text
stringlengths 0
308k
| title
stringlengths 0
51.1k
⌀ | categories
stringlengths 0
57.3k
|
---|---|---|
6144 Kondojiro (provisional designation: 1994 EQ3) là một tiểu hành tinh. Nó được phát hiện bởi Kin Endate và Kazuro Watanabe Đài thiên văn Kitami Hokkaidō, Nhật Bản, ngày 14 tháng năm 1994. Nó được đặt theo tên Jiro Kondo, nhà Nhật Bản chuyên nghiên cứu Ai Cập học và giáo sư khảo cổ Đại học Waseda. *Danh sách các tiểu hành tinh: 6001–7000 JPL Small-Body Database Browser | 6144 Kondojiro | Được phát hiện bởi Kin Endate, Được phát hiện bởi Kazuro Watanabe |
Ngày 26 tháng 10 là ngày thứ 299 (300 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 66 ngày trong năm. *1863 Hiệp hội Bóng đá Anh được thành lập tại Luân Đôn, là hiệp hội bóng đá lâu năm nhất trên thế giới. *1909 Sát thủ dân tộc chủ nghĩa Hàn Quốc An Jung-geun bắn chết cựu Thủ tướng Nhật Bản, Thống giám Hàn Quốc Itō Hirobumi tại Cáp Nhĩ Tân, Đại Thanh. *1940 Máy bay tiêm kích North American P-51 Mustang thực hiện chuyến bay đầu tiên, là một trong những kiểu máy bay nổi tiếng và được biết đến nhiều nhất trong các cuộc chiến tranh. 1942 Trận chiến quần đảo Santa Cruz diễn ra. *1955 Việt Nam Cộng hòa được thành lập trên cơ sở Quốc gia Việt Nam, thủ đô là thành phố Sài Gòn, tổng thống là Ngô Đình Diệm. *1956 Ban hành Hiến pháp của Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam. *1967 Mohammad Reza Pahlavi tiến hành nghi lễ đăng quang hoàng đế Iran, sau đó phu nhân của ông là Farah Pahlavi cũng đăng quang hoàng hậu. *1979 Giám đốc Cơ quan tình báo quốc gia Hàn Quốc Kim Jae-kyu tiến hành ám sát Tổng thống Park Chung Hee, Choi Kyu-hah trở thành tổng thống. *2017– Lễ hỏa táng cố quốc vương Thái Lan Bhumibol Adulyadej. 1846 Lewis Boss, nhà thiên văn học người Mỹ. 1883 Napoleon Hill, tác giả người Mỹ. 1926 Phạm Hà Thanh, Chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa. 1947 Hillary Clinton, nữ chính khách Mỹ. 1960 Giuse Vũ Văn Thiên, Tổng giám mục Tổng giáo phận Hà Nội. 1990 Bảo Thanh, nữ diễn viên Việt Nam. *1995 Nakamoto Yuta, ca sĩ, thành viên NCT (nhóm nhạc). 1824 Nguyễn Phúc Chẩn, tước phong Thiệu Hóa Quận vương, hoàng tử con vua Gia Long (s. 1803). 1996 Hoàng phi Chí Lạc, thứ phi của vua Thành Thái (s. 1890). 1979 Tổng thống Hàn Quốc Park Chung-hee, bị trưởng phòng tình báo Kim Jae-kyu giết. 2007 Khun Sa, trùm ma túy 2021 Tổng thống Hàn Quốc Roh Tae-woo *Quốc Khánh Việt Nam Cộng Hòa (từ 1955 đến 1975). | 26 tháng 10 | Ngày trong năm |
Silly ()là một đô thị tỉnh Hainaut. Tại thời điểm ngày tháng năm, 2006 Silly có dân số 7.995 người. Tổng diện tích là 67,68 km² với mật độ dân số là 118 người trên mỗi km². Trang mạng chính thức Local artisanal brewery | Silly | Đô thị của Hainaut |
The Ranita Nublada Del Turumiquire là một loài ếch trong họ Chúng là loài đặc hữu của Venezuela. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và hang. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. Manzanilla, J., Señaris, C., &La Marca, E. 2004. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 22 tháng năm 2007. | Ranita Nublada Del Turumiquire | |
Tề Ai Vương (chữ Hán:齊哀王) có thể là: *Tề Ai vương Lưu Tương, vị vua thứ của nước Tề thời Tây Hán *Tề Ai vương Lưu Chương, vị vua đầu tiên của nước Tề thời Đông Hán *Ai Vương Vũ Ai vương Tương Ai Vương An Bình Ai Vương Trung Sơn Ai Vương Sở Ai Vương Thành Dương Ai Vương *Tề Lệ Vương *Tề Dạng Vương *Tề Kính Vương *Tề Thái công *Tề Trang công *Tề Hoàn công *Tề Huệ Công *Tề Hiến Công *Tề Vũ Công | Tề Ai Vương | |
Mocis là một chi bướm đêm thuộc họ Erebidae. Mocis alterna (Walker, 1858) Mocis ancilla (Warren, 1913) Mocis annetta (Butler, 1878) (= M. arabesca) Mocis antillesia Hampson, 1913 Mocis bahamica Hampson, 1913 Mocis conveniens (Walker, 1858) (= M. detersa) Mocis cubana Hampson, 1913 Mocis diffluens (Guenée, 1852) Mocis diplocyma Hampson, 1913 Mocis discios Kollar, 1844 Mocis disseverans (Walker, 1858) Mocis dolosa (Butler, 1880) (= M. nigrisigna) Mocis dyndima (Stoll, 1782) (= M. dindyma, M. teligera) Mocis frugalis (Fabricius, 1775) Mocis guenei (Möschler, 1880) Mocis incurvalis Schaus, 1923 Mocis inferna (Leech, 1900) Mocis latipes (Guenée, 1852) (= M. collata, M. delinquens, M. exscindens, M. indentata, M. subtilis) Mocis laxa (Walker, 1858) (= M. pavona) Mocis marcida (Guenée, 1852) Mocis mayeri (Boisduval, 1833) (= M. associata, M. diffundens, M. inconcisa, M. jugalis, M. pellita, M. subaenescens) Mocis matuaria (Walker, 1858) Mocis mutuata (Walker, 1858) (= M. insulsa, M. judicans, M. nigrimacula, M. torpida) Mocis paraguayica Hampson, 1913 Mocis persinuosa (Hampson, 1910) Mocis propugnata (Leech, 1900) Mocis proverai Zilli, 2000 Mocis punctularis (Hübner, 1808) Mocis ramifera Hampson, 1913 Mocis repanda (Fabricius, 1794) Mocis sobria (Möschler, 1880) Mocis texana (Morrison, 1875) Mocis trifasciata (Stephens, 1830) (= M. demonstrans, M. discrepans) Mocis undata (Fabricius, 1775) Mocis undifera Hampson, 1913 Mocis vitiensis Hampson, 1913 Mocis xylomiges (Snellen, 1880) Tập tin:Mocis alterna 1.jpg Tập tin:Mocis frugalis Noctuidae Erebidae, Catocalinae.jpg Mocis at funet.fi Natural History Museum Lepidoptera genus database Chi info | ''Mocis | Euclidiini |
Sadleria rigida là một loài dương xỉ trong họ Blechnaceae. Loài này được Copel. mô tả khoa học đầu tiên năm 1916. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Sadleria rigida | Sadleria, Unresolved names |
là một tạp chí kinh doanh đa quốc gia, do Time Inc. phát hành và sở hữu, công ty có trụ sở thành phố New York. Fortune Media Group Holdings, thuộc sở hữu của doanh nhân Thái Lan Chatchaval Jiaravanon, là nhà xuất bản. Ấn phẩm được thành lập bởi Henry Luce vào năm 1929. Tạp chí cạnh tranh với Forbes và Bloomberg Businessweek trong hạng mục tạp chí kinh doanh quốc gia và nổi bật với tạp chí dài, các bài báo chuyên sâu. Tạp chí thường xuyên xuất bản các danh sách được xếp hạng, bao gồm Fortune 500, xếp hạng các công ty theo doanh thu được xuất bản hàng năm kể từ năm 1955. Tạp chí này cũng nổi tiếng với Hướng dẫn cho nhà đầu tư Fortune hàng năm. Fortune do Henry Luce, người đồng sáng lập tạp chí Time thành lập năm 1929 với tên gọi "Tạp chí siêu cấp lý tưởng", một ấn phẩm "phân biệt và sang trọng" "một cách sống động miêu tả, giải thích và ghi lại nền văn minh công nghiệp". Briton Hadden, đối tác kinh doanh của Luce, không hào hứng với tưởng này mà ban đầu Luce nghĩ sẽ đặt tên là "Power" nhưng Luve vẫn giữ chính kiến sau khi Hadden đột ngột qua đời ngày 27 tháng năm 1929. Vào cuối tháng 10 năm 1929, Sự sụp đổ Phố Wall năm 1929 xảy ra, đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ Đại suy thoái. Trong một bản ghi nhớ gửi cho hội đồng quản trị Time Inc. vào tháng 11 năm 1929, Luce viết: "Chúng tôi sẽ không quá lạc quan. Chúng tôi sẽ nhận ra rằng tình trạng kinh doanh sa sút này có thể kéo dài cả năm." Ấn phẩm ra mắt chính thức vào tháng năm 1930. Biên tập viên lúc này là Luce, quản lý biên tập viên Parker Lloyd-Smith, và giám đốc nghệ thuật Thomas Maitland Cleland. Các bản sao duy nhất của số đầu tiên có giá US$1 (khoảng US$16.22 năm 2021). Một huyền thoại đô thị nói rằng Cleland đã chế nhạo trang bìa của số đầu tiên với giá đô la vì chưa ai quyết định nên bán giá bao nhiêu; tạp chí đã được in trước khi công chúng kịp nhận ra, và khi mọi người nhìn thấy nó, họ nghĩ rằng tạp chí phải thực sự có nội dung đáng giá. Trên thực tế, đã có 30.000 người đăng ký đã đăng ký để nhận số báo đầu dài 184 trang đó. Đến năm 1937, số lượng người đăng ký đã tăng lên 460.000 và tạp chí đã kiếm được nửa triệu đô la lợi nhuận hàng năm. Ngày 26 tháng 11 năm 2017, có thông báo rằng Meredith Corporation sẽ mua lại Time Inc. trong một thỏa thuận trị giá 2,8 tỷ USD. Việc mua lại được hoàn tất vào ngày 31 tháng năm 2018. Ngày tháng 11 năm 2018, Tập đoàn Meredith bán Fortune cho tỷ phú Thái Lan Chatchaval Jiaravanon với giá 150 triệu USD. Jiaravanon có liên kết với Tập đoàn Charoen Pokphand có trụ sở tại Thái Lan, tập đoàn có cổ phần trong lĩnh vực nông nghiệp, viễn thông, bán lẻ, dược phẩm và tài chính. Fortune thường xuyên công bố danh sách xếp hạng. Ví dụ như trong lĩnh vực nhân sự, công ty xuất bản danh sách Công ty tốt nhất để làm việc. Danh sách bao gồm các công ty xếp theo thứ tự doanh thu và hồ sơ doanh nghiệp: *Fortune 500 *Fortune 1000 *Fortune Global 500 *Fortune India 500 *40 Under 40 Những nữ doanh nhân quyền lực nhất Fortune *100 công ty tốt nhất để làm Những công ty được ngưỡng mộ nhất thế giới 100 công ty phát triển nhanh nhất Danh sách Kỳ lân Doanh nhân của năm Change the World 50 nhà lãnh đạo vĩ đại nhất thế giới The Ledger 40 Under 40 Future 50 100 nơi làm việc tốt nhất cho Thế hệ thiên niên kỷ 100 nơi làm việc tốt nhất cho Phụ nữ 50 nơi làm việc tốt nhất cho Sinh viện mới ra trường Nơi làm việc tốt nhất cho sự đa dạng Đã có 17 nhà biên tập hàng đầu kể từ khi Fortune hình thành năm 1929. Theo xu hướng loại bỏ vị trí tổng biên tập tại Time Inc. vào tháng 10 năm 2013, danh hiệu biên tập viên hàng đầu đã được thay đổi từ "biên tập viên quản lý" (managing editor) sang "biên tập viên" năm 2014. Parker Lloyd-Smith (1929–1931) Ralph Ingersoll (1932–1935) Eric Hodgins (1935–1937) Russell Davenport (1937–1940) Richardson Wood (acting; 1940–1941) Ralph D. "Del" Paine, Jr. (1941–1953) Hedley Donovan (1953–1959) Duncan Norton-Taylor (1959–1965) Louis Banks (1965–1970) Robert Lubar (1970–1980) William S. Rukeyser (1980–1986) Marshall Loeb (1986–1994) Walter Kiechel III (1994–1995) John Huey (1995–2001) Richard "Rik" Kirkland (2001–2005) Eric Pooley (2005–2006) Andrew "Andy" Serwer (2006–2014) Alan Murray (2014–2017) Clifton Leaf (2017 đến nay) Fortune Battle of the Corporate Bands, cuộc thi âm nhạc hàng năm cho các ban nhạc do các công ty nghiệp nghiệp dư tài trợ Danh sách tạp chí Hoa Kỳ James S. Miller, "White-Collar Excavations: Fortune Magazine and the Invention of the Industrial Folk," American Periodicals, vol. 13 (2003), pp. 84–104. In JSTOR Fortune en Español Fortune India Fortune China Fortune Turkey Fortune Mexico List of 100 Best Companies to Work For | null | |
Bitch Lasagna (hay còn gọi là T-Series Diss Track) là một bài hát của YouTuber người Thụy Điển PewDiePie với sự hợp tác của nhà sản xuất âm nhạc Party In Backyard. Bài hát được dùng như là một lời phản ứng của dự đoán rằng T-Series sẽ vượt mặt PewDiePie về số lượt người đăng ký trên YouTube. Bài hát này đã trở thành một trong những sự kiện đầu tiên trong cuộc cạnh tranh giữa PewDiePie và T-Series, cả hai kênh YouTube này đều đang cạnh tranh cho danh hiệu "Kênh được đăng ký nhiều nhất trên Youtube". Bài hát được lần đầu đăng tải lên YouTube vào ngày tháng 11 năm 2018, tuy nhiên bài hát đã được đặt lại tên và đăng tải lại ngày sau đó. Đến tháng năm 2022, video đã thu về 300 triệu lượt xem và trở thành video được xem nhiều nhất trên kênh của PewDiePie. Vào giữa đến cuối năm 2018, số lượng người đăng ký của hãng âm nhạc Ấn Độ T-Series đã nhanh chóng tiếp cận với Youtuber người Thụy Điển PewDiePie, người vào thời điểm đó có kênh YouTube được đăng ký nhiều nhất. Do đó, người hâm mộ cùng với những người nổi tiếng và những người dùng trên YouTube khác đã thể hiện sự ủng hộ của họ đối với mỗi kênh bằng cách khuyến khích những người khác đăng ký. Trong cuộc cạnh tranh, cả hai kênh đã đạt được một số lượng người đăng ký đáng kể với tốc độ nhanh chóng, tăng từ khoảng 60 triệu lên 100 triệu người đăng ký trong vòng vài tháng. Hai kênh đã vượt mặt nhau về số lượng người đăng ký vào tháng 2, tháng và sau đó vào tháng năm 2019, khi PewDiePie tuyên bố chấm dứt meme "Đăng ký PewDiePie" và T-Series trở thành kênh YouTube được đăng ký nhiều nhất. Tiêu đề của bài hát đề cập đến một ảnh chụp màn hình Facebook Messenger lan truyền, rất phổ biến trên Reddit, trong đó một người đàn ông Ấn Độ, nói tiếng Anh không thạo, yêu cầu chụp ảnh khỏa thân và khi tin nhắn của anh ta không được trả lời, anh ta đăng món đĩ lasagna" (lasagna có thể gần giống với cụm từ chia tay hasta lasagna, nhưng không có dấu chấm câu, bài đăng trông giống như anh ấy đang gọi cô ấy là đĩ lasagna). Trong bài hát, PewDiePie xúc phạm T-Series và nội dung video của họ, nhắc đến các định kiến về Ấn Độ và cáo buộc công ty sử dụng bot người đăng ký để đạt được đăng ký giả. Khi mức độ của cuộc cạnh tranh PewDiePie vs T-Series tăng lên trên các phương tiện truyền thông chính thống, các tổ chức tin tức đã đưa tin về "Bitch Lasagna" vì vai trò của nó trong mối thù. Vox cáo buộc lời bài hát có chứa lời lẽ "phân biệt chủng tộc công khai và ngụ ý", điều mà họ cho rằng đã lan tỏa sự ủng hộ của người hâm mộ PewDiePie dành cho kênh của anh qua T-Series. Rolling Stone đưa tin PewDiePie đã bị buộc tội sử dụng những lời nói tục tĩu chống phá Ấn Độ trong bài hát, tạp chí này tiếp tục đưa tin rằng: "nhiều người đã tranh luận ... rằng việc anh sử dụng trò đùa hài hước chống người Do Thái hoặc phân biệt chủng tộc trong video của mình có thể đóng vai trò như một cánh cổng để người đăng ký bắt đầu tìm kiếm nội dung cực đoan rõ ràng hơn", mặc dù điều này đã bị Evan Balgord (giám đốc điều hành của Mạng chống thù địch Canada) phản bác; ông được trích dẫn nói, “PewDiePie hiếm khi nổi lên trong radar của tôi. Do đó, tôi không theo dõi anh ấy chặt chẽ ... anh ấy gần như không được coi là bước đệm để cực đoan hóa với tư cách là một cá nhân như Stefan Molyneux chẳng hạn." Vào ngày 10 tháng năm 2019, bài hát đã bị cấm Ấn Độ do PewDiePie phát hành ca khúc thứ hai chống lại T-Series, T-Series chỉ trích cả hai bài hát là "phỉ báng, miệt thị, xúc phạm" và các bài hát có "nhận xét lặp đi lặp lại ... mang tính chất lạm dụng, thô tục và phân biệt chủng tộc." Tòa án tối cao Delhi đã đưa ra phán quyết cấm phát hành công khai cả hai bài hát trên toàn Ấn Độ theo yêu cầu của T-Series, có điều cần lưu là, trong liên lạc với T-Series sau khi phát hành "Bitch Lasagna", PewDiePie đã xin lỗi vì đã đăng video và "đảm bảo rằng anh sẽ không lên kế hoạch đăng tải video chế nhạo T-Series nữa." Vào tháng năm 2019, có thông tin cho rằng T-Series và PewDiePie đã giải quyết các tranh chấp pháp lý của họ bên ngoài tòa án. Bảng xếp hạng (2018) Thứ hạng cao nhất UK Indie Breakers (OCC) 18 Party In Backyard, dưới dạng đĩa đơn (19 tháng 10 năm 2018) Dylan Locke, một bản remix dưới dạng đĩa đơn (11 tháng 12 năm 2018) Ghi chú PewDiePie T-Series PewDiePie vs T-Series Congratulations Video trên YouTube | Bitch Lasagna | Nhạc pop, Video lan truyền nhanh |
Abudefduf concolor là một loài cá biển thuộc chi Abudefduf trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1862. Từ định danh trong danh pháp theo tiếng Latinh có nghĩa là "có màu đồng nhất", hàm đề cập đến các tông màu nâu trên toàn thân của loài cá này. A. concolor xuất hiện dọc theo bờ biển Đông Thái Bình Dương. Loài này được ghi nhận từ Guatemala trải dài đến Peru, bao gồm quần đảo Galápagos, đảo Cocos và đảo Malpelo ngoài khơi. A. concolor sống gần những rạn san hô và bờ biển đá vùng gian triều, độ sâu đến ít nhất là m. A. concolor có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là 19 cm. Cơ thể có màu nâu xám đến nâu sẫm với những vệt sọc màu trắng nhạt; vùng bụng sáng màu hơn thân trên. Vảy cá viền đen sẫm. Vây bụng màu trắng. Đốm đen hình nêm gốc vây ngực. A. concolor trước đây được xem là một danh pháp đồng nghĩa của Abudefduf declivifrons nhưng đã được công nhận là một loài riêng biệt dựa vào những bằng chứng di truyền. Số gai vây lưng: 13; Số tia vây vây lưng: 12–13; Số gai vây hậu môn: 2; Số tia vây vây hậu môn: 10–12; Số tia vây vây ngực: 18–20. Thức ăn của A. concolor có thể là tảo và các loài giáp xác nhỏ. Cá đực có tập tính bảo vệ và chăm sóc trứng. | ''Abudefduf concolor | Cá Thái Bình Dương, Cá Guatemala, Cá El Salvador, Cá Honduras, Cá Nicaragua, Cá Costa Rica, Cá Panama, Cá Colombia, Cá Ecuador, Cá Peru, Động vật được mô tả năm 1862 |
File:Thylacodes arenarius 02.JPG File:Thylacodes arenarius 01.JPG arenarius' là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống biển trong họ Vermetidae. Thể | null | Động vật được mô tả năm 1767 |
Al-Na'im (; cũng đánh vần al-Naeem) là một ngôi làng miền trung Syria, một phần hành chính của Tỉnh Homs, nằm phía tây nam của Homs và phía tây bắc của al-Qusayr. Ngay phía đông biên giới với Lebanon và trên bờ phía tây của hồ Qattinah, các địa phương lân cận bao gồm al-Aqrabiyah phía nam, Tell al-Nabi Mando, Arjoun, al-Houz phía đông nam, Kafr Mousa và al-Ghassaniyah phía đông, Khirbet Ghazi phía đông bắc và Wujuh al-Hajar và Liftaya phía bắc. Theo Cục Thống kê Trung ương Syria (CBS), al-Na'im có dân số 2.290 trong cuộc điều tra dân số năm 2004. | Al-Na'im | |
Henry "Harry" Fearnley (16 tháng năm 1935 12 tháng năm 2013) là một cầu thủ bóng đá sinh ra Penistone, gần Barnsley, Yorkshire, thi đấu vị trí thủ môn cho Huddersfield Town, Oxford United và Doncaster Rovers. Mùa giải 1965−66, Fearnely vô địch 4th Division cùng với Rovers. Ông mất ngày 12 tháng năm 2013, tại nhà Poole, Dorset, hưởng thọ 77 tuổi. | Henry "Harry" Fearnley | Sinh năm 1935, Mất năm 2013, Người Penistone, Cầu thủ bóng đá Anh, Cầu thủ bóng đá English Football League, Cầu thủ bóng đá Huddersfield Town A.F.C., Cầu thủ bóng đá Oxford United F.C., Cầu thủ bóng đá Doncaster Rovers F.C., Cầu thủ bóng đá Penistone Church F.C. |
Benjamin "Bibi" Netanyahu (, cũng viết là Binyamin Netanyahu, sinh ngày 21 tháng 10 năm 1949) là Thủ tướng của Israel. Ông trước kia đã giữ chức vụ này từ tháng năm 1996 tới tháng năm 1999 và hiện là Chủ tịch Đảng Likud. Netanyahu là thủ tướng đầu tiên (và duy nhất cho tới hiện tại) của Israel sinh ra sau khi Nhà nước Israel được thành lập. Netanyahu từng là Bộ trưởng Ngoại giao (2002–2003) và Bộ trưởng Tài chính (2003 tháng năm 2005) trong các chính phủ của Ariel Sharon, nhưng ông đã ra đi sau những bất đồng về Kế hoạch rút quân khỏi Gaza. Ông lấy lại chức vụ lãnh đạo Likud ngày 20 tháng 12 năm 2005. Trong cuộc bầu cử năm 2006, Likud có kết quả tồi tệ, chỉ giành được mười hai ghế. Tháng 12 năm 2006, Netanyahu trở thành Lãnh đạo đối lập chính thức trong Knesset và Chủ tịch Đảng Likud. Tháng năm 2007, ông tiếp tục giữ chức lãnh đạo Likud sau khi đánh bại Moshe Feiglin trong cuộc bầu cử của đảng. Sau cuộc bầu cử nghị viện ngày 10 tháng năm 2009, trong đó Likud đứng thứ hai và các đảng cánh hữu giành đa số, Netanyahu đã thành lập chính phủ liên minh. Ông là em trai của một chỉ huy Các lực lượng đặc biệt Israel Yonatan Netanyahu, người đã chết trong một phi vụ giải cứu con tin, và Iddo Netanyahu, một tác gia và nhà soạn kịch Israel. Trong suốt thời kì làm Thủ tướng Israel từ năm 2009-nay, ông được coi như là một lãnh đạo "diều hâu", "hiếu chiến", và "rất sẵn sàng gây chiến tranh với Palestine bất kì lúc nào". Trong khoảng thời gian xảy ra Nội chiến Syria (2011-nay), quân đội Israel dưới quyền ông đã liên tục bắn phá các cứ điểm của quân đội chính phủ Syria phía nam nhằm tìm cách phá tan thế thượng phong của chính quyền Bashar al-Assad tại Syria, và cứu nguy cho phe đối lập Syria, dẫn đến nhiều cuộc giao tranh biên giới với Syria. Ông cũng được cho là sẽ đe dọa "đánh tan các hệ thống vũ khí" mà Nga bán cho Syria nếu Nga "tiếp tục bán vũ khí cho bọn độc tài al-Assad" khi ông gặp Tổng thống Nga Vladimir Putin vào đầu Tháng năm 2013. Có họ hàng với Rabbi Eliyahu của Vilna (the Vilna Gaon) theo đằng bố, Netanyahu ra đời tại Tel Aviv, là con của Cela (Tsilah; tên khi sinh Segal) và Benzion Netanyahu (tên gốc Mileikowsky). Mẹ ông sinh năm 1912 tại Petah Tikva, một phần của Palestine Ủy trị Anh tương lai cuối cùng trở thành Israel. Dù tất cả ông bà ông đều sinh ra tại Đế chế Nga (hiện là Belarus, Litva và Ba Lan), ông bà ngoại ông đã di cư tới Minneapolis tại Hoa KỲ. Cha của Netanyahu là cựu giáo sư Lịch sử Do Thái tại Đại học Cornell, một cựu biên tập Encyclopaedia Hebraica, và cựu phụ tá cao cấp của Ze'ev Jabotinsky, người vẫn tích cực nghiên cứu và viết lách độ tuổi 90. Ông nội ông là Rabbi Natan Mileikowsky, một giáo sĩ Tôn giáo Zionist hàng đầu và là một người gây quỹ cho Quỹ Quốc gia Do Thái. Sinh năm 1949 tại Tel Aviv, Netanyahu là thủ tướng đầu tiên của Israel sinh ra tại Nhà nước Israel. (Yitzhak Rabin sinh ra tại Jerusalem, thuộc Palestine Ủy trị Anh, trước khi nhà nước Israel được thành lập năm Israel.) Khi Netanyahu lên 14, gia đình ông chuyển đến Hoa Kỳ và định cư tại Cheltenham, Pennsylvania, một vùng ngoại của Philadelphia, nơi ông tốt nghiệp Cheltenham High School. Thời trẻ, một người họ hàng của ông cũng tên là Binyamin khi đó được gọi là 'Bibi', và gia đình Netanyahu cũng đặt tên hiệu cho ông là 'Bibi.' Tới hiện tại, ông nói tiếng Anh với giọng Mỹ. Anh trai của Netanyahu, Yonatan, đã thiệt mạng tại Uganda trong Chiến dịch Entebbe năm 1976. Em trai ông, Iddo, là một chuyên gia quang và tác gia. Tất cả ba người đều phục vụ trong đơn vị trinh sát Sayeret Matkal thuộc Các lực lượng Phòng vệ Israel từ năm 1967 tới năm 1972 Benjamin giữ chức đại uý. Ông có một bằng B.S. về kiến trúc của Viện Công nghệ Massachusetts năm 1975, một bằng M.S. của MIT Sloan School of Management năm 1977, và đã học khoa học chính trị tại Đại học Harvard và MIT. Sau khi tốt nghiệp, Netanyahu làm việc tại Boston Consulting Group Boston, Massachusetts, và cuối cùng quay trở về Israel. Sau một thời gian ngắn làm người phụ trách marketing trong một công ty nội thất, Netanyahu được Moshe Arens chỉ định làm Phó đoàn của mình tại Đại sứ quán Israel Washington, D.C. năm 1982. Sau đó, ông trở thành Đại sứ Israel tại Liên Hợp Quốc, giữ chức vụ này từ năm 1984 tới năm 1988. Ông được bầu vào Knesset năm 1988, và phục vụ trong các chính phủ của Yitzhak Shamir từ năm 1988 đến năm 1992. Shamir rút lui khỏi chính trị ngay sau thất bại của Likud trong cuộc bầu cử năm 1992. Năm 1993, lần đầu tiên, đảng tổ chức một cuộc bầu cử sơ bộ để bầu lãnh đạo, và Netanyahu giành thắng lợi, đánh bại Benny Begin, con trai của cựu thủ tướng Menachem Begin, và chính trị gia lão luyện David Levy (Ariel Sharon ban đầu cũng định tranh cử chức lãnh đạo đảng, nhưng nhanh chóng rút liu khi thấy rõ rằng ông không có được nhiều sự ủng hộ). Netanyahu đã viết nhiều cuốn sách, gồm hai cuốn về chiến đấu với chủ nghĩa khủng bố. Ông có một con gái, Noa, từ cuộc hôn nhân đầu tiên với Micki Weizman. Người vợ thứ hai của ông là Fleur Cates, người đã cải theo Đạo Do Thái chỉ bởi cha bà là một người Do Thái. Hiện ông đang sống với người vợ thứ ba, Sara, và có hai con trai với bà này: Yair và Avner. Nửa đầu năm 2008, các bác sĩ đã loại bỏ một polyp ruột kết đã được phát hiện là khối lành. Netanyahu trở thành ông ngày tháng 10 năm 2009, khi con gái ông Noa Netanyahu-Roth (lấy Daniel Roth) sinh một bé trai, Shmuel. Netanyahu là người hâm mộ câu lạc bộ bóng đá Beitar Jerusalem. Năm 1996 người dân Israel lần đầu tiên trực tiếp bầu ra thủ tướng của mình. Netanyahu đã thuê nhà điều hành chiến dịch chính trị Cộng hoà Mỹ Arthur Finkelstein chỉ đạo chiến dịch tranh cử của mình, và dù mang phong cách tranh cử kiểu Mỹ và những lời chỉ trích mạnh mẽ từ phía bên trong Israel, nó vẫn chứng minh là có hiệu quả. (Cách thức này sau đó đã được Ehud Barak copy lại trong chiến dịch tranh cử năm 1999 và đánh bại Netanyahu.) Netanyahu giành thắng lợi, làm ngạc nhiên nhiều người khi đánh bại ứng cử viên được ưa chuộng trước cuộc bầu cử là Shimon Peres. Nguyên nhân chính dẫn tới sự thất bại của Peres là một làn sóng những vụ đánh bom tự sát ngay trước cuộc bầu cử; ngày và tháng năm 1996, người Palestine đã tiến hành hai vụ đánh bom tự sát, làm thiệt mạng 32 người Israel, và Peres dường như không có khả năng ngăn chặn những vụ tấn công. Không như Peres, Netanyahu không tin tưởng Yasser Arafat và đặt điều kiện bất kỳ tiến bộ nào trong tiến trình hoà bình đều phải đi kèm với việc Chính quyền Quốc gia Palestine thực hiện các nghĩa vụ của mình chủ yếu chiến đấu chống chủ nghĩa khủng bố, và tranh cử với khẩu hiệu "Netanyahu tạo lập một nền hoà bình an toàn". Tuy nhiên, dù Netanyahu chiến thắng và trở thành thủ tướng, Công Đảng giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Knesset, đánh bại liên minh đồng nghĩa với việc Netanyahu phải dựa trên một liên minh với các đảng chính thống cực đoan, Shas và UTJ (các chính sách an sinh xã hội của các đảng này công khai đối lập với mục tiêu tư bản của ông) để cầm quyền. Tập tin:Netanyahu Arafat với Yasser Arafat và Nabil Shaath tại Diễn đàn Kinh tế thế giới Davos, 1997 Ngay khi được bầu, Netanyahu là người trẻ nhất trong lịch sử giữ chức vụ này. Ông có một mối quan hệ không vững chắc với Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton, người đã có một số lưu rất không thuận lợi với ông trước sự hiện diện của Aaron David Miller. Người phát ngôn Nhà Trắng thời điểm đó Joe Lockhart, người miêu tả Netanyahu trong một cuộc phỏng vấn là "một trong những cá nhân khó chịu nhất bạn sắp phải gặp một kẻ nói phét và lừa đảo. Ông ta có thể mở miệng và bạn có thể không có lòng tin rằng bất kỳ điều