title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Lý Ngư
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814385
Vậy thì tại sao chúng ta lại được ban cho một cái miệng, một cái bao tử và được trao thêm hai cơ quan phụ này?" Lâm còn dịch mấy bài viết nhan đề "Làm thế nào để hạnh phúc dù giàu có" và "Làm thế nào để hạnh phúc dù nghèo khó" và "Nghệ thuật ngủ, đi, ngồi và đứng" của Lý Ngư, minh họa cách tiếp cận châm biếm của ông đối với các chủ đề nghiêm túc.
Đoàn Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814403
Đỗ Phương Toàn nghệ danh Đoàn Quốc, là nhà quay phim, dựng phim người Việt Nam, ông từng đạt giải Quay phim xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam năm 1993, với bộ phim "Dấu ấn của quỷ". Tiểu sử. Đỗ Phương Toàn sinh ngày 17 tháng 8 năm 1943 thị trấn Long Điền, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bố và các anh em của ông đều tham gia kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Năm 1961, khi Đỗ Phương Toàn đang học trường phổ thông Châu Văn Tiếp, tại Vũng Tàu nổ ra cuộc biểu tình chống Ngô Đình Diệm. Cuộc biểu tình bị đàn áp, Phương Toàn may mắn thoát nạn và theo quân đội Cách Mạng, từ thời điểm này ông lấy tên của bố là Đoàn Quốc để làm bí danh, nghệ danh cho mình. Ông có một anh trai hy sinh tại quận 5 năm 1968. Sự nghiệp. Đoàn Quốc bắt đầu với nghề làm báo cho tờ Giải Phóng trong hơn một năm, sau đó ông được phân công đi học lớp trung cấp quay phim tại chiến khu R, Tây Ninh thuộc Trung ương cục miền Nam. Tại đây ông và các bạn học trải qua cuộc sống như những người lính từ việc tuần tra, tăng gia lao động... Tháng 10 năm 1963, khóa học kết thúc. Từ năm 1963 đến 1965 ông được phân công quay các phóng sự, tài liệu; ông từng tham gia quay phim tại chiến dịch Đông Xuân (1965-1966). Cùng với phụ tá Sáu Dũng, Đoàn Quốc đã ghi nhận được 3 trận đánh tại Bào Bàng, Cẩm Xe và Hố Đá ở Bình Dương. Khi tác nghiệp tại trận Hổ Đá, máy quay phim bị hỏng, Đoàn Quốc bị thương nặng còn ông Sáu Dũng cùng hai chiến sĩ bảo vệ và một đại đội phó được cử đi theo đoàn đều hy sinh. Đoàn Quốc tiếp tục quay phim cho đến khi bị đạn bắn gãy tay, hỏng máy quay, thủng ruột và hai đùi. Đến đêm hôm đó ông mới được đồng đội tìm thấy. Trải qua nhiều cuộc phẫu thuật đùi, tay và cắt bỏ một phần ruột, sau khi nghỉ dưỡng 2 tháng, Đoàn Quốc về công tác dựng phim tại Xưởng phim Giải Phóng. Trong cùng năm, gia đình nhận được tin không chính xác về việc ông hy sinh. Năm 1971, Đoàn Quốc được cử ra Hà Nội, học 1 năm bổ túc văn hóa tại Ban Thống Nhất để tốt nghiệp cấp 3.
Đoàn Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814403
Năm 1972, ông cùng nghệ sĩ Lê Minh Hiền, Bùi Đình Hạc, diễn viên Trà Giang, đạo diễn Hải Ninh đại diện Việt Nam tham dự Liên hoan phim quốc tế Moskva.Từ năm 1972 đến 1977, Đoàn Quốc được cử đi học quay phim tại trường Đại học điện ảnh Cộng hòa Dân chủ Đức. Tác phẩm tốt nghiệp của ông có tên "Người đi không về" do ông quay phim và được bạn học người Cuba đạo diễn. Tháng 1 năm 1977, Đoàn Quốc tốt nghiệp và về nước, tháng 4 cùng năm ông vào công tác tại Xí nghiệp phim Tổng hợp theo phân công của Cục điện ảnh. Từ thời điểm này ông giữ vai trò quay phim chính cho cho Xưởng phim truyện, bộ phim điện ảnh đầu tiên ông quay là "Những người bạn quanh tôi" của đạo diễn Lâm Mộc Khôn. Năm 1980, hai nghệ sĩ tiếp tục hợp tác với bộ phim "Đêm nước rong". Đoàn Quốc còn hợp tác với các đạo diễn Huy Thành, Hồng Sến, Lê Văn Duy trong các năm sau đó. Là nhân viên của Hãng phim Giải Phóng, ông còn tham gia sản các phim võ hiệp đầu tiên của Việt Nam như "Thăng Long đệ nhất kiếm, Lửa cháy thành Đại La". Năm 1993, ông đạt giải quay phim xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 10 với bộ phim "Dấu ấn của quỷ" của đạo diễn Việt Linh. Năm 1997, ông chuyển sang công tác tại Hãng phim Nguyễn Đình Chiểu với bộ phim đầu tiên tại đây là "Người học trò đất Gia Định" xưa của đạo diễn Huy Thành. Cũng từ năm 1997, Đoàn Quốc giảng dạy môn quay phim cho khoa quay phim và đạo diễn thuộc trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh. Phim truyện cuối cùng mà Đoàn Quốc tham gia là bộ video hai tập "Viên ngọc Côn Sơn" do Lê Văn Duy đạo diễn năm 2002. Ông nghỉ hưu năm 2003 nhưng vẫn tiếp tục tham gia sản xuất các phim tài liệu đến năm 2010. Đoàn Quốc và vợ là họa sĩ Tạ Kim Dung, cùng kết hợp tổ chức và tham gia các triển lãm tranh do hai vợ chồng sáng tác, vào các năm 1991, 2006, 2007, 2010 và 2013. Đoàn Quốc được phong danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú năm 1997 và danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 2019. Gia đình.
Đoàn Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814403
Gia đình. Năm 1985, Đoàn Quốc tham gia sản xuất bộ phim "Thành phố có người", ông và bà Tạ Kim Dung - họa sĩ của bộ phim - sau này có tình cảm với nhau và tiến đến hôn nhân.
Park Ji-hyun (chính khách)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814409
Park Ji-hyun (; sinh năm 1996) là một nhà hoạt động chính trị người Hàn Quốc và là cựu đồng chủ tịch của Đảng Dân chủ Đồng hành (DPK), đảng đối lập chính. Vào năm 2019, cô đã giúp vạch trần một trong những đường dây tội phạm tình dục trực tuyến lớn nhất ở Hàn Quốc, được gọi là Sự kiện phòng thứ N. Tháng 3 năm 2022, cô được bổ nhiệm vai trò đồng chủ tịch tạm thời của Đảng Dân chủ Đồng hành ở tuổi 26, và từ chức vào tháng 6. Park có tên trong TIME100 Next, danh sách các nhà lãnh đạo mới nổi của tạp chí "Time", cũng như danh sách BBC 100 Women và Bloomberg 50 năm 2022, để ghi nhận đóng góp của cô trong việc chống tội phạm tình dục và đấu tranh cho bình đẳng giới trong chính trị. Team Flame. Năm 2018, Park Ji-hyun theo học báo chí tại Đại học Hallym và làm phóng viên thực tập, khi các cuộc biểu tình #MeToo diễn ra ở thủ đô Seoul, yêu cầu chính phủ có thêm biện pháp để ngăn chặn việc quay lén phụ nữ và trẻ em gái bất hợp pháp. Lấy cảm hứng từ các cuộc biểu tình, cô và người bạn cùng lớp Won Eun-ji đã lên kế hoạch gửi một bài báo đến cuộc thi báo chí sinh viên hàng năm của Ủy ban Thông tấn Hàn Quốc. Ban đầu họ dự định viết về "dịch bệnh " ở Hàn Quốc, nơi đàn ông quay lén phụ nữ và trẻ em gái mà không có sự đồng ý của họ. Vào tháng 7 năm 2019, Park và Won tiến hành thâm nhập vào phòng thứ N, một nhóm lạm dụng tình dục khét tiếng trên Telegram, với tên gọi "Team Flame". Làm việc với cảnh sát, quá trình điều tra của cả hai đã dẫn đến việc bắt giữ và kết án hai kẻ cầm đầu, họ phát hiện những đối tượng này đã tống tiền và ép buộc phụ nữ và trẻ em gái ở độ tuổi mười hai thực hiện các hành vi đồi bại, sau đó bán hình ảnh và video một cách phi pháp. Bài báo đầu tiên của họ đã thu hút sự chú ý của hai nhà báo của "The Hankyoreh", sau đó cộng tác với Park và Won để đăng một bài báo chuyên sâu vào tháng 11 năm 2019, đồng thời bảo vệ danh tính của họ. Những tên cầm đầu phòng thứ N tìm cách trả thù, và hai chương trình trên TV cuối cùng đã bắt được bài báo; trong khi đó, phụ nữ được huy động trên Twitter để vạch trần và công khai nhiều tội ác của chúng.
Park Ji-hyun (chính khách)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814409
Khi các chi tiết của vụ án căn phòng thứ N được phơi bày, hơn năm triệu người trên toàn quốc đã ký tên kiến nghị trừng phạt nghiêm khắc hơn và tiết lộ danh tính của thủ phạm. Đến cuối năm 2020, 3.757 người liên quan đến vụ án bị bắt giữ. Trong nhiều năm, Park được biết đến với biệt hiệu "Flame" và được phỏng vấn trong bộ phim tài liệu "Cyber Hell" của Netflix. Cô cũng biên soạn và xuất bản một cuốn hồi ký ẩn danh về việc vạch trần những kẻ đứng sau căn phòng thứ N. Sự nghiệp chính trị. Park gặp Lee Jae-myung khi ông còn là thống đốc tỉnh Gyeonggi thông qua ủng hộ hoạt động của cô. Thống đốc Lee đã tham dự sự kiện ra mắt vào tháng 6 năm 2020 tại trung tâm hỗ trợ nạn nhân tội phạm tình dục ở Gyeonggi-do. Danh tính của Park được tiết lộ vào đầu năm 2022, khi cô đồng ý giúp vận động cho Đảng Dân chủ Đồng hành (DPK) trước cuộc bầu cử quốc gia. Lee Jae-myung đang vận động tranh cử tổng thống, ông cam đoan với Park là sẽ trấn áp tội phạm tình dục trực tuyến và chống nạn phân biệt đối xử với phụ nữ tại nơi làm việc. Vào tháng 1 năm 2022, Park được bổ nhiệm làm phó chủ tịch ủy ban các vấn đề phụ nữ của DPK. Với vai trò là cố vấn đặc biệt cho chiến dịch tranh cử của Lee, cô đã huy động việc bỏ phiếu từ giới trẻ. Vào ngày 9 tháng 3 năm 2022, Lee thất cử trước Yoon Suk-yeol thuộc Đảng Sức mạnh Quốc dân với tỷ số suýt soát, ước tính 58% phụ nữ ở độ tuổi 20 bỏ phiếu cho Lee. Vào ngày 13 tháng 3 năm 2022, Park được bổ nhiệm làm đồng chủ tịch tạm thời của ủy ban khẩn cấp của DPK ở tuổi 26, sau khi các nhà lãnh đạo đảng trước đó từ chức sau thất bại trong cuộc bầu cử của họ. Sau cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 3, 11.000 thành viên mới đã gia nhập Đảng Dân chủ Đồng hành chỉ riêng ở Seoul, 80% trong số họ đều là nữ giới. Hy vọng với địa vị của Park khi là đồng chủ tịch sẽ giúp DPK củng cố vị trí dẫn đầu trong số các cử tri nữ trẻ tuổi, nhưng đảng này phải nhận kết quả thảm hại trong cuộc bầu cử địa phương vào tháng 6 năm 2016, mất đa số tại các cơ quan chính ở địa phương.
Park Ji-hyun (chính khách)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814409
DPK chỉ giành được 5 trong số 17 ghế thống đốc tỉnh và thị trưởng, so với 14 ghế nắm giữ trước đó, trong khi Đảng Sức mạnh Quốc dân giành được 12 trong số 17 vị trí. Park nhanh chóng từ chức cùng những nhà lãnh đạo đảng khác, đổ lỗi cho sự chống lại cải cách của đảng. Mặt khác, những người chỉ trích đổ lỗi cho Park vì thiếu kinh nghiệm, khi đã phơi bày đấu tranh nội bộ trong DPK, và bị phân tâm bởi các vấn đề liên quan đến quấy rối tình dục, thay vì tập trung vào các cuộc bầu cử địa phương. Cô gây ra sai lầm nghiêm trọng khi nhầm lẫn giữa Hải chiến Yeongpyeong năm 2002 với vụ đắm tàu ​​​​ROKS Cheonan năm 2010 và buộc xin lỗi công khai. Trong nhiệm kỳ ngắn ngủi với tư cách là đồng chủ tịch đảng, Park đã khai trừ Đại biểu Park Wan-joo khỏi đảng vì hành vi sai trái tình dục và đệ đơn khiếu nại chính thức đối với Đại biểu Choe Kang-wook lên ủy ban đạo đức của đảng, về một bình luận của ông được cho là đã nêu ra trong một hội nghị trực tuyến. "The Korea Times" trích dẫn: "Cô ấy là một trong những nhân vật lãnh đạo hiếm hoi trong đảng lên tiếng phản đối các vấn đề mà nhiều người cố tình làm ngơ, như tội phạm tình dục do nam giới nắm quyền gây ra, chính sách bất động sản thất bại của DPK và những tiếng nói cấp tiến cũng đã có nhiều ảnh hưởng đối với đảng." Vào tháng 7 năm 2022, DPK bác bỏ yêu cầu của Park về việc miễn trừ quy tắc yêu cầu các ứng cử viên lãnh đạo đảng phải là đảng viên ít nhất sáu tháng, khiến cô không thể ứng cử vào vị trí chủ tịch đảng tại hội nghị toàn quốc ngày 28 tháng 8. Park chính thức gia nhập với tư cách đảng viên vào ngày 14 tháng 2 năm 2022. Đời tư. Park Ji-hyun nguyên quán ở Wonju, tỉnh Gangwon, Hàn Quốc.
Lara Michel
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814418
Lara Michel (sinh ngày 24 tháng 12 năm 1991) là một nữ vận động viên quần vợt người Thụy Sĩ. Michel đã từng giành 6 danh hiệu đơn nữ và 2 danh hiệu đôi nữ tại ITF Circuit trong cả sự nghiệp của mình. Vào ngày 13 tháng 10 năm 2014, cô đạt được thứ 285 thế giới trong bảng xếp hạng ở nội dung đơn, thứ hạng cao nhất trong sự nghiệp của mình. Ngày 21 tháng 2 năm 2011, cô đạt vị trí thứ 440 trong bảng xếp hạng đôi. Michel ra mắt WTA Tour tại Internationaux de Strasbourg 2013, đánh cặp cùng với Claire Feuerstein ở nội dung đôi. Đời. Cô có mối quan hệ với Ferreira L. kể từ tháng 4 năm 2022.
Vincent Trọng Trí Guyenne
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814419
Vincent Trọng Trí Guyenne (sinh ngày 16 tháng 3 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá người Pháp – Việt Nam thi đấu ở vị trí tiền vệ hoặc tiền vệ cánh cho câu lạc bộ bóng đá Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài Pháp, anh còn thi đấu ở Áo, Úc, Việt Nam và Đức. Sự nghiệp. Trước mùa giải 2022, Guyenne ký hợp đồng với đội bóng hạng Nhất Việt Nam Phù Đổng Trước mùa giải 2023, anh ký hợp đồng với câu lạc bộ bóng đá Thành phố Hồ Chí Minh ở giải vô địch Quốc gia Việt Nam.. Vào ngày 3 tháng 2 năm 2023, anh ra mắt cho câu lạc bộ Thành phố Hồ Chí Minh trong trận thua 0–1 trước Thép Xanh Nam Định.
Charles III, Bá tước xứ Alençon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814424
Charles III của Alençon (1337 – 5 tháng 7 năm 1375) là một quý tộc người Pháp, thành viên thuộc Vương tộc Valois. Charles giữ tước hiệu Bá tước xứ Alençon và Perche từ năm 1346 đến năm 1361. Vào năm 1365, ông trở thành tu sĩ dòng Đa Minh, tổng giám mục của Lyon và giữ tước hiệu này cho đến khi qua đời. Thân thế. Charles III sinh ra là một "Prince du sang" của Pháp. Ông sinh vào năm 1337 và là con cháu thuộc Vương tộc Valois, một nhánh phụ của triều đại Capet. Charles là người con cả trong số 5 người con của Bá tước Charles II xứ Alençon và María de Lara. Cha ông là con trai thứ hai của Charles, Bá tước xứ Valois và là em trai của Philippe VI tương lai của Pháp. Mẹ của Charles là thành viên thuộc dòng dỗi Nhà Cerda, một gia đình quý tộc có nguồn gốc từ Tây Ban Nha. Quý bà, Nữ bá tước María de Lara đã nuôi dạy tất cả những người con của mình bằng tình thương yêu và dạy cho chúng về sự thiếu thảo, cũng chính điều này đã đặt nền tảng cho lòng mộ đạo của Charles sau này. Khi Charles II qua đời trong trận trong trận Crécy vào năm 1346. María là nhiếp chính cho con trai Charles III khi đó mới chín tuổi kế vị hai tước hiệu Bá tước Alençon và Perche, cai quản quận Alençon và Perche của Pháp. Lợi dụng tân vương trẻ tuổi là một thiếu niên, lãnh thổ Alençon và Perche thường xuyên bị người Anh xâm lược nhiều lần, gây thiệt hại nghiêm trọng. Lực lượng quân đội của Carlos II của Navarra, người cai trị Évreux lân cận, cũng cướp phá các vùng đất của bá tước trẻ tuổi. Vào năm 1356, quận Perche bị xâm lược sau trận đánh Poitiers. Trong trận này anh họ của Charles là Vua Jean II của Pháp bị bắt trong trận chiến; để đảm bảo cho sự an toàn của Jean II, em trai của Charles là Pierre đã buộc được gửi đến Anh làm con tin thay thế. Sự nghiệp giáo hội. Năm 1361, Charles từ bỏ quyền cai trị trên hai quận Alençon và Perche và sau đó quyết định trở thành tu sĩ của dòng Đa Minh. Ông chọn tu viện Couvent des Jacobins de la rue Saint-Jacques, tại thành Paris làm nơi tu dưỡng. Trước đó, em trai của ông, Philippe đã trở thành giám mục Beauvais vào năm 1356. Dưới sự chấp thuận của Jean II của Pháp, Nữ công tước María de Lara đã phân chia sự tiếp quản hai quân Alençon và Perche cho hai người con trai là Pierre và Robert. Vùng Alençon được giao cho Pierre và Robert là người tiếp quản vùng đất còn lại.
Charles III, Bá tước xứ Alençon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814424
Vào ngày 13 tháng 7 năm 1365, Charles được phong làm tổng giám mục của Lyon. Việc tấn phong này đã được của Vua Charles V yêu cầu. Giáo hội kiên quyết cho việc bầu chọn một tổng giám mục độc lập với nhà vua hoặc giáo hoàng đến mức họ phải bỏ phiếu ba vòng mới đồng ý về Charles. Đến năm 1366, Charles bảo trợ cho một nhóm học giả, trong đó có Nicholas de Mesereyo. Mặc dù là một giám mục. Nhưng Charles lại mang hình tượng hiếu chiến hơn, cũng như các tổng giám mục của Lyon đương thời khác, những người vốn có xuất thân từ các gia đình có quyền thế. Charles không ngần ngại sử dụng sự ảnh hưởng trước đó của mình để duy trì quyền lợi bao gồm các hành vi bạo lực. Các tổng giám mục khác của Lyon đều chỉ sản xuất một loại tiền ẩn danh, nhưng ngược lại, Charles đã công khai đúc những đồng xu có tên của ông (hay đúng hơn là chữ K viết tắt của "Karl" đã được Roma hóa). Ông đã làm như vậy vì tên của ông cũng trùng với vị vua trì vị vào thời điểm đó. Với tư cách là tổng giám mục, Charles đã chống lại sự xâm phạm của triều đình Pháp đối với các quyền của ông với tư cách là người đứng đầu xứ Gaul (primat des Gaules). Khi Archimbaud xứ Combort, cố gắng tước bỏ quyền lực thế tục của ông vào năm 1372, Charles đã đưa ra một sắc lệnh để đáp trả. Sắc lệnh này vẫn được duy trì cho đến khi Charles qua đời vào ngày 5 tháng 7 năm 1375. Người kế vị ông là Jean xứ Talaru, trở thành tổng giám mục tiếp theo của Lyon.
