id
stringlengths
14
14
uit_id
stringlengths
10
10
title
stringclasses
138 values
context
stringlengths
465
7.22k
question
stringlengths
3
232
answers
sequence
is_impossible
bool
2 classes
plausible_answers
sequence
0075-0032-0006
uit_014002
Đế quốc Parthia
Mặc dù đang hòa bình với Parthia, La Mã vẫn can thiệp vào các vấn đề của nó. Hoàng đế La Mã Tiberius (14-37SCN) đã tham gia vào một âm mưu của Pharasmanes I của Iberia nhằm đưa em trai của ông ta là Mithridates ngồi lên ngai vàng của Armenia bằng việc ám sát vị vua đồng minh với Parthia của Armenia Artabanus II đã cố gắng và thất bại trong việc khôi phục lại quyền kiểm soát Armenia của Parthia, điều này khiến cho tầng lớp quý tộc nổi loạn chống lại ông và buộc ông phải chạy trốn tới Scythia. Người La Mã đã thả một hoàng tử con tin, Tiridates III của Parthia, để cai trị quốc gia này như là một đồng minh của La Mã. Một thời gian ngắn trước khi qua đời, Artabanus đã cố gắng để lật đổ Tiridates khỏi ngai vàng bằng cách sử dụng quân đội từ Hyrcania Sau khi Artabanus qua đời trong năm 38 SCN, một cuộc nội chiến lâu dài xảy ra sau đó giữa người thừa kế hợp pháp Vardanes I của Parthia và em trai của ông ta là Gotarzes II của Parthia. Sau khi Vardanes bị ám sát trong một cuộc đi săn, giới quý tộc Parthia kêu gọi Hoàng đế La Mã Claudius(cai trị: 41-54 SCN) trong năm 49 SCN phóng thích vị hoàng tử con tin Meherdates nhằm thách thức Gotarzes. Điều này đem đến phản ứng ngược lại khi Meherdates bị phản bội bởi tổng đốc của Edessa và Izates bar Monobaz của Adiabene, ông bị bắt và mang nộp cho Gotarzes, tuy nhiên ông đã được tha mạng với cái giá phải trả là đôi tai của mình, một hành động nhằm để loại bỏ ông khỏi việc kế vị ngai vàng
Vì sao hoàng đế La Mã lại tham gia vào cuộc thi của Pharasmanes I của Iberia?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "nhằm đưa em trai của ông ta là Mithridates ngồi lên ngai vàng của Armenia" ], "answer_start": [ 168 ] }
0075-0032-0007
uit_014003
Đế quốc Parthia
Mặc dù đang hòa bình với Parthia, La Mã vẫn can thiệp vào các vấn đề của nó. Hoàng đế La Mã Tiberius (14-37SCN) đã tham gia vào một âm mưu của Pharasmanes I của Iberia nhằm đưa em trai của ông ta là Mithridates ngồi lên ngai vàng của Armenia bằng việc ám sát vị vua đồng minh với Parthia của Armenia Artabanus II đã cố gắng và thất bại trong việc khôi phục lại quyền kiểm soát Armenia của Parthia, điều này khiến cho tầng lớp quý tộc nổi loạn chống lại ông và buộc ông phải chạy trốn tới Scythia. Người La Mã đã thả một hoàng tử con tin, Tiridates III của Parthia, để cai trị quốc gia này như là một đồng minh của La Mã. Một thời gian ngắn trước khi qua đời, Artabanus đã cố gắng để lật đổ Tiridates khỏi ngai vàng bằng cách sử dụng quân đội từ Hyrcania Sau khi Artabanus qua đời trong năm 38 SCN, một cuộc nội chiến lâu dài xảy ra sau đó giữa người thừa kế hợp pháp Vardanes I của Parthia và em trai của ông ta là Gotarzes II của Parthia. Sau khi Vardanes bị ám sát trong một cuộc đi săn, giới quý tộc Parthia kêu gọi Hoàng đế La Mã Claudius(cai trị: 41-54 SCN) trong năm 49 SCN phóng thích vị hoàng tử con tin Meherdates nhằm thách thức Gotarzes. Điều này đem đến phản ứng ngược lại khi Meherdates bị phản bội bởi tổng đốc của Edessa và Izates bar Monobaz của Adiabene, ông bị bắt và mang nộp cho Gotarzes, tuy nhiên ông đã được tha mạng với cái giá phải trả là đôi tai của mình, một hành động nhằm để loại bỏ ông khỏi việc kế vị ngai vàng
Vì sao La Mã chọn hoàng tử con tin Tiridates III của Parthia, làm người cai ngục Armenia?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "quốc gia này như là một đồng minh của La Mã" ], "answer_start": [ 576 ] }
0075-0032-0008
uit_014004
Đế quốc Parthia
Mặc dù đang hòa bình với Parthia, La Mã vẫn can thiệp vào các vấn đề của nó. Hoàng đế La Mã Tiberius (14-37SCN) đã tham gia vào một âm mưu của Pharasmanes I của Iberia nhằm đưa em trai của ông ta là Mithridates ngồi lên ngai vàng của Armenia bằng việc ám sát vị vua đồng minh với Parthia của Armenia Artabanus II đã cố gắng và thất bại trong việc khôi phục lại quyền kiểm soát Armenia của Parthia, điều này khiến cho tầng lớp quý tộc nổi loạn chống lại ông và buộc ông phải chạy trốn tới Scythia. Người La Mã đã thả một hoàng tử con tin, Tiridates III của Parthia, để cai trị quốc gia này như là một đồng minh của La Mã. Một thời gian ngắn trước khi qua đời, Artabanus đã cố gắng để lật đổ Tiridates khỏi ngai vàng bằng cách sử dụng quân đội từ Hyrcania Sau khi Artabanus qua đời trong năm 38 SCN, một cuộc nội chiến lâu dài xảy ra sau đó giữa người thừa kế hợp pháp Vardanes I của Parthia và em trai của ông ta là Gotarzes II của Parthia. Sau khi Vardanes bị ám sát trong một cuộc đi săn, giới quý tộc Parthia kêu gọi Hoàng đế La Mã Claudius(cai trị: 41-54 SCN) trong năm 49 SCN phóng thích vị hoàng tử con tin Meherdates nhằm thách thức Gotarzes. Điều này đem đến phản ứng ngược lại khi Meherdates bị phản bội bởi tổng đốc của Edessa và Izates bar Monobaz của Adiabene, ông bị bắt và mang nộp cho Gotarzes, tuy nhiên ông đã được tha mạng với cái giá phải trả là đôi tai của mình, một hành động nhằm để loại bỏ ông khỏi việc kế vị ngai vàng
Người anh em Meherdates đã loại bỏ Gotarzes trong cuộc chiến giành ngai vàng như thế nào?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "được tha mạng với cái giá phải trả là đôi tai của mình" ], "answer_start": [ 1326 ] }
0075-0033-0001
uit_014005
Đế quốc Parthia
Vào năm 97, quan cai trị Tây Vực là Ban Siêu phái sứ giả Cam Anh thực hiện chuyến viếng thăm ngoại giao đến Đế quốc La Mã. Cam Anh đến bái kiến vua Parthia là Pacorus II tại Hecatompylos, sau đó rời khỏi cung đình Parthia và đến thành La Mã. Ông ta đi xa về phía tây đến tận Vịnh Ba Tư, nơi đây quan lại Parthia thuyết phục ông ta rằng một chuyến du ngoạn đầy hiểm họa trên biển quanh bán đảo Ả Rập là con đường duy nhất đến La Mã. Cam Anh không bằng lòng và trở về Đại Hán, tại đây ông dâng lên vua Hán Hòa Đế (trị vì. 88–105) một bản tường thuật chi tiết về Đế quốc La Mã dựa trên những gì người Parthia kể cho ông nghe. William Watson suy xét rằng người Parthia hẳn đã kiếm được lợi lộc thất bại trong nỗ lực thiết lập quan hệ bang giao của Đại Hán với La Mã, đặc biệt là sau những chiến thắng vang dội của Ban Siêu trước quân Hung Nô tại miền Đông Trung Á. Tuy nhiên, tư liệu của người Hán cho rằng một phái đoàn sứ thần La Mã, có lẽ chỉ gồm thâu một nhóm thương nhân La Mã, đến thăm kinh đô Lạc Dương vào năm 166, đời các vua Marcus Aurelius (trị vì. 161 – 180) và Hán Hoàn Đế (trị vì. 146 – 168). Mặc dù có thể là trùng hợp ngẫu nhiên, những nhiều đồng tiền huy chương bằng vàng của La Mã có niên đại vào khoảng triều đại của Marcus Aurelius và vị vua tiền nhiệm Antoninus Pius đã được phát hiện tại Óc Eo, Việt Nam (cùng với nhiều đồ tạo tác La Mã khác được tìm thấy ở đồng bằng sông Cửu Long), một địa điểm là một trong những địa điểm được đề xuất cho thành phố cảng "Cattigara" bên bờ Magnus Sinus (Vịnh Thái Lan và Biển Đông) trong cuốn Địa lý học của Ptolemaeus.
Vì sao Cam Anh lại quyết định quay trở về Đại Hán?
{ "text": [ "uan lại Parthia thuyết phục ông ta rằng một chuyến du ngoạn đầy hiểm họa trên biển quanh bán đảo Ả Rập là con đường duy nhất đến La Mã" ], "answer_start": [ 296 ] }
false
null
0075-0033-0002
uit_014006
Đế quốc Parthia
Vào năm 97, quan cai trị Tây Vực là Ban Siêu phái sứ giả Cam Anh thực hiện chuyến viếng thăm ngoại giao đến Đế quốc La Mã. Cam Anh đến bái kiến vua Parthia là Pacorus II tại Hecatompylos, sau đó rời khỏi cung đình Parthia và đến thành La Mã. Ông ta đi xa về phía tây đến tận Vịnh Ba Tư, nơi đây quan lại Parthia thuyết phục ông ta rằng một chuyến du ngoạn đầy hiểm họa trên biển quanh bán đảo Ả Rập là con đường duy nhất đến La Mã. Cam Anh không bằng lòng và trở về Đại Hán, tại đây ông dâng lên vua Hán Hòa Đế (trị vì. 88–105) một bản tường thuật chi tiết về Đế quốc La Mã dựa trên những gì người Parthia kể cho ông nghe. William Watson suy xét rằng người Parthia hẳn đã kiếm được lợi lộc thất bại trong nỗ lực thiết lập quan hệ bang giao của Đại Hán với La Mã, đặc biệt là sau những chiến thắng vang dội của Ban Siêu trước quân Hung Nô tại miền Đông Trung Á. Tuy nhiên, tư liệu của người Hán cho rằng một phái đoàn sứ thần La Mã, có lẽ chỉ gồm thâu một nhóm thương nhân La Mã, đến thăm kinh đô Lạc Dương vào năm 166, đời các vua Marcus Aurelius (trị vì. 161 – 180) và Hán Hoàn Đế (trị vì. 146 – 168). Mặc dù có thể là trùng hợp ngẫu nhiên, những nhiều đồng tiền huy chương bằng vàng của La Mã có niên đại vào khoảng triều đại của Marcus Aurelius và vị vua tiền nhiệm Antoninus Pius đã được phát hiện tại Óc Eo, Việt Nam (cùng với nhiều đồ tạo tác La Mã khác được tìm thấy ở đồng bằng sông Cửu Long), một địa điểm là một trong những địa điểm được đề xuất cho thành phố cảng "Cattigara" bên bờ Magnus Sinus (Vịnh Thái Lan và Biển Đông) trong cuốn Địa lý học của Ptolemaeus.
Dựa vào đâu mà Cam Anh có thể viết bản tường thuật về đế quốc La Mã cho Đại Hán?
{ "text": [ "dựa trên những gì người Parthia kể cho ông nghe" ], "answer_start": [ 574 ] }
false
null
0075-0033-0003
uit_014007
Đế quốc Parthia
Vào năm 97, quan cai trị Tây Vực là Ban Siêu phái sứ giả Cam Anh thực hiện chuyến viếng thăm ngoại giao đến Đế quốc La Mã. Cam Anh đến bái kiến vua Parthia là Pacorus II tại Hecatompylos, sau đó rời khỏi cung đình Parthia và đến thành La Mã. Ông ta đi xa về phía tây đến tận Vịnh Ba Tư, nơi đây quan lại Parthia thuyết phục ông ta rằng một chuyến du ngoạn đầy hiểm họa trên biển quanh bán đảo Ả Rập là con đường duy nhất đến La Mã. Cam Anh không bằng lòng và trở về Đại Hán, tại đây ông dâng lên vua Hán Hòa Đế (trị vì. 88–105) một bản tường thuật chi tiết về Đế quốc La Mã dựa trên những gì người Parthia kể cho ông nghe. William Watson suy xét rằng người Parthia hẳn đã kiếm được lợi lộc thất bại trong nỗ lực thiết lập quan hệ bang giao của Đại Hán với La Mã, đặc biệt là sau những chiến thắng vang dội của Ban Siêu trước quân Hung Nô tại miền Đông Trung Á. Tuy nhiên, tư liệu của người Hán cho rằng một phái đoàn sứ thần La Mã, có lẽ chỉ gồm thâu một nhóm thương nhân La Mã, đến thăm kinh đô Lạc Dương vào năm 166, đời các vua Marcus Aurelius (trị vì. 161 – 180) và Hán Hoàn Đế (trị vì. 146 – 168). Mặc dù có thể là trùng hợp ngẫu nhiên, những nhiều đồng tiền huy chương bằng vàng của La Mã có niên đại vào khoảng triều đại của Marcus Aurelius và vị vua tiền nhiệm Antoninus Pius đã được phát hiện tại Óc Eo, Việt Nam (cùng với nhiều đồ tạo tác La Mã khác được tìm thấy ở đồng bằng sông Cửu Long), một địa điểm là một trong những địa điểm được đề xuất cho thành phố cảng "Cattigara" bên bờ Magnus Sinus (Vịnh Thái Lan và Biển Đông) trong cuốn Địa lý học của Ptolemaeus.
Theo William Watson, nguyên nhân của việc thất bại trong việc thiết lập quan hệ bang giao của Parthia với Đại Hán là gì?
{ "text": [ "những chiến thắng vang dội của Ban Siêu trước quân Hung Nô tại miền Đông Trung Á" ], "answer_start": [ 779 ] }
false
null
0075-0033-0004
uit_014008
Đế quốc Parthia
Vào năm 97, quan cai trị Tây Vực là Ban Siêu phái sứ giả Cam Anh thực hiện chuyến viếng thăm ngoại giao đến Đế quốc La Mã. Cam Anh đến bái kiến vua Parthia là Pacorus II tại Hecatompylos, sau đó rời khỏi cung đình Parthia và đến thành La Mã. Ông ta đi xa về phía tây đến tận Vịnh Ba Tư, nơi đây quan lại Parthia thuyết phục ông ta rằng một chuyến du ngoạn đầy hiểm họa trên biển quanh bán đảo Ả Rập là con đường duy nhất đến La Mã. Cam Anh không bằng lòng và trở về Đại Hán, tại đây ông dâng lên vua Hán Hòa Đế (trị vì. 88–105) một bản tường thuật chi tiết về Đế quốc La Mã dựa trên những gì người Parthia kể cho ông nghe. William Watson suy xét rằng người Parthia hẳn đã kiếm được lợi lộc thất bại trong nỗ lực thiết lập quan hệ bang giao của Đại Hán với La Mã, đặc biệt là sau những chiến thắng vang dội của Ban Siêu trước quân Hung Nô tại miền Đông Trung Á. Tuy nhiên, tư liệu của người Hán cho rằng một phái đoàn sứ thần La Mã, có lẽ chỉ gồm thâu một nhóm thương nhân La Mã, đến thăm kinh đô Lạc Dương vào năm 166, đời các vua Marcus Aurelius (trị vì. 161 – 180) và Hán Hoàn Đế (trị vì. 146 – 168). Mặc dù có thể là trùng hợp ngẫu nhiên, những nhiều đồng tiền huy chương bằng vàng của La Mã có niên đại vào khoảng triều đại của Marcus Aurelius và vị vua tiền nhiệm Antoninus Pius đã được phát hiện tại Óc Eo, Việt Nam (cùng với nhiều đồ tạo tác La Mã khác được tìm thấy ở đồng bằng sông Cửu Long), một địa điểm là một trong những địa điểm được đề xuất cho thành phố cảng "Cattigara" bên bờ Magnus Sinus (Vịnh Thái Lan và Biển Đông) trong cuốn Địa lý học của Ptolemaeus.
Óc Eo, Việt Nam được đề xuất là một đia điểm như thế nào?
{ "text": [ "một trong những địa điểm được đề xuất cho thành phố cảng \"Cattigara\" bên bờ Magnus Sinus" ], "answer_start": [ 1418 ] }
false
null
0075-0033-0005
uit_014009
Đế quốc Parthia
Vào năm 97, quan cai trị Tây Vực là Ban Siêu phái sứ giả Cam Anh thực hiện chuyến viếng thăm ngoại giao đến Đế quốc La Mã. Cam Anh đến bái kiến vua Parthia là Pacorus II tại Hecatompylos, sau đó rời khỏi cung đình Parthia và đến thành La Mã. Ông ta đi xa về phía tây đến tận Vịnh Ba Tư, nơi đây quan lại Parthia thuyết phục ông ta rằng một chuyến du ngoạn đầy hiểm họa trên biển quanh bán đảo Ả Rập là con đường duy nhất đến La Mã. Cam Anh không bằng lòng và trở về Đại Hán, tại đây ông dâng lên vua Hán Hòa Đế (trị vì. 88–105) một bản tường thuật chi tiết về Đế quốc La Mã dựa trên những gì người Parthia kể cho ông nghe. William Watson suy xét rằng người Parthia hẳn đã kiếm được lợi lộc thất bại trong nỗ lực thiết lập quan hệ bang giao của Đại Hán với La Mã, đặc biệt là sau những chiến thắng vang dội của Ban Siêu trước quân Hung Nô tại miền Đông Trung Á. Tuy nhiên, tư liệu của người Hán cho rằng một phái đoàn sứ thần La Mã, có lẽ chỉ gồm thâu một nhóm thương nhân La Mã, đến thăm kinh đô Lạc Dương vào năm 166, đời các vua Marcus Aurelius (trị vì. 161 – 180) và Hán Hoàn Đế (trị vì. 146 – 168). Mặc dù có thể là trùng hợp ngẫu nhiên, những nhiều đồng tiền huy chương bằng vàng của La Mã có niên đại vào khoảng triều đại của Marcus Aurelius và vị vua tiền nhiệm Antoninus Pius đã được phát hiện tại Óc Eo, Việt Nam (cùng với nhiều đồ tạo tác La Mã khác được tìm thấy ở đồng bằng sông Cửu Long), một địa điểm là một trong những địa điểm được đề xuất cho thành phố cảng "Cattigara" bên bờ Magnus Sinus (Vịnh Thái Lan và Biển Đông) trong cuốn Địa lý học của Ptolemaeus.
Vì sao Đại Hán lại quyết định quay trở về Cam Anh?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "uan lại Parthia thuyết phục ông ta rằng một chuyến du ngoạn đầy hiểm họa trên biển quanh bán đảo Ả Rập là con đường duy nhất đến La Mã" ], "answer_start": [ 296 ] }
0075-0033-0006
uit_014010
Đế quốc Parthia
Vào năm 97, quan cai trị Tây Vực là Ban Siêu phái sứ giả Cam Anh thực hiện chuyến viếng thăm ngoại giao đến Đế quốc La Mã. Cam Anh đến bái kiến vua Parthia là Pacorus II tại Hecatompylos, sau đó rời khỏi cung đình Parthia và đến thành La Mã. Ông ta đi xa về phía tây đến tận Vịnh Ba Tư, nơi đây quan lại Parthia thuyết phục ông ta rằng một chuyến du ngoạn đầy hiểm họa trên biển quanh bán đảo Ả Rập là con đường duy nhất đến La Mã. Cam Anh không bằng lòng và trở về Đại Hán, tại đây ông dâng lên vua Hán Hòa Đế (trị vì. 88–105) một bản tường thuật chi tiết về Đế quốc La Mã dựa trên những gì người Parthia kể cho ông nghe. William Watson suy xét rằng người Parthia hẳn đã kiếm được lợi lộc thất bại trong nỗ lực thiết lập quan hệ bang giao của Đại Hán với La Mã, đặc biệt là sau những chiến thắng vang dội của Ban Siêu trước quân Hung Nô tại miền Đông Trung Á. Tuy nhiên, tư liệu của người Hán cho rằng một phái đoàn sứ thần La Mã, có lẽ chỉ gồm thâu một nhóm thương nhân La Mã, đến thăm kinh đô Lạc Dương vào năm 166, đời các vua Marcus Aurelius (trị vì. 161 – 180) và Hán Hoàn Đế (trị vì. 146 – 168). Mặc dù có thể là trùng hợp ngẫu nhiên, những nhiều đồng tiền huy chương bằng vàng của La Mã có niên đại vào khoảng triều đại của Marcus Aurelius và vị vua tiền nhiệm Antoninus Pius đã được phát hiện tại Óc Eo, Việt Nam (cùng với nhiều đồ tạo tác La Mã khác được tìm thấy ở đồng bằng sông Cửu Long), một địa điểm là một trong những địa điểm được đề xuất cho thành phố cảng "Cattigara" bên bờ Magnus Sinus (Vịnh Thái Lan và Biển Đông) trong cuốn Địa lý học của Ptolemaeus.
