title
stringlengths 1
250
| url
stringlengths 37
44
| text
stringlengths 1
4.81k
|
---|---|---|
Séc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119 | Sau khi Liên bang Tiệp Khắc tan rã, 1 bộ phận người Slovakia vẫn tiếp tục ở lại Cộng hòa Séc và trở thành nhóm sắc tộc thiểu số lớn nhất nước này, chiếm 3% dân số. Xếp tiếp sau đó là người Ba Lan. Ở Cộng hòa Séc có 1 số trường tiểu học và trung học cơ sở dạy tiếng Ba Lan. Trước kia, người Đức chiếm 1 tỉ lệ lớn hơn trong dân số Séc nhưng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, chính quyền Tiệp Khắc đã ra lệnh trục xuất khoảng 3 triệu người Đức ra khỏi lãnh thổ nước này. Ngày nay cộng đồng người Đức tại Séc có nguy cơ bị đồng hóa do tiếng Đức không phổ biến bằng 1 số ngôn ngữ khác tại đây.
Bên cạnh các dân tộc có nguồn gốc từ các quốc gia láng giềng trong khu vực còn có 1 số dân tộc khác mới nhập cư vào Séc trong thế kỷ XX. Khi cuộc nội chiến Hy Lạp xảy ra, 1 số người Hy Lạp đã chạy sang Tiệp Khắc đầu tiên là những trẻ em tị nạn vào năm 1948-1949 rồi tiếp đó là thân nhân và cả những người cánh tả tại Hy Lạp. Cộng đồng người gốc Á lớn nhất tại Cộng hòa Séc là người Việt Nam. Người Việt Nam đến Tiệp Khắc lần đầu vào năm 1956 để du học theo thỏa thuận về giáo dục giữa hai chính phủ cộng sản lúc bấy giờ. Số người Việt Nam nhập cư vào Cộng hòa Séc tăng nhanh hơn cho đến khi chế độ xã hội chủ nghĩa tại nước này sụp đổ vào năm 1989. Thế hệ đầu tiên của người Việt Nam tại đây chủ yếu kinh doanh trong những cửa hàng còn thế hệ người Việt tiếp theo sinh ra tại Séc có những thành tích học tập nhất định. Trong năm 2009, có khoảng 70.000 người Việt tại Cộng hòa Séc. Ngày 3 tháng 7 năm 2013, chính phủ Cộng hòa Séc công nhận cộng đồng người Việt tại Séc trở thành dân tộc thứ 14 của quốc gia này.
Người Do Thái từng có 1 cộng đồng lớn hơn tại Cộng hòa Séc nhưng đa phần họ trong Thế chiến Thứ 2 đã bị Đức Quốc Xã tàn sát. Tại Séc những nét văn hóa của người Do Thái đã được gìn giữ đặc biệt là tại thủ đô Praha.
Kinh tế.
Khái quát lịch sử.
Vào thế kỷ XIX, hai vùng đất Bohemia và Moravia của Cộng hòa Séc ngày nay là trung tâm công nghiệp chính của Đế chế Áo-Hung. |
Séc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119 | Vì vậy sau khi Đế chế Áo-Hung sụp đổ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nước này đã thừa kế một phần lớn những cơ sở công nghiệp. Vào thời điểm đó, Tiệp Khắc được đánh giá là một nước có cơ sở hạ tầng tốt với trình độ dân trí cao song nhiều nhà máy và thiết bị của nước này có phần lạc hậu hơn so với các nước tư bản Tây Âu. Trong thời kỳ xã hội chủ nghĩa, kinh tế Tiệp Khắc tương đối phát triển và gắn bó chặt chẽ với Liên Xô. Nhưng đến năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa tại Liên Xô và Đông Âu sụp đổ đã khiến cho nền kinh tế Séc mất đi nhiều thị trường lớn ở phía đông và rơi vào khủng hoảng.
Cuộc Cách mạng Nhung lụa diễn ra vào năm 1989 đã tạo điều kiện cho sự thay đổi căn bản toàn bộ nền kinh tế Séc. Tháng 1 năm 1991, "liệu pháp sốc" đã mang đến những thay đổi rất lớn: 95% các mặt hàng không còn chịu kiểm soát giá cả của nhà nước, lạm phát hạ xuống dưới 10%, tỉ lệ thất nghiệp thấp, thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài giảm đáng kể và đáng chú ý nhất là sự chuyển đổi trọng tâm hợp tác kinh tế từ Đông sang Tây. Cộng hòa Liên bang Đức, Hà Lan và Mỹ trở thành những nhà đầu tư lớn nhất tại Cộng hòa Séc. Sự chuyển đổi đó cũng yêu cầu những cải cách mạnh mẽ về luật pháp và hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho đầu tư và phát triển. Ngân hàng và bưu chính viễn thông được quan tâm đẩy mạnh. Về tài chính, từ năm 1995, tỷ giá hối đoái giữa đồng koruna của Cộng hòa Séc và đôla Mỹ đã được thiết lập một cách ổn định. Sự tư nhân hóa ồ ạt nền kinh tế cũng diễn ra với tốc độ chóng mặt: năm 1998, đã có đến hơn 80% xí nghiệp thuộc sở hữu tư nhân.
Cuộc khủng hoảng chính trị và tài chính 1997 đã tác động mạnh đến nền kinh tế Séc. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1997 hạ xuống còn 0,3%, năm 1998 là -2,3% và năm 1999 là -0,5%. Nguyên nhân là do sự thực hiện "liệu pháp sốc" một cách vội vã và không vững chắc. |
Séc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119 | Chính phủ Cộng hòa Séc đã phải xem xét lại các chính sách kinh tế của mình và điều chỉnh lại sao cho thích hợp hơn như tăng tốc việc hội nhập với các tiêu chuẩn kinh tế của EU, tái cơ cấu các doanh nghiệp, tiến hành tư nhân hóa với các ngân hàng và các ngành dịch vụ công cộng. Bắt đầu từ năm 2000, tốc độ tăng trưởng của nước này dần dần hồi phục. Xuất khẩu vào thị trường EU, đặc biệt là Đức tăng mạnh đã làm giảm thâm hụt thương mại của nước này xuống còn 5% GDP. Năm 2004, Cộng hòa Séc chính thức trở thành một thành viên của Liên minh châu Âu, đòi hỏi nước này phải thúc đẩy quá trình cải cách kinh tế hơn nữa.
Những năm gần đây, Cộng hòa Séc đang trở thành một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển mạnh tại khu vực Đông Âu. Theo số liệu của Quỹ tiền tệ Quốc tế, năm 2016, GDP danh nghĩa của Cộng hòa Séc là 193.535 tỷ USD (GDP theo sức mua tương đương: 34,768 tỷ USD), thu nhập bình quân đầu người đạt 17,570 USD, cao hơn so với nhiều nước Đông Âu khác như Ba Lan, Hungary, Slovakia tuy nhiên vẫn còn thấp hơn mức trung bình của Liên minh châu Âu. Nền kinh tế nước này được đánh giá là tăng trưởng nhanh và ổn định. Năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước này đạt 5,7%. Cộng hòa Séc là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế lớn như Liên minh châu Âu, WTO và OECD.
Các ngành kinh tế.
Nông nghiệp của Cộng hòa Séc không có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Các loại cây trồng chủ yếu của nước này là lúa mì, khoai tây, củ cải đường, cây hublông... Trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp chiếm 3,4% GDP của Cộng hòa Séc.
Vốn là một nước có sẵn những cơ sở công nghiệp từ thế kỷ XIX, nền công nghiệp của Cộng hòa Séc có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển. Các ngành công nghiệp chính của nước này là luyện kim, sản xuất máy móc, thiết bị điện tử, phương tiện giao thông, dệt may, chất hóa học, dược phẩm, chế biến lương thực thực phẩm... Bên cạnh đó, Cộng hòa Séc rất với ngành công nghiệp sản xuất đồ gốm sứ và pha lê. Công nghiệp chiếm tỉ trọng 39,3% trong nền kinh tế. |
Séc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119 | Về phương tiện giao thông, cộng hòa Séc nổi tiếng với ngành chế tạo ô tô cùng thương hiệu ô tô Skoda - được sáng lập năm 1895 bởi Václav Klement và Václav Laurin.
Dịch vụ là lĩnh vực đóng góp nhiều nhất trong nền kinh tế, chiếm 57,3% GDP. Các ngành ngân hàng, công nghệ thông tin, viễn thông là những động lực năng động của nền kinh tế Séc và thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Thương mại là một hoạt động kinh tế quan trọng với các đối tác thương mại chủ yếu là Cộng hòa Liên bang Đức, Slovakia, Áo, Ba Lan... Du lịch cũng là một thế mạnh của Cộng hòa Séc. Năm 2001, doanh thu từ du lịch mang về cho nước này khoảng 118 tỉ koruna, đóng góp tới 5,5% GNP của nước này. Thủ đô Praha thường là lựa chọn hàng đầu của du khách với rất nhiều các công trình văn hóa, lịch sử nổi tiếng. Những khu du lịch spa như Karlovy Vary thường là điểm đến được yêu thích vào các kỳ nghỉ. Những lễ hội âm nhạc hay bia của Cộng hòa Séc cũng góp phần làm đất nước này trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn.
Tiền tệ.
Đồng tiền chính thức hiện nay của Cộng hòa Séc là đồng koruna. Trong tiếng Séc, từ "koruna" có nghĩa là "vương miện". Đồng tiền này chính thức được sử dụng từ ngày 18 tháng 2 năm 1993 sau khi Cộng hòa Séc và Slovakia tách khỏi Tiệp Khắc. Ký hiệu trong giao dịch quốc tế của đồng koruna Séc theo ISO 4217 là CZK.
Đồng tiền koruna của Cộng hòa Séc bắt đầu tham gia các tỷ giá hối đoái từ năm 1995 và được thả nổi kể từ năm 1999. Trong năm 2007, chỉ số lạm phát của đồng tiền này là 2,4% và đã được duy trì ổn định trong suốt nhiều năm qua. Cộng hòa Séc có kế hoạch gia nhập khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (euro) vào năm 2012 nhưng sau đó đã tuyên bố hoãn lại. Đầu năm 2008, Ngân hàng Quốc gia Séc tuyên bố sẽ lùi thời hạn gia nhập khu vực đồng tiền chung đến năm 2019.
Văn hóa.
Văn học.
Văn học Séc bắt nguồn từ thế kỷ VIII Công Nguyên dưới thời Đại Moravia. |
Séc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119 | Hai anh em Cyril và Methodius đã được vương triều Byzantine cử tới Đại Moravia để truyền bá Đạo Thiên chúa, đồng thời sáng lập ra ngôn ngữ viết Slav đầu tiên: tiếng Slavonic cổ viết trên bảng chữ cái Glogotic, tiền thân của bảng ký tự Cyril sau này.
Sau khi Đại Moravia sụp đổ và được thay thế bởi vương triều Bohemia vào thế kỷ IX, tiếng Latinh đã dần lấn lướt tiếng Slavonic cổ để trở thành ngôn ngữ chính thức trong nền văn học Séc. Bên cạnh đó, tiếng Đức cũng trở thành một ngôn ngữ có tầm ảnh hưởng lớn tại vùng đất này cho đến tận cuối thế kỷ XIX. Vào thế kỷ XIII, dưới triều đại Premyslid của Bohemia, nền văn học Séc đã có những thay đổi đáng chú ý. Những nhà thống trị ở Bohemia bắt đầu tách họ ra khỏi nền văn học Tây Âu lúc đó nói chung và cố gắng xây dựng một nền văn học dân tộc riêng của người Séc. Thời kỳ này văn học Séc được chia làm hai thể loại chính là huyền thoại và sử thi về các anh hùng. Văn xuôi cũng bắt đầu xuất hiện trong thời gian này. Hai tác phẩm đáng chú ý xuất hiện trong giai đoạn này là cuốn từ điển Séc-Latinh và bộ sử biên niên đầu tiên viết bằng tiếng Séc: sử biên niên Dalimil.
Trong thời kỳ chiến tranh tôn giáo Hussite, văn học còn được dùng tranh luận và đả kích giữa các nhóm tôn giáo với nhau. Sự phân hóa rõ rệt thể hiện trên phương diện ngôn ngữ: tiếng Latinh được dùng bởi những người theo đạo Thiên chúa, còn tiếng Séc được dùng bởi những người theo đạo Tin lành. Trận Núi Trắng năm 1620 với thất bại của những người Tin lành đã khiến nền văn học viết bằng tiếng Séc bị ảnh hưởng. Những chính sách đồng hóa dưới thời Đế chế Áo và Đế chế Áo-Hung càng làm cho tiếng Séc có nguy cơ biến mất. Tuy nhiên Thời kỳ Khai sáng trong Đế chế Áo-Hung đã lại tạo điều kiện cho tiếng Séc có cơ hội phát triển, cùng với đó là cả một nền văn học Séc mới. Từ đó đến nay, nền văn học Séc đã trải qua nhiều thăng trầm, biến động và sản sinh ra những tác gia lớn. Franz Kafka, nhà văn gốc Do Thái của Cộng hòa Séc với những tác phẩm viết bằng tiếng Đức, ông được coi là người khơi nguồn cho văn học phi thực ở châu Âu. |
Séc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119 | Năm 1984, Jaroslav Seifert đã trở thành công dân Cộng hòa Séc đầu tiên (lúc đó là Tiệp Khắc) đoạt giải thưởng Nobel về Văn học.
Tôn giáo.
Cộng Hòa Séc, cùng với Estonia, là một trong những nước có tỉ lệ người không tín ngưỡng cao nhất thế giới mặc dù người dân Séc từ xưa đã luôn có thái độ khoan dung đối với tôn giáo. Theo thống kê năm 2001, 59% dân số Cộng hòa Séc không theo một tôn giáo nào, một tỉ lệ khá lớn nếu so sánh với các nước láng giềng như Đức và Ba Lan .. Tôn giáo phổ biến nhất tại Cộng hòa Séc là Công giáo, chiếm tỉ lệ 26,8%. Tin Lành chiếm tỉ lệ 2,1%. Trong vòng từ năm 1991 đến năm 2001, tỉ lệ người không có tín ngưỡng tăng 19.1 phần trăm (gần hai triệu người) trong vòng 10 năm. Cơ Đốc Giáo dường như không có dấu hiệu phát triển và số người theo đạo Công giáo giảm một triệu người. Chỉ 19% người dân Séc nói rằng họ tin vào Chúa (ty lệ thấp nhì trong Liên Minh châu Âu sau Estonia với 16%)
Âm nhạc.
Tại Cộng hòa Séc, giao hưởng và nhạc kịch có một sư liên hệ mật thiết với các vũ khúc dân gian truyền thống của Bohemia và Moravia. Một trong những thể loại nhạc độc đáo và đặc trưng nhất của xứ Bohemia là "Polka", một loại nhạc nhảy có tiết tấu nhanh và vui nhộn được hình thành vào giữa thế kỷ XIX. Nhạc Polka (tiếng Séc có nghĩa là "cô gái Ba Lan") đã nhanh chóng trở nên thịnh hành không chỉ ở châu Âu mà còn trên khắp thế giới, đồng thời nó cũng trở thành chất liệu để viết giao hưởng của hai nhạc sĩ người Áo là Johann Strauss I và Johann Strauss II. Nhạc dân gian Moravia được chơi với nhiều loại nhạc cụ như đại hồ cầm, kèn clarinet và violông. Nhạc Moravia thường biểu hiện những ảnh hưởng từ nước ngoài, đặc biệt là từ România và Ba Lan.
Ngày nay, các hình thức âm nhạc hiện đại như pop, rock and roll đang ngày càng trở nên phổ biến. Các bài hát trong tiếng Anh nhiều khi được người Séc đặt lại lời theo tiếng Séc và kết hợp với một vài phong cách truyền thống của họ.
Lễ hội.
Cộng hóa Séc có hai ngày quốc khánh (tức ngày độc lập). Ngày 1 tháng 1 năm 1993 là ngày Cộng hòa Séc tách ra từ Liên bang Tiệp Khắc để trở thành một quốc gia độc lập. |
Séc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119 | Còn ngày quốc khánh thứ hai là 28 tháng 10 năm 1918, ngày mà nhân dân hai nước Séc và Slovakia cùng nhau thành lập Liên bang Tiệp Khắc sau sự sụp đổ của Đế chế Áo-Hung.
Giống với nhiều quốc gia châu Âu khác, Cộng hòa Séc cũng tổ chức những ngày lễ quan trọng của Kitô giáo như Lễ Phục sinh, Lễ Giáng sinh. Vào đêm vọng Lễ Giáng Sinh 24 tháng 12, tất cả các thành phố lớn của Cộng hòa Séc đều được trang hoàng lộng lẫy. Ngày tiếp theo là ngày Giáng Sinh 25 tháng 12. Tiếp đó ngày 26 tháng 12 được gọi là ngày Thánh Stêphanô, được coi như ngày Giáng sinh thứ hai của Cộng hòa Séc.
Bên cạnh đó, Cộng hòa Séc còn là điểm đến của nhiều lễ hội văn hóa quốc tế. Lễ hội Âm nhạc Quốc tế Praha được tổ chức vào mùa xuân hàng năm thu hút rất nhiều các dàn nhạc giao hưởng từ khắp nơi trên thế giới. Bên cạnh đó còn có Liên hoan Phim Quốc tế được tổ chức tại thành phố Karlovy Vary hay các lễ hội bia được tổ chức tại nhiều miền khác nhau của đất nước này.
Ẩm thực.
Ẩm thực Cộng hòa Séc có ảnh hưởng lớn đến các nền ẩm thực tại khu vực Trung Âu và bản thân nó cũng chịu ảnh hưởng của các nền ẩm thực khác. Nhiều món ăn phổ biến trong khu vực có nguồn gốc và xuất xứ từ đất nước này. Đa phần các món ăn chính của Cộng hòa Séc đều có thịt, gồm thịt lợn, thịt bò và thịt gà. Do không phải một quốc gia giáp biển nên cá là một món ăn hiếm gặp tại nước này, chủ yếu được dùng nhiều vào dịp Giáng sinh.
Thịt heo hầm với bánh mì hấp và dưa cải muối (tiếng Séc: "vepřo-knedlo-zelo") được coi là một trong những món ăn phổ biến nhất của Cộng hòa Séc. Dưa cải muối trong món ăn này có hai cách chế biến khác nhau. Nó được chế biến chua hơn tại Bohemia và ngọt hơn tại Moravia. Thịt bò hầm nấu với sữa ("svíčková na smetaně") cũng là một món ăn thịt khá phổ biến. Món ăn này gồm những miếng thịt bò hầm chấm với nước sốt đặc từ sữa, được kèm theo bởi bánh mì hấp, một thìa mứt quả và một lát chanh. |
Séc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119 | Một số món ăn nhẹ tiêu biểu cho ẩm thực Séc là món bánh kếp rán ("bramboráky") được làm từ hỗn hợp khoai tây, bột mì, sữa kèm theo một số gia vị rồi đem rán. Bên cạnh đó, pho mát cũng là một món ăn được ưa chuộng với nhiều chủng loại đa dạng.
Món bánh mì hấp có nhân mứt hoa quả xay nghiền ("ovocné knedlíky") được làm từ bột khoai tây nhào trộn và bộc mứt nghiền trái cây, sau đó đem luộc và được dùng với bơ, đường và pho mát. Có rất nhiều loại bánh bọc hoa quả khác nhau được chế biến cùng nhiều loại trái cây đa dạng như dâu tây, đào, anh đào, mơ, mận... Những món ăn này không chỉ đơn thuần được coi như món tráng miệng mà đôi khi được xem là một món ăn chính trong bữa ăn. Trong dịp lễ Giáng sinh, món bánh "vánočka" sẽ được làm cùng với rất nhiều bánh quy và kẹo ngọt ("vánoční cukroví").
Cộng hòa Séc còn là một quốc gia về bia. Nghề làm bia tại Cộng hòa Séc đã có lịch sử lâu đời từ hàng trăm năm nay và được làm chủ yếu từ hoa của cây hublông. Một trong những loại bia của nước này là bia Plzeň ("Pilsener"), được làm tại thành phố Plzeň (tiếng Đức: "Pilsen") ở xứ Bohemia.
Thể thao.
Thể thao là một phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của người dân Cộng hòa Séc. Hai môn thể thao phổ biến và giành được nhiều sự hâm mộ nhất tại nước này là bóng đá và hockey trên băng. Bên cạnh đó, các môn thể thao như bóng rổ, bóng chuyền, bóng ném, điền kinh... cũng rất phổ biến.
Hockey trên băng là một môn thế mạnh của Cộng hòa Séc. Nước này đã từng 1 lần đoạt huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa đông 1998 và 5 lần vô địch giải hockey trên băng toàn thế giới. Bóng đá cũng là một môn thể thao ưa chuộng tại nước này. Trước kia khi còn nằm trong Liên bang Tiệp Khắc, đội tuyển bóng đá quốc gia Tiệp Khắc đã từng hai lần đoạt ngôi vị á quân thế giới (World Cup) và một lần vô địch châu Âu (Euro). Còn hiện nay, đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Séc đã từng đạt ngôi á quân tại Euro 1996. |
Séc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4119 | Nước này cũng có tên trong danh sách 16 đội tuyển tham dự vòng chung kết Euro 2008 tại Áo và Thụy Sĩ. Theo bảng xếp hạng các đội tuyển bóng đá quốc gia của FIFA (tháng 1 năm 2008), Cộng hòa Séc xếp thứ 6 thế giới.
Bên cạnh đó, Cộng hòa Séc còn được biết đến là quê hương của một số tay vợt trong môn tennis như Martina Navratilova và Ivan Lendl.
Giáo dục.
Giáo dục phổ thông ở Cộng hòa Séc kéo dài từ 12 đến 13 năm, giáo dục tiểu học và trung học cơ sở là bắt buộc. Trẻ em đến trường khi 6 tuổi, kết thúc bậc tiểu học năm 11 tuổi và trung học cơ sở lúc 15 tuổi. Sau đó học sinh có thể học tiếp bậc phổ thông trung học 4 năm hoặc học các trường đào tạo nghề 3 năm. Tốt nghiệp phổ thông trung học hoặc đào tạo nghề, học sinh có thể học lên bậc đại học kéo dài 3 năm. Ở bậc trên đại học, đào tạo thạc sĩ mất từ 2 đến 3 năm; đào tạo tiến sĩ là 3 năm. Hệ thống giáo dục cơ sở của nước này gồm trường công, trường tư và trường tôn giáo (thường ít gặp). Năm học tại Cộng hòa Séc bắt đầu từ ngày 1 tháng 9 hoặc ngày thứ hai đầu tiên của tháng 9 (nếu ngày 1 tháng 9 là thứ bảy hoặc chủ nhật) và kết thúc vào ngày 30 tháng 6 năm sau (hoặc ngày thứ sáu cuối cùng của tháng 6). Học sinh được nghỉ trong những dịp lễ như Giáng sinh, Năm mới và Phục sinh.
Cộng hòa Séc từ lâu là một trong những trung tâm văn hóa, giáo dục quan trọng hàng đầu tại châu Âu. Năm 1348, vua Charles IV (tiếng Séc: "Karel IV") đã thành lập trường Đại học Charles tại Praha ("Univerzita Karlova"). Ngày nay đây vẫn là trường đại học lớn và dẫn đầu về chất lượng giáo dục tại nước này.
Y tế.
Cộng hòa Séc chú trọng nâng cao sức khỏe cộng đồng với các chương trình mang tính chất phòng ngừa cũng như tích cực chống lại bệnh ung thư, hút thuốc lá...Người dân được cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe dựa trên cơ sở bảo hiểm y tế, người bệnh không trực tiếp chi trả tiền chữa bệnh. Dịch vụ y tế có thể được cung cấp bởi cả khu vực công cộng và khu vực tư nhân với chi phí nhìn chung thấp hơn mức bình quân của châu Âu. |
Trương Trọng Thi | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4122 | Trương Trọng Thi (1936-2005) là một kỹ sư người Pháp gốc Việt. Ông được xem là "cha đẻ của máy tính cá nhân" vì đã tạo ra Micral, máy tính cá nhân không phải công cụ và được thương mại hóa đầu tiên.
Tiểu sử.
Trương Trọng Thi sinh năm 1936 tại Chợ Lớn (Sài Gòn). Năm 14 tuổi, ông sang Pháp học, rồi trở thành kỹ sư ở Trường Vô tuyến điện Pháp (tên cũ là "École Française de Radioélectricité" hay "EFR", nay là "École des technologies de l'information et du management" hay "EFRE"). Sau một thời gian làm cho Schlumberger, ông thành lập công ty riêng là R2E (viết tắt của "Réalisation d'Études Électroniques").
Năm 1973, ông chế tạo ra Micral mà nhiều người coi là máy tính cá nhân đầu tiên trên thế giới. Một bản mẫu của nó hiện được trưng bày trong Viện bảo tàng máy tính Boston (Mỹ). Chiếc máy này ra đời hơn một năm trước máy Altair của công ty Mỹ MITS Electronics, công ty này cũng cho mình là cha đẻ của PC.
Trong một chuyến sang Hoa Kỳ, ông được biết công ty Intel đã phát triển một bộ vi xử lý có kích thước nhỏ. Khi quay về Pháp ông đã cho ra đời máy tính Micral với bộ vi xử lý Intel 8008, đây không chỉ là một máy tính tay đơn thuần mà là một chiếc máy tính cá nhân hoàn chỉnh có bộ nhớ 256 bytes (có thể mở rộng đến 1K!), bàn phím và màn hình. Micral tiếp tục được phát triển đến năm 1978, năm đó R2E bị tập đoàn Bull mua lại. Tập đoàn này sau đó đã thương mại hóa các phiên bản khác nhau của Micral để phục vụ cho các cơ quan hành chính Pháp và các trạm thu lộ phí. Tuy nhiên, Bull lại không thực hiện ý tưởng của Trương Trọng Thi là phát triển chiếc máy này thành công cụ sử dụng rộng rãi trong mọi gia đình.
Năm 1995, ông thành lập APCT, một công ty chuyên về các phần mềm bảo mật.
Ông được trao Huân chương Bắc Đẩu Bội tinh vào năm 1999.
Công lao của Trương Trọng Thi trong ngành máy tính còn được ghi nhận ở những ý tưởng tiên phong về loại máy vi tính tương thích, về xử lý và lưu trữ dữ liệu, về lưu trữ dữ liệu trên đĩa quang học.
Trương Trọng Thi mất ngày ngày 4 tháng 4 năm 2005 tại Paris sau hơn 2 năm rưỡi nằm viện. |
Toán học ứng dụng | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4124 | Toán học ứng dụng là một ngành toán học áp dụng các kiến thức toán học cho các lĩnh vực khác.
Các ứng dụng có thể bao gồm giải tích số, toán học tính toán, mô hình toán học, tối ưu hoá, toán sinh học, tin sinh học, lý thuyết thông tin, lý thuyết trò chơi, xác suất và thống kê, toán tài chính, mật mã, hình học hữu hạn, khoa học máy tính...
Phương pháp toán chủ yếu để giải các bài toán cụ thể trong từng lĩnh vực là việc thiết lập một mô hình toán học cho hệ thống nằm trong nghiên cứu của bài toán.
Các chủ đề chính.
Toán cho kỹ sư giải quyết các bài vật lý, do vậy gần như trùng với vật lý lý thuyết. Một số phân ngành của lĩnh vực này: thủy động học, âm học, phương trình Maxwell, cơ học, phương pháp Toán lý... |
PC | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4127 | PC hay pc có thể là: |
AC | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4128 | AC có thể là:
Là một mã, AC dùng để chỉ: |
Dc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4130 | DC có thể là: |
Washington | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4132 | Washington (phát âm tiếng Anh: ) thường dùng cho George Washington nhưng cũng có hai người nổi tiếng khác có tên Washington:
Washington cũng là tên của nhiều nơi, phần nhiều thuộc về Hoa Kỳ và Anh. Ở nước Mỹ, Washington có thể là:
Những nơi tại Anh có tên Washington bao gồm:
Teraina, một đảo thuộc về Kiribati, được gọi là đảo Washington do người thăm dò Mỹ mà tìm ra nó. |
Màu be | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4135 | Màu be (gốc tiếng Pháp "beige" /bεʒ/) là màu xám ánh vàng nhạt
Danh từ màu be là do vải be (là một loại hàng bằng len gốc, tức len tự nhiên không nhuộm). Có khi màu be được dùng để chỉ màu nâu rất nhạt.
Màu be trong mỹ thuật thuộc gam màu tạo cảm giác mát mẻ hay ôn hòa dễ chịu.
Màu be là một màu trung tính, phổ biến và rất đa dụng trong nhiều lĩnh vực. Màu này thường có độ sáng thấp và gần giống với màu của cát hoặc bã đậu. Nó có thể có nhiều tông khác nhau, từ tông nâu đến tông xanh lá cây, tùy thuộc vào tỷ lệ pha trộn của các màu cơ bản.
Trong thời trang, màu be thường được sử dụng cho các bộ trang phục cơ bản, như áo sơ mi, quần tây hoặc váy đầm. Màu này cũng rất phổ biến trong trang trí nội thất, đặc biệt là trong các phòng khách và phòng ngủ. Nó có thể được sử dụng cho các bộ sofa, tấm rèm, thảm trải sàn và các vật dụng trang trí khác.
Trong thiết kế đồ họa, màu be thường được sử dụng để tạo nền cho các trang web, bìa sách hoặc bài thuyết trình. Nó cũng thường được sử dụng để tạo ra các biểu tượng và hình ảnh đơn giản.
Màu be là một màu rất ổn định và dễ dàng kết hợp với nhiều màu khác nhau. Nó có thể được kết hợp với các màu sáng để tạo ra một không gian sạch sẽ và thanh lịch hoặc kết hợp với các màu tối để tạo ra một không gian ấm áp và dịu dàng.
Tọa độ màu.
Số Hex = #F5F5DC
RGB (r, g, b) = (245, 245, 220)
CMYK (c, m, y, k) = (0, 0, 10, 4)
HSV (h, s, v) = (60, 10, 96) |
BE | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4147 | BE, B.E., Be hoặc be dùng để chỉ: |
Máy tính cá nhân | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4148 | Máy tính cá nhân hay còn gọi là PC là một loại máy vi tính đa năng có kích thước, khả năng và giá cả phù hợp cho việc sử dụng cá nhân. Máy tính cá nhân được thiết kế để người dùng cuối điều hành trực tiếp, thay vì một chuyên gia hay kỹ thuật viên máy tính. Không như các máy tính mini và mainframe lớn, đắt tiền, việc chia sẻ tài nguyên cho nhiều người dùng (time-sharing) thường không xảy ra ở máy tính cá nhân. Đặc biệt vào cuối những năm 1970 và những năm 1980, thuật ngữ máy tính gia đình cũng được sử dụng. Sự ra đời của máy tính cá nhân cùng với sự cách mạng kỹ thuật số (Digital Revolution) đã ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống của con người trên toàn thế giới.