Jodie Burrage
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814436
Jodie Anna Burrage (sinh ngày 28 tháng 5 năm 1999) là một nữ vận động viên quần vợt người Anh Quốc. Cô có thứ hạng cao nhất ở nội dung đơn trên bảng xếp hạng WTA là thứ 94, đạt được vào ngày 31 tháng 8 năm 2023, và thứ hạng đôi cao nhất là thứ 329, đạt được vào ngày 12 tháng 7 năm 2021. Cô đã giành được 5 danh hiệu đơn và 5 danh hiệu đôi tại ITF Circuit. Đời tư. Burrage được sinh ra tại Kingston upon Thames và lớn lên ở Hindhead, Surrey. Cô đã giành được học bổng của Trường Talbot Heath ở Bournemouth, điều này giúp cô phát triển khả năng của mình trong bộ môn quần vợt tại West Hants Club. Sau khi hoàn thành kỳ thi GCSE, Burrage chuyển đến Trung tâm Huấn luyện quần vợt trẻ em (JTC) ở Chiswick, Luân Đôn, nơi cô được hướng dẫn bởi các cựu chuyên gia Colin Beecher và Lucie Ahl. Sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp. 2020–2021: WTA Tour và ra mắt Grand Slam. Burrage ra mắt nhánh đấu chính WTA Tour tại Linz Open 2020, sau khi nhận được ký tự đại diện tham gia giải đấu đôi, đánh cặp với Sabine Lisicki. Vào tháng 1 năm 2021, cô ra mắt nhánh đấu chính WTA Tour ở nội dung đánh đơn tại Abu Dhabi Open như một người thua cuộc may mắn. Vào tháng 6, cô đã có trận ra mắt Grand Slam, sau khi được trao một ký tự đại diện cho Giải quần vợt Wimbledon 2021. 2022: Chiến thắng top 5 đầu tiên, ra mắt top 150. Tại Eastbourne International, cô đã đánh bại hạt giống hàng đầu và số 4 thế giới, Paula Badosa. Kết quả là Burrage đã lọt vào top 150, ở vị trí thứ 141 thế giới trong bảng xếp hạng đơn WTA. Vào ngày 26 tháng 9, cô đạt thứ hạng cao nhất trong sự nghiệp là thứ 137. 2023: Trận chung kết WTA đầu tiên và chiến thắng lớn, top 100. Tại Nottingham Open, cô ấy lọt vào tứ kết WTA Tour đầu tiên sau khi đánh bại hạt giống số ba Magda Linette. Cô tiếp tục đánh bại một vận động viên Ba Lan khác, Magdalena Fręch để lọt vào bán kết WTA lần đầu tiên trong sự nghiệp. Cuối cùng, cô đánh bại Alizé Cornet để thiết lập một trận chung kết toàn Anh đầu tiên kể từ năm 1977 với Katie Boulter. Tại Wimbledon, cô giành chiến thắng đầu tiên khi đánh bại Caty McNally, trước khi thua Daria Kasatkina ở vòng hai, trong các set liên tiếp. Kết quả là cô đã lọt vào top 100 trong bảng xếp hạng.
Jodie Burrage
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814436
Sau Wimbledon, Burrage đấu tranh để đạt được sự ổn định. Sau khi lọt vào tứ kết tại một sự kiện trị giá 100 nghìn đô la ở Tây Ban Nha, cô đã thắng một vòng ở WTA Ba Lan mở rộng trước Ankita Raina, nhưng thua trong các set liên tiếp trước Lucrezia Stefanini. Cô đã thua ở vòng 1 của Giải quần vợt Canada Mở rộng trước tay vợt số 139 thế giới Marina Bassols Ribera, trước khi vào tứ kết trong sự kiện cấp độ thách thức Stanford WTA, đánh bại Diana Shnaider và Kayla Day, trước khi thua sít sao ba set trước Moyuka Uchijima. Tại Chicago Women's Open, cô lại thua ở vòng đầu tiên xuống vị trí số 782 thế giới Quinn Gleason. Burrage giành được chiến thắng đầu tiên tại US Open, đánh bại tay vợt số 38 thế giới Anna Blinkova 6-3, 6-4 ở vòng đầu tiên, trước khi thua với tay vợt số 2 thế giới Aryna Sabalenka. Tài trợ. Jodie Burrage được tài trợ bởi Midstream Lighting dưới hình thức một chiếc xe điện và Komodo Fashion. Thống kê sự nghiệp. "Chỉ những kết quả bốc thăm nhánh chính trong WTA Tour, các giải Grand Slam, Fed Cup/Billie Jean King Cup và Thế vận hội Olympic mới được tính vào thành tích thắng-thua." Đơn. "Tính đến Wimbledon 2023." Đôi. "Tính đến Giải quần vợt Wimbledon 2023."
Lutjanus maxweberi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814437
Lutjanus maxweberi là một loài cá biển thuộc chi "Lutjanus" trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1921. Từ nguyên. Từ định danh "maxweberi" được đặt theo tên của Max Carl Wilhelm Weber, người Hà Lan gốc Đức, thủ lĩnh của đoàn thám hiểm Siboga (1898–1899) tới Indonesia, cũng là lúc mẫu định danh của loài cá này được thu thập. Phân bố và môi trường sống. "L. maxweberi" chỉ được mô tả dựa trên mẫu vật là cá con, cho đến nay vẫn chưa rõ con trưởng thành của loài này. Hiện loài này được ghi nhận tại Philippines, vùng Tây Papua và đảo Sulawesi (Indonesia), Papua New Guinea và quần đảo Solomon. "L. maxweberi" chỉ được nhìn thấy ở vùng nước ngọt và nước lợ (cửa sông và rừng ngập mặn), độ sâu khoảng 4 m. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. maxweberi" là 25 cm. Cá con màu trắng với 4 sọc nâu đen ở hai bên lườn, những cá thể hơi lớn hơn chuyển nâu nhạt ngoại trừ bụng màu trắng. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 13; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 16. Sinh thái. "L. maxweberi" dường như đặc biệt phổ biến ở vùng nước bị đổi màu do tanin. Thức ăn của chúng bao gồm cua (họ Ba khía và cua ẩn sĩ) và côn trùng.
Alina Korneeva
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814457
Alina Aleksandrovna Korneeva (, sinh ngày 23 tháng 6 năm 2007) là một vận động viên quần vợt người Nga. Vào năm 2023, cô giành hai danh hiệu đơn nữ trẻ Grand Slam, Giải quần vợt Úc Mở rộng và Giải quần vợt Pháp Mở rộng. Sự nghiệp. 2021. Korneeva kết thúc với vị trí á quân tại nội dung đơn nữ trẻ Giải vô địch châu Âu dưới 14 tuổi trước tay vợt người Cộng hòa Séc Tereza Valentova. 2022. Ở cấp độ trẻ, Korneeva giành tổng cộng sáu danh hiệu đơn vào năm 2022, nhiều danh hiệu đơn nhất ở quần vợt nữ trẻ năm đó. Korneeva giành danh hiệu $15k đầu tiên ở Casablanca vào tháng 9, đánh bại Laura Hietaranta trong trận chung kết. 2023. Trong lần đầu tham dự Grand Slam trẻ, Korneeva có thành công tại Giải quần vợt Úc Mở rộng 2023 khi vào vòng bán kết nội dung đôi nữ trẻ với Mirra Andreeva và đánh bại Andreeva sau ba set trong trận chung kết đơn nữ trẻ. Trước trận chung kết, Andreeva nói "Cô ấy là một người bạn thực sự tốt của tôi, người bạn thân của tôi." Sau trận đấu, Korneeva nói với cô trên sân "Đây không phải là trận đấu cuối cùng của chúng ta. Chúng ta sẽ có rất nhiều trận đấu hay khi bạn thắng, khi tôi thắng...đó là một trận đấu khó khăn." Trước đó, ở vòng tứ kết nội dung đơn nữ trẻ, Korneeva đã đánh bại hạt giống 2 Tereza Valentova. Vào tháng 3 năm 2023, Korneeva vô địch giải $60k ở Pretoria, đánh bại Tímea Babos trong trận chung kết sau hai set 6–3 7–6. Ở tuổi 15, 8 tháng và 18 ngày, Korneeva trở thành tay vợt trẻ thứ năm trong lịch sử vô địch một giải đấu ITF ở cấp độ $60k trở lên. Vào tháng 6 năm 2023, Korneeva giành danh hiệu Grand Slam trẻ thứ 2, đánh bại Lucciana Perez Alarcon trong trận chung kết nội dung đơn nữ trẻ Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2023 sau hai set 7–6 6–3. Cùng với Sara Saito, Korneeva cũng vào trận chung kết ở nội dung đôi nữ trẻ. Cuộc sống cá nhân. Sinh ra ở Moscow, Korneeva thỉnh thoảng đi tour cùng mẹ. Korneeva được đặt biệt danh là "tiểu Sharapova". Cô cũng tập luyện ở Moscow.
Liv Hovde
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814461
Liv Hovde (sinh ngày 25 tháng 10 năm 2005) là một vận động viên quần vợt người Mỹ. Ở cấp độ trẻ, Hovde có thứ hạng ITF cao nhất là vị trí số 3, đạt được vào ngày 28 tháng 11 năm 2022. Cô vào vòng bán kết đơn nữ trẻ Giải quần vợt Úc Mở rộng 2022, tứ kết đơn nữ trẻ Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2022 và là nhà vô địch đơn nữ trẻ Wimbledon 2022.
Câu lạc bộ bóng đá Hà Nội mùa bóng 2023–24
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814464
Mùa bóng 2023–24 là mùa giải thứ 19 trong lịch sử của câu lạc bộ bóng đá Hà Nội (Hà Nội FC) và là mùa thứ 16 liên tiếp đội bóng thi đấu tại V.League 1, giải bóng đá cấp độ cao nhất trong hệ thống giải đấu của bóng đá Việt Nam. Ngoài ra, đội cũng sẽ thi đấu tại AFC Champions League 2023–24 từ vòng bảng. AFC Champions League. Đây là mùa giải đầu tiên trong lịch sử Hà Nội FC mà được họ tham dự AFC Champions League từ vòng bảng. Lễ bốc thăm chia bảng sẽ diễn vào ngày 24 tháng 8 năm 2023. Ngày 18 tháng 5, Hà Nội FC thông báo về việc họ sẽ sử dụng Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình làm sân nhà cho các trận đấu trong khuôn khổ AFC Champions League 2023–24.
Thân vương quốc Turov
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814478
Thân vương quốc Turov, còn gọi là Thân vương quốc Turov và Pinsk (, , ) hoặc Rus' Turov, là một thân vương quốc Đông Slav thời trung cổ và một phân vùng quan trọng của Kiev Rus' từ thế kỷ 10 trên lãnh thổ của miền nam Belarus và miền bắc Ukraina hiện nay. Các thân vương của Turov thường sẽ giữ vai trò Đại vương công của Rus đầu thế kỷ 10-11. Thủ đô của thân vương quốc là Turov (nay được gọi là Turaŭ) và các thành phố quan trọng khác là Pinsk, Mazyr, Slutsk, Lutsk, Berestia, và Volodymyr. Cho đến thế kỷ 12, thân vương quốc này có mối quan hệ rất mật thiết với các thân vương quốc Kiev và Volyn. Sau đó trong một thời gian ngắn cho đến khi Mông Cổ xâm lược, Turov được hưởng quyền tự trị rộng rãi khi được sáp nhập vào Vương quốc Galicia–Volyn. Vào thế kỷ 14, khu vực trở thành một phần của Đại công quốc Litva, Ruthenia và Samogitia. Lịch sử. Thân vương quốc Turov có nguồn gốc chủ yếu từ bộ lạc Dregovich và một phần bộ lạc Drevlia. Mặc dù hoàn cảnh thành lập không được biết rõ ràng, nhưng Thân vương quốc theo như được đề cập trong "Biên niên sử chính yếu" thì đã tồn tại vào năm 980. Theo truyền thuyết, thị trấn Turaŭ được thành lập vào khoảng năm 950 (lần đầu tiên được đề cập vào năm 980) bởi Thân vương Varangia Tur, anh trai của Rogvolod (thân vương đầu tiên của Polatsk trong biên niên sử). Trong thời kỳ của Vladimir Vĩ đại (980-1015), thành phố Turov và vùng lân cận trở thành một phần của Kiev Rus'. Khoảng năm 988, Vladimir bổ nhiệm con trai 8 tuổi của mình là Sviatopolk làm knyaz của Turov . Sau đó, Vladimir bỏ tù Sviatopolk vì âm mưu nổi loạn. Không lâu trước khi Vladimir qua đời, Sviatopolk được trả tự do và sau cái chết của Vladimir, ông giữ hiệu Đại vương công của Rus. Izyaslavichi. Trong một loạt ba trận chiến trong khoảng thời gian 1016-1018, Yaroslav Thông thái lật đổ em trai mình Svyatopolk, và trở thành Đại vương công của Kiev Rus'. Khoảng năm 1042 hoặc 1043, Yaroslav để con trai cả Izyaslav của mình kết hôn với em gái của Quốc vương Ba Lan Kazimierz I và bổ nhiệm Izyaslav làm knyaz của Turov và Pinsk. Năm 1054, Izyaslav trở thành Đại vương công Rus, có một triều đại đầy biến động. Năm 1078 sau cái chết của Izyaslav, em trai của Isyaslav là Vsevolod làm Đại vương công mới.
Thân vương quốc Turov
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814478
Ông bổ nhiệm con trai cả của Izyaslav là Yaropolk Izyaslavich làm knyaz của cả Volyn và Turov. Năm 1084, những người cai trị Galicia (Halychyna) láng giềng là "Rostislavichi" cố gắng chiếm một phần lãnh địa của Yaropolk. Tuy nhiên, Yaropolk và con trai của Vsevolod là Vladimir Monomakh đánh bại quân xâm lược. Yaropolk nổi dậy trong một thời gian ngắn chống lại Đại vương công Vsevolod, nhưng được phục vị và bị sát hại vào năm 1087 (có thể là do người Rostislavichi). Phản đối Vladimir Monomakh. Thân vương quốc Turov được chuyển cho em trai ông là Sviatopolk II, người từng quản lý vùng đất Novgorod. Khi Sviatopolk trở thành Đại vương công của Rus, ông đã truyền lại thân vương quốc Turov cho cháu trai mình là con trai của Yaropolk Vyacheslav. Sau đó, Svyatopolk đã trao Volodymyr-Volynskyi và Brest lần lượt cho các con trai của ông là Yaroslav và Mstislav. Đại vương công Svyatopolk cũng cố gắng chinh phục Rostislvichi nổi loạn, những người tự lập vững mạnh tại vùng đất Halych. Tuy nhiên, những nỗ lực của anh ấy khá thất bại. Năm 1100, Thân vương quốc Turov được chuyển giao cho Yaroslav Svyatopolkovich, người này cai trị cả hai vùng đất Turov và Volyn. Trong một cuộc xung đột khác giữa Thân vương Turov và Đại vương công Rus đã khiến lãnh địa của Yaroslav bị diệt trừ vào năm 1118. Vùng đất Turov sau đó được chuyển cho một người con trai khác của Svyatopolk Bryachislav, trong khi Volyn được trao cho một con trai của Vladimir Monomakh Roman. Hội đồng Liubech năm 1097 đã sửa đổi hệ thống rota để cho Thân vương quốc trở thành vùng đất gia sản. Khôi phục. Sau cái chết của Bryachislav Vladimir, Monomakh đã trao thân vương quốc Turov cho Vyacheslav của mình, người này giữ lãnh địa cho đến giữa thế kỷ 12. Vào khoảng những năm 1150, Turov thuộc về các hậu duệ của Yuri Dolgoruki Andrei và Boris. Cuối cùng vào năm 1162, Thân vương quốc được Yuri Dolgoruki trao lại cho một trong những hậu duệ của Izyaslav là Yury Yaroslavich, cháu trai của Svyatopolk II của Kiev, người này đã giành được độc lập hoàn toàn từ Kiev Rus'. Tuy nhiên, cùng lúc đó Thân vương quốc ngày càng bị chia rẽ giữa nhiều người con trai của Yury. Thân vương quốc Pinsk bán độc lập được thành lập. Cùng với Thân vương quốc Smolensk, quân đội Turau đã tham gia Trận sông Kalka năm 1223. Suy sụp.
Thân vương quốc Turov
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814478
Suy sụp. Vào đầu thế kỷ 13, Thân vương quốc Turov trở thành lãnh địa phụ thuộc của Vương quốc Galicia–Volyn. Để giải phóng bản thân, các thân vương của Turov ngày càng hợp tác nhiều hơn với Đại công quốc Litva. Vào đầu thế kỷ 14, Thân vương quốc gia nhập Đại công quốc Litva một cách phi bạo lực. Vào thời điểm đó con trai của Gediminas là Hleb Narymunt đã là người cai trị Pinsk, trong khi Turov và Haradok vẫn do dòng Rurik cai trị. Sau đó, lãnh thổ của Thân vương quốc trở thành một phần của các tỉnh Brest Litovsk, Nowogródek và Minsk.
Danh sách trường trung học phổ thông tại Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814479
Bài viết này chứa các liên kết đến danh sách trường trung học phổ thông theo từng đơn vị hành chính của Việt Nam.
Seven (bài hát của Jungkook)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814501
"Seven" là một bài hát của nam ca sĩ người Hàn Quốc Jungkook từ nhóm nhạc BTS kết hợp với nữ rapper người Mỹ Latto, được phát hành bởi Big Hit Music dưới dạng đĩa đơn đầu tay của Jungkook vào ngày 14 tháng 7 năm 2023. Ca khúc do Andrew Watt, Cirkut, Jon Bellion, Alyssa Stephens và Theron Thomas sáng tác và chịu trách nhiệm sản xuất bởi Watt và Cirkut. Jungkook cũng phát hành thêm một phiên bản Explicit của bài hát vào cùng ngày hôm đó. Là một ca khúc nhạc pop mang âm hưởng từ thể loại UK garage, "Seven" kể về mong muốn của một người muốn dành toàn bộ thời gian cho người mà mình yêu. Cấu trúc. Andrew Watt và Henry Walter chịu trách nhiệm sản xuất cho ca khúc, cả hai cũng đều đồng sáng tác với Jon Bellion, Latto và Theron Thomas. Là một ca khúc nhạc pop với các ảnh hưởng từ dòng nhạc UK garage. Bài hát mở đầu với một khúc nhạc dạo và âm thanh của tiếng acoustic "nhẹ nhàng đầy mê hoặc", kế tiếp đó là một loạt những nhịp điệu bộ gõ bị đảo lộn không đồng đều. Với âm thanh và giai điệu đầy hấp dẫn, Rhian Daly từ tạp chí "NME" đã gọi ca khúc là một "bài hát mùa hè tiếp thêm sinh lực" cho mọi người. Về mặt ca từ, "Seven" mang phong cách trường ca với chủ đề lãng mạn, kể về ham muốn của một người muốn dành mọi khoảnh khắc mỗi ngày cho người yêu của mình. Trong bản explicit, lời ca của bài hát càng thể hiện tính chất ham muốn tình dục nhiều hơn. Đón nhận. Rhian Daly từ tạp chí "NME" đã chấm cho "Seven" 4 trên 5 sao và ca ngợi "quãng giọng nam trung" đặc trưng và kỹ thuật "giọng giả thanh" của Jungkook, cô cũng nhận định rằng bài hát "đã đặt tiêu chuẩn cao" cho thời đại solo của Jungkook. Video âm nhạc. Video âm nhạc của "Seven" được đạo diễn bởi Bradley và Pablo. Được phát hành vào cùng ngày với bài hát, video có sự tham gia của nữ diễn viên người Hàn Quốc Han So-hee trong vai bạn gái của Jungkook. Nội dung. Video được mở đầu với cảnh cả hai đang cãi nhau tại một nhà hàng, rồi sau đó là trong tiệm giặt đồ rồi trên đường phố vào ban đêm trong một cơn bão. Trong suốt nửa đoạn video đầu tiên, Jungkook đang cố gắng lấy lại tình cảm của cô bạn gái theo phong cách hài hước.
