title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Lê Chí Quang
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3236
Lê Chí Quang (sinh ngày 30 tháng 6 năm 1970) là một nhân vật bất đồng chính kiến người Việt Nam. Tiểu sử. Lê Chí Quang  sinh ngày 30/6/1970 tại huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay là Thành phố Hà Nội) trong một gia đình tri thức, có bố mẹ đều là công chức. Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học ông đi lạo động tại Tiệp Khắc, tuy nhiên được 2 năm thì ông về nước vì lý do sức khỏe yếu liên quan đến thận. Sau đó thi đỗ đỗ Đại học Luật hệ tại chức, tốt nghiệp năm 1998. Ông là người biết và sử dụng được nhiều ngoại ngữ, trong đó phải kể đến tiếng Anh, Nga và tiếng Séc. Tuy nhiên sau khi tốt nghiệp ông không xin được việc, ông đã của hàng kinh doanh và dạy vi tính nhưng không duy trì được vì căn bệnh thận ngày càng có những dấu hiệu xấu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe. Hoạt động. Ngay trong thời gian lao động ở Tiệp Khắc, ông  đã tham gia phong trào đòi dân chủ, nhân quyền của những người chống Việt ở Tiệp Khắc; đã viết một số bài đăng trên báo “Diễn đàn tự do”. Bên cạnh đó ông cũng kết nối với nhiều nhân vật bất đồng chính kiến khác ở Việt Nam và ở nước ngoài viết nhiều bài có nội dung phê phán Đảng, Nhà nước Việt Nam về vấn đề đảm bảo tự do, dân chủ cho nhân dân, tuyên truyền những quan điểm với mục đích đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp của Việt Nam. Ngoài những bài viết trên, ông còn nổi tiếng với những phát ngôn và hành động cổ vũ mãnh liệt cho phong trào dân chủ trong nước; là một trong những cá nhân phê phán mãnh liệt Hiệp định biên giới giữa Việt Nam và nhà nước Trung Hoa. Lê Chí Quang cũng là người tham gia vận động thành lập “Hội nhân dân giúp Đảng và Nhà nước chống tham nhũng”, đồng thời lên án việc chính quyền bắt bớ những người dự định sáng lập ra “Hội nhân dân giúp Đảng và Nhà nước chống tham nhũng”.
Lê Chí Quang
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3236
Lê Chí Quang cũng là người đã kêu gọi nhiều nhà bất đồng chính kiên khác ký bản kiến nghị Quốc hội Việt Nam đòi bỏ một số nghị định của chính phủ; bày tỏ quan điểm ủng hộ, bảo vệ những phát ngôn của nhiều nhà bất đồng chính kiến khác. Ông cũng là người đứng đầu kêu gọi cho phong trào thành lập đảng đối lập với đảng cộng sản Việt Nam. Cao trào nhất phải kể đến 10/2011 Lê Chí Quang đã đưa lên mạng internet bài viết mang tên “Hãy cảnh giác với Bắc Triều”. Trong bài viết chỉ trích các hiệp định về biên giới và lãnh hải mà chính quyền Việt Nam ký kết với Trung Quốc. Với hành động này ông bị kết án “tung tin gây rối loạn trật trự an ninh quốc gia” Ngày 21/02/2002, công an Việt Nam đã bắt ông tại một quán café internet, khi ông đang liên lạc mail với một người cũng được coi là một nhà bất đồng chính kến. Nhà của ông bị khám xét, cơ quan công an đã thu nhiều tài liệu. Theo báo chí Việt Nam thì những tài liệu đó có nội dung không đúng sự thật, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Ngày 08/11/2002, sau một phiên xử kín kéo dài 3 giờ đồng hồ doTòa án thủ đô của Việt Nam  xét xử, ông bị kết tội 4 năm tù giam và 3 năm quản thúc vì tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” Tháng 7 năm 2002, tổ chức Human Rights Watch tôn vinh ông với giải thưởng Hellman/Hammett, dành cho những nhà văn can đảm đối chọi với sự khủng bố chính trị. Tháng 5 năm 2003, Ân xá Quốc tế tại Úc phát động chiến dịch gửi thư điện tử mang tên "Tự Do cho Lê Chí Quang". Tháng 4 năm 2004, trong một buổi lễ tại New York, New York, Lê Chí Quang trở thành một trong hai người được Trung tâm Văn bút Hoa Kỳ trao giải Quyền Tự do được viết năm 2004. Đây là năm thứ 18 giải thưởng này được trao cho những khuôn mặt bị cầm tù vì sử dụng hoặc bảo vệ quyền tự do ngôn luận. Tháng 5 năm 2004, Lê Chí Quang được thả, hai năm trước hạn định.
Lê Chí Quang
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3236
Bộ Ngoại giao Việt Nam nói rằng ông Quang đã được thả vì khi ở trong tù ông "đã tỏ ra ăn năn, thừa nhận các hành vi tội lỗi của mình" đồng thời đã viết đơn xin được ân xá và hứa hẹn sẽ không tái phạm. Trong quá trình sinh hoạt trong tù, với tiền sử sức khỏe yếu, sức khỏe ông càng suy yếu trầm trọng. Nhiều tổ chức quốc tế cũng đã lên tiếng về tình trạng sức khỏe của ông, trong đó có tổ chức Ân xá Quốc tế thể hiện sự quan tâm, lo lắng đến sức khỏe của ông. Năm 2004 được ra tù, ông làm nhiều nghề khác nhau để sinh sống và không có hứng thú tham gia các phong trào đòi dân chủ nhân quyền trước đây. Giải thưởng. Năm 2002, 2007 ông được Tổ chức Theo dõi Nhân quyền trao Giải thưởng Hellman/Hammett.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Sao Diêm Vương (Pluto) hay Diêm Vương tinh (định danh hành tinh vi hình: 134340 Pluto) là hành tinh lùn nặng thứ hai đã được biết trong Hệ Mặt Trời (sau Eris) và là vật thể nặng thứ mười trực tiếp quay quanh Mặt Trời. Trước kia nó từng được xếp hạng là một hành tinh, Sao Diêm Vương hiện được coi là thành viên lớn nhất của một vùng riêng biệt được gọi là Vành đai Kuiper. Tương tự như các thành viên khác của vành đai này, nó chủ yếu gồm đá với băng và có kích thước khá nhỏ: xấp xỉ một phần năm khối lượng và một phần ba thể tích Mặt Trăng của Trái Đất. Sao Diêm Vương có quỹ đạo với độ lệch tâm lớn và rất nghiêng. Độ lệch tâm khiến nó có thể có khoảng cách từ 30 tới 49 AU (4.4—7.4 tỷ km) từ Mặt Trời, nên thỉnh thoảng Sao Diêm Vương ở gần Mặt Trời hơn Sao Hải Vương. Sao Diêm Vương và vệ tinh lớn nhất của nó, Charon, thường được coi là một hệ đôi bởi khối tâm của các quỹ đạo của chúng không nằm trong bất kỳ một vật thể nào. Hiệp hội Thiên văn Quốc tế (IAU) vẫn chưa chính thức hoá một định nghĩa cho các hệ hành tinh lùn đôi, và cho tới khi họ thông qua một quyết định như vậy, Charon vẫn được xếp hạng là một vệ tinh của Sao Diêm Vương. Sao Diêm Vương cũng có ba vệ tinh nhỏ hơn khác là Nix, Hydra, được khám phá năm 2005, và vệ tinh P4 được khám phá năm 2011. Cũng như Sao Kim và Sao Thiên Vương, Sao Diêm Vương tự quay theo chiều ngược. Chu kỳ tự quay của nó là -6,387 230 ngày hay -6 ngày 9 giờ 17 phút 36 giây. Từ khi được phát hiện năm 1930 cho tới tận năm 2006, Sao Diêm Vương vẫn được tính là hành tinh thứ chín của Hệ Mặt Trời. Tuy nhiên, cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, nhiều vật thể tương tự Sao Diêm Vương đã được phát hiện ở phía ngoài Hệ Mặt Trời, đáng chú ý nhất là vật thể đĩa phân tán Eris, có khối lượng lớn hơn Sao Diêm Vương 27%. Ngày 24 tháng 8 năm 2006 Hiệp hội Thiên văn Quốc tế đã lần đầu tiên định nghĩa "hành tinh". Định nghĩa này không bao gồm Sao Diêm Vương, nó bị Hiệp hội Thiên văn Quốc tế xếp loại lại như một thành viên của loại mới là các hành tinh lùn cùng với Eris và Ceres.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Sau khi được tái xếp hạng, Sao Diêm Vương được thêm vào danh sách các tiểu hành tinh và được định danh bằng số 134340. Một số nhà khoa học vẫn cho rằng nó cần được xếp vào nhóm hành tinh. Vào ngày 14 tháng 7 năm 2015, "New Horizons" trở thành phi thuyền đầu tiên bay ngang qua Sao Diêm Vương và các vệ tinh của nó, thực hiện các đo đạc và ghi lại những hình ảnh một cách chi tiết. Khám phá. Trong thập niên 1840, sử dụng cơ học Newton, Urbain Le Verrier đã dự đoán vị trí của Sao Hải Vương khi ấy vẫn chưa được khám phá sau khi phân tích những nhiễu loạn trong quỹ đạo của Sao Thiên Vương. Giả thiết rằng những sự nhiễu loạn bị gây ra bởi lực hút hấp dẫn của hành tinh khác, Le Verrier đã gửi những tính toán của mình cho nhà thiên văn học Đức Johann Gottfried Galle. Ngày 23 tháng 9 năm 1846, buổi tối sau khi nhận được bức thư, Galle và sinh viên của mình Heinrich d'Arrest đã tìm thấy Sao Hải Vương ở chính xác nơi Le Verrier đã dự đoán. Những quan sát Sao Hải Vương ở cuối thế kỷ 19 đã khiến các nhà thiên văn học phải cho rằng quỹ đạo của Sao Thiên Vương đang bị nhiễu loạn bởi một hành tinh khác nữa ngoài Sao Hải Vương. Năm 1906, Percival Lowell, một người Boston giàu có từng thành lập Đài quan sát Lowell tại Flagstaff, Arizona năm 1894, đã khởi động một dự án lớn để tìm kiếm một hành tinh có thể có thứ 9, hành tinh mà ông gọi tên là "Hành tinh X". Tới năm 1909, Lowell và William H. Pickering đã đề xuất nhiều tọa độ có thể của một hành tinh như vậy. Lowell và đài quan sát của mình đã tìm kiếm từ năm 1905 tới khi ông qua đời năm 1916, nhưng không hề có kết quả. Việc tìm kiếm Hành tinh X của đài thiên văn mãi tới năm 1929, mới được bắt đầu trở lại khi ông giám đốc Vesto Melvin Slipher giao vai trò định vị Hành tinh X cho Clyde Tombaugh, một chàng trai xuất thân nông dân 22 tuổi đến từ Kansas, người mới chỉ tới Đài quan sát Lowell sau khi Slipher cảm thấy ấn tượng bởi một mẫu các bản vẽ thiên văn học của anh. Nhiệm vụ của Tombaugh là vẽ hình một cách có hệ thống bầu trời đêm bằng những bức ảnh đúp được chụp từ hai tuần trước đó, sau đó xem xét các cặp và xác định xem có bất kỳ một vật thể nào thay đổi vị trí hay không.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Sử dụng một máy được gọi là máy so sánh ánh sáng nhấp nháy, anh nhanh chóng di chuyển tới lui các quang cảnh của mỗi đĩa, để tạo ra sự phản chiếu di động của bất kỳ vật thể nào đã thay đổi vị trí hay xuất hiện giữa các bức ảnh. Ngày 18 tháng 2 năm 1930, sau gần một năm tìm kiếm, Tombaugh đã phát hiện một vật thể có thể di động trên những đĩa ảnh được chụp ngày 23 tháng 1 và 29 tháng 1 năm ấy. Một bức ảnh chất lượng kém hơn được chụp ngày 20 tháng 1 đã giúp anh xác nhận sự chuyển động. Sau khi đài quan sát có được những bức ảnh xác nhận thêm nữa, tin tức về khám phá được gửi tới Đài quan sát Đại học Harvard ngày 13 tháng 3 năm 1930. Vật thể mới sau này đã được thấy trong những bức ảnh được chụp từ ngày 19 tháng 3 năm 1915. Đặt tên. Quyền đặt tên cho vật thể mới phát hiện thuộc về Đài quan sát Lowell. Tombaugh đã hối thúc Slipher đề nghị một cái tên cho vật thể này trước khi có người khác làm điều đó. Những đề xuất được gửi về ồ ạt từ khắp nơi trên thế giới. Constance Lowell đề nghị tên "Zeus," sau đó là "Lowell," và cuối cùng là họ của bà. Tất cả đề nghị này đều không được chấp nhận. Cái tên "Pluto" lần đầu được Venetia Burney (sau này là Venetia Phair), một cô học trò 11 tuổi tại Oxford, Anh Quốc đề xuất. Venetia yêu thích thần thoại cổ điển cũng như thiên văn học, và coi cái tên "Pluto" (một trong những tên khác của Hades, vị thần cai quản địa ngục của người Hy Lạp), là thích hợp cho một hành tinh được cho là tối và lạnh như vậy. Cô bé đã nói ra ý kiến đó trong một cuộc thảo luận với người ông Falconer Madan, một cựu thủ thư tại Thư viện Bodleian thuộc Đại học Oxford. Madan đã gửi cái tên này cho Giáo sư Herbert Hall Turner, và ông này lại đánh điện báo cái tên đó cho các đồng nghiệp ở châu Mỹ. Vật thể được chính thức đặt tên ngày 24 tháng 3 năm 1930. Mỗi thành viên của Đài quan sát Lowell được cho phép bỏ phiếu chọn trong danh sách chỉ gồm ba cái tên: "Minerva" (tên đã được đặt cho một tiểu hành tinh), "Cronus" (vốn không được coi trọng bởi nó được đề xuất từ một nhà thiên văn vô danh tên là Thomas Jefferson Jackson See), và "Pluto" do Burney đặt. "Pluto" nhận được số phiếu tối đa.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
"Pluto" nhận được số phiếu tối đa. Cái tên này được công bố ngày 1 tháng 5 năm 1930. Ngay sau khi công bố, Madan đã cho Venetia năm pound làm tiền thưởng. Cái tên "Pluto" được dự định gợi nhớ tới những chữ cái đầu trong tên của nhà thiên văn học Percival Lowell, chữ viết lồng P-L cũng là biểu tượng thiên văn học của Sao Diêm Vương (). Biểu tượng chiêm tinh học của Sao Diêm Vương giống với biểu tượng của Sao Hải Vương (), nhưng có một vòng tròn thay thế cho cái chĩa đinh ba ở giữa (). Tại Nhật Bản năm 1930, ngay sau khi hành tinh này được phát hiện, trên "Khoa học hoạ báo" (Nhật văn: 科学画報), Nojiri Hōei (野尻抱影) đã đề nghị dịch tên gọi của hành tinh này sang tiếng Nhật là Minh Vương Tinh [chữ Hán: 冥王星, đọc theo âm âm độc là "めいおうせい" (Meiō sei)]. Minh vương (冥王) là tục xưng của Diêm Ma La Già (閻魔羅闍), theo Phật giáo là chúa tể của địa ngục. Đài Thiên văn Kyōto đã sử dụng tên gọi này nhưng Đài Thiên văn Tōkyō (nay là Đài Thiên văn quốc lập) tiếp tục dùng tên gọi "プルートー" (Purūtō, dịch âm từ tiếng Anh "Pluto") cho đến năm 1943. Trung Quốc từ năm 1933 cũng gọi hành tinh này là "Minh vương tinh". Tên gọi Minh vương tinh còn được dùng trong tiếng Triều Tiên [đọc theo âm Hán tự Triều Tiên là "명왕성" (Myeongwangseong)] và tiếng Mông Cổ. Do chữ "minh" 冥 có nghĩa là "u ám, tối tăm" đồng âm với chữ "minh" 明 có nghĩa là "sáng" và "minh vương" 冥王 đồng âm với "minh vương" 明王 có nghĩa là "vị vua sáng suốt" nên người Việt Nam tránh gọi Diêm Ma La Già là Minh vương mà thường gọi tắt là Diêm vương (閻王). Minh vương tinh cũng theo đó mà được từ sách báo Trung Quốc sang tiếng Việt là Diêm Vương Tinh (閻王星) hoặc Sao Diêm Vương. Nhiều ngôn ngữ Phi Âu sử dụng cách chuyển tự "Pluto" bằng cái tên của họ cho vật thể này. Cái chết của Hành tinh X. Ngay khi được tìm thấy, ánh sáng mờ nhạt và sự thiếu vắng một đĩa phân giải được đã khiến mọi người nghi ngờ Sao Diêm Vương có thể là Hành tinh X của Lowell.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Trong suốt thế kỷ 20, những ước tính về khối lượng Sao Diêm Vương liên tục bị điều chỉnh theo hướng giảm xuống: Năm 1931, khối lượng của Sao Diêm Vương được tính gần bằng khối lượng Trái Đất, đến năm 1948 nhà khoa học hành tinh Gerard Kuiper tính toán lại khối lượng của nó, cho thấy bị giảm xuống tới 1/10 khối lượng Trái Đất, gần bằng khối lượng Sao Hỏa. Năm 1976, Dale Cruikshank, Carl Pilcher và David Morrison tại Đại học Hawaii lần đầu tiên tính toán suất phản chiếu bề mặt Sao Diêm Vương, họ tính ra suất phản chiếu của hành tinh này gấp 1,4–1,9 lần suất phản chiếu của Trái Đất - cho thấy có sự hiện diện của băng metan; điều này có nghĩa Sao Diêm Vương phải đặc biệt rất sáng so với kích thước của nó và do đó khối lượng của Sao Diêm Vương chỉ nhẹ hơn 1% khối lượng Trái Đất. Năm 1978, sự khám phá vệ tinh Charon của Sao Diêm Vương lần đầu tiên đã cho phép đo đạc khối lượng của nó bằng khoảng 2% khối lượng Trái Đất, quá nhỏ để gây ra sự không nhất quán trong quỹ đạo của Sao Thiên Vương. Những nghiên cứu sau đó về một Hành tinh X khác, đáng chú ý nhất là của Robert Harrington, đều không thành công. Năm 1993, Myles Standish đã sử dụng dữ liệu từ chuyến bay ngang Sao Hải Vương của "Voyager 2", xác định lại tổng khối lượng hành tinh này giảm 0,5%, để tính toán lại ảnh hưởng trọng lực lên Sao Thiên Vương. Với những con số mới, sự không nhất quán, sự cần thiết của Hành tinh X đã bị bãi bỏ. Ngày nay đa số nhà thiên văn học thống nhất rằng Hành tinh X, như Lowell định nghĩa nó, không tồn tại. Lowell đã đưa ra dự đoán vị trí Hành tinh X năm 1915 hơi gần hơn vị trí thực của Sao Diêm Vương ở thời điểm đó; tuy nhiên, Ernest W. Brown đã kết luận gần như ngay lập tức rằng đó là một sự trùng khớp, một quan điểm vẫn được duy trì đến ngày nay. Đặc điểm của hành tinh. Khoảng cách từ Sao Diêm Vương tới Trái Đất khiến việc nghiên cứu sâu về hành tinh này rất khó khăn. Nhiều chi tiết về Sao Diêm Vương sẽ vẫn chưa được biết tới cho đến năm 2015, khi tàu vũ trụ New Horizons tới đó. Hình dạng bên ngoài và thành phần. Độ sáng biểu kiến bên ngoài của Sao Diêm Vương trong khoảng 15,1, lên tới 13,65 ở điểm cận nhật.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Để quan sát được nó, một kính viễn vọng phải có độ mở khoảng 30 cm (12 in). Sao Diêm Vương trông không rõ ràng và giống sao thậm chí khi được quan sát bằng kính viễn vọng lớn bởi đường kính góc của nó chỉ là 0,11". Nó có màu xám sáng pha chút vàng. Phân tích quang phổ bề mặt Sao Diêm Vương cho thấy nó có thành phần gồm hơn 98% băng nitơ, với các dấu hiệu của methane và carbon monoxide. Khoảng cách và những giới hạn về hiện tại trong kỹ thuật kính viễn vọng khiến không thể chụp ảnh trực tiếp các chi tiết bề mặt Sao Diêm Vương. Các hình ảnh từ Kính viễn vọng không gian Hubble không thể hiện bất kỳ một đặc điểm hay dấu hiệu bề mặt có thể phân biệt nào. Những hình ảnh tốt nhất về Sao Diêm Vương có từ các bản đồ sáng được tạo ra từ các quan sát gần các lần thực của nó với vệ tinh lớn nhất, Charon. Sử dụng quá trình xử lý máy tính, những quan sát được tiến hành bằng những yếu tố sáng khi Sao Diêm Vương bị Charon che khuất. Ví dụ, việc che khuất một điểm sáng trên Pluto sẽ tạo ra một sự thay đổi tổng độ sáng lớn hơn khi che khuất một điểm tối. Sử dụng kỹ thuật này, ta có thể đo đạc tổng độ sáng của hệ Sao Diêm Vương-Charon và theo dõi những thay đổi độ sáng theo thời gian. Những bản đồ được Kính viễn vọng không gian Hubble tổng hợp cho thấy bề mặt Sao Diêm Vương có đặc điểm ở sự không đồng nhất, một sự thực cũng được chứng nhận bởi sự làm cong ánh sáng và bởi những thay đổi định kỳ trong các phổ của nó. Bề mặt Sao Diêm Vương hướng về phía Charon chứa nhiều băng methane hơn, trong khi phía bề mặt đối diện chứa nhiều nitơ và băng carbon monoxit. Điều này biến Sao Diêm Vương thành vật thể có sự trái ngược lớn thứ hai trong Hệ Mặt Trời sau Iapetus. Cấu trúc bên trong. Kính viễn vọng không gian Hubble cho rằng mật độ Sao Diêm Vương ở trong khoảng 1,8 và 2,1 g/cm³, cho thấy thành phần bên trong của nó gồm khoảng 50–70% đá và 30–50% băng.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Vì sự phân rã phóng xạ của các khoáng chất cuối cùng sẽ làm nóng băng tới mức đủ để chúng tách khỏi đá, các nhà khoa học chờ đợi kết cấu bên trong của Sao Diêm Vương có sự khu biệt, với vật liệu đá lắng xuống thành một lõi đặc bao quanh bởi một áo băng. Những ước tính ban đầu từ tàu New Horizons cho thấy đường kính vùng lõi là 1700 km, và Sao Diêm Vương không có hoạt động từ trường. Có thể quá trình nóng lên đó đang diễn ra ở thời điểm hiện tại, tạo ra một biển nước ngầm bên dưới bề mặt. Tháng 9 năm 2016, các nhà khoa học tại Đại học Brown mô phỏng quá trình va chạm thông qua hình thành vùng đồng bằng Sputnik Planitia, cho thấy nó có thể là kết quả của việc nước lỏng dâng trào từ bên dưới bề mặt sau vụ va chạm, ngụ ý rằng có hiện diện biển nước ngầm nằm dưới bề mặt ở sâu 100 km. Cho đến tháng 6 năm 2020, các nhà thiên văn học đã thông báo bằng chứng cho rằng bên dưới bề mặt Sao Diêm Vương có thể chứa đại dương, và do đó nó có khả năng nuôi dưỡng sự sống khi nó mới được hình thành. Địa chất. Những đặc trưng địa chất nổi bật trên Sao Diêm Vương gồm: Tombaugh Regio (hay còn gọi là vùng "trái tim"), một vùng sáng lớn nhất nằm trên mặt đối diện với Charon. Cthulhu Macula, một vùng tối dài nằm ở vùng phía bên trái bán cầu. Cuối cùng là "Brass Knuckles", một dải các vùng tối trải dài xích đạo nằm ở vùng phía bên phải bán cầu. Một thùy nằm ở phía tây Tombaugh Regio gọi là Sputnik Planitia, một bồn địa rộng 1.000 km chứa băng nitơ và carbon monoxit lạnh, bị phân chia thành ô đới lưu xếp cạnh như hình đa giác mang các khối trôi nổi trên lớp vỏ băng nước và các hố thăng hoa về phía rìa của chúng. Cũng có dấu hiệu rõ ràng về những dòng chảy sông băng và chúng chảy ra khỏi bồn địa. Khi tàu New Horizons chụp các bức ảnh về bồn địa, nó không có một hố va chạm nào có thể thấy được, cho thấy bề mặt của nó chưa đầy 10 triệu năm tuổi. Những nghiên cứu mới nhất chỉ ra rằng bề mặt có độ tuổi 180.000 năm.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Nhóm khoa học thuộc dự án New Horizons đã tóm tắt những phát hiện ban đầu là "Sao Diêm Vương hiện lên nhiều dạng địa mạo, bao gồm cả những dạng địa hình sinh ra từ các quá trình tác động của sông băng và bề mặt - bầu khí quyển cũng như các quá trình va chạm, kiến ​​tạo, có thể có hoạt động núi lửa băng và xói mòn bề mặt hàng loạt". Phần phía tây của Sputnik Planitia có những cánh đồng chứa đụn cát ngang được hình thành do những cơn gió thổi từ trung tâm Sputnik Planitia theo hướng những đỉnh núi xung quanh. Các bước sóng trong đụn cát nằm trong khoảng 0,4–1 km và có khả năng bao gồm các hạt mêtan có kích cỡ 200–300 μm. Kích thước và khối lượng. Đường kính Sao Diêm Vương là 2376,6 km. Khối lượng của nó nặng 1,303×1022 kg, tương đương 0,00218 lần khối lượng Trái Đất và 0,177 lần khối lượng Mặt Trăng. Diện tích bề mặt của Sao Diêm Vương là 1,779×107 km², gần bằng diện tích bề mặt nước Nga. Hấp dẫn bề mặt của Sao Diêm Vương là 0,063 "g", so với Trái Đất là 1 "g" và Mặt Trăng là 0,17 "g". Khối lượng của Sao Diêm Vương không được biết hàng chục năm sau khi nó được khám phá. Việc đo lường quỹ đạo vệ tinh Charon đã giúp các nhà khoa học tính được khối lượng của Sao Diêm Vương, dùng một công thức của Isaac Newton dựa vào các định luật của Johannes Kepler. Các quan sát về Sao Diêm Vương khi che khuất với Charon cho phép các nhà khoa học ước tính đường kính của Sao Diêm Vương với con số chính xác hơn, trong khi việc phát minh ra phương pháp quang học thích nghi cho phép họ xác định được hình dạng chính xác của nó. Sao Diêm Vương không những nhỏ hơn tất cả các hành tinh khác trong Thái Dương Hệ mà còn nhỏ hơn các vệ tinh sau đây: Ganymede, Titan, Callisto, Io, Mặt Trăng, Europa và Triton. Trong khi đó, Sao Diêm Vương lại lớn hơn tất cả các tiểu hành tinh của vòng đai chính, giữa Sao Hoả và Sao Mộc, hay của vòng đai Kuiper. Điều này làm cho các nhà khoa học tin rằng Sao Diêm Vương không phải là một hành tinh chính thức mà thuộc một loại thiên thể nhiều người gọi là "plutino" – loại hành tinh nhỏ giống Sao Diêm Vương (Pluto). Việc xác định kích thước của Sao Diêm Vương trở nên phức tạp do bầu khí quyển và sương mù đầy hydrocacbon.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Vào tháng 3 năm 2014, các nhà khoa học E. Lellouch, C. de Bergh và các đồng nghiệp đã công bố liên hệ đến tỷ số trộn của mêtan trong khí quyển Sao Diêm Vương thích hợp với đường kính của nó, cho thấy lớn hơn 2.360 km, với "dự đoán tốt nhất" là 2.368 km. Vào ngày 13 tháng 7 năm 2015, các bức ảnh chụp từ thiết bị LORRI bên trong tàu New Horizons của NASA, cùng với dữ liệu thu được từ các thiết bị khác, đã xác định đường kính của Sao Diêm Vương là 2.370 km, sau đó được sửa đổi là 2.372 km vào ngày 24 tháng 7, và sau đó nữa là 2.374 km. Sử dụng dữ liệu vô tuyến từ Thí nghiệm Khoa học Vô tuyến của New Horizons (REX), các nhà khoa học đã tìm được đường kính của Sao Diêm Vương là 2.376,6 km. Khí quyển. Khí quyển Sao Diêm Vương là lớp khí mỏng thành phần gồm khí nitơ, mêtan, và cacbon mônôxít. Chúng có nguồn gốc từ băng trên bề mặt bốc hơi tạo thành. Áp suất bề mặt trong khí quyển thay đổi từ 6,5 tới 24 μbar. Người ta cho rằng quỹ đạo elip dẹt của Sao Diêm Vương có ảnh hưởng lớn đến khí quyển của nó: khi nó chuyển động ra xa Mặt Trời, bầu khí quyển của nó bị đóng băng dần và rơi trở lại bề mặt. Khi Sao Diêm Vương đến gần Mặt Trời hơn, nhiệt độ bề mặt tăng lên, băng trên bề mặt thăng hoa thành khí. Quá trình này tạo ra hiệu ứng nhà kính ngược; giống như mồ hôi làm lạnh cơ thể khi nó toát ra bề mặt da, sự thăng hoa này làm lạnh bề mặt của Sao Diêm Vương. Các nhà khoa học sử dụng mảng kính thiên văn vô tuyến Submillimeter Array gần đây đã phát hiện ra rằng nhiệt độ trên bề mặt Sao Diêm Vương vào khoảng , lạnh hơn 10 K so với giá trị trước đó. Do có mặt mêtan, một loại khí nhà kính mạnh, hiện tượng đảo ngược nhiệt độ trong khí quyển của Sao Diêm Vương đã xảy ra, với nhiệt độ trung bình ấm hơn 36 K ở độ cao trên 10 km so với bề mặt. Tầng khí quyển thấp hơn có độ tập trung mêtan cao hơn so với tầng khí quyển trên cao. Chứng cứ đầu tiên cho thấy Sao Diêm Vương có bầu khí quyển được tìm thấy tại Đài quan sát trên không Kuiper (Kuiper Airborne Observatory) năm 1985, dựa trên quá trình quan sát một ngôi sao bị che khuất bởi Sao Diêm Vương.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Khi một thiên thể không có bầu khí quyển di chuyển ra phía trước ngôi sao thì ánh sáng từ ngôi sao bị biến mất một cách đột ngột; trong trường hợp của Diêm Vương Tinh, ngôi sao mờ dần dần đi. Từ tốc độ mờ dần, người ta tính ra được áp suất khí quyển bằng 0,15 pascal, xấp xỉ 1/700.000 so với của Trái Đất. Những kết quả này được củng cố mạnh mẽ bằng những quan sát mở rộng trong quá trình che khuất xảy ra vào năm 1988. Năm 2002, sự kiện Sao Diêm Vương che khuất một ngôi sao khác đã được quan sát và phân tích bởi đội đứng đầu là Bruno Sicardy ở Đài quan sát Paris, James L. Elliot ở MIT, và Jay Pasachoff ở Williams College. Kết quả họ thu được thật ngạc nhiên, áp suất khí quyển ước tính bằng 0,3 pascal, cho dù thời điểm này Sao Diêm Vương nằm xa Mặt Trời hơn so với thời điểm năm 1988 và do đó bầu khí quyển phải lạnh và loãng hơn. Một cách giải thích cho sự khác biệt này là năm 1987, cực nam của Sao Diêm Vương bắt đầu đi ra khỏi bóng tối trong suốt 120 năm, gây ra hiện tượng nitơ thăng hoa từ băng ở cực nam. Phải mất hàng thập kỉ để khí nitơ dư thừa ngưng tụ lại trong bầu khí quyển khi nó bị đóng băng trên chỏm băng tối vĩnh cửu ở cực bắc. Các đỉnh nhọn trong biểu đồ dữ liệu từ các nghiên cứu này cho thấy khả năng có gió thổi trong khí quyển của Sao Diêm Vương. Đội MIT-Williams College gồm James Elliot, Jay Pasachoff, và đội do Leslie Young dẫn đầu từ Viện nghiên cứu Tây Nam Southwest Research Institute cũng quan sát sự che khuất của Sao Diêm Vương vào ngày 12 tháng 6 năm 2006 tại Úc. Tháng 10 năm 2006, Dale Cruikshank ở Trung tâm nghiên cứu Ames thuộc NASA (người đồng lãnh đạo dự án New Horizons) và các đồng nghiệp thông báo họ phát hiện ra dấu vết của êtan trong quang phổ trên bề mặt của Sao Diêm Vương. Lượng êtan này được sinh ra từ sự quang phân hay sự phân ly do bức xạ (sự chuyển đổi hợp chất hóa học do ánh sáng hay bức xạ) của mêtan đóng băng trên bề mặt Sao Diêm Vương hay lơ lửng trong bầu khí quyển của nó. Quỹ đạo và sự tự quay. Quỹ đạo. Chu kỳ quỹ đạo hiện tại của Sao Diêm Vương là khoảng 248 năm Trái Đất. Quỹ đạo của nó khác với các hành tinh khác do có độ nghiêng quỹ đạo hơn 17° và tâm sai khoảng 0,25.