title
stringlengths 1
250
| url
stringlengths 37
44
| text
stringlengths 1
4.81k
|
---|---|---|
Kanji | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3869 | Việc dạy và học chữ Hán tiếng Nhật.
Học sinh tiểu học ở Nhật được dạy và cố gắng nắm được 1.006 ký tự kanji cơ bản trong "Kyōiku kanji" (教育漢字 - "Giáo dục Hán tự") trước khi kết thúc lớp sáu. Thứ tự các ký tự được học đã được thay đổi. Danh sách "Kyōiku kanji" là một phần của danh sách lớn hơn bao gồm 1.945 chữ Hán gọi là "Jōyō kanji" (常用漢字 - "Thường dụng Hán tự") - đây là những ký tự cần phải nắm được để có thể đọc tốt sách báo tiếng Nhật. Các học sinh Nhật thường nắm bắt được danh sách lớn hơn trước khi kết thúc lớp chín. Học sinh tiểu học học các ký tự này bằng cách bắt chước và học các bộ thủ.
Các học viên học tiếng Nhật như một ngoại ngữ thường phải học kanji mà không nắm được trước những từ vựng liên quan đến chúng. Do vậy, giải pháp cho những học viên này rất đa dạng, từ những phương pháp bắt chước, học thuộc lòng, hay các phương pháp sao cho dễ nhớ hơn, như dùng hình ảnh, hay những cách liên tưởng. Với những học viên tiếng Nhật là người nói tiếng Việt thường tận dụng thêm phiên âm Hán Việt của chữ Hán (trừ những kokuji do người Nhật tự sáng chế) để dễ đoán nghĩa các từ vựng được viết bằng ký tự đó, hoặc một số người học thuộc các nét bộ thủ như khi học tiếng Trung.
Chính phủ Nhật Bản đưa ra các kỳ thi "Hán tự kiểm định" ("Kanji kentei"), viết tắt của 日本漢字能力検定試験 ("Nihon kanji nōryoku kentei shiken", "Nhật Bản Hán tự Năng lực Kiểm định Thí nghiệm", có nghĩa là "Kỳ thi kiểm định năng lực Kanji trong tiếng Nhật") để kiếm tra khả năng đọc và viết Kanji. Cấp độ cao nhất của kỳ thi này kiểm tra trong phạm vi khoảng 6.000 Kanji. |
Lê (họ) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3874 | Lê () là một họ của người Việt Nam và Trung Quốc. Họ Lê phổ biến ở miền nam Trung Quốc (Quảng Đông, Hồng Kông). Họ "Lê" của người Trung Quốc (chữ Hán: 黎; bính âm: "Lí") thường được chuyển tự thành "Li", "Lai" hoặc "Le", có thể bị nhầm lẫn với họ Lý (chữ Hán: 李; bính âm: "Lǐ") cũng được chuyển tự thành "Li" hoặc "Lee".
Chữ 黎 ("lê") của họ này nghĩa gốc là "màu đen" (như trong từ "lê dân bách tính" - 黎民百姓, nghĩa là "dân đen trăm họ"), tránh nhầm lẫn với chữ 梨 ("lê") có nghĩa là "quả lê", do chữ Quốc ngữ chỉ có thể biểu âm, không biểu nghĩa được như chữ Hán và chữ Nôm.
Nguồn gốc.
Tại Trung Quốc có các thuyết sau về nguồn gốc của họ Lê (黎) tại quốc gia này:
Người Việt Nam họ Lê nổi tiếng.
Tại Việt Nam, họ Lê có tới hai triều đại phong kiến trị vì đất nước. Đó là Nhà Tiền Lê do Lê Đại Hành sáng lập và Nhà Hậu Lê do Lê Thái Tổ sáng lập. |
Vàng (màu) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3880 | Màu vàng (yellow) (cũng gọi là màu Vàng tươi để phân biệt với Vàng kim và Vàng cam) là màu sắc của ánh sáng tác động đều lên hai loại tế bào cảm thụ màu đỏ và tế bào cảm thụ màu lục và rất yếu lên tế bào cảm thụ màu lam của mắt người.
Đa số người thấy màu này khi nhìn vào hình bên.
Trong quang phổ.
Màu vàng là màu của ánh sáng không đơn sắc có bước sóng nằm trong khoảng từ 566nm tới 590 nm.
Trong phối màu phát xạ.
Theo định nghĩa, một số hỗn hợp đều của ánh sáng màu đỏ và xanh lá cây tạo nên cảm giác màu vàng.
Trong phối màu hấp thụ.
Màu vàng là một trong số các màu gốc trong hệ màu CMY (hay CMYK, dùng trong in ấn, sơn, nhuộm...), và màu bù của nó là màu xanh lam của hệ màu RGB. Tuy nhiên, vì các đặc trưng của các chất màu hay sơn sử dụng trong quá khứ,các thợ sơn hay họa sĩ thông thường nói tới phần bù của nó là màu tía.
Sử dụng, biểu tượng, diễn giải thông thường.
"Phần này có thể chứa đựng một lượng văn hoá Anh Mỹ thiên lệch,do dịch từ trang tiếng Anh. Nếu có thể xin bạn giúp sửa chữa"
Tọa độ màu.
'Số Hex = #FFFF00
RGB (r, g, b) = (255, 255, 0)
CMYK (c, m, y, k) = (0, 0, 100, 0)
HSV (h, s, v) = (60, 100, 100)
Từ nguyên.
Từ "vàng" trong tiếng Việt bắt nguồn từ từ tiếng Hán thượng cổ 黃 (có nghĩa là màu vàng). William H. Baxter và Laurent Sagart phục nguyên âm tiếng Hán thượng cổ của từ 黃 là /*N-kʷˤaŋ/. Chữ Hán 黃 có âm Hán Việt là "hoàng". |
Tía | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3882 | Tía (purple), chữ Hán: 紫 (đọc là tử) là màu có phạm vi giữa đỏ và xanh lam.
Thời cổ đại, tía là màu được mặc bởi các Hoàng đế La mã và thẩm phán, sau này được mặc bởi các giám mục Công giáo. Vì thế màu tía thường được liên hệ tới hoàng gia và lòng sùng tín.
Trong quang phổ.
Nó nằm trong dải các màu trung gian giữa màu đỏ và màu xanh lam.
Trong mô hình màu.
Trong biểu đồ màu CIE 1931, đường thẳng nối các màu xa nhất của quang phổ (màu đỏ và màu tía) được biết như là "đường các màu tía" (hay "giới hạn tía"); nó thể hiện giới hạn nhận thức về màu sắc của con người.
Trong phối màu in ấn.
Màu hồng đậm được sử dụng trong công nghệ in CMYK là nằm trên đường các màu tía, nhưng nhiều người liên hệ thuật ngữ "tía" với những màu có ánh xanh lam hơn.
Tọa độ màu.
Số Hex = #6A0DAD
RGB (r, g, b) = (106, 13, 173)
CMYK (c, m, y, k) = (39, 92, 0, 32)
HSV (h, s, v) = (275, 92, 68) |
Tím | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3883 | Màu tím (tiếng Anh:purple hoặc là violet được gọi thế theo màu hoa của cây violet) chỉ tới một nhóm các màu xanh da trời ánh đỏ hay màu tía ánh xanh. Trên thực tế, nó chỉ tới màu của ánh sáng ở bước sóng ngắn gần cuối của quang phổ. Nếu tính cả màu chàm ("indigo"), bước sóng của chúng nằm trong khoảng 420-380 nanomét.
"Vi-ô-lê" xuất phát từ tiếng Pháp, được gọi như vậy theo màu hoa của cây violet.
Màu violet thường được cảm nhận với nhiều sắc thái xanh lam hơn so với màu tía, và thường có cường độ nhạt hơn. Trong khi đó màu tía có cảm giác đỏ nhiều hơn.
Trong quang phổ.
Màu tím nằm trong dải các màu xanh lam ánh đỏ hay màu tía ánh xanh lam.
Nó là màu của ánh sáng ở bước sóng ngắn gần cuối của quang phổ. Nếu tính cả màu chàm ("indigo"), bước sóng của chúng nằm trong khoảng 380 đến 420 nanômét.
Các bước sóng này khó có thể tái tạo trên màn hình máy tính. Ta có thể nhìn thấy bước sóng này bằng cách nhìn ánh sáng phản chiếu từ các rãnh phản quang trên mặt đĩa CD (đĩa quang).
Màu tím và màu hồng là màu của bi số 4 (bi trơn) và bi số 12 (bi sọc) trong pool. |
Đỏ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3884 | Màu đỏ (red) là màu sắc mà đa số người cảm nhận được khi nhìn vào hình bên.
Trong vật lý.
Ánh sáng có màu đỏ là ánh sáng ít bị khúc xạ nhất nên khi mặt trời lặn hay mọc đều có màu đỏ.
Trong quang phổ.
Đỏ là màu của bức xạ điện từ có tần số thấp nhất (bước sóng dài nhất) có thể thấy rõ bởi mắt người (ánh sáng). Ánh sáng đơn sắc đỏ có bước sóng nằm trong khoảng 630-760 nm.
Các bức xạ điện từ có tần số thấp hơn được gọi là hồng ngoại.
Trong phối màu màn hình.
Màu đỏ là màu gốc trong hệ RGB của phối màu phát xạ (phối màu bổ sung), là màu bù cho màu xanh lơ trong hệ CMY của phối màu hấp thụ.
Trong phối màu in ấn.
Màu đỏ đã từng được cho là màu gốc trong phối màu hấp thụ và đôi khi vẫn được miêu tả như vậy trong các văn bản không khoa học. Tuy nhiên, màu xanh lơ, hồng sẫm và vàng hiện nay được biết như là rất gần với màu gốc hấp thụ phát hiện được bởi mắt người và chúng được sử dụng trong công nghệ in ấn hiện đại.
Trong nhiếp ảnh.
Kính lọc đỏ sử dụng trong nhiếp ảnh đen trắng tăng độ tương phản trong phần lớn các cảnh. Ví dụ, trong tổ hợp với kính phân cực, nó có thể làm cho bầu trời trở thành đen. Các loại phim dựa theo các hiệu ứng của phim hồng ngoại (chẳng hạn như SFX 200 của Ilford) làm được như vậy do nó nhạy với màu đỏ hơn các màu khác.
Trong sinh vật.
Máu đủ oxy có màu đỏ do sự tồn tại của hêmôglôbin. Ánh sáng đỏ là ánh sáng được hấp thụ nhiều nhất bởi nước biển, vì thế rất nhiều loại cá và động vật không xương sống ở biển có màu đỏ tươi (đối với người) là đen trong môi trường sống của chúng.
Sử dụng, biểu tượng, biểu diễn thông thường.
Ngoài ra: Bước sóng còn có chiết suất nhỏ nhất. |
Đỏ thắm | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3888 | Màu đỏ thắm (tên tiếng Anh: crimson) là màu sắc đa số người cảm nhận khi nhìn vào hình bên. Màu này đỏ sẫm có ánh xanh rất nhẹ. Thông thường, nó có thể coi là màu của máu.
Trong phối màu in ấn, nhuộm.
Màu đỏ Alizarin là chất màu được tổng hợp lần đầu tiên năm 1868 bởi các nhà hóa học người Đức Carl Gräbe và Carl Lieberman và thay thế cho các chất màu tự nhiên chiết từ rễ cây thiến thảo (một cây loại "Rubia" họ "Rubiaceae"). Màu đỏ Alizarin là một thuốc nhuộm được lấy ra từ rễ cây này bằng phèn chua. Nói chung nó không phải là một chất bền màu, khi trộn với bột son ("ochre"), bột màu sienna và bột màu umber.
Màu đỏ thắm, hay đỏ thẫm ("carmine") đôi khi được sử dụng để chỉ thuốc nhuộm sản xuất từ xác khô của bọ yên chi cái ("cochineal") mặc dù thông thường người ta vẫn gọi nó là chất màu "yên chi" từ tên của loài bọ này. Nó có lẽ được phát hiện ra trong cuộc viễn chinh của người Tây Ban Nha tới México là ông Hernán Cortés và được đem về châu Âu trong những năm đầu của thập niên 1500. Màu đỏ thẫm này lần đầu tiên được Mathioli miêu tả năm 1549.
Chất màu đỏ thẫm có thể là hỗn hợp muối nhôm và calci của axít carminic và màu carmine là màu chứa nhôm hay nhôm-thiếc của dịch chiết từ bọ yên chi, trong khi dịch màu đỏ thắm được sản xuất bằng cách trộn chất chiết của bọ yên chi với dung dịch 5 phần trăm phèn chua và kem tartar (muối kali của axít tartaric KHC4H4O6). Màu tía được sản xuất tương tự màu đỏ thẫm với sự bổ sung thêm của vôi sống để sản xuất màu tía thẫm. Thuốc nhuộm màu đỏ thẫm ("carmine") có xu hướng bay màu nhanh.
Thuốc nhuộm này đã từng được đánh giá cao ở cả châu Mỹ và châu Âu. Nó được sử dụng trong các tranh của Michelangelo và trên vải áo của kỵ binh Hungary, người Thổ Nhĩ Kỳ,áo choàng đỏ của Vương quốc Anh và Cảnh sát Hoàng gia Canada.
Ngày nay thuốc nhuộm màu đỏ thẫm carmine được sử dụng trong nhuộm màu thực phẩm, y tế và mỹ phẩm cũng như trong một số sơn dầu và màu nước được các họa sĩ sử dụng.
Tọa độ màu.
Số Hex = #DC143C
RGB (r, g, b) = (220, 20, 60)
CMYK (c, m, y, k) = (14, 92, 76, 0)
HSV (h, s, v) = (348, 91, 86) |
Đỏ tươi | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3889 | Màu đỏ tươi là màu sắc đa số người cảm nhận khi nhìn vào hình bên.
Trong quang phổ.
Màu đỏ tươi là màu nằm giữa màu đỏ và màu da cam. Nó đỏ hơn màu đỏ son.
Quang phổ bức xạ của các hợp chất hóa học của stronti được coi là nằm trong khu vực "đỏ tươi" của quang phổ. Các vạch của quang phổ này nằm ở bước sóng 640,8 nm, 650,4 nm, 687,8 nm và 707,0 nm.
Tọa độ màu.
Số Hex = #FF2400
RGB (r, g, b) = (255, 36, 0)
CMYK (c, m, y, k) = (0, 86, 100, 0) |
Đỏ son | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3891 | Đỏ son (vermilion) hay đỏ chu sa là tên gọi của màu sắc đa số người cảm nhận khi nhìn vào hình bên. Đỏ son là màu rất giống như màu đỏ. Nó có màu đỏ tươi nhưng có ánh màu da cam rất nhẹ. Gọi là màu đỏ son do màu của một số loại son đỏ rất giống như vậy.
Nó đồng thời cũng là tên gọi của một loại thuốc màu có nguồn gốc từ khoáng vật chu sa. Nó được sử dụng rộng rãi trong nghệ thuật và trang trí của La Mã cổ đại, trong các sách chép tay được minh họa thời Trung cổ, trong hội họa thời kỳ Phục Hưng, làm sindoor tại Ấn Độ, cũng như trong nghệ thuật và đồ sơn mài tại Trung Quốc.
Hóa học và sản xuất.
Bột màu đỏ son là chất màu trong mờ,nặng với sắc thái tươi và trong. Bột màu này nguyên được làm bằng cách nghiền mịn khoáng vật chu sa (thủy ngân(II) sulfide). Giống như phần lớn các hợp chất của thủy ngân, nó rất độc hại.
Bột màu đỏ son không phải là một sắc thái màu cụ thể; thủy ngân sulfide tạo ra một loạt các sắc thái nóng, từ đỏ cam tươi tới tía ánh đỏ xỉn hơn,trông tương tự như gan vịt tươi. Các khác biệt về sắc thái là do kích thước các hạt bột đã nghiền mịn. Các tinh thể lớn hơn tạo ra màu xỉn hơn và ít sắc cam hơn.
Bột màu chu sa là một phụ phẩm trong khai thác mỏ thủy ngân, và việc khai thác mỏ chu sa là khó khăn, tốn kém và nguy hiểm, do độc tính của thủy ngân. Nhà triết học Hy Lạp Theophrastus xứ Eresus (371–286 TCN) mô tả quá trình này trong "De Lapidibus", cuốn sách khoa học đầu tiên về khoáng vật. Đã có các cố gắng từ rất sớm nhằm tìm ra cách thức tốt hơn để sản xuất bột màu này.
Người Trung Quốc có lẽ là những người đầu tiên làm ra bột màu đỏ son tổng hợp từ thế kỷ 4 TCN. Nhà giả kim thuật Hy Lạp Zosimos xứ Panopolis (thế kỷ 3–4) viết rằng một phương pháp như thế đã tồn tại. Đầu thế kỷ 9 quá trình này đã được nhà giả kim thuật Ba Tư Jabir ibn Hayyan (722–804) mo tả chính xác trong sách của ông về các công thức màu, và quá trình này đã bắt đầu được sử dụng rộng rãi tại châu Âu.
Quá trình được Jabir ibn Hayyan mô tả là khá đơn giản. |
Đỏ son | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3891 | Thủy ngân và lưu huỳnh được trộn cùng nhau tạo ra một hợp chất thủy ngân sulfide màu đen, gọi là "Aethiopes mineralis". Chất này sau đó được nung trong bình thót cổ. Hợp chất này bay hơi và ngưng tụ lại ở phía trên của bình thót cổ. Bình này sau đó được đập vỡ và lấy ra cục màu đỏ son để đem nghiền. Khi mới được tạo ra nó có màu gần như đen, nhưng khi được nghiền thì màu đỏ sẽ xuất hiện. Bột màu càng được nghiền lâu thì màu càng tinh tế hơn. Họa sĩ người Ý thời Phục Hưng là Cennino Cennini (khoảng 1360 - trước 1427) viết rằng: "nếu bạn có thể nghiền nó mỗi ngày trong hai mươi năm thì nó càng tốt hơn và hoàn hảo hơn".
Trong thế kỷ 17 một phương pháp mới sản xuất bột màu này được giới thiệu, gọi là 'phương pháp Hà Lan'. Thủy ngân và lưu huỳnh nóng chảy được phối trộn để tạo ra thủy ngân sulfide màu đen, sau đó nung nóng trong bình cổ cong, tạo ra hơi được ngưng tụ như là thủy ngân sulfide màu đỏ tươi. Để loại bỏ lưu huỳnh thì các tinh thể này được xử lý bằng chất kiềm mạnh, rửa sạch và cuối cùng nghiền trong nước để tạo ra dạng bột thương phẩm của chất màu này. Ngày nay bột màu này về cơ bản vẫn được sản xuất theo quy trình này.
Bột màu đỏ son có một khuyết điểm quan trọng: nó có khả năng sẫm màu hoặc phát triển ánh bề mặt màu xám ánh tía. Cennino Cennini viết: "Hãy nhớ... rằng đặc tính của nó là khong nên cho tiếp xúc với không khí, nhưng nó có khả năng chống lại trên tấm ốp panen hơn là trên tường, vì khi nó được sử dụng và sắp đặt trên tường, theo thời gian nằm trong không khí, nó chuyển sang màu đen". Nghiên cứu mới hơn chỉ ra rằng các ion clo và ánh sáng có thể hỗ trợ sự phân hủy màu đỏ son thành thủy ngân nguyên tố, có màu đen ở dạng phân tán mịn.
Bột màu đỏ son là chất màu đỏ chính được các họa sĩ châu Âu sử dụng từ thời Phục Hưng tới thế kỷ 20. Tuy nhiên, vì giá thành và tính độc hại của nó, nó gần như đã được thay thế hoàn toàn bằng một chất màu tổng hợp mới là đỏ cadmi trong thế kỷ 20. |
Đỏ son | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3891 | Bột màu đỏ son chính hiệu ngày nay hầu hết có xuất xứ từ Trung Quốc; nó là thủy ngân sulfide tổng hợp, được dán nhãn trên các ống sơn là PR-106 (Sắc tố đỏ 106). Chất màu tổng hợp này có chất lượng cao hơn màu đỏ son được làm từ chu sa nghiền, do lẫn nhiều tạp chất. Chất màu này là rất độc, và cần được sử dụng cẩn thận. |
Hồng (màu) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3894 | Màu hồng là màu sắc đa số người cảm nhận khi nhìn vào hình bên. Có rất nhiều biến thể của màu này. Nó lần đầu tiên được sử dụng làm tên màu vào cuối thế kỷ 17. Theo các cuộc khảo sát ở Châu Âu và Hoa Kỳ, màu hồng là màu thường liên quan đến sự quyến rũ, lịch sự, nhạy cảm, dịu dàng, ngọt ngào, trẻ thơ, nữ tính và lãng mạn.
Trong văn học trung đại Việt Nam (như hồng quần, hồng nhan...) hay với một số thuật ngữ quen thuộc (như hồng cầu, Hồng quân), chữ "hồng" ( 紅) được dùng để chỉ màu đỏ nói chung, theo cách dùng gốc của Hán ngữ. Trong khi đó, để chỉ các sắc hồng theo cách gọi tại Việt Nam ngày nay, người ta có thể dùng một số từ ghép bởi chữ hồng với chữ bổ trợ, ví dụ như " phấn hồng" (粉紅). Bên cạnh chữ "hồng", Hán ngữ còn có các chữ khác để chỉ các sắc thái đỏ như: "xích" (赤), "chu" (朱), "đan" (丹).
Từ nguyên và định nghĩa.
Màu hồng được đặt theo tên của một loài hoa, hồng, thực vật có hoa thuộc chi Cẩm chướng.
Màu hồng hiếm khi xuất hiện trong tự nhiên, đó là lý do tại sao nó lần đầu tiên được sử dụng như một danh từ để chỉ một màu sắc vào thế kỷ 17.
Trong phối màu in ấn.
Màu hồng được tạo ra bằng cách trộn 80% màu trắng với 20% màu đỏ và đôi khi được miêu tả như là màu đỏ rất nhạt. Hoặc trộn 15% màu tím violet với 85% màu vàng nhạt sẽ tạo ra màu hồng phấn
Trong phối màu màn hình.
Màu hồng là màu đỏ chưa bão hòa (trộn thêm một tỷ lệ màu xanh lá cây và xanh lam). |
Du lịch Áo | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3895 | Du lịch là một phần quan trọng trong kinh tế Áo, chiếm gần 9% tổng sản phẩm quốc nội của quốc gia này.
Năm 2007, tổng cộng số du khách ở lại qua đêm vào mùa Hè bằng mùa Đông, với cao điểm rơi vào tháng 2 và tháng 7/8.
Năm 2007, Áo xếp thứ 9 trên toàn thế giới về doanh số thu được từ khách quốc tế đến, với doanh thu đạt 18,9 tỷ USD. Tính về số lượt khách quốc tế, Áo xếp hạng 12 với 20,8 triệu lượt khách.
Các chuyến đi đến Áo thường bao gồm các chuyến đi đến Viên ("Vienna"). Được biết đến nhiều nhất ở Wien là Nhà thờ lớn Stephan (Stephansdom), các quán rượu nho Heurigenschenken và bầu không khí nhạc waltz lãng mạn.
Ngoài ra các điểm đáng đến thăm là thành phố Salzburg, nơi sinh của Mozart, thành phố Innsbruck, thủ phủ của Tirol, được bao bọc bởi núi Alpen và sông Donau với vùng trồng nho Wachau. Ở phía tây nước Áo là hồ Bodensee, phía đông là hồ Neusiedler See. Nổi tiếng nhiều nhất ở Áo là vùng trượt tuyết và leo núi ở núi Alpen, các hồ trên núi (Wörther See ở Käntern) và các sự kiện văn hóa như Lễ hội Salzburg và Lễ hội Bregenz.
Viện bảo tàng Ars Electronica Center ở Linz là một điểm phải đến cho những du khách thích nghệ thuật số. Bắt đầu từ năm 1979 trung tâm này tổ chức lễ hội Electronica Festival và tổ chức trao giải Prix Ars Electronica, giải thưởng có giá trị cao nhất của thế giới về nghệ thuật trên máy tính. |
Địa khai hóa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3900 | Địa khai hóa là quá trình giả thiết biến đổi bầu khí quyển, nhiệt độ, địa hình bề mặt và hệ sinh thái của một hành tinh, vệ tinh tự nhiên hoặc thiên thể khác cho giống với môi trường có thể sống được như trên Trái Đất.
Định nghĩa của địa khai hóa được phát triển từ cả khoa học viễn tưởng và khoa học thực thụ. Nó được đặt ra bởi Jack Williamson trong một truyện ngắn viễn tưởng xuất bản năm 1942 trong "Astounding Science Fiction."
Thậm chí nếu môi trường của một hành tinh có thể dược cải tạo kĩ lưỡng thì tính khả thi của việc tạo ra một môi trường hành tinh tựa Trái Đất vẫn chưa được xác nhận. Sao Hỏa thường được đề cập đến như một ứng cử viên cho việc địa khai hóa. Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện liên quan đến tính khả thi của việc làm nóng và thay đổi bầu khí quyển của nó, và NASA đã tổ chức nhiều cuộc tranh luận cho vấn đề này. Một vài phương án tiềm năng trong việc thay đổi khí hậu Sao Hỏa có thể dựa vào khả năng công nghệ của nhân loại, nhưng hiện tại, nguồn tài nguyên kinh tế lại cần cao hơn khả năng đáp ứng của bất kỳ chính phủ hay cộng đồng nào. Khoảng thời gian dài và tính thực tiễn của việc địa khai hóa là những chủ đề cần tranh luận. Những câu hỏi chưa có lời giải khác liên quan đến đạo đức, hậu cần, kinh tế, chính trị và phương pháp luận của việc biến đổi môi trường một thế giới ngoài Trái Đất.
Lịch sử.
Nhà thiên văn học Carl Sagan đã đề xuất một kỹ thuật hành tinh của Sao Kim trong một bài viết trên tạp chí "Science" năm 1961. Sagan tưởng tượng việc gieo mầm bầu khí quyển của Sao Kim với tảo biển, thứ sẽ biến đổi nước, khí N2 và CO2 thành các hợp chất hữu cơ. Với quá trình loại bỏ khí carbon dioxide trong khí quyển này, hiệu ứng nhà kính sẽ được giảm bớt cho đến khi nhiệt độ bề mặt rơi vào cấp độ thích hợp. Sagan giả đinh rằng carbon thành phẩm sẽ bị đốt bởi nhiệt độ cao của Sao Kim, và do đó bị cô lập trong trạng thái "graphit hoặc những dạng thù hình của carbon" trên bề mặt hành tinh. Tuy nhiên, những khám phá sau đó về những điều kiện trên Sao Kim đã làm cho việc tiếp cận này trở nên bất khả thi. |
Địa khai hóa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3900 | Một vấn đề là những đám mây của sao Kim được cấu tạo từ dung dịch acid sulfuric đậm đặc. Thâm chí nếu tảo có thể phát triển trong môi trường đặc thù của tầng trên khí quyển Sao Kim, một vấn đề còn khó khăn hơn là bầu khí quyển đơn giản rằng quá dày - áp suất cao sẽ dẫn tới một khí quyển gồm các phân tử oxy gần như nguyên chất và gây ra cho bề mặt của hành tinh được bao phủ dày đặc bởi bột mịn graphit. Dạng kết hợp dễ bay hơi này có thể không được duy trì qua thời gian. Bất kỳ carbon nào được cố định ở dạng hữu cơ sẽ được giải phóng lại thành khí carbon dioxide thông qua quá trình cháy, làm "đoản mạch" quá trình địa khai hóa.
