title
stringlengths 1
250
| url
stringlengths 37
44
| text
stringlengths 1
4.81k
|
---|---|---|
Những điều đáng ghét (trích đoạn) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820611 | Mục đích tác giả của nó viết ra danh sách này là để giúp độc giả giải trí với góc nhìn hài hước về nhu cầu luân chuyển của tâm tính con người. Sei đã viết ra nó với một giọng văn dè dặt để diễn đạt giấc mơ của bà về những thay đổi trong xã hội. Bà đã mô tả cho chúng ta thấy cách cỗ máy xã hội Nhật Bản vào thời đó vận hành ra sao, cũng như cảm nhận của bà về nó như thế nào.
Bối cảnh ra đời.
Sei Shōnagon đã từng là nữ quan hầu hạ trong cung của Hoàng hậu Teishi (定子, Định Tử) vào khoảng thế kỷ 10. Không ai biết chính xác về ngày sinh của bà. Nữ văn sĩ đã sống trong suốt thời đại Heian - thời kỳ nở rộ của nền Văn học Nhật Bản, đồng thời tạo dựng mối quan hệ "cạnh tranh" với nữ sĩ Murasaki Shikibu. Sei được biết đến là một người phụ nữ độc lập và nổi bật, người đã sử dụng những kỹ năng của mình để viết nên "Những điều đáng ghét" một cách thẳng thắn mà không có bất cứ sự sàng lọc nào. Trong suốt thời kỳ Heian ấy, nữ văn sĩ cũng đã viết ra những mẩu chuyện khác nhằm bày tỏ quan điểm cá nhân với thể thức trình bày khá giống với đoạn trích trên, trong đó có "Những thứ phiền muộn" ("Depressing Things)" và "Những điều tao nhã" ("Elegant Things)". Đoạn trích ngắn trên thuộc về tác phẩm "Truyện Gối đầu" nổi tiếng của bà, nói về những niềm tin cá nhân trong đời sống xã hội khiến bà phải suy ngẫm.
Ảnh hưởng sáng tác trong thời hiện đại.
Ngày nay, tại Nhật Bản, học sinh đôi khi sẽ lựa chọn hoặc được giao nhiệm vụ viết những văn bản có hình thức trình bày ăn theo hình thức của đoạn trích trên. |
Banu al-Munajjim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820616 | Banu al-Munajjim (), là một gia tộc Iran của các quan lại Abbasid được ghi nhận vào thế kỷ thứ 9 và 10. Họ tuyên bố có nguồn gốc từ triều đại Sassanid.
Lịch sử.
Theo Ibn al-Nadim, gia tộc Banu al-Munajjim có nguồn gốc từ Mihr-Gushnasp, một người con của vị vua cuối cùng của triều đại Sasan, Yazdegerd III (năm 632 – 651). Gia tộc này lần đầu được đề cập là vào thế kỷ thứ 9, khi tổ tiên cùng tên của gia tộc, Abu Mansur al-Munajjim (nguyên danh là Aban-Gushnasp), làm việc tại triều đình của vị khaliph Abbasid thứ hai, al-Mansur (năm 754 – 775), một nhà chiêm tinh ("al-munajjim"). Con trai của ông, Yahya, làm việc tại triều đình Abbasid dưới thời al-Ma'mun (năm 813 – 833), sau đó cải từ Hoả giáo sang Hồi giáo. Yahya có bốn người con trai tên Ali, Sa'id, Abdallah, và Hasan. Bốn người con trai này, giống như cha mình, cũng làm việc tại triều đình Abbasid. Ali thậm chí còn trở thành bạn bè với khaliph al-Mutawakkil (năm 847 – 861), và con trai của ông, Yahya, cũng tương tự nhưng với al-Muwaffaq, người hợp thức "de facto" làm quản trị thay cho anh trai al-Mu'tamid (năm 870 – 892). Một trong những người con khác của Ali, Harun, cũng làm việc tại triều đình Abbasid. Harun còn có một người con tên là Ali, nhưng cuối cùng lại phục vụ dưới thời Buyid khi họ trở thành những nhà cai trị mới của Baghdad. Ông là thành viên cuối cùng được biết đến trong gia tộc này. |
Bùi Duy Thường | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820619 | Bùi Duy Thường (sinh ngày 5 tháng 4 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Viettel tại V.League 1.
Danh hiệu.
Câu lạc bộ.
FC Viettel
Đội tuyển quốc gia.
U-21 Việt Nam |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1868 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820622 | Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1868 là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 21, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 3 tháng 11 năm 1868. Đây là cuộc bầu cử đầu tiên trong Kỷ nguyên Tái thiết, ứng cử viên của Đảng Cộng hòa Ulysses S. Grant đã đánh bại Horatio Seymour của Đảng Dân chủ. Đây là cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên diễn ra sau khi Nội chiến Hoa Kỳ kết thúc và chế độ nô lệ bị bãi bỏ. Đây là cuộc bầu cử đầu tiên mà người Mỹ gốc Phi có thể bỏ phiếu ở các bang miền Nam đang trong thời gian tái thiết, theo Đạo luật Tái thiết thứ nhất.
Tổng thống đương nhiệm Andrew Johnson kế nhiệm Abraham Lincoln vào năm 1865 sau khi Lincoln bị ám sát. Johnson, một đảng viên Đảng Dân chủ chủ chiến đến từ Tennessee, từng là đồng tranh cử với Lincoln vào năm 1864 với đề cử từ Đảng Liên minh Quốc gia, vốn ra đời để thu hút các đảng viên Cộng hòa và đảng viên Đảng Dân chủ chủ chiến. Khi lên nắm quyền, Johnson đã xung đột với Quốc hội kiểm soát bởi Đảng Cộng hòa về các chính sách Tái thiết và do đó bị luận tội và suýt bị phế truất khi cách biệt phiếu bãi nhiệm và tha bổng ông chỉ là 1 phiếu. Johnson đã nhận được một số sự ủng hộ để tái tranh cử tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1868, nhưng sau một số cuộc bỏ phiếu, đại hội đã đề cử Seymour, người trước đây từng là Thống đốc New York. Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1868 đã nhất trí đề cử Tướng Grant, người giữ chức Tướng tư lệnh tối cao của Liên bang vào cuối Nội chiến. Đảng Dân chủ chỉ trích các chính sách Tái thiết của Đảng Cộng hòa và "đã vận động tranh cử bằng cách chống người da đen và ủng hộ người da trắng," trong khi Đảng Cộng hòa vận động dựa trên sự nổi tiếng của Grant và chiến thắng của Liên bang trong Nội chiến.
Grant đã giành chiến thắng cách biệt trong phiếu đại cử tri, nhưng cách biệt trong phiếu phổ thông lại hẹp nhiều. Ngoài sự nổi tiếng của mình ở miền Bắc, Grant còn hưởng lợi từ các phiếu bầu của những nô lệ mới được trao tự do ở miền Nam, trong khi nhiều người da trắng ở miền Nam bị tước quyền bỏ phiếu tạm thời. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1868 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820622 | Vì 3 trong số các bang cũ của Liên minh miền Nam (Texas, Mississippi và Virginia) vẫn chưa tái gia nhập Liên bang, các đại cử tri của họ không thể bỏ phiếu trong cuộc bầu cử này. Đây là lần cuối cùng Missouri ủng hộ một ứng cử viên Đảng Cộng hòa cho đến năm 1904. Đây cũng là lần cuối cùng cho đến năm 1912, Đảng Dân chủ giành được nhiều phiếu đại cử tri từ miền Bắc (46) hơn miền Nam (34), mặc dù điều này một phần là do nhiều vấn đề liên quan đến Tái thiết, và vào năm 1912, Đảng Dân chủ nổi tiếng trên môi trường chính trị toàn quốc hơn cũng như dân số miền Bắc cao hơn. Đây cũng là lần cuối cùng đảng Cộng hòa giành được nhiều phiếu phổ thông ở miền Nam hơn ở miền Bắc cho đến năm 1964, một lần nữa do các bang tái thiết như Nam Carolina hay Tennessee.
Bối cảnh.
Sau Nội chiến, quyền công dân của những cựu nô lệ là một vấn đề được tranh luận sôi nổi trong Liên bang. Grant ủng hộ các kế hoạch Tái thiết của đảng viên Đảng Cộng hòa cấp tiến trong Quốc hội, vốn theo tinh thần của Tu chính án thứ 14, cung cấp đầy đủ quyền công dân cho những cựu nô lệ, trong đó bao gồm cả quyền bầu cử. Cương lĩnh của Đảng Dân chủ đã hạ thấp các quyền này và bôi nhọ nó là "quyền thượng đẳng của người da đen" và yêu cầu khôi phục quyền của các bang, trong đó có quyền của các bang miền Nam tự quyết định xem có cho phép cựu nô lệ bỏ phiếu hay không. Các bang thuộc Liên minh miền Nam trước đây đã quyết tâm hạn chế quyền công dân của những cựu nô lệ nhằm ủng hộ ứng cử viên Đảng Dân chủ.
Đề cử.
Đề cử của Đảng Cộng hòa.
Năm 1868, Đảng Cộng hòa đã cảm thấy đủ nổi tiếng để không dùng tên Đảng Liên minh Quốc gia nữa, họ muốn đề cử một anh hùng nổi tiếng cho vị trí tổng thống. Tướng Ulysses S. Grant vốn tự tuyên bố bản thân là đảng viên Cộng hòa và do đó được nhất trí đề cử trong lần bỏ phiếu đầu tiên với tư cách là ứng cử viên Tổng thống của đảng tại đại hội đảng Cộng hòa ở Chicago, được tổ chức từ ngày 20 đến 21 tháng 5 năm 1868. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1868 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820622 | Chủ tịch Hạ viện Schuyler Colfax, một đảng viên Đảng Cộng hòa cấp tiến từ Indiana, đã được đề cử làm Phó Tổng thống trong lần bỏ phiếu thứ sáu, đánh bại Thượng nghị sĩ Benjamin Wade từ Ohio.
Cương lĩnh của Đảng Cộng hòa ủng hộ quyền đi bầu cử của người da đen như một lời hứa theo tinh thần của Tu chính án thứ 14 rằng những cựu nô lệ có đầy đủ quyền công dân. Họ phản đối việc sử dụng đồng bạc xanh để mua lại trái phiếu Hoa Kỳ, khuyến khích nhập cư, tán thành các quyền đầy đủ cho công dân nhập tịch và ủng hộ Tái thiết khác với các chính sách khoan dung hơn của Tổng thống Andrew Johnson.
Đề cử của Đảng Dân chủ.
Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ được tổ chức tại thành phố New York từ ngày 4 đến ngày 9 tháng 7 năm 1868. Người dẫn đầu trong những cuộc bỏ phiếu đầu là George H. Pendleton (ứng cử viên Phó Tổng thống của đảng Dân chủ năm 1864), người đã dẫn đầu trong 15 lần bỏ phiếu đầu tiên, theo sau là Tổng thống Johnson, Winfield Scott Hancock, Sanford Church, Asa Packer, Joel Parker, James E. English, James Rood Doolittle, và Thomas A. Hendricks. Johnson vốn không được ưa chuộng, trước đó đã may mắn giữ được vị trí của mình sau cuộc luận tội, chỉ giành được 65 phiếu bầu trong lần bỏ phiếu đầu tiên, ít hơn một phần ba tổng số phiếu bầu cần thiết để được đề cử, và do đó đã thua cuộc bầu cử tổng thống ngay từ vòng sơ bộ.
Trong khi đó, chủ tịch Đại hội Horatio Seymour, cựu thống đốc New York, nhận được 9 phiếu trong lần bỏ phiếu thứ tư từ North Carolina. Động thái bất ngờ này đã tạo nên "sự cổ vũ lớn và nhiệt tình" cho ông, nhưng Seymour ban đầu từ chối.
Đến lần bỏ phiếu thứ 7, Pendleton và Hendricks đã nổi lên như hai ứng cử viên dẫn đầu, với Hancock là ứng cử viên duy nhất khác nhận được nhiều sự ủng hộ. Sau nhiều lần bỏ phiếu, John T. Hoffman, Francis P. Blair và Stephen Johnson Field đã lần lượt được xướng tên, nhưng không ứng cử viên nào trong số này nhận được sự ủng hộ đáng kể.
Trong suốt 21 lần bỏ phiếu, các ứng cử viên đã xâu xé lẫn nhau qua nhiều vấn đề: người miền Đông thì cạnh tranh với miền Tây, những người bảo thủ thì cạnh tranh với những người cấp tiến. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1868 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820622 | Sự ủng hộ dành cho Pendleton đã chấm dứt sau lần bỏ phiếu thứ 15, nhưng số phiếu ủng hộ nghiêng về Hancock chứ không phải Hendricks, khiến đại hội càng rơi vào bế tắc. Họ đã xác định rằng bản thân họ chắc chắn sẽ không được đề cử tổng thống; vì họ cần đạt 2/3 số phiếu của đại hội, do đó, một ứng cử viên thỏa hiệp cần được tìm ra thay vì đề cử 2 người trên. Seymour vẫn hy vọng người đó sẽ là Chánh án Salmon P. Chase, nhưng trong lần bỏ phiếu thứ 22, trưởng phái đoàn Ohio tuyên bố ủng hộ Seymour làm ứng cử viên của đảng. Trong khoảnh khắc đó, Seymour phải chờ cho những tiếng reo hò lắng xuống trước khi ông có thể từ chới đề nghị này. Dẫu đã từ chối, ông vẫn được các đại biểu ủng hộ cho vị trí ứng cử viên. Lặp lại lời từ chối, Seymour định rời sân khấu để nghỉ ngơi. Ông vừa rời khỏi hội trường thì trưởng phái đoàn Ohio hét lên rằng phái đoàn của ông sẽ không chấp nhận lời từ chối của Seymour; trưởng phái đoàn của Utah cũng đứng lên và nói rằng Seymour là người mà họ cần tìm. Trong khi Seymour đang vắng mặt ở phòng họp, đại hội đã nhất trí đề cử ông làm tổng thống.
Quá mệt mỏi với vị trí Tổng thống, các đại biểu đã nhất trí đề cử Tướng Francis Preston Blair, Jr. làm Phó Tổng thống trong lần bỏ phiếu đầu tiên sau khi John A. McClernand, Augustus C. Dodge và Thomas Ewing, Jr., rút lui. Việc đề cử Blair là cách để cân bằng vùng miền trong liên danh tranh cử của đảng.
Tổng tuyển cử.
Chiến dịch.
Chiến dịch năm 1868 của cả Horatio Seymour và Ulysses S. Grant đều được tiến hành rất sôi nổi, phần lớn tranh cãi về vấn đề Tái thiết nên được tiến hành như thế nào.
Chiến dịch của Seymour ghi dấu ấn bằng những lời kêu gọi phân biệt chủng tộc rõ ràng với nhiều lần cố gắng gán cho Tướng Grant là ứng cử viên của "người da đen" và Seymour là ứng cử viên của "người da trắng". Quân lệnh bài Do Thái do Grant ban hành trong Nội chiến là một vấn đề của toàn chiến dịch. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1868 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820622 | Ông đã buộc phải lên tiếng xin lỗi trong một lá thư về quân lệnh gây tranh cãi của mình, giải thích rằng bản thân ông không ủng hộ quân lệnh đó dù đích thân ông là người ban hành. Trên thực tế, trong những ngày còn tại ngũ, ông đã có lần ghé thăm một cửa hàng địa phương do hai anh em nhà Seligman, những thương gia người Do Thái, làm chủ. Họ sau này đã trở thành những người bạn trong suốt cuộc đời Grant. Họ dần trở nên giàu có và là những người đã quyên góp rất nhiều cho chiến dịch tranh cử tổng thống của Grant.
Grant không tham gia tích cực vào chiến dịch của mình và không hứa hẹn điều gì. Nhưng đảng Cộng hòa đã trích dẫn câu "Hãy để chúng ta có hòa bình" từ lá thư chấp nhận đề cử của ông làm châm ngôn và lời hứa với cử tri suốt cuộc bầu cử. Sau 4 năm Nội chiến đẫm máu, 3 năm tranh cãi về Tái thiết và nỗ lực luận tội một Tổng thống, dân chúng đã khao khát từ lâu một quốc gia hòa bình mà Grant và đảng Cộng hòa cam kết sẽ gây dựng khi lên nắm quyền.
Seymour không phản hồi bất kỳ cáo buộc giả mạo nào chống lại ông, nhưng đã có một số bài phát biểu quan trọng. Một số tờ báo đã hiểu nhầm những việc làm của ông. Với tư cách là thống đốc, Seymour đã từng gửi quân viện trợ Liên bang tới Trận Gettysburg, nhưng một số tờ báo đã cố gắng miêu tả ông là một người không trung thành với Liên bang. Tờ "New York Tribune" đăng những bức ảnh châm biếm mô tả Seymour đứng trên bậc thềm của Tòa Thị chính và gọi đám đông những kẻ nổi dậy ở New York là "các bạn của tôi". "Hartford Post" miêu tả ông là "gần giống với một xác chết" giống như cựu Tổng thống James Buchanan vừa qua đời. Ngoài ra, các đảng viên Cộng hòa cáo buộc rằng gia đình Seymour bị tâm thần, lấy bằng chứng với việc cha ông tự sát.
Blair đã bắt đầu diễn thuyết trên toàn quốc, ở đó ông sử dụng rất nhiều thuật ngữ phân biệt chủng tộc, thậm chí hạ nhục người da đen bằng nhiều lời lẽ ghê tởm. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1868 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820622 | Vì đó, đảng Cộng hòa kêu gọi người Mỹ không bỏ phiếu cho Seymour, vì Seymour vốn không muốn làm Tổng thống nên nhiều khả năng khi đắc cử, ông sẽ từ chức và Blair sẽ kế vị ông.
Blair nổi tiếng là người thẳng thắn và các bài phát biểu trong chiến dịch tranh cử của ông vào năm 1868 đã tấn công nhiều đảng viên Đảng Cộng hòa Cấp tiến. Samuel J. Tilden, một thành viên của Ủy ban toàn quốc Đảng Dân chủ, đã yêu cầu Blair hạn chế vận động tranh cử ở Missouri và Illinois vì sợ rằng ông ấy sẽ phá hỏng những nỗ lực của Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử.
Seymour, người không đóng vai trò tích cực trong chiến dịch cho đến thời điểm đó, đã tham gia vận động, tìm cách lái chiến dịch khỏi các bài phát biểu của Blair. Seymour nhấn mạnh rằng những thay đổi ở miền Nam nên được thực hiện ở cấp tiểu bang, không có sự can thiệp của Liên bang. Đảng Dân chủ đã vận động để tái kết nạp ngay lập tức tất cả các bang từng ly khai, cấp cho họ quyền bầu cử ở các bang và ân xá những hành vi phạm pháp trong thời Nội chiến. Ông cũng nhấn mạnh rằng Tổng thống và Tòa án Tối cao nên được tôn trọng hơn là bị tấn công, như ông tuyên bố Đảng Cộng hòa đã làm trong nhiệm kỳ của Johnson.
Kết quả.
Horatio Seymour giành được 2.708.744 phiếu bầu trong khi Grant nhận được 3.013.650 phiếu.
Sự sít sao trong số phiếu phổ thông đã gây ngạc nhiên cho giới tinh hoa chính trị vào thời điểm đó. Dân biểu Đảng Cộng hòa James G. Blaine cho rằng đa số mong manh mà Grant giành được là "một sự thật rất đáng kinh ngạc." Ngay cả Blaine cũng thể giải thích được vì sao Đảng Dân chủ lại giành được nhiều phiếu bầu như vậy. Dù cách biệt số phiếu phổ thông rất hẹp, Seymour đã để mất toàn bộ số phiếu đại cử tri tại một số bang miền Bắc như Indiana, Connecticut và Pennsylvania. Nhiều người nghi ngờ những người da trắng bị tước quyền bầu cử ở miền Nam đã lén lút đi bầu cho Seymour dù không có bằng chứng cụ thể.
Đảng Dân chủ để thua ở hầu hết bang miền Nam, nơi những người Mỹ gốc Phi mới được trả tự do đã bỏ phiếu ủng hộ Grant với số lượng rất lớn. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1868 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820622 | Đảng Cộng hòa thắng mọi bang miền Nam ngoại trừ Georgia và Louisiana, nơi sự tàn bạo của Ku Klux Klan cũng như cái gọi là "Hiệp sĩ Da trắng Camelia" và gian lận bầu cử đã mang lại chiến thắng cho đảng Dân chủ.
Đảng Dân chủ thắng áp đảo ở các bang vùng biên như Kentucky, Maryland và Delaware, với Kentucky thì người dân căm ghét những người theo chủ nghĩa Tái thiết Cấp tiến Cực đoan, điều này đã dẫn đến chính quyền đầu tiên sau Nội chiến của bang gần như hoàn toàn bao gồm các thành viên Liên minh cũ. Không có ứng cử viên tổng thống nào của Đảng Dân chủ trước hoặc sau đó đạt được tỷ lệ ủng hộ cao như vậy ở Kentucky hay Maryland, nơi người dân căm ghét quyền bầu cử của người da đen. Đối với Delaware, đảng Dân chủ chỉ có liên danh Johnson/Humphrey năm 1964 và liên danh Obama/Biden năm 2008 có tỷ lệ ủng hộ cao hơn.
