title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Châu Nam Cực thuộc Brasil
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813906
Châu Nam Cực thuộc Brasil ( hay "Antártica Brasileira") là một lãnh thổ của châu Nam Cực ở phía nam vĩ tuyến 60° Nam và từ 28°T đến 53°T , được học giả địa chính trị Therezinha de Castro đề xuất là "Vùng quan tâm". Mặc dù nội dung chỉ định chưa bao giờ được xác định chính xác, nhưng nó không chồng lấn về mặt địa lý với các lãnh thổ của Argentina và Anh (khu vực này có chung đường biên giới nhưng không chồng lấn với Lãnh thổ châu Nam Cực thuộc Chile về phía tây). Brasil chính thức tiến hành bảo lưu các quyền lãnh thổ của mình ở Nam Cực khi tham gia Hệ thống Hiệp ước châu Nam Cực vào ngày 16 tháng 5 năm 1975. The Frontage Theory ("Teoria da Defrontação") was proposed by Brazilian geopolitical scholar Therezinha de Castro and published in her book "Antártica: Teoria da Defrontação". Bên ngoài vùng quan tâm, Brasil duy trì một cơ sở nghiên cứu có nhân viên thường trực, Trạm Nam Cực Comandante Ferraz (UN/LOCODE: AQ-CFZ), nằm ở Vịnh Admiralty, Đảo King George, gần mũi Bán đảo Nam Cực, có tọa độ . Bán đảo này là phần cực bắc của lục địa Nam Cực, dễ tiếp cận nhất và ấm nhất của lục địa và do đó, một số quốc gia cũng có cơ sở nghiên cứu nằm trên đó.
Bảo tàng Tỉnh dòng Anh Em Hèn Mọn Lúp Dài Warszawa, Zakroczym
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813910
Bảo tàng Capuchin tỉnh Warsaw ở Zakroczym (tiếng Ba Lan: "Muzeum Warszawskiej Prowincji Kapucynów w Zakroczymiu") là một bảo tàng tọa lạc tại số 36 phố Cha Honorat Koźmiński, Zakroczym, Ba Lan. Bảo tàng do Dòng Anh Em Hèn Mọn Capuchin điều hành, nằm trong các cơ sở của Trung tâm Tâm linh "Honoratianum". Lịch sử. Bảo tàng được xây dựng vào năm 1993. Một năm sau, bảo tàng chính thức mở cửa cho công chúng. Triển lãm. Bảo tàng bố trí triển lãm bên trong hai căn phòng. Bộ sưu tập của bảo tàng bao gồm các kỷ vật liên quan đến lịch sử của Dòng ở Ba Lan và các di tích nghệ thuật. Các hiện vật tiêu biểu được trưng bày trong bảo tàng là kỷ vật của các thành viên của Dòng, bao gồm Chân phước Honorat Koźmiński, Cha Ryszard Grabski, Cha Benignus Sosnowski, Cha Michał Skorupiński, và một số người khác. Ngoài ra, bảo tàng còn tổ chức một cuộc triển lãm dân tộc học và truyền giáo, bao gồm các hiện vật có nguồn gốc từ châu Mỹ Latinh, châu Phi, Israel, và một số nơi khác. Giờ mở cửa. Du khách có thể đến tham quan bảo tàng khi có sự sắp xếp trước với những người chăm sóc các bộ sưu tập.
Francesco II của Hai Sicilie
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813916
Francis II (tiếng Napoli và tiếng Ý: "Francesco II", đặt tên thánh là "Francesco d'Assisi Maria Leopoldo"; tiếng Sicilia: "Francischieddu"; 16 tháng 1 năm 1836 – 27 tháng 12 năm 1894) là vị vua cuối cùng của Vương quốc Hai Sicilie và tại vị từ năm 1859 đến 1861. Ông đánh mất lãnh thổ của mình khi các cuộc xâm lược liên tiếp của Giuseppe Garibaldi và Victor Emmanuel II của Sardinia nhầm mục đích thống nhất Bán đảo Ý. Sau khi ông bị phế truất, Vương quốc Hai Sicilie và Vương quốc Sardinia được sáp nhập vào Vương quốc Ý mới thành lập dưới quyền trị vì của Vương tộc Savoia. Cuộc sống đầu đời. Là con trai duy nhất và là người thừa kế của Vua Ferdinando II của Hai Sicilie với người vợ đầu tiên của ông, Maria Cristina xứ Savoy, Francis II là vị vua cuối cùng của Vương tộc Borbone-Hai Sicilie. Việc học hành của ông đã bị bỏ bê nhiều và ông tỏ ra là một người đàn ông có tính cách nhu nhược, chịu ảnh hưởng lớn từ người mẹ kế của mình, Nữ đại công tước Maria Theresia của Áo, người mà ông thấy rất sợ, cũng như bởi các linh mục và Camarilla, triều đình phản động. Vào ngày 3 tháng 2 năm 1859 tại Bari, Francis kết hôn với Nữ công tước Maria Sophie của Bayern, thuộc hoàng gia Bayern của Vương tộc Wittelsbach (em gái của Hoàng hậu Elisabeth "Sissi" của Áo). Tuy nhiên, cuộc hôn nhân của họ không hạnh phúc. Con gái duy nhất của họ, Maria Cristina, được sinh ra 10 năm sau khi cha mẹ cô kết hôn và chỉ sống được ba tháng (24 tháng 12 năm 1869 - 28 tháng 3 năm 1870).
Thiên ma Ba Tuần
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813918
Thiên ma Ba Tuần (tiếng Phạn: मार, Māra; tiếng Trung: 天魔; tiếng Nhật: マーラ; tiếng Miến Điện: မာရ်နတ်; tiếng Hàn: 마라 파피야스; tiếng Thái: มาร; tiếng Anh: Mara), trong Phật giáo, được gọi là Ma Vương, là vua của cõi trời Tha Hóa Tự Tại, là cõi trời cao nhất trong sáu cõi trời của Dục giới trong Tam giới, Ma Vương đã cố gắng ngăn cản Phật Thích Ca đạt được Giác ngộ bằng đội quân của mình và hình ảnh những người phụ nữ xinh đẹp, quyến rũ, được cho là con gái của Ma Vương. Trong vũ trụ phật giáo, Thiên ma Ba Tuần được liên kết với cái chết, đầu thai và dục vọng. Nyanaponika Thera đã từng mô tả Ma Vương là “sự đối đầu với giác ngộ.” Con gái của Ma Vương. Trong những câu chuyện về sự giác ngộ của Đức Phật có kể rằng người Ma Vương đã không cử ba cô con gái của mình đến cám dỗ mà thay vào đó, họ tự nguyện đến sau thất bại của Ma Vương trong nỗ lực loại bỏ sự tìm kiếm giác ngộ của Đức Phật. Ba cô con gái của Ma Vương được xác định là: Trong kinh Tương Ưng Bộ (Māra-saṃyutta), ba cô con gái của Ma vương đang thoát y trước mặt Đức Phật; nhưng không thuyết phục được Đức Phật:
Động đất ngoài khơi Bán đảo Izu 1974
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813935
xảy ra vào lúc 8:33 (JST), ngày 9 tháng 5 năm 1974. Trận động đất có cường độ 6.9 richter. Tâm chấn độ sâu khoảng 9 km, nằm ngoài khơi bán đảo Izu. Trận động đất đã tạo một cơn sóng thần 12 cm tại Omaezaki, tỉnh Shizuoka. Hậu quả trận động đất làm 30 người chết, 102 người bị thương.
Nút giao thông Jōsō
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813936
Nút giao thông Jōsō (Tiếng Nhật: インターチェンジ) còn được gọi là Jōsō IC (Tiếng Nhật: IC) là điểm giao cắt số 75 của , nối liền Jōsō, Ibaraki, Nhật Bản.
Blooming onion
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813937
Blooming onion, hay còn được gọi là onion bloom, onion blossom, onion flower, bloomin' onion, Australian onion hoặc onion mum, là một món ăn bao gồm một củ hành tây lớn, được cắt giống như một bông hoa (sau khi nó nở ra khi ngâm trong nước đá), tẩm bột, rồi chiên ngập dầu, và thường được ăn kèm với xốt chấm. Nó được phục vụ như một món khai vị tại một số nhà hàng. Lịch sử. Các tài liệu tham khảo về món "onion mum" bao gồm một củ hành tây được cắt thành hình bông hoa đã có từ năm 1947, mặc dù món ăn này không được chiên hoặc nấu hành tây. Phiên bản chiên phổ biến hơn của món ăn có thể được phát minh vào năm 1985 tại nhà hàng ở New Orleans, Russell's Marina Grill, nơi người sáng lập Outback Steakhouse tương lai, Tim Gannon làm việc vào thời điểm đó. Món ăn đã rất phổ biến ở Hoa Kỳ khi nó xuất hiện với tên gọi "Bloomin' Onion", một đặc điểm đặc trưng của Outback Steakhouse khi chuỗi quốc gia đó mở cửa vào năm 1988. Nó thường được phục vụ với xốt chấm đặc trưng của nhà hàng. Từ ngày 21 tháng 6 năm 2016, Outback Steakhouse bắt đầu phục vụ một biến thể duy nhất trong thời gian giới hạn của Bloomin' Onion, Loaded Bloomin' Onion. Dinh dưỡng. Quá trình chuẩn bị trứng và chiên ngập dầu của món ăn có nghĩa là nó chứa nhiều calo; một củ hành tây nở với nước xốt chứa khoảng 1.660 calo và 87g chất béo. Vào năm 2007, một nghiên cứu của Trung tâm Khoa học vì Lợi ích Công cộng đã tìm thấy hàm lượng chất béo là 116g, bao gồm 44g chất béo bão hòa và chất béo chuyển hóa kết hợp. Khi nó tồn tại, Awesome Blossom có ​​phong cách tương tự tại Chili's đã được tạp chí "Men's Health" liệt kê trong bảng xếp hạng "20 món khai vị tệ nhất ở Mỹ" vào năm 2008 vì lượng calo và chất béo cao, với 2.710 calo, 203g (1.827 calo) chất béo, 194g carbohydrate và 6.360 miligam natri, với lượng chất béo tương đương với 67 lát thịt lợn muối xông khói. Để tham khảo, Lượng tiêu thụ hàng ngày tham khảo của Hoa Kỳ đối với chất béo là 65g và đối với natri là 2.300 mg, giả sử chế độ ăn tối đa là 2.000 calo, trong khi khuyến nghị về năng lượng thực phẩm hàng ngày điển hình nằm trong khoảng từ 1.600 đến 3.000 calo.
Tào Sơn Huệ Hà
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813938
Tào Sơn Huệ Hà (zh. 曹山慧霞, ja. "Sōzan Eka", ?-?) là vị Thiền sư Trung Quốc dưới thời Ngũ đại Thập quốc, đời thứ 3 Tào Động tông. Sư là đệ tử nối pháp của Thiền sư Tào Sơn Bản Tịch. Sư có công lớn trong việc biên tập và truyền bá tư tưởng Ngũ vị của Động Sơn và Tào Sơn lan rộng trong giới Thiền học Trung Quốc lúc bấy giờ. Cơ duyên và hành trạng. Sư họ Hoàng, quê ở Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến. Sau khi xuất gia, sư đến tham học với thiền sư Tào Sơn Bản Tịch rồi ngộ đạo và được vị này ấn khả. Ban sơ, sư trụ tại núi Hà Ngọc. Sau sư kế thừa Thiền sư Tào Sơn Bản Tịch trụ trì tại thiền viện ở Tào Sơn nên còn được gọi là "Trung Tào Sơn" (中曹山, đời thứ hai ở Tào Sơn). Công lao lớn nhất của sư có thể kể đến việc biên tập cuốn "Ngũ Vị Hiển Quyết" trên cơ sở tư tưởng Ngũ vị của hai vị tổ khai sáng Tông Tào Động. Nhờ vậy mà người đời sau có cơ hội được tìm hiểu và nghiên cứu về tư tưởng này. Sau sư thị tịch, vua ban hiệu là Liễu Ngộ đại sư. Pháp ngữ. Lời dạy của sư được lưu truyền lại khá ít ỏi, chủ yếu là một số lời vấn đáp giữa sư và đệ tử ghi trong "Cảnh Đức Truyền Đăng Lục:"Tăng hỏi: "Phật chưa xuất thế thì thế nào?" Sư nói: "Tào Sơn không như." Tăng lại hỏi: "Sau khi xuất thế thì thế nào?" Sư nói: "Không như Tào Sơn" Tăng hỏi: "Bốn núi (tứ đại) bức ngặt thì thế nào?" Sư nói: "Tào Sơn trụ được trong đó." Hỏi: "Có còn cầu ra khỏi không?" Sư nói: "Nếu ở trong đó thì cầu ra khỏi." Một vị tăng đứng hầu, sư bảo: "Đạo giả nóng quá đây!" Tăng đáp: "Vâng ạ." Sư hỏi: "Như nóng bức đó thì tránh né nơi nào được?" Tăng nói: "Hướng về chảo nước sôi và trong lò than mà tránh né." Sư nói: "Như chảo nước sôi và lò than kia thì tránh né thế nào được?" Tăng nói: "Vì nơi đó các thứ khổ không thể đến." Sư im lặng ấn khả.
Pol Moya
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813947
Pol Moya Betriu (sinh ngày 9 tháng 12 năm 1996) là một nam vận động viên chạy cự ly trung bình người Andorra. Anh đã đại diện cho quốc gia của mình tại Giải vô địch trong nhà thế giới 2016, nhưng không đủ điều kiện tham dự trận chung kết. Anh là người giữ kỷ lục quốc gia ở một số cự ly. Moya đại diện cho Andorra tại Thế vận hội Mùa hè 2016, nhưng không lọt vào trận chung kết. Anh là người cầm cờ cho đoàn thể thao Andorra ở lễ bế mạc. Moya được sinh ra tại Tây Ban Nha với cha mẹ cũng là người Tây Ban Nha. Anh hiện tại học tại trường Đại học Bách khoa Catalunya. Thành tích cá nhân tốt nhất. Ngoài trời Trong nhà
Chuyện từ góc công viên
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813950
Chuyện từ góc công viên (tiếng Anh: "Story from the Corner of a Park") là một bộ phim tài liệu Việt Nam sản xuất bởi Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương, do Trần Văn Thủy và Hồ Trí Phổ đồng biên kịch kiêm đạo diễn. Phim sản xuất, công chiếu lần đầu vào năm 1996 và từng xuất hiện tại nhiều hội thảo quốc tế về chất độc da cam. Nội dung. Phim mô tả lại câu chuyện đời thường của một gia đình là nạn nhân của chất độc màu da cam. Nguyễn Thanh Sơn là một cựu quân nhân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi xuất ngũ đã trở thành một thợ ảnh, thường chụp ảnh cho các gia đình tại công viên Lê-nin. Do trong một lần làm nhiệm vụ ông Sơn đã bị nhiễm chất độc nên sau khi kết hôn với vợ là Phạm Thị Đức Hòa, những đứa con của ông không may đã phải chịu những di chứng từ chất độc da cam: đứa con gái đầu Nguyễn Thị Phương Thúy đã bị bại liệt, mắc bệnh động kinh và bị mù, câm, điếc. Đứa con trai thứ hai Nguyễn Thanh Tùng tuy lớn lên khỏe mạnh nhưng bị mù cả đôi mắt. Dù phải chịu hoàn cảnh éo le nhưng những thành viên trong gia đình vẫn nỗ lực vươn lên số phận và có niềm tin vào cuộc sống. Sản xuất. Đạo diễn của bộ phim là Trần Văn Thủy và Hồ Trí Phổ; Trần Văn Thủy cũng là biên kịch của bộ phim. Thời điểm tác phẩm sản xuất và ra mắt năm 1996, bộ phim đã đóng vai trò tiên phong trong việc làm phim gần như không dùng lời bình, không âm nhạc – là phong cách phim tài liệu hiện đại vốn còn rất sơ khai tại Việt Nam khi ấy. Tiếp nhận. Trong bối cảnh Vụ kiện hậu quả chất độc màu da cam trong Chiến tranh Việt Nam, bộ phim đã có mặt tại vô số hội thảo về chất độc da cam tổ chức ở nhiều nơi khác nhau, đặc biệt là Mỹ, và trước đó cũng từng tham dự các liên hoan phim, buổi chiếu phim quốc tế. Người dịch phim ra phụ đề tiếng Anh là một học giả người Mỹ tên Diana Fox. Chỉ riêng tại buổi chiếu ở Thành phố New York năm 2004, phim đã nhận được phản hồi tích cực từ khán giả và một tràng pháo tay dài sau khi kết thúc. Các buổi chiếu tại Hà Nội cũng ở trong tình trạng kín chỗ, với đa số khán giả là người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam.
Chuyện từ góc công viên
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813950
Viết trong cuốn "Four Decades On", bộ đôi tác giả Laderman và Martini đã dành lời khen ngợi cho "Chuyện từ góc công viên" khi không chủ ý được làm ra để gây sốc cho người xem nhưng đã có "tác động khích lệ tới phản ứng nhân đạo". Vào năm 2009, phim đã được phát sóng trên kênh VTV4 của Đài Truyền hình Việt Nam trong loạt chương trình 24 giờ nhân ngày vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam. Bộ phim cũng từng được đưa vào hồ sơ xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật ở lĩnh vực điện ảnh cho đạo diễn Trần Văn Thủy nhưng đã không được chấp thuận bởi hội đồng xét duyệt.
Trương Phúc Phấn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813958
Trương Phúc Phấn (?–?) là một danh tướng trong giai đoạn Trịnh–Nguyễn phân tranh. Là trấn thủ đầu tiên của dinh Bố Chính (dinh Ngói), với những chiến công giữ vững lũy Trường Dục và đánh thắng các cuộc tấn công quy mô lớn của quân Trịnh những năm 1640, 1648; ông được xếp vào hàng thứ hai của bậc Khai quốc công thần nhà Nguyễn. Thân thế. Trương Phúc Phấn vốn gốc người Quý Sơn, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Cha của Trương Phúc Phấn là Trương Gia Sơn, một vị tướng tài giỏi, từng giữ chức "Điện Tiền Đô Chỉ Huy" cho nhà Lê và được phong là "Lương Quận Công". Sau thấy họ Trịnh chuyên quyền, làm việc bất đạo, Trương Gia Sơn mới bỏ chúa Trịnh đi vào Nam, ngụ tại làng Phong Lộc (Quảng Bình), sau dời vào Thừa Thiên. Trương Phúc Phấn vốn tên "Trương Công Phấn", nhờ lập được chiến công, được chúa Nguyễn đổi chữ “Công” thành chữ “Phúc”, cho mang đệm của Chúa. Vốn con nhà tướng, Trương Phúc Phấn theo tập võ nghệ từ nhỏ, học binh thư đồ trận và sớm trở thành một tay võ nghệ, có tài mưu lược hơn người. Ông gia nhập vào quân đội của chúa Nguyễn ở miền Nam, vào đời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Sự nghiệp. Nhờ tài năng, ông được bổ nhiệm làm chức Cai Cơ. Ông trị quân nghiêm minh, đồng cam cộng khổ với quân lính và luôn răn dè binh sĩ dưới tay không được quấy phá, nhũng nhiễu dân chúng. Bởi vậy, ông nhận được sự nể phục và yên mến của nhân dân, binh lính ở các vùng đóng quân. Khi Nguyễn Phúc Nguyên muốn tranh hùng cùng chúa Trịnh ở phương Bắc, muốn tìm một tướng lĩnh tài ba, đức độ để giữ ải địa đầu. Các tướng lĩnh đều tiến cử Trương Phúc Phấn. Năm 1630, Trương Phúc Phấn giữ chức Trấn thủ dinh Bố Chính (dinh Ngói).“"Tháng 6-1630, chúa lập dinh Bố Chính, lập sổ dân đinh, đặt 24 đội thuyền. Trương Phúc Phấn làm Trấn thủ dinh Bố Chính, tước hiệu là Phấn quận công”"Tháng 8 năm Canh Thìn (1640), tướng làm phản là Nguyễn Khắc Loát quấy rối Nam Bố Chính. Chúa cùng Nguyễn Hữu Dật bàn kế trừ đi.
