title
stringlengths 1
250
| url
stringlengths 37
44
| text
stringlengths 1
4.81k
|
---|---|---|
Cuộc bao vây Đại sứ quán Iran
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809379
|
Sau khi Chiến dịch Nimrod kết thúc, Trung sĩ Tom Morrell được đưa vào Bệnh viện St Stephen's ở Fullham để chữa trị những vết bỏng ở chân, gây ra bởi bởi lửa khi Morrell bị mắc kẹt ở cửa sổ tầng hai. Morrell phục hồi nhanh chóng và xuất viện không lâu sau đó.
Chính phủ Iran đã gửi lời chúc mừng và cảm ơn tới chính phủ Anh vì "những sự kiên trì của lực lượng cảnh sát Anh trong vụ bắt giữ con tin phi lý tại Đại sứ quán." Iran cũng cho tưởng niệm hai con tin thiệt mạng trong sự kiện trên và tuyên bố họ là những người tử vì đạo cho Cách mạng Iran.
Sau khi Chiến dịch Nimrod kết thúc, cảnh sát bắt đầu cuộc điều tra về vụ bắt giữ, cái chết của hai con tin và năm tay súng, và cách tiến hành cuộc đột kích của đặc nhiệm SAS. Trang thiết bị cùng vũ khí của lính SAS đã được thu lại để mang đi kiểm tra và trong ngày hôm sau, những người lính tham gia vào chiến dịch đã được cảnh sát phỏng vấn rât lâu tại Hereford. Theo cảnh sát Anh, lúc đó họ nhận được báo cáo đầy tranh cãi về cái chết của hai tay súng DRFLA tại phòng viễn tín, nơi các con tin nam bị giam giữ. Những người sống sót đã khai rằng họ đã thuyết phục những tay súng này đầu hàng, và trong các đoạn phim truyền hình được phóng viên Anh ghi lại, các tay súng đã ném vũ khí ra ngoài cửa sổ và cầm một lá cờ trắng đầu hàng. Hai lính SAS liên quan tới việc bắn chết hai tay súng đã đầu hàng trong phòng viễn tín đều quả quyết rằng trước khi nổ súng, họ thấy tay của những người này đều cố với lấy vũ khí ở trong phòng. Bồi thẩm đoàn sau khi xem xét bằng chứng đã đi đến phán quyết cuối cùng rằng hành động của những người lính SAS này là chính đáng ("giết người một cách hợp pháp").
Fowzi Nejad là tay súng DRFLA duy nhất sống sót trong cuộc đột kích. Sau khi bị nhận diện, Nejad bị một lính SAS lôi đi. Người lính này có ý định đưa Nejad trở lại tòa nhà để bắn chết anh ta, và được cho là đã thay đổi suy nghĩ sau khi được một người đồng đội (Robin Horsfall) nhắc rằng họ đang được truyền hình trực tiếp. Nejad sau bị cảnh sát Anh bắt giữ và bị kết án tù chung thân. Nejad được ân xá vào năm 2005.
|
Cuộc bao vây Đại sứ quán Iran
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809379
|
Nejad được ân xá vào năm 2005.
Do là một công dân nước ngoài nên theo luật pháp thông thường, Nejad phải được trục xuất về nước ngay lập tức. Tuy vậy, Tòa án Nhân quyền Châu Âu đã cho rằng Điều 3 của Công ước Châu Âu về Nhân quyền đã ngăn cấm việc trục xuất trong trường hợp người công dân đó có khả năng bị tra tấn hoặc xử tử hình tại quê hương của họ. Nejad được thả tự do vào năm 2008 và được phép ở lại Vương quốc Anh, nhưng không được tị nạn chính trị. Bộ Nội vụ Anh đã đưa ra một tuyên bố rằng "Chúng tôi không cấp quy chế tị nạn cho những kẻ khủng bố bị kết án. Mục đích của chúng tôi là trục xuất mọi người càng nhanh càng tốt nhưng luật yêu cầu chúng tôi rằng trước tiên phải có được sự đảm bảo rằng người bị trao trả sẽ không phải đối mặt với cái chết." Dù đã ngồi tù 27 năm và không còn được coi là mối đe dọa của xã hội, nhưng Trevor Lock vẫn phản đối việc thả tự do cho Nejad và đã viết tâm thư gửi cho Bộ Nội vụ. Chính phủ Anh tin rằng Nejad chắc chắn sẽ bị xử tử nếu họ trục xuất Nejad về Iran, do đó họ đã cho Nejad ở lại Anh. Nejad hiện đang sinh sống ở phía nam Luân Đôn với một danh tính mới.
Ảnh hưởng.
Trước năm 1980, Luân Đôn từng là nơi xảy ra nhiều vụ khủng bố liên quan đến chính trị Trung Đông, trong đó có vụ ám sát ông Qadhi Abdullah al-Hajjri - cựu Thủ tướng Cộng hòa Yemen và vụ tấn công vào một chiếc xe khách chở các nhân viên của hãng hàng không El Al của Israel. Mặc dù còn có vài vụ tấn công riêng lẻ khác liên quan đến vấn đề Trung Đông và Bắc Phi trong vài năm tiếp theo sau vụ đại sứ quán Iran, nổi bật nhất là vụ sát hại nữ cảnh sát Yvonne Fletcher trong đại sứ quán Libya năm 1984, nhà sử học Jerry White tin rằng sự kiện ở đại sứ quán Iran "đã đánh dấu sự kết thúc của một sân khấu giải quyết các rắc rối ở Trung Đông kéo dài ba năm ở Luân Đôn."
Cuộc đột kích của lực lượng đặc nhiệm SAS, đã được truyền hình trực tiếp vào giờ cao điểm của tối thứ Hai của ngày lễ ngân hàng và được hàng triệu người, chủ yếu ở Vương quốc Anh, xem, khiến nó trở thành một trong những thời khắc lịch sử quan trọng nhất trong lịch sử nước Anh.
|
Cuộc bao vây Đại sứ quán Iran
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809379
|
Hai hãng thông tấn BBC và ITV đều phải hủy phát các chương trình theo lịch của họ, và BBC phải ngừng phát trực tiếp trận chung kết của Giải vô địch Bida thế giới để chiếu kết cục của cuộc đột kích. Sự kiện này cũng là đòn bẩy thăng tiến lớn cho sự nghiệp của nhiều nhà báo Anh. Kate Adie, phóng viên trực ban của BBC tại đại sứ quán khi cuộc tấn công của SAS bắt đầu, tiếp tục đưa tin về phiên tòa xét xử Nejad và sau đó đưa tin về các vùng chiến sự trên khắp thế giới và cuối cùng trở thành Trưởng Văn phòng Thông tín của BBC News. David Goldsmith và nhóm phóng viên của ông, những người chịu trách nhiệm về việc ghi lại sự kiện phía sau đại sứ quán, được trao tặng giải thưởng của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Điện ảnh và Truyền hình Anh Quốc cho hạng mục Tin tức xuất sắc nhất. Chiến dịch Nimrod được coi là "một thành công gần trong mọi mặt." Margaret Thatcher sau này kể lại rằng bà đã được những lời chúc mừng ở bất cứ nơi nào bà đến trong những ngày tiếp theo, và nhận được tin nhắn ủng hộ và chúc mừng từ các nhà lãnh đạo thế giới khác. Tuy nhiên, vụ việc đã làm căng thẳng hơn mối quan hệ vốn đã căng thẳng giữa Anh và Iran sau Cách mạng Hồi giáo ở Iran. Vài quan chức của chính phủ Iran tuyên bố rằng cuộc sự kiện đại sứ quán Iran ở Luân Đôn được giật dây bởi chính phủ Hoa Kỳ để gây áp lực với họ sau vụ Khủng hoảng con tin ở Tehran, và vinh danh những con tin bị giết là những người tử vì đạo.
Chiến dịch Nimrod đã đưa lực lượng đặc nhiệm SAS nổi tiếng thời Chiến tranh Thế giới thứ hai ra ngoài ánh sáng. Bộ tư lệnh của các trung đoàn SAS dù không hài lòng về việc "ra mắt công chúng," nhưng sự kiện này đã giúp SAS thoái khỏi kết cục bị giải tán và tránh được những tố cáo về việc sử dụng nguồn lực một cách lãng phí. Sau cuộc đột kích, số lượng đơn đăng ký vào SAS gia tăng một cách chóng mặt. Dù Trung đoàn SAS 22 chỉ nhận đăng ký từ những cá nhân đang phục vụ trong Lực lượng Vũ trang Anh, nhưng SAS vẫn còn hai trung đoàn khác là Trung đoàn SAS 21 và 23 của Lực lượng Nội địa Anh. Hai trung đoàn này đã nhận được hàng trăm đơn đăng ký, vượt xa các kết quả tuyển quân từ những năm trước đó.
|
Cuộc bao vây Đại sứ quán Iran
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809379
|
Theo Tướng de la Billière, những người nộp đơn này "tin chắc rằng họ sẽ được cấp một chiếc mũ Balaclava và một khẩu súng tiểu liên ở ngay bàn đăng ký để họ có thể tự thực hiện một cuộc đột kích vào đại sứ quán theo kiểu của riêng họ." Ngoài ra, SAS cũng nhận được nhiều lời mời hợp tác huấn luyện với các quốc gia đồng minh và những quốc gia phù hợp với lợi ích của người Anh. Chính phủ Anh sau đó đã cho phép các quốc gia nước ngoài "mượn" lực lượng SAS để hỗ trợ các vụ bao vây hoặc các vụ khủng bố, đồng thời, các quan chức chính phủ Anh cũng tin rằng mối quan hệ tốt với SAS là "mốt" trong thời gian đó. Mặc dù trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới, nhưng SAS vẫn không được quảng bá rộng rãi trong Chiến tranh Falklands năm 1982 vì họ không tiến hành nhiều chiến dịch đáng kể, và theo đó là trong Chiến tranh Vùng Vịnh 1990-1991.
Phản ứng của chính phủ Anh với vụ việc trên, cùng với quyết định sử dụng vũ lực để chấm dứt bạo lực đã củng cố uy tín của Chính phủ Bảo thủ nói chung và Thủ tướng Margaret Thatcher nói riêng. Nhiều người tin rằng kết quả của cuộc bao vây là minh chứng cho chính sách không nhượng bộ với khủng bố của chính phủ Anh và "không có nơi nào mà hiệu quả của cách phản ứng với khủng bố này được thể hiện hiệu quả hơn."
Tòa đại sứ quán Iran bị hư hại đáng kể trong cuộc đột kích ngày 5 tháng 5, phần lớn là do đám cháy gây ra. Hơn một thập kỷ sau, chính phủ Anh và Iran đi đến thỏa thuận chung, theo đó Vương quốc Anh sẽ sửa chữa lại đại sứ quán của Iran ở Luân Đôn, và Iran sẽ chịu trách nhiệm sửa chữa lại đại sứ quán của Anh ở Tehran, vốn bị phá hỏng nặng nề trong Cách mạng Hồi giáo năm 1979. Đại sứ quán Iran được mở cửa trở lại vào tháng 12 năm 1993.
Trong văn hóa đại chúng.
Sự kiện ở Đại sứ quán Iran, lực lượng SAS và Chiến dịch Nimrod đã trở thành chủ đề của nhiều bộ phim tài liệu, phim truyền hình thực tế và các tác phẩm văn học khác nhau, như bộ phim "Who Dares Wins" vào năm 1982 và "6 Days" vào năm 2017.
|
Cuộc bao vây Đại sứ quán Iran
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809379
|
Cuộc vây hãm được minh họa trong trò chơi điện tử "The Regiment" vào năm 2006, và "Tom Clancy's Rainbow Six Siege –" một trò chơi bắn súng chiến thuật tập trung vào bối cảnh chiến tranh chống khủng bố. Lực lượng SAS cũng được nhắc đến trong bộ tiểu thuyết "Rainbow Six", sau được chuyển thể thành một serie trò chơi nổi tiếng. Đại sứ quán Iran cũng thường xuyên được đề cập tới trong bộ phim truyền hình nhiều tập "Ultimate Force" (2002–2008). Ngoài ra, hãng sản xuất đồ chơi Palitoy đã cho ra mắt mô hình nhân vật (figure) mới của bộ Action Man, mặc đồ đen và đeo mặt nạ phòng độc, y hệt như những người lính SAS đã xông vào đại sứ quán của Iran vào năm 1980.
|
Etelis radiosus
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809402
|
Etelis radiosus là một loài cá biển thuộc chi "Etelis" trong họ Cá hồng. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1981.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "radiosus" trong tiếng Latinh có nghĩa là “phát ra nhiều tia”, hàm ý đề cập đến số lượng lớn lược mang trên cung mang thứ nhất (33–36) của loài cá này so với 17–28 ở các loài đồng loại.
Phân bố và môi trường sống.
"E. radiosus" có phân bố rộng rãi trên vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Réunion và Sri Lanka trải dài về phía đông đến quần đảo Caroline, quần đảo Samoa và quần đảo Société, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu, giới hạn phía nam đến Úc, Nouvelle-Calédonie và quần đảo Cook.
"E. radiosus" thường tập trung ở khu vực nhiều đá, gần các mỏm đá ở độ sâu trong khoảng 90–360 m.
Mô tả.
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "E. radiosus" lên đến 80 cm, thường bắt gặp với kích thước khoảng 50 cm. Loài này có màu đỏ toàn cơ thể, thân dưới và bụng màu đỏ nhạt hơn.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 16; Số vảy đường bên: 50–51.
Sinh thái.
Thức ăn của "E. radiosus" chủ yếu là cá nhỏ.
Thương mại.
"E. radiosus" là một thành phần của nghề đánh bắt truyền thống.
|
Lucas Buadés
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809403
|
Lucas Buadés (sinh ngày 28 tháng 12 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Rodez tại Ligue 2.
Sự nghiệp thi đấu.
Nîmes.
Buadés ra mắt chuyên nghiệp cho Nîmes Olympique, trong trận thua 1–0 tại Ligue 2 trước LB Châteauroux vào ngày 21 tháng 8 năm 2017. Ngày 3 tháng 7 năm 2019, anh ký bản hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Nîmes. Ngày 30 tháng 6 năm 2020, anh đã gia hạn hợp đồng, kéo dài thời hạn đến năm 2022.
|
Axel Guessand
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809411
|
Axel Thurel Sahuye Guessand (sinh ngày 6 tháng 11 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Udinese tại Serie A.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Nancy.
Guessand xuất thân từ là cầu thủ của lò đào tạo trẻ Nancy. Anh ra mắt chuyên nghiệp cho đội bóng vào ngày 28 tháng 8 năm 2021, trong trận thua 4–1 tại Ligue 2 trước Auxerre. Ở 16 tuổi, 9 tháng và 22 ngày, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất từng ra sân trong một trận đấu chuyên nghiệp cho Nancy.
Udinese.
Ngày 1 tháng 7 năm 2022, Guessand gia nhập câu lạc bộ Udinese tại Serie A theo một thỏa thuận kéo dài 3 năm. Ngày 5 tháng 6 năm 2023, anh ra mắt đội 1, khi đá chính trong trận thua 0–1 tại Serie A trước Juventus.
Sự nghiệp quốc tế.
Guessand là cầu thủ từng đại diện cho Pháp trên đấu trường quốc tế.
|
Gabriel Barès
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809413
|
Gabriel Barès (sinh ngày 29 tháng 8 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thụy Sĩ hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Montpellier tại Ligue 1.
Sự nghiệp thi đấu.
Lausanne-Sport.
Barès ra mắt chuyên nghiệp cho Lausanne-Sport vào ngày 20 tháng 9 năm 2020, trong chiến thắng 2–1 tại Giải hạng Hai Thụy Sĩ trước Servette.
Montpellier.
Ngày 25 tháng 1 năm 2022, Barès gia nhập câu lạc bộ Montpellier tại Ligue 1.
Cho mượn tại FC Thun.
Ngày 27 tháng 7 năm 2022, anh quay trở lại quê nhà Thụy Sĩ và gia nhập câu lạc bộ Thun theo dạng cho mượn.
|
Thông báo 16 tháng 5
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809425
|
Thông báo 16 tháng 5 () hoặc Thông tư 16 tháng 5, tên gọi chính thức là Thông tri (), là tuyên ngôn chính trị lớn đầu tiên của Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc. Nó được ban hành tại phiên họp mở rộng tháng 5 năm 1966 của Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. Vì được thông qua vào ngày 16 tháng 5 nên mọi người gọi là Thông báo 16 tháng 5. Thông báo này đã giúp chấm dứt cuộc tranh chấp chính trị trong nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt nguồn từ vở kinh kịch "Hải Thụy bãi quan" bằng cách giải tán cấp cao nhất của bộ máy văn hóa của đảng và khuyến khích phong trào chính trị quần chúng chống lại phái hữu trong đảng. Kết quả đây được coi là một chiến thắng chính trị về tay Mao Trạch Đông. Giới sử học Trung Quốc đã coi ngày thông qua thông báo ngày 16 tháng 5 năm 1966 là ngày mở đầu Cách mạng Văn hóa.
Bối cảnh.
Bắt đầu từ năm 1965 và đến mùa xuân năm 1966, một cuộc tranh chấp chính trị nảy sinh bên trong Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa liên quan đến vở kinh kịch "Hải Thụy bãi quan". Vở kịch mô tả một vị quan thanh liêm dưới thời Minh tên là Hải Thụy đã đảo ngược các bản án đất đai bất công thay cho những người nông dân được miêu tả một cách thụ động và tôn vinh ông ấy là vị cứu tinh của họ. Giới phê bình bắt đầu giải thích vở kịch này ám chỉ sự chỉ trích của Nguyên soái Bành Đức Hoài đối với Mao Trạch Đông cũng như chính sách nông dân trong Đại nhảy vọt tại Hội nghị Lư Sơn, khiến Bành Đức Hoài bị thanh trừng về mặt chính trị. Người Trung Quốc am hiểu về chính trị đã biết là Hải Thụy ám chỉ Bành Đức Hoài, Hoàng đế nhà Minh đại diện Mao Chủ tịch, và các bản án đất đai bất công đại diện cho các chính sách Đại nhảy vọt.
Nhà phê bình văn học Diêu Văn Nguyên đã bắt đầu một cuộc tranh luận học thuật và chính trị về vở kịch "Hải Thụy bãi quan" khi ông viết một bài báo chỉ trích nó theo lời đề nghị từ các đồng minh thân cận của Mao là Giang Thanh và Trương Xuân Kiều.
|
Thông báo 16 tháng 5
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809425
|
Đặc biệt, bài báo của Diêu lập luận rằng tác giả của vở kịch là Ngô Hàm đã bóp méo ghi chép lịch sử và khía cạnh đảo ngược các bản án đất đai bất công hòng tạo ra tâm điểm cho "phe đối lập tư bản" muốn "phá bỏ công xã nhân dân và khôi phục thể chế tội phạm của bọn địa chủ và phú nông".
Thị trưởng Bắc Kinh và Ủy viên Bộ Chính trị Bành Chân đã cố gắng bảo vệ tác giả của vở kịch, cũng là cấp dưới của mình là Phó Thị trưởng Bắc Kinh Ngô Hàm, bằng cách ngăn cản việc tái bản bài phê bình của Diêu Văn Nguyên. Khi sự can thiệp của Thủ tướng Chu Ân Lai có nghĩa là việc ngăn chặn việc xuất bản vở kịch không còn khả thi về mặt chính trị, Bành Chân đã sử dụng vai trò lãnh đạo của mình trong bộ máy văn hóa của đảng thông qua Tổ 5 người nhằm hạn chế chi tiết cuộc tranh luận về vở kịch rồi kiểm duyệt bất kỳ lập luận nào mang ý nghĩa chính trị đương đại. Theo chỉ đạo của ông, Tổ 5 người đã soạn thảo quy định kỷ luật chính thức ("Đề cương Báo cáo về cuộc Thảo luận Học tập Hiện nay" còn gọi là "Đề cương Tháng Hai") nhằm hạn chế những chi tiết trong cuộc tranh luận và do đó ngăn chặn các bài báo tiếp theo hòng so sánh vở kịch này với các vấn đề chính trị đương thời. Đề cương tháng Hai đã công khai đe dọa kỷ luật "phái tả cố chấp", thúc giục họ ghi nhớ "hành vi lâu dài" của mình".
Mao phản đối Đề cương tháng Hai, mô tả "[những] kẻ ngăn cản việc xuất bản các bài tiểu luận phái tả" là "học phiệt". Hàng loạt cuộc họp cấp cao nhất của đảng từ giữa tháng 3 đến giữa tháng 5 năm 1966 hòng giải quyết tranh cãi sau Đề cương tháng Hai và phản ứng của Mao Trạch Đông đối với đề cương này. Vào cuối tháng 4 năm 1966, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định thu hồi Đề cương tháng Hai, giải tán Tổ 5 người, bãi bỏ Thành ủy Bắc Kinh do Bành Chân lãnh đạo, và không chấp nhận việc ông xử lý cuộc luận chiến về vở kịch "Hải Thụy bãi quan".
Thông báo 16 tháng 5.
Thông báo 16 tháng 5 đã chính thức hóa các quyết định đạt được vào cuối tháng 4.
|
Thông báo 16 tháng 5
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809425
|
Đây là tuyên bố chính trị lớn đầu tiên của Cách mạng Văn hóa và tóm lược những lời biện minh của Mao dành cho Cách mạng Văn hóa.
Khi hủy bỏ Đề cương tháng Hai và giải tán Tổ 5 người, Thông báo 16 tháng 5 đã loại bỏ cấp cao nhất của bộ máy văn hóa của đảng và đảo ngược âm mưu chính trị cuối cùng của nó. Thông báo này thảo luận chi tiết về những sai lầm chính trị của Bành Chân, nói rằng ông đã bảo vệ Ngô Hàm và ngăn chặn những lời chỉ trích chính trị về "Hải Thụy bãi quan" và do đó che khuất cuộc đấu tranh giai cấp. Thông báo 16 tháng 5 viết rằng thay vì vận động toàn đảng và quần chúng nhân dân, Đề cương tháng Hai "làm hết sức mình để lãnh đạo phong trào theo hướng hữu khuynh" Bản Đề cương tháng Hai đã sử dụng "một ngôn ngữ lộn xộn, mâu thuẫn và đạo đức giả... gây hoang mang... cho cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt đang diễn ra trong nền văn hóa và ý thức hệ". Thông báo cũng chỉ trích việc Bành Chân đề cao tiêu chuẩn giai cấp tư sản là sáng tạo nghệ thuật vì nghệ thuật hơn là nghệ thuật phục vụ chính trị. "Mục tiêu của cuộc đấu tranh vĩ đại này là phê phán và bác bỏ Ngô Hàm và nhiều đại biểu khác của giai cấp tư sản chống Đảng và chống chủ nghĩa Xã hội[.]"
Thông báo 16 tháng 5 cũng chỉ trích mơ hồ phái hữu không xác định trong đảng "đang ngủ bên cạnh chúng ta", so sánh họ với Nikita Khruschev. Ngoài việc lên án Bành Chân, đoạn này của Thông báo có nội dung như sau:
Điều này ngụ ý rằng có những kẻ thù của chính chủ nghĩa Cộng sản trong Đảng: những kẻ thù giai cấp "vẫy cờ đỏ để chống lại cờ đỏ". Mặc dù tương đối ít chi tiết về cuộc họp nơi Thông báo 16 tháng 5 được đưa ra, nhưng đoạn văn này đã gây ấn tượng đặc biệt lớn đối với các đồng minh thân cận nhất của Mao. Lâm Bưu nhận thấy tuyên bố này "cực kỳ đáng lo ngại". Trương Xuân Kiều nói rằng vào thời điểm đó ông không biết điều này ám chỉ ai.
|
Thông báo 16 tháng 5
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809425
|
Lưu Thiếu Kỳ lúc đó là người chủ trì Hội nghị, đã không hề biết rằng "những nhân vật Khruschev đang ngủ bên cạnh chúng ta" mà trong Thông báo 16 tháng 5 nói tới ấy chính là ám chỉ đến ông.
Quá trình soạn thảo.
Thông báo 16 tháng 5 ban đầu do Trần Bá Đạt soạn thảo và mang sang cho Mao chỉnh sửa toàn bộ, bao gồm cả việc bổ sung đoạn liên quan đến phái hữu "ngủ bên cạnh chúng ta" như Khruschev. Mao cũng đã viết câu nói rõ: "Mục tiêu của cuộc đấu tranh vĩ đại này là phê phán và bác bỏ Ngô Hàm và nhiều đại diện khác của giai cấp tư sản chống Đảng và chống chủ nghĩa Xã hội[.]" Mao đã cố tình chọn một cái tên nói giảm nói tránh cho văn kiện này. Do Thông báo 16 tháng 5 gọi là "Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản" nên từ đó cụm từ "Đại Cách mạng Văn hóa Xã hội chủ nghĩa" cũng biến mất trên tất cả các báo chí.
Giải thích và hậu quả.
Ngay sau Thông báo 16 tháng 5, Lâm Bưu đã có một bài phát biểu trong đó bày tỏ quan điểm của mình rằng Thông báo 16 tháng 5 nhằm "ngăn chặn âm mưu phản cách mạng" và thiết lập uy quyền tuyệt đối của "tư tưởng Mao Trạch Đông". Viện sĩ Alessandro Russo đã giải thích bài phát biểu của Lâm Bưu được thúc đẩy từ sự bất ổn về mặt thể chế do Mao cảnh báo về phe cánh hữu bí mật trong đảng, những người "như Khruschev" và rằng Lâm Bưu đang dựa vào quyền lực cá nhân của Mao để bù đắp cho sự bất ổn về mặt thể chế.