gì phát ra từ nó là sự thật." Tập tin:Houghton house Netanyahu Albright ngồi cùng Madeleine Albright và Yassir Arafat tại Wye River Memorandum Với tư cách thủ tướng, Netanyahu đã đàm phán với Yasser Arafat trong khuôn khổ Hiệp ước Sông Wye. Không có tiến bộ nào trong những cuộc đàm phán với người Palestine, và dù họ không thể thực hiện được những bước đã thoả thuận trong Hiệp định Oslo, Netanyahu đã chuyển giao hầu hết quyền tài phán của Hebron cho người Palestine. Năm 1996, Netanyahu và thị trưởng Jerusalem Ehud Olmert quyết định mở một lối ra cho Western Wall Tunnel. Việc này đã dẫn tới những cuộc bạo loạn kéo dài ba ngày của người Palestine, khiến cả người Israel và người Palestine thiệt mạng. Với tư cách thủ tướng Netanyahu nhấn mạnh một chính sách "ba không": không rút quân khỏi Cao nguyên Golan, không đàm phán trường hợp Jerusalem, không đàm phán với bất kỳ điều kiện tiên quyết nào. Netanyahu bị phe chính trị cánh tả tại Israel phản đối và cũng mất sự ủng hộ của cánh hữu bởi những nhượng bộ của ông cho người Palestine Hebron và những nơi khác, và vì những cuộc đàm phán với Arafat của ông nói chung. Sau một chuỗi các scandal dài (gồm cả những chuyện tầm phào về cuộc hôn nhân của ông) và một cuộc điều tra về những cáo buộc tham nhũng (sau này đã được tuyên trắng án), Netanyahu mất sự ủng hộ của người dân Israel. Sau khi bị Ehud Barak đánh bại trong cuộc bầu cử thủ tướng năm 1999, Netanyahu tạm thời rút lui khỏi chính trị. Năm 2001, Netanyahu bỏ lỡ cơ hội quay lại cầm quyền khi ông từ chối ra tranh cử trừ khi có một cuộc tổng tuyển cử, một hành động tạo điều kiện cho Sharon tham gia vào cuộc chạy đua chức thủ tướng. Năm 2002, sau khi Công Đảng Israel rời liên minh và ghế Bộ trưởng Ngoại giao bị bỏ trống, Thủ tướng Ariel Sharon đã chỉ định Netanyahu vào chức vụ này. Ngày tháng năm 2002, một bài phát biểu theo kế hoạch của Netanyahu tại Đại học Concordia Montreal, Quebec đã bị huỷ bỏ sau khi hàng trăm người biểu tình ủng hộ người Palestine đã tràn qua hàng rào an ninh vào sảnh. Netanyahu thoát được không bị thương và sau này đã buộc tội các nhà hoạt động là ủng hộ chủ nghĩa khủng bố và "cuồng tín điên rồ." Netanyahu đã cùng Sharon tranh chức lãnh đạo đảng Likud, nhưng không thành công. Sau cuộc bầu cử năm 2003, trong cái mà nhiều nhà quan sát coi là một hành động đáng ngạc nhiên, Sharon đã đề nghị Bộ Ngoại giao cho Silvan Shalom và đề nghị Netanyahu lãnh đạo Bộ Tài chính. Một số chuyên gia dự báo rằng Sharon có hành động này bởi ông coi Netanyahu là một mối đe doạ chính trị bởi ông đã chứng tỏ khả năng của mình khi là Bộ trưởng Ngoại giao, và rằng bằng cách đặt ông vào Bộ Tài chính trong thời điểm kinh tế bất ổn, ông có thể hạn chế sự ảnh hưởng của Netanyahu. Netanyahu đã chấp nhận sự chỉ định mới sau khi Sharon đồng trao cho ông mức độ độc lập chưa từng có khi điều hành bộ này. Với tư cách Bộ trưởng Tài chính, Netanyahu đã thực hiện một kế hoạch nhằm khôi phục kinh tế từ điểm thấp trong al-Aqsa Intifada. Kế hoạch là một hành động hướng tới các thị trường tự do hoá, mặc dù không phải không gặp những sự chỉ trích. Netanyahu đã thành công trong việc vượt qua nhiều cuộc cải cách từ lâu đã không thể được giải quyết, gồm cả một cuộc cải cách quan trọng trong hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, các đối thủ trong Công Đảng (và thậm chí cả một số bên trong chính đảng Likud) coi các chính sách của Netanyahu là những cuộc tấn công "kiểu Thatcher" vào mạng lưới an sinh xã hội vốn đã dễ bị ảnh hưởng của Israel. Netanyahu đã đe doạ từ chức năm 2004 trừ khi kế hoạch rút quân khỏi Gaza được đưa ra trước một cuộc trưng cầu dân ý, nhưng sau đó đã thay đổi định và bỏ phiếu ủng hộ chương trình này tại Knesset. Ông đệ trình thư từ chức ngày tháng năm 2005, ngay trước khi nội các Israel bỏ phiếu với tỷ lệ 17 trên đồng giai đoạn rút quân đầu tiên khỏi Gaza. Ngay sau đó ông nói mình đã phản đối một lời mời để phục vụ như bộ trưởng tài chính Italia, được cho là đã được nhà tỷ phú Italia Carlo De Benedetti đưa ra, ông này sau đó đã nói đây là một trò đùa. Sau khi Ariel Sharon rút lui khỏi đảng Likud, Netanyahu là một trong nhiều ứng cử viên chạy đua vào chức lãnh đạo Likud. Nỗ lực gần nhất của ông trước sự kiện này là vào tháng năm 2005 khi ông đã tìm cách tổ chức những cuộc bầu cử sơ bộ sớm cho chức vụ lãnh đạo đảng Likud, khi đảng giữ chức Thủ tướng nhờ thế có thể thật sự đẩy Ariel Sharon khỏi chức vụ. Đảng đã bác bỏ đề xuất này. Netanyahu lấy lại quyền lãnh đạo ngày 20 tháng 12 năm 2005, với 47% trong cuộc bỏ phiếu sơ bộ. Trong cuộc bầu cử Knesset tháng năm 2006, Likud về thứ ba sau Kadima và Công Đảng và Netanyahu trở thành Lãnh đạo đối lập. Ngày 14 tháng năm 2007, Netanyahu được bầu lại làm chủ tịch Likud và là ứng cử viên của đảng này cho chức thủ tướng với 73% phiếu bầu, chống lại ứng cử viên cực hữu Moshe Feiglin và Chủ tịch Likud Thế giới Danny Danon. Ông phản đối thoả thuận ngừng bắn Israel–Hamas năm 2008, giống như những người khác trong phái đối lập trong Knesset. Một cách rõ ràng, Netanyahu đã nói, "Đây không phải là một sự dịu bớt căng thẳng, đó là một thoả thuận của Israel nhằm tái vũ trang cho Hamas... Chúng ta có được gì từ điều này?" Sau khi Livni được bầu làm lãnh đạo Kadima và Olmert từ chức thủ tướng, Netanyahu từ chối tham gia liên minh với Livni khi bà tìm cách thành lập chính phủ và ủng hộ cuộc bầu cử mới, được tổ chức tháng năm 2009. Tập tin:Netanyahu campaign posters in poster chiến dịch tranh cử của Netanyahu quanh Jerusalem. Netanyahu là ứng cử viên của Likud co chức vụ thủ tướng trong cuộc bầu cử Israel diễn ra ngày 10 tháng năm 2009, khi Tzipi Livni, được chỉ định làm Quyền thủ tướng dưới chính phủ của Olmert, đã không thể thành lập một liên minh chính phủ bền vững. Trong cuộc đua, website chiến dịch tranh cử của Netanyahu được lưu rất giống với website từng được Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama sử dụng năm trước đó để thu hút cử tri, gồm cả màu sắc, các phông chữ, biểu tượng, và việc sử dụng các đoạn video gắn kèm, và các lựa chọn mạng xã hội như Twitter. Các cuộc thăm dò kiến cho thấy Likud dẫn điểm, nhưng tới một phần ba cử tri Israel vẫn chưa quyết định. Trong cuộc bầu cử, Likud giành số ghế thứ hai, đảng của bà Livni có hơn một ghế. Một sự giải thích có thể là do hình ảnh khá tồi của Likud khi một số người ủng hộ đảng đào tẩu theo đảng Yisrael Beiteinu của Avigdor Lieberman's. Tuy nhiên, Netanyahu đã tuyên bố giành chiến thắng trên cơ sở rằng các đảng cánh hữu giành đa số phiếu, vào ngày 20 tháng năm 2009, Netanyahu được Tổng thống Israel Shimon Peres chỉ định kế nhiệm Ehud Olmert làm thủ tướng và bắt đầu các cuộc đàm phán để thành lập một chính phủ liên minh. Dù các đảng cánh hữu giành đa số 65 ghế trong Knesset, Netanyahu vẫn thích một liên minh ôn hoà lớn hơn và quay sang các đối thủ trong Kadima, với người đứng đầu là Tzipi Livni, mời họ gia nhập chính phủ của ông. Lần này đến lượt Livni từ chối tham gia, với một sự khác biệt kiến về cách theo đuổi tiến trình hoà bình là trở ngại. Netanyahu quả thực đã tìm cách lôi kéo các đối thủ nhỏ hơn, Công Đảng, với chủ tịch là Ehud Barak, tham gia vào chính phủ của ông, khiến ông có một số quan điểm ôn hoà. Netayahu giới thiệu nội các của minh để Knesset "Bỏ phiếu Tín nhiệm" ngày 31 tháng năm 2009. Chính phủ thứ 32 được thông qua ngày hôm đó với đa số 69 đại biểu và các thành viên đã tuyên thệ nhậm chức. Tập tin:Barack Obama with Benjamin Netanyahu in the Oval Office 5-18-09 Obama và Netanyahu tại Phòng Bầu dục Ngay khi phái viên đặc biệt của chính quyền Tổng thống Obama, George Mitchell tới, Netanyahu nói rằng bất kỳ những cuộc đàm phán tiếp nào với người Palestine đều dựa trên điều kiện người Palestine công nhận Israel là một nhà nước Do Thái, bởi vấn đề này vẫn chưa được làm rõ đầy đủ. Quan điểm của Palestine là có một giải pháp hai nhà nước và không có những khu định cư Do Thái tại Judea và Samaria Area, trong khi nhấn mạnh rằng Israel phải chấp nhận những số lượng lớn người tị nạn Palestine. Ba tháng sau khi bắt đầu nhiệm kỳ, Netanyahu lưu rằng nội các của ông đã đạt được một số thành công quan trọng, như việc thành lập một chính phủ thống nhất quốc gia đang hoạt động, và một sự đồng thuận lớn cho một "Giải pháp hai nhà nước". Phái đối lập do Kadima lãnh đạo đã đệ trình một biện pháp bất tín nhiệm lên Knesset ngay sau khi Netanyahu hoàn thành 100 ngày cầm quyền đầu tiên. Một cuộc khảo sát tháng năm 2009 của Ha'aretz cho thấy hầu hết người Israel ủng hộ chính phủ Netanyahu, và ông có tỷ lệ cá nhân ủng hộ khoảng 49%, một sự gia tăng so với 28% trước bài phát biểu Bar-Ilan của ông, để đáp lại bài phát biểu của Tổng thống Obama tại Cairo. Tại Bar-Ilan, Netanyahu cuối cùng và rõ ràng xác nhận một "Nhà nước Palestine Phi quân sự", sau hai tháng từ chối cam kết với bất kỳ điều gì ngoài một nền tự trị tự quản khi nhậm chức. Như một phần của chính sách "hoà bình kinh tế" của mình, nhằm thúc đẩy nền kinh tế Palestine, trong khi nhấn mạnh không phải là một sự thay thế cho các cuộc đàm phán chính trị, Netanyahu đã dỡ bỏ các chốt gác tại Bờ Tây, nhằm do phép tự do đi lại và một dòng hàng nhập khẩu như một "xa lộ tới hoà bình", một bước đi dẫn tới sự tăng trưởng kinh tế Bờ Tây. Ngày 23 tháng năm 2009, nói chuyện tại một sự kiện của Đại sứ quán Ai Cập tại Israel, Netanyahu đã chào đón sáng kiến hoà bình Rập (cũng được gọi là "Sáng kiến Hoà bình Saudi"), một yêu cầu từ lâu của toàn bộ các quốc gia Rập với người Israel, nói rằng "Sáng kiến Rập tạo lập một điều kiện thuận lợi cho Tiến trình Hoà bình", và cũng ca ngợi một lời kêu gọi của Thái tử Bahrain, Salman bin Hamad bin Isa Al Khalifa nhằm bình thường hoá quan hệ với Israel. Tuy nhiên, ngày 31 tháng 7, tại một cuộc họp báo với Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton, Bộ trưởng Ngoại giao Rập Xê Út, Saud El Faisal, đã bác bỏ sự thúc đẩy của Mỹ nhằm khiến các nước Rập có những động thái bình thường hoá quan hệ với Israel như là các biện pháp 'xây dựng lòng tin', nói rằng, cách tiếp cận ngoại giao "'từng bước', không và sẽ không dẫn tới hoà bình", và rằng "sự hoà giải an ninh cũng thế, cái gọi là các biện pháp 'xây dựng lòng tin' cũng sẽ không dẫn tới hoà bình." Ông thêm rằng một cách tiếp cận toàn diện là cần thiết nhằm giải quyết các vấn đề cốt lõi của cuộc xung đột, bao gồm "Tương lai của Nhà nước Palestine, sự kiểm soát Jerusalem, sự quay trở lại quê hương của người tị nạn, và các thoả thuận về nguồn nước và an ninh". Ông cũng cho rằng Israel đang làm chệch hướng sự chú "Từ sự chiếm đóng đã bắt đầu từ năm 1967, và việc thành lập một Nhà nước Palestine, sang các vấn đề hạng hai, như các biện pháp bay (ám chi tới một trong những hành động) và các cuộc tranh cãi hàn lâm, và nói rằng "Đó là thời điểm mọi người dân vùng Trung Đông sẽ sống một cuộc sống bình thường". Ngày 10 tháng năm 2009, trước những báo cáo rằng Hezbollah đang có kế hoạch sử dụng những nỗ lực tấn công các quan chức Israel nước ngoài, Netanyahu đã cảnh báo rằng "Nếu Hezbollah sẽ vào trong chính phủ (Liban) như một phe phái chính thức, hãy rõ ràng mọi việc rằng chính phủ Liban sẽ chịu trách nhiệm về bất cứ một vụ tấn công nào được tiến hành từ lãnh thổ của họ. Một khi họ Hezbullah là một phần của chính phủ, chính phủ chủ quyền của Liban là bên chịu trách nhiệm duy nhất. Tôi hy vọng chúng tôi không buộc phải thực hiện những trả đũa như vậy". Tuy nhiên, ông tiếp tục bảo lưu đánh giá của mình rằng "Không có 'những làn sóng chiến tranh' đang được trù tính phía Bắc" trong ngày hôm sau. Ngày 23 tháng năm 2009, Netanyahu thông báo trong cuộc họp hàng tuần của nội các rằng các cuộc đàm phán với người Palestine sẽ bắt đầu vào tháng và sẽ chính thức được đưa ra trong chuyến thăm của ông tới New York, sau khi ông đã chấp nhận một lời mới từ Tổng thống Barak Obama về một "Cuộc họp Thượng đỉnh Ba nước" tại đó. Ông thêm rằng có tiến bộ với đặc phái viên trực tiếp George Mitchell, dù vẫn không có thoả thuận đầy đủ về mọi thứ, và sẽ có nhiều vòng họp nữa cho tới tháng 9. Cùng ngày hôm ấy, một người phát ngôn của tổng thống Chính quyền Palestine Mahmoud Abbas nói rằng sẽ không có những cuộc đàm phán chứng nào những toà nhà tại những khu định cư tiếp tục được xây dựng. Ngày 26 tháng năm 2009, Netanyahu và đặc phái viên George Mitchell đã gặp gỡ, trong cái được coi là một cuộc họp rất quan trọng về sự thấu hiểu về một sự không đồng thuận giữa Israel và Hoa Kỳ, trong đó họ tái khẳng định trong một tuyên bố chung về nhu cầu về một cuộc đàm phán có nghĩa giữa người Israel và người Palestine để dẫn tới một thoả thuận hoà bình toàn diện, và Abbas đã tuyên bố trong cùng ngày hôm ấy rằng ông sẽ sẵn sàng gặp Thủ tướng Netanyahu tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc, nơi Netanyahu đã chấp nhận lời mời của Tổng thống Obama về một "Cuộc hội nghị Thượng đỉnh Ba nước", dù ông nói nó không cần thiết dẫn tới nhữn cuộc đàm phán. Netanyahu được thông báo đang trong một thời điểm thiết yếu với những hiểu biết đó, mà đã được thông báo gồm cả sự thoả hiệp về việc ho phép tiếp tục việc xây dựng đã được thông qua tại Bờ Tây, đổi lại việc đóng băng mọi khu định cư sau đó, cũng như việc tiếp tục xây dựng Đông Jerusalem, và cùng lúc ấy ngừng việc phá huỷ nhà của những người dân Rập tại đó. Có thông báo rằng chính quyền Mỹ đang lên kế hoạch một cuộc họp thượng đỉnh "đơn giản nhất" với một tuyên bố nguyên tắc và biểu thời gian rõ ràng, chứ không phải là một "Kế hoạch Lớn". Ngày tháng năm 2009, có thông báo rằng Netanyahu đồng với các yêu cầu chính trị của những người định cư để thông qua việc xây dựng thêm tại các khu định cư trước khi một thoả thuận tạm thời diễn ra. Người phát ngôn Nhà Trắng Robert Gibbs đã thể hiến sự "lấy làm tiếc" về động thái này; tuy nhiên, một quan chức Mỹ nói động thái sẽ không "làm chệch hướng đoàn tàu". Ngày tháng năm 2009, Netanyahu rời văn phòng mà không thông báo mình sẽ đi tới đầu, thời gian biểu của ông không được tiết lộ, và các hành động của ông bị giấu kín trong nhiều giờ. Thư ký quân sự của thủ tướng, Thiếu tướng Meir Kalifi, sau này thông báo rằng Netanyahu đã tới thăm một cơ sở an ninh tại Israel. Cùng lúc ấy, một tờ báo của Palestine đưa tin rằng Netanyahu đã ra đi trong một chuyến thăm tới một quốc gia Rập không có các quan hệ ngoại giao với Israel. Ngày tháng năm 2009, Yedioth Ahronoth thông báo rằng lãnh đạo Israel đã có một chuyến bay bí mật tới Moskva để tìm cách thuyết phục các quan chức Nga không bán các hệ thống tên lửa phòng không S-300 cho Iran. Thông báo này đã gây ra một cơn bão trong giới truyền thông khu vực, với những nhà báo tức tối buộc tội văn phòng của Netanyahu là nói dối. Những dòng tít hàng đầu gọi Netanyahu là một "kẻ nói dối" và gọi vụ việc này là một "thất bại." Sau này có thông báo rằng thư ký quân sự của thủ tướng sẽ bị bãi chức vì vụ việc này. The Sunday Times thông báo rằng chuyến đi này được thực hiện để chia sẻ những cái tên của những nhà khoa học Nga mà Israel tin rằng đang tiếp tay cho chương trình vũ khí hạt nhân của Iran. Ngày 16 tháng năm 2009, phái viên đặc biệt George Mitchell đã tới Israel trong một trong những chuyến đi cuối cùng của ông trước hội nghị thượng đỉnh ba nước tại Liên hiệp quốc giữa Tổng thống Obama, Netanyahu và tổng thống Chính quyền Quốc gia Mahmoud Abbas, nhằm dàn xếp cuộc họp đó. Dù có những chuyến đi con thoi giữa người Israel và người Palestine, ông đã không thể dàn xếp cuộc họp thượng đỉnh đó. Tuy nhiên, có thông báo rằng ông đã chờ đợi chuyến đi của mình sẽ được mở rộng, rằng ông sẽ gặp Thủ tướng Netanyahu một lần nữa hai ngày sau đó, và rằng có thể sẽ có một hội nghị thượng đỉnh ba đường mà không tái khởi động tiến trình hoà bình, sau đó những cuộc đàm phán về sự thấu hiểu giữa Israel và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục. Ngày 18 tháng 9, Netanyahu và Mitchell gặp một lần nữa, nhưng không thể đạt tới một thoả thuận sẽ đảm bảo cho cuộc họp thượng đỉnh. Cuối ngày hôm đó, Haaretz thông báo rằng các quan chức Israel lên ánh Chính quyền Palestine về việc cản trở những cuộc đàm phán hoà bình. Ngày 20 tháng năm 2009, Nhà Trắng thông báo rằng họ sẽ tổ chức một cuộc gặp ba hướng giữa Tổng thống Obama, Thủ tướng Netanyahu và Tổng thống Chính quyền Palestine Mahmoud Abbas, bên trong khuôn khổ của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, "trong một nỗ lực nhằm tạo ra nền móng cho việc khởi động lại những cuộc đàm phán về hoà bình Trung Đông." Cuộc gặp diễn ra ngày 22 tháng 9, tại New York. Sau đó, Netanyahu nói rằng ông đồng với Abbas trong cuộc họp rằng những cuộc đàm phán hoà bình phải được khởi động lại càng nhanh càng tốt. Ngày 24 tháng năm 2009, trong một bài phát biểu trước Đại hội đồng Liên hiệp quốc New York, Netanyahu nói Iran đặt ra một mối đe doạ với hoà bình thế giới và rằng cơ quan đại diện của thế giới này có nhiệm vụ ngăn chặn nhà nước Cộng hoà Hồi giáo không thể sở hữu vũ khí hạt nhân. Nêu ra những kế hoạch cho Auschwitz và cả hồi ức của chính các thành viên gia đình ông đã bị Phát xít giết hại, Netanyahu đã truyền tải câu trả lời sôi nổi và công khai của mình với nghi vấn của Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad về Holocaust, và hỏi: "Ông không xấu hổ à?" Ngày 25 tháng 11 năm 2009, Netanyahu thông báo một kế hoạch đóng băng các khu định cư trong vòng 10 tháng, được cho là vì sức ép của chính quyền Obama, vốn hối thúc cả hai bên nắm lấy cơ hội để tái khởi động các cuộc đàm phán. Phái viên đặc biệt của Mỹ George Mitchell nói, "tuy Hoa Kỳ chia sẻ những lo ngại của các quốc gia Rập về những hạn chế của động thái của Israel, nó vẫn là nhiều hơn bất kỳ một chính phủ nào khác của Israel từng thực hiện". Trong thông báo của mình Netanyahu gọi động thái là "một bước đi đau đớn sẽ thúc đẩy quá trình hoà bình" và hối thúc người Palestine có hành động tương tự. Tuy nhiên, người Palestine đã bác bỏ lời kêu gọi. Ngày tháng 12 năm 2009, một dự luật được Netanyahu hậu thuẫn buộc phải có một cuộc trưng cầu dân quốc gia trước bất kỳ đợt rút quân nào khỏi các vùng đất đã được thông qua với tỷ lệ 68-22 tại Knesset. Những người phản đối dự luật tuyên bố nó sẽ là một vật cản nữa cho tiến trình hoà bình, bằng cách trói tay của Thủ tướng trong bất kỳ một hiệp định hoà bình tương lai nào. Nguồn tin từ bộ ngoại giao Syria nói Israel 'đang khiêu khích... cộng đồng quốc tế' với dự luật về trưng cầu dân ý. Sau cuộc bầu cử năm 2022, Netanyahu một lần nữa tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng với tư cách là người lãnh đạo một liên minh theo đường lối cứng rắn. Ông chính thức bắt đầu nhiệm kỳ thứ sáu vào ngày 29 tháng 12 năm 2022. Những tháng đầu tiên trong nhiệm kỳ thứ sáu của Netanyahu tập trung vào các cải cách trong ngành tư pháp, vốn đã bị chỉ trích rộng rãi. Các nhà phê bình nhấn mạnh những tác động tiêu cực của nó đối với sự phân chia quyền lực, văn phòng của Tổng chưởng lý, nền kinh tế, sức khỏe cộng đồng, phụ nữ và dân tộc thiểu số, quyền của người lao động, nghiên cứu khoa học, sức mạnh tổng thể của nền dân chủ Israel và các mối quan hệ đối ngoại của nó. Sau nhiều tuần biểu tình công khai trên đường phố Israel, với sự tham gia của ngày càng nhiều quân nhân dự bị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Yoav Gallant cũng lên tiếng phản đối cải cách vào ngày 25 tháng 3, kêu gọi tạm dừng quy trình lập pháp "vì lợi ích an ninh của Israel". Ông đã bị Netanyahu cách chức vào ngày hôm sau, làm dấy lên các cuộc biểu tình rầm rộ hơn nữa trên khắp Israel và cuối cùng dẫn đến việc Netanyahu đồng trì hoãn luật trong một tháng, cho đến phiên họp tiếp theo của Knesset sau Lễ Vượt qua. Tập tin:Benjamin Netanyahu tại Diễn đàn Kinh tế thế giới Davos, 2009 = Netanyahu trước đó đã gọi những cuộc đàm phán hoà bình do Mỹ bảo trợ là mất thời gian, while at the same time refusing to commit to the same two-state solution as had other Israeli leaders, cho tới một bài phát biểu vào tháng năm 2009. Ông đã nhiều lần có những tuyên bố công khai ủng hộ một cách tiếp cận "kinh tế hoà bình", có nghĩa là một cách tiếp cận dựa trên hợp tác kinh tế và nỗ lực chung chứ không phải sự tiếp tục bất đồng về các vấn đề chính trị và ngoại giao. Điều này phù hợp với nhiều tưởng quan trọng của Kế hoạch Thung lũng Hoà bình. Ông đã ca ngợi tưởng này trong các cuộc thảo luận với cựu Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice. Netanyahu đã tiếp tục ủng hộ những tưởng này khi tới gần ngày bầu cử của Israel. Netanyahu đã nói: Ngay bây giờ, những cuộc đàm phán hoà bình chỉ dựa trên một điều, chỉ dựa trên những cuộc đàm phán hoà bình. thời điểm này sẽ không có nghĩa gì khi nói về vấn đề có thể nói gọn nhất. Đó là Jerusalem hay không có gì, hay quyền quay trở về hay không có gì. Điều đó đã đưa tới những thất bại và dường như sẽ lại mang tới thất bại một lần nữa....Chúng ta phải tạo ra một nền hoà bình kinh tế cùng với một quá trình chính trị. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải tăng cường các phần ôn hoà của nền kinh tế Palestine bằng cách tạo ra sự tăng trưởng nhanh trong những lĩnh vực đó, tăng trưởng kinh tế nhanh tạo ra nền tảng cho hoà bình cho người dân thường Palestine." Tháng năm 2009, trước cuộc bầu cử tháng năm 2009 tại Israel Netanyahu đã thông báo cho phái viên Trung Đông Tony Blair rằng ông sẽ tiếp tục chính sách của các chính phủ Israel của Ariel Sharon và Ehud Olmert bằng cách mở rộng các khu định cư Bờ Tây, trái ngược với Lộ trình, nhưng sẽ không xây dựng những khu định cư mới. = Ngày 14 tháng năm 2009, Netanyahu đã có một bài phát biểu gây nhiều phản ứng tại Đại học Bar-Ilan (cũng được gọi là "Bài phát biểu Bar-Ilan"), Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Begin-Sadat, được truyền trực tiếp Israel và nhiều vùng khắp thế giới Rập, về chủ đề tiến trình hoà bình Trung Đông. Lần đầu tiên ông xác nhận khái niệm về một nhà nước Palestine cùng với Israel. Netanyahu đã ngay lập tức triệu tập một cuộc họp đặc biệt của chính phủ sau khi Obama kết thúc bài phát biểu ngày tháng tại Cairo. Yedioth Ahronoth đã nói rằng những từ ngữ của Obama "đã ngân vang qua các hành lang của Jerusalem". Như một phần của đề xuất của mình, Netanyahu yêu cầu sự giải giáp toàn bộ của nhà nước được đề xuất, không có quân đội, rocket, tên lửa, hay quyền kiểm soát không phận, và nói rằng Jerusalem sẽ là lãnh thổ không thể bị phân chia của Israel. Ông nói rằng người Palestine phải công nhận Israel như một nhà nước quốc gia Do Thái với Jerusalem không thể bị phân chia. Ông phản đối một quyền quay trở về của những người tị nạn Palestine, nói, "bất kỳ yêu cầu nào về tái định cư người tị nạn Palestine bên trong Israel sẽ làm tổn hại tới sự tiếp tục tồn tại như một nhà nước Israel của người Do Thái." Ông cũng nói rằng một sự ngừng lại hoàn toàn với việc xây dựng các khu định cư Israel Bờ Tây, như được yêu cầu trong Lộ trình hoà bình được đề xuất năm 2003, sẽ không xảy ra nhưng những sự mở rộng sẽ bị hạn chế dựa trên sự "tăng trưởng tự nhiên" của dân số, gồm cả di cư, dù vậy không lãnh thổ mới nào sẽ bị đưa vào, dù có điều này, Netanyahu vẫn tuyên bố rằng ông chấp nhận Lộ trình. Ông không thảo luận việc có hay không các khu vực định cư sẽ trở thành một phần của Israel sau những cuộc đàm phán hoà bình, đơn giản nói rằng "vấn đề sẽ được thảo luận". Trong một câu trả lời với những phát biểu của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama trong bài phát biểu của ông tại Cairo, Netanyahu đã lưu ý, "có những người nói rằng nếu Holocaust không xảy ra, Nhà nước Israel sẽ không bao giờ được thành lập. Nhưng tôi nói rằng nếu Nhà nước Israel đã được thành lập trước kia, Holocaust sẽ không xảy ra." Ông cũng nói rằng, "đây là quê hương của người Do Thái, đây là nơi bản sắc của chúng tôi được rèn luyên." Ông nói rằng ông sẽ sẵn sàng gặp gỡ với bất kỳ "lãnh đạo Rập" nào để đàm phán nếu không có những điều kiện tiên quyết, đặc biệt đề cập tới Syria, Rập Xê Út, và Liban. Nói chung, bài phát biểu đại diện cho một sự chuyển hướng khỏi những lập trường diều hâu trước kia của ông chống lại tiến trình hoà bình. Một số thành viên cánh hữu trong liên minh cầm quyền của Netanyahu đã chỉ trích những lưu của ông về việc thành lập một Nhà nước Palestine; tin rằng tất cả đất đai đều phải lại dưới chủ quyền của Israel. Thành viên Knesset thuộc đảng Likud Danny Danon nói rằng Netanyahu đã trở nên "chống lại nền tảng của Likud", trong khi thành viên Knesset Uri Orbakh thuộc Habayit Hayehudi nói rằng nó có "những hàm nguy hiểm".. Lãnh đạo đảng Kadima đối lập Tzipi Livni lưu sau bài phát biểu rằng bà nghĩ Netanyahu không thật sự tin tưởng chút nào vào giải pháp hai nhà nước; bà nghĩ rằng ông đã có một câu trả lời giả mạo trước áp lực của quốc tế.Peace Now nguyền rủa bài phát biểu, nhấn mạnh tới sự thực rằng, theo kiến của nhóm này, nó không đề cập tới người Palestine như những đối tác bình đẳng trong tiến trình hoà bình. Tổng thư ký của Peace Now, Yariv Oppenheimer, nói, "Đó là một sự quay trở lại của Netanyahu từ nhiệm kỳ đầu tiên của ông ta". Trong một bài phát biểu ngày tháng trước phiên khai mạc kỳ họp chính phủ Netanyahu đã lặp lại những đòi hỏi của ông với người Palestine: "Chúng tôi muốn một thoả thuận với hai yếu tố, yếu tố thứ nhất là sự công nhận Israel là một nhà nước quốc gia của người Do Thái và (yếu tố thứ hai là) một sự giải quyết an ninh". Sách và bài viết Tham khảo Liên kết ngoài == Official website (Hebrew), English Russian Biography of Benjamin Netanyahu at Zionism and Israel Information Center Biography Section Website of supporters of Benjamin Netanyahu: Hebrew Benjamin Netanyahu on the definition of terror (BBC)(5 min.) Benjamin Netanyahu Profile on Israeli Lexicon (Ynetnews) Netanyahu: Pullout will worsen Israel's security The Jerusalem Post, tháng năm 2005 Cheltenham High School Hall of Fame Biography Netanyahu’s Fortification Plan The 32nd Government, official Knesset website Sara Netanyahu Sara Netanyahu biography and photos 2009 Speech to the United Nations General Assembly Demilitarized Palestinian State Meaning, context implications, Reut Institution (a Think Tank) | Benjamin "Bibi" Netanyahu | Sinh năm 1949, Nhân vật còn sống, Người Do Thái Mỹ, Người Tel Aviv, Người Do Thái Ashkenazi, Lãnh đạo quốc gia hiện tại, Người Israel-Mỹ, Lãnh đạo đảng phái Israel, Đại diện thường trực của Israel tại Liên hiệp quốc, Người học Đại học Harvard, Người học MIT Sloan School of Management, Chính trị gia Do Thái, Người Do Thái Israel, Lãnh đạo chính phủ thế kỷ 21, Gia đình Netanyahu, Cựu sinh viên Viện Công nghệ Massachusetts, Nhân viên của Boston Consulting Group |