Trương Phúc Phấn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813958
Trước hết là tung phản gián vào đất chúa Trịnh, rồi sai Phấn cùng Nguyễn Cửu Kiều ngầm đem quân sang sông Gianh giả cách mời Khắc Loát đến hội. Khắc Loát tin lời, không phòng bị. Quân của Phấn thình lình ập đến đánh úp. Khắc Loát bối rối chạy về, bị chúa Trịnh sai giết đi. Phấn thừa thắng lấy hết cả đất châu Bắc Bố Chính. Tin thắng trận ấy đến nơi, chúa ban thưởng rất hậu. Năm 1647, ở Bắc Hà, chúa Trịnh Tráng sai Đại Đô Đốc là Tiến Quận Công Lê Văn Hiểu, đem đại quân thủy bộ vào tấn công Nam Hà. Bộ binh tấn công vào nam Bố Chính, thủy quân đánh vào cửa Nhật Lệ. Trương Phúc Phấn cùng với con là Trương Phúc Hùng chia quân ra, giữ đồn Trường Dục và Lũy Thầy. Quân Trịnh khí thế hùng hậu ban đầu đã tấn công vào đại đồn Trường Dục và Lũy Thầy rất mãnh liệt, nhưng suốt mấy lần xung kích đều gặp thất bại. Dưới quyền điều động của Trương Phúc Phấn và Trương Phúc Hùng, binh sĩ Nam Hà đã chống trả, bảo vệ thành lũy rất hữu hiệu. Quân Trịnh đánh mãi không được gọi Trương Phúc Phấn là "Phấn cố trì" (Phấn giữ thành). Trương Phúc Hùng cũng là một vị tướng tài, võ nghệ, mưu trí và sự can đảm không thua gì cha. Binh sĩ coi ông như là một bức tường thành bằng sắt, bảo vệ Nam Hà, nên gọi ông là "Hùng Thiết Lũy". Mặc dầu thất bại nhiều lần, nhưng Lê Văn Hiểu vẫn tiếp tục xua quân đánh vào Trường Dục và Lũy Thầy. Quân Trịnh quá đông, trong khi quân Nguyễn giữ thành lại ít ỏi. Trương Phúc Phấn gửi thư về phủ chúa Nguyễn xin cứu viện. Lúc bấy giờ, Nguyễn Phúc Nguyên đã mất, Nguyễn Phúc Lan kế vị. Nhận được thư báo, chúa Thượng sai con trai là Nguyễn Phúc Tần và tướng Nguyễn Hữu Tiến đem quân ra Quảng Bình tiếp viện. Chúa Nguyễn Phúc Tần chia thủy quân phục ở sông Cẩm La, chặn đường rút lui của quân Trịnh và sai Nguyễn Hữu Tiến đem một trăm con voi, vừa tờ mờ sáng, tấn công vào đại bản doanh của quân Trịnh. Hai cha con Trương Phúc Phấn và Trương Phúc Hùng cùng mở cửa thành tấn công vào quân Trịnh.
Trương Phúc Phấn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813958
Trận này quân chúa Nguyễn thắng lớn, bắt được nhiều tướng Trịnh và hơn ba ngàn quân Trịnh. Cha con Trương Phúc Phấn đều được phong Hầu, nâng hàng vương tôn. Sau đó, Trương Phúc Phấn bị ốm rồi mất. Gia đình. Con của Trương Phúc Phấn là Trương Phúc Hùng, Trương Phúc Cương từng là những tướng lĩnh tài ba của các chúa Nguyễn. Cháu của Trương Phúc Phấn (con của Trương Phúc Cương) là danh tướng Trương Phúc Phan. Tưởng niệm. Gia Long năm thứ 4 (1805), vua bàn định đẳng cấp các vị Khai quốc Công thần, Trương Phúc Phấn được suy tôn lập công thần hạng hai, được cấp 6 mẫu tự điền, 3 người chăm sóc lăng mộ. Tên của ông được đặt cho một con đường đường ở Lộc Ninh, Đồng Hới, Quảng Bình, Việt Nam.
NRK
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813959
NRK (tiếng Na Uy: "Norsk rikskringkasting AS") là tổ chức phát sóng công cộng thuộc sở hữu của chính phủ Na Uy, đồng thời là công ty truyền thông lớn nhất ở Na Uy. NRK phát sóng 3 kênh truyền hình và 13 kênh phát thanh quốc gia trên truyền hình kỹ thuật số vệ tinh. NRK là thành viên đồng sáng lập của Liên hiệp Phát sóng châu Âu. Nguồn kinh phí. Năm 2020, khoảng 94% doanh thu của NRK đến từ trả phí truyền hình. Theo đó, đối với bất kỳ ai sở hữu TV hoặc thiết bị có khả năng xem truyền hình đều phải trả phí cho NRK. Mô hình thu phí người xem của NRK rất giống với đài truyền hình công cộng Nhật Bản NHK. Trước đó năm 2015, chính phủ thông báo rằng họ có kế hoạch thay đổi cách tài trợ cho NRK. Đây là một phần phản ứng đối với sự suy giảm quyền sở hữu TV ở Na Uy. Từ đầu năm 2020, nguồn kinh phí của NRK là một trong những ngân sách quốc gia và các chi phí này được chi trả thông qua thuế đối với mỗi cá nhân chịu thuế thu nhập ở Na Uy.
Kuzu no Honkai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813963
là một bộ manga Nhật Bản được thực hiện bởi Yokoyari Mengo. Bộ truyện được đăng dài kì trên tạp chí "seinen" manga "Big Gangan" của Square Enix từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 3 năm 2017 và được gom lại thành 8 tập "tankōbon". Một bộ anime truyền hình dài tập chuyển thể được Lerche sản xuất lên sóng từ giữa tháng 1 đến tháng 3 năm 2017 trên Fuji TV. Một bộ phim người đóng cũng được lên sóng từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2017. Cốt truyện. Yasuraoka Hanabi là một học sinh cao trung, cô đã phải lòng Kanai Narumi, người bạn thuở nhỏ mà cô luôn coi như một người anh trai và hiện giờ là giáo viên chủ nhiệm của cô. Nhưng Narumi đã phải lòng người khác, Minagawa Akane, một giáo viên âm nhạc mới, chứ không phải cô. Hanabi gặp được Awaya Mugi, một học sinh khác và cậu cũng phải lòng cô giáo Akane, người từng là gia sư của cậu khi còn học trung học. Hanabi và Mugi lập giao ước với nhau và bắt đầu mối quan hệ giả tạo để thỏa mãn sự cô đơn trước những mối tình đơn phương của mỗi người, về mặt thể xác lẫn tinh thần. Họ đồng ý không yêu nhau và mối quan hệ sẽ kết thúc nếu họ được đáp lại từ những người họ yêu. Truyền thông. Manga. "Kuzu no Honkai" được viết và minh họa bởi Yokoyari Mengo và đăng trên tạp chí "Big Gangan" của Square Enix bắt đầu từ ngày 25 tháng 9, 2012 và kết thúc vào ngày 25 tháng 3, 2017. Cùng ngày đó Square Enix cũng đã phát hành cuốn tankōbon thứ 8 (bao gồm bản thường và bản giới hạn) và là cuốn cuối cùng. Bộ truyện được xuất bản kĩ thuật số bằng tiếng Anh bởi Crunchyroll Manga và được in bởi Yen Press. Một bộ manga spin-off với tựa đề "Kuzu no Honkai décor" được phát hành trên "Big Gangan" từ ngày 25 tháng 11, 2017 đến ngày 25 tháng 5, 2018 và được gom lại thành 1 tập. Danh sách tập. Tập 7.5, một cuốn fan book với tựa đề "Ambivalent" (Mâu thuẫn tư tưởng), bao gồm manga và anime, được phát hành bởi Square Enix vào ngày 24 tháng 12, 2016. Anime. Một bộ anime truyền hình dài tập chuyển thể được công bố vào tháng 3 năm 2016 và sẽ được phát sóng trên kênh Noitamina của Fuji TV bắt đầu từ ngày 12 tháng 1 và kết thúc vào ngày 30 tháng 3, 2017. Bộ anime cũng sẽ được phát sóng trực tiếp độc quyền trên Amazon Prime Video tại Nhật Bản và toàn cầu.
Kuzu no Honkai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813963
Bộ phim được đạo diễn bởi Masaomi Andō và làm hoạt hình tại studio Lerche với kịch bản của Makoto Uezu, thiết kế nhân vật bởi Kurosawa Keiko và âm nhạc bởi Yokoyama Masaru. Bộ phim kéo dài 12 tập và được phát hành trên 6 đĩa Blu-ray/DVD. Ca khúc mở đầu là và được thể hiện bởi 96neko (người mà sau này lồng tiếng cho Anne Faulkner trong "Paradox Live"). Ca khúc kết thúc là được thể hiện bởi Sayuri. Anime đã được cấp phép bởi Sentai Filmworks để phát hành đĩa kĩ thuật số và gia đình. Madman Entertainment đã phát hành anime trên video gia đình dành cho Úc và New Zealand. MVM Entertainment đã mua bản quyền anime dành cho video gia đình tại Anh Quốc và Ireland. Phim người đóng. Một bộ chuyển thể phim người đóng được thông báo vào tháng 12 năm 2016 và lên sóng 12 tập trên Fuji TV từ 18 tháng 1 đến 5 tháng 4, 2017. Đón nhận. Bộ manga đã bán được hơn 1,9 triệu bản tính đến tháng 11 năm 2017. Bộ manga được xếp hạng thứ 11 tại Next Manga Award tổ chức lần đầu tiên tại hạng mục truyện tranh in.
Nicolas Théobald
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813975
Nicolas Théobald là nhà cổ sinh vật học, địa chất học, giáo sư và nhà côn trùng học người Pháp (1903-1981). Ông bảo vệ luận án của mình vào năm 1937.
Zirconi(IV) sulfide
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813977
Zirconi(IV) sulfide là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học ZrS2. Nó là một chất rắn màu nâu tím có cấu trúc phân lớp tương tự như cadmi(II) iodide. Điều chế. Giống như titani(IV) sulfide, ZrS2 được điều chế bằng cách nung nóng lưu huỳnh và kim loại zirconi. Nó có thể được tinh chế bằng phương pháp vận chuyển hơi sử dụng iot. Hợp chất khác. Phức hợp ZrS2·NH3 được tạo thành khi cho ZrS2 tác dụng với NH3 ở thể khí hoặc lỏng. ZrS2 phản ứng với NH3 tạo thành chất lỏng màu xanh ngọc lục bảo, khi tách ra ở dạng bột/tinh thể có màu đỏ cam đậm với vệt màu kim loại đồng.
Hafni(IV) sulfide
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813979
Hafni(IV) sulfide là một hợp chất vô cơ của hafni và lưu huỳnh, được phân loại là một dichalcogenide phân lớp với công thức hóa học HfS2. Một vài lớp mỏng của vật liệu này có thể được tách ra bằng cách sử dụng kỹ thuật Scotch Tape tiêu chuẩn (xem graphene) và được sử dụng để chế tạo transistor hiệu ứng trường. Quá trình tổng hợp hiệu suất cao của HfS2 cũng đã được chứng minh bằng cách sử dụng quá trình tróc màng ở pha lỏng, tạo ra các mảnh HfS2 ít lớp nhưng ổn định. Điều chế. Bột hafnium(IV) sulfide có thể được sản xuất bằng phản ứng giữa hydro sulfide và hafni(IV) oxide ở 500–1300 °C. Hợp chất khác. Phức hợp HfS2·NH3 được tạo thành khi cho HfS2 tác dụng với NH3 ở thể khí hoặc lỏng. HfS2 phản ứng với NH3 tạo thành chất lỏng màu xanh lục đậu, khi tách ra ở dạng bột/tinh thể có màu đỏ cam đậm với vệt màu kim loại đồng.
REAPER
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813980
REAPER (viết tắt của "Rapid Environment for Audio Production, Engineering and Recording") là một máy trạm âm thanh kỹ thuật số cho macOS và Windows được tạo bởi Cockos. Giấy phép. REAPER cung cấp thời gian đánh giá 60 ngày miễn phí, đầy đủ chức năng. Để sử dụng thêm, hai giấy phép có sẵn - một giấy phép thương mại và một giấy phép giảm giá. Chúng giống hệt nhau về các tính năng và chỉ khác nhau về giá cả và người sử dụng, với giấy phép giảm giá được cung cấp cho mục đích sử dụng tư nhân, trường học và doanh nghiệp nhỏ. Bất kỳ giấy phép trả phí nào cũng bao gồm phiên bản hiện tại với tất cả các bản cập nhật trong tương lai và nâng cấp miễn phí lên phiên bản chính tiếp theo và tất cả các bản cập nhật tiếp theo, khi chúng được phát hành. Bất kỳ giấy phép nào cũng hợp lệ cho tất cả các cấu hình (x64 và x86) và cho phép cài đặt nhiều lần, miễn là nó đang được chạy trên một máy tính tại một thời điểm.
André Zuba
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813988
André Renato Antoniassi, hay André Zuba (sinh ngày 23 tháng 6 năm 1986) là một cầu thủ bóng đá người Brasil chơi ở vị trí thủ môn. André Zuba đã từng chơi cho Santa Cruz tại Copa do Brasil.
Roman Zub
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813989
Roman Zub (; sinh ngày 16 tháng 2 năm 1967 tại Ukraina) là một cầu thủ bóng đá người Ukraina đã giải nghệ.
Logic Pro
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813990
Logic Pro là một máy trạm âm thanh kỹ thuật số độc quyền trện macOS do Apple Inc phát triển và phát hành. Tính năng chính. Công cụ, phần mềm. Logic Pro cung cấp phần mềm, công cụ, hiệu ứng âm thanh, VST và phương tiện ghi âm để sản xuất âm nhạc. Apple Loops - vòng lặp nhạc cụ miễn phí bản quyền, được ghi lại chuyên nghiệp. Logic Pro và Express từng chia sẻ nhiều chức năng và cùng một giao diện. Hiệu ứng âm thanh. Hiệu ứng âm thanh bao gồm trình giả lập bàn đạp amp và guitar, hiệu ứng trễ, hiệu ứng biến dạng, bộ xử lý động, bộ lọc cân bằng, hiệu ứng bộ lọc, bộ xử lý hình ảnh, công cụ đo sáng, hiệu ứng điều chế, hiệu ứng cao độ và hiệu ứng hồi âm. Các công cụ phần mềm có trong Logic Pro X bao gồm:. Drum Kit Designer, Drum Machine Designer, ES, ES2, EFM1, ES E, ES M, ES P, EVOC 20 PolySynth, Bộ lấy mẫu, Bộ lấy mẫu nhanh, Bộ tạo trình tự bước, Klopfgeist, Retro Synth, Sculpture, Ultrabeat, Vintage B3, Vintage Clav, Đàn Piano Điện Cổ Điển. Những nhạc cụ này tạo ra âm thanh theo nhiều cách khác nhau, thông qua tổng hợp trừ (ES, ES2, ES E, ES M, ES P, Retro Synth), tổng hợp điều chế tần số (EFM1), tổng hợp wavetable (ES2, Retro Synth), mã hóa (EVOC 20 PolySynth) ), lấy mẫu (Sampler, Quick Sampler, Drum Kit Designer) và các kỹ thuật tạo mô hình thành phần (Ultrabeat, Vintage B3, Vintage Clav và Vintage Electric Piano, Sculpture)
Xã Thanh Mỹ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813992
Xã Thanh Mỹ có thể là một trong số các địa danh Việt Nam sau đây:
Szabolcs Zubai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813993
Szabolcs Zubai (sinh ngày 31 tháng 3 năm 1984) là một cầu thủ bóng ném Hungary chơi cho Orosházi FKSE-LINAMAR. Anh có trận ra mắt quốc tế vào ngày 27 tháng 12 năm 2004 trước Slovakia. Anh tham gia giải đấu quốc tế lớn đầu tiên của mình hai năm sau đó, cùng đội tuyển quốc gia đạt vị trí thứ 13 tại Giải vô địch châu Âu 2006. Anh đã tham gia thêm năm Giải vô địch châu Âu (2008, 2010, 2012, 2014, 2016), bốn Giải vô địch thế giới (2009, 2011, 2013, 2017) và một Thế vận hội (2012).
Larne F.C.
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813994
Câu lạc bộ bóng đá Larne là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp ở Bắc Ailen có trụ sở tại Larne, County Antrim thi đấu tại NIFL Premiership. Lịch sử. Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1889 và sân nhà đựo đặt tại Inver Park. Màu sắc chủ đạo của câu lạc bộ là đỏ và trắng, và các kình địch chính của câu lạc bộ là Carrick Rangers, Ballymena United và Ballyclare Comerades. Từ năm 1972 đến năm 2008, câu lạc bộ được đặt ở vị trí tốt, nhưng trở lại vị trí trung bình khi không giành được một suất tham dự giải IFA Premiership mới. Câu lạc bộ đã lấy lại vị thế cấp cao vào năm 2016, khi NIFL Premiership trở thành giải bóng đá cấp cao thứ hai tại mùa giải 2016–17. Những thành tích đáng chú ý của Larne là á quân Cúp Ireland sáu lần (1928, 1935, 1987, 1989, 2005 và 2021) và á quân Cúp Liên đoàn Bắc Ireland hai lần (1991–92 và 2003–04) nhưng chưa từng vô địch lần nào - một kỷ lục trong cả hai giải đấu tương ứng về số lần vào trận chung kết nhiều nhất mà không bao giờ giành được chiếc vô địch. After being taken over by Purplebricks co-founder Kenny Bruce in October 2018, câu lạc bộ đã nâng cao danh hiệu Giải vô địch NIFL 2018–19. Đây là chức vô địch giải đấu cấp cao đầu tiên của câu lạc bộ, chức vô địch giải đấu đầu tiên của họ kể từ khi giành được danh hiệu trung cấp vào năm 1972, và là chiếc vô địch cấp cao đầu tiên kể từ khi nâng cúp Ulster vào năm 1988. Đây là lần đầu tiên họ trở lại giải đấu hàng đầu kể từ khi bị chỉ định xuống hạng hai trong mùa giải 2007–08 sau khi không đáp ứng được các tiêu chí của IFA Premiership. Trong mùa giải thứ tư trở lại giải đấu hàng đầu Bắc Ireland, The Inver Reds sẽ giành chức vô địch giải đấu NIFL Premiership đầu tiên trong lịch sử vào năm 2023 sau chiến thắng 2-0 trước Crusaders vào tháng 4 năm 2023Với kết quả này, câu lạc bộ lần đầu tiên góp mặt ở vòng loại UEFA Champions League vào mùa hè năm 2023, họ sẽ gặp gã khổng lồ của Phần Lan HJK Helsinki . Đội bóng đá nữ Larne. Larne cũng có một đội bóng đá nữ, ban đầu được thành lập vào tháng 11 năm 2004, trước khi được tái hợp nhất trở lại câu lạc bộ vào năm 2018, trước đó đã không hoạt động trong một vài năm.
Larne F.C.
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813994
Trong mùa giải khai mạc, họ đã kết thúc mùa giải với tư cách là nhà vô địch Liên đoàn miền Bắc 2 với thành tích bất bại, đồng thời là đội vào chung kết bị đánh bại ở Cúp Liên đoàn miền Bắc 2. Giờ đây, họ lần đầu tiên chơi ở hạng cao nhất vào năm 2023 (NIFL Women's Premiership) của Hệ thống giải bóng đá nữ Bắc Ireland sau 4 lần thăng hạng liên tiếp.
Xã Thạnh Mỹ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813995
Xã Thạnh Mỹ có thể là một trong số các địa danh Việt Nam sau đây:
Thị trấn Thạnh Mỹ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813999
Thị trấn Thạnh Mỹ có thể là một trong số các địa danh Việt Nam sau đây:
Elsa Jacquemot
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814000
Elsa Jacquemot (sinh ngày 3 tháng 5 năm 2003) là một nữ vận động viên quần vợt người Pháp. Cô có thứ hạng cao nhất trên bảng xếp hạng WTA là thứ 143 ở nội dung đơn và 325 ở nội dung đôi. Jacquemot đã từng giành được danh hiệu ở nội dung đơn nữ trẻ của Giải Quần vợt Pháp Mở rộng 2020. Sự nghiệp thi đấu. Jacquemot ra mắt nhánh đấu chính của WTA Tour tại Giải quần vợt Lyon Mở rộng 2020 ở nội dung đôi, đánh cặp cùng với Estelle Cascino. Cô đã được trao suất đặc cách tham dự lễ bốc thăm chính của nội dung nữ Giải Quần vợt Pháp Mở rộng 2020, nhưng để thua Renata Zarazúa ở vòng đầu tiên. Được xếp thứ ba, sau đó cô tham gia và giành danh hiệu ở nội dung đơn nữ trẻ tại Pháp Mở rộng 2020. Cô cũng tham gia vào nhánh đấu chính ở nội dung đôi nữ với tư cách là một ký tự đại diện, đánh cặp với Elixane Lechemia. Jacquemot đã được trao một ký tự đại diện trong lễ bốc thăm chính tại Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2021 ở nội dung đơn nữ nhưng lại tiếp tục để thua ở vòng đầu tiên. Cô cũng tham gia năm thứ hai liên tiếp ở Pháp mở rộng với tư cách là một ký tự đại diện, đánh cặp với Elixane Lechemia. Vào năm 2022, cô đã được trao ký tự đại diện thứ ba trong Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2022, nơi cô đánh bại Heather Watson để giành chiến thắng trong trận đấu lớn đầu tiên. Jacquemot cũng tham gia nội dung đôi với tư cách là ký tự đại diện, đánh cặp với Séléna Janicijevic. Thống kê sự nghiệp. Đơn. "Tính đến Vòng loại đơn nữ Pháp Mở rộng 2023."