Seven (bài hát của Jungkook)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814501
Được biểu hiện như Jungkook treo người lên cửa sổ của một con tàu mà cô đang đi và bị một chiếc ô tô đâm khi đang tặng hoa cho cô rồi lại sống lại một cách thần kỳ trong đám tang của chính mình. Latto trình diễn câu hát của cô trên đỉnh quan tài của Jungkook. Ở cuối video, cô bạn gái nắm lấy tay của Jungkook và cả hai đều cùng nhau chạy bộ dưới cơn mưa. Diễn biến thương mại. Sau khi phát hành, "Seven" nhanh chóng đứng đầu Bảng xếp hạng Spotify Top 50 toàn cầu với hơn 15 triệu lượt phát trực tuyến, trở thành ca khúc hợp tác của một nghệ sĩ nam có nhiều lượt phát trực tuyến nhất trong ngày đầu tiên phát hành. Ngoài ra, ca khúc cũng giúp Jungkook trở thành nghệ sĩ K-pop đầu tiên đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Spotify Hoa Kỳ và cũng là nghệ sĩ solo Hàn Quốc đầu tiên ra mắt ở vị trí quán quân trên toàn cầu. Biểu diễn trực tiếp. Vào ngày 14 tháng 7 năm 2023, Jungkook đã biểu diễn trực tiếp ca khúc lần đầu tiên cùng với bài "Euphoria" và "Dynamite" tại Công viên Trung tâm như một phần của loạt chương trình Summer Concert của "Good Morning America".
Kanta-Häme
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814504
Kanta-Häme () là một vùng thuộc miền nam Phần Lan, thủ phủ đặt tại thành phố Hämeenlinna – trung tâm đô thị lớn nhất của vùng. Năm 2023, vùng có dân số là 169.333 người – đứng thứ 13 ở Phần Lan và có điện tích đất liền là 5.199,15 km² (2021). Bên cạnh thủ phủ Hämeenlinna, vùng còn có 2 trung tâm đô thị khác là thành phố Forssa và thành phố Riihimäki. Vùng Bắc Savo tiếp giáp với:
Lê Nhật Lệ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814507
Lê Nhật Lệ (黎日厲) là phi tần của hoàng đế Lê Thái Tông. Bà là con của Lê Ngân – công thần khai quốc nhà Lê sơ. Cuộc đời. Lê Nhật Lệ là con gái của Lê Ngân, người có nhiều công lớn trong khởi nghĩa Lam Sơn. Sau khi nhà Hậu Lê được thành lập, cùng với việc thăng quan tiến chức của Lê Ngân, Lê Nhật Lệ cũng được vua Lê Thái Tông thăng làm Chiêu nghi. Tháng 7 năm 1437, Lê Thái Tông ra chiếu kết tội Lê Sát và những người cùng cánh, lệnh phế truất con gái Lê Sát là Nguyên phi Lê Ngọc Dao làm dân thường, phong Chiêu nghi Lê Nhật Lệ làm Huệ phi. Trừ được Lê Sát, Thái Tông càng khắt khe trong số các công thần, trong tâm có ý trừ Tư khấu Lê Ngân, Lê Nhật Lệ tuy được phong làm Huệ phi (惠妃) nhưng không được sủng hạnh.Tháng 11 năm 1437, có người cáo giác Đại đô đốc Lê Ngân thờ Phật Quan Âm trong nhà để cầu mong cho con gái Huệ phi được vua yêu. Vua ngự ra ở cửa Đông thành, sai Thái giám Đỗ Khuyển dẫn 50 võ sĩ lục soát nhà Lê Ngân, bắt được tượng Phật và các thứ vàng bạc, tơ lụa. Ngày hôm sau, Lê Ngân vào chầu, bỏ mũ ra để tạ tội, tâu rằng: "Trước kia thần theo khởi nghĩa ở Lam Kinh, nay thần cũng nhiều bệnh, thầy bói bảo là trong chỗ nhà thần ở, trước đây có miếu thờ Phật, vì để ô uế, nên xảy ra tai họa. Cho nên thần làm lại để thờ cúng. Nhưng vì người vợ lẽ đã bị bỏ của thần là Nguyễn thị và người vợ lẽ của Lê Sát là Trần thị đã ban cho thần, cả hai đứa đều thù oán thần, cùng với đứa gia nô điêu ngoa của thần thêu dệt bày đặt cho ra chuyện đó. Tiên đế biết rõ lòng thần, thường vẫn ưu ái bao dung. Nay gân sức của thần đã mỏi mệt lắm rồi, xin cho được về quê để sống hết tuổi tàn còn lại. Nếu nghe những người xung quanh mà tra tấn người nhà của thần, khi bị đánh đau quá, nhất định chúng sẽ khai khác đi, thì thân thần sợ không giữ được, xin bệ hạ nghĩ lại cho." Vua không nghe, vẫn sai tra khảo nô tì trong nhà ông, rồi bắt ông tự chết ở nhà, tịch thu gia sản, giáng Huệ phi Nhật Lệ làm Tu dung. Lê Ngân đành phải tự kết liễu cuộc đời bằng cách treo cổ.
Một cõi tâm linh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814508
Một cõi tâm linh (tiếng Anh: "A spiritual world" hay "Tolerance for the dead") là một bộ phim tài liệu sản xuất theo đơn đặt hàng của do Trần Văn Thủy biên kịch và đạo diễn. Phim hoàn thành và công chiếu lần đầu vào năm 1993. Nội dung. Bộ phim sưu tập, bàn bạc những câu chuyện về tâm linh, thờ cúng của người Việt Nam và sự đồng cảm của dân chúng Việt Nam với những người Mỹ có người thân qua đời trong chiến tranh. Sản xuất và công chiếu. Sau thành công gây tiếng vang với phim tài liệu "Chuyện tử tế" (1985), Trần Văn Thủy đã được các hãng phim, đài truyền hình quốc tế mời làm phim. Bộ phim đầu tiên ông làm theo đơn đặt hàng là "Một cõi tâm linh" theo lời mời từ đài (Anh). Từ năm 1992, ông đã bay sang Luân Đôn để bàn bạc việc làm phim. Khi trở về nước, ông tiếp tục giữ liên lạc với nhà đài thông qua đạo diễn người Anh Neil Gibson. Tuy nhiên do ông Gibson bị đột tử trong khách sạn nên bức văn thư gửi cho Trần Văn Thủy đã không đến được tay người nhận và bị công an Việt Nam thu giữ. Đạo diễn Rod Stoneman của Channel 4 sau đó đã viết thẳng một bức thư gửi cho nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt để chuyển lá thư bị lưu giữ trên cho Trần Văn Thủy về việc làm phim. Vào ngày 27 tháng 1 năm 1992, Trần Văn Thủy được gọi lên Hội Điện ảnh Việt Nam để nhận bức thư với lời nhắn: "Làm hay không làm là tùy đạo diễn, đừng để họ nghĩ là nhà nước cấm cản". Sau sự kiện này, ông đã không gặp phải bất cứ trở ngại nào với việc làm phim hợp tác với nước ngoài cả dự án này lẫn các dự án khác. Trần Văn Thủy là đạo diễn kiêm tác giả kịch bản phim, còn quay phim là Đỗ Khánh Tuấn và Nguyễn Thước. Ông đã có được sự hỗ trợ từ nhiều người suốt quá trình thực hiện bộ phim, trong số đó có Trịnh Công Sơn, em gái nhạc sĩ là Trịnh Vĩnh Thúy và nhà văn Tô Nhuận Vỹ. Ngoài các trường đoạn quay trong Sài Gòn, Huế, đoàn phim cũng di chuyển tới các nước Pháp, Đức, Ý, Anh, Mỹ để quay phần mộ của những nhân vật nổi tiếng như Karl Marx, Frédéric Chopin, Victor Noir... Bộ phim với thời lượng dài 46 phút đã được hoàn thành vào năm 1993 và phát trên sóng truyền hình Anh cùng năm.
Thân vương quốc Volyn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814510
Thân vương quốc Volyn là một thân vương quốc ở phần phía tây của Kiev Rus', do vương triều Rurik thành lập vào năm 987 với trung tâm là khu vực Volyn, nằm trên biên giới của Ukraina, Belarus và Ba Lan ngày nay. Từ năm 1069 đến năm 1118, lãnh địa thuộc về nhánh Izyaslav, họ chủ yếu cai trị từ Turov. Sau khi mất Turov vào tay nhánh Monomakhov vào năm 1105, hậu duệ của Iziaslav Yaroslavovich tiếp tục cai trị Volyn trong vài năm. Từ năm 1154 đến năm 1199, lãnh địa được gọi là Thân vương quốc Volodymyr khi Thân vương quốc Lutsk (1154–1228) được tách ra. Lãnh thổ. Thân vương quốc nắm giữ các vùng đất của khu vực lịch sử Volyn, và có nguồn gốc tên gọi từ đó. Thủ đô của thân vương quốc cũng như thành phố lớn nhất và quan trọng nhất của khu vực là Volodymyr. Các thành phố đáng chú ý khác trong thân vương quốc bao gồm Kremenets, Lutsk, Busk, Dorogobuzh, Brest, Belz, DuBetz và Shumsk. Lịch sử. Thân vương quốc Volyn cùng với nhà nước anh em là Thân vương quốc Halych được thành lập bởi các con trai của triều đại Rurik cầm quyền ở Kiev. Sau khi Kiev Rus' chia cắt, thân vương quốc giành được quyền tự trị vào năm 1154. Sau cái chết của Thân vương Halych Volodymyr Yaroslavovych vào năm 1199, dòng Halych của triều đại Rurik đã tuyệt tự và Thân vương Volyn là Roman Vĩ đại sáp nhập thân vương quốc, chuyển trụ sở của mình đến thành phố Halych cũ và thành lập Vương quốc Galicia-Volyn thống nhất.
Lê Văn Duy
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814511
Dương Ngọc Chúc bút danh Lê Văn Duy hay Lê Hằng là nhà văn, đạo diễn, biên kịch điện ảnh Việt Nam. Ông được biết đến qua các phim "Viên ngọc Côn Sơn, Nàng Hương, Phượng." Tiểu sử. Dương Ngọc Chúc sinh ngày 15 tháng 9 năm 1942 tại Thị Nghè, Sài Gòn (trên giấy tờ là tại Long An), bố ông là nhà giáo Dương Văn Diêu và mẹ là Lê Thu Hằng. Ông Chúc là con thứ tư trong gia đình, còn có anh trai là nhà văn Dương Ngọc Huy và em gái là nhà biên kịch Dương Cẩm Thúy. Sự nghiệp. Sau khi cụ Dương Văn Diêu tập kết ra Bắc, ông Chúc và anh trai, Dương Ngọc Huy được mẹ đưa về Long An quê nội, rồi về quê ngoại tại An Giang sinh sống và học tập. Anh em ông trở về Sài Gòn khi lên đại học, sau này đều là sinh viên thoát ly theo Cách mạng, lên vùng rừng Miền Đông, công tác ở Tiểu ban Giáo dục thuộc Ban Tuyên Huấn R, Tây Ninh. Hai anh em lấy họ "Lê" của mẹ để sử dung làm bí danh và bút danh sau này. Năm 1962, Tiểu ban Giáo dục do ông Dương Văn Diêu làm Trưởng tiểu ban mở trường Giáo dục Tháng Tám, Cà Mau, ông chuyển đến học tại đây. Ban đầu Dương Ngọc Chúc lấy bí danh là Lê Hằng, ông từng học cùng với Trương Vĩnh Trọng, sau khi kết thúc khóa học ông Chúc đổi bí danh thành Lê Văn Duy. Dương Ngọc Chúc từng là phóng viên chiến trường, quay các phóng sự và phim tài liệu, ông từng tham gia Chiến dịch Mậu Thân. Dương Ngọc Chúc là người đầu tiên và cuối cùng ghi lại chân dung nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, từ sau ngày thống nhất đất nước đến khu vị nhạc sĩ qua đời. Ông cũng sở hữu những phim tài liệu chân dung và phỏng vấn về các ván nghệ sĩ trong nước. Dương Ngọc Chúc từng giữ vị trí Giám đốc Hãng phim Nguyễn Đình Chiểu và Tổng thư ký Hội Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi về hưu, Lê Văn Duy lại chuyển sang nhiếp ảnh gần như chuyên nghiệp. Năm 2019, Dương Ngọc Chúc được nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú. Tác phẩm. Sự kiện. 72 mùa xuân - Một đời phim và văn Tác phẩm khác. Một bài thơ của ông được lấy cảm hứng cho ca khúc "Xin làm người hát rong" của Trần Long Ẩn
Bigoli
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814512
Bigoli (tiếng Veneto: "bìgołi") là một loại pasta ở dạng sợi dài và dày. Ban đầu, bigoli được làm bằng bột kiều mạch, nhưng hiện nay thường được làm bằng bột mì nguyên chất, và đôi khi còn bao gồm cả trứng vịt. Sau đó, quá trình chuẩn bị được đùn qua một "bigolaro", từ đó món mì này có tên như vậy. Bigoli là một thuật ngữ được sử dụng ở Veneto; một loại pasta tương tự được gọi là Pici được sản xuất tại Toscana. Lịch sử. Có nhiều phiên bản khác nhau về nguồn gốc của bigoli. Họ chỉ đồng ý rằng họ có nguồn gốc từ khu vực ngày nay là vùng Veneto. Một giả thuyết cho rằng, nguồn gốc của nó có từ thế kỷ 14 trong Chiến tranh Veneto-Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi người Thổ Nhĩ Kỳ đánh chìm nhiều con tàu của Veneto chở đầy durum, phần bột còn lại được kéo căng bằng bột mì được làm từ lúa mì thông dụng. Hỗn hợp mới được sử dụng cho bột nhào, tạo thành một sợi mì spaghetto lớn và được gọi là bigolo. Năm 1604, một người sản xuất pasta đến từ Padua có tên là Bartolomio Veronese, được biết đến là Abbondanza, được cấp bằng sáng chế cho máy ép để làm bigoli. Đây là một thành công thực sự của bigoli. Theo một phiên bản khác, bigoli là kết quả của sự phát triển hơn nữa của một loại mì ống đã phổ biến ở vùng Đông Bắc Ý. Chúng được nhắc đến lần đầu tiên với cái tên bigoli vào thế kỷ 15, tại tòa án của Giám mục Eraclea.
Ryona
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814528
là từ tiếng Nhật dùng để chỉ một kiểu sùng bái tình dục trong hentai mà nhân vật chính, thường là nữ giới, phải chịu đựng sự lạm dụng về thể chất hoặc tâm lý từ một kẻ phạm tội thường là nam giới. Thuật ngữ này chủ yếu được sử dụng liên quan đến văn hóa Nhật Bản, dù bản thân chủ đề này cũng hiện diện ở nhiều nền văn hóa khác nhau. Thuật ngữ "ryona" hầu như chỉ đề cập đến hành động của người phụ nữ bị một gã đàn ông lạm dụng. Trong trường hợp mục tiêu là nam giới thì thường gọi là . Thể loại này chỉ tập trung vào các nhân vật hư cấu trong những tình huống kiểu như vậy. Trong một số trường hợp, thủ phạm có thể là quái vật hoặc sinh vật không phải con người. Thuật ngữ này trái ngược với bạo dâm tình dục và khiêu dâm cưỡng hiếp, mà qua đó "ryona" thuộc vào thể loại sùng bái tưởng tượng theo kiểu thị dâm, một tiểu thể loại lãng mạn hóa nhằm vào đối tượng nhân khẩu học là nữ và hầu như luôn có bản chất tình dục không rõ ràng.
Ga Uiwang
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814532
Ga Uiwang (Tiếng Hàn: 의왕역, Hanja: 義王驛) ga đường sắt trên Tuyến Gyeongbu và Tuyến cơ sở vận chuyển hàng hóa Nambu ở Sam-dong, Uiwang-si, Gyeonggi-do. Hoạt động kinh doanh chính của công ty là xử lý hành khách cho các chuyến tàu chở hàng và Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1. Lịch sử. Ga Uiwang mở cửa vào ngày 1 tháng 5 năm 1944, dưới tên Ga Bugok (부곡역/富谷驛), một cái tên lấy từ "dong" mà nó tọa lạc. Các chuyến tàu trên Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul bắt đầu ghé ga vào ngày 15 tháng 8 năm 1974. Nhà ga hiện tại được hoàn thành vào ngày 17 tháng 2 năm 2002. Ngày 25 tháng 6 năm 2004, nhà ga đổi tên thành Uiwang và gần ba năm sau, vào ngày 20 tháng 2 năm 2007, tên Hanja đổi từ 儀旺驛 thành 義王驛.
Linda Klimovičová
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814534
Linda Klimovičová (sinh ngày 18 tháng 6 năm 2004) là nữ vận động viên quần vợt người Cộng hòa Séc. Cô có thứ hạng cao nhất trên bảng xếp hạng trẻ kết hợp là thứ 31, đạt được vào ngày 25 tháng 10 năm 2021. Klimovičová ra mắt nhánh đấu chính của WTA Tour tại Prague Open 2021, nơi cô nhận được ký tự đại diện tham gia nội dung đôi. Thống kê sự nghiệp. "Chỉ những kết quả bốc thăm chính trong WTA Tour, các giải Grand Slam, Fed Cup/Billie Jean King Cup và Thế vận hội Olympic mới được tính vào thành tích thắng-thua." Đôi. "Tính đến Giải quần vợt Úc Mở rộng 2023."
Rutheni(III) oxide
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814547
Rutheni(III) oxide là một hợp chất vô cơ của rutheni và oxy với công thức hóa học Ru2O3. Hợp chất được cho là tồn tại dưới dạng chất rắn màu xanh dương-đen; tuy nhiên đã có những bằng chứng cho rằng hợp chất này không tồn tại; mặc dù trước đó các phương pháp điều chế đã được đưa ra, nhưng sản phẩm thực tế không tồn tại chất này. Điều chế. Có thể phân hủy rutheni(III) hydroxide để tạo ra oxide. Tính chất vật lý. Rutheni(III) oxide tạo thành tinh thể màu xanh dương-đen. Nó không tan trong nước. Tính chất hóa học. Nó bị phân hủy khi đun nóng:
Kymenlaakso
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814548
Kymenlaakso (; ) là một vùng thuộc miền nam Phần Lan, thủ phủ chính thức là thành phố Kotka và nơi đặt trung tâm điều hành vùng là thành phố Kouvola. Vùng Kymenlaakso có diện tích đất liền là 4.558,54 km² (2021) – đứng thứ 18 cả nước, với dân số toàn vùng (2023) là 159.204 người và mật độ dân số là 34,92 người/km². Đây là vùng duy nhất tại Phần Lan có hai thủ phủ trên thực tế. Vùng Kymenlaakso tiếp giáp với: Vùng Kymenlaakso là vùng có diện tích đất liền bé thứ hai trên cả nước (chỉ sau vùng tự trị Åland) và là vùng nội địa có diện tích nhỏ nhất. Tuy nhiên, nếu tính cả diện tích mặt nước thì vùng Trung Ostrobothnia có diện tích nhỏ hơn vùng Kymenlaakso.