Hai bang vùng biên, Missouri và Tây Virginia, đều mang về chiến thắng cho Đảng Cộng hòa. Seymour đã thắng ở bang New York quê hương của mình một cách sít sao, nhưng Blair lại bị tẩy chay tuyệt đối tại Missouri quê hương ông. "Đảng viên Đảng Dân chủ Missouri" vui mừng chế giễu ông rằng: "Tướng Blair bị tẩy chay tại phường của ông ấy, thành phố của ông ấy, quận của ông ấy và bang của ông ấy." Ở Tây Virginia, những người theo Liên minh miền Nam trước đây tạm thời bị cấm bỏ phiếu hoặc giữ các chức vụ công. Kết quả là khoảng 15.000 đến 25.000 cư dân da trắng đã bị tước quyền.
Trong số 1.708 quận tái gia nhập, Grant giành được 991 (58,02%) và Seymour 713 (41,74%). Bốn quận (0,23%) chia đều cho Grant và Seymour. Do đó, Đảng Dân chủ, ngay cả khi phải gánh chịu mọi tai tiếng của chiến tranh, chỉ chiếm được ít hơn 278 quận so với Đảng Cộng hòa. Điều đó đã giúp củng cố sự nổi tiếng của đảng ở cấp cơ sở trong các cuộc bầu cử địa phương năm 1867.
Cuộc bầu cử năm 1868 là cuộc bầu cử duy nhất kể từ Nội chiến mà hai ứng cử viên của đảng lớn cùng nhau giành được hơn 99,9% số phiếu bầu trên cả nước. Trong tổng số hơn 5,7 triệu phiếu bầu, chỉ có 46 phiếu bầu cho người "khác" mà không phải Grant hay Seymour. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1868 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820622 | Đây là cuộc bầu cử cuối cùng mà Đảng Cộng hòa thắng ở Tennessee cho đến năm 1920, cuộc bầu cử cuối cùng Đảng Dân chủ thắng ở Oregon cho đến năm 1912, và cuộc bầu cử cuối cùng Đảng Cộng hòa thắng Missouri cho đến năm 1904.
Việc Grant thua Seymour ở New York với cách biệt 10.000 phiếu bầu là nguồn gốc khiến các đảng viên Cộng hòa xấu hổ và tức giận. Chiến thắng của Seymour ở New York đã dẫn đến một cuộc điều tra liên bang. Vào ngày 4 tháng 11, Horace Greeley phát biểu tại Union League Club và sau đó ULC đã nhanh chóng kiến nghị Quốc hội xem xét đièu tra cuộc bỏ phiếu của bang. Bản kiến nghị đã được trình lên Hạ viện vào ngày 14 tháng 12 và được chấp thuận với tỷ lệ số phiếu 134-35 (52 phiếu trắng). Chủ tịch Hạ viện Schuyler Colfax, ứng cử viên Phó Tổng thống của Đảng Cộng hòa, đã chỉ định một ủy ban gồm 7 người: 5 thành viên Đảng Cộng hòa và 2 thành viên Đảng Dân chủ. Ủy ban được thành lập được cho là vì Đảng Cộng hòa vẫn cho rằng mình không thể để mất New York mà không có bất kỳ sự phản đối nào. Cuộc điều tra được báo cáo lên Hạ viện vào ngày 23 tháng 2 năm 1869. Ủy ban quyết định không thực hiện bất kỳ điều tra nào và Seymour đã giữ được 33 phiếu đại cử tri từ New York.
Theo người viết tiểu sử của Seymour, Stewart Mitchell, Đảng Cộng hòa đã tuyên bố có công trong việc cứu Liên bang và quyết tâm tiếp tục cai trị nó. Tỷ lệ đa số phổ thông của Grant phần lớn đến từ tỷ lệ ủng hộ cao trong số nửa triệu người đàn ông hoặc người da màu mới được trao quyền. Chiến lược này tương phản mạnh mẽ với những năm sau đó, khi các đảng viên Cộng hòa khổng thể ngăn chặn việc tước quyền bầu cử của người da đen ở các bang thuộc Liên minh miền Nam trước đây, vì họ có nhiều phiếu bầu mới và an toàn hơn ở các bang mới ở miền Tây Hoa Kỳ.
(a)"Mississippi, Texas và Virginia không tham gia cuộc bầu cử năm 1868 do chưa tái gia nhập Liên bang." "Tại Florida, cơ quan lập pháp của bang đã bỏ phiếu đại cử tri cho Grant với tỷ lệ phiếu 40-9."
Kết quả theo bang.
Nguồn: Dữ liệu từ Walter Dean Burnham, "Presidential phiếu, 1836–1892" (Johns Hopkins University Press, 1955) trang 247–57.
Tiểu bang sít sao. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1868 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820622 | Tiểu bang sít sao.
Màu đỏ biểu thị bang đảng viên Cộng hòa Ulysses S. Grant thắng; Xanh biểu thị bang đảng viên Dân chủ Horatio Seymour thắng.
Các bang có tỷ lệ chiến thắng dưới 1% (8 phiếu đại cử tri)
Các bang có tỷ lệ chiến thắng dưới 5% (93 phiếu đại cử tri)
Các bang có tỷ lệ thắng dưới 10% (35 phiếu đại cử tri)
Thống kê.
Các quận có tỷ lệ phiếu bầu cao nhất (cho Đảng Cộng hòa)
Các quận có tỷ lệ phiếu bầu cao nhất (cho Đảng Dân chủ)
Các quận có tỷ lệ phiếu bầu cao nhất (cho ứng cử viên Khác) |
Câu lạc bộ bóng đá Vị Trí Vàng Kon Tum | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820624 | Câu lạc bộ bóng đá Vị Trí Vàng Kon Tum là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam có trụ sở tại Gia Lai. Thành lập năm 2022, đội bóng hiện thi đấu tại giải hạng ba quốc gia, cấp độ thấp nhất của hệ thống bóng đá Việt Nam.
Lịch sử.
Thành lập mùa giải 2022.
Đội bóng đá tỉnh Kon Tum được chuyển giao cho Tập đoàn Vị trí Vàng tiếp quản với tên gọi chính thức là Câu lạc bộ Bóng đá Vị trí Vàng Kon Tum, với mục tiêu xã hội hoá bóng đá tỉnh Kon Tum, phát triển toàn diện theo đúng xu thế bóng đá chuyên nghiệp. Câu lạc bộ Vị Trí Vàng Kon Tum đã chính thức được thành lập và đi vào tập luyện từ tháng 8 năm 2022 tại Trung Tâm Huấn Luyện Hàm Rồng (Gia Lai). Với đội hình được làm mới thay thế cho đội hạng nhì, lực lượng nòng cốt của câu lạc bộ là các cầu thủ trẻ học viên năng khiếu khoá 3 và khoá 4 của học viện Hoàng Anh Gia Lai cùng các cựu cầu thủ Hoàng Anh Gia Lai.
Ngày 6 tháng 10 năm 2022 tại thành phố Kon Tum, lễ ra mắt và xuất quân của câu lạc bộ được tổ chức, đội đặt mục tiêu giành vé thăng hạng ngay mùa giải đầu tiên tham dự giải hạng ba quốc gia 2022. Với chất lượng đội hình tốt, Vị Trí Vàng Kon Tum đã dẫn đầu bảng A Vòng loại với 5 trận toàn thắng (3 thắng và 2 hòa), qua đó tham dự vòng chung kết và tranh suất thăng hạng cùng Dugong Kiên Giang. Tuy nhiên tại trận chung kết, đội để thua 0–1 trước Dugong Kiên Giang, qua đó không thể giành vé thăng hạng lên giải hạng nhì 2023. |
Hoa hậu Trái Đất Việt Nam 2023 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820625 | Hoa hậu Trái Đất Việt Nam 2023 (Tiếng Anh: Miss Earth Vietnam 2023) là cuộc thi tìm kiếm Hoa hậu Trái Đất Việt Nam lần thứ nhất, đêm chung kết sẽ diễn ra vào 10 tháng 10 năm 2023. Cuộc thi này được tổ chức sau 3 năm tạm dừng vì dịch bệnh COVID-19. Người đăng quang sẽ đại diện Việt Nam tham dự Hoa hậu Trái Đất 2023 được tổ chức tại Việt Nam. |
National Bank Open 2023 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820628 | Giải quần vợt Canada Mở rộng 2023 (còn được biết đến với National Bank Open presented by Rogers vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt thi đấu trên mặt sân cứng ngoài trời diễn ra từ ngày 7–13 tháng 8 năm 2023. Giải đấu nam diễn ra tại Sân vận động Sobeys ở Toronto và giải đấu nữ diễn ra tại Sân vận động IGA ở Montreal. Đây là lần thứ 133 giải đấu nam được tổ chức—là một giải Masters 1000 trong ATP Tour 2023, và lần thứ 121 giải đấu nữ được tổ chức—là một giải WTA 1000 không Mandatory trong WTA Tour 2023.
Nội dung đơn ATP.
Hạt giống.
Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng ATP vào ngày 31 tháng 7 năm 2023. Xếp hạng và điểm trước vào ngày 7 tháng 8 năm 2023.
† Tay vợt không vượt qua vòng loại ở giải đấu năm 2022. Thay vào đó, điểm tốt nhất của lần 19 sẽ được thay thế vào.
Tay vợt rút lui khỏi giải đấu.
Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống, nhưng rút lui trước khi giải đấu bắt đầu.
Vận động viên khác.
Đặc cách:
Bảo toàn thứ hạng:
Vượt qua vòng loại:
Thua cuộc may mắn:
Nội dung đôi ATP.
Vận động viên khác.
Đặc cách:
Thay thế:
Nội dung đơn WTA.
Hạt giống.
Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng WTA vào ngày 31 tháng 7 năm 2023. Xếp hạng và điểm trước vào ngày 7 tháng 8 năm 2023.
† Điểm từ kết quả tốt nhất của lần 16 (cho điểm bảo vệ) hoặc kết quả tốt nhất của lần 17 (cho điểm thắng), vào ngày 7 tháng 8 năm 2023.<br>
‡ Tay vợt có điểm bảo vệ từ một giải WTA 125 (Concord).<br>
§ Không thay đổi điểm vì điểm từ giải đấu không được tính là một trong 16 kết quả tốt nhất của tay vợt.
Tay vợt rút lui khỏi giải đấu.
Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống, nhưng rút lui trước khi giải đấu bắt đầu.
† Điểm từ kết quả tốt nhất của lần 16.<br>
§ Không thay đổi điểm vì điểm từ giải đấu năm 2022 không được tính vào xếp hạng của tay vợt vào ngày 7 tháng 8 năm 2023.
Vận động viên khác.
Đặc cách:
Bảo toàn thứ hạng:
Vượt qua vòng loại:
Thua cuộc may mắn:
Nội dung đôi WTA. |
National Bank Open 2023 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820628 | Vận động viên khác.
Đặc cách:
Thay thế: |
Maurice Antoine François Monguillot | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820632 | Maurice Antoine François Monguillot (ngày 9 tháng 8 năm 1874 – ngày 23 tháng 6 năm 1945) là quân nhân và quan chức thuộc địa người Pháp ở Đông Dương. Ông từng ba lần giữ chức quyền Toàn quyền Đông Dương; từ tháng 5 năm 1919 đến tháng 2 năm 1920, tháng 4 năm 1925 đến tháng 11 năm 1925 và tháng 11 năm 1927 đến tháng 8 năm 1928.
Tiểu sử.
Monguillot được phong là Hiệp sĩ Quân đoàn Danh dự vào ngày 18 tháng 1 năm 1911, là Sĩ quan Quân đoàn Danh dự vào ngày 23 tháng 3 năm 1916, Chỉ huy Quân đoàn Danh dự vào ngày 18 tháng 1 năm 1921. Thông báo được công bố trao tặng Bắc Đẩu Bội tinh vào năm 1925 ghi rằng nhờ thành tựu trên cương vị là Toàn quyền Đông Dương, Thống sứ Bắc Kỳ và sau đó là quản lý Nhà máy Chưng cất Rượu Đông Dương, chủ tịch Tơ-rớt Thuộc địa, rồi lên làm chủ tịch các mỏ thiếc đã được quốc hữu hóa ở Thượng Bắc Kỳ.
Ông trúng tuyển vào trường École Polytechnique thuộc Bộ Chiến tranh vào năm 1894 trong bốn năm, sau đó tham chiến trong vai trò là lính pháo binh đội Thủy quân lục chiến từ năm 1896 và tham gia Thế chiến thứ nhất cho đến năm 1916. Ông từng đóng quân tại Bắc Kỳ năm 1902 trong thời chiến, Tunisia trong thời bình năm 1906, đến Antilles thuộc Pháp năm 1908, ở Nam Kỳ năm 1909, Bắc Kỳ thời chiến năm 1912, Madagascar thời chiến năm 1911–1912, Châu Phi Xích đạo thuộc Pháp năm 1913–1914 và trong Thế chiến thứ nhất ở Pháp từ ngày 2 tháng 8 năm 1914 đến 31 tháng 3 năm 1916.
Hồ sơ nhập học của Monguillot tại trường École Polytechnique ghi rằng ông cao 1,67m với mái tóc vàng sẫm và đôi mắt xanh xám.
Trong thời gian làm nhà quản lý thuộc địa ở châu Á, ông đã công bố một sắc lệnh vào ngày 30 tháng 10 năm 1925 nhằm bảo vệ di chỉ Angkor. Trong thời gian Andre Malraux lưu lại Đông Dương, Monguillot đã theo dõi sát sao ông ấy do mối quan hệ với những phần tử Bolshevik; khi Malraux ở Hà Nội, Monguillot từ chối gặp ông này. |
Maurice Antoine François Monguillot | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820632 | Monguillot đã yêu cầu thực hiện (và đã được cấp) quyền hưởng lương hưu do ông đã có thời gian làm việc lâu dài với chính phủ (với sự miễn trừ đặc biệt do tuổi tác của ông) bắt đầu từ ngày 1 tháng 3 năm 1929. Lúc đó ông đã 55 tuổi.
Monguillot có một loài chim được đặt theo tên ông là sẻ thông họng vàng do nhà điểu học người Mỹ Jean Théodore Delacour đặt ra vào năm 1926 theo danh pháp nhị thức "Hypacanthis monguilloti" |
Deutsche Digitale Bibliothek | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820637 | Deutsche Digitale Bibliothek ("Thư viện Kỹ thuật số Đức") hoặc DDB là một thư viện ảo bằng tiếng Đức, kết nối 30.000 tổ chức văn hóa và nghiên cứu, mục tiêu là làm cho chúng được truy cập miễn phí bởi cộng đồng thông qua một nền tảng chung. Phiên bản beta của cổng thông tin với khoảng 5,6 triệu tài liệu, theo thông tin của chính nó, đã được đưa lên mạng vào ngày 28 tháng 11 năm 2012. Phiên bản đầy đủ đầu tiên được ra mắt vào ngày 31 tháng 3 năm 2014. Mục tiêu là tích hợp DDB vào Europeana ở cấp độ châu Âu. |
Cơ sở dữ liệu thực vật mã bưu điện | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820646 | Cơ sở dữ liệu thực vật mã bưu điện (Postcode Plants Database) là một nguồn tư liệu tại Vương quốc Anh nhằm xác định cây cảnh địa phương và các loài dựa trên mã bưu điện, được tổ chức bởi Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở Luân Đôn.
Nguồn tài liệu này đã được thay thế bằng các trang phân tích trên trang web NBN Atlas. Tại đó có thể chọn hiển thị bất kỳ nhóm động vật hoang dã nào ở Vương quốc Anh trong bán kính của bất kỳ mã bưu điện cụ thể nào. |
Plants for a Future | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820647 | Plants For A Future (PFAF) là một nguồn tài nguyên trực tuyến phi lợi nhuận dành cho những người quan tâm đến các loại cây ăn được và có ích, tập trung vào các khu vực ôn đới. Được đặt theo cụm từ "kế hoạch cho tương lai" với ý chơi chữ, tổ chức tập trung vào các loại cây lâu năm.
PFAF là một tổ chức từ thiện giáo dục được đăng ký với các mục tiêu sau đây:
Trang web chứa một cơ sở dữ liệu trực tuyến với hơn 8000 loại cây: 7000 loại có thể trồng ở các khu vực ôn đới bao gồm cả Vương quốc Anh, và 1000 loại cây cho các tình huống nhiệt đới.
Cơ sở dữ liệu ban đầu được thành lập bởi Ken Fern, bao gồm 1.500 loại cây mà ông đã trồng trên khuôn viên nghiên cứu 28 acre của mình ở phía Tây Nam nước Anh.
Kể từ năm 2008, cơ sở dữ liệu được duy trì bởi người quản trị cơ sở dữ liệu được tuyển dụng bởi Tổ chức "Plants For A Future".
Tổ chức tham gia vào các cuộc thảo luận công khai thông qua việc xuất bản sách. Các thành viên đã tham gia vào các hội thảo khác nhau và cũng là những người tham gia trong Dự án Nghiên cứu Permaculture Quốc tế. |
Raphael Zuber | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820683 | Raphael Zuber (sinh ngày 5 tháng 6 năm 1973 tại Chur) là một kiến trúc sư Thụy Sĩ.
Tiểu sử.
Raphael Zuber theo học tại Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sĩ cho đến năm 2001 và thực tập với Valerio Olgiati ở . Sau khi tốt nghiệp, ông thành lập văn phòng kiến trúc ở Chur. Zuber giảng dạy tại Accademia di Architettura di Mendrisio, Trường Kiến trúc và Thiết kế Oslo, EPF Lausanne, ETH Zürich và tại Đại học Cornell, Ithaca. Raphael Zuber đã được Alejandro Aravena mời tham dự Venice Biennale of Architecture vào năm 2016, nơi ông trưng bày 4 dự án mới nhất của mình. |
David Zuberer | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820684 | David A. Zuberer là một nhà vi sinh vật học người Mỹ, hiện là Giáo sư danh dự tại Đại học Texas A&M. |
Alia Zuberi | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820686 | Alia Zuberi, còn được gọi là Kumari Alia (Ms. Alia) là một chính khách người Ấn Độ và là cựu Nghị sĩ đến từ Uttar Pradesh. Bà đã từng là người đại diện trong phái đoàn thiện chí Haj của Chính phủ Ấn Độ tại Ả Rập Xê Út vào năm 2005 và 2007. Bà đã nhiều lần được bầu làm thành viên của Ủy ban Quốc hội Toàn Ấn Độ. |
M.A. Zuberi | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820688 | Muhammad Ahmed Zuberi (2 tháng 7 năm 192012 tháng 12 năm 2010) còn được gọi là Muhammad Aziz Zuberi và M. A. Zuberi, là một nhà báo người Pakistan, người sáng lập và là tổng biên tập của nhật báo kinh doanh và tài chính Pakistan, "Business Recorder".
Đầu đời.
Muhammad Ahmed Zuberi sinh ngày 2 tháng 7 năm 1920 tại Marehra, Các tỉnh Thống nhất, Ấn Độ thuộc Anh.
Sự nghiệp.
Ông bắt đầu sự nghiệp của mình bằng việc gia nhập tờ báo "Dawn", sau này là tờ báo chính thức của Liên đoàn Hồi giáo toàn Ấn Độ, vào tháng 12 năm 1945 tại Delhi, theo yêu cầu của Muhammad Ali Jinnah và đã làm việc cho tờ báo này trong 20 năm với nhiều cương vị khác nhau. Sau khi Pakistan độc lập vào năm 1947, khi tờ báo "Dawn" bắt đầu xuất bản từ Karachi, Zuberi bắt đầu làm việc tại đó, giữ chức vụ biên tập viên phụ cấp cao.
Sau khi nghỉ hưu ở tờ báo Dawn, ông đã thực hiện ước mơ cả đời của mình là ra mắt tờ báo tài chính "Business Recorder" vào năm 1965, cũng có trụ sở tại Karachi. Đây là tờ báo đầu tiên ở Pakistan chuyên đưa tin về tài chính và kinh tế. Tờ báo đã được công chúng đón nhận nồng nhiệt và lượng độc giả của tờ báo không ngừng tăng lên theo năm tháng. Zuberi cũng là thành viên sáng lập của Hội đồng Biên tập viên Báo chí Pakistan (CPNE). Trong suốt sự nghiệp báo chí lâu dài của mình, ông đã đại diện cho Pakistan tại các diễn đàn quốc tế khác nhau Thịnh minh Báo chí Thịnh vượng chung, Liên Hợp Quốc và Ngân hàng Thế giới. Ông cũng là Tổng giám đốc của kênh truyền hình Aaj News và AAJ TV.
Zuberi, với tư cách là nhà đàm phán với chính quyền Pakistan về Hội Báo chí Toàn Pakistan và Hội đồng Biên tập viên Báo chí Pakistan, cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của các nhà báo.
Qua đời và di sản.
Zuberi qua đời vào ngày 12 tháng 12 năm 2010 ở tuổi 90 tại Karachi, Pakistan. Việc chôn cất ông đã được lên kế hoạch trong khu phức hợp của Nghĩa trang Abdullah Shah Ghazi tại Clifton, Karachi. Hậu duệ của ông gồm có ba con trai và hai con gái và một số cháu.
Zuberi được coi là người tiên phong trong báo chí kinh tế và tài chính ở Pakistan. |
Mahreen Zuberi | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820689 | Mahreen Asif Zuberi (sinh ngày 6 tháng 1 năm 1981) là một nghệ sĩ người Pakistan đến từ Karachi, Pakistan. Cô theo học tại Đại học Nghệ thuật Quốc gia ở Lahore, và hoàn thành xuất sắc bằng Cử nhân Mỹ thuật.
Sự nghiệp.