Trong một bức thư tháng 7 năm 1966 gửi cho Giang Thanh chỉ được lưu hành công khai sau khi Lâm Bưu qua đời, Mao mô tả bài phát biểu của Lâm chứa đựng những ý tưởng "vô cùng đáng lo ngại". Việc Mao nhấn mạnh vào "cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại" không ám chỉ nguy cơ đảo chính, mà là "sự phục hồi hòa bình" của chủ nghĩa tư bản. Mao viết: "Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng những cuốn sách nhỏ mà tôi đã viết lại có sức mạnh kỳ diệu như vậy. Bây giờ ông ấy đã thổi phồng chúng lên, cả nước sẽ làm theo.
|
Thông báo 16 tháng 5
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809425
|
Nó có vẻ giống hệt cảnh bà vợ Vương thị bán bí ngô khoe khoang về chất lượng hàng hóa của mình vậy". "Họ tâng bốc tôi bằng cách tung hô tôi như những vì sao, [nhưng] mọi thứ lại đi ngược lại với họ: càng lên cao, anh ta càng ngã nặng nề. Tôi sẵn sàng ngã xuống tan xương nát thịt. Điều đó không quan trọng; cốt yếu không để bị tiêu diệt mà chỉ tan thành từng mảnh thôi". Mao đồng ý cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng lưu hành bài phát biểu của Lâm Bưu như một tài liệu chính thức và nhận xét trong bức thư tháng 7 năm 1966 của ông, "Đây là lần đầu tiên trong đời tôi, về một điểm quan trọng, tôi đã nhường bước cho người khác chống lại phán đoán tốt hơn của tôi; chúng ta hãy nói độc lập với ý chí của tôi". Việc Mao đồng ý cho lưu hành bài phát biểu của Lâm cuối cùng sẽ giúp dẫn đến cuộc chiến chính trị năm 1970-1971 chống lại Lâm Bưu của ông.
Sau khi Bành Chân và các đồng minh của ông bị lật đổ, Trần Bá Đạt và Giang Thanh liền trở thành thành viên cốt cán của Tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương mới lập nên.
|
Hải Thụy bãi quan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809426
|
Hải Thụy bãi quan () là vở kinh kịch nổi tiếng trong nền chính trị Trung Quốc đương đại vì đã mở đầu cuộc Cách mạng Văn hóa. Bản thân vở kịch tập trung vào vị đại thần thời Minh tên là Hải Thụy được miêu tả đã có công cứu giúp những người nông dân thụ động thắng kiện các vụ tịch thu đất đai bất công. Vở kịch này về sau trở thành tâm điểm tranh cãi về học thuật và chính trị vì nó có liên quan đến các cuộc tranh luận trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, bao gồm cả tại Hội nghị Lư Sơn, về vai trò chính trị của nông dân trong tương lai trước những thất bại của Đại nhảy vọt.
Bối cảnh.
Người soạn nên vở kịch này tên gọi Ngô Hàm vốn là một nhà sử học và chính trị gia chuyên viết về thời nhà Minh. Ông còn đồng thời giữ chức Phó Thị trưởng Bắc Kinh. Năm 1959, ông bắt đầu quan tâm đến cuộc đời của Hải Thụy, vị quan tham liêm thời Minh từng bị bỏ tù vì dám lên tiếng chỉ trích Hoàng đế Gia Tĩnh. Ngô Hàm đã viết một số bài báo về cuộc đời của vị quan này mà theo Mao Trạch Đông thì lời phê bình Hoàng đế của Hải Thụy tỏ ra "rất gay gắt và không có bất kỳ lời khen ngợi nào cả". Sau đó, ông có viết một vở kinh kịch mang tên "Hải Thụy bãi quan", mà ông đã sửa lại nhiều lần trước khi hoàn thành kịch bản cuối cùng vào năm 1961. Vở kịch được dàn dựng lần đầu tiên vào đầu năm 1962. Ngô Hàm không phải là người sành sỏi về kinh kịch và hiếm khi đi xem kịch, sự thật mà ông từng lưu ý trong lời tựa cho vở kịch của mình. Học giả Alessandro Russo viết rằng sự tham gia soạn kịch hiếm hoi của Ngô Hàm có thể là do trong thập niên 1950 và đầu những năm 1960, người dân Trung Quốc có văn hóa không coi đó là một "cảnh tượng đáng khen ngợi" mà lại khá phù hợp cho việc thưởng thức kiểu bình dân. "Có lẽ cũng vì lý do này mà bộ máy văn hóa trung ương của nhà nước đã sử dụng kinh kịch để phổ biến kiến thức lịch sử."
Vở kịch này là một bi kịch kể về viên quan trung thực mang những lời phàn nàn của người dân đến hoàng đế với cái giá phải trả là sự nghiệp thăng quan tiến chức của mình.
|
Hải Thụy bãi quan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809426
|
Tác phẩm miêu tả Hải Thụy là viên phán quan oai phong lẫm liệt đòi được diện kiến hoàng đế. Sau đó, ông trực tiếp chỉ trích Hoàng đế vì đã dung túng cho nạn tham nhũng và thói quen lạm dụng của những quan chức khác trong triều đình. Hoàng đế cảm thấy bị lời chỉ trích của Hải Thụy xúc phạm nên đã cách chức ông. Ông chỉ được phục chức sau khi hoàng đế băng hà. Những người nông dân được miêu tả là nạn nhân thụ động và vô tội đang chờ đợi một vị cứu tinh, thế rồi họ đã chào mừng Hải Thụy.
Ngô Hàm liền đem xuất bản vở kịch này dưới bút danh Lưu Mẫn Chi, tên của một học giả thời Tống và là người hết lòng ủng hộ danh tướng Nhạc Phi. Vở kịch đã đạt được thành công rực rỡ. Do bầu không khí chính trị thay đổi nên về sau vở kịch này đã bị chỉ trích nặng nề.
Hậu quả.
Ngô Hàm trở thành một trong những nạn nhân đầu tiên của Cách mạng Văn hóa và chết trong tù năm 1969. Sau khi ông bị đánh đổ, những kẻ sùng bái tư tưởng Mao Trạch Đông cực đoan đã nhanh chóng thanh trừng "phái hữu" khác khỏi các cơ quan văn hóa của Trung Quốc, và sân khấu kịch trở thành công cụ để Bè lũ Bốn tên công kích kẻ thù chính trị của họ. Ngô Hàm chỉ được phục hồi sau khi chết vào năm 1979, ngay sau khi Mao Chủ tịch qua đời.
Vào thời điểm đó, trên cương vị là thành viên cấp cao thứ năm của Bộ Chính trị, Bành Chân là mục tiêu nổi bật đầu tiên của Cách mạng Văn hóa. Việc loại bỏ Bành Chân và những người khác như Lục Định Nhất và Chu Dương khỏi vị trí của họ đã giúp củng cố liên minh của Mao Trạch Đông và khuyến khích ông ta tấn công chủ nghĩa xét lại trong đảng. Bành Chân và phe ủng hộ ông trong Thành ủy Bắc Kinh và chính quyền thủ đô Bắc Kinh đã bị Lý Tuyết Phong và những cán bộ theo chủ nghĩa Mao khác thay thế. Học giả Frederick Teiwes lập luận rằng khi cuộc tranh cãi liên quan đến "Hải Thụy bãi quan" diễn ra, Mao đã âm mưu chống lại đối thủ của mình là Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ trong nhiều tháng liền.
|
Hải Thụy bãi quan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809426
|
Teiwes viết rằng vì Bành Chân là người ủng hộ Lưu Thiếu Kỳ lâu năm, Mao có thể làm suy yếu Lưu bằng cách tấn công Bành Chân thông qua cấp dưới của ông ta là Ngô Hàm.
Dù cho những câu chuyện kể của người Trung Quốc thời hiện đại thường tập trung vào quyền lãnh đạo cá nhân của Mao Trạch Đông trong suốt quá trình tranh chấp, nhưng trong giai đoạn đầu của cuộc tranh cãi và không đủ sức ngăn chặn việc ban hành "Đề cương tháng Hai" chứng tỏ rằng Mao Chủ tịch phải đối mặt với sự phản kháng chính trị công khai và hiệu quả ngay trong nội bộ đảng.
Liên quan.
Đề tài này cũng là đối tượng của một vở kịch do Chu Tín Phương cùng Hứa Tư Ngôn () biên soạn mang tên "Hải Thụy thượng sớ" (海瑞上疏), và vở kịch được Đoàn Kinh kịch Thượng Hải biểu diễn năm 1959. Chu Tín Phương cũng bị bắt và bị bức hại trong Cách mạng Văn hóa rồi về sau qua đời vào năm 1975.
|
Đại hội phê đấu
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809427
|
Đại hội phê đấu (; Hán-Việt: "Phê đấu đại hội") là những màn phê phán và đấu tố theo kiểu bạo lực ở Trung Quốc thời đại Mao Trạch Đông nhằm đưa những đối tượng bị gắn cái mác "kẻ thù giai cấp" để người thân của mình làm nhục, tố cáo, đánh đập và tra tấn công khai. Thường được tiến hành tại nơi làm việc, lớp học và khán phòng, "học sinh đọ sức với giáo viên, bạn bè và vợ/chồng bị áp lực phải phản bội lẫn nhau, [và] trẻ em bị lôi kéo để vạch mặt cha mẹ chúng". Dàn cảnh, đóng kịch và những kẻ kích động do chính đám hồng vệ binh sắp đặt trước hòng khuyến khích sự ủng hộ của đám đông. Mục đích là truyền bá tinh thần vận động kịch liệt trong đám đông dân chúng nhằm thúc đẩy cải cách tư tưởng Mao Trạch Đông. Những cuộc mít tinh này diễn ra phổ biến nhất trong các phong trào quần chúng nhân dân ngay trước và sau khi thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa.
Việc tố cáo những kẻ thù giai cấp nổi bật thường được tiến hành tại các quảng trường công cộng và được đánh dấu bằng đám đông người vây quanh nạn nhân đang quỳ gối, giơ nắm đấm và hét lên tố cáo những hành vi sai trái. Đại hội phê đấu phát triển từ những tư tưởng phê bình và tự phê bình tương tự ở Liên Xô từ thập niên 1920. Lúc đầu, đảng viên cộng sản Trung Quốc đã phản đối điều này, vì những buổi phê đấu mâu thuẫn với khái niệm 'giữ thể diện' của người Trung Quốc. Tuy vậy hình thức đấu tranh này đã trở nên phổ biến tại các cuộc họp của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thập niên 1930 do sự hưởng ứng trong công chúng.
|
Nghiên cứu về giới
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809442
|
Nghiên cứu về giới (tiếng Anh: "Gender studies") là một lĩnh vực học thuật liên ngành liên quan đến việc phân tích bản dạng giới và đại diện giới tính. Nghiên cứu về giới bắt nguồn từ lĩnh vực nghiên cứu phụ nữ, liên quan đến phụ nữ, chủ nghĩa nữ quyền, giới tính xã hội và chính trị. Lĩnh vực này hiện đang trùng lặp với nghiên cứu queer và nghiên cứu nam giới. Sự phát triển của nó, đặc biệt là ở các trường đại học phương Tây sau năm 1990, trùng với sự phát triển của giải cấu trúc.
Các ngành thường đóng góp cho nghiên cứu về giới bao gồm: văn học, ngôn ngữ học, địa lý nhân văn, lịch sử, chính trị học, khảo cổ học, kinh tế học, xã hội học, tâm lý học, nhân loại học, lý thuyết điện ảnh, âm nhạc học, truyền thông học, phát triển con người, pháp luật, y tế công cộng và y học. Nghiên cứu về giới cũng phân tích sự liên quan giữa chủng tộc, sắc tộc, địa điểm, giai cấp, quốc tịch và khuyết tật với các phạm trù giới tính và tình dục.
Trong nghiên cứu về giới, thuật ngữ 'giới tính' thường được sử dụng để chỉ cấu trúc xã hội và văn hóa của nam tính và nữ tính, hơn là các khía cạnh sinh học của giới tính nam hoặc nữ. Tuy nhiên, quan điểm này không được ủng hộ bởi tất cả các học giả về giới.
Giới tính phù hợp với nhiều ngành, chẳng hạn như lý luận văn học, nghiên cứu kịch, lý thuyết điện ảnh, lý thuyết biểu diễn, lịch sử nghệ thuật đương đại, nhân loại học, xã hội học, ngôn ngữ học xã hội và tâm lý học. Tuy nhiên, những ngành này đôi khi có cách tiếp cận khác nhau về cách thức và lý do giới tính được nghiên cứu. Trong chính trị, giới tính có thể được xem như một diễn ngôn nền tảng mà các chủ thể chính trị sử dụng để định vị bản thân trong nhiều vấn đề khác nhau. Bản thân nghiên cứu về giới cũng là một môn học, kết hợp các phương pháp và cách tiếp cận từ nhiều lĩnh vực khác nhau.
Lý thuyết nữ quyền về phân tâm học được giới thiệu chủ yếu bởi Julia Kristeva và Bracha L. Ettinger, và được cả Sigmund Freud, Jacques Lacan và lý thuyết quan hệ đối tượng truyền đạt.
|
Nghiên cứu về giới
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809442
|
Nó có ảnh hưởng rất lớn trong nghiên cứu về giới.
|
Aldair Ruiz
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809461
|
Aldair Issac Ruiz Ruiz (sinh ngày 13 tháng 11 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Cuba hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Europa và Đội tuyển bóng đá quốc gia Cuba.
Sự nghiệp thi đấu quốc tế.
Aldair được gọi triệu tập lên Đội tuyển bóng đá quốc gia Cuba lần đầu tiên vào tháng 6 năm 2023, có tên trong danh sách sơ bộ để chuẩn bị cho Cúp Vàng CONCACAF 2023. 10 ngày sau, anh ra mắt quốc tế cho đội bóng, khi xuất phát ngay từ đầu và đá 63 phút trong trận thua 3–0 trước Chile.
|
Nguyễn Hữu Mười
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809467
|
Nguyễn Hữu Mười (sinh năm 1957) là diễn viên, đạo diễn, giảng viên điện ảnh người Việt Nam, ông được biết đến với các vai ông giáo Thứ trong phim "Làng Vũ Đại ngày ấy" và thầy giáo Khang trong phim "Bao giờ cho đến tháng Mười".
Tiểu sử.
Nguyễn Hữu Mười sinh ngày 9 tháng 9 năm 1957 tại huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, trong một gia đình có 11 anh chị em, không có ai theo nghệ thuật.
Sự nghiệp.
Năm 1974, trong lần cùng bạn đi mua vé xem kịch khi Đoàn kịch Trung ương về biểu diễn, Hữu Mười thấy bảng thông báo tuyển diễn viên, điều khiến ông quyết định viết đơn ứng tuyên là thí sinh sẽ được chụp ba kiểu ảnh, bởi việc được chụp hình là điều không dễ dàng lúc bấy giờ. Lá đơn của ông khi đó chỉ vỏn vẹn 6 dòng và suýt bị đuổi về vì cẩu thả và phải viết lại. Diên viên Phi Nga là người nhận ra tố chất diễn viên bên trong Hữu Mười, vượt qua vòng sơ tuyển, ông ra Hà Nội dự thi chung tuyển. Khi tốt nghiệp ông là một trong 16 sinh viên trong lớp diễn viên khóa hai trường Điện ảnh Việt Nam cùng với các nghệ sĩ Bùi Cường, Minh Châu, Phương Thanh, Bùi Bài Bình, Quốc Trọng, Thanh Quý, Đào Bá Sơn...
Tốt nghiệp lớp diễn viên 1977, nghệ sĩ Hữu Mười về công tác tại Hãng phim truyện Việt Nam. Thời gian đầu ông thường hóa thân vào những vai thứ chính. Các bộ phim ông tham gia trong những năm đầu sự nghiệp như "Khôn dại, Ngày ấy ở sông Lam, Phương án ba bông hồng".
Năm 1982, Hữu Mười có được vai diễn để đời đầu tiên vào vai thầy giáo Thứ, nhân vật phỉnh theo nhà văn Nam Cao, trong phim "Làng Vũ Đại ngày ấy". Năm 1984, Đạo diễn Đặng Nhật Minh đưa đến cho ông kịch bane phim ông "Bao giờ cho đến tháng Mười", vị đạo diễn quán triệt trước rằng không cho ông đóng vai thầy giáo giáo Khang vì lĩnh vực điện ảnh kị việc lặp lại trong diễn xuất. Sau đó vì không tìm được diễn viên phù hợp, Đặng Nhật Minh lại chọn Hữu Mười cho vai thầy giáo Khang, vai diễn giúp ông có được giải Nam diễn viên chính xuất sắc tại Liên hoan Phim Việt Nam lần thứ 7.
|
Nguyễn Hữu Mười
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809467
|
Năm 1987, Hữu Mười được Bộ Văn hóa cử đi học sang Liên Xô theo học ngành đạo diễn tại Trường Đại học Điện ảnh quốc gia Matxcova (VGIK) theo Hiệp định hợp tác Văn hoá - Giáo dục giữa hai nước. Năm 1993, Hữu Mười tốt nghiệp và trở lại Hãng phim Truyện Việt Nam công tác. Năm 1996, ông được đạo diễn Đặng Nhật Minh mời làm phó đạo diễn cho bôn phim "Hà Nội mùa đông năm 46."
Năm 1999, Nguyễn Hữu Mười mới có bộ phim điện ảnh đầu tiên do ông đạo diễn là "Chiếc hộp gia bảo", tiếp theo đó là các phim điện ảnh truyền hình cho các chương trình của Đài Truyền hình Việt Nam. Bộ phim "7 ngày làm vợ" do ông đạo diễn từng được đề cử hạng mục Phim truyền hình ngắn tập của Giải Cánh diều 2004. Hữu Mười bắt đầu tham gia công tác giảng dạy từ năm 2003, ông từng nhậm chức trưởng Khoa truyền hình, trường Đại học sân khấu Điện ảnh Hà Nội.
Năm 2011, Nguyễn Hữu Mười mạnh dạn nhận đạo diễn bộ phim chiến tranh "Mùi cỏ cháy", sau khi kịch bản phim bị nhiều đạo diễn khác từ chối vì kinh phí cho phim quá eo hẹp. Bộ phim sau đó chiến thắng 4 giải trong hạng mục phim truyện điện ảnh tại giải Cánh diều 2011 trong đó có giải quan trọng nhất, Cánh Diều Vàng cho phim truyện điện ảnh. Mùi cỏ cháy cũng chiến thằng hạng mục phim điện ảnh tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17 với giải Bông sen Bạc và Biên kịch xuất sắc.
Gia đình.
Nguyễn Hữu Mười và vợ kết hôn khi họ đang du học bên Liên Xô, họ có hai người con.
|
Quân khu Kiev
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809468
|
Quân khu Kiev (; , viết tắt ) là một quân khu của Lục quân Đế quốc Nga và sau đó là của Hồng quân và Lực lượng Vũ trang Liên Xô. Quân khu được thành lập lần đầu vào năm 1862, và có trụ sở tại Kiev (Kyiv) trong hầu hết thời gian tồn tại.
Đế quốc Nga.
Quân khu Kiev là một quân khu của Đế quốc Nga, một kiểu phân chia lãnh thổ được sử dụng để quản lý hiệu quả hơn các đơn vị lục quân, huấn luyện và các hoạt động tác chiến khác của họ liên quan đến tính sẵn sàng chiến đấu. Quân khu ban đầu bao gồm các tỉnh Kiev, tỉnh Podolia (trừ huyện Balta) và tỉnh Volyn .
Bố trí quân sự được phân định cho quân khu bao gồm Tập đoàn quân 10. Năm 1888, Quân khu Kharkov được sáp nhập vào Quân khu Kiev.
Khi Thế chiến I bắt đầu, quân khu được chuyển thành Tập đoàn quân 3. Vào tháng 4 năm 1917, các tỉnh Poltava và Kursk được chuyển sang cho Quân khu Moskva.
Sau Cách mạng Tháng Mười ở Petrograd, khu vực này nằm dưới quyền tài phán của Cộng hòa Nhân dân Ukraina và tồn tại cho đến đầu tháng 2 năm 1918 do cuộc tiến công của Lực lượng Hồng vệ binh Nga Petrograd-Moskva thuộc Lực lượng Đặc nhiệm Antonov do Vladimir Lenin giao nhiệm vụ "chống phản cách mạng ở miền Nam nước Nga", nhưng trên thực tế là xâm chiếm Ukraina trong cái gọi là Chiến tranh Ukraina-Xô viết.
Quân khu đã không được phục hồi trong thời kỳ Bolshevik ngắn ngủi vào năm 1918 cũng như sau khi thành lập Quốc gia Ukraina độc lập.
Hồng quân thứ nhất.
Quân khu Kiev được phục hồi vào ngày 12 tháng 3 năm 1919, và sau đó lại bị giải tán vào ngày 23 tháng 8 năm 1919, trước sự tiến công của lực lượng Anton Denikin.
Vùng quân sự Kiev.
Vùng quân sự Kiev (oblast) được thành lập bởi lực lượng của Anton Denikin vào ngày 31 tháng 8 năm 1919, nhưng đến ngày 14 tháng 12 năm 1919, lực lượng của vùng này đã được thu hồi và hợp nhất với lực lượng của Vùng Novorossiysk. Tư lệnh vùng quân sự là Abram Dragomirov.
Lực lượng Xô viết tại Ukraina và Krym.
Quân khu lại được thành lập vào tháng 1 năm 1920 với tư cách là bộ phận của Lực lượng vũ trang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga đồn trú tại Ukraina.
Vào đầu thập niên 1920, Quân khu gồm có các đơn vị sau:
Quân khu Ukraina.
|
Quân khu Kiev
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809468
|
Vào tháng 4 năm 1922, Quân khu Kiev được sáp nhập với Quân khu Kharkov thành Quân khu Tây Nam. Vào tháng 6 năm 1922, nó được đổi tên thành Quân khu Ukraina.
Quân đoàn súng trường số 6 được thành lập theo lệnh của Tư lệnh Lực lượng Vũ trang Ukraina và Krym số 627/162 từ ngày 23 tháng 5 năm 1922, tại Kiev, một phần của Quân khu Kiev và Kharkov.
Hồng quân lần hai.
Ngày 17 tháng 5 năm 1935, Quân khu Ukraina được chia thành Quân khu Kharkov và Quân khu Kiev.
Quân đoàn súng trường 13 được cải tổ trong quân khu theo lệnh cấp quân khu vào tháng 12 năm 1936, và trụ sở chính của nó được thành lập tại Bila Tserkva.
Vào ngày 26 tháng 7 năm 1939, quân khu được đổi tên thành Quân khu đặc biệt Kiev.
Ngày 20 tháng 2 năm 1941, quân khu thành lập Quân đoàn cơ giới 22 (có 527 xe tăng) thuộc Tập đoàn quân 5 (Liên Xô) , Quân đoàn cơ giới 16 (có 372 xe tăng) thuộc Tập đoàn quân 12 và Quân đoàn cơ giới 9 (có 94 xe tăng), Quân đoàn cơ giới 24 (có 56 xe tăng), Quân đoàn cơ giới 15 (có 707 xe tăng) và Quân đoàn cơ giới 19 (có 274 xe tăng) trong lực lượng dự bị của quân khu. Lực lượng phòng không trong quân khu bao gồm Sư đoàn Hàng không Tiêm kích 36 của PVO đặt tại Vasylkiv.
Khi Chiến dịch Barbarossa của Đức bắt đầu vào ngày 22 tháng 6 năm 1941, trên cơ sở Quân khu đặc biệt Kiev, thành lập Phương diện quân Tây Nam của Liên Xô hợp nhất hoàn toàn quân khu này vào ngày 10 tháng 9 năm 1941.
Lục quân Liên Xô.
Quân khu được thành lập lại vào ngày 25 tháng 10 năm 1943, với trụ sở chính tại Kiev. Tháng 6 năm 1946, bảy tỉnh của Quân khu Kharkov bị giải thể được bổ sung vào Quân khu Kiev. Quân khu Kiev khi đó bao gồm [[tỉnh của Ukraina|các tỉnh]] (oblast) [[Kyiv (tỉnh)|Kiev]], [[Cherkasy (tỉnh)|Cherkasy]], [[Uman (tỉnh)|Uman]], [[Luhansk (tỉnh)|Voroshilovgrad (nay là Luhansk)]], [[Dnipropetrovsk (tỉnh)|Dnipropetrovsk]] (nay là [[Dnipro]]), [[Poltava (tỉnh)|Poltava]], [[Donetsk (tỉnh)|Stalino (nay là Donetsk)]], [[Sumy (tỉnh)|Sumy]], [[Kharkiv (tỉnh)|Kharkiv]] và [[Chernihiv (tỉnh)|Chernihiv]].
Các đơn vị đóng quân trên địa bàn quân khu là Tập đoàn quân cận vệ 1 và Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6.
|
Quân khu Kiev
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809468
|
Tập đoàn quân không quân 69 đã hoạt động từ đầu những năm 1950 đến ít nhất là năm 1964 trong quân khu. Năm 1959, Tập đoàn quân Không quân 17 được chuyển đến quân khu từ [[Mông Cổ]] để cung cấp hỗ trợ trên không. Quân đoàn 60 Tập đoàn quân Phòng không 8 yểm trợ phòng không cho quân khu.
