title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Ngân Hà
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3138
Các sao lùn khác quay quanh thiên hà của chúng ta là đám mây Magellan Nhỏ; sao lùn chính Canis; gần nhất là thiên hà sao lùn hình elip Sagittarius; sao lùn Tiểu Hùng Tinh; sao lùn Sculptor, sao lùn Sextans, sao lùn Fornax và Sư Tử I.
Alaska
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3142
Alaska () (phát âm: A-lát-xca) là một tiểu bang của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, nằm tại đầu tây bắc của lục địa Bắc Mỹ. Alaska giáp với hai tỉnh Yukon và British Columbia của Canada ở phía đông, giáp với Bắc Băng Dương ở phía bắc, và giáp với Thái Bình Dương ở phía tây và phía nam, đối diện với Nga qua eo biển Bering. Alaska là bang có diện tích lớn nhất trong 50 bang, ít dân thứ tư và thưa dân nhất tại Hoa Kỳ (do phần lớn diện tích nằm trong vùng cực Bắc). Xấp xỉ một nửa trong số 731.449 cư dân của Alaska sống trong vùng đô thị Anchorage. Chiếm vị thế chi phối trong nền kinh tế của Alaska là các ngành dầu mỏ, khí thiên nhiên, và ngư nghiệp, cũng là những tài nguyên mà Alaska có trữ lượng phong phú. Du lịch cũng là một thành phần quan trọng của nền kinh tế bang. Người bản địa chiếm giữ vùng đất nay là Alaska bắt đầu từ hàng nghìn năm trước, và từ thế kỷ 18 trở đi, các thế lực châu Âu nhận định việc khai thác lãnh thổ này đã chín muồi. Hoa Kỳ mua Alaska từ Đế quốc Nga vào ngày 30 tháng 3 năm 1867. Khu vực trải qua một vài thay đổi về mặt hành chính trước khi được tổ chức thành một lãnh thổ vào ngày 11 tháng 5 năm 1912. Alaska được công nhận là bang thứ 49 của Hoa Kỳ vào ngày 3 tháng 1 năm 1959. Địa lý. Bờ biển của Alaska dài hơn tổng chiều dài bờ biển của tất cả các bang khác tại Hoa Kỳ. Đây là bang không liền kề duy nhất của Hoa Kỳ nằm trên lục địa Bắc Mỹ; Alaska tách biệt với bang Washington qua của tỉnh British Columbia (Canada). Alaska do vậy là một lãnh thổ tách rời của Hoa Kỳ, cũng có thể là vùng lãnh thổ tách rời lớn nhất trên thế giới. Về mặt kỹ thuật thì Alaska là một bộ phận của Hoa Kỳ lục địa, song bang vắng bóng trong cách dùng thông tục của từ này. Thủ phủ của bang là Juneau, thành phố nằm trên lục địa Bắc Mỹ, song không có liên kết bằng đường bộ với phần còn lại của hệ thống xa lộ Bắc Mỹ. Ở phía đông, Alaska giáp với lãnh thổ Yukon và tỉnh British Columbia của Canada; ở phía nam, Alaska giáp với vịnh Alaska và Thái Bình Dương; ở phía tây, Alaska giáp với biển Bering, eo biển Bering, và biển Chukchi; ở phía bắc, Alaska giáp với Bắc Băng Dương.
Alaska
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3142
Vùng lãnh hải của Alaska nằm sát với vùng lãnh hải của Nga trên eo biển Bering, do đảo Diomede Lớn của Nga và đảo Diomede Nhỏ của Alaska chỉ cách nhau . Quần đảo Aleut kéo dài sang Đông bán cầu, do vậy về mặt kỹ thuật thì Alaska là bang cực đông và cực tây của Hoa Kỳ, cũng như là cực bắc. Alaska là bang lớn nhất Hoa Kỳ với diện tích , gấp hai lần kích thước của bang đứng thứ hai là Texas. Alaska chỉ nhỏ hơn 18 quốc gia có chủ quyền. Diện tích vùng lãnh hải của Alaska lớn hơn diện tích của ba bang đứng liền sau là Texas, California, và Montana cộng lại. Diện tích của Alaska cũng lớn hơn tổng diện tích của 22 bang nhỏ nhất tại Hoa Kỳ. Với cả vạn hòn đảo, Alaska có gần bờ biển. Quần đảo Aleut kéo dài về phía tây từ mũi phía nam của bán đảo Alaska. Phát hiện được nhiều núi lửa hoạt động trên quần đảo Aleut và các khu vực ven biển. Chẳng hạn như trên đảo Unimak có núi Shishaldin- là một núi lửa âm ỉ cao trên Bắc Thái Bình Dương. Đây là núi lửa hình nón hoàn hảo nhất trên Trái Đất, thậm chí còn đối xứng hơn cả núi Phú Sĩ của Nhật Bản. Chuỗi các núi lửa kéo dài đến núi Spurr ở phía tây Anchorage trên lục địa. Các nhà địa chất học xác định Alaska là một bộ phận của Wrangellia, một vùng rộng lớn bao gồm cả các vùng đất của Canada ở Tây Bắc Thái Bình Dương. Alaska có trên ba triệu hồ. Các đầm lầy và các vùng đất đóng băng vĩnh cửu ngập nước chiếm diện tích (hầu hết nằm tại các bình nguyên ở bắc bộ, tây bộ và tây nam bộ). Băng của các sông băng bao trùm khoảng đất và vùng triều. Phức hợp sông băng Bering nằm gần biên giới đông nam với Yukon bao trùm bề mặt. Với trên 100.000 sông băng, Alaska sở hữu một nửa số sông băng trên thế giới. Khí hậu. Vùng Đông Nam Alaska có một khí hậu đại dương vĩ độ trung (phân loại khí hậu Köppen: "Cfb") ở phần phía nam và một khí hậu cận Bắc cực (Köppen "Cfc") ở phần phía bắc. Xét theo trung bình hàng năm, Đông Nam là nơi ẩm ướt nhất và ấm nhất tại Alaska với nhiệt độ ôn hòa vào mùa đông và lượng giáng thủy cao quanh năm.
Alaska
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3142
Đây cũng là vùng duy nhất tại Alaska có nhiệt độ trung bình cao ban ngày trên mức đóng băng trong những tháng mùa đông. Khí hậu Anchorage và Trung Nam Alaska là ôn hòa theo tiêu chuẩn tại Alaska do vùng này nằm gần bờ biển. Mặc dù có lượng mưa thấp hơn vùng Đông Nam Alaska, song vùng này lại có nhiều tuyết hơn, và ban ngày có xu hướng quang đãng hơn. Khu vực có khí hậu cận Bắc cực do có một mùa hè ngắn và mát. Khí hậu Tây Alaska được xác định phần lớn nhờ biển Bering và vịnh Alaska, vùng này có khí hậu cận Bắc cực đại dương ở phần tây nam và khí hậu cận Bắc cực lục địa ở xa về phía bắc, có lượng giáng thủy lớn. Vùng nội địa của Alaska có khí hậu cận Bắc cực. Một số nhiệt độ cao nhất và thấp nhất tại Alaska xảy ra tại khu vực gần Fairbanks. Nhiệt độ có thể lên tới khoảng 90 °F (khoảng 30 °C), còn mùa đông có thể xuống dưới . Nhiệt độ tối cao và tối thấp từng ghi nhận được tại Alaska đều là ở vùng Nội địa. Nhiệt độ cao nhất là ở Fort Yukon (cách về phía bắc của vòng Bắc cực) vào ngày 27 tháng 6 năm 1915, Nhiệt độ thấp nhất được ghi nhận tại Alaska là tại Prospect Creek vào ngày 23 tháng 1 năm 1971. Lịch sử. Người bản địa Alaska. Nhiều dân tộc bản địa chiếm giữ Alaska trong hàng nghìn năm trước khi những người châu Âu tiếp cận khu vực. Người Tlingit phát triển một xã hội theo hệ thống mẫu hệ về thừa kế tài sản và dòng dõi ở địa bàn nay là Đông Nam Alaska, cùng một phần British Columbia và Yukon. Ở vùng Đông Nam còn có người Haida, hiện nay được biết đến nhiều nhờ tài nghệ thuật độc đáo của họ. Người Tsimshian đến Alaska từ British Columbia vào năm 1887, khi Tổng thống Grover Cleveland, và sau đó là Quốc hội Hoa Kỳ cấp cho họ quyền được định cư trên đảo Annette và thành lập đô thị Metlakatla. Toàn bộ ba dân tộc này, cũng như các dân tộc bản địa khác ở vùng Tây Bắc Thái Bình Dương, đều từng chịu cảnh bệnh đậu mùa bùng phát trong cộng đồng kể từ cuối thế kỷ 18 sang đến giữa thế kỷ 19, nặng nề nhất là trong những năm 1830 và 1860, khiến nhiều người tử vong và xã hội bị phá vỡ.
Alaska
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3142
Quần đảo Aleut là nơi sinh sống của người Aleut, một xã hội có truyền thống đi biển, họ là dân tộc bản địa đầu tiên tại Alaska bị người Nga khai thác. Tây và Tây Nam Alaska là nơi sinh sống của người Yup'ik, họ hàng của họ là người Alutiiq sống tại địa bàn nay là Trung Nam Alaska. Người Gwich'in ở vùng bắc bộ Nội địa có cuộc sống phụ thuộc vào tuần lộc. Vùng North Slope và đảo Diomede Nhỏ do người Inuit chiếm giữ. Thực dân hóa. Một số nhà nghiên cứu cho rằng khu định cư đầu tiên của người Nga tại Alaska được thành lập vào thế kỷ 17. Theo giả thuyết này, vào năm 1648 có một vài thuyền Koch trong đoàn thám hiểm của Semyon Dezhnyov dạt vào bờ biển Alaska do gặp bão và thành lập nên điểm định cư. Giả thuyết này dựa trên lời chứng nhận của nhà địa lý học người Chukchi Nikolai Daurkin, ông đến thăm Alaska vào năm 1764–1765 và ghi nhận có một làng ven sông Kheuveren, dân cư là "người có râu" và họ "cầu nguyện trước các tượng thánh". Một số nhà nghiên cứu hiện đại liên hệ Kheuveren với sông Koyuk. Tàu đầu tiên của người châu Âu tiến đến Alaska được nhìn nhận rộng rãi là "St. Gabriel" dưới quyền M. S. Gvozdev và phó là Ivan Fyodorov vào ngày 21 tháng 8 năm 1732 trong một đoàn thám hiểm của A. F. Shestakov và nhà thám hiểm Dmitry Pavlutsky (1729—1735) Một tiếp xúc khác giữa người châu Âu với Alaska diễn ra vào năm 1741, khi Vitus Bering dẫn đầu một đoàn thám hiểm cho Hải quân Nga trên chiếc tàu "St. Peter". Sau khi đội của ông trở về đến Nga với các tấm da sống của loài rái cá biển- được đánh giá là bộ da tốt nhất thế giới, các hãng buôn lông thú nhỏ bắt đầu đi thuyền từ bờ biển Siberia hướng về quần đảo Aleut. Khu định cư thường xuyên đầu tiên của người châu Âu được thành lập vào năm 1784. Từ năm 1774 đến năm 1800, Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha cử một vài đoàn thám hiểm đến Alaska để khẳng định tuyên bố chủ quyền của họ đối với vùng Tây Bắc Thái Bình Dương. Năm 1789, một điểm định cư và pháo đài của người Tây Ban Nha được xây dựng tại Nootka Sound. Các đoàn thám hiểm này đặt tên cho các địa điểm như Valdez, Bucareli Sound, và Cordova.
Alaska
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3142
Sau đó, Công ty Nga-Mỹ tiến hành một chương trình thuộc địa hóa mở rộng trong giai đoạn từ đầu đến giữa thế kỷ 19. Sitka, được đổi tên thành New Archangel từ năm 1804 đến năm 1867, trên đảo Baranof tại quần đảo Alexander tại nơi mà nay là Đông Nam Alaska, trở thành thủ phủ của châu Mỹ thuộc Nga. Nơi này vẫn đóng vai trò là thủ phủ sau khi thuộc địa được chuyển giao cho Hoa Kỳ. Người Nga chưa từng thuộc địa hóa hoàn toàn Alaska, và thuộc địa chưa từng sinh lời cao. Bằng chứng về các điểm định cư của người Nga tồn tại trong các địa danh và nhà thờ còn lại trên khắp vùng Đông Nam Alaska. Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ William H. Seward đàm phán để mua Alaska từ người Nga vào năm 1867 với giá 7,2 triệu đô la Mỹ. Ban đầu, quân đội quản lý Alaska một cách lóng lẻo, và sau đó vùng đất này được quản lý như một quận bắt đầu từ năm 1884, thống đốc Alaska do Tổng thống Hoa Kỳ bổ nhiệm. Một chính quyền quận liên bang có trụ sở tại Sitka. Hầu hết thập niên đầu tiên Alaska nằm dưới chủ quyền của Hoa Kỳ, Sitka là cộng đồng duy nhất có những người định cư Mỹ. Họ tổ chức một "chính quyền thành phố lâm thời," là chính quyền đô thị đầu tiên của Alaska, song không có ý nghĩa về mặt pháp lý. Pháp luật cho phép các cộng đồng tại Alaska được hợp nhất một cách hợp pháp thành thành phố từ năm 1900, và chế độ địa phương cho các thành phố hết sức hạn chế hoặc không có cho đến khi Alaska trở thành bang vào năm 1959. Lãnh thổ của Hoa Kỳ. Bắt đầu từ những năm 1890 và kéo dài ở một số nơi đến đầu thập niên 1910, các cơn sốt vàng tại Alaska và Lãnh thổ Yukon liền kề dẫn đến việc có hàng nghìn thợ mỏ và người định cư đến Alaska. Alaska được chính thức hợp nhất thành một lãnh thổ có tổ chức vào năm 1912. Sitka giữ vai trò là thủ phủ của Alaska cho đến năm 1906, sau đó thủ phủ được di chuyển đến Juneau. Việc xây dựng Dinh Thống đốc Alaska bắt đầu vào cùng năm. Những người định cư châu Âu từ Na Uy và Thụy Điển cũng định cư tại Đông Nam Alaska, tại đây họ tham gia vào các ngành kinh tế như đánh cá và đốn gỗ.
Alaska
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3142
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Chiến dịch Quần đảo Aleut tập trung vào ba hòn đảo ở phía xa của quần đảo Aleut – Attu, Agattu và Kiska, quân đội Nhật Bản xâm chiếm ba hòn đảo từ tháng 6 năm 1942 đến tháng 8 năm 1943. Unalaska/Dutch Harbor trở thành một căn cứ quan trọng của quân đoàn Không quân và tàu ngầm Hải quân Hoa Kỳ. Trong chương trình Vay-Thuê, các chiến đấu cơ của Hoa Kỳ bay qua Canada đến Fairbanks và từ đây đến Nome; các phi công Liên Xô nhận lấy các máy bay này và đưa chúng đi giao chiến với Đệ Tam Đế Chế. Việc xây dựng các căn cứ quân sự góp phần vào tăng trưởng dân số tại một số thành phố của Alaska. Trở thành bang. Trao quy chế tiểu bang cho Alaska trở thành một mục tiêu quan trọng của James Wickersham trong các nhiệm kỳ Đại biểu Quốc hội của ông. Trong những thập niên sau, cuộc vận động yêu cầu cấp quy chế tiểu bang đạt được thành tựu thực tế đầu tiên sau một cuộc trưng cầu dân ý địa phương vào năm 1946. Ủy ban cấp địa vị bang Alaska và Hiệp định Hiến pháp Alaska cũng sớm theo sau. Những người ủng hộ quy chế bang tiến hành các cuộc chiến lớn chống lại các đối thủ chính trị, hầu hết là tại Hạ viện Hoa Kỳ song cũng có tại Alaska. Quy chế bang cho Alaska được Quốc hội thông qua vào ngày 7 tháng 7 năm 1958. Alaska chính thức được tuyên bố là một bang vào ngày 3 tháng 1 năm 1959. Ngày 27 tháng 3 năm 2020, "Động đất Thứ Sáu xấu xa" khiến 133 thiệt mạng và phá hủy một vài ngôi làng và nhiều khu vực của các cộng đồng ven biển lớn. Đây là trận động đất mạnh thứ ba trên thế giới từng được ghi nhận, với cường độ 9,2MW. Việc phát hiện ra dầu tại vịnh Prudhoe vào năm 1968 và việc hoàn thành Đường ống dẫn dầu xuyên Alaska vào năm 1977 dẫn đến bùng nổ dầu mỏ tại bang. Thuế thuê mỏ từ các giếng dầu đóng góp phần lớn vào ngân sách của bang kể từ năm 1980 trở đi. Cùng năm đó, Alaska bãi bỏ thuế thu nhập bang. Nhân khẩu. Cục Thống kê dân số Hoa Kỳ ước tính dân số Alaska là 731.449 vào ngày 1 tháng 7 năm 2012, tăng 3,0% từ cuộc Điều tra dân số năm 2010. Năm 2010, Alaska xếp hạng 47 trong số các bang về dân số, đứng trước Bắc Dakota, Vermont, và Wyoming (và Washington, D.C.)
