title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Đồng bằng sông Cửu Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4072
Những vật liệu sông được lắng tụ dọc theo sông để hình thành những đê tự nhiên có chiều cao 3–4 m, và một phần của những vật liệu phù sa phủ lên trên những trầm tích pyrit thời kỳ Holocen với sự biến thiên khá rộng về độ dày tầng đất vùng và không gian vùng. Các con sông nằm được chia cắt với trầm tích đê phù sa nhưng những vùng rộng lớn mang vật liệu trầm tích biển chứa phèn tiềm tàng vẫn còn lộ ra trong vùng đầm lầy biển. Tuy nhiên, độ chua tiềm tàng không xuất hiện trong vùng phụ cận của những nhánh sông gần cửa sông mà tại đây ảnh hưởng rửa bởi thủy triều khá mạnh. Ngược lại, vùng châu thổ sông Sài Gòn, nằm kế bên hạ lưu châu thổ sông Mekong, được biểu thị bởi một tốc độ bồi lắng ven biển khá chậm do lượng vật liệu phù du trong nước sông khá thấp và châu thổ này bị chia cắt bởi nhiều nhánh sông thủy triều và do bởi những vành đai thực vật chịu mặn thì rộng lớn hơn vành đai này ở vùng châu thổ sông Mekong, và kết quả là trầm tích của chúng chứa nhiều axít tiềm tàng. Khí hậu. Lưu vực tam giác châu sông Mê Kông ở vào trung tâm miền gió mùa nhiệt đới của châu Á, từ tháng 5 đến cuối tháng 9 bị ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam đến từ biển cả, ẩm ướt nhiều mưa, từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa mưa; từ tháng 11 đến trung tuần tháng 3 năm liền sau bị ảnh hưởng gió mùa Đông Bắc đến từ đất liền, khô khan ít mưa, từ tháng 10 đến tháng 11 là mùa khô, từ tháng 9 đến tháng 3 năm liền sau có thủy triều sáng và tối. Mưa dông có cường độ rất lớn, thời gian xảy ra khá ngắn, phạm vi ảnh hưởng khá nhỏ đều rất thường xuyên trong suốt mùa mưa; mưa xuống có thời gian xảy ra khá dài, phạm vi rất lớn thường xuyên nhất vào tháng 9, có thể dẫn đến nước lũ dâng lên tràn ngập một cách nghiêm trọng, nhưng mà sự ảnh hưởng của nó phần nhiều chỉ giới hạn ở khu vực tam giác châu và vùng đất phía tây lưu vực, đôi khi xuyên qua đất liền khiến phạm vi lớn hơn bị mưa lớn đánh bất ngờ trong khoảng thời gian dài.
Đồng bằng sông Cửu Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4072
Bởi vì mùa tiết của mưa phân bố không đồng đều, các nơi ở lưu vực mỗi năm đều phải trải qua một đợt hạn hán có cường độ và thời gian xảy ra khác nhau. Đây là vùng có khí hậu cận xích đạo nên thuận lợi phát triển ngành nông nghiệp (mưa nhiều, nắng nóng) đặc biệt là phát triển trồng lúa nước và cây lương thực. Thủy văn. Tam giác châu sông Mê Kông có lượng nước chảy vào biển trung bình nhiều năm là 475 tỉ mét khối. Trữ lượng lí thuyết thủy năng ở lưu vực sông Mê Kông là 58 triệu kilowatt, thủy năng được khai phát ước tính là 37 triệu kilowatt, lượng phát điện hằng năm là 180 tỉ kilowatt giờ, trong đó 33% ở Campuchia và 51% ở Lào. Thủy năng chưa khai phát không đến 1%. Dòng chảy ở lưu vực tam giác châu sông Mê Kông đến từ mưa, bởi vì ảnh hưởng gió mùa không thay đổi hằng năm, cho nên đường tiến trình mức nước chủ yếu từ một năm thủy văn trước đến một năm thủy văn sau hầu như không thay đổi, chênh lệch giữa mức nước cao và mức nước thấp không lớn. Nếu quy định lưu lượng mức nước cao hằng năm là trên 110% lưu lượng trung bình nhiều năm, lưu lượng mức nước thấp hằng năm là dưới 90% lưu lượng trung bình nhiều năm, như vậy xác suất xuất hiện năm nước cao, năm nước bằng, năm nước thấp khoảng chừng là 25%, 50%, 25% đo ở trạm Viêng Chăn, Lào, là 20%, 60%, 20% đo ở trạm Kratié, Campuchia. Về phía tây, Đồng bằng sông Cửu Long được giới hạn bởi sông Châu Đốc và kênh Vĩnh Tế một dòng kênh nhân tạo chảy dọc theo biên giới Việt Nam-Campuchia, nhận nước sông Hậu Giang qua sông Châu Đốc tại Thành phố Châu Đốc đổ nước ra Vịnh Thái Lan, giới hạn một vùng đất thấp ngập nước theo mùa gọi là Tứ giác Long Xuyên.
Đồng bằng sông Cửu Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4072
Ở khu vực giữa hai dòng sông Hậu và sông Tiền, Đồng bằng sông Cửu Long được giới hạn đầu nguồn bởi các dòng kênh nối ngang tại 2 huyện thị đầu nguồn Tân Châu và An Phú của tỉnh An Giang như kênh Vĩnh An... Về phía đông bắc và đông, Đồng bằng sông Cửu Long được giới hạn bằng hàng loạt các dòng sông kênh rạch liên thông với nhau, chảy dọc theo biên giới Việt Nam-Campuchia, (giới hạn vùng đất trũng khác ngập nước theo mùa là vùng Đồng Tháp Mười), và đều là phân lưu của sông Mekong: hoặc trực tiếp của dòng chính sông Tiền Giang, hay nhận nước gián tiếp qua một phân lưu chính của Mekong là Preak Banam đổ ra biển Đông qua sông Vàm Cỏ Tây (sông Vàm Cỏ) và các cửa của sông Cửu Long. Giới hạn phía đông bắc và đông của Đồng bắng sông Cửu Long là các dòng sông kênh rạch sau: sông Sở Thượng (chảy trên biên giới Việt Nam-Campuchia, nhận nước sông Mekong qua Preak Banam), sông Sở Hạ (chảy trên biên giới Việt Nam-Campuchia, nhận nước sông Mekong qua Preak Trabeak phân lưu của Preak Banam), rạch Cái Cỏ (chảy trên biên giới Việt Nam-Campuchia, là ranh giới phía bắc của Đồng Tháp Mười, nhận nước sông Mekong qua Preak Trabeak một thượng lưu của sông Sở Hạ và rạch Long Khốt), rạch Long Khốt (nhận nước sông Mekong qua Preak Trabeak và Cái Cỏ, thượng nguồn của sông Vàm Cỏ Tây), sông Vàm Cỏ Tây (nhận nước sông Mekong qua rạch Long Khốt và các kênh rạch nối thông với sông Tiền Giang), sông Vàm Cỏ (nhận nước sông Mekong qua sông Vàm Cỏ Tây và các kênh rạch nối thông với sông Tiền Giang), và cuối cùng là sông Soài Rạp (nhận nước sông Mekong qua sông Vàm Cỏ).
Đồng bằng sông Cửu Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4072
Các sông Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ, Soài Rạp mặc dù thuộc hệ thống sông Sài Gòn-Đồng Nai, là hệ thống sông thuộc địa bàn Miền Đông Nam Bộ, nhưng chúng là những dòng sông cuối cùng nhận nước từ sông Mekong về phía đông, đồng thời một trong số chúng (sông Soài Rạp) là ranh giới tự nhiên của 2 tỉnh phía đông Đồng bằng sông Cửu Long là Long An và Tiền Giang với tỉnh thành phía tây của miền Đông Nam Bộ là Thành phố Hồ Chí Minh, nên lưu vực các sông rạch này (chính là địa bàn tỉnh Long An) cũng là địa bàn ranh giới tận cùng phía đông của Đồng bằng sông Cửu Long với Miền Đồng Nam Bộ. Biến đổi khí hậu và thiên tai. Theo công bố của Bộ Tài nguyên và Môi trường (Việt Nam), khoảng 40% vùng đồng bằng sông Cửu Long có thể bị ngập trong nước biển do biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó do ảnh hưởng của hiện tượng Elnino, nhiều vùng ven biển của Đồng bằng sông Cửu Long gặp tình trạng hạn hán và nước mặn xâm nhập sâu vào nội địa. Mặt khác trong khi nước biển dâng lên, thì "tình trạng khai thác nước ngầm quá mức là một trong những nguyên nhân gây sụt lún đất ở khu vực TP.HCM và vùng đồng bằng sông Cửu Long". Những đề xuất về "bơm bù nước ngầm" để giảm sụt lún thì không được quan tâm thực hiện. Ngoài ra tác động ở thượng nguồn như nạn phá rừng và một loạt các đập nước đang đưa vào kế hoạch ở Hoa lục, Lào, và Campuchia đã giảm thiểu lượng phù sa bồi đắp ở các cửa sông, khiến vùng ven biển bị ngập dần. So với năm 1990 khi sông Cửu Long đưa 160 triệu tấn phù sa ra biển thì số lượng vào năm 2015 chỉ còn 75 triệu tấn, giảm hơn phân nửa. Lượng phù sa dù ra đến gần biển cũng bị trút bớt vì con người dùng sỏi cát vào các công trình xây cất, gây thiệt hại trầm trọng đến viễn cảnh sống còn của vùng đồng bằng. Theo nghiên cứu của Trường Đại học Cần Thơ, biến đổi khí hậu và hiện tượng ấm lên toàn cầu sẽ làm mực nước biển dâng lên. Nếu dâng 1m thì 20% đồng bằng châu thổ sẽ bị đe dọa.
Đồng bằng sông Cửu Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4072
Dâng 2m diện tích đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị xóa còn phân nửa, ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống 15 triệu dân. Theo nghiên cứu của 19 nhà khoa học đăng trên tạp chí Science thì nếu tiếp tục phát triển với cách thức như hiện tại, vùng này sẽ bị nhấn chìm đến 90% diện tích vào năm 2100. Năm 2016, Đồng bằng sông Cửu Long hứng chịu đợt hạn hán và xâm nhập mặn nặng nề nhất trong vòng 100 năm, gây thiệt hại hơn 160.000 ha lúa, tương đương 800.000 tấn lúa bị mất trắng, với mỗi gia đình có diện tích sản xuất khoảng 0,5 ha thì xâm nhập mặn đã làm khoảng 300.000 hộ gia đình (khoảng 1,5 triệu người) trong những tháng qua không có thu nhập. Các tỉnh bị thiệt hại nặng nhất là Kiên Giang (hơn 54.000 ha), Cà Mau (gần 50.000 ha), Bến Tre (gần 14.000 ha), Bạc Liêu (gần 12.000 ha)... Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã phải công bố tình trạng thiên tai đặc biệt nghiêm trọng. Theo Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà, ngoài những nguyên nhân như mùa mưa năm 2015 đến muộn và kết thúc sớm, nguyên nhân chính là các vấn đề ở thượng nguồn dòng chảy. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, các hồ chứa trên dòng chính ở phía Trung Quốc có dung tích khoảng 23 tỉ m³, các hồ chứa trên những sông nhánh khoảng 20 tỉ m³. Tổng dung tích này tác động rất lớn đến việc điều tiết nước và lưu lượng dòng chảy về phía hạ lưu. Trong dịp Tết Nguyên đán ở Trung Quốc, nhu cầu năng lượng giảm nên họ tích nước, do vậy vào thời điểm này lượng nước giảm đáng kể, sau đó dòng chảy tăng lên (khi các hồ xả nước để chạy thủy điện). “Tôi khẳng định đây là nguyên nhân cơ bản” - ông Hà nói. Dân cư. Dân cư ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long đa số là người Kinh. Khu vực này trước đây từng là một phần của Đế quốc Khmer, do đó là vùng tập trung người Khmer nhiều nhất bên ngoài nước Campuchia. Người Khmer sống chủ yếu ở Trà Vinh, Sóc Trăng và người Chăm theo đạo Hồi sống ở Tân Châu, An Giang. Người Hoa sống ở Sóc Trăng 64.910 người, tỉnh Kiên Giang 29.850 người, tỉnh Bạc Liêu 20.082 người (2009).
Đồng bằng sông Cửu Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4072
Dân số vùng Đồng bằng sông Cửu Long là 17,33 triệu người vào năm 2011. Dân số vùng Đồng bằng sông Cửu Long tăng chậm trong những năm gần đây, chủ yếu do di cư đi nơi khác. Dân số vùng tăng 471.600 người từ năm 2005 đến 2011, trong khi đó 166.400 người di cư chỉ trong năm 2011. Tương tự như vùng duyên hải miền Trung, đây là một trong những nơi tăng dân số chậm nhất nước. Tỷ lệ tăng dân số trong khoảng 0,3% đến 0,5% từ năm 2008 đến 2011, trong khi đó tỷ lệ tăng dân số vùng Đông Nam Bộ lân cận là 2%. Tỷ lệ tăng dân số cơ học trong vùng là âm trong những năm này. Tỷ lệ sinh của vùng cũng khá thấp, ở mức 1,8 trẻ em trên mỗi người phụ nữ vào năm 2010 và 2011, giảm từ 2,0 năm 2005. Kinh tế. Tài nguyên. Đồng bằng sông Cửu Long không giàu khoáng sản. Khoáng sản chủ yếu là than bùn và đá vôi. Ngoài ra đồng bằng còn có các khoáng sản vật liệu xây dựng như sét gạch ngói, cát sỏi... Tài nguyên rừng cũng giữ những vai trò quan trọng, đặc biệt là hệ thống rừng ngập mặn ven biển lớn nhất Việt Nam, trong đó hệ thống rừng ngập mặn Mũi Cà Mau được công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới, bên cạnh đó là những cánh rừng tràm ở U Minh (Cà Mau), Đồng Tháp với một hệ thống sinh học vô cùng đa dạng. Nông nghiệp. Mặc dù diện tích canh tác nông nghiệp và thủy sản chưa tới 30% của cả nước nhưng miền Tây đóng góp hơn 50% diện tích lúa, 71% diện tích nuôi trồng thủy sản, 30% giá trị sản xuất nông nghiệp và 54% sản lượng thủy sản của cả nước. Lúa trồng nhiều nhất ở các tỉnh An Giang, Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang. Diện tích và sản lượng thu hoạch chiếm hơn 50% so với cả nước. Bình quân lương thực đầu người gấp 2,3 lần so với lương thực trung bình cả nước. Nhờ vậy nên Đồng bằng sông Cửu Long là nơi xuất khẩu gạo chủ lực của cả đất nước.
Đồng bằng sông Cửu Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4072
Ngoài ra cây ăn quả còn là đặc sản nổi tiếng của vùng, với sự đa dạng về số lượng, cũng như chất lượng ngày càng được nâng cao Nghề nuôi vịt đàn phát triển mạnh, nuôi nhiều ở Đồng Tháp, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và Sóc Trăng. Ngày 19 tháng 7 năm 2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 854/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án nâng cao năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu của hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long, giai đoạn 2021-2025. Thủy sản. Sản lượng thủy sản chiếm 50% cả nước, nhiều nhất ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang và An Giang. Kiên Giang là tỉnh có sản lượng thủy sản săn bắt nhiều nhất, 239.219 tấn thủy sản (năm 2000). An Giang là tỉnh nuôi trồng thủy sản lớn nhất vùng với sản lượng 80.000 tấn thủy sản (năm 2000). Nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản đang phát triển mạnh, theo quy mô công nghiệp. Công nghiệp. Ngành công nghiệp phát triển rất thấp, chủ yếu là ngành chế biến lượng thực. Cần Thơ là trung tâm công nghiệp của cả vùng bao gồm các ngành nhiệt điện, chế biến lương thực, luyện kim đen, cơ khí, hóa chất, dệt may và vật liệu xây dựng. Dịch vụ. Khu vực dịch vụ của vùng Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm các ngành chủ yếu: xuất nhập khẩu, vận tải thủy và du lịch. Xuất khẩu gạo chiếm 80% của cả nước. Giao thông đường thủy giữ vai trò quan trọng nhất. Du lịch biển chủ yếu ở Kiên Giang với thắng cảnh đẹp ở Hà Tiên, Phú Quốc. Du lịch tâm linh với nhiều chùa đẹp ở An Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh. Du lịch sinh thái bắt đầu khởi sắc như du lịch trên sông nước, vườn, khám phá các cù lao. Du lịch bền vững bước đầu hình thành với sự thành công của khu nghỉ dưỡng bền vững Mekong Lodge tại Tiền Giang và nhiều địa phương khác như Bến Tre, Vĩnh Long, Cà Mau, Đồng Tháp. Tuy nhiên chất lượng và sức cạnh tranh của các khu du lịch không đồng đều và còn nhiều hạn chế. Giao thông.
Đồng bằng sông Cửu Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4072
Giao thông. Mạng lưới đường bộ từng bước được quy hoạch, nâng cấp, xây mới theo dạng "ô bàn cờ", bao gồm các trục dọc, ngang và hệ thống đường vành đai liên kết với nhau một cách hợp lý. Nhiều trục quốc lộ đã và đang được nâng cấp, xây mới, trong đó đáng kể có dự án mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Trung Lương – Cần Thơ; xây dựng đường cao tốc TP Hồ Chí Minh – Trung Lương; tuyến đường nam sông Hậu, tuyến Quản Lộ – Phụng Hiệp... Nhiều cầu lớn vượt sông trên Quốc lộ 1 đã được đầu tư, xây mới như cầu Mỹ Thuận vượt sông Tiền, cầu Cần Thơ vượt sông Hậu, cầu Rạch Miễu nối Tiền Giang với tỉnh Bến Tre... Những cây cầu này xóa đi cảnh chen chúc lộn xộn, mất thời gian, thiếu an toàn tại các bến phà vốn tồn tại hàng thế kỷ nay, đồng thời trở thành điểm tham quan thu hút khách du lịch bởi quy mô và kiến trúc đẹp, hiện đại. Đến nay những "anh hai lúa" có thể thỏa mãn ước mơ được đi trên những máy bay hiện đại, ngắm nhìn những cánh đồng thẳng cánh cò bay. Đó cũng là nhờ việc quan tâm đầu tư, quy hoạch các sân bay trong vùng trên nguyên tắc bảo đảm kết nối vùng với các sân bay quốc tế và phân bố đều trong khu vực, nhất là các tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long. Cùng với việc nâng cấp một số hạng mục các cảng hàng không Rạch Giá, Cà Mau, Phú Quốc... sân bay quốc tế Cần Thơ đã hoàn thành với sức chứa 2,5 triệu hành khách/năm và có thể khai thác được các loại máy bay lớn như B747, B777. Hiện Cảng hàng không quốc tế Phú Quốc mới giai đoạn I đang được thi công, sau khi hoàn thành sẽ thuận lợi hơn cho người dân trên đảo gần với đất liền và thu hút nhiều khách trong và ngoài nước đến với đảo xa. Cùng với đường bộ và đường hàng không, hệ thống đường sông Đồng bằng sông Cửu Long đã và đang được đầu tư nâng cấp một cách đáng kể, nhất là các tuyến sông chính, kết hợp với hệ thống đường thủy do các địa phương quản lý đã góp phần nâng cao khả năng kết nối khu vực với các cảng sông, biển.
Đồng bằng sông Cửu Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4072
Từ Thành phố Hồ Chí Minh, bằng phương tiện thủy, hàng hóa và hành khách có thể đi qua Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên đến Hà Tiên, Cà Mau... Nông sản hàng hóa vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ đến nhanh hơn với các trung tâm kinh tế lớn của cả nước. Cầu Cần Thơ là cầu dây văng bắc ngang qua sông Hậu, được hoàn thành vào ngày 12 tháng 4 năm 2010. Trước đó 3 năm, một tai nạn lúc xây dựng làm 55 người chết và làm bị thương hơn 100 người. Cầu được xây dựng để thay thế cho phà và kết nối Quốc lộ 1. Cầu Cần Thơ bắt ngang qua tỉnh Vĩnh Long và thành phố Cần Thơ. Chi phí xây dựng ước tính là 4.842 tỷ đồng (khoảng 342,6 triệu đô la Mỹ), và là cây cầu đắt nhất Việt Nam lúc mới hoàn thành. Ngoài ra, còn có các cầu lớn như cầu Hàm Luông, cầu Cổ Chiên, cầu Cao Lãnh, cầu Vàm Cống... Văn hóa. Âm nhạc. Vùng này là cái nôi của nghệ thuật đờn ca tài tử, nghệ thuật sân khấu cải lương với các nghệ sĩ nổi tiếng như: Phùng Há, Út Trà Ôn, Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Thanh Sang, Minh Phụng... Nhiều ca khúc âm hưởng dân ca Nam Bộ với nhiều nhạc sĩ nổi tiếng như: Bắc Sơn, Thanh Sơn, Trúc Phương... Một số bài hát nổi tiếng như "Anh về miền Tây" (Minh Vy), "Bỏ quê" (Sơn Hạ), "Bông bí vàng" (Bắc Sơn), "Dáng đứng Bến Tre" (Nguyễn Văn Tý), "Bông điên điển" (Hà Phương), "Chiếc áo bà ba" (Trần Thiện Thanh), "Về miền Tây" (Tô Thanh Tùng), "Miền Tây quê tôi" (Cao Minh Thu), "Tình em Tháp Mười" (Thanh Sơn), "Tình quê miền Tây" (Cao Minh Thu), "Sóc sờ bai Sóc Trăng" ( Thanh Sơn), "Phải lòng con gái Bến Tre" (thơ: Luân Hoán - nhạc: Phan Ni Tấn), "Đàn sáo Hậu Giang" (Trần Long Ẩn), "Trà Vinh trong những tình mật ngọt" (Trúc Phương), "Bạc Liêu hoài cổ" (Thanh Sơn), "Áo mới Cà Mau" (Thanh Sơn), "Về An Quảng Hữu" (Trúc Phương)... Văn học và phim ảnh. "Truyện" "Lục Vân Tiên" của Nguyễn Đình Chiểu là tác phẩm nổi tiếng về con người hào khí, nghĩa hiệp; từ đó trở thành nghệ thuật đọc thơ Lục Vân Tiên.
Đồng bằng sông Cửu Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4072
Nhiều bộ phim được sản xuất ở vùng này để miêu tả nền văn minh của Đồng bằng sông Cửu Long. Một số phim nổi tiếng có thể kể ra như "Mùa len trâu", "Cánh đồng bất tận", "Hương phù sa", "Đất phương Nam..." Sơn Nam, Vương Hồng Sển, Lê Vĩnh Hòa, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Ngọc Tư, Trang Thế Hy... đã viết nhiều quyển sách nổi tiếng về cuộc sống ở vùng Đồng bằng.
Bắc Bộ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4073
Bắc Bộ hay là miền Bắc là một trong 3 miền địa lý của Việt Nam (gồm Bắc Bộ, Trung Bộ, và Nam Bộ). Dân cư Bắc Bộ tập trung đông tại Đồng bằng sông Hồng dù rằng đồi núi chiếm đa số diện tích Bắc Bộ. Bắc Bộ gồm 3 vùng là Tây Bắc Bộ, Đông Bắc Bộ và Đồng bằng sông Hồng. Đôi khi 2 vùng Tây Bắc và Đông Bắc được gộp chung thành Trung du và miền núi phía Bắc. Bắc Bộ cùng với một phần của Bắc Trung Bộ tùy ngữ cảnh có thể gọi chung là miền Bắc Việt Nam. Khu vực này (Bắc Bộ và hai xứ Thanh–Nghệ) là vùng lõi lịch sử của Việt Nam, với nhà nước đầu tiên hình thành là Văn Lang. Sau thời Bắc thuộc, dân vùng đất này giành độc lập rồi mở công cuộc Nam tiến. Thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh, khu vực này được gọi là Đàng Ngoài (hay Bắc Hà). Thời Pháp thuộc, Bắc Bộ là một xứ bảo hộ lấy tên là Bắc Kỳ, vốn có từ thời vua Minh Mạng của Nhà Nguyễn. Tên gọi "Bắc Bộ" ra đời từ thời Đế quốc Việt Nam năm 1945. Dưới thời Quốc gia Việt Nam, Bắc Bộ được gọi là "Bắc Phần". Địa lý. Vị trí, địa hình. Bắc Bộ nằm ở vùng cực Bắc lãnh thổ Việt Nam, có phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào và phía đông giáp biển Đông. Chiều ngang Đông – Tây là 600 km, rộng nhất so với Trung Bộ và Nam Bộ. Địa hình Bắc Bộ đa dạng và phức tạp. Bao gồm đồi núi, đồng bằng, bờ biển và thềm lục địa. Có lịch sử phát triển địa hình và địa chất lâu dài, phong hóa mạnh mẽ. Có bề mặt thấp dần, xuôi theo hướng tây bắc - Đông Nam, được thể hiện thông qua hướng chảy của các dòng sông lớn. Khu vực đồng bằng rộng lớn nằm ở lưu vực sông Hồng, có diện tích khoảng 15000 km² và bằng 4.5% diện tích cả nước. Đồng bằng dạng hình tam giác, đỉnh là thành phố Việt Trì và cạnh đáy là đường bờ biển phía đông. Đây là đồng bằng châu thổ lớn thứ hai Việt Nam sau Đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích 40.000 km² do sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp.
Bắc Bộ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4073
Phần lớn bề mặt đồng bằng có địa hình khá bằng phẳng, có độ cao từ 0,4–12m so với mực nước biển. Liền kề với Đồng bằng sông Hồng về phía tây và tây bắc là khu vực Trung du và miền núi có diện tích khoảng 101 ngàn km² và bằng 30.7% diện tích cả nước Địa hình ở đây bao gồm các dãy núi cao và rất hiểm trở, kéo dài từ biên giới phía bắc (nơi tiếp giáp với Trung Quốc) tới phía tây tỉnh Thanh Hóa. Trong khu vực này từ lâu đã xuất hiện nhiều đồng cỏ, nhưng thường không lớn và chủ yếu nằm rải rác trên các cao nguyên ở độ cao 600 – 700m. Về phía khu vực đông bắc phần lớn là núi thấp và đồi nằm ven bờ biển Đông, được bao bọc bởi các đảo và quần đảo lớn nhỏ. Ở Vịnh Bắc Bộ tập trung quần thể bao gồm gần 3.000 hòn đảo nằm trong các khu vực biển Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, Cát Hải, Cát Bà, Bạch Long Vĩ. Và nhiều bờ biển đẹp như bờ biển Trà Cổ, Bãi Cháy, Tuần Châu và Vân Đồn thuộc tỉnh Quảng Ninh. Cát Bà, Đồ Sơn thuộc thành phố Hải Phòng. Đồng Châu thuộc tỉnh Thái Bình. Hải Thịnh, Quất Lâm thuộc tỉnh Nam Định. Khí hậu. Bắc Bộ quanh năm có nhiệt độ tương đối cao và ẩm, nền khí hậu chịu ảnh hưởng từ lục địa Trung Hoa chuyển qua và mang tính chất khí hậu lục địa. Trong khi một phần khu vực Duyên hải lại chịu ảnh hưởng tính chất khí hậu cận nhiệt đới ấm và gió mùa ẩm từ đất liền. Toàn vùng có khí hậu cận nhiệt đới ẩm với 2 mùa rõ rệt hè, đông. Đồng thời hàng năm chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc và gió mùa Đông Nam. Nhiệt độ trung bình năm tăng dần từ phía bắc xuống phía nam và có khí hậu giao hoà, là đặc trưng của khu vực đồng bằng Bắc Bộ và ven biển. Thời tiết mùa hè từ tháng 4 đến tháng 10 nóng ẩm và mưa cho tới khi gió mùa nổi lên. Mùa đông từ tháng 11 tới tháng 3 trời lạnh, khô, có mưa phùn. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 25 °C, lượng mưa trung bình từ 1.700 đến 2.400 mm.
Bắc Bộ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4073
Vào mùa Đông nhiệt độ xuống thấp nhất trong các tháng 12 và tháng giêng. Thời gian này ở khu vực miền núi phía bắc (như Sa Pa, Tam Đảo, Hoàng Liên Sơn) có lúc nhiệt độ còn lúc xuống dưới 0 độ C, xuất hiện băng giá và có thể có tuyết rơi. Khí hậu vùng Bắc Bộ cũng thường phải hứng chịu nhiều tác động xấu của thời tiết, trung bình hàng năm có từ 6 đến 10 cơn bão và áp thấp nhiệt đới gây ra lũ lụt, đe dọa trực tiếp đến cuộc sống và ngành nông nghiệp của toàn địa phương trong vùng. Dân cư. Tính đến thời điểm 0 giờ ngày 01/04/2019 dân số Việt Nam là 96.208.984 người. Khu vực đồng bằng sông Hồng là nơi tập trung dân cư đông nhất, có tới 22.543.607 người (khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 20.187.293, đồng bằng sông Cửu Long 17.273.630 người). Và 3 tỉnh có số dân thấp nhất là Điện Biên, Lai Châu, Bắc Kạn đều dưới con số 500 ngàn người. Khu vực đồng bằng Sông Hồng có mật độ dân cư dày đặc nhất (khoảng 1.060 người/km²). Dân số khu vực thành thị chiếm 29,2% dân số toàn Bắc Bộ và có tốc độ gia tăng ở mức cao, bình quân có thêm 3,4%/năm (tỷ lệ tăng dân số ở khu vực nông thôn chỉ là 0,4%/năm). Trong khi đó ở khu vực Trung du miền núi với diện tích rộng lớn, tài nguyên thiên nhiên phong phú lại thiếu nguồn nhân lực khai thác và có mật độ dân số thấp hơn rất nhiều, chỉ 132 người/km2). Điều đó đã tạo ra nạn nhân mãn cho vùng đồng bằng Sông Hồng dưới áp lực của sự gia tăng dân số. Theo cuộc điều tra mức sống dân cư năm trong hai năm (1997 và 1998) ở riêng khu vực đồng bằng sông Hồng, tỷ số giới tính của trẻ em từ 1 đến 4 tuổi cao nhất nước (bằng 116), nghĩa là cứ có 100 con gái thì tương ứng với 116 con trai. Tuy nhiên, tỷ số giới tính có sự thay đổi theo cuộc tổng điều tra dân số năm 2019. Tại đồng bằng sông Hồng, tỉ số giới tính là 98,3; tại vùng trung du và miền núi phía bắc là 99,1. Tại khu vực đông dân như đồng bằng Sông Hồng và các khu vực thuộc vùng kinh tế trọng điểm đều có mật độ dân số rất cao.
