title
stringlengths 1
250
| url
stringlengths 37
44
| text
stringlengths 1
4.81k
|
---|---|---|
Antonio Raimondo
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811840
|
Antonio Raimondo (sinh ngày 18 tháng 3 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Bologna tại Serie A.
Sự nghiệp thi đấu.
Bologna.
Raimondo bắt đầu chơi bóng trước khi gia nhập học viện của Cesena, trước khi chuyển đến Bologna vào năm 2018. Tiền đạo này ký bản hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Bologna vào tháng 12 năm 2020. Sau đó, anh được đôn lên các đội trẻ của họ và ra mắt chuyên nghiệp cho Bologna vào ngày 17 tháng 5 năm 2021, khi vào sân thay người trong trận hòa 2–2 Serie A với Hellas Verona.
Sau một mùa giải nữa với đội U-19, Raimondo xuất phát ngay từ đầu vào ngày 21 tháng 5 năm 2022, thi đấu 75 phút trong trận đấu cuối cùng của mùa giải gặp Genoa, kết thúc với tỷ số 1-0 nghiêng về Bologna. Cùng ngày, huấn luyện viên Siniša Mihajlović đã thông báo rằng tiền đạo này sẽ chính thức được đôn lên đội một bắt đầu từ mùa giải 2022–23, cùng với Wisdom Amey, Riccardo Stivanello và Kacper Urbański.
Quốc tế.
Raimondo là cầu thủ trẻ đại diện cho Ý trên đấu trường quốc tế, đã từng thi đấu cho đội U-18.
Anh có tên trong đội hình tham dự Đại hội thể thao Địa Trung Hải 2022 ở Oran, Algérie. Ghi 6 bàn thắng trong 5 trận đấu, tiền đạo này đóng vai trò trụ cột trong chiến dịch của "Azzurrini", khi Ý giành vị trí á quân sau khi thua 1–0 trước Pháp trong trận chung kết.
|
Josh Wilson-Esbrand
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811842
|
Joshua Darius Kamani Wilson-Esbrand (sinh ngày 26 tháng 12 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh hiện tại đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Reims tại Ligue 1 theo dạng cho mượn từ Manchester City tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh.
Đầu đời.
Joshua Darius Kamani Wilson-Esbrand được sinh ra vào ngày 26 tháng 12 năm 2002 ở Hackney, Đại Luân Đôn.
Sự nghiệp thi đấu.
Manchester City.
Năm 2019, Wilson-Esbrand rời West Ham United để gia nhập học viện của câu lạc bộ Manchester City. Vào ngày 21 tháng 9 năm 2021, anh có tên trong đội hình xuất phát của Manchester City trong chiến thắng 6-1 tại Cúp EFL trước Wycombe Wanderers.
Cho mượn tại Coventry City.
Vào ngày 10 tháng 1 năm 2023, Wilson-Esbrand gia nhập Coventry City theo dạng cho mượn ở phần còn lại của mùa giải 2022–23.
Sự nghiệp quốc tế.
Tháng 11 năm 2019, Wilson-Esbrand đại diện cho đội tuyển U-18 Anh. Vào ngày 11 tháng 11 năm 2021, anh ra mắt quốc tế cho U-20 Anh, trong trận thua 2–0 trước Bồ Đào Nha tại U-20 Elite League 2021–22.
|
Động đất ngoài khơi Fukushima 2013
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811843
|
là trận động đất xảy ra vào lúc 2:10 (theo giờ địa phương), ngày 26 tháng 10 năm 2013. Trận động đất có cường độ 7.1 richter, tâm chấn ở độ sâu 56 km ngoài khơi tỉnh Fukushima. Ngay sau khi động đất xảy ra, cơ quan Khí tượng Nhật Bản đã phát cảnh báo sóng thần tại bờ biển Tōhoku giáp Thái Bình Dương và các tỉnh Ibaraki, Chiba. Hậu quả trận động đất chỉ làm 1 người bị thương, không có thiệt hại lớn nào xảy ra.
|
Marek Zub
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811844
|
Marek Zub (sinh ngày 24 tháng 8 năm 1964) là một huấn luyện viên bóng đá và cựu cầu thủ người Ba Lan, hiện đang là huấn luyện viên của Stal Rzeszów.
Danh hiệu.
Huấn luyện viên.
Žalgiris Vilnius
Cá nhân
|
Joshua Zirkzee
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811859
|
Joshua Orobosa Zirkzee (sinh ngày 22 tháng 5 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hà Lan hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Bologna tại Serie A.
Sự nghiệp thi đấu.
Đầu sự nghiệp.
Sinh ra ở Schiedam với mẹ là người Nigeria và cha là người Hà Lan, Zirkzee bắt đầu sự nghiệp bóng đá của mình khi mới 5 tuổi ở câu lạc bộ VV Hekelingen sau khi gia đình chuyển đến Spijkenisse. Sau khi gây ấn tượng từ rất sớm, anh chuyển đến đội trẻ của Spartaan '20 vào năm 2010, nơi anh thi đấu cùng với anh họ của mình, Nelson Amadin. Sau đó, anh rời ADO Den Haag vào năm 2013, trước khi gia nhập học viện đào tạo trẻ Feyenoord vào năm 2016. Một năm sau, Zirkzee rời học viện Feyenoord ở quê hương Hà Lan để gia nhập đội trẻ của Bayern Munich.
Bayern Munich.
Vào ngày 1 tháng 3 năm 2019, Zirkzee đã lập một cú hat-trick trong trận ra mắt cho Bayern Munich II. Chỉ một ngày sau, anh ghi bàn thắng ấn định chiến thắng cho đội U-19 khi họ đánh bại 1. FC Nürnberg với tỷ số 2–1. Zirkzee ra mắt chuyên nghiệp ở 3. Liga cho Bayern Munich II vào ngày 20 tháng 7 năm 2019, vào sân thay người ở phút thứ 74 cho Oliver Batista Meier trong trận đấu trên sân khách gặp Würzburger Kickers.
Vào ngày 11 tháng 12 năm 2019, Zirkzee ra mắt cho đội một trước Tottenham Hotspur trong trận đấu cuối cùng ở vòng bảng của UEFA Champions League. Sau đó, anh ra mắt tại giải Bundesliga vào ngày 18 tháng 12, vào sân thay người ở phút 90 trong trận đấu gặp Freiburg khi tỷ số đang là 1–1; anh đã ghi bàn thắng quý hơn vàng cho đội bóng, nâng tỷ số lên 2–1, để rồi Serge Gnabry ấn định chiến thắng 3–1 cho đội nhà. Hai ngày sau, anh lại vào sân từ băng ghế dự bị ở những phút cuối cùng của trận đấu và ghi bàn thắng mở tỷ số trong chiến thắng 2-0 trước Wolfsburg. Vào ngày 13 tháng 6 năm 2020, Zirkzee ghi bàn mở tỷ số trong chiến thắng 2-1 của Bayern Munich trước Borussia Mönchengladbach. Anh đã kết thúc mùa giải đầu tiên của mình với một cú ăn 3.
Cho mượn tại Parma.
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2021, Zirkzee chuyển đến Parma theo dạng cho mượn. Thỏa thuận bao gồm một tùy chọn để mua.
|
Joshua Zirkzee
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811859
|
Vào ngày 2 tháng 4 năm 2021, anh ấy bị chấn thương dây chằng chéo sợi và sự cho mượn của anh bị giới hạn trong 4 lần ra sân, tất cả đều là vào sân từ ghế dự bị.
Cho mượn tại Anderlecht.
Vào ngày 3 tháng 8 năm 2021, Anderlecht thông báo việc ký hợp đồng với Zirkzee theo dạng cho mượn kéo dài một mùa giải từ Bayern Munich.
Bologna.
Vào ngày 30 tháng 8 năm 2022, Zirkzee chuyển tới câu lạc bộ Bologna tại Serie A.
Sự nghiệp quốc tế.
Sinh ra tại Hà Lan với bố là người Hà Lan và mẹ là người Nigeria, Zirkzee là cầu thủ trẻ của Hà Lan.
Danh hiệu.
Bayern Munich II
Bayern Munich
|
Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811862
|
Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông (tiếng Anh: "Ha Dong Medical College" - viết tắt HDMC) là cơ sở giáo dục công lập của Nhà nước, trực thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, được thành lập năm 1960. Trường đào tạo các chuyên ngành về Y - Dược. Trường hiện nay có 1 cơ sở duy nhất được đặt tại Số 39 phố Nguyễn Viết Xuân, phường Quang Trung, quận Hà Đông, Hà Nội.
Lịch sử.
Tiền thân của Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông là "Trường Y sỹ Hà Đông" được thành lập ngày 26/10/1960.
Sau nhiều lần thay đổi tên gọi do sự sát nhập và phân tách của các tỉnh cũ và thành phố Hà Nội, năm 2008 trường được mang tên Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông cho đến ngày nay.
Bộ máy tổ chức.
Hiêụ trưởng trường hiện nay là Tiến sĩ Nguyễn Đăng Trường, được UBND Thành phố Hà Nội bổ nhiệm vào 21/8/2017
Trường có 10 bộ môn, 6 phòng chức năng và 3 trung tâm:
Khen thưởng.
Trường đã được nhận được nhiều phần thưởng:
Ngoài ra, về các lĩnh vực chuyên đề khác, nhà trường cũng được tặng nhiều Giấy khen, Bằng khen của các cấp, các ngành.
|
Federico Ravaglia
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811864
|
Federico Ravaglia (sinh ngày 11 tháng 11 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Bologna tại Serie A.
Sự nghiệp thi đấu.
Bologna.
Anh trưởng thành ở lò đào tạo trẻ Bologna và bắt đầu chơi cho đội U-19 của họ trong mùa giải 2016–17.
Trong các mùa giải 2016–17 và 2017–18, anh có tên trên băng ghế dự bị trong các trận Serie A 40 lần, nhưng không được ra sân lần nào.
Trong mùa giải 2020–21, anh trở thành thủ môn thứ 2 của Bologna (sau Łukasz Skorupski) trong mùa giải, và anh ấy cũng có trận ra mắt câu lạc bộ ở Serie A vào ngày 13 tháng 12 năm 2020, trong trận thua 1–5 trận thua trên sân nhà trước Roma.
Cho mượn tại Südtirol.
Vào ngày 10 tháng 7 năm 2018, anh gia nhập câu lạc bộ Südtirol theo dạng cho mượn kéo dài một mùa giải tại Serie C.
Anh ra mắt chuyên nghiệp tại Serie C cho Südtirol vào ngày 5 tháng 5 năm 2019 trong trận đấu với Monza. Anh đã thay thế cho Michele Nardi trong hiệp một. Đó vẫn là lần ra sân duy nhất của anh cho Südtirol khi liên tục ngồi dự bị trong phần còn lại của mùa giải.
Cho mượn tại Gubbio.
Ngày 23 tháng 7 năm 2019, anh được đem cho mượn tại câu lạc bộ Gubbio tại Serie C.
Anh ấy xuất hiện lần đầu trong đội hình xuất phát của Gubbio vào ngày 25 tháng 8 năm 2019 trong trận thua 2-1 trước Triestina tại Serie C.
Cho mượn tại Frosinone.
Vào ngày 17 tháng 7 năm 2021, anh gia nhập câu lạc bộ Frosinone tại Serie B theo dạng cho mượn.
Cho mượn tại Reggina.
Ngày 21 tháng 7 năm 2022, Ravaglia gia nhập câu lạc bộ Reggina dưới dạng cho mượn, nhưng nó đã chấm dứt sớm vào tháng 1 năm 2023 sau khi Nicola Bagnolini dính chấn thương dài hạn và Bologna cần một thủ môn thứ 3.
|
Elena Rybakina
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811867
|
Elena Andreyevna Rybakina (sinh ngày 17 tháng 6 năm 1999) là một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Kazakhstan gốc Nga. Cô là tay vợt Kazakhstan đầu tiên vô địch Grand Slam (tại Wimbledon 2022). Cô có thứ hạng đánh đơn cao nhất là vị trí số 3 thế giới trên bảng xếp hạng của Hiệp hội Quần vợt Nữ (WTA). Rybakina cũng đã vào 13 trận chung kết tại các giải đấu khác ở WTA Tour, giành bốn danh hiệu, trong đó có hai danh hiệu WTA 1000 tại Indian Wells Open 2023 và Internazionali BNL d'Italia 2023.
|
Al Fateh SC
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811868
|
Câu lạc bộ thể thao Al Fateh () là một câu lạc bộ thể thao đa năng có trụ sở tại Al-Mubarraz, Al-Hasa, Ả Rập Xê Út. Câu lạc bộ chủ yếu được biết đến với bộ môn bóng đá.
Danh hiệu.
Liên đoàn.
Saudi Professional League (Cấp độ 1)
Saudi First Division (Cấp độ 2)
Second Division (Cấp độ 3)
Cúp.
Saudi Super Cup
|
Thạch Bao
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811870
|
Thạch Bao (chữ Hán: 朱异, 195 – 273) là tướng lãnh nhà Tào Ngụy thời Tam quốc , khai quốc công thần nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc.
Khởi nghiệp.
Bao tự Trọng Dung, người huyện Nam Bì, quận Bột Hải . Bao tính phóng khoáng, mưu trí, độ lượng, không coi trọng tiểu tiết; có dung mạo khôi ngô, đẹp đẽ, nên người đương thời nói: “Thạch Trọng Dung, đẹp vô song.”
Bao được huyện triệu làm lại, giữ chức Cấp nông tư mã. Năm Kiến An thứ 23 (218), yết giả Quách Huyền Tín chịu liên lụy cuộc nổi loạn của Cát Bản, phải quay về Nghiệp Thành, muốn tìm người đánh xe, Điển nông tư mã bèn lấy Bao và Tương Thành điển nông bộ dân Đặng Ngải giao cho ông ta. Đi hơn 10 dặm, Huyền Tín cùng họ trò chuyện, lấy làm hài lòng, nói: “Các anh về sau đều làm đến khanh tướng.” Bao đáp: “Bọn tôi là tôi tớ mà thôi, sao làm được khanh tướng.”
Về sau Bao lại được vời đến Nghiệp, nhưng mãi chưa được bổ nhiệm, bèn bán sắt ở chợ Nghiệp. Trưởng chợ là Triệu Nguyên Nho, người nước Bái, có tiếng biết nhìn người, gặp Bao, lấy làm lạ, cùng ông kết giao. Nguyên Nho khen Bao chí hướng cao xa, sẽ làm đến tam công, nhờ vậy mà ông nổi tiếng. Bao gặp Lại bộ lang Hứa Doãn, xin nắm huyện nhỏ. Doãn nói với Bao rằng: “Anh cùng một bực người với tôi, sẽ được tôi tiến dẫn lên triều đình, sao lại đến cái huyện nhỏ vậy?” Bao trở về than thở, không ngờ Doãn cũng là tri kỷ của mình.
Bao dần được thăng làm Tư mã dưới quyền Trung hộ quân Tư Mã Sư. Tư Mã Ý nghe việc Bao hiếu sắc chơi bời, bèn cảnh báo Sư, Sư cho rằng Bao tuy phẩm hạnh có chút khiếm khuyết nhưng lại có tài kinh bang tế thế, Ý mới thôi. Sau đó Bao được dời làm Nghiệp (huyện) Điển nông trung lang tướng. Bấy giờ quý tộc nhà Ngụy phần nhiều cư trú ở Nghiệp, thượng thư Đinh Mật cùng cánh với Tào Sảng, quyền thế khuynh đảo trong ngoài triều đình. Bao dâng tấu kể tội Mật, do vậy lại càng nổi tiếng.
|
Thạch Bao
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811870
|
Tiếp đó Bao được dời làm Đông Lai, Lang Da thái thú, ở chức đều có thành tích; rồi được thăng làm Từ Châu thứ sử.
Thời Tào Ngụy.
Bao theo Tư Mã Chiêu đánh Đông Ngô, thua trận Đông quan (252), chỉ có ông bảo toàn được cánh quân của mình mà về. Chiêu trỏ cây cờ tiết của mình mà nói với Bao: “Hận không đem thứ này trao cho anh, để tính việc lớn.” rồi thăng Bao làm Phấn vũ tướng quân, Giả tiết, Giám Thanh Châu chư quân sự. Khi Gia Cát Đản nổi dậy ở Hoài Nam (257), Bao thống lãnh các cánh quân Thanh Châu, chỉ huy Duyện Châu thứ sử Châu Thái, Từ Châu thứ sử Hồ Chất, chọn binh sĩ tinh nhuệ tổ chức cánh quân lưu động, đề phòng bị Đông Ngô. Tướng Ngô là bọn Chu Dị, Đinh Phụng đến giúp Đản, nên bọn Đản bỏ quân nhu ở lại Đô Lục, trang bị gọn nhẹ vượt sông Lê. Bọn Bao quay về đánh trả, đại phá phản quân. Thái Sơn thái thú Hồ Liệt đem kỳ binh theo đường nhỏ tập kích Đô Lục, thiêu hủy xe cộ của địch. Quân Ngô phải lui, cuộc nổi dậy của Gia Cát Đản bị dẹp, triều đình bái Bao làm Trấn đông tướng quân, phong tước Đông Quang hầu, Giả tiết.
Ít lâu sau, Bao được thay Vương Cơ làm Đô đốc Dương Châu chư quân sự. Bao nhân đó vào chầu, sắp trở về, bèn từ biệt Ngụy đế Tào Mao, được giữ lại trò chuyện cả ngày. Bao ra ngoài, nói với Tư Mã Chiêu rằng: “Bậc chúa phi thường đấy.” Vài ngày sau, Tào Mao dấy binh và bị giết; còn Bao được tiến vị Chinh đông đại tướng quân, tiếp đó thăng vị Phiếu kỵ tướng quân.
Tư Mã Chiêu mất, Giả Sung, Tuân Úc bàn về nghi lễ chưa xong; Bao về chịu tang, đề nghị dùng nghi lễ vượt mức dành cho bề tôi, nhờ vậy nghi lễ được xác định. Sau đó Bao cùng Trần Khiên nhiều lần nói khí số của nhà Tào Ngụy đã hết, mệnh trời đã thuộc về họ Tư Mã. Vì thế Bao ra sức tham dự vào việc ép Tào Ngụy Nguyên đế nhường ngôi (265). Tấn Vũ đế lên ngôi, Bao được thăng làm Đại tư mã, phong tước Nhạc Lăng quận công, gia chức Thị trung, các bộ nhạc Vũ bảo, Cổ xuy.
Thời Tây Tấn.
|
Thạch Bao
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811870
|
Thời Tây Tấn.
Sau khi đánh dẹp Gia Cát Đản, Bao được trấn thủ vùng Hoài Nam, nắm giữ quân đội hùng mạnh. Vùng biên nhiều việc, Bao siêng năng coi sóc, dùng oai đức để khuất phục mọi người. Hoài Bắc giám quân Vương Sâm xem thường xuất thân hàn vi của Bao, dựa vào câu đồng dao: “Trong cung (có) ngựa lớn sắp làm lừa, đá lớn ép nó không thoải mái.” mà dâng mật biểu nói Bao tư thông với Đông Ngô. Trước đó có lời tiên đoán “đông nam có đại binh dấy lên”, nay biểu của Sâm đến, Tấn Vũ đế nghi ngờ lắm. Bấy giờ Kinh Châu thứ sử Hồ Liệt dâng biểu nói người Ngô muốn đưa đại binh vào cướp, Bao cũng nghe tin quân Ngô sắp xâm phạm, bèn đắp lũy ngăn sông để tự giữ. Đế nghe nói, bảo với Dương Hỗ rằng: “Người Ngô mỗi khi đến, luôn có đông – tây (chỉ Tây Thục) hỗ trợ lẫn nhau, lần này vô cớ đơn độc hành động, há chẳng phải Bao có lòng bất thuận à?” Hỗ hết sức giải thích, mà đế vẫn còn ngờ vực. Gặp lúc con của Bao là Thạch Kiều đang giữ chức Thượng thư lang, được đế triệu mà vài ngày vẫn chưa đến. Đế cho rằng Bao ắt phản, muốn đánh dẹp ông nhưng vẫn giữ kín ý định này. Triều đình bèn hạ chiếu cho rằng Bao không liệu tình thế của địch, đắp lũy ngăn sông, vất vả trăm họ, ra sách miễn quan của ông. Triều đình sai Thái úy, Nghĩa Dương vương Tư Mã Vọng soái đại quân đi đón Bao, để phòng việc bất thường; lại sắc cho Trấn đông tướng quân, Lang Da vương Tư Mã Trụ từ Hạ Bi dời đến Thọ Xuân. Bao theo kế của viên Duyện là Tôn Thước, rời khỏi quân đội, đi đến Đô Đình để chịu tội. Đế nghe tin, có ý nguôi. Khi Bao vào chầu, được giữ tước công mà quay về phủ đệ. Bao tỏ ra xấu hổ vì không xứng chức, chứ không hề oán trách.
Bấy giờ Nghiệp hề quan đốc Quách Dị dâng thư nói lý cho Bao, đế lấy làm phải, chọn ông làm Tư đồ. Hữu tư phản đối, đế giáng chiếu bác bỏ, vẫn cho Bao giữ chức Tư đồ. Bao ở chức trung thành, siêng năng, được đế rất tín nhiệm.
Hậu sự.
|
Thạch Bao
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811870
|
Hậu sự.
Ngày quý tị tháng 2 ÂL năm Thái Thủy thứ 9 (30/3/273), Bao mất. Đế cử hành nghi lễ ai điệu ở triều đường, ban quan tài, một bộ triều phục, một bộ quần áo, 30 vạn tiền, trăm xúc vải. Khi chôn, đội nghi trượng có các loại cờ tiết, tràng, huy, lọng cán cong, xe Truy phong, bộ nhạc Cổ xuy, còn có giáp sĩ, xe lớn, đều giống như nghi lễ dành cho Tư không Trần Thái nhà Tào Ngụy; xa giá đưa tiễn ở cửa Đông Dịch; thụy hiệu là Vũ.
Bao di ngôn an táng đơn giản, các con đều tuân theo, còn không cho thân thích, thuộc cấp cũ đến viếng.
Năm Hàm Ninh đầu tiên (275), triều đình giáng chiếu liệt Bao vào nhóm vương công được cúng tế.
Hậu nhân.
Bao có 6 con trai: Việt, Kiều, Thống, Tuấn (浚), Tuấn (儁), Sùng. Thống được kế tự, Sùng là người nổi tiếng nhất.
|
Al-Hazem F.C.
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811871
|
Al-Hazem SC (còn được gọi là Alhazem; ) là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Ar Rass. Được thành lập vào năm 1957, đội bóng hiện thi đấu tại Saudi Professional League, cấp độ cao nhất của bóng đá Ả Rập Xê Út.
Danh hiệu.
Saudi First Division/MS League
Saudi Second Division
Saudi Third Division
Al-Qassim Regional League
Đội hình.
"Kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2021:"
|
War Pigs
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811880
|
"War Pigs" là một bài hát tẩy chay phản chiến của ban nhạc heavy metal người Anh Black Sabbath, được phát hành năm 1970. Đây là bài mở đầu album phòng thu thứ hai của ban nhạc mang tên "Paranoid" (1970).
Tổng quan.
Tựa gốc của "War Pigs" là "Walpurgis", ám chỉ ngày tụ họp của phù thủy. "Walpurgis như kiểu Giáng Sinh của tín đồ Satan vậy. Và với tôi, chiến tranh là Satan cỡ bự", tay bass kiêm viết lời Geezer Butler chia sẻ. "Nó [bài hát] không phải là về chính trị hay chính phủ hay bất cứ gì khác. Chính nó là ác quỷ. Vì vậy, tôi nói 'generals gathered in the masses/just like witches at black masses' nhằm thể hiện sự tương đồng. Nhưng khi chúng tôi đưa nó đến công ty thu âm, họ nghĩ rằng 'Walpurgis' nghe quá Satan. Và đó là khi chúng tôi đổi tên bài thành 'War Pigs'. Nhưng chúng tôi không đổi lời bài hát, bởi vì chúng vốn đã xong rồi."
Trong khoảng thời gian này, nghĩa vụ quân sự bắt buộc vừa mới kết thúc ở Anh song với việc chiến tranh Việt Nam đang leo thang, nhiều thanh niên lo sợ rằng họ sẽ bị bắt nhập ngũ để chiến đấu. Butler kể: “Đó là cái khởi đầu toàn bộ cuộc nổi loạn này về việc đi chiến đấu chẳng vì ai cả... Tôi rất sợ bị réo tên."
Trước khi phát hành chính thức, ban nhạc thường thay đổi đáng kể lời bài hát khi trình bày trực tiếp. Một ví dụ có thể thấy nằm ở đĩa tuyển tập "The Ozzman Cometh" của Ozzy Osbourne, trong đó chứa bản đầu tiên mà Black Sabbath thu âm cho BBC Radio 1 vào ngày 26 tháng 4 năm 1970. Trong khi Butler kể rằng "War Pigs" "hoàn toàn chống chiến tranh Việt Nam, về cách mà những người giàu và chính khách giàu có này khởi động mọi cuộc chiến tranh vì lợi ích của họ và làm người nghèo chết vì họ", còn giọng ca Osbourne lại phát biểu rằng nhóm "chẳng biết biết gì về Việt Nam. Nó chỉ là một bài hát phản chiến thôi." Đoạn kết bài phối khí không lời của bài hát có tên "Luke's Wall" trong các bản album phát hành tại Hoa Kỳ, được đổi thành "War Pigs/Luke's Wall".
Kỷ niệm đầu tiên của tay trống Bill Ward khi biểu diễn bài hát là tại The Beat Club ở Thụy Sĩ vào năm 1968.
|
War Pigs
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811880
|
Ban nhạc được yêu cầu diễn nhiều tiết mục mỗi đêm và có rất ít tác phẩm trong tiết mục của họ lúc ấy, vì vậy nhóm thể hiện các những màn chơi nhạc ngẫu hứng dài để lấp đầy các tiết mục. Đồng tác giả và nghệ sĩ lead guitar Tony Iommi kể rằng "War Pigs" bắt nguồn từ một trong những buổi chơi nhạc ngẫu hứng ấy.
Việc bổ sung còi báo động không kích và tăng tốc phần kết bài hát do nhà sản xuất Rodger Bain và kỹ sư Tom Allom thực hiện. Ban nhạc không có ý kiến gì trong những quyết định này, mặc dù họ hài lòng với kết quả đạt được.
Di sản.
Nhà báo âm nhạc Martin Popoff đã mệnh danh bài hát là một "nhạc phẩm kinh điển về phản chiến, xấu xí giờ đây được xem là một trong hai hoặc ba sáng tác trường tồn nhất của Sabbath". "Guitar World" thì mô tả ca khúc là "bài hát heavy metal hay nhất từ trước đến nay." Tạp chí còn đưa bài hát vào danh sách "100 khúc solo guitar hay nhất" và xếp bài ở vị trí thứ 56. Steve Huey của AllMusic ví bài hát là một "tiêu chuẩn".
Kelefa Sanneh đã viết, "Điều đáng nhớ là cách mà Osbourne gợi lên không chỉ cái giá của chiến tranh mà cả sức hấp dẫn quyến rũ của nó. Một phần làm Black Sabbath có vẻ mới mẻ là nỗi chán ghét gây phấn chấn, gieo hy vọng hoặc tự cho mình là đúng."
"War Pigs" được nhiều người xem là một trong những bài hát hay nhất của Black Sabbath. Năm 2020, "Kerrang" xếp ca khúc ở vị trí thứ 4 trong danh sách 20 bài hát hay nhất của Black Sabbath, và vào năm 2021, "Louder Sound" lại xếp bài hát ở vị trí số một trong danh sách 40 bài hát hay nhất của Black Sabbath do họ bầu ra.
"War Pigs" được trang liệt là bài hát hay nhất của Black Sabbath.
Ca khúc còn gây chú ý khi được đăng trên tạp chí âm nhạc dân gian Mỹ "Broadside", ấn phẩm thường không nhắc đến các bài hát rock.
Khúc guitar riff trứ danh của ca khúc đã truyền cảm hứng cho đĩa đơn "Arabella" năm 2014 của Arctic Monkeys, đến mức ban nhạc thường biểu diễn một đoạn nhạc dạo đầu của bài hát, để cho phép giọng ca chính Alex Turner lấy cây guitar của mình đúng lúc anh chơi phần solo.
"War Pigs" là một trong 40 bài hát có mặt trong loạt Music Monday của Newseum, vì thế thành một phần của triển lãm "Reporting Vietnam" nhằm thể hiện phản ánh âm nhạc chính của thời đại.
|
Sông Cái Bé
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811883
|
Sông Cái Bé là một con sông tại tỉnh Kiên Giang.
Sông bắt nguồn từ xã Hòa Hưng, Giồng Riềng, chảy ngoằn ngoèo và đổ ra vịnh Rạch Giá.
Sông có chiều dài khoảng 80 km, lòng sông rộng từ 100 m đến 200 m, sâu từ 6 đến 15 m. Sông chảy qua các huyện Châu Thành, Gò Quao và huyện Giồng Riềng.
Chế độ dòng chảy của sông vào mùa mưa phụ thuộc vào lượng mưa tại chỗ và một phần nước sông Hậu cung cấp qua các kênh Thốt Nốt, Ô Môn, Thác Lác. Vào mùa khô, sông Cái Bé có phần từ Long Thạnh ra biển bị nhiễm mặn. Hai bên sông có 15 nhánh lớn nhỏ là các kênh nối với sông Cái Lớn và nối với sông Hậu (Cái Nhum, Tổng Quản, Giồng Riềng, Thác Lác, Chưng Bầu, Thốt Nốt, Thị Đội, Cái Đước, Tà Niên...).
|
Berber, Sudan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811885
|
Berber () là một thị trấn ở bang Sông Nin miền bắc Sudan, cách Atbara 50 kilômét (31 mi) về phía bắc, gần ngã ba sông Atbara và sông Nin.
Lịch sử.
Thị trấn là điểm khởi đầu của tuyến đường caravan cũ băng qua sa mạc Nubia đến Biển Đỏ tại Suakin. Một đoạn Đường sắt quân sự Sudan đến Suakin từ một ngã ba gần sông Atbara được khánh thành tại đây năm 1906.
Nhà thám hiểm người Anh Samuel Baker đi qua Berber khi khám phá ra hồ Albert Nyanza vào năm 1861.
Khí hậu.
Berber có khí hậu sa mạc nóng (phân loại khí hậu Köppen "BWh").
|
Hội đồng Khảo thí tiếng Anh Đại học Cambridge
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811890
|
<ns>0</ns>
<revision>
<parentid>70391702</parentid>
<timestamp>2023-06-30T08:15:06Z</timestamp>
<contributor>
<username>SongVĩ.Bot II</username>
</contributor>
<comment>: Sửa lỗi chung (GeneralFixes1) (#TASK3QUEUE)</comment>
<model>wikitext</model>
<format>text/x-wiki</format>
Hội đồng Khảo thí tiếng Anh Đại học Cambridge (tiếng Anh: "Cambridge Assessment English") hoặc Cambridge English là tổ chức phát triển và sản xuất Cambridge English Qualifications và International English Language Testing System (IELTS). Tổ chức này đã đóng góp vào việc phát triển Khung tham chiếu trình độ ngôn ngữ chung của Châu Âu (CEFR), tiêu chuẩn được sử dụng toàn cầu để đánh giá kỹ năng ngôn ngữ và các chứng chỉ cũng như bài kiểm tra của họ được điều chỉnh phù hợp với các cấp độ CEFR.
Cambridge Assessment English là một phần của Cambridge Assessment, một phòng ban không liên quan đến giảng dạy của Đại học Cambridge. Vào tháng 8 năm 2021, Cambridge Assessment đã hợp nhất với Cambridge University Press để thành lập Cambridge University Press & Assessment.
Các chứng chỉ / kỳ thi Cambridge English hiện tại.
Mỗi Cambridge English Qualifications ttập trung vào một cấp độ của Khung tham chiếu chung Châu Âu (CEFR).
Trường học.
Các chứng chỉ tiếng Anh này nhằm giúp cho học sinh trong độ tuổi học tập và thanh thiếu niên nâng cao kỹ năng tiếng Anh.
Giáo dục phổ thông và giáo dục đại học.
Những chứng chỉ này được thiết kế cho người học trưởng thành. A2 Key, B1 Preliminary và B2 First có cùng định dạng Bài kiểm tra (ví dụ: số lượng bài thi, số lượng câu hỏi, thời gian cho phép) như các phiên bản dành cho trường học của những chứng chỉ này, nhưng sử dụng các chủ đề và nội dung khác phù hợp với người học trưởng thành.
Kinh doanh.
Những chứng chỉ này được thiết kế cho người học trưởng thành đang học tiếng Anh để sử dụng trong ngữ cảnh kinh doanh.
Bài kiểm tra đa cấp.
Bài kiểm tra đa cấp được sử dụng để tìm ra chương trình học tiếng Anh hoặc kỳ thi nào phù hợp với học sinh. Những bài kiểm tra này bao gồm nhiều cấp độ của CEFR trong một bài kiểm tra.
Cambridge Exams Publishing, một liên doanh với Cambridge University Press, sản xuất tài nguyên và tài liệu IELTS mang thương hiệu Cambridge để giúp người học chuẩn bị và luyện tập cho kỳ thi của họ.
Giảng dạy.
Chứng chỉ và khóa học dành cho giáo viên ở tất cả các cấp độ kinh nghiệm.
|
Chợ Gạo (định hướng)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811893
|
Chợ Gạo trong tiếng Việt có thể là
|
Nghị quyết 690 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811911
|
Nghị quyết 690 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc được nhất trí thông qua vào ngày 29 tháng 4 năm 1991. Sau khi nhắc lại các nghị quyết 621 (1988) và 658 (1990) và ghi nhận báo cáo của Tổng Thư ký về tình hình ở Tây Sahara, Hội đồng Bảo an đã thông qua báo cáo và quyết định thành lập Phái bộ Trưng cầu dân ý của Liên Hợp Quốc tại Tây Sahara (MINURSO) theo khuyến nghị của Tổng Thư ký. Nhiệm vụ của phái bộ là thực hiện Kế hoạch Định cư cho một cuộc trưng cầu dân ý về quyền tự quyết của người dân Tây Sahara.
Hội đồng kêu gọi Maroc và Mặt trận Polisario hợp tác với Tổng Thư ký và Phái đoàn, bày tỏ sự ủng hộ hoàn toàn đối với ông và Tổ chức châu Phi Thống nhất vì những nỗ lực của họ. Cơ quan cũng quyết định rằng giai đoạn chuyển tiếp sẽ bắt đầu sau tối đa 16 tuần kể từ khi Đại Hội đồng thông qua ngân sách của MINURSO. Tháng 5 năm 1991, Đại hội đồng thông qua ngân sách của phái bộ.
Lệnh ngừng bắn có hiệu lực vào ngày 6 tháng 9 năm 1991 và MINURSO được triển khai sau đó.
|
Đánh giá năng lực
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811912
|
Đánh giá năng lực (ĐGNL) là tên gọi chung cho một vài kỳ thi tuyển sinh sớm tại Việt Nam do các đại học và trường đại học tự tổ chức.
Kỳ thi này được coi là một bài kiểm tra cơ bản để đánh giá năng lực của thí sinh một cách toàn diện hơn Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông. Nội dung bài thi đánh giá năng lực thường tích hợp những kiến thức và tư duy, dưới hình thức cung cấp số liệu và dữ liệu cũng như các công thức cơ bản. Qua đó, đánh giá được những khả năng suy luận và giải quyết vấn đề của thi sinh.
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Bài thi ĐGNL học sinh trung học phổ thông (HSA; ) bắt đầu được Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức vào năm 2015, sau đó tiếp tục tổ chức vào năm 2016 và ngưng tổ chức kể từ năm 2017. Năm 2021, kỳ thi được tổ chức trở lại với nhiều thay đổi so với năm 2015, tiếp cập theo hướng phi truyền thống nhằm đánh giá toàn diện năng lực học sinh chứ không đơn thuần phục vụ cho tuyển sinh đại học. Bài thi ĐGNL mỗi năm tổ chức 10 đợt thi, mỗi thí sinh chỉ được đăng ký dự thi tối đa 2 đợt, trừ năm 2021 vì ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 mà kỳ thi chỉ tổ chức được một nửa số đợt.
Hình thức.
Thí sinh làm bài thi trên máy tính, câu hỏi dưới dạng trắc nghiệm khách quan (lựa chọn một trong bốn đáp án) và điền đáp án. Tổng thời gian làm bài là 195 phút, thang điểm 150.
Theo Đại học Quốc gia Hà Nội, đề thi được rà soát từ hơn 12.000 câu hỏi của ngân hàng đề thi đánh giá năng lực năm 2016 để lựa chọn những câu phù hợp với ba nhóm năng lực nêu trên, kết hợp với hơn 3.500 câu hỏi được xây dựng trong giai đoạn 2017-2020, đảm bảo tính toàn diện của kỳ thi, cân bằng độ khó của từng đề.
Tranh cãi.
Ngày 26 tháng 4 năm 2023, một tài khoản mạng xã hội đã đăng tải bài viết về việc đề thi phần Tư duy định tính của bài thi ĐGNL có sự trùng lặp giữa các đợt, thậm chí chỉ thay đổi khoảng 30% số câu. Về vấn đề này, đại diện của Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng khả năng lặp lại đề thi, đặc biệt là lặp đến 30% là điều không không thể xảy ra và không có căn cứ để phán đoán, chưa nói đến việc vội vã kết luận.
|
Đánh giá năng lực
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811912
|
Danh sách đơn vị tuyển sinh sử dụng kết quả kỳ thi.
Danh sách 70 trường đại học và học viện sử dụng kết quả thi ĐGNL của Đại học Quốc gia Hà Nội để xét tuyển năm 2023:
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Kỳ thi Đánh giá năng lực bắt đầu được Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức vào năm 2018. Kỳ thi ĐGNL tổ chức tại nhiều cụm ở các tỉnh thành khác nhau, tạo điều kiện cho thí sinh ở nhiều địa phương tham dự. Một năm có 2 đợt thi ĐGNL được tổ chức, trừ năm 2020 vì những ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 tại Việt Nam mà kỳ thi chỉ tổ chức một đợt duy nhất.
Hình thức.
Thí sinh sẽ làm bài thi trên giấy với 120 câu hỏi trắc nghiệm trong 150 phút. Bài thi hướng đến đánh giá năng lực cơ bản để học đại học của thí sinh gồm: sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Anh; toán, suy luận logic và xử lý số liệu; giải quyết vấn đề liên quan lĩnh vực hóa, lý, sinh, địa, lịch sử, chính trị và xã hội. Đa phần các câu hỏi được xây dựng theo hướng cung cấp số liệu dữ kiện và kiến thức cơ bản để đánh giá mức độ vận dụng, phân tích của người học. Tuy nhiên, điểm của từng câu hỏi sẽ có trọng số khác nhau tùy thuộc vào độ khó và độ phân biệt của câu hỏi.
Danh sách đơn vị tuyển sinh sử dụng kết quả kỳ thi.
Danh sách 92 trường đại học, học viện và cao đẳng sử dụng kết quả thi ĐGNL của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh để xét tuyển năm 2023:
Bộ Công an.
Bài thi đánh giá tuyển sinh đại học Công an nhân dân bắt đầu được Bộ Công an tổ chức từ năm 2022 với mục đích lấy kết quả tuyển sinh vào các trường đại học, học viện công an nhân dân, sau 7 năm không tổ chức thi để tuyển sinh. Các trường đại học và học viện công an xét tuyển kết hợp kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông với kết quả bài thi đánh giá của Bộ Công an, trong đó bài thi đánh giá của Bộ Công an chiếm tỷ lệ 60% và điểm thi tốt nghiệp trung học phổ thông của 3 môn trong tổ hợp xét tuyển chiếm tỷ lệ 40%.
Hình thức.
|
Đánh giá năng lực
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811912
|
Hình thức.
Bài thi được làm trên giấy với phương án đưa ra nhiều mà đề thi (CA1, CA2, CA3, CA4) sẽ thực tế và phù hợp với yêu cầu đối với người học của các trường đại học thuộc Bộ Công an. Đề tự luận Toán và Văn có sự phân hóa cao, có các câu hỏi ở mức nâng cao, vận dụng cao kiến thức và năng lực tư duy, nên có sự phân hóa rất tốt thí sinh. Điểm các môn tự luận, bao gồm Toán và Ngữ văn được nhân hệ số 4.
Lĩnh vực khoa học tự nhiên gồm 25 câu (mỗi câu 1 điểm) tương ứng với 25 điểm; kiến thức cốt lõi gồm Vật lý, Hóa học, Sinh học. Trong đó, 80% kiến thức lớp 12; 20% kiến thức lớp 10, 11, được đánh giá theo 4 cấp độ: cấp độ nhận biết, cấp độ thông hiểu, cấp độ vận dụng thấp, cấp độ vận dụng cao. Lĩnh vực khoa học xã hội gồm 25 câu (mỗi câu 1 điểm) tương ứng với 25 điểm; kiến thức cốt lõi gồm Lịch sử, Địa lý, Văn hóa kinh tế xã hội. Trong đó 80% kiến thức lớp 12; 20% kiến thức lớp 10, 11, được đánh giá theo 4 cấp độ: cấp độ nhận biết, cấp độ thông hiểu, cấp độ vận dụng thấp, cấp độ vận dụng cao. Lĩnh vực ngôn ngữ (thí sinh được lựa chọn một trong hai ngôn ngữ là tiếng Anh hoặc tiếng Trung Quốc theo nguyện vọng thí sinh đăng ký khi sơ tuyển) gồm 20 câu (mỗi câu 0,5 điểm) tương ứng với 10 điểm, được đánh giá theo 4 cấp độ: cấp độ nhận biết, cấp độ thông hiểu, cấp độ vận dụng thấp, cấp độ vận dụng cao. Môn Toán học có từ 3 - 5 câu với 40 điểm, trong đó 80% kiến thức lớp 12; 20% kiến thức lớp 10, 11, được đánh giá theo 4 cấp độ: cấp độ nhận biết, cấp độ thông hiểu, cấp độ vận dụng thấp, cấp độ vận dụng cao. Môn Ngữ văn gồm 2 câu với 40 điểm thuộc kiến thức lớp 12, trong đó câu 1 là đọc hiểu với 10 điểm; câu 2 làm văn với 30 điểm.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Năm 2022, lần đầu tiên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức thi đánh giá năng lực để xét tuyển đại học.
|
Đánh giá năng lực
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811912
|
Kỳ thi này gồm tám môn là Toán, Ngữ văn, Tiếng Anh, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Lịch sử và Địa lý. Trong đó, đề thi Ngữ văn sẽ có 30% là câu hỏi trắc nghiệm về ngôn ngữ và 70% tự luận. Các môn còn lại có 70% câu hỏi trắc nghiệm và 30% tự luận.
Để được tham dự kỳ thi, thí sinh có cần có hạnh kiểm tất cả học kỳ ở bậc THPT từ loại Khá và điểm trung bình chung của 5 học kỳ (lớp 10, 11 và học kỳ I lớp 12) từ 6,5 trở lên. Các em được đăng ký tối đa hai nguyện vọng. Các nguyện vọng này hoàn toàn độc lập với xét bằng phương thức khác như dựa vào điểm thi tốt nghiệp THPT.
Nguyên tắc xét tuyển là theo từng ngành dựa vào kết quả thi đánh giá năng lực hai môn (đã nhân hệ số và cộng điểm ưu tiên). Đối với các ngành có thi năng khiếu, trường xét tổng điểm các môn thi đánh giá năng lực cộng môn năng khiếu (đã nhân hệ số và cộng điểm ưu tiên).
Danh sách đơn vị tuyển sinh sử dụng kết quả kỳ thi.
Danh sách 8 trường đại học và học viện sử dụng kết quả thi ĐGNL của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội để xét tuyển năm 2023:
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Kỳ thi đánh giá năng lực chuyên biệt của Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức lần đầu từ năm 2022. Thí sinh sẽ làm bài thi đánh giá năng lực chuyên biệt các môn Toán học, Vật lý học, Hóa học, Sinh học. Mỗi môn gồm 50 câu hỏi. Trong đó, 35 câu hỏi trắc nghiệm khách quan có 4 lựa chọn (một đáp án đúng duy nhất) và 15 câu hỏi ở dạng trả lời ngắn, thí sinh tính toán và điền kết quả vào phần trả lời trên hệ thống. Thời gian làm bài là 90 phút, bài thi được máy tính chấm tự động. Thí sinh sẽ được biết điểm thi ngay sau khi kết thúc dự thi.
Riêng môn Ngữ văn, bài thi sẽ gồm 20 câu hỏi trắc nghiệm khách quan có 4 lựa chọn (một đáp án đúng duy nhất) và một bài viết luận chủ đề nghị luận xã hội (đề mở) với yêu cầu viết trong khoảng 600 từ. Thời gian làm bài là 90 phút, thí sinh làm bài trực tiếp trên hệ thống.
|
Đánh giá năng lực
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811912
|
Phần thi trắc nghiệm khách quan môn Ngữ Văn sẽ được máy tính chấm tự động. Phần viết luận sẽ được tổ chức theo 2 vòng chấm thi độc lập của các giám khảo, việc chấm thi phần viết luận được thực hiện bằng sự hỗ trợ của phần mềm để các giám khảo chấm thi trên máy tính. Kết quả bài thi sẽ được công bố trong thời gian không quá 15 ngày kể từ ngày dự thi.