Alaska
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3142
Alaska là bang thưa dân nhất tại Hoa Kỳ, và cũng là một trong các khu vực thưa dân nhất trên thế giới, với chỉ 0,46 người/km², trong khi bang đứng trên là Wyoming với 2,2 người/km². Alaska là bang lớn nhất Hoa Kỳ về diện tích, và là bang giàu thứ 10 xét về thu nhập bình quân của mỗi cư dân. Tháng 4 năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp của bang là 6,9%. Chủng tộc và Nguồn gốc. Theo Điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2010, Alaska có 710.231 cư dân. Xét về chủng tộc và dân tộc, 66,7% cư dân của bang là người da trắng (64,1% người da trắng không có nguồn gốc Mỹ Latinh hoặc Iberia), 14,8% là người da đỏ và người bản địa Alaska, 5,4% là người châu Á, 3,3% là người da đen hoặc người Mỹ gốc Phi, 1,0% là người Hawaii bản địa và người các đảo Thái Bình Dương khác, 1,6% đến từ các chủng tộc khác, và 7,3% lai hai chủng tộc trở lên. Người gốc Mỹ Latinh hoặc Iberia chiếm 5,5% tổng số cư dân. Năm 2011, 50,7% cư dân Alaska dưới một tuổi thuộc các nhóm thiểu số (tức không phải người da trắng không có nguồn gốc Mỹ Latinh hay Iberia). Ngôn ngữ. Theo Nghiên cứu Cộng đồng Hoa Kỳ 2005–2007, 84,7% cư dân năm tuổi hoặc lớn hơn tại Alaska chỉ nói tiếng Anh ở nhà. Khoảng 3,5% nói tiếng Tây Ban Nha ở nhà. Khoảng 2,2% nói các ngôn ngữ Ấn-Âu khác tại nhà và 4,3% nói một ngôn ngữ châu Á tại nhà. Và khoảng 5,3% nói các ngôn ngữ khác tại nhà. Tổng số có 5,2% người Alaska nói một trong số 22 ngôn ngữ bản địa của bang. Các ngôn ngữ này thuộc hai ngữ hệ chính: Eskimo–Aleut và Na-Dene. Do là quê hương của hai ngôn ngữ bản địa chính tại Bắc Mỹ, Alaska được mô tả là ngã tư của lục địa. Các nghiên cứu về ngôn ngữ học và DNA cung cấp bằng chứng cho việc định cư tại Bắc Mỹ theo đường cầu lục địa Bering. Tôn giáo. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Lưu trữ Dữ liệu Tôn giáo năm 2010, khoảng 34% cư dân Alaska là thành viên của các giáo đoàn tôn giáo. 100.960 người nhận là tín đồ Phong trào Tin Lành, 50,866 là tín hữu Công giáo La Mã, và 32.550 là tín đồ Tin Lành dòng chính.
Alaska
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3142
Năm 1795, nhà thờ Chính Thống giáo Nga đầu tiên được hình thành tại Kodiak. Việc thông hôn với người bản địa Alaska giúp cho những người định cư Nga hội nhập vào xã hội sở tại. Do vậy, số nhà thờ Chính thống giáo Nga ngày càng tăng lên dần được củng cố tại Alaska. Alaska cũng có tỷ lệ tín đồ Quaker cao nhất trong số các bang tại Hoa Kỳ. Năm 2009, có 6.000 người Do Thái tại Alaska. Ước tính số tín đồ Hồi giáo tại Alaska dao động trong khoảng 2.000 đến 5.000. Người Alaska theo Ấn Độ giáo thường chia sẻ địa điểm và lễ kỷ niệm với thành viên các cộng đồng tôn giáo khác, như đạo Sikh và đạo Jaina. Cùng với các bang Tây Bắc Thái Bình Dương khác là Washington và Oregon, Alaska được xác định nằm trong số các bang sùng đạo thấp nhất tại Hoa Kỳ, dựa trên tỷ lệ thành viên nhà thờ.
Tán xạ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3143
Trong vật lý hạt, tán xạ là hiện tượng các hạt bị bay lệch hướng khi va chạm vào các hạt khác. Trong quang học (và thiên văn học) tán xạ là hiện tượng photon bị đổi hướng khi gặp các vật, có thể vĩ mô như các tiểu hành tinh, các viên đá trong vành đai Sao Thổ, hay các vật chất vi mô như các hạt bụi. Trong quá trình tán xạ thuần túy, năng lượng photon không thay đổi, chỉ có hướng thay đổi ngẫu nhiên theo một hàm mật độ xác suất gọi là hàm tán xạ. Thực tế, khi photon gặp các vật chất, không những hướng đi của nó thay đổi mà có thể cả năng lượng thay đổi (giảm bởi hiện tượng hấp thụ hay tăng bởi hiện tượng bức xạ). Lúc đó cùng xảy ra tán xạ thuần túy và hấp thụ/bức xạ thuần túy. Bầu trời trên Trái Đất có màu xanh da trời, vì khí quyển Trái Đất tán xạ mạnh thành phần màu xanh da trời (bước sóng ngắn) trong ánh sáng trắng đến từ Mặt Trời. Đây là một ví dụ của tán xạ Rayleigh. Trong âm học và chụp siêu âm, tán xạ là sự đổi hướng của sóng âm bởi các khu vực không đồng nhất trong môi trường truyền âm. Tán xạ trong quang học. Sự phân bố lại hướng bay của photon sau khi va chạm với một vật thể phụ thuộc vào tỷ lệ "x" giữa kích thước vật thể và bước sóng của bức xạ điện từ (còn gọi là hệ số kích thước). Mọi tán xạ trong quang học đều có thể được đặc trưng bởi hai thông số: hệ số tán xạ và hàm tán xạ (cho tán xạ không phân cực) hay ma trận tán xạ (cho tán xạ phân cực). Hệ số tán xạ cho biết tỷ lệ số photon bị lệch hướng bay trong tổng số photon ban đầu, khi đi tia sáng qua một đơn vị đo chiều dài. Hàm tán xạ hay ma trận tán xạ cho biết các photon bị lệch theo những hướng nào. Tán xạ trong vật lý hạt. Trong các thí nghiệm tán xạ của vật lý hạt, người ta bắn các chùm hạt (thường là electron, proton hay neutron) vào một mẫu vật liệu và đếm số lượng hạt bay ra tại các hướng khác nhau. Sự phân bố các hạt bay ra theo hướng sẽ cho biết thông tin về tương tác giữa mẫu vật liệu và các hạt bắn vào. Một thí nghiệm nổi tiếng là của Ernest Rutherford, bắn các hạt alpha vào một miếng vàng mỏng để tìm ra lần đầu cấu trúc nguyên tử (bao gồm một hạt nhân bé xíu ở giữa đám mây electron).
Tán xạ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3143
Lý thuyết tán xạ đã được phát triển để nghiên cứu hiện tượng này. Lý thuyết dùng các dữ kiện quỹ đạo bay của các hạt (trong hệ quy chiếu gắn với mẫu bị bắn) để tiên đoán phân bố của hạt bay ra theo mật độ (số hạt trên diện tích mặt cắt) của các hạt bay vào.
Kinh tế Đức
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3145
Với 3,405 ngàn tỷ euro tổng sản phẩm quốc nội, nước Đức có nền kinh tế đứng hàng thứ tư trên thế giới và lớn nhất châu Âu. Tính đến cuối năm 2019, Đức là một trong ba quốc gia xuất khẩu nhiều nhất thế giới. Vì tương đối nghèo về nguyên liệu nên kinh tế Đức tập trung vào các lĩnh vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Tuy vậy một diện tích lớn của Đức cũng được dùng trong nông nghiệp (nhưng chỉ vào khoảng 2% đến 3% tổng dân số lao động làm việc trong nông nghiệp). Trong thời gian gần đây mức tăng trưởng yếu đi và nền kinh tế Đức đã có những biểu hiện đuối kém đối với các ảnh hưởng bên ngoài, các vấn đề trong nước và các vấn đề trong việc hội nhập các tiểu bang mới. Đặc trưng. Nền kinh tế Đức thường được miêu tả là một nền kinh tế thị trường xã hội. Nhà nước Đức có nhiều chính sách xã hội rộng lớn. Mặc dù chính phủ có giúp đỡ một số lĩnh vực thông qua trợ cấp, cạnh tranh và kinh tế thị trường vẫn là cột trụ trong chính sách kinh tế. Nhà nước Đức đã tư nhân hóa một số doanh nghiệp như Công ty đường sắt Đức, Công ty viễn thông Đức, Công ty bưu điện Đức; thúc đẩy tư nhân hóa các công ty khác tạo thêm cạnh tranh. Với tỷ lệ xuất khẩu hơn 1/3 sản phẩm quốc nội, kinh tế Đức có chiều hướng xuất khẩu cao và xuất khẩu luôn luôn là yếu tố chủ chốt cho tăng trưởng kinh tế của Đức. Vì thế nước Đức ủng hộ nhiều cho một hợp tác kinh tế mạnh mẽ trên bình diện châu Âu. Lịch sử. Từ Chiến tranh thế giới thứ hai cho đến tái thống nhất. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai kinh tế và xã hội Đức nằm ở đáy thấp. Sau cuộc cải cách tiền tệ năm 1948 việc tái xây dựng kinh tế đã thành công trong cái gọi là điều huyền diệu kinh tế ("Wirtschaftswunder"), đồng thời người dân được bảo vệ bởi một nhà nước xã hội. Nước Đức trở thành nước xuất khẩu đứng đầu; năng suất và chất lượng các sản phẩm Đức, đặc biệt là của ngành chế tạo máy, đã và vẫn luôn là tốt trên thế giới. Suốt cho đến đầu thập niên 1970 kinh tế Tây Đức hầu như tăng trưởng liên tục nhưng bắt đầu từ suy thoái kinh tế đầu thập niên 1980 mức tăng trưởng ngày càng kém đi.
Kinh tế Đức
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3145
Sau đấy là 8 năm liền tăng trưởng, được giữ ở mức trung bình là 1,5% từ sau khi tái thống nhất. Tỷ lệ thất nghiệp nằm không ngừng ở mức độ cao. Từ khi tái thống nhất. Sau khi tái thống nhất nước Đức tạm thời phải gánh vác thêm nền kinh tế suy tàn của các tiểu bang mới. Việc này chủ yếu được trang trải bằng cách mượn thêm nợ mới và chuyển một số khoản phí tổn vào các hệ thống bảo vệ xã hội. Sau mười năm tái thống nhất Đức, có thể nhận ra được nhiều tiến bộ to lớn trong việc nâng cao mức sống của người dân Đông Đức, một nền kinh tế thị trường được thiết lập và hệ thống hạ tầng cơ sở được cải tiến. Nhưng đồng thời quá trình cân bằng giữa Đông và Tây kéo dài lâu hơn là dự định ban đầu, theo một số thước đo nhất định quá trình này đã dừng lại từ giữa thập niên 1990. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Đông Đức thấp hơn ở Tây Đức, tỷ lệ thất nghiệp cao gấp hai lần, vì thế nhiều lao động có tay nghề đi tìm việc làm ở Tây Đức. Năng suất lao động ở Đông Đức vẫn ở mức thấp. Lượng tiêu dùng ở Đông Đức phụ thuộc trực tiếp vào số tiền chi viện từ Tây Đức, hằng năm vào khoảng 65 tỷ $ hay hơn 4% tổng sản phẩm quốc nội của Tây Đức. Các vấn đề. Mặc dù chịu ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài, đa số các chuyên gia đều cho rằng các vấn đề cơ cấu nội địa mới là lý do chính cho tình trạng kinh tế đang suy yếu. Một thị trường lao động với các luật lệ cứng nhắc được một số chuyên gia nêu ra như là lý do chính cho tỷ lệ thất nghiệp cao. Được khuyến khích bằng khả năng chiết khấu thuế hay bằng tài trợ, các chủ doanh nghiệp Đức ngay trong những thời kỳ phát triển mạnh cũng ưu tiên đầu tư ở nước ngoài hay vào máy móc thay vì tạo việc làm mới trong nước. Cũng như ở tất cả các nước châu Âu khác, tỷ lệ sinh đẻ ở Đức giảm xuống ở mức thấp. Kết quả của việc này, các thay đổi về kết cấu dân số (ngày càng ít người trẻ tuổi chi cấp cho người già ngày càng nhiều thêm), là các thử thách mới cho những hệ thống bảo vệ xã hội.
Kinh tế Đức
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3145
Toàn cầu hóa ngày một gia tăng từ thập niên 1980 cũng như các nền kinh tế vững mạnh hơn ở châu Á và từ thập niên 1990 ở Đông Âu dẫn đến việc các chỗ làm trong công nghiệp phải trả nhiều lương nhưng lại không cần tay nghề cao bị cắt giảm đi ở Đức. Thiếu hụt của các hệ thống bảo vệ xã hội lại được cân đối qua một thời gian dài bằng cách tăng các phí tổn phụ của lương ở các lao động còn lại. Điều này lại càng làm cho vấn đề trầm trọng thêm. Đối tác thương mại. Trong năm 2004 – cũng như năm trước đó – Pháp đứng đầu trong danh sách các nước Đức xuất khẩu sang, trước Mỹ và Anh. Trong năm 2004 tổng giá trị hàng hóa Đức xuất sang Pháp là 75,3 tỷ euro (chiếm tỷ lệ 10,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu), sang Mỹ là 64,8 tỷ euro (8,8%) và sang Anh 61,1 tỷ euro (8,3%). Về nhập khẩu ba nước đứng đầu – cũng như năm trước đó – là Pháp (52,2 tỷ euro; chiếm tỷ lệ 9,0% trong tổng kim ngạch nhập khẩu), Hà Lan 47,9 tỷ euro; 8,3%) và Mỹ (40,3 tỷ euro; 7,0%). Nguồn: Tổng cục thống kê liên bang Đức Số liệu thống kê. Nguồn: Tổng cục thống kê liên bang Đức
Thủy Địa Tỷ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3157
Quẻ Thủy Địa Tỷ (đồ hình::::|:) còn gọi là quẻ Tỷ (比 bỉ), là quẻ thứ 08 trong Kinh Dịch. Văn Vương ghi thoán từ: Tỷ cát. Nguyên phệ, nguyên vĩnh trinh, vô cữu. Bất ninh phương lai, hậu phu hung (比吉. 原筮, 元永貞, 无咎. 不寧方來, 後夫凶). Chu Công viết hào từ:<br> Sơ lục: Hữu phu tỷ chi, vô cữu. Hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha cát.<br> Lục nhị: Tỷ chi tự nội, trinh cát.<br> Lục tam: Tỷ chi phỉ nhân.<br> Lục tứ: Ngoại tỷ chi, trinh cát.<br> Cửu ngũ: Hiển tỷ, vương dụng tam khu.<br> Thượng lục: Tỷ chi vô thủ, hung. Giải nghĩa: Tư dã. Chọn lọc. Thân liền, gạn lọc, mật thiết, tư hữu riêng, trưởng đoàn, trưởng toán, chọn lựa. Khứ xàm nhiệm hiền chi tượng: bỏ nịnh dụng trung.
Phong Thiên Tiểu Súc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3158
Quẻ Phong Thiên Tiểu Súcđồ hình |||:|| còn gọi là quẻ Tiểu Súc (小畜 xiảo chũ), là quẻ thứ 09 trong Kinh Dịch. Văn Vương viết thoán từ:<br> Tiểu Súc: Hanh. Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao (小畜: 亨. 密雲不雨. 自我西郊). Chu Công viết hào từ:<br> Sơ cửu: Phục tự đạo, hà kỳ cữu? Cát.<br> Cửu nhị: khiên phục, cát.<br> Cửu tam: Dư thoát bức, phu thê phản mục.<br> Lục tứ: hữu phu, huyết khứ, dịch xuất, vô cữu.<br> Cửu ngũ: Hữu phu, luyên như, phú dĩ kỳ lân.<br> Thượng cửu: Ký vũ, ký xử, thượng đức tái. Phụ trinh lệ. Nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung. Giải nghĩa: Tắc dã. Dị đồng. Lúc bế tắc, không đồng ý nhau, cô quả, súc oán, chứa mọi oán giận, có ý trái lại, không hòa hợp, nhỏ nhen. Cầm sắt bất điệu chi tượng: tiếng đàn không hòa điệu.
Thiên Trạch Lý
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3159
Quẻ Lý Thiên Trạchđồ hình ||:||| còn gọi là quẻ Lý (履 lủ), là quẻ thứ 10 trong Kinh Dịch. Văn Vương viết thoán từ:<br> Lý hổ vĩ, bất điệt nhân, hanh (履虎尾, 不咥人, 亨). Chu Công viết hào từ:<br> Sơ cửu: Tố lý, vãng, vô cữu. Cửu nhị: Lý đạo thản thản, u nhân trinh cát. Lục tam: Miễu, năng thị; bả, năng lý. Lý hổ vĩ, diệt nhân, hung. Võ nhân vi vu đại quân. Cửu tứ: Lý hổ vĩ, sách sách (hoặc sóc sóc) chung cát. Cửu ngũ: Quyết lý, trinh lệ. Thượng cửu: Thị lý, khảo tường, kỳ toàn, nguyên cát. Giải nghĩa: Lễ dã. Lộ hành. Nghi lễ, có chừng mực, khuôn phép, dẫm lên, không cho đi sai, có ý chặn đường thái quá, hệ thống, pháp lý. Hổ lang đang đạo chi tượng: tượng hổ lang đón đường.
Địa Thiên Thái
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3160
Quẻ Địa Thiên Tháiđồ hình |||::: còn gọi là quẻ Thái (泰 tãi), là quẻ số 11 trong Kinh Dịch. Văn Vương viết thoán từ:<br> Thái: Tiểu vãn đại lai, cát, hanh (泰: 小往大來, 吉, 亨). Giải nghĩa: Thông dã. Điều hòa. Thông hiểu, am tường, hiểu biết, thông suốt, quen biết, quen thuộc. Thiên địa hòa xướng chi tượng: tượng trời đất giao hòa.
Thiên Địa Bĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3161
Quẻ Thiên Địa Bĩ, đồ hình:::||| còn gọi là quẻ Bĩ (否 pỉ), là quẻ số 12 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Tắc dã. Gián cách. Bế tắc, không thông, không tương cảm nhau, xui xẻo, dèm pha, chê bai lẫn nhau, mạnh ai nấy theo ý riêng. Thượng hạ tiếm loạn chi tượng: trên dưới lôi thôi.
Thiên Hỏa Đồng Nhân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3162
Quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân, đồ hình |:|||| còn gọi là quẻ Đồng Nhân (同人 tong2 ren2), là quẻ số 13 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Thân dã. Thân thiện. Trên dưới cùng lòng, cùng người ưa thích, cùng một bọn người. Hiệp lực đồng tâm chi tượng: tượng cùng người hiệp lực. Kiến giải của người Việt: Con người đạt đến mức độ giao hội cùng vũ trụ, đồng nhân cao nhất, mức độ hoà đồng siêu việt,
Hỏa Thiên Đại Hữu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3163
Quẻ Hỏa Thiên Đại Hữu, đồ hình ||||:| còn gọi là quẻ Đại Hữu (大有 da4 you3), là quẻ thứ 14 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Khoan dã. Cả có. Thong dong, dung dưỡng nhiều, độ lượng rộng, có đức dày, chiếu sáng lớn. Kim ngọc mãn đường chi tượng: vàng bạc đầy nhà. Giải thích của người Việt là bổ sung thêm tượng: sở hữu tài sản vật chất và tinh thần ở mức cao nhất.