hay el Vilar d'Ovansa) là một xã tỉnh trong vùng Occitanie, phía nam nước Pháp. Xã này nằm khu vực có độ cao trung bình 1600 mét trên mực nước biển. Năm 2008, tường thành của Mont-Louis cùng với những tường thành Vauban đã được UNESCO đưa danh sách di sản thế giới. INSEE commune file Webpage about the fortifications of Mont-Louis Tập tin:Four solaire Mont-Louis furnace of Mont-Louis | null | Xã của |
Đặng Bá Tĩnh (1324 1406) là Thám hoa đời Trần Dụ Tông. Sách Nghệ An ký chép ông đỗ Tiến sĩ Đệ nhất giáp triều Trần. Ông sinh ra tại làng Đông Rang, Tả Thiên Lộc, Nghệ An châu (nay là xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Ông là cháu nội của Nhà thiên văn học đầu tiên của Việt Nam Đặng Lộ, quê Chương Mỹ, Hà Đông. Đến đời bố ông là Đặng Bá Kiển dời đến nam chân núi Hồng Lĩnh lập nghiệp. Ông từng giữ chức Hành khiển vận chuyển sứ. Sau đó thăng đến chức Thượng thư Bộ Lại, tước Tuấn Sĩ Hầu. Con trai của ông là Đặng Đình Dực, giám sinh Quốc tử giám, làm quan tri châu Quỳ Hợp, lộ Nghệ An. Cháu nội của ông là Quốc công Đặng Tất. *Đặng Tộc Đại Tông Phả, Yến Quận công Đặng Tiến Thự viết năm 1683, Tiến sĩ Ứng Quận công Đặng Đình Tướng tục biên năm 1686, Thái Nhạc Quận công Đặng Sĩ Hàn tiếp tục tục biên năm 1745, Nguyễn Văn Thành giới thiệu, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin 2002 Họ Đặng "Nam bang vượng tộc" thời Lý đến thời Lê, Nguyễn Văn Thành, Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng phả học Việt Nam | Đặng Bá Tĩnh | Người Hà Tĩnh, Người Hà Nội |
Takashi Furukawa (sinh ngày 28 tháng 10 năm 1981) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản. Takashi Furukawa đã từng chơi cho Sagan Tosu. | Takashi Furukawa | Sinh năm 1981, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Nhật Bản, Cầu thủ bóng đá J2 League, Cầu thủ bóng đá Sagan Tosu |
Tòa thị chính thành phố từ năm 2007 chính thức được gọi là Tòa thị chính của Nghệ thuật biểu diễn''', được khai trương vào năm 1972, là thành phố nghệ thuật biểu diễn hàng đầu của New Zealand. Nó nằm thành phố trung tâm bên bờ sông Avon nhìn ra quảng trường Victoria, đối diện với vị trí cũ của Trung tâm Hội nghị đã bị phá hủy thành phố Christchurch. Do thiệt hại đáng kể kéo dài trong trận động đất tháng năm 2011, nó đã bị đóng cửa cho đến năm 2019. Nhân viên hội đồng thành phố ban đầu đề nghị phá hủy tất cả trừ khán phòng chính, nhưng tại một cuộc họp vào tháng 11 năm 2012, các ủy viên hội đồng đã bỏ phiếu để xây dựng lại toàn bộ hội trường. Tòa thị chính đầu tiên thành phố Christchurch được xây dựng góc đường Hereford và Quảng trường Nhà thờ, từ đó người ta sẽ nhìn xuống đường Sumner (từ đổi tên thành Phố cao). Các verandah đã được sử dụng như là chỗ làm việc của các cuộc bầu cử. Sảnh của Tòa thị chính thành phố Christchurch Tòa nhà hiện tại là một phần của một trung tâm dân sự dự kiến cho thành phố Christchurch. Phần I, Tòa thị chính thành phố Christchurch, được khai mạc vào ngày 30 tháng năm 1972 bởi Toàn quyền, Ngài Denis Blundell. Dự án được thực hiện bởi sáu chính quyền địa phương lãnh thổ đô thị, tức là Hội đồng thành phố Christchurch, Hội đồng quận Paparua và Heathcote, Hội đồng Borough Riccarton và Lyttelton và Hội đồng quận Waimairi. Năm trong số các chính quyền địa phương đã được hợp nhất trong các cải cách của chính quyền địa phương năm 1989 và Lyttelton trở thành một phần của thành phố Christchurch vào tháng năm 2006, do đó Hội đồng thành phố Christchurch có trách nhiệm duy nhất cho địa điểm này trong những ngày này. | Tòa thị chính thành phố từ năm 2007 chính thức được gọi là | Hộp thông tin khung bản đồ không có ID quan hệ OSM trên Wikidata |
Manduca stuarti là một loài bướm đêm thuộc họ Sphingidae. Nó được tìm thấy Bolivia. Con trưởng thành bay từ tháng 10 đến tháng 12. Manduca stuarti MHNT CUT 2010 460 Cochabamba Bolivia Female dorsal.jpg| Manduca stuarti Manduca stuarti MHNT CUT 2010 460 Cochabamba Bolivia Female stuarti'' | ''Manduca stuarti | Manduca |
nhỏ Bồng Lai các () là một tháp nổi tiếng Bồng Lai, Sơn Đông, Trung Quốc. Đây là một trong Tứ đại danh lâu của Trung Quốc, dù tháp này đôi khi không được liệt kê vào danh sách do không có thi ca về nó. Người ta tin rằng đây là nơi Bát Tiên giáng trần. Đường chia cắt Hoàng Hải và Bột Hải nhìn được nhìn thấy từ khu vực này. *Hoàng Hạc lâu *Đằng Vương các *Nhạc Dương lâu | Bồng Lai các | Yên Đài |
1834 (số La Mã: là một năm thường bắt đầu vào thứ Tư trong lịch Gregory. *24 tháng Chiến tranh Tự do kết thúc 27 tháng Nguyễn Phúc Phương Trinh, phong hiệu Phú Hậu Công chúa, công chúa con vua Minh Mạng (m. 1886). 27 tháng Nguyễn Phúc Hòa Thận, phong hiệu Định Thành Công chúa, công chúa con vua Minh Mạng (m. 1860). *4 tháng John Venn, nhà toán học người Anh (m. 1923). *25 tháng 10 Nguyễn Phúc Hồng Tố, tước phong Hoằng Trị vương, hoàng tử con vua Thiệu Trị (m. 1922). *18 tháng 11 Carl Benjamin Klunzinger, bác sĩ, nhà động vật học người Đức (m. 1914). *34 | 1834 | |
Kaleń () là một ngôi làng thuộc khu hành chính của Gmina wierzno, thuộc quận Kamień, West Pomeranian Voivodeship, phía tây bắc Ba Lan. Nó nằm khoảng phía đông bắc Świerzno, về phía đông Kamień Pomorski và về phía đông bắc của thủ đô khu vực Szczecin. Trước năm 1637, khu vực này là một phần của Duchy of Pomerania. Đối với lịch sử của khu vực, xem Lịch sử của Pomerania. | Kaleń | |
Glochidion moonii là một loài thực vật có hoa trong họ Diệp hạ châu. Loài này được Thwaites mô tả khoa học đầu tiên năm 1861. | ''Glochidion moonii | |
13220 Kashiwagura (1997 NG3) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày tháng năm 1997 bởi T. Okuni Nanyo. JPL Small-Body Database Browser ngày 13220 Kashiwagura | 13220 Kashiwagura | |
Pollex abovia là một loài bướm đêm thuộc họ Erebidae. Nó được tìm thấy miền bắc Sumatra. Sải cánh dài khoảng 10 mm. Cánh trước màu nâu hơi xám sáng. Cánh dưới màu nâu sáng đồng nhất. 2007: Revision of the Micronoctuidae (Lepidoptera: Noctuoidea). Part 1, Taxonomy of the Pollexinae. Zootaxa, 1567: 1-116. Abstract excerpt | ''Pollex abovia | Pollex (Erebidae) |
Tinley Park là một làng thuộc quận Cook, tiểu bang Illinois, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của làng này là 56703 người. Dân số qua các năm: Năm 2000: 48401 người. Năm 2010: 56703 người. American Finder | Tinley Park | Làng của Illinois, Làng quận Cook, Illinois, Khu dân cư thành lập năm 1892, Làng quận Will, Illinois, Vùng đô thị Chicago, Illinois 1853, Khởi đầu năm 1853 |
aemula' là một loài bướm đêm thuộc họ Gracillariidae. Nó được tìm thấy miền bắc và Áo. Con trưởng thành bay từ tháng đến đầu tháng và again từ tháng to đầu tháng làm hai đợt. Ấu trùng ăn Ostrya carpinifolia. Chúng cuộn lá làm tổ. They create upper-surface tentifom mine, practically from the mine of coryli''. Fauna Europaea Thể | null | Côn trùng châu Âu |
Thôi Ngọc Anh (tiếng Trung giản thể: 崔玉英, bính âm Hán ngữ: Cuī Yù Yīng, sinh tháng năm 1958, người Tạng) là nữ chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Bà hiện là Bí thư Đảng tổ, Chủ tịch Chính Hiệp Phúc Kiến. Bà từng là Phó Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nữ chính trị gia người dân tộc thiểu số đầu tiên giữ chức vụ này, kiêm nhiệm là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Tuyên truyền đối ngoại Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Thông tin Quốc vụ viện. Bà cũng từng giữ chức vụ lãnh đạo Tây Tạng như Thường vụ Khu ủy, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Khu ủy Tây Tạng, và Phó Chủ tịch Tây Tạng. Thôi Ngọc Anh là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, học vị Cử nhân Lâm nghiệm, chức danh Cao cấp kinh tế sư. Bà có sự nghiệp cả giáo dục, kinh doanh lẫn công vụ viên Đảng và Nhà nước Trung Quốc. Thôi Ngọc Anh sinh tháng năm 1958 tại huyện Bomê, Tây Tạng, nguyên quán huyện Xương Lạc, nay thuộc địa cấp thị Duy Phường, tỉnh Sơn Đông, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Bà lớn lên và tốt nghiệp cao trung Bomê, thi vào Học viện Nông Mục Tây Tạng vào tháng năm 1978 trong kỳ cao khảo đầu tiên sau phong trào Vận động tiến về nông thôn, học Khoa Lâm nghiệp và tốt nghiệp tháng năm 1982. Cuối năm này, bà tới Bắc Kinh và học một khóa tiến tu hơn nửa năm Đại học Lâm nghiệp Bắc Kinh. Thôi Ngọc Anh được kết nạp Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng năm 1980 tại trường Nông Mục Tây Tạng, từng tham gia khóa tiến tu chính trị từ tháng năm 2000 đến tháng năm 2001, tham gia nghiên cứu sau đại học về kinh tế chính trị học tại Viện Nghiên cứu sinh, tất cả đều tại Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng năm 1975, sau khi tốt học phổ thông, Thôi Ngọc Anh là giáo viên Tiểu học Nyingchi Nyingchi Tây Tạng, và giảng dạy những năm 1975–78 cho đến khi phong trào nông thôn kết thúc. Sau năm đại học 1978–82, bà được giữ lại trường làm giảng viên Học viện Nông Mục Tây Tạng thêm năm nữa. Tháng năm 1985, bà được điều chuyển sang khối nhà nước, nhận vào Sảnh Xây dựng Tây Tạng làm cán bộ Phòng Quy hoạch, rồi chuyển sang Ủy ban Kinh tế và Kế hoạch từ cuối năm 1986. Sau đó nửa năm, bà tiếp tục chuyển cơ quan sang khối doanh nghiệp nhà nước là Công ty Bảo hiểm Nhân dân Trung Quốc, điều về chi nhánh Tây Tạng (Bảo hiểm Tây Tạng) làm cán bộ của Khoa Tài chính doanh nghiệp tại Phòng Nghiệp vụ. Tháng 12 năm 1992, bà là Trợ lý Trưởng phòng Nghiệp vụ, sau đó là Phó Trưởng phòng kiêm Chủ nhiệm Ban Doanh nghiệp Bảo hiểm Tây Tạng, rồi Trưởng phòng Bảo hiểm xe hơi từ tháng năm 1995. Năm 1996, tổng công ty được chuyển đổi thành Tập đoàn Bảo hiểm Nhân dân Trung Quốc (PICC), bà được thăng chức làm Phó Bí thư Đảng tổ, Phó Tổng giám đốc PICC Tây Tạng, cấp chính xứ và tăng cấp phó sảnh sau đó năm. Cuối năm 1999, bà là Bí thư Đảng ủy, Tổng giám đốc PICC Tây Tạng cho đến 2002, tròn 15 năm hãng bảo hiểm này. Tháng năm 2002, Thôi Ngọc Anh được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Tây Tạng, đến tháng 10 năm 2006 thì được bầu vào Ban Thường vụ Khu ủy, và là Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Khu ủy Tây Tạng. Cuối năm 2011, bà được điều về trung ương, nhậm chức Phó Chủ nhiệm Văn phòng Tuyên truyền đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản, đồng thời cũng là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Thông tin Quốc vụ viện. Giai đoạn 2014–15, bà là Thành viên Hội đồng bộ, vụ của Bộ Tuyên truyền, và là Phó Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc từ đầu năm 2015. Với tư cách là người Tạng, một dân tộc thiểu số của Trung Quốc, bà là nữ chính trị gia người dân tộc thiểu số duy nhất vị trí này tại thời điểm đó, và cũng là đầu tiên giữ chức vụ này trong lịch sử của Bộ Trung Tổ. Tháng năm 2018, Thôi Ngọc Anh được điều về tỉnh Phúc Kiến, phân công làm Bí thư Đảng tổ Chính Hiệp tỉnh, rồi được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Phúc Kiến Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc từ ngày 29 tháng 1, là Ủy viên Chính Hiệp Trung Quốc khóa XIII. Cuối năm 2022, bà tham gia Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XX từ đoàn đại biểu Phúc Kiến. Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân Bí thư Tỉnh ủy (Trung Quốc) Tiểu sử Thôi Ngọc Anh Mạng Nhân dân. | Thôi Ngọc Anh | Người Tạng, Nhân vật còn sống, Sinh năm 1958, Người Sơn Đông, Cựu sinh viên Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc |
là một thành phố của bang thủ phủ của huyện Tuttlingen. Battaglia Terme, Bex, Thụy Sĩ Bischofszell, Thụy Sĩ Draguignan, Pháp Waidhofen an der Ybbs, Áo Salford, Anh Official Tuttlingen home page Notes from Tuttlingen description of the surgical instruments industry in the town | null | |
LinDVD của InterVideo là một phần mềm tư hữu thương mại cho Linux để xem DVD và các tệp đa phương tiện. Hiện tại phần mềm này chỉ được cung cấp cho nhà sản xuất. LinDVD có thể chơi các đĩa DVD có khoá bảo vệ (CSS). Một số bản phân phối như Mandriva có kèm phần mềm này trong các bản phân phối Linux, và Dell thì cài đặt nó sẵn trên hệ thống chạy Ubuntu của họ. LinDVD tương tự như WinDVD một ứng dụng đa phương tiện của InterVideo chạy trên Microsoft Windows. WinDVD So sánh các trình đa phương tiện InterVideo LinDVD | LinDVD | Phần mềm xem DVD, Phần mềm Corel |
New Waverly là một thành phố thuộc quận Walker, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 1032 người. *Dân số năm 2000: 950 người. *Dân số năm 2010: 1032 người. American Finder | New Waverly | Quận Walker, Texas |
'Cambarus là một loài tôm hùm đất nhỏ, sống vùng nước ngọt, là loài đặc hữu của Florida và Georgia (Hoa Kỳ). | null | Cambarus, Động vật được mô tả năm 1941, Động vật giáp xác nước ngọt Bắc Mỹ, Động vật đặc hữu Georgia, Động vật đặc hữu Florida |
USS Cowell (DD-547), là một tàu khu trục lớp Fletcher được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt theo tên Trung úy Hải quân John G. Cowell (1785-1814), sĩ quan hải quân tử trận trong cuộc Chiến tranh 1812. Nó hoạt động cho đến hết Thế Chiến II, xuất biên chế năm 1946 nhưng lại cho nhập biên chế trở lại năm 1950 để phục vụ trong Chiến tranh Triều Tiên; tiếp tục hoạt động cho đến năm 1971, khi nó được chuyển Argentina và hoạt động như là chiếc ARA Almirante Storni cho đến khi bị tháo dỡ năm 1982. Cowell được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống cùng mười một Ngôi sao Chiến trận trong Thế Chiến II, và thêm hai Ngôi sao Chiến trận khác khi phục vụ tại Triều Tiên. Cowell được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bethlehem Shipbuilding Corporation San Pedro, California vào ngày tháng năm 1942. Nó được hạ thủy vào ngày 18 tháng năm 1943; được đỡ đầu bởi bà R. Hepburn; và nhập biên chế vào ngày 23 tháng năm 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân C. W. Parker. Khởi hành từ San Pedro vào ngày 28 tháng 10 năm 1943, Cowell đi đến Trân Châu Cảng vào ngày tháng 11, để gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 58, lực lượng tàu sân bay nhanh nòng cốt của Hạm đội Thái Bình Dương. Từ ngày 10 tháng 11 đến ngày 13 tháng 12, nó hộ tống các tàu sân bay khi chúng tung ra các cuộc không kích xuống quần đảo Gilbert, rồi khởi hành từ Espiritu Santo cho các cuộc không kích xuống Kavieng, New Ireland vào cuối năm; xuống các đảo Kwajalein, Ebeye và Eniwetok vào cuối tháng năm 1944. Quay trở lại Majuro, nó lại lên đường tham gia cuộc tấn công Truk trong các ngày 16 và 17 tháng 2, rồi khởi hành đi Trân Châu Cảng để được tiếp liệu và bổ sung. Cowell quay trở về Majuro vào ngày 22 tháng 3, gia nhập trở lại Lực lượng Đặc nhiệm 58 cho các hoạt động: không kích lên Palau, Yap và Ulithi từ ngày 30 tháng đến ngày tháng 4; chiếm đóng Hollandia, New Guinea từ ngày 21 đến ngày 23 tháng 4, và không kích lên Truk, Satawan và Ponape từ ngày 29 tháng đến ngày tháng 5. Sau các cuộc không kích lên đảo Marcus và đảo Wake từ ngày 19 đến ngày 23 tháng 5, nó tiếp tục hộ tống các tàu sân bay trong Chiến dịch Mariana. Nó xuất phát từ căn cứ Majuro từ ngày tháng đến ngày 14 tháng cho các cuộc không kích lên Guam và Rota, tấn công vô hiệu hóa các căn cứ Nhật Bản tại quần đảo Bonin, cũng như cung cấp hỏa lực phòng không bảo vệ cho các tàu sân bay trong Trận chiến biển Philippine trong các ngày 19 và 20 tháng 6. Sau một đợt đại tu tại Eniwetok, Cowell ra khơi vào ngày 29 tháng cùng Đội đặc nhiệm 36.5 cho các cuộc không kích xuống phía Tây quần đảo Caroline, Philippines và Palau, xuống khu vực Manila và vịnh Subic, cũng như hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Morotai vào ngày 15 tháng 9. Nó đi đến đảo Manus để tiếp liệu vào ngày 28 tháng 9, rồi lên đường vào ngày tháng 10 hỗ trợ cho các đợt không kích xuống Okinawa, Luzon và Đài Loan nhằm chuấn bị cho cuộc đổ bộ lên Leyte. Khi các tàu tuần dương và bị trúng ngư lôi trong các cuộc không kích ác liệt của quân Nhật vào các ngày 13 và 14 tháng 10, Cowell đã túc trực để cung cấp điện năng, ánh sáng và phương tiện bơm trong khi các con tàu bị hư hỏng rút lui khỏi khu vực chiến sự. Cowell tham gia cùng lực lượng đặc nhiệm của nó trong trận Hải chiến vịnh Leyte, nơi máy bay từ tàu sân bay đã có mặt kịp lúc để tấn công các con tàu Nhật đang rút lui. Nó quay trở về Ulithi vào ngày 28 tháng 10, làm nhiệm vụ tuần tra và huấn luyện cho đến ngày 26 tháng 12, khi nó được lệnh quay trở về Seattle, Washington cho một đợt đại tu. Cowell quay trở lại khu vực chiến trường, và đã khởi hành từ Saipan vào ngày 27 tháng năm 1945 để tham gia cuộc đổ bộ chiếm đóng Okinawa. Nó hỗ trợ cho cuộc đổ bộ nghi binh vào ngày tháng 4, rồi làm nhiệm vụ cột mốc radar canh phòng vốn đã đem lại cho nó danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống. Cho đến ngày 20 tháng 6, nó phải chịu đựng mối nguy hiểm trong vai trò canh phòng để dẫn đường những máy bay tiêm kích tuần tra chiến đấu trên không cũng như bắn rơi máy bay đối phương bằng hỏa lực phòng không của chính nó. Nhờ sự dũng cảm, kỹ năng cơ động né tránh và hỏa lực phòng không chính xác, ít nhất ba lần nó thoát khỏi bị hư hại. Vào ngày tháng 5, Cowell bắn rơi hai máy bay tấn công cảm tử Kamikaze chỉ cách con tàu hứng chịu một cơn mưa mảnh cháy và dầu đốt, rồi đi đến trợ giúp cho chiếc vốn bị một máy bay Kamizake khác đâm trúng. Đến ngày 13 tháng 5, nó nổ súng vào nhiều máy bay tấn công, rồi đưa các đội chữa cháy và tế sang trợ giúp cho chiếc bị đánh trúng, bảo vệ cho Bache không bị tấn công thêm. Trong một cuộc tấn công khác vào ngày 25 tháng 5, nó bắn rơi một chiếc Kamikaze đang bổ nhào khiến nó nổ tung trên không, gây một cơn mưa mảnh vỡ và cửa buồng lái lên sàn tàu và tạo ra những đám cháy nhỏ. Được tách khỏi nhiệm vụ cột mốc canh phòng vào ngày 20 tháng 6, Cowell gia nhập Đội đặc nhiệm 32.15 để tuần tra ngoài khơi Okinawa trong biển Hoa Đông. Vào ngày 22 tháng 7, nó gửi các đội cứu hộ và chữa cháy sang trợ giúp cho chiếc Sau khi Nhật Bản đầu hàng, nó khởi hành từ Okinawa vào ngày 20 tháng để hỗ trợ cho việc đổ bộ chiếm đóng Matsuyama; rồi lên đường từ Nagoya vào ngày 31 tháng 10 để quay trở về nhà, về đến San Diego, California vào ngày 17 tháng 11. Cowell được cho xuất biên chế vào ngày 22 tháng năm 1946 và được đưa về lực lượng dự bị tại San Diego. Cowell được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 21 tháng năm 1951, và được điều động về Hạm đội Đại Tây Dương; nó rời San Diego vào ngày tháng năm 1952 và đi đến Norfolk, Virginia vào ngày 19 tháng 1. Sau khi tham gia các hoạt động huấn luyện và thực hành, nó khởi hành từ Norfolk vào ngày tháng năm 1953 để đi sang Viễn Đông, gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 77 ngoài khơi Triều Tiên, rồi hoạt động cùng các tàu chiến Hải quân Anh trong thành phần Lực lượng Phong tỏa bờ Tây. Nó đã hộ tống thiết giáp hạm trong hoạt động bắn phá xuống bờ biển phía Đông bán đảo Triều Tiên, rồi gia nhập Đội đặc nhiệm 95.2 cho các hoạt động bắn phá cảng Wonsan, quét mìn và tuần tra ven biển. Cowell rời Sasebo vào ngày 26 tháng cho chuyến đi vòng quanh trái đất để quay trở về nhà, ghé qua Manila trước khi băng qua Ấn Độ Dương, kênh đào Suez và Địa Trung Hải, và về đến Norfolk vào ngày 22 tháng 8. Từ ngày tháng đến ngày 23 tháng 11, nó tiến hành các cuộc thực tập tìm-diệt, và băng qua Đại Tây Dương và Địa Trung Hải cho các hoạt động tương tự từ ngày tháng đến ngày 11 tháng năm 1954 Vào ngày tháng năm 1955, Cowell rời Norfolk để đi sang Long Beach, California, đến nơi vào ngày 28 tháng 1, nơi nó gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương. Trong lượt phục vụ tại khu vực Tây Thái Bình Dương năm 1955, nó tham gia các cuộc thực tập tên lửa điều khiển trên đường đi Trân Châu Cảng, phục vụ canh phòng máy bay cho tàu sân bay phục vụ tuần tra tại eo biển Đài Loan, và tham gia các cuộc thực tập tìm-diệt cùng Lực lượng Đặc nhiệm 77. Nó quay trở lại khu vực Viễn Đông hàng năm cho các hoạt động tương tự, xen kẻ với việc huấn luyện và thực hành tại Long Beach, cho đến năm 1960. Cowell được cho xuất biên chế lần sau cùng vào ngày 17 tháng năm 1971, rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ, và được chuyển giao cho chính phủ Argentina. Nó phục vụ cùng Hải quân Argentine như là chiếc ARA Almirante Storni. Con tàu từng can dự vào việc tranh chấp quần đảo Falkland giữa Argentina và Anh Quốc, khi nó nổ súng vào con tàu đưa Nam tước Shackleton, con trai nhà thám hiểm Nam Cực Ernest Shackleton, đi khảo sát kinh tế quần đảo này vào ngày tháng năm 1976, một trong những xung đột vốn dẫn đến cuộc Chiến tranh Falkland. Almirante Storni ngừng hoạt động và bị tháo dỡ năm 1982. Cowell được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống cùng mười một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II; nó còn được tặng thêm hai Ngôi sao Chiến trận khác khi phục vụ trong Chiến tranh Triều Tiên. Bài này có các trích dẫn từ nguồn Dictionary of American Naval Fighting Ships thuộc phạm vi công cộng: navsource.org: USS Cowell hazegray.org: USS Cowell | USS ''Cowell'' (DD-547) | Lớp tàu khu trục Fletcher |
Yoshimasa Fujita (sinh ngày 23 tháng năm 1979) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản. Yoshimasa Fujita đã từng chơi cho Montedio Yamagata. | Yoshimasa Fujita | Sinh năm 1979, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Nhật Bản, Nhân vật liên quan đến bóng đá từ Saitama, Cầu thủ bóng đá J2 League, Cầu thủ bóng đá Montedio Yamagata |
Vào lúc 14:11 PST (06:11 UTC) ngày 15 tháng 12 năm 2019, diễn ra trận động đất dữ dội tỉnh Davao del Sur trên đảo Mindanao Philippines với cường độ rất mạnh 6,8 Nó có cường độ cảm nhận tối đa là VII (rất mạnh) trên Thang đo Mercalli. Ít nhất 13 người đã thiệt mạng, người mất tích và 210 nguội bị thương. Mindanao nằm trên ranh giới hội tụ phức tạp giữa mảng Sunda và mảng Philippines. Một phần của sự hội tụ xiên giữa các mảng này được nâng lên bởi hút chìm dọc theo rãnh Cotabato. Đứt gãy trượt bằng của sự hội tụ chứa đựng nguyên nhân một phần bởi Hệ thống đứt gãy Philippine và một phần bởi Hệ thống đứt gãy Cotabato, một mạng lưới các đứt gãy trượt hình sin chủ yếu (bên trái) tạo thành ranh giới giữa Vòng cung Cotabato và Vành đai núi lửa miền Trung Mindanao. Trong khu vực xảy ra trận động đất tháng 12 năm 2019, các đứt gãy riêng lẻ bao gồm đứt gãy đứt gãy Tangbulan và đứt gãy Trung tâm Digos. Trận động đất được ghi nhận có cường độ 6,8 bởi ANSS và 6,9 bởi PHIVOLCS. Cường độ cảm nhận tối đa được đưa ra là MMI VII trên ANSS ShakeMap và VII PEIS trong bản tóm tắt PHIVOLCS cho sự kiện động đất này. Có một loạt các dư chấn lớn, bao gồm sáu 5.0 trong 24 giờ đầu tiên sau trận chấn động chính, trong đó lớn nhất là dư chấn 5.7 khoảng một giờ sau đó, có cường độ cảm nhận tối đa là VII (MMI). Thiệt hại lớn nhất từ trận động đất là khu vực xung quanh chấn tâm, tại các thị trấn Matanao và Padada. Một đứa trẻ sáu tuổi đã bị nghiền nát bởi một bức tường trong barangay của Asinan Matanao. Sáu người khác đã thiệt mạng và một số người khác bị mắc kẹt Padada khi một siêu thị sụp đổ. Tổng cộng có 37 người bị thương trong trận động đất. The International Seismological Centre, Data. Davao del Sur Davao del Sur | null | |