Dựa vào đâu mà Cam Anh có thể viết bản tường thuật về Đại Hán cho đế quốc La Mã?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "dựa trên những gì người Parthia kể cho ông nghe" ], "answer_start": [ 574 ] }
0075-0033-0007
uit_014011
Đế quốc Parthia
Vào năm 97, quan cai trị Tây Vực là Ban Siêu phái sứ giả Cam Anh thực hiện chuyến viếng thăm ngoại giao đến Đế quốc La Mã. Cam Anh đến bái kiến vua Parthia là Pacorus II tại Hecatompylos, sau đó rời khỏi cung đình Parthia và đến thành La Mã. Ông ta đi xa về phía tây đến tận Vịnh Ba Tư, nơi đây quan lại Parthia thuyết phục ông ta rằng một chuyến du ngoạn đầy hiểm họa trên biển quanh bán đảo Ả Rập là con đường duy nhất đến La Mã. Cam Anh không bằng lòng và trở về Đại Hán, tại đây ông dâng lên vua Hán Hòa Đế (trị vì. 88–105) một bản tường thuật chi tiết về Đế quốc La Mã dựa trên những gì người Parthia kể cho ông nghe. William Watson suy xét rằng người Parthia hẳn đã kiếm được lợi lộc thất bại trong nỗ lực thiết lập quan hệ bang giao của Đại Hán với La Mã, đặc biệt là sau những chiến thắng vang dội của Ban Siêu trước quân Hung Nô tại miền Đông Trung Á. Tuy nhiên, tư liệu của người Hán cho rằng một phái đoàn sứ thần La Mã, có lẽ chỉ gồm thâu một nhóm thương nhân La Mã, đến thăm kinh đô Lạc Dương vào năm 166, đời các vua Marcus Aurelius (trị vì. 161 – 180) và Hán Hoàn Đế (trị vì. 146 – 168). Mặc dù có thể là trùng hợp ngẫu nhiên, những nhiều đồng tiền huy chương bằng vàng của La Mã có niên đại vào khoảng triều đại của Marcus Aurelius và vị vua tiền nhiệm Antoninus Pius đã được phát hiện tại Óc Eo, Việt Nam (cùng với nhiều đồ tạo tác La Mã khác được tìm thấy ở đồng bằng sông Cửu Long), một địa điểm là một trong những địa điểm được đề xuất cho thành phố cảng "Cattigara" bên bờ Magnus Sinus (Vịnh Thái Lan và Biển Đông) trong cuốn Địa lý học của Ptolemaeus.
Theo William Watson, nguyên nhân của việc thất bại trong việc thiết lập quan hệ cạnh tranh của Parthia với Đại Hán là gì?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "những chiến thắng vang dội của Ban Siêu trước quân Hung Nô tại miền Đông Trung Á" ], "answer_start": [ 779 ] }
0075-0033-0008
uit_014012
Đế quốc Parthia
Vào năm 97, quan cai trị Tây Vực là Ban Siêu phái sứ giả Cam Anh thực hiện chuyến viếng thăm ngoại giao đến Đế quốc La Mã. Cam Anh đến bái kiến vua Parthia là Pacorus II tại Hecatompylos, sau đó rời khỏi cung đình Parthia và đến thành La Mã. Ông ta đi xa về phía tây đến tận Vịnh Ba Tư, nơi đây quan lại Parthia thuyết phục ông ta rằng một chuyến du ngoạn đầy hiểm họa trên biển quanh bán đảo Ả Rập là con đường duy nhất đến La Mã. Cam Anh không bằng lòng và trở về Đại Hán, tại đây ông dâng lên vua Hán Hòa Đế (trị vì. 88–105) một bản tường thuật chi tiết về Đế quốc La Mã dựa trên những gì người Parthia kể cho ông nghe. William Watson suy xét rằng người Parthia hẳn đã kiếm được lợi lộc thất bại trong nỗ lực thiết lập quan hệ bang giao của Đại Hán với La Mã, đặc biệt là sau những chiến thắng vang dội của Ban Siêu trước quân Hung Nô tại miền Đông Trung Á. Tuy nhiên, tư liệu của người Hán cho rằng một phái đoàn sứ thần La Mã, có lẽ chỉ gồm thâu một nhóm thương nhân La Mã, đến thăm kinh đô Lạc Dương vào năm 166, đời các vua Marcus Aurelius (trị vì. 161 – 180) và Hán Hoàn Đế (trị vì. 146 – 168). Mặc dù có thể là trùng hợp ngẫu nhiên, những nhiều đồng tiền huy chương bằng vàng của La Mã có niên đại vào khoảng triều đại của Marcus Aurelius và vị vua tiền nhiệm Antoninus Pius đã được phát hiện tại Óc Eo, Việt Nam (cùng với nhiều đồ tạo tác La Mã khác được tìm thấy ở đồng bằng sông Cửu Long), một địa điểm là một trong những địa điểm được đề xuất cho thành phố cảng "Cattigara" bên bờ Magnus Sinus (Vịnh Thái Lan và Biển Đông) trong cuốn Địa lý học của Ptolemaeus.
Óc Eo, Việt Nam được nổi tiếng là một đia điểm như thế nào?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "một trong những địa điểm được đề xuất cho thành phố cảng \"Cattigara\" bên bờ Magnus Sinus" ], "answer_start": [ 1418 ] }
0075-0034-0001
uit_014013
Đế quốc Parthia
Sau khi vua Iberia Pharasmanes I phái Rhadamistus con trai của ông (khoảng năm 51-55 SCN) xâm lược Armenia để lật đổ vị vua chư hầu La Mã, vua Mithridates, Vologases I của Parthia (khoảng 51-77 SCN) đã lên kế hoạch xâm lược và đưa em trai của mình, sau đó là Tiridates I của Armenia, lên ngai vàng . Rhadamistus cuối cùng đã bị đánh đuổi khỏi ngai vàng, và sau đó bắt đầu triều đại của Tiridates, người Parthia sẽ giữ lại kiểm soát khá vững chắc trên toàn Armenia cho dù bị gián đoạn một thời gian ngắn thông qua triều đại Arsaces của Armenia. Ngay cả sau sự sụp đổ của Đế chế Parthia, dòng dõi Arsaces vẫn tồn tại thông qua các vị vua Armenia. Tuy nhiên, dòng dõi Arsaces không chỉ tiếp tục tồn tại thông qua người Armenia, nó vẫn tiếp tục thông qua các vị vua nhà Arsaces Iberia của Gruzia và thông qua trong qua triều đại Arsaces của Albania Caucasus nhiều thế kỷ sau đó.
Dòng dõi nhà vua Arsaces được duy trì như thế nào?
{ "text": [ "thông qua các vị vua nhà Arsaces Iberia của Gruzia và thông qua trong qua triều đại Arsaces của Albania Caucasus nhiều thế kỷ sau đó" ], "answer_start": [ 741 ] }
false
null
0075-0034-0002
uit_014014
Đế quốc Parthia
Sau khi vua Iberia Pharasmanes I phái Rhadamistus con trai của ông (khoảng năm 51-55 SCN) xâm lược Armenia để lật đổ vị vua chư hầu La Mã, vua Mithridates, Vologases I của Parthia (khoảng 51-77 SCN) đã lên kế hoạch xâm lược và đưa em trai của mình, sau đó là Tiridates I của Armenia, lên ngai vàng . Rhadamistus cuối cùng đã bị đánh đuổi khỏi ngai vàng, và sau đó bắt đầu triều đại của Tiridates, người Parthia sẽ giữ lại kiểm soát khá vững chắc trên toàn Armenia cho dù bị gián đoạn một thời gian ngắn thông qua triều đại Arsaces của Armenia. Ngay cả sau sự sụp đổ của Đế chế Parthia, dòng dõi Arsaces vẫn tồn tại thông qua các vị vua Armenia. Tuy nhiên, dòng dõi Arsaces không chỉ tiếp tục tồn tại thông qua người Armenia, nó vẫn tiếp tục thông qua các vị vua nhà Arsaces Iberia của Gruzia và thông qua trong qua triều đại Arsaces của Albania Caucasus nhiều thế kỷ sau đó.
Sự kiện nào đánh dấu người Parthia tái chiếm lại Armenia?
{ "text": [ "Rhadamistus cuối cùng đã bị đánh đuổi khỏi ngai vàng, và sau đó bắt đầu triều đại của Tiridates" ], "answer_start": [ 300 ] }
false
null
0075-0034-0003
uit_014015
Đế quốc Parthia
Sau khi vua Iberia Pharasmanes I phái Rhadamistus con trai của ông (khoảng năm 51-55 SCN) xâm lược Armenia để lật đổ vị vua chư hầu La Mã, vua Mithridates, Vologases I của Parthia (khoảng 51-77 SCN) đã lên kế hoạch xâm lược và đưa em trai của mình, sau đó là Tiridates I của Armenia, lên ngai vàng . Rhadamistus cuối cùng đã bị đánh đuổi khỏi ngai vàng, và sau đó bắt đầu triều đại của Tiridates, người Parthia sẽ giữ lại kiểm soát khá vững chắc trên toàn Armenia cho dù bị gián đoạn một thời gian ngắn thông qua triều đại Arsaces của Armenia. Ngay cả sau sự sụp đổ của Đế chế Parthia, dòng dõi Arsaces vẫn tồn tại thông qua các vị vua Armenia. Tuy nhiên, dòng dõi Arsaces không chỉ tiếp tục tồn tại thông qua người Armenia, nó vẫn tiếp tục thông qua các vị vua nhà Arsaces Iberia của Gruzia và thông qua trong qua triều đại Arsaces của Albania Caucasus nhiều thế kỷ sau đó.
Mục đích của vua Iberia Pharasmanes I trong cuộc tiến quân xâm lược Armenia là gì?
{ "text": [ "lật đổ vị vua chư hầu La Mã, vua Mithridates" ], "answer_start": [ 109 ] }
false
null
0075-0035-0001
uit_014016
Đế quốc Parthia
Khi Vardanes II của Parthia nổi dậy chống lại cha mình Vologases I trong năm 55 SCN, Vologases đã phải rút lực lượng của mình từ Armenia về. Người La Mã đã nhanh chóng cố gắng lấp đầy khoảng trống chính trị để lại Trong cuộc chiến tranh La Mã-Parthia năm 58-63 SCN, tướng Gnaeus Domitius Corbulo đã đạt được một số thành công quân sự chống lại Parthia khi đưa Tigranes VI của Armenia lên làm vua chư hầu của La Mã. Tuy nhiên, người kế tục của Corbulo, Lucius Caesennius Paetus bị đánh cho đại bại bởi quân Parthia và chạy trốn khỏi Armenia. Sau một hiệp ước hòa bình, Tiridates I du hành tới Naples và Roma trong năm 63 SCN. Tại cả hai nơi hoàng đế La Mã Nero (khoảng 54-68 SCN) cộng nhận ngôi vua Armenia của ông bằng cách đặt vương miện hoàng gia lên trên đầu ông.
Nguyên nhân dẫn đến việc Vologases rút quân về từ Armenia là gì?
{ "text": [ "Vardanes II của Parthia nổi dậy chống lại cha mình Vologases I" ], "answer_start": [ 4 ] }
false
null
0075-0035-0002
uit_014017
Đế quốc Parthia
Khi Vardanes II của Parthia nổi dậy chống lại cha mình Vologases I trong năm 55 SCN, Vologases đã phải rút lực lượng của mình từ Armenia về. Người La Mã đã nhanh chóng cố gắng lấp đầy khoảng trống chính trị để lại Trong cuộc chiến tranh La Mã-Parthia năm 58-63 SCN, tướng Gnaeus Domitius Corbulo đã đạt được một số thành công quân sự chống lại Parthia khi đưa Tigranes VI của Armenia lên làm vua chư hầu của La Mã. Tuy nhiên, người kế tục của Corbulo, Lucius Caesennius Paetus bị đánh cho đại bại bởi quân Parthia và chạy trốn khỏi Armenia. Sau một hiệp ước hòa bình, Tiridates I du hành tới Naples và Roma trong năm 63 SCN. Tại cả hai nơi hoàng đế La Mã Nero (khoảng 54-68 SCN) cộng nhận ngôi vua Armenia của ông bằng cách đặt vương miện hoàng gia lên trên đầu ông.
Thành công của Gnaeus Domitius Corbulo là gì trong trận chiến giữa La Mã - Parthia giai đoạn 58-63 TCN?
{ "text": [ "đưa Tigranes VI của Armenia lên làm vua chư hầu của La Mã" ], "answer_start": [ 356 ] }
false
null
0075-0035-0003
uit_014018
Đế quốc Parthia
Khi Vardanes II của Parthia nổi dậy chống lại cha mình Vologases I trong năm 55 SCN, Vologases đã phải rút lực lượng của mình từ Armenia về. Người La Mã đã nhanh chóng cố gắng lấp đầy khoảng trống chính trị để lại Trong cuộc chiến tranh La Mã-Parthia năm 58-63 SCN, tướng Gnaeus Domitius Corbulo đã đạt được một số thành công quân sự chống lại Parthia khi đưa Tigranes VI của Armenia lên làm vua chư hầu của La Mã. Tuy nhiên, người kế tục của Corbulo, Lucius Caesennius Paetus bị đánh cho đại bại bởi quân Parthia và chạy trốn khỏi Armenia. Sau một hiệp ước hòa bình, Tiridates I du hành tới Naples và Roma trong năm 63 SCN. Tại cả hai nơi hoàng đế La Mã Nero (khoảng 54-68 SCN) cộng nhận ngôi vua Armenia của ông bằng cách đặt vương miện hoàng gia lên trên đầu ông.
Người La Mã công nhận ngôi vua cho Tiridates I như thế nào?
{ "text": [ "đặt vương miện hoàng gia lên trên đầu ông" ], "answer_start": [ 724 ] }
false
null
0075-0035-0004
uit_014019
Đế quốc Parthia
Khi Vardanes II của Parthia nổi dậy chống lại cha mình Vologases I trong năm 55 SCN, Vologases đã phải rút lực lượng của mình từ Armenia về. Người La Mã đã nhanh chóng cố gắng lấp đầy khoảng trống chính trị để lại Trong cuộc chiến tranh La Mã-Parthia năm 58-63 SCN, tướng Gnaeus Domitius Corbulo đã đạt được một số thành công quân sự chống lại Parthia khi đưa Tigranes VI của Armenia lên làm vua chư hầu của La Mã. Tuy nhiên, người kế tục của Corbulo, Lucius Caesennius Paetus bị đánh cho đại bại bởi quân Parthia và chạy trốn khỏi Armenia. Sau một hiệp ước hòa bình, Tiridates I du hành tới Naples và Roma trong năm 63 SCN. Tại cả hai nơi hoàng đế La Mã Nero (khoảng 54-68 SCN) cộng nhận ngôi vua Armenia của ông bằng cách đặt vương miện hoàng gia lên trên đầu ông.
Thành công của Parthia là gì trong trận chiến giữa La Mã - Gnaeus Domitius Corbulo giai đoạn 58-63 TCN?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "đưa Tigranes VI của Armenia lên làm vua chư hầu của La Mã" ], "answer_start": [ 356 ] }
0075-0036-0001
uit_014020
Đế quốc Parthia
Một thời gian dài hòa bình giữa Parthia và La Mã diễn ra sau đó, chỉ duy nhất có cuộc xâm lược của dân Alan vào vùng lãnh thổ phía đông Parthia khoảng năm 72 SCN được đề cập bởi các nhà sử học La Mã Trong khi đó, Augustus và Nero đã lựa chọn một chính sách quân sự thận trọng khi đối phó với Parthia. Sau đó các hoàng đế La Mã đã xâm lược và cố gắng để chinh phục miền đông vùng lưỡi liềm phì nhiêu, trái tim của Đế quốc Parthia dọc theo sông Tigris và Euphrates. Các cuộc xâm lược với cường độ cao có thể được giải thích một phần từ cải cách quân đội của Roma. Để đối phó với sức mạnh của Parthia sử dụng cung tên và kị binh, người La Mã đầu tiên sử dụng quân đồng minh nước ngoài, đặc biệt là người Nabataea, nhưng sau đó họ thành lập một lực lượng auxilia thường xuyên để bổ sung cho lực lượng bộ binh lê dương nặng của họ Người La Mã cuối cùng duy trì trung đoàn kị cung (sagittarii) và thậm chí lực lượng kị binh cataphract ở các tỉnh phía đông của họ. Tuy nhiên, người La Mã đã không có chiến lược lớn rõ rệt trong việc đối phó với Parthia và đã chiếm được nhưng vùng lãnh thổ nhỏ bé từ những cuộc xâm lược . Động cơ chính cho chiến tranh là sự thăng tiến của vinh quang cá nhân và vị trí chính trị của hoàng đế, cũng như bảo vệ danh dự La Mã chống lại sự coi thường vì sự can thiệp của Parthia trong công việc của các quốc gia chư hầu của La Mã.
Đường lối quân sự được các vua của La Mã áp dụng với Parthia là gì?
{ "text": [ "một chính sách quân sự thận trọng" ], "answer_start": [ 242 ] }
false
null
0075-0036-0002
uit_014021
Đế quốc Parthia
Một thời gian dài hòa bình giữa Parthia và La Mã diễn ra sau đó, chỉ duy nhất có cuộc xâm lược của dân Alan vào vùng lãnh thổ phía đông Parthia khoảng năm 72 SCN được đề cập bởi các nhà sử học La Mã Trong khi đó, Augustus và Nero đã lựa chọn một chính sách quân sự thận trọng khi đối phó với Parthia. Sau đó các hoàng đế La Mã đã xâm lược và cố gắng để chinh phục miền đông vùng lưỡi liềm phì nhiêu, trái tim của Đế quốc Parthia dọc theo sông Tigris và Euphrates. Các cuộc xâm lược với cường độ cao có thể được giải thích một phần từ cải cách quân đội của Roma. Để đối phó với sức mạnh của Parthia sử dụng cung tên và kị binh, người La Mã đầu tiên sử dụng quân đồng minh nước ngoài, đặc biệt là người Nabataea, nhưng sau đó họ thành lập một lực lượng auxilia thường xuyên để bổ sung cho lực lượng bộ binh lê dương nặng của họ Người La Mã cuối cùng duy trì trung đoàn kị cung (sagittarii) và thậm chí lực lượng kị binh cataphract ở các tỉnh phía đông của họ. Tuy nhiên, người La Mã đã không có chiến lược lớn rõ rệt trong việc đối phó với Parthia và đã chiếm được nhưng vùng lãnh thổ nhỏ bé từ những cuộc xâm lược . Động cơ chính cho chiến tranh là sự thăng tiến của vinh quang cá nhân và vị trí chính trị của hoàng đế, cũng như bảo vệ danh dự La Mã chống lại sự coi thường vì sự can thiệp của Parthia trong công việc của các quốc gia chư hầu của La Mã.
Để đối phó với đội quân của người Parthia, người La Mã đã cải tiến như thế nào?