Tập đoàn quân tên lửa số 43 của [[Lực lượng Tên lửa Chiến lược Nga|Lực lượng tên lửa chiến lược]] được thành lập tại [[Vinnytsia]] trong ranh giới của quân khu vào năm 1960. Nó bao gồm Sư đoàn tên lửa số 19 ([Khmelnytskyi), Sư đoàn tên lửa cận vệ số 37 (Lutsk), Sư đoàn tên lửa số 43 (Kremenchuk), Sư đoàn tên lửa số 44 (Kolomyia), tỉnh Ivano-Frankivsk, giải thể ngày 31 tháng 3 năm 1990. Lữ đoàn công binh 73 RVGK đóng tại Kamyshin.), và Sư đoàn tên lửa 46 (Pervomaisk, tỉnh Mykolaiv). Tư lệnh cuối cùng của Tập đoàn quân tên lửa 43 là Thượng tướng Vladimir Alekseevich Mikhtyuk, phục vụ từ ngày 10 tháng 1 năm 1991 đến ngày 8 tháng 5 năm 1996 khi nó chính thức bị giải thể. Cũng trong quân khu vào năm 1988 còn có Lữ đoàn cơ giới 72 tại Krasnograd.
Năm 1991, quân khu bao gồm Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 (tại Dnipropetrovsk), Tập đoàn quân cận vệ 1 (Chernihiv), Sư đoàn súng trường cơ giới 36 (Artemivsk/Bakhmut), Sư đoàn súng trường cơ giới 48 (Chuhuiv), Sư đoàn huấn luyện xe tăng cận vệ 48 (Desna), Lữ đoàn Lực lượng Đặc biệt độc lập 9 GRU (kích hoạt ngày 15 tháng 10 năm 1962 tại Kirovohrad [Kropyvnytsnkyi], thành lập ngày 31 tháng 12 năm 1962, ở lại Ukraina năm 1992), Tập đoàn quân Không quân 17 và Quân đoàn Phòng không 60 của Tập đoàn quân Phòng không 8 (Phòng không Liên Xô)). Trong số các đơn vị không quân của quân khu có Trường phi công quân sự cấp cao Chernihiv tại Chernihiv.
Cũng nằm trong ranh giới của quân khu nhưng chịu trách nhiệm trước Bộ Chỉ huy Phương diện chiến lược Tây Nam là Lữ đoàn Đổ bộ-Xung kích độc lập số 23 (thực tế là một lữ đoàn cơ động đường không), tại Kremenchuk, tỉnh Poltava.
Năm 1991, Thượng tướng Viktor S. Chechevatov bị cách chức Tư lệnh quân khu vì từ chối tuyên thệ trung thành với Ukraina.
|
Quân khu Kiev
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809468
|
Quân khu bị giải tán sau khi Liên Xô tan rã, vào ngày 1 tháng 11 năm 1992, và cấu trúc của nó được sử dụng làm cơ sở cho Bộ Tổng tham mưu và Bộ Quốc phòng Ukraina mới.
|
Maria của Bồ Đào Nha, Nữ Công tước xứ Viseu
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809469
|
Maria của Bồ Đào Nha, Nữ Công tước xứ Viseu (tiếng Bồ Đào Nha: "Maria de Portugal"; tiếng Tây Ban Nha: "María de Portugal"; 18 tháng 6 năm 1521 – 10 tháng 10 năm 1577; ) là một Vương nữ Bồ Đào Nha, con gái duy nhất của Manuel I của Bồ Đào Nha và Leonor của Castilla. Là một người bảo trợ nổi tiếng cho nghệ thuật và các kiến trúc, tài sản cá nhân của Maria sánh ngang với người anh cùng cha khác mẹ là João III của Bồ Đào Nha, Maria trở thành người phụ nữ giàu nhất Bồ Đào Nha và là một trong những vương nữ giàu có nhất châu Âu.
Thiếu thời.
Maria của Bồ Đào Nha sinh ngày 18 tháng 6 năm 1521, tại Lisboa, Bồ Đào Nha, là con gái duy nhất của Manuel I của Bồ Đào Nha và Leonor của Castilla. Sáu tháng sau khi chào đời, cha của Maria qua đời vì bệnh dịch và được kế vị bởi người anh cùng cha khác mẹ là João III của Bồ Đào Nha. Ngay sau đó, mẹ của Maria trở lại Viên cùng với Maria cho đến năm 1530, khi Leonor tái hôn với François I của Pháp và chuyển đến Pháp. Maria đã không gặp mẹ mình trong gần 28 năm và được gửi đến sống ở Bồ Đào Nha tại triều đình của người anh trai João III.
Năm 1525, dì của Maria, Catalina của Castilla, kết hôn với João III của Bồ Đào Nha, do đó Catalina cũng trở thành chị dâu của cháu gái mình. Vương hậu Catalina đảm nhiệm việc nuôi dạy và giáo dục Maria và yêu thương Maria như thể là con gái của mình. Maria nhận được nền giáo dục đáng kinh ngạc so với phụ nữ cùng thời vì các gia sư của vương nữ gồm có các nữ học giả như các nhà nhân văn học Joana Vaz và Públia Hortênsia de Castro. Maria chủ yếu học về tài chính, kiến trúc, văn học và một vài ngôn ngữ. Là một trong những Infanta Bồ Đào Nha có học thức nhất, Maria đã trở thành một nhà nhân văn học nổi tiếng và là người bảo trợ nghệ thuật. Hộ gia ("household") của Maria như thể trở thành trường đại học dành cho phụ nữ, nơi hội tụ những bộ óc vĩ đại nhất. Có tin đồn rằng Maria đã yêu Luís Vanz de Camões, nhà thơ vĩ đại nhất Bồ Đào Nha.
Mặc dù không thiếu người theo đuổi và có nhiều lời hỏi cưới nhưng Maria chưa bao giờ kết hôn.
|
Maria của Bồ Đào Nha, Nữ Công tước xứ Viseu
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809469
|
Đã có thương lượng về việc đính hôn giữa Maria và Trữ quân Pháp François, được sự ủng hộ của mẹ Maria là Leonor, nhưng vị trữ quân đã qua đời vào năm 1536. Năm 1537, Maria và người em họ Christine của Đan Mạch, Thái Công tước phu nhân xứ Milano được coi là những cô dâu tiềm năng để gả cho Henry VIII của Anh trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, nước Anh sớm từ bỏ những mối hôn sự này. Maria được cân nhắc là vợ thứ hai của người em họ cũng như cháu trai là Felipe của Tây Ban Nha (sau này là Quốc vương Felipe II), con trai của cậu là Hoàng đế Karl V của Thánh chế La Mã và chị gái cùng cha khác mẹ là Isabel của Bồ Đào Nha. Mối hôn sự được cân nhắc nghiêm túc từ năm 1549, khi Leonor định cư ở Bruxelles nhưng đã bị dừng lại khi Mary Tudor kế vị ngai vàng Anh vào năm 1553 và Karl V quyết định gả con trai Felipe cho tân vương nước Anh. Các ứng cử viên khác để kết hôn của Maria là Đại vương công Maximilian của Áo, con trai của một người cậu khác làFerdinand I của Thánh chế La Mã; James V của Scotland ; và Emanuele Filiberto I xứ Savoia.
Nữ Công tước xứ Viseu.
Sau cùng, João III đã trao cho Maria hộ gia của riêng vương nữ và Công quốc Viseu mà cha họ sở hữu trước khi trở thành vua. Dưới sự lãnh đạo của Maria, thành phố tiếp tục phát triển thịnh vượng với các ngành công nghiệp gốm sứ, thêu và đồng. Tài sản cá nhân của Maria thậm chí sánh ngang với tài sản của nhà vua, khiến Maria trở thành người phụ nữ giàu nhất Bồ Đào Nha và là một trong những vương nữ giàu có nhất châu Âu.
Nhận được những khoản thu nhập như vậy, Maria đã tài trợ cho nhiều dự án xây dựng, đặc biệt là ở Carnide và vùng nông thôn Lisboa. Vương nữ đã tài trợ và giám sát việc xây dựng Nhà thờ Nossa Senhora da Luz và Bệnh viện Nossa Senhora dos Prazeres, nơi hiện đang là trụ sở của Colégio Militar, và cả hai nơi đều vẫn còn những bức phù điêu lớn hình Vương huy cá nhân của Maria. Tại Lisboa, Maria đã tài trợ cho việc xây dựng Nhà thờ Santa Engrácia, ở São Vicente. Cấu trúc ban đầu mà Maria ra lệnh xây dựng đã bị phá hủy hoàn toàn vào năm 1681 và được xây dựng lại sau này và hiện được coi là Đền thờ Quốc gia của Bồ Đào Nha.
Cuộc sống sau này.
|
Maria của Bồ Đào Nha, Nữ Công tước xứ Viseu
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809469
|
Cuộc sống sau này.
Sau cái chết của người anh cùng cha khác mẹ João III vào năm 1558, Maria đã đến Tây Ban Nha để gặp mẹ của mình lần đầu tiên sau 28 năm. Leonor đã yêu cầu con gái đến sống với mình và dì María, nhưng Maria từ chối và chỉ ở lại ba tuần trước khi trở về Lisboa. Leonor qua đời ngay sau đó trong khi trở về Jarandilla de la Vera từ Badajoz.
Trong thời kỳ Quốc vương Sebastian được nhiếp chính bởi bà nội là Thái hậu Catalina vì còn nhỏ tuổi, một nhóm các quý tộc Bồ Đào Nha muốn Nữ Công tước xứ Viseu thay thế Thái hậu Catalina đảm nhiệm vai trò nhiếp chính nhưng thất bại. Maria qua đời ở Lisboa vào ngày 10 tháng 10 năm 1577, hưởng thọ 56 tuổi và được chôn cất tại Nhà thờ Nossa Senhora da Luz.
Xem thêm.
Leonor của Áo
Manuel I của Bồ Đào Nha
Catalina của Áo
María của Aragón
João III của Bồ Đào Nha
|
Mảnh tước
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809470
|
Trong khảo cổ học, mảnh tước là "những mảnh đá do con người ghè đẽo đá tách ra trong khi chế tác công cụ từ hạch đá."
|
Đảng Cộng sản Malaysia
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809471
|
Đảng Cộng sản Malaysia (MCP), tên chính thức là Đảng Cộng sản Malaya (CPM), là một đảng cộng sản theo chủ nghĩa Mác-Lênin và chống chủ nghĩa đế quốc, hoạt động ở Malaya thuộc Anh và sau đó là các quốc gia hiện đại của Malaysia và Singapore từ năm 1930 đến năm 1989. Nó chịu trách nhiệm thành lập cả Quân đội Nhân dân Malaysia chống Nhật Bản và Quân đội Giải phóng Quốc gia Malaysia.
Đảng đã lãnh đạo các nỗ lực kháng chiến chống lại sự chiếm đóng của Nhật Bản đối với Malaya và Singapore trong Thế chiến thứ hai, và sau đó tham gia cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chống lại Đế quốc Anh trong Tình trạng khẩn cấp ở Malaya. Sau khi lực lượng thực dân Anh rời khỏi Liên bang Malaya, đảng này đã chiến đấu trong chiến dịch du kích thứ ba chống lại cả chính phủ Malaysia và Singapore nhằm tạo ra một nhà nước cộng sản trong khu vực, trước khi giải tán vào năm 1989.Ngày nay, do những ý nghĩa lịch sử xung quanh MCP, chủ nghĩa cộng sản với tư cách là một hệ tư tưởng vẫn là một chủ đề chính trị cấm kỵ ở cả hai quốc gia.
|
Chung kết UEFA Nations League 2023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809479
|
Trận chung kết UEFA Nations League 2023 là trận đấu cuối cùng để xác định đội thắng cuộc tại vòng chung kết của UEFA Nations League 2022–23, mùa giải thứ ba của giải đấu quốc tế do UEFA tổ chức. Trận đấu được diễn ra vào ngày 18 tháng 6 năm 2023 trên sân vận động De Kuip tại Rotterdam, Hà Lan, và chứng kiến màn tranh tài giữa đội tuyển Croatia và đội tuyển Tây Ban Nha.
Địa điểm.
Sân vận động De Kuip được Hiệp hội bóng đá Hoàng gia Hà Lan lựa chọn là một trong hai sân vận động cùng với De Grolsch Veste tổ chức vòng chung kết UEFA Nations League 2023. Do Johan Cruyff Arenasân vận động lớn nhất Hà Lan đặt tại Amsterdamkhông thể tổ chức do đã được lên lịch để tổ chức buổi hòa nhạc, nên De Kuip được lựa chọn để tổ chức trận bán kết đầu tiêntrận có Hà Lan tham dự, và trận chung kết của giải.
Sân vận động De Kuip, được biết đến với tên gọi chính thức là sân vận động Feijenoord, tọa lạc tại quận Feijenoord ở thành phố Rotterdam. Sân có sức chứa lên đến 51,117 chỗ ngồi và là sân nhà của câu lạc bộ Feyenoord. Việc xây dựng cho sân bắt đầu vào năm 1935, và sân được khánh thành vào tháng 3 năm 1937. Sân De Kuip cũng đã thực hiện một cuộc cải tạo lớn vào năm 1994 để trở thành sân vận động có đầy đủ chỗ ngồi cho khán giả, với mái che được thiết kế mở rộng để che phủ tất cả các ghế ngồi. Đây là nơi tổ chức một số trận đấu được lựa chọn theo yêu cầu của đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan và cũng là nơi được lựa chọn để tổ chức các trận chung kết của cúp KNVB kể từ năm 1989. Ngoài ra, sân còn tổ chức hai trận chung kết UEFA Champions League (vào các năm 1972 và 1982), hai trận chung kết UEFA Nations League (vào các năm 1974 và 2002) và sáu trận chung kết UEFA Cup Winners' Cup (vào các năm 1963, 1968, 1974, 1985, 1991 và 1997), đồng thời còn là nơi tổ chức năm trận đấu của UEFA Euro 2000, trong đó có trận chung kết giữa đội tuyển Pháp và đội tuyển Ý. Ngoài việc tổ chức các trận đấu, sân De Kuip còn được sử dụng để tổ chức các buổi hòa nhạc kể từ năm 1978.
Đường đến chung kết.
"Ghi chú: Trong tất cả các kết quả dưới đây, tỷ số của các đội vào chung kết được đưa ra trước (H: sân nhà; A: sân khách)."
Trận đấu.
|
Chung kết UEFA Nations League 2023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809479
|
Trận đấu.
<section begin=Final /><section end=Final />
<section begin=Lineups />
</includeonly><section end=Lineups />
Luật trận đấu
|
Trận Banjarmasin
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809483
|
Trận Banjarmasin (31 tháng 1 – 10 tháng 2 năm 1942) diễn ra như là một phần của cuộc tấn công của Nhật Bản nhằm đánh chiếm Đông Ấn Hà Lan. Người Nhật đã tiến hành một cuộc tấn công gọng kìm từ biển và đất liền để chiếm một sân bay chiến lược ở Banjarmasin (cách viết cũ: Bandjarmasin hoặc Bandjermasin) để chuẩn bị cho việc chiếm đảo Java.
Hoàn cảnh.
Trước năm 1941, Banjarmasin là trung tâm hành chính của Đông và Đông Nam Borneo, và là trụ sở của Thống đốc Borneo thuộc Hà Lan. Sân bay Oelin (Ulin) nằm cách thị trấn 25 km chỉ cách Surabaya 420 km, khiến nó trở thành mục tiêu quan trọng trong kế hoạch tiêu diệt Không quân Đồng minh ở Java trước cuộc tấn công của họ. Người Hà Lan đã thành lập một sân bay khác tại Kotawaringin, cách đó 350 km về phía tây.
Kế hoạch của Hà Lan.
Quân đội Hà Lan ở Banjarmasin chủ yếu được giao nhiệm vụ bảo vệ cả 2 sân bay Oelin và Kotawaringin. Mặc dù bản chất của nhiệm vụ, quân đội đến từ nhiều nhóm khác nhau được trang bị kém; một số đơn vị không được cung cấp quân phục cho đến tháng 1 năm 1942. Nhiều lữ đoàn "Stadswacht" và "Landwacht" chỉ được thành lập vào năm 1941 và được đào tạo về xử lý vũ khí hoặc cơ động trong trận đánh.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ chính, tất cả binh lính bên ngoài Java phải tiến hành chiến tranh du kích. Các nhân viên chỉ huy và thống đốc sẽ chuyển đến Moearatewe, ở Bắc Barito, trong khi các nhân viên hành chính sẽ ở lại, hy vọng sẽ tiếp tục làm việc bình thường sau khi chiếm đóng. 3 cơ sở lưu trữ đã được thiết lập dọc theo tuyến đường đến Moearatewe như là một phần của việc này.
Kế hoạch của Nhật Bản.
Xét rằng người Nhật không có bất kỳ thông tin tình báo cập nhật nào về tình trạng của các sân bay ở Banjarmasin, ngoài thời gian dài để thiết lập sân bay cho hoạt động sau khi chiếm được, Hải quân đã huỷ bỏ sự tham gia của mình vào chiến dịch. Thay vào đó, Quân đội đã lên kế hoạch tiến hành một cuộc tấn công theo hai hướng vào thành phố từ biển và đất liền, với cuộc công kích chính là cuộc tấn công chính.
Đơn vị trên bộ của Đại tá Yamamoto lên kế hoạch tấn công bằng đường bộ sẽ rời Balikpapan vào đêm 30 tháng 1 và đổ bộ lên Tanahgrogot vào rạng sáng ngày 31.
|
Trận Banjarmasin
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809483
|
Đơn vị sau đó sẽ băng qua rừng rậm và núi về phía nam, với một yếu tố lực lượng tiến lên như đội tiên phong để ngăn chặn bất kỳ nỗ lực phục kích nào của Hà Lan. Sau khi di chuyển ra khỏi rừng rậm, nó sẽ nhanh chóng tiến đến thành phố để vượt qua bất kỳ nỗ lực nào của Hà Lan nhằm phá huỷ các cây cầu trong khi rút lui. Vì các nhu yếu phẩm chủ yếu được mua tại chỗ, quân đội chỉ mang theo khẩu phần trị giá 9 ngày.
Trong khi đó, Đơn vị trên biển của Đại uý Okamoto, sẽ rời đi vài ngày trước Đơn vị của Yamamoto. Sử dụng tàu đổ bộ, đơn vị sẽ chỉ di chuyển vào ban đêm. Vào ban ngày, họ dự định đi ngược dòng gần cửa sông và trốn dưới rừng để tránh sự trinh sát trên không của Đồng minh. Để đảm bảo lối đi qua eo biển phía tây đảo Laoet (Laut), Okamoto lên kế hoạch tiến hành một cuộc đột kích ban đêm vào Kotabaroe (Kotabaru) để thu thập nguồn tiếp tế và thông tin tình báo. Khi đổ bộ xuống Banjarmasin, Đơn vị sẽ tiến lên và chiếm sân bay Oelin. Đối diện với Đơn vị trên bộ, quân của Okamoto cần phải mua sắm lương thực thực phẩm dọc theo cuộc tiến quân.
Trận chiến.
Những cuộc không kích ban đầu.
Sau khi Tarakan thất thủ, các cuộc không kích hàng ngày của Nhật Bản bắt đầu được nhìn thấy trên Banjarmasin. Những chiếc máy bay tiêm kích đầu tiên của Nhật Bản tiến hành bắn phá sân bay Oelin vào ngày 20 tháng 1, nhưng gây ra ít thiệt hại. Trong cuộc không kích vào ngày 21 tháng 1, 4 chiếc Mitsubishi Zeros và một máy bay trinh sát Babs của Không đoàn Đài Nam đã phá huỷ một chiếc PBY Catalina thuộc Liên đội Bay 16 (GVT.16) của MLD đã hạ cánh xuống đồng bằng Barito. Một tổn thất lớn xảy ra vào ngày 27 tháng 1, khi 8 máy bay ném bom Glenn Martin dừng lại tại Oelin trên đường đến sân bay Samarinda II. Khi cuộc không kích diễn ra, những khẩu súng máy Lewis được bố trí như phòng không không hiệu quả đối với máy bay Nhật. Người Nhật đã phá huỷ 6 trong số các máy bay ném bom và làm hư hại 2 chiếc còn lại, giáng một đòn nặng nề vào tinh thần của người Hà Lan.
Đơn vị trên bộ di chuyển.
Đội tiền phương của Đơn vị Yamamoto rời Balikpapan vào sáng ngày 31 tháng 1 và đổ bộ lên vịnh Adang lúc 20:00 cùng ngày.
|
Trận Banjarmasin
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809483
|
Khi được thông báo về cuộc đổ bộ, Trung uý Michielsen, người chỉ huy phòng thủ ở Tanahgrogot, đã rút lui cùng với 60 quân của mình sau khi phá huỷ thị trấn. Gia đình của những binh sĩ bản địa bị cấm sơ tán, trong khi gia đình của những người lính Tây phương có thể sơ tán theo cách riêng của họ. Michielsen đã thiết lập một trại với nguồn cung cấp thực phẩm cách Tanahgrogot 20 km về phía đông để chứa những người sơ tán, những người hiện đã gia nhập hàng ngũ binh sĩ rút lui. Tuy nhiên, nhiều binh sĩ đã đào ngũ trên đường đi hoặc trở về với gia đình của họ, để lại Michielsen với 5 người lính-2 trong số họ bị bệnh-khi anh đến Tandjoeng.
Đến 10:30 ngày 1 tháng 2, lực lượng tiên phong Nhật Bản chiếm được Tanahgrogot. Vào ngày 2 tháng 2, phần còn lại của Đơn vị Yamamoto rời Balikpapan và đổ bộ lên Tanahgrogot vào ngày 3 tháng 2. Khi họ tiến về phía nam đến Banjarmasin, Đơn vị trên bộ đã phải đối mặt với việc thiếu đường bộ thích hợp, khiến xe cơ giới và 600 xe đạp của họ trở nên vô dụng. Họ trèo lên những ngọn núi dốc và băng qua những cây cầu gỗ tạm thời bắc qua những hẻm núi sâu, trong khi chống lại các cuộc tấn công từ muỗi, đỉa và côn trùng khác. Yamamoto đi đến Moeara Oeja (Muara Uya) vào ngày 4 tháng 2. Theo lệnh của Halkema, các lữ đoàn Landwacht ở Tandjoeng (Tanjung), Amoentai và Barabai đã thiêu rụi thành phố và rút lui mà không chiến đấu.
Lệnh này đã khiến Halkema đụn độ với Thống đốc Borneo thuộc Hà Lan, Bauke Jan Haga. Thống đốc Haga nhận thấy sự tàn phá là quá sớm, vì nó sẽ phá vỡ đời sống kinh tế ở các thành phố dọc theo Hoeloe Soengei (Hulu Sungei/Sungai), đề cập đến dòng thị trấn và làng mạc nằm ở phía đông sông Barito. Để phản đối, Thống đốc Haga đã gửi khiếu nại chính thức đến Tổng Tư lệnh quân đội Hà Lan ở Đông Ấn Hà Lan, Tướng Heinrich ter Poorten, yêu cầu thay thế Halkema. Theo thoả thuận, ter Poorten đã cử Thiếu tá A. Doup để thay thế anh ta.
Tại Dajoe, quân của Trung uý van der Poel đã phá huỷ sân bay nhỏ trong thị trấn trước khi rút lui về phía bắc đến Boentok (Buntok) và mất liên lạc với ban chỉ huy.
|
Trận Banjarmasin
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809483
|
Khi người dân địa phương báo cáo nhầm rằng các lực lượng Nhật Bản đang tiến vào thị trấn, nhiều binh sĩ bản địa và cảnh sát dã chiến của van der Poel đã đào ngũ, để lại cho ông 5 người. Vào ngày 7 tháng 2, Halkema tăng cường quân sự tại Kandangan với 2 lữ đoàn từ Oelin (được trang bị súng máy Madsen) dưới quyền chỉ huy của Trung uý 1 W.K. Remmert. Remmert đã phải trì hoãn bước tiến của Yamamoto dọc theo đường Kandangan-Martapoera, trước khi tập hợp lại với 1 lữ đoàn nghĩa vụ tại sân bay Oelin. Đến 11:30, quân của Remmert đến Kandangan và bắt đầu chiếm vị trí ở phía bắc thị trấn, trước khi hỗ trợ Scholte trong nỗ lực phá huỷ. Cả hai nhóm sau đó rút vào một vị trí phòng thủ ở Martapoera để bảo vệ sân bay Oelin.
Vào đêm ngày 8 tháng 2, báo cáo của Hà Lan từ Rantau cho biết một trong những con tàu của họ đã di chuyển dọc theo con sông về phía Banjarmasin khi tắt đèn. Không loạt trừ khả năng có quân Nhật trên tàu, Halkema ra lệnh cho Đại uý van Epen gửi 3 lữ đoàn (1 lính nghĩa vụ và 2 Stadswacht, được tăng cường bằng súng máy và súng Madsen) trên các xà lan hơi nước từ Oelin đến Negara để ngăn chặn quân Nhật tấn công Banjarmasin qua sông Barito, trước khi rút lui về Oelin. Đến 22:00, Halkema ra lệnh phá huỷ Banjarmasin và Pelaihari. Khi sự huỷ diệt, và cùng với nó, sự phá hoạt bắt đầu diễn ra, Thống đốc Haga được khuyên nên rời khỏi thành phố, nhưng ông khẳng định rằng ông sẽ không làm như vậy cho đến 23:30. Sau đó, Thống đốc Haga rời Moearatewe, trước khi di chuyển xa hơn về phía bắc đến Poeroektjaoe (Puruk Cahu).