Werner Schulz (2010) Werner Gustav Schulz (22 tháng năm 1950 tháng 11 năm 2022) là một chính trị gia Đức thuộc (Liên minh 90/Đảng Xanh). Ông là đại biểu Quốc hội Liên bang Đức từ 1990 tới 2005 và từ 2009 tới 2014 đại biểu Nghị viện châu Âu. Schulz được cho là nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng từ Đông Đức (DDR) duy nhất, mà đã thành công lâu dài trong đảng Xanh. Ông qua đời ngày tháng 11 năm 2022 tại Berlin vì Nhồi máu cơ tim, hưởng thọ 72 tuổi. Werner Schulz lớn lên Zwickau là con của một chủ hãng chuyên chở độc lập từ một gia đình Dân chủ Xã hội. Hồi nhỏ ông không được cha cho phép tham dự Đoàn thiếu niên Đảng (Junge Pioniere). Sau khi lấy bằng tú tài cùng với bằng thợ máy đầu xe lửa, 1968 ông theo học ngành Kỹ thuật thực phẩm tại zu Berlin, kết thúc 1972 với bằng kỹ sư. Từ 1974 ông làm việc cho | Werner Gustav Schulz | Chính khách Đức, Sinh năm 1950, Mất năm 2022, Dân biểu Đức |
Vụ nổ xe khách Đại Bái, Bắc Ninh là một sự cố nổ xảy ra vào ngày tháng năm 2003, làm 46 người thiệt mạng và hơn hàng chục người khác bị thương, được coi là thảm họa cháy nổ giao thông thảm khốc nhất tại Việt Nam trong những năm thập niên 2000. Vào sáng ngày tháng năm 2003, chiếc xe khách loại Hải Âu (PAZ) do Liên Xô cũ sản xuất, biển kiểm soát 29H-6583 do lái xe Bùi Duy Tiếp và phụ xe Nguyễn Đình Hiệp điều khiển chở 90 hành khách từ Quảng Bố (huyện Lương Tài, Bắc Ninh) đi đến Hà Nội. Trong khi xe đi ngang qua chợ Đại Bái, phường Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, chiếc xe đã bất ngờ phát nổ. Khoảng 90 hành khách trên xe cùng nhiều người phía dưới đường (đang họp chợ Đại Bái) bị bỏng nặng, trong đó đã có hơn 40 người lần lượt tử vong những ngày sau đó và nhiều trường hợp khác bị thương nặng. Nguyên nhân của vụ nổ ban đầu được cho là do chiếc xe có vận chuyển trái phép vật liệu nổ. Sau đó cảnh sát điều tra đã khởi tố Nguyễn Văn Thuận (trú thôn Đại Bái, Gia Bình chung thân) và Đào Tiến Bắc (trú Cẩm Bình, Hưng Yên 10 năm tù) về tội danh “tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép vật liệu nổ”. Theo cáo trạng, Đào Tiến Bắc (đang huyện Mỹ Hào, Hưng Yên lúc vụ nổ xảy ra) đã bán trái phép 50 kg thuốc nổ cho Nguyễn Văn Thuận (Gia Bình, Bắc Ninh), sau khi nhận hàng xong, Thuận dùng xe máy chở vợ là Nguyễn Thị Cầm cùng số thuốc nổ vừa mới mua ra đầu đường 285 để vẫy xe khách cho Cầm ra Hà Nội tiêu thụ hàng. Nguyễn Văn Thuận từ vài năm nay chuyên mua vật liệu nổ để bán cho những người có nhu cầu. Thuận là chủ số thuốc súng giấu phía sau chiếc xe xấu số trên. Vợ Thuận là Nguyễn Thị Cầm, sau đó cũng đã mất trong vụ nổ này. Vụ nổ đã khiến hơn 90 người trên xe bị thương nặng và 46 người lần lượt qua đời, trong đó có bao gồm cả những người đang đứng xung quanh khu vực nổ. Gửi hàng qua xe khách dịch vụ nhiều kẽ hở Đại Bái vật lộn với hậu quả vụ nổ xe khách Cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động | Vụ nổ xe khách Đại Bái, Bắc Ninh | Việt Nam năm 2003, Vụ nổ Việt Nam |
là một đô thị trong Cộng đồng Madrid, Tây Ban Nha. Đô thị Alcobendas có diện tích 44,98 km², dân số theo điều tra năm 2010 của Viện thống kê quốc gia Tây Ban Nha là 110.080 người. Đô thị Alcobendas nằm khu vực có độ cao 669 mét trên mực nước biển. Thành phố có cự ly 13 km về phía bắc Madrid và cách sân bay quốc tế Barajas km.. | null | Đô thị Cộng đồng Madrid |
250px (trong tiếng Occitan Alas) là một xã của Pháp, nằm tỉnh Dordogne trong vùng Aquitaine của Pháp. Xã này có diện tích 9,41 km2, dân số năm 2007 là 335 người. Xã nằm khu vực có độ cao trung bình 57 trên mực nước biển. 1864: 708 trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia trên trang mạng của Insee | null | |
Nhóm nhạc Hàn Quốc Twice đã tổ chức buổi hòa nhạc đầu tay của họ mang tên Twice 1st Tour: Twiceland The Opening tại SK Olympic Handball Gymnasium, Seoul từ ngày 17-19 tháng năm 2017. Tiếp theo đó là các buổi hòa nhạc Băng Cốc và Singapore vào tháng 4, và tour diễn kết thúc với hai buổi hòa nhạc tại Seoul vào tháng 6. Vào tháng 7, nhóm tổ chức concert ra mắt tại Nhật Bản. Nhóm dự kiến sẽ thực hiện chuyến lưu diễn Nhật Bản đầu tiên của họ vào năm 2018 với tên gọi Twice Showcase Live Tour 2018 "Candy Pop". Tập tin:Twice performing at the Forum in Inglewood, California on February 15, biểu diễn tại The Forum Inglewood, California trong chuyến lưu diễn Twice 4th World Tour III (2021- 2022) vào ngày 15 tháng năm 2022 Lịch trình Ngày Thành phố Quốc gia Địa điểm Người tham dự 17 tháng năm 2017 Seoul Hàn Quốc SK Olympic Handball Gymnasium 15,000 18 tháng năm 2017 19 tháng năm 2017 tháng năm 2017 Bangkok Thái Lan Thunder Dome 4,000 29 tháng năm 2017 Singapore The Star Theatre 5,000 17 tháng năm 2017 Seoul Hàn Quốc Jamsil Arena 12,000 18 tháng năm 2017 Tổng cộng 36,000 Ngày Thành phố Quốc gia Địa điểm Người tham dự Ngày 19 tháng năm 2018 Seto Nhật Bản Seto City Cultural Center 20,000 Ngày 22 tháng năm 2018 Fukuoka Fukuoka Sun Palace Ngày 23 tháng năm 2018 Hiroshima Ueno Gakuen Hall Ngày 25 tháng năm 2018 Osaka Grand Cube Osaka Ngày 26 tháng năm 2018 Ngày 29 tháng năm 2018 Tokyo NHK Hall Ngày 31 tháng năm 2018 Saitama Sonic City Ngày tháng năm 2018 Ngày Thành phố Quốc gia Địa điểm Người tham dự Ngày 18 tháng năm 2018 Seoul Hàn Quốc Jamsil Arena 18,000 Ngày 19 tháng năm 2018 Ngày 20 tháng năm 2018 Ngày 26 tháng năm 2018 Saitama Nhật Bản Saitama Super Arena 36,000 Ngày 27 tháng năm 2018 Ngày tháng năm 2018 Osaka Hội trường Osaka-jō 20.000 Ngày tháng năm 2018 Ngày 17 tháng năm 2018 Singapore Sân vận động trong nhà Singapore 8,500 Ngày 18 tháng năm 2018 Bangkok Thái Lan Thunder Dome Ngày 25 tháng năm 2018 Jakarta Indonesia Trung tâm hội nghị và triển lãm Indonesia Tổng 90,000 Ngày Thành phố Quốc gia Địa điểm Người tham dự Ngày 29 tháng năm 2018 Chiba Nhật Bản Makuhari Messe 70,000 Ngày tháng 10 năm 2018 Nagoya Nippon Gaishi Hall Ngày tháng 10 năm 2018 Ngày 12 tháng 10 năm 2018 Kobe World Memorial Hall Ngày 13 tháng 10 năm 2018 Ngày 14 tháng 10 năm 2018 Ngày 16 tháng 10 năm 2018 Tokyo Musashino Forest Sports Plaza Ngày 17 tháng 10 năm 2018 Ngày Thành phố Quốc gia Địa điểm Người tham gia Ngày 20 tháng năm 2019 Osaka Nhật Bản Kyocera Dome Osaka 220,000 Ngày 21 tháng năm 2019 Ngày 29 tháng năm 2019 Tokyo Tokyo Dome Ngày 30 tháng năm 2019 Ngày tháng năm 2019 Nagoya Nagoya Dome Hủy buổi concert Twice Debut Showcase "Touchdown in Japan"Chú thích== Twice | Lịch trình | |
Troyal Garth Brooks (sinh ngày tháng năm 1962) là một ca sĩ và nhạc sĩ người Mỹ. Sự tích hợp các yếu tố nhạc rock và pop của ông vào thể loại nhạc đồng quê đã giúp Brooks trở nên nổi tiếng Hoa Kỳ. Brooks đã thành công rực rỡ trên các bảng xếp hạng đĩa đơn và album quốc gia, với các bản thu đa bạch kim và các buổi biểu diễn trực tiếp phá kỷ lục, đồng thời vượt qua các đấu trường pop chính thống. Theo RIAA, anh là nghệ sĩ album solo bán chạy nhất tại Hoa Kỳ với 148 triệu đơn vị nội địa được bán, trước Elvis Presley và chỉ đứng sau The Beatles về tổng doanh số album. Ông cũng là một trong những nghệ sĩ bán chạy nhất mọi thời đại của thế giới, đã bán được hơn 170 triệu đĩa. Brooks hiện là nghệ sĩ duy nhất trong lịch sử âm nhạc đã phát hành bảy album đạt được mức kim cương Hoa Kỳ (vượt qua kỷ lục sáu album của Beatles); những album đó là Garth Brooks (10 platinum), No Fences (17 platinum), Ropin 'the Wind (14 platinum), The Hit (10 platinum), Sevens (10 platinum), Double Live (21 platinum) và The Ultimate Hit (10 bạch kim). Kể từ năm 1989, Brooks đã phát hành tất cả 22 bản thu âm, bao gồm: 12 album phòng thu, hai album trực tiếp, ba album tổng hợp, ba album Giáng sinh và bốn bộ hộp, cùng với 77 đĩa đơn. Ông đã giành được một số giải thưởng trong sự nghiệp, bao gồm hai giải Grammy, 17 giải thưởng âm nhạc Mỹ (bao gồm "Nghệ sĩ của thập niên 90") và Giải thưởng RIAA dành cho nghệ sĩ album bán chạy nhất thế kỷ Mỹ Gặp rắc rối bởi mâu thuẫn giữa sự nghiệp và gia đình, Brooks đã nghỉ việc thu âm và biểu diễn từ năm 2001 đến năm 2005. Trong thời gian này, ông đã bán được hàng triệu album thông qua một hợp đồng phân phối độc quyền với Walmart và phát hành các đĩa đơn mới. Năm 2005, Brooks bắt đầu trở lại một phần, đưa ra những màn trình diễn chọn lọc và phát hành hai album tổng hợp. Năm 2009, anh bắt đầu Garth at Wynn, buổi hòa nhạc tại chỗ cuối tuần định kỳ tại Nhà hát Encore của Las Vegas từ tháng 12 năm 2009 đến tháng năm 2014. Sau khi kết thúc hợp đồng, Brooks đã tuyên bố ký hợp đồng với Sony Music Nashville vào tháng năm 2014. Vào tháng năm 2014, ông bắt đầu chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới, với vợ kiêm nhạc sĩ Trisha Yearwood, lên đến đỉnh điểm vào năm 2017. Album gần đây nhất của anh, Gunslinger, được phát hành vào tháng 11 năm 2016. Brooks được giới thiệu vào Đại sảnh vinh danh nhạc đồng quê vào ngày 21 tháng 10 năm 2012, đã được giới thiệu vào Đại sảnh vinh danh Nhạc sĩ sáng tác năm trước đó. Brooks cũng được giới thiệu vào Nhà lưu danh và Bảo tàng Nhạc sĩ vào năm 2016 với các nhạc sĩ phòng thu của ông, The G-Men. Teammates for Kids Foundation official website | Troyal Garth Brooks | Nhân vật còn sống, Nhà hoạt động quyền LGBT Mỹ, Người đoạt giải Grammy, Nghệ sĩ của Capitol Records, Nghệ sĩ của Big Machine Records, Người Mỹ gốc Ireland, Nam nghệ sĩ guitar người Mỹ, Ca sĩ kiêm sáng tác nhạc đồng quê người Mỹ, Sinh năm 1962 |
Một tách vang nóng Vang nóng (tiếng Đức:Glühwein) là một thức uống nóng, thường được làm bằng rượu nho đỏ pha với các gia vị khác đun nóng lên. Vang nóng thường được uống theo truyền thống vào mùa đông, một món uống không thể thiếu tại các chợ giáng sinh Đức. gesundheit.de: Glühwein und Alkohol Wein mit Schimmelschutz Radiofeuilleton Mahlzeit: Über Inhaltsstoffe in Wein und Glühwein | Vang nóng | |
Acid béo thiết yếu là acid béo không bão hòa mà cơ thể con người và động vật không tự tổng hợp được và phải được cung cấp qua thực phẩm. Acid béo thiết yếu có tính chất của vitamin và hầu hết được ký hiệu là nhóm vitamin F-complex. Tính chất cơ bản của acid béo thiết yếu dựa trên cơ sở chúng là chất khởi đầu để tạo thành các acid đa nối đôi của dãy C-20 và C-22. Các acid này đặc biệt tồn tại trong các phosphotid của cơ thể động vật. Các acid béo thiết yếu quan trọng nhất là acid linoleic, acid linolenic và acid có độ không bão hòa rất cao là acid arachidonic. Các acid này chủ yếu có trong các dầu, mỡ thực vật. Một lượng nhỏ cũng có trong mỡ động vật như mỡ lợn, mỡ gà. Nếu thiếu các acid này sẽ có các biểu hiện bệnh lý cơ thể người và động vật, như các rối loạn trên da và chậm lớn. | Acid béo thiết yếu | Axit béo thiết yếu |
3706 Sinnott (1984 SE3) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 28 tháng năm 1984 bởi B. A. Skiff Flagstaff (AM). JPL Small-Body Database Browser ngày 3706 Sinnott | 3706 Sinnott | |
là một dong, phường của quận Mapo-gu Seoul, Hàn Quốc và nó được sáp nhập với Sangsu-dong thành Seogang-dong vào tháng năm 2007. *Phân cấp hành chính Hàn Quốc Trang chính thức Mapo-gu bằng tiếng Anh Bản đồ của Mapo-gu tại trang chính thức Mapo-gu Bản đồ của Mapo-gu tại trang chính thức Mapo-gu Trang chính thức dân cư Seogang-dong | null | Quận Mapo |
Chiếc USS Franklin (CV/CVA/CVS-13, AVT-8), tên lóng là "Big Ben", là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp Essex được chế tạo trong Thế Chiến II cho Hải quân Hoa Kỳ. Nó được đặt tên theo Benjamin Franklin, và là chiếc tàu chiến thứ năm của Hải quân Mỹ mang cái tên này. Được đưa vào hoạt động từ tháng năm 1944, nó phục vụ trong nhiều chiến dịch tại Mặt trận Thái Bình Dương và được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận. Nó bị hư hại nghiêm trọng do cuộc không kích của quân Nhật vào tháng năm 1945 với thiệt hại về nhân mạng lên đến hàng trăm người, trở thành chiếc tàu sân bay bị thiệt hại nặng nề nhất sống sót qua cuộc chiến. Các đoạn phim thực về các cuộc tấn công lên con tàu đã xuất hiện trong bộ phim Task Force năm 1949 cùng với diễn viên Gary Cooper thủ vai chính. Sau đợt tấn công này, nó quay về lục địa Mỹ để được sửa chữa, và được cho ngừng hoạt động vào năm 1947. Trong khi đang lực lượng dự bị, nó được xếp lại lớp trở thành một tàu sân bay tấn công CVA, tàu sân bay chống tàu ngầm CVS và cuối cùng là một tàu chuyên chở máy bay AVT; nhưng con tàu chưa bao giờ được hiện đại hóa và không tham gia bất kỳ hoạt động nào khác. Franklin và chiếc tàu sân bay bị hư hại tương tự là những tàu sân bay thuộc lớp Essex không tiếp tục phục vụ sau Thế Chiến II. Con tàu được bán để tháo dỡ vào năm 1966. Franklin được đặt lườn vào ngày tháng 12 năm 1942 tại xưởng đóng tàu Newport News, Virginia, và được hạ thủy vào ngày 14 tháng 10 năm 1943, được đỡ đầu bởi nữ Thiếu tá Hải quân Dự bị Mildred H. McAfee, Giám đốc WAVES (Women Accepted for Volunteer Emergency Service-Nữ quân nhân phục vụ tình nguyện khẩn cấp). Con tàu được đặt tên nhằm tôn vinh Benjamin Franklin, chứ không phải là Trận Franklin của cuộc nội chiến Hoa Kỳ, như một số nguồn thường nêu lên. Nó được nhập biên chế vào ngày 31 tháng năm 1944 dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng, Đại tá Hải quân James M. Shoemaker. Trong số các thành viên thủy thủ đoàn ban đầu có cả một dàn nhạc gồm các nhạc công chuyên nghiệp vào thời đó được gọi thi hành nghĩa vụ quân sự hay tình nguyện, kể cả Saxie Dowell và Deane Kincaide, được bố trí đến cùng Shoemaker hoàn toàn do tình cờ. Franklin khởi hành đi Trinidad để chạy thử máy, và không lâu sau nó khởi hành cùng Đội đặc nhiệm 27.7 hướng đến San Diego, California để tiến hành huấn luyện tập trận một cách khẩn trương trước khi tham gia tác chiến. Vào tháng nó đi ngang qua Trân Châu Cảng trên đường hướng đến Eniwetok, nơi nó gia nhập Đội đặc nhiệm 58.2. Trong ngày cuối cùng của tháng năm 1944, Franklin lên đường để thực hiện các nhiệm vụ không kích vào quần đảo Bonin nhằm hỗ trợ cho các chiến dịch tấn công vào quần đảo Mariana và Palau sau đó. Máy bay của nó đã tiêu diệt được nhiều máy bay đối phương trên không và dưới mặt đất, cũng như các vị trí pháo binh, sân bay và tàu bè đối phương. Vào ngày tháng 7, nó tung ra đợt không kích nhắm vào các mục tiêu Iwo Jima, Chichi Jima và Ha Ha Jima, đánh chìm một tàu chở hàng lớn trong cảng và bắn cháy ba tàu nhỏ hơn. Ngày tháng 7, nó bắt đầu tấn công vào Guam và Rota để vô hiệu hóa sự phòng thủ chuẩn bị cho lực lượng đổ bộ, và tiếp tục công việc đó cho đến ngày 21 tháng 7, khi nó trực tiếp hỗ trợ cho các đợt đổ bộ đầu tiên diễn ra an toàn. Sau hai ngày nghỉ ngơi để tiếp liệu tại Saipan, con tàu tiếp tục hoạt động cùng Lực lượng Đặc nhiệm 58, thực hiện các phi vụ trinh sát hình ảnh và không kích xuống các đảo thuộc nhóm Palau. Máy bay của nó thực hiện nhiệm vụ trong các ngày 25 và 26 tháng 7, gây thiệt hại lớn cho máy bay, tàu bè và căn cứ trên mặt đất của đối phương. Nó rời đi ngày 28 tháng 7, quay về Saipan vào ngày hôm sau rồi được thuyên chuyển sang Đội đặc nhiệm 58.1. Cho dù biển động mạnh không cho phép tiếp nhận bom và rocket cần thiết, Franklin vẫn lên đường thực hiện một cuộc không kích vào quần đảo Bonin. Vào ngày tháng 8, máy bay tiêm kích của nó bắn phá Chichi Jima trong khi các máy bay ném bom bổ nhào và máy bay ném ngư lôi của nó nhắm vào một đoàn tàu vận tải phía Bắc Ototo Jima, nơi mà nó cũng tấn công rất hiệu quả vào các trạm radio, căn cứ thủy phi cơ, sân bay và tàu bè đối phương. Một khoảng thời gian bảo trì và nghỉ ngơi diễn ra từ ngày đến ngày 28 tháng tại Eniwetok trước khi nó khởi hành cùng chiếc tàu sân bay hạm đội kỳ cựu và các tàu sân bay hạng nhẹ và để vô hiệu hóa và phân tán các cuộc tấn công vào quần đảo Bonin. Từ ngày 31 tháng đến ngày tháng 9, các đợt tấn công dũng cảm và hiệu quả của chiếc Franklin đã gây nhiều thiệt hại cho đối phương, đánh chìm hai tàu hàng, tiêu diệt nhiều máy bay và hoàn thành các nhiệm vụ trinh sát hình ảnh. Vào ngày tháng 9, nó được tiếp tế tại Saipan rồi lên đường cùng Đội đặc nhiệm 38.1 thực hiện một đợt tấn công vào Yap từ ngày đến ngày tháng 9, kể cả yểm trợ trực tiếp trên không cho trận Peleliu vào ngày 15 tháng 9, th. Đội đặc nhiệm được tiếp liệu tại đảo Manus từ ngày 21 đến ngày 25 tháng 9. Trở thành kỳ hạm của Đội đặc nhiệm 38.4, Franklin quay về khu vực Palau nơi nó tung ra các phi vụ tuần tra ban ngày và tiêm kích bay đêm. Vào ngày tháng 10 nó gặp gỡ các đội tàu sân bay khác cùng phối hợp hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng sắp tới lên đảo Leyte. Lúc tờ mờ sáng ngày 13 tháng 10, đội đặc nhiệm bị bốn máy bay ném bom tấn công, và Franklin suýt trúng phải hai quả ngư lôi. Một máy bay đối phương, báo hiệu cho cả một chiếc dịch kamikaze sắp đến, đâm xuống sàn đáp của chiếc Franklin ngay phía sau đảo cấu trúc thượng tầng, rồi trượt dọc theo sàn đáp trước khi bổ nhào xuống biển bên mạn phải con tàu. Sáng sớm ngày 14 tháng 10 nó tung ra cuộc bắn phá bằng máy bay tiêm kích nhắm vào Aparri, Luzon; rồi sau đó nó di chuyển về phía Đông Luzon để vô hiệu hóa các cứ điểm đề kháng của đối phương chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên Leyte. Vào ngày 16 tháng 10 nó bị ba máy bay đối phương tấn công, một chiếc đã ném một quả bom trúng góc ngoài của thang nâng bên cạnh sàn đáp, làm thiệt mạng ba người và làm bị thương 22 người khác. Chiếc tàu sân bay ngoan cường tiếp tục các hoạt động thường ngày, đánh mạnh vào vịnh Manila trong ngày 19 tháng 10 khi máy bay của nó đánh chìmn một số tàu bè, gây thiệt hại cho nhiều chiếc khác, đánh chìm một tàu nổi và phá hủy 11 máy bay. Tập tin:USS Franklin (CV-13) and USS Belleau Wood (CVL-24) afire sân bay hạng nhẹ (trái) và Franklin bị các máy bay tấn công cảm tử đánh trúng, ngày 30 tháng 10 năm 1944. Trong các cuộc đổ bộ đầu tiên lên đảo Leyte ngày 20 tháng 10, máy bay của nó tấn công các sân bay lân cận và thực hiện các chuyến bay tuần tra thám sát nhằm ngăn ngừa một lực lượng hạm đội tấn công đối phương đang đến gần. Sáng ngày 24 tháng 10, trong trận chiến biển Sibuyan, máy bay của nó tham gia các đợt tấn công nhắm vào lực lượng tấn công chủ yếu của Phó Đô đốc Takeo Kurita, góp phần giúp đánh chìm chiếc thiết giáp hạm Musashi về phía Nam Luzon, đồng thời gây hư hại cho các thiết giáp hạm Fusō và Yamashiro, và đánh chìm chiếc tàu khu trục Wakaba. Cho rằng mối đe dọa từ hạm tàu nổi của đối phương đã bị loại trừ, nên Franklin cùng các đội đặc nhiệm 38.4, 38.3 và 38.2 được Đô đốc William Halsey, tư lệnh Đệ Tam hạm đội, phái đi nhằm đánh chặn một lực lượng tàu sân bay đang tiến đến từ phía Bắc, và tung ra đợt tấn công lúc bình minh. Tuy nhiên lực lượng tàu sân bay đối phương chỉ là một vật hy sinh để nghi binh, vì vào lúc đó quân Nhật hầu như không còn đủ máy bay hoạt động, và quan trọng hơn là họ rất thiếu hụt các phi công được huấn luyện đầy đủ. Tuy nhiên vị đô đốc dày dạn kinh nhiệm Halsey lần này đã mắc bẫy, nên ra sức đuổi theo mà không thông báo dự định của ông cho Đệ Thất hạm đội một cách rõ ràng, đưa đến các hậu quả nghiêm trọng sau đó. Trong trận chiến mũi Engaño diễn ra ngày 25 tháng 10, máy bay của Franklin kết hợp cùng các tàu sân bay khác đã gây hư hỏng chiếc tàu sân bay Chiyoda (nó bị đánh chìm sau đó bởi pháo từ các tàu tuần dương Mỹ) và đánh chìm chiếc tàu sân bay nhỏ Zuihō. Sau khi cùng đội đặc nhiệm rút lui để được tiếp nhiên liệu, Franklin quay lại hoạt động tại khu vực Leyte vào ngày 27 tháng 10, khi máy bay của nó tập trung tấn công một tàu tuần dương hạng nặng và hai khu trục hạm phía Nam Mindoro. Nó đang trên đường khoảng cách 1.600 km (1.000 dặm) ngoài khơi đảo Samar vào ngày 30 tháng 10 khi các máy bay đối phương xuất hiện trong một phi vụ tấn công cảm tử. Ba chiếc đã gan lì đuổi theo Franklin, chiếc thứ nhất lao xuống mạn phải, chiếc thứ hai đâm trúng sàn đáp và đâm thủng xuống sàn chứa máy bay, gây nhiều hư hỏng, giết chết 56 người và làm bị thương 60 người khác; chiếc thứ ba phóng ra một quả bom suýt trúng vào Franklin trước khi bổ nhào vào sàn đáp của chiếc Belleau Wood. Cả hai chiếc tàu sân bay rút lui về Ulithi để được sửa chữa tạm thời, và Franklin tiếp tục lên đường quay về Xưởng hải quân Puget Sound, đến nơi ngày 28 tháng 11 năm 1944 để được sửa chữa triệt để các hư hỏng trong chiến đấu. Trong giai đoạn đó, vào ngày tháng 11, Đại tá Hải quân Leslie H. Gehres được cử thay thế Shoemaker chỉ huy con tàu. Nó rời Bremerton, Washington vào ngày tháng năm 1945, và sau các cuộc thực tập huấn luyện cho phi công mới, nó gia nhập Đội Đặc nhiệm 58.2 để tham gia tấn công các đảo chính quốc Nhật Bản hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Okinawa. Vào ngày 15 tháng nó gặp gỡ các đơn vị của Lực lượng đặc nhiệm 58, và ba ngày sau nó tung ra các đợt tấn công và càn quét nhắm vào Kagoshima và Izumi phía Nam đảo Kyūshū. Tập tin:USS Santa Fe (CL-60) fighting fires aboard the burning USS Franklin (CV-13) on 19 March 1945 Franklin đang cháy cùng với tàu tuần dương hạng nhẹ bên cạnh. Các tháp pháo 5-inch phía sau đang bị cháy, 19 tháng năm 1945 Trước lúc bình minh ngày 19 tháng năm 1945, Franklin đang di chuyển trong phạm vi cách bờ biển chính quốc Nhật Bản 80 km (50 dặm), gần hơn bất kỳ tàu sân bay Mỹ nào khác từng đến suốt chiến tranh, để tung ra các đợt bắn phá càn quét xuống Honshū và các tàu bè trong cảng Kobe. Bất ngờ, một máy bay duy nhất, có thể là một máy bay ném bom bổ nhào Yokosuka D4Y "Judy" (các nguồn khác cho rằng đó là một chiếc Aichi D3A ("Val"), cũng là một kiểu máy bay ném bom bổ nhào), ló ra từ đám mây bên trên và thực hiện một cú bay thấp để ném hai quả bom bán xuyên thép. Việc phân tích các hư hỏng sau này cho biết các quả bom này là loại 250 kg (550 lb), cho dù cả hai loại máy bay "Val" và "Judy" và tất cả các loại máy bay ném bom-ngư lôi một động cơ Nhật khác đều không có các đế gắn để có thể mang hai vũ khí loại này. Tuy nhiên, chỉ có kiểu máy bay Aichi B7A "Grace" là có được khả năng này. Các nguồn dẫn cũng khác nhau về việc chiếc máy bay đã bay thoát đi hay đã bị bắn hạ. Bằng cách nào đi nữa, một quả bom đã đánh trúng ngay giữa sàn đáp, xuyên xuống sàn chứa máy bay, phá hủy và gây ra các đám cháy các hầm thứ hai và thứ ba, hủy hoại trung tâm thông tin hành quân. Quả bom thứ hai đánh trúng phía sau tàu, xuyên qua hai tầng và gây ra đám cháy cùng các quả đạn bom và rocket. Vào lúc bị đánh trúng, Franklin đang có 31 máy bay được vũ trang và tiếp đầy nhiên liệu đang được khởi động máy trên sàn đáp. Sàn chứa đang có thêm 22 máy bay khác, trong đó 16 chiếc đã được tiếp nhiên liệu và chiếc được vũ trang. Hệ thống tiếp nhiên liệu phía trước đã được khóa kín, nhưng hệ thống phía sau vẫn còn đang hoạt động. Vụ nổ trên sàn chứa máy bay đã kích nổ các thùng nhiên liệu trên những chiếc máy bay, và hơi xăng phát nổ đã tàn phá sàn đáp. Chỉ có hai thành viên thoát khỏi đám cháy trong sàn chứa. Vụ nổ cũng làm dồn ép những chiếc máy bay đang đậu trên sàn đáp, gây thêm các vụ nổ và đám cháy khác, kể cả các tên lửa đối đất "Tiny Tim". Một lớp vỏ giáp dày 16 mm (0,75 inch) đã được gắn thêm vào sàn chứa máy bay sau các hư hỏng vào ngày 30 tháng 10 năm 1944; và nó đã giúp chịu đựng được vụ nổ, ngăn ngừa được sự lan rộng đám cháy không bị lan ra xa hơn. Franklin bất động tại chỗ và bị nghiêng 13° về phía mạn phải, mất toàn bộ liên lạc vô tuyến, và các đám cháy dữ dội bộc phát. Nhiều người bị các vụ nổ ném tung, bị các đám cháy dồn ép, nhiều người chết và bị thương. Nhưng hàng trăm sĩ quan và thủy thủ bằng sự dũng cảm và kiên trì đã tự nguyện lại để cứu con tàu. Tổn thất tổng cộng lên đến 724 người chết và 265 bị thương, và con số này có thể còn vượt cao hơn nữa nếu không có những hành động anh hùng của những người sống sót. Trong số đó có những người được tặng thưởng Huân chương Danh dự: Thiếu tá Hải quân Joseph T. O'Callahan, một linh mục Dòng Tên và là tuyên úy của con tàu, người đã thực hiện các bí tích sau cùng cho người hấp hối, tổ chức và chỉ đạo các toán chữa cháy và cứu hộ, cũng như hướng dẫn những người bên dưới làm ướt các kho đạn để tránh nguy cơ bị nổ; và Trung úy Hải quân Donald A. Gary, người đã phát hiện ra 300 người còn bị kẹt lại trong một khoang tối mịt, và sau khi tìm ra lối thoát, đã liên tục nhiều lần quay trở lại để hướng dẫn nhóm người này thoát ra an toàn. Sau đó Gary còn tổ chức và dẫn đầu các toán chữa cháy đi dập lửa trong sàn chứa máy bay, và đi vào buồng đốt số ba để vận hành nồi hơi cung cấp động lực cho con tàu, bất chấp những hoàn cảnh cực kỳ hiểm nghèo khi làm như vậy. Chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ cũng đã thực hiện sự trợ giúp cần thiết khi cứu vớt người lâm nạn trên mặt biển và tiến đến gần chiếc Franklin để đưa những người bị thương và những người không cần thiết ra khỏi con tàu. Cũng như nhiều con tàu khác trong thời chiến, Franklin được cải biến với nhiều vũ khí bổ sung, đòi hỏi một thủy thủ đoàn đông hơn và dự trữ đạn cũng phải tăng lên tương ứng. Máy bay cũng nhiều và nặng hơn so với kế hoạch ban đầu, nên sàn đáp phải được gia cố thêm cho chắc chắn. Kết quả là con tàu sân bay có lượng rẽ nước lớn hơn so với bản vẽ, mớn nước sâu hơn và đặc tính cân bằng cũng bị thay đổi. Lượng nước khổng lồ được phun lên để dập tắt các đám cháy cũng làm nó nặng thêm và mất cân bằng trầm trọng thêm do nghiêng về phía mạn phải, khiến khả năng sống sót của nó lâm vào thế hiểm nghèo. Franklin đã chịu đựng thiệt hại trầm trọng nhất mà một tàu sân bay Mỹ sống sót qua Thế Chiến II từng mắc phải. Tập tin:USS Franklin (CV-13) approaching New York, April Franklin quay về New York, 26 tháng năm 1945. Tập tin:USS Franklin (CV-13) anchored off New York City on 28 April 1945 Franklin (CV-13), neo đậu trong cảng New York, ngày 28 tháng năm 1945. Franklin được tàu tuần dương hạng nặng kéo đi với tốc độ 26 km/h (14 knot) hướng về phía Ulithi rồi sau đó đến Trân Châu Cảng, nơi nó được sửa chữa đủ để có thể tự di chuyển bằng động lực của chính mình. Con tàu đi ngang qua kênh đào Panama để quay về Xưởng hải quân Brooklyn, và nó đến nơi vào ngày 28 tháng 4. Cho dù bị hư hại đáng kể, nó được phục hồi thành công về tình trạng sẵn sàng. Câu chuyện về thảm họa và việc giải cứu con tàu được ghi lại trong phim tài liệu thời chiến Saga of the Franklin. Khi con tàu đi đến nơi, một cuộc tranh cãi sôi nổi về hành động của thủy thủ đoàn trong quá trình vật lộn sống chết của con tàu cuối cùng đã lên đến cực điểm; Hạm trưởng, Đại tá Gehres lên án nhiều người đã đào ngũ khỏi con tàu vào ngày 19 tháng 3, ngay cả với những người bị buộc phải nhảy xuống nước để tránh cái chết hiển nhiên do các đám cháy, hay những người nhầm lẫn rằng lệnh "bỏ tàu" đã được đưa ra. Trên đường đi từ Ulithi, Gehres đã chỉ ra 704 người trong số thủy thủ đoàn thuộc về "Câu lạc bộ Big Ben 704" vì đã lại con tàu đang lâm nạn, nhưng những nhà điều tra tại New York khám phá ra rằng chỉ có khoảng 400 người mới thực sự lại liên tục trên chiếc Franklin, trong khi số còn lại đã quay trở lại tàu trước và trong khi con tàu dừng tại Ulithi. Mọi đề nghị trừng phạt được lặng lẽ kết thúc. Sau khi chiến tranh kết thúc, Franklin được mở cho công chúng tham quan nhân dịp kỷ niệm Ngày Hải quân. Vào ngày 17 tháng năm 1947, con tàu được cho xuất biên chế tại Bayonne, New Jersey. Trong khi Franklin vẫn còn đang neo đậu tại Bayonne, nó được thay đổi ký hiệu thành một tàu sân bay tấn công CVA-13 vào ngày tháng 10 năm 1952, thành một tàu sân bay chống tàu ngầm CVS-13 vào ngày tháng năm 1953, và cuối cùng là một tàu chở máy bay AVT-8 vào ngày 15 tháng năm 1959. Tuy nhiên con tàu chưa từng trở ra khơi lần nào nữa, và được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày tháng 10 năm 1964. Franklin và chiếc tàu sân bay chị em vốn cũng chịu đựng những hư hỏng trầm trọng do không kích đối phương trong chiến tranh, là những chiếc duy nhất trong lớp Essex không hoạt động sau chiến tranh cho dù những hư hỏng thời chiến của chúng đã được sửa chữa thành công. Ban đầu Hải quân dự định bán con tàu cho hãng Peck Iron Metal tại Portsmouth, Virginia, tuy nhiên họ đã giữ lại con tàu theo một yêu cầu khẩn cấp của Văn phòng tàu chiến thuộc Hải quân Hoa Kỳ để sử dụng lại bốn máy turbine hơi nước của nó. Cuối cùng, nó cũng được bán cho hãng Portsmouth Salvage tại Chesapeake, Virginia để tháo dỡ vào ngày 27 tháng năm 1966. Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương với Ngôi sao Chiến trận Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II Đơn vị Tuyên dương Tổng thống Philippine Huân chương Giải phóng Philippine USS Franklin navsource.org: USS Franklin USS Franklin website USS Franklin Kamikaze War Damage Report USS Franklin article IMDB link to 'Task Force' YouTube copy of 1945 newsreel, Bombing of U.S.S. Franklin! (starting at 2:50) USS Franklin về những tàu chiến khác cùng tên của Hải quân Hoa Kỳ Danh sách các tàu sân bay Danh sách các tàu chiến trong Thế Chiến II | USS ''Franklin'' (CV/CVA/CVS-13, AVT-8) | |