Bắc Bộ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4073
Tuy tạo được những mặt tác động tích cực, là nguồn nhân lực dồi dào để phát triển kinh tế, là thị trường tiêu thụ rộng lớn, là thế mạnh để thu hút nguồn đầu tư từ nước ngoài... Nhưng mặt khác đã gây ra những tác động tiêu cực không nhỏ. Khi dân số đông mà kinh tế chậm phát triển thì sẽ hạn chế trong việc thất nghiệp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần đến mỗi người dân lao động. Đồng thời các nhu cầu phúc lợi xã hội cũng bị hạn hẹp theo. Ngoài ra, ở những nơi tập trung đông dân cư sinh sống dễ dẫn đến tình trạng môi trường bị gia tăng tác động, gây ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, suy giảm các nguồn tài nguyên tự nhiên ở khu vực. Công tác phân bổ dân cư không đồng đều do cả khách quan lẫn chủ quan gây nên sự không hợp lý trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, sử dụng lao động, gia tăng chênh lệch kinh tế, xã hội đối với các khu vực trong vùng, làm suy giảm hiệu quả trong quá trình xây dựng và phát triển chung của toàn xã hội. Ba thành phố lớn nhất là Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Thành phố Hà Nội đã hơn 1000 năm tuổi, Nam Định hơn 750 năm còn Hải Phòng hơn 100 năm. Lịch sử. Bắc Bộ Việt Nam là nơi ghi dấu ấn lịch sử xưa nhất của dân tộc Việt Nam. Có Đền thờ các vua Hùng ở tỉnh Phú Thọ, thành Cổ Loa của An Dương Vương ở Đông Anh, Hà Nội... Vào thời kỳ Bắc thuộc, nơi này được mang các tên như quận Giao Chỉ, rồi Giao Châu. Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, đây là vùng đất Đàng Ngoài do Chúa Trịnh kiểm soát, kéo dài cho tới sông Gianh, đèo Ngang. Đàng Ngoài còn được gọi là Bắc Hà vì nằm phía bắc sông Gianh, còn Đàng Trong, còn gọi là Nam Hà, do Chúa Nguyễn kiểm soát. Bắc Kỳ (chữ Hán: 北圻) là tên gọi do vua Minh Mạng đặt ra năm 1834 để chỉ phần đất từ Ninh Bình trở ra phía bắc của Việt Nam. Ngày 25 tháng 8 năm 1883, nhà Nguyễn ký Hòa ước Quý Mùi, 1883 đầu hàng thực dân Pháp. Theo Hiệp ước này, khu vực từ đèo Ngang trở ra bắc gọi là Tonkin (Bắc Kỳ).
Bắc Bộ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4073
Cũng theo đó Bắc Kỳ được tính từ địa giới phía nam tỉnh Ninh Bình trở ra. Ngày 20 tháng 3 năm 1945, Thống sứ Nhật đã đổi tên Bắc Kỳ thành Bắc Bộ. Ngày 27 tháng 4 năm 1945, Bảo Đại ra đạo dụ số 11 cử Phan Kế Toại làm Khâm sai đại thần Bắc Bộ. Phủ Thống sứ Bắc Kỳ cũ cũng được đổi thành Phủ Khâm sai Bắc Bộ. Ngày 20 tháng 8 năm 1945, Việt Minh thành lập Ủy ban Nhân dân cách mạng Bắc Bộ nhằm giành chính quyền về tay mình. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Bắc Bộ là một cấp hành chính chỉ trong một thời gian không dài. Năm 1949, khi chính quyền Quốc gia Việt Nam thành lập, Quốc trưởng Bảo Đại đã lập dinh Thủ hiến Bắc phần để thay mặt Quốc trưởng cai trị miền Bắc. Đến sau 1954, khi chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản miền Bắc Việt Nam, dinh Thủ hiến Bắc phần bị bãi bỏ. Tên Hán Việt của Hà Nội (trung tâm Bắc Kỳ lúc bấy giờ), được người phương Tây biết đến khi đến Việt Nam lần đầu vào thời nhà Lê là Đông Kinh (東京). Tên gọi này được người Pháp đọc thành Tonkin, Tonquin hoặc Tongkin, Tongking. Ban đầu người Pháp cũng dùng tên gọi này để chỉ cho toàn bộ khu vực Đàng Ngoài (thời Trịnh - Nguyễn phân tranh), là vùng đất phía bắc nhất của Việt Nam. Các học giả phương Tây thế kỷ 17 thường gọi vùng Đàng Ngoài là "royaume de Tonquin/Tonkin" (vương quốc Đàng Ngoài). Vịnh Bắc Bộ hiện nay cũng được gọi là "Gulf of Tonkin/Tongking" hoặc "Tonkin Gulf" trong tiếng Anh và "Golfe du Tonkin" trong tiếng Pháp. Các đơn vị hành chính. Theo cách phân chia hiện nay thì vùng Bắc Bộ Việt Nam, bao gồm các tỉnh và thành phố nằm ở phía bắc tỉnh Thanh Hóa, gồm có 25 tỉnh thành được chia thành 3 tiểu vùng: Về mặt địa lý tự nhiên, Bắc Bộ có thể được chia thành hai vùng là vùng Đồng bằng sông Hồng và Trung du và miền núi phía bắc (bao gồm Vùng Đông bắc và Vùng Tây bắc). Ngày 22/8/2008, theo công bố phân định từ Bộ Công Thương đã thành lập vùng I gồm 14 tỉnh miền núi và trung du Bắc bộ.
Bắc Bộ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4073
Đó là Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Giang. Toàn vùng có diện tích đất tự nhiên trên 95.000 km² và có dân số trên 11 triệu người, chiếm 28,8% diện tích và 13,1% dân số của cả nước. Vùng I hiện nay có gần 2.000 km đường biên tiếp giáp với Trung Quốc và Lào Hiện tại, vùng Bắc Bộ có diện tích 116.134,3 km² "(tỷ lệ 35% so với tổng diện tích cả nước)" với số dân 35.076.473 người "(tỷ lệ 36,4% so với tổng dân số cả nước)", bình quân 302 người trên 1 km². Văn hoá. Ngày nay, khi có các công trình nghiên cứu và khảo sát về các hình mẫu hoa văn trên trống đồng Đông Sơn ta sẽ thấy chúng thuộc một nền văn minh tinh thần rất cao, vừa để làm cơ sở rằng tổ tiên người Việt Nam đã sớm có một nền văn minh phát triển mà tiêu biểu nhất là nền văn hoá của người Việt cổ. Việt Nam hiện có 2 vùng văn hoá lịch sử truyền thống lâu đời và phát triển cao là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng Nam Bộ. Đồng bằng sông Hồng là đồng bằng rộng lớn, nơi tập trung dân cư đông đúc với chủ yếu là người Việt có trình độ phát triển cao, được coi là đất gốc, quê hương của dân tộc Việt, văn hóa Việt. Cư dân sống lâu đời trên mảnh đất cổ, do sức ép về gia tăng dân số nên đã có thời điểm rơi vào tình trạng thiếu đói lương thực. Họ sớm đi vào thâm canh nhất là nghề trồng lúa nước, là đặc thù của một vùng đồng bằng thấp (có độ cao từ 0,4 - 12m). Từ sự bắt đầu công cuộc đắp đê ngăn lũ, lấn biển và Nam tiến mở rộng diện tích sản xuất. Với sau lưng là "rừng thiêng nước độc" còn phía trước là "biển cả bao la", họ bao gồm các cộng đồng nhỏ dân cư chủ yếu từ miền núi tiến xuống. Bản chất thuần nông "xa rừng, nhạt biển", đã nhanh có biểu hiện rõ nét trong cuộc sống mới. Một thiết chế xã hội dần được hình thành, được tổ chức chặt chẽ và có thể xem là đặc sản văn hoá vùng miền nông thôn tại đồng bằng Bắc Bộ ngày nay.
Bắc Bộ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4073
Văn hoá được ứng dụng từ mỗi cơ sở thực địa, địa bàn cư trú. Trong các cuộc sống cộng đồng tự quản đa dạng và phong phú. Văn hoá thể hiện mối ứng xử bình đẳng với thiên nhiên, với xã hội và bản thân của mỗi cư dân. Người Việt Nam có điểm chung về cuộc sống hệ luỵ gia đình, làng, nước. Nói đến vùng Bắc Bộ thì yếu tố văn hoá này còn rất sâu đậm trong ý thức hệ của người dân, đặc biệt là khái niệm về dấu ấn quê hương xứ sở như văn hoá cổ làng xã, ngành nghề từ địa phương, đất đai và thờ cúng tổ tiên... Cách tổ chức làng xã theo kiểu các gia đình liền kề, xung quanh làng có hàng tre bao bọc, có cây đa cổng làng, có nơi thờ tự chung, có lễ hội dân gian và mùa vụ. Ngoài ra, người dân Bắc Bộ vẫn chịu ảnh hưởng nhiều của Nho giáo, như lề thói, khuôn phép, thứ bậc, tôn ti trong gia tộc và ngoài làng xã vẫn được xem trọng trong đời sống thường ngày của họ. Vươn dậy từ công cuộc khai sinh lập địa có lịch sử khởi nguồn đầy khó khăn gian khổ, trải qua hàng ngàn năm xây dựng và phát triển để có được nền văn hoá dân tộc đa dạng, phong phú như ngày nay, những người dân Bắc Bộ nói riêng và cả Việt Nam nói chung không thể không tự hào. Kinh tế. Khởi đầu từ việc người Việt cổ rời bỏ cuộc sống hang động ở núi rừng (như hang động núi đá vôi vùng Hòa Bình) để tiến xuống chinh phục vùng sông nước mênh mang của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Công cuộc chinh phục nền kinh tế thời đại cổ xưa được đánh dấu với việc khống chế sức mạnh của dòng nước. Chung sống và bắt nó phục vụ cho lợi ich của con người. Đã hàng ngàn năm nay, dọc theo hai bên bờ sông Hồng là những làng quê trù phú có đê điều chống lũ lụt bao quanh. Hơn hai thiên niên kỷ con cháu người Việt cổ bám trụ và phát triển ở vùng Châu thổ sông Hồng, đã tạo ra những thành quả chính cho nền kinh tế đương đại vùng Bắc Bộ Việt Nam. Vùng Đồng bằng sông Hồng. Hiện tại cũng như tương lai khu vực đồng bằng sông Hồng luôn đóng vai trò quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội chung ở Việt Nam.
Bắc Bộ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4073
Là nơi có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên rất thuận lợi. Tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, dân cư đông đúc, mặt bằng dân trí cao. Sự tập trung dân cư có mật độ cao liên quan đến nhu cầu và môi trường lao động, tính cộng đồng và truyền thống văn hoá dân tộc. Một nơi có truyền thống lâu đời về thâm canh lúa nước, có những trung tâm công nghiệp và hệ thống đô thị phát triển... là điều kiện rất thuận lợi cho công cuộc phát triển các ngành nghề lao động sản xuất từ phổ thông đến hiện đại, mang đến sự thuận lợi cho công cuộc định cư lâu dài của con người. Là vựa lúa lớn thứ hai của Việt Nam Đồng bằng sông Hồng có được đất đai màu mỡ do phù sa của sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp. Số đất đai để phát triển nông nghiệp trên 70 vạn ha, chiếm 56% tổng diện tích tự nhiên toàn vùng. Ngoài lúa nước, các địa phương nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng đều chú trọng phát triển loại cây ưa lạnh có hiệu quả kinh tế cao như ngô, khoai tây, su hào, cải bắp, cà chua. Những loại cây này đa phần được trồng xen canh giữa các mùa vụ. Bắc Bộ là vùng có đường bờ biển dài, có cửa ngõ lớn và quan trọng thông thương với các khu vực lân cận và thế giới qua cảng biển Hải Phòng. Tài nguyên thiên nhiên gồm có các mỏ đá (ở Hải Phòng, Hà Nam, Ninh Bình), sét cao lanh ở Hải Dương, than nâu ở Hưng Yên và mỏ khí đốt ở huyện Tiền Hải (Thái Bình) đã được tiến hành khai thác từ nhiều năm nay. Đặc biệt, trong lòng đồng bằng sông Hồng đang tồn tại hàng chục vỉa than lớn nhỏ có tổng trữ lượng vào khoảng 210 tỷ tấn (theo dự đoán qua số liệu khảo sát vào những năm 70 của thế kỷ trước). Trải rộng trên diện tích 3500km2, trải dài từ Hà Nội đến Thái Bình rồi ra đến bờ biển Đông. Các vỉa than này có chiều dày từ 2 đến 3m, có nơi tới 20m. Là những vỉa than có độ ổn định địa chất và chất lượng rất tốt. Tuy nhiên, đồng bằng sông Hồng vẫn là một khu vực thiếu nguyên liệu phục vụ cho các ngành công nghiệp đang phát triển và luôn phải nhập từ các vùng khác. Một số lượng không nhỏ tài nguyên đang bị suy thoái do khai thác quá mức.
Bắc Bộ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4073
Do nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới và gió mùa nên nền kinh tế vùng nói chung cũng phải chịu ảnh hưởng từ các rủi ro do thiên tai gây nên. Khu vực Trung du và miền núi phía bắc. Là khu vực giàu tài nguyên để phát triển nông nghiệp, trồng cây công nghiệp, cây đặc sản và chăn nuôi gia súc. Nơi đây có khá nhiều đồng cỏ, chủ yếu là trên các cao nguyên ở độ cao 600 – 700m dùng để phát triển chăn nuôi gia súc như trâu, bò, ngựa, dê. Ở Cao nguyên Mộc Châu (tỉnh Sơn La) là nơi có những nông trường nuôi bò sữa tập trung. Các loại gia súc trên cao nguyên được chăn nuôi có tính khoẻ hơn, chịu ẩm ướt giỏi và dễ thích nghi với điều kiện chăn thả trong rừng. Khu vực có diện tích lớn đất feralit bên trên các dải đá vôi và đá phiến, có đất phù sa cổ ở vùng trung du. Do địa hình phần lớn chịu ảnh hưởng mạnh của gió mùa đông bắc, trong đó có nơi hứng chịu nhiệt độ mùa đông lạnh nhất Việt Nam là Sa Pa. Chính vì thế nơi đây có thế mạnh đặc biệt trong gieo trồng các cây công nghiệp có nguồn gốc cận nhiệt và ôn đới. Trung du và miền núi phía bắc cũng là khu vực trồng cây chè lớn nhất. Các loại chè được trồng nhiều ở Sơn La, Hà Giang, Yên Bái và Thái Nguyên. Khu vực phía đông bắc có biển Quảng Ninh là một vùng biển giàu tiềm năng phát triển kinh tế. Hiện nay đang trên đà phát triển cùng với sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm vùng Bắc Bộ. Vùng biển Quảng Ninh có thế mạnh đối với ngành nuôi trồng thủy sản, đánh bắt cá xa bờ cùng ngành du lịch biển đảo cũng đang được chú trọng phát triển. Ở đây có vịnh Hạ Long đã được xếp vào danh mục di sản thiên nhiên của thế giới, là điểm đến du lịch rất giá trị về văn hoá. Mặc dù tốc độ phát triển kinh tế của toàn vùng là khá toàn diện. Tuy nhiên, riêng với khu vực Trung du và miền núi phía bắc, nhất là vùng tây bắc vẫn còn nghèo so với các vùng khác trong cả nước.
Miền Nam (Việt Nam)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4075
Miền Nam Việt Nam là một khái niệm để chỉ vùng địa lý ở phía nam nước Việt Nam. Tuy nhiên, tùy theo từng thời điểm lịch sử và thói quen sử dụng mà khái niệm này đôi khi được dùng để chỉ các vùng lãnh thổ khác nhau theo nghĩa chính trị một cách không chính thức. Khái niệm. Sắc lệnh số 143-A/TTP của Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 23/10/1956 đã quy định gọi Bắc Việt, Trung Việt, Nam Việt tương ứng là Bắc Phần, Trung Phần, Nam Phần. Miền Nam Việt Nam là danh từ để chỉ: Các tiểu vùng địa lý. Nam Bộ bao gồm 17 tỉnh từ Bình Phước đến Cà Mau và hai thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ. Khu vực này chia làm 2 vùng chính: Riêng tài liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam (và một số ít tài liệu khác dựa theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê) lại xếp 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận vào miền Đông Nam Bộ. Các tên gọi khác. Phù Nam. Nam Bộ xưa vốn là vùng đất đã từng có nhiều lớp cư dân đến khai phá. Tên gọi Phù Nam xuất hiện vào khoảng đầu Công nguyên. Đến khoảng thế kỷ V-VI, Phù Nam được mở rộng và trở thành một đế chế rộng lớn với nhiều thuộc quốc phân bố ở phía nam bán đảo Đông Dương và bán đảo Malaca. Vào đầu thế kỷ VII đế chế Phù Nam tan rã do nước Chân Lạp của người Khmer đã tấn công đánh chiếm vùng hạ lưu sông Mêkông (tương đương với vùng đất Nam Bộ ngày nay). Thủy Chân Lạp. Sau khi đánh chiếm được Phù Nam, vùng đất này được đổi tên là Thủy Chân Lạp. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến cuối thế kỷ XI, Chân Lạp trở nên một quốc gia cường thịnh, mở rộng lãnh thổ lên tận Nam Lào và lưu vực sông Chao Phaya. Đến thế kỉ XVI thì triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc và bước vào thời kì suy vong nên hầu như không có điều kiện quan tâm và trên thực tế đã không đủ sức quản lý vùng đất này. Nhiều cư dân Việt từ đất Thuận Quảng đã phải vào vùng Mô Xoài, Đồng Nai (miền Đông Nam Bộ) lập làng sinh sống. Nam Triều. Trong chiến tranh Lê – Mạc (1533–1592), Việt Nam được phân chia với nhà Mạc nắm giữ đồng bằng sông Hồng (Bắc Triều) và nhà Lê kiểm soát miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Định (Nam Triều). Đàng Trong.
Miền Nam (Việt Nam)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4075
Đàng Trong. Tên gọi này bắt nguồn từ thời Trịnh - Nguyễn phân tranh vào thế kỷ 17, với ranh giới xác định là ở phía nam sông Gianh (nay thuộc tỉnh Quảng Bình). Do đặc điểm cả hai vùng lãnh thổ tuy trên thực tế thuộc hai chính quyền khác nhau, nhưng về danh nghĩa vẫn cùng một quốc gia Đại Việt. Tên gọi Đàng Trong thường được dùng để chỉ vùng kiểm soát bởi chúa Nguyễn, vốn nằm xa Trung Quốc hơn nên mới có tên gọi này. Giai đoạn này người ngoại quốc đến giao thương với Việt Nam thường dùng tên gọi Cochinchina, hoặc Quinan để chỉ vùng lãnh thổ này. Nam Hà. Tên gọi Nam Hà xuất hiện cùng thời với tên gọi Đàng Trong. Nó có nghĩa đơn giản là "ở phía nam con sông", ở đây hàm ý chỉ con sông Gianh. Tuy nhiên, tên gọi này ít sử dụng phổ biến như tên gọi Đàng Trong và không bao gồm vùng đất Gia Định ở phía nam. Gia Định. Gia Định ban đầu chỉ là cái tên để chỉ vùng lãnh thổ nhỏ ở phía nam vào năm 1698, sau mở rộng dần đến năm 1779 thì được dùng để chỉ toàn bộ vùng tương ứng với Nam Bộ hiện nay. Để tương ứng với đơn vị hành chính Bắc Thành ở phía bắc, từ năm 1802, vua Gia Long đã đặt ra Gia Định Trấn để cai quản vùng lãnh thổ từ Bình Thuận trở vào, gồm 5 trấn. Do dễ có sự nhầm lẫn nên từ năm 1808 đã được đổi tên là Gia Định Thành. Đứng đầu đơn vị hành chính này là một chức quan Lưu Trấn, sau 1808 đổi thành Tổng trấn. Vị Tổng trấn nổi tiếng nhất của Gia Định Thành là Lê Văn Duyệt. Gia Định Thành tồn tại mãi đến năm 1832, sau khi Lê Văn Duyệt mất và vua Minh Mạng quyết định giải thể Gia Định Thành. Nam Kỳ. Nam Kỳ là tên gọi từ năm 1832, dùng để chỉ vùng lãnh thổ thuộc quyền cai quản của Gia Định Thành trước kia. Do vua Minh Mạng chia vùng lãnh thổ này thành 6 tỉnh trực tiếp đặt dưới quyền cai quản của triều đình, nên nó còn có tên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh. Sau khi chiếm được Nam Kỳ, người Pháp thường sử dụng tên gọi Cochinchine để chỉ vùng này.
Miền Nam (Việt Nam)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4075
Danh xưng Nam Kỳ quốc (tiếng Pháp: "République de Cochinchine") được người Pháp dùng để chỉ một quốc gia do họ lập nên vào năm 1946, về danh nghĩa cai quản vùng trước đây là thuộc địa Nam Kỳ. Tuy nhiên, quốc gia này chỉ tồn tại trên danh nghĩa và chỉ đến năm 1948 thì bị giải thể. Nam Bộ. Sau cuộc đảo chính Pháp tại Đông Dương ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật đã tuyên bố trao lại quyền độc lập cho Đế quốc Việt Nam. Song song với quá trình thành lập chính phủ, Hoàng đế Bảo Đại cũng cho phân vùng lãnh thổ Việt Nam thành 3 khu vực hành chính, và đặt các chức quan Khâm sai thay mặt nhà vua để cai quản từng vùng. Nam Bộ là khu vực tương ứng với Nam Kỳ cũ. Tên gọi Nam Bộ được sử dụng lâu dài cho đến ngày nay. Nam Phần. Tên gọi Nam Phần ra đời vào khoảng năm 1947, sau khi chính phủ Nam Kỳ quốc giai đoạn đầu giải tán, và chính phủ Nam phần Việt Nam được thành lập. Sau đó chính phủ Pháp và cựu hoàng Bảo Đại ký thỏa ước thành lập Quốc gia Việt Nam, theo đó lãnh thổ Việt Nam được phân thành 3 đơn vị hành chính cấp Phần, là một cấp cao hơn tỉnh, đứng đầu là một Thủ hiến do Quốc trưởng chỉ định. Vùng lãnh thổ Nam Phần tương ứng với vùng lãnh thổ của Nam Bộ vào năm 1945.
Chàm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4076
Màu chàm (indigo) là màu của ánh sáng trong khoảng 440 đến 420 nm, nằm giữa màu xanh lam và màu tím. Giống như màu da cam, tên gọi của nó có xuất xứ từ tự nhiên, do màu này rất gần với màu của chất tanin lấy từ lá hay vỏ cây chàm dùng để nhuộm quần áo. Nó không phải là màu gốc bổ sung hay loại trừ nhưng trong các sách vật lý vẫn liệt kê nó như màu gốc. Lý do cơ bản là khi Newton chia quang phổ ra làm bảy phần để cho phù hợp với con số bảy hành tinh (khi đó chỉ biết có vậy), bảy ngày trong tuần và bảy nốt nhạc cũng như một số các danh sách khác chỉ có bảy phần tử thì ông đã đặt tên và định nghĩa nó như màu gốc. Mắt con người không nhạy cảm lắm với ánh sáng màu chàm. Một số người không thể phân biệt nó với màu xanh lam hay màu tím. Tọa độ màu. Số Hex = #4B0082 RGB (r, g, b) = (75, 0, 130) CMYK (c, m, y, k) = (42, 100, 0, 49) HSV (h, s, v) = (275, 100, 51)
Chàm (bệnh)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4077
Chàm (eczema) là tình trạng viêm da sẩn mụn nước do phản ứng với các tác nhân nội và ngoại sinh. Bệnh Eczema, lấy từ gốc tiếng Hy Lạp: Eczeo – chỉ những tổn thương là mụn nước, bệnh được biết từ thế kỷ thứ 2 trước công nguyên với sự hiểu biết là do rối loạn một số yếu tố ở ngay trong cơ thể. Dân gian thường gọi là chàm tổ đỉa, vì tổn thương tái diễn lâu ngày da sần sủi kèm theo các lỗ hút sâu rỉ nước vàng như mồm con đỉa. Eczema là một trạng thái viêm lớp nông của da cấp tính hay mạn tính, tiến triển từng đợt hay tái phát, lâm sàng biểu hiện bằng đám mảng đỏ da, mụn nước và ngứa. Nguyên nhân gây bệnh rất phức tạp, do: nội giới, ngoại giới như­ng bao giờ cũng có vai trò thể địa dị ứng. Về mô học có hiện tư­ợng xốp bào (Spongiosis). Eczema là bệnh ngoài da phổ biến, là bệnh da ngứa điển hình, mạn tính hay tái phát, điều trị còn khó khăn Triệu chứng và diễn biến của bệnh. Bệnh là hiện tượng viêm bì, thượng bì, nguyên nhân rất phức tạp, thường phát sinh do một quá trình phản ứng của da trên một cơ địa đặc biệt dễ phản úng với dị nguyên ở trong cơ thể (hoặc một số rất ít) ở ngoài cơ thể, với biểu hiện tổn thương trên da là những mảng hồng ban, mụn nước thành đám, tái đi tái lại nhiều lần và rất ngứa. Bệnh tiến triển qua các giai đoạn: Hồng ban, mụn nước, chảy nước, đóng vảy tiết, bong vảy và Lichen hóa. Thường bị bỏ qua, bệnh nhân thường bỏ qua không đi khám bệnh, các thầy thuốc cũng thường bỏ qua vì nhiều khi dấu hiệu này biến mất không để lại dấu hiệu bệnh lý của bệnh ngoài da, hoặc đây chỉ là dấu hiệu ban đầu của một bệnh ngoài da khác Đây là đặc trưng cơ bản của bệnh, mụn nước thường tập trung thành từng đám, kích thước to 1 – 2 mm, tương đối đồng đều, phát triển đùn từ dưới lên hết lớp này đển lớp khác, mụn nước tự vỡ (hoặc do gãi) làm chảy nước dịch nhày.
Chàm (bệnh)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4077
Nếu có bội nhiễm thì tổn thương sưng phù nhiều dịch tiết hoặc có mủ Bong da và lên da non: Dịch nhày và huyết tương đóng khô lại kèm theo hiện tượng da chết thành mảng bong ra để lại bện dưới là lớp da non nhẵn bóng như vỏ hành hơi sẫm màu nền da hơi chai cộm Eczema tiến triển lâu ngày, da càng ngày càng sẫm màu, tăng nhiễm cộm, bề mặt xù xì thô ráp, sờ nền cứng cộm, các hằn da nổi rõ, ở giữa các hằn da có các sẩn dẹt như trong bệnh lichen, quá trình này gọi là liken hoá.  Bệnh diễn biến đan xen từng đợt, có thể có chu kỳ phát nặng (hoặc tạm lui) theo mùa. Các giai đoạn của bệnh thường xen kẽ lồng vào nhau, ngứa là triệu chứng xuyên suốt, xuất hiện sớm nhất và tồn tại dai dẳng Các thể lâm sàng. Eczema tiếp xúc (Contact eczema, contact  dermatitis). Xuất hiện đầu tiên ở vùng tiếp xúc, thường là vùng hở, có khi in rõ hình vật tiếp xúc (hình quai dép, dây đồng hồ, kính đeo mắt...) Tổn thương cơ bản là da đỏ xung huyết, hơi nề, trên bề mặt có mụn nước, có thể có hình thái mãn tính khô dày cộm có vảy. Dừng tiếp xúc với dị vật bệnh thuyên giảm, tiếp xúc lại bệnh vượng lên. Làm phản ứng da với chất tiếp xúc cho kết quả dương tính Eczema thể địa  (Atopic dermatitis). Đây là thể lâm sàng thường gặp nhất, liên quan nhiều đến yếu tố tự miễn, theo lứa tuổi lại có biểu hiện lâm sàng khác nhau: Eczema thể địa ở tuổi nhũ nhi và sơ sinh: Bệnh thường ở mặt trán, hai bên cân đối nhau tạo nên tổn thương hình móng ngựa, hình cánh bướn (Bệnh chàm cánh bướm). Tổn thương thường là dát đỏ có nhiều mụn nước trên bề mặt, trợt, chảy dịch, có mủ hoặc đóng vảy tiết. Eczema thể địa ở người lớn: Tổn thương cơ bản là những đám mảng mụn nước, tiết dịch hoặc đóng vảy tiết hoặc lichen hoá, vị trí ở bất cứ chỗ nào  trên cơ thể, tính đối xứng hai bên ít hơn (thường là bị cả hai bên cơ thể, nhưng có nhiều trường hợp tổn thương chỉ khu trú rõ rệt ở một bên còn vị trí tương ứng ở bên kia hoàn toàn bình thường).