Sagan cũng đã hình dung việc địa khai hóa Sao Hỏa để tạo ra môi trường để cho con người có thể sống được trong "Planetary Engineering on Mars" (1973), một bài được xuất bản trong tạp chí "Icarus". Ba năm sau, NASA đã chính thức giải quyết vấn đề của kỹ thuật hành tinh trong một nghiên cứu, nhưng được sử dụng thay thế như "sinh thái tổng hợp hành tinh". Nghiên cứu kết luận rằng Sao Hỏa có thể hỗ trợ sự sống và trở thành hành tinh có thể sống được. Phiên hội nghị đầu tiên trong việc địa khai hóa, sau đó giới thiệu "mô hình hành tinh" được tổ chức cùng năm.
Tháng 3 năm 1979, kiến trúc sư NASA và tác giả James Oberg tổ chức cuộc hội đàm địa khai hóa đầu tiên, một hội nghị đặc biệt ở Lunar and Planetary Science Conference tại Houston. Oberg truyền tải những định nghĩa địa khai hóa được bàn luận ở cuộc hội đàm đến công chúng qua cuốn sách "New Earth" (1981). Đến năm 1982 từ "địa khai hóa" được sử dụng trong tựa đề của một bài viết trong tạp chí. Nhà thiên văn học Christopher McKay đã viết "địa khai hóa Sao Hỏa", một bài viết cho "Journal of the British Interplanetary Society". Bài viết thảo luận về những tiềm năng của một sinh quyển tự điều chỉnh, và cách dùng từ của McKay đã trở thành thuật ngữ được yêu thích. Năm 1984, James Lovelock và Michael Allaby đã xuất bản "The Greening of Mars." Sách của Lovelock lần đầu tiên miêu tả một phương pháp mới lạ của việc làm ấm Sao Hỏa, nơi mà chlorofluorocarbon (CFC) được thêm vào bầu khí quyển.
Các khía cạnh và định nghĩa.
Năm 1985, Martyn J. Fogg bắt đầu xuất bản vài bài viết về địa khai hóa. |
Địa khai hóa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3900 | Ông cũng làm việc như biên tập viên cho một vấn đề đầy đủ về địa khai hóa cho "Journal of the British Interplanetary Environments" năm 1992. Trong quyển "Terraforming: Engineering Planetary Environments" (1995), Fogg đã đề xuất những định nghĩa sau cho những khía cạnh khác nhau liên quan đến địa khai hóa:
Fogg cũng đã nghĩ ra những khái niệm cho những hành tinh ứng cử viên trong việc thay đổi theo mức độ tương thích của con người:
Fogg đề nghị rằng Sao Hỏa đã từng là một hành tinh có sự sống trong thời trẻ của nó, nhưng bây giờ không thuộc một trong ba loại này, bởi vì nó chỉ có thể được địa khai hóa với độ khó cao hơn.
Những yêu cầu cho sự sống.
Một yêu cầu tuyệt đối cho sự sống là nguồn năng lượng, nhưng quan niệm về khả năng sống được của hành tinh bao hàm nhiều tiêu chí vật lý địa chất, hóa học địa chất và thiên văn địa chất phải có trước khi bề mặt của một thiên thể có thể hỗ trợ sự sống. Mối quan tâm đặc biệt là tập hợp các yếu tố duy trì độ phức tạp, sinh vật đa bào ngoài những sinh vật đơn giản hơn trên Trái Đất. Nghiên cứu và lý thuyết về vấn đề này là một phần của ngành khoa học hành tinh và ngành mới nổi của sinh học vũ trụ.
Trong lộ trình của sinh học thiên thể, NASA đã định nghĩa tiêu chí sinh sống hàng đầu như "những khu vực mở rộng của nước dạng lỏng, điều kiện thuận lợi cho việc cấu thành nên những phân tử hữu cơ phức tạp, và nguồn năng lượng để duy trì sự trao đổi chất".
Các cấp sơ bộ.
Một khi những điều kiện trở nên phù hợp hơn cho sự sống của các loài du nhập, có thể bắt đầu sự nhập cư của các vi sinh vật. Khi các điều kiện trở nên gần giống với Trái Đất, thực vật cũng có thể được mang đến đấy. Điều này sẽ gia tăng sự sản sinh của oxy, điều mà trên lý thuyết sẽ làm cho hành tinh thậm chí có thể hỗ trợ cho đời sống động vật.
Mục tiêu tương lai.
Sao Hỏa.
Ở nhiều khía cạnh, Sao Hỏa là hành tinh giống với Trái Đất nhất trong Hệ Mặt Trời. Sao Hỏa được cho là từng có một môi trường giống Trái Đất trong thời kỳ sơ khai, với bầu khí quyển dày hơn và nguồn nước dồi dào, điều mà đã bị mất đi qua hàng trăm triệu năm. |
Địa khai hóa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3900 | Cơ chế chính xác của việc thất thoát này vẫn còn chưa rõ, mặc dù ba cơ chế riêng biệt có vẻ như là: đầu tiên, bất cứ khi nào bề mặt nước hiện hữu, carbon dioxide phản ứng với đá tạo nên carbonat, do đó rút dần bầu khí quyển và ràng buộc nó với bề mặt hành tinh. Trên Trái Đất, quá trình này bị phản tác dụng khi các mảng kiến tạo hoạt động gây nên các vụ phun trào núi lửa làm cho carbon dioxide trở lại khí quyển. Trên Sao Hỏa, sự thiếu hụt hoạt động kiến tạo ngăn chặn sự tái tạo của khí gas khóa chặt trong các lớp trầm tích.
Thứ hai, việc thiếu từ quyển quanh Sao Hỏa cho phép gió Mặt Trời bào mòn dần bầu khí quyển. Đối lưu trong lõi đầy sắt của Sao Hỏa ban đầu tạo ra từ trường. Tuy nhiên, dynamo đã ngừng hoạt động từ lâu, và từ trường Sao Hỏa phần lớn đã biến mất, có thể do "sự mất nhiệt, sự rắn hóa hầu hết phần lõi, và / hoặc những thay đổi trong cơ chế đối lưu của lớp phủ". Kết quả từ nhiệm vụ "MAVEN" của NASA cho thấy khí quyển bị loại bỏ chủ yếu bởi những sự kiện phun trào nhật hoa, nơi bùng nổ các proton tốc độ cao từ Mặt Trời tác động đến bầu khí quyển. Sao Hỏa vẫn còn giữ lại một từ quyển có hạn bao phủ xấp xỉ 40% bề mặt. Thay vì bao phủ và bảo vệ bầu khí quyển một cách thống nhất từ gió Mặt Trời, từ trường có dạng nhỏ hơn, hình ô, phần lớn co cụm lại xung quanh bán cầu nam của hành tinh.
Cuối cùng, khoảng 4,1 đến 3,8 tỷ năm trước, thiên thạch va chạm trong sự kiện Late Heavy Bombardment đã gây ra những thay đổi đáng kể môi trường bề mặt của các vật thể trong Hệ Mặt Trời. Lực hấp dẫn yếu của Sao Hỏa gợi ý rằng những cú va chạm này có thể đã đẩy bầu khí quyển của nó vào không gian.
Địa khai hóa Sao Hỏa đòi hỏi hai thay đổi lớn xen kẽ: xây dựng bầu khí quyển và làm nóng nó. Một bầu khí quyển dày hơn với các khí nhà kính như carbon dioxide có thể giữ lại bức xạ Mặt Trời tới. Bởi vì nhiệt độ gia tăng sẽ thêm các khí nhà kính vào bầu khí quyển, hai quá trình này sẽ tăng cường lẫn nhau. |
Địa khai hóa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3900 | Chỉ một mình carbon dioxide sẽ không đủ để duy trì nhiệt độ trên điểm đóng băng của nước, nên một hỗn hợp của các khí nhà kính riêng biệt có thể được sản xuất.
Sao Kim.
Việc địa khai hóa Sao Kim yêu cầu hai thay đổi lớn; loại bỏ hầu hết carbon dioxide, có mật độ trong khí quyển và làm giảm nhiệt độ bề mặt () của hành tinh. Những mục tiêu này gần như liên quan đến nhau, bởi vì nhiệt độ cực nóng của Sao Kim được tạo ra bởi hiệu ứng nhà kính gây nên bởi bầu khí quyển đậm đặc. Cô lập bầu khí quyển carbon dioxide sẽ cũng giống như việc giải quyết vấn đề nhiệt độ hành tinh.
Mặt Trăng.
Mặc dù lực hấp dẫn của Mặt Trăng là quá nhỏ để giữ một bầu khí quyển cho các khoảng thời gian địa chất, nhưng nếu được cho một bầu khí quyển, nó vẫn sẽ giữ lại bầu khí quyển đó trong một khoảng thời gian dài, so với tuổi thọ con người. Landis và những người khác đã cho rằng việc địa khai hóa Mặt Trăng là khả thi, dù không phải tất cả đều đồng ý với ý kiến đó. Landis đo được rằng 1 psi oxy nguyên chất trong khí quyển của Mặt Trăng sẽ yêu cầu 200 nghìn tỷ tấn oxy, và gợi ý rằng nó có thể được tạo ra bằng cách khử oxy từ một lượng đá Mặt Trăng tương đương với một khối lập phương có cạnh khoảng 50 km. Nói cách khác, ông đã đề xuất rằng hàm lượng nước của "50 đến 100 sao chổi" kích thước của sao chổi Halley sẽ làm việc này, "giả định rằng nước không văng ra khi sao chổi đâm vào Mặt Trăng". Tương tự như vậy, Benford đã tính toán rằng việc khai hóa Mặt Trăng sẽ yêu cầu "khoảng 100 sao chổi kích thước của Halley".
Trái Đất.
Có đề xuất rằng do các hiệu ứng của biến đổi khí hậu, một chương trình can thiệp có thể được thiết kế để cho Trái Đất trở về bình thường và các thông số khí hậu tốt hơn. Để đạt được điều này, nhiều giải pháp đã được đề xuất, như việc kiểm soát bức xạ Mặt Trời, cô lập carbon dioxide bằng cách sử dụng những phương pháp kỹ thuật địa chất, chế tạo và giải phóng sinh vật biến đổi gen giúp thay đổi khí hậu.
Các vật thể khác trong Hệ Mặt Trời. |
Địa khai hóa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3900 | Các vật thể khác trong Hệ Mặt Trời.
Các ứng cử viên khả thi khác cho việc khai hóa (có thể một phần hoặc toàn phần) bao gồm Titan, Callisto, Ganymede, Europa, và thậm chí là Sao Thủy, vệ tinh Enceladus của Sao Thổ, và hành tinh lùn Ceres.
Trong văn hóa đại chúng.
Địa khai hóa là một khái niệm phổ biến trong khoa học viễn tưởng, truyền hình, phim, tiểu thuyết và trò chơi điện tử.
Một khái niệm có liên quan là "xenoforming" - một quá trình trong đó người ngoài hành tinh thay đổi Trái Đất hoặc các hành tinh khác để phù hợp với nhu cầu của họ, đã được đề xuất trong tác phẩm kinh điển "The War of the Worlds" (1898) của H. G. Wells. |
Alexandre Yersin | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3904 | Alexandre Émile Jean Yersin (phiên âm tiếng Việt: "Y-éc-xanh"; 22 tháng 9 năm 1863 – 1 tháng 3 năm 1943) là một bác sĩ, nhà vi khuẩn học và nhà thám hiểm người Pháp gốc Thuỵ Sĩ. Ông nổi tiếng vì là người đầu tiên phát hiện ra trực khuẩn gây ra bệnh dịch hạch, sau này được đặt tên để vinh danh ông ("Yersinia pestis"). Một nhà vi khuẩn học khác, Kitasato Shibasaburo, được ghi nhận là đã xác định độc lập vi khuẩn này từ vài ngày trước đó, nhưng có thể đã xác định được một loại vi khuẩn khác và không phải là mầm bệnh gây ra bệnh dịch hạch. Yersin cũng lần đầu tiên chứng minh rằng loại trực khuẩn có trong bộ gặm nhấm cũng xuất hiện trong bệnh dịch ở người, do đó nhấn mạnh được các phương thức lây truyền khả thi. Ông cũng là một nhà thám hiểm, người đã khám phá Cao nguyên Lâm Viên và vạch ra một con đường bộ từ Trung Kỳ sang Cao Miên, cũng là người thành lập và là hiệu trưởng đầu tiên của Trường Y khoa Hà Nội (tiền thân của Đại học Y Hà Nội). Ông được người dân xóm Cồn gọi bằng cái tên thân thuộc: "Thầy Năm".
Thiếu thời.
Yersin sinh năm 1863 tại Aubonne, Tổng Vaud, Thụy Sĩ, là con út trong gia đình có ba người con. Họ là thành viên Giáo hội Tin Lành Cải cách Tổng Vaud. Mẹ ông là hậu duệ của những người Huguenot ở Cévennes phải đào thoát khỏi nước Pháp để tránh bị bức hại tôn giáo sau khi Louis XIV ra Chỉ dụ Fontainbleau năm 1685 thu hồi Chỉ dụ Nantes do Henri IV ban hành năm 1598. Lúc ấy Tổng Vaud còn thuộc lãnh thổ Savoie, sau giành được độc lập ngày 24 tháng 1 năm 1798 và gia nhập Thụy Sĩ ngày 14 tháng 4 năm 1803.
Cha ông, Alexandre (1825-1863), là giáo viên môn khoa học tự nhiên tại những trường trung học ở Aubonne và Morges, kiêm nhiệm chức quản đốc kho thuốc súng, và say mê nghiên cứu các loại côn trùng. Bị xuất huyết não, cha ông qua đời chỉ ba tuần lễ trước khi Yersin ra đời. Mẹ ông một mình nuôi ba con (Émilie, Franck, và Alexandre), dời đến sinh sống ở Morges, và tại đây bà mở trường dạy nữ công gia chánh và cung cách sống cho các thiếu nữ.
Học vấn. |
Alexandre Yersin | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3904 | Học vấn.
Sau khi tốt nghiệp trung học, năm 1883 Yersin đến Lausanne để học y khoa, rồi sang Marburg, Đức, tiếp tục theo đuổi ngành học của mình. Trong thời gian lưu trú ở Marburg, qua báo chí, Yersin đọc biết về David Livingstone – nhà truyền giáo và nhà thám hiểm người Scotland – và Livingstone trở thành hình mẫu lý tưởng cho chàng trai Yersin nhiều hoài bão. Năm 1885, ông đến Pháp, nghiên cứu y học tại Hôtel-Dieu de Paris (liên kết với Khoa Y thuộc Đại học Paris Descartes). Tin tức, những chuyến đi, và những tấm bản đồ về Đông Dương đã khơi dậy niềm đam mê thám hiểm của chàng sinh viên y khoa, người trong suốt cuộc đời luôn muốn chọn những gì mới mẻ và tuyệt đối hiện đại. Năm 1886, ông gia nhập viện nghiên cứu của Louis Pasteur tại Trường Sư phạm Paris ("École Normale Supérieure") do lời mời của Émile Roux, và tham gia việc phát triển huyết thanh ngừa bệnh dại.
Ở tuổi 25, ngay sau khi nhận văn bằng Tiến sĩ Y khoa với luận án "Étude sur le Développement du Tubercule Expérimental" (Nghiên cứu về sự phát triển của bệnh lao bằng thực nghiệm), Yersin liền sang Berlin để kịp ghi danh theo học lớp vi trùng học kỹ thuật do Robert Koch giảng dạy. Trở về Paris, Yersin xin nhập quốc tịch Pháp bởi vì lúc ấy chỉ có công dân nước Cộng hòa Pháp mới được hành nghề y. Ông gia nhập Viện Pasteur ở Paris mới được thành lập vào năm 1889 làm người cộng tác với Roux, hai người cùng khám phá ra độc tố bạch hầu (do trực khuẩn "Corynebacterium diphtheriae" tạo ra).
Đến Đông Dương.
Tuy nhiên, nhà khoa học trẻ đầy triển vọng này không chịu hài lòng với môi trường học thuật đỉnh cao ở Paris. Năm 1890, Yersin quyết định rời nước Pháp để đến Đông Dương (lúc bấy giờ là thuộc địa của Pháp). Phải đợi đến năm 26 tuổi, Yersin mới thấy biển lần đầu tiên, lúc ấy là một bác sĩ trẻ được cử đi công cán ở làng chài Grandcamp. Trải nghiệm này khơi mở khát vọng được đi và khám phá cũng như sự sẵn lòng từ bỏ tương lai xán lạn trong nghiên cứu khoa học ở Paris như là một môn đệ của Pasteur. Yersin viết cho mẹ: "Con sẽ không buồn nếu phải rời Paris vì con thấy chán ngấy kịch nghệ, đám thượng lưu làm con kinh tởm, và đời mà không đi thì còn gì là đời". |
Alexandre Yersin | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3904 | Khi biết chắc không thể thuyết phục Yersin ở lại Paris, Louis Pasteur bèn viết thư cho Công ty Messageries Maritimes (Vận tải Hàng hải), đề cử Yersin làm bác sĩ trên tàu.
Yersin nhận nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho hành khách và thủy thủ đoàn trên tàu "Volga", một con tàu cũ kỹ chạy bằng buồm và hơi nước trên tuyến hàng hải Sài Gòn – Manila, chuyên chở 67 hành khách cùng vài tấn hàng hóa. Đang lúc làm bác sĩ trên tàu "Volga", qua lại giữa hai thành phố Sài Gòn và Manila, Yersin tự tổ chức cho mình những chuyến thám du ở Philippines và Nam Kỳ, tích lũy kiến thức cùng kinh nghiệm cho ước mơ khám phá những vùng đất mới của ông. Trong thời gian này, Albert Calmette, một môn đệ khác của Pasteur, đến Sài Gòn tìm gặp Yersin đề nghị hợp tác trong nỗ lực thành lập Viện Pasteur ở Sài Gòn.
Năm sau, Yersin được thuyên chuyển sang tuyến hàng hải mới mở Sài Gòn – Hải Phòng, làm bác sĩ trên tàu "Saigon" trọng tải chỉ bằng nửa tàu "Volga", di chuyển dọc bờ biển. Thời ấy chưa có tuyến đường bộ nối liền hai miền nam bắc. Yersin dùng thời gian rảnh rỗi trên tàu để ký họa địa hình bờ biển và, dưới sự hướng dẫn của thuyền trưởng, học cách sử dụng kính lục phân, nghiên cứu môn trắc địa cũng như thu thập kiến thức toán học cần thiết cho công việc quan sát thiên văn học.
Cả chuyến đi cũng như chuyến về, con tàu đều dừng lại ở Nha Trang, một vịnh nước yên tĩnh đầy nắng. Lần nào đến Nha Trang, Yersin cũng bị mê hoặc đến sững sờ bởi vùng đất hoang dã đó với mảng thực vật trên đất liền đẹp rực rỡ, bên trên sừng sững những đỉnh núi mây mù chưa từng ai đặt chân đến, cũng chưa hề được vẽ bản đồ.
Andrien Loir, cháu ruột và là một trong những môn đệ đầu tiên của Pasteur, tìm gặp Yersin kêu gọi sự giúp đỡ của bạn đồng môn cũ cho kế hoạch thành lập một viện Pasteur ở Úc lúc ấy là một lục địa đang trên đà phát triển mạnh, nhưng Yersin từ chối như ông đã khước từ lời đề nghị của Calmette trước đó.
Thám hiểm.
Năm 1891, Yersin xin thôi việc ở hãng Messageries, và quyết định đến sống tại Nha Trang. |
Alexandre Yersin | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3904 | Ông cho dựng một ngôi nhà gỗ ở Xóm Cồn, và mở một phòng khám. "Ông Năm" (Yersin được người dân ở đây gọi như thế) là bác sĩ người Âu đầu tiên hành nghề trong vùng này. Ông nhận tiền khám của những người có máu mặt và có tiền, nhưng tiếp tục chữa bệnh miễn phí cho người nghèo mặc dù thường khi ông không thể nào phân biệt nổi giữa hai hạng người ấy, trong khi vẫn luyện tập chạy điền dã. Ông thực hiện những chuyến thám du hàng trăm cây số trong những vùng đồi núi, vào ở trong các ngôi làng người "Mọi" (cách gọi người sắc tộc thiểu số thời bấy giờ), học chút ít ngôn ngữ, săn bắn, và chữa bệnh cho họ.
Muốn tìm một con đường bộ vào Sài Gòn, Yersin đi ngựa đến Phan Rí, thuê người dẫn đường vào rừng, ông tìm ra cao nguyên Di Linh, nhưng không thể đi tiếp, phải trở lại Phan Thiết, rồi lấy thuyền về Nha Trang. Dù vậy, Yersin vẫn tiếp tục ý định khám phá dải rừng núi bí hiểm dọc theo dãy Trường Sơn, lúc ấy là một vùng hiểm trở hoang vu, là nơi sinh sống của những bộ tộc thiểu số không chịu khuất phục triều đình.
Với mục tiêu tìm một con đường bộ từ Nha Trang ven Biển Đông băng qua dãy Trường Sơn để đến sông Mekong phía bên kia. Yersin sử dụng phần còn lại của món tiền tiết kiệm còm cõi đang cạn dần để mua trang thiết bị và lên kế hoạch cho chuyến thám hiểm. Ngày 23 tháng 9 năm 1892, đoàn thám hiểm gồm bảy thành viên, với vài con ngựa, hai con voi, và một khẩu súng săn hiệu Winschester, dưới sự lãnh đạo của Yersin khởi hành từ Nha Trang ra Ninh Hòa rồi lên Ban Mê Thuột. Ba tháng sau khi rời Nha Trang, đoàn thám hiểm đến Stung Treng bên bờ sông Mekong. Yersin bán lại mấy con ngựa và voi rồi cùng các bạn đồng hành lên thuyền độc mộc về Phnôm Pênh. Những tấm bản đồ ông vẽ được gởi sang Luang Prabang bên Lào để đối chiếu với những ghi nhận của Phái đoàn Pavie, rồi chuyển về Paris. Yersin về Pháp, ở lại Paris trong ba tháng để ghi danh theo học ở Đài Thiên văn Montsouris, và từ chối gia nhập Phái đoàn Pavie. |
Alexandre Yersin | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3904 | Nhờ sự vận động của Pasteur, Yersin nhận được sự trợ giúp của Hãng Đường biển để mua dụng cụ và thêm khoản tiền trang trải chi phí cho những chuyến thám hiểm.
Năm 1892, ít lâu sau chuyến thám hiểm lần thứ nhất, theo lời khuyên của Albert Calmette, Yersin gia nhập đoàn y sĩ hải ngoại để khỏi phải lo lắng về mặt tài chính. Sau 28 năm phục vụ, năm 1920 ông về hưu với cấp bậc Đại tá Quân y.
Tháng 6 năm 1893, được sự ủy thác của Toàn quyền Đông Dương Jean-Marie de Lanessan, Yersin tổ chức đoàn thám hiểm theo đường bộ từ Biên Hòa ra Đồng Nai, lên Di Linh, cuối cùng khám phá Cao nguyên Lâm Viên. Trong nhật ký đề ngày 21 tháng 6 năm 1893, Yersin ghi nhận có vài làng của người sắc tộc D'Lat nằm rải rác trong vùng, "Từ trong rừng thông bước ra tôi sững sờ khi đối diện một bình nguyên hoang vu giống như mặt biển tràn đầy những làn sóng màu xanh lá cây. Sự hùng vĩ của rặng Langbiang hòa lẫn vào đường chân trời tây bắc tạo nên bối cảnh tráng lệ, gia tăng vẻ đẹp của vùng đất này." Đến năm 1899, tại vùng đất được Yersin khám phá, Toàn quyền Paul Doumer cho thiết lập một khu nghỉ dưỡng cho người Âu châu, sau trở thành Đà Lạt.
Với sự trợ giúp từ chính quyền – được cung cấp vật dụng, nhân lực, tiền và vũ khí - quy mô của chuyến thám hiểm lần này lớn hơn nhiều so với lần trước, đôi khi lên đến tám mươi người đi quanh co dưới tán lá rừng. Để đổi lại, Yersin phải khảo sát tìm ra những con đường mới để phát triển thương mại, những địa điểm thích hợp để chăn nuôi gia súc, cũng như kiểm kê tài nguyên rừng và khoáng sản.
Trên đường về, họ đến một ngôi làng người thiểu số thân quen, nơi vừa bị đốt phá bởi bọn cướp – khoảng năm mươi người là tù vượt ngục. Cùng những người can đảm nhất trong đoàn thám hiểm, Yersin quyết định truy đuổi băng cướp, kịp khi bọn chúng dừng chân, đốt lửa và kiểm kê chiến lợi phẩm. Yersin giơ khẩu súng ngắn lên nhưng Thục, thủ lĩnh băng cướp, nhảy đến đẩy chệch nòng súng. Yersin lĩnh một nhát chùy vào chân gãy cả xương, bị rựa chặt đứt nửa ngón cái của bàn tay trái, và bị Thục đâm ngọn giáo vào ngực. |
Alexandre Yersin | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3904 | Bọn cướp bỏ đi vì đinh ninh Yersin đã chết. Theo sự hướng dẫn của Yersin, người ta khoét rộng vết thương, rút mũi giáo, khử trùng, nẹp chân, đặt ông lên một chiếc cáng kết bằng tre và dây rừng, khiêng đi suốt nhiều ngày đến tận Phan Rang. Ở đó có một chuyên gia điện tín báo cho Calmette ở Sài Gòn biết để gởi thuốc đến. Trong khi các vết thương lên sẹo, Yersin dành thì giờ tìm hiểu cách vận hành của máy phát điện tín. Sau đó, ông được đưa về Sài Gòn, viết tường trình, vẽ bản đồ, và phác thảo những tuyến đường tiềm năng.
Yersin chuẩn bị cho chuyến thám hiểm thứ ba, chuyến đi dài nhất và nhiều tham vọng nhất của ông, với dự định mở một con đường mới từ Trung Kỳ sang Lào, khác với con đường của Pavie qua Điện Biên Phủ.
Trước khi Yersin lên đường, Thục bị bắt, và ông được chứng kiến cuộc hành hình để lại nhiều cảm xúc.
Cuối năm 1893, với một lực lượng hùng hậu - ngoài 54 người tùy tùng còn có một toán lính tập mang súng theo hộ tống - Yersin khởi hành từ Biên Hòa lên Đà Lạt, đi tiếp đến cao nguyên Đắk Lắk, vào Attopeu ở nam Lào, rồi đi theo hướng đông ra biển. Yersin đến Đà Nẵng vào ngày 17 tháng 5 năm 1894. Cuộc khảo sát lần thứ ba này thăm dò một vùng đất rộng lớn trải rộng từ vĩ tuyến 11 ở phía nam đến vĩ tuyến 16 ở phía bắc, và từ sông Mekong ở phía tây đến bờ biển Việt Nam ở phía đông. Trang nhật ký ngày 11 tháng 4 của Yersin ghi, "Đường đi thật là khủng khiếp. Trong 4 ngày liên tiếp, chúng tôi phải vượt qua một vùng núi hiểm trở, trèo xuống, leo lên, cứ đơn điệu như thế mãi làm cho chúng tôi rất mệt mỏi. Cây cối chen chúc. Không có đường mòn. Chúng tôi phải khòm lưng chui qua các bụi tre. Vì trời mưa nên rừng có nhiều vắt không thể tả được. Những người Việt Nam đi cùng với chúng tôi bị sốt rét mặc dù đã uống thuốc ngừa..."
