title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Ga Tòa thị chính Siheung
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811696
Ga Tòa thị chính Siheung (Tiếng Hàn: 시흥시청역, Hanja: 始興市廳驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Seohae nằm ở Gwangseok-dong, Siheung-si, Gyeonggi-do. Trong tương lai, nhà ga này sẽ là ga trung chuyển của Tuyến Gyeonggang và một nhánh của Tuyến Shinansan được lên kế hoạch
Tuấn Nhân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811699
Tuấn Nhân có thể là:
Bhaji
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811702
Bhaji là một món ăn rán (món chiên) có nguồn gốc từ tiểu lục địa Ấn Độ. Nó được làm từ các loại rau cay, phổ biến là hành, và có một số biến thể. Nó là một món ăn vặt phổ biến ở Ấn Độ. Ngoài ra, nó còn rất phổ biến ở Pakistan và nó có thể được bày bán ở các quầy hàng ven đường, đặc biệt là ở "tapris" (tiếng Marathi: टपरी) (trên đường phố) và "dhabas" (tiếng Punjab: ਢਾਬਾ) (trên đường cao tốc). Nó cũng là món khai vị phổ biến trong Ẩm thực Anh-Ấn trên khắp Vương quốc Anh. Kỷ lục Guinness về chiếc onion bhaji lớn nhất được ghi nhận vào ngày 4 tháng 2 năm 2020, nặng do Oli Khan và Nhóm Surma Takeaway Stevenage thực hiện. Đa dạng vùng miền. Bên ngoài khu vực Nam và Tây Ấn Độ, những chế phẩm như vậy thường được gọi là "pakora". Các biến thể của nó bao gồm chili bajji, potato bajji, onion bajji, banana bajji và bread bajji (hoặc bread pakoda). Một phiên bản khác được gọi là bonda (ở khu vực Nam Ấn Độ), vada (ở Maharashtra) và Gota (ở Gujarat). Bonda có nhân khoai tây hoặc rau trộn trong khi Gota được làm bằng lá cỏ cà ri xanh. Ý nghĩa về văn hóa. Bhaji là một thành phần của ẩm thực Pakistan và Gujarati Marathi, Tamil, Kannada và ẩm thực Telugu của người Ba Tư truyền thống, được phục vụ vào những dịp đặc biệt và tại các lễ hội. Chúng thường được phục vụ với một tách cà phê, trà, hoặc một khẩu phần "yameen" truyền thống. Họ sử dụng ớt chuối để làm mirchi bhajji. Onion bhaji thường được ăn như món khai vị trong các nhà hàng Anh-Ấn trước món chính, cùng với "poppadoms" và các món ăn nhẹ khác của Ấn Độ. Chúng có thể được phục vụ với một phần salad và lát chanh, hoặc với tương ớt xoài, và được chế biến theo cách truyền thống để có hương vị nhẹ.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Sennacherib (chữ hình nêm Tân Assyria: hay , có nghĩa "Sîn thế chỗ các anh") là vua của Đế quốc Tân Assyria từ khi kế vị Sargon II năm 705TCN đến khi bị giết năm 681TCN. Làm vua đời thứ hai nhà Sargon, Sennacherib là một trong những vua Assyria nổi tiếng nhất vì được Kinh Thánh Hebrew ký thuật lại về chiến dịch Levant. Dưới thời cai trị, ông cho phá hủy thành Babylon năm 689TCN, kiến thiết và mở rộng kinh đô vĩ đại cuối cùng của Assyria là Nineveh. Tuy là một trong những vị vua Assyria hùng mạnh và có ảnh hưởng rộng rãi nhất nhưng Sennacherib gặp khó khăn đáng kể trong việc kiểm soát Babylon thuộc miền nam đế chế. Nhiều rắc rối ở Babylon là do thủ lĩnh Chaldea Marduk-apla-iddina II, nhân vật này từng là vua Babylon cho đến khi bị Sargon II đánh bại. Ngay sau khi Sennacherib thừa kế ngai vàng năm 705TCN, Marduk-apla-iddina chiếm lại Babylon và liên minh với người Elam. Năm 700TCN, Sennacherib giành lại được miền nam nhưng Marduk-apla-iddina tiếp tục di họa, như xúi giục chư hầu của Assyria ở Levant nổi dậy, dẫn đến Chiến tranh Levant năm 701 TCN. Bản thân Marduk thì gây chiến với vua chư hầu của Sennacherib là Bel-ibni. Sau khi Babylon và Elam bắt giết trưởng nam Sennacherib là Ashur-nadin-shumi đang làm vua chư hầu Babylon, Sennacherib tiến đánh cả hai vùng. Do Babylon nằm bên trong lãnh thổ đế quốc cũng như đã gây ra cái chết của con trai, Sennacherib phá hủy thành phố năm 689 TCN. Trong chiến tranh Levant, các nước phía nam không dễ chịu khuất phục như phía bắc, đặc biệt là vương quốc Judah dưới quyền vua Hezekiah. Do đó, quân Assyria tiến hành xâm lược Judah. Dù chuyện Kinh Thánh ghi lại rằng Chúa đã sai thiên sứ xuống giúp tiêu diệt quân Sennacherib đánh Jerusalem nhưng khó có thể cho rằng quân Assyria thua trận, vì cuối cùng Hezekiah cũng phải quy thuận Sennacherib. Những ghi chép đương thời, kể cả từ phía kẻ thù của Assyria đều không hề đề cập đến việc quân Assyria bại trận tại Jerusalem. Sennacherib dời kinh đô tới Nineveh, nơi ông từng ở nhiều khi còn là thái tử. Mong muốn biến Nineveh thành kinh đô xứng tầm đế chế, Sennacherib khởi động một trong những dự án xây dựng tham vọng nhất trong lịch sử cổ đại.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Ông mở rộng thành và dựng những tường thành vĩ đại, nhiều đền thờ và vườn thượng uyển. Công trình nổi tiếng nhất trong thành là Cung điện Tây Nam, được Sennacherib gọi là "Cung điện không đối thủ". Sau khi trưởng nam thái tử Ashur-nadin-shumi qua đời, Sennacherib ban đầu chỉ định nhị hoàng tử là Arda-Mulissu kế vị. Sau đó, không rõ lý do nào mà hoàng tử nhỏ hơn Esarhaddon lại được làm thái tử năm 684TCN. Arda-Mulissu nhiều lần xin được phục hồi kế vị nhưng không được. Năm 681TCN, hai anh em Arda-Mulissu và Nabu-shar-usur sát hại tiếm ngôi Sennacherib. Dân Babylon và Levant mừng rỡ khi biết tin Sennacherib chết, coi đây là bị thần phạt. Còn Assyria kinh hoàng và phẫn nộ. Lễ đăng quang của Arda-Mulissu bị trì hoãn, còn Esarhaddon dấy binh và chiếm giữ Nineveh, tự tuyên bố là vua như Sennacherib đã sắp đặt. Nguồn gốc. Nguồn gốc và thuở nhỏ. Sennacherib là con trai kế vị vua Tân Assyria Sargon II. Sargon làm vua Assyria trong khoảng năm 722-705 TCN và là vua Babylon năm 710-705 TCN. Danh tính mẹ Sennacherib là chưa chắc chắn. Quan điểm phổ biến nhất trong lịch sử cho rằng bà là Ataliya, vợ Sargon, dù điều này hiện coi là rất khó xảy ra. Nếu là mẹ Sennacherib, Ataliya phải ra đời muộn nhất vào năm 760 TCN và sống được ít nhất đến 692 TCN với tư cách là "thái hậu" được nhắc đến khi ấy. Nhưng mộ Ataliya tại Nimrud được phát hiện vào thập niên 1980, cho bà sống tối đa được đến 35 tuổi. Nhà Assyria học Josette Elayi cho rằng sẽ hợp lý hơn nếu mẹ Sennacherib là Ra'īmâ, một người vợ khác của Sargon. Một tấm bia từ Assur (từng là kinh đô Assyria) được phát hiện năm 1913 có nhắc đến bà là "mẹ của Sennacherib". Việc này phải đến 2014 khi giải nghĩa dòng chữ trên mới khám phá được sự tồn tại của Ra'īmâ. Sargon tự nhận là người kế vị Tiglath-Pileser III, nhưng điều này không chắc chắn vì thực ra ông đã soán ngôi Shamaneser V. Sennacherib sinh 745 TCN tại Nimrud. Nếu Sargon thực sự là con trai kế vị của Tiglath-Pileser thì chắc chắn tuổi thơ và tuổi trẻ Sennacherib lớn lên trong cung điện hoàng gia ở Nimrud.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Sargon tiếp tục ở tại Nimrud rất lâu sau khi lên ngôi, đến năm 710 TCN mới chuyển qua Babylon, tới năm 706 TCN thì dời đến kinh đô mới Dur-Sharrukin. Khi Sargon chuyển đến Babylon, thái tử Sennacherib cũng rời đến Nineveh. Nineveh cũng là đất các thái tử Assyria cai quản từ thời Tiglath-Pileser. Ngoài ra, ở Tabisu cũng có điền trang thái tử. Sennacherib và các anh chị em được thầy là Hunnî dạy dỗ. Họ được hưởng nền giáo dục gọi là Eduba, học số học, học đọc viết bằng tiếng Sumer và Akkad. Sennacherib có vài anh em trai và ít nhất một chị em gái. Một số anh trai chết trước khi Sennacherib chào đời, một số em trai thì còn sống đến tận năm 670 TCN, phục vụ dưới triều con trai Sennacherib là Esarhaddon. Người chị em gái duy nhất được biết đến là Ahat-abisha. Bà được gả cho vua Tabal Ambaris nhưng có thể đã trở về Assyria ngay khi Sargon đánh bại Tabal lần đầu. Trong tiếng Akkad, tên của Sennacherib "Sîn-aḥḥē-erība" có nghĩa là "Sîn (thần mặt trăng) đã thay thế các anh". Có lẽ tên này bắt nguồn từ việc Sennacherib không phải là trưởng nam mà do tất cả các anh trai đều chết trước khi ông ra đời. Tên ông trong tiếng Do Thái là "Snḥryb" và trong tiếng Aram là "Šnḥ'ryb". Theo một văn bản từ năm 670 TCN khi Sennacherib đã là cựu vương, dân thường vẫn không được phép dùng tên này, nếu làm trái sẽ bị coi là phạm thượng. Thời thái tử. Với tư cách thái tử, Sennacherib có quyền lực hoàng gia cùng với phụ vương hoặc một mình nhiếp chính khi Sargon tuần du viễn chinh. Trong thời gian Sargon không có mặt tại kinh đô, hành cung của Sennacherib sẽ giữ vai trò trung tâm triều đình, thái tử đảm nhận trách nhiệm chính trị và hành chính trọng yếu. Điều này cho thấy mức độ tin tưởng nhất định giữa vua và thái tử. Các phù điêu khắc họa cả Sargon và Sennacherib cho thấy hai người ngang hàng nhau. Nhiếp chính Sennacherib sẽ duy trì liên hệ với các quan tổng đốc và tướng lĩnh Assyria, giám sát mạng lưới quân báo rộng lớn. Sennacherib giám sát nội vụ và tấu trình cho Sargon về tiến độ xây dựng khắp đế chế.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Sargon cũng ủy quyền cho thái tử tiếp nhận cống phẩm và quyết định ban phát tặng phẩm. Sau khi xong việc, Sennacherib thường gửi thư cho cha báo về các quyết định của mình. Qua một lá thư có thể thấy Sennacherib kính trọng Sargon và có mối quan hệ cha con thân tình. Ông không bao giờ làm trái ý vua cha. Những thư khác cho thấy ông thấu hiểu và muốn cha hài lòng. Không rõ vì sao Sargon không bao giờ mang theo Sannecherib trong các chuyến chinh phạt. Elayi tin rằng Sennacherib có thể tức giận vì bỏ lỡ mất nhiều vinh quang chiến thắng. Tuy vậy, Sennacherib không bao giờ chống lại Sargon hoặc định tiếm đoạt để tự lên ngôi. Assyria và Babylon. Khi Sennacherib lên ngôi, đế chế Tân Assyria đã là cường quốc thống trị ở Cận Đông trong hơn 30 năm, chủ yếu là binh lực hùng hậu thiện chiến so với bất kỳ vương quốc đương đại nào khác. Mặc dù Babylon ở phía nam cũng từng là một vương quốc lớn nhưng thường yếu hơn nước láng giềng phía bắc, do nội bộ chia rẽ và thiếu một đội quân được tổ chức tốt. Dân số Babylon gồm nhiều nhóm sắc tộc với những mối ưu tiên và lý tưởng khác nhau. Dù người Babylon bản địa nắm hầu hết các thành như Kish, Ur, Uruk, Borsippa, Nippur và thành Babylon, các thủ lĩnh bộ tộc Chaldea thống trị hầu hết vùng đất cực nam và cũng thường xung đột với nhau. Người Aram sống ở rìa những vùng định cư và nổi tiếng vì việc tấn công cướp bóc các vùng lân cận. Trước ba phe nội bộ lớn thường có tranh chấp, quân Assyria coi Babylon là mục tiêu hấp dẫn để tiến đánh. Hai vương quốc cạnh tranh nhau từ khi Đế quốc Trung Assyria trỗi dậy vào thế kỷ 14 TCN. Đến thế kỷ 8 TCN, Assyria liên tục chiếm thế thượng phong. Các yếu điểm bị khai thác và vua Assyria Tiglath-Pileser III chinh phục Babylon năm 729 TCN. Trong quá trình bành trướng trở nên đế chế lớn, Assyria chinh phục nhiều vương quốc láng giềng, sáp nhập thành các tỉnh trực thuộc hoặc biến chúng thành các chư hầu thần phục đế quốc. Với sự ngưỡng mộ lịch sử và văn hóa Babylon lâu đời, Assyria đã bảo tồn nơi này thành vương quốc trọn vẹn, chỉ định vua cai trị hoặc do chính vua Assyria đứng đầu bằng liên minh cá nhân.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Mối quan hệ giữa Assyria và Babylon có thể so sánh với Hy Lạp và La Mã về sau; phần lớn văn hóa, văn bản và truyền thống Assyria được du nhập từ phía nam. Assyria và Babylonia cũng chia sẻ cùng một ngôn ngữ là tiếng Akkad. Assyria và Babylon theo nghĩa nào có quan hệ được ví von như tình cảm khác giới: các bản khắc Tân Assyria ẩn dụ gọi Assyria là "chồng" còn Babylon là "vợ". Theo lời nhà Assyria học Eckart Frahm, "Assyria yêu nhưng cũng muốn thống trị Babylon". Dù được coi là cội nguồn văn minh nhưng Babylon vẫn bị động về chính trị trong quan hệ với Assyria. Trị vì. Kế vị. Năm 705 TCN, Sargon tuổi lục tuần dẫn quân Assyria đánh vua Gurdî của Tabal tại trung Anatolia. Chiến trận thảm khốc, quân Assyria đại bại, Sargon tử trận, mất xác về tay quân Anatolia. Sargon chết khiến thất bại càng trầm trọng vì quân Assyria tin rằng họ bị thần trừng phạt do các lỗi lầm trước đây. Thần thoại Lưỡng Hà cho rằng những kẻ chết trận mà không được chôn cất sẽ chịu số phận đau khổ đời đời như người ăn mày. Tháng 8 năm 705 TCN, Sennacherib lên ngôi khi khoảng 35 tuổi. Ông có nhiều kinh nghiệm cai trị đế chế từ lúc làm thái tử. Đối diện với số phận bi thảm của Sargon, ông muốn cách xa những gì liên quan đến vua cha. Frahm mô tả phản ứng của Sennacherib là "một trong những sự phủ nhận gần như hoàn toàn", Sennacherib "dường như cảm thấy không thể thừa nhận và trong lòng không chịu được về những gì đã xảy ra với Sargon". Sennacherib ngay lập tức chuyển kinh đô Dur-Sharrukin do Sargon lập nên về Nineveh. Một trong những hành động đầu tiên của Sennacherib trên ngôi vua là tái thiết đền thờ thần Nergal, thần chết, thảm họa và chiến tranh, tại thành Tarbisu. Ngay cả khi tâm trí đã phủ nhận ra bên ngoài, Sennacherib vẫn mê tín và dành nhiều thời gian hỏi các nhà tiên tri rằng liệu Sargon đã phạm tội gì để phải chịu số phận như vậy, phải chăng việc kiểm soát Babylon đã xúc phạm thần linh tại đó. Người ta tìm được một văn bản trong đó Sennacherib tuyên bố đang điều tra bản chất "tội lỗi" mà cha mình phạm phải, dù có thể văn bản này ra đời sau khi Sennacherib đã chết.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Năm 704 TCN, Sennacherib mở chiến dịch nhỏ (không được đề cập trong các ghi chép lịch sử sau này về Sennacherib) đánh Gurdî ở Tabal để báo thù cho Sargon, vua không thân chinh mà sai quan tướng dẫn quân đi. Sennacherib dành nhiều thời gian và tâm sức để loại bỏ hình ảnh Sargon khỏi đế chế. Vua cho nâng nền sân lên để người ta không còn nhìn thấy những hình ảnh Sargon tạo ra tại ngôi đền ở Assur. Khi vợ Sargon là Ataliya qua đời, bà được chôn cất vội vàng vào cùng một quan tài với hoàng hậu tiên vương Tiglath-Pileser. Sargon không bao giờ được nhắc đến trong các bia ký thời Sennacherib. Chiến dịch Babylon thứ nhất. Sargon II chết trận mất xác làm dấy lên nhiều cuộc nổi loạn khắp đế quốc. Sargon đã cai trị Babylonia từ năm 710 TCN sau khi đánh bại thủ lĩnh bộ tộc Chaldea Marduk-apla-iddina II. Marduk vốn thống lĩnh miền nam sau khi Shalmaneser V chết năm 722 TCN. Giống như các tiên vương, Sennacherib nắm giữ các tước vị thống trị cả Assyria và Babylonia khi lên ngôi, nhưng sự trị vì của ông tại Babylonia bất ổn hơn. Khác với Sargon và các thủ lĩnh Babylon trước đó chỉ dám xưng "shakkanakku" (phó vương) để tôn kính thần Marduk mới là "vua" Babylon, Sennacherib tuyên bố rõ ràng mình là vua Babylon. Hơn nữa, ông cũng không "nắm tay" tượng thần Marduk nghĩa là không tôn vinh thần bằng cách trải qua nghi lễ đăng quang truyền thống của Babylon. Phẫn nộ trước sự bất kính này, các cuộc nổi dậy cách nhau một tháng năm 704 hoặc 703 TCN đã lật đổ quyền cai trị của Sennacherib ở phía nam. Đầu tiên, Marduk-zakir-shumi II lên ngôi nhưng bị Marduk-apla-iddina (người từng kiểm soát thành và giao chiến với Sargon) phế truất chỉ sau hai hay bốn tuần. Marduk-apla-iddina tập hợp đông đảo người Babylon dưới trướng, cả người Babylon thành thị và người Chaldea bộ tộc, ông cũng chiêu mộ thêm quân từ nước láng giềng Elam (tây nam Iran ngày nay). Việc huy động lực lượng này mất nhiều thời gian nhưng do Sennacherib chậm phản ứng đã cho phép Marduk-apla-iddina đồn trú lượng quân binh lớn tại thành Kutha và Kish. Năm 704 TCN, một số lực lượng Assyria vẫn đang ở Tabal.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Sennacherib có thể cảm thấy rủi ro khi phải đối đầu trên hai mặt trận nên để yên cho Marduk-apla-iddina trong vài tháng. Năm 703 TCN, sau khi chinh phạt xong Tabal, Sennacherib tập hợp quân Assyria tại Assur, nơi thường hội quân khi đánh miền nam. Sennacherib chỉ huy quân Assyria tấn công bất thành ở gần thành Kish, liên quân đối kháng được đà thắng lợi chính danh. Tuy nhiên, Sennacherib cũng nhận ra rằng lực lượng đối kháng đang bị chia rẽ nên dốc toàn quân giao chiến, tiêu diệt quân đối phương đóng tại Kutha. Sau đó, ông chuyển sang đánh Kish và giành thắng lợi. Marduk-apla-iddina phải bỏ chạy khỏi chiến trường để bảo toàn mạng sống. Các bia ký Sennacherib chép rằng trong số tù binh bị bắt có con riêng của Marduk-apla-iddina cũng như anh trai nữ hoàng Ả Rập Yatie tham gia liên minh đối kháng. Sennacherib sau đó hành quân đến Babylon. Khi mới thấy quân Assyria xuất hiện nơi chân trời, Babylon đã mở cổng đầu hàng. Thành bị Sennacherib trách phạt, cướp bóc một ít nhưng dân chúng thì không bị tổn hại gì. Sau một thời gian ngắn nghỉ tại Babylon, Sennacherib dẫn quân tề chỉnh tới miền nam Babylon vẫn đang chống đối, ông bình định cả các thành lẫn những bộ tộc. Bản khắc ghi lại hơn 200.000 tù nhân đã bị bắt. Bởi vì chính sách làm vua cả Assyria lẫn Babylon không hiệu quả, Sennacherib thử phương án khác. Ông bổ nhiệm Bel-ibni là một người Babylon được nuôi dưỡng lớn lên tại triều đình Assyria làm vua chư hầu phương nam. Sennacherib mô tả Bel-ibni là "một người gốc Babylon lớn lên trong cung điện của ta như một con cún con". Chiến tranh Levant. Cảnh trong phù điêu Lachish của Sennacherib</img>Máy hãm thành Assyria tấn công tường thành Lachish</img>Lính Assyria chuẩn bị chặt đầu một tù nhân Lachish</img>Người Judah bị lưu đày sau khi Lachish thất thủ </img>Sennacherib (ngồi trên ngai ngoài cùng bên phải) tại Lachish, tiếp quan tướng và xem xét tù nhân Sau chiến tranh Babylon, chiến dịch thứ hai của Sennacherib là ở dãy núi Zagros. Tại đây, ông đã khuất phục được người Yasubigallia, một dân tộc đến từ phía đông sông Tigris, và người Kassite từng cai trị Babylon nhiều thế kỷ trước. Chiến dịch thứ ba là tiến đánh các vương quốc và thành bang ở Levant.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Cuộc chiến này được ghi chép rất rõ ràng so với nhiều sự kiện Cận Đông cổ đại khác và được ký thuật tốt nhất tron lịch sử Israel thời Đền Thờ thứ nhất. Năm 705 TCN, vua Judah Hezekiah ngừng cống nạp hàng năm cho Assyria và bắt đầu theo đuổi chính sách đối ngoại hiếu chiến rõ rệt, có lẽ do làn sóng nổi dậy khắp đế quốc. Sau khi âm mưu với Ai Cập (thời Kush) và vua thành Ashkelon Sidqia nhằm có thêm ủng hộ, Hezekiah tấn công các thành của người Philistine trung thành với Assyria và bắt vua chư hầu Ekron Padi về giam tại Jerusalem. Ở phía bắc Levant, các thành chư hầu Assyria tập hợp xung quanh vua Týros và Sidon là Luli. Marduk-apla-iddina lợi dụng xúi lên tinh thần chống Assyria trong một số chư hầu phía tây. Ông đã trao đổi thư từ và tặng phẩm cho các thủ lĩnh phía tây như Hezekiah với hy vọng thiết lập liên minh rộng lớn chống Assyria. Năm 701 TCN, Sennacherib lần đầu hành quân đánh các thành Syro-Hittite và Phoenicia phía bắc. Giống như các thủ lĩnh trước đây, Luli lên thuyền tháo chạy thay vì đối đầu với quân Assyria hung bạo. Sennacherib đưa nhà quý tộc Ethbaal lên làm vua Sidon trở thành chư hầu thần phục mình, đồng thời cho ông ta cai trị các thành xung quanh. Trước đội quân Assyria khổng lồ gần đó, nhiều thủ lĩnh Levant như Budu-ilu dân Ammon, Kamusu-nadbi dân Moab, Mitinti thành Ashdod và Malik-rammu thành Edom đã nhanh chóng quy thuận Sennacherib để tránh bị trừng phạt. Miền nam Levant tiếp tục kháng cự, buộc Sennacherib phải xâm chiếm khu vực này. Quân Assyria khởi chiếm Ashkelon và đánh bại Sidqia, rồi tiếp tục bao vây và chiếm nhiều thành khác. Khi quân Assyria chuẩn bị tái chiếm Ekron, đồng minh Ai Cập của Hezekiah liền can thiệp vào. Assyria đánh bại hoàn toàn đoàn viễn chinh Ai Cập trong trận chiến gần thành Eltekeh. Họ chiếm các thành Ekron và Timnah, chỉ còn lại Judah với Jerusalem lọt vào tầm ngắm. Điều một phần quân lực chuẩn bị phong tỏa Jerusalem, Sennacherib đích thân dẫn phần còn lại đánh thành Lachish trọng yếu của Judah. Thế trận bao vây cả Jerusalem lẫn Lachish đã cắt đứt viện trợ từ Ai Cập cho Hezekiah, đồng thời đe dọa các vua thành bang nhỏ xung quanh.