Ngày 11 tháng 8 là ngày thứ 223 (224 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 142 ngày trong năm. *106 Phần tây nam của Dacia trở thành tỉnh Dacia thuộc La Mã. *1259 Mông Kha Hãn qua đời gần Điếu Ngư thành khi đang tiến công nhà Tống, khởi đầu cuộc tranh chấp quyền kế vị Đại hãn Đế quốc Mông Cổ giữa Hốt Tất Liệt và Lý Bất Ca. *1786 Thuyền trưởng Francis Light thành lập thuộc địa Penang của Đế quốc Anh, khởi đầu hơn một thế kỷ người Anh can dự vào Malaya. *1947 Muhammad Ali Jinnah đọc một diễn văn trước Hội đồng Lập pháp Pakistan, trình bày viễn kiến của Jinnah về tương lai của Nhà nước Pakistan. *1959 Sân bay quốc tế Sheremetyevo mở cửa, nay là sân bay lớn thứ hai tại Nga. *1972 Trong Chiến tranh Việt Nam, đơn vị chiến đấu trên bộ cuối cùng của Hoa Kỳ dời khỏi miền Nam Việt Nam. *2003 NATO tiếp quản quyền chỉ huy Lực lượng Hỗ trợ An ninh Quốc tế, đánh dấu hoạt động lớn đầu tiên bên ngoài châu Âu trong 54 năm lịch sử của tổ chức. *2006 Chiến tranh Liban: Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thông qua Nghị quyết 1701 nhằm giải quyết cuộc xung đột giữa Israel và Liban. 1804 Nguyễn Phúc Ngọc Ngôn, phong hiệu An Nghĩa Công chúa, công chúa con vua Gia Long (m. 1856). 1833 Kido Takayoshi, tiểu thuyết gia người Nhật Bản (m. 1877) 1983 Chris Hemsworth, nam diễn viên Úc 1987 Văn Ngọc Tú, võ sĩ Nhu đạo của Việt Nam 1849 Nguyễn Phúc Cự, tước phong Thường Tín Quận vương, hoàng tử con vua Gia Long (s. 1810). *1925 James Douglas Ogilby, nhà ngư học người Úc (s. 1853). 1972 Max Theiler, nhà virus học người Nam Phi, được trao giải Nobel (s. 1899) 2014 Robin Williams, diễn viên người Mỹ (sinh 1951). | 11 tháng 8 | Ngày trong năm |
Liên Thủy (chữ Hán phồn thể: 漣水縣, chữ Hán giản thể:涟水县) là một huyện thuộc địa cấp thị Hoài An, tỉnh Giang Tô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 1678 ki-lô-mét vuông, dân số năm 2001 là 1,04 triệu người. Huyện này được lập vào năm 117 trước Công nguyên với tên huyện Hoài Phố, lấy theo tên sông Hoài. Năm 585 thì đổi tên thành huyện Liên Thủy. Thời nhà Minh và nhà Thanh đổi tên thành huyện An Đông thuộc phủ Hoài An. Về mặt hành chính, huyện này được chia thành các đơn vị hành chính gồm 17 trấn, hương. *Trấn: Liên Thành, Cao Câu, Đường Tập, Bảo Than, Đại Đông, Ngũ Cảng, Lương Xá, Chu Mã, Xá Miếu, Đông Hồ Tập, Nam Tập, Nghĩa Hưng, Thành Tập, Hồng Diêu, Tiền Tiến, Từ Tập, Hoàng Doanh. | Liên Thủy | Đơn vị cấp huyện Giang Tô, Hoài An |
EFL Championship 2019–20 (còn được gọi là Sky Bet Championship vì lý do tài trợ) là mùa giải thứ 16 của Football League Championship và thứ 28 của giải hạng hai Anh. Các đội sau đây có sự thay đổi trong danh sách mùa giải 2019–20. Đội Địa điểm Sân vận động Sức chứa Barnsley Barnsley Oakwell 23.287 Birmingham City Birmingham St Andrew's 30.015 Blackburn Rovers Blackburn Ewood Park 31.367 Brentford London Griffin Park 12.300 Bristol City Bristol Ashton Gate 27.000 Cardiff City Cardiff Cardiff City Stadium 33.316 Charlton Athletic London The Valley 27.111 Derby County Derby Pride Park Stadium 33.600 Fulham London Craven Cottage 19.0001 Huddersfield Town Huddersfield Kirklees Stadium 24.500 Hull City Kingston upon Hull KCOM Stadium 25.400 Leeds United Leeds Elland Road 37.890 Luton Town Luton Kenilworth Road 10.336 Middlesbrough Middlesbrough Riverside Stadium 34.000 Millwall London The Den 20.146 Nottingham Forest West Bridgford City Ground 30.445 Preston North End Preston Deepdale 23.408 Queens Park Rangers London Loftus Road 18.439 Reading Reading Madejski Stadium 24.161 Sheffield Wednesday Sheffield Hillsborough Stadium 39.752 Stoke City Stoke-on-Trent bet365 Stadium 30.089 Swansea City Swansea Liberty Stadium 21.088 West Bromwich Albion West Bromwich The Hawthorns 26.850 Wigan Athletic Wigan DW Stadium 25.133 Sức chứa của sân Craven Cottage bị giảm từ 25.700 xuống còn 19.000 chỗ vào mùa giải 2019–20 và 2020–21 vì công việc sửa chữa khán đài Riverside để tăng sức chứa lên 30.000. Đội Huấn luyện viên Đội trưởng Trang phục Tài trợ Barnsley Daniel Stendel Adam Davies Puma C.K. Beckett Birmingham City Pep Clotet (tạm quyền) TBA Adidas BoyleSports Blackburn Rovers Tony Mowbray Charlie Mulgrew Umbro 10Bet Brentford Thomas Frank Romaine Sawyers Umbro EcoWorld Bristol City Bailey Wright Bristol Sport Dunder Cardiff City Adidas Tourism Malaysia Charlton Athletic Chris Solly Hummel Children with Cancer UK Derby County Phillip Cocu Curtis Davies Umbro 32Red Fulham Scott Parker Tom Cairney Adidas Dafabet Huddersfield Town Jan Siewert Christopher Schindler Umbro Paddy Power (unbranded) Hull City Grant McCann Markus Henriksen Umbro SportPesa Leeds United Marcelo Bielsa Liam Cooper Kappa 32Red Luton Town Graeme Jones Alan Sheehan Puma Indigo Residential (home), Star Platforms (away), Northern Gas Power (third) Middlesbrough Jonathan Woodgate George Friend Hummel 32Red Millwall Neil Harris Alex Pearce Macron Huski Chocolate Nottingham Forest Sabri Lamouchi Ben Watson Macron Football Index Preston North End Alex Neil Tom Clarke Nike 32Red Queens Park Rangers Mark Warburton Toni Leistner Errea Royal Panda Reading José Gomes Liam Moore Macron Casumo Sheffield Wednesday Vacant Tom Lees Elev8 Chansiri Stoke City Nathan Jones Ryan Shawcross Macron bet365 Swansea City Steve Cooper TBA Joma YOBET, Swansea University (back-of-shirt training kit sponsor) West Bromwich Albion Slaven Bilić Chris Brunt Puma Ideal Boilers Wigan Athletic Paul Cook Sam Morsy Puma KB88 Đội Huấn luyện viên đi Lý do Ngày rời đội Vị trítrên BXH Huấn luyện viên đến Ngày bổ nhiệm Luton Town Mick Harford Hết hạn tạm quyền tháng năm 2019 Vị trícuối BXHmùa trước Graeme Jones tháng năm 2019 Queens Park Rangers John Eustace tháng năm 2019 Mark Warburton tháng năm 2019 West Bromwich Albion James Shan 14 tháng năm 2019 Slaven Bilić 13 tháng năm 2019 Middlesbrough Tony Pulis Hết hạn hợp đồng 17 tháng năm 2019 Jonathan Woodgate 14 tháng năm 2019 Swansea City Graham Potter Chuyển sang Brighton Hove Albion 20 tháng năm 2019 Steve Cooper 13 tháng năm 2019 Hull City Nigel Adkins Hết hạn hợp đồng tháng năm 2019 Grant McCann 21 tháng năm 2019 Birmingham City Garry Monk Bị sa thải 18 tháng năm 2019 Pep Clotet 20 tháng năm 2019 Nottingham Forest Martin O'Neill 28 tháng năm 2019 Sabri Lamouchi 28 tháng năm 2019 Derby County Frank Lampard Chuyển sang Chelsea tháng năm 2019 Phillip Cocu tháng năm 2019 Sheffield Wednesday Steve Bruce Từ chức 15 tháng năm 2019 Thứ hạng Cầu thủ Câu lạc bộ Số bàn thắng Aleksandar Mitrović Fulham 26 Ollie Watkins Brentford Lewis Grabban Nottingham Forest 20 Karlan Grant Huddersfield Town 19 Nahki Wells Queens Park Rangers Bristol City 18 Saïd Benrahma Brentford 17 Adam Armstrong Blackburn Rovers 16 Patrick Bamford Leeds United Jarrod Bowen1 Hull City 10 André Ayew Swansea City 15 Lukas Jutkiewicz Birmingham City Bryan Mbeumo Brentford Jarrod Bowen left Hull City and the EFL Championship on ngày 31 tháng năm 2020, to sign for Premier League club West Ham United; all of his 16 league goals were scored before this date. Thứ hạng Cầu thủ Câu lạc bộ Số kiến tạo Matheus Pereira West Bromwich Albion 16 Jed Wallace Millwall 13 Niclas Eliasson Bristol City 12 John Swift Reading 10 Lee Tomlin Cardiff City Jacob Brown Barnsley Pablo Hernández Leeds Sammy Ameobi Nottingham Forest Barry Bannan Sheffield Wednesday Saïd Benrahma Brentford Stewart Downing Blackburn Rovers Eberechi Eze Queens Park Rangers Conor Gallagher Swansea Kamil Grosicki West Bromwich Albion Jack Harrison Leeds Joe Lolley Nottingham Forest Alex Mowatt Barnsley Bright Osayi-Samuel Queens Park Rangers Cầu thủ Đội Đối thủ Tỷ số Ngày Tham khảo Ollie Watkins Brentford Barnsley 3–1 (A) 29 tháng năm 2019 Aleksandar Mitrović Fulham Luton Town 3–2 (H) 23 tháng 10 năm 2019 Joe Ralls Cardiff City Birmingham City 4–2 (H) tháng 11 năm 2019 Josh Dasilva Brentford Luton Town 7–0 (H) 30 tháng 11 năm 2019 George Pușcaș Reading Wigan Athletic 3–1 (A) 30 tháng 11 năm 2019 Conor Chaplin Barnsley Queens Park Rangers 5–3 (H) 14 tháng 12 năm 2019 Jordan Rhodes Sheffield Wednesday Nottingham Forest 4–0 (A) 14 tháng 12 năm 2019 Nahki Wells Queens Park Rangers Cardiff City 6–1 (H) tháng năm 2020 Saïd Benrahma Brentford Hull City 5–1 (A) tháng năm 2020 Matt Smith Millwall Nottingham Forest 3–0 (A) tháng năm 2020 Louie Sibley Derby County Millwall 3–2 (A) 20 tháng năm 2020 Yakou Méïté Reading Luton Town 5–0 (A) tháng năm 2020 Saïd Benrahma Brentford Wigan Athletic 3–0 (H) tháng năm 2020 Kieran Dowell Wigan Athletic Hull City 8–0 (H) 14 tháng năm 2020 Tháng Huấn luyện viên xuất sắc Cầu thủ xuất sắc Tham khảo Huấn luyện viên Câu lạc bộ Cầu thủ Câu lạc bộ Tháng Steve Cooper Swansea City Daniel Johnson Preston North End Tháng Sabri Lamouchi Nottingham Forest Chey Dunkley Wigan Athletic Tháng 10 Danny Cowley Huddersfield Town Aleksandar Mitrović Fulham Tháng 11 Marcelo Bielsa Leeds United Jarrod Bowen Hull City Tháng 12 Jonathan Woodgate Middlesbrough Conor Chaplin Barnsley Tháng Sabri Lamouchi Nottingham Forest Nahki Wells Queens Park Rangers Tháng Slaven Bilić West Bromwich Albion Scott Hogan Birmingham City Tháng Thomas Frank Brentford Jason Pearce Charlton Athletic Tháng Marcelo Bielsa Leeds United Saïd Benrahma Brentford 2019-20 *2 Anh | EFL Championship | |
Heriberto Moreno Borges Tavares (sinh ngày 19 tháng năm 1997) là một cầu thủ bóng đá người Bồ Đào Nha thi đấu cho Benfica vị trí tiền đạo. Tavares sinh ra Amadora. Vào ngày tháng năm 2016, anh có màn ra mắt cho Benfica trong trận đấu tại LigaPro 2016–17 trước Cova da Piedade. Benfica official profile Stats and profile at LPFP Đội tuyển quốc gia data | Heriberto Moreno Borges Tavares | Sinh năm 1997, Nhân vật còn sống, Người Amadora, Cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha, Cầu thủ bóng đá C.F. Estrela da Amadora, Cầu thủ bóng đá Sporting CP, Cầu thủ bóng đá C.F. Os Belenenses, Cầu thủ bóng đá S.L. Benfica, Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha, Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Bồ Đào Nha, Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Bồ Đào Nha |
"Come Home" là một bài hát được sáng tác bởi thành viên Ryan Tedder của nhóm nhạc OneRepublic, nằm trong album phòng thu đầu tay của nhóm Dreaming Out Loud (2007). Bài hát được đệm bằng đàn dương cầm và bao gồm nhiều yếu tố của dàn nhạc giao hưởng, cùng phần lời nhạc tập trung vào đoạn hook "Come home, come home". Nhiều người cho rằng bài hát là lời kêu gọi những người lính Mỹ quay về khi Tedder viết bài hát này về một người bạn đang phục vụ đất nước phương xa. "Come Home" được đánh giá cao và được xem là một trong những bài hát nổi bật từ Dreaming Out Loud. Năm 2009, bài hát được tái phát hành cùng với sự góp mặt của nữ ca sĩ kiêm sáng tác Sara Bareilles, dưới dạng đĩa đơn kĩ thuật số thứ và cũng là đĩa đơn cuối cùng trích từ album. Bài hát đạt đến vị trí thứ 80 trên Billboard Hot 100 trong tuần lễ ngày 14 tháng trước khi rời khỏi bảng xếp hạng trong tuần lễ kế tiếp. Bài hát chưa từng được gửi đến các trạm phát thanh và thất bại trong việc leo lên bất cứ bảng xếp hạng nào ngoài Hoa Kỳ. "Come Home" từng được xuất hiện trong các tập phim của Gossip Girl, Cold Case và The Vampire Diaries. Nick Levine từ Digital Spy đề cao bài hát vì tính nổi bật của nó trước những bài hát "piano-rock mâu thuẫn" chủ đạo từ Dreaming Out Loud. Sputnik Music và About.com Top 40 đều xem "Come Home" là một bài hát nổi bật từ album. Vì không được quảng bá rộng rãi nên bài hát không thể đạt thành công như đĩa đơn trước, chỉ vươn đến vị trí thứ 80 trong tuần lễ phát hành trên Hot 100. Các bảng xếp hạng (2011) Thứ hạngcao nhất Billboard Hot 100 80 Nữ ca sĩ nhạc đồng quê người Mỹ Faith Hill thể hiện lại bài hát này vào năm 2011, khi phối nó theo phong cách ảnh hưởng từ power pop và country pop. Hill trình làng phiên bản này của mình tại lễ trao giải CMA Awards lần thứ 45, và sau đó phát hành thông qua hệ thống iTunes vào ngày tháng 11 năm 2011 dưới dạng đĩa đơn đầu tiên trích từ album phòng thu thứ của cô, và cũng là đĩa đơn đầu tiên của cô được phát hành kể từ "Red Umbrella" vào năm 2007. Các bảng xếp hạng (2011) Thứ hạngcao nhất US Hot Country 26 US Country Digital 24 Billboard Hot 100 82 | Come Home | Bài hát của OneRepublic, Bài hát viết bởi Ryan Tedder, Bài hát của Faith Hill, Đĩa đơn của Warner Bros. Records, Bài hát sản xuất bởi by Byron Gallimore, Bài hát năm 2007, Đĩa đơn năm 2009, Bài hát sản xuất bởi Ryan Tedder, Bài hát năm 2011, Đĩa đơn của hãng Mosley Music Group, Đĩa đơn năm 2011, Đĩa đơn của Mosley Music Group |
Zozibini Tunzi (sinh ngày 18 tháng năm 1993) là một người mẫu và nữ hoàng sắc đẹp người Nam Phi đã đăng quang Hoa hậu Hoàn vũ 2019. Năm 2019 cô đại diện Nam Phi tham gia đấu trường Hoa hậu hoàn vũ 2019 và xuất sắc đăng quang ngôi vị hoa hậu. Tunzi được sinh ra Tsolo, Đông Cape với cha mẹ Philiswa Nadapu và Lungisa Tunzi, và lớn lên ngôi làng Sidwadweni gần đó. Tunzi là con cả trong ba chị em. Sau đó, cô chuyển đến Cape Town, định cư vùng ngoại Gardens, để theo học Đại học Công nghệ Cape Peninsula, nơi cô tốt nghiệp với bằng cử nhân về quan hệ công chúng và quản lý hình ảnh vào năm 2018. Trước khi giành chiến thắng Hoa hậu Nam Phi, Tunzi đã hoàn thành bằng Cử nhân Công nghệ về quản lý quan hệ công chúng tại Đại học Công nghệ Cape Peninsula và làm nghiên cứu sinh tại khoa quan hệ công chúng của Ogilvy Cape Town. Tunzi bắt đầu thi hoa hậu vào năm 2017, cô được tiến vào một trong 26 thí sinh bán kết của Hoa hậu Nam Phi 2017 nhưng cô không được chọn vào Top 12. Hai năm sau, cô trở lại cuộc thi sắc đẹp để dự thi cuộc thi Hoa hậu Nam Phi 2019. Trong các vòng thi ban đầu, Tunzi đã được chọn vào Top 35 thí sinh bán kết vào ngày 26 tháng năm 2019. Sau khi trải qua tiếp các vòng thi phụ, Tunzi đã được công bố là một trong 16 người vào chung kết vào ngày 11 tháng 7. Sau khi được chọn là một trong những người vào chung kết, Tunzi tiếp tục tham gia cuộc thi Hoa hậu Nam Phi 2019 tại Pretoria vào ngày tháng 8. Cô đã vượt qua các vòng thi của trận chung kết, tiến lên Top 10, rồi Top 5, và cuối cùng là Top cho đến khi cô được trao giải người chiến thắng bởi người tiền nhiệm Tamaryn Green, đánh bại hậu là Sasha-Lee Olivier. Sau chiến thắng của mình, Tunzi đã nhận được các giải thưởng bao gồm triệu Rand, một chiếc xe mới và một căn hộ đầy đủ tiện nghi trong khu phố Sandton của thành phố Johannesburg, trị giá triệu Rand để cô sử dụng trong suốt nhiệm kì của mình. Với thành tích của mình, Tunzi đại diện cho Nam Phi tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2019. Tunzi đến Atlanta, Georgia tham dự Hoa hậu Hoàn vũ 2019 vào tháng 11 năm 2019. Cô đã tham gia vòng thi sơ khảo vào ngày tháng 12, và thi đấu trong trận chung kết vào ngày tháng 12 tại Phim trường Tyler Perry. Trong cuộc thi, Tunzi đã vào Top 20 với tư cách là thí sinh vào vòng bán kết đầu tiên cho khu vực Châu Phi và Châu Á-Thái Bình Dương. Sau đó, cô tiến lên Top 10, rồi Top 5, và cuối cùng là Top 3. Kết thúc sự kiện, Tunzi đã đăng quang Hoa hậu Hoàn vũ 2019 và được trao vương miện bởi Catriona Gray của Philippines. Hai hậu lần lượt là hậu Madison Anderson của Puerto Rico và hậu Sofía Aragón của México. Chiến thắng của Tunzi là chiến thắng Hoa hậu Hoàn vũ lần thứ ba của Nam Phi; cô là người phụ nữ da đen đầu tiên giành được danh hiệu Hoa hậu Hoàn vũ kể từ khi Leila Lopes đăng quang Hoa hậu Hoàn vũ 2011, và là người đầu tiên làm điều đó với mái tóc có phong cách châu Phi. Trong phần thi cuối, Tunzi được hỏi về những gì cô tin rằng các cô gái trẻ ngày nay nên được dạy điều gì nhiều nhất, cô tự tin trả lời rằng đó là sự lãnh đạo và do xã hội nên ngày nay họ đang tránh các vị trí của nhà lãnh đạo. Là Hoa hậu Hoàn vũ, Tunzi sẽ cư trú tại thành phố New York, và tham gia một số sự kiện và xuất hiện trên thế giới. | Zozibini Tunzi | Nữ người mẫu Nam Phi, Nhân vật còn sống, Sinh năm 1993 |
Justine Henin-Hardenne là nhà vô địch khi đánh bại đồng hương Kim Clijsters trong trận chung kết, 7-5, 6-1 giành chức vô địch Đơn nữ tại Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2003. Henin-Hardenne chỉ thua một set duy nhất trong toàn giải đấu và đó là trước tay vợt người Mỹ Jennifer Capriati bán kết. Serena Williams là đương kim vô địch, tuy nhiên không tham gia vì chấn thương. Đương kim vô địch và người chị Venus Williams cũng rút lui trước giải đấu vì chấn thương. Việc rút lui của họ đánh dấu lần đầu tiên trong Kỉ nguyên Mở không có tay vợt nào vào chung kết năm trước thi đấu tại Mỹ Mở rộng. Đây cũng là giải Mỹ Mở rộng đầu tiên của nhà vô địch trong tương lai Flavia Pennetta vòng chính, cô thất bại trước Svetlana Kuznetsova vòng một. = = = = = = = = 2003 Men's Singles 2003 Đôi nam 2003 WoĐôi nam Đơn nữ | null | Giải quần vợt Mỹ Mở rộng theo năm Đơn nữ, Quần vợt nữ năm 2003 |
Antonov An-74 (tên mã NATO Coaler) là một loại máy bay vận tải của Liên Xô/Ukraina, được phòng thiết kế Antonov phát triển. Đây là một biến thể của An-72. An-74: An-74A: An-74MP: An-74T: An-74D An-74TK: ''' Tập tin:Antonov An-74 Airlines An-74 tại sân bay Gostomel (sân bay Antonov) Aeroflot *Cavok Air Không quân Ai Cập: (An-74T-200A) Không quân Cộng hòa Hồi giáo Iran: (An-74TK-200), (An-74T-200) An-74TK-200 Technical characteristics An-72/An-74 Family (Data for An-72A List of all known An-72/An-74 Family variants) An-74 Pictures An-74TK-200 modification at KSAMC site An-74TK-300 modification at KSAMC site AN-74TK-300 modification at Antonov's site AN-74T modification at Antonov's site AN-74T-200A INFO AN-74TK-300D INFO An-074 | Antonov An-74 | Máy bay chở hàng Liên Xô 1980–1989, Máy bay vận tải quân sự Liên Xô 1980–1989, Máy bay dân sự, Máy bay quân sự, Máy bay chở hàng, Máy bay vận tải, Máy bay cường kích, Máy bay hai động cơ phản lực, Máy bay cánh trên |
École nationale supérieure des mines de Paris (École des Mines de Paris, Mines ParisTech) là một trường đại học của Pháp và là trường cấu thành nên Đại học Khoa học và Văn khoa Paris (PSL), được thành lập bởi Vua Louis XVI của Pháp vào năm 1783. Mines ParisTech được biết đến với thành tích xuất sắc của các trung tâm nghiên cứu và chất lượng của các mối quan hệ đối tác quốc tế với các trường đại học danh tiếng khác trên thế giới. Trường là thành viên của hiệp hội ParisTech. Alain Poher, một chính trị gia ôn hòa Pháp Patrick Pouyanné, chủ tịch và CEO của Total Trần Đại Nghĩa, người đã đặt nền móng xây dựng ngành khoa học kỹ thuật quân sự và công nghiệp quốc phòng Việt Nam Trang chủ École nationale supérieure des mines de Paris | École nationale supérieure des mines de Paris | Đại học Paris, Đại học Île-de-France, Viện công nghệ tại Pháp, Đại học và cao đẳng kỹ thuật, Giáo dục Île-de-France |
Morchain là một xã tỉnh Somme, vùng Pháp. Thị trấn này tọa lạc trên đường D139 và đường D142, khoảng 30 dặm Anh về phía đông của Amiens. Biến động dân số 1962 1968 1975 1982 1990 1999 251 265 239 250 27 248 Số liệu điều tra dân số từ năm 1962, dân số không tính hai lần Xã của tỉnh Somme Morchain trên trang mạng của INSEE Morchain trên trang mạng của Quid | Morchain | Xã của Somme |
Suất phản chiếu của ánh sáng Mặt Trời với nhiều điều kiện bề mặt khác nhau. Suất phản chiếu hay suất phản xạ (tiếng Anh: albedo) là khái niệm liên quan đến hiện tượng phản xạ khuếch tán (diffuse reflection) hoặc công suất phản xạ của bề mặt. Nó được định nghĩa bằng tỷ số giữa bức xạ tản phát ra từ bề mặt so với bức xạ chiếu đến bề mặt đó. Là tỷ số không có đơn vị, hệ số này cũng được biểu diễn theo tỉ lệ phần trăm, và giá trị của nó trong đoạn 0, với giá trị thể hiện bề mặt đen tuyệt đối và giá trị thể hiện bề mặt phản xạ hoàn toàn bức xạ chiếu đến. Suất phản chiếu cũng phụ thuộc vào tần số của bức xạ chiếu tới. Khi không nói cụ thể, thường người ta ngầm chỉ ánh sáng khả kiến. Nói chung, suất phản chiếu phụ thuộc vào góc tới của tia bức xạ. Ngoại trừ hiện tượng phản xạ từ bề mặt Lambert, mà nó tán xạ chùm tia tới theo mọi hướng tuân theo hàm cosin, do vậy suất phản chiếu không phụ thuộc vào sự phân bố của chùm tia tới. Trong thực hành, để sử dụng hàm phân bố phản xạ lưỡng hướng (BRDF) cần phải biết được đặc trưng tán xạ của bề mặt một cách chính xác, mặc dù có thể sử dụng một cách xấp xỉ tốt. Suất phản chiếu là một khái niệm quan trọng trong khí hậu học và thiên văn học, cũng như trong quá trình tính toán độ phản xạ của bề mặt trong hệ thống đánh giá chất lượng tòa nhà. Độ phản chiếu trung bình của toàn Trái Đất, hay suất phản chiếu hành tinh, bằng 30 đến 35%, bởi vì do ảnh hưởng của mây bao phủ, nhưng chúng luôn biến đổi, và phụ thuộc vào điều kiện địa chất, môi trường hay mặt đại dương. Thuật ngữ này do nhà vật lý Johann Heinrich Lambert giới thiệu trong cuốn Photometria năm 1760 của ông. Tán xạ Suất phản chiếu tán xạ đơn Official Website of Albedo Project Global Albedo Project (Center for Clouds, Chemistry, and Climate) Albedo Encyclopedia of Earth NASA MODIS BRDF/albedo product site Surface albedo derived from Meteosat observations discussion of Lunar albedos reflectivity of metals (chart) | Suất phản chiếu | Phản xạ, Khí hậu học, Sóng điện từ, Bức xạ |