Cô làm việc tại Đại học Karachi ở Karachi, Pakistan với tư cách là Điều phối viên chương trình Mỹ thuật tại Khoa Nghiên cứu Thị giác. Tác phẩm của cô đã được triển lãm từ năm 2003. Tác phẩm của cô nằm trong bộ sưu tập của QAGOMA (Phòng trưng bày Nghệ thuật Queensland và Phòng trưng bày Nghệ thuật Hiện đại), Bảo tàng Nghệ thuật Châu Á Fukuoka và Quỹ Nghệ thuật Devi. |
Mubadala Citi DC Open 2023 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820702 | Giải quần vợt Washington Mở rộng 2023 (còn được biết đến với Mubadala Citi DC Open vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt thi đấu trên mặt sân cứng ngoài trời. Đây là lần thứ 54 (nam) và lần thứ 11 (nữ) Giải quần vợt Washington Mở rộng được tổ chức. Giải đấu là một phần của ATP Tour 500 trong ATP Tour 2023 và WTA 500 trong WTA Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại William H.G. FitzGerald Tennis Center ở Washington, D.C., Hoa Kỳ, từ ngày 31 tháng 7 đến ngày 6 tháng 8 năm 2023.
Nội dung đơn ATP.
Hạt giống.
† Bảng xếp hạng vào ngày 24 tháng 7 năm 2023.
Vận động viên khác.
Đặc cách:
Bảo toàn thứ hạng:
Vượt qua vòng loại:
Thua cuộc may mắn:
Nội dung đôi ATP.
Hạt giống.
† Bảng xếp hạng vào ngày 24 tháng 7 năm 2023.
Vận động viên khác.
Đặc cách:
Vượt qua vòng loại:
Nội dung đơn WTA.
Hạt giống.
† Bảng xếp hạng vào ngày 24 tháng 7 năm 2023.
Vận động viên khác.
Đặc cách:
Bảo toàn thứ hạng:
Vượt qua vòng loại:
Thua cuộc may mắn:
Nội dung đôi WTA.
Hạt giống.
† Bảng xếp hạng vào ngày 24 tháng 7 năm 2023.
Vận động viên khác.
Đặc cách: |
Mubadala Citi DC Open 2023 - Đơn nam | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820709 | Dan Evans là nhà vô địch, đánh bại Tallon Griekspoor trong trận chung kết, 7–5, 6–3. Đây là danh hiệu đơn ATP Tour thứ 2 của Evans.
Nick Kyrgios là đương kim vô địch, nhưng rút lui trước khi giải đấu bắt đầu do chấn thương.
Hạt giống.
Tất cả các hạt giống được miễn vào vòng 2. |
Rukhsana Zuberi | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820710 | Rukhsana Zuberi là một chính khách Pakistan, từng là Nghị sĩ của Thượng viện Pakistan, kể từ tháng 3 năm 2018. Trước đây, bà từng là nghị sĩ của Thượng viện từ năm 2003 đến 2009 và từng là thành viên của Hội đồng tỉnh Sindh trong một thời gian ngắn vào năm 1977.
Sự nghiệp chính trị.
Zuberi đã được bầu vào một ghế dành riêng cho phụ nữ trong Hội đồng tỉnh Sindh trong cuộc tổng tuyển cử năm 1977. Bà giữ chức vụ này từ ngày 30 tháng 3 năm 1977 đến ngày 5 tháng 6 năm 1977.
Zuberi được bầu vào Thượng viện Pakistan với tư cách là ứng cử viên của Đảng Nhân dân Pakistan (PPP) từ Sindh cho ghế dành riêng cho phụ nữ trong cuộc bầu cử Thượng viện năm 2003. Bà thôi giữ chức vụ Thượng nghị sĩ khi kết thúc nhiệm kỳ thượng nghị sĩ dài 6 năm vào năm 2009.
Zuberi đã được bầu lại vào Thượng viện với tư cách là ứng cử viên của Đảng Nhân dân Pakistan từ Sindh cho ghế kỹ trị gia trong cuộc bầu cử Thượng viện Pakistan năm 2018. Bà đã tuyên thệ nhậm chức Thượng nghị sĩ vào ngày 12 tháng 3 năm 2018. |
Mubadala Citi DC Open 2023 - Đơn nữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820711 | Coco Gauff là nhà vô địch, đánh bại Maria Sakkari trong trận chung kết, 6–2, 6–3. Đây là danh hiệu đơn WTA Tour thứ 4 của Gauff.
Liudmila Samsonova là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng bán kết trước Gauff.
Hạt giống.
4 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2. |
Mubadala Citi DC Open 2023 - Đôi nam | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820712 | Máximo González và Andrés Molteni là nhà vô địch, đánh bại Mackenzie McDonald và Ben Shelton trong trận chung kết, 6–7(4–7), 6–2, [10–8].
Nick Kyrgios và Jack Sock là đương kim vô địch, nhưng chọn không bảo vệ danh hiệu. |
Đồng(II) metaborat | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820713 | Đồng(II) metaborat là một hợp chất vô cơ của kim loại đồng và acid metaboric có công thức hóa học Cu(BO2)2 – tinh thể màu lục lam, không tan trong nước.
Điều chế.
Phản ứng giữa acid boric và đồng(II) nitrat có thể tạo ra đồng(II) metaborat.
Cũng có thể trộn dung dịch borax với đồng(II) sulfat hoặc đồng(II) chloride để tạo kết tủa đồng(II) metaborat.
Tính chất vật lý.
Đồng(II) metaborat tạo thành tinh thể màu lục lam.
Hợp chất không hòa tan trong nước.
Tính chất hóa học.
Hợp chất bị phân hủy khi đun nóng mạnh, tạo ra đồng(I) metaborat:
Ứng dụng.
Đồng(II) metaborat có thể được sử dụng trong tranh sơn dầu, chất xúc tác khử hydro hóa, chất bảo quản gỗ và chất làm chậm sự cháy. |
Những bước chân của rồng | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820714 | "Những bước chân của rồng" là nhạc hiệu chính thức kể từ năm 2022 của các giải bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam dưới sự quản lý của Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam. Bài nhạc do Hoàng Bách sản xuất, kết hợp cùng SlimV và Vincent Nguyễn, thực hiện từ tháng 6 năm 2021 đến tháng 1 năm 2022. Nó được sử dụng lần đầu tại mùa giải 2022 của Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam, qua đó đánh dấu lần đầu tiên các giải bóng đá chuyên nghiệp tại Việt Nam có một bài nhạc hiệu chính thức.
Hoàn cảnh sáng tác.
Trong nhiều năm, người hâm mộ bóng đá Việt Nam đã thắc mắc về việc tại sao các giải đấu như UEFA Champions League, FIFA World Cup thường có nhạc hiệu riêng khi các cầu thủ ra sân. Các giải vô địch bóng đá cấp quốc gia ở Anh, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản và Thái Lan cũng có nhạc hiệu riêng khi các cầu thủ ra sân, nhưng Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam lại không có một bài nhạc hiệu như vậy. Trong nhiều mùa giải của Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam và nhiều giải đấu chuyên nghiệp khác do Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam tổ chức, nhạc hiệu chính thức khi các cầu thủ khi ra sân là Bài hát FIFA của Liên đoàn Bóng đá Thế giới. Năm 2020, Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam đã mua bản quyền một bản nhạc ra sân với thời hạn 1 năm. Vì thế, Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam quyết định đặt hàng nghệ sĩ Hoàng Bách sáng tác một bài nhạc riêng cho Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam và nhiều giải đấu chuyên nghiệp khác trong nước. Theo Hoàng Bách, anh được các lãnh đạo ở Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam đề nghị nhiều lần, và vì tình yêu bóng đá sẵn có, anh quyết định phải tạo ra một bản nhạc "không chỉ có giá trị cho duy nhất một mùa giải mà nó có thể kéo dài như một thương hiệu của V. League nói riêng và các giải bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam".
Sản xuất. |
Những bước chân của rồng | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820714 | Sản xuất.
Sau khi nhận lời đặt hàng từ Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam, nhạc sĩ Hoàng Bách đã lên ý tưởng và hướng phát triển bài hát, sau đó anh liên hệ Vincent Nguyễn và SlimV để tính toán, xây dựng nội dung bản nhạc. Sau khi đắn đo, họ quyết định xây dựng bản nhạc trên nền nhạc giao hưởng phương Tây, đan xen với giai điệu âm nhạc truyền thống của Việt Nam.
Nhạc sĩ Hoàng Bách và các cộng sự của mình đã thực hiện sản xuất bản nhạc từ tháng 6 năm 2021 đến tháng 1 năm 2022. Bản nhạc được thu âm và thực hiện ở 3 quốc gia là Việt Nam, Đức và Hungary, là sự kết hợp sản xuất của Space Speakers cùng hơn 60 nhạc công đến từ các dàn nhạc giao hưởng Budapest Scoring Orchestra và Hanse Haus Studio, kết hợp cùng với tiếng đàn bầu. Ngoài ra, Hoàng Bách và cộng sự còn hợp tác với nhạc trưởng Klaus Genuit, người từng đoạt 2 giải Grammy"." Do bản nhạc được thực hiện trong thời gian đại dịch COVID-19 bùng phát ở cả Việt Nam, Đức và Hungary, cho nên anh và cộng sự buộc phải làm việc xuyên suốt cả ngày lẫn đêm một cách liên tục và phải dời các thiết bị về nhà. Đây cũng là sản phẩm âm nhạc tiếp theo nằm trong dự án "Bach20", bắt đầu từ năm 2019 của Hoàng Bách. Với "Những bước chân của rồng", Hoàng Bách đã được Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam vinh danh là nhà tài trợ của các giải bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam, cũng là nghệ sĩ đầu tiên được vinh danh trong vai trò này.
Sử dụng.
Bài nhạc "Những bước chân của rồng" được sử dụng lần đầu tiên vào mùa giải 2022 của Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam, đánh dấu lần đầu tiên bóng đá Việt Nam có một bản nhạc hiệu chính thức, độc quyền dành riêng cho các giải bóng đá chuyên nghiệp. |
Aight D | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820716 | = AightD =
Bắt đầu với dòng nhạc Hip-Hop từ những năm 2015, TRẦN DŨNG sinh năm 20/6/1999, hay còn được biết tới rapname AIGHT D, là một trong những nghệ sĩ trẻ tiên phong trong làn sóng Trap-Alternative Hip-Hop tại Việt Nam đến từ tổ đội RRC . Với niềm đam mê âm nhạc và sự sáng tạo không ngừng, AIGHT Dđã tạo ra những ca khúc độc đáo và ấn tượng, mang đậm dấu ấn cá nhân. Một số track nổi bật của AIGHT D có thể kể đến như: " GOAT","M.O.B", " INTRO ". Và gần đây nhất với sự phát triển và thăng tiến ở bản thân anh đã ra mắt Mixtape đầu tay " Long Live LTBC " , đều được đánh giá cao về chất lượng sản xuất và sự đa dạng trong âm hưởng. AIGHT D không chỉ sở hữu một chất giọng bass mạnh mẽ và cuốn hút, mà còn biết cách kết hợp kĩ thuật và flow linh hoạt để thể hiện những thông điệp và cảm xúc trong âm nhạc. AIGHT D luôn luôn thử thách bản thân và khám phá những phong cách mới, mang đến cho người nghe những trải nghiệm âm nhạc đầy mới mẻ và hấp dẫn. Nếu bạn là một fan cứng của dòng nhạc “New Wave”, bạn không thể bỏ qua AIGHT D, một nghệ sĩ tài năng và đầy tiềm năng của Hip-Hop Việt Nam.
Âm nhạc:.
1." Long Live LTBC ".
Album đầu tay của rapper AIGHT D có tên là "Long Live LTBC" là một tác phẩm nghệ thuật đầy cảm xúc và sáng tạo. Album kể về quá trình tạo nên con người của AIGHT D hiện tại và quá khứ của anh những gì đã trải qua trong cuộc sống và nghệ thuật. Album thể hiện sự đổi mới trong dòng nhạc của AIGHT D, khi anh kết hợp nhiều thể loại nhạc khác nhau, từ rap, trap, drill, đến pop và rock. Album cũng là một lời tri ân của AightD đến nhóm LTBC, những người bạn thân thiết và đồng hành cùng anh trong suốt sự nghiệp. Album đã nhận được nhiều lời khen ngợi về chất lượng âm thanh, ca từ, và biểu diễn. Album "Long Live LTBC" là một dấu ấn đậm nét của AIGHT D của với hip hop Việt Nam hiện nay. Với sự cộng tác ăn ý từ các nghệ sĩ khác như (Rapper: " LVK ", " YUNG ATY ", " YOUNG BO5 ", " BILLY100 ", " GHINIB ", " LIEU BIN ", " OZEE KXNG ", " YOUNG VVS ", " LIL EKKO " | Producer: " MARLYKID " " CHUSAU ", " THINHHO ", " YOUNG DRACO ", " OZEE KXNG ", " K1EN ".)DANH SÁCH NHẠC: |
Mubadala Citi DC Open 2023 - Đôi nữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820717 | <ns>0</ns>
<revision>
<timestamp>2023-08-11T04:34:35Z</timestamp>
<contributor>
<username>Δάφνινο στεφάνι</username>
</contributor>
<comment>Trang mới: “ Laura Siegemund và Vera Zvonareva là nhà vô địch, đánh bại Alexa Gu…”</comment>
<model>wikitext</model>
<format>text/x-wiki</format>
Laura Siegemund và Vera Zvonareva là nhà vô địch, đánh bại Alexa Guarachi và Monica Niculescu trong trận chung kết, 6–4, 6–4.
Jessica Pegula và Erin Routliffe là đương kim vô địch, nhưng Pegula không tham dự giải đấu. Routliffe đánh cặp với Ingrid Neel, nhưng thua ở vòng 1 trước Shuko Aoyama và Gabriela Dabrowski. |
Cobalt(II) naphthenat | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820722 | Cobalt(II) naphthenat là tên gọi hỗn hợp các dẫn xuất cobalt(II) của acid naphthenic. Các phức chất này được sử dụng rộng rãi trong chất làm khô dầu cho quá trình tự oxy hóa của dầu làm khô. Naphthenat kim loại không được xác định rõ ràng theo nghĩa hóa học thông thường, để chỉ ra rằng chúng là hỗn hợp. Cobalt(II) naphthenat là chất xúc tác được sử dụng rộng rãi vì chúng hòa tan trong các chất nền không phân cực, chẳng hạn như nhựa alkyd hoặc dầu lanh. Trên thực tế, muối naphthenat là một loại hỗn hợp giúp tạo độ hòa tan các chất này ở mức cao. Ưu điểm thứ hai là chi phí thấp. Một hợp chất được xác định rõ thể hiện nhiều tính chất của cobalt(II) naphthenat là phức hợp cobalt(II) của acid 2-ethylhexanoic. Thông thường trong tài liệu kỹ thuật, naphthenat được mô tả là muối, nhưng chúng cũng có thể là phức hợp phối hợp không ion với cấu trúc tương tự như kẽm acetat kiềm.
Tính xúc tác của cobalt(II) naphthenat tương tự như tính xúc tác của các hợp chất liên quan có chứa mangan và sắt. Những chất như vậy đôi khi được phân loại là chất làm khô hoạt động. Là chất xúc tác có các trung tâm kim loại mang hoạt tính oxy hóa khử, chúng thúc đẩy các phản ứng oxy hóa khử với các chất trung gian chứa hydroperoxide.
Điều chế.
Cobalt(II) naphthenat được điều chế bằng cách cho cobalt(II) hydroxide hoặc cobalt(II) acetat tác dụng với acid naphthenic. Cobalt(II) naphthenat cũng được coi là sản phẩm phụ của quá trình tinh chế dầu mỏ.
Độc tính và an toàn.
Cobalt(II) naphthenat là một chất có độc tính vừa phải, có thể gây ra một loạt các tình trạng cấp tính và mãn tính, đồng thời nó cũng là chất gây ung thư. Nó thường được sử dụng dưới dạng pha loãng trong dầu. Thiết bị bảo hộ phải được sử dụng để tránh tiếp xúc với mắt và da. Hợp chất tinh khiết có mật độ hơi vào mức 3,9 (lấy không khí = 1) và áp suất hơi cực tiểu là 1 mmHg ở 25 °C (77 °F). |
Long Vacation | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820729 | là một bộ phim truyền hình của Nhật Bản được trình chiếu lần đầu trên kênh Fuji TV tại Nhật Bản từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 24 tháng 6 năm 1996. Với tỷ suất người xem cao tại Nhật Bản, bộ phim đã gây dựng tên tuổi của Kimura Takuya ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và giúp anh có được mệnh danh là "Ông hoàng rating".
Các nhân vật trong phim đều có điểm chung: nếu không thất nghiệp thì họ chẳng thể làm gì tốt hơn ngoài việc kiếm một công việc tạm thời. Đây là bức tranh miêu tả về thời kỳ Nhật Bản chìm trong suy thoái kinh tế nặng nề, khi người dân của họ phải chịu đựng trầm cảm nặng do liên tục không kiếm được thu nhập ổn định. Bộ phim cũng miêu tả cách các mối quan hệ được hình thành và tan vỡ, đồng thời khám phá cách mọi người dựa vào nhau để được an ủi.
Tóm tắt nội dung.
Minami và Sena gặp nhau sau khi bạn cùng phòng của Sena là Asakura bỏ rơi Minami trong ngày cưới của họ. Minami biết được từ Sena rằng Asakura rời đi mà chẳng rõ tung tích. Sena cho phép Minami chuyển đến căn hộ, do cô trong tình trạng không một xu dính túi vì đã đưa hết tiền cho Asakura và không thể trả tiền thuê căn hộ của mình.
Đây là khởi đầu của mối tình lãng mạn giữa Sena và Minami. Minami và Sena tâm sự và an ủi nhau về những vấn đề tình cảm của họ cũng như những thất bại trong cuộc sống. Sena phải lòng đàn em của mình là Ryoko. Tuy nhiên, Ryoko lại không có tình cảm với anh mà lại đem lòng yêu Shinji, em trai của Minami.
Minami gặp một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp tên là Sugisaki và được anh này ngỏ lời cầu hôn. Mặc dù Sugisaki phù hợp với hình mẫu lý tưởng của Minami nhưng cô lại cảm thấy chưa chắc chắn về cảm xúc của mình. Trong khi đó, Sena có cơ hội chiến thắng trong một cuộc thi dương cầm và đến Boston và tham gia dàn nhạc giao hưởng. Sau khi giành chiến thắng trong cuộc thi, anh cầu hôn Minami và hai người cùng đến Boston.
Sản xuất.
Theo biên kịch Kitagawa Eriko, các tựa phim từng được đề xuất đặt là "Hoshi ni Negai wo" và "Toshiue no on'na." Tựa đề "Long Vacation" do chính bà đặt. |
Long Vacation | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820729 | Tựa đề "Long Vacation" do chính bà đặt. Tòa nhà được sử dụng làm địa điểm ghi hình cho căn hộ của Sena (tòa số 1-8 Shinohashi, Koto-ku, Tokyo) được gọi là "Senaman" và được nhiều khán giả ghé thăm trong và sau khi bộ phim được trình chiếu. Tòa nhà đã bị phá bỏ sau khi phim hoàn tất và một tòa nhà chung cư đã được xây dựng trên khu đất này. Cầu Shin Onhashi bắc qua sông Sumida (gần tòa nhà trên) cũng thường xuyên xuất hiện trong phim.
Ban đầu, truyện phim định để kết là hai nhân vật chính bị chia cắt, nhưng theo đề xuất của người xem, nó đã được thay đổi thành truyện phim để hai người đến với nhau. Bài nhạc hiệu của bộ phim là "La La La Love Song" của Kubota Toshinobu.
Tuyển diễn viên.
Kimura là thành viên của nhóm nhạc SMAP, còn Yamaguchi Tomoko từng xuất hiện trong các chương trình ăn khách như "29-sai no Christmas" và "Double Kitchen". Phim đã góp phần tạo dựng tên tuổi của hai diễn viên này, đưa họ vào hàng ngũ minh tinh nổi tiếng ở Nhật lúc bấy giờ; chẳng hạn như giúp Kimura có được mệnh danh "Ông hoàng Rating". Vào ngày phát sóng tập cuối, Kimura và Yamaguchi đã xuất hiện trực tiếp từ Luân Đôn trên chương trình tin tức buổi tối FNN Super Time để quảng bá cho tập phim.
Truyền thông.
Các sản phẩm liên quan đến bộ phim cùng vô cùng đắt khách. "Long Vacation" được phát hành trên DVD tại Nhật Bản vào ngày 21 tháng 11 năm 2001. Vào thời điểm ra mắt, 5000 đĩa DVD đầu tiên có đính kèm một tập sách nhỏ giới hạn. Tính đến cuối tháng 11 năm 1996, các nhạc phẩm soundtrack của bộ phim đã tiêu thụ được 1,03 triệu bản. Tổng doanh số của 7 album liên quan mà Toshiba EMI (nay là EMI Music Japan) phát hành, tính cả album soundtrack kể trên, đã vượt mốc 1,6 triệu bản. Đĩa CD dương cầm của Glenn Gould (mà Sena nhắc là đĩa CD yêu thích của anh) đã bán ra 4000 bản/tháng, còn đĩa soundtrack gốc của phim cũng bán ra 60.000 bản sau một tháng ra mắt. Tính đến cuối tháng 11 năm 1996, toàn bộ 6 tệp đĩa DVD của phim đã bán ra 250.000 bản. Phiên bản tiểu thuyết của "Long Vacation" được chắp bút bởi Kitagawa Eriko cũng tiêu thụ 150.000 bản trong một tuần.