Lutjanus synagris
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814039
Lutjanus synagris là một loài cá biển thuộc chi "Lutjanus" trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1801. Từ nguyên. Từ định danh "synagris" bắt nguồn từ tên thường gọi trong tiếng Hy Lạp cổ đại của cá tráp "Dentex dentex", một loài mà Linnaeus cho là giống với loài cá ông đang mô tả. Phân bố và môi trường sống. "L. synagris" có phân bố rộng rãi dọc Tây Đại Tây Dương, từ Bermuda và bang North Carolina (Hoa Kỳ) băng qua khắp vịnh México và biển Caribe, dọc theo bờ biển Nam Mỹ đến bang Santa Catarina (Brasil). "L. synagris" sống chủ yếu xung quanh rạn san hô và trên nền cát có phủ rong tảo, cả vùng nước đục lẫn nước trong, được tìm thấy ở độ sâu độ sâu ít nhất là 400 m (thường thấy trong khoảng từ 20 đến 70 m). Loài bị đe dọa. Do là nguồn lợi thủy sản quan trọng mà "L. synagris" rơi vào tình trạng đánh bắt quá mức, đặc biệt là việc nhắm vào các đàn sinh sản của chúng, như đã được ghi nhận ở Brasil. Suy thoái môi trường sống xảy ra ở Cuba do quá trình nhiễm mặn ở các đầm phá nội địa, thiệt hại đối với các thảm cỏ biển "Thalassia" do bão và thay đổi dòng nước ở các khu vực ven biển, đều là những nơi mà cá con có thể sinh sống. "L. synagris" cũng phải hứng chịu nguy cơ từ vụ tràn dầu Deepwater Horizon ở vịnh México. Sự suy giảm quần thể đáng kể của "L. synagris" đã được ghi nhận ở bờ biển Đại Tây Dương của Hoa Kỳ, México, Cuba, Brasil và còn những nơi khác. Do đó, "L. synagris" được xếp vào nhóm Loài sắp bị đe dọa. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. synagris" là 71 cm, thường bắt gặp với chiều dài trung bình khoảng 30 cm. "L. synagris" có màu đỏ hồng ánh bạc với 6–8 sọc ngang màu vàng và một số vệt sọc dọc sẫm màu. Thân trên có các vạch vàng xiên. Mống mắt đỏ nhạt. Đốm đen ở thân sau, nằm dưới phần trước của vây lưng mềm và trên đường bên (đôi khi không xuất hiện), hiếm khi kéo dài qua đường bên. Các vây đỏ hoặc vàng; vây đuôi có viền sau sẫm màu.
Lutjanus synagris
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814039
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 12–13; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–9; Số tia vây ở vây ngực: 15–16; Số vảy đường bên: 47–50. Sinh thái. Thức ăn. Thức ăn của "L. synagris" bao gồm cá nhỏ và nhiều loài thủy sinh không xương sống khác là giun nhiều tơ, giáp xác, chân bụng và chân đầu. Nguồn thức ăn quan trọng nhất của chúng là các loài tôm họ Penaeidae. Ở "L. synagris" con, nguồn thức ăn quan trọng nhất lần lượt là các loài giáp xác thuộc các bộ Amphipoda, Isopoda và Mysidacea. Mysidacea chiếm ưu thế trong khẩu phần của cá con vào mùa khô, trong khi Amphipoda được tiêu thụ nhiều nhất vào mùa mưa. Sinh sản. Ở ngoài khơi phía nam Florida, "L. synagris" sinh sản từ tháng 3 đến tháng 8. Ở Cuba, nhìn chung "L. synagris" sinh sản trong khoảng tháng 4 đến tháng 9, đạt đỉnh điểm vào tháng 5 hoặc 6 tùy theo vị trí. Ở vịnh Paria (bờ đông Venezuela), "L. synagris" sinh sản từ tháng 7 đến tháng 11 (đầu hè đến giữa thu). Dọc Ceará và tại quần đảo Abrolhos (Brasil), "L. synagris" sinh sản từ cuối đông (tháng 9) đến hết hè (tháng 3). Tuổi đời. Tuổi thọ lớn nhất mà "L. synagris" đạt được tính đến hiện tại là 19 năm, thuộc về cá thể ở Bermuda. Ở Jamaica thì tuổi cao nhất mà "L. synagris" đạt được là 12 năm. Lai tạp. Felipe Poey (1860) đã mô tả một loài cá hồng với danh pháp "Mesoprion ambiguus" (= "L. ambiguus") dựa vào một mẫu vật thu thập ở Cuba. Poey sau đó và nhiều nhà ngư học thế hệ sau cũng nhận thấy rằng, "L. ambiguus" mang kiểu hình trung gian giữa "L. synagris" và "Ocyurus chrysurus", đã đặt ra nghi vấn "L. ambiguus" là một loài có nguồn gốc lai tạp sau khi kiểm tra mẫu vật. Ngoài việc chỉ tìm thấy "L. ambiguus" ở những nơi mà "L. synagris" và "O. chrysurus" có phân bố chồng lấn (Florida và vùng biển Caribe), Loftus (1992) còn đưa ra một phân tích về mô hình sinh sản để chứng minh rằng, "L. synagris" và "O. chrysurus" là một cặp có khả năng cao nhất để tạo con lai tự nhiên (cả hai loài đều sinh sản cũng thời điểm), không loài nào khác ngoài "L. ambiguus".
Lutjanus synagris
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814039
Một cá thể lai giữa "L. synagris" và "O. chrysurus" đã được thu thập thêm ở bờ biển bang Pernambuco (Brasil). Giá trị. Như đã nói trên, "L. synagris" là một loài có tầm quan trọng trong nghề cá thương mại và câu cá giải trí. Loài này là mặt hàng thủy sản xuất khẩu đáng kể ở Bắc Brasil, với gần 217 tấn "L. synagris" được xuất khẩu từ bang Rio Grande do Norte trong khoảng năm 1996 đến 2008.
Sữa bay hơi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814054
Sữa bay hơi, hay còn được biết đến như sữa đặc không đường tại một số quốc gia, là sản phẩm sữa không đường có nguồn gốc từ sữa bò, trong đó khoảng 60% nước đã được loại bỏ khỏi sữa tươi. Nó khác với sữa đặc có đường, có chứa thêm đường. Sữa đặc có đường cần ít chế biến hơn để bảo quản vì đường bổ sung sẽ gây ức chế đến sự phát triển của vi khuẩn. Quy trình sản xuất bao gồm sự bay hơi của 60% nước từ sữa, tiếp theo là sự đồng hóa, đóng hộp, và khử trùng. Sữa bay hơi chiếm một nửa không gian dinh dưỡng tương đương với sữa tươi. Khi sản phẩm dạng lỏng được trộn với một lượng nước theo tỷ lệ (150%), sữa bay hơi sẽ trở thành dạng thô tương đương với sữa tươi. Điều này làm cho sữa bay hơi trở nên hấp dẫn đối với một số mục đích vì nó có thể có hạn sử dụng hàng tháng hoặc thậm chí hàng năm, tùy thuộc vào hàm lượng chất béo và đường. Điều này làm cho sữa bay hơi rất phổ biến trước khi làm lạnh như một chất thay thế an toàn và đáng tin cậy cho sữa tươi dễ hỏng, vì nó có thể được vận chuyển dễ dàng đến các địa điểm thiếu phương tiện sản xuất hoặc bảo quản sữa an toàn. Công thức của trẻ sơ sinh. Vào những năm 1920 và 1930, sữa bay hơi bắt đầu được bán rộng rãi trên thị trường với giá rẻ. Ví dụ, Nhà máy Christian Diehl Brewery bắt đầu kinh doanh vào năm 1922, sản xuất sữa bay hơi nhãn hiệu Jerzee như một phản ứng đối với Đạo luật Volstead. Một số nghiên cứu lâm sàng trong khoảng thời gian đó cho thấy trẻ bú sữa công thức bay hơi phát triển tốt như trẻ bú sữa mẹ. Các công thức hiện đại của Tổ chức Y tế Thế giới coi việc cho con bú sữa mẹ, trong hầu hết các trường hợp, là tốt cho sức khỏe của trẻ sơ sinh vì sữa non trong quá trình sản xuất sữa sớm, cũng như hàm lượng dinh dưỡng cụ thể của sữa mẹ. Sản phẩm. Sữa bay hơi được làm từ sữa tươi đồng nhất đã loại bỏ 60% nước. Sau khi loại bỏ nước, sản phẩm được làm lạnh, ổn định, tiệt trùng và đóng gói. Nó được khử trùng thương mại ở 240–245 °F (115–118 °C) trong 15 phút.
Sữa bay hơi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814054
Hương vị được caramel hóa là kết quả của quá trình nhiệt độ cao (phản ứng Maillard), và nó có màu hơi sẫm hơn so với sữa tươi. Quá trình bay hơi là chất dinh dưỡng và năng lượng thực phẩm (kcal); sữa cô đặc chưa hoàn nguyên chứa nhiều chất dinh dưỡng và calo hơn sữa tươi trên một đơn vị thể tích. Chất phụ gia. Sữa bay hơi thường chứa disodium phosphate (chất hỗ trợ chế biến để ngăn đông tụ) và carrageenan (để "ổn định", tức là ngăn chất rắn lắng xuống) cũng như bổ sung vitamin C và D. Sự hoàn nguyên và thay thế. Sữa bay hơi đôi khi được sử dụng ở dạng cô đặc trong trà hoặc cà phê, hoặc làm lớp phủ cho món tráng miệng. Sữa bay hơi hoàn nguyên, gần tương đương với sữa bình thường, được pha theo thể tích 1 phần sữa đặc với 1 1/4 phần nước. Hoa Kỳ. Theo Bộ luật Quy định Liên bang của Hoa Kỳ, Tiêu đề 21, Chương 1, Phần 131, Phần phụ B, Mục 130 "Sữa bay hơi", (tháng 4 năm 2006) (a) Mô tả. Sữa cô đặc là thức ăn lỏng thu được từ loại bỏ một phần nước chỉ từ sữa. Nó chứa không ít hơn 6,5% tính theo trọng lượng của chất béo sữa, không ít hơn 16,5% tính theo trọng lượng của chất rắn sữa không béo, và không ít hơn 23% tính theo trọng lượng của tổng sữa đặc. Sữa bay hơi có bổ sung vitamin D theo quy định của đoạn (b) của phần này. Nó được đồng nhất hóa, được niêm phong trong một thùng chứa và được xử lý bằng nhiệt, trước hoặc sau khi niêm phong, như để ngăn ngừa hư hỏng. Các phần (b)–(f) của quy tắc trên quy định việc bổ sung vitamin, các thành phần tùy chọn, phương pháp phân tích, danh pháp và tuyên bố trên nhãn. Canada. Sữa bay hơi ở Canada được định nghĩa là sữa mà nước đã được cô đặc và chứa ít nhất 25% chất rắn sữa và 7,5% chất béo sữa. Nó có thể chứa thêm vitamin C nếu lượng tiêu thụ hàng ngày của sản phẩm này chứa từ 60 đến 75 miligam và cũng có thể chứa vitamin D với lượng không dưới 300 Đơn vị quốc tế và không quá 400 Đơn vị quốc tế. Natri biphosphat hoặc natri citrat (hoặc cả hai) có thể được thêm vào, cũng như chất nhũ hóa. Hạn sử dụng.
Sữa bay hơi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814054
Hạn sử dụng. Hạn sử dụng của sữa bay hơi đóng lon thay đổi tùy theo cả hàm lượng được thêm vào và tỷ lệ chất béo của nó. Đối với sản phẩm không đường thông thường, thời gian sử dụng có thể kéo dài 15 tháng trước khi xảy ra bất kỳ sự mất ổn định đáng chú ý nào. Các nhà sản xuất nổi tiếng. Sữa bay hơi được bán bởi các nhà sản xuất nổi tiếng như:
Trà sữa Hồng Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814056
Trà sữa Hồng Kông là một loại thức uống được làm từ trà đen Ceylon và sữa (thường là sữa bay hơi và sữa đặc). Nó thường là một phần trong bữa trưa của văn hóa trà Hồng Kông. Người Hồng Kông tiêu thụ tổng cộng khoảng 900 triệu ly/cốc mỗi năm. Mặc dù có nguồn gốc từ Hồng Kông, nó cũng có thể được tìm thấy ở nước ngoài trong các nhà hàng phục vụ ẩm thực Hồng Kông và ẩm thực phương Tây kiểu Hồng Kông. Trong chương trình Top Eat 100, được phát sóng vào ngày 4 tháng 2 năm 2012, thức uống này đã được liệt kê là thức ăn/đồ uống phổ biến thứ 4 ở Hồng Kông. Kỹ thuật pha trà độc đáo được liệt kê trong danh sách đại diện của Di sản văn hóa phi vật thể của Hồng Kông. Lịch sử. Trà sữa Hồng Kông bắt nguồn từ thời kỳ cai trị của thực dân Anh ở Hồng Kông. Tập quán trà chiều của người Anh, nơi trà đen được phục vụ với sữa và đường, đã trở nên rất phổ biến ở quốc gia này. Trà sữa cũng vậy, ngoại trừ sữa đặc được thay thế cho sữa truyền thống. Một nhà hàng kiểu dai pai dong tên là Lan Fong Yuen (蘭芳園) tuyên bố cả trà sữa trân châu và Yuenyeung đều được phát minh vào năm 1952 bởi chủ là anh Lâm. Tuyên bố này về cái sau chưa được xác minh, nhưng cái trước đã được ghi lại trong biên bản chính thức của cuộc họp Hội đồng Lập pháp Hồng Kông từ năm 2007, cho nó tính hợp lý đáng kể. Nó được gọi là "trà sữa" () để phân biệt với "trà Trung Quốc" (), được phục vụ đơn giản. Bên ngoài Hồng Kông, nó được gọi là "Trà sữa Hồng Kông". Nó còn có một tên gọi khác là “trà sữa bò kho lụa” bắt nguồn từ sự xuất hiện của những chiếc trà túi lọc lá vải. Vào những năm 1950 và 1960, đối tượng khách hàng chính của trà sữa Hồng Kông là công nhân và người lao động, những người cho rằng chiếc bao gai trông giống như quần tất. Di sản văn hóa.
Trà sữa Hồng Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814056
Di sản văn hóa. Vào năm 2017, Sở Dịch vụ Văn hóa và Giải trí Hồng Kông đã tuyên bố "kỹ thuật pha trà sữa kiểu Hồng Kông" là một trong những di sản văn hóa phi vật thể (ICH) của Hồng Kông, thuộc lĩnh vực "nghề thủ công truyền thống" theo Công ước về Bảo vệ ICH của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc. Chuẩn bị. Trà sữa Hồng Kông được làm từ hỗn hợp của một số loại trà đen (theo nghĩa phương Tây, thường là trà Ceylon), có thể là trà pu'er, sữa đặc và đường, loại cuối cùng được thêm vào bởi khách hàng trừ trường hợp mua mang về. Tỷ lệ của từng loại trà được nhiều nhà cung cấp coi là bí mật thương mại. "Cha jau" () là một biến thể sử dụng sữa đặc thay cho sữa và đường, tạo cảm giác đậm đà hơn cho trà. Vẫn còn những quán cà phê khác thích sử dụng biến thể sữa nguyên kem, là sự kết hợp giữa sữa tách kem và dầu đậu nành. Đặc điểm chính của trà sữa Hồng Kông là dùng túi vải thô để lọc lá trà. Tuy nhiên, có thể sử dụng bất kỳ bộ lọc/lọc nào khác để lọc trà. Túi bao gai không cần thiết nhưng thường được ưa chuộng hơn. Chiếc túi, được cho là làm cho trà mịn hơn, dần dần có màu nâu đậm do quá trình ngâm trà kéo dài. Cùng với hình dạng của bộ lọc, nó giống như tất lụa, khiến trà sữa Hồng Kông có biệt danh là "quần tất" hoặc "'trà sữa tất lụa" " (). Biệt danh này được sử dụng ở Hồng Kông nhưng ít hơn ở Trung Quốc đại lục và cộng đồng hải ngoại. Có một số tranh luận về cách pha trà sữa đích thực nhất, tức là trình tự thêm từng thành phần. Một số người cho rằng nên cho sữa vào trước khi rót trà, trong khi những người khác lại có quan điểm ngược lại. Mặc dù, đối với hầu hết mọi người, cả hai phương pháp đều được chấp nhận. Trà sữa là một phần phổ biến trong cuộc sống hàng ngày của người Hồng Kông, thường được phục vụ như một phần của bữa trà chiều nhưng cũng có thể vào bữa sáng hoặc bữa tối. Nó có vị thế phổ biến gần giống như cà phê ở phương Tây.
Trà sữa Hồng Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814056
Mặc dù không được cung cấp bởi các nhà hàng Quảng Đông truyền thống hoặc quán trà dim sum, nhưng trà sữa là món ăn tiêu chuẩn trong các nhà hàng phương Tây kiểu Hồng Kông và "cha chaan teng", cũng như " dai pai dong", với mức giá từ 12–16 đô la Hồng Kông cho một phần ăn nóng và thêm hai đến ba đô la cho một phần ăn nguội. Một tách trà sữa nóng thường được phục vụ trong cốc sứ (thường được gọi là "cốc cà phê" 咖啡杯), một loại thủy tinh hình trụ cao hoặc cốc kim loại. Tiêu chí đầu tiên của một ly trà sữa ngon chính là độ “ngon” (香滑); nói cách khác, nó mềm mại và đầy đặn như thế nào. Một tiêu chí khác để đánh giá trà sữa ngon (và cả trà sữa trân châu) là một ít bọt trắng bên trong miệng cốc sau khi uống một ít. Bọt trắng này có nghĩa là nồng độ chất béo bơ trong sữa đặc được sử dụng đủ cao. Ngoài ra còn có một cách khác để người dân địa phương phân biệt chất lượng cao bằng cách xác định dấu vết của dầu trên đồ uống sau khi nó được ủ đúng cách. Đây là dầu còn sót lại từ quá trình rang trong quá trình sản xuất trà. Biến thể. Trà sữa đá thường được pha bằng đá viên. Tuy nhiên, trước đây khi máy làm đá chưa phổ biến, trà sữa đá được làm bằng cách rót trà sữa nóng vào chai thủy tinh rồi làm lạnh trong tủ lạnh. Trước đây, trà sữa được bán trong chai Vitasoy hoặc Coca-Cola. Ngày nay loại "trà sữa chai" này rất hiếm ở Hồng Kông. Bạn có thể tìm thấy trà sữa đá đóng lon hoặc chai nhựa ở nhiều cửa hàng tiện lợi trên khắp Hồng Kông như 7-Eleven và Circle K. Trong trường hợp trà sữa có đá viên, đá tan sẽ làm loãng thành phần, ảnh hưởng đến hương vị thức uống. Một số "cha chaan teng" phục vụ trà sữa đá không đá, được pha bằng cách rót trà sữa nóng vào cốc nhựa rồi làm lạnh trong tủ lạnh hoặc đặt cốc vào chậu nước lạnh, được gọi là "trà sữa tắm đá" (). Một số nhà hàng chỉ đơn giản sử dụng đá viên làm từ trà sữa đông lạnh. Tất cả những phương pháp này thường được sử dụng như điểm bán hàng. Trà sữa và cà phê cùng nhau được gọi là "Yuenyeung" ().
Trà sữa Hồng Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814056
Một biến thể của “trà sữa tất lụa” là “cà phê tất lụa”.
