text
stringlengths 0
308k
| title
stringlengths 0
51.1k
⌀ | categories
stringlengths 0
57.3k
|
---|---|---|
Giang mai (syphilis) là một bệnh lây truyền qua đường tình dục hoặc qua tiếp xúc. Nó do xoắn khuẩn Treponema pallidum (xoắn khuẩn giang mai) gây ra. Đường lây truyền của bệnh giang mai phần lớn là qua đường tình dục, mặc dù có những ca bệnh giang mai lây qua tiếp xúc hoặc sử dụng chung đồ dùng với người bệnh, hoặc do bẩm sinh (lây truyền từ mẹ sang con trong tử cung hoặc khi sinh). Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh giang mai rất nhiều, do đó trước khi phương pháp xét nghiệm huyết thanh học ra đời thì việc chẩn đoán chính xác bệnh giang mai rất khó khăn bởi vì nó thường bị nhầm lẫn với các bệnh khác, đặc biệt là trong giai đoạn 3. Giang mai trước kia là bệnh không chữa được nên người ta rất khiếp sợ nó, nhưng ngày nay có thể điều trị được bằng thuốc kháng sinh như penicillin. Nếu không chữa trị, bệnh giang mai có thể gây biến chứng cho tim, động mạch chủ, não, mắt, và xương, trong một số trường hợp có thể gây tử vong. Bệnh giang mai phát triển theo bốn giai đoạn chính: giai đoạn 1, giai đoạn 2, giai đoạn bệnh và giai đoạn 3. syphilitic chancre of the left index finger PHIL 4147 loét hạ cam trên ngón tay. Khác với các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác, bệnh giang mai không chỉ giới hạn những bộ phận sinh dục, mà còn có thể lây truyền qua các tiếp xúc gần khác Đây là giai đoạn rất quan trọng để phát hiện và điều trị kịp thời. Khoảng 3-90 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh (trung bình 21 ngày), sẽ xuất hiện tổn thương da các điểm tiếp xúc. Vết loét xuất hiện những nơi tiếp xúc với xoắn khuẩn giang mai, thường là bộ phận sinh dục như: môi lớn, môi bé, âm đạo, cổ tử cung, quy đầu, dương vật hoặc trực tràng. Tổn thương này, được gọi là săng giang mai, là một dạng viêm loét, có đặc điểm nông, hình tròn hay bầu dục kích thước 0.3 đến cm, bờ nhẵn, màu đỏ, không ngứa, không đau, không có mủ; đáy vết loét thâm nhiễm cứng và kèm theo nổi hạch hai bên vùng bẹn, cứng và cũng không đau. Các triệu chứng trên có thể tự biến đi sau đến tuần lễ kể cả không điều trị nên nhiều người tưởng lầm là khỏi bệnh nhưng thực sự là vi khuẩn lúc đó đã vào máu, bệnh vẫn tiếp tục phát triển với những biểu hiện khác. Triệu chứng của bệnh giang mai giai đoạn thứ phát xuất hiện trên lòng bàn tay, cũng có khi lòng bàn chân. mai giai đoạn bệnh nhân 52 tuổi mắc bệnh AIDS; các vết loét và sẩn xuất hiện trên khuôn mặt, ngực, cánh tay Giang mai giai đoạn bệnh nhân 23 tuổi với các nốt phỏng nước trên lưng. Giai đoạn xảy ra từ đến 10 tuần sau giai đoạn 1. Giai đoạn này có rất nhiều biểu hiện khác nhau, ví dụ như: nốt ban đối xứng, màu hồng như hoa đào (đào ban) không ngứa trên toàn thân hoặc tứ chi bao gồm cả lòng bàn tay, bàn chân hình ảnh đào ban màu đỏ hồng hoặc hồng tím như cánh hoa đào, ấn vào thì mất, không nổi cao trên mặt da, không bong vảy và tự mất đi. Thường khu trú hai bên mạng sườn, ngực, bụng, chi trên. Đào ban xuất hiện dần trong vòng đến tuần, tồn tại không thay đổi trong vòng -3 tuần sau đó nhạt màu dần rồi mất đi. Hoặc bệnh có thể làm xuất hiện các mảng sẩn, nốt phỏng nước, vết loét da và niêm mạc. Mảng sẩn, sẩn các loại, có nhiều kích thước khác nhau, như bằng hạt đỗ, đinh gim, hoặc sẩn hình liken, ranh