Địa Sơn Khiêm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3164
Quẻ Địa Sơn Khiêm, đồ hình::|::: còn gọi là quẻ Khiêm (謙 qian1), là quẻ thứ 15 trong Kinh Dịch. Thoán từ. Khiêm: Hanh, quân tử hữu chung. Giải nghĩa: Thoái dã. Cáo thoái. Khiêm tốn, nhún nhường, khiêm từ, cáo thoái, từ giã, lui vào trong, giữ gìn, nhốt vào trong, đóng cửa. Vì vậy mới được hanh thông. Thượng hạ mông lung chi tượng: tượng trên dưới hoang mang. Hào từ. Sơ lục. Hào từ: Khiêm khiêm quân tử, dụng thiệp đại xuyên, cát. Lục nhị. Hào từ: Minh khiêm, trinh cát. Cửu tam. Hào từ: Lao khiêm, quân tử hữu chung, cát. Lục tứ. Hào từ: Vô bất lợi, huy khiêm. Lục ngũ. Hào từ: Bất phú dĩ kỳ lân, lợi dụng xâm phạt, vô bất lợi. Thượng lục. Hào từ: Minh khiêm, lợi dụng hành sư, chinh ấp quốc.
Lôi Địa Dự
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3166
Quẻ Lôi Địa Dự, đồ hình:::|:: còn gọi là quẻ Dự (豫 yu4), là quẻ thứ 16 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Duyệt dã. Thuận động. Dự bị, dự phòng, canh chừng, sớm, vui vầy. Thượng hạ duyệt dịch chi tượng: tượng trên dưới vui vẻ.
Trạch Lôi Tùy
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3167
Quẻ Trạch Lôi Tùy, đồ hình |::||: còn gọi là quẻ Tùy (隨 sui2), là quẻ thứ 17 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Thuận dã. Di động. Cùng theo, mặc lòng, không có chí hướng, chỉ chiều theo, đại thể chủ việc di động, thuyên chuyển như chiếc xe. Phản phúc bất định chi tượng: loại không ở cố định bao giờ.
Sơn Phong Cổ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3168
Quẻ Sơn Phong Cổ, đồ hình:||::| còn gọi là quẻ Cổ (蠱 gu3), là quẻ thứ 18 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Sự dã. Sự biến. Có sự không yên trong lòng, làm ngờ vực, khua, đánh, mua chuốc lấy cái hại, đánh trống, làm cho sợ sệt, sửa lại cái lỗi trước đã làm. Âm hại tương liên chi tượng: điều hại cùng có liên hệ.
Địa Trạch Lâm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3169
Quẻ Địa Trạch Lâm, đồ hình ||:::: còn gọi là quẻ Lâm (臨 lin2), là quẻ thứ 19 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Đại dã. Bao quản. Việc lớn, người lớn, cha nuôi, vú nuôi, giáo học, nhà sư, kẻ cả, dạy dân, nhà thầu. Quân tử dĩ giáo tư chi tượng: người quân tử dạy dân, che chở, bảo bọc cho dân vô bờ bến.
Phong Địa Quan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3170
Quẻ Phong Địa Quan, đồ hình::::|| còn gọi là quẻ Quan (觀 guan1), là quẻ thứ 20 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Quan dã. Quan sát. Xem xét, trông coi, cảnh tượng xem thấy, thanh tra, lướt qua, sơ qua, sơn phết, quét nhà. Vân bình tụ tán chi tượng: tượng bèo mây tan hợp.
Sơn Hỏa Bí
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3172
Quẻ Sơn Hỏa Bí, đồ hình |:|::| còn gọi là quẻ Bí (賁 bi4), là quẻ thứ 22 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Sức dã. Quang minh. Trang sức, sửa sang, trang điểm, thấu suốt, rõ ràng. Quang minh thông đạt chi tượng: quang minh, sáng sủa, thấu suốt.
Sơn Địa Bác
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3175
Quẻ Sơn Địa Bác đồ hình:::::| còn gọi là quẻ Bác (剝 bo1), là quẻ thứ 23 trong Kinh Dịch. Văn Vương viết thoán từ: Bác: Bất lợi hữu du vãng. Chu Công viết hào từ: Sơ lục: Bác sàng dĩ túc, miệt trinh, hung.<br> Lục nhị: Bác sàng dĩ biện, miệt trinh, hung.<br> Lục tam: Bác chi, vô cữu.<br> Lục tứ: Bác sàng dĩ phu, hung.<br> Lục ngũ: Quán ngư, dĩ cung nhân sủng, vô bất lợi.<br> Thượng cửu: Thạc quả bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư. Giải nghĩa: Lạc dã. Tiêu điều. Đẽo gọt, lột cướp đi, không có lợi, rụng rớt, đến rồi lại đi, tản lạc, lạt lẽo nhau, xa lìa nhau, hoang vắng, buồn thảm. Lục thân băng thán chi tượng: tượng bà con thân thích xa lìa nhau.
Địa Lôi Phục
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3177
Quẻ Địa Lôi Phục, đồ hình |::::: còn gọi là quẻ Phục (復 fu4), là quẻ thứ 24 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Phản dã. Tái hồi. Lại có, trở về, bên ngoài, phản phục. Sơn ngoại thanh sơn chi tượng: tượng ngoài núi lại còn có núi nữa.
Thiên Lôi Vô Vọng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3179
Quẻ Thiên Lôi Vô Vọng, đồ hình |::||| còn gọi là quẻ Vô Vọng (無妄 wu2 wang4), là quẻ thứ 25 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Thiên tai dã. Xâm lấn. Tai vạ, lỗi bậy bạ, không lề lối, không quy củ, càn đại, chống đối, hứng chịu. Cương tự ngoại lai chi tượng: tượng kẻ mạnh từ ngoài đến.
Sơn Thiên Đại Súc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3182
Quẻ Sơn Thiên Đại Súc, đồ hình |||::| còn gọi là quẻ Đại Súc (大畜 da4 chu4), là quẻ thứ 26 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Tụ dã. Tích tụ. Chứa tụ, súc tích, lắng tụ một chỗ, dự trữ, đựng, để dành. Đồng loại hoan hội chi tượng: đồng loại hội họp vui vẻ, cục bộ.
Sơn Lôi Di
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3183
Quẻ Sơn Lôi Di, đồ hình |::::| còn gọi là quẻ Di (頤 yi2), là quẻ thứ 27 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Vị thủy phong hiền Bĩ cực thái lai, đi cầu người tài giúp, nuôi dưỡng giúp đỡ để có lực thành công, miêng đang được ăn, bụng đang mang thai Dưỡng dã. Dung dưỡng. Chăm lo, tu bổ, thêm, ăn uống, bổ dưỡng, bồi dưỡng, ví như trời nuôi muôn vật, thánh nhân nuôi người. Phi long nhập uyên chi tượng: rồng vào vực nghỉ ngơi.
Trạch Phong Đại Quá
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3184
Quẻ Trạch Phong Đại Quá, đồ hình:||||: còn gọi là quẻ Đại Quá (大過 da4 guo4), là quẻ thứ 28 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Họa dã. Cả quá. Cả quá ắt tai họa, quá mực thường, quá nhiều, giàu cương nghị ở trong. Nộn thảo kinh sương chi tượng: tượng cỏ non bị sương tuyết.
Thuần Khảm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3185
Quẻ Thuần Khảm, đồ hình:|::|: còn gọi là quẻ Khảm (坎 kan3), là quẻ thứ 29 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Hãm dã. Hãm hiểm. Hãm vào ở trong, xuyên sâu vào trong, đóng cửa lại, gập ghềnh, trắc trở, bắt buộc, kìm hãm, thắng. Khổ tận cam lai chi tượng: tượng hết khổ mới đến sướng. THOÁN TỪ DỊCH: Quẻ khảm, nhẫn nại gấp đôi, chỉ trong lòng có đức tin là hanh thông, hành động thì được trọng mà có công.<br> "Tập khảm, hữu phu duy tâm hanh, hành hữu thượng." 習坎,有孚維心亨,行有尚。"Tập" 習– học lặp đi lặp lại, rèn luyện. "Khảm" 坎– chỗ hõm xuống, hốc lõm vào. Tử Lộ đáp: Theo ý con có lẽ vì chúng ta chưa "nhân" chăng nên người ta chưa tin chúng ta? Có lẽ ta chưa "trí" chăng nên người ta không theo đạo chúng ta? Khổng Tử bảo: Nào phải vậy. Này anh Do, nếu người nhân luôn được người ta tin thì sao Bá Di, Thúc Tề phải chết đói trong núi? Nếu người trí được mọi người nghe thì sao Tỷ Can lại bị giết. Khổng Tử hỏi tiếp Tử Cống: Đạo của ta sai rồi chăng, mà sao ta gặp phải cảnh này? Tử Cống đáp: Đạo của thầy cao quá cho nên thiên hạ không ai dung nạp được thầy. Thầy nên hạ thấp xuống một chút. Khổng Tử đáp: Này anh Tứ, người giỏi nghề nông, vãi giống rồi nhưng không tin chắc sẽ được gặt. Người thợ giỏi tuy làm khéo nhưng cũng không tin chắc là họ làm vừa lòng khách hàng. Người quân tử trau dồi đạo đức, theo đường chính mà giữ nó, điều chỉnh nó, nhưng không thể làm cho nó được người ta theo. Anh không lo trau dồi đạo của anh mà chỉ cầu người ta dung nạp anh. Chí của anh không xa. Tử Cống ra Nhan Hồi vào. Khổng Tử lại hỏi như trước: "Chẳng phải con tê ngưu, chẳng phải con hổ mà cũng lang thang ở đồng vắng". Đạo của ta sai rồi chăng, mà sao ta gặp phải cảnh này. Nhan Hồi đáp: Đạo của thầy cao quá cho nên thiên hạ không ai theo được, nhưng thầy cứ theo đó mà làm. Người ta không dung nạp được thầy thì đâu có hại gì? Chính vì người ta không dung nạp được thầy mà thầy mới là bậc quân tử. Đạo không được trau dồi, đó là điều làm chúng ta xấu hổ.
Thuần Khảm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3185
Đạo đã được trau dồi rồi mà người ta vẫn không dung nạp, thì đó là điều xấu hổ của kẻ làm vua. Người ta không dung nạp được thầy thì đâu có hại gì? Chính vì người ta không dung nạp được thầy mà thầy mới là bậc quân tử. LỜI TƯỢNG: nước chảy không ngừng là hình tượng của quẻ tập Khảm. Người quân tử lấy việc rèn luyện năng lực thực hiện làm trọng.<br> "Tượng Viết: Thủy tấn chí, tập khảm, quân tử dĩ thường đức hạnh, tập giáo sự." 象曰: 水洊至,習坎,君子以常德行,習教事. "Tấn" = "tiến" 洊 – nước chảy không ngừng, lại một lần nữa. "Chí" 至 – đến. "Thường" 常– Lâu, mãi; "Đạo Thường", đó là: "nhân" 仁, "nghĩa" 義, "lễ" 禮, "trí" 智, "tín" 信. Còn gọi là "ngũ thường" 五常 là cái lẽ phải thông thường mà người ta ai cũng phải có. "Hành" 行- Một âm là "hạnh" - đức hạnh. Năng lực là "đức" 德 thi hành gọi là "hạnh" 行. "Đức hạnh" 德行 – năng lực thực hiện. CHIÊM: ♦ Quẻ này có 3 hào xấu (x). ♦ Thuần Khảm là một trong bốn quẻ hung hiểm tứ đại hung quái trong Kinh Dịch. Truân là trở ngại lúc đầu. Thuần Khảm trở ngại lúc đầu và cuối. Kiển trở ngại quãng giữa. Quẻ Khốn là trở ngại hơn hết. ♦ Một người rơi xuống giếng, lâm vào tình trạng cực kỳ khó khăn. ♦ Người đó được một người dùng dây kéo lên, được giúp đỡ trong lúc khó khăn. ♦ Một người đầu cọp, có người thế lực giúp bạn làm ăn. ♦ Con trâu và con chuột đen, năm tháng ngày giờ Tý, Sửu. ♦ Quẻ thuộc tháng 10, tốt về mùa xuân, xấu hạ, thu. HÌNH: Thuyền lủng còn mắc cạn. 船漏沖瘫 "Thuyền lậu trùng than". TƯỢNG: Ngoài rỗng trong đặc. 外虛中實 "Ngoại hư trung thực". KHÍ CHẤT: Nhẫn nại. DÁNG VẺ: Con heo. HÀO TỪ 1. Hai lần hiểm, quen với nước, sụp vào hố nước sâu, xấu. (x)<br> "Sơ lục: Tập khảm, nhập vu khảm đạm, hung." 初六。習坎,入于坎窞,凶。 2.
Thuần Khảm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3185
Ở chỗ nước lại thêm hiểm, mong làm được chuyện nhỏ thôi thì mới làm được.<br> "Cửu nhị: Khảm hữu hiểm, cầu tiểu đắc." 九二。坎有險,求小得。 3. Tới lui đều bị hãm, trước mặt là hiểm mà sau lưng lại dựa vào hiểm, chỉ càng sụp vào chỗ sâu hơn thôi, không làm gì được.(x)<br> "Lục tam: Lai chi khảm khảm, hiểm thả chẩm, nhập vu khảm đạm, vật dụng." 六三。來之坎坎,險且枕,入于坎窞,勿用。 Đạm (= nằm) 窞 – cái hố sâu. 4. Như thể chỉ dâng một chén rượu, một rá thức ăn, có thêm cũng một tô thôi, đưa qua cửa sổ, rốt cuộc không có lỗi.<br> "Lục tứ: Tôn tửu quỹ, nhị dụng phẫu, nạp ước tự dũ, chung vô cữu." 六四。樽酒簋,貳用缶,納約自牖,終無咎。 5. Nước chưa đầy, nhưng đến lúc nước đầy rồi, lặng rồi, thì sẽ khỏi hiểm, không có lỗi.<br> "Cửu ngũ: Khảm bất doanh, kỳ ký bình, vô cữu." 九五。坎不盈,祗既平,無咎。 Kỳ=chi 祗=坻=小丘– gò đất nhỏ, tiểu đảo. Vô công bất thụ lộc. 6. Đã trói bằng dây thừng to, lại đặt trong bụi gai, ba năm ra không được, xấu. (x)<br> "Thượng lục: Hệ dụng huy mặc, trí vu tùng cức, tam tuế bất đắc, Hung." 上六。係用徽纆,寘于叢棘,三歲不得,凶。
Thuần Ly
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3186
Quẻ Thuần Ly, đồ hình |:||:| còn gọi là quẻ Ly (離 li2), là quẻ thứ 30 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Lệ dã. Sáng chói. Sáng sủa, trống trải, trống trơn, tỏa ra, bám vào, phụ bám, phô trương ra ngoài. Môn hộ bất ninh chi tượng: tượng nhà cửa không yên.
Trạch Sơn Hàm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3187
Quẻ Trạch Sơn Hàm, đồ hình::|||: còn gọi là quẻ Hàm (咸 xian2), là quẻ thứ 31 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Cảm dã. Thụ cảm. Cảm xúc, thọ nhận, cảm ứng, nghĩ đến, nghe thấy, xúc động. Nam nữ giao cảm chi tượng: tượng nam nữ có tình ý, tình yêu.
Lôi Phong Hằng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3188
Quẻ Lôi Phong Hằng, đồ hình:|||:: còn gọi là quẻ Hằng (恆 heng2), là quẻ thứ 32 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Cửu dã. Trường cửu. Lâu dài, chậm chạp, đạo lâu bền như vợ chồng, kéo dài câu chuyện, thâm giao, nghĩa cố tri, xưa, cũ.
Thiên Sơn Độn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3189
Quẻ Thiên Sơn Độn, đồ hình::|||| còn gọi là quẻ Độn (遯 dun4), là quẻ thứ 33 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Thoái dã. Ẩn trá. Lui, ẩn khuất, tránh đời, lừa dối, trá hình, có ý trốn tránh, trốn cái mặt thấy cái lưng. Báo ẩn nam sơn chi tượng: tượng con báo ẩn ở núi nam.
Lôi Thiên Đại Tráng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3190
Quẻ Lôi Thiên Đại Tráng, đồ hình ||||:: còn gọi là quẻ Đại Tráng (大壯 da4 zhuang4), là quẻ thứ 34 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Chí dã. Tự cường. Ý chí riêng, bụng nghĩ, hướng thượng, ý định, vượng sức, thịnh đại, trên cao, chót vót, lên trên, chí khí, có lập trường. Phượng tập đăng sơn chi tượng: tượng phượng đậu trên núi.
Địa Hỏa Minh Di
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3192
Quẻ Địa Hỏa Minh Di, đồ hình |:|::: còn gọi là quẻ Minh Di (明夷 ming2 yi2), là quẻ thứ 36 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Thương dã. Hại đau. Thương tích, bệnh hoạn, buồn lo, đau lòng, ánh sáng bị tổn thương. Kinh cức mãn đồ chi tượng: gai góc đầy đường.
Phong Hỏa Gia Nhân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3193
Quẻ Phong Hỏa Gia Nhân, đồ hình |:|:|| còn gọi là quẻ Gia Nhân (家人 jia1 ren2), là quẻ thứ 37 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Đồng dã. Nảy nở. Người nhà, gia đinh, cùng gia đình, đồng chủng, đồng nghiệp, cùng xóm, sinh sôi, khai thác mở mang thêm. Khai hoa kết tử chi tượng: trổ bông sinh trái, nảy mầm.
Hỏa Trạch Khuê
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3194
Quẻ Hỏa Trạch Khuê, đồ hình ||:|:| còn gọi là quẻ Khuê 睽 (kui2), là quẻ thứ 38 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Quai dã. Hỗ trợ. Trái lìa, lìa xa, hai bên lợi dụng lẫn nhau, cơ biến quai xảo, như cung tên. Hồ giả hổ oai chi tượng: con hồ (cáo) nhờ oai con hổ.
Thủy Sơn Kiển
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3195
Quẻ Thủy Sơn Kiển, đồ hình::|:|: còn gọi là quẻ Kiển 蹇 (jian3), là quẻ thứ 39 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Nạn dã. Trở ngại. Cản ngăn, chặn lại, chậm chạp, què, khó khăn. Bất năng tiến giả chi tượng: không năng đi.
Lôi Thủy Giải
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3196
Quẻ Lôi Thủy Giải, đồ hình:|:|:: còn gọi là quẻ Giải (解 xie4), là quẻ thứ 40 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Tán dã. Nơi nơi. Làm cho tan đi, như làm tan sự nguy hiểm, giải phóng, giải tán, loan truyền, tuyên truyền, phân phát, lưu thông, ban rải, ân xá. Lôi vũ tác giải chi tượng: tượng sấm động mưa bay.