Nghiên cứu bệnh dịch hạch.
Trong khi Yersin đang chuẩn bị cho cuộc thám hiểm thứ tư thì bệnh dịch đã bộc phát ở miền Nam Trung Hoa và lan truyền xuống Đông Dương. |
Alexandre Yersin | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3904 | Tháng 5 năm 1894, dịch phát mạnh ở Hồng Kông, gây tử vong cao, và trở thành mối đe dọa cho tất cả cảng biển có giao dịch thương mại với Trung Hoa, trong đó có cảng Hải Phòng. Nhà cầm quyền thuộc địa cử Yersin đến Hồng Kông để nghiên cứu bệnh dịch.
Ngày 15 tháng 6 năm 1894, Yersin đặt chân đến Hồng Kông, trông thấy xác người chết vì dịch hạch trên đường phố, giữa những vũng nước, trong các khu vườn, trên ghe thuyền đang cắm neo. Yersin liền ghi lại quan sát ban đầu của mình, "Tôi nhận thấy có rất nhiều chuột chết trên mặt đất." Ba ngày trước đó, Kitasato đã đến Hồng Kông cũng để nghiên cứu bệnh dịch. Với sự hỗ trợ dồi dào từ người Anh, Kitasato lập một phòng thí nghiệm trong Bệnh viện Kennedy Town, Yersin chỉ được phép đến quan sát nhóm Kitasato làm việc. Yersin ngạc nhiên về phương pháp làm việc của Kitasato: khám nghiệm máu và cẩn thận giảo nghiệm các cơ phận của tử thi nhưng bỏ qua chỗ sưng hạch bạch huyết.
Năm ngày sau, ông quyết định hoạt động độc lập. Với sự trợ giúp của Vigano, một người Ý sống ở Hồng Kông, Yersin làm việc trong một cái lán bằng tre phủ rơm với vài xác chết có được nhờ Vigano đút tiền cho đám lính thủy người Anh trông coi nhà xác, và Yersin xác định được nguyên nhân của bệnh dịch.
Sau khi toán khoa học gia người Nhật ra đi, người Anh muốn giữ Yersin ở lại Hồng Kông nhưng ông từ chối.
Bởi vì những tường trình ban đầu của Kitasato còn mơ hồ và đôi khi có những mâu thuẫn, nhiều người tin rằng Yersin là người duy nhất tìm ra trực khuẩn. Tuy nhiên, một cuộc phân tích hình thái học về những gì Kitasato khám phá cho thấy "Kitasato đã khảo nghiệm trực khuẩn gây bệnh ở Hồng Kông vào cuối tháng 6 và đầu tháng 7 năm 1894", chỉ một thời gian ngắn sau khi Yersin công bố khám phá của ông (ngày 20 tháng 6). Do đó, "không thể bác bỏ sự đóng góp" của Kitasato. Cũng nên biết rằng, trực khuẩn gây bệnh phát triển tốt hơn trong môi trường nhiệt độ thấp, vì vậy, phòng thí nghiệm được trang bị kém của Yersin lại có lợi thế hơn trong cuộc chạy đua với Kitasato. |
Alexandre Yersin | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3904 | Yersin là người đầu tiên chứng minh rằng trực khuẩn hiện diện ở chuột bệnh và người bệnh là một, nhờ đó ông đã giải thích được phương thức truyền bệnh. Cũng trong năm ấy, khám phá này được cộng tác viên Émile Duclaux gửi đến Viện Hàn lâm Khoa học Pháp trong bài báo nhan đề "La Peste Bubonique de Hong-Kong" ("Bệnh dịch hạch ở Hồng Kông").
Từ năm 1895 đến 1897, Yersin nghiên cứu thêm về bệnh dịch hạch. Năm 1895 ông trở lại Viện Pasteur ở Paris và cùng với Émile Roux, Albert Calmette và Armand Borrel đã điều chế ra huyết thanh chống bệnh dịch hạch đầu tiên. Cùng năm đó, ông trở về Đông Dương và lập một phòng thí nghiệm nhỏ tại Nha Trang để sản xuất huyết thanh, (năm 1905 viện này trở thành một chi nhánh của Viện Pasteur). Năm 1896, ông thành lập trại chăn nuôi Suối Dầu, nuôi ngựa để sản xuất huyết thanh.
Năm 1896, Yersin đến Quảng Châu, được phép tiêm huyết thanh được điều chế tại Nha Trang cho một chủng sinh đang mắc bệnh tại đây, và mau chóng thu được kết quả. Ông trở thành người thầy thuốc đầu tiên cứu sống một bệnh nhân dịch hạch. Yersin tiếp tục cuộc hành trình chống bệnh dịch hạch bằng huyết thanh với những điểm đến kế tiếp là Hạ Môn, Formosa (nay là Đài Loan), rồi Ma Cao. Song, khi đến Bombay, Yersin đối diện với một môi trường phức tạp hơn nhiều – người bệnh từ chối vào bệnh viện cách ly vì ở đó phải tuân thủ hệ thống đẳng cấp, loài chuột phát triển mạnh bởi vì người dân không chịu sát sinh, sự đố kỵ của người Anh đối với người Pháp. Ông không làm được gì, cuối cùng phải rút lui để lại một đống hỗn độn cho Paul-Louis Simond, người đồng nghiệp được Viện Pasteur cử đến thay thế ông.
Nông nghiệp.
Sau Bombay, Yersin quyết định trở về Nha Trang trong năm 1898. Với sự hỗ trợ từ Toàn quyền Doumer, ông xây dựng Viện Pasteur Nha Trang. Rồi ông mua một khu đất rộng 500 héc-ta ở Suối Giao (nay là Suối Dầu) để làm nông nghiệp và chăn nuôi. |
Alexandre Yersin | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3904 | Ông cho trồng cây cà-phê Liberia, các loại cây thuốc, cây coca để sản xuất cô-ca-in sử dụng trong ngành dược, tuyển chọn nhiều loại thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế giới để nuôi trồng tại đây, biến nó thành một cộng đồng nông nghiệp và khoa học với một trạm xá phục vụ cư dân trong vùng. Trong thời gian này, sản xuất huyết thanh chống dịch cho bò là nguồn thu nhập chính của Yersin. Trung tâm thí nghiệm này về sau trở thành viện thú y đầu tiên ở Đông Dương.
Là người đầu tiên nhập giống cây cao su về trồng tại Việt Nam, Yersin trở thành chủ một đồn điền cao su lúc đầu rộng khoảng 100 hec-ta, kiếm tiền đủ để nuôi sống Viện của ông. Ông liên lạc với André Michelin, người sáng lập tập đoàn Michelin, một trong những hãng sản xuất bánh xe lớn nhất thế giới. Nhờ cách làm hiệu quả và suy nghĩ quyết liệt nên lợi tức gia tăng đáng kể, ông gởi tiền vào "Hongkong and Shanghai Bank" (nay là ngân hàng HSBC) và mua các loại cổ phiếu.
Về Nha Trang lập trang trại là khởi điểm cho một giai đoạn khác trong cuộc đời Yersin: sống ẩn dật, để lại đằng sau ánh hào quang của một huyền thoại sống – người đẩy lùi bệnh dịch hạch và là người khám phá cao nguyên Lâm Viên - để sống với niềm đam mê mới: nghiên cứu cùng thực hành nông nghiệp và chăn nuôi. Ông từ chối tiếp các nhà báo, họ bèn dựng nên những câu chuyện huyễn hoặc về Yersin, nhưng ông chẳng hề quan tâm.
Từ Suối Giao, sau một chuyến thám hiểm ngắn với Armand Krempf – hai ngày đi thuyền và hai ngày leo núi – Yersin phát hiện ngọn núi Hòn Bà. Trong năm 1915, ông tiến hành di thực các loài thực vật và động vật, gieo các loại hạt giống, và xây dựng một ngôi nhà gỗ kiểu Thụy Sĩ. Ông nghiên cứu điểu học, nghề làm vườn, và sưu tầm các loại hoa. Ông cũng mở một chiến dịch trồng rừng đồng thời khuyên dân làng bỏ tập tục chặt đốt cây rừng. Ông dựng chuồng nuôi chim và đưa về lãnh địa rộng 15 000 héc-ta của mình các loài chim lạ. Ông trồng thử nghiệm cây canh-ki-na để sản xuất thuốc ký ninh chữa bệnh sốt rét. |
Alexandre Yersin | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3904 | Ông tìm ra thổ nhưỡng thích hợp cho loại cây này ở vùng đất Dran (nay là Đơn Dương) và Di Linh.
Yersin dùng số tiền có được nhờ những giải thưởng khoa học để xây dựng một con đường dài 30 cây số quanh co uốn khúc từ Suối Giao lên Hòn Bà. Sử dụng thiết bị tiên tiến "Improver Road Tracer", ông "đích thân chỉ đạo công việc, với sự giúp đỡ của các cai An Nam, làm một con đường có độ dốc rất đều, ở mức mười phần trăm." Đôi khi phải dùng bộc phá để nổ phá đá, và "dùng các mảnh vụn để xây tường chống." Nhờ con đường này, Yersin chuyển một máy phát điện lên ngôi nhà gỗ, lắp đặt hệ thống đèn, khởi động một máy dẫn nước để tưới cây, và đặt mua từ Pháp một chiếc Citroën bánh xích, cùng loại với "những chiếc xe đã băng qua sa mạc Sahara."
Yersin thích biết mọi thứ, ông là chuyên gia về nông học nhiệt đới, nhà vi trùng học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, rồi nghiên cứu khí tượng. Ông mua máy điện lượng kế, làm một con diều thật lớn thả lên độ cao một ngàn mét để đo điện khí quyển và dự đoán giông bão. Ông muốn giúp những người dân chài thường khi bị mất tích trên biển mỗi lúc có lốc xoáy vụt đến. Yersin thuyết phục Fichot, một kỹ sư thủy văn phục vụ trong hải quân và rất say mê thiên văn học, đến sống với ông trong ngôi nhà lớn ở Xóm Cồn với kính thiên văn và máy quan tinh được lắp đặt trên sân thượng để cùng nhau nghiên cứu khí tượng. Trong những ngày cuối đời, Yersin gắn bó với niềm đam mê mới: văn chương. Ở tuổi tám mươi, ông lại học tiếng Latin, tiếng Hy Lạp, và biên dịch những tác phẩm của Phèdre, Virgile, Horace, Salluste, Cicéron, Platon, và Démosthène.
Trường Y khoa Hà Nội.
Năm 1902 Toàn quyền Paul Doumer, trước khi rời Đông Dương, mời Yersin từ Nha Trang ra Hà Nội để mở một trường Y, một bệnh viện, và một trung tâm vệ sinh. Với Trường Y, "ước tính việc xây dựng sẽ tốn một triệu rưỡi "franc"!" Một số tiền lớn, song theo nhận xét của Yersin, "vẫn rẻ hơn nhiều, lại hữu ích hơn nhiều so với cái nhà hát ở Sài Gòn." |
Alexandre Yersin | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3904 | Yersin được bổ nhiệm làm hiệu trưởng đầu tiên của "École de Médecine de Hanoi" (Trường Y khoa Hà Nội), là tiền thân của Đại học Y Hà Nội.
Ông thiết lập giáo trình theo hình mẫu đại học Pháp – sáng khám bệnh ở bệnh viện, chiều dành cho lý thuyết – đích thân ông giảng dạy trong các giờ vật lý, hóa học, và phẫu thuật.
Trường khai giảng ngày 1 tháng 3 năm 1902, năm học đầu tiên có 29 sinh viên, 15 người đến từ Bắc Kỳ, 5 từ Trung Kỳ, 8 từ Nam Kỳ, và 1 từ Cao Miên. Tất cả đều được nhận học bổng 8 đồng mỗi tháng. Ghi nhận của Yersin về những sinh viên Y khoa đầu tiên được đào tạo ở Đông Dương, "Họ rất chăm học, có những người xuất sắc ngang với những sinh viên giỏi nhất bên Pháp. Điều thú vị là ngay cả những người thông minh cũng học rất chăm. Gần như có thể nói rằng không có ai lười biếng."
Ông có công di chuyển trường khỏi làng Kinh Lược, cho xây dựng ngôi trường ở phố Bobillot (Lê Thánh Tông ngày nay), và xây dựng bệnh viện thực hành ở phố Lò Đúc.
Sau hai năm, khi mọi thứ đã vào guồng, Yersin xin từ nhiệm, và trở về Nha Trang.
Từ trần.
Trong thời gian diễn ra Chiến tranh thế giới thứ hai, ngày 1 tháng 3 năm 1943, Yersin từ trần tại nhà riêng ở Nha Trang, ông để lại di chúc, "Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Hãy chôn tôi nằm úp xuống. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang, và những người cộng sự lâu năm. Đám táng làm giản dị, không huy hoàng không điếu văn." Dù vậy, rất đông người tìm đến để đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Nhiều người dân Xóm Cồn và Nha Trang than khóc và để tang cho ông. Đoàn người đưa tang dài đến hơn ba cây số.
Vinh danh.
Yersin để lại nhiều ký ức sâu đậm tại Việt Nam, nơi người dân trong vùng gọi ông cách thân mật là "Ông Năm", theo cấp bậc Đại tá Quân y (quân hàm có năm vạch). Tuy nhiên, theo Patrick Deville, người dân Xóm Cồn gọi Yersin như thế là do "ông có cái lon năm vạch mạ vàng trên bộ đồng phục trắng" khi ông còn là bác sĩ phục vụ trên tàu. |
Alexandre Yersin | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3904 | Từ khi còn là một sinh viên trẻ tuổi theo học y khoa ở Marburg, Yersin đã tỏ lòng ngưỡng mộ David Livingstone, và nuôi hoài bão bước theo dấu chân của nhân vật nổi tiếng người Scotland sinh trước ông nửa thế kỷ. Yersin đã dành trọn đời mình để thực hiện giấc mơ ấy. Patrick Deville, tác giả quyển "Peste & Choléra" đạt giải Femina năm 2012, nhận xét rằng Yersin là "một tín đồ chân chính của Giáo hội Tin Lành vùng Morges và của tấm gương Livingstone, người cũng là bác sĩ, nhà thám hiểm, và mục sư".
Năm 1891, khi đặt chân đến Nha Trang, Yersin yêu mến vùng đất này, và quyết định lưu trú tại đây. Ông viết cho Émile Roux, "Hãy đến đây với tôi, ông sẽ biết ở đây thú vị như thế nào, thời tiết không nóng nhiều, cũng không lạnh lắm, một khung cảnh thanh bình tuyệt đối và nhiều công việc cần làm."
Ông sống gần gũi với cư dân trong vùng, và tận tụy giúp đỡ những ngư dân nghèo khó trong xóm chài nhỏ bé. Ông sống trong một ngôi nhà cổ ba tầng, trên tầng thượng ông đặt kính thiên văn để quan sát báo bão cho làng chài. Khi có bão, ông gọi dân làng đến trú ngụ ở nhà ông, và cung cấp thực phẩm cho họ.
Yersin khám bệnh miễn phí cho người nghèo. Ông viết cho mẹ, "Mẹ hỏi con có thích ngành y không. Có và không. Con rất vui được chữa trị cho những người đến nhờ con khám, nhưng con không muốn biến y học thành một cái nghề, nghĩa là con sẽ không bao giờ có thể đòi một người bệnh trả tiền vì đã chữa bệnh cho người đó. Con coi y học là thiên chức, là mục vụ. Đòi tiền để chữa trị cho bệnh nhân thì chẳng khác nào nói với người đó rằng: tiền hay mạng sống."
Yersin trân trọng những đóng góp của các phụ tá người bản địa, yêu quý họ, và quan tâm đến đời sống của họ.
Ngoài vi khuẩn "Yersinia pestis" được đặt tên để vinh danh Yersin, có nhiều địa danh tại Việt Nam được đặt tên theo ông.
Tại Hà Nội, Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt,Thủ Dầu Một, Phan Rang và Thành phố Hồ Chí Minh đều có những con đường được đặt tên để vinh danh Yersin.
Tọa lạc bên trong khuôn viên viện Pasteur Nha Trang là Bảo tàng Alexandre Yersin, nơi lưu trữ nhiều kỷ vật của Yersin. |
Alexandre Yersin | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3904 | Công viên Yersin nằm dọc theo bờ biển Nha Trang, với tượng Yersin cao 4m, là một thắng cảnh của thành phố. Phần mộ của Yersin tại Suối Dầu (cách Nha Trang 20 km) hằng năm có nhiều người đến viếng. Theo tập quán đối với người có công và được nhiều người yêu quý, người dân xây cho ông một miếu thờ. Năm 1990, quần thể mộ Yersin ở Suối Dầu và bảo tàng Yersin ở Viện Pasteur Nha Trang được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia; đây được xem là "trường hợp duy nhất nước Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia cho một người nước ngoài". Làng Tân Xương ở Suối Dầu còn thờ cúng ông như một thành hoàng.
Một ngôi trường - khởi công xây dựng năm 1927 và khai giảng năm 1935 - được đặt theo tên Yersin để vinh danh ông. "Lycée Yersin" (nay là Trường Cao đẳng Sư phạm) là một kiến trúc đẹp và độc đáo của Đà Lạt. Tại thành phố này, cũng mang tên ông còn có Công viên Yersin, và một ngôi trường thành lập năm 2004, Đại học Yersin.
Yersin được trao tặng Bắc Đẩu Bội tinh, huân chương cao quý nhất của nước Pháp.
Năm 1934, sau khi Pasteur, Roux, và Calmette qua đời, Yersin - người cuối cùng trong nhóm Pasteur - được đề cử làm Giám đốc danh dự của Viện Pasteur Paris, và là ủy viên Ban Quản trị. Chức vụ này buộc ông mỗi năm phải về Pháp một lần để họp. Năm 1940, Yersin về thăm Pháp lần cuối cùng trước khi Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ.
Tác phẩm "Peste et choléra (Dịch hạch và thổ tả)" của nhà văn Patrick Deville nói về cuộc đời của Yersin đoạt giải Femina năm 2012. Hội Ái mộ Yersin, được thành lập năm 1992 với hơn 700 hội viên, với mục đích hoạt động giúp đỡ người nghèo và trẻ em khuyết tật cũng như truyền bá về thân thế và sự nghiệp của Yersin, là tổ chức phi chính phủ duy nhất ở Việt Nam nhận Huân chương Lao động. Từ năm 2000, Lãnh sự quán Pháp tại Hồng Kông và Macau hằng năm cấp học bổng Alexandre Yersin cho sinh viên là cư dân tại hai lãnh thổ này của Trung Quốc đến Pháp tham gia chương trình cao học. |
Alexandre Yersin | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3904 | Ngày 20 tháng 9 năm 2013, nhân kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Yersin, Tổng công ty Bưu chính Pháp đã phối hợp với Viện Pasteur Paris, Viện Hàn lâm Khoa học Hải ngoại Pháp và Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp tổ chức lễ phát hành hai mẫu tem chung Việt Nam và Pháp về Alexandre Yersin. Ngày 22 tháng 9 năm 2014, nhân kỷ niệm 151 năm ngày sinh của Alexandre Yersin, tại Nha Trang diễn ra lễ công bố quyết định truy tặng "Công dân Việt Nam danh dự" cho Yersin, đồng thời tổ chức triển lãm bộ sưu tập tem "Bác sĩ Alexandre Yersin - người công dân danh dự Việt Nam".
Liên kết ngoài.
tiếng Việt:
tiếng Anh
Tiếng Pháp |
AG | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3905 | AG hay Ag có thể là: |
AL | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3907 | AL hoặc al có thể là: |
AQ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3909 | AQ hoặc aq có thể là: |
AN | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3912 | AN hoặc an có thể là: |
Màu gốc in ấn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3919 | Màu gốc in ấn là bốn màu sau: xanh lam, hồng thẫm, vàng và đen. Do trong tiếng Anh màu xanh lam là Cyan, màu hồng sẫm là Magenta, màu vàng là Yellow nên ta có từ viết tắt CMYK, trong đó K dùng để chỉ màu đen, mặc dù màu đen trong tiếng Anh là black (do B đã được dùng để chỉ màu xanh (Blue) trong hệ màu RGB) để chỉ hệ màu được sử dụng trong công nghệ in ấn.
Màu gốc in ấn khác với màu gốc loại trừ ở chỗ nó phải bổ sung thêm màu đen. Các lý do của nó là:
Các chất tạo màu trong công nghệ in ấn sử dụng nguyên lý phản xạ ánh sáng để tạo ra cảm giác về màu sắc đối với con người. Cũng lưu ý rằng hệ màu gốc in ấn (CMYK) này trên thực tế đôi khi không được áp dụng trong một số lĩnh vực cũng sử dụng nguyên lý phản xạ ánh sáng, chẳng hạn như đối với việc trang trí nội thất bằng sơn, ve hay vẽ tranh bằng thuốc màu v.v. Một số các màu nhất định, nhất là các màu được coi là sáng như vàng hay xanh nhạt v.v thông thường được tạo ra bằng cách sử dụng các chất tạo trực tiếp màu đó mà không phải bằng việc tổ hợp các màu hệ CMYK. Lý do của nó cũng giống như lý do tại sao hệ CMYK phải bổ sung màu đen. |
VI | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3924 | VI, vi khi viết tắt có thể là:
Vi: |
Vi | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3926 | vi (đọc là "vi ai" theo cách đánh vần tiếng Anh) là chương trình soạn thảo văn bản trên máy tính được viết bởi Bill Joy năm 1976 để dùng cho hệ điều hành BSD. Sau này nó được AT&T dùng và trở thành tiêu chuẩn (dù không chính thức) trong Unix. vi được dùng ở chế độ văn bản ("text mode") như trạm cuối ("terminal") và console. Tên gọi lấy từ chữ viết tắt (hai chữ đầu) của lệnh visual trong chương trình ex. Lệnh này chuyển chế độ biên tập dòng ("line mode") của ex sang chế độ trực quan ("visual mode").
Thông thường, vì lý do thuận tiện, cùng một chương trình sẽ khởi động ở chế độ vi hay ex, tuỳ theo tên lệnh được gõ. Tên "vi" được xem là viết tắt chữ đầu nên được phát âm từng chữ cái là (theo IPA) mà không đọc thành một từ.
vi có thể khó dùng đối với người mới biết, vì nó là trình biên tập theo chế độ ("modal editor"), tức là nó quy định các phím có ý nghĩa khác nhau tuỳ theo chế độ hiện dùng. Hai chế độ chính của vi là "insert" (điền) và "command" (lệnh). Ở chế độ insert, văn bản được nhập vào bình thường. Ở chế độ command, các phím được dùng để ra lệnh, như để di chuyển con trỏ, xoá ký tự, v.v. Ưu điểm của việc có chế độ lệnh riêng là nó làm đơn giản nhiều thao tác soạn thảo, thay vì phải dùng một ngón tay giữ phím Alt, phím Ctrl, hay các phím đặc biệt khác.
Hiện nay vi và emacs, cũng là một trình soạn thảo văn bản xuất hiện từ năm 1984, là hai phe của một cuộc chiến về trình biên tập.
Chế độ lệnh trong vi.
Khi mới khởi động, vi ở chế độ lệnh. Từ chế độ lệnh ta luôn có thể chuyển sang chế độ văn bản bằng cách bấm phím chữ i. Ngược lại, từ chế độ văn bản chuyển sang chế độ lệnh bằng phím Esc.
Các lệnh cơ bản trong vi đều bắt đầu bằng dấu hai chấm. Sau đó thường là các chữ cái viết tắt các từ tiếng Anh tương ứng với chức năng của lệnh đó:
vi nguyên thủy.
vi được viết tại Evans Hall , Đại học California tại Berkeley bởi Bill Joy. |
AM | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3927 | AM có thể là: |
Emacs | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3928 | Emacs là trình soạn thảo văn bản đa chức năng. Đây là phần mềm tự do, chạy được trên nhiều hệ điều hành và có thể mở rộng để thêm vào chức năng mới. Emacs phổ biến trong giới lập trình máy tính và người dùng máy tính thông thạo kĩ thuật.
Chương trình EMACS, tên được tạo ra từ Editor MACroS, đầu tiên dùng cho trình soạn thảo TECO ("Text Editor and Corrector") được Richard Stallman, Guy Steele và Dave Moon viết năm vào 1976. Nó dựa trên cặp chương trình soạn thảo TECO-macro là TECMAC và TMACS được viết bởi Guy Steele, Dave Moon, Richard Greenblatt, Charles Frankston và một số người khác. Qua thời gian đã xuất hiện nhiều phiên bản Emacs, nhưng ngày nay 2 phiên bản phổ biến nhất là GNU Emacs, do Richard Stallman bắt đầu viết vào 1984, và XEmacs, phân nhánh từ GNU Emacs năm 1991. Cả hai đều dùng ngôn ngữ Emacs Lisp có khả năng mở rộng mạnh mẽ, cho phép chúng xử lý nhiều tác vụ khác nhau, từ việc lập trình và biên dịch chương trình máy tính đến duyệt web.
Emacs có thể chạy trên nhiều hệ điều hành khác nhau như các hệ thống giống Unix (GNU/Linux, các loại BSD, Solaris, AIX, v.v.), MS-DOS, Microsoft Windows, OpenVMS và Mac OS X.
Emacs chạy trên giao diện văn bản lẫn đồ hoạ. Trên các hệ điều hành giống Unix, Emacs dùng hệ thống X Window để tạo giao diện đồ hoạ trực tiếp hoặc thông qua "widget toolkit" như Motif, LessTif hay GTK+. Emacs có thể dùng giao diện đồ hoạ nguyên thủy của Mac OS X và Microsoft Windows.
Một số người phân biệt chữ "emacs" viết thường, dùng để chỉ các trình biên tập giống Emacs (nhất là GNU Emacs và XEmacs), và "Emacs" viết hoa chữ đầu, dùng để chỉ GNU Emacs.
Emacs hiện là một phía của cuộc chiến trình biên tập, phía bên kia là vi.
Phím tắt.
Ngoài các menu, Emacs còn có rất nhiều phím tắt. Sau đây là danh sách các phím tắt cơ bản. Cũng như nhiều tài liệu hướng dẫn Emacs, codice_1 nghĩa là CTRL-x và codice_2 nghĩa là ALT-x.
XEmacs.
XEmacs là một nhánh của Emacs nhưng tập trung vào giao diện và một mô hình phát triển phần mềm nguồn mở kiểu như Linux. |
Phối màu phát xạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3930 | Phối màu phát xạ là việc tạo nên các màu sắc bằng cách chồng vào nhau ánh sáng phát ra từ vài nguồn sáng.
Phối màu phát xạ còn được gọi là phối màu cộng, pha màu theo phép cộng, phối màu bổ sung, hay nôm na là phối màu màn hình, mặc dù phối màu màn hình có sự khác biệt nhất định với các cách gọi trên.
Phương pháp.