Chàm (bệnh)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4077
Các tổn thương thường ở các nếp gấp lớn, bàn tay, bàn chân... Eczema thể đồng tiền (Nummular Eczema). Các đám tổn thương hình tròn hoặc ovan, ban đầu là đám đỏ tiết dịch, có mụn nước, sẩn, tiết dịch, vảy tiết, vảy da, lichen hoá có giới hạn rõ ràng, thường khu trú rõ ràng ở mặt duỗi của chi (mặt trước cẳng chân, tay, mu bàn chân bàn tay...Có ý kiến cho răng Eczema đồng tiền là một thể đặc biệt của Eczema vi khuẩn, có ý kiến lại cho rằng eczema đồng tiền là một phân thể của eczema thể địa Eczema da dầu (Seborrheic dermatitis). Vị trí thường gặp nhất là đầu, ở mặt thường bị ở lông mày, quanh mắt, giữa mũi, nếp mũi má,sau tai. Tổn thương là đám mảng đỏ trên có vảy, vảy mỡ, đôi khi có sẩn trên bề mặt, giới hạn tương đổi rõ, khô. Vi thể có hiện tượng xốp bào. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh. Nguyên nhân phức tạp nhiều khi khó hoặc không phát hiện đ­ược. Có thể do: Nguyên nhân ngoại giới. Các yếu tố vật lý,hoá học, thực vật, sinh vật học đụng chạm vào da gây cảm ứng thành viêm da, eczema (các chất này gọi là di nguyên). Ví dụ: ánh sáng, thuốc bôi, tiêm uống, các hoá chất dùng trong công nghiệp, trong gia đình (cao su, kền, crôm, xi măng, sơn...) Một số bệnh ngoài da gây ngứa (nấm, ghẻ...) do chà xát, bôi thuốc linh tinh... có thể trở thành eczema thứ phát. Nguyên nhân nội giới. Rối loạn chức phận nội tạng, rối loạn thần kinh, rối loạn nội tiết có thể là nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp gây bệnh Eczema Phản ứng dị ứng. Dù nguyên nhân nội giới hay ngoại giới, cũng đều có liên quan đến phản ứng đặc biệt của cơ thể dẫn đến phản ứng dị ứng, bệnh nhân có thể địa dị ứng. Theo Halpem và Coombs: Phản ứng Eczema được xếp vào kiểu mẫn cảm tế bào trì hoãn trong đó có vai trò của tế bào lympho mang ký ức kháng nguyên. Điều trị. Dân gian chữa Eczema.
Chàm (bệnh)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4077
Điều trị. Dân gian chữa Eczema. Thường dùng vỏ cây Hoàng bá  (núc nác), giã nát đắp lên vùng da tổn thương, trong bộ đội thời đánh Mỹ cũng lưu truyền bài thuốc chữa ngoài da có tác dụng chữa các bệnh ngoài da và được một số cơ sở điều trị quân y đã áp dụng và phát triển Đông y chữa Eczema. Do phong phối hợp với nhiệt và thấp lúc đầu thấy hơi đỏ và ngứa và sau một thời gian ngắn nổi cục, mụn nước, chảy nước, đóng vẩy, bong vẩy và khỏi. Các bài thuốc Đông y chữa Eczema, chia thành 2 thể: Triệu chứng: Da hồng, đỏ ngứa,có mụn nước, loét, chảy nước vàng, mùa hanh khô, chảy máu tươi, để lâu ngày có thể gây viêm họng Pháp trị: thanh nhiệt táo thấp Bài thuốc trị Chàm thấp nhiệt: Hoàng cầm: 12; Hoàng bá: 12; bạch tiễn bì: 12; Linh bì: 12; Hoạt thạch: 12; Khổ sâm: 12; Sinh địa: 20 Ngân hoa: 20; Thổ phục linh: 20; N hoàng bá: 12; Hoàng đằng: 8; Triệu chứng: da hơi đỏ có mụn nước phát toàn thân, ngứa gãi chảy nước, ít loét Pháp trị: Sơ phong thanh nhiệt, trừ thấp Bài thuốc trị chàm phong nhiệt: Long đởm tả can thang gia giảm Hoàng cầm: 8; Chi tử: 12; Qui đầu: 8; Sài hồ: 8; mộc thông: 8; Cam thảo: 2; sinh địa: 8; Trạch tả: 12; Sa tiền: 8; Thuyền thoái:6 Kinh giới: 12; X truật: 8; Ngưu bàng: 12; Khổ sâm: 12; N hoàng bá: 8; long đởm thảo: 8 Thuốc dùng ngoài Thuốc ngâm: Dùng Tô mộc, Kinh giới, H đằng sắc đặc ngâm chỗ tổn thương khi nước còn nóng. Hoặc hàng ngày tắm bằng nước lá tre Châm cứu Tuỳ vị trí cơ thể, chọn huyệt tại chỗ và lân cận.
Chàm (bệnh)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4077
Chân: Tam âm giao, Dương lăng tuyền...Toàn thân: Trừ phong: Hợp cốc Trừ thấp: Túc tam lý Hoạt huyết: Huyết hải Do phong và huyết táo gây ra: da dày khô, ngứa, nổi cục, có mụn nước, hay gặp ở đầu,mặt, cổ chân, cổ tay, khuỷu tay, đầu gối, pháp trị: khu phong dưỡng huyết nhuận táo chàm mãn tính Bài thuốc: Qui đầu: 12; Thục địa: 20; Bạch thược: 12; xuyên khung: 8; Kinh giới: 16; X truật: 12; Khổ sâm: 8; Thuyền thoái: 6; Phòng phong: 12 Tiễn bì:  10; Tật lê: 8; Địa phụ tử: 8;  Hoàng bá: 8; Hy thiêm:  12; Thuốc dùng ngoài: Thuốc ngâm: Kinh giới, Hy thiêm đều 50g. nấu nước ngâm rửa làm mềm chỗ da bị xơ cứng và giảm ngứa nhanh Tây y chữa Eczema. Phác đồ điều trị được chia thành 3 thể.
Yersinia pestis
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4079
Yersinia pestis ("Y. pestis") (trước đây là "Pasteurella pestis") là một loài vi khuẩn coccobacillus gram âm, không có tính di động, hình que thuộc họ Enterobacteriaceae. Nó là tác nhân gây bệnh của dịch hạch — căn bệnh đã gây nhiều trận dịch kinh hoàng với tỉ lệ tử vong rất cao trong lịch sử nhân loại (nếu không được điều trị, tử vong ở thể hạch là 75%, và ở thể phổi là gần 100%) như ở trận Đại dịch hạch (1665 ở Anh với 60.000 người chết) và Cái chết đen (giữa thế kỉ 14, giết chết 1/3 dân số châu Âu). Có 3 dạng bệnh dịch hạch chính là dịch hạch thể hạch, dịch hạch thể phổi và dịch hạch thể máu. Giống "Yersinia" là các coccobacillus nhuộm Gram âm và lưỡng cực (hình quả tạ). Cũng như các "Enterobacteriaceae" khác, nó có khả năng lên men đường. "Yersinia pestis" có khả năng tiết ra chất nhờn chống thực bào. Vi khuẩn trở nên di động trong môi trường phân lập, nhưng bất động khi ở trong vật chủ (động vật có vú). Lịch sử. "Y. pestis" được khám phá vào năm 1894 do công của bác sĩ và nhà vi khuẩn học người Pháp Alexandre Yersin trong trận dịch của bệnh dịch hạch tại Hồng Kông. Yersin là thành viên của "trường phái Pasteur". Shibasaburo Kitasato, một nhà vi khuẩn học người Nhật được huấn luyện tại Đức, thuộc "trường phái Koch" đối thủ, lúc bấy giờ cũng tham gia tìm tác nhân gây bệnh của dịch hạch. Tuy nhiên chính Yersin là người đã liên kết bệnh dịch hạch với "Yersinia pestis". Vi khuẩn này lúc đầu được gọi là "Pasteurella pestis", và sau đó được đặt lại tên theo tên của Yersin. Tính sinh bệnh và miễn dịch. Tính sinh bệnh là do hai kháng nguyên kháng thực bào F1 và VW; cả hai đều cần thiết cho độc tính của vi khuẩn. Chúng được vi khuẩn sản xuất ra ở 37 °C, điều này giải thích tại sao một số côn trùng như bọ chét chỉ mang khuẩn không độc tính. Hơn nữa, "Y. pestis" sống sót và sản xuất các kháng nguyên F1 và VW bên trong các tế bào máu như bạch cầu đơn nhân mà không trong bạch cầu đa nhân trung tính. Miễn dịch tự nhiên hay cảm ứng có được là do cơ thể sản xuất kháng thể opsonin đặc hiệu chống lại các kháng nguyên F1 và VW. Chúng kích thích hiện tượng thực bào ở bạch cầu trung tính.
Yersinia pestis
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4079
Hiện nay có vắcxin bất hoạt formalin cho người lớn ở mức nguy cơ cao, nhưng nó không hiệu quả lắm và có thể gây phản ứng viêm trầm trọng. Các thí nghiệm với kĩ thuật di truyền sản xuất vắcxin dựa trên các kháng nguyên F1 và VW đang được tiến hành và tỏ ra có nhiều triển vọng. Tính nhạy cảm. "Y. pestis" nhạy cảm cao đối với vài loại kháng sinh, chủ yếu là streptomycin và chloramphenicol.
Viêm da
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4081
Viêm da là tình trạng viêm nhiễm nông ở da, đặc trưng mô học là phù thượng bì và lâm sàng là mụn nước (khi cấp tính), hồng ban bờ kém, phù, xuất tiết, đóng sừng, tróc vảy, thường kèm đau, và lichen hoá do gãi hay chà. Hiện vẫn còn bất đồng về tên gọi "viêm da" và "eczema". Thông thường eczema dùng để chỉ viêm da mụn nước, nhưng một số người lại giới hạn eczema vào viêm da mạn tính. Một số cũng dùng từ viêm da để chỉ viêm da xốp do có đặc điểm mô học là hiện tượng xốp hoá (phù nội thượng bì). Bệnh viêm da dị ứng. Viêm da dị ứng là viêm da do tiếp xúc với chất gây kích ứng như: hóa chất, bụi ô nhiễm,xi măng gây bệnh đặc thù là dị ứng xi măng
Kỹ thuật di truyền
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4084
Kỹ thuật di truyền hay kỹ thuật gen là thao tác thay đổi gen bằng công nghệ sinh học. Nó bao gồm các phương pháp kỹ thuật dùng để thay đổi nhân tố di truyền của các tế bào, bao gồm sự dịch chuyển gen cùng loài và khác loài để tạo ra những sinh vật mới hoặc hoàn hảo hơn. Những DNA mới được tạo ra bằng cách cách ly và sao chép lại nhân tố di truyền mong muốn qua phương pháp DNA tái tổ hợp hoặc bằng phương pháp chế tạo gen nhân tạo. Một vector thường được tạo ra để truyền DNA mới vào vật chủ. Phân tử DNA tái tổ hợp đầu tiên được tạo ra bởi Paul Berg vào năm 1972 bằng cách kết hợp DNA của virus khỉ SV40 với virus lambda. Và phương pháp thêm gen vào bộ gen của vật chủ còn có thể dùng để loại bỏ gen. Mẫu DNA có thể được thêm vào bộ gen một cách ngẫu nhiên hoặc vào một vị trí chính xác trong bộ gen. Sinh vật được tạo ra bằng kỹ thuật di truyền được gọi là sinh vật biến đổi gen (tiếng Anh "GMO"). GMO đầu tiên là vi khuẩn được tạo ra bởi Herbert Boyer và Stanley Cohen vào năm 1973. Rudolf Jaenisch tạo ra động vật biến đổi gen đầu tiên khi ông ta thêm DNA lạ vào một chuột biến đổi gen vào năm 1974. Công ty đầu tiên trong ngành kỹ thuật di truyền là Genentech. Nó được thành lập vào năm 1976 và bắt đầu sản xuất protein người. Insulin đã thay đổi gen được sản xuất vào năm 1978, và vi khuẩn có khả năng tự tạo ra insulin đó được thương mại hóa vào năm 1982. Thực phẩm biến đổi gen được bán từ năm 1994 với sự ra đời của cà chua Flavr Savr. Cà chua Flavr Savr được cải tạo để tồn trữ được lâu hơn, nhưng đa số những cây trồng bây giờ được biến đổi gen để tăng sự chống chịu với sâu bọ và thuốc trừ sâu. GloFish là GMO đầu tiên tạo ra để làm thú nuôi. Nó bắt đầu được thương mại hóa ở Hoa Kỳ vào tháng 12 năm 2003. Vào năm 2016, cá salmon được biến đổi gen nội tiết tố để kích thích tăng trưởng được bán ra thị trường. Kỹ thuật di truyền đã được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm nghiên cứu, y học, công nghệ sinh học, và nông nghiệp. Trong nghiên cứu, GMO được dùng để nghiên cứu về chức năng và biểu hiện gen qua các phương pháp như làm mất chức năng, tạo ra chức năng mới, theo dõi và thí nghiệm biểu hiện gen.
Kỹ thuật di truyền
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4084
Bằng cách loại bỏ một số gen với chức năng đã được biết đến, chúng ta có thể tạo ra sinh vật mô hình động vật để nghiên cứu bệnh người. Ngoài việc có thể tạo ra nội tiết tố, vắc-xin, và các dược phẩm khác, kỹ thuật di truyền còn có tiềm năng chữa bệnh qua phương pháp điều trị gen. Những kỹ thuật dùng để tạo ra dược phẩm còn có các ứng dụng công nghiệp khác như sản xuất enzyme để làm thuốc tẩy, phô mai, và các sản phẩm khác. Sự phát triển thương mại hóa của cây trồng biến đổi gen đã mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho nông dân ở nhiều quốc gia khác nhau, nhưng nó còn gây ra nhiều cuộc tranh cãi về cây trồng biến đổi gen. Những tranh cãi này đã xuất hiện ngay từ thời kỳ đầu; những cuộc thử nghiệm biến đổi gen đầu tiên đã bị phá hủy bởi những người chống lại kỹ thuật biến đổi gen. Tuy giới khoa học đa số đã đồng thuận rằng những thức ăn được chế biến từ cây trồng biến đổi gen không có hại với sức khỏe hơn thức ăn tự nhiên, một số người vẫn lo ngại đến sự an toàn thực phẩm của thức ăn biến đổi gen. Trao đổi gene, mức độ ảnh hưởng tới những sinh vật khác, cách vận hành cung cấp thực phẩm, và sở hữu trí tuệ là những vấn đề đang trong vòng tranh cãi. Những lo ngại này đã dẫn tới sự thành lập một khuôn khổ quy định từ năm 1975. Điều này dẫn tới hiệp ước quốc tế, Cartagena Protocol on Biosafety, được ký kết năm 2000. Những quốc gia đã đưa ra những hệ thống quy định riêng về GMO với sự khác biệt lớn giữa Hoa Kỳ và Châu Âu. Tổng quát. Kỹ thuật di truyền là một tiến trình thay đổi cấu trúc nhân tố di truyền bằng cách loại bỏ hoặc cấy DNA. Khác với chăn nuôi và nhân giống cây trồng truyền thống, bao gồm phải lai giống nhiều lần và sau đó chọn sinh vật có những kiểu hình mong muốn, kỹ thuật di truyền chỉ cần lấy gen từ một sinh vật này và cấy gen đó vào một sinh vật khác. Kỹ thuật này hiệu quả hơn nhiều so với cách truyền thống. Với kỹ thuật này, ta có thể cấy bất kỳ gen nào từ một sinh vật bất kỳ (ngay cả những sinh vật từ những vực khác nhau) và có thể phòng ngừa sự di chuyển của những gen không mong muốn.
Kỹ thuật di truyền
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4084
Kỹ thuật di truyền có khả năng chữa lành các bệnh di truyền bằng cách hoán đổi gen bị lỗi với một gen còn hoạt động. Đây là một công cụ quan trọng trong nghiên cứu cho phép nghiên cứu chức năng của các gen cụ thể. Thuốc, vắc-xin, và các sản phẩm khác được tạo ra từ những sinh vật đã được biến đổi gen. Để bảo đảm an ninh lương thực, cây trồng được biến đổi gen để tăng năng suất, dinh dưỡng, và sức chịu đựng trong môi trường khắc nghiệt. DNA có thể được cấy thẳng vào một sinh vật nào đó hoặc cấy vào tế bào, sau đó nó có thể kết hợp với các tế bào khác hoặc lai giống với sinh vật chủ. Điều này dựa trên kỹ thuật DNA tái tổ hợp để tạo ra các tổ hợp gen di truyền mới. Tiếp theo, chúng được cấy vào một sinh vật khác gián tiếp bằng hệ thống vector hoặc trực tiếp bằng kỹ thuật tiêm vi mô hoặc bọc chất vi mô. Kỹ thuận di truyền thường không bao gồm các loại phối giống truyền thống ví dụ như thụ tinh trong ống nghiệm, thể đa bội cảm ứng, quá trình đột biến sinh học và kỹ thuật tổng hợp tế bào mà không dùng tới tổ hợp gen di truyền hoặc sinh vật biến đổi gen. Tuy nhiên, một số định nghĩa bao quát hơn của công nghệ sinh học bao gồm cả chọn giống vật nuôi. Kỹ thuật di truyền không bao gồm nghiên cứu về nhân bản vô tính và tế bào gốc. Tuy nhiên, các ngành này có liên quan tới nhau và đều sử dụng kỹ thuật di truyền. Sinh học tổng hợp là một ngành mới nổi đã giúp phát triển kỹ thuật di truyền bằng cách đưa DNA nhân tạo tổng hợp vào một sinh vật. Những thực vật, động vật, hoặc vi sinh vật được thay đổi gen qua kỹ thuật di truyền được gọi là sinh vật biến đổi gen hoặc GMOs. Nếu như DNA từ một loài khác được đưa vào vật chủ thì sinh vật đó sẽ được gọi là sinh vật chuyển gen. Còn DNA từ chung loài được đưa vật chủ thì được gọi là sinh vật hợp gen. Khi dùng kỹ thuật di truyền để xóa bỏ DNA từ một sinh vật thì sinh vật đó được gọi là sinh vật bị loại gen. Ở Châu âu, sửa đổi di truyền đồng nghĩa với kỹ thuật di truyền trong khi ở Hoa Kỳ và Canada thì sửa đổi di truyền còn có hàm ý bao gồm các cách nhân giống thông thường.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Google LLC () là một công ty công nghệ đa quốc gia của Mỹ, chuyên về các dịch vụ và sản phẩm liên quan đến Internet, bao gồm các công nghệ quảng cáo trực tuyến, công cụ tìm kiếm, điện toán đám mây, phần mềm và phần cứng. Đây được coi là một trong những công ty công nghệ Big Four, cùng với Amazon, Apple và Facebook. Google được thành lập vào năm 1998 bởi Larry Page và Sergey Brin trong khi họ là nghiên cứu sinh đã có bằng tiến sĩ tại Đại học Stanford ở California. Họ cùng nhau sở hữu khoảng 14% cổ phần và kiểm soát 56% quyền biểu quyết của cổ đông thông qua cổ phiếu ưu đãi. Họ đã hợp nhất Google thành một công ty tư nhân vào ngày 4 tháng 9 năm 1998. Một đợt chào bán công khai lần đầu (IPO) diễn ra vào ngày 19 tháng 8 năm 2004 và Google chuyển đến trụ sở chính tại Mountain View, California với tên Googleplex. Vào tháng 8 năm 2015, Google đã công bố kế hoạch tổ chức lại công ty với tư cách là một tập đoàn có tên là Alphabet Inc. Google là công ty con hàng đầu của Alphabet và sẽ tiếp tục là công ty ô dù vì lợi ích Internet của Alphabet. Sundar Pichai được bổ nhiệm làm CEO của Google, thay thế Larry Page trở thành CEO của Alphabet. Sự phát triển nhanh chóng của công ty kể từ khi thành lập đã kích hoạt một chuỗi các sản phẩm, mua lại để sáp nhập và hợp tác ngoài công cụ tìm kiếm cốt lõi của Google (Google Tìm kiếm). Nó cung cấp các dịch vụ được thiết kế cho công việc và năng suất (Google Docs, Google Sheets và Google Slides), email (Gmail/Inbox), lập lịch và quản lý thời gian (Lịch Google), lưu trữ đám mây (Google Drive), mạng xã hội (Google+), nhắn tin và trò chuyện video trực tiếp (Google Allo, Duo, Hangouts), dịch ngôn ngữ (Google Dịch), lập bản đồ và điều hướng (Google Maps, Waze, Google Earth, Chế độ xem phố), chia sẻ video (YouTube), ghi chú (Google Keep) và tổ chức và chỉnh sửa ảnh (Google Ảnh). Công ty dẫn đầu sự phát triển của hệ điều hành di động Android, trình duyệt web Google Chrome và Chrome OS, một hệ điều hành nhẹ dựa trên trình duyệt Chrome. Google đã ngày càng chuyển sang phần cứng; từ năm 2010 đến 2015, nó hợp tác với các nhà sản xuất điện tử lớn trong việc sản xuất các thiết bị Nexus của mình và đã phát hành nhiều sản phẩm phần cứng vào tháng 10 năm 2016, bao gồm điện thoại thông minh Google Pixel, loa thông minh Google Home, bộ định tuyến không dây Google Wifi và Daydream-tai nghe thực tế ảo.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Google cũng đã thử nghiệm trở thành nhà cung cấp dịch vụ Internet (Google Fiber, Project Fi và Google Station). Google.com là trang web được truy cập nhiều nhất trên thế giới. Một số dịch vụ khác của Google cũng nằm trong top 100 trang web được truy cập nhiều nhất trên thế giới, bao gồm YouTube và Blogger. Google là thương hiệu có giá trị nhất thế giới tính đến năm 2017 nhưng đã nhận được sự chỉ trích đáng kể liên quan đến các vấn đề như lo ngại về quyền riêng tư, tránh thuế, chống độc quyền, kiểm duyệt và trung lập trong tìm kiếm. Tuyên bố sứ mệnh của Google là "tổ chức thông tin của thế giới", và khẩu hiệu không chính thức là "Don't be evil" (Đừng trở nên xấu xa) cho đến khi cụm từ này được xóa khỏi quy tắc ứng xử của công ty vào khoảng tháng 5 năm 2018, nhưng lại được đưa vào trở lại ngày 31 tháng 7 năm 2018. Lịch sử. Ban đầu. Google ban đầu là một công trình nghiên cứu của Larry Page và Sergey Brin, hai nghiên cứu sinh có bằng tiến sĩ tại trường Đại học Stanford, California vào tháng 1 năm 1996. Trong khi các công cụ tìm kiếm thông thường xếp hạng kết quả bằng cách đếm số lần tìm kiếm xuất hiện trên trang, hai lý thuyết đã đưa ra giả thuyết về một hệ thống tốt hơn phân tích mối quan hệ giữa các trang web. Họ gọi công nghệ mới này là PageRank; nó xác định mức độ liên quan của một trang web theo số lượng trang và tầm quan trọng của những trang được liên kết trở lại trang web gốc. Page và Brin ban đầu đặt biệt danh cho công cụ tìm kiếm mới của họ là "BackRub" (Gãi lưng) vì hệ thống này dùng các liên kết đến để ước tính tầm quan trọng của trang. Họ cũng tin rằng những trang có nhiều liên kết đến nhất từ các trang thích hợp khác sẽ là những trang thích hợp nhất. Cuối cùng, họ đã đổi tên thành Google; tên của công cụ tìm kiếm bắt nguồn từ một lỗi chính tả của từ "googol" có nghĩa là số 1 ​​đầu và theo sau là 100 số không, được chọn để biểu thị rằng công cụ tìm kiếm nhằm cung cấp số lượng lớn thông tin. Ban đầu, Google hoạt động dưới trang web của đại học Stanford với các tên miền "google.stanford.edu" và "z.stanford.edu". Họ đã quyết định thử nghiệm giả thuyết trong nghiên cứu của họ, tạo nền móng cho công cụ Google hiện đại bây giờ. Tên miền www.google.com được đăng ký ngày 15 tháng 9 năm 1997. Họ chính thức thành lập công ty "Google, Inc."
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Họ chính thức thành lập công ty "Google, Inc." ngày 4 tháng 9 năm 1998 tại một ga ra của nhà Susan Wojcicki (được thuê làm nhân viên đầu tiên của Google, Phó Chủ tịch cấp cao, phụ trách bộ phận quảng cáo) tại Menlo Park, California. Tài chính (1998) và chào bán công khai lần đầu (2004). Google ban đầu được tài trợ bởi khoản đóng góp 100.000 đô la tháng 8 năm 1998 từ Andy Bechtolsheim, đồng sáng lập của Sun Microsystems; tiền đã được đưa ra trước khi Google được hợp nhất. Google đã nhận được tiền từ ba nhà đầu tư thiên thần khác vào năm 1998: Jeff Bezos, người sáng lập Amazon.com, giáo sư khoa học máy tính David Cheriton và doanh nhân Ram Shriram. Sau một số khoản đầu tư nhỏ, từ cuối năm 1998 đến đầu năm 1999, một vòng tài trợ mới trị giá 25 triệu đô la đã được công bố vào ngày 7 tháng 6 năm 1999, với các nhà đầu tư lớn bao gồm các công ty đầu tư mạo hiểm Kleiner Perkins và Sequoia Capital. Đầu năm 1999, Brin và Page quyết định họ muốn bán Google cho Excite. Họ đã đến gặp CEO Excite George Bell và đề nghị bán nó cho anh ta với giá 1 triệu đô la. Anh từ chối lời đề nghị. Vinod Khosla, một trong những nhà đầu tư mạo hiểm của Excite, đã nói họ giảm xuống còn 750.000 đô la, nhưng Bell vẫn từ chối. Chào bán công khai ban đầu của Google (IPO) diễn ra năm năm sau đó, vào ngày 19 tháng 8 năm 2004. Vào thời điểm đó, Larry Page, Serge Brin và Eric Schmidt đã đồng ý làm việc cùng nhau tại Google trong 20 năm, cho đến năm 2024. Tại đợt IPO, công ty đã chào bán 19.605.052 cổ phiếu với mức giá 85 USD/cổ phiếu. Cổ phần đã được bán theo một hình thức đấu giá trực tuyến bằng cách sử dụng một hệ thống được xây dựng bởi Morgan Stanley và Credit Suisse, người bảo lãnh cho thỏa thuận này. Việc bán 1,67 tỷ đô la đã mang lại cho Google vốn hóa thị trường hơn 23 tỷ đô la. Đến tháng 1 năm 2014, vốn hóa thị trường của nó đã tăng lên 397 tỷ đô la. Phần lớn trong số 271 triệu cổ phiếu vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Google và nhiều nhân viên của Google đã trở thành triệu phú ngay lập tức. Yahoo!, một đối thủ cạnh tranh của Google, cũng được hưởng lợi vì sở hữu 8.4 triệu cổ phiếu Google trước khi IPO diễn ra. Đã có những lo ngại rằng IPO của Google sẽ dẫn đến những thay đổi trong văn hóa công ty.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Lý do dao động từ áp lực của cổ đông đối với việc giảm lợi ích của nhân viên cho đến việc nhiều giám đốc điều hành của công ty sẽ trở thành triệu phú ngay lập tức. Để trả lời cho mối quan tâm này, đồng sáng lập Brin và Page đã hứa trong một báo cáo cho các nhà đầu tư tiềm năng rằng IPO sẽ không thay đổi văn hóa của công ty. Năm 2005, các bài báo trên "The New York Times" và các nguồn khác bắt đầu cho thấy Google đã mất đi tính chống đối, không có triết lý độc ác. Trong nỗ lực duy trì văn hóa độc đáo của công ty, Google đã chỉ định một Giám đốc Văn hóa, người cũng là Giám đốc Nhân sự. Mục đích của Giám đốc Văn hóa là phát triển và duy trì văn hóa và làm việc theo những cách để giữ đúng với các giá trị cốt lõi mà công ty được thành lập: một tổ chức phẳng với môi trường hợp tác hòa nhập. Google cũng đã phải đối mặt với các cáo buộc về chủ nghĩa phân biệt giới tính và tuổi tác từ các nhân viên cũ. Vào năm 2013, một vụ kiện tập thể chống lại một số công ty ở Thung lũng Silicon, bao gồm Google, đã được đệ trình vì các thỏa thuận đã hạn chế việc tuyển dụng nhân viên công nghệ cao. Cổ phiếu hoạt động tốt sau IPO, với cổ phiếu lần đầu tiên đạt 350 đô la vào ngày 31 tháng 10 năm 2007, chủ yếu vì doanh thu và thu nhập mạnh mẽ trên thị trường quảng cáo trực tuyến. Sự tăng vọt của giá cổ phiếu được thúc đẩy chủ yếu bởi các nhà đầu tư cá nhân, trái ngược với các nhà đầu tư tổ chức lớn và các quỹ tương hỗ. Cổ phiếu GOOG được chia thành cổ phiếu GOOG loại C và cổ phiếu GOOGL loại A. Công ty được liệt kê trên sàn giao dịch chứng khoán NASDAQ với các ký hiệu GOOGL và GOOG và trên sàn giao dịch chứng khoán Frankfurt dưới ký hiệu GGQ1. Các ký hiệu này hiện đề cập đến công ty cổ phần của Alphabet Inc., kể từ quý IV năm 2015. Phát triển. Vào tháng 3 năm 1999, công ty đã chuyển văn phòng của mình đến Palo Alto, California, nơi có nhiều công ty khởi nghiệp công nghệ nổi tiếng ở Thung lũng Silicon. Năm sau, Google bắt đầu bán quảng cáo liên quan đến từ khóa tìm kiếm mặc dù ban đầu có sự phản đối của Page và Brin. Để duy trì thiết kế trang không bị lộn xộn, quảng cáo chỉ dựa trên văn bản.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Mô hình bán quảng cáo từ khóa này lần đầu tiên được Goto.com tiên phong, một spin-off (chương trình dẫn xuất) Idealab được tạo bởi Bill Gross. Khi công ty đổi tên thành Overture Services, công ty đã kiện Google về các hành vi vi phạm các bằng sáng chế cho mỗi lần nhấp và đấu thầu của công ty. Overture Services sau đó được Yahoo! mua lại và đổi tên thành Yahoo! Tiếp thị tìm kiếm. Vụ việc sau đó đã được giải quyết ngoài tòa án; Google đồng ý phát hành cổ phiếu phổ thông cho Yahoo! để đổi lấy giấy phép vĩnh viễn. Vào tháng 6 năm 2000, Google đã trở thành nhà cung cấp công cụ tìm kiếm mặc định cho Yahoo!, Một trong những trang web phổ biến nhất vào thời điểm đó, thay thế Inktomi. Năm 2001, Google đã nhận được bằng sáng chế cho cơ chế PageRank của mình. Bằng sáng chế đã chính thức được giao cho Đại học Stanford và Lawrence Page là nhà phát minh. Năm 2003, công ty đã thuê một tổ hợp văn phòng từ Silicon Graphics tại 1600 Amphitheater Parkway ở Mountain View, California. Khu phức hợp được biết đến với cái tên Googleplex, một cách chơi chữ của googolplex, có nghĩa là 10googol. Nội thất Googleplex được thiết kế bởi Clive Wilkinson Architects. Ba năm sau, Google đã mua bất động sản từ SGI với giá 319 triệu đô la. Vào thời điểm đó, cái tên "Google" đã là ngôn ngữ hàng ngày, khiến động từ "google" được thêm vào "Từ điển đại học Merriam-Webster" và "Từ điển tiếng Anh Oxford", được giải thích là: "sử dụng công cụ tìm kiếm Google để có được thông tin trên Internet". Việc sử dụng "Google" đầu tiên như một động từ trong văn hóa đại chúng đã xảy ra trên loạt phim truyền hình "Buffy the Vampire Slayer", vào năm 2002. Năm 2005, "The Washington Post" đã báo cáo về việc tăng 700% lợi nhuận trong quý ba cho Google, phần lớn nhờ vào các công ty lớn chuyển chiến lược quảng cáo của họ từ báo, tạp chí và truyền hình sang Internet. Vào tháng 1 năm 2008, tất cả dữ liệu được truyền qua phần mềm MapReduce của Google có kích thước tổng hợp là 20 petabyte mỗi ngày. Năm 2009, một báo cáo của CNN về các tìm kiếm chính trị hàng đầu năm 2009 đã lưu ý rằng "hơn một tỷ lượt tìm kiếm" đang được nhập vào Google hàng ngày. Vào tháng 5 năm 2011, lần đầu tiên số lượng khách truy cập duy nhất vào Google đã vượt qua một tỷ lần, tăng 8.4% so với tháng 5 năm 2010 (931 triệu).