{ "text": [ "đầu tiên sử dụng quân đồng minh nước ngoài, đặc biệt là người Nabataea, nhưng sau đó họ thành lập một lực lượng auxilia thường xuyên để bổ sung cho lực lượng bộ binh lê dương nặng" ], "answer_start": [ 639 ] }
false
null
0075-0036-0003
uit_014022
Đế quốc Parthia
Một thời gian dài hòa bình giữa Parthia và La Mã diễn ra sau đó, chỉ duy nhất có cuộc xâm lược của dân Alan vào vùng lãnh thổ phía đông Parthia khoảng năm 72 SCN được đề cập bởi các nhà sử học La Mã Trong khi đó, Augustus và Nero đã lựa chọn một chính sách quân sự thận trọng khi đối phó với Parthia. Sau đó các hoàng đế La Mã đã xâm lược và cố gắng để chinh phục miền đông vùng lưỡi liềm phì nhiêu, trái tim của Đế quốc Parthia dọc theo sông Tigris và Euphrates. Các cuộc xâm lược với cường độ cao có thể được giải thích một phần từ cải cách quân đội của Roma. Để đối phó với sức mạnh của Parthia sử dụng cung tên và kị binh, người La Mã đầu tiên sử dụng quân đồng minh nước ngoài, đặc biệt là người Nabataea, nhưng sau đó họ thành lập một lực lượng auxilia thường xuyên để bổ sung cho lực lượng bộ binh lê dương nặng của họ Người La Mã cuối cùng duy trì trung đoàn kị cung (sagittarii) và thậm chí lực lượng kị binh cataphract ở các tỉnh phía đông của họ. Tuy nhiên, người La Mã đã không có chiến lược lớn rõ rệt trong việc đối phó với Parthia và đã chiếm được nhưng vùng lãnh thổ nhỏ bé từ những cuộc xâm lược . Động cơ chính cho chiến tranh là sự thăng tiến của vinh quang cá nhân và vị trí chính trị của hoàng đế, cũng như bảo vệ danh dự La Mã chống lại sự coi thường vì sự can thiệp của Parthia trong công việc của các quốc gia chư hầu của La Mã.
Đặc trưng của quân đội Parthia là gì?
{ "text": [ "sử dụng cung tên và kị binh" ], "answer_start": [ 598 ] }
false
null
0075-0036-0004
uit_014023
Đế quốc Parthia
Một thời gian dài hòa bình giữa Parthia và La Mã diễn ra sau đó, chỉ duy nhất có cuộc xâm lược của dân Alan vào vùng lãnh thổ phía đông Parthia khoảng năm 72 SCN được đề cập bởi các nhà sử học La Mã Trong khi đó, Augustus và Nero đã lựa chọn một chính sách quân sự thận trọng khi đối phó với Parthia. Sau đó các hoàng đế La Mã đã xâm lược và cố gắng để chinh phục miền đông vùng lưỡi liềm phì nhiêu, trái tim của Đế quốc Parthia dọc theo sông Tigris và Euphrates. Các cuộc xâm lược với cường độ cao có thể được giải thích một phần từ cải cách quân đội của Roma. Để đối phó với sức mạnh của Parthia sử dụng cung tên và kị binh, người La Mã đầu tiên sử dụng quân đồng minh nước ngoài, đặc biệt là người Nabataea, nhưng sau đó họ thành lập một lực lượng auxilia thường xuyên để bổ sung cho lực lượng bộ binh lê dương nặng của họ Người La Mã cuối cùng duy trì trung đoàn kị cung (sagittarii) và thậm chí lực lượng kị binh cataphract ở các tỉnh phía đông của họ. Tuy nhiên, người La Mã đã không có chiến lược lớn rõ rệt trong việc đối phó với Parthia và đã chiếm được nhưng vùng lãnh thổ nhỏ bé từ những cuộc xâm lược . Động cơ chính cho chiến tranh là sự thăng tiến của vinh quang cá nhân và vị trí chính trị của hoàng đế, cũng như bảo vệ danh dự La Mã chống lại sự coi thường vì sự can thiệp của Parthia trong công việc của các quốc gia chư hầu của La Mã.
Nguyên nhân thúc đẩy những cuộc chiến tranh của người La Mã là gì?
{ "text": [ "sự thăng tiến của vinh quang cá nhân và vị trí chính trị của hoàng đế, cũng như bảo vệ danh dự La Mã chống lại sự coi thường vì sự can thiệp của Parthia trong công việc của các quốc gia chư hầu của La Mã" ], "answer_start": [ 1148 ] }
false
null
0075-0036-0005
uit_014024
Đế quốc Parthia
Một thời gian dài hòa bình giữa Parthia và La Mã diễn ra sau đó, chỉ duy nhất có cuộc xâm lược của dân Alan vào vùng lãnh thổ phía đông Parthia khoảng năm 72 SCN được đề cập bởi các nhà sử học La Mã Trong khi đó, Augustus và Nero đã lựa chọn một chính sách quân sự thận trọng khi đối phó với Parthia. Sau đó các hoàng đế La Mã đã xâm lược và cố gắng để chinh phục miền đông vùng lưỡi liềm phì nhiêu, trái tim của Đế quốc Parthia dọc theo sông Tigris và Euphrates. Các cuộc xâm lược với cường độ cao có thể được giải thích một phần từ cải cách quân đội của Roma. Để đối phó với sức mạnh của Parthia sử dụng cung tên và kị binh, người La Mã đầu tiên sử dụng quân đồng minh nước ngoài, đặc biệt là người Nabataea, nhưng sau đó họ thành lập một lực lượng auxilia thường xuyên để bổ sung cho lực lượng bộ binh lê dương nặng của họ Người La Mã cuối cùng duy trì trung đoàn kị cung (sagittarii) và thậm chí lực lượng kị binh cataphract ở các tỉnh phía đông của họ. Tuy nhiên, người La Mã đã không có chiến lược lớn rõ rệt trong việc đối phó với Parthia và đã chiếm được nhưng vùng lãnh thổ nhỏ bé từ những cuộc xâm lược . Động cơ chính cho chiến tranh là sự thăng tiến của vinh quang cá nhân và vị trí chính trị của hoàng đế, cũng như bảo vệ danh dự La Mã chống lại sự coi thường vì sự can thiệp của Parthia trong công việc của các quốc gia chư hầu của La Mã.
Nguyên nhân của việc các vua của La Mã nhắm vào vùng đất phía Đông của Parthia là gì?
{ "text": [ "vùng lưỡi liềm phì nhiêu, trái tim của Đế quốc Parthia dọc theo sông Tigris và Euphrates" ], "answer_start": [ 374 ] }
false
null
0075-0037-0001
uit_014025
Đế quốc Parthia
Tình trạng thù địch giữa Roma và Parthia được tiếp tục khi Osroes I của Parthia (khoảng năm 109-128 SCN) đã lật đổ vua Tiridates của Armenia và thay thế ông ta bởi Axidares, con trai của Pacorus II, mà không có sự đồng ý của Roma. Hoàng đế La Mã Trajan (cai trị: 98-117 SCN) đã bắt được ứng cử viên Parthia tiếp theo cho ngai vàng, Parthamasiris, và giết ông ta trong năm 114 SCN, thay vào đó biến Armenia thành một tỉnh La Mã Quân đội của ông, chỉ huy bởi Lusius Quietus,còn chiếm Nisibis. Việc chiếm đóng nó là cần thiết để đảm bảo tất cả các tuyến đường chính qua miền phía bắc đồng bằng Lưỡng Hà Năm sau, Trajan xâm chiếm Lưỡng Hà và gặp một ít kháng cự chỉ tới từ Meharaspes của Adiabene, vì lúc đó Osroes đang tham gia vào một cuộc nội chiến ở phía đông với Vologases III của Parthia . Trajan đã trải qua mùa đông năm 115-116 tại Antioch, sau đó ông lại tiếp tục chiến dịch của mình vào mùa xuân. Tiến quân tới sông Euphrates, ông chiếm Dura-Europos, kinh đô Ctesiphon và Seleucia và thậm chí chinh phục Characene, tại nơi đây ông xem những con tàu khởi hành đến Ấn Độ từ Vịnh Ba Tư.
Mối thù giữa La Mã - Parthia tiếp tục kéo dài như thế nào?
{ "text": [ "Osroes I của Parthia (khoảng năm 109-128 SCN) đã lật đổ vua Tiridates của Armenia và thay thế ông ta bởi Axidares, con trai của Pacorus II, mà không có sự đồng ý của Roma" ], "answer_start": [ 59 ] }
false
null
0075-0037-0002
uit_014026
Đế quốc Parthia
Tình trạng thù địch giữa Roma và Parthia được tiếp tục khi Osroes I của Parthia (khoảng năm 109-128 SCN) đã lật đổ vua Tiridates của Armenia và thay thế ông ta bởi Axidares, con trai của Pacorus II, mà không có sự đồng ý của Roma. Hoàng đế La Mã Trajan (cai trị: 98-117 SCN) đã bắt được ứng cử viên Parthia tiếp theo cho ngai vàng, Parthamasiris, và giết ông ta trong năm 114 SCN, thay vào đó biến Armenia thành một tỉnh La Mã Quân đội của ông, chỉ huy bởi Lusius Quietus,còn chiếm Nisibis. Việc chiếm đóng nó là cần thiết để đảm bảo tất cả các tuyến đường chính qua miền phía bắc đồng bằng Lưỡng Hà Năm sau, Trajan xâm chiếm Lưỡng Hà và gặp một ít kháng cự chỉ tới từ Meharaspes của Adiabene, vì lúc đó Osroes đang tham gia vào một cuộc nội chiến ở phía đông với Vologases III của Parthia . Trajan đã trải qua mùa đông năm 115-116 tại Antioch, sau đó ông lại tiếp tục chiến dịch của mình vào mùa xuân. Tiến quân tới sông Euphrates, ông chiếm Dura-Europos, kinh đô Ctesiphon và Seleucia và thậm chí chinh phục Characene, tại nơi đây ông xem những con tàu khởi hành đến Ấn Độ từ Vịnh Ba Tư.
Nguyên nhân của việc Trajan dễ dàng chiếm đóng Lưỡng Hà là gì?
{ "text": [ "Osroes đang tham gia vào một cuộc nội chiến ở phía đông với Vologases III của Parthia" ], "answer_start": [ 704 ] }
false
null
0075-0037-0003
uit_014027
Đế quốc Parthia
Tình trạng thù địch giữa Roma và Parthia được tiếp tục khi Osroes I của Parthia (khoảng năm 109-128 SCN) đã lật đổ vua Tiridates của Armenia và thay thế ông ta bởi Axidares, con trai của Pacorus II, mà không có sự đồng ý của Roma. Hoàng đế La Mã Trajan (cai trị: 98-117 SCN) đã bắt được ứng cử viên Parthia tiếp theo cho ngai vàng, Parthamasiris, và giết ông ta trong năm 114 SCN, thay vào đó biến Armenia thành một tỉnh La Mã Quân đội của ông, chỉ huy bởi Lusius Quietus,còn chiếm Nisibis. Việc chiếm đóng nó là cần thiết để đảm bảo tất cả các tuyến đường chính qua miền phía bắc đồng bằng Lưỡng Hà Năm sau, Trajan xâm chiếm Lưỡng Hà và gặp một ít kháng cự chỉ tới từ Meharaspes của Adiabene, vì lúc đó Osroes đang tham gia vào một cuộc nội chiến ở phía đông với Vologases III của Parthia . Trajan đã trải qua mùa đông năm 115-116 tại Antioch, sau đó ông lại tiếp tục chiến dịch của mình vào mùa xuân. Tiến quân tới sông Euphrates, ông chiếm Dura-Europos, kinh đô Ctesiphon và Seleucia và thậm chí chinh phục Characene, tại nơi đây ông xem những con tàu khởi hành đến Ấn Độ từ Vịnh Ba Tư.
Việc chiếm đóng Nisibis có ý nghĩa như thế nào?
{ "text": [ "đảm bảo tất cả các tuyến đường chính qua miền phía bắc đồng bằng Lưỡng Hà" ], "answer_start": [ 526 ] }
false
null
0075-0038-0001
uit_014028
Đế quốc Parthia
Vị vua kế vị Trajan, Hadrianus (cai trị 117-138 SCN) khẳng định lại biên giới La Mã-Parthia ở Euphrates, quyết định không xâm lược Mesopotamia do nguồn lực quân sự hạn chế của La Mã. Parthamaspates chạy trốn sau khi Parthia nổi dậy chống lại ông, nhưng người La Mã đã đưa ông lên làm vua của Osroene. Osroes I chết trong cuộc xung đột của ông ta với Vologases III, sau này đã được kế vị bởi Vologases IV của Parthia (cai trị: 147-191 SCN) đã mở ra một thời kỳ hòa bình và ổn định Tuy nhiên, cuộc chiến tranh La Mã-Parthia năm 161-166 SCN bắt đầu khi Vologases xâm lược Armenia và Syria, chiếm lại Edessa. Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius (cai trị: 161-180 SCN) đã cùng đồng hoàng đế Lucius Verus(cai trị:161-169 SCN) bảo vệ Syria trong khi Marcus Statius Priscus xâm lược Armenia trong năm 163 SCN, theo sau là cuộc xâm lược Mesopotamia của Avidius Cassius năm 164 SCN.
Chiến tranh La Mã- Parthia bắt đầu bằng sự kiện nào?
{ "text": [ "Vologases xâm lược Armenia và Syria, chiếm lại Edessa" ], "answer_start": [ 550 ] }
false
null
0075-0038-0002
uit_014029
Đế quốc Parthia
Vị vua kế vị Trajan, Hadrianus (cai trị 117-138 SCN) khẳng định lại biên giới La Mã-Parthia ở Euphrates, quyết định không xâm lược Mesopotamia do nguồn lực quân sự hạn chế của La Mã. Parthamaspates chạy trốn sau khi Parthia nổi dậy chống lại ông, nhưng người La Mã đã đưa ông lên làm vua của Osroene. Osroes I chết trong cuộc xung đột của ông ta với Vologases III, sau này đã được kế vị bởi Vologases IV của Parthia (cai trị: 147-191 SCN) đã mở ra một thời kỳ hòa bình và ổn định Tuy nhiên, cuộc chiến tranh La Mã-Parthia năm 161-166 SCN bắt đầu khi Vologases xâm lược Armenia và Syria, chiếm lại Edessa. Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius (cai trị: 161-180 SCN) đã cùng đồng hoàng đế Lucius Verus(cai trị:161-169 SCN) bảo vệ Syria trong khi Marcus Statius Priscus xâm lược Armenia trong năm 163 SCN, theo sau là cuộc xâm lược Mesopotamia của Avidius Cassius năm 164 SCN.
Nguyên nhân của việc Hadrianus không tiến quân xâm lược Mesopotamia là gì?
{ "text": [ "nguồn lực quân sự hạn chế của La Mã" ], "answer_start": [ 146 ] }
false
null
0075-0038-0003
uit_014030
Đế quốc Parthia
Vị vua kế vị Trajan, Hadrianus (cai trị 117-138 SCN) khẳng định lại biên giới La Mã-Parthia ở Euphrates, quyết định không xâm lược Mesopotamia do nguồn lực quân sự hạn chế của La Mã. Parthamaspates chạy trốn sau khi Parthia nổi dậy chống lại ông, nhưng người La Mã đã đưa ông lên làm vua của Osroene. Osroes I chết trong cuộc xung đột của ông ta với Vologases III, sau này đã được kế vị bởi Vologases IV của Parthia (cai trị: 147-191 SCN) đã mở ra một thời kỳ hòa bình và ổn định Tuy nhiên, cuộc chiến tranh La Mã-Parthia năm 161-166 SCN bắt đầu khi Vologases xâm lược Armenia và Syria, chiếm lại Edessa. Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius (cai trị: 161-180 SCN) đã cùng đồng hoàng đế Lucius Verus(cai trị:161-169 SCN) bảo vệ Syria trong khi Marcus Statius Priscus xâm lược Armenia trong năm 163 SCN, theo sau là cuộc xâm lược Mesopotamia của Avidius Cassius năm 164 SCN.
Các cuộc chiến tranh nào diễn ra sau trận chiến La Mã - Parthia 161-166 TCN?
{ "text": [ "Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius (cai trị: 161-180 SCN) đã cùng đồng hoàng đế Lucius Verus(cai trị:161-169 SCN) bảo vệ Syria trong khi Marcus Statius Priscus xâm lược Armenia trong năm 163 SCN, theo sau là cuộc xâm lược Mesopotamia của Avidius Cassius năm 164 SCN" ], "answer_start": [ 605 ] }
false
null
0075-0038-0004
uit_014031
Đế quốc Parthia
Vị vua kế vị Trajan, Hadrianus (cai trị 117-138 SCN) khẳng định lại biên giới La Mã-Parthia ở Euphrates, quyết định không xâm lược Mesopotamia do nguồn lực quân sự hạn chế của La Mã. Parthamaspates chạy trốn sau khi Parthia nổi dậy chống lại ông, nhưng người La Mã đã đưa ông lên làm vua của Osroene. Osroes I chết trong cuộc xung đột của ông ta với Vologases III, sau này đã được kế vị bởi Vologases IV của Parthia (cai trị: 147-191 SCN) đã mở ra một thời kỳ hòa bình và ổn định Tuy nhiên, cuộc chiến tranh La Mã-Parthia năm 161-166 SCN bắt đầu khi Vologases xâm lược Armenia và Syria, chiếm lại Edessa. Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius (cai trị: 161-180 SCN) đã cùng đồng hoàng đế Lucius Verus(cai trị:161-169 SCN) bảo vệ Syria trong khi Marcus Statius Priscus xâm lược Armenia trong năm 163 SCN, theo sau là cuộc xâm lược Mesopotamia của Avidius Cassius năm 164 SCN.
Chiến tranh La Mã- Armenia bắt đầu bằng sự kiện nào?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "Vologases xâm lược Armenia và Syria, chiếm lại Edessa" ], "answer_start": [ 550 ] }
0075-0039-0001
uit_014032
Đế quốc Parthia
Khoảng năm 212 SCN, ngay sau khi Vologases VI của Parthia (khoảng 208-222 SCN) lên ngôi, anh trai Artabanus IV của Parthia (m. năm 224 SCN) đã nổi dậy chống lại ông và đã đạt được quyền kiểm soát một phần lớn của đế quốc. Trong khi đó, hoàng đế La Mã Caracalla (cai trị: 211-217 CN) lật đổ các vị vua của Osroene và Armenia để biến chúng thành tỉnh La Mã một lần nữa. Ông tiến vào Lưỡng Hà với lý do kết hôn với một trong những con gái của Artabanus- nhưng bởi vì hôn nhân không được cho phép -tiến hành cuộc chiến tranh với Parthia và chinh phục Arbil ở phía đông của sông Tigris.
Caracalla đã mượn cớ gì để xâm chiếm Parthia?
{ "text": [ "kết hôn với một trong những con gái của Artabanus- nhưng bởi vì hôn nhân không được cho phép" ], "answer_start": [ 400 ] }
false
null
0075-0039-0002
uit_014033
Đế quốc Parthia
Khoảng năm 212 SCN, ngay sau khi Vologases VI của Parthia (khoảng 208-222 SCN) lên ngôi, anh trai Artabanus IV của Parthia (m. năm 224 SCN) đã nổi dậy chống lại ông và đã đạt được quyền kiểm soát một phần lớn của đế quốc. Trong khi đó, hoàng đế La Mã Caracalla (cai trị: 211-217 CN) lật đổ các vị vua của Osroene và Armenia để biến chúng thành tỉnh La Mã một lần nữa. Ông tiến vào Lưỡng Hà với lý do kết hôn với một trong những con gái của Artabanus- nhưng bởi vì hôn nhân không được cho phép -tiến hành cuộc chiến tranh với Parthia và chinh phục Arbil ở phía đông của sông Tigris.
Khó khăn mà Vologases VI gặp phải sau khi lên ngôi là gì?
{ "text": [ "anh trai Artabanus IV của Parthia (m. năm 224 SCN) đã nổi dậy chống lại ông và đã đạt được quyền kiểm soát một phần lớn của đế quốc" ], "answer_start": [ 89 ] }
false
null
0075-0039-0003
uit_014034
Đế quốc Parthia
Khoảng năm 212 SCN, ngay sau khi Vologases VI của Parthia (khoảng 208-222 SCN) lên ngôi, anh trai Artabanus IV của Parthia (m. năm 224 SCN) đã nổi dậy chống lại ông và đã đạt được quyền kiểm soát một phần lớn của đế quốc. Trong khi đó, hoàng đế La Mã Caracalla (cai trị: 211-217 CN) lật đổ các vị vua của Osroene và Armenia để biến chúng thành tỉnh La Mã một lần nữa. Ông tiến vào Lưỡng Hà với lý do kết hôn với một trong những con gái của Artabanus- nhưng bởi vì hôn nhân không được cho phép -tiến hành cuộc chiến tranh với Parthia và chinh phục Arbil ở phía đông của sông Tigris.
Mục đích của hoàng đế La Mã là gì khi lật đổ các vua của Osroene và Armenia?