Vì mắt người chỉ nhạy cảm với ba vùng quang phổ (gần tương ứng với vùng màu da cam, xanh lá cây và xanh lam trên quang phổ), nên phối màu phát xạ thường chỉ cần dùng ba nguồn sáng có màu đỏ, xanh lá cây và xanh lam (gọi là màu gốc) để tạo ra cảm giác về hầu hết màu sắc.
Hai tia sáng cùng cường độ thuộc hai trong ba màu gốc nói trên chồng lên nhau sẽ tạo nên màu thứ cấp dưới dạng màu phụ:
Ba tia sáng thuộc ba màu gốc cùng cường độ chồng lên nhau sẽ tạo nên màu trắng. Thay đổi cường độ sáng của các nguồn sẽ tạo ra đủ gam màu của ba màu gốc.
Các sinh vật khác con người có thể cảm thụ được nhiều màu hơn (chim 4 màu gốc) hoặc ít màu hơn (bò 2 màu gốc) và ở những vùng quang phổ khác (ong cảm nhận được vùng tử ngoại). Phương pháp trên vẫn áp dụng được cho chúng.
Ứng dụng.
Màn hình máy tính và tivi là những ứng dụng thường gặp nhất của phối màu phát xạ. Chúng có thể sử dụng ba loại đèn màu (đỏ, lục và lam) nhỏ xíu nằm xen kẽ với nhau trên màn hình. Dùng kính lúp, hoặc vẩy giọt nước lên màn hình, bạn sẽ thấy hình phóng to của ba loại đèn này, có thể nhấp nháy theo hình ảnh chuyển động.
Máy chiếu cũng sử dụng ký thuật phối màu này.
Trong vẽ tranh, bút pháp điểm họa, hay tổng quát hơn là pha màu xen kẽ, cũng sử dụng nguyên tắc của kỹ thuật phối màu này.
Lịch sử.
James Clerk Maxwell được biết đến như người đầu tiên phối màu phát xạ. Ông nhờ nhà nhiếp ảnh Thomas Sutton chụp một dải băng màu ba lần, mỗi lần với một kính lọc màu khác nhau đặt trước ống kính. Ba bức ảnh được rửa và chiếu lên màn hình, sử dụng các kính cùng màu với lúc chụp. |
Phối màu phát xạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3930 | Khi chồng vào nhau, ba ảnh tạo nên một hình màu gần giống thật, cho thấy nguyên lý của phối màu phát xạ. |
Phối màu hấp thụ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3931 | Phối màu hấp thụ giải thích nguyên lý tạo ra nhiều màu sắc từ việc trộn một số loại sơn, thuốc nhuộm, mực, các chất màu tự nhiên sẵn có để tạo được màu sắc từ việc hấp thụ một vài vùng quang phổ và phản xạ các vùng khác.
Phối màu hấp thụ còn được gọi là phối màu trừ, phối màu loại trừ hay nôm na là phối màu vẽ, phối màu in ấn, tuy rằng giữa chúng có một số khác biệt nhất định.
Phối màu hấp thụ và phối màu phát xạ là hai phương pháp phối màu phổ biến được biết đến hiện nay. Cả hai loại phối màu đều dựa trên việc thay đổi tỷ lệ kết hợp của ba màu ánh sáng (đỏ, lục và lam) phát ra từ vật thể. Điểm khác nhau duy nhất là phối màu hấp thụ sử dụng nguồn sáng bên ngoài, còn phối màu phát xạ sử dụng ánh sáng phát ra từ vật thể.
Màu do hấp thụ.
Các chất màu tạo nên màu sắc nhờ phản xạ một cách chọn lọc một vùng quang phổ. Phần quang phổ phản xạ trở lại mắt người tạo nên màu sắc cho hỗn hợp chất màu. Ví dụ quả táo có màu đỏ nhờ hấp thụ những vùng quang phổ khác và phản xạ lại vùng quang phổ màu đỏ.
Để tạo màu hấp thụ, cần ba thứ: nguồn sáng (có thể tốt nhất là ánh sáng trắng), vật mẫu và nguồn thu (có thể là mắt).
Trong kỹ thuật in màu.
In trên nền trắng.
"Xem thêm bài CMYK"
In trên nền đen.
Trên nền đen, các màu sắc có thể được tạo ra bằng việc trộn ba loại mực đỏ, xanh lục, xanh lam (hay hệ màu RGB). Cũng tương tự như hệ CMY, việc trộn cùng lúc cả ba loại mực trên thường không đem lại màu trắng đủ sáng, nên cần thêm mực trắng (thành hệ "đỏ-lục-lam-trắng").
Việc dùng hệ màu này trên nền đen cũng giống như viết phấn trắng trên bảng đen, khi so sánh với viết bút mực đen trên bảng trắng.
In trên nền màu.
Trên nền có màu sắc, có thể dùng các gốc màu khác nhau để trộn thành nhiều màu, nhưng nói chung gam màu tương đối hẹp.
Trong hội họa.
Các họa sĩ thường trộn màu theo hệ Đỏ-Vàng-Lam và họ gọi phương pháp phối màu này là pha màu theo phép trừ. |
Phối màu hấp thụ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3931 | Pha ba màu gốc theo phương pháp này, gồm đỏ, vàng và lam, cho kết quả như sau:
Thực ra cách pha màu này không cho phổ màu rộng. Các màu trộn với nhau có thể làm mất đi sắc độ. Pha càng nhiều màu với nhau thì màu càng xỉn đục, hay còn gọi bằng từ chuyên môn là bị "chết màu".
Trong thiên nhiên.
Một số sinh vật, như bạch tuộc, tắc kè hoa..., có khả năng thay đổi màu sắc của da bằng việc thu vào hay làm lộ ra một số loại tế bào mang màu trên da.
Ví dụ loài tắc kè hoa ở Madagascar, lớp da trong suốt của chúng có tới bốn lớp mang các ba loại tế bào màu và hai loại tế bào đen trắng. Lớp ngoài cùng có các tế bào màu vàng và đỏ. 2 lớp tiếp theo mang tế bào xanh lam và trắng. Lớp trong cùng mang tế bào màu nâu đen (có chứa chất melanin cũng có trong da người, quyết định độ sáng tối của da người). Tế bào màu nâu đen có các "cánh tay" có thể vươn ra xuyên lên các lớp trên, hoặc co lại khi cần, giúp thay đổi độ sáng tối. Các tế bào màu còn lại có thể thay đổi kích thước để tạo nên dải cầu vồng. Gam màu của da tắc kè hoa không rộng như trong ký thuật in, nhưng cũng bao gồm rất nhiều màu (xanh lá cây, xanh lơ, xanh nước biển, đen, đỏ, vàng...). Màu sắc thay đổi giúp tắc kè hoa ngụy trang, điều chỉnh thân nhiệt (nhờ thay đổi độ hấp thụ ánh nắng), thể hiện trạng thái tình cảm (hấp dẫn bạn tình, đe doạ kẻ thù...)...
Giấy điện tử.
"Xem thêm bài giấy điện tử"
Trong kỹ thuật hiển thị chậm bằng giấy điện tử, các viên bi nhỏ xíu nằm trong "tờ giấy" này cũng có thể được nhuộm các màu gốc để tái tạo hình ảnh có màu sắc (ví dụ sử dụng hệ màu CMYK trên nền trắng). |
Mô hình màu CMYK | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3938 | Từ CMYK (hay đôi khi là YMCK) là từ viết tắt trong tiếng Anh để chỉ mô hình màu loại trừ sử dụng trong in ấn màu. Mô hình màu này dựa trên cơ sở trộn các chất màu của các màu sau:
để tạo các màu khác.
Hỗn hợp của các màu CMY lý tưởng là loại trừ (các màu này khi in cùng một chỗ trên nền trắng sẽ tạo ra màu đen). Nguyên lý làm việc của CMYK là trên cơ sở hấp thụ ánh sáng. Màu mà người ta nhìn thấy là từ phần của ánh sáng không bị hấp thụ. Trong CMYK hồng sẫm cộng với vàng sẽ cho màu đỏ, cánh sen cộng với xanh lơ cho màu xanh lam, xanh lơ cộng với vàng sinh ra màu xanh lá cây và tổ hợp của các màu xanh lơ, cánh sen và vàng tạo ra màu đen.
Vì màu 'đen' sinh ra bởi việc trộn các màu gốc loại trừ là không thực sự giống như mực đen "thật sự" hay màu đen của vật đen tuyệt đối (là vật hấp thụ toàn bộ ánh sáng), việc in ấn trên cơ sở bốn màu (đôi khi gọi là "in các màu" mặc dù điều này không chính xác) phải sử dụng mực đen để bổ sung thêm vào với các màu gốc loại trừ là các màu vàng, cánh sen và xanh lơ.
Việc sử dụng công nghệ in ấn bốn màu sinh ra kết quả in ấn cuối cùng rất cao cấp với độ tương phản cao hơn. Tuy nhiên màu của vật thể mà người ta nhìn thấy trên màn hình máy tính thông thường có sự sai khác chút ít với màu của nó khi in ra vì các mô hình màu CMYK và RGB (sử dụng trong màn hình máy tính) có các gam màu khác nhau. Mô hình màu RGB là mô hình dựa trên cơ sở phát xạ ánh sáng (màu bổ sung) trong khi mô hình CMYK làm việc theo cơ chế hấp thụ ánh sáng (màu loại trừ).
Chuyển đổi.
Việc chuyển đổi dữ liệu màu từ định dạng RGB sang định dạng CMYK là công việc cần thiết để thiết bị in ấn có thể tạo ra bản in có chất lượng chấp nhận được. Có điều này vì việc chuyển đổi như vậy rất có nhiều khả năng đánh mất dữ liệu về màu sắc của một số điểm ảnh nào đó do các màu này nằm ngoài giới hạn gam màu của CMYK.
Chuyển đổi từ RGB sang CMYK.
Để chuyển đổi từ RGB sang CMYK, các giá trị trung gian CMY được sử dụng. |
Mô hình màu CMYK | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3938 | Các giá trị định lượng của màu được biểu diễn như là vectơ, với mỗi thành phần màu nằm trong đoạn từ 0 (không có màu) tới 100 (bão hòa màu) với các giá trị là số nguyên không âm trong hệ CMYK - do hệ này có thể coi về thực chất là độ bão hòa của màu tính theo thang độ phần trăm, và từ 0 đến 255 đối với hệ CMY và RGB:
Chuyển RGB thành CMYK.
Chuyển đổi RGB thành CMY, sau đó chuyển CMY thành CMYK:
Việc chọn lựa hệ số K là vấn đề tương đối phức tạp, nó hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của nhà sản xuất ra thiết bị in ấn. Các giá trị của K bị các nhà sản xuất giữ kín như là một bí quyết công nghệ. Trong đa số trường hợp, hệ số K sẽ cho là bằng 0 khi độ bão hòa của màu đen thấp hơn từ 50% đến 75% do người ta cho rằng dưới mức hợp lý (hoàn toàn chủ quan) thì không cần phải in bằng mực đen.
Về lý thuyết người ta tạm chấp nhận K = min {C'/2,55, M'/2,55, Y'/2,55}. (0 <= K <=100)
và sau đó chuyển thành CMYK:
Nếu K = 100 thì C = 0, M = 0, Y = 0 (toàn bộ là màu đen).
Nếu 100 > K > 0 thì: C = (C'/2.55 - K) * 100 /(100 - K), M = (M'/2.55 - K) * 100 /(100 - K), Y = (Y'/2.55 - K) *100 /(100 - K) và K = K trong đó các giá trị C, M, Y, K được làm tròn đến phần nguyên.
Đây là tỷ lệ của bốn loại mực màu cần phải in trên cùng một vị trí để tạo ra màu cần thiết.
Sửa màu.
Việc sửa màu là cần thiết vì các dữ liệu về màu có thể chuyển tới thiết bị in ấn trong các định dạng khác nhau như RGB hay CMYK. Vì các thiết bị in ấn điện tử hiện nay là thiết bị hỗ trợ CMYK, nên mọi dữ liệu màu sắc chuyển tới thiết bị in phải được chuyển đổi sang định dạng CMYK để chúng có thể sử dụng được bởi các thiết bị in ấn để đưa ra bản in chấp nhận được. Ví dụ phần lớn các ứng dụng thương mại nói chung có định dạng màu theo hệ RGB, nhưng các ứng dụng đồ họa như CorelDraw, Adobe Photoshop, Adobe Illustrator v.v nói chung định dạng màu sắc theo các giá trị CMYK, tuy có hỗ trợ chế độ màu RGB. Vì thế các chế độ sửa chữa màu khác nhau có thể được sử dụng phụ thuộc vào nguồn dữ liệu cũng như chất lượng bản in dự kiến. |
Mô hình màu CMYK | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3938 | Có một số thiết lập để sửa màu, tạo ra một sự mềm dẻo trong việc chọn lựa dạng sửa chữa màu được sử dụng để in một số dữ liệu nào đó. Cụ thể là: tự động, chói, tắt, CMYK, hiển thị, đen trắng và phác thảo 2 màu. |
Mô hình màu RGB | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3939 | Mô hình màu RGB sử dụng mô hình bổ sung trong đó ánh sáng đỏ, xanh lục và xanh lam được tổ hợp với nhau theo nhiều phương thức khác nhau để tạo thành các màu khác. Từ viết tắt RGB trong tiếng Anh có nghĩa là đỏ (red), xanh lục (green) và xanh lam (blue), là ba màu cơ bản trong các mô hình ánh sáng bổ sung.
Cũng lưu ý rằng mô hình màu RGB tự bản thân nó không định nghĩa thế nào là "đỏ", "xanh lục" và "xanh lam" một cách chính xác, vì thế với cùng các giá trị như nhau của RGB có thể mô tả các màu tương đối khác nhau trên các thiết bị khác nhau có cùng một mô hình màu. Trong khi chúng cùng chia sẻ một mô hình màu chung, không gian màu thực sự của chúng là dao động một cách đáng kể.
Lịch sử.
Sử dụng mô hình màu RGB như một tiêu chuẩn biểu thị màu trên Internet có nguồn gốc từ các tiêu chuẩn cho ti vi màu năm 1952 của RCA và việc sử dụng tiêu chuẩn RGB bởi Edwin Land trong các camera Land / Polaroid.
Cơ sở sinh học.
Các màu gốc có liên quan đến các khái niệm sinh học hơn là vật lý, nó dựa trên cơ sở phản ứng sinh lý học của mắt người đối với ánh sáng. Mắt người có các tế bào cảm quang có hình nón nên còn được gọi là tế bào hình nón, các tế bào này thông thường có phản ứng cực đại với ánh sáng vàng - xanh lá cây (tế bào hình nón L), xanh lá cây (tế bào hình nón M) và xanh lam (tế bào hình nón S) tương ứng với các bước sóng khoảng 564 nm, 534 nm và 420 nm. Ví dụ, màu vàng thấy được khi các tế bào cảm nhận màu xanh ánh vàng được kích thích nhiều hơn một chút so với tế bào cảm nhận màu xanh lá cây và màu đỏ cảm nhận được khi các tế bào cảm nhận màu vàng - xanh lá cây được kích thích nhiều hơn so với tế bào cảm nhận màu xanh lá cây.
Mặc dù biên độ cực đại của các phản xạ của các tế bào cảm quang không diễn ra ở các bước sóng của màu "đỏ", "xanh lục" và "xanh lam", ba màu này được mô tả như là các màu gốc vì chúng có thể sử dụng một cách tương đối độc lập để kích thích ba loại tế bào cảm quang.
Để sinh ra khoảng màu tối ưu cho các loài động vật khác, các màu gốc khác có thể được sử dụng. |
Mô hình màu RGB | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3939 | Với các loài vật có bốn loại tế bào cảm quang, chẳng hạn như nhiều loại chim, người ta có lẽ phải nói là cần tới bốn màu gốc; cho các loài vật chỉ có hai loại tế bào cảm quang, như phần lớn các loại động vật có vú, thì chỉ cần hai màu gốc.
RGB và hiển thị.
Một trong những ứng dụng phổ biến nhất của mô hình màu RGB là việc hiển thị màu sắc trong các ống tia âm cực, màn hình tinh thể lỏng hay màn hình plasma, chẳng hạn như màn hình máy tính hay ti vi. Mỗi điểm ảnh trên màn hình có thể được thể hiện trong bộ nhớ máy tính như là các giá trị độc lập của màu đỏ, xanh lá cây và xanh lam. Các giá trị này được chuyển đổi thành các cường độ và gửi tới màn hình. Bằng việc sử dụng các tổ hợp thích hợp của các cường độ ánh sáng đỏ, xanh lục và xanh lam, màn hình có thể tái tạo lại phần lớn các màu trong khoảng đen và trắng. Các phần cứng hiển thị điển hình được sử dụng cho các màn hình máy tính trong năm 2003 sử dụng tổng cộng 24 bit thông tin cho mỗi điểm ảnh (trong tiếng Anh thông thường được biết đến như "bits per pixel" hay "bpp"). Nó tương ứng với mỗi 8 bit cho màu đỏ, xanh lá cây và xanh lam, tạo thành một tổ hợp 256 các giá trị có thể, hay 256 mức cường độ cho mỗi màu. Với hệ thống như thế, khoảng 16,7 triệu màu rời rạc có thể tái tạo.
Công nghiệp điện tử.
RGB là một dạng của tín hiệu thành phần của video, được sử dụng trong ngành công nghiệp điện tử chế tạo các thiết bị nghe nhìn. Nó gồm có ba tín hiệu - đỏ, xanh lục và xanh lam - được truyền đi trong ba dây cáp riêng biệt. Các cáp bổ sung đôi khi là cần thiết để truyền đi các tín hiệu đồng bộ. Các định dạng tín hiệu RGB thông thường dựa trên các phiên bản sửa đổi của các tiêu chuẩn RS-170 và RS-343 cho các thiết bị hiển thị video đơn sắc. Loại hình này của tín hiệu video được sử dụng rộng rãi ở châu Âu vì nó là tín hiệu có chất lượng tốt nhất có thể truyền đi trong các bộ kết nối SCART tiêu chuẩn. Ngoài phạm vi châu Âu, RGB không phải là dạng tín hiệu video phổ biến – S-Video chiếm vị trí này trong phần lớn các khu vực phi-Âu châu. Tuy nhiên, phần lớn các màn hình máy tính trên thế giới sử dụng RGB.
Biểu diễn dạng số 24 bit. |
Mô hình màu RGB | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3939 | Biểu diễn dạng số 24 bit.
Khi biểu diễn dưới dạng số, các giá trị RGB trong mô hình 24 bpp (bits per pixel) thông thường được ghi bằng cặp ba số nguyên giữa 0 và 255 (28-1), mỗi số đại diện cho cường độ của màu đỏ, xanh lục, xanh lam trong trật tự như thế.
Số lượng màu tối đa sẽ là:
Ví dụ:
Định nghĩa trên sử dụng thỏa thuận được biết đến như là "toàn bộ khoảng RGB". Thông thường, RGB cho video kỹ thuật số không phải là toàn bộ khoảng này. Thay vì thế video RGB sử dụng thỏa thuận với thang độ và các giá trị tương đối chẳng hạn như (16, 16, 16) là màu đen, (235, 235, 235) là màu trắng v.v. Ví dụ, các thang đọ và giá trị tương đối này được sử dụng cho định nghĩa RGB kỹ thuật số trong CCIR 601.
Kiểu 16 bit.
Còn có kiểu 16 bpp, trong đó hoặc là có 5 bit cho mỗi màu, gọi là kiểu 555 hay thêm một bit còn lại cho màu xanh lá cây (vì mắt có thể cảm nhận màu này tốt hơn so với các màu khác), gọi là kiểu 565. Kiểu 24 bpp nói chung được gọi là thật màu, trong khi kiểu 16 bpp được gọi là cao màu.
Kiểu 32 bit.
Cái gọi là "kiểu 32 bpp" phần lớn là sự đồng nhất chính xác với kiểu 24 bpp, do ở đây thực sự cũng chỉ có 8 bit cho mỗi màu thành phần, tám bit dư đơn giản là không sử dụng (ngoại trừ khả năng sử dụng như là kênh alpha). Lý do của việc mở rộng của kiểu 32 bpp là vận tốc cao hơn mà phần lớn các phần cứng ngày nay có thể truy cập các dữ liệu được sắp xếp trong các địa chỉ byte có thể chia được ngang nhau theo cấp số của 2, so với các dữ liệu không được sắp xếp như vậy.
Kiểu 48 bit.
"Kiểu 16-bit" cũng có thể để chỉ tới 16 bit cho mỗi màu thành phần, tạo ra trong kiểu 48 bpp. Kiểu này làm cho nó có khả năng biểu thị 65.535 sắc thái mỗi màu thành phần thay vì chỉ có 255. Nó đầu tiên được sử dụng trong chỉnh sửa hình ảnh chuyên nghiệp, như Photoshop của Adobe để duy trì sự chính xác cao hơn khi có hơn một thuật toán lọc hình ảnh được sử dụng đối với hình ảnh đó. Với chỉ có 8 bit cho mỗi màu, các sai số làm tròn có xu hướng tích lũy sau mỗi thuật toán lọc hình ảnh được sử dụng và làm biến dạng kết quả cuối cùng.
RGBA. |
Mô hình màu RGB | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3939 | RGBA.
Với nhu cầu về các hình ảnh ghép đã xuất hiện phương án của RGB trong đó thêm vào kênh 8 bit dư cho độ trong suốt, vì thế tạo ra định dạng 32 bpp. Kênh trong suốt được biết đến phổ biến hơn như là "kênh alpha", vì thế định dạng này có tên là RGBA. Cũng lưu ý rằng vì nó không thay đổi bất kỳ cái gì trong mô hình RGB, nên RGBA không phải là một mô hình màu khác biệt, nó chỉ là định dạng tệp (file) trong đó bổ sung thêm thông tin về độ trong suốt cùng với thông tin về màu trong cùng một tệp.
Phi tuyến tính.
Cường độ của màu hiển thị trên các thiết bị hiển thị hình ảnh thông thường không tỷ lệ thuận với các giá trị R, G, B. Ví dụ, giá trị 127 là rất gần với giá trị chính giữa của 0 và 255, cường độ ánh sáng của thiết bị hiển thị khi phải hiển thị giá trị (127, 127, 127) chỉ bằng khoảng 18% của giá trị khi hiển thị giá trị (255, 255, 255), chứ không phải 50%. Xem sửa chữa gamma để biết thêm chi tiết của vấn đề này.
Kiểm tra màu sắc chuyên nghiệp.
Việc tái tạo một cách thích hợp của màu sắc trong các môi trường chuyên nghiệp yêu cầu việc kiểm tra màu sắc một cách rộng rãi cho mọi thiết bị tham gia vào quá trình sản xuất. Điều này là kết quả của một vài chuyển đổi trong suốt giữa các không gian màu phụ thuộc thiết bị trong chu trình sản xuất điển hình để đảm bảo sự đồng nhất màu sắc trong quá trình sản xuất. Bên cạnh những quá trình sáng tạo thì mọi sự can thiệp như vậy trên các hình ảnh số hóa cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng hình ảnh do sự suy giảm gam màu. Vì thế càng nhiều gam màu của hình ảnh gốc thì càng có nhiều quy trình nó có thể hỗ trợ mà không tạo ra những suy giảm rõ nét. Các thiết bị chuyên nghiệp và các công cụ phần mềm cho phép người ta có thể làm việc với những hình ảnh 48 bpp (16 bit trên một kênh) để tăng mật độ của các gam màu.
Màu sắc trong thiết kế Web.
Màu sắc được sử dụng trong thiết kế web thông thường được biểu diễn với việc sử dụng RGB; xem các màu web để có giải thích cho việc sử dụng màu sắc trong ngôn ngữ HTML và các ngôn ngữ liên quan khác. |
Mô hình màu RGB | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3939 | Ban đầu, sự giới hạn độ sâu màu của phần lớn các màn hình đã dẫn tới sự giới hạn bảng màu là 216 màu RGB - được định nghĩa bởi "Netscape Color Cube". Tuy nhiên, với sự thống trị của các thiết bị hiển thị 24-bit, việc sử dụng toàn bộ 16,7 triệu màu bằng các mã màu RGB trong mã HTML sẽ không phải là vấn đề với phần lớn người sử dụng.
Nói ngắn gọn, bảng màu an toàn của web chứa 216 tổ hợp của đỏ, xanh lá cây, xanh lam và mỗi màu có thể có một trong 6 giá trị (trong hệ thập lục phân hay số hex) là: #00, #33, #66, #99, #CC, hay #FF. Rõ ràng là, 63 = 216.
Mô hình màu RGB cho HTML đã dược chấp nhận về mặt hình thức là tiêu chuẩn Internet trong HTML 3.2, tuy nhiên nó đã được sử dụng từ trước đó. |
Hà Nam | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3943 | Hà Nam là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam.
Năm 2020, Hà Nam là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 45 về số dân, xếp thứ 44 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 23 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ sáu về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 808.200 người dân, GRDP đạt 44.613 tỉ Đồng (tương ứng với 1,9376 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 55,2 triệu đồng (tương ứng với 2.397 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,02%,Năm 2022, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nam đạt 10,82%, đứng thứ 3 trong khu vực đồng bằng sông Hồng và đứng thứ 12 toàn quốc.
Địa lý.
Hà Nam là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng thủ đô, có vị trí địa lý:
Điều kiện tự nhiên.
Diện tích: 860,5 km², là tỉnh có diện tích đứng thứ 62/63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trên tỉnh Bắc Ninh.
Địa hình.
Địa hình thấp dần từ tây sang đông. Địa hình đồi núi phía tây của tỉnh (chủ yếu ở phía Tây huyện Kim Bảng và phần phía Tây của huyện Thanh Liêm bao gồm khu vực hữu ngạn sông Đáy) với dạng địa hình cacxtơ xen kẽ vùng thung lũng bằng phẳng. Phần đồi núi phía Tây huyện Kim Bảng có điểm cao nhất là 459,4 mét so với mực nước biển thuộc vùng núi xã Thanh Sơn, đây cũng là điểm cao nhất của huyện Kim Bảng cũng như tỉnh Hà Nam. Phần đồi núi tập trung phía Tây huyện Thanh Liêm với điểm cao nhất là 385 mét thuộc xã Thanh Thủy và đây cũng là điểm cao nhất của huyện Thanh Liêm. Phía đông là đồng bằng với nhiều điểm trũng. Có một số dãy núi thấp, đồi sót giữa đồng bằng thuộc các xã Liêm Cần, Thanh Hương, Thanh Tâm, Liêm Sơn và thị trấn Tân Thanh (thuộc phía Đông huyện Thanh Liêm) với điểm cao nhất là 113 mét nằm ở giáp khu dân cư hai thôn là Trình Núi và Trè Núi thuộc xã Thanh Tâm); và núi sót ở thôn An Lão, xã An Lão (phía Nam huyện Bình Lục) với điểm cao nhất là 90 mét. |
Hà Nam | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3943 | Đèo Bòng Bong là con đèo ngắn và thấp trên quốc lộ 21 nằm giữa địa giới hai tỉnh Hà Nam và Hòa Bình (liền kề khu dân cư xóm 6, thị trấn Ba Sao, huyện Kim Bảng).
Hành chính.
Tỉnh Hà Nam có 6 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 4 huyện với 109 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 6 thị trấn, 20 phường và 83 xã. Đây cũng là tỉnh có số lượng đơn vị hành chính cấp huyện ít nhất cả nước.
Lịch sử.