Phát sóng.
Phim từng được phát sóng ở Hồng Kông. Tại Hoa Kỳ, phim từng được phát sóng qua KTSF TV với phụ đề tiếng Anh. |
Long Vacation | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820729 | Ngày 22 tháng 7 năm 2020, Viu thông báo rằng họ đã mua được quyền phát trực tuyến "Long Vacation" ở Đông Nam Á bằng phụ đề theo khu vực, bên cạnh các bộ phim truyền hình như "Love Generation, A Sleeping Forest, The Ordinary People, Hundred Million Stars From The Sky" và loạt "Hero".
Đón nhận.
Tỷ suất người xem.
Các tập phim có tỷ suất người xem trung bình là 29,5%; tỷ suất tập cuối là 36,7% (có lúc đạt tới 43,8%). Khi bộ phim ra mắt tại Nhật Bản, tác phẩm đã được khán giả nữ yêu thích đến mức ra đời hiện tượng . Từ đó cơn sốt của phim được gọi "hiện tượng Lon-bake" (hay Ron-bake, hoặc Lombake), chẳng hạn như gia tăng đột biến số lượng nam giới bắt đầu học chơi dương cầm. Theo một nghiên cứu do NHK thực hiện năm 2009, phần lớn người xem là thanh thiếu niên (13 tuổi trở lên), chiếm 40% người xem, nhóm thứ hai là những người ở độ tuổi 20 với 34%.
"Long Vacation" được xếp vào hàng kinh điển của phim ảnh Nhật Bản, được khán giả nước này và một số quốc gia khác ở châu Á yêu thích. Chẳng hạn như ở Hồng Kông, bộ phim phổ biến với khán giả nơi đây nhờ các bản sao VCD lậu được bán tại đây trước khi bộ phim được trình chiếu hợp pháp.
Theo "Television, Japan and Globalization", chủ đề tìm kiếm hạnh phúc được thể hiện qua Minami khi cô nhắc đến quyền tự mình tìm kiếm hạnh phúc thay vì kết hôn. Quan điểm này chú trọng vào cuộc sống của con người khi họ đi tìm ý nghĩa của hiện sinh.
Di sản.
Ngày 10 tháng 4 năm 2017, Kimura đã đến thăm sông Sumida bằng thuyền cùng với Akashiya Sanma như một phần của chuyến hành hương đến vùng đất linh thiêng trong chương trình "Santaku" được phát sóng vào ngày 10 tháng 4. Trong chương trình, địa điểm được giới thiệu là bối cảnh cho "Long Vacation," "Danjo Shichinin Aki Monogatari" và "Danjo Shichinin Natsu Monogatari".
Nửa đầu năm 2018, ở tập thứ 65 (ngày 15 tháng 6) của sê-ri "Hanbun, Aoi" thuộc chuỗi chương trình dài kỳ "Renzoku Terebi Shōsetsu" của NHK (cũng do Kitagawa Eriko chắp bút), cảnh quay từ phim truyền hình "Long Vacation" đã xuất hiện. Một cảnh tương tự như cảnh bóng nảy trong tập đầu tiên được vẽ ra, và một bài hát tương tự bài "La La La Love Song" cũng được phát (mặc dù thời gian ghi lại là năm 1992, trước khi bộ phim được sản xuất). |
Long Vacation | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820729 | Ca khúc được chọn làm bài nhạc hiệu thứ hai của "Hanbun, Aoi". Ngoài ra, vào ngày 11 tháng 7, Moriyama Ryoji (bạn diễn sau này của Tomoko) đã hát và trình bày "Sobani Iteyo" của Cagnet (đây là một bài hát được lồng vào phim "Long Vacation").
Năm 2019, khi chuyển sang thời kỳ Lệnh Hòa, số người biết đến hiện tượng "Lon-bake" và quan tâm đến "Long Vacation" sau khi xem Kimura Takuya diễn trong "Grand Maison Tokyo" đã tăng lên, và sau khi biên kịch bộ phim là Kitagawa Eriko đến xem buổi hòa nhạc solo của Kimura Takuya, số lượng tweet trả lời mong đợi một "phần tiếp theo" cũng tăng lên. Ngày 11 tháng 11 năm 2019, Fuji TV thông báo rằng các bức ảnh và đạo cụ của bộ phim đã được trưng bày tại Trụ sở chính của Fuji TV ở Odaiba để ghi dấu những tác phẩm truyền hình nổi tiếng nhất ở thời kỳ Bình Thành của đài trong một cuộc triển lãm cho đến tháng 1 năm 2020. |
Chương II (album của Cá Hồi Hoang) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820734 | Chương II là album phòng thu thứ đầu tiên của ban nhạc Việt Nam Cá Hồi Hoang được phát hành bởi Luke Record vào ngày 27 tháng 11 năm 2014. Album bao gồm 10 bài hát với 3 bài hát đã ra mắt trước đó là "Một Phút Quay Lại", "Muông Thú" và "Cho Ngày Cưới".
Những người thực hiện.
Âm nhạc |
Chúng Ta Đều Muốn Một Thứ (album của Cá Hồi Hoang) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820736 | Chúng Ta Đều Muốn Một Thứ là album phòng thu thứ sáu và cũng là album cuối cùng của ban nhạc Việt Nam Cá Hồi Hoang được phát hành bởi Lumif Recordings vào ngày 7 tháng 4 năm 2021. Album bao gồm 18 bài hát với 4 đĩa đơn đã ra mắt trước đó là "Tự Do", "Người Tìm Vàng", "Một Đời" và "Vậy Thì".
Những người thực hiện.
Âm nhạc |
Danh sách núi tại Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820753 | Ukraina chủ yếu có hai vùng núi chính, là dãy núi Karpat ở phía tây nam và dãy núi Krym thuộc bán đảo cùng tên đang do Nga kiểm soát. Ukraina nằm ở đồng bằng Đông Âu, do đó phần lớn diện tích của nước này bao gồm chủ yếu là những ngọn đồi thoai thoải chứ không phải là những ngọn núi thực sự. Một số đỉnh núi cao có thể tồn tại trong các khu vực vùng đất cao Podilia và dãy núi Donets và hiếm khi xuất hiện tại những nơi khác.
Chornohora (Núi đen) là rặng núi thuộc Karpat bao gồm những đỉnh núi cao nhất trong cả nước. Các rặng núi đáng chú ý khác là Maramureş và Gorgany cũng nằm ở Karpat. Ở dãy núi Krym, rặng núi cao nhất Babuhan Yayla nằm gần Duyên hải phía Nam Krym (còn được gọi là UBK) và nó là một phần của chuỗi núi chính.
Trang này hiển thị những ngọn núi cao nhất ở Ukraina.
Nhí cao nhất tại Ukraina.
Danh sách gồm các đỉnh cao trên 1.500 m. Xếp hạng vị trí có thể có tranh chấp. |
Hệ thống người dùng mạng kiến trúc và nghệ thuật Nhật Bản | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820757 | Hệ thống người dùng mạng kiến trúc và nghệ thuật Nhật Bản (Japanese Architecture and Art Net Users System), hay JAANUS, là một từ điển trực tuyến về các thuật ngữ nghệ thuật và kiến trúc Nhật Bản do Tiến sĩ Mary Neighbor Parent biên soạn. Nó chứa khoảng tám nghìn đầu mục. Nó có thể tìm kiếm được bằng cả tiếng Anh và romaji, đồng thời chứa nhiều siêu liên kết và hình minh họa. |
Higeki no Genkyou to Naru Saikyou Gedou Last Boss Joou wa Tami no Tame ni Tsukushimasu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820769 | là một sê-ri light novel Nhật Bản được viết bởi Tenichi. Bộ truyện bắt đầu được đăng trên trang web Shōsetsuka ni Narō vào tháng 4 năm 2018, trước khi được xuất bản dưới dạng bản in với hình minh họa của Suzunosuke bởi Ichijinsha từ tháng 6 năm 2019. Bản chuyển thể manga, được minh họa bởi Matsuura Bunko, được đăng nhiều kỳ trên trang web Zero-Sum Online từ tháng 3 năm 2020 đến tháng 3 năm 2022. Một bộ phim truyền hình anime chuyển thể bởi OLM được công chiếu vào tháng 7 năm 2023.
Cốt truyện.
Đệ Nhất Công chúa Pride, đã nhớ lại kí ức tiền kiếp và nhận thức rằng cô đã được tái sinh trong thế giới của một otome game. Theo như mạch truyện của trò chơi diễn ra, trong thời gian mười năm, cô sẽ trở thành trùm cuối dị giáo tàn độc nhất gây ra bi kịch. Tại Vương quốc Freesia, một đất nước nơi những người có năng lực đặc biệt được sinh ra, Pride, bằng cách thức tỉnh năng lực tiên tri đã trở thành nữ vương kế nhiệm lúc 8 tuổi. Để tránh khỏi thảm kịch, Pride quyết định sử dụng kí ức còn sót lại của cô ấy về tựa game để cứu cũng như bảo vệ những người bị cô lạm dụng.
Truyền thông.
Light novel.
Được viết bởi Tenichi, bộ truyện bắt đầu được đăng nhiều kỳ trên trang web Shōsetsuka ni Narō từ ngày 19 tháng 4 năm 2018.. Bộ truyện sau đó đã được Ichijinsha xuất bản bộ truyện dưới dạng bản in với tranh minh họa của Suzunosuke vào tháng 6. Đến tháng 8 năm 2023, 7 tập được phát hành.
Vào tháng 6 năm 2021, Seven Seas Entertainment thông báo rằng họ đã cấp phép xuất bản tiếng Anh cho bộ truyện này.
Anime.
Bản chuyển thể anime đã được công bố vào ngày 28 tháng 10 năm 2022. Nó được sản xuất bởi OLM với Nitta Norio làm đạo diễn, Akao Deko viết kịch bản , Kōno Hitomi thiết kế nhân vật và Nakamura Hanae, Saiki Tatsuhiko, Sakuma Kanade và Nakajima Junko soạn nhạc. Phim được công chiếu lần đầu vào ngày 7 tháng 7 năm 2023, trên Tokyo MX và các nền tảng khác. Bài hát mở đầu là của Tsukuyomi, trong khi bài hát kết thúc là "Pride" của ChoQMay. Sentai Filmworks đã cấp phép cho sê-ri và phát trực tuyến trên HIDIVE. Muse Communication cũng đã cấp phép cho loạt phim ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.
Đón nhận. |
Higeki no Genkyou to Naru Saikyou Gedou Last Boss Joou wa Tami no Tame ni Tsukushimasu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820769 | Đón nhận.
Vào năm 2021, bản chuyển thể manga đã được đề cử cho giải Tsugi ni kuru Manga Taishō ở hạng mục web. |
Tổng giáo phận Reims | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820791 | Tổng giáo phận Reims (; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Pháp. Tổng giáo phận tiền thân là một giáo phận được thành lập khoảng năm 250 bởi Thánh Xíttô thành Reims, và đã được nâng cấp thành một tổng giáo phận khoảng năm 750. Các đời tổng giám mục của tổng giáo phận đã được nhận tước hiệu "Giáo trưởng xứ Gallia Belgica" từ năm 1089. |
DSK | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820792 | Trần Đức Minh, nghệ danh là DSK, là một rapper người Việt Nam. Mặc dù anh không có xuất hiện nhiều trên báo chí hay mạng xã hội, không có những video triệu view nhưng anh được rất nhiều người Rapper và các fan nhạc rap kính nể.
Tiểu sử.
DSK được sinh ra vào ngày 23 tháng 11 năm 1987 tại Hà Nội, Việt Nam. Anh cùng gia đình sống tại thành phố Hồ Chí Minh cho đến năm 13 tuổi. Sau đó anh theo gia đình sang Cộng Hòa Liên Bang Đức sinh sống và định cư. Tại đây cũng chính là nơi mà anh được tiếp xúc với văn hóa đường phố là Hip Hop và nhạc rap rồi nhận ra đây chính là đam mê của mình.
Sự nghiệp.
DSK là 1 trong 5 người sáng lập ra GRV – tổ chức Rap hàng đầu Việt Nam với những tên tuổi như: Linh Lam, Rhymastic, Lee7, BDT, NAH, Andree, Việt Dragon...
Năm 2020 trong cuộc cypher với sự góp mặt của Dế Choắt, Đạt Maniac và DSK. Đạt Maniac sau đó ngồi ghế nóng King of Rap, trong khi Dế Choắt dự thi Rap Việt và đã trở thành quán quân.
Sản phẩm âm nhạc.
Một số bài rap thành công của DSK có thể kể đến như: |
Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820798 | Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du là quần thể những di tích liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Đại thi hào và dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Các điểm di tích phân bố trên địa bàn xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Là một quần thể di tích vườn, mà ở đó vừa có sự tách bạch, vừa có sự liên hoàn trong một tổng thể không gian khép kín, là một trong những khu di tích đậm tính nguyên bản của sự mộc mạc của nét làng Việt cổ. Ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1419/QĐ-TTg, xếp hạng Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du là Di tích quốc gia đặc biệt.
Quần thể di tích gồm: Khu lưu niệm chính; Mộ đại thi hào Nguyễn Du; Đền thờ và mộ Nguyễn Nghiễm; Đền thờ Nguyễn Trọng; Khu lăng văn sự.
Cuối năm 2015, tại di tích Quốc gia đặc biệt này đã diễn ra các hoạt động kỷ niệm 250 năm ngày sinh của danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du.
Khu lưu niệm chính.
Nhà thờ Nguyễn Du: Năm 1824, Nguyễn Ngũ (con Nguyễn Du) cùng con cháu trong dòng họ đã đưa hài cốt danh nhân về nhà cải táng và lập đền thờ ngay trên khu vườn nhà cũ của ông tại xóm Tiền, thôn Lương Năng (thuộc thôn Hòa Thuận ngày nay). Đến năm 1940, nhà thờ bị xuống cấp, hội Khai trí Tiến đức hỗ trợ 420 quan tiền giao cho cụ nghè Nguyễn Mai (đậu tiến sĩ năm 1904) chỉ đạo và giám sát việc di dời về đặt trong khu vườn gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền. Nhà thờ được xây dựng theo kiểu chữ đinh (gồm thượng điện và hạ điện), nội thất còn lưu lại bài vị bằng đá ghi tên hiệu, tuổi, tước vị (phẩm trật) của Nguyễn Du và lư hương phía ngoài còn lưu giữ được đôi câu đối quý giá của vua Minh Mệnh điếu Nguyễn Du lúc mất tại Huế. Năm 2011, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia, nhà thờ Đại thi hào Nguyễn Du được nâng cấp (xây thêm một tòa nhà bằng gỗ trước đền thờ hội Khai trí Tiến đức xây năm 1940) và khánh thành vào dịp kỷ niệm 247 năm sinh của Người vào tháng 11 năm 2012. |
Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820798 | Nhà Văn thánh - Bình văn":" (Tư văn 1 và 2). Trước đây là "Văn miếu" hàng huyện thờ Khổng Tử và bài vị các nhà khoa bảng huyện Nghi Xuân, ban đầu đặt ở xã Xuân Viên. Khoảng năm 1735, Nguyễn Nghiễm sau khi đậu tiến sỹ, nhân đó đã xây "Văn miếu" trong khu vườn của dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Hàng năm cứ dịp xuân về các bậc túc nho trong vùng hội tụ về đây bình văn, ngâm thơ."Đàn tế, bia đá Nguyễn Quỳnh:" Năm 1762, sau khi Nguyễn Nghiễm được thăng chức Tể tướng, ông cùng con là Nguyễn Khản và em là Nguyễn Trọng, lập đàn tế, dựng bia đá tưởng nhớ công ơn sinh thành của cha là Nhuận quận công Nguyễn Quỳnh và mẹ là Phan Thị Minh. Lời khắc trên bia, mặt trước là sắc phong truy tặng phẩm trật của cụ Nguyễn Quỳnh và bà Phan Thị Minh, mặt sau có chữ "Phúc" và dòng lạc khoản ghi tên, hiệu, chức tước của Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Khản.
Hai cây cổ thụ: Cây muỗm và cây bồ lỗ. Trước đây, ông nội Nguyễn Du có trồng 3 cây trong khu vườn gia tộc Nguyễn Tiên Điền vào khoảng những năm 1715-1720. Năm 1956, cây rỏi bị đổ. Nay chỉ còn cây muỗm và cây bồ lỗ. Đây là những cây có tuổi thọ lâu năm nhất trong Khu lưu niệm Nguyễn Du.
Không gian văn hóa Nguyễn Du: Được khởi công xây dựng vào năm 2000, thiết kế dựa theo ý tưởng kiến trúc đình làng Việt, gồm thư viện Nguyễn Du có diện tích 500 m2 với 1 phòng đọc đa chức năng; Hội trường nhà bảo tàng Nguyễn Du, trưng bày, giới thiệu 700 hiện vật quý hiếm liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Du, dòng họ Nguyễn - Tiên Điền và trước tác "Truyện Kiều." Ngoài sân không gian văn hóa được đặt tượng đồng tượng trưng Nguyễn Du vào năm 2002. Năm 2010, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã xây dựng lắp đặt trung tâm Trung tâm ngân hàng dữ liệu di sản văn hóa tại đây.
Mộ Đại thi hào Nguyễn Du.
Năm 1820, Nguyễn Du mất tại kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (ngày 16/9/1820), thọ 55 tuổi. |
Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820798 | Mộ được an táng tại cách đồng Bàu Đá, xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tình Thừa Thiên, gần kinh thành Huế. Năm 1824, con là Nguyễn Ngũ và cháu là Nguyễn Thắng vào kinh đô cất bốc di dời làm thủ tục cải táng trong vườn nhà cũ tại xóm Tiền, thôn Lương Năng (nay là thôn Hòa Thuận). Năm 1826, Nguyễn Ngũ lại xin dòng họ dịch chuyển ra cách đó 500 m. Thời gian sau khoảng đầu thế kỷ XX, lại được con cháu chuyển ra khu nghĩa trang tại xứ Đồng Cùng, thuộc thôn Tiền Giáp. Ban đầu mộ được xây bằng gạch chỉ. Năm 1965, Giáo sư Đặng Thai Mai và lớp học trò từ Hà Nội vào đặt mộ chí bằng đá: "Tiên Điền, Nguyễn Du tiên sinh chi mộ". Năm 2005, khu mộ Đại thi hào được nâng cấp khang trang hơn. Năm 2015, để kỷ niệm 250 năm ngày sinh, khu mộ Đại thi hào Nguyễn Du Năm 1965, Giáo sư Đặng Thai Mai và lớp học trò từ Hà Nội vào đặt mộ chí bằng đá: "Tiên Điền, Nguyễn Du tiên sinh chi mộ". Năm 2005, khu mộ Đại thi hào được nâng cấp khang trang hơn. Năm 2015, để kỷ niệm 250 năm ngày sinh, khu mộ Đại thi hào Nguyễn Du được ốp đá.
Vườn cũ của Đại thi hào Nguyễn Du.
Ở Giáp Tiền, thôn Lương Năng, làng Tiên Điền, là nơi Nguyễn Du ở ẩn trong khoảng 6 năm (1796 - 1802) và là nơi nghỉ dưỡng lúc về quê khi đang làm quan với nhà Nguyễn. Trước đây, ngôi nhà cũ có nhà chính, nhà ngang làm bằng gỗ, kết cấu 3 gian lợp ngói ta, sau khi đại thi hào mất, ngôi nhà được dùng làm nhà thờ. Khoảng năm 1934 -1935 bị hỏng, năm 1940, Hội Khai trí Tiến đức xây đền thờ Nguyễn Du trong vườn cũ của họ Nguyễn tại thôn Hồng Lam ngày nay (nhà thờ hiện tại). Năm 1960 - 1965, Bộ Văn hóa và tỉnh Hà Tĩnh có chủ trương quy hoạch khu vườn cũ, đưa phần mộ của đại thi hào ở khu vực Đồng Cùng về tại đây nhưng kế hoạch không được thực hiện. Hiện nay khu vườn cũ nằm trong khuôn viên sân trường tiểu học Tiên Điền và trên vườn cũ còn dấu tích có một cây đại cổ thụ mà tương truyền chính Nguyễn Du trồng. |
Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820798 | Đền thờ và mộ Nguyễn Nghiễm.
Ông là con trai thứ 2 của Lĩnh Nam Công Nguyễn Quỳnh và là thân phụ Đại thi hào Nguyễn Du. Ông là nhà chính trị, nhà giáo dục, nhà sử học uyên bác và là người đứng đầu về cử nghiệp, khoa bảng của họ Nguyễn - Tiên Điền. Ông đậu tiến sỹ năm 1731, làm Tế tửu Quốc tử giám năm 1742, năm 1762 được thăng Tể tướng và có gần 50 năm hoạt động trên chính trường Lê - Trịnh, dù ở ngoài làm tướng võ cầm quân, trong triều làm tướng văn trị nước, ở chức nào Nguyễn Nghiễm cũng nổi tiếng tài giỏi và để lại nhiều trước tác có giá trị như "Quân trung liên vịnh", "Xuân Đình tập vịnh", "Cổ lễ nhạc thi văn" và bài phú "Khổng tử mộng Chu công". Đền thờ được xây dựng khi ông còn sống (sinh từ) thuộc thôn Bảo Kệ, xã Tiên Điền.
Các đồ thờ tự trong đền phần lớn bằng chất liệu đá Thanh. Trước cửa đền đặt ngựa đá, voi đá và tượng tướng quân cầm binh khí túc trực nghiêm trang. Kính trọng và ngưỡng mộ đức tài của Nguyễn Nghiễm, nhân dân thường gọi là đền thờ Đức Đại vương Hai.
