portugal và hai Supertaças Cândido de Oliveira , khi là một phần của đội đã giành được hai cú đúp quốc nội vào năm 2020 và 2022, có hơn 200 lần ra sân chính thức cho họ. Sinh ra và lớn lên ở Brazil, Otávio đã đại diện cho quê hương của mình thi đấu quốc tế ở cấp độ vào năm 2014, nhưng đã chuyển sang thi đấu ở cấp độ quốc tế chuyên nghiệp cho , và ra mắt quốc tế vào năm 2021. Chú thích
19821513
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%83%20thao%20%C4%91i%E1%BB%87n%20t%E1%BB%AD%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022%20-%20Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91%E1%BA%A5u%20Li%C3%AAn%20Minh%20Huy%E1%BB%81n%20Tho%E1%BA%A1i
Thể thao điện tử tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 - Giải đấu Liên Minh Huyền Thoại
Thể thao điện tử Liên Minh Huyền Thoại tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 sẽ là một nội dung thi đấu tranh huy chương, được tranh tài từ ngày 25 tháng 09 năm 2023 đến ngày 02 tháng 10 năm 2023. Đây là lần thứ 2 Liên Minh Huyền Thoại là một nội dung thi đấu tranh huy chương trong một Sự kiện thể thao đa môn, lần đầu tiên là tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021 được tổ chức ở Hà Nội, Việt Nam. Tại kì Đại hội Thể thao châu Á 2018 diễn ra tại Indonesia, Thể thao điện tử và Liên Minh Huyền Thoại là nội dung biểu diễn. Các đội tham dự Danh sách tuyển thủ Vòng bảng 13 đội tuyển sẽ được chia thành 4 bảng. Bảng A có 4 đội, trong khi bảng B, C và D mỗi bảng có 3 đội. 2 đội có thành tích tốt nhất của 4 bảng sẽ giành quyền vào vòng loại trực tiếp. Địa điểm: Trung tâm Thể thao Điện tử Hàng Châu, Hàng Châu, Chiết Giang, Trung Quốc Thời gian: 25 - 26/09, bắt đầu từ 08:00 (UTC+7). Thể thức thi đấu: 4 bảng sẽ thi đấu vòng tròn tính điểm 1 lượt, tất cả các trận đấu đều là BO1 (Best Of One - Thắng trước 1 trận). Nếu các đội có cùng hệ số Thắng-Thua và kết quả đối đầu, họ sẽ thi đấu thêm trận tie-break để phân vị trí trong bảng. 2 đội đầu bảng sẽ đi tiếp vào vòng loại trực tiếp, các đội còn lại của bảng sẽ bị loại (áp dụng cho tất cả các bảng). Bảng A Bảng B Bảng C Bảng D Vòng loại trực tiếp Thể thức thi đấu: Tất cả các trận đấu đều là Loại trực tiếp & BO3 (Best Of Three - Thắng trước 2/3 trận). Đội chiến thắng sẽ đi tiếp vào vòng loại tiếp theo, đội thua bị loại ngay lập tức. Tứ kết Địa điểm: Trung tâm Thể thao Điện tử Hàng Châu, Hàng Châu, Chiết Giang, Trung Quốc. Đội chiến thắng sẽ tiến vào Bán Kết, đội thua bị loại. Tứ kết 1 Thời gian: 08:00 - 27 tháng 09 (UTC+7). Tứ kết 2 Thời gian: 08:00 - 27 tháng 09 (UTC+7). Tứ kết 3 Thời gian: 13:00 - 27 tháng 09 (UTC+7). Tứ kết 4 Thời gian: 13:00 - 27 tháng 09 (UTC+7). Bán kết Địa điểm: Trung tâm Thể thao Điện tử Hàng Châu, Hàng Châu, Chiết Giang, Trung Quốc. Đội chiến thắng sẽ tiến vào Chung Kết, đội thua sẽ tiến vào Tranh hạng 3. Bán kết 1 Thời gian: 08:00 - 28 tháng 09 (UTC+7). Bán kết 2 Thời gian: 13:00 - 28 tháng 09 (UTC+7). Tranh hạng 3 Địa điểm: Trung tâm Thể thao Điện tử Hàng Châu, Hàng Châu, Chiết Giang, Trung Quốc. Thời gian: 13:00 - 29 tháng 09 (UTC+7). Chung kết Địa điểm: Trung tâm Thể thao Điện tử Hàng Châu, Hàng Châu, Chiết Giang, Trung Quốc. Thời gian: 18:00 - 29 tháng 09 (UTC+7). Thống kê thông số Huy chương Danh sách huy chương Thứ hạng chung cuộc Tham khảo Chú thích
19821521
https://vi.wikipedia.org/wiki/Concerto%20cho%20Piano%20v%C3%A0%20t%E1%BB%A9%20t%E1%BA%A5u%20%C4%91%C3%A0n%20d%C3%A2y%20%28Busoni%29
Concerto cho Piano và tứ tấu đàn dây (Busoni)
Concerto cho Piano và tứ tấu đàn dây cung Rê thứ, Op . 17, BV 80 là một sáng tác của Ferruccio Busoni viết năm 1878 khi ông mới 12 tuổi. Tên ban đầu là Concerto per piano-forte con accompagnamento di quartetto ad arco, Op. 17. Được sáng tác cho tứ tấu đàn dây, nhưng đàn piano cũng có thể được đệm với một dàn nhạc dây. Tác phẩm đã được xuất bản dưới tiêu đề Concerto cho Piano và Dàn nhạc dây vào năm 1987. Bối cảnh sáng tác Busoni được xem là một thần đồng. Những kiến thức âm nhạc mà lần đầu ông được tiếp xúc đều được dạy hầu hết bởi cha mình, một nghệ sĩ dương cầm và còn là một nhà soạn nhạc. Sau khi học ở Viên trong 2 tại Nhạc viện Vienna, Busoni chuyển đến Graz năm 10 tuổi vì lý do sức khỏe vào tháng 10 năm 1877. Nhà soạn nhạc Wilhelm Kienzl nhớ lại rằng Busoni đã có khả năng ứng tác ở một trình độ trưởng thành: "Ngồi bên cây đàn piano, cậu bé được truyền cảm hứng đến mức nghiêm túc nhất và hoàn toàn say mê với nhiệm vụ của mình". Kienzl đề xuất Busoni học với Wilhelm Mayer . Sau đó, một số tác phẩm đầu tiên của Busoni đã được xuất bản, bao gồm hai bản phổ nhạc của Ave Maria và các tác phẩm piano. Bản tổng phổ và các phân phổ hiện được lưu trữ bởi Staatsbibliothek Preussischer Kulturbesitz ở Berlin như một phần thuộc Nachlass (tài sản) của Busoni. Cấu trúc Cấu trúc của tác phẩm bao gồm chương. Vì vậy, tác phẩm có sự tương đồng nhiều hơn với một bản tứ tấu đàn dây cổ điển hơn là một bản concerto dành cho piano thường chỉ có ba chương: Allegro Adagio Scherzo – Trio Allegro vivace Thời lượng tác phẩm bao gồm khoảng 20 phút. Tác phẩm đã cho thấy một sự báo trước nhỏ nhoi về đặc điểm sáng tác sau này khi trưởng thành của Busoni, nhưng lúc này ông vẫn đang theo đuổi những hình mẫu của Mozart. Người đánh giá bản thu âm đầu tiên nhấn mạnh rằng phần đầu tiên của piano thể hiện "sắc thái được cá nhân hóa" và "chương Adagio có một sự nghiêm túc bất ngờ nhưng cũng có một sự gần gũi và tế nhị trong sáng. Chương scherzo trữ tình gợi nhớ đến Schubert, và chương cuối khá "thông thường" là màn thể hiện kỹ thuật sáng tác, bao gồm cả sự tương phản nhuần nhuyễn giữa piano và dàn dây. Xuất bản và thu âm Bản concerto được xuất bản bởi Breitkopf &amp; Härtel, Wiesbaden, vào năm 1987, do Larry Sitsky hiệu đính. Ông khuyến nghị dựa trên các đánh dấu của tutti và divisi, nên sử dụng dàn nhạc dây có đàn contrebass tăng cường bè trầm cho đàn cello, đây là một thông lệ phổ biến vào thời điểm sáng tác. Bản nhạc được thu âm lần đầu tiên vào năm 1999 bởi Carlo Grante và nhóm I Pomeriggi Musicali, do Marco Zuccarini làm chỉ huy. Tham khảo Concerto cho piano
19821533
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ferruccio%20Busoni
Ferruccio Busoni
Ferruccio Busoni (1 tháng 4 năm 1866 – 27 tháng 7 năm 1924) là một nhà soạn nhạc, nghệ sĩ piano, nhạc trưởng, người biên soạn, nhà văn và là giáo viên người Ý. Sự nghiệp và danh tiếng quốc tế của Busoni đã khiến ông có được nhiều sự hợp tác chặt chẽ với những nhạc sĩ, nghệ sĩ và nhân vật văn học hàng đầu trong thời đại của mình. Ông đồng thời còn là một giảng viên đàn phím và giảng viên sáng tác âm nhạc được ưa thích. Nguồn   Beaumont, Antony, ed. (1987). Busoni: Selected Letters. New York:Columbia University Press. Busoni, Ferruccio (1925). Klavierübung in zehn Büchern. Leipzig: Breitkopf & Härtel. Dent, Edward J. (1933). Ferruccio Busoni: A Biography, London: Oxford University Press. (Reprint: London: Ernst Eulenberg, 1974) Kindermann, Jürgen (1980). Thematisch-chronologisches Verzeichnis der Werke von Ferruccio B. Busoni. Studien zur Musikgeschichte des 19. Jahrhunderts, vol. 19. Regensburg: Gustav Bosse Verlag. Knyt, Errin E. (2010b). Ferruccio Busoni and the Ontology of the Musical Work: Permutations and Possibilities. D. Phil. dissertation, Stanford University, accessed 5 June 2016 (extract from Ferruccio Busoni, Breitkopf & Härtel 1916) Sitsky, Larry (1986). Busoni and the Piano: The Works, the Writings, and the Recordings. Greenwood Press. Smith, Ronald (2000). Alkan: The Man, The Music (2 vols in 1). London: Kahn and Averill. Summers, Jonathan (2004). "Busoni's Complete Recordings" , notes to Busoni and his pupils (1922–1952), CD recording, Naxos Records 8.110777 Sinh năm 1866 Mất năm 1924 Nhà soạn nhạc opera Ý Nam nhà văn thế kỷ 20 Trang chứa liên kết với nội dung chỉ dành cho người đăng ký mua Bản mẫu webarchive dùng liên kết wayback
19821540
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0%20V%C4%83n%20M%E1%BA%A1o
Hà Văn Mạo