Về cấu trúc bài thi đánh giá năng lực Tiếng Anh, đề thi sẽ sử dụng dạng thức đánh giá năng lực tiếng Anh từ bậc 3 đến bậc 5 theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam. Trong đó, bài thi có 4 phần, tương ứng với đủ cả 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Thời gian làm bài là 180 phút. Phần thi nghe và đọc sẽ do máy tính chấm điểm tự động. Các phần thi nói và viết sẽ được tổ chức theo 2 vòng chấm thi độc lập của các giám khảo, việc chấm thi phần viết luận được thực hiện bằng sự hỗ trợ của phần mềm để các giám khảo chấm thi trên máy tính. Kết quả bài thi sẽ được công bố trong thời gian không quá 15 ngày kể từ ngày dự thi.
|
Niklas Pyyhtiä
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811914
|
Niklas Anton Juhana Pyyhtiä (sinh ngày 25 tháng 9 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Phần Lan hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Bologna tại Serie A.
Sự nghiệp thi đấu.
Bologna.
Anh ra mắt cho câu lạc bộ vào ngày 18 tháng 1 năm 2022, trong trận thua 2-0 trên sân nhà trước Napoli tại Serie A.
|
Andrea Cambiaso
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811917
|
Andrea Cambiaso (sinh ngày 20 tháng 2 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện tại đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh cho câu lạc bộ Bologna tại Serie A, cho mượn từ Juventus.
Sự nghiệp thi đấu.
Genoa.
Cambiaso là sản phẩm lò đào tạo trẻ Genoa. Anh đã trải qua các mùa giải 2017–18 và 2018–19 dưới dạng cho mượn ở các câu lạc bộ Serie D, Albissola và Savona. Anh đã giúp Albissola thăng hạng lên Serie C.
Anh trở lại Genoa cho mùa giải 2021–22 và đã ghi bàn thắng đầu tiên ở Serie A vào ngày 29 tháng 8 năm 2021, trong trận thua 2-1 trên sân nhà trước Napoli.
Cho mượn tại Alessandria.
Ngày 2 tháng 8 năm 2019, anh gia nhập câu lạc bộ Alessandria tại Serie C theo dạng cho mượn.
Anh ra mắt chuyên nghiệp tại Serie C cho Alessandria vào ngày 25 tháng 8 năm 2019 trong trận mở màn mùa giải gặp Gozzano. Anh ra sân ngay từ đầu và chơi cả trận. Anh đã xuất phát ngay từ đầu trong trận đấu với Alessandria đầu mùa giải. Anh bị rách dây chằng chéo trước đầu gối vào ngày 4 tháng 12 năm 2019 trong trận gặp U-23 Juventus (là trận ra sân thứ 17 của anh ấy cho câu lạc bộ), chấn thương đã khiến anh không thể thi đấu trong phần còn lại của mùa giải 2019–20.
Cho mượn tại Empoli.
Vào ngày 21 tháng 9 năm 2020, anh gia nhập câu lạc bộ Serie B, Empoli dưới dạng cho mượn kèm theo một tùy chọn mua.
Juventus.
Ngày 14 tháng 7 năm 2022, Juventus thông báo về việc ký hợp đồng 5 năm với Cambiaso.
Cho mượn tại Bologna.
Vào ngày 15 tháng 7 năm 2022, Cambiaso gia nhập Bologna theo dạng cho mượn kéo dài một mùa giải.
|
Hồng kỳ (tạp chí)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811927
|
Hồng kỳ () là tạp chí chính luận do Đảng Cộng sản Trung Quốc xuất bản. Đây là một trong "Hai Tờ Báo và Một Tạp Chí" trong thập niên 1960 và 1970. Hai tờ báo là "Nhân Dân nhật báo" và "Quang Minh nhật báo". "Giải phóng quân báo" cũng được coi là một trong số đó.
Lịch sử.
"Hồng kỳ" bắt đầu ra mắt trong thời kỳ Đại nhảy vọt vào năm 1958. Tạp chí này là sự kế thừa của một tạp chí khác mang tên "Học tập". Tên gọi "Hồng kỳ" do chính Mao Trạch Đông đặt ra. Trần Bá Đạt làm biên tập viên, từng là cơ quan truyền thông quan trọng trong Cách mạng Văn hóa. Năm 1966, Pol Pot sáng lập một tạp chí tương tự có cùng tên ở Campuchia bằng tiếng Khmer gọi là "Tung Krahom" phỏng theo "Hồng kỳ".
Trong thập niên 1960, "Hồng kỳ" tạm thời ngừng xuất bản, nhưng được tái khởi động vào năm 1968. Tạp chí bắt đầu phát hành hai tuần một lần. Sau đó ấn hành hàng tháng cho đến năm 1979. "Hồng kỳ" được xuất bản hai tháng một lần từ năm 1980 cho đến năm 1988.
"Hồng kỳ" bao gồm các luận thuyết dưới sự ủng hộ của đảng. Nó cũng cho đăng các bài viết về những đảng cộng sản ở các quốc gia khác theo quan điểm của đảng. Ví dụ vào tháng 3 năm 1963, bài phát biểu của Palmiro Togliatti, lãnh đạo Đảng Cộng sản Ý, tại Đại hội lần thứ X đã được tạp chí này thảo luận và đánh giá chi tiết.
Tháng 5 năm 1988, giới quan chức Trung Quốc thông báo rằng tạp chí này sẽ bị đình bản. Cuối cùng, nó ngừng xuất bản vào tháng 6 năm 1988, và được thay thế bằng tờ "Cầu thị".
|
Độc giả (tạp chí)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811928
|
Độc giả () là bán nguyệt san trích đăng bài viết từ các tờ báo và tạp chí khác. Đây là một trong những tạp chí được lưu hành rộng rãi nhất và là tạp chí hàng đầu tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Lịch sử.
"Độc giả" được xuất bản lần đầu tại Lan Châu vào tháng 3 năm 1981. Tạp chí có trụ sở chính tại Lan Châu, và do Nhà xuất bản Nhân dân Cam Túc xuất bản hai tuần một lần. Tạp chí này bao gồm các bài viết gốc, bài viết cô đọng được in lại từ các tạp chí khác, các đoạn trích sách và tuyển tập truyện cười, giai thoại, trích dẫn và các mẩu tin ngắn khác.
Trong nửa đầu thập niên 2000, tạp chí được xuất bản hai tháng một lần. Năm 2003, "Độc giả" là một trong năm tạp chí hàng đầu ở Trung Quốc với số lượng phát hành là 3.000.000 bản. Cùng năm đó, nó cũng là tạp chí bán chạy thứ tư trên thế giới, sau "Reader's Digest", "National Geographic" và "Time".
|
Sputnik (tạp chí)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811929
|
Sputnik () là tạp chí của Liên Xô do hãng thông tấn Novosti xuất bản từ năm 1967 đến năm 1991 bằng nhiều ngôn ngữ, nhắm mục tiêu đến cả các quốc gia thuộc Khối Đông Âu và các nước phương Tây. Ấn phẩm này dự định là một tờ báo của Liên Xô tương đương với tờ "Reader's Digest", chuyên đăng các bản tin được trích từ báo chí Liên Xô với kích thước và loại giấy tương tự. Ngoài ra, Novosti còn có thêm ấn bản tiếng Anh gọi là "Sputnik Monthly Digest" ra mắt cùng thời kỳ với "Sputnik".
Dù đã bị chính phủ Liên Xô kiểm duyệt, "Sputnik" đôi lúc vẫn bị chính phủ các nước có mâu thuẫn với Điện Kremlin kiểm duyệt khi các biên tập viên của tạp chí này được thay thế bằng các biên tập viên thân Tư bản dưới thời kỳ glasnost, ví dụ điển hình nhất là Đông Đức vào tháng 11 năm 1988 và Cuba năm 1989.
|
Điểm lưu trú
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811944
|
Điểm lưu trú ("Motel") còn được gọi là khách sạn mô tô ("Motor hotel") hay quán trọ mô tô ("Motor inn") hoặc nhà nghỉ mô tô ("Motor lodge") là một nhà nghỉ được thiết kế phục vụ cho những người lái ô tô đường dài, thường có mỗi phòng đi vào trực tiếp từ khu vực đỗ xe cơ giới chứ không phải qua sảnh trung tâm. Loại hình đầu tiên là "Milestone Mo-Tel" của San Luis Obispo, California (nay được gọi là "Motel Inn of San Luis Obispo"), được xây dựng vào năm 1925. Thuật ngữ này đề cập đến một loại khách sạn bao gồm một tòa nhà duy nhất gồm các phòng thông nhau có cửa đối diện với bãi đậu xe và trong một số trường hợp, một khu vực chung hoặc một loạt cabin nhỏ có bãi đậu xe chung. "Các nhà nghỉ ven đường" thường thuộc sở hữu cá nhân, mặc dù các chuỗi nhà nghỉ vẫn tồn tại. Đây là loại hình lưu trú cơ sở nhỏ, có cấu trúc đơn giản, nằm dọc theo các con đường quốc lộ. Motel hướng đến đối tượng khách hàng là những người cần một chỗ nghỉ ngơi qua đêm mà không cần các dịch vụ cầu kỳ.
Khi các hệ thống đường cao tốc lớn bắt đầu được phát triển vào những năm 1920 thì các chuyến đi đường dài trở nên phổ biến hơn và nhu cầu về các địa điểm lưu trú qua đêm rẻ tiền, dễ tiếp cận gần các tuyến đường chính đã dẫn đến sự phát triển của khái niệm "nhà trọ mô tô". Các nhà nghỉ ven đường đạt mức phổ biến cao nhất vào những năm 1960 với lượng khách du lịch bằng ô tô ngày càng tăng, chỉ suy giảm do sự cạnh tranh từ các chuỗi khách sạn mới hơn đã trở nên phổ biến tại các nút giao thông trên đường cao tốc khi giao thông bị bỏ qua trên các đường cao tốc mới được xây dựng. Một số nhà nghỉ có giá trị lịch sử được liệt kê trong Sổ đăng ký Địa danh Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ. Các nhà nghỉ ven đường thường được xây dựng theo bố cục hình chữ "I"-, "L"- hoặc "U" bao gồm các phòng dành cho khách trú; một văn phòng quản lý trực thuộc; một buồng tiếp tân nhỏ; và trong một số trường hợp, một quán ăn nhỏ và một hồ bơi. Nhà nghỉ ven đường thường có một tầng với các phòng mở thẳng ra bãi đậu xe, giúp khách dễ dàng dỡ hành lý xuống xe.
|
Văn hóa Kazakhstan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811945
|
Văn hóa Kazakh trong thời kì hiện đại mang sự đặc trưng chủ yếu là do sự kết hợp giữa nền văn hóa du mục Tengrian, văn hóa Hồi giáo và văn hóa châu Âu. Các yếu tố thuộc về nền văn hóa du mục có nguồn gốc từ tổ tiên của người Kazakh, chẳng hạn như tộc người Hung, những dân cư thuộc hãn quốc Đột Quyết, hãn quốc Kim Trướng và hãn quốc Kazakh. Các yêu tố thuộc về chủ nghĩa du mục đã phần lớn định hình nên âm nhạc, trang phục, trang sức và nền văn học dân gian đặc biệt của riêng nó. Văn hóa Kazakhstan dường như cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn hóa du mục của tộc người Scythia. Nền văn hóa Kazakhstan đã phát triển mạnh kể từ thời kỳ hậu Xô Viết. Lối sống truyền thống của người Kazakh đã pha trộn với những ảnh hưởng từ xã hội phương Tây, cũng như từ nền văn hóa từ các nước láng giềng như Nga và Trung Quốc.
Vì chăn nuôi là trọng tâm trong nền kinh tế truyền thống của người Kazakh nên hầu hết các phong tục và tập quán du mục của họ đều liên quan đến chăn nuôi theo một cách nào đó. Những lời chúc truyền thống của người Kazakh thường có liên quan đến bệnh tật hoặc sự sinh nở của vật nuôi. Để có một mối quan hệ tốt với khách, gia chủ trước tiên phải hỏi về sức khỏe vật nuôi của khách khi chào đón họ và sau đó mới hỏi về cuộc sống của họ.
Nơi ở truyền thống của người Kazakh là "yurt", một chiếc lều bao gồm một cái khung làm bằng gỗ liễu, được phủ bằng nỉ, có thể có độ dày khác nhau. Phần trên của lều có thiết kế một lỗ mở cho phép khói từ lò sưởi nằm ở trung tâm chiếc lều có thể thoát ra ngoài; nhiệt độ của lều và luồng gió đi vào lều có thể được kiểm soát bằng một cánh đảo gió giúp tăng hoặc giảm kích thước của lỗ mở trên. Một chiếc lều "yurt" được xây dựng đúng với thiết kế trên có thể làm cho không khí trong lều mát mẻ vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông, đồng thời có thể tháo ra hoặc lắp đặt chiếc lều trong vòng chưa đầy một giờ. Nội thất của lều "yurt" có ý nghĩa lễ nghi; bên phải thường dành cho nam và bên trái dành cho nữ.
|
Văn hóa Kazakhstan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811945
|
Hình ảnh về lều "yurt" cũng thường được sử dụng như một chi tiết trang trí trong các nhà hàng và các tòa nhà.
Tôn giáo.
Hồi giáo là tôn giáo lớn nhất ở Kazakhstan, tiếp theo là Chính thống giáo Nga. Theo truyền thống, người Kazakh theo đạo Hồi dòng Sunni, còn tộc người Nga theo Chính thống giáo Nga. Khoảng 70% dân số theo đạo Hồi. Phần lớn là người theo đạo Hồi dòng Sunni thuộc trường phái Hanafi, bao gồm cả người Kazakh, chiếm khoảng 60% dân số, người Uzbek, người Duy Ngô Nhĩ và người Tatar. Ít hơn 25% dân số theo Chính thống giáo Nga, bao gồm người Nga, người Ukraina và người Belarus. Các tôn giáo khác bao gồm Do Thái giáo, Bahá'í giáo, Hare Krishnas, Phật giáo và Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa.
Ẩm thực.
Ẩm thực truyền thống của Kazakhstan xoay quanh các món ăn được chế biến từ thịt cừu và thịt ngựa, cũng như nhiều loại thực phẩm từ sữa. Trong hàng trăm năm về trước, người Kazakh chăn nuôi các loài cừu đuôi béo, lạc đà hai bướu và ngựa, họ dựa vào những con vật này để vận chuyển quần áo và thức ăn. Các kỹ thuật nấu ăn và các thành phần chính của món ăn mang đậm sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ lối sống du mục của quốc gia này. Ví dụ, hầu hết các kỹ thuật nấu ăn đều nhằm mục đích bảo quản thực phẩm lâu dài hơn. Có một phương pháp chế biến là ướp muối và làm khô thịt, từ đó thịt có thể giữ được lâu, ngoài ra họ còn thích dùng sữa chua, vì nó dễ tiết kiệm hơn.
Trong những năm gần đây, đã có một làn sóng đầu bếp trẻ người Kazakhstan gốc Tây đến Astana, bao gồm cả Rania Ahmed, người đã dành những năm đầu tiên của mình để đào tạo tại các nhà hàng Sao Michelin ở phía Tây Luân Đôn. Điều này đã dẫn đến một phong cách ẩm thực mới, mang sự kết hợp giữa các món mặn truyền thống của Kazakhstan với các món ăn nhanh của châu Âu, chẳng hạn như "betinjantabs", món ăn này đã trở nên rất phổ biến với thế hệ trẻ.
"Besbarmak" là một món ăn bao gồm thịt ngựa hoặc thịt cừu luộc, là món ăn phổ biến nhất của người Kazakhstan.
|
Văn hóa Kazakhstan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811945
|
"Besbarmak" thường được ăn với mì ống luộc và nước dùng làm từ thịt được gọi là "shorpa", và theo truyền thống, món này được phục vụ trong một loại bát gọi là "kese". Còn có các món thịt phổ biến khác như "kazy" (món xúc xích làm từ thịt ngựa, chỉ những người giàu có mới có thể mua được), "shuzhuk" (món xúc xích thịt ngựa), "kuyrdak" (còn gọi là "kuirdak", một món ăn được làm từ lòng của ngựa, cừu hoặc bò được nướng, sau đó thái hạt lựu và ăn kèm với hành và ớt), ngoài ra còn nhiều món ăn khác từ thịt ngựa, chẳng hạn như "zhal" (mỡ cổ ngựa xông khói) và "zhaya" (thịt hông và chân sau của ngựa xông khói). "Pilaf" ("palaw") là món cơm phổ biến nhất của người Kazakhstan, bao gồm rau (cà rốt, hành tây và/hoặc tỏi) và thịt. Món đồ uống quốc gia là "kumys" (sữa ngựa lên men) và nước trà.
Các phong tục tập quán.
Người Kazakh được biết đến với lòng hiếu khách và rất nhiều phong tục tập quán, truyền thống của người Kazakh dựa trên các tiêu chuẩn đạo đức của dân tộc này. Một số phong tục đã bị thất truyền, nhưng một số đang được phổ biến trở lại. Dưới đây là một số phong tục tập quán, truyền thống đã đóng một vai trò quan trọng trong xã hội Kazakhstan hiện đại:
Konakasy (Qonaqası) (tiếng Kazakh: қонақасы; "konak/qonaq" - khách mời, "as" - đồ ăn) - một phong tục chào đón khách tới và làm cho kỳ nghỉ của họ trở nên thú vị nhất có thể bằng cách cung cấp thức ăn, chỗ nghỉ ngơi và nơi giải trí. Tùy thuộc vào hoàn cảnh mà vị khách đó đến từ đâu, họ có thể được gọi là "arnayy konak/arnayı qonaq" (tiếng Kazakh: арнайы қонақ) - một vị khách được mời đặc biệt, "kudayy konak/qudayı qonaq" (tiếng Kazakh: құдайы қонақ) - một vị khách du lịch bình thường, "kydyrma konak/qıdırma qonaq" (tếng Kazakh: қыдырма қонақ) - một vị khách bất ngờ.
Korimdik (Kӧrimdik) (tiếng Kazakh: көрімдік; "kӧru" - nhìn) - một phong tục tặng một người một món quà để chúc mừng họ đã đạt được thành công trong cuộc sống.
|
Văn hóa Kazakhstan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811945
|
Phong tục đó được gọi là korimdik, nếu thành công là về một người hoặc một vật nuôi (ví dụ: con dâu hoặc vật nuôi của một người mới sinh con), và baygazy/bayghazı (tiếng Kazakh: байғазы), nếu thành công là về vật chất.
Shashu (Shashū) (tiếng Kazakh: шашу) - phong tục tắm cho các vị anh hùng bằng đồ ngọt trong một lễ hội nào đó. Bởi vì người Kazakh tin rằng thú vui sưu tập sẽ mang lại may mắn.
Bata (tiếng Kazakh: бата - phước lành) - một loại hình nghệ thuật thơ ca, thường được người được kính trọng nhất hoặc người lớn tuổi nhất biểu diễn để bày tỏ lòng biết ơn đối với sự hiếu khách, hoặc chúc phúc cho một người sắp bước sang một giai đoạn quan trọng trong cuộc đời, sẽ trải qua một trải nghiệm hoặc một chuyến đi đầy thử thách.
Tusau kesu (Tusaū kesū) (tiếng Kazakh: тұсау кесу) - phong tục kỷ niệm những nỗ lực đầu tiên của một đứa trẻ để có thể đi được những bước đi đầu đời. Chân của đứa trẻ được buộc bằng một sợi dây có hai màu trắng và đen tượng trưng cho điều tốt và điều xấu trong cuộc sống. Sau đó, sợi dây được cắt bởi một người họ hàng là nữ, người đó có bản chất năng động và hoạt bát, để đứa trẻ có được những phẩm chất của cô ấy. Sau khi sợi dây bị cắt, nó được đốt.
Kyz uzatu (Qız uzatū) (tiếng Kazakh: қыз ұзату) - tiệc cưới đầu tiên do bố mẹ cô dâu tổ chức. Dịch sát nghĩa là "tiễn con gái".
Betashar (tiếng Kazakh: беташар; "bet" - mặt, "ashu" - mở) - phong tục (thường được thực hiện trong đám cưới) vén khăn che mặt cô dâu lên. Hôm đó, mullah được mời biểu diễn một bài hát ngẫu hứng, trong đó có đề cập đến những người thân của chú rể. Trong buổi biểu diễn của anh ấy, cô dâu phải cúi đầu mỗi khi nghe thấy tên. Sau bài hát, mẹ của chú rể sẽ vén khăn che mặt.
Shildehana (Shildekhana) (tiếng Kazakh: шілдехана) - lễ kỷ niệm sự ra đời của một đứa trẻ (giống với ngày sinh nhật).
Suinshi (Süyinshi) (tiếng Kazakh: сүйінші) - phong tục tặng quà cho người đã mang lại tin tốt.
Ngôn ngữ.
|
Văn hóa Kazakhstan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811945
|
Ngôn ngữ.
Ngôn ngữ chính thức ở Kazakhstan là tiếng Kazakh, một ngôn ngữ Turk có quan hệ gần gũi với tiếng Nogai và tiếng Karakalpak. Một ngôn ngữ khác được sử dụng rộng rãi là tiếng Nga. Các chính sách ngôn ngữ gần đây cho thấy người có khả năng giao tiếp bằng ba ngôn ngữ là yếu tố quan trọng cho sự phát triển của đất nước trong tương lai.
Nghệ thuật.
Mỗi năm các nghệ nhân Kazakhstan tham gia cuộc thi "Sheber". Cuộc thi nằm trong chương trình "Phát triển nghề thủ công và phục hồi nghệ thuật dân gian và hàng thủ công ở Kazakhstan" bắt đầu từ năm 2006 nhằm tăng khả năng cạnh tranh của các mặt hàng của các nghệ nhân Kazakhstan ở trong nước và quốc tế. Chương trình này đã được thực hiện bởi Hiệp hội Nghệ nhân Kazakhstan, "Chevron", Quỹ Á-Âu của Trung Á, Bộ Văn hóa và Thông tin Kazakhstan và Văn phòng Cụm UNESCO tại Almaty.
Âm nhạc.
"Bài ca kỳ diệu của thảo nguyên vĩnh cửu".
"Bài ca kỳ diệu của thảo nguyên vĩnh cửu" là một loạt các buổi hòa nhạc tại Carnegie Hall và Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật John F. Kennedy để kỷ niệm Ngày văn hóa Kazakhstan tại Hoa Kỳ. Các buổi hòa nhạc được tổ chức nhằm giới thiệu nền âm nhạc dân gian của Kazakhstan, các kiệt tác cổ điển phương Tây cũng như các bài hát Mỹ do Dàn nhạc cụ dân gian Quốc gia Kurmangazy Kazakhstan, Dàn hợp xướng Quốc gia Baikadamov Kazakhstan và một nhóm nghệ sĩ độc tấu Kazakhstan trình diễn.
Dàn nhạc giao hưởng của Nhạc viện Quốc gia Kurmangazy Kazakhstan.