Chủ sở hữu máy tính cá nhân vào những năm 1960 phải tự viết chương trình của họ để thực hiện công việc hữu ích với máy. Mặc dù người dùng máy tính cá nhân có thể phát triển các ứng dụng của họ, thường thì hệ thống này chạy phần mềm thương mại, phần mềm miễn phí ("freeware"), đa số là độc quyền, hoặc phần mềm mã nguồn mở miễn phí, được cung cấp dưới dạng đã biên dịch (binary). Phần mềm cho máy tính cá nhân thường được phát triển và phân phối độc lập khỏi nhà sản xuất phần cứng hay hệ điều hành. Nhiều người dùng máy tính cá nhân không còn cần phải tự viết chương trình để sử dụng máy tính cá nhân, mặc dù lập trình người dùng cuối vẫn khả thi. Điều này trái ngược với các hệ thống di động, nơi mà phần mềm thường chỉ có sẵn thông qua kênh được hỗ trợ bởi nhà sản xuất, và việc phát triển chương trình người dùng cuối có thể bị hạn chế do thiếu hỗ trợ của nhà sản xuất.
Từ đầu những năm 1990, phần cứng Intel và hệ điều hành của Microsoft (đầu tiên là MS-DOS sau đó là Windows) - tổng hợp lại được gọi là 'Wintel' - đã chiếm ưu thế trong ngành công nghiệp máy tính cá nhân, và ngày nay thuật ngữ "PC" thường chỉ đến nền tảng Wintel phổ biến. Các lựa chọn thay thế cho Windows chiếm tỷ lệ ít hơn trong ngành công nghiệp; điển hình như nền tảng Mac từ Apple (chạy hệ điều hành macOS), và các hệ điều hành Unix-tự do mã nguồn mở, như Linux. Các nền tảng đáng chú ý khác đến những năm 1990 bao gồm Amiga từ Commodore, và PC-98 từ NEC.
Thuật ngữ.
"PC" là từ viết tắt của "Personal Computer". |
Máy tính cá nhân | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4148 | "PC" là từ viết tắt của "Personal Computer". Dù trong tên của máy tính cá nhân IBM (IBM Personal Computer) có chứa dòng chữ "Personal Computer", thuật ngữ này ban đầu dùng để mô tả máy tính cá nhân của bất kỳ hãng nào.
Trong một sỗ ngữ cảnh, khái niệm "PC" được dùng để đối lập với "Mac", là một máy tính Apple Macintosh. Tuy nhiên, thực chất các máy tính Apple đều là máy tính cá nhân.
Lịch sử.
Một trong những máy tính cá nhân đầu tiên trên thế giới là máy Xerox Alto của Xerox vào năm 1973. Nó có một giao diện người dùng đồ họa (GUI) sau này trở thành cảm hứng cho dòng máy Macintosh của Apple. Alto chỉ mang tính chất biểu diễn, không được thương mại hóa do chi phí quá cao.
Đến năm 1974, chiếc máy tính cá nhân "thực sự" đầu tiên của thế giới là Altair 8800 ra đời, sử dụng vi xử lý 8080 của Intel. Nó được công nhận là đã mở ra cuộc các mạng về máy vi tính và là máy tính cá nhân đầu tiên được thương mại hóa thành công. Hệ thống bus của Altair 8800 trở thành tiêu chuẩn de facto dưới dạng bus S-100, và ngôn ngữ lập trình đầu tiên của nó cũng là sản phẩm thành lập của Microsoft, Altair BASIC.
Năm 1976, Steve Jobs và Steve Wozniak bán bo mạch của máy tính Apple I và bao gồm khoảng 30 chip. Apple I khác với các máy tính dạng kit khác thời đó. Theo yêu cầu của Paul Terrell, chủ của Byte Shop, Job và Wozniak nhận được đơn đặt hàng đầu tiên với 50 máy Apple I, với điều kiện các máy phải được lắp ráp và kiểm lỗi đầy đủ, không phải dạng kit. Bởi Terrell muốn bán máy tính cho một bộ phận lớn người dùng, không chỉ riêng dân điện tử những người có khả năng hàn mạch. Cuối cùng Apple I vẫn chỉ được bán ở dạng kit, vì nó không có nguồn, vỏ hay bàn phím.
Chiếc máy tính cá nhân được quảng bá số đông thành công đầu tiên là chiếc Commodore PET vào tháng 1 năm 1977. Ba tháng sau đó (tức tháng Tư), Apple II được công bố với chiếc đầu tiên xuất xưởng ngày 10 tháng 6 năm 1977 và chiếc TRS-80 của Tandy Corporation/Tandy Radio Shack theo sau đó vào tháng Tám 1977, và bán được hơn 100.000 máy trong suốt vòng đời của nó. Cả ba máy này được gọi là chung là "bộ ba 1977".
Khoảng đầu thập niên 1980, các máy tính gia đình được phát triển cho sử dụng trong các hộ gia đình, phục vụ mục đích lập trình hoặc chơi các trò chơi điện tử. Chúng thường sử dụng tivi làm màn hình hiển thị, có độ phân giải thấp và màu sắc hạn chế. |
Máy tính cá nhân | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4148 | Sinclair Research, một công ty ở Vương quốc Anh đã bán máy tính ZX Spectrum tổng cộng được 8 triệu máy. Sau đó là Commodore 64 với tổng cộng 17 triệu máy tính được bán. Cho đến giữa thập niên 80, xuất hiện các máy tính gia đình sử dụng vi xử lý 16/32 bit manh hơn như Amiga 1000, với nhiều bộ nhớ hơn, có hệ điều hành đồ họa đa nhiệm và hiển thị nhiều màu sắc hơn.
Mặt khác, ở thị trường doanh nghiệp, sự xuất hiện của IBM PC năm 1981 nhanh chóng đặt ra một tiêu chuẩn trong nền công nghiệp máy tính tương thích. Tất cả các kiến trúc máy tính khác đều nhanh chóng biến mất do sự thống trị của nền tảng này. Nhận ra điều đó, các hãng sản xuất bắt đầu tìm cách sao chép IBM PC và phát triển nó lên thành tiêu chuẩn chung cho mọi máy tính cá nhân sau này.
Phần cứng.
Phần cứng máy tính là một thuật ngữ toàn diện cho tất cả các bộ phận vật lý của máy tính, được phân biệt với dữ liệu chứa hoặc hoạt động và phần mềm cung cấp hướng dẫn cho phần cứng để thực hiện các tác vụ. Một số hệ thống con của máy tính cá nhân có thể chứa bộ xử lý chạy chương trình cố định hoặc chương trình cơ sở, chẳng hạn như bộ điều khiển bàn phím. Phần sụn thường không bị thay đổi bởi người dùng cuối của máy tính cá nhân.
Hầu hết các máy tính thời kỳ 2010 chỉ yêu cầu người dùng cắm vào nguồn điện, màn hình và các loại cáp khác. Một máy tính để bàn thông thường bao gồm vỏ máy tính (hoặc "tháp"), khung kim loại chứa nguồn điện, bo mạch chủ, ổ đĩa cứng và thường là ổ đĩa quang. Hầu hết các tòa tháp có không gian trống, nơi người dùng có thể thêm các thành phần bổ sung. Các thiết bị bên ngoài như màn hình máy tính hoặc bộ hiển thị hình ảnh, bàn phím và thiết bị trỏ (chuột) thường được tìm thấy trong máy tính cá nhân.
Bo mạch chủ kết nối tất cả bộ xử lý, bộ nhớ và các thiết bị ngoại vi với nhau. RAM, card đồ họa và bộ xử lý trong hầu hết các trường hợp được gắn trực tiếp lên bo mạch chủ. Bộ xử lý trung tâm (chip vi xử lý) cắm vào ổ cắm CPU, trong khi các mô-đun bộ nhớ cắm vào ổ cắm bộ nhớ tương ứng. |
Máy tính cá nhân | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4148 | Một số bo mạch chủ có bộ điều hợp hiển thị video, âm thanh và các thiết bị ngoại vi khác được tích hợp trên bo mạch chủ, trong khi một số khác sử dụng khe cắm mở rộng cho card đồ họa, card mạng hoặc các thiết bị I / O khác. Card đồ họa hoặc card âm thanh có thể sử dụng hộp thoát ra để giữ các bộ phận tương tự tránh xa bức xạ điện từ bên trong vỏ máy tính. Ổ đĩa, cung cấp lưu trữ lớn, được kết nối với bo mạch chủ bằng một cáp và với nguồn điện thông qua cáp khác. Thông thường, các ổ đĩa được gắn trong cùng trường hợp với bo mạch chủ; khung mở rộng cũng được thực hiện để lưu trữ đĩa bổ sung.
Đối với lượng dữ liệu lớn, một ổ băng từ có thể được sử dụng hoặc các đĩa cứng bổ sung có thể được đặt cùng nhau trong trường hợp bên ngoài. Bàn phím và chuột là các thiết bị bên ngoài được cắm vào máy tính thông qua các đầu nối trên bảng I / O ở mặt sau của vỏ máy tính. Màn hình cũng được kết nối với bảng đầu vào / đầu ra (I / O), thông qua một cổng trên bo mạch chủ hoặc một cổng trên card đồ họa. Khả năng của phần cứng máy tính cá nhân đôi khi có thể được mở rộng bằng cách bổ sung các thẻ mở rộng được kết nối thông qua một bus mở rộng. Bus ngoại vi tiêu chuẩn thường được sử dụng để thêm thẻ mở rộng trong máy tính cá nhân bao gồm PCI, PCI Express (PCIe) và AGP (bus PCI tốc độ cao dành riêng cho bộ điều hợp đồ họa, được tìm thấy trong các máy tính cũ). Hầu hết các máy tính cá nhân hiện đại đều có nhiều khe cắm mở rộng PCI Express vật lý, với một số khe cắm PCI cũng vậy.
Phần mềm.
Phần mềm máy tính là bất kỳ loại chương trình, quy trình hoặc tài liệu máy tính nào thực hiện một số tác vụ trên hệ thống máy tính. Thuật ngữ này bao gồm phần mềm ứng dụng như bộ xử lý văn bản thực hiện các tác vụ sản xuất cho người dùng, phần mềm hệ thống như hệ điều hành có giao diện với phần cứng máy tính để cung cấp các dịch vụ cần thiết cho phần mềm ứng dụng và phần mềm trung gian điều khiển và điều phối hệ thống phân tán.
Các ứng dụng phần mềm là phổ biến để xử lý văn bản, duyệt Internet, fax Internet, e-mail và tin nhắn kỹ thuật số khác, phát lại đa phương tiện, chơi trò chơi máy tính và lập trình máy tính. |
Máy tính cá nhân | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4148 | Người dùng có thể có kiến thức đáng kể về môi trường hoạt động và các chương trình ứng dụng, nhưng không nhất thiết phải quan tâm đến lập trình và thậm chí không thể viết chương trình cho máy tính. Do đó, hầu hết các phần mềm được viết chủ yếu cho máy tính cá nhân có xu hướng được thiết kế với mục đích sử dụng đơn giản hoặc "thân thiện với người dùng". Tuy nhiên, ngành công nghiệp phần mềm liên tục cung cấp một loạt các sản phẩm mới để sử dụng trong máy tính cá nhân, nhắm vào cả người dùng chuyên gia và người dùng không chuyên gia.
Hệ điều hành.
Một hệ điều hành (HĐH) quản lý tài nguyên máy tính và cung cấp cho các lập trình viên một giao diện được sử dụng để truy cập các tài nguyên đó. Một hệ điều hành xử lý dữ liệu hệ thống và đầu vào của người dùng và phản hồi bằng cách phân bổ và quản lý các tác vụ và tài nguyên hệ thống nội bộ dưới dạng dịch vụ cho người dùng và các chương trình của hệ thống. Một hệ điều hành thực hiện các tác vụ cơ bản như kiểm soát và phân bổ bộ nhớ, ưu tiên các yêu cầu hệ thống, kiểm soát các thiết bị đầu vào và đầu ra, tạo điều kiện cho mạng máy tính và quản lý tệp.
Các hệ điều hành máy tính để bàn hiện đại phổ biến là Microsoft Windows, macOS, Linux, Solaris và FreeBSD. Windows, macOS và Linux đều có các biến thể máy chủ và cá nhân. Ngoại trừ Microsoft Windows, các thiết kế của mỗi người trong số họ được lấy cảm hứng từ hoặc được thừa hưởng trực tiếp từ hệ điều hành Unix.
Các máy tính cá nhân ban đầu sử dụng các hệ điều hành hỗ trợ tương tác dòng lệnh, sử dụng màn hình chữ và số và bàn phím. Người dùng phải nhớ một loạt các lệnh, ví dụ, mở một tệp để chỉnh sửa hoặc để di chuyển văn bản từ nơi này sang nơi khác. Bắt đầu từ đầu những năm 1960, những lợi thế của giao diện người dùng đồ họa bắt đầu được khám phá, nhưng việc áp dụng rộng rãi đòi hỏi phải có thiết bị hiển thị đồ họa với chi phí thấp hơn. Đến năm 1984, các hệ thống máy tính thị trường đại chúng sử dụng giao diện người dùng đồ họa đã có sẵn; vào đầu thế kỷ 21, các hệ điều hành chế độ văn bản không còn là một phần đáng kể của thị trường máy tính cá nhân.
Ứng dụng. |
Máy tính cá nhân | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4148 | Ứng dụng.
Nói chung, người dùng máy tính sử dụng phần mềm ứng dụng để thực hiện một tác vụ cụ thể. Phần mềm hệ thống hỗ trợ các ứng dụng và cung cấp các dịch vụ phổ biến như quản lý bộ nhớ, kết nối mạng và trình điều khiển thiết bị, tất cả các ứng dụng có thể được sử dụng bởi các ứng dụng nhưng không được người dùng cuối quan tâm trực tiếp. Một sự tương tự đơn giản trong thế giới phần cứng sẽ là mối quan hệ của bóng đèn điện (ứng dụng) với nhà máy phát điện (hệ thống): nhà máy điện chỉ đơn thuần tạo ra điện, không phải là sử dụng thực sự cho đến khi được khai thác cho một ứng dụng như đèn điện thực hiện một dịch vụ có lợi cho người dùng.
Ví dụ điển hình của các ứng dụng phần mềm là trình xử lý văn bản, bảng tính và trình phát phương tiện. Nhiều ứng dụng được gói cùng nhau như một gói đôi khi được gọi là một bộ ứng dụng. Microsoft Office và LibreOffice, kết hợp bộ xử lý văn bản, bảng tính và một số ứng dụng riêng biệt khác là những ví dụ điển hình. Các ứng dụng riêng biệt trong một bộ thường có giao diện người dùng có một số điểm chung giúp người dùng dễ dàng tìm hiểu và sử dụng từng ứng dụng hơn. Thông thường, họ có thể có một số khả năng tương tác với nhau theo những cách có lợi cho người dùng; ví dụ, một bảng tính có thể có thể được nhúng trong tài liệu xử lý văn bản mặc dù nó đã được tạo trong ứng dụng bảng tính riêng biệt.
Hệ thống điều chỉnh phát triển người dùng cuối để đáp ứng nhu cầu cụ thể của người dùng. Phần mềm do người dùng viết bao gồm các mẫu bảng tính, macro xử lý văn bản, mô phỏng khoa học, kịch bản đồ họa và hoạt hình; thậm chí các bộ lọc email là một loại phần mềm người dùng. Người dùng tự tạo phần mềm này và thường bỏ qua tầm quan trọng của nó.
Chơi game.
PC chơi game là phổ biến trong thị trường PC cao cấp. Theo phân tích thị trường tháng 4 năm 2014, các nền tảng Gaming như Steam, Uplay, Origin và GOG.com (cũng như các tựa game thể thao điện tử cạnh tranh như League of Legends) chịu trách nhiệm lớn cho các hệ thống PC vượt qua doanh thu bảng điều khiển trong năm 2013.
Tác động môi trường. |
Máy tính cá nhân | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4148 | Tác động môi trường.
Chi phí bên ngoài của tác động môi trường không được bao gồm đầy đủ trong giá bán của máy tính cá nhân.
Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc cho biết, máy tính cá nhân đã trở thành một đóng góp lớn cho 50 triệu tấn chất thải điện tử bị loại bỏ được tạo ra hàng năm. Để giải quyết vấn đề rác thải điện tử ảnh hưởng đến các nước đang phát triển và môi trường, các hành vi trách nhiệm của nhà sản xuất (EPR) đã được thực hiện ở nhiều quốc gia và tiểu bang khác nhau. Trong trường hợp không có luật pháp hoặc quy định quốc gia toàn diện về xuất khẩu và nhập khẩu chất thải điện tử, Liên minh độc hại Thung lũng Silicon và BAN (Mạng lưới hành động Basel) đã hợp tác với các nhà tái chế điện tử ở Mỹ và Canada để tạo ra một chương trình quản lý điện tử cho trật tự xử lý chất thải điện tử. Một số tổ chức phản đối quy định EPR và cho rằng các nhà sản xuất tự nhiên chuyển sang sử dụng vật liệu và năng lượng giảm. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Ngôn ngữ là một hệ thống giao tiếp có cấu trúc được sử dụng bởi con người. Cấu trúc của ngôn ngữ được gọi là ngữ pháp, còn các thành phần tự do của nó được gọi là từ vựng. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chính của con người, tồn tại ở dạng lời nói, ký hiệu hoặc chữ viết. Phần lớn các ngôn ngữ trên thế giới sở hữu các hệ chữ viết có chức năng ký âm và bảo tồn lời nói. Trong số các hệ thống giao tiếp ở động vật, ngôn ngữ của con người độc đáo ở nhiều điểm như: nó không phụ thuộc vào một phương thức truyền tải duy nhất nào, nó khác biệt giữa từng nền văn hóa và từng giai đoạn lịch sử, và nó có phạm vi biểu đạt rộng hơn nhiều so với các hệ thống khác.
Ngôn ngữ con người có tính năng sản ("productivity", tức là khả năng tạo ra vô số từ mới chỉ dựa trên các yếu tố cơ bản) và tính dịch chuyển ("displacement", tức là khả năng nhắc đến thứ nằm ngoài ngữ cảnh hiện tại), đồng thời nó phải dựa trên quy ước xã hội và sự học tập tiếp thu.
Số lượng ngôn ngữ trên thế giới dao động trong khoảng từ 6.000-7.000, phụ thuộc vào chỉ tiêu phân biệt giữa ngôn ngữ và phương ngữ của từng tác giả. Ngôn ngữ tự nhiên có thể là khẩu ngữ, thủ ngữ hoặc cả hai; tuy vậy, bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có thể được mã hóa bằng phương tiện thứ cấp được tiếp nhận bởi thính giác, thị giác hoặc xúc giác; ví dụ như văn bản, biển báo, chữ nổi hoặc huýt sáo. Nói cách khác, ngôn ngữ của con người độc lập khỏi phương thức biểu đạt, còn ngôn ngữ ký hiệu và ngôn ngữ viết là các phương thức lưu giữ hoặc mã hóa tiếng nói tự nhiên hoặc cử chỉ của con người.
Khi được sử dụng như một khái niệm chung, ngôn ngữ có thể được hiểu là (1) "khả năng nhận thức để tiếp thu và sử dụng các hệ thống giao tiếp phức tạp", hoặc (2) "tập hợp các quy tắc tạo nên các hệ thống giao tiếp đó", hoặc (3) "tập hợp các ngữ lưu (utterance) có thể được tạo ra từ những quy tắc đó". Tất cả các ngôn ngữ đều phải dựa vào quá trình thiết hiệu ("semiosis") để liên hệ dấu hiệu ("sign") với một ý nghĩa ("meaning") cụ thể. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Khẩu ngữ, thủ ngữ và ngôn ngữ xúc giác đều có hệ thống âm vị ("phonology") quy định sự kết hợp các biểu tượng ("symbol") với nhau để tạo thành các chuỗi gọi là từ hoặc hình vị; cùng một hệ thống cú pháp quy định sự kết hợp các từ và hình vị để tạo thành ngữ đoạn ("phrase") và ngữ lưu.
Môn khoa học nghiên cứu ngôn ngữ được gọi là ngôn ngữ học. Các xem xét phản biện về ngôn ngữ (triết học ngôn ngữ, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, điển hình như khẳng định 'ngôn từ đại diện cho kinh nghiệm', v.v) đã được thảo luận từ thời của các triết gia Gorgias và Plato của Hy Lạp cổ đại. Các nhà tư tưởng sau đó như Rousseau (1712–1778) thì cho rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ cảm xúc, trong khi Immanuel Kant (1724–1804) lại cho rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ suy nghĩ luân lý và logic. Các triết gia thế kỷ 20 như Ludwig Wittgenstein (1889–1951) cho rằng triết học chẳng qua là nghiên cứu ngôn ngữ. Hai học giả quan trọng nhất có công tạo dựng nên ngành ngôn ngữ học hiện đại là Ferdinand de Saussure và Noam Chomsky.
Ngôn ngữ được cho là đã dần tách ra từ hệ thống giao tiếp linh trưởng tiền khởi, khi các hominin sơ khai lĩnh hội khả năng hình thành lý thuyết tâm trí ("theory of mind") và tính ý hướng ("intentonality") chung. Sự phát triển những đặc điểm này trùng hợp với khuynh hướng gia tăng khối lượng não ở người. Nhiều nhà ngôn ngữ học coi cấu trúc của ngôn ngữ đã tiến hóa để phục vụ các chức năng giao tiếp và chức năng xã hội cụ thể. Ngôn ngữ được xử lý ở nhiều khu vực trực thuộc não bộ, chủ yếu ở vùng Broca và Wernicke. Con người thụ đắc ngôn ngữ thông qua giao tiếp xã hội từ thời thơ ấu; trẻ em thường nói trôi chảy khi lên 3. Ngôn ngữ và văn hóa phụ thuộc lẫn nhau; do vậy, bên cạnh công dụng giao tiếp, ngôn ngữ còn có những công dụng xã hội như biểu thị bản sắc nhóm, phân tầng xã hội, giải trí và chải chuốt xã hội ("social grooming").
Ngôn ngữ biến đổi và đa dạng hóa theo thời gian; lịch sử diễn tiến của ngôn ngữ có thể được phục nguyên ("reconstruction") thông qua phương pháp so sánh lịch sử nhằm tìm ra điểm chung giữa các ngôn ngữ hiện đại và suy luận ra được đặc điểm mà ngôn ngữ tổ tiên chung của chúng đã sở hữu. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Một nhóm ngôn ngữ có chung nguồn gốc từ cùng một tổ tiên được gọi là một ngữ hệ; ngược lại, một ngôn ngữ mà chưa được chứng minh là có bất cứ mối quan hệ nào với các ngôn ngữ đồng đại hoặc lịch đại khác thì được gọi là ngôn ngữ biệt lập. Hiện vẫn có những ngôn ngữ chưa được nghiên cứu phân loại và đôi khi có các ngôn ngữ giả mạo bị báo cáo nhầm hoặc do sự cố tình lừa đảo. Giới học thuật hiện nay nhất trí cho rằng 50-90% ngôn ngữ được nói vào đầu thế kỷ 21 có lẽ sẽ "tuyệt chủng" vào năm 2100.
Từ nguyên.
Trong tiếng Việt, "ngôn ngữ" là phiên âm Hán-Việt của cặp Hán tự 言語 (bính âm Quan thoại chuẩn: "yányǔ"). Trong giai đoạn tiếng Hán trung cổ, hai chữ này được phát âm là /ŋɨɐn ŋɨʌX/, và trong giai đoạn tiếng Hán thượng cổ, 言 và 語 được phục nguyên lần lượt là "*ŋan" và "*ŋaʔ" theo nhà ngôn ngữ học Thượng Phương (2003). Schuessler (2007) cho rằng 言 (OC: "*ŋan") là danh từ phái sinh của động từ 語 (OC: "*ŋaʔ", nghĩa là 'nói') vì có kèm hậu tố "*-n". Một từ nữa dùng để chỉ ngôn ngữ nói trong tiếng Việt là "tiếng", bắt nguồn từ "tiếng" của tiếng Việt trung đại (thế kỷ 17) và là một từ mượn có gốc Hán trung cổ, 聲 (MC: ɕiᴇŋ) 'âm thanh'.
Trong tiếng Anh, "language" 'ngôn ngữ' được vay mượn từ "language" 'ngôn ngữ' của tiếng Pháp cổ (âm Pháp cổ là "lanˈɡʷadʒə"), bắt nguồn từ "lingua" 'lưỡi' của tiếng Latin, chính nó lại bắt nguồn từ "*dn̥ǵʰwéh₂s" 'lưỡi, lời nói, ngôn ngữ' của tiếng Ấn-Âu nguyên thủy.
Định nghĩa.
Danh từ "ngôn ngữ" có thể được dùng để chỉ mật mã, cipher và ngôn ngữ nhân tạo, ví dụ như ngôn ngữ máy tính trong kỹ thuật lập trình. Theo đó, ngôn ngữ được định nghĩa là hệ thống các dấu hiệu nhằm mục đích mã hóa và giải mã thông tin. Bài viết này tập trung vào ngôn ngữ tự nhiên của loài người, được nghiên cứu bởi ngành ngôn ngữ học.
"Ngôn ngữ", trong vai trò là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học, có hai nghĩa chính: khái niệm trừu tượng hoặc hệ thống ngôn ngữ cụ thể kiểu như "tiếng Việt". |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ Ferdinand de Saussure (người có công định hình nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại) là người đầu tiên phân biệt rõ ràng sự khác biệt đó. Ông sử dụng từ "language" để chỉ khái niệm, từ "langue" để chỉ ví dụ cụ thể của một hệ thống ngôn ngữ và từ "parole" để chỉ phương cách sử dụng lời nói của một ngôn ngữ cụ thể.
Khi nói về ngôn ngữ như một khái niệm chung, nhiều định nghĩa có thể được vận dụng để nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau của hiện tượng này. Mỗi định nghĩa sẽ định hình phương pháp nghiên cứu và sự thấu hiểu ngôn ngữ theo từng cách riêng, dẫn đến những trường phái lý thuyết khác nhau hoặc xung khắc nhau. Các tranh luận xoay quanh bản chất và nguồn gốc của ngôn ngữ đã tồn tại từ thời cổ đại. Các triết gia Hy Lạp như Gorgias và Platon hoài nghi về mối quan hệ giữa từ ngữ, khái niệm và thực tế. Gorgias cho rằng ngôn ngữ không thể đại diện cho trải nghiệm khách quan lẫn trải nghiệm nhân sinh, rằng giao tiếp và chân lý đều bất khả dĩ. Trái lại, Platon cho rằng chúng ta có thể giao tiếp được vì ngôn ngữ đại diện cho các ý tưởng và khái niệm tồn tại độc lập khỏi ngôn ngữ và trước cả ngôn ngữ.
Trong các cuộc tranh luận về nguồn gốc loài người vào thời kỳ Khai sáng, các suy đoán về nguồn gốc ngôn ngữ đã trở nên rất thịnh hành. Các nhà tư tưởng như Rousseau và Herder cho rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ sự biểu đạt cảm xúc theo bản năng, và nó ban đầu gần với âm nhạc và thơ ca hơn là logic và tư duy lý trí. Các nhà triết học duy lý như Kant và Descartes lại có quan điểm ngược lại. Khoảng đầu thế kỷ 20, các nhà tư tưởng bắt đầu băn khoăn về vai trò của ngôn ngữ trong việc hình thành trải nghiệm của con người về thế giới – đặt câu hỏi liệu ngôn ngữ có phản ánh đơn thuần cấu trúc khách quan của thế giới, hay liệu ngôn ngữ tạo ra những khái niệm mà nó áp đặt lên trải nghiệm về thế giới khách quan của chúng ta. Điều này lại dẫn đến câu hỏi liệu các vấn đề triết học có thực sự trước hết phải là vấn đề ngôn ngữ học hay không. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Sự trỗi dậy của quan điểm cho rằng ngôn ngữ đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra và lưu thông các khái niệm, cùng quan điểm cho rằng nghiên cứu triết học về cơ bản là nghiên cứu ngôn ngữ, gắn liền với cái được gọi là bước ngoặt ngôn ngữ học ("linguistic turn") và triết gia Ludwig Wittgenstein của thế kỷ 20. Các tranh luận về quan hệ của ngôn ngữ với ý nghĩa và tham chiếu, với nhận thức và ý thức, vẫn đang rất sôi nổi cho đến tận ngày nay.
Khả năng tâm trí, cơ quan hay bản năng.
Một định nghĩa coi ngôn ngữ chủ yếu là khả năng tâm trí ("mental faculty") cho phép con người thực hiện các hành vi ngôn ngữ: để học ngôn ngữ, để sản xuất và để hiểu lời nói. Định nghĩa này nhấn mạnh tính phổ quát của ngôn ngữ ở loài người và cơ sở sinh học của khả năng sử dụng ngôn ngữ như là một sự phát triển độc đáo của não người. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng sự thụ đắc ngôn ngữ là bẩm sinh ở loài người; họ khẳng định điều này là hiển nhiên vì lẽ, tất cả trẻ em bình thường lớn lên trong môi trường tiếp xúc với ngôn ngữ đều có thể tiếp thu ngôn ngữ mà chẳng cần hướng dẫn. Ngôn ngữ thậm chí có thể phát triển một cách tự nhiên trong môi trường con người sống và lớn lên cùng nhau mà không có ngôn ngữ chung; ví dụ, các ngôn ngữ Creole và ngôn ngữ ký hiệu Nicaragua. Quan điểm này bắt nguồn từ thời các triết gia Immanuel Kant và René Descartes, về sau còn xuất hiện trong thuyết ngữ pháp phổ quát của Noam Chomsky và thuyết bẩm sinh cực độ của triết gia người Mỹ Jerry Fodor. Định nghĩa này thường được sử dụng trong các nghiên cứu ngôn ngữ thuộc khuôn khổ khoa học nhận thức và ngôn ngữ học thần kinh.
Hệ thống biểu tượng hình thức.