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Năm 2012 là lần đầu tiên Google tạo ra 50 tỷ đô la doanh thu hàng năm, 38 tỷ đô la vào năm trước. Vào tháng 1 năm 2013, Giám đốc điều hành lúc đó, Larry Page đã nhận xét: "Chúng tôi đã kết thúc năm 2012 với một quý mạnh mẽ... Doanh thu tăng 36% so với cùng kỳ và 8% theo quý. Và chúng tôi đạt doanh thu 50 tỷ đô la lần đầu tiên vào năm ngoái - một thành tích không tồi chỉ trong một thập kỷ rưỡi." Vào tháng 11 năm 2018, Google đã công bố kế hoạch mở rộng văn phòng tại Thành phố New York của mình với sức chứa 12.000 nhân viên. 2013 trở đi. Google đã công bố sự ra mắt của một công ty mới, được gọi là Calico vào ngày 19 tháng 9 năm 2013, do chủ tịch của Apple Inc., Arthur Levinson, lãnh đạo. Trong tuyên bố chính thức, Page giải thích rằng công ty về "sức khỏe và hạnh phúc" sẽ tập trung vào "thách thức của lão hóa và các bệnh liên quan". Google đã tổ chức lễ kỷ niệm 15 năm thành lập vào ngày 27 tháng 9 năm 2013 và vào năm 2016, họ đã kỷ niệm sinh nhật lần thứ 18 của mình bằng một phiên bản hoạt họa ("Google Doodle"), mặc dù họ đã sử dụng các ngày khác cho ngày sinh nhật chính thức của mình. Lý do cho sự lựa chọn của ngày 27 tháng 9 vẫn chưa rõ ràng và tranh chấp với công cụ tìm kiếm đối thủ Yahoo! Tìm kiếm trong năm 2005 đã được đề xuất là nguyên nhân. Liên minh vì Internet giá cả phải chăng (A4AI) đã được ra mắt vào tháng 10 năm 2013; Google là một phần trong liên minh các tổ chức công cộng và tư nhân cũng bao gồm Facebook, Intel và Microsoft. Được lãnh đạo bởi Sir Tim Berners-Lee, A4AI tìm cách làm cho việc truy cập Internet trở nên hợp lý hơn để truy cập được mở rộng ở các nước đang phát triển, nơi chỉ có 31% người dân đang dùng Internet. Google sẽ giúp giảm giá truy cập Internet để chúng giảm xuống dưới mục tiêu 5% thu nhập hàng tháng của Ủy ban băng thông rộng của Liên Hợp Quốc. Doanh thu của tập đoàn trong quý 3 năm 2013 đã được báo cáo vào giữa tháng 10 năm 2013 là 14,89 tỷ đô la, tăng 12 phần trăm so với quý trước. Dịch vụ tìm kiếm của Google đóng góp 10,8 tỷ đô la trong tổng doanh thu này với sự gia tăng số lần nhấp chuột của người dùng vào quảng cáo.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Theo báo cáo Thương hiệu toàn cầu tốt nhất hàng năm của Interbrand, Google là thương hiệu có giá trị thứ hai trên thế giới (sau Apple Inc.) vào năm 2013, 2014, 2015 và 2016, với mức định giá 133 tỷ đô la. Vào tháng 9 năm 2015, giám đốc kỹ thuật của Google Rachel Potvin đã tiết lộ chi tiết về mã phần mềm của Google tại một hội nghị kỹ thuật. Cô tiết lộ rằng toàn bộ cơ sở mã của Google, bao gồm mọi dịch vụ mà nó phát triển, bao gồm hơn 2 tỷ dòng mã. Tất cả mã đó được lưu trữ trong kho lưu trữ mã có sẵn cho tất cả 25.000 kỹ sư của Google và mã này được sao chép và cập nhật thường xuyên trên 10 trung tâm dữ liệu của Google. Để giữ quyền kiểm soát, Potvin cho biết Google đã xây dựng "hệ thống phiên bản kiểm soát" của riêng mình, được gọi là "Piper". "Các kỹ sư có thể thực hiện một thay đổi mã duy nhất và triển khai nó trên tất cả các dịch vụ cùng một lúc. Các ngoại lệ chính duy nhất là thuật toán kết quả tìm kiếm PageRank được lưu trữ riêng biệt chỉ với quyền truy cập của nhân viên cụ thể và mã cho hệ điều hành Android và trình duyệt Google Chrome cũng được lưu trữ riêng vì chúng không chạy trên Internet. Hệ thống "Piper" gồm 85 TB dữ liệu. Các kỹ sư của Google thực hiện 25.000 thay đổi cho mã mỗi ngày và trên cơ sở hàng tuần thay đổi khoảng 15 triệu dòng mã trên 250.000 tệp. Với nhiều mã đó, các bot tự động phải trợ giúp. Potvin báo cáo: "Bạn cần nỗ lực phối hợp để duy trì thay đổi mã. Và đây không thể chỉ con người duy trì chúng, mà phải có thêm cả robot trợ giúp." Bot không viết mã, nhưng tạo ra nhiều tệp dữ liệu và cấu hình cần thiết để chạy phần mềm của công ty. "Không chỉ kích thước của kho lưu trữ ngày càng tăng," Potvin giải thích, "mà tốc độ thay đổi cũng đang tăng lên. Đây là một kiểu theo cấp số nhân." Tính đến tháng 10 năm 2016, Google vận hành 70 văn phòng tại hơn 40 quốc gia. Alexa, một công ty giám sát lưu lượng truy cập web thương mại, liệt kê Google.com là trang web được truy cập nhiều nhất trên thế giới. Một số dịch vụ khác của Google cũng nằm trong top 100 trang web được truy cập nhiều nhất, bao gồm YouTube và Blogger. Mua lại và hợp tác. 2000-2009. Năm 2001, Google mua lại Deja News, nhà điều hành một kho lưu trữ lớn các tài liệu từ Usenet.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Google đổi thương hiệu cho kho lưu trữ là Google Groups. Vào tháng 4 năm 2003, Google đã mua lại Applied Semantics, một công ty chuyên sản xuất các ứng dụng phần mềm cho không gian quảng cáo trực tuyến. Công nghệ quảng cáo theo ngữ cảnh AdSense được phát triển bởi Applied Semantics đã được áp dụng vào các nỗ lực quảng cáo của Google. Năm 2004, Google mua lại Keyhole, Inc. Sản phẩm cùng tên của Keyhole sau đó được đổi tên thành Google Earth. Vào tháng 4 năm 2005, Google đã mua lại Urchin Software, sử dụng sản phẩm Urchin theo yêu cầu của họ (cùng với các ý tưởng từ Bản đồ đo lường) để tạo Google Analytics vào năm 2006. Vào tháng 10 năm 2006, Google đã thông báo rằng họ đã mua trang web chia sẻ video YouTube với giá 1,65 tỷ đô la cổ phiếu Google và thỏa thuận đã được hoàn tất vào ngày 13 tháng 11 năm 2006. Vào ngày 13 tháng 4 năm 2007, Google đã đạt được thỏa thuận mua DoubleClick với giá 3,1 tỷ đô la, chuyển sang các mối quan hệ có giá trị của Google mà DoubleClick có với các nhà xuất bản và đại lý quảng cáo trên Web. Thỏa thuận đã được phê duyệt mặc dù những lo ngại được đưa ra bởi các đối thủ Microsoft và AT&T. Ngoài nhiều công ty Google đã mua, công ty đã hợp tác với các tổ chức khác để nghiên cứu, quảng cáo và các hoạt động khác. Năm 2005, Google hợp tác với Trung tâm nghiên cứu Ames NASA để xây dựng văn phòng 93.000 m². Năm 2005, Google hợp tác với AOL để tăng cường các dịch vụ tìm kiếm video của nhau. Năm 2006, Google và Fox Interactive Media of News Corporation đã ký một thỏa thuận trị giá 900 triệu đô la để cung cấp tìm kiếm và quảng cáo trên trang mạng xã hội nổi tiếng lúc bấy giờ MySpace. Năm 2007, Google bắt đầu tài trợ cho NORAD Tracks Santa, thay thế nhà tài trợ cũ AOL. NORAD theo dõi tiến trình của ông già Noel vào đêm Giáng sinh, sử dụng Google Earth để "theo dõi ông già Noel" định dạng 3D lần đầu tiên. Năm 2008, Google đã phát triển quan hệ đối tác với GeoEye để phóng một vệ tinh cung cấp cho Google hình ảnh độ phân giải cao (0,41 m, màu 1,65 m) cho Google Earth. Vệ tinh được phóng từ căn cứ không quân Vandenberg vào ngày 6 tháng 9 năm 2008. Google cũng đã thông báo vào năm 2008 rằng họ đang lưu trữ các bức ảnh của tạp chí Life. 2010-Hiện tại. Năm 2010, Google Energy đã đầu tư lần đầu tiên vào một dự án năng lượng tái tạo, đưa 38,8 triệu đô la vào hai trang trại gió ở Bắc Dakota.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Công ty tuyên bố hai địa điểm sẽ tạo ra 169,5 megawatt điện, đủ để cung cấp cho 55.000 ngôi nhà. Các trang trại được phát triển bởi NextEra Energy Resources, sẽ giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong khu vực và mang lại lợi nhuận. NextEra Energy Resources đã bán cho Google một phần hai mươi phần trăm trong dự án để lấy tiền tài trợ cho sự phát triển của nó. Vào tháng 2 năm 2010, Ủy ban Điều tiết Năng lượng Liên bang (FERC) đã cấp cho Google quyền mua và bán năng lượng theo giá thị trường. Đơn đặt hàng nói rõ rằng Google Energy, một công ty con của Google, giữ quyền "bán năng lượng, năng lực và các dịch vụ phụ trợ theo giá dựa trên thị trường", nhưng thừa nhận rằng cả Google Energy và các chi nhánh của Google "không sở hữu hoặc kiểm soát bất kỳ thứ gì hoặc cơ sở truyền tải." Tập đoàn đã thực hiện ủy quyền này vào tháng 9 năm 2013 khi tuyên bố sẽ mua tất cả điện được sản xuất bởi trang trại gió Happy Hereford 240-megawatt chưa được xây dựng. Cũng trong năm 2010, Google đã mua Global IP Solutions, một công ty có trụ sở ở Na Uy cung cấp hội nghị truyền hình dựa trên web và các dịch vụ liên quan khác. Việc mua lại này cho phép Google thêm các dịch vụ kiểu điện thoại vào danh sách các sản phẩm của mình. Vào ngày 27 tháng 5 năm 2010, Google tuyên bố họ cũng đã ngừng việc mua lại mạng quảng cáo di động AdMob. Điều này xảy ra vài ngày sau khi Ủy ban Thương mại Liên bang ngừng cuộc điều tra về việc mua bán. Google mua lại công ty với số tiền không được tiết lộ. Vào tháng 7 năm 2010, Google đã ký một thỏa thuận với một trang trại gió ở Iowa để mua 114 megawatt năng lượng trong 20 năm. Vào ngày 4 tháng 4 năm 2011, "The Globe and Mail" đã báo cáo rằng Google đặt giá 900 triệu đô la cho 6000 bằng sáng chế của Nortel Networks. Vào ngày 15 tháng 8 năm 2011, Google đã thực hiện vụ mua lại lớn nhất từ ​​trước đến nay khi tuyên bố sẽ mua Motorola Mobility với giá 12,5 tỷ USD phải được sự chấp thuận của các nhà quản lý tại Hoa Kỳ và Châu Âu. Trong một bài đăng trên blog của Google, Giám đốc điều hành của Google và đồng sáng lập Larry Page đã tiết lộ rằng việc mua lại là một động thái chiến lược nhằm củng cố danh mục bằng sáng chế của Google.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Hệ điều hành Android của công ty đã bị lên án trong cuộc chiến bằng sáng chế toàn ngành, vì Apple và Microsoft đã kiện các nhà sản xuất thiết bị Android như HTC, Samsung và Motorola. Việc sáp nhập được hoàn thành vào ngày 22 tháng 5 năm 2012, sau khi được Trung Quốc chấp thuận. Việc mua này được thực hiện một phần để giúp Google có được danh mục bằng sáng chế đáng kể của Motorola trên điện thoại di động và công nghệ không dây, để giúp bảo vệ Google trong các tranh chấp bằng sáng chế đang diễn ra với các công ty khác, chủ yếu là Apple và Microsoft và cho phép nó tiếp tục tự do cung cấp Android. Sau khi việc mua lại kết thúc, Google bắt đầu tái cấu trúc doanh nghiệp Motorola để phù hợp với chiến lược của Google. Vào ngày 13 tháng 8 năm 2012, Google đã công bố kế hoạch sa thải 4000 nhân viên Motorola Mobility. Vào ngày 10 tháng 12 năm 2012, Google đã bán các hoạt động sản xuất của Motorola Mobility cho Flextronics với giá 75 triệu đô la. Là một phần của thỏa thuận, Flextronics sẽ sản xuất Android không được tiết lộ và các thiết bị di động khác. Vào ngày 19 tháng 12 năm 2012, Google đã bán bộ phận kinh doanh Motorola Home của Motorola Mobility cho Tập đoàn Arris với giá 2,35 tỷ đô la theo một giao dịch tiền mặt và cổ phiếu. Là một phần của thỏa thuận này, Google đã mua 15,7% cổ phần của Arris Group trị giá 300 triệu đô la. Vào tháng 6 năm 2013, Google đã mua lại Waze, một hợp đồng trị giá 966 triệu đô la. Mặc dù Waze sẽ vẫn là một thực thể độc lập, các tính năng xã hội của nó chẳng hạn như nền tảng vị trí được cộng đồng hóa của nó, được cho là tích hợp giữa Waze và Google Maps, dịch vụ lập bản đồ riêng của Google. Vào ngày 26 tháng 1 năm 2014, Google tuyên bố đã đồng ý mua DeepMind Technologies, một công ty trí tuệ nhân tạo tư nhân từ London. DeepMind có khả năng kết hợp các kỹ thuật tốt nhất từ ​​học máy và hệ thống khoa học thần kinh để xây dựng các thuật toán học tập đa năng. Các ứng dụng thương mại đầu tiên của DeepMind đã được sử dụng trong mô phỏng, thương mại điện tử và trò chơi. Tính đến tháng 12 năm 2013, có thông tin rằng DeepMind có khoảng 75 nhân viên. Trang web tin tức công nghệ "Recode" báo cáo rằng công ty đã được mua với giá 400 triệu đô la mặc dù nó không được tiết lộ thông tin đến từ đâu. Một phát ngôn viên của Google sẽ không bình luận về giá cả.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Việc mua các thiết bị hỗ trợ DeepMind nhằm phát triển gần đây của Google trong cộng đồng người máy và trí tuệ nhân tạo. Vào ngày 29 tháng 1 năm 2014, Google đã thông báo rằng họ sẽ thoái vốn Motorola Mobility cho Lenovo với giá 2,91 tỷ đô la, một phần nhỏ so với mức giá 12,5 tỷ đô la ban đầu mà Google phải trả để mua lại công ty. Google giữ lại tất cả trừ 2000 bằng sáng chế của Motorola và tham gia vào các thỏa thuận cấp phép chéo. Vào ngày 21 tháng 9 năm 2017, HTC đã công bố một "thỏa thuận hợp tác" trong đó họ sẽ bán quyền không độc quyền đối với một số tài sản trí tuệ cũng như điện thoại thông minh cho Google với giá 1,1 tỷ USD. Vào ngày 6 tháng 12 năm 2017, Google đã đầu tư đầu tiên vào Ấn Độ và chọn một cổ phần thiểu số đáng kể trong dịch vụ trợ giúp và giao hàng Dunzo. Công ty khởi nghiệp có trụ sở tại Benguluru đã nhận được khoản đầu tư 12 triệu đô la vào vòng cấp vốn B của Google. Vào ngày 29 tháng 3 năm 2018, Google đã dẫn đầu một vòng cấp vốn C vào khởi nghiệp thương mại điện tử thời trang trực tuyến và ngoại tuyến Fynd. Đây là khoản đầu tư trực tiếp thứ hai vào Ấn Độ với số tiền không được tiết lộ. Theo cách này, Google cũng đang tìm cách xây dựng một hệ sinh thái ở Ấn Độ thông qua các giao dịch siêu cục bộ tần số cao cũng như trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, dịch vụ tài chính và giáo dục. Vào ngày 23 tháng 8 năm 2018, Google đã xóa 39 tài khoản YouTube, 13 tài khoản Google+ và 6 blog trên Blogger do họ tham gia vào hoạt động lừa đảo có động cơ chính trị, các tài khoản bị xóa được phát hiện gắn liền với Cộng hòa Hồi giáo Iran (IRIB). Trung tâm dữ liệu Google. Các trung tâm dữ liệu của Google được đặt tại Bắc và Nam Mỹ, Châu Á, Châu Âu. Theo truyền thống, Google dựa vào tính toán song song trên phần cứng hàng hóa như máy tính x86 chính thống tương tự như máy tính gia đình để giữ chi phí cho mỗi truy vấn thấp. Năm 2005, nó bắt đầu phát triển các thiết kế của riêng mình, việc đó chỉ được tiết lộ vào năm 2009. Vào tháng 10 năm 2013, "The Washington Post" đã báo cáo rằng Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ đã chặn các liên lạc giữa các trung tâm dữ liệu của Google như một phần của chương trình có tên MUSCULAR.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Việc nghe lén này đã được thực hiện do Google không mã hóa dữ liệu được truyền trong mạng riêng của họ. Google bắt đầu mã hóa dữ liệu được gửi giữa các trung tâm dữ liệu vào năm 2013. Trung tâm dữ liệu hiệu quả nhất của Google hoạt động ở 35 °C chỉ sử dụng hệ thống làm mát không khí trong lành, không yêu cầu điều hòa không khí chạy bằng điện; các máy chủ chạy nóng đến mức con người không thể đến gần chúng trong thời gian dài. Một báo cáo tháng 8 năm 2011 ước tính rằng Google có khoảng 900.000 máy chủ trong trung tâm dữ liệu của họ, dựa trên việc sử dụng năng lượng. Báo cáo nêu rõ rằng "Google không bao giờ nói có bao nhiêu máy chủ đang chạy trong trung tâm dữ liệu của mình." Vào tháng 12 năm 2016, Google đã thông báo rằng, bắt đầu từ năm 2017, Google sẽ cung cấp năng lượng cho tất cả các trung tâm dữ liệu của mình, cũng như tất cả các văn phòng của mình từ 100% năng lượng tái tạo. Cam kết này sẽ khiến Google trở thành "công ty mua năng lượng tái tạo lớn nhất thế giới với các cam kết đạt 2,6 gigawatt (2.600 megawatt) năng lượng gió và mặt trời". Google cũng tuyên bố rằng họ không coi đó là mục tiêu cuối cùng của mình; nó nói rằng "vì gió không thổi 24 giờ một ngày, nên chúng tôi cũng sẽ mở rộng mua hàng của mình sang nhiều nguồn năng lượng khác nhau có thể cho phép mỗi giờ mỗi ngày". Ngoài ra, dự án sẽ "giúp hỗ trợ cộng đồng" trên toàn thế giới, vì các cam kết mua sẽ "dẫn đến đầu tư cơ sở hạ tầng hơn 3,5 tỷ đô la trên toàn cầu" và sẽ "tạo ra doanh thu hàng chục triệu đô la mỗi năm cho chủ sở hữu địa phương và hàng chục triệu nữa cho chính quyền địa phương và quốc gia về doanh thu thuế ". Alphabet. Vào ngày 10 tháng 8 năm 2015, Google trở thành công ty con hàng đầu của Alphabet vì lợi ích Internet của Alphabet. Sau khi hoàn thành tái cấu trúc, Sundar Pichai trở thành CEO của Google, thay thế Larry Page, người trở thành CEO của Alphabet. Vào ngày 1 tháng 9 năm 2017, Google Inc. đã công bố kế hoạch tái cấu trúc của mình như một công ty trách nhiệm hữu hạn, Google LLC, với tư cách là một công ty con thuộc sở hữu của XXVI Holdings Inc., được thành lập như một công ty con của Alphabet Inc. các công ty con khác, bao gồm Google LLC và các công ty khác. Phát hành cổ phiếu lần đầu.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Phát hành cổ phiếu lần đầu. Vào tháng 1 năm 2004, Google tuyên bố đã thuê công ty Morgan Stanley và Goldman Sachs Group để tổ chức phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng. Google chọn cách bán cổ phiếu bằng đấu giá, một điều hiếm có từ đó tới giờ. Từ khi ra thị trường, giá Google đã lên đến gần $200 mỗi cổ phiếu từ $85 lúc đầu. Tính đến đầu năm 2018 cổ phiếu Google chạm ngưỡng 1.160 USD đẩy giá trị công ty lên 804 tỷ USD và là công ty lớn thứ 2 sau Apple trên thế giới. Sự phát triển. Khi thị trường ban đầu của công ty là trên thị trường web, Google đã bắt đầu thử nghiệm ở một số thị trường khác, ví dụ như Phát thanh hoặc Xuất bản. Ngày 17 tháng 1 năm 2006, Google công bố rằng công ty đã mua lại công ty quảng cáo phát thanh dMarc, công ty đã sử dụng một hệ thống tự động, cho phép các công ty quảng cáo trên radio. Điều này sẽ giúp Google kết hợp 2 kênh quảng cáo truyền thông là Internet và Radio, với khả năng của Google, nhắm thẳng vào tâm lý khách hàng. Google cũng bắt đầu thử nghiệm bán quảng cáo trên các kênh quảng cáo offline của công ty, như trên báo và tạp chí, với các quảng cáo được lựa chon trên Chicago-Sun Times. Họ đã lấp được một chỗ trống không bán được trên tờ báo mà trước đấy thường được dùng vào việc quảng cáo nhà. Google được đưa vào danh sách 500 S&P index ngày 30 tháng 3 năm 2006, chiếm vị trí của Burlington Resources, một nhà sản xuất dầu chính ở Houston.Đến năm 2016 Google có 6 sản phẩm đạt trên 1 tỷ người sử dụng là Search,Chrome,Youtube,Play Store,Maps,Gmail,hệ điều hành Android. Các thương vụ mua bán và sự cộng tác. Các thương vụ mua bán. Từ năm 2001, Google đã mua được nhiều công ty nhỏ mới thành lập, thường là công ty có nhiều sản phẩm và đội ngũ nhân viên tốt. Một trong những công ty mà Google mua lại sớm nhất là Pyra Labs. Họ chính là những người sáng tạo ra Blogger, một nền tảng của việc xuất bản weblog, giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1999. Pyra Labs ban đầu được lập ra bởi Evan Williams, khi anh này rời Google vào năm 2004. Đầu năm 2006, Google mua lại Upstartle, một công ty chịu trách nhiệm xử lý từ ngữ trên mạng, Writely. Công nghệ của sản phẩm này rốt cuộc đã được Google sử dụng để tạo ra Google Docs & Spreadsheets. Tháng 2 năm 2006, công ty phần mềm Adaptive Path bán Measure Map, một ứng dụng thống kê weblog cho Google.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Cuối năm 2006, Google mua lại trang web chia sẻ video trực tuyến YouTube với giá 1,65 tỷ USD bằng cổ phần. Không lâu sau, 31 tháng 10 năm 2006, Google công bố họ đã mua lại Jotspot, một nhà phát triển của công nghệ wiki cho các website cộng đồng. Ngày 13 tháng 4 năm 2007, Google đạt được thỏa thuận mua lại DoubleClick. Google đã đồng ý mua lại công ty này với giá 3,2 tỷ USD. Ngày 15 tháng 8 năm 2011, Google tuyên bố sẽ mua Motorola Mobility với giá 12,5 tỷ USD. Sự cộng tác. Năm 2005, Google gia nhập hiệp hội với các công ty và tổ chức chính phủ khác để phát triển phần mềm và dịch vụ. Google công bố mối cộng tác với NASA Ames Reseach Center, xây dựng đến 1 triệu phòng chuyên trách và làm việc trong đề án nghiên cứu bao gồm Quản lý dữ liệu trên diện rộng, công nghệ nano, sắp xếp công việc sử dụng máy tính… Google cũng tham gia cộng tác với Sun Microsystem để chia sẻ và phân loại các công nghệ của nhau. Công ty cũng tham gia cộng tác với American Online của Time Warner để cải tiến dịch vụ video trực tuyến. Năm 2007, Google và New Corp.’s Fox Interactive Media tham gia vào bản hợp đồng trị giá 900 triệu USD để phục vụ tìm kiếm vào quảng cáo trên trang mạng xã hội nổi tiếng, Myspace. Ngày 22 tháng 3 năm 2010, Google rời khỏi thị trường khổng lồ Trung Quốc (tuy nhiên, các dịch vụ bản đồ trực tuyến và âm nhạc vẫn tiếp tục hoạt động). Google đóng cửa website google.cn, và thay vào đó chuyển tới trang google.com.hk để tránh bị kiểm duyệt nội dung. Nguyên nhân chính được cho là vì bất đồng quan điểm với chính quyền Trung Quốc. Ngày 30 tháng 3 năm 2010, mọi cách tìm kiếm bằng google (không chỉ google.cn mà còn các ngôn ngữ khác như google.co.jp. Google.com.au..), bao gồm cả Google Mobile, đều bị chặn ở Trung Quốc. Hai dịch vụ như Google Mail và Google Maps không bị ảnh hưởng. Lệnh cấm được dỡ bỏ vào ngày hôm sau. http://www.google.com/prc/report.html Sản phẩm và dịch vụ. Google hiện nay đã phát triển nhiều dịch vụ và công cụ cho cộng đồng chung cũng như trong lĩnh vực kinh doanh, bao gồm các ứng dụng Web, mạng lưới quảng cáo và giải pháp kinh doanh. Quảng cáo. Theo báo cáo thường niên năm 2017, Google tạo ra phần lớn doanh thu từ quảng cáo.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Điều này bao gồm bán ứng dụng, mua hàng được thực hiện trong ứng dụng, các sản phẩm nội dung số trên google và YouTube, android và phí cấp phép và dịch vụ, bao gồm các khoản phí nhận được cho các dịch vụ của Google Cloud. 46% trong số này là từ số lần nhấp (chi phí mỗi lần nhấp), lên tới 109,652 triệu đô la Mỹ trong năm 2017. Điều này bao gồm ba phương thức chính là AdMob, AdSense (như AdSense cho nội dung, AdSense cho tìm kiếm, v.v.) và DoubleClick AdExchange. Trong năm tài chính 2006, công ty đã báo cáo 10,492 tỷ đô la trong tổng doanh thu quảng cáo và chỉ 112 triệu đô la trong giấy phép và các khoản thu khác. Năm 2011, 96% doanh thu của Google được lấy từ các chương trình quảng cáo. Ngoài các thuật toán riêng để hiểu các yêu cầu tìm kiếm, Google sử dụng công nghệ từ công ty DoubleClick, để chiếu quảng cáo cho người dùng và nhắm mục tiêu quảng cáo đến bối cảnh tìm kiếm và lịch sử người dùng. Năm 2007, Google ra mắt "AdSense cho thiết bị di động", tận dụng thị trường quảng cáo di động mới nổi. Google Analytics cho phép chủ sở hữu trang web theo dõi vị trí và cách mọi người sử dụng trang web của họ, ví dụ: bằng cách kiểm tra tỷ lệ nhấp cho tất cả các liên kết trên một trang. Quảng cáo Google có thể được đặt trên các trang web của bên thứ ba trong một chương trình gồm hai phần. AdWords của Google cho phép các nhà quảng cáo hiển thị quảng cáo của họ trong mạng nội dung Google, thông qua sơ đồ chi phí mỗi lần nhấp. Dịch vụ chị em, Google AdSense, cho phép chủ sở hữu trang web hiển thị các quảng cáo này trên trang web của họ và kiếm tiền mỗi khi quảng cáo được nhấp. Một trong những lời chỉ trích của chương trình này là khả năng gian lận nhấp chuột, xảy ra khi một người hoặc tập lệnh tự động nhấp vào quảng cáo mà không quan tâm đến sản phẩm, khiến nhà quảng cáo phải trả tiền cho Google quá mức. Báo cáo ngành năm 2006 tuyên bố rằng khoảng 14 đến 20 phần trăm số lần nhấp là gian lận hoặc không hợp lệ. Vào tháng 2 năm 2003, Google đã ngừng hiển thị các quảng cáo của Oceana, một tổ chức phi lợi nhuận phản đối các hoạt động xử lý nước thải của một tàu du lịch lớn. Google đã trích dẫn chính sách biên tập của mình vào thời điểm đó, nói rằng "Google không chấp nhận quảng cáo nếu quảng cáo hoặc trang web ủng hộ các cá nhân, nhóm hoặc tổ chức khác."