Trithemis arteriosa là một loài chuồn chuồn ngô thuộc họ Libellulidae. Nó được tìm thấy Algérie, Angola, Bénin, Botswana, Burkina Faso, Cameroon, Central African Republic, Chad, Comoros, Bờ Biển Ngà, Ai Cập, Guinea Xích Đạo, Ethiopia, Gabon, Gambia, Ghana, Guinea, Kenya, Liberia, Libya, Madagascar, Malawi, Mali, Mauritanie, Maroc, Mozambique, Namibia, Niger, Nigeria, Sierra Leone, Somalia, Nam Phi, Sudan, Tanzania, Togo, Uganda, Zambia, Zimbabwe, và có thể it was recorded in Malta by single specimen Các môi trường sống tự nhiên của chúng là sông, intermittent rivers, hồ nước ngọt, intermittent freshwater lakes, freshwater đầm lầy, và intermittent freshwater marches. Tập tin:Trithemis arteriosa qtl3.jpg Tập tin:Trithemis arteriosa qtl1.jpg Tập tin:Trithemis arteriosa (Red-veined Dropwing) macho.jpg Tập tin:Trithemis annulata Violetter Sonnendeuter rear.jpg Clausnitzer, V. 2005. Trithemis arteriosa. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập ngày 10 tháng năm 2007. Sciberras A,Sciberras &Magro D.(2007) Celebration of Dragonflies. The Malta Independent. tháng 11 năm 19 pgs.8-9. | ''Trithemis arteriosa | |
Peer là một đô thị tỉnh Limburg, Flanders, Bie. Ngày tháng năm 2006, Peer có tổng dân số 15.810 người. Tổng diện tích là 86,95 km² với mật độ dân số 182 người trên mỗi km². Người ta cho rằng, làng Grote Brogel, một phần của Peer, là nơi sinh của Pieter Bruegel. Kleine Brogel, một làng của Peer, có một căn cứ quân sự với một sân bay | Peer | Khu dân cư Limburg (Bỉ) |
Warmsroth là một đô thị thuộc huyện Bad Kreuznach trong bang phía tây nước Đức. Đô thị Warmsroth có diện tích 5,91 km², dân số thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2006 là 414 người. | Warmsroth | Xã của bang Rheinland-Pfalz, Xã và đô thị huyện Bad Kreuznach |
Longton là một thành phố thuộc quận Elk, tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 348 người. Dân số các năm: *Năm 2000: 394 người *Năm 2010: 348 người American Finder | Longton | Quận Elk, Kansas |
là một xã trong vùng hành chính Île-de-France, thuộc tỉnh Yvelines, quận tổng Marly-le-Roi. Tọa độ địa lý của xã là 48° 51' vĩ độ bắc, 02° 06' kinh độ đông. Louveciennes nằm trên độ cao trung bình là 140 mét trên mực nước biển. Xã có diện tích 5,37 km², dân số vào thời điểm 1999 là 7217 người; mật độ dân số là 1344 người/km². Meersburg, Đức, 1991 Radlett, Anh, 1983 Vama, România, 2000 Élisabeth Vigée-Lebrun (1755-1842), mất tại Louveciennes. Camille Pissarro (1830-1903), họa sĩ. Louis-Victor de Broglie (1892-1987), nhận Giải Nobel về Vật lý năm 1929, đã qua đời tại Louveciennes. Alfred Sisley (1839-1899), họa sĩ. Kurt Weill (1900-1950), nhà soạn nhạc đã sống trong làng Voisins 1933-1935. Charles-Camille Saint-Saens (1835-1921), nghệ sĩ đàn ống và nhà soạn nhạc, đã sống trong làng Voisins 1865-1870. Auguste Renoir (1841-1919), họa sĩ, đã sống trong làng Voisins 1869-1870. Madame du Barry (1743-1793), người tình của vua Louis XV của Pháp, đã sống trong Pavillon des Eaux và mở rộng nó thành một lâu đài Có nhiều lâu đài từ thế kỉ thứ 17 và thế kỉ thứ 18: Chateau des Voisins, Chateau de Madame du Barry, Chateau du Pont, Chateau du Parc, Chateau des Sources. | null | Xã của Yvelines |
Giải BFCA cho ca khúc trong phim hay nhất là một trong các giải của BFCA dành cho ca khúc trong phim, được bầu chọn là hay nhất. Giải này được lập từ năm 1998. 1998 "When You Believe" The Prince of Egypt 1999 "Music of My Heart" Music of the Heart 2000: "My Funny Friend và Me", Sting The Emperor's New Groove 2001: "May It Be", Enya The Lord of the Rings: The Fellowship of the Ring ** "Vanilla Sky", Paul McCartney Vanilla Sky ** "Until", Sting Kate và Leopold 2002 "Lose Yourself", Eminem 8 Mile ** "Father và Daughter", Paul Simon The Wild Thornberrys Movie ** "Hero", Nickelback Spider-Man 2003 "A Mighty Wind", Christopher Guest, Michael McKean, Eugene Levy A Mighty Wind ** "Man of the Hour", Eddie Vedder; biểu diễn bởi Pearl Jam Big Fish ** "School of Rock", Sammy James, Mike White; Jack Black biểu diễn School of Rock ** "The Heart of Every Girl", Elton John Mona Lisa Smile ** "Time Enough for Tears", Bono, Gavin Friday, Maurice Seezer; vàrea Corr biểu diễn In America 2004 "Old Habits Die Hard", Mick Jagger Dave Stewart Alfie ** "Accidentally in Love", Counting Crows Shrek ** "Believe", Josh Groban The Polar Express 2005: "Hustle Flow" của Terrence Howard Hustle Flow ** "A Love That Will Never Grow Old" của Emmylou Harris Brokeback Mountain ** "Same in Any Language" của Nine ** "Seasons of Love" của Tracie Thoms, Jesse L. Martin và toàn bộ vai diễn Rent ** "Travelin' Thru" của Dolly Parton 2006: "Listen" của Beyoncé Dreamgirls ** "I Need To Wake Up" của Melissa Etheridge An Inconvenient Truth ** "My Little Girl" của Tim McGraw Flicka ** "The Neighbor" của Dixie Chicks Shut Up và Sing ** "Never Gonna Break My Faith" của Aretha Franklin Mary J. Blige Bobby ** "Ordinary Miracle" của Sarah McLachlan Charlotte's Web 2007: "Falling Slowly" của Glen Hansard Marketa Irglova- Once 2008: "The Wrestler", Bruce Springsteen biểu diễn The Wrestler ** "Another Way to Die", Alicia Keys Jack White biểu diễn Quantum of Solace ** "Down to Earth", Peter Gabriel biểu diễn WALL·E ** "I Thought Lost You", Miley Cyrus John Travolta biểu diễn Bolt ** "Jai Ho", Sukhwinder Singh biểu diễn Slumdog Millionaire 2010: "If Rise" biểu diễn bởi Dido và A.R. Rahman 127 Hours ** "I See the Light" biểu diễn bởi Mandy Moore và Zachary Levi Công chúa tóc mây ** "Shine" biểu diễn bởi John Legend Waiting for "Superman" ** "We Belong Together (Randy Newman song)" biểu diễn bởi Randy Newman Câu chuyện đồ chơi 3 ** "You Haven't Seen the Last of Me" biểu diễn bởi Cher Burlesque 2011: "Life's Happy Song" biểu diễn bởi Jason Segel, Amy Adams, và Walter The Muppets ** "Hello Hello" biểu diễn bởi Elton John và Lady Gaga Gnomeo và Juliet ** "Man or Muppet" biểu diễn bởi Jason Segel và Walter (Peter Linz) The Muppets ** "Pictures in My Head" biểu diễn bởi Kermit the Frog và The Muppets The Muppets ** "The Living Proof" biểu diễn bởi Mary J. Blige The Help *2012: "Skyfall" biểu diễn bởi Adele, sáng tác bởi Adele Paul Epworth Tử địa Skyfall **"For You" biểu diễn bởi Keith Urban, sáng tác bởi Monty Powell Keith Urban Act of Valor **"Still Alive" biểu diễn bởi Paul Williams, sáng tác bởi Paul Williams Paul Williams Still Alive **"Suddenly" biểu diễn bởi Hugh Jackman, sáng tác bởi Claude-Michel Schonberg Alain Boublil Herbert Kretzmer Những người khốn khổ **"Learn Me Right" biểu diễn bởi Birdy with Mumford Sons, sáng tác bởi Mumford Sons Công chúa tóc xù *2013: "Let It Go" biểu diễn bởi Idina Menzel, sáng tác bởi Robert Lopez và Kristen Anderson-Lopez Nữ hoàng băng giá **"Atlas" biểu diễn và sáng tác bởi Coldplay Đấu trường sinh tử: Bắt lửa **"Happy" biểu diễn và sáng tác bởi Pharrell Williams Kẻ trộm mặt trăng 2 **"Ordinary Love" biểu diễn và sáng tác bởi U2 Mandela: Long Walk to Freedom **"Please Mr. Kennedy" biểu diễn bởi Adam Driver, Oscar Isaac và Justin Timberlake; sáng tác bởi Ed Rush, George Cromarty, Bone Burnett, Justin Timberlake, Coen brothers Inside Llewyn Davis **Young và Beautiful" biểu diễn và sáng tác bởi Lana Del Rey Đại gia Gatsby *2014: "Glory" biểu diễn và sáng tác bởi Common John Legend Selma' **"Big Eyes" biểu diễn và sáng tác bởi Lana Del Rey Big Eyes **"Everything Is Awesome" biểu diễn bởi Tegan và Sara cùng với The Lonely Island, sáng tác bởi Shawn Patterson, Joshua Bartholomew, Lisa Harriton The Lonely Island The Lego Movie **"Lost Stars" biểu diễn bởi Keira Knightley, sáng tác bởi Gregg Alexander, Danielle Brisebois, Nick Lashley và Nick Southwood Begin Again **"Yellow Flicker Beat" biểu diễn bởi Lorde, sáng tác bởi Lorde Joel Little The Hunger Games: Húng nhại Phần 1'' | Giải BFCA cho ca khúc trong phim hay nhất | Giải thưởng BFCA BCFA, Giải BFCA |
là một chi bướm đêm trong họ Gelechiidae. Các loài trong chi này có thể tìm thấy khắp thế giới. Các loài trong chi này gồm có: C. abdominella C. abella :*Cây thực phẩm ghi nhận được: Abies concolor, Pseudotsuga menziesii C. abradescens C. acerella C. acrina :*Cây thực phẩm: Quercus C. agriodes C. apolectella C. aprilella C. arenella C. C. aristella C. bastuliella C. bicolor C. :*Cây thực phẩm: Quercus C. braunella :*Cây thực phẩm ghi nhận được: Lathyrus, Lupinus C. canofusella C. ceanothiella :*Cây thực phẩm: Ceanothus C. chrysopyla :*Cây thực phẩm: Quercus C. continuella :*Cây thực phẩm ghi nhận được: Cladonia, Picea glauca C. dammersi :*Cây thực phẩm Eriogonum C. dentella C. :*Recorded food plants: Polygonum, Rumex C. distinctella :*Recorded food plants: Artemisia campestris, Genista, Thymus C. electella :*Recorded food plants: Juniperus, Picea, Pinus C. figurella C. C. fluvialella C. fondella C. formosella :*Cây thực phẩm Quercus C. fructuaria C. fumatella :*Recorded food plants Lotus corniculatus, rêu C. :*Cây thực phẩm Quercus C. :*Cây thực phẩm Quercus C. grandis C. halycopa C. hayreddini C. helicosticta C. hibiscella :*Recorded food plants: Abelmoschus moschatus, Hibiscus C. hinnella C. holosericella C. ignorantella :*Thức ăn: rêu C. iridescens C. kincaidella C. labradorica C. loetae C. lophosella C. luctuella :*Thức ăn: Pinaceae C. lugubrella :*Recorded food plants: Dorycnium pentaphyllum, Lotus, Trifolium repens, Vicia cracca C. :*Cây thực phẩm Eriogonum niveum C. manabiensis C. mariona :*Recorded food plants: Abutilon, Malvastrum, Sida C. mediofuscella :*Cây thực phẩm Ambrosia C. metallica C. mongolicus C. nanodella C. nebulosella C. negundella :*Cây thực phẩm Acer negundo C. nigrobarbata C. notandella C. nubilella C. obscurusella C. occidentella :*Recorded food plants: Ceanothus, Quercus C. occlusa C. :*Cây thực phẩm Rumex C. paralogella C. pereyra :*Cây thực phẩm Quercus C. periculella :*Recorded food plants: Pinus ponderosa, Pseudotsuga menziesii C. permacta C. perpetuella C. petalumensis :*Thức ăn Quercus lobata C. phalacra C. pinguicula C. praeclarella :*Thức ăn: Polygonaceae C. C. psiloptera :*Thức ăn: Poaceae bao gồm Poa pratensis C. raspyon :*Cây thực phẩm Quercus C. retiniella :*Cây thực phẩm Pinus ponderosa C. sabinianus :*Cây thực phẩm Pinus sabineana C. salicella C. seculaella C. sistrella :*Cây thực phẩm Suaeda moquinii C. soella C. stefaniae C. :*Cây thực phẩm Populus C. tessa C. C. tragicella :*Cây thực phẩm Larix C. trichostola :*Cây thực phẩm Quercus C. trophella :*Cây thực phẩm Quercus C. vanduzeei :*Cây thực phẩm Quercus agrifolia C. viduella :*Recorded food plants: Betula, Juniperus, Rubus chamaemorus, Vaccinium uliginosum C. violaceus C. whitmanella C. Tập tin:Calidota obscurator.JPG Tập tin:Chionodes Tập tin:Chionodes fumatella.jpg Fauna Europaea Nomina Insecta Nearctica HOSTS | null | Gelechiini |
Thống chế () là cấp bậc cao nhất trong Lục quân Anh kể từ năm 1736. Nó tương đương cấp bậc Đô đốc Hạm đội Hải quân Hoàng gia hoặc Thống chế Không quân Hoàng gia. Phù hiệu thống chế gồm biểu tượng hai baton thống chế gác chéo nhau được bao quanh bởi những chiếc lá vàng bên dưới Vương miện của St. Edward. Cho đến thời điểm hiện tại (2020), đã có 141 người giữ cấp bậc Thống chế. Đa số họ thăng tiến binh nghiệp Quân đội Anh hoặc Quân đội Anh-Ấn. Một số thành viên của Hoàng gia Anh, mà gần đây nhất Hoàng tử Edward, Công tước xứ Kent và Charles, Hoàng tử xứ Wales đã được phong cấp Thống chế chỉ sau thời gian phục vụ ngắn. Ba vị vua Anh, George George, Edward VIII, và George VI, đã nhận cấp bậc trong thời gian tại vị. Trong khi Edward VII trực tiếp nhận cấp bậc Thống chế trên ngai vị, thì Vương công Albert và Hoàng thân Philip, Công tước xứ Edinburgh được phong cấp bởi các nữ vương phối ngẫu của họ. Một số cấp bậc thống chế được phong như cử chỉ ngoại giao. Mười hai quốc vương nước ngoài đã được vinh danh, mặc dù ba (Hoàng đế Đức Wilhelm II, Hoàng đế Áo Franz Joseph và Hoàng đế Nhật Bản Hirohito) đã bị tước bỏ khi đất nước của họ trở thành kẻ thù của Anh và các đồng minh của quốc gia này trong hai cuộc Thế chiến. Hai quân quân nước ngoài khác được phong cấp bậc Thống chế Anh là một người Pháp (Ferdinand Foch) và một người Úc (Sir Thomas Blamey), được vinh danh vì những đóng góp của họ cho Thế chiến thứ nhất và Thế chiến thứ hai, và một chính khách nước ngoài (Jan Smuts). Mặc dù cấp bậc Thống chế không được sử dụng trong Thủy quân lục chiến Hoàng gia, cấp hiệu Thống chế vẫn được được sử dụng trên quân phục của Chỉ huy Danh dự, người đứng đầu trên danh nghĩa của lực lương này (tương đương cấp Đại tá danh dự). George Hamilton, Bá tước của Orkney (1736) John Campbell, Công tước của Argyll (1736) Richard Boyle, Tử tước Shannon (1739) François de la Rochefoucauld, Hầu tước của Montandré (1739) John Dalrymple, Bá tước của Stair (1742) Richard Temple, Tử tước Cobham (1742) George Wade (1743) Sir Robert Rich (1757) Richard Molesworth, Tử tước Molesworth (1757) John Ligonier, Bá tước Ligonier (1757) James O'Hara, Nam tước Tyrawley và Kilmaine (1763) Henry Seymour Conway (1793) William Henry, Công tước của Gloucester và Edinburgh (1793) Sir George Howard (1793) Frederick Augustus, Công tước của York và Albany (1795) John Campbell, Công tước của Argyll (1796) Jeffrey Amherst, Nam tước Amherst của Montreal (1796) John Griffin Griffin, Nam tước Howard de Walden (1796) Studholme Hodgson (1796) George Townshend, Hầu tước Townshend (1796) Lord Frederick Cavendish (1796) Charles Lennox, Công tước của Richmond và Lennox (1796) Edward Augustus, Công tước của Kent và Strathearn (1805) Sir Arthur Wellesley, Công tước thứ nhất xứ Wellington (1813) Ernest Augustus của Hannover (1813) Adolphus Frederick, Công tước của Cambridge (1813) William Frederick, Công tước của Gloucester và Edinburgh (1816) Leopold của Bỉ (1816) Charles Moore, Hầu tước của Drogheda (1821) William Harcourt, Bá tước Harcourt (1821) Sir Alured Clarke (1830) Sir Samuel Hulse (1830) Francis Albert Augustus Charles Emmanuel của (1840) Willem II của Hà Lan (1845) Sir George Nugent (1846) Thomas Grosvenor (1846) Henry William Paget, Hầu tước của Anglesey (1846) Fitzroy Somerset, Nam tước Raglan (1854) Stapleton Cotton, Tử tước Combermere (1855) John Byng, Bá tước của Strafford (1855) Henry Hardinge, Tử tước Hardinge (1855) John Colborne, Nam tước Seaton (1860) Sir Edward Blakeney (1862) Hugh Gough, Tử tước Gough của Goojerat (1862) George William Frederick Charles, Công tước của Cambridge (1862) Colin Campbell, Nam tước Clyde (1862) Sir Alexander George Woodford (1868) Sir William Maynard Gomm (1868) Sir Hew Dalrymple Ross (1868) Sir John Fox Burgoyne (1868) Sir George Pollock (1870) Sir John Foster Fitzgerald (1875) George Hay, Hầu tước của Tweeddale (1875) Edward VII của Anh (1875) Sir William Rowan (1877) Sir Charles Yorke (1877) Hugh Henry Rose, Nam tước Strathnairn (1877) Robert Napier, Nam tước Napier của Magdala (1883) Sir Patrick Grant (1883) Sir John Michel (1886) Sir Richard James Dacres (1886) Lord William Paulet (1886) George Charles Bingham, Bá tước của Lucan (1887) Sir John Lintorn Arabin Simmons (1890) Sir Frederick Paul Haines (1890) Sir Donald Martin Stewart (1894) Garnet Joseph Wolseley, Tử tước Wolseley của Cairo (1894) Frederick Roberts, Nam tước Roberts của Kandahar (1895) William Augustus Edward của Saxe-Weimar (1897) Sir Neville Bowles Chamberlain (1900) Wilhelm II của Đức (1901) Sir Henry Wylie Norman (1902) Arthur William Patrick Albert, Công tước của Connaught và Strathearn (1902) Sir Henry Evelyn Wood (1903) Sir George Stewart White (1903) Franz Josef của Áo (1903) Francis Wallace Grenfell, Nam tước Grenfell (1908) Sir Charles Henry Brownlow (1908) Horatio Kitchener, Tử tước Kitchener của Khartoum (1909) George của Anh (1910) Paul Stafford Methuen, Nam tước Methuen (1911) William Gustavus Nicholson, Nam tước Nicholson (1911) John Denton Pinkstone French, Bá tước Ypres (1913) Nicholas II của Nga (1916) Sir Douglas Haig (1917) Sir Charles Comyn Egerton (1917) Yoshihito của Nhật (1918) Ferdinand Foch của Pháp (1919) Herbert Charles Onslow Plumer, Tử tước Plumer của Messines (1919) Edmund Henry Hynman Allenby, Tử tước Allenby (1919) Sir Henry Hughes Wilson (1919) Sir William Robert Robertson (1920) Sir Arthur Arnold Barret (1921) Albert của Bỉ (1921) William Riddell Birdwood, Nam tước Birdwood (1925) Sir Claude William Jacob (1926) George Francis Milne (1928) Alfonso XIII của Tây Ban Nha (1928) Hirohito của Nhật (1930) Julian Hedworth Byng, Tử tước Byng của Vimy (1932) Frederick Rudolph Lambart, Bá tước của Cavan (1932) Philip Walhouse Chetwode, Nam tước Chetwode (1933) Sir Archibald Armar (1935) Edward VIII của Anh (1936) Sir Cyril John Deverell (1936) George VI của Anh (1936) William Edmund Ironside, Nam tước Ironside (1940) Jan Christiaan Smuts (1941) Sir John Greer Dill (1941) John Standish Surtees Prendergast Vereker, Tử tước Gort (1943) Archibald Percival Wavell, Tử tước Wavell (1943) Sir Alan Francis Brooke (1944) Sir Harold Rupert Leofric George Alexander (1944) Sir Bernard Law Montgomery (1944) Henry Maitland Wilson, Nam tước Wilson của Libya (1944) Sir Claude John Eyre Auchinleck (1946) William Slim, Tử tước Slim (1949) Philip Mountbatten, Công tước của Edinburgh (1953) Allan Francis John Harding, Nam tước Harding của Petherton (1953) Henry William Frederick Albert, Công tước của Gloucester (1955) Sir Gerald Francis Templer (1956) Sir Francis Wogan Festing (1960) Mahendra của Nepal (1960) Haile Selassie của Ethiopia (1965) Sir Richard Amyatt Hull (1965) Sir Charles Archibald James Halkett Cassels (1968) Sir Geoffrey Harding Baker (1971) Richard Michael Power Carver, Nam tước Carver của Shackleford (1973) Sir Roland Christopher Gibbs (1979) Birendra của Nepal (1980) Edwin Noel Westby Bramall, Nam tước Bramall (1982) Sir John Wilfrid Stanier (1985) Sir Nigel Thomas Bagnall (1988) Richard Frederick Vincent, Nam tước Vincent của Coleshill (1991) Sir John Lyon Chapple (1992) Edward George Nicholas Paul Patrick, Công tước của Kent (1993) Sir Peter Anthony Inge (1994) 1690 Edward Russell, Bá tước của Orford 1696 Sir George Rooke 13 tháng năm 1705 Sir Cloudesley Shovell 21 tháng 12 năm 1708 Sir Stafford Fairborne 14 tháng năm 1718 George Byng, Tử tước Torrington 1734 Sir John Norris tháng năm 1749 Sir Chaloner Ogle Tháng 1761 George Anson, Nam tước Anson 1762 Sir William Rowley 15 tháng năm 1768 Edward Hawke, Nam tước Hawke 24 tháng 10 năm 1781 John Forbes 12 tháng năm 1796 Richard Howe, Bá tước Howe 16 tháng năm 1799 Sir Peter Parker 24 tháng 12 năm 1811 William IV của Anh, Công tước của Clarence 19 tháng năm 1821 John Jervis, Bá tước của St Vincent 1830 James Gambier, Nam tước Gambier 28 tháng năm 1830 William 22 tháng năm 1830 Sir Charles Pole Tháng 1833 Sir Charles Nugent tháng năm 1844 Sir James Whitshed 13 tháng 10 năm 1849 Sir Thomas Byam Martin tháng năm 1851 Sir George Cockburn tháng 12 năm 1857 Sir Charles Ogle 25 tháng năm 1858 Sir John West 1862 Sir William Hall Gage 10 tháng 11 năm 1862 Sir Graham Hamond 27 tháng năm 1863 Sir Francis Austen 27 tháng năm 1863 Sir William Parker 12 tháng năm 1865 Sir Thomas John Cochrane 30 tháng 11 năm 1866 Sir George Seymour 30 tháng năm 1868 Sir James Alexander Gordon 15 tháng năm 1869 Sir William Bowles tháng năm 1869 Sir George Sartorius 21 tháng năm 1870 Sir Fairfax Moresby 20 tháng 10 năm 1872 Sir Houston Stewart 22 tháng năm 1877 Sir Henry Codrington tháng năm 1877 Sir Henry Keppel 11 tháng 12 năm 1877 Sir Provo Wallis 27 tháng 12 năm 1877 Thomas Maitland, Bá tước của Lauderdale 27 tháng 12 năm 1877 Sir George Mundy 15 tháng năm 1879 Sir James Hope 15 tháng năm 1879 Sir Thomas Symonds 1881 Sir Alexander Milne 29 tháng năm 1885 Sir Alfred Ryder tháng năm 1888 Sir Geoffrey Hornby Tháng 12 1888 Lord John Hay 13 tháng năm 1892 Sir John Commerell Tháng 1893 Alfred, Công tước của Saxe-Coburg và Gotha 20 tháng năm 1895 Richard Meade, Bá tước của Clanwilliam 23 tháng năm 1897 Sir Algernon McLennan Lyons Tháng 11 1898 Sir Frederick William Richards Tháng 1904 Lord Walter Kerr Tháng 1905 Sir Edward Seymour tháng 12 năm 1905 John Fisher, Nam tước Fisher 1907 Sir Arthur Knyvet Wilson Tháng 1913 Sir William May Tháng 1915 Sir Hedworth Meux Tháng 1917 Sir George Callaghan Tháng 1919 Bá tước John Jellicoe tháng năm 1919 Bá tước David Beatty Tháng 1919 Sir Henry Bradwardine Jackson Tháng 10 1919 Rosslyn Wemyss, Nam tước Wester-Wemyss Tháng 11 1920 Sir Cecil Burney 1921 Sir Frederick Doveton Sturdee 22 tháng năm 1921 Louis Mountbatten, Hầu tước của Milford Haven Tháng 1924 Sir Charles Madden 1925 Sir Somerset Calthorpe Tháng 11 1925 Sir John de Robeck 1928 Sir Henry Oliver 1929 Sir Osmond Brock Tháng 1930 Roger John Brownlow Keyes, Nam tước Keyes 20 tháng năm 1933 Sir Frederick Field 1934 Sir Reginald Tyrwhitt 1935 Alfred Ernle Montacute Chatfield, Nam tước Chatfield 21 tháng năm 1936 Edward VIII của Anh 12 tháng năm 1936 Sir John Kelly 1936 George VI của Anh 1938 William Henry Dudley Boyle, Bá tước của Cork và Orrery 1939 Sir Roger Backhouse Tháng 1939 Sir Dudley Pound Tháng 1940 Sir Charles Forbes Tháng 1943 Andrew Browne Cunningham, Tử tước Cunningham của Hyndhope 22 tháng 10 năm 1943 John Cronyn Tovey, Nam tước Tovey tháng năm 1945 Sir James Somerville Tháng 1948 Sir John Cunningham 22 tháng 10 năm 1948 Bruce Fraser, Nam tước của North Cape 20 tháng năm 1949 Sir Algernon Willis 1952 Sir Arthur Power 1952 Sir Philip Vian 15 tháng năm 1953 Hoàng thân Philip, Công tước của Edinburgh Tháng 1953 Sir Rhoderick McGrigor 22 tháng năm 1955 Sir George Creasy 22 tháng 10 năm 1956 Louis Mountbatten, Bá tước Mountbatten của of Burma 1960 Sir Charles Lambe 23 tháng năm 1962 Sir Caspar John 12 tháng năm 1968 Sir Varyl Begg 1970 Sir Michael LeFanu 12 tháng năm 1971 Peter Hill-Norton, Nam tước Hill-Norton tháng năm 1974 Sir Michael Pollock tháng năm 1977 Sir Edward Ashmore tháng năm 1979 Terence Lewin, Nam tước Lewin tháng 12 năm 1982 Sir Henry Leach tháng năm 1985 John Fieldhouse, Nam tước Fieldhouse 25 tháng năm 1989 Sir William Staveley 1993 Sir Julian Oswald 1995 Sir Benjamin Bathurst tháng năm 1927 Sir Hugh Trenchard tháng năm 1933 Sir John Salmond 21 tháng năm 1936 King Edward VIII 11 December 1936 King George VI January 1937 Sir Edward Ellington October 1940 Sir Cyril Newall January 1944 Sir Charles Portal 12 September 1945 Sir Arthur Tedder January 1946 Sir Sholto Douglas January 1946 Sir Arthur "Bomber" Harris June 1950 Sir John Slessor 15 January 1953 The Duke of Edinburgh June 1954 Sir William Dickson January 1958 Sir Dermot Boyle 12 June 1958 The Duke of Gloucester April 1962 Sir Thomas Pike April 1967 Sir Charles Elworthy April 1971 Sir John Grandy 31 March 1974 Sir Denis Spotswood August 1976 Sir Andrew Humphrey 31 July 1977 Sir Neil Cameron 14 October 1982 Sir Michael Beetham 15 October 1985 Sir Keith Williamson 14 November 1988 Sir David Craig tháng năm 1992 Sir Peter Harding 16 tháng năm 2012 The Prince of Wales 13 tháng năm 2014 Lord Stirrup Anh | Thống chế | Quân sự Vương quốc Liên hiệp Anh |
'Ips là một loài côn trùng trong họ Curculionidae. Loài này được Linneaus miêu tả khoa học đầu tiên năm 1758. Đây là loài gây hại của cây Picea abies, phát triển phổ biến Romania. | null | Ips, Động vật được mô tả năm 1758, Loài gây hại Romania, Bọ cánh cứng châu Âu, Scolytinae, Nhóm loài do Carl Linnaeus đặt tên |