Dàn nhạc giao hưởng của Nhạc viện Quốc gia Kurmangazy Kazakhstan được thành lập năm 1947. Nhạc trưởng đầu tiên là Giáo sư K. Babayev. Dàn nhạc biểu diễn nhiều tiết mục do các nhạc sĩ Haydn, Mozart, Beethoven, Schubert, Brahms, Liszt, Saint-Saens, Bizet, Ravel, Franck, Mahler, Orff, Tchaikovsky, Rachmaninoff, Mussorgsky, Shostakovich và nhiều người khác sáng tác.
Thể thao.
Kazakhstan rất quan tâm đến thể thao, giáo dục thể chất và các hoạt động ngoại khóa. Kazakhstan đã đạt được một số thành tựu trong các cuộc thi quốc tế về cử tạ, khúc côn cầu trên băng và quyền anh. Kazakhstan đã giành được tám huy chương trong Thế vận hội Mùa hè 2004, thành tích lớn nhất đối với bất kỳ quốc gia nào ở Trung Á.
Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất ở Kazakhstan.
|
Văn hóa Kazakhstan
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811945
|
Liên đoàn bóng đá Kazakhstan (FFK) là cơ quan quản lý quốc gia của môn thể thao này. FFK tổ chức các giải đấu đội tuyển quốc gia nam, nữ và futsal. Giải Bóng đá Ngoại hạng Kazakhstan là giải đấu cấp cao nhất của môn thể thao này trong nước.
Đi xe đạp đường trường là môn thể thao thành công nhất của Kazakhstan. Nhiều tay đua xe đạp chuyên nghiệp đã được thi đấu trên đường đua châu Âu đến từ Kazakhstan. Đáng chú ý nhất là Alexander Vinokourov, người có thành tích bao gồm hai chiến thắng Paris–Nice (2002, 2003), đứng vị trí thứ ba trong Tour de France 2003 và vị trí đầu tiên trong Cuộc đua vàng Amstel 2003. Vinokourov lãnh đạo Astana, được hỗ trợ bởi liên minh các công ty Kazakhstan. Đội này được đăng ký với tư cách là UCI ProTeam và thi đấu trong các cuộc đua lớn, bao gồm cả Tour de France.
Bóng bầu dục liên hiệp là môn thể thao phổ biến ở Kazakhstan, với hơn 10.000 người hâm mộ thường xuyên đến xem đội tuyển bóng bầu dục liên đoàn quốc gia Kazakhstan thi đấu. Những trận thắng đậm gần đây trước Sri Lanka và Đội bóng bầu dục vùng Vịnh Ả Rập đã cho đội Kazakhstan lý do để tin rằng họ có thể là ứng cử viên giành quyền tham dự Giải bóng bầu dục thế giới 2011. Kazakhstan hiện tại vẫn chưa đủ điều kiện tham dự Giải bóng bầu dục thế giới.
|
Động đất Geiyo 2001
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811947
|
xảy ra vào lúc 15:27 (theo giờ địa phương), ngày 24 tháng 3 năm 2001. Trận động đất có cường độ địa chấn 6.7 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 50km. Không có cảnh báo sóng thần cho trận động đất này. Nhưng trận động đất đã làm hai người chết, 288 người bị thương, hơn 3.700 tòa nhà bị hư hỏng ở Hiroshima.
|
Nhà nghỉ B&B
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811948
|
Nhà nghỉ B&B (tiếng Anh: "Bed and breakfast", viết tắt là B&B hoặc BnB) là một cơ sở lưu trú nhỏ cung cấp chỗ ở qua đêm và kèm theo phục vụ bữa ăn sáng cho du khách. Nhà nghỉ chỉ phục vụ bữa sáng và thường không cung cấp thêm các bữa ăn khác, cũng thường là nhà riêng của các gia đình và thường có từ bốn đến mười một phòng, trung bình có sáu phòng. Ngoài ra, nhà nghỉ B&B thường có chủ nhà sống trong căn nhà này. Giường chiếu nghỉ ngơi và bữa ăn sáng cũng được sử dụng để mô tả mức độ phục vụ được bao gồm trong giá phòng của khách sạn, trái ngược với giá phòng chỉ bao ăn hai bữa hoặc bao ăn ba bữa. Những khách sạn lớn hiện nay cũng cung cấp loại hình dịch vụ này.
Mô hình kinh doanh B&B thịnh hành tại các nước châu Âu và Mỹ hiện nay đang được kinh doanh của những hộ kinh doanh nhỏ tại nhà riêng thường có ít hơn 10 phòng ngủ, được sử dụng nhằm mục đích thương mại. Một phòng B&B thường ghép 5-10 giường đơn và tùy theo số lượng khách mà quản lý sẽ bố trí và sắp xếp. Dù quy mô không lớn như khách sạn hay các nhà nghỉ nhưng điều đó không có nghĩa B&B quá tồi tàn, không đáp ứng đầy đủ nhu cầu lưu trú của du khách. Ngược lại, B&B vẫn được trang bị đầy đủ các trang thiết bị, mang đến cho khách sự hài lòng, tiện nghi khi sử dụng loại hình lưu trú này. Nhà nghỉ B&B ra đời và phát triển cùng hàng loạt loại hình cư trú tiện ích để đáp ứng mọi nhu cầu của khách du lịch, từ những khách sạn sang trọng đến những nhà ở tự phục vụ. B&B là loại hình đang được ưa chuộng bởi khách du lịch bụi, dân phượt, vì giá cả rẻ và dịch vụ đơn giản giúp họ có nhiều thời gian để tận hưởng khám phá và trải nghiệm.
Những quốc gia trên thế giới có ghi nhận loại hình này như ở Trung Quốc khi hầu hết khách hàng quen là khách du lịch nước ngoài nhưng họ đang ngày càng phổ biến đối với khách du lịch nội địa của Trung Quốc. Ở Ấn Độ thì chính phủ đang thúc đẩy khái niệm nhà nghỉ BnB.
|
Nhà nghỉ B&B
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811948
|
Nhà nghỉ B&B của Israel được gọi là "zimmer" (tiếng Đức có nghĩa là "phòng") và trên khắp đất nước, nhưng đặc biệt là ở miền bắc Israel (Galilee, Thượng Galilee và Cao nguyên Golan), loại hình này đã phát triển thành một ngành công nghiệp rộng lớn. Ngành công nghiệp này bắt đầu phát triển vào những năm 1990, khi nông nghiệp mang lại ít lợi nhuận hơn và nhiều gia đình có trang trại và thậm chí ở các thành phố đã quyết định thử vận may trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn. Trong thập kỷ qua, dịch vụ chỉ phục vụ bữa sáng cũng đã phát triển ở miền nam Israel ở Negev. Ở Ý có quy định khu vực B&B nhưng mỗi vùng lại duy trì một quy định cụ thể, mỗi vùng có thể áp dụng các quy định khác nhau nhưng họ phải tuân thủ luật pháp quốc gia về du lịch.
|
Hồ Văn Châm
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811955
|
Hồ Văn Châm (Chữ Hán: 胡文箴; ngày 9 tháng 7 năm 1932 – ngày 31 tháng 7 năm 2013) còn gọi là Minh Vũ, là bác sĩ và chính khách, từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Chiêu hồi và Bộ trưởng Bộ Cựu Chiến binh Việt Nam Cộng Hòa. Từ sau biến cố năm 1975, ông bị chế độ cộng sản đưa đi cải tạo suốt mười ba năm về sau mới được trả tự do di cư sang Canada sinh sống cho đến cuối đời.
Tiểu sử.
Hồ Văn Châm sinh ngày 9 tháng 7 năm 1932 tại làng Phước Tích, tỉnh Thừa Thiên, Trung Kỳ, Liên bang Đông Dương.
Ông gia nhập Đại Việt Quốc dân Đảng năm 1955. Năm 1969, ông được bổ nhiệm làm Tổng ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đại Việt Quốc dân Đảng.
Năm 1962, Hồ Văn Châm tốt nghiệp tiến sĩ y khoa tại Viện Đại học Sài Gòn. Ông còn lấy thêm bằng Tiến sĩ Khoa học dinh dưỡng tại Viện Đại học Columbia năm 1965 và tiến sĩ y tế công cộng cũng tại nơi đây vào năm 1969.
Từ ngày 1 tháng 9 năm 1969 đến ngày 16 tháng 2 năm 1974, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Chiêu hồi Việt Nam Cộng hòa, chịu trách nhiệm về kế hoạch chiêu hồi nhằm khuyến khích binh lính Việt Cộng đào thoát sang chính phủ Việt Nam Cộng hòa thông qua hoạt động tuyên truyền và tâm lý chiến. Ngày 18 tháng 2 năm 1974, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Cựu Chiến binh kiêm nhiệm Quyền Bộ trưởng Bộ Dân vận và Chiêu hồi Việt Nam Cộng hòa.
Tháng 5 năm 1975, Hồ Văn Châm bị chính quyền mới bắt giữ và đưa vào trại cải tạo cho đến tháng 2 năm 1988. Tháng 5 năm 1993, ông di cư sang Canada và định cư tại Ottawa, làm chủ tịch Hội đồng Nghiên cứu Sách lược Đại Việt Cách mạng Đảng. Ông qua đời tại Ottawa, Canada vào ngày 31 tháng 7 năm 2013, hưởng thọ 82 tuổi.
Đời tư.
Hồ Văn Châm là một Phật tử với pháp danh Nguyên Minh. Vợ ông quê Quảng Ngãi. Hai vợ chồng có tất cả bảy người con.
Huân chương.
Tham khảo:
|
Hồ Nhựt Tân
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811956
|
Hồ Nhựt Tân (? – ?) biệt hiệu Thất Sơn Cư Sĩ, là bác sĩ y học cổ truyền và chính khách Việt Nam Cộng hòa, đồng thời là một trong ba ứng cử viên tham gia cuộc bầu cử tổng thống Việt Nam Cộng hòa năm 1961.
Hồ Nhựt Tân từng tham gia phong trào dân tộc chống thực dân Pháp, nghỉ hưu vào thập niên 1950 rồi sau chuyển sang hành nghề y học cổ truyền. Ông đã ngoài 70 tuổi khi ra tranh cử tổng thống Việt Nam Cộng hòa năm 1961. Ứng cử viên trong liên danh của Hồ Nhựt Tân, Nguyễn Thế Truyền vốn là chính khách cánh tả trẻ tuổi từng tích cực trong các hoạt động dân tộc chủ nghĩa.
|
Hồ Thị Quế
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811957
|
Hồ Thị Quế (? – 1965) còn gọi là "Nữ Hổ Tướng Đồng Bằng Sông Cửu Long" và 'Chị Cả', là y tá, quân y dã chiến và thượng sĩ thuộc Tiểu đoàn 44 Biệt động quân Việt Nam Cộng hòa có biệt danh “Cọp Đen” từng tham chiến chống lại Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (Việt Cộng) trong chiến Tranh Việt Nam.
Tiểu sử.
Hồ Thị Quế là con gái của một nông dân. Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, bà được người Pháp gài vào làm gián điệp trong nội bộ Việt Minh cho đến khi bà nhận thấy rằng những người cộng sản đang nắm quyền kiểm soát tổ chức này. Cùng lúc đó bà có dịp được gặp người chồng tương lai của mình là Thiếu tá Nguyễn Văn Dần, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 44 Biệt động quân, một tiểu đoàn được xếp vào loại ưu tú của quân lực Việt Nam Cộng hòa vì có lực lượng rất thiện chiến và tinh nhuệ. Họ có tất cả sáu người con và hay cùng nhau ra trận. Đầu tháng 11 năm 1965, Hồ Thị Quế bị chồng bắn chết vì lý do tự vệ trong một cuộc cãi vã. Theo lời khai của Thiếu tá Dần, bà Quế đã dùng dao tấn công khi bắt gặp ông đang tư tình với một người phụ nữ trẻ ở Vị Thanh. Kiểm sát viên cho rằng Nguyễn Văn Dần đã giết vợ vì đổ lỗi cho vợ khiến sự nghiệp của ông sa sút. Ngày 5 tháng 5 năm 1966, Nguyễn Văn Dần bị tòa kết án một năm tù về tội giết người.
Nhận định.
Hồ Thị Quế từng ba lần được tặng thưởng huân chương vì sự gan dạ và dũng cảm trên chiến trường. Tuy vậy, theo các nhà báo phương Tây, trên thực tế bà Quế không bao giờ tham gia các trận đánh mà chỉ đảm nhiệm việc cổ vũ tinh thần và chăm sóc thương binh ở tuyến sau. Trong số các chiến hữu biệt động quân của mình, bà nổi tiếng nhờ sự hung dữ nhưng cũng có lòng trắc ẩn; bà sẽ tấn công bất kỳ người lính nào mà bà thấy đang cướp bóc sau trận chiến, nhưng cũng sẽ an ủi và chăm sóc những người lính bị thương hoặc đang hấp hối, thường liều mạng để tiếp cận họ trên chiến trường. Đôi khi Hồ Thị Quế cạo trọc đầu nhằm bày tỏ nỗi đau buồn trước sự mất mát của những chiến hữu biệt động quân của mình.
|
Hồ Thị Quế
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811957
|
Bà cũng thể hiện lòng trắc ẩn sâu sắc đối với gia đình của những người lính biệt động quân đã chết, đấu tranh để họ nhận được những lợi ích thuộc về mình hoặc cho họ vay tiền để giúp họ trở nên độc lập về tài chính.
Hồ Thị Quế còn là một nhân vật dễ nhận biết trên chiến trường. Tờ "Chicago Tribune" lưu ý rằng "cô ấy đã chiến đấu bên cạnh những người đàn ông với một cặp súng tự động .45 ("Colt .45 cán ngọc trai") được buộc vào hông và đội một chiếc mũ lính bằng thép bóng loáng có hình đầu hổ." Nữ Hổ Tướng là một nhân vật truyền cảm hứng, thường ở phía trước trận chiến với những người đàn ông, lao qua cánh đồng lúa, thúc đẩy toán lính của bà giành chiến thắng. Chỉ vài tháng trước khi qua đời, người ta truyền tụng rằng bà đã thoát ra khỏi trận chiến khốc liệt chống lại quân địch hàng ngàn người mà không bị trầy xước chút nào cả.
|
Thân vương quốc Sông Hutt
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811959
|
Thân vương quốc Sông Hutt (tiếng Anh: "Principality of Hutt River"), thường được gọi bằng tên cũ, Tỉnh Sông Hutt ("Hutt River Province"), là một vi quốc gia ở Úc. Thân vương quốc tuyên bố là một quốc gia độc lập có chủ quyền giáp với Thịnh vượng chung Úc, được thành lập vào ngày 21 tháng 4 năm 1970. Nó bị giải thể vào ngày 3 tháng 8 năm 2020.
Thân vương quốc nằm cách Perth 517 km (354 dặm) về phía Bắc, gần thị trấn Northampton ở bang Tây Úc. Nó có diện tích 75 km2 (29 dặm vuông), lớn hơn một số quốc gia được công nhận. Nó không được Chính phủ Úc cũng như bất kỳ chính phủ quốc gia nào khác công nhận là một quốc gia, và Tòa án Tối cao Úc và Tòa án Tối cao Tây Úc đã từ chối các đệ trình lập luận rằng nó không tuân theo luật pháp Úc.
Thân vương quốc là một điểm thu hút khách du lịch trong khu vực cho đến khi tuyên bố đóng cửa đối với khách du lịch sau ngày 31 tháng 1 năm 2020. Nó phát hành tiền tệ, tem và hộ chiếu của riêng mình (không được chính phủ Úc hoặc bất kỳ chính phủ nào khác công nhận). Vi quốc gia này được thành lập vào ngày 21 tháng 4 năm 1970 khi Leonard Casley tuyên bố trang trại của mình là một quốc gia độc lập, Tỉnh Sông Hutt. Ông ta đã cố gắng ly khai khỏi Úc vì tranh chấp liên quan đến hạn ngạch sản xuất lúa mì. Vài năm sau, Casley bắt đầu tự phong mình là "Thân vương Leonard" và phong tước hiệu hoàng gia cho các thành viên trong gia đình, mặc dù ông không đưa từ "Thân vương quốc" vào tên chính thức cho đến năm 2006.
Vào tháng 2 năm 2017, ở tuổi 91 và sau 45 năm trị vì, Casley thoái vị nhường ngôi cho con trai út, Thân vương Graeme.[9] Cựu Thân vương Leonard qua đời vào ngày 13 tháng 2 năm 2019.
Vào tháng 12 năm 2019, Thân vương quốc đã thông báo rằng họ sẽ đóng cửa biên giới và ngừng các dịch vụ chính phủ bên ngoài kể từ ngày 31 tháng 1 năm 2020, cho đến khi có thông báo mới. Vào ngày 3 tháng 8 năm 2020, Thân vương quốc chính thức bị giải thể.
Lịch sử.
|
Thân vương quốc Sông Hutt
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811959
|
Lịch sử.
Leonard Casley (28 tháng 8 năm 1925 – 13 tháng 2 năm 2019) tuyên bố Thân vương quốc là một tỉnh độc lập vào năm 1970 để đáp lại tranh chấp với chính phủ Tây Úc về điều mà gia đình Casley coi là hạn ngạch sản xuất lúa mì hà khắc. Trang trại Casley có khoảng 4.000 ha (9.900 mẫu Anh) lúa mì sẵn sàng thu hoạch khi hạn ngạch được ban hành, điều này cho phép Casley chỉ bán 1.647 giạ hoặc khoảng 40 ha (99 mẫu Anh). Ban đầu, năm gia đình sở hữu trang trại ở Hutt River đã liên kết với nhau để chống lại hạn ngạch, và Casley đã gửi đơn phản đối lên Thống đốc Tây Úc là Douglas Kendrew. Thống đốc đã không hỗ trợ.
Hai tuần sau, Casley tuyên bố chính phủ đã đưa ra một dự luật trước Quốc hội để "nối lại" đất đai của ông và các gia đình khác theo luật mua lại bắt buộc. Tại thời điểm này, Casley tuyên bố rằng luật pháp quốc tế cho phép họ ly khai và tuyên bố độc lập khỏi Thịnh vượng chung Úc. Casley nói rằng ông vẫn trung thành với Nữ vương Elizabeth II.
Vào khoảng thời gian này, Thân vương Leonard tuyên bố rằng trong một lần trao đổi thư từ với văn phòng Toàn quyền, Casley trong một lần vô tình được gọi là "Quản lý của tỉnh sông Hutt". Casley tuyên bố rằng điều này cấu thành sự công nhận ràng buộc về mặt pháp lý đối với Thân vương quốc.
Ngay sau đó, Leonard Casley tự phong mình là "Thân vương Leonard I xứ Hutt". Casley làm điều này vì anh ta tin rằng nó sẽ cho phép anh ta lợi dụng Đạo luật phản quốc 1495 của Vương quốc Anh, quy định rằng vị vua trên thực tế của một quốc gia không thể phạm tội phản quốc liên quan đến bất kỳ hành động nào chống lại vị vua hợp pháp và bất kỳ ai can thiệp với nhiệm vụ của quốc vương đó có thể bị buộc tội phản quốc.
Thân vương Leonard nói rằng ông tiếp tục bán lúa mì của mình bất chấp hạn ngạch. Casley tin rằng theo luật Úc, chính phủ liên bang có hai năm để đáp lại tuyên bố chủ quyền của Casley. Casley nói rằng việc không trả lời đã mang lại cho tỉnh "quyền tự trị trên thực tế" vào ngày 21 tháng 4 năm 1972, nhưng chính phủ Tây Úc vẫn có thể phản đối việc ly khai.
|
Thân vương quốc Sông Hutt
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811959
|
Vào ngày 15 tháng 2 năm 1977, bất chấp những tuyên bố chủ quyền của Thân vương Leonard, ông đã bị truy tố thành công vì không tuân thủ các yêu cầu cung cấp cho Văn phòng Thuế vụ Úc (ATO) các tài liệu cần thiết.
Vào ngày 2 tháng 12 năm 1977, Thân vương quốc tuyên chiến với Úc. Thân vương Leonard đã thông báo cho chính quyền về việc chấm dứt chiến sự vài ngày sau đó. Có thể không phải ngẫu nhiên mà lời tuyên chiến này được đưa ra chỉ vài tháng sau phán quyết của tòa án trong đó Casley bị phạt vì không cung cấp cho ATO một số tài liệu. Tình trạng chiến tranh ngắn hạn giữa Thân vương quốc và Úc là một kế hoạch theo đó mục đích của Thân vương là lập luận rằng, theo Công ước Hiệp ước Geneva ngày 12 tháng 8 năm 1949, một chính phủ nên thể hiện sự tôn trọng đầy đủ đối với một quốc gia bất bại trong tình trạng chiến tranh.
|
Đánh giá tư duy
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811960
|
Đánh giá tư duy (tiếng Anh: "Thinking Skills Assessment"; TSA) hay Kiểm tra tư duy là một kỳ thi tuyển sinh đại học tại Việt Nam, do Đại học Bách khoa Hà Nội bắt đầu tổ chức từ năm 2020. Bài thi có mục đích nhằm đánh giá khả năng của học sinh về tư duy toán học, tư duy đọc hiểu, tư duy giải quyết vấn đề để có thể học tập tốt nhất tại môi trường giáo dục đại học, đặc biệt cho các ngành nghề về khoa học công nghệ, kinh tế, kỹ thuật, công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, ngân hàng, y dược.
Tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, TSA là bài kiểm tra đầu vào chung, được sử dụng như một phần trong quy trình tuyển sinh cho một số khóa học tại Đại học Cambridge và Đại học Oxford.
Lịch sử.
TSA tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland ban đầu được phát triển và điều hành bởi Cambridge Assessment Admissions Testing. Bài thi được tạo ra nhằm giúp các trường đại học đánh giá và lựa chọn các ứng viên có đủ kỹ năng và yêu cầu cần thiết cho việc học tập ở bậc đại học. Cambridge Assessment Admissions Testing hiện sản xuất và phân phối các tài liệu thực hành, bao gồm các câu hỏi mẫu và các bài thi cũ trên trang web của họ.
Tại Việt Nam, TSA lần đầu tiên được Đại học Bách khoa Hà Nội tổ chức vào năm 2020, sau khi Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia được chuyển đổi trở lại thành Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông do những tác động của đại dịch COVID-19 tại Việt Nam. Kỳ thi bị hủy bỏ vào năm 2021 vì đại dịch và tiếp tục được tổ chức từ năm 2022 đến nay.
Hình thức.
2020–2022.
Bài thi Kiểm tra tư duy (2020) và kỳ thi Đánh giá tư duy (2022) bao gồm 3 tổ hợp cho thí sinh tự chọn (K01, K02 và K03). Bài thi tổ hợp diễn ra trong 270 phút, gồm ba phần: phần bắt buộc với môn Toán và Đọc hiểu (120 phút); phần tự chọn 1 gồm các môn khoa học tự nhiên: Lý, Hóa, Sinh (90 phút); phần tự chọn 2 là môn Tiếng Anh (60 phút) hoặc có thể quy đổi các chứng chỉ quốc tế như IELTS. Thí sinh bắt buộc làm các phần thi Toán – Đọc hiểu. Ở phần thi tự chọn, thí sinh có thể chọn phần thi khoa học tự nhiên hoặc tiếng Anh, hoặc cả hai.