Một định nghĩa khác coi ngôn ngữ là một hệ thống hình thức ("formal system") bao gồm các biểu tượng tuân theo quy tắc ngữ pháp kết hợp nhằm truyền tải một ý nghĩa. Định nghĩa này nhấn mạnh rằng ngôn ngữ con người có thể được mô tả như một hệ thống kết cấu đóng, trong đó bao gồm các quy tắc ánh xạ các dấu hiệu cụ thể tới các ý nghĩa cụ thể. Quan điểm cấu trúc này được Ferdinand de Saussure đề xướng, và thuyết cấu trúc ("structuralism") của ông là nền móng của nhiều phương pháp tiếp cận ngôn ngữ hậu thế. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Những người ủng hộ lý thuyết ngôn ngữ của Saussure chủ trương một cách tiếp cận hình thức để nghiên cứu cấu trúc ngôn ngữ bằng cách xác định các yếu tố cơ bản rồi trình bày các quy tắc kết hợp các yếu tố đó nhằm hình thành từ và câu hoàn chỉnh. Noam Chomsky, cha đẻ thuyết ngữ pháp tạo sinh ("generative grammar"), là người ủng hộ nhiệt tình lý thuyết này. Chomsky định nghĩa ngôn ngữ là sự xây dựng các câu cú có thể được tạo ra bằng ngữ pháp chuyển đổi ("transformational grammar"). Chomsky cho rằng các quy tắc đó là đặc điểm bẩm sinh của tâm trí con người và tạo thành các nguyên lý cơ bản của ngôn ngữ. Khái niệm ngữ pháp chuyển đổi cũng thường xuyên được áp dụng trong các ngành như logic học, ngôn ngữ học hình thức và ngôn ngữ học máy tính.
Công cụ giao tiếp.
Một định nghĩa khác coi ngôn ngữ là một hệ thống giao tiếp cho phép con người trao đổi ngữ lưu lời nói ("verbal") hoặc biểu tượng ("symbolic"). Định nghĩa này nhấn mạnh chức năng xã hội của ngôn ngữ; con người sử dụng ngôn ngữ để bộc lộ bản thân và thao túng đối tượng trong môi trường. Các lý thuyết chức năng của ngữ pháp giải thích các cấu trúc ngữ pháp dựa trên chức năng giao tiếp của chúng, cho rằng các cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ là kết quả của một quá trình thích ứng trong đó ngữ pháp được hiệu chỉnh nhằm phục vụ nhu cầu giao tiếp của người sử dụng.
Quan điểm này gắn liền với việc nghiên cứu ngôn ngữ trong khuôn khổ các ngành ngữ dụng học, ngôn ngữ học nhận thức, ngôn ngữ học tương tác, ngôn ngữ học xã hội và nhân học ngôn ngữ. Các lý thuyết chức năng thường coi ngữ pháp như những hiện tượng động, như những cấu trúc luôn trong quá trình thay đổi khi người nói sử dụng. Quan điểm này đặt trọng tâm nghiên cứu ở ngành loại hình học ngôn ngữ ("linguistic typology"), tức là phân loại ngôn ngữ theo đặc điểm cấu trúc, do có thể chỉ ra rằng sự ngữ pháp hóa ("grammaticalization") có xu hướng đi theo quỹ đạo phụ thuộc một phần vào loại hình học. Trong triết học ngôn ngữ, quan điểm coi ngữ dụng là trung tâm của ngôn ngữ và ý nghĩa thường gắn liền với các tác phẩm của Wittgenstein và các triết gia ngôn ngữ thông thường như J.L. Austin, Paul Grice, John Searle hay W.O. Quine. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Austin, Paul Grice, John Searle hay W.O. Quine.
Các độc đáo của ngôn ngữ con người.
Nhà ngôn ngữ học Charles Hockett đã mô tả nhiều đặc điểm khác biệt của ngôn ngữ con người, mà được ông đặt tên là các đặc điểm thiết kế ("design feature"), tách biệt ngôn ngữ con người khỏi các hệ thống giao tiếp ở loài vật.
Các hệ thống giao tiếp ở động vật như ong hoặc vượn là các hệ thống đóng bao gồm một số lượng hữu hạn (thường rất hạn chế) các ý tưởng có thể diễn đạt. Ngược lại, ngôn ngữ con người là hệ thống mở và năng sản, tức là nó cho phép con người tạo ra một loạt các ngữ lưu từ một tập hợp hữu hạn các yếu tố và cho phép con người tạo ra các câu từ mới. Điều này khả thi bởi vì ngôn ngữ con người dựa trên một mã kép ("dual code"), trong đó một số lượng hữu hạn các yếu tố vô nghĩa ban đầu (ví dụ: âm thanh, chữ cái hoặc cử chỉ) có thể được kết hợp để tạo thành vô số đơn vị ý nghĩa lớn hơn (từ và câu). Tuy nhiên, một nghiên cứu đã chứng minh rằng loài chim "Pomatostomus ruficeps" ở Úc có khả năng sử dụng các yếu tố âm giống nhau nhưng theo cách dàn xếp khác nhau để tạo ra hai âm thanh khác biệt về chức năng. Ngoài ra, loài chim "Turdoides bicolor" có khả năng tạo ra hai giọng hót khác biệt về chức năng được cấu thành từ cùng một loại âm, chỉ có thể được phân biệt bằng số lượng các yếu tố âm lặp lại.
Một số loài động vật đã được chứng minh là có khả năng tiếp thu các hình thức giao tiếp thông qua học tập xã hội: ví dụ như một con tinh tinh lùn tên là Kanzi đã học cách thể hiện bản thân bằng cách sử dụng một bộ từ vựng tượng trưng (xem tiếng Yerkes). Tương tự, nhiều loài chim và cá voi học các tiếng kêu âm hưởng bằng cách bắt chước các thành viên khác trong đàn của chúng. Tuy đúng là một số loài vật có thể tiếp thu số lượng lớn từ và ký hiệu, khả năng tiếp thu của chúng vẫn còn kém xa một đứa bé loài người năm 4 tuổi trung bình và chúng vẫn chưa tạo ra bất kỳ thứ gì tương tự như ngữ pháp phức tạp ở ngôn ngữ con người. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Ngôn ngữ con người khác biệt với các hệ thống giao tiếp động vật ở chỗ: nó sở hữu các đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa, chẳng hạn danh từ và động từ, thì hiện tại và thì quá khứ, được sử dụng để truyền đạt những ý nghĩa cực kỳ phức tạp. Ngôn ngữ con người còn độc đáo với tính đệ quy: ví dụ, một cụm danh từ có thể chứa một cụm danh từ khác (kiểu như "[môi [con tinh tinh]]") hoặc một mệnh đề có thể chứa một mệnh đề khác (kiểu như "[Tôi thấy [con chó đang chạy]]"). Ngôn ngữ con người là hệ thống giao tiếp tự nhiên duy nhất được biết mà khả năng thích ứng có thể coi là độc lập về phương thức ("modality independent"). Điều này tức là ngôn ngữ có thể được sử dụng không chỉ để giao tiếp thông qua một kênh hoặc phương tiện duy nhất. Ví dụ, ngôn ngữ nói sử dụng phương thức thính giác, trong khi ngôn ngữ ký hiệu và chữ viết sử dụng phương thức trực quan, còn chữ nổi sử dụng phương thức xúc giác.
Nguồn gốc.
Các giả thuyết về nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau ở các giả định cơ bản về ngôn ngữ. Một số giả thuyết dựa trên ý tưởng rằng ngôn ngữ phức tạp đến mức nó không thể nào chỉ đơn thuần xuất hiện từ hư không ở dạng hoàn chỉnh, chắc hẳn nó đã tiến hóa từ các hệ thống tiền ngôn ngữ ở tổ tiên vượn nhân. Những giả thuyết thế này được gọi là các giả thuyết mang tính liên tục. Quan điểm trái lại cho rằng ngôn ngữ là một đặc điểm riêng của con người và không thể so sánh với bất cứ thứ gì ở những loài phi-người và do đó, nó đã phải xuất hiện đột ngột trong quá trình tiến hóa từ tiền-hominid sang loài người sơ khai. Những lý thuyết dạng này được gọi là các giả thuyết mang tính gián đoạn. Ngoài ra, các giả thuyết dựa trên quan điểm di truyền do Noam Chomsky tiên phong coi ngôn ngữ như một khả năng bẩm sinh được mã hóa chủ yếu trong di truyền; còn các giả thuyết theo lý thuyết chức năng coi ngôn ngữ như một hệ thống văn hóa chủ yếu, được lĩnh hội thông qua tương tác xã hội.
Các lý thuyết liên tục được đa số học giả ủng hộ nhưng bất đồng về quá trình phát triển. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Các học giả coi ngôn ngữ là khả năng bẩm sinh, chẳng hạn nhà tâm lý học Steven Pinker, coi tiền thân của ngôn ngữ là nhận thức ở động vật, còn một số khác coi ngôn ngữ là công cụ giao tiếp được học thông qua xã hội, chẳng hạn nhà tâm lý học Michael Tomasello, cho rằng ngôn ngữ là công cụ tiến hóa từ giao tiếp động vật ở linh trưởng: giao tiếp bằng cử chỉ hoặc tiếng kêu để hỗ trợ và hợp tác. Các mô hình dựa trên tính liên tục khác cho rằng ngôn ngữ tiến hóa từ âm nhạc và rất được tán thành bởi Rousseau, Herder, Humboldt và Charles Darwin. Một người đề xướng nổi bật của quan điểm này là nhà khảo cổ học Steven Mithen. Nhà ngôn ngữ học Mỹ Stephen Anderson khẳng định rằng tuổi của ngôn ngữ nói rơi vào khoảng 60.000 đến 100.000 năm và rằng:Các nhà nghiên cứu về nguồn gốc tiến hóa của ngôn ngữ thường thấy hợp lý khi cho rằng ngôn ngữ chỉ được phát minh duy nhất một lần và tất cả các ngôn ngữ nói hiện đại theo một cách nào đó đều có quan hệ với nhau, ngay cả khi mối quan hệ đó không còn khôi phục được nữa ... vì những hạn chế của các phương pháp hiện thời nhằm tái tạo chúng.
Bởi lẽ ngôn ngữ đã xuất hiện từ thời tiền sử, trước khi có bất kỳ ghi chép thành văn nào, sự phát triển ban đầu của nó không để lại bất kì dấu tích lịch sử nào và giới khoa học tin rằng hiện giờ ta không thể quan sát bất kì quá trình nào có thể mô phỏng lại sự khởi thủy đó. Các học giả theo thuyết liên tục chủ trương tìm kiếm ở động vật các đặc điểm có thể xem là tương tự với ngôn ngữ ở loài người sơ khai. Các nhà khảo cổ thì có khả năng kiểm định và tìm kiếm các dấu vết sinh học thích nghi cho việc sử dụng ngôn ngữ ở con người, hoặc tìm kiếm các dạng hành vi biểu tượng tiền ngôn ngữ. Một số các dấu hiệu hóa thạch con người biểu hiện khả năng ngôn ngữ là: kích thước não so với khối lượng cơ thể, sự tiến hóa của thanh quản có khả năng tạo ra âm thanh tiên tiến và một số công cụ cùng các đồ tạo tác.
Một quan điểm truyền thống trong giới khảo cổ là các australopithecine tiền nhân tựu trung có hệ thống giao tiếp không khác mấy so với các loài vượn lớn. Tuy nhiên, một nghiên cứu về loài "Ardipithecus ramidus" năm 2017 đã thách thức quan điểm trên. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Một số học giả cho rằng sự phát triển của các hệ thống tiền ngôn ngữ ("proto-language") bắt đầu sớm nhất với "Homo habilis" (2,3 triệu năm trước) trong khi nhiều học giả khác cho rằng sự tiến hóa của giao tiếp biểu tượng nguyên thủy bắt đầu với "Homo erectus" (1,8 triệu năm trước) hoặc "Homo heidelbergensis" (0,6 triệu năm trước), và sự tiến hóa của ngôn ngữ chính thống bắt đầu với "Homo sapiens" hiện đại về mặt giải phẫu trong cuộc cách mạng Đồ đá cũ Thượng chưa đầy 100.000 năm trước.
Chomsky là học giả nổi bật đề xướng lý thuyết gián đoạn của sự tiến hóa ngôn ngữ. Ông bình luận về các học giả quan tâm đến bản chất ngôn ngữ, "thảo luận về sự tiến hóa của năng lực ngôn ngữ là lạc đề." Chomsky đề xuất rằng có lẽ "một số đột biến ngẫu nhiên đã xảy ra [...] và chúng đã tái tổ chức bộ não, cấy ghép một cơ quan ngôn ngữ vào bộ não đa phần linh trưởng." Mặc dù Chomsky khuyên rằng không nên coi giả thuyết này theo nghĩa đen, ông vẫn khẳng định "nó có lẽ gần với thực tế hơn nhiều câu chuyện cổ tích khác về các quá trình tiến hóa, bao gồm cả ngôn ngữ."
Nghiên cứu.
Ngôn ngữ học đã phát triển thành một ngành khoa học kể từ khi những mô tả ngữ pháp đầu tiên của các ngôn ngữ cụ thể ở Ấn Độ hơn 2000 năm trước, sau sự phát triển của hệ chữ Brahmi. Ngôn ngữ học hiện đại là một ngành khoa học nghiên cứu tất cả các khía cạnh của ngôn ngữ, xem xét nó từ tất cả các quan điểm lý thuyết đã được nêu ở trên.
Phân ngành.
Nghiên cứu học thuật về ngôn ngữ được tiến hành trên nhiều lĩnh vực chuyên ngành và từ nhiều góc độ lý thuyết khác nhau, tất cả những thứ đó đều cung cấp các phương pháp tiếp cận hiện đại đối với ngôn ngữ học. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Ví dụ, ngôn ngữ học mô tả mổ xẻ ngữ pháp của một ngôn ngữ đơn lẻ; ngôn ngữ học lý thuyết phát triển các lý thuyết, khái niệm ngôn ngữ và xác định bản chất ngôn ngữ dựa trên dữ liệu từ nhiều ngôn ngữ khác nhau; ngôn ngữ học xã hội nghiên cứu cách thức sử dụng ngôn ngữ trong bối cảnh xã hội, để rồi áp dụng ngược sang để nghiên cứu các chức năng xã hội của ngôn ngữ và mô tả ngữ pháp; ngôn ngữ học thần kinh nghiên cứu cách thức ngôn ngữ được xử lý trong bộ não và kiểm định các lý thuyết; ngôn ngữ học tính toán được xây dựng trên nền tảng ngôn ngữ học lý thuyết và mô tả để tạo nên các mô hình tính toán của ngôn ngữ nhằm xử lý ngôn ngữ tự nhiên hoặc thử nghiệm các giả thuyết ngôn ngữ học; và ngôn ngữ học lịch sử lần theo dấu vết lịch sử của từng ngôn ngữ dựa theo các mô tả ngữ pháp, từ vựng và tái tạo lại quan hệ ngôn ngữ thông qua phương pháp so sánh lịch sử.
Thời kỳ đầu.
Nhà ngữ pháp học Ấn Độ thế kỷ thứ 5 TCN Pāṇini, nổi tiếng với công trình liệt kê 3.959 quy tắc hình thái tiếng Phạn, thường được coi là người khởi đầu ngành nghiên cứu ngữ pháp chính thống. Tuy nhiên, người Sumer đã nghiên cứu sự khác biệt giữa ngữ pháp tiếng Sumer và tiếng Akkad từ rất lâu trước đó rồi (vào khoảng năm 1900 TCN). Các truyền thống mô tả ngữ pháp tiếp tục phát triển ở tất cả các nền văn hóa cổ đại tiếp thu chữ viết.
Vào thế kỷ 17, các nhà ngữ pháp Port-Royal của Pháp có ý tưởng cho rằng ngữ pháp của mọi ngôn ngữ là sự phản ánh những điều cơ bản phổ quát của ý nghĩ và chính vì vậy, ngữ pháp tất phải phổ quát. Vào thế kỷ 18, nhà bác ngữ và chuyên gia về Ấn Độ cổ đại người Anh tên là William Jones lần đầu tiên áp dụng phương pháp so sánh lịch sử để nghiên cứu ngôn ngữ và đánh dấu cho sự khởi đầu của ngành ngôn ngữ học so sánh lịch sử. Wilhelm von Humboldt sau đó mở rộng ý tưởng nghiên cứu ngôn ngữ lịch sử từ các ngôn ngữ Ấn-Âu sang các nhóm ngôn ngữ khác. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Đầu thế kỷ 20, Ferdinand de Saussure đề xuất khái niệm ngôn ngữ như một hệ thống tĩnh gồm các đơn vị liên kết với nhau, được xác định thông qua sự đối lập giữa chúng.
Saussure đã đặt nền móng cho ngành ngôn ngữ học hiện đại với sự phân biệt giữa phân tích đồng đại ("synchrony") và lịch đại ("diachrony") trong nghiên cứu ngôn ngữ. Ông cũng đưa ra một số khía cạnh khái niệm cơ bản của phân tích ngôn ngữ, cho đến nay vẫn là đại cương trong nhiều lý thuyết ngôn ngữ học, chẳng hạn sự phân biệt ngữ đoạn-mẫu hình, sự phân biệt langue-parole tách ngôn ngữ thành hai phần là hệ thống trừu tượng ("langue") và ngôn ngữ cụ thể hiện thân của hệ thống này ("parole").
Ngôn ngữ học hiện đại.
Vào những năm 1960, Noam Chomsky xây dựng lý thuyết tạo sinh của ngôn ngữ, cho rằng hình thức cơ bản nhất của ngôn ngữ là một tập hợp các quy tắc cú pháp phổ quát ở toàn bộ loài người và đóng vai trò là cơ sở ngữ pháp của tất cả ngôn ngữ loài người. Bộ quy tắc này được ông gọi là Ngữ pháp Phổ quát ("Universal Grammar"); theo Chomsky, mục tiêu chính của ngôn ngữ học là tìm ra thứ ngữ pháp này. Vì vậy, ông cho rằng ngữ pháp của từng ngôn ngữ riêng lẻ chỉ có tầm quan trọng nhất định do chúng cho phép ta suy ra các quy tắc cơ bản phổ quát mà từ đó tạo ra sự biến đổi ngôn ngữ có thể quan sát được ngày nay.
Đối lập với các lý thuyết hình thức của trường phái tạo sinh, các lý thuyết chức năng của ngôn ngữ cho rằng ngôn ngữ về cơ bản là một công cụ, thế nên cấu trúc của nó được phân tích và hiểu rõ nhất khi ta đi nghiên cữu chức năng của nó. Các lý thuyết hình thức về ngữ pháp tìm cách xác định các yếu tố khác nhau của ngôn ngữ và mô tả sự liên hệ giữa chúng như là hệ thống các quy tắc hoặc các thao tác hình thức, trong khi các lý thuyết chức năng tìm cách xác định các chức năng của ngôn ngữ và sau đó liên hệ chúng với các yếu tố ngôn ngữ thực hiện chức năng đó. Khuôn khổ ngôn ngữ học nhận thức giải thích ngôn ngữ dưới dạng các khái niệm (đôi khi phổ quát, và đôi khi cụ thể cho một ngôn ngữ cá biệt) ẩn dưới cái hình thức. Ngôn ngữ học nhận thức quan tâm chủ yếu đến cách trí óc tạo ra ý nghĩa thông qua ngôn ngữ. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Kiến trúc sinh lý và thần kinh của ngôn ngữ và lời nói.
Nói là phương thức mặc định để diễn đạt ngôn ngữ ở tất cả các nền văn hóa. Việc tạo ra ngôn ngữ nói phụ thuộc vào năng lực điều khiển môi, lưỡi và các thành phần khác của bộ máy thanh âm rất tinh vi; dựa vào khả năng giải mã âm thanh của giọng nói, và dựa vào bộ máy thần kinh cần thiết để tiếp thu và sản xuất ngôn ngữ. Ngành nghiên cứu cơ sở di truyền của ngôn ngữ con người vẫn còn rất non trẻ: gen duy nhất hiện được biết có liên quan đến sự sản xuất ngôn ngữ ở người là FOXP2, mất đoạn gen này sẽ gây gián đoạn chức năng ngôn ngữ ở người.
Bộ não.
Bộ não là trung tâm điều phối mọi hoạt động ngôn ngữ; nó kiểm soát cả việc sản xuất nhận thức ngôn ngữ, ý nghĩa và cơ chế tạo ra lời nói. Tuy nhiên, kiến thức của chúng ta về các cơ sở thần kinh liên quan đến ngôn ngữ vẫn còn rất hạn chế mặc cho những tiến bộ đáng kể trong kỹ thuật hình ảnh hiện đại. Ngành ngôn ngữ học chuyên nghiên cứu các khía cạnh thần kinh của ngôn ngữ được gọi là ngôn ngữ học thần kinh.
Công tác ban đầu của ngành ngôn ngữ học thần kinh là nghiên cứu ngôn ngữ ở những người bị tổn thương não, để xem xét các tổn thương ở những khu vực đó ảnh hưởng thế nào đến ngôn ngữ và lời nói. Các nhà khoa học thần kinh vào thế kỷ 19 phát hiện ra 2 khu vực của não bộ liên quan mật thiết đến quá trình xử lý ngôn ngữ của con người. Khu vực đầu tiên là vùng Wernicke, nằm ở phần sau của hồi thái dương trên thuộc bán cầu đại não ưu thế. Những người bị tổn thương vùng não này biểu hiện chứng thất ngôn tiếp thu, tức là tình trạng suy giảm trầm trọng khả năng hiểu ngôn ngữ, nhưng lời nói vẫn giữ nhịp điệu tự nhiên và cấu trúc câu tương đối bình thường. Khu vực thứ hai là vùng Broca, nằm ở phần sau của hồi trán dưới của bán cầu não ưu thế. Những người bị tổn thương khu vực này biểu hiện chứng thất ngôn biểu đạt, tức là họ biết điều mình muốn nói nhưng không tài nào nói ra được. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Các đối tượng đôi khi hiểu được cuộc trò chuyện nhưng không thể nói trôi chảy, thường lặp từ của người khác, có biểu hiện nói không đúng ngữ điệu và không có khả năng sử dụng thông tin cú pháp để xác định ý nghĩa của câu. Cả hai loại thất ngôn trên ảnh hưởng đến ngôn ngữ ký hiệu y hệt như ngôn ngữ nói miệng. Chứng thất ngôn biểu đạt khiến cho đối tượng ra ký hiệu chậm hơn và sai ngữ pháp, còn chứng thất ngôn tiếp thu khiến đối tượng tuy ra hiệu trôi chảy, nhưng thường lan man khó hiểu và thường không hiểu được ý của đối phương. Những điều trên cho thấy rằng hai vùng này đặc trưng cho khả năng sử dụng ngôn ngữ, nhưng không liên quan gì đến khả năng tạo ra giọng nói.
Với những tiến bộ công nghệ vào cuối thế kỷ 20, các nhà ngôn ngữ học thần kinh đã và đang vận dụng các kỹ thuật không xâm nhập như chụp cộng hưởng từ chức năng (fMRI) và điện sinh lý để nghiên cứu quá trình xử lý ngôn ngữ ở những người khỏe mạnh.
Giải phẫu lời nói.
Ngôn ngữ nói dựa vào khả năng vật lý của con người để tạo ra âm thanh, tức là một kiểu sóng dọc truyền trong không khí ở tần số rung động trống tai. Khả năng này phụ thuộc vào sinh lý của cơ quan tạo lời nói ở con người. Những cơ quan này bao gồm phổi, thanh quản, cổ họng, miệng và mũi. Bằng cách điều phối các bộ phận thuộc bộ máy phát âm, luồng khí được điều chỉnh để tạo ra các âm thanh giọng nói khác nhau.
Âm thanh của lời nói có thể được phân tích thành sự kết hợp của các yếu tố đoạn tính và siêu đoạn tính ("segmental and suprasegmental"). Các phần tử phân đoạn là những phần tử nối tiếp nhau theo trình tự, thường được biểu thị bằng các chữ cái riêng biệt trong bảng chữ cái, chẳng hạn chữ Latinh. Trong lời nói tự do, không có ranh giới rõ ràng giữa phân đoạn này và phân đoạn tiếp, và thường không có bất kỳ khoảng tạm dừng âm thanh nào giữa chúng. Do đó, các phân đoạn được phân biệt bằng các âm riêng biệt là kết quả của các cách phát âm khác nhau (có thể là nguyên âm hoặc phụ âm). |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Hiện tượng siêu phân đoạn bao gồm các yếu tố như trọng âm ("stress"), kiểu tạo âm ("phonation type"), âm sắc ("timbre"), điệu tính ("prosody") hoặc ngữ điệu ("intonation"), tất cả đều có thể có ảnh hưởng trên nhiều phân đoạn.
Các phân đoạn phụ âm và nguyên âm kết hợp với nhau để tạo thành âm tiết, sau đó kết hợp với nhau để tạo thành ngữ lưu; điều mà có thể được phân biệt bằng khoảng trống giữa hai lần hít vào. Về mặt âm học, các phân đoạn khác nhau đặc trưng bởi các cấu trúc formant khác nhau, được biểu thị trong phổ sóng ghi lại âm thanh. Formant chính là các đỉnh biên độ trong phổ tần số của một âm thanh cụ thể.
Nguyên âm là những âm thanh không có ma sát nghe được, gây ra bởi sự thu hẹp hoặc tắc nghẽn một số chặng của đường dẫn âm trên. Chúng khác nhau về chất âm ("quality") tùy theo độ mở của môi và vị trí của lưỡi trong khoang miệng. Nguyên âm được gọi là đóng ("close") khi môi tương đối khép, chẳng hạn âm [i] (tiếng Việt ký âm là "i" hoặc "y"); được gọi là mở ("open") khi môi tương đối mở, chẳng hạn nguyên âm [a] (tiếng Việt ký âm là "a"). Nếu lưỡi nằm về phía sau miệng, chất âm sẽ thay đổi, tạo ra các nguyên âm như [u] (tiếng Việt ký âm là "u"). Chất âm cũng thay đổi tùy thuộc vào độ làm tròn ("roundedness") và không làm tròn ("unroundedness") của môi, ví dụ sự khác biệt giữa [i] (nguyên âm trước không làm tròn) và [y] (nguyên âm trước làm tròn trong tiếng Đức "ü" ).
Phụ âm là những âm bị ma sát nghe được hoặc bị cản trở tại một số chặng của đường dẫn âm trên. Các phụ âm thay đổi tùy theo vị trí cấu âm ("place of articulation"), tức là vị trí luồng khí bị cản trở trong đường dẫn âm, thường là ở môi, răng, kẽ kề nướu răng, ngạc cứng, ngạc mềm, lưỡi gà hoặc thanh môn. Mỗi vị trí cấu âm sẽ tạo ra một tập hợp các phụ âm khác nhau, được phân biệt rõ ràng hơn bởi phương pháp cấu âm ("manner of articulation") hoặc loại ma sát, kể cả khi đóng hoàn toàn (trong trường hợp đó phụ âm được gọi là âm tắc hoặc dừng), hoặc các mức khẩu độ khác nhau tạo ra âm xát và âm lướt. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Phụ âm cũng có thể là hữu thanh hoặc vô thanh ("voiced-unvoiced"), tùy thuộc vào độ rung động của dây thanh trong quá trình phát âm.
Một số âm cần sự giải phóng luồng khí bằng khoang mũi nên được gọi là âm mũi hoặc âm mũi hóa ("nasalized"). Một số âm được tạo ra bởi chuyển động lưỡi trong miệng, như các âm l thì được gọi là âm bên ("lateral") vì luồng khí chạy dọc hai bên lưỡi, và như các âm r thì được gọi là âm r-tính ("rhotic").
Con người có thể tạo ra hàng trăm âm thanh riêng biệt: một số âm xuất hiện rất thường xuyên trong các ngôn ngữ trên thế giới, còn một số âm thanh lại phổ biến hơn trong một số ngữ hệ, khu vực ngôn ngữ nhất định hoặc thậm chí chỉ xuất hiện ở một ngôn ngữ cụ thể.
Phương thức biểu đạt.
Ngôn ngữ con người rất linh hoạt trong cách thức truyền tải. Hai phương thức giao tiếp được coi là cơ bản: bằng miệng (lời nói và ra hiệu bằng miệng) và bằng tay (ra hiệu bằng tay và cử chỉ). Thông thường, ngôn ngữ bằng miệng đi kèm với cử chỉ và ngôn ngữ ký hiệu đi kèm với mấp máy miệng. Ngoài ra, một số cộng đồng ngôn ngữ sử dụng cả hai phương thức để truyền tải ý nghĩa từ vựng hoặc ngữ pháp, bổ trợ lẫn nhau. Việc sử dụng ngôn ngữ theo hai phương thức như vậy đặc biệt phổ biến trong các thể loại như kể chuyện (ví dụ thủ ngữ Anh-điêng đồng bằng và thủ ngữ thổ dân Úc đi đôi với ngôn ngữ miệng), đôi khi cũng xảy ra trong các cuộc trò chuyện thông thường. Ví dụ: nhiều ngôn ngữ Úc có một tập hợp phong phú các hậu tố cách ngữ pháp ("case") cung cấp thông tin chi tiết về công cụ được sử dụng để thực hiện một hành động. Nhiều ngôn ngữ khác thiếu độ chính xác ngữ pháp như vậy ở ngôn ngữ nói, nhưng được bổ sung bằng cử chỉ để truyền đạt thông tin đó. Ví dụ, trong tiếng Iwaidja, câu nói 'anh ta đi săn cá với ngọn đuốc' được nói đơn giản là "anh ấy-săn cá đuốc", nhưng từ 'đuốc' được đi kèm với một cử chỉ biểu thị rằng nó đã được cầm. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Một ví dụ nữa, ngôn ngữ nghi lễ Damin có vốn từ vựng truyền miệng chỉ vỏn vẹn vài trăm từ, mỗi từ đều rất chung chung về nghĩa, nhưng được bổ sung bằng cử chỉ để có độ chính xác cao hơn (ví dụ: từ duy nhất chỉ cá là "l*i", sẽ đi kèm một cử chỉ để xác định loài cá).
Các phương thức ngôn ngữ thứ cấp bao gồm chữ viết (bao gồm chữ nổi), dấu hiệu (bằng ngôn ngữ được mã hóa thủ công), huýt sáo và đánh trống. Các phương thức ngôn ngữ bậc ba - chẳng hạn semaphore, mã Morse và bảng chữ cái chính tả - truyền tải phương thức viết thứ cấp theo một phương tiện khác. Đối với một số ngôn ngữ chết còn được duy trì cho mục đích nghi lễ hoặc phụng vụ, chữ viết mới là phương thức biểu đạt chính, còn nói chỉ là phương thức thứ yếu.
Cấu trúc.