Hà Văn Mạo (1928-2016) là một giáo sư đầu ngành y quân đội trong lĩnh vực tiêu hóa. Ông được tặng danh hiệu Thầy thuốc Nhân dân vào năm 2001. Tiểu sử Hà Văn Mạo sinh ngày 01 tháng 1 năm 1928, trong một gia đình dòng dõi Nho học ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Thân phụ ông là cụ Hà Văn Đại, đỗ phó bảng, làm quan nổi tiếng thanh liêm. Mẹ ông, cụ Nguyến Thị Khuê, là cháu nội tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn, thủ lĩnh Cần vương ở Nghệ An.. Năm 1936, khi cha nhận chức tri phủ ở huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, Hà Văn Mạo theo cha vào học lớp 1 đến hết lớp 3 ở trường Quốc học Huế. Năm 1946, 19 tuổi, Hà Văn Mạo đỗ Tú tài toàn phần cả hai bằng Triết học và Toán học rồi học năm thứ nhất Đại học Y khoa Hà Nội. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Hà Văn Mạo trở vào Quân khu 4 công tác. Tại đây, anh vừa là cán bộ quân y, vừa dạy học văn hóa cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, lại vừa dự học và đỗ đầu khóa thứ nhất lớp Toán học đại cương do Bộ Giáo dục mở tại Nam Đàn, Nghệ An, được giáo sư Nguyễn Thúc Hào trực tiếp giảng dạy. Năm 1948, ông trở về trường Đại học Y khoa Việt Bắc tiếp tục con đường học và nghiên cứu khoa học. dưới sự dạy dỗ, hướng dẫn của các giáo sư Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ... Cũng trong thời gian đó ông tham gia vào đội phẫu thuật của Giáo sư Tôn Thất Tùng trong các chiến dịch: Trung du, Đường 18, Hòa Bình, Biên giới... Đầu năm 1952, theo điều động của Cục Quân y, ông cùng một số đồng đội bí mật vào vùng địch hậu Tả ngạn nhận công tác. Lúc này ông là Trưởng ban Quân y kiêm Phó phòng Hậu cần Quân khu, cùng với các bác sĩ, y sĩ... vừa làm nhiệm vụ cứu chữa, vừa lo cất giấu thương bệnh binh, bảo vệ an toàn cho các thầy thuốc và anh em thương binh. Năm 1954 Hà Văn Mạo được bầu là chiến sĩ thỉ đua, được đi dự Đại hội chiến sĩ thi đua Quân khu Tả ngạn. Năm 1955 anh tốt nghiệp Đại học Y khoa với điểm xuất sắc về công trình nghiên cứu chữa bệnh hội chứng buốt thần kỉnh. Giáo sư Hồ Đắc Di đã đặc biệt khen ngợi về công trình này của ông. Sau hòa bình lập lại, Hà Văn Mạo trở về Bệnh viện Trung ương Quân dội 108, giữ chức chủ nhiêm khoa Tĩêu hóa (A3), tiếp tục theo đuổi những ý tưởng nghiên cứu khoa học. Nhiều công trình nghiên cứu của ông về tiêu hóa, huyết học, ung thư tiêu hóa, ung thư huyết học đã được hoàn thành trong thời kỳ này. Ông cũng là người đầu tiên thực hiện ở miền Bắc các kỹ thuật nội soi thực qụản, dạ dày và trực tràng bằng ống soi nửa cứng, chọc sinh thiết gan bằng kim Menghini tạo điều kiện cho việc đi sâu vào nghiên cứu các bệnh về gan. Từ 1965, theo yêu cầu của Quân đội, Hà Văn Mạo đổi tên thành Hà Việt cấp tốc lên đường vào chiến trường Quân khu 5. Ông cùng đồng đội vượt qua khó khăn gian khổ thiếu thốn, từng bước xây dựng một bệnh xá từ chỗ có 5 giường bệnh trở thành Viện Quân y 17, bệnh viện đa khoa tuyến cuối của Quân khu 5. Đầu 1974, sau 9 năm ở chiến trường, ông được lệnh trở ra Hà Nội và được sang Cộng hòa dân chủ Đức tu nghiệp, thực tập sinh. Cuối 1976, về nước, ông trở lại cương vị chủ nhiệm khoa tiêu hóa (A3) Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, trờ thành chuyên viên đầu ngành tiêu hóa quân đội kiêm giảng viên tại Học viện Quân y Bộ Quốc phòng. Các công trình về phát hiện ung thư dạ dày sớm, phương pháp chụp mật qua da, phương pháp chụp mật tụy ngược dòng... đã lần lượt hoàn thành vầ được ứng dụng vào thực tiễn. Tiếp đó hàng loạt các công trình nghiên cứu của ông lại lần lượt hoàn thành. Công trình “Phòng chống bệnh ung thư gan nguyên phát” là một đề tài ám ảnh đeo đuổi ông suối cả cuộc đời. Thời kỳ này ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, với đề tài “Góp phần nghiên cứu bệnh ung thư biểu mô tế bào gan: đặc điểm lâm sàng, giá trị một số phương pháp chẩn đoán và thăm dò tác dụng phòng chống của biệt dược Gacavit”. Ông đã cùng vói Giáo sư Đinh Ngọc Lâm nghiên cứu và hoàn thành các đề tài nghiên cứu và sản xuất thử nghiệm thuốc Gacavit, một loại dược phẩm có nguồn gốc từ một dược liệu thảo mộc trong nước được dừng cho bênh nhân để khắc phục các tác hại của chất độc điôxin đối vói tế bào và sinh vật bị nhiễm độc, hạn chế những tế bào đó phát triển thành ung thư gan ở những bênh nhân có nguy cơ cao. Dược phẩm Gacavit đã được Cục Quản lý dược, Bộ Y tế cấp giấy phép sản xuất và cho lưu hành trên thị trường toàn quốc và được Cục Sáng chế, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích ngày 24/8/1990. Bên cạnh hàng chục đề tài cấp Bộ và cấp Nhà nước được nghiệm thu và đảnh gỉá cao ông còn có các đề tài hợp tác quốc tế. Nhiều công trình nghiên cứu của ông cũng đã được báo cáo tại các hội nghị Tiêu hóa: châu Á Thái Bình Dương, châu Âu, Nhật Bản. Ông đã cho công bố gần 70 bài báo bằng tiếng Việt và bằng tiếng nước ngoài, xuất bản 8 cuốn sách, và tham gia viết bài trong cuốn “Bách khoa thư Y học”, tập 3.. Ngoài chức vụ Chủ nhiệm khoa Tiêu hóa Viện 108 và chuyên viên đầu ngành Tiêu hóa quân đội, ông kiêm giảng viên Học viện Quân y. Tại đây ông đã góp phần đào tạo đội ngũ những thầy thuốc trong quân đội, đã hướng dẫn khoa học chính cho 6 nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án tiến sĩ. Ông được Nhà nước phong tặng Phó Giáo sư Y học (1984) rồi Giáo sư Y học (1991), danh hiệu Thầy thuốc ưu tú (1995) và Thầy thuốc nhân dân (2001). Ông là một trong số ít các nhà khoa học Việt Nam trở thành thành viên Viện Hàn lâm khoa học New York (1998). Ông đã từng làm cố vấn khoa học cho các Hội nghị Tiêu hóa quốc tế tại Philippin (1996), Thái Lan (1998), Ôtxtraylia (2001)... Sau khi nghỉ hưu, ông vẫn hoạt động có hiệu quả để phục vụ bệnh nhân và xây dựng ngành, lãnh đạo trung tâm nghiên cứu phòng chống ung thư và làm giảng viên kiêm chức ở Học viện Quân y. Ông từng là Phó Chủ tịch Hội Tiêu hóa Việt Nam, Chủ tịch Hội Gan Mật Việt Nam, uỷ viên các Uỷ ban chuyên khoa của Hội tiêu hóa thế giới OMGE, uỷ viên chấp hành Hội Gan Mật Đông Nam Á. Ông đã được mời giảng bài và thuyết trình khoa học tại nhiều trường đại học trên thế giới. Ông mất tháng 8 năm 2016, thọ 88 tuổi.. Chú thích Sinh năm 1928 Mất năm 2016 Người Hà Tĩnh Thầy thuốc Nhân dân Giáo sư
19821547
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%99%20ng%C3%A0m%20th%C3%A1o%20l%E1%BA%AFp%20nhanh
Bộ ngàm tháo lắp nhanh
Bộ ngàm tháo lắp nhanh là một cơ cấu để gắn bánh xe vào xe đạp. Nó bao gồm một thanh ren ở một đầu và một bộ cam lắp ráp bằng cần đòn bẩy hoạt động ở đầu kia. Thanh ren được chèn vào trục rỗng của bánh xe, một đai ốc đặc biệt được vặn vào, và cần đòn bẩy đóng lại để siết chặt bộ cam và gắn chặt, cố định bánh xe vào càng phuộc. Những loại bánh xe được trang bị cơ chế mở nhanh này có thể được tháo ra khỏi khung xe đạp và thay thế mà không cần dùng đến công cụ bằng cách mở và đóng cần cam, do đó nhanh hơn so với bánh xe có trục và đai ốc cứng. Tuy nhiên, điều bất tiện ở chỗ là ngàm bánh xe mở nhanh có thể khiến cho bánh xe dễ bị mất trộm hơn và cần chú ý cẩn thận để đảm bảo cơ chế được siết chặt đúng cách. Các cơ chế tháo lắp tương tự cũng được sử dụng để vận hành ngàm trục yên xe đạp, gập thân xe đạp gấp và xe tay ga. Lịch sử Cơ chế được phát minh năm 1927 bởi Tullio Campagnolo, một tay đua xe đạp người Ý. Ông cảm thấy bực bội khi cố gắng chuyển số trong một cuộc đua. Lúc đó, chỉ có một bánh răng ở mỗi phía của bộ trục sau, vì vậy việc thay đổi số đòi hỏi phải dừng xe lại, tháo bánh sau, lật ngang nó ra để bánh răng đối diện được nối với xích, và cuối cùng là lắp lại bánh. Thời tiết trở lạnh và đôi tay ông tê cứng, ông không thể siết các đai vặn cánh cố định bánh xe. Ông đã có một vị trí rất tốt trong cuộc đua trước khi thay bộ số, nhưng lại mất đi nhiều thời gian quý báu. Điều này đã thúc đẩy ông phát triển cơ chế mở nhanh. Một phát minh khác của Campagnolo cũng sử dụng cơ chế mở nhanh là Cambio Corsa, một hệ thống hộp số thay đổi đa mức bao gồm một cần mở nhanh bánh xe sau và một bộ phận tích hợp cơ học đặt cần bẩy gần yên xe đạp, kết hợp với một càng phuộc là phiên bản nguyên thủy của bộ chuyển đĩa sau derailleur (không có bánh đưa xích để lấy dây xích lỏng), đồng thời có một cần điều khiển gần yên xe đạp. Sáng kiến này cho phép người đạp thay số nhanh chóng trong quá trình di chuyển bằng cách mở trục, dời bánh xe sau một chút về phía trước bằng cách giãn căng xích, kích hoạt càng kẹp để chuyển sang đĩa bánh lớn hơn và siết chặt cơ chế ngàm mở nhanh lại; hoặc thả trục, sử dụng càng kẹp để chuyển sang đĩa bánh nhỏ hơn, dời bánh xe một chút về phía sau bằng cách phanh và siết chặt cơ chế ngàm mở nhanh lại. Cơ chế ngàm mở nhanh, cùng với các đổi mới khác và tiêu chuẩn sản xuất cao, đã giúp Campagnolo trở thành nhà sản xuất linh kiện xe đạp đường trường và xe đạp đường đua hàng đầu. Sử dụng Ngàm mở nhanh có xu hướng không được sử dụng trên một số loại xe đạp, chẳng hạn như xe đạp tiện ích (chỉ có một tốc độ hoặc bánh đề) hoặc xe đạp đường đua, một phần vì truyền thống và một phần vì ít cần tháo lắp bánh xe nhanh mà không cần sử dụng dụng cụ. Cơ chế ngàm mở nhanh thỉnh thoảng cũng không được khuyến khích sử dụng cùng với phanh đĩa bởi sự cần thiết phải gắn vào trục bánh để chịu đựng được lực phanh. Các loại ngàm có xuất xứ từ Pháp khác biệt về luồng, bởi nó cùng với các thông số của xe đạp Pháp từng dựa trên Hệ đo Mét. Mặc dù các thông số hiện đại cho xe đạp được đưa ra theo đơn vị mét, chúng lại dựa vào Hệ thống Thông thường Hoa Kỳ (United States Customary System), vốn có nguồn gốc từ đơn vị của Anh, ví dụ, 28,6 mi-li-mét ≈ 1 1/8 inch. Trong những năm qua, các cơ chế ngàm mở nhanh được người lái thông thường sử dụng làm thiết bị nhả bánh chính. Theo Sheldon Brown (thợ sửa xe đạp), các nhà sản xuất thường trang bị đầu càng phuộc bằng các tính năng phần cứng bổ sung nhằm giữ chặt bánh xe ngay cả khi nó không được lắp đúng cách. Phương pháp này được phát triển để giải quyết khả năng hạn chế của một số người dùng có thể tháo bánh xe nhưng không lắp lại được đúng cách. Các tính năng phần cứng này được gọi là "lawyer lips" hoặc "lawyer tabs" vì các nhà sản xuất đã triển khai chúng để tránh kiện tụng tốn kém. Các hệ thống kẹp chặt thứ cấp này phía trước và hệ thống thả rời chiều dọc ở phía sau, mặc dù khiến cho giá sản xuất rẻ hơn nhưng lại kém an toàn hơn so với hệ thống ngàm truyền thống. Ngoài ra, sự ra đời của phanh đĩa đã làm tăng khả năng hỏng hóc của trục trước và ngàm, do phanh đĩa tác động lực đẩy có xu hướng kéo trục xe ra khỏi càng phuộc. Ngàm mở nhanh thường được lắp ở cạnh bên trái của xe đạp, tuy nhiên cũng có một số lại ưa lắp bên phải nếu như phanh đĩa nằm bên trái. Xe đạp leo núi thường hướng cần bẩy ra phía sau, nhằm giảm thiểu khả năng bị mở không mong muốn. Các biến thể Bộ trục khoá có sẵn không có tay cầm hoặc có tay cầm đặc biệt có thể tháo rời để ngăn chặn hành vi trộm cắp bánh xe. Chú thích và Tham khảo Liên kết ngoài Article on Quick release skewers bởi Sheldon Brown Bộ phận xe đạp Phát minh Ý Cơ chế xe đạp