Đền thờ Nguyễn Trọng.
Ông sinh năm 1710, mất năm 1789, là người giỏi về văn thơ, y, lý, số, đặc biệt là y học. Đền thờ Nguyễn Trọng được xây dựng khi ông còn sống ở thôn Tiên Quang, xã Tiên Điền ngày nay. Trong khuôn viên còn có mộ phần của ông. Kiến trúc đền thờ đơn giản, trong nội thất còn giữ lại nhiều đồ tế khí, hoành phi, câu đối có giá trị. Trước đền thờ có voi, ngựa đá, tượng người bằng gỗ, đặc biệt có tấm bia: "Tích thiện gia huấn", ghi lời dạy của ông cho con cháu trong nhà và các thế hệ đời sau.
Khu lăng văn sự.
Lăng văn sự trước đây nằm gần bờ sông Lam, thuộc giáp Đông, thôn Lương Năng. Là mộ tổ đời thứ 3 của họ Nguyễn Tiên Điền, mộ của Thuật Hiên Công Nguyễn Khản (anh cùng cha khác mẹ của Đại thi hào Nguyễn Du) từng là trụ cột của triều đình. |
Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820798 | Do sạt lở nên khu mộ được chuyển vào chỗ hiện nay, cách vị trí cũ 200 m. Khu lăng mới có diện tích 120 m2, xây tường bao quanh, cổng vào đắp cuốn thư với 4 chữ "địa linh nhân kiệt" (đất thiêng người tài). Khu lăng hiện nay có các ngôi mộ: Nguyễn Thể (bố Nguyễn Quỳnh), Thuật Hiên Công Nguyễn Khản, Phương Trạch hầu Nguyễn Ổn, Chính thất Lê quý thị (vợ Phương Trạch hầu), tiến sỹ Giới Hiên Công Nguyễn Huệ (bác ruột Nguyễn Du) và Chính thất Nguyễn quý thị (vợ Nguyễn Huệ).
Quy hoạch mở rộng.
Ngày 20/12/2013, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 2542/QĐ-TTg, phê duyệt Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo Khu lưu niệm Nguyễn Du, (huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh) với phạm vi nghiên cứu xác định khoảng 340 ha.
Giao thông.
Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du nằm cạnh Quốc lộ 8B, cách Thành phố Vinh 7km, cách Thành phố Hà Tĩnh 50km, cách Cầu Cửa Hội 12km. Đường sá đi lại thuận tiện. |
VieZ.vn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820799 | VieZ.vn là một Trang thông tin điện tử tổng hợp được cung cấp bởi Công ty cổ phần VieZ trực thuộc Tổ hợp Đất Việt VAC tại Việt Nam. Trang báo được phát hành vào năm 2020,Chỉ sau hơn 6 tháng đẩy mạnh phát triển về số, VieZ.vn đã ghi nhận lượng người dùng truy cập hàng tháng đạt trung bình hơn 3 triệu users, nằm trong Top 60 Market Leader của toàn ngành Online News Publishing tại Việt Nam (số liệu của SimilarWeb) và sự ra mắt của Z.FutureNow, VieZ.REMIX để phục vụ độc giả
Lịch sử.
Trang VieZ.vn được lên kế hoạch phát triển vào năm 2016, Chỉ sau hơn 6 tháng đẩy mạnh phát triển về số, VieZ.vn đã ghi nhận lượng người dùng truy cập hàng tháng đạt trung bình hơn 3 triệu users, nằm trong Top 60 Market Leader của toàn ngành Online News Publishing tại Việt Nam (số liệu của SimilarWeb).
. VieZ chính thức được tập đoàn Đất Việt VAC phát hành vào ngày 02 tháng 6 năm 2020.
Niềm tự hào 2022 của VieZ còn nằm ở "VieZ.REMIX – Vũ trụ nhạc phiêu". Sự kiện này đưa VieZ thành thương hiệu báo chí đầu tiên tại Việt Nam tự sản xuất một chương trình live concert âm nhạc từ original format của mình. Sân chơi hội hè âm nhạc dành cho các tài năng trẻ và giao thoa thế hệ này dự kiến diễn ra hàng quý từ năm 2023.
Tháng 12/2022, còn đánh dấu sự xuất hiện của VieZ App - Read The Future, giúp thay đổi thói quen đọc thông tin giải trí của người trẻ trên app. Được biết, năm 2023, VieZ App sẽ là sản phẩm chủ lực trong chiến lược phát triển dài hạn của VieZ và DatVietVAC. Hiện tại, phiên bản beta của app đã có mặt trên Apple Store và Android.
VieZ.vn trở thành trang thông tin điện tử sở hữu những nền tảng social media có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ nhất thị trường.
Thành Tựu.
CÁC CON SỐ ẤN TƯỢNG
Top 30 Social Leaders của toàn ngành Online News Publishing
Kênh Tiktok VieZ đã vượt mốc 1 tỷ views và giữ mức tăng trưởng trung bình hơn 1000% từ tháng 5 đến nay.
Trang Facebook VieZ.vn được ghi nhận có tỉ lệ interaction trung bình đứng thứ 1 trong số các đối thủ (số liệu của Crowdtangle). |
VieZ.vn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820799 | Nội dung được triển khai với các tiêu chí:
Tốc độ, Tiên phong, Độc quyền, Hiệu quả, Tương tác, Phản biện thông qua hệ thống Social Media (Facebook, Tiktok) có tỉ lệ tương tác cao nhất Top 1 trong thị trường trang thông tin điện tử giải trí dành cho giới trẻ (theo số liệu Crowdtangle).
THÔNG TIN TRAFFIC VIEZ.VN
Pageview: 50 triệu
Users: 30 triệu
Visits: 35,4 triệu
Time on site: 00:02:17
Trụ cột nội dung.
Nội dung được triển khai với các tiêu chí:
Tốc độ, Tiên phong, Độc quyền, Hiệu quả, Tương tác, Phản biện thông qua hệ thống Social Media (Facebook, Tiktok) có tỉ lệ tương tác cao nhất Top 1 trong thị trường trang thông tin điện tử giải trí dành cho giới trẻ (theo số liệu Crowdtangle).
Format nội dung VieZ 2023.
• Chị K. showbiz - Bé Tư hoa hậu
• V132 Calling hoặc "I Do"
• Khoan đã...
• Là Ai Zị?
• VieZ Mở
• VieZ Special: Real & Raw
• VieZ.Remix
• Có Z ở hậu trường
• Z.FutureNow |
Các vị trí trong bóng chày | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820807 | Trong môn thể thao bóng chày, mỗi người trong số chín cầu thủ của một đội được chỉ định một vị trí phòng ngự trên sân cụ thể khi đội của họ đang trong lượt phòng ngự của hiệp đấu. Mỗi vị trí sẽ được đánh số tương ứng để sử dụng bởi người phụ trách ghi lại tỉ số trận đấu, để cầu thủ ghi điểm chính thức sử dụng trong việc ghi điểm, bao gồm: 1 - cầu thủ giao bóng (pitcher), 2 - cầu thủ bắt bóng (catcher) , 3 - cầu thủ chốt 1 (first baseman), 4 - cầu thủ chốt 2 (second baseman), 5 - cầu thủ chốt 3 (third baseman), 6 - cầu thủ chặn ngặn (shortstop), 7 - cầu thủ trái ngoài (left fielder), 8 - cầu thủ giữa ngoài (center fielder) và 9 - cầu thủ phải ngoài (right fielder). Các vị trí này thường được chia thành ba nhóm: cầu thủ sân ngoài (trái ngoài, giữa ngoài, phải ngoài, cầu thủ sân trong (chốt 1, chốt 2, chốt 3, chặn ngắn) và battery (cầu thủ giao bóng và bắt bóng). Thông thường, cầu thủ trong mỗi nhóm có thể thay đổi vị trí linh hoạt (ví dụ như chốt 2 có thể chơi chặn ngắn, giữa ngoài có thể chơi phải ngoài). Tuy nhiên, cầu thủ phát bóng và cầu thủ bắt bóng là những vị trí đặc thù và hiếm khi chơi ở các vị trí khác.
Phòng ngự trên sân.
Cầu thủ phòng ngự trên sân phải có khả năng bắt bóng tốt. Cầu thủ phải bắt được bóng đã bị đánh trước khi chúng chạm đất để loại cầu thủ đánh bóng (out), cũng như tạo cơ hội để chặn và loại cầu thủ chạy chốt (putout).
Ngoài ra, vị trí này cũng phải có khả năng ném bóng tốt, cầu thủ phòng ngự phải bắt bóng đã bị đánh trúng rồi rồi ném cho một cầu thủ phòng ngự khác, cầu thủ này có thể cầm bóng tay không hoặc bằng găng của họ. Lúc này, họ phải chạm vào cầu thủ đang chạy chốt hoặc chạm vào chốt nhanh hơn cầu thủ đang muốn chiếm chốt đó để loại.
Cầu thủ phòng ngự thường phải bứt tốc, đổ người và xoạc một cách nhanh chóng để lấy được bóng đã được đánh để luân chuyển bóng tới những cầu thủ phòng ngự khác. Họ cũng có nguy cơ va chạm mạnh với cầu thủ chạy chốt khi cố gắng chạm (tag out) để loại cầu thủ đó tại chốt. |
Các vị trí trong bóng chày | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820807 | Cầu thủ phòng ngự có nhiều nhiệm vụ khác nhau tùy thuộc vào tình hình trận đấu. Ví dụ, khi một cầu thủ sân ngoài cố gắng ném bóng từ gần hàng rào đến một trong các chốt, cầu thủ sân trong đóng vai trò như một "trạm chung chuyển" tiếp nhận bóng và đưa bóng tới nơi cần đến.
Cùng với nhau, cầu thủ sân ngoài có trách nhiệm ngăn chặn home run bằng cách vươn lên trên hàng rào (và có khả năng thực hiện động tác leo tường) để bắt lấy bóng đã bị đánh lên trên không trung. Cầu thủ sân trong có nhiệm vụ chạm vào (tag) chốt hoặc cầu thủ chạy chốt, đồng thời cũng cần phản xạ nhanh để bắt được bóng đã bị đánh trước khi bóng rời khỏi sân trong. Cầu thủ giao bóng và bắt bóng có trách nhiệm đặc biệt trong việc ngăn chặn cướp chốt, vì họ là những người xử lý bóng khi bóng chưa được đánh. Cầu thủ bắt bóng đôi khi cũng sẽ cố gắng chặn đĩa nhà để ngăn đội bạn ghi điểm. |
Dư Hoa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820809 | Dư Hoa () sinh ngày 3 tháng 4 năm 1960 tại Hàng Châu, Chiết Giang, là nhà văn đương đại tại Trung Quốc. Bắt đầu nổi lên từ những năm 80 của thế kỉ XX, Dư Hoa được biết là một trong những cây bút tiêu biểu của phong trào "truyện ngắn tiên phong". Từ những năm 90 của thế kỉ trước, những bộ tiểu thuyết của Dư Hoa lần lượt được xuất bản cho thấy sự chuyển hướng trong sáng tạo, thể hiện sự tìm tòi lối đi riêng của ông. Trải qua ba thập niên sáng tác, Dư Hoa để lại một dấu ấn đậm nét trên nền văn học đương đại, phản chiếu sinh động những chuyển biến trong đời sống tư tưởng của thời đại cũng như diện mạo của văn học Trung Quốc từ khi tiến hành Cải cách và mở cửa. |
Nickel(III) fluoride | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820811 | Nickel(III) floride là hợp chất hóa học có công thức NiF3. Nó là một hợp chất ion của nickel và fluor.
Điều chế.
Nickel(III) fluoride có thể được điều chế bằng phản ứng của kali hexafluoronickelat(IV) với arsenic pentafluoride trong acid hydrofluoric. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1872 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820812 | Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1872 là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 22, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 5 tháng 11 năm 1872. Bất chấp sự chia rẽ trong nội bộ Đảng Cộng hòa, Tổng thống đương nhiệm Ulysses S. Grant đã đánh bại ứng cử viên Đảng Cộng hòa Tự do (được chống lưng bởi Đảng Dân chủ) Horace Greeley.
Grant đã được nhất trí tái đề cử tại Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1872, nhưng các đối thủ trong đảng của ông đã thành lập Đảng Cộng hòa Tự do và tổ chức một đại hội của riêng họ. Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa Tự do năm 1872 sau cùng đã đề cử Greeley, một nhà báo từ New York, và soạn thảo một bản cương lĩnh kêu gọi cải cách dân vụ và chấm dứt Tái thiết. Các nhà lãnh đạo Đảng Dân chủ tin rằng hy vọng duy nhất của họ để đánh bại Grant là cùng nhau đoàn kết để ủng hộ Greeley, và Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1872 đã đề cử liên danh mà Đảng Cộng hòa Tự do đã đề cử trước đó.
Dù được chống lưng bởi liên minh giữa Đảng Cộng hòa Tự do và Đảng Dân chủ, Greeley là một nhà vận động chính trị tồi và Grant, do đó, vẫn được yêu thích rộng rãi. Grant đã giành chiến thắng cách biệt trong chiến dịch tái tranh cử của mình, thắng 31 trong số 37 bang, bao gồm một số bang miền Nam sẽ không bỏ phiếu cho Đảng Cộng hòa cho đến tận thế kỷ 20. Grant sẽ là người đương nhiệm cuối cùng thắng cử hai nhiệm kỳ liên tiếp cho đến tận khi William McKinley giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1900, và cách biệt phần trăm phiếu phổ thông của ông là 11,8% là cách biệt lớn nhất từ năm 1856 đến năm 1904.
Vào ngày 29 tháng 11 năm 1872, sau khi số phiếu phổ thông được kiểm đếm, nhưng trước khi Đại cử tri đoàn nhóm họp, Greeley qua đời. Kết quả là các đại cử tri theo lý thuyết trước đó phải bầu cho Greeley đã buộc phải bỏ phiếu cho 4 ứng cử viên khác cho chức tổng thống và 8 ứng cử viên cho chức Phó Tổng thống. Cuộc bầu cử năm 1872 cũng là lần duy nhất trong lịch sử Hoa Kỳ mà một ứng cử viên Tổng thống từ 2 đảng lớn qua đời trong cuộc bầu cử. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1872 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820812 | Cuộc bầu cử này đã xác lập kỷ lục về chuỗi chiến thắng lâu nhất của Đảng Cộng hòa trong lịch sử Hoa Kỳ với 4 cuộc bầu cử, một kỷ lục sẽ được lập một lần nữa bởi đảng Cộng hòa vào năm 1908. Bản thân Grant là 1 trong 4 Tổng thống Đảng Cộng hòa duy nhất đã phục vụ trọn vẹn 2 nhiệm kỳ, những người còn lại là Dwight D. Eisenhower, Ronald Reagan và George W. Bush.
Đề cử.
Đề cử của Đảng Cộng hòa.
Tại đại hội, Đảng Cộng hòa đã đề cử Tổng thống Ulysses S. Grant ra tái tranh cử chức Tổng thống, nhưng lại đề cử Thượng nghị sĩ Henry Wilson từ Massachusetts tranh chức Phó Tổng thống thay vì Phó Tổng thống đương nhiệm Schuyler Colfax, mặc dù cả hai đều dính líu đến vụ bê bối Credit Mobilier nổ ra 2 tháng sau khi đại hội của Đảng Cộng hòa bế mạc. Một số người khác, vốn đã trở nên mệt mỏi với nạn tham nhũng tràn lan trong nội bộ chính quyền Grant, đã quyết định cùng nhau thành lập Đảng Cộng hòa Tự do.
Đề cử của các đảng đối lập.
Với hy vọng đánh bại Grant, Đảng Dân chủ đã ủng hộ cho các ứng cử viên của Đảng Cộng hòa Tự do.
Đề cử của Đảng Cộng hòa Tự do.
Một nhóm những đảng viên Cộng hòa bất đồng chính kiến có ảnh hưởng đã rời khỏi đảng để thành lập Đảng Cộng hòa Tự do vào năm 1870. Tại đại hội toàn quốc duy nhất của đảng, được tổ chức ở Cincinnati năm 1872, biên tập viên tờ "New York Tribune" cựu Dân biểu Horace Greeley được đề cử làm Tổng thống ở lần bỏ phiếu thứ 6, đánh bại Charles Francis Adams. Sau đó, Thống đốc Missouri Benjamin Gratz Brown được đề cử làm Phó Tổng thống trong lần bỏ phiếu thứ hai.
Đề cử của Đảng Dân chủ.
Đại hội triệu tập tại Baltimore, Maryland, từ ngày 9 đến 10 tháng 7. Vì mong muốn đánh bại Ulysses S. Grant dâng cao, Đảng Dân chủ quyết định đề cử liên danh Greeley/Brown của Đảng Cộng hòa Tự do và thông qua cương lĩnh của họ. Greeley nhận được 686 trong số 732 phiếu bầu từ đại biểu, trong khi Brown nhận được 713. Thông qua cương lĩnh của Đảng Cộng hòa Tự do tức là Đảng Dân chủ đã chấp nhận chiến lược Khởi hành Mới, chiến lược đã bác bỏ cương lĩnh chống Tái thiết ban hành năm năm 1868. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1872 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820812 | Họ nhận ra rằng để giành chiến thắng trong cuộc bầu cử, họ phải nhìn về tương lai chứ không thể mãi luẩn quẩn với các vấn đề liên quan đến Nội chiến. Họ cũng nhận ra rằng họ sẽ chỉ phân tán số phiếu chống Grant nếu họ đề cử một ứng cử viên không phải Greeley. Tuy nhiên, Greeley nổi tiếng từ lâu là một nhân vật chống đối Đảng Dân chủ tích cực nhất, do đó đã làm giảm mức độ ủng hộ của các đảng viên Đảng Dân chủ với ứng cử viên Tổng thống của chính họ.
Một số đảng viên Đảng Dân chủ lo lắng rằng việc ủng hộ Greeley sẽ khiến đảng sụp đổ ngay lập tức, giống như việc Đảng Whig trên bờ vực sụp đổ đã hoàn toàn sụp đổ sau khi ủng hộ ứng cử viên của Nhất Vô Sở Tri Millard Fillmore vào năm 1856, mặc dù những người khác cảm thấy rằng Đảng Dân chủ đang ở vị thế mạnh hơn nhiều so với trường hợp của đảng Whig. Hơn nữa, đảng Whig dường như đã sụp đổ trước năm 1856 và nhiều người còn dự đoán (chính xác, như đã xảy ra) rằng Đảng Cộng hòa Tự do sẽ không tồn tại lâu dài do không khác biệt gì nhiều về mặt tư tưởng với Đảng Cộng hòa. Một nhóm người do James A. Bayard lãnh đạo đã tìm cách đề cử một liên danh khác với liên danh của Đảng Cộng hòa Tự do, nhưng phần lớn họ sau cùng cũng đồng ý ủng hộ Greeley. Đại hội, chỉ kéo dài 6 giờ trong 2 ngày, là đại hội của đảng lớn ngắn nhất trong lịch sử.
Đảng Cộng hòa Tự do và Đảng Dân chủ sau đó hoạt động cùng dưới một tên ở tất cả các bang ngoại trừ Louisiana và Texas. Ở những bang mà đảng Cộng hòa mạnh hơn, đảng Cộng hòa Tự do hoạt động sôi nổi hơn; trong khi ở những bang mà Đảng Dân chủ mạnh hơn, Đảng Dân chủ hoạt động tích cực hơn. Ngay cả các nhà lãnh đạo Đảng Dân chủ như Thomas F. Bayard, vốn phản đổi Greeley, sau cùng cũng ủng hộ Greeley.
Đề cử khác.
Các ứng cử viên Tổng thống:
Đảng Cải cách Lao động.
Đảng Cải cách Lao động chỉ mới được thành lập vào năm 1870 bởi Đại hội Liên đoàn Lao động Quốc gia với hy vọng nó sẽ tham gia cuộc bầu cử Tổng thống năm 1872. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1872 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820812 | Trước cuộc bầu cử Tổng thống năm 1872, đảng đã tổ chức nhiều chi nhánh cấp tiểu bang và đạt được chút thành công. Một trong những chiến thắng quan trọng của nó là thành lập một liên minh đa số với Đảng Dân chủ tại Hạ viện New Hampshire vào năm 1871, trong đó William Gove, thành viên của đảng này, được bầu làm Chủ tịch.
Đại hội toàn quốc đầu tiên của đảng được tổ chức tại Columbus, Ohio vào ngày 22 tháng 2 năm 1872. Ban đầu, đã có khá nhiều tranh luận về việc liệu đảng có nên thực sự đề cử bất kỳ ai cho chức vụ Tổng thống vào thời điểm đó hay không, hay họ nên đợi Đảng Cộng hòa Tự do đề cử liên danh của mình trước. Sau cùng, họ đề cử David Davis làm Tổng thống do ông đang dẫn đầu các cuộc thăm dò của Đảng Cộng hòa Tự do vào thời điểm đó. Joel Parker, Thống đốc New Jersey, được đề cử làm Phó Tổng thống.
Mặc dù Davis không từ chối đề cử chức Tổng thống của đảng Cải cách Lao động, nhưng ông đã quyết định ưu tiên giành được đề cử Đảng Cộng hòa Tự do hơn, để ít nhất ông có thể được họ bảo trợ chống lưng. Sau đại hội của đảng Cộng hòa Tự do, ông không giành được đề cử Tổng thống nên đã điện báo cho đảng Cải cách Lao động và thông báo cho họ về ý định rút lui hoàn toàn khỏi cuộc bầu cử. Sau đó, Joel Parker tiếp bước Davis và cũng rút lui.