Cách đây 225 triệu năm toàn bộ vùng đất của Hà Nam, Nam Định, Thái Bình và Ninh Bình còn nằm sâu dưới đáy biển. Cuối kỷ Jura hay đầu kỷ Creta, một vận động tạo sơn đã tạo nên vùng đá vôi của 3 tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình hiện nay. Đa số các núi đá phân bố dọc hữu ngạn sông Đáy, có rất ít ngọn nằm ở tả ngạn.
Khoảng 70 triệu năm trước đây, chế độ biển kết thúc, thay thế là một quá trình bồi tụ để hình thành đồng bằng cổ. Phù sa mới và việc hình thành đồng bằng trên cơ sở tạo nên vùng đất thấp là trầm tích trẻ nhất châu thổ Bắc bộ. Hà Nam là vùng đất được bồi đắp bởi phù sa của sông Hồng, sông Đáy và thu nhận đất đai bị bào mòn từ vùng núi cao trôi xuống. Ngoài những ngọn núi, Hà Nam còn được bao bọc bởi những con sông. Đó là sông Hồng ở phía Đông, sông Đáy ở phía Tây, sông Nhuệ ở phía Bắc, sông Ninh ở phía Nam và nhiều con sông khác chảy trong tỉnh. Chính những điều kiện tự nhiên đã tạo cho vùng đất này các đặc trưng về văn hóa lịch sử của một khu vực giao thoa hay vùng đệm kết nối văn hóa từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam và chính những đặc điểm này đã hình thành nên tính cách của người Hà Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Theo kết quả khảo cổ thì người nguyên thủy đã xuất hiện ở Hà Nam trên dưới 1 vạn năm vào buổi đầu thời kỳ đồ đá mới và đồ gốm thuộc nền văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn. Cũng có thể do sự bùng nổ dân số từ sơ thời kỳ đại kim khí nên bắt đầu đã có cư dân xuống trồng lúa nước ở vùng chiêm trũng. |
Hà Nam | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3943 | Họ được xem như những người tiên phong khai thác châu thổ Bắc bộ.
Từ thời các vua Hùng, đất Hà Nam ngày nay nằm trong quận Vũ Bình thuộc bộ Giao Chỉ; đến thời nhà Trần đổi là châu Lỵ Nhân, thuộc lộ Đông Đô.
Dưới thời Lê vào khoảng năm 1624, Thượng thư Nguyễn Khải đã cho chuyển thủ phủ trấn Sơn Nam từ thôn Tường Lân (xã Trác Văn) huyện Duy Tiên, phủ Lỵ Nhân đến đóng ở thôn Châu Cầu (nay là trung tâm thành phố Phủ Lý) thuộc tổng Phù Đạm, huyện Kim Bảng, phủ Lỵ Nhân, trấn Sơn Nam Thượng. Đến năm 1832 dưới thời Nguyễn, vua Minh Mạng quyết định bỏ đơn vị trấn thành lập đơn vị hành chính tỉnh, phủ Lỵ Nhân được đổi là phủ Lý Nhân thuộc tỉnh Hà Nội.
Đến tháng 10 năm 1890, phủ Lý Nhân được đổi tên thành tỉnh Hà Nam. Ngày 20 tháng 10 năm 1908, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định đem toàn bộ phủ Liêm Bình và 17 xã của huyện Vụ Bản và Thượng Nguyên (phần nam Mỹ Lộc) của tỉnh Nam Định, cùng với 2 tổng Mộc Hoàn, Chuyên nghiệp của huyện Phú Xuyên (Hà Nội), nhập vào huyện Duy Tiên lập thành tỉnh Hà Nam. Tháng 4 năm 1965, Hà Nam được sáp nhập với tỉnh Nam Định thành tỉnh Nam Hà. Tháng 12 năm 1971, Nam Hà sáp nhập với Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh, năm 1991, tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình lại chia tách như cũ. Ngày 1 tháng 1 năm 1997, tỉnh Hà Nam được tái lập.
Khi tách ra, tỉnh Hà Nam có 6 đơn vị hành chính gồm thị xã Phủ Lý và 5 huyện: Bình Lục, Duy Tiên, Kim Bảng, Lý Nhân, Thanh Liêm.
Ngày 9 tháng 6 năm 2008, chuyển thị xã Phủ Lý thành thành phố Phủ Lý.
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, chuyển huyện Duy Tiên thành thị xã Duy Tiên.
Kinh tế.
Cơ cấu kinh tế năm 2005:
Hà Nam có trên 40 làng nghề. Có những làng nghề truyền thống lâu đời như dệt lụa Nha Xá, trống Đọi Tam, mây giang đan Ngọc Động (Duy Tiên), sừng mỹ nghệ (Bình Lục), gốm Quyết Thành, nghề mộc (Kim Bảng), thêu ren xã Thanh Hà (Thanh Liêm). Nghề thêu ren thu hút nhiều lao động ở Thanh Hà. Xã Thanh Hà (Thanh Liêm) nằm cạnh Quốc lộ 1, có 2.626 hộ với 9.699 người ở 7 thôn. |
Hà Nam | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3943 | Trong số 2.626 hộ thì có 2.002 hộ làm nghề thêu ren chiếm 76,2%, với 5.740 lao động tham gia, trong số này lao động chính có 2.684 người, lao động phụ là 2.896 người và lao động thuê là 160 người. Những con số trên chứng tỏ Thanh Hà là xã mà số hộ và số lao động làm nghề thêu ren nhiều nhất tỉnh. Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làng nghề mở rộng về quy mô và thu hút hàng ngàn lao động, nghề thêu ren được truyền dạy rộng rãi, sản xuất không ngừng phát triển. Từ năm 1975 đến năm 1989 là thời gian thịnh vượng của làng nghề: sản phẩm đa dạng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước, xuất khẩu sang Liên Xô và các nước Đông Âu. Từ năm 1990 đến nay là thời kỳ chuyển đổi cơ chế, làng thêu ren Thanh Hà đã trải qua bao trăn trở tìm cho mình hướng đi để tồn tại và phát triển trong điều kiện thị trường truyền thống bị thu hẹp và thị trường nước ngoài lại đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng và thời gian.
Công cụ, thiết bị của làng nghề thêu ren rất giản đơn. Lao động chủ yếu là thủ công. Toàn bộ làng nghề hiện có hơn 5.000 khung thêu, 30 hộ có thiết bị giặt là và in, ngoài ra còn có các dụng cụ khác như: kim, kim móc, dao, kéo.
Các công đoạn của nghề thêu ren là: chuẩn bị nguyên liệu, tạo mẫu, pha và in màu, thêu, giặt là, kiểm tra đóng gói và cuối cùng là tiêu thụ. Các công đoạn trên hiện nay đều thực hiện bằng lao động thủ công.
Để tạo mẫu đảm bảo chất lượng, chỉ có một số hộ có kỹ thuật, có vốn đảm nhiệm công đoạn này và làm dịch vụ cho cả làng nghề. Khâu kiểm tra, đóng gói và tiêu thụ sản phẩm là thuộc về các doanh nghiệp (đảm nhận bao tiêu toàn bộ sản phẩm của làng nghề). Người lao động chỉ thực hiện một công đoạn: thêu. Nghề thêu ren có đặc điểm: nguyên liệu tiêu hao ít, nhưng lao động kết tinh trong sản phẩm nhiều vì thế giá trị sản phẩm lớn. Tuy nhiên, giá cả của sản phẩm thêu lại phụ thuộc vào hai yếu tố: nguyên liệu và kiểu dáng, mẫu mã của sản phẩm đó có được khách hàng ưa chuộng hay không. |
Hà Nam | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3943 | Hiện nay những mặt hàng đang được ưa chuộng là: ga trải giường, gối, khăn trải bàn...
Để phát triển làng nghề, người Thanh Hà đã đầu tư cho việc tiếp thị như mở nhiều cửa hàng quảng cáo ở khắp mọi miền của đất nước, không ngừng nâng cao chất lượng hàng, cải tiến mẫu mã, đáp ứng yêu cầu của thị trường khó tính. Ở Thanh Hà, hiện nay, hầu hết các hộ đều làm vệ tinh cho các doanh nghiệp. Huyện Thanh Liêm hiện có 2 công ty TNHH và 3 doanh nghiệp tư nhân với tổng số vốn đầu tư 2,2 tỷ đồng cho sản xuất kinh doanh hàng thêu ren, đã tạo đầu mối và việc làm cho hàng ngàn lao động, trong đó có làng thêu ren Thanh Hà. Làng thêu Thanh Hà không gặp khó khăn về nguồn nguyên liệu. Vải, chỉ thêu có rất sẵn trên thị trường. Tuy nhiên, họ lại gặp khó khăn về vốn. Đó là vốn để mua nguyên liệu và vốn tồn đọng trong quá trình lưu thông. Theo kết quả điều tra của Sở Công nghiệp thì toàn bộ tài sản cố định gồm toàn thể cơ sở vật chất khoảng 30 triệu đồng/hộ; vốn lưu động bình quân 250.000đ/hộ.
Hiện ở Thanh Hà nguồn vốn tự có là chủ yếu. Vốn vay thì chỉ có nguồn vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và dài hạn còn chưa được sự quan tâm của ngân hàng đối với làng nghề. Những lúc cần huy động vốn thì vay của tư nhân. Tính đến hết tháng 6/1999, vốn vay ưu đãi cho làng nghề mới ở mức khiêm tốn: 300 triệu đồng, trong đó nhu cầu vay ngân hàng cần tới 1,6 tỷ đồng. Đối với nghề thêu ren xuất khẩu vốn rất cần thiết, vì trong điều kiện hiện nay, khách hàng chủ yếu là mua đứt bán đoạn chứ không gia công.
Năm 1999, những người thợ Thanh Hà đã làm ra 88.500 bộ sản phẩm đạt 9,44 tỷ đồng. Một con số không phải là nhỏ với bất cứ làng nghề nào. Tuy nhiên, thu nhập hàng tháng của người thợ thêu ren không giống nhau mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố: vốn, tay nghề và sản phẩm có được tiêu thụ nhanh hay không.
Những người thợ có tay nghề cao bình quân thu nhập đạt 300.000-350.000đ/tháng, thợ tay nghề thấp đạt 200.000-250.000đ/tháng. |
Hà Nam | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3943 | Như vậy, một hộ có 2 lao động chính, 2 lao động phụ tay nghề trung bình và khá, một tháng thu nhập từ 800.000-1.000.000đ và một năm đạt trên dưới 10 triệu đồng.
Những người thợ ở Thanh Hà rất mong muốn Nhà nước có chính sách cho vay vốn ưu đãi đối với làng nghề, hỗ trợ đầu tư chi phí cho đào tạo thợ thêu; mong muốn các cơ quan chức năng như: Sở Công nghiệp, Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Sở kế hoạch - Đầu tư... giúp đỡ trong việc Thương mại - Du lịch tích cực tìm kiếm thị trường thêu ở nước ngoài và có biện pháp hạn chế sự ép giá của các đơn vị trung gian xuất khẩu mặt hàng này.
Có làng đã đạt từ 40–50 tỷ đồng giá trị sản xuất, tạo việc làm cho hàng trăm ngàn lao động, mây giang đan: 5,5 triệu sản phẩm; lụa tơ tằm: 0,695 triệu m; hàng thêu ren: 2,83 triệu sản phẩm...
Với giao thông thuận tiện: Đây là một trong số ít các khu công nghiệp giáp với 3 phía đều giáp với quốc lộ lớn. phía Đông giáp với đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình, phía Nam giáp quốc lộ 38, phía Tây giáp Quốc lộ 1. Khu công nghiệp cũng liền kề với ga Đồng Văn thuộc hệ thống đường sắt Bắc Nam.
Ngoài ra tỉnh cũng xây dựng được nhiều cụm công nghiệp và đã cho các doanh nghiệp và tư nhân thuê, tạo việc làm cho nhiều nhân lực.
Phát triển công nghiệp dồn dập cũng đã ít nhiều mang lại các hậu quả về môi trường, xong tỉnh cũng đã từng bước thanh kiểm tra các khu công nghiệp và dần tốt đẹp hơn. Nhiều khu công nghiệp đã có hệ thống xử lý rác thải hoạt động hiệu quả và kinh tế.
Cơ cấu nông nghiệp trong GDP giảm dần từ 39,3% năm 2000 còn 28,4% năm 2005. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân đạt 4,1% (2001-2005). Trong đó: trồng trọt tăng 1,7%, chăn nuôi tăng 6,7%, dịch vụ 31%, sản lượng lương thực đạt 420 tấn/năm, sản lượng thủy sản năm 2005 đạt 11.500 tấn, giá trị sản xuất trên 1 ha đạt 38,5 triệu đồng.
-Hình thành vùng cây lương thực chuyên canh, thâm canh có năng suất cao ở thị xã Duy Tiên, và 2 huyện Lý Nhân, Bình Lục. |
Hà Nam | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3943 | Tại đây đầu tư vùng lúa đặc sản xuất khẩu có năng xuất cao. Chuyển diện tích trũng ở vùng độc canh, hoang hóa sang sản xuất đa canh để nuôi trồng thủy sản là 5.188 ha. Chuyển một phần đất màu sang trồng rau sạch chuyên canh và trồng hoa.
-Các sản phẩm chăn nuôi chủ yếu: Tổng đàn bò 35.000 con; lợn 350.000 con; dê 16.000 con; gia cầm 3.350.000 con. Nhập bò sữa cung cấp cho nông dân là: 150 con. Đến nay đã phát triển được 355 con. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt trên 30.000 tấn/năm.
Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, tỉnh Hà Nam xếp ở vị trí thứ 62/63 tỉnh thành.
-Khu du lịch đền Trúc thờ vị anh hùng Lý Thường Kiệt và Ngũ Động Thi Sơn là quả núi năm hang nối liền nhau cách thành phố Phủ Lý 7 km.
Đã quy hoạch Khu du lịch Tam Chúc thuộc huyện Kim Bảng với quy mô gần 2000 ha với 9 khu chức năng. Diện tích mặt nước hồ khoảng 600 ha, diện tích phụ cận và khu du lịch sinh thái là 600 ha. Xây dựng các nhà nghỉ, khách sạn, sân gôn, quần vợt, công viên nước, nhà thủy tạ. Nơi đây cách chùa Hương 7 km, cách Hà Nội 60 km, Nam Định 40 km, Ninh Bình 45 km, Hưng Yên 40 km là điểm dừng chân cho khách du lịch nhiều tỉnh, nơi nghỉ dưỡng và giải trí vào các ngày nghỉ cuối tuần của khách thập phương, đang thu hút đầu tư.
-Chùa Long Đọi Sơn ở xã Tiên Sơn thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Di tích Long Đọi Sơn được xếp hạng từ năm 1992. Hàng năm có trùng tu, tôn tạo để gìn giữ cho muôn đời sau.
- Khu trung tâm du lịch thành phố Phủ Lý: Được xây dựng 2 bên dòng sông Đáy, giáp cửa sông Châu; có khách sạn 3 sao, 11 tầng, có khu du lịch bến thủy phục vụ du khách đi chùa Hương, Ngũ Động Sơn, chùa Bà Đanh, Hang Luồn. Nơi đây còn là địa điểm bơi thuyền dọc sông Châu, sông Đáy vãng cảnh nước non Phủ Lý.
-Đền Trần Thương, ở huyện Lý Nhân, thờ quốc công tiết chế Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Đến được xây dựng năm 1783; với diện tích 1,4 ha.
Giáo dục. |
Hà Nam | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3943 | Giáo dục.
Toàn tỉnh Hà Nam có: 29 trường Trung học Phổ Thông (THPT) với 1 trường chuyên, 24 trường công lập và 4 trường dân lập. Ngoài ra, có 6 trung tâm Giáo dục Thường Xuyên (GDTX) - Giáo dục Nghề Nghiệp (GDNN).
Dân cư.
Theo điều tra dân số 01/04/2019 Hà Nam có 802.200 người, chiếm 3,8% dân số đồng bằng sông Hồng, mật độ dân số 954 người/km². 62% dân số sống ở khu vực nông thôn và 38% sống ở khu vực đô thị. Dân cư đô thị chủ yếu ở thành phố Phủ Lý, thị xã Duy Tiên và các thị trấn Quế, Vĩnh Trụ, Bình Mỹ, Kiện Khê, Tân Thanh. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên năm 1999 là 1,5%. Đây cũng là tỉnh ít dân nhất vùng đồng bằng sông Hồng với 800.000 dân. Tỷ lệ đô thị hóa ở Hà Nam tính đến năm 2022 là 38,1%.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 7 tôn giáo khác nhau đạt 172.053 người, nhiều nhất là Công giáo có 114.689 người, tiếp theo là Phật giáo có 57.277 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Tin Lành có 79 người, Minh Lý đạo có ba người, Phật giáo Hòa Hảo và Tứ Ân Hiếu Nghĩa mỗi tôn giáo có hai người và 1 người theo đạo Cao Đài.
Văn hóa.
Hà Nam là tỉnh có nền văn minh lúa nước lâu đời và nền văn hóa dân gian phong phú, thể hiện qua các điệu chèo, hát chầu văn, hầu bóng, ca trù, đặc biệt là hát dậm. Đây cũng là vùng đất có nhiều lễ hội truyền thống và di tích lịch sử.
Một số công trình văn hóa tiêu biểu:
Di tích lịch sử.
Khu văn hóa tâm linh Tam Chúc trong đó có đình, chùa Tam Chúc từ thời Đinh đang được đầu tư xây dựng trở thành khu du lịch quốc gia, điểm nhấn của du lịch Hà Nam.
Quần thể di tích đền Lăng gồm Đền Thượng, Đền Trung, Đền Hạ và Đền Tam Thiên Nhân thuộc thôn Cõi xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm là vua Đinh Tiên Hoàng và 3 vua nhà Tiền Lê (Lê Đại Hành, Lê Trung Tông, Lê Long Đĩnh) trên vùng đất tương truyền là quê hương của Vua Lê Hoàn.
Đền Trúc-Ngũ Động Sơn: nằm tại thôn Quyển Sơn, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng, cách Phủ Lý hơn 7 km theo quốc lộ 21A. |
Hà Nam | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3943 | Tương truyền Lý Thường Kiệt trên đường chiến thắng trở về đã cho quân dừng ở đây để tế lễ và ăn mừng. Sau này để tưởng nhớ ông, nhân dân trong vùng đã lập đền thờ dưới chân núi Cấm gọi là đền Trúc. Trong dãy núi còn có danh thắng Ngũ Động Sơn, là năm hang đá nối liền nhau thành một dãy động liên hoàn, có chiều sâu trên 100m.
Chùa Bà Đanh: Mới được cải tạo lại từ năm 2010, nằm ở đoạn uốn khúc của dòng sông Đáy và nằm giữa đê sông Đáy và sông Đáy. Đối diện với chùa và ở phía bên kia sông là núi Ngọc. Chùa cách cầu nối đường 21A và thị trấn Quế khoảng 4 km. Xung quanh chùa là vườn cây rộng và um tùm, xa hơn là dòng sông đáy trong veo nên không gian rất yên tĩnh, vắng vẻ, thậm chí có thể nghe được cả tiếng lá rơi.
Chùa Long Đọi: được xây dựng từ đời vua Lý Thánh Tông, chùa nằm ở tọa độ 105o30-186,01 kinh độ Đông; 20o20-22,775 vĩ độ Bắc. Chùa nằm trên đỉnh núi Đọi, với độ cao 79m so với mặt nước biển, thuộc địa phận xã Tiên Sơn, thị xã Duy Tiên, cách thủ đô Hà Nội 50 km về phía Nam; cách thành phố Phủ Lý 10 km về phía Đông Bắc. Long Đọi sơn tự nằm trên thế đất cửu long. Toàn cảnh núi Đọi nhìn xa giống như một con rồng đất rất lớn nằm phục ở giữa đồng bằng vùng chiêm trũng. Tuy được xây dựng từ giữa thế kỷ XI nhưng thực sự phát triển và xây dựng bề thế vào năm 1118, đời vua Lý Nhân Tông, tháp Sùng Thiện Diên Linh đã được xây dựng với ý nghĩa cầu thiện.
Đền Đức Thánh Cả ở xã Tân Sơn, huyện Kim Bảng nằm bên bờ sông Đáy (đền chính nằm ở thôn Hữu Vĩnh, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội, đây là điểm du lịch văn hóa tâm linh được nhiều người lựa chọn trên hành trình trở về sau khi đến với quần thể danh thắng chùa Hương (Hà Nội).
Danh thắng Kẽm Trống thuộc xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm. Đây là nơi dòng sông Đáy chảy xen giữa hai dãy núi đá vôi tạo thành cảnh quan sơn thủy thơ mộng.
Ẩm thực. |
Hà Nam | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3943 | Ẩm thực.
Các đặc sản, ẩm thực địa phương ở tỉnh Hà Nam như: chuối ngự Đại Hoàng, bánh đa Phúc Hạ, hồng Nhân Hậu, gà móng Duy Tiên, bánh đa cá rô đồng Phủ Lý, chè kho, mắm cáy Bình Lục, mì miến làng Đầm, bánh cuốn chả nướng Phủ Lý, cá mòi sông Hồng, bánh rau sắng Kim Bảng, đậu phụ Trác Văn, hạt sen tươi Chuyên Ngoại, kẹo lạc, rắn Bạch Xá, rượu nếp làng Bèo, bánh đa nem làng Chều, dê núi Kim Bảng, bánh cuốn Cát Lại, cá kho niêu Hòa Hậu, bún cá rô đồng, bún sốt vang, bánh đa nướng Kiện Khê, bún tươi Tái Kênh, chim trời Nhật Tân, quýt Lý Nhân, rượu Vọc, rau sắng Ba Sao, cá trối Tam Chúc, bánh chưng làng Đầm, na Ba Sao, rượu rắn Bạch Xá, bánh mì Chính Lý, chè lam Tam Chúc.
Giao thông.
Tỉnh lộ.
Có nhiều tuyến tỉnh lộ như 491, 492, 493, 494, 495, 495B, 495C, 496, 496B, 497, 498, 498B, 499, 499B... kết nối giữa các địa phương trong tỉnh; nối các xã, thị trấn với thành phố Phủ Lý đều là đường nhựa với quy mô từ 2 làn xe tới 4 làn xe ôtô. Cùng với rất nhiều con đường nhựa lớn quy mô từ 2 làn xe ôtô trở lên, đã và đang thi công nối các khu kinh tế, khu công nghiệp với các tuyến quốc lộ làm hệ thống giao thông đường bộ của Hà Nam càng ngày càng thuận tiện.
Hệ thống giao thông nông thôn.
Là tỉnh đi đầu cả nước về việc bê tông hoặc nhựa hóa các tuyến đường giao thông liên thôn liên xã... kể cả từ nhà ra cánh đồng đường nhiều nơi cũng được bê tông hóa.
Đường sắt Bắc Nam.
Trên tỉnh có các ga Đồng Văn, Phủ Lý, Bình Lục, thuận lợi trong việc lên xuống bằng đường sắt.
Đường thủy.
Trên sông Đáy, sông Châu, từ năm 2008 tỉnh đang cho cải tạo Âu thuyền nối giữa sông Châu và sông Đáy. Khi dự án này hoàn thành giao thông đường Thủy thuận tiện hơn do tàu thuyền có thể từ sông Đáy qua Âu thuyền này dọc sông Châu, qua âu thuyền Tắc giang và đi vào sông Hồng một cách thuận tiện.
Đường hàng không.
Không có sân bay cũng như chưa có dự án. Sân bay quốc tế gần nhất là Nội Bài khoảng 70 km (khoảng 1h di chuyển bằng ôtô). |
Ưu trương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3945 | Ưu trương (tiếng Anh: "hypertonic") là môi trường mà nồng độ chất tan lớn hơn so với môi trường nội bào. Nếu một tế bào sống được đặt trong môi trường ưu trương so với nó thì sẽ xảy ra hiện tượng co nguyên sinh - nước từ trong tế bào sẽ đi ra ngoài làm cho tế bào bị co (thu nhỏ lại) và nếu co quá nhiều sẽ làm tế bào chết.
Môi trường đối ngược với ưu trương là nhược trương ("hypotonic") - khi cho vào môi trường này nước từ ngoài sẽ vào tế bào làm tế bào căng cứng lên và nếu sự chênh lệch quá cao sẽ làm tế bào vỡ - hiện tượng tiêu huyết, và môi trường trung gian là đẳng trương ("isotonic"), môi trường đẳng trương là môi trường mà nồng độ hòa tan bằng với môi trường nội bào. |
Nhược trương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3946 | Nhược trương (tiếng Anh: "hypotonic") là tính chất của một môi trường mà nồng độ chất tan nhỏ hơn so với môi trường nội bào. Nếu một tế bào sống được đặt trong môi trường nhược trương thì áp suất thẩm thấu sẽ làm các phân tử nước di chuyển vào trong tế bào, có thể làm tế bào sưng lên và vỡ ra. Đối với các tế bào thực vật hoặc các loài có thành tế bào vững chắc khác, các tế bào có thể giữ được hình dạng của nó trong môi trường nhược trương. Một số loài động vật nguyên sinh (như Paramecium) thì sử dụng những không bào co bóp để bơm nước ra khỏi tế bào chống lại áp suất thẩm thấu.
Tính chất đối ngược với nhược trương là ưu trương ("hypertonic"), và đứng giữa hai tính chất trên là đẳng trương ("isotonic"). |
Đẳng trương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3947 | Đẳng trương (tiếng Anh là isotonic) là môi trường mà nồng độ chất tan bằng với môi trường nội bào. Khi đó, nồng độ các chất khuếch tán thụ động vào và ra khỏi tế bào là như nhau.
Dung dịch đẳng trương là dung dịch mà lượng chất hòa tan bên trong tương đương với các chất tương ứng ở bên ngoài nó (tồn tại một vật ngăn giữa môi trường bên trong và bên ngoài). Đây là dung dịch trung gian nằm giữa dung dịch nhược trương (hypotonic) và ưu trương (hypertonic). |
Hà Nam (định hướng) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3950 | Hà Nam là có thể là một trong số các địa danh sau: |
Mô hình Chuẩn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3956 | Mô hình Chuẩn của vật lý hạt là một thuyết bàn về các tương tác hạt nhân mạnh, yếu, và điện từ cũng như xác định tất cả những hạt hạ nguyên tử đã biết. Được phát triển vào những năm đầu của thập niên 1970, Mô hình Chuẩn là một phần của lý thuyết trường lượng tử, một lý thuyết đã kết hợp cơ học lượng tử với thuyết tương đối hẹp. Ngày nay, hầu hết các thí nghiệm kiểm chứng về 3 lực miêu tả bởi Mô hình Chuẩn đều đúng như những dự đoán của thuyết này. Tuy nhiên, Mô hình Chuẩn vẫn chưa là một thuyết thống nhất các lực tự nhiên một cách hoàn toàn, do sự vắng mặt của lực hấp dẫn.
Mô hình Chuẩn chứa cả hai loại hạt cơ bản là fermion và boson. Fermion là những hạt có spin bán nguyên và tuân thủ theo nguyên lý loại trừ của Wolfgang Pauli, nguyên lý cho rằng không có hai fermion nào có cùng trạng thái lượng tử với nhau. Các hạt boson có spin nguyên và không tuân theo nguyên lý Pauli. Khái quát hóa, fermion là những hạt vật chất còn boson là những hạt truyền tương tác.