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Lachish thất thủ và bị phá hủy sau thế trận vây hãm lâu đến mức trong thành cạn sạch tên, quân thủ thành buộc phải dùng cả xương để thay thế. Để chiếm thành, quân Assyria dựng gò đất đá cao xung quanh chạm đến tường thành. Sau khi phá hủy Lachish, những người sống sót bị điều đi phục dịch xây dựng khắp đế chế, một số khác trở thành cận vệ riêng của nhà vua. Tại cổng thành Jerusalem. Tường thuật của Sennacherib về diễn biến chiến sự Jerusalem bắt đầu bằng câu "Còn Hezekiah... như con chim bị ta nhốt trong lồng là thành phố hoàng gia Jerusalem của hắn. Ta khóa chặt hắn bằng các tiền đồn, ngăn chặn hắn trên các lối ra thành." Thực ra Jerusalem chỉ bị phong tỏa ở một mức độ nào đó, không có các hoạt động quân sự quy mô lớn cùng những thiết bị công thành lớn cho thấy đây có thể không phải trận bao vây toàn diện. Kinh Thánh ký thuật lại tướng Assyria Rabshakeh đứng trước vách thành kêu gọi đầu hàng đồng thời đe dọa dân Do Thái sẽ phải 'ăn phẩn mình và uống nước tiểu mình' khi bị bao vây. Ghi chép của Assyria rằng Sennacherib đích thân hiện diện nhưng điều này là chưa rõ ràng và các phù điêu mô tả trận chiến cho thấy Sennacherib ngồi trên ngai vàng tại Lachish thay vì đốc quân đánh Jerusalem. Kinh Thánh cũng chép khi các sứ thần Assyria sau khi tới gặp Hezekiah quay về thì thấy Sennacherib đang lâm trận đánh thành Libnah. Câu chuyện vây Jerusalem khác với biên niên sử Sennacherib cũng như các phù điêu lớn tại Nineveh mô tả chiến thắng vây hãm Lachish hơn là diễn tiến tại Jerusalem. Dù đây không phải là một trận vây hãm đúng nghĩa nhưng tất cả các nguồn tư liệu đều chỉ ra rằng đạo binh Assyria lớn đã đóng gần thành, có thể ở phía bắc. Rõ ràng trận bao vây kết thúc mà không có giao tranh đáng kể, nhưng chi tiết thế nào thì không rõ, nhất là điều gì đã ngăn được đội quân đông đảo của Sennacherib. Kinh Thánh thì ký thuật dù quân lính Hezekiah trấn giữ tường thành, nhưng một thiên thần hủy diệt do Yahweh sai đến đã giết chết 185.000 lính Assyria trước cổng thành Jerusalem. Sử gia Hy Lạp cổ đại Herodotos mô tả "vô số chuột đồng" tràn xuống trại quân Assyria, ngấu nghiến hết cả ống tên và dây cung, khiến không còn vũ khí và quân Assyria phải tháo chạy.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Có thể câu chuyện về chuột là ám chỉ đến một loại dịch bệnh nào đó lây lan trong trại Assyria, rất có thể là dịch hạch. Một giả thuyết khác được nhà báo Henry T. Aubin đưa ra lần đầu năm 2001 cho rằng Jerusalem nhờ quân Kush đến từ Ai Cập can thiệp vào giải vây. Nói chung thì quân Assyria cũng không phải thất bại hoàn toàn, chỉ là các biên niên sử Assyria đều không nhắc đến trận thua này. Dù cho việc phong tỏa Jerusalem bất phân thắng bại hay ra sao đi nữa, Assyria đã giành phần thắng trong chiến dịch Levant. Sau khi nhiều thành kiên cố rơi vào tay quân Assyria, nhiều thành và làng mạc khác bị phá hủy, Hezekiah nhận ra chống lại Assyria chỉ là sai lầm nên quay lại đầu phục. Hezekiah buộc phải cống nạp nặng nề hơn trước, có thể cộng với cả khoản cống phẩm đã không dâng từ 705-701 TCN. Ông cũng buộc phải trả tự do vua Ekron Padi đang bị tù. Sennacherib cũng cắt nhiều phần đất đai của Judah cho các nước xung quanh là Gaza, Ashdod và Ekron. Giải quyết vấn đề Babylon. Đến năm 700 TCN, tình hình Babylon lại tồi tệ đến mức Sennacherib phải đưa quân xâm lăng tái khẳng định quyền lực mình. Bel-ibni khi ấy phải đối mặt với hai thủ lĩnh bộ tộc công khai nổi loạn: Shuzubu (về sau làm vua Babylon Mushezib-Marduk) và Marduk-apla-iddina đã cao tuổi. Sennacherib đi nước đầu tiên phế bỏ Bel-ibni do bất tài hoặc đồng lõa rồi đưa về Assyria, từ đó các tư liệu không nhắc gì đến nhân vật này nữa. Quân Assyria lục soát vùng đầm lầy phía bắc Babylon nỗ lực săn tìm bắt giữ Shuzubu nhưng thất bại. Sennacherib liền cho săn lùng gắt gao đến nỗi Marduk-apla-iddina phải cùng thuộc hạ lên thuyền vượt vịnh Ba Tư đến trốn tại thành Nagitu của dân Elam. Sau thắng lợi này, Sennacherib thay đổi phương án cai trị khi đặt con trai mình Ashur-nadin-shumi làm vua chư hầu Babylon. Ashur-nadin-shumi cũng được gọi là "māru rēštû" mang nghĩa "con trai ưu tú" hoặc "trưởng nam". Việc được chỉ định làm vua Babylon cùng danh hiệu mới cho thấy rằng Ashur-nadin-shumi đang được chuẩn bị để kế vị Sennacherib làm vua Assyria. Danh hiệu "Māru rēštû" với nghĩa "ưu tú" thì cũng chỉ có thể dùng cho thái tử nên cả hai nghĩa đều cho thấy Ashur-nadin-shumi sẽ kế vị.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Đa phần người Assyria đều tuân theo nguyên tắc trưởng nam thừa kế. Thêm bằng chứng ủng hộ Ashur-nadin-shumi trở thành thái tử là việc Sennacherib xây cung điện tại Assur cho con trai mình, giống như về sau Sennacherib cũng làm điều tương tự cho thái tử Esarhaddon. Là vua người Assyria của Babylon, vị trí Ashur-nadin-shumi rất quan trọng về mặt chính trị, đồng thời giúp ông có kinh nghiệm quý giá để có thể kế thừa cả đế quốc Tân Assyria. Những năm sau đó, Babylonia tương đối yên bình, không có bất kỳ hoạt động quan trọng nào được chép trong các biên niên sử. Trong cùng thời gian, Sennacherib mở chiến dịch tới các vùng khác. Năm 699 TCN, ông thân chinh một loạt các cuộc tấn công vào làng mạc quanh chân núi Judi đông bắc Nineveh. Các chiến dịch nhỏ khác do tướng lĩnh chỉ huy như đánh dẹp tổng đốc Kirua nổi dậy ở Cilicia năm 698 TCN và đánh thành Tegarama năm 695 TCN. Năm 694 TCN, Sennacherib xâm lược Elam với mục tiêu rõ ràng là nhổ tận gốc Marduk-apla-iddina và những người Chaldea đang lẩn trốn. Chiến dịch Elam và báo thù. Chuẩn bị đánh Elam, Sennacherib tập hợp hai hạm đội lớn trên sông Euphrates và Tigris. Hạm đội sông Tigris về sau dùng để chở quân Assyria đến thành Opis, tại đó thuyền được kéo lên bờ, vận chuyển đường bộ tới kênh nối với sông Euphrates. Hai hạm đội nhập làm một tiếp tục đi xuống vịnh Ba Tư. Ở đầu vịnh Ba Tư, một cơn bão ập xuống trại làm quân Assyria phải trú trên thuyền. Sau đó, thuyền đi qua vịnh Ba Tư, các bia ký thời Sennacherib chỉ ra rằng hải trình đầy khó khăn, nhiều lần phải dâng tế cho thần biển sâu Enki. Đổ bộ thành công lên bờ biển Elam, quân Assyria liền săn lùng và tấn công dân Chaldea tị nạn, tư liệu Babylon và Assyria đều viết quân Assyria thực hiện suôn sẻ. Sử về Sennacherib mô tả chiến dịch là một "chiến thắng vĩ đại", liệt kê một số thành chiếm được và cướp phá. Sennacherib cuối cùng cũng báo thù được nhưng Marduk-apla-iddina lại không sống đến lúc đó mà đã chết trước khi quân Assyria đổ bộ Elam. Bất ngờ tiếp theo là vua Elam Hallutash-Inshushinak I lợi dụng quân Assyria cách xa quê nhà để xâm chiếm Babylonia.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Được quân Chaldea còn sót lại hỗ trợ, Hallutash-Inshushinak chiếm được thành Sippar, bắt sống Ashur-nadin-shumi và giải về Elam. Từ đó không còn thông tin gì về Ashur-nadin-shumi nữa, có lẽ đã bị hành quyết. Một người Babylon bản xứ Nergal-ushezib lên làm vua Babylon thay cho Ashur-nadin-shumi. Sử liệu Babylon viết Hallutash-Inshushinak đặt Nergal-ushezib lên nắm quyền, trong khi phía Assyria lại cho rằng chính người Babylon bầu ông lên làm vua. Bị quân Elam bao vây tại miền nam Babylon, quân Assyria hạ sát con trai Hallutash-Inshushinak trong một trận giao tranh nhưng vẫn bị kẹt lại trong ít nhất chín tháng. Mong muốn củng cố ngôi báu, Nergal-ushezib lợi dụng tình hình chiếm và cướp thành Nippur. Vài tháng sau, quân Assyria tổ chức tấn công và chiếm được thành Uruk phía nam. Nergal-ushezib sợ hãi bèn kêu gọi quân Elam trợ giúp. Chỉ bảy ngày sau khi chiếm Uruk, quân Assyria giành chiến thắng quyết định trước quân Babylon trong trận Nippur, đánh tan liên quân Elam-Babylon và bắt được Nergal-ushezib, khai thông bế tắc phía nam. Theo một số nguồn chưa rõ, Sennacherib đã lén rút khỏi giao tranh vài tháng trước đó nên không hiện diện trong trận cuối, có thể vua đang trên đường dẫn quân tiếp viện từ Assyria tới. Khi vua hội quân phía nam, chiến tranh Babylon đã kết thúc. Ngay sau đó, Elam xảy ra bạo loạn, Hallutash-Inshushinak bị phế truất, Kutur-Nahhunte lên ngôi. Quyết tâm dứt điểm hậu họa từ Elam, Sennacherib tái chiếm thành Der rồi tiến quân vào phía bắc Elam. Kutur-Nahhunte không thể tổ chức phòng thủ hiệu quả trước quân Assyria nên đành chạy lên thành Haidalu trên núi. Thời tiết khắc nghiệt buộc Sennacherib phải rút quân về nước. Phá hủy Babylon. Bất chấp Nergal-ushezib thua trận và quân Elam tháo chạy, Babylon không chịu đầu hàng. Năm 692 TCN, Mushezib-Marduk lên ngôi vua Babylon mà không cần ngoại viện, đây vốn là Shuzubu gây loạn bị Sennacherib săn lùng khi xâm lược phía nam năm 700 TCN. Cho đến năm 691 TCN, sử liệu Assyria cũng không coi đây là "nổi loạn" nên có thể Sennacherib đã chấp nhận việc này. Đồng thời khi ấy, Elam cũng đổi chủ khi phế truất Kutur-Nahhunte và Humban-menanu lên thay đã tập hợp lại liên minh chống Assyria. Mushezib-Marduk mua chuộc để được Humban-menanu hỗ trợ.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Ghi chép của Assyria coi quyết định ủng hộ Babylon của Humban-menanu là thiếu khôn ngoan, gọi ông là "không biết nhận định hay đoán xét gì cả". Sennacherib đối mặt kẻ thù trong trận chiến gần thành Halule. Humban-menanu và thống lãnh Humban-undasha chỉ huy quân Babylon và Elam. Không rõ chính xác kết quả trận chiến ra sao vì cả hai bên đều tuyên bố thắng lợi vẻ vang. Sennacherib tuyên bố trong biên niên sử rằng Humban-undasha bị giết và các vua khác chạy thoát thân nhưng biên niên sử Babylon lại viết chính quân Assyria mới phải tháo lui. Kể cả nếu Babylon thắng trận thì tổn thất phía Assyria cũng không đáng kể vì Babylon vẫn đang bị bao vây cuối hè năm 690 TCN (và dường như đã bị bao vây ít lâu rồi). Tuy nhiên, các chiến dịch đánh những nơi khác được chép lại cho thấy Assyria không hành quân tới Babylon ngay. Năm 1973, nhà Assyria học John A. Brinkman viết rằng có khả năng là quân miền nam đã thắng trận dù chịu nhiều thương vong, bằng chứng là cả hai kẻ thù của Sennacherib vẫn yên vị trên ngai vàng sau trận giao tranh. Năm 1982, nhà Assyria học Louis D. Levine lại viết quân Assyria thắng khiến quân miền nam phải bỏ chạy, nhưng đây không phải là chiến thắng quyết định, và Assyria tạm dừng đánh tiếp Babylon. Việc quân Assyria chuyển hướng chiến dịch có thể bị các nhà sử gia Babylon diễn giải thành hành động rút lui. Năm 690 TCN, Humban-menanu bị đột quỵ, cứng hàm không nói được. Lợi dụng tình hình, Sennacherib bắt tay vào chiến dịch cuối cùng đánh Babylon. Mặc dù Babylon có thắng lợi ban đầu nhưng chỉ trong thời gian ngắn, cùng năm ấy, Babylon dễ dàng bị vây hãm. Có thể sau 15 tháng vây hãm, tình thế Babylon đã rất nguy ngập khi rơi vào tay Sennacherib năm 689 TCN. Sennacherib từng lo lắng xem xét việc Sargon tử trận do xúc phạm thần linh khi đánh Babylon, nhưng thời điểm này thì không còn do dự nữa. Cuối cùng, Sennacherib quyết định hủy diệt Babylon. Brinkman cho rằng Sennacherib thay đổi thái độ vì muốn báo thù cho con trai và cũng không thể chịu nổi một thành cứ liên tục nổi dậy chống lại mình. Theo Brinkman, Sennacherib có thể không còn sợ các thần Babylon nữa vì chính những vị thần này đã truyền cảm hứng cho dân chúng chống lại mình.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Chính Sennacherib cũng viết về sự hủy diệt Babylon: Tuy phá hủy thành nhưng dường như Sennachrib vẫn còn chút sợ các thần Babylon cổ. Trong đoạn tường thuật chiến dịch, ông đề cập cụ thể các thần điện Babylon đã hỗ trợ tài chính cho kẻ thù mình. Đoạn mô tả việc đập phá tượng thần và chiếm đoạt tài sản trong điện thờ là một trong số ít đoạn Sennacherib viết là "dân ta" thay vì "ta". Năm 1973, Brinkman giải thích là không phải do cá nhân Sennachrib ra chỉ thị diệt thần, mà chính là những kẻ trông giữ đền thờ quyết định và dân Assyria đã làm điều đó. Trong khi hủy diệt thành, Sennacherib phá hủy đền thờ và hình ảnh các vị thần, ngoại trừ hình ảnh Marduk được mang về Assyria. Chính Assyria cũng kinh hoàng về điều này vì họ rất coi trọng Babylon và thần linh tại đó. Sennacherib cố gắng biện minh cho hành động mình với dân Assyria bằng một chiến dịch tuyên truyền tôn giáo. Một trong số đó là huyền thoại thần Marduk bị đưa ra xét xử trước thần Assyria Ashur. Chuyện này chỉ còn vài mảnh rời rạc, nhưng có vẻ như thần Marduk bị quy kết một số trọng tội. Sennacherib mô tả việc mình đánh bại quân nổi dậy Babylon bằng ngôn ngữ thần thoại sáng thế Babylon, đồng nhất Babylon với nữ ác quỷ Tiamat còn mình là Marduk. Trong lễ hội năm mới, thần Ashur đã thay thế thần Marduk, và ông đặt vào trong đền đống gạch vụn tượng trưng lấy từ Babylon. Chính sách của Sennacherib đã gây ra lòng căm thù sâu sắc trong phần lớn dân chúng Babylon. Mục tiêu của Sennacherib là xóa bỏ hoàn toàn Babylon như một thực thể chính trị. Dù cho một số lãnh thổ miền bắc Babylon đã trở thành các tỉnh thuộc Assyria nhưng người Assyria không nỗ lực xây dựng lại Babylon, các biên niên sử miền nam gọi thời kỳ này là "không vua". Kiến thiết Nineveh. Sau cuộc chiến cuối cùng với Babylon, Sennacherib dành thời gian kiến thiết kinh đô mới Nineveh thay vì lại đánh đông dẹp bắc. Nineveh từng là một thành trọng yếu phía bắc Lưỡng Hà qua nhiều thiên niên kỷ. Dấu vết con người định cư lâu đời nhất là từ thiên niên kỷ 7 TCN. Từ thiên niên kỷ 4 TCN trở đi, tại đây hình thành trung tâm hành chính quan trọng ở phía bắc.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Khi được chọn làm kinh đô, Nineveh trải qua một trong những dự án xây dựng tham vọng nhất lịch sử cổ đại, được biến đổi hoàn toàn khỏi tình trạng có phần bị lãng quên trước khi Sennachrib trị vì. Trong khi kinh đô mới Dur-Sharrukin của phụ vương ít nhiều bắt chước kinh đô Nimrud trước đó, Sennacherib dự định biến Nineveh thành một thành phố có quy mô và vẻ đẹp lộng lẫy khiến thế giới văn minh phải kinh ngạc. Những bản khắc sớm nhất thảo luận về dự án xây dựng tại Nineveh có từ năm 702 TCN liên quan đến việc xây dựng Cung điện Tây Nam. Sennacherib gọi cung điện này là "ekallu ša šānina la išu" "Cung điện không đối thủ". Trong quá trình xây dựng, một cung điện nhỏ hơn bị phá bỏ, dòng nước làm xói mòn chân đế được cho chuyển hướng, nền cung điện mới được dựng lên và nâng lên độ cao 160 lớp gạch. Tuy các bản khắc thời trước đề cập đến cung điện như thể đã hoàn thành nhưng đây chỉ là cách viết thông thường về việc xây dựng của Assyria cổ. Hình ảnh Nineveh được mô tả trong những lời kể sớm nhất về quá trình xây dựng kiến thiết thực ra chỉ mới nằm trong trí tưởng tượng của Sannecherib. Đến năm 700 TCN, tường ngai phòng Cung điện Tây Nam đang được xây dựng, tiếp theo là đắp nhiều phù điêu bên trong. Bước cuối cùng là dựng tượng bò đực và sư tử khổng lồ đặc trưng cho kiến trúc Hậu Assyria. Tại Nineveh đã khai quật được những tượng đá như vậy, nhưng tượng tương tự bằng kim loại quý được đề cập trong bia ký thì hiện vẫn không thấy đâu. Mái cung điện làm từ gỗ bách và tuyết tùng trên núi miền tây, cung điện có nhiều cửa sổ lấy sáng và được trang trí bằng các chốt bạc hay đồng ở bên trong và gạch men ở bên ngoài. Toàn bộ cấu trúc chạy dọc hết gò đất dài và rộng . Trên một con sư tử đá có khắc chữ dành tặng hoàng hậu Tashmetu-sharrat mong muốn vua và hoàng hậu khỏe mạnh và trường thọ trong cung điện mới. Nội dung thân mật lạ thường như sau: Tuy cùng ý tưởng với cung điện Sargon tại Dur-Sharrukin, cung điện của Sennacherib cho thấy điểm khác biệt, đặc biệt là những tác phẩm nghệ thuật đặc trưng bên trong.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Phù điêu Sargon thường khắc họa nhà vua gần gũi với các quý tộc Assyria, còn tranh khắc Sennacherib thường để nhà vua cao hơn tất cả xung quanh do được ngồi trên cỗ xe. Phù điêu về Sannechrib thể hiện khung cảnh lớn hơn, một số là toàn cảnh nhìn từ trên xuống. Hoặc cũng thể hiện nghệ thuật tự nhiên hơn; tượng bò đực khổng lồ trong cung điện Sargon có đến năm chân để từ hai bên có thể nhìn thấy hai chân, còn từ phía trước thì nhìn được hai chân, trong khi tất cả tượng bò đực của Sannechrib đều có bốn chân. Sennacherib cho xây dựng những khu vườn xinh đẹp tại cung điện mới, mang về nhiều loại cây từ khắp đế chế và còn từ xa hơn nữa. Cây bông có thể đã được nhập về từ những nơi xa xôi như Ấn Độ. Một số ý kiến cho rằng kỳ quan cổ đại Vườn treo Babylon nổi tiếng thực ra chính là những khu vườn của Sannecherib tại Nineveh. Eckhart Frahm phản đối ý tưởng khó xảy ra này với lập luận vườn hoàng gia tại chính Babylon mới thực ấn tượng. Ngoài cung điện, Sennacherib cũng giám sát những việc xây dựng khác tại Nineveh. Vua xây dựng một cung điện lớn thứ hai tại gò đất phía nam thành, để làm kho vũ khí và một phần quân đội Assyria đồn trú thường trực. Một lượng lớn đền thờ được xây dựng hoặc trùng tu, nhiều trong số đó nằm trên gò Kuyunjik (nơi có Cung điện Tây Nam), bao gồm một ngôi đền dâng lên thần Sîn (gọi theo tên vua). Sennacherib nhanh chóng mở rộng thành về phía nam, dựng lên tường thành mới khổng lồ, có hào bao quanh cao tới và dày . Bị mưu sát và người kế vị. Khi thái tử Ashur-nadin-shumi biến mất và rất có thể đã bị giết chết, Sennacherib chọn người con kế tiếp Arda-Mulissu làm thái tử mới. Đến năm 684 TCN, Sennacherib bất ngờ đưa người em Esarhaddon lên thay thế làm thái tử. Không rõ vì sao Arda-Mulissu mất quyền kế vị và các bia ký đương thời cho thấy ông rất thất vọng. Có thể mẹ Esarhaddon là Naqi'a đã thuyết phục thành công Sennacherib trong thay đổi người kế vị. Arda-Mulissu vẫn là một nhân vật nổi bật, một số chư hầu ngầm ủng hộ ông kế thừa ngôi báu.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Sennacherib buộc Arda-Mulissu phải thề trung thành với Esarhaddon nhưng Arda-Mulissu nhiều lần xin cha phục hồi kế vị cho mình. Sennacherib thấy danh tiếng Arda-Mulissu ngày càng tăng, nên lo ngại cho ngôi vị thái tử liền phái Esarhaddon đến các tỉnh miền tây. Việc Esarhaddon ở xa khiến cho Arda-Mulissu ở đỉnh cao danh tiếng nhưng lại không động vào được em trai mình. Arda-Mulissu quyết định cần hành động nhanh và chiếm lấy ngai vàng bằng vũ lực. Ông lập "thỏa ước nổi dậy" với một người em trai khác là Nabu-shar-usur. Ngày 20 tháng 10 năm 681 TCN, họ tấn công và hạ sát cha mình trong một ngôi đền tại Nineveh, có thể là điện thờ Sîn. Vụ ám sát người đứng đầu một trong những đế quốc mạnh nhất khi ấy đã gây chấn động thế giới đương thời. Dân chúng Cận Đông kinh động nhận tin và có cảm xúc lẫn lộn. Dân Levant và Babylonia hoan hỉ và coi đây là do thần phạt tội Sennacherib đã tấn công họ. Còn ở Assyria có lẽ là bầu không khí phẫn nộ kinh hoàng. Nhiều nguồn tư liệu chép lại vụ này, trong đó có cả Kinh Thánh gọi Arda-Mulissu là "Adrammelech" (A-tra-mê-léc). Mưu sát thành công nhưng Arda-Mulissu không thể chiếm ngôi. Những người vốn ủng hộ ông cũng cảm thấy phẫn nộ về việc này, nên ngày đăng quang dự kiến bị trì hoãn. Trong lúc đó, Esarhaddon tập hợp binh mã. Quân của Arda-Mulissu và Nabu-shar-usur chạm trán với binh lực Esarhaddon tại Hanigalbat thuộc miền tây đế quốc. Hầu hết binh lính đã đào ngũ sang phe Esarhaddon. Esarhaddon dẫn quân tiến về Nineveh mà không gặp kháng cự nào và trở thành tân vương Assyria. Ngay khi lên ngôi, Esarhaddon xử tử tất cả những kẻ chủ mưu và kẻ thù chính trị bị mình nắm trong tay, kể cả gia đình anh em mình. Các đầy tớ canh gác cung điện Nineveh cũng bị hành quyết. Arda-Mulissu và Nabu-shar-usur sống sót qua đợt thanh trừng này, đào thoát lưu vong sang vương quốc phía bắc Urartu. Gia đình và con cái. Theo truyền thống quân vương Assyria, Sennacherib có hậu cung đông đảo. Hai người vợ có danh tính ghi lại là Tashmetu-sharrat ("Tašmetu-šarrat") và Naqi'a ("Naqiʾā").
