title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Chất độc da cam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3789
Chất độc da cam (viết tắt: CĐDC, tiếng Anh: "Agent Orange"—Tác nhân da cam), là tên gọi của một loại chất thuốc diệt cỏ và làm rụng lá cây được quân đội Hoa Kỳ sử dụng tại Việt Nam trong Chiến dịch Ranch Hand, một phần của chiến tranh hóa học của Hoa Kỳ trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Chất này không có màu và được chứa trong các thùng màu da cam (do vậy trong vụ kiện hậu quả của nó được gọi nhầm là chất độc màu da cam). Chất này đã được Hoa Kỳ sử dụng quy mô lớn trong những năm từ 1961 đến 1971, khiến nhiều vùng ở Việt Nam bị nhiễm độc nghiêm trọng. Các cơ quan y tế ở Việt Nam ước tính khoảng 400.000 người đã bị giết hoặc tàn tật, khoảng 500.000 trẻ em sinh ra bị dị dạng, dị tật bởi chất độc hóa học này. Hội Chữ Thập đỏ Việt Nam ước lượng khoảng 1 triệu nạn nhân Việt Nam đã bị tàn phế hoặc bệnh tật vì chất độc da cam. Chất độc da cam còn làm tổn thương sức khỏe của những người lính Mỹ cũng như các binh lính đồng minh của Mỹ (Úc, Hàn Quốc, New Zealand, quân lực Việt Nam Cộng hòa) đã có tiếp xúc với chất này, cũng như con cháu họ. Tính đến nay, các tổ chức cựu binh Mỹ, Úc, Hàn Quốc đã khởi kiện và được bồi thường, nhưng các nạn nhân chất da cam tại Việt Nam thì bị xử thua kiện. Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, mục đích quân sự chính thức của chất độc da cam là làm rụng lá cây rừng để quân đội du kích Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam không còn nơi ẩn náu. Chất độc da cam thực ra là một chất lỏng trong suốt, nó được gọi là "chất da cam" vì những thùng phuy dùng để vận chuyển nó được vẽ các sọc có màu da cam. Quân đội Hoa Kỳ còn có một số mã danh khác để chỉ đến các chất diệt cỏ được dùng trong thời kỳ này: "chất xanh" ("Agent Blue", cacodylic acid), "chất trắng" ("Agent White", hỗn hợp 4:1 của 2,4-D và picloram), "chất tím" ("Agent Purple") và "chất hồng" ("Agent Pink"). Đến năm 1971, CĐDC không còn được dùng để làm rụng lá nữa; 2,4-D vẫn còn được sử dụng để làm diệt cỏ. 2,4,5-T đã bị cấm dùng tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác do sự độc hại của nó tới môi trường và sinh vật. Ảnh hưởng đến con người.
Chất độc da cam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3789
Ảnh hưởng đến con người. Người ta đã tìm thấy chất độc da cam có chứa chất độc dioxin, nguyên nhân của nhiều bệnh như ung thư, dị dạng và nhiều rối loạn chức năng ở cả người Việt lẫn các cựu quân nhân Hoa Kỳ. Dioxin tích tụ chủ yếu tại các mô mỡ theo thời gian (tích lũy sinh học), vì vậy ngay cả tiếp xúc nhỏ cũng có thể đạt mức độ nguy hiểm. Trong năm 1994, EPA Hoa Kỳ báo cáo rằng dioxin là một chất gây ung thư, và lưu ý rằng các hậu quả khác (về sinh sản và phát triển tình dục, hệ thống miễn dịch) có thể gây ra một mối đe dọa lớn đối với sức khỏe con người. ctx là độc nhất của thuốc , được phân loại như một chất gây ung thư nhóm 1 do Cơ quan Nghiên cứu Quốc tế về Ung thư (amin). tcx có chu kỳ bán rã khoảng 8 năm ở người, mặc dù ở nồng độ cao, tỷ lệ loại bỏ được tăng cường bởi sự trao đổi chất Các ảnh hưởng sức khỏe của dioxin được trung gian bởi tác động lên thụ thể tế bào, (AHR) Điều này giúp dioxin xâm nhập, phá thủng hệ thống phòng thủ của tế bào và làm biến dạng DNA. Đó là nguyên nhân tại sao dioxin gây ra quái thai ở động vật. Các hiệu ứng khác ở người (ở các mức liều cao) có thể bao gồm: Dioxin tích lũy trong chuỗi thức ăn trong một thời trang tương tự như các hợp chất clo khác (tích lũy sinh học). Điều này có nghĩa rằng ngay cả nồng độ nhỏ trong nước bị ô nhiễm có thể được tập trung lên một chuỗi thức ăn đến mức nguy hiểm vì chu kỳ phân hủy dài và độ tan trong nước thấp của dioxin. Không chỉ vậy, Dioxin còn có thể đi qua dây rốn hoặc tích tụ trong sữa mẹ, do đó nếu người mẹ nhiễm dioxin thì đứa con cũng sẽ bị nhiễm theo. Bác sĩ Linda Birnbaum, Giám đốc Viện Khoa học Quốc gia Về Liên Hệ Giữa Môi trường và Sức khỏe, và là một chuyên gia hàng đầu về chất dioxin, nói: "Tôi chưa từng thấy một hệ thống hormone nào mà chất dioxin không thể phá vỡ. Nó có ảnh hưởng lan rộng trong hầu hết các chủng loài có xương sống, trong hầu hết mọi giai đoạn cơ thể phát triển".
Chất độc da cam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3789
Năm 2007, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam vẫn ra thông cáo báo chí nói rằng "Không có tác hại sinh thái nào được ghi nhận ở động thực vật mặc dù một lượng lớn chất diệt cỏ và dioxin đã được sử dụng", và rằng "thông tin này chưa được xem xét trong các lần đánh giá trước của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ và Viện Y học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ". Tuy nhiên lưu ý rằng "các chất diệt cỏ đổ thẳng xuống đất và ngấm sâu trước khi thoái biến thì sẽ có tồn dư và vì vậy là một mối lo ngại.". Còn Cựu Đại sứ Mỹ tại VN, ông Michael Marine, vẫn cho rằng mối liên hệ giữa sự phơi nhiễm dioxin và sức khoẻ con người "vẫn chưa được chứng minh". Tuy nhiên ông đã công bố khoản tài trợ trị giá 400 nghìn USD để nghiên cứu ô nhiễm dioxin và tẩy độc tại sân bay Đà Nẵng. Di chứng tới thế hệ sau. Dioxin sẽ gây đóng mở một số gene giải độc quan trọng của tế bào như Cyp1A, Cyp1B... Đồng thời, một số thí nghiệm trên chuột cho thấy dioxin làm tăng nồng độ các gốc ion tự do trong tế bào. Điều này có thể là làm phá huỷ các cấu trúc tế bào, các protein quan trọng và, quan trọng hơn cả, nó có thể gây đột biến trên phân tử DNA (gene), dẫn tới các chứng bệnh liên quan là ung thư, bệnh di truyền và quái thai. Hiện không có nghiên cứu về quái thai gây ra bởi dioxin trên cơ thể người (do việc thí nghiệm chất độc mạnh như dioxin với người là bị cấm). Tuy nhiên, khi được thí nghiệm trên động vật, có bằng chứng mạnh mẽ cho thấy Dioxin gây quái thai ở các loài gặm nhấm, bao gồm chuột hamster và lợn guinea chim, và cá Các nghiên cứu động vật cho thấy rằng dioxin có thể ảnh hưởng đến sinh sản bằng cách làm hư hỏng tinh trùng và làm rối loạn hormon điều tiết sự phát triển của bào thai. Ở cấp độ phân tử, dioxin gây đột biến trên chuỗi nhiễm sắc thể, những đột biến này sẽ gây ảnh hưởng đến thông tin di truyền ở tế bào sinh sản (tinh trùng, trứng) do cơ chế sao chép nhân đôi và rồi sẽ truyền sang thế hệ con cháu.
Chất độc da cam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3789
Trong nghiên cứu năm 2012 của Đại học Washington trên chuột cho thấy Dioxin có thể gây dị tật suốt nhiều thế hệ. Chuột thí nghiệm được cho nhiễm 1 liều dioxin rất nhỏ (bằng 1/1000 mức gây chết), với mức rất nhỏ này thì không gây nguy hại tức thì. Nhưng tác hại lâu dài đã phát tác trên thế hệ con cháu của chúng. Cho đến tận thế hệ F3 (tức là đời chắt của những con chuột thí nghiệm ban đầu) những dị tật bẩm sinh vẫn xảy ra. Những đột biến này có lẽ là vĩnh viễn và sẽ tiếp tục truyền tới các thế hệ sau. Trong thảm họa Sasevo (nơi 30 kg dioxin đã thoát ra môi trường), người dân đã được sơ tán ngay sau khi thảm họa xảy ra, tất cả gia súc gia cầm đã bị thiêu hủy, đất đai và nguồn nước đã được tẩy rửa để ngăn dioxin xâm nhập vào chuỗi thức ăn của con người. Do vậy, tác động của dioxin với dị tật thai nhi tại Sasevo là không có đủ cơ sở để nghiên cứu. Các nghiên cứu về vấn đề này chỉ có thể được tiến hành ở Việt Nam, nơi bị Mỹ rải 370 kg dioxin trong 8 năm chiến tranh. Người dân và binh sĩ ở đây chịu sự phơi nhiễm lâu dài, dioxin đã ngấm sâu vào mọi con đường (không khí, nguồn nước, cây trồng và thực phẩm) mà không hề có sự sơ tán hoặc tẩy độc. Các khảo sát ở Mỹ trong thập niên 1980-1990 có những kết quả mâu thuẫn nhau (nguồn thì khẳng định dioxin gây dị tật thai nhi, nguồn thì cho rằng chưa đủ cơ sở kết luận) do mẫu khảo sát ở các cựu binh Mỹ có sự khác biệt lớn về độ phơi nhiễm dioxin. Để tìm ra kết luận chung, năm 2006, 4 nhà nghiên cứu (gồm 2 người gốc Việt) đã tiến hành tổng kết tất cả các khảo sát về tác động của dioxin tới dị tật thai nhi. Nghiên cứu sử dụng 13 khảo sát ở những cựu binh Việt Nam (những người phơi nhiễm lâu và nặng nhất) và 9 khảo sát ở cựu binh nước ngoài.
Chất độc da cam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3789
Các kết luận rút ra như sau Để biện minh cho việc rải chất da cam, Hoa Kỳ đã yêu cầu chính phủ Sài Gòn ra tuyên bố rằng chất da cam không gây hại gì cho sức khỏe con người Trong thời kỳ chiến tranh, Hoa Kỳ đã cho rải các tờ truyền đơn tuyên truyền, trong đó viết rằng sự độc hại của chất diệt cỏ chỉ là "tuyên truyền xuyên tạc của Việt cộng", và rằng chất diệt cỏ "tuyệt nhiên không gây độc hại cho người, vật, cũng như nước uống, hít phải hàng ngày cũng không sao". Điều này càng gây thêm hậu quả tàn phá vì nhiều người dân miền Nam tin theo lời tuyên truyền này và đã không có những biện pháp di tản, phòng độc... Người dân cứ tiếp tục sống tại những ngôi làng đã bị rải chất da cam mà không biết nguồn nước, không khí và thực phẩm của họ đã bị nhiễm độc nghiêm trọng. Những ghi chép về việc chất dioxin gây quái thai cho binh lính và thường dân bị phơi nhiễm lâu dài đã được ghi lại bởi những bác sĩ đương thời từ nhiều quốc gia: Tác hại đối với người Việt. Tất cả diện tích bị rải chất da cam đều ở miền Nam Việt Nam. Chất da cam phát tán qua không khí và nước nên nó lan rộng rất nhanh, không chỉ những chiến sỹ quân Giải phóng mà cả dân thường miền Nam, quân Mỹ và quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng đều bị nhiễm độc nếu có mặt ở khu vực bị rải độc. Nhưng các nạn nhân người Việt thường bị nhiễm độc nặng hơn lính Mỹ do họ sống định cư, uống nước và trồng cây lương thực tại khu nhiễm độc, còn lính Mỹ thì chỉ ở đó một thời gian ngắn rồi hành quân đi chỗ khác hoặc trở về nước. Một số nhà hoạt động như ông Ngô Thanh Nhàn, nhà nghiên cứu tại Đại học New York, đã kêu gọi những người Mỹ gốc Việt khởi kiện những nhà sản xuất chất độc da cam để đòi bồi thường, nhưng đã bị các tổ chức người Mỹ gốc Việt ngăn cản. Nhiều cựu binh quân lực Việt Nam Cộng hòa và con cháu họ đang bị mắc những chứng bệnh mà các cựu binh Hoa Kỳ từng bị nhiễm chất độc màu da cam mắc phải, nhưng không có vụ kiện nào được thực hiện.
Chất độc da cam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3789
Những người Mỹ gốc Việt này "vẫn rất trung thành (với nước Mỹ)", họ vẫn tin vào những tờ truyền đơn của Mỹ thời thập niên 1960 nói rằng "chất diệt cỏ không độc hại", rằng sự nguy hại của chất độc màu da cam "chỉ là một sự lừa bịp của Đảng cộng sản", và việc khởi kiện chất độc da cam là sự tiếp tay cho hành động chống lại nước Mỹ. Ông Ngô Thanh Nhàn nói rằng "Chỉ còn một nhóm người không chịu thừa nhận vấn đề chất độc da cam - đó chính là người Mỹ gốc Việt". Ông Nhàn khuyên người Mỹ gốc Việt phải dẹp bỏ định kiến chính trị để thừa nhận những khổ đau mà chất da cam gây ra cho họ, có như vậy thì mới có thể đứng lên đấu tranh đòi quyền lợi cho chính họ Tác hại đối với người Mỹ. Tại Hoa Kỳ, các cơ quan y tế có thẩm quyền ước tính có khoảng 250.000 cựu binh Mỹ đã hoặc sẽ chết sớm do hậu quả của chất độc Da cam và các biến chứng từ nó. Trẻ em của các cựu binh Mỹ ở Việt Nam được báo cáo đã gặp một loạt các khuyết tật bẩm sinh, kể cả bệnh khớp, rối loạn đường ruột và bàng quang, bất thường về xương, mất thính lực, các vấn đề sinh sản, rối loạn hành vi và điều kiện da bất thường. Betty Mekdeci, giám đốc điều hành của Viện nghiên cứu dị tật trẻ em Florida, nơi lưu giữ dữ liệu về thai nhi từ các cựu binh đến Việt Nam cho biết: trẻ em của các cựu chiến binh tới Việt Nam có tỷ lệ cao hơn bị mắc bệnh ung thư, các bệnh trí tuệ và rối loạn hành vi. Để chứng minh và đòi bồi thường thì sẽ đòi hỏi phải nghiên cứu toàn diện, nhưng từ lâu nay nó đã bị trì hoãn. Betty Mekdeci cho rằng: "Vấn đề này không phải là về khoa học, đó là về kinh tế và chính trị" - nếu được chứng minh dioxin gây dị tật thì khoản đền bù cho trẻ em dị tật sẽ rất lớn, nên chính phủ và các công ty hóa chất không muốn chi tiền cho những nghiên cứu như vậy Theo tài liệu của hội cựu chiến binh Hoa Kỳ, chính phủ Mỹ chỉ công nhận chất da cam gây ra dị tật nứt đốt sống ở con của các cựu binh Mỹ, còn những người mắc các chứng dị tật khác thì chính phủ Mỹ không công nhận và không bồi thường.
Chất độc da cam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3789
Theo đó, những người bị dị tật nứt đốt sống là con đẻ của cựu chiến binh Mỹ sau khi họ từng tiếp xúc với chất diệt cỏ ở Việt Nam trong khoảng thời gian từ 09/1/1962 tới 7/5/1975, hoặc gần khu phi quân sự Triều Tiên từ 1/9/1967 tới 31/8/1971, thì sẽ được nhận bồi thường của chính phủ Mỹ. Hội cựu chiến binh Hoa Kỳ vẫn đang đấu tranh để chính phủ Mỹ chịu bồi thường cho nhiều người con các cựu binh Mỹ bị mắc những chứng dị tật khác. Theo nghiên cứu của Pro Publica dựa trên dữ liệu của Cơ quan Cựu Chiến binh Hoa Kỳ, các cựu chiến binh Mỹ từng phơi nhiễm chất da cam ở Việt Nam có tỷ lệ sinh con bị dị tật cao gấp gần 6 lần so với tỷ lệ sinh con dị tật trước chiến tranh (13,1% so với 2,8%). Linda Schwartz, giáo sư điều dưỡng chuyên khoa tại Đại học Yale, đã khám phá ra rằng "có bằng chứng khác biệt" cho thấy những người lính Mỹ bị nhiễm chất da cam có tỷ lệ sinh con bị dị tật bẩm sinh cao hơn. Họ trình bày công trình tại hội nghị về dioxin quốc tế năm 2003, nhưng bản thảo của họ không được chấp nhận để xuất bản trên tạp chí khoa học. Schwartz cho rằng: nếu Hoa Kỳ thừa nhận rằng Chất Da cam gây ra những dị tật trên trẻ em, chính phủ Việt Nam sẽ có đầy đủ lý do để đòi bồi thường cho trẻ em Việt Nam bị tổn hại. Bà nói: "Chúng tôi đã lao phải một bức tường. Mọi người sợ rằng phía Việt Nam sẽ nộp nhiều đơn kiện khủng khiếp chống lại Hoa Kỳ". Cho tới nay, chính phủ Mỹ và các công ty hóa chất vẫn không công nhận chất dioxin gây dị tật thai nhi với lý do là thiếu bằng chứng thực nghiệm trên người (điều mà sẽ không thể có do dioxin bị cấm thí nghiệm trên người). Chỉ có các cựu binh nữ sinh con dị tật là được bồi thường (nhưng cựu binh nữ chỉ có 10 ngàn người trong tổng số 3 triệu quân nhân Mỹ chiến đấu ở Việt Nam), các cựu binh nam sinh con dị tật thì vẫn không được bồi thường. 30 năm sau cuộc chiến, vẫn không có cuộc điều tra lớn nào với các cựu binh bị nhiễm dioxin.
Chất độc da cam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3789
Paul Sutton, cựu chủ tịch của Hội Cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam, cho rằng chính phủ Mỹ muốn trì hoãn các nghiên cứu để ỉm đi chuyện này bởi chi phí đền bù sẽ rất cao, họ chỉ cần chờ tới khi tất cả các cựu binh của cuộc chiến đều đã qua đời thì sẽ chẳng còn bằng chứng để nghiên cứu nữa. Các vụ kiện của nạn nhân chất độc da cam. Ở miền Nam Việt Nam, chất độc màu da cam và các loại thuốc diệt cỏ khác bắt đầu được thử nghiệm bởi quân đội Hoa Kỳ vào năm 1961. Năm 1961, tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã bật đèn xanh cuộc chiến hóa học này, ban đầu được gọi là "chiến dịch Trail Dust" sau đổi thành "chiến dịch Ranch Hand". Chất da cam được sử dụng rộng rãi với hàm lượng cao trong chiến tranh vào các năm 1967 – 1968, rồi giảm xuống và ngừng sử dụng năm 1971. Các loại hợp chất này được trộn vào dầu hỏa hoặc nhiên liệu diezen rồi rải bằng máy bay hoặc các phương tiện khác. 10% của chất này thì được dùng bằng tay, bằng xe thô sơ và thuyền ở các vùng đầm lầy, đồng bằng và vùng ngâp mặn ven biển, 90% phun bằng máy bay C-123 và máy bay trực thăng. Người Việt Nam bị phơi nhiễm hoàn toàn, họ chỉ có thể ngâm 1 miếng vải nhỏ bịt lên mũi và miệng cho đỡ bị ngất xỉu chứ không có cách nào để tẩy độc. Theo công bố của một nhóm tác giả trên tạp chí Nature thì có thể nói chiến dịch dùng hóa chất ở Việt Nam là một cuộc chiến tranh hóa học lớn nhất thế giới. Trong thời gian 10 năm đó, quân đội Mỹ và quân đội Nam Việt Nam đã rải 76,9 triệu lít hóa chất xuống rừng núi và đồng ruộng Việt Nam. Trong số này có 64% là chất độc màu da cam, 27% là chất màu trắng, 8,7% chất màu xanh và 0,6% chất màu tím. Tổng số lượng dioxin Việt Nam hứng chịu là vào khoảng 370 kg. (Trong khi đó vụ nhiễm dioxin ở Seveso, Ý, 1976 chỉ với 30 kg dioxin thải ra môi trường mà tác hại của nó kéo dài hơn 20 năm). Tổng số diện tích đất đai bị ảnh hưởng hóa chất là 2,63 triệu hécta. Có gần 5 triệu người Việt Nam sống trong 25.585 thôn ấp chịu ảnh hưởng độc chất màu da cam.
Chất độc da cam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3789
Ngoài ra, hàng trăm ngàn binh lính Mỹ, Hàn Quốc, Úc đóng quân ở gần đó cũng bị nhiễm độc. Tại Hoa Kỳ, hàm lượng dioxin ở ngưỡng cho phép là 0,0064 Picogram/1 kg cơ thể người (Picogram là đơn vị đo khối lượng rất nhỏ, chỉ bằng 1/1.000.000 gram). Trong khi đó, nếu chia bình quân thì Mỹ đã rải 900 picogram chất dioxin cho mỗi 1 kg trọng lượng cơ thể người Việt Nam. Một số quan chức và tướng lĩnh trong Quân đội Mỹ biết sự thật nhưng che giấu. Chính phủ Mỹ muốn Việt Nam phải nhận trách nhiệm về việc sử dụng chất diệt cỏ, và đã yêu cầu Tổng thống Ngô Đình Diệm ra tuyên bố rằng các chất này không gây hại gì cho sức khỏe con người . Trong suốt thời gian cuộc chiến, các báo cáo về tình trạng dị dạng bẩm sinh xuất hiện trên báo chí Sài Gòn đều bị gạt bỏ vì cho rằng điều này giúp tuyên truyền cho đối phương. Những lời oán thán về các chứng bệnh nguy hại từ các nông dân ở miền Nam Việt Nam đều bị làm ngơ. Vụ kiện của cựu binh Mỹ. Năm 1968, ông Elmo R. Zumwalt Jr., bấy giờ mang hàm phó đô đốc, đến đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh Hải quân Mỹ tại Việt Nam. Ngay lập tức, ông đã cho triển khai chiến dịch rải hóa chất làm rụng lá xuống các vùng sông nước ở Việt Nam để bảo vệ hoạt động của Hải quân Mỹ. Đúng 20 năm sau, người con trai Elmo R.Zumwalt III của ông đã qua đời vì bệnh ung thư, hậu quả của việc phơi nhiễm chất độc da cam khi tham chiến tại Việt Nam. Tác phẩm "Cha con tôi" dựa theo lời thuật của đô đốc Elmo Zumwalt phát hành tháng 11-1996, có đoạn viết: Năm 1984, từ phán quyết của quan tòa Jack Weinstein, 7 công ty hóa chất Mỹ đã phải bồi thường 180 triệu đô la cho các cựu chiến binh Mỹ nhưng các công ty này bác bỏ trách nhiệm về tác hại của chất diệt cỏ mà họ đã cung cấp cho quân đội. Đô đốc Zumwalt, từ năm 1994 đã trở lại Việt Nam, kết hợp với Hội Cựu chiến binh Việt Nam với mong muốn làm một điều gì đó bù đắp lại mất mát cho các nạn nhân của ông.