Xăng máy bay là nhiên liệu có chỉ số ốctan cao, được sử dụng cho các máy bay, và các tô đua trong quá khứ. Xăng máy bay trong tiếng Anh được gọi là AvGas (Aviation Gasoline), phân biệt với Mogas (Motor Gasoline) là các loại xăng sử dụng hàng ngày cho tô, xe máy. Nhiên liệu trong ngành hàng không có phân biệt rõ ràng, nhưng được liệt kê theo hai nhóm chính: AvGas dễ bay hơi, dành cho máy bay có sử dụng động cơ đốt trong; và JetGas khó bay hơi, có thành phần tương tự như Dầu hỏa, dành cho các máy bay sử dụng động cơ phản lực. Vì sự nguy hiểm trong việc đặt tên, dễ gây nhầm lẫn (chủ yếu trong môi trường các chuyến bay quốc tế đa ngôn ngữ), một loạt các biện pháp phòng ngừa được đưa ra để phân biệt hai loại nhiên liệu này, trong đó có đánh dấu màu rõ ràng trên mọi thùng chứa, và phân biệt kích thước loại vòi bơm. AvGas được phân phối từ các vòi màu đỏ, với đường kính Φ40mm (49mm tại Mỹ). Chỗ tiếp liệu của các máy bay sử dụng động cơ đốt trong có đường kính không được phép vượt quá 60mm. Vòi phân phối JetGas có đường kính lớn hơn 60mm Xăng máy bay có tính bay hơi thấp hơn so với xăng Mogas và không bay hơi nhanh, đây là thuộc tính quan trọng để sử dụng các cao độ lớn. Những hỗn hợp xăng máy bay ngày nay sử dụng cũng giống như khi chúng lần đầu tiên được sử dụng trong những năm khoảng 1950 1960. Chỉ số ốctan cao thu được là nhờ sự bổ sung của Chì Tetraetyl (viết tắt tiếng Anh: TEL), một chất tương đối độc đã bị ngừng sử dụng cho ôtô phần lớn các nước trong những năm 1980. Thành phần dầu mỏ chính được sử dụng trong pha trộn xăng máy bay là alkylat. Nó là hỗn hợp của các loại izôốctan khác nhau, và một số các nhà máy lọc dầu sử dụng cả reformat. Xăng máy bay hiện nay có vài loại với sự phân biệt theo nồng độ chì cực đại trong xăng. Do TEL là một phụ gia khá đắt, một lượng cực tiểu của nó thông thường được thêm vào nhiên liệu để nó đạt chỉ số ốctan yêu cầu, vì thế thông thường trên thực tế nồng độ của nó thấp hơn mức cực đại. *Avgas 80/87: có ít chì nhất, cực đại là 0,5 gam chì trên galông Mỹ, và nó được sử dụng trong các động cơ có tỷ số nén rất thấp. *Avgas 100/130: là xăng máy bay có chỉ số ốctan cao hơn, chứa tối đa gam chì trên galông Mỹ, hay 1,12 gam/lít. *Avgas 100LL: chứa tối đa gam chì trên một galông Mỹ, hay 0,56 gam/lít, và là xăng máy bay phổ biến nhất. 100LL (LL trong tiếng Anh là ít chì) được tạo ra để thay thế cho Avgas 100/130. Trong quá khứ, các loại xăng máy bay khác cũng được sử dụng trong quân sự, chẳng hạn như Avgas 115/145. Lưu rằng chỉ số ốctan của xăng máy bay không thể so sánh trực tiếp với các chỉ số ốctan của xăng Mogas, do các động cơ thử nghiệm và phương pháp thử được sử dụng để xác định chỉ số này trong hai trường hợp là khác nhau. Đối với xăng máy bay, số đầu tiên (nhỏ hơn) là cấp trộn nghèo, và số thứ hai (lớn hơn) là cấp trộn giàu. Đối với xăng Mogas, chỉ số "ốctan" thông thường được biểu diễn như là chỉ số chống nổ, nó là trung bình của chỉ số ốctan, dựa trên các nghiên cứu và phương pháp thử động cơ, hay (IR+IM)/2. Để hỗ trợ phi công xác định nhiên liệu trong máy bay của họ, các chất nhuộm màu được thêm vào nhiên liệu. 80/87 có màu đỏ, 100/130 có màu xanh lục, và 100LL có màu lam, trong khi đó nhiên liệu máy bay phản lực, JET A1, là trong suốt hay vàng nhạt thì không được nhuộm màu. Rất nhiều động cơ máy bay của hàng không dân dụng được thiết kế để hoạt động với chỉ số ốctan 80/87, xấp xỉ bằng tiêu chuẩn cho tô ngày nay. Việc chuyển đổi trực tiếp sang hoạt động bằng nhiên liệu tô là tương đối phổ biến và được áp dụng thông qua quy trình chứng nhận bổ sung dạng (STC). Tuy nhiên, các hợp kim sử dụng trong các kết cấu động cơ máy bay là đã quá cũ và động cơ bị mòn các van là vấn đề tiềm ẩn trong việc chuyển sang dùng xăng Mogas. Rất may là lịch sử của các động cơ chuyển đổi sang Mogas đã chứng minh rằng rất ít các vấn đề về động cơ xảy ra khi dùng xăng Mogas. Vấn đề lớn hơn phát sinh ra từ khoảng áp suất hơi cho phép quá rộng của xăng Mogas và đặt ra một số rủi ro cho những người sử dụng trong hàng không nếu sự cân nhắc trong thiết kế hệ thống nhiên liệu không được xem xét kỹ. Xăng Mogas có thể bay hơi trong các đường ống dẫn xăng và sinh ra khóa hơi (các bong bóng khí trong ống dẫn) làm cho động cơ thiếu xăng. Điều này không phải là chướng ngại không thể vượt qua được, nhưng yêu cầu đơn thuần là kiểm tra kỹ lưỡng hệ thống cung cấp xăng để đảm bảo việc che chắn hợp lý, tránh nhiệt độ cao và sự tồn tại của áp suất vừa đủ và sự lưu thông trong ống dẫn xăng. Ngoài vấn đề về khóa hơi, xăng Mogas không có các chất theo dõi chất lượng như xăng máy bay. Để giải quyết vấn đề này, một loại nhiên liệu máy bay được biết đến như là 82UL đã được giới thiệu. Nhiên liệu này thực chất là xăng Mogas có bổ sung chất theo dõi chất lượng và hạn chế các phụ gia thêm vào. Những nhà tiêu thụ lớn của xăng máy bay ngày nay nằm Bắc Mỹ, Úc, Brasil và châu Phi (chủ yếu là Nam Phi). Còn rất ít nguồn cung cấp ngoài nước Mỹ. châu Âu, xăng máy bay có giá quá cao vì thế toàn bộ ngành hàng không dân dụng đang dần chuyển sang sử dụng dầu diesel, là nhiên liệu rẻ tiền hơn, phổ biến hơn và có một số ưu điểm trong sử dụng trong hàng không. *Nhiên liệu máy bay phản lực Fuel | Xăng máy bay | Nhiên liệu, Máy bay |
memiae' là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống biển trong họ Conidae, họ ốc cối. Giống như tất cả các loài thuộc chi chúng là loài săn mồi và có nọc độc. Chúng có khả năng "đốt" con người, do vậy khi cầm chúng phải hết sức cẩn thận. Tập tin:Conus memiae 3.jpg Tập tin:Conus memiae 4.jpg The Conus Biodiversity website | null | Động vật được mô tả năm 1970 |
Bezirk Hermagor là một huyện hành chính (Bezirk) Carinthia, Áo. Huyện này có diện tích 808,02 km² vàdân số là 19.757 người (thời điểm ngày 15 tháng năm 2001). Hermagor có mật độ dân số 24 người/1 km². The Trung tâm hành chính huyện là See. Tên gọi có liên hệ đối với Thánh Hermagoras, người được tôn thờ tại Aquileia. 200px Các thị xã (Städte) bằng chữ đậm; các phố thị bằng chữ xiên, các khu ngoại ô, làng và các đơn vị khác của một đô thị được hiển thị bằngchữ nhỏ. Dellach (4) ** Dellach, Goldberg, Gurina, Höfling, Leifling, Monsell, Nölbling, Rüben, Siegelberg, St. Daniel, Stollwitz, Wieserberg Gitschtal (5) ** Brunn, Golz, Jadersdorf, Langwiesen, Lassendorf, Leditz, Regitt, St. Lorenzen im Gitschtal, Weißbriach, Wulzentratten See (1) ** Achleiten, Aigen, Bergl, Braunitzen, Brugg, Burgstall, Danz, Dellach, Egg, Eggforst, Förolach, Fritzendorf, Görtschach, Götzing, Grafenau, Grünburg, Guggenberg, Hermagor, Jenig, Kameritsch, Khünburg, Kleinbergl, Kraschach, Kraß, Kreuth ob Mellweg, Kreuth ob Möschach, Kreuth ob Rattendorf, Kühweg, Kühwegboden, Latschach, Liesch, Mellach, Mellweg, Micheldorf, Mitschig, Möderndorf, Nampolach, Neudorf, Neuprießenegg, Obermöschach, Obervellach, Paßriach, Podlanig, Postran, Potschach, Potschach, Presseggen, Presseggersee, Radnig, Radnigforst, Rattendorf, Schinzengraben, Schlanitzen, Schmidt, Siebenbrünn, Sonnenalpe Naßfeld, Sonnleitn, Süßenberg, Toschehof, Tröpolach, Untermöschach, Untervellach, Watschig, Wittenig, Zuchen Kirchbach (2) ** Anraun, Bodenmühl, Forst, Goderschach, Grafendorf, Griminitzen, Gundersheim, Hochwart, Katlingberg, Kirchbach, Krieben, Lenzhof, Oberbuchach, Rauth, Reisach, Reißkofelbad, Rinsenegg, Schimanberg, Schmalzgrube, Schönboden, Staudachberg, Stöfflerberg, Stranig, Tramun, Treßdorf, Unterbuchach, Waidegg, Welzberg (3) ** Aigen, Buchach, Dobra, Dolling, Gailberg, Gentschach, Gratzhof, Höfling, Kosta, Kötschach, Kreuth, Kreuzberg, Krieghof, Kronhof, Laas, Lanz, Mahlbach, Mandorf, Mauthen, Nischlwitz, Passau, Plöcken, Plon, Podlanig, Sittmoos, St. Jakob im Lesachtal, Strajach, Weidenburg, Wetzmann, Würda, Würmlach Lesachtal (6) ** Assing, Birnbaum, Durnthal, Egg, Frohn, Guggenberg, Klebas, Kornat, Ladstatt, Liesing, Maria Luggau, Mattling, Moos, Niedergail, Nostra, Obergail, Oberring, Pallas, Promeggen, Raut, Rüben, Salach, St. Lorenzen im Lesachtal, Stabenthein, Sterzen, Tiefenbach, Tscheltsch, Tuffbad, Wiesen, Wodmaier, Xaveriberg Sankt Stefan im Gailtal (7''') ** Bach, Bichlhof, Bodenhof, Dragantschach, Edling, Hadersdorf, Karnitzen, Köstendorf, Latschach, Matschiedl, Nieselach, Pölland, Pörtschach, Schinzengraben, Schmölzing, St. Paul an der Gail, St. Stefan an der Gail, Sussawitsch, Tratten, Vorderberg | Bezirk Hermagor | Kärnten, Huyện của Áo |
Avricourt là một xã trong vùng Grand Est, thuộc tỉnh Moselle, quận Sarrebourg, tổng Tọa độ địa lý của xã là 48° 39' vĩ độ bắc, 06° 48' kinh độ đông. Avricourt có điểm thấp nhất là 240 mét và điểm cao nhất là 334 mét. Xã có diện tích 10,32 km², dân số vào thời điểm 2005 là 673 người; mật độ dân số là 65,3 người/km². | Avricourt | Xã của Moselle |
Tiền dao nước Yên. Tiền dao (tiếng Trung giản thể: 刀币, phồn thể: 刀錢, bính âm: dāobì) là một loại tiền tệ làm bằng đồng xanh và được sử dụng vào thời cổ đại Trung Quốc. Vào thời cổ đại Trung Quốc, tiền dao từng được các nước chư hầu như Tề, Yên, Việt sử dụng, nhà Tân của Vương Mãng cũng sử dụng một loại tiền tệ tương tự gọi là tiền Vương Mãng. Tiền dao được chế tạo, mô phỏng giống như hình con dao, cùng thời đó, nhiều nước khác đã biết sử dụng tiền tệ bằng đồng xanh như Triệu, Ngụy, Hàn sử dụng tiền vải, Sở thì dùng tiền lỗ kiến, còn riêng nước Tần thì sử dụng tiền tròn. *Tiền bán lưỡng *Tiền ngũ thù *Cải cách thời Vương Mãng Giải thích ngắn gọn các chủng loại tiền dao đa dạng bằng tiếng Anh | Tiền dao | Lịch sử kinh tế Trung Quốc, Xuân Thu, Chiến Quốc, Nhà Chu |
X-Men là phim điện ảnh siêu anh hùng của Mỹ năm 2000 dựa trên biệt đội siêu anh hùng cùng tên của Marvel Comics, do hãng 20th Century Fox phân phối. Phim do Bryan Singer đạo diễn và David Hayter chắp bút viết kịch bản, có sự tham gia của dàn diễn viên: Hugh Jackman, Patrick Stewart, Ian McKellen, Halle Berry, Famke Janssen, James Marsden, Bruce Davison, Rebecca Romijn-Stamos, Ray Park và Anna Paquin. Phim miêu tả một thế giới mà một lượng nhỏ dân số là Dị nhân/người đột biến; họ sở hữu các siêu năng lực và khiến cho người bình thường nghi ngờ. Cốt truyện tập trung vào hai dị nhân chính là Wolverine và Rogue khi họ bị kéo vào cuộc xung đột giữa hai nhóm có cách tiếp cận hoàn toàn khác nhau để đem đến sự chấp nhận của người đột biến: X-Men của Giáo sư Charles Xavier và Brotherhood of Mutants của Magneto. X-Men tại Marvel.com | ''X-Men | Phim năm 2000, Phim tiếng Anh, Phim phiêu lưu thập niên 2000, Phim hành động giật gân thập niên 2000, Phim khoa học viễn tưởng thập niên 2000, Phim siêu anh hùng thập niên 2000, Phim phiêu lưu khoa học viễn tưởng, Phim Mỹ, Phim hành động Mỹ, Phim hành động giật gân Mỹ, Phim lấy bối cảnh năm 1944, Phim lấy bối cảnh Canada, Phim lấy bối cảnh thành phố New York, Phim lấy bối cảnh Washington, D.C., Phim của 20th Century Fox |
Vỏ solvat hóa đầu tiên của một ion natri hòa tan trong nước. Dung dịch nước là một dung dịch trong đó dung môi là nước. Nó thường được thể hiện trong phương trình hóa học bằng cách nối thêm (aq) với công thức hóa học có liên quan. Ví dụ, một dung dịch của muối, hoặc natri chloride, trong nước sẽ được đại diện như Na+ Cl−. Chất kỵ nước cũng thường không tan trong nước, trong khi những chất ưa nước lại tan mạnh trong nước. Ví dụ về một chất ưa nước đó là natri chloride. Axit và base là dung dịch nước, như là một phần của phản ứng axit-base. Khả năng hòa tan của một chất trong nước được xác định bằng cách liệu chất đó có thể phù hợp hoặc vượt quá các lực hấp dẫn mạnh mẽ mà các phân tử nước tạo ra giữa chúng hay không. Nếu chất này ít có khả năng hòa tan trong nước, các phân tử tạo thành một kết tủa. Phản ứng trong dung dịch nước thường là phản ứng trao đổi. Phản ứng trao đổi là một thuật ngữ khác về sự dịch chuyển kép; tức là khi một ion cation di chuyển để tạo thành một liên kết ion với anion khác. Cation gắn kết với anion thứ hai sẽ tách ra và liên kết với anion khác. Các dung dịch nước dẫn điện tốt chứa chất điện phân mạnh, trong khi những chất dẫn điện kém được coi là có chất điện phân yếu. Những chất điện phân mạnh này là các chất bị ion hoá hoàn toàn trong nước, trong khi các chất điện phân yếu chỉ biểu hiện một lượng ion hóa nhỏ trong nước. Dung dịch không điện phân là các chất hòa tan trong nước nhưng vẫn duy trì tính toàn vẹn phân tử của chúng (không phân tách thành ion). Ví dụ như đường, urê, glycerol, và (MSM). Khi viết các phương trình phản ứng dung dịch nước, cần xác định lượng kết tủa. Để xác định kết tủa, người ta phải tham khảo biểu đồ độ tan. Các hợp chất hòa tan là dung dịch nước, trong khi hợp chất không tan là chất kết tủa. Hãy nhớ rằng có thể không phải luôn luôn là một kết tủa. Khi thực hiện các tính toán liên quan đến phản ứng của một hoặc nhiều dung dịch nước, nói chung, người ta phải biết nồng độ, hoặc sự phân bố mol của dung dịch nước. Nồng độ dung dịch được đưa ra dưới dạng dạng chất tan trước khi hòa tan. Ion kim loại trong dung dịch Hòa tan Phân ly (chất hóa học) Phản ứng axit-base Tính chất của nước Zumdahl S. Năm 1997. Hóa học. ed. Boston: Houghton Mifflin Company. 133-145. | Dung dịch | Dung dịch |
Hawaii hoặc Hawaii có thể là: *Hawaii, một tiểu bang của Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương *Quần đảo Hawaii, một chuỗi dài các đảo bao gồm các đảo thuộc tiểu bang Hawaii và những đảo khác, tổng cộng khoảng 137 đảo và rạn san hô vòng *Đảo Hawaii, đảo lớn nhất trong quần đảo Hawaii *Vương quốc Hawaii, Cộng hòa Hawaii và Lãnh thổ Hawaii, tất cả là tên gọi trước của tiểu bang Hawaii *USS Hawaii, tên của hai tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ *Tiểu thuyết Hawaiii của James Michener *Phim Hawaii dựa vào tiểu thuyết trên *Ban nhạc Hawaii *Hawaii Five-O, một chương trình TV nổi tiếng được phát từ 1968 đến 1980. | Hawaii | |
'Diplazium là một loài dương xỉ trong họ Athyriaceae. Loài này được C.Chr. mô tả khoa học đầu tiên năm 1905. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | null | Diplazium, Unresolved names |
là một đô thị thuộc bang Paraná, Brasil. Đô thị này có diện tích 271,724 km², dân số năm 2007 là 13776 người, mật độ 49,3 người/km². Cơ sở dữ liệu các đô thị của Brasil Inwonertallen 2009 | null | Đô thị bang Paraná |
Quốc lộ 7 (Tiếng Hàn: 국도 7호선, Gukdo Je Chil(7) Hoseon) là một đường quốc lộ Hàn Quốc. Nó kết nối Busan với Goseong tỉnh Gangwon. Trước đây còn là Bán đảo Triều Tiên, đường quốc lộ chạy đến Onsong, Hamgyong Bắc, Triều Tiên ngày nay. Đường quốc lộ là một phần của Đường Xuyên số cho đến khi các đoạn của Đường cao tốc Donghae mở cửa giao thông. Tên của nó trong Pohang~Goseong là (Hangul: 동해대로). 31 tháng 11 năm 1979: Đoạn Samcheok~Pohang mở cửa giao thông. (2 làn) 29 tháng 12 năm 2010: Tất cả các đoạn của Quốc lộ mở rộng làn. | Quốc lộ 7 | |
Hình:James Joseph Joseph Sylvester, người mà giải thưởng lấy tên. Huy chương Sylvester là một huy chương đồng do Hội Hoàng gia Luân Đôn trao tặng để khuyến khích nghiên cứu khoa học, đi kèm với giải thưởng 1000 bảng Anh. Nó được đặt theo tên James Joseph Sylvester, Giáo sư Savilian về Hình học Đại học Oxford những năm 1880. Giải thưởng được đề xuất bởi Raphael Meldola và những người bạn khác của Sylvester tại Hội Hoàng gia sau cái chết của ông này vào năm 1897. Nó được trao năm một lần, bắt đầu từ năm 1897 Hội Hoàng gia thông báo từ năm 2009 giải sẽ được trao hai năm một lần và dành cho những nhà khoa học chặng đầu hoặc giữa sự nghiệp thay vì những nhà toán học nổi tiếng. Cho tới năm 2008, có 36 huy chương đã được trao, trong đó có 27 người nhận giải là công dân Anh, và có một phụ nữ duy nhất (Mary Cartwright). Dưới đây là danh sách đầy đủ những người được Huy chương Sylvester: Năm Tên Quốc tịch 1901 French 1904 German 1907 Austrian 1910 British 1913 British 1916 French 1919 British 1922 Italian 1925 British 1928 British 1931 British 1934 British 1937 British 1940 British 1943 British 1946 British 1949 British 1952 Russian 1955 British 1958 British 1961 British 1964 British 1967 British 1970 British 1973 British 1976 British 1979 British 1982 British 1985 American 1988 British 1991 British 1994 New Zealand 1997 British 2000 British 2003 Swedish 2006 British 2009 British 2010 British 2012 British/Irish Royal Society: Sylvester Medal | Huy chương Sylvester | Giải thưởng |
La Liga 1996-97, là mùa giải thứ 66 của La Liga kể từ khi giải đấu được thành lập, bắt đầu từ ngày 31 tháng năm 1996 và kết thúc vào ngày 23 tháng năm 1997. Đây là mùa giải cuối cùng La Liga có 22 đội bóng được tham dự giải. Để giảm số lượng câu lạc bộ trong giải đấu, đội bóng xếp cuối bảng, CF Extremadura, Sevilla FC, Hércules CF và CD Logroñés bị xuống hạng và đội xếp thứ từ dưới lên, Rayo Vallecano, cũng phải xuống hạng sau khi thất bại trong trận playoff. Đội thăng hạng từ Segunda División 1995–96 Hércules CF CD Logroñés CF Extremadura Đội xuống hạng tới Segunda División 1996–97 Albacete CP Mérida UD Salamanca Giải đấu bao gồm các câu lạc bộ sau: Athletic Bilbao Atlético Madrid FC Barcelona Betis Celta de Vigo SD Compostela Deportivo de La Coruna RCD Espanyol CF Extremadura Hércules CF CD Logroñés Racing de Santander Rayo Vallecano Real Madrid Real Oviedo Real Sociedad Sevilla FC Sporting de Gijón Tenerife Valencia CF Valladolid Zaragoza Lưu ý: Đội chủ nhà được liệt kê cột dọc bên trái còn đội khách hàng trên cùng. ATH ATM BAR BET CEL COM DEP ESP EXT HÉR LOG RAC RAY RMA ROV RSO SEV SPG TEN VAL VLD ZAR Athletic Bilbao 1-1 2-1 0-3 2-2 2-2 1-0 2-2 0-0 5-0 6-0 2-2 3-2 1-0 3-2 1-3 0-0 4-0 2-0 2-0 0-0 2-2 Atlético Madrid 2-1 2-5 2-2 2-0 4-1 0-2 2-1 1-1 3-0 2-0 1-0 1-3 1-4 3-0 2-2 3-2 2-1 0-3 1-4 3-1 5-1 FC Barcelona 2-0 3-3 3-0 1-0 3-0 1-0 2-1 3-0 2-3 8-0 1-0 6-0 1-0 2-2 3-2 4-0 4-0 1-1 3-2 6-1 4-1 Betis 3-0 3-2 2-4 1-1 0-0 1-2 1-2 3-1 2-1 5-1 2-2 3-0 1-1 4-0 2-1 3-3 0-1 3-1 1-1 2-0 2-2 Celta de Vigo 0-2 1-1 1-3 0-2 1-2 1-1 2-2 0-1 3-0 4-0 1-1 2-0 4-0 3-1 1-1 4-2 2-1 3-1 1-1 0-2 0-0 SD Compostela 1-1 3-1 1-5 0-2 2-1 0-0 3-1 4-0 2-2 1-2 1-1 2-1 1-2 0-2 1-2 2-0 2-1 1-1 0-3 1-1 2-1 Deportivo de La Coruna 2-2 0-0 0-1 3-0 2-2 1-0 2-0 1-0 4-0 4-1 2-1 1-1 1-1 3-0 1-0 3-0 0-0 0-0 1-0 0-2 1-0 RCD Espanyol 0-2 0-0 2-0 0-0 0-0 0-2 0-1 5-1 2-1 5-1 0-0 0-0 0-2 2-0 3-0 1-0 2-3 1-0 3-2 1-0 3-0 CF Extremadura 1-2 2-4 1-3 0-3 2-0 1-1 1-0 3-0 0-0 3-0 1-2 1-0 0-0 0-2 1-0 0-1 1-2 2-0 1-0 1-1 2-1 Hércules CF 3-2 0-2 2-1 0-1 0-2 1-0 1-3 1-2 2-1 1-0 0-1 1-0 2-3 1-1 2-1 3-0 1-1 3-1 0-2 1-0 1-1 CD Logroñés 1-4 0-3 0-1 2-1 0-3 1-1 1-2 1-0 0-0 3-2 1-1 0-2 0-2 1-1 1-0 2-0 0-2 0-1 2-1 0-1 1-2 Racing de Santander 1-2 1-1 1-1 1-1 1-0 2-2 1-1 1-1 2-3 1-2 2-1 1-2 2-2 1-0 1-2 1-4 2-0 1-2 3-2 2-0 1-2 Rayo Vallecano 1-1 1-2 1-2 0-4 3-0 0-1 1-2 0-1 3-0 2-1 1-0 0-0 1-0 2-2 1-0 2-0 0-1 1-2 3-1 1-2 1-1 Real Madrid 1-0 3-1 2-0 2-2 4-0 0-0 3-2 2-0 5-0 3-0 0-0 2-1 1-0 6-1 6-1 4-2 3-1 0-0 4-2 1-0 2-0 Real Oviedo 2-0 4-1 2-4 1-1 2-1 2-2 0-1 3-1 0-0 2-0 2-1 1-5 0-2 2-3 0-0 1-0 0-0 1-3 3-0 1-1 1-0 Real Sociedad 0-0 1-1 2-0 0-1 1-2 4-1 1-1 1-0 3-0 2-1 2-1 2-0 3-1 1-2 1-0 1-0 1-1 3-0 0-1 0-0 1-0 Sevilla FC 4-2 0-0 0-1 0-3 2-0 0-1 0-1 3-1 0-0 5-0 1-4 0-0 2-0 1-3 2-1 2-3 2-1 2-1 0-2 2-2 1-2 Sporting de Gijón 2-4 0-1 0-0 2-4 2-1 1-1 1-1 4-3 1-1 2-0 2-0 0-1 3-0 0-1 0-0 0-0 1-1 2-1 2-1 1-2 2-0 CD Tenerife 3-3 2-3 4-0 0-1 0-0 6-0 2-1 5-1 2-1 3-1 2-0 2-2 1-2 1-1 2-2 0-1 0-2 6-0 2-1 1-3 3-3 Valencia CF 5-2 3-1 1-1 1-1 2-0 2-1 1-1 1-1 0-0 3-0 0-1 1-1 1-0 1-1 2-1 0-1 4-2 2-1 2-1 2-4 1-1 0-0 0-3 3-1 1-3 0-1 3-1 1-1 2-1 4-0 1-0 2-1 3-0 4-0 1-1 0-1 3-0 0-1 1-0 0-2 4-1 1-1 Zaragoza 1-1 2-3 3-5 2-2 1-1 1-3 1-2 1-0 3-1 2-0 2-2 0-2 3-2 1-2 1-0 3-0 2-1 5-0 1-1 1-1 1-0 Các trận sân nhà: RCD Mallorca 1-0 Rayo Vallecano Các trận sân khách: Rayo Vallecano 2-1 RCD Mallorca Tổng tỉ Cầu thủ Bàn thắng Câu lạc bộ Ronaldo 34 FC Barcelona Alfonso 25 Betis Davor Šuker 24 Real Madrid Raúl 21 Real Madrid Rivaldo 21 Deportivo de La Coruna | La Liga 1996-97 | Mùa giải La Liga |
Vị trí tại Bình Đông Giai Đông () là một hương (xã) của huyện Bình Đông, tỉnh Đài Loan, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Địa hình của hương chủ yếu là đồng bằng, tuy nhiên việc suy giảm mực nước ngầm hiện đang gây ra hiện tượng sụt lún nghiêm trọng tại đây. Nền kinh tế của Giai Đông dựa trên lĩnh vực nông nghiệp và ngư nghiệp. Diện tích của hương là 30,9842 km², dân số vào tháng năm 2011 là 21.129 người thuộc 7.142 hộ gia đình, mật độ cư trú đạt 681,9 người/km². Trang thông tin chính thức | Giai Đông | Bình Đông |
Vườn quốc gia Bhitarkanika là một vườn quốc gia nằm huyện Kendrapara, bang Odisha, miền đông Ấn Độ. Vùng lõi có diện tích 145 km² là Khu bảo tồn thiên nhiên Bhitarkanika, trong khi khu vực trải dài 672 km² được chỉ định là vườn quốc gia từ ngày 16 tháng năm 1998. Nơi đây cũng được công nhận là Vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế theo Công ước Ramsar vào ngày 19 tháng năm 2002. Vườn quốc gia được bao quanh bởi Khu bảo tồn Động vật hoang dã Bhitarkanika. Vùng bãi biển và Khu bảo tồn biển Gahirmatha nằm về phía đông và phân chia khu vực đầm lầy với những tán rừng ngập mặn bên bờ vịnh Bengal. Do đó trở thành một khu vực phụ cận mang tính đa dạng sinh học. Vườn quốc gia nổi tiếng về hệ động thực vật với một số loài nguy cấp và cực kỳ nguy cấp như Cá sấu nước mặn, cá sấu trắng, Trăn đất, Rắn hổ mang chúa, Cò quăm đen Ấn Độ, Chim cổ rắn và rất nhiều các loài động thực vật khác. Được thành lập vào năm 1998 trên khu vực chính của Khu bảo tồn động vật hoang dã Bhitarkanika thành lập từ năm 1975, khu bảo tồn này là hệ sinh thái rừng ngập mặn lớn thứ hai Ấn Độ. Khu bảo tồn động vật hoang dã và vườn quốc gia bị ngập bởi một số con sông bao gồm Brahmani, Baitarni, Dhamra, Pathsala. Vườn quốc gia Bhitarkanika. Rừng ngập mặn tại vườn quốc gia. Cá sấu nước mặn tại Bhitarkanika. Hệ thực vật đây chủ yếu là các loài cây ngập mặn bao gồm Heritiera fomes, Thespesia populnea, Casuarina và nhiều loài khác. Trong khi động vật đa dạng bao gồm các loài bò sát như cá sấu nước mặn, cá sấu trắng, trăn đất, Rắn hổ mang chúa, Kỳ đà hoa. Trên bãi biển Gahirmatha và các bãi biển gần đó là sự có mặt của Vích thường xuyên làm tổ và đẻ trứng tại đây. Một số loài động vật khác có mặt tại vườn quốc gia bao gồm Hươu đốm, chim cổ rắn, Cò quăm đen Ấn Độ, Lợn rừng, Khỉ nâu mặt đỏ. Bhitarkanika là một trong những nơi có quần thể cá sấu nước ngọt có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất Ấn Độ và đặc biệt trên toàn cầu khi 10% cá thể trưởng thành có độ dài trên mét. Ngoài ra, 1671 cá thể cá sấu nước mặn sống tại các con sông và lạch. Có khoảng 3.000 cá sấu nước mặn được sinh ra trong mùa sinh sản và làm tổ năm 2014. Năm 2006, Sách Kỷ lục Guinness đã chấp nhận tuyên bố về một cá thể cá sấu nước mặn dài 7,1 mét và nặng 2.000 kg sống tại Vườn quốc gia Bhitarkanika. Do sự khó khăn trong việc bắt cũng như đo lường trọng lượng của cá sấu sống là rất lớn nên tính chính xác của nó vẫn chưa được xác minh. Đây là kết quả của quá trình quan sát và ước lượng được thực hiện bởi cán bộ vườn quốc gia được thực hiện trong 10 năm (từ 2006 đến 2016). Tuy nhiên, bất kể kỹ năng đó đến đâu cũng không thể so sánh với phép đo được xác minh, đặc biệt là sự xem xét này mang tính chất không chắc chắn vốn có trong ước lượng kích thước bằng thị giác trong thế giới động vật hoang dã. Theo báo cáo của vườn quốc gia năm 2006, tại đây có 203 cá thể cá sấu nước mặn trưởng thành, trong đó có 16 con đo được trên 4,9 mét; năm con từ 5,5 đến 6,1 mét và ba con trên 6,1 mét. Cùng với một mấu vật về bộ xương của một cá sấu dài mét đã chết cách đó hơn năm cho thấy chiều dài của cá sấu nước mặn đây là đáng kể, vì những con cá sấu nước mặn dài trên mét được coi là hiếm. điều đó minh chứng cho việc Bhitarkanika là môi trường sống thích hợp của các cá thể cá sấu lớn. Điều này còn được thể hiện qua việc báo cáo chính thức gần đây của vườn quốc gia cho thấy số lượng cá sấu trưởng thành tăng lên 308 cá thể chứng tỏ về sự gia tăng đều đặn hàng năm của chúng. Trong tương lai, nếu những nỗ lực bảo tồn thành công, những cá thể lớn này có thể phổ biến hơn. Theo khảo sát năm 2014, vườn quốc gia có 1872 con nai, 1213 cá thể lợn rừng, 1522 cá thể khỉ cùng nhiều loài động vật có vú khác như chó rừng, Voọc xám, Rái cá, Mèo rừng, Cáo, Cầy lỏn, Chó sói, Mèo cá, Linh cẩu. Nơi đây là vùng chim vô cùng đa dạng với 320 loài, trong đó có loài Bói cá. Những loài nổi tiếng đây phải kể tới Cò nhạn, Cốc, Chim cổ rắn, Cò quăm đen Ấn Độ và Diệc. Hàng năm, nơi đây có 120.000 cá thể chim di trú từ nước ngoài và 80.000 cá thể chim di trú từ các vùng khác của Ấn Độ tới đây tránh đông và sinh sản. Bhitarkanika là một trong những khu vực có hệ sinh thái xanh tốt và giàu có nằm trong khu vực cửa sông góc Đông Bắc của huyện Kendrapara, bang Odisha. Khu vực này có hệ thống giao thông bằng mạng lưới các con lạch đổ ra Vịnh Bengal phía đông. Đây là hệ sinh thái rừng ngập mặn lớn thứ hai của Ấn Độ với diện tích 672 km², chỉ sau Sundarban. Rừng ngập mặn và đất ngập nước là nhà và nơi sinh sản của hơn 215 loài chim, bao gồm cả các loài di trú tránh đông từ Trung và châu Âu. Những con cá sấu nước mặn khổng lồ và nhiều động vật hoang dã khác sống trong hệ sinh thái này khiến Bhitarkanika trở thành một trong những khu bảo tồn động vật hoang dã đẹp và ấn tượng nhất Châu Á. Khu vực vườn quốc gia có diện tích 145 km² được tuyên bố là Vườn quốc gia Bhitarkanika vào ngày 16 tháng năm 1998 bởi Cục Lâm nghiệp và Môi trường, Chính phủ Odisha. Nó có nghĩa quan trọng đối với sinh thái, địa mạo và sinh học bao gồm các cánh rừng ngập mặn, hệ thống sông ngòi, lạch, cửa sông, đất bồi và bãi bùn. Vườn quốc gia Bhitarkanika là khu vực lõi của Khu bảo tồn Bhitarkanika. Khu bảo tồn động vật hoang dã Bhitarkanika được thành lập vào ngày 22 tháng 04 năm 1975 với diện tích 672 km vuông. Khu vực bao gồm các con sông uốn khúc, hệ thống sông ngòi, rừng ngập mặn, vô số các con lạch tạo thành nơi trú ẩn cuối cùng cho loài cá sấu nước mặn (Crocodile Porosus) đang bị đe dọa trên toàn cầu. Ngoài cá sấu, Khu bảo tồn còn có nhiều loài động vật ăn cỏ, động vật có vú và bò sát khác. Rừng ngập mặn là nơi trú ẩn tốt cho Rắn hổ mang chúa, Trăn đất và Kỳ đà hoa. Một số lượng lớn chim mặt nước có mặt tại khu rừng Bagagahan có diện tích khoảng ha nằm Bhitarkanika, gần suối Suajore trong khoảng thời gian từ tháng đến 10. Hầu hết các loài chim là đến từ các vùng khác của châu bao gồm Diệc. Cò quăm đen Ấn Độ, Cốc, Chim cổ rắn.v..v. Vườn quốc gia là nơi tốt để ngắm nhìn loài cá sấu nước mặn cùng Rắn hổ mang chúa, Kỳ đà hoa. Những con hươu hoang dã và lợn rừng rất phổ biến tại vườn quốc gia và có thể được tìm thấy tại nhiều nơi dọc các con sông và lạch. Hoạt động đi thuyền từ Khola đến Dangmal rất phổ biến khi Khola là một trong những cửa ngõ vào vườn quốc gia. Đây là một con lạch nhân tạo đi qua những cánh rừng ngập mặn dày đặc, cung cấp cái nhìn tổng quan về hệ sinh thái và sự giàu có của hệ động thực vật. Thời gian tốt nhất để đi thuyền là vào lúc bình minh hoặc hoàng hôn. Bhitarkanika có một quá khứ lịch sử và văn hóa phong phú. Nó từng là cơ sở săn bắn của vua Kanika. Các tháp săn bắn và hố nước nhân tạo có thể được nhìn thấy tại nhiều nơi cùng với con đường mòn Bhitarkanika tại Dangmal. Tại đây còn có một số ngôi đền Hindu thời Trung cổ nằm rải rác nhưng điểm thu hút chính vẫn là hệ động thực vật nơi đây. Việc tham quan được thực hiện bởi tàu thuyền được cấp phép bởi Sở Lâm nghiệp. Lối vào chính là từ Khola, mặc dù có một cổng khác có thể vào được là Gupti. Du lịch gần như không tồn tại nơi đây cho đến khoảng thời gian gần đây. Chính phủ Odisha cho thấy sự thiếu mạnh mẽ trong việc quảng bá du lịch nhưng du lịch Odisha hiển thị Bhitarkanika như là một điểm đến của du lịch sinh thái, nơi du khách có thể thấy nhiều loài động vật và chim. Bhitarkanika Bhitarkanika | Vườn quốc gia Bhitarkanika | Khởi đầu năm 1975, Orissa, Địa lý Ấn Độ, Du lịch Ấn Độ |