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Vào tháng 6 năm 2008, Google đã đạt được thỏa thuận quảng cáo với Yahoo!, Điều đó sẽ đã cho phép Yahoo! làm nổi bật các quảng cáo của Google trên các trang web của nó. Liên minh giữa hai công ty chưa bao giờ được thực hiện hoàn toàn vì những lo ngại chống độc quyền của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ. Do đó, Google đã rút khỏi thỏa thuận vào tháng 11 năm 2008. Vào tháng 7 năm 2016, Google đã bắt đầu từ chối tất cả các quảng cáo dựa trên flash bằng cách thay thế chúng bằng HTML5. Kế hoạch của Google là bắt đầu sử dụng "100% HTML5" bắt đầu vào ngày 2 tháng 1 năm 2017. Công cụ tìm kiếm. Theo nghiên cứu thị trường của comScore từ tháng 11 năm 2009, Google Search là công cụ tìm kiếm thống trị tại thị trường Hoa Kỳ, với thị phần là 65,6%. Google lập danh sách hàng tỷ trang web để cho phép người dùng tìm kiếm thông tin họ muốn thông qua việc sử dụng từ khóa và nhà khai thác. Vào năm 2003, Thời báo New York đã phàn nàn về việc lập danh sách của Google, cho rằng bộ nhớ đệm nội dung của Google trên trang web của họ đã vi phạm bản quyền của nội dung đó. Trong cả hai trường hợp về "Field v. Google" và "Parker v. Google", Tòa án quận Nevada của Hoa Kỳ phán quyết có lợi cho Google. Ấn phẩm "2600: Hacker Quarterly" đã biên soạn một danh sách các từ mà tính năng tìm kiếm tức thời mới của google sẽ không tìm kiếm. Google cũng lưu trữ Google Books. Công ty bắt đầu quét sách và tải lên các bản xem trước hạn chế và bản sách đầy đủ được cấp phép vào công cụ tìm kiếm sách mới của mình. Hội tác giả, một nhóm đại diện cho 8.000 tác giả Hoa Kỳ, đã đệ đơn kiện tập thể tại tòa án liên bang thành phố New York chống lại Google năm 2005 về dịch vụ này. Google trả lời rằng nó tuân thủ tất cả các ứng dụng hiện có và lịch sử của luật bản quyền liên quan đến sách. Cuối cùng Google đã đạt được một thỏa thuận sửa đổi vào năm 2009 để giới hạn các lần quét của nó đối với sách từ Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Úc và Canada. Hơn nữa, Tòa án Dân sự Paris đã ra phán quyết chống lại Google vào cuối năm 2009, yêu cầu họ loại bỏ các tác phẩm của La Martinière (Éditions du Seuil) khỏi cơ sở dữ liệu của nó. Cạnh tranh với Amazon.com, Google bán phiên bản kỹ thuật số với các bản sách mới.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Vào ngày 21 tháng 7 năm 2010, để đáp lại Bing, Google đã cập nhật tìm kiếm hình ảnh của mình để hiển thị một chuỗi các hình thu nhỏ được phóng to khi nhấp vào. Mặc dù các tìm kiếm trên web vẫn xuất hiện theo lô trên mỗi định dạng trang, vào ngày 23 tháng 7 năm 2010, các định nghĩa từ điển cho các từ tiếng Anh nhất định bắt đầu xuất hiện phía trên các kết quả được liên kết cho các tìm kiếm trên web. Bản cập nhật "Hummingbird" cho công cụ tìm kiếm Google đã được công bố vào tháng 9 năm 2013. Bản cập nhật được giới thiệu hơn một tháng trước khi thông báo và cho phép người dùng hỏi công cụ tìm kiếm một câu hỏi bằng ngôn ngữ tự nhiên thay vì nhập từ khóa vào hộp tìm kiếm. Vào tháng 8 năm 2016, Google đã công bố hai thay đổi lớn đối với kết quả tìm kiếm di động của mình. Thay đổi đầu tiên loại bỏ nhãn "thân thiện với thiết bị di động" làm nổi bật các trang dễ đọc khỏi trang kết quả tìm kiếm di động. Đối với thay đổi thứ hai, bắt đầu từ ngày 10 tháng 1 năm 2017, sẽ trừng phạt các trang di động hiển thị quảng cáo xen kẽ xâm nhập khi người dùng lần đầu mở trang. Những trang như vậy cũng sẽ xếp hạng thấp hơn trong kết quả tìm kiếm của Google. Vào tháng 5 năm 2017, Google đã kích hoạt tab "Cá nhân" (Personal) mới trong Tìm kiếm của Google, cho phép người dùng tìm kiếm nội dung trong các dịch vụ khác nhau của tài khoản Google, bao gồm cả email từ Gmail và ảnh từ Google Photos. Dịch vụ doanh nghiệp. G Suite là dịch vụ đăng ký hàng tháng cho các tổ chức và doanh nghiệp để có quyền truy cập vào bộ sưu tập các dịch vụ của Google, bao gồm Gmail, Google Drive và Google Docs, Google Sheets và Google Slides, với các công cụ quản trị bổ sung, tên miền duy nhất và hỗ trợ 24/7. Google Search Appliance (Công cụ Tìm kiếm Google) được ra mắt vào tháng 2 năm 2002, nhằm mục đích cung cấp công nghệ tìm kiếm cho các tổ chức lớn hơn. Google ra mắt Mini ba năm sau đó để nhắm mục tiêu vào các tổ chức nhỏ hơn. Cuối năm 2006, Google bắt đầu bán Custom Search Business Edition (Phiên bản doanh nghiệp tìm kiếm tùy chỉnh), cung cấp cho khách hàng một cửa sổ không có quảng cáo vào chỉ mục của Google.com. Dịch vụ được đổi tên thành Google Site Search (Tìm kiếm trang web của Google) vào năm 2008.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Khách hàng của Google Site Search đã được thông báo qua email vào cuối tháng 3 năm 2017 rằng không có giấy phép mới nào cho Google Site Search sẽ được bán sau ngày 1 tháng 4 năm 2017, nhưng hỗ trợ khách hàng và kỹ thuật sẽ được cung cấp trong suốt thời gian thỏa thuận cấp phép hiện tại. Vào ngày 15 tháng 3 năm 2016, Google đã công bố giới thiệu Google Analytics 360 Suite, "một bộ sản phẩm phân tích tiếp thị và dữ liệu tích hợp, được thiết kế dành riêng cho nhu cầu của các nhà tiếp thị cấp doanh nghiệp" có thể được tích hợp với BigQuery trên Google Cloud Platform (Nền tảng đám mây của Google). Trong số những thứ khác, bộ phần mềm được thiết kế để giúp "các nhà tiếp thị cấp doanh nghiệp" "nhìn thấy hành trình khách hàng hoàn chỉnh", tạo ra "những hiểu biết hữu ích" và "mang lại trải nghiệm hấp dẫn". Jack Marshall của "The Wall Street Journal" đã viết rằng bộ sản phẩm này cạnh tranh với các dịch vụ đám mây tiếp thị hiện có của các công ty bao gồm Adobe, Oracle, Salesforce và IBM. Vườn ươm doanh nghiệp. Vào ngày 24 tháng 9 năm 2012, Google đã ra mắt Google for Entrepreneurs (Google dành cho Doanh nhân), một cơ sở ươm tạo doanh nghiệp phi lợi nhuận, cung cấp cho các công ty khởi nghiệp những không gian làm việc chung gọi là Campuses, với sự hỗ trợ cho các nhà sáng lập khởi nghiệp bao gồm hội thảo, hội nghị và cố vấn. Hiện tại, có 7 địa điểm tại Berlin, London, Madrid, Seoul, São Paulo, Tel Aviv và Warsaw. Dịch vụ tiêu dùng. Dịch vụ dựa trên web. Google cung cấp Gmail và Inbox biến thể mới hơn, cho email, Lịch Google để quản lý thời gian và lập lịch, Google Maps để lập và xem bản đồ, điều hướng và hình ảnh vệ tinh, Google Drive để lưu trữ tệp trên đám mây, Google Docs, Sheets và Slides cho năng suất, Google Ảnh để lưu trữ và chia sẻ ảnh, Google Keep để ghi chú, Google Dịch để dịch ngôn ngữ, YouTube để cho xem video và chia sẻ, Google My Business để quản lý thông tin doanh nghiệp công cộng, và Google+, Allo và Duo để tương tác xã hội. Phần mềm. Google phát triển hệ điều hành di động Android, cũng như đồng hồ thông minh, truyền hình, xe hơi và Internet Vạn Vật-kích hoạt thiết bị thông minh hỗ trợ mọi thứ. Nó cũng phát triển trình duyệt web Google Chrome và Chrome OS-một hệ điều hành dựa trên Chrome. Phần cứng. Vào tháng 1 năm 2010, Google chính thức phát hành Nexus One, điện thoại Android đầu tiên thuộc thương hiệu "Nexus" của riêng mình.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Nó đã sinh ra một số điện thoại và máy tính bảng dưới nhãn hiệu "Nexus" cho đến khi ngừng hoạt động vào năm 2016, thay thế bằng một thương hiệu mới có tên là Pixel. Vào năm 2011, Chromebook đã được ra mắt, được mô tả là "loại máy tính mới" chạy bằng hệ điều hành Chrome OS. Vào tháng 7 năm 2013, Google giới thiệu Chromecast, cho phép người dùng truyền nội dung từ điện thoại thông minh của mình sang TV. Vào tháng 6 năm 2014, Google đã công bố Google Cardboard, một trình xem các tông đơn giản cho phép người dùng đặt điện thoại thông minh của họ vào máy VR đặc biệt để xem phương tiện truyền thông thực tế ảo (VR). Vào tháng 4 năm 2016, Recode thông báo rằng Google đã thuê Rick Osterloh, cựu Chủ tịch của Motorola Mobility để đứng đầu bộ phận phần cứng mới của Google. Vào tháng 10 năm 2016, Osterloh tuyên bố rằng "rất nhiều sự đổi mới mà chúng tôi muốn thực hiện bây giờ kết thúc đòi hỏi phải kiểm soát trải nghiệm người dùng từ đầu đến cuối" và Google đã công bố một số nền tảng phần cứng: Dịch vụ Internet. Vào tháng 2 năm 2010, Google đã công bố dự án Google Fiber, với các kế hoạch thử nghiệm để xây dựng một mạng băng rộng tốc độ cực cao cho 50.000 đến 500.000 khách hàng tại một hoặc nhiều thành phố của Mỹ. Sau khi tái cấu trúc công ty của Google để biến công ty mẹ của Alphabet Inc., Google Fiber đã được chuyển sang bộ phận Truy cập của Alphabet. Vào tháng 4 năm 2015, Google đã công bố Project Fi, một nhà khai thác mạng ảo di động, kết hợp Wi-Fi và mạng di động từ các nhà cung cấp viễn thông khác nhau nhằm nỗ lực kết nối liền mạch và tín hiệu Internet nhanh chóng. Vào tháng 9 năm 2016, Google đã bắt đầu sáng kiến ​​Google Station, một dự án cho Wi-Fi công cộng tại các nhà ga ở Ấn Độ. Caesar Sengupta, VP cho hàng tỷ người dùng tiếp theo của Google, nói với The Verge rằng 15.000 người lần đầu tiên trực tuyến nhờ Google Station và 3,5 triệu người sử dụng dịch vụ này mỗi tháng. Việc mở rộng có nghĩa là Google đang tìm kiếm các đối tác trên khắp thế giới để phát triển hơn nữa sáng kiến, hứa hẹn "Wi-Fi chất lượng cao, an toàn, dễ truy cập". Đến tháng 12, Google Station đã được triển khai tại 100 ga đường sắt và vào tháng 2, Google tuyên bố ý định mở rộng ra ngoài các ga đường sắt với kế hoạch đưa Wi-Fi toàn thành phố đến Pune.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Kể từ tháng 10 năm 2018, Orange đã hợp tác với Google để tạo ra một tuyến cáp dưới biển xuyên Đại Tây Dương để chia sẻ dữ liệu giữa Hoa Kỳ và Pháp với tốc độ nhanh hơn. Dự định bắt đầu hoạt động vào năm 2020, cáp được dự định chuyển thông tin với tốc độ trên 30 terabits mỗi giây, mỗi cặp [sợi] cáp. Cáp sẽ kéo dài khoảng 6600 km. Sản phẩm khác. Google ra mắt dịch vụ Google News vào năm 2002, một dịch vụ tự động tóm tắt các bài báo từ các trang web khác nhau. Vào tháng 3 năm 2005, Agence France Presse (AFP) đã kiện Google vì vi phạm bản quyền tại tòa án liên bang ở quận Columbia, một vụ kiện mà Google đã giải quyết với số tiền không được tiết lộ trong một hiệp ước bao gồm giấy phép toàn văn các bài báo AFP để sử dụng cho Google Tin tức. Vào tháng 5 năm 2011, Google đã công bố Google Wallet, một ứng dụng di động cho thanh toán không dây. Vào năm 2013, Google đã ra mắt Google Shopping Express, một dịch vụ giao hàng ban đầu chỉ có ở San Francisco và Thung lũng Silicon. Google Alerts là dịch vụ phát hiện và thông báo thay đổi nội dung, được cung cấp bởi công ty công cụ tìm kiếm Google. Dịch vụ này sẽ gửi email cho người dùng khi tìm thấy kết quả mới, chẳng hạn như các trang web, bài báo hoặc blog, phù hợp với thuật ngữ tìm kiếm của người dùng. Vào tháng 7 năm 2015, Google đã phát hành DeepDream, một phần mềm nhận dạng hình ảnh có khả năng tạo ra hình ảnh ảo giác bằng cách sử dụng mạng thần kinh tích chập. Google đã giới thiệu dịch vụ Family Link vào tháng 3 năm 2017, cho phép cha mẹ mua thiết bị Android dựa trên Android Nougat cho trẻ em dưới 13 tuổi và tạo tài khoản Google thông qua ứng dụng, với cha mẹ kiểm soát các ứng dụng được cài đặt theo dõi thời gian sử dụng thiết bị và cài đặt tính năng "Giờ đi ngủ" để khóa thiết bị từ xa. Vào tháng 4 năm 2017, Google đã ra mắt AutoDraw, một công cụ dựa trên web sử dụng trí thông minh nhân tạo và máy học để nhận ra bản vẽ của người dùng và thay thế những nét vẽ nguệch ngoạc bằng hình ảnh có liên quan đã được tạo ra bởi các nghệ sĩ chuyên nghiệp.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Công cụ này được xây dựng bằng công nghệ tương tự QuickDraw, một trò chơi thử nghiệm từ Creative Lab của Google, nơi người dùng được giao nhiệm vụ vẽ các đối tượng mà thuật toán sẽ nhận ra trong vòng 20 giây. Vào tháng 5 năm 2017, Google đã thêm "Nhóm gia đình" vào một số dịch vụ của mình. Tính năng cho phép người dùng tạo một nhóm bao gồm các tài khoản Google cá nhân của gia đình họ, cho phép người dùng thêm "Nhóm gia đình" của họ làm cộng tác viên cho các album được chia sẻ trong Google Photos, ghi chú chung trong Google Keep và các sự kiện phổ biến trong Lịch Google. Theo thông báo, tính năng này được giới hạn ở Úc, Brazil, Canada, Pháp, Đức, Ireland, Ý, Nhật Bản, Mexico, New Zealand, Nga, Tây Ban Nha, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ. API. API Google là một bộ giao diện lập trình ứng dụng (API) do Google phát triển, cho phép giao tiếp với Google Services và sự tích hợp của chúng với các dịch vụ khác. Ví dụ về những điều này bao gồm Tìm kiếm, Gmail, Dịch hoặc Google Maps. Các ứng dụng của bên thứ ba có thể sử dụng các API này để tận dụng hoặc mở rộng chức năng của các dịch vụ hiện có. Các trang web khác. Google Developers là trang web của Google về các công cụ phát triển phần mềm, API và tài nguyên kỹ thuật. Trang web chứa tài liệu về việc sử dụng các công cụ dành cho nhà phát triển và API của Google, bao gồm các nhóm thảo luận và blog cho các nhà phát triển sử dụng các sản phẩm dành cho nhà phát triển của Google. Google Labs là một trang được tạo bởi Google để thể hiện và thử nghiệm các dự án mới. Google sở hữu tên miền cấp cao nhất 1e100.net, được sử dụng cho một số máy chủ trong mạng của Google. Tên này là một tham chiếu đến biểu diễn ký hiệu E khoa học cho 1 googol, 1E100 = 1 × 10100. Vào tháng 3 năm 2017, Google đã ra mắt một trang web mới, opensource.google.com, để xuất bản tài liệu nội bộ của mình cho các dự án Nguồn mở của Google. Vào tháng 6 năm 2017, Google đã ra mắt "We Wear Culture", một kho lưu trữ có thể tìm kiếm được 3.000 năm của thời trang toàn cầu. Kho lưu trữ là kết quả của sự hợp tác giữa Google và hơn 180 bảo tàng, trường học, viện thời trang và các tổ chức khác cũng cung cấp các triển lãm được quản lý về các chủ đề thời trang cụ thể và tác động của chúng đối với xã hội. Ứng dụng. Google nổi tiếng bởi dịch vụ Tìm kiếm của nó, nhân tố chính dẫn đến thành công của Google.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Vào tháng 12 năm 2006, Google là công cụ tìm kiếm được sử dụng nhiều nhất trên mạng chiếm 50,8% thị phần, vượt xa so với Yahoo (23,6 %) và Window Live Search (8,4%). Google liên kết với hàng tỷ trang web, vì thế người sử dụng có thể tìm kiếm thông tin mà họ muốn thông qua các từ khóa và các toán tử. Google cũng tận dụng công nghệ tìm kiếm của mình vào nhiều dịch vụ tìm kiếm khác, bao gồm Image Search (tìm kiếm ảnh), Google News, trang web so sánh giá cả Froogle, cộng đồng tương tác Google Groups, Google Maps và còn nhiều nữa. Năm 2004, Google ra mắt dịch vụ email trên nền web, gọi là Gmail. Gmail hỗ trợ công nghệ lọc thư rác và khả năng sử dụng Công nghệ tìm kiếm của Google để tìm kiếm thư. Dịch vụ này tạo ra thu nhập bằng cách hiển thị quảng cáo từ dịch vụ AdWords mà phù hợp với nội dung của email hiển thị trên màn hình Đầu năm 2006, Google ra mắt dịch vụ Google Video, dịch vụ không chỉ cho phép người dùng tìm kiếm và xem miễn phí các video có sẵn mà còn cho người sử dụng hay các nhà phát hành khả năng phát hành nội dung mà họ muốn, kể cả các chương trình truyền hình trên CBS, NBA và các video ca nhạc. Nhưng đến tháng 8 năm 2007, Google đã đóng cửa trang web này trước sự cạnh tranh của đối thủ Youtube cũng thuộc sở hữu của công ty Google cũng đã phát triển một số ứng dụng nhỏ gọn, bao gồm cả Google Earth, một chương trình tương tác sử dụng ảnh vệ tinh. Ngoài ra công ty còn phát triển nhiều gói phần mềm văn phòng trên ứng dụng web tên là Google Docs nhằm cạnh tranh thị phần với Microsoft Office. Nhiều ứng dụng khác nữa có tại Google Labs, một bộ sưu tập những phần mềm chưa hoàn chỉnh. Chúng đang được thử nghiệm để có thể đưa ra sử dụng trong cộng đồng. Google đã đẩy mạnh quảng bá sản phẩm của họ bằng nhiều cách khác nhau. Ở London, Google Space được cài đặt tại sân bay Healthrow, ra mắt nhiều sản phẩm mới, bao gồm Gmail, Google Earth và Picasa. Ngoài ra, một trang web tương tự cũng được ra mắt cho sinh viên Mỹ dưới cái tên College Life, Powered by Google. Vào ngày 2 tháng 9 năm 2008, Google đã thông báo sự xuất hiện của Google Chrome, một trình duyệt mã nguồn mở.
Google
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4089
Trình duyệt này được giới phân tích đánh giá sẽ là đối thủ cạnh tranh thị phần của Internet Explorer và Firefox.Cũng vào khoảng thời gian này Google Translate đã bổ sung thêm tiếng Việt trong dịch vụ dịch tự động của mình và tích hợp ngay trong công cụ tìm kiếm, giúp người sử dụng nhanh chóng hiểu được cơ bản nội dung trang web trình bày bằng tiếng nước ngoài. Ngày 5 tháng 1 năm 2010, Google cho ra mắt điện thoại Nexus One, sản phẩm cộng tác với hãng điện thoại HTC. Nexus One chạy trên nền hệ điều hành Android 2.1 (cũng do hãng phát triển), được cho là đối thủ cạnh tranh ngang hàng với iPhone của Apple. Sản phẩm phục vụ kinh doanh. Năm 2007, Google giới thiệu Google Apps Premium Edition, một phần mềm phù hợp cho việc kinh doanh, cung cấp dịch vụ email, tin nhắn, lịch…như một chương trình bảng tính. Sản phẩm này chủ yếu nhắm tới người sử dụng là doanh nhân, dùng để cạnh tranh trực tiếp với bộ phần mềm Microsoft Office, với giá chỉ 50USD một năm cho một người sử dụng, so với giá 500USD cho một người sử dụng của Microsoft Office. Google có một số lượng lớn người sử dụng Google App với 38.000 người ở Đại học Lakehead tại Thunder Bay, Ontario, Canada. Cũng vào năm 2007, Google đã mua lại công ty Postini và sẽ tiếp tục phát triển công nghệ mà họ mua được từ công ty này và đặt tên là Google Security Services. Chỉ trích. Google bị tổ chức Ân xá quốc tế chỉ trích là đã hỗ trợ chính phủ Việt Nam kiểm duyệt những chỉ trích và trấn áp tiếng nói của giới bất đồng chính kiến. Liên kết ngoài.
Yahoo!
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4093
Yahoo! Inc. là một tập đoàn đại chúng Hoa Kỳ, với một mạng lưới rộng lớn và một số dịch vụ khác, trong đó có Yahoo! Mail, Yahoo! Search và Yahoo! News. Yahoo! được sáng lập bởi hai sinh viên cao học tại trường Đại học Stanford là David Filo và Jerry Yang (楊致遠, "Dương Trí Viễn") vào tháng 1 năm 1994 và được thành lập vào ngày 2 tháng 3 năm 1995. Trụ sở công ty được đặt tại Sunnyvale, California. Theo Alexa Internet và Netcraft là hai công ty chuyên về thống kê lưu lượng Web, Yahoo! là website được nhiều người coi thứ hai hiện giờ (sau Google). Mạng lưới toàn cầu các website của Yahoo! có 3 tỷ lần xem hằng ngày (vào tháng 10 năm 2004, xem thống kê trên Alexa ). Năm 2002, Yahoo! mua công ty Inktomi. Năm 2003, Yahoo! mua lại công ty Overture - công ty đứng đằng sau AlltheWeb và AltaVista. Ngoài máy tính của mình, ban đầu Yahoo! còn sử dụng các kết quả lấy về từ Google để hiển thị trên trang chủ Yahoo.com mỗi khi người dùng yêu cầu. Đến năm 2004, Yahoo! tung ra máy tìm độc lập dựa trên sự kết hợp các công nghệ hãng có. Yahoo! là một trong 3 công cụ tìm kiếm phổ biến nhất cùng với Google và Bing Vào ngày 13 tháng 1 năm 2009, Yahoo! đã bổ nhiệm bà Carol Bartz, cựu giám đốc điều hành của Autodesk, làm Giám đốc điều hành mới và một trong những thành viên của Hội đồng quản trị. Sau khi bán mảng kinh doanh cổng thông tin của mình cho Verizon vào năm 2017, Yahoo Inc. đã đổi tên thành Altaba Inc. với tài sản chủ yếu là cổ phần tại tập đoàn Alibaba Group và Yahoo! Nhật Bản. Vào tháng 9 năm 2018, công ty đã bán cổ phần của mình trong Yahoo! Nhật Bản cho tập đoàn công nghệ Nhật Bản Softbank. Vào tháng 6 năm 2019, Altaba quyết định bán cổ phiếu của Alibaba và việc giải thể của chính công ty này, được hoàn tất vào ngày 21 tháng 1 năm 2020. Cổng thông tin điện tử Yahoo hiện nay là thành viên của nhóm công ty Verizon kể từ năm 2016, nơi nó trở thành một phần của Oath vào năm 2017 (từ năm 2019: Verizon Media). Vào tháng 5 năm 2021, công ty đầu tư Apollo Global Management của Verizon đã mua lại Yahoo và AOL. Lịch sử. Thành lập. Yahoo khởi đầu là "Jerry's Guide to the World Wide Web" (Cẩm nang của Jerry về mạng lưới), nhưng sau này được đổi tên. Tên Yahoo!
Yahoo!
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4093
Tên Yahoo! là một từ viết tắt cho "Yet Another Hierarchical Officious Oracle," nhưng Filo và Yang nhất định rằng họ chọn tên này vì họ thích nghĩa của từ "yahoo" trong từ điển (một giống thú mang hình người trong quyển "Những cuộc du hành của Gulliver" của Jonathan Swift). Đầu tiên Yahoo chỉ ở trong máy tính làm việc của Yang, trong khi phần mềm ở trong máy tính của Filo. Mở rộng. Yahoo được ra cổ phần vào ngày 12 tháng 4 năm 1996, bán được 2,6 triệu cổ phiếu loại mệnh giá 13$. Trong khi Yahoo ngày càng được phổ biến và phát triển, những dịch vụ của Yahoo! ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Có thể kể đến các dịch vụ như Yahoo! Mail, Yahoo! Messenger, Yahoo! Groups... Nhiều dịch vụ trước kia là công ty độc lập được Yahoo mua như GeoCities và eGroups. Yahoo! nay đã bắt đầu hợp tác với một số công ty viễn thông và dịch vụ Internet như BT tại Vương quốc Anh, Rogers Communications tại Canada và SBC Communications tại Hoa Kỳ - để tạo dịch vụ băng rộng có nhiều nội dung để cạnh tranh với dịch vụ của AOL. Công ty cũng cấp một thẻ tín dụng tên là "Yahoo! Visa" trong một hợp tác với First USA. Từ cuối năm 2002, Yahoo! đã âm thầm mua một số công ty có kỹ thuật tìm kiếm khác. Vào tháng 12 năm 2002, Yahoo! đã mua Inktomi, và vào tháng 7 năm 2003 mua Overture Services, Inc. (đồng thời AltaVista và Alltheweb, hai sở hữu của Overture). Vào ngày 18 tháng 2 năm 2004, Yahoo! ngừng sử dụng kết quả tìm kiếm từ Google và dùng kỹ thuật riêng để tìm kiếm. Từ ngày 15 tháng 6 năm 2005, Yahoo!Mail được bản địa hoá có thêm giao diện tiếng Việt trên trang http://mail.yahoo.com.vn. Giao diện tiếng Việt là một ứng dụng sử dụng hoàn toàn bằng Unicode, cho nên người nhận thư Yahoo! tiếng Việt có thể đọc thư một cách dễ dàng—một trường hợp không thể có với giao diện tiếng Anh. Đồng thời, bất cứ người nào có tài khoản Yahoo!Mail đều có thể dùng giao diện tiếng Việt bằng cách đến http://edit.yahoo.com/config/set_intl, và chọn "Yahoo! Vietnam" trong mục "New Setting". Tuy nhiên, giao diện tiếng Việt còn thiếu vài chức năng quan trọng của giao diện tiếng Anh. Sau khi bị Yahoo từ chối, vào ngày 1 tháng 2 năm 2008, Microsoft ngỏ lời mua Yahoo! với giá 44,6 tỷ đô la.
Yahoo!