Hai ngày trước đó, ter Poorten đã uỷ nhiệm Doup làm trung tá và bổ nhiệm ông làm người kế nhiệm Halkema, với lý do tình trạng sức khoẻ (thấp khớp) và mất cân bằng tinh thần của Halkema. Doup rời Surabaya vào ngày 8 tháng 2, nhưng khi máy bay của ông đến bờ biển Borneo lúc 01:00, ông nhìn thấy những đám cháy lớn ở cửa sông Barito, nơi Banjarmasin sẽ ở. Vì người điều khiển vô tuyến không liên lạc được với mặt đất, phi công, Trung uý J.A.J.
|
Trận Banjarmasin
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809483
|
Oonincx từ chối hạ cánh; việc không liên lạc được là do đài phát thanh tại sân bay Oelin bị phá huỷ. Doup cuối cùng phải quay về Surabaya. Sau khi gửi lệnh phá huỷ, Halkema và một vài sĩ quan tham mưu lái xe đến sân bay Oelin để bàn giao quyền chỉ huy cho người kế nhiệm. Tại sân bay, ông nhìn thấy một chiếc máy bay bay vòng quanh sân bay nhiều lần trước khi rời đi mà không hạ cánh.
Khi Halkema lái xe đến Oelin, một phần nhân viên của ông đã bắt đầu lên tàu "Irene" và "Otto". Cả hai con tàu đều hướng đến Schans van Tuyl (ngã ba sông Martapoera (Martapura) và Barito), nơi chúng sẽ chờ hướng dẫn thêm ở đó. Trong khi đó, chủ bến cảng của Banjarmasin đã ra lệnh cho một chiếc tàu hơi nước đi đến Takisoeng (Takisung), một thị trấn ven biển phía nam Banjarmasin, nơi nó sẽ được cung cấp cho Halkema xử lý. Từ Schans van Tuyl, "Irene" và "Otto" cuối cùng tiến về Java, mang theo những người tị nạn Hà Lan từ Banjarmasin và một phần nhân viên của Halkema.
Sau khi nhìn thấy máy bay của Doup rời đi, Halkema lái xe theo hướng Takisoeng, nơi anh đến cửa sông Barito vào ngày 9 tháng 2. Vào buổi tối, một Borsumij ("Borneo Sumatera Maatschappij"; Công ty Borneo Sumatera) tàu xuất hiện cùng với các nhân viên còn lại không lên tàu "Irene" và "Otto". Sau khi Halkema lên tàu, con tàu sau đó nhận được một bức điện tín từ Bandung, ra lệnh cho họ đi về phía tây đến Kotawaringin và chờ hướng dẫn thêm ở đó.
Con tàu Borsumij lên đường lúc 19:00; Các lực lượng Hà Lan trên tàu đã tìm cách sơ tán đến Kotawaringin vào thời điểm đó chỉ có 75 quân. Sau khi cập cảng Kotawaringin vào ngày 11 tháng 2, Halkema và các nhân viên không thiết yếu khác rời đi Java bằng máy bay vào ngày 12 tháng 2, trong khi các lính bộ binh dưới quyền Đại uý W.C.A. van Beek tăng cường lực lượng tại sân bay. Trở lại sân bay Oelin, Đại uý Bolderhey đợi đến ngày 9 tháng 2 để chuyến bay của Doup đến, mà không biết rằng nó đã xảy ra vào ngày hôm trước. Khi màn đêm buông xuống ngày 9, anh quyết định rời sân bay và đi lên phía bắc đến Koeala Kapoeas (Kuala Kapuas). Thái độ thù địch của người dân địa phương, cùng với việc đào ngũ khiến du kích chiến đấu không còn lựa chọn.
|
Trận Banjarmasin
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809483
|
Với ít sự lựa chọn hơn trong tay, Bolderhey quyết định cố gắng tiếp cận Java. Vào ngày 11 tháng 2, ông và quân của mình rời đi trên một chiếc thuyền nhỏ dài 17 m, cùng với 180 thường dân Hà Lan khác (trong đó có 20 phụ nữ). Sau khi đi thuyền trong biển động trong 6 ngày, Bolderhey đổ bộ lên Madura.
Đơn vị của Yamamoto, một khi ra khỏi rừng rậm, đã cố gắng truy đuổi lực lượng Hà Lan đang rút lui, nhưng cuộc tiến công đã làm phân tán lực lượng. Tuy nhiên, một đại đội tiên phong do Đại uý Kataoka dẫn đầu đã cạnh tranh với đại đội công binh để trở thành người đầu tiên đánh đuổi quân Hà Lan. Khi Đơn vị trên bộ tiến lên, họ đã nhận được xe đạp, xe cộ và đồ dự trữ từ nhiều người dân địa phương hỗ trợ. Lúc 09:00 ngày 10 tháng 2, Kataoka, cùng với đại đội công binh, chiếm sân bay Oelin mà không gặp kháng cự nào. Khi màn đêm buông xuống, Đơn vị đã chiếm được Banjarmasin.
Đơn vị trên biển di chuyển.
Đơn vị trên biển của Okamoto rời Balikpapan vào tối ngày 30 tháng 1 trên 4 tàu đổ bộ lớn và 2 tàu đổ bộ nhỏ và bắt đầu đi dọc theo bờ biển về phía nam. Theo kế hoạch, Đơn vị tập trung tiến công tại cửa sông vào ban đêm theo kế hoạch, với một sĩ quan hải quân trực thuộc để điều khiển quân đội. Vào ban ngày, các tàu đổ bộ được nguỵ trang dưới rừng ngập mặn để tránh bị phát hiện. Đi qua vịnh Apar Besar, vịnh Pamukan và vịnh Klumpang, Okamoto thực hiện một cuộc không kích ban đêm xuống Kotabaroe, không gặp phải sự kháng cự nào và chiếm được nhiều tiếp liệu và tiếp tế. Vào ngày 8 tháng 2, Đơn vị trên biển đổ bộ cách Banjarmasin 80 km và tiến lên mà không gặp phải sự kháng cự nào đối với sân bay Oelin. Vì Đơn vị trên bộ đã phân tán quân của Halkema, quân của Okamoto đã đến sân bay Oelin mà không gặp phải sự kháng cự nào vào ngày 10 tháng 2.
Kết quả.
Đến cuối trận đánh, Đơn vị trên bộ đã tiến 400 km về phía nam từ điểm đổ bộ của họ ở vịnh Adang đến Banjarmasin, 100 km trong số đó được thực hiện xuyên qua rừng rậm.
|
Trận Banjarmasin
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809483
|
Vật liệu cơ bản cho Không Hạm đội 11 đi đến Oelin bằng thuyền đánh cá vào ngày 20 tháng 2, và đến ngày 25 tháng 2, một đơn vị của Phi đội 23 đổ bộ lên sân bay, nơi sớm được sử dụng làm căn cứ cho cuộc tiến quân đến Bali.
Thương vong.
Trận đánh đã khiến 9 lính Nhật thiệt mạng trong chiến đấu hoặc chết vì bệnh tật. Khoảng 80% (khoảng 800) binh sĩ của Đơn vị trên bộ bị mắc bệnh sốt rét.
Thương vong của Hà Lan không rõ. Tuy nhiên, trận chiến đã được đặc trưng với tỷ lệ đào ngũ cao trong quân địa phương.
Đầu hàng.
Sau khi quân Hà Lan tại Java đầu hàng vào ngày 8 tháng 3, quân đội đang cầm cự ở Borneo cũng bắt đầu ra hàng. Nhóm của Michielsen đã tự giao nộp mình cho người Nhật ở Tandjoeng sau thông báo đầu hàng. Sau khi cầm cự ở Poeroektjaoe một thời gian, nhóm của van der Poel đầu hàng quân Nhật tại Banjarmasin vào ngày 14 tháng 3. Người Nhật sau đó chỉ thị cho ông, cùng với Đại uý van der Epen, người đã đến Banjarmasin cùng một lúc, để hướng dẫn quân đội sẽ đón Thống đốc Haga ở Poeroektjaoe. Thống đốc Haga bị bắt vào ngày 17 tháng 3. Vào ngày 14 tháng 12 năm 1943, ông qua đời trong tù sau khi bị tra tấn vì âm mưu khôi phục sự cai trị của Hà Lan ở Banjarmasin thông qua một cuộc nổi dậy vũ trang, trong cái được gọi là "Âm mưu Haga".
Sân bay Kotawaringin.
Các đơn vị ở lại sân bay Kotawaringin được tăng cường với tiểu đoàn 2/15 Punjab dưới sự chỉ huy của Trung tá M.C. Lane đã kiệt sức từ Miri & Kuching. Vào ngày 24 tháng 2, một con tàu chở hàng tiếp tế đã đến để cung cấp thêm lương thực dự trữ cho lực lượng phòng thủ. Mãi cho đến cuối tháng 3-đầu tháng 4, người Nhật cuối cùng đã đến Kotawaringin và đánh bại quân phòng thủ.
Gỉai phóng.
Banjarmasin vẫn nằm dưới sự chiếm đóng của Nhật Bản cho đến tháng 9 năm 1945, khi thành phố này được giải phóng bởi Tiểu đoàn 2/31 thuộc Sư đoàn Bộ binh 7 Úc.
|
Danh sách các bộ thuộc nhánh Động vật đối xứng hai bên
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809485
|
Danh sách các bộ Động vật đối xứng hai bên bao gồm nhánh Bilateria thuộc phân giới Eumetazoa, chia làm 4 siêu ngành, Deuterostomia, ba siêu ngành trong đơn vị phân loại Protostomia: Ecdysozoa và 2 siêu ngành trong đơn vị phân loại Spiralia, Platyzoa và Lophotrochozoa.
Liên ngành Deuterostomia.
Ambulacraria.
Ngành Hemichordata.
Không bộ, có một chi và một loài "Planctosphaera pelagica"
Phân thứ giới Protostomia.
Liên ngành Ecdysozoa.
Cycloneuralia (Không phân hạng).
Scalidophora (Không phân hạng).
Ngành Kinorhyncha.
Không có lớp, chỉ có 2 bộ, được gọi là rồng bùn, được tìm thấy phổ biến ở bùn và cát.
Ngành Loricifera.
Không có lớp, chỉ có một bộ Nanaloricida
Spiralia (unranked).
Gnathifera (unranked).
Phylum Gnathostomulida.
No classes
Phylum Micrognathozoa.
Some dispute here with Micrognathozoa as the class and Limnognathia as the order
Platytrochozoa (Không phân hạng).
Mesozoa (Không phân hạng).
Ngành Dicyemida.
Không có lớp, bộ, chỉ có 3 họ Conocyemidae, Dicyemidae và Kantharellidae.
Ngành Monoblastozoa.
Không có lớp, bộ, chỉ có một Salinellidae.
Ngành Orthonectida.
Không có lớp, bộ, chỉ có hai họ Pelmatosphaeridae và Rhopaluridae.
Rouphozoa (Không phân hạng).
Phylum Gastrotricha.
Không có lớp.
Liên ngành Lophotrochozoa.
Kryptotrochozoa (Không phân hạng).
Không lớp, bộ, chỉ có một họ Phoronidae.
Không có lớp, bộ, chỉ phân làm 4 họ Barentsiidae, Loxokalypodidae, Loxosomatidae và Pedicellinidae.
|
Trần Vĩnh Quý
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809486
|
Trần Vĩnh Quý (; ngày 14 tháng 2 năm 1915 – ngày 26 tháng 3 năm 1986) là nông dân và chính khách Trung Quốc. Dù là một nông dân mù chữ nhưng ông từng là Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc và Phó Thủ tướng Quốc vụ viện từ năm 1975–1980 nhờ sự công nhận của Mao Trạch Đông đối với thành tựu của ông trong Cách mạng Văn hóa, khi biến Đại Trại thành một hình mẫu cho nền nông nghiệp xã hội chủ nghĩa.
Theo hồ sơ chính thức của huyện Tích Dương tỉnh Sơn Tây, từ năm 1967–1979, dưới sự lãnh đạo của Trần Vĩnh Quý, toàn huyện đã hoàn thành 9.330 dự án xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp và thủy lợi, mở rộng tổng diện tích đất canh tác thêm 98.000 mẫu Anh (khoảng 16.144 mẫu Anh), nhưng ở mức tổn thất 1.040 thương vong trong đó có 310 người chết.
Sau khi Đặng Tiểu Bình khởi xướng công cuộc Cải cách và Mở cửa vào cuối thập niên 1970, Trần Vĩnh Quý dần đánh mất quyền lực và quyết định từ chức vào tháng 9 năm 1980. Ông qua đời vì ung thư phổi ở Bắc Kinh năm 1986.
Thân thế lúc đầu.
Trần Vĩnh Quý quê ở huyện Tích Dương tỉnh Sơn Tây chào đời trong một gia đình nông dân nghèo khổ vào khoảng năm 1915 (tự báo cáo là ngày 14 tháng 2 năm 1915, Tết Nguyên Đán năm 1915), khi ông mới 6 tuổi thì cả nhà chuyển đến thôn Đại Trại rồi ít lâu sau cha ông treo cổ tự vẫn. Hoàn cảnh gia đình túng quẫn buộc Trần Vĩnh Quý phải lao đầu vào làm thuê làm mướn từ khi còn rất trẻ để kiếm sống, vì vậy ông chưa bao giờ được học hành chính quy.
Năm 1942, khi cuộc chiến chống du kích cộng sản gia tăng ở tỉnh Sơn Tây, nơi có huyện Tích Dương bao gồm Đại Trại, quân Nhật siết chặt các làng địa phương và Trần Vĩnh Quý được bầu làm đại diện Đại Trại trong Hiệp hội Chấn hưng châu Á bù nhìn, nhưng đã từ chức và rời làng để rồi bị giam giữ trong trại tập trung vào năm 1943–1944. Chính vì vậy mà ông đã bị giam giữ trong một thời gian ngắn trong vai trò là cộng tác viên bị nghi ngờ nhưng ít lâu sau khi Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh vào ngày 15 tháng 8 năm 1945 thì mới được trả tự do.
|
Trần Vĩnh Quý
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809486
|
Sự nghiệp chính trị.
Sau năm 1949.
Trần Vĩnh Quý hăng hái tham gia "phong trào cải cách ruộng đất" chống địa chủ và gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1948, từ đó trở đi một thời gian rất dài từng công tác ở quê nhà Đại Trại. Thời kỳ mới giải phóng cả nước năm 1949, ông đảm nhiệm các chức vụ Ủy viên sản xuất thôn, Bí thư Chi bộ thôn và Chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp thôn v.v... Sau khi thành lập công xã Đại Trại, ông được cử làm Bí thư Chi bộ Đảng đại đội kế nhiệm Giả Tiến Tài, sau đó được bầu làm Phó Bí thư Đảng ủy Công xã Đại Trại.
Thời kỳ Đại Trại.
Trần Vĩnh Quý đã lãnh đạo một phong trào nông dân để biến môi trường khắc nghiệt xung quanh Đại Trại thành một môi trường thuận lợi cho nông nghiệp. Kế hoạch tỏ ra thành công và sản lượng ngũ cốc sau đó tăng đều đặn, tăng từ 237 kg/mẫu năm 1952 lên 774 kg/mẫu năm 1962. Quá trình này bị dừng lại một cách tàn nhẫn bởi hàng loạt thiên tai vào năm 1963, đã phá hủy 180 mẫu đất canh tác cũng như một số tòa nhà của đại đội sản xuất. Bất chấp sự thất bại này, đại đội vẫn từ chối bất kỳ sự giúp đỡ nào từ nhà nước và quyết tâm hoàn thành các nỗ lực tái thiết trong vòng một năm. Vụ việc mau chóng thu hút sự chú ý của Mao Trạch Đông đến mức ông đã có lời tuyên bố rằng Đại Trại là một tấm gương đáng để noi theo trong lĩnh vực tự lực cánh sinh, đồng thời kêu gọi nhân dân cả nước hưởng ứng phong trào "nông nghiệp học Đại Trại". Công xã Đại Trại dưới sự lãnh đạo của Trần Vĩnh Quý và một số cán bộ khác đã giành được những thành tựu nhất định về mặt cải tạo tự nhiên và phát triển sản xuất, trở thành một điển hình tiên tiến trên mặt trận nông nghiệp của Trung Quốc, nhiều lần được các cấp huyện địa khu và tỉnh Sơn Tây khen thưởng, nhờ vậy mà Trần Vĩnh Quý được bầu làm chiến sĩ thi đua nông nghiệp toàn quốc. Trần Vĩnh Quý cũng nhờ đó đã trở thành nhân vật nổi tiếng khắp toàn quốc, liên tục giữ các chức vụ quan trọng ở huyện Tích Dương, địa khu Tấn Trung, tỉnh Sơn Tây và Trung ương Đảng Quốc vụ viện.
|
Trần Vĩnh Quý
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809486
|
Cách mạng Văn hóa.
Khi Cách mạng Văn hóa bắt đầu vào giữa năm 1966, mô hình Đại Trại thậm chí còn được nhấn mạnh nhiều hơn nữa. Trong cuộc gặp với Thủ tướng Quốc vụ viện Chu Ân Lai, Trần Vĩnh Quý được thủ tướng khuyến khích thành lập tổ chức hồng vệ binh của riêng Đại Trại, sau này được thành lập với tên gọi "Dã chiến quân Tấn Trung". Năm 1967, ông được cử giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Cách mạng tỉnh Sơn Tây; cùng năm đó, Tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương đã thông qua "năm khuyến nghị" của ông để tiến hành Cách mạng Văn hóa ở nông thôn theo như công bố trong Văn kiện Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc số 339. Tại Đại hội Đảng thứ IX tháng 4 năm 1969, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1971, ông được cử làm Bí thư Huyện ủy Tích Dương (từ sau năm 1961 liên tục là Ủy viên Dự khuyết Huyện ủy Tích Dương). Cùng năm đó được cử giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Sơn Tây, về sau còn kiêm nhiệm chức Bí thư Địa khu ủy Tấn Trung. Một lần nữa ông được Mao Trạch Đông chấp thuận vào năm 1972 khi kiên quyết phản đối yêu cầu của Chủ nhiệm Ủy ban Cách mạng tỉnh Sơn Tây Tạ Chấn Hoa hạ cấp đại đội sản xuất Đại Trại xuống đội sản xuất. Tháng 8 năm 1973, Trần Vĩnh Quý được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X và chuyển đến Bắc Kinh.
Sau Cách mạng Văn hóa.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI tháng 8 năm 1977 tiếp tục giữ các chức vụ nói trên. Bên cạnh đó, ông còn là đại biểu Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc các khóa III, IV, V. Trong hội nghị lần thứ nhất Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa IV tháng 4 năm 1975 và Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa V tháng 3 năm 1978 (cùng năm ông sang thăm Campuchia Dân chủ) liên tục được cử giữ chức Phó Thủ tướng Quốc vụ viện.
|
Trần Vĩnh Quý
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809486
|
Sau khi ông được cử giữ chức Phó Thủ tướng, biết rằng bản thân mình phê duyệt các văn kiện rất khó khăn mà ưu thế của bản thân lại chỉ có quen thuộc ở cơ sở, do đó tháng 5 năm 1975 ông viết cho Mao Trạch Đông một bức thư đề nghị một phần ba thời gian là ở Tích Dương nắm điểm, một phần ba thời gian đi khắp đất nước, còn một phần ba thời gian ở Bắc Kinh. Ông hiểu rõ mình là nhờ có Đại Trại và cái nền Tích Dương mà được lên, tác dụng của ông là lối thông trên và dưới lên trên, bởi vậy ông nghĩ ra cách lấy cần cù bù thông minh, yêu cầu của ông được Mao Trạch Đông chuẩn y, do đó trong thời kỳ làm Phó Thủ tướng ông có rất ít thời gian ở Bắc Kinh. Tháng 3 năm 1975, ông dẫn đầu một phái đoàn chính phủ đến México; rồi ít lâu vào tháng 9 cùng năm, ông có bài phát biểu quan trọng tại Hội nghị nông nghiệp học Đại Trại lần thứ nhất, dưới sự chủ trì của nhà lãnh đạo tối cao tiếp theo Hoa Quốc Phong. Chịu trách nhiệm về chính sách nông nghiệp, ông đề nghị tỉnh Cam Túc áp dụng phương pháp tương tự như Đại Trại đã sử dụng, nhưng điều này không mang lại kết quả như mong đợi.
Mất chức Phó Thủ tướng.
Dù đang là Ủy viên Bộ Chính trị thế nhưng quan điểm của ông ngày càng mâu thuẫn với quyền lực đang lên của Đặng Tiểu Bình: khi Đặng chuyển sang củng cố vị thế của mình, Trần Vĩnh Quý đề xuất bãi bỏ các mảnh đất tư nhân, gọi chúng là "cái đuôi của chủ nghĩa tư bản". Việc ông từ chối ủng hộ phe cánh của Đặng tiến hành chiến dịch "thật sự cầu thị" nhằm bác bỏ Cách mạng Văn hóa ở Đại Trại đã khiến ông mất đi chức vụ lãnh đạo đảng ủy Tấn Trung và Tích Dương vào năm 1979; ông bị miễn nhiệm chức Phó Thủ tướng Quốc vụ viện vào tháng 9 năm 1980 trong một cuộc cải tổ chính phủ (khi Hoa Quốc Phong mất chức thủ tướng), và không được bầu lại vào Trung ương Đảng năm 1982.
Cuối đời.
Năm 1983, chính phủ thể theo ý nguyện của Trần Vĩnh Quý đã cử ông tới một nông trường ngoại ô Bắc Kinh làm cố vấn nông nghiệp.
|
Trần Vĩnh Quý
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809486
|
Ngày 26 tháng 3 năm 1986, Trần Vĩnh Quý mắc bệnh ung thư phổi qua đời ở Bắc Kinh. Sau khi ông mất, gia đình làm theo ý nguyện của ông đưa tro về rải lên trên khắp đất Đại Trại.
Gia đình.
Trần Vĩnh Quý kết hôn với người vợ đầu tiên Lý Hổ Ni (李虎妮; 1926–1965) vào năm 1941, sau bà chết vì bệnh năm 1965. Lý Hổ Ni sinh một con trai là Trần Minh Châu và Trần Minh Hoa là con gái nuôi của bà. Một năm sau khi Lý Hổ Ni qua đời vì bạo bệnh, ông kết hôn với Tống Ngọc Lâm (宋玉林; 1927–2018) và có với nhau một người con trai tên Trần Minh Lượng, Tống còn có một cậu con trai tên Trần Minh Thiện với người chồng cũ Vương Kim Khôi (王金魁).
|
Trần Tích Liên
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809487
|
Trần Tích Liên (; ngày 4 tháng 1 năm 1915 – ngày 10 tháng 6 năm 1999) là sĩ quan quân đội và chính khách, thượng tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Là nhân vật theo tư tưởng Mao Trạch Đông nổi bật từng nắm giữ những chức vụ rất quan trọng cả trong lĩnh vực quân sự và chính trị.
Trần Tích Liên đã tham dự nhiều trận đánh trong chiến tranh Trung-Nhật và Nội chiến Quốc-Cộng lần thứ hai, ông giữ chức Thị trưởng kiêm Bí thư thứ nhất Thành ủy Trùng Khánh từ năm 1949 đến năm 1950 và Tư lệnh Pháo binh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc từ năm 1950 đến năm 1959. Sau đó, ông nắm quyền chỉ huy Quân khu Thẩm Dương (1959–1973) và đặc biệt là Quân khu Bắc Kinh (1973–1980). Ngoài ra, ông còn là Ủy viên Bộ Chính trị (1969–1980) và Phó Thủ tướng Quốc vụ viện (1975–1980).
Sau khi Mao Trạch Đông qua đời, ông là một trong những người ủng hộ quan trọng nhất của Hoa Quốc Phong, cùng với Uông Đông Hưng và Lý Tiên Niệm. Kể từ lúc Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền thì do ông thuộc phe cánh Hoa Quốc Phong nên bị mất chức nhưng vẫn được phép nghỉ hưu sống bình yên cho đến cuối đời.
Tiểu sử.
Hoạt động cách mạng lúc đầu.
Trần Tích Liên quê quán huyện Hồng An tỉnh Hồ Bắc, Năm lên 3 tuổi thì mồ côi cha, mẹ đành dẫn ông cùng hai chị gái đi ăn xin nhằm mong qua ngày đoạn tháng, song vẫn khó duy trì được sinh kế. Đến khi ông mười hai, mười ba tuổi phải đi ở chăn bò cho nhà địa chủ, sau do xung đột với địa chủ nên ông lập tức bỏ việc chăn bò lại bám theo mẹ ăn xin tiếp. Tháng 4 năm 1929, Trần Tích Liên mới 14 tuổi từ biệt mẹ mình tham gia đội du kích ở quê nhà, rồi sau xin gia nhập Hồng quân Công Nông Trung Quốc. Năm 1930, ông tình nguyện gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản Trung Quốc, cùng năm đó được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc.
|
Trần Tích Liên
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809487
|
Trong giai đoạn cải cách ruộng đất, Trần Tích Liên từng trải qua các chức vụ cán bộ chính trị chỉ huy Trung đoàn 30 Sư đoàn 10 Quân đoàn 4 Hồng quân, Chính trị viên, Chính ủy Tiểu đoàn Trung đoàn 263 Sư đoàn 88, Phó Sư đoàn trưởng, Chính ủy Sư đoàn 11 Quân đoàn 4 Hồng quân, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 10 và có lần từng tham gia cuộc đấu tranh chống bao vây tiêu diệt ở căn cứ địa cách mạng Ngạc Dự Vãn và Xuyên Thẩm, rồi còn tham gia vào cuộc Vạn lý Trường chinh.