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Chỉ quỹ đạo của Sao Thủy có độ nghiêng đáng kể là khoảng 7° và tâm sai là khoảng 0,2; còn các hành tinh khác thì có quỹ đạo elip với tâm sai rất bé. Tâm sai lớn có nghĩa là một phần của quỹ đạo Sao Diêm Vương gần với Mặt Trời hơn quỹ đạo của Sao Hải Vương. Khi đến gần điểm cận nhật, Sao Diêm Vương ở gần Mặt Trời hơn Sao Hải Vương. Nhưng do độ nghiêng quỹ đạo, điểm cận nhật của nó ở phía bên trên (khoảng 8 AU) mặt phẳng hoàng đạo. Bán trục lớn của quỹ đạo Sao Diêm Vương thay đổi trong khoảng 39,3 đến 39,6 AU, và chu kỳ khoảng mỗi 19,95 năm (tương ứng với chu kỳ quỹ đạo thay đổi trong khoảng 246 đến 249 năm). Hiện tại bán trục lớn và chu kỳ quỹ đạo của Sao Diêm Vương đang dài ra. "Các sơ đồ trên hai hình bên biểu diễn vị trí tương đối của quỹ đạo Sao Diêm Vương so với mặt phẳng hoàng đạo (mặt cắt vuông góc mặt phẳng hoàng đạo - ecliptic view), và hình chiếu từ trên xuống vuông góc với mặt phẳng hoàng đạo (polar view) với vị trí hiện hành của Sao Diêm Vương và Sao Hải Vương. Các đoạn quỹ đạo phía trên mặt phẳng hoàng đạo được tô màu sáng hơn, các đoạn nằm dưới thì có màu tối hơn; điểm cận nhật và điểm viễn nhật được đánh dấu lần lượt bằng các chữ q và Q." Quỹ đạo tránh Sao Hải Vương. Dù rõ ràng quỹ đạo của Sao Diêm Vương cắt quỹ đạo Sao Hải Vương khi quan sát trực tiếp từ phía trên hoàng đạo, hai vật thể này không thể va chạm. Điều này bởi các quỹ đạo của chúng được sắp thẳng hàng sao cho Sao Diêm Vương và Sao Hải Vương không bao giờ tiếp cận gần. Nhiều yếu tố tác động tới việc này. Ở mức độ đơn giản nhất, một người có thể xem xét hai quỹ đạo và thấy rằng chúng không giao nhau. Khi Sao Diêm Vương ở vị trí cận nhật, và vì thế cũng ở điểm gần nhất với quỹ đạo của Sao Hải Vương như được quan sát ở hình chiếu từ trên xuống, nó cũng ở điểm xa nhất phía trên hoàng đạo. Điều này có nghĩa thực tế quỹ đạo Sao Diêm Vương chạy qua "phía trên" quỹ đạo Sao Hải Vương, khiến chúng không thể va chạm.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Quả vậy, phần quỹ đạo Sao Diêm Vương ở gần Mặt Trời hơn quỹ đạo Sao Hải Vương nằm khoảng 8 AU phía trên hoàng đạo, và cũng cách một khoảng tương tự với quỹ đạo Sao Hải Vương. Giao điểm lên của quỹ đạo của Sao Diêm Vương, điểm tại đó quỹ đạo cắt ngang hoàng đạo, hiện cách khỏi quỹ đạo Sao Hải Vương hơn 21°; các giao điểm xuống của chúng cũng cách nhau một khoảng cách góc tương tự (xem biểu đồ). Bởi quỹ đạo Sao Hải Vương hầu như phẳng so với mặt phẳng hoàng đạo, Sao Diêm Vương luôn cách xa phía trên khi hai hành tinh ở gần nhau trên quỹ đạo. Chỉ riêng điều này không đủ để bảo vệ Sao Diêm Vương; các nhiễu loạn (ví dụ, tiến động quỹ đạo) từ các hành tinh, đặc biệt là Sao Hải Vương, sẽ làm thay đổi quỹ đạo Sao Diêm Vương, vì thế trong hàng triệu năm một vụ va chạm có thể xảy ra. Một số cơ cấu khác hay các cơ cấu sẽ hoạt động từ đó. Cơ cấu đáng chú ý nhất là một cộng hưởng chuyển động trung bình với Sao Hải Vương. Sao Diêm Vương nằm ở 3:2 cộng hưởng khoảng cách chuyển động trung bình với Sao Hải Vương: cứ ba lần Sao Hải Vương quay xung quanh Mặt Trời, Sao Diêm Vương thực hiện điều đó 2 lần. Hai vật thể sau đó sẽ quay trở lại các vị trí ban đầu của chúng và chu kỳ lặp lại, mỗi chu kỳ kéo dài 500 năm. Mô hình này được xác định sao cho, trong mỗi chu kỳ 500 năm, lần đầu tiên Sao Diêm Vương gần điểm cận nhật Sao Hải Vương ở hơn 50° "phía sau" Sao Diêm Vương. Ở lần cận nhật thứ hai của Sao Diêm Vương, Sao Hải Vương sẽ hoàn thành một vòng nữa và một nửa vòng riêng trên quỹ đạo của nó, và vì thế sẽ ở một khoảng cách tương tự "phía trước" Sao Diêm Vương. Trên thực tế, khoảng cách tối thiểu giữa Sao Diêm Vương và Sao Hải Vương là hơn 17 AU; Sao Diêm Vương thực tế có thời điểm ở gần (11 AU) Sao Thiên Vương hơn Sao Hải Vương. Sự cộng hưởng 3:2 giữa hai vật thể rất ổn định, và không thay đổi trong hàng triệu năm. Điều này khiến quỹ đạo của chúng không thể thay đổi so với nhau— chu kỳ luôn lặp lại theo cùng cách— và hai vật thể không bao giờ đến được gần nhau. Vì thế, thậm chí khi quỹ đạo của Sao Diêm Vương không quá nghiêng, hai vật thể cũng không bao giờ va chạm nhau.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Các yếu tố khác ảnh hưởng tới quỹ đạo Sao Diêm Vương. Những nghiên cứu số đã cho thấy rằng sau những chu kỳ hàng triệu năm, hình thức tổng thể của sự thẳng hàng giữa quỹ đạo của Sao Diêm Vương và Sao Hải Vương không thay đổi. Tuy nhiên, có nhiều sự cộng hưởng và tác động khác ảnh hưởng tới các chi tiết chuyển động tương đối của chúng, và tăng cường tính ổn định của Sao Diêm Vương. Chúng xuất hiện chủ yếu từ hai cơ cấu phụ trợ (ngoài sự cộng hưởng chuyển động trung bình 3:2). Đầu tiên, cuộc tranh cãi về điểm cận nhật của Sao Diêm Vương, góc giữa điểm nơi nó cắt hoàng đạo và điểm nó ở gần Mặt Trời nhất, đu đưa quanh 90°. Điều này có nghĩa khi Sao Diêm Vương ở gần Mặt Trời nhất, nó đang ở điểm xa nhất phía trên mặt phẳng hoàng đạo của Hệ Mặt Trời, ngăn cản va chạm với Sao Hải Vương. Đây là hậu quả trực tiếp của cơ cấu Kozai, liên quan tới sự lệch tâm của một quỹ đạo với độ nghiêng của nó, liên hệ với một vật thể làm nhiễu động lớn hơn — trong trường hợp này là Sao Hải Vương. Liên quan tới Sao Hải Vương, biên độ dao động là 38°, và vì thế sự chia tách góc của điểm cận nhật của Sao Diêm Vương với quỹ đạo của Sao Hải Vương luôn lớn hơn 52° (= 90°–38°). Sự chia tách nhỏ nhất này diễn ra mối 10,000 năm. Thứ hai, các kinh độ của giao điểm lên của hai vật thể — các điểm khi chúng cắt mặt phẳng hoàng đạo - ở cộng hưởng gần với sự đu đưa bên trên. Khi hai kinh độ trùng nhau — có nghĩa, khi một kinh độ có thể vẽ một đường thẳng xuyên qua cả hai điểm giao và Mặt Trời — điểm cận nhật của Sao Diêm Vương nằm chính xác tại 90°, và nó ở gần Mặt Trời Nhật khi ở đỉnh phía trên quỹ đạo Sao Hải Vương. Nói cách khác, khi Sao Diêm Vương nằm gần nhất các giao điểm của mặt phẳng quỹ đạo Sao Hải Vương, nó cũng ở xa nhất phía trên nó. Điều này được gọi là "siêu cộng hưởng 1:1".Để hiểu tình trạng của sự đu đưa, tưởng tượng một điểm quan sát phía trên cực, nhìn xuống đường hòng đạo từ một điểm ưu thế ở xa nơi các hành tinh chuyển động theo quỹ đạo ngược chiều kim đồng hồ.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Sau khi vượt qua điểm giao lên, Sao Diêm Vương ở bên trong quỹ đạo Sao Hải Vương và chuyển động nhanh hơn, tiếp cận với Sao Hải Vương từ phía sau. Lực hút hấp dẫn mạnh giữa hai vật thể khiến động lượng góc từ Sao Hải Vương được chuyển sang Sao Diêm Vương. Điều này khiến Sao Diêm Vương đi vào một quỹ đạo hơi lớn hơn, nơi nó đi hơi chậm lại, tuân theo Định luật thứ ba của Kepler. Khi quỹ đạo thay đổi, nó dần tạo hiệu ứng thay đổi pericentre và các kinh độ của Sao Diêm Vương (và, ở mức độ nhỏ hơn, của Sao Hải Vương). Sau nhiều lần lặp lại như vậy, Sao Diêm Vương đã bị hãm lại ở mức đủ, và Sao Hải Vương cũng tăng tốc ở mức đủ, khiến Sao Hải Vương bắt đầu bắt Sao Diêm Vương tại phía đối diện quỹ đạo của nó (gần điểm giao đối diện nơi chúng ta bắt đầu). Quá trình này sau đó lại đảo ngược, và Sao Diêm Vương mất động lượng góc cho Sao Hải Vương, cho tới khi Sao Diêm Vương tăng tốc đủ để nó bắt đầu bắt Sao Hải Vương một lần nữa ở điểm ban đầu. Toàn bộ quá trình hoàn thành trong khoảng 20,000 năm. Sự tự quay. Chu kỳ tự quay của Sao Diêm Vương bằng 6,387 ngày trên Trái Đất. Giống với Sao Thiên Vương, một mặt của Sao Diêm Vương nằm trong mặt phẳng quỹ đạo. Độ nghiêng trục của Sao Diêm Vương là 122,53°, chính vì thế hành tinh lùn có sự biến đổi theo mùa cực kỳ khắc nghiệt. Tại điểm chí, một phần tư bề mặt của Sao Diêm Vương được Mặt Trời chiếu sáng liên tục, trong khi một phần tư bề mặt bên kia lại chìm trong bóng tối. Nguyên nhân giải thích cho sự bất thường này vẫn là chủ đề gây ra tranh cãi. Nghiên cứu từ Đại học Arizona đã đoán rằng có thể là do sự tự quay của vật thể luôn điều tiết để làm cho năng lượng rơi vào mức tối thiểu. Điều này có nghĩa một vật thể đang định hướng lại chính bản thân nó để đưa khối lượng từ bên ngoài về đến gần xích đạo và những vùng thiếu đi khối lượng quay về phía các cực. Hiện tượng đó gọi là "hiện tượng đảo cực" (polar wander). Theo một bài báo trích từ Đại học Arizona, khối nitơ đóng băng tích tụ trong các khu vực bị che khuất của hành tinh lùn nên mới gây ra hiện tượng này.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Những khối này sẽ khiến vật thể tự định hướng lại, dẫn đến độ nghiêng trục bất thường của nó. Sự tích tụ của nitơ là do khoảng cách rộng lớn của sao Diêm Vương với Mặt Trời. Tại xích đạo, nhiệt độ có thể rơi -210 °C, gây ra việc đóng băng nitơ giống như nước bị đóng băng trên Trái Đất. Vệ tinh. Sao Diêm Vương có năm vệ tinh tự nhiên đã được biết: Charon, lần đầu được xác định năm 1978 bởi nhà thiên văn học James Christy; và hai vệ tinh nhỏ hơn, Nix và Hydra, cả hai cùng được phát hiện năm 2005, và 2 vệ tinh nữa Kerberos & Styx. Các vệ tinh của Sao Diêm Vương luôn ở gần bề mặt của nó, so với các hệ khác đã được quan sát. Các vệ tinh có thể có tiềm năng quay quanh Sao Diêm Vương lên tới 53% (hay 69%, nếu đi ngược) của bán kính quyển Hill, vùng ảnh hưởng trọng lực ổn định của Sao Diêm Vương. Ví dụ, Psamathe quay quanh Sao Hải Vương ở 40% bán kính Hill. Trong trường hợp Sao Diêm Vương, chỉ 3% của vùng được biết có sự có mặt của các vệ tinh. Theo thuật ngữ của các nhà khoa học, hệ Sao Diêm Vương dường như "quá chật và hầu như trống rỗng." Trong các bức ảnh thu được từ Hubble chụp Sao Diêm Vương trong các ngày 28 tháng 6 năm 2011 và 3 tháng 7 năm 2011 các nhà thiên văn học ở viện SETI ở California đã phát hiện ra thêm một vệ tinh mới thứ tư của Sao Diêm Vương. Vệ tinh được tạm thời gọi là P4 (sau này là Kerberos) có đường kính từ 13 đến 34 km và quỹ đạo của nó nằm giữa quỹ đạo của Nix và Hydra. Charon. Hệ thống Sao Diêm Vương-Charon rất đáng chú ý vì đây là hệ đôi lớn nhất trong một vài hệ đôi thuộc Hệ Mặt Trời, và được xác định là cặp đôi có khối tâm nằm ngoài bề mặt hành tinh chính (617 Patroclus là một ví dụ nhỏ hơn khác). Điều này và kích thước to lớn của Charon so với Sao Diêm Vương khiến một số nhà thiên văn gọi chúng là một hành tinh đôi lùn. Hệ này cũng khác biệt so với các hệ hành tinh khác ở điểm mỗi vật thể đều khóa thủy triều vật thể kia: Charon luôn quay một phía bề mặt về Sao Diêm Vương, và Sao Diêm Vương cũng luôn quay một mặt về Charon.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Nếu một người đứng ở phía bề mặt gần của Sao Diêm Vương, Charon sẽ lơ lửng trên bầu trời mà không chuyển động; nếu người này đi về phía bề mặt bên kia, anh ta sẽ không thể nhìn thấy mặt kia của Charon. Năm 2007, những quan sát của Đài thiên văn Gemini về những dấu vết ammonia hydrate và tinh thể nước trên bề mặt Charon cho thấy sự hiện diện của các mạch nước phun hoạt động. Nix và Hydra. Hai vệ tinh khác của Sao Diêm Vương đã được các nhà khoa học sử dụng Kính viễn vọng không gian Hubble chụp ngày 15 tháng 5 năm 2005, và chúng đã nhận được tên định danh tạm thời là S/2005 P 1 và S/2005 P 2. Hiệp hội Thiên văn Quốc tế đã chính thức đặt tên cho các vệ tinh mới nhất của Sao Diêm Vương là Nix (hay Pluto II, vệ tinh phía bên trong, trước kia là P 2) và Hydra (Pluto III, vệ tinh phía ngoài, trước kia là P 1), ngày 21 tháng 6 năm 2006. Những vệ tinh nhỏ này quay quanh Sao Diêm Vương ở khoảng cách gấp hai và ba lần Charon: Nix ở 48,700 kilômét và Hydra ở 64,800 kilômét từ tâm khối lượng chung của hệ. Chúng có quỹ đạo cùng hướng trên cùng mặt phẳng quỹ đạo như Charon, và rất gần (nhưng không phải ở trong) chuyển động trung bình cộng hưởng quỹ đạo 4:1 và 6:1 với Charon. Những quan sát Nix và Hydra để xác định các tính chất riêng của chúng đang được tiến hành. Thỉnh thoảng Hydra sáng hơn Nix, cho thấy hoặc nó lớn hơn hoặc những phần khác nhau trên bề mặt của nó có thể có độ sáng khác nhau. Các kích thước được ước tính từ các suất phân chiếu. Quang phổ của hai vệ tinh này tương tự quang phổ của Charon cho thấy một suất phân chiếu 35% như của Charon; các giá trị này khiến Nix được ước tính có đường kính 46 km còn Hydra lớn hơn và có đường kính 61 km. Những giới hạn trên của đường kính của chúng có thể được ước tính khi lấy suất phân chiếu 4% của các vật thể tối nhất trong Vành đai Kuiper; những giới hạn đó là 137 ± 11 km và 167 ± 10 km. Ở phía cuối của dãy này, các khối lượng được suy luận chưa tới 0.3% khối lượng Charon, hay 0.03% của Sao Diêm Vương. Sự khám phá hai vệ tinh nhở hơn cho thấy Sao Diêm Vương có thể có một hệ vành đai biến đổi. Các vụ va chạm của các vật thể nhỏ có thể tạo ra rác hình thành nên các vành đai hành tinh.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Dữ liệu từ một cuộc khảo sát quang học kỹ lưỡng của Advanced Camera for Surveys trên Kính viễn vọng vũ trụ Hubble cho thấy không có hệ vành đai nào. Nếu một hệ như vậy tồn tại, hoặc nó mỏng manh như các vành đai Sao Mộc hoặc nó chỉ hạn chế ở chiều rộng chưa tới 1,000 km. Khi chụp ảnh hệ Sao Diêm Vương, những quan sát từ Huble đặt ra các giới hạn với bất kỳ một vệ tinh có thể nào khác. Với độ tin cậy lên tới 90%, không thể có thêm một vệ tinh khác lớn hơn 12 km (hay tối đa 37 km với suất phân chiếu 0.041) tồn tại bên ngoài ánh chói của Sao Diêm Vương năm giây cung từ hành tinh lùn này. Điều này giả định rằng một vật thể kiểu Charon có suất phân chiếu 0.38; ở mức độ tin cậy 50% giới hạn là 8. Kerberos và Styx. Hai vệ tinh Kerberos & Styx được phát hiện và công bố, được xác nhận là những vệ tinh mới năm 2011 và 2012 bới Kính viễn vọng không gian Hubble. Nguồn gốc. Nguồn gốc và đặc điểm của Sao Diêm Vương từ lâu đã là câu hỏi khó đối với các nhà thiên văn học. Trong thập niên 1950 có ý kiến cho rằng Sao Diêm Vương là một vệ tinh đã thoát khỏi Sao Hải Vương, bị vệ tinh lớn nhất hiện nay của ngôi sao này là Triton đẩy bắn ra khỏi quỹ đạo. Ý kiến này đã bị chỉ trích nhiều bởi, như được giải thích ở trên, thực tế Sao Diêm Vương không bao giờ tới gần hành tinh. Từ năm 1992, các nhà thiên văn học đã bắt đầu khám phá ra nhiều vật thể băng nhỏ phía ngoài Sao Hải Vương tương tự như Sao Diêm Vương không chỉ ở quỹ đạo mà cả ở kích thước và thành phần. Vành đai này, được gọi là Vành đai Kuiper theo một trong những nhà thiên văn học người lần đầu tiên xác định tính chất của các vật thể bên ngoài Sao Hải Vương, được tin là nguồn gốc của nhiều sao chổi chu kỳ ngắn. Các nhà thiên văn học hiện tin rằng Sao Diêm Vương là vật thể lớn nhất đã biết trong các vật thể thuộc vành đai Kuiper (KBOs). Giống như các vật thể KBOs khác, Sao Diêm Vương có các đặc điểm chung với các sao chổi; ví dụ, gió mặt trời dần thổi bay bề mặt Sao Diêm Vương vào vũ trụ, theo cách một sao chổi. Nếu Sao Diêm Vương bị đặt ở gần Mặt Trời như Trái Đất, nó cũng sẽ có một cái đuôi như các sao chổi.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Tuyên bố này đã gây ra tranh cãi vì suy luận rằng vận tốc thoát ly của Sao Diêm Vương quá cao để gây ra hiện tượng này. Người ta đề xuất rằng Sao Diêm Vương có thể hình thành từ sự bồi tụ của nhiều sao chổi và các vật thể thuộc vành đai Kuiper. Dù Sao Diêm Vương là vật thể lớn nhất trong vành đai Kuper đã được phát hiện, Triton, hơi lớn hơn Sao Diêm Vương lại có nhiều đặc điểm khí quyển và thành phần địa chất giống với Sao Diêm Vương và được tin rằng cũng là một vật thể bị bắt khỏi Vành đai Kuiper. Eris (xem bên dưới) cũng lớn hơn Sao Diêm Vương nhưng không bị coi hoàn toàn là một thành viên của Vành đai Kuiper. Thay vào đó, nó được coi là một thành viên của đám vật thể được gọi là đĩa phân tán. Một số lượng lớn vật thể trong Vành đai Kuiper, như Sao Diêm Vương, có cộng hưởng quỹ đạo 3:2 với Sao Hải Vương. Các vật thể vành đai Kuiper có cộng hưởng quỹ đạo kiểu này được gọi là "plutino", theo tên Pluto. Giống như các thành viên khác thuộc vành đai Kuiper, Sao Diêm Vương được cho là một vi thể hành tinh còn sót lại; một thành phần trong đĩa tiền hành tinh nguyên thủy xung quanh Mặt Trời không thể kết hợp hoàn toàn để hình thành một hành tinh chính thống. Hầu hết các nhà thiên văn đồng ý rằng Sao Diêm Vương có vị trí hiện tại là do nó trải qua sự di trú đột ngột cùng với Sao Hải Vương trong thời kỳ đầu hình thành Hệ Mặt Trời. Vì Sao Hải Vương di trú ra bên ngoài, nó tiếp cận các vật thể trong Vành đai Kuiper nguyên thủy, dẫn đến việc Triton bị Sao Hải Vương bắt giữ và quay trên quỹ đạo quanh hành tinh này cho đến hiện nay, khóa các vật thể khác rơi vào mức cộng hưởng khác nhau và đẩy các vật thể khác rơi vào những quỹ đạo hỗn loạn. Các vật thể trong đĩa phân tán được cho là đã đặt ở vị trí hiện tại do chúng tác động với mức cộng hưởng chuyển động của Sao Hải Vương.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Một mô hình máy tính được chế tạo vào năm 2004 bởi nhà khoa học Alessandro Morbidelli thuộc Đài thiên văn Côte d'Azur ở Nice, Pháp cho thấy Sao Hải Vương di trú vào vành đai Kuiper có thể ảnh hưởng do mức cộng hưởng 1: 2 giữa Sao Mộc và Sao Thổ, tạo ra lực hấp dẫn đẩy cả Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương vào quỹ đạo lớn hơn và khiến cho chúng bị đổi chỗ, cuối cùng làm nhân đôi khoảng cách giữa Sao Hải Vương với Mặt Trời. Kết quả là trục xuất các vật thể khỏi vành đai Kuiper nguyên thủy, điều này cũng có thể giải thích cho giai đoạn Công phá mạnh muộn vào thời điểm 600 triệu năm sau khi Hệ Mặt Trời hình thành và nguồn gốc của các trojan Sao Mộc. Có lẽ Sao Diêm Vương đã có quỹ đạo gần tròn nằm cách Mặt Trời khoảng 33 AU trước khi Sao Hải Vương di trú và làm nhiễu loạn quỹ đạo Sao Diêm Vương, khiến chúng tạo nên một mức cộng hưởng. Mô hình Nice đòi hỏi phải có khoảng một nghìn vật thể cỡ Sao Diêm Vương trong đĩa vi thể hành tinh nguyên thủy, bao gồm cả Triton và Eris. Thám hiểm Sao Diêm Vương. Sao Diêm Vương đặt ra những thách thức to lớn cho con tàu vũ trụ bởi khối lượng nhỏ và khoảng cách xa từ Trái Đất. "Voyager 1" đáng lẽ đã có thể tới Sao Diêm Vương, nhưng những người điều khiển thay vào đó đã chọn một chuyến bay ngang qua vệ tinh Titan của Sao Thổ khiến nó không thể có quỹ đạo ngang qua Sao Diêm Vương. "Voyager 2" cũng không thể có quỹ đạo hợp lý để tới Sao Diêm Vương. Trước thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20 chưa hề có một nỗ lực thực sự nào nhằm thám hiểm Sao Diêm Vương. Tháng 8 năm 1992, nhà khoa học Robert Staehle của JPL đã gọi điện cho người phát hiện Sao Diêm Vương, Clyde Tombaugh, yêu cầu cho phép viếng thăm hành tinh của ông. "Tôi đã nói rằng ông ta được chào đón ở đó," Tombaugh sau này nhớ lại, "dù ông ta sẽ phải có một chuyến bay dài và lạnh giá." Dù đã có khoảnh khắc sớm này, năm 2000, NASA đã hủy bỏ phi vụ "Pluto Kuiper Express", với các lý do chi phí gia tăng và những chậm trễ trong việc chế tạo phương tiện phóng. Sau một cuộc chiến chính trị căng thẳng, một phi vụ mới tới Sao Diêm Vương, với cái tên "New Horizons", đã được chính phủ Hoa Kỳ cung cấp chi phí năm 2003.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
"New Horizons" được phóng thành công ngày 19 tháng 1 năm 2006. Lãnh đạo sứ mệnh, S. Alan Stern, xác nhận rằng một số tro từ thi hài Clyde Tombaugh, đã mất năm 1997, đã được đặt trên con tàu. Đầu năm 2007 lợi dụng hỗ trợ hấp dẫn từ Sao Mộc. Lần tiếp cận gần nhất của nó tới Sao Diêm Vương đã diễn ra ngày 14 tháng 7 năm 2015; những quan sát khoa học với Sao Diêm Vương sẽ bắt đầu từ năm tháng trước cuộc tiếp cận gần và sẽ tiếp tục ít nhất một tháng sau lần gặp mặt. "New Horizons" đã chụp những bức ảnh đầu tiên (từ xa) về Sao Diêm Vương hồi cuối tháng 9 năm 2006, trong cuộc thử nghiệm thiết bị Long Range Reconnaissance Imager (LORRI). Các bức ảnh, được chụp từ khoảng cách xấp xỉ 4.2 tỷ km, xác nhận khả năng thám sát các mục tiêu xa của tàu vũ trụ, khả năng cần thiết để tiến tới gần Sao Diêm Vương và các vật thể khác trong Vành đai Kuiper. "New Horizons" sẽ sử dụng một gói cảm biến từ xa gồm các thiết bị hình ảnh và thiết bị radio khảo sát khoa học, cũng như máy quang phổ và các thiết bị khác, để xác định địa chất và hình thái của Sao Diêm Vương cùng vệ tinh Charon của nó, vẽ bản đồ thành phần bề mặt hai vật thể và phân tích khí quyển trung tính của Sao Diêm Vương cùng tỷ lệ tốc độ thoát của nó. "New Horizons" cũng sẽ chụp ảnh bề mặt Sao Diêm Vương và Charon. Sự khám phá các vệ tinh Nix và Hydra có thể đặt ra những thách thức chưa được dự tính với tàu vụ trụ. Những vụn rác từ các vụ va chạm giữa các vật thể trong Vành đai Kuiper và các vệ tinh nhỏ hơn, với tốc độ thoát khá nhỏ của chúng, có thể tạo ra một vòng đai rác mảnh. Nếu New Horizons phải bay qua một vòng đai như vậy, nhiều khả năng vi thiên thạch có thể gây hư hại cho con tàu. Tranh cãi tình trạng hành tinh. Tình trạng chính thức của Sao Diêm Vương với tư cách một hành tinh đã là một chủ đề tranh cãi ít nhất từ năm 1992, khi Vật thể Vành đai Kuiper đầu tiên, , được phát hiện. Kể từ đó, các khám phá mới càng làm cuộc tranh cãi thêm căng thẳng. Tưởng nhớ tư cách một hành tinh.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Tưởng nhớ tư cách một hành tinh. Sao Diêm Vương được thể hiện như một hành tinh trên Đĩa Pioneer, một bản khắc được đặt trên các con tàu vũ trụ "Pioneer 10" và "Pioneer 11", phóng đi hồi đầu thập niên 1970. Tấm đĩa này được dự định cung cấp thông tin về nguồn gốc tàu vũ trụ cho bất kỳ một nền văn minh nào ngoài Trái Đất có thể gặp chúng trong tương lai, gồm cả một giản đồ về Hệ Mặt Trời, với chín hành tinh. Tương tự, một hình ảnh tương tự chứa bên trong thiết bị Voyager Golden Record được đặt trong tàu vũ trụ "Voyager 1" và "Voyager 2" (cũng được phóng hồi thập niên 1970) có bao gồm dữ liệu về Sao Diêm Vương và cũng thể hiện nó như hành tinh thứ chín. Nhân vật Pluto trong các bộ phim hoạt hình của Disney, xuất hiện năm 1930, cũng được đặt tên đó để kỷ niệm hành tinh này. Năm 1941, Glenn T. Seaborg đã đặt tên cho nguyên tố mới được tạo ra là plutoni để vinh danh Sao Diêm Vương, và cũng để giữ truyền thống đặt tên các nguyên tố theo các hành tinh mới được tìm ra (urani theo Sao Thiên Vương (Uranus), neptuni theo Sao Hải Vương (Nepturne), dù truyền thống này cũng được sử dụng đối với một số vật thể không phải hành tinh: ceri được đặt theo tên Ceres và palladi theo tên Pallas). Những khám phá mới dẫn tới tranh cãi. Sự khám phá Vành đai Kuiper và mối quan hệ của Sao Diêm Vương với vành đai này khiến nhiều người đặt câu hỏi liệu Sao Diêm Vương có nên được coi là một vật thể riêng biệt khỏi vành đai hay không. Năm 2002, vật thể 50000 Quaoar thuộc vành đai được phát hiện, với đường kính khoảng 1,280 kilômét, bằng một nửa Sao Diêm Vương. Năm 2004, những người khám phá 90377 Sedna đã đặt một giới hạn trên là 1,800 kilômét đường kính, gần bằng đường kính Sao Diêm Vương 2,320 kilômét vào năm đó. Giống như Ceres cuối cùng bị mất tư cách hành tinh sau sự khám phá các tiểu hành tinh khác, vì thế, vấn đề được đặt ra, Sao Diêm Vương phải được xếp hạng lại như một trong những vật thể thuộc vành đai Kuiper. Ngày 29 tháng 7 năm 2005, sự khám phá một vật thể ngoài Sao Hải Vương được thông báo. Được đặt tên Eris, lúc đầu nó hơi lớn hơn Sao Diêm Vương và là vật thể lớn nhất được phát hiện trong Hệ Mặt Trời từ khi phát hiện Triton năm 1846.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Những người phát hiện ra nó và báo chí ban đầu gọi nó là "hành tinh thứ mười", dù không có sự đồng thuật chính thức ở thời điểm đó về việc có nên gọi nó là một hành tinh hay không. Những người khác trong giới thiên văn học coi sự khám phá là lý lẽ mạnh mẽ nhất đòi hỏi xếp hạng lại Sao Diêm Vương như một tiểu hành tinh. Những đặc tính gây tranh cãi khác của Sao Diêm Vương là vệ tinh lớn, Charon, và khí quyển của nó. Những đặc tính này có lẽ không phải duy nhất của Sao Diêm Vương: nhiều vật thể ngoài Sao Hải Vương khác cũng có vệ tinh, và quang phổ của Eris cho thấy bề mặt nó có thành phần tương tự Sao Diêm Vương. Nó cũng có một vệ tinh, Dysnomia, được phát hiện tháng 9 năm 2005. Giám đốc các viện bảo tàng và cung thiên văn thỉnh thoảng gây ra tranh cãi khi bỏ Sao Diêm Vương khỏi các mô hình hành tinh của Hệ Mặt Trời. Một số lần hành động đó là có chủ ý; Cung thiên văn Hayden mở cửa trở lại sau khi được sửa chữa năm 2000 với một mô hình chỉ gồm tám hành tinh. Cuộc tranh cãi đã được đưa lên trang đầu các báo ở thời điểm đó. Đại hội Hiệp hội Thiên văn Quốc tế. Từ 16 đến 24 tháng 8 năm 2006, 3.000 nhà thiên văn học và nhà khoa học thuộc Hiệp hội Thiên văn Quốc tế (IAU) đã gặp nhau tại Praha, Cộng hòa Séc để thảo luận về định nghĩa hành tinh. Tổ chức này có kế hoạch chính thức đưa ra định nghĩa hành tinh, và từ đó để xác định Sao Diêm Vương là hành tinh, hành tinh lùn ("dwarf planet") hay là một thiên thể vành đai Kuiper (KBO). Ban đầu, tổ chức này có ý định phân loại Sao Diêm Vương cùng với 2003 UB313 và các thiên thể hình cầu thuộc loại thiên thể ngoài Sao Hải Vương mà có thể sẽ được phát hiện ra, là các hành tinh, mặc dù chúng rất "gần gũi" với Sao Diêm Vương. Ceres và vệ tinh tự nhiên Charon của Sao Diêm Vương, cũng được xem như là các hành tinh lùn. Tuy nhiên, đến ngày 24 tháng 8 năm 2006, dự định ban đầu đã có thay đổi.