giới rõ ràng màu đỏ như quả dâu, không liên kết với nhau, thường hay bong vảy và có viền da xung quanh sẩn, nếu các sẩn có liên kết với nhau sẽ tạo thành các mảng, hay sẩn mảng, các sản kẽ da do bị cọ xát nhiều có thể bị trợt ra, chảy nước, trong nước này có chứa rất nhiều xoắn khuẩn nên rất dễ lây khi tiếp xúc với những bệnh nhân này. Sẩn mủ ít gặp hơn đào ban và các loại sẩn trên, chủ yếu những người nghiện rượu, trông giống như viêm da mủ nông và sâu. Tại các khu vực ẩm ướt của cơ thể (thường là âm hộ hoặc bìu), phát ban trở nên bằng phẳng, rộng, màu trắng, hoặc các thương tổn giống như mụn cóc. Các triệu chứng khác thường gặp giai đoạn này bao gồm sốt, đau họng, mệt mỏi, sụt cân, đau đầu, nổi hạch. Một số trường hợp hiếm gặp có thể kèm theo viêm gan, thận, viêm khớp, viêm màng xương, viêm dây thần kinh thị giác, viêm màng bồ đào, và viêm giác mạc kẽ. Các triệu chứng này thường tự biến mất sau 3-6 tuần. Image:Secondary Syphilis on palms CDC 6809 chứng của bệnh giang mai giai đoạn lòng bàn tay. nhú đỏ xuất hiện toàn thân ngứa dữ dội của bệnh giang mai giai đoạn Giang mai tiềm ẩn được xác định khi có bằng chứng huyết thanh của bệnh nhưng không có dấu hiệu hoặc triệu chứng của bệnh. Giai đoạn này chia làm hai loại: thời gian tiềm ẩn dưới năm sau giai đoạn (sớm) và thời gian tiềm ẩn kéo dài hơn năm sau giai đoạn (muộn). Giang mai tiềm ẩn sớm có thể tái phát các triệu chứng bệnh, giang mai tiềm ẩn muộn không có triệu chứng và không lây bằng giang mai tiềm ẩn sớm. Mô phỏng đầu của một bệnh nhân mắc bệnh giang mai giai đoạn Giang mai giai đoạn có thể xảy ra khoảng 3-15 năm sau những triệu chứng của giai đoạn và được chia thành ba hình thức khác nhau: giang mai thần kinh (6,5%), giang mai tim mạch (10%) và củ giang mai (15%). Những người bị bệnh giang mai giai đoạn này không lây bệnh. *Củ giang mai xuất hiện từ 1-46 năm sau khi nhiễm bệnh (trung bình 15 năm), có hình cầu hoặc mặt phẳng không đối xứng, màu đỏ như mận, hơi ngả tím, kích thước bằng hạt ngô, mật độ chắc, ranh giới rõ ràng, các củ giang mai tiến triển không lành tính, nhất thiết hoại tử hoặc hoại tử teo hoặc tạo loét, rất chậm lành và ít lây hơn, sau khi khỏi thường để lại sẹo. Nếu củ, gôm khu trú vào các tổ chức quan trọng và không được điều trị sẽ đe doạ tính mạng bệnh nhân. *Giang mai thần kinh là bệnh liên quan đến hệ thống thần kinh trung ương. Nó có thể xảy ra sớm: không có triệu chứng hoặc biểu hiện lâm sàng bằng viêm màng não, hay sự phân ly giữa biến đổi dịch não tủy đã rõ rệt và triệu chứng lâm sàng còn thô sơ. Hoặc xảy ra muộn: gây ra tổn thương ngoài viêm màng não, mạch máu não, còn tổn thương não khu trú hoặc tổn thương thoái hóa não. Giang mai thần kinh thường xảy ra 4-25 năm sau khi nhiễm bệnh. Bệnh có thể gây suy nhược trầm cảm, rối loạn thức từng thời kỳ, động kinh, đột quỵ hay gây ra ảo giác đối với người bệnh. *Giang mai tim mạch thường xảy ra 10-30 năm sau khi nhiễm bệnh. Các biến chứng thường gặp nhất là phình mạch. phích tuyên truyền điều trị giang mai trong thời kỳ đầu (Hoa Kỳ) Tuy là bệnh nguy hiểm nhưng bệnh giang mai nếu được điều trị bằng những loại thuốc đặc trị thì tỷ lệ khỏi bệnh là khá cao, miễn là phải được phát hiện sớm và điều trị đúng chỉ dẫn của thầy thuốc. Lựa chọn đầu tiên cho việc điều trị các bệnh giang mai không biến chứng là một liều duy