{ "text": [ "iến chúng thành tỉnh La Mã" ], "answer_start": [ 328 ] }
false
null
0075-0039-0004
uit_014035
Đế quốc Parthia
Khoảng năm 212 SCN, ngay sau khi Vologases VI của Parthia (khoảng 208-222 SCN) lên ngôi, anh trai Artabanus IV của Parthia (m. năm 224 SCN) đã nổi dậy chống lại ông và đã đạt được quyền kiểm soát một phần lớn của đế quốc. Trong khi đó, hoàng đế La Mã Caracalla (cai trị: 211-217 CN) lật đổ các vị vua của Osroene và Armenia để biến chúng thành tỉnh La Mã một lần nữa. Ông tiến vào Lưỡng Hà với lý do kết hôn với một trong những con gái của Artabanus- nhưng bởi vì hôn nhân không được cho phép -tiến hành cuộc chiến tranh với Parthia và chinh phục Arbil ở phía đông của sông Tigris.
Khó khăn mà Vologases VI gặp phải sau khi kết hôn là gì?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "anh trai Artabanus IV của Parthia (m. năm 224 SCN) đã nổi dậy chống lại ông và đã đạt được quyền kiểm soát một phần lớn của đế quốc" ], "answer_start": [ 89 ] }
0075-0039-0005
uit_014036
Đế quốc Parthia
Khoảng năm 212 SCN, ngay sau khi Vologases VI của Parthia (khoảng 208-222 SCN) lên ngôi, anh trai Artabanus IV của Parthia (m. năm 224 SCN) đã nổi dậy chống lại ông và đã đạt được quyền kiểm soát một phần lớn của đế quốc. Trong khi đó, hoàng đế La Mã Caracalla (cai trị: 211-217 CN) lật đổ các vị vua của Osroene và Armenia để biến chúng thành tỉnh La Mã một lần nữa. Ông tiến vào Lưỡng Hà với lý do kết hôn với một trong những con gái của Artabanus- nhưng bởi vì hôn nhân không được cho phép -tiến hành cuộc chiến tranh với Parthia và chinh phục Arbil ở phía đông của sông Tigris.
Mục đích của hoàng đế La Mã là gì khi đề cử các vua của Osroene và Armenia?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "iến chúng thành tỉnh La Mã" ], "answer_start": [ 328 ] }
0075-0040-0001
uit_014037
Đế quốc Parthia
Tuy nhiên, đế chế Parthia, bị suy yếu do xung đột nội bộ và cuộc chiến với la Mã, đã sớm bị thay thế bởi đế chế Sassanid. Thực tế trong thời gian ngắn sau đó, vua Ardahir I, một vị vua địa phương gốc Iran của Persis (tỉnh Fars ngày nay, Iran) từ Estakhr bắt đầu chinh phục các vùng lãnh thổ xung quanh, một sự thách thức với luật lệ của nhà Arsaces Ông đã đối mặt Artabanus IV trong trận chiến, ngày 28 tháng 4 năm 224 SCN có lẽ tại một địa điểm gần Isfahan, đánh bại ông ta và thành lập đế chế Sassanid tuy nhiên, có bằng chứng, cho thấy Volageses VI tiếp tục ban hành tiền xu tại Seleucia tới năm 228 SCN.
Những vấn đề đã khiến cho đế quốc Parthia suy yếu là gì?
{ "text": [ "xung đột nội bộ và cuộc chiến với la Mã" ], "answer_start": [ 41 ] }
false
null
0075-0040-0002
uit_014038
Đế quốc Parthia
Tuy nhiên, đế chế Parthia, bị suy yếu do xung đột nội bộ và cuộc chiến với la Mã, đã sớm bị thay thế bởi đế chế Sassanid. Thực tế trong thời gian ngắn sau đó, vua Ardahir I, một vị vua địa phương gốc Iran của Persis (tỉnh Fars ngày nay, Iran) từ Estakhr bắt đầu chinh phục các vùng lãnh thổ xung quanh, một sự thách thức với luật lệ của nhà Arsaces Ông đã đối mặt Artabanus IV trong trận chiến, ngày 28 tháng 4 năm 224 SCN có lẽ tại một địa điểm gần Isfahan, đánh bại ông ta và thành lập đế chế Sassanid tuy nhiên, có bằng chứng, cho thấy Volageses VI tiếp tục ban hành tiền xu tại Seleucia tới năm 228 SCN.
Đế chế nào thay thế cho sự sụp đổ của Parthia?
{ "text": [ "đế chế Sassanid" ], "answer_start": [ 105 ] }
false
null
0075-0040-0003
uit_014039
Đế quốc Parthia
Tuy nhiên, đế chế Parthia, bị suy yếu do xung đột nội bộ và cuộc chiến với la Mã, đã sớm bị thay thế bởi đế chế Sassanid. Thực tế trong thời gian ngắn sau đó, vua Ardahir I, một vị vua địa phương gốc Iran của Persis (tỉnh Fars ngày nay, Iran) từ Estakhr bắt đầu chinh phục các vùng lãnh thổ xung quanh, một sự thách thức với luật lệ của nhà Arsaces Ông đã đối mặt Artabanus IV trong trận chiến, ngày 28 tháng 4 năm 224 SCN có lẽ tại một địa điểm gần Isfahan, đánh bại ông ta và thành lập đế chế Sassanid tuy nhiên, có bằng chứng, cho thấy Volageses VI tiếp tục ban hành tiền xu tại Seleucia tới năm 228 SCN.
Ardahir I đã vi phạm luật lệ của Parthia như thế nào?
{ "text": [ "ừ Estakhr bắt đầu chinh phục các vùng lãnh thổ xung quanh" ], "answer_start": [ 244 ] }
false
null
0075-0041-0001
uit_014040
Đế quốc Parthia
Nhà Sassanid sẽ không chỉ kế thừa di sản Parthia là kẻ thù Ba Tư của La Mã, họ cũng sẽ cố gắng để khôi phục lại ranh giới của Đế chế Achaemenes, một thời gian ngắn chinh phục Cận đông, Anatolia, và Ai Cập từ tay đế chế đông La Mã dưới thời trị vì của Khosrau II (r.590-628 SCn) Tuy nhiên, họ sẽ mất các vùng lãnh thổ này vào tay Heraclius, hoàng đế La Mã cuối cùng trước khi các cuộc chinh phục của người Ả Rập bắt đầu. Dù gì đi chăng nữa, nhà Sassanid đã kế tục vai trò như là đối thủ chính của người La Mã trong suốt 400 năm.
Những trọng trách của đế chế Sasanid là gì?
{ "text": [ "không chỉ kế thừa di sản Parthia là kẻ thù Ba Tư của La Mã, họ cũng sẽ cố gắng để khôi phục lại ranh giới của Đế chế Achaemenes, một thời gian ngắn chinh phục Cận đông, Anatolia, và Ai Cập từ tay đế chế đông La Mã" ], "answer_start": [ 16 ] }
false
null
0075-0041-0002
uit_014041
Đế quốc Parthia
Nhà Sassanid sẽ không chỉ kế thừa di sản Parthia là kẻ thù Ba Tư của La Mã, họ cũng sẽ cố gắng để khôi phục lại ranh giới của Đế chế Achaemenes, một thời gian ngắn chinh phục Cận đông, Anatolia, và Ai Cập từ tay đế chế đông La Mã dưới thời trị vì của Khosrau II (r.590-628 SCn) Tuy nhiên, họ sẽ mất các vùng lãnh thổ này vào tay Heraclius, hoàng đế La Mã cuối cùng trước khi các cuộc chinh phục của người Ả Rập bắt đầu. Dù gì đi chăng nữa, nhà Sassanid đã kế tục vai trò như là đối thủ chính của người La Mã trong suốt 400 năm.
Sau Parthia đế chế nào được coi là đối trọng với người La Mã?
{ "text": [ "nhà Sassanid" ], "answer_start": [ 440 ] }
false
null
0075-0041-0003
uit_014042
Đế quốc Parthia
Nhà Sassanid sẽ không chỉ kế thừa di sản Parthia là kẻ thù Ba Tư của La Mã, họ cũng sẽ cố gắng để khôi phục lại ranh giới của Đế chế Achaemenes, một thời gian ngắn chinh phục Cận đông, Anatolia, và Ai Cập từ tay đế chế đông La Mã dưới thời trị vì của Khosrau II (r.590-628 SCn) Tuy nhiên, họ sẽ mất các vùng lãnh thổ này vào tay Heraclius, hoàng đế La Mã cuối cùng trước khi các cuộc chinh phục của người Ả Rập bắt đầu. Dù gì đi chăng nữa, nhà Sassanid đã kế tục vai trò như là đối thủ chính của người La Mã trong suốt 400 năm.
Ai là vị hoàng đế cuối cùng của đế chế La Mã?
{ "text": [ "Heraclius" ], "answer_start": [ 329 ] }
false
null
0075-0041-0004
uit_014043
Đế quốc Parthia
Nhà Sassanid sẽ không chỉ kế thừa di sản Parthia là kẻ thù Ba Tư của La Mã, họ cũng sẽ cố gắng để khôi phục lại ranh giới của Đế chế Achaemenes, một thời gian ngắn chinh phục Cận đông, Anatolia, và Ai Cập từ tay đế chế đông La Mã dưới thời trị vì của Khosrau II (r.590-628 SCn) Tuy nhiên, họ sẽ mất các vùng lãnh thổ này vào tay Heraclius, hoàng đế La Mã cuối cùng trước khi các cuộc chinh phục của người Ả Rập bắt đầu. Dù gì đi chăng nữa, nhà Sassanid đã kế tục vai trò như là đối thủ chính của người La Mã trong suốt 400 năm.
Ai là vị hoàng tử cuối cùng của đế chế La Mã?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "Heraclius" ], "answer_start": [ 329 ] }
0075-0042-0001
uit_014044
Đế quốc Parthia
Những văn bản địa phương và ngoài nước, cũng như các văn bản hiện vật đã được sử dụng để tái tạo lại lịch sử Parthia Mặc dù triều đình Parthia đã duy trì những văn thư, người Parthia đã không chính thức nghiên cứu lịch sử, lịch sử phổ quát đầu tiên của Iran, Khwaday-Namag, không được biên soạn cho đến triều đại của vị vua cuối cùng nhà Sassanid, vua Yazdegerd III (cai trị: 632-651 SCN) Các nguồn bản xứ về lịch sử Parthia vẫn còn khan hiếm, những gì về họ còn ít có sẵn hơn so với bất kỳ giai đoạn khác của lịch sử Iran. Hầu hết các bản ghi chép đương đại về Parthia đều bao gồm các văn tự tiếng Hy Lạp cũng như các văn tự tiếng Parthia và tiếng Aramaic. Ngôn ngữ Parthia được viết bằng một loại chữ viết riêng biệt, bắt nguồn từ chữ Aramaic Hoàng gia của người Achaemenes và sau đó phát triển thành hệ thống chữ viết Pahlavi.
Người ta đã xây dựng lại lịch sử Parthia như thế nào?
{ "text": [ "Những văn bản địa phương và ngoài nước, cũng như các văn bản hiện vật đã được sử dụng để tái tạo lại lịch sử Parthia" ], "answer_start": [ 0 ] }
false
null
0075-0042-0002
uit_014045
Đế quốc Parthia
Những văn bản địa phương và ngoài nước, cũng như các văn bản hiện vật đã được sử dụng để tái tạo lại lịch sử Parthia Mặc dù triều đình Parthia đã duy trì những văn thư, người Parthia đã không chính thức nghiên cứu lịch sử, lịch sử phổ quát đầu tiên của Iran, Khwaday-Namag, không được biên soạn cho đến triều đại của vị vua cuối cùng nhà Sassanid, vua Yazdegerd III (cai trị: 632-651 SCN) Các nguồn bản xứ về lịch sử Parthia vẫn còn khan hiếm, những gì về họ còn ít có sẵn hơn so với bất kỳ giai đoạn khác của lịch sử Iran. Hầu hết các bản ghi chép đương đại về Parthia đều bao gồm các văn tự tiếng Hy Lạp cũng như các văn tự tiếng Parthia và tiếng Aramaic. Ngôn ngữ Parthia được viết bằng một loại chữ viết riêng biệt, bắt nguồn từ chữ Aramaic Hoàng gia của người Achaemenes và sau đó phát triển thành hệ thống chữ viết Pahlavi.
Lịch sử phổ quát đầu tiên của Iran được biên soạn vào thời kì nào?
{ "text": [ "triều đại của vị vua cuối cùng nhà Sassanid, vua Yazdegerd III (cai trị: 632-651 SCN)" ], "answer_start": [ 303 ] }
false
null
0075-0042-0003
uit_014046
Đế quốc Parthia
Những văn bản địa phương và ngoài nước, cũng như các văn bản hiện vật đã được sử dụng để tái tạo lại lịch sử Parthia Mặc dù triều đình Parthia đã duy trì những văn thư, người Parthia đã không chính thức nghiên cứu lịch sử, lịch sử phổ quát đầu tiên của Iran, Khwaday-Namag, không được biên soạn cho đến triều đại của vị vua cuối cùng nhà Sassanid, vua Yazdegerd III (cai trị: 632-651 SCN) Các nguồn bản xứ về lịch sử Parthia vẫn còn khan hiếm, những gì về họ còn ít có sẵn hơn so với bất kỳ giai đoạn khác của lịch sử Iran. Hầu hết các bản ghi chép đương đại về Parthia đều bao gồm các văn tự tiếng Hy Lạp cũng như các văn tự tiếng Parthia và tiếng Aramaic. Ngôn ngữ Parthia được viết bằng một loại chữ viết riêng biệt, bắt nguồn từ chữ Aramaic Hoàng gia của người Achaemenes và sau đó phát triển thành hệ thống chữ viết Pahlavi.
Ngôn ngữ phổ biến nào được sử dụng trong các văn tự liên quan đến Parthia?
{ "text": [ "các văn tự tiếng Hy Lạp cũng như các văn tự tiếng Parthia và tiếng Aramaic" ], "answer_start": [ 582 ] }
false
null
0075-0042-0004
uit_014047
Đế quốc Parthia
Những văn bản địa phương và ngoài nước, cũng như các văn bản hiện vật đã được sử dụng để tái tạo lại lịch sử Parthia Mặc dù triều đình Parthia đã duy trì những văn thư, người Parthia đã không chính thức nghiên cứu lịch sử, lịch sử phổ quát đầu tiên của Iran, Khwaday-Namag, không được biên soạn cho đến triều đại của vị vua cuối cùng nhà Sassanid, vua Yazdegerd III (cai trị: 632-651 SCN) Các nguồn bản xứ về lịch sử Parthia vẫn còn khan hiếm, những gì về họ còn ít có sẵn hơn so với bất kỳ giai đoạn khác của lịch sử Iran. Hầu hết các bản ghi chép đương đại về Parthia đều bao gồm các văn tự tiếng Hy Lạp cũng như các văn tự tiếng Parthia và tiếng Aramaic. Ngôn ngữ Parthia được viết bằng một loại chữ viết riêng biệt, bắt nguồn từ chữ Aramaic Hoàng gia của người Achaemenes và sau đó phát triển thành hệ thống chữ viết Pahlavi.
Ngôn ngữ Parthia có nguồn gốc như thế nào?
{ "text": [ "bắt nguồn từ chữ Aramaic Hoàng gia của người Achaemenes và sau đó phát triển thành hệ thống chữ viết Pahlavi" ], "answer_start": [ 720 ] }
false
null
0075-0042-0005
uit_014048
Đế quốc Parthia
Những văn bản địa phương và ngoài nước, cũng như các văn bản hiện vật đã được sử dụng để tái tạo lại lịch sử Parthia Mặc dù triều đình Parthia đã duy trì những văn thư, người Parthia đã không chính thức nghiên cứu lịch sử, lịch sử phổ quát đầu tiên của Iran, Khwaday-Namag, không được biên soạn cho đến triều đại của vị vua cuối cùng nhà Sassanid, vua Yazdegerd III (cai trị: 632-651 SCN) Các nguồn bản xứ về lịch sử Parthia vẫn còn khan hiếm, những gì về họ còn ít có sẵn hơn so với bất kỳ giai đoạn khác của lịch sử Iran. Hầu hết các bản ghi chép đương đại về Parthia đều bao gồm các văn tự tiếng Hy Lạp cũng như các văn tự tiếng Parthia và tiếng Aramaic. Ngôn ngữ Parthia được viết bằng một loại chữ viết riêng biệt, bắt nguồn từ chữ Aramaic Hoàng gia của người Achaemenes và sau đó phát triển thành hệ thống chữ viết Pahlavi.
Người ta đã xây dựng lại triều đại Parthia như thế nào?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "Những văn bản địa phương và ngoài nước, cũng như các văn bản hiện vật đã được sử dụng để tái tạo lại lịch sử Parthia" ], "answer_start": [ 0 ] }
0075-0042-0006
uit_014049
Đế quốc Parthia
Những văn bản địa phương và ngoài nước, cũng như các văn bản hiện vật đã được sử dụng để tái tạo lại lịch sử Parthia Mặc dù triều đình Parthia đã duy trì những văn thư, người Parthia đã không chính thức nghiên cứu lịch sử, lịch sử phổ quát đầu tiên của Iran, Khwaday-Namag, không được biên soạn cho đến triều đại của vị vua cuối cùng nhà Sassanid, vua Yazdegerd III (cai trị: 632-651 SCN) Các nguồn bản xứ về lịch sử Parthia vẫn còn khan hiếm, những gì về họ còn ít có sẵn hơn so với bất kỳ giai đoạn khác của lịch sử Iran. Hầu hết các bản ghi chép đương đại về Parthia đều bao gồm các văn tự tiếng Hy Lạp cũng như các văn tự tiếng Parthia và tiếng Aramaic. Ngôn ngữ Parthia được viết bằng một loại chữ viết riêng biệt, bắt nguồn từ chữ Aramaic Hoàng gia của người Achaemenes và sau đó phát triển thành hệ thống chữ viết Pahlavi.
Lịch sử phổ quát thứ hai của Iran được biên soạn vào thời kì nào?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "triều đại của vị vua cuối cùng nhà Sassanid, vua Yazdegerd III (cai trị: 632-651 SCN)" ], "answer_start": [ 303 ] }
0075-0043-0001
uit_014050
Đế quốc Parthia
Những nguồn tài liệu bản địa giá trị nhất để tái tạo thời gian chính xác của triều đại của các vị vua Arsaces là những đồng tiền kim loại drachma, được ban hành bởi mỗi vị vua khác nhau. Theo các nhà sử học Geo Widengren, những đồng tiền này đại diện cho một "quá trình chuyển đổi từ di cảo phi văn bản sang văn bản". Những nguồn tài liệu khác của Parthia được sử dụng để tái tạo lại niên đại bao gồm những tấm bảng thiên văn có chứa chữ hình nêm và những lời ghi (tiếng Anh: colophon) được phát hiện ở Babylonia. Những tài liệu văn bản bản địa cũng bao gồm các văn bản khắc trên đá, tài liệu ghi trên giấy da và giấy papyrus và đồ gốm. Ví dụ, ở kinh đô Mithradatkert/Nisa (Turkmenistan ngày nay) của Parthia của, các kho chứa đồ gốm lớn đã được tìm thấy cung cấp thông tin về việc bán và lưu giữ các vật phẩm như rượu vang. Những tài liệu viết bằng giấy da dê được tìm thấy tại các địa điểm như Dura-Europos, đã cung cấp những thông tin có giá trị về chính quyền Parthia, bao gồm các vấn đề như thuế má, chức tước quân sự và tổ chức cấp tỉnh.
Hiện vật nào là trọng yếu để xác định triều đại và niên khóa các vị vua?
{ "text": [ "những đồng tiền kim loại drachma" ], "answer_start": [ 113 ] }
false
null
0075-0043-0002
uit_014051
Đế quốc Parthia
Những nguồn tài liệu bản địa giá trị nhất để tái tạo thời gian chính xác của triều đại của các vị vua Arsaces là những đồng tiền kim loại drachma, được ban hành bởi mỗi vị vua khác nhau. Theo các nhà sử học Geo Widengren, những đồng tiền này đại diện cho một "quá trình chuyển đổi từ di cảo phi văn bản sang văn bản". Những nguồn tài liệu khác của Parthia được sử dụng để tái tạo lại niên đại bao gồm những tấm bảng thiên văn có chứa chữ hình nêm và những lời ghi (tiếng Anh: colophon) được phát hiện ở Babylonia. Những tài liệu văn bản bản địa cũng bao gồm các văn bản khắc trên đá, tài liệu ghi trên giấy da và giấy papyrus và đồ gốm. Ví dụ, ở kinh đô Mithradatkert/Nisa (Turkmenistan ngày nay) của Parthia của, các kho chứa đồ gốm lớn đã được tìm thấy cung cấp thông tin về việc bán và lưu giữ các vật phẩm như rượu vang. Những tài liệu viết bằng giấy da dê được tìm thấy tại các địa điểm như Dura-Europos, đã cung cấp những thông tin có giá trị về chính quyền Parthia, bao gồm các vấn đề như thuế má, chức tước quân sự và tổ chức cấp tỉnh.