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Theo nghị quyết 5A được thông qua, 3 tiêu chí để một thiên thể được coi là hành tinh trong Hệ Mặt Trời như sau : Sao Diêm Vương không đáp ứng được tiêu chí thứ ba, vì quỹ đạo rất dẹt của nó cắt quỹ đạo Sao Hải Vương, là hành tinh lớn hơn nó nhiều. Theo nghị quyết 6A, Sao Diêm Vương được phân loại là hành tinh lùn (cùng loại với nó là Ceres và Eris). Ngày 7 tháng 9 năm 2006, Sao Diêm Vương đã được ấn định số tiểu hành tinh 134340, do Trung tâm Minor Planet, cơ quan chính thức chịu trách nhiệm thu thập dữ liệu về các tiểu hành tinh và sao chổi trong hệ mặt trời, đưa ra. Nó được công nhận là hình mẫu cho một loại thiên thể mới gồm các thiên thể phía ngoài Sao Hải Vương. Vào tháng 6 năm 2008, IAU đã thông báo trong báo chí rằng thuật ngữ "plutoid" từ đó sẽ được sử dụng để chỉ Sao Diêm Vương và những vật thể có khối lượng hành tinh khác nằm xa hơn Sao Hải Vương, dù thuật ngữ này không được áp dụng nhiều. Sau khi phân loại lại danh hiệu của Sao Diêm Vương vào tháng 8 năm 2006, đã có một số tranh cãi nảy lửa trong cộng đồng thiên văn học. Một số nhà khoa học cũng phản đối về cách phân loại này, điển hình là Alan Stern, trưởng nhóm sứ mệnh New Horizons của NASA, đã chế giễu nghị quyết của IAU, nói rằng "định nghĩa này không khả thi và sai cơ bản về mặt khoa học". Stern cho rằng, theo định nghĩa mới này, cả Trái Đất, Sao Hỏa, Sao Mộc và Sao Hải Vương sẽ không phải là hành tinh vì quỹ đạo của chúng vẫn còn quá nhiều tiểu hành tinh chưa thể dọn sạch. Ông còn lập luận rằng tất cả các vệ tinh lớn dạng cầu, bao gồm cả Mặt Trăng của Trái Đất, cũng nên được coi là hành tinh. Ông cũng tuyên bố rằng vì chỉ có ít hơn 5% các nhà thiên văn học đã bỏ phiếu cho tiêu chí thứ ba, nên quyết định này không mang tính đại diện cho toàn cộng đồng thiên văn học. Nhà thiên văn học Marc W. Buie, lúc đó làm việc tại Đài quan sát Lowell, đã kiến ​​nghị không sử dụng định nghĩa này. Biểu quyết của công chúng đã khẳng định rằng Sao Diêm Vương bị IAU "giáng cấp xuống thành "hành tinh lùn" một cách không công bằng".
Sao Diêm Vương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3241
Một số thành viên công chúng cũng đã bác bỏ sự thay đổi đó, dẫn đến sự bất đồng trong cộng đồng khoa học về vấn đề này hoặc những lý do về mặt cảm tình. Và họ vẫn duy trì sự hiểu biết về Sao Diêm Vương như một hành tinh và mãi mãi sẽ như vậy, bất chấp những nghị quyết trong định nghĩa hành tinh của IAU.
Sông Hồng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3243
Sông Hồng (còn gọi là sông Cái, sông Thao, Nhị Hà, Nhĩ Hà) là con sông có tổng chiều dài là 1.149 km bắt nguồn từ Vân Nam, Trung Quốc chảy qua miền Bắc Việt Nam và đổ ra vịnh Bắc Bộ, trên đất Việt Nam dài 510 km. Đây là dòng sông quan trọng của nền văn hóa lúa nước Việt Nam. Tên gọi. Sông được gọi là "Sông Hồng" (chữ Nôm: 瀧紅) hay "Hồng Hà" (chữ Hán: 紅河) do con sông có màu đỏ nhạt. Sông cũng hay được gọi "Sông Cái" (người Pháp đã phiên tên gọi này thành "Song-Koï", tuy nhiên họ thường dùng tên gọi "Fleuve Rouge" hơn) bởi sông Hồng là khởi nguyên cho nền Văn minh lúa nước của Việt Nam. Đoạn chảy trên lãnh thổ Trung Quốc được gọi là "Nguyên Giang" (元江, bính âm: "yuan2 jiang1"), đoạn đầu nguồn có tên là "Lễ Xã Giang" (禮社江). Dòng chảy và lưu lượng. Dòng chính. Dòng chính (chủ lưu) của sông Hồng bắt nguồn từ vùng núi thuộc huyện Nguy Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ở độ cao 1.776 m. Chi lưu phía đông bắt nguồn từ vùng núi huyện Tường Vân. Chủ yếu nó chảy theo hướng tây bắc-đông nam, qua huyện tự trị Nguyên Giang của người Thái (傣 "Dăi"), Di (彞), Cáp Nê (哈尼 "Hani", ở Việt Nam gọi là người Hà Nhì). Đến biên giới Việt - Trung, sông Hồng chạy dọc theo biên giới khoảng 80 km; bờ nam sông thuộc Việt Nam, bờ bắc vẫn là lãnh thổ Trung Quốc. Điểm tiếp xúc đầu tiên của sông Hồng với lãnh thổ Việt Nam là tại xã A Mú Sung (huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai), chính giữa sông là điểm phân chia lãnh thổ hai nước. Đến thành phố Lào Cai, sông Hồng chảy hẳn vào lãnh thổ Việt Nam. Đến phía đông thành phố Lào Cai, sông thành ranh giới giữa thành phố và huyện Bảo Thắng, đi qua Bảo Thắng và Bảo Yên, dọc theo ranh giới Bảo Yên và Văn Bàn. Sông chảy qua Văn Yên rồi Trấn Yên (Yên Bái) và thành phố Yên Bái, sang Hạ Hòa (Phú Thọ), dọc theo ranh giới giữa Hạ Hòa, Thanh Ba, thị xã Phú Thọ, Lâm Thao, Việt Trì ở tả ngạn và Cẩm Khê, Tam Nông ở hữu ngạn.
Sông Hồng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3243
Sông chảy dọc theo ranh giới giữa tỉnh Vĩnh Phúc (các huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc) ở tả ngạn và Hà Nội (các huyện, thị xã Ba Vì, Sơn Tây, Phúc Thọ) ở hữu ngạn. Sông chảy qua Hà Nội với các quận, huyện Đan Phượng, Bắc Từ Liêm, Tây Hồ, Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hoàng Mai, Hai Bà Trưng, Thanh Trì ở hữu ngạn và Mê Linh, Đông Anh, Long Biên, Gia Lâm ở tả ngạn. Sông thành ranh giới tự nhiên giữa: Ở Lào Cai Sông Hồng cao hơn mực nước biển 73 m. Đến Yên Bái cách Lào Cai 145 km thì sông chỉ còn ở cao độ 55 m. Giữa hai tỉnh đó là 26 ghềnh thác, nước chảy xiết. Đến Việt Trì thì triền dốc sông không còn mấy nên lưu tốc chậm hẳn lại. Đồng bằng sông Hồng nằm ở hạ lưu con sông này. Sông Hồng có lưu lượng nước bình quân hàng nǎm rất lớn, tới 2.640 m³/s (tại cửa sông) với tổng lượng nước chảy qua tới 83,5 tỷ m³, tuy nhiên lưu lượng nước phân bổ không đều. Về mùa khô lưu lượng giảm chỉ còn khoảng 700 m³/s, nhưng vào cao điểm mùa mưa có thể đạt tới 30.000 m³/s. Phụ lưu. Các phụ lưu của Sông Hồng bắt nguồn từ Trung Quốc qua Việt Nam tới biển là: Chi lưu. Từ Ngã ba Hạc xuống hạ lưu thì Sông Hồng không nhận thêm nước nữa mà bắt đầu rót nước sang các phân lưu. Lợi ích và nguy cơ. Nước Sông Hồng về mùa lũ có màu đỏ-hồng do phù sa mà nó mang theo, đây cũng là nguồn gốc tên gọi của nó. Lượng phù sa của Sông Hồng rất lớn, trung bình khoảng 100 triệu tấn trên nǎm tức là gần 1,5 kg phù sa trên một mét khối nước. Sông Hồng góp phần quan trọng trong sinh hoạt đời sống cũng như trong sản xuất. Phù sa giúp cho đồng ruộng thêm màu mỡ, đồng thời bồi đắp và mở rộng vùng châu thổ ở vùng duyên hải thuộc hai tỉnh Thái Bình, Nam Định. Nguồn cá bột của sông Hồng đã cung cấp giống đáng kể cho nghề nuôi cá nước ngọt ở đồng bằng Bắc Bộ.
Sông Hồng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3243
Do lượng phù sa lớn mà lòng sông luôn bị lấp đầy khiến cho lũ lụt thường xuyên xảy ra, vì thế mà từ lâu hai bên bờ sông người ta đã đắp lên những con đê to nhỏ để tránh lũ lụt ngăn nước. Sử sách đã ghi lại hàng trăm vụ vỡ đê lớn nhỏ ở sông Hồng. Bắt đầu từ nhà Lý trở đi (năm 1010), quốc sử mới có những ghi chép liên tục về chuyện vỡ đê, nhưng cũng chỉ ghi lại những năm lụt lớn: Sau năm 1971, do đê điều được củng cố và việc xây dựng các kênh đào, đập nước, đập thủy điện chia lũ nên lũ lụt không xảy ra nữa, tuy nhiên công tác canh phòng đê sông Hồng vẫn phải được duy trì liên tục, bởi nếu xảy ra sự cố thì hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Khai thác thủy điện. Nguồn thủy năng trong lưu vực sông Hồng tương đối dồi dào, điều kiện khai thác thuận lợi nhất là công trình trên sông nhánh, cho đến nay đã xây dựng các trạm thủy điện sau: Các trạm phát điện có công suất lắp máy dưới 10.000 kW tổng cộng là 843 với tổng công suất lắp đặt là 99.400 kW và 1 trạm thủy điện loại vừa ở Lục Thủy Hà có công suất 57.500 kW, như vậy mới khai thác chưa đến 5% khả năng thủy điện có thể khai thác trong lưu vực. Tổng công suất các trạm thủy điện trong lưu vực có thể khai thác đạt 3.375 triệu kW trong đó dòng chính sông Hồng chỉ chiếm 23% còn 77% tập trung ở các sông nhánh. Nét nổi bật về khai thác thủy điện lưu vực sông Hồng là: Nhưng do lượng phù sa lớn, làm nông dòng sông và lưu lượng chảy sẽ kém nên sẽ làm giảm hiệu quả hay phá hủy các công trình thủy điện trong tương lai gần đây. Lưu lượng. Bản thống kê lưu lượng nước qua từng tháng được thống kê trong bảng sau: Các cây cầu đường bộ vượt sông. Trên lãnh thổ Việt Nam (theo thứ tự từ Bắc đến Nam).
Đo lường
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3255
Đo lường là việc gán một số cho một đặc tính của một đối tượng hoặc sự kiện, có thể được so sánh với các đối tượng hoặc sự kiện khác. Phạm vi và ứng dụng của đo lường phụ thuộc vào bối cảnh và kỷ luật. Trong khoa học tự nhiên và kỹ thuật, các phép đo không áp dụng cho các tính chất danh nghĩa của các vật thể hoặc sự kiện, phù hợp với hướng dẫn của "International vocabulary of metrology (từ vựng quốc tế về đo lường)" được Văn phòng Cân đo Quốc tế công bố. Tuy nhiên, trong các lĩnh vực khác như thống kê cũng như khoa học xã hội và khoa học hành vi, các phép đo có thể có nhiều cấp độ, bao gồm thang đo danh nghĩa, thứ tự, khoảng thời gian và tỷ lệ. Đo lường là nền tảng của thương mại, khoa học, công nghệ và nghiên cứu định lượng trong nhiều lĩnh vực. Trong lịch sử, nhiều hệ thống đo lường tồn tại cho các lĩnh vực khác nhau của con người để tạo điều kiện so sánh trong các lĩnh vực này. Thông thường những điều này đã đạt được bởi các thỏa thuận địa phương giữa các đối tác thương mại hoặc cộng tác viên. Từ thế kỷ 18, các phát triển đã tiến tới thống nhất, các tiêu chuẩn được chấp nhận rộng rãi dẫn đến Hệ thống Đơn vị Quốc tế (SI) hiện đại. Hệ thống này giảm tất cả các phép đo vật lý thành một tổ hợp toán học gồm bảy đơn vị cơ sở. Khoa học về đo lường được theo đuổi trong lĩnh vực đo lường học. Phương pháp luận. Việc đo lường một thuộc tính có thể được phân loại theo các tiêu chí sau: loại, cường độ, đơn vị và độ không chắc chắn. Chúng cho phép so sánh rõ ràng giữa các phép đo. Tiêu chuẩn hóa các đơn vị đo lường. Các phép đo thường sử dụng Hệ thống đơn vị quốc tế (SI) làm khung so sánh. Hệ thống xác định bảy đơn vị cơ bản: kilôgam, mét, candela, giây, ampere, kelvin và mol. Sáu trong số các đơn vị này được xác định mà không cần tham chiếu đến một vật thể cụ thể đóng vai trò là một tiêu chuẩn (không có tạo tác), trong khi kilôgam vẫn được thể hiện trong một vật phẩm nằm tại trụ sở của Văn phòng cân đo Quốc tế ở Sèvres gần Paris.
Đo lường
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3255
Các định nghĩa không có tạo tác cố định các phép đo ở một giá trị chính xác liên quan đến hằng số vật lý hoặc các hiện tượng bất biến khác trong tự nhiên, trái ngược với các tạo tác tiêu chuẩn có thể bị suy giảm hoặc phá hủy. Thay vào đó, đơn vị đo chỉ có thể thay đổi thông qua độ chính xác tăng trong việc xác định giá trị của hằng số được gắn với đơn vị đó. Đề xuất đầu tiên để buộc một đơn vị cơ sở SI với một tiêu chuẩn thử nghiệm độc lập với fiat là bởi Charles Sanders Peirce (1839-1914), người đã đề xuất xác định mét theo bước sóng của vạch quang phổ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến thí nghiệm Michelson-Morley; Michelson và Morley đã trích dẫn Peirce, và cải thiện phương pháp của mình. Tiêu chuẩn. Ngoại trừ một vài hằng số lượng tử cơ bản, các đơn vị đo lường được lấy từ các thỏa thuận lịch sử. Không có gì vốn có trong tự nhiên chỉ ra rằng một inch phải có chiều dài nhất định, cũng không phải là một dặm là thước đo khoảng cách tốt hơn một km. Tuy nhiên, trong suốt lịch sử loài người, trước tiên là vì sự thuận tiện và sau đó là sự cần thiết, các tiêu chuẩn đo lường đã phát triển để cộng đồng có những điểm chuẩn nhất định. Luật điều chỉnh đo lường ban đầu được phát triển để ngăn chặn gian lận trong thương mại. Các đơn vị đo lường thường được xác định trên cơ sở khoa học, được giám sát bởi các cơ quan chính phủ hoặc độc lập và được thành lập trong các điều ước quốc tế, trước đó là Hội nghị chung về Trọng lượng và Đo lường (CGPM), được thành lập năm 1875 bởi Công ước mét, giám sát Hệ thống đơn vị quốc tế (SI). Ví dụ, đồng hồ được định nghĩa lại vào năm 1983 bởi CGPM về tốc độ ánh sáng, kilôgam được xác định lại vào năm 2019 theo hằng số Planck và yard quốc tế được xác định vào năm 1960 bởi chính phủ Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Úc và Nam Phi "chính xác" là 0,9144 mét. Tại Hoa Kỳ, Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia (NIST), một bộ phận của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, quy định các phép đo thương mại.
Đo lường
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3255
Tại Vương Quốc Anh, vai trò này được giao cho Phòng thí nghiệm vật lý quốc gia (NPL), tại Úc do Viện đo lường quốc gia, tại Nam Phi do Hội đồng nghiên cứu khoa học và công nghiệp và ở Ấn Độ do Phòng thí nghiệm vật lý quốc gia Ấn Độ thực hiện. Đơn vị và hệ thống. Hệ thống đơn vị của Hoàng gia Anh và Hoa Kỳ. Trước khi các đơn vị SI được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới, các hệ thống đơn vị Anh và các đơn vị Hoàng gia sau này đã được sử dụng ở Anh, Khối thịnh vượng chung và Hoa Kỳ. Hệ thống này được gọi là các đơn vị thông thường (phong tục) của Hoa Kỳ tại Hoa Kỳ và vẫn còn được sử dụng ở nước này và ở một số quốc gia Caribbean. Các hệ thống đo lường khác nhau này đôi khi được gọi là hệ thống "foot-pound-second" để nhấn mạnh các đơn vị Hoàng gia về chiều dài, trọng lượng và thời gian, mặc dù ton, hundredweight, gallon, và hải lý, là khác với các đơn vị của Hoa Kỳ. Nhiều đơn vị Hoàng gia vẫn được sử dụng ở Anh, mà đã chính thức chuyển sang hệ thống với SI một vài trường hợp ngoại lệ như biển báo giao thông, vẫn đề theo đơn vị dặm. Bia tươi và rượu táo phải được bán theo đơn vị pint, và sữa trong chai có thể trả lại có thể được bán theo đơn vị pint. Nhiều người đo chiều cao của họ tính bằng feet và inch, và đo cân nặng của họ theo stone và pound. Các đơn vị hoàng gia được sử dụng ở nhiều nơi khác, ví dụ, ở nhiều quốc gia Khối thịnh vượng chung được coi là số liệu, diện tích đất được đo bằng acre và diện tích sàn tính bằng feet vuông, đặc biệt là cho các giao dịch thương mại (thay vì thống kê của chính phủ). Tương tự, xăng được bán theo gallon ở nhiều quốc gia theo hệ mét. Hệ mét. Hệ mét là một hệ thống đo lường thập phân dựa trên các đơn vị đo chiều dài là mét và khối lượng là kilôgam. Nó tồn tại trong một số biến thể, với các lựa chọn khác nhau của các đơn vị cơ sở, mặc dù những điều này không ảnh hưởng đến việc sử dụng hàng ngày của nó. Kể từ những năm 1960, Hệ thống Đơn vị Quốc tế (SI) là hệ thống số liệu được quốc tế công nhận. Đơn vị đo khối lượng, chiều dài và điện được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới cho cả mục đích khoa học và hàng ngày. Khó khăn của đo lường.
Đo lường
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3255
Khó khăn của đo lường. Việc đo lường thường xuyên được đặt trước yêu cầu giảm sai số của phép đo đến dưới mức nào đó. Thực tế việc này nhiều khi rất khó. Trong vật lý. Một phần của khó khăn có thể nằm trong giới hạn tự nhiên của nguyên lý bất định, nhất là khi làm việc với các vật thể vi mô (kích thước nhỏ hơn micrômét). Khó khăn có thể nằm trong giới hạn về không gian và thời gian của loài người khi nghiên cứu về các vật thể ở khoảng cách và ở thời điểm xa trong vũ trụ. Trong khoa học xã hội. Khó khăn có thể xuất phát từ định nghĩa khái niệm, định nghĩa phép so sánh và mục đích của đo lường. Ví dụ một số khái niệm khó đo đạc như
Hồng Hà (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3256
Trong tiếng Việt, Hồng Hà có thể có nghĩa là:
Sông Cái Nha Trang
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3258
Sông Cái Nha Trang, còn có tên là sông Phú Lộc, sông Cù, là sông lớn nhất tỉnh Khánh Hòa . Sông có chiều dài 84 km, diện tích lưu vực 1.732 km² . Lưu vực này bao gốm toàn bộ 2 huyện Khánh Vĩnh và Diên Khánh, thành phố Nha Trang (trừ xã Vĩnh Lương) và khu vực Tây Bắc huyện Cam Lâm, độ cao trung bình 548 m, độ dốc trung bình 22,8%, mật độ sông suối 0,82 km/ km². Có 15 phụ lưu với chiều dài trên 10 km. Tổng lượng nước cả năm 1,79 km³, tương ứng với độ sâu dòng chảy 940 mm, môđun dòng chảy 29,8 l/s. km². Mùa lũ từ tháng 10 đến tháng 12, chiếm khoảng 73% lượng dòng chảy cả năm, môđun mùa lũ 240 l/s. km². Mùa cạn từ tháng 1 đến tháng 9, chiếm khoảng 27% lượng nước cả năm, môđun dòng chảy mùa cạn 10 - 18 l/s. km². Các nhánh Sông/Suối. Sông phát nguyên từ Hòn Gia Lê, cao 1.812 m, chảy qua các huyện Khánh Vĩnh, Diên Khánh và thành phố Nha Trang rồi đổ ra biển ở Cửa Lớn (Đại Cù Huân). Sông Cái Nha Trang có 7 phụ lưu, bắt nguồn ở độ cao từ 900 đến 2.000 m nhưng lại rất ngắn, thường dưới 20 km nên độ dốc rất lớn tạo nhiều ghềnh thác ở thượng lưu. Sông chảy đến thôn Xuân Lạc, xã Vĩnh Ngọc, thành phố Nha Trang thì chia làm hai nhánh: Một nhánh chảy theo hướng Đông-Nam, men theo chân núi Đồng Bò, chảy xuống Trường Đông, Vĩnh Trường và chảy ra cửa biển Tiểu Cù Huân, gọi là Cửa Bé. Nhánh này hiện nay đã bị lấp, chỉ đến mùa nước lũ, dòng chính mới hiện rõ. Nhánh thứ hai chảy xiên theo hướng Đông - Bắc (đây là nhánh chính của sông Cái) từ Xuân Lạc, xã Vĩnh Ngọc chảy đến Ngọc Hội, sông chia làm 2 chi: Hai chi trước khi chảy ra cửa biển, gặp nhau và cùng ôm lấy cồn đất phù sa, tên gọi là Cồn Dê (Cồn Ngọc Thảo). Phần thượng lưu của sông Cái Nha Trang có rất nhiều thác. Từ cửa sông Chò trở lên thì có thác Đồng Trăng, thác Ông Hào, thác Đá Lửa, thác Nhét, thác Mòng, thác Võng.