Kháng chiến chống Nhật và nội chiến.
Thời kỳ kháng chiến chống Nhật, Trần Tích Liên đảm nhận các chức vụ Trung đoàn trưởng, Lữ đoàn phó, Lữ đoàn trưởng thuộc Lữ đoàn 38 Sư đoàn 129 Bát Lộ quân, tư lệnh quân khu Quân đoàn 3 Quân khu Thái Hà, tư lệnh Trung đội Thái Hà. Tháng 10 năm 1937, chỉ huy Trung đoàn 769 tập kích ban đêm vào sân bay quân sự của quân đội Nhật ở huyện Đại tỉnh Sơn Tây. Sau đó, ông còn tham gia vào các trận chiến đấu núi Thần Đầu Lĩnh, Hưởng Đường hiệu ở đông nam đất Tấn. Năm 1940, ông tham gia trận Đại chiến Bách Đoàn vang dội trong và ngoài nước. Năm 1943, ông được về Diên An vào học Trường Đảng Trung ương.
Thời kỳ chiến tranh giải phóng, ông giữ các chức vụ Tư lệnh Trung đội 3 Dã chiến quân Tấn Ký Lỗ và Tư lệnh Quân khu Tấn Ký Lỗ Dự, Tư lệnh Binh đoàn 3 Quân đoàn Dã chiến số 2, từng tham gia các chiến dịch Thượng Đảng, Hàm Đan, Tây Nam Lỗ. Trong thời gian quân đoàn dã chiến kéo đến núi Đại Biệt Sơn, bộ đội mở ra khu giải phóng mới Vãn Tây, sau đó dẫn Binh đoàn 3 tham gia chiến dịch Hoài Hải vượt sông và chiến dịch giải phóng vùng Tây Nam rộng lớn. Năm 1955, khi được phong quân hàm thượng tướng từng được trao tặng 8 huân chương một Huân chương Độc lập Tự do hạng nhất và một Huân chương Giải phóng hạng nhất.
Sự nghiệp chính trị kể từ sau năm 1949.
Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập vào năm 1949.
|
Trần Tích Liên
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809487
|
Trần Tích Liên từng giữ các chức vụ Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quân quản thành phố Trùng Khánh kiêm Tư lệnh Quân khu Xuyên Đông, Ủy viên Ủy ban Quân chính Tây Nam kiêm Thị trưởng thành phố Trùng Khánh, Ủy viên Cục Tây Nam Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Năm 1950, được điều giữ chức Tư lệnh Pháo binh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, sau đó kiêm chức Viện trưởng Viện Pháo binh. Năm 1956, ông được bầu là Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa VIII năm 1968 trong Hội nghị Trung ương XII khóa 8 được bầu bổ sung thành Ủy viên Trung ương. Năm 1959, được cử giữ chức Tư lệnh Quân khu Thẩm Dương. Năm 1961, được cử là Bí thư Ban Bí thư Cục Đông Bắc Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Dưới thời Đại Cách mạng Văn hóa từng giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Cách mạng tỉnh Liêu Ninh kiêm Tư lệnh Quân khu Thẩm Dương, Tư lệnh Quân khu Bắc Kinh, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Từ tháng 1 năm 1975, liên tục trong hai nhiệm kỳ là Phó Thủ tướng Quốc vụ viện.
Đại hội thứ IX Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 4 năm 1969, Đại hội thứ X Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 8 năm 1973, tại Đại hội Đảng thứ XI tháng 8 năm 1977, liên tục được bầu vào Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1989, Trần Tích Liên được miễn chức Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Quốc vụ viện, Tư lệnh Quân khu Bắc Kinh. Từ năm 1982 đến năm 1987 qua Đại hội lần thứ XII và XIII Đảng Cộng sản Trung Quốc được bầu làm Ủy viên Thường vụ Ủy ban Cố vấn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Trần Tích Liên qua đời tại Bắc Kinh vào ngày 10 tháng 6 năm 1999, hưởng thọ 84 tuổi.
Gia đình.
Người vợ đầu tiên của Trần Tích Liên tên gọi Lật Cách (栗格), quê Mễ Chi tỉnh Thiểm Tây, tên thật là Lê Chi Tuệ (黎芝慧), tốt nghiệp Đại học Quân chính Kháng Nhật và kết hôn vào ngày 16 tháng 12 năm 1942. Mùa thu năm 1948, bà qua đời vì bạo bệnh. Người vợ thứ hai là Vương Tuyền Mai (王璇梅) được Trần Canh giới thiệu và hai người kết hôn vào tháng 8 năm 1949.
|
Trần Tích Liên
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809487
|
Bà là em vợ Trần Canh tên Vương Căn Anh (王根英). Từng tham gia vào công tác phiên dịch tiếng Nga trong suốt một thời gian dài.
|
Ngô Quế Hiền
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809488
|
Ngô Quế Hiền (; sinh năm 1938) là nữ Phó Thủ tướng đầu tiên của Trung Quốc từ tháng 1 năm 1975 đến tháng 9 năm 1977. Ban đầu là công nhân tại một nhà máy bông thuộc sở hữu nhà nước ở Hàm Dương, bà được Chủ tịch Mao Trạch Đông bổ nhiệm sau khi trở thành phó giám đốc nhà máy và là Ủy viên Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Tiểu sử.
Thân thế và nghề nghiệp lúc đầu.
Ngô Quế Hiền chào đời tại huyện Củng tỉnh Hà Nam trong một gia đình nông dân đông con gồm chín anh chị em. Năm 1943, khi đó bà vừa tròn 5 tuổi đã phải theo cha chạy trốn nạn đói từ Hà Nam đến thị trấn Khướu tỉnh Thiểm Tây. Do một mình cha bà làm không đủ nuôi sống cả nhà nên bà từ nhỏ đã phải nhặt than, kiếm rau dại phụ giúp gia đình kiếm ăn qua ngày.
Năm 1951, Nhà máy Bông sợi số 1 của Trung Quốc ở vùng Tây Bắc thuộc thành phố Hàm Dương tỉnh Thiểm Tây tuyển công nhân. Ngô Quế Hiền lúc đó mới 13 tuổi đã được tuyển vào làm công nhân kéo sợi. Luật lao động trẻ em vào thời điểm đó quy định những người được tuyển dụng phải ít nhất 16 tuổi, vì vậy bà đã nói dối về tuổi của mình và bắt đầu làm việc tại nhà máy này. Bà chăm chỉ làm việc liên tục nhiều năm đều được bầu là công nhân năm tốt, lao động tiên tiến và chiến sĩ thi đua. Năm 1955, bà gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản Trung Quốc. Năm 1958, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc khi vừa tròn 20 tuổi. Năm 1963, chiến sĩ thi đua toàn quốc Đại biểu Đại hội 8 Đảng Cộng sản Trung Quốc là Triệu Mộng Đào qua đời, Ngô Quế Hiền tiếp tục được cử làm tổ trưởng tiểu tổ Triệu Mộng Đào nổi tiếng khắp cả nước.
Sự nghiệp chính trị thời Cách mạng Văn hóa.
Sau năm 1968, Ngô Quế Hiền được cử làm Chủ nhiệm Ủy ban Cách mạng Nhà máy Bông sợi số 1, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Cách mạng thành phố Hàm Dương. Tháng 4 năm 1969, Ngô Quế Hiền được bầu làm Đại biểu Đại hội Đảng lần thứ IX và còn được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Tháng 1 năm 1971, Ngô Quế Hiền được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Thiểm Tây.
|
Ngô Quế Hiền
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809488
|
Năm 1972, bà được cử giữ chức Ủy viên Thường vụ kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Cách mạng tỉnh Thiểm Tây. Tháng 8 năm 1973, tại Đại hội X Đảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập ở Bắc Kinh, bà được bầu làm Ủy viên Dự khuyết Bộ Chính trị cùng năm đó giữ các chức Phó Bí thư Đảng ủy Nhà máy Bông sợi số 1 Tây Bắc, Phó Bí thư Tỉnh ủy Thiểm Tây.
Tháng 1 năm 1975 tại hội nghị lần thứ nhất Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa IV, Ngô Quế Hiền được cử giữ chức Phó Thủ tướng Quốc vụ viện phụ trách Bộ Y tế, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Tổng Công đoàn.
Sau khi từ chức Phó Thủ tướng Quốc vụ viện.
Tháng 8 năm 1977, Ngô Quế Hiền tiếp tục được bầu vào Trung ương khóa XI. Tháng 9 cùng năm, bà đề nghị Trung ương Đảng cho mình thôi chức Phó Thủ tướng Quốc vụ viện để trở lại Thiểm Tây làm việc ở cơ sở và được phê chuẩn. Trước ngày Quốc khánh năm 1977, Ngô Quế Hiền về tới Nhà máy Bông sợi số 1 Đông Bắc. Bà chủ động yêu cầu trở lại làm việc ở tiểu tổ Triệu Mộng Đào, sau đó làm Bí thư Chi bộ Đảng phân xưởng Nhà máy Bông sợi số 1 Đông Bắc.
Tháng 6 năm 1981, bà lại được bầu vào làm Phó Bí thư Đảng ủy Nhà máy Bông sợi số 1 Tây Bắc. Năm 1988, Ngô Quế Hiền lại được bầu làm đại biểu của ngành dệt tham dự Đại hội Đại biểu Đảng lần thứ 7 tại Thiểm Tây. Sau năm 1988, Ngô Quế Hiền rời khỏi Nhà máy Bông sợi số 1 Tây Bắc thành phố Hàm Dương đến công tác tại Thâm Quyến, từng lần lượt giữ các chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Sản phẩm Dệt Hồng Hoa, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Mậu dịch Xương Phạm và từng công tác với Tập đoàn Mậu dịch Thành phố Thâm Quyến.
|
Ngô Quế Hiền
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809488
|
Năm 1995, trước khi nghỉ hưu và rút khỏi mọi chức vụ xã hội, chỉ giữ lại có chức danh Hội trưởng Hội Xúc tiến Thâm Quyến Chấn hưng Thiểm Tây nhằm mục đích tăng cường sự hợp tác và giao lưu kinh tế Thâm Quyến và Thiểm Tây, cống hiến cho sự thúc đẩy phát triển kinh tế của Thiểm Tây vốn là tâm nguyện lớn nhất của những năm còn lại của đời bà.
|
Mega Man X2
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809491
|
Mega Man X2, được phát hành tại Nhật Bản với tên Rockman X2 (tiếng Nhật: ロックマンX2; Hepburn: "Rokkuman Ekkusu Tsū"), là một trò chơi điện tử nhập vai được phát triển bởi Capcom cho hệ máy chơi game Super Nintendo Entertainment System (SNES). Trò chơi được ra mắt thị trường tại Nhật Bản vào ngày 16 tháng 12 năm 1994 và ở Bắc Mỹ và các khu vực PAL vào năm 1995. Đây là phần hậu truyện trực tiếp của Mega Man X, được phát hành một năm trước đó. Mega Man X2 diễn ra trong tương lai gần, khi con người cố gắng chung sống hòa bình với những người máy thông minh được gọi là "Reploids", tuy nhiên một số Reploids có xu hướng trở thành các "Maverick" bạo lực và đe dọa an ninh toàn cầu. Cốt truyện kể về nhân vật chính X, một "Maverick Hunter" ưu việt, người đã cứu cả nhân loại bằng việc đánh bại tên Sigma xấu xa vào sáu tháng trước đó (các sự kiện trong phần một). Một nhóm bộ ba Mavericks xuất hiện, chúng tự xưng là "X-Hunters" và có ý định tiêu diệt X bằng cách dụ anh ta với các bộ phận cơ thể của Zero, một đồng đội cũ, người đã hy sinh trong cuộc chiến với một thuộc hạ của Sigma là Vile.
Mega Man X2 có nhiều yếu tố nền tảng hành động giống như phần đầu tiên, theo lối chơi truyền thống của loạt Mega Man gốc. Người chơi có nhiệm vụ hoàn thành một loạt gồm tám màn chơi bằng cách tiêu diệt kẻ thù, tăng sức mạnh và giành được các vũ khí đặc biệt của trùm của mỗi màn. Giống như Mega Man X đầu tiên, trò chơi này cho phép người chơi nhảy bám vào các bức tường và có thể thu thập các mảnh áo giáp có khả năng đặc biệt. Mega Man X2 cũng có đồ họa tương tự như bản tiền nhiệm, nhưng Capcom đã thêm vào chip cải tiến Cx4 trong hộp mực để cho phép một số hiệu ứng khung dây 3D. Nhóm phát triển đã được hướng dẫn sử dụng công nghệ này nhiều nhất có thể khi thiết kế trò chơi.
Cách trình bày và lối chơi của Mega Man X2 đã giúp trò chơi nhận được sự đón nhận tích cực từ giới phê bình. Tuy nhiên, những người đánh giá đã thất vọng vì thiếu những thay đổi so với bản gốc Mega Man X. Trò chơi kể từ đó đã được phát hành trên nhiều nền tảng khác nhau.
Nội dung.
|
Mega Man X2
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809491
|
Nội dung.
Mega Man X2 lấy bối cảnh vào một năm không rõ ràng thuộc thế kỷ 22 ("21XX"), trong đó thế giới có cả loài người và các sinh vật máy móc được gọi là "Reploids" sinh sống và làm việc cùng nhau. Các Reploid được sản xuất hàng loạt dựa trên một người máy hình có cơ cấu phức tạp với ý thức con người tên là X, được nhà khảo cổ học là tiến sĩ Cain phát hiện trong đống đổ nát của một phòng thí nghiệm vào nhiều tháng trước đó. Được tạo ra với trí thông minh ở cấp độ con người và ý chí tự do, một số Reploid có xu hướng phá hoại và hoạt động tội phạm, chúng được chính phủ đặt tên là các "Mavericks". Một lực lượng quân sự được gọi là "Maverick Hunters" được thành lập để ngăn chặn hoạt động của các Maverick. Các sự kiện của trò chơi Mega Man X đầu tiên kéo theo cuộc chiến của thợ săn X để ngăn chặn Sigma, một thủ lĩnh Maverick muốn hủy diệt loài người. X chiến thắng và hoàn thành nhiệm vụ của mình, nhưng phải trả giá bằng mạng sống của cộng sự Zero.
Sáu tháng sau vụ việc, X trở thành người đứng đầu Maverick Hunters. X theo dõi một "Maverick được sản xuất" mang biểu tượng của Sigma đến một nhà máy Reploid, nơi anh ta phát động một cuộc tấn công tổng lực. Tuy nhiên, bất chấp cái chết của Sigma và những nỗ lực vượt trội của X, cuộc nổi dậy của Maverick vẫn tiếp tục. Ba Mavericks mạnh mẽ—Serges, Agile và Violen—thành lập một nhóm gọi là "X-Hunters" và giành quyền kiểm soát khu vực Bắc Cực. Trong khoảng thời gian sau sự sụp đổ của lâu đài Sigma và trước cuộc nổi dậy bất ngờ của bộ ba X-Hunters, Serges đã thu thập các bộ phận cơ thể của Zero. Sau cuộc đột kích nhà máy, X được giao nhiệm vụ tìm kiếm và tiêu diệt tám thủ lĩnh Maverick (các thuộc hạ của X-Hunters) trên một lục địa rộng lớn ngay phía nam Bắc Cực. Ngay sau đó, X-Hunters liên lạc với Maverick Hunters và chế nhạo họ bằng cơ thể của Zero. Các thành viên X-Hunters xuất hiện tại các màn ẩn trong số tám địa điểm của các Maverick và cố gắng dụ X ra ngoài, mỗi người sẽ đưa cho nhân vật chính một mảnh của Zero nếu X có thể đánh bại họ.
Câu chuyện hơi khác một chút tùy thuộc vào việc người chơi có thu thập cả ba phần của Zero hay không trước khi đến pháo đài X-Hunter ở Bắc Cực.
|
Mega Man X2
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809491
|
Nếu người chơi thu thập tất cả các bộ phận, tiến sĩ Cain tuyên bố rằng ông ta sẽ cố gắng lắp ráp lại và kích hoạt Zero bằng chip điều khiển ban đầu của mình. Nếu người chơi không thành công, X được tiến sĩ Cain thông báo rằng X-Hunters đã tấn công trụ sở của Maverick Hunter và đánh cắp con chip điều khiển. Ngay sau khi X tiêu diệt hết các thành viên X-Hunters, Sigma lộ diện và tiết lộ mình đứng sau âm mưu này. X rời khỏi tòa nhà đang phát nổ và đi theo Sigma đến khu vực Central Computer, một trong tám địa điểm mà anh ta đã đến trước đó. Nếu người chơi không thu thập được tất cả các bộ phận của Zero, X sẽ tìm thấy cả Sigma và Zero mới được xây dựng lại đang đợi anh ta ở giữa sàn đấu. X sau đó phải đánh bại Zero trong trận chiến. Nếu người chơi thu thập tất cả các bộ phận, thay vào đó, một bản sao màu xám của Zero sẽ đi cùng với Sigma; Zero thực sự sau đó xuất hiện ở bên phe X và tiêu diệt bản sao đó. Kết quả của cả hai sự kiện đều là Sigma rút lui và Zero tạo ra một lối đi cho phép X truy đuổi hắn. Sau khi X đánh bại Sigma, hắn ta tiết lộ với X rằng hình dạng thật của hắn tồn tại dưới dạng virus máy tính và chế nhạo X rằng hắn sẽ trở lại. Tuy nhiên, Sigma đặt câu hỏi về sự trung thành của Zero với loài người, nói rằng Zero là "Tác phẩm cuối cùng của Ngài tiến sĩ". X đào thoát khỏi pháo đài để gặp Zero bên ngoài, và cả hai chứng kiến pháo đài X-Hunters sụp đổ.
Lối chơi.
Mega Man X2 là trò chơi nền tảng hành động giống như phần Mega Man X đầu tiên và sê-ri Mega Man gốc. Người chơi đảm nhận vai trò nhân vật chính X, người sẽ phải hoàn thành tám màn chơi bắt buộc theo một thứ tự bất kỳ do người chơi chọn. Các khả năng ban đầu của nhân vật chính bao gồm chạy, nhảy, bám tường, lao về phía trước để thực hiện những bước nhảy xa hơn và bắn khẩu súng "X-Buster" có thể nạp được năng lượng. Không giống như Mega Man X, nhân vật sẽ có khả năng phi thân ngay khi bắt đầu trò chơi, thay vì được nâng cấp nhờ phần áo giáp được tìm thấy trong buồng máy. Người chơi phải chiến đấu với vô số kẻ thù robot và một số mối nguy hiểm như hố không đáy, bẫy gai và dung nham.
|
Mega Man X2
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809491
|
Trên đường đi, người chơi có thể thu thập thêm sinh mạng và các vật phẩm giúp phục hồi sức khỏe và nạp năng lượng các vũ khí. Mỗi màn chơi có một con trùm chính ở điểm cuối; đánh bại trùm mỗi màn sẽ giúp người chơi nhận được một vũ khí đặc biệt có thể chuyển đổi và sử dụng trong bất kỳ các màn còn lại. Mọi tên trùm đều bị khắc chế trước vũ khí của tên khác, vì vậy người chơi có thể lập chiến lược theo thứ tự để hoàn thành các màn chơi.
Mega Man X2 có một số yếu tố bổ sung. Vào những thời điểm nhất định, người chơi có thể điều khiển các phương tiện bao gồm áo giáp cơ giới trong màn Wheel Gator và xe máy trong màn Overdrive Ostrich. Mỗi màn trong số tám màn có một lối ẩn để vào chiến đấu với các thành viên X-Hunters, nếu người chơi chọn màn đó khi một trong số chúng có mặt. Đánh bại một X-Hunter sẽ đem về cho người chơi một bộ phận của Zero, điều này có thể ảnh hưởng đến cốt truyện cuối trò chơi. Giống như Mega Man X đầu tiên, người chơi có thể tìm vị trí và nhận được các item ẩn. "Heart Tank" giúp kéo dài thanh sinh mệnh tối đa, "Sub Tank" giúp lưu trữ máu để sử dụng sau này và các buồng máy nâng cấp chứa các bộ phận áo giáp, cung cấp một loạt khả năng mới. Ví dụ, phần chân sẽ cho phép người chơi thực hiện một cú phi người trên không, trong khi phần găng tay X-Buster sẽ cho phép thực hiện hai loạt đạn nạp liên tiếp. Khi các điều kiện cụ thể được đáp ứng, một buồng máy đặc biệt sẽ được mở khóa ở một màn cuối của trò chơi, cho phép X thực hiện một cuộc tấn công gây sát thương tuyệt đối ("Shoryuken"), khiến địch thủ gần như bị tiêu diệt ngay lập tức. Chiêu đó được sử dụng bởi các nhân vật trong sê-ri Street Fighter của Capcom.
Phát triển.
Mega Man X2 được phát triển bởi một nhóm tại Capcom, bao gồm các nhà chế tác Kaji Hayato và Inafune Keiji, cũng như các nhà thiết kế Tsuge Sho và Tsuda Yoshihisa. Phần lớn những người thiết kế Mega Man X2 hoặc đã tham gia vào quá trình phát triển Mega Man X đầu tiên hoặc hoàn toàn mới đối với loạt game này. Inafune đã "bó tay" với phần thiết kế mỹ thuật trong Mega Man X2.
|
Mega Man X2
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809491
|
Thay vào đó, anh bắt đầu tập trung nhiều hơn vào việc lập kế hoạch, sản xuất và viết truyện cho phần mới hơn bắt đầu với tựa đề này. Theo Tsuda, quyết định của Inafune là cho Zero sống lại trong Mega Man X2, đơn giản vì anh ta nghĩ rằng sẽ thật "xấu hổ" nếu để Zero chết. Inafune cảm thấy đặc biệt gắn bó với Zero, một nhân vật mà anh ấy đã thiết kế và dự định ban đầu là nhân vật chính của loạt game cùng X. Mặc dù Inafune gần như đã từ bỏ nhiệm vụ thiết kế nhân vật của mình trong Mega Man X2, nhưng anh ấy đã từ chối việc cho phép bất kỳ thay đổi lớn nào đối với hình minh họa của Zero.
Các nhân vật phản diện của trò chơi, X-Hunters, đã xuất hiện dưới dạng một số hình minh họa trong sổ phác thảo của Inafune trước khi hoàn thành Mega Man X đầu tiên. Các tính năng thẩm mỹ của chúng được kết hợp để tạo cơ sở cho thiết kế của Sigma trong Mega Man X; ba thiết kế sau đó được bổ sung thành ba nhân vật riêng biệt cho phần tiếp theo. Nhóm đã lên kế hoạch bao gồm một X-Hunter thứ tư là nữ và sẽ gọi họ là "Four Guardians". Tuy nhiên, cả nhân vật này và dạng thứ hai của Violen đều bị cắt khỏi phiên bản cuối cùng của trò chơi do thiếu tài nguyên. Khi tạo ra tám con trùm Maverick cơ bản, nhóm phát triển đã cân nhắc việc tổ chức thu thập các bài gửi của người hâm mộ, công khai như họ đã làm với một số trò chơi trong sê-ri Mega Man gốc. Cuối cùng, họ quyết định chống lại ý tưởng này vì họ muốn thiết lập thêm sự tương phản giữa hai bộ truyện. Tsuge giải thích thêm, ""Với Mega Man, chúng tôi muốn người chơi cảm thấy quen thuộc nhất định với các nhân vật, nhưng ý định của chúng tôi là sê-ri X sẽ có một thế giới với cảm giác khắc nghiệt hơn. Chúng tôi không muốn những tên trùm xuất hiện trong đó." "Thế giới này là những sản phẩm dễ thương trong trí tưởng tượng của trẻ em, chúng tôi cần chúng trở thành những nhân vật vững chắc được tinh chỉnh bởi các chuyên gia.""
Mega Man X2 có một cải tiến trong hệ thống của Capcom được gọi là chip Cx4, bộ xử lý tín hiệu kỹ thuật số cho phép tạo ra các hiệu ứng đồ họa 3D hạn chế như xoay, phóng to và thu nhỏ các đối tượng khung dây.
|
Mega Man X2
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809491
|
Công ty đã tổ chức các cuộc họp hàng tuần để tận dụng tối đa tiềm năng của con chip trong Mega Man X2. Tsuge nhận xét rằng Cx4 là "Đối thủ lớn nhất cho đến nay" của họ vì họ được hướng dẫn sử dụng nó theo nhiều cách nhất có thể. Phần nhạc cho Mega Man X2 do Iwai Yuki sáng tác chính. Những người khác, như Yamada Ippo, đã tham gia một số quá trình sản xuất âm thanh của trò chơi. Tsuge muốn chủ đề sân khấu Flame Stag bị cắt khỏi trò chơi, nhưng bài hát vẫn được giữ lại do nó được các nhân viên phát triển yêu thích. Ngoài ra, chủ đề kết thúc của trò chơi ban đầu là bản nhạc trùm cuối của nó. Vì nhóm cảm thấy nó phù hợp hơn với phần nhạc kết thúc nên nó đã được thay đổi một chút và được tạo ra như vậy. Nhạc phim Mega Man X2, bao gồm các nhạc cụ gốc của SNES, được đưa vào như một phần của bộ sưu tập Capcom Music Generation: Rockman X1 ~ X6 do Suleputer phát hành vào năm 2003.