Triune brain
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814067
Thuyết ba não, còn được gọi là lý thuyết ba tâm, là một lý thuyết trong triết học và tâm lý học đề xuất rằng tâm trí của con người bao gồm ba phần: ý thức, tiềm thức và vô thức. Theo thuyết ba não, ý thức là phần của tâm trí mà chúng ta có thể nhìn thấy và trực tiếp trải nghiệm. Nó bao gồm những suy nghĩ, cảm xúc và ý thức về bản thân và môi trường xung quanh. Ý thức là phần mà chúng ta có thể kiểm soát và làm việc trực tiếp thông qua ý chí và ý thức. Tiềm thức là phần của tâm trí chứa những thông tin và trạng thái không được nhận thức một cách rõ ràng nhưng vẫn có ảnh hưởng đến hành vi và trạng thái tâm lý của chúng ta. Nó bao gồm các ký ức, niềm tin, mong đợi và khả năng nhận biết không cần ý thức. Tiềm thức có thể được truy cập thông qua các phương pháp như giấc mơ, phân tích tâm lý và các kỹ thuật như hồi tưởng. Vô thức là phần của tâm trí mà không thể tiếp cận trực tiếp thông qua ý thức hoặc tiềm thức. Nó đại diện cho những khía cạnh tự động và không có ý chí trong tâm trí, như bản năng và cơ chế tự bảo vệ. Vô thức được coi là một phần quan trọng của tâm trí và có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi và trạng thái tâm lý của con người. Thuyết ba não đã được Sigmund Freud, một nhà tâm lý học người Áo, đề xuất vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Ông cho rằng ý thức, tiềm thức và vô thức tương tác với nhau và cùng đóng góp vào hành vi và trạng thái tâm lý của con người. Mặc dù có sự tranh cãi và phê phán về thuyết ba não, nó đã có một ảnh hưởng lớn đến lĩnh vực tâm lý học và triết học.
Ali Collins
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814068
Ali Collins (sinh ngày 27 tháng 5 năm 2000) là một nữ vận động viên quần vợt người Anh Quốc. Collins có thứ hạng cao nhất ở nội dung đôi trên bảng xếp hạng WTA là thứ 111 đạt được vào ngày 12 tháng 6 năm 2023. Cô ra mắt nhánh đấu chính của WTA Tour tại Birmingham Classic 2022 ở nội dung đôi nữ, đánh cặp với Emily Appleton. Đời tư. Đến từ Dunblane, cô là con của cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp, Lee Collins. Cô bắt đầu được huấn luyện bởi Judy Murray từ năm 7 tuổi. Cô đã nói rằng cô chuyển sang tập trung vào đánh đôi vì cô là "một vận động viên của đội" và phải vật lộn với những khía cạnh của việc thi đấu đơn trong các tour du đấu.
Kateřina Siniaková
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814070
Kateřina Siniaková (; sinh ngày 10 tháng 5 năm 1996) là một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Cộng hòa Séc. Cô đã giành 7 danh hiệu Grand Slam ở nội dung đôi nữ, cùng với tay vợt đồng hương Barbora Krejčíková, và đã hoàn thành Super Slam sự nghiệp trong sự nghiệp. Cô trở thành tay vợt số 1 thế giới lần đầu tiên vào tháng 10 năm 2018, và đã giữ vị trí đó trong tổng cộng 94 tuần, tổng số tuần cao thứ 8 kể từ khi bảng xếp hạng đôi WTA bắt đầu. Siniaková đã giành 22 danh hiệu đôi ở WTA Tour, trong đó có WTA Finals 2021 và ba danh hiệu tại cấp độ WTA 1000. Ở nội dung đơn, Siniaková có thứ hạng cao nhất là vị trí số 31 thế giới vào tháng 10 năm 2018, và đã giành 4 danh hiệu WTA, tại Shenzhen Open và Swedish Open vào năm 2017, Slovenia Open vào năm 2022, và Bad Homburg Open vào năm 2023. Thành tích tốt nhất của cô ở Grand Slam là tại Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2019, nơi cô vào vòng 4; cô cũng vào vòng ba tại 7 giải Grand Slam khác. Siniaková là thành viên của đội tuyển Cộng hòa Séc vô địch Fed Cup 2018, và giành huy chương vàng tại nội dung đôi nữ ở Thế vận hội Tokyo 2020 cùng với Krejčíková.
Stable Diffusion
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814075
Stable Diffusion là một mô hình học sâu (deep learning), chuyển văn bản thành hình ảnh () được phát hành vào năm 2022. Nó được sử dụng chủ yếu để tạo ra các hình ảnh chi tiết dựa trên mô tả văn bản, tuy nhiên cũng có thể áp dụng cho các nhiệm vụ khác như , outpainting và tạo ra các phiên dịch hình ảnh-hình ảnh dựa trên một đề xuất văn bản (). Nó được phát triển bởi các nhà nghiên cứu từ Nhóm CompVis tại Đại học Ludwig Maximilian ở Munich và Runway với sự đóng góp tính toán từ Stability AI và dữ liệu huấn luyện từ các tổ chức phi lợi nhuận Stable Diffusion là một mô hình lan truyền tiềm ẩn ( , một loại mạng nơ-ron nhân tạo sinh sâu (generative artificial neural network). Mã nguồn và model của nó đã được công khai phát hành dưới giấy phép CreativeML Open RAIL-M, và nó có thể hoạt động trên hầu hết các thiết bị máy tính thông thường được trang bị GPU tầm trung với ít nhất 8 GB VRAM. Điều này đánh dấu một sự khác biệt so với các mô hình chuyển văn bản thành hình ảnh độc quyền trước đây như DALL-E và Midjourney, chỉ có thể truy cập thông qua dịch vụ đám mây.
Џ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814081
Dzhe (Џ џ, chữ nghiêng: "Џ" "џ") là một chữ cái trong bảng chữ cái Kirin, được sử dụng trong tiếng Macedonia và các biến thể của tiếng Serbia-Croatia (tiếng Bosnia, tiếng Montenegro và tiếng Serbia) để đại diện cho âm , giống như cách phát âm của j trong “jump”. Dzhe tương ứng với các chữ ghép дж hay чж, hay với các chữ: Che với nét gạch đuôi (Ҷ ҷ), Che với nét dọc (Ҹ ҹ), Khakassia Che (Ӌ ӌ), Zhe với dấu trăng (Ӂ ӂ), Zhe với dấu hai chấm (Ӝ ӝ), hoặc Zhje (Җ җ). Trong phiên bản chữ Latinh của tiếng Serbia-Croatia, nó tương ứng với chữ ghép dž, giống như chữ ghép lj và nj, được coi là một chữ cái duy nhất, kể cả trong trò chơi ô chữ và cho mục đích đối chiếu. Tiếng Abkhaz sử dụng nó để đại diện cho âm . Chữ ghép џь được sử dụng để thể hiện âm . Lịch sử. Chữ Dzhe lần đầu tiên được sử dụng trong bảng chữ cái Kirin România từ thế kỷ 15, như một dạng sửa đổi của chữ ч. Những người ghi chép Serbia bắt đầu sử dụng nó trong thế kỷ 17. Vuk Stefanović Karadžić đã đưa nó vào cải cách chữ Kirin của mình, khi chữ cái này được sử dụng rộng rãi.
VinES
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814121
Công ty Cổ phần giải pháp năng lượng VinES (VinES Energy Solutions Join Stock Company) là một công ty TNHH cổ phần trực thuộc Tập đoàn Vingroup chuyên nghiên cứu phát triển và sản xuất các loại pin dành cho xe điện. Đặc biệt, VinES có các Viện nghiên cứu công nghệ sản xuất pin lithium-ion nhằm phục vụ cho việc sản xuất pin xe điện. Lịch sử. Nhà máy pin Công ty Cổ phần giải pháp năng lượng VinES được động thổ tại khu kinh tế Vũng Áng, Hà Tĩnh ngày 12 tháng 12 năm 2021. Ngày 25/10/2022, VinES - công ty thuộc Vingroup, chuyên nghiên cứu phát triển và sản xuất pin lithium chất lượng cao cho xe điện và hệ thống lưu trữ năng lượng đã ký thỏa thuận hợp tác toàn cầu về tái chế pin lithium với Li-Cycle Holdings Corporate. Ngày 28/11/2022, VinES hợp tác với Gotion High-tech động thổ nhà máy liên doanh sản xuất pin rộng 14 ha (34,5 mẫu Anh) tại Hà Tĩnh (51% thuộc về Gotion High-tech, 49% của VinES) tổng mức đầu tư ước tính là 6.329 tỷ đồng (275 triệu USD), công suất mục tiêu là 5 GWh pin lithium-ion (LFP) hàng năm. Trong lộ trình hoàn thiện khâu sản xuất pin, ngày 13/12/2022 VinES đã ký hợp tác với Cavico Lao Mining (thành viên Cavico Việt Nam) trong việc cung ứng nguyên liệu Nickel.
Thánh giá (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814131
Thánh giá có thể có nghĩa là: __ĐỊNHHƯỚNG__
Tiếng Yoron
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814132
Tiếng Yoron ( "Yunnu Futuba") là một nhóm phương ngữ được nói trên đảo Yoronjima thuộc tỉnh Kagoshima, phía tây nam Nhật Bản. Đây là một trong những ngôn ngữ Bắc Lưu Cầu, là một nhánh trong ngữ hệ Nhật Bản-Lưu Cầu. Ngôn ngữ này là một trong những ngôn ngữ có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất ở Nhật Bản. Phương ngữ. Theo nhà văn học dân gian địa phương Kiku Chiyo, phương ngữ Yoron có thể được chia thành ba nhóm: Nhóm phương ngữ Mugiya có một dạng trọng âm và ngữ điệu riêng biệt. Thuật ngữ dân gian. Theo Kiku Hidenori, người đứng đầu các hoạt động bảo tồn, người dân đảo Yoronjima, tỉnh Kagoshima gọi ngôn ngữ của họ là "Yunnu Futuba". Chính xác hơn, một cuốn từ điển do mẹ của ông là Kiku Chiyo (sinh năm 1927) biên soạn, rằng /junnuhu⸢tuba/ là dạng phiên âm của tên ngôn ngữ cộng đồng quê hương bà, theo phương ngữ Mugiya-higashiku. Những từ khác mà bà thu thập bao gồm /junnu⸢jun/ (giọng Yoronjima), /nizjancju⸢jun/ (giọng Mugiya-higashiku và Mugiya-nishiku), /sima⸢jun/ (theo phương ngữ), /sima⸢guci/ và /simahu⸢tuba/ (giọng của cộng đồng trên đảo). Yamada Minoru (sinh năm 1916) cung cấp các dạng từ của cộng đồng theo phương ngữ Chabana: /⸢ju⸣nnu ⸢fu⸣tuba/ và /⸢ʃi⸣ma ⸢fu⸣tuba/ (tên ngôn ngữ của hòn đảo). Âm vị học. Sau đây là âm vị học của phương ngữ Mugiya, dựa trên Hirayama et al. (1969). Nguyên âm. Tiếng Yoron có /a/, /e/, /i/, /o/ và /u/, dài và ngắn. Sự tương ứng với tiếng Nhật tiêu chuẩn. Chỉ những âm thanh chính tương ứng được liệt kê.
Kim Seungmin
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814134
Kim Seung-min (Hangul:김승민, Hanja: 金昇玟, sinh ngày 22 tháng 9 năm 2000 tại Seoul, Hàn Quốc), được biết đến với nghệ danh Seungmin (Hangul: 승민). Anh là một ca sĩ, vũ công, rapper, người mẫu và MC người Hàn Quốc. Seungmin được nhiều người biết đến với vai trò là thành viên của nhóm nhạc nam Stray Kids do công ty JYP Entertainment thành lập và quản lý. Seungmin đảm nhận vai trò là "Main Vocalist". Tiểu sử và sự nghiệp. 2000-2018: Những năm đầu và những bước đầu tiên trong sự nghiệp. Seungmin sinh ngày 22 tháng 9 năm 2000 tại Seoul, Hàn Quốc. Anh là con út trong một gia đình bốn người. Cậu có một người chị gái. Cậu đã hoàn thành chương trình tiểu học tại trường Tiểu học Bongeun và trung học tại trường Trung học Cheongdam. Seungmin có người ông là một vận động viên ném bóng trong đội bóng chày ở trường trung học. Vì được truyền cảm hứng từ ông nên Seungmin muốn trở thành một cầu thủ bóng chày. Khi Seungmin mới chín tuổi, cậu ấy đã ném cú mở màn cho SK Wyverns, một đội bóng chày chuyên nghiệp của Hàn Quốc. Seungmin đã chơi ở đội bóng chày đó. Sau đó, vì điều kiện kinh tế gia đình khiến Seungmin phải từ bỏ ước mơ trở thành cầu thủ bóng chày. Seungmin bắt đầu quan tâm đến âm nhạc khi cậu ấy học lớp bốn. Sau đó, cậu tham gia và giành chiến thắng tại một cuộc thi hợp xướng thiếu nhi ở trường cấp hai. Từ đó, Seungmin nuôi ước mơ trở thành một ca sĩ chuyên nghiệp. Khi Seungmin chín tuổi, cậu và gia đình chuyển đến sống tại Hoa Kỳ trong vài tháng. Trong suốt khoảng thời gian này, Seungmin đã học tại một trường ở Los Angeles. Vì thế nên cậu ấy có thể nói tiếng Anh học cách trôi chảy. Năm 2017, Seungmin tham gia buổi thử giọng Audition thứ 13 của JYP Entertainment. Cậu đã thể hiện ca khúc "Old Song" của ca sĩ Kim Dong-ryul. Cuối cùng, anh giành hạng hai và trở thành thực tập sinh của JYP Entertainment. Cuối năm đó, JYP Entertainment cùng với Mnet đã tạo ra chương trình thực tế sống còn "Stray Kids" với chín thực tập sinh của công ty, bao gồm cả Seungmin. Đến đêm chung kết, Seungmin được xác nhận là sẽ debut cùng Stray Kids. Tháng 3 năm 2018, Stray Kids phát hành mini album đầu tay "I Am Not" với bài hát chủ đề "District 9".
Kim Seungmin
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814134
Vài tháng sau, Seungmin cùng Han Hee-jun trở thành MC cho After School Club. Sau khi làm MC cho hai mươi hai tập phim, cuối tháng 12 năm đó, Seungmin đã chính thức rời vị trí của mình do lịch trình bận rộn với nhóm Ngày 23 tháng 8 năm 2018, Seungmin trở thành MC đặc biệt của chương trình âm nhạc hàng tuần của Mnet M Countdown. 2019-nay: Tiếp tục hoạt động với tư cách là thành viên của Stray Kids và hoạt động solo. Seungmin và thành viên cùng nhóm Felix trở thành MC đặc biệt của M Countdown ngày 28 tháng 3 năm 2019. Vào ngày 12 tháng 7 năm 2019, Seungmin được trở lại ở mảng MC với vai trò là MC của "We K-pop" cùng diễn viên hài Kim Shin-young và hai tiền bối là là Nichkhun của 2PM và Kim In-seong của SF9. Ngày 10 tháng 10 năm 2019, Seungmin và Felix tiếp tục trở thành MC đặc biệt chương trình M Countdown. Ngày 18 tháng 4 năm 2020, bộ đôi này tiếp tục đảm nhận vị trí MC đặc biệt của M Countdown. Ngày 24 tháng 11 năm 2020, Seungmin cùng với Lee Know xuất hiện trên chương trình Kiss the radio với tư cách là khách mời thường xuyên của chương trình. Tháng 3 năm 2021, Seungmin cùng Changbin phát hành bài hát "조각" (Piece of a Puzzel). Bài hát nói về chính các thành viên Stray Kids, những người không ngừng tiến tới mục tiêu của mình chứ không phải họ muốn để bỏ lỡ bất cứ điều gì trên con đường của họ. Ngày 18 tháng 6 năm 2021, Seungmin cùng với các thành viên là Bang Chan, Changbin và Felix phát hành bài hát "오늘 밤 나는 불을 켜" (Up All Night). Ngày 17 tháng 9 năm 2021, Seungmin cùng với thành viên HAN và I.N phát hành bài hát "Gone Away". Ngày 26 tháng 9 năm 2021, trong tập 10 của bộ phim Hàn Quốc Điệu cha-cha-cha làng biển được phát sóng tvN và Netflix, trong phần nhạc phim ở phân cảnh cuối cùng của tập, Seungmin đã thể hiện ca khúc "Here Always". Bài hát này được phát hành chính thức trên các nền tảng kỹ thuật số vào ngày 10 tháng 10. "Here Always" ra mắt ở vị trí thứ tám trên bảng xếp hạng US World Digital Songs của "Billboard" và được đưa vào danh sách "15 bản nhạc phim hàng đầu năm 2021" của Genius Korea. Năm 2022, Seungmin trở lại với vai trò là MC đặc biệt của Show! Music Core cùng với 2 MC cố định thời điểm đó là thành viên cùng nhóm Lee Know và Kim Min-ju (cựu thành viên Iz*One) vào ngày 8 tháng 10.
Kim Seungmin
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814134
Ngày 27 tháng 3 năm 2023, Seungmin cùng với hai thành viên Changbin và Felix phát hành bài hát mang tựa đề "비바람(Snain)". Gần 5 tháng sau, Seungmin phát hành bài hát "Hold On" vào ngày 12 tháng 8 năm 2023. Sản phẩm âm nhạc cá nhân. Bài hát Sản phẩm cover
Anime năm 2016
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814135
Dưới đây danh sách anime (bao gồm anime truyền hình dài tập, phim anime điện ảnh, ONA, OVA) ra mắt trong năm 2016.
Gertrude Jekyll
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814149
Gertrude Jekyll (sinh 29 tháng 11 năm 1843 – mất 8 tháng 12 năm 1932) là một nhà làm vườn, nhà thiết kế sân vườn, thợ thủ công, nhiếp ảnh gia, nhà văn và nghệ sĩ người Anh. Bà đã thiết kế hơn 400 khu vườn ở Vương quốc Anh, Châu Âu và Hoa Kỳ, đồng thời viết hơn 1000 bài báo cho các tạp chí như Country Life và William Robinson's The Garden. Jekyll đã được những người đam mê làm vườn ở Anh và Mỹ mô tả là "người có ảnh hưởng hàng đầu trong thiết kế sân vườn". Thời thơ ấu. Jekyll sinh ra tại đường Grafton nhà số 2, Mayfair, London, là con thứ năm trong số bảy người con của Đại úy Edward Joseph Hill Jekyll, Esquire, một sĩ quan trong Đội cận vệ Grenadier, và vợ của ông là Julia, nhũ danh Hammersley. Năm 1848, gia đình bà rời London và chuyển đến Bramley House ở Surrey, nơi bà trải qua thời niên thiếu ở đó. Bà chưa bao giờ kết hôn và không có con. Nghệ thuật. Jekyll là một trong 2 người của một trong những mối quan hệ đối tác lịch sử và có ảnh hưởng nhất của phong trào Nghệ thuật và Thủ công, nhờ sự kết hợp của bà với kiến trúc sư người Anh Edwin Lutyens, người mà trong những dự án của ông ta bà đã tạo ra nhiều cảnh quan và người đã thiết kế ngôi nhà của bà ở Munstead Wood, gần Godalming ở Surrey. (Năm 1900, Herbert, anh em trai của Jekyll và Lutyens, đã thiết kế Gian hàng của Anh cho Triển lãm Paris.) Jekyll được nhớ đến với những thiết kế nổi bật và cách tiếp cận tinh tế, tỉ mỉ như vẽ tranh đối với việc sắp xếp các khu vườn mà bà đã tạo ra, đặc biệt là "những đường viền hoa chịu đựng giỏi thời tiết" của bà. Tác phẩm của bà ấy được biết đến với màu sắc rực rỡ và những hàng cây giống như cọ vẽ; một số người cho rằng các cách phối đồ theo trường phái Ấn tượng có thể là do thị lực ngày càng kém của Jekyll, điều này phần lớn đã đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp họa sĩ vẽ tranh cũng như vẽ màu nước của bà. Khả năng nghệ thuật của bà thể hiện rõ ràng khi bà còn nhỏ và bà đã được đào tạo để trở thành một nghệ sĩ. Bà ấy là một trong những người đầu tiên trong nghề coi màu sắc, kết cấu và trải nghiệm của khu vườn như những khía cạnh trong thiết kế của mình.