Phần thi bắt buộc được tổ chức vào buổi sáng, hai phần tự chọn tổ chức vào buổi chiều để đảm bảo các thí sinh có thể thi cả ba phần.
|
Đánh giá tư duy
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811960
|
Bài thi đánh giá tư duy sẽ được thi trên giấy, các câu hỏi là trắc nghiệm và trả lời trên phiếu như thi THPT. Riêng môn Toán và Tiếng Anh có một phần tự luận để đánh giá cách tư duy và khả năng trình bày của các thí sinh.
2023–nay.
Kể từ năm 2023, bài thi Đánh giá tư duy được thiết kế gồm bốn dạng trắc nghiệm gồm chọn đáp án, trả lời đúng sai, kéo thả và điền vào chỗ trống, chuyển từ thi trên giấy sang máy tính. Bài thi Đánh giá tư duy mới gồm ba phần Toán học, Đọc hiểu và Giải quyết vấn đề, diễn ra trong 150 phút trên máy tính với thang điểm tối đa 100. Các câu hỏi được thiết kế theo ba mức độ tư duy: tái hiện, suy luận và bậc cao. Trong đó, phần tái hiện chiếm 20-30% đề thi, mỗi phần còn lại chiếm 30-40%. Sau khi hoàn thành bài thi, thí sinh được cấp giấy chứng nhận có giá trị trong hai năm, được đăng ký xét tuyển vào bất cứ đại học nào sử dụng kết quả của kỳ thi Đánh giá tư duy.
Danh sách đơn vị tuyển sinh sử dụng kết quả kỳ thi.
Danh sách 33 đại học, trường đại học và học viện sử dụng kết quả kỳ thi Đánh giá tư duy để xét tuyển đại học năm 2023.
|
Pav bhaji
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811971
|
Pav bhaji (tiếng Marathi: पाव भाजी) là một món ăn đường phố Ấn Độ, bao gồm cà ri rau dày ("bhaji") ăn kèm với bánh mì mềm cuộn ("pav"). Nó có nguồn gốc ở thành phố Mumbai.
Lịch sử.
Món ăn này có nguồn gốc là món ăn nhanh vào giờ ăn trưa của công nhân nhà máy dệt ở Mumbai. Pav bhaji sau đó được phục vụ tại các nhà hàng trên khắp thành phố. Pav bhaji hiện được cung cấp tại các cửa hàng từ xe đẩy tay đơn giản đến các nhà hàng sang trọng ở Ấn Độ và trên thế giới.
Chuẩn bị.
Pav bhaji là một hỗn hợp gia vị gồm các loại rau nghiền trong nước sốt đặc ăn kèm với bánh mì. Các loại rau trong món cà ri thường bao gồm khoai tây, hành tây, cà rốt, ớt, đậu Hà Lan, ớt chuông và cà chua. Những người bán hàng rong thường nấu cà ri trên chảo phẳng (tava) và phục vụ món ăn nóng. Bánh mì cuộn trắng mềm là món ăn kèm thông thường của món cà ri, nhưng điều này không ngăn cản việc sử dụng các loại bánh mì khác như chapati, roti hoặc bánh mì nâu.
Các biến thể.
Các biến thể của pav bhaji bao gồm:
|
Raphael Success
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811972
|
Akwa Raphael Success (sinh ngày 10 tháng 3 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Nigeria hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cánh cho câu lạc bộ Công an Hà Nội tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam.
|
Chính Long
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811978
|
Chính Long có thể là:
|
Dãy núi Acarai
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811983
|
Dãy núi Acarai (chữ Anh: "Acarai Mountains", chữ Bồ Đào Nha: "Serra do Acaraí", chữ Pháp: "Montes Acaraí") là dãy núi phân chia ranh giới Brazil và phía nam Guyana, cao khoảng 600 mét (2.000 bước Anh) so với mặt nước biển, chạy theo hướng đông - tây, kéo dài khoảng 130 kilômét (80 dặm Anh), hình thành một phần đường phân thuỷ ở phía bắc bồn địa Amazon. Toàn bộ khu vực là rừng mưa nhiệt đới rậm rạp, xum xuê. Dãy núi Acarai là một trong bốn dãy núi lớn của Guyana, ba dãy nũi khác là dãy núi Imataka, dãy núi Kanuku và dãy núi Pacaraima. Đầu nguồn của sông Essequibo - sông dài nhất Guyana, và sông Courantyne, đều nằm trên dãy núi này. Đầu nguồn sông Essequibo là do đoàn thám hiểm người Guyana - Đức phát hiện vào năm 2013. Dãy núi lần đầu tiên được nhắc đến bởi A.H. Brué, ông gọi nó là "Sierra do Acaray". Cuối niên đại 1970, vệ tinh nhân tạo đã chụp vẽ bản đồ khu vực này.
Dãy núi là nơi sinh sống của người Wai-wai, họ là hậu duệ của bộ lạc Taruma. Họ lần đầu tiên được đề cập vào khoảng năm 1837.
Dãy núi Acarai có điểm cao nhất nằm ở , cao 1.009 mét (3.310 bước Anh) so với mặt nước biển. Dãy núi duỗi dài về phía đông, trở thành dãy núi Tumuk Humak phân chia ranh giới giữa Brazil với Suriname và Guiana thuộc Pháp.
|
Boeing KB-29 Superfortress
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811987
|
Boeing KB-29 là một loại máy bay được sửa đổi từ Boeing B-29 Superfortress dành cho nhiệm vụ tiếp nhiên liệu trên không của Không quân Hoa Kỳ (USAF). Có hai phiên bản chính được phát triển và sản xuất là KB-29M và KB-29P.
Phi đội tiếp Nhiên liệu Trên không 509 (đóng quân tại Căn cứ Không quân Walker ở New Mexico), và Phi đội tiếp Nhiên liệu Trên không 43 (thuộc Căn cứ Không quân Davis–Monthan ở Arizona) được thành lập vào năm 1948 để vận hành các máy bay KB-29M. Phi đội Hệ thống Hàng không 303 tại căn cứ Davis-Monthan đã sử dụng B-29 và KB-29 từ năm 1951 đến năm 1953 để huấn luyện các hoạt động bắn phá chiến lược và tiếp nhiên liệu trên không nhằm đáp ứng các cam kết toàn cầu của Bộ tư lệnh Không quân Chiến lược (SAC). KB-29 cũng từng được triển khai tại Căn cứ Không quân Sidi Slimane ở Maroc thuộc Pháp từ ngày 5 tháng 10 đến ngày 6 tháng 11 năm 1952.
Biến thể.
KB-29M.
B-29 đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển hoạt động tiếp nhiên liệu trên không vào cuối thập niên 1940. Máy bay đầu tiên tham gia vào hoạt động này là máy bay chở nhiên liệu KB-29M và máy bay nhận nhiên liệu KB-29MR. Lúc đầu, để tiếp nhiên liệu giữa 2 máy bay đang bay, họ sử dụng một hệ thống neo giữ bằng móc, được gọi là phương pháp ống vòi vòng; máy bay chở nhiên liệu sẽ bay theo đội hình ở phía sau, bên trên và bên trái của máy bay nhận. Sau đó, nó sẽ thả một sợi dây cáp được gắn với vật nặng 25 kg (để làm cho nó được treo lủng lẳng gần như thẳng đứng). Máy bay nhận cũng sẽ kéo theo một dây cáp (để làm cho dây gần như nằm ngang), đầu dây kết thúc bằng hình nón và có một cái móc. Khi cả hai dây cáp đều được 2 máy bay kéo theo, máy bay chở nhiên liệu sẽ băng qua bên phải của máy bay nhận để hai dây cáp quấn lấy nhau. Sau đó, máy bay tiếp liệu kéo cả hai dây vào thân của nó tại vị trí mà cáp của máy bay nhận kết nối với ống của máy bay tiếp liệu. Sau khi kết nối với các ngăn chứa nhiên liệu bên trong, quá trình bơm sẽ bắt đầu. Khi máy bay nhận đầy nhiên liệu, quy trình được đảo ngược cho phép máy bay tiếp liệu thu hồi ống vòi và máy bay nhận thu hồi dây cáp.
|
Boeing KB-29 Superfortress
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811987
|
Mặc dù phương pháp này còn vụng về, nhưng nó thường được sử dụng vào cuối thập niên 1940 trước khi có hệ thống khác tốt hơn được phát triển. Kiểu tiếp liệu này từng được sử dụng cho máy bay "Lucky Lady II" trong chuyến bay vòng quanh thế giới nổi tiếng của nó vào năm 1949. Điều này giúp làm lung lay lập luận về câu hỏi liệu nên để Không quân Hoa Kỳ hay Hải quân Hoa Kỳ (USN) cung cấp khả năng vận chuyển hạt nhân. USAF đã giành chiến thắng trước USN bằng việc mở rộng quy mô lớn Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược và các chương trình siêu tàu sân bay của Hải quân bị hủy bỏ.
Phương pháp ống vòi vòng đòi hỏi cần nhiều người tham gia vào quá trinh kéo dây cáp và ống vòi, do đó nó chỉ được áp dụng với các máy bay lớn vì có nhiều thành viên phi hành đoàn. Để tiếp nhiên liệu trên không cho máy bay một hoặc hai chỗ ngồi chẳng hạn như các máy bay chiến đấu phản lực, một số chiếc KB-29M sử dụng phương pháp hệ thống ống dẫn đầu rổ và đầu dò (probe-and-drogue). Trong hệ thống này, một ống mềm được kéo thả ra từ máy bay tiếp liệu, đầu ống gắn với van và phụ kiện giống như cái rổ lớn (drogue), phụ kiện này giúp giữ ổn định ống trong khi bay, đồng thời nó cũng có một cái phễu để hỗ trợ đưa đầu dò trên máy bay nhận liên kết với ống mềm. Máy bay nhận có một đầu dò (probe) gắn trên mũi hoặc trên thân, phi công sẽ điều khiển máy bay đưa đầu dò vào bên trong phụ kiện rổ và kết nối với ống mềm của máy bay tiếp liệu.
Một chiếc KB-29M được điều chỉnh để có thêm hai ống tiếp nhiên liệu trên đầu cánh, và đổi tên thành YKB-29T. Nó được xem là nguyên mẫu cho KB-50D.
Các hệ thống tiếp nhiên liệu trên KB-29M được phát triển và lắp đặt bởi Flight Refueling Ltd tại Tarrant Rushton ở Anh.
KB-29P.
Trong nỗ lực cải thiện hệ thống đầu rổ và đầu dò (probe-and-drogue), Boeing đã phát triển một hệ thống ống cứng (rigid flying boom system), lần đầu tiên được sử dụng trên KB-29P. Ống được gắn ở phía sau cùng của máy bay và sử dụng một bộ bề mặt điều khiển giống đuôi chữ V để giúp ổn định ở đầu phía xa của nó.
|
Boeing KB-29 Superfortress
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811987
|
Các bề mặt kiểu đuôi chữ V vẫn được sử dụng trên hầu hết các máy bay tiếp liệu của Không quân Mỹ trong thế kỷ 21, người phụ trách tiếp liệu có thể điều khiển hệ thống này. Hệ thống ống cứng trở thành phương pháp tiếp nhiên liệu phổ biến nhất trong USAF khi nó được trang bị trên KC-97 Stratofreighter, KC-135 Stratotanker, KC-10 Extender, KC-46 Pegasus, và được Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược chọn làm phương pháp ưa thích cho các máy bay ném bom của họ. KB-29P được vận hành bởi Phi đội tiếp Nhiên liệu Trên không 420 đóng tại Khu Huấn luyện Sculthorpe ở Norfolk vào giữa thập niên 1950.
Thông số kỹ thuật (KB-29P).
"Dữ liệu lấy từ" United States Military Aircraft since 1909
Xem thêm.
Máy bay có sự phát triển liên quan
Máy bay có vai trò, cấu hình và thời đại tương đương
Danh sách liên quan
|
Guitar World
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811989
|
Guitar World là một tạp chí âm nhạc hàng tháng dành cho các nghệ sĩ guitar – và người hâm mộ âm nhạc và xu hướng dựa trên guitar – lần đầu được xuất bản từ tháng 7 năm 1980. "Guitar World" (tạp chí guitar bán chạy nhất tại Hoa Kỳ) chứa các buổi phỏng vấn và hồ sơ nghệ sĩ nguyên bản, cộng với các bài học/chuyên mục (với bản chép nhạc và các tệp âm thanh hoặc video liên quan), đánh giá trang thiết bị, tin tức và bản chép nhạc độc quyền (dành cho guitar và bass) của ba bài hát ở mỗi số in. Tạp chí được Future plc xuất bản 13 số mỗi năm (12 số hàng tháng và một số kì nghỉ lễ). Damian Fanelli là Tổng biên tập của Guitar World kể từ tháng 6 năm 2018.
Lịch sử ra đời.
Stanley Harris (một nhà xuất bản tạp chí ở New York) đã cho ra đời tạp chí "Guitar World" vào tháng 7 năm 1980. Số đầu tiên của tạp chí có hình nghệ sĩ blues Johnny Winter trên trang bìa và có mảng ảnh của của The Allman Brothers Band, George Thorogood và guitar điện có bàn đạp chỉnh tiếng. Như cựu Tổng biên tập Brad Tolinski viết trong số tạp chí kỷ niệm 40 năm thành lập, "Đó là một khởi đầu tốt, nhưng mảng thiết kế và nội dung biên tập vẫn còn hơi mờ nhạt. Nếu bạn so sánh nó với một bộ khuếch đại, số ít vấn đề đầu tiên của GW là một combo tweed 40 watt rắn chắc, trong khi thứ mà Harris thực sự muốn là một dãy Marshalls 100 watt."
Dennis Page (một đại diện quảng cáo tranh thủ phụ trách mảng kinh doanh của tạp chí mới) đã thuê một Tổng biên tập mới là Noe Goldwasser [hay được gọi là Noe Gold]; Gold đã để tâm đến giới nhạc metal underground, nên in bài đầu tiên trong số nhiều câu chuyện trang bìa với Eddie Van Halen. Ông là người biên tập một số số báo mang tính bước ngoặt ở thập kỷ đầu tiên của tạp chí, tính cả số kỷ niệm lần thứ 5 của "GW" vào năm 1985, trong đó có nguyên tập kỷ niệm Jimi Hendrix; và một lời tri ân dành cho Jimmy Page của Led Zeppelin vào tháng 7 năm 1986, ghi một cuộc phỏng vấn dài 15 trang với vị huyền thoại ẩn dật này, cùng với các bản chép lại những ghi chú đầu cho các khúc solo của Page với "Stairway to Heaven" và "Rock and Roll".
Khi Gold rời tạp chí vào năm 1988, những người thay thế ông là Tổng biên tập Joe Bosso và Giám đốc biên tập Matt Resnicoff.
|
Guitar World
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811989
|
Do sở thích âm nhạc khác nhau của họ (Bosso thích đưa tin về các nghệ sĩ rock 'n' roll trong khi Resnicoff là một tín đồ của jazz-fusion), tạp chí đã vấp phải cách tiếp cận chia sẽ về mảng đưa tin. Như nhà xuất bản Page kể, "Có lúc tạp chí đã lạc lối. Chúng tôi bắt đầu đưa vào rất nhiều nhạc jazz, thứ mà độc giả của chúng tôi chẳng quan tâm. Tôi biết chìa khóa dành cho chúng tôi là trẻ hơn chứ không phải già đi."
Thay đổi ấy đã đến vào năm 1989, khi Tolinski được mời đảm nhận vai trò lãnh đạo của tạp chí. Tolinski viết vào năm 2020: “Chỉ cần nhìn thoáng qua các số tháng 5 và tháng 6 năm 1989 là tóm tắt được câu chuyện. Ở một trang bìa, Allan Holdsworth trông có vẻ khá lo lắng rụt rè nấp sau cây đàn Steinberger của anh ấy, và ở trang tiếp theo, Zakk Wylde bùng nổ với cơn giận dữ con thú thuần túy trong khi tít báo hét lên SPECIAL REPORT! THE YOUNG GUNS OF METAL. "GW" đã chuyển từ đen trắng sang in màu đầy đủ."
Tolinski vẫn ở lại tạp chí cho đến tháng 4 năm 2015, khi vị trí của ông được thay thế bởi Jeff Kitts (từng nằm trong ban biên tập của "GW" từ đầu thập niên 1990). Rồi người kế nhiệm Kitts là Damian Fanelli, làm tổng biên tập của GW kể từ tháng 6 năm 2018; Fanelli đã làm việc cho tạp chí từ năm 2011, lúc đầu làm biên tập viên quản lý mảng trực tuyến của tạp chí, rồi trở thành biên tập viên quản lý của tạp chí.
Lịch sử xuất bản và tạp chí chị em.
Số đầu tiên của "Guitar World" chỉ dày 82 trang, có số lượng nhân viên và ngân sách rất nhỏ và thậm chí không có lịch phát hành hàng tháng trong khoảng 12 năm đầu tiên xuất bản. Đến năm 1984, "GW" bắt đầu nhân lên – các chi nhánh phát sinh trở thành một phần trọng tâm của ấn phẩm khi chủ nhân tìm cách mở rộng phạm vi tiếp cận sang các thị trường và nhân khẩu học khác. Năm ấy chứng kiến sự ra đời của "Guitar Heroes", chuyên mục hướng dẫn one-shot cho hơn 100 người trong số các nghệ sĩ guitar vĩ đại nhất mọi thời đại.
|
Guitar World
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811989
|
Đầu năm 1992, ý tưởng này được phục hồi với tên "gọi Guitar World Legends" bán thường niên, song đi kèm một thay đổi lớn: mỗi số báo được hình thành nhằm tôn vinh dành cho một nghệ sĩ hoặc thể loại, và chứa các cuộc phỏng vấn, các bài học, hướng dẫn trang thiết bị, ảnh hiếm, v.v cũ của "GW".
"Revolver" (một trong những ấn phẩm hard rock và metal hàng đầu vẫn đang hoạt động) được xem là ấn phẩm chị em của "GW" vào năm 1999. Khi xuất hiện trên các sạp báo vào mùa xuân năm 2000, số đầu tiên của "Revolver" chứa đựng sự kết hợp nội dung độc đáo, gồm lịch sử truyền miệng về The Doors, cảnh hậu trường về giới nhạc pop Nhật Bản và các thành viên của Slipknot mặc vest thời trang của nam. Nhưng có lẽ thế giới vẫn chưa sẵn sàng cho một sự kết hợp chiết trung như vậy: chỉ sau một vài số phát hành, "Revolver" đã được tái trang bị và tái ra mắt lại thành tạp chí mà người hâm mộ metal biết đến ngày nay.
"GW" lần lượt được các đơn vị Harris Publications xuất bản từ 1980 đến 2003 và Future US xuất bản từ 2003 đến 2012. NewBay Media tiếp quản tạp chí từ năm 2012 đến 2018, cho đến khi Future plc mua lại tạp chí vào tháng 4 năm 2018. "Guitar World" từng mô tả ca khúc "War Pigs" của Black Sabbath là "bài hát heavy metal hay nhất từ trước đến nay."
GuitarWorld.com.
"GuitarWorld.com" được ra mắt lần đầu tiên vào năm 1994 dưới dạng bản sao trực tuyến của tạp chí "Guitar World". Ấn bản do một nhóm điều hành riêng so với ấn phẩm in và đăng các tin tức, tính năng, cuộc phỏng vấn, bài học, bài đánh giá và hướng dẫn người mua về guitar cập nhật từng phút, cũng như nội dung chọn lọc từ tạp chí. Trang web đạt 3,3 triệu người dùng mỗi tháng. Kể từ năm 2020, ấn phẩm đã trở thành ngôi nhà trực tuyến của các thương hiệu guitar khác của Future, kể cả các tựa tạp chí "Guitarist", "Total Guitar", "Guitar Techniques" của Anh và "Bass Player" của Mỹ, trước đây tất cả đều được lưu trữ trên trang web chị em "MusicRadar" của "GuitarWorld.com". "Australian Guitar" cũng là một phần trong danh mục thương hiệu "GuitarWorld.com".
Trong kỷ nguyên NewBay Media của "Guitar World", trang web do Damian Fanelli làm biên tập (hiện đang nắm chức Tổng Tổng biên tập của tạp chí in). Kể từ năm 2019, Tổng biên tập của "GuitarWorld.com" là cựu biên tập viên mảng guitar của "MusicRadar", Michael Astley-Brown.
|
Kyril Whittaker
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811992
|
Kyril Whittaker
|
Tiệc trà
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811998
|
Tiệc trà ("Tea party" hay "Tea meal") là một bữa tiệc sự kiện hội họp được tổ chức vào buổi chiều bắt nguồn từ truyền thống thượng lưu Anh quốc. Tiệc trà được coi là dành cho các cuộc họp kinh doanh trọng thể, lễ kỷ niệm xã hội trang trọng hoặc chỉ như là một bữa ăn nhẹ vào buổi chiều. Ban đầu, trong một bữa tiệc trà thì món trà lá được phục vụ để trong ấm trà cùng với sữa và đường. Nhiều loại thức ăn như bánh mì, bánh nướng, bánh ngọt và bánh quy được phục vụ cùng với trà theo cách xếp tầng. Thức ăn phục vụ trong tiệc trà tùy theo mùa. Mọi người thường dùng thức ăn khô vào mùa đông và sẽ dùng trái cây và quả mọng vào mùa hè và mùa xuân.
Các bữa tiệc trà trang trọng thường nó nét đặc trưng với các dụng cụ sang trọng như đồ sứ, đồ bạc. Bàn tiệc có thể được phủ khăn ăn và cốc và đĩa được bài trí. Tiệc trà kiểu Anh là một văn hóa thưởng trà truyền thống của nước Anh. Thường thì người Anh dành một khoảng thời gian vào buổi chiều để thưởng thức những tách trà nóng cùng bánh ngọt. Tiệc trà kiểu Anh thường nặng về hình thức và kèm theo là một thực đơn gồm các loại bánh đắt tiền chứng tỏ sự cao sang, quý tộc và thịnh soạn gọi là "trà bá tước". Nữ hoàng Victoria được cho là đã từng mua đồ thịnh soạn cho bữa tiệc trà tại Cung điện Buckingham. Theo truyền thống, những người hầu ở bên ngoài phòng cho đến khi được gọi vào.