Sông Cái Nha Trang
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3258
Qua khỏi thác Võng thì có thác Dằng Xay, thác Tham Dự, thác Ngựa, thác Hông Tượng, thác Trâu Đụng, thác Giang Ché, thác Trâu Á, thác Nai, thác Rùa, thác Hòm... Phần trên nguồn còn có rất nhiều thác nhưng ít người lên đến nên không có tên gọi.
Nguyên Giang
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3259
Nguyên Giang có thể là tên gọi của:
Đo lường học
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3262
Đo lường học (tiếng Anh: "metrology") là "khoa học của việc đo lường, bao gồm cả xác định thực nghiệm và lý thuyết tại bất kỳ mức độ không chắc chắn nào trong bất kỳ lĩnh vực khoa học và công nghệ".
Ma trận vuông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3263
Trong toán học, ma trận vuông là một ma trận có số hàng bằng số cột. Một ma trận "n x n" được biết đến như một ma trận vuông bậc formula_1. Bất kỳ hai ma trận vuông có cùng một bậc có thể được cộng và nhân với nhau. Ma trận vuông thường được sử dụng để biểu diễn các phép biến đổi tuyến tính đơn giản, chẳng hạn như cắt hoặc xoay. Ví dụ, nếu formula_2 là một ma trận vuông biểu thị một phép quay (ma trận quay) và formula_3 là một vectơ cột mô tả vị trí của một điểm trong không gian, tích formula_4 là một vectơ cột khác mô tả vị trí của điểm đó sau phép quay đó. Nếu formula_3 là một vectơ hàng, có thể thu được phép biến đổi tương tự bằng cách sử dụng formula_6, với formula_7 là ma trận chuyển vị của formula_2.
Hệ thống sông Thái Bình
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3268
Hệ thống sông Thái Bình là hệ thống các sông có hoạt động gắn với sông Thái Bình, gồm các phụ lưu và chi lưu của nó. Các phụ lưu chính gồm sông Cầu, sông Thương và sông Lục Nam ở thượng nguồn với tổng chiều dài khoảng 1.650 km và diện tích lưu vực khoảng 10.000 km². Ngoài ra, hệ thống sông này còn nhận một phần dòng chảy của sông Hồng, để đổ ra biển Đông. Lưu vực của sông. Sông Cầu dài 290 km, bắt nguồn từ Bắc Kạn chảy qua Thái Nguyên) và làm ranh giới hai tỉnh Bắc Giang - Bắc Ninh. Sông Thương phát nguyên từ Lạng Sơn chảy qua các huyện Lạng Giang, Yên Thế, Tân Yên, thành phố Bắc Giang, Yên Dũng và dài khoảng 80 km. Sông Lục Nam phát nguyên từ Đình Lập (Lạng Sơn), chảy qua các huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam (Bắc Giang) với tổng chiều dài hơn 200 km. Chỗ hợp lưu của các con sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam, Đuống, Kinh Thầy và nhánh chính sông Thái Bình tại Chí Linh gọi là sông Lục Đầu, hay Lục Đầu Giang (tên cũ là sông Phù Lan), do đây là nơi sáu con sông gặp nhau. Dòng chính của hệ thống sông này, chảy qua tỉnh Hải Dương và đổ ra biển bằng tại "cửa Thái Bình" (nằm ở giữa ranh giới hai huyện Tiên Lãng và Thái Thụy) dài 385 km, qua ranh giới hai huyện Tiên Lãng và Vĩnh Bảo của thành phố Hải Phòng. Do hệ thống sông Thái Bình có nối với sông Hồng bởi sông Đuống (ở thượng lưu) và sông Luộc (ở hạ lưu) nên đôi khi người ta còn gọi hệ thống này là "hệ thống sông Hồng-Thái Bình" và nó tạo ra khu vực đồng bằng Bắc Bộ. Hệ thống này giúp phân nước sông Hồng khi mùa lũ, làm giảm thiệt hại ở hạ lưu sông Hồng. Các chi lưu. Các chi lưu khác chảy ra biển của hệ thống sông Thái Bình đều nằm về phía tả ngạn sông Thái Bình: Ngoài ra còn các sông nhánh khác như sông Lai Vu, sông Giá (Thủy Nguyên), sông Đa Độ (Kiến An-Đồ Sơn), sông Tam Bạc v.v. Sông Thái Bình. Dòng chính sông Thái Bình gồm hai đoạn. Đoạn một bắt đầu từ ngã ba Lác, phía dưới phường Phả Lại, thành phố Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương, chảy qua đất Hải Dương tới ngã ba Mía dài khoảng 64 km.
Hệ thống sông Thái Bình
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3268
Đoạn hai từ Quý Cao (xã Nguyên Giáp, huyện Tứ Kỳ), nơi kết thúc sông Luộc, sang địa phận thành phố Hải Phòng, men theo ranh giới huyện Vĩnh Bảo với huyện Tiên Lãng và rồi chảy dọc theo ranh giới giữa huyện Tiên Lãng (Hải Phòng) với tỉnh Thái Bình, đổ ra cửa Thái Bình ở vị trí giáp ranh hai tỉnh này với chiều dài đoạn này khoảng 36 km. Dòng mang tên Thái Bình này, chỉ chảy men theo tỉnh Thái Bình ở đoạn cuối, mà không chảy cắt qua địa phận tỉnh Thái Bình. Phần hệ thống sông Thái Bình liên quan tới tỉnh Thái Bình là sông Luộc và một con sông nhỏ là sông Hóa. Hai đoạn này thông với sông Văn Úc bằng ba sông nhỏ, dài khoảng 3 km mỗi sông là sông Cầu Xe, sông Mía và sông Kênh Khê. Lưu lượng. Do phần lớn lưu vực của hệ thống sông Thái Bình bắt nguồn từ các vùng đồi trọc miền Đông Bắc, đất đai bị xói mòn nhiều nên nước sông rất đục, hàm lượng phù sa cao. Do đặc điểm lòng sông rộng, ít dốc, đáy nông nên sông Thái Bình là một trong những sông bị bồi lấp nhiều nhất. Theo tài liệu thực tế thì mức nước lũ lụt lịch sử sông Thái Bình đo được tại Phả Lại năm 1971 đạt tới 7,21 m với lưu lượng lớn nhất tại Cát Khê, Bến Bình là 5.000 m³. Lưu lượng nước hàng năm đạt khoảng 53 tỷ m³.
Sông Cầu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3269
Sông Cầu (còn gọi là "sông Như Nguyệt", "sông Phú Lương" (Phú Lương Giang, 富良江), "sông Thị Cầu", "sông Nguyệt Đức" hay mỹ danh "dòng sông quan họ"), là con sông quan trọng nhất trong hệ thống sông Thái Bình, sông nằm lọt trong vùng Đông Bắc Việt Nam . Lưu vực sông Cầu là một trong năm con sông dài nhất ở miền Bắc Việt Nam (Hồng, Đà, Lô, Cầu, Đáy) và cũng là một trong những lưu vực sông lớn ở Việt Nam, có vị trí địa lý đặc biệt, đa dạng và phong phú về tài nguyên cũng như về lịch sử phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh nằm trong lưu vực của nó. Dòng chảy. Sông Cầu bắt nguồn từ phía Nam đỉnh Phia Boóc (cao 1.578 m) của dãy Văn Ôn trong địa phận xã Phương Viên huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn, chảy ngoằn ngoèo giữa hai dãy núi Ngân Sơn và dãy núi Sông Gâm theo hướng bắc tây bắc-nam đông nam tới địa phận xã Dương Phong, huyện Bạch Thông rồi đổi hướng để chảy theo hướng tây tây nam-đông đông bắc qua thành phố Bắc Kạn tới xã Mỹ Thanh huyện Bạch Thông. Tại đây nó đổi hướng để chảy theo hướng đông bắc-tây nam. Tại xã Nông Hạ huyện Chợ Mới nó nhận một chi lưu phía hữu ngạn, chảy về từ xã Mai Lạp cùng huyện theo hướng tây bắc-đông nam. Tới địa phận thị trấn Chợ Mới, nó nhận một chi lưu nữa phía hữu ngạn rồi đổi hướng sang tây bắc-đông nam. Tới địa phận xã Vân Lăng (huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên), nhận một chi lưu phía tả ngạn rồi đổi hướng sang bắc đông bắc-nam tây nam. Tới xã Sơn Cẩm, thành phố Thái Nguyên nhận tiếp một chi lưu phía hữu ngạn là sông Đu rồi chảy qua lòng thành phố. Chảy tới xã Nga My huyện Phú Bình thì đổi sang hướng đông bắc-tây nam tới xã Thuận Thành, thị xã Phổ Yên nhận tiếp một chi lưu là sông Công.
Sông Cầu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3269
Tới ranh giới xã Mai Đình huyện Hiệp Hòa và xã Việt Long huyện Sóc Sơn (Hà Nội) nó nhận một chi lưu nhỏ phía hữu ngạn là sông Cà Lồ rồi chảy tiếp về phía đông qua ranh giới của hai huyện Việt Yên-Bắc Giang và Yên Phong-Bắc Ninh rồi hợp lưu với sông Thương tại ngã ba Lác (nơi giáp ranh giữa Đồng Phúc, Đức Long và Phả Lại) để tạo thành sông Thái Bình. Thông số chính. Sông Cầu có diện tích lưu vực khoảng 6.030 km², với chiều dài khoảng 290 km, độ cao bình quân lưu vực: 190 m, độ dốc bình quân 16,1%, chiều rộng lưu vực trung bình: 31 km, mật độ lưới sông 0,95 km/km² và hệ số uốn khúc 2,02. Chế độ thủy văn. Lưu vực sông Cầu có dòng chính là sông Cầu với chiều dài 290 km bắt nguồn từ núi Văn Ôn (Vạn On) ở độ cao 1.170 m và đổ vào sông Thái Bình ở Phả Lại. Trong lưu vực sông Cầu có tới 26 phụ lưu cấp một với tổng chiều dài 670 km và 41 phụ lưu cấp hai với tổng chiều dài 645 km và hàng trăm km sông cấp ba, bốn và các sông suối ngắn dưới 10 km. Lưu vực sông Cầu nằm trong vùng mưa lớn (1.500-2.700 mm/năm) của các tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên. Tổng lưu lượng nước hàng năm đạt đến 4,2 tỷ m³. Sông Cầu được điều tiết bằng hồ Núi Cốc trên sông Công (một chi lưu của nó) với dung tích hàng trăm triệu m³. Chế độ thủy văn của các sông trong lưu vực sông Cầu được chia thành 2 mùa: Lưu lượng dòng chảy trung bình các tháng trong năm chênh lệch nhau tới 10 lần, mực nước cao và thấp nhất chênh nhau khá lớn, có thể tới 5–6 m. Các vấn đề liên quan.
Sông Cầu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3269
Do việc khai thác và phát triển chưa hợp lý như phát triển công nghiệp và khai khoáng ồ ạt, chặt phá rừng phòng hộ đầu nguồn cũng như phát triển làng nghề chưa có quy hoạch cụ thể và việc xử lý nước thải còn bị coi nhẹ v.v nên nguồn nước, cảnh quan và hệ sinh thái của sông Cầu cũng như lưu vực đang bị suy thoái và có nguy cơ cạn kiệt, nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm nặng nề, giảm giá trị sử dụng, ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống, môi trường sinh thái, cảnh quan thiên nhiên. Ngày 23 tháng 6 năm 2001, tại thị xã Bắc Giang đã diễn ra Hội nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân 6 tỉnh (thuộc đề án sông Cầu) lần thứ 4 nhằm tìm ra giải pháp toàn diện cho các vấn đề kể trên. Tại hội nghị đã ký "Thỏa ước về hợp tác bảo vệ và khai thác bền vững sông Cầu và lưu vực sông Cầu". Hiện trên sông Cầu có các cây cầu bắc qua: Sự kiện lịch sử. Năm 1077 trên sông Như Nguyệt, quân đội nhà Lý do danh tướng Lý Thường Kiệt chỉ huy đã đánh bại đội quân xâm lược của nhà Bắc Tống gồm 100.000 quân do Quách Quỳ chỉ huy. Văn hóa. Thánh Tam Giang. Trong truyền thuyết, vị thần cai quản sông Cầu là Đức thánh Tam Giang, do hai tướng Trương Hống, Trương Hát của Triệu Việt Vương sau khi chết được phong thần. Sau này hai ông đã hiển linh giúp Nam Tấn Vương đánh Lý Huy, các quân Việt Nam đánh quân phương Bắc (thời Ngô Quyền, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt...). Đồng thời hai ông cũng cai quản cả sông Long Nhỡn (sông Thương), sông Đuống. Dòng sông Quan họ. Phần sông Cầu đoạn chảy qua ranh giới 2 tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh tập trung hầu hết các làng quan họ của vùng văn hóa Kinh Bắc. Do đó mà sông Cầu được gọi là "dòng sông quan họ" trong thơ ca và trong bài hát nổi tiếng của Phan Lạc Hoa mang tên "Tình yêu trên dòng sông quan họ":
Đơn vị đo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3270
Đơn vị đo lường hay đơn vị đo là bất kỳ một đại lượng vật lý, hay tổng quát là một khái niệm, nào có thể so sánh được, ở điều kiện tiêu chuẩn (thường không thay đổi theo thời gian) dùng để làm mốc so sánh cho các đại lượng cùng loại trong đo lường. Trên thế giới đang tồn tại nhiều hệ các đơn vị đo lường ("hệ đo lường"). Hệ đo lường được sử dụng phổ biến nhất là hệ đo lường quốc tế hay còn gọi là hệ đo lường SI. Ví dụ. Lấy ví dụ đại lượng vật lý khối lượng, một đại lượng có thể so sánh về độ lớn, có thể dùng đơn vị đo là khối lượng của một vật thể ở trong một điều kiện không thay đổi theo thời gian. Trong hệ đo lường quốc tế, từ năm 1889 đến nay, người ta lấy vật thể tiêu chuẩn đó là khối kilôgam được cất giữ ở Paris bởi tổ chức BIPM.
Lễ Phục Sinh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3274
Lễ Phục Sinh thường được xem là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm của người theo Kitô giáo. Thường diễn ra vào tháng 3 hoặc tháng 4 mỗi năm để tưởng niệm sự kiện chết và Phục sinh của Giê-su từ cõi chết sau khi bị đóng đinh trên thập tự giá. Được người Kitô hữu tin là đã xảy ra vào khoảng năm 30 đến năm 33. "Phục Sinh" cũng được dùng để chỉ một mùa trong năm phụng vụ Công giáo gọi là Mùa Phục Sinh, kéo dài đúng 50 ngày, từ Chúa Nhật Phục Sinh đến Lễ Hiện Xuống. Lễ Phục sinh dựa nhiều vào nguồn gốc lễ Vượt qua của Do Thái giáo. Người Kitô hữu tin rằng cái chết và Sự phục sinh của Chúa Giêsu đã hoàn thành những gì mà biến cố Xuất Hành đã tiên báo: giải phóng con người khỏi tội lỗi và đưa họ vào cuộc sống trên Thiên Đàng mà Người đã trao ban. Việc mừng Chúa Giêsu sống lại vẫn được cử hành vào mỗi ngày Chủ Nhật. Tân Ước không có đoạn nào nói về Lễ Phục sinh của Kitô giáo nhưng có nói về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Điều này chỉ xuất hiện vào thế kỷ thứ II. Các Giáo hội Đông phương thuộc miền Tiểu Á như Ephesus (Êphêxô), Smyrne... (từ chuyên môn Latinh gọi nhóm này là Quartodecimans = thứ 14) theo sát với truyền thống Do Thái giáo, và họ mừng lễ Phục sinh theo ngày 14 tháng Nisan, cho dù ngày này rơi vào một ngày trong tuần chứ không bắt buộc phải là ngày Chủ nhật. Họ tưởng niệm ngày Chúa Giêsu chịu chết. Ngược lại Giáo hội Tây phương tại Rôma, Palestine, Ai Cập, Hy Lạp và xứ Gaule (Pháp) lại mừng Lễ Phục sinh vào ngày Chủ nhật vì tin rằng Chúa Giêsu sống lại ngày Chủ nhật. Ngày Chủ nhật này có thể rơi vào ngày 14 Nisan của Do Thái, hay là Chủ nhật kế tiếp nếu như ngày 14 Nisan không là một ngày Chủ nhật. Một tuần lễ trước lễ Phục Sinh, được gọi là Tuần Thánh, tính từ ngày Chúa nhật Lễ Lá (hay Chúa nhật Thương Khó) cho đến hết ngày Thứ bảy Tuần Thánh (hay Canh thức Vượt Qua). Lễ Phục Sinh ngày thứ hai cũng là ngày lễ tại nhiều quốc gia Âu Mỹ. Bối cảnh. Chúa Giêsu cùng các môn đồ lên thành Jerusalem vào dịp Lễ Vượt Qua ("Passover"), ông vào Đền thờ Jerusalem và được người dân đón tiếp bằng lá cây lót đường và vẫy mừng (nay gọi là "Chúa nhật Lễ Lá").
Lễ Phục Sinh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3274
Vào ngày thứ năm (nay là ngày "Thứ năm Tuần Thánh"), Chúa Giêsu thực hiện nghi thức rửa chân các môn đồ và dùng bữa ăn cuối cùng (bữa"Tiệc Ly") với các tông đồ. Buổi tối hôm đó, Chúa Giêsu bị bắt giữ theo lệnh của Toà Công luận ("Sanhedrin") bởi viên Thượng tế Joseph Caiaphas. Trong bóng đêm của khu vườn Getsemani ở ngoại ô Jerusalem, lính La Mã nhận diện Chúa Giêsu nhờ cái hôn của Judas Iscariot, một tông đồ đã phản ông để nhận được tiền thưởng. Tòa công luận cáo buộc Chúa Giêsu tội phạm thượng và giao ông cho các quan chức Đế quốc La Mã để xin án tử hình, không phải vì tội phạm thượng nhưng vì cáo buộc xúi giục nổi loạn. Dưới áp lực của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, Tổng đốc Pontius Pilate (Philatô) miễn cưỡng ra lệnh đóng đinh Chúa Giêsu vào ngày thứ sáu (nay là lễ "Thứ Sáu Tuần Thánh"). Theo các sách Phúc Âm, một tấm bảng có hàng chữ viết tắt INRI (của câu: "Giêsu người Nazareth, vua dân Do Thái") được treo trên thập tự giá theo lệnh của Pilate (Philatô). Chúa Giêsu bị buộc phải tự vác thập tự giá lên đồi Golgotha, nơi Người bị đóng đinh và chết. Ngày nay, địa điểm bị đóng đinh và nơi an táng được cho là nằm trong Nhà thờ Mộ Thánh ở Giêrusalem. Các Kitô hữu tin rằng Chúa Giêsu sống lại vào ngày chủ nhật, ba ngày sau khi chết trên thập tự giá. Các phụ nữ, trong số đó có bà Maria Magdalena đến thăm mồ nhưng chỉ thấy ngôi mộ trống rỗng. Sự kiện này được đề cập đến theo thuật ngữ Kitô giáo là Sự phục sinh của Chúa Giêsu, được cử hành hằng năm vào ngày Lễ Phục Sinh. Các sách Phúc Âm và Công vụ tông đồ đều ghi nhận rằng Chúa Giêsu đã gặp lại các môn đệ tại các nơi khác nhau trong suốt bốn mươi ngày sau khi sống lại, và sau đó về trời (nay là "Lễ Thăng Thiên"). Ngày thứ 50 kể từ sau sự kiện Phục sinh, "Chúa Thánh Thần hiện xuống" với các tông đồ và loan báo tin mừng, theo Tân Ước, ngày này cũng được xem là ngày khai sinh ra Giáo hội. Ngày của Lễ Phục Sinh. Trong Kitô giáo Tây phương, ngày Lễ Phục Sinh luôn luôn rơi vào một Chủ nhật giữa 22 tháng 3 và 25 tháng 4.
Lễ Phục Sinh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3274
Ngày kế tiếp, Thứ hai, được công nhận là ngày nghỉ Lễ chính thức của hầu hết các quốc gia có truyền thống Kitô giáo, nhưng không được quy định tại Hoa Kỳ, ngoại trừ trước kia ở một số tiểu bang, tất cả đã được bãi bỏ từ thập niên 1980. Lễ Phục Sinh và các ngày nghỉ liên hệ tới nó là những ngày lễ di động, tức chúng không rơi vào một ngày cố định trong lịch Gregory hay lịch Julius (là những lịch dựa theo sự vận hành của mặt trời và mùa). Thay vào đó nó dựa trên lịch Mặt Trăng tương tự – nhưng không giống hệt – lịch Do Thái. Ngày chính xác của lễ Phục Sinh thường vẫn còn là đề tài tranh luận. Vào Công đồng Nicaea thứ nhất năm 325, Lễ Phục Sinh được quyết định tổ chức vào cùng một chủ nhật trên toàn giáo hội, nhưng có lẽ chưa có phương pháp nào được chỉ định bởi Công đồng (không may là hiện không tìm thấy nguyên văn các quyết định của Công đồng). Thay vào đó, việc chọn ngày dường như tham khảo từ giáo hội ở Alexandria, một thành phố nổi danh về sự thông thái vào lúc đó. Thành phố này tổ chức Lễ Phục Sinh vào chủ nhật đầu tiên sau ngày thứ 14 đầu tiên của tháng âm lịch xảy ra vào hoặc sau 21 tháng 3. Trong suốt thời Trung Cổ, cách tính này được diễn đạt ngắn gọn là Lễ Phục Sinh xảy ra vào chủ nhật đầu tiên sau ngày trăng tròn đầu tiên vào hoặc sau ngày xuân phân. Giáo hội Công giáo Rôma dùng cách riêng để tính ngày Phục Sinh cho đến thế kỉ 6, sau đó có lẽ họ chuyển sang phương pháp Alexandria khi đổi sang lịch Julius bởi Dionysius Exiguus (không có bằng chứng rõ ràng về việc này cho đến thế kỉ 9). Hầu hết giáo hội trên các đảo Anh dùng phương pháp Rôma cuối thế kỉ 3 cho đến khi họ áp dụng cách tính Alexandria vào Công đồng Whitby năm 664. Các giáo hội trên lục địa châu Âu ở phía tây dùng cách tính Rôma đến cuối thế kỉ 8 trong triều đại Charlemagne, và cuối cùng họ cũng chuyển sang dùng phương pháp Alexandria. Vì các giáo hội Tây phương hiện nay dùng lịch Gregory để tính ngày, còn các giáo hội Chính thống Đông phương dùng lịch Julius, nên ngày Lễ Phục Sinh của họ thường không trùng nhau.
Lễ Phục Sinh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3274
Tại hội nghị thượng đỉnh ở Aleppo, Syria năm 1997, Hội đồng các giáo hội thế giới đề nghị cải cách phương pháp tính ngày Lễ Phục Sinh dựa trên các tính toán theo quan sát thiên văn trực tiếp; điều này giúp loại bỏ khác biệt giữa các giáo hội Tây phương và Đông phương. Cải cách này được đề nghị áp dụng từ năm 2001, nhưng cuối cùng nó không được các thành viên sử dụng. Vị trí trong năm phụng vụ. Việc mừng Chúa Giêsu sống lại vẫn được cử hành vào mỗi ngày Chủ Nhật. Tân Ước có nói về sự phục sinh của Chúa Giêsu nhưng không có đoạn nào nói về kỷ niệm ngày Lễ Phục sinh của Kitô giáo. Điều này chỉ xuất hiện vào thế kỷ thứ hai. Các Giáo hội Đông phương thuộc miền Tiểu Á như Ephesus (Êphêxô), Smyrne... (từ chuyên môn Latinh gọi nhóm này là Quartodecimans = thứ 14) theo sát với truyền thống Do Thái giáo, và họ mừng Lễ Phục sinh vào ngày tiếp theo ngày Sa-bát và ngày 15 tháng Nisan - Lễ Bánh Không Men, tức ngày Chủ nhật sau ngày 15 tháng Nisan. Họ mừng ngày Chúa sống lại theo cách mà Chúa và các Tông đồ đã làm gương. Giáo hội Tây phương không giữ theo cách truyền thống mà đã biến đổi cách thức do đã ảnh hưởng bởi các dị giáo La Mã. Ngược lại Giáo hội Tây phương tại Rôma, ở Palestine, Ai Cập, Hy Lạp và xứ Gaule (Pháp) lại mừng Lễ Phục sinh vào ngày Chủ nhật vì tin rằng Người sống lại ngày Chủ nhật. Ngày Chủ nhật này có thể rơi vào ngày 14 Nisan của Do thái, hay là Chủ nhật kế tiếp nếu như ngày 14 Nisan không là một ngày Chủ nhật. Cuộc tranh cãi về việc mừng Lễ Phục sinh chứng giám việc cử hành phụng vụ đa dạng tại các vùng khác nhau và nêu lên sự hiểu biết khác biệt về Lễ Phục sinh. Khi mừng Lễ Phục sinh vào ngày 14 Nisan, các giáo hội Đông phương cũng mừng Chúa Giêsu chết và sống lại, nhưng họ đánh dấu trọng tâm vào cái chết của ông, trong khi đó bên Tây Phương nhấn mạnh vào sự sống lại của ông. Cuộc tranh luận suýt gây ra đổ vỡ giữa hai bên. Vào năm 192, Giáo hoàng Victor I quyết định ra vạ tuyệt thông các Giáo hội miền Tiểu Á. Thánh Irênê can thiệp ôn hoà và giáo hoàng này đã rút lại vạ tuyệt thông.
Lễ Phục Sinh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3274
Tại Công đồng Nicêa năm 325 do hoàng đế Constantin triệu tập, các Giáo hội Kitô giáo đồng ý tách biệt lễ Vượt qua Do Thái giáo và Lễ Phục sinh Kitô giáo. Các nghị phụ chấp thuận mừng lễ Phục sinh vào ngày Chúa nhật tiếp theo tuần trăng tròn (14 Nisan) sau ngày xuân phân. Kitô giáo Tây phương. Trong Kitô giáo Tây phương, lễ Phục Sinh đánh dấu việc kết thúc 40 ngày chay tịnh – giai đoạn ăn kiêng và sám hối để chuẩn bị cho lễ Phục Sinh bắt đầu vào Thứ tư Lễ Tro và chấm dứt vào khuya Thứ bảy Tuần Thánh. Tuần trước ngày Phục Sinh là tuần rất đặc biệt trong truyền thống Kitô giáo gọi là Tuần Thánh: Chủ Nhật trước đó là Chúa nhật Lễ Lá, và ba ngày cuối cùng trước ngày Phục Sinh gọi là "Tam Nhật Thánh", bao gồm: Thứ năm Tuần Thánh (Thứ năm Rửa Chân), Thứ sáu Tuần Thánh (Thứ sáu Tốt Lành) và Thứ bảy Tuần Thánh (Thứ bảy Yên Tĩnh). Chúa nhật Lễ Lá, Thứ năm Tuần Thánh và Thứ sáu Tuần Thánh tập chú và việc tưởng nhớ đến các sự kiện Chúa Giêsu vào thành Jerusalem, bữa Tiệc Ly và Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập tự giá. Thứ sáu Tuần Thánh, Thứ bảy Tuần Thánh và Chúa nhật Phục Sinh đôi khi được gọi là "Tam Nhật Phục Sinh" (hay Tam Nhật Vượt Qua). Ở một số nước, lễ Phục Sinh kéo dài 2 ngày, với ngày thứ hai gọi là "Thứ hai Phục Sinh". Nhiều giáo hội bắt đầu lễ Phục Sinh vào cuối buổi tối ngày Thứ bảy Tuần Thánh với "lễ Vọng Phục Sinh" hay "Canh thức Vượt Qua". Mùa Phục Sinh bắt đầu từ Chúa Nhật Phục Sinh và kéo dài đến lễ Hiện xuống vào 50 ngày sau đó. Trong Kitô giáo Tây phương, ngày lễ Phục Sinh tất cả rơi vào một Chủ nhật giữa 22 tháng 3 và 25 tháng 4. Ngày kế tiếp, Lễ Phục Sinh ngày thứ hai, được công nhận là ngày nghỉ lễ chính thức của hầu hết các quốc gia có truyền thống Kitô giáo, nhưng không được quy định tại Hoa Kỳ, ngoại trừ trước kia ở một số tiểu bang, tất cả đã được bãi bỏ từ những năm 1980. Lễ Phục Sinh và các ngày nghỉ liên hệ tới nó là những ngày lễ di động, tức là chúng không rơi vào một ngày cố định trong lịch Gregorian hay lịch Julian (là những lịch dựa theo sự vận hành của mặt trời và mùa).