Nếu được coi như một hệ thống giao tiếp tượng trưng theo truyền thống, ngôn ngữ được xem như bao gồm ba phần: dấu hiệu ("sign"), ý nghĩa ("meaning") và mã ("code") cầu nối giữa dấu hiệu và ý nghĩa. Khoa học nghiên cứu quá trình thiết hiệu (phương thức các dấu hiệu và ý nghĩa được liên kết, sử dụng và giải thích) được gọi là ngành ký hiệu học. Dấu hiệu có thể bao gồm âm thanh, cử chỉ, chữ cái hoặc biểu tượng, tùy thuộc vào ngôn ngữ được nói, ra hiệu hay viết và chúng có thể được kết hợp thành các dấu hiệu phức tạp hơn, chẳng hạn từ và cụm từ. Khi được sử dụng để giao tiếp, một dấu hiệu sẽ được mã hóa và truyền đi bởi người gửi ("sender") thông qua một kênh ("channel") đến người nhận ("receiver") phải giải mã nó. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Một số đặc tính tách biệt ngôn ngữ con người khỏi các hệ thống giao tiếp khác, đó là: "tính võ đoán" ("arbitrariness") của dấu hiệu ngôn ngữ, tức là ta không thể lường trước mối liên kết giữa dấu hiệu và ý nghĩa; "tính sóng đôi" ("duality") của hệ thống ngôn ngữ, tức là những cấu trúc ngôn ngữ lớn hơn được xây dựng từ sự kết hợp các yếu tố nhỏ hơn, ví dụ: âm thanh xây dựng từ ngữ, rồi từ ngữ xây dựng ngữ đoạn; "tính phân lập" ("discreteness") của các yếu tố ngôn ngữ, tức là các yếu tố cấu thành dấu hiệu ngôn ngữ là các đơn vị rời rạc, ví dụ: âm thanh và từ ngữ, có thể được phân biệt và tái sắp xếp theo các kiểu mẫu khác nhau; và "tính năng sản" ("productivity") của hệ thống ngôn ngữ, tức là trên lý thuyết, một tổ hợp ngôn từ vô hạn có thể được sáng tạo từ hữu hạn yếu tố ngôn ngữ.
Các quy tắc mà các dấu hiệu tuân theo để kết hợp và tạo thành từ ngữ/ngữ đoạn được gọi là cú pháp hoặc ngữ pháp. Ý nghĩa ẩn sau của từng dấu hiệu, hình vị, từ ngữ, ngữ đoạn và văn bản được gọi là ngữ nghĩa. De Saussure là nhà ngôn ngữ học tiên phong cho phương pháp phân chia ngôn ngữ thành các hệ thống ký hiệu và ý nghĩa riêng biệt như vậy, mà hiện nay được áp dụng trong hầu hết các ngành ngôn ngữ học.
Ngữ nghĩa.
Các ngôn ngữ biểu đạt ý nghĩa thông qua sự liên hệ dạng ký hiệu (sign form) với một ý nghĩa hoặc nội dung. Dạng dấu hiệu phải là thứ có thể nhận biết được, chẳng hạn âm thanh, hình ảnh hoặc cử chỉ, sau đó được liên hệ đến một ý nghĩa cụ thể dựa theo quy ước xã hội. Vì mối quan hệ dạng ký hiệu-ý nghĩa lệ thuộc vào quy ước xã hội, các dấu hiệu ngôn ngữ có thể coi là tùy ý, tức là quy ước đó được thiết lập về mặt xã hội và lịch sử, chứ không phải về mặt tự nhiên giữa một dạng dấu hiệu cụ thể và ý nghĩa của nó.
Như vậy, ngôn ngữ phải có vốn dấu hiệu liên quan đến ý nghĩa cụ thể. Ví dụ, ký hiệu tiếng Việt "chó" làm ta liên tưởng đến một thành viên của loài "Canis familris". |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Một mảng các dấu hiệu tùy ý kết nối với các ý nghĩa cụ thể được gọi là từ vựng ("lexicon"), còn từng ký hiệu đơn lẻ kết nối với từng ý nghĩa một được gọi là từ vị ("lexeme"). Chưa chắc mọi ý nghĩa trong một ngôn ngữ đều được thể hiện bằng các từ đơn. Thông thường, các khái niệm ngữ nghĩa được gắn với hình thái hoặc cú pháp của ngôn ngữ dưới dạng các đặc điểm ngữ pháp (ví dụ: đuôi "-s" chỉ số nhiều ở tiếng Anh, v.v).
Mọi ngôn ngữ đều có một cấu trúc ngữ nghĩa gọi là vị ngữ, đảm nhận chức năng xác định thuộc tính, trạng thái hoặc hành động. Ngữ nghĩa học có thể được định nghĩa là ngành khoa học nghiên cứu về phương thức người nói hoặc người thông dịch gán giá trị chân lý cho các phát biểu; do đó, ý nghĩa có thể được hiểu là quá trình mà một vị ngữ phát biểu đúng hoặc sai về một thực thể, ví dụ: "[x [là y]]" hay "[x [làm y]]". Gần đây, mô hình ngữ nghĩa học này đã được bổ sung với nhiều mô hình ý nghĩa năng động hơn, kết hợp thêm kiến thức về ngữ cảnh chung, trong đó một dấu hiệu được diễn giải tạo ra ý nghĩa. Những mô hình kiểu vậy được nghiên cứu trong lĩnh vực ngữ dụng học.
Âm thanh và ký hiệu.
Tùy thuộc vào phương thức biểu đạt, cấu trúc ngôn ngữ có thể dựa trên hệ thống âm thanh (lời nói), cử chỉ (ngôn ngữ ký hiệu), đồ họa hoặc biểu tượng xúc giác. Cách thức ngôn ngữ sử dụng âm thanh hoặc biểu tượng để xây dựng ý nghĩa được nghiên cứu trong ngành âm vị học.
Âm thanh thuộc một phần của hệ thống ngôn ngữ được gọi là âm vị ("phoneme"). Âm vị là loại âm thanh trừu tượng, được định nghĩa là đơn vị nhỏ nhất trong ngôn ngữ có thể dùng để phân biệt ý nghĩa của một cặp tối thiểu ("minimal pair"). Ví dụ trong tiếng Việt, "tương" [tɨəŋ˧˧] và "thương" [tʰɨəŋ˧˧] tạo thành một cặp tối thiểu, trong đó sự phân biệt /t/ và /th/ tạo ra hai từ khác hẳn nhau về nghĩa; tương tự trong tiếng Anh, "bat" [bæt] 'dơi' và "pat" [pʰæt] 'vỗ' tạo thành cặp tối thiểu do sự phân biệt /b/ và /p/. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Tuy nhiên, mỗi ngôn ngữ tương phản âm thanh theo những cách khác nhau. Nếu như một ngôn ngữ không phân biệt giữa phụ âm hữu thanh và vô thanh, thì âm [p] và [b] (nếu xuất hiện) có thể được coi là một âm vị duy nhất và hai từ sẽ có cùng nghĩa. Giống tiếng Hàn và tiếng Hindi, tiếng Anh không phân biệt ngữ âm giữa phụ âm bật hơi và không bật hơi: /p/ trong "spin" [spɪn] và /p/ trong "pin" [pʰɪn] được coi là hai cách phát âm khác nhau của cùng một âm vị (hai âm này do vậy sẽ được gọi là tha âm vị ("allophone")), trái lại trong tiếng Quan Thoại thì lại phân biệt giữa [pʰá] 'cúi' và [pá] 'tám' (dấu sắc của "á" ở đây tượng trưng cho thanh điệu cao).
Mọi ngôn ngữ nói đều có âm vị thuộc hai loại cơ bản là nguyên âm và phụ âm, có thể kết hợp lại thành âm tiết ("syllable"). Bên cạnh phụ âm và nguyên âm, một số ngôn ngữ sử dụng nhiều đặc điểm khác để truyền đạt và phân biệt ý nghĩa, ví dụ như trọng âm ("stress"), cao độ ("pitch"), thời lượng ("duration") và thanh điệu ("tone"). Bởi vì những hiện tượng này hoạt động bên ngoài mức độ đoạn tính đơn lẻ, chúng được gọi là siêu phân đoạn. Một số ngôn ngữ có rất ít âm vị, chẳng hạn tiếng Rotokas và tiếng Pirahã sở hữu lần lượt 11 và 10 âm vị, trong khi một số lại có rất nhiều âm vị, chẳng hạn tiếng Taa sở hữu tận 141 âm vị. Trong nghiên cứu ngôn ngữ ký hiệu, thứ tương đương với âm vị được gọi là hiệu vị ("chereme"), tức là các yếu tố cơ bản của cử chỉ chẳng hạn hình dạng, hướng, vị trí và chuyển động của tay, tương ứng với phương pháp cấu âm trong khẩu ngữ.
Hệ thống chữ viết là hệ thống sử dụng các ký hiệu trực quan để đại diện cho ngôn ngữ nói. Bảng chữ cái Latinh (và những bảng chữ cái dựa theo hoặc bắt nguồn từ nó) ban đầu được tạo ra nhằm ký âm đơn lẻ, vì vậy những cộng đồng ngôn ngữ sử dụng bảng Latinh phải ghép các chữ cái lại để tạo thành một từ hoàn chỉnh. Trong các hệ chữ âm tiết ("syllabic script"), chẳng hạn hệ chữ Inuktitut, mỗi ký hiệu đại diện cho toàn bộ một âm tiết. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Trong các hệ chữ tượng hình (logographic script), mỗi dấu hiệu đại diện cho toàn bộ một từ và hầu như không gợi ý cách phát âm của từ đó.
Bởi các ngôn ngữ đều có số lượng từ vựng rất lớn, không một hệ chữ tượng hình thuần túy nào tồn tại. Ngôn ngữ viết mô phỏng lại sự tiếp nối của các âm thanh và lời nói bằng cách sắp xếp các ký hiệu theo một khuôn mẫu, tuân theo một chiều viết nhất định. Chiều viết của một hệ chữ hoàn toàn tùy thuộc theo quy ước. Một số hệ chữ viết theo chiều ngang (từ trái sang phải giống hệ Latinh hoặc từ phải sang trái giống hệ Ả Rập), còn một số hệ khác viết theo chiều dọc, ví dụ như từ trên xuống dưới giống hệ chữ Hán truyền thống. Một số hệ viết theo các hướng ngược nhau xen kẽ các dòng, và một số hệ, chẳng hạn hệ Maya cổ, có thể được viết theo cả hai hướng và sử dụng các ký hiệu đặc biệt để chỉ dẫn người đọc hướng viết.
Các nhà ngôn ngữ học đã phát triển bảng chữ cái phiên âm quốc tế (IPA) để đại diện cho tất cả các đơn vị âm thanh rời rạc góp phần tạo nên ý nghĩa trong tất cả các ngôn ngữ nói miệng của con người.
Ngữ pháp.
Ngữ pháp là bộ quy tắc của một ngôn ngữ cụ thể quy định sự kết ghép các các hình vị lại để tạo thành một ngữ lưu. Nếu hình vị được tự do di chuyển trong một ngữ lưu, chúng được gọi là từ; còn nếu bị ràng buộc với các từ hoặc hình vị khác thì gọi là phụ tố. Các quy tắc cấu trúc bên trong của từ được gọi là hình thái còn quy tắc cấu trúc bên trong của các cụm từ và câu thì gọi là cú pháp.
Phạm trù ngữ pháp.
Ngữ pháp có thể được mô tả là một hệ thống các phạm trù ("category") và một tập hợp các quy tắc kết hợp các phạm trù đó để tạo thành các khía cạnh ý nghĩa khác nhau. Từng ngôn ngữ sẽ có một kiểu mã hóa ý nghĩa theo phạm trù hoặc từ vị riêng. Tuy nhiên, vẫn có một số đặc điểm nhất quán đến mức gần như phổ quát ở mọi ngôn ngữ.
Từ loại.
Các nhà ngôn ngữ học chia các thành phần trong câu nói thành các lớp từ theo chức năng và vị trí của chúng so với các phần khác của một câu. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Ví dụ, tất cả các ngôn ngữ đều phân biệt giữa nhóm từ biểu thị nguyên mẫu sự vật-khái niệm và nhóm từ biểu thị nguyên mẫu hành động-sự kiện. Nhóm từ chỉ sự vật-khái niệm, bao gồm các từ tiếng Việt như "chó" và "nhạc", được gọi là danh từ. Nhóm từ chỉ hành động-sự kiện, bao gồm "nghĩ" và "hát", được gọi là động từ. Một nhóm từ phổ biến nữa là tính từ, mô tả đặc tính hoặc phẩm chất của các danh từ, chẳng hạn "chua" hoặc "lớn". Lớp từ "mở" nếu ta luôn có thể thêm từ mới vào lớp đó, nhưng "đóng" nếu chỉ có một số lượng cố định từ ngữ ở lớp đó. Trong tiếng Anh, lớp đại từ là lớp đóng còn lớp tính từ là lớp mở, do vô số tính từ có thể phái sinh từ động từ (ví dụ: "saddened") hoặc danh từ (ví dụ: thêm hậu tố "-like" vào sau một danh từ có thể tạo ra các tính từ, như trong "noun-like" 'giống danh từ'). Trong các ngôn ngữ khác như tiếng Hàn, điều này trái lại, số lượng đại từ là bất định nhưng số lượng tính từ lại cố định.
Mỗi từ loại đảm nhận những chức năng khác nhau của ngữ pháp. Ví dụ, động từ cấu thành vị ngữ, còn danh từ cấu thành tham tố ("argument") của vị ngữ; ví dụ trong câu "Sally runs", vị ngữ sẽ là "runs" vì nó chỉ trạng thái cụ thể của tham tố "Sally". Một số động từ như "curse" có thể liên kết với 2 tham tố, ví dụ: "Sally cursed John". Một vị ngữ chỉ có thể nhận một tham tố duy nhất thì gọi là nội động từ ("intransitive verb"), còn nếu có thể nhận hai tham tố thì gọi là ngoại động từ ("transitive verb").
Ngoài ra, ngôn ngữ còn có rất nhiều từ loại, chẳng hạn: liên từ để nối các mệnh đề, mạo từ để đánh dấu tính xác định của danh từ, thán từ để bộc lộ cảm xúc, biểu ý từ (ideophone) để gợi lên ý tưởng bằng âm thanh, giới từ để xác định vị trí của sự vật trong không gian, loại từ để phân loại danh từ theo hình dáng hoặc phẩm chất của sự vật, v.v.
Hình thái.
Trong ngôn ngữ học, việc nghiên cứu cấu trúc bên trong của các từ phức và quá trình mà các từ ngữ hình thành được gọi là hình thái học. Trong hầu hết các ngôn ngữ, từ phức có thể được xây dựng từ nhiều hình vị. Ví dụ, từ "unexpected" trong tiếng Anh có thể được phân tích thành ba hình vị là "un-", "expect" và "-ed". |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Hình vị có khả năng đứng độc lập gọi là căn tố (root), còn nếu phải đi kèm với các hình vị khác thì gọi là phụ tố ("affix"). Phụ tố có thể được phân loại dựa theo vị trí của chúng so với căn tố: tiền tố ("prefix"), hậu tố ("postfix") và trung tố ("infix"). Phụ tố có vai trò thay nghĩa hoặc bổ nghĩa cho căn tố. Trong một số ngôn ngữ, từ ngữ có thể biến âm để biểu thị một ý nghĩa khác; ví dụ trong tiếng Anh, từ "run" ở thì quá khứ là "ran". Hiện tượng biến âm đó được gọi là ablaut. Ngoài ra, hình thái học phân biệt giữa hai khái niệm biến tố (thay nghĩa hoặc bổ nghĩa một căn tố) và phái sinh (tạo ra từ mới dựa trên một căn tố hiện có). Trong tiếng Anh, động từ "sing" có dạng biến tố thì quá khứ là "sung" và dạng phái sinh kèm hậu tố chỉ nghề nghiệp "-er" là "singer".
Dựa vào hình thái-cú pháp, ngôn ngữ có thể được phân thành 4 loại sau đây:
Nhiều hình thái ngôn ngữ thể hiện tính tham chiếu chéo các từ trong một câu, gọi là sự phù ứng ("agreement"). Ví dụ trong nhiều ngôn ngữ Ấn-Âu, các tính từ phải tham chiếu chéo với danh từ mà chúng bổ nghĩa về lượng, cách và giống. Chính vì vậy, từ "bonus" trong tiếng Latinh phải dùng sau một danh từ giống đực, số ít và ở dạng cách. Trong nhiều ngôn ngữ hỗn nhập, các động từ phải tham chiếu chéo với chủ thể và đối tượng. Ví dụ trong cụm từ tiếng Basque "ikusi nauzu", nghĩa là "bạn đã thấy tôi", động từ phụ trợ thì quá khứ n-au-zu (tương tự như "do" trong tiếng Anh) phù ứng với chủ ngữ (bạn) qua tiền tố "n-" và phù ứng với đối tượng (tôi) qua hậu tố "-zu". Giải nghĩa từng hình vị của từ này sẽ là "thấy bạn-làm "thì quá khứ"-tôi".
Cú pháp.
Một cách truyền đạt ý nghĩa khác của ngôn ngữ là thông qua thứ tự các từ trong một câu, đó chính là cú pháp. Các quy tắc cú pháp của một ngôn ngữ cho ta biết tại sao "I love you" là câu có nghĩa, nhưng "*love you I" thì không. Các quy tắc cú pháp xác định trật tự từ và sự ràng buộc cấu trúc câu, và làm thế nào những ràng buộc đó góp phần tạo nên ý nghĩa. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Ví dụ, trong tiếng Anh, hai câu: "the slaves were cursing the master" [Đám nô lệ chửi ("thì quá khứ tiếp diễn") tên chủ nô] và "the master was cursing the slaves" [Tên chủ nô chửi ("thì quá khứ tiếp diễn") đám nô lệ] có nghĩa khác nhau bởi vì chủ ngữ là danh từ đứng trước động từ, còn tân ngữ là danh từ đứng sau động từ. Trái lại trong tiếng Latin, cả "Dominus servos vituperabat" và "Servos vituperabat dominus" đều có nghĩa là [Chủ nhân khiển trách ("thì quá khứ tiếp diễn") đám nô lệ] bởi vì từ "servos" 'nô lệ' đang ở dạng đối cách (accusative case, biểu thị vị ngữ) và "dominus" 'chủ nhân' đang ở dạng danh cách (nominative case, biểu thị chủ ngữ).
Tiếng Latin sử dụng hình thái để phân biệt giữa chủ thể và đối tượng, còn tiếng Anh sử dụng trật tự từ. Một ví dụ khác về tầm ảnh hưởng của quy tắc cú pháp làm thay đổi ý nghĩa của câu là quy tắc đảo ngược trật tự từ trong câu hỏi, xuất hiện ở nhiều ngôn ngữ. Quy tắc này giải thích tại sao trong tiếng Anh, câu "John is talking to Lucy" khi chuyển thành câu hỏi phải là "Who is John talking to?" (1), chứ không phải "John is talking to who?" (2). Tất nhiên, câu (2) đôi khi được sử dụng để thay đổi sắc thái câu hỏi, nhấn mạnh sự nghi vấn vào "who?". Ngoài ra, cú pháp còn bao gồm các quy tắc kết hợp các ngữ đoạn ở những vị trí khác nhau lại để tạo thành một câu hoàn chỉnh. Câu có thể được coi là một cấu trúc dạng cây, tách ra thành các đơn vị ngữ đoạn nhỏ hơn ở những cấp khác nhau. Hình bên trên minh họa cú pháp đã phân tích của câu "the cat sat on the mat" tiếng Anh, bao gồm danh ngữ ("noun phrase"), động từ, và giới ngữ ("prepositional phrase"). Đoạn giới ngữ có thể được phân tích tiếp thành một giới từ và một danh ngữ, và danh ngữ đó lại có thể phân tích tiếp thành một mạo từ và một danh từ.
Lý do câu có thể được phân tích thành các ngữ đoạn là bởi vì mỗi ngữ đoạn hoàn toàn có thể di chuyển trong câu như một thành phần duy nhất nếu như một thao tác cú pháp nào đó được thực hiện. "The cat" và "on the mat" là hai ngữ đoạn/cụm từ, vì chúng được coi là các đơn vị riêng lẻ nếu người nói/người viết quyết định đưa giới ngữ lên đầu câu để nhấn mạnh vị trí: "[And] on the mat, the cat sat”. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Các khuôn khổ hoặc trường phái hình thức và chức năng khác nhau sẽ có lý thuyết mô tả cú pháp câu riêng, do vậy sự phân tích cấu trúc câu còn dựa theo từng trường phái lý thuyết ngôn ngữ.
Loại hình và phổ niệm.
Ngôn ngữ có thể được phân loại theo các kiểu hình ngữ pháp. Các ngôn ngữ dù có thuộc các ngữ hệ khác nhau vẫn thường có các đặc điểm chung, có xu hướng tương quan với nhau. Ví dụ, ngôn ngữ có thể được phân loại dựa trên thứ tự từ cơ bản của chúng, tức là thứ tự tương đối của động từ với các thành phần của một câu thông thường. Trong tiếng Anh, thứ tự từ cơ bản là SVO (chủ–động–tân): "Snake bit the man" (rắn cắn người), nhưng nếu nói một câu tương tự trong thổ ngữ Gamilaraay Úc thì phải theo trật tự SOV (chủ-tân-động): "d̪uyugu n̪ama d̪ayn yiːy" (rắn người cắn). Kiểu thứ tự từ được coi là một tham số ("parameter") loại hình vì kiểu trật tự từ cơ bản còn tương ứng với các tham số cú pháp khác, chẳng hạn thứ tự tương đối của danh từ và tính từ, hoặc sự sử dụng tiền giới từ ("preposition") hoặc hậu giới từ ("postpositions"). Những mối tương quan kiểu vậy được gọi là sự phổ niệm tất suy hay phổ niệm ngầm ("implicational universal"). Hầu hết, không phải tất cả, các ngôn ngữ có thứ tự câu SOV đều sử dụng hậu giới từ thay vì tiền giới từ, và tính từ thì thường đứng trước danh từ.
Mọi ngôn ngữ đều có các cấu trúc Chủ ngữ, Động từ và Tân ngữ, nhưng chúng lại khác nhau ở cách phân loại các mối quan hệ giữa tác thể và hành động. Tiếng Anh thuộc loại hình thái chủ cách-đối cách ("nominative-accusative"): trong các mệnh đề vị từ ngoại động tiếng Anh, chủ ngữ của câu nội động ""I run" lẫn câu ngoại động "I love you"" được coi là như nhau, được thể hiện bằng cùng một đại từ "I" "tôi". Một số ngôn ngữ khác thuộc loại hình thái khiển cách ("ergative"), ví dụ tiếng Gamilaraay, lại phân biệt giữa Tác thể ("Agent") và Bị thể ("Patient"). Trong các ngôn ngữ khiển cách, tham tố đơn lẻ trong một câu nội động, chẳng hạn "I run", lại giống hệt như bị thể trong một câu ngoại động, tức là "me run" = "I run". Chỉ trong các câu ngoại động thì từ tương đương với "I" mới được sử dụng. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Do vậy, các vai trò ngữ nghĩa có thể ánh xạ lên các mối quan hệ ngữ pháp theo những cách khác nhau, gộp một chủ thể nội động hoặc với Tác thể (kiểu đối cách) hoặc Bị thể (kiểu khiển cách) hoặc thậm chí làm cho ba vai trò khác hẳn nhau, thì được gọi là kiểu ba bên.
Các đặc điểm giống nhau giữa các ngôn ngữ thuộc cùng một loại hình có thể phát sinh hoàn toàn độc lập. Sự đồng đẳng đó có thể là do các quy luật phổ quát chi phối cấu trúc của ngôn ngữ tự nhiên, tức là "phổ niệm ngôn ngữ", hoặc chúng có thể là kết quả của sự hội tụ ngôn ngữ sinh ra bởi các vấn đề giao tiếp lặp đi lặp lại mà con người sử dụng ngôn ngữ để giải quyết.
Ngôn ngữ trong bối cảnh xã hội.
Mặc dù con người có khả năng học bất kỳ ngôn ngữ nào, nhưng họ chỉ có thể làm được điều đó nếu họ lớn lên trong môi trường mà ngôn ngữ đó tồn tại và được người khác sử dụng. Chính vì vậy, ngôn ngữ phải phụ thuộc vào một cộng đồng ngôn ngữ ("speech community"), trong đó, trẻ em tiếp thu ngôn ngữ từ người lớn và bạn bè xung quanh chúng, rồi chúng tiếp tục truyền ngôn ngữ cho con cái chúng sau này. Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp và giải quyết rất nhiều nhiệm vụ xã hội. Các khía cạnh của việc ngữ dụng đã thích nghi cho mục đích này. Do cách thức truyền ngôn ngữ giữa các thế hệ và trong một cộng đồng, ngôn ngữ luôn biến đổi và đa dạng hóa thành các ngôn ngữ mới, hoặc hội tụ lại do tiếp xúc ngôn ngữ. Các quá trình này có phần giống với tiến hóa sinh học, trong đó quá trình phái sinh với sự biến đổi dẫn đến sự hình thành cây phát sinh chủng loại.
Tuy nhiên, ngôn ngữ khác với sinh vật ở chỗ: ngôn ngữ dễ dàng tiếp nhận yếu tố từ các ngôn ngữ khác thông qua quá trình khuếch tán khi những cộng đồng ngôn ngữ khác biệt tiếp xúc với nhau. Con người đôi khi nói nhiều hơn một ngôn ngữ, tiếp thu ngôn ngữ mẹ đẻ hoặc nhiều ngôn ngữ khi còn nhỏ, hoặc học ngôn ngữ mới khi lớn lên. Vì sự tiếp xúc ngôn ngữ ngày càng tăng trong thế giới toàn cầu hóa, nhiều ngôn ngữ nhỏ đang lâm nguy bởi người nói chuyển sang dùng ngôn ngữ khác mà cho họ cơ hội tham gia vào cộng đồng ngôn ngữ lớn hơn và có ảnh hưởng hơn. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Ngữ dụng học.
Từ ngữ và ký hiệu thường có nhiều ý nghĩa khác nhau, tùy thuộc vào bối cảnh xã hội mà chúng được sử dụng. Đơn cử là quá trình trực chỉ ("deixis"), mô tả cách thức mà một số từ ngữ nhất định đề cập đến các thực thể thông qua mối quan hệ giữa chúng với một điểm cụ thể trong thời gian và không gian. Ví dụ một số từ đảm nhận chức năng như vậy là: "tôi" (chỉ người đang nói), "bây giờ" (chỉ thời điểm nói), và "đây" (chỉ vị trí nói). Trực chỉ là một phần quan trọng trong cách chúng ta sử dụng ngôn ngữ để chỉ ra các thực thể của thế giới xung quanh. Ý nghĩa của ký hiệu cũng có thể bị thay đổi theo thời gian, bởi sự biến hóa không ngừng của các quy ước ra hiệu. Ngành ngôn ngữ học nghiên cứu sự biến đổi ý nghĩa trong bối cảnh xã hội được gọi là ngữ dụng học. Ngành này chủ yếu quan tâm đến các mô hình của việc sử dụng ngôn ngữ và sự tạo nên ý nghĩa của những mô hình đó. Trong mọi ngôn ngữ, các biểu thức ("expression") không chỉ có chức năng truyền đạt thông tin mà còn có cả chức năng hành động ("action"). Một số hành động nhất định chỉ có thể được thực hiện thông qua ngôn ngữ, điều mà vẫn có thể tác động một cách hữu hình lên thực thể, chẳng hạn "đặt tên" (hành động tạo ra từ riêng để chỉ một số thực thể) hoặc "tuyên bố hai người là vợ là chồng" (hành động tạo ra một khế ước xã hội về hôn nhân). Những hành động bằng ngôn ngữ nêu trên được các nhà ngữ dụng học gọi là ngôn hành ("speech act"), và chúng cũng có thể được thực hiện thông qua văn viết hoặc thủ ngữ.
Hình thức biểu đạt ngôn ngữ thường không tương ứng với ý nghĩa mà nó thực sự có trong bối cảnh xã hội. Ví dụ, tại bàn ăn, một người hỏi bằng tiếng Anh: "Can you reach the salt?", tức là ở đây, ý của anh ta không phải là muốn biết chiều dài sải tay của người kia, mà là đề nghị người kia một cách lịch sự rằng lấy hộ anh ấy lọ muối. Do vậy, ý nghĩa của câu từ còn phải phụ thuộc vào ngữ cảnh; khái niệm này được các nhà ngữ dụng học gọi là hàm ngôn hội thoại ("conversational implicature"). |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Những quy tắc xã hội của việc sử dụng ngôn ngữ chỉ phù hợp trong một số tình huống nhất định và cách thức phát biểu được hiểu thế nào trong mối quan hệ với bối cảnh khác nhau giữa từng cộng đồng văn hóa, và việc học các quy tắc đó đóng vai trò rất lớn trong năng lực giao tiếp ngôn ngữ của một người.
Thụ đắc ngôn ngữ.
Tất cả con người khỏe mạnh, phát triển bình thường đều có khả năng học cách sử dụng ngôn ngữ. Trẻ em tiếp thu bất kỳ ngôn ngữ nào được sử dụng đáng kể xung quanh chúng, bất kể là thủ ngữ hay khẩu ngữ. Quá trình tiếp thu ngôn ngữ của trẻ em được gọi là thụ đắc ngôn ngữ đầu tiên ("first-language acquisition"), vì không giống như nhiều quá trình tiếp thu khác, sự "thụ đắc" không cần phải được giảng dạy mà diễn ra thụ động. Trong cuốn "The Descent of Man", nhà tự nhiên học Charles Darwin gọi quá trình này là "an instinctive tendency to acquire an art" (một xu hướng bản năng nhằm tiếp thu nghệ thuật).