Chất độc da cam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3789
Khi được hỏi cảm nghĩ, đô đốc Zumwalt nói: "Để có thể vĩnh viễn xếp lại quá khứ một cách yên ả, tốt nhất là Chính phủ Mỹ phải có thiện chí hợp tác với Việt Nam, trả lại món nợ lớn lao mà các công ty hóa chất Mỹ đã gây ra. Nhân chứng sống chính là tôi đây. Tôi cũng có bổn phận góp phần bù đắp. Cũng thế, tại Mỹ, quan điểm của đoàn thể lớn nhất nước Mỹ là Hội Cựu binh Mỹ, là vấn đề người Mỹ mất tích (MIA) chỉ là việc của 2.000 gia đình người Mỹ, còn nạn nhân chất độc dioxin là của 3 triệu người Mỹ." Con trai ông, luật sư Jim với nhiều hoạt động yểm trợ tư vấn tố tụng quốc tế cho nhiều nhóm nạn nhân, đã giải thích: "Năm 1984, 68.000 cựu binh Mỹ, Úc và New Zealand đã phát đơn kiện 11 công ty hóa chất Mỹ, nhưng các nhà tài phiệt chiến tranh rất quỷ quyệt, đã khôn khéo dàn xếp, chịu bồi thường một ngân khoản chung là 184 triệu USD, để nguyên đơn ký vào thỏa thuận, từ đấy không còn đi kiện nữa. Việc bồi thường này không nhắc gì tới nạn nhân Việt Nam và Hàn Quốc, đó là một điều phi lý và phi nhân". Vụ kiện của cựu binh Hàn Quốc. Ngày 25 tháng 1 năm 2006, Toà án dân sự cấp cao Seoul đã ra phán quyết buộc hai công ty hoá chất Dow Chemical tại Midland, Michigan và Monsanto tại St. Louis, Missouri phải bồi thường 62 triệu USD chi phí chăm sóc sức khoẻ cho 6.800 người gồm các cựu binh Hàn Quốc từng tham chiến tại Việt Nam và gia đình của họ. Đây là lần đầu tiên một toà án ở Hàn Quốc ra phán quyết có lợi cho nạn nhân chất độc hoá học da cam tại Hàn Quốc. Vụ kiện của các nạn nhân Việt Nam. Ngày 31 tháng 1 năm 2004, nhóm bảo vệ quyền lợi nạn nhân CĐDC, Hội Nạn nhân Chất độc da cam/dioxin Việt Nam ("The Vietnam Association of Victims of Agent Orange/Dioxin" - VAVA) đã kiện hơn 30 công ty Mỹ phải bồi thường do trách nhiệm gây ra thương tích vì đã sản xuất chất hóa học này. Dow Chemical và Monsanto là hai công ty sản xuất CĐDC lớn nhất cho quân đội Hoa Kỳ đã bị nêu tên trong vụ kiện cùng các công ty khác.
Chất độc da cam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3789
Các nạn nhân tham gia kiện gồm có: Vào ngày 10 tháng 3 năm 2005, quan tòa Jack Weinstein (thuộc Tòa án liên bang tại quận Brooklyn) đã bác đơn kiện, quyết định rằng những đòi hỏi của đơn kiện không có cơ sở pháp luật. Quan tòa kết luận rằng CĐDC đã không được xem là một chất độc dưới luật quốc tế vào lúc Hoa Kỳ dùng nó; rằng Hoa Kỳ không bị cấm dùng nó để diệt cỏ; và những công ty sản xuất chất này không có trách nhiệm về cách sử dụng của chính quyền. Chính phủ Hoa Kỳ, vốn có quyền miễn tố ("sovereign immunity"), không phải là một bị cáo trong đơn kiện. Tuy nhiên, vào năm 1984 cũng từ phiên tòa của vị quan tòa này, chính các công ty trên đã chi khoảng 180 triệu USD bồi thường cho các gia đình cựu binh Mỹ từng nhiễm chất da cam ở Việt Nam, mặc dù các công ty này không thừa nhận có hành động sai trái. Hai mươi mục trong phán quyết của thẩm phán Jack Weinstein ngày 10 tháng 3 về vụ kiện của các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam đối với các công ty hoá chất đã được phân tích của Mandrew Wells-Dang, đại diện Quỹ Hoà giải và Phát triển tiếng Anh (tiếng Việt phần 1, và tập 2). Ngày 7 tháng 4 năm 2005 các nguyên đơn Việt Nam đã tiếp tục gửi đơn kháng cáo lên Tòa Phúc thẩm của Mỹ đòi lật lại quyết định của tòa sơ thẩm. Tòa Phúc thẩm Khu vực 2 tại Manhattan bắt đầu xem xét lại vụ kiện vào tháng 6 năm 2006, ra phán quyết vào tháng 2 năm 2007 đồng ý với phán quyết của Tòa sơ thẩm và bác đơn kháng cáo của các nguyên đơn Việt Nam. Luật sư nguyên đơn Việt Nam tiếp tục gửi đơn kháng cáo lên Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Ngày 2 tháng 3 năm 2009, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ từ chối mở phiên tòa xem xét lại kết quả của tòa phúc thẩm. Khắc phục hậu quả. Chính phủ Hoa Kỳ hiện vẫn từ chối trách nhiệm với những nạn nhân này và cho rằng mối liên hệ giữa các khuyết tật và thuốc diệt cỏ vẫn chưa có đủ bằng chứng khoa học. Tuy nhiên vào tháng 5/2007, Quốc hội Hoa Kỳ đã phân bổ khoản ngân sách 3 triệu USD nhằm khắc phục ảnh hưởng của chất độc da cam và môi trường tại một số điểm nóng nhất và năm 2009 tăng lên 6 triệu USD .
VietNamNet
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3796
Báo VietNamNet là cơ quan báo tại Việt Nam trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông. Báo VietNamNet được thành lập vào ngày 19 tháng 12 năm 1997. Ngày 23 tháng 1 năm 2003, VietNamNet được cấp giấy phép là tờ báo mạng điện tử và trở thành một trong những tờ báo mạng có mặt trong thời kỳ đầu xuất hiện loại hình báo mạng đầu tiên ở Việt Nam. Lịch sử. - Mạng thông tin trực tuyến VASC Orient trở thành Báo điện tử VASC Orient, đổi tên miền thành VietNamNet.vn. Tên gọi mới này đã phản ánh được tầm vóc của một mạng thông tin mang tính quốc gia mà trong gần hai năm qua VASC Orient đã đạt được với số lượng truy cập gần 200 triệu lượt/tháng. - 18/6/2003: Báo điện tử VietNamNet chính thức cho ra mắt trang tiếng Anh VietNamNet Bridge tại địa chỉ: www.vnn.vn/english/. Đây được coi là báo điện tử tiếng Anh đầu tiên tại Việt Nam với đối tượng bạn đọc là cộng đồng quốc tế quan tâm tới đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam. - Ra mắt Tạp chí Echip - Tuần tin Công nghệ thông tin – Viễn thông cho giới trẻ. Echip có ba loại ấn phẩm tuần: e-CHÍP Tin học trong tầm tay (phát hành vào thứ 6 hàng tuần), e-CHÍP Đọc xong vọc liền (phát hành vào thứ 3 hàng tuần) và e-CHÍP Mobile phát hành vào thứ 4 hàng tuần. - Lần đầu tiên tổ chức trao giải “Hiệp sĩ Công nghệ Thông tin” gây tiếng vang lớn trong cộng đồng. Đây là hoạt động nhằm biểu dương những người đã có cống hiến cụ thể, thiết thực, hỗ trợ đồng bào tiếp cận, khai thác các ứng dụng CNTT phục vụ công việc và đời sống cộng đồng với tinh thần không vụ lợi. - Bổ nhiệm Tổng biên tập mới – ông Bùi Sĩ Hoa - Tổ chức thành công chương trình ca nhạc “Be strong, Japan” – Kiên cường lên nước Nhật nhằm mục đích kêu gọi sự hỗ trợ, lòng hảo tâm của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp cho những nạn nhân kém may mắn của thảm hoạ động đất sóng thần Nhật Bản. - Bổ nhiệm ông Phạm Anh Tuấn làm Tổng Biên Tập – trở thành TBT trẻ nhất trong làng Báo điện tử Việt Nam lúc bấy giờ - Bổ nhiệm bà Hoàng Thị Bảo Hương, ông Lê Thế Vinh làm phó Tổng Biên tập - Kiện toàn nhân sự ở các vị trí chủ chốt của toà soạn Hợp nhất với báo Bưu điện Việt Nam.
VietNamNet
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3796
Năm 2019, hợp nhất báo điện tử VietNamNet và báo Bưu điện Việt Nam Tổ chức bộ máy cụ thể gồm: Báo điện tử VietNamNet, ấn phẩm Bưu điện Việt Nam; duy trì Infonet hiện nay là phiên bản điện tử của ấn phẩm của Bưu điện Việt Nam thuộc Báo VietNamNet (mới). Báo VietNamNet (mới) kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ hợp pháp của báo Bưu điện Việt Nam và báo điện tử VietNamNet; có trách nhiệm tiếp nhận bàn giao từ 2 báo và duy trì ổn định hoạt động tin, bài. Sản phẩm tạo tiếng vang. - Loạt bài phản biện dự án Đường sắt cao tốc Bắc Nam (Quốc hội bỏ phiếu đình chỉ dự án) - Loạt bài phản biện về mở rộng Hà Nội - Loạt bài về xây khách sạn trong công viên Thống Nhất (Chính phủ ra quyết định huỷ bỏ dự án) - Loạt bài phản biện về dự án Bô xít Tây Nguyên (Chính phủ điều chỉnh thu hẹp quy mô dự án) - Loạt bài về Biển Đông - Loạt bài điều tra về vụ án Nông trường sông Hậu (Cơ quan tố tụng phải thay đổi quy trình tố tụng, rút lại quyết định khởi tố đối với bà Ba Sương) - Loạt bài điều tra về giao đất rừng biên giới cho công ty Innovgreen (Chính phủ thu hồi đất đã giao) Đánh giá. Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị Hà Sỹ Đồng: VietNamNet đồng hành sát sao với người dân. Chúng tôi chúc tập thể cán bộ, phóng viên, nhân viên của VietNamNet mạnh khỏe, phát huy những thành tích đã đạt được, tiếp tục truyền tải những thông tin, hình ảnh tốt nhất đến bạn đọc. Mong VietNamNet tiếp tục phát triển vững mạnh Nhà báo Uông Ngọc Dậu, nguyên Giám đốc Hệ Thời sự, Chính trị, Tổng hợp (nay là Ban Thời sự), Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV):. Cái tôi và chắc nhiều độc giả cũng mong muốn đó là hiện nay và sau này, VietNamNet vẫn là tờ báo điện tử hàng đầu của Việt Nam và nó có vị trí trong cả khu vực và cả trong mặt bằng truyền thông quốc tế. Cái mà người ta mong muốn và bao nhiêu năm nay VietNamNet đã phấn đấu là tạo được dấu ấn về mảng chính luận, những bài bình luận có trí tuệ, có chiều sâu, vừa mang phong cách riêng của người viết lại mang tính tuyên ngôn của tờ báo.
VietNamNet
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3796
Và mọi người nhìn vào đấy thấy rằng có một phần trí tuệ của mình ở trong đó. Thiếu tướng Ngô Ngọc Thu, nguyên Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Cảnh sát biển VN. Cá nhân tôi thường xuyên theo dõi tin bài cũng như sự phát triển và trưởng thành của VietNamNet. Điều tôi quan tâm đặc biệt là VietNamNet có độ tin cậy cao. Có được điều này, trước hết phải nói đến bản lĩnh các thế hệ lãnh đạo của VietNamNet trong 20 năm qua. Tôi cũng ấn tượng với đội ngũ PV, BTV, các nhà báo tâm huyết với nghề của VietNamNet. Những nhà báo đã xông xáo đi sâu vào hoạt động của đời sống, cùng đồng hành với nhân dân cũng như lực lượng vũ trang trên mặt trân bảo vệ an ninh trật tự, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển và biên giới. Trong quá trình hoạt động bảo vệ chủ quyền biển đảo, PV VietNamNet đã đồng hành với chúng tôi, chia sẻ chia gian khổ, sóng gió nguy hiểm ác liệt trên biển đưa tin để nhân dân cũng như quốc tế nắm được tình hình thực tế trên biển, cũng như sự xây dựng, phát triển kinh tế biển. VietNamNet 20 tuổi, đó là tuổi thanh xuân, cực kỳ sung mãn và đã tích luỹ được kinh nghiệm và chỉ có thể phát triển tốt hơn.
Đồng (đơn vị tiền tệ)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3798
Đồng (Mã giao dịch quốc tế: VND, ký hiệu: ₫ hoặc đ) là đơn vị tiền tệ của Việt Nam, do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành. Theo luật pháp hiện hành của Việt Nam, Đồng Việt Nam là phương tiện thanh toán pháp quy duy nhất tại Việt Nam, nghĩa là hàng hóa hay dịch vụ tại thị trường Việt Nam phải được niêm yết giá trị giao dịch bằng Đồng, người nhận tiền không được phép từ chối các tờ tiền đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định lưu hành bất kể mệnh giá (theo điều 23), và người trả tiền không được phép thanh toán ép buộc bằng các phương thức giao dịch khác (bao gồm các loại tiền tệ khác như Đô la Mỹ hay những vật thể không phải tiền). Một Đồng có giá trị bằng 10 hào, một hào chia nhỏ thành 10 xu. Hai đơn vị xu và hào vì lạm phát nên không còn được lưu hành nữa. Tiền giấy được lưu hành hiện nay có các mệnh giá: 100₫, 200₫, 500₫, 1000₫, 2000₫, 5000₫, 10.000₫, 20.000₫, 50.000₫, 100.000₫, 200.000₫ và 500.000₫. Hiện nay, thói quen làm tròn và không tiết kiệm mệnh giá nhỏ của người Việt khiến tờ 100₫ và 200₫ hiếm khi xuất hiện để tiêu thụ, với tờ 500₫ và 1000₫ cũng đang phải đối mặt với tình trạng tương tự. Tiền kim loại (tiền xu) có các mệnh giá 200₫, 500₫, 1000₫, 2000₫ và 5000₫; do lạm phát nên không còn được đúc nữa, tuy nhiên vẫn có thể giao dịch hợp pháp bằng xu. Các tờ tiền giấy mệnh giá 10.000₫, 20.000₫, 50.000₫, 100.000₫ đã được thay thế bằng các đồng tiền polymer với mệnh giá tương ứng. Tính đến tháng 5 năm 2021, Việt Nam Đồng là đơn vị tiền tệ đứng thứ ba trong những loại tiền tệ có giá trị thấp nhất trên thế giới (sau bolivar của Venezuela và rial của Iran thấp nhất thế giới), với một Đô la Mỹ tương đương với khoảng 24.000 đồng. Từ nguyên. Tiền kim loại ở Việt Nam thời xưa thường làm bằng đồng, tiền đồng trong Hán văn được gọi là "đồng tiền" (chữ Hán: 銅錢).
Đồng (đơn vị tiền tệ)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3798
Từ thời Pháp thuộc đến nay "đồng" (銅) từ chỗ vốn là tên gọi của một thứ kim loại đã trở thành đơn vị tiền tệ chính thức ở Việt Nam, không phân biệt chất liệu làm nên tiền là gì. Đơn vị tính toán của tiền Việt Nam thời phong kiến là "văn" (文), "mạch" (陌), "mân" (緡), "cưỡng" (繦, còn được viết là 鏹), "quán" (貫). Tiền kim loại khi dùng đơn độc được gọi là "văn". Chúng thường có lỗ ở giữa. Khi cần dùng nhiều văn người ta thường xỏ dây qua cái lỗ trên các văn tạo thành một xâu văn. Khi số lượng văn trên xâu văn đạt đến một số lượng nhất định nào đó tuỳ theo quy định của từng thời mà xâu văn ấy sẽ được gọi là "bách", "mân", "cưỡng", "quán". Vì trên tiền có văn tự cho nên được gọi là "văn tiền" (文錢). Chữ "văn" 文 ở đây cũng như chữ "đồng" 銅 trong "đồng tiền" 銅錢 đã được tách ra dùng như một lượng từ để đo đếm tiền. "Mạch" 陌 là dạng viết đại tả của chữ "bách" 百 có nghĩa là một trăm được mượn dùng để chỉ một trăm văn nhưng về sau không phải lúc nào bách cũng đúng bằng một trăm văn. "Mân" 緡, "cưỡng" 繦/鏹, "quán" 貫 ban đầu là chỉ cái dây xâu tiền, được dẫn thân làm đơn vị đo đếm tiền. Các bản dịch tiếng Việt hiện nay của cổ tịch Hán văn Việt Nam thường chuyển các tên gọi "văn", "bách", "mân", "cưỡng", "quán" sang các đơn vị tiền tệ quen dùng ở Việt Nam thời hiện đại, "văn" bị gọi là "đồng", "bách" gọi là "tiền", "cưỡng", "mân", "quán" gọi là "quan" (biến âm của "quán" 貫), gây ngộ nhận cho người đọc về đơn vị tiền tệ của Việt Nam thời xưa. Ngày nay, "đồng" cũng có thể được người Việt dùng để chỉ đến những đơn vị tiền tệ nước ngoài. Một số cộng đồng dùng tiếng Việt ở hải ngoại cũng có thể dùng "đồng" để chỉ đơn vị tiền tệ địa phương. Lịch sử. Thời thuộc Pháp. Trong thời kỳ này, đơn vị tiền tệ của cả khu vực Đông Dương là "piastre", được dịch ra tiếng Việt là "đồng" hay đôi khi là "bạc".
Đồng (đơn vị tiền tệ)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3798
Tiền tệ do chính quyền trong giai đoạn này lấy bạc làm bản vị nhưng những đồng tiền của các triều vua nhà Nguyễn vẫn được lưu hành chủ yếu ở các vùng nông thôn mặc dù bất hợp pháp. Tiền đúc lúc đầu có đồng bạc México nặng 27,073 g (độ tinh khiết 902 phần nghìn), sau đó là đồng bạc Đông Dương được đúc ở Pháp nặng 27 g (độ tinh khiết là 900 phần nghìn). Tiền giấy thời kỳ này được Ngân hàng Đông Dương phát hành và có thể đem đến ngân hàng đổi thành bạc. Một sắc lệnh ngày 16 tháng 5 năm 1900 cho phép Ngân hàng Đông Dương in tiền giấy gấp ba lần số bạc đảm bảo nhưng khi Đệ nhất Thế chiến xảy ra thì tỷ lệ này không còn giữ được nữa, tiền giấy phát hành gấp nhiều lần số bạc đảm bảo. Sau một số biện pháp cải cách tiền tệ, ngày 31 tháng 5 năm 1930, Tổng thống Pháp có sắc lệnh quy định đồng bạc Đông Pháp (Đông Dương) có giá trị là 655 miligam vàng (độ tinh khiết 900 phần nghìn), từ đó chấm dứt chế độ bản vị bạc mà chuyển sang bản vị vàng. Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám. Từ 1945 – 1954. Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 31 tháng 1 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký nghị định phát hành tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Và ngày 31 tháng 11 năm 1946, giấy bạc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Một mặt in chữ "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán và hình chủ tịch Hồ Chí Minh; một mặt in hình Nông - Công - Binh. Các loại giấy bạc đều có chữ số Ả rập, chữ Quốc ngữ, chữ Hán, Lào, Khmer chỉ mệnh giá, có ký tên "Bộ trưởng Bộ Tài chính" (Phạm Văn Đồng hoặc Lê Văn Hiến) và "Giám đốc Ngân khố trung ương". Loại tiền này từng được gọi một cách dân dã là "tiền Cụ Hồ" vì trừ tờ 100₫ thì mặt trước của hầu hết các tờ tiền giấy đều in hình của Hồ Chí Minh và để phân biệt với các loại tiền khác lưu hành trước đó tại Việt Nam, vốn cũng được gọi là "đồng". Ngày 5 tháng 6 năm 1951, Hồ Chí Minh ký nghị định thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và phát hành giấy bạc ngân hàng.
Đồng (đơn vị tiền tệ)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3798
Giấy bạc ngân hàng đổi lấy giấy bạc tài chính theo tỷ lệ 1 đồng ngân hàng đổi 10 đồng tài chính. Giấy bạc ngân hàng có các loại mệnh giá: 1 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng, 200 đồng, 500 đồng, 1.000 đồng và 5.000 đồng. Một mặt in chữ "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" (chữ Hán và chữ quốc ngữ) và hình Hồ Chí Minh; một mặt in hình công - nông - binh, hình bộ đội ở chiến trường. Trên tờ giấy bạc có số hiệu, mệnh giá ghi bằng số Ả Rập, chữ quốc ngữ và chữ Hán. Về sau, việc liên lạc giữa địa phương và trung ương có nhiều khó khăn, nên chính quyền trung ương cho phép Trung Bộ và Nam Bộ phát hành tiền riêng. Tiền này có mệnh giá 1 đồng, 5 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng. Hình ảnh trang trí cũng tương tự như giấy bạc ngân hàng chỉ khác là trên giấy bạc có chữ ký của Chủ tịch "Ủy ban kháng chiến" Nam Bộ (Phạm Văn Bạch), đại diện "Bộ trưởng Tài chính" và "Giám đốc Ngân khố" Nam Bộ. Một số tỉnh được phát hành tín phiếu, phiếu đổi chác, phiếu tiếp tế... hoặc giấy bạc chỉ lưu hành trong tỉnh. Thời kỳ đó, ở Nam Bộ nền kinh tế chia ra hai vùng, sử dụng hai loại tiền khác nhau, vùng thuộc kiểm soát của Pháp lưu hành tiền do Pháp phát hành. Mặt khác, mặc dù Chính phủ phát hành tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng do phương tiện giao thông còn khó khăn nên loại tiền này không thể được vận chuyển thường xuyên đến Nam Bộ. Chính vì thế, sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân Nam Bộ vẫn sử dụng các loại tiền giấy, tiền kim loại do Pháp phát ra. Từ 1954 – 1975. Sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, miền Bắc và miền Nam có hai chế độ khác nhau, mỗi chế độ in tiền riêng, đều gọi là "đồng". Ở miền Nam, từ năm 1953 đã cho lưu hành tiền đồng riêng biệt. Sau 1975. Khi mới thống nhất, tiền miền Nam đổi thành tiền giải phóng, với giá 500 đồng miền Nam cho mỗi đồng giải phóng từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở vào, ở Thừa Thiên Huế trở ra, 1000 đồng tiền miền Nam đổi được 3 đồng giải phóng. Vào năm 1978, sau khi thống nhất hai miền về mặt hành chính, lại có một cuộc đổi tiền nữa.