Phát hành.
Trò chơi được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 16 tháng 12 năm 1994 và ở Bắc Mỹ và các khu vực PAL vào năm 1995. Mega Man X2 được đưa vào Bộ sưu tập Mega Man X cho Nintendo GameCube và PlayStation 2 (PS2) ở Bắc Mỹ vào năm 2006. trò chơi cũng được phát hành trên điện thoại di động Nhật Bản vào năm 2008 và 2009 và trên toàn thế giới trên Virtual Console vào năm 2011 và 2012 cho Wii và vào năm 2013–2014 cho Wii U.
Năm 2006, Mega Man X2 được đưa vào như một phần của Bộ sưu tập Mega Man X Bắc Mỹ dành cho GameCube và PS2. Phiên bản dành cho điện thoại di động tương thích với i-mode và EZweb đã được cung cấp tại Nhật Bản từ năm 2008 đến 2009. Mega Man X2 được phát hành trên dịch vụ Wii Virtual Console ở Nhật Bản vào ngày 27 tháng 12 năm 2011, ở các vùng PAL vào ngày 31 tháng 5 năm 2012 và ở Bắc Mỹ vào ngày 14 tháng 6 năm 2012. Nó đã được chuyển cho PC, PlayStation 4, Xbox One và Nintendo Switch như một phần của Mega Man X Legacy Collection (Bộ sưu tập kỷ niệm Rockman X tại Nhật Bản) được phát hành vào ngày 24 tháng 7 năm 2018 trên toàn thế giới và ngày 26 tháng 7 năm 2018 tại Nhật Bản.
Tiếp nhận.
Sự đón nhận dành cho Mega Man X2 đa phần là tích cực nhờ đồ họa, âm thanh và mô hình lối chơi thú vị mà các nhà phê bình và người hâm mộ loạt game Mega Man đã mong đợi.
|
Mega Man X2
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809491
|
So sánh trò chơi với Mega Man X đầu tiên, Chris Nicolella của GamePro đã gọi Mega Man X2 là ""được cải thiện về mọi mặt"." Nicolella đã tóm tắt, "Chip C4 mới cung cấp năng lượng cho đồ họa vốn đã tuyệt vời, điều khiển cực nhạy hoàn hảo và các cấp độ chứa nhiều kẻ thù và vị trí ẩn hơn bất kỳ hộp MM nào." Dave Halverson của GameFan cũng thích các thiết kế cấp độ và đánh giá khả năng của áo giáp mới cũng như âm nhạc hay hơn Mega Man X ban đầu. Các biên tập viên của GameSpot là Christian Nutt và Justin Speer đã đánh giá cao nỗ lực của Capcom trong việc mở rộng Mega Man X2 so với phần tiền nhiệm của nó về mọi mặt, đặc biệt là câu chuyện mà họ gọi là "liên quan đến ... với các nhân vật hấp dẫn".
Next Generation đã đánh giá phiên bản SNES của trò chơi, xếp hạng nó 4 sao trên 5 sao và tuyên bố rằng "Đây là một sê-ri cần được chỉnh sửa nghiêm túc. Và bất chấp tất cả, anh chàng người máy màu xanh nhỏ bé vẫn vui vẻ giống như anh ta mọi khi."
Trò chơi đã lọt vào một số danh sách trò chơi hay nhất dành cho Super NES. IGN đã xếp Mega Man X2 là trò chơi hay thứ 31 trong danh sách 100 trò chơi SNES hàng đầu mọi thời đại. ""Tiếp theo màn ra mắt bùng nổ của sê-ri Mega Man X là một nhiệm vụ không hề nhỏ," trang web tóm tắt, "nhưng Mega Man X2 đã hoàn thành công việc một cách đáng ngưỡng mộ."" Vào năm 2018, Complex đã liệt kê trò chơi ở vị trí thứ 57 trong danh sách "Trò chơi Super Nintendo hay nhất mọi thời đại." Họ nhận xét rằng Mega Man X2 là một phần tiếp theo tuyệt vời của bản gốc, mặc dù không có nhiều thay đổi so với phần tiền nhiệm nhưng lối chơi thì tuyệt vời.
|
Charlotte Thérèse của Monaco
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809492
|
Charlotte Thérèse của Monaco ("Charlotte Thérèse Nathalie Grimaldi"; 19 tháng 3 năm 1719 – 1790) là Thân vương nữ của Monaco và là một nữ tu Công giáo.
Tiểu sử.
Thân vương nữ Charlotte Thérèse sinh ngày 19 tháng 3 năm 1719 tại Dinh thự Matignon ở Paris. Charlotte là con gái đầu lòng của Louise Hippolyte I của Monaco với Jacques I của Monaco. Năm 1724, Charlotte đính hôn với Frédéric Jules de La Tour d'Auvergne, tuy nhiên hôn ước bị hủy bỏ và Charlotte không bao giờ kết hôn.
Ngày 21 tháng 1 năm 1738, Charlotte tuyên hứa đời sống tu trì và trở thành một nữ tu tại Tu viện Thăm viếng. Đã có ghi nhận Charlotte đã rời khỏi tu viện vài lần để thăm gia đình.
Thân vương nữ Charlotte Thérèse qua đời năm 1790.
|
Quân khu Kharkov
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809505
|
Quân khu Kharkov () là một quân khu của Đế quốc Nga, nước Nga Xô viết và Liên Xô. Trong suốt lịch sử, trụ sở quân khu nằm tại thành phố Kharkov tại phần đông bắc của Ukraina.
Quân khu được thành lập lần đầu tiên vào năm 1864 thời Đế quốc Nga. Quân khu bị giải thể và lãnh thổ của nó được chuyển giao cho Quân khu Kiev và Quân khu Moskva vào năm 1888. Quân khu được Hồng quân tái lập dưới thời Nội chiến Nga vào tháng 1 năm 1919, nhưng tan rã vào tháng 9 sau khi địa bàn bị Bạch vệ chiếm đóng. Quân khu được tái lập vào tháng 1 năm 1920, nhưng bị giải thể vào năm 1922 và binh sĩ của nó trực thuộc Quân khu Tây Nam.
Năm 1935, quân khu được tái lập khi Quân khu Ukraina được chia thành Quân khu Kiev và Kharkov. Sau khi Chiến dịch Barbarossa bắt đầu vào năm 1941, Liên Xô phải rút lui khỏi địa bàn, và quân khu bị giải thể vào cuối tháng 11. Sau khi quân đội Liên Xô chiếm lại khu vực, Quân khu Kharkov được tái lập vào cuối tháng 9 năm 1943. Sau khi chiến tranh kết thúc, nó bị hạ cấp và bị giải thể vào năm 1946, địa bàn của nó được chuyển cho Quân khu Kiev.
Đế quốc Nga.
Quân khu Kharkov được thành lập lần đầu tiên vào ngày 22 tháng 8 [10 tháng 8 lịch cũ] năm 1864 trong cải cách hệ thống hành chính quân sự của Dmitry Milyutin. Trụ sở chính của quân khu nằm tại Kharkov, và kiểm soát quân đội trên lãnh thổ của các tỉnh Voronezh, Kursk, Oryol, Poltava, Kharkov và Chernigov. Quân khu bị bãi bỏ vào ngày 31 tháng 10 năm 1888, với phần lớn lãnh thổ được chuyển giao cho Quân khu Kiev, ngoại trừ các tỉnh Voronezh và Oryol trở thành một phần của Quân khu Moskva.
Các sĩ quan Quân đội Đế quốc Nga sau đây chỉ huy quân khu trong thời kỳ Đế quốc Nga từ năm 1864 đến 1888:
Nội chiến Nga.
Quân khu Kharkov được thành lập lần thứ hai theo Lệnh số 39 của Bộ quân sự của Chính phủ Công-Nông lâm thời Ukraina, ngày 27 tháng 1 năm 1919. Quân khu này kiểm soát quân đội trên địa bàn các tỉnh Yekaterinoslav, Poltava, Kharkov và Chernigov. Trụ sở của Bộ Tổng tham mưu toàn Ukraina được sử dụng để thành lập ủy ban quân sự quân khu (trụ sở chính), và trực thuộc Hội đồng quân sự cách mạng của Mặt trận phía Nam vào ngày 8 tháng 6.
|
Quân khu Kharkov
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809505
|
Quân khu được giao nhiệm vụ huấn luyện các đơn vị dự bị cho mặt trận. Vào ngày 10 tháng 5, để đàn áp cuộc nổi dậy của binh sĩ Hồng quân dưới quyền Nykyfor Hryhoriv, Kliment Voroshilov nắm quyền chỉ huy tạm thời quân đội của quân khu cho đến ngày 25 tháng 5, khi cuộc nổi dậy bị đánh bại. Vào tháng 6, địa bàn quân khu bị Lực lượng Vũ trang Nam Nga thuộc phe Bạch vệ tiếp quản, và cuộc tiến công của Quân tình nguyện vào Kharkov buộc trụ sở chính phải di tản khỏi thành phố trước khi nó bị chiếm. Sau khi rút đi, quân ủy quân khu lần lượt được đặt tại Sumy, Romny và Bryansk. Vào ngày 1 tháng 9, họ chuyển đến Moskva và bị giải thể vào ngày 16 tháng 9.
Sau khi quân Bạch vệ rút lui khỏi địa bàn, quân khu được tái lập theo Lệnh số 118/23 của Hội đồng quân sự cách mạng ngày 23 tháng 1 năm 1920, kiểm soát quân đội trên địa bàn của các tỉnh Yekaterinoslav, Donets, Poltava, Taurida và Kharkov. Ủy ban quân sự của Quân khu Yaroslavl đã bị giải thể được sử dụng để quản lý ủy ban quân sự quân khu mới, và nó trực thuộc Hội đồng quân sự cách mạng của Mặt trận Tây Nam. Ngày 23 tháng 2, ban tham mưu Quân đội Dự bị Ukraina được sáp nhập với trụ sở quân khu. Quân khu được chuyển sang quyền kiểm soát của Tư lệnh Lực lượng vũ trang Ukraina và Krym Mikhail Frunze vào ngày 3 tháng 12, sau thất bại của những quân Bạch vệ cuối cùng ở Krym. Tỉnh Nikolayev và tỉnh Odessa trở thành một phần của quân khu vào tháng 5 năm 1921. Quân đội của quân khu đã chiến đấu với quân du kích Ukraina chống Liên Xô trong thời kỳ này, và vào ngày 21 tháng 4 năm 1922, quân khu này được sáp nhập với Quân khu Kiev để thành lập Quân khu Tây Nam, và nhanh chóng trở thành Quân khu Ukraina.
Các tư lệnh sau đây đã lãnh đạo ủy ban quân sự quân khu từ năm 1919 đến năm 1920:
Các tư lệnh dưới đây lãnh đạo quân khu giữa năm 1920 và 1922:
Cơ cấu thứ hai (1935–1941).
Quân khu được tái lập theo Lệnh số 079 của Ủy ban Quốc phòng Nhân dân (NKO), ngày 17 tháng 5 năm 1935, chia Quân khu Ukraina thành Quân khu Kiev và Kharkov. Ban đầu quân khu bao gồm các tỉnh Dnipropetrovsk, Donetsk và Kharkov, cũng như Krym.
|
Quân khu Kharkov
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809505
|
Vào ngày 21 tháng 8 năm 1937, tư lệnh quân khu là Komandarm bậc 2 Ivan Dubovoy bị bắt trong cuộc Đại thanh trừng. Tháng 10 năm 1939, khi Quân khu Odessa được thành lập, Krym và tỉnh Dnipropetrovsk được chuyển đến quân khu mới, và ranh giới quân khu thay đổi để chỉ bao gồm các tỉnh Voroshilovgrad, Poltava, Stalino (trước là Donetsk), Sumy, Kharkov, và Chernigov. Năm đó, quân khu bắt đầu tái vũ trang và tái tổ chức các đơn vị của mình, nhưng quá trình này chưa hoàn tất khi Chiến dịch Barbarossa của Đức bắt đầu vào ngày 22 tháng 6 năm 1941.
Trung tướng Andrey Smirnov nắm quyền chỉ huy quân khu vào ngày 18 tháng 12 năm 1940. Sau cuộc xâm lược, Quân khu Kharkov huy động lính nghĩa vụ và thành lập các đơn vị mới, bao gồm Tập đoàn quân 18 được hình thành từ các bộ phận của trụ sở quân khu dưới quyền chỉ huy của Smirnov. Tập đoàn quân 18 được gửi đến Mặt trận phía Nam vào ngày 25 tháng 6. Vào tháng 10, khi quân Đức tiếp cận Kharkov sau một loạt chiến thắng, trụ sở quân khu chuyển đến Voroshilovgrad và sau đó là Stalingrad. Quân khu bị giải thể vào ngày 26 tháng 11 năm 1941, với trụ sở chính được sử dụng để thành lập Quân khu Stalingrad.
Các sĩ quan sau chỉ huy quân khu từ năm 1935 đến 1941:
Cơ cấu thứ ba (1943–1946).
Quân khu được cải tổ theo lệnh của NKO ngày 25 tháng 9 năm 1943, sau khi giành lại địa bàn trong trận sông Dnepr và cuộc tấn công chiến lược Donbass. Quân khu bao gồm các tỉnh Voroshilovgrad, Dnipropetrovsk, Zaporizhia , Poltava, Stalino, Sumy, Kharkov, và Chernigov, cũng như Krym. Tỉnh Chernigov chỉ là một phần của quân khu trong thời gian ngắn, và được chuyển giao cho Quân khu Kiev được tái lập vào ngày 15 tháng 10. Quân khu được giao nhiệm vụ thành lập các đơn vị mới và chuẩn bị các đơn vị hành quân tăng viện cho mặt trận. Các đơn vị công binh của quân khu đã tham gia rà phá bom mìn và dọn dẹp thiết bị chưa nổ. Vào ngày 18 tháng 12 năm 1944, Krym được chuyển giao cho Quân khu Odessa được tái lập.
Theo lệnh NKO ngày 9 tháng 7 năm 1945, sau khi chiến tranh kết thúc, quân khu được chuyển sang sức mạnh thời bình. Trụ sở quân khu cũ và trụ sở Tập đoàn quân 21 được sáp nhập để tạo thành trụ sở mới cho quân khu.
|
Quân khu Kharkov
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809505
|
Theo lệnh tương tự, các tỉnh Sumy và Poltava được chuyển đến Quân khu Kiev và tỉnh Zaporizhia được chuyển cho Quân khu Taurida. Trong vài tháng tiếp theo, quân khu cho xuất ngũ binh sĩ trên lãnh thổ của mình. Vào tháng 8, Quân đoàn súng trường cận vệ 14 đến Dnipropetrovsk từ Vyborg cùng với các sư đoàn súng trường 11 và 288. Sư đoàn súng trường 44 tại Pavlograd gia nhập quân đoàn vào tháng 11. Ba sư đoàn của quân đoàn giải thể vào tháng 2 năm 1946, và được thay thế bằng các Sư đoàn súng trường 86, 321 và 326 từ Quân đoàn súng trường 116. Quân đoàn súng trường 69 cũng được rút về khu vực Lugansk, và bị giải thể vào ngày 6 tháng 5 cùng với các sư đoàn súng trường 110, 163 và 324. Vào ngày 5 tháng 2, quân khu được tổ chức lại thành một quân khu lãnh thổ và trực thuộc Quân khu Kiev, trước khi bị giải thể vào ngày 6 tháng 5. Các binh sĩ của Quân khu Kharkov gia nhập Quân khu Kiev.
Các sĩ quan sau chỉ huy quân khu từ năm 1943 đến 1946:
|
Phân mảnh sinh cảnh
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809531
|
Phân mảnh sinh cảnh miêu tả sự xuất hiện của gián đoạn (phân mảnh) ở môi trường ưa thích (sinh cảnh) của sinh vật, gây ra phân mảnh dân số và suy thoái hệ sinh thái. Nguyên nhân của phân mảnh sinh cảnh gồm có các quá trình địa chất dần làm thay đổi cách bố trí của môi trường tự nhiên (được xem là một trong những nguyên nhân chính dẫn dẫn đến hình thành loài) và hoạt động của con người như chuyển đổi đất đai có thể làm thay đổi môi trường nhanh hơn nhiều và khiến nhiều loài tuyệt chủng. Cụ thể hơn, phân mảnh sinh cảnh là một quá trình trong đó những sinh cảnh rộng lớn và liền kề bị chia cắt thành thành những mảng sinh cảnh nhỏ hơn và biệt lập.
Định nghĩa.
Thuật ngữ phân mảnh sinh cảnh có 5 hiện tượng rời rạc:
Phân mảnh không chỉ làm mất số lượng sinh cảnh mà bằng cách tạo ra các mảng nhỏ, biệt lập, nó còn làm thay đổi các đặc tính của sinh cảnh còn lại. Phân mảnh sinh cảnh là cấp độ cảnh quan của hiện tượng và quá trình cấp độ mảng. Như vậy tức là nó bao hàm: các khu vực mảng, hiệu ứng rìa và độ phức tạp của hình dạng mảng.
Trong các tài liệu khoa học, có một số tranh luận liệu thuật ngữ "phân mảnh sinh cảnh" có áp dụng trong trường hợp mất sinh cảnh hay liệu thuật ngữ này chủ yếu áp dụng cho hiện tượng sinh cảnh bị chia cắt thành những mảng nhỏ hơn mà không làm giảm đáng kể diện tích sinh cảnh. Các nhà khoa học sử dụng định nghĩa chặt chẽ hơn về "phân mảnh sinh cảnh" sẽ gọi việc mất diện tích sinh cảnh là "mất sinh cảnh" và đề cập rõ ràng cả hai thuật ngữ nếu mô tả tình huống nơi sinh cảnh trở nên ít kết nối hơn và có ít sinh cảnh tổng thể hơn.
Ngoài ra, phân mảnh sinh cảnh bị xem là một mối đe dọa xâm lấn đối với đa dạng sinh học, do quan hệ của nó là tác động đến số lượng lớn các loài hơn là xâm lấn sinh học, khai thác quá mức hoặc ô nhiễm.
Nguyên nhân.
Nguyên nhân tự nhiên.
Bằng chứng về phá hủy sinh cảnh thông qua các quá trình tự nhiên như thuyết núi lửa, hỏa hoạn và biến đổi khí hậu được phát hiện trong hồ sơ hóa thạch.
|
Phân mảnh sinh cảnh
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809531
|
Ví dụ, phân mảnh sinh cảnh của các khu rừng mưa nhiệt đới ở Âu Mỹ 300 triệu năm trước đã gây mất mát lớn về tính đa dạng của động vật lưỡng cư, nhưng đồng thời, khí hậu khô hạn hơn đã thúc đẩy sự bùng nổ về tính đa dạng của các loài bò sát.
Nguyên nhân do con người.
Phân mảnh sinh cảnh thường do con người gây ra khi các thực vật bản địa bị chặt phá để phục vụ cho các hoạt động của con người như nông nghiệp, phát triển nông thôn, đô thị hóa và tạo các hồ chứa thủy điện. Sinh cảnh đã liên tục bị chia thành các mảnh riêng biệt. Do hoạt động của con người, nhiều sinh cảnh nhiệt đới và ôn đới đã bị phân mảnh nghiêm trọng và trong tương lai gần, mức độ phân mảnh sẽ tăng lên đáng kể. Sau khi phát quang cường độ lớn, những mảnh riêng biệt có xu hướng trở thành những hòn đảo rất nhỏ bị cô lập với nhau bởi đất trồng trọt, đồng cỏ, vỉa hè hoặc thậm chí là đất cằn cỗi. Loại thứ hai thường là kết quả của đốt rừng làm nương rẫy trong khu rừng nhiệt đới. Trong vành đai lúa mì ở miền trung tây New South Wales, Úc, 90% thảm thực vật bản địa đã bị chặt phá và hơn 99% đồng cỏ cao ở Bắc Mỹ đã bị chặt phá, dẫn đến phân mảnh sinh cảnh nghiêm trọng.
Nội sinh so với ngoại sinh.
Có hai loại quá trình có thể dẫn đến phân mảnh sinh cảnh: quá trình ngoại sinh và quá trình nội sinh. Nội sinh là một quá trình phát triển như một phần của sinh học loài, vì thế chúng thường gồm có những thay đổi về sinh học, tập tính và tương tác trong hoặc giữa các loài. Những mối đe dọa nội sinh có thể dẫn đến thay đổi đối với mô hình sinh sản hoặc mô hình di cư và thường được kích hoạt bởi các quá trình ngoại sinh. Quá trình ngoại sinh không phụ thuộc vào sinh học loài và có thể gồm có suy thoái sinh cảnh, phân chia sinh cảnh hoặc cô lập sinh cảnh. Những quá trình này có thể có tác động đáng kể đến quá trình nội sinh bằng cách thay đổi tập tính cơ bản của loài. Phân chia hoặc cô lập môi trường sống có thể dẫn đến những thay đổi trong phân tán hoặc di chuyển của các loài, kể cả thay đổi đối với di cư theo mùa.
|
Phân mảnh sinh cảnh
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809531
|
Những thay đổi này có thể dẫn đến giảm mật độ loài, tăng cạnh tranh hoặc thậm chí tăng loài ăn thịt.
|
San Marino RTV
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809534
|
Radiotelevisione della Repubblica di San Marino, thường được biết là San Marino RTV (viết tắt là SMRTV), là dịch vụ phát sóng công cộng của San Marino. Ngày 13 tháng 6 năm 2011, San Marino RTV đổi tên thành SMtv San Marino. Tháng 11 năm 2013, tên đã được đổi lại thành San Marino RTV.
Đài hiện đang điều hành hai kênh truyền hình (San Marino RTV và San Marino RTV Sport), cùng với 2 kênh phát thanh (Radio San Marino và Radio San Marino Classic).
Lịch sử.
San Marino RTV được thành lập vào tháng 8 năm 1991 nhờ vốn cổ phần của Ente per la Radiodiffusione Sammarinese (ERAS, Công ty Phát thanh Truyền hình San Marino) và đài truyền hình dịch vụ công của Ý, RAI. Cả hai đã tham gia với 50% vốn. Thỏa thuận giữa hai bên có thể được xem xét định kỳ để đảm bảo và cập nhật các mục tiêu phát sóng dịch vụ công cộng. San Marino RTV phát sóng bằng tiếng Ý, ngôn ngữ chính thức của đất nước ngày.
Các chương trình phát thanh được thử nghiệm vào ngày 27 tháng 12 năm 1992. Ngày 28 tháng 2 năm 1993, Radio San Marino bắt đầu phát sóng 24/24. Các chương trình phát sóng truyền hình thử nghiệm bắt đầu vào ngày 24 tháng 4 năm 1993. Ngày 28 tháng 2 năm 1994, một dịch vụ truyền hình thông thường đã được ra mắt, phát sóng từ 10:00 sáng đến 2 giờ rạng sáng ngày hôm sau.
Tháng 7 năm 1995, San Marino RTV đã trở thành thành viên của Liên hiệp Phát sóng châu Âu (EBU). Cơ sở này cũng là thành viên sáng lập của (C.R.I., cộng đồng phát thanh và truyền hình Ý).
Năm 2007, San Marino RTV bắt đầu bày tỏ sự quan tâm đến việc tham gia Eurovision Song Contest. Ngày 27 tháng 11 năm 2007, đã có thông báo rằng San Marino sẽ ra mắt tại Eurovision Song Contest 2008, tổ chức tại Belgrade, Serbia. Sau khi vắng mặt trong các cuộc thi năm 2009 và 2010 vì vấn đề tài chính, San Marino đã tiến tới chung kết ở cuộc thi năm 2014.
Năm 2011, San Marino RTV đã cố gắng tham gia vào Junior Eurovision Song Contest, nhưng quyết định rút lui vào tháng 10 năm đó. Ngày 25 tháng 10 năm 2013, đã có thông báo rằng San Marino sẽ ra mắt tại Junior Eurovision Song Contest 2013, tổ chức tại Kyiv, Ukraina.
Ngày 11 tháng 10 năm 2014, kênh đã mở một chi nhánh tại Roma với phóng viên Francesca Billotti.
|
San Marino RTV
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809534
|
Ngày 22 tháng 12 năm 2016, San Marino RTV bắt đầu phát sóng HD trên truyền hình kỹ thuật số, và từ ngày 22 tháng 1 năm 2018, kênh cũng đã được phát sóng HD trên truyền hình kỹ thuật số vệ tinh.
Từ ngày 20 tháng 10 năm 2021, kênh bắt đầu phát sóng khắp nước Ý ở vị trí kênh 831, trên MPEG-4 SD tại . Tháng 12 cùng năm đó, được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc của đài, vị trí mà ông nắm giữ cho đến ngày 29 tháng 1 năm 2023.
Dịch vụ phát sóng.
Phát thanh.
Trên website chính thức của đài, bạn có thể nghe và tải các chương trình thông qua dịch vụ podcast.
|
Nghiên cứu hòa bình và xung đột
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809535
|
Nghiên cứu hòa bình và xung đột (tiếng Anh: Peace and conflict studies) là một lĩnh vực khoa học xã hội có vai trò xác định và phân tích các hành vi bạo lực và bất bạo động cũng như các cơ chế cấu trúc gây ra xung đột (bao gồm cả xung đột xã hội), với mục đích tìm hiểu các quá trình dẫn đến tình trạng con người tốt hơn. Một biến thể của ngành này là nghiên cứu hòa bình (irenology), là một nỗ lực liên ngành nhằm ngăn chặn, giảm leo thang và giải quyết xung đột bằng các biện pháp hòa bình, từ đó tìm kiếm lợi ích tốt nhất cho tất cả các bên tham gia xung đột.