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4093
với giá 44,6 tỷ đô la. Ngày 18 tháng 3 năm 2015, Yahoo tuyên bố đã thông báo đến nhân viên về việc cắt giảm nhân sự ở Trung Quốc. Verizon mua lại. Ngày 25 tháng 7 năm 2016, Yahoo đã bán mảng Internet cốt lõi cho Verizon Communications với giá 4,8 tỷ đô la. Tháng 6 năm 2017, thương vụ chính thức diễn ra. Toàn bộ các mảng chính của Yahoo bao gồm tìm kiếm, email và công cụ nhắn tin Yahoo Messenger được định giá 4,48 tỷ USD, thấp hơn mức giá 4,8 tỷ USD. Trước đó, thương vụ bán mình đã được Yahoo! thông báo từ năm 2016, nhưng bị trì hoãn do những bê bối mà công ty này gặp phải, trong đó có việc rò rỉ dữ liệu của hàng trăm triệu người dùng. Sau khi thỏa thuận với Verizon Communications hoàn tất, Yahoo sẽ đổi tên thành Altaba - một công ty với tài sản chủ yếu là cổ phần tại tập đoàn Alibaba Group và Yahoo! Nhật Bản. Yahoo cũng sẽ trở thành anh em với AOL(thuộc sở hữu của Verizon Communications) để tạo thành liên doanh từ đó thương thành hiệu Yahoo! chính thức bị khai tử, đổi tên công ty thành Altaba.. Bê bối. Tuồn email khách hàng cho tình báo Hoa Kỳ. Ngày 4 tháng 10 năm 2016, Reuters tiết lộ thông tin động trời dựa theo nguồn tin từ 3 nhân viên làm việc cho Yahoo. Năm ngoái Yahoo đã phát triển một phần mềm có thể sục sạo tất cả email của khách hàng nhằm cung cấp cho ngành tình báo Hoa Kỳ . Theo đó, Yahoo đã chấp hành những yêu cầu bí mật của chính phủ Hoa Kỳ để kiểm tra hàng trăm triệu thư điện tử Yahoo Mail của khách hàng theo yêu cầu của Cơ quan An Ninh Quốc gia Mỹ (NSA) và Cục Điều tra Liên bang (FBI) Đáp lại yêu cầu phản hồi của Reuters, phía Yahoo phát tuyên bố cho biết: “Yahoo là một công ty ràng buộc với luật pháp và tuân thủ luật pháp nước Mỹ”. Công ty này từ chối đưa ra thêm bất cứ bình luận nào. Dịch vụ Yahoo! Yahoo điều hành một cổng thông tin cung cấp tin tức, thể thao, giải trí mới nhất. Cổng thông tin này cũng cung cấp cho người dùng truy cập vào các dịch vụ Yahoo khác như Yahoo! Search, Yahoo Mail, Yahoo Maps, Yahoo Finance, Yahoo Groups và Yahoo Messenger. Giao tiếp. Yahoo Messenger, Yahoo Mail. My Web, Yahoo Personals, Yahoo 360°, Delicious, Flickr,Yahoo Buzz và MyBlogLog. Yahoo Photos, Flickr, Yahoo 360°, Yahoo Mash. Nội dung. Yahoo Sports, Yahoo Finance, Yahoo Music, Yahoo Movies, Yahoo Weather, Yahoo News, Yahoo! Answers, Yahoo Games, My Yahoo. Dịch vụ Internet đồng thương hiệu. Yahoo phát triển quan hệ đối tác với các nhà cung cấp băng thông rộng như AT&T Inc.
Yahoo!
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4093
(thông qua Prodigy, BellSouth & SBC), Verizon Communications, Rogers Communications, and British Telecom, cung cấp nhiều nội dung và dịch vụ miễn phí và cao cấp của Yahoo tới các thuê bao. Thương mại. Yahoo! Shopping, Yahoo Autos, Yahoo Real Estate, Yahoo Travel, Yahoo Auctions. Doanh nghiệp nhỏ. Yahoo DomainKeys, Yahoo Web Hosting, Yahoo Merchant Solutions, Yahoo Business Email và Yahoo Store. GeoPlanet. Yahoo cung cấp dịch vụ bản đồ và địa lý thông qua GeoPlanet.
Lịch sử Hoa Kỳ (1776–1789)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4095
Ngày 19 tháng 4 năm 1775, một nhóm binh lính trong quân đội Anh hành quân vào đất liền từ Boston, Massachusetts để tìm một kho trữ vũ khí và được lệnh bắt giữ một số người lãnh đạo địa phương. Tại Lexington, họ đụng độ và bị một nhóm vũ trang địa phương nhỏ tập hợp tại trung tâm thành phố bắn trả. Đi xa thêm nữa, họ đụng độ một nhóm vũ trang khác lớn hơn tại một cây cầu tại Concord và phải rút lui, mở ra niềm vinh hiển cho lịch sử Mỹ. Trở về lại Boston, nhóm lính bị nhiều người bắn tỉa. Các cuộc đụng độ này, xảy ra sau 12 năm từ khi xung đột chính trị giữa nhóm người Mỹ và Nghị viện Anh ngày càng tăng, là dấu hiệu đầu tiên của Cách mạng Hoa Kỳ. Vào ngày 10 tháng 5, 1775, Đệ Nhị Quốc hội Lục địa ("Continental Congress") với đại biểu từ khắp 13 thuộc địa Anh bắt đầu họp tại thành phố Philadelphia, Pennsylvania. Quốc hội tức khắc thiết lập một Chính phủ liên bang bao gồm cả 13 thuộc địa, chiếm lấy những chức năng trước kia của vua và Nghị viện Anh, và chỉ thị các bang này soạn ra hiến pháp của họ để tự trị. Quốc hội bổ nhiệm George Washington làm người lãnh đạo Quân đội Lục địa ("Continental Army") và gửi ông đến Boston, nơi các nhóm vũ trang địa phương đang bao vây quân đội Anh. Sau một năm xung đột, Quốc hội tuyên bố rằng nước Hợp chúng quốc Hoa Kỳ độc lập từ Anh trong bản Tuyên ngôn độc lập. Nhiệm vụ soạn bản tuyên ngôn độc lập được giao cho một ủy ban 5 người, trong đó có John Adams và Benjamin Franklin, nhưng tài liệu này phần lớn là do Thomas Jefferson chấp bút. Tuy nhiên, văn bản của Jefferson đã được Franklin duyệt lại nhiều lần và được trình lên Quốc hội sau khi sửa đổi nhiều chỗ, trong đó có cả việc cắt xén phần tố cáo vua George về vấn đề nô lệ. Quốc gia đầu tiên công nhận Hoa Kỳ sau khi tuyên bố độc lập là nước Dubrovnik (lúc đó được gọi là Ragusa). Với sự giúp đỡ của Pháp, Hoa Kỳ cuối cùng chiến thắng cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ với Anh, ký Hiệp định Paris, cấp cho đất nước mới sinh ra này một lãnh thổ bao la trải dài từ Đại Tây Dương đến sông Missisippi, kể cả khu vực Ngũ Đại Hồ.
Lịch sử Hoa Kỳ (1776–1789)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4095
Nền độc lập của Hoa Kỳ sau đó cũng được Vương quốc Phổ dưới triều vua Friedrich II Đại Đế thừa nhận. Trong hậu quả chiến tranh, quốc gia non trẻ này bị suy yếu kinh tế, và sự yếu đuối của các tổ chức chính trị làm lung lay chính quyền. Đệ nhị Quốc hội Lục địa vẫn còn giữ địa vị Chính phủ liên bang, được chính thức trong Những Điều khoản Liên hiệp, được đưa ra và có hiệu lực vào năm 1778, nhưng không được phê chuẩn cho đến năm 1781. Những Điều khoản Liên hiệp là sơ đồ chính quyền của một liên minh lâu dài giữa các bang, nhưng không định rõ Hoa Kỳ là một quốc gia thật sự hay chỉ là một liên minh giữa các bang độc lập đang hợp tác với nhau. Vào năm 1787, khi nhiều người nhận rõ quốc gia này cần một Chính phủ liên bang mạnh và trọn vẹn hơn, một hội nghị để xem xét sửa đổi các điều khoản được tổ chức. Quốc hội này, họp mặt tại Philadelphia, quyết định soạn thảo một hiến pháp, được 11 bang phê chuẩn vào năm 1788. Hiến pháp Hoa Kỳ có hiệu lực từ năm 1789, và George Washington được bầu làm tổng thống đầu tiên. Cách mạng và Độc lập. Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ là một liên hiệp gồm có 13 thuộc địa trải dài vùng duyên hải miền đông Bắc Mỹ. Trong thế kỷ 17 và 18, các thuộc địa đã thành lập truyền thống dân chủ tự trị khi bị Anh sao lãng trong lúc đang đương đầu với nội chiến và nhiều vấn đề khác. Sau khi Chiến tranh Bảy Năm (tại Bắc Mỹ được gọi là Chiến tranh Pháp và Người da đỏ) kết thúc vào năm 1763, Anh trở thành cường quốc mạnh nhất, nhưng bị nợ nần đầy rẫy. Nỗ lực tăng thuế của Nghị viện Anh làm nhiều người thuộc địa lo rằng quyền tự trị của họ đang có nguy cơ. Sau một vài bất đồng với Nghị viện Anh về chuyện thuế má, những thuộc địa đầu tiên thành lập ủy ban để truyền đạt thông tin về các chống đối và cuối cùng tổ chức một hội nghị để tẩy chay hàng hóa Anh. Đệ nhất Quốc hội Lục địa này có 12 thuộc địa tham dự, nhưng không có lãnh địa Florida của Anh và Georgia tại miền nam và Newfoundland và Nova Scotia tại miền bắc, cũng như lãnh địa nói tiếng Pháp Québec.
Lịch sử Hoa Kỳ (1776–1789)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4095
Quốc hội đệ nhất này quyết định sẽ tổ chức một Quốc hội đệ nhị nếu nỗ lực giải hòa với Anh bị thất bại. Đệ nhị Quốc hội Lục địa khai mạc vào tháng 5 năm 1775, sau cuộc xung đột giữa các nhóm vũ trang tại Massachusetts và quân đội Anh vào tháng 4. Với 13 thuộc địa tham dự, Quốc hội đệ nhị bắt đầu tổ chức một Chính phủ liên bang và chỉ thị các bang này soạn ra hiến pháp bang để tự trị. Tháng 6 năm 1775, George Washington, một người Virginia tiếng tăm có kinh nghiệm trong Chiến tranh Pháp và Người da đỏ được bổ nhiệm làm chỉ huy Quân đội Lục địa mới vừa được thành lập do sự kết hợp của các lực lượng vũ trang đang bao vây quân đội Anh tại Boston. Ngày 4 tháng 7 năm 1776, Đệ nhị Quốc hội Lục địa, đang vẫn còn họp tại Philadelphia, tuyên bố độc lập trong một tài liệu quan trọng, bản Tuyên ngôn độc lập, được soạn thảo bởi Thomas Jefferson. Nước đầu tiên công nhận Hoa Kỳ là thành bang Dubrovnik (được gọi là Ragusa vào thời đó) ở Ý. Cùng năm đó, có phái bộ sứ thần Mỹ đến yết kiến Triều đình Phổ, được nhà vua Friedrich II Đại Đế tiếp đón nồng hậu. Ngay khi nền Cộng hòa non trẻ Mỹ trỗi dậy, vua Phổ đã tìm cách trong đổi hàng hóa với họ. Không những thế, Nữ hoàng nước Nga là Ekaterina II Đại Đế cũng có cảm tình với người Mỹ. Trong tháng 8, từ chính quốc, quân đội Anh đổ bộ lên Thành phố New York, nơi quân Anh đang đóng chiếm vì quân phòng thủ của Washington còn quá yếu kém. Quân Anh đóng chiếm thành phố này cho đến khi cuộc chiến tranh chấm dứt. Cuối năm 1776, quân Mỹ giành những chiến thắng về chiến thuật và tinh thần. Một kế hoạch lớn, sau này được gọi là Chiến dịch Saratoga, được chính phủ Anh thiết lập tại kinh thành Luân Đôn để kéo quân từ Canada xuống nam và từ Hudson lên bắc, họp binh tại Albany, New York để chia các thuộc địa thành hai phần, cách ly Tân Anh Cát Lợi ("New England") ra khỏi các lục địa khác. Vì không được thông tin, quân Anh do tướng John Burgoyne chỉ huy xuống từ Canada đã gặp phải rừng rậm vào phía bắc của Albany, New York. Trong suốt mùa hè 1777, quân của Burgoyne chỉ tiến được một vài dặm, và cuối cùng đã bị một lực lượng Mỹ đông người hơn đánh bại tại Trận chiến Saratoga.
Lịch sử Hoa Kỳ (1776–1789)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4095
Trong lúc đó, quân đội Anh đáng lẽ phải tiến lên Hudson để gặp Burgoyne, nhưng lại tiến đến Philadelphia trong một nỗ lực kết thúc chiến tranh bằng cách chiếm giữ "thủ đô" của người Mỹ. Chiến thắng tại Saratoga của quân dân Mỹ đã khiến Pháp công khai đồng minh với Mỹ. Khi Pháp tham gia, chiến tranh này đã trở thành một cuộc tranh chấp toàn cầu, sau đó Tây Ban Nha và Hà Lan cũng tham gia vì họ là những cường quốc muốn ngăn chận sự bành trướng của Anh Quốc. Chính phủ Anh lại đem quân đến các lục địa miền nam ít người ở hơn và sự hăng hái tham gia vào cuộc cách mạng cũng thấp hơn. Nữ hoàng Nga Ekaterina II Đại Đế cũng thiết lập "Liên minh các nước trung lập vũ trang" (1780) chống đối Anh Quốc. Với vua Friedrich II Đại Đế, nước Phổ gia nhập liên minh này, cùng với vài nước mạnh ở Bắc Âu. Trong năm 1781, tình hình hai bên bế tắc. Trong trận đánh lớn ở Tòa án Guilford, quân Anh do Huân tước Charles Cornwallis cầm đầu đánh bại được quân Mỹ của tướng Nathanael Greene chỉ huy. Nhưng người Anh thiệt hại nặng nên phải rút quân khỏi đây. Sau đó, George Washington khôn khéo đánh lừa quân Anh, để rồi liên quân Mỹ - Pháp phong tỏa đất liền trong khi phần biển bị thủy binh Pháp phong tỏa. Trong trận kịch chiến tại Yorktown, Virginia, quân Anh bị đánh bại, Cornwallis thấy vậy phải cho quân ngừng bắn. Sau khi Cornwallis đầu hàng, Anh không còn nỗ lực tìm giải pháp quân sự nữa. Trong các cuộc đàm phán, phía Mỹ được đại diện bởi một nhóm dưới sự lãnh đạo của Benjamin Franklin, trong đó có John Adams và John Jay. Họ bác bỏ thỏa thuận với Pháp để không thương lượng riêng với Anh Quốc (làm cho Pháp không đòi hỏi được gì từ Anh Quốc) và đã thương lượng được một ranh giới cho Mỹ. Ranh giới này vượt qua dãy Allegehny cho đến tận sông Mississippi và khu vực phía nam Ngũ Đại Hồ, bao gồm một diện tích đất chưa có người ở lớn gần bằng Tây Âu. Thỏa thuận này được gọi là Hiệp ước Paris (1783). Sau đó, vào ngày 11 tháng 9 năm 1785, Hiệp định thương mại và hữu nghị Phổ - Mỹ được nhà vua Friedrich II Đại Đế ký kết. Hiệp định này có hiệu lực 10 năm, qua đó người Mỹ được tự do buôn bán với người Phổ. Sự hình thành các tổ chức liên bang.
Lịch sử Hoa Kỳ (1776–1789)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4095
Sự hình thành các tổ chức liên bang. Những Điều khoản Liên hiệp. Hiệp ước Paris đem lại hòa bình và nền độc lập cho Hoa Kỳ, nhưng với một chính phủ chưa ổn định. Đệ nhị Quốc hội Lục địa đã viết ra Những Điều khoản Liên hiệp trong năm 1777 để làm rõ vai trò của Quốc hội. Các điều khoản này đã tạo ra một liên minh lâu dài, thật sự mà nói về Quốc hội này tuy là tổ chức liên bang duy nhất nhưng ít quyền về tự quản lý tài chính hay thi hành các nghị quyết được đưa ra. Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế hậu chiến, tại một vài tiểu bang các cuộc bạo động về chính trị đã nổ ra thêm vào đó các nỗ lực dùng chính phủ để xóa nợ của các con nợ đã khiến giới lãnh đạo lo lắng. Sự bất lực rõ ràng trong đền bù các món nợ chiến tranh, thêm vào đó Quốc hội không xứng là diễn đàn hợp tác hiệu quả của các tiểu bang nhằm thúc đẩy phát triển thương mại và kinh tế, điều đó làm cho tình hình thêm u ám. Quốc hội lập hiến. Một số nỗ lực để tổ chức một phong trào đề cương và đòi hỏi cải cách đã dẫn đến Quốc hội tổ chức một đại hội mới, đã được khai mạc tại Philadelphia, Pennsylvania trong mùa hè năm 1787. Nay được gọi là Quốc hội lập hiến năm 1787, nó có mục đích đơn giản là đưa ra những đề nghị cải cách Những Điều khoản Liên hiệp, nhưng đã bí mật trở thành một hội nghị để viết một hiến pháp mới sau buổi họp đầu tiên. Bản Hiến pháp từ hội nghị kêu gọi thành lập một chính phủ liên bang, với các đặc tính: Mô hình tổ chức Quốc hội này là nét dung hòa chính của hội nghị, vì các tiểu bang nhỏ muốn vẫn được giữ quyền mỗi Tiểu bang một phiếu (quyền họ đã được có trong các điều khoản của Những Điều khoản Liên hiệp trước đây). Các tiểu bang lớn thì đòi hỏi quyền hạn mỗi Tiểu bang phải được dựa trên dân số và tài nguyên.
Lịch sử Hoa Kỳ (1776–1789)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4095
Để đạt được dung hòa, hội nghị quyết định Thượng nghị viện sẽ là nơi các tiểu bang được đại diện bình quyền, còn số dân biểu vào Hạ nghị viện của mỗi tiểu bang sẽ được tuyển cử theo tổng số địa hạt cử tri (electoral district) với dân số tương đương (như vậy các tiểu bang đông dân sẽ có nhiều địa hạt cử tri và đại biểu hơn các tiểu bang đất rộng nhưng dân thưa). Ngôn ngữ bản Hiến pháp cũng kêu gọi việc phê chuẩn qua hình thức các Hội nghị Lập hiến của mỗi tiểu bang, được đặc cử vào công việc nầy. Do đó, hội nghị đã gửi bản Hiến pháp nầy về các tiểu bang với yêu cầu cần phải tổ chức các Hội nghị Lập hiến địa phương. Một số các Tiểu bang nhỏ, dẫn đầu bởi Delaware, chấp nhận bản dự thảo Hiến pháp không chút do dự. Nhưng tại cả hai tiểu bang New York và Virginia, nhất là tại New York, vấn đề này trở thành đề tài bàn cãi sôi nổi. Virginia, thuộc địa Anh đầu tiên thành công trong việc định cư Bắc Mỹ, là tiểu bang với dân số đông, có truyền thống chính trị lâu đời, và có hàng ngũ lãnh đạo là những người đã cống hiến lớn lao cho cuộc Cách mạng giành độc lập. Riêng New York cũng là một tiểu bang lớn đông đúc dân cư. Với số cảng nằm ở vị trí lý tưởng bên bờ Đại Tây Dương, Tiểu bang nầy sẽ góp phần định đoạt thành công hay thất bại của nước Hoa Kỳ trong tương lai. Thế nhưng quyền lực chính trị địa phương New York lại nằm chặt trong vòng kiểm soát của một số lãnh đạo địa phương có quyền lực lâu đời, mà không có gì cho thấy những người nầy sẽ muốn chia quyền cho các lãnh đạo quốc gia hay những người sẽ nắm chính phủ liên bang. Hội nghị Phê chuẩn Hiến pháp New York vì thế trở nên tâm điểm của các cuộc tranh luận sôi nổi về đề tài chấp nhận hiến chương. Việc phê chuẩn hiến chương. Phe ủng hộ Hiến pháp lấy tên gọi là Nhóm Liên bang (the Federalists), và họ nhanh chóng được lòng toàn dân trong nước. Trong nhóm nầy, nổi tiếng nhất là các ông Alexander Hamilton, James Madison, và John Jay. Ba nhân vật này là những người đóng góp nhiều nhất vào Liên bang Thư tập (Federalist Papers), tên gọi chung của khoảng 85 bài tham luận được đăng trên báo chí New York thời điểm đó.
Lịch sử Hoa Kỳ (1776–1789)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4095
Nhìn từ nhiều góc độ khác nhau, các bài này là các văn kiện lập quốc của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, các bài viết này ra đời sau Hội nghị Lập hiến, và chỉ là một phần đóng góp cho cuộc tranh luận ở New York. Phe thiếu thiện cảm với một chính phủ trung ương nhiều quyền uy lấy tên là Nhóm Phi Liên bang (anti-Federalists). Họ e ngại rằng một chính quyền với quyền thu thuế sẽ nhanh chóng trở nên độc tài và hủ bại như chính phủ thuộc địa Anh trước đây vài thập niên. Trong nhóm nầy, đứng đầu là hai ông Patrick Henry và George Mason. Hai ông rất quan tâm đến việc Hiến pháp hiện chưa có Bộ luật Dân quyền (Bill of Rights). Điều lý thú nhất là ông Thomas Jefferson—lúc đó đang là đại sứ Mỹ tại Pháp—lại không theo nhóm nào, mà chỉ có thái độ trung lập để đón nhận bất cứ một trong hai đường hướng. Tuy vậy, từ Pháp ông cũng có viết thư về bày tỏ băn khoăn của ông về bản dự thảo Hiến pháp với một bằng hữu—sau nầy là đồng minh của ông—là ông James Madison. Trong khi đó, nhóm Liên bang cũng gây được thêm rất nhiều uy tín và lợi thế khi Đại tướng George Washington, khi đó đang là chủ tịch Hội nghị Lập hiến, lên tiếng ủng hộ lập trường của họ. Khi được Madison hứa hẹn là sẽ có Bộ luật Dân quyền, Virginia đồng ý phê chuẩn. Tại New York, gia đình Clinton, những người nắm trọn chính trường New York, cũng nhân nhượng phần nào để Alexander Hamilton đạt được thắng lợi phê chuẩn trong hội nghị. Theo dự thảo, Chính phủ liên bang sẽ bắt đầu có hiệu lực tại các tiểu bang đã phê chuẩn một khi có chín Tiểu bang bỏ phiếu thuận. Hiến pháp Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ do đó chính thức ra đời khi New Hampshire bỏ phiếu thuận vào ngày 21 tháng sáu, năm 1788. Khi Virginia bỏ phiếu thuận ngày 26 tháng sáu và New York ngày 26 tháng bảy, tổng cộng 11 tiểu bang đã thông qua hiến pháp, trong đó có tất cả các tiểu bang lớn nhất. Tại Bắc Carolina, Hội nghị phê chuẩn chấm dứt trước khi bỏ phiếu bình bầu.
Lịch sử Hoa Kỳ (1776–1789)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4095
Với đa số đại biểu thuộc phe Phi Liên bang, lại được chủ tọa bởi một người rất ngưỡng mộ ông Jefferson (và vì thế tán đồng với những băn khoăn do dự của ông này như đã nói trên), hội nghị quyết định hoãn lại việc phê chuẩn. Sự đình hoãn này có hiệu lực cho đến khi tân Quốc hội có dự luật cụ thể đưa đến Bô luật Dân quyền, nhằm tu chính Hiến pháp và đảm bảo một số quyền lợi công dân căn bản. Riêng tiểu bang Đảo Rhode không tổ chức hội nghị phê chuẩn nào trước khi Chính phủ liên bang bắt đầu hoạt động vào tháng 4 năm 1798 Quốc hội sau đó sắp xếp tổ chức cuộc tổng tuyển cử toàn quốc đầu tiên, với kết quả Đại tướng George Washington đắc cử tổng thống, và John Adams đắc cử phó tổng thống. Thành phố New York được chọn làm thủ đô đầu tiên và tạm thời của quốc gia, và ông Washington tuyên thệ nhiệm chức nơi đây tháng 4 năm 1798, tại Liên bang phủ (Federal Hall), hạ-lưu bán đảo Manhattan. Dưới sự lãnh đạo của James Madison, Quốc hội tiên khởi giữ đúng lời hứa trước đây về luật dân quyền, và đề cử về các tiểu bang 12 tu chính án. Trong số 12 tu chính án nầy, 10 tu chính án sẽ được bỏ phiếu thuận nhanh chóng và trở thành Dự luật Dân quyền, một sẽ không được phê chuẩn, và một sẽ được thông qua sau này dưới tên gọi tu chính án 27. Được tin Dự luật Dân quyền được thông qua, Bắc Carolina lập tức tái triệu tập hôi nghị phê chuẩn và nhanh chóng thông qua Hiến pháp. Đảo Rhode theo sau và phê chuẩn vào 29 tháng năm, 1790, một tuần trước khi Dự luật Dân quyền chính thức ra đời. Sự hình thành của hệ thống đa nguyên. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ không có đề cập đến đảng phái chính trị, và nhóm khai quốc (founding fathers) thường xuyên nhạo báng điều mà các ông gọi là "chủ thuyết bè phái", hiện tượng thường gặp ở các chính phủ tiểu bang. Tuy nhiên người ta có thể thấy nhen nhúm trong cuộc tranh luân lập hiến giữa các phe nhóm sự thành phình phôi thai của một hệ thống đa nguyên, sau này sẽ được lộ diện. Nhóm Liên bang, những người trước đây hô hào lập hiến, trở nên những phần tử đắc lực đưa Chính phủ liên bang vào hoạt động.
Lịch sử Hoa Kỳ (1776–1789)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4095
Riêng nhóm Phi Liên bang, trước vốn đã không có tổ chức vững chắc, sau khi Hiến pháp ra đời nhan chóng tan rã. Tuy nhiên, quan niệm chính trị của họ (về việc tập trung quyền lực về các tiểu bang và việc giảm bớt quyền lực của chính phủ trung ương) vần được lưu truyền và thịnh hành. Những tư tưởng của họ được hấp thụ vào tiến trình thành lập một đảng phái mới, lấy tên đảng Cộng hòa, hay Dân chủ cộng hòa. Đảng này sau đó luôn đóng vai trò đối lập với nhóm Liên bang, và nắm quyền tham chính năm 1800 khi ông Thomas Jefferson đắc cử tổng thống.
Chàm (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4100
Chàm trong tiếng Việt có thể có nghĩa là:
Điện toán
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4111
Điện toán () là hoạt động định hướng mục tiêu (goal-oriented activity) nào đó, có yêu cầu, hưởng lợi từ hoặc tạo ra một chu trình toán học được gọi là thuật toán thực hiện bằng máy tính hay còn gọi là máy điện toán. Điện toán bao gồm thiết kế, phát triển và xây dựng hệ thống phần cứng và phần mềm thuộc máy điện toán; biên tập, tạo cấu trúc và quản lý các loại thông tin; nghiên cứu khoa học trên máy tính; làm cho hệ thống máy tính hoạt động thông minh; tạo ra và sử dụng phương tiện truyền thông và giải trí. Lĩnh vực điện toán bao gồm kỹ thuật máy tính, công nghệ phần mềm, khoa học máy tính, hệ thống thông tin và công nghệ thông tin. Liên kết ngoài. __CHỈ_MỤC__
Văn hóa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4114
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Văn hoá là những giá trị vật chất và tinh thần còn lại sau thời gian, được cộng đồng xã hội tự nguyện lưu truyền từ đời này sang đời khác thông qua các chuỗi sự kiện trong đời sống hàng ngày. Trong cuộc sống hằng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh... Các "trung tâm văn hóa" có ở khắp nơi chính là cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường khác: "văn hóa" là cách sống bao gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận... Vì thế chúng ta nói một người nào đó là "văn hóa cao", "có văn hóa" hoặc "văn hóa thấp", "vô văn hóa". Trong nhân loại học và xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến theo một nghĩa rộng nhất. Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận trong đời sống con người . Văn hóa không chỉ là những gì liên quan đến tinh thần mà bao gồm cả vật chất. Văn hóa liên kết với sự tiến hóa sinh học của loài người và nó là sản phẩm của người thông minh ("Homo sapiens"). Trong quá trình phát triển, tác động sinh học hay bản năng dần dần giảm bớt khi loài người đạt được trí thông minh để định dạng môi trường tự nhiên cho chính mình. Đến lúc này, bản tính con người không không còn mang tính bản năng mà là văn hóa. Khả năng sáng tạo của con người trong việc định hình thế giới hơn hẳn bất kỳ loài động vật nào khác và chỉ có con người dựa vào văn hóa hơn là bản năng để đảm bảo cho sự sống còn của chủng loài mình. Con người có khả năng hình thành văn hóa và với tư cách là thành viên của một xã hội, con người tiếp thu văn hóa, bảo tồn nó đồng thời truyền đạt nó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Việc cùng có chung một văn hóa giúp xác định nhóm người hay xã hội mà các cá thể là thành viên. Khái niệm. Văn hóa.
Văn hóa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4114
Khái niệm. Văn hóa. Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện, v.v. Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của văn hóa. Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới . Văn hóa được đề cập đến trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như "dân tộc học", "nhân loại học" (theo cách gọi của Mỹ hoặc "dân tộc học hiện đại" theo cách gọi của châu Âu) , "dân gian học", "địa văn hóa học", "văn hóa học", "xã hội học"... và trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau. Các định nghĩa về văn hóa nhiều và cách tiếp cận khác nhau đến nỗi ngay cả cách phân loại các định nghĩa về văn hóa cũng có nhiều. Một trong những cách đó phân loại các định nghĩa về văn hóa thành những dạng chủ yếu sau đây : Tóm lại, văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra. :::: Khái niệm về văn hóa: Từ văn hóa có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức, lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn.