Hình: Palm Springs International Airport photo Ramey đường băng tại Sân bay quốc tế Palm Springs. chụp trên không đường băng Sân bay Quốc tế Chennai, Tamil Nadu Đường băng là một phần của sân bay, gọi chung là đường cất hạ cánh, đường lăn chính, đường lăn phụ, đường tắt (đường lăn cao tốc, đường lăn nối) và khu vực chuẩn bị cất cánh, hạ cánh của máy bay. Đường băng chủ yếu của sân bay là cố định kích thước và chất lượng đường băng, phụ thuộc vào cấp độ, xếp loại sân bay và loại máy bay có thể cất hạ cánh. Mặt đường băng thường được làm bằng bê tông hoặc bê tông nhựa thậm chí là nhựa đường 100%, mặt đường băng dã chiến bằng đất được gia cố hoặc lát các tấm kim loại. Đường băng được đánh số theo hướng mà từ đó máy bay sẽ cất cánh hoặc hạ cánh, làm tròn tới 10 và chia cho 10. Mỗi số sẽ được đọc riêng biệt để không nhầm lẫn khi giao tiếp bằng radio. Ví dụ, "Đường băng Ba Sáu" sẽ có hướng 360 độ (nghĩa là hướng Bắc), "Đường băng Chín" có thể dùng để chỉ đường băng có hướng 94 độ (nghĩa là gần hướng Đông), và "Đường băng Một Bảy" cho hướng 168 độ. Mỗi đường băng có thể dùng cả hai hướng, và do đó nó có số, mỗi số cách nhau 180°. Vì vậy, Đường băng Một Không (100°) trở thành đường băng Hai Tám (280°) khi dùng hướng ngược lại, và Đường băng Một Tám (180°) trở thành Đường băng Ba Sáu (360°). Đối với Hàng không dân dụng của Mỹ, số ký hiệu của đường băng nhỏ hơn 100° thường được sử dụng bằng một số; Ví dụ như Đường băng (RWY9) hoặc là đường băng phải (RWY4R). Đối với quân sự của Mỹ và các nhà khai thác hàng không theo chuẩn ICAO, số ký hiệu đường băng nhỏ hơn 100° phải bao gồm số đầu là "0". Dải đường chạy là một vùng quang đãng xung quanh đường băng. Nó phải không có bất kỳ một vật cản nào có thể cản trở việc bay hay chạy trên mặt đất của máy bay, dù nó không cần thiết phải tình trạng tốt. Nó được đánh dấu bởi các cột và/hay vật hình nón trắng. Thông thường đây là một vùng bề mặt cỏ mọc tự nhiên. Đường băng gồm nhiều phần khác nhau có chức năng khác nhau. 700px 470x470px Là đường kẻ nét đứt chia đường băng thành hai phần bằng nhau giúp máy bay xác định được vị trí chính giữa của đường băng để cất cánh và hạ cánh chính xác. = Dùng để chỉ hướng của đường băng. Ví dụ: Đường băng đánh số 36 sẽ có hướng 360° (hướng bắc). = Đánh dưới các số, dùng để phân biệt các đường băng song song, cùng hướng với nhau. Các chữ bao gồm: L: Left (bên trái) R: Right (bên phải) C: Center (chính giữa) 208x208px Nếu chỉ có hai đường băng song song thì chỉ có L và R. Là các vạch được đánh trước các chữ để thể hiện độ rộng của đường băng, càng nhiều vạch thì đường băng càng rộng. Các vạch được đánh song song với nhau và chia thành hai nửa hai bên.45x45px +Vạch-độ rộng Số vạch Độ rộng 18 23 30 12 45 16 60 Là hai vạch lớn nằm sau các vạch số, hai vạch nằm song song với nhau có tác dụng định hướng máy bay chạm vào hai vạch một cách chuẩn xác. Đây là vị trí lí tưởng nhất để hạ cánh so với đường băng, tuy nhiên không cần thiết phải hạ cánh đúng vị trí này.48x48px Là đoạn đường bằng có các vạch Tập tin:Touch down zone.png. Máy bay khi hạ cánh chỉ được đáp xuống khu vực này, nếu vượt quá sẽ phải cất cánh và hạ cánh lại. 941x941px Là một đoạn đường chạy nằm vị trí khác so với điểm bắt đầu hoặc kết thúc của đường băng. Phần đường băng này có thể sử dụng để cất cánh nhưng không được sử dụng để hạ cánh. Đoạn đường này có các mũi tên làm trung tâm của đường băng và một đường kẻ dày màu trắng có các mũi tên chỉ hướng theo đường chạy là điểm cuối của ngưỡng và đầu đường băng. Điểm dời chuyển Là đoạn thường được xây dựng ngay trước một đường băng. Khi máy bay tiếp xúc với đoạn đường này, bề mặt đường sẽ vỡ ra, hãm máy bay từ từ dừng lại. Đoạn đường này không cho phép máy bay chạy, cất, hạ cánh vào trừ các trường hợp khẩn cấp, sự cố (máy bay mất phanh, di chuyển lệch đường băng,...)Blast pads Hàng không | đường băng | Sân bay |
John xứ Lancaster, Công tước thứ nhất của Bedford, KG (sinh từ ngày 20 tháng năm 1389 mất ngày 14 tháng năm 1435), còn được gọi là John Plantagenet, là con trai thứ ba còn sống sót của vua Henry IV của Anh với công nương Maria de Bohun và làm nhiếp chính của Anh tại Pháp cho cháu trai của ông, vua Henry VI. John được phong là Bá tước vùng Kendal, Bá tước vùng Richmond và Công tước xứ Bedford trong năm 1414 bởi anh trai của ông, vua Henry V. Ngày 14 tháng năm 1423, tại Troyes ông đã kết hôn với Anne, con gái của John Bạo dạn. Sau cái chết của Anne trong khi sinh nở Paris năm 1432, ông đã kết hôn với Jacquetta Luxembourg. Con ngoài giá thú, ông có một người con gái tên là Mary Plantagenet, bà này đã kết hôn với Pierre de Montferrand (mất 1454). Khi vua Henry qua đời vào năm 1422, Công tước Bedford ganh đua quyết liệt với người em trai của ông, Humphrey, Công tước xứ Gloucester trong việc nắm quyền kiểm soát Vương quốc Anh. Bedford đã được chính thức phong làm quan Nhiếp chính nhưng ông lại chỉ tập trung vào các trận chiến đang diễn ra nước Pháp, trong thời gian ông vắng mặt Công tước Gloucester đã trở thành Hộ quốc công của Anh quốc. Bedford đã nhiều lần đánh bại quân Pháp các trận Cravant, Vernuil, Herrings… và giai đoạn đầu của cuộc bao vây thành phố Orléans cho đến khi có sự xuất hiện của Jeanne d'Arc phía quân Pháp. Vào năm 1431, Bedford đã cố gắng bắt giữ và hành hình Jeanne d'Arc tại Rouen sau đó ông dàn xếp cho một lễ đăng quang của vua Henry VI vốn đang là một đứa bé vị thành niên tại Paris. Mặc dù đã hành hình Jeanne d'Arc nhưng Bedford vẫn không thể xoay chuyển được chiến cuộc ngày càng trở nên bất lợi cho người Anh, đặc biệt Anne, vợ ông thì Liên minh giữa Anh quốc và xứ Bugund đã xụp đổ, lúc này không có sự hỗ trợ của quân đội Bugund, người Anh không thể kháng cự nổi trước sức phản công mạnh mẽ của người Pháp và phải liên tục tháo lui và bại trận bất chấp những nỗ lực của ông ta. John đã chết trong khi Nghị viện của vùng Arras đang được tổ chức tại lâu đài Joyeux Repos của ông Rouen và được chôn cất tại Nhà thờ lớn Rouen. Ông không để lại một người thừa kế hợp pháp nào. | John xứ Lancaster, Công tước thứ nhất của Bedford | Nhân vật trong chiến tranh Trăm năm, Sinh năm 1389, Mất năm 1435, Vương tộc Lancaster, Jeanne d'Arc, Vương tộc Plantagenet, Công tước xứ Bedford, Vương tử Anh |
Ayanda Dlodlo (sinh ngày 22 tháng năm 1963) là một chính trị gia người Nam Phi, bộ trưởng nội các và là thành viên của Đại hội Dân tộc Phi (ANC). Vị trí cấp bộ hiện tại của bà trong nhiệm kỳ tổng thống Cyril Ramaphosa 2019 là Bộ trưởng Bộ An ninh Nhà nước. Dlodlo được sinh ra Soweto, Nam Phi. Cha Ayanda Dlodlo là một sinh viên đang theo học Cử nhân Khoa học và sau đó với tấm bằng giáo dục, anh trở thành hiệu trưởng, còn mẹ cô là một tá sinh viên. Gia đình Ayanda Dlodlo đã chuyển đến Swaziland để trốn khỏi apartheid nhưng cuộc hôn nhân không kéo dài và cô và người mẹ đã ly dị quay trở lại Johannesburg. Năm mười bảy tuổi, cô gia nhập thành viên của Umkhonto weSizwe (MK) và đã đến Angola vào năm 1980 để huấn luyện về quân sự. Khi lưu vong, Dlodlo đã được huấn luyện quân sự Ăng-gô-la và huấn luyện tình báo quân sự Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết (Liên Xô). Sau đó Ayanda Dlodlo được gửi đến Vương quốc Anh nơi cô học Quản lý hàng hải và vận chuyển. Các nghiên cứu sau này bao gồm Phát triển Quản lý, Quản lý Kinh doanh và Chương trình Phát triển Điều hành. Ayanda Dlodlo trở về Nam Phi vào năm 1994, phát hiện em gái mình bị chết bởi lực lượng an ninh và mẹ cô phải chịu hậu quả của sự tra tấn và giam giữ. Khi trở về Nam Phi, công việc đầu tiên của Ayanda Dlodlo là tại Portnet. Cô đã làm việc tại Cơ quan quản lý cảng quốc gia SA, Công ty đường sắt SA Freight và cũng đã làm việc trong các nhiệm vụ đặc biệt cho Cảng vụ New York và New Jersey cũng như các cảng liên kết của Anh. Ayanda Dlodlo là giám đốc của nhiều công ty bao gồm Rosschef Châu Phi, The Wired Cloud và Women in Energy. Dlodlo có một con trai Thabang Mnisi. | Ayanda Dlodlo | Sinh năm 1963, Nhân vật còn sống |
Spatula querquedula Mòng két mày trắng (danh pháp hai phần: Anas querquedula) là một loài vịt thuộc Phân họ Vịt. Nó sinh sống nhiều châu Âu và Tây Á, nhưng ít di cư, với toàn bộ đàn di chuyển đến miền nam châu Phi và châu Úc trong mùa đông, nơi có những đàn với số lượng đông đảo. Loài này lần đầu tiên được mô tả bởi Linnaeus vào năm 1758 dưới tên khoa học của nó hiện tại. trong Phân họ Vit, loài này cất cánh một cách dễ dàng từ mặt nước với cú đảo xoắn nhanh như loài sếu. Nơi sinh sống của chúng là các đồng cỏ gần các đầm lầy nông và các hồ nước thảo nguyên. | Mòng két mày trắng | Động vật được mô tả năm 1758, Chim châu Phi, Chim Đại lục Âu, Vịt |
"What Have You Done for Me Lately" là một bài hát của ca sĩ người Mỹ Janet Jackson nằm trong album phòng thu thứ ba của cô, Control (1986). Bài hát do bộ đôi Jimmy Jam Terry Lewis sáng tác và sản xuất, với sự tham gia hỗ trợ viết lời từ Jackson. Nó được phát hành vào ngày 13 tháng năm 1986 như là đĩa đơn đầu tiên trích từ album bởi A&M Records. Sau hai album đầu không thành công, cô quyết định sa thải ông Joe Jackson cha của cô khỏi vị trí quản lý và bắt đầu phát triển một album mới. "What Have You Done for Me Lately" ban đầu được sáng tác cho dự án riêng của Jam Lewis, nhưng lời bài hát đã được viết lại để truyền đạt cảm xúc cho Jackson trước vụ ly hôn gần đây của cô với James DeBarge đầu năm 1985. Nó xoay quanh nỗi thất vọng của một người phụ nữ về người bạn đời của mình. "What Have You Done for Me Lately" nhận được những phản ứng tích cực, trong đó các nhà phê bình âm nhạc tin rằng nó đã giúp cô xóa nhòa "hình ảnh pop ngây thơ" trong hai album trước và khẳng định hình ảnh "người phụ nữ độc lập". Bài hát lọt vào danh sách những ca khúc vĩ đại nhất mọi thời đại của nhiều tổ chức và nhận được một đề cử giải Grammy năm 1987 cho Bài hát R&B xuất sắc nhất. Nó đạt vị trí thứ trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và hạng nhất tại Hà Lan cũng như top 10 tại Đức, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh. Video ca nhạc của "What Have You Done for Me Lately" được đạo diễn bởi Brian Jones và Piers Ashworth, do ca sĩ Paula Abdul dàn dựng. Trong đó, Jackson đi vào một quán ăn và nói về vấn đề mối quan hệ của mình với bạn bè của cô. Bài hát được trình diễn lần đầu bởi Jackson tại lễ trao giải Grammy lần thứ 29 vào năm 1987 và trong tất cả các chuyến lưu diễn trong sự nghiệp của cô. "What Have You Done for Me Lately" đã được hát lại và lấy làm nhạc mẫu bởi nhiều nghệ sĩ khác nhau. Đây cũng được coi là đĩa đơn bước ngoặt, giúp Jackson nâng tầm thành nghệ sĩ nổi tiếng. ;Đĩa 7" tại Úc/ Mỹ/ Canada :A. "What Have You Done for Me Lately" 4:59 :B. "He Doesn't Know I'm Alive" 3:30 ;Đĩa 12" tại Úc/ Mỹ/ Canada và châu Âu :A1. "What Have You Done for Me Lately" (Mix mở rộng) 7:00 :B1. "What Have You Done for Me Lately" (Dub) 6:35 :B2. "What Have You Done for Me Lately" (A Cappella) 2:19 ;Đĩa 12" tại Canada :A1. "What Have You Done for Me Lately" (Extended Mix) 7:00 :A2. "Nasty" (mở rộng) 6:00 :B1. "Nasty" (không lời) 4:00 :B2. "Nasty" (A Cappella) 2:55 ;Đĩa 7" tại Vương quốc Anh :A. "What Have You Done for Me Lately" (bản đĩa đơn) 3:28 :B. "Young Love" 4:56 ;Đĩa 12" tại Vương quốc Anh :A1. "What Have You Done for Me Lately" (Mix mở rộng) 7:00 :B1 "What Have You Done for Me Lately" (Dub) 6:35 :B2. "Young Love" 4:56 ;Đĩa 7" tại Châu âu :A. "What Have You Done for Me Lately" (bản đĩa đơn) 3:28 :B. "He Doesn't Know I'm Alive" 3:30 Bảng xếp hạng (1986) Vị trícao nhất Australia (ARIA) Belgium (Wallonia Ultratop 50) Canadian Top Singles (RPM) Netherlands (Dutch Top 40) Germany (Media Control Charts) Ireland (Chart-Track) 10 New Zealand (Recorded Music NZ) 27 South Africa (Springbok Radio) 19 Switzerland (Schweizer Hitparade) UK Singles (Official Charts Company) US Billboard Hot 100 US Billboard Hot R&B/Hip-Hop Songs US Billboard Hot Dance Club Songs Bảng xếp hạng (1986) Vị trí Canada (RPM) 53 Netherlands (Single Top 100) 39 US Billboard Hot 100 43 | What Have You Done for Me Lately | Bài hát năm 1985, Đĩa đơn năm 1986, Bài hát của Janet Jackson, Bài hát sáng tác bởi Janet Jackson, Đĩa đơn quán quân tại Hà Lan, Đĩa đơn quán quân Billboard Hot R&B/Hip-Hop Songs, Đĩa đơn của A&M Records |
Louise xứ Orléans () là một danh xưng trong tiếng Pháp. Một số nhân vật lịch sử mang danh xưng này gồm có: Louise Diane xứ Orléans (1716-1736), được gọi là "Mademoiselle de Chartres" (Tiểu thư xứ Chartres) trước khi kết hôn, con gái của Philippe II, Công tước xứ Orléans; Louise Marie Thérèse Charlotte Isabelle d'Orléans (1812-1850), con gái của Louis-Philippe I, Vương hậu đầu tiên của Bỉ; Louise Victoire Marie Amélie Sophie d'Orléans (1869-1952), con gái của Ferdinand d'Orléans, Công tước xứ Alençon; Louise Françoise Marie Laure d'Orléans (1882-1958), con gái của Philippe của Orléans, Bá tước xứ Paris và María Isabel của Orléans | Louise xứ Orléans | |
Sự kiện UFO Laredo là trường hợp hai máy bay quân đội Mỹ đang đuổi theo một vật thể bay không xác định (UFO) hình đĩa bạc có đường kính 27 mét Texas cho đến khi nó bị rơi cách Laredo 30 dặm (48 km) về phía nam-tây nam tiểu bang này vào ngày tháng năm 1948. Binh lính được điều động từ một căn cứ quân sự gần đó đã phong tỏa hiện trường vụ tai nạn UFO cho đến khi một đội điều tra đặc biệt đến kiểm tra đống đổ nát và vận chuyển số còn lại đến căn cứ quân sự San Antonio, Texas. Giới nghiên cứu UFO cho rằng phía quân đội đã lén thu hồi cả một thi thể nghi là người ngoài hành tinh bị cháy xém từ nơi xảy ra vụ tai nạn. | Sự kiện UFO Laredo | Vụ rơi UFO, Sự kiện UFO, Laredo, Texas, Quận Webb, Texas, Hiện tượng quan sát thấy UFO, Hiện tượng quan sát thấy UFO Hoa Kỳ |
1029 La Plata là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện bởi Juan Hartmann ngày 28 tháng năm 1924. Tên ban đầu của nó là 1924 RK. Nó được đặt theo tên La Plata, Argentina. | 1029 La Plata | |
Ngôn ngữ nổi bật chủ đề () là ngôn ngữ có cú pháp được tổ chức để cường điệu cấu trúc của câu. Thuật ngữ này được biết đến nhiều nhất trong 'ngành ngôn ngữ học Mỹ' từ Charles N. Li và họ là những người chỉ rõ sự khác biệt của các ngôn ngữ nổi bật chủ đề (như tiếng Hàn và tiếng Nhật) với các ngôn ngữ nổi bật chủ ngữ (như tiếng Anh). Theo quan điểm của Li và Thompson (1976), các 'ngôn ngữ nổi bật chủ đề' có hình thái hoặc cú pháp làm nổi bật sự khác biệt giữa và phần thuyết (những gì được nói về phần đề đấy). Cấu trúc đề-thuyết có thể mang tính độc lập với của chủ ngữ, động từ và tân ngữ. Nhiều 'ngôn ngữ nổi bật chủ đề' có chung một số đặc trưng cú pháp, các đặc trưng đó đã nảy sinh do các ngôn ngữ đấy có các câu được cấu trúc xoay quanh chủ đề, thay vì xoay quanh chủ ngữ và tân ngữ: Chúng có xu hướng hạ thấp vai trò của cho dù 'cấu trúc câu bị động' có tồn tại đi chăng nữa, vì tưởng chính của 'sự bị động hóa' là để biến một tân ngữ thành một chủ ngữ trong các ngôn ngữ có chủ ngữ được mặc định hiểu là chủ đề. Chúng hiếm khi có (expletive) hoặc "chủ ngữ giả" () như "it" trong câu "it's raining" của tiếng Anh. Chúng hay có những câu với thứ gọi là "chủ ngữ kép", thực ra là một chủ đề cộng với một chủ ngữ. Ví dụ, các mẫu câu sau đây mang tính phổ biến trong các ngôn ngữ nổi bật chủ đề: :: Quan thoại :: 這個人 個子 很高。 这个人 个子 很高。 :: zhège rén gèzi hěn gāo :: "Người này thì (chủ đề) vóc dáng (chủ ngữ) cao." :: Tiếng Nhật :: そのヤシは 葉っぱが 大きい。 :: sono yashi-wa happa-ga ookii :: "Cây dừa đó thì (chủ đề) lá (chủ ngữ) lớn." Chúng không có /mạo từ (article) một cách khác để chỉ thị 'thông tin cũ' đối 'thông tin mới'. Sự khu biệt giữa chủ ngữ và tân ngữ không được đánh dấu một cách rành mạch. Ngôn ngữ thuộc nhóm Lô Lô-Miến đã được mô tả là rất nổi bật chủ đề, và Sara Rosen đã diễn giải rằng "trong khi mọi (clause) đều có một chủ đề khả nhận dạng, thì chuyện khu biệt chủ ngữ khỏi 'tân ngữ trực tiếp' hoặc khu biệt khỏi thì thường là điều bất khả thi. Không có phép chẩn đoán nào để nhận diện chủ ngữ (hoặc tân ngữ) một cách rành mạch trong tiếng Lisu." Sự mơ hồ này được diễn giải trong ví dụ sau: làthyu nya ánà khù -a người (chỉ tố chủ đề) chó cắn () a. "Người thì họ cắn chó." b. "Người thì chó cắn họ." Ví dụ về các 'ngôn ngữ nổi bật chủ đề' bao gồm các ngôn ngữ Đông như Tiếng Trung, Tiếng Nhật, Tiếng Hàn, Tiếng Việt, Tiếng Mã Lai, Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, Tiếng Indonesia, và Tiếng Hungary, Tiếng Somali và một số ngôn ngữ bản địa châu Mỹ như các ngôn ngữ Sioux cũng đều mang tính nổi bật chủ đề. Các nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại đã chỉ ra rằng Tiếng Bồ Đào Nha Brazil là một ngôn ngữ nổi bật chủ đề hoặc nổi bật chủ đề và chủ ngữ (xem tiếng Bồ Đào Nha Brasil#Ngôn ngữ nổi bật chủ đề). Ngôn ngữ ký hiệu của Mỹ cũng được coi là mang tính nổi bật chủ đề. Ngôi trường đấy thì sân rộng. chủ đề chủ ngữ Sân của ngôi trường đấy rộng. Chuối thì tôi sẽ ăn chủ đề/bị thể chủ ngữ/tác thể Tôi sẽ ăn chuối. 張三 已經 見過 了。 Trật tự thông dụng*: 已經 見過 張三 了。 Zhāng Sān wǒ yǐjing jiàn-guò le wǒ yǐjing jiàn-guò Zhāng Sān le Zhāng Sān tôi đã thấy- Tôi đã thấy- Zhāng Sān chủ đề chủ ngữ ' ' chủ ngữ thể nghiệm tân ngữ kết quả Zhang San thì tôi đã từng thấy cậu ấy rồi. Tôi đã từng thấy Zhang San rồi. *Ghi chú: Các câu Tiếng Trung Quan thoại thì có trật tự đa phần là (Chủ-Vị-Tân), nhưng ngôn ngữ này cho phép tân ngữ được đôn lên làm chủ đề trong câu, dẫn đến kết quả vẻ ngoài thì như là trật tự (Tân-Chủ-Vị) 魚は 鯛が おいしい。 sakana-wa tai-ga oishi-i cá- cá tráp- ngon- chủ đề chủ ngữ Nói về cá thì cá tráp ngon. Cá tráp là một loại cá ngon. Miye ṡuŋkawaḱaŋ eya owiċabluspe yelo. 'chính là tôi'- ngựa bắt--bắt .male 'số ít' ngôi thứ nhất "danh từ" " số nhiều" "'số nhiều ngôi thứ 3' ", "'số ít ngôi thứ 1' 'ngữ khí trần thuật' nam giới Với tôi thì vài con ngựa: tôi đã bắt chúng. Chính là tôi người đã bắt vài con ngựa (Tôi đã bắt vài con ngựa.) Seni yarın yine göreceğim. you- ngày mai lại lần nữa gặp- đối cách thì tương lai, số ít ngôi thứ nhất Cậu thì ngày mai lại sẽ gặp. Tôi sẽ lại gặp cậu ngày mai. Chỉ tố chủ đề Danh sách các chữ viết tắt chú thích (Tiếng Anh) Danh sách các thuật ngữ ngôn ngữ học Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học đối chiếu Anh-Việt, Việt-Anh (Hoàng Dũng Cao Xuân Hạo, 2005) Tiếng Việt, văn Việt, người Việt (Cao Xuân Hạo, 2001) Tiếng Việt Sơ thảo ngữ pháp chức năng (Cao Xuân Hạo, 1991) Tiếng Việt Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa'' (Cao Xuân Hạo, 1998) | Ngôn ngữ nổi bật chủ đề | Cú pháp học, Loại hình học ngôn ngữ |
Ethnikos Assia Football Club () là một câu lạc bộ bóng đá Cộng hòa Síp đang thi đấu Giải bóng đá hạng nhì quốc gia Cộng hòa Síp. Đội bóng được thành lập Assia, Famagusta, nhưng từ khi Thổ Nhĩ Kỳ xâm lược năm 1974, Ethnikos trở thành một đội bóng tị nạn. Câu lạc bộ nay có trụ sở Nicosia và đá các trận sân nhà tại Makario. Câu lạc bộ có lần từng tham gia hạng nhất, lần cuối cùng là mùa giải 2001–02. (mượn từ AEL Limassol đến 30 tháng năm 2018) Đối với các chuyển nhượng gần đây, xem Danh sách chuyển nhượng bóng đá Cộng hòa Síp mùa hè 2017 *Vô địch Giải bóng đá hạng ba quốc gia Cộng hòa Síp: 1 :: 2011 *Vô địch Cúp bóng đá Cộng hòa Síp cho các hạng đấu thấp hơn: 1 :: 2011 Website | Ethnikos Assia Football Club | Câu lạc bộ bóng đá Cộng hòa Síp, Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 1966, Câu lạc bộ bóng đá Síp |
Over the Hedge là một bộ phim hoạt hình máy tính của Mỹ năm 2006 dựa trên bộ truyện tranh United Media cùng tên của Michael Fry và T. Lewis. Được sản xuất bởi DreamWorks Animation và phân phối bởi Paramount Pictures. | ''Over the Hedge | Phim hoạt hình Mỹ thập niên 2000, Phim hoạt hình máy tính năm 2006, Phim hoạt hình máy tính Mỹ, Phim Mỹ, Phim hài hoạt hình, Phim và người giành giải Annie, Phim hoạt hình hãng DreamWorks Animation, Phim của Paramount Pictures |
Tréal () là một xã tỉnh Morbihan trong vùng Bretagne tây bắc Pháp. Xã này có diện tích 19,28 km², dân số năm 1999 là 672 người. Khu vực này có độ cao từ 27-101 mét trên mực nước biển. Cư dân của Tréal danh xưng trong tiếng Pháp là Tréalais. Các thị trưởng của Hiệp hội Morbihan Hồ sơ của thị trấn trên trang mạng INSEE French Ministry of Culture list for Tréal Bản đồ của Tréal trên Michelin | Tréal | Xã của Morbihan |
Conus inscriptus là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống biển trong họ Conidae, họ ốc cối. Giống như tất cả các loài thuộc chi Conus, chúng là loài săn mồi và có nọc độc. Chúng có khả năng "đốt" con người, do vậy khi cầm chúng phải hết sức cẩn thận. Tập tin:Conus inscriptus 1.jpg Tập tin:Conus inscriptus 002.jpg The Conus Biodiversity website | ''Conus inscriptus | Động vật được mô tả năm 1843 |
7425 Lessing (1992 RO5) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày tháng năm 1992 bởi E. W. Elst La Silla. JPL Small-Body Database Browser ngày 7425 Lessing | 7425 Lessing | |
Huyện Pfäffikon là một trong 12 huyện nói của bang Zürich nói tiếng Đức, Thụy Sĩ. Thủ phủ là thị xã Pfäffikon. Huyện Pfäffikon Các đô thị của Pfäffikon Pfäffikon có tổng cộng 12 đô thị: Đô thị Dân Diện tích, km² Bauma 4118 20,76 Fehraltorf 4952 9,54 Hittnau 3182 12,92 15,021 25.28 Kyburg 365 7,58 Lindau 4598 11,96 Pfäffikon 9920 19,54 Russikon 3862 14,37 Sternenberg 351 8,75 Weisslingen 3006 12,81 Wila 1844 9,21 Wildberg 891 10,83 Total 52,110 163.55''' Pfaffikon | Huyện Pfäffikon | |
Hải Bối là một xã thuộc huyện Đông Anh thành phố Hà Nội, Việt Nam. Xã Hải Bối có diện tích 8,36 km², dân số năm 2022 là 19.394 người, mật độ dân số đạt người/km². *phía Bắc giáp xã Kim Nỗ; *phía tây nam giáp phường Đông Ngạc quận Bắc Từ Liêm, phía đông nam là phường Phú Thượng quận Tây Hồ, ranh giới phía nam là sông Hồng; *phía đông giáp xã Vĩnh Ngọc, Đông Anh; *phía tây giáp xã Võng La và xã Kim Chung. Hải Bối gồm thônː Cổ Điển, Yên Hà (tức An Hà), Đồng Nhân, và Hải Bối. Cầu Thăng Long từ hướng tây nam (phường Đông Ngạc), bắc qua sông Hồng và xã Võng La, cắt qua phần phía tây của Hải Bối. | Hải Bối | |
Cá heo Maui (danh pháp hai phần: hectori maui') là loài cá heo nhỏ và hiếm nhất trong số các loài cá heo. Môi trường sống của cá heo là bờ biển phía tây New Zealand. Cá heo Maui có tuổi thọ 20 năm và khi được năm tuổi chúng mới bắt đầu hoạt động sinh sản, con cá đã trưởng thành dài 1,7m trong suốt cuộc đời chúng chỉ giao phối bảy lần, trung bình ba năm/lần. Loài này đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Các nhà khoa học lại một lần nữa lên tiếng về việc cá heo Maui có nguy cơ bị tuyệt chủng. Nguyên nhân chủ yếu làm hại cá heo Maui dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng của cá heo Maui còn do những hoạt động nông ngư nghiệp của con người, cụ thể là chính những tấm lưới đăng của ngư dân. Nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học cho thấy trong vòng năm qua, từ 111 con đến nay chỉ còn 55 cá thể, trong có có 20 con cái. Con số thống kê cho thấy vào những năm 1970 có khoảng 1.000 cá heo Maui tại khu vực này trước khi diễn ra việc cho phép đánh bắt thương mại. Các chuyên gia cho rằng phải thành lập một khu bảo tồn và phải cấm lưới đăng trên khu vực rộng lớn Một dự án đã được thực hiện vào năm 2008 để bảo vệ loài cá heo Maui bằng một hệ thống mạng lưới đặt dưới nước. Nhưng tình trạng cá heo Maui chết trong lưới của người dân vẫn xảy ra. Department of Conservation Maui's dolphin page Forest and Bird Maui's dolphin page Whale and Dolphin Conservation Society Mauis Dolphin New Zealand Event Information Maui's Dolphin New Zealand Event Information World Wide Fund for Nature (WWF) species profile for Maui's dolphin | Cá heo Maui | Động vật có vú New Zealand, Động vật được mô tả năm 2002 |
Điện Mặt Trời BMT là nhà máy điện Mặt Trời xây dựng trên vùng đất xã Ea Phê và Krông Búk huyện Krông Pắc tỉnh Đắk Lắk, Việt Nam. Điện Mặt Trời BMT có công suất lắp máy 30 MWp, khởi công tháng năm 2018, khánh thành tháng năm 2019. Diện tích làm việc 34,5 ha, dưới chân đập Krông Búk Hạ, có điện lượng bình quân hàng năm hơn 44 MWh/năm. BMT | Điện Mặt Trời BMT | Nhà máy điện Mặt Trời Việt Nam |
Ranunculus pyrenaeus là một loài thực vật có hoa trong họ Mao lương. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1771. Tập tin:Ranunculus pyrenaeus subsp. pyrenaeus 1.jpg Tập tin:Ranunculus pyrenaeus subsp. pyrenaeus 2.jpg | ''Ranunculus pyrenaeus |