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Không chắc cả hai có phải cùng là hoàng hậu hay không, nhưng các nguồn tư liệu đương thời cho rằng vua có thể nhiều vợ, nhưng tại mỗi thời điểm chỉ có một là hoàng hậu chính thất mà thôi. Trong phần lớn thời gian Sennacherib trị vì, Tashmetu-sharra nghĩa là "Tashmetum là hoàng hậu" có thể giữ vị trí mẫu nghi thiên hạ. Các bản khắc cho thấy Sennacherib và Tashmetu-sharrat yêu nhau, vua gọi bà là "nương tử yêu dấu của ta" và công khai khen ngợi sắc đẹp của bà. Chưa rõ liệu Naqi'a có từng là hoàng hậu hay không. Bà được gọi là "thái hậu" dưới triều Esarhaddon, nhưng vì bà là mẹ đẻ Esarhaddon nên nghiễm nhiên có được danh hiệu này vào cuối triều Sennacherib hoặc do con trai phong dâng. Tashmetu-sharrat giữ ngôi chính thất lâu hơn nhưng ngày nay người ta biết nhiều hơn về vị thế Naqi'a dưới thời Esarhaddon. Khi làm vợ Sennacherib, bà lấy tên trong tiếng Akkad là "Zakututu" ("Naqi'a" là tiếng Aram). Hai cái tên có thể chỉ ra rằng Naqi'a sinh ra bên ngoài Assyria như Babylonia hoặc ở Levant, nhưng không có bằng chứng đáng kể để truy được gốc tích. Sennacherib có ít nhất bảy con trai và một con gái. Ngoại trừ Naqi'a là mẹ Esarhaddon thì không rõ ai là mẹ của những người con còn lại. Tashmetu-sharrat có thể là mẹ của một trong số đó: Một bảng nhỏ được khai quật tại Nineveh, trên đó liệt kê tên các anh hùng thần thoại Lưỡng Hà (như Gilgamesh) cùng một số tên riêng khác. Vì Ashur-ili-muballissu xuất hiện trong danh sách tên riêng, cùng một tên khác có thể viết thành Ashur-nadin-shumi (hoặc Ashur-shumu-ushabshi) và Esarhaddon, có thể suy đoán phần còn lại cũng là các hoàng tử của Sennacherib. Những tên này gồm "Ilee-bullutu-Aššur", "Aššur-mukkaniš-ilija", "Ana-Aššur-taklak", "Aššur-bani-beli", "Samaš-andullašu" (hoặc "Samaš-salamšu") và "Aššur-šakin-liti". Tính cách. Nguồn tư liệu chính có thể luận được tính cách con người Sennacherib cơ bản là các bản khắc triều đình dưới thời ông, không phải vua tự tay viết nhưng do các thư lại chép. Các văn bản thường nhằm tuyên truyền xưng tụng vua tốt đẹp hơn tất cả vua cùng thời hoặc trước đó.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Hơn nữa, bia ký hoàng gia Assyria thường chỉ nói về chiến trận và xây dựng theo một công thức chung, nên có ít khác biệt giữa các vua. Soi xét các bản này, đối chiếu với bia ký các vua khác hoặc những văn bản không thuộc hoàng gia có thể suy ra một số khía cạnh tính cách Sennacherib. Giống như các vua Assyria khác, ông thể hiện niềm tự hào và lòng tự trọng cao, chẳng hạn: "Ashur, cha các thần, để mắt vững vàng nhìn ta giữa các vua, ngài chế cho ta vũ khí lớn hơn những kẻ trên ngai khác". Một số chỗ lại nhấn mạnh sự khôn ngoan trác tuyệt của Sennachrib "thần Ninshiku ban cho ta sự khôn ngoan bằng với hiền triết Adapu (và) phú cho ta tri thức rộng". Một số bia ký gọi ông là "người đứng đầu tất cả các vua" ("ašared kal malkī") và "người toàn hảo" ("eṭlu gitmālu"). Sennacherib quyết định giữ nguyên tên khai sinh khi làm vua thay vì dùng tên hiệu như ít nhất 19 trong số 21 tiên vương đã làm, điều này cho thấy ông có sự tự tin. Sennacherib còn được xưng tụng bằng những mỹ từ mà chưa được dùng cho bất cứ vua Assyria nào khác "người bảo vệ lẽ phải" và "người yêu công lý", cho thấy mong muốn để lại dấu ấn cá nhân trong khởi đầu kỷ nguyên mới do ông trị vì. Khi lên ngôi, Sennacherib thực sự đã trưởng thành với 15 năm làm thái tử, hiểu rõ cách điều hành đế chế. Khác với nhiều quân vương Assyria trước đó và về sau (kể cả vua cha Sargon), Sennacherib không thể hiện mình là một kẻ chinh phạt hay có mong muốn chinh phục thế giới. Thay vào đó, các văn bản thường mô tả về việc xây dựng quy mô lớn của ông. Hầu hết các chiến dịch quân sự của Sennacherib không nhằm mục đích chinh phạt mà nhằm trấn áp các cuộc nổi loạn, khôi phục lãnh thổ bị chiếm và đảm bảo ngân khố chi cho việc xây dựng. Việc để cho các tướng lĩnh chỉ huy một số chiến dịch chứ vua không thân chinh cho thấy Sennacherib không đặt nặng chiến trận như các tiên vương. Việc trừng phạt kẻ thù thảm khốc có thể không phản ánh sự thật, mà đơn thuần có khi chỉ dùng để tuyên truyền gây sợ hãi và chiến tranh tâm lý.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Dù rõ ràng không quan tâm đến việc thống trị thế giới, Sennacherib có được các danh hiệu Lưỡng Hà truyền thống về quyền lực này như "vua vũ trụ" và "vua bốn phương thế gian". Các danh hiệu khác như "vua mạnh mẽ" và "vua hùng mạnh" nhấn mạnh sức mạnh và sự vĩ đại của ông, cùng với các biệt danh như "chiến binh dũng mãnh" ("zikaru qardu") và "bò rừng hung tợn" ("rīmu ekdu"). Sennacherib ký thuật toàn bộ chiến dịch quân sự của mình là chiến thắng, kể cả thực tế không phải như vậy. Điều này không nhất thiết là do tự hào cá nhân mà đơn thuần vì thần dân có thể sẽ coi thất bại là không còn được thần linh ủng hộ vua trị vì nữa. Sennacherib hoàn toàn tin rằng các thần đã tiếp trợ mình và các cuộc chiến đều phải theo đường hướng này. Frahm tin rằng có thể Sennacherib bị hậu chấn tâm lý trước số phận thảm khốc của vua cha. Các nguồn tư liệu cho thấy có vẻ như tin xấu dễ dàng khiến Sennacherib nổi giận và phát triển thành các vấn đề tâm lý nghiêm trọng. Vua Esarhaddon về sau viết rằng "quỷ "alû" " làm hại Sennacherib mà lúc đầu không có thầy tiên tri nào dám nói với vua rằng họ nhận thấy các dấu hiệu của quỷ. Không rõ "quỷ "alû"" là gì nhưng triệu chứng điển hình được đề cập là bệnh nhân không biết mình là ai, đồng tử co lại, tay chân căng cơ, không nói được và ù tai. Frahm và nhà Assyria học Julian E. Reade cân nhắc ý tưởng rằng Sennacherib có thể được xếp loại thành người vì nữ quyền. Triều đình Sennacherib có phụ nữ nổi bật và hưởng đặc quyền hơn so với những tiền triều. Hiện không rõ chính sách thời đó dành cho phụ nữ hoàng tộc ra sao. Có thể vua muốn lấy quyền từ tướng lĩnh và thủ lĩnh hùng mạnh chuyền về gia tộc mình, học theo các nữ hoàng Ả Rập quyền lực lãnh đạo quân đội và tự quyết. Hoặc vua muốn cân bằng lại điều này theo ký ức về sự cai trị của cha mình. Bằng chứng về gia tăng vị thế phụ nữ hoàng tộc có thể thấy thông qua số lượng lớn văn bản nói đến các hoàng hậu vào thời Sennacherib so với thời kỳ trước, họ cũng có quân đội thường trực riêng giống như vua.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Phản ánh vị thế phụ nữ hoàng tộc gia tăng, các nữ thần cũng được mô tả thường xuyên hơn. Chẳng hạn thần Ashur thường được kèm với một nữ thần như Mullissu. Bất chấp sự mê tín của Sennacherib liên quan đến số phận vua cha và niềm tin được thần linh tiếp trợ, Reade tin rằng vua hoài nghi tôn giáo ở một mức độ nào đó; minh chứng là dám phạm thượng phá hủy Babylon và các điện thờ tại đó, đồng thời vua cũng dường như bỏ bê các đền thờ Assyria cho đến cuối triều đại mới tiến hành cải tạo đền thờ Ashur ở Assur. Di sản. Ký ức phổ biến. Suốt hàng thiên niên kỷ trôi qua, hình ảnh phổ biến về Sennacherib chủ yếu là tiêu cực. Lý do đầu tiên do Kinh Thánh khắc họa ông là kẻ chinh phục độc ác định chiếm Jerusalem; thứ hai là việc hủy diệt Babylon, một trong những thành nổi bật nhất thế giới cổ đại. Quan điểm tiêu cực này vẫn tồn tại cho đến thời hiện đại. Sennacherib được miêu tả giống như con thú săn mồi tàn nhẫn, tấn công Judah như "sói giữa bầy cừu" trong bài thơ nổi tiếng của Lord Byron năm 1815 "The Destruction of Sennacherib" ("Sự hủy diệt của Sennacherib"): Năm 2014, nhà khảo cổ học Kinh Thánh Isaac Kalimi và nhà sử học Seth Richardson gọi cuộc tấn công năm 701 TCN của Sennacherib vào Jerusalem là một "sự kiện thế giới" vì kéo theo số phận của nhiều nhóm dân khác nhau. Theo Kalimi, sự kiện này ảnh hưởng và để lại hậu quả không chỉ với người Assyria và Israel, mà còn cả người Babylon, Ai Cập, Nubia, Syro-Hitti và Anatolia. Trận vây hãm không chỉ được đề cập trong nguồn tư liệu đương thời, mà còn ghi nhận trong văn hóa dân gian và truyền thống sau này, chẳng hạn như văn hóa dân gian Aram, lịch sử Hy La Cận Đông về sau, rồi trong các câu chuyện Ả Rập và Cơ Đốc giáo Syria trung cổ. Chiến dịch Levant là sự kiện quan trọng trong nhiều phân đoạn Kinh Thánh, đáng chú ý là Các Vua II 18:13–19:37, 20:6 và Sử ký II 32:1–23. Phần lớn phần Kinh thánh về triều đại của vua Hezekiah trong sách Các Vua là dành cho chiến dịch của Sennacherib, xác định đây như là sự kiện quan trọng nhất thời Hezekiah. Trong "Sử ký" đã nhấn mạnh thất bại của Sennacherib và thắng lợi của Hezekiah.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Chiến dịch quân sự này (bị coi là xâm lược hơn là hành động trấn áp Hezekiah nổi loạn) bị coi là thất bại ngay từ đầu. Theo như ký thuật, không kẻ thù nào kể cả vua Assyria hùng mạnh có thể đánh thắng vì Đức Chúa Trời đứng về phía Hezekiah. Trận chiến được khắc họa theo tinh thần thánh chiến: cuộc chiến của Chúa chống lại Sennacherib ngoại giáo. Có hơn một trăm vị vua trong lịch sử Assyria lâu đời, Sennacherib (cùng con trai là Esarhaddon và các cháu là Ashurbanipal và Shamash-shum-ukin) là một trong số vẫn còn được tưởng nhớ và khắc họa trong văn hóa dân gian Aram và Syria rất lâu sau khi vương quốc sụp đổ. Truyện cổ Aram về Ahikar miêu tả Sennacherib như người bảo trợ cho nhân vật chính, còn Esarhaddon thì tiêu cực hơn. Truyện Syria trung cổ mô tả Sennacherib là vị vua ngoại giáo điển hình bị ám sát trong thảm kịch gia tộc, mà con cái đều cải đạo sang Cơ Đốc giáo. Truyền thuyết các thánh Behnam và Sarah thế kỷ 4 đã lấy Sennacherib dưới cái tên Sinharib để làm người cha trong hoàng tộc của các thánh. Khi Behnam cải đạo sang Cơ Đốc giáo liền bị Sinharib ra lệnh xử tử, nhưng Sinharib bị bệnh hiểm nghèo và được chữa lành nhờ thánh Matthew rửa tội ở Assur. Với lòng biết ơn, Sinharib cũng cải đạo sang Cơ Đốc giáo và thành lập tu viện quan trọng Deir Mar Mattai ở gần Mosul. Hình ảnh Sennacherib cũng giữ nhiều vai trò khác nhau trong truyền thống Do Thái sau này. Trong Midrash, các sự kiện năm 701 TCN thường được khám phá chi tiết; nhiều lần nhắc đến đạo binh khổng lồ và Sennacherib liên tục cầu hỏi các nhà chiêm tinh khiến cho hành động bị trì hoãn. Trong các câu chuyện này, quân đội Sennacherib bị tiêu diệt khi Hezekiah đọc thi thiên Hallel vào đêm trước lễ Vượt Qua. Sự kiện này thường được miêu tả như kịch bản mạc khải, Hezekiah tượng trưng cho nhân vật thiên sai còn Sennacherib cùng quân lính là hiện thân của Gog và Magog. Với vị trí xuất hiện trong Kinh Thánh, Sennacherib vẫn là một trong những vua Assyria nổi tiếng nhất cho đến ngày nay. Khám phá khảo cổ.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Khám phá khảo cổ. Sư phát hiện ra dòng văn tự của chính Sennacherib vào thế kỷ 19 kỷ, trong đó có những hành động tàn bạo và độc ác như ra lệnh cắt cổ, chặt tay và cắt môi kẻ thù Elam, đã nhân gấp bội danh tiếng vốn đã hung bạo của ông. Ngày nay đã biết đến nhiều bản khắc như vậy, hầu hết nằm trong bộ sưu tập của Bảo tàng Cận Đông ở Berlin và Bảo tàng Anh ở Luân Đôn, còn nhiều bản khác thuộc về các tổ chức và bộ sưu tập tư nhân trên khắp thế giới. Một số di vật lớn có chữ khắc của Sennacherib vẫn ở lại Nineveh, thậm chí còn được chôn trở lại. Những ghi chép của chính Sennacherib về việc xây dựng và chiến tranh thường gọi là "biên nên sử", được sao chép nhiều lần và lan truyền khắp Đế quốc Tân Assyria khi ông còn trị vì. Sáu năm đầu triều đại Sennacherib, chữ được khắc lên các trụ gốm, sau đó được thay bằng lăng trụ để bề mặt viết được nhiều hơn. Thư từ liên quan đến Sennacherib có ít hơn so với lượng thu thập được từ thời Sargon cha ông và thời Esarhaddon con trai ông, hầu hết lại đến từ thời kỳ ông làm thái tử. Các văn tự không thuộc hoàng gia thì nhiều hơn vào thời Sennacherib, chẳng hạn như tài liệu hành chính, kinh tế và sử ký. Ngoài các văn tự, nhiều tác phẩm nghệ thuật cũng đã tồn tại từ thời Sennacherib, đặc biệt các phù điêu của vua trong cung điện Nineveh. Chúng thường khắc họa những cuộc chinh phạt của Sennacherib, đôi khi có đoạn văn ngắn giải thích cho hình ảnh. Được nhà khảo cổ học người Anh Austen Henry Layard phát hiện và khai quật lần đầu tiên năm 1847-1851, phù điêu tại Cung điện Tây Nam khắc họa trận vây hãm Lachish là bằng chứng khảo cổ đầu tiên xác nhận về một sự kiện được nhắc đến trong Kinh Thánh. Các nhà Assyria học Hormuzd Rassam và Henry Creswicke Rawlinson vào năm 1852-1854, William Kennett Loftus năm 1854-1855 và George Smith năm 1873-1874 đã dẫn đầu các cuộc khai quật tiếp theo tại Cung điện Tây Nam. Trong số nhiều văn bản tìm được, Smith phát hiện ra bản tường thuật không trọn vẹn về trận lụt, gây nhiều hứng khởi cho giới học giả lẫn công chúng.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Kể từ thời Smith, địa điểm này trải qua nhiều giai đoạn khai quật và nghiên cứu ráo riết; Rassam trở lại năm 1878-1882, nhà Ai Cập học E. A. Wallis Budge giám sát khai quật năm 1889-1891, nhà Assyria học Leonard William King năm 1903-1904 và Reginald Campbell Thompson vào năm 1905 và 1931-1932. Bộ Cổ vật Iraq dưới sự chỉ đạo của nhà Assyris học Tariq Madhloom tiến hành thám sát gần đây nhất năm 1965-1968. Nhiều phù điêu của Sennacherib ngày nay được trưng bày tại Bảo tàng Cận Đông, Bảo tàng Anh, Bảo tàng Iraq ở Bagdad, Bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan ở New York và Bảo tàng Louvre ở Paris. Học thuật hiện đại dần không còn đánh giá tiêu cực Sennacherib như một kẻ chinh phục tàn bạo giống như trước đây nữa. Năm 1978, Reade đánh giá Sennacherib là người nổi bật trong số các vua Assyria với tư tưởng cởi mở cùng tầm nhìn xa và rằng ông là người "không chỉ đối phó hiệu quả với các khủng hoảng thông thường mà thậm chí còn biến chúng thành lợi thế khi dự định hoặc thực sự tạo cấu trúc đế quốc ổn định miễn nhiễm với những vấn đề truyền đời". Reade tin rằng đế quốc Assyria sụp đổ trong vòng 70 năm sau khi Sennacherib chết có thể một phần là do các vua về sau bỏ đi chính sách và cải cách do ông đưa ra. Năm 2018, Elayi kết luận rằng Sennacherib khác biệt với hình ảnh tiêu cực thường thấy cũng như hình ảnh hoàn hảo mà vua muốn đánh bóng bản thân thông qua văn tự, nhưng phần nào trong đó thì cả hai đều có chỗ chính xác. Theo Elayi, Sennacherib "chắc chắn thông minh, khéo léo, có khả năng thích ứng", nhưng "sự sùng đạo thì trái nghịch, vì một mặt ông ngang nhiên phá hủy tượng thần và đền thờ Babylon nhưng mặt khác, ông lại thường cầu xin ý thần linh trước khi hành động". Elayi tin rằng khuyết điểm lớn nhất của Sennacherib là "tính cách nóng nảy, hay thù hận và thiếu kiên nhẫn" và khi xúc động, ông có thể bị thúc đẩy đi đến những quyết định phi lý.