Edamame
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814549
là một món ăn của Nhật Bản được chế biến từ những hạt đậu tương còn nguyên vỏ. Vỏ đỗ tương được luộc hoặc ninh lên và có thể được dọn lên kèm với muối hoặc cùng với những gia vị khác. Món ăn này đã trở nên phổ biến khắp thế giới vì giá trị dinh dưỡng dồi dào từ nó như vitamin, chất xơ, và chất isoflavone. Khi những hạt đỗ đã được tách vỏ, chúng đôi khi sẽ được gọi theo tiếng Nhật là mukimame. Edamame là một món ăn thường ngày trong âm thực Nhật Bản và là một món khai vị được thưởng thức kèm đồ uống chứa cồn như bia hay rượu shōchū. Như một nguyên liệu chế biến món ăn, edamame thường được tìm thấy trong các món ăn có vị ngọt và cay mặn như takikomi gohan, tempura, và zunda-mochi. Tên gọi. Tại Nhật Bản, tên gọi "edamame" thường được dùng để chỉ một món ăn đơn lẻ. Nó có nghĩa đen là "đậu bám vào gốc" (được ghép từ hai chữ 枝 "eda" = "nhánh" hoặc "thân" + 豆 "mame" = "đậu"), vì những hạt đậu thường được bán khi chúng vẫn còn dính vào thân. Ở Trung Quốc và Đài Loan, thuật ngữ "mao đậu" thường được dùng để chỉ món ăn, từ này có nghĩa đen là "hạt đậu phủ đầy lông " (là tổ hợp của hai từ 毛 "mao" = "lông" + 豆 "dou" = "đậu"). Lịch sử. Đậu nành được trồng lần đầu tiên ở Trung Quốc vào khoảng 7000 năm trước, trong khi tài liệu tham khảo sớm nhất về thuật ngữ "edamame" xuất hiện từ năm 1275, khi nhà sư Nhật Bản Nichiren viết một bức thư cảm ơn một giáo dân về món quà "edamame" mà vị giáo dân đó đã để lại tại đền thờ. Vào năm 1406, dưới triều đại nhà Minh ở Trung Quốc, lá đậu nành đã được dùng làm thức ăn, và trong thời kỳ nạn đói bùng phát, người dân đã sử dụng cả hạt đậu để nấu ăn hoặc nghiền chúng ra thành bột. Trong nhiều thế kỷ sau ở Trung Quốc (1620), hạt đỗ tương lại được nhắc đến một lần nữa với tên gọi khác là "mao đậu", có nghĩa là "hạt đậu có lông". Chúng được tìm thấy trong ghi chép về các vườn rau thời cổ đại và được cho là có tác dụng chữa bệnh, cũng như là một món ăn nhẹ.
Edamame
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814549
Còn tại Nhật Bản, edamame lần đầu được nhắc đến trong thơ được sáng tác theo lối haikai vào thời kỳ Edo (1603–1868), với bài thơ được sáng tác sớm nhất là vào năm 1638. Edamame lần đầu tiên được công nhận ở Hoa Kỳ vào năm 1855, khi một người nông dân nhận xét về những khó khăn khi ông ta phải tách vỏ của những hạt đậu sau khi thu hoạch. Vào tháng 3 năm 1923, đỗ tương non lần đầu được nhắc đến trong văn bản ở Hoa Kỳ thuộc về một cuốn sách có tên gọi là "The Soybean" của CV Piper và Joseph W. Morse. Trong cuốn sách này, lần đầu tiên chúng được hình dung và chúng ta có thể thấy là những hạt đậu có thể được ăn khi chúng còn đang mở vỏ. Thông tin dinh dưỡng đầu tiên về chúng đã được xuất bản và một số công thức nấu ăn được đưa vào, vì chúng là một loại thực phẩm mới mẻ đối với công chúng thời bấy giờ. Cách sử dụng sớm nhất được ghi lại bằng tiếng Anh của từ "edamame" là vào năm 1951 trên tạp chí "Nghiên cứu văn hóa dân gian". "Edamame" xuất hiện như một thuật ngữ mới trong Từ điển tiếng Anh Oxford năm 2003 và trong từ điển Merriam-Webster năm 2008. Năm 2008, đậu nành đầu tiên được trồng ở châu Âu đã được bán trong các cửa hàng tạp hóa với tên gọi edamame và được ăn như một nguồn thức ăn thay thế để bổ sung protein . Thu hoạch, chế biến và cất trữ. Thu hoạch. Edamame thường được thu hoạch thủ công để tránh làm hỏng thân và lá của cây trồng. Vỏ đậu tương xanh được hái trước khi chúng chín hoàn toàn, thường là 35 đến 40 ngày sau khi cây ra hoa lần đầu tiên. Đậu nành được thu hoạch ở giai đoạn này có vị ngọt hơn vì chúng chứa nhiều đường sacarose hơn so với đậu nành được thu hoạch vào cuối mùa sinh trưởng. Các yếu tố khác góp phần tạo nên hương vị của edamame bao gồm các axit amin tự do như axit glutamic, axit aspartic và alanine . Thường thì các axit amin không liên kết này sẽ giảm đi khi vỏ quả nở ra và chín hoàn toàn. Chế biến. Vỏ quả có thể được đun sôi trong nước, hấp hoặc cho vào lò vi sóng. Các đầu của quả đôi khi được cắt trước khi luộc hoặc hấp. Các chế phẩm phổ biến nhất của món ăn này thường sử dụng muối để tạo vị, có thể cho muối vào hòa tan trong nước sôi trước khi cho vỏ đậu nành vào hoặc thêm vào sau khi nấu.
Edamame
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814549
Edamame là một món ăn phụ phổ biến tại các nhà hàng izakaya của Nhật Bản với nhu cầu về các biến thể địa phương và biến thể theo mùa của món ăn này. Muối và tỏi là những gia vị edamame điển hình. Ở Nhật Bản, người ta thường chuộng nước muối cô đặc như một phụ gia thêm vào món đậu tương mà vỏ của nó có thể ăn trực tiếp. Cất trữ. Edamame được mua khi còn tươi nên phải ăn ngay trong ngày, vì hương vị của món đậu tương này có thể bị suy giảm chỉ trong vòng 10 giờ sau khi thu hoạch. Tuy nhiên, edamame tươi sẽ ăn được trong ba ngày khi được bảo quản trong tủ lạnh. Tuy nhiên, những quả bị hư thường chuyển sang màu nâu nhanh hơn chủ yếu là do enzym polyphenol oxidase. Nếu muốn được bảo quản tươi, vỏ đậu phải được giữ ẩm để tránh bị đổi màu và héo . Điều này có thể được thực hiện bằng cách bọc vỏ trong nhựa hoặc vật liệu khác để giữ ẩm. Đông lạnh edamame tươi cũng là một lựa chọn để duy trì chất lượng tốt của món ăn trong vài tháng. Edamame tươi nên được chần trước khi đem đi đông lạnh. Thưởng thức. Edamame có thể được ăn theo hai dạng: vỏ đậu hoặc hạt đậu không. Đậu edamame rất dễ ăn và có thể nấu chín như bất kỳ loại đậu nào khác. Nếu thưởng thức chúng bằng đũa thì người ăn phải có kỹ năng. Vỏ quả edamame yêu cầu phải sử dụng răng hoặc ngón tay để trượt hạt edamame vào miệng, sau đó vỏ sẽ bị bỏ đi. Giá trị dinh dưỡng. Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ tuyên bố rằng đậu edamame là một loại "đậu nành có thể ăn tươi và được biết đến nhiều nhất như một món ăn nhẹ giàu chất dinh dưỡng". Đậu edamame đã chế biến và được đông lạnh chứa tới 73% nước, 12% protein, 9% carbohydrate và 5% chất béo. Một khẩu phần 100g edamame điển hình cung cấp cho chúng ta khoảng năng lượng thực phẩm và một lượng phong phú (20% hoặc nhiều hơn Giá trị hàng ngày, DV) của protein, chất xơ và vi chất dinh dưỡng, đặc biệt là folate (78% DV), mangan (49% DV) và vitamin K (26% DV) (bảng). Hàm lượng chất béo trong edamame cung cấp 361 mg axit béo omega-3 và 1794 mg axit béo omega-6.
Xung đột ở Las Anod
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814551
Xung đột ở Las Anod là 1 cuộc xung đột vũ trang đang diễn ra giữa Quân đội Quốc gia Somaliland và SSC-Lực lượng Khatumo của bộ lạc Dhulbahante, thủ phủ của vùng Sool. Dhulbahante đang nhận được hỗ trợ (tiền, vũ khí và các chiến binh) từ các bộ lạc hàng xóm như Darod-Harti nhằm sâu trong nội địa của Somaliland - các bộ lạc Warsangali và Majeerteen. Giao tranh bùng nổ vào 6 tháng 2 sau khi Lực lượng Vũ trang Somaliland đàn áp 1 cuộc biểu tình của người dân. Vào ngày 8 tháng 2, Garad của Dhulbahante, Garad Jama Garad Ali, tuyên bố mục đích là tách ra và thống nhất với Somalia. Cuộc xung đột giết 300 người và làm 154,000-203,000 dân thường bị mất nơi ở và phải tị nạn. Thường dân tị nạn với số lượng đông ở biên giới Ethiopia–Somaliland hoặc trong các khu vực do SSC kiểm soát như Taleex, Xudun, Buuhodle, hoặc là tị nạn ở các thành phố khác ở Somaliland như Garowe, Galkacyo và Burtinle. Vào ngày 16 tháng, binh sĩ Somaliland đã được báo có là pháo kích thường dân ở các khu vực xung quanh. Tới cuối tháng 4, Amnesty International đã phát hành 1 báo cáo nói về Lực lượng Somaliland đã thực hiện các tội ác và các hành động bạo lực chống lại dân thường như thế nào.
Tart Manchester
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814552
Tart Manchester là một loại bánh tart nướng truyền thống của Anh, bao gồm một lớp vỏ pastry, phết mứt mâm xôi, phủ một lớp nhân sữa trứng và bên trên là các mảnh dừa nạo cùng một quả anh đào Maraschino. Một biến thể phổ biến có một lớp chuối thái lát mỏng bên dưới phần sữa trứng. Tart Manchester đã từng là một mặt hàng chủ lực trong thực đơn của các bữa tối ở trường học cho đến giữa những năm 1980. Ban đầu, nó là một biến thể của một công thức trước đó, bánh pudding Manchester, lần đầu tiên được ghi lại bởi nhà văn nấu ăn thời Victoria, Isabella Beeton. Tiệm bánh Robinson ở Failsworth tự quảng cáo là quê hương của bánh tart Manchester. Tart Manchester cũng được nhắc đến trong The Hanging Tree của Ben Aaronovitch vào năm 2017.
Tu Thân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814557
Tu Thân có thể là:
Phục Kiến
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814558
Phục Kiến có thể là:
Cầu vượt Lạch Tray
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814562
Cầu vượt Lạch Tray là một cây cầu vượt đường bộ nằm tại quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Việt Nam. Tổng quan. Cầu vượt Lạch Tray nằm trên đường vành đai 1 của Hải Phòng, nối từ đường Nguyễn Văn Linh, vượt qua vòng xuyến đường Lạch Tray, đến đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ban đầu cầu được thiết kế phục vụ cho cả xe ô tô và xe gắn máy. Năm 2013, Sở Giao thông vận tải thành phố Hải Phòng cấm người đi bộ, xe máy, xe thô sơ đi trên cầu vượt Lạch Tray nhằm phục vụ thi công sửa chữa cầu. Từ tháng 9 năm 2019, cầu chính thức cấm xe gắn máy, xe mô tô và xe thô sơ lên cầu.
Bệnh viện Đại học Y Dược
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814565
Bệnh viện Đại học Y Dược có thể là:
Lãnh thổ tự trị Ceylon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814570
Lãnh thổ tự trị Ceylon (Tiếng Anh: "Dominion of Ceylon") là một quốc gia độc lập trong Khối Thịnh vượng chung Anh, nằm dưới quyền trị vì của quân chủ Anh như các lãnh thổ tự trị khác của Anh. Năm 1948, Thuộc địa Ceylon của Anh được trao độc lập với tên gọi là Ceylon. Năm 1972, đất nước trở thành một nước Cộng hòa trong Khối thịnh vượng chung Anh, và tên của nó được đổi thành Sri Lanka. Lịch sử. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, áp lực công chúng đòi độc lập tăng lên. Thuộc địa Ceylon do Anh cai trị giành được độc lập vào ngày 4 tháng 2 năm 1948, với hiến pháp sửa đổi có hiệu lực cùng ngày. Nền độc lập được trao theo Đạo luật Độc lập Ceylon năm 1947. Các hiệp ước quân sự với Vương quốc Anh bảo tồn nguyên vẹn các căn cứ không quân và hải quân của Anh trong nước; Các sĩ quan Anh cũng tiếp tục chiếm hầu hết các cấp bậc cao nhất của Quân đội Ceylon. D. S. Senanayake trở thành thủ tướng đầu tiên của Ceylon. Sau đó vào năm 1948, khi Ceylon nộp đơn xin gia nhập Liên hợp quốc, Liên Xô đã phủ quyết đơn này. Điều này một phần là do Liên Xô tin rằng Ceylon chỉ độc lập trên danh nghĩa, và người Anh vẫn thực hiện quyền kiểm soát đối với nó bởi vì giới thượng lưu da trắng, có học thức nắm quyền kiểm soát chính phủ. Năm 1949, với sự nhất trí của các nhà lãnh đạo người Tamil Sri Lanka, chính phủ UNP đã tước quyền công nhân của các công nhân đồn điền người Tamil Ấn Độ. Năm 1950, Ceylon trở thành một trong những thành viên ban đầu của Kế hoạch Colombo, và vẫn là một thành viên như Sri Lanka. Don Senanayake qua đời năm 1952 sau một cơn đột quỵ và ông được kế vị bởi con trai mình là Dudley. Tuy nhiên, vào năm 1953 - sau một cuộc tổng đình công lớn hoặc "Hartal" của các đảng cánh tả chống lại UNP - Dudley Senanayake đã từ chức. Theo sau ông là Tướng John Kotelawala, một chính trị gia cấp cao và chỉ huy quân sự, đồng thời là chú của Dudley. Kotelawala không có uy tín cá nhân hay sự nhạy bén chính trị như D. S. Senanayake. Ông đã đưa ra vấn đề về ngôn ngữ quốc gia mà D. S. Senanayake đã đình chỉ.
Lãnh thổ tự trị Ceylon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814570
Elizabeth II, Nữ vương của Ceylon, đã đến thăm hòn đảo này vào năm 1954 từ ngày 10 đến ngày 21 tháng 4 (Bà cũng đã đến thăm vào năm 1981 từ ngày 21 đến ngày 25 tháng 10 sau khi đất nước này trở thành một nước cộng hòa.). Năm 1956, UNP bị đánh bại trong cuộc bầu cử bởi Mahajana Eksath Peramuna, bao gồm Đảng Tự do Sri Lanka (SLFP) do S. W. R. D. Bandaranaike lãnh đạo và Đảng Viplavakari Lanka Sama Samaja của Philip Gunawardena. Bandaranaike là một chính trị gia đã thúc đẩy vận động hành lang theo chủ nghĩa dân tộc Sinhalese từ những năm 1930. Ông ấy đã thay thế tiếng Anh bằng tiếng Sinhala làm ngôn ngữ chính thức. Ông là người phát ngôn chính của người Sinhala, người đã cố gắng chống lại nền chính trị cộng đồng do G. G. Ponnambalam tung ra. Dự luật này được gọi là Đạo luật chỉ Sinhala, và cũng biến Sinhala trở thành ngôn ngữ được giảng dạy trong các trường học và đại học. Điều này đã gây ra bạo loạn với người Tamil, vì họ nói tiếng Tamil và nó không được công nhận là ngôn ngữ chính thức. Những cuộc bạo loạn này lên đến đỉnh điểm trong vụ ám sát thủ tướng, Bandaranaike. Người vợ góa của ông là Sirimavo Bandaranaike kế vị chồng làm lãnh đạo SLFP và được bầu làm nữ thủ tướng đầu tiên trên thế giới. Năm 1957, các căn cứ của Anh bị dỡ bỏ và Ceylon chính thức trở thành quốc gia "không liên kết". Đạo luật Ruộng đất, đứa con tinh thần của Philip Gunawardena, đã được thông qua, mang lại cho những người nông dân nhiều quyền hơn so với những địa chủ vắng mặt. Cuộc bầu cử vào tháng 7 chứng kiến Sirimavo Bandaranaike trở thành nữ lãnh đạo chính phủ được bầu đầu tiên trên thế giới. Chính phủ của bà tránh đối đầu thêm với người Tamil, nhưng các chính sách chống cộng sản của Chính phủ Hoa Kỳ đã dẫn đến việc Hoa Kỳ cắt viện trợ và khủng hoảng kinh tế ngày càng gia tăng. Sau một nỗ lực đảo chính của quân đội cánh hữu chủ yếu không theo đạo Phật và các sĩ quan cảnh sát nhằm đưa UNP trở lại nắm quyền, Bandaranaike đã quốc hữu hóa các công ty dầu mỏ. Điều này dẫn đến việc các tập đoàn dầu mỏ tẩy chay đất nước, vốn đã bị phá vỡ với sự trợ giúp từ Hợp tác xã các nhà sản xuất dầu mỏ Kansas.
Lãnh thổ tự trị Ceylon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814570
Năm 1962, dưới chính phủ SLFP, nhiều tài sản kinh doanh của phương Tây đã bị quốc hữu hóa. Điều này gây ra tranh chấp với Hoa Kỳ và Vương quốc Anh về bồi thường cho các tài sản bị tịch thu. Những chính sách như vậy đã dẫn đến sự suy giảm tạm thời quyền lực của SLFP và UNP đã giành được ghế trong Quốc hội. Tuy nhiên, đến năm 1970, SLFP lại một lần nữa chiếm ưu thế. Năm 1964, Bandaranaike thành lập một chính phủ liên minh với LSSP, một đảng Trotskyist với Tiến sĩ N.M. Perera là Bộ trưởng Bộ Tài chính. Tuy nhiên, sau khi Sirimavo không thỏa mãn được phe cực tả, Mặt trận Giải phóng Nhân dân Marxist đã cố gắng lật đổ chính phủ vào năm 1971. Cuộc nổi dậy đã bị dập tắt với sự trợ giúp của Anh, Liên Xô và Ấn Độ vào năm 1972. Cùng năm đó, quốc gia này chính thức trở thành một nước cộng hòa trong Khối thịnh vượng chung và được đổi tên thành Sri Lanka, với William Gopalawa là tổng thống đầu tiên. Danh sách nguyên thủ quốc gia. Từ năm 1948 đến năm 1972, nguyên thủ quốc gia Ceylon cũng chính là quốc vương của Vương quốc Anh. Toàn quyền Ceylon thi hành nhiệm vụ của nguyên thủ quốc gia.
Tích Lan thuộc Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814571
Ceylon thuộc Anh (Tiếng Sinhala: බ්‍රිතාන්‍ය ලංකාව, La tinh hóa: "Britānya Laṃkāva"; Tiếng Tamil: பிரித்தானிய இலங ்கை, La tinh hóa: "Biritthāṉiya Ilaṅkai"; Tiếng Anh: "British Ceylon"), tên gọi chính thức: Các Khu định cư và Lãnh thổ chính thức của Anh tại Đảo Tích Lan (Ceylon) với các Lãnh thổ phụ thuộc từ 1802 đến 1833, sau đó là Đảo Tích Lan và các Lãnh thổ và Vùng phụ thuộc từ năm 1833 đến năm 1931 và cuối cùng là Đảo Ceylon và Vùng phụ thuộc từ năm 1931 đến năm 1948, là Thuộc địa vương thất của Vương quốc Anh từ năm 1796 đến ngày 4 tháng 2 năm 1948 và ngày nay là đất nước Sri Lanka. Ban đầu, khu vực nó bao phủ không bao gồm Vương quốc Kandy, vốn là một xứ bảo hộ, nhưng từ năm 1817 đến năm 1948, tài sản của Anh bao gồm toàn bộ đảo Ceylon, nay là quốc gia Sri Lanka. Lịch sử. Bối cảnh. Trước khi người Hà Lan bắt đầu thực hiện quyền tài phán của mình, đảo Ceylon bị chia cắt giữa Đế quốc Bồ Đào Nha và Vương quốc Kandy, những người đang ở giữa cuộc chiến tranh giành quyền kiểm soát toàn bộ hòn đảo. Hòn đảo đã thu hút sự chú ý của Cộng hòa Hà Lan mới thành lập khi họ được mời đến bởi Vua Sinhale để chiến đấu chống lại người Bồ Đào Nha. Sự cai trị của Hà Lan đối với phần lớn hòn đảo đã sớm được áp đặt. Vào cuối thế kỷ XVIII, người Hà Lan suy yếu do các cuộc chiến tranh chống lại Vương quốc Anh, đã bị nước Pháp thời Napoléon chinh phục, và các nhà lãnh đạo của họ trở thành người tị nạn ở London. Không còn khả năng cai quản phần hòn đảo của họ một cách hiệu quả, người Hà Lan đã chuyển giao quyền cai trị hòn đảo đó cho người Anh, mặc dù điều này trái với mong muốn của những người Hà Lan cư trú tại đó. Việc chiếm đảo ngay lập tức mang lại 300.000 bảng tiền hàng hóa, cũng như việc mua lại các đồn điền quế, khiến đây trở thành một dự án kinh doanh có giá trị. Chiến tranh Kandy.