nhất penicillin tiêm bắp. Doxycycline và tetracycline cũng là sự lựa chọn thay thế, tuy nhiên không thể sử dụng phụ nữ mang thai. Ceftriaxone có thể có hiệu quả tương tự như điều trị bằng penicillin. Do penicillin ít xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương cho nên đối với những bệnh nhân giang mai thần kinh nên được tiêm penicillin liều cao vào tĩnh mạch tối thiểu là 10 ngày. Nếu bị dị ứng với penicilline thì có thể được sử dụng cetriaxone thay thế. Điều trị tại thời điểm này sẽ hạn chế sự tiến triển hơn nữa của bệnh, nhưng không thể cải thiện các thiệt hại do bệnh đã gây ra. Một trong những tác dụng phụ của điều trị là phản ứng Phản ứng phụ thường bắt đầu trong vòng một giờ sau khi tiêm thuốc và kéo dài trong 24 giờ với các triệu chứng sốt, đau cơ, nhức đầu, và nhịp tim nhanh. Hiện nay vẫn chưa vác xin chủng ngừa có hiệu quả cho công tác phòng chống. Không nên quan hệ tình dục hay tiếp xúc vật lý trực tiếp với một người bị bệnh để tránh lây truyền bệnh giang mai, có thể sử dụng bao cao su đúng cách, tuy nhiên vẫn có thể không hoàn toàn an toàn. Giang mai không lây qua nhà vệ sinh, các hoạt động hàng ngày, bồn tắm, hay dụng cụ ăn uống hoặc quần áo. Tính đến năm 2018, chưa có loại vắc xin nào có hiệu quả phòng chống căn bệnh này. Một số vắc-xin dựa trên protein treponemal đã làm giảm sự phát triển tổn thương các thí nghiệm với động vật, nhưng nghiên cứu vẫn đang tiếp tục. Sử dụng bao cao su làm giảm khả năng lây truyền khi quan hệ tình dục, nhưng nó không thể loại bỏ hoàn toàn nguy cơ lây bệnh. Theo Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Ngừa Bệnh (CDC) tại các tiểu bang Hoa Kỳ, "sử dụng đúng cách và phù hợp bao cao su latex có thể làm giảm nguy cơ lây bệnh giang mai chỉ khi vùng da bị nhiễm bệnh hoặc bộ phận phơi nhiễm tiềm ẩn được bảo vệ". Tuy nhiên, những vùng có giang mai nằm bên ngoài khu vực được bao phủ bởi bao cao su latex vẫn có thể cho phép lây truyền bệnh, vì vậy cần thận trọng ngay cả khi sử dụng bao cao su Kiêng tiếp xúc tình dục với người bị bệnh có hiệu quả cao trong việc giảm lây truyền bệnh giang mai. CDC tuyên bố rằng "Cách chắc chắn nhất để tránh lây truyền các bệnh lây truyền qua đường tình dục, bao gồm cả bệnh giang mai, là kiêng quan hệ tình dục hoặc quan hệ chung thủy một vợ một chồng lâu dài với bạn đời đã được xét nghiệm và được biết chắc là không bị nhiễm bệnh". Chân dung ông J. Kay, bị ảnh hưởng biến dạng bởi thứ mà ngày nay được cho là bệnh giang mai bẩm sinh, vẽ khoảng năm 1820 Bệnh giang mai bẩm sinh trẻ sơ sinh có thể được ngăn ngừa bằng cách sàng lọc các bà mẹ trong thời kỳ đầu mang thai và điều trị cho những thai phụ bị nhiễm bệnh Dịch vụ dự phòng Hoa Kỳ (USPSTF) khuyến cáo rằng nên sàng lọc phổ quát cho tất cả phụ nữ có thai, trong khi Tổ chức tế Thế giới (WHO) khuyến cáo tất cả phụ nữ nên được xét nghiệm lần khám thai đầu tiên của họ và một lần nữa trong ba tháng cuối thai kỳ. Nếu họ dương tính, bạn tình của họ cũng nên được điều trị. Bệnh giang mai bẩm sinh vẫn còn phổ biến các nước đang phát triển, do nhiều phụ nữ không được khám thai hoặc không được khám sàng lọc giang mai. Nó vẫn thỉnh thoảng xảy ra các nước phát triển, nếu những người có nhiều khả năng mắc bệnh giang mai ít được chăm sóc trong thời kỳ mang thai. Một số biện pháp nhằm tăng cường khả năng tiếp cận xét