Sennacherib
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811703
Năm 2011, một con dốc lớn được phát hiện ở đồi Qasr Shemamok-Kilizu tại Erbil, cầu thang nhiều bậc có chiều cao rất thấp, bậc thang làm bằng gạch chắc, một viên có khắc dòng chữ hình nêm rằng cầu thang được dựng mang tên vua Assyria Sennacherib. Người Pháp tiến hành khai quật và tìm thấy nhiều bản khắc chữ hình nêm, hầu hết đề cập đến các danh hiệu của Sennachrib, việc xây dựng tường thành và cung điện. Danh hiệu. Sennacherib dùng các danh hiệu sau đây trong những ghi chép ban đầu về chiến dịch Babylon năm 703 TCN: Các danh hiệu này được thay đổi trong bản khắc ở Cung điện Tây Nam tại Nineveh, được viết sau chiến dịch Babylon năm 700 TCN:
Leonardo Sernicola
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811704
Leonardo Sernicola (sinh ngày 30 tháng 7 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá người Ý hiện tại đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh trái cho câu lạc bộ Cremonese tại Serie B. Sự nghiệp thi đấu. Đầu sự nghiệp. Sernicola sinh ra ở Civita Castellana thuộc vùng Lazio của Ý. Khi còn trẻ, các đội trẻ của những gã khổng lồ địa phương như Lazio và Roma đã quan tâm đến anh, nhưng đánh giá anh quá nhỏ con và nhẹ để thi đấu chuyên nghiệp. Anh cũng đã sự thử việc không thành công với Perugia, trước khi ký hợp đồng với đội trẻ của Ternana qua biên giới ở Umbria. Anh đã có gần 50 lần ra sân cho đội Primavera. Ternana. Sernicola đã chơi ở nhiều độ tuổi khác nhau trong đội trẻ Ternana và sự phát triển thể chất của anh là 20 cm trong hai năm cho phép anh ấy thi đấu với các đối thủ lớn hơn, trái ngược với niềm tin của các đội đã từ chối anh. Anh hiện cao . Năm 2016, anh được đôn lên đội một khi kết thúc mùa giải 2015–16 và ở lại với đội với tư cách "Rossoverdi" chuẩn bị cho mùa giải 2016–17. Anh ra mắt đội một vào ngày 7 tháng 5 năm 2016, vào sân thay cho Fabiano Santacroce ở phút thứ 63 trong trận hòa 1-1 với Cesena. Anh đã chơi trọn vẹn 90 phút của hai trận tiếp theo và hai trận cuối cùng của mùa giải. Sernicola đã không thi đấu thường xuyên trong mùa giải 2016–17, và sau đó được cho mượn vào tháng 1 năm 2017 tại Fondi của giải Lega Pro. Trận ra mắt của anh cho đội bóng là khi vào sân thay người trong trận hòa 1-1 trước Catania vào ngày 23 tháng 1 năm 2017. Sassuolo. Vào ngày 28 tháng 7 năm 2018, Sernicola ký hợp đồng với câu lạc bộ Sassuolo tại Serie A. Ngày 9 tháng 7 năm 2019, anh gia nhập Virtus Entella dưới dạng cho mượn đến ngày 30 tháng 6 năm 2020. Ngày 29 tháng 1 năm 2020, anh chuyển tới Ascoli theo dạng cho mượn. Ngày 25 tháng 9 năm 2020, anh gia nhập SPAL dưới dạng cho mượn. Cho mượn tại Cremonese. Vào ngày 20 tháng 7 năm 2021, Sernicola được đem cho mượn tại câu lạc bộ Cremonese. Cremonese. Vào ngày 8 tháng 7 năm 2022, Cremonese đã thông báo về việc ký hợp đồng lâu dài với Sernicola.
Sử dụng lao động
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811708
Sử dụng lao động ("Employment") là mối quan hệ giữa hai bên quy định việc cung cấp các dịch vụ lao động có trả tiền công và thường dựa trên hợp đồng lao động giữa một bên là người sử dụng lao động (có thể là công ty, tổ chức phi lợi nhuận, hợp tác xã hoặc bất kỳ tổ chức nào khác) trả tiền cho bên kia là nhân viên, người lao động, người làm công, làm thuê để đổi lấy việc thực hiện công việc được giao. Người lao động làm việc để được trả lương, có thể được trả trên cơ sở mức lương theo giờ, theo công việc hoặc lương hàng năm, tùy thuộc vào loại công việc mà người lao động làm, điều kiện phổ biến của ngành và kết quả thương lượng giữa các bên. Nhân viên trong một số lĩnh vực có thể nhận được tiền thưởng, thù lao hoặc quyền chọn cổ phiếu (thường là cổ phiếu thưởng hoặc ESOP). Trong một số loại hình việc làm, nhân viên có thể nhận được trợ cấp ngoài khoản thanh toán. Các lợi ích có thể bao gồm bảo hiểm y tế, nhà ở, bảo hiểm tàn tật. Việc làm thường được luật lao động điều chỉnh hoặc theo quy định của tổ chức hoặc hợp đồng pháp lý. Nhân viên đóng góp sức lao động và chuyên môn cho nỗ lực của người sử dụng lao động hoặc của người điều hành doanh nghiệp hoặc công việc (PCB) và thường được thuê để thực hiện các nhiệm vụ cụ thể được xác định trọn gói trong một công việc. Trong bối cảnh công ty, nhân viên là người được thuê để cung cấp dịch vụ cho công ty một cách thường xuyên để đổi lấy thù lao và là người không cung cấp các dịch vụ này như một phần của hoạt động kinh doanh độc lập.
Chính sách Cái gậy lớn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811714
Chính sách "Cái gậy lớn" là một cách ngôn thường được phát biểu bởi tổng thống thứ 26 của Hoa Kỳ, Theodore Roosevelt; "nói năng nhỏ nhẹ và cầm một cái gậy lớn; anh sẽ tiến xa đấy". Bắt nguồn từ đó nên báo chí Mỹ lúc bấy giờ, cùng một số sử gia thời hiện đại, sử dụng cụm từ "cái gậy lớn" để chỉ lập trường đối ngoại của Hoa Kỳ dưới thời Roosevelt cầm quyền.
Vòm nhiệt
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811715
Vòm nhiệt ("Heat dome") là hiện tượng đợt nóng xuất hiện ra khi một vùng áp suất cao kéo dài hình thành phía trên khu vực nhất định và không di chuyển trong vòng một tuần trở lên. Đây là một hiện tượng thời tiết giữ nhiệt độ lại ở một khu vực và ngăn các hệ thống thời tiết khác di chuyển đến. Vòm nhiệt xảy ra khi điều kiện khí quyển áp suất cao kết hợp với ảnh hưởng của La Niña. Vòm nhiệt khiến nhiệt bị giữ lại bên trong nó. Các kiểu thời tiết không khí phía trên di chuyển chậm, được các nhà khí tượng học gọi là khối Omega. Áp suất cao dẫn đến thời tiết đẹp với bầu trời nhiều nắng và ít mây, nó khiến không khí bị dìm xuống bên dưới, khi không khí chìm xuống, nó sẽ nóng lên khiến nhiệt độ tăng lên. Đây là một hiện tượng thời tiết gây khó chịu và nguy hiểm. Thời tiết mùa hè thường gắn liền những đợt sóng nhiệt gay gắt được gọi là vòm nhiệt. Đây là một hình thái thời tiết nguy hiểm đối với sức khoẻ của con người vì những điều kiện thời tiết trên có thể gây chết người. Các nhà dự báo thời tiết cho biết, chỉ số nhiệt cơ thể cảm nhận kết hợp với mức độ ẩm tương đương với gió mùa đông có thể gây nên nhiều tình trạng nguy hiểm, tăng nguy cơ kiệt sức vì nóng, say nắng, và thậm chí là tử vong. Nền nhiệt đạt đỉnh kết hợp độ ẩm tăng cao gây tình trạng nguy hiểm. Độ ẩm cao làm chậm quá trình bốc hơi, hay đổ mồ hôi, được biết đến như một cơ chế tự động làm mát của cơ thể. Biện pháp chính là giữ mát, uống nhiều nước, mặc quần áo thoáng mát và hạn chế các hoạt động ngoài trời dùng sức, đồng thời cơ quan này cho biết thêm người già, trẻ nhỏ, người mắc bệnh mãn tính và những người không được sử dụng điều hòa nhiệt độ vốn là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trước một đợt nắng nóng đỉnh điểm. Trong tháng 5 năm 2023, Việt Nam ghi nhận kỷ lục về nắng nóng nhất trong lịch sử được cảnh báo là do vòm nhiệt là biến đổi khí hậu gây nên
Động đất ngoài khơi Iwate 2022
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811718
là trận động đất xảy ra vào lúc 23:25 (theo giờ địa phương), ngày 18 tháng 3 năm 2022. Trận động đất có cường độ 5,5 richter. Tâm chấn độ sâu khoảng 15km, nằm ngoài khơi bờ biển tỉnh Iwate. Không có cảnh báo sóng thần cho trận động đất này. Trận động đất không có thiệt hại về người, nhưng tình trạng mất điện đã xảy ra trên diện rộng, giao thông bị gián đoạn và các nhà máy phải tạm ngừng hoạt động.
Malahai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811723
Malahai ( or , , "malaqai") là một loại mũ đội đầu trong lịch sử có nguồn gốc từ Kazakhstan, được sử dụng ở một số khu vực khác của Trung Á và trên khắp Đế quốc Nga từ giữa thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19. Đây là một loại mũ lông thú có chóp cao hình nón, hình trụ hoặc tứ giác và thường có bốn vạt: hai vạt bên dài che tai, một vạt phía sau rộng che cổ và vai, và một vạt trước ngắn che mắt. Malahai được lót bằng lông thú của nhiều loài động vật khác nhau bao gồm lửng, cáo và sói. Đàn ông đội malahai vào mùa đông để chống chọi với cái lạnh và thời tiết khắc nghiệt khi đi đường. Ngoài ra, chiếc mũ còn được dùng để bảo vệ đầu khỏi vũ khí có lưỡi. Phụ nữ ở một số vùng của Nga cũng đội malahai. Trong số các Cựu Tín đồ, nó đã bị cấm vì lý do tôn giáo. Từ nguyên. Nguồn gốc của từ "malahai" đang gây tranh cãi. Mặc dù hầu hết các nhà bác ngữ học đều đồng ý rằng nó bắt nguồn từ "malgai" trong tiếng Mông Cổ (малгай, ), có nghĩa là "mũ", họ không thống nhất về cách từ này xuất hiện trong tiếng Nga. Sự phân bố rộng rãi của từ này trong các ngôn ngữ Turk dẫn đến giả thuyết rằng nó đã du nhập vào tiếng Nga thông qua tiếng Turk, nhưng lại có ý kiến rằng nó xuất phát từ những người nói tiếng Mãn Châu và Mông Cổ ở đông nam Siberia và sau này mới được du nhập vào tiếng Turk thông qua tiếng Nga. Thiết kế và chất liệu. Các họa sĩ Trung Quốc và Tây Âu vẽ nhiều tranh miêu tả đàn ông Kazakh đội malahai trong thế kỷ 18 và 19. Đến cuối thế kỷ 19, các quan chức, binh lính và nhà lữ hành Nga chụp ảnh họ. Tính đến năm 2012, bảy chiếc malahai chuẩn với mức độ hư hại khác nhau vẫn được trưng bày trong các viện bảo tàng và bộ sưu tập tư nhân ở Trung Quốc, Kazakhstan và Nga. Chóp mũ nói chung cao và có dạng hình nón, hình trụ hoặc hình tứ giác. Mũ đội đầu thường có bốn vạt; trong đó vạt phía trước hình chữ nhật và ngắn hơn những vạt còn lại, thường được gập lên trên và chỉ hạ xuống để che trán của người đeo trong những đợt rét đậm hoặc bão tuyết.
Malahai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811723
Hai vạt bên hoặc "tai" () được buộc lại với nhau trên cằm hoặc dưới cằm người đội, bằng dây da hoặc ruy băng được khâu trên vạt. Vạt sau rộng che kín cổ và vai người đội. Malahai có chất liệu da cừu, da hươu và da bê, lót bằng lông thú của nhiều loại động vật khác nhau như hải ly, cáo, lửng và sói, trong khi lớp ngoài cùng được làm bằng vải, thổ cẩm, lụa hoặc nhung. Tại Nga. Các dân tộc Bashkir và Kalmyk mang malahai đến Nga vào giữa thế kỷ 18, đưa chiếc mũ trở thành trang phục của người dân Nga. Vào giữa thế kỷ 19, dân chúng khắp Siberia và nước Nga thuộc châu Âu cũng sử dụng malahai; tuy nhiên vai trò của mũ bị ushanka thay thế trước khi thế kỷ này kết thúc. Người dân Nga thường dùng malahai khi ra đường. Do đó, chiếc mũ đã trở thành vật đội đầu đặc biệt của những người đánh xe ngựa vùng Siberia. Đàn ông đội mũ vào mùa đông để chống chọi với cái lạnh và thời tiết khắc nghiệt, đồng thời bảo vệ đầu khỏi vũ khí có lưỡi. Ở một số vùng của Nga phụ nữ cũng đội nó. Với Cựu Tín đồ—những người theo Chính thống giáo Đông phương duy trì phụng vụ và nghi lễ của Giáo hội Chính thống giáo Nga như trước khi Thượng phụ Nikon tiến hành cải cách ở Moskva—việc đội malahai bị cấm vì tạo ra chiếc bóng có hình dạng được cho là giống một con quỷ có sừng. Một số mũ được lót bằng lông sói, thứ mà họ bị cấm mặc, đặc biệt là trong các buổi cầu nguyện nhóm.
Shiokara
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811724
, là một món ăn thuộc nền Ẩm thực Nhật Bản được chế biến từ nhiều loại hải sản cùng một vài mẩu thịt nhỏ trong một hỗn hợp sền sệt màu vàng nâu của phủ tạng được lên men và ướp muối của nhiều loại động vật khác nhau. Khi chế biến Shiokara, phần nội tạng sống sẽ được trộn với 10% muối, 30% bột gạo mạch nha, tất cả đều được gói trong lọ kín và được ủ men trong thời gian tối đa là một tháng. Món ăn này thường được bán trong những chiếc bình đựng được làm từ thủy tinh hoặc nhựa. Shiokara có vị mặn và mùi tanh tương tự như món cá cơm muối của châu Âu, nhưng món ăn này có kết cấu khác. Là một trong những "Chinmi" (từ này nghĩa là "mùi vị hiếm có") được biết tới nhiều nhất, món ăn này có mùi vị khá mạnh và hương vị hấp dẫn, ngay cả đối với khẩu vị của người Nhật bản địa. Món ăn này cũng từng là nguồn cung cấp protein quý giá trong thời kỳ hậu chiến của Nhật Bản vì tình trạng kham hiếm thực phẩm, cũng như việc không có điều kiện làm lạnh thức ăn thời bấy giờ. Sau này, món ăn tiếp tục trở thành một loại gia vị ăn với cơm và được phục vụ trong các quán rượu. Một trong những cách để tận hưởng hương vị của Shiokara đó là: Đầu tiên hãy húp sạch toàn bộ món ăn chỉ với một ngụm, sau đó uống ngay một chai rượu Whisky. Một vài quán bar tại Nhật Bản chỉ chuyên nấu và phục vụ Shiokara. Phân loại. Ngoài ra còn có một số loại Shiokara có tên gọi đặc biệt:
Cà phê muối
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811725
Cà phê muối là một món thức uống từ các nguyên liệu chính là cà phê, sữa (sữa đặc, sữa tươi lên men) và muối ăn tinh. Cà phê muối có nguồn gốc xuất xứ từ Huế và là thức uống đặc sản của xứ Huế, đây là món đồ uống rất riêng, mang hương vị đặc trưng của mảnh đất cố đô Huế. Thức uống này ra đời cách đây hơn 10 năm song đến nay vẫn giữ được sức hút mạnh mẽ đối với nhiều thế hệ người dân địa phương và du khách thập phương. Tuy chưa nổi tiếng như cà phê trứng Hà Nội hay cà phê sữa đá Sài Gòn nhưng món cà phê muối có vị mặn, béo của vùng cố đô Huế này lôi cuốn, theo thời gian, thức uống này đã có mặt và tạo thành “cơn sốt” ở khắp mọi miền đất nước. Món thức uống này đã trở nên phổ biến ở Việt Nam, từ những đô thị lớn là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh (riêng tại một tiệm cà phê muối trên đường Bình Long, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân thì khách hàng đến mua cà phê bất kể khung giờ nào trong ngày) cho đến những vùng như Quảng Nam cũng có một xu hướng cà phê len lỏi vào từng quán xá, vỉa hè phố thị Tam Kỳ. Sức hút của món thức uống này rất lớn, có những cửa hàng bán cà phê muối ở thủ đô Hà Nội đã thu hút rất đông thực khách tới xếp hàng chờ mua và thưởng thức, hoặc có cửa hàng bán hơn 1.000 ly cà phê muối mỗi ngày ở thành phố Hồ Chí Minh hay chuỗi Cà phê muối chú Long là thương hiệu đang thịnh hành với giới trẻ cho thấy sức cuốn hút rất lớn của món thức uống này. Hương vị. Cà phê muối được pha theo cách truyền thống bằng dụng cụ phin nên không chỉ giữ nguyên được hương vị mà còn tạo cơ hội để thực khách kiên nhẫn trước khi thưởng thức đặc sản cố đô. Thực khách khi gọi cà phê muối sẽ được phục vụ một ly/cốc với lớp sữa đặc bên dưới, thêm sữa lên men và muối. Trên cùng là phin cà phê. Cà phê khi chảy nhỏ giọt xuống sẽ hòa tan vào các nguyên liệu phía dưới, khiến màu sắc ly nước từ từ thay đổi khá thú vị, khi chờ cà phê chảy hết, chừng 3-4 phút thì thực khách chỉ cần khuấy đều là có thể thưởng thức.
Cà phê muối
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811725
Món cà phê này mang hương vị mới lạ khi kết hợp chút béo nhẹ, chút mằn mặn của muối và kem trong ly cà phê truyền thống, vị cà phê hiện đại mang đến cảm xúc cho người thưởng thức, đầu tiên là vị mặn, đến một chút vị béo và cuối cùng là vị đắng. Tùy từng công thức mà lượng muối được cho vào một ly cà phê cũng khác nhau, dao động từ 2-5g muối Món này khá lạ miệng nên những người chưa quen sẽ cảm thấy cà phê muối hơi khó uống, lạ miệng vì sự hòa trộn lẫn lộn giữa các vị mặn, ngọt và đắng nhưng khi nhấp nhẹ môi, vị đầu tiên chạm vào đầu lưỡi là vị mặn, sau đó mới có một tầng ngọt thơm lan tỏa khắp khoang miệng. Ly cà phê chia thành 3 phần rõ rệt gồm dưới cùng là sữa đặc, ở giữa cà phê, phía trên phủ một lớp giống như kem sánh mịn và đá để riêng. Khi uống, dùng muỗng khuấy đều cho 3 tầng quyện vào nhau, sau đó tùy thuộc sở thích mỗi người mà cho ít hay nhiều nước đá. Ly cà phê dù để lâu vẫn không bị nhạt vị, mà còn đậm đà. Vị mặn của muối tưởng chừng không ăn nhập gì trong ly cà phê nhưng thực chất lại càng làm nổi bật hương vị nồng nàn, tiết chế vị đắng gắt của cà phê và tôn lên vị ngọt thơm của sữa. Những nguyên liệu tưởng chừng không liên quan nhưng khi kết hợp lại tạo nên thức uống thơm ngon, đậm đà vì muối có vai trò trung hòa, làm bật lên vị ngọt của sữa và tiết chế vị đắng của cà phê rang xay. Cơ chế. Các chuyên gia tin rằng muối có khả năng làm giảm vị đắng trong khi thực sự tăng hương vị của cà phê. Nhiều người thường cho thêm đường hoặc sữa vào cà phê để giảm vị đắng của nó, điều này không những làm át mất hương vị của thức uống mà còn bổ sung thêm nhiều chất béo vào cơ thể, tuy vậy, khi thêm chút muối vào ly cà phê là một mẹo hay giúp giảm vị đắng đồng thời làm bật các hương vị khác của nó.
Cà phê muối
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811725
Muối ăn thường được sử dụng để loại bỏ vị đắng khỏi nhiều loại thực phẩm, muối phản ứng tốt để che giấu vị đắng nên uống một ly cà phê có vị ngọt nhẹ và quá đắng, hãy thêm một chút muối, nó sẽ khiến cho ly cà phê của chúng ta ngọt và ít đắng hơn, khi uống cà phê thêm một chút muối, cả vị đắng và mặn cùng được kích hoạt đồng thời dẫn đến vị mặn sẽ ngăn chặn não bộ phát hiện vị đắng, đồng thời kích thích những vị giác khác như vị ngọt đè lên, ở nồng độ cao hơn, muối sẽ kích hoạt các thụ thể đắng, ở Việt Nam, cà phê mặn thường được kết hợp với sữa đặc để tạo ra một thức uống có vị hơi caramen. Nguy cơ. Có ý kiến tỏ ra lo ngại nếu uống loại cà phê muối này sẽ vô tình nạp thêm muối vào cơ thể tạo ra gánh nặng với tim, thận, huyết áp vì người Việt đang tiêu thụ lượng muối gấp gần 2 lần so với khuyến cáo của WHO (Tổ chức Y tế thế giới) nên nếu uống thêm cà phê cho muối nữa sẽ khiến lượng muối tiêu thụ vào cơ thể lớn hơn. Việc ăn nhiều muối không mang lại lợi ích cho sức khoẻ mà tăng nguy cơ bệnh tật do đó khuyến cáo không nên uống quá nhiều cà phê muối, tránh việc dung nạp thêm muối vào cơ thể. Nếu mỗi ly cà phê cho 1/2 muỗng cà phê (2,5g muối) thì mỗi ngày chỉ nên uống một ly. Còn những công thức cho cả một muỗng cà phê muối (5g muối) vào thì không nên uống dù chỉ một ly. Bởi lẽ, chỉ uống một ly cà phê này đã thừa lượng muối cần trong một ngày, chưa kể lượng muối từ các bữa ăn, gia vị, uống cà phê muối có lượng muối nhiều hơn mức tiêu thụ muối được khuyến cáo mỗi ngày, người uống sẽ thừa muối, dễ có nguy cơ mắc bệnh tim mạch, cao huyết áp, ung thư dạ dày. Đối với những người mắc bệnh tim mạch, cao huyết áp, có bệnh gan, thận thì không nên uống cà phê muối.
Barbara Roymans
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811730
Barbara Roymans (sinh ngày 7 tháng 6 năm 1997) là một trợ lý đường sắt, Hoa hậu người Bỉ. Cô đăng quang Hoa hậu Trái Đất Bỉ 2023. Với danh hiệu đạt được, Barbana sẽ đại diện Bỉ thi đấu tại Hoa hậu Trái Đất 2023 diễn ra ở Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam. Cô sẽ trải qua khóa huấn luyện đặc biệt ở Philippines, tại Kagandahang Flores Beauty Pageant Camp dưới sự hướng dẫn của Rodgil Flores.