Tích Lan thuộc Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814571
Chiến tranh Kandy. Ngay sau khi Vương quốc Anh giành được các phần đất Ceylon do người châu Âu kiểm soát từ tay người Hà Lan, họ muốn mở rộng phạm vi ảnh hưởng mới của mình bằng cách biến Vương quốc Kandy bản địa thành một xứ bảo hộ, một đề nghị ban đầu bị Vua Kandy từ chối. Mặc dù chính quyền Hà Lan trước đây không đủ quyền lực để đe dọa triều đại của các vị vua Kandy, nhưng người Anh mạnh hơn nhiều. Việc người Kandy từ chối chấp nhận một chế độ bảo hộ cuối cùng đã dẫn đến chiến tranh, kết thúc bằng sự đầu hàng của người Kandy. Công ước Kandy. Sự cai trị của Vua Sri Vikrama Rajasinghe không được các thủ lĩnh của ông ủng hộ. Nhà vua, người gốc Nam Ấn Độ, phải đối mặt với các thủ lĩnh quyền lực và tìm kiếm các biện pháp tàn nhẫn để đàn áp sự nổi tiếng của họ đối với người dân. Một cuộc đảo chính thành công được tổ chức bởi các thủ lĩnh Sinhala, trong đó họ chấp nhận Vương quốc Anh là chủ quyền mới của mình. Điều này đã chấm dứt dòng dõi của vương quốc Kandy và Vua Rajasinghe bị bắt làm tù binh, chấm dứt hy vọng rằng người Anh sẽ cho phép ông duy trì quyền lực. Hiệp ước Kandy được ký kết vào năm 1815 được gọi là Công ước Kandy và nêu rõ các điều khoản theo đó lãnh thổ của người Kandy giữ vị trí như một lãnh thổ bảo hộ của Anh. Phật giáo sẽ được Vương miện bảo vệ và Cơ đốc giáo sẽ không bị áp đặt lên dân chúng, như đã xảy ra dưới thời cai trị của Đế quốc Bồ Đào Nha và Cộng hòa Hà Lan. Công ước Kandy là một văn bản pháp lý quan trọng vì nó quy định các điều kiện mà người Anh đã hứa đối với lãnh thổ Kandy. Cuộc nổi dậy Uva. Các gia tộc cầm quyền của Kandy mất chưa đầy hai năm để nhận ra rằng quyền lực của chính phủ Anh về cơ bản là khác với quyền lực của triều đại Nayakkar (bị phế truất). Ngay sau đó, người Kandy nổi dậy chống lại người Anh và tiến hành chiến tranh du kích. Sự bất mãn với các hoạt động của người Anh nhanh chóng trở thành cuộc nổi dậy công khai, bắt đầu ở Công quốc Uva vào năm 1817, được gọi là Cuộc nổi dậy Uva, còn được gọi là Chiến tranh Kandy lần thứ ba.
Tích Lan thuộc Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814571
Nguyên nhân chính của cuộc nổi loạn là do chính quyền Anh không bảo vệ và duy trì các truyền thống Phật giáo truyền thống, vốn được người dân đảo xem như một phần không thể thiếu trong cuộc sống của họ. Cuộc nổi dậy, nhanh chóng phát triển thành một cuộc chiến tranh du kích kiểu mà người Kandy đã chiến đấu chống lại các cường quốc châu Âu trong nhiều thế kỷ trước đó, tập trung vào giới quý tộc Kandy và sự bất hạnh của họ trước những diễn biến dưới sự cai trị của Anh kể từ năm 1815. Tuy nhiên, đây là cuộc nổi dậy cuối cùng thuộc loại này và ở Tỉnh Uva, một chính sách khắc nghiệt đã được theo đuổi, và tất cả nam giới từ 15 đến 60 tuổi đều bị đuổi ra ngoài, bị đày ải hoặc bị giết. Vương quốc Anh sáp nhập Vương quốc Kandy vào Ceylon thuộc Anh vào năm 1817. Phát triển. Sujit Sivasundaram lập luận, củng cố phân tích đầu tiên được thực hiện bởi nhà sử học địa phương nổi tiếng, G.C. Mendis trong cuốn sách của mình, "Ceylon Under the British", rằng người Anh đã sử dụng kiến thức địa lý để đánh bại quân Kandy ở các khu vực rừng núi và rừng rậm ở trung tâm Ceylon. Họ đã sử dụng những người cung cấp thông tin địa phương và các nhà khảo sát người Anh để lập bản đồ hòn đảo, sau đó xây dựng một mạng lưới đường bộ để mở khu vực trung tâm. Điều này tạo khả năng sản xuất nông nghiệp đồn điền xuất khẩu, cũng như kiểm soát quân sự chặt chẽ hơn. Với các thương cảng Trincomalee và Colombo, thuộc địa này là một trong số rất ít cung cấp nguồn quế trên thế giới. Loại gia vị này cực kỳ có giá trị và Công ty Đông Ấn Anh bắt đầu trồng nó vào năm 1767, nhưng Ceylon vẫn là nhà sản xuất chính cho đến cuối thế kỷ XVIII Việc lắp đặt tuyến đường sắt được thực hiện dưới thời Thống đốc Henry Ward. Các công trình lớn khác của người Anh bao gồm các dự án xây dựng đường xá, thành lập các đồn điền chè và cà phê, bệnh viện và nhà hộ sinh. Nhân khẩu học. Dân số đa chủng tộc của Ceylon đủ đông để hỗ trợ thực dân châu Âu; hậu duệ của người Bồ Đào Nha và Hà Lan trong 440 năm lịch sử thuộc địa vừa qua đủ lớn để điều hành một chính phủ ổn định.
Tích Lan thuộc Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814571
Không giống như những người cai trị trước đó, người Anh bắt tay vào một chương trình trồng trọt, ban đầu mang lại những đồn điền cà phê cho hòn đảo. Những thứ này sau đó đã bị xóa sổ bởi bệnh rỉ sắt cà phê. Cây cà phê được thay thế bằng đồn điền chè và cao su. Điều này làm cho Ceylon trở thành một trong những quốc gia giàu có nhất ở châu Á. Người Anh cũng đưa người Tamil từ Ấn Độ thuộc Anh đến và biến họ thành những người lao động có giao kèo ở Hill Country. Con số này bổ sung cho vài trăm nghìn người Tamil đã sống ở các tỉnh Maritime và 30.000 người Tamil Hồi giáo khác. Hòn đảo lưỡng cực về mặt ngôn ngữ cần một ngôn ngữ liên kết và tiếng Anh đã trở nên phổ biến ở Ceylon. Các cuộc điều tra dân số ở Ceylon bắt đầu vào năm 1871 và tiếp tục 10 năm một lần. Điều tra dân số năm 1881 cho thấy tổng dân số là 2,8 triệu người, bao gồm 1,8 triệu người Sinhalese; 687.000 người Tamil ở Ceylon và Ấn Độ; 185.000 người Moor; cũng như 4.800 người châu Âu; 17.900 người Burghers và người Âu-Á; 8.900 người Mã Lai; 2.200 người Veddhas; và 7.500 người thuộc chủng tộc khác khác. Các cuộc Tổng điều tra năm 1871, 1881, 1891 và 1901 đã cho thấy người Tamil Ceylon và người Tamil Ấn Độ của Sri Lanka được nhóm lại với nhau. Đến năm 1911, người Tamil Ấn Độ được coi là một thể loại riêng biệt. Thống kê dân số tiết lộ rằng vào năm 1911, người Tamil Ấn Độ chiếm 12,9%, trong khi người Tamil Sri Lanka chiếm 12,8% trong tổng số 4.106.400 dân số; năm 1921 là 13,4% và 11,5%; năm 1931 là 15,2% và 11,3%, và năm 1946 là 11,7% và 11,0%. Các cuộc điều tra dân số cho thấy rằng trong một khoảng thời gian dài trong lịch sử của Ceylon, người Tamil Ấn Độ đông hơn người Tamil Ceylon cho đến giữa năm 1971 và 1981 khi hơn 50% dân số Tamil Ấn Độ được hồi hương với tư cách là công dân Ấn Độ trở lại Ấn Độ. Tuy nhiên, nhiều người Tamil Ấn Độ cũng được cấp quốc tịch Sri Lanka và sau đó tuyên bố họ là người Tamil Sri Lanka. Chính phủ và quân đội. Chính phủ Anh ở Ceylon. Giữa năm 1796 và 1948, Ceylon là thuộc địa vương thất Anh.
Tích Lan thuộc Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814571
Mặc dù quân chủ Anh là nguyên thủ quốc gia, nhưng trên thực tế, các chức năng của vua hoặc nữ hoàng được thực hiện ở thuộc địa bởi Thống đốc thuộc địa, người hành động theo chỉ thị của chính phủ Anh ở Luân Đôn. Về cách tiếp cận quyền tự trị và độc lập, Ủy ban Donoughmore đã đề xuất Hiến pháp Donoughmore 1931-1947, một trong những nỗ lực nhằm tạo ra một giải pháp khả thi cho phép giải quyết những khác biệt giữa các cộng đồng. Điều này đã được thay thế bằng các đề xuất của Ủy ban Soulbury dẫn đến Quyền tự trị Ceylon năm 1948-1972, sau đó Cộng hòa Sri Lanka Tự do, Chủ quyền và Độc lập được thành lập. Lực lượng vũ trang. Lực lượng Phòng vệ Ceylon (CDF) là quân đội của Ceylon thuộc Anh. Được thành lập vào năm 1881 với tên gọi Tình nguyện viên Ceylon, với tư cách là lực lượng dự bị quân sự ở thuộc địa Ceylon của Vương quốc Anh, đến năm 1910, nó đã phát triển thành Lực lượng Phòng vệ Ceylon, một lực lượng chính quy chịu trách nhiệm bảo vệ Ceylon. CDF nằm dưới sự chỉ huy của Tổng tư lệnh, Ceylon, của Quân đội Anh tại Ceylon nếu được huy động. Tuy nhiên, việc huy động chỉ có thể được thực hiện khi có lệnh của Thống đốc. Lực lượng Phòng vệ Ceylon đã từng tham gia một số cuộc chiến như Chiến tranh Boer thứ hai và cả hai lần Thế chiến. Nó là tiền thân của Quân đội Ceylon.[19] Cảng Trincomalee là căn cứ chiến lược quan trọng của Hải quân Hoàng gia Anh cho đến năm 1948, chủ yếu để kiểm soát các tuyến đường biển ở Ấn Độ Dương.
Tantal(V) chloride
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814602
Tantal(V) chloride, hay tantal pentachloride, là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học TaCl5. Nó có dạng bột màu trắng và thường được sử dụng làm nguyên liệu ban đầu trong hóa học tantal. Nó dễ bị thủy phân, tạo thành tantal(V) oxychloride (TaOCl3) và tantal(V) oxide (Ta2O5); điều này đòi hỏi nó phải được tổng hợp và sử dụng trong điều kiện khan, sử dụng các kỹ thuật không có không khí. Cấu trúc. TaCl5 kết tinh trong nhóm không gian thuộc hệ tinh thể đơn nghiêng "C"2/"m". Mười nguyên tử chlor xác định cặp bát diện có chung cạnh. Các nguyên tử tantal chiếm các tâm của bát diện và được nối với nhau bằng hai cầu nối chlor. Cấu trúc dimer tồn tại trong các dung môi không phức tạp và phần lớn ở trạng thái nóng chảy. Tuy nhiên, ở trạng thái hơi, TaCl5 là monomer. Monomer này có cấu trúc lưỡng chóp tam giác, giống như cấu trúc của PCl5. Tính chất vật lý. Độ tan của tantal(V) chloride tăng nhẹ đối với dãy hydrocarbon thơm sau: Điều này thể hiện ở việc dung dịch có màu đậm dần từ vàng nhạt sang cam. Tantal(V) chloride ít tan trong cyclohexan và carbon tetrachloride hơn trong các hydrocarbon thơm. Các dung dịch như vậy của tantal(V) chloride là chất dẫn điện kém, cho thấy khả năng bị ion hóa thấp. TaCl5 được tinh chế bằng cách thăng hoa để tạo ra các tinh thể hình kim màu trắng. Tantal(V) chloride có thể được điều chế bằng phản ứng của tantal dạng bột với khí chlor ở nhiệt độ giữa 170 và 250 °C. Phản ứng này cũng có thể được thực hiện với HCl ở 400 °C. Nó cũng có thể được điều chế bằng phản ứng giữa tantal(V) oxide và thionyl chloride ở 240 °C. Tantal(V) chloride có sẵn trên thị trường, tuy nhiên các mẫu có thể bị nhiễm tantal(V) oxychloride (TaOCl3), được tạo thành do quá trình thủy phân. Phản ứng. TaCl5 là chất điện di và nó hoạt động giống như chất xúc tác Friedel–Crafts, tương tự như AlCl3. Nó tạo thành các phức hợp với nhiều base Lewis. Phức hợp đơn giản. TaCl5 tạo phức ổn định với ether: TaCl5 cũng phản ứng với phosphor pentachloride và phosphoryl trichloride, chất trước đóng vai trò là chất cho chloride và chất sau đóng vai trò phối tử, liên kết qua oxy: Tantal(V) chloride phản ứng với các amin bậc ba để tạo ra các phức hợp kết tinh. Phản ứng chuyển vị chloride.
Tantal(V) chloride
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814602
Phản ứng chuyển vị chloride. Tantal(V) chloride phản ứng ở nhiệt độ phòng với lượng dư triphenylphosphine oxide để tạo ra phức hợp oxychloride: Sự hình thành ban đầu được cho là của các chất cộng giữa TaCl5 và các hợp chất hydroxyl như rượu, phenol và acid carboxylic được tạo ra bởi quá trình loại bỏ hydro chloride và hình thành liên kết Ta–O: Với sự có mặt của amonia như một chất nhận HCl, tất cả năm phối tử chloride đều bị thay thế với sự hình thành Ta(OEt)5. Tương tự, TaCl5 phản ứng với lithi methoxide trong methanol khan để tạo thành các dẫn xuất methoxy có liên quan: Phân giải amoni, phân giải rượu và các phản ứng liên quan. Amonia sẽ thay thế hầu hết các phối tử chloride khỏi TaCl5 để tạo thành chất. Chloride bị chiếm chỗ chậm hơn bởi các amin bậc một hoặc bậc hai nhưng việc thay thế cả năm phối tử chloride bằng các nhóm amido có thể thực hiện bằng cách sử dụng lithi dialkylamide, như được minh họa bằng quá trình tổng hợp pentakis(dimetylamido)tantal: Với rượu, pentachloride phản ứng để tạo ra alkoxide. Như phương pháp điều chế tantal(V) ethoxide ở trên, các phản ứng thường được tiến hành với sự có mặt của bazơ: Tantal(V) chloride bị khử bởi các chất dị vòng nitơ như pyridin. Phản ứng tạo phức với amonia. Phản ứng của TaCl5 với NH3 ở điều kiện thường sẽ cho sản phẩm là các phức hợp: Nếu phản ứng được thực hiện ở nhiệt độ thấp, phức TaCl5·12NH3 sẽ được tạo thành ở . Tăng nhiệt độ lên sẽ tạo ra TaCl5·10NH3, ở phức TaCl5·7NH3 được tạo thành. Cả ba phức amonia đều có màu trắng. Phức heptaamonia bị phân hủy ở . Sự khử. Khử tantal(V) chloride sẽ tạo ra các anion và hợp chất như Ta6Cl184− và Ta6Cl14(H2O)n, với n =4, 7, 8.
Hở khe mông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814605
<ns>0</ns> <revision> <parentid>70444142</parentid> <timestamp>2023-07-15T11:16:20Z</timestamp> <contributor> <username>AnsterBot</username> </contributor> <minor /> <comment>(Bot) , Executed time: 00:00:05.0884761, replaced: archiveurl → archive-url (3), archivedate → archive-date (3)</comment> <model>wikitext</model> <format>text/x-wiki</format> Hở khe mông (tiếng Anh: Buttock cleavage) là hiện tượng lộ ra một phần nhỏ của mông và khe hở giữa chúng, thường là khi mặc quần cạp trễ. Trong tiếng Anh, Crena là một thuật ngữ chính thức cho khe hở giữa mông. Lịch sử. Khi phải đối mặt với các vấn đề khiếm nhã vào thập niên 1930, WG Cassidy giải thích trong một bài tiểu luận của ông có tiêu đề "Private Parts: A Judicial View" ("Bộ phận riêng tư: Quan điểm của tòa án") rằng việc lộ khe mông có thể thuộc phạm vi "các bộ phận riêng tư khác" trong luật pháp Úc, mặc dù khái niệm khiếm nhã thường liên quan đến việc lộ vùng sinh dục. Vào đầu thập niên 2000, việc để lộ mông theo cách này đã trở thành mốt đối với nam và nữ thanh niên, thường thấy khi mặc quần jean cạp trễ. Tờ báo "The Cincinnati Enquirer" gọi đó là "sự phân tách mới" và bày tỏ quan điểm "Hầu như không thể tìm được chiếc quần jean nào che được xương hông của bạn". Vào tháng 8 năm 2001, "The Sun" đã tổ chức "tuần lễ phô mông" và tuyên bố rằng "phô mông là bộ ngực mới". Để phản ứng với xu hướng này, "Saturday Night Live" đã phát sóng một quảng cáo nhại theo (parody advertisement) trong tập ngày 16 tháng 4 năm 2006 của họ cho một sản phẩm có tên là Neutrogena C[ot Cream với sự xuất hiện của Lindsay Lohan. Nhà thiết kế người Anh Alexander McQueen từng được nhắc đến với tư cách là người khởi xướng kiểu quần jean hở mông, được biết đến với cái tên "bumster", trong bài phê bình văn hóa của Sheila Jeffreys thuộc Beauty and Misogyny nhan đề: Harmful Cultural Practices in the West (Các tập quán văn hóa có hại ở phương Tây). Bằng sáng chế Hoa Kỳ 6473908 từ năm 2002 là bằng sáng chế đăng ký thiết kế quần có phần hở ở mông có thể tháo rời. Vào giữa những năm 2000, "Good Morning America" đã báo cáo về sự gia tăng phổ biến của khe mông giữa những người nổi tiếng.
Hở khe mông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814605
Trong một cuộc phỏng vấn năm 2002 với Ultimate-Guitar.com, ca sĩ nhạc pop Avril Lavigne đã nói rằng: "Việc khoe mông giống như thương hiệu của tôi." Vào những năm 2010, các phương tiện truyền thông đưa tin về sự phổ biến của phụ nữ đối với váy siêu ngắn và quần sọt, các kiểu quần áo này để lộ công khai "phần dưới mông" do sự bày đầu của những người nổi tiếng như LadyGaga chẳng hạn.Lady Gaga.
Khe mông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814612
Khe mông (tiếng Anh: intergluteal cleft) hay khe hở mông (gluteal cleft), là rãnh chạy dài giữa mông từ ngay dưới xương cùng đến đáy chậu,
Sami Zubaida
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814613
Sami Zubaida (sinh năm 1937 tại Baghdad, Iraq; rời Iraq năm 1953, ở tuổi 16), hiện là Giáo sư danh dự về Chính trị và Xã hội học tại Birkbeck, Đại học Luân Đôn. Ông là người tham gia thường xuyên tại Hội nghị chuyên đề Oxford về Thực phẩm và Nghề nấu ăn, và đã chủ trì một hội nghị tại Trường Nghiên cứu phương Đông và châu Phi Luân Đôn vào năm 1992, tập trung thảo luận về các nền văn hóa ẩm thực của Trung Đông.