nghiệm có vẻ hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ mắc bệnh giang mai bẩm sinh các nước có thu nhập thấp đến trung bình. Xét nghiệm tại nơi chăm sóc để phát hiện bệnh giang mai có vẻ là đáng tin cậy mặc dù cần có thêm nghiên cứu để đánh giá hiệu quả của nó và cải thiện kết quả bà mẹ và trẻ sơ sinh. Trung tâm kiểm soát dịch bệnh (CDC) Mỹ khuyến cáo rằng những người đàn ông có quan hệ tình dục đồng tính luyến ái nên được kiểm tra ít nhất hàng năm. USPSTF cũng khuyến nghị sàng lọc những người có nguy cơ cao. Bệnh giang mai là một bệnh phải khai báo nhiều quốc gia, bao gồm Canada, và Liên minh châu Âu, và Mỹ. Điều này có nghĩa là các cơ sở tế chăm sóc sức khỏe được yêu cầu thông báo danh tính người mắc bệnh cho cơ quan tế công cộng, sau đó lý tưởng nhất là cơ quan này sẽ thông báo cho các đối tác tình dục của người đó. Bác sĩ cũng có thể khuyến khích bệnh nhân bảo bạn tình đi khám. Một số chiến lược đã được tạo ra để cải thiện việc theo dõi kiểm tra STI, bao gồm email và tin nhắn văn bản nhắc nhở về các cuộc hẹn khám bệnh. Chuẩn hóa theo độ tuổi tử vong do bệnh giang mai trên 100.000 người vào năm 2004. Báo cáo các ca nhiễm giang mai Hoa Kỳ giai đoạn 1941–2009 12 triệu người nhiễm giang mai vào năm 1999 với hơn 90% trường hợp các nước đang phát triển. Nó ảnh hưởng từ 700.000 và 1.600.000 thai phụ mỗi năm dẫn đến sẩy thai tự nhiên, thai chết lưu, và giang mai bẩm sinh. Trong vùng Sahara châu Phi, giang mai góp phần làm tử vong khoảng 20% trẻ sơ sinh. Trong thế giới phát triển, các ca nhiễm bệnh giang mai đã suy giảm cho đến năm 1980 và 1990 do sử dụng rộng rãi các thuốc kháng sinh. Từ năm 2000, tỷ lệ giang mai đã gia tăng tại Mỹ, Anh, Australia và châu Âu chủ yếu nam giới quan hệ tình dục với nam giới (đồng tính luyến ái) do thực hành tình dục không an toàn. Tại Hoa Kỳ, nhân viên tế báo cáo khoảng 32.000 người mắc bệnh giang mai trong năm 2002, phần lớn tuổi 20–39. Cao nhất nữ tuổi 20–24 và nam tuổi 35–39. Năm 2001 có 492 trẻ sơ sinh bị cha mẹ truyền bệnh giang mai, năm 2002 số này tụt xuống một chút 412. Nguồn gốc của bệnh giang mai không được xác định chính xác. Có ba lý thuyết đã được đề xuất. Các sử gia và nhà nhân loại học cho rằng giang mai đã xuất hiện những người dân bản địa của châu Mỹ trước khi người châu Âu đến vùng đất này. Tuy nhiên, vấn đề các chủng giang mai đã xuất hiện hàng thiên niên kỷ trên toàn thế giới hay là bệnh chỉ có châu Mỹ trong thời kỳ tiền Columbus vẫn được đem ra tranh luận. *Năm công nguyên 79, một thị trấn của La Mã tại Pompeii bị phá hủy bởi một vụ phun trào núi lửa. Những di hài của người dân bị chôn vùi cung cấp những bằng chứng về sức khỏe của họ cũng như nhiều dấu tích của bệnh truyền nhiễm để lại trong men răng. Các di chỉ của một cặp sinh đôi cho thấy gần như chắc chắn những dấu hiệu của bệnh giang mai bẩm sinh. *"Thuyết tiền-Columbus" cho rằng bệnh giang mai đã có mặt tại châu Âu trước khi người châu Âu phát hiện ra châu Mỹ. Một số học giả thế kỷ 18 và 19 tin rằng các triệu chứng của giang mai đã được mô tả bởi Hippocrates thư Hy Lạp cổ dạng thứ ba của bệnh hoa liễu. Một số người khác thì nghi ngờ việc phát hiện ra bệnh giang mai vào thời kỳ tiền Columbus, kể cả tại một tu viện dòng Augustinian thế kỷ 13-14 một cảng phía Đông Bắc nước Anh thuộc thành phố Kingston upon Hull. Lịch sử hàng hải