Ga Icheon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811734
Ga Icheon (Tiếng Hàn: 이천역, Hanja: 利川驛) là ga đường sắt trên Tuyến Gyeonggang của Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul ở Yulhyeon-dong, Icheon-si, Gyeonggi-do, Hàn Quốc.
Supermodel Me (Mùa 7)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811735
Mùa thứ bảy của Supermodel Me hay (Supermodel Me: Fashion Future) được phát sóng vào tháng 9 năm 2022 với địa điểm quay được tiếp tục tại Singapore. Toàn bộ ban giám khảo hầu hết được thay thế bằng ban giám khảo của Asia's Next Top Model, với người mẫu Thái Lan Cindy Bishop được chỉ định làm người dẫn chương trình kiêm giám khảo chính và Yu Tsai được chỉ định làm cố vấn sáng tạo. Ase Wang sẽ trở lại hội đồng giám khảo lần thứ tư liên tiếp. Chương trình cũng sẽ đánh dấu sự ra mắt của Catriona Gray. Người chiến thắng mùa giải này là Emma Nguyễn, 22 tuổi đến từ Việt Nam. Cô nhận được các giải thưởng sau:
Eastbourne International 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811738
Eastbourne International 2023 (còn được biết đến với Rothesay International Eastbourne vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt nam và nữ thi đấu trên mặt sân cỏ ngoài trời. Đây là lần thứ 48 (nữ) và lần thứ 12 (nam) giải đấu được tổ chức. Giải đấu là một phần của WTA 500 trong WTA Tour 2023 và ATP Tour 250 trong ATP Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại Devonshire Park Lawn Tennis Club ở Eastbourne, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland từ ngày 26 tháng 6 đến ngày 1 tháng 7 năm 2023. Nội dung đơn ATP. Vận động viên khác. Đặc cách: Vượt qua vòng loại: Thua cuộc may mắn: Nội dung đôi ATP. Vận động viên khác. Đặc cách: Nội dung đơn WTA. Vận động viên khác. Đặc cách: Bảo toàn thứ hạng: Vượt qua vòng loại: Thua cuộc may mắn: Nội dung đôi WTA. Vận động viên khác. Đặc cách:
Ga Bubal
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811740
Ga Bubal (Tiếng Hàn: 부발역, Hanja: 夫鉢驛) là ga đường sắt trên Tuyến Gyeonggang của Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul và Tuyến Jungbu Naeryuk ở Bubal-eup, Icheon-si, Gyeonggi-do, Hàn Quốc. Tuyến đầu tiên được sử dụng bởi các chuyến tàu ngoại ô dùng chung hệ thống bán vé của Tàu điện ngầm Seoul và tuyến sau là các chuyến tàu cao tốc Korea Train Express (KTX).
Ám ảnh tình dục
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811741
Ám ảnh tình dục ("Sexual obsessions") là những suy nghĩ dai dẳng và khôn nguôi về hoạt động tình dục. Những nghiên cứu ở xã hội phương Tây và các nước công nghiệp phát triển cho thấy trong bối cảnh rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) thì những suy nghĩ ám ảnh này cực kỳ phổ biến và có thể làm cho cơ thể và tinh thần của bệnh nhân trở nên cực kỳ suy nhược, khiến người bệnh xấu hổ về các triệu chứng và miễn cưỡng tìm kiếm sự giúp đỡ. Tuy nhiên, mối bận tâm về các vấn đề tình dục không chỉ xảy ra như một triệu chứng của OCD, chúng có thể là sự kích thích trong các bối cảnh khác (tức là tưởng tượng về tình dục). Rối loạn ám ảnh cưỡng chế liên quan đến những suy nghĩ hoặc hình ảnh không mong muốn gây lo lắng hoặc can thiệp vào cuộc sống của một cá nhân, sau đó là các hành động tạm thời làm giảm sự lo lắng do ám ảnh gây ra. Đại cương. Các chủ đề ám ảnh điển hình tập trung vào ô nhiễm, bệnh tật, lo lắng về thảm họa và sự trật tự-hỗn loạn. Tuy nhiên, những người mắc chứng OCD cũng bị ám ảnh về bạo lực, các câu hỏi về tôn giáo và trải nghiệm xác thịt. Có tới một phần tư số người mắc chứng OCD có thể bị ám ảnh tình dục, và một số ám ảnh tình dục OCD có liên quan đến lạm dụng tình dục thời thơ ấu của những người mắc chứng OCD. Những suy nghĩ cứ lặp đi lặp lại về tình dục được nhận thấy ở nhiều rối loạn ngoài OCD, nhưng những rối loạn này không liên quan đến OCD. Ví dụ, những suy nghĩ về tình dục không liên quan đến OCD thường phổ biến ở những người mắc paraphilia, rối loạn căng thẳng sau sang chấn, rối loạn chức năng tình dục hoặc nghiện tình dục. Những suy nghĩ và cảm xúc thân xác cứ lặp đi lặp lại trong những tình huống này đôi khi được gọi là ám ảnh tình dục, có thể bao gồm khuynh hướng tình dục của một người, nghi ngờ và hoặc sợ hãi về việc đồng tính luyến ái hoặc bị người khác coi là đồng tính luyến ái.
Ám ảnh tình dục
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811741
Tuy nhiên, nội dung, hình thức và ý nghĩa của chúng khác nhau tùy thuộc vào chứng rối loạn, với những ám ảnh tình dục của OCD không chỉ là không tự nguyện mà còn không mong muốn, và gây ra sự đau khổ và đau khổ về tinh thần cho người mắc OCD. Bởi vì tình dục mang tầm quan trọng đáng kể về mặt cảm xúc, đạo đức và tôn giáo nên nó thường trở thành thỏi nam châm thu hút những nỗi ám ảnh ở những người dễ mắc chứng OCD. Các chủ đề phổ biến bao gồm sự không chung thủy, hành vi lệch lạc, ấu dâm, sự không chung thủy hoặc phù hợp của bạn đời và những suy nghĩ kết hợp giữa tôn giáo và tình dục. Những người bị ám ảnh tình dục có thể có những lo lắng chính đáng về sức hấp dẫn, tiềm năng hoặc đối tác của họ, điều này có thể đóng vai trò là chất xúc tác vô thức cho những ám ảnh. Nỗi ám ảnh tình dục có nhiều hình thức. Ví dụ, một người mẹ có thể ám ảnh về lạm dụng tình dục con mình. Cô ấy có thể tự hỏi liệu những suy nghĩ này có nghĩa là cô ấy là một kẻ ấu dâm hay không và lo lắng rằng cô ấy có thể hành động như vậy, mặc dù thực tế là cô ấy chưa bao giờ lạm dụng tình dục bất kỳ ai và cảm thấy kinh tởm với ý tưởng đó. Một ví dụ khác là một người đàn ông lo lắng rằng anh ta có thể vô tình làm một người phụ nữ có thai khi bắt tay cô ấy vì anh ta không đủ cẩn thận trong việc rửa tay sau khi chạm vào bộ phận sinh dục của mình. Bệnh nhân cũng có thể trải qua nỗi sợ hãi rằng nỗi ám ảnh của họ đã được thực hiện, và điều này khiến họ đau khổ và đau khổ về tinh thần. Sự thiếu hiểu biết và hiểu lầm của công chúng về OCD, phần lớn là do thông tin sai lệch về chứng rối loạn này, thường dẫn đến giả định rằng những người mắc bệnh là tội phạm hoặc kẻ lệch lạc xã hội. Sau đó, điều này có thể củng cố niềm tin hằn lên trong tâm trí của người đau khổ rằng họ thực sự đã phạm tội hoặc hành động trái đạo đức, trong khi họ không phạm tội hoặc dẫn đến nghi ngờ.
Ám ảnh tình dục
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811741
Điều này gây ra sự đau khổ lớn cho người mắc chứng OCD, và đôi khi dẫn đến việc người mắc bệnh phải "thú tội" - đôi khi là với cảnh sát - và có ý định hoặc ý định tự tử. Giữa những dòng suy nghĩ miên man, những ám ảnh về tình dục có vẻ như thật. Đôi khi, những người mắc chứng OCD tin rằng nỗi ám ảnh của họ là có thật, và trong trường hợp như vậy, họ sẽ bị cho là "kém sáng suốt". Nhưng đại đa số những người mắc chứng OCD ở một thời điểm nào đó đều nhận ra rằng nỗi sợ hãi của họ là cực đoan và không thực tế. Vấn đề là mặc dù họ biết nỗi ám ảnh là sai, nhưng nó "cảm thấy" là thật. Những cá nhân này không thể hiểu tại sao họ không thể gạt bỏ nỗi ám ảnh ra khỏi tâm trí. Nỗi ám ảnh có thể tạm thời giảm bớt khi đối mặt với một lập luận hợp lý hoặc sự trấn an từ người khác, nhưng có thể tăng đột biến khi mất cảnh giác trước một tác nhân tình dục. Nỗi ám ảnh về tình dục có thể đặc biệt gây rắc rối cho người mắc chứng OCD, vì một điều gì đó quan trọng và được trân trọng lại trở thành cơn ác mộng đối lập với nó. Những người bị ám ảnh tình dục đặc biệt có khả năng đồng thời bị ám ảnh tôn giáo và hung hăng, trầm cảm lâm sàng và tỷ lệ rối loạn kiểm soát xung lực cao hơn mặc dù sau này ít phổ biến hơn ở bệnh nhân OCD.
Ga Siheung Neunggok
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811744
Ga Siheung Neunggok (Tiếng Hàn: 시흥능곡역, Hanja: 始興陵谷驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Seohae nằm ở Neunggok-dong, Siheung-si, Gyeonggi-do.
Ga Dalmi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811746
Ga Dalmi (Tiếng Hàn: 달미역, Hanja: 달미驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Seohae nằm ở Seonbu-dong, Danwon-gu, Ansan-si, Gyeonggi-do.
Ga Seonbu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811748
Ga Seonbu (Tiếng Hàn: 선부역, Hanja: 仙府驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Seohae nằm ở Seonbu-dong, Danwon-gu, Ansan-si, Gyeonggi-do.
Eastbourne International 2023 - Đơn nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811749
Francisco Cerúndolo là nhà vô địch, đánh bại Tommy Paul trong trận chung kết, 6–4, 1–6, 6–4. Taylor Fritz là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 2 trước Mackenzie McDonald. Hạt giống. 4 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2.
Eastbourne International 2023 - Đơn nữ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811753
Madison Keys là nhà vô địch, đánh bại Daria Kasatkina trong trận chung kết, 6–2, 7–6(15–13). Đây là danh hiệu Eastbourne thứ 2 của Keys. Petra Kvitová là đương kim vô địch, nhưng rút lui do mệt mỏi.
Eastbourne International 2023 - Đôi nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811757
Nikola Mektić và Mate Pavić là đương kim vô địch và bảo vệ thành công danh hiệu, đánh bại Ivan Dodig và Austin Krajicek trong trận chung kết, 6–4, 6–2.
Chính trị Nga
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811759
Nền chính trị Nga ("Politics of Russia") diễn ra trong khuôn khổ chính thể cộng hòa bán tổng thống liên bang của Nga. Theo Hiến pháp Nga thì Tổng thống Nga là nguyên thủ quốc gia, và trong một hệ thống đa đảng với quyền hành pháp do chính phủ thực thi, đứng đầu là Thủ tướng Nga là người được Tổng thống bổ nhiệm với sự chấp thuận của quốc hội. Quyền lập pháp được trao cho hai viện của Quốc hội Liên bang Nga, trong khi Tổng thống và chính phủ ban hành nhiều đạo luật ràng buộc về mặt pháp lý. Chính trị Nga hiện đang bị chi phối dưới quyền của Tổng thống Putin thông qua đảng Nước Nga Thống nhất của ông và Thủ tướng Mikhail Mishustin. Tại cuộc bầu cử lập pháp năm 2003, Đảng Nước Nga Thống nhất đã giảm ảnh hưởng tất cả các đảng khác xuống tình trạng thiểu số. Các đảng khác giữ ghế trong Duma Quốc gia, hạ viện của cơ quan lập pháp, là Đảng Cộng sản Liên bang Nga, Đảng Dân chủ Tự do Nga và Một nước Nga công bằng. Cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên được tổ chức vào ngày 26 tháng 3 năm 2000 và Putin là người trước đây đã được bổ nhiệm Thủ tướng Nga và sau khi Yeltsin từ chức là quyền tổng thống Nga, đã giành chiến thắng trong vòng đầu tiên với 53% số phiếu bầu, xã hội nói chung có đánh giá chung các cuộc bầu cử tự do và công bằng. Putin đã giành được nhiệm kỳ đầy đủ thứ hai mà không gặp khó khăn gì trong Cuộc bầu cử tổng thống tháng 3 năm 2004. Trong khi Tổ chức An ninh và Hợp tác ở Châu Âu (OECD) báo cáo rằng các cuộc bầu cử nói chung được tổ chức chuyên nghiệp nhưng cũng đã có những lời chỉ trích về việc đối xử bất bình đẳng với các ứng cử viên khác từ các phương tiện truyền thông do Nhà nước kiểm soát cùng các vấn đề khác nảy sinh. Sau cuộc bầu cử vào ngày 24 tháng 2 năm 2004, Thủ tướng Mikhail Kasyanov và nội các của ông đã bị Putin cách chức. Các chuyên gia ở Nga tin rằng điều này không phải do tổng thống không hài lòng với chính phủ mà là với chính Kasyanov, vì hiến pháp Nga không cho phép thủ tướng bị cách chức mà không sa thải toàn bộ nội các. Kasyanov sau đó tiếp tục trở thành một người chỉ trích Putin gay gắt.
Chính trị Nga
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811759
Mặc dù các khu vực của Nga được hưởng một mức độ tự trị tự trị, cuộc bầu cử các thống đốc khu vực đã được thay thế bằng sự bổ nhiệm trực tiếp của tổng thống vào năm 2005. Tháng 9 năm 2007, Putin chấp nhận đơn từ chức của Thủ tướng Mikhail Fradkov, bổ nhiệm Viktor Zubkov làm Thủ tướng mới. Trong cuộc bầu cử Tổng thống Nga năm 2008, Dmitry Medvedev là người được đề cử được Tổng thống sắp mãn nhiệm Vladimir Putin ủng hộ đã giành chiến thắng áp đảo. Theo các nhà phân tích, đất nước hiện được cai trị hiệu quả dưới tay một "bộ đôi" với một Tổng thống quyền lực theo hiến pháp và một Thủ tướng có ảnh hưởng và được lòng dân. Đại cương. Kể từ khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Nga đã phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng trong nỗ lực xây dựng một hệ thống chính trị tuân theo gần 75 năm dưới sự cai trị của Liên Xô. Ví dụ, những nhân vật hàng đầu trong ngành lập pháp và hành pháp đã đưa ra những quan điểm đối lập về đường lối chính trị của Nga và các công cụ hành chính nên được sử dụng để tuân theo đường lối đó. Nền chính trị Nga trở nên phức tạp và rối ren với những cuộc đấu đá nội bộ, thanh trừng băng nhóm. Xung đột đó lên đến đỉnh điểm vào tháng 9 và tháng 10 năm 1993, khi Tổng thống Boris Yeltsin sử dụng vũ lực quân sự để giải tán quốc hội và kêu gọi bầu cử cơ quan lập pháp mới (xem Khủng hoảng hiến pháp Nga 1993). Người ta lập luận rằng Yeltsin đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Nga năm 1996 nhờ sự hỗ trợ rộng rãi của đội ngũ truyền thông và chuyên gia PR từ Hoa Kỳ và sau đó là sự lại quả cho Mỹ. Sự kiện này đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ hiến pháp đầu tiên của Nga, được xác định bởi hiến pháp đã được sửa đổi nhiều do Xô Viết Tối cao của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga thông qua vào năm 1977. Một hiến pháp mới, tạo ra một tổng thống mạnh mẽ, đã được thông qua trong cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 12 1993. Với một hiến pháp mới và một quốc hội mới đại diện cho các đảng phái và phe phái khác nhau, cấu trúc chính trị của Nga sau đó đã có dấu hiệu ổn định.
Chính trị Nga
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811759
Khi giai đoạn chuyển tiếp kéo dài đến giữa những năm 1990, quyền lực của chính phủ quốc gia tiếp tục suy yếu khi các khu vực của Nga giành được những nhượng bộ chính trị và kinh tế từ Moscow. Với sự đồng ý của Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin, các cải cách nhằm tăng cường kiểm soát của Liên bang đã được thực hiện, đẩy lùi việc giành quyền lực trong khu vực, bao gồm cả ở 22 nước Cộng hòa. Hiện nay, trong bối cảnh mới nhất, nền chính trị Nga cũng trở nên phức tạp, phân hóa và rộ lên các phong trào đối lập ở Nga và chính trị Nga cũng bọc lộ những bất cập trong quan điểm khi diễn ra cuộc chiến thế kỷ giữa Nga và Ukraine. Lập pháp. Quy trình lập pháp ở Nga bao gồm ba phiên điều trần tại Duma Quốc gia, sau đó được sự chấp thuận của Hội đồng Liên bang, thượng viện và được Tổng thống Nga ký ban hành Luật. Dự thảo luật có thể được khởi thảo từ viện lập pháp hoặc chúng có thể được đệ trình từ Tổng thống, Chính phủ, cơ quan lập pháp địa phương và Tòa án Tối cao, Tòa án Hiến pháp hoặc Tòa án Trọng tài Tối cao trong thẩm quyền tương ứng của họ. Dự thảo luật được xem xét đầu tiên trong Duma Quốc gia. Sau khi được đa số toàn bộ thành viên Duma Quốc gia thông qua, dự thảo luật sẽ được Hội đồng Liên bang xem xét, hội đồng này có mười bốn ngày để đưa dự luật vào lịch của mình. Một điều khoản hiến pháp quy định rằng các dự thảo luật liên quan đến các khoản thu và chi có thể được xem xét "chỉ khi những phát hiện của Chính phủ được biết đến" hạn chế đáng kể quyền kiểm soát của Quốc hội Liên bang đối với tài chính nhà nước. Hai viện của cơ quan lập pháp cũng có quyền bác bỏ quyền phủ quyết của tổng thống đối với các đạo luật. Hiến pháp yêu cầu ít nhất hai phần ba phiếu bầu trong tổng số thành viên của cả hai viện. Phân quyền. Trong nhiệm kỳ tổng thống của Boris Yeltin thì ông ta đã ký tổng cộng 46 hiệp ước chia sẻ quyền lực với các chủ thể liên bang khác nhau của Nga bắt đầu với Tatarstan vào ngày 15 tháng 2 năm 1994 và kết thúc tại Moscow vào ngày 16 tháng 6 năm 1998 trao cho họ quyền tự chủ lớn hơn từ chính phủ liên bang.
Chính trị Nga
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811759
Theo Thủ tướng Viktor Chernomyrdin, chính phủ dự kiến ký kết các thỏa thuận chia sẻ quyền lực với tất cả 89 chủ thể liên bang Nga. Sau cuộc bầu cử của Vladimir Putin vào ngày 26 tháng 3 năm 2000 và cuộc đại tu hệ thống liên bang sau đó của ông này, các hiệp ước chia sẻ quyền lực bắt đầu bị bãi bỏ. Phần lớn các hiệp ước đã bị chấm dứt từ năm 2001 đến năm 2002 trong khi những hiệp ước khác bị buộc phải hủy bỏ vào ngày 4 tháng 7 năm 2003. Các hiệp ước của Bashkortostan, Moscow và Tatarstan hết hạn vào ngày chúng được ấn định. Vào ngày 24 tháng 7 năm 2017, hiệp ước chia sẻ quyền lực của Tatarstan đã hết hạn, khiến nước này trở thành chủ thể liên bang cuối cùng mất quyền tự trị. Bị chỉ trích. Phương Tây cho rằng nước Nga đã bị suy thoái dân chủ trong các nhiệm kỳ của Putin và Medvedev. Tổ chức Freedom House đã liệt kê Nga là ""không tự do" từ năm 2005. Năm 2004, Freedom House cảnh báo rằng "sự rút lui khỏi tự do của Nga đánh dấu một điểm thấp chưa từng thấy kể từ năm 1989, khi đất nước này là một phần của Liên Xô".". Alvaro Gil-Robles (khi đó là người đứng đầu bộ phận nhân quyền của Hội đồng Châu Âu) đã tuyên bố vào năm 2004 rằng ""nền dân chủ non trẻ của Nga tất nhiên vẫn còn lâu mới hoàn hảo, nhưng sự tồn tại và thành công của nó không thể bị từ chối". Economist Intelligence Unit đã đánh giá Chính trị Nga là "độc tài"" kể từ năm 2011 trong khi trước đó nó đã được coi là một "chế độ hỗn hợp" (với "một số hình thức chính phủ dân chủ" tại chỗ) vào cuối năm 2007. Liên bang Nga tuyên bố rằng Nga là một quốc gia dân chủ liên bang tuân theo luật pháp với hình thức chính phủ cộng hòa, điều này đã được chứng minh là không bị hành động ngày nay. Nhà khoa học chính trị Larry Diamond, viết vào năm 2015, tuyên bố ""không có học giả nghiêm túc nào coi nước Nga ngày nay là một nền dân chủ"".
Chính trị Nga
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811759
Natalia Arno, cựu giám đốc hoạt động của Viện Cộng hòa Quốc tế tại Nga, mô tả các cuộc bầu cử ở "dân chủ được quản lý" của Nga như vậy, có thể Ủy ban bầu cử trung ương sẽ phát hiện ra vấn đề với chữ ký mà ứng cử viên thu thập để đăng ký, hoặc có thể ứng cử viên sẽ bị buộc tội dựa trên bằng chứng đáng ngờ, nhưng điều gì đó sẽ luôn xảy ra. Việc bắt giữ đầu sỏ chính trị Mikhail Khodorkovsky nổi tiếng với tội danh gian lận, tham ô và trốn thuế đã vấp phải sự chỉ trích trong nước và các nước phương Tây rằng vụ bắt giữ mang tính chính trị và phiên tòa xét xử ông ta có nhiều sai sót. Tuy nhiên, động thái này đã được công chúng Nga hưởng ứng tích cực và phần lớn đầu tư từ nước này không hề nao núng, tiếp tục tăng trưởng với tốc độ hai con số. Năm 2005, Nga bắt đầu tăng dần giá bán khí đốt được trợ giá mạnh cho các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ và Nga đã bị phương Tây cáo buộc sử dụng tài nguyên thiên nhiên của mình như một vũ khí chính trị. Ngược lại, Nga cáo buộc phương Tây áp dụng tiêu chuẩn kép liên quan đến các nguyên tắc thị trường, chỉ ra rằng Nga đã cung cấp khí đốt cho các quốc gia có vấn đề với mức giá thấp hơn đáng kể so với mức thị trường thế giới và trong hầu hết các trường hợp, giá vẫn như vậy ngay cả sau khi giá tăng. Các chính trị gia ở Nga lập luận rằng không bắt buộc phải trợ cấp hiệu quả cho nền kinh tế của các quốc gia hậu Xô Viết bằng cách cung cấp cho họ các nguồn lực với giá thấp hơn thị trường. Bất kể động cơ chính trị bị cáo buộc là gì, các nhà quan sát đã lưu ý rằng việc tính giá thị trường là quyền hợp pháp của Nga, và chỉ ra rằng Nga đã tăng giá ngay cả đối với đồng minh thân cận của mình là Belarus.