Sơn Trạch Tổn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3197
Quẻ Sơn Trạch Tổn, đồ hình ||:::| còn gọi là quẻ Tổn (損 sun3), là quẻ thứ 41 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Thất dã. Tổn hại. Hao mất, thua thiệt, bớt kém, bớt phần dưới cho phần trên là tổn hại. Phòng nhân ám toán chi tượng: tượng đề phòng sự ngầm hại, hao tổn.
Phong Lôi Ích
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3207
Quẻ Phong Lôi Ích, đồ hình |:::|| còn gọi là quẻ Ích (益 yi4), là quẻ thứ 42 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Ích dã. Tiến ích. Thêm được lợi, giúp dùm, tiếng dội xa, vượt lên, phóng mình tới. Hồng hộc xung tiêu chi tượng: chim hồng, chim hộc bay qua mây mù.
Trạch Thiên Quải
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3208
Quẻ Trạch Thiên Quải, đồ hình |||||: còn gọi là quẻ Quải (夬 guai4), là quẻ thứ 43 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Quyết dã. Dứt khoát. Dứt hết, biên cương, ranh giới, thành phần, thành khoảnh, quyết định, quyết nghị, cổ phần, thôi, khai lề lối. Ích chi cực tắc quyết chi tượng: lợi đã cùng ắt thôi.
Thiên Phong Cấu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3209
Quẻ Thiên Phong Cấu, đồ hình:||||| còn gọi là quẻ Cấu (姤 gou4), là quẻ thứ 44 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Ngộ dã. Tương ngộ. Gặp gỡ, cấu kết, liên kết, kết hợp, móc nối, mềm gặp cứng. Phong vân bất trắc chi tượng: gặp gỡ thình lình, ít khi.
Trạch Địa Tụy
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3210
Quẻ Trạch Địa Tụy, đồ hình:::||: còn gọi là quẻ Tụy (萃 cui4), là quẻ thứ 45 của Kinh Dịch. Giải nghĩa: Tụ dã. Trưng tập. Nhóm họp, biểu tình, dồn đống, quần tụ nhau lại, kéo đến, kéo thành bầy. Long vân tế hội chi tượng: tượng rồng mây giao hội.
Địa Phong Thăng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3211
Quẻ Địa Phong Thăng, đồ hình:||::: còn gọi là quẻ Thăng (升 sheng1), là quẻ thứ 46 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Tiến dã. Tiến thủ. Thăng tiến, trực chỉ, tiến mau, bay lên, vọt tới trước, bay lên không trung, thăng chức, thăng hà. Phù giao trực thượng chi tượng: chà đạp để ngoi lên trên.
Trạch Thủy Khốn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3212
Quẻ Trạch Thủy Khốn, đồ hình:|:||: còn gọi là quẻ Khốn (困 kun4), là quẻ thứ 47 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Nguy dã. Nguy lo. Cùng quẫn, bị người làm ác, lo lắng, cùng khổ, mệt mỏi, nguy cấp, lo hiểm nạn. Thủ kỷ đãi thời chi tượng: tượng giữ mình đợi thời.
Thủy Phong Tỉnh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3213
Quẻ Thủy Phong Tỉnh, đồ hình:||:|: còn gọi là quẻ Tỉnh (井 jing3), là quẻ thứ 48 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Tịnh dã. Trầm lặng. Ở chỗ nào cứ ở yên chỗ đó, xuống sâu, vực thẳm có nước, dưới sâu, cái giếng. Càn Khôn sát phối chi tượng: Trời Đất phối hợp lại.
Trạch Hỏa Cách
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3214
Quẻ Trạch Hỏa Cách, đồ hình |:|||: còn gọi là quẻ Cách (革 ge2), là quẻ thứ 49 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Cải dã. Cải biến. Bỏ lối cũ, cải cách, hoán cải, cách tuyệt, cánh chim thay lông. Thiên uyên huyền cách chi tượng: tượng vực trời xa thẳm.
Hỏa Phong Đỉnh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3215
Quẻ Hỏa Phong Đỉnh, đồ hình:|||:| còn gọi là quẻ Đỉnh (鼎 ding3), là quẻ thứ 50 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Định dã. Nung đúc. Đứng được, chậm đứng, trồng, nung nấu, rèn luyện, vững chắc, ước hẹn. Luyện dược thành đơn chi tượng: tượng luyện thuốc thành linh đan, có rèn luyện mới nên người. Kết hợp quẻ này vào cung vợ chồng là tốt, con cái mạnh khoẻ, gia đình yên ấm bền lâu.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Lịch sử thuộc địa của Hoa Kỳ bao gồm lịch sử thực dân châu Âu tại châu Mỹ từ khi bắt đầu thuộc địa hóa vào đầu thế kỷ 16 cho đến khi sáp nhập các thuộc địa vào Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Vào cuối thế kỷ 16, Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Hà Lan đã phát động các chương trình thuộc địa lớn ở miền đông Bắc Mỹ. Những nỗ lực ban đầu nhỏ đôi khi biến mất, chẳng hạn như Thuộc địa bị mất của người Anh Roanoke. Ở mọi nơi, tỷ lệ tử vong rất cao trong số những người đến đầu tiên. Tuy nhiên, các thuộc địa thành công đã được thành lập trong vòng vài thập kỷ. Những người định cư châu Âu đến từ nhiều nhóm xã hội và tôn giáo, bao gồm các nhà thám hiểm, nông dân, người hầu bị cầm cố, thương nhân và một số ít từ tầng lớp quý tộc. Những người định cư đến lục địa này bao gồm người Hà Lan ở New Netherland, người Thụy Điển và Phần Lan ở New Sweden, Các tín đồ Quaker người Anh ở tỉnh Pennsylvania, các tín đồ Thanh giáo ở New England, những người đi khan hoang người Anh ở Jamestown, Virginia, những người li khai Công giáo và đạo Tin lành Anh ở tỉnh Maryland, "người nghèo xứng đáng" ở tỉnh Georgia, người Đức định cư các thuộc địa giữa Đại Tây Dương và người Ulster Scots ở dãy Appalachia. Các nhóm này đều trở thành một phần của Hoa Kỳ khi giành được độc lập vào năm 1776. Châu Mỹ thuộc Nga và một phần của Tân Pháp và Tân Tây Ban Nha cũng được sáp nhập vào Hoa Kỳ vào nhiều điểm khác nhau. Các nhóm đa dạng từ các khu vực khác nhau đã xây dựng các thuộc địa với phong cách xã hội, tôn giáo, chính trị và kinh tế đặc biệt. Theo thời gian, các thuộc địa không thuộc Anh ở phía đông sông Mississippi đã bị chiếm giữ và hầu hết cư dân bị đồng hóa. Tuy nhiên, tại Nova Scotia, người Anh đã trục xuất người Acadia thuộc Pháp và nhiều người đã chuyển đến Louisiana. Không có cuộc nội chiến lớn xảy ra trong mười ba thuộc địa. Hai cuộc nổi loạn vũ trang chính là những thất bại ngắn ngủi ở Virginia năm 1676 và ở New York năm 1689-1691. Một số thuộc địa đã phát triển các hệ thống nô lệ được hợp pháp hóa, tập trung chủ yếu vào việc buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Chiến tranh đã tái diễn giữa người Pháp và người Anh trong cuộc Chiến tranh của Pháp và người da đỏ. Đến năm 1760, Pháp bị đánh bại và các thuộc địa của nó bị Anh chiếm giữ. Trên bờ biển phía đông, các sử gia thường chia các khu vực sau này ra bốn miền. Từ bắc vào nam, các miền này là: New England, các Thuộc địa miền Trung, vịnh Chesapeake và các Thuộc địa miền Nam. Một số sử gia thêm một miền thứ 5 - miền Biên giới vốn không được tổ chức một cách riêng biệt. Vào thời điểm những người định cư châu Âu đến khoảng 1600-1650, một tỷ lệ đáng kể người Da đỏ sống ở khu vực phía đông đã bị tàn phá bởi bệnh tật, có thể được đưa đến đây hàng thập kỷ trước bởi các nhà thám hiểm và thủy thủ (mặc dù chưa có nguyên nhân nào chính thức được đưa ra). Mục đích của quá trình thuộc địa hóa. Những người thực dân đến từ các vương quốc châu Âu có năng lực quân sự, hải quân, chính phủ và doanh nhân rất phát triển. Kinh nghiệm chinh phục và thuộc địa hàng thế kỷ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha qua Reconquista, cùng với các kỹ năng điều hướng tàu biển mới, đã cung cấp các công cụ, khả năng và mong muốn xâm chiếm Tân Thế giới. Những nỗ lực này được quản lý bởi Casa de Contratación và Casa da Índia. Anh, Pháp và Hà Lan cũng đã bắt đầu các thuộc địa ở Tây Ấn và Bắc Mỹ. Họ có khả năng chế tạo những con tàu vượt đại dương dù không có lịch sử thuộc địa ở những vùng đất xa lạ như Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Tuy nhiên, các doanh nhân người Anh đã cho các thuộc địa của họ một nền tảng đầu tư dựa trên tầng lớp thương nhân mà dường như cần sự hỗ trợ của chính phủ ít hơn nhiều. Ban đầu, các vấn đề liên quan đến các thuộc địa được giải quyết chủ yếu bởi Hội đồng Cơ mật của Anh và các ủy ban của nó. Ủy ban Thương mại được thành lập vào năm 1625 là cơ quan đặc biệt đầu tiên được triệu tập để tư vấn về các câu hỏi về thuộc địa (đồn điền).
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Từ năm 1696 cho đến khi kết thúc Cách mạng Mỹ, các vấn đề thuộc địa là trách nhiệm của Ủy ban Thương mại hợp tác với các ngoại trưởng liên quan, đã thay đổi từ Bộ trưởng Ngoại giao Bộ Ngoại giao miền Nam sang Bộ trưởng Ngoại giao các thuộc địa năm 1768. Chủ nghĩa trọng thương. Chủ nghĩa trọng thương là chính sách cơ bản được Anh áp đặt cho các thuộc địa của mình từ những năm 1660, điều đó có nghĩa là chính phủ trở thành đối tác với các thương nhân có trụ sở tại Anh để tăng sức mạnh chính trị và của cải tư nhân. Điều này đã được thực hiện để loại trừ các đế chế khác và thậm chí các thương nhân khác trong các thuộc địa của mình. Chính phủ đã bảo vệ các thương nhân ở London và ngăn chặn những người khác bằng các rào cản thương mại, quy định và trợ cấp cho các ngành công nghiệp trong nước để tối đa hóa xuất khẩu từ địa hạt và giảm thiểu nhập khẩu. Chính phủ cũng chống buôn lậu, và điều này trở thành nguồn tranh cãi trực tiếp với các thương nhân Mỹ khi các hoạt động kinh doanh bình thường của họ được phân loại lại thành "buôn lậu" bởi Đạo luật Hàng hải. Điều này bao gồm các hoạt động đã từng là giao dịch kinh doanh thông thường trước đây, như giao dịch trực tiếp với Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan và Bồ Đào Nha. Mục tiêu của chủ nghĩa trọng thương là kiểm soát thặng dư thương mại để vàng và bạc sẽ đổ vào London. Chính phủ đã nhận phần chia của mình thông qua thuế, phí, phần còn lại sẽ dành cho các thương nhân ở Anh. Chính phủ đã dành phần lớn doanh thu của mình để tạo nên Hải quân Hoàng gia hùng mạnh bảo vệ các thuộc địa của Anh và cũng đe dọa các thuộc địa của các đế chế khác, đôi khi còn chiếm lấy chúng. Do đó, Hải quân Anh chiếm được New Amsterdam (New York) vào năm 1664. Các thuộc địa cũng là thị trường cho các ngành công nghiệp Anh, và mục tiêu là làm giàu cho mẫu quốc. Thoát khỏi đàn áp tôn giáo. Viễn cảnh đàn áp tôn giáo của các nhà chức trách của hoàng gia và Giáo hội Anh đã thúc đẩy một cách đáng kể các nỗ lực thực dân. Những người Pilgrim là những người Thanh giáo ly khai chạy trốn khỏi cuộc đàn áp ở Anh, đầu tiên đến Hà Lan và cuối cùng đến đồn điền Plymouth năm 1620.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
[10] Trong 20 năm sau đó, mọi người chạy trốn khỏi cuộc đàn áp của vua Charles I đã định cư hầu hết New England. Tương tự, Tỉnh Maryland được thành lập một phần để trở thành thiên đường cho người Công giáo La Mã. Thất bại trong quá trình thực dân ban đầu. Các nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha ẩn danh là những người châu Âu đầu tiên lập bản đồ vùng biển phía đông của Mỹ từ New York đến Florida, như được ghi lại trong bình đồ địa cầu Cantino năm 1502. Tuy nhiên, họ giữ bí mật kiến thức của mình và không cố gắng định cư ở Bắc Mỹ vì Inter caetera do Giáo hoàng Alexander VI ban hành đã cấp những vùng đất này cho Tây Ban Nha vào năm 1493. Các quốc gia khác đã cố gắng tìm các thuộc địa ở Mỹ trong thế kỷ sau đó, nhưng hầu hết những nỗ lực đó đã kết thúc trong thất bại. Bản thân những thực dân phải đối mặt với tỷ lệ tử vong cao vì bệnh tật, chết đói, tiếp tế không hiệu quả, xung đột với người da đỏ Mỹ, các cuộc tấn công của các cường quốc châu Âu và các nguyên nhân khác. Tây Ban Nha đã có nhiều nỗ lực thất bại, bao gồm San Miguel de Gualdape ở Georgia (1526), đoàn thám hiểm của Pánfilo de Narváez đến bờ biển Vịnh Florida (1528-36), Pensacola ở Tây Florida (1559-61), Pháo đài San Juan ở Bắc Carolina (1567-68) và Sứ mệnh Ajacán ở Virginia (1570-71). Người Pháp thất bại tại đảo Parris, Nam Carolina (1562-63), Pháo đài Caroline trên bờ biển Đại Tây Dương của Florida (1564-65), Đảo Saint Croix, Maine (1604-05), và Pháo đài Saint Louis, Texas (1685-89). Những thất bại đáng chú ý nhất của người Anh là "Thuộc địa bị mất ở Roanoke" (1587-90) ở Bắc Carolina và Thuộc địa Popham ở Maine (1607-08). Chính tại Thuộc địa Roanoke, Virginia Dare trở thành đứa trẻ Anh đầu tiên được sinh ra ở Châu Mỹ; số phận của cô hiện không rõ. Tân Tây Ban Nha. Bắt đầu từ thế kỷ 15, Tây Ban Nha đã xây dựng một đế chế thuộc địa ở châu Mỹ bao gồm Tân Tây Ban Nha và lãnh thổ của các phó vương quốc khác. Tân Tây Ban Nha bao gồm các lãnh thổ ở Florida, Alabama, Mississippi, phần lớn Hoa Kỳ phía tây sông Mississippi, một phần của Châu Mỹ Latinh (bao gồm Puerto Rico) và Đông Ấn Tây Ban Nha (bao gồm đảo Guam và Quần đảo Bắc Mariana).