Thụ đắc ngôn ngữ đầu tiên diễn ra theo một trình tự khá đều đặn, mặc dù có sự khác biệt về thời điểm của từng giai đoạn cụ thể ở trẻ sơ sinh phát triển bình thường. Các nghiên cứu được công bố vào năm 2013 chỉ ra rằng thai nhi có khả năng tiếp thu ngôn ngữ ở một mức độ nào đó. Ngay từ khi sinh ra, trẻ sơ sinh ưu tiên phản ứng với lời nói con người hơn các âm thanh khác. Khoảng 1 tháng tuổi, trẻ đã có khả năng phân biệt giữa các âm tố khác nhau. Khoảng 6 tháng tuổi, trẻ sẽ bắt đầu bập bẹ, tạo ra các âm tố hoặc ký hiệu của ngôn ngữ sử dụng xung quanh chúng. Khoảng từ 12-18 tháng tuổi, trẻ hình thành khái niệm từ; vốn từ vựng trung bình của một đứa trẻ lúc 18 tháng tuổi rơi vào khoảng 50 từ. Thuật ngữ để chỉ những ngữ lưu đầu tiên của trẻ là holophrasis (nghĩa đen là "toàn bộ câu"), tức là những ngữ lưu chỉ sử dụng một từ để truyền đạt một số ý tưởng. Vài tháng sau khi đứa trẻ bắt đầu tạo ra từ, chúng sẽ nói các ngữ lưu hai từ và trong vòng vài tháng nữa sẽ bắt đầu tạo ra các câu điện tín ("telegraphic speech"), tức những câu đơn giản về mặt ngữ pháp so với câu nói của người lớn nhưng vẫn có kết cấu cú pháp thông thường. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Khoảng từ 3-5 tuổi, khả năng nói hoặc ra hiệu của trẻ được tinh chỉnh đến mức giống với ngôn ngữ của người lớn.
Tiếp thu ngôn ngữ thứ hai và thứ ba/bốn/v.v có thể diễn ra ở mọi lứa tuổi, thông qua sự "phơi bày" trong cuộc sống hàng ngày hoặc ôn luyện tại các khóa học. Trẻ em học ngôn ngữ thứ hai có nhiều khả năng đạt được sự trôi chảy như người bản xứ không như người lớn, nhưng tựu trung, rất hiếm khi người nói ngôn ngữ thứ hai có nói hoàn toàn giống như người bản ngữ. Một sự khác biệt quan trọng giữa tiếp thu ngôn ngữ đầu tiên và tiếp thu ngôn ngữ bổ sung là quá trình tiếp thu ngôn ngữ bổ sung bị ảnh hưởng bởi các ngôn ngữ mà người học đã biết.
Văn hóa.
Ngôn ngữ còn được hiểu là tập hợp các quy tắc nói cụ thể của một cộng đồng cụ thể, và là một phần của nền văn hóa bao trùm cộng đồng nói chúng. Các ngôn ngữ không chỉ khác nhau ở mặt phát âm, từ vựng và ngữ pháp; mà còn khác "văn hóa nói". Con người sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện báo hiệu bản sắc nhóm, cũng như nhấn mạnh sự khác biệt với các nhóm khác. Ngay cả giữa những người nói chung một ngôn ngữ, vẫn có sự khác biệt trong lối nói và mỗi lối nói đó báo hiệu sự liên kết với một nhóm cụ thể trực thuộc nền văn hóa lớn hơn. Các nhà ngôn ngữ học, nhân học, và đặc biệt là các nhà xã hội học, dân tộc học và nhân học ngôn ngữ chuyên nghiên cứu các lối nói khác nhau giữa các cộng đồng ngôn ngữ.
Các nhà ngôn ngữ học sử dụng thuật ngữ "biến thể" ("varieties") để chỉ lối cách khác nhau khi nói cùng một ngôn ngữ. Thuật ngữ này bao hàm các phương ngữ ("dialect") được xác định theo địa lý hoặc văn hóa xã hội, cũng như các biệt ngữ nghề nghiệp ("jargon") hoặc phong cách ("style") của các nền văn hóa phụ. Các nhà nhân học ngôn ngữ và các nhà xã hội học về ngôn ngữ định nghĩa phong cách giao tiếp là phương thức ngôn ngữ được sử dụng và thông hiểu trong một nền văn hóa cụ thể.
Bởi vì các quy tắc sử dụng ngôn ngữ được chia sẻ bởi các thành viên của một nhóm cụ thể, phong cách giao tiếp cũng trở thành một cách thể hiện và xây dựng bản sắc nhóm. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Sự khác biệt về ngôn ngữ có thể trở thành dấu hiệu rõ rệt của sự phân chia giữa các nhóm xã hội; ví dụ, giọng cụ thể của một thứ tiếng ("accent") có thể ngụ ý nhóm dân tộc hoặc tầng lớp xã hội mà người nói thuộc về, quê hương hoặc địa vị của người nói, hoặc thứ bậc thành thạo thứ tiếng của người nói. Những sự khác biệt này không phải là một phần của hệ thống ngôn ngữ, nhưng vẫn là một phần quan trọng trong cách con người sử dụng ngôn ngữ như một công cụ xã hội để xây dựng các nhóm.
Tuy vậy, nhiều ngôn ngữ cũng có các quy ước ngữ pháp báo hiệu vị trí xã hội của người nói trong mối quan hệ với người khác thông qua việc sử dụng các âm vực có liên quan đến thứ bậc hoặc phân cấp xã hội. Trong nhiều ngôn ngữ, có sự khác biệt về văn phong hoặc thậm chí ngữ pháp giữa lối nói của đàn ông và đàn bà, giữa các nhóm tuổi hoặc giữa các tầng lớp xã hội, chẳng hạn nhiều ngôn ngữ sử dụng các từ khác nhau tùy vào người nghe. Ví dụ, trong tiếng Dyirbal, một người đàn ông đã kết hôn phải sử dụng một nhóm từ đặc biệt để chỉ các vật dụng hàng ngày khi có sự hiện diện của mẹ vợ. Một số nền văn hóa có những hệ thống "trực chỉ xã hội" ("social deixis") rất phức tạp, tức là những hệ thống báo hiệu khoảng cách xã hội thông qua phương tiện ngôn ngữ. Trong tiếng Anh, trực chỉ xã hội được thể hiện chủ yếu thông qua sự phân biệt xưng hô khi gọi một số người bằng tên riêng và những người khác bằng họ; và các chức danh như "Mrs", "boy", "Mr" hoặc "Your Honor". Ở các ngôn ngữ khác, những hệ thống như vậy có thể rất phức tạp và hệ thống hóa bằng toàn bộ ngữ pháp và từ vựng. Ví dụ, trong các ngôn ngữ Đông Á như tiếng Thái, tiếng Miến Điện hay tiếng Java, đại từ xưng hô phụ thuộc vào cấp bậc, trật tự hay tôn ti của người nói và đối phương, ví dụ: động vật và trẻ em xếp hạng thấp nhất, còn các vị thần và hoàng tộc sẽ đứng cao nhất.
Chữ viết và biết chữ.
Suốt chiều dài lịch sử, nhiều kiểu cách biểu diễn ngôn ngữ bằng phương tiện trực quan đã được phát minh. Chúng được gọi là hệ chữ viết. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Chúng được gọi là hệ chữ viết.
Chữ viết khiến ngôn ngữ trở nên hữu ích hơn đối với con người. Chữ viết cho phép con người lưu trữ số lượng lớn thông tin mà có thể dùng lại/kích hoạt lại sau này, đồng thời nó cho phép con người giao tiếp vượt khoảng cách địa lý và thời gian, điều mà trước đó bất khả thi. Nhiều ngôn ngữ sử dụng các thể loại, phong cách và âm vực khác nhau giữa dạng viết và nói; và ở một số cộng đồng ngôn ngữ, ngôn ngữ viết truyền thống là một ngôn ngữ khác hoàn toàn so với ngôn ngữ nói. Có một số bằng chứng cho thấy chữ viết ảnh hưởng đến sự phát triển nhận thức ở con người, có lẽ bởi vì để có được khả năng đọc viết, con người cần phải được giáo dục chính quy.
Thời điểm hệ chữ viết đầu tiên xuất hiện có tương quan với sự khởi đầu của thời đại đồ đồng vào cuối thiên niên kỷ thứ 4 TCN. Chữ hình nêm của người Sumer và chữ tượng hình Ai Cập cổ xưa được nhiều học giả coi là các hệ chữ viết xuất hiện sớm nhất, cả hai đều phái sinh từ các hệ thống biểu tượng tiền-chữ viết trước đó vào khoảng 3400-3200 TCN, với các văn bản mạch lạc sớm nhất xuất hiện vào khoảng năm 2600 TCN. Phần lớn học giả cho rằng chữ viết của người Sumer là một phát minh độc lập; tuy nhiên, vẫn còn có những tranh luận rằng chữ viết Ai Cập và chữ viết Sumer có mối quan hệ nào đó. Các chuyên gia cũng có nghi vấn tương tự về Hán tự của Trung Quốc, xuất hiện lần đầu vào khoảng 1200 TCN. Các hệ chữ Trung Bộ châu Mỹ tiền-Columbus (ví dụ chữ Olmec và chữ Maya) nhiều khả năng đã phát triển độc lập.
Biến đổi ngôn ngữ.
Tất cả các ngôn ngữ đều biến đổi theo thời gian khi người nói sử dụng hoặc phát minh ra những lối nói mới và lan truyền sang các thành viên khác trong cộng đồng ngôn ngữ. Sự biến đổi ngôn ngữ xảy ra ở tất cả các cấp độ, từ âm vị đến từ vựng, hình thái, cú pháp và diễn ngôn. Mặc dù sự biến đổi ngôn ngữ ban đầu thường bị coi là tiêu cực bởi những người nói ngôn ngữ đó, thường là "sự suy đồi" hoặc dấu hiệu lệch khỏi chuẩn mực sử dụng ngôn ngữ, nhưng đó là điều tự nhiên và không thể tránh khỏi. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Những biến đổi có thể ảnh hưởng đến một âm vị cụ thể hoặc toàn bộ hệ thống âm vị. Sự biến đổi ngữ âm ("sound change") bao hàm: sự thay thế âm tố ("speech sound") hoặc nét khu biệt ("distintive feature") bằng một âm tố hoặc nét khu biệt khác, sự mai một hoàn toàn âm vị bị ảnh hưởng hoặc đôi khi là sự phát triển của âm vị mới chưa từng có. Sự biến đổi ngữ âm có tính "điều kiện" ("conditioned") trong trường hợp âm đó chỉ bị biến đổi nếu nó xuất hiện ở vùng lân cận của các âm khác. Sự biến đổi ngữ âm có tính "quy tắc" ("regular"), tức là nó sẽ xuất hiện bất cứ khi nào các điều kiện cấu trúc được đáp ứng, bất kể yếu tố phi âm vị. Mặt khác, sự biến đổi ngữ âm xảy ra "hãn hữu" ("sporadic"), chỉ ảnh hưởng đến một từ hoặc một vài từ cụ thể mà không có sự đều đặn nào. Đôi khi một biến đổi đơn giản lại gây ra sự biến đổi dây chuyền khiến toàn bộ hệ thống âm vị bị ảnh hưởng. Điều này từng xảy ra trong ngữ tộc German, khi luật biến đổi âm Grimm ảnh hưởng đến tất cả các âm tắc trong hệ thống âm vị. Trong các ngôn ngữ nhánh German, phụ âm "*bʰ" gốc trở thành /b/, *b gốc trở thành /p/, và *p gốc trở thành /f/. Quy trình này diễn ra ở tất cả các phụ âm tắc và giúp lý giải hiện tượng các ngôn ngữ nhánh Ý như tiếng Latin lại có "p" ở pater 'cha' và pisces 'cá', còn các ngôn ngữ nhánh German như tiếng Anh lại có âm "f" ở father 'cha' và fish 'cá'.
Một ví dụ lịch sử nữa cho sự biến đổi ngữ âm là Đại Dịch chuyển Nguyên âm tiếng Anh, và đây chính là lý do tại sao chính tả tiếng Anh không tương thích với phát âm hiện tại. Một nguồn khác của sự biến đổi ngữ âm là sự xói mòn từ ngữ khi phát âm trở nên bất phân biệt và sự rút gọn các âm tiết hoặc âm thanh trong một từ. Ví dụ về sự rút gọn âm: "mea domina" trong tiếng Latin trở thành "madame" trong tiếng Pháp và "ma'am" trong tiếng Anh Mỹ.
Ngữ pháp của một ngôn ngữ có thể bị biến đổi nếu các mẫu diễn ngôn như các thành ngữ hoặc các cấu trúc câu cụ thể được ngữ pháp hóa ("grammaticalized"). |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Điều này thường xảy ra khi các từ hoặc các hình vị bị lược bỏ trong lời nói hằng ngày, khiến cho hệ thống ngữ pháp sắp xếp lại một cách vô thức để bù đắp cho các yếu tố đã mất. Ví dụ, tiếng Tây Ban Nha tiêu chuẩn phải thêm âm /s/ cuối động từ để đánh dấu chủ ngữ ngôi thứ hai "bạn"; nhưng một số biến thể của tiếng Tây Ban Nha Caribe không còn âm /s/ ở cuối từ nữa, khiến người nói tiếng Tây Ban Nha Caribe hiện nay phải diễn đạt ngôi thứ hai bằng cách sử dụng đại từ "tú". Chẳng hạn, câu hỏi "tên bạn là gì" trong tiếng Tây Ban Nha chuẩn là ¿como te llamas? [ˈKomo te ˈjamas], song trong tiếng Tây Ban Nha Caribe phải là [ˈkomo ˈtu te ˈjama]. Một sự biến đổi ngữ âm đơn giản có thể gây ảnh hưởng đến hình thái lẫn cú pháp. Một nguyên nhân phổ biến khác của sự biến đổi ngữ pháp là "sự hóa thạch" dần dần các thành ngữ thành các dạng ngữ pháp mới, điển hình như cấu trúc "going to" trong tiếng Anh, đang dần trở thành một thì tương lai ngữ pháp chính thức trong nhiều biến thể Anh ngữ (ví dụ: I'm gonna).
Sự biến đổi có thể được thúc đẩy bởi các yếu tố "nội tại ngôn ngữ", chẳng hạn cách phát âm thay đổi do các âm tố gần giống nhau khó phân biệt bị đồng hóa, hoặc thông qua các kiểu mẫu biến đổi khiến cho các cấu trúc hiếm gặp "trôi dạt" thành các cấu trúc thông thường hơn. Một số biến đổi ngôn ngữ xảy ra bởi lý do xã hội, chẳng hạn khi một cách phát âm được liên kết với nhóm/tầng lớp xã hội nhất định hoặc với hệ tư tưởng nhất định, và do đó cách phát âm ấy lan sang những cá nhân muốn trở thành một phần của nhóm hoặc hệ tư tưởng đó. Vì lẽ đó, các vấn đề liên quan đến bản sắc và chính trị cũng có thể ảnh hưởng sâu sắc đến cấu trúc ngôn ngữ.
Tiếp xúc ngôn ngữ.
Một nguyên nhân nữa rất quan trọng đối với quá trình biến đổi ngôn ngữ là sự tiếp xúc và lan tỏa đặc điểm ngôn ngữ. Tiếp xúc ngôn ngữ xảy ra khi các nhóm người nói hai hoặc nhiều ngôn ngữ/phương ngữ tương tác dai dẳng với nhau. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Đa ngôn ngữ rất phổ biến suốt lịch sử nhân loại, và hiện nay, phần lớn dân số loài người biết từ hai ngôn ngữ trở lên. Trước khi xuất hiện khái niệm quốc gia dân tộc, chỉ có những nhóm dân cư sinh sống trên các đảo nhỏ cô lập mới không biết ngôn ngữ nào ngoài tiếng mẹ đẻ. Nhưng sau sự trỗi dậy của ý thức hệ coi một dân tộc-một nhà nước-một ngôn ngữ là thể chế chính trị lý tưởng nhất, chủ nghĩa đơn ngôn ngữ mới có cơ hội lan rộng toàn cầu. Trên thế giới hiện chỉ có 250 quốc gia cùng với khoảng 6.000 ngôn ngữ, do vậy, hầu hết các quốc gia thực chất đều đa ngôn ngữ và hầu hết các ngôn ngữ tồn tại trong mối liên hệ lân cận với các ngôn ngữ khác.
Khi các cộng đồng nói các ngôn ngữ khác nhau sinh sống trao đổi ngay sát nhau, thì sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các ngôn ngữ của họ là điều hiển nhiên. Thông qua sự tiếp xúc ngôn ngữ bền vững trong một khoảng thời gian dài, đặc điểm ngôn ngữ sẽ bị khuếch tán giữa các ngôn ngữ. Tức là nếu chúng tuy thuộc các ngữ hệ khác nhau và ban đầu không có nhiều điểm chung, sau khi tiếp xúc lâu dài lại bị hội tụ và trở nên giống nhau hơn. Ở những khu vực có nhiều ngôn ngữ tiếp xúc, điều này có thể dẫn đến việc hình thành các "Sprachbund" hay "vùng ngôn ngữ", trong đó các ngôn ngữ không liên quan chia sẻ nhiều điểm chung. Một số vùng ngôn ngữ đã được ghi nhận là vùng ngôn ngữ Balkan, vùng ngôn ngữ Trung Bộ châu Mỹ, vùng ngôn ngữ Ethiopia, v.v. Ngoài ra, các khu vực diện rộng như Nam Á, Châu Âu và Đông Nam Á đôi khi cũng được coi là các vùng ngôn ngữ vì sự phổ biến của nhiều đặc điểm vùng ("areal feature").
Tiếp xúc ngôn ngữ cũng có thể dẫn đến nhiều hiện tượng ngôn ngữ thú vị khác, bao gồm hội tụ ngôn ngữ ("language convergence"), sự vay mượn ("borrowing") và sự thay thế từ vựng ("relexification"). Nếu các ngôn ngữ tiếp xúc dai dẳng với nhau, một hoặc nhiều ngôn ngữ hỗn hợp không thuộc ngữ hệ nào có khả năng sẽ được khai sinh. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Ngôn ngữ pidgin (hoặc tiếng bồi) là một thể loại ngôn ngữ trộn, xuất hiện khi hai nhóm người trưởng thành nói hai ngôn ngữ riêng biệt thường xuyên trao đổi và tương tác với nhau, nhưng không nhóm nào biết nói trôi chảy ngôn ngữ của nhóm kia. Trong trường hợp đó, hai nhóm thường sẽ xây dựng hình thức ngôn ngữ có đặc điểm ngôn ngữ của cả hai nhóm, nhưng với cấu trúc ngữ pháp và ngữ âm được giản lược. Thứ tiếng mới đó có thể tiếp thu hầu hết phạm trù ngữ pháp và ngữ âm tồn tại ở ngôn ngữ cha mẹ. Định nghĩa chính thức của tiếng bồi là ngôn ngữ mà không có người bản ngữ, mà chỉ là ngôn ngữ thứ cấp được nói bởi những người đã có sẵn tiếng mẹ đẻ rồi. Tuy vậy, nếu tiếng bồi trở thành ngôn ngữ chính của một cộng đồng, thì thế hệ sau lớn lên trong môi trường đó sẽ thụ đắc tiếng bồi như tiếng mẹ đẻ của chúng. Trong quá trình truyền khẩu, cấu trúc của tiếng bồi sẽ thay đổi và trở nên phức tạp hơn theo thời gian. Các nhà ngôn ngữ học gọi thứ tiếng bồi "đã" trải qua sự phức tạp hóa là ngôn ngữ Creole (hoặc tiếng lai). Ví dụ: tiếng Tok Pisin là một ngôn ngữ lai chính thức của Papua New Guinea, ban đầu là một ngôn ngữ pidgin dựa trên tiếng Anh và tiếng Nam Đảo; tiếng Kreyòl ayisyen là một ngôn ngữ phái sinh từ tiếng Pháp ở Haiti; tiếng Michif là một ngôn ngữ lai giữa tiếng Cree của thổ dân Anh-điêng và tiếng Pháp.
Sự đa dạng ngôn ngữ.
"SIL Ethnologue" định nghĩa "ngôn ngữ sống" là "ngôn ngữ có ít nhất một người nói và phải là ngôn ngữ đầu tiên của họ". Số lượng chính xác các ngôn ngữ sống đã biết dao động trong khoảng 6.000 đến 7.000, tùy thuộc vào định nghĩa "ngôn ngữ" của mỗi tác giả và phương thức xác định sự khác biệt giữa "ngôn ngữ" và "phương ngữ". Tính đến năm 2016, "Ethnologue" đã lập danh mục 7.097 ngôn ngữ sống của con người. "Ethnologue" phân loại nhóm ngôn ngữ dựa trên các nghiên cứu về mức độ thông hiểu lẫn nhau ("mutual intelligibility"), và do đó thường bao gồm nhiều mục hơn các phân loại bảo thủ. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Ví dụ, tiếng Đan Mạch được hầu hết các nhà ngôn ngữ học coi là một ngôn ngữ với một phương ngữ nhưng "Ethnologue" lại liệt thành hai ngôn ngữ riêng biệt (ngôn ngữ Đan Mạch và phương ngữ/ngôn ngữ Jutland).
Theo "Ethnologue", 389 ngôn ngữ (chiếm 6% tổng số ngôn ngữ) có hơn một triệu người nói. Những ngôn ngữ này cộng lại chiếm 94% dân số thế giới, trong khi 94% ngôn ngữ trên thế giới được nói bởi 6% dân số toàn cầu còn lại.
Ngôn ngữ và phương ngữ.
Không có sự phân biệt rõ ràng giữa ngôn ngữ và phương ngữ. Nhà ngôn ngữ học Max Weinreich từng nói một câu cách ngôn rất nổi tiếng rằng "ngôn ngữ là một phương ngữ với quân đội và hải quân". Biên giới các quốc gia thường bóp méo sự khác biệt ngôn ngữ thực chất, làm khó khăn cho việc phân loại ngôn ngữ và phương ngữ. Ví dụ, tiếng Khách Gia, tiếng Quảng Đông và tiếng Quan Thoại thường được coi là "phương ngữ" của tiếng Trung, mặc dù sự khác biệt giữa chúng rất lớn, hơn cả sự khác biệt giữa giọng Hà Nội và giọng thành phố Hồ Chí Minh của tiếng Việt chẳng hạn. Trước chiến tranh Nam Tư, tiếng Serbo-Croatia được coi là một ngôn ngữ duy nhất với hai biến thể quy chuẩn, nhưng vì lý do chính trị xã hội, tiếng Croatia và tiếng Serbia hiện nay bị coi là những ngôn ngữ riêng biệt và sử dụng các hệ chữ viết khác nhau. Nói cách khác, sự phân biệt ngôn ngữ-phương ngữ còn phụ thuộc vào tình hình chính trị, văn hóa, hệ chữ viết hoặc mức độ thông hiểu lẫn nhau.
Các ngữ hệ của thế giới.
Các ngôn ngữ trên thế giới có thể được nhóm lại thành các ngữ hệ nếu người ta chứng minh được chúng diễn tiến từ một tổ tiên chung. Hiện nay các nhà ngôn ngữ học đã xác định được hàng trăm ngữ hệ, song phải chú ý rằng các ngữ hệ có thể được gộp lại nếu các bằng chứng mới lộ diện ủng hộ tổ tiên chung của chúng. Ngoài ra, cũng tồn tại hàng tá ngôn ngữ biệt lập, tức những ngôn ngữ không thể được chứng minh là có quan hệ "di truyền" với bất kỳ ngôn ngữ nào khác trên thế giới. Một vài ví dụ điển hình bao gồm: tiếng Basque ở châu Âu, tiếng Zuni ở New Mexico, tiếng Purépecha ở Mexico, tiếng Ainu ở Nhật Bản, tiếng Burushaski ở Pakistan, v.v. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Ngữ hệ có nhiều người nói nhất trên thế giới là hệ Ấn-Âu với khoảng 46% dân số thế giới sử dụng. Hệ này bao gồm nhiều ngôn ngữ chính trên thế giới như tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nga và tiếng Hindustani (tiếng Hindi/tiếng Urdu). Ngữ hệ Hán-Tạng được sử dụng bởi tầm 20% dân số thế giới và bao gồm nhiều ngôn ngữ ở Đông Á, bao gồm tiếng Khách Gia, tiếng Quan Thoại, tiếng Quảng Đông, tiếng Tây Tạng, tiếng Miến Điện và hàng trăm ngôn ngữ khác.
Châu Phi là ngôi nhà chung của rất nhiều ngữ hệ. Lớn nhất trong số đó là ngữ hệ Niger-Congo, bao gồm các ngôn ngữ như tiếng Swahili, tiếng Shona và tiếng Yoruba. Người nói các ngôn ngữ Niger-Congo chiếm 6,9% dân số thế giới. Có một số lượng tương tự người nói các ngôn ngữ Phi-Á ở châu Phi và châu Á, bao gồm ngữ tộc Semit như tiếng Ả Rập, tiếng Do Thái và các ngôn ngữ của vùng Sahara, chẳng hạn ngữ tộc Berber và tiếng Hausa.
Ngữ hệ Nam Đảo được 5,5% dân số thế giới sử dụng và phân bố trải dài từ Madagascar đến Đông Nam Á hải đảo rồi ra tận Châu Đại Dương. Hệ này bao gồm các ngôn ngữ như tiếng Malagasy, tiếng Māori, tiếng Samoa và nhiều ngôn ngữ bản địa của Indonesia và Đài Loan. Các ngôn ngữ Nam Đảo có nguồn gốc từ đảo Đài Loan vào khoảng 3000 năm TCN và bành trướng qua châu Đại dương thông qua các luồng di cư trên đại dương với công nghệ hàng hải tiên tiến của người Nam Đảo. Các ngữ hệ đông dân khác là hệ Dravidia ở Nam Á (chẳng hạn tiếng Kannada, tiếng Tamil và tiếng Telugu), hệ Turk ở Trung Á (chẳng hạn tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Duy Ngô Nhĩ), hệ Nam Á (chẳng hạn tiếng Môn, tiếng Khmer và tiếng Việt), và hệ Tai–Kadai ở Đông Nam Á (chẳng hạn tiếng Thái, tiếng Lào và tiếng Tày).
Các khu vực trên thế giới có sự đa dạng ngôn ngữ lớn nhất, chẳng hạn Châu Mỹ, Papua New Guinea, Tây Phi và Nam Á, có hàng trăm ngữ hệ nhỏ. Những khu vực này có sự đa dạng ngôn ngữ rất cao so với thế giới mặc dù không chiếm phần đông người nói. |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Ở châu Mỹ, một số ngữ hệ lớn nhất bao gồm ngữ hệ Quechua, ngữ hệ Arawak, và ngữ hệ Tupi-Guarani của Nam Mỹ, ngữ hệ Ute-Aztec, ngữ hệ Oto-Mangue và ngữ hệ Maya của Trung Bộ châu Mỹ, và ngữ hệ Na-Dene, ngữ hệ Iroquois và ngữ hệ Algonqui của Bắc Mỹ. Ở Úc, hầu hết các ngôn ngữ bản địa thuộc về ngữ hệ Pama–Nyungar, còn New Guinea là nơi phân bố phần lớn các hệ nhỏ và các nhóm biệt lập, cũng như một số ngôn ngữ Nam Đảo.
Ngôn ngữ bị đe dọa.
Một ngôn ngữ được coi là bị đe dọa khi đa số người nói ngôn ngữ đó mất đi hoặc chuyển sang dùng ngôn ngữ khác. Sự mai một ngôn ngữ xảy ra khi một ngôn ngữ không còn người nói bản ngữ và trở thành ngôn ngữ chết. Nếu một ngôn ngữ chết không được lưu giữ lại hoặc không phát sinh ra ngôn ngữ hậu duệ nào, thì nó được gọi là một ngôn ngữ thất truyền hay "tuyệt chủng" ("extinct"). Sự thất truyền ngôn ngữ là điều thường xuyên xảy ra suốt lịch sử nhân loại; tuy vậy khi nhân loại bước vào thế kỷ 20 và 21, nhiều ngôn ngữ đang dần biến mất với tốc độ nhanh chóng mặt do các quá trình toàn cầu hóa và chủ nghĩa thực dân mới, điều kiện mà khiến cho các ngôn ngữ nhỏ bị lấn át bởi các ngôn ngữ có vị thế kinh tế-xã hội vượt trội hơn.
Trong số 6.000 đến 7.000 ngôn ngữ được sử dụng tính đến năm 2010, 50-90% tổng số đó được dự đoán là sẽ thất truyền vào năm 2100. 20 ngôn ngữ top đầu đều có hơn 50 triệu người nói, chiếm tận 50% dân số thế giới; trong khi đó, hầu hết các ngôn ngữ nhỏ có số lượng người nói chỉ vỏn vẹn dưới 10.000.
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) đề ra 5 mức độ nguy cấp ngôn ngữ như sau: "an toàn", "sắp nguy cấp" (trẻ em chỉ nói ngôn ngữ đó ở nhà), "chắc chắn nguy cấp" (trẻ em không được nói ngôn ngữ đó), "cực kỳ nguy cấp" (chỉ thế hệ già lão mới biết nói ngôn ngữ đó) và "nguy cấp trầm trọng "(chỉ một bộ phận thế hệ già nhất biết nói ngôn ngữ đó, mà cũng hiếm khi sử dụng trong hội thoại hằng ngày). |
Ngôn ngữ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4151 | Bất chấp những luận điệu kiểu như "thế giới sẽ tốt đẹp hơn nếu mọi người chỉ sử dụng một ngôn ngữ chung duy nhất", chẳng hạn tiếng Anh hoặc tiếng Esperanto, các chuyên gia đồng thuận rằng sự mai một ngôn ngữ sẽ gây tổn hại tới đa dạng văn hóa của thế giới. Quay lại câu chuyện về tháp Babel trong Cựu ước, nhiều người tin rằng sự đa dạng ngôn ngữ là nguyên nhân gây ra xung đột chính trị, nhưng điều này mâu thuẫn với thực tế rằng nhiều xung đột lớn trên thế giới diễn ra ở những nơi có sự đa dạng ngôn ngữ rất thấp, chẳng hạn chiến tranh Nam Tư và nội chiến Hoa Kỳ, hoặc cuộc diệt chủng Rwanda, trong khi nhiều nơi có sự đa dạng ngôn ngữ cao lại có tình hình chính trị rất ổn định.
Nhiều dự án đã và đang được đưa ra nhằm ngăn chặn hoặc làm chậm lại sự mất mát ngôn ngữ bằng cách tái thiết các ngôn ngữ đang bị đe dọa, ví dụ như việc thúc đẩy giáo dục và xóa nạn mù chữ ở các cộng đồng bản ngữ. Trên khắp thế giới, nhiều quốc gia đã ban hành những đạo luật cụ thể nhằm bảo tồn các ngôn ngữ bản địa. Tuy vậy, một số ít các nhà ngôn ngữ học cho rằng sự mất mát ngôn ngữ là quá trình tự nhiên không nên chống lại, và việc lưu trữ các ngôn ngữ đó cho hậu thế đã là quá đủ.