19821564
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pilot%20%28c%C3%B4ng%20ty%29
Pilot (công ty)
là một công ty bút viết trụ sở tại Tokyo, Nhật Bản. Công ty sản xuất các loại dụng cụ viết, văn phòng phẩm và trang sức, nhưng được biết đến nhiều nhất thông qua sản phẩm bút viết của họ. Đây là công ty sản xuất bút lớn nhất tại Nhật Bản, với sự cạnh tranh toàn cầu từ các công ty bút viết khác như Pentel Co., Mitsubishi Pencil Co. (Uni-ball) và Paper Mate của Hoa Kỳ. Pilot có nhiều công ty con trên toàn thế giới, bao gồm Philippines, Vương quốc Anh, Indonesia, Malaysia, Ấn Độ, Brazil, Nam Phi, Đức và Pháp . Hầu hết bút Pilot được sản xuất tại Nhật Bản, Pháp và Mỹ. Namiki, bút máy của Pilot với thiết kế sơn mài maki-e, được sản xuất tại nhà máy Hiratsuka. Lịch sử Năm 1915, Ryōsuke Namiki (並木良輔), một giáo sư từ Học viện Hàng hải Tokyo ở Nhật Bản, từ bỏ công việc của mình để thành lập một nhà máy nhỏ gần Tokyo để sản xuất ngòi bút vàng. Năm 1916, Namiki mở rộng dòng sản phẩm của mình và trở thành một nhà sản xuất dụng cụ viết hoàn chỉnh. Công ty Bút Pilot được thành lập bởi Ryosuke Namiki cùng với Masao Wada (和田正雄) vào năm 1918 dưới tên gọi Công ty Sản xuất Namiki. Năm 1926, họ thành lập các văn phòng ở nước ngoài tại Malaysia, Singapore, Boston, London và Thượng Hải. Năm 1938, tên của công ty được thay đổi thành Công ty Bút Pilot, Ltd. Nó lại đổi tên vào năm 1950 thành Công ty Mực Pilot, Ltd. Năm 1954, một chi nhánh được mở ở Brazil. Từ năm 1972 đến năm 1999, các công ty con khác nhau đã được thành lập để bao phủ các ngành khác nhau, và tên chung cho chúng là Tập đoàn Pilot Corporation. Gần đây hơn, Pilot đã bắt đầu dòng sản phẩm BeGreen - bút và bút chì được làm chủ yếu từ chất liệu tái chế . Năm 1995 và 1996, họ đã tham gia cuộc đua với một chiếc Ferrari F40 LM tại giải đua 24 Giờ Le Mans. Đội đua tham gia cuộc đua với F40 LM ban đầu được đặt tên là Pilot-Aldix Racing, nhưng sau đó được đổi tên thành Pilot Pen Racing và Pilot Racing. Họ đã chiến thắng tại giải 4 Giờ Anderstorp và về vị trí thứ 12 tại Le Mans. Năm 2018, Pilot đã kỷ niệm 100 năm thành lập của công ty bằng việc tung ra nhiều trang đặc biệt trên trang web và bút viết phiên bản đặc biệt. Năm 2023, Pilot đã chấm dứt mối quan hệ đối tác 40 năm với công ty dụng cụ viết Luxor Writing Instruments ở Ấn Độ, và dự định tiến vào thị trường Ấn Độ một cách độc lập. Sản phẩm Bút máy Năm 1963, Pilot Corporation giới thiệu Capless. Không giống như những chiếc bút máy khác cùng thời, Pilot Capless có ngòi có thể thu vào hoàn toàn. Capless sau đó được giới thiệu lại với tên gọi Vanishing Point vào năm 1972. Vào năm 2012, công ty đã phát hành Metropolitan (được gọi là Cocoon tại Nhật Bản), một loại bút máy phổ thông dành cho người mới bắt đầu. Varsity là bút máy dùng một lần rồi bỏ, được nạp sẵn mực, trong khi Prera là bút bỏ túi nhỏ hơn. Các sản phẩm khác bao gồm Pilot Falcon, có ngòi vàng bán linh hoạt; Kakuno, loại bút máy dành cho trẻ em mới bắt đầu tập viết, thường được bán với màu sắc vui nhộn và có khuôn mặt cười trên ngòi bút. Một số loại bút cao cấp hơn của Pilot có tên là "Custom" hoặc "Custom Heritage" và một số có hai hoặc ba chữ số. Các mẫu "Custom" có hình điếu xì gà, trong khi các mẫu "Custom Heritage" có đầu trên và dưới phẳng. Con số này dựa trên năm giới thiệu (từ khi thành lập công ty— Custom 74 được giới thiệu vào năm 1992) cho các mẫu có hai chữ số, trong khi chữ số thứ ba trên các mẫu có ba chữ số thể hiện giá niêm yết khi nhân với 10.000 Yên (Custom 823 được giới thiệu vào năm 2000 có giá 30.000 Yên tại thời điểm giới thiệu). Mực Bút máy Iroshizuku (15 ml, 50 ml): 24 loại chủ đề "cảnh đẹp Nhật Bản" (3 màu mới được thêm vào 21 màu phổ thông vào tháng mười một năm 2012). Tất cả đều là mực lọ. Lọ mực (30ml, 70ml, 350ml): Gồm có các màu đen, xanh đen, xanh dương và đỏ. Mực ống Cartridge (bán theo đơn vị 12): 4 màu (đen, xanh đen, xanh dương và đỏ). Khác Mực vẽ (30ml, 350ml), mực văn phòng (30ml): Loại mực cho từng ứng dụng và được sử dụng bằng bút hoặc bút lông. Bút từ chai nhựa tái chế Pilot Corporation đã công bố một số thực tế môi trường về sẩn phẩm bút của mình năm 2015. Sản phẩm thân thiện môi trường nhất là Bottle-2-Pen (B2P), được làm từ 90,4% thành phần tái chế. Nhựa PET từ chai lọ được sử dụng nhiều, do đó nó thỉnh thoảng còn được gọi là 'PetPen' hoặc 'PetBall'. Khác Thương hiệu cũng sản xuất và thương mại hóa nhiều loại sản phẩm dưới tên riêng của mình và các thương hiệu khác, chẳng hạn như FriXion (bút gel mực xóa được, bút tô sáng highlight và tem), Acroball (bút bi mực hybrid); pintor; B2P và Begreen (cả hai đều là sản phẩm có thành phần tái chế). Các thương hiệu phụ bao gồm Better, Rex-Grip, Super Grip G (bút bi gốc dầu); Precise, Hi-Tecpoint (bóng lăn); Hi-Tec-C, G-2, Juice (hoặc Pop'lol ) (bút gel); và Coleto (hệ thống nhiều bút có thể tùy chỉnh); Dòng Mogulair, Doctor Grip, Super Grip, Fure Fure (2020) (bút chì cơ); Automac (bút chì cơ được trang bị chức năng tự động); Dòng S series: S3, S5, S10, S20, S30 (bút chì nháp). Bảng sau đây bao gồm các sản phẩm bút Pilot tại Châu Á, Châu Âu, Bắc và Nam Mỹ, vào tháng mười hai năm 2019: Ghi chú Chú thích và Tham khảo Liên kết ngoài Văn phòng phẩm Thương hiệu Nhật Bản Công ty Nhật Bản Nhà sản xuất Nhật Bản Bút máy Mực viết Sản xuất bút
19821582
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20t%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Hoa%20K%E1%BB%B3%201876
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1876
Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1876 là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 23, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 7 tháng 11 năm 1876, trong đó ứng cử viên Đảng Cộng hòa Rutherford B. Hayes đánh bại ứng cử viên Đảng Dân chủ Samuel J. Tilden. Đây là một trong những cuộc bầu cử tổng thống gây tranh cãi nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Để giải quyết các vấn đề quanh cuộc bầu cử, hàng loạt các cuộc đàm phán giữa Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ đã diễn ra mà cuối cũng dẫn đến Thỏa hiệp 1877. Vào ngày 2 tháng 3 năm 1877, việc kiểm phiếu đại cử tri diễn ra tại Phiên họp chung của Quốc hội đã chứng thực Hayes đắc cử Tổng thống. Đây là cuộc bầu cử tổng thống thứ 2 trong số 5 cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ mà người chiến thắng không giành được đa số phiếu phổ thông trên toàn quốc (lần đầu tiên kể từ năm 1824). Sau khi Tổng thống Hoa Kỳ đương nhiệm Ulysses S. Grant từ chối tranh cử nhiệm kỳ thứ ba mặc dù trước đó được cho là sẽ làm vậy, Dân biểu Hoa Kỳ James G. Blaine đã trở thành ứng cử viên hàng đầu cho đề cử của Đảng Cộng hòa. Tuy nhiên, Blaine đã không thể giành được đa số phiếu ủng hộ tại Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1876, thay vào đó, Đại hội quyết định Thống đốc Hayes từ Ohio là một ứng cử viên thỏa hiệp. Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1876 đã đề cử Thống đốc Tilden từ New York sau 2 lần bỏ phiếu. Kết quả của cuộc bầu cử gây tranh cãi đến tận ngày nay. Mặc dù việc Tilden vượt qua Hayes về số phiếu phổ thông là không thể bàn cãi nhưng vẫn có nhiều cáo buộc về gian lận bầu cử, bạo lực bầu cử và việc tước quyền bầu cử của các cử tri Da đen chủ yếu ủng hộ Đảng Cộng hòa. Sau lần kiểm phiếu đầu tiên, Tilden giành được 184 phiếu đại cử tri so với 165 của Hayes, với 20 phiếu bầu từ 4 bang chưa được công bố. Tại Florida, Louisiana và Nam Carolina, cả 2 đảng đều tuyên bố ứng cử viên của họ đã giành chiến thắng. Ở Oregon, một đại cử tri đã bị thay thế vì đã từng là "quan chức được bầu hoặc được bổ nhiệm." Câu hỏi ai nên được trở thành đại cử tri là nguồn gốc của nhiều tranh cãi liên miên trong thời gian dài. Một thỏa hiệp bí mật không chính thức đã được đưa ra để giải quyết các vấn đề về bầu cử: Thỏa hiệp 1877. Theo thỏa hiệp, Đảng Dân chủ nhường 20 phiếu đại cử tri chưa được công bố do tranh cãi cho Hayes, dẫn đến chiến thắng với tỷ lệ 185–184; đổi lại, Đảng Cộng hòa buộc phải đồng ý rút quân đội liên bang khỏi miền Nam, chấm dứt Kỷ nguyên Tái thiết. Cho đến nay, đây vẫn là cuộc bầu cử có tỷ lệ cử tri đi bầu cao nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, ở mức 82,6%. 