Lễ Phục Sinh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3274
Thay vào đó nó dựa trên lịch Mặt Trăng tương tự — nhưng không giống hệt — lịch Do Thái. Ngày chính xác của lễ Phục Sinh thường vẫn còn là đề tài tranh luận.Vào Công đồng Nicaea thứ nhất năm 325, lễ Phục Sinh được quyết định tổ chức vào cùng một Chủ nhật trên toàn giáo hội, nhưng có lẽ chưa có phương pháp nào được chỉ định bởi Công đồng (không may là hiện không tìm thấy nguyên văn các quyết định của Công đồng). Thay vào đó, việc chọn ngày dường như tham khảo từ giáo hội ở Alexandria, một thành phố nổi danh về sự thông thái vào lúc đó. Thành phố này tổ chức lễ Phục Sinh vào Chủ nhật đầu tiên sau ngày thứ 14 đầu tiên của tháng âm lịch xảy ra vào hoặc sau 21 tháng 3. Trong suốt thời Trung Cổ, cách tính này được diễn đạt ngắn gọn là Lễ Phục Sinh xảy ra vào Chủ nhật đầu tiên sau ngày trăng tròn đầu tiên vào hoặc sau ngày xuân phân. Giáo hội Công giáo Rome dùng cách riêng để tính ngày Phục Sinh cho đến thế kỉ 6, sau đó có lẽ họ chuyển sang phương pháp Alexandria khi đổi sang lịch Julius bởi Dionysius Exiguus (không có bằng chứng rõ ràng về việc này cho đến thế kỉ 9). Hầu hết giáo hội trên các đảo Anh dùng phương pháp Rome cuối thế kỉ 3 cho đến khi họ áp dụng cách tính Alexandria vào Công đồng Whitby năm 664. Các giáo hội trên lục địa châu Âu ở phía Tây dùng cách tính Rôma đến cuối thế kỉ 8 trong triều đại Charlemagne, và cuối cùng họ cũng chuyển sang dùng phương pháp Alexandria. Vì các giáo hội Tây phương hiện nay dùng lịch Gregory để tính ngày, còn các giáo hội Chính thống Đông phương dùng lịch Julius, nên ngày lễ Phục Sinh của họ thường không trùng nhau. Tại hội nghị thượng đỉnh ở Aleppo, Syria năm 1997, Hội đồng các giáo hội thế giới đề nghị cải cách phương pháp tính ngày lễ Phục Sinh dựa trên các tính toán theo quan sát thiên văn trực tiếp; điều này giúp loại bỏ khác biệt giữa các giáo hội Tây phương và Đông phương. Cải cách này được đề nghị áp dụng từ năm 2001, nhưng cuối cùng nó không được các thành viên sử dụng.Ngoài những truyền thống tôn giáo có liên quan đến hoạt động kỷ niệm sự phục sinh của chúa Jesus, người theo Kitô giáo còn có truyền thống trao nhau những quả trứng Phục sinh, thường được làm từ chocolate. Trứng là biểu tượng từ xưa về sự sinh sản.
Lễ Phục Sinh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3274
Trứng là biểu tượng từ xưa về sự sinh sản. Có một truyền thống là vào buổi sáng lễ Hiện xuống (một phần của lễ Phục sinh), người ta thức dậy sớm để ngắm mặt trời lên và dùng bữa trưa đặc biệt, như tổ chức một chuyến dã ngoại cho cả gia đình. Kitô giáo Đông phương. Trong Kitô giáo Đông phương, sự chuẩn bị bắt đầu với mùa Đại Chay. Theo sau chủ nhật thứ năm của mùa Đại Chay là Tuần Lá, kết thúc vào Thứ Bảy Lazarus. Thứ Bảy Lazarus chính thức bế mạc mùa Đại Chay, mặc dù việc ăn kiêng vẫn tiếp tục cho tuần kế tiếp đó. Sau Thứ Bảy Lazarus đến Chúa Nhật Lá, Tuần Thánh và cuối cùng là lễ Phục Sinh hay lễ Vượt Qua ("Pascha, Πασχα"), và việc ăn kiêng chấm dứt ngay sau Phụng Vụ Thánh ("Divine Liturgy"). Lễ Phục Sinh theo ngay sau Tuần Sáng ("Bright Week"), không ăn kiêng trong tuần này kể cả thứ tư và thứ sáu. Phụng Vụ Thánh Vượt Qua nói chung diễn ra vào khoảng nửa đêm, vào sáng sớm của ngày Vượt Qua. Việc đặt Phụng Vụ Thánh Vượt Qua vào nửa đêm bảo đảm rằng không có Phụng Vụ Thánh khác vào buổi sáng, khiến lễ này trở thành "Lễ của mọi lễ" trong năm phụng vụ. Phong tục và lễ nghi. Một tuần lễ trước lễ Phục Sinh, được gọi là Tuần Thánh, tính từ ngày Chúa nhật Lễ Lá (hay Chúa nhật Thương Khó) cho đến hết ngày Thứ bảy Tuần Thánh (hay Canh thức Vượt Qua). Trong tuần này, các giáo hội Kitô giáo tưởng nhớ Cuộc thương khó của Giêsu Kitô, cử hành những mầu nhiệm mà Chúa Giêsu đã hoàn tất vào những ngày cuối cùng ở trần gian. Đối với Kitô hữu, mọi cử hành phụng vụ trong tuần này đều nói lên thái độ đau buồn, nhưng với tâm tình biết ơn vì Chúa đã thương trở nên con người để chịu đau khổ và chịu chết cho nhân loại tội lỗi. Tại nhiều quốc gia Tây Phương, Lễ Phục Sinh bao gồm chủ nhật và thứ hai là ngày nghỉ lễ chính thức. Tại châu Âu, như tại Đức, thêm ngày thứ Sáu Tuần Thánh cũng là ngày nghỉ lễ chính thức, vào ngày này, những nơi vui chơi, rạp hát, tiệm buôn đều đóng cửa để tưởng niệm Cuộc thương khó của Giêsu.
Lễ Phục Sinh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3274
Nhiều Kitô hữu hành hương đến Via Dolorosa tại Thành cổ Jerusalem để thăm lại con đường khổ nạn mà Giêsu đã vác thánh giá đến đồi Sọ. Tại Việt Nam, ở các giáo xứ có đông giáo dân là người gốc miền Bắc thường có các nghi thức ngắm nguyện 15 sự thương khó của Chúa. Ngoài ra, nhiều giáo xứ còn diễn nguyện lại cuộc khổ nạn của Chúa. Vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh còn có nghi thức hôn chân Chúa. Vào Chúa Nhật Phục sinh, các giáo hoàng thường chúc phép lành Urbi et Orbi từ ban-công chính của vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Trứng Phục Sinh và thỏ. Theo một phong tục cổ từ những người Ai Cập, Ba Tư (Perse) vào ngày Xuân phân (21/03), bắt đầu một năm mới, bạn bè thường trao đổi cho nhau các quả trứng có tô điểm màu sắc, vì coi đó như là điều tốt lành, vì từ trứng xuất hiện lên sự sống. Trứng Phục Sinh (như là Pysanky) chào mừng các ngày lễ Phục Sinh thường được trang trí đặc biệt. Phong tục cổ của quả trứng Phục Sinh có thể đã bắt đầu trong cộng đồng Kitô hữu tại vùng Lưỡng Hà (Iraq, đông Syria, đông nam Thổ Nhĩ Kỳ, và tây nam Iran), trứng được nhuộm đỏ để tưởng niệm máu của Chúa Kitô đã đổ ra lúc bị đóng đinh. Trong các truyền thống sau đó, trứng cũng là một biểu tượng của ngôi mộ trống. Tại Bulgaria, Hy Lạp, Nga, Serbia và Thụy Điển, trứng luộc được sơn màu đỏ như một biểu tượng của cuộc sống mới đã được ban tặng bởi sự hy sinh của Chúa Kitô. Truyền thống lâu đời nhất là sử dụng trứng gà nhuộm, nhưng hiện đại thường là được thay thế bằng trứng làm từ sô cô la hoặc trứng nhựa plastic chứa đầy kẹo. Nhiều người Mỹ đã theo truyền thống và tô màu lên trứng luộc chín và tặng những giỏ kẹo. Các Thỏ Phục Sinh là một huyền thoại phổ biến của một nhân vật tặng quà Phục Sinh, tương tự như Santa Claus (ông già Nô-en) trong văn hóa Mỹ. Vào ngày Thứ Hai Phục Sinh, Tổng thống Hoa Kỳ thường tổ chức một cuộc chơi đua lăn trứng Phục sinh ("Easter Egg Roll", thường là dùng gậy hay là muỗng dài chuyển trứng, phong tục này đã có trên 400 năm) hàng năm trên bãi cỏ Nhà Trắng cho trẻ nhỏ. Văn hóa. Kịch.
Lễ Phục Sinh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3274
Văn hóa. Kịch. Vở kịch nói "Easter" của nhà viết kịch, tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà tiểu luận, họa sĩ người Thụy Điển August Strindberg
Sông Cửu Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3275
Sông Cửu Long (chữ Nôm: 九龍河) là tên gọi chung cho các phân lưu của sông Mê Kông chảy trên lãnh thổ của Việt Nam. Khái quát. Bắt đầu từ Phnom Penh, sông Mê Kông chia thành hai nhánh theo dòng chảy từ Bắc xuống Nam: bên phải (hữu ngạn) là sông Bassac (sang Việt Nam gọi là Hậu Giang hay sông Hậu) và bên trái (tả ngạn) là Mê Kông (sang Việt Nam gọi là Tiền Giang hay sông Tiền), cả hai đều chảy vào khu vực đồng bằng châu thổ rộng lớn ở Nam Bộ Việt Nam, dài chừng 220–250 km mỗi sông. Tại Việt Nam, sông Mê Kông còn có tên gọi là sông Lớn, sông Cái, hay sông Cửu Long. Lưu lượng hai sông này rất lớn, khoảng 6.000 m³/s về mùa khô, lên đến 120.000 m³/s vào mùa mưa, và chuyên chở rất nhiều phù sa bồi đắp đồng bằng Nam Bộ. Sông Tiền và sông Hậu chảy qua địa phận các tỉnh, thành: Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, An Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng. Các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre và phần lớn tỉnh Đồng Tháp ở phía bên tả sông Tiền. Các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, một phần lớn tỉnh Đồng Tháp và An Giang nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Phía hữu sông Hậu là vùng Tứ giác Long Xuyên và vùng bán đảo Cà Mau (ở phía Nam kênh Cái Sắn và hữu ngạn sông Hậu). Sông Cửu Long hiện nay chảy ra biển Đông tại các cửa: Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên, Cung Hầu, Bát Xắc, Định An và Tranh Đề. Các con sông chính. Lịch sử. Theo An Nam Đại Quốc Họa Đồ của Taberd năm 1838, sông Cửu Long có 9 cửa lần lượt từ đông bắc xuống tây nam gồmː Đại Nam nhất thống chí chỉ kể 7 cửa của sông Cửu Long gồm 6 cửa thuộc sông Tiền Giang và 1 cửa sông Hậu Giang (lần lượt từ đông bắc xuống tây nam là: cặp cửa Tiểu - cửa Đại, cửa Ba Lai, cặp cửa Ngao Châu - Bân Côn, cửa Cổ Chiên (đều thuộc sông Tiền), và cửa Ba Thắc của sông Hậu.
Sông Cửu Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3275
Đại Nam nhất thống chí chépː Các bản đồ người Pháp vẽ về Nam Kỳ từ cuối thế kỷ 19 (năm 1884) đến đầu thế kỷ 20 (năm 1901, 1902) ghi tên cho 9 cửa sông chính của sông Cửu Long, lần lượt từ đông bắc xuống tây nam gồmː trên sông Tiền có 6 cửa Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên và Cung Hầu, trên sông Hậu có 3 cửa Định An, Ba Thắc (tức Ba Thắc (nhỏ)) và Tranh Đề. Chín cửa sông đầu thế kỷ 20, đến ngày nay, chỉ còn lại có tám cửa sông. (Cửa Ba Thắc (nhỏ) khoảng thập niên 1960 đã bị bồi lấp, chỉ còn vết tích là rạch nhỏ bé xíu mang tên sông Cồn Tròn có cửa nằm sâu bên trong cửa Tranh Đề, nên sông Hậu chỉ còn hai cửa biển ngày nay). Với việc cửa Ba Lai đã bị hệ thống cống đập ngăn mặn Ba Lai ngăn lại, sông Cửu Long chỉ còn 7 cửa sông chính thông thuyền ra biển Đông. Tuy vậy, trong nhiều thời kỳ dòng sông có 9 cửa chính chảy ra biển Đông nên sông Mê Kông đoạn qua Việt Nam còn được gọi là sông Cửu Long, tức "sông chín rồng". Hiện có khoảng 17 triệu người dân Việt Nam đang sinh sống tại lưu vực của hệ thống sông Cửu Long, còn được gọi là đồng bằng sông Cửu Long Sự khó khăn về giao thông thủy của con sông này làm chia cắt con người sống hai bên bờ hơn là liên kết họ. Nền văn minh được biết sớm nhất là nền văn hóa Mã Lai, Ấn Độ hóa hồi thế kỷ 1, của Vương quốc Phù Nam, trong lưu vực sông Mê Kông. Sự khai quật ở Óc Eo, gần Rạch Giá ngày nay, đã tìm thấy những đồng tiền khác xa với Đế chế La Mã. Vương quốc Phù Nam được nối tiếp bởi quốc gia Khmer Chân Lạp ("Chenla") cho đến thế kỷ 5. Đế chế Khmer Angkor là quốc gia chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ cuối cùng trong khu vực. Sau khi quốc gia này bị tiêu diệt sông Mê Kông đã là đường biên giới của các quốc gia đối đầu nhau như Xiêm và Việt Nam, với Lào và Campuchia nằm trong tầm ảnh hưởng của họ. Con người. Ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long (tổng diện tích khoảng 3,3 triệu hecta đất nông nghiệp) khi chảy vào Việt Nam, có khoảng 17 triệu người đang sinh sống vào thời điểm đầu 2006, tăng 5 triệu so với 16 năm trước đó.
Sông Cửu Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3275
Trong số họ, có khoảng 9,5 triệu người trong độ tuổi lao động (trên 15 tuổi), hay 55%. Ảnh hưởng của môi trường và con người. Hai trong số chín cửa sông Cửu Long là Ba Lai và Bát Sắc đã bị nghẽn và nước đã không còn lưu thông được nữa. Nguyên nhân bị nghẽn của sông Bát Sắc do các cồn cát ở hai cửa sông này phát triển mạnh tạo nên rào chắn lớn làm nghẽn đường chảy của cửa sông. Còn nguyên nhân nghẽn sông trên của sông Ba Lai là do tác động của con người, do xây dựng hệ thống cống đập. Việc hai cửa sông đã chết đã gây ra ảnh hưởng lớn như làm tăng tình trạng sạt lở đất và vận tải giảm sút. Sông Cửu Long đem lại nhiều lợi ích cho trồng trọt và thủy sản, nhất là trong mùa lũ. Nguồn cung cấp nước tưới, phù sa và rửa phèn cho đất lúa, cùng với lượng tôm cá dồi dào đã khiến cư dân nơi đây chấp nhận sống chung cùng lũ hơn là đắp đê như ở đồng bằng châu thổ sông Hồng. Nhưng dòng sông cũng gây ra nhiều mặt bất lợi, điển hình là úng ngập thường xuyên trong các tháng mùa mưa, hoặc tình trạng xâm nhập mặn vào mùa khô.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Sông Mê Kông là một trong những con sông lớn nhất trên thế giới, bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng nơi sông bắt nguồn thuộc tỉnh Thanh Hải, chảy qua Vân Nam Trung Quốc, qua các nước Lào, Myanmar, Thái Lan, Campuchia và đổ ra Biển Đông ở Việt Nam. Tính theo độ dài đứng thứ 12 (thứ 7 tại châu Á), còn tính theo lưu lượng nước đứng thứ 10 trên thế giới (lưu lượng hàng năm đạt khoảng 475 tỉ m³). Lưu lượng trung bình 13.200 m³/s, vào mùa nước lũ có thể lên tới 30.000 m³/s. Lưu vực của nó rộng khoảng 795.000 km² (theo số liệu của Ủy hội sông Mê Kông) hoặc hơn 810.000 km² (theo số liệu của "Encyclopaedia Britannica 2004"). Ủy hội sông Mê Kông là một cơ quan liên chính phủ nhằm "thúc đẩy và phối hợp quản lý và phát triển tài nguyên nước cũng như tài nguyên có liên quan một cách bền vững vì lợi ích chung của các quốc gia và sự an sinh của cộng đồng", gồm các thành viên Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam, còn Myanmar và Trung Quốc là hai đối tác. Giao thông bằng đường thủy trên sông Mê Kông gặp nhiều khó khăn do dòng chảy bị thay đổi nhiều theo mùa, các đoạn chảy xiết và các thác nước cao. So với tiềm năng to lớn nếu được khai thác đúng mức, hiện nay, chỉ một phần nhỏ của sông được dùng trong việc dẫn thủy nhập điền và tạo năng lực thủy điện. Tuy nhiên lưu lượng và nhịp độ nước lũ ban phát nhiều lợi ích: biên độ dao động cao (sai biệt khoảng 30 lần giữa mùa hạn và mùa nước lũ) rất thuận lợi cho lối canh tác ruộng lúa ngập nước cho nhiều vùng rộng lớn. Đặc điểm thủy năng nổi bật của sông Mê Kông là vai trò điều lượng dòng nước bởi hồ Tonlé Sap - hồ thiên nhiên lớn nhất Đông Nam Á - người Việt thường gọi là "Biển Hồ" . Dòng chảy. Đầu nguồn của sông Mê Kông có hai nhánh: đầu nguồn phía bắc là sông Trát A Khúc và đầu nguồn phía nam là sông Trát Na Khúc. Nhánh phía nam được biết đến nhiều hơn, vị thế gần đèo Lungmug (龍模) với chiều dài 87,75 kilômét. Nhánh phía bắc chảy xuống từ rặng núi Quả Tông Mộc Tra.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Nhánh này, từ độ cao 5224 mét - kinh tuyến đông 94°41'44", vĩ tuyến bắc 33°42'41", gồm hai nhánh phụ có chiều dài 91,12 kilômét và 89,76 kilômét. Hệ thống sông ngòi khu vực đầu nguồn sông Mê Kông bao gồm: thuỷ hệ Trát A Khúc và thuỷ hệ Trát Na Khúc. Hai nguồn hợp lưu tại Ca Nạp Tùng Đa (尕納松多) cao 4.360 mét, có toạ độ là 94°36′40″Đ, 33°12′33″B, cách huyện Tạp Đa, Ngọc Thụ, Thanh Hải 106,9km về phía tây bắc. Người ta đo được sông Trát A Khúc rộng 62 mét, độ sâu trung bình của sông là 0,72 mét, lưu tốc trung bình 2,63m/s, lưu lượng là 117,4 m3/s; sông Trát Na Khúc rộng hơn 51 mét, độ sâu trung bình của sông là 0,35 mét, lưu tốc trung bình 1,81m/s, lưu lượng là 32,3 m3/s. Đầu nguồn của dòng sông đến nay đã được xác định rõ qua những cuộc thám hiểm gần đây. Năm 1994, một phái đoàn Trung Quốc và Nhật Bản đã đến nguồn phía Bắc cùng lúc với phái đoàn Pháp, do M. Peissel dẫn đầu, đến nguồn mạch phía tây với cùng một mục đích: chứng minh nguồn mạch chính của sông Mê Kông. Sau đó, những cuộc thám hiểm kế tiếp cho đến năm 1999 dưới sự hợp tác các nước Trung Hoa, Mỹ và Nhật Bản đã chính thức xác minh nguồn mạch sông Mekong thuộc nhánh bắc. Các con số về độ dài của sông dao động trong khoảng 4.200km đến 4.850km. Các nhà công tác khoa học của đội khảo sát, sau khi tiến hành so sánh, phân tích và nghiên cứu cẩn thận về các dữ liệu nói trên của hai sông, tuyên bố nhận định sông Trát A Khúc là nơi phát nguyên của sông Mê Kông. Ngày nay vùng khởi nguồn sông Mekong, cùng với sông Trường Giang và sông Salween (Nộ Giang) hợp thành "khu bảo tồn Tam Giang Tịnh Lưu" tại tỉnh Vân Nam, Trùng Quốc. Gần một nửa chiều dài con sông này chảy trên lãnh thổ Trung Quốc, ở đó đoạn đầu nguồn nó được gọi theo tiếng Tây Tạng là "Dza Chu", tức Trát Khúc (扎曲; bính âm: "Zā Qū"), và nói chung được gọi là Lan Thương Giang trong tiếng Hán (瀾滄江; bính âm: "Láncāng Jiāng"; Wade-Giles: "Lan-ts'ang Chiang"), có nghĩa là "con sông cuộn sóng".