Đồng (đơn vị tiền tệ)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3798
Tỷ giá đổi tiền miền Bắc là 1 đồng thống nhất bằng 1 đồng cũ, trong khi tại miền Nam 1 đồng thống nhất bằng 8 hào tiền giải phóng. Lần đổi tiền thứ ba diễn ra vào năm 1985, khi 10 đồng tiền cũ đổi thành 1 đồng tiền mới. Chính sách tỷ giá hối đoái. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang thực hiện chính sách quản lý tỷ giá hối đoái theo hướng thả nổi có kiểm soát. Trong vòng vài ba năm trở lại đây (giai đoạn 2003 - 2005), đồng Việt Nam có tỷ giá khá ổn định so với đồng đô la Mỹ do chính sách của Ngân hàng Nhà nước chỉ cho đồng giảm giá khoảng 1% một năm. Sau khi đồng đô la Zimbabwe đổi giá vào đầu tháng 8 năm 2006, đơn vị đồng của Việt Nam trở thành đơn vị tiền thấp giá nhất trên thế giới trong một thời gian dài trước khi bị Rial Iran vượt qua. Hiện Việt Nam đồng là đồng tiền có giá trị thấp thứ 2 thế giới, sau Rial Iran. Việt Nam đồng hiện vẫn là tiền tệ có khả năng tự do chuyển đổi thấp, chưa trở thành đồng tiền dùng trong thanh toán quốc tế. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang thực hiện cố gắng nâng cao khả năng tự do chuyển đổi của đồng Việt Nam bằng cách trước mắt nâng cao tỷ trọng thanh toán xuất khẩu bằng đồng, tiến tới sử dụng đồng Việt Nam trong thanh toán nhập khẩu song song với việc tự do hóa hoàn toàn giao dịch vãng lai. Phá giá. Tháng 11 năm 2009, Chính phủ Việt Nam quyết định phá giá 5% đồng tiền Việt Nam, đồng thời tăng lãi suất lên 8%. Việc này được xem như là hành động làm căng thẳng thị trường tài chính châu Á, vì các nền kinh tế trong vùng đang tranh nhau tạo ưu thế với thị trường Âu Mỹ. Ngày 11 tháng 2 năm 2010, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam định lại mức tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa Việt Nam đồng và Đô la Mỹ, theo đó, một Đô la Mỹ bằng 18.544 đồng. Trước đó, mức tỷ giá là 17.941 đồng. Như vậy, đồng tiền Việt Nam bị phá giá 3,25% so với Đô la Mỹ. Đến ngày 28 tháng 2 năm 2010, mức tỷ giá ở thị trường chợ đen là 19.500 đồng. Ngày 17/08/2010, Ngân hàng Nhà nước nâng tỷ giá từ mức 18.544 đồng/USD lên mức 18.932 đồng/USD, tăng 388 đồng.
Đồng (đơn vị tiền tệ)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3798
Ngày 11/02/2011, Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa USD với VND, từ 18.932 VND lên 20.693 VND (tăng 9,3%), cùng với đó là thu hẹp biên độ áp dụng cho tỷ giá của các ngân hàng thương mại từ ±3% xuống còn ±1%. Tuy nhiên đến ngày 19/02/2011 tỷ giá USD ở thị trường chợ đen là 22.300 đồng. Việc đồng tiền mất giá ở Việt Nam đã thể hiện qua vài trường hợp cụ thể như một gia đình gửi ngân hàng tiết kiệm tháng 9 năm 1983 số tiền 90 đồng, giá trị một chỉ vàng. Đến tháng 3 năm 2015, rút ra thì được hơn 20.000, chỉ mua được một ổ bánh mỳ kẹp thịt. Các mệnh giá đang lưu hành. Tiền kim loại. Cũng như các quốc gia khác, ý tưởng ban đầu của việc phát hành tiền kim loại (tiền xu) là để dùng vào việc thanh toán tại các máy bán hàng tự động. Tuy nhiên, thời điểm phát hành tiền xu, thị trường thanh toán tự động và hệ thống máy móc lại chưa phổ biến tại Việt Nam cho nên dân chúng vẫn dùng tiền xu song song với tiền giấy, đó là thói quen sai về mặt ứng dụng. Tiền xu lại bất tiện hơn, nếu quy đổi thành cùng một mệnh giá tương đương, khối lượng tiền xu nặng hơn rất nhiều so với tiền giấy, gây khó khăn cho việc mang đựng, kiểm đếm. Kích cỡ bé, tròn nhưng nặng khiến cho tiền xu sẽ lăn rất xa nếu rơi và dễ vào chỗ hẹp như khe nhà, khe cống. Đã xảy ra những tai nạn về việc trẻ em nuốt tiền xu. Những bất tiện này cộng với việc máy bán hàng tự động hiện nay đã tương tác được với tiền giấy, khiến cho tiền xu không còn là cách thanh toán tự động duy nhất. Tiền xu không còn được sử dụng trong đời sống hằng ngày tại Việt Nam trên thực tế, dù rằng giá trị thanh toán của nó vẫn còn.
Đồng (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3799
Đồng trong tiếng Việt có nhiều hơn một nghĩa. Nó có thể là:
Hằng số vật lý
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3806
Trong khoa học tự nhiên, một hằng số vật lý là một đại lượng vật lý có giá trị không thay đổi theo thời gian. Nó đối lập với hằng số toán học, là các giá trị cố định không liên quan trực tiếp đến các đo đạc vật lý. Một số nhà vật lý, như Paul Dirac năm 1937, cho rằng các hằng số vật lý thực ra sẽ giảm dần giá trị theo thời gian (tỷ lệ với tuổi của vũ trụ). Tuy nhiên các thí nghiệm vật lý đã không khẳng định được điều này, mà chỉ đưa ra một số giới hạn trên cho biến đổi của các hằng số (ví dụ hằng số cấu trúc tinh tế không thể giảm quá 10−5 trong một năm, hằng số hấp dẫn không thể giảm quá 10−11 trong một năm). Các hằng số không phụ thuộc hệ đo lường thường không có thứ nguyên và được coi là các hằng số vật lý cơ bản. Một số người tin là nếu các hằng số vật lý chỉ sai khác đi một chút so với giá trị hiện nay, vũ trụ của chúng ta sẽ trở nên rất khác đến mức các sinh vật có trí tuệ như chúng ta không có điều kiện xuất hiện. Như vậy vũ trụ hiện nay có vẻ như được tinh chỉnh rất kỹ lưỡng để dành cho sự sống thông minh, theo nguyên lý vị nhân. Bảng dưới liệt kê các hằng số đã biết đến nay. Ghi chú. 1 Các giá trị cho ở dưới đây ở "dạng chính xác"; số trong dấu ngoặc đơn là "sai số chuẩn" là giá trị nhân với "sai số chuẩn tương đối" (gọi là "sai số tương đối"). 2 Giá trị đã cho tương ứng với khối lượng nghỉ. 3 Đây là giá trị được quốc tế thừa nhận đại diện cho volt dùng hiệu ứng Josephson. 4 Đây là giá trị được quốc tế thừa nhận đại diện cho ohm dùng hiệu ứng Hall lượng tử. Tham khảo. a2002 CODATA Internationally recommended values of the Fundamental Physical Constants "(at The NIST References on Constants, Units, and Uncertainty)"
CH
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3809
CH hay Ch có thể là:
TP
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3810
TP, Tp hay tp có thể có nghĩa là:
ĐT
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3813
ĐT hay đt có thể là chữ viết tắt để chỉ:
CQ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3814
CQ có thể là:
Khí quyển (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3816
Khí quyển có thể được hiểu là:
TV (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3820
TV hay tv có thể là từ viết tắt cho:
Nhóm ngôn ngữ gốc Ý
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3821
Nhóm ngôn ngữ gốc Ý là một nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Ấn-Âu có nhiều đặc điểm mà các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ tin rằng là hậu thân của tiếng Latinh. Nhóm này bao gồm vào khoảng 50 ngôn ngữ và đa số tập trung tại Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và România. Nhóm này được chia ra làm 3 phân nhóm: tiếng Latinh đứng một mình, các hậu thân của nó trong Nhóm Rôman và Nhóm Sabelli bao gồm vài ngôn ngữ cổ đã mai một. Khi Đế quốc La Mã chiếm gần hết Châu Âu họ mang tiếng Latinh đến các vùng đất họ vừa chiếm. Tuy nhiên, chỉ có loại tiếng Latinh bình dân đã trở nên thông dụng vì tiếng Latinh cổ điển không dễ học. Sự sáp nhập của các tiếng địa phương vào tiếng Latinh bình dân đã tạo nên các tiếng của nhóm Rôman sau khi Đế quốc La Mã sụp đổ. Sơ đồ của Nhóm ngôn ngữ gốc Ý. Nhóm ngôn ngữ gốc Ý (thuộc Ngữ hệ Ấn-Âu)
TN
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3822
TN hay tn có thể là:
ĐH
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3823
ĐH hay đh có thể là từ viết tắt của:
ND
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3824
ND có thể là:
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3825
QĐ hay qđ có thể là viết tắt của:
HQ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3827
HQ có thể là từ viết tắt của:
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3828
BĐ có thể là từ viết tắt của:
QH
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3830
QH hay qh có thể là từ viết tắt của:
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3831
LĐ hay lđ có thể là từ viết tắt của:
ĐN
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3832
ĐN hay đn có thể là từ viết tắt của:
Hỏa Lôi Phệ Hạp
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3834
Quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp, còn gọi là quẻ Phệ Hạp, đồ hình |::|:| (噬嗑 shi4 ke4), là quẻ thứ 21 trong Kinh Dịch. Giải nghĩa: Khiết dã. Cấn hợp. Cẩu hợp, bấu víu, bấu quào, dày xéo, đay nghiến, phỏng vấn, hỏi han (học hỏi). Ủy mị bất chấn chi tượng: tượng yếu đuối không chạy được.
ĐC
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3836
ĐC hay được có thể là từ viết tắt của:
VH
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3838
VH có thể là từ viết tắt của:
VV
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3839
VV hoặc vv có thể là:
PT
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3840
PT hoặc pt có thể là:
QL
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3843
QL có thể là viết tắt của:
Tương tác cơ bản
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3844
Tương tác cơ bản hay lực cơ bản là các loại lực của tự nhiên mà tất cả mọi lực, khi xét chi tiết, đều quy về các loại lực này. Trong cơ học cổ điển, lực cơ bản là các lực không bao giờ biến mất dưới phép biến đổi hệ quy chiếu. Trong cơ học cổ điển cũng tồn tại lực quán tính không thể quy về các lực cơ bản. Tuy nhiên loại lực này được coi là "lực ảo", do luôn tìm được hệ quy chiếu mà lực này biến mất (gọi là hệ quy chiếu quán tính). Mô hình vật lý hiện đại cho thấy có bốn loại tương tác cơ bản trong tự nhiên: tương tác hấp dẫn, tương tác điện từ, tương tác mạnh và tương tác yếu. Trong cuộc sống hằng ngày, các lực mà chúng ta hay bắt gặp đều chủ yếu có nguồn gốc từ lực điện từ; ngoại trừ lực hấp dẫn từ Trái Đất. Ví dụ như các lực khi có va chạm cơ học giữa các vật thể thông dụng đều quy về lực tương tác giữa các phân tử hay nguyên tử, cụ thể là lực điện từ giữa hạt nhân và electron của chúng. Lực cơ học này bao gồm phản lực giữa các vật rắn, lực đẩy Acsimét trong các chất lỏng và chất khí, lực ma sát giữa các bề mặt, lực nâng cánh máy bay trong khí động lực học, sức căng bề mặt hay các lực điện từ thể hiện ở mức độ phân tử. Các phản ứng hóa học cũng được điều khiển bởi lực điện từ, như khi chúng tạo ra lực đẩy trong động cơ đốt trong. Các đồ điện, như động cơ điện, hiển nhiên sử dụng theo phương thức trực tiếp lực điện từ. Tương tác hấp dẫn. "Lực hấp dẫn" là lực yếu nhất trong bốn lực cơ bản của tự nhiên, hình thành ở thang đo lớn, hay thang thiên văn học. Lực hấp dẫn giữa hai vật có khối lượng là "m"1 và "m"2, có kích thước rất nhỏ so với khoảng cách, "r", giữa chúng, được tính theo định luật vạn vật hấp dẫn Newton: với "G" ≈ 6,67 x 10−11 N m²/kg2 và được gọi là hằng số hấp dẫn. Lực hấp dẫn luôn luôn là lực hút và xảy ra ở đường nối tâm của 2 vật với nhau. Lực hấp dẫn của hai vật có độ lớn bằng nhau nhưng ngược hướng nhau, tuân theo đúng định luật thứ ba của Newton. Theo các nhà vật lý hạt thì có một hạt mang tên là graviton, hay hạt truyền tương tác của lực hấp dẫn.
Tương tác cơ bản
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3844
Lực hấp dẫn có dạng gần giống với lực Coulomb áp dụng cho các điện tích, vì chúng đều tuân theo luật nghịch đảo bình phương khoảng cách. Điều này đã gợi ra cho Albert Einstein những ý tưởng đầu tiên về việc thống nhất lực hấp dẫn và lực điện từ; tuy nhiên kết quả đã không thành công. Về sau, ở thập niên 1960, người ta đã thống nhất được 3 lực còn lại, được biểu diễn ở trong điện-yếu thống nhất ("electroweak unification"), đây là sự kết hợp của lực điện từ, lực tương tác mạnh và lực tương tác yếu vào làm một. Ngày nay, các nhà vật lý nhận thấy rằng lực hấp dẫn và lực điện từ có một điểm chung và cả hai đều xuất hiện bởi sự có mặt của các hạt truyền tương tác với khối lượng bằng 0. Điều này mở những hướng nghiên cứu mới để thống nhất 4 lực của tự nhiên vào một dạng duy nhất. Tương tác điện từ. "Tương tác điện từ" hay lực điện từ là một trong bốn tương tác cơ bản của tự nhiên. Nó cũng là sự kết hợp của lực điện (còn gọi là lực Coulomb với các điện tích điểm đứng yên) và lực từ (sinh ra bởi các hạt mang điện tích khi di chuyển). Về cơ bản, cả lực điện và lực từ đều được miêu tả dưới dạng một lực truyền với sự có mặt của hạt truyền tương tác là quang tử. Quá trình lượng tử hóa lực điện từ được miêu tả trong thuyết điện động lực học lượng tử, hay còn gọi là thuyết QED. Lực điện từ là một lực có biên độ vô hạn, nó tuân thủ theo luật nghịch đảo bình phương khoảng cách giống như lực hấp dẫn. Lực điện từ tồn tại giữa các hạt mang điện tích như electron hay quark, và có độ lớn khoảng formula_2 lần so với lực hấp dẫn. Có hai loại điện tích là điện tích âm và điện tích dương, hai hạt cùng điện tích sẽ đẩy nhau và ngược điện tích sẽ hút nhau. Trái Đất, mặt trời, các hành tinh... chứa cùng một lượng hạt điện tích âm và điện tích dương, do đó chúng trung hoà và không có lực điện từ. Lực điện từ giữa electron và proton là lý do để cho electron nằm trên quỹ đạo của hạt nhân. Tương tác mạnh. "Bài chính: Tương tác mạnh" "Tương tác mạnh" hay lực mạnh là một trong bốn tương tác cơ bản của tự nhiên. Lực này giữ các thành phần của hạt nhân của nguyên tử lại với nhau, chống lại lực đẩy rất lớn giữa các proton.
Tương tác cơ bản
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3844
Lực này được chia làm hai thành phần, lực mạnh cơ bản và lực mạnh dư. Lực tương tác mạnh ảnh hưởng bởi các hạt quark, phản quark và gluon-hạt truyền tương tác của chúng. Thành phần cơ bản giữ các quark lại với nhau để hình thành các hadron như proton và neutron. Thành phần dư giữ các hadron lại trong hạt nhân của một nguyên tử. Ở đây còn có một hạt gián tiếp là bosonic hadron, hay còn gọi là meson. Theo thuyết sắc động lực học lượng tử, mỗi quark mang trong mình điện tích màu, ở một trong 3 dạng "đỏ", "xanh lam" hoặc "xanh lơ". Đó chỉ là những tên, hoàn toàn không liên hệ gì với màu thực tế. Đối quark là các hạt như "đối đỏ", "đối xanh lam", "đối xanh lơ". Cùng màu đẩy nhau, trái màu hút nhau. Lực hút giữa hạt màu và hạt đối màu của nó là rất mạnh. Các hạt chỉ tồn tại nếu như tổng màu của chúng là trung hòa, nghĩa là chúng có thể hoặc được kết hợp với đối đỏ, đối xanh lam và đối xanh lơ như trong các hạt baryon, proton và neutron, hoặc một quark và một đối quark của nó có sự tương ứng đối màu (như hạt meson). Tương tác mạnh xảy ra giữa hai quark là nhờ một hạt trao đổi có tên là gluon. Nguyên lý hoạt động của hạt gluon có thể hiểu như trái bòng bàn, và hai quark là hai vận động viên. Hai hạt quark càng ra xa thì lực tương tác giữa chúng càng lớn, nhưng khi chúng gần xát nhau, thì lực tương tác này bằng 0. Có tám loại gluon khác nhau, mỗi loại mang một màu điện tích và một đối màu điện tích (có ba loại màu, nhưng do có sự trung hòa giống như đỏ + xanh + vàng = trắng ngoài tự nhiên, nên chỉ có 8 tổ hợp màu giữa chúng). Mỗi một cặp tương tác của quark, chúng luôn luôn thay đổi màu, nhưng tổng màu điện tích của chúng được bảo toàn. Nếu một quark đỏ bị hút bởi một quark xanh lam trong một baryon, một gluon mang đối xanh lam và đỏ được giải phóng từ quark đỏ và hấp thụ bởi quark xanh lam, và kết quả, quark đầu tiên chuyển sang quark xanh lam và quark thứ hai chuyển sang quark đỏ (tổng màu điện tích vẫn là xanh lam + đỏ).
Tương tác cơ bản
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3844
Nếu một quark xanh lơ và một đối xanh lơ quark tương tác với nhau trong một meson, một gluon mang, ví dụ như đối đỏ và xanh lơ sẽ được giải phóng bởi quark xanh lơ và hấp thụ bởi một đối xanh lơ quark, và kết quả, quark xanh lơ chuyển sang màu đỏ và đối xanh lơ đối quark chuyển sang màu đỏ (tổng màu điện tích vẫn là 0). Hai quark xanh lam đẩy nhau và trao đổi một gluon mang điện tích màu xanh lam và đối xanh lam, các quark vẫn dữ nguyên điện tích màu xanh lam. Hiện tượng không thể tách rời các quark xa nhau gọi là hiện tượng giam hãm ("confinement"). Có một giả thuyết rằng các quark gần nhau sẽ không tồn tại lực tương tác mạnh và trỏ thành tự do, giả thuyết này còn gọi là sự tự do tiệm cận và có thể được giải thích bằng nguyên lý quả bóng bàn như trên. Tương tác yếu. "Bài chính: Tương tác yếu" "Tương tác yếu" hay lực yếu xảy ra ở mọi hạt cơ bản trừ các hạt photon và gluons, ở đó có sự trao đổi của các hạt truyền tương tác là các vector W boson và Z boson. Tương tác yếu xảy ra ở một biên độ rất ngắn, bởi vì khối lượng của những hạt W boson và Z boson vào khoảng 80 GeV, nguyên lý bất định bức chế chúng trong một khoảng không là formula_3 m, kích thước này chỉ nhỏ bằng 0,1% so với đường kính của proton. Trong điều kiện bình thường, các hiệu ứng của chúng là rất nhỏ. Có một số định luật bảo toàn hợp lệ với lực tương tác mạnh và lực điện từ, nhưng lại bị phá vỡ bởi lực tương tác yếu. Mặc dầu có biên độ và hiệu suất thấp, nhưng lực tương tác yếu lại có một vai trò quan trọng trong việc hợp thành thế giới mà trong ta quan sát. Tương tác yếu chuyển đổi một hương quark sang một hương khác. Nó có vị trí quan trọng trong cấu trúc vũ trụ của chúng ta, bởi vì: Việc khám phá ra vector boson W và Z vào năm 1983 đã là một bằng chứng xác thực ủng hộ lý thuyết kết hợp tương tác yếu và tương tác điện từ vào một tương tác là tương tác điện yếu.
Giải tích thực
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3847
Giải tích thực là một phân ngành của giải tích làm việc với các hàm số xác định trên một tập và lấy giá trị trên trường số thực. Nó nghiên cứu các khái niệm dãy, giới hạn, tính liên tục của hàm số, vi phân và tích phân trên trường số thực và các dãy hàm thực, các khái niệm phức tạp hơn như lý thuyết độ đo và tích phân Lebesgue. Môn học này cũng phát triển các khái niệm hiện đại như hàm suy rộng ("generalized function").