Trong Mô hình Chuẩn, thuyết điện từ - yếu (bao gồm cả tương tác yếu lẫn lực điện từ) được kết hợp với thuyết sắc động lực học lượng tử. Tất cả những thuyết này đều là lý thuyết gauge, có nghĩa là chúng mô hình hóa các lực giữa các fermion bằng cách tạo ra các boson, có tác dụng như các thành phần trung gian. Hệ Lagrangian của mỗi tập hợp hạt boson trung gian không thay đổi dưới một dạng biến đối gọi là biến đổi gauge, vì thế các boson này còn được gọi là gauge boson. Các boson trong Mô hình Chuẩn là:
Biến đổi gauge của các gauge boson có thể được miêu tả bởi một nhóm unita, gọi là nhóm gauge. Nhóm gauge của tương tác mạnh là SU(3), nhóm gauge của tương tác yếu là SU(2)xU(1). Vì vậy, Mô hình Chuẩn thường được gọi là SU(3)xSU(2)xU(1). Higg boson là boson duy nhất không thuộc gauge boson, các tính chất của boson này vẫn còn được bàn cãi. Graviton là boson được cho là hạt truyền tương tác của tương tác hấp dẫn, nhưng không được nhắc đến trong Mô hình Chuẩn.
Có 12 dạng fermion khác nhau trong Mô hình Chuẩn. Cùng với các hạt proton, neutron và electron, những fermion cấu thành nền phần lớn các vật chất. |
Mô hình Chuẩn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3956 | Mô hình Chuẩn xác định mỗi electron là hạt cơ bản; proton và neutron là hạt tổ hợp, được tạo bởi các hạt nhỏ hơn có tên gọi là quark. Các hạt quark dính với nhau bởi tương tác mạnh. Các hạt fermion cơ bản được nhắc đến trong Mô hình Chuẩn là:
Các fermion có thể được sắp xếp trong 3 lớp, lớp thứ nhất có chứa electron, quark lên ("up"), quark xuống ("down") và neutrino electron. Tất cả các vật chất nguyên sinh được tạo bởi nhóm hạt ở lớp đầu tiên; các hạt ở lớp cao hơn phân rã nhanh chóng xuống lớp thứ nhất và chỉ có thể được tổng hợp trong một thời gian thực ngắn, thông qua các thí nghiệm năng lượng cao. Lý do để sắp xếp các fermion vào các lớp khác nhau mặc dù các đặc điểm của chúng gần giống nhau, ví dụ như electron và muon cùng có spin bán nguyên và có cùng điện tích electron, là do khối lượng của muon lớp gấp 200 lần khối lượng của electron và, do đó, chúng được sắp xếp vào các lớp riêng biệt.
Lịch sử.
Mô hình Chuẩn được phát triển vào nửa cuối thế kỷ 20, và mô hình này là kết quả của sự công tác giữa nhiều nhà khoa học trên toàn cầu. Bước ban đầu đến Mô hình Chuẩn là Glashow tìm ra một cách mà kết hợp tương tác điện từ và yếu vào năm 1960. Năm 1967, Weinberg và Salam thêm cơ chế Higgs vào lý thuyết điện yếu của Glashow. Kết quả là lý thuyết điện yếu hiện đại.
Sau sự khám phá của dòng trung hoà của boson Z tại CERN năm 1973 lý thuyết điện từ được thừa nhận và Glashow, Salam và Weinberg cùng nhau chia giải Nobel vật lý năm 1979 vì việc tìm ra của lý thuyết này. Các hạt boson W và Z được thí nghiệm quan sát lần đầu tiên vào năm 1981 và khối lượng của chúng như lý thuyết điện yếu dự đoán.
Lý thuyết của tương tác mạnh có nhiều người đóng góp. Khoảng chừng vào năm 1973–1974 thực nghiệm xác nhận rằng hạt quark là thành phần của hạt hadron, và lý thuyết của tương tác mạnh có dạng hiện đại kể từ lúc ấy.
Kể từ lúc ấy các thực nghiệm tìm ra các hạt quark đáy (1977), quark đỉnh (1995), và neutrino tau (2000), để Mô hình Chuẩn thừa nhận hơn nữa. |
Mô hình Chuẩn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3956 | Gần đây hơn hạt Higgs, hạt cuối cùng mà Mô hình Chuẩn dự đoán cần tồn tại cũng đã được tìm ra (2011–2012) trong các thí nghiệm trên máy gia tốc lớn (LHC) của CERN và đã được chính thức xác nhận (2013).
Các hạt của Mô hình Chuẩn.
Trong Mô hình Chuẩn có 61 hạt sơ cấp.
Fermion.
Có 12 hạt sơ cấp với spin ½ (được gọi là fermion) trong Mô hình Chuẩn. Theo định lý spin-thống kê các hạt fermion tuân theo nguyên lý loại trừ Pauli. Từng hạt fermion có phản hạt của mình.
Có thể phân loại các hạt của Mô hình Chuẩn theo cách tương tác của chúng (có nghĩa là theo chúng nó có loại điện tích nào, như màu tích hay siêu tích yếu). Có sau hương quark (lên (u), xuống (d), duyên (c), lạ (s), đỉnh (t), và đáy (b)), và sáu loại lepton (electron, neutrino electron, muyon, neutrino muyon, tauon, và neutrino tauon). Một đôi của từng hai loại chung với nhau là một thế hệ, và hạt tương ứng với nhau có hoạt động một cách tương tự.
Đặc tính định nghĩa của hạt quark là chúng nó có màu tích, nên tương tác theo tương tác mạnh. Do một hiệu ứng gọi là sự giam hãm màu, các hạt quark luôn (hay ít nhất kể từ ngay sau vụ nổ lớn) dính lại với nhau, và chúng nó cấu thành hạt tổ hợp có màu tích trung hoà (hạt hadron) chứa hay là một hạt quark và một hạt phản quark (cấu thành một hạt meson), hay là ba hạt quark (hạt baryon). Hạt proton và neutron quen thuộc là hai hạt baryon có khối lượng thấp nhất. Các hạt quark cũng có điện tích và spin đồng vị yếu, để chúng nó tương tác với hạt fermion khác theo hai đều tương tác điện từ và tương tác yếu.
Sau hạt fermion ở lại không có màu tích và chúng nó được gọi là lepton. Ba hạt neutrino cũng không có điện tích, nên chỉ có tương tác yếu ảnh hưởng sự vận động của chúng nó, để các hạt ấy rất khó mà phát hiện. Mặt khác, nhờ điện tích của mình, các hạt electron, muyon, và tauon đều có tương tác điện từ.
Từng thành viên của một thế hệ có khối lượng cao hơn hạt tương ứng của thế hệ dưới. Các hạt có điện tích trong thế hệ đầu tiên không phân rã, nên cả vật chất thường làm bằng hạt này. |
Mô hình Chuẩn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3956 | Nói cụ thể, mọi nguyên tử gồm các hạt electron quay trên quỹ đạo xung quanh hạt nhân, cuối cùng làm bằng quark lên và xuống. Mặt khác, mọi hạt có điện tích của thế hệ thứ hai và ba phân rã với chu kỳ bán rã rất ngắn, và chỉ có thể phát hiện chúng trong môi trường năng lượng rất cao. Các hạt neutrino của mọi thế hệ cũng không phân rã, và chúng nó tràn ngập toàn vũ trụ, dù chúng rất ít khi tương tác với vật chất làm bằng hạt baryon.
Boson chuẩn.
Trong Mô hình Chuẩn, các hạt boson chuẩn bao gồm những hạt truyền tải ba tương tác cơ bản: lực hạt nhân mạnh, lực hạt nhân yếu, và lực điền từ.
Trong vật lý, tương tác là cách hạt này ảnh hưởng hạt kia. Ở thang vĩ mô, lực điện từ để cho hạt tương tác với nhau qua trường điện và từ, còn lực hấp dẫn để cho hạt có khối lượng tương tác với nhau theo thuyết tương đối rộng của Einstein. Mô hình Chuẩn giải thích lực này nổi lên là vì hạt vật chất trao đổi hạt khác, và hạt khác ấy mệnh danh "hạt truyền tải lực". Lúc nào một hạt truyền tải lực như thế bị trao đổi giữa hai hạt vật chất thì ở thang vĩ mô kết quả tương đương với một lực ảnh hưởng hai hạt vật chất này, nên ta nói rằng hạt ấy đã "truyền tải" lực này. Phép tính bằng giản đồ Feynman (đó là hình biểu diễn một cách đồ hoạ những số hạng trong chuỗi nhiễu loạn) dùng "hạt truyền tải lực", còn nếu dùng phép tính này để phân tích số liệu thực nghiệm về tán xạ năng lượng cao thì phép tính và số liệu phù hợp với nhau. Tuy nhiên, lý thuyết nhiễu loạn (và khái niệm hạt truyền tải lực) thất bại trong tình hình khác, như sắc động lực học lượng tử năng lượng thấp, những trạng thái liên kết, và các soliton.
Mọi hạt boson chuẩn của Mô hình Chuẩn có spin bằng 1, nên vì vậy thuộc loại hạt boson. Hiệu quả là hạt boson chuẩn không tuân thủ nguyên lý loại trừ Pauli như hạt fermion. Theo đó những hạt boson (như photon) không có giới hạn lý thuyết trên mật độ không gian (số mỗi đơn vị thể tích) của hạt này. |
Mô hình Chuẩn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3956 | Mô hình Chuẩn gồm ba loại boson chuẩn là như sau:
Mọi tương tác giữa những hạt trong Mô hình Chuẩn được tóm tắt trong biểu đồ bên phải.
Boson Higgs.
Hạt Higgs là hạt cơ bản vô hướng có khối lượng do Robert Brout, François Englert, Peter Higgs, Gerald Guralnik, C. R. Hagen, và Tom Kibble giả thiết cần phải tồn tại năm 1964, và hạt này là viên gạch cốt lõi của Mô hình Chuẩn. Hạt này không có spin nội tại, và vì vậy được phân loại là hạt boson (như những boson chuẩn mà có spin nguyên).
Boson Higgs đóng vai trò độc đáo trong Mô hình Chuẩn vì giải thích vì sao những hạt cơ bản khác, ngoại trừ photon và gluon, có khối lượng. Đặc biệt, boson Higgs giải thích vì sao photon không có khối lượng mà boson W và Z có khối lượng cao. Những khối lượng của các hạt cơ bản và sự khác biệt giữa tương tác điện từ (do photon truyền tải) và tương tác yếu (do boson W và Z truyền tải) rất quan trọng trong nhiều khía cạnh của cầu trúc vật chất vi mô (và vì vậy của vật chất vĩ mô). Trong lý tuyết điện yếu, boson Higgs mang khối lượng cho những hạt lepton (electron, muyon, tauon) và quark. Vì boson Higgs cũng có khối lượng nên hạt này cần phải tương tác với riêng mình.
Boson Higgs có khối lượng rất cao và luôn phân rã ngay sau được tạo ra, nên chỉ có máy gia tốc hạt năng lượng rất cao mới có thể khám phá ra nó. Đầu năm 2010, thí nghiệm để xác nhận sự tồn tại và để nghiên cứu tính chất của hạt Higgs bắt đầu tại CERN bằng Máy gia tốc hạt lớn (hay LHC), và một thí nghiệm tương tự cũng được thực hiện tại Tevatron của Fermilab cho đến khi phòng thí nghiệm này đóng cửa cuối năm 2011. Ngày 4 tháng 7 năm 2012, hai thí nghiệm chính tại LHC (ATLAS và CMS) đều báo cáo một cách độc lập rằng họ tìm thấy hạt mới lạ có khối lượng khoảng chừng (là khoảng chừng 133 lần khối lượng của proton, cường độ bằng 10−25 kg), "tương đồng với boson Higgs". Dù hạt mới lạ này có nhiều đặc tính giống như Higgs "đơn giản nhất" mà người ta tiên đoán, nhưng họ thừa nhận rằng công việc tiếp theo là cần thiết để kết luận rằng nó thật là boson Higgs, và để biết thực nghiệm ủng hộ loại hạt Higgs nào nhất.
Kiểm tra và tiên đoán. |
Mô hình Chuẩn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3956 | Kiểm tra và tiên đoán.
Mô hình Chuẩn đã tiên đoán sự tồn tại của boson W, Z, gluon, quark đỉnh và duyên trược hạt này được quan sát. Đặc tính của họ theo tiên đoán được thực nghiệm xác nhận với sự chính xác cao. Để có thể hiểu biết về sự thành công của Mô hình Chuẩn, bảng này so sánh khối lượng của boson W và Z như được đo lường với giá trị do Mô hình Chuẩn tiên đoán:
Mô hình Chuẩn cũng tiên đoán về đặc tính của sự phân rã của boson Z, mà thực nghiệm tại Large Electron-Positron Collider tại CERN sau đó xác nhận.
Tháng 5 năm 2012, nhóm hợp tác BaBar báo cáo rằng số liệu vừa mới phân tích của họ gợi ý rằng Mô hình Chuẩn có thể có chỗ hỏng. Số liệu này chứng tỏ rằng một loại phân rã hạt đặc biệt có tên là " → D(*) τ− ντ" xảy ra nhiều hơn sự tiên đoán của Mô hình Chuẩn. Trong loại phân rã này, một hạt có tên là meson phân rã thành meson D, một hạt phản neutrino, và một lepton tau. Dù trình độ chắc chắn của số thừa (3,4 sigma) chưa đầy đủ để có thể cho rằng cần cải thiện Mô hình Chuẩn, nhưng số liệu là tín hiệu rằng đây có gì đó không hợp.
Ngày 13 tháng 12 năm 2012, nhà vật lý báo cáo về sự không thay đổi theo thời gian và không gian của hằng số vật lý cơ bản, ủng hộ Mô hình Chuẩn.
Các thách thức.
Mặc dầu Mô hình Chuẩn đã có một thành công rất lớn trong việc giải thích các kết quả của thực nghiệm, song nó vẫn chưa thể trở thành một thuyết hoàn chỉnh trong vật lý cơ bản. Đó là do 2 nguyên nhân:
Hiện tại, mô hình này đang gặp một thử thách không nhỏ, đó là nghi vấn về sự xuất hiện của các hằng số không bền, như "c" hay "e", hay cả hằng số mạng tinh thể. Nếu như các định luật vật lý được chứng mình có vị trí phụ thuộc và có thể khác nhau ở các tọa độ đặc biệt trong không gian, điều đó có nghĩa là tất cả các thí nghiệm sử dụng để chứng minh cho Mô hình Chuẩn đều không hợp lệ. |
Thí nghiệm Michelson-Morley | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3958 | Thí nghiệm Michelson-Morley là một thí nghiệm quan trọng trong lịch sử vật lý học, thực hiện năm 1887 bởi Albert Michelson và Edward Morley tại cơ sở mà ngày nay là Đại học Case Western Reserve, được coi là thí nghiệm đầu tiên phủ định giả thuyết bức xạ điện từ truyền trong môi trường giả định ê-te, đồng thời gây dựng bằng chứng thực nghiệm cho một tiên đề của thuyết tương đối hẹp của Albert Einstein và cho ra số liệu đo đạc chính xác về tốc độ ánh sáng.
Vấn đề khó trong việc kiểm tra giả thuyết khí ête là đo được vận tốc ánh sáng một cách chính xác. Cuối thế kỷ thứ 19, khi máy đo giao thoa đã được phát triển để giúp cho việc kiểm tra với độ chính xác khá cao. Albert Abraham Michelson và Edward Morley đã sử dụng nó cho thí nghiệm của mình, và thu được kết quả đo khá chính xác, không chỉ vận tốc của ánh sáng, mà còn đo được tỉ số của vận tốc ánh sáng ở hai chiều vuông góc nhau. Tỉ số này có ý nghĩa nòng cốt cho giả thuyết khí ête.
Mô hình thí nghiệm.
Thí nghiệm Michelson-Morley được mô tả như trong hình vẽ. Ánh sáng đơn sắc đồng pha đi vào một tấm gương bán mạ, "A", rồi được chia làm hai phần giống nhau. Một phần của tia sáng đi vào tấm gương phẳng, "B", cách "A" một khoảng "l"1, và phản chiếu lại. Một phần khác của ánh sáng đi vào tấm gương phẳng, "C", cách "A" khoảng "l"2, và cũng phản chiếu lại. Tia phản chiếu từ "B" đến "A" sẽ được truyền qua một phần tới máy thu "D". Tia phản chiếu từ "C" đến "A" sẽ được phản xạ một phần tới máy thu "D". Tại "D", hai tia giao thoa với nhau tạo ra các vạch giao thoa. Bằng việc đếm các vạch giao thoa, chúng ta biết được một cách chính xác sự lệch pha của hai chùm sáng, do đó suy ra chênh lệch đường đi của hai tia sáng.
Nếu Trái Đất đứng yên và bị bao phủ bởi ête và "l"1="l"2 thì tại "D" ta sẽ thu được các viền giao thoa không bị lệch. Nhưng giả sử "l"1 và Trái Đất quay với vận tốc "u" theo hướng "x". Thời gian cho ánh sáng đi từ "A" đến "B" và ngược lại sẽ là:
Ở đây, "c" là vận tốc ánh sáng trong ête.
Đặt "t"2 là thời gian ánh sáng đi từ "A" đến "C" và ngược trở lại. |
Thí nghiệm Michelson-Morley | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3958 | Chúng ta biết rằng trong khi ánh sáng đi từ "A" đến "C", tấm gương tại "C" di chuyển tương đối với ête, với một khoảng là formula_2. Tương tự với khi nó phản chiếu lại, tấm gương tại "A" di chuyển với cùng một khoảng theo hướng "x". Bằng việc sử dụng định lý Pytago, tổng đường đi của tia sáng là:
Do đó, ta được:
hay:
Độ chênh lệch thời gian là:
Nếu formula_8 (đúng như trong thí nghiệm), khi ấy:
Nếu công thức cộng vận tốc Galileo được thỏa mãn thì hai tia sáng khi đi vào máy thu sẽ có hiệu quang trình là formula_10.
Khi đó chúng sẽ lệch pha nhau 1 lượng là
formula_11,
trong đó formula_12 là bước sóng ánh sáng. Từ đó ta cũng có thể thay đổi độ lệch pha formula_13 của 2 sóng bằng cách thay đổi hướng chuyển động x của giao thoa kế.
Ở đây, formula_14 tỉ lệ với số vạch đỏ thu được. Và theo công thức trên, số vạch đỏ thu được là dương.
Giả sử rằng máy đo quay một góc 90°. Khi ấy vạch giao thoa sẽ phải thay đổi. Vì thế, bằng việc quay máy đo, người ta có thể quan sát được một sự thay đổi đều đặn của vạch đỏ, với mút cực đại và cực tiểu chỉ định bởi chiều của vận tốc quay của Trái Đất trong ête. Từ độ lớn của các vạch đỏ, người ta có thể tính được giá trị của "u".
Tất nhiên, nó có thể xảy ra bởi sự cố, rằng thời điểm của thí nghiệm được thực hiện Trái Đất của chúng ta dừng quay trong ête, dẫn đến việc không quan sát được sự thay đổi của vạch đỏ khi máy đo quay. Nhưng sau 6 tháng đợi chờ, vận tốc của Trái Đất sẽ thay đổi là 57,6 km/s vì Trái Đất nằm trên vị trí đối diện trong quỹ đạo quanh Mặt Trời, nên một vạch đỏ sẽ phải quan sát được.
Vạch đỏ dự đoán tỉ lệ với formula_15 là rất nhỏ. Song máy đo của Michelson và Morley vẫn có đủ nhậy để phát hiện ra những vạch đỏ dự đoán đó.
Kết quả.
Khi thí nghiệm được thực hiện, kết quả đã thu được ngược lại với mong chờ về giả thuyết ête. Mặc dù các dụng cụ đo là chính xác, không có một vạch đỏ nào quan sát được tại bất kỳ mùa nào trong năm. Sau đó, những thí nghiệm kiểm chứng khác về giả thuyết khí ête cũng cùng cho một kết quả phủ định như trên. |
Phú Thọ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3970 | Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam.
Năm 2018, Phú Thọ là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 21 về số dân, xếp thứ 35 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 46 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 23 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.404.200 người dân, GRDP đạt 57.353 tỉ Đồng (tương ứng với 2,34800 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 38,5 triệu đồng (tương ứng với 1.672 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,34%. Tỉnh nổi tiếng từng là châu Phong - kinh đô nước Văn Lang.
Địa lý.
Tỉnh có vị trí địa lý:
Đây là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội.
Thành phố Việt Trì là trung tâm hành chính, kinh tế chính trị văn hoá giáo dục của tỉnh, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 80 km và sân bay quốc tế Nội Bài 50 km về phía tây bắc. Thành phố Việt Trì nằm đối diện với huyện Ba Vì, Hà Nội qua sông Hồng.
Lịch sử.
Phú Thọ được coi là vùng Đất Tổ cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Tương truyền tại nơi đây, các vua Hùng đã dựng nước nên nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên của Việt Nam, với kinh đô là Phong Châu, tức vùng xung quanh thành phố Việt Trì ngày nay.
Thời Hùng Vương, nhà nước Văn Lang được chia thành 16 bộ, trong đó Phú Thọ thuộc bộ Văn Lang, trung tâm của nước Văn Lang.
Thời An Dương Vương với nhà nước Âu Lạc, Phú Thọ thuộc huyện Mê Linh.
Dưới thời Bắc thuộc (từ năm 111 trước Công nguyên đến thế kỷ thứ X), Phú Thọ thuộc quận Mê Linh, Tân Xương, Phong Châu.
Thời loạn 12 sứ quân, Phú Thọ là địa bàn chiếm đóng của 2 sứ quân Kiều Công Hãn và Kiều Thuận tại các căn cứ Hồi Hồ, Phong Châu.
Thời kỳ phong kiến độc lập nhà Lý, Trần, phân cấp hành chính của Việt Nam có sự thay đổi, chế độ quận, huyện thời Bắc thuộc được thay thế bằng các đạo (lộ, trấn, xứ, tỉnh), dưới đạo là các phủ, châu, huyện. Phú Thọ thuộc lộ Tam Giang. |
Phú Thọ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3970 | Phú Thọ thuộc lộ Tam Giang.
Từ thời nhà Lê đến đầu triều nhà Nguyễn (1428 - 1891), phần lớn tỉnh Phú Thọ ngày nay thuộc tỉnh Sơn Tây trừ huyện Thanh Xuyên và huyện Yên Lập thuộc tỉnh Hưng Hóa (huyện Thanh Xuyên nay là 3 huyện Tân Sơn, Thanh Sơn và Thanh Thủy; huyện Yên Lập thuộc phủ Quy Hóa nay thuộc tỉnh Phú Thọ).
Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), nhà vua đã tiến hành cải cách hành chính, đổi tất cả các trấn trong nước là tỉnh, phân lại địa giới các tỉnh (điều chuyển một số huyện từ tỉnh nọ sang tỉnh kia), chia tách một số huyện lớn... Theo đó, trong địa bàn tỉnh Sơn Tây đã điều chuyển như sau:
Điều chuyển huyện Từ Liêm về tỉnh Hà Nội;
Điều chuyển huyện Tam Nông về tỉnh Hưng Hóa để làm tỉnh lỵ (tỉnh Hưng Hóa khi đó bao gồm toàn bộ diện tích các tỉnh vùng tây bắc Việt Nam ngày nay).
Trong địa bàn tỉnh Hưng Hóa, năm 1833, tách huyện Thanh Xuyên phủ Gia Hưng thành hai huyện Thanh Sơn và Thanh Thủy.
Sau khi đánh chiếm Bắc Kỳ, hoàn thành việc xâm lược toàn bộ Việt Nam, thực dân Pháp lập ra các đạo quan binh, các quân khu, tiểu quân khu... để dễ dàng và chủ động đàn áp các phong trào kháng chiến. Theo đó, tỉnh Hưng Hóa với địa bàn rộng lớn ở vùng tây bắc Việt Nam đã được chia thành nhiều tiểu quân khu: tiểu quân khu Tuyên Quang, tiểu quân khu Lào Cai, tiểu quân khu Yên Bái, tiểu quân khu Vạn Bú; tiểu quân khu phụ Lai Châu (sau đổi thành các tỉnh dân sự Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu...).
Sau khi cắt đi 16 châu, 4 phủ và hai huyện Trấn Yên, Văn Chấn để thành lập các đạo quan binh, khu quân sự, tiểu quân khu, Toàn quyền Đông Dương đã điều chỉnh một số huyện của tỉnh Sơn Tây sang, cộng với các huyện còn lại để thành lập tỉnh Hưng Hóa mới.
Theo Điều I của Nghị định Toàn quyền Đông Dương ngày 8 tháng 9 năm 1891, tỉnh Hưng Hóa mới được thành lập gồm có:
Như vậy tỉnh Hưng Hóa mới thành lập có 5 huyện và là tiền thân của tỉnh Phú Thọ sau này. |
Phú Thọ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3970 | Ngày 9 tháng 12 năm 1892, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuyển huyện Cẩm Khê nằm trong địa bàn tiểu quân khu Yên Bái về tỉnh Hưng Hóa mới; ngày 5 tháng 6 năm 1893, huyện Hạ Hòa tách khỏi tiểu quân khu Yên Bái nhập vào tỉnh Hưng Hóa mới (trước đó ngày 9 tháng 9 năm 1891, Toàn quyền Đông Dương đã điều chuyển huyện Cẩm Khê và huyện Hạ Hòa thuộc phủ Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây về tiểu quân khu Yên Bái).
Tiếp đó ngày 17 tháng 7 năm 1895, hai châu Thanh Sơn và Yên Lập thuộc khu quân sự Đồn Vàng chuyển về tỉnh Hưng Hóa mới.
Ngày 24 tháng 8 năm 1895, hai huyện Hùng Quan và Ngọc Quan của phủ Đoan Hùng thuộc tiểu quân khu Tuyên Quang thuộc đạo quan binh 3 Yên Bái nhập vào tỉnh Hưng Hóa mới.
Năm 1900, thành lập thêm huyện Hạc Trì. Trong năm 1900, Hưng Hoá do P. Simoni làm Công sứ (1900 - 1903)
Ngày 5 tháng 5 năm 1903, Toàn quyền Đông Dương ký nghị định thành lập thị xã Phú Thọ trên cơ sở làng Phú Thọ thuộc tổng Yên Phú, huyện Sơn Vi. Khi đó thị xã Phú Thọ nằm ở vị trí trung tâm của tỉnh Hưng Hóa lại có sân bay, đường sắt sang Trung Quốc và nhà ga nên Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã quyết định chuyển tỉnh lỵ của tỉnh Hưng Hóa (từ làng Trúc Phê huyện Tam Nông) lên thị xã Phú Thọ và đổi tên tỉnh Hưng Hóa thành tỉnh Phú Thọ, do Nicolas Auer làm Công sứ Pháp đầu tiên (1903 - 1907). Khi đó tỉnh Phú Thọ gồm có 2 phủ (Đoan Hùng, Lâm Thao), 8 huyện (Tam Nông, Thanh Thủy, Sơn Vi, Thanh Ba, Phù Ninh, Cẩm Khê, Hạ Hòa, Hạc Trì) và 2 châu (Thanh Sơn, Yên Lập).