Lutjanus mizenkoi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811765
Lutjanus mizenkoi là một loài cá biển thuộc chi "Lutjanus" trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1985. Từ nguyên. Từ định danh "mizenkoi" trong tiếng Latinh được đặt theo tên của David Mizenko, người đến từ Đại học Rhode Island, vì những đóng góp của ông trong việc thu thập các mẫu định danh của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "L. mizenkoi" là một loài ít khi được nhìn thấy, được ghi nhận tại đảo Sulawesi (Indonesia), đảo Panay (Philippines), tỉnh Milne Bay (Papua New Guinea), Tây Úc và Samoa. "L. mizenkoi" được thu thập trên các rạn san hô hoặc nơi có nền đáy bùn với các mỏm đá ngầm, độ sâu khoảng 10–150 m. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. mizenkoi" là 32 cm. Lưng và thân màu đỏ, chuyển dần sang màu hồng, phần bụng và vùng dưới đầu màu trắng. Hai bên thân có các sọc ngang màu vàng nhạt, mỗi sọc nằm trên một hàng vảy cá. Các vây trắng nhạt hoặc vàng. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 13; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 16. "L. mizenkoi" nằm trong nhóm phức hợp cá hồng sọc vàng với 6 loài khác, là "Lutjanus adetii", "Lutjanus lutjanus", "Lutjanus madras", "Lutjanus ophuysenii", "Lutjanus vitta" và "Lutjanus xanthopinnis". Giá trị. "L. mizenkoi" là một loại cá thực phẩm chất lượng, đôi khi được tìm thấy ở các chợ cá Samoa, bán chủ yếu ở dạng tươi sống.
Eastbourne International 2023 - Đôi nữ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811767
Desirae Krawczyk và Demi Schuurs là nhà vô địch, đánh bại Nicole Melichar-Martinez và Ellen Perez trong trận chung kết, 6–2, 6–4. Aleksandra Krunić và Magda Linette là đương kim vô địch, nhưng chọn không tham dự giải đấu.
Semyon Nomokonov
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811768
Semyon Danilovich Nomokonov (tiếng Nga: "Семён Данилович Номоконов"; sinh ngày 12 tháng 8 năm 1900 – mất ngày 15 tháng 7 năm 1973) là một tay súng bắn tỉa của Liên Xô trong Thế chiến thứ hai, ông là người Anh hùng Liên Xô được ghi nhận thành tích với 367 lần tiêu diệt địch (có thông tin khác cho rằng ông có đến 368-369 lần tiêu diệt địch). Ông được kẻ thù đặt biệt danh là "Pháp sư rừng Taiga" (Taiga Shaman). Cuộc đời. Nomokonov sinh ra tại khu định cư Delyun ở Zabaykalsky Krai thuộc Nga (sau đó là Đế quốc Nga), trong một gia đình thợ săn nghèo và từ nhỏ đã sống ở trong những khu rừng Taiga. Nomokonov lần đầu tiên sử dụng súng trường vào năm 7 tuổi khi ông ấy đi săn chồn zibelin, nai Mãn Châu và nai sừng xám và được đặt biệt danh là "Mắt diều hâu" ("Eye of the Kite"). Nomokonov làm lễ rửa tội vào tuổi 15 và nhận cái tên là Semyon. Năm 1928, Nomokonov chuyển đến khu định cư Nizhny Stan ở Quận Shilkinsky của Nga. Ông tiếp tục đi săn và cũng hành nghề thợ mộc. Nomokonov bắt đầu thực hiện nghĩa vụ quân sự vào tháng 8 năm 1941, ban đầu ông phục vụ trong một trang trại tự cung tự cấp của một trung đoàn. Rồi ông làm nạng cho những người bị thương. Nomokonov tình cờ trở thành một tay xạ thủ bắn tỉa. Vào mùa thu năm 1941, ông đang sơ tán một trong những người bị thương thì nhận thấy một gã người Đức đang nhắm vào mình. Nomokonov đã giết gã bằng chính khẩu súng trường của mình. Theo một giai thoại khác, vào tháng 10 năm 1941, Nomokonov nhận được một khẩu súng trường và quyết định thử nghiệm nó. Để tránh lãng phí đạn, Nomokonov đã thử khẩu súng trường với một người Đức đang đi xuống dọc theo bờ hồ có nhiều cây cối rậm rạp. Sau đó Nomokonov được chuyển sang trung đội bắn tỉa. Ông bắt đầu bắn tỉa từ khẩu súng trường Mosin–Nagant mà không có ống ngắm. Trong chiến tranh, Nomokonov đã chiến đấu tại Valdai Heights, Karelian Isthmus, Ukraine, Lithuania, Đông Phổ và sau đó ở Mãn Châu. Ban đầu, ông ta đánh dấu số lần tiêu diệt địch trên ống hút thuốc của mình. Nomokonov bị thương tám lần và bị chấn thương do vụ nổ hai lần.
Semyon Nomokonov
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811768
Là huấn luyện viên bắn tỉa, Nomokonov đã huấn luyện hơn 150 binh sĩ. Sau cuộc chiến, Nomokonov cưỡi ngựa trở về nhà. Ông sống cuộc sống bình dị bằng việc tiếp tục hành nghề mộc ở Nizhny Stan, nhưng sau đó chuyển đến khu định cư Zugalay, nơi các con trai lớn của ông đang sinh sống. Ông xây nhà và tiếp tục đi săn trong thời gian rảnh rỗi sau này. Vào mùa thu năm 1945, Nomokonov nhận được một con ngựa, ống nhòm và một khẩu súng trường số 24638 để thực hiện nghĩa vụ quân sự của mình. Theo con gái của Nomokonov là Zoya Babuyeva thì ông là một người ít nói và không thích nói nhiều về chiến tranh. Nomokonov mất ở Zugalay và được chôn cất ở đó. Nhà thơ Vasily Lebedev-Kumach đã dành một bài thơ cho ông ấy. Nomokonov để lại 9 người con và 49 đứa cháu.
Tôn giáo phương Tây
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811771
Tôn giáo phương Tây ("Western religions") là những tôn giáo bắt nguồn từ văn hóa phương Tây (hay còn gọi là Âu Mỹ), do đó khác biệt về mặt lịch sử, văn hóa và thần học với các tôn giáo phương Đông, tôn giáo châu Phi và Iran. Thuật ngữ các tôn giáo Áp-ra-ham (Hồi giáo, Cơ đốc giáo và Do Thái giáo) thường được sử dụng thay vì sử dụng thuật ngữ ranh giới Đông và Tây ("East–West dichotomy") vì những tôn giáo này có nguồn gốc từ Trung Đông. Bản thân văn hóa phương Tây đã bị ảnh hưởng đáng kể từ sự xuất hiện của Cơ đốc giáo và việc nó được coi là Giáo hội của Đế chế La Mã vào cuối thế kỷ thứ 4 và thuật ngữ "Vương quốc Cơ đốc giáo" hay Thiên quốc/Nước trời ("Christendom") phần lớn chỉ ra lịch sử đan xen này. Thế giới phương Tây, bao gồm Châu Âu, Châu Mỹ, châu Úc-New Zealand và (một phần) Nam Phi da trắng và thuộc địa Philippines, có tôn giáo chủ yếu là Cơ đốc giáo phương Tây chiếm 77,4% ở Bắc Mỹ (2012), chiếm gần 76,2% ở Châu Âu (2010) (bao gồm 35% Cơ đốc nhân châu Âu theo Chính thống giáo Đông phương, đặc biệt là ở Đông Âu, khoảng 76%, không thuộc "tôn giáo phương Tây" và 46% Cơ đốc nhân châu Âu là thuộc về Công giáo La Mã, gần 18% Cơ đốc nhân châu Âu là theo đạo Tin lành), tỷ lệ này là 61,1% ở Úc và New Zealand (2011). Cơ đốc giáo phương Tây chịu ảnh hưởng đáng kể của tôn giáo Hy Lạp (đặc biệt là chủ nghĩa tân Platon) cũng như sự sùng bái đế quốc La Mã. Cơ đốc giáo phương Tây phần lớn dựa trên truyền thống Giáo hội Latinh của Giáo hội Công giáo, trái ngược với Chính thống giáo Đông phương, từ đó nó bị chia rẽ trong cuộc Đại ly giáo thế kỷ 11, và hơn nữa bao gồm tất cả các truyền thống Tin lành đã chia rẽ với Giáo hội Công giáo từ thế kỷ 16 trở đi. Kể từ thế kỷ 19, tôn giáo phương Tây đã đa dạng hóa thành nhiều phong trào tôn giáo mới, bao gồm Huyền bí học, Thần linh học, Thông thiên học và các hình thức đa dạng của Tân ngoại giáo. "Phương Tây" với tư cách là một nền văn hóa hoặc nền văn minh đã phát triển trong lịch sử từ Hy Lạp-La Mã thời cổ đại.
Tôn giáo phương Tây
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811771
Những nền văn hóa này có các tôn giáo đa thần và đa thần Hy Lạp và đa thần La Mã. Ảnh hưởng của "phương Đông" đối với các tôn giáo này được thể hiện rõ ràng từ thời kỳ đầu tiên, Thời kỳ Đông phương hóa vào đầu thời kỳ cổ đại Hy Lạp. Trong cùng thời kỳ, các truyền thống kế thừa của tôn giáo La Mã bản địa đã bị "interpretatio graeca" tức giáo phái hoàng gia phát triển thành một tôn giáo dân sự liên quan đến nghi lễ nhà nước hơn là hơn niềm tin tôn giáo hoặc trải nghiệm. Tôn giáo Celtic và Tôn giáo Đức được dân tộc học La Mã mô tả là nguyên thủy, nhưng đồng thời cũng thuần khiết hoặc hoang sơ man dại so với cái gọi là sự suy đồi đô thị của La Mã. Cơ đốc giáo phương Tây là một tập hợp con của Cơ đốc giáo, ban đầu dựa trên Cơ đốc giáo Latinh của Giáo hội Công giáo, trái ngược với Chính thống giáo Đông phương – từ đó nó bị chia rẽ trong Đại ly giáo của thế kỷ 11 và nhiều phong trào Cơ đốc giáo phi phương Tây khác. Bản thân Cơ đốc giáo phương Tây đã bị chia rẽ từ chính cuộc Cải cách Tin lành vào thế kỷ 16, và các hình thức Cơ đốc giáo rõ ràng là "phương Tây" bao gồm Thanh giáo và Truyền giáo, các phong trào bắt nguồn từ các "Đại thức tỉnh" khác nhau trong thế kỷ 18 đến 20 thế kỷ thế giới nói tiếng Anh và được thực hành phổ biến ở Hoa Kỳ. Trong ít nhất một thiên niên kỷ rưỡi, văn hóa Châu Âu gần như tương đương với văn hóa Cơ đốc giáo. Văn hóa Kitô giáo là lực lượng chiếm ưu thế trong nền văn minh phương Tây, định hướng quá trình phát triển của triết học, nghệ thuật, âm nhạc, khoa học, cấu trúc xã hội và kiến trúc.
Tôn giáo phương Đông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811773
Tôn giáo phương Đông ("Eastern religions") là những truyền thống tín ngưỡng tôn giáo bắt nguồn từ châu Á như Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á và do đó có những điểm khác biệt với các tôn giáo phương Tây, tín ngưỡng châu Phi và tôn giáo Iran. Tôn giáo phương Đông bao gồm hệ thống các tôn giáo tín ngưỡng Á Đông ("East Asian religions") như Nho giáo, Đạo giáo, tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, Thần đạo của Nhật Bản và Đạo giáo Hàn Quốc; các tôn giáo Ấn Độ như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Kỳ na giáo (đạo Jain) và đạo Sikh cùng các tôn giáo Đông Nam Á như tín ngưỡng dân gian Việt Nam cũng như các tín ngưỡng bản địa theo thuyết vật linh. Sự phân biệt tôn giáo Đông-Tây này, cũng như sự phân biệt văn hóa Đông-Tây, và những hệ lụy phát sinh từ nó, là có phạm vi rộng và không chính xác. Hơn nữa, sự khác biệt về địa lý ít có ý nghĩa hơn trong bối cảnh chuyển văn hóa toàn cầu hiện nay. Trong khi nhiều nhà quan sát phương Tây cố gắng phân biệt giữa triết học phương Đông và tôn giáo phương Đông nhưng đây là sự phân biệt không tồn tại trong một số truyền thống phương Đông vì yếu tố này hòa quyện với nhau.
Câu chuyện hoa hồng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811774
Câu chuyện hoa hồng (tiếng Anh: "The Tale of Rose", tiếng Trung: 玫瑰故事, bính âm: "Méiguī gùshì") là một bộ phim truyền hình hiện đại Trung Quốc do Uông Tuấn đạo diễn với sự tham gia của Lưu Diệc Phi và Hoắc Kiến Hoa. Bộ phim được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của tác giả Diệc Thư, sản xuất bởi truyền thông Tân Lệ. Bộ phim xoay quanh cuộc đời Hoàng Diệc Mai trải dài từ tuổi trẻ đến khi trở thành một người mẹ đơn thân, nếm qua mọi thăng trầm đời người, từ đó nhận ra giá trị của bản thân cùng ý nghĩa của sự tự do. Cốt truyện. Hoàng Diệc Mai biệt danh là Rose (hoa hồng), sinh ra trong một gia đình tri thức, được cha mẹ và anh trai yêu thương bảo bọc từ nhỏ cho đến lớn, bộc lộ năng khiếu nghệ thuật từ khi còn nhỏ. Khi cô ấy nhận được giấy báo thi đại học, cả gia đình mới biết rằng cô ấy sẽ theo học chuyên ngành lịch sử nghệ thuật tại Học viện Mỹ thuật. Cô mới vừa đi làm đã rất nhanh chóng nhận được sự trọng dụng, cô đã gặp gỡ và yêu đối tác của mình là Trang Quốc Đống, nhưng cuối cùng lại bỏ lỡ lẫn nhau, khoảng thời gian đào tạo tại nơi làm việc này cũng giúp cô có một kế hoạch rõ ràng hơn cho cuộc đời mình, và cô quyết định trở lại trường học chuyên sâu hơn. Sau khi tốt nghiệp, cô và tiền bối Phương Hiệp Văn kết hôn với nhau. Nhưng sau khi kết hôn, hướng phát triển của cả hai khác xa nhau, cuối cùng họ lựa chọn ly hôn. Hoàng Diệc Mai bắt đầu lập nghiệp, và dốc sức làm việc trong lĩnh vực giám tuyển nghệ thuật, trong thời gian này, cô cũng gặp được tâm giao của mình là Phổ Gia Minh, nhưng anh lại chỉ còn sống được vài tháng, tình yêu giữa hai người cuối cùng cũng kết thúc bởi sự chia cắt sinh tử. Nhưng Hoàng Diệc Mai không để tinh thần sa sút như vậy, cô vẫn như thường lệ, nỗ lực để bản thân sống một cuộc sống thật đặc sắc. Sản xuất và phân phối. Dự án phim lần đầu được công bố vào ngày 3 tháng 11 năm 2022 với tựa đề "Câu chuyện hoa hồng" và đội ngũ sản xuất.
Câu chuyện hoa hồng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811774
Ngày 19 tháng 6 năm 2023, đoàn làm phim chính thức công bố dàn diễn viên chính bao gồm Lưu Diệc Phi, Đồng Đại Vi, Bành Quán Anh, Lâm Canh Tân, Hoắc Kiến Hoa, cùng ngày áp phích đầu tiên của phim được công bố. Tranh cãi. Bộ phim gây tranh cãi trên các nền tảng mạng xã hội tại Trung Quốc, theo đó khi đoàn phim đang ghi hình tại Đại học Nhân dân Trung Quốc, ê-kíp đã gỡ bảng hiệu ngôi trường trên tường tòa nhà và thay bằng biểu tượng của Đại học Thanh Hoa. Có thông tin rằng các giảng viên và sinh viên của trường bày tỏ sự khó chịu khi bị đoàn phim lạm quyền, chiếm dụng hết các lối đi. Một sinh viên đang theo học tại Đại học Nhân dân Trung Quốc cho biết, không có chuyện đoàn phim của "Câu chuyện hoa hồng" lạm quyền, tất cả đều hợp tác vui vẻ. Một số người cũng cho rằng đội ngũ sản xuất đang cố gắng hết sức để giảm thiểu sự bất tiện bằng cách thương lượng các điều kiện với trường đại học trước khi quay phim và hiện tại, đoàn phim chỉ đang làm theo đúng quy trình.
Dinatri helide
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811775
Dinatri helide là một hợp chất vô cơ của natri và khí hiếm heli với công thức hóa học Na2He. Hợp chất này ổn định ở áp suất cao, trên . Lần đầu tiên hợp chất được dự đoán bằng cách sử dụng thuật toán dự đoán cấu trúc tinh thể USPEX và sau đó được tổng hợp vào năm 2016. Tổng hợp. Na2He được dự đoán là ổn định về mặt nhiệt động học ở áp suất trên 160 GPa và ổn định trên 100 GPa. Điều này có nghĩa là nó có thể hình thành ở áp suất cao hơn và có thể ổn định khi giảm áp suất xuống 100 GPa, nhưng dưới mức đó nó sẽ bị phân hủy. So với các hợp chất nhị phân của các nguyên tố khác và heli, Na2He được dự đoán là ổn định ở áp suất thấp nhất trong số tất cả các hợp chất khí hiếm. Hợp chất kali-heli tương ứng được dự đoán cần áp suất cao hơn nhiều, ở mức vài terapascal. Hợp chất này được tổng hợp bằng cách đặt các tấm natri cực nhỏ vào một lớp đe kim cương cùng với heli ở áp suất 1600 bar, sau đó nén xuống 130 GPa và làm nóng đến 1.500 K bằng laser. Dinatri helide được dự đoán là chất cách điện và có bề ngoài trong suốt. Ở 200 GPa, các nguyên tử natri có điện tích là +0,599, điện tích của heli là −0,174 và điện tích điểm giữa hai electron gần bằng −0,511. Dinatri helide nóng chảy ở nhiệt độ khoảng 1.500 K, cao hơn nhiều so với nhiệt độ nóng chảy của natri. Khi được giảm áp suất, hợp chất có thể ổn định đến mức áp suất thấp nhất là 113 GPa. Khi áp suất tăng, natri được dự đoán sẽ thu được nhiều điện tích dương hơn, heli mất điện tích âm và mật độ electron tự do tăng lên. Năng lượng được bù lại bằng sự co giãn tương đối của các nguyên tử heli và chỗ trống của các electron. Cấu trúc. Dinatri helide có cấu trúc thuộc hệ tinh thể lập phương, giống cấu trúc fluorit. Ở 300 GPa, hằng số mạng của tinh thể là . Cấu trúc mạng tinh thể chứa bốn nguyên tử heli ở tâm của các mặt và góc của khối lập phương, và tám nguyên tử natri ở các vị trí nằm giữa tâm và mỗi góc. Các electron kép (2e-) được đặt trên mỗi cạnh và tâm của mạng tinh thể. Mỗi cặp electron được ghép spin.
Dinatri helide
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811775
Mỗi cặp electron được ghép spin. Sự tồn tại của các electron độc lập này làm cho chúng trở thành điện tích. Các nguyên tử heli không tham gia vào bất kỳ liên kết nào; tuy nhiên, các cặp electron vẫn được coi là liên kết hai electron tám tâm.
Danh sách loài lợn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811777
Phân bộ Lợn (Suina hay Suiformes) là một phân bộ thú gồm các loài ăn tạp, không nhai lại thuộc Bộ Guốc chẵn (Artiodactyla). Trong tiếng Anh, mỗi loài trong nhánh này được gọi là "suine". Phân bộ này bao gồm Suidae (lợn) và họ Tayassuidae (lợn peccary). Các loài lợn phần lớn có nguồn gốc từ châu Phi, Nam Mỹ và Đông Nam Á, ngoại trừ lợn rừng, loài này cũng có nguồn gốc từ châu Âu và châu Á và được du nhập vào Bắc Mỹ và châu Úc, bao gồm cả việc sử dụng rộng rãi phân loài lợn nhà trong chăn nuôi. Chúng có kích thước khác nhau, từ lợn lùn dài 55 cm (22 in) đến lợn rừng lớn dài 210 cm (83 in). Các loài chủ yếu được tìm thấy trong các khu sinh học như rừng, cây bụi và đồng cỏ, mặc dù một số loài có thể được tìm thấy ở sa mạc, đất ngập nước hoặc ven biển. Hầu hết các loài không được ước tính về số lượng, mặc dù có khoảng hai tỷ con lợn nhà được sử dụng trong nông nghiệp, trong khi một số loài được coi là loài nguy cấp hoặc cực kỳ nguy cấp với số lượng thấp tới 100 con. Phân bộ Lợn có 20 loài còn tồn tại, gồm 17 loài trong 6 chi thuộc họ Suidae và 3 loài trong 3 chi thuộc họ Tayassuidae. Tất cả các loài còn tồn tại đều thuộc phân họ Suinae. Các loài tuyệt chủng cũng được xếp vào Suinae, cũng như các phân họ khác. Hàng chục loài tuyệt chủng đã được tìm thấy, mặc dù do các nghiên cứu và khám phá vẫn đang tiếp diễn, số lượng và phân loại chưa chắc chính xác. Quy ước. Mã tình trạng bảo tồn được liệt kê tuân theo Sách đỏ các loài bị đe dọa của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Bản đồ phân bố được đính kèm nếu có thông tin. Khi không có thông tin về bản đồ phân bố, sẽ được thay thế bằng mô tả về phạm vi môi trường hoạt động của loài. Vùng phân bố dựa trên danh sách đỏ IUCN cho loài đó trừ khi có ghi chú khác. Tất cả các loài hoặc phân loài đã tuyệt chủng được liệt kê cùng với các loài còn tồn tại đã tuyệt chủng sau năm 1500 và được biểu thị bằng biểu tượng thập tự "". Số liệu quần thể được làm tròn đến phần hàng trăm. Phân loại.
Danh sách loài lợn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811777
Phân loại. Phân bộ Lợn gồm 20 loài còn tồn tại thuộc 9 chi, và được chia tiếp thành hàng chục phân loài. Phân bộ Lợn được chia thành 2 họ: họ Suidae gồm 17 loài thuộc 6 chi, và họ Tayassuidae gồm 3 loài thuộc 3 chi. Danh sách này không bao gồm các loài lai (như là ")" hoặc các loài tuyệt chủng từ thời tiền sử. Phân bộ Lợn. Phân loại sau đây dựa trên phân loại của "Mammal Species of the World" (2005), cùng với các đề xuất bổ sung được chấp nhận rộng rãi kể từ khi sử dụng phân tích phát sinh chủng loại phân tử. Có một số đề xuất bổ sung đang bị tranh cãi, chẳng hạn như loài lợn peccary lớn ("Pecari maximus"), thì không được đưa vào đây.