Đối với các nhà sử học, đồng tiền cổ đóng vai trò như thế nào?
{ "text": [ "những đồng tiền này đại diện cho một \"quá trình chuyển đổi từ di cảo phi văn bản sang văn bản\"" ], "answer_start": [ 222 ] }
false
null
0075-0043-0003
uit_014052
Đế quốc Parthia
Những nguồn tài liệu bản địa giá trị nhất để tái tạo thời gian chính xác của triều đại của các vị vua Arsaces là những đồng tiền kim loại drachma, được ban hành bởi mỗi vị vua khác nhau. Theo các nhà sử học Geo Widengren, những đồng tiền này đại diện cho một "quá trình chuyển đổi từ di cảo phi văn bản sang văn bản". Những nguồn tài liệu khác của Parthia được sử dụng để tái tạo lại niên đại bao gồm những tấm bảng thiên văn có chứa chữ hình nêm và những lời ghi (tiếng Anh: colophon) được phát hiện ở Babylonia. Những tài liệu văn bản bản địa cũng bao gồm các văn bản khắc trên đá, tài liệu ghi trên giấy da và giấy papyrus và đồ gốm. Ví dụ, ở kinh đô Mithradatkert/Nisa (Turkmenistan ngày nay) của Parthia của, các kho chứa đồ gốm lớn đã được tìm thấy cung cấp thông tin về việc bán và lưu giữ các vật phẩm như rượu vang. Những tài liệu viết bằng giấy da dê được tìm thấy tại các địa điểm như Dura-Europos, đã cung cấp những thông tin có giá trị về chính quyền Parthia, bao gồm các vấn đề như thuế má, chức tước quân sự và tổ chức cấp tỉnh.
Những văn tự bản địa thường khắc trên những vật liệu gì?
{ "text": [ "văn bản khắc trên đá, tài liệu ghi trên giấy da và giấy papyrus và đồ gốm" ], "answer_start": [ 562 ] }
false
null
0075-0043-0004
uit_014053
Đế quốc Parthia
Những nguồn tài liệu bản địa giá trị nhất để tái tạo thời gian chính xác của triều đại của các vị vua Arsaces là những đồng tiền kim loại drachma, được ban hành bởi mỗi vị vua khác nhau. Theo các nhà sử học Geo Widengren, những đồng tiền này đại diện cho một "quá trình chuyển đổi từ di cảo phi văn bản sang văn bản". Những nguồn tài liệu khác của Parthia được sử dụng để tái tạo lại niên đại bao gồm những tấm bảng thiên văn có chứa chữ hình nêm và những lời ghi (tiếng Anh: colophon) được phát hiện ở Babylonia. Những tài liệu văn bản bản địa cũng bao gồm các văn bản khắc trên đá, tài liệu ghi trên giấy da và giấy papyrus và đồ gốm. Ví dụ, ở kinh đô Mithradatkert/Nisa (Turkmenistan ngày nay) của Parthia của, các kho chứa đồ gốm lớn đã được tìm thấy cung cấp thông tin về việc bán và lưu giữ các vật phẩm như rượu vang. Những tài liệu viết bằng giấy da dê được tìm thấy tại các địa điểm như Dura-Europos, đã cung cấp những thông tin có giá trị về chính quyền Parthia, bao gồm các vấn đề như thuế má, chức tước quân sự và tổ chức cấp tỉnh.
Những văn tự bản địa thường khắc bởi những vật liệu gì?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "văn bản khắc trên đá, tài liệu ghi trên giấy da và giấy papyrus và đồ gốm" ], "answer_start": [ 562 ] }
0075-0044-0001
uit_014054
Đế quốc Parthia
Sử cũ Hy Lạp - La Mã cũng có viết nhiều về lịch sử Parthia, nhưng không được coi là hoàn toàn đáng tin cậy vì chúng được viết từ quan điểm của đối thủ và kẻ thù thời chiến. Những nguồn nước ngoài này thường có sự quan tâm lớn về quân sự và chính trị, và thường bỏ qua khía cạnh xã hội và văn hóa của lịch sử Parthia Người La Mã thường khắc họa người Parthia là những chiến binh bạo ngược những cũng tinh thống văn hóa; họ ghi nhận những công thức ẩm thực của Parthia trong cuốn sách hướng dẫn nấu nướng Apicius, chứng tỏ họ luôn mến mộ cách làm bếp của người Parthia. Apollodorus xứ Artemita và Arrian cũng viết sách sử nói về Parthia, nhưng giờ đây đều đã mất và chỉ được biết đến thông qua trích dẫn của các nhà sử học khác. Isidore xứ Charax - một tác giả vào đời vua Augustus - viết nên một tư liệu về lãnh thổ Parthia, có lẽ sau một cuộc khảo cứu về Triều đình Parthia. Ở một mức độ nhỏ hơn, con người và các sự kiện lịch sử Parthia cũng được đề cập trong các cuốn sử của Justinus, Strabo, Diodoros Sikolos, Plutarchus, Cassius Dio, Appian, Josephus, Pliny Già, and Herodian.
Vì sao không thể hoàn toàn tin tưởng vào sử cũ Hy Lạp - La Mã để tìm hiểu về Parthia?
{ "text": [ "vì chúng được viết từ quan điểm của đối thủ và kẻ thù thời chiến" ], "answer_start": [ 107 ] }
false
null
0075-0044-0002
uit_014055
Đế quốc Parthia
Sử cũ Hy Lạp - La Mã cũng có viết nhiều về lịch sử Parthia, nhưng không được coi là hoàn toàn đáng tin cậy vì chúng được viết từ quan điểm của đối thủ và kẻ thù thời chiến. Những nguồn nước ngoài này thường có sự quan tâm lớn về quân sự và chính trị, và thường bỏ qua khía cạnh xã hội và văn hóa của lịch sử Parthia Người La Mã thường khắc họa người Parthia là những chiến binh bạo ngược những cũng tinh thống văn hóa; họ ghi nhận những công thức ẩm thực của Parthia trong cuốn sách hướng dẫn nấu nướng Apicius, chứng tỏ họ luôn mến mộ cách làm bếp của người Parthia. Apollodorus xứ Artemita và Arrian cũng viết sách sử nói về Parthia, nhưng giờ đây đều đã mất và chỉ được biết đến thông qua trích dẫn của các nhà sử học khác. Isidore xứ Charax - một tác giả vào đời vua Augustus - viết nên một tư liệu về lãnh thổ Parthia, có lẽ sau một cuộc khảo cứu về Triều đình Parthia. Ở một mức độ nhỏ hơn, con người và các sự kiện lịch sử Parthia cũng được đề cập trong các cuốn sử của Justinus, Strabo, Diodoros Sikolos, Plutarchus, Cassius Dio, Appian, Josephus, Pliny Già, and Herodian.
Mối quan tâm thường được đề cập trong sử cũ Hy Lạp- La Mã về Parthia liên quan đến lĩnh vực nào?
{ "text": [ "quân sự và chính trị, và thường bỏ qua khía cạnh xã hội và văn hóa của lịch sử Parthia" ], "answer_start": [ 229 ] }
false
null
0075-0044-0003
uit_014056
Đế quốc Parthia
Sử cũ Hy Lạp - La Mã cũng có viết nhiều về lịch sử Parthia, nhưng không được coi là hoàn toàn đáng tin cậy vì chúng được viết từ quan điểm của đối thủ và kẻ thù thời chiến. Những nguồn nước ngoài này thường có sự quan tâm lớn về quân sự và chính trị, và thường bỏ qua khía cạnh xã hội và văn hóa của lịch sử Parthia Người La Mã thường khắc họa người Parthia là những chiến binh bạo ngược những cũng tinh thống văn hóa; họ ghi nhận những công thức ẩm thực của Parthia trong cuốn sách hướng dẫn nấu nướng Apicius, chứng tỏ họ luôn mến mộ cách làm bếp của người Parthia. Apollodorus xứ Artemita và Arrian cũng viết sách sử nói về Parthia, nhưng giờ đây đều đã mất và chỉ được biết đến thông qua trích dẫn của các nhà sử học khác. Isidore xứ Charax - một tác giả vào đời vua Augustus - viết nên một tư liệu về lãnh thổ Parthia, có lẽ sau một cuộc khảo cứu về Triều đình Parthia. Ở một mức độ nhỏ hơn, con người và các sự kiện lịch sử Parthia cũng được đề cập trong các cuốn sử của Justinus, Strabo, Diodoros Sikolos, Plutarchus, Cassius Dio, Appian, Josephus, Pliny Già, and Herodian.
Người La Mã đã khắc họa người Parthia với hình tượng như thế nào?
{ "text": [ "những chiến binh bạo ngược những cũng tinh thống văn hóa" ], "answer_start": [ 361 ] }
false
null
0075-0044-0004
uit_014057
Đế quốc Parthia
Sử cũ Hy Lạp - La Mã cũng có viết nhiều về lịch sử Parthia, nhưng không được coi là hoàn toàn đáng tin cậy vì chúng được viết từ quan điểm của đối thủ và kẻ thù thời chiến. Những nguồn nước ngoài này thường có sự quan tâm lớn về quân sự và chính trị, và thường bỏ qua khía cạnh xã hội và văn hóa của lịch sử Parthia Người La Mã thường khắc họa người Parthia là những chiến binh bạo ngược những cũng tinh thống văn hóa; họ ghi nhận những công thức ẩm thực của Parthia trong cuốn sách hướng dẫn nấu nướng Apicius, chứng tỏ họ luôn mến mộ cách làm bếp của người Parthia. Apollodorus xứ Artemita và Arrian cũng viết sách sử nói về Parthia, nhưng giờ đây đều đã mất và chỉ được biết đến thông qua trích dẫn của các nhà sử học khác. Isidore xứ Charax - một tác giả vào đời vua Augustus - viết nên một tư liệu về lãnh thổ Parthia, có lẽ sau một cuộc khảo cứu về Triều đình Parthia. Ở một mức độ nhỏ hơn, con người và các sự kiện lịch sử Parthia cũng được đề cập trong các cuốn sử của Justinus, Strabo, Diodoros Sikolos, Plutarchus, Cassius Dio, Appian, Josephus, Pliny Già, and Herodian.
Những tác phẩm lịch sử nào đã từng đề cập đến triều đại Parthia?
{ "text": [ "các cuốn sử của Justinus, Strabo, Diodoros Sikolos, Plutarchus, Cassius Dio, Appian, Josephus, Pliny Già, and Herodian" ], "answer_start": [ 961 ] }
false
null
0075-0044-0005
uit_014058
Đế quốc Parthia
Sử cũ Hy Lạp - La Mã cũng có viết nhiều về lịch sử Parthia, nhưng không được coi là hoàn toàn đáng tin cậy vì chúng được viết từ quan điểm của đối thủ và kẻ thù thời chiến. Những nguồn nước ngoài này thường có sự quan tâm lớn về quân sự và chính trị, và thường bỏ qua khía cạnh xã hội và văn hóa của lịch sử Parthia Người La Mã thường khắc họa người Parthia là những chiến binh bạo ngược những cũng tinh thống văn hóa; họ ghi nhận những công thức ẩm thực của Parthia trong cuốn sách hướng dẫn nấu nướng Apicius, chứng tỏ họ luôn mến mộ cách làm bếp của người Parthia. Apollodorus xứ Artemita và Arrian cũng viết sách sử nói về Parthia, nhưng giờ đây đều đã mất và chỉ được biết đến thông qua trích dẫn của các nhà sử học khác. Isidore xứ Charax - một tác giả vào đời vua Augustus - viết nên một tư liệu về lãnh thổ Parthia, có lẽ sau một cuộc khảo cứu về Triều đình Parthia. Ở một mức độ nhỏ hơn, con người và các sự kiện lịch sử Parthia cũng được đề cập trong các cuốn sử của Justinus, Strabo, Diodoros Sikolos, Plutarchus, Cassius Dio, Appian, Josephus, Pliny Già, and Herodian.
Vì sao không thể tin tưởng vào sử cũ Hy Lạp - La Mã để tìm hiểu về Apollodorus?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "vì chúng được viết từ quan điểm của đối thủ và kẻ thù thời chiến" ], "answer_start": [ 107 ] }
0075-0044-0006
uit_014059
Đế quốc Parthia
Sử cũ Hy Lạp - La Mã cũng có viết nhiều về lịch sử Parthia, nhưng không được coi là hoàn toàn đáng tin cậy vì chúng được viết từ quan điểm của đối thủ và kẻ thù thời chiến. Những nguồn nước ngoài này thường có sự quan tâm lớn về quân sự và chính trị, và thường bỏ qua khía cạnh xã hội và văn hóa của lịch sử Parthia Người La Mã thường khắc họa người Parthia là những chiến binh bạo ngược những cũng tinh thống văn hóa; họ ghi nhận những công thức ẩm thực của Parthia trong cuốn sách hướng dẫn nấu nướng Apicius, chứng tỏ họ luôn mến mộ cách làm bếp của người Parthia. Apollodorus xứ Artemita và Arrian cũng viết sách sử nói về Parthia, nhưng giờ đây đều đã mất và chỉ được biết đến thông qua trích dẫn của các nhà sử học khác. Isidore xứ Charax - một tác giả vào đời vua Augustus - viết nên một tư liệu về lãnh thổ Parthia, có lẽ sau một cuộc khảo cứu về Triều đình Parthia. Ở một mức độ nhỏ hơn, con người và các sự kiện lịch sử Parthia cũng được đề cập trong các cuốn sử của Justinus, Strabo, Diodoros Sikolos, Plutarchus, Cassius Dio, Appian, Josephus, Pliny Già, and Herodian.
Những tác phẩm lịch sử nào đã từng đề cập đến sự kiện Parthia?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "các cuốn sử của Justinus, Strabo, Diodoros Sikolos, Plutarchus, Cassius Dio, Appian, Josephus, Pliny Già, and Herodian" ], "answer_start": [ 961 ] }
0075-0045-0001
uit_014060
Đế quốc Parthia
Lịch sử Parthia cũng có thể được tái hiện nhờ vào sử cũ Trung Quốc. Trái ngược với sử cũ Hy Lạp và La Mã, các cuốn sử Trung Quốc buổi đầu giữ quan điểm trung lập hơn khi miêu tả về nước Parthia, mặc dù các sử thần Trung Hoa có thói quen chép lại các thư tịch cổ hơn, làm khó khăn trong việc xác lập trình tự thời gian các sự kiện lịch sử của Đế quốc Parthia. Người Trung Quốc gọi Parthia là An Tức (chữ Hán: 安息), có lẽ theo tên Hy Lạp của thành phố Antiochia tại Margiana (chữ Hy Lạp: Αντιόχεια της Μαργιανήs) của người Parthia. Tuy nhiên, đây cũng có thể là sự chuyển chữ từ tên "Arsaces" của vị vua khai quốc Parthia và cũng là tên của Vương triều này. Những cuốn sử Trung Quốc chép về Parthia bao gồm Sử ký (Thái sử công thư) của Tư Mã Thiên, Hán thư của Ban Bưu, Ban Cố và Ban Chiêu, cùng với Hậu Hán thư của Phạm Diệp. Họ cung cấp thông tin về những cuộc di dân du mục trước cuộc xâm lược ban đầu của người Saka vào Parthia, cùng những thông tin có giá trị về chính trị và địa lý. Thí dụ, Sử ký Tư Mã Thiên ghi nhận về những trao đổi ngoại giao, những quà tặng đẹp lạ lùng của vua Mithridates II gửi cho triều đình Tây Hán, những cách thu hoạch vụ mùa thường thấy ở Sparta, việc sản xuất rượu có sử dụng nho, những thương nhân đi hết nơi này đến nơi kia, và kích cỡ cùng với vị trí của lãnh thổ Parthia. Sử ký Tư Mã Thiên cũng đề cập rằng người Parthia ghi nhận bằng việc "viết ngang trên những mảnh da," hẳn đây chính là giấy da.
Vì sao sử cũ Trung có mức độ tin cậy cao hơn so với sử cũ Hy Lạp- La Mã?
{ "text": [ "các cuốn sử Trung Quốc buổi đầu giữ quan điểm trung lập hơn khi miêu tả về nước Parthia" ], "answer_start": [ 106 ] }
false
null
0075-0045-0002
uit_014061
Đế quốc Parthia
Lịch sử Parthia cũng có thể được tái hiện nhờ vào sử cũ Trung Quốc. Trái ngược với sử cũ Hy Lạp và La Mã, các cuốn sử Trung Quốc buổi đầu giữ quan điểm trung lập hơn khi miêu tả về nước Parthia, mặc dù các sử thần Trung Hoa có thói quen chép lại các thư tịch cổ hơn, làm khó khăn trong việc xác lập trình tự thời gian các sự kiện lịch sử của Đế quốc Parthia. Người Trung Quốc gọi Parthia là An Tức (chữ Hán: 安息), có lẽ theo tên Hy Lạp của thành phố Antiochia tại Margiana (chữ Hy Lạp: Αντιόχεια της Μαργιανήs) của người Parthia. Tuy nhiên, đây cũng có thể là sự chuyển chữ từ tên "Arsaces" của vị vua khai quốc Parthia và cũng là tên của Vương triều này. Những cuốn sử Trung Quốc chép về Parthia bao gồm Sử ký (Thái sử công thư) của Tư Mã Thiên, Hán thư của Ban Bưu, Ban Cố và Ban Chiêu, cùng với Hậu Hán thư của Phạm Diệp. Họ cung cấp thông tin về những cuộc di dân du mục trước cuộc xâm lược ban đầu của người Saka vào Parthia, cùng những thông tin có giá trị về chính trị và địa lý. Thí dụ, Sử ký Tư Mã Thiên ghi nhận về những trao đổi ngoại giao, những quà tặng đẹp lạ lùng của vua Mithridates II gửi cho triều đình Tây Hán, những cách thu hoạch vụ mùa thường thấy ở Sparta, việc sản xuất rượu có sử dụng nho, những thương nhân đi hết nơi này đến nơi kia, và kích cỡ cùng với vị trí của lãnh thổ Parthia. Sử ký Tư Mã Thiên cũng đề cập rằng người Parthia ghi nhận bằng việc "viết ngang trên những mảnh da," hẳn đây chính là giấy da.
Thói quen chép các thư tịch cổ của sử gia Trung Quốc đã ảnh hưởng đến các nhà nghiên cứu sau này như thế nào?
{ "text": [ "khó khăn trong việc xác lập trình tự thời gian các sự kiện lịch sử" ], "answer_start": [ 270 ] }
false
null
0075-0045-0003
uit_014062
Đế quốc Parthia
Lịch sử Parthia cũng có thể được tái hiện nhờ vào sử cũ Trung Quốc. Trái ngược với sử cũ Hy Lạp và La Mã, các cuốn sử Trung Quốc buổi đầu giữ quan điểm trung lập hơn khi miêu tả về nước Parthia, mặc dù các sử thần Trung Hoa có thói quen chép lại các thư tịch cổ hơn, làm khó khăn trong việc xác lập trình tự thời gian các sự kiện lịch sử của Đế quốc Parthia. Người Trung Quốc gọi Parthia là An Tức (chữ Hán: 安息), có lẽ theo tên Hy Lạp của thành phố Antiochia tại Margiana (chữ Hy Lạp: Αντιόχεια της Μαργιανήs) của người Parthia. Tuy nhiên, đây cũng có thể là sự chuyển chữ từ tên "Arsaces" của vị vua khai quốc Parthia và cũng là tên của Vương triều này. Những cuốn sử Trung Quốc chép về Parthia bao gồm Sử ký (Thái sử công thư) của Tư Mã Thiên, Hán thư của Ban Bưu, Ban Cố và Ban Chiêu, cùng với Hậu Hán thư của Phạm Diệp. Họ cung cấp thông tin về những cuộc di dân du mục trước cuộc xâm lược ban đầu của người Saka vào Parthia, cùng những thông tin có giá trị về chính trị và địa lý. Thí dụ, Sử ký Tư Mã Thiên ghi nhận về những trao đổi ngoại giao, những quà tặng đẹp lạ lùng của vua Mithridates II gửi cho triều đình Tây Hán, những cách thu hoạch vụ mùa thường thấy ở Sparta, việc sản xuất rượu có sử dụng nho, những thương nhân đi hết nơi này đến nơi kia, và kích cỡ cùng với vị trí của lãnh thổ Parthia. Sử ký Tư Mã Thiên cũng đề cập rằng người Parthia ghi nhận bằng việc "viết ngang trên những mảnh da," hẳn đây chính là giấy da.