50,9% số phiếu phổ thông ủng hộ Tilden là tỷ lệ phiếu phổ thông lớn nhất mà một ứng cử viên thua cuộc nhận được và chỉ số "nhiệt tình" của cử tri dành cho ông (bằng tỷ lệ cử tri đi bầu nhân với tỷ lệ phiếu bầu) cao hơn bất kỳ ứng cử viên tổng thống khác trong lịch sử Hoa Kỳ. Tilden cũng là người cuối cùng giành được đa số quá bán phiếu phổ thông cho đến William McKinley vào năm 1896. Đến nay, đây là cuộc bầu cử tổng thống cuối cùng mà cả 2 ứng cử viên từ 2 đảng lớn đều là thống đốc một bang. Đề cử Đề cử của Đảng Cộng hòa Vào năm 1875, nhiều người cho rằng Tổng thống đương nhiệm Ulysses S. Grant có kế hoạch tranh cử nhiệm kỳ tổng thống thứ ba bất chấp tình hình kinh tế thảm hại cùng vô số bê bối chính trị đã xảy ra kể từ khi ông nhậm chức vào năm 1869 cũng như một truyền thống lâu đời do George Washington thiết lập rằng Tổng thống không phục vụ quá 2 nhiệm kỳ. Những người thân cận với Grant đã khuyên ông ra tranh cử nhiệm kỳ thứ ba và ông suýt nữa đã làm vậy, nhưng vào ngày 15 tháng 12 năm 1875, Hạ viện, với số phiếu ủng hộ áp đảo 233 so với 18 phiếu phản đối, đã thông qua một nghị quyết để ủng hộ truyền thống 2 nhiệm kỳ với lý do là để ngăn chặn chế độ độc tài. Cuối năm đó, Grant rút lui và không tham gia tranh cử trong cuộc bầu cử năm 1876. Thay vào đó, ông cố gắng thuyết phục Ngoại trưởng Hamilton Fish ra tranh cử tổng thống, nhưng Fish, người đã 67 tuổi, từ chối vì cho rằng mình đã quá già để đảm nhận chức vụ đó. Tuy nhiên, Grant vẫn gửi một lá thư đến Đại hội để bày tỏ sự ủng hộ của mình với Fish, nhưng bức thư đã bị thất lạc và không bao giờ được công khai trước Đại hội. Fish sau đó nhấn mạnh rằng ông sẽ không tranh cử tổng thống ngay cả khi Đại hội đề cử ông. Tại thời điểm Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa nhóm họp tại Cincinnati, Ohio vào ngày 14 tháng 6 năm 1876, James G. Blaine dường như chắc chắn sẽ trở thành ứng cử viên Tổng thống của đảng. Trong lần bỏ phiếu đầu tiên, Blaine chỉ thiếu 100 phiếu để giành được đề cử. Tuy nhiên, ông bắt đầu gặp nhiều rào cản sau lần bỏ phiếu thứ 2, vì nhiều đảng viên Cộng hòa lo sợ rằng Blaine không thể thắng trong cuộc tổng tuyển cử. Các đại biểu chống Blaine đã không thể đề cử một ứng cử viên cho đến khi số phiếu bầu của Blaine chiếm 41% tổng số phiếu trong lần bỏ phiếu thứ 6. Lo sợ Blaine giành được đề cử, thượng tầng Đảng Cộng hòa đã bí mật chọn Thống đốc của Ohio Rutherford B. Hayes, người đã dần xây dựng được nền tảng ủng hộ vững chắc trong suốt đại hội cho đến khi ông về nhì trong lần bỏ phiếu thứ 6. Trong lần bỏ phiếu thứ 7, Hayes được đề cử làm Tổng thống với 384 phiếu bầu, so với 351 cho Blaine và 21 cho Benjamin Bristow. Dân biểu New York William A. Wheeler được đề cử làm Phó Tổng thống với cách biệt lớn hơn nhiều (366–89) so với đối thủ chính của ông, Frederick Theodore Frelinghuysen, người sau này là thành viên của Ủy hội Bầu cử, cơ quan đã trao chiến thắng cho Hayes. Đề cử của Đảng Dân chủ Các ứng cử viên của Đảng Dân chủ: Samuel J. Tilden, Thống đốc New York Thomas A. Hendricks, Thống đốc Indiana Winfield Scott Hancock, Thiếu tướng Lục quân Hoa Kỳ từ Pennsylvania William Allen, cựu Thống đốc Ohio Thomas F. Bayard, Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ từ Delaware Joel Parker, cựu Thống đốc New Jersey Việc Đảng Dân chủ không đề cử một liên danh trong cuộc bầu cử tổng thống trước đó mà thay vào đó ủng hộ ứng cử viên của Đảng Cộng hòa Tự do Horace Greeley đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận về khả năng tồn tại của đảng. Mọi nghi ngờ về tương lai của đảng đã bị dập tắt sau khi Đảng Cộng hòa Tự do sụp đổ sau cuộc bầu cử đó, cùng với những chiến thắng đáng kể của Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử giữa kỳ năm 1874 khi lần đầu tiên họ nắm quyền kiểm soát Hạ viện sau 16 năm. Đại hội toàn quốc của Đảng Dân chủ được tổ chức tại St. Louis, Missouri, vào tháng 6 năm 1876, đây là đại hội chính trị đầu tiên của một đảng lớn được tổ chức ở phía tây sông Mississippi. 5000 người chen chúc trong một khán phòng ở St. Louis với hy vọng Đảng Dân chủ sẽ lần đầu giành chiến thắng trong một cuộc bầu cử tổng thống sau 20 năm. Cương lĩnh của đảng ủng hộ cải cách ngay lập tức và sâu rộng để đối phó với những vụ bê bối trong chính quyền Grant. Tilden đã giành được hơn 400 phiếu bầu trong lần bỏ phiếu đầu tiên và được đề cử tổng thống với tỷ số áp đảo trong lần thứ 2. Tilden đã đánh bại Thomas A. Hendricks, Winfield Scott Hancock, William Allen, Thomas F. Bayard và Joel Parker để được đề cử Tổng thống. Tilden đã vượt qua sự chống đối rất lớn từ "Honest John" Kelly, lãnh đạo của Tammany Hall tại New York, để giành được đề cử Tổng thống. Thomas A. Hendricks được đề cử làm Phó Tổng thống vì ông là người duy nhất ứng cử vị trí đó. Cương lĩnh của Đảng Dân chủ cam kết thay thế chính quyền tham nhũng của Grant bằng một chính quyền trung thực, hiệu quả và chấm dứt bạo lực tại miền Nam. Nó cũng cam kết bảo vệ quyền trở về quê hương của các công dân Hoa Kỳ nhập tịch cũng như hạn chế nhập cư người châu Á, cải cách thuế quan và phản đối việc cấp đất để xây dựng đường sắt. Người ta tuyên bố rằng Tilden nhận được sự ủng hộ nhiệt tình hơn bất kỳ nhà lãnh đạo đảng nào kể từ Andrew Jackson. Nguồn: Official proceedings of the National Democratic convention, held in St. Louis, Mo., June 27th, 28th and 29th, 1876. (3 tháng 9, 2012). Nguồn: Official proceedings of the National Democratic convention, held in St. Louis, Mo., June 27th, 28th and 29th, 1876. (3 tháng 9, 2012). Nguồn: Official proceedings of the National Democratic convention, held in St. Louis, Mo., June 27th, 28th and 29th, 1876 (3 tháng 9, 2012). Đề cử của Đảng Đồng bạc xanh Ứng cử viên của Dẩng Đồng bạc xanh: Peter Cooper, Nhà từ thiện từ New York Andrew Curtin, cựu Thống đốc Pennsylvania William Allen, cựu Thống đốc Ohio Alexander Campbell, Dân biểu Hoa Kỳ từ Illinois Đảng Đồng bạc xanh được thành lập nhàm mục đích khuyến khích nông nghiệp ở Indianapolis, Indiana, vào năm 1874 để kêu gọi chính phủ liên bang thổi phồng nền kinh tế thông qua việc phát hành hàng loạt tiền giấy được gọi là "đồng bạc xanh". Đại hội toàn quốc đầu tiên của nó được tổ chức tại Indianapolis vào mùa xuân năm 1876. Peter Cooper được đề cử làm Tổng thống với 352 phiếu bầu so với 119 từ 3 ứng cử viên khác. Đại hội đã đề cử Thượng nghị sĩ Đảng Chống độc quyền Newton Booth từ California làm Phó Tổng thống. Sau khi Booth từ chối ra tranh cử, ủy ban toàn quốc của đảng đã chọn Samuel Fenton Cary thay thế ông. Đề cử của Đảng Cấm rượu Đảng Cấm rượu, trong đại hội toàn quốc ở Cleveland, đã đề cử Green Clay Smith làm ứng cử viên Tổng thống và Gideon T. Stewart làm ứng cử viên Phó Tổng thống. Đề cử của Đảng Quốc gia Hoa Kỳ Đảng chính trị nhỏ này đã sử dụng nhiều tên khác nhau tại mỗi bang khác nhau. Nó là sự tiếp nối của Đảng Chống Hội Tam điểm và trong đại hội năm 1872 đã đề cử Charles Francis Adams, Sr. làm Tổng thống. Khi Adams từ chối tranh cử, đảng này đã không tham gia cuộc bầu cử năm 1872. Đại hội được tổ chức từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 6 năm 1875 tại Hội trường Tự do, Pittsburgh, Pennsylvania. BT Roberts của New York làm Chủ tịch và Jonathan Blanchard làm diễn giả chính. Cương lĩnh của đảng đã ủng hộ các Tu chính án trong thời Tái thiết, trọng tài quốc tế, đọc thánh thư trong các trường công lập, thanh toán bằng tiền giấy, công lý cho người Mỹ bản địa, bãi bỏ Đại cử tri đoàn và cấm bán đồ uống có cồn. Nó tuyên bố ngày đầu tuần là ngày nghỉ ngơi của Hoa Kỳ. Cương lĩnh phản đối các hội kín và độc quyền. Đại hội đã xem xét 3 ứng cử viên Tổng thống tiềm năng: Charles F. Adams, Jonathan Blanchard và James B. Walker. Khi Blanchard từ chối tranh cử, Walker được nhất trí đề cử làm Tổng thống. Đại hội sau đó đã nhất trí đề cử Donald Kirkpatrick từ New York làm Phó Tổng thống. Tổng tuyển cử Chiến dịch Tilden, người đã truy tố nhiều chính trị gia tại New York và tống giam ông trùm chính trị William M. Tweed, đã tranh cử với tư cách là một ứng cử viên ủng hộ cải cách trong bối cảnh chính quyền Grant tham nhũng tràn lan. Cả 2 đảng đều ủng hộ cải cách các dịch vụ dân sự. Cả hai bên đều tiến hành các chiến dịch tranh cử chống lại nhau một cách kịch liệt, Đảng Dân chủ thì nhắm vào nạn tham nhũng tràn lan còn Đảng Cộng hòa nhắm vào các vấn đề Nội chiến, một chiến thuật đã bị các đảng viên Dân chủ chế giễu. Các đảng viên Cộng hòa còn hô khẩu hiệu "Không phải mọi đảng viên Đảng Dân chủ đều là kẻ nổi loạn, nhưng mọi kẻ nổi loạn đều là đảng viên Đảng Dân chủ." Hayes gần như là một nhân vật ít tiếng tăm bên ngoài Ohio, quê hương của ông, nơi ông đã phục vụ 2 nhiệm kỳ tại Hạ viện Hoa Kỳ và sau đó là 2 nhiệm kỳ với tư cách