Nếp gấp ngang mông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814624
Nếp gấp ngang của mông (tiếng Anh: gluteal sulcus) là một khu vực trên cơ thể người và vượn người, được mô tả là một nếp gấp ngang được hình thành phía dưới của mông và phía trên của đùi ở phần mặt sau đùi. Nếp gấp ngang này được hình thành bởi nếp gấp da nằm ngang phía sau của khớp hông và lớp mỡ bên trên và không được hình thành bởi đường viền dưới của cơ mông lớn, chéo qua nếp gấp xiên. Đây là một trong những đặc điểm xác định chính của mông. Trẻ em mắc chứng loạn phát triển hông được thấy khi quan sát sự phát sinh nếp gấp mông không đều, có thể được chẩn đoán bằng khám sức khỏe và siêu âm.
Hoshino Yuna
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814625
, tên thật là Kojima Yuna (小島 夢奈) là một nữ YouTuber, người mẫu thời trang kiêm diễn viên người Nhật Bản. Cô hiện là thành viên trực thuộc công ty VAZ.
Olivia Nicholls
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814626
Olivia Ann Nicholls (sinh ngày 26 tháng 10 năm 1994) một nữ vận động viên quần vợt người Anh Quốc nổi bật ở nội dung đánh đôi. Nicholls đã từng giành 1 danh hiệu đôi tại WTA Tour và 17 danh hiệu đôi tại ITF Circuit. Vào ngày 9 tháng 1 năm 2023, cô đứng ở vị trí thứ 59 trên bảng xếp hạng đôi WTA. Nicholls tốt nghiệp trường Đại học Loughborough. Tại Đại hội Thể thao Đại học Thế giới Mùa hè 2017 tổ chức ở Đài Bắc, Đài Loan, cô đã giành được huy chương đồng ở nội dung đôi nữ, cùng với Emily Arbuthnott. Cô ra mắt nhánh đấu chính WTA Tour tại Lyon Open 2022 ở nội dung đôi, đánh cặp cùng với Alicia Barnett. Bộ đôi này giành được vị trí á quân ở giải đấu. Tiểu sử. Olivia Nicholls sinh ngày 26 tháng 10 năm 1994 tại Bệnh viện Đại học Norfolk và Norwich, là con gái của Ann Elizabeth Nicholls (tên khai sinh là Mason) và Ian Phillip Nicholls. Cô có một người anh trai, Henry, một giáo viên khoa học cấp hai. Nicholls lớn lên ở làng Norfolk của Acle, theo học cả trường tiểu học Acle và trường trung học Acle, nay là Học viên Acle. Cô đã hoàn thành bằng A Level tại East Norfolk Sixth Form College ở Gorleston-on-Sea, Norfolk, trước khi hoàn thành bằng Cử nhân Khoa học Thể thao với Quản lý tại Đại học Loughborough. Thống kê sự nghiệp. Đôi. "Tính đến Vòng loại Billie Jean King Cup 2023"
Mili Poljičak
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814628
Mili Poljičak (sinh ngày 13 tháng 7 năm 2004) là một vận động viên quần vợt người Croatia. Poljičak có thứ hạng đánh đơn ATP cao nhất là vị trí số 462 thế giới vào ngày 3 tháng 4 năm 2023. Anh cũng có thứ hạng đánh đôi ATP cao nhất là vị trí số 269 thế giới vào ngày 24 tháng 10 năm 2022. Sự nghiệp. Poljičak có lần đầu tham dự vòng đấu chính ATP tại Croatia Open Umag 2021 sau khi được đặc cách vào vòng đấu chính nội dung đôi. Anh và Admir Kalender đánh bại hạt giống số 2 Pablo Cuevas và Fabrice Martin ở vòng 1 sau hai set nhưng thua ở vòng tứ kết trước Fernando Romboli và David Vega Hernández sau ba set. Tại giải Zagreb Open 2022 anh vào trận chung kết Challenger đầu tiên, nơi anh thua trước Filip Misolic. Cũng tại giải đấu này anh và Antonio Šančić vào vòng bán kết ở nội dung đôi. Với kết quả đó, anh đã vào top 550, đứng ở vị trí số 549 thế giới (tăng 923 bậc) ở bảng xếp hạng đơn và top 375 ở đôi (tăng 88 bậc) vào ngày 16 tháng 5 năm 2022. Ở tuổi 18, anh được đặc cách vào vòng loại Giải quần vợt Wimbledon 2023.
Ali Al-Zubaidi (cầu thủ bóng đá, sinh 1986)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814634
Ali Al-Zubaidi (; sinh ngày 17 tháng 12 năm 1986) là một cầu thủ bóng đá Ả Rập Xê Út thi đấu ở vị trí tiền vệ cho Tuwaiq.
Chó đội nón mê
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814638
CHÓ ĐỘI NÓN MÊ (Chó Trắng Mũi Đỏ). Được biết đến như một loại ma quỷ hoặc sinh vật kỳ bí trong truyền thuyết dân gian Việt Nam. Chó đội nón mê được miêu tả là một con chó đực có bộ lông trắng và mũi đỏ. Ban ngày nó trông như một con chó bình thường nhưng đến ban đêm nó sẽ chống gậy, đội nón lá rách và đi lại trên nóc nhà để ám hại gia chủ. "Nguồn gốc:". Dân gian Việt Nam tin rằng những gia đình sống không biết tu nhân tích đức, đến khi phúc khí đã cạn sẽ xảy ra những điềm quái gở gây ra những hiện tượng kỳ lạ để báo hiệu rằng quả báo sắp đến. Chó trắng mũi đỏ là một trong những điềm xấu như thế. Theo truyền thuyết, khi báo ứng xảy đến với gia đình, ma quỷ sẽ đầu thai vào bụng con chó cái đang nuôi trong nhà. Ở trong bụng mẹ, con quỷ sẽ ăn hết linh hồn của các anh chị xung quanh nó và nó sẽ là con duy nhất ra đời. Chó trắng mũi đỏ thông minh, mạnh khỏe, mau lớn vượt trội hơn hẳn những con chó bình thường. Tuy nhiên, nó thường có thói quen nấp ở quanh nhà để nghe lén những người trong nhà nói chuyện rồi đêm đến sẽ đi kể lại cho các ma quỷ khác cùng nghe. Khi con chó đủ lớn, nó sẽ lần mò đi trên nóc nhà để rình rập những thành viên trong gia đình, tạo ra những chuyện ma quỷ để hù dọa họ khiến cho cuộc sống của gia chủ điên đảo vì sợ hãi. Nó và lũ ma quỷ có thể xui khiến cho các thành viên trong gia đình xảy ra xích mích, cãi vã và tự gây tổn hại lẫn nhau. Vốn cốt quỷ nhưng thường ngày phải giả vờ đi bốn chân như một con chó bình thường nên đêm đến nó sẽ vươn người dậy để đi bằng hai chân. Tuy nhiên vẫn ở trong xác con chó nên nó phải tựa vào cây gậy mới có thể đi hai chân. Chiếc nón lá để che đi ánh trăng đang chiếu vào nó vì theo dân gian ánh trăng là ánh sáng của các vị tiên thánh, nếu để ánh trăng chiếu phải nó thì thiên lôi sẽ giáng sấm sét đánh chết nó. Một số lời truyền miệng kể rằng những khi gia chủ không để ý, con chó trắng mũi đỏ sẽ bỗng nhiên mỉm cười. "Truyền thuyết:".
Chó đội nón mê
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814638
"Truyền thuyết:". Chuyện kể về gia đình của một phú ông, trong nhà có nuôi một con chó trắng mũi đỏ, lớn nhanh lại rất thông minh. Dù nhiều người đã bảo rằng chó trắng mũi đỏ là điềm gở phải hóa kiếp nhưng ông không tin, vẫn giữ con chó trong nhà. Sau đó ông cứ liên tục nghe tiếng động lạ như có người chống gậy đi trên nóc nhà và phát hiện cái nón lá bị mất. Cô con gái của ông từ đó cũng bệnh liệt giường, cô cứ nằm mơ thấy một chàng trai tuấn tú đến ân ái với mình, càng lúc sức khỏe của cô càng suy kiệt. Một ông giáo trong vùng cho phú ông biết đó là con chó đội nón mê, loài yêu ma muốn hại chủ nhà. Con chó đã nghe lén được cuộc nói chuyện. Đêm đó phú ông nghe tiếng động lạ dưới bếp nên rình xem, tận mắt ông thấy con chó nhà ông đang ngồi ăn cơm cùng mấy con quỷ mình chó đầu người, chúng nó bàn nhau sẽ hại chết gia đình ông như thế nào. Phú ông cho người vây bắt con chó nhưng không thể, nó luôn có nhiều mánh khóe để trốn thoát. Ít ngày sau có một ni sư đi ngang xin vào nhà tá túc trong vòng bảy ngày, bà chỉ xin cơm ngày ba bữa và một chỗ ngồi để tụng kinh. Gia đình thuận theo ý của ni sư. Cứ thế ni sư tụng kinh suốt bảy ngày, trong bảy ngày đó cũng không còn những điều ma quái xảy ra nữa. Đến khi vị ni sư từ biệt gia đình để đi thì người nhà phát hiện con chó trắng đã nằm chết từ lúc nào. Một câu chuyện khác kể về một ngôi làng ven sông Hồng có gia đình làm nghề mổ chó, hai vợ chồng đã lớn tuổi nhưng hiếm muộn con cái. Nghe nhiều người nói làm nghề sát sinh nên nghiệp nặng nên nọ bỏ nghề chuyển qua làm nông sau đó sinh được cậu con trai đặt tên Bảo. Cạnh nhà có cậu bé Vũ sống cùng ông nội, Vũ và Bảo chơi rất thân với nhau. Trong một lần có con chó trắng ở đâu chạy đến cứ muốn ở lại nhà Bảo nên cậu năn nỉ bố mẹ nuôi nó và họ đồng ý. Vũ sang chơi thấy con chó có vẻ kỳ lạ nên cũng ít qua lại.
Chó đội nón mê
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814638
Trong một đêm trăng sáng Vũ nhìn thấy có bóng dáng đội nón chống gậy đi trên nóc nhà Bảo, nhìn kỹ thì đó là con chó trắng. Kể từ đó con chó nhìn thấy Vũ là lại muốn cắn cậu. Sau đó Bảo bị bệnh nặng phải nhập viện một thời gian. Cũng trong khoản thời gian đó con chó trắng hoàn toàn biến mất, ông của Vũ khẳng định với cậu rằng khi chủ nhà chưa về thì nó sẽ không về. Ít lâu sau Bảo xuất viện về nhà vẫn trong trạng thái mê man. Ông của Vũ bảo rằng đây là nghiệp mà trước đó bố mẹ Bảo đã gây ra nên bây giờ ứng lên con của họ, con chó đã gọi ma quỷ đến để ăn hồn phách đứa bé. Trong một đêm mưa gió, sấm chớp liên hồi, Vũ nhìn thấy con chó đội nón nhảy khỏi nóc nhà Bảo. Đến hôm sau thì tìm thấy xác con chó đã bị sét đánh chết, cũng từ đó Bảo khỏi bệnh trở lại bình thường. Người ta đồn nhau rằng con chó muốn hại người nên bị trời đánh. "Một số hình ảnh trong trí tưởng tượng:" Tác phẩm Chó đội nón mê (Chó đội nón chống gậy) loài yêu tinh đội lốt chó trong văn hoá dân gian truyền miệng
Trần Thị Thu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814640
Trần Thị Thu (sinh ngày 15 tháng 7 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá nữ người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho Thành phố Hồ Chí Minh I và đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Việt Nam.
Hoa hậu châu Á (ATV)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814684
Cuộc thi Hoa hậu châu Á của ATV (; ) là một cuộc thi sắc đẹp thường niên có trụ sở tại Hồng Kông do Đài truyền hình Châu Á (ATV) tổ chức và phát sóng. Bắt đầu từ năm 1985 dưới dạng một cuộc thi địa phương của Hồng Kông, cuộc thi bị gián đoạn từ năm 2000 đến năm 2003 và được tái cấu trúc thương hiệu thành một cuộc thi sắc đẹp châu Á vào năm 2004, với các thí sinh trải dài khắp lục địa châu Á. Cuộc thi đã không còn tồn tại vào năm 2015 do đơn vị tổ chức ATV đã đóng cửa. Năm 2018, ATV thông báo rằng họ đang tái khởi động cuộc thi, sau khi chuyển đổi từ hoạt động phát sóng mặt đất sang công ty truyền thông trực tuyến. Cuộc thi sẽ do công ty CJ E&M của Hàn Quốc đồng hợp tác tổ chức, được giới truyền thông đưa tin là "thương vụ lớn nhất năm của ATV". Lịch sử hoạt động. 1985–2000: Bắt đầu dưới dạng cuộc thi sắc đẹp địa phương. Với thành công của "Hoa hậu Hồng Kông" do đài truyền hình đối thủ Hồng Kông Television Broadcasts Limited (TVB) tổ chức, ATV bắt đầu tổ chức "Hoa hậu Châu Á" vào năm 1985, tìm kiếm đại diện của Hồng Kông tham gia "Hoa hậu Quốc tế Châu Á Thái Bình Dương". Vào thời điểm đó, tên cuộc thi gây một chút hiểu nhầm vì "Hoa hậu Châu Á" thực sự được đặt tên để khớp với tên của nhà tổ chức Asia Television Limited và chỉ dành cho cư dân địa phương Hồng Kông tham gia. Năm 1995, cuộc thi làm nên lịch sử bằng cách loại bỏ giới hạn độ tuổi đối với các thí sinh. Năm đó, Cung Tuyết Hoa (宮雪花), ở tuổi 47 trở thành thí sinh lớn tuổi nhất của Hoa hậu Châu Á, xếp thứ 5 trong cuộc thi. Ngược lại, Đào Yên Nhân (陶安仁), là thí sinh nhỏ tuổi nhất khi mới 15 tuổi. Năm 2000, do rating thấp và thiếu nhà tài trợ, ATV thông báo rằng cuộc thi sẽ bị tạm ngừng cho đến khi có thông báo mới. 2000–nay: Hậu tạm ngưng và tái cấu trúc thương hiệu.
Hoa hậu châu Á (ATV)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814684
Năm 2004, ATV tái khởi động cuộc thi và tái cấu trúc thương hiệu thành một sự kiện không chỉ dành cho Hồng Kông mà còn cho phần còn lại của châu Á với sự góp mặt của các thí sinh từ những khu vực khác của châu Á, cuối cùng cũng xứng đáng với tên gọi một cuộc thi sắc đẹp toàn châu Á. Tuy nhiên, cuộc thi vẫn tập trung chủ yếu vào người Hoa, với nhiều đại diện đến từ Hồng Kông, Đài Loan và Trung Quốc Đại lục, so với một thí sinh từ mỗi quốc gia còn lại. Kể từ năm 2011, cuộc thi hoa hậu châu Á khu vực Trung Quốc chọn thí sinh Trung Quốc ở một số khu vực: Hồng Kông, Ma Cao, Trung Quốc đại lục, Đài Loan, Canada và Hoa Kỳ. Sau đó, những gương mặt xuất sắc nhất của các cuộc thi này cùng nhau tham dự "Vòng chung kết Đại Trung Quốc của cuộc thi hoa hậu châu Á", cũng là vòng bán kết của "Hoa hậu Châu Á ATV" nhằm chọn ra khoảng 10 thí sinh vào vòng chung kết (12 thí sinh lọt vào vòng chung kết vào năm 2013). Sau đấy những thí sinh này sẽ cùng với những quán quân hoa hậu quốc gia từ các quốc gia châu Á khác để tranh vương miện Hoa hậu châu Á ATV tại Vòng chung kết. Năm 2011, tên cuộc thi được sửa thành "Hoa hậu châu Á của ATV (ATV亞洲小姐競選)", điền thêm tên của nhà tổ chức vào tiêu đề để phân biệt với các cuộc thi sắc đẹp toàn châu Á khác. Năm 2018, ATV tái khởi động toàn bộ dự án sau khi công ty chuyển đổi thành công ty truyền thông trực tuyến.
Roya TV
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814686
Roya TV (tiếng Ả Rập : قناة رؤيا الفضائية) là kênh truyền hình tư nhân tại Jordan, có trụ sở tại thành phố Amman. Phát sóng chính thức vào ngày 1 tháng 1 năm 2011. Mục tiêu kênh truyền hình nhằm thúc đẩy dân chủ, tập trung vào các hoạt động tiếp cận cộng đồng đến các vùng sâu vùng xa trong nước, nâng cao nhận thức nhân quyền.
Danh sách kỳ thi tuyển sinh đại học và cao đẳng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814689
Đây là danh sách các bài khảo thí theo tiêu chuẩn mà học sinh có thể cần phải thực hiện để được nhận vào các đại học và trường đại học trên toàn thế giới, bao gồm cả trường cao đẳng tại Việt Nam. Các bài kiểm tra trình độ ngôn ngữ không được liệt kê ở đây. Giáo dục đại học. Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Hầu hết các ứng viên vào đại học ở Vương quốc Anh đều tham gia các kỳ thi quốc gia như A-level hoặc Scottish Higher. Các bài kiểm tra tuyển sinh riêng biệt được một số ít trường đại học sử dụng cho các môn học cụ thể (đặc biệt là Luật, Toán học và Y khoa, các khóa học tại Oxford và Cambridge), nhiều bài kiểm tra trong số này do Đại học Cambridge quản lý.
Distrokid
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814693
DistroKid là một dịch vụ phân phối nhạc kỹ thuật số độc lập, được thành lập vào năm 2013 bởi doanh nhân người Mỹ Thành lập. DistroKid được thành lập phát triển vào năm 2012 và ra mắt vào giữa năm 2013. Nó bắt đầu như một tính năng phụ của mạng xã hội âm nhạc của Kaplan, Fandalism, và được tách ra thành công ty riêng vào năm 2015. Vào tháng 7 năm 2015, bản phát hành DistroKid của nhóm nhạc Jack & Jack đã đạt vị trí số một trên toàn thế giới trên bảng xếp hạng iTunes. Điều này đặc biệt đáng chú ý vì DistroKid không nhận tiền hoa hồng hoặc tiền bản quyền, đây là lần đầu tiên một nghệ sĩ số một trong bảng xếp hạng có thể giữ lại 100% thu nhập của họ.
Hacker Severin
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814694
Severin Hacker (sinh ngày 6 tháng 7 năm 1984) là một Nhà khoa học máy tính người Thụy Sĩ là nhà đồng sáng lập đồng thời cũng là Giám đốc công nghệ của Duolingo ,ứng dụng học ngôn ngữ phổ biến nhất hiện tại . Tiểu sử. Hacker sinh ra và lớn lên ở Zug ,Thụy Sĩ và được học tại ETH Zürich,năm 2009 sau khi anh nhận bằng Ngành Cử nhân ngành khoa học máy tính ,vào năm 2009 Anh chuyển đến Pittsburgh để học tại Đại học Carnegie Mellon, nơi anh mà gặp được Luis von Ahn người mà sau này cùng đồng sáng ra Duolingo. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2020, Hacker chỉ ra rằng chơi game đóng vai trò khiến anh bị thu hút đến ngành khoa học máy tính. "Điều ban đầu thu hút tôi đến với máy tính là chơi trò chơi điện tử và tôi mong muốn xây dựng trò chơi theo cách của riêng mình cũng như theo cách những trò chơi đó được tạo ra. Tôi đã phần nào bị ám ảnh với trò chơi diện tử " . Thành lập Duolingo. Ban đầu, Severin Hacker và Luis von Ahn, muốn phát triển một ứng dụng có thể dịch các trang web trên internet để dành cho những người không giỏi Tiếng Anh vẫn có thể truy cập và hiểu được ngôn ngữ, tuy nhiên họ cảm thấy rằng phần mềm dịch ngôn ngữ tự động không hiệu quả bằng việc sử dụng các kỹ năng và kiến ​​thức của những người bản xứ. Sau này Hacker cùng với Ahn đã tạo ra Duolingo cho ứng dụng miễn phí để cho những người không có đủ tiền để học ngôn ngữ có thể truy cập để học.