Đảng Cộng sản Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3849
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền và là chính đảng duy nhất được phép hoạt động tại Việt Nam theo Hiến pháp. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức hiện nay, Đảng là đại diện của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa Marx-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Trong ngữ cảnh không chính thức cũng dùng từ "Đảng" (hoặc "Đảng ta") để nói về Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ quan cao nhất của Đảng là Đại hội Đại biểu toàn quốc, nơi sẽ bầu ra Ban Chấp hành Trung ương. Giữa các kỳ Đại hội Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng là cơ quan tối cao quyết định các vấn đề của Đảng. Sau Đại hội, Trung ương sẽ bầu ra Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương và bầu một Ủy viên Bộ Chính trị làm Tổng Bí thư. Vai trò. Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam 2013 khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng lên Nhà nước và xã hội: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của nhà nước này, đảng viên là những người nắm giữ các cương vị chủ chốt trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Trong Di chúc của Hồ Chí Minh có viết: Điều lệ. Điều lệ Đảng là văn bản pháp lý cơ bản của Đảng, xác định tôn chỉ, mục đích, hệ tư tưởng, các nguyên tắc về tổ chức, hoạt động, cơ cấu bộ máy của Đảng; quy định trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của đảng viên và của tổ chức đảng các cấp. Mục đích của việc xây dựng Điều lệ Đảng là nhằm thống nhất tư tưởng, tổ chức và hành động trong toàn Đảng, thực hiện mục tiêu của Đảng. Điều lệ Đảng do Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng thông qua và ban hành. Mọi tổ chức đảng và đảng viên đều phải chấp hành Điều lệ Đảng. Những lần sửa đổi. Điều lệ Đảng đã được sửa đổi 12 lần tính tới hiện nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3849
Điều lệ do Đại hội Đảng toàn quốc thông qua và ban hành nên để phù hợp với bối cảnh mới khi tổ chức Đại hội Đảng các tổ soạn thảo thường đề xuất ý kiến để Đại hội thảo luận sửa đổi, bổ sung một số vấn đề trong điều lệ. Điều lệ đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng ngày 3 tháng 2 năm 1930 với tên gọi "Điều lệ vắn tắt". Với văn bản ban đầu chỉ gói gọn trong 9 điều. Những lần sửa đổi: Hệ tư tưởng và đường lối. Đảng Cộng sản thành lập năm 1930 sau là một phân bộ của Quốc tế Cộng sản, theo chủ nghĩa Marx - Engels - Lenin. Theo Điều lệ Đảng năm 1935: Điều lệ Đảng năm 1951 xác định: Đến Đại hội Đảng lần thứ 3 (1960) thì điều lệ đảng xóa bỏ chữ "Engels, Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông", và từ Đại hội Đảng lần thứ 7 (1991) thêm vào chữ "Tư tưởng Hồ Chí Minh". Đảng Lao động Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Chính cương của Đảng năm 1951 xác định: Tại Đại hội III năm 1960, nghị quyết xác định: Cương lĩnh của đảng năm 1991 xác định: Nghị quyết của đảng năm 1991 cũng nêu rõ: Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 ghi: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới". Cương lĩnh sử dụng từ "nhân dân" chứ không nói "nhân dân lao động", không nói "quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa", mà chỉ nói "quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp".
Đảng Cộng sản Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3849
Đảng Cộng sản Việt Nam được biết đến với việc đưa ra và phát triển mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế đường lối của Đảng hiện nay gây ra rất nhiều tranh luận từ phía bên ngoài, là "hữu khuynh" hay "theo đúng" tôn chỉ của chủ nghĩa Marx - Lenin. Các chính sách được cho là theo đường lối Kinh tế mới (NEP) của Lenin, nhưng cũng có ý kiến cho là những cải cách vượt xa cả NEP, và được cho là gần gũi với lý luận Đặng Tiểu Bình và đường lối của Trung Quốc hiện nay. Trong khi đó tư tưởng Hồ Chí Minh được nhiều nhà nghiên cứu hiểu khác nhau và vận dụng khác nhau. Chính sách "Đổi Mới" được đưa ra năm 1986 được một số người nhận định là "quay lại cái cũ" (như xóa bỏ hợp tác xã kiểu cũ, cho tư nhân kinh doanh rộng rãi, tư bản nước ngoài đầu tư, ra luật đầu tư, thiết lập thị trường chứng khoán, cho in lại nhiều sách vở về dân chủ - tự do, các trường phái triết học phi Marxist, các kinh điển Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, trùng tu nhiều đền chùa, cho in lại văn học lãng mạn...) Lịch sử. Thành lập. Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam do chỉ thị của Đông Phương Bộ (là một bộ phận của Đệ Tam Quốc tế) yêu cầu Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu cộng sản Việt Nam họp từ ngày 6 tháng 1 năm 1930 đến ngày 8 tháng 2 năm 1930 tại Hương Cảng, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương (Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng; thành viên từ một nhóm thứ ba tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn không kịp có mặt). Hội nghị hợp nhất này diễn ra tại căn nhà của một công nhân ở bán đảo Cửu Long ("Kowloon") từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 8 tháng 2 năm 1930, đúng vào dịp Tết năm Canh Ngọ. Tham dự Hội nghị có 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), hai đại biểu An Nam Cộng sản Đảng (Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm) và 3 đại biểu ở nước ngoài (có Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, đại biểu của Quốc tế Cộng sản).
Đảng Cộng sản Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3849
Hội nghị quyết định thành lập một tổ chức cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua một số văn kiện quan trọng như: "Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Lời kêu gọi". Ngày 24 tháng 2 năm 1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh tại Đại hội II ghi ngày thành lập Đảng là 6 tháng 1 nhưng Nghị quyết tại Đại hội III năm 1960 đổi là ngày 3 tháng 2 năm 1930. Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hồng Kông từ ngày 14 đến 31 tháng 10 năm 1930, tên của đảng được đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương theo yêu cầu của Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản) và Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên. Hoạt động chống Pháp. Vừa ra đời, Đảng đã lãnh đạo phong trào nổi dậy 1930–1931, nổi bật là Xô Viết Nghệ – Tĩnh, mục đích thành lập chính quyền Xô viết. Phong trào này thất bại và Đảng Cộng sản Đông Dương tổn thất nặng nề vì khủng bố trắng của Pháp. Trước tình hình đó, đầu tháng 4/1931, Xứ ủy Trung Kỳ ra Chỉ thị thanh Đảng có nội dung "Đuổi sạch sành sanh ra ngoài hết thảy những bọn trí phú địa hào. Nếu đồng chí nào muốn làm cách mạng, tự nguyện đứng về phía giai cấp vô sản mà phấn đấu cũng không cho đứng trong Đảng.". Chỉ thị này khiến một số đảng viên thuộc đối tượng thanh Đảng ra đầu thú với chính quyền, hoặc chuẩn bị ra đầu thú. Xứ uỷ Trung Kỳ phải ra lệnh thu hồi chỉ thị. Một thời gian trong thập niên 1930, tại miền Nam, Đảng Cộng sản và những người Trotskist hợp tác với nhau trên tờ báo "La Lutte", mà Hồ Chí Minh sau cho là "một số đồng chí hợp tác vô nguyên tắc". Năm 1935, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ I được bí mật tổ chức tại Ma Cao do Hà Huy Tập chủ trì nhằm củng cố lại tổ chức đảng, thông qua các điều lệ, bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá I gồm 13 ủy viên.
Đảng Cộng sản Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3849
Đồng thời, một đại hội của Cộng sản Quốc tế thứ ba tại Moskva đã thông qua chính sách dùng mặt trận dân tộc chống phát xít và chỉ đạo những phong trào cộng sản trên thế giới hợp tác với những lực lượng chống phát xít bất kể đường lối của những lực lượng này có theo chủ nghĩa xã hội hay không để bảo vệ hòa bình chứ chưa đặt nhiệm vụ trước mắt là lật đổ chủ nghĩa tư bản. Việc này đòi hỏi Đảng Cộng sản Đông Dương phải xem các chính đảng có cùng lập trường chống phát xít tại Đông Dương là đồng minh. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 7 năm 1936 do Lê Hồng Phong chủ trì tổ chức tại Thượng Hải, Đảng đã tạm bỏ khẩu hiệu "đánh đổ đế quốc Pháp" và "tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày" mà lập Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế Đông Dương, chống phát xít, đòi tự do, dân sinh dân chủ. Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ do chính quyền cánh tả Pháp ban hành, đảng hoạt động công khai, đấu tranh nghị trường, tham gia các cuộc bầu cử, sử dụng các quyền chính trị đấu tranh cho lợi ích công nông bình dân. Tháng 3 năm 1938, Hội nghị Trung ương do Hà Huy Tập chủ trì họp ở Hóc Môn, Sài Gòn đã đổi tên Mặt trận là Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương cho phù hợp tình hình. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương lại đàn áp mạnh tay, Đảng đã chuyển hướng, coi giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. Tháng 3 năm 1939, Đảng ra bản "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc". Tháng 11 năm 1939 Hội nghị Trung ương đảng họp tại Hóc Môn, Sài Gòn do Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế Đông Dương và Hội nghị Trung ương ngày 19 tháng 5 năm 1941 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì họp tại Cao Bằng lập ra Mặt trận Việt Minh. Thông qua mặt trận này, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành chính quyền tại Việt Nam, được biết đến với tên gọi Cách mạng tháng Tám. Tự giải tán.
Đảng Cộng sản Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3849
Tự giải tán. Ngày 11 tháng 11 năm 1945 Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán, chuyển vào hoạt động bí mật, chỉ để một bộ phận hoạt động công khai dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Marx ở Đông Dương, mọi hoạt động công khai của đảng từ đây đều thông qua Mặt trận Việt Minh. Trên thực tế, Đảng vẫn hoạt động bí mật và giữ vai trò lãnh đạo chính quyền, chỉ đạo công cuộc kháng chiến kiến quốc. Khi đó Việt Minh được xem như là một tổ chức chính trị tham gia bầu cử Quốc hội khóa I và chính quyền. Sau đó Việt Minh tham gia Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, cùng với Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam... Sau này, Đại hội Đảng lần thứ III (tháng 9 năm 1960) quyết định lấy ngày 3 tháng 2 hằng năm là ngày kỉ niệm thành lập Đảng. Đảng lãnh đạo tại miền Bắc. Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bị Việt Nam Quốc dân Đảng và một số sử gia phương Tây cáo buộc, sau khi Chính phủ Cách mạng Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, đã dựng lên Vụ án phố Ôn Như Hầu nhằm triệt hạ các đảng phái đối thủ chính trị của mình trong chính quyền liên hiệp. Đảng được "lập lại", công khai (tại Việt Nam) với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam vào tháng 2 năm 1951, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II ở Tuyên Quang. Đại hội này được diễn ra trong lúc diễn ra Chiến tranh Đông Dương lần thứ I. Đại hội này cũng tách bộ phận của Lào và Campuchia (vốn cùng thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương) thành các đảng riêng. Sau đại hội II, Đảng Cộng sản thực thi chiến dịch cải cách ruộng đất. Trong cuộc cải cách, 810.000 hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đã được chia cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Tuy nhiên, cuộc cải cách đã đấu tố oan nhiều người, dẫn đến nhiều cái chết oan (số liệu cụ thể chưa được xác định).
Đảng Cộng sản Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3849
Đến tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (họp từ 25/8 đến 24/9/1956) nhận định các nguyên nhân đưa đến sai lầm, và đề nghị thi hành biện pháp kỷ luật đối với Ban lãnh đạo chương trình Cải cách Ruộng đất như sau: Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư Đảng, hai ông Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính trị, và Hồ Viết Thắng bị loại ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III được tổ chức tại Hà Nội vào năm 1960 chính thức hóa công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc, tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó và đồng thời tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tại miền Nam.Tiến hành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Hoạt động bí mật tại miền Nam. Tại miền Nam, đảng bộ Miền Nam năm 1962 công khai lấy tên Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam, là thành viên và lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam , tuyên truyền chủ nghĩa Marx - Lenin (thành phần Mặt trận còn có Đảng Dân chủ, và Đảng Xã hội cấp tiến và các tổ chức do người cộng sản lãnh đạo). Đảng cầm quyền duy nhất tại Việt Nam. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, được tổ chức vào năm 1976 sau khi chấm dứt Chiến tranh Việt Nam, tên Đảng được đổi lại thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều 4 Hiến pháp năm 1980 quy định ""Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Marx - Lenin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội."
Đảng Cộng sản Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3849
Đảng cộng sản Việt Nam quyết định nhân sự mọi chức vụ cấp cao trong bộ máy chính quyền, trong quân đội cũng như trong các cơ quan truyền thông, các tổ chức quần chúng, các cơ quan học thuật như Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định bổ nhiệm nhân sự các chức vụ: Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ; Ủy viên Hội đồng Quốc phòng - An ninh, Ủy viên Hội đồng Bầu cử quốc gia, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm các Ủy ban của Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội - Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội; Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước; Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh; Ủy viên Quân ủy Trung ương, ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, phong hoặc thăng quân hàm Đại tướng, Thượng tướng, Đô đốc Hải quân; Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; Chủ tịch, Phó Chủ tịch - Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam... Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải cách giá - lương - tiền cuối năm 1985 làm cho kinh tế Việt Nam càng trở nên khó khăn. Đại hội khởi xướng chính sách Đổi Mới, cải tổ bộ máy nhà nước, và chuyển đổi sang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong khi vẫn duy trì vị trí lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3849
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X năm 2006 tiếp tục chính sách đổi mới, đồng thời cho phép Đảng viên làm kinh tế tư nhân. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI năm 2011 thí điểm kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng Năm 2017, Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành quy định khai trừ đảng viên cố ý nói, viết có nội dung xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc sự thật, phủ nhận vai trò lãnh đạo và thành quả cách mạng của Đảng và dân tộc. Hiện nay Đảng Cộng sản Việt Nam đang đối mặt với tình trạng tham nhũng và sự hình thành các nhóm lợi ích khiến Đảng gặp "nguy cơ về sự phân liệt về chính trị trong Đảng, là nói đến nguy cơ phân liệt đẳng cấp về tổ chức, về cán bộ cảnh báo nguy cơ mất sự thống nhất về chính trị và tư tưởng ở ngay trong chính nội bộ Đảng... nguy cơ Đảng bị phân rã, chia cắt, cát cứ là hết sức nguy hiểm. Trong Đảng mà nảy nòi nhiều "sứ quân" thì nguy cơ khó còn là Đảng Cộng sản nữa; và khi đó, vai trò lãnh đạo, trọng trách lịch sử của Đảng sẽ bị tổn thương và đe dọa nghiêm trọng"". Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng phải "tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ". Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW "Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới". Theo ông Phùng Hữu Phú, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thì hiện nay đã có ý kiến đề nghị bỏ chủ nghĩa Marx-Lenin, chủ nghĩa xã hội vì "đã lạc hậu lắm rồi" tuy nhiên ""không còn thừa nhận chủ nghĩa Marx - Lenin tức là không thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng. Các đảng phái sẽ mọc lên như nấm và quốc gia sẽ bước vào thời kỳ thập nhị sứ quân, rối loạn".
Đảng Cộng sản Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3849
Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam XIII, Bộ trưởng Công an Tô Lâm nhận định "nguy cơ mất an ninh chính trị nội bộ, suy giảm thế trận lòng dân, làm suy yếu sức chiến đấu của Đảng, của chế độ ta từ gốc, từ bên trong là nguy hiểm nhất"". Ông Phạm Minh Chính cho rằng tình trạng suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đã được cải thiện, song "đây là vấn đề nhức nhối, còn tiếp tục, phải kiên trì, kiên quyết với nó hơn nữa". Tổ chức. Đại hội Đại biểu toàn quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng theo Chủ nghĩa Marx-Lenin với nguyên tắc tập trung dân chủ. Đại hội Đại biểu toàn quốc là cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng, là cơ quan duy nhất có quyền ban hành hoặc sửa đổi Điều lệ Đảng và cương lĩnh chính trị, thông qua báo cáo tổng kết nhiệm kỳ đã qua và thông qua nghị quyết về phương hướng hành động nhiệm kỳ tới, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất việc chấp hành nghị quyết của đại hội. Đại hội Đảng được tổ chức thường kỳ 5 năm một lần để xác định đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Đại hội bất thường khi cần. Ban Chấp hành Trung ương. Giữa 2 kỳ đại hội, Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất. Nhiệm vụ của Ban Chấp hành Trung ương gồm: Các cơ quan trung ương tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương bao gồm: Các đơn vị trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương bao gồm: Các Đảng bộ trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương bao gồm: Bộ Chính trị. Bộ Chính trị là cơ quan lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương; quyết định những vấn đề về chủ trương, chính sách, tổ chức, cán bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương; báo cáo công việc đã làm trước hội nghị Ban Chấp hành Trung ương hoặc theo yêu cầu của Ban Chấp hành Trung ương. Các thành viên trong Bộ Chính trị do Ban Chấp hành Trung ương bầu ra. Bộ Chính trị gồm các ủy viên chính thức và có thể có các ủy viên dự khuyết. Đây là những nhân vật quyền lực nhất trong hệ thống chính trị Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3849
Về lý thuyết Đại hội Đảng là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng nhưng Đại hội hay bị chi phối bởi Ban Chấp hành Trung ương và đến lượt Ban Chấp hành Trung ương hay bị chi phối bởi Bộ Chính trị. Các bạn chỉ đạo trung ương trực thuộc Bộ Chính trị bao gồm: Ban Bí thư. Ban Bí thư là một cơ quan giám sát việc thi hành chính sách hàng ngày của Đảng Cộng sản Việt Nam, quyết định một số vấn đề theo sự phân công của Ban Chấp hành Trung ương. Thành phần Ban Bí thư gồm có Tổng Bí thư, một số Ủy viên Ban Bí thư do Ban Chấp hành Trung ương bầu trong số Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và một số Ủy viên Bộ Chính trị do Bộ Chính trị phân công. Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Ủy ban Kiểm tra Trung ương chuyên xem xét phẩm chất chính trị và tư cách đạo đức các đảng viên là cán bộ cao cấp, các vụ việc tiêu cực liên quan đến các đảng viên cao cấp. Điều 32 Điều lệ Đảng quy định nhiệm vụ của Uỷ ban kiểm tra các cấp như sau: Ủy ban kiểm tra có quyền yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên báo cáo, cung cấp tài liệu về những vấn đề liên quan đến nội dung kiểm tra. Lãnh đạo. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập vào ngày 3 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc, đại diện Quốc tế Cộng sản và người tổ chức Hội nghị thống nhất đã chỉ định người đứng đầu điều hành Ban Chấp hành Trung ương Đảng đầu tiên với cương vị Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam là Trịnh Đình Cửu. Ông giữ chức vụ này cho đến tháng 10 năm 1930 khi Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu Trần Phú làm Tổng Bí thư. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ nhất diễn ra từ ngày 12 đến 27 tháng 10 năm 1930, Trần Phú được bầu vào vị trí đứng đầu Ban Chấp hành trung ương với danh xưng Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông được coi là Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng. Sau khi Tổng Bí thư Trần Phú bị bắt và mất trong nhà thương Chợ Quán ngày 6 tháng 9 năm 1931, chức vụ Tổng Bí thư bị khuyết do Trung ương Đảng bị truy bắt dữ dội, gần như tê liệt.
Đảng Cộng sản Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3849
Trước tình hình đó, dưới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, tháng 3 năm 1934, tại Ma Cao, Ban Chỉ huy hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập, do Lê Hồng Phong làm Bí thư. Do tình hình Ban Chấp hành Trung ương trong nước gần như bị tê liệt, nên Ban Chỉ huy hải ngoại kiêm Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. Chức vụ Bí thư Ban Chỉ huy hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương bấy giờ giữ vai trò như Tổng Bí thư. Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ I (27-31/3/1935), Hà Huy Tập được bầu làm Bí thư Ban Chỉ huy hải ngoại thay thế Lê Hồng Phong đã được Đại hội Đảng bầu là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Mãi đến Tháng 7 năm 1936, Bí thư Ban Chỉ huy hải ngoại Hà Huy Tập về nước và giữ chức Tổng Bí thư, trở lại thành chức vụ lãnh đạo cao nhất. Cương vị lãnh đạo cao nhất của Tổng Bí thư được duy trì cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II, từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 2 năm 1951. Tại đại hội này, xác lập chức vụ danh dự là Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, gọi tắt là Chủ tịch Đảng, được xem là cao hơn cương vị Tổng Bí thư. Tuy đây chỉ là chức vụ danh dự, nhưng do uy tín lớn của Chủ tịch Đảng Hồ Chí Minh, nên hầu như đây là chức vụ thực quyền, nhất là sau Hội nghị Trung ương về vấn đề sửa sai cải cách ruộng đất tháng 10 năm 1956, Tổng Bí thư Trường Chinh từ chức, Chủ tịch Đảng Hồ Chí Minh được coi như kiêm giữ luôn chức vụ Tổng Bí thư. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III tháng 9 năm 1960, tuy không bầu ra chức vụ Tổng bí thư, nhưng chức vụ Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam được thành lập, do Lê Duẩn nắm giữ. Chức vụ này mô phỏng theo Liên Xô, nhưng vẫn duy trì chức vụ Chủ tịch Đảng theo kiểu Trung Quốc. Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời năm 1969 thì chức vụ Chủ tịch Đảng cũng bị bãi bỏ. Chức vụ Bí thư thứ nhất trở thành chức vụ đứng đầu Ban Chấp hành Trung ương cho đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV tháng 12 năm 1976.
Đảng Cộng sản Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3849
Tại đại hội này, chức vụ Bí thư thứ nhất được bãi bỏ và chức vụ đứng đầu Ban Chấp hành trung ương trở thành Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, vẫn do Lê Duẩn nắm giữ. Từ đó, chức vụ này ổn định vai trò và danh xưng cho đến tận ngày nay. Tổng Bí thư đương nhiệm là ông Nguyễn Phú Trọng. Đảng viên. Tính đến năm 2014, toàn Đảng Cộng sản Việt Nam có 4.480.707 đảng viên, sinh hoạt ở 262.894 chi bộ thuộc 56.548 tổ chức cơ sở đảng, thuộc 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương. Trong đó, số đảng viên sinh hoạt ở xã là 1.888.352 (42,1%); sinh hoạt ở phường, thị trấn là 853.357 (19,1%); sinh hoạt tại các doanh nghiệp nhà nước là 266.541 (5,9%); tại các doanh nghiệp cổ phần vốn nhà nước là 113.568 (2,53%); tại các doanh nghiệp tư nhân là 45.824 (1,02%); tại các tổ chức đảng có vốn đầu tư nước ngoài là 9.470 (0,21%), tại các đơn vị sự nghiệp là 289.179 (6,45%), tại các cơ quan hành chính là 422.900 (9,38%), trong quân đội, công an là 550.898 (12,3%), trong các tổ chức đảng ngoài nước là 10.000 (0,23%). "Số lượng Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam tính đến năm 2019 là khoảng hơn 5,2 triệu đảng viên". Hiện nay, việc phát triển đảng viên đang gặp nhiều khó khăn vì nhiều bạn trẻ ngại vào Đảng khiến tình trạng già hóa hiện rõ trong đội ngũ đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo Dân trí cho rằng một thời gian dài, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong đội ngũ cán bộ, đảng viên xảy ra nghiêm trọng làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng, suy giảm niềm tin trong nhân dân dẫn đến tình trạng thiếu nguồn phát triển đảng viên như hiện nay. Chính vì vậy Đảng Cộng sản Việt Nam phải tự đổi mới, tạo sức hút mới, củng cố niềm tin trong các tầng lớp nhân dân.