Gertrude Jekyll
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814149
Lý thuyết của Jekyll về cách thiết kế với màu sắc có ảnh hưởng từ họa sĩ J. M. W. Turner và trường phái Ấn tượng, và bánh xe màu sắc lý thuyết. Bà bắt đầu tập trung vào việc làm vườn tại Trường Nghệ thuật Nam Kensington, nơi bà bắt đầu quan tâm đến nghệ thuật sáng tạo trong việc trồng cây, và cụ thể hơn là làm vườn. Jekyll sau đó trở về ngôi nhà thời thơ ấu của mình ở làng Bramley để thiết kế một khu vườn ở Snowdenham Lane có tên là Millmead. Không muốn giới hạn ảnh hưởng của mình trong việc dạy thực hành làm vườn, Jekyll đã kết hợp lý thuyết làm vườn và sự hiểu biết về chính các loài thực vật vào công việc của mình. Bài viết của bà có ảnh hưởng từ một người bạn Theresa Earle, người đã cho xuất bản cuốn sách "Pot-pourri" Trong các tác phẩm như Bảng phối màu cho vườn hoa ( Colour Schemes for the Flower Garden. tái bản năm 1988), bà đã ghi dấu ấn của mình về cách sử dụng hiện đại các màu hoa "ấm" và "mát" trong vườn. Mối quan tâm của bà ấy là cây nên được trưng bày để có hiệu quả tốt nhất ngay cả khi được cắt để trưng bày trong nhà, khiến bà ấy thiết kế một loạt lọ hoa thủy tinh. Sau này, Jekyll đã sưu tầm và đóng góp một lượng lớn thực vật chỉ với mục đích bảo tồn cho nhiều tổ chức trên khắp nước Anh. Đến lúc qua đời, bà đã thiết kế hơn 400 khu vườn ở Anh, Châu Âu và một số khu vườn ở Bắc Mỹ. Jekyll cũng được biết đến với khả năng viết lách nhiều. Bà ấy đã viết hơn mười lăm cuốn sách, từ Wood and Garden và cuốn sách nổi tiếng nhất của bà ấy, Color in the Flower Garden, cho đến những hồi ký về tuổi trẻ của bà ấy. Bà ấy cũng quan tâm đến nột thất trong nhà tranh truyền thống và đồ thủ công ở nông thôn, và lo ngại rằng chúng đang biến mất. Cuốn sách Old West Surrey (1904) của bà ghi lại nhiều khía cạnh của đời sống nông thôn thế kỷ 19, với hơn 300 bức ảnh do chính Jekyll chụp.
Gốm Khmer
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814150
Gốm Khmer đề cập đến nghệ thuật gốm và đồ gốm được thiết kế hoặc sản xuất như một loại hình nghệ thuật Khmer. Truyền thống đồ gốm Campuchia có từ thiên niên kỷ thứ ba TCN. Đồ gốm là một phần thiết yếu trong thương mại giữa Campuchia và các nước láng giềng. Ở châu Âu, Musée Guimet ở Paris có một số mảnh gốm Campuchia lịch sử. Trung tâm Gốm sứ & Mỹ thuật Khmer ở Siem Reap được thành lập vào năm 2006 để thiết lập lại các kỹ thuật và sản xuất đồ gốm cổ. Bảo tàng Quốc gia Campuchia lưu giữ một bộ sưu tập quan trọng.
Nguyên Thần (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814152
Nguyên Thần có thể là:
Emily Appleton (quần vợt)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814171
Emily Appleton (sinh ngày 1 tháng 9 năm 1999) là một nữ vận động viên quần vợt người Anh Quốc. Appleton có thứ hạng cao nhất trên bảng xếp hạng WTA trong sự nghiệp là thứ 419 ở nội dung đơn, đạt được vào ngày 22 tháng 5 năm 2023, và thứ 128 ở nội dung đôi, đạt được vào ngày 12 tháng 6 năm 2023. Sự nghiệp thi đấu. Appleton ra mắt nhánh đấu chính của WTA Tour tại Birmingham Classic 2022, đánh cặp cùng với Ali Collins. Ở nội dung đơn nữ, cô để thua trước Lesia Tsurenko ở vòng loại thứ nhất. Vào tháng 6 năm 2023, cô vượt qua vòng loại của Nottingham Open ở nội dung đơn nữ. Cô để thua ngay tại vòng 1 trước tay vợt nữ số 1 nước Anh, Katie Boulter.
Tuyến Hanam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814172
Tuyến Hanam (Tiếng Hàn: 하남선, Hanja: 河南線) là tuyến đường sắt diện rộng kết nối Ga Sangil-dong ở Gangdong-gu, Seoul và Ga Hanam Geomdansan ở Hanam-si, Gyeonggi-do. Nó được điều hành bởi Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 5 và được kết nối trực tiếp với tuyến chính của Tàu điện ngầm Seoul tuyến 5 tại Ga Sangil-dong. Hướng di chuyển là bên phải.
Chiến tranh ở Dagestan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814180
Chiến tranh ở Dagestan (Tiếng Nga:Война в Дагестане) hay Cuộc xâm lược Dagestan của dân quân hồi giáo (Tiếng Nga:Вторжение боевиков в Дагестан) là 1 cuộc xung đột vũ trang giữa Lữ đoàn Gìn giữ Hòa bình Quốc tế Hồi giáo (IIPB), 1 nhóm dân quân Hồi giáo được lãnh đạo bởi Shamil Basayev, Ibn al-Khattab, Ramzan Akhmadov và Arbi Barayev, và Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga khi nhóm này xâm lược nhà nước trực thuộc Nga là Dagestan vào ngày 7 tháng 8 năm 1999, dưới sự kêu gọi của các lực lượng Sharia thuộc Dagestan. Cuộc chiến kết thúc với chiến thắng lớn của Nga và Dagestan đồng thời là sự rút lui của IIPB. Cuộc xâm lược Dagestan cũng là 1 trong những lý do sau vụ đánh bom chung cư Nga 1999 dẫn đến Chiến tranh Chechnya lần thứ hai.
Patrik Gustavsson
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814182
Patrik Gustavsson (, sinh ngày 19 tháng 4 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ BG Pathum United tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Thái Lan. Sinh ra ở Thụy Điển, anh đại diện cho Thái Lan trên đấu trường quốc tế. Sự nghiệp quốc tế. Vào ngày 16 tháng 3 năm 2022, Patrik được triệu tập lên đội tuyển U-23 Thái Lan để chuẩn bị cho Cúp bóng đá U-23 Dubai 2022. Ngày 26 tháng 3 năm 2022, anh ra mắt quốc tế cho đội tuyển U-23 nước này trong trận thua 4-2 trước Trung Quốc. Anh ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên vào ngày 6 tháng 5 năm 2022, trong trận gặp U-23 Malaysia tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021. Danh hiệu. Câu lạc bộ. BG Pathum United Quốc tế. U-23 Thái Lan
Sư đoàn 1 (Đế quốc Đức)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814187
Sư đoàn 1 (Tiếng Đức: "1. Division") còn được gọi là Sư đoàn 1 Bộ binh (Tiếng Đức: "1. Infanterie-Division") là một đơn vị cấp sư đoàn của Phổ và sau đó là Lục quân Đế quốc Đức. Sư đoàn 1 ban đầu được thành lập vào tháng 3 năm 1816 với tư cách là một Lữ đoàn ("Truppen-Brigade") tại Königsberg và mở rộng thành Sư đoàn 1 vào ngày 5 tháng 9 năm 1818. Từ sự hình thành của Quân đoàn vào năm 1820, sư đoàn trực thuộc Quân đoàn I ("I. Armee-Korps"). Sư đoàn 1 bị giải thể vào năm 1919, trong quá trình giải ngũ của Quân đội Đức sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Boeing NC-135
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814193
Boeing NC-135 và NKC-135 là các phiên bản máy bay đặc biệt của Boeing C-135 Stratolifter và Boeing KC-135 Stratotanker được Boeing sửa đổi lại để hoạt động trong một số chương trình nhiệm vụ khác nhau của Không quân Hoa Kỳ (USAF) và Hải quân Hoa Kỳ (USN). Lịch sử hoạt động. Chương trình Sẵn sàng Thử nghiệm (Test Readiness Program). Chương trình Sẵn sàng Thử nghiệm được Mỹ khởi xướng nhằm đáp lại Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân một phần vào năm 1963. Để hỗ trợ chương trình này, Phòng thí nghiệm Quốc gia Sandia đã xác định cấu hình cho ba chiếc NC-135 trở thành phòng thí nghiệm bay để hỗ trợ thử nghiệm vũ khí hạt nhân trong bầu khí quyển. Những chiếc máy bay này đóng quân tại Căn cứ Không quân Kirtland ở New Mexico. NC-135 bắt đầu hoạt động từ năm 1963 cho đến năm 1976, phục vụ chủ yếu cho Phòng thí nghiệm Sandia, Phòng thí nghiệm Quốc gia Los Alamos và Phòng thí nghiệm Quốc gia Lawrence Livermore. Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Hoa Kỳ (AEC) là cơ quan duy trì kiểm soát giám sát máy bay thử nghiệm NC-135. Sau năm 1976, nó phục vụ cho Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Không quân. Nhiệm vụ nghiên cứu thiên văn học trên không. Trong quá trình bay mô phỏng cho Chương trình Sẵn sàng Thử nghiệm, các nhóm nhà khoa học trên máy bay NC-135 nhận thấy rằng phòng thí nghiệm bay của họ có thể được sử dụng hiệu quả để nghiên cứu hiện tượng nhật thực cũng như tia vũ trụ đi vào bầu khí quyển trái đất, và tác động của từ trường trong tầng điện li. Họ đã kiến nghị Ủy ban Năng lượng Nguyên tử cho phép bổ sung thêm chương trình nghiên cứu thiên văn cho NC-135. Bản kiến nghị đã được chấp thuận và chương trình được tiếp tục cho đến năm 1975. Nhiệm vụ nghiên cứu nhật thực đầu tiên bắt đầu từ Sân bay Quốc tế Pago Pago vào năm 1965. Trong khi đang bay cùng với một số máy bay nghiên cứu khoa học khác, một trong số những chiếc NC-135 đã xoay sở để bay trong vùng nhật thực toàn phần trong 160 giây, giúp cung cấp nhiều dữ liệu khoa học có giá trị. Các sứ mệnh nghiên cứu nhật thực sau đó cũng đã được thực hiện vào các năm 1970, 1972, 1973, 1979 và 1980. Big Crow.
Boeing NC-135
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814193
Big Crow. "Big Crow" là tên gọi của hai chiếc NKC-135 (số hiệu 55-3132 và 63-8050) đã trải qua nhiều lần sửa đổi kỹ thuật để thực hiện thử nghiệm tác chiến điện tử. Hai chiếc máy bay này cũng được sử dụng làm mục tiêu mô phỏng cho máy bay laser trên không Boeing YAL-1. Trong chuyến bay thử nghiệm ngày 15 tháng 3 năm 2007, YAL-1 đã bắn thành công tia laser trúng mục tiêu là một tấm bia gắn trên thân chiếc NKC-135E "Big Crow 1" được sửa đổi đặc biệt. Cuộc thử nghiệm đã xác nhận khả năng của hệ thống trong việc theo dõi mục tiêu trên không và đo lường sự biến dạng của khí quyển. Máy bay "Big Crow" cũng được sử dụng làm tài sản đo từ xa kết hợp với các vụ phóng tên lửa tại sân bay vũ trụ Western Range nằm trong Căn cứ Lực lượng Không gian Vandenberg ở California. Kể từ năm 2008, hai chiếc "Big Crow" đã ngừng hoạt động và bị loại khỏi biên chế, rồi được chuyển giao cho Nhóm Bảo trì và Phục hồi Hàng không Vũ trụ 309 (309th AMARG) đóng quân tại Căn cứ Không quân Davis–Monthan ở Tucson, Arizona. Các phiên bản khác. Một máy bay mang số hiệu 61–2666 đã được sửa đổi thành NC-135W để thử nghiệm các hệ thống và thiết bị sử dụng trên máy bay trinh sát RC-135V và RC-135W Rivet Joint. Từ năm 1975 đến năm 1984, Mỹ sử dụng NKC-135A cho chương trình Phòng thí nghiệm Laser trên không, khi cho nó mang theo Laser Carbon Dioxide 10,6 micromet. Các thử nghiệm bao gồm đánh chặn thành công tên lửa không đối không nhỏ (như AIM-9 Sidewinder) và máy bay không người lái. Bất chấp tiềm năng chiến đấu của hệ thống này, nó vẫn được thử nghiệm một cách nghiêm ngặt. Tuy nhiên, việc đối mặt với mối đe dọa từ tên lửa Scud trong Chiến tranh Vùng Vịnh đã khơi lại mối quan tâm đến hệ thống laser trên không, dẫn đến sự ra đời của Boeing YAL-1. Thông số kỹ thuật (NKC-135A). "Dữ liệu lấy từ" Encyclopedia of world military aircraft Volume 1 Xem thêm. Máy bay có sự phát triển liên quan Máy bay có vai trò, cấu hình và thời đại tương đương
Vanadi(IV) sulfide
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814200
Vanadi(IV) sulfide là một hợp chất vô cơ của vanadi và lưu huỳnh có công thức VS2 – bột màu xám kim loại, không tan trong nước. Điều chế. Phản ứng của dung dịch muối vanadi(IV) và amoni sulfide trong môi trường acid sẽ tạo kết tủa. Cũng có thể điều chế VS2 bằng cách đun nóng các nguyên tố thành phần ở hoặc cho LiVS2 tác dụng với I2 trong MeCN. Tính chất và cấu trúc. Vanadi(IV) sulfide tạo thành các tinh thể màu xám kim loại của hệ tinh thể ba phương, nhóm không gian P m1, các hằng số mạng tinh thể "a" = 0,3348 nm, "c" = 0,6122 nm, Z = 1. Cấu trúc của VS2 giống CdI2. Khi đun nóng đến , VS2 giải phóng lưu huỳnh, tạo thành V2S3. Hợp chất khác. Phức hợp VS2·NH3 có màu đen, được tạo thành khi cho Na3VO4 tác dụng với thioacetamide.
Lutjanus lemniscatus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814202
Lutjanus lemniscatus là một loài cá biển thuộc chi "Lutjanus" trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1828. Từ nguyên. Tính từ định danh "lemniscatus" trong tiếng Latinh có nghĩa là “được trang trí bởi các dải sọc”, hàm ý có lẽ đề cập đến dải đen từ mõm kéo dài đến gốc vây đuôi ở cá con của loài này. Phân bố và môi trường sống. "L. lemniscatus" có phân bố rộng rãi trong vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ bờ nam Ấn Độ và Sri Lanka trải dài về phía đông đến Philippines và Papua New Guinea, ngược lên phía bắc đến đảo Đài Loan, giới hạn phía nam đến Úc. "L. lemniscatus" cũng xuất hiện dọc theo bờ biển Việt Nam, như vịnh Hạ Long, cù lao Chàm, đảo Lý Sơn, cù lao Câu, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. "L. lemniscatus" sinh sống trên các rạn san hô và gần mỏm đá ngầm, độ sâu độ sâu ít nhất là 110 m, còn cá con thường sống gần bờ, nơi có lượng phù sa vừa phải. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. lemniscatus" là 65 cm, thường bắt gặp với chiều dài trung bình khoảng 35 cm. Lưng và thân trên có màu nâu xám hoặc màu ô liu, trắng dần ở bụng và dưới đầu. Vây lưng và vây đuôi có màu nâu đen, các vây còn lại đỏ hồng. Cá con có một dải đen rộng từ chóp mõm kéo dài đến gốc vây đuôi. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 13–14; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 16; Số vảy đường bên: 47–50. Phân loại. Qua phân tích tiểu đơn vị cytochrome c oxidase I của DNA ty thể, người ta nhận thấy "L. lemniscatus" tạo thành nhóm chị em với "Lutjanus bitaeniatus" và "Lutjanus papuensis". Sinh thái. Thức ăn của "L. lemniscatus" bao gồm cá nhỏ và một số loài thủy sinh không xương sống khác. Giá trị. "L. lemniscatus" là loài được nhắm mục tiêu trong ngành đánh bắt thủ công ở vịnh Mannar. Loài này thường được bán ở dạng tươi sống, có khi làm khô cá.
Thân vương quốc Halych
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814205
Thân vương quốc Halych (; ), hay Thân vương quốc Rus Halych, là một thân vương quốc Đông Slav thời trung cổ, là một trong những nhà nước khu vực chính yếu thuộc phạm vi chính trị của Kiev Rus', do các thành viên của dòng hậu duệ lâu đời nhất của Yaroslav Thông thái thành lập. Một đặc điểm đặc trưng của thân vương quốc Halych là vai trò quan trọng của giới quý tộc và thị dân trong đời sống chính trị, điều kiện chính cho quyền cai trị của thân vương là phải cân nhắc ý chí của họ. Tư cách là thủ đô của Halych được đề cập vào khoảng năm 1124, khi là trụ sở của Ivan Vasylkovych cháu nội của Rostislav xứ Tmutarakan. Theo Mykhailo Hrushevsky, lãnh địa Halych được truyền lại cho Rostyslav sau cái chết của cha ông là Vladimir Yaroslavich, nhưng sau đó ông bị trục xuất đến Tmutarakan. Lãnh địa sau đó được truyền lại cho Yaropolk Izyaslavich, con trai của Đại vương công Iziaslav I của Kiev đang cầm quyền. Tiền sử. Các bộ lạc Slav đầu tiên được ghi nhận sống ở khu vực Rus' Đỏ là người Croatia Trắng và Dulebe. Vào năm 907, các bộ lạc người Croatia và Dulebe tham gia vào chiến dịch quân sự chống lại Constantinople do Thân vương Rus' Oleg xứ Novgorod lãnh đạo. Đây là bằng chứng quan trọng đầu tiên về liên kết chính trị giữa các bộ lạc bản địa của khu vực Rus' Đỏ. Theo Nestor Nhà chép sử, một số thành trì ở phần phía Tây của Rus' Đỏ bị Vladimir Vĩ đại chinh phục vào năm 981, và vào năm 992 hoặc 993, Vladimir tiến hành một chiến dịch quân sự chống lại người Croat. Vào khoảng thời gian đó, thành phố Volodymyr được thành lập để vinh danh ông và trở thành trung tâm quyền lực chính trị chính trong khu vực. Trong thế kỷ 11, các thành phố biên giới phía tây như Przemysl từng hai lần bị Vương quốc Ba Lan (1018–1031 và 1069–1080) sáp nhập. Trong khi đó, Yaroslav Thông thái thiết lập một thế vững chắc trong khu vực và thành lập thành phố Jarosław. Là một phần lãnh thổ của Kiev Rus', khu vực này sau đó được tổ chức thành phần phía nam của Thân vương quốc Volodymyr. Khoảng năm 1085, được sự giúp đỡ của Đại vương công Vsevolod I của Kiev, ba Anh em Rostystlavych - con trai của Rostislav Vladimirovich (xứ Tmutarakan) đã chiếm lĩnh khu vực làm lãnh địa. Vùng đất của họ được tổ chức thành ba thân vương quốc nhỏ là Przemysl, Zvenyhorod và Terebovlia.
Thân vương quốc Halych
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814205
Năm 1097, Thân vương quốc Terebovlia được bảo đảm bởi Hội đồng Liubech sau nhiều năm nội chiến với Vasylko Rostyslavych. Năm 1124, thân vương của Terebovlia là Vasylko cắt đất cho con là Ihor Vasylkovich để hình thành Thân vương quốc Halych có quy mô nhỏ. Thống nhất. Anh em Rostislavich nỗ lực không chỉ để tách biệt về mặt chính trị với Thân vương quốc Volodymyr mà còn để tự bảo vệ mình khỏi những kẻ thù bên ngoài. Năm 1099, trong trận chiến trên cánh đồng Rozhne, quân Halych đánh bại quân đội của Đại vương công Sviatopolk II của Kiev và cuối năm đó đánh bại quân Hungary của Kálmán gần Przemysl. Hai chiến thắng quan trọng này mang lại gần một trăm năm phát triển tương đối hòa bình tại Thân vương quốc Halych. Bốn con trai của Anh em Rostystlavych chia khu vực thành bốn phần với các trung tâm tại Przemysl (Rostislav), Zvenyhorod (Volodymyrko), Halych và Terebovlia (Ivan và Yuriy). Sau cái chết của ba người trong số họ, Volodimyrko chiếm lấy Przemysl và Halych và trao Zvenyhorod cho Ivan - con trai của anh trai ông là Rostyslav. Năm 1141, Volodymyrko chuyển nơi cư trú của mình từ Przemysl đến Halych có địa lý thuận lợi hơn, sản sinh một Thân vương quốc Halych thống nhất. Năm 1145, thị dân của Halych lợi dụng Volodymyrko vắng mặt đã yêu cầu Ivan của Zvenyhorod lên trị vì. Sau thất bại của Ivan bên dưới tường thành Halych, Thân vương quốc Zvenygorod cũng được sáp nhập vào vùng đất Halych. Thời kỳ Yaroslav Osmomysl. Volodymyrko theo đuổi chính sách cân bằng giữa các láng giềng. Ông nỗ lực củng cố quyền lực của thân vương quốc, sáp nhập một số thành phố thuộc quyền sở hữu của Đại vương công Kiev và buộc phải giữ chúng bất chấp xung đột với cả hai người thống trị hùng mạnh là Iziaslav II của Kiev và Quôc vương Géza II của Hungary. Năm 1152, sau cái chết của Volodymyrko, con trai độc nhất của ông là Yaroslav Osmomysl kế vị. Yaroslav bắt đầu triều đại của mình với trận chiến trên sông Siret vào năm 1153 với Đại vương công Iziaslav, dẫn đến tổn thất nặng nề cho người Halych, nhưng khiến cho Izyaslav phải rút lui và mất ngay sau đó. Do đó, mối nguy hiểm từ phía đông đã qua đi, và Yaroslav thông qua ngoại giao đã đạt được hòa bình với các nước láng giềng khác là Hungary và Ba Lan.