Ngành khoa học xã hội này trái ngược với khoa học quân sự, với mục đích đạt được chiến thắng có hiệu quả trong các cuộc xung đột, chủ yếu bằng các biện pháp bạo lực nhằm thỏa mãn một hoặc nhiều, nhưng không phải tất cả các bên liên quan. Các ngành liên quan có thể bao gồm triết học, chính trị học, địa lý, kinh tế học, tâm lý học, truyền thông học, xã hội học, quan hệ quốc tế, lịch sử, nhân loại học, nghiên cứu tôn giáo, nghiên cứu về giới, luật pháp, nghiên cứu phát triển và nhiều loại khác. Các phân ngành liên quan của các lĩnh vực này, chẳng hạn như kinh tế học hòa bình, cũng có thể được coi là thuộc về nghiên cứu hòa bình và xung đột.
Miêu tả.
Nghiên cứu hòa bình có thể được phân loại là:
Đã có một cuộc tranh luận lâu dài và sôi nổi về các vấn đề giải trừ vũ khí, cũng như các nỗ lực điều tra, lập danh mục và phân tích các vấn đề liên quan đến sản xuất, buôn bán vũ khí và tác động chính trị của chúng. Một số nhà nghiên cứu đã nỗ lực lập lược đồ chi phí kinh tế của chiến tranh hoặc tái phát bạo lực, trái ngược với hòa bình.
Nghiên cứu hòa bình và xung đột hiện đã được thiết lập vị thế vững chắc trong khoa học xã hội: nó bao gồm nhiều tạp chí học thuật, các khoa của trường cao đẳng và đại học, viện nghiên cứu hòa bình, hội nghị, cũng như sự công nhận từ bên ngoài về tiện ích của nghiên cứu hòa bình và xung đột như một phương pháp.
|
Nghiên cứu hòa bình và xung đột
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809535
|
Nghiên cứu hòa bình cho phép một người xem xét nguyên nhân và cách ngăn chặn chiến tranh, cũng như bản chất của bạo lực, bao gồm áp bức xã hội, phân biệt đối xử và gạt ra ngoài lề xã hội. Thông qua nghiên cứu hòa bình, người ta cũng có thể học các chiến lược kiến tạo hòa bình để vượt qua đàn áp và chuyển đổi xã hội để đạt được mục tiêu một cộng đồng quốc tế công bằng và bình đẳng hơn.
Các học giả nữ quyền đã phát triển một chuyên ngành trong nghiên cứu xung đột, đặc biệt là xem xét vai trò của giới tính và các hệ thống bất bình đẳng lồng vào nhau trong các cuộc xung đột. Tầm quan trọng của việc xem xét vai trò của giới tính trong công việc sau xung đột đã được ghi nhận bởi Nghị quyết 1325 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Ví dụ về học bổng nữ quyền bao gồm nghiên cứu của Carol Cohn và Claire Duncanson.
Mục tiêu.
Mục tiêu quy phạm của nghiên cứu hòa bình là chuyển đổi xung đột và giải quyết xung đột thông qua các cơ chế như gìn giữ hòa bình, xây dựng hòa bình (ví dụ: giải quyết sự chênh lệch về quyền, thể chế và phân phối của cải trên toàn thế giới) và kiến tạo hòa bình (ví dụ: hòa giải và giải quyết xung đột). Gìn giữ hòa bình nằm dưới sự bảo trợ của hòa bình tiêu cực, trong khi các yếu tố xây dựng hòa bình và kiến tạo hòa bình liên quan tới hòa bình tích cực.
Giảng dạy nghiên cứu hòa bình và xung đột trong quân đội.
Một trong những phát triển thú vị trong nghiên cứu hòa bình và xung đột là số lượng nhân viên quân sự thực hiện các nghiên cứu như vậy. Điều này đặt ra một số thách thức, vì quân đội là một tổ chức công khai cam kết chiến đấu. Trong bài báo "Teaching Peace to the Military", đăng trên tạp chí "Peace Review", James Page lập luận về năm nguyên tắc để củng cố cam kết này, đó là tôn trọng nhưng không ưu tiên kinh nghiệm quân sự, dạy lý thuyết chiến tranh chính nghĩa, khuyến khích học sinh nhận thức về truyền thống và kỹ thuật bất bạo động, khuyến khích học sinh giải cấu trúc và giải thần thoại, đồng thời nhận ra tầm quan trọng của đức tính quân sự.
|
Shōei
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809538
|
, được biết đến nhiều hơn với nghệ danh , là một nam diễn viên người Nhật Bản. Anh đã từng xuất hiện trong loạt phim truyền hình vào khung giờ vàng hàng tuần "Mito Kōmon". Tuy nhiên, vai diễn mà anh được biết đến nhiều nhất là Gouki/GingaBlue trong "Seijuu Sentai Gingaman", và anh đã đóng lại vai diễn trong hai bộ phim Super Sentai Series V-Cinema: "Gogo V Vs Gingaman" và "Gaoranger Vs Super Sentai". Shōei cũng từng tham gia chương trình truyền hình "Sasuke" vào đầu những năm 2000.
|
Danh sách những thiên thể xa nhất
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809540
|
Danh sách những thiên thể xa nhất đã được khoa học phát hiện và xác minh. Việc đo khoảng cách được xác định dựa trên công nhận tuổi của vũ trụ tính từ Vụ Nổ Lớn khoảng 13,787±0,020 tỉ năm ánh sáng. Việc đo khoảng cách tới các thiên thể ở xa hầu hết thực hiện thông qua việc đo độ dịch chuyển đỏ theo định luật Hubble
|
Steve Nash
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809544
|
Stephen John Nash (sinh ngày 7 tháng 2 năm 1974) là cựu vận động viên bóng rổ người Canada và gần đây nhất là Huấn luyện viên cho đội Brocklyn Nets thi đấu tại Giải bóng rổ Nhà nghề Mỹ (NBA). Trong 18 mùa giải thi đấu tại NBA, Nash có 8 lần tham gia All-Star và 7 lần được lựa chọn vào đội hình All-NBA. Anh có 2 năm liên tiếp được trao danh hiệu Cầu thủ bóng rổ xuất sắc nhất NBA (2005 và 2006).
Sau khi nổi tiếng trong cộng đồng bóng rổ học sinh tại British Columbia, Nash nhận học bổng tại Đại học Santa Clara, bang California. Trong 4 mùa giải tại đây, đội bóng Santa Clara có 3 lần tham dự NCAA và Nash 2 lần được chọn là cầu thủ xuất sắc nhất khu vực bờ Tây. Nash tốt nghiệp Đại học Santa Clara với thành tích là cầu thủ nhiều kiến tạo nhất lịch sử đội bóng rổ của trường đại học này. Anh được Phoenix Suns lựa chọn ở lượt thứ 15 tại mùa giải năm 1996. Không có nhiều đóng góp cho Suns, anh chuyển sang Dallas Mavericks vào năm 1998. Ở mùa giải thứ tư tại đây, anh có được trận đấu All-Star đầu tiên cũng như lần đầu có tên trong đội hình All-NBA. Một năm sau, anh cùng Dirk Nowitzki và Michael Finley đưa Mawericks vào tới trận chung kết miền Tây. Anh trở thành cầu thủ tự do và trở về Suns vào mùa giải 2003–04.
Mùa giải 2004–05, Nash đưa Phoenix Suns vào tới trận chung kết miền Tây và được bầu chọn là Cầu thủ bóng rổ xuất sắc nhất mùa giải NBA. Anh tiếp tục nhận danh hiệu này ở mùa giải tiếp theo, và về nhì sau Nowitzki tại mùa giải 2006–07. Nash hiện vẫn giữ kỷ lục kiến tạo và ném phạt của giải đấu, và thường được coi là một trong những hậu vệ dẫn bóng xuất sắc nhất lịch sử.
Nash thi đấu cho Đội tuyển bóng rổ quốc gia Canada từ năm 1991 đến 2003, tham gia một kỳ Thế vận hội Mùa hè và 2 lần nhận giải Cầu thủ xuất sắc nhất FIBA AmeriCup. Anh từng có tên trong Đội hình kỷ niệm thành lập NBA (75 năm). Năm 2006, tạp chí "Time" đưa anh vào danh sách . Anh được nhận Huân chương Canada vào năm 2007 và được một lần nữa vào năm 2016. Từ năm 2012 tới năm 2019, anh là Huấn luyện viên trưởng của Đội tuyển bóng rổ quốc gia Canada.
Năm 2008, anh được trao Tiến sĩ danh dự tại Đại học Victoria.
|
Steve Nash
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809544
|
Anh còn là đồng sở hữu câu lạc bộ Vancouver Whitecaps FC thi đấu tại Major League Soccer (MLS) kể từ năm 2011. Nash còn được biết đến với nhiều hoạt động từ thiện.
|
Mangan(III) perchlorat
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809548
|
Mangan(III) perchlorat là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học Mn(ClO4)3. Hợp chất này chỉ được biết đến dưới dạng dung dịch màu nâu.
Điều chế.
Đầu tiên, dung dịch mangan(II) perchlorat được điều chế bằng phản ứng của MnSO4 và Ba(OH)2 trong HClO4 dư. Sau đó, thêm dung dịch KMnO4 (đã được acid hóa) vào dung dịch trên để tạo ra lượng Mn(II) dư gấp 20–30 lần. Khi đó, dung dịch màu nâu của Mn(ClO4)3 được tạo ra. Phương trình ion rút gọn cho cả quá trình trên được viết gọn như sau:
Dung dịch Mn(ClO4)3 cũng có thể điều chế bằng phương pháp điện phân trong môi trường nitơ. Một nghiên cứu quang phổ chỉ ra cả ion hexaaquo Mn(H2O)63+ và hydroxypentaaquo Mn(H2O)5OH3+ đều tồn tại trong dung dịch.
Tính chất.
Mangan(III) perchlorat chỉ được biết đến dưới dạng dung dịch màu nâu.
Theo phương pháp điều chế đầu tiên, dung dịch Mn(ClO4)3 loãng (nồng độ khoảng 10⁻³ M) trong môi trường acid 4 M ổn định trong một ngày, ngay cả khi pha loãng nồng độ ion H⁺ xuống 1,5 M. Tuy nhiên, khi đun nóng nhẹ dung dịch đến 50 ℃ trong 90 phút, kết tủa mangan(IV) oxide sẽ được tạo ra. Ở nhiệt độ thường, dung dịch này được coi là ổn định.
Phức hợp.
Mn(ClO4)3 chỉ được biết đến dưới dạng dung dịch; do đó, các phức hợp thường được nghiên cứu chi tiết hơn. Một vài phức hợp của mangan(III) perchlorat với các phối tử hữu cơ dưới dạng MnL6(ClO4)3, trong đó L = dimethylsulfoxide, dimethylformamide, pyridin-N-oxide, antipyridin và ure đã được biết đến. Phức hợp ure có màu tím đậm, D = 1,788 g/cm³ (đo) và 1,8 g/cm³ (tính toán).
Ứng dụng.
Mangan(III) perchlorat chỉ được sử dụng dưới dạng chất trung gian để điều chế các hợp chất hữu cơ khác, chẳng hạn Mn(C12H4N4)2·3CH3CN.
Ghi chú.
Dưới đây là nguyên văn gốc cho các nguồn tham khảo tương ứng và một số thông tin bổ sung, trong đó […] là phần nội dung không cần thiết. Nếu cách ký hiệu này đứng ở vị trí đầu tiên hoặc cuối cùng, tức là trước (hoặc sau) đó vẫn còn nội dung.
|
Trịnh Nguyên Sướng
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809549
|
Trịnh Nguyên Sướng (), nghệ danh tiếng Anh: Joe Cheng hoặc Joseph Cheng, (sinh ngày 19 tháng 6 năm 1982) là một nam người mẫu, diễn viên và ca sĩ Đài Loan. Mặc dù khởi đầu sự nghiệp trong nghề mẫu nhưng anh nổi tiếng hơn cả với vai diễn Giang Trực Thụ trong bộ phim truyền hình Đài Loan có tựa tiếng Việt là "Thơ Ngây" được chuyển thể từ manga của Nhật là "Itazura na Kiss". Anh đã gặt hái được nhiều thành tựu trong vai trò diễn viên tại rất nhiều nước châu Á, đặc biệt là Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore, Philippines và Nhật Bản. Anh từng phát hành EP đầu tay có tên "Sing a Song" vào tháng 10 năm 2009. Tựa đề EP cũng như ca khúc tiêu đề là một cách chơi chữ từ tên riêng của anh là Sướng (暢), vốn là từ đồng âm với "Sing" (唱) trong tiếng Trung.
Đầu đời.
Ban đầu, Trịnh Nguyên Sướng (trước năm 2005) có tên là Bryan Cheng, lớn lên tại quận Bắc Đồn, Đài Trung, Đài Loan. Kể từ lúc ba mẹ anh ly dị khi anh còn học tiểu học, anh đã đến sống cùng bố. Anh cũng có một người chị gái, chị ấy sống cùng mẹ.
Đời tư.
Trịnh Nguyên Sướng hiện đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự in the second regiment of the Lực lượng Bảo vệ bờ biển Đài Loan, tức Cảnh sát biển xứ Đài.
|
Zinnia guanajuatensis
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809553
|
Zinnia guanajuatensis là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Graciela Calderón và Jerzy Rzedowski mô tả khoa học đầu tiên năm 1996 như là một thứ với danh pháp "Zinnia acerosa" var. "guanajuatensis" của loài "Zinnia acerosa". Năm 2012 Billier Lee Turner nâng cấp nó thành loài độc lập.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "guanajuatensis" lấy theo tên bang Guanajuato ở miền trung Mexico.
Phân bố.
Loài này là bản địa đông bắc Mexico.
|
Quân khu Taurida
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809556
|
Quân khu Taurida là một quân khu của Liên Xô. Quân khu được hình thành từ trụ sở của Tập đoàn quân Duyên hải đặc biệt và Tập đoàn quân 22 vào mùa hè năm 1945. Quân khu kiểm soát binh sĩ trên địa bàn của các khu vực Krym, Kherson và Zaporizhia. Nó bị giải thể vào năm 1956, được thay thế bằng Quân khu Odessa.
Lịch sử.
Quân khu Taurida được thành lập vào ngày 9 tháng 7 năm 1945 từ trụ sở của Tập đoàn quân Duyên hải đặc biệt và Tập đoàn quân 22 tại Simferopol. Nó kiểm soát binh sĩ trên lãnh thổ của các tỉnh Krym, Kherson và Zaporizhia, được chuyển giao từ Quân khu Odessa và Quân khu Kharkov. Tư lệnh Tập đoàn quân Duyên hải đặc biệt là Trung tướng Kondrat Melnik nắm quyền chỉ huy quân khu. Trong những năm đầu thành lập, quân khu có nhiệm vụ giải ngũ binh sĩ chiến đấu, tinh giản các đơn vị về sức mạnh thời bình, tái thiết các căn cứ quân sự, rà phá bom mìn và giúp xây dựng lại nền kinh tế địa phương.
Quân đoàn súng trường 112 được chuyển đến từ Estonia ban đầu là một phần của quân khu, với trụ sở chính tại Kherson. Sau khi Sư đoàn súng trường 44 tại Melitopol được chuyển đến Pavlohrad trong Quân khu Kiev, quân đoàn chỉ còn lại Sư đoàn súng trường 123 tại Kherson. Bộ chỉ huy quân đoàn và Sư đoàn súng trường 123 bị giải thể vào tháng 4 năm 1946. Các sư đoàn súng trường 315 và 414 của Tập đoàn quân Duyên hải đặc biệt tại Kerch và Dzhankoy cũng là một phần của quân khu. Sư đoàn 414 ngay sau đó được chuyển đến Tbilisi. Trong suốt mùa đông và mùa xuân năm 1946, Quân đoàn súng trường 53 từ Ba Lan đến và thành lập trụ sở tại Simferopol. Nó bao gồm các Sư đoàn súng trường 126, 235 và 263, lần lượt đóng tại Simferopol, Yevpatoriya và Feodosia. Trụ sở quân đoàn và Sư đoàn bộ binh 235 giải thể vào tháng 7 năm 1946. Đồng thời, Quân đoàn súng trường cận vệ 25, trước đây thuộc Tập đoàn quân cận vệ 7, từ Tiệp Khắc đến trụ sở tại Zaporizhia. Sư đoàn súng trường cận vệ 4 của nó đóng tại Melitopol và giải thể vào mùa hè năm 1946.
|
Quân khu Taurida
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809556
|
Sư đoàn súng trường cận vệ 25 đóng tại Zaporizhia và nhanh chóng chuyển đến [Lubny]], được thay thế bởi Sư đoàn súng trường 188 từ Cụm lực lượng phía Nam. Sư đoàn súng trường cận vệ 113 đóng tại Yevpatoriya. Vào mùa thu năm 1946, trụ sở quân đoàn giải thể.
Năm 1946, quân khu được tổ chức lại. Sư đoàn súng trường 126 trở thành Sư đoàn cơ giới 28 và bốn sư đoàn trở thành lữ đoàn, phần còn lại bị giải thể hoặc chuyển giao. Đến mùa xuân năm 1947, quân khu bao gồm Sư đoàn cơ giới 28, Lữ đoàn súng trường biệt lập số 7 (Sư đoàn súng trường 315 cũ), Lữ đoàn súng trường biệt lập 19 (Sư đoàn súng trường 263 cũ), Lữ đoàn súng trường cận vệ 43 (Sư đoàn súng trường cận vệ 113 cũ) và Lữ đoàn súng trường biệt lập 52 (Sư đoàn súng trường 188 trước đây). Lữ đoàn súng trường biệt lập 19 bị giải thể ngay sau đó. Sau khi kết thúc việc xuất ngũ các đơn vị quân đội, quân khu bắt đầu huấn luyện chiến đấu thường xuyên để phòng thủ chống lại một cuộc xâm lược đổ bộ và hiệp đồng với Hạm đội Biển Đen. Từ năm 1950 đến năm 1953, các sư đoàn lại trở thành lữ đoàn. Năm 1955, số 188 được đổi tên thành số 20 và số 315 thành số 52.
Theo chỉ thị ngày 19 tháng 4 năm 1956, địa bàn của Quân khu Taurida được giao cho Quân khu Odessa và quân khu này bị giải thể trong một quá trình được hoàn thành trước ngày 1 tháng 7. Trụ sở chính của nó được cải tổ thành Quân đoàn súng trường 45 vào ngày 4 tháng 4.
Tư lệnh.
Quân khu được chỉ huy bởi các sĩ quan sau:
|
Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809566
|
Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, là một hình thức của chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam, nhằm thúc đẩy quá trình thống nhất (đồng hóa) văn hóa và tôn vinh bản sắc dân tộc của người Việt tại Việt Nam.
Lịch sử.
Trong thời kỳ Âu Lạc và Nam Việt,chủ nghĩa dân tộc không được thể hiện rõ do hệ thống cơ cấu quyền lực nhà nước không đủ mạnh. Tuy nhiên sau đó đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra trong suốt nghìn năm Bắc thuộc của các triều đại Trung Hoa, và cuối cùng giành lại được độc lập sau trận Bạch Đằng năm 938. Một số sử gia hiện đại cho rằng đây là biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc đã hình thành và phát triển nhanh chóng. Hai tác phẩm "Nam quốc sơn hà" và "Bình Ngô đại cáo" đều là những tác phẩm được truyền lại cho nhiều thế hệ người Việt, phản ánh chủ nghĩa ái quốc và ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia cũng được xem là biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc, đồng thời cũng là những tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam tiên phong việc khẳng định chủ quyền quốc gia.
Vào thế kỷ 17 tại miền Bắc dưới thời trị vì chúa Trịnh, người Trung Quốc muốn nhập cư phải tuân thủ các phong tục của Việt Nam và hạn chế tiếp xúc với người Việt trong các phủ. Tuy nhiên ở phía Nam, chúa Nguyễn lại cho phép nhiều người Trung Quốc định cư trên những vùng đất mới khai hoang. Các học giả Trung Quốc nhập cư thậm chí đã trở thành quan lại.
Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế thành lập nhà Nguyễn và hoàn thành cuộc Nam tiến kéo dài suốt 700 năm. Kể từ thời nhà Lý, nhà Nguyễn đã tiến hành nhiều cuộc xâm lược và thực dân hóa toàn bộ Chăm Pa và một số khu vực của đế quốc Khmer. Dưới thời trị vì của nhà Nguyễn (triều đại chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi văn hóa Trung Hoa và tư tưởng Khổng Tử), họ cố gắng đồng hóa tất cả các dân tộc thiểu số tại thuộc địa đang chiếm đóng bằng cách buộc người dân phải tuân thủ các phong tục Việt Nam (đã được Hán hóa).
|
Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809566
|
Nhà Nguyễn sao chép các quan điểm của Trung Hoa về Trung Nguyên, tự cho bản thân là một nền văn hóa thượng đẳng, khác biệt so với các quốc gia được Ấn hóa như Chăm Pa và đế quốc Khmer. Nhà Nguyễn tin rằng họ đang thực hiện sứ mệnh khai sáng văn minh đối với nhóm người dân tộc thiểu số, nhóm người bị coi là "man di".
Sau khi nhà Nguyễn lên nắm quyền, vương triều này đã thực hiện các chính sách Việt hóa đối với những người không phải là người Việt. Trong giai đoạn mở rộng lãnh thổ về phía Nam, Hoàng đế Gia Long đã tuyên bố: "Hán Di hữu hạn" (漢夷有限) - khẳng định phân biệt rõ ràng giữa người Việt và những dân tộc khác. Hoàng đế Minh Mạng (con trai vua Gia Long) đã lên tiếng về việc người Việt cưỡng chế các dân tộc thiểu số tuân theo phong tục Trung-Việt, ông nói: "Cần hy vọng rằng những phong tục thô tục của họ sẽ dần bị lãng quên, họ sẽ ngày càng bị ảnh hưởng bởi nền văn minh của người Hán". Dưới ảnh hưởng của quan điểm đó, Nhà Nguyễn đã từng tự gọi họ là 'Hán nhân".
Thời hiện đại.
Kinh tế.
Người Việt thời hiện đại ngày càng có xu hướng bài trừ hàng hóa từ Trung Quốc, thay vào đó ưu tiên hàng hóa được sản xuất tại Việt Nam. Đây là phong trào "Người Việt dùng hàng Việt", nhằm đối trọng với hàng hóa "Made in China".
Văn hóa.
Mặc dù nằm trong phạm vi ảnh hưởng của văn hóa Á Đông, nhưng Việt Nam vẫn khẳng định bản thân quốc gia này là một phần của văn hóa Đông Nam Á. Dù thuộc vùng văn hóa bị Trung Quốc ảnh hưởng và chia sẻ nhiều yếu tố văn hóa như Nho giáo, cũng như đã từng sử dụng chữ Nôm và chữ Hán làm hệ thống chữ viết, hầu hết các nhà dân tộc chủ nghĩa Việt Nam vẫn từ chối thừa nhận sự ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam.
|
Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809566
|
Họ tin rằng trước khi bị ảnh hưởng bởi Trung Quốc, người Việt đã có một nền văn hóa đặc trưng, điển hình như văn hóa Đông Sơn và nghề trồng lúa nước được dẫn dắt bởi người Nam Á. Trong quá trình tiếp xúc và đô hộ nước Chăm Pa (được Ấn Độ hóa), những người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam tin rằng đất nước họ là điểm giao thoa giữa hai nền văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa.
Sách giáo trình Việt Nam đề cập đến ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, nhưng từ chối công nhận các yếu tố Trung Quốc trong dân tộc Việt Nam. Miền Bắc Việt Nam hiện nay được coi là một phần của lãnh thổ của các bộ lạc Bách Việt, vì vậy họ tin rằng những những điểm tương đồng xuất phát từ việc văn hóa Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi văn hóa Bách Việt khi lãnh thổ của họ bị người Hán (Trung Quốc) xâm lược.
Giáo dục.
Lòng tự tôn dân tộc được thể hiện rất nhiều trong sách giáo trình tại Việt Nam, đặc biệt là về quá trình phát triển và những chiến công của các anh hùng dân tộc trong lịch sử. Những sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử của Việt Nam vẫn được nhắc đến nhiều trong hệ thống giáo dục cho giới trẻ và cũng được thế hệ lớn tuổi truyền lại, điều này được xem là yếu tố chính giúp chủ nghĩa dân tộc Việt Nam vẫn còn tồn tại.
|
Zinnia zamudiana
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809571
|
Zinnia zamudiana là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Graciela Calderón và Jerzy Rzedowski mô tả khoa học đầu tiên năm 1996.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "zamudiana" là để vinh danh nhà thực vật học Mexico Sergio Zamudio Ruiz, người đầu tiên tìm thấy loài này.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh số "J.Rzedowski 53130", được tìm thấy ngày 18 tháng 8 năm 1996 ở điểm 4 km về phía đông đông bắc San Javier de las Tuzas, đô thị ở Cadereyta de Montes, trên đường đến Sombrerete, chân đồi đá vôi với thảm thực vật đồng cỏ, cao độ 2.250 m, bang Querétaro (Mexico). Mẫu holotype lưu tại Viện Sinh thái học Mexico (IEB) ở Pátzcuaro, bang Michoacán.