Những sử sách nào của Trung Quốc có đề cập đến vương quốc Parthia?
{ "text": [ "Sử ký (Thái sử công thư) của Tư Mã Thiên, Hán thư của Ban Bưu, Ban Cố và Ban Chiêu, cùng với Hậu Hán thư của Phạm Diệp" ], "answer_start": [ 704 ] }
false
null
0075-0045-0004
uit_014063
Đế quốc Parthia
Lịch sử Parthia cũng có thể được tái hiện nhờ vào sử cũ Trung Quốc. Trái ngược với sử cũ Hy Lạp và La Mã, các cuốn sử Trung Quốc buổi đầu giữ quan điểm trung lập hơn khi miêu tả về nước Parthia, mặc dù các sử thần Trung Hoa có thói quen chép lại các thư tịch cổ hơn, làm khó khăn trong việc xác lập trình tự thời gian các sự kiện lịch sử của Đế quốc Parthia. Người Trung Quốc gọi Parthia là An Tức (chữ Hán: 安息), có lẽ theo tên Hy Lạp của thành phố Antiochia tại Margiana (chữ Hy Lạp: Αντιόχεια της Μαργιανήs) của người Parthia. Tuy nhiên, đây cũng có thể là sự chuyển chữ từ tên "Arsaces" của vị vua khai quốc Parthia và cũng là tên của Vương triều này. Những cuốn sử Trung Quốc chép về Parthia bao gồm Sử ký (Thái sử công thư) của Tư Mã Thiên, Hán thư của Ban Bưu, Ban Cố và Ban Chiêu, cùng với Hậu Hán thư của Phạm Diệp. Họ cung cấp thông tin về những cuộc di dân du mục trước cuộc xâm lược ban đầu của người Saka vào Parthia, cùng những thông tin có giá trị về chính trị và địa lý. Thí dụ, Sử ký Tư Mã Thiên ghi nhận về những trao đổi ngoại giao, những quà tặng đẹp lạ lùng của vua Mithridates II gửi cho triều đình Tây Hán, những cách thu hoạch vụ mùa thường thấy ở Sparta, việc sản xuất rượu có sử dụng nho, những thương nhân đi hết nơi này đến nơi kia, và kích cỡ cùng với vị trí của lãnh thổ Parthia. Sử ký Tư Mã Thiên cũng đề cập rằng người Parthia ghi nhận bằng việc "viết ngang trên những mảnh da," hẳn đây chính là giấy da.
Những sử sách của Trung Quốc đã giúp tái hiện lại lịch sử quốc gia Parthia như thế nào?
{ "text": [ "cung cấp thông tin về những cuộc di dân du mục trước cuộc xâm lược ban đầu của người Saka vào Parthia, cùng những thông tin có giá trị về chính trị và địa lý" ], "answer_start": [ 827 ] }
false
null
0075-0045-0005
uit_014064
Đế quốc Parthia
Lịch sử Parthia cũng có thể được tái hiện nhờ vào sử cũ Trung Quốc. Trái ngược với sử cũ Hy Lạp và La Mã, các cuốn sử Trung Quốc buổi đầu giữ quan điểm trung lập hơn khi miêu tả về nước Parthia, mặc dù các sử thần Trung Hoa có thói quen chép lại các thư tịch cổ hơn, làm khó khăn trong việc xác lập trình tự thời gian các sự kiện lịch sử của Đế quốc Parthia. Người Trung Quốc gọi Parthia là An Tức (chữ Hán: 安息), có lẽ theo tên Hy Lạp của thành phố Antiochia tại Margiana (chữ Hy Lạp: Αντιόχεια της Μαργιανήs) của người Parthia. Tuy nhiên, đây cũng có thể là sự chuyển chữ từ tên "Arsaces" của vị vua khai quốc Parthia và cũng là tên của Vương triều này. Những cuốn sử Trung Quốc chép về Parthia bao gồm Sử ký (Thái sử công thư) của Tư Mã Thiên, Hán thư của Ban Bưu, Ban Cố và Ban Chiêu, cùng với Hậu Hán thư của Phạm Diệp. Họ cung cấp thông tin về những cuộc di dân du mục trước cuộc xâm lược ban đầu của người Saka vào Parthia, cùng những thông tin có giá trị về chính trị và địa lý. Thí dụ, Sử ký Tư Mã Thiên ghi nhận về những trao đổi ngoại giao, những quà tặng đẹp lạ lùng của vua Mithridates II gửi cho triều đình Tây Hán, những cách thu hoạch vụ mùa thường thấy ở Sparta, việc sản xuất rượu có sử dụng nho, những thương nhân đi hết nơi này đến nơi kia, và kích cỡ cùng với vị trí của lãnh thổ Parthia. Sử ký Tư Mã Thiên cũng đề cập rằng người Parthia ghi nhận bằng việc "viết ngang trên những mảnh da," hẳn đây chính là giấy da.
Những vấn đề nào được Tư Mã Thiên đề cập trong Sử Ký liên quan đến Parthia?
{ "text": [ "những trao đổi ngoại giao, những quà tặng đẹp lạ lùng của vua Mithridates II gửi cho triều đình Tây Hán, những cách thu hoạch vụ mùa thường thấy ở Sparta, việc sản xuất rượu có sử dụng nho, những thương nhân đi hết nơi này đến nơi kia, và kích cỡ cùng với vị trí của lãnh thổ Parthia" ], "answer_start": [ 1024 ] }
false
null
0075-0045-0006
uit_014065
Đế quốc Parthia
Lịch sử Parthia cũng có thể được tái hiện nhờ vào sử cũ Trung Quốc. Trái ngược với sử cũ Hy Lạp và La Mã, các cuốn sử Trung Quốc buổi đầu giữ quan điểm trung lập hơn khi miêu tả về nước Parthia, mặc dù các sử thần Trung Hoa có thói quen chép lại các thư tịch cổ hơn, làm khó khăn trong việc xác lập trình tự thời gian các sự kiện lịch sử của Đế quốc Parthia. Người Trung Quốc gọi Parthia là An Tức (chữ Hán: 安息), có lẽ theo tên Hy Lạp của thành phố Antiochia tại Margiana (chữ Hy Lạp: Αντιόχεια της Μαργιανήs) của người Parthia. Tuy nhiên, đây cũng có thể là sự chuyển chữ từ tên "Arsaces" của vị vua khai quốc Parthia và cũng là tên của Vương triều này. Những cuốn sử Trung Quốc chép về Parthia bao gồm Sử ký (Thái sử công thư) của Tư Mã Thiên, Hán thư của Ban Bưu, Ban Cố và Ban Chiêu, cùng với Hậu Hán thư của Phạm Diệp. Họ cung cấp thông tin về những cuộc di dân du mục trước cuộc xâm lược ban đầu của người Saka vào Parthia, cùng những thông tin có giá trị về chính trị và địa lý. Thí dụ, Sử ký Tư Mã Thiên ghi nhận về những trao đổi ngoại giao, những quà tặng đẹp lạ lùng của vua Mithridates II gửi cho triều đình Tây Hán, những cách thu hoạch vụ mùa thường thấy ở Sparta, việc sản xuất rượu có sử dụng nho, những thương nhân đi hết nơi này đến nơi kia, và kích cỡ cùng với vị trí của lãnh thổ Parthia. Sử ký Tư Mã Thiên cũng đề cập rằng người Parthia ghi nhận bằng việc "viết ngang trên những mảnh da," hẳn đây chính là giấy da.
Những sử sách của Parthia đã giúp tái hiện lại lịch sử quốc gia Trung Quốc như thế nào?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "cung cấp thông tin về những cuộc di dân du mục trước cuộc xâm lược ban đầu của người Saka vào Parthia, cùng những thông tin có giá trị về chính trị và địa lý" ], "answer_start": [ 827 ] }
0075-0046-0001
uit_014066
Đế quốc Parthia
So với Đế chế Achaemenes trước đó, triều đinh Parthia có sự đáng chú ý là sự phân cấp Một nguồn lịch sử bản địa cho thấy rằng các vùng lãnh thổ được giám sát bởi chính quyền trung ương được tổ chức tại một cách tương tự với đế chế Seleukos. Cả hai đều có hệ thống ba cấp cho các tỉnh: Parthia marzbān, xšatrap, và dizpat, tương tự như phó vương Seleukos, eparchy, và hyparchy Đế chế Parthia cũng có một số vương quốc bán tự trị bên dưới, bao gồm các tiểu quốc Caucasia Iberia, Armenia, Atropatene, Gordyene, Adiabene, Edessa, Hatra, Mesene, Elymais, và Persis Những vị vua này cai trị lãnh thổ của mình và đúc tiền đúc riêng của họ khác biệt với tiền đúc hoàng gia được đúc tại kho bạc hoàng đế. Điều này không giống như đế chế Achaemenes trước đó, cũng đã có một số tiểu quốc, và thậm chí là Xatrap, những người bán độc lập, nhưng "công nhận uy quyền của nhà vua, cống nạp và hỗ trợ quân sự", theo Brosius Tuy nhiên, các phó vương vào thời Parthia cai trị vùng lãnh thổ nhỏ hơn, và có lẽ đã có ít uy tín và ảnh hưởng hơn so với những người tiền nhiệm Achaemenes của họ. Trong thời kì nhà Seleukos, xu hướng các triều đại cầm quyền địa phương với quy tắc bán tự trị, và đôi khi hoàn toàn nổi loạn, đã trở thành phổ biến, một thực tế lặp lại vào thời kì người Parthia cai trị sau này.
Điểm nỏi bật của triều đình Parthia với đế chế Achaemenes là gì?
{ "text": [ "sự phân cấp" ], "answer_start": [ 74 ] }
false
null
0075-0046-0002
uit_014067
Đế quốc Parthia
So với Đế chế Achaemenes trước đó, triều đinh Parthia có sự đáng chú ý là sự phân cấp Một nguồn lịch sử bản địa cho thấy rằng các vùng lãnh thổ được giám sát bởi chính quyền trung ương được tổ chức tại một cách tương tự với đế chế Seleukos. Cả hai đều có hệ thống ba cấp cho các tỉnh: Parthia marzbān, xšatrap, và dizpat, tương tự như phó vương Seleukos, eparchy, và hyparchy Đế chế Parthia cũng có một số vương quốc bán tự trị bên dưới, bao gồm các tiểu quốc Caucasia Iberia, Armenia, Atropatene, Gordyene, Adiabene, Edessa, Hatra, Mesene, Elymais, và Persis Những vị vua này cai trị lãnh thổ của mình và đúc tiền đúc riêng của họ khác biệt với tiền đúc hoàng gia được đúc tại kho bạc hoàng đế. Điều này không giống như đế chế Achaemenes trước đó, cũng đã có một số tiểu quốc, và thậm chí là Xatrap, những người bán độc lập, nhưng "công nhận uy quyền của nhà vua, cống nạp và hỗ trợ quân sự", theo Brosius Tuy nhiên, các phó vương vào thời Parthia cai trị vùng lãnh thổ nhỏ hơn, và có lẽ đã có ít uy tín và ảnh hưởng hơn so với những người tiền nhiệm Achaemenes của họ. Trong thời kì nhà Seleukos, xu hướng các triều đại cầm quyền địa phương với quy tắc bán tự trị, và đôi khi hoàn toàn nổi loạn, đã trở thành phổ biến, một thực tế lặp lại vào thời kì người Parthia cai trị sau này.
Hệ thống chính trị của Parthia được tổ chức như thế nào?
{ "text": [ "hệ thống ba cấp cho các tỉnh: Parthia marzbān, xšatrap, và dizpat" ], "answer_start": [ 255 ] }
false
null
0075-0046-0003
uit_014068
Đế quốc Parthia
So với Đế chế Achaemenes trước đó, triều đinh Parthia có sự đáng chú ý là sự phân cấp Một nguồn lịch sử bản địa cho thấy rằng các vùng lãnh thổ được giám sát bởi chính quyền trung ương được tổ chức tại một cách tương tự với đế chế Seleukos. Cả hai đều có hệ thống ba cấp cho các tỉnh: Parthia marzbān, xšatrap, và dizpat, tương tự như phó vương Seleukos, eparchy, và hyparchy Đế chế Parthia cũng có một số vương quốc bán tự trị bên dưới, bao gồm các tiểu quốc Caucasia Iberia, Armenia, Atropatene, Gordyene, Adiabene, Edessa, Hatra, Mesene, Elymais, và Persis Những vị vua này cai trị lãnh thổ của mình và đúc tiền đúc riêng của họ khác biệt với tiền đúc hoàng gia được đúc tại kho bạc hoàng đế. Điều này không giống như đế chế Achaemenes trước đó, cũng đã có một số tiểu quốc, và thậm chí là Xatrap, những người bán độc lập, nhưng "công nhận uy quyền của nhà vua, cống nạp và hỗ trợ quân sự", theo Brosius Tuy nhiên, các phó vương vào thời Parthia cai trị vùng lãnh thổ nhỏ hơn, và có lẽ đã có ít uy tín và ảnh hưởng hơn so với những người tiền nhiệm Achaemenes của họ. Trong thời kì nhà Seleukos, xu hướng các triều đại cầm quyền địa phương với quy tắc bán tự trị, và đôi khi hoàn toàn nổi loạn, đã trở thành phổ biến, một thực tế lặp lại vào thời kì người Parthia cai trị sau này.
Điểm khác biệt giữa Parthia với Achaemenes đối với các quốc gia bán tự trị là gì?
{ "text": [ "Những vị vua này cai trị lãnh thổ của mình và đúc tiền đúc riêng của họ khác biệt với tiền đúc hoàng gia được đúc tại kho bạc hoàng đế" ], "answer_start": [ 560 ] }
false
null
0075-0046-0004
uit_014069
Đế quốc Parthia
So với Đế chế Achaemenes trước đó, triều đinh Parthia có sự đáng chú ý là sự phân cấp Một nguồn lịch sử bản địa cho thấy rằng các vùng lãnh thổ được giám sát bởi chính quyền trung ương được tổ chức tại một cách tương tự với đế chế Seleukos. Cả hai đều có hệ thống ba cấp cho các tỉnh: Parthia marzbān, xšatrap, và dizpat, tương tự như phó vương Seleukos, eparchy, và hyparchy Đế chế Parthia cũng có một số vương quốc bán tự trị bên dưới, bao gồm các tiểu quốc Caucasia Iberia, Armenia, Atropatene, Gordyene, Adiabene, Edessa, Hatra, Mesene, Elymais, và Persis Những vị vua này cai trị lãnh thổ của mình và đúc tiền đúc riêng của họ khác biệt với tiền đúc hoàng gia được đúc tại kho bạc hoàng đế. Điều này không giống như đế chế Achaemenes trước đó, cũng đã có một số tiểu quốc, và thậm chí là Xatrap, những người bán độc lập, nhưng "công nhận uy quyền của nhà vua, cống nạp và hỗ trợ quân sự", theo Brosius Tuy nhiên, các phó vương vào thời Parthia cai trị vùng lãnh thổ nhỏ hơn, và có lẽ đã có ít uy tín và ảnh hưởng hơn so với những người tiền nhiệm Achaemenes của họ. Trong thời kì nhà Seleukos, xu hướng các triều đại cầm quyền địa phương với quy tắc bán tự trị, và đôi khi hoàn toàn nổi loạn, đã trở thành phổ biến, một thực tế lặp lại vào thời kì người Parthia cai trị sau này.
Điểm khác biệt giữa Parthia với Achaemenes đối với các quốc gia tự trị là gì?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "Những vị vua này cai trị lãnh thổ của mình và đúc tiền đúc riêng của họ khác biệt với tiền đúc hoàng gia được đúc tại kho bạc hoàng đế" ], "answer_start": [ 560 ] }
0075-0047-0001
uit_014070
Đế quốc Parthia
Vua của các vị vua là người đứng đầu triều đình Parthia. Ông duy trì mối quan hệ đa thê và người kế vị thường là con trai cả. Giống như nhà Ptolemaios của Ai Cập, cũng có các ghi chép về những vị vua Arsaces kết hôn với cháu gái của họ và có lẽ ngay cả với những chị em cùng cha, Nữ hoàng Musa kết hôn với con trai mình, mặc dù đây là một trường hợp cực đoan và bị lên án. Brosius cung cấp một trích dẫn từ một lá thư viết bằng tiếng Hy Lạp của vua Artabanus II trong năm 21 SCN, gửi tới thống đốc (có đề tựa là "Archon") và công dân của thành phố Susa. Những chức vụ của những người bạn, vệ sĩ hay thủ quỹ được vua ưu tiên hơn đều được đề cập. Ngoài ra, tài liệu này cũng đã chứng minh rằng "tuy là có những phạm vi quyền hạn và thủ tục để bộ nhiệm một người chức vụ cao, nhà vua có thể can thiệp thay mặt một cá nhân, xem xét lại trường hợp đó và sẽ thay đổ quyết định nếu như ông ấy thấy phù hợp."
Người đứng đầu triều đình Parthia được gọi là gì?
{ "text": [ "Vua của các vị vua" ], "answer_start": [ 0 ] }
false
null
0075-0047-0002
uit_014071
Đế quốc Parthia
Vua của các vị vua là người đứng đầu triều đình Parthia. Ông duy trì mối quan hệ đa thê và người kế vị thường là con trai cả. Giống như nhà Ptolemaios của Ai Cập, cũng có các ghi chép về những vị vua Arsaces kết hôn với cháu gái của họ và có lẽ ngay cả với những chị em cùng cha, Nữ hoàng Musa kết hôn với con trai mình, mặc dù đây là một trường hợp cực đoan và bị lên án. Brosius cung cấp một trích dẫn từ một lá thư viết bằng tiếng Hy Lạp của vua Artabanus II trong năm 21 SCN, gửi tới thống đốc (có đề tựa là "Archon") và công dân của thành phố Susa. Những chức vụ của những người bạn, vệ sĩ hay thủ quỹ được vua ưu tiên hơn đều được đề cập. Ngoài ra, tài liệu này cũng đã chứng minh rằng "tuy là có những phạm vi quyền hạn và thủ tục để bộ nhiệm một người chức vụ cao, nhà vua có thể can thiệp thay mặt một cá nhân, xem xét lại trường hợp đó và sẽ thay đổ quyết định nếu như ông ấy thấy phù hợp."
Theo quy tắc, ai sẽ là người kế vị của vua Parthia?
{ "text": [ "con trai cả" ], "answer_start": [ 113 ] }
false
null
0075-0047-0003
uit_014072
Đế quốc Parthia
Vua của các vị vua là người đứng đầu triều đình Parthia. Ông duy trì mối quan hệ đa thê và người kế vị thường là con trai cả. Giống như nhà Ptolemaios của Ai Cập, cũng có các ghi chép về những vị vua Arsaces kết hôn với cháu gái của họ và có lẽ ngay cả với những chị em cùng cha, Nữ hoàng Musa kết hôn với con trai mình, mặc dù đây là một trường hợp cực đoan và bị lên án. Brosius cung cấp một trích dẫn từ một lá thư viết bằng tiếng Hy Lạp của vua Artabanus II trong năm 21 SCN, gửi tới thống đốc (có đề tựa là "Archon") và công dân của thành phố Susa. Những chức vụ của những người bạn, vệ sĩ hay thủ quỹ được vua ưu tiên hơn đều được đề cập. Ngoài ra, tài liệu này cũng đã chứng minh rằng "tuy là có những phạm vi quyền hạn và thủ tục để bộ nhiệm một người chức vụ cao, nhà vua có thể can thiệp thay mặt một cá nhân, xem xét lại trường hợp đó và sẽ thay đổ quyết định nếu như ông ấy thấy phù hợp."
Trường hợp kết hôn trong dòng dõi hoàng tộc nào bị lên án nặng nề ở Parthia?