Thân vương quốc Halych
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814205
Sau đó, nhờ các cuộc đàm phán, Yaroslav trung lập hóa đối thủ duy nhất của mình là Ivan, cựu thân vương của Zvenyhorod. Những thành công ngoại giao này cho phép Yaroslav tập trung vào phát triển nội bộ của thân vương quốc: xây dựng các tòa nhà mới ở thủ đô và các thành thị khác, làm giàu thêm các tu viện, cũng như củng cố quyền lực của mình đối với lãnh thổ tại hạ du các sông Dniester, Prut và Danube. Trong thời gian này (khoảng năm 1157), việc xây dựng Nhà thờ Thăng thiên được hoàn thành tại Halych, là ngôi đền lớn thứ hai của Rus cổ đại sau Nhà thờ chính tòa Thánh Sophia tại Kiev. Bản thân thành phố đã phát triển thành một quần thể lớn có kích thước xấp xỉ 11x8,5 km. Bất chấp vị thế mạnh mẽ của mình trên trường quốc tế, Yaroslav nằm dưới sự kiểm soát của các thị dân Halych, ông phải cân nhắc ý chí của họ thậm chí đôi khi trong các vấn đề cuộc sống cá nhân, gia đình. "Quyền tự do trong các thân vương". Một đặc điểm quan trọng trong đời sống chính trị của Thân vương quốc Halych là vai trò quyết định của các quý tộc và thị dân. Người Halych sử dụng nguyên tắc ″tự do trong các thân vương″ và chính họ mời và trục xuất các thân vương, đồng thời điều chỉnh các hoạt động của thân vương. Trái ngược với ý muốn của Yaroslav Osmomysl là để lại ngôi vị cho con trai mình là Oleg, người Halych đã mời em trai ông là Vladimir II Yaroslavich, và sau khi xung đột với người này thì họ lại mời Roman Vĩ đại, thân vương của Volodymyr. Nhưng gần như ngay lập tức Roman bị thay thế bởi András- con trai của Quốc vương Hungary Bela III. Lý do cho sự lựa chọn này là Béla và András đảm bảo cho người Halych quyền tự do hoàn toàn của chính phủ. Thời kỳ này có thể được coi là trải nghiệm đầu tiên về chính quyền tự trị của quý tộc và thị dân. Tuy nhiên, hành vi thô tục của quân đồn trú Hungary và nỗ lực của họ để thiết lập các nghi thức Công giáo La Mã dẫn đến một sự thay đổi khác trong tâm trạng và một lần nữa ngôi vị được trao lại cho Volodymyr II, người này trị vì ở Halych trong thập kỷ tiếp theo, cho đến năm 1199. Roman chuyên quyền và thống nhất với Volyn.
Thân vương quốc Halych
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814205
Roman chuyên quyền và thống nhất với Volyn. Sau khi hậu duệ cuối cùng của Anh em nhà Rostislavich là Volodymir II chết vào năm 1199, người Halych bắt đầu đàm phán với các con trai của em gái ông (con gái của Yaroslav Osmomysl) và thân vương huyền thoại Igor (anh hùng chính trong "Truyện kể cuộc viễn chinh Igor") về việc kế vị ngôi vị Halych. Tuy nhiên Thân vương Volodymir là Roman với sự giúp đỡ của Thân vương Leszek Trắng của Ba Lan đã chiếm được Halych bất chấp sự phản kháng mạnh mẽ của cư dân. Sáu năm tiếp theo là một thời kỳ đàn áp liên tục chống lại giới quý tộc và những thị dân tích cực, cũng như sự mở rộng đáng kể về lãnh thổ và chính trị đã biến Halych thành trung tâm chính của toàn Rus'. Thân vương quốc Volyn được hợp nhất với Halych nhưng lần này trung tâm Thân vương quốc Galicia-Volhynia (Halych-Volyn) mới là Halych. Cuộc chiến thắng lợi tiếp đó trước Anh em Igorevich, những người tranh đoạt ngôi vị Galicia, đã cho phép Roman Vĩ đại thiết lập quyền kiểm soát của mình đối với Kiev và đặt người thân cận của mình ở đó. Sau các chiến dịch thắng lợi chống lại người Cuman, và có lẽ cả người Litva, Roman Vĩ đại đạt đến đỉnh cao quyền lực và được gọi trong biên niên sử là "Sa hoàng và Kẻ chuyên quyền của toàn bộ Rus'". Sau khi Roman chết vào năm 1205, góa phụ của ông vì muốn giữ quyền lực ở Halych đã kêu gọi sự giúp đỡ của Quốc vương Hungary András, và Hungary gửi cho bà đội quân đồn trú. Tuy nhiên, vào năm 1206 người Halych lại mời Vladimir III Igorevich - con trai của con gái Yaroslav Osmomysl, khiến góa phụ và các con trai của Roman phải chạy trốn khỏi thành phố. Đỉnh cao quyền cai trị thị dân-quý tộc. Vladimir III trị vì ở Halych chỉ trong hai năm. Do mối thù với em trai là Roman II, ông bị trục xuất và người em này lên ngôi tại Halych. Nhưng rất nhanh Roman II bị thay thế bởi Rostislav II của Kiev. Khi Roman II tìm cách lật đổ Rostislav, người Halych đã kêu gọi sự giúp đỡ của Quốc vương Hungary, người này gửi đến Halych palatine Benedict. Trong khi Benedict vẫn ở Halych, các thị dân kêu gọi Thân vương Mstislav Câm từ Peresopnytsya lên ngôi, nhưng cũng bị gửi về quê hương với những lời chế giễu.
Thân vương quốc Halych
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814205
Trong nỗ lực loại bỏ Benedict, các thị dân lại mời Anh em Ihrevychiv - Vladimir III và Roman II, họ trục xuất Benedict và giành lại quyền cai trị của mình tại thân vương quốc. Vladimir III định cư ở Halych, Roman II ở Zvenigorod và anh em trai của họ là Svyatoslav ở Przemysl. Những nỗ lực nhằm tự mình cai trị của Anh em Igorevich dẫn đến xung đột với người Halych, khiến nhiều người bị giết, và sau đó Anh em Igorevich bị hành quyết. Ngôi vị được trao cho một người con trai nhỏ của Roman Vĩ đại là Danylo của Halych. Mẹ của Danylo cố gắng tập trung quyền lực vào tay mình với tư cách là nhiếp chính, sau đó bà bị trục xuất khỏi thành phố và Mstislav Câm một lần nữa được mời lên trị vì, nhưng anh ta lại bỏ trốn vì sợ quân đội Hungary do mẹ của Danylo gọi đến. Sau khi chiến dịch của Quốc vương Hungary thất bại, cộng đồng địa phương đã thực hiện một bước tiến độc đáo trong lịch sử của Rus', đưa lên ngôi vào năm 1211 hoặc 1213 một trong những quý tộc Halych là Volodyslav Kormylchych. Tình tiết này có thể coi là đỉnh cao của nền dân chủ thị dân–quý tộc tại Halych. Sự việc Volodyslav cai trị khiến các quốc gia láng giềng xâm lược, và bất chấp sức kháng cự của người Halych họ đã áp đảo được quân đội của Volodyslav. Năm 1214, Quốc vương Hungary András và Thân vương Ba Lan Leszek ký một thỏa thuận về việc phân chia Thân vương quốc Halych. Rìa phía tây chuyển cho Ba Lan và phần còn lại cho Hungary. Palatine Benedict trở lại Halych và con trai của Quốc vương Hungary András là Kálmán nhận vương miện từ Giáo hoàng với tước hiệu "Quốc vương của Galicia." Tuy nhiên, xung đột tôn giáo với người dân địa phương và việc người Hungary chiếm giữ lãnh thổ đã được chuyển giao cho Ba Lan, dẫn đến trục xuất toàn bộ quân nước ngoài vào năm 1215 và Thân vương Mstislav Hói từ Novgorod lên ngôi, trong thời kỳ ông trị vì toàn bộ quyền lực tập trung trong tay giới quý tộc và Thân vương không quyết định ngay cả quân đội Halych. Mặc dù vậy, Mstislav cũng không được lòng người Halych, họ dần dần bắt đầu ủng hộ Thân vương András của Hungary. Năm 1227, Mstislav cho phép con gái ông kết hôn với András và trao cho họ chính quyền ở Halych.
Thân vương quốc Halych
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814205
András từ lâu đã được người Halych ưa chuộng do cách tiếp cận thận trọng của ông đối với quyền của giới quý tộc. Tuy nhiên, vào năm 1233, một bộ phận người của Halych đã mời Danylo. Sau một cuộc bao vây và cái chết của András, Danylo chiếm được thủ đô trong một thời gian ngắn, nhưng buộc phải rời bỏ thành vì không nhận được sự ủng hộ của đa số thị dân. Năm 1235, theo lời mời của người Halych thành phố nằm dưới quyền Thân vương Chernigov Mikhail và con trai là Rostislav (mẹ ông là con gái của Roman Vĩ đại, chị em gái của Danylo). Đến khi Mông Cổ xâm lược, Halych rơi vào tay Danylo, nhưng quyền lực của ông không chắc chắn, bởi vì vào thời điểm đó biên niên sử đề cập đến việc một nhà quý tộc địa phương là Dobroslav Suddych lên ngôi. Giai đoạn cuối. Vào thập niên 1240 trong lịch sử của Thân vương quốc Halych đã xảy ra một sự thay đổi quan trọng. Năm 1241 Наlych bị quân Mông Cổ chiếm lĩnh. Năm 1245, Danylo giành chiến thắng trong trận chiến quyết định trước quân Hungary-Ba Lan của đối thủ Rostislav và một lần nữa thống nhất Halych với Volyn. Sau chiến thắng, ông xây dựng dinh thự của mình ở Holm, phía tây Volyn. Sau chuyến thăm của Danylo đến Bạt Đô Hãn, ông bắt đầu dâng cống nạp cho Hãn quốc Kim Trướng. Tất cả những yếu tố này đã dẫn đến khởi đầu thời kỳ suy giảm về văn hóa, kinh tế và chính trị của Halych. Ngay trong thời kỳ cai trị của Danylo, Halych đã chuyển sang tay của con trai cả của ông là Lev I, và sau khi Danylo chết Lev I dần dần nắm quyền trên mọi lĩnh vực của Volyn. Vào nửa sau của thế kỷ 13, ông đã nâng cao tầm quan trọng của Lviv - một trung tâm hành chính-chính trị mới, được thành lập gần Zvenigorod trên biên giới Volyn. Gần năm 1300, Lev I trong một thời gian ngắn từng giành được quyền lực đối với Kiev, nhưng vẫn phụ thuộc Hãn quốc Kim Trướng. Sau khi Lev I mất, trung tâm của nhà nước Halych-Volyn thống nhất trở lại thành phố Volodymyr. Vào thời các thân vương kế tiếp, giới quý tộc dần giành lại quyền lực, và từ năm 1341 đến năm 1349 quyền lực nằm trong tay nhà quý tộc Dmytro Dedko, dưới triều đại trên danh nghĩa của Thân vương Liubartas.
Thân vương quốc Halych
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814205
Năm 1349, sau khi Dmytro chết, Quốc vương Ba Lan Kazimierz III của Ba Lan hành quân đến Lviv, đồng thời ép buộc Hãn quốc Kim Trướng và Vương quốc Hungary. Kết quả là kết thúc độc lập chính trị của Halych và sáp nhập khu vực vào Ba Lan. Năm 1387, tất cả các vùng đất của Thân vương quốc Halych được đưa vào lãnh địa của Nữ vương Ba Lan Jadwiga, và sau đó đến năm 1434 được chuyển thành tỉnh Rus'. Năm 1772, Halych được sáp nhập vào Đế quốc Áo, có vị thế một đơn vị hành chính được gọi là "Vương quốc Galicia và Lodomeria" với trung tâm tại Lviv. Quan hệ với Byzantine. Thân vương quốc Halych có quan hệ mật thiết với Đế quốc Byzantine, thân thiết nhất so với bất kỳ thân vương quốc nào khác của Kiev Rus. Theo một số ghi chép, vào năm 1104 con gái của Volodar của Peremyshl là Irina đã kết hôn với Isaac - con trai thứ ba của Hoàng đế Byzantine Alexios I Komnenos. Con trai của bà là Hoàng đế tương lai Andronicus I Comnenus có thời gian từng sống ở Halych và cai trị một số thành phố của thân vương quốc trong những năm 1164-65. Theo tường thuật của Bartholomew xứ Lucca, Hoàng đế Byzantine Alexios III Angelos chạy trốn đến Halych sau khi quân Thập tự chinh chiếm được Constantinople vào năm 1204. Thân vương quốc quốc Halych và Đế quốc Byzantine thường xuyên là đồng minh trong cuộc chiến chống lại người Cuman.
SORA (lựu pháo tự hành)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814206
Pháo lựu tự hành 122mm SORA (tiếng Serbia: Самоходна хаубица 122mm СОРА, chuyển tự: "Samohodna haubica 122mm SORA") là một loại dã pháo - lựu pháo tự hành bánh hơi cỡ nòng 122mm của Serbia do Viện Kỹ thuật Quân sự phát triển cho Quân đội Serbia. Pháo được thiết kế theo cách gắn pháo D-30 122 mm lên khung gầm xe tải FAP 2026 BS/AV đã được sửa đổi. Các chức năng chính của hệ thống vũ khí như điều hướng, đặt súng, nạp đạn và triển khai đều hoàn toàn tự động. Loại vũ khí này không được sản xuất chính thức mà chỉ có ba nguyên mẫu.
Valentina Ivanov
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814211
Valentina Sergeyevna Ivanov (sinh ngày 27 tháng 3 năm 2001) là một nữ vận động viên quần vợt người New Zealand, mặc dù cô đã sống ở Sydney từ năm 2 tuổi. Mẹ của Ivanov, Oksana (tên khai sinh: Yarikova) đã từng là một thành viên của Đội tuyển Fed Cup Uzbekistan vào năm 1995 và 1997, được tham gia sau đó bởi em gái Irina. Đội trưởng đội tuyển Uzbekistan năm đó là người chồng tương lai của Oksana (và là cha của Valentina), Sergey Ivanov. Valentina được cả cha và mẹ huấn luyện cho đến khi cô 12 tuổi. Tại ITF Junior Circuit, Ivanov có thứ hạng kết hợp cao nhất trong sự nghiệp là thứ 85, đạt được vào ngày 2 tháng 4 năm 2018. Sự nghiệp thi đấu. Trẻ. Ivanov đã giành được hai danh hiệu đơn Grade-4 vào năm 2017 và năm danh hiệu đôi trẻ vào năm 2017 và 2018, bốn danh hiệu với vận động viên người Úc, Amber Marshall và một chức vô địch Lee Duk Hee Cup Chuncheon International Junior Tennis Championships Grade-2 2017, với Supapitch Kuearum. 2019. Ivanov ra mắt nhánh đấu chính của WTA Tour với tư cách là một ký tự đại diện, cùng với người đánh cặp Elys Ventura, tại ASB Classic ở Auckland. Họ thua ở vòng 1 trước á quân của giải, Paige Hourigan và Taylor Townsend, sau khi Ivanov đánh bại Hourigan ở vòng đầu tiên của vòng loại đơn, lặp lại kết quả của chung kết New Zealand Championships. Cô đã thua ở vòng loại thứ hai trước Bibiane Schoofs. Sau đó, cô đã vượt qua vòng loại để lọt vào vòng đầu tiên của bốc thăm nội dung đơn nữ tại Úc Mở rộng, nơi cô để thua hạt giống số 5, Mananchaya Sawangkaew. Cô cũng để thua tại vòng đầu tiên của nội dung đôi. Danh hiệu chuyên nghiệp đầu tiên của Ivanov đến tại Port Pirie, Nam Úc, vào tháng 2, khi cô và Marshall đánh bại những hạt giống hàng đầu Jennifer Elie và Alicia Smith trong trận bán kết trước khi đánh bại Patricia Böntgen và Lisa Mays trong trận chung kết. Phong độ không tốt ở vòng loại cho các nhánh đấu chính nội dung đơn chỉ được xoa dịu một chút khi cô lọt vào bán kết đôi tại một giải đấu ở Heraklion. Tuy nhiên, Ivanov đã có trận ra mắt Fed Cup cho New Zealand vào tháng 6 theo cách tốt nhất có thể, đánh bại Meheq Khokhar của Pakistan, 6–0, 6–0. Cô ấy đã thắng hai trận đánh đơn và ba trận đánh đôi khi New Zealand về đích ở vị trí thứ 4 một cách đáng thất vọng tại giải đấu.
Valentina Ivanov
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814211
Mặc dù Ivanov cùng với Mylène Halemai lọt vào bán kết đôi nữ tại giải đấu đầu tiên của cô khi trở lại châu Âu, tại Alkmaar, cô chỉ vượt qua vòng 1 của nội dung đôi một lần nữa trong mùa giải, đồng thời chỉ lọt vào nhánh đấu chính đơn một lần nữa ở châu Âu. Phải đến sự kiện cuối cùng trong năm, ở Tucson, Arizona, trước khi cô ấy tiến xa hơn, lọt vào tứ kết nhưng phải rút lui vì chấn thương. 2020. Ivanov bắt đầu năm 2020 tại Auckland Open, nơi ký tự đại diện ban đầu của cô để đủ điều kiện đã được nâng cấp thành một trong lần rút thăm chính. Xếp hạng 1014 ở thời điểm trước giải đấu, cô không hề bị thất sủng khi phải đụng độ với tay vợt hạng 63 thế giới lúc bấy giờ, Jil Teichmann. Cô thua 4–6, 3–6 sau 2 set đấu, và bẻ được game giao bóng của tay vợt Thụy Sĩ trong set thứ hai. Cô đã bất bại trong ba trận đấu đơn khi New Zealand tổ chức một trận chung kết tại giải Fed Cup 2020 Châu Á/Châu Đại Dương Nhóm II ở Wellington, trước khi quay trở lại UC Berkeley để tiếp tục học tập. Cô đã không thi đấu trở lại trước khi các trận đấu quốc tế bị tạm dừng vào đầu tháng 3 do COVID-19, và ngay sau đó đã trở lại Sydney. Các trận đấu duy nhất sau đó của cô là trong giải đấu UTR ở quê hương của cô, lọt vào một trận chung kết sau khi đánh bại Destanee Aiava trong một trận đấu vòng tròn tính điểm.
Kha Văn Triết
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814224
Kha Văn Triết (Chữ Hán: 柯文哲; bính âm Hán ngữ: Kē Wénzhé) (sinh ngày 6 tháng 8 năm 1959) là bác sĩ phẫu thuật và chính trị gia Đài Loan. Kha Văn Triết sinh năm 1959 tại thành phố Tân Trúc. Ông đã đảm nhận các chức vụ như: Thị trưởng Đài Bắc (2014-2022), bác sĩ tại Khoa Cấp cứu của Bệnh viện trực thuộc Trường Y Đại học Quốc gia Đài Loan, Giám đốc Khoa Y khoa Chấn thương, Giáo sư Khoa Y ở Đại học Quốc gia Đài Loan. Ông cố của anh, Kha Hiền Ấm, tin vào Trai giáo, và nhịn ăn trong nhiều năm, ông là người quản lý chùa Ấn Nguyệt ở hương Bảo Sơn, huyện Tân Trúc. Có thông tin cho rằng Kha Văn Triết mắc hội chứng Asperger, Kha Văn Triết từng khẳng định mình có đặc điểm này nhưng anh chưa bao giờ được bác sĩ chẩn đoán chính thức. Năm 1977, ông tốt nghiệp hạng nhất trường trung học Hsinchu và theo học khoa Y của trường Cao đẳng Y tế Quốc gia Yang Ming trong một năm, năm 1979, ông thi lại và vào học khoa Y. Khoa Y của Đại học Quốc gia Đài Loan. Sau khi tốt nghiệp khoa Y của Đại học Quốc gia Đài Loan, anh đã vượt qua kỳ thi bác sĩ quốc gia với số điểm đầu tiên trong cả nước, đạt được trình độ bác sĩ thực hành và chọn phẫu thuật làm chuyên ngành của mình. Bước vào vũ đài chính trị. Khi Trần Thủy Biển, một thành viên của Đảng Tiến bộ Dân chủ, được bầu làm thị trưởng Đài Bắc năm 1994, Kha Văn Triết là cán bộ của Hiệp hội Hỗ trợ Y tế Bian. Năm 2000, Kha Văn Triết là người triệu tập Câu lạc bộ Hỗ trợ Bệnh viện Đại học Quốc gia Đài Loan cho chiến dịch tranh cử tổng thống của Trần Thủy Biển. Vào tháng 4 năm 2012, Kha Văn Triết gia nhập trường Ketagalan khi còn là học sinh.Kha Văn Triết tuyên bố rằng anh ấy có quan điểm "xanh đậm". Kha Văn Triết tuyên bố ứng cử thị trưởng thành phố Đài Bắc vào ngày 6 tháng 1 năm 2014. Vào ngày 29 tháng 11, Kha Văn Triết cuối cùng đã giành được 853.983 phiếu bầu và 57,16% số phiếu bầu, trở thành thị trưởng phi đảng phái đầu tiên sau khi thành phố Đài Bắc được tái cấu trúc thành một đô thị trực thuộc trực thuộc Trung ương.