Phân bố.
Loài này là bản địa đông bắc Mexico (các bang Querétaro, Hidalgo).
|
Trường phái tư tưởng
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809585
|
Trường phái tư tưởng (tiếng Anh: School of thought hay Intellectual tradition) là quan điểm của một nhóm người có chung đặc điểm quan điểm hoặc cách nhìn về một lĩnh vực nào đó như triết học, lĩnh vực học thuật, tín ngưỡng, phong trào xã hội, kinh tế, phong trào văn hóa hoặc trào lưu nghệ thuật.
Lịch sử.
Cụm từ này đã trở thành một thuật ngữ thông tục phổ biến được sử dụng để mô tả những người có suy nghĩ giống nhau hoặc những người tập trung vào một ý tưởng chung. Thuật ngữ này được sử dụng phổ biến.
Các trường phái thường được đặc trưng bởi tư tưởng của họ, và do đó được phân loại thành trường phái "mới" và "cũ". Có một quy ước là trong các lĩnh vực tư tưởng chính trị và triết học, có các trường phái tư tưởng "hiện đại" và "cổ điển". Một ví dụ là những người tự do hiện đại và cổ điển. Sự phân đôi này thường là một thành phần của sự thay đổi mô hình. Tuy nhiên, hiếm khi có trường hợp chỉ có hai trường phái trong bất kỳ lĩnh vực nào.
|
Zinnia leucoglossa
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809610
|
Zinnia leucoglossa là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Sidney Fay Blake miêu tả khoa học đầu tiên năm 1924.
Phân bố.
Loài này là bản địa Mexico (trừ khu vực đông nam).
|
Boeing F-15EX Eagle II
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809614
|
Boeing F-15EX Eagle II là một loại máy bay tiêm kích tấn công đa năng hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết, được thiết kế chế tạo bởi Boeing Defense, Space & Security của Hoa Kỳ, và nó có nguồn gốc từ McDonnell Douglas F-15E Strike Eagle.
Thiết kế và phát triển.
Năm 2018, Không quân Hoa Kỳ (USAF) và Boeing đã thảo luận về "F-15X" hoặc "Advanced F-15", một biến thể một chỗ ngồi được đề xuất dựa trên F-15QA để thay thế những chiếc F-15C/D đang hoạt động trong USAF. Các cải tiến của biến thể mới bao gồm hệ thống AMBER (Giá phóng Tên lửa và Bom Tiên tiến - Advanced Missile and Bomb Ejector Rack) có thể mang tới 22 tên lửa không đối không, tìm kiếm và theo dõi bằng tia hồng ngoại, hệ thống điện tử hàng không tiên tiến, thiết bị tác chiến điện tử, radar mảng quét điện tử chủ động (AESA) và cấu trúc sửa đổi với tuổi thọ 20.000 giờ. Các biến thể một chỗ ngồi và hai chỗ ngồi được đề xuất, lần lượt là F-15CX và F-15EX, cả hai biến thể có các tính năng giống hệt nhau. Không quân Mỹ đã chọn biến thể hai chỗ ngồi, nó có thể được điều khiển bởi một phi công duy nhất, hoặc một phi công và một sĩ quan phụ trách hệ thống vũ khí cho các nhiệm vụ phức tạp. Lý do đưa ra quyết định này của USAF là do chỉ có các mẫu F-15 hai chỗ ngồi vẫn được tiếp tục sản xuất.
Không quân Mỹ mua F-15EX để duy trì quy mô lực lượng phi đội khi quá trình sản xuất F-22 kết thúc, còn F-35 bị trì hoãn và những chiếc F-15 của họ đã già sau thời gian dài hoạt động. Mặc dù F-15EX được dự đoán sẽ khó sống sót trước các hệ thống phòng không hiện đại vào năm 2028, nhưng nó có thể thực hiện nhiệm vụ phòng thủ nội địa và phòng thủ căn cứ không quân, thực thi vùng cấm bay trước các hệ thống phòng không yếu của đối phương, và triển khai vũ khí tầm xa tấn công từ ngoài tầm phòng không của đối phương. Tháng 7 năm 2020, Bộ Quốc phòng Mỹ đặt hàng mua 8 chiếc F-15EX trong vòng 3 năm với tổng giá trị hợp đồng 1,2 tỷ USD. Tháng 8 năm 2020, USAF công bố kế hoạch thay thế những chiếc F-15C của các đơn vị Lực lượng Vệ binh Quốc gia Không quân ở Florida và Oregon bằng F-15EX. F-15EX thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 2 tháng 2 năm 2021.
|
Boeing F-15EX Eagle II
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809614
|
Chiếc đầu tiên được bàn giao cho Không quân Mỹ vào tháng 3 năm 2021 và được đưa đến Căn cứ Không quân Eglin ở Florida để thử nghiệm thêm.
Ngày 7 tháng 4 năm 2021, tên chính thức được công bố của F-15EX là "Eagle II". Dự luật phân bổ quốc phòng năm 2021 tài trợ cho việc mua sắm dòng chiến đấu cơ này ở mức 1,23 tỷ USD với 12 chiếc, nâng tổng số đơn đặt hàng lên 20 chiếc. Đến tháng 5 năm 2022, USAF đặt hàng 144 chiếc, nhưng cũng đã có đề xuất giảm đơn hàng xuống 80 chiếc. Những chiếc F-15EX đầu tiên đưa vào hoạt động không nhận được thùng nhiên liệu phù hợp. Ngân sách đề xuất của Lực lượng Không quân cho năm tài chính 2024 có trích tiền ra để mua thêm 24 chiếc F-15EX, nâng tổng số đặt hàng dự kiến lên tới 104 chiếc. Ngày 18 tháng 4 năm 2023, USAF thông báo rằng Lực lượng Vệ binh Quốc gia Không quân California và Louisiana sẽ thay thế phi đội F-15C/D của họ bằng F-15EX. Ngày 25 tháng 5 năm 2023, có thông tin cho rằng Phi đội Máy bay Chiến đấu số 173 tại Căn cứ Vệ binh Quốc gia Không quân Kingsley Field ở Oregon, sẽ trở thành Đơn vị Huấn luyện Chính quy (FTU) cho F-35A thay vì F-15EX. Do đó, khóa huấn luyện F-15 cơ bản dành cho cả F-15E và F-15EX sẽ diễn ra tại Căn cứ Không quân Seymour Johnson ở North Carolina kể từ năm 2026.
Lịch sử hoạt động.
Khách hàng tiềm năng.
Không quân Israel đã đặt hàng 25 chiếc F-15IA và có kế hoạch nâng cấp 25 chiếc F-15I lên tiêu chuẩn F-15IA.
Tháng 2 năm 2022, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ phê duyệt thỏa thuận bán 36 chiếc F-15ID và các thiết bị liên quan cho Indonesia. Kể từ ngày 21 tháng 11 năm 2022, kế hoạch mua F-15 của Indonesia đang ở giai đoạn tiến triển và đang chờ phê duyệt cuối cùng từ chính phủ, theo tuyên bố của Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia. Phát biểu sau cuộc gặp với người đồng cấp Mỹ Lloyd Austin tại Jakarta, Prabowo Subianto cho biết Boeing đã đồng ý với lời đề nghị tài chính được đề xuất và ông tin rằng gói này có giá cả phải chăng.
|
Boeing F-15EX Eagle II
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809614
|
Tháng 6 năm 2023, trong một cuộc họp báo của Bộ Quốc phòng, người ta nói rằng hợp đồng mua máy bay F-15 vẫn đang trong giai đoạn thảo luận về Thư Đề nghị và Chấp nhận của Chính phủ Hoa Kỳ.
Không quân Hoàng gia Thái Lan (RTAF) đang tìm kiếm một loại máy bay chiến đấu đa năng để thay thế F-16A/B Block 15 ADF đang phục vụ trong biên chế. Ngày 31 tháng 12 năm 2021, Tổng tư lệnh RTAF thông báo rằng Lực lượng Không quân đề xuất mua 8 đến 12 chiếc F-35 Lightning II vào năm 2023. Ngày 12 tháng 1 năm 2022, hội đồng bộ trưởng đã phê duyệt lô hàng đầu tiên mua bốn chiếc F-35A. Ngày 22 tháng 5 năm 2023, một nguồn tin của RTAF tuyên bố Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ ngụ ý rằng họ sẽ từ chối lời đề nghị mua F-35A của Thái Lan, thay vào đó họ sẽ cung cấp các máy bay chiến đấu F-16 Block 70 và F-15EX Eagle II.
Thông số kỹ thuật (F-15EX).
"Dữ liệu lấy từ" Air and Space Forces Magazine
Xem thêm.
Máy bay có sự phát triển liên quan
Máy bay có vai trò, cấu hình và thời đại tương đương
Danh sách liên quan
|
Bard (chatbot)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809625
|
Bard là một chatbot trí tuệ nhân tạo tổng hợp đàm thoại được phát triển bởi Google. Ban đầu, nó được dựa trên mô hình ngôn ngữ lớn (LLM) LaMDA và sau đó là PaLM LLM. Bard ra đời nhằm đáp ứng trực tiếp sự phát triển của ChatGPT của OpenAI và được phát hành vào tháng 3 năm 2023 với số lượng hạn chế. Ban đầu, Bard nhận được những phản hồi khác nhau trước khi mở rộng sử dụng sang các quốc gia khác vào tháng 5. Vào tháng 7, 2023, Bard hỗ trợ khoảng 40 ngôn ngữ, có tiếng Việt (theo Bản cập nhật mới nhất của Bard vào ngày 13 tháng 7, 2023).
Bối cảnh.
Vào tháng 11 năm 2022, OpenAI đã giới thiệu ChatGPT, một chatbot dựa trên mô hình ngôn ngữ lớn GPT-3. ChatGPT nhanh chóng thu hút sự chú ý toàn cầu sau khi ra mắt và trở thành một hiện tượng trên Internet. Lo ngại về tiềm năng đe dọa của ChatGPT đối với Google Tìm kiếm đã khiến các giám đốc điều hành của Google phải đưa ra cảnh báo "mã đỏ" và chỉ định lại một số nhóm để hỗ trợ nỗ lực trí tuệ nhân tạo (AI) của công ty. Sundar Pichai, Giám đốc điều hành của Google và công ty mẹ Alphabet, được cho là đã đưa ra cảnh báo này, tuy nhiên, Pichai sau đó đã phủ nhận điều này trong cuộc trò chuyện với The New York Times.
Larry Page và Sergey Brin, những người sáng lập Google và từng giữ vai trò đồng Giám đốc điều hành của Alphabet cho đến năm 2019, đã tham gia cuộc họp khẩn cấp với các giám đốc điều hành của công ty để thảo luận về phản ứng của Google đối với ChatGPT, một động thái hiếm thấy và chưa từng có. Đầu năm đó, Google đã tiết lộ một mô hình ngôn ngữ lớn nguyên mẫu mang tên LaMDA, nhưng không công bố chính thức. Khi được các nhân viên hỏi về việc liệu LaMDA có thể cạnh tranh với ChatGPT hay không, Pichai và giám đốc AI của Google, Jeff Dean, tuyên bố rằng mặc dù công ty có khả năng tương tự như ChatGPT, việc tiến xa quá nhanh trong lĩnh vực này sẽ mang đến rủi ro lớn đối với danh tiếng của Google so với OpenAI.
Vào tháng 1 năm 2023, Giám đốc điều hành của DeepMind, Demis Hassabis, đã tiết lộ kế hoạch phát triển một đối thủ cho ChatGPT, và các nhân viên của Google đã được hướng dẫn để đẩy nhanh tiến độ phát triển một chatbot đối thủ, được gọi là "Apprentice Bard" và các chatbot khác.
|
Bard (chatbot)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809625
|
Pichai đã cam đoan với các nhà đầu tư trong cuộc họp thu nhập hàng quý của Google vào tháng 2 rằng công ty đã có kế hoạch mở rộng tính khả dụng và ứng dụng của LaMDA.
|
Quân khu Odessa
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809631
|
Quân khu Odessa (; , viết tắt ) từng là một đơn vị hành chính quân sự của Liên Xô và Ukraina. Quân khu bao gồm Moldavia và năm tỉnh của Ukraina là Odessa, Nikolaev, Kherson, Krym và Zaporozhye. Năm 1998, hầu hết địa bàn của quân khu được chuyển sang Bộ chỉ huy tác chiến Phương Nam Ukraina.
Một quân khu có cùng tên được Đế quốc Nga thành lập vào năm 1864. Cơ cấu quân khu từ thời Liên Xô được Ukraina kế thừa. Khi Liên Xô giải thể, Tập đoàn quân cận vệ 14 của quân khu được phân chia giữa Nga, Ukraina và Moldova.
Lịch sử.
Đế quốc Nga.
Quân khu Odessa được thành lập trong quá trình cải cách của Bộ trưởng Quân đội Nga Dmitry Milyutin. Đây là quân khu thứ hai trong số hai quân khu trên lãnh thổ của Ukraina trong tương lai, quân khu còn lại là Quân khu Kiev. Quân khu Odessa tồn tại từ năm 1862–1918, là một phần của Lực lượng Vũ trang Đế quốc Nga. Địa bàn quân khu bao gồm các tỉnh Kherson, Yekaterinoslav, Taurida và Bessarabia. Quân khu này giáp với Vương quốc Romania, Quân khu Kiev, tỉnh Quân đoàn Don và Biển Đen. Trong những năm 1870 và 1880 (đến ngày 12 tháng 8 năm 1889), tư lệnh của quân khu kiêm nhiệm giữ chức vụ Toàn quyền lâm thời của thành phố Odessa. Vào tháng 1 năm 1918, trụ sở của Quân khu Odessa được chuyển thành trụ sở của Phương diện quân Romania Xô viết dưới quyền tài phán của Rumcherod. Với việc thành lập chính phủ Ukraina trên lãnh thổ này, cơ cấu bị chấm dứt. Quân khu Odessa được phục hồi khi lực lượng Ukraina bị đẩy ra khỏi khu vực từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1919.
Liên Xô.
Quân khu được cải tổ theo quyết định ngày 11 tháng 10 năm 1939 về việc chiếm đóng Bessarabia sau khi Liên Xô ký Hiệp ước Molotov–Ribbentrop. Vào thời điểm đó, lãnh thổ của quân khu bao gồm CHXHCNXV Moldavia, sáu tỉnh của CHXHCNXV Ukraina (Izmail, Odessa, Dnepropetrovsk, Zaporozhye, Nikolaev, Kirovohrad) và cũng bao gồm CHXHCNXV tự trị Krym thuộc CHXHCNXV LB Nga. Quân khu Odessa được tăng cường bởi một số đơn vị từ Phương diện quân Ukraina đã tham gia vào cuộc xâm chiếm Ba Lan và Romania của Liên Xô, trước đó được thành lập trên cơ sở của Tập đoàn quân Odessa của Quân khu đặc biệt Kiev (Quân khu Kiev cải cách).
|
Quân khu Odessa
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809631
|
Theo chỉ thị của Bộ Quốc phòng Liên Xô, các đơn vị của Quân khu Odesa, dưới quyền Tướng IV Boldin, được lệnh vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu vào mùa xuân năm 1940. Liên Xô tập trung quân dọc biên giới Romania diễn ra từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 10 tháng 6 năm 1940. Nhằm phối hợp với các nỗ lực của Quân khu Kiev và Odessa trong chuẩn bị hành động chống lại Romania, Quân đội Liên Xô đã thành lập Phương diện quân Nam dưới quyền chỉ huy của Tướng Georgy Zhukov, bao gồm các Tập đoàn quân 5, 9 và 12. Phương diện quân Nam có 32 sư đoàn bộ binh (súng trường), 2 sư đoàn bộ binh cơ giới, 6 sư đoàn kỵ binh, 11 lữ đoàn xe tăng, 3 lữ đoàn dù, 30 trung đoàn pháo binh và các đơn vị phụ trợ nhỏ hơn.
Hai kế hoạch hành động được đề ra. Kế hoạch đầu tiên được chuẩn bị cho trường hợp Romania không chấp nhận rút khỏi Bessarabia và Bukovina. Trong tình huống như vậy, Tập đoàn quân 12 của Liên Xô được cho là sẽ tấn công về phía Nam dọc theo sông Prut về phía Iaşi, trong khi Tập đoàn quân 9 của Liên Xô được cho là sẽ tấn công từ đông sang tây ở phía nam Kishinev về phía Huşi. Mục tiêu của kế hoạch này là bao vây quân Romania ở khu vực Bălţi-Iaşi. Kế hoạch thứ hai tính đến trường hợp Romania sẽ khuất phục trước yêu cầu của Liên Xô và sẽ rút quân đội của mình. Trong tình hình đó, quân đội Liên Xô được giao nhiệm vụ nhanh chóng tiếp cận sông Prut, phụ trách quá trình sơ tán quân Romania. Kế hoạch đầu tiên được lấy làm cơ sở của hành động. Dọc theo các khu vực mà cuộc tấn công dự kiến sẽ diễn ra, Liên Xô đã chuẩn bị sẵn sàng để có ưu thế ít nhất gấp ba lần về quân số và phương tiện.
Vào ngày 22 tháng 6 năm 1941, đội hình chiến đấu chính bao gồm:
Vào tháng 8 năm 1941, Tập đoàn quân độc lập 51 được thành lập tại Krym.
Vào ngày 10 tháng 9 năm 1941, quân khu này bị giải thể do địa bàn bị lực lượng vũ trang của Đức Quốc xã và đồng minh chiếm đóng.
Sau Thế chiến II.
Quân khu được cải tổ vào ngày 23 tháng 4 năm 1944 với trụ sở chính tại Kirovohrad, vào tháng 10 năm 1944 thì chuyển đến Odessa.
|
Quân khu Odessa
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809631
|
Năm 1948, Tập đoàn quân cận vệ 4, với Quân đoàn bộ binh cận vệ Budapest 10 (Cơ giới 33, 59, 86) và Quân đoàn súng trường cận vệ 24 (Cơ giới cận vệ 35, Sư đoàn súng trường 180, Lữ đoàn súng trường 51), cộng với Quân đoàn súng trường 82 (cơ giới cận vệ 34, súng trường cận vệ 28, Lữ đoàn súng trường 52) nằm trong quân khu.
Nguyên soái Liên Xô Georgy Zhukov được giao quyền chỉ huy Quân khu Odessa sau chiến tranh, cách xa Moskva và thiếu ý nghĩa chiến lược cũng như binh sĩ. Ông đến đó vào ngày 13 tháng 6 năm 1945. Zhukov bị đau tim vào tháng 1 năm 1948, phải nằm viện một tháng. Vào tháng 2 năm 1948, Zhukov được chuyển đến một chức vụ khác, lần này là tư lệnh của Quân khu Ural. Thượng tướng Nikolay Pukhov nắm quyền tư lệnh.
Quân đoàn súng trường 82 tồn tại cho đến ngày 13 tháng 6 năm 1955, khi nó được đổi tên thành Quân đoàn súng trường 25 và ngày 25 tháng 6 năm 1957, nó được đổi tên thành Quân đoàn lục quân 25. Bộ chỉ huy ở Nikolayev với Sư đoàn súng trường cơ giới cận vệ 28, Sư đoàn súng trường cơ giới cận vệ 34 và Sư đoàn súng trường cơ giới 95 vào cuối những năm 1950. Tan rã vào tháng 6 năm 1960.
Vào tháng 5 năm 1955, các lực lượng của quân khu bao gồm Quân đoàn súng trường cận vệ Budapest số 10 (sư đoàn 35, cận vệ 59, cận vệ 86), Quân đoàn súng trường 25 (bao gồm Sư đoàn súng trường 20 (Zaporozhye), cận vệ 28) và Quân đoàn súng trường 32, và Sư đoàn súng trường cận vệ 48 và 66. Tháng 5 năm 1957, Sư đoàn súng trường 20 trở thành Sư đoàn súng trường cơ giới 93, nhưng sư đoàn này bị giải thể vào tháng 3 năm 1959.
Năm 1960, Sư đoàn súng trường cơ giới cận vệ 113 và Sư đoàn súng trường cơ giới 95 bị giải thể. Vào tháng 4 năm 1960, Quân khu Odessa bao gồm ba tỉnh (Nikolaev, Izmail và Odessa) cũng như Moldavia Xô viết và ba khu vực mới từ Quân khu Taurida đã giải thể: Zaporozhye, Krym và Kherson.
Từ tháng 9 năm 1984, Quân khu nằm dưới quyền chỉ huy của Phương diện chiến lược Tây Nam, với trụ sở chính tại Kishinev.
Phát triển về sau.
|
Quân khu Odessa
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809631
|
Phát triển về sau.
Trên địa bàn của Quân khu Odessa được triển khai thêm Tập đoàn quân cận vệ 14 (được thành lập trên cơ sở Quân đoàn súng trường cận vệ Budapest 10), Quân đoàn lục quân 32 (có thể được cải tổ trên cơ sở các đơn vị trụ sở của Quân khu Taurida cũ) vào năm 1956, được bổ sung bởi Sư đoàn dù cận vệ 98 cũng như thêm bảy sư đoàn súng trường cơ giới.
Tập đoàn quân hàng không số 5 của Lực lượng Không quân Liên Xô hỗ trợ đường không chiến thuật cho các đơn vị của quân khu và Quân đoàn phòng không 49, Tập đoàn quân phòng không số 8 được giao nhiệm vụ phòng không quốc gia cho lãnh thổ.
Quân khu Odessa được chuyển sang quyền tài phán của Ukraina sau khi Liên Xô tan rã vào ngày 3 tháng 1 năm 1992. William E. Odom nói rằng 'theo thỏa thuận Minsk [từ hội nghị thượng đỉnh SNG ở Minsk ngày 30–31 tháng 12 năm 1991], Shaposhnikov đã gửi lệnh vào ngày 3 tháng 1 năm 1992, chính thức chuyển các lực lượng thông thường sang cho Ukraina. Tổng thống Ukraina Kravchuk sau đó phê chuẩn việc sa thải ba tư lệnh quân khu (..). Vào ngày 7–8 tháng 1, mỗi người đều bị loại bỏ, không ai kháng cự vì trong trụ sở của họ, người của Kravchuk đã âm thầm tạo ra một mạng lưới các sĩ quan trung thành với chính phủ của ông.'
Các đơn vị của Quân khu Odessa được phân chia giữa Lực lượng vũ trang Ukraina và một số đơn vị, chủ yếu là Tập đoàn quân cận vệ 14 với Moldavia Xô viết cũ nhưng rồi trở thành một phần của Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga.
Tư lệnh.
Các lực lượng thập niên 1980.
Khoảng 1988, quân khu gồm các lực lượng sau đây:
Ukraina/Moldova.
Sau khi Liên Xô tan rã, Tập đoàn quân cận vệ 14 vướng vào Chiến tranh Transnistria. Sư đoàn hàng không cận vệ 98 được phân chia giữa Nga và Ukraina; phần của Ukraina trở thành Sư đoàn không vận 1 và phần của Nga được rút về Ivanovo thuộc Quân khu Moskva và trở thành một phần của Lực lượng Đổ bộ đường không Nga.
Căn cứ lưu trữ thiết bị 5381 với trụ sở chính tại Florești, Sư đoàn súng trường cơ giới cận vệ 86 cũ, bị Moldova tiếp quản.
Tập đoàn quân hàng không 5 sau đó được đổi tên thành Quân đoàn Hàng không 5 của Lực lượng Không quân Ukraina vào năm 1994.
Thượng tướng Volodymyr Shkidchenko chỉ huy Quân khu Odessa từ tháng 12 năm 1993 cho đến tháng 2 năm 1998.
|
Quân khu Odessa
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809631
|
Kể từ ngày 3 tháng 1 năm 1998, Quân khu Odessa được chuyển thành Bộ tư lệnh tác chiến Phương Nam của Lục quân Ukraina theo Nghị định của Bộ Quốc phòng Ukraina. Bộ chỉ huy bao gồm chín tỉnh: Odesa, Mykolaiv, Kherson, Dnipropetrovsk, Zaporizhzhia, Donetsk, Luhansk, Kirovohrad, Kharkiv và Cộng hòa tự trị Krym.
|
Eduard Kozik
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809648
|
Eduard Serhiyovych Kozik (; sinh ngày 19 tháng 4 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ukraina hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Shakhtar Donetsk tại Giải bóng đá Ngoại hạng Ukraina.
Sự nghiệp thi đấu.
Sinh ra tại Hrudky, Volyn Oblast, Kozik bắt đầu sự nghiệp thi đấu của mình tại học viện của câu lạc bộ VIK-Volyn Volodymyr-Volynskyi, trước khi chuyển tới học viện của Shakhtar Donetsk vào năm 2019.
Anh thi đấu tại Ukrainian Premier League Reserves trong nhiều mùa giải và ra mắt cho đội 1 Shakhtar Donetsk trong trận đấu thuộc khuôn khổ Giải bóng đá Ngoại hạng Ukraina, khi vào sân thay cho Valeriy Bondar ở phút thứ 82 của trận thắng 3-0 trước Inhulets Petrove vào ngày 5 tháng 11 năm 2022.
|
LGBT (định hướng)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809657
|
LGBT là một từ viết tắt từ chữ đầu của của Lesbian (đồng tính nữ), Gay (đồng tính nam), Bisexual (song tính) và Transgender (chuyển giới).
LGBT có thể đề cập đến:
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.