Andrea Aguilera
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814695
Andrea Victoria Aguilera Paredes (sinh ngày 27 tháng 4 năm 2001) là một người mẫu và nữ hoàng sắc đẹp người Ecuador, đăng quang Hoa hậu Siêu quốc gia 2023, khiến cô trở thành người Ecuador đầu tiên đăng quang Hoa hậu Siêu quốc gia. Cô trước đó đã đăng quang Hoa hậu Hòa bình Ecuador 2021 và đại diện cho Ecuador tại cuộc thi Hoa hậu Hòa bình Quốc tế 2021, nơi cô giành ngôi vị Á hậu 1. Tiểu sử. Aguilera sinh ra ở Ventanas, Ecuador vào ngày 27 tháng 4 năm 2001. Ngoài Ventanas và Guayaquil, cô còn sống ở các vùng khác của Ecuador, bao gồm cả Quito và Cuenca. Aguilera đại diện cho tỉnh của cô ấy trong một số cuộc thi sắc đẹp ở đất nước của cô ấy. Cô đang theo học ngành y tại Đại học Guayaquil vào năm 2021, nhưng đã tạm dừng nỗ lực học tập để tranh tài cho Miss Grand International 2021. Sau cuộc thi, Aguilera tham gia mùa thứ sáu của Soy el Mejor 2022, nhưng rời chương trình thực tế sau hai lần xuất hiện, do với ba giám khảo đưa ra những nhận xét xúc phạm về việc cô tham gia Hoa hậu Hòa bình Quốc tế. Năm 2022, Aguilera tiếp tục việc học của mình, theo đuổi bằng cử nhân Kinh doanh Quốc tế tại Đại học Chuyên ngành Holy Spirit. Cuộc thi sắc đẹp. Reina de Los Rios 2019. Aguilera bắt đầu sự nghiệp thi hoa hậu của mình vào năm 2018 sau khi cô giành quyền đại diện cho Ventanas trong cuộc thi truyền thống của tỉnh mình, Reina de Los Rios. Aguilera tham gia vào ngày 16 tháng 9, nơi cô được công bố là thí sinh. Vào ngày 27 tháng 9 năm 2019, Aguilera đã giành chiến thắng trong cuộc thi cấp tỉnh. Hoa hậu Trái đất Ecuador 2019. Trước khi thi đấu tại Reina de Los Rios. Aguilera tham gia cuộc thi quốc gia Hoa hậu Trái Đất, nơi cô kết thúc với danh hiệu Hoa hậu Trái đất Ecuador - Lửa (Á hậu 3), trong đêm chung kết. Hoa hậu Hòa bình Ecuador 2021. Aguilera quyết định trở lại vào năm 2021 và cạnh tranh danh hiệu. Cô là một trong sáu thí sinh tham gia phần đầu tiên của Hoa hậu Hòa bình Ecuador 2021. Vào ngày 26 tháng 6 năm 2021, cô đại diện cho Los Rios tại Hoa hậu Hòa bình Ecuador 2021 trên TC Televisión ở Guayaquil, Ecuador, nơi cô lọt vào Top 3 và sau đó được xướng tên là người chiến thắng, vượt qua 5 ứng cử viên khác.
Andrea Aguilera
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814695
Hoa hậu Hòa bình Quốc tế 2021. Là Hoa hậu Hòa bình Ecuador, Aguilera giành quyền đại diện cho Ecuador tại cuộc thi Hoa hậu Hòa bình Quốc tế 2021. Ngày 4 tháng 12, tại đêm chung kết, Aguilera lọt vào Top 20. Sau đó, ở phần thi áo tắm cô lọt vào Top 10. Sau phần thi Trang phục dạ hội và Bài phát biểu, Aguilera thẳng tiến vào Top 5. Sau đó và một số cuộc phỏng vấn do tỷ số hòa, cuối cùng cô ấy đã giành được vị trí Á hậu 1, khiến cô ấy trở thành người Ecuador đầu tiên đạt được vị trí cao nhất lần đầu tiên trong cuộc thi nói trên. Hoa hậu Siêu quốc gia 2023. Tháng 3 năm 2023, Aguilera được bổ nhiệm và đăng quang Hoa hậu Siêu quốc gia Ecuador. Cô đại diện cho Ecuador tại Nowy Sacz, Ba Lan và giành danh hiệu Hoa hậu Siêu quốc gia 2023. Aguilera là người Ecuador đầu tiên đăng quang trong lịch sử cuộc thi Hoa hậu Siêu quốc gia.
Linda Fruhvirtová
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814696
Linda Fruhvirtová (; sinh ngày 1 tháng 5 năm 2005) là một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Cộng hòa Séc. Vào ngày 26 tháng 6 năm 2023, cô đạt thứ hạng đánh đơn cao nhất là vị trí số 49 theo Hiệp hội Quần vợt Nữ (WTA). Vào ngày 6 tháng 2 năm 2023, cô đứng thứ số 221 ở bảng xếp hạng đôi. Cô có lần đầu tiên tham dự vòng đấu chính WTA Tour tại giải Prague Open 2020, nơi cô được đặc cách tham dự. Cô giành danh hiệu đơn WTA đầu tiên tại giải Chennai Open 2022. Cuộc sống. Sinh vào ngày 1 tháng 5 năm 2005 ở Cộng hòa Séc, Linda có một em gái, Brenda (sinh năm 2007), cũng là một vận động viên quần vợt. Linda đã tập luyện tại Mouratoglou Academy ở Nam Pháp kể từ năm 2017; cô cũng tập luyện tại Evert Tennis Academy vào tháng 1 năm 2021.
Ԙ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814697
Yae hay Yæ (Ԙ ԙ, chữ nghiêng: "Ԙ" "ԙ") là một chữ cái trong bảng chữ cái Kirin. Nó là dạng chữ ghép của Я (Ya) và Е (E). Yae được sử dụng trong bảng chữ cái cổ của các ngôn ngữ Mordvin, nó đại diện cho [jæ], giống như cách phát âm của trong "yak".
Lutjanus novemfasciatus
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814721
Lutjanus novemfasciatus là một loài cá biển thuộc chi "Lutjanus" trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1862. Từ nguyên. Từ định danh "novemfasciatus" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "novem" (“9”) và "fasciatus" (“có sọc”), hàm ý đề cập đến 9 vạch sẫm mờ ở thân trên loài này. Phân bố và môi trường sống. "L. novemfasciatus" có phân bố rộng rãi ở Đông Thái Bình Dương, từ bang California (Hoa Kỳ) và vịnh California trải dài về phía nam đến Peru, bao gồm quần đảo Galápagos, đảo Cocos và đảo Malpelo ngoài khơi. "L. novemfasciatus" sống trên các rạn san hô, cá con thường có thể bắt gặp ở cửa sông hoặc rừng ngập mặn, được tìm thấy ở độ sâu độ sâu ít nhất là 60 m. Cá trưởng thành có thể ngược dòng tới 20 km để tiến vào sông. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. novemfasciatus" là 170 cm. Loài này có màu ô liu đến đỏ nâu ở lưng và hai bên thân, trắng bạc ở thân dưới. Thân trên có 8–9 vạch nâu, đặc biệt sẫm màu ở cá con, nhưng đôi khi mờ nhạt ở cá lớn có vây sẫm màu. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 13–14; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8. Sinh thái. Thức ăn của "L. novemfasciatus" cá nhỏ và nhiều loài thủy sinh không xương sống khác, chủ yếu là giáp xác mười chân như họ Tôm gai, họ Tôm he hay họ Cua bơi. Cá con "L. novemfasciatus" là một loài có tính rộng muối (euryhalinity). Khi triều lên, độ mặn của nước tăng lên do dòng biển xâm nhập vào lạch, ngọt dần do lượng nước ngầm chảy ra hòa vào khi triều xuống. "L. novemfasciatus" con vẫn cư trú trong những lạch nước ngập mặn này bất kể giai đoạn thủy triều nào khi được quan sát ở đảo Isabela (Galápagos). Mùa sinh sản của "L. novemfasciatus" diễn ra từ tháng 5 đến tháng 9. Cá đực thuần thục sinh dục khi đạt chiều dài 58 ± 3 cm, cá cái thì 64 ± 4 cm. Giá trị. "L. novemfasciatus" là một loài quan trọng trong nghề đánh bắt thủ công ở Colombia, và là loài thương mại ở Nicaragua.
Giao lộ Taiei
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814725
Giao lộ Taiei (Tiếng Nhật: ジャンクション), còn được gọi là Taiei JCT (Tiếng Nhật: JCT) , là một giao lộ nằm ở Narita, Chiba, Nhật Bản, Nhật Bản. Nó là điểm giao nhau giữa , và .
Ԝ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814728
We (Ԝ ԝ, chữ nghiêng: "Ԝ" "ԝ") là một chữ cái trong bảng chữ cái Kirin. Ở tất cả các hình dạng, nó trông giống hệt chữ cái Latinh W (W w "W" "w"). We được sử dụng trong dạng chữ Kirin của tiếng Kurd, trong một số dạng chữ khác của tiếng Yaghnob và trong tiếng Tundra Yukaghir. Cách sử dụng. Bảng dưới đây là các cách phát âm chính cho mỗi ngôn ngữ; để biết chi tiết tham khảo các bài viết về ngôn ngữ đó. Dạng chữ thường của We tương tự như một số dạng chữ Kirin Omega.
Brenda Fruhvirtová
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814740
Brenda Fruhvirtová (sinh ngày 2 tháng 4 năm 2007) là một vận động viên quần vợt người Cộng hòa Séc. Fruhvirtová có thứ hạng ITF trẻ cao nhất là vị trí số 4 thế giới, đạt được vào ngày 13 tháng 12 năm 2021. Cuộc sống. Sinh ra ở Prague, thủ đô của Cộng hòa Séc, Brenda là em gái của vận động viên quần vợt chuyên nghiệp Linda Fruhvirtová. Chị em Fruhvirtová đã tập luyện tại Mouratoglou Tennis Academy ở Nam Pháp kể từ năm 2017.
Basset
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814748
Basset (tiếng Pháp "bassette", từ tiếng Ý "bassetta"), còn được gọi là barbacole và hocca, là một trò chơi đánh bạc sử dụng bài bạc, được coi là một trong những trò chơi lịch sự nhất. Nó dành cho những người thuộc tầng lớp cao nhất vì những khoản thua hoặc thắng lớn mà người chơi có thể gánh chịu. Basset ở Ý. Theo DELI ("Dizionario etimologico della lingua italiana"), từ "Basetta" được ghi nhận lần đầu trong nửa đầu thế kỷ 15. Trò chơi Basset được mô tả là được phát minh vào năm 1593 bởi một quý tộc Venetian tên là Pietro Cellini, người bị lưu đày ở Corsica vì sáng chế của mình. Nó có thể đã được tạo ra từ trò chơi Hocca, Hoca hoặc thậm chí Hoc, được coi là phiên bản trước và một hình thức cấm của roulette Ý mà người ta mất số tiền đáng kể, và cũng là một phiên bản sớm của Biribi, được Cardinal Mazarin mang vào thời trang. Basset ở Pháp. Basset được giới thiệu lần đầu vào Pháp bởi Signior Justiniani, đại sứ của Venice, vào năm 1674. Trò chơi này rất phổ biến tại triều đình của Vua Charles II, và ngay cả sau ngày 15 tháng 1 năm 1691, khi Louis XIV ban hành một sắc lệnh từ hội đồng riêng của mình, trong đó ông cấm cụ thể không chỉ các sĩ quan trong quân đội của mình, mà còn tất cả những người khác không phân biệt giới tính hoặc tôn giáo chơi Hoca, Pharaoh, Barbacole và Basset. Số tiền mất mát trong trò chơi này ở Pháp rất đáng kể đến nỗi quý tộc đe dọa bị sa lầy sau khi nhiều người có địa vị bị sa sút. Sau đó, luật chống đánh bạc được siết chặt, và họ giấu Basset dưới cái tên "pour et contre", tức là "ủng hộ và phản đối". Theo quy định của Basset, người chia bài (người quản lý ngân hàng) được đảm bảo lợi thế lớn và lợi nhuận của họ rất lớn, đến mức đặc biệt là chỉ những người thuộc các gia đình quý tộc mới được cấp quyền sở hữu một ngân hàng Basset, nơi mức cược không giới hạn. Điều này đảm bảo rằng người chia bài có thể thu được một tài sản đáng kể trong thời gian ngắn. Ưu điểm của người chia bài xuất phát từ nhiều cách, nhưng chủ yếu là từ sự cám dỗ của những người chơi mạo hiểm để tăng cược trên những cơ hội tuyệt vọng nhất, những cơ hội hiếm khi xuất hiện và trong thời gian dài góp phần lớn cho lợi ích của ngân hàng.
Basset
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814748
Khi được cấp phép để mở một bàn Basset công cộng ở Pháp, mức cược được giới hạn chặt chẽ là mười hai xu. Basset ở Anh. Basset di cư đến Anh vào khoảng năm 1677, được giới thiệu bởi một người chia bài gọi là Morin, nhưng không thành công ngoài các vòng cung điện do chi phí cao và những rủi ro nặng nề đối với người chơi. Thời kỳ hoàng kim của nó có vẻ đã là vào đầu thế kỷ 18. Nó không xuất hiện trong cuốn "The Complete Gamester" năm 1674 của Cotton, nhưng được đánh giá cao trong phiên bản năm 1721 với một mục nhập dài nơi mà tính khốc liệt của đánh bạc được nhấn mạnh. Nó được mô tả là một "trò chơi Pháp", có lẽ vì nó đã được nhập khẩu từ Pháp. Mức cược cao của trò chơi, cùng với sự tàn phá của nó, là chủ đề của vở hài năm 1705 "The Basset Table" của Susanna Centlivre. Người Anh đã biến Basset trở nên khác biệt so với những gì nó đã là ở Pháp (shbet), nơi theo sắc lệnh hoàng gia, công chúng chung không được phép chơi với mức cược hơn một franc hoặc một bank mười đồng xu, - và những mất mát hoặc lợi nhuận không thể mang đến sự tuyệt vọng cho một gia đình. Ở Anh, những người chơi có thể làm theo ý mình, đặt cược từ một guinea đến một trăm guinea trở lên, trên một lá bài. Sau ba hoặc bốn năm, nhiều người chơi đã làm trống kiệt gia đình của họ đến mức Quốc hội ban hành một lệnh cấm với những hình phạt nghiêm khắc đối với cả hai trò chơi. Tuy nhiên, như người viết cổ của chúng ta nói, "vì tính chất quyến rũ," "vì các phép nhân và lợi ích khác nhau mà nó có vẻ như đề nghị cho những người chơi thiếu thận trọng, nhiều người rất thích nó đến mức họ sẽ chơi với mức cược nhỏ hơn thay vì bỏ cuộc; và hơn là không chơi, họ sẽ đặt cược tại một bank sáu xu, ba xu, thậm chí hai xu - điều này cho thấy hy vọng giành chiến thắng trong quinze-et-le-va và trente-et-le-va đã làm cho họ say mê." Lợi thế. Việc chơi Basset cuối cùng dẫn đến một hình thức xổ số. Một người chơi có thể đôi khi thắng, nhưng người chiến thắng lớn là người chia bài (ngân hàng). Người chia bài có một số đặc quyền theo quy tắc, bao gồm quyền quyết định duy nhất về lá bài đầu và lá bài cuối; điều này mang lại cho họ một lợi thế đáng kể.
Basset
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814748
Điều này là một sự thật được công nhận rõ ràng ở Pháp đến nỗi vua ra lệnh công khai rằng đặc quyền của một "tallière" (người chia bài) chỉ được phép dành cho "chief cadets" (con trai của quý tộc). Giả định của ông là ai đảm nhận vai trò ngân hàng phải trong một thời gian rất ngắn, tích luỹ được một tài sản đáng kể. Quy tắc chơi. Các người chơi ngồi xung quanh một cái bàn, người chia bài (ngân hàng/người chia bài) ở giữa, với ngân hàng vàng trước mặt, và những người chơi hoặc người đặt cược mỗi người có một cuốn sách gồm 13 lá bài. Mỗi người đặt xuống một, hai, ba hoặc nhiều lá bài tùy ý, với số tiền đặt cược. Người chia bài lấy phần còn lại của bộ bài trong tay và lật chúng lên, với lá bài ở phía dưới được gọi là fasse; sau đó, ông trả một nửa giá trị số tiền đặt cược bởi người chơi lên bất kỳ lá bài thuộc loại đó (hạng). Sau khi fasse được lật lên, và người chia bài và người thu tiền cược (người thu tiền cược, tương tự như một người chia bài) đã xem qua các lá bài trên bàn và tận dụng tiền được đặt cược, người chia bài tiếp tục với việc chia bài; và lá bài tiếp theo xuất hiện, dù là quân vương, hoàng hậu, át hay bất kỳ quân bài nào khác, sẽ thắng cho người chơi (thưởng 1-1), người chơi có thể nhận tiền, hoặc sẽ tiếp tục với paroli (nhân đôi cược), như đã nói trước đó, để tiến tới sept-et-le-va (thưởng 7-1). Lá bài sau đó thắng cho người chia bài, người lấy tiền từ lá bài thuộc loại đó của mỗi người chơi và đưa vào ngân hàng của mình, một lợi thế rõ ràng và to lớn hơn so với người chơi. Người chia bài, nếu lá bài thắng là quân vương, và lá bài tiếp theo là mười, ông nói (cho thấy lá bài quanh vòng): 'Quân vương thắng, mười thua,' trả tiền cho những lá bài đó và lấy tiền từ những người thua, thêm vào ngân hàng của mình. Sau đó, ông tiếp tục với việc chia bài: 'Át thắng, năm thua;' 'Bồi (quân J) thắng, bảy thua;' và tiếp tục như vậy, mỗi lá bài khác nhau lượt lượt thắng và thua, cho đến khi tất cả các lá bài đã được chia nhưng chỉ còn lại một lá bài.
Basset
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814748
Theo quy tắc của trò chơi, lá bài cuối cùng được lật lên là vì lợi ích của người chia bài; mặc dù một người chơi có thể có một lá bài thuộc loại đó, nhưng nó vẫn được cho phép là một trong những phần công nợ của người chia bài, ông không trả tiền cho nó. Người chơi táo bạo may mắn và phiêu lưu, và có thể đặt cược với một số tiền lớn vào sept-et-le-va (thưởng 7-1), quinze-et-le-va (thưởng 15-1), trente-et-le-va (thưởng 30-1), v.v., phải đã tăng gấp đôi số tiền cược ban đầu của mình một cách kỳ diệu; nhưng điều này hiếm khi được thực hiện; và sự mất mát của người chơi, bởi tính chất của trò chơi, luôn luôn vượt quá mất mát của ngân hàng; thực tế, trò chơi này hoàn toàn thuận lợi cho ngân hàng; và tuy nhiên rõ ràng rằng, bất chấp sự nhận thức này, trò chơi phải đã là một trong những trò chơi hấp dẫn và cuốn hút nhất từng được phát minh. Gian lận. Tất nhiên, ở Basset cũng có những hình thức gian lận được thực hiện bởi người chia bài hoặc ngân hàng, ngoài những lợi thế quy định của họ. Có thể chia bài sao cho người chơi không thắng được trong suốt bộ bài; và người chia bài có quyền để người chơi thắng nhiều lần theo ý muốn của mình. Thuật ngữ. Vào năm 1870, trò chơi được mô tả ở Anh sử dụng sự kết hợp của từ và cách viết từ tiếng Pháp và tiếng Anh: Tính toán toán học. Basset đã trở thành đối tượng của các tính toán toán học. Abraham de Moivre đã ước tính mức thua của người chơi dưới mọi trường hợp về số lá bài còn lại trong bộ khi người chơi đặt cược, và bất kỳ số lần nào lá bài của anh ta được lặp lại trong bộ. De Moivre đã tạo ra một bảng cho thấy mức thiệt hại của người chơi trong bất kỳ tình huống nào anh ta có thể gặp phải. Từ bảng này, có những điều sau đây: Nguồn. Steinmetz, Andrew (1870) "Chapter X: Piquet, Basset, Faro, Hazard, Passe-dix, Put, Cross and Pile, Thimble-rig" "The Gaming Table: Its Votaries and Victims: In all times and countries, especially in England and in France" Vol. II, Tinsley Brothers, London, ; trực tuyến tại Project Gutenberg
Ga đại học Sungkyunkwan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814750
Ga Đại học Sungkyunkwan (Tiếng Hàn: 성균관대역, Hanja: 成均館大驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Gyeongbu nằm ở Yuljeon-dong, Jangan-gu, Suwon-si, Gyeonggi-do. Tất cả các chuyến tàu trên Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1, bao gồm cả tàu địa phương và tàu tốc hành, đều dừng ở đây. Trong những ngày đầu, nó được mở với tên gọi Ga Yuljeon, nhưng theo yêu cầu của Khuôn viên Khoa học Tự nhiên Đại học Sungkyunkwan gần đó, tên ga đã được thay đổi và có tên như ngày nay. Tuy nhiên, một số người dân đã yêu cầu khôi phục tên nhà ga thành Ga Yuljeon.