Kha Văn Triết
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814224
Kết quả của cuộc bầu cử chín trong một được công bố vào ngày 25 tháng 11 năm 2018 và Kha Văn Triết đã thắng trong gang tấc và tái đắc cử. Vào ngày 31 tháng 7 năm 2019, Thái Bích Như, người thân tín của Kha Văn Triết xác nhận rằng Kha Văn Triết muốn thành lập một đảng chính trị có tên là Đài Loan Dân Chúng Đảng. Vào ngày 6 tháng 8, Đài Loan Dân Chúng Đảng đã tổ chức một cuộc họp thành lập tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế của Bệnh viện Đại học Quốc gia Đài Loan và Kha Văn Triết được bầu làm chủ tịch đảng đầu tiên. Vào ngày 17 tháng 5 năm 2023, một thông báo chính thức được đưa ra đề cử Kha Văn Triết đại diện cho Đảng Nhân dân Đài Loan trong cuộc bầu cử tổng thống Trung Hoa Dân Quốc năm 2024 và một cuộc họp báo về quan điểm chính trị của tổng thống sẽ được tổ chức vào ngày 20 tháng 5 năm 2023.
Vilayat Galgayche
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814225
Vilayat Galgayche được biết đến trước đó với cái tên là Ingush Jamaat được biết đến là 1 tổ chức theo chủ nghĩa hồi giáo cực đoạn hoạt động ở Ingushetiya và Chechnya và là tổ chức thường xuyên tấn công lực luơng Nga ở các khu vực thuộc vùng Kavkaz. Từ năm 2007, tổ chức này đã là 1 phần của Tiểu vuơng quốc Kavkaz và tham chiến trong Nổi dậy ở Bắc Kavkaz. Tổ chức được cho là chịu trách nhiệm cho hàng trăm người chết mà chủ yếu là binh sĩ, cảnh sát và quan chức chính phủ.
Sân vận động Surakul
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814226
Sân vận động Surakul (; ) là một sân vận động đa năng ở tỉnh Phuket, Thái Lan. Sân hiện đang được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá. Sân vận động có sức chứa 15.000 người và được xây dựng vào năm 1959. Sân vận động đã tổ chức một số trận đấu của Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2008. Giải đấu này đã phải sắp xếp gấp rút để Sân vận động Surakul có thể được sử dụng. Các sân vận động ở Băng Cốc dự định sẽ được sử dụng nhưng do PAD chiếm giữ sân bay ở Băng Cốc nên AFF sau khi tham khảo ý kiến của FAT đã quyết định chuyển địa điểm. Mặc dù có các sân vận động tốt hơn ở Nakhon Ratchasima (Sân vận động 5 tháng 12); Chiang Mai (Sân vận động kỷ niệm 700 năm) và Songkhla (Sân vận động Tinsulanon); Sân vận động Surakul đã được lựa chọn vì tất cả các đội có thể bay thẳng đến Phuket. Sân vận động này cũng là địa điểm tổ chức Cúp Nhà vua Thái Lan 2009, trong đó có một trận đấu nổi tiếng giữa Thái Lan và Liban, trận đấu mà Liban đã rời sân trong thời gian diễn ra trận đấu để phản đối những quyết định của trọng tài mà họ cho là thiên vị đội chủ nhà. Sân vận động sẽ được Phuket F.C. sử dụng làm sân nhà tại Giải bóng đá Hạng 2 Khu vực phía Nam mới thành lập của Giải bóng đá Hạng 2 Thái Lan trong mùa giải 2009. Vòng chung kết Phuket International Rugby 10's, một giải đấu bóng bầu dục mười người nổi tiếng cũng được tổ chức tại đây vào tháng 6 năm 2009.
Kumagai Toshihito
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814233
(sinh ngày 13 tháng 10 năm 1959) là chính trị gia người Nhật Bản. Hiện ông đang giữ chức vụ thống đốc tỉnh Chiba kể từ năm 2021.
Văn Triết
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814250
Văn Triết có thể là:
Trần Bội Kỳ (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814253
Trần Bội Kỳ có thể là:
Có một làng quê
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814273
Có một làng quê (tiếng Anh: "There is a village"; tiếng Nhật:ドイモイで変わる伝統の村) là một bộ phim tài liệu sản xuất theo đơn đặt hàng của đài NHK, do Trần Văn Thủy biên kịch và đạo diễn. Phim được làm xong cũng như công chiếu vào năm 1994. Nội dung. Phim lấy bối cảnh ở Phù Lãng – một làng nghề gốm lâu đời tỉnh Bắc Ninh. Cha thương con, vợ thương chồng, em thương anh, mẹ ghẻ thương con chồng, láng giềng nhường nhịn nhau không đôi co cãi cọ... tất cả đã tạo nên bức tranh về một làng quê tuy nghèo nhưng tình người và sự tử tế luôn chứa chan. Sản xuất và công chiếu. Năm 1993, Trần Văn Thủy được đài NHK (Nhật Bản) mời sang làm một bộ phim tài liệu về đất nước Việt Nam. Khi được đề nghị lựa chọn đề tài, ông đã nghĩ ngay đến làng gốm Phù Lãng bởi vẻ đẹp khung cảnh và tình người. Vì thế ông đã quyết định về làng Phù Lãng để ghi lại cảnh đời sống sinh hoạt nơi đây. Trần Văn Thủy là biên kịch kiêm đạo diễn của bộ phim, quay phim là ông Nguyễn Tấn Phát. Trong quá trình thực hiện, đoàn phim đã được nhà đài hỗ trợ cho thuê trực thăng để quay phim. Phim khởi quay từ năm 1993 và hoàn thành vào năm 1994, phát trên sóng truyền hình Nhật Bản ngày 6 tháng 11 cùng năm. Theo đạo diễn, tại buổi chiếu phim lần đầu ở Tokyo, khán giả sau khi xem xong đã "vỡ òa" và dành lời khen ngợi đến bộ phim vì nội dung của phim phần nào phản ánh đời sống xã hội người Nhật khi xưa.
Tiệc pizza
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814289
Tiệc pizza là buổi họp mặt xã hội để thưởng thức bánh pizza. Thông thường, một chiếc bánh pizza rộng từ 10 đến 14 inch sẽ đủ cho hai người ăn. Vì pizza có thể bao gồm rất nhiều loại nguyên liệu phủ trên mặt bánh, nên một loại tiệc pizza cụ thể cho phép khách tạo ra chiếc bánh pizza theo yêu cầu của riêng họ, sử dụng một số nguyên liệu chọn lọc trong số các loại nguyên liệu phủ trên mặt bánh do người tổ chức bữa tiệc cung cấp. Khi bữa tiệc pizza không bao gồm bất kỳ loại pizza đặt làm theo yêu cầu nào và không rõ sở thích cụ thể của khách ra sao, thông thường bao gồm ít nhất một loại bánh pizza chỉ có phô mai và/hoặc chỉ có rau cho những người không thích thịt hoặc lớp nguyên liệu phủ trên mặt bánh có sẵn khác. Tiệc pizza nổi bật. Ngày 8 tháng 9 năm 2019, một trong những bữa tiệc pizza lớn nhất được tổ chức tại Ippodromo Capannelle ở Roma, chính là nơi mà 1.146 người đã cùng nhau ăn pizza. Ngày 18 tháng 9 năm 2020, Hormel Foods đã tổ chức bữa tiệc pizza ảo lớn nhất thế giới lúc bấy giờ, khi hơn 3.000 người tham gia bữa tiệc pizza do Zoom tổ chức. Để phá kỷ lục, ít nhất 500 bức ảnh của các cá nhân cần được tải lên trong sự kiện kéo dài một giờ. Tổng số cuối cùng là 907 bức ảnh. Tháng 8 năm 2021, các phi hành gia trên Trạm Vũ trụ Quốc tế đã tổ chức bữa tiệc pizza đầu tiên trong không gian, sau chuyến vận chuyển hàng hóa gồm nguyên liệu làm bánh pizza.
Thân vương quốc Terebovlia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814300
Thân vương quốc Terebovlia () là một thân vương quốc Kiev Rus' được thành lập với vị thế một thái ấp vào khoảng năm 1084, được trao cho Vasylko Rostyslavych (các anh em của ông là Volodar Rostyslavych và Rurik Rostislavich, lần lượt cai trị Peremyshl (Przemyśl) và Zvenyhorod). Lịch sử. Một thân vương quốc thái ấp tại phía đông nam của Kiev Rus', thủ đô là Terebovlia. Lãnh thổ của nó bao gồm một phần đông nam Galicia, Bukovina, và tây Podolia. Nó giáp với Thân vương quốc Kiev ở phía đông, Thân vương quốc Zvenyhorod ở phía tây và một phần của Thân vương quốc Volodymyr, Thân vương quốc Lutsk và Thân vương quốc Peresopnytsia ở phía bắc. Vasylko Rostyslavych đã thuộc địa hóa rộng rãi các vùng lãnh thổ phía đông nam Terebovlia bằng cách sử dụng các dân tộc Turk (Berendei, Tork và Pecheneg), và ông sáp nhập Ponyzia, do đó bảo vệ lãnh thổ khỏi những kẻ cướp bóc du mục. Halych trở nên quan trọng thành một trung tâm chính trị và kinh tế; các thành phố và pháo đài quan trọng khác bao gồm Terebovlia, Mykulyn (nay là Mykulyntsi), Chern (nay là Chernivtsi), Vasyliv (Bukovina), Onut, Kuchelemyn, Bakota, Ushytsia và Kalius. Sau cái chết của Vasylko Rostyslavych vào năm 1124, Thân vương quốc Halych ly khai, và đến năm 1141, Thân vương quốc Terebovlia trở thành một phần của Thân vương quốc Halych. Sau khi triều đại Rostyslavych lụi tàn, nó có một thời gian ngắn là một thân vương quốc thái ấp được cai trị dưới quyền Iziaslav Volodymyrovych.
Lutjanus bitaeniatus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814304
Lutjanus bitaeniatus là một loài cá biển thuộc chi "Lutjanus" trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830. Từ nguyên. Từ định danh "bitaeniatus" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "bi" (“hai”) và "taeniatus" (“có sọc”), hàm ý không rõ, nhưng có lẽ đề cập đến hai vạch đỏ trên má, bên dưới mắt ở loài này, một đặc điểm được cho là để phân biệt với các loài "Lutjanus" khác. Phân bố và môi trường sống. "L. bitaeniatus" có phân bố nhỏ hẹp trong vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, giới hạn ở phía đông Indonesia, biển Celebes, biển Timor, biển Arafura xuống đến bờ tây bắc Úc, và dường như có một quần thể phụ của loài này bị cô lập ở quần đảo Whitsunday (ngoài khơi bờ đông bắc Úc). "L. bitaeniatus" sinh sống trên các rạn san hô, độ sâu trong khoảng 20–105 m. Loài này cũng được ghi nhận ở vùng đầm lầy ngập mặn. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. bitaeniatus" là 30 cm. Lưng và thân trên có màu đỏ hồng, trắng dần ở bụng và thân dưới. Các vây đỏ cam, riêng vây đuôi thi thoảng có màu nâu sẫm. Cá con có một dải đen dọc hai bên lườn (có khi xuất hiện thêm một sọc vàng phía dưới dải đen) và một vệt đen lưỡi liềm trên gốc vây đuôi, bụng và các vây dưới thường vàng. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 13–14; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–9; Số tia vây ở vây ngực: 16–17. Phân loại. Qua phân tích tiểu đơn vị cytochrome c oxidase I của DNA ty thể, người ta nhận thấy "L. bitaeniatus" tạo thành nhóm chị em với "Lutjanus papuensis" và "Lutjanus lemniscatus". Giá trị. "L. bitaeniatus" là một loài quan trọng về mặt thương mại và kinh tế. Thịt của chúng được đánh giá là chất lượng tốt.
Lãng sử
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814324
Lãng sử (), được dịch sang tiếng Anh thành A History of Debauchery và một vài cái tên khác, là cuốn tiểu thuyết khiêu dâm được một văn nhân ẩn danh dùng bút danh sáng tác vào cuối thời Minh. "Lãng sử" có tổng cộng bốn mươi hồi, kể về cuộc phiêu lưu tình ái của một chàng tú tài trẻ gọi là Lãng Tử () khi anh ta quyến rũ, gian dâm cùng đám tình nhân cả nam lẫn nữ của mình. Sau khi "đạt được sự thỏa mãn tình dục tột đỉnh", Lãng Tử bay lên trời thành tiên. Từng được xem là một trong những cuốn tiểu thuyết khiêu dâm lâu đời nhất được xuất bản ở Trung Quốc, tác phẩm này liên tục bị triều đình cấm đoán hoặc kiểm duyệt kể từ khi ra mắt. Cốt truyện. Nhân vật chính trong "Lãng sử" họ Mai (梅), có tên kép là Tố Tiên (素先) và tên tự là Ngạn Khanh (彦卿), sống vào những năm Chí Trị thời Nguyên, là tú tài quê ở Tiền Đường vừa tròn tuổi mười tám đôi mươi, vì quen giao du chốn trăng hoa nên mọi người gọi anh chàng này là Lãng Tử (浪子). Phụ thân anh ta từng giữ chức quan Gián nghị đại phu vì đắc tội giới quyền quý trong triều nên bị cách chức đuổi về nhà, Gián nghị phu nhân từng nhận cháu gái Vương Tuấn Khanh (王俊卿) làm con gái riêng của mình. Vài năm sau, cả hai vợ chồng quan Gián nghị nối nhau qua đời, Lãng Tử và em gái Vương Tuấn Khanh sống chung một nhà kể từ đó. Lãng Tử sau này ngoại tình với vợ của Vương Giám Sinh (王监生) là Lý Văn Phi (李文妃), lại còn gian dâm với góa phụ môn hạ nhà họ Lý là Triệu Đại Nương (赵大娘) và con gái của bà này là Diệu Nương (妙娘), có mối giao hảo với nô tỳ của Văn Phi là Xuân Kiều (春娇) và chị gái kết nghĩa của Văn Phi là Tố Thu (素秋), Vương Tuấn Khanh ở nhà thì gian dâm với sủng nam và nô bộc của Lãng Tử là Lục Châu (陆珠) rồi sau bỏ đi lấy chồng. Vương Giám Sinh không may lâm bệnh qua đời nên Lãng Tử bèn công khai lấy Văn Phi về làm vợ, vẫn sủng ái Lục Châu đến mức tên này ngang nhiên làm tình với Văn Phi giữa ban ngày ban mặt.
Lãng sử
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814324
Thế rồi có bạn thân của Lãng Tử hồi còn nhỏ tên là Thiết Mộc Đóa Lỗ (铁木朵鲁) hiện đang giữ chức quan Tư nông Hào Châu ở Hoài Tây gửi thư mời đến nhà chơi, Lãng Tử nhận được thư liền đi thăm bạn, Văn Phi và Lục Châu thấy thế lại càng dâm loạn nhiều hơn, ít lâu sau Lục Châu mắc bệnh lao qua đời. Lãng Tử vừa đặt chân đến Hào Châu thì liên tiếp gian dâm với vợ của Thiết Mộc là An Ca (安哥) cùng hai người thiếp là Nguyên Như (元如) và Anh Đào (樱桃). Sau đó, Thiết Mộc muốn lên núi tu luyện thuật Hoàng Lão bèn giao An Ca lại cho bạn mình trông nom, vì vậy mà Lãng Tử có cả hai người vợ là An Ca và Văn Phi. Về sau Lãng Tử đậu khoa thi Hoàng Giáp, được triều đình ban tặng Tiến sĩ xuất thân nhưng anh ta không muốn ra làm quan, bèn cáo bệnh ở nhà, cưới bảy mỹ nhân mười một thê thiếp, sống sung sướng qua ngày đoạn tháng, tự xưng là tiên nhân. Bỗng một hôm, định trở về ẩn cư thì được gặp một vị tiên trong núi sâu, hóa ra đó chính là Thiết Mộc Đóa Lỗ, Thiết Mộc thành tựu viên mãn sắp bay lên trời, Lãng Tử chọn sống trên núi tự xưng là Thạch Hồ sơn chủ (石湖山主) và với người vợ thứ hai gọi là Thạch Hồ sơn quân (石湖山君). Sau cùng truyện kết thúc ở đoạn Lãng Tử bay lên trời thành tiên. Lịch sử xuất bản. "Lãng sử" do một nhà văn ẩn danh với bút danh Phong Nguyệt Hiên Hựu Huyền tử trước () viết vào cuối thời Thiên Khải. Một trong những đề cập sớm nhất về tác phẩm này là trong lời tựa của cuốn tiểu thuyết "Thiên Hứa Trai phê điểm Bắc Tống tam Toại bình yêu truyện" (), đề năm 1620. Tác phẩm này "có lẽ" cũng được nhắc đến trong lời nói đầu của "Tam Toại bình yêu truyện" do Phùng Mộng Long mở rộng vào những năm Thiên Khải. Cùng với "Kim Bình Mai" () và "Tú tháp dã sử" (), cả hai đều được viết vào cuối thời Minh, "Lãng sử" được cho là một trong những tiểu thuyết khiêu dâm lâu đời nhất được xuất bản ở Trung Quốc. Ý nghĩa và nhận định. "Lãng sử" kể về cuộc sống tục tĩu theo cách tự nhiên, và văn phong thô thiển.
Lãng sử
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814324
Đồng thời phản ánh cõi giới tinh thần trống rỗng và sự trụy lạc buồn tẻ của giới sĩ đại phu thời bấy giờ. Cuncun Wu và Mark Stevenson lập luận rằng "Lãng sử" "đại diện cho sự phủ nhận hoàn toàn bất kỳ hình thức quan điểm đạo đức nào" và "thiếu cả một chút gợi ý về giáo huấn đạo đức hoặc sự ăn năn, và thay vào đó nhại lại các quy ước về đạo đức bằng cách đảo ngược lại chúng". Hơn nữa, họ cho rằng "trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, có rất ít tác phẩm có thể sánh ngang với "Lãng sử" ở chỗ... không có bất kỳ gợi ý nào về quan hệ nhân quả đạo đức." Martin W. Huang viết rằng "Lãng sử" là một ví dụ về "tiểu thuyết khiêu dâm với tư cách là một thể loại mang khuynh hướng tội lỗi (điều đó) đôi khi dường như mang lại nhiều khả năng hơn để xem xét những sai lệch, đặc biệt là những sai lệch do phụ nữ phạm phải, với nhiều sự khoan dung hơn". Lấy ví dụ, Mai Tố Tiên thực hiện cử chỉ "nữ quyền" khi cho phép vợ mình là Lý Văn Phi quan hệ tình dục với gã nô bộc và người tình song tính Lục Châu của anh ta, vì cô ấy đã cho phép chồng mình giữ lại người thiếp yêu. Nhà phê bình đầu thời Thanh Lưu Đình Ky () công kích cuốn tiểu thuyết này "độc hại", trong khi Giovanni Vitiello chỉ trích tác phẩm "khá nghèo nàn về cốt truyện và văn phong lặp đi lặp lại".
Lưu Chu Duẫn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814340
Lưu Chu Duẫn (; sinh ngày 6 tháng 10 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Trung Quốc hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Cảng Thượng Hải tại Giải bóng đá ngoại hạng Trung Quốc. Sự nghiệp thi đấu. Cảng Thượng Hải. Lưu Chu Duẫn ra mắt chuyên nghiệp cho câu lạc bộ vào ngày 4 tháng 12 năm 2020, trong trận thua 2-0 trước Jeonbuk Hyundai Motors tại vòng bảng AFC Champions League 2020. Vào ngày 11 tháng 5 năm 2021, anh ra mắt tại Giải bóng đá ngoại hạng Trung Quốc trong trận hòa 0-0 trước Changchun Yatai. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho đội bóng vào ngày 24 tháng 10 năm 2021, trong chiến thắng 3-0 trước Câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Đại Liên tại lượt đi của tứ kết Cúp FA Trung Quốc 2021, và kết thúc mùa giải 2021 với 5 bàn thắng, 2 trong số đó ở giải quốc nội và 3 bàn ở Cúp FA Trung Quốc. Sự nghiệp quốc tế. Vào ngày 20 tháng 7 năm 2022, anh ra mắt quốc tế cho Trung Quốc trong thất bại 3-0 trước Hàn Quốc tại Cúp bóng đá Đông Á 2022, khi Hiệp hội bóng đá Trung Quốc quyết định cử đội U-23 quốc gia tham dự giải đấu này.