này của thành phố này cho thấy việc xuất hiện liên tục các thủy thủ đến từ những nơi xa xôi được cho là một yếu tố quan trọng trong việc truyền bệnh giang mai. Việc xác định tuổi bằng phóng xạ Carbon xương của những tu sĩ sống trong tu viện này cho thấy có những tổn thương xương mà những người ủng hộ thuyết này cho là điển hình của bệnh giang mai hoa liễu, mặc dù điều này gây tranh cãi. Bộ xương Pompeii thời kỳ tiền Columbus và Metaponto, nước cũng có những dấu hiệu thương tổn tương tự như bị bệnh giang mai bẩm sinh gây ra cũng đã được tìm thấy, mặc dù việc giải thích những bằng chứng này cũng không được đồng thuận. Douglas Owsley, một nhà nhân chủng học thể chất tại Viện Smithsonian, và các ủng hộ viên khác của tưởng này phát biểu rằng nhiều trường hợp bị cho là do bệnh phong cùi vào thời trung cổ châu Âu thực chất là bệnh giang mai. Mặc dù văn hóa dân gian cho rằng bệnh giang mai chưa được biết châu Âu cho đến khi các thủy thủ bị bệnh trở lại xứ này từ các chuyến tàu thời thể đổ lỗi bệnh giang mai cho bất kì khu vực địa lý hay chủng tộc cụ thể nào. Những bằng chứng cho thấy bệnh này đã tồn tại cả hai bán cầu vào thời tiền sử. Nó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên với những cuộc thám hiểm của Columbus rằng bệnh giang mai trước đây bị coi như là 'bệnh hủi' đã bất ngờ bộc lộ độc lực của nó vào cuối thế kỷ 15. Lobdell và Owsley viết rằng một nhà văn châu Âu đã ghi nhận một đợt bùng phát "bệnh hủi" trong năm 1303 là một "mô tả rõ ràng bệnh giang mai." *"Thuyết hậu Columbus" cho rằng bệnh giang mai là một bệnh của Tân Thế giới được mang về bởi Cristoforo Colombo và Martin Alonso Pinzon. Họ trích dẫn những tài liệu bằng chứng cho thấy mối liên hệ của các thuyền viên từ chuyến đi của Columbo với các dịch giang mai để lại tại Naples vào năm 1494. Lý thuyết này được hỗ trợ bởi các nghiên cứu di truyền bệnh giang mai hoa liễu và những vi khuẩn liên quan đã tìm thấy một bệnh trung gian giữa bệnh ghẻ cóc và giang mai tại Guyana, Nam Mỹ. *Cuối cùng, sử gia Alfred Crosby cho thấy cả hai lý thuyết có một phần đúng trong một "lý thuyết kết hợp". Crosby nói rằng vi khuẩn gây ra bệnh giang mai thuộc về cùng một họ phát sinh chủng loài như các vi khuẩn gây ra bệnh ghẻ cóc và vài bệnh khác. Mặc dù theo ấn định truyền thống thì quê hương của bệnh ghẻ cóc là từ Châu Phi hạ Sahara, Crosby lưu rằng không có bằng chứng rõ ràng của bất kỳ các bệnh có liên quan đã xuất hiện châu Âu thời kỳ tiền Columbus, châu Phi, hay châu Á. Crosby viết, "Không phải là không thể nào mà các sinh vật xoắn khuẩn đến từ châu Mỹ vào những năm 1490... và phát triển thành cả hai dạng giang mai, hoa liễu và không hoa liễu, và bệnh ghẻ cóc." Tuy nhiên, Crosby xem xét có nhiều khả năng có một loài vi khuẩn cổ rất dễ lây đã di chuyển cùng với tổ tiên của con người trên toàn cầu qua eo biển Bering hàng nghìn năm trước mà không chết. Ông đưa ra giả thuyết rằng "các điều kiện sinh thái khác nhau cho ra các loại xoắn khuẩn khác nhau và theo thời gian những vi khuẩn có mối quan hệ chặt chẽ nhưng lại gây ra các bệnh khác nhau." Chân dung của Gerard de Lairesse, vẽ bởi Rembrandt van Rijn, khoảng 1665–67, sơn dầu trên vải. De Lairesse, bản thân là một họa sĩ và nhà lý luận nghệ thuật, mắc bệnh giang mai bẩm sinh khiến khuôn mặt của ông bị biến dạng và cuối cùng khiến ông bị mù. Nguồn