Ҭ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814756
Te với nét gạch đuôi (Ҭ ҭ, chữ nghiêng: "Ҭ" "ҭ") là một chữ cái trong bảng chữ cái Kirin. Hình dạng của nó bắt nguồn từ chữ cái Kirin Te (Т т "Т" "т") bằng cách thêm một nét gạch đuôi vào phần cuối của chữ cái. Te với nét gạch đuôi được sử dụng trong bảng chữ cái của tiếng Abkhaz, trong đó nó đại diện cho âm , giống như cách phát âm của trong "tick".
Lịch sử (sách của Herodotos)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814768
Lịch sử (, ; tiếng Anh The History) là một bộ sách lịch sử của Herodotus. Tác phẩm được các nhà sử học đánh giá đã khai sinh chuyên ngành nghiên cứu lịch sử của nền văn minh phương Tây. Tác phẩm được Herodotus viết bằng tiếng Hi Lạp cổ đại vào năm 430 trước Công nguyên, nó ghi chép về các truyền thống cổ xưa, các vấn đề chính trị, địa lý và xung đột của các nền văn hóa khác nhau ở Hy Lạp, Tây Á và Bắc Phi vào thời điểm đó. Mặc dù quan điểm của tác phẩm (cũng chính là quan điểm của Herodotus) không hoàn toàn khách quan nhưng nó vẫn là một trong những nguồn quan trọng nhất của các sử gia để nghiên cứu về lịch sử phương Tây cổ đại. Hơn nữa, nó đã thiết lập chuyên ngành nghiên cứu về lịch sử ở thế giới phương Tây (mặc dù đã có sự tồn tại của các văn bản ghi chép lịch sử và biên niên sử từ trước đó). Lịch sử cũng là một trong những tài liệu sớm nhất ghi chép về sự trỗi dậy của Đế chế Ba Tư, cũng như các sự kiện và nguyên nhân của Chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Trong các ấn bản hiện đại Lịch sử thường được in thành chín cuốn sách, mỗi cuốn được đặt tên theo tên của các Nàng thơ Muse. Tái bản ở Việt Nam. Ở Việt Nam, tác phẩm được PGS-TS Lê Đình Chi biên dịch và xuất bản với tiêu đề Lịch sử (Historiai). Cuốn sách đã đạt giải A, là giải cao nhất của Giải thưởng sách quốc gia năm 2020.
Quân hàm Quân đoàn cơ giới Quốc gia xã hội chủ nghĩa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814770
Các cấp bậc và phù hiệu của Quân đoàn cơ giới xã hội chủ nghĩa quốc gia ( Nationalsozialistisches Kraftfahrkorps, viết tắt NSKK ) là một hệ thống xếp hạng bán quân sự ở Đức được sử dụng từ những năm 1931 đến 1945. Chúng dựa trên cấp bậc và phù hiệu của Sturmabteilung ( SA ), mà NSKK ban đầu là một phần. Phù hiệu đơn vị. Đối với tất cả các cấp bậc Oberstaffelführer trở xuống, NSKK mang một miếng vá cổ áo đơn vị, được đeo trên cổ áo bên phải, đối diện với huy hiệu cấp bậc. Huy hiệu đơn vị này hiển thị số Sturm (Đại đội) của một thành viên, tiếp theo là số của trung đoàn cơ giới mà họ trực thuộc Quân đoàn cơ giới xã hội chủ nghĩa quốc gia .
Ed Cooked
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814774
Edward Cooke (Ed Cooke) (sinh năm 1982), sinh ra và lớn lên ở Oxfordshire là một doanh nhân người Anh nổi tiếng vì là là tác của cuốn sách "Learn the Stuff You Thought You Never Could" (Tìm hiểu những thứ bạn nghĩ rằng bạn là bất khả thi), đồng thời cũng là nhà sáng lập ra ứng học ngôn ngữ Memrise, là ứng dụng sử dụng phương pháp lặp lại ngắt quãng nghĩa là là kỹ thuật gia tăng thời gian giữa những lần ôn tập, tức lặp đi lặp lại những kiến thức đã học theo chu kỳ giúp tăng khả năng ghi nhớ kiến thức đã học. Sự nghiệp. Năm 2004 ,Sau khi tốt nghiệp ngành tâm lý học ở Đại học Oxford, và tốt nghiệp bằng thạc sĩ về khoa học nhận thức dưới sự chỉ dẫn của J. Kevin O'Regan, năm 2005 ông bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu,viết và dạy các kĩ năng ghi nhớ. Năm 23 tuổi, ông trở thành Bậc thầy Trí nhớ. Cooked sử dụng các kĩ năng ghi nhớ phổ biến của những người như Tony Buzan và Dominic O'Brien. Trong năm 2010, ông cùng đồng sáng lập Ben Whately và Greg Detre tạo ra ứng học ngôn ngữ nổi tiếng Memrise, là ứng dụng sử dụng phương pháp lặp lại ngắt quãng nghĩa là là kỹ thuật gia tăng thời gian giữa những lần ôn tập, tức lặp đi lặp lại những kiến thức đã học theo chu kỳ giúp tăng khả năng ghi nhớ kiến thức đã học. Thành tích. Hầu hết thành tích của ông đều liên quan đến khả năng ghi nhớ :
Ibrahim Al-Zubaidi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814776
Ibrahim Al-Zubaidi () là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ả Rập Xê Út thi đấu ở vị trí hậu vệ biên cho Al-Ahli. Sự nghiệp. Al-Zubaidi bắt đầu sự nghiệp của mình tại đội trẻ của Al-Wehda. Anh có trận ra mắt cho đội một trong mùa giải 2009-10. Vào ngày 17 tháng 6 năm 2012, anh đã ký một thỏa thuận trước hợp đồng với Al-Nassr. Anh chính thức gia nhập Al-Nassr vào tháng 1 năm 2013. Vào ngày 7 tháng 1 năm 2016, Al-Zubaidi rời Al-Nassr và gia nhập Najran. Sau khi Najran rớt hạng xuống Giải hạng nhất Ả Rập Xê Út vào cuối mùa giải 2015-16, Al-Zubaidi rời câu lạc bộ và ký hợp đồng 3 năm với Al-Taawoun. Vào ngày 19 tháng 12 năm 2018, Al-Zubaidi gia hạn hợp đồng với Al-Taawoun cho đến năm 2021. Vào ngày 26 tháng 7 năm 2021, Al-Zubaidi gia nhập đội bóng mới thăng hạng tại Giải Vô địch quốc gia Al-Tai. Ngày 18 tháng 7 năm 2022, Al-Zubaidi gia nhập Al-Ahli. Danh hiệu. Al-Nassr Al-Taawoun
Mohammed Al-Zubaidi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814778
Mohammed Al-Zubaidi (; sinh ngày 25 tháng 8 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ả Rập Xê Út hiện đang chơi ở vị trí hậu vệ cánh cho Al-Taraji. Sự nghiệp. Vào ngày 10 tháng 8 năm 2022, Al-Zubaidi gia nhập đội bóng ở giải hạng nhất Al-Orobah theo dạng chuyển nhượng tự do. Ngày 22 tháng 6 năm 2023, Al-Zubaidi gia nhập Al-Taraji.
Động đất Bán đảo Noto 2007
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814784
là trận động đất xảy ra vào lúc 9:41 (JST), ngày 25 tháng 3 năm 2007. Trận động đất có cường độ 6.7 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 11 km. Cơ quan khí tượng Nhật Bản đã phát cảnh báo sóng thần cho toàn bộ bờ biển thuộc tỉnh Ishikawa. Sóng thần cao 22cm đã đánh vào Suzu, Ishikawa. Hậu quả trận động đất đã làm 1 người chết, 356 người bị thương.
Shafia Zubair
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814785
Shafia Zubair là một chính khách Ấn Độ đến từ Rajasthan và là đảng viên của Đảng Quốc đại Ấn Độ. Bà được bầu làm thành viên của Hội đồng Lập pháp Rajasthan tại Ramgarh, Alwar vào ngày 31 tháng 1 năm 2019. Bà đã đánh bại đối thủ gần nhất từ Đảng Bharatiya Janata với cách biệt 12.221 phiếu. Bà là vợ của Thư ký Ủy ban Quốc hội Toàn Ấn Độ Zubair Khan.
Tiếng Kunigami
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814792
Tiếng Kunigami hay tiếng Bắc Okinawa (), là một ngôn ngữ Lưu Cầu ở phía Bắc đảo Okinawa ở quận Kunigami và thành phố Nago, còn được gọi là vùng Yanbaru, trong lịch sử là lãnh thổ của vương quốc Bắc Sơn. Phương ngữ Nakijin thường được coi là đại diện của tiếng Kunigami, tương tự như phương ngữ Shuri-Naha của tiếng Trung Okinawa. Số lượng người bản ngữ thông thạo tiếng Kunigami không được biết đến. Do chính sách ngôn ngữ của Nhật Bản, thế hệ trẻ chủ yếu nói tiếng Nhật như ngôn ngữ đầu tiên của họ. Vị trí. Ngoài phần phía bắc đảo Okinawa, tiếng Kunigami được nói trên các đảo nhỏ lân cận Ie, Tsuken và Kudaka. Phạm vi và phân loại. "Glottolog", theo Pellard (2009), phân loại tiếng Kunigami với tiếng Trung Okinawa là hai ngôn ngữ Okinawa. "Ethnologue" thêm Okinoerabu và Yoron; những ngôn ngữ này (cùng với tất cả các ngôn ngữ khác ở phía bắc quần đảo Ryukyu) được "Glottolog" phân loại là các ngôn ngữ Amami. "Bản đồ các ngôn ngữ đang gặp nguy hiểm" của UNESCO, theo sau Uemura (2003), bao gồm Okinoerabu và Yoron như các biến thể của tiếng Kunigami. Thuật ngữ dân gian. Những người nói tiếng Kunigami có nhiều từ khác nhau để chỉ "ngôn ngữ", "phương ngữ" và "phong cách nói". Ví dụ, nhà ngôn ngữ học Nakasone Seizen (1907–1995) nói rằng phương ngữ của cộng đồng quê hương ông Yonamine, làng Nakijin có (các dạng từ tiếng Nhật chuẩn tương ứng trong ngoặc đơn): ("kuchi"), ("kotoba") và ("monoii"). Ngôn ngữ của cộng đồng của chính mình được gọi là hay . Phương ngữ Yonamine là một phần của phương ngữ phía tây Nakijin được gọi là . Phần phía bắc Okinawa thường được gọi là Yanbaru và do đó ngôn ngữ của nó đôi khi được gọi là . Âm vị học. Giống như hầu hết các ngôn ngữ Lưu Cầu ở phía bắc Trung Okinawa, tiếng Kunigami có một loạt các phụ âm "nhấn mạnh" hoặc "bằng". Trong khi các âm mũi và âm lượn thực sự được "ngậm", thì các âm tắc , trái ngược với các âm tắc . Tiếng Kunigami cũng đáng chú ý vì sự hiện diện của một âm vị tách biệt với âm vị được cho là nguồn gốc lịch sử của trong hầu hết các ngôn ngữ Nhật Bản-Lưu Cầu khác; trong tiếng Kunigami thay vào đó có hai nguồn khác nhau: , hoặc nói cách khác là chữ cái đầu bằng 0 trong một số môi trường điều hòa nhất định.
Tiếng Kunigami
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814792
Vì vậy, ví dụ, phương ngữ Nakijin của tiếng Kunigami có từ (ánh sáng, ngọn đèn, shōji), có nguồn gốc với từ tiếng Nhật (ánh sáng, ngọn đèn); dạng tiếng Kunigami được phân biệt với cùng nguồn gốc Nhật Bản của nó bằng âm đầu , bằng , và loại bỏ *r trước *i. Tiếng Kunigami cũng tạo ra sự khác biệt trong một số cặp từ nhất định, chẳng hạn như phương ngữ Nakijin (đám mây) và (con nhện), mà trong tiếng Nhật gần như đồng âm ( và ). Hình thái học. Một điểm khác biệt đáng chú ý trong việc sử dụng một số dấu hiệu hình thái nhất định giữa tiếng Kunigami và tiếng Nhật tiêu chuẩn là việc sử dụng làm trạng từ trong tiếng Kunigami. Ví dụ: Phương ngữ Nakijin , tương đương với tiếng Nhật tiêu chuẩn "toókú hanárete irú" ("Nó ở rất xa"). Trong tiếng Nhật tiêu chuẩn, được sử dụng như trạng từ, trong khi được sử dụng riêng để lấy các danh từ trừu tượng về chất lượng và số lượng ("-ness") từ gốc tính từ.
Đảng Tự do Bắc Âu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814793
Đảng Tự do Bắc Âu (tiếng Anh: "Nordic Freedom") là nhóm đảng phái chính trị cánh hữu của Hội đồng Bắc Âu.
Nút giao thông Narita
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814794
Nút giao thông Narita (Tiếng Nhật: インターチェンジ) còn được gọi là Narita IC (Tiếng Nhật: IC) là điểm giao cắt số 10 của , nối liền Narita, Chiba, Nhật Bản. Cùng với cổng thu phí lối ra từ Đường cao tốc Đông Kanto, cổng thu phí chính cho được lắp đặt. Vì vậy, khi sử dụng đường sân bay mới, phí cầu đường giữa nút giao thông này và nút giao thông sân bay mới sẽ được thanh toán tại đây.
Alicia Barnett
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814807
Alicia Barnett (sinh ngày 18 tháng 10 năm 1993) là nữ vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Anh Quốc nổi bật ở nội dung đánh đôi. Vào ngày 24 tháng 10 năm 2022, cô đạt được thứ hạng cao nhất trên bảng xếp hạng đôi của WTA là thứ 59. Tiểu sử. Sinh ra ở Vương quốc Anh, Barnett bắt đầu chơi quần vợt từ năm 7 tuổi. Cô tham gia ITF Women's Circuit ở tuổi 16/17. Cô gia nhập Team Bath Tennis High-International Performance Academy khi 16 tuổi, thông qua chương trình Học nghề Thể dục và Thể thao Nâng cao (AASE) và kể từ đó đã trở lại đào tạo. Người ta tin rằng Alicia đã đi du học và tốt nghiệp tại Đại học Northwestern ở Illinois vào năm 2017. Barnett ra mắt WTA Tour tại Lyon Open 2022, đánh cặp với Olivia Nicholls. Bộ đôi này tiến tới trận chung kết; màn trình diễn của họ trong suốt năm 2022 dẫn đến việc cả hai đại diện cho Đội tuyển Billie Jean King Cup Vương quốc Anh trong trận gặp Kazakhstan và Tây Ban Nha tại Billie Jean King Cup 2022. Tài trợ. Barnett làm việc cùng với thương hiệu thể thao Ý, Ellesse và nhà sản xuất dụng cụ thể thao của Hoa Kỳ, Wilson. Đời tư. Nhà của Barnett ở Painswick, Gloucestershire. Thống kê sự nghiệp. Đôi. "Tính đến Vòng loại Billie Jean King Cup 2023"
Ryōtei
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814809
là loại nhà hàng truyền thống của Nhật Bản. Theo truyền thống chỉ chấp nhận khách hàng mới do geisha làm quen và chiêu đãi nhưng không phải lúc nào cũng đúng nhất là trong thời hiện đại. thường là nơi diễn ra các cuộc họp chính trị hoặc kinh doanh cấp cao một cách kín đáo. Tại Kanazawa, cạnh tranh để bán những bữa ăn mang về với mức giá cao nhất trong năm mới, một thông lệ đã có từ hàng thế kỷ nay. Vào thập niên 1840, Mạc phủ đã sử dụng các gián điệp để theo dõi hoạt động xung quanh , do danh tiếng và sự giàu có liên quan đến những người bảo trợ của họ và việc thắt chặt chi tiêu trong thời gian diễn ra cuộc cải cách Tenpō. phổ biến ở các thị trấn Nhật Bản bất kể quy mô cho đến thập niên 1960, khi việc sử dụng chúng bắt đầu giảm dần để chuyển sang các khách sạn và câu lạc bộ đêm làm nơi kết hợp kinh doanh với giải trí. Năm 1993, Thủ tướng lúc bấy giờ là Hosokawa Morihiro đã tuyên bố ngừng sử dụng , khiến loại nhà hàng này không còn phổ biến đối với giới chính khách mà cả các doanh nhân nữa. Việc giảm sử dụng geisha và đã khiến tính độc quyền bị nới lỏng và bí mật được sử dụng trong các dịch vụ của họ, chẳng hạn như quảng cáo trên Internet, đăng giá dịch vụ và chấp nhận nhóm khách hàng mới mà không cần tham khảo từ người bảo trợ có uy tín.
Hoàng Tá Thốn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19814822
Hoàng Tá Thốn (1254-1339) là một đại thần dưới triều đại nhà Trần, có nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ 3 của Đại Việt. Xuất thân. Sát Hải Đại Vương tên thật là Hoàng Tá Thốn, hiệu "Tô Đại Liêu" sinh năm 1254 tại làng Vạn Phần, huyện Diễn Châu. Mẹ người họ Trương ở thôn Lý Trai. Theo sự tích "“Điềm ứng trâu vàng”" cũng như gia phả họ Hoàng ở làng Vạn Tràng:Một buổi sáng, bà Trương Thị Hoa ra sông gánh nước, bỗng thấy hai con trâu vàng từ dưới nước nhảy lên đánh nhau dữ dội và lao đến chỗ bà. Bà vội cầm đòn gánh để đánh đuổi, đôi trâu lại nhảy xuống nước rồi biến mất. Trước khi gánh nước về nhà, bà không quên làm động tác tẩy uế đòn gánh. Nhưng lạ thay, bà vừa khỏa đầu đòn gánh xuống sông thì bỗng nhiên nước nơi đó khô cạn, nhưng khi bà cất đòn gánh thì nước lại đầy như thường. Thấy lạ, bà đưa gần lại nhìn thì thấy đầu đòn gánh có dính lông trâu vàng. Bà liền gom vật lạ ấy vào dải yếm rồi gánh nước về nhà (cũng có nơi nói lông trâu rơi vào thùng nước, bà uống phải). Sau đó, bà cảm thấy trong người khác thường rồi có thai. Ngày mãn nguyệt khai hoa, ánh hào quang bỗng tỏa sáng khắp nhà, một đứa bé khôi ngô tuấn tú, gương mặt hồng hào ra đời, được đặt tên là Hoàng Tá Thốn.Thuở nhỏ, Hoàng Tá Thốn có sức khỏe hơn người và sớm được đi học. Nhưng Hoàng Tá Thốn chỉ thích võ nghệ nên cha mẹ cũng chiều lòng và ở tuổi thanh niên đã nổi tiếng là người khỏe, võ nghệ cao cường. Đặc biệt, ông có tài bơi lội, lặn lâu dưới nước. Sự nghiệp. Khi Đại Việt bị quân Nguyên - Mông xâm lược, hưởng ứng lời kêu gọi của triều đình, Hoàng Tá Thốn rời quê hương sung vào đội bộ binh. Sau một thời gian, viên tướng chỉ huy thấy ông thông minh, lắm cơ mưu với tài bơi lội đặc biệt nên đã tiến cử lên Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Hưng Đạo Vương sung Hoàng Tá Thốn vào đội thủy binh thiện chiến của nhà Trần.