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Tân Tây Ban Nha bao trùm lãnh thổ Louisiana sau Hiệp ước Fontainebleau (1762), mặc dù Louisiana được trả lại Pháp trong Hiệp ước San Ildefonso thứ ba năm 1800. Nhiều vùng lãnh thổ từng là một phần của Tân Tây Ban Nha trở thành một phần của Hoa Kỳ sau năm 1776 qua nhiều cuộc chiến tranh và hiệp ước khác nhau, bao gồm cả Vùng đất mua Louisiana (1803), Hiệp ước Adams-Onís (1819), Chiến tranh Hoa Kỳ-México (1846-1848) và Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ (1898). Ngoài ra còn có một số cuộc thám hiểm của Tây Ban Nha đến Tây Bắc Thái Bình Dương, nhưng Tây Ban Nha đã trao cho Hoa Kỳ tất cả các yêu sách đối với Tây Bắc Thái Bình Dương trong Hiệp ước Adams-Onís. Có vài ngàn gia đình ở New Mexico và California đã trở thành công dân Mỹ vào năm 1848, cộng với một số lượng nhỏ ở các thuộc địa khác. Florida. Tây Ban Nha đã thiết lập một số tiền đồn nhỏ ở Florida vào đầu thế kỷ 16. Trong đó, tiền đồn quan trọng nhất là St. Augustine, Florida, được thành lập năm 1565 nhưng liên tục bị tấn công và đốt cháy bởi cướp biển, tư nhân và lực lượng Anh. Các tòa nhà của nó vẫn tồn tại mặc dù gần như tất cả người Tây Ban Nha đã rời đi. Nó được tuyên bố là khu định cư châu Âu lâu đời nhất ở Hoa Kỳ lục địa. Người Anh tấn công Florida Tây Ban Nha trong nhiều cuộc chiến. Ngay từ năm 1687, chính phủ Tây Ban Nha đã bắt đầu cho các nô lệ tị nạn từ các thuộc địa của Anh và Vương quốc Tây Ban Nha chính thức tuyên bố vào năm 1693 rằng những nô lệ bỏ trốn sẽ tìm thấy tự do ở Florida nếu cải đạo sang Công giáo và bốn năm phục vụ quân đội cho Hoàng gia. Trên thực tế, Tây Ban Nha đã tạo ra một khu định cư ở Florida với tư cách là một tuyến phòng thủ chống lại các cuộc tấn công của Anh từ phía bắc. Tây Ban Nha cũng có ý định gây bất ổn nền kinh tế đồn điền của các thuộc địa Anh bằng cách tạo ra một cộng đồng da đen tự do để thu hút nô lệ tìm cách trốn thoát và lánh nạn khỏi chế độ nô lệ của Anh. Năm 1763, Tây Ban Nha trao đổi Florida với Vương quốc Anh để đổi lấy quyền kiểm soát Havana, Cuba, nơi đã bị người Anh chiếm được trong Chiến tranh Bảy năm.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Florida là nhà của khoảng 3.000 người Tây Ban Nha vào thời điểm đó, và gần như tất cả đều nhanh chóng rời đi. Anh chiếm Florida nhưng không gửi nhiều người định cư đến khu vực này, và sự kiểm soát đã được khôi phục lại cho Tây Ban Nha vào năm 1783 bởi Hòa ước Paris chấm dứt Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ. Tây Ban Nha đã không gửi thêm người định cư hoặc nhà truyền giáo đến Florida trong thời kỳ thuộc địa thứ hai này. Cư dân của Tây Florida nổi dậy chống lại Tây Ban Nha vào năm 1810 và thành lập Cộng hòa Tây Florida, nơi đã nhanh chóng bị Hoa Kỳ sáp nhập. Hoa Kỳ đã chiếm hữu Đông Florida vào năm 1821 theo các điều khoản của Hiệp ước Adams–Onís. New Mexico. Trong suốt thế kỷ 16, Tây Ban Nha khám phá phía tây nam từ Mexico, với nhà thám hiểm đáng chú ý nhất là Francisco Coronado, đoàn thám hiểm đi khắp New Mexico và Arizona hiện đại, đến New Mexico vào năm 1540. Người Tây Ban Nha di chuyển về phía bắc từ Mexico, định cư các ngôi làng ở phía trên thung lũng của Rio Grande, bao gồm phần lớn nửa phía tây của bang New Mexico ngày nay. Thủ phủ Santa Fe đã được định cư vào năm 1610 và vẫn là khu định cư liên tục lâu đời nhất ở Hoa Kỳ. Người da đỏ địa phương đã trục xuất người Tây Ban Nha trong 12 năm sau Cuộc nổi dậy của người Pueblo năm 1680; họ trở lại vào năm 1692 trong cuộc tái chiếm không đổ máu ở Santa Fe. [17] Sự kiểm soát của Tây Ban Nha (223 năm) và Mexico (25 năm) kéo dài cho đến năm 1846 khi Quân đội mền Tây của Mỹ tiếp quản trong cuộc Chiến tranh Hoa Kỳ-México. Khoảng một phần ba dân số trong thế kỷ 21 là hậu duệ của những người định cư Tây Ban Nha. California. Các nhà thám hiểm Tây Ban Nha đi thuyền dọc theo bờ biển California ngày nay từ đầu thế kỷ 16 đến giữa thế kỷ 18, nhưng không có khu định cư nào được thiết lập thời đó. Từ năm 1769 cho đến khi Mexico độc lập vào năm 1820, Tây Ban Nha đã gửi các nhà truyền giáo và binh lính đến Alta California, người đã tạo ra một loạt các sứ mệnh truyền giáo được điều hành bởi các linh mục dòng Phanxicô. Họ cũng điều hành các "presidios" (pháo đài), "pueblos" (khu định cư) và "ranchos" (trang trại cấp đất) dọc theo bờ biển phía nam và trung tâm của California.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Cha Junípero Serra, đã thành lập các phái bộ đầu tiên ở vùng thượng lưu Las California thuộc Tây Ban Nha, bắt đầu với Sứ mệnh San Diego de Alcalá vào năm 1769. Qua các thời đại Tây Ban Nha và Mexico, cuối cùng họ bao gồm một loạt 21 sứ mệnh truyền bá Công giáo La Mã giữa những người thổ dân Mỹ bản địa, được liên kết bởi El Camino Real ("Con đường Hoàng gia"). Họ được thành lập để chuyển đổi người dân bản địa California, đồng thời bảo vệ các yêu sách lịch sử của Tây Ban Nha đối với khu vực. Các sứ mệnh giới thiệu công nghệ châu Âu, chăn nuôi và cây trồng. Các khu định cư người da đỏ đã chuyển đổi các dân tộc bản địa thành các nhóm truyền giáo người da đỏ; họ làm việc như những người lao động trong các nhiệm vụ và trại chăn nuôi. Vào những năm 1830, các nhiệm vụ đã bị giải tán và những vùng đất được bán cho Californiaios. Dân số người Mỹ bản địa là khoảng 150.000; Californiaios (California thời Mexico) khoảng 10.000; bao gồm người Mỹ nhập cư và các quốc tịch khác liên quan đến thương mại và kinh doanh tại California. Puerto Rico. Vào tháng 9 năm 1493, Christopher Columbus ra khơi trong chuyến đi thứ hai với 17 tàu từ Cádiz. Vào ngày 19 tháng 11 năm 1493, ông đổ bộ lên đảo Puerto Rico, đặt tên là "San Juan Bautista" để vinh danh Thánh John the Baptist. Thuộc địa đầu tiên của châu Âu, Caparra, được thành lập vào ngày 8 tháng 8 năm 1508 bởi Juan Ponce de León, một trung úy dưới quyền Columbus, người được Taíno Cacique Agüeybaná chào đón và sau đó trở thành thống đốc đầu tiên của hòn đảo. Ponce de Leon đã tích cực tham gia vào vụ thảm sát Higuey năm 1503 ở Puerto Rico. Năm 1508, Ngài Ponce de Leon được Hoàng gia Tây Ban Nha chọn để lãnh đạo cuộc chinh phạt và nô lệ của người da đỏ Taíno cho các hoạt động khai thác vàng. Năm sau, thuộc địa đã bị bỏ rơi để ủng hộ một hòn đảo gần đó trên bờ biển, được đặt tên là Puerto Rico (Rich Port), nơi có một bến cảng phù hợp. Năm 1511, một khu định cư thứ hai, San Germán được thành lập ở phía tây nam của đảo. Trong những năm 1520, hòn đảo mang tên Puerto Rico trong khi cảng trở thành San Juan. Là một phần của quá trình thuộc địa, nô lệ châu Phi đã được đưa đến hòn đảo vào năm 1513.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Sau sự suy giảm của dân số Taíno, nhiều nô lệ đã được đưa đến Puerto Rico; tuy nhiên, số lượng nô lệ trên đảo giảm so với những người ở các đảo lân cận. Ngoài ra, ngay từ thời thuộc địa Puerto Rico, các nỗ lực đã được thực hiện để giành quyền kiểm soát Puerto Rico từ Tây Ban Nha. Caribs, một bộ lạc đột kích của vùng Caribbean, đã tấn công các khu định cư Tây Ban Nha dọc theo bờ sông Daguao và Macao vào năm 1514 và một lần nữa vào năm 1521 nhưng lần nào họ cũng bị hỏa lực Tây Ban Nha đẩy lùi một cách dễ dàng. Tuy nhiên, đây sẽ không phải là những nỗ lực cuối cùng để kiểm soát Puerto Rico. Các cường quốc châu Âu nhanh chóng nhận ra tiềm năng của những vùng đất chưa thuộc địa của người châu Âu và cố gắng giành quyền kiểm soát chúng. Tuy nhiên, Puerto Rico vẫn thuộc sở hữu của Tây Ban Nha cho đến thế kỷ 19. Nửa cuối thế kỷ 19 được đánh dấu bởi cuộc đấu tranh giành chủ quyền của người Puerto Rico. Một cuộc điều tra dân số được tiến hành vào năm 1860 cho thấy dân số hiện thời là 583.308. Trong số này, 300.406 (51,5%) là người da trắng và 282.775 (48,5%) là người da màu, sau này bao gồm những người có di sản chủ yếu là châu Phi, mulatto và mestizo. Phần lớn dân số ở Puerto Rico không biết chữ (83,7%) và sống trong nghèo đói, và ngành công nghiệp nông nghiệp tại thời điểm đó là nguồn thu nhập chính đã bị cản trở do thiếu cơ sở hạ tầng đường bộ, công cụ và thiết bị đầy đủ và thiên tai như bão và hạn hán. Nền kinh tế cũng phải chịu mức tăng thuế và thuế xuất nhập khẩu do Vương quốc Tây Ban Nha áp đặt. Hơn nữa, Tây Ban Nha đã bắt đầu đày đi hoặc bỏ tù bất kỳ người nào kêu gọi cải cách tự do. Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ nổ ra vào năm 1898, sau hậu quả của vụ nổ chiến hạm USS Maine ở cảng Havana. Hoa Kỳ đã đánh bại Tây Ban Nha vào cuối năm đó và giành quyền kiểm soát Puerto Rico trong hiệp ước hòa bình sau đó. Trong Đạo luật Foraker năm 1900, Quốc hội Hoa Kỳ đã xác lập vị thế của Puerto Rico là một lãnh thổ chưa hợp nhất. Tân Pháp.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Tân Pháp. Tân Pháp là khu vực rộng lớn tập trung ở sông Saint Lawrence, vùng Hồ Lớn, sông Mississippi và các nhánh sông lớn khác đã được Pháp khám phá và tuyên bố chủ quyền bắt đầu từ đầu thế kỷ 17. Nó bao gồm một số thuộc địa: Acadia, Canada, Newfoundland, Louisiana, Île-Royale (đảo Cape Breton ngày nay) và Île Saint Jean (Đảo Hoàng tử Edward ngày nay). Các thuộc địa này nằm dưới sự kiểm soát của Anh hoặc Tây Ban Nha sau Chiến tranh Pháp và người da đỏ, mặc dù Pháp đã giành lại được một phần Louisiana vào năm 1800. Hoa Kỳ sẽ giành được phần lớn Tân Pháp trong Hiệp ước Paris năm 1783 và Hoa Kỳ sẽ có được một nước khác một phần lãnh thổ của Pháp với Mua hàng Louisiana năm 1803. Phần còn lại của New France trở thành một phần của Canada, ngoại trừ đảo Saint Pierre và Miquelon của Pháp. Pays d'en Haut. Đến năm 1660, những người thợ săn, nhà truyền giáo và quân đội Pháp ở Montreal đã tiến về phía tây dọc theo Hồ Lớn ngược dòng vào Pays d'en Haut và thành lập các tiền đồn tại Green Bay, Fort de Buade và Saint Ignace (cả ở Michilimackinac), Sault Sainte Marie, Vincennes và Detroit năm 1701. Trong Chiến tranh Pháp và người da đỏ (1754-1763), nhiều khu định cư này đã bị người Anh chiếm đóng. Đến năm 1773, dân số của Detroit là 1.400. Vào cuối cuộc Chiến tranh giành độc lập năm 1783, khu vực phía nam Hồ Lớn chính thức trở thành một phần của Hoa Kỳ. Vùng Illinois. Vùng Illinois vào năm 1752 có 2.500 người Pháp sinh sống; nó nằm ở phía tây của vùng Ohio và tập trung quanh Kaskaskia, Cahokia và Sainte Genevieve. Theo một học giả, "người cư trú Illinois có một tâm hồn vui tươi, anh ta có vẻ vô tư đến mức gây sốc cho những người Thanh giáo tự cao tự đại từ các thuộc địa của Mỹ." Louisiana. Pháp tuyên bố chủ quyền đối với Louisiana thuộc Pháp kéo dài hàng ngàn dặm từ Louisiana hiện đại phía bắc đến miền Trung Tây phần lớn chưa được khám phá, và phía tây dãy núi Rocky. Nó thường được chia thành Thượng và Hạ Louisiana. Vùng đất rộng này lần đầu tiên có người định cư tại Mobile và Biloxi vào khoảng năm 1700, và tiếp tục phát triển khi 7.000 người Pháp nhập cư thành lập New Orleans vào năm 1718.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Quá trình định cư diễn ra rất chậm; New Orleans trở thành một cảng quan trọng, là cửa ngõ của sông Mississippi, nhưng có rất ít sự phát triển kinh tế khác vì thành phố thiếu một vùng nội địa thịnh vượng. Năm 1763, Louisiana được nhượng lại cho Tây Ban Nha quanh New Orleans và phía tây sông Mississippi. Vào những năm 1780, biên giới phía tây của Hoa Kỳ độc lập mới vua ra đời trải dài đến sông Mississippi. Hoa Kỳ đã đạt được thỏa thuận với Tây Ban Nha về quyền điều hướng trên sông và bằng lòng để cho quyền lực thực dân "yếu ớt" kiểm soát khu vực này. Tình hình đã thay đổi khi Napoléon buộc Tây Ban Nha trả lại Louisiana cho Pháp vào năm 1802 và đe dọa sẽ đóng cửa con sông với các tàu Mỹ. Được cảnh báo, Hoa Kỳ đề nghị mua New Orleans. Napoleon cần tiền để tiến hành một cuộc chiến khác với Vương quốc Anh, và ông nghi ngờ rằng Pháp có thể bảo vệ thành công một lãnh thổ rộng lớn và xa xôi như vậy. Do đó, ông đề nghị bán toàn bộ Louisiana với giá 15 triệu đô la. Hoa Kỳ đã hoàn thành việc mua lại Louisiana vào năm 1803, tăng gấp đôi quy mô của quốc gia. Tân Hà Lan. Nieuw-Nederland, hay New Netherland (Tân Hà Lan), là một tỉnh thuộc địa của Cộng hòa Bảy Vương quốc Hà Lan được công nhận vào năm 1614, tại bang New York, New Jersey và một phần của các bang láng giềng khác. Dân số cao nhất là dưới 10.000. Người Hà Lan đã thiết lập một hệ thống patroon với các quyền giống như phong kiến được trao cho một số chủ đất quyền lực; họ cũng thiết lập sự khoan dung tôn giáo và thương mại tự do. Thủ phủ New Amsterdam của thuộc địa được thành lập năm 1625 và nằm ở mũi phía nam của đảo Manhattan, nơi phát triển để trở thành một thành phố lớn trên thế giới. Thành phố đã bị người Anh chiếm được vào năm 1664; họ nắm quyền kiểm soát hoàn toàn thuộc địa năm 1674 và đổi tên thành New York. Tuy nhiên, đất đai của Hà Lan vẫn còn và Thung lũng sông Hudson vẫn duy trì tính chất truyền thống của Hà Lan cho đến những năm 1820. Dấu vết ảnh hưởng của Hà Lan vẫn còn ở phía bắc New Jersey và phía đông nam bang New York, như nhà cửa, họ của gia đình, và tên của các con đường và toàn bộ thị trấn. Tân Thụy Điển.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Tân Thụy Điển. Tân Thụy Điển (tiếng Thụy Điển: Nya Sverige) là thuộc địa của Thụy Điển tồn tại dọc theo Thung lũng sông Delaware biết từ năm 1638 đến năm 1655 và bao quanh vùng đất ở Delaware ngày nay, phía nam là New Jersey và đông nam Pennsylvania. Hàng trăm người định cư đã tập trung quanh thủ đô của Pháo đài Christina, tại địa điểm của ngày nay là thành phố Wilmington, Delaware. Thuộc địa cũng có các khu định cư gần địa điểm ngày nay là Salem, New Jersey (Fort Nya Elfsborg) và trên đảo Tinicum, Pennsylvania. Thuộc địa đã bị người Hà Lan chiếm được vào năm 1655 và sáp nhập vào Tân Hà Lan, với hầu hết các thuộc địa còn lại. Nhiều năm sau, toàn bộ thuộc địa Tân Hà Lan đã được sáp nhập vào các thuộc địa của Anh. Thuộc địa của New Thụy Điển đã giới thiệu Giáo hội Luther đến Mỹ dưới hình thức một số nhà thờ lâu đời nhất châu Âu của lục địa. Những người thực dân cũng mang chòi gỗ đến Mỹ và nhiều con sông, thị trấn và gia đình ở khu vực hạ lưu thung lũng sông Delaware lấy tên từ người Thụy Điển. C. A. Nothnagle Log House ở Gibbstown, New Jersey ngày nay, được xây dựng vào cuối những năm 1630 trong thời kỳ thuộc địa Tân Thụy Điển. Nó vẫn là ngôi nhà cổ nhất được xây dựng bởi người châu Âu ở New Jersey và được cho là một trong những ngôi nhà gỗ lâu đời nhất còn tồn tại ở Hoa Kỳ. Thuộc địa Nga. Nga đã khám phá khu vực mà sau này trở thành Alaska, bắt đầu với cuộc thám hiểm Kamchatka thứ hai vào những năm 1730 và đầu những năm 1740. Khu định cư đầu tiên của họ được thành lập vào năm 1784 bởi Grigory Shelikhov. Công ty Nga-Mỹ được thành lập vào năm 1799 với ảnh hưởng của Nikolay Rezanov, với mục đích mua rái cá biển để lấy lông từ những thợ săn bản địa. Năm 1867, Hoa Kỳ đã mua Alaska và gần như tất cả người Nga đã từ bỏ khu vực này ngoại trừ một vài nhà truyền giáo của Giáo hội Chính thống giáo Nga hoạt động giữa những người bản xứ. Thuộc địa Anh. Anh đã có những nỗ lực thành công đầu tiên vào đầu thế kỷ 17 vì nhiều lý do.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Trong thời đại này, chủ nghĩa dân tộc nguyên thủy và sự quyết đoán dân tộc của Anh nở rộ dưới sự đe dọa xâm lược của Tây Ban Nha, được hỗ trợ bởi một mức độ của chủ nghĩa quân phiệt Tin lành và năng lượng của Nữ hoàng Elizabeth. Tuy nhiên, tại thời điểm này, không có nỗ lực chính thức nào của chính phủ Anh để tạo ra một đế chế thực dân. Thay vào đó, động lực đằng sau việc thành lập các thuộc địa là từng phần và biến đổi. Những cân nhắc thực tế đã đóng vai trò nhất định, chẳng hạn như doanh nghiệp thương mại, quá đông đúc và mong muốn tự do tôn giáo. Làn sóng định cư chính đến vào thế kỷ 17. Sau năm 1700, hầu hết những người nhập cư đến Châu Mỹ thuộc địa đã đến với tư cách là những nô lệ có giao kèo, những người đàn ông và phụ nữ trẻ chưa lập gia đình tìm kiếm một cuộc sống mới trong một môi trường phong phú hơn nhiều. Quan điểm đồng thuận giữa các nhà sử học kinh tế và các nhà kinh tế là việc nô lệ có giao kèo xảy ra phần lớn là "đáp ứng về mặt thể chế đối với sự không hoàn hảo của thị trường vốn", nhưng nó "cho phép những người di cư tiềm năng vay mượn thu nhập trong tương lai của họ để trả chi phí cao cho chuyến hành trình đến Nước Mỹ. " Giữa cuối những năm 1610 và Cách mạng Hoa Kỳ, người Anh đã chuyển khoảng 50.000 đến 120.000 người bị kết án cho các thuộc địa của Mỹ. Bác sĩ Alexander Hamilton (1712-1756) là một bác sĩ và nhà văn người Scotland, sống và làm việc tại Annapolis, Maryland. Leo Lemay đã kể trong Nhật ký du hành của ông năm 1944 có tên "Gentleman's Progress: The Itinerarium of Dr. Alexander Hamilton" rằng: "bức chân dung độc nhất về đàn ông và cách cư xử, về cuộc sống nông thôn và thành thị, của một loạt các xã hội và phong cảnh ở nước Mỹ thuộc địa." Nhật ký của ông đã được sử dụng rộng rãi bởi các học giả, trong đó kể lại các chuyến đi của ông từ Maryland đến Maine. Nhà viết tiểu sử Elaine Breslaw nói rằng ông gặp phải: Vịnh Chesapeake. Virginia. Thuộc địa Anh thành công đầu tiên là Jamestown, được thành lập vào ngày 14 tháng 5 năm 1607 trên một đảo nằm trên sông James, gần cửa sông trên vịnh Chesapeake.