Noi theo dự án phục hồi tiếng Wales đã rất thành công ở Anh, Đại học Waikato ở New Zealand cũng đã khởi hoạt chương trình phục hồi tiếng Māori của riêng họ. Năm 2019, công ty truyền hình Hawaii thuộc kênh Oiwi đã đến thăm một trung tâm dạy tiếng Wales ở Nant Gwrtheyrn, Bắc Wales, để trao đổi nhằm tìm phương án bảo tồn ngôn ngữ Ōlelo Hawaiʻi của họ. |
Kde domov můj? | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4153 | Kde domov můj? (tạm dịch: "Quê hương tôi nơi đâu?") là quốc ca của Cộng hòa Séc từ năm 1993 khi nước này tách ra khỏi Cộng hòa Liên bang Tiệp Khắc. Tuy nhiên Cộng hòa Séc đã dùng bài này như quốc ca chính thức từ năm 1990, ngay khi vẫn còn là thành viên của Liên bang Tiệp Khắc. Quốc ca Séc còn là phần đầu của Quốc ca Tiệp Khắc, phần thứ hai là Quốc ca Slovakia ngày nay. Sau Cách mạng Nhung vào năm 1989, Quốc ca Tiệp Khắc tiếp tục được dùng làm quốc ca của Cộng hòa Liên bang Tiệp Khắc.
Lịch sử.
Bài này được nhà soạn nhạc František Škroup và nhà soạn kịch Josef Kajetán Tyl sáng tác<ref name="law 3/1993"></ref> trong hài kịch "Fidlovačka aneb žádný hněv a žádná rvačka" (Fidlovačka hay là không giận và không cãi). Bài này được biểu diễn lần đầu tiên tại nhà hát Stavovské Divadlo tại Praha vào ngày 21 tháng 12 năm 1834. Bài hát này nhanh chóng trở thành bài hát dân gian và chiếm lĩnh địa vị bài hát của dân tộc Séc. Chỉ có phần đầu của bài hát được dùng làm quốc ca Séc, phần thứ hai ít được biết đến.
Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa Tiệp Khắc (1918-1938) có một phiên bản tiếng Đức và tiếng Hungary chính thức.
Lời (đầy đủ).
Kde domov můj, kde domov můj?
Voda hučí po lučinách,
bory šumí po skalinách,
v sadě skví se jara květ,
zemský ráj to na pohled!
A to je ta krásná země,
země česká domov můj,
země česká domov můj!
Kde domov můj, kde domov můj.
V kraji znáš-li Bohu milém,
duše útlé v těle čilém,
mysl jasnou, vznik a zdar,
a tu sílu vzdoru zmar?
To je Čechů slavné plémě,
mezi Čechy domov můj,
mezi Čechy domov můj! |
Séc (định hướng) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4154 | Séc có thể chỉ đến: |
Y học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4155 | Y học là khoa học ứng dụng liên quan đến chẩn đoán, tiên lượng, điều trị và phòng ngừa bệnh tật. Y học gồm nhiều phương pháp chăm sóc sức khỏe vốn liên tục phát triển với mục đích duy trì, hồi phục sức khỏe từ việc phòng ngừa và chữa bệnh. Y học hiện đại áp dụng khoa học y sinh, nghiên cứu y sinh, y sinh học di truyền và công nghệ y tế để chẩn đoán, điều trị và ngăn ngừa chấn thương và bệnh tật thông qua thuốc men, phẫu thuật hoặc liệu pháp phong phú như tâm lý trị liệu, nẹp, thiết bị y tế, dược chất sinh học, trị liệu bức xạ...
Y học đã tồn tại từ hàng ngàn năm trước, phần lớn lịch sử coi đây lại là một môn nghệ thuật, có mối liên hệ chặt chẽ với tôn giáo và triết học theo từng bản sắc văn hóa địa phương. Ví dụ, thầy sắc thuốc sẽ cầm dược liệu thảo mộc và cầu nguyện để chữa bệnh, hoặc triết gia và bác sĩ thời cổ đại sẽ trích máu dựa trên thuyết thể dịch ("humorism"). Thế kỷ gần đây, kể từ khi khoa học hiện đại ra đời, y học là sự kết hợp giữa nghệ thuật và khoa học (cả nghiên cứu ban đầu và ứng dụng, một dạng phân ngành của khoa học y tế). Mặc dù kỹ thuật khâu khi phẫu thuật mang tính nghệ thuật, chỉ được học thông qua thực hành, nhưng kiến thức sinh học tế bào và y học phân tử sẽ bổ trợ kiến thức cho các bác sĩ khi thực hành.
Từ "y học" trong tiếng Anh là "medicine" có nguồn gốc từ tiếng Latin là "ars medicina", nghĩa là "nghệ thuật chữa bệnh".
Dù công nghệ y học cũng như sự chuyên môn hóa ngành y đã phát triển thành trụ cột nền y học hiện đại nhưng vì phương pháp chữa trị trực tiếp giữa bác sĩ và bệnh nhân vẫn hiệu quả giúp giảm thiểu đau bệnh nên chúng cần tiếp tục thực hiện, thông qua việc quan tâm đến cảm xúc cũng như lòng trắc ẩn nói chung của con người.
Song hành với y học hiện đại còn có y học cổ truyền và y học dân gian. Ví dụ, bằng chứng về tính hiệu quả liệu pháp châm cứu có sự "thay đổi và không nhất quán" đối với tình trạng bệnh tật cụ thể, nhưng lại an toàn khi một học viên qua đào tạo thực hành trên người. |
Y học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4155 | Lang băm ám chỉ người hoặc thao tác chữa bệnh, không phân biệt việc đây là hành động tiền khoa học (y học cổ truyền và y học dân gian) hay giả khoa học hiện đại. Ví dụ,phương pháp nắn chỉnh cột sống ("chiropractic") phủ nhận hoàn toàn lý thuyết mầm bệnh của khoa học hiện đại.
Lịch sử y học.
Cho đến nay, nhiều tác giả cho rằng lịch sử y học có thể đã ra đời cùng với lịch sử phát sinh bệnh tật và lịch sử người thầy thuốc. Trong hang Ba anh em (La Grotte des Trois Frères) người ta đã tìm được bức vẽ cách đây khoảng 17 ngàn năm mô tả một phù thủy đầu hươu đang chữa bệnh.
Y học thời tiền sử dùng thảo mộc, thể tạng động vật hay khoáng chất để chữa trị mà nhiều khi chúng được người chữa trị (như tu sĩ, thầy thuốc) mô tả như là những chất thần diệu. Ngành nhân y học (tiếng Anh: medical anthropology) nghiên cứu các hệ thống y học thời tiền sử cùng quan hệ của chúng với xã hội con người.
Y khoa sơ khởi được ghi nhận từ lâu trong nhiều nền văn minh cổ như Ấn Độ, Ai Cập, Trung Hoa hay Hy Lạp. Ông Hippocrates được xem là tổ sư của ngành y mà kế thừa ngày nay là y học phương Tây hay Tây y., còn ông [[Galen]] đã đặt nền tảng phát triển cho lý luận y khoa. Sau khi [[đế quốc La Mã|đế chế La Mã]] sụp đổ và bắt đầu thời Trung Cổ, các lương y trong thế giới [[hồi giáo|đạo Hồi]] đã kế tục và tạo nên bước đột phá lớn cho ngành nhờ được hỗ trợ từ bản dịch sang [[tiếng A rập]] các công trình của Hippocrates và Galen. Nhiều lương y tiên phong nổi tiếng là người A Rập, như ông [[Avicenna]] được gọi là "tổ sư y học hiện đại", ông [[Abu al-Qasim al-Zahrawi|Abulcasisl]]à tổ sư ngành phẫu thuật, ông [[Ibn Zuhr|Avenzoar]] là tổ sư ngành phẫu thuật thực nghiệm, ông [[Ibn al-Nafis]] là tổ sư ngành sinh lý học circulatory physiology, và ông [[Averroes]]. Còn ông [[Muhammad ibn Zakarīya Rāzi|Rhazes]] sáng lập ngành [[nhi khoa]] là người đầu tiên phản biện thuyết Grecian về [[humorism]] vẫn ảnh hưởng đến y học phương Tây thời [[Trung đại]]. |
Y học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4155 | Ngành [[y sinh học]] hiện đại theo tiêu chuẩn khoa học (kết quả nghiên cứu có thể kiểm tra và tái lập) ra đời đã thay thế Tây y truyền thống vốn dựa vào thảo dược. Mốc thời gian đánh dấu ngành y hiện đại hình thành là khi [[Robert Koch]] phát hiện sự lây bệnh do [[vi khuẩn]] khoảng năm 1880 và sự ra đời của [[thuốc kháng sinh]] năm 1900. Thời kì hiện đại khởi đi từ cuối thế kỷ XVIII tại châu Âu đã sinh ra nhiều tên tuổi có đóng góp nền tảng cho ngành y, chẳng hạn tại [[Đức]] và [[Áo]] có [[Rudolf Virchow]], [[Wilhelm Röntgen|Wilhelm Conrad Röntgen]], [[Karl Landsteiner]], [[Otto Loewi]]; tại [[Anh]] có [[Alexander Fleming]], [[Joseph Lister]], [[Francis Crick]]; tại [[Hoa Kỳ]] có [[William Williams Keen]], [[Harvey Cushing]], [[William Coley]], [[James D. Watson]]; tại Pháp có [[Jean-Martin Charcot]], [[Claude Bernard]], [[Paul Broca]] và nhiều người ở các nước khác.
Khi khoa học kĩ thuật phát triển thì ngành y ngày càng dựa vào dược phẩm nhiều hơn, ngành dược học bắt nguồn từ thảo dược ra đời và đến ngày nay nhiều loại thuốc vẫn được bào chế từ thực vật (như atropine, [[ephedrine]], warfarin, aspirin, digoxin, vinca alkaloids, taxol, hyoscine...) mà loại đầu tiên tên [[arsphenamine]]/[[Salvarsan]] do ông [[Paul Ehrlich]] tìm ra năm 1908 khi ông nhận thấy vi khuẩn nhiễm độc chất nhuộm nhưng tế bào người lại không bị. Hai ông [[Edward Jenner]] và [[Louis Pasteur]] tìm ra [[vắc-xin]] (vaccine). Loại kháng sinh đầu tiên do người Pháp chế ra có tên gọi [[thuốc sulfa]] có nguồn gốc từ thuốc nhuộm azo. Nhiều rắc rối bắt đầu nảy sinh từ đấy. Khoa [[công nghệ sinh học]] hiện đại chấp nhận việc bào chế thuốc nhắm đến một quá trình sinh lý cụ thể nhưng đôi khi cũng bào chế thuốc sao cho thích ứng với cơ thể nhằm tránh tác dụng phụ của thuốc.
[[Y học thực chứng]] là một trào lưu hiện thời có mục đích thiết lập quy trình chẩn trị hiệu quả nhất bằng phương pháp "xét duyệt có hệ thống" (tiếng Anh: systematic review) và "phân tích lượng lớn" (meta-analysis) theo khoa [[khoa học Thống kê|thống kê]]. |
Y học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4155 | Nó phát triển nhờ tiến bộ của khoa học thông tin hiện đại giúp thu thập và phân tích khối lượng dữ liệu, bằng chứng rất lớn theo quy chuẩn, sau đó phổ biến cho các nơi làm dịch vụ chăm sóc sức khỏe hay phòng trị bệnh. Một nan đề cho phương pháp "tối ưu" này là nó có thể bị xem là cách tiếp cận có tính "tiểu thuyết", nghĩa là sẽ tạo ra nhiều đánh giá khác nhau. Báo cáo của chương trình hợp tác Cochrane là phong trào chủ trương ý kiến này năm 2001 cho biết trong 160 bản "xét duyệt có hệ thống" của Cochrane, căn cứ vào hai người nhận xét, thì có 21,3% bằng chứng không đầy đủ, 20% không công hiệu và 22,55% bằng chứng là dương tính.
Thao tác lâm sàng.
Những bước cơ bản nhất để thiết lập một [[chẩn đoán]] y khoa là Hỏi, Nhìn, Sờ, Gõ, Nghe trong Y học hiện đại (Tây y) hoặc Tứ chẩn là Vọng chẩn (nhìn), Văn chẩn (nghe), Vấn chẩn (hỏi) và Thiết chẩn (sờ nắn, bắt mạch) trong [[Y học cổ truyền]]. Một khi đã có chẩn đoán sơ bộ từ việc thăm khám lâm sàng nói trên, người [[thầy thuốc]] có thể quyết định điệu trị ngay hoặc đề nghị một số xét nghiệm cận lâm sàng khác để xác định chẩn đoán hoặc loại trừ chẩn đoán. Các [[xét nghiệm]] cận lâm sàng thường được dùng trong chẩn đoán là [[huyết học]], [[sinh hóa]], [[hình ảnh học]], [[vi sinh học|vi sinh vật học]], [[tế bào học]], [[giải phẫu bệnh]], [[thăm dò chức năng]] và có thể là các xét nghiệm cao cấp hơn như [[di truyền học]].
Trong kĩ thuật điều trị, [[bác sĩ]] tiếp xúc [[bệnh nhân]] và dùng phương pháp [[chẩn đoán]] gồm dự chẩn, ngăn ngừa, trị bệnh; hay còn được gọi bằng thuật ngữ "quan hệ người bệnh-thầy thuốc", nghĩa là bác sĩ làm việc với bệnh nhân dựa trên bệnh sử, bệnh án của họ bằng vấn chẩn rồi khám tổng quát bằng một số y cụ thông thường như ống nghe, thiết bị nội soi. Sau khi vấn chẩn tìm [[triệu chứng]] và khám để tìm dấu hiệu bệnh, bác sĩ thường đề nghị bệnh nhân làm vài xét nghiệm như thử máu, làm [[sinh thiết]] hoặc kê đơn thuốc hay là phép điều trị khác nữa. |
Y học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4155 | Nhiều phương pháp [[chẩn đoán]] chuyên biệt được dùng phân tích bệnh tình trên cơ sở thông tin cung cấp. Trong buổi vấn chẩn điều rất quan trọng là thu thập được chi tiết nhất mọi dữ liệu liên quan đến bệnh nhân để có được thông tin trung thực nhất, sau đó kết quả vấn chẩn được ghi vào bệnh án. Các bước kế tiếp có thể ngắn hơn nhưng cũng tuân theo quy trình cơ bản như vậy.
Các ngành y học.
[[Giải phẫu học]] là nghiên cứu cấu trúc thể chất của sinh vật. Ngược lại với giải phẫu học vĩ mô hoặc tổng thể, tế bào học và mô học liên quan đến cấu trúc vi mô.
Giải phẫu học còn nghiên cứu về các cơ quan của con người.
[[Hóa sinh học]] là nghiên cứu về hóa học diễn ra trong sinh vật sống, đặc biệt là cấu trúc và chức năng của các thành phần hóa học của chúng.
[[Cơ sinh học]] (Biomechanics) là nghiên cứu cấu trúc và chức năng của các hệ thống sinh học bằng các phương pháp của Cơ học,
Chức năng hoạt động và nguyên lý hoạt động của một loài vật
[[Thống kê sinh học]] (Biostatistics) là việc áp dụng thống kê vào các lĩnh vực sinh học theo nghĩa rộng nhất. Kiến thức về thống kê sinh học rất cần thiết trong công tác lập kế hoạch, đánh giá và giải thích kết quả nghiên cứu y khoa. Nó cũng là môn căn bản cho dịch tễ học và y học dựa trên bằng chứng.
[[Lý sinh học]] là một khoa học liên ngành sử dụng các phương pháp vật lý và hóa học vật lý để nghiên cứu hệ thống sinh học.
[[Tế bào học]] là nghiên cứu vi mô của tế bào, cách hoạt động của tế bào.
[[Phôi thai học]] là nghiên cứu sự phát triển sớm của các sinh vật.Quá trình phát triển của một phôi thai và những vấn đề gây ra các dị tật cho phôi thai cũng cần nghiên cứu.
[[Nội tiết học]] là nghiên cứu về hoóc môn và các ảnh hưởng của chúng trên cơ thể động vật.
[[Dịch tễ học]] là nghiên cứu sự phát triển về số lượng của quá trình bệnh, và bao gồm, không chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu dịch bệnh.Nghiên cứu quá trình ủ và phát bệnh, nghiên cứu thuốc chữa.
[[Di truyền học]] là nghiên cứu về gien và vai trò của chúng trong việc thừa kế sinh học. |
Y học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4155 | [[Mô học]] là nghiên cứu cấu trúc của các mô sinh học bằng kính hiển vi ánh sáng, kính hiển vi điện tử và mô miễn dịch.
[[Miễn dịch học]] là nghiên cứu về hệ miễn dịch, bao gồm hệ miễn dịch bẩm sinh và thích ứng ở người.
[[Vật lý y tế]] là nghiên cứu ứng dụng các nguyên lý vật lý trong y học.
[[Vi sinh vật học]] là nghiên cứu về các vi sinh vật, bao gồm các nguyên sinh, vi khuẩn, nấm và virut.
[[Sinh học phân tử]] là nghiên cứu cơ sở phân tử của quá trình nhân bản, sao chép và chuyển dịch những vật liệu di truyền.
[[Khoa học tâm thần]] bao gồm những ngành khoa học có liên quan đến việc nghiên cứu hệ thống thần kinh. Trọng tâm chính của khoa học tâm thần là sinh học và sinh lý học của bộ não con người và tủy sống. Một số chuyên khoa lâm sàng liên quan bao gồm thần kinh, phẫu thuật thần kinh và tâm thần.
[[Khoa học dinh dưỡng]] (trọng tâm lý thuyết) và chế độ ăn kiêng (trọng tâm thực hành) là nghiên cứu về mối quan hệ giữa thức ăn và thức uống với sức khoẻ và bệnh tật, đặc biệt trong việc xác định chế độ ăn tối ưu. Trị liệu dinh dưỡng y học được các chuyên gia dinh dưỡng thực hiện và được quy định cho bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, trọng lượng và rối loạn ăn uống, dị ứng, suy dinh dưỡng, và các bệnh ung thư.
[[Bệnh học]] như một khoa học nghiên cứu về bệnh tật - nguyên nhân, tiến trình, sự tiến triển và sự giải quyết của bệnh.
[[Dược học]] là nghiên cứu về thuốc và các tương tác của chúng và cũng cần nghiên cứu các dược liệu cần thiết để bào chế thuốc, những người tạo ra các loại thuốc bào chế mới gọi là Dược Sĩ.
[[Quang sinh học]] (Photobiology) là nghiên cứu tương tác giữa bức xạ không ion hóa và sinh vật sống.
[[Sinh lý học]] là nghiên cứu về chức năng bình thường của cơ thể và các cơ chế điều tiết cơ bản.
[[Sinh học phóng xạ]] (Radiobiology) là nghiên cứu về tương tác giữa bức xạ ion hoá và sinh vật sống.
[[Độc tố học]] là nghiên cứu các tác động nguy hại của thuốc và chất độc tác động lên cơ thể của sinh vật.
Sinh học nguyên tử BEAR (Biological Effects of Atomic Radiation) là nghiên cứu các tác dụng sinh học của nguyên tử bức xạ
Liên kết ngoài. |
Y học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4155 | [[Thể loại:Y học| ]]
[[Thể loại:Bài cơ bản dài trung bình]]
[[Thể loại:Khoa học sức khỏe]] |
Lời thề Hippocrates | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4157 | Ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, các thầy thuốc phải đọc Lời thề Hippocrates khi chuẩn bị ra trường để hành nghề. Lời thề này được các sinh viên Y khoa đọc và nguyện làm theo trong lễ tốt nghiệp.
Người ta cho rằng Hippocrates (được coi là cha đẻ của Y học phương Tây) hoặc một đệ tử của ông chính là tác giả của lời thề này. Nó được viết bằng tiếng vùng Ionia của Hy Lạp cổ đại (cuối thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên). Học giả cổ điển Ludwig Edelstein đã cho rằng các lời tuyên thệ này được viết bởi các môn sinh phái Pythagore, tuy nhiên thuyết này đã bị nghi ngờ do thiếu bằng chứng xác thực.
Lời thề gốc.
„Ὄμνυμι Ἀπόλλωνα ἰητρὸν, καὶ Ἀσκληπιὸν, καὶ Ὑγείαν, καὶ Πανάκειαν, καὶ θεοὺς πάντας τε καὶ πάσας, ἵστορας ποιεύμενος, ἐπιτελέα ποιήσειν κατὰ δύναμιν καὶ κρίσιν ἐμὴν ὅρκον τόνδε καὶ ξυγγραφὴν τήνδε.
Tôi xin thề trước Apollon thần chữa bệnh, trước Æsculapius thần y học, trước thần Hygieia và Panacea, và trước sự chứng giám của tất cả các nam nữ thiên thần, là tôi sẽ đem hết sức lực và khả năng để làm trọn lời thề và lời cam kết sau đây:
Phiên bản hiện đại.
Lời thề này được viết vào năm 1964 bởi Louis Lasagna, Hiệu trưởng của Trường Y khoa tại Đại học Tufts, và được sử dụng trong nhiều trường y khoa ngày nay.
Tôi thề phải thực hiện, đến hết khả năng và sự phán đoán của tôi, giao ước này:...
Nếu tôi không vi phạm lời thề này, tôi sẽ được tận hưởng cuộc sống mỹ mãn, được tôn trọng khi còn sống và nhớ đến mãi về sau. Tôi sẽ luôn làm việc để giữ gìn các truyền thống của điều mà tôi đã chọn và tôi sẽ có thể trải nghiệm niềm vui của việc cứu chữa những người tìm kiếm sự giúp đỡ của tôi.
Các lời thề tương đương.
Trong khung cảnh hiện đại, lời thề Hippocrates đã bị bỏ, thay đổi hay thay thế bằng các lời thề phản ảnh giá trị văn hóa và xã hội ngày nay, nhất là tại các trường y khoa phương Tây. |
Lời thề Hippocrates | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4157 | Lời thề Hippocrates cũng đã được đổi mới dựa theo Tuyên ngôn Geneva. Hội đồng Y khoa ("General Medical Council") của Anh đã có một hướng dẫn rõ cho các thành viên của họ trong các tài liệu sau "Duties of a doctor" và "Good Medical Practice" (tiếng Anh).
Mười hai điều Quy định về Y đức.
12 điều Y đức là Tiêu chuẩn đạo đức của người làm công tác y tế được ban hành kèm theo quyết định số: 20881BYT-QĐ ngày 06 tháng 11 nǎm 1996 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Nội dung của các điều này gồm:
Lời tuyên thệ của người thầy thuốc (trước 1975).
Trước đ"ấng tối cao" mà tôi tin tưởng. Trước các "Y tổ" của thế giới và Việt Nam Hippocrates và Hải Thượng Lãn Ông. Trước các "thầy" và các "bạn đồng môn" đã gây dựng "y-nghiệp" cho tôi. Trước các "bậc sinh thành" ra tôi. Và nhất là trước "lương tâm chức nghiệp" của chính tôi. Tôi xin tuyên thệ
Qui ước đạo đức ngành y của Hiệp hội Y khoa Thế giới (World Medical Association).
Nhiệm vụ chung của người thầy thuốc.
1. Thực hành nghề nghiệp và duy trì chuẩn mực chuyên môn ở mức độ cao nhất.
2. Tôn trọng quyền của bệnh nhân chấp nhận hay bác bỏ đề nghị của thầy thuốc.
3. Không để cho phán xét cá nhân bị chi phối bởi quyền lợi cá nhân hay phân biệt đối xử.
4. Hết lòng trong việc cung cấp dịch vụ chuyên môn cho bệnh nhân.
5. Hành xử thành thật với bệnh nhân và đồng nghiệp. Báo cáo cho giới chức có trách nhiệm biết những thầy thuốc thiếu y đức hoặc bất tài hoặc có hành vi lừa đảo.
6. Không thuyên chuyển bệnh nhân hoặc ra toa thuốc để hưởng lợi ích tài chính hay quà cáp.
7. Tôn trọng quyền và sự lựa chọn của bệnh nhân.
8. Có trách nhiệm giáo dục công chúng về những khám phá mới trong y học, nhưng cần phải cẩn thận trong việc áp dụng các phương pháp còn trong vòng thử nghiệm.
9. Cố gắng sử dụng tài nguyên y tế một cách sáng suốt nhằm đem lại lợi ích cho bệnh nhân và cộng đồng.
10. Tìm người điều trị nếu mình mắc bệnh.
11. Tôn trọng các chuẩn mực đạo đức địa phương và quốc gia.
Nhiệm vụ chung của người thầy thuốc đối với bệnh nhân.
12. Tôn trọng sinh mạng của con người.
13. Hành động vì lợi ích của bệnh nhân.
14. |
Lời thề Hippocrates | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4157 | 14. Tuyệt đối trung thành với bệnh nhân. Bất cứ khi nào phương pháp điều trị hay xét nghiệm ngoài khả năng của mình, người thầy thuốc phải giới thiệu đến một chuyên gia khác.
15. Tôn trọng quyền riêng tư của bệnh nhân. Không tiết lộ bất cứ thông tin nào về bệnh nhân cho bất cứ ai, nếu không có sự đồng thuận của bệnh nhân.
16. Cung cấp dịch vụ chăm sóc trong trường hợp khẩn cấp.
17. Không quan hệ tình dục với bệnh nhân. Không lợi dụng mối quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Virus, thường được viết là vi-rút (bắt nguồn từ tiếng Pháp "virus" /viʁys/), còn được gọi là siêu vi, siêu vi khuẩn hay siêu vi trùng, là một tác nhân truyền nhiễm chỉ nhân lên được khi ở bên trong tế bào sống của một sinh vật khác. Virus có thể xâm nhiễm vào tất cả các dạng sinh vật, từ động vật, thực vật cho tới vi khuẩn và cổ khuẩn. Kể từ bài viết đầu tiên của Dmitriy Iosifovich Ivanovsky năm 1892, mô tả về một dạng mầm bệnh không thuộc vi khuẩn mà lây nhiễm vào cây thuốc lá, và sự khám phá ra virus khảm thuốc lá của Martinus Beijerinck năm 1898, cho đến nay có khoảng 9,000 loại virus đã được miêu tả chi tiết, mặc dù vẫn còn có tới hàng triệu (hoặc tỷ) dạng virus khác nhau. Virus được tìm thấy ở hầu hết mọi hệ sinh thái trên Trái Đất và là dạng có số lượng nhiều nhất trong tất cả các thực thể sinh học. Khoa học nghiên cứu virus được biết với tên virus học ("virology"), một chuyên ngành phụ của vi sinh.
Các phần tử (hay "hạt") virus (được gọi là "virion hoặc vi-ri-ông") được tạo thành từ hai hoặc ba bộ phận: phần vật chất di truyền được tạo nên từ DNA hoặc RNA – những phân tử dài có mang thông tin di truyền, một lớp vỏ protein – được gọi với tên capsid – có chức năng bảo vệ hệ gen và một lớp vỏ bọc bên ngoài làm từ lipid mà bao bọc bên ngoài lớp vỏ protein khi virus ở ngoài tế bào (chỉ có trong một số trường hợp). Hình dạng của virus có sự khác nhau, từ dạng xoắn ốc hay khối hai mươi mặt đều đơn giản cho tới những cấu trúc phức tạp hơn. Một virus có kích thước trung bình vào khoảng 1/100 kích cỡ trung bình của một con vi khuẩn. Hầu hết virus đều quá nhỏ nên không thể quan sát trực tiếp dưới kính hiển vi quang học.
Nguồn gốc của virus trong lịch sử tiến hóa của sự sống không rõ ràng: một số có thể đã tiến hóa từ những plasmid – những đoạn DNA ngắn có khả năng di chuyển giữa các tế bào – trong khi số khác có thể đã tiến hóa từ vi khuẩn. Trong tiến hóa, virus là một phương tiện chuyển gen ngang quan trọng, góp phần gia tăng sự đa dạng di truyền. Virus được công nhận là một dạng sống bởi một số nhà khoa học, do chúng có mang vật chất di truyền, có thể sinh sản và tiến hóa thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Tuy nhiên mặt khác chúng lại thiếu những đặc tính thiết yếu (như cấu trúc tế bào) – những điều được công nhận rộng rãi là cần thiết để được coi như sinh vật sống. Bởi vì chỉ có một số chứ không tất cả các phẩm chất cần thiết, nên virus được mô tả như "những sinh vật ở bên lề của sự sống". Tuy nhiên, virus chỉ có thể xâm nhập qua một số tế bào nhất định nhờ có giác bám (gai glycoprotein) của virus bám đặc hiệu lên thụ thể của tế bào chủ.
Virus lây lan theo nhiều cách; virus thực vật thường được truyền từ cây này sang cây khác qua những loài côn trùng hút nhựa cây như rệp vừng; trong khi virus động vật lại có thể được truyền đi nhờ những côn trùng hút máu. Những sinh vật mang mầm bệnh như vậy được gọi là những véc-tơ. Virus cúm lan truyền thông qua ho và hắt hơi. Norovirus và rotavirus, nguyên nhân chính của bệnh viêm dạ dày ruột siêu vi, lây lan qua đường phân-miệng và truyền từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc, cũng như xâm nhập vào cơ thể qua thức ăn hay nước uống. HIV là một trong vài loại virus lây nhiễm thông qua quan hệ tình dục và tiếp xúc với máu bị nhiễm bệnh. Mỗi virus chỉ có thể xâm nhiễm vào một số dạng tế bào vật chủ nhất định, gọi là "biên độ vật chủ" ("host range"); biên độ này có thể rất hẹp hoặc rất rộng, tùy vào số lượng những sinh vật khác nhau mà virus có khả năng lây nhiễm.
Sự xâm nhập của virus trong động vật đã kích hoạt một phản ứng miễn dịch nhằm loại bỏ virus xâm nhiễm. Những phản ứng miễn dịch cũng có thể được tạo ra bởi vắc-xin, giúp tạo ra miễn dịch chủ động nhân tạo đối với một virus xâm nhiễm nhất định. Tuy nhiên, một số virus, bao gồm những loại gây ra AIDS và viêm gan siêu vi, lại có thể trốn tránh những phản ứng trên và gây ra sự nhiễm bệnh mãn tính. Đa phần các chất kháng sinh không có hiệu quả đối với virus, dù vậy cũng đã có những loại thuốc kháng virus được phát triển.
Từ nguyên.
Từ "virus" trong tiếng Việt bắt nguồn từ từ tiếng Pháp "virus" /viʁys/.. Từ "virus" trong tiếng Pháp thì bắt nguồn từ từ tiếng Latinh "virus", có nghĩa là chất độc. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | "Virus" được ghi nhận với nghĩa "tác nhân gây bệnh truyền nhiễm" lần đầu vào năm 1728, trước khi Dmitri Ivanovsky phát hiện ra virus vào năm 1892. Thuật ngữ "virion" bắt đầu có từ năm 1959, được dùng để chỉ một phần tử virus, đơn lẻ, ổn định, có khả năng lây nhiễm được giải phóng ra từ tế bào và hoàn toàn có thể xâm nhập các tế bào khác cùng loại.