là Thống đốc bang. Henry Adams mô tả Hayes là "một kẻ vô danh hạng 3 mà điểm cộng duy nhất là hắn không làm ai ghét mình." Hayes đã từng phục vụ trong Nội chiến với tư cách là đại tá của Trung đoàn 23 Ohio và bị thương nhiều lần, điều này khiến ông được nhiều cựu chiến binh ủng hộ. Sau đó, ông được phong hàm thiếu tướng. Điểm quan trọng nhất ở ông là đến từ Ohio, một bang dao động rất quan trọng. Ngược lại, nhà báo John D. Defrees mô tả Tilden là "một người đàn ông độc thân rất tốt bụng, nghiêm nghị, nhỏ bé, khô héo, bồn chồn, nặng khoảng 120 pound, người không bao giờ có động lực trong cuộc đời cũng như không có bất kỳ tình cảm nào dành cho phụ nữ." Chiến lược của Đảng Dân chủ nhằm giành chiến thắng ở các bang miền Nam phụ thuộc rất nhiều vào các nhóm bán quân sự như Sơ mi đỏ và Liên đoàn Trắng. Tái sử dụng chiến lược trong Kế hoạch Mississippi, các nhóm này đã tích cực đàn áp cử tri của Đảng Cộng hòa, kể cả người da đen hay da trắng bằng cách làm gián đoạn các cuộc họp và mít tinh, thậm chí sử dụng bạo lực và đe dọa. Họ tự coi mình là "lực lượng quân sự" của Đảng Dân chủ. Thời điểm ấy một ứng cử viên ra mặt tranh cử chức vụ Tổng thống bị coi là "quá tham vọng" và không phụ hợp nên cả Tilden và Hayes đều không tích cực tham gia chiến dịch tranh cử và giao nhiệm vụ đó cho những người đại diện của họ. Colorado Colorado được kết nạp vào Liên bang với tư cách là tiểu bang thứ 38 vào ngày 1 tháng 8 năm 1876; đây là cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên mà bang tham gia. Không có đủ thời gian và tiền bạc để tổ chức một cuộc bầu cử tổng thống ở bang mới do đó cơ quan lập pháp bang Colorado đã tự chọn 3 đại cử tri đoàn của bang. Đảng Cộng hòa chiếm đa số mong manh trong cơ quan lập pháp bang sau cuộc bầu cử gây tranh cãi gay gắt vào ngày 3 tháng 10 năm 1876. Nhiều ghế trong cuộc bầu cử đó chỉ được quyết định bởi vài trăm phiếu bầu. Vào ngày 7 tháng 11 năm 1876, trong một cuộc bỏ phiếu với 50 ủng hộ và 24 phản đối, cơ quan lập pháp bang đã chọn Otto Mears, William Hadley và Herman Beckurts làm đại cử tri của bang bầu Tổng thống. Cả 3 đại cử tri bang đều bỏ phiếu cho Hayes. Đây là cuộc bầu cử cuối cùng mà bất kỳ tiểu bang nào chọn đại cử tri thông qua cơ quan lập pháp của bang, thay vì thông qua phổ thông đầu phiếu. Tranh chấp và Thỏa hiệp 1877 Florida (với 4 phiếu đại cử tri), Louisiana (với 8) và Nam Carolina (với 7) đã báo cáo Tilden đang trên đà giành chiến thắng, nhưng các cuộc bầu cử ở các bang này tràn ngập gian lận bầu cử và đe dọa bạo lực đối với cử tri Đảng Cộng hòa. Trường hợp cực đoan nhất là ở Nam Carolina, nơi có đến 101% tổng số cử tri của bang đi bầu, và ước tính có khoảng 150 đảng viên Đảng Cộng hòa là người da đen đã bị sát hại. Một trong những điểm gây tranh cãi xoay quanh việc thiết kế các lá phiếu bầu. Vào thời điểm đó, các đảng sẽ tự in phiếu bầu để cử tri bỏ phiếu. Để hỗ trợ những cử tri mù chữ, các đảng sẽ in các biểu tượng của đảng mình lên đó, và trong cuộc bầu cử này, nhiều lá phiếu bầu của Đảng Dân chủ lại in biểu tượng của Đảng Cộng hòa, Tổng thống nổi tiếng Abraham Lincoln lên đó, khiến nhiều người mù chữ ủng hộ Đảng Cộng hòa nhầm lẫn và bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ. Các ủy ban bầu cử bang do Đảng Cộng hòa thống trị sau đó đã bác bỏ tất cả phiếu bầu của Đảng Dân chủ và trao tất cả phiếu đại cử tri của họ cho Hayes. Theo luật, các đại cử tri được bầu cần có chứng thực từ một quân chức cấp tiểu bang, nhưng tại Nam Carolina, những đại cử tri cam kết bầu Tilden lại không nhận chứng thực từ bất kỳ quan chức nào và tự tuyên bố rằng họ được chọn qua phổ thông đầu phiếu dù những tuyên bố đó đã bị hội đồng bầu cử bang bác bỏ. Trong khi đó, tại Oregon, tư cách thành viên của một đại cử tri đã bị tranh cãi dữ dội. Kết quả trên toàn tiểu bang rõ ràng nghiêng về Hayes, nhưng thống đốc Đảng Dân chủ của bang, La Fayette Grover, tuyên bố rằng một trong những đại cử tri được bầu của đảng Cộng hòa, cựu Giám đốc Bưu cục John Watts, không đủ tư cách theo Điều II, Mục 1 Hiến pháp Hoa Kỳ vì ông đã từng là một "quan chức được bầu hoặc được bổ nhiệm." Grover đã thay thế một đại cử tri Đảng Dân chủ vào vị trí của Watts. Hai đại cử tri Đảng Cộng hòa đã không chấp nhận hành động của Grover và tuyên bố cả 3 phiếu bầu ủng hộ Hayes. Tuy nhiên, đại cử tri đảng Dân chủ, CA Cronin, tuyên bố 1 phiếu bầu cho Tilden và 2 phiếu bầu cho Hayes. Việc này dấy lên tranh cãi vì sau này, cách biệt phiếu đại cử tri của 2 ứng cử viên chỉ là 1 phiếu. Sau cùng, cả 3 phiếu bầu của Oregon đều được trao cho Hayes. Đảng Dân chủ tuyên bố có gian lận, thậm chí còn có đe dọa rằng Hayes sẽ không bao giờ được nhậm chức. Tại Columbus, Ohio, một phát súng đã được bắn vào nơi ở của Hayes khi ông đang ngồi ăn tối. Sau đó, Grant đã lặng lẽ củng cố lực lượng quân sự trong và xung quanh Washington D.C. cũng như nơi ở của Hayes nhằm kiểm soát các cuộc biểu tình. Hiến pháp quy định rằng "Chủ tịch Thượng viện [Phó Tổng thống], trước sự chứng kiến của Thượng viện và Hạ viện, sẽ mở tất cả các giấy chứng nhận [bầu cử], và các phiếu bầu sau đó sẽ được kiểm." Đảng Cộng hòa cho rằng quyền kiểm phiếu thuộc về Chủ tịch Thượng viện, với Hạ viện và Thượng viện chỉ là khán giả. Đảng Dân chủ phản đối tuyên bố đó, vì cho rằng Chủ tịch Tạm quyền của Thượng viện, Đảng viên Cộng hòa Thomas W. Ferry có thể kiểm phiếu cả các bang đang tranh chấp cho Hayes. Đảng Dân chủ nhấn mạnh rằng Quốc hội nên tiếp tục thông lệ đã tuân theo từ năm 1865: không phiếu bầu nào bị phản đối sẽ được tính trừ khi có sự nhất trí của cả hai viện. Tuy nhiên, vì Đảng Dân chủ đang nắm Hạ viện nên chắc chắn họ sẽ bác bỏ tất cả phiếu các bang đang tranh chấp và Tilden, khi ấy, sẽ đắc cử. Đối mặt với một cuộc khủng hoảng hiến pháp chưa từng có, Quốc hội đã thông qua luật vào ngày 29 tháng 1 năm 1877 để thành lập Ủy hội Bầu cử gồm 15 thành viên để giải quyết các vấn đề quanh cuộc bầu cử. 5 thành viên được chọn từ mỗi viện của Quốc hội cùng 5 thành viên của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, với William M. Evarts là cố vấn cho Đảng Cộng hòa. Đảng chiếm đa số trong mỗi viện chỉ định 3 thành viên và đảng thiểu số có 2 thành viên. Vì đảng Cộng hòa kiểm soát Thượng viện và đảng Dân chủ kiểm soát Hạ viện, điều đó mang lại 5 thành viên cho đảng Dân chủ và 5 thành viên cho đảng Cộng hòa trong Ủy hội. Trong số các thẩm phán của Tòa án Tối cao, 2 người ủng hộ Đảng Cộng hòa và 2 người ủng hộ Đảng Dân chủ được chọn, người thứ 5 được chọn bởi 4 người này. Ban đầu, các thẩm phán đã chọn Thẩm phán trung lập David Davis . Theo một nhà sử học mô tả, "Không ai, có lẽ kể cả chính Davis, biết ông ấy thích ứng cử viên tổng thống nào hơn." Tuy nhiên, ngay thời điểm Dự luật Ủy hội Bầu cử được Quốc hội thông qua, Cơ quan Lập pháp Illinois đã bầu Davis vào Thượng viện và các đảng viên Đảng Dân chủ trong Cơ quan Lập pháp tin rằng họ đã mua được sự ủng hộ của Davis bằng cách bỏ phiếu cho ông ta và ông sẽ sớm từ bỏ chức Thượng nghị sĩ và vẫn làm Thẩm phán. Tuy nhiên, họ đã tính toán sai, khi Davis nhanh chóng xin phép rời khỏi Ủy hội và từ chức Thẩm phán để trở thành Thượng nghị sĩ. Vì tất cả các Thẩm phán còn lại đều ủng hộ Đảng Cộng hòa, nên họ đã chọn Thẩm phán Joseph P. Bradley, người được coi là thành viên công bằng nhất của tòa án. Thời gian không còn nhiều, ngày nhậm chức ngày càng gần, nên Ủy hội đã nhóm họp vào ngày 31 tháng 1. Mỗi tiểu bang đang tranh chấp (Florida, Louisiana, Oregon và Nam Carolina) lần lượt được Quốc hội đệ trình lên ủy hội. Mỗi đảng đều chọn những cố vấn nổi tiếng cho riêng mình để thuyết phục các thành viên ủy hội ủng hộ đảng mình. Trước tiên, ủy hội quyết định không đề cập đến các quận không tranh chấp từ đầu. Bradley sau đó, cùng với 7 thành viên khác ủng hộ Đảng Cộng hòa, bỏ phiếu với 8 ủng hộ Hayes và 7 ủng hộ Tilden, trao tất cả 20 phiếu đại cử tri tranh chấp (4 ở Florida, 8 ở Louisiana, 7 ở Nam Carolina và 1 ở Oregon) cho Hayes, mang lại cho Hayes chiến thắng với tỷ lệ 185–184 trong phiếu đại cử tri. Ủy hội giải tán vào ngày 2 tháng 3. Hayes tuyên thệ nhậm chức một cách riêng tư vào ngày hôm sau và vào ngày 5 tháng 3 năm 1877, Hayes nhậm chức công khai mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Thỏa hiệp 1877 có thể là một lý do để Đảng Dân chủ chấp nhận kết quả của Ủy hội Bầu cử. Trong các cuộc họp bí mật căng thẳng, giới thượng tầng của Đảng Dân chủ đã miễn cưỡng đồng ý chấp nhận Hayes làm Tổng thống để đổi lấy việc quân đội liên bang rút quân khỏi hai bang miền Nam cuối cùng vẫn còn bị chiếm đóng: Nam Carolina và Louisiana, chấm dứt Tái thiết. Đổi lại, giới thượng tầng Đảng Cộng hòa đã đồng ý trợ cấp cho nhiều công trình mà Đảng Dân chủ ủng hộ, bao gồm cả trợ cấp liên bang cho một tuyến đường sắt xuyên lục địa đi qua miền Nam. Mặc dù một số lời hứa đã không được thực hiện, đặc biệt là về vấn đề đường sắt, nhưng đó là quá đủ để chấm dứt cuộc khủng hoảng. Việc ủy hội trao Nam Carolina cho Hayes làm ông giành chiến thắng ở