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Liên doanh kinh doanh được tài trợ và điều phối bởi Công ty London Virginia, một công ty cổ phần đang tìm kiếm vàng. Những năm đầu tiên của nó vô cùng khó khăn, với tỷ lệ tử vong rất cao do bệnh tật và đói khát, chiến tranh với người da đỏ địa phương và thu được rất ít vàng. Thuộc địa tồn tại và phát triển mạnh mẽ bằng cách chuyển sang trồng thuốc lá để bán. Vào cuối thế kỷ 17, nền kinh tế xuất khẩu của Virginia chủ yếu dựa vào thuốc lá, và những người định cư mới, giàu có hơn đã đến để chiếm phần lớn đất đai, xây dựng các đồn điền lớn và nhập khẩu những người hầu và nô lệ. Năm 1676, cuộc nổi loạn của Bacon xảy ra nhưng đã bị các quan chức hoàng gia đàn áp. Sau cuộc nổi loạn của Bacon, nô lệ châu Phi đã nhanh chóng thay thế những người hầu bị cầm cố làm lực lượng lao động chính của Virginia. Các hội đồng thuộc địa chia sẻ quyền lực với một thống đốc được hoàng gia bổ nhiệm. Ở cấp độ địa phương hơn, quyền lực của chính phủ đã được đầu tư vào các tòa án quận, vốn tự tồn tại (những người đương nhiệm đã lấp đầy bất kỳ vị trí tuyển dụng nào và không bao giờ có cuộc bầu cử dân chủ). Là nhà sản xuất cây trồng thu hoa lợi, các đồn điền Chesapeake phụ thuộc nhiều vào thương mại với Anh. Với điều hướng dễ dàng bằng đường sông, có ít thị trấn và không có thành phố; người trồng vận chuyển trực tiếp đến Anh. Tỷ lệ tử vong cao và hồ sơ dân số rất trẻ đặc trưng cho thuộc địa trong những năm đầu tiên. Randall Miller chỉ ra rằng "Nước Mỹ không có quý tộc có tước hiệu... mặc dù một quý tộc, ngài Thomas Fairfax, đã cư trú ở Virginia năm 1734." Lord Fairfax (1693-1781) là một nam tước người Scotland đến Mỹ vĩnh viễn để giám sát việc nắm giữ đất đai rộng lớn của gia đình ông. Nhà sử học Arthur Schlesinger nói rằng ông "là duy nhất trong số những người đến thường trú có tước hiệu cao như nam tước". Ông là người bảo trợ của George Washington và không bị quấy rầy trong chiến tranh. Tân Anh. Thuộc địa thành công kế tiếp của Anh được thành lập với mục đích khác. Thuộc địa này được thành lập bởi hai nhóm người bất đồng chính kiến về tôn giáo.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Cả hai nhóm đều kêu gọi Giáo hội Anh cải cách và loại bỏ các thành phần Cơ đốc giáo đang còn tồn tại trong giáo hội này. Trong khi nhóm người Pilgrim muốn từ bỏ giáo hội, nhóm người theo Thanh giáo ("Puritanism") muốn cải cách nó bằng cách làm gương với một cộng đồng thánh giáo mà họ sẽ xây dựng tại nơi đất mới. Thanh giáo. Nhóm Pilgrim (Người hành hương) là một nhóm nhỏ những người ly khai Thanh giáo, những người cảm thấy rằng họ cần phải xa cách với Giáo hội Anh. Ban đầu họ chuyển đến Hà Lan, sau đó quyết định tái định cư ở Mỹ. Những người định cư Pilgrim ban đầu đi thuyền đến Bắc Mỹ vào năm 1620 bằng tàu Mayflower. Khi đến nơi, họ đã tạo ra khế ước Mayflower, qua đó họ gắn kết với nhau như một cộng đồng thống nhất, do đó thành lập Thuộc địa Plymouth nhỏ. William Bradford là nhà lãnh đạo chính của họ. Sau khi thành lập, những người định cư khác đã đi từ Anh và gia nhập vào thuộc địa. Những người Thanh giáo không ly khai tạo thành một nhóm lớn hơn nhiều so với Nhóm Pilgrim, và họ đã thành lập Thuộc địa Vịnh Massachusetts vào năm 1629 với 400 người định cư. Họ tìm cách cải tổ Giáo hội Anh bằng cách tạo ra một giáo hội mới, thuần khiết ở Tân Thế giới. Đến năm 1640, có khoảng 20.000 đã đến đây; Nhiều người đã chết lúc vừa mới đến, nhưng những người còn lại đã tìm thấy khí hậu trong lành và nguồn cung cấp thực phẩm dồi dào. Các thuộc địa Plymouth và thuộc địa Vịnh Massachusetts cùng nhau sinh ra các thuộc địa Thanh giáo khác ở Tân Anh, bao gồm các thuộc địa New Haven, Saybrook và Connecticut. Trong thế kỷ 17, các thuộc địa New Haven và Saybrook đã được Connecticut sáp nhập. Những người Thanh giáo đã tạo ra một nền văn hóa tôn giáo sâu sắc, chặt chẽ về mặt xã hội và đổi mới chính trị vẫn còn ảnh hưởng đến Hoa Kỳ hiện đại. Họ hy vọng rằng vùng đất mới này sẽ phục vụ như một "quốc gia của Chúa". Họ trốn khỏi Anh và cố gắng tạo ra một "quốc gia của các vị thánh" hay một "Thành phố trên đồi" ở Mỹ: một cộng đồng cực kỳ sùng đạo, hoàn toàn đúng đắn được thiết kế để trở thành một hình mẫu cho cả châu Âu.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Về mặt kinh tế, Tân Anh đã hoàn thành kỳ vọng của những người sáng lập. Nền kinh tế Thanh giáo dựa trên những nỗ lực tự cung tự cấp và chỉ giao dịch những hàng hóa mà họ không thể tự sản xuất, không giống như các đồn điền định hướng cây trồng của vùng Chesapeake. Nhìn chung, có một vị thế kinh tế và mức sống ở Tân Anh cao hơn so với Chesapeake. Tân Anh trở thành một trung tâm đóng tàu và buôn bán quan trọng, cùng với nông nghiệp, đánh cá và khai thác gỗ, đóng vai trò là trung tâm giao dịch giữa các thuộc địa miền nam và châu Âu. Các khu vực Tân Anh khác. Đồn điền Providence được thành lập năm 1636 bởi Roger Williams trên vùng đất được cung cấp bởi tù trưởng Canonicus người Narragansett. Williams là một người Thanh giáo đã rao giảng về sự khoan dung tôn giáo, tách biệt giữa Giáo hội và Nhà nước, và hoàn toàn từ bỏ Giáo hội Anh. Ông bị trục xuất khỏi Thuộc địa Vịnh Massachusetts vì những bất đồng về thần học, và ông và những người định cư khác đã thành lập đồn điền Providence dựa trên hiến pháp bình đẳng quy định đa số "về dân sự" và "tự do lương tâm" trong các vấn đề tôn giáo. Năm 1637, một nhóm thứ hai bao gồm Anne Hutchinson đã thành lập một khu định cư thứ hai trên đảo Aquidneck, còn được gọi là Đảo Rhode. Các thuộc địa khác định cư ở phía bắc, hòa nhập với các nhà thám hiểm và người định cư có lợi nhuận để thành lập các thuộc địa đa dạng tôn giáo hơn ở New Hampshire và Maine. Những khu định cư nhỏ này đã được Massachusetts sáp nhập khi họ đưa ra những yêu sách đất đai đáng kể vào những năm 1640 và 1650, nhưng New Hampshire cuối cùng đã được ban cho một điều lệ riêng vào năm 1679. Maine vẫn là một phần của Massachusetts cho đến khi trở thành một bang vào năm 1820. Thuộc quốc Tân Anh. Dưới thời vua James II của Anh, các thuộc địa Tân Anh, New York và Jersey được thống nhất trong một thời gian ngắn với tư cách là Thuộc quốc New England (1686-89). Chính quyền cuối cùng đã được lãnh đạo bởi Thống đốc Sir Edmund Andros và tịch thu các điều lệ thuộc địa, thu hồi các quyền sở hữu đất đai và cai trị mà không có hội đồng địa phương, gây ra sự giận dữ trong dân chúng.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Cuộc nổi dậy ở Boston năm 1689 được lấy cảm hứng từ cuộc Cách mạng Vinh quang của Anh chống lại James II và dẫn đến việc bắt giữ Andros, Anh giáo Boston và các quan chức thống trị cao cấp của dân quân Massachusetts. Andros bị bỏ tù trong vài tháng, sau đó trở về Anh. Sự thống trị của New England đã bị giải thể và các chính phủ được nối lại dưới các điều lệ trước đó của họ. Tuy nhiên, điều lệ Massachusetts đã bị thu hồi vào năm 1684 và một điều lệ mới được ban hành năm 1691 kết hợp Massachusetts và Plymouth vào Tỉnh vùng Massachusetts. Vua William III đã tìm cách hợp nhất các thuộc địa của Tân Anh về mặt quân sự bằng cách bổ nhiệm Bá tước Bellomont làm một trong ba vị thống đốc và chỉ huy quân sự đồng thời ở Connecticut và Rhode Island. Tuy nhiên, những nỗ lực này đã thất bại. Các thuộc địa miền trung. Các thuộc địa miền trung gồm có các khu vực nay là các tiểu bang New York, Pennsylvania, ba quận của Delaware, và Maryland, được đặc trưng bởi một mức độ đa dạng lớn về tôn giáo, chính trị, kinh tế và dân tộc. Nhiều dân nhập cư Hà Lan và Ireland định cư tại các khu vực này (cùng với Long Island và Connecticut); nhóm người Hà Lan tại Pennsylvania nổi bật là một nhóm dân tộc đặc biệt. Thuộc địa Tân Hà Lan của nguoi Hà lan được người Anh tiếp quản và đổi tên thành New York. Tuy nhiên, một số lượng lớn người Hà Lan vẫn ở lại đây, thống trị các khu vực nông thôn giữa thành phố New York và Albany. Trong khi đó, người Yankee từ Tân Anh bắt đầu chuyển đến, cũng như những người nhập cư từ Đức. Thành phố New York đã thu hút một cộng đồng dân đa thê lớn và một lượng lớn nô lệ da đen. New Jersey ban đầu là một bộ phận của New York và được chia thành các thuộc địa độc quyền Đông và Tây Jersey trong một thời gian. [57] Pennsylvania được thành lập năm 1681 với tư cách là thuộc địa độc quyền của một tín đồ phái Quaker, William Penn. Các thành phần dân số chính bao gồm các tín đồ phái Quaker có cơ sở tại Philadelphia, người Ailen từ Scotland ở biên giới phía Tây và nhiều thuộc địa của Đức ở giữa. Philadelphia trở thành thành phố lớn nhất ở các thuộc địa với vị trí trung tâm, cảng tuyệt vời và dân số khoảng 30.000 người. Vào giữa thế kỷ 18, Pennsylvania về cơ bản là thuộc địa của tầng lớp trung lưu với sự tôn trọng hạn chế đối với giới thượng lưu nhỏ.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Một nhà báo của "Tạp chí Pennsylvania" đã tóm tắt vào năm 1756 như sau: Các thuộc địa miền nam. Văn hóa chiếm ưu thế của miền Nam bắt nguồn từ sự định cư của khu vực bởi thực dân Anh. Vào thế kỷ XVII, hầu hết những người thực dân tự nguyện là người gốc Anh, những người định cư chủ yếu dọc theo các vùng ven biển của vùng biển phía Đông. Phần lớn những người định cư đầu tiên ở Anh là những người hầu bị cầm cố, họ đã có được tự do sau khi làm việc đủ để trả hết tiền. Những người đàn ông giàu có trả tiền theo cách của họ đã nhận được các khoản trợ cấp đất đai được gọi là quyền đứng đầu, để khuyến khích định cư. Các thuộc địa của Pháp và Tây Ban Nha được thành lập ở Florida, Louisiana và Texas. Người Tây Ban Nha thuộc địa Florida vào thế kỷ 16, cộng đồng của họ đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 17. Ở các thuộc địa của Anh và Pháp, hầu hết những người dân thuộc địa đều đến sau năm 1700. Họ dọn đất, xây nhà và nhà phụ và làm việc trên những đồn điền lớn chủ yếu phục vụ nông nghiệp xuất khẩu. Nhiều người đã tham gia trồng thuốc lá thâm dụng lao động, vụ mùa đầu tiên của Virginia. Với sự giảm số lượng người Anh sẵn sàng đến các thuộc địa trong thế kỷ thứ mười tám, các chủ đồn điền bắt đầu nhập khẩu nhiều nô lệ châu Phi hơn, những người trở thành lực lượng lao động chủ yếu trong các đồn điền. Thuốc lá làm bạc màu đất một cách nhanh chóng, đòi hỏi phải có các cánh đồng mới một cách thường xuyên. Những cánh đồng cũ được sử dụng làm đồng cỏ và cho các loại cây trồng như ngô và lúa mì, hoặc được phép trồng thành rừng. Lúa ở Nam Carolina đã trở thành một loại cây trồng chính khác. Một số nhà sử học cho rằng nô lệ từ vùng đồng bằng tây Phi, nơi lúa là cây trồng cơ bản, cung cấp các kỹ năng, kiến thức và công nghệ chính cho tưới tiêu và xây dựng các công trình đất để hỗ trợ canh tác lúa. Các phương pháp và công cụ ban đầu được sử dụng ở Nam Carolina phù hợp với những phương pháp ở Châu Phi. Thực dân Anh sẽ có ít hoặc không quen với quy trình trồng lúa phức tạp trên các cánh đồng bị ngập bởi các công trình thủy lợi.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Từ giữa đến cuối thế kỷ 18, một nhóm lớn người Scotland và người Ulster-Scotland (sau này được gọi là người Scotland-Ailen) đã di cư và định cư ở quốc gia phía sau Appalachia và vùng Piedmont. Họ là nhóm thực dân lớn nhất từ quần đảo Anh trước Cách mạng Mỹ. Trong một cuộc điều tra dân số năm 2000 của người Mỹ và tổ tiên tự báo cáo của họ, các khu vực nơi người dân báo cáo "tổ tiên của người Mỹ" là nơi mà theo lịch sử, nhiều người Scotland, Scotch-Ailen và người theo đạo Tin lành Biên giới Anh định cư ở Mỹ: nội địa cũng như một số của các khu vực ven biển phía Nam, và đặc biệt là khu vực Appalachia. Dân số có một số người Scotland và người Scotland gốc Ailen có thể lên tới 47 triệu người, vì hầu hết mọi người có nhiều di sản, một số trong đó họ có thể không biết. Những người thực dân đầu tiên, đặc biệt là người Scotland-Ailen ở đất nước hậu phương, tham gia vào chiến tranh, thương mại và trao đổi văn hóa. Những người sống ở vùng hẻo lánh có nhiều khả năng tham gia cùng với người da đỏ Muscogee (Creek), Cherokee, và Choctaws và các nhóm bản địa khác trong khu vực. Trường đại học lâu đời nhất ở miền Nam, Đại học William & Mary, được thành lập năm 1693 tại Virginia; nó đi tiên phong trong việc giảng dạy kinh tế chính trị và đã đào tạo các Tổng thống tương lai của Hoa Kỳ như Jefferson, Monroe và Tyler, tất cả đều đến từ Virginia. Thật vậy, toàn bộ khu vực thống trị chính trị trong kỷ nguyên Hệ thống Đảng đầu tiên: ví dụ, bốn trong số năm Tổng thống đầu tiên là Washington, Jefferson, Madison và Monroe - đến từ Virginia. Hai trường đại học công lập lâu đời nhất cũng ở miền Nam: Đại học Bắc Carolina (1795) và Đại học Georgia (1785). Miền Nam thuộc địa bao gồm các thuộc địa đồn điền của vùng Chesapeake (Virginia, Maryland, và, theo một số phân loại, có Delaware) và miền Nam thấp hơn (Carolina, cuối cùng tách ra thành Bắc và Nam Carolina và Georgia). Xã hội Chesapeake. Năm phần trăm của dân số da trắng Virginia và Maryland vào giữa thế kỷ 18 là những người trồng trọt đang ngày càng giàu cũng như có nhiều quyền lực chính trị và uy tín xã hội. Họ kiểm soát giáo hội Anh giáo địa phương, chọn các bộ trưởng và xử lý tài sản của giáo hội và giải ngân từ thiện địa phương. Họ đã tìm cách để được bầu làm nhà mua hàng hoặc được bổ nhiệm làm thẩm phán tòa hòa giải.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Khoảng 60 phần trăm người da trắng Virginia thuộc tầng lớp trung lưu rộng lớn sở hữu các trang trại đáng kể. Đến thế hệ thứ hai, tỷ lệ tử vong do sốt rét và các bệnh địa phương khác đã giảm rất nhiều đến mức có thể có cấu trúc gia đình ổn định. Một phần ba còn lại thuộc tầng lớp dưới cùng không có đất và sống trong nghèo đói. Nhiều người mới đến hoặc vừa mới thoát khỏi than phận đày tớ có giao kèo. Ở một số quận gần Washington DC ngày nay, 70 phần trăm đất đai thuộc sở hữu của một số ít gia đình và ba phần tư số người da trắng không có đất. Một số lượng lớn người Tin lành Ailen và Đức đã định cư ở các quận biên giới, thường di chuyển từ Pennsylvania. Thuốc lá không quan trọng ở đây; nông dân tập trung vào cây gai dầu, ngũ cốc, gia súc và ngựa. Các doanh nhân đã bắt đầu khai thác và nung chảy quặng sắt địa phương. Thể thao chiếm rất nhiều sự chú ý ở mọi cấp độ xã hội, bắt đầu từ tầng lớp trên cùng. Ở Anh, việc săn bắn bị hạn chế mạnh đối với các chủ đất và được thi hành bởi những người chơi trò chơi có vũ trang. Ở Mỹ, trò chơi còn hơn cả phong phú. Mọi người đều có thể và đã đi săn, kể cả người hầu và nô lệ. Đàn ông nghèo với kỹ năng súng trường tốt đã giành được lời khen ngợi; những quý ông giàu trượt mục tiêu thì nhận được những lời chế giễu. Vào năm 1691, thống đốc Sir Francis Nicholson đã tổ chức các cuộc thi cho "những người Viginia tốt hơn là những người chưa có vợ", và ông đã đưa ra các giải thưởng "cho các môn bắn, đấu vật, đấu gươm một lưỡi, và chạy bằng ngựa hoặc chạy bộ." Đua ngựa là sự kiện chính. Người nông dân điển hình không sở hữu một con ngựa ngay từ đầu, và cuộc đua chỉ dành cho các quý ông, nhưng nông dân bình thường là khán giả và là những con bạc. Những nô lệ được chọn thường trở thành những người huấn luyện ngựa lành nghề. Đua ngựa là đặc biệt quan trọng để đan kết các quý ông.