Văn hóa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4114
Trong khi theo nghĩa rộng, thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại, cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống... Theo "Đại từ điển tiếng Việt" của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam - Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, xuất bản năm 1998, thì: "Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử". Trong "Từ điển tiếng Việt" của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì đưa ra một loạt quan niệm về văn hóa: Trong cuốn "Xã hội học Văn hóa" của Đoàn Văn Chúc, Viện Văn hóa và Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, xuất bản năm 1997, tác giả cho rằng: Văn hóa – vô sở bất tại: Văn hóa - không nơi nào không có! Điều này cho thấy tất cả những sáng tạo của con người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa; nơi nào có con người nơi đó có văn hóa. Trong cuốn "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam", PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm cho rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Theo tổ chức giáo dục và khoa học của Liên Hợp Quốc UNESCO: Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia. Như vậy, có thể thấy rằng: Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên. Tiểu văn hóa. Tiểu văn hóa là văn hóa của các cộng đồng xã hội mà có những sắc thái khác với nền văn hóa chung của toàn xã hội. Người ta thường hay nhắc đến tiểu văn hóa của thanh niên, của một dân tộc ít người nào đó hay tiểu văn hóa của một cộng đồng người dân sinh sống lâu đời ở một nước, v.v. Thực chất, tiểu văn hóa vẫn là một bộ phận của nền văn hóa chung; nó chỉ có những nét khác biệt khá rõ so với nền văn hóa chung, song không đối lập với nền văn hóa chung đó.
Văn hóa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4114
Mỗi xã hội đều có những dân tộc và cộng đồng khác nhau, và mỗi cộng đồng nhỏ ấy đều có những mô hình ứng xử riêng, mang đặc trưng của cộng đồng ấy. Những biểu hiện ấy được gọi là "tiểu văn hóa" hay "văn hóa phụ". Các cộng đồng này thường bao gồm những cá nhân có cùng một nền tảng dân tộc hoặc chủng tộc, quốc tịch hoặc tôn giáo, đôi khi đó còn là những nhóm người trong các lĩnh vực nghề nghiệp, lứa tuổi... Bên trong các nhóm tiểu văn hóa có thể dễ dàng tìm thấy sự đồng tình, nhưng giữa các nhóm tiểu văn hóa với toàn xã hội nói chung, vẫn thường xảy ra sự bất đồng nào đó. Văn hóa nhóm. Văn hóa nhóm là hệ thống các giá trị, các quan niệm, tập tục được hình thành trong nhóm. Văn hóa nhóm được hình thành từ khi các mối quan hệ trong nhóm được thiết lập và cùng với thời gian các quy chế được hình thành, các thông tin được trao đổi và các thành viên cùng trải qua các sự kiện. Tất cả các nhóm nhỏ đều có văn hóa của mình, nhưng đồng thời cũng là một phần của nền văn hóa toàn xã hội. Như vậy, văn hóa nhóm cho thấy trong nền văn hóa chung còn có thể có những nét riêng biệt của các tập đoàn, các tổ chức xã hội khác nhau. Cũng có những ý kiến cho rằng, văn hóa nhóm dùng để chỉ nền văn hóa riêng nhỏ hơn tiểu văn hóa. Văn minh. Ở một khía cạnh nào đó, cũng cần phân biệt văn hóa với văn minh. Đây là một vấn đề khá phức tạp và đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về sự phân biệt này. Một số nhà xã hội học thì cho rằng, sự gần nhau hay khác nhau giữa văn hóa và văn minh là nằm ở nội dung mà đưa ra hai khái niệm văn hóa và văn minh. Văn hóa được coi là biểu hiện tinh thần sâu xa của cộng đồng, còn văn minh thì bắt nguồn từ khoa học và thể hiện trước hết ở sự tiến bộ của kỹ thuật, của máy móc, sản xuất.
Văn hóa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4114
Hoặc có quan điểm khác cho rằng, thực chất, thuật ngữ văn minh là để chỉ toàn bộ những nền văn hóa riêng biệt có nguồn gốc chung hay quan hệ chung, như văn minh phương Tây bao gồm văn hóa Pháp, Anh, Đức... Một cách nhìn nhận khác, thì coi văn hóa là những khía cạnh trừu tượng hóa của một xã hội riêng biệt. Còn văn minh được chia thành những bậc cao thấp khác nhau. Văn minh bậc cao được coi là một tổng thể văn hóa bao gồm những nét đặc trưng văn hóa quan trọng nhất thấy được trong nhiều xã hội riêng biệt; văn minh phương Tây trong đó có nhiều xã hội có chung một hình thức đặc thù về khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật... Văn minh bậc thấp được cấu thành bởi một dân tộc thuần nhất đặc trưng cho những xã hội giai cấp xuất hiện sớm nhất trong lịch sử (văn minh Ai Cập, Trung Hoa...). Cộng tính văn hóa. Cộng tính văn hóa là khái niệm mô tả khả năng sẵn sàng chấp nhận các hệ giá trị của văn hóa khác của một cộng đồng (hoặc cá nhân) thuộc một văn hóa xác định vào hệ giá trị, bất chấp việc các giá trị mới có thể đối nghịch với hệ giá trị đang tồn tại . Tại Việt Nam, hiện tượng cộng tính văn hóa được thể hiện rõ nét qua sự tồn tại và ảnh hưởng lẫn nhau của tam giáo (hay truyền thống, trường phái tôn giáo và triết học của Nho giáo, Phật giáo, và Đạo giáo). Cho nên hiện tượng cộng tính văn hóa được xem là một đặc tính tiêu biểu của tôn giáo và triết lý tại Việt Nam. Khái niệm cộng tính văn hóa được xây dựng dựa trên cơ chế mindsponge. Dựa trên cơ chế nạp xả giá trị văn hóa mindsponge, ta có thể hiểu cách mà một cộng đồng (hoặc cá nhân) tiếp thu và loại bỏ các giá trị văn hóa mà họ tiếp xúc có ảnh hưởng quyết định đối với mức độ cộng tính văn hóa của cộng đồng (hoặc cá nhân) đấy . Một cộng đồng (hoặc cá nhân) có thể xem là có cộng tính văn hóa cao nếu như cộng đồng (hoặc cá nhân) đấy chấp nhận được nhiều sự tồn tại và tương tác của nhiều giá trị văn hóa khác nhau cùng lúc.
Văn hóa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4114
Mức độ cộng tính sẽ giảm đi nếu cộng đồng (hoặc cá nhân) đấy lựa chọn loại bỏ các giá trị văn hóa mâu thuẫn với các giá trị mà họ xem là giá trị văn hóa cốt lõi . Cơ cấu của văn hóa. Biểu tượng. Biểu tượng là bất cứ cái gì mang một ý nghĩa cụ thể được các thành viên của một cộng đồng người nhận biết . Âm thanh, đồ vật, hình ảnh, hành động của con người và cả những ký tự của trang viết này... đều là biểu tượng văn hóa. Biểu tượng văn hóa thay đổi theo thời gian và cũng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau trong những nền văn hóa khác nhau. Gật đầu ở Việt Nam đều được hiểu là đồng ý nhưng ở Bulgaria nó lại có nghĩa là không. Ý nghĩa tượng trưng là nền tảng của mọi nền văn hóa, nó tạo cơ sở thực tế cho những cá nhân trải nghiệm trong các tình huống xã hội và làm cuộc sống trở nên có ý nghĩa. Tuy vậy trong cuộc sống hàng ngày, các thành viên thường không nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của biểu tượng do chúng đã trở nên quá quen thuộc. Khi thâm nhập vào một nền văn hóa khác, với những biểu tượng văn hóa khác người ta có thể thấy sức mạnh của biểu tượng văn hóa. Nếu sự khác biệt đủ lớn, người thâm nhập có thể bị một cú sốc văn hóa. Trong mọi nền văn hóa, con người đều sắp xếp biểu tượng thành ngôn ngữ, đó là hệ thống các ký hiệu có ý nghĩa chuẩn giúp cho các thành viên trong xã hội có thể truyền đạt được với nhau . Ngôn ngữ có ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, mọi nền văn hóa đều có ngôn ngữ nói nhưng không phải tất cả đều có ngôn ngữ viết. Ở những nền văn hóa có cả hai loại ngôn ngữ thì ngôn ngữ nói cũng khác với ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất để chuyển giao văn hóa, làm cho văn hóa có thể được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngôn ngữ cũng là nền tảng cho trí tưởng tượng của con người do nó được liên kết bởi các ký hiệu một cách gần như vô hạn. Điều đó giúp cho con người có khả năng thay thế được những nhận thức thông thường về thế giới tạo tiền đề cho sự sáng tạo.
Văn hóa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4114
Ngôn ngữ quan trọng đến mức Edward Sapir và học trò của ông là Benjamin Whorf đã đưa ra giả thuyết (gọi là "Giả thuyết Sapir-Whorf") rằng con người có thể khái niệm hóa thế giới chỉ thông qua ngôn ngữ nên ngôn ngữ đi trước suy nghĩ . Ngôn ngữ ảnh hưởng đến những cảm nhận, suy nghĩ của con người về thế giới đồng thời truyền đạt cho cá nhân những chuẩn tắc, giá trị, sự chấp nhận quan trọng nhất của một nền văn hóa. Chính vì thế, việc du nhập một ngôn ngữ mới vào một xã hội trở thành vấn đề nhạy cảm tại nhiều nơi trên thế giới và là tiêu điểm của các cuộc tranh luận về vấn đề xã hội. Trong quá trình phát triển của xã hội, ngôn ngữ cũng biến đổi: nhiều từ ngữ mất đi, nhiều từ ngữ mới xuất hiện (ví dụ máy tính điện tử ra đời làm xuất hiện những từ ngữ như "bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên", "byte"...). Chân lý. Chân lý chính là tính chính xác, rõ ràng của tư duy. Có người thì cho rằng, chân lý đó là những nguyên lý được nhiều người tán thành thừa nhận. Hay theo quan điểm thực dụng gắn ý nghĩa của chân lý với tính lợi ích thực tế của nó. Hiểu đúng và sâu hơn, thì chân lý là sự phản ánh đúng đắn thế giới khách quan trong ý thức con người. Chân lý là tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tế kiểm nghiệm. Ở khía cạnh xã hội học, chân lý là những quan niệm về cái thật và cái đúng. Chính vì lẽ đó mà xã hội, mỗi nền văn hóa có những cái thật, cái đúng khác nhau. Điều này có nghĩa có những cái mà nền văn hóa này coi là chân lý, thì có thể ở nền văn hóa khác lại bị phủ nhận. Một cá nhân không thể xây dựng được chân lý. Chân lý chỉ có thể được hình thành thông qua nhóm người. Cá nhân qua tiếp xúc, tương tác với nhóm nhỏ, nhóm lớn hình thành nên những ý kiến cho là đúng, là thật ngày càng có tính khách quan hơn, càng gần hiện thực hơn. Như vậy văn hóa là toàn bộ các chân lý. Chân lý luôn là cụ thể vì cái khách quan hiện thực là nguồn gốc của nó. Những sự vật, những quá trình cụ thể của xã hội, con người luôn tồn tại không tách rời những điều kiện khách quan lịch sử cụ thể.
Văn hóa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4114
Những điều kiện khách quan thay đổi thì chân lý khách quan thay đổi. Mỗi một dân tộc đều có những hoàn cảnh lịch sử khác nhau và vì vậy trong nền văn hóa của họ có các bộ phận chân lý khác nhau. Ngay với một dân tộc ở các thời điểm lịch sử khác nhau thì cũng có các chân lý khác nhau. Giá trị. Giá trị (value) với tư cách là sản phẩm của văn hóa và thuật ngữ giá trị có thể quy vào những mối quan tâm, thích thú, những ưa thích, những sở thích, những bổn phận, những trách nhiệm, những ước muốn, những nhu cầu, những ác cảm, những lôi cuốn và nhiều hình thái khác nữa của định hướng lựa chọn. Khó có một xác định nào mô tả đầy đủ phạm vi và tính đa dạng của những hiện tượng giá trị được thừa nhận. Khoa học xã hội coi giá trị như những quan niệm về cái đáng mong muốn ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn. Trong cách nhìn rộng rãi hơn thì bất cứ cái gì tốt, xấu đều là giá trị hay giá trị là điều quan tâm của chủ thể. Giá trị là cái mà ta cho là đáng có, mà ta thích, ta cho là quan trọng để hướng dẫn cho hành động của ta. Giá trị là những gì mà qua đó thành viên của một nền văn hóa xác định điều gì là đáng mong muốn và không đáng mong muốn, tốt hay không tốt, đẹp hay xấu... Trong một xã hội, các thành viên đều xây dựng quan điểm riêng về bản thân mình và về thế giới dựa trên những giá trị văn hóa. Trong quá trình trưởng thành, con người học hỏi từ gia đình, nhà trường, tôn giáo, giao tiếp xã hội... và thông qua đó xác định nên suy nghĩ và hành động như thế nào theo những giá trị của nền văn hóa. Giá trị là sự đánh giá trên quan điểm văn hóa nên khác nhau ở từng cá nhân nhưng trong một nền văn hóa, thậm chí có những giá trị mà đại đa số các thành viên trong nhiều nền văn hóa đều thừa nhận và có xu hướng trường tồn như tự do, bình đẳng, bác ái, hạnh phúc... Giá trị cũng luôn luôn thay đổi và ngoài xung đột về giá trị giữa các cá nhân hoặc các nhóm trong xã hội, trong chính bản thân từng cá nhân cũng có xung đột về giá trị chẳng hạn như giữa thành công của cá nhân mình với tinh thần cộng đồng. Mục tiêu.
Văn hóa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4114
Mục tiêu. Mục tiêu là một trong những yếu tố cơ bản của hành vi và sự hành động có ý thức của con người. Mục tiêu được coi như sự dự đoán trước kết quả của hành động. Đó là cái đích thực tế cần phải hoàn thành. Con người tổ chức mọi hành động của mình xoay quanh những cái đích thực tế đó. Mục tiêu có khả năng hợp tác những hành động khác nhau của con người vào trong một hệ thống, kích thích đến sự xây dựng phương án cho các hành động. Thực tế, tồn tại mục tiêu cá nhân và mục tiêu chung (cộng đồng, xã hội). Mục tiêu chung sinh ra bằng hai con đường: qua sự đồng ý lẫn nhau của các mục tiêu cá nhân trong nhóm, qua sự trùng nhau của một vài mục tiêu cá nhân của các thành viên trong nhóm. Mục tiêu là một bộ phận của văn hóa và phản ánh văn hóa của một dân tộc. Mục tiêu chịu ảnh hưởng mạnh của giá trị. Giá trị thế nào thì dễ sinh ra mục tiêu như thế, không có giá trị thì cũng không có mục tiêu, giá trị gắn bó với mục tiêu. Tuy nhiên mục tiêu là khác với giá trị. Chuẩn mực. Chuẩn mực là tổng số những mong đợi, những yêu cầu, những quy tắc của xã hội được ghi nhận bằng lời, bằng ký hiệu hay bằng các biểu trưng, mà qua đó xã hội định hướng hành vi của các thành viên . Trên góc độ xã hội học, những "chuẩn mực văn hóa" quan trọng được gọi là "chuẩn mực đạo đức" và những chuẩn mực văn hóa ít quan trọng hơn được gọi là "tập tục truyền thống". Do tầm quan trọng của nó nên các chuẩn mực đạo đức thường được luật pháp hỗ trợ để định hướng hành vi của các cá nhân (ví dụ: hành vi "ăn cắp" là vi phạm chuẩn mực đạo đức, ngoài việc bị xã hội phản ứng một cách mạnh mẽ, luật pháp còn quy định những hình phạt có tính chất cưỡng chế).
Văn hóa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4114
Những tập tục truyền thống như quy tắc giao tiếp, ứng xử trong đám đông... thường thay đổi trong từng tình huống (ví dụ: người ta có thể huýt gió trong buổi biểu diễn nhạc rock nhưng không làm thế khi nghe "nhạc thính phòng") và thành viên vi phạm tiêu chuẩn bị xã hội phản ứng ít mạnh mẽ hơn (ví dụ: nếu một người mặc quần áo ngủ vào siêu thị mua hàng thì những người xung quanh sẽ dị nghị nhưng gần như chắc chắn không có ai phản đối trực tiếp). Chuẩn mực văn hóa khiến cho các cá nhân có tính tuân thủ và phản ứng tích cực (phần thưởng) hay tiêu cực (hình phạt) của xã hội thúc đẩy tính tuân thủ ấy. Phản ứng tiêu cực của xã hội trước những vi phạm chuẩn mực văn hóa chính là cơ sở của hệ thống kiểm soát văn hóa hay "kiểm soát xã hội" mà qua đó bằng những biện pháp khác nhau, các thành viên của xã hội tán đồng sự tuân thủ những chuẩn mực văn hóa. Ngoài phản ứng của xã hội, phản ứng của chính bản thân cũng góp phần làm cho những chuẩn mực văn hóa được tuân thủ. Quá trình này chính là tiếp thu các chuẩn mực văn hóa, hay nói một cách khác, hòa nhập chuẩn mực văn hóa vào nhân cách của bản thân. Các loại hình văn hóa. Văn hóa tinh thần. Văn hóa tinh thần hay còn gọi là văn hóa phi vật chất là những ý niệm, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, giá trị, chuẩn mực... tạo nên một hệ thống. Hệ thống đó bị chi phối bởi trình độ của các giá trị, đôi khi có thể phân biệt một giá trị bản chất. Chính giá trị này mang lại cho văn hóa sự thống nhất và khả năng tiến hóa nội tại của nó. Văn hóa vật chất. Ngoài các yếu tố phi vật chất như giá trị, tiêu chuẩn... nền văn hóa còn bao gồm tất cả những sáng tạo hữu hình của con người mà trong xã hội học gọi chung là "đồ tạo tác" . Những con đường, tòa cao ốc, đền đài, phương tiện giao thông, máy móc thiết bị... đều là "đồ tạo tác". Văn hóa vật chất và phi vật chất liên quan chặt chẽ với nhau. Khảo sát một nền văn hóa có thể thấy văn hóa vật chất phản ánh những giá trị văn hóa mà nền văn hóa đó coi là quan trọng.
Văn hóa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4114
Ở các nước Hồi giáo, công trình kiến trúc đẹp nhất và hoành tráng nhất thường là thánh đường trong khi ở Mỹ, nó lại là trung tâm thương mại. Văn hóa vật chất còn phản ánh công nghệ hiểu theo khái niệm xã hội học là sự áp dụng kiến thức văn hóa vào sinh hoạt trong môi trường tự nhiên. Tháp Eiffel phản ánh công nghệ cao hơn tháp truyền hình Hà Nội. Ngược lại, văn hóa vật chất cũng làm thay đổi những thành phần văn hóa phi vật chất. Văn hóa lý tưởng và văn hóa thực tế. Giá trị và tiêu chuẩn là những gì nên làm, trên thực tế ở những mẫu xã hội, hành vi của các thành viên không hoàn toàn nhất quán với những giá trị, tiêu chuẩn ấy. Những mẫu xã hội nhất quán với giá trị, tiêu chuẩn được gọi là "văn hóa lý tưởng" còn những mẫu xã hội trên thực tế gọi là "văn hóa thực tế". Sự khác biệt giữa văn hóa lý tưởng và văn hóa thực tế tồn tại ở mọi nền văn hóa. Đại đa số người Việt Nam ở đô thị thừa nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi trường nhưng một tỷ lệ đáng kể vẫn sẵn sàng vứt rác ra đường phố. Mặt khác, tiêu chuẩn, giá trị thay đổi theo thời gian và có sự khác nhau giữa các nhóm khác nhau trong xã hội nên những mẫu văn hóa trên thực tế cũng khác với văn hóa lý tưởng. Tính đa dạng văn hóa và văn hóa chung. Trong một nền văn hóa, sự khác biệt về độ tuổi, điều kiện sống, giai cấp xã hội... đã làm hình thành nên những mẫu văn hóa khác với văn hóa thống trị, hay còn gọi là "tiểu văn hóa". Người nông thôn có thể cho người thành phố là "giả dối" trong khi họ lại bị người thành phố coi là "người nhà quê". Những thanh niên mê nhạc Hip Hop cũng có lối sống và quan niệm khác hẳn những giáo sư đứng tuổi. Trong hầu hết những xã hội hiện đại đều tồn tại những tiểu văn hóa cấu thành dựa trên sắc tộc. Xã hội Việt Nam được cấu thành bởi các tiểu văn hóa của trên 50 sắc tộc. Tính đa dạng về văn hóa đôi khi gây ra sự mâu thuẫn.
Văn hóa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4114
Canada là một xã hội có hai "nhóm văn hóa chính", "nhóm văn hóa" tổ tiên người Anh và nhóm văn hóa tổ tiên người Pháp trong đó đa số nói tiếng Anh, thiểu số còn lại nói tiếng Pháp hoặc nói cả hai thứ tiếng. Thiểu số nói tiếng Pháp có một số bất lợi trong một xã hội mà văn hóa của những người nói tiếng Anh thống trị. Mặc dù chính phủ Canada chính thức công nhận hai ngôn ngữ quốc gia, nhưng mâu thuẫn giữa những người nói tiếng Anh và nói tiếng Pháp vẫn tiếp tục mà biểu hiện rõ nét là các cuộc trưng cầu dân ý về việc tách Quebec (nói tiếng Pháp) ra khỏi Canada. Trong trường hợp một mẫu văn hóa có sự khác biệt với văn hóa thống trị ở một mức độ đáng kể thì trong xã hội học người ta gọi là "văn hóa nghịch dòng" hay "phản văn hóa" . Khi "văn hóa nghịch dòng xuất hiện" thì sẽ xuất hiện vấn đề xem xét lại tiêu chuẩn, đạo đức của văn hóa thống trị và do vậy xã hội có các biện pháp "kiểm soát văn hóa" từ đưa tin một cách tiêu cực trên các phương tiện truyền thông đến can thiệp bằng luật pháp. Nhiều trào trào lưu "văn hóa nghịch dòng" được xuất phát từ giới trẻ như phong trào hippie ở Mỹ những năm 1960 hoặc làn sóng "đầu trọc" hiện nay. Mặc dù đa dạng nhưng những nền văn hóa có những cung cách thực hành và niềm tin phổ biến nào đó được gọi là "những văn hóa chung" hay "tính phổ biến văn hóa". Nhà nhân loại học nổi tiếng người Mỹ George Murdock (1897–1985) đã liệt kê một danh sách những cái thuộc văn hóa chung như các bộ môn thể thao, nấu ăn, y khoa, lễ tang, những hạn chế và ràng buộc về tình dục... Văn hóa và ý thức hệ chủ đạo. Văn hóa và xã hội hòa hợp với nhau và muốn duy trì sự ổn định phải có những giá trị trung tâm và những tiêu chuẩn chung đủ mạnh. Trên một góc độ khác, có thể những giá trị và tiêu chuẩn trung tâm ấy được dùng để duy trì đặc quyền, đặc lợi của một nhóm người trong xã hội. "Ý thức hệ chủ đạo" là một tập hợp các niềm tin và thực tiễn văn hóa giúp duy trì các lợi ích hùng mạnh về kinh tế, xã hội và chính trị.
Văn hóa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4114
Khái niệm này được những nhà Marxist George Lukacs (người Hungary) và Antonio Gramsci (người Ý) đưa ra lần đầu tiên vào thập niên 1920. Quan điểm này trở nên phổ biến trong xã hội học vào thập niên 1950, tuy nhiên đến đầu thập niên 1970 mới giành được chỗ đứng ở Mỹ. Theo quan điểm của Karl Marx xã hội tư bản có một ý thức hệ thống trị nhằm phục vụ cho lợi ích của các tầng lớp thống trị . Các nhóm và các định chế có quyền lực nhất trong xã hội không chỉ nắm được của cải và tài sản mà còn kiểm soát được ý nghĩa của việc tạo ra các niềm tin về thực tại thông qua tôn giáo, giáo dục và các phương tiện truyền thông đại chúng. Sự thay đổi văn hóa. Văn hóa liên tục thay đổi và quá trình này diễn ra rất nhanh chóng do các nguyên nhân chủ yếu sau: Tuy vậy, các yếu tố văn hóa không phải đều thay đổi ở cùng một mức độ, mặc dù văn hóa vật chất và phi vật chất tác động qua lại với nhau nhưng yếu tố văn hóa vật chất thường thay đổi nhanh hơn. Sự không đồng đều trong thay đổi đó gọi là "độ trễ văn hóa". Công nghệ khiến cho người phụ nữ này có thể sinh con nhờ trứng của một phụ nữ khác thụ tinh trong ống nghiệm rõ ràng đặt ra vấn đề phải hiểu thế nào là tình mẫu tử, tình phụ tử nhưng công nghệ đó thay đổi nhanh hơn những giá trị như tình mẫu tử, tình phụ tử. Chủ nghĩa vị chủng văn hóa và thuyết tương đối văn hóa. Trong một nền văn hóa tồn tại nhiều "tiểu văn hóa" và trên Trái Đất của chúng ta lại có rất nhiều nền văn hóa. Văn hóa không chỉ là cơ sở đối với nhận thức của con người về thế giới mà còn đối với vấn đề đánh giá đúng, sai; tốt, xấu... Do vậy một vấn đề đương nhiên phải đặt ra là cá nhân đánh giá và phản ứng trước những mẫu văn hóa khác biệt thậm chí rất khác biệt với mẫu văn hóa của mình như thế nào. Các nhà xã hội học phân biệt hai cách ứng xử đối với những mẫu văn hóa khác: Mô hình lý thuyết nghiên cứu văn hóa.
Văn hóa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4114
Có hai mô hình xã hội học chính được sử dụng để nghiên cứu văn hóa: Ngoài ra còn có hai mô hình lý thuyết khác được sử dụng để phân tích văn hóa trong đó nhấn mạnh văn hóa được hình thành trong thế giới tự nhiên vì thế được gọi là phân tích văn hóa theo chủ nghĩa tự nhiên:
Màu sắc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4116
Màu sắc là đặc trưng của nhận thức thị giác được mô tả thông qua "các loại" màu, với các tên như đỏ, cam, vàng, xanh lá cây, xanh dương hoặc tím. Nhận thức về màu sắc này xuất phát từ sự kích thích của các tế bào cảm quang (đặc biệt là tế bào hình nón trong mắt người và mắt động vật có xương sống khác) bằng bức xạ điện từ (trong phổ nhìn thấy trong trường hợp của con người).Các loại màu và thông số kỹ thuật vật lý của màu được liên kết với các vật thể thông qua các bước sóng của ánh sáng được phản xạ từ chúng và cường độ của chúng. Sự phản xạ này bị chi phối bởi các tính chất vật lý của vật thể như sự hấp thụ ánh sáng, quang phổ phát xạ, .v.v. Bằng cách xác định một không gian màu, màu sắc có thể được xác định bằng số theo tọa độ, mà năm 1931 cũng được đặt tên theo thỏa thuận toàn cầu với các tên màu được quốc tế đồng ý như đã đề cập ở trên (đỏ, cam, v.v.) bởi Ủy ban Chiếu sáng Quốc tế. Các không gian màu RGB ví dụ là một không gian màu sắc tương ứng với 3 lớp màu của con người và các tế bào hình nón ba loại mà đáp ứng với ba dải ánh sáng: bước sóng dài, đạt đỉnh gần 564-580 nm "(màu đỏ);" bước sóng trung bình, đạt cực đại gần 534-545 nm ("màu xanh lá cây"); và ánh sáng bước sóng ngắn, gần 420-440 nm ("màu xanh"). Cũng có thể có nhiều hơn ba kích thước màu trong các không gian màu khác, chẳng hạn như trong mô hình màu CMYK, trong đó một trong các kích thước liên quan đến tính màu sắc của một màu nhất định). Khả năng cảm thụ hình ảnh của "đôi mắt" của các loài khác cũng thay đổi đáng kể so với con người và do đó dẫn đến nhận thức "màu sắc" tương ứng khác nhau mà không thể dễ dàng so sánh với nhau. Chẳng hạn, ong mật và ong vò vẽ có tầm nhìn màu ba màu nhạy cảm với tia cực tím nhưng không nhạy cảm với màu đỏ. Papilio bướm có sáu loại cơ quan thụ quang và có thể có tầm nhìn 5 lớp màu.
Màu sắc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4116
Hệ thống thị giác màu phức tạp nhất trong vương quốc động vật đã được tìm thấy trong các loài tôm tít (như tôm bọ ngựa) với tối đa 12 loại thụ thể quang phổ được cho là hoạt động như nhiều đơn vị lưỡng sắc. Khoa học về màu sắc đôi khi được gọi là khoa học sắc ký, hoặc đơn giản là khoa học màu sắc. Nó bao gồm nghiên cứu về nhận thức màu sắc của mắt và não người, nguồn gốc của màu sắc trong vật liệu, lý thuyết màu sắc trong nghệ thuật và vật lý của bức xạ điện từ trong phạm vi nhìn thấy (nghĩa là, thường được gọi đơn giản là "ánh sáng"). Vật lý của màu sắc. Các dao động của điện trường trong ánh sáng tác động mạnh đến các tế bào cảm thụ ánh sáng trong mắt người. Có ba loại tế bào cảm thụ ánh sáng trong mắt người, cảm nhận 3 vùng quang phổ khác nhau (tức ba màu sắc khác nhau). Sự kết hợp cùng lúc 3 tín hiệu từ ba loại tế bào này tạo nên những cảm giác màu sắc phong phú. Để tạo ra hình ảnh màu trên màn hình, người ta cũng sử dụng ba loại đèn phát sáng ở 3 vùng quang phổ nhạy cảm của người (xem phối màu phát xạ). Tế bào cảm giác màu đỏ và màu lục có phổ hấp thụ rất gần nhau, do vậy mắt người phân biệt được rất nhiều màu nằm giữa màu đỏ và lục (màu vàng, màu da cam, xanh nõn chuối...). Tế bào cảm giác màu lục và màu lam có phổ hấp thụ nằm xa nhau, nên mắt người phân biệt về các màu xanh không tốt. Trong tiếng Việt, từ "xanh" đôi khi hơi mơ hồ - vừa mang nghĩa xanh lục vừa mang nghĩa xanh lam. Màu bổ túc. Những cặp màu bổ túc là những cặp màu có tính tương phản mạnh, mà khi kết hợp với nhau đúng tỷ lệ, sẽ tạo ra màu trắng (theo nguyên tắc phối màu cộng) hoặc đen (theo nguyên tắc phối màu trừ). Trong hệ phối màu trừ truyền thống, được các họa sĩ sử dụng lâu nay, những cặp màu bổ túc là: Những màu này không thể gây cảm giác đồng thời đối với con người, chẳng hạn không thể có một màu gọi là "đỏ - lục" hoặc "vàng - tím".