đây với cách biệt chỉ 889 phiếu bầu, cách biệt phiếu phổ thông sít sao thứ hai ở một bang mang tính quyết định cho cuộc bầu cử trong lịch sử Hoa Kỳ, sau cuộc bầu cử năm 2000, được quyết định bởi 537 phiếu bầu ở Florida. Tuy nhiên, năm 2000, cách biệt trong phiếu Đại cử tri mà George W. Bush thắng là 5 phiếu bầu, khác với 1 trong trường hợp của Hayes. Sau thất bại của mình, Tilden nói, "Tôi có thể lui về cuộc sống cá nhân với ý thức rằng tôi đã nhận được sự tín nhiệm từ hậu thế vì đã được bầu vào vị trí cao nhất [Tổng thống] bởi nhân dân [đề cập đến việc Tilden thắng phiếu phổ thông], mà không cần quan tâm hay có bất kỳ trách nhiệm nào với văn phòng ấy [đề cập đến việc Tilden thua phiếu Đại cử tri, nên chưa bao giờ trở thành Tổng thống]." Quốc hội cuối cùng sẽ ban hành Đạo luật Kiểm phiếu Đại cử tri vào năm 1887 để bổ sung các quy tắc chi tiết hơn cho việc kiểm phiếu đại cử tri, đặc biệt là trong trường hợp các đại cử tri một bang bầu cho nhiều người. Kết quả Theo phán quyết của ủy hội, trong số 2.249 quận, Tilden thắng 1.301 (57,9%) và Hayes chỉ thắng 947 (42,1%). Một quận (<0,1%) ở Nevada chia đều giữa Tilden và Hayes. Liên danh của Đảng Đồng bạc xanh không có tác động lớn đến kết quả của cuộc bầu cử do chỉ thu hút dưới 1% số phiếu phổ thông, dù vậy, Cooper là ứng cử viên tổng thống của đảng thứ ba có kết quả tốt nhất kể từ John Bell vào năm 1860. Cuộc bầu cử năm 1876 là cuộc bầu cử cuối cùng được tổ chức trước khi Kỷ nguyên Tái thiết, nhằm bảo vệ quyền của người Mỹ gốc Phi thường ủng hộ Đảng Cộng hòa ở miền Nam, chấm dứt. Không một bang nô lệ nào trước Nội chiến được thắng bởi một đảng viên Cộng hòa cho đến năm 1896, khi William McKinley thắng Delaware, Maryland, West Virginia và Kentucky. Không có ứng cử viên tổng thống nào của Đảng Cộng hòa cho đến Warren G. Harding vào năm 1920 sẽ thắng bất kỳ bang nào đã từng ly khai và gia nhập Liên minh miền Nam. Năm đó, Harding thắng Tennessee, nơi chưa từng bị quân đội liên bang chiếm đóng và đã được "tái thiết" hoàn toàn trước cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên trong Kỷ nguyên Tái thiết (1868). Không có bang miền Nam nào từng trải qua thời gian dài bị quân đội liên bang chiếm đóng được thắng bởi một đảng viên Cộng hòa cho đến Herbert Hoover vào năm 1928, khi ông thắng Texas, Florida, North Carolina và Virginia, và do đó, đây là cuộc bầu cử cuối cùng mà ứng cử viên đảng Cộng hòa giành được Louisiana cho đến năm 1956, khi Dwight D. Eisenhower giành chiến thắng tại đây, và cũng là lần cuối cùng ứng cử viên Đảng Cộng hòa giành được Nam Carolina cho đến năm 1964, khi Barry Goldwater giành được. Lần tiếp theo hai bang đó bỏ phiếu chống Đảng Dân chủ là lần họ ủng hộ ứng cử viên của "Dixiecrat " Strom Thurmond vào năm 1948. Mặc dù năm 1876 đánh dấu cuộc bầu cử hai đảng cạnh tranh cuối cùng ở miền Nam trước khi Đảng Dân chủ thống trị nơi đây cho đến năm 1948 và là lần cạnh tranh tại các bang vùng biên cuối cho đến năm 1896, ngoài ra, đây cũng là cuộc bầu cử tổng thống cuối cùng (tính đến năm 2020) mà Đảng Dân chủ giành chiến thắng tại các quận ủng hộ Liên bang thời Nội chiến sau: Quận Mitchell, Bắc Carolina; Quận Wayne, Tennessee; Quận Henderson, Tennessee và Quận Lewis, Kentucky. Hayes cũng là tổng thống duy nhất của Đảng Cộng hòa từng đắc cử mà không thắng được Indiana, và là người đầu tiên giành chiến thắng mà không thắng New York và Connecticut. Kết quả theo địa lý Kết quả theo bản đồ Kết quả theo bang Nguồn: Dữ liệu từ Walter Dean Burnham, Presidential ballots, 1836–1892 (Johns Hopkins University Press, 1955) pp 247–57. Bang sít sao Các bang có cách biệt chiến thắng dưới 1% (7 phiếu đại cử tri) South Carolina, 0.5% (889 phiếu) Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 1% và 5% (164 phiếu đại cử tri): Ohio, 1.% (7,516 phiếu) Indiana, 1.3% (5,515 phiếu) California, 1.8% (2,798 phiếu) Florida, 2.0% (922 phiếu) Pennsylvania, 2.4% (17,980 phiếu) Connecticut, 2.4% (2,894 phiếu) Wisconsin, 2.4% (6,141 phiếu) New York, 3.2% (32,742 phiếu) Louisiana, 3.3% (4,807 phiếu) Oregon, 3.5% (1,057 phiếu) Illinois, 3.5% (19,621 phiếu) New Hampshire, 3.8% (3,030 phiếu) Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 5% và 10% (33 phiếu đại cử tri): Nevada, 5.5% (1,075 phiếu) New Jersey, 5.7% (12,445 phiếu) North Carolina, 7.2% (16,943 phiếu) Michigan, 7.9% (25,216 phiếu) Trong văn hóa Cuộc bầu cử tổng thống năm 1876 là chủ đề chính trong tiểu thuyết 1876 của Gore Vidal. Xem thêm Rutherford B. Hayes Samuel J. Tilden Đảng Cộng hòa Đảng Dân chủ Kỷ nguyên Tái thiết Thỏa hiệp 1877 Tham khảo Nguồn Appleton's Annual Cyclopedia ...for 1876 (1885), comprehensive world coverage John Bigelow, Author, Edited by, Nikki Oldaker, The Life of Samuel J. Tilden. (2009 Revised edition-retype-set-new photos). 444 pages, original 1895 edition Holt, Michael F. By One Vote: The Disputed Presidential Election of 1876. (2008). 304 pages, Foley, Edward. 2016. Ballot Battles: The History of Disputed Elections in the United States. Oxford University Press. Huntzicker, William E. "Thomas Nast, Harper’s Weekly, and the Election of 1876." in After The War (Routledge, 2017) pp. 53–68. , popular account Summers, Mark Wahlgren.The Press Gang: Newspapers and Politics, 1865–1878 (1994) Summers, Mark Wahlgren. The Era of Good Stealings (1993), covers corruption 1868–1877 Richard White, "Corporations, Corruption, and the Modern Lobby: A Gilded Age Story of the West and the South in Washington, D.C." Southern Spaces, April 16, 2009 Nguồn chính Chester, Edward W A guide to political platforms (1977) online Porter, Kirk H. and Donald Bruce Johnson, eds. National party platforms, 1840–1964 (1965) online 1840–1956 Liên kết ngoài Hayes Presidential Library with essays by historians Presidential Election of 1876: A Resource Guide from the Library of Congress Rutherford B. Hayes On The Election of 1876: Original Letter Shapell Manuscript Foundation 1876 popular vote by counties Hayes vs. Tilden: The Electoral College Controversy of 1876–1877 Election of 1876 in Counting the Votes Rutherford B. Hayes Nhiệm kỳ tổng thống Rutherford B. Hayes Thời kỳ tái thiết
19821584
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20Uijeongbu
Giáo phận Uijeongbu
Giáo phận Uijeongbu (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Hàn Quốc. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Seoul. Địa giới Địa giới giáo phận bao gồm các thành phố Goyang, Guri, Namyangju, Dongducheon, Yangju, Uijeongbu, Paju, và huyện Yeoncheon thuộc tỉnh Gyeonggi ở Hàn Quốc. Nhà thờ chính tòa của giáo phận là Nhà thờ chính tòa Trái Tim Cực Sạch Đức Mẹ ở thành phố Uijeongbu, cũng là nơi đặt tòa giám mục của giáo phận. Giáo phận được chia thành 81 giáo xứ. Lịch sử Giáo phận được thành lập vào ngày 24/6/2004 theo tông sắc Animarum saluti của Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trên phần lãnh thổ tách ra từ Tổng giáo phận Seoul. Giám mục quản nhiệm Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ. Giuse Lee Han-taek, S.J. (5/7/2004 - 26/2/2010 về hưu) Phêrô Lee Ki-heon, từ 26/2/2010 Thống kê Đến năm 2020, giáo phận có 315.620 giáo dân trên dân số tổng cộng 3.110.370, chiếm 10,1%. |- | 2004 || 161.872 || 2.311.858 || 7,0 || 67 || 67 || || 2.416 || || || 60 || 51 |- | 2005 || 156.770 || 2.337.729 || 6,7 || 121 || 121 || || 1.295 || || 1 || 60 || 55 |- | 2010 || 235.504 || 2.644.000 || 8,9 || 155 || 146 || 9 || 1.519 || || 27 || 190 || 66 |- | 2014 || 278.836 || 2.956.276 || 9,4 || 177 || 166 || 11 || 1.575 || || 32 || 220 || 74 |- | 2017 || 297.502 || 3.114.536 || 9,6 || 186 || 170 || 16 || 1.599 || || 34 || 243 || 78 |- | 2020 || 315.620 || 3.110.370 || 10,1 || 202 || 183 || 19 || 1.562 || || 41 || 263 || 81 |} Tài liệu Liên kết ngoài Số liệu Annuario pontificio năm 2021 tại Trang mạng của giáo phận trên www.gcatholic.org Trang mạng của giáo phận trên trang mạng của Hội đồng Giám mục Triều Tiên Đề mục của giáo phận trên trang ucanews Uijeongbu
19821586
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20Daejeon
Giáo phận Daejeon