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Cuộc đua là một sự kiện công cộng lớn được thiết kế để chứng minh cho thế giới thấy địa vị xã hội ưu việt của các quý ông thông qua chăn nuôi, đào tạo, khoe khoang và đánh bạc, và đặc biệt là việc tự mình chiến thắng cuộc đua. Nhà sử học Timothy Breen giải thích rằng đua ngựa và đánh bạc có tỷ lệ cược cao là điều cần thiết để duy trì vị thế của các quý ông. Khi họ công khai đặt cược một khoản tiền lớn vào con ngựa yêu thích của mình, nó đã nói với thế giới rằng tính cạnh tranh, chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa vật chất nơi các yếu tố cốt lõi của các giá trị của giới địa chủ, quý tộc. Nhà sử học Edmund Morgan (1975) lập luận rằng người Virginia trong thập niên 1650 và trong hai thế kỷ tiếp theo đã chuyển sang chế độ nô lệ và phân chia chủng tộc như một cách thay thế cho xung đột giai cấp. "Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc khiến người da trắng có thể phát triển sự tôn sùng đối với sự bình đẳng mà các nhà cộng hòa Anh đã tuyên bố là linh hồn của tự do." Đó là, đàn ông da trắng trở nên bình đẳng hơn nhiều về mặt chính trị nếu không có những nô lệ địa vị thấp. Đến năm 1700, dân số Virginia đạt 70.000 người và tiếp tục tăng nhanh do tỷ lệ sinh cao, tỷ lệ tử vong thấp, nhập khẩu nô lệ từ vùng Caribe và nhập cư từ Anh, Đức và Pennsylvania. Khí hậu ôn hòa; đất nông nghiệp rẻ và màu mỡ. Hai thuộc địa Carolina. Tỉnh Carolina là nơi định cư của người Anh đầu tiên ở phía nam Virginia. Đó là một liên doanh tư nhân, được tài trợ bởi một nhóm những người độc quyền quý tộc Anh, người đã giành được Hiến chương Hoàng gia cho Carolinas năm 1663, hy vọng rằng một thuộc địa mới ở miền nam sẽ có lợi nhuận như Jamestown. Carolina đã không được định cư cho đến năm 1670, và ngay cả lần thử đầu tiên đã thất bại vì không có động lực cho việc di cư đến khu vực đó. Tuy nhiên, cuối cùng, các quý tộc đã kết hợp số vốn còn lại của họ và tài trợ cho một sứ mệnh định cư đến khu vực do Sir John Colleton lãnh đạo. Đoàn thám hiểm đặt mảnh đất màu mỡ và có thể phòng thủ tại nơi đã trở thành Charleston ngày nay, ban đầu là Charles Town cho Charles II của Anh.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Những người định cư ban đầu ở Nam Carolina đã thiết lập một giao dịch sinh lợi trong thực phẩm cho các đồn điền nô lệ ở vùng biển Caribe. Những người định cư chủ yếu đến từ thuộc địa của Anh ở Barbados và mang theo nô lệ châu Phi theo họ. Barbados là một hòn đảo trồng mía giàu có, một trong những thuộc địa đầu tiên của Anh sử dụng số lượng lớn người châu Phi trong nông nghiệp theo kiểu đồn điền. Việc trồng lúa được giới thiệu trong những năm 1690 và trở thành cây trồng xuất khẩu quan trọng. Ban đầu, Nam Carolina bị chia rẽ về chính trị. Thành phần dân tộc của nó bao gồm những người định cư ban đầu (một nhóm những người định cư Anh giàu có, nô lệ đến từ đảo Barbados) và cộng đồng Huguenot, một cộng đồng Tin lành nói tiếng Pháp. Chiến tranh biên giới gần như liên tục trong thời kỳ Chiến tranh của Vua William và Chiến tranh của Nữ hoàng Anne đã thúc đẩy các nêm kinh tế và chính trị giữa các thương nhân và chủ đồn điền. Thảm họa của Chiến tranh Yamasee năm 1715 đã đe dọa khả năng tồn tại của thuộc địa và gây ra một thập kỷ hỗn loạn chính trị. Đến năm 1729, sự cai trị độc quyền đã sụp đổ và những nhà độc quyền đã bán cả hai thuộc địa lại cho vương quốc Anh. Bắc Carolina có tầng lớp thượng lưu nhỏ nhất. 10% người giàu nhất sở hữu khoảng 40% đất đai, so với 50 đến 60% ở vùng lân cận Virginia và Nam Carolina. Không có thành phố nào ở quy mô lớn và rất ít thị trấn, vì vậy hầu như không có một tầng lớp trung lưu thành thị nào cả. Bắc Carolina với phần lớn nông thôn bị chi phối bởi những người nông dân tự cung tự cấp với các hoạt động nhỏ. Ngoài ra, một phần tư số người da trắng hoàn toàn không có đất. Georgia. James Oglethorpe thường được xem là người thành lập Thuộc địa Georgia. Là một thành viên trong nghị viện Anh vào thế kỷ 18, ông ta đã đặt nền móng cho sự khai hoang tiểu bang này. Vào thời đó, sự căng thẳng giữa Tây Ban Nha và Anh khá cao, và nhiều người Anh sợ rằng Florida (dưới sự kiểm soát của Tây Ban Nha) đang đe dọa khu Carolina. Georgia là một khu vực tranh chấp then chốt vì nó nằm giữa hai thuộc địa này.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Lúc đó những người mắc nợ thường bị bắt bỏ tù, nhưng Oglethorpe quyết định đày họ đến một thuộc địa. Như thế, Anh có thể loại bỏ các thành phần không ưa mà đồng thời có căn cứ để tấn công vào Florida. Những người định cư đầu tiên đến vào năm 1733. Georgia được thành lập với những nguyên tắc đạo đức nghiêm khắc. Nô lệ, rượu chè và các hình thức vô đạo đức khác bị cấm. Tuy nhiên, trong sự thật thuộc địa này không phải là một nơi lý tưởng. Những người định cư bất mãn với lối sống đạo đức này, và than rằng thuộc địa của họ không đủ sức cạnh tranh kinh tế với các đồn điền lúa tại Carolina. Georgia ban đầu không thành công, nhưng cuối cùng các hạn chế đã được dỡ bỏ, chế độ nô lệ được cho phép, và nó trở nên thịnh vượng như Carolinas. Thuộc địa của Georgia không bao giờ có một tôn giáo được thành lập; nó bao gồm những người có đức tin khác nhau. Đông và Tây Florida. Tây Ban Nha nhượng lại Florida cho Vương quốc Anh vào năm 1763, nơi thành lập các thuộc địa Đông và Tây Florida. Florida vẫn trung thành với Vương quốc Anh trong Cách mạng Mỹ. Họ đã được trả lại cho Tây Ban Nha vào năm 1783 để đổi lấy quần đảo Bahamas, lúc đó phần lớn người Anh đã rời đi. Người Tây Ban Nha sau đó đã bỏ bê Florida; vài người Tây Ban Nha sống ở đó khi Mỹ mua khu vực này vào năm 1819. Sự thống nhất các thuộc địa Anh. Chiến tranh thuộc địa: phòng thủ chung. Những nỗ lực bắt đầu sớm nhất là vào những năm 1640 đối với sự bảo vệ chung của các thuộc địa, chủ yếu chống lại các mối đe dọa chung từ người da đỏ, Pháp và Hà Lan. Các thuộc địa Thanh giáo của Tân Anh đã thành lập một liên minh để phối hợp các vấn đề quân sự và tư pháp. Từ những năm 1670, một số thống đốc hoàng gia đã cố gắng tìm kiếm các phương tiện phối hợp các vấn đề quân sự phòng thủ và tấn công, đáng chú ý là Sir Edmund Andros (người cai trị New York, Tân Anh và Virginia vào nhiều thời điểm) và Francis Nicholson (cai trị Maryland, Virginia, Nova Scotia, và Carolina). Sau Chiến tranh Vua Phillips, Andros đã đàm phán thành công Chuỗi Giao ước, một loạt các hiệp ước với người da đỏ mang lại sự ổn đinh tương đối cho biên giới của các thuộc địa miền trung trong nhiều năm.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Các thuộc địa miền bắc đã trải qua nhiều cuộc tấn công của phe Wabanaki và người Pháp từ Acadia trong bốn cuộc Chiến tranh giữa Pháp và người da đỏ, đặc biệt là Maine và New Hampshire ngày nay, cũng như Chiến tranh của Cha Rale và Chiến tranh của Cha Le Loutre. Một sự kiện nhắc nhở thực dân về danh tính chung của họ là các đối tượng người Anh là Cuộc chiến kế vị Áo (1740-1748) ở châu Âu. Cuộc xung đột này đã tràn vào các thuộc địa, nơi nó được gọi là "Chiến tranh của Vua George". Các trận đánh lớn đã diễn ra ở châu Âu, nhưng quân đội thực dân Mỹ đã chiến đấu với Pháp và các đồng minh da đỏ của họ ở New York, New England và Nova Scotia với Cuộc bao vây Louisbourg (1745). Tại Hội nghị Albany năm 1754, Benjamin Franklin đề xuất rằng các thuộc địa được thống nhất bởi một Hội đồng lớn giám sát một chính sách chung cho quốc phòng, mở rộng và các vấn đề Ấn Độ. Kế hoạch bị cản trở bởi các cơ quan lập pháp thuộc địa và Vua George II, nhưng đó là một dấu hiệu sớm cho thấy các thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ đang hướng tới sự thống nhất. Chiến tranh với Pháp và người Da đỏ. Chiến tranh với Pháp và người Da đỏ (1754-1763) là phần xung đột tại châu Mỹ của một chiến tranh tại châu Âu tên là Chiến tranh Bảy năm. Các cuộc chiến tranh thuộc địa trước đây ở Bắc Mỹ đã bắt đầu ở châu Âu và sau đó lan sang các thuộc địa, nhưng Chiến tranh Pháp và người da đỏ đáng chú ý vì đã bắt đầu ở Bắc Mỹ và lan sang châu Âu. Một trong những nguyên nhân chính của cuộc chiến là sự cạnh tranh ngày càng tăng giữa Anh và Pháp, đặc biệt là ở vùng Hồ Lớn và thung lũng Ohio. Chiến tranh với Pháp và người Da đỏ mang một ý nghĩa mới đối với thực dân Bắc Mỹ của Anh khi William Pitt Lớn quyết định rằng các nguồn lực quân sự lớn cần phải được dành cho Bắc Mỹ để giành chiến thắng trong cuộc chiến chống Pháp. Lần đầu tiên, lục địa trở thành một trong những sân khấu chính của những gì có thể được gọi là "chiến tranh thế giới". Trong chiến tranh, vị trí của các thuộc địa Anh là một phần của Đế quốc Anh đã được thể hiện thực sự rõ ràng, khi các quan chức quân sự và dân sự Anh có sự hiện diện ngày càng tăng trong cuộc sống của người Mỹ.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Chiến tranh cũng làm tăng cảm giác đoàn kết của Mỹ theo những cách khác nhau. Nó khiến cho những người đàn ông đi xuyên lục địa, những người có thể chưa bao giờ rời khỏi thuộc địa của họ, chiến đấu bên cạnh những người đàn ông từ những hoàn cảnh khác nhau, dù sao vẫn là "người Mỹ". Trong suốt cuộc chiến, các sĩ quan Anh đã huấn luyện những người Mỹ tham chiến, nổi bật nhất là George Washington, người có ích cho sự nghiệp của Mỹ trong Cách mạng sau này. Ngoài ra, lần đầu tiên, các nhà lập pháp và quan chức thuộc địa phải hợp tác mạnh mẽ, để theo đuổi nỗ lực quân sự trên toàn lục địa. Trong Hiệp ước Paris (1763), Pháp chính thức nhượng lại cho Anh phần phía đông của đế chế Bắc Mỹ rộng lớn, đã bí mật trao cho Tây Ban Nha lãnh thổ Louisiana phía tây sông Mississippi vào năm trước. Trước chiến tranh, Anh đã nắm giữ mười ba thuộc địa của Mỹ, phần lớn Nova Scotia ngày nay và phần lớn lưu vực vịnh Hudson. Sau chiến tranh, Anh đã giành được toàn bộ lãnh thổ của Pháp ở phía đông sông Mississippi, bao gồm Quebec, Great Lakes và thung lũng sông Ohio. Anh cũng giành được Florida Tây Ban Nha, từ đó hình thành các thuộc địa Đông và Tây Florida. Trong việc loại bỏ một mối đe dọa lớn của nước ngoài đối với mười ba thuộc địa, cuộc chiến cũng phần lớn loại bỏ nhu cầu bảo vệ thuộc địa của thực dân. Người Anh và những người thực dân đã cùng chiến thắng một kẻ thù chung. Lòng trung thành của thực dân đối với đất nước mẹ đã mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, sự mất đoàn kết đã bắt đầu hình thành. Thủ tướng Anh William Pitt Lớn đã quyết định tiến hành chiến tranh ở các thuộc địa với việc sử dụng quân đội từ các thuộc địa và quỹ thuế từ chính nước Anh. Đây là một chiến lược thời chiến thành công, nhưng sau khi chiến tranh kết thúc, bên nào cũng đều tin rằng mình đã gánh một gánh nặng lớn hơn bên kia. Giới tinh hoa Anh, người bị đánh thuế nặng nề nhất ở châu Âu, đã chỉ ra một cách giận dữ rằng thực dân đã trả rất ít cho các kho bạc hoàng gia.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Những người thực dân trả lời rằng con trai của họ đã chiến đấu và chết trong một cuộc chiến phục vụ lợi ích của châu Âu hơn là của chính họ. Tranh chấp này là một liên kết trong chuỗi các sự kiện sớm châm ngòi cho cuộc Cách mạng Hoa Kỳ. Mối quan hệ với Đế quốc Anh. Các thuộc địa rất khác nhau nhưng họ vẫn là một phần của Đế quốc Anh không chỉ là cái tên. Về mặt nhân khẩu học, phần lớn những người dân thuộc địa có nguồn gốc từ Quần đảo Anh và nhiều người trong số họ vẫn có quan hệ gia đình với Vương quốc Anh. Về mặt xã hội, giới tinh hoa thuộc địa Boston, New York, Charleston và Philadelphia đã tự xem họ là người Anh. Nhiều người chưa bao giờ sống ở Anh trong một vài thế hệ, nhưng họ bắt chước phong cách ăn mặc, khiêu vũ và nghi thức của Anh. Giới thượng lưu xã hội này đã xây dựng các lâu đài của mình theo phong cách Georgia, sao chép các thiết kế đồ nội thất của Thomas Chippendale và tham gia vào các trào lưu trí tuệ của châu Âu, như Khai sáng. Các thành phố cảng của thuộc địa Mỹ thực sự là thành phố của Anh trong mắt nhiều người dân. Chủ nghĩa cộng hòa. Nhiều cấu trúc chính trị trong các thuộc địa đã bắt nguồn từ chủ nghĩa cộng hòa được thể hiện bởi các nhà lãnh đạo phe đối lập ở Anh, đáng chú ý nhất là những đảng viên đảng Khối thịnh vượng chung và đảng Whig. Nhiều người Mỹ thời đó đã nhìn thấy các hệ thống quản trị của các thuộc địa được mô phỏng theo hiến pháp Anh thời đó, với nhà vua tương ứng với thống đốc, Hạ viện tương ứng với hội đồng thuộc địa và Thượng viện tương ứng với hội đồng thống đốc. Các bộ luật của các thuộc địa thường được rút ra trực tiếp từ luật của Anh; thật vậy, thông luật của Anh tồn tại không chỉ ở Canada, mà còn trên khắp Hoa Kỳ. Cuối cùng, đó là một cuộc tranh cãi về ý nghĩa của một số lý tưởng chính trị (đặc biệt là đại diện chính trị) và chủ nghĩa cộng hòa đã dẫn đến Cách mạng Hoa Kỳ. Tiêu thụ hàng hóa của Anh. Một điểm giống hơn khác giữa các thuộc địa là việc nhập khẩu đồ dùng Anh.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Vào cuối thế kỷ 17 nền kinh tế Anh đã phát triển nhanh, và đến giữa thế kỷ 18 các xí nghiệp nhỏ tại Anh đã xản xuất nhiều hơn đảo này có thể tiêu thụ được. Khi họ tìm được một thị trường cho những thứ này tại các thuộc địa Bắc Mỹ, Anh đã tăng xuất khẩu đến vùng này trên 360% giữa những năm 1740 và 1770. Từ Tân Anh ("New England") đến Georgia, những người dưới quyền Anh mua vật dụng giống nhau, tạo ra một sự đồng nhất. Một điểm khác mà các thuộc địa thấy mình giống nhau hơn là khác nhau là việc nhập khẩu hàng hóa của Anh đang bùng nổ. Nền kinh tế Anh đã bắt đầu phát triển nhanh chóng vào cuối thế kỷ 17 và đến giữa thế kỷ 18, các nhà máy nhỏ ở Anh đã sản xuất nhiều hơn mức mà quốc gia có thể tiêu thụ. Anh tìm thấy một thị trường cho hàng hóa của họ ở các thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ, tăng xuất khẩu sang khu vực đó thêm 360% trong khoảng thời gian từ 1740 đến 1770. Các thương nhân người Anh cung cấp tín dụng cho khách hàng của họ; điều này cho phép người Mỹ mua một lượng lớn hàng hóa Anh. Từ Nova Scotia đến Georgia, tất cả các đối tượng người Anh đã mua các sản phẩm tương tự, tạo ra và làm mờ một loại bản sắc chung. Thế giới Đại Tây Dương. Trong những năm gần đây, các nhà sử học đã mở rộng quan điểm của họ để bao quát toàn bộ thế giới Đại Tây Dương trong một trường con hiện được gọi là lịch sử Đại Tây Dương. Quan tâm đặc biệt là các chủ đề như di cư quốc tế, thương mại, thuộc địa, các thể chế quân sự và chính phủ so sánh, truyền tải các tôn giáo và công việc truyền giáo, và buôn bán nô lệ. Đó là Thời đại Khai sáng, và những ý tưởng tuôn trào qua Đại Tây Dương, với Benjamin Franklin đến từ Philadelphia đóng vai trò chính. Francois Furstenberg (2008) đưa ra một quan điểm khác về giai đoạn lịch sử. Ông cho rằng chiến tranh là rất quan trọng giữa những đế quốc lớn: Anh, thuộc địa của Mỹ, Tây Ban Nha, Pháp và các Quốc gia đầu tiên (người Da Đỏ). Họ đã chiến đấu với một loạt các cuộc xung đột từ năm 1754 đến 1815 mà Furstenberg gọi là "Chiến tranh lâu dài của phương Tây" về quyền kiểm soát khu vực.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Phụ nữ đóng một vai trò trong sự xuất hiện của nền kinh tế tư bản trong thế giới Đại Tây Dương. Các loại hình trao đổi thương mại địa phương mà họ tham gia độc lập được tích hợp tốt với mạng lưới thương mại giữa các thương nhân thuộc địa trên khắp khu vực Đại Tây Dương, đặc biệt là các thị trường sữa và sản xuất hàng hóa. Ví dụ, thương nhân phụ nữ địa phương là nhà cung cấp thực phẩm quan trọng cho các mối quan tâm vận chuyển xuyên Đại Tây Dương. Từ đoàn kết đến cách mạng. Trong thời kỳ thuộc địa, người Mỹ khăng khăng đòi quyền của mình là người Anh phải có cơ quan lập pháp riêng tăng tất cả các loại thuế. Tuy nhiên, Quốc hội Anh đã khẳng định vào năm 1765 rằng họ nắm quyền tối cao để đặt thuế, và một loạt các cuộc biểu tình của Mỹ bắt đầu dẫn trực tiếp đến Cách mạng Mỹ. Làn sóng biểu tình đầu tiên tấn công Đạo luật tem năm 1765 và đánh dấu lần đầu tiên người Mỹ gặp nhau từ 13 thuộc địa và lên kế hoạch cho một mặt trận chung chống lại thuế của Anh. Tiệc trà Boston năm 1773 đã đổ trà Anh xuống Cảng Boston vì nó chứa một loại thuế ẩn mà người Mỹ từ chối trả. Người Anh đã phản ứng bằng cách cố gắng đè bẹp các quyền tự do truyền thống ở Massachusetts, dẫn đến cuộc cách mạng Mỹ bắt đầu từ năm 1775. Ý tưởng về sự độc lập dần dần trở nên phổ biến, sau khi lần đầu tiên được đề xuất và ủng hộ bởi một số nhân vật và nhà bình luận công khai trên khắp các thuộc địa. Một trong những tiếng nói nổi bật nhất thay mặt cho độc lập là Thomas Paine trong cuốn sách nhỏ Lẽ Thông Thường xuất bản năm 1776. Một nhóm khác kêu gọi độc lập là "Những đứa con của tự do", được thành lập năm 1765 tại Boston bởi Samuel Adams và hiện nay thậm chí đông hơn và ồn ào hơn. Nghị viện lập ra một loạt các loại thuế và hình phạt để đối phó ngày càng nhiều sự chống đối: Đạo luật đóng quân (1765); Đạo luật tuyên bố (1766); Đạo luật doanh thu Townshend (1767); và Đạo luật trà (1773).