Lịch sử.
Vào những năm 1880, Louis Pasteur khi nghiên cứu về bệnh dại đã không thể tìm ra tác nhân gây ra bệnh này, và dự đoán về một mầm bệnh quá nhỏ để có thể phát hiện được dưới kính hiển vi. Năm 1884, nhà vi sinh vật học người Pháp Charles Chamberland đã phát minh ra một bộ lọc (được biết tới ngày nay là bộ lọc Chamberland hay bộ lọc Chamberland-Pasteur) với các lỗ có kích thước còn nhỏ hơn cả vi khuẩn. Nhờ thế, ông có thể cho một dung dịch chứa vi khuẩn chảy qua bộ lọc và hoàn toàn loại bỏ chúng khỏi dung dịch. Năm 1892, nhà sinh vật học người Nga, Dmitriy Iosifovich Ivanovskiy đã sử dụng bộ lọc này để nghiên cứu về thứ mà hiện nay được biết với tên virus khảm thuốc lá. Thí nghiệm của ông cho thấy chiết xuất từ lá cây thuốc lá nhiễm bệnh được nghiền nát vẫn có thể lây nhiễm sau khi lọc. D. I. Ivanovskiy đề xuất rằng sự nhiễm bệnh có thể là do một độc tố từ vi khuẩn gây ra, nhưng đã không theo đuổi ý tưởng đó. Lý do là vì vào thời điểm đó, người ta đã nghĩ rằng tất cả các tác nhân truyền nhiễm đều có thể bị các bộ lọc giữ lại và chỉ có thể phát triển trên một môi trường dinh dưỡng – đây là một phần của thuyết mầm bệnh. Năm 1898, nhà vi sinh vật học người Hà Lan Martinus Beijerinck đã lặp lại thí nghiệm và tin rằng dung dịch đã lọc vẫn còn chứa một dạng tác nhân truyền nhiễm mới. Ông nhận thấy rằng tác nhân này chỉ có thể nhân lên trong tế bào đang phân chia, nhưng thí nghiệm của ông không chỉ ra là nó được làm từ các hạt; ông gọi tác nhân này là một "contagium vivum fluidum" (mầm sống có thể hòa tan) và sử dụng lại từ "virus" để gọi nó. Beijerinck giữ quan điểm rằng virus có bản chất là chất lỏng, tuy nhiên về sau thuyết này đã bị bác bỏ bởi Wendell Stanley, người chứng minh được chúng có dạng hạt. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Trong cùng năm đó, Friedrich Loeffler và Frosch đã cho chảy lần đầu tiên dung dịch chứa virus động vật – tác nhân gây bệnh lở mồm long móng (aphthovirus) – qua một bộ lọc tương tự.
Vào đầu của thế kỷ XX, Frederick Twort - một nhà vi khuẩn học người Anh - đã khám phá ra một nhóm những virus có thể xâm nhiễm vào vi khuẩn, mà nay gọi là thực khuẩn thể ("bacteriophage" hay "phage"), và nhà vi sinh học người Canada gốc Pháp Félix d'Herelle đã miêu tả về virus rằng: khi thêm chúng vào vi khuẩn trên thạch agar, sẽ tạo ra những vùng vi khuẩn bị chết. Ông đã pha loãng chính xác một dịch huyền phù những virus trên và khám phá ra rằng những dịch pha loãng cao nhất (mật độ virus thấp nhất), thay vì giết chết toàn bộ vi khuẩn, đã tạo những vùng riêng biệt gồm những cá thể bị chết. Tính toán diện tích những vùng này và nhân với hệ số pha loãng cho phép ông tính được số lượng virus trong dịch huyền phù gốc. Phage đã được cho rằng sẽ là một giải pháp điều trị tiềm năng cho những bệnh như thương hàn và tả, nhưng triển vọng của chúng đã bị lãng quên cùng với sự phát triển của penicillin. Nghiên cứu về phage đã cung cấp cái nhìn sâu hơn về sự bất hoạt và kích hoạt gen, và một cơ chế hữu hiệu cho việc đưa những gen bên ngoài vào bên trong vi khuẩn.
Cho đến cuối thế kỷ XIX, virus được định nghĩa dựa trên sự lây nhiễm của chúng, khả năng chống lọc, và việc chúng đòi hỏi phải có một vật chủ. Virus đã từng chỉ được nuôi trong thực vật và động vật. Năm 1906, Ross Granville Harrison phát minh ra một phương pháp để nuôi dưỡng mô trong bạch huyết, và sau đó năm 1913, E. Steinhardt, C. Israeli, và R. A. Lambert đã sử dụng phương pháp này để phát triển virus vaccinia trong những mảnh vụn của mô giác mạc chuột lang nhà. Năm 1928, H. B. Maitland và M. C. Maitland đã nuôi virus vaccinia trong những thể huyền phù của thận gà băm nhỏ. Phương pháp của họ đã không được áp dụng rộng rãi cho tới thập niên 1950, khi poliovirus được nuôi ở quy mô lớn phục vụ việc sản xuất vaccine.
Một bước đột phá khác đến vào năm 1931, khi nhà bệnh học Hoa Kỳ Ernest William Goodpasture đã nuôi dưỡng virus cúm và vài loại virus khác trong trứng gà đã thụ tinh. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Năm 1949, John Franklin Enders, Thomas Weller, và Frederick Robbins cũng nuôi cấy virus bại liệt trong tế bào phôi người, virus đầu tiên được nuôi mà không sử dụng mô thể rắn của động vật hay trứng. Công trình này cho phép Jonas Salk tạo ra một vắc-xin bại liệt hiệu quả.
Những hình ảnh đầu tiên của virus thu nhận được là nhờ sự phát minh ra kính hiển vi điện tử năm 1931 của hai kĩ sư người Đức Ernst Ruska và Max Knoll. Năm 1935, Wendell Meredith Stanley - một nhà sinh hóa và virus học người Mỹ - đã nghiên cứu virus khảm thuốc lá và nhận thấy chúng được tạo thành phần lớn từ protein. Một thời gian ngắn sau, virus này đã được phân tách thành các phần protein và RNA riêng biệt.
Virus khảm thuốc lá là dạng virus đầu tiên được tinh thể hóa và cấu trúc của nó do đó đã được làm sáng tỏ chi tiết. Những hình ảnh nhiễu xạ tia X đầu tiên của virus kết tinh đã được Bernal và Fankuchen thu được vào 1941. Dựa trên những tấm hình này, Rosalind Franklin đã khám phá ra cấu trúc DNA hoàn thiện của loại virus này vào năm 1955. Cùng trong năm đó, Heinz Fraenkel-Conrat và Robley Williams chứng minh được là chiết xuất RNA và vỏ protein của virus khảm thuốc lá có thể tự lắp ráp lại để tạo thành những virus có chức năng, cho thấy cơ chế đơn giản này có thể là cách virus sinh ra trong tế bào vật chủ.
Nửa sau của thế kỷ XX đánh dấu một kỉ nguyên vàng cho sự khám phá virus với hầu hết trong số hơn 2.000 loài virus động vật, thực vật và vi khuẩn đã được phát hiện trong những năm này. Năm 1957, virus arteri ở ngựa và virus gây bệnh tiêu chảy ở bò (một loại pestivirus) đã được phát hiện. Năm 1963, virus viêm gan siêu vi B cũng được Baruch Blumberg khám phá, và năm 1965, Howard Temin đã mô tả loại retrovirus đầu tiên. Sau đó, enzym phiên mã ngược ("Reverse transcriptase"), loại enzym quan trọng mà retrovirus sử dụng để phiên mã RNA của chúng thành DNA, được miêu tả lần đầu vào năm 1970, một cách độc lập bởi Howard Martin Temin và David Baltimore. Năm 1983, nhóm nghiên cứu của Luc Montagnier tại Viện Pasteur ở Pháp, đã lần đầu tiên phân lập một loại retrovirus được biết với tên gọi ngày nay là virus suy giảm miễn dịch ở người (HIV).
Nguồn gốc.
Virus được tìm thấy ở bất cứ nơi nào có sự sống và có thể đã tồn tại kể từ khi tế bào sống đầu tiên được tiến hóa thành. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Nguồn gốc của virus không rõ ràng bởi chúng không tạo hóa thạch, vì vậy các kĩ thuật phân tử đã được sử dụng để so sánh RNA hay DNA của virus và là một công cụ hiệu quả để nghiên cứu xem chúng phát sinh ra sao. Nhìn chung, có ba giả thuyết chính để giải thích nguồn gốc của virus:
Giả thuyết thoái hóa.
Giả thuyết này cho rằng virus có thể đã từng là những tế bào nhỏ ký sinh bên trong những tế bào lớn hơn. Trải qua thời gian, những gen không cần thiết cho sự ký sinh này mất đi. Những vi khuẩn như "Rickettsia" và "Chlamydia" cũng sống trong tế bào và giống như virus, chỉ có thể sinh sản khi ở bên trong tế bào vật chủ. Những vi khuẩn này đã hỗ trợ cho giả thuyết thoái lui, do sự phụ thuộc ký sinh của chúng có thể đã làm mất đi những gen cho phép chúng tồn tại bên ngoài tế bào. Giả thuyết này còn được gọi là "giả thuyết thoái hóa" ("degenracy hypothesis"), hoặc "giả thuyết suy giảm" ("reduction hypothesis").
Giả thuyết nguồn gốc từ tế bào.
Theo giả thuyết này, một số virus có thể đã tiến hóa từ những mảnh DNA hay RNA mà "thoát ra" ("escape") từ hệ gen của những sinh vật lớn hơn. DNA thoát ra có thể là từ những plasmid (những đoạn DNA trần mà có thể di chuyển giữa những tế bào) hoặc từ những transposon (những phân tử DNA mà nhân lên và di chuyển quanh những vị trí khác nhau bên trong bộ gen của tế bào). Từng được gọi là những "gen nhảy", transposon là những ví dụ của các yếu tố di truyền di động và có thể là nguồn gốc của một số virus. Chúng được Barbara McClintock phát hiện ở cây ngô vào năm 1950. Đôi khi giả thuyết này còn được gọi là "giả thuyết lang thang" ("vagrancy hypothesis"), hoặc "giả thuyết trốn thoát" ("escape hypothesis").
Giả thuyết đồng tiến hóa.
Giả thuyết này còn được gọi là "giả thuyết virus-đầu tiên" ("virus-first hypothesis"), đề xuất rằng virus có thể đã tiến hóa từ những phân tử protein và acid nucleic phức tạp cùng một thời điểm khi tế bào xuất hiện lần đầu trên Trái Đất, và đã không hề bị phụ thuộc vào tế bào trong hàng tỷ năm. Viroid là những phân tử RNA mà không được phân loại là virus bởi chúng thiếu đi lớp vỏ protein. Tuy nhiên, chúng có những đặc tính tương đồng với vài loại virus và thường được gọi là những "tác nhân dưới virus" ("subviral agent"). Viroid là những mầm bệnh quan trọng ở thực vật. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Chúng không mã hóa protein nhưng lại tương tác với tế bào chủ và sử dụng bộ máy tế bào vật chủ cho sự nhân lên của chúng. Virus viêm gan siêu vi D trên người cũng có bộ gen RNA tương đồng với viroid nhưng có lớp vỏ protein xuất xứ từ virus viêm gan B và không có khả năng tạo ra lớp vỏ của riêng chúng. Vì vậy, chúng là một loại virus khiếm khuyết và không thể tự nhân lên mà không có virus viêm gan B giúp đỡ. Tương tự như vậy, sputnik virophage cũng bị lệ thuộc vào mimivirus, loại virus lây nhiễm trên "Acanthamoeba castellanii". Những virus phụ thuộc vào sự hiện diện của những loài virus khác trong tế bào vật chủ được gọi là những "vệ tinh" và có thể là đại diện cho một bước trung gian trong quá trình tiến hóa giữa viroid và virus.
Sự tranh cãi giữa các giả thuyết về nguồn gốc của virus.
Trong quá khứ, tất cả những giả thuyết trên đều gặp phải vấn đề: giả thuyết thoái lui không giải thích được tại sao kể cả những ký sinh nội bào nhỏ nhất cũng không giống với virus ở bất kỳ góc độ nào. Giả thuyết trốn thoát không lý giải được về lớp vỏ capsid phức hợp và các cấu trúc khác của phần tử virus. Giả thuyết virus-đầu tiên thì trái với định nghĩa của virus là chúng đòi hỏi phải có tế bào chủ. Cho đến hiện nay, virus được công nhận là rất cổ xưa và có nguồn gốc mà bắt đầu từ trước cả sự rẽ nhánh của sự sống vào ba vực. Phát hiện này đã khiến những nhà virus học hiện đại phải xem xét và đánh giá lại cả ba giả thuyết cổ điển trên.
Bằng chứng về một thế giới của những tế bào RNA tổ tiên và những phân tích máy tính về trình tự DNA của virus và vật chủ đã đem lại sự hiểu biết tốt hơn về mối quan hệ tiến hóa giữa những loại virus khác nhau, và có thể giúp xác định tổ tiên của những virus hiện đại. Cho đến nay, những phân tích này vẫn chưa chứng tỏ được giả thuyết nào ở trên là đúng. Tuy nhiên, có vẻ như ít có khả năng rằng tất cả các virus hiện đang được biết có cùng một tổ tiên chung, và virus có lẽ đã phát sinh nhiều lần trong quá khứ bởi một hay nhiều cơ chế.
Prion là những phân tử protein có khả năng lây nhiễm mà không phải DNA hay RNA. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Chúng có thể gây các bệnh như bệnh ngứa điên ở cừu ("scrapie"), bệnh viêm não thể bọt biển ở bò (bệnh bò điên) và bệnh suy mòn mãn tính ở hươu; ở con người, những bệnh gây ra bởi prion bao gồm bệnh Kuru, bệnh Creutzfeldt–Jakob, và hội chứng Gerstmann–Sträussler–Scheinker. Prion có khả năng nhân lên do một số protein có thể tồn tại ở hai hình dạng khác nhau, và prion thay đổi hình dạng thông thường của protein vật chủ thành dạng prion. Điều này sẽ phát động một phản ứng chuỗi khi mỗi protein prion biến đổi nhiều protein vật chủ thành nhiều prion hơn, và những prion mới này lại tiếp tục biến đổi càng lúc càng nhiều protein thành prion hơn nữa; và tất cả những bệnh liên quan tới prion được biết đến đều dẫn đến tử vong. Mặc dù những prion về cơ bản khá khác biệt với virus và viroid, thì sự khám phá ra chúng đã làm gia tăng niềm tin vào học thuyết rằng virus có thể đã tiến hóa từ những phân tử tự sao chép.
Sinh học.
Đặc điểm đời sống.
Có những ý kiến khác nhau về việc liệu virus có phải là một dạng sống không, hay chỉ là những cấu trúc hữu cơ tương tác với những sinh vật sống. Chúng đã được mô tả là "những sinh vật bên lề của sự sống" ("organisms at the edge of life"), do chúng giống với những cơ thể sống ở chỗ chúng mang những gen và tiến hóa nhờ quá trình chọn lọc tự nhiên, và có thể sinh sản băng cách tạo ra rất nhiều bản sao của chính chúng bằng cách tự lắp ráp. Dù vậy, chúng lại không có cấu trúc tế bào, thứ mà thường được coi như đơn vị cơ bản của sự sống. Virus cũng không có hệ thống trao đổi chất của riêng chúng, và đòi hỏi phải có một tế bào chủ để tạo ra cá thể mới. Chúng do đó không thể sinh sản tự nhiên bên ngoài tế bào vật chủ – dù một số loài vi khuẩn như "Rickettsia" và "Chlamydia" được công nhận là sinh vật sống cũng có giới hạn tương tự. Những dạng sống được chấp nhận thường phải sử dụng phân chia tế bào để sinh sản, trong khi virus lại tự lắp ráp bên trong tế bào. Chúng cũng khác với sự tăng trưởng tự động của những tinh thể, do chúng được thừa hưởng những đột biến di truyền và phải chịu sự chọn lọc tự nhiên. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Sự tự lắp ráp của virus trong tế bào chủ có ý nghĩa quan trọng cho việc nghiên cứu nguồn gốc sự sống, và củng cố niềm tin cho giả thuyết về việc sự sống có thể đã bắt đầu từ những phân tử hữu cơ tự lắp ráp.
Cấu trúc.
Virus rất đa dạng về kích thước và hình dạng, được gọi chung là những hình thái của virus. Nhìn chung, virus có kích cỡ nhỏ hơn vi khuẩn. Hầu hết các virus được nghiên cứu có đường kính trong khoảng từ 20 đến 300 nanomet. Một số filovirus có tổng chiều dài lên tới 1400 nm; dù đường kính của chúng chỉ vào khoảng 80 nm. Đa phần các virus đều không thể quan sát được bằng kính hiển vi quang học, cho nên kính hiển vi điện tử quét và truyền qua được sử dụng để trực quan hóa những virion. Để gia tăng sự tương phản giữa virus và xung quanh, người ta phải sử dụng những "vết nhuộm" ("stain") với mật độ electron dày đặc. Những dung dịch muối của những kim loại nặng, như wolfram, có thể phân tán electron khỏi những vùng được các vết nhuộm che phủ. Nếu virion được bao bọc bằng các vết nhuộm (nhuộm dương tính), những chi tiết tỉ mỉ sẽ bị che mờ. Phương pháp nhuộm âm tính vì thế sẽ giúp khắc phục vấn đề này khi chỉ nhuộm màu môi trường nền.
Một phần tử (hạt) virus hoàn chỉnh - được gọi virion - bao gồm acid nucleic được bao bọc bởi một lớp vỏ protein bảo vệ gọi là capsid. Lớp vỏ này được tạo thành từ những tiểu đơn vị protein giống hệt nhau gọi là capsomer. Ngoài ra, virus có thể có một vỏ bọc bằng lipid có xuất xứ từ màng tế bào vật chủ. Vỏ capsid được tạo ra từ protein được dịch mã bởi bộ gen của virus và hình dạng của chúng chính là cơ sở để phân biệt về mặt hình thái học. Các tiểu đơn vị protein do virus mã hóa sẽ tự lắp ráp để tạo nên vỏ capsid, nhìn chung sẽ đòi hỏi sự có mặt của bộ gen virus. Những virus phức tạp còn mã hóa những protein trợ giúp cho quá trình xây dựng capsid của chúng. Những protein mà kết hợp với acid nucleic được biết với tên nucleoprotein, và sự kết hợp của những protein ở capsid với acid nucleic của virus được gọi là một nucleocapsid. Vỏ capsid và toàn bộ cấu trúc virus có thể được thăm dò vật lý (cơ học) thông qua kính hiển vi lực nguyên tử. Nhìn chung, có bốn hình thái virus chính:
Xoắn ốc. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Những virus này được tạo thành từ một loại capsomer duy nhất xếp chồng lên quanh một trục trung tâm để tạo nên cấu trúc xoắn ốc, có thể có một khoang trung tâm hoặc là một ống rỗng. Sự sắp xếp này dẫn đến việc tạo ra những virion dạng hình que hay sợi, chúng có thể ngắn và rất cứng, hoặc dài và rất linh hoạt. Vật liệu di truyền nhìn chung là RNA sợi đơn (ssRNA), nhưng đôi khi là DNA sợi đơn (ssDNA), và được gắn chặt với chuỗi xoắn protein bằng những tương tác giữa acid nucleic mang điện tích âm và phần điện tích dương trên protein. Nói chung, độ dài của vỏ capsid xoắn ốc có liên quan tới độ dài của acid nucleic bên trong nó và đường kính thì phụ thuộc vào kích thước và cách sắp xếp các capsomer. Loại virus khảm thuốc lá - mà đã được nghiên cứu kĩ lưỡng - là một ví dụ của virus dạng xoắn ốc.
Khối hai mươi mặt đều.
Hầu hết virus động vật đều có dạng khối hai mươi mặt đều hoặc gần hình cầu với hai mươi mặt đều đối xứng (nhị thập diện đều). Một khối hai mươi mặt đều bình thường là cách tối ưu để tạo nên một vỏ khép kín từ những tiểu đơn vị giống y như nhau. Số lượng các capsomer tối thiểu cần đến là 12, trong đó mỗi capsomer tạo thành từ năm tiểu đơn vị y hệt nhau. Nhiều virus, ví dụ rotavirus, có nhiều hơn 12 capsomer và xuất hiện dưới dạng hình cầu nhưng vẫn giữ tính đối xứng. Capsomer tại mỗi đỉnh được bao quanh bởi 5 capsomer khác gọi là penton. Capsomer trên những mặt hình tam giác thì được bao quanh bởi 6 và gọi là hexon. Hexon về bản chất thường phẳng và penton, cấu trúc tạo nên 12 đỉnh, lại thường cong. Cùng một protein cũng có thể là tiểu đơn vị của cả penton và hexon, hoặc chúng có thể được cấu tạo bởi những protein khác nhau.
Kéo dài.
Có cấu trúc một khối hai mươi mặt đều được kéo dài gấp năm lần theo chiều dài của trục; đây cũng cách sắp xếp phổ biến ở đầu của mỗi bacteriophage. Nó tạo thành một hình trụ với nắp đậy ở hai đầu.
Phức tạp.
Những virus này có một capsid mà không hoàn toàn xoắn hay hoàn toàn khối hai mươi mặt đều, và có thể mang những cấu trúc thêm vào như đuôi protein hoặc một vách ngăn ngoài phức hợp. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Một số bacteriophages, như Enterobacteria phage T4, có cấu trúc phức tạp bao gồm một đầu hình khối hai mươi mặt đều gắn với một đuôi xoắn; đuôi này có thể có một đĩa nền lục giác đều với các sợi đuôi protein nhô ra. Cấu trúc đuôi này đóng vai trò một ống tiêm phân tử, giúp gắn vào vi khuẩn vật chủ rồi sau đó bơm bộ gen của virus vào bên trong tế bào.
Vỏ bọc virus.
Một vài loài virus bao phủ bản thân chúng bằng một lớp vỏ bọc, là một dạng chỉnh sửa của một trong những màng tế bào: có thể là lớp màng ngoài bao quanh tế bào vật chủ bị nhiễm, hoặc màng trong như màng nhân hay mạng lưới nội chất, tạo ra một lớp lipid kép bao ngoài được gọi là vỏ bọc virus ("viral envelope"). Màng này được đính vào những protein mã hóa bởi bộ gen virus và bộ gen vật chủ; ngoài ra, tất cả màng lipid và bất cứ carbohydrat đều có nguồn gốc từ vật chủ. Virus cúm và HIV là ví dụ cho những loại sử dụng chiến thuật này. Hầu hết các virus có màng đều phụ thuộc vào lớp vỏ của chúng để có thể xâm nhiễm vào vật chủ.
Virus lớn.
poxvirus là những virus lớn, phức tạp có hình thái bất thường. Bộ gen của chúng được gắn với protein bên trong một cấu trúc đĩa ở trung tâm gọi là một nucleoid. Nucleoid được bao quanh bởi một lớp màng và hai cơ quan ở hai bên mà không rõ chức năng. Virus có một vỏ bọc ngoài với một lớp protein dày đính trên bề mặt vỏ bọc. Về tổng thể, virion của poxvirus là đa hình thái, do có thể có hình dạng trứng hoặc hình dạng gạch. Mimivirus là virus lớn nhất thường được biết, với đường kính vỏ capsid là 400 nm. Các sợi protein có thể nhô lên khỏi bề mặt với chiều dài lên tới 100 nm. Vỏ capsid có dạng đa giác đều dưới kính hiển vi điện tử, do đó có thể đây là một virus dạng khối hai mươi mặt đều. Năm 2011, các nhà nghiên cứu đã khám phá ra một virus lớn hơn ở đáy đại dương gần bờ biển Las Cruces, Chile. Nó tạm được đặt tên là "Megavirus chilensis", và có thể nhìn thấy được dưới kính hiển vi quang học cơ bản.
Một số loại virus khác. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Một số loại virus khác.
Một vài loại virus mà lây nhiễm vào vi khuẩn cổ có cấu trúc phức tạp mà không liên quan tới bất kỳ dạng virus nào khác, với những hình dạng bất thường rất đa dạng, từ những cấu trúc hình con suốt, cho tới hình que có móc, hình giọt nước, hay thậm chí cả hình cái chai. Những virus trên vi khuẩn cổ giống khác thì tương tự với những bacteriophage có đuôi, và có thể có nhiều dạng cấu trúc đuôi khác nhau.
Bộ gen.
Có rất nhiều cấu trúc bộ gen có thể được nhìn thấy ở các loài virus; chúng là nhóm có sự đa dạng cấu trúc bộ gen nhiều hơn thực vật, động vật, vi khuẩn hay vi khuẩn cổ. Có tới hàng triệu loại virus khác nhau, dù mới chỉ có khoảng 7.000 trong số đó đã được mô tả chi tiết. Cho đến tháng 1 năm 2021, cơ sở dữ liệu bộ gen virus của Trung tâm Thông tin Công nghệ sinh học Quốc gia Hoa Kỳ (NCBI) lưu trữ hơn 193.000 trình tự bộ gen hoàn chỉnh, nhưng chắc chắn còn nhiều vấn đề cần khám phá.
Một virus có các gen DNA hay RNA được gọi tương ứng là một virus DNA hoặc virus RNA. Phần lớn virus có bộ gen là RNA. Virus thực vật có xu hướng có bộ gen RNA sợi đơn và bacteriophage thường có bộ gen DNA sợi đôi.
Bộ gen virus có dạng mạch vòng, như ở polyomavirus, hay mạch thẳng, như ở adenovirus. Loại acid nucleic không liên quan tới hình dạng của bộ gen. Ở các virus RNA hay một số virus DNA, bộ gen thường được phân làm các phần riêng biệt, gọi là "bị phân đoạn". Với virus RNA, mỗi phân đoạn thường mã hóa cho chỉ một protein và chúng thường được tìm thấy với nhau trong một capsid. Tuy nhiên, tất cả phân đoạn không bắt buộc phải ở trong cùng một virion của virus để có thể xâm nhiễm, như được minh chứng ở virus khảm brom và vài loại virus thực vật khác.
Bộ gen virus, bất kể là loại acid nucleic nào, gần như luôn luôn có dạng sợi đơn hay sợi đôi. Bộ gen sợi đơn chứa một acid nucleic không bắt cặp, giống như một nửa của một cái thang bị cắt làm đôi ở giữa. Bộ gen sợi đôi có chứa hai acid nucleic bắt cặp bổ sung cho nhau, giống như toàn bộ cái thang. Những phần tử của một số họ virus, chẳng hạn những loại thuộc họ "Hepadnaviridae", có một bộ gen mà một phần sợi đơn và một phần sợi đôi. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Với hầu hết virus có bộ gen RNA và một số với bộ gen DNA sợi đơn, những sợi đơn lẻ được cho là có tính dương (+) hoặc tính âm (-), tùy thuộc vào liệu chúng có bổ sung với RNA thông tin (mRNA) của virus hay không. RNA dương tính tức là có cùng tính với mRNA và do vậy có ít nhất một phần của nó có thể dịch mã trực tiếp bởi tế bào vật chủ. RNA âm tính thì bổ sung với mRNA và do vậy phải được chuyển thành RNA dương tính bởi một enzym RNA polymerase phụ thuộc RNA trước khi dịch mã. Danh pháp DNA với virus bộ gen ssDNA đơn tính thì tương tự như danh pháp RNA, trong đó "sợi mã hóa" cho mRNA của virus thì bổ sung với nó (-) và "sợi không mã hóa" là một bản sao của nó (+). Tuy nhiên, một vài loại virus ssDNA và ssRNA có bộ gen lưỡng tính trong đó sự phiên mã và dịch mã có thể xảy ở cả hai loại sợi trong một trung gian sao chép dạng sợi đôi. Ví dụ như geminivirus, những virus thực vật có bộ gen ssDNA, và arenavirus, những virus động vật có bộ gen ssRNA.
Kích thước bộ gen khác biệt rất lớn giữa các loài. Bộ gen virus nhỏ nhất – circovirus ssDNA, thuộc họ "Circoviridae" – chỉ mã hóa cho hai loại protein và có kích cỡ bộ gen vào khoảng 2 nghìn cặp base; bộ gen lớn nhất – của mimivirus – có kích thước bộ gen lên tới hơn 1,2 triệu cặp base và mã hóa cho hơn 1000 protein. Nói chung, virus RNA có bộ gen nhỏ hơn virus DNA do có tỷ lệ lỗi cao hơn khi sao chép, và có giới hạn trên về kích thước tối đa. Khi vượt qua giới hạn này, những lỗi trong bộ gen khi sao chép sẽ làm cho virus trở nên vô dụng hoặc không có tính cạnh tranh. Để khắc phục điều này, virus RNA thường có bộ gen phân đoạn – chia bộ gen thành những phân tử nhỏ hơn – để làm giảm xác suất mà một lỗi trong một bộ gen đơn phần sẽ làm mất khả năng của toàn bộ bộ gen. Trái ngược lại, virus DNA thường có bộ gen lớn hơn do độ chính xác cao của những enzym sao chép của chúng. Tuy nhiên những virus DNA sợi đơn là một ngoại lệ của quy luật này, bởi tỷ lệ đột biến ở bộ gen những loại này có thể đạt đến mức cực đại như ở trường hợp virus RNA sợi đơn.
Virus cũng trải qua sự biến đổi di truyền theo một số cơ chế. Chúng bao gồm một quá trình gọi là biến động di truyền (hay trôi dạt di truyền, "gentic drift") khi những base đơn lẻ trong RNA hoặc DNA đột biến thành những base khác. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Hầu hết những đột biến điểm này đều "im lặng" – không thay đổi protein mà gen đó mã hóa – nhưng số khác lại có thể đem tới những lợi thế về tiến hóa như sự đề kháng với các thuốc kháng virus. Sự trôi dạt kháng nguyên diễn ra khi có một thay đổi lớn trong bộ gen của virus, có thể là hệ quả của tái tổ hợp hoặc tái sắp xếp vật liệu di truyền. Khi điều này xảy ra với virus cúm, những đại dịch có thể sẽ xảy ra. Virus RNA thường tồn tại ở dạng những loài giả (hay "biến chủng", "quasispecies") hoặc những đám virus của cùng một loài nhưng có trình tự nucleoside của bộ gen hơi khác nhau. Những biến chủng này là mục tiêu chính của chọn lọc tự nhiên.