Giáo phận Daejeon (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Hàn Quốc. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Seoul. Lãnh đạo đương nhiệm của giáo phận là Giám mục Augustinô Kim Jong-soo. Địa giới Địa giới giáo phận bao gồm đô thị Daejeon và tỉnh Chungcheong Nam ở Hàn Quốc. Nhà thờ chính tòa của giáo phận là Nhà thờ chính tòa Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu ở thành phố Uijeongbu, cũng là nơi đặt tòa giám mục của giáo phận. Giáo phận được chia thành 143 giáo xứ. Lịch sử Hạt Đại diện Tông tòa Daejeon được thành lập vào ngày 23/6/1958 theo tông sắc Sacro suadente của Giáo hoàng Piô XII, trên phần lãnh thổ tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Seoul (hiện là Tổng giáo phận Seoul). Vào ngày 10/3/1962 Hạt Đại diện Tông tòa được nâng cấp thành một giáo phận theo tông sắc Fertile Evangelii semen của Giáo hoàng Gioan XXIII. Nel 2014 Giáo hoàng Phanxicô đã đến thăm giáo phận khi tham dự Ngày hội Giới trẻ Á châu lần thứ VI. Giám mục quản nhiệm Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ. Andrien-Jean Larribeau, M.E.P. † (4/7/1958 - 6/11/1963 từ nhiệm) Phêrô Hoang Min Syeng † (22/3/1965 - 13/2/1984 qua đời) Giuse Kyeong Kap-ryong † (2/7/1984 - 1/4/2005 về hưu) Ladarô You Heung-sik (1/4/2005 thừa kế chức vụ - 11/6/2021 được bổ nhiệm làm Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ) Augustinô Kim Jong-soo, từ 26/3/2022 Thống kê Đến năm 2021, giáo phận có 335.972 giáo dân trên dân số tổng cộng 3.934.539, chiếm 8,5%. |- | 1970 || 60.558 || 2.782.359 || 2,2 || 102 || 48 || 54 || 593 || || 57 || 115 || 32 |- | 1980 || 71.176 || 2.892.762 || 2,5 || 65 || 62 || 3 || 1.095 || || 18 || 180 || 47 |- | 1990 || 115.866 || 3.054.479 || 3,8 || 92 || 89 || 3 || 1.259 || || 13 || 298 || 70 |- | 1999 || 184.212 || 3.264.992 || 5,6 || 157 || 149 || 8 || 1.173 || || 18 || 420 || 84 |- | 2000 || 183.919 || 3.294.530 || 5,6 || 167 || 156 || 11 || 1.101 || || 23 || 436 || 89 |- | 2001 || 187.588 || 3.320.744 || 5,6 || 169 || 155 || 14 || 1.109 || || 29 || 461 || 90 |- | 2002 || 212.445 || 3.326.946 || 6,4 || 185 || 171 || 14 || 1.148 || || 30 || 416 || 93 |- | 2003 || 215.895 || 3.327.370 || 6,5 || 201 || 187 || 14 || 1.074 || || 22 || 443 || 96 |- | 2004 || 214.788 || 3.357.778 || 6,4 || 207 || 194 || 13 || 1.037 || || 20 || 519 || 102 |- | 2006 || 221.711 || 3.435.088 || 6,5 || 216 || 202 || 14 || 1.026 || || 31 || 526 || 107 |- | 2013 || 286.929 || 3.729.460 || 7,7 || 290 || 272 || 18 || 989 || || 45 || 635 || 127 |- | 2016 || 311.762 || 3.818.000 || 8,2 || 325 || 295 || 30 || 959 || || 45 || 571 || 137 |- | 2019 || 330.324 || 3.928.627 || 8,4 || 354 || 319 || 35 || 933 || || 45 || 601 || 142 |- | 2021 || 335.972 || 3.934.539 || 8,5 || 373 || 332 || 41 || 900 || || 85 || 629 || 143 |} Ghi chú Tài liệu Bolla Sacro suadente, AAS 51 (1959), p. 152 Bolla Fertile Evangelii semen, AAS 54 (1962), p. 552 Liên kết ngoài Số liệu Annuario pontificio năm 2022 tại Trang mạng chính thức của giáo phận Hồ sơ giáo phận trên trang mạng của Hội đồng Giám mục Triều Tiên Đề mục của giáo phận trên trang ucanews Daejeon Daejeon
19821597
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amanda%20Lee
Amanda Lee
Amanda Lee (sinh ) là một nữ phi công thuộc Hải quân Hoa Kỳ. Cô được tuyển chọn vào tháng 6 năm 2022 khi là nữ phi công đầu tiên trong phi đội biểu diễn máy bay tiêm kích Blue Angels. Lee ra mắt lần đầu với tư cách là phi công thử nghiệm cánh trái trên chiếc máy bay phản lực số ba vào ngày 11 tháng 3 năm 2023, tại El Centro, California. Cô dùng tín hiệu gọi là "Stalin". Đầu đời Lee sinh ra tại Mounds View, Minnesota, cô tốt nghiệp trường trung học Irondale ở Minnesota năm 2004. Cô chơi nhiều môn thể thao khi còn học trung học như: khúc côn cầu trên băng, bóng đá và bơi lội. Cô theo học tại Đại học Minnesota Duluth và tuyển vào Hải quân Hoa Kỳ. Năm 2007, cô tốt nghiệp tại Đội quân Huấn luyện Tân binh, Great Lakes, Illinois. Năm 2013, cô tốt nghiệp Đại học Old Dominion với tấm bằng cử nhân hóa sinh. Sự nghiệp Sau khi tuyển vào Hải quân Hoa Kỳ, Lee là kỹ thuật viên điện tử hàng không. Năm 2013, cô trở thành sĩ quan và được đào tạo thành phi công hải quân tại Trạm Hàng không Hải quân Pensacola ở Florida. Năm 2016, cô trở thành phi công hải quân. Sau đó cô được chỉ định đến tàu sân bay USS Harry S. Truman để hỗ trợ Chiến dịch Quyết tâm Vốn có. Trong thời gian huấn luyện cô thực hiện thành công 225 lần hạ cánh xuống tàu sân bay và 1.400 giờ bay. Cô được trao bốn Huy chương Thành tích Hải quân cùng các phần thưởng cá nhân và đơn vị khác. Blue Angels Vào tháng 7 năm 2022, Lee trở thành nữ phi công biểu diễn đầu tiên gia nhập Blue Angels. Vào tháng 9 năm 2022, cô được chọn là "Đấu sĩ" của Phi đội Tiêm kích (VFA) 106, căn cứ tại Trạm Hàng không Hải quân Oceana ở Virginia. Cô điều khiển chiếc máy bay F/A-18E và F/A-18F Super Hornet. Lee biểu diễn lần đầu khi là phi công thử nghiệm cánh trái với Blue Angels diễn ra vào ngày 11 tháng 3 năm 2023, tại El Centro, California. Cô biểu diễn trước sự chứng kiến của khoảng 100.000 khán giả tại Triển lãm hàng không MCAS Beaufort vào ngày 22 và 23 tháng 5 năm 2023. Lee được cổ vũ tại buổi biểu diễn trong cả hai ngày khi bước vào buồng lái trong chiếc máy bay số ba của cô. Hình ảnh Ghi chú Chú thích Liên kết ngoài 2023 US Navy Blue Angels Arrival for the Fort Lauderdale Air Show!
19821600
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dendrochirus%20barberi
Dendrochirus barberi
Dendrochirus barberi là một loài cá biển thuộc chi Dendrochirus trong họ Cá mù làn. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1900. Từ nguyên Từ định danh barberi được đặt theo tên của thuyền trưởng Barber, người đã tìm thấy mẫu định danh của loài cá này trong chuyến đi từ Honolulu đến Cape Horn. Phân bố và môi trường sống D. barberi là loài đặc hữu của quần đảo Hawaii và đảo Johnston. Loài này thường sống dưới các mỏm đá trong đầm phá và rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 134 m. Mô tả Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở D. barberi là 16,5 cm. Loài này có màu nâu cam hoặc nâu lục, nhiều vạch sọc đen. Các vây nhiều chấm cam. So về kiểu hình thì D. barberi gần giống nhất với Dendrochirus tuamotuensis, một loài đặc hữu của Tuamotu. D. barberi được xếp vào phức hợp loài Dendrochirus brachypterus, với số lượng vảy cá trên hàng ngang thường là 51, nhiều hơn hẳn so với 39–49 ở các loài còn lại trong phức hợp. Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 8–10; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 5; Số tia vây ngực: thường là 18. Sinh thái D. barberi ẩn mình trong các kẽ đá và hang hốc vào ban ngày. Giá trị D. barberi xuất hiện trong ngành buôn bán cá cảnh. Tham khảo B Cá Thái Bình Dương Cá Hawaii Động vật được mô tả năm 1900
19821608
https://vi.wikipedia.org/wiki/Concerto%20cho%202%20cello%20%28Vivaldi%29
Concerto cho 2 cello (Vivaldi)
Concerto cho hai cello cung sol thứ, RV 531 là một tác phẩm của nhà soạn nhạc Antonio Vivaldi. Đây là một bản concerto cho hai đàn cello, dàn nhạc dây và bè trầm liên tục trong ba chương, được cho là sáng tác vào những năm 1720. Đây là bản concerto duy nhất của Vivaldi dành cho hai đàn cello, và chúng bắt đầu một cách khác thường với phần dẫn nhập của riêng các nhạc cụ độc tấu. Bối cảnh sáng tác Vivaldi đã sử dụng cello như một nhạc cụ độc tấu trong một số sáng tác, đây là một xu hướng mới trong thời kỳ của ông. Nhà soạn nhạc đã sáng tác 27 bản concerto cho cello, dàn nhạc dây và bè trầm liên tục. Trong số các concerto dành cho cello này, RV 531 là bản duy nhất dành cho hai cello. Vivaldi đã có thể đã sáng tác bản concerto vào những năm 1720 ở Venice. Một bản thảo âm nhạc đã được tìm thấy trong Bộ sưu tập Renzo Giordano tại Thư viện Quốc gia ở Turin, nơi lưu giữ nhiều bộ sưu tập cá nhân của Vivaldi. Cấu trúc Bản concerto có cấu trúc gồm 3 chương: Allegro Adagio Allegro Chương đầu tiên không bắt đầu với dàn nhạc đánh phần ritornello thông thường, mà chỉ với hai nghệ sĩ độc tấu lao vào đánh và mô phỏng nét nhạc của nhau một cách nhanh chóng với những đoạn nhạc ngắn trổ kỹ thuật của các nghệ sĩ độc tấu. Cả hai nghệ sĩ độc tấu đều bình đẳng, lần đầu đối đáp nhau mà không có bè nào cao hơn. Karl Heller nhấn mạnh rằng "âm vực tối của hai nhạc cụ có tông trầm hoàn toàn phù hợp với biểu cảm nghiêm túc, không có chút phô trương kỹ thuật điêu luyện nào". Ông nói thêm rằng:Trong chương 2 được Vivaldi đề nhịp điệu là Adagio, hai nghệ sĩ độc tấu và nghệ sĩ cello đệm liên tục tạo thành một bộ ba, để có âm thanh dải trầm thậm chí còn vang rộng hơn. Chương cuối cùng Allegro bắt đầu với "sự đảo phách khác thường lôi cuốn" trong dàn nhạc, trước khi các nghệ sĩ độc tấu tham gia "màn nhào lộn theo nhạc". Chương này chứa một phần fugal bắt đầu bởi cello độc tấu số hai. Nhà âm nhạc học Michael Talbot đã nhấn mạnh đến "nội dung cảm xúc mãnh liệt" của bản concerto được thể hiện ngay từ đầu và cho thấy được "một nỗi buồn gần như mang tính chất tự truyện" trong chương chậm. Ông nhận định phần cuối "điên cuồng" có nhịp điệu và âm sắc giống nhau và tóm tắt lại "đây là một bản concerto nổi bật trong số hàng trăm bản mà Vivaldi đã viết." Thu âm Mã Hữu Hữu và Jonathan Manson đã thu âm bản concerto vào tháng 11 năm 2003. Tham khảo Liên kết ngoài Vivaldi: Cello Concertos Vol. 1 cmd.pl Nhạc khúc Sol thứ Sáng tác bởi Antonio Vivaldi
19821610
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ty%20Barnett
Ty Barnett
Ty Kimoni Barnett (sinh ngày 19 tháng 7 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá người Anh hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ Wolverhampton Wanderers. Sự nghiệp Ngày 15 tháng 8 năm 2023, Barnett gia hạn hợp đồng với Wolves đến mùa hè năm 2026. Tham khảo Sinh năm 2005 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Wolverhampton Wanderers F.C.