Trong quá khứ, tiệc trà chiều được tổ chức thường xuyên. Trong khi đó, các bữa tiệc trà hiện nay đang trở thành các sự kiện tụ tập xã hội trong các nhà hàng tiệc trà cao cấp. Tiệc trà là bữa ăn nhẹ với các loại bánh ngọt, trái cây, nước uống giúp thực khách thoải mái khi tham gia vào các sự kiện, hội nghị. Thông thường tiệc trà diễn ra vào giữa buổi tiệc nhưng cũng có những sự kiện thì tiệc này được tổ chức đầu hoặc cuối. Tiệc trà có thời gian tổ chức khoảng 30 đến 45 phút và thường được tổ chức ở hình thức tiệc đứng (buffet) đứng để tạo không gian thoải mái, linh động.
|
Tiệc trà
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811998
|
Thực đơn tiệc trà nhẹ có sự góp mặt của các loại bánh ngọt teabreak đa dạng kết hợp với các hương vị tự nhiên của thức uống ấm nóng, thêm vào đó là trái cây tươi đã được cắt gọt sẵn. Tiệc trà thường được tổ chức với mục đích như khai trương cửa hàng, khai mạc các sự kiện hội nghị quan trọng hay các chương trình có giờ nghỉ giải lao giữa giờ.
|
Kappa Mikey (phim)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811999
|
là một bộ phim hoạt hình của Mỹ được sản xuất bởi . Bộ phim này được thực hiện bởi hãng phim Animation Collective của Schwarz. Bộ phim này được công chiếu vào ngày 25 tháng 2 năm 2006 và kết thúc vào ngày 20 tháng 9 năm 2008. Bộ phim này có 52 tập.
Tại Việt Nam, loạt phim ra mắt trọn bộ 52 tập đã có thuyết minh được phát sóng trên kênh An Viên - BTV9, SAM - BTV11.
Bộ phim này được đón nhận lần đầu tiên vào năm 2002, khi có thông báo rằng nhóm thiếu niên The N của Noggin sẽ đồng phát triển và phát sóng bộ phim này. "Animation World Network" báo cáo rằng Noggin/The N đã ký hợp đồng với tư cách là nhà đồng sản xuất. Tuy nhiên, bộ phim này đã được chuyển sang Nicktoons Network, một kênh cùng loại với Noggin. Với động thái này, nó đã trở thành loạt phim dài nửa tiếng đầu tiên được công chiếu độc quyền trên Nicktoons.
Cốt truyện.
Bộ phim này là một bản nhại (parody) của anime Nhật Bản, kể về một diễn viên trẻ người Mỹ tên là Mikey Simon, người có ngoại hình được tạo kiểu theo phim hoạt hình của phương Tây, và đến Nhật Bản để đóng vai chính trong một tokusatsu có tên ""LilyMu", nơi các diễn viên chịu ảnh hưởng từ anime của họ đại diện cho những khuôn sáo anime phổ biến.
Mỗi tập phim tuân theo những bước cụ thể. Một tập phim điển hình bắt đầu với việc dàn diễn viên quay một phân đoạn "của" "LilyMu", nhưng cảnh quay bị hỏng, đôi khi để lộ xung đột mà các nhân vật phải giải quyết trong suốt phần còn lại của tập phim, với một tình tiết phụ chạy bên dưới cốt truyện chính. Sau khi vấn đề được giải quyết, phân đoạn "LilyMu" sẽ được quay lại và hoàn thành xuất sắc lần thứ hai, thường được viết lại để kết hợp bất kỳ bài học nào đã học được trong câu chuyện chính.
Vào sâu trong phần 2, "Kappa Mikey" đã ngừng chiếu phân cảnh "LilyMu" ở cuối tập phim bất cứ khi nào nó khiến tập phim quá dài, khi các nhân vật mặc đồng phục "LilyMu" của họ đủ như vậy hoặc khi họ quay thành công một phân cảnh mà không có bất kỳ chỗ nào sai lầm trước khi kết thúc.
Sản xuất.
Tiêu đề của bộ phim này là một cách chơi chữ "kappamaki", một loại sushi. Có ý kiến cho rằng, bộ phim này là nguồn cảm hứng để đặt tên cho nhân vật tiêu đề là "Mikey" và sử dụng tiền tố "kappa".
|
Kappa Mikey (phim)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811999
|
Giống như "Mikey", một "con cá ra khỏi nước" ở Nhật Bản, bản thân "kappa" là một sinh vật quỷ ở dưới nước có thể sống trên cạn. Các "kappa" lần đầu tiên xuất hiện trong bộ phim này trong tập "Kappa Mikey"" vào ngày 5 tháng 8 năm 2007, nơi nguồn gốc của tiêu đề được giải thích. Thật trùng hợp, Mikey cũng chia sẻ tên của mình với diễn viên lồng tiếng.
Không giống như các phim hoạt hình khác được sản xuất vào đầu thế kỷ 21, tài sản này thuộc sở hữu của hãng phim thay cho một công ty quản lý, phim này không được thuê bên ngoài và các tập phim được viết bởi nhân viên toàn thời gian. Sau khi sản xuất các dự án dựa trên Internet và các điểm truyền hình, loạt phim này đã trở thành loạt phim hoạt hình đầu tiên của Animation Collective. Bộ phim được sản xuất tại Thành phố New York; quá trình tiền sản xuất bắt đầu vào năm 2002 và hoạt hình bắt đầu vào mùa hè năm 2005. Quá trình sản xuất hai phần kết thúc vào tháng 9 năm 2007.
Schwarz hình thành bộ phim này vào năm 2000, khi ông đang làm việc tại Rumpus Toys, một công ty thiết kế đồ chơi ở Thành phố New York, nhưng họ đã sắp xếp lại trước khi bất kỳ quá trình xây dựng bảng phân cảnh nào có thể bắt đầu. Nhiều năm sau, họ xuất hiện trở lại với tư cách là người của Animation Collective và sản xuất một cốt truyện thử nghiệm ban đầu để quảng cáo chiêu hàng cho MTV Networks, nơi các thiết kế và bối cảnh nhân vật gần giống với những gì được tìm thấy trong sê-ri "Perfect Hair Forever" dành cho người lớn, và sự hài hước cũng hướng đến người lớn hơn. Phần lớn dàn diễn viên hiện tại đã lồng tiếng cho các nhân vật của họ ngay cả trong giai đoạn đầu sản xuất.
Vào tháng 9 năm 2001, Sunbow Entertainment đã ký hợp đồng cùng sản xuất với Rumpus Toys để sản xuất loạt phim này. Công ty mẹ của Sunbow TV-Loonland AG sẽ nắm giữ quyền phân phối video tại nhà và trên toàn thế giới. Vào tháng 5 năm 2002, dự án này đã được Noggin chọn cho khối lập trình dành cho thanh thiếu niên The N. Noggin/The N đã ký thỏa thuận đồng phát triển cho bộ phim, trong khi Animation Collective giữ bản quyền của loạt phim và tiếp quản quyền phân phối từ TV-Loonland. Chương trình đã được trang bị lại để thu hút nhóm nhân khẩu học trẻ hơn một chút so với khán giả chính từ 18-34 tuổi của MTV.
|
Kappa Mikey (phim)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811999
|
Vì những lý do không rõ, Sunbow sau đó đã rút khỏi thỏa thuận và vào thời điểm hoạt hình hoàn thành, The N đã chuyển nhiều hơn sang các chương trình hành động trực tiếp và "Kappa Mikey" đã được chuyển đến Mạng lưới Nicktoons trẻ hơn, nơi loạt phim đã được điều chỉnh thậm chí hơn nữa để hướng đến đối tượng là trẻ nhỏ. Tài năng lồng tiếng thường là người địa phương và âm thanh của nó được ghi lại tại NYAV Post có trụ sở tại Manhattan, công ty chuyên sở hữu Michael Sinterniklaas. Larry Schwarz, cùng với các nhà sản xuất điều hành khác, giám sát tất cả các giai đoạn sản xuất, nhưng chỉ viết phần ghi công cho tập thử nghiệm, bao gồm ""Mikey Impossible" và "A Christmas Mikey". Tất cả các tập phim đều do Sergei Aniskov đạo diễn. Phần nhạc được sáng tác bởi John Angier, người cũng đã viết lời cho các bài hát, như "The Recycling Song", "Ori and Yori's Hits", "Living With Mikey", "How Did We Get Here?" và các bài hát trong "The Karaoke Episode".
Sê-ri được làm chuyển động bằng Adobe Flash, với công nghệ mô phỏng hình ảnh bằng máy tính (CGI), và được hiển thị bằng Maya. Để nhấn mạnh hơn nữa sự tương phản trong phong cách hoạt hình, một nhóm họa sĩ hoạt hình được giao cho các nhân vật anime và một nhóm khác phụ trách Mikey và các nhân vật người Mỹ khác. Các phương tiện trên "LilyMu"" và xung quanh Tokyo, cũng như vũ khí, khinh khí cầu Gonard, tàu của Vua hải tặc, Máy Karaoke Genie, v.v., được tạo trong Maya và xuất sang Flash bằng Bộ lọc Toon. Nền được tạo mô hình trong Maya và kết cấu, chi tiết và các "Clouds" được thêm vào trong Photoshop. Một số hình nền được lấy cảm hứng từ các địa điểm thực tế ở Tokyo. Các nhân vật theo phong cách anime của chương trình thể hiện với việc dùng quá nhiều lỗi trên khuôn mặt một cách hài hước, chẳng hạn như khuôn mặt và/hoặc cơ thể biến thành một ngoại hình phóng đại hoặc trở nên nhỏ hơn nhiều. Điều này cho phép các nhà làm phim hoạt hình có nhiều quyền kiểm soát hơn đối với diện mạo và hành động của một nhân vật so với nhiều chương trình Flash khác và họ không phải lúc nào cũng phải giống người mẫu. Bộ phim sử dụng những khuôn sáo phổ biến trong anime, bao gồm giọt mồ hôi, đường kẻ trên mắt hoặc không có mắt, đầu to, mắt rực lửa và cơ thể nhỏ lại.
|
Kappa Mikey (phim)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811999
|
Đôi khi Mikey sẽ cố gắng làm những điều này, đó là một trong những trò đùa của chương trình, nhưng không thể do được vẽ theo phong cách Mỹ.
""Dancing Sushi".
"Dancing Sushi"" là một sê-ri phụ dựa trên các đoạn quảng cáo ngắn trong sê-ri. Bộ truyện có bốn nhân vật - Salmon, Larry, Roro và Meep - tất cả đều muốn trở thành ngôi sao nhạc pop lớn nhất thế giới. Không giống như bộ truyện chính, "Dancing Sushi" không có bất kỳ đoạn hội thoại nào. Các nhân vật này được ""lồng tiếng" bởi những cá nhân có liên quan đến loạt phim Kappa Mikey gốc, bao gồm cả John Angier, nhà soạn nhạc của loạt phim và đạo diễn John Holt.
"Dancing Sushi" được sản xuất từ tháng 10 năm 2007 đến tháng 12 năm 2007. Nó được dự định là một cách để tiếp tục mang đến cho người hâm mộ "Kappa Mikey" nhiều loại nhân vật giống nhau hơn trong cùng một vũ trụ và cũng để giữ cho các nhà làm phim hoạt hình làm việc trong quá trình chuyển đổi giữa hai phần chính của hãng phim. "Speed Racer: The Next Generation"" đã được sản xuất ngay sau đó. Tại một thời điểm, người ta đã cân nhắc việc đưa một số nhân vật Kappa Mikey vào bộ truyện này.
|
Trà lúa mạch
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812001
|
Trà lúa mạch (tiếng Anh: "Barley tea", tiếng Hán: 大麦茶/"Đại mạch trà", tiếng Nhật: "Mugi-cha", tiếng Hàn: "Bori-cha") là một loại trà làm từ hạt rang từ lúa mạch. Trà lúa mạch là một mặt hàng chủ lực ở nhiều nước Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Trà lúa mạch có vị đắng, và hơi cay. Ở Hàn Quốc, trà lúa mạch được uống nóng hoặc dùng lạnh thường thay cho nước uống trong nhiều gia đình và nhà hàng. Ở Nhật Bản, trà lúa mạch thường được dùng lạnh và là thức uống giải khát phổ biến vào mùa hè. Trà lúa mạch cũng được bày bán rộng rãi dưới dạng trà túi lọc hoặc đóng chai ở Hàn Quốc và Nhật Bản. Trà lúa mạch đóng chai được bán tại siêu thị, cửa hàng tiện lợi, và máy bán hàng tự động ở Nhật Bản và Hàn Quốc, trà lúa mạch lạnh là thức uống rất phổ biến vào mùa hè ở Nhật Bản. Tại Hàn Quốc, trà lúa mạch nóng đựng trong chai PET chịu nhiệt cũng được tìm thấy trong các máy bán hàng tự động và tủ giữ nhiệt ở các cửa hàng tiện lợi.
|
Horchata
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812002
|
Horchata hay Orxata là tên được đặt cho nhiều loại đồ uống khác nhau, thường có nguồn gốc từ thực vật (sữa thực vật), nhưng đôi khi có hàm chứa sữa động vật. Ở Tây Ban Nha, nó được làm bằng hạt hổ (Tiger nut) ngâm, xay và làm ngọt. Ở Châu Mỹ Latinh và các khu vực khác của Châu Mỹ, thức uống này có nguyên liệu là jicaro, dưa hoặc hạt mè, hoặc gạo trắng, cùng với các loại gia vị khác. Các loại khác nhau có thể được phục vụ nóng hoặc dùng lạnh và có thể được sử dụng làm tăng hương vị trong các loại đồ uống khác, chẳng hạn như cà phê sinh tố. Horchata trong vai trò như một hương vị còn hiện diện trong mùi vị kem, bánh quy và các loại đồ ngọt khác và các sản phẩm khác như RumChata, một loại đồ uống có cồn. Một số cửa hàng bán sinh tố, cà phê và nhà hàng McDonald's ở Hoa Kỳ đã thử nghiệm cà phê sinh tố có hương vị Horchata.
Lịch sử.
Món đồ uống Horchata có một lịch sử từ lâu đời. Cái tên Horchata này có lẽ bắt nguồn từ một từ tiếng Latinh có nghĩa là lúa mạch, thuật ngữ Hordeata đến lượt nó lại xuất phát từ Hordeum (lúa mạch) có liên quan đến truyền thống chế độ ăn Địa Trung Hải về đồ uống làm từ ngũ cốc. Đồ uống này có nguồn gốc từ Bắc Phi và người ta ước tính rằng trong thế kỷ XI, nó bắt đầu lan rộng khắp Hispania (nay là bán đảo Tây-Bồ gồm Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha). Có những ghi chép từ thế kỷ XIII về một loại đồ uống giống như Horchata được sản xuất gần Valencia nơi mà nó là thức uống thông dụng. Từ Tây Ban Nha, khái niệm về Horchata đã được đưa đến Tân Thế giới. Ở đây, đồ uống được gọi là Agua de horchata hoặc đơn giản là Horchata được làm từ gạo trắng và quế hoặc canella thay thế hạt hổ. Đôi khi những thức uống này có thêm vani hoặc được phục vụ trang trí bằng trái cây.
|
Kiev (tỉnh 1708–1764)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812003
|
Tỉnh Kiev (tiếng Nga tiền cải cách: , ), là một đơn vị hành chính ("guberniya") của nước Nga Sa hoàng và sau là của Đế quốc Nga. Tỉnh được thành lập vào tháng 12 năm 1708 và là một trong tám "guberniya" đầu tiên được hình thành theo các cải cách của Pyotr Đại đế.
Mô tả.
Tỉnh Kiev vào thế kỷ 18 khác rất nhiều so với tỉnh Kiev vào thế kỷ 19. Khi một đơn vị chỉ nằm ở tả ngạn sông Dnepr, còn đơn vị sau này lại nằm bên kia sông. Trong cuộc cải cách lãnh thổ, Yekaterina Đại đế đã chuyển tỉnh thành phó vương quốc của Nga vào năm 1781. Tỉnh Kiev đầu tiên được thành lập trên phần lớn Quốc gia hetman Cossack, cùng cả một lãnh thổ rộng lớn ở phía đông của nó, trong khi Sich Zaporizhia đang là một lãnh thổ đồng cai trị của Đế quốc Nga và Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva.
Năm 1727, tỉnh này được tách thành tỉnh Kiev và tỉnh Belgorod. Năm 1764, có một sự phân chia khác khi tỉnh Tiểu Nga và Tân Nga được thành lập.
Năm 1781, tỉnh Kiev và Tiểu Nga được tổ chức lại thành các phó vương quốc Kiev, Novhorod-Siversky và Chernihiv ngay sau khi Ba Lan bị phân chia. Năm 1796, phó vương quốc Kiev được đổi tên lại thành tỉnh Kiev.
Biên giới của tỉnh đã trải qua những thay đổi đáng kể, đặc biệt là vào năm 1796 khi phần lớn lãnh thổ của nó được chuyển từ Ukraina tả ngạn sang Ukraina hữu ngạn. Kiev là trung tâm hành chính của guberniya.
Thành lập và các cải cách.
Tỉnh Kiev cùng với bảy tỉnh khác được thành lập vào ngày 29 tháng 12 [lịch cũ 18 tháng 12], năm 1708, theo sắc lệnh của Sa hoàng Pyotr Đại đế. Cũng như các tỉnh còn lại, biên giới cũng như các phân khu nội bộ của tỉnh Kiev đều không được xác định; thay vào đó, lãnh thổ được định nghĩa là một tập hợp các thành phố và vùng đất liền kề với các thành phố đó. Lãnh thổ ban đầu gần như dựa trên "vùng đất Siever", bao quanh là các tỉnh Smolensk, Moskva và Azov.
Ngoài ra, mười bảy thành phố (theo nguồn; chỉ có mười sáu thành phố thực sự được liệt kê) của tỉnh Azov được giao cho tỉnh Kiev do vị trí địa lý gần Kiev hơn Azov. Trong số những thành phố như vậy có Kharkov và Staroy Oskol. Ngoài ra, Kiev cũng được triều đình giao cho Trubchevsk và hai thành phố khác từ tỉnh Smolensk, trong khi một số thành phố của Kiev lại được giao cho Azov và Smolensk.
|
Kiev (tỉnh 1708–1764)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812003
|
Với tư cách là đơn vị hành chính, tỉnh này có tiền thân là đơn vị Trung đoàn của Quốc gia hetman Cossack. Đáng chú ý là thực tế cả hai đơn vị đã tồn tại trong hầu hết thế kỷ 18, trong đó đơn vị hành chính Trung đoàn đã bị loại bỏ dần và sau đó chỉ tồn tại cho mục đích quân sự. Vào thời điểm thành lập, tỉnh này có diện tích 231.000 km² lãnh thổ hiện là một phần Ukraina và tây nam nước Nga.
Tỉnh ban đầu được chia thành các "uyezd" và razryad, tỉnh này đã bãi bỏ hệ thống hành chính lỗi thời của một đế chế đang phát triển nhanh chóng. Trong cuộc cải cách hành chính năm 1710, tất cả các tỉnh được chia thành các lô hành chính-tài chính ("doli") và tỉnh Kiev bao gồm năm lô. Các lô được quản lý bởi landrat, bắt nguồn từ ủy viên hội đồng đất đai của Đức.
Một sắc lệnh cải cách mới được ban hành vào ngày 29 tháng 5 năm 1719. Các lô bị bãi bỏ và tỉnh được chia nhỏ thành bốn tỉnh cấp hai có trung tâm là Belgorod, Kiev, Oryol và Sevsk, đồng thời được đặt tên theo thành phố đó. Đến năm 1719, tỉnh bao gồm 41 thành phố. Các tỉnh cấp hai lại được chia thành các huyện. Bất chấp cải cách, việc chia nhỏ tỉnh thành các trung đoàn vẫn được sử dụng song song với các tỉnh cấp hai.
Trong quá trình cải cách hành chính năm 1727, các tỉnh cấp hai Belgorod, Oryol và Sevsk được tách ra thành tỉnh Belgorod, chỉ còn tỉnh cấp hai Kiev nằm trong tỉnh Kiev. Các guberniya vào thời điểm này được chia thành các uyezd thay thế các huyện.
|
Freikörperkultur
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812006
|
Freikörperkultur (FKK) là một nền văn hóa xã hội và quan niệm sức khỏe bắt nguồn từ Đế quốc Đức, sự khởi đầu của Freikörperkultur là một phần lịch sử của phong trào xã hội Lebensreform vào cuối thế kỷ XIX. Thuật ngữ "Freikörperkultur" có nghĩa là văn hóa tự do thân thể, bao gồm sự kết nối các khía cạnh sức khỏe của việc khỏa thân phơi nắng, hưởng không khí và ánh nắng mặt trời, phong trào này diễn ra với ý định cải cách cuộc sống và xã hội. Nó giống một phần với văn hóa khỏa thân, chủ nghĩa trần trụi và chủ nghĩa khỏa thân theo nghĩa khỏa thân bình thường của mọi người và gia đình trong thời gian rảnh rỗi, trong hoạt động thể thao và cuộc sống hàng ngày.
Đến thế kỷ XX, văn hóa khỏa thân ngoài trời công cộng thì "ở ngoài trời thật tuyệt vời" và những lợi ích của nó đối với sức khỏe cộng đồng đã nở rộ ở Đức như một giải pháp thay thế cho những căng thẳng và lo lắng của cuộc sống đô thị, và áp lực của xã hội công nghiệp hóa. Ngày nay, chỉ có một số hạn chế pháp lý đối với việc khỏa thân nơi công cộng ở Đức. Theo thuật ngữ ""chủ nghĩa tự nhiên" ("Naturism") và "chủ nghĩa khỏa thân"" ("Nudism") hiện nay nó đã lan rộng trên toàn thế giới, với các hiệp hội và môi trường giải trí công cộng được chỉ định ở nhiều quốc gia ở châu Âu, Bắc Mỹ và Nam Mỹ, châu Úc, châu Phi, châu Á và Caribe nơi diễn ra phong trào này quy mô nhất vẫn được ghi nhận ở khu vực các nước nói tiếng Đức và Scandinavia.
Văn hóa khỏa thân đã tồn tại lâu đời ở Đức như đó là một nét văn hóa tiêu biểu của người Đức. Từ cuối thế kỷ XIX, rất nhiều người dân nước này tin rằng không mặc quần áo cho dù là đồ lót, khi bơi lội sẽ có lợi cho sức khỏe. Tổ chức về FKK đầu tiên ở Đức được thành lập năm 1898, hướng tới việc chăm sóc và cải thiện sức khỏe. Sau đó văn hoá này nhanh chóng phổ biến ở các vùng lân cận Berlin, vùng biển Bắc và biển Baltic.
|
Freikörperkultur
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812006
|
Ngày nay du khách được phép để mình trần tại nhiều khu vực tắm suối khoáng, xông hơi hay trung tâm chăm sóc sức khỏe cũng như bãi biển nơi mọi người với mọi vóc dáng đều cảm thấy thoải mái khi trút bỏ trang phục nhưng không hề liên quan đến tình dục và cũng không hướng đến vẻ ngoài, văn hóa khỏa thân có ý nghĩa hoàn toàn trái ngược với những quảng cáo khiêu dâm hay quan điểm chung của xã hội khác mà với nhiều nơi khác nếu ai đó được trông thấy đang khỏa thân ở nơi công cộng, họ có thể bị coi như một kẻ trụy lạc. Xu hướng mang tính tự nhiên này mang thông điệp rằng con người hãy tự tin với cơ thể của mình, mọi người đều bình đẳng.
|
One Piece (phim truyền hình 2023)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812013
|
One Piece là một loạt phim truyền hình trực tuyến mang đề tài phiêu lưu của Mỹ do Matt Owens và Steven Maeda phát triển. Được chuyển thể người đóng từ bộ manga cùng tên của Nhật Bản được xuất bản vào năm 1997 bởi Oda Eiichiro. Loạt phim được sản xuất bởi Kaji Productions, Tomorrow Studios và Shūeisha với sự góp mặt của dàn diễn viên bao gồm có Iñaki Godoy, Arata Mackenyu, Emily Rudd, Jacob Romero Gibson và Taz Skylar. Loạt phim dự kiến sẽ công chiếu lần đầu tiên vào ngày 31 tháng 8 năm 2023 trên nền tảng Netflix.