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Trát Khúc hợp lưu với một nhánh khác tên là Ngang Khúc (橫曲; bính âm: "Áng Qū") ở gần Xương Đô (昌都; bính âm: "Chāngdū") tạo ra Lan Thương Giang. Phần lớn đoạn sông này có các hẻm núi sâu, ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc, con sông chỉ còn ở độ cao khoảng 500 m so với mực nước biển. Sau đó, đoạn sông Mê Kông dài khoảng 200 km tạo thành biên giới giữa hai nước Myanmar và Lào. Tại điểm cuối của biên giới ở Tam giác Vàng, sông này hợp lưu với sông Ruak. Điểm này cũng là điểm phân chia phần Thượng và phần Hạ của Mê Kông. Sông Mê Kông sau đó tạo thành biên giới của Lào và Thái Lan, trước khi dòng chảy chạy vào đất Lào ở tỉnh Bokeo. Người Lào và người Thái gọi sông với tên "Mènam Khong" ("Mè" là mẹ, "nam" là sông, tức "sông mẹ", tựa như "sông cái" theo thói quen gọi sông lớn của người Việt cổ), và là cội nguồn của tên quốc tế "Mekong" hiện nay khi bỏ đi từ "nam". Sử Việt Nam thì gọi là Sông Khung. Khoảng sông Mê Kông ở Lào đặc trưng bởi các hẻm núi sâu, các dòng chảy xiết và những vũng nước nông khoảng nửa mét vào mùa khô. Sau khi tiếp nhận dòng Nam Ou từ Phongsaly chảy đến ở Pak Ou phía trên Luang Prabang dòng sông mở rộng ra, ở đó nó có thể rộng tới 4 km và sâu tới 100 mét, mặc dù dòng chảy của nó vẫn rất trái ngược nhau. Sau đó Mekong lại tạo thành biên giới của Lào và Thái Lan trong đoạn chảy qua Viêng Chăn đến tỉnh Champasack. Từ phía đông thì có dòng Se Bangfai đổ vào sông Mekong ở ranh giới tỉnh Savannakhet với Khammouan, và dòng Se Banghiang đổ vào ở Muang Songkhone, Savannakhet. Từ phía Thái Lan thì có phụ lưu bên bờ phải là Mènam Mun dài 750 km, đổ vào tại Khong Chiam thuộc Ubon Ratchathani, Thái Lan. Sau đó lại là một đoạn ngắn chảy trên đất Lào, với một phụ lưu bờ trái là dòng Xe Don đổ vào ở Pak Se. Ở cực nam Lào tại tỉnh Champasack, nó bao gồm cả khu vực Si Phan Don (bốn ngàn đảo) phía trên thác Khone gần biên giới Campuchia. Thác nước này dài 15 km, cao 18 m khá hùng vĩ và gần như không thể vượt qua đối với giao thông bằng đường thủy.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Tại Campuchia, con sông này có tên là sông "Mékôngk" (theo tiếng thiểu số gốc Lào ở đây) hay "Tông-lê Thơm" (sông lớn, theo tiếng Khmer). Tại khu vực tỉnh lỵ Stung Treng là nơi dòng Tonlé San đổ vào. Tonlé San là hợp lưu của các dòng Se Kong từ Nam Lào, và sông Sê San (Tonlé San) và sông Serepok (Tonlé Srepok) bắt nguồn từ Tây Nguyên ở Việt Nam chảy đến. Vùng nước chảy xiết (ghềnh) Sambor phía trên Kratie là cản trở giao thông cuối cùng. Ở phía trên Phnôm Pênh nó hợp lưu với Tonlé Sap, con sông nhánh chính của nó ở Campuchia. Vào mùa lũ, nước chảy ngược từ sông Mê Kông vào Tonlé Sap. Bắt đầu từ Phnôm Pênh, nó chia thành hai nhánh: bên phải là sông Ba Thắc (sang Việt Nam gọi là Hậu Giang hay sông Hậu) và bên trái là Mê Kông (sang Việt Nam gọi là Tiền Giang hay sông Tiền), cả hai đều chảy vào khu vực đồng bằng châu thổ rộng lớn ở Nam Bộ Việt Nam, dài chừng 220–250km mỗi sông. Tại Việt Nam, sông Mê Kông còn có tên gọi là sông Lớn, sông Cái. Tập hợp của cả chín nhánh sông lớn tại Việt Nam được gọi chung là sông Cửu Long. Lịch sử. Sự khó khăn về giao thông thủy của con sông này làm chia cắt con người sống hai bên bờ hơn là liên kết họ. Nền văn minh được biết sớm nhất là nền văn hóa Mã Lai, Ấn Độ hóa hồi thế kỷ 1, của Vương quốc Phù Nam, trong lưu vực sông Mê Kông. Sự khai quật ở Óc Eo, gần Rạch Giá ngày nay, đã tìm thấy những đồng tiền khác xa với Đế chế La Mã. Vương quốc Phù Nam được nối tiếp bởi quốc gia Khmer Chân Lạp ("Chenla") cho đến thế kỷ 5. Đế chế Khmer Angkor là quốc gia chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ cuối cùng trong khu vực. Sau khi quốc gia này bị tiêu diệt sông Mê Kông đã là đường biên giới của các quốc gia đối đầu nhau như Xiêm và Việt Nam, với Lào và Campuchia nằm trong tầm ảnh hưởng của họ. Người châu Âu đầu tiên thám hiểm sông Mê Kông là người Bồ Đào Nha có tên là Antonio de Faria vào năm 1540. Bản đồ của người châu Âu năm 1563 có vẽ lại con sông này, mặc dù chỉ có một đoạn nhỏ ở khu vực đồng bằng châu thổ.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Sự quan tâm của người châu Âu không có chung mục đích: những người Tây Ban Nha và người Bồ Đào Nha chỉ thực hiện những cuộc thám hiểm nhằm mục đích truyền giáo và buôn bán, trong khi đó người Hà Lan Gerrit van Wuysthoff đã dẫn đầu một cuộc thám hiểm đến tận Viêng Chăn (1641-1642). Người Pháp có sự quan tâm đặc biệt tới khu vực này vào giữa thế kỷ 19, sau khi chiếm đóng Sài Gòn năm 1861 và thiết lập sự bảo hộ Campuchia năm 1863. Cuộc thám hiểm có hệ thống đầu tiên là cuộc thám hiểm sông Mekong 1866-1868 do người Pháp là Ernest Doudart de Lagrée và Francis Garnier thực hiện. Họ đã phát hiện ra rằng Mekong có quá nhiều thác nước và những chỗ chảy xiết, không có lợi cho giao thông đường thủy. Từ năm 1893, người Pháp mở rộng quyền kiểm soát của họ đối với con sông này tới tận Lào bằng việc thiết lập ra Liên bang Đông Dương trong những năm đầu tiên của thế kỷ 20. Điều này đã chấm dứt sau Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất kết thúc và người Mỹ can thiệp vào khu vực. Sau Chiến tranh Việt Nam, những bất đồng giữa Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc khi đó đã hạn chế sự hợp tác của các bên trong việc khai thác tiềm năng của dòng sông này. Tuy nhiên, hiện nay các bên đã xích lại gần nhau hơn trong vấn đề này. Lưu lượng. Lưu lượng ròng hằng năm của sông Mê Kông là 475 tỉ mét khối, đứng ở vị trí thứ hai trong các sông ở Đông Nam Á, chỉ xếp sau sông Ayeyarwady có lưu lượng ròng hằng năm là 486 tỉ mét khối. Nguồn cung cấp nước chủ yếu là giáng thuỷ trong lưu vực và nước tan từ núi tuyết, trong đó giáng thuỷ chiếm hơn 1/2 lưu lượng ròng của dòng sông, nước tan từ núi tuyết chiếm khoảng 1/6. Do lưu vực sông Mê Kông bị gió mùa ảnh hưởng, nên mực nước và lưu lượng dòng chảy cao nhất vào mùa mưa từ cuối tháng 5 đến tháng 10. Mùa mưa bắt đầu vào tháng 5, mực nước lên cao, từ tháng 9 đến tháng 10 là đỉnh lũ, lưu lượng đỉnh lũ lớn nhất từng đạt 75.700 m3/s. Khu vực ngập lụt chủ yếu ở châu thổ, diện tích ngập lụt khoảng 4 triệu hécta, do có hồ Tonlé Sap điều tiết, nên đã giảm nhẹ mức độ ngập lụt.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Từ tháng 1 đến tháng 2 là khoảng thời gian nước cạn, lưu lượng tối thiểu 1.250 m3/s. Sông Mê Kông có một chuỗi đảo dài chừng 50 kilômét ở chỗ sát gần biên giới Lào và Campuchia. Khi mùa mưa đến, chỗ rộng nhất đạt 14 kilômét, là một đoạn "eo" rộng nhất của sông Mê Kông. Mùa khô nước sông rút xuống, đoạn "eo rộng" này sẽ xuất hiện hàng trăm đảo nhỏ. Nếu đem bãi nhỏ, bãi cạn tính vào trên, số lượng hơn một ngàn, người địa phương đem khu vực này gọi là Si Phan Don (bốn ngàn hòn đảo xinh đẹp). Khu vực đồng bằng sông Cửu Long là một đồng bằng bồi tích do sông Mê Kông vận chuyển phù sa trải qua hàng nghìn năm mà hình thành, hầu như không có sự chênh lệch về độ cao, vào cuối mùa khô lưu lượng ít, hiệu ứng thuỷ triều của biển Đông xuất hiện rõ rệt. Lúc triều lên và triều rút, mực nước Vàm Kênh, Tiền Giang gần cửa sông thay đổi 3m, mực nước gần cầu Mỹ Thuận cách cửa sông khoảng 100km thay đổi từ 2 đến 2,5m, mực nước ở Châu Đốc cách cửa sông khoảng 200 km thay đổi khoảng 1 m, sự thay đổi này chính là do thuỷ triều ảnh hưởng, có đặc trưng của sông cảm triều rất mãnh liệt. Lưu lượng trung bình hằng tháng đo tại trạm quan trắc Pakxe (m3/s) Lưu vực. Sông Mê Kông là dòng sông dài nhất ở Đông Nam Á, có tổng chiều dài 4.350 kilômét, tổng diện tích lưu vực 795.000 kilômét vuông, là sông dài thứ mười hai thế giới, sông dài thứ bảy ở châu Á. Sông Mê Kông bắt nguồn ở tỉnh Thanh Hải, Trung Quốc, chảy qua Tây Tạng và Vân Nam, sau đó trở thành bộ phận biên giới quốc tế giữa Myanmar và Lào, giữa Lào và Thái Lan, vẫn còn chảy qua Campuchia và Việt Nam, cuối cùng đổ vào biển Đông thông qua hệ thống đồng bằng sông Cửu Long. Viêng Chăn - thủ đô Lào, và Phnôm Pênh - thủ đô Campuchia, đều nằm ở bên bờ sông. Khoảng 3/4 diện tích lưu vực sông Mê Kông nằm ở 5 quốc gia - Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam, có hạ du của sông chảy qua.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Đoạn sông sau khi sông Lan Thương chảy ra khỏi biên giới Trung Quốc gọi là sông Mê Kông, chiếm 79,3% tổng diện tích lưu vực sông Mê Kông - Lan Thương, hầu như bao gồm toàn bộ Lào, Campuchia và phần lớn khu vực Thái Lan, khu vực tam giác châu ở Việt Nam có gradient bỉ giáng trung bình khoảng 0,16‰. Là dòng sông quốc tế lớn thứ hai đổ vào biển Đông ở Thái Bình Dương, xếp sau sông quốc tế sông Amur đổ vào biển Okhotsk ở Thái Bình Dương. Chi lưu chủ yếu có sông Nam Tha, sông Nam Ou, sông Nam Khan, sông Nam Ngum, sông Nam Theun, sông Bang Fai, sông Bang Hiang, sông Mun, sông San, sông Tonlé Sap... trong đó sông Mun là chi lưu lớn nhất. Diện tích lưu vực. Có 22 chi lưu của sông Mê Kông có diện tích lưu vực lớn hơn 5.000 kilômét vuông. Diện tích lưu vực sông Cửu Long, Việt Nam là 65.000 kilômét vuông, lưu lượng trung bình hằng năm là 1.660 m3/s. Trong đó, bốn nước Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam ở hạ du sông Mê Kông hợp thành Uỷ hội sông Mê Kông. Nhân khẩu lưu vực. Cư dân ở lưu vực hạ du chiếm khoảng 1/3 dân số của bốn quốc gia ven bờ sông. Hầu như tất cả mọi người đều làm nông nghiệp, lúa nước là cây trồng chủ yếu. Chỗ tập trung nhân khẩu nhất nằm ở đồng bằng sông Cửu Long và cao nguyên Khorat. Một số ít nhân khẩu ở các thành thị liên tục gia tăng nhanh chóng, chủ yếu là thông qua di cư mà chuyển đến đô thị. Nhân khẩu lưu vực không chung quan hệ chủng tộc. Các nhóm chủng tộc từ khu vực thượng du sông Mê Kông bao gồm người Karen (ngữ hệ Hán - Tạng) và người H'Mông (ngữ hệ Miêu - Dao) cho đến khu vực hạ du sông Mê Kông bao gồm người Khmer (ngữ hệ Nam Á), người Chăm (ngữ hệ Nam Đảo), người Thái (ngữ hệ Kra-Dai), người Môn (ngữ hệ Nam Á). Người Việt tập trung ở tam giác châu, người Khmer và người Thái thậm chí phân bố rộng rãi hơn ở lưu vực hạ du. Địa lí tự nhiên. Theo khảo sát của Hiệp hội Thám hiểm Khoa học Trung Quốc (CASE), sông Mê Kông phát nguyên từ suối Lạp Tái Công Mã, cao 5.224 mét so với mặt nước biển.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Suối này nằm trên núi Quả Tông Mộc Tra ở tỉnh Thanh Hải, hình thành sông Trát A Khúc, sông Trát A Khúc được Viện Khoa học Trung Quốc công nhận là nơi phát nguyên của sông Mê Kông. Tuy nhiên, một đoàn thám hiểm do Michel Peissel dẫn đầu vào năm 1994, xác định sông Trát Na Khúc - nằm xa về phía tây ở đèo Rupsa (cao 4.975 mét), là nơi phát nguyên của sông Mê Kông. Diện tích lưu vực sông Mê Kông khoảng 795.000 kilômét vuông, từ cao nguyên Thanh Tạng một mạch kéo dài đến biển Đông. Bởi vì lòng sông của sông Mê Kông bị thu hẹp trong 1.955 kilômét đầu của lưu trình, cho nên trạng thái tự nhiên chiếm vị trí chủ đạo ở thượng du và hạ du của sông Mê Kông sau khi chảy ra khỏi cao nguyên Vân Nam hình thành sự tương phản, căn cứ vào đó đem nó chia thành hai bộ phận chủ yếu. Thượng du sông Mê Kông là một thung lũng hẹp dài, chiếm khoảng 1/4 tổng diện tích lưu vực, cắt xuyên qua dãy núi và cao nguyên ở Trung Quốc. Hạ du sông Mê Kông nằm ở bên dưới điểm bắt đầu hình thành biên giới Myanmar và Lào, dài 2.390 kilômét, có cao nguyên Khorat ở Thái Lan, có sườn phía tây của dãy núi Trường Sơn - dải núi dài phân chia ranh giới Việt Nam và Lào, cùng với đa số khu vực ở Campuchia là lưu vực của nó, sau đó chảy qua hệ thống sông ngòi của đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam rồi đổ vào biển Đông. Sông Mê Kông ở phía thượng du là một trong những cụm sông cả bắt nguồn trên cao nguyên nằm giữa sông Thanlwin và sông Trường Giang; lòng sông cắt sâu vào khu vực gập ghềnh mà nó chảy qua. Ở giữa Lào và Myanmar, khoảng 20.720 kilômét vuông lãnh thổ Myanmar là lưu vực sông Mê Kông, toàn là khu vực gập ghềnh, không bằng phẳng. Đoạn sông hạ du của sông Mê Kông tương đối thoai thoải, tạo thành một đoạn biên giới khá dài giữa Lào và Thái Lan, trở thành một nguyên nhân chính gây xung đột và hợp tác giữa bốn nước Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam. Địa hình địa mạo. Sông Lan Thương - thượng nguồn sông Mê Kông.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Sông Lan Thương - thượng nguồn sông Mê Kông. Sông Lan Thương là dòng sông có hướng chảy về phía nam điển hình, tuỳ theo dòng chảy từ bắc xuống nam của sông, lưu vực mà nó chảy qua, hầu như đã bao gồm tất cả cảnh quan tự nhiên và loại hình khí hậu trên thế giới trừ sa mạc và bán sa mạc Gobi ra. Ở phương diện xã hội nhân văn, lưu vực sông Lan Thương là khu vực tập trung nhiều sắc tộc, chỉ trong lưu vực đoạn chảy qua Vân Nam đã phân bố 16 dân tộc như người Thái (ngữ hệ Kra - Dai), người Bạch (ngữ hệ Hán - Tạng), người Bố Y (ngữ hệ Kra - Dai), người Lô Lô (ngữ hệ Hán - Tạng)... trong đó người Thái, người Bố Y và người Derung (ngữ hệ Hán - Tạng) là các dân tộc xuyên biên giới. Phong tục tập quán, phương thức sinh hoạt và tín ngưỡng tôn giáo mỗi dân tộc có đặc sắc riêng, phần lớn hoà nhập với môi trường tự nhiên ở địa phương. Khu vực đầu nguồn chỉ lưu vực phía trên huyện Tạp Đa, tỉnh Thanh Hải, có chiều cao trung bình trên 4.500 mét so với mực nước biển, thuộc khu vực thảo điện cao nguyên. Loại hình địa mạo chủ yếu có: đồng bằng lũng sông, núi cao và sông băng. Đồng bằng lũng sông chỉ lũng sông nằm ở hai phía sông cái hoặc chi lưu, có độ cao trung bình trên 4.500 mét so với mực nước biển, đặc điểm của nó là mặt đất bằng phẳng, chênh lệch độ cao tương đối không lớn, độ dốc của mặt đất nhỏ hơn 10°, lũng sông phân bố đồng đều với ao đầm. Núi cao là loại hình địa mạo chủ yếu ở khu vực đầu nguồn. Chiều cao của núi cao là từ 4.500 đến 5.800 mét so với mực nước biển. Căn cứ vào sự khác nhau của độ nhấp nhô mặt đất có thể chia thành 4 loại: gò đồi cao (độ nhấp nhô nhỏ hơn 200 mét), núi nhấp nhô nhỏ (độ nhấp nhô từ 200 đến 500 mét), núi cao nhấp nhô vừa (độ nhấp nhô từ 500 đến 1.000 mét) và núi cao nhấp nhô lớn (độ nhấp nhô lớn hơn 1.000 mét). Các núi cao có độ nhấp nhô khác nhau phân bố xen kẽ với lũng sông.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Tổng diện tích sông băng ở khu vực đầu nguồn khoảng 60 kilômét vuông, tập trung phân bố ở trên núi cao nhấp nhô lớn có độ cao trên 5.500 mét so với mực nước biển. Tạp Đa - Xương Đô là một bộ phận của thượng du sông Lan Thương, nó kết hợp với khu vực đầu nguồn gọi là thượng du sông Lan Thương. Địa mạo của phân đoạn lưu vực này là loại hình chuyển tiếp từ địa mạo núi cao - đồng bằng lũng sông ở khu vực đầu nguồn sang địa mạo núi cao - hẻm núi ở trung du, cũng là loại hình địa mạo chuyển tiếp từ cao nguyên Thanh Tạng sang dãy núi Hoành Đoạn. Từ phía dưới huyện Tạp Đa cho đến khu vực biên giới giữa Thanh Hải và Tây Tạng là núi cao xen kẽ với lũng sông có mặt cắt ngang rộng lớn, phát triển dọc theo đảo sông và bãi ngập lũ, chiều cao trung bình của lũng sông là 3.500 - 4.000 mét, núi cao ở hai bờ có chiều cao là 5.000 mét so với mực nước biển. Đoạn từ biên giới Thanh Hải và Tây Tạng cho đến Xương Đô, núi cao ở hai bờ cao từ 5.000 đến 5.500 mét so với mực nước biển, chiều cao lòng sông là 3.150 đến 3.500 mét, hình thành một số hẻm núi hình chữ V bổ sâu 500 đến 1.000 mét, điều này đã cho thấy địa mạo núi cao - hẻm núi. Từ phía dưới Xương Đô cho đến cầu treo Công Quả (về sau đổi tên thành cầu Xương Cam) ở Vân Long, Vân Nam là trung du sông Lan Thương. Khu vực này là địa mạo núi cao - hẻm núi điển hình. Núi cao xen kẽ với hẻm núi, độ nhấp nhô của địa hình lớn, lưu vực chật hẹp. Khu vực này nằm ở chỗ tam giang tính lưu của dãy núi Hoành Đoạn, chênh lệch độ cao tương đối giữa núi cao và hẻm núi là 3.000 đến 4.000 mét. Đỉnh núi chủ yếu ở hai bờ của lũng sông cao trên 5.500 mét so với mực nước biển. Hẻm núi lớn Mai Lí sông Lan Thương, dài 150 kilômét, là chỗ có chênh lệch độ cao lớn nhất ở tỉnh Vân Nam.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Mặt sông của hẻm núi có độ cao 2.006 mét so với mực nước biển, núi tuyết Mai Lí ở tả ngạn có đỉnh Kawagarbo cao 6.740 mét so với mực nước biển, núi tuyết Bạch Mã ở hữu ngạn có đỉnh Zhalaqueni cao đến 5.460 mét, chênh lệch độ cao lớn nhất của hẻm núi đạt 4.734 mét, khoảng cách mặt sườn núi tính từ mặt sông đến đỉnh núi là 14 kilômét, cứ mỗi kilômét trung bình tăng lên 337 mét, hẻm núi có một mặt sườn gần như thẳng đứng. Mực nước cạn của đoạn sông chính này từ trên xuống dưới là 3.150 đến 1.240 mét. Phân đoạn lưu vực trung du sông Lan Thương vừa là phân đoạn có chênh lệch độ cao tương đối lớn nhất toàn lưu vực vừa là phân đoạn chật hẹp nhất toàn lưu vực. Đoạn có độ nhấp nhô lớn nhất là làng Lựu Đồng Giang, Địch Khánh, Vân Nam, mực nước cạn của nó là 2.054 mét, nhưng mà đỉnh Kawagarbo của núi tuyết Mai Lí ở hữu ngạn có độ cao 6.740 mét, chênh lệch độ tương đối của nó đạt 4.686 mét. Đoạn đất chật hẹp nhất của lưu vực là chỗ sát gần khối núi Vân Lĩnh ở phía tây bắc Vân Nam, đường phân thuỷ giữa hai bờ chỉ có 20 - 25 kilômét. Từ phía dưới cầu treo Công Quả cho đến cửa sông Nam A là hạ du sông Lan Thương. Từ phía dưới cầu treo Công Quả cho đến cầu Doãn Cảnh Hồng sông Lan Thương là khu vực núi vừa - thung lũng nới rộng, là khu vực chuyển tiếp giữa cao nguyên Thanh Tạng sang cao nguyên Vân Quý. Địa hình khu vực này bị nứt vỡ, lũng sông cắt xẻ mãnh liệt, thung lũng chính vẫn có hình chữ V, chênh lệch độ cao của núi cao - hẻm núi là 3.500 - 1.000 mét. Từ cầu Doãn Cảnh Hồng sông Lan Thương đến cửa sông Nam A, có cảnh quan địa mạo núi thấp vừa - thung lũng nới rộng (bồn địa), độ cao từ 500 đến 1.000 mét, đáy thung lũng rộng 150 đến 300 mét, tối đa có thể đạt 800 đến 1.200 mét. Có một số tiểu bồn địa phân bố rải rác giữa các núi.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Sự phát triển lũng sông và sự xuất hiện hệ thống sông ngòi của đoạn sông này vẫn bị sơn hệ hình dạng "chổi" của phía nam dãy núi Hoành Đoạn kiểm soát, nhưng tác dụng cắt bổ và xói mòn của nước chảy cũng đóng vai trò rất lớn. Sông Mê Kông. Địa hình sông Mê Kông chia thành 5 vùng: cao nguyên bắc bộ, dãy núi Trường Sơn, cao địa nam bộ, cao nguyên Khorat và đồng bằng sông Mê Kông. Cao nguyên bắc bộ bao gồm phía bắc Lào, vùng núi của tỉnh Loei và tỉnh Chiang Rai ở Thái Lan, đến đâu đều là núi cao đỉnh lớn, chiều cao đạt từ 1.500 đến 2.800 mét so với mực nước biển, chỉ có số ít đồng bằng cao địa và đồng bằng bồi tích lũng sông. Dãy núi Trường Sơn kéo dài hơn 800 mét từ tây bắc đến đông nam, sườn núi phía bắc và phía trung dốc gần như thẳng đứng, phía nam là khu vực gò đồi. Sườn nam và sườn tây bị gió mùa Tây Nam ảnh hưởng, lượng mưa khá lớn, nhưng mà lũng sông ở phía trung khá khô hạn. Cao địa nam bộ bao gồm dãy núi Kravanh ở Campuchia, mặt phía đông là đồi núi dài dằng dặc, mặt phía tây là gò đồi. Cao nguyên Khorat bao gồm đông bắc Thái Lan và một bộ phận của Lào, là bồn địa sơn gian hình cánh bướm có chiều dài và chiều rộng chừng 500 kilômét, sông Mun và sông Chi - các chi lưu của sông Mê Kông, chảy qua chỗ này. Đồng bằng sông Mê Kông là vùng đất thấp rộng lớn, bao gồm khu vực tam giác châu. Đầu nguồn sông Lan Thương có hai nhánh: sông Trát Khúc (Zha Qu) và sông Ngang Khúc (Ang Qu), bắt nguồn ở cao địa có chiều cao hơn 4.900 mét so với mực nước biển trong dãy núi Tanggula. Hai sông này sau khi hợp lưu ở thị trấn Thành Quan, thành phố Xương Đô, Tây Tạng thì mới bắt đầu gọi là sông Lan Thương. Sông Lan Thương chảy dốc xuống theo hướng nam, xuyên qua cao nguyên Vân Nam bị xói mòn cắt xé thành gò đồi và thung lũng, cho đến một điểm phía nam ở Cảnh Hồng, trở thành dòng sông phân chia ranh giới Trung Quốc và Myanmar.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Nước sông tiếp tục chảy xiết theo hướng tây nam; đoạn sông dài hơn 201 kilômét hình thành biên giới giữa Myanmar và Lào. Lưu vực về phía dưới Myanmar chia thành 6 bộ phận chủ yếu: cao địa bắc bộ, cao nguyên Khorat, cao địa đông bộ, đê địa nam bộ, cao địa nam bộ và tam giác châu. Đa số thảm thực vật thuộc loài cây lá rộng nhiệt đới, nhưng mà tuỳ theo sự khác nhau giữa vĩ độ và địa hình mà xuất hiện cây trồng cá biệt khác nhau. Cao địa bắc bộ có núi nếp uốn cao, cao khoảng 2.743 mét so với mực bước biển, rất nhiều đỉnh núi, sườn núi dốc gần như thẳng đứng. Mặt phía nam của dòng sông có chiều đông - tây ở hạ du Viêng Chăn là cao nguyên Khorat, hầu như đã bao bọc tất cả bộ phận của lưu vực sông Mê Kông ở Thái Lan, cùng với hạ du của chi lưu sông Mê Kông ở Lào. Đây là một vùng gò đồi lên xuống êm dịu, đan xen dọc ngang với đồng bằng bồi tích bằng phẳng. Cao địa đông bộ là bộ phận hợp hành dãy núi Trường Sơn, dòng sông giữa núi đổ vào sông Mê Kông từ mặt phía tây. Phần lớn đoạn đất giữa Kỳ Sơn, Việt Nam và Kratié, Campuchia, đường phân thuỷ tạo thành biên giới giữa Việt Nam ở phía đông với Lào và Campuchia ở phía tây. Đê địa nam bộ kề sát hai bên sông Mê Kông vùng hạ du ở Pakxe, Lào. Sông Mê Kông đột nhiên "té" chảy vào Campuchia ở thác Khone. Ở giữa thác Khone và Kratié, ghềnh hiểm trở và dòng nước xiết đan chéo qua lại với đồng bằng bồi tích. Ở phía dưới Kampong Cham, độ dốc của lòng sông biến thành thoai thoải, dòng sông chảy qua đới bồi tích rộng lớn trên đồng bằng ngập lũ của nó. Ở sát gần Phnôm Pênh, sông Mê Kông hợp lưu với sông Tonlé Sap, đồng thời nối liền với hồ Tonlé Sap thông qua sông Tonlé Sap. Hướng chảy của sông Tonlé Sap dựa vào mùa mà thay đổi. Vào đỉnh điểm mùa lũ, lúc mực nước sông Mê Kông cao, nước chảy vào trong hồ thông qua sông Tonlé Sap, mặt hồ lúc đó từ hơn 2.590 kilômét vuông tăng lên đến diện tích tối đa khoảng 10.360 kilômét vuông.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Vào mùa khô, lúc nước lũ rút đi, sông Tonlé Sap hướng ngược lại chảy vào trong sông Mê Kông theo hướng đông nam. Hồ Tonlé Sap là một ngư trường có sản lượng cao. Dãy núi Damrei và dãy núi Kravanh ở phía tây nam Campuchia hợp thành cao địa nam bộ. Một vài chi lưu của sông Tonlé Sap bắt nguồn ở những cao địa này. Sông Mê Kông về phía dưới Phnôm Pênh chia thành hai chi lưu : sông Tiền và sông Hậu. Tam giác châu từ đó một mạch kéo dài đến ven biển, tổng diện tích tam giác châu chừng 64.750 kilômét vuông, chia thành ba phần, về phía nam sông Hậu là bán đảo Cà Mau, bởi vì ứ tích bùn và cát của sông Mê Kông cho nên bán đảo mỗi năm kéo dài 60 - 80 mét hướng về ven biển phía tây nam. Bãi biển ở phía tây bán đảo đủ dài tạo thành rừng ngập mặn đặc biệt chỉ có ở miền nhiệt đới, bên trong vùng đất có nhiều ruộng lúa nước và rừng rậm nhiệt đới. Ở giữa sông Tiền và sông Hậu là đồng bằng màu mỡ và bằng phẳng, kênh mương dày đặc như mạng nhện. Bộ phận về phía bắc sông Tiền chia ra, phía tây là Đồng Tháp Mười, thực tế là vùng ao đầm, mùa mưa tạo thành một bãi nước rộng lớn bao la, chiều sâu của nước là từ 3m trở xuống, mùa khô cạn nước cũng đến đầu gối, sản xuất nhiều củ sen và lúa nước nổi, phía đông là đồng bằng Đồng Nai. Từ biên giới Trung, Miến, Lào cho đến Viêng Chăn của Lào là thượng du, dài 1.053 kilômét. Phần lớn chảy qua khu vực có độ cao từ 200 đến 1.500 mét so với mực nước biển, địa hình lên xuống khá lớn, dọc đường bị dãy núi ngăn cản, dòng sông mấy lần trải qua uốn khúc, bề rộng lũng sông lúc rộng lúc hẹp thay qua đổi lại, độ dốc lòng sông khá dốc, phần nhiều là dòng nước chảy xiết và bãi cạn. Từ Viêng Chăn đến Pakxe là đoạn trung du, dài 724 kilômét. Chảy qua gò đồi của cao nguyên Khorat và chân núi của dãy núi Trường Sơn, phần lớn khu vực cao 100 đến 200 mét so với mực nước biển, địa hình lên xuống không lớn. Trong đó lũng sông ở đoạn phía trên rộng lớn, dòng nước yên tĩnh.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Từ Kaysone Phomvihane cho đến Pakxe, độ dốc của lòng sông khá dốc, nhiều đá ngầm, bãi cạn và dòng nước chảy xiết. Thác Khone - một vùng nước hiểm, lớn nhất toàn sông nằm ở đoạn này. Từ phía dưới Phnôm Pênh cho đến cửa sông là đoạn sông tam giác châu, dài 332 kilômét. Sông Mê Kông sau khi tiếp nhận sông Tonlé Sap ở chỗ sát gần Phnôm Pênh chia thành sông Tiền và sông Hậu, sông Tiền và sông Hậu đi vào Việt Nam, lại chia thành 6 nhánh, qua 9 cửa sông rồi đổ vào biển Đông, cho nên đoạn sông Mê Kông đổ vào biển đặt tên là sông Cửu Long. Chiều cao trung bình của tam giác châu không đủ 2 mét, diện tích 44.000 kilômét vuông, địa thế thấp bằng, mạng lưới sông ngòi dày đặc, thổ nhưỡng phì nhiêu. Là một trong những khu sản xuất gạo trọng yếu ở Đông Nam Á. Khí hậu. Lưu vực sông Lan Thương, có nhiệt độ trung bình năm tính từ phía dưới Đức Khâm là trên 10℃, nhiệt độ mỗi tháng đều trên 8℃, tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6, tháng có nhiệt độ thấp nhất là tháng 1; nhiệt độ trung bình năm ở khu vực phía trên Đức Khâm là dưới 10℃, tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất xuất hiện vào tháng 1 dưới 0℃, tháng có nhiệt độ trung bình cao nhất xuất hiện vào tháng 7. Nhiệt độ trung bình năm ở Tạp Đa - đầu nguồn sông Lan Thương chỉ 0,2℃, nhiệt độ tháng 1 là -11,3℃, nhiệt độ tháng 7 cũng chỉ có 10,69℃, đều là khu vực có nhiệt độ thấp nhất toàn lưu vực. Lưu vực hạ du sông Mê Kông, nhiệt độ trung bình năm đều trên 25℃, nhiệt độ trung bình mỗi tháng đều trên 20℃, tháng có nhiệt độ cao nhất là vào tháng 5, tháng có nhiệt độ thấp nhất là từ tháng 12 đến tháng 1 năm sau, nhiệt độ từ tháng 2 đến tháng 5 dần dần lên cao, nhiệt độ từ tháng 6 đến tháng 12 dần dần xuống thấp. Khu vực đê địa ở hạ du sông Mê Kông có nhiệt độ trung bình cả năm khá cao.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Khí hậu của lưu vực thượng du và hạ du sông Mê Kông bị nền thời tiết lớn của gió mùa ảnh hưởng khá lớn; vĩ độ, độ cao so với mực nước biển và địa hình cũng đóng vai trò to lớn đối với khí hậu của lưu vực, trong đó lấy sự ảnh hưởng của địa hình về giáng thuỷ là rõ ràng nhất. Cả lưu vực sông Lan Thương - sông Mê Kông hầu như đều bị gió mùa ảnh hưởng; đầu nguồn bị ảnh hưởng ít nhất, hạ du nhiều nhất, từ đầu nguồn đến hạ du bị ảnh hưởng càng ngày càng lớn. Lưu vực, vào mùa đông, bị gió mùa khô lạnh kiểm soát, trời quang mây tạnh, thời tiết khô hanh; mùa hè bị gió mùa Tây Nam nóng ấm kiểm soát, mây mưa khá nhiều. Thời tiết mùa đông và mùa hè hoàn toàn không giống nhau, có tồn tại mùa chuyển tiếp của hai loại thời tiết này là mùa xuân và mùa thu, hơn nữa thời gian chuyển tiếp tương đối ngắn, cho nên đem một năm chia làm hai mùa: mùa khô và mùa mưa. Lưu vực thượng du và hạ du bởi vì chịu ảnh hưởng đến sớm hay muộn của gió mùa Tây Nam và mức độ ảnh hưởng không giống nhau, cho nên thời gian và độ dài ngắn bắt đầu mùa khô và mùa mưa cũng có sự khác biệt. Lưu vực hạ du sông Mê Kông từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa mưa, từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là mùa khô; hạ du sông Lan Thương và lưu vực sông Mê Kông gần giống nhau; trung du sông Lan Thương từ tháng 6 đến tháng 10 là mùa mưa, từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau là mùa khô; thượng du sông Lan Thương là khu vực khô hạn và giá rét, trong một năm chỉ có ba tháng 6, 7 và 8 có giáng thuỷ hơi nhiều một chút, hơn 100 milimét, các tháng khác nước ít hơn, mùa khô và mùa mưa không hoàn toàn rõ ràng. Bị vĩ độ và gió mùa Tây Nam ảnh hưởng, nhiệt độ và giáng thuỷ về tổng thể có xu thế thấp lần lượt từ hạ du lên thượng du, tức là giáng thuỷ và nhiệt độ ở hạ du cao hơn thượng du, cục bộ bị địa mạo ảnh hưởng thì có chỗ khác nhau.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Trong quá trình di chuyển về phía bắc của luồng khí ẩm do gió mùa Tây Nam đem đến, bởi vì mưa rơi dọc đường, cho nên lượng nước chứa trong nó giảm dần, điều này đã dẫn đến lượng mưa cũng có xu thế giảm dần ở dọc dường. Thí dụ như giáng thuỷ hằng năm ở thượng du sông Lan Thương thấp hơn 1.000 milimét, hạ du khoảng 1.500 milimét, nhưng mà giáng thuỷ trung bình hằng năm ở lưu vực sông Mê Kông thì lớn hơn 1.500 milimét. Lưu vực sông Lan Thương - sông Mê Kông từ hạ du lên thượng du về tổng thể xuất hiện rõ ràng quy luật giảm dần của giáng thuỷ và nhiệt độ, nhưng mà khu vực cục bộ chịu sự ảnh hưởng của địa hình vô cùng lớn. Luồng khí ẩm gặp phải đồi núi cao và cao nguyên, trong quá trình leo lên sẽ sản sinh lượng mưa lớn ở sườn đón gió, gọi là "mưa địa hình". Khu vực lưng của sườn đón gió có địa hình khá thấp, lượng mưa khá ít gọi là "khu vực bóng mưa". Lưu vực chịu sự ảnh hưởng của địa hình hình thành khu vực bóng mưa rõ rệt có: khu vực hồ Tonlé Sap, cao nguyên Khorat và khu vực lũng sông ở trung du sông Lan Thương. Hồ Tonlé Sap nằm ở mặt phía đông của dãy núi Kravanh và dãy núi Damrei, cao nguyên Khorat nằm ở phía đông của hệ thống dải núi dài Phetchabun-Dong Phaya Yen-Sankamphaeng, lũng sông vùng trung du sông Lan Thương nằm ở phía đông núi Cao Lê Cống và phía đông dãy núi Nộ Sơn. Tất cả chúng đều nằm ở khu vực bóng mưa sườn trái gió của gió mùa Tây Nam, giáng thuỷ tương đối ít, lượng mưa ở trong lũng sông tại chỗ tiếp giáp Vân Nam và Tây Tạng thuộc vùng trung du sông Lan Thương không đến 400 milimét. Bộ phận thung lũng bị kẹp giữa hai dãy núi cao ở vùng trung du sông Lan Thương không chỉ nằm ở khu vực bóng mưa có lượng mưa ít, thậm chí còn bị tác dụng của hiệu ứng foehn hình thành thung lũng khô nóng.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Sự ảnh hưởng của địa hình lên nhiệt độ chính là ở một số khu vực mưa nhiều phía sườn đón gió, không chỉ có chiều cao so với mặt nước biển cao, mà bản thân lượng mưa cũng khiến cho nhiệt độ giảm xuống rõ rệt, thí dụ như nhiệt độ trung bình và hằng năm ở Paksong và Xiengkhuang thấp hơn rõ rệt so với các khu vực khác cùng vĩ độ. Nhiệt độ hằng năm ở Paksong là từ 17 - 22℃, trở thành khu nghỉ mát tránh nóng nổi tiếng. Cao nguyên Khorat có giáng thuỷ khá ít, nhiệt độ hằng năm khá cao, bị khu vực vực bóng mưa ảnh hưởng rõ rệt. Sự phân bố độ ẩm ở lưu vực sông Lan Thương - sông Mê Kông có tính nhất quán khá tốt, phù hợp với quy luật biến thiên trong năm và quy luật biến thiên của lượng mưa. Các vấn đề. Theo tiến sĩ C. Hart Schaaf, cựu ủy viên Ủy ban Mê Kông, "...Đây là người khổng lồ đang ngủ, chứa trong lòng một tiềm năng to lớn về thủy điện, thủy lợi cũng như khả năng phòng lụt, một nguồn năng lượng bị bỏ quên...". Có hai vấn đề chính gây mâu thuẫn giữa các bên là việc xây dựng các con đập hay việc phá hủy những chỗ chảy xiết. Một loạt các đập đã được xây dựng trên các nhánh của dòng sông này, đáng kể nhất là đập Pak Mun tại Thái Lan. Nó bị công kích dữ dội do chi phí cao cũng như ảnh hưởng xấu tới môi trường và tới cuộc sống của những khu dân cư chịu ảnh hưởng. Người Trung Quốc hiện đang tiến hành một chương trình lớn về xây dựng các đập trên sông: họ đã hoàn thành các đập tại Mạn Loan (漫湾), Đại Triều Sơn (大朝山), Cảnh Hồng (景洪), đang tiến hành xây đập Tiểu Loan (小湾 "Xiaowan") và khoảng hơn một chục đập khác đang được nghiên cứu. Tính đến đầu năm 2016, Trung Quốc đã hoàn thành ít nhất 8 đập chính trên sông Lan Thương (dòng chính tại thượng nguồn sông Mekong) và đang xây tối thiểu thêm 4 đập nữa. Người ta lo ngại rằng các đập này sẽ ngăn cản chuyển động của trầm tích và sẽ gây thiệt hại cho nông nghiệp và nghề cá ở phía hạ lưu. Sự giảm đi của các dao động mức nước theo mùa cũng sẽ ảnh hưởng mạnh đến Tonlé Sap(Biển Hồ).