Ngữ hệ Nam Á
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3852
Ngữ hệ Nam Á () là một ngữ hệ lớn ở Đông Nam Á lục địa, phân bố rải rác ở Ấn Độ, Bangladesh, Nepal và miền nam Trung Quốc, được nói bởi chừng 117 triệu người. Trong những ngôn ngữ này, chỉ tiếng Việt, tiếng Khmer, và tiếng Môn có lịch sử ghi chép dài, và chỉ có tiếng Việt và tiếng Khmer hiện có địa vị chính thức cấp quốc gia (ở Việt Nam và Campuchia). Tại Myanmar, tiếng Wa là ngôn ngữ chính thức của Ngõa Bang (một nhà nước li khai). Tiếng Khasi, tiếng Santal và tiếng Ho là ngôn ngữ chính thức cấp bang tại Ấn Độ. Những ngôn ngữ còn lại đều là tiếng nói của các dân tộc thiểu số, không có địa vị chính thức. "Ethnologue" xác định 168 ngôn ngữ Nam Á. Ngữ hệ Nam Á có 13 phân nhóm (cùng nhắm chừng cả tiếng Shompen, một ngôn ngữ mà hiểu biết về nó còn ít ỏi), mà về truyền thống được gộp vào hai nhóm lớn, Môn–Khmer và Munda. Tuy vậy, phân loại Diffloth (2005) đặt ra ba nhóm (Munda, Môn-Khmer hạt nhân và Khasi–Khơ Mú) trong khi vài phân loại khác loại bỏ hoàn toàn thuật ngữ "Môn-Khmer", đồng nhất nó với thuật ngữ "Nam Á". Ngữ hệ Nam Á thường có phân bố đứt đoạn, bị chia tách bởi những ngữ hệ khác. Đây có vẻ là ngữ hệ bản địa của Đông Nam Á, sự hiện diện của ngôn ngữ Ấn-Arya, Tai–Kadai, Dravida, Nam Đảo, và Hán-Tạng là kết quả của những đợt di cư về sau. Hình thái và ngữ âm. Về cấu trúc từ vựng, ngữ hệ Nam Á nổi bật với cấu trúc "âm tiết rưỡi", trong đó một từ có thể bao gồm một tiền âm tiết không nhấn, theo sau bằng một âm tiết hoàn chỉnh được nhấn. Về mặt tạo từ, hầu hết ngôn ngữ Nam Á có một số tiền tố phái sinh, nhiều tiếng có trung tố, song hậu tố hầu như vắng mặt trong mọi nhánh trừ Munda (và một ít trường hợp khác). Ngôn ngữ Nam Á cũng thường có hệ thống nguyên âm lớn, thường hay phân biệt giữa nguyên âm thường và nguyên âm hà hơi (lơi) hoặc giữa âm thường và âm khít thanh quản (căng). Tuy nhiên, một số ngôn ngữ Nam Á đã mất đi những đặc điểm trên qua việc phát sinh thêm nguyên âm đôi, hay, như trường hợp tiếng Việt, thanh điệu hóa.
Ngữ hệ Nam Á
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3852
Tiếng Việt đã bị tiếng Trung Quốc ảnh hưởng nặng đến nỗi những đặc điểm Nam Á bị lu mờ, trong khi tiếng Khmer, dù ảnh hưởng bởi tiếng Phạn và Pali, vẫn duy trì đặc điểm ngôn ngữ Nam Á điển hình. Ngôn ngữ nguyên thủy. Nhiều công sức đã được đổ vào việc phục dựng ngôn ngữ Môn-Khmer nguyên thủy, trong đó nổi bật hơn cả là "Mon–Khmer Comparative Dictionary" (Từ điển so sánh Môn-Khmer) của Harry L. Shorto. Trái lại, nhóm Munda lại ít được chú trọng, do tài liệu về nhánh này còn ít. Paul Sidwell (2005) phục dựng hệ thống phụ âm ngôn ngữ Môn-Khmer nguyên thủy như sau: Phục dựng này hệt với phục dựng trước đó của Shorto, trừ việc có thêm âm . được lưu giữ trong ngữ chi Cơ Tu, một nhánh Sidwell cũng chuyên nghiên cứu. Sidwell (2011) đề xuất rằng nơi phát tích của hệ Nam Á là đâu đó ở trung lưu sông Mê Kông, nơi ngày nay các ngôn ngữ Cơ Tu và Ba Na "chiếm giữ", và rằng nó không cổ như giả thiết trước đó, mới hiện diện cách đây khoảng 4000 năm. Tuy nhiên, một nghiên cứu di truyền và ngôn ngữ năm 2015 về dân cư cổ đại miền Đông Á cho kết quả rằng nhiều khả năng ngữ hệ phát tích từ nơi ngày nay là Nam Trung Quốc, gần Trường Giang. Phân loại. Diffloth (1974). Phân loại ban đầu của nhà ngôn ngữ học Gérard Diffloth, hiện đã bị chính ông bác bỏ, được dùng bởi cuốn bách khoa toàn thư "Encyclopædia Britannica" và "Ethnologue" (lược bỏ nội nhóm Môn–Khmer Nam). Peiros (2004). Phân loại của nhà ngôn ngữ học Peiros áp dụng phương pháp từ vựng thống kê, tức phân loại dựa trên phần trăm số từ vựng chung. Điều này có nghĩa là ngôn ngữ có thể "trông" xa biệt lẫn nhau hơn trên thực tế, và ngược lại, do sự tiếp xúc ngôn ngữ. Thực vậy, khi Sidwell (2009) nghiệm lại nghiên cứu của Peiros với các ngôn ngữ đầy đủ dữ liệu để xác định từ mượn, kết quả thu được khác với bên dưới. Sidwell (2009-2015). So sánh thống kê từ vựng của nhà ngôn ngữ học Paul Sidwell đối với 36 ngôn ngữ (đã loại trừ các vay mượn), tìm thấy rất ít bằng chứng cho sự phân nhánh nội ngành, dù ông có tìm thấy một vùng tiếp xúc mạnh giữa nhánh Ba Na và Cơ Tu.
Ngữ hệ Nam Á
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3852
Ngôn ngữ từ mọi nhánh (trừ hai nhánh xa xôi về mặt địa lý là Munda và Nicobar) càng gần địa lý với hai nhánh Ba Na và Cơ Tu thì càng thể hiện sự tương đồng với chúng mà không có bất kỳ đổi mới đáng chú ý nào phổ biến ở nhánh Ba Na và Cơ Tu. Qua nghiên cứu này, Sidwell cho rằng 13 phân nhánh Nam Á nên được xếp cách đều nhau (về mặt di truyền). Sidwell & Blench (2011) cho rằng sự tồn tại nhóm Khasi–Palaung là khá khả thi, và nhiều khả năng nó gần gũi với ngữ chi Khơ Mú. Sidwell & Blench suy đoán rằng có lẽ ngữ chi Khasi là một nhánh tách ra sớm, rồi lan về phía tây, của ngữ chi Palaung. Sidwell & Blench (2011) cho rằng tiếng Shompen là nhánh thứ mười bốn, và rằng giả thuyết Việt-Cơ Tu đáng được đào sâu thêm. Một phân tích phát sinh loại tin học sau này của Sidwell (2015b) chỉ ra rằng các phân nhánh Nam Á có cấu trúc giống hình cây hơn là hình cái cào như ở trên, thể hiện sự phân chia đông-tây (bao gồm Munda, Khasic, Palaungic và Khmuic gộp thành nhóm phía tây và các nhánh còn lại cấu thành nhóm phía đông) diễn ra cách đây tầm 7.000 năm BP ("before present", trước hiện tại). Tuy nhiên, ông vẫn coi sự tách thành các nhánh phụ chưa rõ ràng. Tích hợp thêm các cứ liệu khảo cổ bấy giờ, Paul Sidwell (2015c) tiếp tục đào sâu giả thuyết ven sông Mekong do ông đề xướng, cho rằng hệ Nam Á tràn xuống Đông Dương từ khu vực Lĩnh Nam miền nam Trung Quốc, với sự phân tán ven sông Mekong tiếp đó diễn ra sau khi các nông dân thời kỳ đồ đá mới tiến vào trước từ nam Trung Quốc. Sidwell (2015c) ​​suy đoán rằng hệ Nam Á có lẽ bắt đầu tách ra vào khoảng 5.000 năm BP, cùng thời kỳ cách mạng đồ đá mới đang diễn ra ở Đông Nam Á đất liền, và tất cả các nhánh chính của hệ Nam Á đã hình thành vào 4.000 năm BP. Hệ Nam Á có hai tuyến phân tán khả thi nếu bắt đầu từ ngoại vi phía tây của lưu vực sông Châu Giang thuộc Lĩnh Nam; một là, men theo đường bờ biển xuống Việt Nam hoặc hai là, xuôi dòng Mekong qua Vân Nam.
Ngữ hệ Nam Á
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3852
Vốn từ phục dựng của tiếng Proto-Nam Á và cứ liệu khảo cổ học đã chứng minh rằng cộng đồng nói tiếng Nam Á vào khoảng 4.000 năm BP biết trồng lúa và kê, chăn nuôi gia súc như chó, lợn và gà, đồng thời sinh sống chủ yếu ở vùng cửa sông hơn là vùng ven biển. Vào 4.500 năm BP, "đồ đá mới" bất ngờ thâm nhập vào Đông Dương từ khu vực Lĩnh Nam không có ngũ cốc và thay thế các nền văn hóa săn bắn hái lượm tiền kỳ đồ đá mới. Vỏ ngũ cốc được tìm thấy ở miền Bắc Đông Dương có niên đại 4.100 năm BP và ở miền nam Đông Dương có niên đại 3.800 năm BP. Tuy nhiên, Sidwell (2015c) phát hiện ra rằng tiếng Proto-Nam Á không có từ ngữ cho "sắt", từng nhánh Nam Á đều có từ riêng cho sắt mà được vay mượn từ các ngôn ngữ khác như là Thái, Trung, Tây Tạng, Mã Lai và nhiều ngôn ngữ khác. Trong thời kỳ đồ sắt 2.500 năm BP, các nhánh Nam Á tương đối non trẻ ở Đông Dương như Vietic, Cơ Tu, Pearic và Khmer đã được hình thành, trong khi nhánh Ba Na đa dạng hơn (có niên đại khoảng 3.000 BP) trải qua quá trình đa dạng hóa nội bộ sâu rộng hơn. Tới thời kỳ đồ sắt, tất cả các nhánh Nam Á hầu như đã định cư ở các vùng giống với ngày nay và sự đa dạng của Nam Á cũng đã phát sinh trong thời kỳ này. Paul Sidwell (2018) cho rằng hệ Nam Á nhanh chóng đa dạng hóa vào 4.000 năm BP khi lúa nước được du nhập vào Đông Dương, thêm vào rằng tiếng Proto-Nam Á chắc chắn cổ hơn thế. Từ vựng của Proto-Nam Á có thể được chia thành lớp từ sớm và lớp từ muộn. Lớp từ sớm bao gồm các từ cơ bản để chỉ bộ phận cơ thể, tên động vật, địa lý tự nhiên và các đại từ, còn vốn từ chỉ các vật phẩm văn hóa (nông nghiệp và các hiện vật văn hóa) thuộc lớp muộn hơn. Roger Blench (2017) chỉ ra rằng các từ vựng về các kỹ thuật liên quan đến nước (chẳng hạn như thuyền, đường thủy, hệ động vật sông và kỹ thuật đánh bắt cá) xuất hiện trong tiếng Proto-Nam Á. Blench (2017) tìm ra nhiều từ chung gốc Nam Á cho 'sông, thung lũng', 'thuyền', 'cá', 'cá da trơn', 'lươn', 'tôm', 'tép' (Trung Nam Á), 'cua', 'đồi mồi' , 'rùa', 'rái cá' ,'cá sấu' , 'diệc, chim câu' và 'bẫy cá'.
Ngữ hệ Nam Á
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3852
Bằng chứng khảo cổ về nền nông nghiệp ở bắc Đông Dương (Bắc Bộ, Lào và các khu vực lân cận) chỉ mới xuất hiện từ 4.000 năm trước (2.000 TCN), được du nhập từ phía bắc xa hơn ở thung lũng sông Dương Tử, nơi nông nghiệp đã có niên đại tầm 6.000 BP.
Ngữ hệ Ấn-Âu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3853
Ngữ hệ Ấn-Âu là một ngữ hệ lớn có nguồn gốc từ Tây và Nam đại lục Á-Âu. Nó bao gồm hầu hết ngôn ngữ của châu Âu cùng với các ngôn ngữ ở sơn nguyên Iran và miền bắc tiểu lục địa Ấn Độ. Một số ngôn ngữ Ấn-Âu, chẳng hạn như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Tây Ban Nha đã lan rộng nhờ làn sóng thuộc địa hóa của người châu Âu và hiện được sử dụng trên khắp thế giới. Hệ Ấn-Âu được chia thành nhiều nhánh, lớn nhất phải kể đến đó là các nhóm Ấn-Iran, German, Rôman và Balt-Slav. Các ngôn ngữ có số người nói lớn nhất là tiếng Tây Ban Nha, tiếng Anh, tiếng Hindustan (tiếng Hindi/Urdu), tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Bengal, tiếng Marathi, tiếng Punjab và tiếng Nga (mỗi thứ tiếng có hơn 100 triệu người nói). Tiếng Đức, Pháp, Ý và Ba Tư đều có hơn 50 triệu người nói. Tổng cộng, 46% dân số thế giới (3,2 tỷ người) có tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ Ấn-Âu, đông đảo nhất so với bất kỳ ngữ hệ nào khác. Theo ước tính của "Ethnologue", có khoảng 445 ngôn ngữ Ấn-Âu đang được sử dụng, hơn 2/3 (313) trong số đó thuộc nhánh Ấn-Iran. Tất cả các ngôn ngữ Ấn-Âu đều bắt nguồn từ một ngôn ngữ mẹ duy nhất, gọi là tiếng Ấn-Âu nguyên thủy, từng được nói ở một thời điểm nào đó thuộc thời đại đồ đá mới. "Urheimat" (hay còn dịch là "quê nhà ngôn ngữ", tức là nơi ngữ hệ đó phát tích) chính xác của tiếng Ấn-Âu hiện vẫn đang là chủ đề của nhiều học thuyết cạnh tranh. Trong số đó thì thuyết Kurgan đang rất được đề cao, cho rằng nơi phát tích hệ Ấn-Âu tọa lạc tại vùng thảo nguyên Pontus–Caspi và gắn liền với văn hóa Yamna có niên đại khoảng 3.000 năm TCN. Trước thời điểm phát minh ra chữ viết, hệ Ấn-Âu đã lan rộng và phân tách thành các nhánh, phân bố khắp châu Âu, Tây và Nam Á. Văn liệu độc lập của ngôn ngữ Ấn-Âu manh nha xuất hiện vào thời kỳ đồ đồng dưới dạng tiếng Hy Lạp Mycenaea và các ngôn ngữ Tiểu Á như tiếng Hitti và tiếng Luwia.
Ngữ hệ Ấn-Âu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3853
Tuy vậy, manh mối Ấn-Âu lâu đời nhất được phát hiện lại là một số từ và tên riêng tiếng Hitti được ghi xen kẽ trong các văn bản tiếng Akkad cổ đại tại di chỉ Kültepe của dân tộc Assyria miền đông Tiểu Á vào thế kỷ 20 TCN. Mặc dù người Ấn-Âu cổ hơn không để lại bất kỳ văn liệu nào, ta vẫn có thể biết được một số khía cạnh đời sống văn minh của họ, nhờ vào sự so sánh các văn hóa hậu duệ và phục nguyên văn hóa nguyên thủy đó. Hệ Ấn-Âu có ý nghĩa rất quan trọng đối với lĩnh vực ngôn ngữ học lịch sử vì nó sở hữu lịch sử được ghi chép cổ thứ hai so với bất kỳ hệ nào được biết đến, chỉ đứng sau ngữ hệ Phi-Á với tiếng Ai Cập và các ngôn ngữ Semit còn cổ hơn rất nhiều. Phân tích mối liên hệ giữa các ngôn ngữ Ấn-Âu và phục dựng lại căn nguyên của chúng là trọng tâm cho sự phát triển phương pháp luận ngành ngôn ngữ học lịch sử, đưa lĩnh vực này thành một ngành khoa học hàn lâm thật sự vào thế kỷ XIX. Hệ Ấn-Âu hiện không có liên hệ với bất kỳ ngữ hệ nào khác, mặc dù một số đề xuất gây tranh cãi vẫn đã được đưa ra. Lịch sử ngôn ngữ học Ấn-Âu. Vào thế kỷ XVI, những người châu Âu đi đến tiểu lục địa Ấn Độ bắt đầu nhận ra những nét tương tự giữa các ngôn ngữ Ấn-Arya, Iran, và châu Âu. Năm 1583, nhà truyền giáo Dòng Tên người Anh Thomas Stephens tại Goa đã viết một lá thư cho người thân (không được công bố cho tới tận thế kỷ XX), mà trong đó ông đề cập đến sự tương đồng giữa ngôn ngữ Ấn Độ (đặc biệt là tiếng Phạn) với tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh. Filippo Sassetti, một nhà buôn sinh ra tại Florence năm 1540, cũng nhận thấy điều tương tự khi đi đến Ấn Độ. Năm 1585, ông ghi nhận một số sự tương đồng từ vựng giữa tiếng Phạn và tiếng Ý (gồm "devaḥ"/"dio" "chúa", "sarpaḥ"/"serpe" "rắn", "sapta"/"sette" "bảy", "aṣṭa"/"otto" "tám", và "nava"/"nove" "chín"). Tuy nhiên, quan sát của Stephens và Sassetti đã không dẫn đến nghiên cứu chuyên sâu hơn nào.
Ngữ hệ Ấn-Âu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3853
Năm 1647, học giả và nhà ngôn ngữ học người Hà Lan Marcus Zuerius van Boxhorn chú ý đến nét tương tự ở một số ngôn ngữ châu Á và châu Âu nhất định, và cho rằng chúng xuất phát một ngôn ngữ chung gọi là "Scythia". Các ngôn ngữ trong giả thuyết của ông gồm tiếng Hà Lan, tiếng Albania, tiếng Hy Lạp, tiếng Latinh, tiếng Ba Tư, và tiếng Đức, sau đó cho thêm vào các ngôn ngữ Slav, các ngôn ngữ Celt, và các ngôn ngữ gốc Balt. Ý kiến của Van Boxhorn không phổ biến và cũng không giúp khuyến khích nghiên cứu sâu hơn. Thomas Young lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ "Indo-European" năm 1813, dựa trên phân bố địa lý của hệ này: từ Tây Âu tới Bắc Ấn Độ. Từ đồng nghĩa "Indo-Germanic" (Ấn-German, "Idg." hay "IdG."), xuất hiện năm 1810 bằng tiếng Pháp ("indo-germanique") trong nghiên cứu của Conrad Malte-Brun; thuật ngữ này hiện bị xem là lỗi thời và ít phổ biến hơn "Indo-European", dù trong tiếng Đức "indogermanisch" vẫn là thuật ngữ chuẩn. Phân loại. Ngữ hệ Ấn-Âu được chia thành 10 nhánh chính, được liệt kê dưới đây theo thứ tự bảng chữ cái: Ngoài mười nhánh cổ điển được liệt kê ở trên, một số ngôn ngữ và nhóm ngôn ngữ Ấn-Âu đã tuyệt chủng, ít được biết đến hơn đã tồn tại hoặc được đề xuất là đã tồn tại: Các ngôn ngữ satem và centum. Việc phân chia các ngôn ngữ Ấn-Âu thành các nhóm satem và centum được nhà ngôn ngữ học Peter von Bradke đưa ra vào năm 1890, mặc dù Karl Brugmann đã đề xuất một kiểu phân loại tương tự vào năm 1886. Ở các ngôn ngữ satem, bao gồm nhánh Balto-Slav và Ấn-Iran, cũng như (về hầu hết các khía cạnh) Albania và Armenia, các âm ngạc mềm bị ngạc cứng hóa của Proto-Ấn-Âu được phục dựng vẫn khác biệt và thường bị xát hóa, trong khi các âm ngạc mềm-môi hòa lẫn với 'các âm ngạc mềm thường'. Ở các ngôn ngữ centum, các âm ngạc mềm bị ngạc cứng hóa này hòa lẫn với các ngạc mềm thường, trong khi các âm ngạc mềm-môi vẫn khác biệt. Ví dụ như từ "một trăm" trong tiếng Avesta ("satem") và tiếng Latinh ("centum") — âm ngạc mềm bị ngạc cứng hóa ban đầu đã biến thành âm [s] xát ở Avesta, nhưng thành âm ngạc mềm [k] thường ở Latinh.
Ngữ hệ Ấn-Âu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3853
Đặc điểm này không phải là sự phân tách theo phả hệ, sự phân chia centum–satem thường được coi là kết quả của những thay đổi lan rộng trên các nhánh phương ngữ PIE trên một khu vực địa lý cụ thể; đường đồng ngữ centum–satem giao với một số đường đồng ngữ khác đánh dấu sự khác biệt giữa các đối tượng địa lý trong các nhánh IE sớm. Có thể là các nhánh centum trên thực tế phản ánh tình trạng ban đầu của tiếng PIE, và chỉ các nhánh satem chia sẻ một loạt các đổi mới, ảnh hưởng đến tất cả các khu vực ngoại vi của liên tục phương ngữ PIE. Kortlandt đề xuất rằng tổ tiên của tiếng Balt và Slav đã bị satem hóa trước khi bị ảnh hưởng bởi tây Ấn-Âu. Phát triển. Proto Ấn-Âu/Ấn-Âu nguyên thủy. Tiếng Proto-Ấn-Âu (PIE) được đề xuất là tổ tiên chung được tái tạo của các ngôn ngữ Ấn-Âu, được nói bởi người Proto-Ấn-Âu (sắc tộc ngôn ngữ). Từ những năm 1960, kiến ​​thức về tiếng Anatolia đã đủ chắc chắn để thiết lập mối quan hệ của nó với PIE. Sử dụng phương pháp nội phục dựng, một giai đoạn trước đó, gọi là Tiền Proto-Ấn-Âu, đã được đề xuất. PIE là một ngôn ngữ biến tố, trong đó các mối quan hệ ngữ pháp giữa các từ được báo hiệu thông qua các hình vị biến tố (thường ở cuối một từ). Từ gốc của PIE là những hình vị cơ bản mang một ý nghĩa từ vựng. Các hậu tố được thêm vào để tạo thành các thân từ, và bằng cách thêm vào các phần cuối, chúng lại tạo thành các từ biến tố (danh từ hoặc động từ). Hệ thống động từ Ấn-Âu được phục dựng rất phức tạp và giống như danh từ, thể hiện tính biến âm sắc. Đa dạng hóa. Về mặt lịch sử, sự đa dạng hóa ngôn ngữ mẹ thành các nhánh ngôn ngữ con chưa được chứng thực. Tuy vậy, dòng thời gian của sự tiến hóa của các ngôn ngữ con hầu như không còn gì để bàn cãi, bất kể câu hỏi về nguồn gốc Ấn-Âu. Sử dụng phương pháp phân tích toán học vay mượn từ sinh học tiến hóa, Don Ringe và Tandy Warnow đề xuất cây tiến hóa của các nhánh Ấn-Âu sau đây: David Anthony đề xuất trình tự sau: Các thay đổi về âm vị.