Tiền đề.
Các tập phim chủ yếu xoay quanh cuộc phiêu lưu của cậu bé Monkey D. Luffy và băng hải tặc Mũ Rơm với hành trình khám phá các đại dương nguy hiểm, những vùng đất xa xôi để tìm kiếm kho báu huyền thoại "One Piece". Tuy nhiên, họ lại phải chiến đấu với nhiều băng hải tặc xấu khác cũng đang tìm kiếm One Piece và Hải quân muốn diệt trừ hải tặc. Được trang bị với những kỹ năng và tình đồng đội không thể phá vỡ, băng Mũ Rơm sẽ phải trải qua bao nhiêu khó khăn, không lùi bước với ước mơ "trở thành Vua Hải Tặc".
Sản xuất.
Triển khai.
Vào tháng 7 năm 2017, tổng biên tập Nakano Hiroyuki từ tạp chí Weekly Shōnen Jump đã thông báo về việc công ty Tomorrow Studios và Shūeisha sẽ chuẩn bị sản xuất một bộ phim truyền hình người đóng được chuyển thể từ bộ manga "One Piece" của Oda Eiichiro nhằm để kỷ niệm 20 năm bộ truyện này ra mắt. Ngoài ra, Oda sẽ đóng vai trò là nhà sản xuất điều hành cho loạt phim cùng với giám đốc điều hành của Tomorrow Studios là ông Adelstein và Becky Clements. Theo báo cáo, loạt phim sẽ khởi đầu dựa trên phần hành trình tại Biển Đông (chương 1–100). Adelstein cũng dự đoán rằng, chi phí sản xuất cho loạt phim có thể lập kỷ lục mới.
Vào đầu năm 2020, Netflix đã lệnh sẽ sở hữu cho mùa đầu tiên với tổng cộng mười tập. Đến tháng 5 năm 2020, nhà sản xuất Marty Adelstein đã công bố loạt phim dự định sẽ ghi hình ở Cape Town tại Cape Town Film Studios vào tháng 8. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đã khiến cho công việc này phải bị trì hoãn đến tháng 9. Ngoài ra, ông cũng công bố có tổng cộng mười trang kịch bản đã được viết cho loạt phim và ông sẽ bắt đầu tuyển vai vào đầu tháng 6.
|
One Piece (phim truyền hình 2023)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812013
|
Nhưng nhà sản xuất kiêm biên kịch điều hành Matt Owens lại thông báo rằng, quá trình tuyển chọn vẫn chưa được bắt đầu đến tháng 9 năm 2020.
Quá trình sản xuất cho loạt phim bắt đầu được khởi công lần thứ hai vào tháng 3 năm 2021, người chạy sô Steven Maeda đã đặt tên mật cho loạt phim là "Dự án Roger". Vào tháng 9 năm 2021, những cái nhìn đầu tiên về biểu trưng mới của loạt phim đã được hé lộ. Cùng tháng đó, Marc Jobst được công bố sẽ làm đạo diễn thử nghiệm cho loạt phim. Vào tháng 2 năm 2022, Kashiwagi Arisu được công bố sẽ đảm nhiệm vai trò giám đốc sáng tạo và thiết kế nhận diện thương hiệu. Sau khi công bố những thông tin tuyển vai phụ, biên kịch chính và là nhà sản xuất điều hành Matt Owens cũng sẽ đóng vai trò là người đồng sô với Maeda. Vào tháng 6 năm 2022, Emma Sullivan công bố đã hoàn thành đạo diễn cho toàn bộ loạt phim.
Tuyển vai.
Dàn diễn viên chính của băng hải tặc Mũ Rơm đã được hé lộ lần đầu vào tháng 11 năm 2021 thông qua những áp phích truy nã. Iñaki Godoy được công bố sẽ trong vai Monkey D. Luffy, Mackenyu trong vai Roronoa Zoro, Emily Rudd trong vai Nami, Jacob Gibson trong vai Usopp và Taz Skylar trong vai Sanji. Vào tháng 3 năm 2022, Netflix đã bổ sung thêm dàn diễn viên định kỳ bao gồm có Morgan Davies vào vai Coby, Ilia Paulino vào vai Alvida, Aidan Scott vào vai Helmeppo, Jeff Ward vào vai Buggy, McKinley Belcher III vào vai Arlong, Vincent Regan vào vai Garp và Peter Gadiot vào vai Shanks.
Langley Kirkwood được bổ sung thêm vào vai thuyền trưởng Morgan, Celeste Loots vào vai Kaya, Alexander Maniatis vào vai Klahadore, Craig Fairbrass vào vai bếp trưởng Zeff, Steven Ward vào vai Dracule Mihawk và Chioma Umeala vào vai Nojiko. Vào tháng 8 năm 2022, số diễn viên tham gia vào loạt phim đã lên 21 người khi Bianca Oosthuizen, Chanté Grainger và Grant Ross lần lượt được vào vai Sham, Banchina và Genzo. Đến tháng 3 năm 2023, hai diễn viên cuối cùng là Stevel Marc được chọn vào vai Yasopp. Jandre le Roux được chọn vào vai Kuroobi.
Ghi hình.
Giai đoạn ghi hình chính đã bắt đầu vào ngày 31 tháng 1 năm 2022. Vào tháng 5 năm 2022, đội ngũ mới chỉ ghi hình xong hai tập đầu tiên của loạt phim. Tập phim đầu tiên được ghi hình tại Xưởng phim Cape Town ở thành phố Cape Town, Nam Phi.
|
One Piece (phim truyền hình 2023)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812013
|
Nicole Hirsch Whitaker, nhà quay phim của loạt phim đã thông báo rằng, đoàn làm phim của cô đã hoàn thành ghi hình sáu tuần trước khi quá trình sản xuất bắt đầu. Quá trình quay phim chính thức kết thúc vào ngày 22 tháng 8 năm 2022.
Âm nhạc.
Nhà soạn nhạc Sonya Belousova và Giona Ostinelli thông báo đã được chọn để soạn nhạc cho loạt phim.
Quảng bá.
Vào ngày 21 tháng 7 năm 2023, Netflix đã chính thức ra mắt đoạn video trailer và một bức thư cá nhân được viết bởi Oda.
|
Động đất ngoài khơi Ibaraki 2011
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812015
|
xảy ra vào lúc 15:15 (theo giờ địa phương), ngày 11 tháng 3 năm 2011. Trận động đất có cường độ 7.7 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 43 km, nằm ngay trên ngoài khơi tỉnh Ibaraki. Theo Cục Khí tượng Nhật Bản, đây là trận động đất có dư chấn lớn nhất trong Động đất và sóng thần Tōhoku 2011. Các cảnh báo nguy cơ sóng thần lớn tiếp tục đưa ra.
|
Vòng loại giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới 2024 khu vực châu Âu
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812018
|
Vòng loại khu vực châu Âu cho Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới 2024 là giải đấu bóng trong nhà nam sẽ xác định bảy đội UEFA tham dự Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới 2024 ở Uzbekistan.
|
Trận Ambon
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812019
|
Trận Ambon (30 tháng 1-3 tháng 2 năm 1942) diễn ra tại đảo Ambon ở Đông Ấn Hà Lan (mà ngày nay là Indonesia), là một phần của các cuộc tiến công của Nhật Bản nhằm đánh chiếm Đông Ấn Hà Lan trong Thế chiến 2. Đối mặt với sự phòng thủ liên hợp giữa quân đội Úc và Hà Lan, các lực lượng Nhật Bản đã chinh phục thành công hòn đảo và sân bay chiến lược của nó chỉ trong vài ngày. Sau trận chiến, một cuộc thảm sát lớn nhiều tù binh chiến tranh Hà Lan và Úc (POW) của quân Nhật đã diễn ra.
Hoàn cảnh.
Ambon thuộc quần đảo Maluku (Moluccas), ngay phía nam của đảo Seram (Ceram). Ambon có những gì có thể được mô tả hình dạng là "hình tám" hoặc "đồng hồ cát", và bao gồm 2 bán đảo được ngăn cách bởi một eo đất hẹp, với các vịnh hẹp dài ở 2 bên eo đất. Sân bay quan trọng tại Laha nằm ở phía tây của bán đảo Hitu-phần phía bắc của hòn đảo-đối diện với vịnh Ambon. Thị trấn Ambon nằm ở phía đối diện của vịnh, trên phần phía nam của hòn đảo, bán đảo Laitimor.
Mặc dù là một trong những hòn đảo của các khu vực xa xôi hẻo lánh của Đông Ấn Hà Lan, người Hà Lan biết Ambon có tầm quan trọng chiến lược như một căn cứ không quân và đã tăng cường phòng thủ từ năm 1941, bổ sung thêm quân từ đảo Java. Tuy nhiên, từ năm 1940, Úc cũng coi tầm quan trọng của hòn đảo là bước đệm gần đó để các lực lượng Nhật Bản tấn công Úc từ phía bắc. Trong một thoả thuận với chính phủ lưu vong Hà Lan (vẫn giữ lập trường trung lập về Nhật Bản vào năm 1940), Canberra đã đồng ý tăng cường phòng thủ của Hà Lan bằng cách gửi quân và trang thiết bị đến các đảo Ambon và Timor. Chuẩn tướng Edmund Lind, tư lệnh Lữ đoàn 23 Úc đã có sự dè dặt đáng kể về việc gửi quân đến Ambon, do thiếu hoả lực và tài sản không quân có sẵn cho quân đội Úc, ngoài việc thiếu các đơn vị liên lạc quân sự Úc gắn liền với các lực lượng Hà Lan địa phương.
|
Trận Ambon
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812019
|
Vào ngày 14 tháng 12 năm 1941, một đoàn tàu vận tải bao gồm các tàu hộ tống HMAS "Adelaide" và "Ballarat" cùng các tàu Hà Lan "Both", "Valentijn", và "Patras" chở 1,096 quân của "Lực lượng Mòng biển" rời Darwin và đi đến Ambon vào ngày 17 tháng 12. HMAS "Swan" hộ tống Bantam đi đến cùng lực lượng tăng viện vào ngày 12 tháng 1 năm 1942, tiếp tục không kích từ ngày 15-16 tháng 12 cho đến ngày 18 tháng 12.
Mở đầu.
Đồng minh.
Bộ binh.
Khi chiến tranh nổ ra vào ngày 8 tháng 12, Ambon được đồn trú bởi "Lữ đoàn Molukken" gồm 2,800 người của Quân đội Hoàng gia Đông Ấn Hà Lan (KNIL), do Trung tá Joseph Kapitz chỉ huy và bao gồm quân đội thuộc địa người Indo, dưới sự chỉ huy của các sĩ quan châu Âu. Quân đồn trú được trang bị và huấn luyện kém, một phần là kết quả của việc Hà Lan đã bị Đức Quốc xã đánh chiếm. Các đơn vị KNIL không được trang bị radio và dựa vào điện thoại cố định và thông tin liên lạc bằng văn bản. Họ bao gồm 300 quân nhân dự bị được đào tạo một phần. Lực lượng Mòng biển của Quân đội Úc gồm 1,100 người, do Trung tá Leonard Roach chỉ huy, đã đến vào ngày 17 tháng 12. Lực lượng này bao gồm Tiểu đoàn 2/21 từ Sư đoàn 8 Úc, cũng như một số đơn vị pháo binh và hỗ trợ của sư đoàn. Kapitz được bổ nhiệm làm chỉ huy Đồng minh trên đảo Ambon. Vào đúng ngày Lực lượng Mòng biển lên bờ ở Ambon, Roach đã nêu lên những lo ngại phản ánh những gì Chuẩn tướng Lind bày tỏ. Roach nêu lên lo ngại về việc thiếu các nhiệm vụ trinh sát đang được tiến hành, trang thiết bị y tế, vũ khí chống tăng và không có bất kỳ khẩu súng dã chiến nào. Yêu cầu này được lặp lại vào ngày 23 tháng 12 năm 1941, mà Bộ Tư lệnh Lục quân đã từ chối và nhắc lại sự cần thiết phải phòng thủ với nguồn cung sẵn có.
Vào ngày 6 tháng 1, sau khi các vùng lãnh thổ của Hà Lan và Anh ở phía bắc rơi vào tay Nhật Bản và một cuộc ném bom vào Ambon của máy bay Nhật Bản diễn ra, Roach một lần nữa nêu lên mối lo ngại với Bộ Tư lệnh Lục quân và tuyên bố rằng lực lượng của ông có thể cầm cự không quá một ngày mà không có quân tiếp viện.
|
Trận Ambon
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812019
|
Sau cuộc liên lạc này, Roach bị cách chức và được thay thế bởi Trung tá John Scott vào ngày 14 tháng 1. Việc thay đổi chỉ huy này đã gây ra những vấn đề đáng kể vì Scott không biết trước về tình hình ở Ambon và không quen thuộc với phần lớn Lực lượng Mòng biển. Trong suốt từ đầu đến cuối tháng 1, nhiều binh sĩ của Lực lượng Mòng biển đã bị loại khỏi vòng chiến do sốt rét và kiết lỵ.
Sở chỉ huy của Kapitz đặt tại Hạ Long, giữa Paso và thị trấn Ambon. Nó bao gồm 4 xe thiết giáp, một phân đội súng máy phòng không và 4 súng phòng không 40 mm. Với niềm tin rằng địa hình trên bờ biển phía nam của Laitimor không phù hợp để đổ bộ và bất kỳ cuộc tấn công nào cũng có khả năng xảy ra ở phía đông, xung quanh vịnh Baguala, lực lượng KNIL tập trung tại Paso, gần eo đất, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá H. H. L. Tieland. Có những phân đội KNIL nhỏ tại các địa điểm có khả năng đổ bộ ở phía bắc Hitu.
2 đại đội của Tiểu đoàn 2/21 và 300 quân Hà Lan đã có mặt tại sân bay Laha, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Mark Newbury. Họ được hộ tống bởi pháo binh Hà Lan: 4 khẩu pháo dã chiến 75 mm, 4 súng chống tăng 37 mm, 4 súng phòng không 75 mm, 4 súng phòng không 40 mm, một trung đội súng máy phòng không và một khẩu đội súng máy phòng không.
Tuy nhiên, Trung tá Scott, Sở chỉ huy Lực lượng Mòng biển và phần còn lại của quân Úc đã tập trung ở phần phía tây bán đảo Laitimor, trong trường hợp bị tấn công từ vịnh Ambon. Đại đội A của Tiểu đoàn 2/21 và một đại đội KNIL đóng quân tại Eri, ở phía tây nam của vịnh. Trung đội công binh của Tiểu đoàn 2/21 nằm trên cao nguyên xung quanh núi Nona (điểm cao nhất trên bán đảo Laitimor), với một phân đội súng máy phòng không Hà Lan. Các đơn vị nhỏ hơn của Úc ở: Latuhalat, gần mũi phía tây nam của Laitimor và tại mũi Batuanjut, ngay phía bắc Eri. Sở chỉ huy của Lực lượng Mòng biển và một lực lượng dự bị chiến lược, Đại đội D, nằm trên một tuyến từ cao nguyên Nona đến bãi biển Amahusu, giữa Eri và thị trấn Ambon.
Không quân.
Đồng minh có rất ít máy bay dự phòng. Dịch vụ hàng không KNIL đã phái Chuyến bay 2, Nhóm 4 ("2-Vl. G.IV") từ Java đến Laha.
|
Trận Ambon
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812019
|
G.IV") từ Java đến Laha. Trong số 4 chiếc Brewster Buffalos ban đầu, 2 chiếc đã bị rơi trên đường đến Ambon. Không quân Hoàng gia Úc (RAAF) đã phái 2 chuyến bay, bao gồm 12 máy bay ném bom hạng nhẹ Lockheed Hudson Mk 2, từ Phi đội 2 và 13, đến khu vực, dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh cánh Ernest Scott (người không liên quan đến Trung tá John Scott). Một chuyến bay có sở chỉ huy tại Laha, và một chuyến bay khác được gửi đến Namlea trên đảo Buru lân cận.
Phi đội Tuần tra 10 của Hải quân Hoa Kỳ, với Consolidated PBY Catalinas, đặt căn cứ tại trạm thuỷ phi cơ Hạ Long từ ngày 23 tháng 12. Sở chỉ huy Không đoàn di chuyển đến Java vào ngày 9 tháng 1, nhưng những chiếc Catalinas Hoa Kỳ tuần tra từ Hạ Long cho đến ngày 15 tháng 1, khi một cuộc không kích phá huỷ 3 máy bay tuần tra và làm hư hại nhiều chiếc khác. Quân Đồng minh sau đó đã từ bỏ căn cứ vì nó quá lộ liễu. Các tàu tiếp liệu thuỷ phi cơ của Không đoàn hỗ trợ tuần tra, nhưng đã rời đi sau ngày 8 tháng 1. Các cuộc tuần tra tiếp liệu từ các tàu sân bay USS "William B. Preston" và USS "Heron" tại các khu vực neo đậu xa hơn về phía Nam tiếp tục cho đến ngày 5 tháng 2.
Không lực Hải quân Hoàng gia Hà Lan ("Marineluchtvaartdienst") thực hiện các chuyến tuần tra từ Ambon/Hạ Long; GVT 17 với các chiếc Catalina tiếp tục bay từ khi bắt đầu chiến tranh cho đến ngày 14 tháng 1, khi nó được lệnh đi đến Java.
Máy bay của Hải quân Hoa Kỳ và RAAF đã thực hiện một số chuyến bay sơ tán rất nguy hiểm vào Ambon/Laha trong những ngày cuối tháng 1 sau khi các lực lượng Đồng minh mất tất cả ưu thế trên không vào tay người Nhật.
Hải quân.
HNLMS "Gouden Leeuw", một tàu rải mìn của Hải quân Hoàng gia Hà Lan, đã rời Ambon vào đầu tháng 1, sau khi tiếp cận hòn đảo. Đến giữa tháng 1, tàu quét mìn USS "Heron" là tàu chiến duy nhất của Đồng minh tại Ambon.
Nhật Bản.
Hải đoàn Hàng không mẫu hạm 2 được giao nhiệm vụ hỗ trợ chiến dịch. 2 tàu sân bay, "Hiryū" và "Sōryū", tấn công vào Ambon vào ngày 24 tháng 1 năm 1942. Họ tung ra 54 máy bay (18 máy bay ném ngư lôi B5N2 "Kate", 18 máy bay ném bom bổ nhào D3A1 "Val" và 18 máy bay tiêm kích A6M2 "Zero") và ném bom các cơ sở cảng và các toà nhà trên đảo Ambon.
|
Trận Ambon
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812019
|
Không có tổn thất nào được duy trì. Hạm đội tàu sân bay quay trở về Davao, Philippines vào ngày 25 tháng 1 năm 1942, trước cuộc đổ bộ vào ngày 30 tháng 1 năm 1942.
Trận chiến.
30 tháng 1.
Từ ngày 6 tháng 1 trở đi, Ambon bị máy bay Nhật tấn công. Máy bay Đồng minh đã thực hiện một số phi vụ chống lại hạm đội Nhật Bản đang đến gần, nhưng không mấy thành công. Vào ngày 13 tháng 1, 2 máy bay tiêm kích Brewster Buffalo, do Trung uý Broers và Trung sĩ Blans lái, đã tấn công một chuyến bay gồm 10 máy bay tiêm kích Mitsubishi A6M Zero. Máy bay của Broers bị bắn trúng và bốc cháy, nhưng anh ta tiếp tục tấn công cho đến khi nó trở nên mất kiểm soát, tại thời điểm đó anh ta nhảy ra khỏi chiếc Buffalo, sử dụng dù của mình và hạ cánh xuống biển. Blans cũng bị bắn hạ nhưng cũng tìm cách sử dụng chiếc dù của mình, hạ cánh trên cây trên Ambon. Cả 2 người đàn ông đã được giải cứu. Broers bị bỏng nặng và Blans có 17 vết thương khác nhau.
Căn cứ không hải quân tại Hạ Long đã sớm không thể sử dụng được bởi các cuộc không kích của Nhật Bản, và đã bị hải quân Hà Lan và Hoa Kỳ bỏ rơi vào giữa tháng 1.
Vào ngày 30 tháng 1, khoảng 1,000 lính thuỷ quân lục chiến Nhật Bản và nhân viên IJA đã đổ bộ lên Hitu-lama trên bờ biển phía bắc. Các đơn vị khác của Trung đoàn 228 đổ bộ lên bờ biển phía nam của bán đảo Laitimor. Mặc dù lực lượng mặt đất Nhật Bản về số lượng không lớn hơn nhiều sơ với quân Đồng minh, nhưng người Nhật có ưu thế áp đảo về hỗ trợ trên không, hải quân và pháo binh dã chiến, và xe tăng. Những máy bay Đồng minh còn lại được rút lui vào ngày hôm đó, mặc dù nhân viên mặt đất của RAAF vẫn ở lại. Trong vòng một ngày sau cuộc đổ bộ của Nhật Bản, các đơn vị Hà Lan trong khu vực lân cận của họ đã bị tràn ngập và/hoặc đã rút lui về phía Paso. Việc phá huỷ các cây cầu trên Hitu đã không được thực hiện theo lệnh, đẩy nhanh bước tiến của Nhật Bản.
Có một đợt đổ bộ thứ hai, tại Hutumori ở đông nam Laitimor, và tại Batugong, gần Paso. Một trung đội bộ binh Úc được tách ra để tăng cường cho lực lượng công binh tại cao nguyên Nona.
|
Trận Ambon
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812019
|
Hệ thống phòng thủ tại Paso đã được thiết kế để đẩy lùi các cuộc tấn công từ phía bắc và phía tây, và bây giờ phải đối mặt với cuộc tấn công từ phía nam. Một trung đội KNIL đã được tách ra khỏi Paso để chống lại cuộc tấn công vào Batugong, gây ra một khoảng trống trong phòng tuyến của quân Hà Lan. Người Nhật đã lợi dụng điều này, và được hỗ trợ bởi sự thất bại của đường dây liên lạc của KNIL.
31 tháng 1.
Batugong thất thủ vào sáng sớm ngày 31 tháng 1, cho phép quân Nhật bao vây sườn phía đông của các vị trí Passo. Trong khi đó, Kapitz ra lệnh cho đại đội KNIL Ambonese tại Eri chiếm một vị trí tại Kudamati, nơi có vẻ dễ bị tấn công.