Chữa bệnh bằng đức tin
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811778
Chữa bệnh bằng đức tin ("Faith healing") hay chữa bệnh bằng tâm linh là việc thực hành cầu nguyện và dùng các cử chỉ biểu đạt tôn giáo (chẳng hạn như phép đặt tay) được một số người tin rằng có thể hiện ra sự can thiệp của thần thánh trong việc chữa lành tâm linh và chữa lành thể chất, đặc biệt là trong các phép thực hành bí tích của Cơ đốc giáo. Các tín đồ khẳng định rằng việc chữa lành bệnh tật và khuyết tật có thể được thực hiện thông qua đức tin tôn giáo thông qua cầu nguyện hoặc các nghi lễ khác mà theo các tín đồ sẽ có thể khơi dây sự hiện diện và quyền năng của thần thánh. Niềm tin tôn giáo vào sự can thiệp của thần thánh không phụ thuộc vào bằng chứng thực nghiệm về kết quả dựa trên bằng chứng đạt được thông qua chữa bệnh bằng đức tin. Hầu như tất cả các nhà khoa học và triết gia đều coi việc chữa bệnh bằng đức tin là ngụy khoa học. Những tuyên bố rằng "vô số kỹ thuật" chẳng hạn như cầu nguyện, sự tác động của thần thánh hoặc sự phục vụ của một người chữa bệnh cá nhân có thể chữa khỏi bệnh đã trở nên phổ biến trong suốt lịch sử. Đã có những tuyên bố rằng đức tin có thể chữa mù, điếc, ung thư, HIV/AIDS, rối loạn phát triển, thiếu máu, viêm khớp, nói ngọng, đa xơ cứng, phát ban da, tê liệt toàn thân và nhiều vết thương khác nhau. Sự phục hồi của người bệnh (là tín hữu) đã được quy cho nhiều kỹ thuật thường được phân loại là chữa bệnh bằng đức tin. Kết quả này có thể liên quan đến việc cầu nguyện, viếng thăm một ngôi đền tôn giáo, hoặc đơn giản là niềm tin mãnh liệt vào một đấng tối cao sẽ tiếp thêm sức mạnh vượt qua tình thế hiểm nghèo. Nhiều người giải thích rằng Kinh Thánh, đặc biệt là Tân Ước đã rao giảng niềm tin và thực hành chữa bệnh bằng đức tin.
Chữa bệnh bằng đức tin
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811778
Theo một cuộc thăm dò năm 2004 của Newsweek có đến 72% người Mỹ cho biết họ tin rằng cầu nguyện Chúa có thể chữa khỏi bệnh cho một người nào đó, ngay cả khi khoa học nói rằng người đó mắc bệnh nan y. Không giống như chữa bệnh bằng đức tin, những người ủng hộ chữa bệnh bằng tâm linh không cố gắng tìm kiếm sự can thiệp của thần thánh, thay vào đó họ tin vào năng lượng thần thánh. Mối quan tâm ngày càng tăng đối với y học thay thế vào cuối thế kỷ XX đã làm nảy sinh mối quan tâm song song giữa các nhà xã hội học về mối quan hệ của tôn giáo với sức khỏe. Chữa bệnh bằng đức tin có thể được phân loại là một chủ đề tâm linh, siêu nhiên hoặc huyền bí và trong một số trường hợp, niềm tin vào việc chữa bệnh bằng đức tin có thể được phân loại là tư duy ma thuật. Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ tuyên bố ""bằng chứng khoa học hiện có không ủng hộ tuyên bố rằng chữa bệnh bằng đức tin thực sự có thể chữa khỏi các bệnh về thể chất". "Cái chết, tàn tật và những kết quả không mong muốn khác đã xảy ra khi việc chữa bệnh bằng đức tin được lựa chọn thay vì chăm sóc y tế cho những vết thương hoặc bệnh tật nghiêm trọng".". Khi cha mẹ thực hành chữa bệnh bằng đức tin hơn là chăm sóc y tế, nhiều trẻ em đã chết mà lẽ ra không đáng phải như vậy, những kết cục tương tự cũng được ghi nhận ở người lớn.
Miles Morales
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811779
Miles Gonzalo Morales"" () là một nhân vật hư cấu, một siêu anh hùng xuất hiện trong các cuốn truyện tranh Mỹ xuất bản bởi Marvel Comics. Anh là một trong những nhân vật được gọi là Người Nhện, được tạo ra vào năm 2011 bởi nhà văn Brian Michael Bendis và nghệ sĩ Sara Pichelli, với sự đóng góp của biên tập viên trưởng lúc bấy giờ của Marvel Axel Alonso. Nhân vật sở hữu sức mạnh tương tự như sức mạnh của Người Nhện ban đầu, có nguồn gốc từ vết cắn của một con nhện được biến đổi gen bởi kẻ thù của Người Nhện Norman Osborn nhằm cố gắng nhân đôi những khả năng đó. Con trai tuổi thiếu niên mang hai dòng máu của cha người Mỹ gốc Phi và mẹ người Puerto Rico, Miles Morales là Người nhện thứ hai xuất hiện trong Ultimate Marvel, một dấu ấn với một sự liên tục riêng biệt từ Vũ trụ Marvel được gọi là Ultimate Universe (Earth-1610), xuất hiện lần đầu trong "Ultimate Fallout" #4 (tháng 8 năm 2011), sau cái chết của Ultimate Peter Parker. Anh đã xuất hiện trong loạt truyện tranh ', và sau khi Marvel kết thúc ấn bản Ultimate năm 2015, Miles trở thành một nhân vật trong Vũ trụ Marvel chính (Earth-616), bắt đầu câu chuyện dưới thương hiệu All-New, All-Different Marvel ra mắt cùng năm đó, với người đồng cấp Earth-616 ban đầu của Miles, Ultimatum"' hung ác, ra mắt trong "Spider-Men II" năm 2017. Phản ứng với nhân vật rất đa dạng. Một số, bao gồm cả người đồng sáng tạo Người Nhện, Stan Lee, đã tán thành việc tạo ra một hình mẫu tích cực cho trẻ em da màu. Những người khác bày tỏ sự không hài lòng với việc thay thế Peter Parker, với việc "The Guardian", Fox News, và Culture Map Houston báo cáo rằng một số người hâm mộ coi quyết định này là nỗ lực của Marvel Comics để thể hiện đúng đắn về chính trị và việc giới thiệu một Người Nhện thiểu số chỉ đơn giản là trò chơi đóng thế công khai để thu hút nhiều độc giả hơn, một cáo buộc mà Alonso đã bác bỏ. Alexandra Petri của "The Washington Post" kêu gọi đánh giá nhân vật dựa trên chất lượng câu chuyện của anh, điều này đã nhận được những đánh giá tích cực. Do sự nổi tiếng của nhân vật, Miles Morales đã được chuyển thể trên nhiều phương tiện truyền thông bên ngoài truyện tranh.
Miles Morales
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811779
Nhân vật này không phải là nhân vật chính trong loạt phim truyền hình hoạt hình "Ultimate Spider-Man", nhưng sau đó đã được thêm vào dàn diễn viên chính, như một Người Nhện thay thế từ một vũ trụ khác được lồng tiếng bởi Donald Glover trong mùa ba và Ogie Banks trong mùa bốn, giờ có tên là Kid Arachnid. Nadji Jeter lần đầu lồng tiếng nhân vật trong series hoạt hình của Disney XD "Spider-Man" (2017–20), và đóng lại vai này trong loạt trò chơi điện tử "Marvel's Spider-Man" được phát triển bởi Insomniac Games, và ' (2019). Nhân vật là nhân vật chính của loạt phim hoạt hình "Spider-Verse" sản xuất bởi Sony Pictures Animation, với Shameik Moore lồng tiếng nhân vật trong bộ phim đoạt Giải Oscar ' (2018), cũng như các phần hậu truyện "" (2023) và "Beyond the Spider-Verse" (2024).
Đồng tính nữ tại Đức Quốc xã
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811782
Tại Đức Quốc xã, những người phụ nữ đồng tính bị gửi đến trại tập trung thường bị phân loại là "không hòa nhập", trừ khi họ bị nhắm đến vì chủng tộc hoặc quan điểm chính trị. Tại các khu vực khác của Đức Quốc Xã, hành vi đồng tính nữ không bị xem là vi phạm pháp luật, trái ngược với nước Áo - nơi đã hình sự hóa hành vi này. Vì chính phủ Quốc xã ít chú trọng đến người đồng tính nữ so với đồng tính nam, việc ghi chép hoàn cảnh của phụ nữ đồng tính trong thời Đức Quốc xã gặp nhiều hạn chế vì thiếu nguồn tài liệu. Bối cảnh. Sau Thế chiến thứ nhất, các quán bar và hộp đêm dành cho phụ nữ đồng tính được khai trương tại Berlin. Đáng chú ý trong số đó là "Mali und Igel," do doanh nhân Elsa Conrad điều hành. Bên trong quán bar này có một câu lạc bộ được gọi là "Monbijou des Westens". Câu lạc bộ này chỉ dành riêng cho giới tri thức đồng tính nữ tại Berlin; nữ diễn viên Marlene Dietrich là khách hàng nổi tiếng của câu lạc bộ này. Câu lạc bộ tổ chức các buổi dạ hội với sự tham gia của 600 người phụ nữ mỗi năm. Một chiến dịch nhằm đóng cửa tất cả các quán bar dành cho người đồng tính, bao gồm cả quán bar dành cho đồng tính nữ đã được phát động vào tháng 3 năm 1933. Tất cả các tạp chí (như "Die Freundin") và các tổ chức liên quan đến cộng đồng đồng tính nữ đều bị đặt trong tầm ngắm để đình chỉ hoạt động. Sử học. Các nhà sử học điều tra các trường hợp riêng lẻ đã đưa ra những kết luận khác nhau. Tùy thuộc vào các yếu tố cá nhân, phụ nữ ở Đức Quốc xã bị buộc tội có mối quan hệ đồng tính nữ có thể phải đối mặt với những hậu quả khác nhau. Những phụ nữ Do Thái, người da đen, hoặc những ai phản đối chế độ Quốc xã có thể bị giam cầm trong trại tập trung hoặc bị tử hình - trong một số trường hợp, án phạt có thể bị tăng nặng nếu họ bị xác định là người đồng tình nữ. Trái lại, theo nhà sử học Samuel Clowes Huneke, những phụ nữ đồng tính bị cáo về những tội danh không liên quan đến chính trị không hề bị đối xử khác biệt chỉ vì họ là người đồng tính nữ.
Đồng tính nữ tại Đức Quốc xã
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811782
Trong thực tế, việc bị tố cáo là người đồng tính nữ thường chỉ dẫn tới một cuộc điều tra của phía cảnh sát mà không hề kèm theo bất kỳ hình phạt nào. Do đó, ông đưa ra khái niệm "bức hại đa dạng" như một cách để mô tả trải nghiệm của phụ nữ đồng tính trong thời kỳ Đức Quốc xã. Nhà sử học Laurie Marhoefer cho rằng "Dù không trực tiếp bị nhà nước bức hại, nhưng những phụ nữ từ chối tuân theo chuẩn mực giới tính truyền thống, hoán tính và những người bị đánh đồng với đồng tính luyến ái đều có thể gây lo ngại cho hàng xóm, bạn bè và các quan chức nhà nước. Và cuối cùng, nỗi lo này có thể dẫn tới việc nhà nước sử dụng bạo lực, như trường hợp [Ilse] Totzke bị giam ở trại tập trung Ravensbrück." Tưởng niệm. Vào năm 2008, một cuộc tranh cãi đã nổ ra liên quan đến Bia tưởng niệm cho Người đồng tính bị bức hại Dưới Chế độ Quốc xã tại Tiergarten. Tranh cãi này bắt nguồn từ việc người đồng tính nữ ban đầu không được nhắc trong danh sách tưởng niệm. Các nhà phê bình cho rằng, mặc dù người đồng tính nữ không phải chịu bức hại có tổ chức như người đồng tính nam, nhưng việc tưởng nhớ những phụ nữ đã bị giam giữ trong các trại tập trung vẫn là điều cần thiết. Một kế hoạch thay thế video ban đầu bằng một video khác bao gồm cả phụ nữ đã gặp phải sự phản đối từ các nhà sử học, nhà hoạt động và những người quản lý bia tưởng niệm. Họ cho rằng việc bao gồm người đồng tính nữ sẽ là "bóp méo sự thật". Mặc dù đã có những nỗ lực từ một số nhà hoạt động đồng tính nữ nhằm tưởng nhớ những phụ nữ đồng tính bị giam giữ và giết tại trại tập trung Ravensbrück. Tuy nhiên đến năm 2021, vẫn chưa thống trong việc thiết lập một bia tưởng niệm cho họ tại trại tập trung.
Phép đặt tay
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811783
Phép đặt tay (tiếng Anh: "Laying on of hands" hay "chirotony", tiếng Do Thái là סמיכה/"Semikhah") là một thực hành tôn giáo trong Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo đi kèm với việc ban phước lành hoặc chỉ dấu về quyền hạn, nghi thức trừ tà. Trong Giáo hội Công giáo thì Phép đặt tay được sử dụng như một phương pháp tượng trưng và chính thức để cầu khẩn Chúa Thánh Thần chủ yếu trong các lễ rửa tội và các lễ xác nhận, lễ chữa bệnh, phước lành, và phong chức của linh mục, trưởng lão, phó tế, và các quan chức nhà thờ khác, cùng với nhiều loại của bí tích nhà thờ khác và các nghi lễ thánh. Một tập tục đặt tay tương tự cũng được sử dụng trong các nghi lễ tôn giáo Navajo. Phép đặt tay cũng có thể ám chỉ đến việc đặt tay lên con vật hiến tế (lễ tạ tội) của một người, trước khi nó bị giết thịt. Phép đặt tay là một hành động được nhắc đến nhiều lần trong Kinh thánh tiếng Do Thái để đi kèm với việc ban phước lành hoặc quyền hạn. Moses sắc phong cho Joshua qua lễ "Semikhah"—tức là bằng cách đặt tay. Kinh thánh cho biết thêm rằng Giô-suê nhờ đó được "tràn đầy thần khí khôn ngoan". Môi-se cũng tấn phong 70 trưởng lão. Các trưởng lão sau đó đã tấn phong những người kế vị của họ theo cách này. Những người kế vị của họ lần lượt phong chức cho những người khác. Chuỗi thực hành "semikhah" này tiếp tục trong suốt thời gian của Ngôi đền thứ hai cho đến một thời điểm không xác định. Nhiều nhà chức trách thời trung cổ tin rằng điều này xảy ra dưới triều đại của Hillel II vào khoảng năm 360 Tây lịch. Tuy nhiên, nó dường như đã tiếp tục ít nhất cho đến năm 425 Tây lịch khi Theodosius II đàn áp Tổ phụ và Sanhedrin. Trong Tân Ước phép đặt tay có liên quan đến việc nhận Chúa Thánh Thần. Ban đầu Sứ đồ đặt tay trên những tín đồ mới cũng như những người đã tin theo đạo. Tân Ước cũng liên hệ đến phép đặt tay với việc trao quyền hoặc chỉ định một người vào một vị trí trách nhiệm. Phép đặt tay cho chuyện phong chức các quan chức nhà thờ vẫn tiếp tục trong nhiều nhánh của Cơ đốc giáo.
Phép đặt tay
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811783
Nghi lễ Đặt tay là một phần của sự xác nhận của Anh giáo, phép xức dầu và các nghi thức khác của các văn phòng phụng vụ và mục vụ. Sự tự đánh giá trong lễ xác nhận yêu cầu giám mục chỉ đặt một tay, tượng trưng rằng có ít thẩm quyền thuộc linh hơn một sứ đồ đặt cả hai tay. Trong Giáo hội Công giáo La Mã, tục lệ này vẫn tiếp tục và vẫn được sử dụng trong nhiều nghi lễ khác nhau của nhà thờ, chẳng hạn như trong bí tích xác nhận. Trong Cơ đốc giáo truyền giáo, việc đặt tay diễn ra cho mục vụ phong chức.
Retsuko hung hăng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811784
Aggretsuko hay Retsuko hung hăng () là một bộ phim truyền hình hoạt hình anime Nhật Bản hài kịch dựa trên nhân vật cùng tên do "Yeti" tạo ra cho công ty linh vật Sanrio. Nhân vật lần đầu tiên xuất hiện trong một loạt phim hoạt hình ngắn của Fanworks được phát sóng trên Đài truyền hình TBS từ tháng 4 năm 2016 đến tháng 3 năm 2018. Một bộ anime ONA chuyển thể đã được ra mắt trên toàn thế giới trên Netflix vào tháng 4 năm 2018, tiếp theo là phần thứ hai vào tháng 6 năm 2019, phần thứ ba vào tháng 8 năm 2020 và phần thứ tư vào tháng 12 năm 2021. Phần thứ năm và phần cuối cùng ra mắt vào tháng 2 năm 2023. Một bộ truyện tranh do Daniel Barnes và DJ Kirkland chuyển thể đã được Oni Press ra mắt. Số đầu tiên được phát hành vào ngày 5 tháng 2 năm 2020. Trò chơi dành cho thiết bị di động, "Aggretsuko: The Short Timer Strikes Back", được Hive phát hành cho Android và iOS vào tháng 7 năm 2020. Trò chơi có sẵn trên toàn thế giới, bao gồm toàn bộ 100 tập phim ngắn, cần được mở khóa riêng lẻ thông qua lối chơi bình thường. Trong khi các tập phim thông thường có phụ đề, các tập phim ngắn không có sẵn các ngôn ngữ khác. Nội dung. Retsuko là một cô gấu trúc đỏ độc thân 25 tuổi, làm việc trong bộ phận kế toán của một công ty thương mại Nhật Bản. Cô luôn cố gắng hết sức để vượt qua những vấn đề điển hình mà thanh niên Nhật Bản thế kỷ 21 gặp phải. Đối mặt với sự thất vọng liên tục mỗi ngày từ cấp trên và đồng nghiệp, Retsuko giải tỏa cảm xúc của mình bằng cách đến một quán karaoke mỗi tối và hát nhạc death metal. Sau 5 năm làm việc liên tục, sự đau khổ của Retsuko làm cô phải trải qua một loạt sự kiện, khiến công việc của cô gặp nguy hiểm, buộc cô phải thay đổi mối quan hệ với đồng nghiệp và cuối cùng thay đổi cuộc đời cô theo những cách không ngờ tới. Sau đó, cô ấy tiếp tục nghĩ ra những cách để tìm kiếm hạnh phúc, và cuối cùng đi đến kết luận rằng một ngày nào đó cô ấy sẽ muốn kết hôn và xây dựng gia đình. Thật không may, sự lo lắng xã hội của cô ấy kết hợp với tính rụt rè thường khiến cô ấy vướng vào nhiều tình huống hơn những gì cô ấy mong đợi khi theo đuổi ước mơ của mình.
Retsuko hung hăng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811784
Trong Mùa 4, chương trình ít tập trung hơn vào Retsuko với tư cách là nhân vật chính, mà tập trung nhiều hơn vào các đồng nghiệp của cô ấy tại văn phòng, với mỗi người đều có những vấn đề riêng. Trong Mùa 5, chương trình chủ yếu tập trung vào Retsuko tại chính phủ Nhật Bản với việc cô ấy tranh cử một ghế trong Quốc hội, cùng với cuộc sống của Haida sau khi bỏ công việc văn phòng và bị đuổi khỏi căn hộ của cha mẹ anh ấy, cho đến khi anh ấy gặp Shikabane, một game thủ 21 tuổi đã từ bỏ cuộc sống và trở thành người tị nạn ở quán cà phê Internet. Truyền thông. TV anime. Một series 100 tập phim hoạt hình ngắn dài một phút do Rarecho đạo diễn và được Fanworks phát sóng trên Tokyo Broadcasting System Television từ ngày 2 tháng 4 năm 2016 đến ngày 31 tháng 3 năm 2018, như một phần của chương trình truyền hình "Ō-sama Brunch." Pony Canyon bắt đầu phát hành phim ngắn trên DVD từ ngày 18 tháng 1 năm 2017. Trò chơi di động. Vào tháng 7 năm 2020, trò chơi di động "Aggretsuko: The Short Timer Strikes Back" được Hive phát hành cho các thiết bị Android và iOS. Trò chơi này là một trò chơi giải đố xếp hình với tiền đề là Aggretsuko bắt đầu làm việc để xây dựng đồ đạc trong tòa nhà công ty mới, tương tự với các trò chơi như "Gardenscapes". Đối với mỗi 10 cấp độ hoàn thành, người dùng có thể tải xuống và xem các tập của TV Anime ngắn dài một phút ban đầu. Series trên Netflix. Một loạt phim gốc của Netflix đã được công bố vào tháng 12 năm 2017, với Rarecho trở lại làm đạo diễn và biên kịch tại Fanworks. Mùa 1, bao gồm mười tập, được phát hành trên toàn thế giới vào ngày 20 tháng 4 năm 2018. Mùa 2 được phát hành vào ngày 14 tháng 6 năm 2019. Mùa 3 được công chiếu vào ngày 27 tháng 8 , 2020. Mùa 4 được công chiếu vào ngày 16 tháng 12 năm 2021. Mùa 5 và cũng là mùa cuối cùng được phát hành vào ngày 16 tháng 2 năm 2023. Một tập Giáng sinh đặc biệt đã được phát hành vào ngày 20 tháng 12 năm 2018. Đón nhận. Đánh giá của giới phê bình. "Aggretsuko" đã nhận được sự hoan nghênh của giới phê bình ở Hoa Kỳ. Toàn bộ series hiện đang giữ 8/10 sao trên IMDb, theo xếp hạng 6,3K. Mùa 1.
Retsuko hung hăng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811784
Mùa 1. Mùa 1 của series Netflix được đánh giá tốt 100% trên Rotten Tomatoes dựa trên 25 bài đánh giá, với sự đồng thuận của các nhà phê bình trên trang web: "Sự ảm đạm duy nhất đối với một tài sản của Sanrio, "Aggretsuko" cân bằng giữa sự châm biếm công ty với các nhân vật đáng yêu và hài kịch phi lý để tạo ra một sự ngạc nhiên, bổ sung sâu sắc cho thế giới hoạt hình." Phần này đã được ca ngợi vì miêu tả châm biếm văn hóa nơi làm việc của Nhật Bản và những áp lực mà phụ nữ thế hệ Millennials phải đối mặt trong lực lượng lao động. IndieWire đã cho mùa này điểm B+ và ghi nhận các yếu tố phong cách hoạt hình Nhật Bản rõ ràng đã khiến nó nổi bật so với các tác phẩm của Mỹ. "The A.V. Club" ca ngợi "Aggretsuko" vì đã giải quyết các chủ đề dành cho người trưởng thành như kỳ thị nữ giới và lo lắng tại nơi làm việc, nhưng lại chỉ trích tình tiết phụ lãng mạn của mùa, gọi nó là "tệ hại một cách hung hãn". Tập Giáng sinh đặc biệt. Aiden Strawhun của "IGN" đã nói rằng tập đặc biệt "lấy niềm vui của mùa 1 và lấp lánh trong một chút tinh tế của ngày lễ" và khen ngợi tập phim vì bình luận về chứng nghiện mạng xã hội, nhưng nói rằng nó đã bị giảm bớt do "cảm thấy giống" như mùa trước. Trên "Polygon," nhà văn Allegra Frank dánh giá tập phim này là "ấm lòng" và nói rằng nó "xứng đáng là một tác phẩm kinh điển dành cho kỳ nghỉ lễ." Allegra đã nhận xét về Haida và sự say mê của anh ấy dành cho Retsuko, gọi anh ấy là "đỉnh cao của một tình yêu đáng yêu." Mùa 2. Mùa 2 đạt 100% trên Rotten Tomatoes dựa trên 8 bài đánh giá. Caitlin Moore của "The Daily Dot" đã viết rằng mùa 2 "kém hài lòng hơn" so với mùa 1, đồng thời lưu ý rằng mùa này tập trung nhiều hơn vào "hành trình cá nhân" của Retsuko, do đó khiến nó ít liên quan hơn đến khán giả nói chung, nhưng được gọi là mùa "vui vẻ trong một khoảng khắc."