Ngữ hệ Ấn-Âu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3853
Khi tiếng Proto-Ấn-Âu (PIE) bắt đầu phân tách thành các nhánh con, hệ thống âm thanh của nó cũng bắt đầu thay đổi theo các quy luật âm thanh khác nhau, được minh chứng trong các ngôn ngữ con sau này. Hệ thống âm vị PIE rất phức tạp, sở hữu 15 phụ âm dừng, bao gồm sự phân biệt bất thường giữa ba âm kêu là các âm dừng vô thanh, hữu thanh và "hữu thanh bật hơi", và sự phân biệt bất thường giữa ba loại phụ âm ngạc mềm (âm loại k) là "âm vòm" "ḱ ǵ ǵh", "ngạc mềm thường" "k g gh" và ngạc mềm-môi "kʷ gʷ gʷh". (Tính chính xác của các thuật ngữ âm vòm và ngạc mềm thường còn bị tranh cãi) Tất cả các ngôn ngữ con đều tiêu giảm số lượng khác biệt giữa các âm thanh này theo những con đường khác nhau. Ví dụ tiếng Anh thuộc ngữ tộc German, thể hiện các thay đổi ngữ âm sau đây:
Ngữ tộc Môn-Khmer
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3854
Ngữ tộc Môn-Khmer, Môn-Mên hay Mồn-Mên là một nhóm ngôn ngữ Nam Á bản địa của Đông Dương và một phần Đông Nam Á. Theo truyền thống, chúng được coi là tạo thành một nhóm phát sinh loài hợp lệ trong họ Nam Á, mặc dù giả thuyết đó đã bị tranh cãi. Theo giả thuyết này, ngữ hệ Nam Á sẽ được chia thành hai nhánh hoặc đơn vị phát sinh loài: các ngôn ngữ Môn-Khmer và các ngôn ngữ Munda. Sau đó, người ta đề xuất rằng các ngôn ngữ Nam Á thực sự bao gồm ba nhánh: Mon-Khmer hạt nhân, Munda và Khasi-Khơ Mú. Phân loại. Phân loại trong bài này dựa trên bài viết của Gérard Diffloth năm 1974 trên "Encyclopedia Britannica" được nhiều người trích dẫn. Theo đó, ngữ tộc này được chia ra làm các nhánh sau đây: Không phân loại. Ba ngôn ngữ tại miền nam Trung Quốc chưa được xếp loại. Tuy nhiên, phân chia này cũng chỉ là tương đối. Ngữ chi Việt (Việt-Mường) nhiều khi được cho vào "Nhánh phía Bắc" nhưng thường cũng hay được xếp riêng; nhiều nhà ngôn ngữ học lại cho nhánh Việt-Mường vào "Nhánh phía Đông" và xếp nhánh Pear ra một mình; nhiều người lại không công nhận sự hiện diện của "Nhánh phía Nam"... Tóm lại, sự phân loại của nhóm ngôn ngữ này vẫn còn là đề tài cho các nhà ngôn ngữ học bàn cãi.
Ngữ tộc Slav
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3855
Ngữ tộc Slav là một nhóm ngôn ngữ thuộc nhánh Balto-Slavic lớn hơn của ngữ hệ Ấn-Âu, xuất phát từ Đông Âu. Nhóm này bao gồm vào khoảng 20 ngôn ngữ và tập trung tại Đông Âu và Nga. Tuy đây là nhóm ngôn ngữ nhỏ về số lượng ngôn ngữ, nhưng lại có số người nói lớn. Ước tính có khoảng 300 triệu người sử dụng 1 trong 20 ngôn ngữ Slav như tiếng mẹ đẻ, với khoảng 150 triệu người bản ngữ dùng tiếng Nga, 48,6 - 50,6 triệu người dùng tiếng Ba Lan và 47 triệu người dùng tiếng Ukraina. Các nhà ngôn ngữ học chia nhóm này ra làm ba nhánh:
Ngữ tộc German
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3856
Ngữ tộc German (: ngữ tộc Giéc-man) là một nhánh của ngữ hệ Ấn-Âu, là các ngôn ngữ mẹ đẻ của hơn 500 triệu người chủ yếu ở Bắc Mỹ, châu Đại Dương, Nam Phi, và Trung, Tây và Bắc Âu. Đây là nhóm ngôn ngữ phổ biến thứ ba trong ngữ hệ Ấn-Âu, sau nhóm gốc Ý và Ấn-Iran. Chi ngôn ngữ German phía Tây gồm ba ngôn ngữ German phổ biến nhất: tiếng Anh với chừng 360–400 triệu người bản ngữ, tiếng Đức với hơn 100 triệu người nói, và tiếng Hà Lan với 23 triệu người bản ngữ. Những ngôn ngữ German Tây đáng kể khác là Afrikaans, một ngôn ngữ con của tiếng Hà Lan với 7,1 triệu người bản ngữ, tiếng Hạ Đức với chừng 6,7 triệu người bản ngữ (được xem là một tập hợp phương ngữ riêng biệt; 5 triệu người tại Đức và 1,7 triệu người ở Hà Lan), rồi tiếng Yiddish (từng có tới 13 triệu người nói) và tiếng Scots, cả hai đều có 1,5 triệu người bản ngữ. Những ngôn ngữ German Bắc còn tồn tại là tiếng Na Uy, tiếng Đan Mạch, tiếng Thụy Điển, tiếng Iceland, và tiếng Faroe, tổng cộng có chừng 20 triệu người nói. Nhánh Chi ngôn ngữ German phía Đông gồm tiếng Goth, tiếng Burgundy, và tiếng Vandal, tất cả đều đã biến mất. Tiếng Goth Krym, dạng ngôn ngữ German Đông biến mất cuối cùng, còn tồn tại đến cuối thế kỷ XVIII ở vài vùng hẻo lánh tại Krym. SIL "Ethnologue" liệt kê 48 ngôn ngữ German còn tồn tại, trong đó 41 thuộc nhánh German Tây, và 6 thuộc nhánh German Bắc; họ không đặt tiếng Hunsrik vào nhánh nào (dù các nhà ngôn ngữ học thường xem nó là một phương ngữ tiếng Đức). Tổ tiên chung của cả ngữ tộc là ngôn ngữ German nguyên thủy còn gọi là ngôn ngữ German chung, từng hiện diện vào thiên niên kỷ 1 TCN tại Scandinavia thời đồ sắt. Ngôn ngữ German nguyên thủy, cùng với tất cả các hậu duệ của nó, có một vài đặc điểm ngữ pháp riêng biệt, nổi tiếng nhất là một sự biến đổi phụ âm gọi là luật Grimm. Đặc điểm. Các ngôn ngữ German sở hữu một vài đặc điểm tách chúng khỏi các ngôn ngữ Ấn-Âu khác.
Nhóm ngôn ngữ Hy Lạp
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3857
Nhóm ngôn ngữ Hy Lạp hay nhóm ngôn ngữ Hellen (thuật ngữ tiếng Anh: Hellenic) là một nhánh con của ngữ hệ Ấn-Âu, với phân nhánh chính là tiếng Hy Lạp. Trong hầu hết các phân loại, nhóm này chỉ bao gồm tiếng Hy Lạp, nhưng vẫn có một số nhà ngôn ngữ học sử dụng thuật ngữ "Hellenic" để bao hàm tiếng Hy Lạp chuẩn và các biến thể khác được cho là có quan hệ họ hàng nhưng đủ khác biệt để được coi là ngôn ngữ riêng biệt, giữa các ngôn ngữ cổ đại hoặc các biến thể tiếng Hy Lạp hiện đại. Cây phát sinh. Có đề xuất cho rằng thuật ngữ "Hellenic" nên được dùng để bao hàm cả tiếng Hy Lạp chuẩn và tiếng Macedon cổ, một ngôn ngữ hầu như chưa được chứng thực và chưa rõ mức độ quan hệ với tiếng Hy Lạp. Giả thuyết "Hellenic" với hai nhánh nêu trên đây cho rằng tiếng Macedon cổ không phải là một phương ngữ của tiếng Hy Lạp mà là một "ngôn ngữ chị em" bên ngoài nhóm Hy Lạp chuẩn. Nhiều đề xuất khác lại gộp tiếng Macedon cổ vào tiếng Hy Lạp chuẩn, hoặc gộp nó vào nhóm Cổ-Balkan chưa được phân loại. Nhánh Hy Lạp tách ra làm hai phân nhánh chính:
Giới hạn Chandrasekhar
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3859
Giới hạn Chandrasekhar là khối lượng tối đa của một sao lùn trắng. Nó khoảng chừng 3 × 1030 kg hoặc 1,44 lần khối lượng Mặt Trời. Con số này có thể thay đổi từ 1,2 đến 1,46 lần khối lượng Mặt Trời và phụ thuộc thành phần hóa học của ngôi sao. Giới hạn này đã được nhà vật lý Mỹ gốc Ấn Độ Subrahmanyan Chandrasekhar tính ra đầu tiên và do đó được đặt tên theo ông. Trong đó, "μ"e là khối lượng trung bình của phân tử tính theo electron, "mH" là khối lượng của khối lượng của nguyên tử hydrogen, và "ω"30≈2.018236 là hằng số phụ thuộc vào kết quả phương trình Lane-Emden. Tính toán cụ thể ra, giá trị này vào khoảng (2/"μ"e)2 · 2.85 · 1030 kg, hoặc 1.43 (2/"μ"e)2 "M"☉, với "M"☉=1.989·1030 kg là khối lượng Mặt Trời. formula_2 là khối lượng Planck, "M""Pl"≈2.176·10−8 kg, khi đó giới hạn Chandrasekhar là "M""Pl"3/"mH"2. Ánh sáng của ngôi sao toả ra tạo nên áp suất ánh sáng đẩy khí quyển của nó ra ngoài. Khi một ngôi sao sử dụng hết tất cả chất đốt của nó và không phát sáng nữa, áp suất ánh sáng bị mất và khí quyển bị suy sập về lõi của sao dưới sức hút của trọng lực. Nếu ngôi sao có khối lượng dưới giới hạn Chandrasekhar, sự suy sập bị ngăn lại bởi áp suất thoái hóa của điện tử, và ngôi sao trở thành một sao lùn trắng ổn định. Nếu ngôi sao có khối lượng cao hơn, lúc đó trọng trường của nó đủ lớn để thắng áp suất thoái hóa của điện tử, và sao tiếp tục quá trình suy sập vượt qua giai đoạn sao lùn trắng, trở thành một sao neutron, sao quark hoặc lỗ đen. Các quá trình suy sập của sao đều gây nên sự tăng nhanh về mật độ và áp suất tại tâm, tạo nên sóng sốc đẩy ngược một phần đáng kể vật chất của sao trở lại không gian xung quanh, làm bùng lên các vụ nổ như siêu tân tinh.
Phân loại sao
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3861
Trong thiên văn học, phân loại sao là phân loại của các sao ban đầu dựa trên nhiệt độ quang quyển và các đặc trưng quang phổ liên quan của nó, rồi sau đó chuyển đổi thành thuật ngữ của các đặc trưng khác. Nhiệt độ của sao có thể được phân loại bằng cách sử dụng định luật thay thế Wien; nhưng nó gây ra những khó khăn đối với các sao ở xa. Quang phổ thiên văn cho ta một cách để phân loại sao theo các vạch hấp thụ của chúng; đặc biệt các vạch hấp thụ chỉ có thể quan sát được trong một khoảng nhất định của nhiệt độ vì chỉ trong khoảng nhiệt độ này thì các mức năng lượng nguyên tử mới phổ biến. Các sơ đồ có từ thế kỷ 19 phân loại các sao từ "A" đến "P", là xuất xứ của các phân loại quang phổ hiện nay. Hầu hết các ngôi sao hiện được phân loại theo phân loại Morgan–Keenan (MK) sử dụng các chữ cái "O", "B", "A", "F", "G", "K" và "M", một chuỗi từ nóng nhất (loại "O") đến lạnh nhất (loại "M"). Sau đó, mỗi lớp được chia nhỏ bằng cách sử dụng một chữ số với "0" là nóng nhất và "9" là lạnh nhất (ví dụ: A8, A9, F0 và F1 tạo thành một chuỗi từ nóng hơn đến lạnh hơn). Lớp quang phổ cũng được mở rộng với các lớp dành cho các ngôi sao khác và các vật thể giống sao không phù hợp với hệ thống cổ điển, chẳng hạn như lớp "D" dành cho sao lùn trắng và các lớp "S" và "C" cho các ngôi sao carbon. Phân loại hiện đại. Hệ thống phân loại hiện đại được gọi là phân loại "Morgan–Keenan" (MK). Mỗi ngôi sao được gán một loại quang phổ (từ phân loại quang phổ cũ của Harvard, không bao gồm độ sáng) và một loại độ sáng sử dụng các chữ số La Mã, tạo thành loại quang phổ của ngôi sao. Phân loại quang phổ Harvard. Một cách ghi nhớ phổ biến để ghi nhớ thứ tự của các chữ cái loại quang phổ, từ nóng nhất đến lạnh nhất, là "Oh, Be A Fine Guy/Girl: Kiss Me!". Các lớp quang phổ từ O đến M, cũng như các lớp khác, được chia nhỏ bằng các chữ số Ả Rập (0–9), trong đó 0 biểu thị các ngôi sao nóng nhất của một lớp nhất định. Ví dụ: A0 biểu thị những ngôi sao nóng nhất trong lớp A và A9 biểu thị những ngôi sao lạnh nhất. Ngoài ra, số thập phân cũng được sử dụng, ví dụ, Mu Normae được phân loại là O9.7.
Phân loại sao
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3861
Mặt Trời được phân loại là G2. Phân loại quang phổ Yerkes. "Phân loại quang phổ Yerkes", còn được gọi là "MK," hoặc Morgan-Keenan (còn được gọi là MKK, hoặc Morgan-Keenan-Kellman) từ tên viết tắt của các tác giả, là một hệ thống phân loại quang phổ sao được giới thiệu vào năm 1943 bởi William Wilson Morgan, Philip C. Keenan, và Edith Kellman từ Đài quan sát Yerkes. Sơ đồ phân loại hai chiều (nhiệt độ và độ sáng) này dựa trên các vạch quang phổ nhạy cảm với nhiệt độ sao và lực hấp dẫn bề mặt, có liên quan đến độ sáng (trong khi "phân loại của Harvard" chỉ dựa trên nhiệt độ bề mặt). Sau đó, vào năm 1953, sau một số sửa đổi đối với danh sách các ngôi sao tiêu chuẩn và tiêu chí phân loại, sơ đồ này được đặt tên là "phân" "loại Morgan–Keenan", hay "MK", vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Vì bán kính của các sao khổng lồ lớn hơn nhiều so với các sao lùn trong khi khối lượng của chúng lại xấp xỉ nhau nên trọng trường, và vì thế mật độ các khí cũng như áp suất, trên bề mặt của sao khổng lồ thấp hơn nhiều so với sao lùn. Các khác biệt này hiển nhiên tạo thành các "hiệu ứng chiếu sáng", có ảnh hưởng đến cả bề rộng lẫn cường độ của các vạch quang phổ, làm chúng có thể đo được. Các dạng quang phổ. Lớp O. Các ví dụ lớp O: Bổ sung các dạng quang phổ. Lớp W: Wolf–Rayet. Từng được coi là sao loại O, các sao Wolf–Rayet thuộc loại W hoặc WR, đáng chú ý vì quang phổ thiếu các vạch hydro. Thay vào đó quang phổ của chúng bị chi phối bởi các vạch phát xạ rộng của heli, nitơ, carbon và đôi khi là oxy bị ion hóa cao. Sao Wolf–Rayet phần lớn được cho là những sao siêu khổng lồ sắp chết với các lớp hydro của chúng bị gió sao thổi bay, do đó trực tiếp làm lộ lớp vỏ heli nóng của chúng. Lớp W được chia thành các lớp con theo cường độ tương đối của các vạch phát xạ nitơ và carbon trong quang phổ của chúng (và các lớp outer). Các lớp sao lùn đỏ và sao lùn nâu lạnh. Các loại quang phổ mới L, T và Y được tạo ra để phân loại quang phổ hồng ngoại của các ngôi sao lạnh. Điều này bao gồm cả sao lùn đỏ và sao lùn nâu rất mờ nhạt trong phổ nhìn thấy được.
Phân loại sao
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3861
Lớp L. Một số sao lùn loại L có khối lượng đủ lớn để hỗ trợ phản ứng tổng hợp hydro và do đó là sao, nhưng hầu hết có khối lượng dưới sao và do đó là sao lùn nâu. Chúng có màu đỏ rất sẫm và sáng nhất trong tia hồng ngoại. Bầu khí quyển của chúng đủ lạnh để cho phép các hydride và kim loại kiềm nổi bật trong quang phổ của chúng. Lớp T: sao lùn methan. Sao lùn loại T là những sao lùn nâu lạnh có nhiệt độ bề mặt trong khoảng từ . Methan nổi bật trong quang phổ của chúng. Lớp Y. Các sao lùn nâu thuộc lớp quang phổ Y lạnh hơn so với các ngôi sao thuộc lớp quang phổ T. Tính đến tháng 8 năm 2013, có tổng cộng 17 vật thể được xếp vào lớp Y. Mặc dù những ngôi sao lùn như vậy đã được lập mô hình và được phát hiện trong phạm vi 40 năm ánh sáng bởi Vệ tinh Thăm dò Khảo sát Hồng ngoại Phạm vi rộng (WISE) vẫn chưa có dãy quang phổ được xác định rõ ràng và chưa có nguyên mẫu. Tuy nhiên, một số đối tượng đã được đề xuất là các lớp quang phổ Y0, Y1 và Y2. Lớp C: sao carbon. Ban đầu được phân loại là sao R và N, chúng còn được gọi là "sao carbon". Đây là những sao khổng lồ đỏ gần cuối đời, trong đó có lượng carbon dư thừa trong khí quyển. Lớp S. Những sao loại S giống với sao loại M nhất có dải hấp thụ ZrO mạnh tương tự như dải TiO của sao loại M, trong khi những sao giống với sao carbon nhất có vạch natri D mạnh và dải C2 yếu. Loại quang phổ này được tạo thành bởi chữ S và một số từ 0 đến 10. Con số này tương ứng với nhiệt độ của ngôi sao và xấp xỉ theo thang nhiệt độ được sử dụng cho những sao khổng lồ loại M. Các loại phổ biến nhất là S3 đến S5. Ký hiệu phi tiêu chuẩn S10 chỉ được sử dụng cho sao Chi Cygni khi ở mức tối thiểu. Phân loại sao lùn trắng. Loại D (cho các chất khí suy biến) là cách phân loại hiện đại được sử dụng cho các sao lùn trắng—những ngôi sao có khối lượng thấp không còn trải qua phản ứng tổng hợp hạt nhân nữa và đã co lại thành kích thước hành tinh, đang dần nguội đi. Lớp D được chia thành các loại quang phổ DA, DB, DC, DO, DQ, DX và DZ.
Phân loại sao
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3861
Các loại quang phổ sao lùn trắng: Quang phổ không phải sao: Lớp P và Q. Cuối cùng, các lớp P và Q là các lớp quang phổ còn sót lại từ hệ thống do Cannon phát triển cho "Danh mục Henry Draper". Đôi khi chúng được sử dụng cho một số vật thể không phải sao: Các vật thể loại P là các ngôi sao trong tinh vân hành tinh (điển hình là các sao lùn trắng trẻ hoặc sao khổng lồ loại M nghèo hydro); các đối tượng loại Q là novae.
Kim loại kiềm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3864
Kim loại kiềm (tiếng Anh: "Alkali metal") là một nhóm các nguyên tố hóa học gồm có lithi (Li), natri (Na), kali (K), rubidi (Rb), caesi (Cs) và franci (Fr). Các kim loại kiềm cùng với hydro tạo thành nhóm IA, nằm trong khối nguyên tố s của bảng tuần hoàn. Tất cả các kim loại kiềm đều có electron ngoài cùng nằm ở orbital-s, và do có chung cấu hình electron giúp các nguyên tố này có các tính chất hóa học tương đối giống nhau. Các nguyên tố kim loại kiềm cũng là những ví dụ tốt cho xu hướng biến đổi tuần hoàn trong bảng tuần hoàn hóa học, với các nguyên tố thể hiện tính đồng đẳng trong các phản ứng. Nhóm các nguyên tố này cũng thường được gọi là họ lithium (tiếng Anh: "lithium family"), lấy tên nguyên tố đầu tiên của nhóm này là lithi. Các kim loại kiềm có ánh kim, mềm, dễ dàng phản ứng ở nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn và dễ nhường đi electron ngoài cùng của nó để trở thành một cation với số oxi hóa +1. Nó có thể được cắt dễ dàng bởi một lưỡi dao nhờ độ mềm của chúng, lộ ra một bề mặt ánh kim nhưng bị rữa ngay sau đó do tác dụng với nước và ôxy (nếu với lithi là nitơ) trong không khí. Do sự dễ phản ứng của chúng, các kim loại kiềm thường được bảo quản trong dầu hỏa để tránh nó bị hỏng khi để trong không khí. Tất cả các kim loại kiềm đều phản ứng với nước, càng kim loại ở các chu kỳ sau càng phản ứng mạnh mẽ hơn - từ đó khiến caesi là nguyên tố phản ứng dễ dàng và mạnh nhất trong nhóm. Tất cả các kim loại kiềm đều xuất hiện trong tự nhiên dưới dạng hợp chất thay vì dạng đơn chất của chúng, với natri dễ tìm nhất - sau đó là kali, lithi, rubidi, caesi và cuối cùng là franci - vốn rất hiếm do tính phóng xạ mạnh của nó, khi chỉ xuất hiện vài phút trong vết đồng vị phóng xạ như một bước trong chuỗi phân rã trong tự nhiên. Ununenni (Uue) - nguyên tố được dự đoán là nguyên tố tiếp theo trong họ kim loại kiềm vẫn chưa được tổng hợp thành công, dù cho nhiều thí nghiệm tổng hợp đã được thực hiện. Tuy nhiên, Ununenni có thể không phải là kim loại kiềm do hiệu ứng lượng tử, khi mà hiệu ứng này đã giúp dự đoán nhiều tính chất hóa học của các nguyên tố siêu nặng. Đa số các kim loại kiềm đều có nhiều ứng dụng thực tiễn.