gốc của bệnh giang mai đang bị tranh cãi. Bệnh giang mai đã có mặt châu Mỹ trước khi người châu Âu tới đây, và nó có thể đã được mang từ châu Mỹ sang châu Âu bởi các thủy thủ đoàn trở về từ chuyến đi của Christopher Columbus đến châu Mỹ, hoặc nó có thể đã tồn tại châu Âu từ trước đó nhưng không được công nhận cho đến khi Columbus trở về không lâu. Đây lần lượt là các giả thuyết "Colombian" và "tiền Colombia". Giả thuyết Colombia được hỗ trợ tốt hơn bằng những bằng chứng và những phát hiện từ phân tích gien phát sinh loài gợi rằng trên thực tế, đó là một căn bệnh phát sinh từ châu Mỹ. Các ghi chép đầu tiên về sự bùng phát bệnh giang mai châu Âu xảy ra vào năm 1494 hoặc 1495 tại Naples, Ý, trong cuộc xâm lược của Pháp (Chiến tranh 1494–98). Vì nó được cho là do quân đội Pháp lây lan, nên ban đầu nó được người dân Naples gọi là "căn bệnh của người Pháp". Năm 1530, cái tên "syphilis" "bệnh giang mai" (tên một nhân vật) lần đầu tiên được bác sĩ và nhà thơ người Girolamo Fracastoro sử dụng làm tiêu đề cho bài thơ tiếng Latinh của ông mô tả sự tàn phá của căn bệnh này Ý. Nó còn được gọi là "Great Pox". Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, bệnh giang mai là một trong những gánh nặng sức khỏe cộng đồng lớn nhất về tỷ lệ hiện mắc, các triệu chứng và khuyết tật mặc dù các hồ sơ về tỷ lệ mắc thực sự của nó thường không được lưu giữ vì tình trạng ghê sợ các bệnh lây truyền qua đường tình dục trong những thế kỷ đó. Theo một nghiên cứu năm 2020, hơn 20% cá nhân trong độ tuổi 15–34 vào cuối thế kỷ 18 London đã từng được điều trị bệnh giang mai. Vào thời điểm đó, tác nhân gây bệnh vẫn chưa được biết nhưng ai cũng biết rằng nó lây lan qua đường tình dục và cũng thường từ mẹ sang con. Mối liên hệ của nó với tình dục, đặc biệt là ngoại tình và mại dâm, khiến nó trở thành đối tượng của sự sợ hãi và ghê tởm và là một điều cấm kỵ. Mức độ bệnh tật và tử vong của nó trong những thế kỷ đó phản ánh rằng thời đó khoa không có sự hiểu biết đầy đủ về cơ chế bệnh sinh của nó và không có phương pháp điều trị thực sự hiệu quả. Sự nguy hiểm của nó không phải do bệnh trở nặng hoặc tử vong sớm trong quá trình của bệnh, mà là do tác động khủng khiếp của nó nhiều thập kỷ sau khi nhiễm bệnh, khi nó tiến triển thành bệnh giang mai thần kinh với các nốt sần lưng. Thời đó, các hợp chất và phân lập từ thủy ngân thường được sử dụng trong các phương pháp điều trị, thường gây hậu quả còn nặng hơn chính căn bệnh. Vi khuẩn gây bệnh, Treponema pallidum, được xác định lần đầu tiên bởi Fritz Schaudinn và Erich Hoffmann, vào năm 1905. Phương pháp điều trị hiệu quả đầu tiên đối với bệnh giang mai là arsphenamine, được phát hiện bởi Sahachiro Hata vào năm 1909, trong một cuộc khảo sát hàng trăm hợp chất arsenic hữu cơ mới được tổng hợp do Paul Ehrlich dẫn đầu. Nó được sản xuất và bán trên thị trường từ năm 1910 với tên thương mại là Salvarsan bởi Hoechst AG. Đây là hợp chất organoarsenic đầu tiên sử dụng trong trị liệu hóa học hiện đại. Trong suốt thế kỷ 20, khi cả vi sinh vật học và dược học đã phát triển vượt bậc, bệnh giang mai, giống như nhiều bệnh truyền nhiễm khác, trở thành một gánh nặng có thể kiểm soát được hơn là một bí ẩn đáng sợ, ít nhất là các nước phát triển với những người có đủ khả năng chi trả để được chẩn đoán kịp thời và điều trị. Penicillin được phát