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Để xử lý vụ Tiệc trà Boston, Quốc hội đã thông qua các Đạo luật không khoan nhượng: Đạo luật đóng quân thứ hai (1774); Đạo luật Quebec (1774); Đạo luật Chính phủ Massachusetts (1774); Đạo luật hành chính tư pháp (1774); Đạo luật Cảng Boston (1774); Đạo luật ngăn cấm (1775). Đến thời điểm này, 13 thuộc địa đã tự tổ chức Quốc hội Lục địa và bắt đầu thành lập các chính phủ độc lập và gây dựng dân quân để chuẩn bị cho chiến tranh. Đời sống thuộc địa. Chính quyền thực dân Anh. Tại các thuộc địa của Anh, ba hình thức chính phủ là tỉnh (thuộc địa hoàng gia), độc quyền và điều lệ. Các chính phủ này đều phụ thuộc vào Quốc vương Anh, không có mối quan hệ rõ ràng với Quốc hội Anh. Bắt đầu từ cuối thế kỷ 17, chính quyền của tất cả các thuộc địa của Anh được Ủy ban Thương mại ở London giám sát. Mỗi thuộc địa có một đại diện thuộc địa được trả lương ở London để đại diện cho lợi ích của mình. New Hampshire, New York, Virginia, North Carolina, South Carolina, Georgia và Massachusetts là các thuộc địa vương miện. Thuộc địa tỉnh được cai trị bởi một hoi đồng được sự chấp thuận của nhà vua. Một thống đốc và (ở một số tỉnh) hội đồng của ông đã được bổ nhiệm bởi vương miện. Thống đốc đã được đầu tư với quyền hạn hành pháp chung và được ủy quyền để triệu tập một hội đồng được bầu tại địa phương. Hội đồng thống đốc sẽ ngồi như một thượng viện khi hội nghị đang họp, ngoài vai trò là cố vấn cho thống đốc. Các hội đồng được tạo thành từ các đại diện được bầu bởi các chủ sở hữu tự do và chủ đồn điền (chủ đất) của tỉnh. Thống đốc có quyền phủ quyết tuyệt đối và có thể tạm ngừng (tức là trì hoãn) và giải tán hội đồng. Vai trò của hội nghị là tạo ra tất cả các luật và pháp lệnh địa phương, đảm bảo rằng chúng không mâu thuẫn với luật pháp của Anh. Trong thực tế, điều này không phải lúc nào cũng xảy ra, vì nhiều hội đồng của tỉnh đã tìm cách mở rộng quyền lực của họ và hạn chế quyền lực của thống đốc và hoàng gia. Luật pháp có thể được kiểm tra bởi Hội đồng Cơ mật hoặc Hội đồng Thương mại Anh, nơi cũng nắm quyền phủ quyết của pháp luật.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Pennsylvania (bao gồm Delaware), New Jersey và Maryland là thuộc địa độc quyền. Họ được cai trị nhiều như các thuộc địa của hoàng gia ngoại trừ các chủ sở hữu là quý tộc, chứ không phải là nhà vua, đã bổ nhiệm thống đốc. Chúng được thành lập sau khi sự Phục hồi năm 1660 và thường được hưởng tự do tôn giáo và dân sự lớn hơn. Massachusetts, Đồn điền Providence, Rhode Island, Warwick và Connecticut là những thuộc địa đặc quyền (được cấp theo điều lệ). Điều lệ Massachusetts đã bị thu hồi năm 1684 và được thay thế bằng một điều lệ tỉnh được ban hành năm 1691. Chính phủ đặc quyền là các tổ chức chính trị được tạo ra bằng giấy chứng nhận đặc quyền, trao cho người được cấp quyền kiểm soát đất đai và quyền lực của chính phủ lập pháp. Các điều lệ đã cung cấp một hiến pháp cơ bản và phân chia quyền lực giữa các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp, với những quyền lực đó được trao cho các quan chức. Văn hoá chính trị. Các nền văn hóa chính trị chính của Hoa Kỳ có nguồn gốc từ thời thuộc địa. Hầu hết các lý thuyết về văn hóa chính trị xác định New England, Trung Đại Tây Dương và miền Nam đã hình thành các nền văn hóa chính trị riêng biệt và khác biệt. Như Bonomi (1971) chỉ ra, điểm đặc biệt nhất của xã hội thuộc địa là văn hóa chính trị sôi động, thu hút những thanh niên tài năng và đầy tham vọng nhất vào chính trị. First, suffrage was the most generous in the world, with every man allowed to vote who owned a certain amount of property. Phần lớn dân số bao gồm những người hầu trẻ tuổi, độc thân, da trắng và do đó, các thuộc địa thiếu sự gắn kết xã hội ở một mức độ lớn. Phụ nữ châu Phi vào thuộc địa sớm nhất là vào năm 1619, mặc dù địa vị của họ vẫn là một cuộc tranh luận lịch sử, người hầu tự do, nô lệ hoặc người được bảo lãnh. Vào thế kỷ 17, tỷ lệ tử vong cao đối với người mới đến và tỷ lệ nam giới so với phụ nữ rất cao khiến cuộc sống gia đình trở nên bất khả thi hoặc không ổn định đối với hầu hết các thuộc địa.
Lịch sử Hoa Kỳ (1493–1776)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3216
Những yếu tố này làm cho các gia đình và cộng đồng về cơ bản khác với các đối tác của họ ở Châu Âu và New England ở vùng Virginia-Maryland trước năm 1700, cùng với các khu định cư phân tán và miễn cưỡng sống trong các ngôi làng, cùng với sự di cư ngày càng tăng của những người hầu trắng và nô lệ da đen. Những điều kiện khắc nghiệt vừa hạ thấp và trao quyền cho phụ nữ. Phụ nữ thường dễ bị lợi dụng và lạm dụng, đặc biệt là những cô gái tuổi teen là những người hầu theo giao kèo và thiếu những người bảo vệ nam. Mặt khác, phụ nữ trẻ có nhiều tự do hơn trong việc lựa chọn vợ hoặc chồng, không có sự giám sát của cha mẹ và việc thiếu phụ nữ đủ điều kiện cho phép họ sử dụng hôn nhân như một con đường để tiến thân. Tỷ lệ tử vong cao có nghĩa là những người vợ ở Chesapeake thường trở thành góa phụ thừa kế tài sản; nhiều góa phụ tăng tài sản của họ bằng cách tái hôn càng sớm càng tốt. Dân số bắt đầu ổn định vào khoảng năm 1700, với tổng điều tra dân số 1704 liệt kê 30.437 người da trắng có 7.163 người là phụ nữ. Phụ nữ kết hôn trẻ hơn, vẫn sống lâu hơn, sinh nhiều con hơn và mất ảnh hưởng trong chính thể gia đình.
Thuần Chấn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3217
Quẻ Thuần Chấn, đồ hình |::|:: còn gọi là quẻ Chấn (震 zhen4), là quẻ thứ 51 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Động dã. Động dụng. Rung động, sợ hãi do chấn động, phấn phát, nổ vang, phấn khởi, chấn kinh. Trùng trùng chấn kinh chi tượng: khắp cùng dấy động.
Thuần Cấn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3219
Quẻ Thuần Cấn, đồ hình::|::| còn gọi là quẻ Cấn (艮 gen4), là quẻ thứ 52 của Kinh Dịch. Giải nghĩa: Chỉ dã. Ngưng nghỉ. Ngăn giữ, ở, thôi, dừng lại, đậy lại, gói ghém, ngăn cấm, vừa đúng chỗ. Thủ cựu đợi thời chi tượng: giữ mức cũ đợi thời.
Phong Sơn Tiệm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3220
Quẻ Phong Sơn Tiệm, đồ hình::|:|| còn gọi là quẻ Tiệm (漸 jian4), là quẻ thứ 53 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Tiến dã. Tuần tự. Từ từ, thong thả đến, lần lần, bò tới, chậm chạp, nhai nhỏ nuốt vào. Phúc lộc đồng lâm chi tượng: phúc lộc cùng đến.
Lôi Trạch Quy Muội
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3221
Quẻ Lôi Trạch Quy Muội, đồ hình ||:|:: còn gọi là quẻ Quy Muội (歸妹 gui1 mei4), là quẻ thứ 54 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Tai dã. Xôn xao. Tai nạn, rối ren, lôi thôi, nữ chi chung, gái lấy chồng. Ác quỷ vi sủng chi tượng: tượng ma quái làm rối.
Lôi Hỏa Phong
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3222
Quẻ Lôi Hỏa Phong, đồ hình |:||:: còn gọi là quẻ Phong (豐 feng1), là quẻ thứ 55 trong Kinh Dịch. Nhật thực miêu tả trong quẻ này diễn ra vào ngày 20 tháng 7 năm 1070 trước công nguyên. Giải nghĩa: Thịnh dã. Hòa mỹ. Thịnh đại, được mùa, nhiều người góp sức. Chí đồng đạo hợp chi tượng: tượng cùng đồng tâm hiệp lực. Hình ảnh: Bắn pháo hoa, nét đẹp mỹ thuật hoàn hảo. Con người: Huynh đệ đồng đạo cùng môn phái.
Hỏa Sơn Lữ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3223
Quẻ Hỏa Sơn Lữ, đồ hình::||:| còn gọi là quẻ Lữ (旅 lu3), là quẻ thứ 56 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Khách dã. Thứ yếu. Đỗ nhờ, khách, ở đậu, tạm trú, kê vào, gá vào, ký ngụ bên ngoài, tính cách lang thang, ít người thân, không chính. Ỷ nhân tác giá chi tượng: nhờ người mai mối.
Thuần Tốn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3224
Quẻ Thuần Tốn, đồ hình:||:|| còn gọi là quẻ Tốn (巽 xun4), là quẻ thứ 57 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Thuận dã. Thuận nhập. Theo lên theo xuống, theo tới theo lui, có sự giấu diếm ở trong. Âm dương thăng giáng chi tượng: khí âm dương lên xuống giao hợp.
Thuần Đoài
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3225
Quẻ Thuần Đoài, đồ hình ||:||: còn gọi là quẻ Đoài (兌 dui4), là quẻ thứ 58 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Duyệt dã. Hiện đẹp. Đẹp đẽ, ưa thích, vui hiện trên mặt, không buồn chán, cười nói, khuyết mẻ. Hỉ dật mi tu chi tượng: tượng vui hiện trên mặt, khẩu khí.
Phong Thủy Hoán
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3226
Quẻ Phong Thủy Hoán, đồ hình:|::|| còn gọi là quẻ Hoán (渙 huan4), là quẻ thứ 59 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Tán dã. Ly tán. Lan ra tràn lan, tán thất, trốn đi xa, lánh xa, thất nhân tâm, hao bớt. Thủy ngộ phong tắc hoán tán chi tượng: tượng nước gặp gió thì phải tan, phải chạy.
Thủy Trạch Tiết
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3227
Quẻ Thủy Trạch Tiết, đồ hình ||::|: còn gọi là quẻ Tiết (節 jie2), là quẻ thứ 60 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Chỉ dã. Giảm chế. Ngăn ngừa, tiết độ, kiềm chế, giảm bớt, chừng mực, nhiều thì tràn. Trạch thượng hữu thủy chi tượng: trên đầm có nước.
Lôi Sơn Tiểu Quá
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3231
Quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá, đồ hình::||:: còn gọi là quẻ Tiểu Quá (小過 xiao3 guo4), là quẻ thứ 62 của Kinh Dịch. Giải nghĩa: Quá dã. Bất túc. Thiểu lý, thiểu não, hèn mọn, nhỏ nhặt, bẩn thỉu, thiếu cường lực. Thượng hạ truân chuyên chi tượng: trên dưới gian nan, vất vả, buồn thảm.
Thủy Hỏa Ký Tế
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3232
Thủy Hỏa Ký Tế (đồ hình |:|:|:) còn gọi là Ký Tế (既濟 jĩ jĩ), là quẻ thứ 63 của Kinh Dịch. Văn Vương viết thoán từ: Ký Tế: Hanh tiểu, lợi trinh. Sơ cát, chung loạn (既濟: 亨小, 利貞. 初吉, 終亂). Chu Công viết hào từ: Sơ cửu: Duê kỳ luân, nhu kỳ vĩ, vô cữu.<br> Lục nhị: Phụ táng kỳ phất, vật trục, thất nhật đắc.<br> Cửu tam: Cao Tôn phạt Quỷ Phương tam niên, khắc chi. Tiểu nhân vật dụng.<br> Lục tứ: Chu hữu y như, chung nhật giới.<br> Cửu ngũ: Đông lân sát ngưu, bất như tây lân chi thược tế, thực thụ kỳ phúc.<br> Thượng lục: Nhu kỳ thủ, lệ. Giải nghĩa: Hợp dã. Hiện hợp. Gặp nhau, cùng nhau, đã xong, việc xong, hiện thực, ích lợi nhỏ. Hanh tiểu giả chi tượng: việc nhỏ thì thành.
Hỏa Thủy Vị Tế
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3234
Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế (đồ hình:|:|:|)còn gọi là quẻ Vị Tế (未濟 wẽi jĩ), là quẻ thứ 64 trong Kinh Dịch. Văn Vương viết thoán từ: Vị Tế: Hanh. Tiểu hồ ngật tế, nhu kỳ vĩ, vô du lợi (未濟: 亨. 小狐汔濟, 濡其尾, 无攸利). Chu Công viết hào từ:<br> Sơ lục: Nhu kỳ vĩ, lận.<br> Cửu nhị: Duệ kỳ luân, trinh cát.<br> Lục tam: Vị Tế: chinh hung, lợi thiệp đại xuyên.<br> Cửu tứ: Trinh cát, hối vong. Chấn dụng phạt Quỷ Phương, tam niên. Hữu thưởng vu đại quốc.<br> Lục ngũ: Trinh, cát, vô hối. Quân tử chi quang hữu phu, cát.<br> Thượng cửu: Hữu phu vu ẩm tửu, vô cữu. Nhu kỳ thủ, hữu phu, thất thị. Giải nghĩa: Thất dã. Thất cách. Thất bát, mất, thất bại, dở dang, chưa xong, nửa chừng. Ưu trung vọng hỷ chi tượng: tượng trong cái lo có cái mừng. Bình luận: Kinh Dịch kết thúc bằng quẻ Vị Tế (chưa xong việc) mà trước đó lại là quẻ Ký Tế (đã xong việc). Ý nghĩa của nó là mọi sự việc tưởng chừng như đã kết thúc nhưng thực ra thì không bao giờ kết thúc. Suy rộng ra thì vạn vật trong vũ trụ cũng vậy. Sự chuyển động, thay đổi nói chung là không có đầu mà cũng chẳng có cuối.