Dại hội thứ hai được tổ chức vào ngày 22 tháng 8 tại Philadelphia, nơi họ quyết định rằng thay vì phạm sai lầm tương tự một lần nữa, đảng sẽ hợp tác với Đảng Dân chủ Thẳng thắn mới thành lập gần đây. Sau cuộc bầu cử, các chi nhánh cấp tiểu bang của đảng ngày càng ít hoạt động hơn, và đến năm sau, đảng này giải tán. Hoạt động của đảng Cải cách Lao động vẫn tiếp tục đến năm 1878, khi các đảng viên Cải cách Lao động và Đồng bạc Xanh, cùng với các đảng khác, thành lập Đảng Quốc gia.
Đảng Dân chủ Thẳng thắn.
Không muốn ủng hộ liên danh của đảng Dân chủ (Greeley/Brown), một nhóm hầu hết là đảng viên Đảng Dân chủ từ miền Nam đã tổ chức cái mà họ gọi là "đại hội" Đảng Dân chủ Thẳng thắn ở Louisville, Kentucky, vào ngày 11 tháng 8 năm 1872. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1872 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820812 | Họ đề cử Charles O'Conor làm Tổng thống, người đã từ chối đề cử của họ qua điện tín; John Quincy Adams II cho chức Phó Tổng thống. Do không có thời gian để chọn người thay thế, đảng vẫn đề cử hai ứng cử viên. Họ nhận được 0,36% số phiếu phổ thông và không có phiếu trong Đại cử tri đoàn.
Đảng Quyền Bình đẳng.
Victoria Woodhull được công nhận là người phụ nữ đầu tiên tranh cử Tổng thống. Bà được đề cử làm Tổng thống bởi Đảng Quyền Bình đẳng nhỏ. Frederick Doulass đã được đề cử làm Phó Tổng thống, mặc dù ông không tham dự Đại hội nhưng vẫn chấp nhận đề cử của đảng và đóng vai trò tích cực trong chiến dịch tranh cử.
Tổng tuyển cử.
Chiến dịch.
Chính quyền của Grant và những đảng viên Đảng Cộng hòa Cấp tiến của ông đã bị cáo buộc tham nhũng tràn lan, và Đảng Cộng hòa Tự do yêu cầu cải cách dân vụ và chấm dứt quá trình Tái thiết, bao gồm cả việc rút quân đội liên bang khỏi miền Nam. Cả Đảng Cộng hòa Tự do và Đảng Dân chủ đều thất vọng về ứng cử viên Greeley của họ. Là một nhà vận động kém cỏi với ít kinh nghiệm chính trị, sự nghiệp biên tập báo chí của Greeley đã khiến các đối thủ của ông có nhiều cơ hội để tấn công. Với những ký ức về những chiến thắng của mình trong Nội chiến, Grant dường như vẫn được công chúng yêu mến. Grant cũng có một ngân sách lớn cho chiến dịch của mình. Một nhà sử học từng nói rằng, "Chưa bao giờ một ứng cử viên nhận được nhiều tiền từ những người giàu có nhiều như Grant." Phần lớn quỹ chiến dịch của Grant đến từ các doanh nhân, bao gồm Jay Cooke, Cornelius Vanderbilt, Alexander Turney Stewart, Henry Hilton và John Astor.
Quyền Bầu cử của phụ nữ.
Đây là cuộc bầu cử đầu tiên sau khi Hiệp hội Quốc gia về Quyền Bầu cử của phụ nữ (NWSA) và Hiệp hội Quyền Bầu cử của Phụ nữ Hoa Kỳ (AWSA) thành lập vào năm 1869. Do đó, các cuộc biểu tình đòi quyền bầu cử của phụ nữ trở nên phổ biến hơn. NWSA tổ chức hội nghị thường niên tại Thành phố New York vào ngày 9 tháng 5 năm 1872. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1872 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820812 | Một số đại biểu đã ủng hộ Victoria Woodhull, người đã dành cả năm kể từ cuộc họp thường niên trước đó của NWSA để đi tới các vùng lân cận của Thành phố New York và phát biểu về lý do tại sao phụ nữ nên được phép bỏ phiếu. Các đại biểu đã chọn Victoria Woodhull ra tranh cử Tổng thống và Frederick Douglass làm Phó Tổng thống. Ông ấy đã không tham dự đại hội và không bao giờ chấp nhận đề cử, mặc dù ông ấy sẽ phục vụ với tư cách là Đại cử tri bầu Tổng thống trong Đại cử tri đoàn Hoa Kỳ cho bang New York. Woodhull đã có một loạt bài phát biểu xung quanh Thành phố New York trong chiến dịch tranh cử. Tài chính của bà ấy rất eo hẹp, và buộc phải vay tiền từ những người ủng hộ dù không thể trả lại cho họ. Vào một ngày trước cuộc bầu cử, Woodhull đã bị bắt vì "xuất bản một tờ báo tục tĩu" và vì vậy không thể bỏ phiếu cho chính mình. Woodhull thực ra chắc chắn không đủ tư cách để trở thành Tổng thống vào Ngày nhậm chức 4 tháng 3 năm 1873, không phải vì bà là phụ nữ, mà vì bà sẽ không đạt đến độ tuổi tối thiểu để trở thành Tổng thống theo quy định của Hiến pháp là 35 cho đến ngày 23 tháng 9 năm 1873; các nhà sử học do đó đã tranh luận về việc có nên coi các hoạt động của cô ấy là một chiến dịch bầu cử thực sự hay không. Woodhull và Douglass không được liệt kê trong "Kết quả Bầu cử" bên dưới, vì liên danh này nhận được số phiếu phổ thông không đáng kể và không nhận được bất kỳ phiếu đại cử tri nào. Ngoài ra, một số phụ nữ đã cố gắng bỏ phiếu trong cuộc bầu cử. Susan B. Anthony đã bị bắt khi bà đang cố gắng bỏ phiếu và bị phạt 100 đô la trong một phiên tòa sau đó.
Kết quả.
Grant đã tái đắc cử một cách dễ dàng trước Greeley, với cách biệt tỷ lệ phiếu phổ thông là 11,8% tương ứng với 763.000 phiếu bầu.
Grant cũng thắng phiếu Đại cử tri đoàn với 286 phiếu; trong khi Greeley giành được 66 phiếu đại cử tri. Greeley qua đời vào ngày 29 tháng 11 năm 1872, 24 ngày sau cuộc bầu cử nhưng trước khi bất kỳ đại cử tri nào đáng lý phải bầu cho ông (từ Texas, Missouri, Kentucky, Tennessee, Georgia và Maryland) có thể nhóm họp và bỏ phiếu. |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1872 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820812 | Sau đó, 63 đại cử tri đáng ra phải bầu cho Greeley đã bỏ phiếu cho các đảng viên Đảng Dân chủ khác: 18 người trong số họ bỏ phiếu bầu Tổng thống cho đồng tranh cử của Greeley, Benjamin Gratz Brown, và 45 người bỏ phiếu bầu Tổng thống cho 3 người không phải là ứng cử viên.
Trong số 2.171 quận, Grant thắng 1.335 trong khi Greeley thắng 833. Ba quận được chia đều giữa Grant và Greeley.
Tranh chấp.
Trong phiên họp chung của Quốc hội để kiểm phiếu đại cử tri vào ngày 12 tháng 2 năm 1873, 5 bang đã phản đối kết quả bầu cử tại bang họ. Tuy nhiên, không giống như những phản đối sẽ được đưa ra vào năm 1877, những phản đối này sau cùng không ảnh hưởng đến kết quả của cuộc bầu cử.
Cuộc bầu cử này là lần cuối cùng mà Arkansas bỏ phiếu cho Đảng Cộng hòa cho đến năm 1972, và là cuộc bầu cử cuối cùng Arkansas bỏ phiếu chống lại Đảng Dân chủ cho đến năm 1968. Alabama và Mississippi sẽ không bầu cho Đảng Cộng hòa cho đến năm 1964, và họ sẽ không bỏ phiếu chống lại Đảng Dân chủ cho đến năm 1948. Bắc Carolina và Virginia sẽ không bỏ phiếu cho Đảng Cộng hòa cho đến năm 1928. West Virginia, Delaware và New Jersey sẽ không bỏ phiếu cho Đảng Cộng hòa cho đến năm 1896.
Bảng kết quả.
Tổng quan.
(a) "Những ứng cử viên này đã nhận được phiếu bầu từ các Đại cử tri vốn phải bầu cho Horace Greeley, người đã chết trước khi đại cử tri bỏ phiếu."
(b) "Các phiếu bầu Phó Tổng thống của Brown đã được kiểm, nhưng các phiếu bầu Tổng thống của Horace Greeley đã bị bác bỏ vì ông không đủ điều kiện cho chức vụ Tổng thống do đã qua đời."
(c) "Xem Kết quả theo liên danh bên dưới."
(d) "14 phiếu đại cử tri từ Arkansas và Louisiana đã bị bác bỏ." "Nếu chúng không bị từ chối, Grant sẽ nhận được 300 phiếu đại cử tri trong tổng số 366, vượt 184 phiếu cần thiết để giành chiến thắng và ông sẽ trở thành ứng cử viên đầu tiên nhận được hơn 300 phiếu đại cử tri."
Kết quả theo Liên danh.
(a)"Nguồn được sử dụng không đủ dữ liệu để xác định liên danh thắng 4 phiếu đại cử tri ở Missouri; do đó, các liên danh có thể được liệt kê với số phiếu đại cử tri tối thiểu và tối đa có thể giành được."
(b) "Các phiếu bầu Phó Tổng thống của Brown đã được kiểm đếm, nhưng các phiếu bầu Tổng thống cho Horace Greeley đã bị từ chối vì ông không đủ điều kiện cho chức vụ Tổng thống do ông qua đời dù họ cùng là một liên danh tranh cử." |
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1872 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820812 | Kết quả theo bang.
Nguồn: Dữ liệu từWalter Dean Burnham, "Presidential ballots, 1836–1892" (Johns Hopkins University Press, 1955) pp 247–57.
Tiểu bang sít sao.
Màu đỏ biểu thị bang đảng viên Cộng hòa Ulysses S. Grant thắng; Xanh biểu thị bang đảng viên Cộng hòa Tự do/Dân chủ Horace Greeley thắng.
Các bang có tỷ lệ chiến thắng dưới 1% (19 phiếu đại cử tri)
Các bang có tỷ lệ chiến thắng từ 1% đến 5% (32 phiếu đại cử tri)
Các bang có tỷ lệ chiến thắng 5% đến 10% (133 phiếu đại cử tri):
Sự sụp đổ của Đảng Cộng hòa Tự do.
Mặc dù tổ chức cấp quốc gia của đảng sụp đổ sau năm 1872, một số thành viên Đảng Cộng hòa Tự do vẫn tiếp tục phục vụ trong Quốc hội sau cuộc bầu cử năm 1872. Hầu hết các Dân biểu Đảng Cộng hòa Tự do cuối cùng đã gia nhập Đảng Dân chủ. Bên ngoài miền Nam, một số Đảng viên Đảng Cộng hòa Tự do tìm cách thành lập một đảng mới đối lập với Đảng Cộng hòa, nhưng Đảng viên Đảng Dân chủ không muốn rời đảng của họ và ngay cả những đảng tương đối thành công như Đảng Cải cách của Wisconsin sau cùng cũng sụp đổ. Ngay cả Đảng Cộng hòa Tự do Missouri vô cùng nổi tiếng cũng sụp đổ khi Đảng Dân chủ trở lại là đảng đối lập chính với Đảng Cộng hòa. Trong những năm tiếp theo, các đảng viên Cộng hòa Tự do trước đây đã trở thành thành viên có uy tín của cả hai đảng lớn. |
Sara Zahedi | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820814 | Sara Zahedi (sinh 1981 tại Tehran) là một nhà toán học người Iran gốc Thụy Điển làm việc trong lĩnh vực tính toán động lực học chất lỏng và giữ chức phó giáo sư về giải tích số tại Viện Công nghệ Hoàng gia KTH ở Thụy Điển. Bà là một trong mười người đoạt giải và là nữ chủ nhân duy nhất Giải thưởng của Hiệp hội Toán học Châu Âu năm 2016 "cho nghiên cứu nổi bật của bà đối với việc phát triển và phân tích các thuật toán số cho các phương trình vi phân từng phần, tập trung vào các ứng dụng cho các bài toán hình học biến đổi động". Chủ đề bài thuyết trình Giải thưởng EMS của Sara Zahedi là nghiên cứu gần đây của bà về phương pháp CutFEM để giải các bài toán động lực học chất lỏng với hình dạng biên thay đổi, chẳng hạn như phát sinh khi mô phỏng động lực học của hệ hai chất lỏng không thể trộn lẫn. Phương pháp này kết hợp các phương pháp thiết lập mức độ để biểu diễn các miền ranh giới khi cắt qua một lưới thống nhất nằm dưới, cùng với các kỹ thuật mô phỏng số có thể thích ứng với hình học phức tạp của các ô lưới được cắt bởi các ranh giới này.
Khi Zahedi mười tuổi, việc cha bà bị giết bởi chế độ sau Cách mạng Iran đã thúc đẩy mẹ bà gửi bà sang Thụy Điển tị nạn một mình và chỉ gia nhập lại với bà vài năm sau đó. Bà bị cuốn hút vào toán học một phần vì bà hiểu toán học tốt hơn tiếng Thụy Điển, và cơ học chất lỏng bởi các ứng dụng trong thế giới thực của nó. Bà lấy bằng thạc sĩ tại KTH năm 2006 và bằng tiến sĩ năm 2011; luận án của bà, "Phương pháp số cho các bài toán giao diện chất lỏng (Numerical Methods for Fluid Interface Problems)", được chỉ dẫn bởi Gunilla Kreiss. Sau khi hoàn thành nghiên cứu sau tiến sĩ tại Đại học Uppsala, bà trở lại KTH với tư cách là trợ lý giáo sư năm 2014. |
Farideh Firoozbakht | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820817 | Farideh Firoozbakht ( – ) là một nhà toán học người Iran. Bà đã đề xuất giả thuyết Firoozbakht về phân phối số nguyên tố năm 1982. Bà từng học ngành dược và sau đó học toán tại Đại học Isfahan và giảng dạy toán học tại các trường đại học Iran, bao gồm cả Đại học Isfahan. |
S. L. Hakimi | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820818 | Seifollah Louis Hakimi (1932 – ) là một nhà toán học người Mỹ gốc Iran, sinh ra tại Iran, giáo sư danh dự tại Đại học Northwestern, nơi ông chủ trì khoa kỹ thuật điện từ năm 1973 đến năm 1978. Ông là chủ nhiệm Khoa Kỹ thuật Điện tại Đại học California, Davis, từ năm 1986 đến năm 1996.
Hakimi nhận bằng tiến sỹ từ Đại học Illinois tại Urbana-Champaign năm 1959, dưới sự giám sát của Mac Van Valkenburg. Ông có hơn 100 hậu duệ học thuật, hầu hết trong số họ là thông qua học trò của ông là Narsingh Deo.
Ông được biết đến với việc mô tả các chuỗi bậc của đồ thị vô hướng, với việc xây dựng bài toán cây Steiner trên các mạng lưới, và công trình của ông về các bài toán vị trí cơ sở trên mạng. |
Rachanun Mahawan | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820821 | Rachanun Mahawan (tiếng Thái: ฟิล์ม รชานันท์ มหาวรรณ์, sinh ngày 14 tháng 7 năm 2000) còn có nghệ danh là Film, là một diễn viên người Thái Lan trực thuộc GMMTV. Cô bắt đầu sự nghiệp diễn xuất của mình khi giành chiến thắng trong cuộc thi 'GO ON GIRL & GUY: Star Search' (2019) và kí hợp đồng với GMMTV. Cô bắt đầu diễn xuất khi đóng vai phụ "Earn" trong bộ phim vào năm 2020
Tiểu sử.
Rachanun sinh ra tại thủ đô Bangkok, Thái Lan vào ngày 14 tháng 7 năm 2000. Vào tháng 12 năm 2022, cô tốt nghiệp Khoa Kiến trúc, Chi nhánh Nghệ thuật Midea tại Đại học Công nghệ King Mongkut Thonburi.
Sự nghiệp.
Năm 2019, Rachanun đã tham gia chương trình truyền hình thực tế 'GO ON GIRL & GUY: Star Search' do Clean & Clear tài trợ, giành chiến thắng cùng với một thí sinh khác - Nattawat Finkler (Patrick), sau đó cô đã ký hợp đồng độc quyền với GMMTV và xuất hiện trên Dark Blue Kiss với vai diễn khách mời "Namwan". Năm 2020, cô ra mắt với vai phụ đầu tiên khi đóng vai "Earn" trong bộ phim . Vào ngày 10 tháng 10 năm 2022, The Three GentleBros được phát sóng trên GMM25, cô góp mặt với tư cách là vai chính "View". Ngày 27 tháng 4 năm 2023, My Precious, bộ phim dựa trên tác phẩm You Are the Apple of My Eye, là phim điện ảnh đầu tiên được sản xuất bởi GMMTV được khởi chiếu sau 3 năm trì hoãn do Đại dịch Covid-19, cô góp mặt với vai chính "Lin", hợp tác với bạn diễn Korapat Kirdpan. |
Giải thưởng sách Quốc gia 2018 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820831 | Giải thưởng sách Quốc gia lần thứ 1 được tổ chức trong năm 2018. Giải thưởng được chia thành 2 hạng mục sách hay và sách đẹp. Có tổng cộng 35 cuốn sách được trao giải, bao gồm:
Giải A:.
Giải A Hạng mục sách hay (3):
Giải A Hạng mục Sách đẹp (3):
Giải B.
Giải B Hạng mục sách hay (9):
Giải B Hạng mục sách đẹp (5):
Giải C.
Giải C Hạng mục sách đẹp (5):
Giải C Hạng mục sách hay (10): |
Giải thưởng sách Quốc gia 2019 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820832 | Giải thưởng sách Quốc gia lần thứ 2 được tổ chức trong năm 2019. Có tổng cộng 27 cuốn sách được trao giải, bao gồm:: |
Giải thưởng sách Quốc gia 2020 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820833 | Giải thưởng sách Quốc gia lần thứ 3 được tổ chức trong năm 2020. Có tổng cộng 27 cuốn sách được trao giải, bao gồm: |
Giải thưởng sách Quốc gia 2021 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820834 | Giải thưởng sách Quốc gia lần thứ 4 được tổ chức trong năm 2021. Có tổng cộng 24 cuốn sách được trao giải, bao gồm: |
Giải thưởng sách Quốc gia 2022 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820835 | Giải thưởng sách Quốc gia lần thứ 5 được tổ chức trong năm 2022. Có tổng cộng 26 cuốn sách được trao giải, bao gồm: |
Wilberforce (mèo) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820860 | Wilberforce ( – 19 tháng 5 năm 1988) là một chú mèo sống ở số 10 phố Downing được thuê làm Trưởng quan Bắt Chuột tại Văn phòng Nội các từ năm 1973 đến năm 1987. Wilberforce đã phục vụ trong bốn nhiệm kỳ thủ tướng: Edward Heath, Harold Wilson, James Callaghan và Margaret Thatcher. Trong cáo phó được công bố ngay sau khi con mèo mất, Wilberforce được mệnh danh là "chú mèo bắt chuột giỏi nhất nước Anh".
Đầu đời và nghề nghiệp.
Wilberforce là một con mèo mướp đực tám tuần tuổi màu trắng được chi nhánh Hounslow của RSPCA nhận nuôi vào năm 1973. Nó được chỉ định làm con mèo của người quản lý văn phòng Phố Downing để đối phó với việc cắn phá của chuột và nhận tiền trợ cấp. Con mèo được đặt tên là "Wilberforce" để vinh danh William Wilberforce người theo chủ nghĩa bãi nô người Anh. Các bức thư thăm hỏi và những lời chúc may mắn gửi đến con mèo được nhân viên Phố Downing hồi âm. Mặc dù giữ vai trò Trưởng quan Bắt Chuột tại Văn phòng Nội các, nhưng Wilberforce hiếm khi đến bắt chuột tại Văn phòng Nội các, thay vào đó nó thích đến Văn phòng Scotland, 11 phố Downing và Văn phòng Đối ngoại.
Cựu Thư ký Báo chí Phố Downing Bernard Ingham cho biết, Thủ tướng Margaret Thatcher từng mua cho Wilberforce "một hộp cá mòi tại một siêu thị ở Moskva". Theo "The Daily Telegraph", Margaret Thatcher chọn cá mòi vì "không có gì khác để mua". Wilberforce thường đều đặn ngủ trên và dưới bàn làm việc của Ingham, điều này khiến Ingham khó chịu vì ông mắc bệnh hen suyễn.
Khi những con vịt từ Công viên St. James gần đó có trứng sắp nở, Thatcher cho người đưa Wilberforce ra khỏi nơi đó. Trong lúc BBC tường thuật về cuộc tổng tuyển cử năm 1983, Esther Rantzen đã cầm Wilberforce và giới thiệu với khán giả. Về tuổi thọ của Wilberforce, vào năm 1985, tờ "Sunday Mirror" tuyên bố Wilberforce "dường như tồn tại mãi mãi"; vào tháng 12 năm 1986, trước cuộc tổng tuyển cử năm 1987, tờ "Lincolnshire Echo" viết:
Cái chết.