Retsuko hung hăng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811784
Charlie Ceates của "Cultured Vultures" cho biết mùa này có "nhiều điểm hấp dẫn giống như mùa trước", nhưng chỉ ra rằng diễn biến cốt truyện phản ánh chặt chẽ diễn biến của mùa đầu tiên và cách chương trình "có thể bị đình trệ và nhàm chán" nếu các mùa sau làm tương tự. Mùa 3. Mùa 3 đạt 100% trên Rotten Tomatoes dựa trên 5 bài phê bình. Karen Han từ "Polygon" ca ngợi mùa này đã giải quyết "các vấn đề cụ thể và hiện đại hơn", chẳng hạn như mối quan hệ xã hội giữa người hâm mộ và người nổi tiếng trên mạng xã hội, nhưng chỉ trích mùa này chuyển hướng thành "phim kinh dị thẳng thắn" cùng với hiện trạng kết thúc cho làm tổn thương tính tương đối của chương trình. Jacob Oller từ "The Spool" đã viết rằng mùa 3 diễn ra "đủ kiểu thú vị" và rằng ""Aggretsuko" tiếp tục gây tiếng vang, vang vọng qua hộp sọ của những nhân viên văn phòng đầy giận dữ ở khắp mọi nơi với thái độ chống chủ nghĩa tư bản của Retsuko. Mùa 4. Mùa 4 đạt 67% trên Rotten Tomatoes theo 21 bài phê bình. Nhà văn Britteny Vincent của "IGN" đã viết rằng mùa 4 "mang đến sự phi lý và gây cười cho thực tế của một nơi làm việc đầy thao túng", nhưng lại chỉ trích sự năng động giữa Retsuko và Haida, coi họ là hai trong số "những nhân vật khó chịu nhất" của chương trình vì làm loãng trải nghiệm tổng thể. Petrena Radulovic của "Polygon" đã viết rằng mùa 4 "sẽ truyền cảm hứng cho mọi người đoàn kết ở nơi làm việc của họ", đồng thời ca ngợi khả năng cân bằng "các kịch bản hoang dã với các tình huống cụ thể và dễ hiểu hơn của chương trình." Giải thưởng. "Aggretsuko" đã được đề cử cho Giải thưởng Ursa Major ở hạng mục Phim chính kịch hay nhất. Giải thưởng Ursa Major được trao cho lĩnh vực các tác phẩm về cộng đồng furry và là giải thưởng chính trong lĩnh vực nhân hóa.
Houssen Abderrahmane
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811786
Houssen Abderrahmane (sinh ngày 3 tháng 2 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện tại đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Marignane Gignac CB tại Championnat National. Sinh ra tại Pháp, anh thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Mauritanie. Sự nghiệp thi đấu. RWDM47. Vào tháng 7 năm 2020, Abderrahmane ký hợp đồng với câu lạc bộ RWDM tại Belgian First Division B theo bản hợp đồng kéo dài 1 năm, với tùy chọn gia hạn thêm một năm. Francs Borains. Vào ngày 29 tháng 8 năm 2021, anh gia nhập câu lạc bộ Francs Borains tại giải hạng 3 Bỉ. Anh đã có trận ra mắt cho đội bóng vào ngày 12 tháng 9 năm 2021, trong một trận đấu gặp La Louvière Centre, đồng thời ghi bàn thắng đầu tiên để mang về chiến thắng 2–0 cho đội nhà. Quốc tế. Abderrahmane ra mắt quốc tế cho Mauritanie vào ngày 7 tháng 10 năm 2016, trong trận thua 4-0 trước Canada.
Ga Sau
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811787
Ga Sau (Văn phòng Gimpo) (Tiếng Hàn: 사우(김포시청)역, Hanja: 沙隅(金浦市廳)驛) là ga tàu điện ngầm của Tuyến Gimpo Goldline nằm ở Gimpo-si, Gyeonggi-do.
Ga Unyang (Gimpo)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811788
Ga Unyang (Tiếng Hàn: 운양역, Hanja: 雲陽驛) là ga tàu điện ngầm của Tuyến Gimpo Goldline nằm ở Unyang-dong, Gimpo-si, Gyeonggi-do.
Kigami Yoshiji
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811789
(28 tháng 12, 1957 – 18 tháng 7, 2019) là đạo diễn hoạt hình người Nhật Bản. Ông đã từng làm việc tại công ty Shin-Ei Animation và sau đó trở thành nhân viên làm việc tại Kyōto Animation. Vào ngày 18 tháng 7 năm 2019, trong Vụ phóng hỏa Kyōto Animation, Kigami đã thiệt mạng cùng với 35 đồng nghiệp của mình. Kigami ban đầu được tuyên bố là mất tích sau vụ phóng hoả. Nhưng đến ngày 2 tháng 8 năm 2019, ông đã xác nhận tử vong.
Ga Janggi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811790
Ga Janggi (Tiếng Hàn: 장기역, Hanja: 場基驛) là ga tàu điện ngầm của Tuyến Gimpo Goldline nằm ở Janggi-dong, Gimpo-si, Gyeonggi-do.
Ga Geolpo Bukbyeon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811794
Ga Geolpo Bukbyeon (Tiếng Hàn: 걸포북변역, Hanja: 傑浦北邊驛) là ga tàu điện ngầm của Tuyến Gimpo Goldline nằm ở Bukbyeon-dong, Gimpo-si, Gyeonggi-do.
Ga Pungmu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811797
Ga Pungmu (Tiếng Hàn: 풍무역, Hanja: 豊舞驛) là ga tàu điện ngầm của Tuyến Gimpo Goldline nằm ở Sau-dong, Gimpo-si, Gyeonggi-do.
Ga Masan (Gimpo)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811800
Ga Masan (Tiếng Hàn: 마산역(김포 FC), Hanja: 麻山驛) là ga tàu điện ngầm của Tuyến Gimpo Goldline nằm ở Masan-dong, Gimpo-si, Gyeonggi-do.
Damac FC
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811807
Câu lạc bộ bóng đá Damac () là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Khamis Mushait. Được thành lập năm 1972, đội hiện thi đấu tại Giải Vô địch quốc gia Ả Rập Xê Út Danh hiệu. Saudi First Division Saudi Second Division Saudi Third Division
Abha Club
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811813
<ns>0</ns> <revision> <parentid>70444279</parentid> <timestamp>2023-08-24T06:22:06Z</timestamp> <contributor> <username>InternetArchiveBot</username> </contributor> <comment>Đã cứu 1 nguồn và đánh dấu 0 nguồn là hỏng.) #IABot (v2.0.9.5</comment> <model>wikitext</model> <format>text/x-wiki</format> Câu lạc bộ bóng đá Abha () là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Abha, hiện thi đấu ở Saudi Professional League, cấp độ cao nhất của bóng đá Ả Rập Xê Út. Sân nhà của đội là sân vận động Hoàng tử Sultan bin Abdul Aziz. Đội hình. "Tính đến ngày 7 tháng 2 năm 2021:"
Al Raed FC
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811820
Al Raed Saudi Football Club ( "Nādī ar-Rāʾid", "Câu lạc bộ tiên phong") là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Buraidah. Thành lập vào năm 1954, đội hiện thi đấu tại Saudi Pro League, giải đấu hàng đầu của bóng đá Ả Rập Xê Út, kể từ năm 2008.
Lưu Tích Quân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811827
Sara Lưu Tích Quân (), là một ca sĩ nhạc pop Trung Quốc nổi tiếng người Khách Gia, đã kinh qua các cuộc thi hát trên truyền hình. Sinh ngày 30 tháng 4 năm 1988 tại Thâm Quyến, Quảng Đông, cô bắt đầu sự nghiệp khi đứng thứ năm trong mùa thứ tư (2009) của một cuộc thi hát ở Trung Quốc tên là "Super Girls" (), or Happy Girl.
Giải Grammy lần thứ 66
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811828
Lễ trao giải Grammy thường niên lần thứ 66 của Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia (NARAS) nhằm tuyên dương những bản sáng tác, thu âm và những nghệ sĩ xuất sắc nhất trong năm 2023 sẽ được tổ chức vào ngày 4 tháng 2 năm 2024 tại Vũ đài Crypto.com, thành phố Los Angeles, tiểu bang California, Hoa Kỳ. Đây là lần thứ 21 buổi lễ được tổ chức tại đây. Buổi lễ sẽ được truyền hình trực tiếp tại Hoa Kỳ bởi đài truyền hình CBS cùng với Paramount+ với thời gian đề cử bắt đầu từ ngày 1 tháng 10 năm 2022 đến ngày 15 tháng 9 năm 2023. Thay đổi. Trong lễ trao giải lần này, Viện Hàn lâm đã thông báo một vài sự thay đổi đối với những hạng mục khác nhau và định chọn đề cử: Lĩnh vực. Tổng số lĩnh vực trên lá phiếu của Grammy sẽ giảm từ 26 xuống còn 11 lĩnh vực (không tính cả Lĩnh vực chung). Viện Hàn lâm giải thích điều này được thực hiện để bảo đảm cho tất cả các cử tri bầu chọn đều có thể thực hiện và bố trí toàn bộ mười phiếu bầu của riêng họ. Cũng vì trước đây, do các lĩnh vực chỉ có mỗi một hạng mục duy nhất khiến cho nhiều cử tri yêu cầu ngăn chặn những lĩnh vực này. Ngoài các phiếu bầu của cử tri trong lĩnh vực chung, các cử tri còn có thể bỏ tối đa thêm 10 phiếu bầu hạng mục thể loại trải rộng trên ba lĩnh vực tối đa. Điều kiện đề cử. Viện Hàn lâm đã từng chỉ định rằng, chỉ có những tác phẩm được tạo ra bởi con người mới có thể đủ điều kiện để được đề cử hoặc đoạt giải Grammy. Một tác phẩm không có quyền tác giả và được làm ra bởi con người sẽ không thể đủ điều kiện trên toàn bộ hạng mục. Nhưng nếu tác phẩm đó có sự trợ giúp từ trí tuệ nhân tạo thì có thể đủ điều kiện và áp dụng trên một số hạng mục nhất định. Tuy nhiên, những yếu tố đó cũng có những giới hạn như: Đề cử và chiến thắng. Lần bỏ phiếu đầu tiên sẽ diễn ra từ ngày 11 tháng 10 đến ngày 20 tháng 10 năm 2023 với các đề cử sẽ được công bố vào ngày 10 tháng 11 năm 2023. Lần bỏ phiếu thứ hai diễn ra từ ngày 14 tháng 12 năm 2023 đến ngày 4 tháng 1 năm 2024 với danh sách tác phẩm và nghệ sĩ được cuộc sẽ được công bố tại Lễ trao giải Grammy.
Trịnh Đan Ny
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811836
Trịnh Đan Ny (giản thể: 郑丹妮, phồn thể: 鄭丹妮, bính âm: "Zhèng Dān Nī"; sinh ngày 26 tháng 1 năm 2001) là một nữ ca sĩ và diễn viên người Trung Quốc trực thuộc công ty giải trí Shanghai STAR48 Culture Media Co., Ltd. Cô là thành viên thế hệ thứ 6 của nhóm nhạc nữ thần tượng SNH48, và là thành viên của Đội NIII thuộc GNZ48. Ngày 18 tháng 1 năm 2016, Trịnh Đan Ny trở thành thực tập sinh thế hệ thứ 6 của SNH48. Ngày 20 tháng 4, cô gia nhập Đội NIII của GNZ48. Ngày 29 tháng 4 cô chính thức ra mắt trên sân khấu biểu diễn. Ngày 29 tháng 7 năm 2017, cô giành được vị trí thứ 45 trong tổng tuyển cử hằng năm của SNH48 GROUP. Ngày 28 tháng 7 năm 2018, cô giành được vị trí thứ 18 tổng tuyển cử hằng năm lằn thứ 5 của SNH48 GROUP. Ngày 27 tháng 7 năm 2019, trong tổng tuyển cử lần thứ 6 của SNH48 GROUP cô giành được vị trí thứ 19 chung cuộc, thấp hơn 1 hạng so với năm ngoái. Sự nghiệp. Ngày 18 tháng 1 năm 2016, Trịnh Đan Ny trở thành thành viên thế hệ thứ 6 của SNH48. Ngày 20 tháng 4, cô gia nhập Đội NIII của GNZ48. Ngày 29 tháng 4, cô tham gia buổi ra mắt "Mặt trời của tôi" và chính thức xuất hiện với tư cách là thành viên của GNZ48. Ngày 30 tháng 7, cô tham gia Vòng chung kết mức độ phổ biến hàng năm của thần tượng "Fly Together" cùng SNH48 và giành vị trí thứ 4 trong GNZ48. Ngày 26 tháng 8, cô tham gia đêm nhạc "Nhạc tình chắp cánh" GNZ48 Dream Set Sail SHOWCASE. Ngày 3 tháng 9, cô tham gia Lễ hội âm nhạc Sydney cùng GNZ48. Ngày 7 tháng 9, cô cùng GNZ48 phát hành đĩa mở rộng đầu tiên "You Don't Know Me". Ngày 12 tháng 9, MV ca khúc chủ đề You Don't Know Me nằm trong đĩa mở rộng cùng tên đã được tung ra. Ngày 5 tháng 11, cô tham gia SNH48 2nd Annual Fashion Awards. Ngày 10 tháng 12, GNZ48 giành được Giải thưởng Nhóm tiên phong mới hàng năm "Danh sách tiên phong âm nhạc" và Giải thưởng Nhóm tiên phong trực tuyến được yêu thích nhất hàng năm. Ngày 7 tháng 1 năm 2017, cô tham gia "Annual Golden Melody Awards BEST 50" lần thứ 3 của SNH48 GROUP và bài hát "Pure Emotion" đã giành được vị trí thứ 17.
Trịnh Đan Ny
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811836
Ngày 20 tháng 1, cô cùng GNZ48 phát hành EP thứ hai "BOOM! BOOM! BOOM!", đồng thời xuất hiện trong MV của bài hát chủ đề "Happy New Year" cho năm mới. Ngày 5 tháng 4, cô phát hành EP kỷ niệm đầu tiên "I.F" cùng với GNZ48, cô đóng vai chính trong MV ca khúc chủ đề "Dấu chân bồ công anh". Ngày 19 tháng 5, cô phát hành EP độc quyền "Summer Pirates" cho tổng tuyển cử lần thứ 4 với SNH48 GROUP, và xuất hiện trong MV của bài hát. Ngày 29 tháng 7, cô tham gia chung kết thường niên lần thứ 4 về độ nổi tiếng của thần tượng "My Heart Soars" của SNH48 GROUP, và giành hạng 45 toàn nhóm và hạng 3 trong GNZ48. Ngày 21 tháng 9, cô cùng GNZ48 phát hành EP thứ 4 "SAY NO", đồng thời đảm nhận vai chính trong MV "Ngốc nghếch". Ngày 27 tháng 10, MV cho đĩa đơn báo cáo "Cậu và tôi trong ký ức" của nhóm ước mơ tổng tuyển cử lần thứ 4 SNH48 tham gia quay phim được phát hành. Ngày 18 tháng 11, cô tham gia Giải thưởng Thời trang Thường niên lần thứ 3 của SNH48 GROUP. Ngày 1 tháng 12, GNZ48 đã giành được giải Nhóm nhạc được yêu thích nhất trên Bảng xếp hạng bài hát tiếng Quảng Đông lần thứ 4. Ngày 9 tháng 12, cô tham gia show thực tế về ẩm thực ngoài trời "Phong Vị", trong chương trình cô đảm nhận vai trò giám khảo nếm thức ăn. Ngày 3 tháng 2 năm 2018, tham gia "Annual Golden Melody Awards BEST 50" lần thứ 4 của SNH48 GROUP với bài hát "Quả chuối ngây ngô" cùng Trần Kha và đã giành vị trí thứ 3. Ngày 8 tháng 5, bộ phim "Ancient detective" do cô tham gia đã được công chiếu. Ngày 17 tháng 5, SNH48 GROUP đã phát hành EP độc quyền "Quy luật rừng xanh" cho tổng tuyển cử lần thứ 5. Ngày 29 tháng 6, MV đĩa đơn "Never Say Never" của GNZ48 được phát hành. Ngày 8 tháng 7, cô tham gia chương trình biểu diễn khởi động "Dream Studio" cho tổng tuyển cử lần thứ 5 của SNH48, và biểu diễn vũ đạo của ca khúc "The Boys". Ngày 28 tháng 7, cô tham gia chung kết "Moving Forward" của SNH48 GROUP về mức độ nổi tiếng hàng năm của nhóm thần tượng lần thứ 5, và giành được hạng 18 trong toàn nhóm và hạng 2 trong GNZ48. Ngày 25 tháng 10, MV báo cáo tổng tuyển cử lần thứ 5 của SNH48 "Chung vô diễm" được phát hành.
Trịnh Đan Ny
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811836
Ngày 27 tháng 10, cô tham gia Giải thưởng Thời trang Thường niên lần thứ 4 của SNH48 GROUP. Ngày 14 tháng 11, cô đến Macau cùng GNZ48 để tham gia lễ trao giải "Global Chinese Golden Melody Awards 2018". Ngày 20 tháng 12, cô phát hành đĩa đơn năm mới "Now and Forever" cùng SNH48 GROUP. Ngày 19 tháng 1 năm 2019, cô tham gia "Annual Golden Melody Awards BEST 50" lần thứ 5 của SNH48 GROUP, cô cùng Trần Kha biểu diễn hai ca khúc "Dấu chân bồ công anh" và "Điệu tango lặng im", hai người giành được vị trí 25 trong nhóm Ngôi Sao và vị trí thứ 2 trong nhóm Hạo Nguyệt, bài hát "Điện thoại thủy tinh của lọ lem" được cô thể hiện cùng Phí Thấm Nguyên giành được hạng 9 trong nhóm Ngôi Sao và bài hát "Không buông tay" trình diễn cùng Đội NIII của GNZ48 giành được vị trí 2 trong nhóm Ngôi Sao. Ngày 29 tháng 4, MV đĩa đơn kỷ niệm 3 năm thành lập GNZ48 "HERO" được phát hành. Ngày 24 tháng 5, MV của đĩa đơn mùa hè "Giấc mơ mùa hè năm ấy" của SNH48 được phát hành. Ngày 27 tháng 7, cô tham gia tổng tuyển cử lần thứ 6 của SNH48 GROUP "Hành trình mới", cô giành được vị trí thứ 19 toàn nhóm và vị trí thứ 5 trong GNZ48. Ngày 22 tháng 10, MV đĩa đơn bào cáo "Brave or not" của nhóm Cao Phi trong lần tổng tuyển cử thứ 6 của SNH48 được phát hành. Ngày 21 tháng 12, cô tham gia "Annual Golden Melody Awards BEST 50" lần thứ 6 của SNH48 GROUP, ca khúc tham dự "Thô tâm nữ hài" giành được vị trí thứ 25 trong nhóm Lưu Huỳnh, và bài hát "Nhất thể đồng tâm" được Trịnh Đan Ny và Trần Kha cùng nhau trình diễn giành được vị trí thứ 4 trong nhóm Vân Khả. Ngày 29 tháng 5 năm 2020, cô cùng 15 thành viên của SNH48 GROUP tham gia chương trình thi đấu giữa các nhóm nhạc "Chúng ta nhiệt huyết". Ngày 15 tháng 6, MV đĩa đơn "Trời trong rồi" cho tổng tuyển cử lần thứ 7 của SNH48 được phát hành. Ngày 15 tháng 8, cô tham gia tổng tuyển cử "Sáng tạo thanh xuân nhiệt huyết" của SNH48 GROUP, cô giành được vị trí thứ 15 toàn nhóm và vị trí thứ 2 trong GNZ48. Ngày 21 tháng 10, bộ phim truyền hình "Như Ý Phương Phi" có sự góp mặt của cô được phát sóng. Ngày 23 tháng 10, MV đĩa đơn "Biệt lai vô dạng" của SNH48 được phát hành.
Trịnh Đan Ny
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811836
Ngày 25 tháng 12, MV đĩa đơn "This Moment of the New Year" hát cùng gia đình Siba được phát hành. Ngày 16 tháng 1 năm 2021, cô tham gia "Annual Golden Melody Awards BEST 50" lần thứ 7 của SNH48 GROUP, ca khúc cô thể "Cuộc gọi nhỡ" cô thể hiện cùng Vương Tiểu Gia đã giành vị trí thứ 25 và bài hát "Ái vị ương" của cô cùng Trần Kha đã giành giải kim khúc hàng năm. Ngày 9 tháng 2, cô cùng GNZ48 tham gia "Gala lễ hội mùa xuân Trùng Khánh 2021", biểu diễn ca khúc "Thanh xuân bất bại". Ngày 7 tháng 8, cô tham gia tổng tuyển cử "48 khả năng của thế giới" của SNH48 GROUP, cô giành được vị trí thứ 17 toàn nhóm và vị trí thứ 5 trong GNZ48. Ngày 8 tháng 1 năm 2022, cô tham gia "Annual Golden Melody Awards BEST 50" lần thứ 8 của SNH48 GROUP, cô cùng Trần Kha trình diễn ca khúc "Look Out (Tần số)", bài hát giành được vị trí thứ 7 trong Danh sách bài hát nổi bật của nhóm Diệu Dương. Ngày 29 tháng 7, đợt đầu tiên của "Hướng Tiền Trùng" được thông báo, Trịnh Đan Ny sẽ tham gia. Ngày 20 tháng 8, trong đợt tổng tuyển cử thứ 9 của SNH48 GROUP cô đã giành được vị trí thứ 6 toàn nhóm. Ngày 15 tháng 1 năm 2023, nhóm của cô đã tham gia "Đêm giao thừa phiêu lưu" của Truyền hình vệ tinh Hà Nam, cả nhóm trình diễn ca khúc "Thực dục tân niên", và điệu nhảy chủ đề năm mới "Thỏ vũ tân niên".