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Các chính phủ Lào và Campuchia cũng có kế hoạch xây dựng các đập ngăn nước, hiện đang bị một số người phản đối. Chính quyền Trung Quốc cũng thực hiện việc làm sạch các tảng đá và cồn cát từ dòng chảy để tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông, và điều này cũng khuyến khích Lào làm như vậy. Các nhà môi trường cho rằng điều này sẽ làm tăng sự lưu thông nước và kết quả của nó là sự gia tăng xói mòn cũng như gây thiệt hại cho nguồn cá. Việt Nam thì thường lên tiếng về các tác động của những hoạt động làm thay đổi chế độ thủy văn của sông Mekong này do có đồng bằng sông Cửu Long là nơi chịu tác động trực tiếp của những thay đổi này. Đặc biệt là đợt hạn hán miền Nam Việt Nam 2016 được cho là do lượng nước đổ về đồng bằng sông Cửu Long từ sông Mê Kông bị giảm mạnh do hệ thống các đập thủy điện được nhiều quốc gia xây dựng trên dòng chính của con sông . Việt Nam tìm cách phản đối việc xây dựng đập trên dòng chính, nhưng các công ty đầu tư thì đang chạy đua trong việc xây dựng thủy điện trên các phụ lưu. Trong điều kiện chưa có quy tắc ứng xử hoàn thiện, thì theo tạp chí Mỹ "The National Interest" hệ thống hàng chục đập thủy điện của Trung Quốc tại thượng nguồn các sông ở đông nam dãy Himalaya được coi là "vũ khí hủy diệt đáng sợ". Nó sẵn sàng trở thành công cụ hỗ trợ sức ép cho xử lý các quan hệ ngoại giao rắc rối để thu lợi thế cho họ . Dẫu vậy thì trong các thảo luận về chia sẻ nguồn nước, điểm khó bàn thảo nhất chính là quyền chính đáng của các vùng đất trong việc "giữ lại lượng nước đã mưa trên vùng lãnh thổ của mình", và "không để đất bị xói mòn trôi xuống thành phù sa sông", nhằm cải thiện môi trường sống của mình. Vùng thượng nguồn sông đáp ứng chia sẻ ở mức độ nào là vấn đề thương thảo với nhiều yếu tố hậu trường thường có biến động. Các vùng hạ nguồn có nghĩa vụ phải chuyển hướng thích hợp với tình hình đó.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Chẳng lẽ vùng hạ nguồn đã không giữ lại lượng nước mưa đã rơi trên lãnh thổ của mình đến 2 mét nước, mà lại tháo trôi hết ra biển, rồi trông chờ vào "tài nguyên" từ vùng khác trôi đến để chống hạn mặn và tạo sự phì nhiêu của riêng mình. Các động vật quý hiếm. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên ("World Wide Fund for Nature" hay "World Wildlife Fund" - WWF) cho biết các nhà khoa học đang tìm kiếm các sinh vật như cá úc, cá trê, cá đuối gai độc khổng lồ, cá nhái răng nhọn, cá chép lớn, ăn thịt ở sông Mê Kông – các loài cá này có thể nặng tới hơn 90 kg và dài hơn 1,80 mét. Ngoài ra sông Mê Kông còn có các loài cá chiên và cá lăng quý hiếm, chưa kể đến cá hô và cá chép khổng lồ, dịch vụ du lịch câu cá vì thế rất phát triển ở đây. Đặc biệt, đoạn sông Mê Kông ở Campuchia và vùng hồ Tonlé Sap còn có cá heo sông (Irrawaddy dolphin, "Orcaella brevirostris"), số lượng có thể chỉ còn vài chục cá thể. Người Campuchia không săn bắt chúng, trừ thời kỳ chiến tranh khi lính Khmer Đỏ đã từng nã đạn cối vào đàn của chúng; hành động này được quay phim tư liệu, sau này phim được National Geographic Channel đưa vào loạt phóng sự về cá heo sông Mekong, thỉnh thoảng được phát từ năm 2010 đến nay. Loài này đang bị đe dọa tuyệt chủng vì môi môi trường sống và nguồn thức ăn đang bị phá vỡ nghiêm trọng. Ngày 24/8/2012 chính phủ Campuchia đã lập khu bảo tồn cá heo sông Mekong với chiều dài 180 km, trải từ tỉnh Kratie ở phía đông tới biên giới với Lào. Người dân vẫn được phép câu cá trong khu bảo tồn, song chính phủ cấm sử dụng nhà nổi, lồng cá và lưới quét bởi chúng đe dọa mạng sống của cá heo sông. Zed Hogan, phụ trách dự án do WWF và Hội địa lý quốc gia tài trợ cho biết, các động vật này là "độc nhất" và "đang biến mất với tốc độ nhanh chóng". Theo Hogan, khi nghiên cứu cá úc khổng lồ ở sông Mê Kông, Campuchia, các nhà khoa học sẽ theo dõi sự di chuyển của cá với hy vọng hiểu thêm về hướng di trú của chúng và nguyên nhân chúng bị chết. Sự biến mất các loài cá này là dấu hiệu đầu tiên cảnh báo tình trạng đánh bắt quá mức hoặc các xáo trộn khác ở các sông, hồ nơi chúng cư trú.
Mê Kông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3277
Một số sinh vật khổng lồ nước ngọt được ghi vào sách đỏ các loài đang bị đe dọa của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Cá úc khổng lồ sông Mê Kông được coi là loài cá nước ngọt lớn nhất cùng họ với loài cá nhám chó, đã được đưa vào danh sách những loài bị đe dọa vào năm 2003, sau khi nghiên cứu chỉ ra số lượng cá giảm ít nhất 80% trong hơn 13 năm qua. Robin Abell, nhà sinh học của WWF cho biết: "Các loài cá khổng lồ là những sinh vật nước ngọt có trọng lượng tương đương với voi và tê giác và nếu chúng biến mất thì thế giới sẽ bất ổn. Cuối cùng, chúng ta sẽ nhận thức tốt hơn về cách quản lý việc đánh bắt và bảo vệ các nơi cư trú nhằm cứu vớt các loài trong tương lai". Cầu qua sông. Đoạn hạ lưu trên khu vực Đông Nam Á:
Nguyễn Vũ Bình
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3281
Nguyễn Vũ Bình (sinh ngày 2 tháng 11 năm 1968) là một người bất đồng chính kiến, từng bị tù tại Việt Nam vì bị Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cáo buộc tội gián điệp. Ông đã viết các bài kêu gọi dân chủ và nhân quyền. Tiểu sử. Ông xuất thân từ làng Hành Thiện tỉnh Nam Định, một ngôi làng nổi tiếng của miền bắc Việt Nam về nhân tài, khoa bảng. Ông là đồng hương với Cố Tổng Bí thư Trường Chinh, Giáo sư Đặng Vũ Khiêu, Nguyễn Sĩ Quốc, Phạm Gia Triệu, Nguyễn Việt Tiến. Hoạt động. Nguyễn Vũ Bình đã làm việc gần 10 năm tại Tạp chí Cộng sản, cơ quan lý luận và chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 02/9/2000, ông làm đơn xin thành lập Đảng Tự do - Dân chủ, đồng thời cũng làm đơn xin nghỉ việc tại Tạp chí Cộng sản. Tháng 1/2001 ông bị Tạp chí Cộng sản buộc thôi việc. Sau đó, ông cùng với 16 người khác đã viết một thư mở gởi đến chính quyền kêu gọi cải cách chính trị và trả tự do cho các tù nhân chính trị. Ông cũng ủng hộ việc thành lập "Hội nhân dân giúp Đảng và Nhà nước chống tham nhũng" và trở thành thành viên sáng lập của Câu lạc bộ Dân chủ cho Việt Nam. Ngày 21 tháng 7 năm 2002, sau khi ông gởi một bài điều trần tới Ủy ban Nhân quyền của Quốc hội Hoa Kỳ về tình hình vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, công an đã khám nhà ông ở Hà Nội và tịch thu các tài liệu, sách vở. Ông đã bị giam lỏng tại nhà, hàng ngày bị triệu tập làm việc tại Sở Công an Hà Nội liên tục trong hơn hai tuần. Trong thời gian bị giam tại nhà, ông thường xuyên bị sách nhiễu, theo dõi và phải trình diện thường xuyên để công an thẩm vấn. Sau khi ông đưa lên Internet bài viết "Về vấn đề biên giới Việt-Trung", trong đó ông chỉ trích chính phủ đã làm thiệt hại hàng trăm kilomet vuông đất đai của Việt Nam, ông chính thức bị bắt vào ngày 25 tháng 9 năm 2002.
Nguyễn Vũ Bình
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3281
Cuối bản điều trần về tình hình nhân quyền ở Việt Nam, Nguyễn Vũ Bình viết: "Tôi luôn tin rằng, chúng ta chỉ có thể thành công trong việc chấm dứt và ngăn chặn những vi phạm nhân quyền tại Việt Nam khi thực hiện điều đó trên phạm vi quốc gia, tức là thành công trong việc dân chủ hóa đất nước. Vì vậy, tất cả các giải pháp đấu tranh bảo vệ nhân quyền nào cũng phải hướng tới mục tiêu cao nhất mà Nhân dân Việt Nam hằng mong ước: Tự do cá nhân và Dân chủ cho toàn xã hội." Sau phiên xử kín kéo dài khoảng 3 tiếng tại Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội vào ngày 31 tháng 12 năm 2003, Nguyễn Vũ Bình bị tuyên án 7 năm tù giam và 3 năm quản thúc tại gia vì tội làm gián điệp. Các tổ chức quốc tế như Ký giả Không Biên giới, Quan sát Nhân quyền, Ủy ban Bảo vệ các Nhà báo, World Association of Newspapers, và Diễn đàn Biên tập viên Thế giới, đại diện 18.000 tờ báo trên 100 quốc gia, và Chính phủ Hoa Kỳ đồng loạt lên án phiên xử. Mặc dù vậy vào ngày 5 tháng 5 năm 2004, tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao tại Hà Nội vẫn quyết định giữ nguyên bản án. Tại cuối phiên kháng án thất bại của mình, Nguyễn Vũ Bình tuyên bố: "Đối với tôi, tự do hay là chết", rồi lập tức bắt đầu một cuộc tuyệt thực. Sau 14 ngày, ông mới đồng ý chấm dứt cuộc tuyệt thực sau khi Tòa án Tối cao đồng ý xét lại vụ án. Sau cuộc tuyệt thực, ông đã bị sụt giảm 14 kg trọng lượng và di chứng để lại là bệnh đường ruột. Nguyễn Vũ Bình hai lần được Tổ chức Quan sát Nhân quyền trao giải Hellman-Hammett năm 2002 và năm 2007, một giải thưởng hàng năm dành cho những văn sĩ dũng cảm đương đầu với các đàn áp chính trị. Nguyễn Vũ Bình là Hội viên danh dự của bốn tổ chức Văn bút Quốc tế: Văn bút Hoa Kỳ, Văn bút Canada, Văn bút Thụy Sĩ Pháp thoại, Văn bút Sydney. Vào ngày 9 tháng 6 năm 2007, ông được nhà cầm quyền thả tự do từ nhà tù Ba Sao ở tỉnh Nam Hà.
Năm nhuận
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3283
Năm nhuận là năm: Để đảm bảo đồng bộ việc lặp lại của năm trên lịch với năm thiên văn hoặc năm thời tiết. Trong trường hợp dương lịch thì các mùa và các sự kiện thiên văn không lặp lại chính xác sau một số ngày, vì thế năm dương lịch cứ sau một khoảng thời gian nhất định phải thêm vào một ngày để đảm bảo việc chỉnh lại các sai số do làm tròn năm. Trong trường hợp âm dương lịch như lịch Trung Quốc thì do một chu kỳ quay của Mặt Trăng quanh Trái Đất là khoảng 29,53 ngày nên một năm âm lịch chỉ có khoảng 354 ngày (làm tròn). Do vậy, cứ sau một vài năm âm lịch thì người ta phải bổ sung một tháng (tháng nhuận) để đảm bảo năm âm lịch tương đối phù hợp với chu kỳ của thời tiết, là yếu tố phụ thuộc vào chu kỳ quay của Trái Đất xung quanh Mặt Trời. Khái niệm năm nhuận không nên nhầm lẫn với các giây nhuận (dùng để đảm bảo cho thời gian của đồng hồ đồng bộ với ngày). Dương lịch. Lịch Gregorius. Theo lịch Gregorius - loại lịch tiêu chuẩn hiện nay được dùng trên hầu khắp thế giới thì những năm nào chia hết cho 4 được và không chia hết cho 100 được coi là năm nhuận (ví dụ năm 2100 không phải là năm nhuận, 2104 là năm nhuận). Trong năm nhuận, tháng 2 có 29 ngày thay cho 28 ngày. Cứ 4 năm lại thêm 1 ngày vào lịch bởi vì một năm dương lịch (năm tính theo dương lịch) dài khoảng 365 ngày và 6 giờ. Ngoài ra, vẫn có một số ngoại lệ đối với nguyên tắc này vì một năm dương lịch ngắn hơn 365,25 ngày một chút. Những năm chia hết cho 100 sẽ được coi là năm nhuận nếu chúng cũng chia hết cho 400. Ví dụ, 400, 800 và 1200 là các năm nhuận nhưng 100, 200, 300, 500... 1500 không phải năm nhuận theo lịch Gregory đón trước; 1600 và 2000 là các năm nhuận nhưng 1700, 1800 và 1900 không phải năm nhuận. Tương tự như vậy, 2100, 2200, 2300, 2500, 2600, 2700, 2900 và 3000 không phải năm nhuận nhưng 2400 và 2800 là các năm nhuận. Theo nguyên tắc này thì trung bình một năm có 365 + 1/4 − 1/100 + 1/400 = 365,2425 ngày, tức là 365 ngày 5 giờ 49 phút và 12 giây.
Năm nhuận
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3283
Lý do nằm sau quy tắc này như sau: Sự sai khác rất nhỏ này (trên 0,0001 ngày) có nghĩa là sai số thời gian sẽ tích lũy đủ một ngày trong khoảng 8.000 năm. Nhưng trong thời gian của 8.000 năm thì độ dài của một năm xuân phân cũng sẽ thay đổi theo một lượng mà người ta không thể dự báo chính xác trước (xem dưới đây). Vì thế quy tắc tính năm nhuận của lịch Gregory là đủ thỏa mãn. Ngày nào là ngày nhuận. Lịch Gregory là bản sửa đổi của lịch Julius được sử dụng bởi người La Mã. Lịch La Mã có nguồn gốc là lịch Mặt Trăng (mặc dù từ thế kỷ 5 TCN nó không còn tuân theo chu kỳ Mặt Trăng nữa) và được đặt tên cho các ngày theo ba tuần (pha) của chu kỳ Mặt Trăng: trăng mới ("calends", từ đó có từ "calendar" nghĩa là lịch), phần đầu tiên ("nones") và trăng tròn ("ides"). Các ngày đã được đếm ngược (bao gồm cả ngày này) cho đến ngày kế tiếp được đặt tên, vì thế ngày 24 tháng 2 là "ante diem sextum calendas martii" ("ngày thứ sáu trước lịch của tháng 3"). Từ năm 45 TCN, tháng 2 trong những năm nhuận có "hai" ngày được gọi là "ngày thứ sáu trước lịch của tháng 3". Ngày dư ra nguyên thủy là ngày thứ hai trong những ngày được gọi như vậy, nhưng từ thế kỷ 3 nó đã là ngày đầu tiên. Từ đó có thuật ngữ ngày nhuận cho ngày 24 tháng 2 trong năm nhuận. Khi mà tập quán này được tuân theo, những ngày lễ sau ngày thêm vào đã bị dịch chuyển trong năm nhuận. Ví dụ, ngày lễ trước đây của thánh Matthias, vào ngày 24 tháng 2 trong những năm thường sẽ rơi vào ngày 25 tháng 2 trong năm nhuận. Tuy nhiên điều tế nhị của lịch sử này đang trong quá trình bị loại bỏ: Liên minh châu Âu thông báo rằng, từ năm 2000, ngày 29 tháng 2 sẽ là ngày nhuận chứ không phải là ngày 24 tháng 2, và Giáo hội Công giáo Rôma hiện nay cũng sử dụng ngày 29 tháng 2 như ngày nhuận. Sự khác biệt rõ ràng chỉ có ở những nước kỷ niệm "ngày có tên". Lịch Julius. Lịch Julius thêm một ngày vào tháng 2 trong những năm chia hết cho 4. Quy tắc này lấy một năm trung bình dài 365,25 ngày.
Năm nhuận
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3283
Sự dôi ra của khoảng 0,0076 ngày trong mối quan hệ với năm xuân phân có nghĩa là ngày xuân phân sẽ dịch chuyển lên sớm hơn trong lịch này cứ sau mỗi 130 năm. Lịch Julius cải tiến. Lịch Julius cải tiến thêm một ngày vào tháng 2 trong những năm chia hết cho 4. Nhưng đi cùng nó là ngoại lệ: những năm chia hết cho 100 mà khi chia cho 900 không để lại số dư bằng 200 hay 600 thì không phải năm nhuận. Quy tắc này phù hợp với quy tắc của lịch Gregory cho đến năm 2800 (năm nhuận trong lịch Gregory nhưng không phải trong lịch Julius sửa đổi). Quy tắc này tính một năm trung bình dài khoảng 365,242222... ngày. Con số này xấp xỉ gần đúng với một năm chí tuyến trung bình, nhưng bởi vì năm xuân phân chí tuyến trung bình là dài hơn một chút nên lịch Julius sửa đổi không thỏa mãn tốt như lịch Gregory trong việc giữ ngày xuân phân rơi đúng hoặc sát với ngày 21 tháng 3. Lịch Iran. Lịch Iran cũng có một ngày nhuận một lần trong bốn năm, nhưng cứ 33 năm thì năm nhuận rơi vào năm thứ năm thay vì năm thứ tư. Hệ thống sử dụng để tính toán là chính xác hơn và phức tạp hơn, và nó dựa trên cơ sở thời gian diễn ra xuân phân trong tháng 3 được quan sát tại Tehran. Chu kỳ 33 năm là không đều hoàn toàn; cứ mỗi chu kỳ 33 năm sẽ bị tách bởi một chu kỳ có 29 hay 37 năm. Âm-Dương Lịch. Lịch Trung Quốc. Lịch Trung Quốc là một loại âm dương lịch, vì thế năm nhuận có một tháng thừa, gọi là tháng nhuận. Trong lịch Trung Quốc tháng nhuận được thêm vào phù hợp Lịch Hebrew. Lịch Hebrew (lịch Do Thái) cũng là một loại âm dương lịch với tháng dôi ra. Trong lịch Hebrew tháng dôi ra được gọi là "Adar Rishon" (Adar thứ nhất) và được thêm vào trước tháng "Adar", mà tháng này sau đó trở thành tháng Adar Sheni (Adar thứ hai). Phù hợp với chu kỳ Mêtôn, nó được thêm vào bảy (7) lần trong chu kỳ mười chín (19) năm, thông thường trong các năm thứ 3, 6, 9, 11, 14, 17, và 19 của chu kỳ này. Lịch Hêbrơ có quy luật hoãn lại để lui thời điểm bắt đầu của năm từ một đến hai ngày. Năm trước khi có sự hoãn lại có một đến hai ngày dôi ra, và năm mà thời điểm bắt đầu của nó bị lui lại mất một đến hai ngày.
Năm nhuận
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3283
Các quy luật hoãn lại này làm giảm số lượng các tổ hợp khác nhau của độ dài năm và ngày bắt đầu của tuần từ 28 xuống 14, cũng như điều chỉnh thời điểm của lễ hội tôn giáo nào đó trong mối tương quan với lễ hội xaba. Quy tắc dài hạn của năm nhuận. Sự sai khác giữa lịch Gregory và năm xuân phân tích lũy đủ 1 ngày trong khoảng 8.000 năm. Điều này có nghĩa là lịch cần phải được hoàn thiện hơn bằng các phương thức tinh vi hơn cho quy tắc năm nhuận: có lẽ bằng cách bỏ năm nhuận trong năm chia hết cho 8.000. Tuy nhiên, ở đây không cần thiết phải có sự tính toán lịch xa đến như vậy bởi vì trong một khoảng thời gian của hàng chục nghìn năm thì số ngày của năm có thể sẽ bị thay đổi vì một loạt các nguyên nhân, đáng kể nhất là: Cụ thể hơn thì yếu tố thứ hai của sự thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố như sự hồi phục hậu băng hà và độ tăng của mực nước biển vì các thay đổi khí hậu. Chúng ta không thể dự đoán trước các thay đổi này một cách chính xác đủ để có thể làm lịch có độ chính xác đến từng ngày trong hàng chục nghìn năm. Cầu hôn. Đây là một truyền thống, cho rằng có từ thời kỳ thánh Patriciô và Bridget trong thế kỷ 5. Ở Ireland khi đó phụ nữ chỉ có thể được cầu hôn trong những năm nhuận. Thánh Patriciô và năm nhuận. Theo như luật năm 1288 ở Scotland, nếu người đàn ông từ chối lời cầu hôn thì họ phải nộp phạt; mức phạt có thể là từ nụ hôn tới áo dài lụa hay đánh đòn nhẹ. Vì những người đàn ông cảm thấy điều này đưa họ vào những rủi ro lớn, ở một vài nơi thì truyền thống này đã bị làm chặt chẽ hơn để cấm người phụ nữ cầu hôn vào ngày 29 tháng 2.