Wilberforce nghỉ hưu vào ngày 3 tháng 4 năm 1987, sau 14 năm phục vụ dưới bốn nhiệm kỳ thủ tướng khác nhau. Wilberforce đến sống ở Essex với một người trông nom đã nghỉ hưu từ Số 10 phố Downing; trước khi chú mèo rời đi, Thatcher đã tặng Wilberforce một món quà. Wilberforce mất vào ngày 19 tháng 5 năm 1988, ở tuổi 15. |
Wilberforce (mèo) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820860 | Thời điểm Wilberforce mất, Edward Heath đang ở Tokyo, ông nói "rất tiếc vì cư dân lâu nhất đã qua đời". Harold Wilson, người "cực kỳ thích" Wilberforce, bày tỏ sự thương tiếc của ông; vợ của James Callaghan, Audrey được cho là bị "sốc". Thatcher được thông báo về cái chết của Wilberforce vào cuối cuộc họp Nội các, bà cho biết là "rất buồn".
Trong nhiều câu chuyện trên báo và cáo phó đưa tin về cái chết của nó, Wilberforce được mệnh danh là "chú mèo bắt chuột giỏi nhất nước Anh". Wilberforce được chôn cất gần nhà hưu trí. |
Thanh trừng | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820888 | Trong lịch sử, tôn giáo và chính trị học, thanh trừng là hành động cách chức hoặc hành quyết những người bị coi là không mong muốn của những người nắm quyền từ chính phủ, tổ chức khác, lãnh đạo nhóm của họ hoặc toàn xã hội. Một nhóm thực hiện nỗ lực như vậy được coi là tự thanh trừng. Các cuộc thanh trừng có thể diễn ra dưới hình thức bất bạo động hoặc bạo lực. Trong trường hợp bất bạo động, mục tiêu thường đơn giản là cách chức những người bị thanh trừng, trong khi với hình thức bạo lực, những người bị thanh trừng sẽ bị bỏ tù, lưu đày hoặc giết.
Đặc điểm.
Trong các vụ thảm sát Thượng Hải (1927) và Đêm của những con dao dài (1934), việc lãnh đạo của một đảng chính trị chống lại một bộ phận hoặc nhóm cụ thể trong đảng và thủ tiêu các thành viên của đảng thường được gọi là "thanh trừng". Trong khi đó, các sự kiện trục xuất hàng loạt với lý do phân biệt chủng tộc và bài ngoại, như Sự kiện trục xuất người Tatar Krym (1944), thì không phải là "thanh trừng".
Mặc dù các cuộc thanh trừng đột ngột và bạo lực thường đáng chú ý, hầu hết các cuộc thanh trừng không liên quan đến hành quyết hoặc bỏ tù ngay lập tức, ví dụ như các cuộc thanh trừng lớn định kỳ của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc trên cơ sở của sự thờ ơ hoặc lơ là, hay việc Dịch vụ dân sự Đức thanh trừng người Do Thái và những người bất đồng chính kiến trong những năm 1933–1934. Chủ tịch Mao Trạch Đông và các cộng sự của ông đã thanh trừng phần lớn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, bao gồm cả Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và Tổng Bí thư lúc bấy giờ Đặng Tiểu Bình, từ năm 1966 như một phần của Đại Cách mạng Văn hóa vô sản. Ở các quốc gia theo Tư tưởng Mao Trạch Đông, các bản án thường liên quan đến lao động khổ sai trong các trại "laogai" và hành quyết. Đặng Tiểu Bình sau đó đã nổi tiếng vì đã trở lại nắm quyền sau nhiều lần bị thanh trừng. |
Datex II | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820891 | Datex II hoặc Datex2 là một tiêu chuẩn trao đổi dữ liệu nhằm trao đổi thông tin giao thông giữa các trung tâm quản lý giao thông, nhà cung cấp dịch vụ giao thông, nhà điều hành giao thông và đối tác truyền thông. Nó bao gồm ví dụ về các sự cố hoặc tai nạn giao thông, công trường đường hiện tại và các sự kiện liên quan đến giao thông đặc biệt khác. Những dữ liệu này được trình bày dưới dạng định dạng XML và được mô hình hóa bằng UML. Tiêu chuẩn này được phát triển bởi cơ quan kỹ thuật Hệ thống Vận chuyển Thông minh "Intelligent transport systems" (CEN/TC 278) của Ủy ban Tiêu chuẩn Châu Âu.
Tiêu chuẩn bao gồm 12 phần: |
Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Thụy Điển | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820892 | Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Thụy Điển (tiếng Thụy Điển: "Svenska damfotbollslandslaget") là đội tuyển đại diện cho Thụy Điển tại các giải đấu bóng đá nữ quốc tế và được quản lý bởi Hiệp hội bóng đá Thụy Điển (SvFF).
Thụy Điển được công nhận là một trong những đội tuyển nữ xuất sắc nhất thế giới. Đội đã có một lần giành chức vô địch tại Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu vào năm 1984, bên cạnh đó là ba lần giành ngôi á quân vào các năm 1987, 1995 và 2001. Tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới, thành tích tốt nhất của đội là vị trí á quân năm 2003. Ngoài ra, đội cũng có bốn lần giành hạng ba vào các năm 1991, 2011, 2019 và 2023. Cho đến nay, Thụy Điển đã tham dự mười Giải vô địch châu Âu, tám Giải vô địch thế giới và sáu Thế vận hội Mùa hè.
Cầu thủ.
Đội hình hiện tại.
Đội hình các cầu thủ được triệu tập tham dự Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023.
Triệu tập gần đây.
Các cầu thủ dưới đây được triệu tập trong vòng 12 tháng.
INJ Rút lui vì chấn thương<br>
WD Rút lui vì lí do cá nhân<br> |
Ai wa Katsu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820894 | Ai wa Katsu (はつ, nghĩa đen là "Tình yêu sẽ chiến thắng") là một bài hát do ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Nhật Bản sáng tác và thu âm, được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ tám của nghệ sĩ vào tháng 9 năm 1990. Ban đầu nó được giới thiệu trong album "" của anh ấy "(がだった。 "Giấc mơ của tôi là cầu nguyện bóng chày."), phát hành một tháng trước khi đĩa đơn ra mắt. Bài hát đã trở thành bản hit đầu tiên của nghệ sĩ biểu diễn và là đĩa đơn thành công nhất với doanh số hơn 2 triệu bản, đồng thời được coi là bài hát đặc trưng của anh ấy.
"Ai wa Katsu" đã đứng đầu bảng xếp hạng Oricon trong 8 tuần, đứng ở vị trí thứ ba trong danh sách đĩa đơn bán chạy nhất của đất nước năm 1991. Doanh số của đĩa đơn này đã vượt qua con số 2 triệu trong suốt 52 tuần tồn tại trên bảng xếp hạng. |
Keymark | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820898 | Keymark là một con dấu, chứng nhận tự nguyện của châu Âu, thể hiện sự tuân thủ theo Tiêu chuẩn châu Âu (EN). Nó thuộc sở hữu của CEN, Ủy ban Tiêu chuẩn châu Âu, và CENELEC, Ủy ban Tiêu chuẩn kỹ thuật điện châu Âu.
Keymark là con dấu châu Âu dựa trên nguyên tắc "một tiêu chuẩn, một thử nghiệm, được chấp nhận ở mọi nơi". Nó được vận hành bởi các cơ quan chứng nhận đã được ủy quyền bởi CEN hoặc CENELEC và được cấp phép dựa trên EN 45011 (Hướng dẫn 65 ISO/IEC) bởi một bên ký kết thỏa thuận đa phía (MLA) của Hiệp hội Hợp tác Châu Âu về Chứng nhận (EA).
Điều kiện tiên quyết cho việc chứng nhận là sự thiết lập và hoạt động của kiểm soát sản xuất nhà máy liên quan đến sản phẩm (FPC), có xem xét các yếu tố của loạt Tiêu chuẩn ISO 9000 và quy trình của dây chuyền sản xuất liên quan từ nguyên liệu thô đến sản phẩm hoàn thành và lưu trữ sản phẩm. FPC phải là một phần không thể tách rời của hệ thống quản lý chất lượng của nhà sản xuất, nếu có. Một ví dụ về việc áp dụng biểu tượng Keymark chính là Solar Keymark. |
Giai đoạn vòng loại và vòng play-off UEFA Champions League 2023-24 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820908 | Giai đoạn vòng loại và vòng play-off UEFA Champions League 2023–24 bắt đầu từ ngày 27 tháng 6 và kết thúc vào ngày 30 tháng 8 năm 2023.
Có tổng cộng 52 đội thi đấu ở hệ thống vòng loại của UEFA Champions League 2023–24, bao gồm giai đoạn vòng loại và vòng play-off, với 42 đội ở Nhóm các đội vô địch và 10 đội ở Nhóm các đội không vô địch. 6 đội thắng ở vòng play-off (4 đội từ Nhóm các đội vô địch, 2 đội từ Nhóm các đội không vô địch) đi tiếp vào vòng bảng, để cùng với 26 đội tham dự vào vòng bảng.
Thời gian là CEST (), như được liệt kê bởi UEFA (giờ địa phương, nếu khác nhau thì nằm trong ngoặc đơn).
Vòng sơ loại.
<section begin=PR />
Vòng sơ loại bao gồm hai trận bán kết vào ngày 27 tháng 6 năm 2022 và trận chung kết vào ngày 30 tháng 6 năm 2023. Lễ bốc thăm cho vòng sơ loại được tổ chức vào ngày 13 tháng 6 năm 2023.<section end=PR />
Tóm tắt.
<section begin=PR />
Đội thắng của trận chung kết vòng sơ loại đi tiếp vào vòng loại thứ nhất. Các đội thua của các trận bán kết và chung kết được chuyển qua vòng loại thứ hai Europa Conference League Nhóm các đội vô địch.
Vòng loại thứ nhất.
<section begin=Q1 />
Lễ bốc thăm cho vòng loại thứ nhất được tổ chức vào ngày 20 tháng 6 năm 2023.<section end=Q1 />
Tóm tắt.
<section begin=Q1 />
Các trận lượt đi được diễn ra vào ngày 11 và 12 tháng 7, các trận lượt về được diễn ra vào ngày 18 và 19 tháng 7 năm 2023.
Đội thắng của các cặp đấu đi tiếp vào vòng loại thứ hai Nhóm các đội vô địch. 13 trong số 15 đội thua được chuyển qua vòng loại thứ hai Europa Conference League Nhóm các đội vô địch và 2 đội thua nhận suất đặc cách và được chuyển qua vòng loại thứ ba Europa Conference League Nhóm các đội vô địch.
Ghi chú
<section end=Q1 />
Các trận đấu.
"BK Häcken thắng với tổng tỷ số 5–1."
"Ludogorets Razgrad thắng với tổng tỷ số 4–2."
"Breiðablik thắng với tổng tỷ số 3–1."
"Žalgiris thắng với tổng tỷ số 2–1."
"KÍ thắng với tổng tỷ số 3–0."
"Olimpija Ljubljana thắng với tổng tỷ số 4–2."
"HJK thắng với tổng tỷ số 3–2."
"Qarabağ thắng với tổng tỷ số 6–1." |
Giai đoạn vòng loại và vòng play-off UEFA Champions League 2023-24 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820908 | "Raków Częstochowa thắng với tổng tỷ số 4–0."
"Slovan Bratislava thắng với tổng tỷ số 3–1."
"Sheriff Tiraspol thắng với tổng tỷ số 3–1."
"Maccabi Haifa thắng với tổng tỷ số 6–1."
"Tổng tỷ số 3–3. Zrinjski Mostar thắng 4–3 trên chấm luân lưu."
"BATE Borisov thắng với tổng tỷ số 3–1."
"Astana thắng với tổng tỷ số 3–2."
Vòng loại thứ hai.
<section begin=Q2 />
Lễ bốc thăm cho vòng loại thứ hai được tổ chức vào ngày 21 tháng 6 năm 2023.<section end=Q2 />
Tóm tắt.
<section begin=Q2 />
Các trận lượt đi được diễn ra vào ngày 25 và 26 July, các trận lượt về được diễn ra vào ngày 1 và 2 tháng 8 năm 2023.
Đội thắng của các cặp đấu đi tiếp vào vòng loại thứ ba thuộc nhóm tương ứng của họ. Đội thua thuộc Nhóm các đội vô địch được chuyển qua vòng loại thứ ba Europa League Nhóm các đội vô địch, trong khi đội thua thuộc Nhóm các đội không vô địch được chuyển qua vòng loại thứ ba Europa League Nhóm chính.
Nhóm các đội vô địch.
"Galatasaray thắng với tổng tỷ số 3–2."
"Olimpija Ljubljana thắng với tổng tỷ số 3–2."
"Raków Częstochowa thắng với tổng tỷ số 4–3."
"Tổng tỷ số 3–3. KÍ thắng 4–3 trên chấm phạt đền."
"Molde thắng với tổng tỷ số 2–1."
"Copenhagen thắng với tổng tỷ số 8–3."
"Maccabi Haifa thắng với tổng tỷ số 4–2."
"Aris Limassol thắng với tổng tỷ số 11–5."
"Slovan Bratislava thắng với tổng tỷ số 3–2."
"Dinamo Zagreb thắng với tổng tỷ số 6–0."
Nhóm các đội không vô địch.
"Panathinaikos thắng với tổng tỷ số 5–3."
"Tổng tỷ số 3–3. Servette thắng 4–1 trên chấm phạt đền."
Vòng loại thứ ba.
<section begin=Q3 />
Lễ bốc thăm cho vòng loại thứ ba được tổ chức vào ngày 24 tháng 7 năm 2023.<section end=Q3 />
Tóm tắt.
<section begin=Q3 />
Các trận lượt đi được diễn ra vào ngày 8, 9 và 15 tháng 8, các trận lượt về được diễn ra vào ngày 15 và 19 tháng 8 năm 2023.
Đội thắng của các cặp đấu đi tiếp vào vòng play-off thuộc nhóm tương ứng của họ. |
Giai đoạn vòng loại và vòng play-off UEFA Champions League 2023-24 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820908 | Đội thua thuộc Nhóm các đội vô địch được chuyển qua vòng play-off Europa League, trong khi đội thua thuộc Nhóm các đội không vô địch được chuyển qua vòng bảng Europa League.
Ghi chú
<section end=Q3 />
Nhóm các đội vô địch.
"Raków Częstochowa thắng với tổng tỷ số 3–1."
"Maccabi Haifa thắng với tổng tỷ số 5–2."
"AEK Athens thắng với tổng tỷ số 4–3."
"Galatasaray thắng với tổng tỷ số 4–0."
"Tổng tỷ số 3–3. Copenhagen thắng 4–2 trên chấm luân lưu."
"Molde thắng với tổng tỷ số 3–2."
Nhóm các đội không vô địch.
"Braga thắng với tổng tỷ số 7–1."
"Rangers thắng với tổng tỷ số 3–2."
"Tổng tỷ số 2–2. Panathinaikos thắng 5–3 trên chấm luân lưu."
"PSV Eindhoven thắng với tổng tỷ số 7–2."
Vòng play-off.
<section begin=PO />
Lễ bốc thăm cho vòng play-off được tổ chức vào ngày 7 tháng 8 năm 2023.<section end=PO />
Tóm tắt.
<section begin=PO />
Các trận lượt đi được diễn ra vào ngày 22 và 23 tháng 8, các trận lượt về được diễn ra vào ngày 29 và 30 tháng 8 năm 2023.
Đội thắng của các cặp đấu đi tiếp vào vòng bảng. Đội thua được chuyển qua vòng bảng Europa League.
Nhóm các đội vô địch.
"Young Boys thắng với tổng tỷ số 3–0."
"Antwerp thắng với tổng tỷ số 3–1."
"Copenhagen thắng với tổng tỷ số 2–1."
"Galatasaray thắng với tổng tỷ số 5–3."
Nhóm các đội không vô địch.
"PSV Eindhoven thắng với tổng tỷ số 7–3."
"Braga thắng với tổng tỷ số 3–1." |
Tiêu chuẩn Châu Âu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820910 | Tiêu chuẩn Chau Âu (thỉnh thoảng còn gọi là Euronorm, viết tắt là EN, từ tên tiếng Đức ("Chuẩn European")) là các tiêu chuẩn kỹ thuật đã được phê chuẩn bởi một trong ba tổ chức tiêu chuẩn Châu Âu: Ủy ban tiêu chuẩn Châu Âu (CEN), Ủy ban Tiêu chuẩn kỹ thuật điện Châu Âu (CENELEC), hoặc Viện Tiêu chuẩn viễn thông Châu Âu (ETSI). Tất cả các Tiêu chuẩn Châu Âu (EN) được thiết kế và tạo ra bởi tất cả các bên liên quan thông qua quy trình minh bạch, cởi mở và đồng thuận.
Các Tiêu chuẩn Châu Âu là một thành phần cốt lõi của Thị trường chung Châu Âu. Chúng rất quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và có tính minh bạch cao trong số các nhà sản xuất trong và ngoài lãnh thổ châu Âu. Một tiêu chuẩn đại diện cho một thông số kỹ thuật mẫu, một giải pháp kỹ thuật mà thị trường có thể thực hiện giao dịch dựa vào đó.
Các Tiêu chuẩn Châu Âu phải được chuyển thành tiêu chuẩn quốc gia tại tất cả các quốc gia thành viên EU. Điều này đảm bảo rằng nhà sản xuất dễ dàng tiếp cận thị trường của tất cả các quốc gia châu Âu này khi áp dụng Tiêu chuẩn Châu Âu. Các quốc gia thành viên cũng phải rút bất kỳ tiêu chuẩn quốc gia xung đột nào: Tiêu chuẩn EN thay thế bất kỳ tiêu chuẩn quốc gia nào.
Các tổ chức được công nhận theo quy định của EU nhằm xác lập tiêu chuẩn bao gồm CEN, CENELEC và ETSI. Xu hướng hiện tại ở Châu Âu hướng tới sự hòa hợp các tiêu chuẩn quốc gia dưới bộ tiêu chuẩn thống nhất Euronorm. Tại đây, Euronorm trở thành tương đương của một tiêu chuẩn quốc gia tại tất cả các quốc gia thành viên và thay thế bất kỳ tiêu chuẩn quốc gia xung đột nào trước đó.
Đánh số và Đặt tên.
Việc gán số bắt đầu với EN 1 (Bếp dầu với đốt hơi). Các khoảng số được xác định trước sau đây là một ngoại lệ.
Since standards are updated as needed (they are reviewed for currency approximately every five years), it is useful to specify a version. The year of origin is added after the standard, separated by a colon, example: EN 50126:1999.
In addition to the EN standards mentioned, there are also the EN ISO standards with the numbers ISO 1 to 59999 and the EN IEC standards from IEC 60000 to 79999, as well as EN standards outside the defined number ranges.
When an EN is adopted by a national standards body into the national body of standards, it is given the status of a national standard (e.g. |
Tiêu chuẩn Châu Âu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820910 | German Institute for Standardisation (DIN), Austrian Standards International (ÖNORM), Austrian Standards International (SN)). The name is then prefixed by the country-specific abbreviation (e.g. ÖNORM EN ...), and the number of the European standard is usually adopted, e.g. DIN EN ISO 2338:1998 or ÖNORM EN ISO 9001:2000.
Tìm các Tiêu chuẩn Châu Âu ở đâu.
Các Tiêu chuẩn Châu Âu có thể được tìm thấy trên các danh mục Catalogue tương ứng của các Cơ quan Tiêu chuẩn Châu Âu (CEN, CENELEC và ETSI). Các phiên bản quốc gia của các Tiêu chuẩn châu Âu có thể được tìm thấy trên các danh mục Catalogue tương ứng của các Cơ quan Tiêu chuẩn hóa Quốc gia.
CEN là một trong ba Tổ chức Tiêu chuẩn Châu Âu và phát triển tiêu chuẩn cho nhiều loại sản phẩm, vật liệu, dịch vụ và quy trình khác nhau. Một số lĩnh vực mà CEN phổ quát bao gồm thiết bị và dịch vụ vận chuyển, hóa chất, xây dựng, sản phẩm tiêu dùng, quốc phòng và an ninh, năng lượng, thực phẩm và thức ăn gia súc, sức khỏe và an toàn, chăm sóc sức khỏe, ngành công nghệ số, máy móc hoặc dịch vụ. CEN áp dụng các tiêu chuẩn ISO tại châu Âu thông qua tiền tố "EN ISO" (xem thêm Hiệp định Vienna). Các tiêu chuẩn CEN thường được đề cập trong pháp luật và chính sách châu Âu, như trong trường hợp của các Tiêu chuẩn Châu Âu CENELEC hoặc ETSI. |
EN 3 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820917 | Tiêu chuẩn Châu Âu EN 3 quy định các yêu cầu cho bình chữa cháy di động. Tuân thủ tiêu chuẩn là yêu cầu pháp lý cho việc cấu tạo tất cả các bình chữa cháy trong Liên minh Châu Âu.
Tiêu chuẩn đã được công bố thành 10 phần:
EN 3-1, EN 3-2, EN 3-4 và EN 3-5 đã bị rút lại và được thay thế bằng EN 3-7, EN 3-8 và EN 3-9.
EN 3-6 đã bị rút lại và được thay thế bằng EN 3-10. |
Concerto cho piano tay trái (Ravel) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820923 | Concerto cho piano tay trái cung Rê trưởng là một tác phẩm âm nhạc được sáng tác bởi Maurice Ravel trong khoảng thời gian từ năm 1929 đến năm 1930 cùng lúc với bản concerto piano cung Rê trưởng của ông. Tác phẩm được đặt hàng bởi nghệ sĩ dương cầm người Áo Paul Wittgenstein, người đã mất cánh tay phải trong Thế chiến thứ nhất. Bản concerto được công diễn lần đầu vào ngày 5 tháng 1 năm 1932, trong đó Wittgenstein là nghệ sĩ độc tấu biểu diễn cùng Dàn nhạc giao hưởng Viên.