19821613
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Sungui
Ga Sungui
Ga Sungui (Tiếng Hàn: 숭의역, Hanja: 崇義驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Suin–Bundang, nằm ở Sungui-dong, Michuhol-gu, Incheon. Ban đầu nó được khai trương vào năm 1937 và bị bãi bỏ vào năm 1973, và tại thời điểm bị bãi bỏ, tên là Ga Namincheon (남인천역). Tên ga phụ của Ga Sungui là Bệnh viện Đại học Inha và gần đó có bệnh viện trực thuộc Trường Y Đại học Inha. Lịch sử 5 tháng 8 năm 1937: Bắt đầu kinh doanh với tên gọi Ga cảng Incheon (ga cấp) 1 tháng 6 năm 1948: Đổi tên ga thành Ga Suin (水仁驛) 1 tháng 7 năm 1955: Đổi tên ga thành Ga Namincheon (南仁川驛) 14 tháng 7 năm 1973: Bị hủy bỏ do ngừng tuyến Namincheon và Songdo 27 tháng 2 năm 2016: Thông báo mở lại ga Sungui do mở lại tuyến Suin giữa Songdo ~ Incheon 29 tháng 5 năm 2020: Sửa đổi điểm đầu và khoảng cách theo sửa đổi của bảng khoảng cách đường sắt. 12 tháng 9 năm 2020: Kết nối trực tiếp với tuyến Bundang với việc mở đoạn Suwon ~ Oido 12 tháng 9 năm 2020: Số nhà ga được đổi thành K270 do mở Tuyến Suin–Bundang Bố trí ga Xung quanh nhà ga Bệnh viện Đại học Inha Nhà máy CJ CheilJedang Incheon 1 Yonghyeon Xlu Tower APT Yong Hyun Woo APT Trạm xe buýt liên thành phố Yonghyeon-dong (Sincheon-dong, hướng Suwon) Sân vận động bóng đá Incheon Trung tâm Hội nghị Công viên Arena Cảng Incheon Cảng vụ Incheon Bệnh viện Huyndai Ubis Đường cao tốc vành đai 2 vùng thủ đô Seoul Sungui Rotary Văn phòng quận Ongjin Tòa nhà phụ Ga kế cận Tham khảo Sungui Sungui Sungui Sungui
19821614
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sameer%20Zuberi%20%28b%C3%A1c%20s%C4%A9%29
Sameer Zuberi (bác sĩ)
Sameer Zuberi là một bác sĩ tại Bệnh viện Hoàng gia cho Trẻ em bị Bệnh ở Glasgow, Scotland, và là Chủ tịch danh dự về Thần kinh Nhi khoa (Trường Y, Nha khoa & Điều dưỡng) tại Đại học Glasgow. Ông cũng là biên tập viên của tạp chí học thuật xuất bản nửa tháng một lần European Journal of Paediatric Neurology và từng là chủ tịch của Hội Thần kinh Nhi khoa châu Âu. Ông đã nhận được Giải thưởng Đại sứ vì bệnh động kinh của Liên đoàn Quốc tế Chống Động kinh. Tham khảo Liên kết ngoài Sameer Zuberi tại Google Scholar Năm sinh thiếu (nhân vật còn sống) Nhân vật còn sống Biên tập viên tập san học thuật Giáo sư Đại học Glasgow Bác sĩ Scotland thế kỷ 21 Bác sĩ Scotland thế kỷ 20
19821615
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yevhen%20Zubeyko
Yevhen Zubeyko
Yevhen Anatoliyovych Zubeyko (; sinh ngày 30 tháng 9 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá người Ukraina thi đấu ở vị trí hậu vệ phải cho câu lạc bộ bóng đá Đức Eintracht Emseloh. Tham khảo Liên kết ngoài Player's profile on Chornomorets Odesa official website (Russian) Sinh năm 1989 Nhân vật còn sống Người Bakhmut Cầu thủ bóng đá Ukraina Hậu vệ bóng đá Cầu thủ bóng đá FC Chornomorets Odesa Cầu thủ bóng đá FC Chornomorets-2 Odesa Cầu thủ bóng đá FC Tosno Cầu thủ bóng đá FC Metalist Kharkiv Cầu thủ bóng đá FC Karpaty Lviv Cầu thủ bóng đá FC Olimpik Donetsk Cầu thủ bóng đá FC Minsk Cầu thủ bóng đá FC Viktoriya Mykolaivka Cầu thủ bóng đá FC Alians Lypova Dolyna Cầu thủ Giải bóng đá Ngoại hạng Ukraina Cầu thủ Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Ukraina Cầu thủ Giải bóng đá hạng nhì quốc gia Ukraina Cầu thủ Giải bóng đá Ngoại hạng Belarus Cầu thủ Giải Bóng đá Ngoại hạng Nga Cầu thủ bóng đá Ukraina ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Nga Vận động viên Ukraina ở Nga trong Chiến tranh Nga-Ukraina Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Belarus Vận động viên Ukraina ở Belarus Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Đức Vận động viên Ukraina ở Đức Cầu thủ bóng đá tỉnh Donetsk (tỉnh)
19821618
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%BAc%20t%C3%BD%20th%E1%BA%ADp%20nh%E1%BA%A5t%20m%E1%BA%A1ch%20c%E1%BB%A9u%20kinh
Túc tý thập nhất mạch cứu kinh
Túc tý thập nhất mạch cứu kinh (), tên tiếng Anh là Cauterization Canon of the Eleven Vessels of the Foot and Forearm, là một văn bản y học cổ của Trung Quốc được khai quật vào năm 1973 từ một ngôi mộ ở khu lăng mộ Mã Vương Đôi được niêm phong vào năm 168 trước Công nguyên, dưới thời nhà Hán. Văn bản này được chép tay lại bằng triện thư vào khoảng năm 215 trước Công nguyên, dưới triều đại nhà Tần, trên cùng một tấm giấy từ vải lụa với một văn bản y học khác có tên là Ngũ thập nhị bệnh phương. Túc tý thập nhất mạch cứu kinh mô tả đường đi của 11 mạch bên trong cơ thể và giải thích cách thực hiện biện pháp đốt để điều trị các bệnh liên quan đến mỗi mạch. Tham khảo Âm dương thập nhất mạch cứu kinh Ngũ thập nhị bệnh phương Tham khảo Thư mục . Văn bản y học Trung Quốc Lịch sử y học cổ đại Tài liệu y khoa
19821621
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20%C4%91%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Inha
Ga đại học Inha
Ga Đại học Inha (Tiếng Hàn: 인하대역, Hanja: 仁荷大驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Suin–Bundang, nằm ở Yonghyeon-dong, Michuhol-gu, Incheon. Ban đầu có tên là Ga Yonghyeon (용현역), đây là một sân ga tạm thời bắt đầu hoạt động vào năm 1965 và đóng cửa vào năm 1973. Vào tháng 8 năm 1969, tuyến đường sắt giữa Ga Songdo và Ga Yonghyeon bị hỏng do mưa lớn. Lịch sử 5 tháng 1 năm 1965: Bắt đầu kinh doanh với tên Ga Yonghyeon (loại ga thông thường) 14 tháng 7 năm 1973: Bị hủy bỏ do ngừng tuyến Namincheon và Songdo 27 tháng 2 năm 2016: Mở cửa trở lại với tên Ga Đại học Inha do mở tuyến Suin đoạn giữa Songdo ~ Incheonn 29 tháng 5 năm 2020: Sửa đổi điểm đầu và khoảng cách theo sửa đổi của bảng khoảng cách đường sắt. 12 tháng 9 năm 2020: Kết nối trực tiếp với tuyến Bundang với việc mở đoạn Suwon ~ Oido 12 tháng 9 năm 2020: Số nhà ga được đổi thành K269 do mở Tuyến Suin–Bundang Bố trí ga Xung quanh nhà ga Đại học Inha Nhà thi đấu Đại học Inha (Sân vận động của Đại học Inha cho giải bóng chuyền đại học) e-Pyunhansesang City Ga Đại học Inha Trại giam Incheon Văn phòng quản chế Incheon Sở cảnh sát Incheon Michuhol Chi nhánh Nhân lực Quân sự Incheon Cao đẳng kỹ thuật Inha Trường trung học trực thuộc đại học sư phạm Inha Trường trung học khoa học hàng không Jeongseok Trường trung học trực thuộc trường đại học giáo dục đại học Inha Truyền thông giao thông Gyeongin Incheon SK Skyview Inha Homeplus Học viện lái xe ô tô Ciel Công viên khu phố Yongjeon Ngân hàng KB Kookmin Chi nhánh Đại học Inha Chi nhánh Ga Đại học Namincheon Nonghyup Inha Văn phòng quận Ongjin Ga kế cận Tham khảo Đại học Inha Đại học Inha Đại học Inha Đại học Inha
19821622
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%ADn%20Trung%20T%C3%A2m%20%28%C4%90%E1%BB%8Ba%20h%E1%BA%A1t%20Qom%29
Quận Trung Tâm (Địa hạt Qom)
Quận Trung Tâm của Địa hạt Qom () thuộc tỉnh Qom, Iran. Thành phố thủ phủ là Qom. Tại cuộc Thống kê Quốc gia năm 2006, dân số được thống kê là 988,462 người trong 248,913 hộ gia đình. Cuộc khảo sát thống kê tiếp theo vào năm 2011 thống kê được 1,102,921 người trong 306,395 hộ gia đình. Tại cuộc khảo sát mới nhất vào năm 2016, quận này có 1,235,485 người cư trú trong 365,662 hộ gia đình. Chú thích và Tham khảo Địa hạt Qom Tỉnh Iran Địa lý Iran Thành phố Qom