Kim loại kiềm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3864
Một trong những ứng dụng được biết tới nhiều nhất là việc sử dụng rubidi và caesi trong các đồng hồ nguyên tử, mà đồng hồ nguyên tử của caesi được làm chuẩn cho đơn vị thời gian giây. Các hợp chất của natri cũng có nhiều ứng dụng, mà cụ thể là đèn hơi natri và muối ăn - hợp chất của natri và chlor đã được sử dụng từ lâu. Lithi được sử dụng để làm thuốc điều trị tâm thần hoặc làm anot của các pin lithi. Natri, kali và lithi đều là các nguyên tố khoáng như các chất điện li các dung môi sinh học, và mặc dù các nguyên tố kim loại kiềm khác không phải nguyên tố khoáng - chúng đều có những ảnh hưởng, dù tốt hay xấu lên cơ thể động vật. Lịch sử. Các hợp chất của natri đã được biết tới từ thời cổ đại, như muối (hay natri chloride) là gia vị, đồng thời là hàng hóa quan trọng trong các hoạt động của con người, với từ tiếng Anh "salt" được biến điệu từ từ "salary" - lấy nguyên gốc từ "salarium", khi mà những người lính La Mã được trả tiền để có thể mua muối ăn. Quặng potash cũng đã được sử dụng từ thời cổ đại, nhưng trong phần lớn chiều dài lịch sử người ta không biết rằng nó không phải là một muối khoáng của natri. Georg Ernst Stahl đã có những bằng chứng từ thí nghiệm thực tiễn, điều đó giúp ông đưa ra ý tưởng về việc công bố sự khác nhau cơ bản giữa các muối của natri và kali vào năm 1702, và Henri-Louis Duhamel du Monceau đã chứng minh sự khác biệt này vào năm 1736. Tuy nhiên, hợp chất cụ thể của kali và natri và trạng thái tự nhiên của hai nguyên tố này vẫn chưa được biết tới khi đó - từ đó cũng khiến Antoine Lavoisier không thêm bất cứ nguyên tố kim loại kiềm nào vào danh sách các nguyên tố hóa học của ông vào năm 1789. Kali nguyên chất được điều chế lần đầu tiên vào năm 1807 tại Anh bởi Humphry Davy, ông làm điều này bằng cách điều chế từ kali hydroxide, sau đó điện phân muối nóng chảy mới bởi pin Volta - dụng cụ mới được phát minh khi đó. Các thử nghiệm điện phân trước đó đều thất bại do khả năng phản ứng mạnh của kali, tuy nhiên thành công này cũng đánh dấu lần đầu tiên kim loại được phân lập bằng phuơng pháp điện phân.
Kim loại kiềm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3864
Cùng năm, Davy cũng công bố việc ông điều chế natri nguyên chất, cũng với một hóa chất tuơng đuơng là xút bởi một kĩ thuật tuơng đuơng, từ đó công bố nguyên tố mới và định nghĩa hai muối của hai kim loại này hoàn toàn khác nhau. Petalite (hay LiAlSi4O10) được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1800 bởi nhà hóa học người Brasil José Bonifácio de Andrada tại một hầm mỏ trên đảo Utö, Thụy Điển. Tuy nhiên, phải tới năm 1817, khi phân tích mẫu quặng này, Johan August Arfwedson khi đang làm việc trong phòng thí nghiệm của Jöns Jacob Berzelius mới phát hiện ra sự xuất hiện của một nguyên tố mới. Nguyên tố mới này khi tạo thành các hợp chất có các tính chất tương tự như natri và kali, dù cho dạng muối carbonate và hydroxide của nó tan ít hơn trong nước, nhưng lại tạo ra môi trường kiềm mạnh hơn. Berzelius đã đặt tên cho nguyên tố chưa biết này là "lithion/lithina," lấy nguyên gốc từ từ "λιθoς" (chuyển tự: "lithios", có nghĩa là "hòn đá") trong tiếng Hy Lạp cổ đại, để nhấn mạnh nguồn gốc tìm ra nguyên tố này từ trong các quặng rắn, khác với kali khi được tìm thấy trong tro khi đốt các loài thực vật, hay natri với nồng độ tương đối trong máu động vật. Kim loại bên trong quặng petalite được ông đặt tên là "lithium". Liti, natri và kali đều là một phần trong quá trình tìm ra sự biến đổi tuần hoàn của bảng tuần hoàn, khi chúng cùng nằm trong một bộ ba các nguyên tố chung một nhóm và được Johann Wolfgang Döbereiner chỉ ra những điểm giống nhau về tính chất hóa học vào năm 1850. Rubidi và caesi là những nguyên tố đầu tiên được phát hiện mới bằng việc sử dụng một máy quang phổ - thiết bị mới được phát minh vào năm 1859 bởi Robert Bunsen và Gustav Kirchhoff. Trong năm tiếp theo, họ tìm ra caesi trong các mẫu nước khoáng từ Bad Dürkheim, Đức. Năm 1861, hai nhà khoa học này tìm ra rubidi trong các mẫu quặng lepidolite. Tên của rubidi và caesi bắt nguồn từ quang phổ phát xạ của chúng, với một đường xạ đỏ của rubidi (lấy từ tiếng Latinh từ "rubidus", nghĩa là đỏ đậm hay đỏ chói) và một đường xạ xanh da trời của caesi (lấy từ tiếng Latinh từ "caesius", nghĩa là xanh da trời).
Kim loại kiềm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3864
Khoảng năm 1865, John Newlands xuất bản một ấn bản mà ở đó ông liệt kê các nguyên tố theo chiều tăng dần của nguyên tử khối, cùng với đó là những nguyên tố có tính chất vật lý/hóa học tương tự nhau được xếp vào từng nhóm tám nguyên tố một - ông làm điều này dựa trên những quãng tám của âm nhạc, khi mà các nốt nhạc trong cùng một quãng tám có các tính chất âm tương đồng nhau. Ấn bản này của ông liệt kê toàn bộ các nguyên tố kim loại kiềm được biết tới khi đó (từ lithi tới caesi), cùng với đồng, bạc và thali (nguyên tố thể hiện số oxi hóa +1 trong các hợp chất giống với kim loại kiềm) đều được xếp vào một nhóm. Tuy nhiên, ông cũng xếp hydro vào cùng nhóm với các halogen. Sau năm 1869, Dmitri Ivanovich Mendeleev trong bảng tuần hoàn hóa học của mình, ông sắp xếp lithi đứng đầu nhóm các nguyên tố với natri, kali, rubidi, caesi và thali. Hai năm sau đó, Mendeleev chỉnh lý lại bảng tuần hoàn của mình, đặt hydro trong cùng nhóm 1 và trước lithi, ông cũng đồng thời chuyển thali xuống nhóm Bor. Trong phiên bản năm 1871, đồng, bạc và vàng xuất hiện tới hai lần, vừa trong nhóm IB, vừa xuất hiện trong "nhóm VII" mà ngày nay trở thành các nhóm từ 8 tới 11. Sau khi bảng tuần hoàn gồm 18 cột lần đầu tiên được giới thiệu, nhóm nguyên tố IB được chuyển tới vị trí như hiện của chúng tại khối nguyên tố d, còn các kim loại kiềm được đặt tại nhóm IA. Năm 1988, nhóm này được đổi tên thành "nhóm 1". Tên gọi chung "kim loại kiềm" tới từ việc các hydroxide của các nguyên tố trong nhóm 1 này đều tạo ra những môi trường kiềm mạnh khi tan trong nước. Có ít nhất bốn lần người ta thất bại trong việc phát hiện nguyên tố cuối cùng trong nhóm kim loại kiềm, trước khi Marguerite Perey thuộc Viện Curie tại Paris, Pháp tìm ra nguyên tố franci vào năm 1939 trong khi tinh chế một mẫu actini-227, được báo cáo có mức năng lượng phân rã là 220 keV. Tuy nhiên, Perey đã phát hiện các hạt phân rã có mức năng lượng dưới 80 keV, khiến bà nghĩ rằng việc phân rã này đã được thực hiện bởi một nhân tố phân rã chưa được biết tới xuất hiện trong quá trình tinh khiết hóa mẫu actini-227. Các thử nghiệm khác nhau đã loại trừ khả năng nhân tố mới này là thori, radi, chì, bismuth hay thali.
Kim loại kiềm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3864
Sản phẩm mới được sinh ra thể hiện các tính chất hóa học của một kim loại kiềm, điều này khiến Perey tin rằng đây chính là nguyên tố có số hiệu 87, là sản phẩm của quá trình phân rã alpha của actini-227. Sau đó, Perey đã thử nghiệm để xem liệu phân rã beta có tạo ra sản phẩm khác với phân rã alpha hay không, bà đặt nguồn tia alpha ở mức 0,6%, sau này nâng lên 1% theo phương trình: <chem>^{227}_{89}Ac ->[{α}][{21,77 năm}] ^{223}_{87}Fr ->[{β−}][{22 phút}] ^{223}_{88}Ra ->[{α}][{11,4 ngày}] ^{219}_{86}Rn</chem> Nguyên tố tiếp theo sau franci trong bảng tuần hoàn được dự đoán là ununenni (Uue), với số hiệu nguyên tố 119. Các thử nghiệm tổng hợp ununenni lần đầu tiên được thực hiện vào năm 1985 bằng việc bắn phá einsteini-254 bằng ion của calci-48 trong máy gia tốc SuperHILAC tại Berkeley, Carlifornia, tuy nhiên không tạo ra bất cứ nguyên tử nào mới, dẫn tới việc giới hạn vùng phản ứng dưới 300 nb. + → * → không phản ứng Người ta cho rằng những phản ứng này sẽ không thật sự tạo ra bất cứ nguyên tử ununenni nào trong tương lai gần, gián tiếp khiến cho việc tạo một lượng einsteini-254 vừa đủ để sử dụng cho việc điều chế các nguyên tố siêu nặng trở nên khó khăn hơn do có khối lượng nguyên tử lớn, chu kì bán rã dài 270 ngày, nhưng chỉ có thể được điều chế trong phòng thí nghiệm với lượng nhỏ hơn rất nhiều so với nhu cầu đặt ra. Tuy nhiên, khi mới chỉ có ununenni là nguyên tố chu kì 8 đầu tiên trong bảng tuần hoàn hóa học được mở rộng, nó có thể được tìm ra trong tương lai thông qua các phản ứng khác, và hiện tại đang có những nỗ lực tổng hợp tại Nhật Bản. Cho tới nay, người ta chưa thành công điều chế bất cứ nguyên tố chu kì 8 nào, tuy nhiên giới hạn nuclon cho rằng chỉ có các nguyên tố đầu chu kì 8, có số hiệu nguyên tử dưới 128 mới có thể được điều chế và tồn tại trên phương diện vật lý. Chưa có bất cứ thử nghiệm nào được thực hiện để điều chế những nguyên tố kim loại kiềm nặng hơn do số hiệu nguyên tử quá lớn của chúng, và chúng sẽ cần những phương pháp, kĩ thuật mới và mạnh hơn. Phổ biến. Trong hệ Mặt Trời.
Kim loại kiềm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3864
Phổ biến. Trong hệ Mặt Trời. Quy luật Oddo-Harkins cho rằng các nguyên tố với số hiệu nguyên tử chẵn phổ biến hơn các nguyên tố có số hiệu lẻ, với trường hợp ngoại lệ là hydro. Quy luật này cũng khẳng định rằng các nguyên tố với số hiệu nguyên tử lẻ có một proton đơn lẻ và có xu hướng giữ một proton khác, từ đó tăng số hiệu nguyên tử của nó lên thành một số chẵn. Đối với các nguyên tố với số hiệu chẵn, các proton đều bắt cặp, mỗi proton trong cặp thiết lập quỹ đạo quay của proton còn lại, tăng tính bền vững cho nó. Các kim loại kiềm đều có số hiệu nguyên tử lẻ và không phổ biến như các nguyên tố có số hiệu chẵn kề chúng (nhóm khí trơ và kim loại kiềm thổ) trong hệ Mặt Trời. Các kim loại kiềm nặng hơn cũng ít phổ biến hơn các kim loại nhẹ hơn, như từ rubidi trở đi chỉ có thể được tổng hợp trong các siêu tân tinh mà không thể bởi tổng hợp hạt nhân sao. Lithi cũng có lượng ít hơn natri và kali do được tổng hợp rất ít bởi tổng hợp hạt nhân Big Bang và trong các ngôi sao,
Au
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3866
Từ viết tắt Au hoặc AU có thể dùng để chỉ:
Kanji
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3869
, còn gọi là chữ Hán tiếng Nhật, là những chữ Hán được dùng để viết tiếng Nhật. Tên gọi. Từ "kanji" bắt nguồn từ từ tiếng Nhật 漢字 (chuyển tự La-tinh: "kanji"). Cách viết "kanji" của nó được lấy từ hình thức chuyển tự La-tinh của từ tiếng Nhật này. Trong tiếng Nhật, từ 漢字 "kanji" được dùng để chỉ cả những chữ Hán được dùng để viết tiếng Nhật lẫn những chữ Hán được dùng để viết các ngôn ngữ khác. Từ "kanji" trong tiếng Việt thường được dùng để chỉ những chữ Hán dùng để viết tiếng Nhật, hiếm khi được dùng để chỉ chữ Hán dùng để viết các ngôn ngữ khác. Từ tiếng Nhật 漢字 "kanji" bắt nguồn từ từ tiếng Hán 漢字 (âm Hán Việt: "Hán tự"). Thư tịch tiếng Hán cổ nhất đã biết có sử dụng tên gọi 漢字 "Hán tự" để chỉ chữ Hán là sách 梵語千字文 "Phạm ngữ thiên tự văn" (còn có tên gọi khác là 唐字千鬘聖語 "Đường tự thiên man thánh ngữ", 梵唐千字文 "Phạm Đường thiên tự văn") do nhà sư đời Đường Nghĩa Tịnh viết dưới thời vua Đường Cao Tông. Thư tịch cổ nhất đã biết do người Nhật viết gọi chữ Hán là 漢字 "Hán tự" là sách 照権実鏡 "Chiếu quyền thật kính" do nhà sư Tối Trừng viết năm Hoằng Nhân (弘仁) thứ 8 (Tây lịch năm 817). Tên gọi 漢字 "Hán tự" được dùng trong sách để phân biệt chữ Hán với một loại văn tự khác được đề cập đến trong sách là chữ Phạm. 漢字 "Hán tự" trở thành tên gọi phổ biến của chữ Hán ở Nhật Bản trước khi nó trở nên phổ biến ở Trung Quốc. Tại Trung Quốc, trước thời cận đại, trong tiếng Hán không có tên gọi chỉ riêng chữ Hán được đông đảo người nói tiếng Hán biết đến. Suốt trong khoảng thời gian từ khi xuất hiện tên gọi 漢字 "Hán tự" cho đến trước thời cận đại, người nói tiếng Hán thường chỉ gọi chữ Hán là 字 "tự" hoặc 文 "văn" hoặc 文字 "văn tự". Các tên gọi này đều chỉ có nghĩa là chữ, chữ viết, không phải là tên gọi chỉ riêng chữ Hán. Thời Thanh mạt (1840–1912), một số người Trung Quốc có học vấn sang Nhật Bản, biết được rằng người Nhật gọi chữ Hán là 漢字 "Hán tự", sau khi trở về Trung Quốc đã dùng từ 漢字 "Hán tự" để chỉ chữ Hán.
Kanji
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3869
Nhờ đó mà tên gọi 漢字 "Hán tự" mới trở nên phổ biến trong tiếng Hán. Khi hiragana và katakana chưa xuất hiện, tiếng Nhật được viết hoàn toàn bằng chữ Hán. Giống như âm Hán Việt của người nói tiếng Việt, người nói tiếng Nhật cũng có âm đọc tiêu chuẩn bắt nguồn từ tiếng Hán để đọc chữ Hán trong văn bản văn ngôn. Âm đọc của chữ Hán khi được dùng để viết tiếng Nhật có thể giống với âm văn ngôn hoặc không. Nghĩa mà một chữ Hán biểu thị khi được dùng để viết tiếng Nhật có thể giống hoặc khác với nghĩa mà của chữ Hán đó biểu thị khi được dùng để viết văn ngôn. Khi âm và nghĩa của chữ Hán dùng để viết tiếng Nhật đều giống với âm và nghĩa của chữ Hán khi dùng để viết văn ngôn thì chữ Hán được người nói tiếng Nhật thời xưa gọi là 真名 "chân danh". Khi âm hoặc nghĩa hoặc cả âm lẫn nghĩa của chữ Hán dùng để viết tiếng Nhật không giống âm và nghĩa của chữ Hán trong văn ngôn thì chữ Hán được gọi là 仮名 "giả danh". Chữ Hán dùng theo kiểu 仮名 "giả danh" về sau phát triển thành chữ 平仮名 "bình giả danh" và 片仮名 "phiến giả danh". Hiện nay, chữ 仮名 "giả danh" theo nghĩa nêu trên được gọi là 万葉仮名 "vạn diệp giả danh", trong khi 仮名 "giả danh" thì thường được dùng để chỉ chung bình giả danh và phiến giả danh. Lịch sử. Có một số bất đồng về cách thức chữ Hán du nhập vào Nhật Bản, nhưng ý kiến được chấp nhận rộng rãi nhất là các nhà sư đã mang các văn bản chữ Hán vào Nhật vào khoảng thế kỉ thứ 5. Các văn bản này được viết bằng chữ Hán vào và lúc đầu cũng được đọc bằng âm Hán. Tuy nhiên qua thời gian, hệ thống Hán văn (漢文, "kanbun") xuất hiện - nó dùng văn bản chữ Hán với dấu thanh cho phép người Nhật đọc nó theo quy tắc ngữ pháp tiếng Nhật. Lúc bấy giờ tiếng Nhật chưa có dạng chữ viết. Ngay cả hệ thống chữ viết "vạn diệp giả danh" (万葉仮名 "man'yōgana", được dùng trong tuyển tập thơ cổ "Vạn diệp tập") cũng dùng bộ Kanji với số ký tự hạn chế nhằm ký âm, chứ không nhằm diễn đạt ngữ nghĩa.
Kanji
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3869
Man'yōgana viết ở dạng đường cong trở thành "hiragana" (ひらがな, 平仮名), một hệ thống chữ viết dành cho phụ nữ (không được phép tham gia vào nền giáo dục cao). Hầu hết văn chương của phụ nữ vào thời đại Heian được viết bằng hiragana. Song song đó, "katakana" (カタカナ, 片仮名) xuất hiện do được các tu sinh giản lược "manyogana" thành một thành tố đơn. Hiragana và katakana được gọi chung là "kana". Khi hệ thống chữ viết tiếng Nhật trưởng thành và mở rộng, kanji được dùng để viết một số phần trong câu, như danh từ, tính từ và động từ, còn "hiragana" được dùng để viết đuôi của động từ ("okurigana"), từ chỉ có ở tiếng Nhật và từ khó đọc hay nhớ bằng Kanji. Hiragana cũng được dùng trong sách dùng cho trẻ em và khi muốn giảm nhẹ mức độ của từ hoặc lời yêu cầu, thí dụ như từ "kudasai" (ください, xin vui lòng) và "kodomo" (子供, trẻ em). Ngược lại, vì có hình dạng góc cạnh, katakana được dùng để biểu thị từ tượng thanh, các âm thô và đột ngột, âm thanh của động vật và từ vay mượn của nước ngoài. Tuy nhiên cần lưu ý rằng việc dùng katakana để viết từ vay mượn chỉ xuất hiện sau này. Lúc đầu, các từ này được viết bằng kanji, dựa theo nghĩa (煙草 tabako, thuốc lá) hay theo phát âm (tempura 天婦羅 hay 天麩羅, tên một món ăn). Ngày nay thì ngược lại. Từ vay mượn, đặc biệt là gốc tiếng Anh, đang nhanh chóng thay thế cả những từ thường dùng có sẵn dạng tương đương trong tiếng Nhật thay vì được dùng để lấp khoảng trống từ vựng. Một giáo sư ngôn ngữ học ước tính đến 1/3 tiếng Nhật văn nói dùng từ vay mượn hay wasei-eigo, từ tiếng Anh được phát minh bởi người Nhật và từ kết hợp như パソコン "pasokon" (personal computer, máy tính cá nhân) Các loại chữ Hán đặc thù trong tiếng Nhật. Chữ Hán người Nhật tự tạo. Trong khi một số từ chữ Hán trong tiếng Nhật và trong tiếng Trung có thể đọc qua lại lẫn nhau, một số từ Kanji của tiếng Nhật không có chữ Hán tương đương trong tiếng Trung. Ngoài những từ được dùng với nghĩa khác, những từ có cùng nghĩa nhưng viết khác, cũng có những từ riêng của tiếng Nhật được gọi là "Quốc tự" (国字 "Kokuji"), còn được gọi là "Hoà chế Hán tự" (和製漢字 "Wasei Kanji", tức "chữ Hán do người Nhật tạo ra").
Kanji
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3869
Có hàng trăm Quốc tự (xem danh sách ở sci.lang.japan AFAQ ), và mặc dù một số từ này ít được dùng, những từ còn lại đã góp phần quan trọng và ngôn ngữ viết tiếng Nhật. Ví dụ như: Chữ Hán dùng khác với tiếng Trung. "Quốc huấn" (国訓 Kokkun) là những chữ Hán có nghĩa trong tiếng Nhật khác với nghĩa nguyên thủy trong tiếng Trung. Thí dụ: Kiểu chữ cũ và mới. Một số Kanji trong tiếng Nhật có thể được viết theo 2 thể khác nhau: thể kanji cũ được gọi là và thể kanji mới được gọi là . Dưới đây là một số thí dụ về hai cách viết, trong đó cách viết cũ đứng trước cách viết mới: Cựu tự thể được dùng trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc; sau chiến tranh chính phủ Nhật đưa ra tân tự thể với lối viết đơn giản hóa. Một số chữ mới này tương tự với chữ Hán giản thể được dùng tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thường thì trong tiếng Nhật, nếu chữ Hán đó có Shinjitai thì Kyujitai sẽ không được sử dụng. Tuy vậy nhiều chữ ở Kyujitai vẫn được dùng thường xuyên dù có Shinjitai, và giữa 2 tự thể còn có thể khác nghĩa. Ví dụ chữ "Long" (ryuu - "rồng"), Kyujitai: 龍, Shinjitai: 竜, đều dùng phổ biến như nhau. Hay chữ "diệp", Kyujitai: 葉 - "は(ha) - lá cây", nhưng ở Shinjitai: 叶, nó chỉ được dùng trong động từ "kanaimasu" - 叶います - "đáp ứng, phù hợp", và không thể tráo đổi 2 thể này ở từ "lá cây" và "đáp ứng" được (tức là muốn viết chữ "diệp" có nghĩa là "lá cây", phải viết chữ 葉, không được viết chữ 叶, dù 2 thể của chữ "diệp" này trong tiếng Nhật đều được sử dụng phổ biến). Có một số chữ Hán Tân tự thể trong tiếng Nhật viết giống Giản thể của tiếng Trung, tuy nhiên Cựu tự thể và Phồn thể của hai bên là khác nhau. Ví dụ như chữ 芸, ở Trung Quốc nó là giản thể của chữ 蕓 ("vân" - trong "vân đài", một tên Hán Việt cổ của rau cải bẹ xanh), tuy nhiên ở Nhật Bản nó là tân tự thể của chữ 藝 ("nghệ" - trong "nghệ thuật", "kỹ nghệ"). Vì thế chữ 芸 nếu sử dụng trong tiếng Trung sẽ mang âm Hán Việt là "vân", còn nếu sử dụng trong tiếng Nhật nó sẽ mang âm Hán Việt là "nghệ".