Sáng tác và công diễn.
Tác phẩm được ủy đặt hàng bởi Paul Wittgenstein, một nghệ sĩ biểu diễn dương cầm. Ông là người bị mất cánh tay phải trong Thế chiến thứ nhất.
Để chuẩn bị sáng tác, Ravel đã nghiên cứu một số tác phẩm viết cho đàn piano một tay, bao gồm "Six Études pour la main gauche" (6 khúc luyện tập cho tay trái) (Op. 135) của Camille Saint-Saëns, bản chuyển soạn của Leopold Godowsky cho tay trái từ 2 quyển khúc luyện tập của Frédéric Chopin (Op. 10 và 25), "Ecole de la main gauche" (tạm dịch là "Trường phái tay trái") của Carl Czerny (Op. 399), "24 études pour la main gauche" (Op. 718, "24 khúc luyện tập cho tay trái"), "Fantaisie cung la giáng trưởng" (Op. 76 No. 1) của Charles-Valentin Alkan và "Khúc dạo đầu và Nocturne cho tay trái" (Op. 9) của Alexander Scriabin.
Wittgenstein đã có buổi công diễn tác phẩm với Robert Heger và Dàn nhạc giao hưởng Viên vào ngày 5 tháng 1 năm 1932. Ravel ban đầu muốn Arturo Toscanini là người chỉ huy tác phẩm nhưng sau đó Toscanini đã từ chối.
Nghệ sĩ piano người Pháp đầu tiên biểu diễn tác phẩm là Jacques Février, cũng do Ravel lựa chọn.
Cấu trúc.
Một tài liệu đã trích dẫn lại lời nói của Ravel rằng bản nhạc chỉ có một chương nhưng một nguồn khác thì cho rằng tác phẩm được chia thành hai chương được liên kết với nhau. Theo Marie-Noëlle Masson, tác phẩm lại có cấu trúc ba phần: chậm–nhanh–chậm, thay vì nhanh–chậm–nhanh thông thường.
Tiếp nhận và di sản.
Mặc dù lúc đầu, Wittgenstein không ưa nhịp điệu và hòa âm chịu có chịu ảnh hưởng từ nhạc jazz, nhưng ông dần dần tỏ ra thích thú với bản concerto này. |
Concerto cho piano tay trái (Ravel) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820923 | Khi Ravel lần đầu tiên nghe ông chơi bản concerto tại một buổi hòa nhạc riêng ở đại sứ quán Pháp ở Viên, ông thậm chí đã tỏ ra rất tức giận. Sau đó, Wittgenstein đồng ý biểu diễn bản concerto như đã viết, và hai người đàn ông đã dung hoà lại những bất đồng của họ, "nhưng toàn bộ tình tiết đều để lại cục đắng trong miệng của cả đôi bên".
Vào tháng 5 năm 1930, Ravel đã có bất đồng lớn với Arturo Toscanini về nhịp độ chính xác cho "Boléro" (khi đó Toscanini đã chỉ huy tác phẩm quá nhanh so với ý muốn của Ravel. Ravel đã nói rằng Toscanini hoặc là chỉ huy nó ở tốc độ chậm hơn mà ông làm, hoặc tốt nhất không chỉ huy nữa). Vào tháng 9, Ravel cố gắng hàn gắn mối quan hệ và mời Toscanini chỉ huy buổi công diễn thế giới bản concerto cho piano dành cho tay trái, nhưng nhạc trưởng đã từ chối.
Ngay cả trước khi công diễn, vào năm 1931, Alfred Cortot đã biên soạn lại bản nhạc thành concerto piano hai tay và dàn nhạc; tuy nhiên Ravel không chấp nhận và đã cấm xuất bản hoặc biểu diễn nó. Cortot phớt lờ và biểu diễn phần chuyển soạn của bản thân mình, điều này khiến cho Ravel phải viết tâm thư gửi đến nhiều nhạc trưởng để cầu xin đừng mời Cortot chơi bản concerto cho hai tay. Sau khi Ravel qua đời vào năm 1937, Cortot tiếp tục biểu diễn bản chuyển soạn và thậm chí còn thu âm với Charles Munch chỉ huy Dàn nhạc Nhạc viện Paris. Roger Muraro cũng đã chơi bản nhạc này trong Cuộc thi Tchaikovsky Quốc tế năm 1986. Tác phẩm giúp anh giành được vị trí thứ tư trong cuộc thi piano. |
Hiệp hội Công nghiệp Quốc phòng và Hàng không Châu Âu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820942 | Hiệp hội Công nghiệp Quốc phòng và Hàng không Châu Âu ("AeroSpace and Defence Industries Association of Europe)" (ASD) là một hiệp hội thương mại cho hãng sản xuất hàng không vũ trụ, công nghiệp quốc phòng và an ninh tại Châu Âu. Theo tổ chức, nó đại diện cho hơn 3.000 công ty tại 17 quốc gia.
Lịch sử.
Tổ chức được thành lập vào năm 2004 thông qua việc sáp nhập Hiệp hội Công nghiệp Không gian Châu Âu (Eurospace), Hiệp hội Công nghiệp Hàng không Châu Âu (AECMA) và Nhóm Công nghiệp Quốc phòng Châu Âu (EDIG).
Hoạt động.
Tổ chức hoạt động như một nhóm vận động và động viên chính sách cho ngành công nghiệp trong cơ cấu Liên minh châu Âu, đặc biệt là Cơ quan Quốc phòng Châu Âu, Cơ quan An toàn Hàng không Châu Âu và Cơ quan Chương trình Vũ trụ Châu Âu.
Tổ chức chịu trách nhiệm duy trì tiêu chuẩn ASD-STE100 Simplified Technical English (STE) cho tài liệu kỹ thuật hàng không vũ trụ. |
Calci ferricyanide | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820960 | Calci ferricyanide là một hợp chất vô cơ thuộc loại muối phức của calci và acid ferricyanic có công thức hóa học Ca3[Fe(CN)6]2 – tinh thể màu đỏ, tan trong nước.
Điều chế.
Có một số cách sau để điều chế calci ferricyanide:
Tính chất vật lý.
Calci ferricyanide tạo thành tinh thể ngậm nước Ca3[Fe(CN)6]2·12H2O – tinh thể hình kim màu đỏ, dễ tan trong nước.
Tính chất hóa học.
Hợp chất ổn định trong không khí khô khi đun nóng đến 100 °C và trong dung dịch nước lạnh. Tuy nhiên, khi đun sôi trong dung dịch nước, nó bị phân hủy với sự giải phóng acid hydrocyanic, calci hydroxide và kết tủa sắt(III) oxide.
Ứng dụng.
Calci ferricyanide là thành phần của chất xúc tác cho phản ứng trùng hợp epoxide. |
Các ngày lễ tại Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820962 | Sau đây là các ngày lễ tại Ukraina.
Ngày lễ theo luật.
Trước khi Giáo hội Chính thống giáo Ukraina và Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraina chuyển sang lịch Julius Cải cách vào tháng 9 năm 2023, tất cả các ngày lễ tôn giáo được cử hành theo lịch Julius, kể từ đó Lễ Giáng Sinh được cử hành chính thức vào ngày tháng 12. Từ năm 2017 đến 2022 Lễ Giáng Sinh được cử hành tại Ukraina vào hai ngày khác nhau, 7 tháng 1 (ngày theo lịch Julius) và 25 tháng 12 (theo lịch Gregorius và lịch Julius Cải cách). Từ năm 2023, Lễ Giáng Sinh chỉ được cử hành chính thức tại Ukraina vào ngày 25 tháng 12.
Khi một ngày lễ công cộng rơi vào cuối tuần (tức thứ Bảy và Chủ nhật), ngày làm việc sau đó (tức thứ Hai) chuyển thành một ngày nghỉ.
Nếu chỉ có một hoặc hai ngày làm việc giữa ngày nghỉ lễ và một ngày nghỉ khác thì Nội các Bộ trưởng Ukraina thường đưa ra khuyến nghị để tránh khoảng cách này bằng cách chuyển những ngày làm việc này sang một ngày thứ Bảy nhất định (nghĩa là để có những kỳ nghỉ không bị gián đoạn, nhưng để bù đắp điều này bằng cách làm việc vào một ngày nghỉ khác). Thông thường những khuyến nghị như vậy chỉ liên quan đến những nhân viên có ngày nghỉ hàng tuần là thứ bảy và chủ nhật. |
Cháy rừng tại Hawaii 2023 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820965 | Đầu tháng 8 năm 2023, một loạt vụ cháy rừng đã bùng phát ở bang Hawaii của Hoa Kỳ, chủ yếu là trên đảo Maui. Các đám cháy do gió đã buộc người dân phải sơ tán, gây thiệt hại trên diện rộng và giết chết ít nhất 110 người ở thị trấn Lāhainā; 1.500 người vẫn mất tích. Sự gia tăng của các vụ cháy rừng được cho là do điều kiện khô ráo, gió giật được tạo ra bởi khu vực áp suất cao hoạt động mạnh ở phía bắc Hawaiʻi và bão Dora ở phía nam.
Tuyên bố khẩn cấp đã được thông qua vào ngày 8 tháng 8, cho phép chính quyền thực hiện một số hành động, bao gồm kích hoạt Lực lượng Vệ binh Quốc gia Hawaii, hành động thích hợp của giám đốc Cơ quan Quản lý Khẩn cấp Hawaii và Ban Quản trị Tình trạng Khẩn cấp, và chi tiêu quỹ thu nhập chung của tiểu bang để hỗ trợ thiệt hại do đám cháy tạo ra. Đến ngày 9 tháng 8, chính quyền bang Hawaii ban bố tình trạng khẩn cấp trên toàn bang. Ngày 10 tháng 8, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden ban hành tuyên bố thảm họa lớn cấp liên bang.
Kể từ ngày 12 tháng 8, số người chết trong vụ cháy Lāhainā biến nó trở thành vụ cháy rừng chết chóc nhất ở Hoa Kỳ kể từ vụ cháy Cloquet năm 1918, vượt qua vụ hỏa hoạn Camp năm 2018 với 85 người được xác nhận thiệt mạng. Chỉ riêng vụ cháy Lāhainā, Trung tâm Thảm họa Thái Bình Dương (PDC) và Cơ quan Quản lý Khẩn cấp Liên bang (FEMA) ước tính hơn 2.200 tòa nhà đã bị phá hủy, phần lớn là khu dân cư trong tự nhiên và bao gồm cả nhiều địa danh lịch sử ở Lāhainā. Thiệt hại do vụ cháy gây ra ước tính khoảng 5,52 tỷ USD. |
Layover (album) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820966 | Layover (viết cách điệu là Layo(v)er) là album phòng thu đầu tay sắp tới của nam ca sĩ người Hàn Quốc và là thành viên của nhóm nhạc BTS V. Album dự kiến sẽ được Big Hit Music phát hành vào ngày 8 tháng 9 năm 2023.
Bối cảnh.
Vào tháng 6 năm 2022, nhóm nhạc nam BTS đã phát hành album tuyển tập đầu tay mang tên "Proof". Sau khi phát hành, nhóm thông báo sẽ tạm ngừng hoạt động trong một khoảng thời gian nhất định. Cho đến năm 2023, những thành viên khác của nhóm bao gồm có J-Hope, Jin, RM, Jimin, Suga và Jungkook đều đã ra mắt các tác phẩm solo cho riêng mình. Trong thời gian hoạt động với BTS, V cũng từng phát hành các tác phẩm solo trước đây như "Winter Bear", "Sweet Night" hay "Chirstmas Tree". Đa số là để làm nhạc phim cho những loạt phim truyền hinh như "Tầng lớp Itaewon" hay "Mùa hè yêu dấu của chúng ta".
Phát hành và quảng bá.
Vào ngày 2 tháng 8 năm 2023, V được công bố là đang hợp tác với Min Hee-jin, giám đốc sáng tạo của nhóm nhạc NewJeans để chuẩn bị cho dự án đầu tay sắp tới. Ngay sau đó, Big Hit Music đã công bố album trên mạng xã hội vào ngày 8 tháng 8 kèm theo một video giới thiệu và ngày phát hành của nó. Danh sách bài hát cũng được thông báo sẽ có tổng cộng sáu ca khúc cùng với một bản nhạc phụ khác và tất cả đều có một video âm nhạc cho riêng chúng. Video âm nhạc đầu tiên của ca khúc "Love Me Again" đã được ra mắt vào ngày 9 tháng 8 năm 2023. Ngày hôm sau, video âm nhạc tiếp theo cho ca khúc "Rainy Days" cũng được phát hành trên nền tảng YouTube.
Âm nhạc và ca từ.
Theo thông cáo của Big Hit, album phần lớn chịu ảnh hưởng từ các thể loại nhạc R&B xen kẽ với những yếu tố nhạc pop. Các bài hát trong album bắt đầu từ những âm hưởng R&B đầy sâu lắng như "Blue", "Love Me Again" và "For Us" cho đến phong cách nhạc soul đầy lãng mạn mang âm hưởng từ những năm 70 từ bài "Slow Dancing". |
Bữa ăn chính | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820970 | Bữa ăn chính ("Dinner") là bữa ăn thịnh soạn nhất và trang trọng nhất diễn ra trong ngày theo quan niệm nhiều nền văn hóa phương Tây. Trong lịch sử, bữa ăn thịnh soạn nhất thường được ăn vào khoảng giữa trưa và được gọi là bữa ăn tối ("Dinner"). Đặc biệt là trong giới thượng lưu, phong cách ăn uống dần dần di cư đến những vũng đất mới cuối thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Trong tiếng Anh thì từ Dinner có nhiều nghĩa khác nhau tùy thuộc vào nền văn hóa, và có thể có nghĩa là một bữa ăn với khối lượng thức ăn bất kỳ được ăn vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày. Đặc biệt, đôi khi thuật ngữ bữa ăn chính vẫn được dùng trong bữa ăn trưa hoặc đầu giờ chiều trong những dịp đặc biệt, chẳng hạn như bữa tối Giáng sinh. Ở vùng khí hậu nóng, bữa ăn chính có nhiều khả năng được ăn vào buổi tối, sau khi nhiệt độ giảm xuống tạo cảm giác dễ chịu khoan khoái.
Trên thế giới.
Ở Châu Âu, người ta bắt đầu ăn tối muộn hơn trong ngày trong những năm 1700, do sự phát triển trong thực tiễn công việc, điều kiện ánh sáng, tình trạng tài chính và thay đổi văn hóa. Trong nhiều cách sử dụng hiện đại, thuật ngữ "bữa ăn chính" dùng để chỉ bữa tối, hiện nay thường là bữa ăn thịnh soạn nhất trong ngày ở hầu hết các nền văn hóa phương Tây. Khi ý nghĩa này được sử dụng, các bữa ăn trước đó thường được gọi là bữa ăn sáng, bữa ăn trưa và có lẽ là tiệc trà.
Thời gian ăn tối ở Hoa Kỳ muộn nhất lúc 6:19 chiều, theo phân tích khảo sát sử dụng thời gian của người Mỹ, với hầu hết các hộ gia đình ăn chính trong khoảng thời gian từ 5:07 chiều và 8:19 tối Theo dữ liệu từ năm 2018 đến năm 2022, người dân các bang ăn sớm nhất là Pennsylvania (cao điểm 5:37 chiều) và Maine (cao điểm 5:40 chiều), trong khi người dân các bang ăn muộn nhất là Texas và Mississippi (cả 7: 02 giờ chiều cao điểm) và Washington, D.C., ăn lúc 7:10 tối lúc cao điểm. Một cuộc khảo sát của Jacob's Creek, một nhà sản xuất rượu của Úc, cho thấy thời gian dùng bữa tối trung bình ở Vương quốc Anh là 7:47 tối. |
Sáo đá xanh của Mozart | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820971 | Trong khoảng ba năm, nhà soạn nhạc Wolfgang Amadeus Mozart đã nuôi một con sáo đá xanh làm thú cưng. Con vật này được nhớ đến vì giai thoại cách mà Mozart mua nó về, và vì việc Mozart làm hẳn một tang lễ cho con vật để tưởng niệm khi nó lìa đời. Đây cũng được xem là một ví dụ về tình cảm của nhà soạn nhạc nói chung đối với các loài chim.
Mua về.
Ghi chép đầu tiên về con chim sáo đá này là dòng ghi chép của Mozart trong sổ chi tiêu khi ông mua sáo đá xanh vào ngày 27 tháng 5 năm 1784:
\relative a' {
\set Staff.midiInstrument = #"recorder"
\set Score.tempoHideNote = ##t
\tempo 4 = 145
\key g \major
\time 2/2
\partial 4
b8 c
</score>
Dòng nhạc mà Mozart ghi lại trong cuốn sách khá tương đồng với những ô nhịp mở đầu của chương thứ ba trong bản Concerto cho piano số 17 cung sol trưởng, K. 453 mà Mozart đã hoàn thành vài tuần trước đó (ngày 12 tháng 4). Có thể Mozart đã dạy con chim hót giai điệu này trong cửa hàng thú cưng, hoặc bất cứ nơi nào mà ông mua nó.
Theo bản ký âm của Mozart, dường như con sáo đá xanh đã hót nhầm một dấu mắt ngỗng vào nhịp cuối cùng của ô nhịp đầy đủ đầu tiên, và hát nốt sol thăng thay vì sol thường ở ô nhịp sau. Nếu sửa lỗi thì giai điệu đúng sẽ là:
\relative a' {
\set Staff.midiInstrument = #"recorder"
\set Score.tempoHideNote = ##t
\tempo 4 = 145
\key g \major
\time 2/2
\partial 4
b8 c
</score>
Mozart có lẽ đã không đùa giỡn khi ông thực hiện việc ký âm những gì con chim hót, bởi vì chim sáo đá được biết đến là loài chim có khả năng bắt chước giọng hát rất tốt.
2 nhà ghi chép tiểu sử Meredith J. West và Andrew P. King cho rằng nhiều yếu tố trong "A Musical Joke" (1787) của Mozart cũng "mang dấu ấn giọng hát của một con chim sáo".
Lìa đời.
Con chim mà Mozart mang về nhà đã sống như một con vật cưng trong gia đình ông trong ba năm và nó lìa đời vào ngày 4 tháng 6 năm 1787. |
Sáo đá xanh của Mozart | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820971 | Các ghi chép của Georg Nikolaus von Nissen (chồng thứ hai của Constanze, vợ của Mozart) với mục đích viết tiểu sử của ông về nhà soạn nhạc đã mô tả nghi lễ tưởng niệm như sau:Khi con chim lìa đời, ông [Mozart] tổ chức một đám tang, trong đó tất cả những ai có thể hát đều phải tham gia, che mạng kín mặt – làm một kiểu tưởng niệm, văn bia viết bằng thơ ngắn.Franz Niemetschek, người đã phỏng vấn Constanze và mô tả lại sự kiện tương tự:Ông ấy [Mozart] thường tự viết thơ; chủ yếu là loại thơ hài hước. [fn.:] Đây là một trường hợp, trong số những trường hợp khác, khi con chim sáo cưng qua đời, ông đã đặt một tấm bia đàng hoàng trong khu vườn thuê của mình, và trên đó ông đã viết một dòng chữ. Ông ấy rất thích động vật, và – đặc biệt – là các loài chim.Bài thơ tang lễ của Mozart được dịch bởi Robert Spaethling sang tiếng Anh bản ngữ như sau:<poem lang="de" style="float:left;">Hier ruht ein lieber Narr,
Ein Vogel Staar.
Noch in den besten Jahren
Mußt er erfahren
Des Todes bittern Schmerz.
Mir blut't das Herz,
Wenn ich daran gedenke.
O Leser! schenke
Auch du ein Thränchen ihm.
Er war nicht schlimm;
Nur war er etwas munter,
Doch auch mitunter
Ein lieber loser Schalk,
Und drum kein Dalk.
Ich wett', er ist schon oben,
Um mich zu loben
Für diesen Freundschaftsdienst
Ohne Gewinnst.
Denn wie er unvermuthet
Sich hat verblutet,
Dacht er nicht an den Mann,
Der so schön reimen kann.
—June 4, 1787. Mozart</poem><poem style="margin-left:1em; float:left;">Here rests a bird called Starling,
A foolish little Darling.
He was still in his prime
When he ran out of time,
And my sweet little friend
Came to a bitter end,
Creating a terrible smart
Deep in my heart.
Gentle Reader! Shed a tear,
For he was dear,
Sometimes a bit too jolly
And, at times, quite folly,
But nevermore
A bore.
I bet he is now up on high
Praising my friendship to the sky,
Which I render
Without tender;
For when he took his sudden leave,
Which brought to me such grief,
He was not thinking of the man
Who writes and rhymes as no one can.</poem>
Các nhà ghi chép tiểu sử West và King nhấn mạnh rằng những con sáo đá xanh có sự thân thiết chặt chẽ với những người nuôi giữ chúng, và thường khiến chủ nhân của chúng gắn bó với chúng. Vì vậy, sự bày tỏ nỗi buồn của Mozart, mặc dù hài hước, nhưng cũng có thể khá chân thành. |
Subsets and Splits
No saved queries yet
Save your SQL queries to embed, download, and access them later. Queries will appear here once saved.