Màu sắc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4116
Điều này tương tự cảm giác về nhiệt độ, không có cảm giác nào được gọi là cảm giác "nóng - lạnh", mà là "nóng" hoặc "lạnh". Trong hệ phối màu cộng thì những cặp màu bổ túc là: Y học của màu sắc. Y học hiện nay cho rằng sắc màu làm cho cuộc sống mỗi con người đẹp hơn. Mỗi màu khác nhau và có một ý nghĩa khác nhau. Đây là một thứ do chính thiên nhiên ban tặng. Cảm giác màu. Màu sắc có 2 cảm giác: màu nóng và màu lạnh. Các màu có cảm giác nóng là các màu như: đỏ, vàng, cam, hồng... Màu có cảm giác lạnh như: xanh da trời, xanh lá cây, tím nhạt... Riêng màu trắng và đen hội họa không coi đấy là 2 màu. Tái tạo màu. Phương pháp tái tạo màu trên phim đen trắng được làm như sau:
Giấy điện tử
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4118
Giấy điện tử, là một công nghệ cho phép thay đổi hình ảnh hiển thị hấp thụ trên "giấy". Tờ "giấy" này có thể làm bởi công nghệ điện tử hữu cơ sử dụng chất dẻo dẫn điện bên trong có chứa các hòn bi tích điện bé xíu có thể quay, hoặc chuyển động dưới điện trường tạo ra bởi các điện cực trên giấy, làm thay đổi hiển thị trên giấy như các điểm ảnh trên màn hình máy tính. Giấy điện tử không phát sáng, mà chỉ hấp thụ và phản xạ ánh sáng tự nhiên, giống như hiển thị trên sách báo, do vậy có thể làm người đọc cảm thấy dễ chịu hơn so với nhìn màn hình máy tính. Làm bằng chất dẻo, giấy này có thể uốn được, nhẹ và có thể rẻ hơn màn hình thông thường. Ngoài ra, các điểm ảnh trên giấy có thể giữ nguyên trạng thái mà không cần nguồn năng lượng, khiến giấy này tiết kiệm năng lượng, và không nhấp nháy tần số cao có thể có hại cho mắt người. Một số nhược điểm hiện tại của giấy này là tốc độ đổi màu chậm và độ tương phản thấp. Tuy nhiên những nhược điểm này có thể sẽ được tháo gỡ. Lịch sử. Giấy điện tử được phát triển lần đầu vào những năm 1970 bởi Nick Sheridon tại Trung tâm nghiên cứu Palo Alto của Xerox. Tờ giấy điện tử đầu tiên, Gyricon, chứa các hòn bi tích điện bé xíu một mặt trắng và mặt kia đen. Các "chữ" hiện ra nhờ thay đổi điện trường, làm quay các hòn bi theo ý muốn. Những năm 1990 một loại giấy điện tử khác được phát minh bởi Joseph Jacobson. Giấy này dùng các ống nhỏ chứa các hòn bi trắng nằm trong dầu có màu. Các mạch điện trên giấy điều khiển sự lên xuống của các hòn bi, thay đổi màu sắc của các ống. Joseph Jacobson gây dựng nên công ty E Ink năm 1997 để sản xuất giấy điện tử thương mại. Năm 1999, sản phẩm đầu tiên ra đời là một bảng hiển thị trong siêu thị. E Ink tiếp tục phát triển các phiên bản dùng bi đen và trắng trong dầu trong suốt. Ngày nay có nhiều kỹ thuật khác nhau được phát triển bởi nhiều công ty trong lĩnh vực. Ví dụ như thay đổi công nghệ LCD, hiển thị điện màu, và công nghệ tương tự Etch-A-Sketch của Đại học Kyushu. Các công ty trong ngành hiện nay là Gyricon (con đẻ của Xerox), Philips Electronics, Kent Displays, Nterra... Tháng 4, 2004, Sony cho ra mắt màn hiển thị giấy điện tử thương mại đầu tiên, LIBRIé. Liên kết ngoài.
Giấy điện tử
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4118
Liên kết ngoài. [[Thể loại:Phát minh của Hoa Kỳ]] [[Thể loại:Kỹ thuật điện tử]] [[Thể loại:Giấy]] [[Thể loại:Công nghệ hiển thị]]
Séc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119
Séc (tiếng Séc: "Česko"), tên chính thức là Cộng hòa Séc ( ), là quốc gia nội lục thuộc khu vực Trung Âu và giáp Ba Lan, Đức, Áo và Slovakia. Thủ đô và thành phố lớn nhất của quốc gia là Praha với hơn 1,3 triệu dân cư ngụ tại đây. Cộng hòa Séc là quốc gia đa đảng theo chế độ cộng hòa đại nghị. Tổng thống là người đứng đầu nhà nước, còn thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Quốc hội có hai viện gồm thượng viện và hạ viện. Cộng hòa Séc gia nhập NATO vào năm 1999 và trở thành thành viên của Liên minh châu Âu từ năm 2004. Ngày 21 tháng 12 năm 2007, Cộng hòa Séc đã thông qua Hiệp ước Schengen, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc đi lại và du lịch vào nước này. Ngoài ra, Cộng hòa Séc là thành viên của các tổ chức OECD, OSCE, Ủy hội châu Âu và Nhóm Visegrád. Lãnh thổ Cộng hòa Séc bao gồm các vùng đất đã từng tồn tại trong lịch sử là Bohemia, Morava và 1 phần Silesia. Séc trở thành bộ phận của Đế quốc Áo và Đế quốc Áo-Hung trong hàng thế kỉ cho đến năm 1918 khi Séc cùng với Slovakia tuyên bố thành lập nước Tiệp Khắc. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Tiệp Khắc bị phát xít Đức chiếm đóng. Sau đó, nước này trở thành quốc gia xã hội chủ nghĩa cho đến năm 1989 khi cuộc Cách mạng Nhung diễn ra đưa đất nước trở về tiến trình dân chủ. Ngày 1 tháng 1 năm 1993, một cuộc ly khai đã diễn ra, Tiệp Khắc lại tách thành 2 quốc gia độc lập là Séc và Slovakia. Tên gọi. Tên gọi cũ trong tiếng Anh của Cộng hòa Séc là "Bohemia" biến đổi từ tiếng Latinh "Boiohaemum" có nghĩa là "quê hương của người Boii". Tên gọi Séc hiện tại lấy từ tên "Čechy" chuyển hóa từ cách phát âm "Cžechy" của Ba Lan. Sau khi Tiệp Khắc ("Československo" trong tiếng Séc hay "Czechoslovakia" trong tiếng Anh), 1 liên bang bao gồm Séc và Slovakia giải thể thành 2 quốc gia riêng biệt, Séc không có tên gọi chính thức trong tiếng Anh. Năm 1993, Bộ Ngoại giao Cộng hòa Séc đề nghị tên Czechia như là tên thay thế chính thức cho tất cả trường hợp không phải là các văn bản chính thức và tên gọi của cơ quan chính quyền nhưng tên gọi này không sử dụng rộng rãi trong các văn bản tiếng Anh như là Czech Republic.
Séc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119
Tháng 4 năm 2016 chính phủ Séc dự định sẽ đề nghị lên Liên Hợp Quốc về việc coi "Czechia" là 1 trong những tên gọi chính trong cơ sở dữ liệu địa lý. Tên "Séc" trong tiếng Việt là phiên âm của từ "tchèque" trong "République tchèque" ("Cộng hòa Séc") từ tiếng Pháp (nếu không dùng kèm từ "République" - "Cộng hòa" thì nước này trong tiếng Pháp gọi là "Tchéquie", đọc phiên âm như là "Séc-ki"). Hiện tại trong tiếng Trung, Séc vẫn được gọi là Tiệp Khắc (捷克) lấy chữ Hán có âm Quan thoại gần giống ("Jiékè") để phiên âm từ quốc hiệu "Česko". Tuy nhiên "Tiệp Khắc" hay "Tiệp" trong tiếng Việt hiện dùng để chỉ nhà nước liên bang cũ của Séc và Slovakia hoặc các chính thể tương tự. Lịch sử. Tiền sử. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy bằng chứng của người tiền sử sinh sống tại vùng đất ngày nay là Cộng hòa Séc. Từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên, các bộ tộc Celt, Boii đã đến Séc định cư. Đến thế kỷ I, các bộ tộc Marcomanni và Quani tại vùng đất thuộc Đức ngày nay cũng đến sinh sống tại vùng đất này. Trong suốt Giai đoạn Di cư tại châu Âu vào thế kỷ 5, các bộ lạc thuộc Đức đã rời khỏi vùng đất Séc và di tản ra các vùng đất ở phía Đông và phía Tây. Người Slav từ vùng Biển Đen-Karpat định cư tại đây (do các cuộc tấn công từ vùng Siberia và các bộ lạc Đông Âu: Hung, Avar, Bulgar và Magyar). Vào thế kỷ 6 họ di cư tới các vùng đất tại phía Nam như Bohemia, Moravia và 1 số vùng đất mà ngày nay thuộc về lãnh thổ Áo. Trong suốt thế kỷ VII, thương gia Samo đến từ vùng Francia đã lãnh đạo và ủng hộ cuộc khởi nghĩa của người Slav để chống lại tộc người Avar năm 623, trở thành người thống trị của Vương quốc Slav đầu tiên. Đây là tổ chức chính quyền đầu tiên của người Slav nhưng thực tế đây là 1 liên minh của 1 số bộ lạc chứ không thực sự là 1 quốc gia quân chủ chuyên chế. Đại Moravia. Sau khi Đế chế của vua Samo tan rã, người Moravia và Nitra đã thành lập các công quốc mới. Năm 833, Mojmir I của Moravia đã tấn công và sáp nhập công quốc Nitra, lập ra 1 công quốc duy nhất là Đại Moravia ("Velká Morava"). Năm 846, Mojmir I nhường ngôi cho người cháu của mình là Rastislav (846-870).
Séc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119
Dưới thời Rastislav, 1 cuộc cải cách văn hóa đã diễn ra khi 2 nhà truyền giáo Kyrillô và Mêthôđiô bị người này mời đến Đại Moravia để truyền bá đạo Thiên chúa vào đất nước này. Họ cũng góp công trong việc xây dựng bảng chữ cái của người Slav tức bảng ký tự Cyril. Dưới thời vua Svatopluk I, Đại Moravia đạt tới sự mở rộng lớn nhất về diện tích. Lãnh thổ của nó trải dài trên các vùng đất ngày nay là Hungary, Ba Lan, Áo, Đức, Serbia, Slovenia, Croatia và Ukraina. Về sau, những cuộc chiến tranh với Đế chế Frank đã làm cho Đại Moravia suy yếu và những người Hungary xâm lược đã khiến đất nước tan rã vào đầu thế kỷ 10. Thời kỳ Trung cổ. Năm 995, công quốc Bohemia thành lập dưới sự lãnh đạo của vương triều Premyslid, thành viên của 1 bộ tộc tên là Séc. Vương triều Premyslid đã thống nhất các vương triều Séc khác và thành lập 1 chính quyền trung ương. Đầu thế kỷ XI, công quốc Bohemia đã chinh phục nước Đại Moravia. Tuy Moravia vẫn là 1 lãnh địa tách biệt của Bohemia song nước này lại bị cai trị bởi 1 trong những người con trai của vua Bohemia. Vào năm 1306, dòng họ Premyslid không có người kế vị. Sau những cuộc chiến giành quyền lực, dòng họ Luxemburg đã đoạt được ngôi vua Bohemia. Vị vua thứ 2 của triều đại Luxemburg là Karel IV (1342-1378, "Charles" trong tiếng Anh và tiếng Pháp, "Karl" trong tiếng Đức) đã thay đổi đất nước Bohemia. Năm 1344, người này nâng chức Giám mục của thành phố Praha lên thành tổng Giám mục đồng thời kiềm chế quyền lực của các quý tộc Séc và đưa Bohemia, Moravia trở thành các quận hành chính và đưa Brandenburg (tới năm 1415), Lusatia (tới năm 1635), Silesia (tới năm 1742) vào quyền kiểm soát của Séc. Karel IV cũng tạo ra các công trình xây dựng như lâu đài Praha và cầu Karl. Karel IV cũng thành lập Đại học Karl ở Praha ("Univerzita Karlova") năm 1348 với mong muốn biến Praha thành 1 trung tâm học vấn của châu Âu. Vào thế kỷ XV, 1 cuộc chiến tranh tôn giáo đã diễn ra tại Séc, lịch sử gọi là cuộc Chiến tranh Hussite. Séc suy yếu và đến năm 1526 đã bị sáp nhập vào đế chế Habsburg. Thời kỳ thuộc triều đại Habsburg. Sau khi bị sáp nhập vào Đế chế Habsburg, người Séc bắt đầu bị đồng hóa.
Séc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119
Tiếng Séc bị cấm sử dụng và tiếng Đức trở thành ngôn ngữ chính thức ở Séc. Năm 1618, người Bohemia đã nổi dậy chống lại triều đình Habsburg. Họ đã chọn 1 người theo đường lối của Jean Calvin là Frederick của Palatinate ("Fridrich Falcký") lên ngôi. Nhưng đến ngày 6 tháng 11 năm 1620, quân đội Séc bị đánh bại tại Trận Núi Trắng ("Bitva na Bílé hoře"). Chiến tranh Ba mươi năm (1618-1648) đã phá hủy phần lớn những làng mạc, thành phố của Bohemia. Đến thời nữ hoàng Maria Theresa và con trai, vua Joseph II, những người chịu ảnh hưởng của Thời đại Khai sáng, tình hình Bohemia bắt đầu có những chuyển biến. Tuy chính sách đồng hóa vẫn không thay đổi nhưng tình hình xã hội, giáo dục đã cải thiện cho người Séc. Vào thế kỷ XIX, chủ nghĩa bành trướng của Pháp dưới thời vua Napoleon I đã kích thích tinh thần phục hưng dân tộc của người Séc. Tầng lớp trí thức mới hơn đã đóng vai trò nhất định trong việc phục hưng và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Tháng 2 năm 1848, cuộc Cách mạng tháng 2 ở Pháp đã làm bùng nổ cao trào cách mạng tư sản lan khắp châu Âu. Vào ngày 12 tháng 6 năm 1848, khởi nghĩa của những người dân chủ cấp tiến và sự hưởng ứng của nhân dân đã bùng nổ tại Praha và đến ngày 17 tháng 6, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt. Năm 1867, nhà nước quân chủ lưỡng hợp Áo-Hung ra đời trong đó Séc nằm trong tầm ảnh hưởng của Áo. Vào những năm ở nửa sau của đế chế Áo-Hung, tình hình giữa người Séc và người Đức ở Bohemia trở nên căng thẳng hơn. Mối quan hệ xấu đi giữa các dân tộc trong đế chế đã đẩy nhanh hơn sự sụp đổ của quốc gia này. Năm 1900, Tomáš Garrigue Masaryk người sau này trở thành tổng thống Tiệp Khắc đã thành lập Đảng Tiến bộ Séc. Ý tưởng về quốc gia kết hợp giữa hai dân tộc Séc và Slovakia bắt đầu hình thành. Tiệp Khắc (1918-1993). Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc cùng với sự sụp đổ của Đế chế Áo-Hung, ngày 28 tháng 10 năm 1918, Cộng hòa Tiệp Khắc (bao gồm Séc và Slovakia ngày nay) tuyên bố độc lập. Hiệp ước St. Germain bị ký kết vào tháng 9 năm 1919 đã chính thức công nhận nền cộng hòa mới của Tiệp Khắc.
Séc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119
Sau đó, Ruthenia cũng sáp nhập vào Tiệp Khắc vào tháng 6 năm 1920. Quốc gia Tiệp Khắc mới thành lập có dân số khoảng 13,5 triệu người, thừa hưởng 70-80% các cơ sở công nghiệp của Áo-Hung. Lúc đó Tiệp Khắc nằm trong 10 nước công nghiệp hóa nhất thế giới. Trước chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền phát xít ở Đức bắt đầu đe dọa tiến hành xâm lược Trung Âu. Sau khi sáp nhập nước Áo vào lãnh thổ Đức, Tiệp Khắc trở thành mục tiêu tiếp theo của phát xít Đức. Tháng 4 năm 1938, Đức nêu yêu sách đòi vùng đất Sudetenland của Tiệp Khắc. Ngày 29 tháng 9 năm 1938, Hiệp ước München bị ký kết. Anh, Pháp vì không muốn chiến tranh với Đức đã quyết định vứt bỏ liên minh quân sự với Tiệp Khắc. Và hậu quả là đến ngày 16 tháng 3 năm 1939, toàn bộ lãnh thổ Tiệp Khắc đã bị Đức chiếm đóng. Trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai, khoảng 390.000 người dân thành thị trong đó có 83.000 người Do Thái đã bị giết hại hoặc bị hành quyết. Hàng trăm ngàn người đã bị đưa vào các nhà tù và các trại tập trung để làm việc. Chiến tranh kết thúc vào ngày 9 tháng 5 năm 1945 với việc cuộc khởi nghĩa Praha lật đổ ách thống trị của phát xít Đức thành công và quân đội Liên Xô và Hoa Kỳ tiến vào Tiệp Khắc. Từ năm 1945-1946, đa phần người Đức thiểu số (khoảng 2,7 triệu người) đã bị trục xuất khỏi Tiệp Khắc sang Đức và Áo. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc phát triển nhanh hơn do sự thất vọng của người Tiệp Khắc đối với phương Tây vì đã vứt bỏ họ trong Hiệp ước München và do ảnh hưởng ngày càng mạnh của Liên Xô. Trong cuộc bầu cử năm 1946, Đảng Cộng sản đã giành tỉ lệ phiếu 38%, trở thành chính đảng lớn nhất và chính thức cầm quyền từ tháng 2 năm 1948. Sau đó, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã xây dựng 1 chính quyền toàn cộng sản. Sau khi nắm quyền, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã quốc hữu hóa các ngành kinh tế, xây dựng nền kinh tế kế hoạch. Kinh tế tăng trưởng nhanh hơn trong thập niên 1950 và thập niên 1960 sau đó bắt đầu giảm sút từ thập niên 1970 và rơi vào khủng hoảng hơn.
Séc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119
Chính quyền cộng sản trở nên thiếu dân chủ hơn. Năm 1968, phong trào Mùa Xuân Praha bùng nổ đòi mở rộng tự do dân chủ và thực hiện đa nguyên chính trị song sau đó bị quân đội Liên Xô đàn áp và dập tắt. Tháng 11 năm 1989, cuộc Cách mạng Nhung lụa đưa Tiệp Khắc trở lại quá trình dân chủ. Ngày 1 tháng 1 năm 1993, Tiệp Khắc diễn ra cuộc "chia li trong hòa bình". 2 dân tộc Séc và Slovakia tách ra thành lập 2 quốc gia mới là Cộng hòa Séc và Cộng hòa Slovakia. Cộng hòa Séc (từ 1993). Sau khi lại trở thành 1 quốc gia độc lập vào năm 1993, quốc hội Cộng hòa Séc đã quyết định giữ nguyên lá cờ của Liên bang Tiệp Khắc cũ làm lá cờ của Cộng hòa Séc. Cùng năm đó, nước này gia nhập Liên Hợp Quốc. Đến năm 1995, Cộng hòa Séc trở thành thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ngày 12 tháng 3 năm 1999, Cộng hòa Séc gia nhập NATO. Vào năm 2004, cùng với 9 quốc gia Đông Âu và Nam Âu khác, Cộng hòa Séc đã trở thành thành viên của Liên minh châu Âu. Kinh tế Cộng hòa Séc đi theo nền kinh tế thị trường và đã trên đà phát triển song vẫn đối mặt với những mạo hiểm và thách thức. Chính trị. Hệ thống chính trị. Cộng hòa Séc là quốc gia đa đảng theo chế độ dân chủ nghị viện. Theo hiến pháp, tổng thống là người đứng đầu nhà nước còn thủ tướng là người điều hành chính phủ. Tổng thống Cộng hòa Séc do Quốc hội bầu với nhiệm kỳ 5 năm. Theo Hiến pháp, tổng thống không được phép nắm quá 2 nhiệm kỳ liên tiếp. Tổng thống có vai trò chủ yếu về mặt nghi thức song cũng có thể dừng thông qua 1 đạo luật hoặc giải tán quốc hội trong những trường hợp đặc biệt. Cộng hòa Séc đã thông qua bộ luật về việc bầu cử tổng thống trực tiếp tức là tổng thống sẽ do dân bầu ra chứ không do Quốc hội. Thủ tướng Cộng hòa Séc là người đứng đầu chính phủ. Thủ tướng nắm trong tay 1 số quyền lực như quyết định các vấn đề đối nội và đối ngoại, triệu tập quốc hội và chọn ra các bộ trưởng của chính phủ.
Séc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119
Quốc hội của Cộng hòa Séc tổ chức theo mô hình lưỡng viện bao gồm hạ viện và thượng viện. Hạ viện ("Poslanecká sněmovna") gồm 200 ghế còn thượng viện ("Senát") bao gồm 81 ghế. Tại Cộng hòa Séc có 14 khu vực bầu cử tương ứng với 14 khu vực hành chính của cả nước. Tòa án Hiến pháp (hay Tòa án Lập pháp) của Cộng hòa Séc gồm có 15 thành viên và có nhiệm kỳ 10 năm. Các thành viên của Tòa án Hiến pháp do tổng thống chỉ định và thông qua bởi thượng viện. Là quốc gia đa đảng, chính trường Cộng hòa Séc có sự tham gia của các đảng phái. Chẳng hạn trong kỳ bầu cử vào Hạ viện Quốc hội Séc tiến hành ngày 28 và 29 tháng 5 năm 2010 đã có 27 đảng phái và tổ chức chính trị đăng ký tham gia. 2 đảng có ảnh hưởng lớn nhất ở Cộng hòa Séc là Đảng Dân chủ Công dân ("Občanská demokratická strana") và Đảng Xã hội Dân chủ Séc ("Česká strana sociálně demokratická"). Quân đội. Quân đội Séc gồm có lục quân, không quân và lực lượng hậu cần đặc biệt. Quân đội Séc là 1 phần của Quân đội Tiệp Khắc trước kia vốn là 1 trụ cột của Hiệp ước Warsaw cho đến năm 1989. Từ khi gia nhập NATO vào ngày 12 tháng 3 năm 1999, lực lượng quân đội Séc đã có những sự thay đổi đa phương diện. Tuy số lượng binh lính giảm xuống còn khoảng 67.000 nhưng về mặt chất lượng lại nâng cao và trình độ tổ chức chuyên nghiệp hơn. Năm 2004, chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc bị giải thể. Lực lượng quân đội Séc ngoài nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ đất nước còn tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc tại Iraq, Afghanistan, Bosna và Hercegovina, Kosovo. Năm 2005, ngân sách quốc phòng của Cộng hòa Séc đạt khoảng hơn 2 tỉ USD chiếm 1,81% GDP. Hành chính. Bắt đầu từ năm 2000, Cộng hòa Séc chia thành 13 khu vực ("kraje" hoặc "kraj") và 1 thủ đô. Mỗi khu vực có 1 Hội đồng Địa phương ("krajské zastupitelstvo") bầu chọn qua bầu cử và người lãnh đạo riêng ("hejtman"). Ở Praha, quyền lực do Hội đồng Thành phố và thị trưởng của Praha thi hành. Mỗi khu vực nói trên của Cộng hòa Séc bị coi là 1 vùng cấp 3 của Liên minh châu Âu.
Séc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119
Trong khi đó, toàn bộ lãnh thổ Cộng hòa Séc bị coi là 1 vùng cấp 2 của Liên minh châu Âu. ("Xem Các vùng của Liên minh châu Âu") Địa lý. Địa hình. Về mặt địa lý, Cộng hòa Séc nằm ở khu vực Trung Âu còn theo phân loại của Liên Hợp Quốc thì nước này thuộc khu vực Đông Âu. Về mặt lịch sử và văn hóa, Cộng hòa Séc bị xem là có liên hệ gần gũi hơn với các nước Đông Âu đặc biệt là trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Diện tích Cộng hòa Séc xếp hàng thứ 115 thế giới (xem "Danh sách quốc gia theo diện tích"). Tổng diện tích của nước này là 78.886 km², trong đó phần đất chiếm 77.276 km² và phần nước chiếm 1.590 km². Do bị bao quanh bởi các quốc gia khác nên Cộng hòa Séc không giáp biển. Nước này có chung đường biên giới 1.881 km với các nước Đức về phía tây, Ba Lan về phía đông bắc, Slovakia về phía đông nam và Áo về phía nam. Về mặt lịch sử, lãnh thổ Cộng hòa Séc có thể chia làm 3 vùng lịch sử: Bohemia, Moravia và Silesia. Silesia chỉ có 1 phần lãnh thổ ở Cộng hòa Séc. Địa hình nước này có thể chia thành 2 miền chính: Bohemia ở phía tây và Moravia ở phía đông. Địa hình Bohemia có cấu trúc như 1 bồn địa gồm những đồng bằng và cao nguyên bao bọc xung quanh bởi những dãy núi như dãy Karkonosze và dãy Sudeten. Đỉnh núi Snezka tại Bohemia và ngọn núi cao nhất Cộng hòa Séc (1602 m). Trong khi địa hình Bohemia bằng phẳng hơn thì ngược lại, địa hình Moravia chủ yếu là đồi núi. Cộng hòa Séc là nơi bắt nguồn của sông Elbe, sông Vltava ở xứ Bohemia và sông Morava ở xứ Moravia. Các con sông của nước này chảy vào các biển khác nhau như: biển Bắc, biển Baltic và biển Đen. Về khoáng sản, Cộng hòa Séc có 1 số tài nguyên như than đá, than chì, cao lanh, đất sét, gỗ xây dựng... Khí hậu. Cộng hòa Séc nằm trong khu vực khí hậu ôn hòa. Do nằm sâu trong lục địa và không còn chịu các tác động của biển nên Cộng hòa Séc có khí hậu ôn đới lục địa, 1 nguyên nhân gây ra sự chênh lệch giữa thời tiết mùa hạ và mùa đông tại nước này.
Séc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119
Sự đa dạng của địa hình cũng góp phần làm nên sự đa dạng của các kiểu khí hậu khác nhau tại Cộng hòa Séc. Nhìn chung trên toàn lãnh thổ Cộng hòa Séc, khí hậu về mùa đông không khắc nghiệt như 1 số nước. Nhiệt độ trung bình thấp nhất tại nước này vào tháng 1, tháng lạnh nhất trong năm là -5,4 °C. Tuyết thường rơi nhiều hơn tại 1 số vùng núi nhưng tan nhanh hơn tại các vùng thấp hơn của Cộng hòa Séc khiến cho mùa đông ở nước này ẩm hơn. Khi mùa đông kết thúc, băng tuyết tan chảy làm mực nước các con sông dâng lên và thỉnh thoảng có thể gây lũ. Mùa hè tại Cộng hòa Séc có nhiệt độ trung bình cao nhất vào tháng 7, tháng nóng nhất tại Cộng hòa Séc là 23,3 °C. Mùa hè tại nước này có nhiều mưa hơn 1 số nước. Những trận bão từ Đại Tây Dương có thể tràn vào nước này cũng mang theo 1 lượng mưa bổ sung. Nhiệt độ và lượng mưa giảm dần về mùa thu và các rừng cây bắt đầu rụng lá. Dân số. Dân số Cộng hòa Séc từng rơi vào khoảng 10,3 triệu người. Dân số tại đây đã có những biến động. Số liệu thống kê năm 1857 cho thấy dân số của vùng đất Séc lúc đó là khoảng 7 triệu người. Sau đó con số này tăng dần qua các năm và đến đầu thế kỷ 20 thì đạt xấp xỉ 9,4 triệu dân. Sang năm 1910, dân số của Séc vượt qua ngưỡng 10 triệu. Các cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai đã khiến cho dân số của nước này giảm sút. Sau chiến tranh, số lượng nhân khẩu của nước này tiếp tục phục hồi. Hiện nay dân số Cộng hòa Séc lại có chiều hướng giảm xuống tuy phần nào đỡ hơn 1 số nước Đông Âu khác. Theo báo cáo dân số năm 2006 của Liên Hợp Quốc, tốc độ tăng dân số của Cộng hòa Séc là -0,03%. Nguyên nhân là do tỉ lệ sinh của nước này giảm cùng với việc Cộng hòa Séc gia nhập EU năm 2004 làm xuất hiện dòng người nhập cư sang các nước phát triển hơn ở Tây Âu kiếm sống. Đa phần dân cư của Cộng hòa Séc là người Séc chiếm tỉ lệ 95%. Bên cạnh đó, tại Séc còn có các cộng đồng dân tộc thiểu số khác như người Slovakia, người Đức, người Ba Lan, người Hungary, người Việt Nam.