Kanji
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3869
Cũng có những chữ Hán được dùng trong tiếng Nhật chỉ với mục đích phát âm gọi là "ateji" (当て字 ), và nhiều chữ Hán không được dùng trong tiếng Nhật. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết, bất cứ chữ Hán nào cũng có thể là chữ Nhật Bản. Đại Hán-Hòa từ điển (大漢和辞典, "Morohashi Daikanwa Jiten") là từ điển chữ Hán dùng trong tiếng Nhật lớn nhất cho đến nay; nó có gần 5 vạn mục từ, bao gồm cả những mục từ chưa từng được dùng trong tiếng Nhật. Ký tự đặc biệt đứng cùng Kanji. Trong tiếng Nhật, có một số ký tự đặc biệt được sử dụng khi viết cùng Kanji: Dấu lặp lại Kanji ngay trước - "々" - được gọi là "kurikaeshi" (くりかえし). Ký tự này khi viết sau 1 chữ Hán, ta sẽ đọc nó theo âm của chữ Hán trước nó (tất nhiên sẽ có vài trường hợp biến âm sang âm đục hay âm bán đục cùng hàng). Ký tự này giúp người viết không cần phải viết lại chữ Hán ở trước nó. VD: Chữ "ke - ケ" của katakana khi viết nhỏ lại (nhỏ bằng chữ "tsu - っ/ッ" với chức năng là âm ngắt) và đứng cạnh chữ Hán, sẽ được đọc là "ka" hoặc "ga". Cách đọc. Do cách thức du nhập vào tiếng Nhật, một ký tự kanji có thể được dùng để viết một hoặc nhiều từ (hay hình vị, trong hầu hết các trường hợp) khác nhau. Từ cách nhìn nhận của người đọc, kanji cũng có một hoặc nhiều cách đọc khác nhau. Để quyết định sử dụng cách đọc nào, người ta phải dựa vào văn cảnh, dụng ý, hoàn cảnh phức hợp, thậm chí là vị trí từ kanji đó trong câu. Một số từ kanji thông dụng có từ 10 cách đọc trở lên. Những cách đọc này thường được phân loại thành nhóm "on'yomi" (hay cách đọc "on") hoặc "kun'yomi" (hay cách đọc "kun"). "On'yomi" (Cách đọc kiểu Hán). On'yomi (音読み, "Âm Độc") hay "Hán Ngữ" (漢語 - "kango"), còn gọi là âm Hán-Nhật, là sự Nhật hóa cách phát âm tiếng Hán của Hán tự (trừ tiếng Hán cổ) vào thời điểm nó được du nhập vào (tương tự như âm Hán-Việt của tiếng Việt). Một số ký tự Kanji được du nhập từ các vùng khác nhau của Trung Quốc vào các thời điểm khác nhau, dẫn đến có nhiều "on'yomi", và thường có nhiều ý nghĩa.
Kanji
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3869
Những "kanji" được phát minh thêm ở Nhật thường không có "on'yomi", nhưng cũng có một số ngoại lệ, chẳng hạn ký tự 働 ("động") "làm việc", có "kun'yomi" là "hataraku" và "on'yomi" là "dō", hay ký tự 腺 ("tuyến"), chỉ có cách đọc "on'yomi" là "sen". Nhìn chung, "on'yomi" chia làm 4 kiểu: Các ví dụ (những cách đọc hiếm dùng nằm trong dấu ngoặc đơn) Kiểu đọc thông dụng nhất là "kan-on". Cách đọc "go-on" đặc biệt thông dụng trong các thuật ngữ đạo Phật, chẳng hạn "gokuraku" 極楽 "cực lạc". Cách đọc "tō-on" được dùng trong một số từ như "isu" 椅子 ("ỷ tử") "chiếc ghế" hay "futon" 布団 ("bố đoàn") "tấm nệm". Trong tiếng Hán, hầu hết các ký tự chỉ có một âm tiết tiếng Hán duy nhất. Tuy nhiên, một số từ đồng chuế khác nghĩa (cùng cách viết, khác ý nghĩa) được gọi là 多音字 ("đa âm tự" - bính âm: duōyīnzì) như 行 ("hành" - bính âm: háng hay xíng) (tiếng Nhật: "kō", "gyō") có nhiều hơn một cách đọc biểu diễn những ý nghĩa khác nhau, điều này cũng được phản ánh ở sự tiếp nhận trong tiếng Nhật. Ngoài ra, nhiều âm tiết tiếng Hán, đặc biệt là các âm tiết với thanh nhập (入声), không tương thích với các âm vị phụ-nguyên âm dùng rộng rãi trong tiếng Nhật cổ. Do đó hầu hết "on'yomi" được hình thành bởi hai morae (âm tiết hay nhịp), mora thứ hai có thể là sự kéo dài của nguyên âm trong mora thứ nhất, hoặc là một trong các âm tiết "ku", "ki", "tsu", "chi", hoặc âm tiết "n", và được lựa chọn một cách tương đương nhất so với các nguyên âm cuối trong tiếng Hán trung cổ. Thực tế, các phụ âm vòm ở trước các nguyên âm không phải là "i", cũng như âm tiết "n", có lẽ đã được thêm vào tiếng Nhật để mô phỏng dễ hơn tiếng Hán; không đặc điểm nào trong số này xảy ra trong tiếng Nhật nguyên gốc. "On'yomi" được dùng chủ yếu trong các từ ghép kanji (熟語 "jukugo" "thục ngữ"), một số là kết quả do du nhập cùng với chính những ký tự kanji đó từ các từ các từ tiếng Hán do có thể không tồn tại trong tiếng Nhật hoặc không thể phát âm rõ ràng nếu chỉ sử dụng ngôn ngữ bản địa.
Kanji
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3869
Quá trình vay mượn ngôn ngữ này tương tự với quá trình vay mượn các từ tiếng Latin hoặc tiếng Pháp Noóc-măng đối với tiếng Anh, hay vay mượn các từ tiếng Pháp hoặc tiếng Anh đối với tiếng Việt; bởi các thuật ngữ mượn tiếng Hán thường có tính chuyên môn hóa uyên bác, âm tiết kiểu cách hơn so với từ bản địa tương ứng. Ngoại lệ đáng kể nhất trong nguyên tắc này là tên họ, trong đó thường sử dụng cách đọc "kun'yomi" hơn. "Kun'yomi" (cách đọc kiểu Nhật). Cách đọc kiểu Nhật hay cách đọc bản địa, kun'yomi (訓読み, "Huấn Độc") hay "Hòa Ngữ" (和語 - "wago"), là cách đọc một Kanji lấy nghĩa, dựa trên cách phát âm của một từ tương đương tiếng Nhật, tức "yamatokotoba". Cách đọc này chuyển nghĩa của kanji sang một chữ tương xứng nhất trong tiếng Nhật. Giống với "on'yomi", mỗi kanji có thể có một hoặc nhiều cách đọc. Có khi kanji đó chỉ có "on'yomi" mà không có "kun'yomi". Lấy ví dụ, chữ 東 (đông) có cách đọc "on'yomi" là "tō" (とう). Tuy nhiên, tiếng Nhật vốn đã có 2 từ mang nghĩa "phía đông" là "higashi" (ひがし) và "azuma" (あずま). Do đó, 東 có những cách đọc "kun" là "higashi" và "azuma". Ngược lại, chữ 寸 (thốn) biểu thị một đơn vị đo chiều dài trong tiếng Hán (xấp xỉ 3 cm), tiếng Nhật bản địa không có từ nào mang nghĩa tương đương. Do đó, nó chỉ có cách đọc "on" là "sun" và không có cách đọc "kun" nào. Hầu hết các "kokuji", tức các ký tự kanji do người Nhật tạo ra thêm, chỉ có các cách đọc "kun". Đặc trưng của "kun'yomi" được quyết định bởi cấu trúc âm tiết (phụ)-nguyên của "yamatokotoba" (大和言葉). Hầu hết các "kun'yomi" của danh từ và tính từ thường có độ dài từ 2 đến 3 âm tiết, không tính các ký tự hiragana đi kèm có tên gọi "okurigana". "Okurigana" không được xem là một phần trong bản chất cách đọc của ký tự chữ Hán đó, mặc dù chúng là một phần trong cách đọc của toàn bộ từ. Người mới học tiếng Nhật có thể ít khi gặp phải các ký tự có cách đọc dài, nhưng những cách đọc có ba bốn âm tiết hay thậm chí nhiều hơn không hề hiếm.
Kanji
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3869
Những từ như 承る "uketamawaru" và 志 "kokorozashi" có đến 5 âm tiết chỉ để biểu đạt một ký tự kanji, đây là những cách đọc dài nhất trong số các kanji nằm trong bộ Jōyō kanji. Nếu viết theo hiragana sẽ là うけたまわる và こころざし, khá là dài, vì thế người Nhật hay viết bằng Kanji cho các từ này, đặc biệt là trong nhắn tin và email để giảm dung lượng và số ký tự phải gửi. Trong một số trường hợp, nhiều hơn một từ kanji được dùng để biểu diễn một từ tiếng Nhật duy nhất. Điều này thường xảy ra khi những từ kanji khác nhau biểu diễn những sắc thái ý nghĩa khác nhau. Chẳng hạn, từ なおす ("naosu") có nghĩa là "sửa", "chữa", nhưng khi viết là す thì mang nghĩa là "chữa bệnh" (sinh vật sống), còn khi viết là す thì mang nghĩa là "sửa chữa cái gì đó" (đồ vật). Đặc điểm phân biệt nhiều khi rất rõ ràng nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Sự khác biệt quan điểm giữa các tài liệu tham khảo không phải là hiếm; một cuốn từ điển có thể nói rằng những từ kanji này là tương đương, trong khi một cuốn từ điển khác lại chỉ ra những điểm khác biết trong cách dùng. Kết quả là, người bản địa cũng có thể không nắm rõ từ kanji nào được dùng, họ dựa vào sở thích cá nhân hoặc đành viết từ đó bằng hiragana. Thói quen này thường gặp đối với những trường hợp phức tạp như từ もと "moto", có thể viết bằng ít nhất 5 kanji: , , , và , ba ký tự đầu trong số đó chỉ có rất ít sự khác biệt về sắc thái. Những cách đọc kanji trong ngôn ngữ địa phương cũng được phân loại bằng "kun'yomi", cách đọc đáng chú ý nhất là trong tiếng Ryukyu. Những cách đọc khác. Có nhiều từ ghép kanji sử dụng kết hợp cách đọc "on'yomi" và "kun'yomi", gọi là các từ "jūbako" (重箱) hay "yutō" (湯桶), chúng chính là những ví dụ của loại từ ghép này (chúng là những từ tự diễn giải): ký tự đầu tiên của "jūbako" được đọc bằng "on'yomi", ký tự thứ hai dùng "kun'yomi", những cách đọc khác liên quan đến "yutō". Đó là dạng từ lai trong tiếng Nhật.
Kanji
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3869
Đó là dạng từ lai trong tiếng Nhật. Có thể kể một số ví dụ khác, như 場所 "basho" "nơi, địa điểm" (cách đọc "kun-on"), 金色 "kin'iro" "màu vàng kim" ("on-kun") hay 合気道 "aikidō" "môn võ Aikido" ("kun-on-on"). Một số kanji cũng có những cách đọc ít được biết đến hơn gọi là "nanori" (名乗り), hầu hết được dùng cho tên người, và thường liên quan đến cách đọc "kun'yomi". Tên địa danh đôi khi cũng dùng cách đọc "nanori" hoặc, thỉnh thoảng hơn, có những cách đọc rất riêng không theo quy luật nào cả. "Gikun" (義訓) hay "jukujikun" (熟字訓 "thục tự huấn") là những cách đọc các từ ghép kanji không tương ứng với cả "on'yomi" hay "kun'yomi" của mỗi ký tự trong từ đó. Lấy ví dụ, 今朝 ("sáng nay") không đọc là "*ima'asa" - tương ứng với "kun'yomi" của mỗi ký tự -, cũng không đọc là "*konchō" - tương ứng với "on'yomi" của mỗi ký tự -, mà được đọc là "kesa" — một từ tiếng Nhật Bản địa có 2 âm tiết (đây có thể được xem là một hình vị đơn nhất, hoặc sự hợp nhất của 今日 "kyō" (trước đây là "kefu"), "hôm nay", và 朝 "asa", "buổi sáng"). Nhiều "ateji" (当て字, kanji chỉ dùng để biểu diễn ngữ âm) có các ý nghĩa được suy ra từ cách dùng của chúng: ví dụ, từ cổ 亜細亜 "ajia" trước đây được dùng để biểu diễn "Asia" ("châu Á") bằng kanji; ký tự 亜 ("á") ngày nay có nghĩa là "Asia" ("châu Á") trong những từ ghép như 東亜 "tōa", "Đông Á". Từ cách viết 亜米利加 "amerika", "Hoa Kỳ", lấy ra ký tự thứ 2, tạo thành từ gần chính thức 米国 "beikoku", dịch sát nghĩa là "mễ quốc" nhưng vẫn mang nghĩa "Hoa Kỳ". Quy tắc đọc âm. Mặc dù có nhiều quy tắc khi nào dùng cách đọc "on'yomi" hay khi nào dùng "kun'yomi", trong tiếng Nhật tràn ngập các trường hợp không theo quy tắc, và ngay cả người bản địa không phải lúc nào cũng có thể biết cách đọc của một ký tự nếu không có kiến thức tốt. Quy tắc vỡ lòng là đối với những kanji độc lập, chẳng hạn một ký tự biểu diễn một từ đơn nhất, thường được đọc bằng cách đọc "kun'yomi" của chúng.
Kanji
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3869
Chúng có thể được viết cùng với okurigana để biểu đạt biến cách kết thúc của động từ hay tính từ, hay do qui ước. Ví dụ: 情け "nasake" "sự cảm thông", 赤い "akai" "đỏ", 新しい "atarashii" "mới", 見る "miru" "nhìn", 必ず "kanarazu" "nhất định, nhất quyết". Okurigana là một khía cạnh quan trọng trong cách dùng kanji trong tiếng Nhật; xem bài viết đó để biết thêm về "kun'yomi". Các từ ghép kanji nhìn chung được đọc bằng "on'yomi", trong tiếng Nhật gọi là 熟語 "jukugo" ("thục ngữ"). Ví dụ, 情報 "jōhō" "thông tin", 学校 "gakkō" "trường học", và 新幹線 "shinkansen" "tàu tốc hành" đều tuân theo dạng này. Sự khác nhau giữa quy tắc đọc kanji độc lập và ghép làm cho nhiều từ có ý nghĩa gần giống nhau nhưng lại có cách đọc hoàn toàn khác nhau. 東 "đông" và 北 "bắc" khi đứng độc lập dùng cách đọc "kun" tương ứng là "higashi" và "kita", trong khi từ ghép 北東 "đông bắc" lại dùng cách đọc "on" là "hokutō". Điều này còn phức tạp hơn bởi thực tế nhiều kanji có nhiều hơn một cách đọc "on'yomi": 生 (sinh) đọc là "sei" trong từ 先生 "sensei" "giáo viên" nhưng lại đọc là "shō" trong 一生 "isshō" nghĩa là "cả đời người". Ý nghĩa cũng có thể là tác nhân đối với cách đọc; 易 (dị) đọc là "i" khi nó mang nghĩa "đơn giản" (易しい "yasashii"), nhưng lại thành "eki" khi nó mang nghĩa "tiên đoán, bói toán", cả hai cách đọc đều là "on'yomi" của ký tự này. Quy tắc vỡ lòng này cũng có rất nhiều ngoại lệ. Số lượng những từ ghép đọc bằng "kun'yomi" không lớn như "on'yomi", nhưng cũng không phải là hiếm. Chẳng hạn như 手紙 "tegami" "thư", 日傘 "higasa" "cái ô", hay một từ khá nổi tiếng 神風 "kamikaze" "ngọn gió thần thánh". Những từ ghép như thế cũng có thể có okurigana, như 空揚げ (còn được viết là 唐揚げ) "karaage" "đồ ăn chiên" và 折り紙 "origami" "nghệ thuật gấp giấy", mặc dù nhiều khi chúng được viết bỏ đi okurigana (ví dụ, 空揚 hay 折紙).
Kanji
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3869
Tương tự, một số ký tự "on'yomi" cũng có thể được dùng như một từ khi đứng độc lập: 愛 "ai" "tình yêu", 禅 "Zen" "thiện", 点 "ten" "dấu chấm". Hầu hết các trường hợp này liên quan đến những kanji không có "kun'yomi", nên có thể không có sự nhầm lẫn, mặc dù vẫn có các ngoại lệ. Ký tự độc lập 金 có thể đọc là "kin" "tiền, vàng" hoặc cũng có thể là "kane" "tiền, kim loại"; chỉ có cách dựa vào ngữ cảnh mới biết được cách đọc và ý nghĩa trong dụng ý của người viết. Do có nhiều cách đọc nên số lượng từ cùng cách viết khác ý nghĩa cũng tăng lên, nhiều khi chúng có các ý nghĩa khác nhau phụ thuộc vào cách đọc. Lấy một ví dụ là từ 上手, có thể đọc theo 3 cách khác nhau: "jōzu" (khéo léo, giỏi), "uwate" (phần trên), hoặc "kamite" (phần trên). Thêm nữa, từ 上手い lại được đọc là "umai" (khéo léo, giỏi). Người ta thường furigana trong những trường hợp này để làm rõ sự nhập nhằng về ý nghĩa. Như đã nói ở trên, cách đọc 重箱 "jūbako" và 湯桶 "yutō" cũng không hề hiếm. Thực tế, toàn bộ 4 kiểu kết hợp cách đọc đều có thể xảy ra: "on-on", "kun-kun", "kun-on" và "on-kun". Nhiều tên địa danh nổi tiếng, như Tokyo (東京 "Tōkyō") hay ngay cả tên Nhật Bản (日本 "Nihon" hoặc nhiều khi đọc là "Nippon") được đọc bằng "on'yomi"; tuy nhiên, đại đa số địa danh ở Nhật được đọc bằng "kun'yomi": 大阪 "Ōsaka", 青森 "Aomori", 箱根 "Hakone". Khi các ký tự được dùng để viết tắt tên địa danh, cách đọc của chúng có thể không như nguyên gốc. Đội bóng chày của Osaka (大阪) và Kobe (神戸) có tên gọi Hanshin (阪神) Tigers, được lấy từ cách đọc "on'yomi" của kanji thứ 2 trong từ "Ōsaka" và đầu tiên trong từ "Kōbe". Tên của tuyến đường sắt Keisei (京成) nối thành phố Tokyo (東京) và Narita (成田) cũng tương tự như vậy, nhưng cách đọc ký tự 京 trong 東京 lại biến thành "kei", mặc dù "kyō" là một cách đọc "on'yomi" trong từ "Tōkyō". Tên họ của người Nhật cũng thường được đọc bằng "kun'yomi": 山田 "Yamada", 田中 "Tanaka", 鈴木 "Suzuki".
Kanji
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3869
Tên riêng tuy không hẳn được đọc theo kiểu "jūbako" hay "yutō" đã đề cập, mà cũng bao gồm lẫn lộn "kun'yomi", "on'yomi" và "nanori": 大助 "Daisuke" ["on-kun"], 夏美 "Natsumi" ["kun-on"]. Do các bậc cha mẹ thường tự lựa chọn theo ý riêng, nên cách đọc tên riêng thường không theo bất kỳ quy tắc nào và cũng không thể biết chắc chắn cách đọc tên riêng của một người nếu không xác định lại. Người đặt tên có thể khá sáng tạo, có những đứa trẻ mang tên 地球 "Āsu" hay 天使 "Enjeru", nghĩa đen tương ứng là "Địa Cầu" và "Thiên Sứ", những cách phát âm cũng gần giống các từ tiếng Anh "Earth" và "Angel" (khi được Nhật hóa phát âm); chúng không phải là tên phổ biến, cách đọc thông thường của 2 từ này tương ứng là "chikyū" và "tenshi". Tuy nhiên, luôn có những quy tắc phổ biến giúp người đọc có kinh nghiệm có thể đoán trước khá chính xác cách đọc của hầu hết tên riêng. Hỗ trợ phát âm. Do thường xảy ra các trường hợp tối nghĩa, kanji nhiều khi được viết kèm theo cách phát âm trong văn cảnh đó, bằng cách dùng các ký tự rubi (ルビ) gọi là "furigana" (những ký tự "kana" nhỏ viết kèm theo bên trên - khi viết theo hàng ngang - hoặc bên phải - khi viết theo hàng dọc - của ký tự kanji) hay "kumimoji" (những ký tự "kana" nhỏ nằm ngay trên dòng viết ngay sau ký tự kanji). Kiểu viết này đặc biệt thường gặp trong các văn bản dành cho trẻ em hoặc người nước ngoài, và trong "manga" (truyện tranh Nhật Bản). Nó cũng thường được dùng trên báo chí để diễn đạt những cách đọc hiếm dùng hay những ký tự không có trong bảng kanji thường dùng đã được công nhận chính thức. Số lượng chữ Hán được dùng trong tiếng Nhật. Đây đang là con số bị tranh cãi. Đại Hán Hòa Từ điển - từ điển chữ Hán được Haruo Shirane đánh giá là cực kỳ đáng tin cậy - có chứa khoảng 5 vạn chữ Hán và được cho là khá đầy đủ. Tuy nhiên những từ điển tiếng Trung gần đây có đến trên 8 vạn chữ Hán, nhiều ký tự bao gồm cả những biến thể rất ít biết đến. Hầu hết số đó đều không phổ biến ở cả Nhật Bản và Trung Quốc. Để học được tiếng Nhật Bản người học chỉ cần nhớ khoảng trên 2 nghìn đến 3 nghìn chữ Hán thường gặp.