Đơn vị đo chiều dài
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3288
Một đơn vị đo chiều dài là một chiều dài chuẩn (thường không đổi theo thời gian) dùng để làm mốc so sánh về độ lớn cho mọi chiều dài khác. Trong vật lý. Trong vật lý còn có thêm:
Pêtamét
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3293
Một pêtamét (viết tắt là Pm) là một khoảng cách bằng 1015 mét. Trong hệ đo lường quốc tế, pêtamét là đơn vị đo được suy ra từ đơn vị cơ bản mét theo định nghĩa trên. Pêtamét có thể được dùng để đo khoảng cách giữa các vì sao, tuy nhiên các nhà thiên văn thường quen dùng năm ánh sáng (khoảng 9.5 pêtamét) và parsec (khoảng 31 pêtamét) hơn. Chữ pêta (hoặc trong viết tắt là P) viết liền trước các đơn vị trong hệ đo lường quốc tế để chỉ rằng đơn vị này được nhân với 1015 lần. Xem thêm trang độ lớn trong SI. Tham khảo. [[Thể loại:Đơn vị đo [[chiều dài]] [[nl:Petameter]]
Latinh (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3294
Latinh hay Latin là một ngôn ngữ gốc Ý, ban đầu được nói ở thành Roma cổ đại và Đế quốc La Mã. 'Latinh' cũng có thể đề cập đến các nghĩa sau đây:
Năm ánh sáng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3295
Năm ánh sáng là đơn vị đo chiều dài sử dụng trong đo khoảng cách thiên văn. Theo những đo lường thực nghiệm, ánh sáng truyền đi trong chân không với vận tốc khoảng 300.000 km/s, do vậy, nó bằng khoảng 9,5 nghìn tỷ km hoặc 5,9 nghìn tỷ dặm. Theo định nghĩa của Hiệp hội Thiên văn Quốc tế (IAU), một năm ánh sáng là khoảng cách ánh sáng truyền trong chân không trong khoảng thời gian một năm Julius (365,25 ngày). Bởi vì nó gồm từ "năm", thuật ngữ năm ánh sáng đôi khi bị giải thích nhầm thành đơn vị của thời gian. Năm ánh sáng thường hay được sử dụng nhất khi biểu diễn khoảng cách đến các sao hoặc đến những khoảng cách lớn hơn trong phạm vi thiên hà, đặc biệt đối với đại chúng và ở các ấn phẩm phổ biến khoa học. Đơn vị đo thường hay sử dụng trong trắc lượng học thiên thể là parsec (ký hiệu: pc, bằng khoảng 3,26 năm ánh sáng; đây là khoảng cách mà khi nhìn một đơn vị thiên văn dưới góc mở bằng một giây cung). Định nghĩa. Theo định nghĩa của IAU, năm ánh sáng là khoảng cách tính bằng nhân thời gian một năm Julius (365,25 ngày so với 365,2425 ngày của lịch Gregorius) với tốc độ ánh sáng (). Các giá trị này được nêu trong nghị quyết về Hệ thống các hằng số thiên văn IAU (1976), và được sử dụng từ 1984. Từ đây, các chuyển đổi có thể thực hiện như sau. IAU quy định viết tắt cho năm ánh sáng là ly, mặc dù có những chuẩn khác như ISO 80000 sử dụng ký hiệu "l.y." và những ký hiệu theo tiếng bản ngữ cũng được sử dụng, như "al" trong tiếng Pháp (từ année-lumière") và tiếng Tây Ban Nha (từ año luz"), "Lj" trong tiếng Đức (từ "Lichtjahr"), vv... Trước năm 1984, năm chí tuyến (không phải năm Julius) và một phép đo (không dùng để định nghĩa) tốc độ ánh sáng đã được đưa vào trong Hệ thống hằng số thiên văn của IAU (1964), được sử dụng từ 1968 đến 1983.
Năm ánh sáng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3295
Tích của năm chí tuyến theo kỷ nguyên J1900.0 của Simon Newcomb là 31556925,9747 giây của lịch thiên văn (ephemeris second) nhân với tốc độ ánh sáng cho kết quả một năm ánh sáng bằng 9,460530 x 1015m (làm tròn đến 7 chữ số thập phân trong năm ánh sáng) có thể tìm thấy ở một số tài liệu hiện đại có lẽ bắt nguồn từ một nguồn cũ như tham khảo công trình "Astrophysical Quantities" của Clabon Allen năm 1973, mà được cập nhật trong năm 2000, bao gồm giá trị của IAU (1976) như nêu ở trên (lấy đến 10 chữ số thập phân). Những giá trị chính xác cao khác không được tính dựa trên một hệ thống nhất quán của IAU. Giá trị 9,460536207 x 1015m có trong một số cuốn sách hiện đại là tích của trung bình một năm Gregorius (365,2425 ngày hay 31556952 giây) và tốc độ ánh sáng (299792458 m/s). Một giá trị khác, 9,460528405 x 1015m, là tích của trung bình một năm chí tuyến J1900.0 với tốc độ ánh sáng. Các viết tắt và sử dụng bội số của năm ánh sáng là: Lịch sử. Đơn vị năm ánh sáng xuất hiện chỉ một vài năm sau khi Friedrich Bessel đo thành công khoảng cách đến một ngôi sao khác ngoài Mặt Trời vào năm 1838. Ngôi sao mà ông sử dụng để đo là 61 Cygni, và dụng cụ đo là một kính thiên văn đo thị sai (heliometer) có độ mở 160mm do Joseph von Fraunhofer thiết kế. Đơn vị lớn nhất biểu diễn khoảng cách vũ trụ ở thời điểm đó là đơn vị thiên văn, bằng bán kính của quỹ đạo Trái Đất 1,50 x 108km. Theo đơn vị này, tính toán lượng giác dựa trên thị sai của sao 61 Cygni bằng 0,314 giây cung, cho kết quả khoảng cách tới ngôi sao bằng 660.000 AU (9,9 x 1013km). Bessel ghi chú thêm rằng ánh sáng mất 10,3 năm để truyền qua quãng đường như vậy. Ông nhận ra rằng độc giả của ông sẽ thấy thích thú khi đưa ra một hình ảnh cho dễ hình dung về thời gian truyền đi xấp xỉ của ánh sáng, nhưng ông đã ngập ngừng khi sử dụng năm ánh sáng làm đơn vị khoảng cách. Theo ông bởi vì khi sử dụng khoảng cách theo năm ánh sáng sẽ làm mất đi độ chính xác trong dữ liệu đo thị sai của ông do nó nhân với một tham số chưa chính xác đó là tốc độ ánh sáng.
Năm ánh sáng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3295
Vào năm 1838 tốc độ ánh sáng vẫn chưa được đo chính xác; giá trị của nó thay đổi vào năm 1849 (Fizeau) và 1862 (Foucault). Khi ấy các nhà khoa học vẫn chưa coi nó là một hằng số cơ bản của tự nhiên, và sự lan truyền của ánh sáng qua môi trường aether hoặc không gian vẫn còn là điều bí ẩn. Tuy thế, đơn vị năm ánh sáng xuất hiện trong một cuốn sách phổ biến thiên văn học của nhà thiên văn học người Đức Otto Ule. Nghịch lý về đơn vị khoảng cách có từ "năm" trong đó đã được Ule giải thích bằng cách so sánh với khoảng cách giờ đường trượt tuyết (hiking road hour, "Wegstunde" trong tiếng Đức). Một quyển sách tiếng Đức phổ biến thiên văn cùng thời cũng lưu ý tới độc giả năm ánh sáng là một tên gọi kỳ lạ. Năm 1868 một tạp chí của Anh ghi nhận năm ánh sáng là đơn vị đo khoảng cách được sử dụng bởi các nhà khoa học Đức. Eddington đã gọi năm ánh sáng là một đơn vị không thuận tiện và không thích hợp, mà thỉnh thoảng đi từ các tác phẩm đại chúng vào trong các khảo cứu kỹ thuật. Mặc dù trong thời hiện đại các nhà thiên văn thường sử dụng đơn vị parsec, năm ánh sáng cũng là đơn vị phổ biến sử dụng trong khoảng cách liên sao và liên thiên hà. Sử dụng đơn vị. Khoảng cách tính theo năm ánh sáng bao gồm giữa những ngôi sao trong cùng một khu vực, như chúng cùng thuộc về một nhánh xoắn ốc hoặc cụm sao cầu. Các thiên hà có đường kính từ vài nghìn đến vài trăm nghìn năm ánh sáng, và khoảng cách giữa các thiên hà lân cận hoặc khoảng cách giữa các cụm thiên hà lên tới hàng triệu năm ánh sáng và hàng chục triệu năm ánh sáng. Khoảng cách giữa các quasar và Bức tường lớn Sloan (Sloan Great Wall) lên tới hàng tỷ năm ánh sáng. Các đơn vị liên quan. Khoảng cách giữa các vật thể trong một hệ sao thường bằng phần nhỏ của một năm ánh sáng, và chúng thường được biểu diễn theo đơn vị thiên văn au. Tuy nhiên, đơn vị của những độ dài nhỏ hơn có thể dùng bằng cách nhân thời gian với tốc độ ánh sáng. Ví dụ, giây ánh sáng, mà hay sử dụng trong thiên văn học, vật lý tương đối tính và truyền thông tin, có giá trị bằng mét hay của một năm ánh sáng.
Năm ánh sáng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3295
Các đơn vị như phút ánh sáng, giờ ánh sáng và ngày ánh sáng đôi khi được sử dụng trong các tác phẩm phổ biến khoa học. Tháng ánh sáng, gần bằng một phần mười hai của năm ánh sáng, cũng được sử dụng để đo xấp xỉ khoảng cách. Bảo tàng không gian và Trái Đất Hayden (Hayden Planetarium) xác định tháng ánh sáng bằng chính xác 30 ngày ánh sáng truyền đi. Ánh sáng truyền xấp xỉ qua một foot trong một nano giây; do vậy thuật ngữ "foot ánh sáng" đôi lúc được sử dụng không chính thức để đo thời gian.
Yôtamét
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3296
Một yôtamét (viết tắt là Ym) là một đơn vị đo khoảng cách bằng 1024 mét. (1 triệu tỷ mét, tiếng Anh là Septillion) Trong hệ đo lường quốc tế, yôtamét là đơn vị đo được suy ra từ đơn vị cơ bản mét theo định nghĩa trên. Yôtamét có thể được dùng để đo khoảng cách giữa các thiên hà, tuy nhiên các nhà thiên văn thường quen dùng năm ánh sáng và parsec hơn. Chữ yôta (hoặc trong viết tắt là Y) viết liền trước các đơn vị trong hệ đo lường quốc tế để chỉ rằng đơn vị này được nhân với 1024 lần. Xem thêm trang độ lớn trong SI.
Doraemon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3304
Doraemon ( ) là một series manga của Nhật Bản do Fujiko F. Fujio và đồng tác giả Motoo Abiko sáng tác từ tháng 12 năm 1969 đến tháng 4 năm 1996 đăng trên tạp chí "CoroCoro Comic" của nhà xuất bản Shogakukan. Có tổng cộng 821 chương truyện được tuyển chọn đóng gói đưa vào 45 tập "tankōbon" dưới ấn hiệu "Tentōmushi Comics" cũng do Shogakukan xuất bản. Manga đã được dịch và xuất bản bằng nhiều ngôn ngữ trên thế giới, trong đó bao gồm cả tiếng Việt do Nhà xuất bản Kim Đồng biên soạn. Nội dung series kể về cuộc đời bất hạnh của cậu bé Nobita và chú mèo máy Doraemon từ tương lai đến để giúp cuộc sống của cậu bé trở nên tốt hơn. Tác phẩm ba lần được chuyển thể thành anime: lần đầu do Nippon TV Dōga sản xuất gồm 52 tập phát sóng trên Nippon TV từ 1 tháng 4 đến 30 tháng 9 năm 1973; lần thứ hai do Shin-Ei Animation sản xuất với 1787 tập phát từ 2 tháng 4 năm 1979 đến 18 tháng 3 năm 2005 trên TV Asahi và lần thứ ba cũng do Shin-Ei Animation sản xuất phát trên TV Asahi từ 15 tháng 4 năm 2005 đến nay. Tác phẩm cũng được chuyển thể thành các loại hình truyền thông khác như phim điện ảnh và trò chơi điện tử. Tính đến năm 2019, với hơn 250 triệu bản in được bán ra trên thế giới, "Doraemon" được coi như là một trong những series manga nổi tiếng và thành công nhất mọi thời đại. Được nhiều nhà phê bình và chuyên gia khen ngợi, một số mangaka nổi tiếng nói rằng "Doraemon" đã truyền cảm hứng cho tác phẩm của họ, chẳng hạn như Oda Eiichirō, Kishimoto Masashi và Takahashi Rumiko. Ngoài ra, "Doraemon" cũng chính thức trở thành một trong những thương hiệu truyền thông có doanh thu cao nhất mọi thời đại, trong đó loạt phim hoạt hình cùng tên có số lượng người xem cao nhất tại Nhật Bản và các quốc gia trên thế giới. Doraemon đã được xem như một biểu tượng văn hóa của Nhật Bản, và từng được Bộ Ngoại giao Nhật Bản bổ nhiệm làm đại sứ anime đầu tiên vào năm 2008. Nội dung. Doraemon là một chú mèo máy được Nobi Sewashi (Nobi Nobito), cháu năm đời của Nobi Nobita, gửi từ thế kỷ 22 về quá khứ của ông mình để giúp đỡ Nobita trở nên tiến bộ và giàu có, tức là cũng sẽ cải thiện hoàn cảnh của con cháu Nobita sau này.
Doraemon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3304
Còn ở hiện tại, Nobita là một cậu bé luôn thất bại ở trường học, và sau đó công ty phá sản, thất bại trong công việc, đẩy gia đình và con cháu sau này vào cảnh nợ nần. Các câu chuyện trong "Doraemon" thường có một chủ đề chung, đó là xoay quanh những rắc rối hay xảy ra với cậu bé Nobita học lớp năm, nhân vật chính thứ hai của bộ truyện. "Doraemon" có một chiếc túi thần kỳ trước bụng với đủ loại bảo bối của tương lai. Cốt truyện thường gặp nhất sẽ là Nobita trở về nhà khóc lóc với những rắc rối mà cậu gặp phải ở trường học hoặc với bạn bè. Sau khi bị cậu bé van nài hoặc thúc giục, Doraemon sẽ đưa ra một bảo bối giúp Nobita giải quyết những rắc rối của mình, hoặc là để trả đũa hay khoe khoang với bạn bè của cậu. Nobita sẽ lại thường đi quá xa so với dự định ban đầu của "Doraemon", thậm chí với những bảo bối mới cậu còn gặp rắc rối lớn hơn trước đó. Đôi khi những người bạn của Nobita, thường là Honekawa Suneo hoặc Goda Takeshi (Jaian), lại lấy trộm những bảo bối và sử dụng chúng không đúng mục đích. Tuy nhiên thường thì ở cuối mỗi câu chuyện, những ai sử dụng sai mục đích bảo bối sẽ phải chịu hậu quả do mình gây ra, và người đọc sẽ rút ra được bài học từ đó. Sáng tác. "Doraemon" là tác phẩm của Fujiko Fujio, bút danh chung của hai họa sĩ manga Fujimoto Hiroshi và Abiko Motoo. Theo Fujimoto, ý tưởng bộ truyện được nảy sinh một cách hoàn toàn ngẫu nhiên: sau khi vấp phải đồ chơi của cô con gái và nghe thấy tiếng mèo kêu, ông bắt đầu nghĩ đến một cỗ máy có khả năng giúp mình tạo ra bộ manga mới. Để thiết lập tác phẩm và nhân vật chính, tác giả đã sử dụng một số yếu tố có trong manga trước đây của mình là "Obake no Q-tarō", xoay quanh một hồn ma sống chung với con người với công thức lặp lại tương tự. Do đó, ý tưởng về "Doraemon" là kết quả của rất nhiều thử nghiệm khác nhau, kinh nghiệm từ những sai sót giúp ông tìm ra loại hình manga phù hợp với khả năng của mình là "slice of life".
Doraemon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3304
Ban đầu, ở thời điểm phát hành tác phẩm không được nhiều độc giả đón nhận, ngược lại manga được ưa chuộng nhất là "gekiga", sau này thị hiếu độc giả tăng dần cùng với sự phổ biến của anime truyền hình và phim chiếu rạp, manga dần được đón nhận và đánh giá cao. Nhờ vào điều này giúp tác phẩm được kéo dài thêm hai mươi bảy năm nữa. Tác phẩm chủ yếu hướng đến đối tượng độc giả là trẻ em, Fujiko đã chọn tạo hình nhân vật bằng phong cách đồ họa đơn giản, dựa trên các dạng hình học cơ bản như hình tròn và hình elip, nhằm tạo cho Doraemon một khía cạnh thú vị và vui nhộn. Loạt anime đều đặn và liên tục giúp người đọc dễ hiểu câu chuyện. Thêm vào đó, xanh lam - một màu đặc trưng của nhân vật chính "Doraemon" được chọn làm màu chủ đạo trên các tạp chí đăng tác phẩm, vốn từng có bìa màu vàng và tiêu đề màu đỏ. Fujiko giải quyết các vấn đề trong manga theo hướng lạc quan và an toàn, hoàn toàn tránh những cảnh bạo lực hoặc khiêu dâm. Tuy nhiên, ông cũng lồng ghép nhiều vấn đề về môi trường vào với những câu chuyện mà trong đó có các nhân vật chính tham gia giúp đỡ động vật hoặc chỉ trích những hành vi sai trái của con người đối với thiên nhiên. Trong quá trình sáng tác, ông cố gắng đưa những lý thuyết trong sách giáo khoa hoặc ít nhất có liên quan đến văn hóa dân gian Nhật Bản ra giải quyết, đặc biệt là nhấn mạnh vào các giá trị đạo đức của chính trực, kiên trì, dũng cảm, gia đình và tôn trọng. Để nhấn mạnh vai trò trung tâm của lớp trẻ, ông đã chọn thực hiện hành động ở những nơi mà trẻ em thường đến thay vì người lớn, hợp pháp hóa sự tồn tại của một xã hội dựa trên tiềm năng của những người trẻ tuổi, qua đó mọi người đều có thể sống hạnh phúc; điều này đã nhận được nhiều sự đồng tình ủng hộ ở Nhật Bản và các nước lân cận. Trong quá trình phát triển manga, Fujiko không gán bất kỳ sự tiến hóa nào cho tính cách nhân vật, không tích cực hay tiêu cực; theo tác giả trên thực tế khi các nhân vật nhận ra khát vọng của mình thì lập tức tác phẩm của ông không còn gì thú vị.
Doraemon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3304
Do đó, ông thích một cấu trúc tuần hoàn vô hạn, trong đó có nhân vật chính "Thoạt đầu nhìn cậu ta có vẻ tiến bộ nhưng thực tế vẫn như cũ". Việc xuất bản manga dừng lại sau khi tác giả qua đời vào năm 1996 và do không có cái kết đã làm dấy lên các truyền thuyết đô thị theo thời gian. Yagi Ryūichi và Yamazaki Takashi, đạo diễn của "Stand by Me Doraemon" nói rằng "Doraemon chỉ có một phần mở đầu duy nhất trong khi phần kết đã được viết và sửa đi sửa lại nhiều lần". Vì điều này, Shogakukan nhà xuất bản của tác phẩm buộc phải lên tiếng nói rằng chỉ khi Nobita và Shizuka chính thức kết hôn thì "Doraemon" mới hoàn thành nhiệm vụ, trở về tương lai. Bối cảnh. Truyện "Doraemon" lấy bối cảnh xã hội Nhật Bản vào thập niên 1970, cụ thể là ở quận Nerima thuộc ngoại ô thủ đô Tokyo, đặc biệt là những nơi tụ họp và vui chơi của trẻ em; nhà của các nhân vật, trường học và cả ngọn núi sau trường, nơi mà Nobita hay đến để tìm kiếm sự yên tĩnh thường xuyên xuất hiện. Một nơi thường được đề cập trong tác phẩm là "bãi đất trống" hay "sân bóng", bao gồm một bãi cỏ rộng có ba ống cống bê tông xếp chồng lên nhau, là nơi các nhân vật chính thường gặp mặt để cùng nhau chơi cầu lông, bóng đá và bóng chày, hay chỉ đơn giản là ngồi nói chuyện. Gần đó, nhà của Nobita nằm trong khu vực Tsukimidai (tạm dịch "Nơi ngắm nhìn Mặt Trăng"). Cái tên trên được lấy cảm hứng từ Fujimidai (tạm dịch "nơi ngắm nhìn núi Phú Sĩ"), nơi Tezuka Osamu sinh sống và làm việc; một mangaka nổi tiếng là điểm tham chiếu của người tạo ra "Doraemon". Mặc dù những cảnh quan trong tác phẩm có vẻ bất biến, nhưng theo suy nghĩ của tác giả, có những yếu tố có thể thay đổi và tiến hóa, chẳng hạn như vật liệu xây dựng trong bãi đất trống. Trong quá trình xuất bản "Doraemon", Fujiko cũng nhiều lần thay đổi các địa điểm và đối tượng hiện diện trong tác phẩm với mục đích làm cho câu chuyện trở nên thực tế hơn đối với độc giả. Bảo bối. là những công cụ tiện ích từ tương lai của Doraemon. Chúng được sử dụng để giúp đỡ các nhân vật và là những yếu tố thường xuyên hiện diện đến mức chúng được coi là "điểm tựa của tác phẩm".
Doraemon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3304
Với những bảo bối này, Doraemon theo một cuộc bầu chọn năm 2007 trên trang tin tức Oricon thậm chí đã được xếp thứ hai trong "danh sách các nhân vật manga quyền năng nhất", chỉ sau Songoku của "Dragon Ball". Trong một lần trả lời phỏng vấn ông Fujiko F. Fujio, khi được hỏi về số bảo bối của "Doraemon" đã đưa ra con số 1293, nhưng theo một thống kê vào năm 2004 của giáo sư Yokoyama Yasuyuki (thuộc đại học Toyama) thì số bảo bối của "Doraemon" xuất hiện trong 1344 câu chuyện lên tới 1963 dōgu. Trong số đó phải kể đến , một cánh quạt tre đặt trên đầu cho phép bạn bay, xuất hiện trong tác phẩm 214 lần, xuất hiện 97 lần và được các nhân vật chính sử dụng để du hành xuyên thời gian, và một cánh cửa cho phép bạn đến mọi nơi và đã xuất hiện 68 lần. Một số bảo bối khác hay hiện diện trong tác phẩm là và tương ứng cho phép bạn phóng to hoặc thu nhỏ một đối tượng; có khả năng khôi phục vật thể về một điều kiện cụ thể trong quá khứ hoặc tương lai; , một bốt điện thoại có khả năng biến đổi thế giới theo yêu cầu cụ thể. Nhìn chung, các bảo bối có đặc điểm dễ sử dụng, di chuyển, trực quan và đáng tin cậy. Fujimoto đã đưa các bảo bối vào để phản ánh một cái nhìn lạc quan về mối quan hệ giữa con người và công nghệ. Bằng phép loại suy, ông đã cố gắng thể hiện Nobita là một người am hiểu công nghệ, biết vận dụng chúng cho ra những thí nghiệm thú vị. Thông qua các bảo bối thần kỳ, Fujiko thể hiện một số ước muốn của xã hội đương thời. Phương tiện truyền thông. Manga. Ban đầu "Doraemon" được xuất bản bởi Shogakukan tại Nhật Bản từ ngày 1 tháng 12 năm 1969 trên hai tạp chí giáo dục dành cho trẻ em là và ; tháng tiếp theo ra mắt trên tạp chí , , và . Từ năm 1973, bộ truyện được phát hành thêm trên hai tạp chí và . Các câu chuyện trên mỗi tạp chí là khác nhau, đồng nghĩa với việc tác giả phải sáng tác ít nhất là 6 câu chuyện mỗi tháng. Năm 1977, "CoroCoro Comic" đã ra đời như một tạp chí chuyên về "Doraemon". Từ năm 1974, Fujiko bắt đầu chắt lọc các chương truyện mà ông đã đăng tải đóng gói thành "tankōbon", được phát hành từ ngày 31 tháng 7 năm 1974 đến ngày 26 tháng 4 năm 1996 dưới ấn hiệu , với tổng cộng 45 tập.
Doraemon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3304
Nhằm tri ân những đóng góp của tác phẩm, tại Thư viện Trung tâm thành phố Takaoka quê hương tác giả, người ta đã thiết lập một khu vực đặc biệt trưng bày toàn bộ tuyển tập "tankōbon" của "Doraemon" cùng với các tác phẩm khác của Fujiko. Trong khoảng thời gian từ ngày 25 tháng 4 năm 2005 đến ngày 28 tháng 2 năm 2006, năm tập đã được xuất bản với tựa đề gồm 104 câu chuyện khác không nằm trong 45 tập "tankōbon" đã xuất bản trước đó; vào ngày 1 tháng 12 năm 2014, tập thứ sáu của bộ truyện được xuất bản, bao gồm 18 câu chuyện khác. Thêm vào đó, những câu chuyện chưa xuất bản đã được phát hành thành sáu tập với tựa đề từ ngày 17 tháng 7 năm 1999 đến ngày 2 tháng 9 năm 2006; thông qua ấn bản này, có thêm 119 câu chuyện khác đã được bổ sung. Từ tháng 7 năm 2009 đến tháng 12 năm 2012, Shogakukan cho phát hành 20 quyển trong đó bao gồm tất cả 1345 câu chuyện "Doraemon" do Fujiko sáng tác. Vào tháng 12 năm 2019, nhân dịp kỷ niệm 50 năm "Doraemon" ra đời, Shogakukan đã phát hành một tập trong đó tập hợp sáu phiên bản khác nhau về lần gặp gỡ đầu tiên giữa Nobita và Doraemon. Manga "Doraemon" được Nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành lần đầu tại Việt Nam vào năm 1992. Tựa của bộ truyện phiên âm thành "Đôrêmon" còn tên nhân vật được sửa đổi cho quen thuộc với cách đọc của thiếu nhi Việt Nam (xem thêm: Doraemon tại Việt Nam). Sau năm 1996, Nhà xuất bản Kim Đồng chính thức ký kết với Shogakukan để phát hành "Đôrêmon" có bản quyền tại Việt Nam. Từ năm 2010, Kim Đồng tái phát hành bộ truyện "Doraemon" mới trong đó đổi lại tựa đề, tên nhân vật cũng như bản dịch trên tinh thần bám sát nguyên tác."Doraemon" cũng được mua bản quyền phát hành tại một số quốc gia khác trên thế giới như Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Indonesia, Philippines, Pháp, Tây Ban Nha và Ý. Tại Hoa Kỳ, tác phẩm được Amazon phân phối ở định dạng kindle. Anime.
Doraemon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3304
Anime. Loạt anime "Doraemon" đầu tiên được sản xuất vào năm 1973 bởi Nippon TV Dōga sau đó phát sóng trên Nippon Television từ 1 tháng 4 đến 30 tháng 9 cùng năm, với 26 buổi phát sóng trong đó mỗi buổi phát hai tập, có tổng cộng 52 tập đã lên sóng; tiền thân là một tập phim thí điểm mang tên phát sóng vào tháng 1 năm 1973, mà Masami Jun đã không tham gia vào quá trình sản xuất. Đạo diễn của series là Kaminashi Mitsuo, trong khi phần lồng tiếng là do hãng Aoni Production thực hiện; nhân vật Doraemon ban đầu được lồng tiếng bởi Tomita Kōsei (về sau là Nozawa Masako) Trong giai đoạn kết thúc loạt phim, vì các vấn đề về tài chính nên hãng sản xuất anime phá sản và các original master đã bị bán hoặc hỏng. Các tập được phát đi phát lại bằng băng bởi Nippon Television và một số đài truyền hình địa phương cho đến năm 1979, với lần phát lại cuối cùng dang dở là trên Toyama Television do Shogakukan (nhà sản xuất phiên bản mới của "Doraemon") yêu cầu ngừng phát sóng, vì sợ gây nhầm lẫn cho các em nhỏ. Năm 1995, một số tập được tìm thấy trong kho lưu trữ của công ty Studio Rush (sau này là IMAGICA) và vào năm 2003, một số tập khác được nhà sản xuất Masami Jun khôi phục. Tính đến năm 2013, có 21 tập trong tổng số 52 tập được phục hồi và có 2 tập trong số đó là không có tiếng. Loạt anime thứ hai dựa trên manga được Shin-Ei Animation sản xuất, phát sóng từ ngày 2 tháng 4 năm 1979 đến ngày 18 tháng 3 năm 2005 trên TV Asahi. Một loạt nhân viên khác đã được tuyển dụng để thực hiện bản anime này do Fujiko F. Fujio không đánh giá cao bản chuyển thể trước đó; đạo diễn chính được chuyển giao cho Shibayama Tsutomu, Nakamura Eiichi phụ trách đạo diễn hoạt hình và thiết kế nhân vật trong khi phần âm nhạc do Kikuchi Shunsuke đảm nhiệm. Ở phần lồng tiếng, Nobita do Ohara Noriko thực hiện trong khi đó Ōyama Nobuyo lồng tiếng cho Doraemon; vì lý do này mà series còn có tên gọi khác là phiên bản Ōyama. Tổng cộng có 1787 tập được sản xuất và do Toho phân phối trên cả VHS và DVD. Hãng Shin-Ei Animation cũng tham gia giám sát việc sản xuất loạt anime "Doraemon" thứ ba, series được phát sóng trên TV Asahi từ 15 tháng 4 năm 2005 đến nay với các seiyū mới thay thế cho những diễn viên lồng tiếng đã làm việc liên tục hơn 20 năm trước đó: nhân vật Doraemon được lồng tiếng bởi Mizuta Wasabi còn Ōhara Megumi lồng tiếng cho Nobita.