hiện vào năm 1928, và hiệu quả của việc điều trị bằng penicillin đã được xác nhận trong các thử nghiệm vào năm 1943, tại thời điểm đó nó trở thành phương pháp điều trị chính. Nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng, bao gồm Franz Schubert, Arthur Schopenhauer, Édouard Manet, Charles Baudelaire, và Guy de Maupassant được tin là đã mắc bệnh này. Friedrich Nietzsche từ lâu được cho là đã phát điên do bệnh giang mai giai đoạn ba, nhưng chẩn đoán đó gần đây đã bị nghi ngờ. Một minh họa học ban đầu về những người bị bệnh giang mai, Vienna, 1498 Các mô tả sớm nhất được biết đến của một người mắc bệnh giang mai là "Syphilitic Man" của Albrecht Dürer, một bản khắc gỗ cho là mô tả một Landsknecht, một lính đánh thuê người Bắc Âu Huyền thoại về femme fatale hay "phụ nữ đầu độc" của thế kỷ 19 được cho là một phần bắt nguồn từ sự tàn phá của bệnh giang mai, với những ví dụ kinh điển trong văn học bao gồm "La Belle Dame sans Merci" của John Keats. Nghệ sĩ Stradanus đã làm một bản in có tên "Chuẩn bị và sử dụng Guayaco để điều trị bệnh giang mai", mô tả cảnh một người đàn ông giàu có được điều trị bệnh giang mai bằng loại cây nhiệt đới guaiacum vào khoảng năm 1590. alt= "Nghiên cứu Tuskegee về bệnh giang mai không được điều trị nam giới da đen" là một nghiên cứu lâm sàng khét tiếng, phi đạo đức và phân biệt chủng tộc được thực hiện từ năm 1932 đến năm 1972 bởi Dịch vụ tế Công cộng Hoa Kỳ. Trong khi mục đích của nghiên cứu này là quan sát sự tiến triển tự nhiên của bệnh giang mai không được điều trị; những người đàn ông Mỹ gốc Phi trong cuộc thí nghiệm bị chính phủ Hoa Kỳ nói dối là họ đang được điều trị miễn phí chứng "máu xấu". Dịch vụ tế Công cộng Hoa Kỳ bắt đầu thực hiện nghiên cứu này vào năm 1932 với sự hợp tác của Đại học Tuskegee, một trường cao đẳng dành cho người da đen Alabama. Các nhà nghiên cứu đã thu nhận 600 người Mỹ gốc Phi nghèo từ hạt Macon, bang Alabama vào nghiên cứu. Trong số những người đàn ông này, 399 người đã mắc bệnh giang mai trước khi nghiên cứu bắt đầu, và 201 không mắc bệnh. Chăm sóc tế, bữa ăn nóng và bảo hiểm mai táng miễn phí đã được trao cho những người tham gia. Những người đàn ông được cho biết rằng nghiên cứu sẽ kéo dài sáu tháng, nhưng cuối cùng nó vẫn tiếp tục trong 40 năm. Không ai trong số những người đàn ông bị nhiễm bệnh được thông báo rằng họ mắc bệnh và không ai được điều trị bằng penicillin ngay cả sau khi thuốc kháng sinh đã được chứng minh là có thể điều trị thành công bệnh giang mai. Theo Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh, những người đàn ông được cho biết họ đang được điều trị vì "máu xấu" một thuật ngữ để chỉ thiếu máu hoặc bệnh giang mai là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong nam giới người Mỹ gốc Phi. Nghiên cứu kéo dài 40 năm đã trở thành một ví dụ điển hình về sự kém đức vì các nhà nghiên cứu đã cố tình từ chối điều trị người bệnh bằng penicillin và vì các đối tượng đã hiểu sai về mục đích của nghiên cứu. Tiết lộ vào năm 1972 về những thất bại của nghiên cứu này bởi một người tố giác, Peter Buxtun, đã dẫn đến những thay đổi lớn trong luật pháp và quy định của Hoa Kỳ về việc bảo vệ những người tham gia nghiên cứu lâm sàng. Giờ đây, các nghiên cứu yêu cầu sự đồng dựa trên việc hiểu rõ nghiên cứu, thông tin chẩn đoán và báo cáo chính xác kết quả xét