Như vậy, ngày 8 tháng 9 năm 1891 được coi là ngày thành lập tỉnh Phú Thọ, còn ngày 5 tháng 5 năm 1903 chỉ là ngày thành lập thị xã Phú Thọ và ngày đổi từ tên tỉnh Hưng Hóa thành tỉnh Phú Thọ.
Từ năm 1903 đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, về cơ bản là đơn vị hành chính trong tỉnh không có những thay đổi lớn, chỉ có thay đổi tên gọi một số huyện và thành lập một số làng xã mới.
Năm 1919, bỏ tên huyện Sơn Vi đổi gọi là phủ Lâm Thao. Cũng chính năm này hai huyện Hùng Quan và Ngọc Quan hợp nhất thành phủ Đoan Hùng. |
Phú Thọ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3970 | Năm 1939, phủ Đoan Hùng chuyển gọi là châu Đoan Hùng. Cũng năm này huyện Thanh Ba đưa lên thành phủ Thanh Ba.
Đến năm 1940, tỉnh Phú Thọ bao gồm hai phủ: Lâm Thao, Thanh Ba; sáu huyện: Hạ Hòa, Cẩm Khê, Hạc Trì, Thanh Thủy, Tam Nông, Phù Ninh; ba châu: Thanh Sơn, Yên Lập, Đoan Hùng; hai thị xã: Phú Thọ, Việt Trì và một thị trấn Hưng Hóa. Toàn tỉnh có 66 tổng, 467 làng xã, 22 phố.
Sau Cách mạng tháng Tám, về mặt hành chính nhà nước Việt Nam thống nhất gọi các phủ, châu, huyện là huyện, bỏ cấp tổng và tiến hành hợp nhất các làng nhỏ thành xã. Năm 1946, tỉnh Phú Thọ từ 467 làng cũ hợp nhất thành 106 xã mới. Do có xã quá lớn nên giữa năm 1947, chính phủ lại chia tách một số xã, đưa số xã từ 106 lên 150 xã.
Cũng năm 1947, 5 huyện hữu ngạn sông Thao là Cẩm Khê, Tam Nông, Thanh Thủy, Thanh Sơn và Yên Lập sáp nhập vào khu 14 không thuộc tỉnh Phú Thọ. Đến tháng 2 năm 1948, khu 14 hợp nhất với khu 10 thành liên khu 10, 5 huyện hữu ngạn sông Thao lại trở về tỉnh Phú Thọ.
Ngày 22 tháng 7 năm 1957, thành lập thị xã Việt Trì - thị xã thứ hai của Phú Thọ, chỉ có 4 khu phố, 293 hộ người Kinh, 30 hộ Hoa kiều.
Ngày 4 tháng 6 năm 1962 thành phố Việt Trì được thành lập theo quyết định số 65 của Hội đồng Chính phủ. Từ đây Việt Trì trở thành tỉnh lị của Phú Thọ.
Ngày 26 tháng 1 năm 1968, Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra nghị quyết số 504-NQ/TVQH về việc hợp nhất hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú; theo cách đặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tên tỉnh được ghép tên 2 tỉnh là Vĩnh Yên cũ và Phú Thọ. Thành phố Việt Trì trở thành tỉnh lỵ của Vĩnh Phú.
Ngày 5 tháng 7 năm 1977:
Ngày 22 tháng 12 năm 1980, chia huyện Sông Thao thành 2 huyện Yên Lập và Sông Thao, chia huyện Sông Lô thành 2 huyện Đoan Hùng và Thanh Hòa, chuyển 4 xã thuộc huyện Sông Lô vừa giải thể về huyện Phong Châu. |
Phú Thọ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3970 | Ngày 7 tháng 10 năm 1995, chia lại huyện Thanh Hòa thành 2 huyện Thanh Ba và Hạ Hòa, chuyển 10 xã thuộc huyện Sông Thao về huyện Hạ Hòa.
Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX đã thông qua nghị quyết (ngày 26 tháng 11 năm 1996) về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, trong đó có việc tái lập tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Phú Thọ. Tỉnh Phú Thọ chính thức được tái lập và đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1997, ngay năm sau Phú Thọ được công nhận là tỉnh miền núi.
Khi tách ra, tỉnh Phú Thọ có diện tích 3.465,12 km², dân số 1.261.949 người, gồm 10 đơn vị hành chính cấp huyện: thành phố Việt Trì (tỉnh lỵ), thị xã Phú Thọ và 8 huyện: Đoan Hùng, Hạ Hòa, Phong Châu, Sông Thao, Tam Thanh, Thanh Ba, Thanh Sơn, Yên Lập.
Ngày 24 tháng 7 năm 1999, huyện Phong Châu chia lại thành hai huyện Phù Ninh và Lâm Thao; huyện Tam Thanh chia lại thành hai huyện Tam Nông và Thanh Thủy.
Ngày 8 tháng 4 năm 2002, đổi lại tên huyện Sông Thao thành huyện Cẩm Khê.
Tại nghị định số 61/2007/NĐ-CP ngày 9 tháng 4 năm 2007 của chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, huyện Thanh Sơn được tách thành 2 huyện: Thanh Sơn và Tân Sơn.
Như vậy, tỉnh Phú Thọ có 1 thành phố, 1 thị xã và 11 huyện như ngày nay.
Hành chính.
Tỉnh Phú Thọ có 13 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 11 huyện với 225 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 197 xã, 17 phường và 11 thị trấn.
Điều kiện tự nhiên.
Diện tích.
Tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh 3.532,9493 km², chiếm khoảng 1,1% diện tích cả nước.
Khí hậu.
Phú Thọ nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, có một mùa đông khô và lạnh. Nhìn chung khí hậu của Phú Thọ thuận lợi cho việc phát triển cây trồng, vật nuôi đa dạng.
Địa hình.
Phú Thọ là tỉnh miền núi, trung du nên địa hình bị chia cắt, được chia thành các tiểu vùng chủ yếu.
Thành phố Việt Trì là điểm đầu của tam giác châu Bắc Bộ. |
Phú Thọ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3970 | Vùng núi chiếm 79% diện tích tự nhiên toàn tỉnh; vùng trung du chiếm 14,35% diện tích; vùng đồng bằng chiếm 6,65% diện tích. Điểm cao nhất có độ cao 1.200m so với mực nước biển, điểm thấp nhất cao 30m; độ cao trung bình là 250m so với mực nước biển.
Sông ngòi.
Phú Thọ có ba con sông lớn chảy qua: sông Hồng (đoạn từ Lao Cai đến Việt Trì được gọi là sông Thao), sông Lô và sông Đà, chúng hợp lại với nhau ở Thành phố Việt Trì (trên thực tế thì đoạn sông Đà giao với sông Hồng cách chỗ hợp lưu sông Lô và sông Hồng 12 km). Chính vì thế mà đây được gọi là "ngã ba sông". Tương truyền tại nơi giao của ba dòng nước này luôn mang lại may mắn vì vậy nơi đây thường tập trung những người đến lấy nước để cầu may khi dựng nhà, động thổ. Xuất hiện nghề lấy nước bán.
Ngoài ra, Phú Thọ còn có một vài con sông ngòi nhỏ:
Là phụ lưu của sông Lô như sông Chảy (từ hồ hồ Thác Bà đến ngã ba Đoan Hùng), ngòi Chanh (Phù Ninh, Việt Trì), Sông Đồng Y, Suối Vai, Suối Nhà Dao, Suối Hố Nứa, Ngòi Rượm, Ngòi Dầu (Đoan Hùng, Phù Ninh), Ngòi Tế (Đoan Hùng).
Là phụ lưu của sông Chảy như Ngòi Ham, Ngòi Nga, Ngòi Duỗn (Đoan Hùng).
Là phụ lưu của sông Thao như sông Bứa (hay Ngòi Bứa, bắt nguồn từ Sơn La và hợp lưu với Sông Thao ở vùng giáp ranh Tam Nông và Cẩm Khê), sông Mùa, sông Dân, sông Diên, Ngòi Lạt, suối Cái (Thanh Sơn); Ngòi Me, Sông Cầu Tây, Khe Con Rùa, Ngòi Rành, Ngòi Cỏ (Cẩm Khê), Ngòi Vân, Ngòi Sen, Ngòi Lửa (hay Lửa Việt), Ngòi Mỹ, Ngòi Quê, Ngòi Chán, Suối Rích, Suối Ngay, Suối Khe Ngọt, Ngòi Lao (Hạ Hòa), ngòi Me, ngòi Cỏ, Ngòi Giành (hay Ngoài Giam ở Yên Lập, Hạ Hòa), ngòi Mạn Lạn (Thanh Ba).
Là phụ lưu của sông Bứa như Sông Gôm, Sông Cô Sơn, Sông Mứa, Sông Min, Sông Giày, Ngòi Sài, Ngòi Min, Suối Dài, Suối Ngầu, Suối Thông, Suối Dân, Suối Nước Thang, Suối Dụ, Suối Chiềng, Suối Ràm, Suối Vuỗng, Suối Xuân, Suối Min, Suối Cúc, Suối Sung, Suối Quả, Suối Đáy, Suối Sạn, Suối Cú, Suối Tấm, Suối Giát, Suối Lê, Suối Chiêu, |
Phú Thọ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3970 | Suối Giát, Suối Lê, Suối Chiêu, Suối Buông (Tân Sơn), Sông Dân, Sông Giân (hay Sông Diên), Ngòi Yên, Suối Chát, Suối Khoa, Suối Lánh, Suối Khánh, Suối Giân, Suối Chỏi, Suối Sinh, Suối Giàu, Suối Dạn, Suối Xé, Suối Gân, Suối Chôm, Suối Thân, Ngòi Kết, Suối Măng, Suối Khắc, Suối Tháng, Suối Giùng (Thanh Sơn), Suối Dọc, Suối Liệm, Suối Bớt, Suối Lèn, Suối Trong Vung, Suối Dè, Suối Thứ (Tân Sơn, Thanh Sơn), Sông Cây Ngõa, Suối Dầu Dương (Tam Nông).
Là phụ lưu của sông Đà như Ngòi Lạt, Suối Quất, Suối Cái, Suối Vui, Suối Cháu, Suối Khoang Xanh, Suối Vai Chót, Suối Đá Mài (Thanh Sơn), Ngòi Xem, Ngòi Tre, Ngòi Tu Vũ, Ngòi Cái, Suối Sương (Thanh Thủy).
Hệ thống sông ngòi đa dạng và phong phú khiến Phú Thọ có nhiều hồ, đầm lớn trong đó tập trung nhất ở khu vực Hạ Hòa, Cẩm Khê, Tam Nông dọc theo lưu vực sông Thao. Nhiều hồ, đầm lớn như: Hồ Đồng Phai, Hồ Hiền Lương, Hồ Bến Thẩn, Hồ Láng Thượng, Hồ Chính Công, Hồ Đầm Trắng, Hồ Đồng Máng, Hồ Đồng Đào, Hồ Phùng Thịnh, Hồ Liên Phương, Hồ Thanh Ba, Đầm Chiêm, Đầm Cây Si, Đầm Ao Châu, Đầm Meo, Đầm Lang Trì, Đầm Đung, Đầm Láng (Hạ Hòa), Hồ Ngả Hai, Hồ Nưa, Hồ Vực Sy, Hồ Thụy Liễu, Hồ Đồng Mèn, Đầm Cây Si, Đầm Chiêm, Đầm Mùn, Đầm Trắng, Đầm Phai Lớn, Đầm Sảy, Đầm Si, Đầm Trắng, hồ Đồng Đào (Cẩm Khê), Hồ Độc Giang (Yên Lập), Hồ Lạc Lang, Hồ Đầm Cả, (Việt Trì), Hồ Liên Phương (Đoan Hùng), Đầm Vang, Đầm Cả (Phù Ninh), Đầm Câu Cá, Đầm Thọ Sơn, Đầm Ngoài, Đầm Trong, Đầm Đức Phong, Đầm Lại Đăm, Đầm Cùng (Tam Nông)...
Hạ tầng.
Đường bộ có quốc lộ 2, quốc lộ 32, quốc lộ 70 đi qua. Đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai đi qua 7 huyện thị: thành phố Việt Trì, Phù Ninh, Lâm Thao, thị xã Phú Thọ, Thanh Ba, Cẩm Khê, Hạ Hòa. Đường sắt có tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai đi qua 5 huyện thị: thành phố Việt Trì, Lâm Thao, thị xã Phú Thọ, Thanh Ba, Hạ Hòa. Đường thủy có sông Đà, sông Hồng, sông Lô chảy qua. |
Phú Thọ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3970 | Dân số.
Theo điều tra dân số ngày 01 tháng 4 năm 2019, Phú Thọ có 1.463.726 người, nam giới có 726.909 người, nữ giới có 736.817 người, với mật độ dân số 373 người/km². Với số dân này Phú Thọ đứng thứ 21 (sau tỉnh Bình Định và trước tỉnh Bắc Ninh) trong 63 tỉnh, thành cả nước. Tổng số hộ gia đình là 402.618 hộ, với trung bình là 3,6 người/hộ (cả nước trung bình là 3,5 người/hộ). Tỷ lệ dân số sống tại nông thôn, vùng núi 81,9% và tại thành thị 18,1%, đây là tỉ lệ thấp hơn nhiều so với trung bình cả nước. Tỉ lệ tăng dân số trung bình giai đoạn từ 2009-2019 là 1,06% (thấp hơn trung bình cả nước là 1,14%). Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 23%.
Dân tộc Kinh là thành phần có tỉ lệ lớn nhất trong cơ cấu các thành phần dân tộc ở Phú Thọ. Theo điều tra dân số ngày 1/4/2019, thì cộng đồng người Kinh có 1.214.162 người (chiếm 83%), ngoài ra còn có cộng đồng người Mường, Dao, Sán Chay có số dân tương đối đông đảo.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 9 tôn giáo khác nhau đạt 155.114 người, nhiều nhất là Công giáo có 130.193 người, tiếp theo là Phật giáo có 24.790 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Tin Lành có 92 người, Hồi giáo có 31 người, đạo Cao Đài có ba người, Phật giáo Hòa Hảo có hai người, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Baha'i giáo và Bà La Môn mỗi tôn giáo chỉ có một người.
Văn hóa.
- Đền Hùng là khu di tích gồm đền Hạ, Gác chuông, chùa Thiên Quang, đền Trung, đền Thượng, lăng vua Hùng thứ 6, đền Giếng. Lễ hội chính hàng năm vào ngày 10-3 âm lịch.
- Đền Âu Cơ (Hiền Lương, Hạ Hòa). Gắn liền với truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Trong đền có tượng mẹ Âu Cơ (tổ Mẫu của cộng đồng người Việt) đặt ở vị trí trang trọng. Lễ hội đền hàng năm được tổ chức vào ngày mùng 7 tháng Giêng âm lịch.
- Chùa Xuân Lũng (xã Xuân Lũng, Lâm Thao). Chưa xác định chính xác chùa được xây dựng vào năm nào. Khoảng thời Lý - Trần chùa đã được trùng tu nhiều lần. |
Phú Thọ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3970 | Di tích còn lại hiện nay ở chùa là một bia đá có chiều ngang 3,2 mét, rộng 1,23 mét, cao 0,95 mét có niên đại 1377 - 1387 ở chính điện.
- Chùa Phúc Thánh tọa lạc trên núi Ngọc Phúc xã Hương Nộn, Tam Nông chùa do phu nhân thứ năm của vua Lý Thần Tông là Lê Thị Lan Xuân xây dựng vào năm Ất Sửu 1145 (đời vua Lý Anh Tông). Bà đã tu hành và mất tại đây vào Tân Mão (1171). Trên điện chùa có tượng thờ bà gọi là tượng thánh Mẫu. Mộ bà táng ở phía Tây chùa. Chùa Phúc Thánh là một số ít ngôi chùa thời Lý còn lại đến nay với nhiều chi tiết kiến trúc cổ trên chất liệu gỗ quý.
- Hội đánh cá thờ (Kẻ Giáp, Tứ Xã, Lâm Thao) tối 11 rạng 12 tháng 12 âm lịch.
- Hội Cầu tháng Giêng (Đào Xá, Thanh Thủy) có nhiều nghi lễ và nhiều trò vui như múa voi, thổi cơm thi. Lễ hội tổ chức vào ngày 27-28 tháng Giêng.
- Hội Chu Hóa (Chu Hóa, Lâm Thao) ngày 5 tháng Giêng nhằm tưởng nhớ 3 anh em Cả Đông, Nhị Đông, Tam Đông tương truyền là tướng giỏi của vua Hùng Vương thứ 18.
- Hát xoan là loại dân ca lễ nghi của vùng đất tổ. Kiểu thức hát xoan gần giống như hát dậm hay hát dô. Hát xoan theo trình tự quy định gồm phần nghi lễ tôn giáo và phần diễn xướng. Cơ bản là hát lối và ngâm đọc, có thêm hát hội mang tính chất trữ tình với nội dung về tình yêu đôi lứa, giao duyên. Cuộc đời hát là "giã cá" kết thúc quá trình diễn xướng.
Kinh tế.
Phú Thọ là cửa ngõ, trung tâm kinh tế của liên tỉnh phía Bắc, nằm trong vùng đô thị Hà Nội, hành lang kinh tế Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng nên có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế. Tổng thu ngân sách trên địa bàn tình năm 2018 ước đạt 6.025 tỷ đồng, xếp thứ 2 trong 14 tỉnh khu vực miền núi, trung du phía Bắc. Tổng vốn đầu tư thực hiện năm 2018 ước đạt 26,6 nghìn tỷ đồng, tăng 15,2% so với cùng kỳ. |
Phú Thọ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3970 | Tính đến ngày 15/12/2018, toàn tỉnh đã cấp đăng ký thành lập mới cho 767 doanh nghiệp với số vốn đăng ký là 3.769,5 tỷ đồng, tăng 17,6% về số doanh nghiệp nhưng giảm 10,9% về số vốn đăng ký; bình quân vốn đăng ký một doanh nghiệp đạt 4,9 tỷ đồng.
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2018 theo giá so sánh 2010 ước đạt 40.890,4 tỷ đồng, tăng 8,34% so với năm 2017.Phú Thọ là một trong những địa phương có quá trình xây dựng thôn mới đạt nhiều kết quả tích cực nhất trong số các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc, tính đến ngày 30/9/2019 đã có 93/247 xã đạt chuẩn nông thôn mới (chiếm 37,7% số xã).
Phú Thọ có 07 khu công nghiệp và gần 30 Cụm công nghiệp với diện tích gần 4.000 ha: KCN Thụy Vân, TP Việt Trì: 323 ha; 2 KCN Trung Hà và Tam Nông huyện Tam Nông: 550 ha; KCN Phú Hà, TX Phú Thọ: 450 ha; KCN Phù Ninh, huyện Phù Ninh: 100 ha; KCN Cẩm Khê, huyện Cẩm Khê: 450 ha; KCN Hạ Hòa, huyện Hạ Hòa: 400 ha. Các KCN đều được kết nối với nút lên xuống của đường cao tốc Hà Nôi - Lào Cai và đường Hồ Chí Minh.
Lễ hội và địa danh văn hóa.
Phú Thọ có nền văn hoá rực rỡ từ lâu đời. Những di chỉ khảo cổ văn hoá Sơn Vi, Đồng Đậu, Làng Cả và nhiều đình, chùa, lăng, tẩm còn lại quanh vùng núi Nghĩa Lĩnh cho thấy đất Phong Châu là một trung tâm văn hoá của dân tộc Việt. Di tích lịch sử quan trọng là đền quốc mẫu Âu Cơ, khu di tích đền Hùng.
Đây là vùng đất có nhiều lễ hội, đáng kể nhất là lễ hội Giỗ tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng Ba âm lịch). Các dân tộc ít người cũng có những đặc trưng văn hoá riêng của mình: người Mường có nhiều truyện thơ, ca dao, tục ngữ, hát xéc bùa, hát ví, hát đúm. |
Phú Thọ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3970 | Người Việt có hát xoan, hát ghẹo... Các lễ hội tiêu biểu trong tỉnh có thể kể đến:
Ngoài ra còn nhiều lễ hội khác như: Hội chùa Thắm (5/5 âm lịch - Xã Võ Lao, huyện Thanh Ba); Hội đình Cả ở xã Võ Lao, huyện Thanh Ba suy tôn: Thần Nông, thần Núi, thần Nước; Lễ hội Gia Thanh; Hội Chu Hóa; Lễ Cầu tháng Giêng; Hội đình nghè tổ chức tại xã Văn Lang, huyện Hạ Hòa, vào ngày chính hội mùng 10 tháng giêng hàng năm; Hội đền Nghè ở xã Năng Yên, Thanh Ba vào ngày mùng 7 tháng giêng hàng năm; Hội Đâm Đuống (Tết Doi) ở Xã Thu Cúc, Tân Sơn vào ngày tết (mồng 8 tháng 1 âm lịch) hàng năm...
Phong tục.
Sau khi uống xong một chén rượu hay một cốc bia người dân Phú Thọ nói riêng và một số tỉnh miền tây bắc nói chung (Vĩnh Phúc, Yên Bái, Lào Cai) thường bắt tay, thể hiện tình cảm và sự trân trọng với nhau.
Ẩm thực.
Phú Thọ có một số sản vật địa phương khá đặc biệt:
Danh sách ẩm thực. |
Phú Thọ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3970 | Các đặc sản, ẩm thực địa phương ở Phú Thọ như: thịt chua Thanh Sơn, nếp gà gáy Mỹ Lung, cá thính Tử Đà, bánh nẳng làng Dòng, chè lam đền Hùng, rau dớn Xuân Sơn, cuốn cão làng Sỏi, thịt lợn lửng, rau sắn, măng sặt Ấm Hạ, bánh khúc Việt Trì, thịt nộm nâu người Mường, hồng Gia Thanh, mì gạo Hùng Lô, hạt dổi Xuân Sơn, bánh tai hòn Phú Thọ, quế Yên Lập, xôi cọ, tương làng Bợ, mục hoa chuối Tân Sơn, chè búp khô, chè xanh, cơm nắm lá cọ Phù Ninh, khoai tầng vàng Tân Sơn, cá sỉnh Ngòi Lao, rượu hoẵng người Dao Thanh Sơn, nhộng tằm lá sắn Đồng Lương, cơm lam người Mường, cọ ỏm, kẹo lạc Việt Trì, bưởi Đoan Hùng, bánh củ mài đền Hùng, rau đắng cảy, tương Dục Mỹ, rau đồ người Mường Thanh Sơn, bánh cuốn Lâm Lợi, nhộng cọ, cá lăng, gà chín cựa Xuân Sơn, đu đủ Tam Nông, thịt chó Việt Trì, bánh chưng làng Xốm, xôi ngũ sắc Tân Sơn, bánh tẻ mật Đào Xá, vịt lam Xuân Sơn, bún tươi xóm Chùa, bánh sắn Phù Ninh, rêu đá Tân Sơn, chè san tuyết Xuân Sơn, trám om kho cá, bánh trứng kiến người Mường, xáo chuối Cao Xá, bánh tẻ Hà Thạch. |
An Giang | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3972 | An Giang là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam.
An Giang là tỉnh thuộc Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long. Là tỉnh có dân số đông nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long và là tỉnh đứng thứ 8 cả nước về dân số. Một phần của An Giang nằm trong vùng tứ giác Long Xuyên.
An Giang sở hữu diện tích khá lớn ở miền Tây Nam Bộ, trong đó có nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, có sông nước mênh mông, có núi non kỳ vĩ, có rừng tràm, có đồng ruộng bát ngát,…
Địa lý.
Vị trí địa lý.
Tỉnh An Giang nằm về phía tây nam đồng bằng sông Cửu Long, cách Thành phố Hồ Chí Minh 187 km, có vị trí địa lý:
Tỉnh An Giang có tổng diện tích tự nhiên 3,7 km², trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp 280.658 ha, đất lâm nghiệp 14.724 ha, bằng 1,03% diện tích cả nước và đứng thứ 4 so với 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
An Giang là tỉnh duy nhất của vùng Đồng bằng sông Cửu Long có địa bàn ở cả hai bờ sông Hậu. Điểm cực Bắc của tỉnh nằm ở vĩ độ 10°57'B (xã Khánh An, huyện An Phú), cực Nam ở vĩ độ 10°10'60"B (xã Bình Thành, huyện Thoại Sơn), cực Tây ở 104°46'Đ (xã Vĩnh Gia, huyện Tri Tôn), cực Đông trên kinh độ 105°35'Đ (xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới).
Khoảng cách lớn nhất theo hướng bắc - nam là 86 km và đông - tây là 87,2 km.
Khí hậu.
Với vị trí đó An Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong năm có 2 mùa rõ rệt gồm mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 27 độ C, lượng mưa trung bình năm khoảng 1.130 mm. Độ ẩm trung bình 75 – 80%, khí hậu cơ bản thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
Điều kiện tự nhiên.
An Giang là tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long, có hệ thống giao thông thuận tiện bao gồm giao thông thủy và giao thông bộ. Tỉnh có mạng lưới giao thông quan trọng trong khu vực và có cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên và Vĩnh Xương.
An Giang có nguồn nước mặt và nước ngầm phong phú. |
An Giang | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3972 | Hai con sông chính là Sông Tiền và Sông Hậu chảy qua tỉnh với lưu lượng trung bình năm khoảng 13.800 m³/s. Ngoài ra, tỉnh còn có nhiều tuyến sông, rạch và kênh khác. Tuy chế độ thủy văn của tỉnh phụ thuộc vào chế độ nước của Sông Mê Kông, nhưng tỉnh cũng phải đối mặt với tác động tiêu cực của lũ, gây thiệt hại đến cuộc sống và kinh tế địa phương.
Về đất đai và thổ nhưỡng, An Giang có 6 nhóm chính, trong đó nhóm đất phù sa chiếm tỷ lệ lớn với diện tích 151.600 ha, tương đương 44,5% diện tích tự nhiên của tỉnh. Ngoài ra, còn có nhóm đất phù sa có phèn, nhóm đất phát triển tại chỗ và đất phù sa cổ, cùng với đất phèn và các nhóm đất khác..
Tài nguyên thiên nhiên.
An Giang là một tỉnh có 37 loại đất khác nhau, chủ yếu là đất phù sa chiếm tỷ lệ 44,5%. Đất đai đa phần là màu mỡ và phù sa, thích hợp cho nhiều loại cây trồng. Tỉnh cũng có diện tích rừng tự nhiên khoảng 583 ha, với cây lá rộng là chủ yếu, bao gồm nhiều loài cây quý hiếm. Nguồn lợi thủy sản từ sông Tiền và sông Hậu, cùng hệ thống kênh, rạch, ao, hồ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nuôi cá và tôm. An Giang cũng có tài nguyên khoáng sản phong phú, bao gồm đá granit, đá cát kết, cao lanh, than bùn, vỏ sò và nhiều loại khác. Tỉnh cũng có tiềm năng du lịch với các lĩnh vực như du lịch văn hoá, sinh thái, vui chơi giải trí và nghỉ dưỡng. Ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng cũng được hưởng lợi từ tài nguyên khoáng sản của tỉnh..
Hành chính.
Tỉnh An Giang có 11 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 2 thành phố (Long Xuyên và Châu Đốc), 2 thị xã (Tân Châu và Tịnh Biên) và 7 huyện (An Phú, Châu Phú, Châu Thành, Chợ Mới, Phú Tân, Thoại Sơn, Tri Tôn) với 156 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 28 phường, 18 thị trấn và 110 xã được chia thành 879 khóm - ấp. Thị xã Tịnh Biên và huyện Tri Tôn được Chính phủ công nhận là huyện thị miền núi.