{ "text": [ "Nữ hoàng Musa kết hôn với con trai mình" ], "answer_start": [ 280 ] }
false
null
0075-0047-0004
uit_014073
Đế quốc Parthia
Vua của các vị vua là người đứng đầu triều đình Parthia. Ông duy trì mối quan hệ đa thê và người kế vị thường là con trai cả. Giống như nhà Ptolemaios của Ai Cập, cũng có các ghi chép về những vị vua Arsaces kết hôn với cháu gái của họ và có lẽ ngay cả với những chị em cùng cha, Nữ hoàng Musa kết hôn với con trai mình, mặc dù đây là một trường hợp cực đoan và bị lên án. Brosius cung cấp một trích dẫn từ một lá thư viết bằng tiếng Hy Lạp của vua Artabanus II trong năm 21 SCN, gửi tới thống đốc (có đề tựa là "Archon") và công dân của thành phố Susa. Những chức vụ của những người bạn, vệ sĩ hay thủ quỹ được vua ưu tiên hơn đều được đề cập. Ngoài ra, tài liệu này cũng đã chứng minh rằng "tuy là có những phạm vi quyền hạn và thủ tục để bộ nhiệm một người chức vụ cao, nhà vua có thể can thiệp thay mặt một cá nhân, xem xét lại trường hợp đó và sẽ thay đổ quyết định nếu như ông ấy thấy phù hợp."
Người đứng đầu hậu cung Parthia được gọi là gì?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "Vua của các vị vua" ], "answer_start": [ 0 ] }
0075-0047-0005
uit_014074
Đế quốc Parthia
Vua của các vị vua là người đứng đầu triều đình Parthia. Ông duy trì mối quan hệ đa thê và người kế vị thường là con trai cả. Giống như nhà Ptolemaios của Ai Cập, cũng có các ghi chép về những vị vua Arsaces kết hôn với cháu gái của họ và có lẽ ngay cả với những chị em cùng cha, Nữ hoàng Musa kết hôn với con trai mình, mặc dù đây là một trường hợp cực đoan và bị lên án. Brosius cung cấp một trích dẫn từ một lá thư viết bằng tiếng Hy Lạp của vua Artabanus II trong năm 21 SCN, gửi tới thống đốc (có đề tựa là "Archon") và công dân của thành phố Susa. Những chức vụ của những người bạn, vệ sĩ hay thủ quỹ được vua ưu tiên hơn đều được đề cập. Ngoài ra, tài liệu này cũng đã chứng minh rằng "tuy là có những phạm vi quyền hạn và thủ tục để bộ nhiệm một người chức vụ cao, nhà vua có thể can thiệp thay mặt một cá nhân, xem xét lại trường hợp đó và sẽ thay đổ quyết định nếu như ông ấy thấy phù hợp."
Theo lá thư, ai sẽ là người kế vị của vua Parthia?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "con trai cả" ], "answer_start": [ 113 ] }
0075-0048-0001
uit_014075
Đế quốc Parthia
Các chức danh cha truyền con nối của địa vị quý tộc được ghi lại trong suốt triều đại của vua đầu tiên nhà Sassanid vua Ardahir I, rất có thể là sự tiếp tục các chức danh đã được sử dụng trong thời kỳ Parthia Có ba tầng lớp riêng biệt trong giới quý tộc, cao nhất là những vị vua chư hầu trực tiếp nằm dưới sự cai trị bởi vua của các vua, thứ hai là những người liên quan đến vua của các vị vua chỉ có thông qua hôn nhân, và thứ tự thấp nhất là người đứng đầu gia tộc địa phương và vùng lãnh thổ nhỏ .
Hệ thống giới quý tộc được phân lớp như thế nào?
{ "text": [ "Có ba tầng lớp riêng biệt trong giới quý tộc, cao nhất là những vị vua chư hầu trực tiếp nằm dưới sự cai trị bởi vua của các vua, thứ hai là những người liên quan đến vua của các vị vua chỉ có thông qua hôn nhân, và thứ tự thấp nhất là người đứng đầu gia tộc địa phương và vùng lãnh thổ nhỏ" ], "answer_start": [ 209 ] }
false
null
0075-0048-0002
uit_014076
Đế quốc Parthia
Các chức danh cha truyền con nối của địa vị quý tộc được ghi lại trong suốt triều đại của vua đầu tiên nhà Sassanid vua Ardahir I, rất có thể là sự tiếp tục các chức danh đã được sử dụng trong thời kỳ Parthia Có ba tầng lớp riêng biệt trong giới quý tộc, cao nhất là những vị vua chư hầu trực tiếp nằm dưới sự cai trị bởi vua của các vua, thứ hai là những người liên quan đến vua của các vị vua chỉ có thông qua hôn nhân, và thứ tự thấp nhất là người đứng đầu gia tộc địa phương và vùng lãnh thổ nhỏ .
Tầng lớp cao nhất của giới quý tộc nằm dưới sự cai trị của ai?
{ "text": [ "vua của các vua" ], "answer_start": [ 321 ] }
false
null
0075-0048-0003
uit_014077
Đế quốc Parthia
Các chức danh cha truyền con nối của địa vị quý tộc được ghi lại trong suốt triều đại của vua đầu tiên nhà Sassanid vua Ardahir I, rất có thể là sự tiếp tục các chức danh đã được sử dụng trong thời kỳ Parthia Có ba tầng lớp riêng biệt trong giới quý tộc, cao nhất là những vị vua chư hầu trực tiếp nằm dưới sự cai trị bởi vua của các vua, thứ hai là những người liên quan đến vua của các vị vua chỉ có thông qua hôn nhân, và thứ tự thấp nhất là người đứng đầu gia tộc địa phương và vùng lãnh thổ nhỏ .
Những người nào sẽ đucợ phân vào tầng lớp quý tộc thứ hai?
{ "text": [ "những người liên quan đến vua của các vị vua chỉ có thông qua hôn nhân" ], "answer_start": [ 350 ] }
false
null
0075-0048-0004
uit_014078
Đế quốc Parthia
Các chức danh cha truyền con nối của địa vị quý tộc được ghi lại trong suốt triều đại của vua đầu tiên nhà Sassanid vua Ardahir I, rất có thể là sự tiếp tục các chức danh đã được sử dụng trong thời kỳ Parthia Có ba tầng lớp riêng biệt trong giới quý tộc, cao nhất là những vị vua chư hầu trực tiếp nằm dưới sự cai trị bởi vua của các vua, thứ hai là những người liên quan đến vua của các vị vua chỉ có thông qua hôn nhân, và thứ tự thấp nhất là người đứng đầu gia tộc địa phương và vùng lãnh thổ nhỏ .
Tầng lớp cao nhất của giới con cháu quý tộc nằm dưới sự cai trị của ai?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "vua của các vua" ], "answer_start": [ 321 ] }
0075-0049-0001
uit_014079
Đế quốc Parthia
Đến thế kỷ 1, tầng lớp quý tộc Parthia đã nắm nhiều quyền lực và có ảnh hưởng lớn trong việc chọn người kế vị hay lật đổ các vị vua Arsaces Một số quý tộc có vai trò như cố vấn triều đình cho nhà vua, cũng như các giáo sĩ thần thánh. Trong số những đại gia tộc cao quý của Parthia được liệt kê vào lúc bắt đầu thời kỳ Sasania, chỉ có hai trong số đó được đề cập cụ thể trong các văn bản trước đó của Parthia: Gia tộc Suren và gia tộc Karen. Nhà sử học Plutarch lưu ý rằng các thành viên của gia tộc Suren, quan trọng nhất trong giới quý tộc, đã có được đặc quyền trao vương miện cho mỗi vua của các vị vua nhà Arsaces mới trong lễ đăng quang của họ. Sau đó, một số vị vua Parthia còn tự xưng là có dòng dõi Achaemenes. Điều này gần đây đã được chứng minh bởi khả năng mắc bệnh di truyền U sợi thần kinh (Neurofibromatosis), được chứng minh qua những mô tả về cơ thể các vua và bằng chứng về căn bệnh gia tộc được ghi lại trên những đồng tiền cổ.
Giới quý tộc của Parthia nắm giữ quyền lực như thế nào?
{ "text": [ "ảnh hưởng lớn trong việc chọn người kế vị hay lật đổ các vị vua Arsaces" ], "answer_start": [ 68 ] }
false
null
0075-0049-0002
uit_014080
Đế quốc Parthia
Đến thế kỷ 1, tầng lớp quý tộc Parthia đã nắm nhiều quyền lực và có ảnh hưởng lớn trong việc chọn người kế vị hay lật đổ các vị vua Arsaces Một số quý tộc có vai trò như cố vấn triều đình cho nhà vua, cũng như các giáo sĩ thần thánh. Trong số những đại gia tộc cao quý của Parthia được liệt kê vào lúc bắt đầu thời kỳ Sasania, chỉ có hai trong số đó được đề cập cụ thể trong các văn bản trước đó của Parthia: Gia tộc Suren và gia tộc Karen. Nhà sử học Plutarch lưu ý rằng các thành viên của gia tộc Suren, quan trọng nhất trong giới quý tộc, đã có được đặc quyền trao vương miện cho mỗi vua của các vị vua nhà Arsaces mới trong lễ đăng quang của họ. Sau đó, một số vị vua Parthia còn tự xưng là có dòng dõi Achaemenes. Điều này gần đây đã được chứng minh bởi khả năng mắc bệnh di truyền U sợi thần kinh (Neurofibromatosis), được chứng minh qua những mô tả về cơ thể các vua và bằng chứng về căn bệnh gia tộc được ghi lại trên những đồng tiền cổ.
Hai gia tộc nào có sức ảnh hưởng lớn nhất đối với triều đại Parthia?
{ "text": [ "Gia tộc Suren và gia tộc Karen" ], "answer_start": [ 409 ] }
false
null
0075-0049-0003
uit_014081
Đế quốc Parthia
Đến thế kỷ 1, tầng lớp quý tộc Parthia đã nắm nhiều quyền lực và có ảnh hưởng lớn trong việc chọn người kế vị hay lật đổ các vị vua Arsaces Một số quý tộc có vai trò như cố vấn triều đình cho nhà vua, cũng như các giáo sĩ thần thánh. Trong số những đại gia tộc cao quý của Parthia được liệt kê vào lúc bắt đầu thời kỳ Sasania, chỉ có hai trong số đó được đề cập cụ thể trong các văn bản trước đó của Parthia: Gia tộc Suren và gia tộc Karen. Nhà sử học Plutarch lưu ý rằng các thành viên của gia tộc Suren, quan trọng nhất trong giới quý tộc, đã có được đặc quyền trao vương miện cho mỗi vua của các vị vua nhà Arsaces mới trong lễ đăng quang của họ. Sau đó, một số vị vua Parthia còn tự xưng là có dòng dõi Achaemenes. Điều này gần đây đã được chứng minh bởi khả năng mắc bệnh di truyền U sợi thần kinh (Neurofibromatosis), được chứng minh qua những mô tả về cơ thể các vua và bằng chứng về căn bệnh gia tộc được ghi lại trên những đồng tiền cổ.
Những thành viên trong gia tộc Suren được coi trọng như thế nào?
{ "text": [ "có được đặc quyền trao vương miện cho mỗi vua của các vị vua nhà Arsaces mới trong lễ đăng quang của họ" ], "answer_start": [ 545 ] }
false
null
0075-0049-0004
uit_014082
Đế quốc Parthia
Đến thế kỷ 1, tầng lớp quý tộc Parthia đã nắm nhiều quyền lực và có ảnh hưởng lớn trong việc chọn người kế vị hay lật đổ các vị vua Arsaces Một số quý tộc có vai trò như cố vấn triều đình cho nhà vua, cũng như các giáo sĩ thần thánh. Trong số những đại gia tộc cao quý của Parthia được liệt kê vào lúc bắt đầu thời kỳ Sasania, chỉ có hai trong số đó được đề cập cụ thể trong các văn bản trước đó của Parthia: Gia tộc Suren và gia tộc Karen. Nhà sử học Plutarch lưu ý rằng các thành viên của gia tộc Suren, quan trọng nhất trong giới quý tộc, đã có được đặc quyền trao vương miện cho mỗi vua của các vị vua nhà Arsaces mới trong lễ đăng quang của họ. Sau đó, một số vị vua Parthia còn tự xưng là có dòng dõi Achaemenes. Điều này gần đây đã được chứng minh bởi khả năng mắc bệnh di truyền U sợi thần kinh (Neurofibromatosis), được chứng minh qua những mô tả về cơ thể các vua và bằng chứng về căn bệnh gia tộc được ghi lại trên những đồng tiền cổ.
Việc các nhà vua Parthia mắc bệnh di truyền U sợi thần kinh được phát hiện như thế nào?
{ "text": [ "qua những mô tả về cơ thể các vua và bằng chứng về căn bệnh gia tộc được ghi lại trên những đồng tiền cổ" ], "answer_start": [ 840 ] }
false
null
0075-0049-0005
uit_014083
Đế quốc Parthia
Đến thế kỷ 1, tầng lớp quý tộc Parthia đã nắm nhiều quyền lực và có ảnh hưởng lớn trong việc chọn người kế vị hay lật đổ các vị vua Arsaces Một số quý tộc có vai trò như cố vấn triều đình cho nhà vua, cũng như các giáo sĩ thần thánh. Trong số những đại gia tộc cao quý của Parthia được liệt kê vào lúc bắt đầu thời kỳ Sasania, chỉ có hai trong số đó được đề cập cụ thể trong các văn bản trước đó của Parthia: Gia tộc Suren và gia tộc Karen. Nhà sử học Plutarch lưu ý rằng các thành viên của gia tộc Suren, quan trọng nhất trong giới quý tộc, đã có được đặc quyền trao vương miện cho mỗi vua của các vị vua nhà Arsaces mới trong lễ đăng quang của họ. Sau đó, một số vị vua Parthia còn tự xưng là có dòng dõi Achaemenes. Điều này gần đây đã được chứng minh bởi khả năng mắc bệnh di truyền U sợi thần kinh (Neurofibromatosis), được chứng minh qua những mô tả về cơ thể các vua và bằng chứng về căn bệnh gia tộc được ghi lại trên những đồng tiền cổ.
Giới quý tộc của Parthia nắm giữ của cải như thế nào?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "ảnh hưởng lớn trong việc chọn người kế vị hay lật đổ các vị vua Arsaces" ], "answer_start": [ 68 ] }
0075-0049-0006
uit_014084
Đế quốc Parthia
Đến thế kỷ 1, tầng lớp quý tộc Parthia đã nắm nhiều quyền lực và có ảnh hưởng lớn trong việc chọn người kế vị hay lật đổ các vị vua Arsaces Một số quý tộc có vai trò như cố vấn triều đình cho nhà vua, cũng như các giáo sĩ thần thánh. Trong số những đại gia tộc cao quý của Parthia được liệt kê vào lúc bắt đầu thời kỳ Sasania, chỉ có hai trong số đó được đề cập cụ thể trong các văn bản trước đó của Parthia: Gia tộc Suren và gia tộc Karen. Nhà sử học Plutarch lưu ý rằng các thành viên của gia tộc Suren, quan trọng nhất trong giới quý tộc, đã có được đặc quyền trao vương miện cho mỗi vua của các vị vua nhà Arsaces mới trong lễ đăng quang của họ. Sau đó, một số vị vua Parthia còn tự xưng là có dòng dõi Achaemenes. Điều này gần đây đã được chứng minh bởi khả năng mắc bệnh di truyền U sợi thần kinh (Neurofibromatosis), được chứng minh qua những mô tả về cơ thể các vua và bằng chứng về căn bệnh gia tộc được ghi lại trên những đồng tiền cổ.
Việc các nhà vua Parthia mắc bệnh di truyền U sợi tuyến giáp được phát hiện như thế nào?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "qua những mô tả về cơ thể các vua và bằng chứng về căn bệnh gia tộc được ghi lại trên những đồng tiền cổ" ], "answer_start": [ 840 ] }
0075-0050-0001
uit_014085
Đế quốc Parthia
Đế chế Parthia không có quân đội thường trực, nhưng họ lại có thể nhanh chóng tuyển mộ được quân đội mỗi khi có một cuộc khủng hoảng địa phương xảy ra Có một Lực lượng vũ trang thường trực dùng để bảo vệ nhà vua, bao gồm quý tộc, nông nô và lính đánh thuê, nhưng đoàn tùy tùng hoàng gia này nhỏ Những đội quân đồn trú cũng thường xuyên được duy trì ở các pháo đài biên giới; Những dòng chữ khắc Parthia tiết lộ một số các chức danh quân sự ban cho những chỉ huy tại các địa điểm này Lực lượng quân đội cũng có thể được sử dụng trong các cử chỉ ngoại giao. Ví dụ, khi sứ thần Trung Quốc viếng thăm Parthia ở cuối thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, Sử Ký Tư Mã Thiên đã đề cập tới 20.000 kỵ binh được phái đến biên giới phía đông để phục vụ hộ tống sứ thần, mặc dù con số này có lẽ là một sự phóng đại.
Những thành phần của lực lượng vũ trang thường trực bảo vệ nhà vua là gì?
{ "text": [ "quý tộc, nông nô và lính đánh thuê" ], "answer_start": [ 221 ] }
false
null
0075-0050-0002
uit_014086
Đế quốc Parthia
Đế chế Parthia không có quân đội thường trực, nhưng họ lại có thể nhanh chóng tuyển mộ được quân đội mỗi khi có một cuộc khủng hoảng địa phương xảy ra Có một Lực lượng vũ trang thường trực dùng để bảo vệ nhà vua, bao gồm quý tộc, nông nô và lính đánh thuê, nhưng đoàn tùy tùng hoàng gia này nhỏ Những đội quân đồn trú cũng thường xuyên được duy trì ở các pháo đài biên giới; Những dòng chữ khắc Parthia tiết lộ một số các chức danh quân sự ban cho những chỉ huy tại các địa điểm này Lực lượng quân đội cũng có thể được sử dụng trong các cử chỉ ngoại giao. Ví dụ, khi sứ thần Trung Quốc viếng thăm Parthia ở cuối thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, Sử Ký Tư Mã Thiên đã đề cập tới 20.000 kỵ binh được phái đến biên giới phía đông để phục vụ hộ tống sứ thần, mặc dù con số này có lẽ là một sự phóng đại.
Điểm đặc biệt của quân đội Parthia là gì?
{ "text": [ "không có quân đội thường trực, nhưng họ lại có thể nhanh chóng tuyển mộ được quân đội mỗi khi có một cuộc khủng hoảng địa phương xảy ra" ], "answer_start": [ 15 ] }
false
null
0075-0050-0003
uit_014087
Đế quốc Parthia
Đế chế Parthia không có quân đội thường trực, nhưng họ lại có thể nhanh chóng tuyển mộ được quân đội mỗi khi có một cuộc khủng hoảng địa phương xảy ra Có một Lực lượng vũ trang thường trực dùng để bảo vệ nhà vua, bao gồm quý tộc, nông nô và lính đánh thuê, nhưng đoàn tùy tùng hoàng gia này nhỏ Những đội quân đồn trú cũng thường xuyên được duy trì ở các pháo đài biên giới; Những dòng chữ khắc Parthia tiết lộ một số các chức danh quân sự ban cho những chỉ huy tại các địa điểm này Lực lượng quân đội cũng có thể được sử dụng trong các cử chỉ ngoại giao. Ví dụ, khi sứ thần Trung Quốc viếng thăm Parthia ở cuối thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, Sử Ký Tư Mã Thiên đã đề cập tới 20.000 kỵ binh được phái đến biên giới phía đông để phục vụ hộ tống sứ thần, mặc dù con số này có lẽ là một sự phóng đại.
Những dòng chữ khắc Parthia liên quan như thế nào đối với các chỉ huy quân sự tại đồn trú biên phòng?
{ "text": [ "iết lộ một số các chức danh quân sự ban cho những chỉ huy" ], "answer_start": [ 404 ] }
false
null
0075-0051-0001
uit_014088
Đế quốc Parthia
Lực lượng chiến đấu chính của quân đội Parthia là cataphract, kỵ binh nặng với người lính và ngựa được bảo vệ bởi áo giáp lưới. Lực lượng Cataphract được trang bị với một ngọn thương để đột kích vào hàng ngũ kẻ thù, cũng như cung và tên. Do chi phí trang bị và áo giáp của họ, cataphract được tuyển chọn từ trong tầng lớp quý tộc, đổi lại cho sự phục vụ của họ, là sự đòi hỏi một hình thức tự chủ ở cấp địa phương từ các vị vua Arsaces Kỵ binh nhẹ được tuyển chọn từ tầng lớp thường dân và phục vụ làm lực lượng kị cung, họ mặc áo dài và quần dài đơn giản để tham gia vào trận chiến Họ đã sử dụng cung ghép và có thể bắn vào kẻ thù trong khi đang cưỡi ngựa và quay mặt đi với kẻ thù, kỹ thuật này, được gọi là bắn kiểu Parthia, là một chiến thuật có hiệu quả cao. Kỵ binh nặng và nhẹ của Parthia được chứng minh là một yếu tố quyết định trong Trận Carrhae, một lực lượng Ba Tư đánh bại một đội quân La Mã lớn hơn nhiều dưới sự chỉ huy của Crassus. Các đơn vị bộ binh nhẹ, bao gồm tuyển mộ từ dân thường và lính đánh thuê, được sử dụng để phân tán quân đội của đối phương sau khi kỵ binh đột kích.