Bầu cử Thống đốc tỉnh Chiba 2021
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814343
diễn ra vào ngày 21 tháng 3 năm 2021. Cựu thống đốc Kensaku Morita thông báo sẽ không tranh cử sau nhiệm kỳ 4 năm làm thống đốc tỉnh Chiba. Kumagai Toshihito đã chiến thắng vang dội với tỷ lệ 70,46% tổng số phiếu bầu và trở thành thống đốc thứ 21 tỉnh Chiba. Ngày 5 tháng 4 năm 2021, Kumagai Toshihito đã tuyên thệ nhậm chức thống đốc tỉnh Chiba.
Uchi no Kaisha no Chiisai Senpai no Hanashi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814377
là một series manga Nhật Bản được viết và minh họa bởi Saisō. Bộ truyện được đăng dài kì trên trang web "Storia Dash" của Takeshobo kể từ tháng 4 năm 2020 và các chương của nó được gom lại thành 6 tập "tankōbon" tính tới tháng 4 năm 2023. Một bộ anime truyền hình dài tập chuyển thể được thực hiện bởi Project No.9 được công chiếu vào tháng 7 năm 2023. Truyền thông. Manga. Được viết và minh họa bởi Saisō, "Uchi no Kaisha no Chiisai Senpai no Hanashi" bắt đầu phát hành dài kì trên trang web "" của Takeshobo từ ngày 3 tháng 4, 2020. Tập "tankōbon" được phát hành vào ngày 30 tháng 10, 2020. Tính tới tháng 4 năm 2023, đã có 6 tập được phát hành. Anime. Một bộ anime truyền hình dài tập chuyển thể được công bố vào ngày 17 tháng 10, 2022. Bộ phim được sản xuất bởi Project No.9 đạo diễn bởi Satō Mitsutoshi, kịch bản bởi Ōchi Keiichirō, Aoki Yasuko và Sugizawa Satoru, thiết kế nhân vật bởi Hashiguchi Hayato và Ogata Hiromi, sản xuất âm nhạc bởi Sumika Horiguchi. Bộ anime bắt đầu phát sóng vào ngày 2 tháng 7, 2023, trên kênh của TV Asahi. Ca khúc mở đầu là "Honey" được thực hiện bởi Kobayashi Tōya, trong khi đó ca khúc kết thúc là "Sugar" được thực hiện bởi YU-KA. Đón nhận. Vào năm 2020, bộ manga được xếp hạng thứ 11 tại Next Manga Award dành cho hạng mục truyện tranh mạng.
Vampire (bài hát của Olivia Rodrigo)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814380
"Vampire" (nhan đề gốc là vampire) là một bài hát của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ Olivia Rodrigo trích từ album phòng thu thứ hai sắp tới "Guts", được phát hành bởi Geffen Records dưới dạng đĩa đơn chủ đạo vào ngày 30 tháng 6 năm 2023. Ca khúc do Rodrigo và Dan Nigro sáng tác và cùng đồng sản xuất cho bài hát. Mang đậm chất liệu pop rock, bài hát được đặc trưng bởi những nốt dương cầm và những nhạc cụ nhạc rock bao gồm có guitar điện, synthesizer và tiếng trống được lập trình. Video âm nhạc của "Vampire" do Petra Collins làm đạo diễn cũng được phát hành cùng ngày với đĩa đơn. "Vampire" đa số đón nhận nhiều lời tán dương từ các nhà phê bình âm nhạc, phần lớn họ đánh giá cao lời bài hát và chủ đề của những lời ca trong ca khúc. Sau khi phát hành đĩa đơn, ca khúc đã ngay lập tức đứng ở vị trí quán quân trên các bảng xếp hạng tại Úc, Canada, Ireland, New Zealand và Hoa Kỳ, trở thành đĩa đơn thứ ba của Rodrigo đứng đầu bảng xếp hạng ở cả 5 quốc gia. "Vampire" cũng ra mắt ở vị trí á quân trên bảng xếp hạng UK Singles của Vương quốc Anh và giữ nguyên vị trí đó trong bốn tuần liên tiếp. Ngoài ra, bài hát đã lọt vào top 10 ở các bảng xếp hạng tại Áo, Đức, Hy Lạp, Iceland, Latvia, Luxembourg, Malaysia, Hà Lan, Na Uy, Philippines, Singapore, Vương quốc Anh và Việt Nam. Bối cảnh và phát hành. Vào đầu tháng 1 năm 2021, Olivia Rodrigo phát hành đĩa đơn đầu tay "Drivers License" do cô và Dan Nigro cùng nhau đồng sáng tác và sản xuất, đĩa đơn sau đó đã gặt hái được nhiều thành công rực rỡ về mặt thương mại. Trở thành một trong những đĩa đơn quán quân có thời gian thống trị lâu nhất trong lịch sử bảng xếp hạng Hoa Kỳ. Album phòng thu đầu tay của cô "Sour", được phát hành vào tháng 5 năm 2021 cũng nhận được nhiều phản hồi tích cực từ phía giới phê bình âm nhạc. Album đã hỗ trợ thêm ba đĩa đơn mới lọt vào top 10 trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 của Hoa Kỳ, trong số đó có đĩa đơn "Good 4 U" đạt vị trí đầu bảng. Trong một bài phỏng vấn với tạp chí "Clash" vào tháng 8 năm 2021, Rodrigo mô tả album phòng thu thứ hai của cô "có thể sẽ [vui vẻ] hơn nhiều" so với album tiền nhiệm.
Vampire (bài hát của Olivia Rodrigo)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814380
Cô cũng xác nhận việc đặt nhan đề cho album thứ hai và đã chuẩn bị sẵn một số bài hát cho album. Vào cuối năm 2021, Rodrigo hé lộ về việc đang sáng tác về một sản phẩm mới cùng với Nigro. Vào tháng 4 năm 2022, cô đã tiết lộ thêm về mục tiêu "hoàn thành album" trước khi bắt đầu tổ chức chuyến lưu diễn Sour Tour. Cuối năm đó, Rodrigo xác nhận về album sẽ được phát hành vào năm 2023. Vào ngày 2 tháng 6 năm 2023, trang web chính thức của Rodrigo được cập nhật với biểu thị đồng hồ hẹn giờ được đếm ngược cho đến ngày 30 tháng 6. Vào ngày 13 tháng 6, cô xác nhận ca khúc mang tên "Vampire" sẽ là đĩa đơn chủ đạo trong album thứ hai của cô đồng thời công bố ảnh bìa và ngày phát hành cho đĩa đơn là vào ngày 30 tháng 6. Các định dạng đĩa đơn 7-inch và CD phiên bản giới hạn kèm theo bản thử nghiệm của bài hát cũng được cung cấp sẵn để đặt trước cũng như trên các nền tảng kỹ thuật số. Một thông cáo báo chí cũng được phát hành ngay sau đó, trong đó mô tả bài hát có âm thanh rõ nét và thể hiện rõ nỗi khổ của người nghệ sĩ khi phải chịu trách nhiệm cho sự ngu ngốc của bản thân. Rodrigo nói với tạp chí "Billboard" rằng cô coi bài hát chính là "phiên bản của cô trong một vở kịch nhạc rock". Cô trả lời bài hát được chọn làm đĩa đơn chính cho album "Guts" bởi vì ca khúc giống như "một sự tiến hóa theo một cách an toàn mà không quá rõ ràng" thay vì tôn vinh cô với vai trò "ca sĩ kiêm nhạc sĩ nhạc root". Ca khúc được Rodrigo sáng tác lần đầu vào tháng 12 năm 2022 và hoàn thành giai đoạn thu âm vào cuối tháng 1 năm 2023. Ảnh bìa của bài hát khá giống với kết cấu như trong tấm áp phích của bộ phim kinh dị năm 1968 "Dracula Has Risen from the Grave" khi cả hai đều ăn theo sắc thái đen trắng. Bìa mô tả Rodrigo với đôi môi sẫm màu và hai chiếc băng keo cá nhân màu tím được vắt chéo qua cổ. Steffanee Wang từ tạp chí "Nylon" đã khẳng định ảnh bìa có thể mang hướng theo phong cách gothic. Trong khi một số nhà phê bình lại ám chỉ hai chiếc băng cá nhân chính là vị trí bị ma cà rồng cắn.
Vampire (bài hát của Olivia Rodrigo)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814380
Vào ngày 20 tháng 6, Rodrigo đăng tải một bài viết lên tài khoản Instagram của mình với ba dòng chữ "How do you lie?", một trong những câu hát của ca khúc đã được hé lộ. Ngày hôm sau, một đoạn video 15 giây mô tả một người đang gọi cho Rodrigo và một đoạn trong ca khúc đã được phát khi nhạc chờ đổ chuông. Đến ngày 30 tháng 6 năm 2023, Rodrigo đã hợp tác với YouTube Shorts để ra mắt thử thách "#vampireOR2", một thử thách trực tuyến dành riêng cho nền tảng này. Xây dựng và cảm hứng. "Vampire" có thời lượng khoảng 3 phút 39 giây. Nigro phần lớn đều đảm nhiệm cho vai trò sản xuất và lập trình tiếng trống. Ngoài ra, Nigro cũng chơi một số loại nhạc cụ như guitar, guitar bass, nhạc cụ gõ, piano và synthesizer. Benjamin Romans thì đánh piano, Paul Cartwright chơi viola và vĩ cầm, Sam Stewart chơi guitar điện và Sterling Laws đánh trống. Ca khúc được thu âm và phối âm tại phòng thu Amusement Studios ở Thành phố Los Angeles bởi Serban Ghenea. "Vampire" là một bài hát thuộc nhiều thể loại được hỗ trợ bởi hai dòng nhạc chính là pop và rock như goth-esque pop và nhạc pop rock. Theo như thông tin do công ty Geffen Records đăng tải trên trang Musicstax, ca khúc được viết ở nhịp theo giọng Fa trưởng với tiết tấu chậm rãi là 67 nhịp mỗi phút trong thời gian phổ biến. Jason Lipshutz từ tạp chí "Billboard" đã so sánh đoạn mở đầu của ca khúc khá tương đồng với bài "Drivers License" khi cả hai đều bắt đầu bằng một khúc nhạc dạo với những giai điệu piano đầy sâu lắng. Kế tiếp đó là những tiếng synthesizer được đánh với âm lượng lớn dần rồi lại chuyển sang giai điệu piano được pha trộn thêm với những nhịp trống ngắt quãng. Sau phiên khúc đầu tiên, từ phần điệp khúc tiếp theo trở đi, ca khúc đạt đến cao trào với những lớp trống mạnh mẽ hòa vào nhau. Tiếng violin hòa trộn vào cùng với guitar điện khiến cho bài hát như một bản hùng ca pop-rock đầy bồn chồn với giọng ca đầy kịch tính và bi thương. Trong bài hát, Rodrigo sử dụng những ngôn từ chỉ trích với con "ma cà rồng" vốn là để ẩn dụ cho người yêu cũ của cô ấy. Trong phiên bản sạch của bài hát, những lời nói mang tính thô tục như "fame fucker" thì được đổi thành "dream crusher", còn từ "goddamn" thì chỉ được rút ngắn lại thành "damn".
Vampire (bài hát của Olivia Rodrigo)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814380
Rodrigo cũng ví mối tình cũ của mình như một "kẻ hút máu" khi chỉ hiện nguyên hình vào ban đêm như trong đoạn điệp khúc: "I should've known it was strange / You only come out at night". Cô cạn kiệt chính mình, nhớ lại những khoảng thời gian trước khi bị lợi dụng: "Went for me and not her / 'Cause girls your age know better". Cuối cùng, Rodrigo khép lại ca khúc với một câu kết tội: "Bloodsucker, fame fucker, bleedin' me dry like a goddamn vampire". Rodrigo giải thích có "rất nhiều truyền thuyết về ma cà rồng để có thể sử dụng" và cô đã tìm ra một truyền thuyết "thú vị" để sáng tác. Cô và Nigro cũng hé lộ tầm nhìn của mình về bài hát, Rodrigo tô điểm thêm kỹ thuật "crescendo theo thời gian" nhằm để "lột tả rõ cơn giận đang dồn nén khi bạn phải đối mặt với một tình huống". Đánh giá chuyên môn. Sau khi ra mắt, "Vampire" đa số đều nhận được sự hoan nghênh cũng như những phản hồi tích cực từ giới phê bình. Laura Snapes từ tờ "The Guardian" đã phong tặng cho ca khúc 5/5 sao và cho rằng, "đoạn tiền điệp khúc luôn mang lại cảm giác mơ hồ mỗi khi nghe" và cô gọi nó chính là điểm nhấn của Rodrigo. Một bản nhạc mang nhiều vết thương cũng như là một lời nhắc nhở về những mối đe dọa đang ảnh hưởng tới những cô gái trẻ". Quinn Moreland từ trang "Pitchfork" đã gọi ca khúc là "Bài Hát Mới Hay Nhất" và phải thừa nhận cho sự ăn ý giữa Rodrigo và Nigro. Bà còn viết, "Có một loại logic cảm xúc được kết cấu chậm rãi bên trong cấu trúc của bài hát, đặc biệt là phần điệp khúc có thể gây chú ý ngay cả khi nó được xây dựng để tạo ra vài hình ảnh trực tiếp". Abby Jones và Jo Vito từ trang "Consequence" đều bị ấn tượng trước "Vampire", cả hai đều nhấn mạnh rằng, ca khúc được xây dựng dựa trên âm lượng và "bùng nổ thành một phương tiện truyền tải cho màn trình diễn đầy bộc trực, cảm xúc của Rodrigo". Họ cũng đánh giá cao phần phiên khúc và coi nó như một "sự cải biên để mở ra một đợt nhịp mạnh năng lượng cao" và so sánh nó với các bài hát mang tính vui vẻ từ album "Sour".
Vampire (bài hát của Olivia Rodrigo)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814380
Justin Curto từ trang "Vulture" đã ghi nhận "Vampire" như một "màn trình diễn đầy đủ, với mỗi câu hát lại vắt kiệt cảm xúc hơn những câu trước" và cho rằng, khí chất trữ tình của Rodrigo có thể "giữ được tính đặc trưng của những ca khúc trong "Sour" trong khi lại chứa đựng nhiều sức mạnh thông minh hơn". Video âm nhạc. Vào ngày 27 tháng 6 năm 2023, Rodrigo đã đăng tải một đoạn video ngắn trên nền tảng YouTube Shorts, video mô tả Rodrigo trên chiếc màn hình quay phim đang nằm trên một bãi cỏ trước khi bị làn sương mù màu xanh bao phủ trong khi đoạn nhạc 'Vampire' dồn dập đang được phát trong nền. Tạp chí "Billboard" sau đó đã phỏng đoán video trên chính là video ca nhạc sắp tới của ca khúc. Đến ngày 29 tháng 6, Rodrigo đăng thêm một đoạn video trên tài khoản Instagram cá nhân, trong video là một cảnh màn đêm tĩnh lặng, sau đó là Rodrigo đang nằm dưới ánh trăng tròn trong khi phần nhạc dạo của khúc bắt đầu nổi lên. Video được đạo diễn bởi Petra Collins, người từng đảm nhận phần hình ảnh cho Rodrigo trong các đĩa đơn như "Good 4 U" và "Brutal". Vài giờ trước khi phát hành, Rodrigo đã công chiếu video này tại một sự kiện YouTube Space độc quyền ở phố Playa Vista, Los Angeles. Vào lúc 12 giờ EST ngày 30 tháng 6, video chính thức ra mắt trên nền tảng Vevo. Video được quay tại thành phố Los Angeles, dù nội dung đơn giản nhưng lại tạo được bất ngờ cho người xem. Ở những giây đầu tiên là một màn đêm tĩnh lặng, văng vẳng những tiếng ve và mặt trăng tròn trên bầu trời. Sau đó ống kính bắt đâu tập trung vào Rodrigo, bắt trọn gương mặt cô đang nằm ngửa mình hướng tầm nhìn về phía Mặt Trăng và bầu trời. Đến các cảnh quay sau đó, góc máy dần tiến ra xa, Rodrigo thì đang mặc bộ đồ trắng, trên tay cầm micro và đang trải mình trên một bãi cỏ giữa khu rừng hoang vắng. Đột nhiên, một chiếc đèn đập mạnh vào người nữ ca sĩ và người xem nhận ra, cô đang vào vai ca sĩ và đang trình diễn trên sân khấu trước sự tán dương của hàng chục khán giả. Khi nhịp điệu dồn dập dần tăng tốc, sau cú va chạm, dù nữ ca sĩ đứng dậy với cơ thể bị chấn thương nhưng cô vẫn tiếp tục màn trình diễn.
Vampire (bài hát của Olivia Rodrigo)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814380
Dưới khán đài, người xem đi từ hoang mang đến mừng rỡ rồi cuối cùng lại lo sợ cho tình trạng của cô. Đột nhiên, những người trong ê-kíp tiến ra sân khấu, yêu cầu Rodrigo dừng lại. Cô trở nên hoảng loạn và quyết định bỏ chạy khỏi ánh đèn sân khấu. Cuối cùng, video khép lại với hình ảnh Rodrigo đứng một mình giữa thành phố nhưng lại cảm thấy rất hạnh phúc. Rodrigo mỉm cười vì cảm thấy mình hoàn toàn tự do, không còn phải lệ thuộc vào bất cứ ai. Biểu diễn trực tiếp. Rodrigo từng trình diễn "Vampire" lần đầu tiên trên piano, video về màn trình diễn đã được phát hành trên kênh YouTube vào ngày 6 tháng 7 năm 2023. Đội ngũ thực hiện. Đội ngũ thực hiện được ghi chú dựa trên Qobuz.
Lý Ngư
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814385
Lý Ngư (; 1611 – 1680), tên lúc đầu là Tiên Lữ (仙侣) sau đổi là Ngư (漁); tự Trích Phàm (谪凡); hiệu Lạp Ông (笠翁), là nhà soạn kịch, tiểu thuyết gia, kiến ​​trúc sư làm vườn và nhà xuất bản sách cuối thời Minh đầu thời Thanh. Tiểu sử. Lý Ngư quê quán ở Như Cao nay thuộc tỉnh Giang Tô sống vào thời Minh mạt Thanh sơ. Tuy thi đậu khoa cử ra làm quan, nhưng trước những biến động của tân triều khiến ông không thành công trên quan trường, mà đành chuyển sang nghề viết lách để mưu sinh. Ông từng làm diễn viên Kinh kịch, nhà sản xuất sân khấu kịch, đạo diễn kịch đồng thời là nhà soạn kịch, từng chu du cùng đoàn kịch của riêng mình. Vở kịch "Phong tranh ngộ" (風箏誤) của ông được biểu diễn trên sân khấu Côn khúc. Lý Ngư trải qua thời thơ ấu và thời thanh niên ở Như Cao, về sau ông cưới một người vợ và sinh được một cô con gái, sinh sống ở Như Cao trong suốt 23 năm, bước sang tuổi trung niên thì ông chuyển về Nam Kinh sống trong vòng 14 năm, rồi sau dời sang Hàng Châu ở đây cho đến cuối đời. Lý Ngư được cho là tác giả của "Nhục bồ đoàn" (肉蒲團), một tấn hài kịch của văn học khiêu dâm Trung Quốc. Ông cũng viết một tập truyện ngắn mang tên "Thập nhị lâu" (十二樓). Lý Ngư đề cập đến chủ đề tình yêu đồng giới trong câu chuyện "Túy nhã lâu" (萃雅樓). Đây là chủ đề mà ông lặp lại trong tập "Vô thanh hý" (無聲戲) và vở kịch "Liên hương bạn". Quyển sách hướng dẫn vẽ tranh "Giới tử viên họa truyện" do chính ông viết lời tựa và ấn hành ở Kim Lăng. Lý Ngư còn nổi danh qua các "tiểu phẩm" () và những bài viết về ẩm thực và ẩm thực học của mình. Lâm Ngữ Đường đã dịch một số bài tiểu luận này. Bài "bàn về dạ dày" của Lý Ngư cho rằng miệng và dạ dày "gây ra mọi lo lắng và rắc rối cho nhân loại trong suốt các thời đại." Ông tiếp tục rằng "thực vật có thể sống mà không cần miệng và dạ dày, đá và đất vẫn tồn tại mà không cần bất kỳ chất dinh dưỡng nào.