Lịch sử.
Vùng đất An Giang được người Khmer gọi là Moăt Chruk (មាត់ជ្រូក), nghĩa là xứ Miệng Heo. |
An Giang | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3972 | Nghĩa xứ Miệng Heo nghe có vẻ tối nghĩa, có thể suy đoán thêm các nghĩa khác như: xứ Tiếng Heo (xứ có nhiều heo rừng kêu la), xứ Bờ Heo (xứ có nhiều đường đất do heo rừng ủi thành). Sau người Việt đọc trại địa danh này thành Chu Đốc, nhưng do kị húy nên đọc thành Châu Đốc. Thời Nguyễn, địa danh này được phiên âm là Mật Luật (hoặc Ngọc Luật), dùng để chỉ khu vực xung quanh Châu Đốc.
Tỉnh An Giang thời phong kiến.
Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán nhà Nguyễn thì, đất An Giang (Khmer: ខេត្តមាត់ជ្រូក) xưa là đất Tầm Phong Long nước Chân Lạp (vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu). Đến năm 1757 (Đinh Sửu), quốc vương Chân Lạp là Nặc Tôn (Outey II) dâng đất này cho chúa Nguyễn. Từ thời thuộc Chân Lạp cho đến tận đầu nhà Nguyễn, đất An Giang còn hoang hóa, rất ít dân cư. Những năm đầu thời vua Gia Long, nhà Nguyễn mới tổ chức mộ dân đến khai hoang định cư, và cho thuộc vào trấn Vĩnh Thanh (1 trong 5 trấn của thành Gia Định). Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), vua Minh Mạng chia trấn Vĩnh Thanh thành hai tỉnh An Giang và Vĩnh Long. Tỉnh An Giang (chữ Hán: "安江"), đồng thời chia thành 2 phủ (với 4 huyện): phủ Tuy Biên (gồm 2 huyện: Tây Xuyên, Phong Phú), phủ Tân Thành (gồm 2 huyện: Đông Xuyên và Vĩnh An). Cùng lúc, đặt ra chức An-Hà tổng đốc thống lĩnh cả hai tỉnh An Giang và Hà Tiên, lỵ sở đặt tại tỉnh thành Châu Đốc của tỉnh An Giang. Địa bàn tỉnh An Giang dưới thời nhà Nguyễn rất rộng. So với địa giới hành chính ngày nay bao gồm toàn bộ tỉnh An Giang, thành phố Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, một phần tỉnh Đồng Tháp và huyện Giá Rai (thuộc tỉnh Bạc Liêu).
Tháng 4 năm 1824, Nặc Ông Chân (Ang Chan II), hiến tặng nhà Nguyễn thông qua Nguyễn Văn Thoại (để trả ơn ông Thoại), 3 vùng Chân Sum (còn gọi là Chân Thành hay Chân Chiêm, nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Mật Luật (Ngọc Luật, cũng nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Lợi Kha Bát (Prey Kabbas), Takeo). |
An Giang | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3972 | Nhà Nguyễn chỉ lấy 2 đất Chân Sum và Mật Luật (Mật Luật sau thành đất huyện Tây Xuyên). Chân Sum sau được phân vào hai huyện Hà Âm và Hà Dương từng thuộc phủ Tĩnh Biên (Tịnh Biên)/tỉnh Hà Tiên, trước khi chia về cho tỉnh An Giang.
An Giang là một trong sáu tỉnh đầu tiên ở Nam Kỳ (Nam Kỳ lục tỉnh) vào thời nhà Nguyễn độc lập, thành lập năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng.
Năm 1833, tỉnh An Giang bị quân Lê Văn Khôi nổi dậy chiếm đóng, nhà Nguyễn phải điều binh đánh dẹp, cuối cùng Án sát An Giang là Bùi Văn Lý lấy lại được tỉnh thành (Châu Đốc) từ tay của quân Khôi. Năm 1833-1834, quân nước Xiêm La, theo cầu viện của Lê Văn Khôi, tiến vào An Giang theo đường sông Cửu Long đánh nhà Nguyễn, bị quân nhà Nguyễn do Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân đánh bại trên sông Vàm Nao.
Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà Nguyễn lấy thêm đất Ba Thắc (Bassac, thuộc Cao Miên) sáp nhập vào An Giang và lập thành phủ Ba Xuyên. Đất Ba Thắc cũ chia thành 2 huyện Phong Nhiêu và Phong Thịnh. Đồng thời nhập thêm huyện Vĩnh Định của tỉnh Vĩnh Long vào phủ Ba Xuyên, khiến phủ Ba Xuyên có 3 huyện: Phong Nhiêu, Phong Thịnh và Vĩnh Định.
Phân chia hành chánh tỉnh An Giang năm 1836:
-Huyện Vĩnh An:
-Huyện Vĩnh Định:
-Huyện Đông Xuyên:
-Huyện Tây Xuyên:
Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), nhà Nguyễn đặt thêm huyện An Xuyên (tách từ phần đất huyện Vĩnh An ra) lệ thuộc vào phủ Tân Thành. Cùng năm này, nhà Nguyễn còn cắt đất huyện Chân Thành phủ Chân Chiêm thuộc Trấn Tây Thành (xứ Cao Miên do nhà Nguyễn bảo hộ) hợp với phần đất cắt từ huyện Tây Xuyên để lập hai huyện Hà Dương (ở bờ Nam sông Vĩnh Tế) và Hà Âm (ở bờ Bắc sông Vĩnh Tế) của tỉnh Hà Tiên (sau chuyển sang tỉnh An Giang), nhập thêm thổ huyện Ô Môn (tên gọi cũ của vùng đất thuộc Cao Miên (Trấn Tây Thành) có nhiều người Khmer sinh sống) vào thành huyện Phong Phú, thổ huyện Mật Luật (Ngọc Luật) của Trấn Tây Thành vào huyện Tây Xuyên.
Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), Thiệu Trị trích phủ Tĩnh Biên cùng huyện Hà Dương của tỉnh Hà Tiên, sáp nhập vào An Giang. |
An Giang | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3972 | Năm 1844, trích thêm huyện Hà Âm của tỉnh Hà Tiên nhập vào phủ Tĩnh Biên, lúc này phủ Tĩnh Biên gồm các huyện Hà Âm, Hà Dương. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), nhà Nguyễn bỏ phủ Tĩnh Biên, cho nhập 2 huyện Hà Âm và Hà Dương vào phủ Tuy Biên. Vào thời vua Tự Đức tỉnh An Giang gồm có 3 phủ với 10 huyện: Hà Âm, Hà Dương, Phong Phú, Tây Xuyên, Đông Xuyên, Vĩnh An, An Xuyên, Phong Nhiêu, Phong Thịnh, Vĩnh Định.
- Huyện Hà Âm, trước là đất huyện Châu Thành nước Cao Miên, gồm 2 tổng (có thể là 2 tổng với tên là Thành Tín và Quy Đức, sau này được tổ chức lại thành 2 tổng nằm ngay bên bờ kênh Vĩnh Tế của tỉnh Châu Đốc năm 1901) với 40 làng xã "(Vĩnh Thông, Vĩnh Bảo, Vĩnh Lạc, Vĩnh Gia, Vĩnh Điều, Thân Nhơn Lý...)", phía tây giáp huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên, phía nam giáp huyện Hà Dương, phía đông giáp huyện Tây Xuyên, phía bắc giáp nước Cao Miên. Theo Đại Nam nhất thống chí: huyện Hà Âm nằm bên trái (tả, tức bờ phía tây bắc) sông Vĩnh Tế. Như vậy, vào thời này, vùng đất huyện Hà Âm thuộc phần đất giáp biên giới của Campuchia với Việt Nam, tức là phần đất huyện Kiri Vong, và có thể cả phần đất các huyện Kaoh Andaet, Bourei Cholsar thuộc tỉnh Takeo, Campuchia.
-Huyện Hà Dương (河陽), nguyên là đất huyện Chân Thành nước Cao Miên, gồm 4 tổng (Thành Tâm, Thành Ý, Thành Lễ, Thành Ngãi (hay Thành Nghĩa)) với 40 làng xã "(Vĩnh Quới, Hưng Nhượng, An Nông, An Thạnh, Phú Thạnh, Nhơn Hòa, Thới Sơn, Tà Đảnh, Thuyết Nạp, Trát Quan, Tu Tế, Văn Giáo, Vĩnh Trung, Xuân Tô, An Cư, Ba Chút, Bích Trì, Bôn Ca, Châu Lăng, Lê Huất, Lương Đô, Phi Yên, Trầm Văn, An Tức, Đôn Hậu, Giai Âm, Nam Qui, Phi Cấm, Tri Tôn, Cô Tô, Nam Chỉ, Ngôn Nạp, Ô Lâm...)", phía tây giáp huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên, phía nam giáp huyện Kiên Giang tỉnh Hà Tiên, phía đông giáp huyện Tây Xuyên, phía bắc giáp huyện Hà Âm. Đất huyện Hà Dương vào thời nay thuộc các huyện Châu Thành, Thoại Sơn, Tịnh Biên và Tri Tôn của tỉnh An Giang. |
An Giang | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3972 | -Huyện Phong Phú (豐富) từng là đất huyện Vĩnh Định và đất thổ huyện Ô Môn (của Cao Miên), gồm 3 tổng với 31 làng xã, phía tây giáp huyện Kiên Giang tỉnh Hà Tiên, phía nam giáp huyện Vĩnh Định (phủ Ba Xuyên), phía bắc giáp 2 huyên Tây Xuyên và An Xuyên (phủ Tân Thành). Đất huyện Phong Phú nay có thể là đất thuộc các quận huyện Thốt Nốt, Ô Môn... của thành phố Cần Thơ. Đại Nam nhất thống chí chép: "Sông Cần Thơ ở bờ Tây sông Hậu, cách huyện Phong Phú 3 dặm về phía đông..., bờ phía tây là thủ sở đạo Trấn Giang cũ..."
-Huyện Tây Xuyên (西川) nguyên là đất đạo Châu Đốc cùng huyện Vĩnh Định và thổ huyện Mật Luật (của Cao Miên), nằm ở bờ Tây sông Hậu, gồm 3 tổng (Châu Phú, Định Thành, Định Phước) với 38 làng xã, phía tây giáp huyện Hà Dương, phía nam giáp huyện Long Xuyên tỉnh Hà Tiên, phía đông và phía bắc giáp huyện Đông Xuyên (phủ Tân Thành). Đất huyện Tây Xuyên nay có thể là đất thuộc các huyện thị Châu Đốc, An Phú, Châu Phú, Châu Thành, thành phố Long Xuyên... của tỉnh An Giang.
-Huyện Đông Xuyên nguyên là đất huyện Vĩnh Định (gồm đạo Tân Châu) nằm ở phía đông sông Hậu Giang (giữa sông Tiền và sông Hậu), gồm 4 tổng với 33 làng xã, phía tây và phía nam giáp huyện Tây Xuyên, phía đông giáp các huyện Kiến Đăng, (Kiến Phong) tỉnh Định Tường, phía bắc giáp nước Cao Miên. Đất huyện Đông Xuyên nay có thể là thuộc đất các huyện thị Tân Châu, An Phú, Phú Tân... của tỉnh An Giang.
-Huyện Vĩnh An (永安) gồm 4 tổng với 36 làng xã, phía tây giáp huyện Phong Phú, phía nam và phía đông giáp huyện An Xuyên, phía bắc giáp huyện Kiến Phong tỉnh Định Tường. Đất huyện Vĩnh An có thể nay là đất thuộc huyện Chợ Mới và một số huyện phía nam tỉnh Đồng Tháp (nằm giữa sông Tiền và sông Hậu) là: Lấp Vò, Lai Vung, Sa Đéc (đạo Đông Khẩu). Theo Đại Nam nhất thống chí thì đạo Đông Khẩu ở bờ Nam sông Sa Đéc thuộc địa phận huyện Vĩnh An. |
An Giang | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3972 | -Huyện An Xuyên (安川) gồm 3 tổng với 25 làng xã, phía tây giáp huyện Phong Phú, phía nam giáp huyện Vĩnh Định, phía đông giáp tỉnh Vĩnh Long, phía bắc giáp tỉnh Định Tường. Đất huyện An Xuyên có thể nay thuộc các huyện thị phía nam tỉnh Đồng Tháp (nằm giữa sông Tiền và sông Hậu) là: Lấp Vò, Lai Vung, Châu Thành... và có thể là cả đất huyện Bình Minh tỉnh Vĩnh Long ngày nay.
-Huyện Vĩnh Định (永定) nguyên trước là huyện Vĩnh Định tỉnh Vĩnh Long nhà Nguyễn sau cắt sang An Giang, gồm 4 tổng (Định Thới, Định An, Định Khánh, và Trấn Giang (tức Cần Thơ)) với 19 làng xã, phía tây giáp huyện Phong Nhiêu, phía nam giáp huyện Phong Thịnh, phía đông và phía bắc giáp tỉnh Vĩnh Long nhà Nguyễn. Đất huyện Vĩnh Định nay có thể là vùng đất giáp bờ sông Hậu thuộc các tỉnh Hậu Giang (chủ yếu), Sóc Trăng (một phần).
-Huyện Phong Nhiêu (豐饒), gồm 3 tổng với 17 làng xã, phía tây giáp huyện Kiên Giang tỉnh Hà Tiên, phía nam giáp biển Đông, phía đông và phía bắc giáp huyện Vĩnh Định. Nay đất huyện Phong Nhiêu có thể thuộc phần phía tây 2 tỉnh Hậu Giang và Sóc Trăng, cùng phần phía đông hay toàn bộ tỉnh Bạc Liêu.
-Huyện Phong Thịnh (豐盛), đến năm Tự Đức thứ 3 (1850) bị nhập vào cùng huyện Vĩnh Định với sự kiêm quản của phủ lỵ nên bị xóa tên. Toàn bộ đất huyện Phong Thịnh có thể là nằm trọn vẹn trong địa bàn tỉnh Sóc Trăng ngày nay.
Các tổng đốc An Giang-Hà Tiên của nhà Nguyễn:
Các Tuần phủ (tỉnh trưởng) An Giang nhà Nguyễn
Tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc thời Pháp thuộc.
Năm 1868, thực dân Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ là An Giang, Vĩnh Long và Hà Tiên. Lúc này, thực dân Pháp dần xóa bỏ tên gọi tỉnh An Giang cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn ở khu vực này, đồng thời cũng đặt ra các hạt Thanh tra. Theo đó, tỉnh An Giang bị đổi tên thành tỉnh Châu Đốc, do lấy theo tên gọi nơi đặt lỵ sở của tỉnh là thành Châu Đốc. |
An Giang | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3972 | Tỉnh Châu Đốc khi đó gồm các hạt Thanh tra, vốn lấy tên gọi theo địa điểm nơi đặt lỵ sở như: hạt Châu Đốc (phủ Tuy Biên cũ), hạt Sa Đéc (phủ Tân Thành cũ) và hạt Ba Xuyên (phủ Ba Xuyên cũ):
-Hạt Châu Đốc (phủ Tuy Biên cũ), đặt lỵ sở tại Châu Đốc, gồm 2 huyện: Đông Xuyên và Hà Dương
-Hạt Sa Đéc (phủ Tân Thành cũ), đặt lỵ sở tại Sa Đéc, gồm 3 huyện: An Xuyên, Vĩnh An và Phong Phú
-Hạt Ba Xuyên (phủ Ba Xuyên cũ), đặt lỵ sở tại Sóc Trăng, gồm 3 huyện: Vĩnh Định, Phong Nhiêu và Phong Thạnh
Sau này, hạt Thanh tra Ba Xuyên cũng được đổi tên thành hạt Thanh tra Sóc Trăng. Về sau, hạt Thanh tra Châu Đốc cũng tách ra để thành lập thêm hạt Thanh tra Long Xuyên; hạt Thanh tra Sa Đéc tách ra hợp với một phần đất thuộc tỉnh Vĩnh Long trước đây để thành lập hạt Thanh tra Trà Ôn. Một năm sau, Tòa Bố chính từ Trà Ôn lại dời về Cái Răng.
Ngày 5 tháng 6 năm 1871, hạt Thanh tra Long Xuyên và hạt Thanh tra Châu Đốc nhận thêm phần đất đai thuộc địa bàn tổng Phong Thạnh vốn thuộc huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường vào thời nhà Nguyễn độc lập như sau:
-Hạt Châu Đốc: lấy phần đất 3 làng An Bình, An Long và Tân Thạnh thuộc tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong. Phần đất này nằm ở phía tây bắc Đồng Tháp Mười, sau gọi là tổng An Phước thuộc hạt Châu Đốc.
-Hạt Long Xuyên: lấy địa phận các làng Tân Phú, Tân Thạnh của tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong để lập tổng mới gọi là tổng Phong Thạnh Thượng thuộc hạt Long Xuyên.
Theo Nghị định ngày 5 tháng 1 năm 1876, thực dân Pháp bỏ hẳn hệ thống Nam Kỳ lục tỉnh thời nhà Nguyễn, đồng thời các hạt Thanh tra được thay bằng hạt tham biện "(arrondissement)", các thôn đổi thành làng. Vùng đất Nam Kỳ lúc này bị chia thành 4 khu vực hành chính "(circonscription)" do thực dân Pháp đặt ra, trong đó có khu vực Bassac (Hậu Giang) cai quản các hạt tham biện: Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Trà Ôn và Sóc Trăng. Tuy nhiên, hạt tham biện Sa Đéc lại thuộc về khu vực Vĩnh Long. |
An Giang | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3972 | Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định mới lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập hạt Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ. Hạt Cần Thơ thuộc khu vực Bassac (Hậu Giang).
Năm 1882, thiết lập hạt tham biện Bạc Liêu trên cơ sở tách 3 tổng Quảng Long, Quảng Xuyên và Long Hưng của hạt tham biện Rạch Giá hợp với 2 tổng Thạnh Hòa và Thạnh Hưng tách từ hạt tham biện Sóc Trăng chuyển sang. Lỵ sở Bạc Liêu thuộc địa bàn tổng Thạnh Hòa vốn trước đó thuộc hạt tham biện Sóc Trăng. Như vậy địa bàn tỉnh An Giang cũ gồm các hạt tham biện Sa Đéc, Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng và Bạc Liêu nằm trong 2 khu vực Vĩnh Long và Bassac (Hậu Giang).
Ngày 12 tháng 8 năm 1888, hạt tham biện Rạch Giá bị giải thể, nhập vào hạt tham biện Long Xuyên. Ngày 27 tháng 12 năm 1892, thực dân Pháp lại tái lập hạt tham biện Rạch Giá. Năm 1888, Hà Tiên cho thuộc về hạt tham biện Châu Đốc, đến cuối năm 1892 lại phục hồi hạt tham biện Hà Tiên.
Theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương vào ngày 20 tháng 12 năm 1899 thì kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900, đổi tất cả các hạt ở Nam Kỳ thành tỉnh. Địa bàn tỉnh An Giang cũ chia ra thành 6 tỉnh giống như thời kỳ trước đây: Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu. Tình hình đó kéo dài cho đến năm 1956.
Vào thời Pháp thuộc, vùng đất tỉnh An Giang ngày nay (thuộc Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) là phần đất thuộc Châu Đốc và Long Xuyên. Phần đất của hai tỉnh này khi đó còn bao gồm cả một phần đất thuộc về tỉnh Đồng Tháp ngày nay.
Năm 1903, tỉnh Châu Đốc ban đầu có 3 quận: Tân Châu, Tri Tôn và Tịnh Biên. Năm 1917, Châu Đốc thành lập thêm quận Châu Thành, đến năm 1919 thì đổi tên là quận Châu Phú. Tuy nhiên năm 1939 lại đổi về tên quận Châu Thành như cũ. Ngày 19 tháng 12 năm 1929, thực dân Pháp lập thêm quận Hồng Ngự thuộc do tách ra từ quận Tân Châu cùng tỉnh. |
An Giang | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3972 | Tỉnh lỵ Châu Đốc đặt tại làng Châu Phú thuộc tổng Châu Phú, quận Châu Thành. Từ ngày 9 tháng 2 năm 1913 đến ngày 9 tháng 2 năm 1924, tỉnh Hà Tiên bị giải thể, trở thành một quận thuộc tỉnh Châu Đốc. Sau đó, lại tách ra trở thành tỉnh Hà Tiên độc lập như trước.
Năm 1917, thực dân Pháp cho thành lập ở tỉnh Long Xuyên 3 quận trực thuộc: Châu Thành, Chợ Mới và Thốt Nốt. Năm 1953, tỉnh Long Xuyên thành lập thêm hai quận mới là Núi Sập và Lấp Vò. Quận Thoại Sơn được thành lập do tách tổng Định Phú ra khỏi quận Châu Thành; quận Lấp Vò được thành lập do tách tổng An Phú ra khỏi quận Thốt Nốt cùng tỉnh.
Tỉnh lỵ Long Xuyên thuộc khu vực hai làng Bình Đức và Mỹ Phước cùng thuộc tổng Định Phước, quận Châu Thành. Dựa theo các Sắc lệnh ngày 31 tháng 1 năm 1935 và 16 tháng 12 năm 1938, thị xã Long Xuyên trực thuộc tỉnh Long Xuyên được thành lập bao gồm phần đất nội ô tỉnh lỵ trước đó. Ngày 29 tháng 12 năm 1952, chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp quyết định công nhận đô thị tỉnh lỵ Long Xuyên trở thành thị xã hỗn hợp "(commune mixte)" trực thuộc tỉnh Long Xuyên.
Giai đoạn 1945-1954.
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, tỉnh Châu Đốc và tỉnh Long Xuyên nằm trong danh sách 21 tỉnh ở Nam Bộ. Lúc này, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975.
Ngày 19 tháng 5 năm 1947, Chính phủ lâm thời Cộng hòa Nam Kỳ tự trị thân Pháp quyết định tách đất quận Thốt Nốt để lập thêm quận Lấp Vò ban đầu cùng thuộc tỉnh Long Xuyên; quận lỵ đặt tại Lấp Vò (thuộc làng Bình Đông). Ngày 14 tháng 5 năm 1949, chính quyền Việt Minh lại quyết định tách quận Lấp Vò ra khỏi tỉnh Long Xuyên để nhập vào tỉnh Sa Đéc. |
An Giang | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3972 | Ngày 12 tháng 9 năm 1947, theo chỉ thị số 50/CT của Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ (chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), lúc bấy giờ có sự thay đổi sắp xếp hành chính của tỉnh Châu Đốc và Long Xuyên, thành lập các tỉnh mới có tên là Long Châu Tiền và Long Châu Hậu như sau:
-Tỉnh Long Châu Tiền nằm ở phía bờ trái (tả ngạn) sông Hậu, hai bên sông Tiền, thuộc khu 8 và có 5 huyện: Tân Châu, Hồng Ngự, Chợ Mới, Châu Phú B và Lấp Vò. Ngày 14 tháng 5 năm 1949, huyện Lấp Vò được trả về tỉnh Sa Đéc. Cũng trong năm đó, huyện Tân Châu của tỉnh Long Châu Tiền chia thành 2 huyện mới là Phú Châu và Tân Châu.
-Tỉnh Long Châu Hậu nằm ở phía bờ phải (hữu ngạn) sông Hậu và có 6 huyện: Tịnh Biên, Tri Tôn, Thốt Nốt, Thoại Sơn, Châu Phú A và Châu Thành (bao gồm 2 tỉnh lỵ Long Xuyên và Châu Đốc). Năm 1949, chính quyền Cách mạng giao huyện Thốt Nốt về cho tỉnh Cần Thơ, đến năm 1954 lại trả huyện Thốt Nốt về cho tỉnh Long Xuyên quản lý trở lại như trước.
Tháng 10 năm 1950 tỉnh Long Châu Hậu hợp nhất với Hà Tiên thành tỉnh Long Châu Hà, gồm 8 huyện: Tịnh Biên, Tri Tôn, Châu Phú A, Châu Thành, Thoại Sơn, Thốt Nốt, Giang Châu (hợp nhất hai huyện Giang Thành và Châu Thành của tỉnh Hà Tiên cũ), Phú Quốc. Tháng 7 năm 1951, hợp nhất 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên thành huyện Tịnh Biên; hợp nhất 2 huyện Châu Thành và Thoại Sơn thành huyện Châu Thành.
Tháng 6 năm 1951, tỉnh Long Châu Tiền hợp nhất với tỉnh Sa Đéc thành tỉnh Long Châu Sa, gồm 7 huyện: Châu Thành của tỉnh Sa Đéc cũ), Lai Vung, Cao Lãnh, Tân Hồng, Tân Châu, Phú Châu, Chợ Mới. Trong đó, hai huyện Tân Hồng và Tân Châu vốn là hai huyện Hồng Ngự và Tân Châu của tỉnh Long Châu Tiền trước đó. Tháng 7 năm 1951, nhập huyện Lấp Vò vào tỉnh Long Châu Sa.
Tuy nhiên, tên các tỉnh Long Châu Tiền, Long Châu Hậu, Long Châu Sa và Long Châu Hà không được chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và chính quyền Việt Nam Cộng hòa công nhận. |
An Giang | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=3972 | Năm 1953, chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp lại quyết định thành lập thêm tại Long Xuyên một quận mới là quận Núi Sập, với quận lỵ đặt tại Núi Sập (thuộc làng Thoại Giang) do tách tổng Định Phú ra khỏi quận Châu Thành cùng tỉnh.
Năm 1954, chính quyền Việt Minh giải thể các tỉnh Long Châu Sa và Long Châu Hà, đồng thời khôi phục lại các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc và Hà Tiên như cũ.
Việt Nam Cộng hòa.
Ban đầu, chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa vẫn duy trì tên gọi Long Xuyên và Châu Đốc như thời Pháp thuộc.
Năm 1955, tỉnh Châu Đốc có 5 quận gồm: Châu Thành, Tân Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, Hồng Ngự trong đó tất cả 70 xã. Tỉnh Long Xuyên có 4 quận gồm: Châu Thành, Chợ Mới, Núi Sập, Thốt Nốt với tổng cộng 47 xã.
Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Ngày 17 tháng 2 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tách quận Hồng Ngự (có cả cù lao Tây) ra khỏi tỉnh Châu Đốc và tổng Phong Thạnh Thượng ra khỏi quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên để cùng nhập vào tỉnh Phong Thạnh mới thành lập (sau đó lại đổi tên thành tỉnh Kiến Phong, ngày nay là tỉnh Đồng Tháp).
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng hòa gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này tỉnh Châu Đốc và tỉnh Long Xuyên được sáp nhập để thành lập tỉnh mới có tên là tỉnh An Giang. Tỉnh lỵ tỉnh An Giang đặt tại Long Xuyên và vẫn giữ nguyên tên là "Long Xuyên", về mặt hành chánh thuộc địa bàn xã Phước Đức, quận Châu Thành. Ngày 14 tháng 1 năm 1959, xã Phước Đức bị giải thể, sáp nhập vào địa bàn hai xã Mỹ Phước và Bình Đức cùng thuộc quận Châu Thành.
Lúc này ở vùng đất cả hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc trước đó đều có quận Châu Thành cả. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.