Vào trưa ngày 31 tháng 1, Kapitz chuyển sở chỉ huy của mình từ Halong đến Lateri, gần Passo hơn. Liên lạc qua điện thoại giữa Kapitz và cấp dưới của ông, bao gồm cả Scott, đã chấm dứt khi người Nhật cắt đứt đường dây. Quân Nhật đổ bộ lên Hitu-Lama sau đó tấn công tuyến phòng thủ Passo từ phía đông bắc. Sau đó, theo lời của nhà sử học người Úc:
Không rõ ai cho phép đầu hàng. Không có phản ứng ngay lập tức từ phía Nhật Bản, và-trong một cuộc họp với các chỉ huy đại đội-Kapitz và Tieland đã ra lệnh cho quân Hà Lan bắt đầu chiến đấu. Tuy nhiên, khi Tieland và các chỉ huy đại đội trở lại vị trí của họ, họ thấy rằng quân của họ đã bị bắt làm tù binh, và họ buộc phải đầu hàng.
Cuộc tấn công trên bộ đầu tiên vào Laha xảy ra vào chiều ngày 31 tháng 1. Một trung đội Úc ở phía đông bắc sân bay đã bị tấn công bởi một lực lượng Nhật Bản mạnh hơn, và nó đã đẩy lùi. Các lực lượng Nhật Bản cũng đang tiếp cận thị trấn Ambon từ phía tây nam. Vào khoảng 16:00 ngày 31 tháng 1, quân Nhật chiếm được thị trấn, bao gồm thương binh Úc.
1 tháng 2.
Nhiều cuộc tấn công của Nhật Bản đã được tung ra đồng thời vào ngày 1 tháng 2:
|
Steven Đặng
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812027
|
Steven Đặng (tên tiếng Việt: Đặng Thanh Hoàng; sinh ngày 21 tháng 7 năm 1997) là cầu thủ bóng đá mang hai dòng máu Việt Nam – Hoa Kỳ hiện tại đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Becamex Bình Dương tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam.
Đời tư.
Steven Đặng được sinh ra tại Plano, Texas, Hoa Kỳ, nhưng có hộ chiếu quốc tịch Việt Nam thông qua cha mẹ của anh.
|
Alex Bruce (cầu thủ bóng đá, sinh 1998)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812033
|
Alex Bruce (sinh ngày 28 tháng 10 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá người Anh hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo.
Sự nghiệp thi đấu.
Texans SC Houston và San Antonio.
Bruce đã chơi cho đội trẻ của Texans SC Houston trong mùa giải 2016–17, nơi anh ghi 17 bàn sau 29 lần ra sân. Vào ngày 10 tháng 1 năm 2018, Bruce ký hợp đồng với câu lạc bộ San Antonio FC tại United Soccer League.
North Texas SC.
Vào ngày 6 tháng 11 năm 2019, Bruce gia nhập câu lạc bộ North Texas SC tại USL League One.
|
Bicou Bissainthe
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812036
|
Bicou Bissainthe (sinh ngày 15 tháng 3 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá người Haiti thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Hải Phòng tại V.League 1.
|
Đuôi cá voi
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812039
|
Đuôi cá voi ("Whale tail") là một từ lóng chỉ về phần phía sau hình chữ Y của quần lọt khe (quần lót dây Thong) hoặc quần lót G-string khi nhìn thấy phía trên vòng eo của quần cạp trễ, quần đùi hoặc váy mà hình dáng lộ tra trông giống cái đuôi của con cá voi. Thuật ngữ này chỉ về xu hướng ăn mặc được phổ biến từ cách ăn mặc của một số nữ minh tinh như Amy Dumas, Christina Aguilera, Victoria Beckham, Mariah Carey, Paris Hilton và Britney Spears, việc khoe phần đuôi cá voi trở nên phổ biến vào đầu những năm 2000, cùng với sự phổ biến của quần jean cạp trễ và quần lót lọt khe. Quần cạp trễ chẳng hạn như quần jean cạp trễ hoặc quần ôm sát hông (quần bó) và quần cạp trễ khiến phần "đuôi cá voi" lộ ra nhiều hơn. Xu hướng này cũng gắn liền với xu hướng xăm hình thể thao ở phần lưng dưới. Từ lóng Đuôi cá voi này đã được American Dialect Society bình chọn là "từ sáng tạo nhất" ("most creative word") của năm 2005 vào tháng 1 năm 2006.
Sự phổ biến ngày càng tăng của quần jean cạp trễ đã dẫn đến sự xuất hiện ngày càng nhiều của áo lọt khe vào đầu những năm 2000. Ban đầu xu hướng này được thể hiện của WWE với nữ đô vật Amy Dumas vào đầu năm 2000, những người khác như Britney Spears đã được miêu tả là nhân tố chính góp phần vào sự phổ biến của xu hướng "Đuôi cá voi". Màn trình diễn Đuôi cá voi của cô ấy đã được nhắc đến trong những cuốn sách văn học sáng tạo như "Married to a Rock Star" của Shemane Nugent, "Thong on Fire" của Noire, "The Magical Breasts of Britney Spears" của Ryan G. Van Cleave và "Off-Color" của Janet McDonald. Thời báo "The Oregonian" một tờ báo Portland, Oregon, đã đăng tin rất nhiều vào năm 2004 loan báo rằng rất nhiều Đuôi cá voi đã trở thành một thứ gây xao nhãng trong khuôn viên trường. Nhà bình luận xã hội Ann C. Hall đã xác định xu hướng ăn mặc Đuôi cá voi trong khuôn viên trường này là "sự giao thoa rõ ràng giữa thời trang hàng ngày trong khuôn viên trường học và phim khiêu dâm mức độ nhẹ". Xu hướng quần áo nhiều lớp vào đầu những năm 2000 một phần được dẫn dắt theo phong cách Đuôi cá voi kết hợp quần jean ôm sát hông, crop top và thong cạp cao được những người nổi tiếng phổ biến.
|
Trò áo thun ướt
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812045
|
Trò thi áo thun ướt ("Wet T-shirt contest") là một trò thi liên quan đến chủ nghĩa phơi bày mà thường có các thí sinh là phụ nữ trẻ tại các hộp đêm, quán bar hoặc khu nghỉ dưỡng. Các thí sinh mặc áo thun ướt thường mặc áo phông mỏng màu trắng hoặc sáng màu và không mặc áo lót, áo bikini hoặc các loại quần áo khác bên trong và bên dưới. Sau đó, những người khác sẽ phun, té nước (thường là nước đá) lên hoặc đổ nước lên ngực của những người tham gia, khiến chiếc áo thun của họ chuyển sang màu trong mờ và bám dính vào ngực của họ, phơi bày ra các đường cong cơ thể nhạy cảm, những chỗ vùng kín. Trò thi tương đương dành cho nam tương đối hiếm hơn đôi khi được tổ chức tại các quán bar dành cho người đồng tính.
Các thí sinh có thể thay phiên nhau khiêu vũ, nhảy nhót hoặc tạo dáng trước khán giả, trong cuộc thi này thì kết quả được quyết định từ phản ứng và biểu cảm của đám đông hoặc bình chọn của ban giám khảo. Cũng trong các cuộc thi này, người tham gia có thể xé hoặc cắt áo phông của họ để lộ phần giữa, khe ngực hoặc phần mặt dưới của bộ ngực. Tùy thuộc vào luật pháp địa phương, người tham gia có thể được phép cởi áo thun hoặc khỏa thân hoàn toàn trong khi biểu diễn. Tại Hoa Kỳ, nhà làm phim trượt tuyết Dick Barrymore tuyên bố trong cuốn hồi ký "Breaking Even" của mình rằng ông ta đã tổ chức cuộc thi áo thun ướt đầu tiên tại Sun Valley, Idaho ở quán "Boiler Room Bar" vào tháng 1 năm 1971 như một phần của chương trình khuyến mãi cho ván trượt K2.
Cuộc thi được quảng cáo chỉ là một "cuộc thi áo thun" (T-shirt contest), trong đó các nữ tiếp viên hàng không sẽ nhảy theo nhạc mặc áo phông quảng cáo K2. Tuy nhiên, thí sinh đầu tiên xuất hiện là một vũ công thoát y chuyên nghiệp đã để ngực trần khi khiêu vũ và các thí sinh nghiệp dư đã đáp trả bằng cách làm ướt áo thun của họ trước khi thi đấu làm họ hấp dẫn hơn. Barrymore đã tổ chức "Cuộc thi áo phông ướt K2" lần thứ hai tại Rusty Nail ở Stowe Mountain Resort, Vermont để quay phim, mặc dù thực tế là Hội đồng thành phố Stowe đã thông qua nghị quyết cấm khỏa thân tại sự kiện.
|
Trò áo thun ướt
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812045
|
Ông ta đã tổ chức một cuộc thi quảng cáo khác cho K2 vào ngày 10 tháng 3 năm 1971 tại nhà hàng và quán bar The Red Onion của Aspen, Colorado và các cuộc thi đã được giới thiệu trong một bức hình bìa trên số tháng 3 năm 1972 của tạp chí "Playboy".
Lần đầu tiên được biết đến thuật ngữ "trò thi áo thun ướt" trên báo chí diễn ra vào năm 1975 khi "The Palm Beach Post" mô tả sự xuất hiện của cuộc thi tại các vũ trường ở New Orleans. Cuộc thi sau đó đã được tổ chức tại các sự kiện kỳ nghỉ xuân ở Fort Lauderdale, Florida, với một số chủ quán bar bị phạt theo luật khiếm nhã nơi công cộng vì tổ chức một cuộc thi kiểu này. Mặc dù không rõ ràng về tình trạng pháp lý về vấn đề này, các cuộc thi bắt đầu diễn ra ở những nơi khác ở Hoa Kỳ. Một cuộc thi tại một quán rượu ở Milwaukee vào năm 1976 đã bị cảnh sát đột kích, mặc dù các thí sinh đã đeo Scotch Tape bên dưới áo phông của họ theo yêu cầu của cảnh sát. Jacqueline Bisset xuất hiện trong bộ phim năm 1977 có tên "The Deep", trong phim có cảnh cô ấy bơi dưới nước mà chỉ mặc một chiếc áo phông đã góp phần mang lại sự phổ biến "Cuộc thi áo phông" để nâng cao nhận thức cộng đồng. Trong một album xuất bản năm 1979 của Frank Zappa là "Joe's Garage", ca khúc "Fembot in a Wet T-Shirt" kể về Mary cô gái đến từ Canoga Park, Los Angeles đã tham gia cuộc thi áo phông ướt để quyên góp tiền trở về nhà sau khi bị một nhóm nhạc rock ở Miami bỏ rơi. Một bộ phim thực tế "The Real Cancun" năm 2003 của Mỹ có chiếu cảnh về một cuộc thi áo thun ướt.
|
Vụ tai nạn Chosonminhang Ilyushin Il-62 1983
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812047
|
Vào ngày 1 tháng 7 năm 1983, một tai nạn máy bay xảy ra với chiếc Ilyushin Il-62M thuộc hãng hàng không Chosonminhang của CHDCND Triều Tiên. Tai nạn xảy ra khi máy bay đâm vào một khu vực núi đồi ở quốc gia Guinea, tại Tây Phi. Tất cả 23 người trên máy bay đều thiệt mạng trong vụ tai nạn đau lòng này. Chiếc máy bay đang thực hiện chuyến bay từ Bình Nhưỡng với nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa xây dựng và một số công nhân, chuẩn bị cho hội nghị thượng đỉnh của Tổ chức Thống nhất Châu Phi vào năm 1984.
Máy bay và chuyến bay.
Chiếc Ilyushin Il-62M có số hiệu P-889 được chế tạo bởi Liên Xô và sản xuất tại Nhà máy Hàng không Kazan vào đầu năm 1981. Sau đó, nó được bán cho hãng hàng không quốc gia của Bắc Triều Tiên, Chosonminhang "(hiện nay được gọi là Air Koryo)", cũng trong năm 1981. Trong quá trình sử dụng, chiếc máy bay này không ghi nhận bất kỳ sự cố nào trước đó, trừ việc một chuyến bay cất cánh đã bị hủy bỏ vào năm 1982 do một cửa hầm hàng hóa vô tình bị mở.
Vào ngày 1 tháng 7 năm 1983, P-889 đang vận chuyển vật liệu xây dựng cùng với một số công nhân và kỹ thuật viên từ Bình Nhưỡng, Bắc Triều Tiên đến Guinea để hoàn thành công trình trước hội nghị Thống nhất Châu Phi lần thứ hai mươi dự kiến diễn ra ở Conakry, Guinea vào tháng 5 năm 1984. P-889 đã thực hiện hai điểm dừng trung gian để nạp nhiên liệu, lần lượt tại Kabul và Cairo, trước khi tiếp tục hành trình đến Guinea.
Tai nạn và hậu quả.
Vào ngày 1 tháng 7 năm 1983, chiếc P-889 đã gặp tai nạn và rơi trong khu vực núi cao Fouta Djallon ở Guinea, gần thị trấn Labé, cách sân bay quốc tế Conakry khoảng 160 dặm về phía tây bắc. Tất cả 23 người trên máy bay đã thiệt mạng. Đây là vụ tai nạn đầu tiên gây tử vong cho hãng hàng không này. Thông tin về vụ tai nạn lan truyền chậm do khó khăn trong việc tiếp cận hiện trường tai nạn ở vùng xa xôi. Mặc dù nguyên nhân vụ tai nạn chưa được công bố công khai, nhưng nghi ngờ rằng lỗi của phi công kết hợp với sự mệt mỏi đã gây ra vụ tai nạn.
Ngay sau vụ tai nạn, đoàn đại biểu cấp cao của chính phủ Guinea đã đi công du đến Bắc Triều Tiên để gửi lời chia buồn chính thức tới Kim Nhật Thành.
|
Động đất Ogasawara 2015
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812051
|
là trận động đất xảy ra vào lúc 20:23 (theo giờ địa phương), Trận động đất có cường độ địa chấn 8.1 richter. Tâm chấn độ sâu khoảng 682 km, nằm ngoài khơi quần đảo Ogasawara. Rung lắc của trận động đất cảm nhận được nhiều khu vực ở Nhật Bản, trong đó có cả Tokyo. Đây là một trong những trận động đất có tâm chấn sâu lớn nhất thế giới. Không có cảnh báo sóng thần cho trận động đất này. Hậu quả trận động đất chỉ làm 13 người bị thương.
|
Giải quần vợt Wimbledon 2023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812053
|
Giải quần vợt Wimbledon 2023 là một giải quần vợt Grand Slam diễn ra tại All England Lawn Tennis and Croquet Club ở Wimbledon, Luân Đôn, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.
Giải đấu.
Giải đấu được thi đấu trên mặt sân cỏ, với tất cả các trận đấu vòng đấu chính diễn ra tại All England Lawn Tennis and Croquet Club, Wimbledon, từ ngày 3 đến ngày 16 tháng 7 năm 2023. Các trận đấu vòng loại diễn ra từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 6 năm 2023 tại Bank of England Sports Ground ở Roehampton.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 là lần thứ 136 giải đấu được tổ chức, lần thứ 129 của nội dung đơn nữ, lần thứ 55 trong Kỷ nguyên Mở và là giải Grand Slam thứ ba trong năm. Giải đấu được điều hành bởi Liên đoàn Quần vợt Quốc tế (ITF) và là một phần của lịch thi đấu ATP Tour 2023 và WTA Tour 2023 dưới thể loại Grand Slam, cũng như ITF tour 2023 của giải trẻ và xe lăn.
Giải đấu bao gồm các nội dung nam (đơn và đôi), nữ (đơn và đôi), đôi nam nữ, nam trẻ (dưới 18 tuổi – đơn và đôi, dưới 14 tuổi – đơn), nữ trẻ (dưới 18 tuổi – đơn và đôi, dưới 14 tuổi – đơn), cũng là một phần ở thể loại Hạng A của giải đấu cho các vận động viên dưới 18 tuổi, và nội dung đơn & đôi cho các vận động viên nam và nữ quần vợt xe lăn. Giải đấu cũng bao gồm nội dung đôi nam và nữ khách mời, cùng với nội dung đôi khách mời hỗn hợp. Nội dung đôi nam được thay đổi từ đánh năm thắng ba sang đánh ba thắng hai ở tất cả các trận đấu.
Đây là lần thứ hai giải đấu có lịch thi đấu trong ngày Chủ Nhật tuần đầu tiên, được gọi là "Middle Sunday". Trước giải đấu năm 2022, giải đấu chỉ có 4 năm ngoại lệ với truyền thống không có trận đấu nào diễn ra vào Chủ Nhật để tổ chức các trận đấu bị hoãn trong giải đấu vì trời mưa.
Giải đấu bao gồm có sự tham dự của các vận động viên Nga và Belarus, sau khi bị cấm tham dự ở giải đấu năm 2022 do cuộc tấn công của Nga vào Ukraina.
Sự kiện đặc biệt.
Bên cạnh giải đấu diễn ra, cựu tay vợt người Thụy Sĩ Roger Federer được vinh danh kể từ lần đầu tiên anh vô địch giải đấu vào năm 2003.
Hạt giống đơn.
Đơn nam.
Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống.
|
Giải quần vợt Wimbledon 2023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812053
|
Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng ATP vào ngày 26 tháng 6 năm 2023. Xếp hạng và điểm vào ngày 3 tháng 7 năm 2023.
† Tay vợt có điểm bảo vệ từ Båstad, Newport, hoặc một hoặc nhiều giải đấu ATP Challenger Tour (Porto, Rome, Lüdenscheid hoặc Amersfoort).
Tay vợt rút lui khỏi giải đấu.
Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống, nhưng rút lui trước khi giải đấu bắt đầu.
† Tay vợt có điểm bảo vệ từ Båstad hoặc Braunschweig.
Đơn nữ.
Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng WTA vào ngày 26 tháng 6 năm 2023. Xếp hạng và điểm vào ngày 3 tháng 7 năm 2023.
† Tay vợt có điểm bảo vệ từ Lausanne hoặc Budapest.
Điểm và tiền thưởng.
Phân phối điểm.
Dưới đây là bảng phân bố điểm cho từng giai đoạn của giải đấu.
Tiền thưởng.
Tổng số tiền của Giải quần vợt Wimbledon 2023 là £44,700,000, tăng 10.78% so với năm 2022.
|
Vi Đông Dịch
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812057
|
Vi Đông Dịch (; sinh năm 1991) là một nhà toán học người Trung Quốc, sinh ra ở Tế Nam, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Hiện tại, anh là trợ lý giáo sư và trợ lý nghiên cứu tại Trường Khoa học Toán học, Đại học Bắc Kinh. Anh tốt nghiệp trường Trung học trực thuộc Đại học Sư phạm Sơn Đông, và theo học tại Đại học Bắc Kinh từ năm 2010. Anh có được bằng cử nhân năm 2014 và bằng tiến sĩ năm 2018 dưới sự hướng dẫn của nhà toán học Điền Cương. Lĩnh vực nghiên cứu của anh bao gồm phương trình vi phân riêng phần và hình học vi phân. Anh trở thành trợ lý giáo sư vào tháng 12 năm 2019. Phong cách sống đơn giản của anh đã thu hút sự chú ý lớn từ Internet Trung Quốc. Anh thường được gọi là giáo viên xấu xí nhất Đại học Bắc Kinh do ngoại hình nhếch nhác.
Giáo dục.
Vi Đông Dịch tốt nghiệp bằng cử nhân tại Đại học Bắc Kinh vào năm 2014.
Năm 2019, anh hoàn thành chương trình học sau tiến sĩ và trở thành trợ lý giáo sư tại Khoa Toán của Đại học Bắc Kinh.
|
Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812061
|
Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào () là tổ chức tại Lào được thành lập vào năm 1951 với tư cách là một cơ quan ban ngành của Đảng Cộng sản Đông Dương, và hình thành theo hình thức hiện tại vào năm 1964. Ban này chịu trách nhiệm tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.
Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương () là ủy viên theo đúng thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Người đứng đầu hiện nay, Khamphanh Pheuyavong, là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI và Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI.
|
Mercedes-Benz CLS
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812062
|
Mercedes-Benz CLS (tên ban đầu là CLS-Class) là một dòng xe ô tô hạng sang được sản xuất bởi Mercedes-Benz từ năm 2004 đến tháng 8 năm 2023.
|
Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812064
|
Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước () là một chuyên luận triết học năm 1884 được viết bởi Friedrich Engels.
|
Enigma (phim truyền hình)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812067
|
Enigma (; ; tạm dịch: Người đàn ông ma thuật) là một bộ phim truyền hình Thái Lan với sự tham gia của Metawin Opas-iamkajorn (Win) và Chanikarn Tangkabodee (Prim). Bộ phim được đạo diễn bởi Patha Thongpan, người đã cầm trịch hai dự án rất thành công trước đó là "The Gifted" (2018) và "" (2021), sản xuất bởi GMMTV cùng với Parbdee Taweesuk. Bộ phim được phát sóng vào thứ Bảy hàng tuần lúc 20:30 (), đồng thời trên GMM 25 và nền tảng trực tuyến Prime Video, bắt đầu từ ngày 15 tháng 7 năm 2023. Bộ phim kết thúc vào ngày 5 tháng 8 năm 2023.
Nội dụng.
Fa (Chanikarn Tangkabodee) là học sinh lớp 12 của trường Satrikurat, một trong những cơ sở giáo dục hàng đầu với các tiêu chuẩn khắt khe về thành tích học tập. Một ngày nọ, một học sinh bỗng phát điên vì áp lực và đâm giáo viên trọng thương. Trong khi nhà trường cho rằng điều này là do căng thẳng đến từ việc học tập, Fa lại nghi ngờ mọi chuyện không chỉ đơn giản như vậy, và thế giới của cô dần lộ ra những vết nứt vẫn luôn được ẩn giấu.
Khi loạt sự kiện kỳ lạ khác tiếp tục xuất hiện, chúng dường như có liên quan đến giáo viên mới tên Ajin (Metawin Opas-iamkajorn). Thoạt nhìn, anh ta có vẻ là một người bối rối và vụng về, nhưng có điều gì đó ở anh ta khiến Fa không thể làm ngơ. Khi cô dấn thân ngày càng sâu vào bóng tối, những bí ẩn dẫn cô đến một thế giới nguy hiểm hơn cả những gì cô từng nghĩ. Một thế giới mà Fa luôn cho rằng chỉ là sự tưởng tượng đơn thuần, lại bắt đầu khiến cô nhận ra với đủ niềm tin, nó hoàn toàn có thể trở thành hiện thực.
Sản xuất.
Đây là một trong 19 dự án phim truyền hình cho năm 2023 được GMMTV giới thiệu trong sự kiện "GMMTV 2023 Diversely Yours," vào ngày 22 tháng 11 năm 2022.
Sau một thời gian chuẩn bị, "Enigma" chính thức khởi quay vào ngày 20 tháng 2 năm 2023. Bộ phim đóng máy vào ngày 31 tháng 5 năm 2023, sau khoảng bốn tháng ghi hình.
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.