Những bộ gen phân đoạn cũng đem tới những lợi thế tiến hóa; các chủng khác nhau của cùng một virus với bộ gen phân đoạn có thể xáo trộn ngẫu nhiên và tổ hợp các gen để sản xuất ra những virus thế hệ sau (con cái) có những đặc tính độc nhất vô nhị. Điều này gọi là sự tái sắp xếp hay "sự giao phối của virus" ("viral sex").
Tái tổ hợp di truyền là quá trình mà một sợi DNA bị phá vỡ và sau đó nhập vào đoạn cuối của một phân tử DNA khác. Điều này có thể xảy ra đồng thời khi virus xâm nhiễm vào tế bào và những nghiên cứu về sự tiến hóa của virus đã cho thấy rằng tái tổ hợp rất tràn lan ở các loài được nghiên cứu. Nó phổ biến ở cả virus RNA lẫn virus DNA.
Chu trình nhân lên.
Những quần thể virus - do là những thực thể vô bào - nên không thể tăng trưởng thông qua sự phân chia tế bào. Thay vào đó, chúng sử dụng bộ máy và hệ trao đổi chất của tế bào vật chủ để tạo ra rất nhiều bản sao của chính chúng, và tự lắp ráp ở bên trong đó.
Chu trình sống của virus có sự khác nhau rất lớn giữa các loài, nhưng nhìn chung có 6 giai đoạn cơ bản trong chu trình sống (vòng đời) của virus:
Vật liệu di truyền bên trong, và phương pháp nhân lên của những vật liệu đó, khác nhau đáng kể giữa những loại virus khác nhau.
Ảnh hưởng đến tế bào vật chủ.
Phạm vi của những tác động về cấu trúc và sinh hóa của virus lên tế bào vật chủ là rất rộng lớn. Chúng được gọi là những "tác động bệnh tích tế bào". |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Hầu hết những sự xâm nhiễm virus cuối cùng đều dẫn đến cái chết của tế bào vật chủ. Nguyên nhân gây ra chết bao gồm làm tan tế bào (tiêu bào), thay đổi màng ngoài tế bào và chết rụng tế bào. Thường tế bào bị chết là do việc ngừng lại các hoạt động thông thường của nó gây ra do sự ức chế của những protein đặc trưng của virus, dù không phải tất cả số đó đều là thành phần của các hạt virus.
Một số virus không gây ra sự thay đổi rõ ràng đối với tế bào bị nhiễm. Tế bào mà virus tiềm tan và bất hoạt thì cho thấy rất ít dấu hiệu bị nhiễm và thường hoạt động bình thường. Điều này gây nên sự nhiễm bệnh dai dẳng và virus thường 'ngủ đông' trong nhiều tháng hoặc nhiều năm. Điển hình cho việc này là những virus herpes. Một số loại, như virus Epstein-Barr, có thể khiến tế bào tăng sinh mà không gây ra khối u ác tính, trong khi một số loại khác như virus papilloma lại được xem là một nguyên nhân được xác nhận của bệnh ung thư.
Biên độ vật chủ.
Virus chính là những thực thể sinh học dồi dào nhất từ trước tới nay trên Trái Đất, và chúng có số lượng đông hơn tất cả những loài khác cộng lại với nhau. Chúng có thể xâm nhiễm lên tất cả các dạng tế bào bao gồm của động vật, thực vật, vi khuẩn, vi khuẩn cổ và nấm. Tuy nhiên, những loại khác nhau của virus thì chỉ có thể lây nhiễm trên một phạm vi giới hạn những vật chủ khác nhau, và nhiều loại có tính đặc hiệu loài. Một số, ví dụ như virus đậu mùa, chỉ có thể nhiễm vào một loài duy nhất – trong trường hợp này là con người, và vì thế chúng được nói rằng có "biên độ vật chủ" ("host range") hẹp. Những virus khác, ví dụ như virus dại, có thể lây lan trên nhiều loài động vật có vú, và do vậy có biên độ rộng. Virus mà chỉ lây nhiễm vào thực vật thì vô hại với động vật, và hầu hết virus mà xâm nhiễm lên các động vật khác thì vô hại với con người. Biên độ vật chủ của một số virus vi khuẩn - bacteriophage - thì bị giới hạn vào chỉ duy nhất một chủng vi khuẩn và chúng có thể được dùng để truy nguyên nguồn gốc bùng phát bệnh truyền nhiễm bằng một phương pháp gọi là phân loại bằng phage ("phage typing").
Phân loại. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Phân loại.
Phân loại virus tìm cách mô tả tính đa dạng của virus bằng cách đặt tên và nhóm chúng dựa trên cơ sở là những điểm tương đồng. Năm 1962, André Lwoff, Robert Horne, và Paul Tournier là những người đầu tiên phát triển một phương pháp phân loại virus, dựa trên hệ thống thứ bậc của Linnaeus. Hệ thống này tạo cơ sở cho sự phân loại theo ngành, lớp, bộ, họ, chi và loài. Virus được nhóm lại dựa theo những thuộc tính chung của chúng (mà không phải của vật chủ) và loại acid nucleic tạo nên bộ gen. Về sau, Ủy ban Quốc tế về Phân loại Virus được thành lập. Tuy nhiên, virus không được phân loại theo ngành hay lớp, do bộ gen có kích thước nhỏ và tỷ lệ đột biến cao khiến chúng khó xác định tổ tiên ở trên cấp Bộ. Vì vậy, hệ thống phân loại Baltimore đã được sử dụng để bổ sung thay thế cho các cấp bậc truyền thống này.
Hệ thống phân loại ICTV.
Ủy ban Quốc tế về Phân loại Virus (ICTV) đã phát triển hệ thống phân loại hiện hành và viết ra các hướng dẫn mà đề cao hơn đến các thuộc tính nhất định của virus để duy trì tính thống nhất của chúng trong một họ. Một hệ thống phân loại thống nhất đã được thành lập. Báo cáo lần thứ 7 của ICTV đã chính thức hóa lần đầu tiên khái niệm loài virus như là taxon (nhóm) thấp nhất trong hệ thống thứ bậc phân nhánh của các nhóm virus. Tuy nhiên, hiện tại chỉ có một phần nhỏ trong sự đa dạng của virus được nghiên cứu: phân tích các mẫu lấy từ con người cho thấy rằng có khoảng 20% trình tự virus được phục hồi là chưa từng được nhìn thấy trước đó, phân tích các mẫu lấy từ môi trường, như nước biển và trầm tích đại dương, giúp phát hiện ra một lượng lớn những trình tự mà hoàn toàn mới lạ với con người.
Cấu trúc hệ thống phân loại chung như sau:
Theo bảng phân loại năm 2013 của ICTV, có sáu bộ được xác lập, bao gồm Caudovirales, Herpesvirales, Mononegavirales, Nidovirales, Picornavirales và Tymovirales. Bộ thứ bảy Ligamenvirales cũng đã được đề xuất. Ủy ban không chính thức phân biệt các phân loài, chủng và dòng phân lập. Tổng cộng hiện nay có 7 bộ, 87 họ, 19 phân họ, 349 chi và khoảng 2.827 loài
Hệ thống phân loại Baltimore.
Nhà sinh vật học từng đoạt giải Nobel - David Baltimore đã phát minh ra hệ thống phân loại Baltimore. Nó được sử dụng kết hợp với hệ thống phân loại ICTV trong phân loại virus hiện đại. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Baltimore phân loại virus dựa trên cơ chế sản xuất RNA thông tin (mRNA). Virus phải tạo ra mRNA từ bộ gen của chúng để sản xuất protein và sao chép chính chúng, nhưng có những cơ chế khác nhau đã được sử dụng để đạt được điều này trong mỗi họ virus. Bộ gen virus có thể là sợi đơn (ss) hoặc sợi đôi (ds), RNA hoặc DNA, và có thể sử dụng enzym phiên mã ngược (RT) hoặc không. Thêm vào đó, những virus ssRNA có thể là dương bản (+) hoặc âm bản (−). Hệ thống phân loại này sắp xếp virus vào 7 nhóm:
Lấy một ví dụ, virus thủy đậu, Varicella zoster virus (VZV), thuộc về bộ Herpesvirales, họ "Herpesviridae", phân họ "Alphaherpesvirinae", và chi "Varicellovirus". VZV thuộc nhóm I trong Phân loại Baltimore do nó là một virus DNA sợi đôi và không sử dụng phiên mã ngược.
Bệnh virus ở con người.
Những ví dụ về các loại bệnh thông thường ở người gây ra do virus bao gồm cảm lạnh, cúm, thủy đậu và mụn rộp ở môi. Nhiều bệnh nghiêm trọng như ebola, AIDS, cúm gia cầm, và SARS cũng gây ra bởi virus. Một số bệnh đang được điều tra xem liệu chúng cũng có một virus là tác nhân gây bệnh không, chẳng hạn mối liên hệ nếu có giữa virus herpes 6 ở người (HHV6) và các bệnh thần kinh như bệnh đa xơ cứng và hội chứng mệt mỏi mãn tính. Có những tranh cãi xung quanh bornavirus, trước thường được coi là gây nên các bệnh thần kinh ở ngựa, có thể nào là thủ phạm của những bệnh tâm thần ở người hay không.
Các virus có những cơ chế gây bệnh khác nhau ở một sinh vật, phụ thuộc phần lớn vào loài virus. Cơ chế ở cấp độ tế bào chủ yếu là tiêu bào - sự mở tan và cái chết của tế bào sau đó. Ở các sinh vật đa bào, nếu có đủ số lượng tế bào chết, toàn bộ cơ thể sẽ bắt đầu chịu tác động. Mặc dù virus cũng gây nên sự gián đoạn của cân bằng nội môi khỏe mạnh, gây nên bệnh tật, chúng có thể cùng tồn tại một cách vô hại bên trong một sinh vật. Một ví dụ là khả năng của virus herpes đơn dạng, nguyên nhân gây ra bệnh rộp môi, có thể duy trì trạng thái bất hoạt bên trong cơ thể người. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Đây gọi là trạng thái tiềm ẩn ("latency") và là một đặc tính của các virus herpes, bao gồm virus Epstein-Barr, gây ra bệnh sốt tuyến, và virus varicella zoster, loại gây ra thủy đậu và zona. Hầu hết loài người đều đã từng nhiễm ít nhất một trong số các loại virus herpes. Tuy nhiên, những virus tiềm ẩn này đôi khi có thể có lợi, vì sự có mặt của virus làm gia tăng sự miễn dịch chống lại các mầm bệnh vi khuẩn, ví dụ như "Yersinia pestis".
Một số loại virus có thể gây ra sự nhiễm bệnh mãn tính hoặc suốt đời, khi mà virus tiếp tục nhân lên trong cơ thể bất kể có những cơ chế phòng ngự của vật chủ. Điều này rất phổ biến với bệnh do virus viêm gan B và viêm gan C. Những người bị nhiễm bệnh mãn tính gọi là những người mang ("carrier"), do họ đóng vai trò một nguồn dự trữ loại virus xâm nhiễm. Ở những quần thể có tỷ lệ người mang cao, căn bệnh được coi là có tính địa phương.
Dịch tễ học.
Dịch tễ học virus là một nhánh của y học, nghiên cứu sự lây truyền và kiểm soát bệnh truyền nhiễm do virus gây ra ở con người. Sự lây truyền của virus có thể theo chiều dọc, tức từ mẹ sang con, hoặc chiều ngang, tức từ người này sang người khác. Những ví dụ về truyền bệnh theo chiều dọc là virus viêm gan B và HIV, ở đây trẻ con sinh ra đã bị nhiễm virus lây từ mẹ. Một ví dụ khác, hiếm hơn, là virus varicella zoster, loại mặc dù chỉ gây ra sự nhiễm bệnh tương đối nhẹ ở người, lại có thể gây tử vong với thai nhi và trẻ sơ sinh.
Truyền bệnh theo chiều ngang là cơ chế lây lan virus phổ biến nhất trong quần thể. Sự lây bệnh có thể xảy ra khi: chất dịch cơ thể được trao đổi trong hoạt động tình dục (ví dụ HIV); máu được trao đổi do truyền máu bị nhiễm bệnh hoặc dùng chung kim tiêm (ví dụ virus viêm gan C); trao đổi nước bọt qua đường miệng (ví dụ virus Epstein-Barr); thực phẩm và nước bị nhiễm bẩn đi qua đường tiêu hóa (ví dụ norovirus); hít phải các sol khí chứa virion (ví dụ virus cúm); và các vector côn trùng như muỗi đưa mầm bệnh xâm nhập qua da của người bệnh (ví dụ sốt xuất huyết). |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Tỷ lệ hoặc tốc độ lây truyền bệnh virus phụ thuộc vào các nhân tố như mật độ dân số, số cá thể nhạy cảm (như những người không miễn dịch), chất lượng y tế và thời tiết.
Dịch tễ học được ứng dụng để phá vỡ chuỗi lây nhiễm trong các quần thể đang phải chịu sự bùng phát dịch bệnh do virus. Các phương pháp kiểm soát được dựa trên những kiến thức về cách mà virus lây lan. Việc tìm ra nguồn bệnh của sự bùng phát dịch và việc xác định virus rất quan trọng. Một qua virus đã được định danh, chuỗi lan truyền có thể được phá vỡ nhờ các vắc-xin; hoặc khi vắc-xin không có sẵn thì vệ sinh và khử trùng cũng có thể có hiệu quả. Thông thường, những người nhiễm bệnh bị cô lập khỏi phần còn lại của cộng đồng, và những người đã tiếp xúc với virus sẽ bị đặt trong tình trạng cách ly. Để khống chế sự bùng phát bệnh lở mồm long móng ở bò tại Anh năm 2001, hàng ngàn con bò đã bị giết. Hầu hết bệnh truyền nhiễm do virus ở người và các động vật khác có thời kỳ ủ bệnh khi sự nhiễm bệnh không gây ra dấu hiệu hay triệu chứng nào. Thời gian ủ bệnh do virus dao động từ một vài ngày đến vài tuần, được biết với hầu hết bệnh do virus. Mặc dù có hơi chồng lấn lên nhau, nhưng chủ yếu diễn ra sau thời kỳ ủ bệnh là một thời kỳ lây lan— giai đoạn mà một cá thể nhiễm bệnh dễ lây nhiễm và có thể lây sang những người hay động vật khác. Điều này cũng xảy ra với nhiều bệnh virus, và hiểu biết về độ dài của hai thời kỳ rất quan trọng đối với sự kiểm soát các trận dịch. Khi sự bùng phát gây nên một tỷ lệ cao bất thường các ca bệnh trong một cộng đồng hay một vùng, chúng được gọi là những "dịch bệnh" hay "dịch" ("epidemic"). Nếu sự bùng phát lan ra toàn thế giới, chúng được xem như những "đại dịch" ("pandemic").
Dịch và đại dịch.
Những quần thể người Mỹ bản địa đã bị tàn phá bởi những căn bệnh truyền nhiễm, đặc biệt bệnh đậu mùa, do những thực dân châu Âu mang tới châu Mỹ. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Người ta không rõ là đã có bao nhiêu người Mỹ bản địa bị chết do những căn bệnh ngoại lai xuất hiện sau sự có mặt của Columbus ở châu Mỹ, nhưng đã ước tính là lên tới 70% dân số bản địa. Sự hủy diệt do những căn bệnh này gây ra đã hỗ trợ đáng kể cho nỗ lực của người châu Âu để thay thế và chinh phục những cộng đồng bản địa nơi đây.
Nhìn chung, một đại dịch là một dịch bệnh mang tính toàn cầu. Đại dịch cúm 1918, diễn ra cho đến năm 1919, là một đại dịch cúm nằm trong nhóm 5 (nhóm nghiêm trọng nhất) trong Chỉ số Nghiêm trọng của Đại dịch (PSI), gây ra bởi một dạng virus cúm A nguy hiểm chết người và nghiêm trọng một cách bất thường. Các nạn nhân thường là những thanh niên khỏe mạnh, trái ngược với hầu hết các dịch cúm khác vốn chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em, người già, hoặc nếu không là những bệnh nhân ốm yếu. Những ước tính ban đầu nói rằng dịch cúm này đã giết chết khoảng 40–50 triệu người, trong khi những nghiên cứu gần đây hơn đề xuất rằng nó có thể đã giết hại lên tới 100 triệu người, tức khoảng 5% dân số thế giới chỉ trong năm 1918.
Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng virus HIV có xuất xứ từ châu Phi cận Sahara trong thế kỷ XX; nó hiện nay được công nhận là một đại dịch, với ước tính khoảng 38,6 triệu người hiện sống với căn bệnh này trên toàn thế giới. Chương trình Phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS (UNAIDS) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính rằng AIDS đã giết hại hơn 25 triệu người tính từ khi được ghi nhận lần đầu vào 5 tháng 6 năm 1981, khiến nó là một trong những dịch bệnh hủy hoại nhất được ghi lại trong lịch sử. Chỉ trong năm 2007, có thêm khoảng 2,7 triệu ca nhiễm HIV mới và thêm 2 triệu người chết có liên quan tới HIV.
Một số mầm bệnh virus cực kỳ nguy hiểm khác là những thành viên của họ "Filoviridae". Filovirus là những virus gây ra bệnh sốt xuất huyết siêu vi, bao gồm virus Ebola và virus Marburg. Virus Marburg đã thu hút sự quan tâm rộng rãi của báo chí vào tháng 4 năm 2005 với một trận bùng phát đầu tiên ở Angola. Bệnh do vi rút Ebola cũng gây ra các đợt bùng phát không liên tục với tỷ lệ tử vong cao, kể từ năm 1976 khi lần đầu tiên được xác định. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Tồi tệ và gần đây nhất là dịch bệnh tại Tây Phi năm 2014.
Ngoại trừ bệnh đậu mùa, hầu hết các đại dịch đều do virus mới tiến hóa gây ra. Các virus "mới nổi" này thường là đột biến của những loại virus ít gây hại hơn đã từng lưu hành trước đây ở người hoặc động vật khác.
Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS) và hội chứng hô hấp Trung Đông (MERS) đều do các chủng coronavirus mới gây ra. Các chủng coronavirus khác được biết đến là đã gây ra những bệnh nhiễm trùng nhẹ ở người, do vậy độc lực và sự lây lan nhanh chóng của SARS—vào tháng 7 năm 2003 đã gây ra khoảng 8.000 ca nhiễm và 800 ca tử vong—là điều không ngờ và hầu hết các quốc gia đều không chuẩn bị sẵn sàng để ứng phó.
Một chủng liên quan tới coronavirus, virus corona gây hội chứng hô hấp cấp tính nặng 2 (SARS-CoV-2), được cho là có nguồn gốc từ loài dơi, xuất hiện tại Vũ Hán, Trung Quốc vào tháng 11 năm 2019 và nhanh chóng lây lan trên toàn thế giới. Các trường hợp lây nhiễm virus này đã gây ra đại dịch COVID-19 bắt đầu vào năm 2020. Nhằm đối phó với đại dịch, những hạn chế chưa từng có trong thời bình đã được đặt ra đối với việc đi lại quốc tế, và lệnh giới nghiêm đã được áp dụng tại một số thành phố lớn trên thế giới.
Ung thư.
Virus là một nguyên nhân được công nhận của bệnh ung thư ở con người và các loài khác. Ung thư do virus chỉ xảy ra ở một số ít người (hay động vật) bị nhiễm. Virus ung thư đến từ một loạt các họ virus, ở cả hai nhóm virus RNA và DNA, và không có bất kỳ loại đơn lẻ nào là "oncovirus" (một thuật ngữ đã lỗi thời ban đầu dùng để chỉ retrovirus chuyển đổi cấp). Sự phát triển của ung thư do virus được xác định bởi nhiều nhân tố, như sự miễn dịch của vật chủ và những đột biến bên trong vật chủ. Virus được đồng thuận là gây ra bệnh ung thư ở người bao gồm một số kiểu gen của các loại virus papilloma ở người, virus viêm gan B, virus viêm gan C, virus Epstein-Barr, virus herpes ung thư mô liên kết Kaposi và virus ưa lympho T ở người. Một loại virus ung thư ở người mới khám phá gần đây là polyomavirus (virus polyoma tế bào Merkel) mà gây ra phần lớn các ca của một dạng ung thư da hiếm gặp gọi là ung thư biểu mô tế bào Merkel. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Những virus viêm gan cũng có thể phát triển thành bệnh virus mãn tính mà dẫn tới ung thư gan. Sự xâm nhiễm của virus ưa bạch cầu T ở người cũng có thể dẫn tới chứng liệt cứng chi dưới nhiệt đới và ung thư bạch cầu tế bào T trưởng thành. Virus papilloma cũng được xác định là một trong những nguyên nhân của các dạng ung thư cổ tử cung, da, hậu môn, và dương vật. Trong họ "Herpesviridae", virus herpes ung thư mô liên kết Kaposi gây ra bệnh ung thư mô liên kết Kaposi (Kaposi's sarcoma) và ung thư hạch khoang cơ thể, và virus Epstein–Barr gây ra ung thư hạch Burkitt, ung thư hạch Hodgkin, rối loạn tăng sinh lympho B và ung thư vòm họng. Virus polyoma tế bào Merkel cũng có sự liên hệ mật thiết với SV40 và virus polyoma ở chuột mà đã được sử dụng như những mô hình tiêu biểu cho virus gây ung thư ở động vật trong hơn 50 năm qua.
Cơ chế phòng ngự của vật chủ.
Rào chắn bảo vệ đầu tiên của cơ thể chống lại virus là hệ thống miễn dịch tự nhiên. Nó bao gồm những tế bào và các cơ chế khác giúp bảo vệ vật chủ chống lại sự xâm nhiễm một cách không đặc hiệu. Điều này có nghĩa là những tế bào của hệ thống tự nhiên sẽ ghi nhận và phản ức với mầm bệnh theo một cách chung chung, nhưng không giống với hệ thống miễn dịch thích ứng, nó không cung cấp sự miễn dịch bảo vệ hoặc lâu dài với vật chủ.
Can thiệp RNA là một cơ chế phòng ngự bẩm sinh khác chống lại virus. Nhiều loại virus có chiến lược nhân lên mà có sự tham gia của RNA sợi đôi (dsRNA). Khi một virus như vậy lây nhiễm vào tế bào, nó giải phóng phân tử RNA của nó, thứ mà ngay lập tức sẽ gắn vào một phức hợp protein gọi là dicer, một enzym cắt RNA thành những mảnh nhỏ. Một con đường sinh hóa gọi là phức hợp RISC được kích hoạt, giúp phân hủy mRNA của virus và tế bào sẽ sống sót qua khỏi sự nhiễm bệnh. Rotavirus tránh cơ chế này bằng cách không lột vỏ hoàn toàn bên trong tế bào, và giải phóng mRNA mới qua các lỗ trong vỏ capsid trong của hạt virus. Bộ gen dsRNA nhờ thế vẫn được bảo vệ bên trong hạch tâm của virion. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Khi một hệ thống miễn dịch thích ứng của một động vật có xương sống gặp phải một virus, nó sẽ sản sinh ra các kháng thể đặc hiệu, gắn vào virus và thường làm nó không nhiễm bệnh. Đây gọi là miễn dịch dịch thể. Có hai loại kháng thể rất quan trọng, Loại đầu tiên gọi là IgM, rất hiệu quả trong việc trung hòa virus, được sản xuất bởi tế bào của hệ miền dịch chỉ trong vài tuần. Loại thứ hai, gọi là IgG, được sản xuất không giới hạn. Sự hiện diện của IgM trong máu vật chủ được sử dụng để kiểm tra sự nhiễm bệnh cấp tính, trong khi IgG biểu thị về sự nhiễm bệnh vào một lúc nào đó trong quá khứ. Kháng thể IgG cũng được đo trong các xét nghiệm miễn dịch.
Kháng thể cũng tiếp tục trở thành một cơ chế phòng ngự hữu hiệu ngay cả sau khi virus đã khống chế và xâm nhập vào tế bào chủ. Một protein trong tế bào này, gọi là TRIM21, có thể gắn vào kháng thể trên bề mặt của phần tử virus. Điều này chuẩn bị cho sự phá hủy virus kế tiếp thực hiện bởi các enzym của hệ thống proteosome trong tế bào.
Sự bảo vệ thứ hai của động vật có xương sống chống lại virus là miễn dịch qua trung gian tế bào, liên quan đến các tế bào miễn dịch được biết đến với tên tế bào T. Tế bào của cơ thể liên tục hiển thị các đoạn protein ngắn trên bề mặt tế bào, và nếu tế bào T nhận ra được một phân đoạn được nghi ngờ là của virus ở đây, tế bào chủ sẽ bị các tế bào giết tự nhiên T tiêu diệt, và những tế bào T đặc hiệu với virus sẽ sinh sôi nhanh chóng. Những tế bào như đại thực bào là những chuyên gia trong quá trình trình diện kháng nguyên. Sự sản xuất ra các interferon cũng là một cơ chế bảo vệ quan trọng. Đây là một hormone do cơ thể sinh ra khi virus xuất hiện. Vai trò của nó trong sự miễn dịch rất phức tạp; nó cuối cùng sẽ làm dừng lại sự sinh sản của virus bằng cách giết chết tế bào bị nhiễm và các tế bào xung quanh nó.
Không phải tất cả sự xâm nhiễm virus đều tạo ra một phản ứng miễn dịch bảo vệ theo cách trên. HIV trốn tránh khỏi hệ thống miễn dịch bằng cách liên tục thay đổi trình tự amino acid của protein trên bề mặt virion. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Loại virus dai dẳng này trốn tránh sự kiểm soát miễn dịch bằng cách cô lập, phong tỏa trình diện kháng nguyên, đề kháng lại cytokine, tránh khỏi hoạt động của tế bào giết tự nhiên và chết rụng tế bào, cùng sự trôi dạt kháng nguyên. Một số loại virus khác, được gọi là "virus hướng thần kinh", có thể lây lan đến các tế bào thần kinh nơi hệ thống miễn dịch không thể nào tiếp cận chúng.
Phòng tránh và chữa trị.
Vì lý do virus sử dụng các con đường trao đổi chất quan trọng trong tế bào cho việc sinh sản, nên nói chung rất khó để loại bỏ chúng mà không sử dụng những loại thuốc gây ra những ảnh hưởng độc hại đến tế bào chủ. Những cách tiếp cận y tế hiệu quả nhất đối với bệnh do virus là sử dụng tiêm chủng để cung cấp khả năng miễn dịch đối với sự xâm nhiễm của virus, và dùng thuốc kháng virus để can thiệp có chọn lọc lên quá trình nhân lên của chúng.
Vắc-xin.
Tiêm chủng là một biện pháp có phi tổn thấp và hữu hiệu để ngăn chặn sự xâm nhiễm của virus. Các vắc-xin đã được sử dụng để ngăn chặn để ngăn ngừa virus lây nhiễm trong một thời gian dài trước khi tìm thấy những loại virus thực sự. Việc sử dụng vắc-xin đã dẫn tới sự suy giảm đáng kể trong tỷ lệ mắc bệnh (bị ốm) và tỉ lệ tử vong (bị chết) bởi các bệnh liên quan tới virus như bại liệt, sởi, quai bị và rubella. Đặc biệt bệnh đậu mùa đã hoàn toàn bị loại trừ nhờ những chiến dịch tiêm chủng quy mô lớn. Vắc-xin có khả năng ngăn chặn hơn 13 bệnh lây nhiễm do virus khác ở người, và nhiều bệnh hơn ở động vật. Vắc-xin có thể bao gồm những virus còn sống đã làm giảm độc lực hoặc virus đã chết, hay những protein của virus (kháng nguyên). Vắc-xin sống có chứa các dạng đã bị làm suy yếu của virus, những dạng này không gây ra bệnh nhưng lại có thể tạo ra sự miễn dịch. Vắc-xin sống có thể gây nguy hiểm nếu được đưa vào cơ thể người mà có hệ miễn dịch yếu (người bị suy giảm miễn dịch), bởi ở những người này, virus suy yếu vẫn có thể gây ra bệnh như ban đầu. |
Virus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4163 | Công nghệ sinh học và các kĩ thuật di truyền đã được sử dụng để sản xuất ra vắc-xin tiểu đơn vị. Loại vắc-xin này chỉ sử dụng duy nhất protein ở vỏ capsid của virus. Vắc-xin virus viêm gan B là ví dụ cho loại vắc-xin này. Vắc-xin tiểu đơn vị thì an toàn với những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch do chúng không thể nào gây ra căn bệnh.
Vắc-xin virus sốt vàng, một chủng vắc-xin sống đã giảm độc lực được gọi là 17D, được xem có thể là chủng vắc-xin an toàn và hiệu quả nhất mà con người từng tạo ra.
Thuốc kháng virus.
Những loại thuốc kháng virus thường là những chất tương tự nucleoside - thành phần xây dựng nên DNA - khiến virus nhầm lẫn và tích hợp chúng vào trong bộ gen của virus lúc đang ở trong quá trình sinh sản. Vòng đời của virus sau đó sẽ bị dừng lại do DNA mới tổng hợp rơi vào trạng thái bất hoạt. Điều này là bởi những chất tương tự này thiếu đi nhóm hydroxyl (-OH), nhóm mà cùng với các nguyên tử phosphor, liên kết với nhau để tạo nên một bộ "xương sống" mạnh mẽ cho phân tử DNA. Việc làm này gọi là sự ngắt mạch DNA. Những ví dụ cho chất tương tự nucleoside là aciclovir, thuốc kháng lây nhiễm virus Herpes đơn dạng, và lamivudine, thuốc kháng lây nhiễm HIV và HBV. Aciclovir chính là một trong những loại thuốc kháng virus lâu đời nhất và thường được kê đơn nhất.
Những loại thuốc kháng virus khác hiện được sử dụng hướng tới những giai đoạn khác nhau trong chu kỳ sống của virus. Với HIV, loại virus phụ thuộc vào một enzym phân giải protein có tên HIV-1 protease để có thể hoàn toàn xâm nhiễm, thì có rất nhiều loại thuốc được gọi với tên chung là thuốc ức chế protease có vai trò bất hoạt loại enzym này.
Bệnh viêm gan C là một bệnh gây ra bởi một virus RNA. Ở 80% người bị nhiễm, căn bệnh này là mãn tính, và nếu không được điều trị thì người nhiễm sẽ mắc bệnh trong suốt phần đời còn lại của họ. Tuy nhiên, có một cách điều trị hiệu quả đó là sử dụng thuốc tương tự ucleoside ribavirin kết hợp với interferon. Việc điều trị những người mang virus viêm gan B mãn tính bằng cách sử dụng chiến thuật tương tự với thuốc lamivudine cũng đã được phát triển.
Lây nhiễm trên các loài khác. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.