Đạo quân chủ yếu của quân đội Parthia là gì?
{ "text": [ "cataphract, kỵ binh nặng với người lính và ngựa được bảo vệ bởi áo giáp lưới" ], "answer_start": [ 50 ] }
false
null
0075-0051-0002
uit_014089
Đế quốc Parthia
Lực lượng chiến đấu chính của quân đội Parthia là cataphract, kỵ binh nặng với người lính và ngựa được bảo vệ bởi áo giáp lưới. Lực lượng Cataphract được trang bị với một ngọn thương để đột kích vào hàng ngũ kẻ thù, cũng như cung và tên. Do chi phí trang bị và áo giáp của họ, cataphract được tuyển chọn từ trong tầng lớp quý tộc, đổi lại cho sự phục vụ của họ, là sự đòi hỏi một hình thức tự chủ ở cấp địa phương từ các vị vua Arsaces Kỵ binh nhẹ được tuyển chọn từ tầng lớp thường dân và phục vụ làm lực lượng kị cung, họ mặc áo dài và quần dài đơn giản để tham gia vào trận chiến Họ đã sử dụng cung ghép và có thể bắn vào kẻ thù trong khi đang cưỡi ngựa và quay mặt đi với kẻ thù, kỹ thuật này, được gọi là bắn kiểu Parthia, là một chiến thuật có hiệu quả cao. Kỵ binh nặng và nhẹ của Parthia được chứng minh là một yếu tố quyết định trong Trận Carrhae, một lực lượng Ba Tư đánh bại một đội quân La Mã lớn hơn nhiều dưới sự chỉ huy của Crassus. Các đơn vị bộ binh nhẹ, bao gồm tuyển mộ từ dân thường và lính đánh thuê, được sử dụng để phân tán quân đội của đối phương sau khi kỵ binh đột kích.
Những trang bị thiết yếu của một cataphract là gì?
{ "text": [ "một ngọn thương để đột kích vào hàng ngũ kẻ thù, cũng như cung và tên" ], "answer_start": [ 167 ] }
false
null
0075-0051-0003
uit_014090
Đế quốc Parthia
Lực lượng chiến đấu chính của quân đội Parthia là cataphract, kỵ binh nặng với người lính và ngựa được bảo vệ bởi áo giáp lưới. Lực lượng Cataphract được trang bị với một ngọn thương để đột kích vào hàng ngũ kẻ thù, cũng như cung và tên. Do chi phí trang bị và áo giáp của họ, cataphract được tuyển chọn từ trong tầng lớp quý tộc, đổi lại cho sự phục vụ của họ, là sự đòi hỏi một hình thức tự chủ ở cấp địa phương từ các vị vua Arsaces Kỵ binh nhẹ được tuyển chọn từ tầng lớp thường dân và phục vụ làm lực lượng kị cung, họ mặc áo dài và quần dài đơn giản để tham gia vào trận chiến Họ đã sử dụng cung ghép và có thể bắn vào kẻ thù trong khi đang cưỡi ngựa và quay mặt đi với kẻ thù, kỹ thuật này, được gọi là bắn kiểu Parthia, là một chiến thuật có hiệu quả cao. Kỵ binh nặng và nhẹ của Parthia được chứng minh là một yếu tố quyết định trong Trận Carrhae, một lực lượng Ba Tư đánh bại một đội quân La Mã lớn hơn nhiều dưới sự chỉ huy của Crassus. Các đơn vị bộ binh nhẹ, bao gồm tuyển mộ từ dân thường và lính đánh thuê, được sử dụng để phân tán quân đội của đối phương sau khi kỵ binh đột kích.
Những lợi ích có được khi trở thành một cataphract là gì?
{ "text": [ "một hình thức tự chủ ở cấp địa phương từ các vị vua Arsaces" ], "answer_start": [ 376 ] }
false
null
0075-0051-0004
uit_014091
Đế quốc Parthia
Lực lượng chiến đấu chính của quân đội Parthia là cataphract, kỵ binh nặng với người lính và ngựa được bảo vệ bởi áo giáp lưới. Lực lượng Cataphract được trang bị với một ngọn thương để đột kích vào hàng ngũ kẻ thù, cũng như cung và tên. Do chi phí trang bị và áo giáp của họ, cataphract được tuyển chọn từ trong tầng lớp quý tộc, đổi lại cho sự phục vụ của họ, là sự đòi hỏi một hình thức tự chủ ở cấp địa phương từ các vị vua Arsaces Kỵ binh nhẹ được tuyển chọn từ tầng lớp thường dân và phục vụ làm lực lượng kị cung, họ mặc áo dài và quần dài đơn giản để tham gia vào trận chiến Họ đã sử dụng cung ghép và có thể bắn vào kẻ thù trong khi đang cưỡi ngựa và quay mặt đi với kẻ thù, kỹ thuật này, được gọi là bắn kiểu Parthia, là một chiến thuật có hiệu quả cao. Kỵ binh nặng và nhẹ của Parthia được chứng minh là một yếu tố quyết định trong Trận Carrhae, một lực lượng Ba Tư đánh bại một đội quân La Mã lớn hơn nhiều dưới sự chỉ huy của Crassus. Các đơn vị bộ binh nhẹ, bao gồm tuyển mộ từ dân thường và lính đánh thuê, được sử dụng để phân tán quân đội của đối phương sau khi kỵ binh đột kích.
Kỹ thuật bắn kiểu Parthia là một kỹ thuật như thế nào?
{ "text": [ "bắn vào kẻ thù trong khi đang cưỡi ngựa và quay mặt đi với kẻ thù" ], "answer_start": [ 617 ] }
false
null
0075-0051-0005
uit_014092
Đế quốc Parthia
Lực lượng chiến đấu chính của quân đội Parthia là cataphract, kỵ binh nặng với người lính và ngựa được bảo vệ bởi áo giáp lưới. Lực lượng Cataphract được trang bị với một ngọn thương để đột kích vào hàng ngũ kẻ thù, cũng như cung và tên. Do chi phí trang bị và áo giáp của họ, cataphract được tuyển chọn từ trong tầng lớp quý tộc, đổi lại cho sự phục vụ của họ, là sự đòi hỏi một hình thức tự chủ ở cấp địa phương từ các vị vua Arsaces Kỵ binh nhẹ được tuyển chọn từ tầng lớp thường dân và phục vụ làm lực lượng kị cung, họ mặc áo dài và quần dài đơn giản để tham gia vào trận chiến Họ đã sử dụng cung ghép và có thể bắn vào kẻ thù trong khi đang cưỡi ngựa và quay mặt đi với kẻ thù, kỹ thuật này, được gọi là bắn kiểu Parthia, là một chiến thuật có hiệu quả cao. Kỵ binh nặng và nhẹ của Parthia được chứng minh là một yếu tố quyết định trong Trận Carrhae, một lực lượng Ba Tư đánh bại một đội quân La Mã lớn hơn nhiều dưới sự chỉ huy của Crassus. Các đơn vị bộ binh nhẹ, bao gồm tuyển mộ từ dân thường và lính đánh thuê, được sử dụng để phân tán quân đội của đối phương sau khi kỵ binh đột kích.
Vai trò của bộ binh trong những trận chiến của Parthia là gì?
{ "text": [ "được sử dụng để phân tán quân đội của đối phương sau khi kỵ binh đột kích" ], "answer_start": [ 1022 ] }
false
null
0075-0051-0006
uit_014093
Đế quốc Parthia
Lực lượng chiến đấu chính của quân đội Parthia là cataphract, kỵ binh nặng với người lính và ngựa được bảo vệ bởi áo giáp lưới. Lực lượng Cataphract được trang bị với một ngọn thương để đột kích vào hàng ngũ kẻ thù, cũng như cung và tên. Do chi phí trang bị và áo giáp của họ, cataphract được tuyển chọn từ trong tầng lớp quý tộc, đổi lại cho sự phục vụ của họ, là sự đòi hỏi một hình thức tự chủ ở cấp địa phương từ các vị vua Arsaces Kỵ binh nhẹ được tuyển chọn từ tầng lớp thường dân và phục vụ làm lực lượng kị cung, họ mặc áo dài và quần dài đơn giản để tham gia vào trận chiến Họ đã sử dụng cung ghép và có thể bắn vào kẻ thù trong khi đang cưỡi ngựa và quay mặt đi với kẻ thù, kỹ thuật này, được gọi là bắn kiểu Parthia, là một chiến thuật có hiệu quả cao. Kỵ binh nặng và nhẹ của Parthia được chứng minh là một yếu tố quyết định trong Trận Carrhae, một lực lượng Ba Tư đánh bại một đội quân La Mã lớn hơn nhiều dưới sự chỉ huy của Crassus. Các đơn vị bộ binh nhẹ, bao gồm tuyển mộ từ dân thường và lính đánh thuê, được sử dụng để phân tán quân đội của đối phương sau khi kỵ binh đột kích.
Đạo quân chủ yếu của thủy binh Parthia là gì?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "cataphract, kỵ binh nặng với người lính và ngựa được bảo vệ bởi áo giáp lưới" ], "answer_start": [ 50 ] }
0075-0051-0007
uit_014094
Đế quốc Parthia
Lực lượng chiến đấu chính của quân đội Parthia là cataphract, kỵ binh nặng với người lính và ngựa được bảo vệ bởi áo giáp lưới. Lực lượng Cataphract được trang bị với một ngọn thương để đột kích vào hàng ngũ kẻ thù, cũng như cung và tên. Do chi phí trang bị và áo giáp của họ, cataphract được tuyển chọn từ trong tầng lớp quý tộc, đổi lại cho sự phục vụ của họ, là sự đòi hỏi một hình thức tự chủ ở cấp địa phương từ các vị vua Arsaces Kỵ binh nhẹ được tuyển chọn từ tầng lớp thường dân và phục vụ làm lực lượng kị cung, họ mặc áo dài và quần dài đơn giản để tham gia vào trận chiến Họ đã sử dụng cung ghép và có thể bắn vào kẻ thù trong khi đang cưỡi ngựa và quay mặt đi với kẻ thù, kỹ thuật này, được gọi là bắn kiểu Parthia, là một chiến thuật có hiệu quả cao. Kỵ binh nặng và nhẹ của Parthia được chứng minh là một yếu tố quyết định trong Trận Carrhae, một lực lượng Ba Tư đánh bại một đội quân La Mã lớn hơn nhiều dưới sự chỉ huy của Crassus. Các đơn vị bộ binh nhẹ, bao gồm tuyển mộ từ dân thường và lính đánh thuê, được sử dụng để phân tán quân đội của đối phương sau khi kỵ binh đột kích.
Kỹ thuật bắn kiểu Parthia là một kỹ thuật lợi hại như thế nào?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "bắn vào kẻ thù trong khi đang cưỡi ngựa và quay mặt đi với kẻ thù" ], "answer_start": [ 617 ] }
0075-0052-0001
uit_014095
Đế quốc Parthia
Những đồng xu drachma Hy Lạp, thường được làm bằng bạc, bao gồm cả tetradrachm, là đồng tiền tiêu chuẩn được sử dụng trong suốt thời Đế chế Parthia Nhà Arsaces duy trì khu đúc tiền của hoàng gia tại các thành phố Hecatompylos, Seleucia, và Ecbatana Nhiều khả năng họ đã mở một sở đúc tiền tại Mithridatkert / Nisa Từ khi thành lập đế quốc cho đến khi nó sụp đổ, drachm được ban hành trong suốt thời đại Parthia hiếm khi cân nặng ít hơn 3,5 g hoặc nhiều hơn 4,2 g. Những đồng tetradrachm Parthia đầu tiên, trọng lượng về nguyên tắc khoảng 16 g với một số biến thể, xuất hiện sau khi Mithridates I chinh phục vùng Lưỡng Hà và được đúc độc quyền tại Seleucia.
Những vật liệu thường dùng trong quá trình sản xuất đồng tiền drachma?
{ "text": [ "bằng bạc, bao gồm cả tetradrachm" ], "answer_start": [ 46 ] }
false
null
0075-0052-0002
uit_014096
Đế quốc Parthia
Những đồng xu drachma Hy Lạp, thường được làm bằng bạc, bao gồm cả tetradrachm, là đồng tiền tiêu chuẩn được sử dụng trong suốt thời Đế chế Parthia Nhà Arsaces duy trì khu đúc tiền của hoàng gia tại các thành phố Hecatompylos, Seleucia, và Ecbatana Nhiều khả năng họ đã mở một sở đúc tiền tại Mithridatkert / Nisa Từ khi thành lập đế quốc cho đến khi nó sụp đổ, drachm được ban hành trong suốt thời đại Parthia hiếm khi cân nặng ít hơn 3,5 g hoặc nhiều hơn 4,2 g. Những đồng tetradrachm Parthia đầu tiên, trọng lượng về nguyên tắc khoảng 16 g với một số biến thể, xuất hiện sau khi Mithridates I chinh phục vùng Lưỡng Hà và được đúc độc quyền tại Seleucia.
Đơn vị tiền tệ chính được dùng trong xuyên suốt triều đại Parthia là gì?
{ "text": [ "đồng xu drachma Hy Lạp" ], "answer_start": [ 6 ] }
false
null
0075-0052-0003
uit_014097
Đế quốc Parthia
Những đồng xu drachma Hy Lạp, thường được làm bằng bạc, bao gồm cả tetradrachm, là đồng tiền tiêu chuẩn được sử dụng trong suốt thời Đế chế Parthia Nhà Arsaces duy trì khu đúc tiền của hoàng gia tại các thành phố Hecatompylos, Seleucia, và Ecbatana Nhiều khả năng họ đã mở một sở đúc tiền tại Mithridatkert / Nisa Từ khi thành lập đế quốc cho đến khi nó sụp đổ, drachm được ban hành trong suốt thời đại Parthia hiếm khi cân nặng ít hơn 3,5 g hoặc nhiều hơn 4,2 g. Những đồng tetradrachm Parthia đầu tiên, trọng lượng về nguyên tắc khoảng 16 g với một số biến thể, xuất hiện sau khi Mithridates I chinh phục vùng Lưỡng Hà và được đúc độc quyền tại Seleucia.
Khối lượng trung bình của một đồng xu drachma trong thời đại Parthia là bao nhiêu?
{ "text": [ "hiếm khi cân nặng ít hơn 3,5 g hoặc nhiều hơn 4,2 g" ], "answer_start": [ 411 ] }
false
null
0075-0052-0004
uit_014098
Đế quốc Parthia
Những đồng xu drachma Hy Lạp, thường được làm bằng bạc, bao gồm cả tetradrachm, là đồng tiền tiêu chuẩn được sử dụng trong suốt thời Đế chế Parthia Nhà Arsaces duy trì khu đúc tiền của hoàng gia tại các thành phố Hecatompylos, Seleucia, và Ecbatana Nhiều khả năng họ đã mở một sở đúc tiền tại Mithridatkert / Nisa Từ khi thành lập đế quốc cho đến khi nó sụp đổ, drachm được ban hành trong suốt thời đại Parthia hiếm khi cân nặng ít hơn 3,5 g hoặc nhiều hơn 4,2 g. Những đồng tetradrachm Parthia đầu tiên, trọng lượng về nguyên tắc khoảng 16 g với một số biến thể, xuất hiện sau khi Mithridates I chinh phục vùng Lưỡng Hà và được đúc độc quyền tại Seleucia.
Khối lượng trung bình của một thành phố drachma trong thời đại Parthia là bao nhiêu?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "hiếm khi cân nặng ít hơn 3,5 g hoặc nhiều hơn 4,2 g" ], "answer_start": [ 411 ] }
0075-0053-0001
uit_014099
Đế quốc Parthia
Mặc dù nền văn hóa Hy Lạp của nhà Seleukos được chấp nhận rộng rãi bởi các dân tộc vùng Cận Đông trong thời kỳ Hy Lạp hóa, thời kì Parthia đã chứng kiến một sự hồi sinh của văn hóa Iran trong tôn giáo, nghệ thuật, và thậm chí cả trang phục quần áo Ý thức được cả nguồn gốc Hy Lạp và Ba Tư trong vương quyền của họ, những vị vua Arsaces đi phong cách theo kiểu vua của các vị vua Ba Tư và khẳng định rằng họ cũng là philhellene ("bạn bè của người Hy Lạp") từ "philhellene" được ghi trên đồng tiền Parthia cho đến triều đại của Artabanus II ngưng sử dụng cụm từ này để biểu thị sự hồi sinh của nền văn hóa Iran của Parthia. Vologeses I là vị vua Arsaces đầu tiên sử dụng chữ viết và ngôn ngữ Parthia xuất hiện trên đồng tiền đúc song song với tiếng Hy Lạp Tuy nhiên, việc sử dụng những chữ cái Hy Lạp khắc trên tiền xu Parthia vẫn còn cho đến khi đế quốc sụp đổ.
Nền văn hóa Iran đã tác động đến các mặt nào trong thời đại Parthia?
{ "text": [ "tôn giáo, nghệ thuật, và thậm chí cả trang phục quần áo" ], "answer_start": [ 192 ] }
false
null
0075-0053-0002
uit_014100
Đế quốc Parthia
Mặc dù nền văn hóa Hy Lạp của nhà Seleukos được chấp nhận rộng rãi bởi các dân tộc vùng Cận Đông trong thời kỳ Hy Lạp hóa, thời kì Parthia đã chứng kiến một sự hồi sinh của văn hóa Iran trong tôn giáo, nghệ thuật, và thậm chí cả trang phục quần áo Ý thức được cả nguồn gốc Hy Lạp và Ba Tư trong vương quyền của họ, những vị vua Arsaces đi phong cách theo kiểu vua của các vị vua Ba Tư và khẳng định rằng họ cũng là philhellene ("bạn bè của người Hy Lạp") từ "philhellene" được ghi trên đồng tiền Parthia cho đến triều đại của Artabanus II ngưng sử dụng cụm từ này để biểu thị sự hồi sinh của nền văn hóa Iran của Parthia. Vologeses I là vị vua Arsaces đầu tiên sử dụng chữ viết và ngôn ngữ Parthia xuất hiện trên đồng tiền đúc song song với tiếng Hy Lạp Tuy nhiên, việc sử dụng những chữ cái Hy Lạp khắc trên tiền xu Parthia vẫn còn cho đến khi đế quốc sụp đổ.
Philhellene có nghĩa là gì?
{ "text": [ "bạn bè của người Hy Lạp" ], "answer_start": [ 429 ] }
false
null
0075-0053-0003
uit_014101
Đế quốc Parthia
Mặc dù nền văn hóa Hy Lạp của nhà Seleukos được chấp nhận rộng rãi bởi các dân tộc vùng Cận Đông trong thời kỳ Hy Lạp hóa, thời kì Parthia đã chứng kiến một sự hồi sinh của văn hóa Iran trong tôn giáo, nghệ thuật, và thậm chí cả trang phục quần áo Ý thức được cả nguồn gốc Hy Lạp và Ba Tư trong vương quyền của họ, những vị vua Arsaces đi phong cách theo kiểu vua của các vị vua Ba Tư và khẳng định rằng họ cũng là philhellene ("bạn bè của người Hy Lạp") từ "philhellene" được ghi trên đồng tiền Parthia cho đến triều đại của Artabanus II ngưng sử dụng cụm từ này để biểu thị sự hồi sinh của nền văn hóa Iran của Parthia. Vologeses I là vị vua Arsaces đầu tiên sử dụng chữ viết và ngôn ngữ Parthia xuất hiện trên đồng tiền đúc song song với tiếng Hy Lạp Tuy nhiên, việc sử dụng những chữ cái Hy Lạp khắc trên tiền xu Parthia vẫn còn cho đến khi đế quốc sụp đổ.
Đồng tiền của Parthia có những sự chuyển biến gì từ thời vua Vologeses I?
{ "text": [ "chữ viết và ngôn ngữ Parthia xuất hiện trên đồng tiền đúc song song với tiếng Hy Lạp" ], "answer_start": [ 669 ] }
false
null