nghiệm. Chuẩn bị và sử dụng Guayaco để chữa giang mai, tác giả Stradanus, năm 1590 Các thí nghiệm tương tự đã được thực hiện Guatemala từ năm 1946 đến năm 1948. Nó được thực hiện dưới thời chính quyền của Tổng thống Mỹ Harry S. Truman và Tổng thống Guatemala Juan José Arévalo với sự hợp tác của một số bộ và quan chức tế Guatemala. Các bác sĩ đã lây nhiễm bệnh cho binh lính, gái mại dâm, tù nhân và bệnh nhân tâm thần mắc bệnh giang mai và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác mà không có sự đồng của đối tượng và điều trị hầu hết các đối tượng bằng thuốc kháng sinh. Thí nghiệm khiến ít nhất 83 người chết. Vào tháng 10 năm 2010, Mỹ đã chính thức xin lỗi Guatemala vì những vi phạm đạo đức đã diễn ra. Ngoại trưởng Hillary Clinton và Bộ trưởng tế và Dịch vụ Nhân sinh Kathleen Sebelius tuyên bố "Mặc dù những sự kiện này đã xảy ra hơn 64 năm trước, nhưng chúng tôi rất phẫn nộ vì nghiên cứu đáng trách như vậy có thể đã xảy ra dưới chiêu bài tế công cộng. Chúng tôi vô cùng lấy làm tiếc vì điều đó đã xảy ra, và chúng tôi xin lỗi tất cả những cá nhân đã bị ảnh hưởng bởi các hoạt động nghiên cứu ghê tởm như vậy." Các thí nghiệm được dẫn dắt bởi bác sĩ John Charles Cutler, người cũng tham gia vào giai đoạn cuối của thí nghiệm bệnh giang mai Tuskegee Lần đầu tiên nó được người Pháp gọi là "grande verole" hay "bệnh đậu lớn", để phân biệt nó với bệnh đậu mùa bởi vì trong giai đoạn đầu của bệnh, các ban nước lớn phát ra tương tự như bệnh đậu mùa. Các tên lịch sử khác bao gồm "button scurvy", sibbens, frenga và dichuchwa, trong số những tên khác. Vì nó là một căn bệnh đáng hổ thẹn, căn bệnh này đã được gọi một số quốc gia bằng việc gán tên của quốc gia láng giềng có nhiều xung đột với họ. Người Anh, Đức và gọi nó là "bệnh Pháp", trong khi người Pháp gọi nó là "bệnh Neapolitan". Người Hà Lan gọi nó là "bệnh Tây Ban Nha" trong Cuộc nổi dậy của Hà Lan chống lại Tây Ban Nha. Đối với người Thổ Nhĩ Kỳ, nó được gọi là "căn bệnh Cơ đốc giáo" hay "bệnh Frank" (frengi), trong khi Ấn Độ, người theo đạo Hindu và đạo Hồi đặt tên căn bệnh này theo tên nhau. Người Nga gọi nó là "căn bệnh của người Ba Lan", người Tahiti gọi nó là "bệnh của người Anh". Những cái tên "quốc gia" là do bệnh thường được lây lan bởi các thủy thủ nước ngoài và các binh sĩ do họ thường xuyên quan hệ tình dục với gái mại dâm địa phương. Tên tiếng Anh của "giang mai" là "Syphilis" được đặt ra bởi một bác sĩ kiêm nhà thơ người Ý: Girolamo Fracastoro trong sử thi bằng tiếng Latinh viết vào năm 1530 của ông, có tiêu đề Syphilis sive gallicus'' (Giang mai hay các bệnh của người Pháp). Các nhân vật chính của bài thơ là một người chăn cừu tên là Syphilus (có lẽ là một lỗi chính tả biến thể của Sipylus, một nhân vật trong Metamorphoses của Ovid). Syphilus được biết đến như là người đầu tiên bị mắc bệnh này, do thần Apollo trừng phạt vì các thách thức của Syphilus. Từ nhân vật này đã bắt nguồn một cái tên cho căn bệnh giang mai. ảnh kính hiển vi điện tử của xoắn khuẩn Treponema pallidum Image:Syphilis lesions on back.jpg|Giang mai gây tổn thương trên lưng của bệnh nhân Image:Syphilis lesions on chest.jpg|Giang mai gây tổn thương trên ngực của bệnh nhân Image:Gumma of nose due to long standing tertiary syphilitic Treponema pallidum infection 5330 lores.jpg|Củ giang mai trên mũi trong giai đoạn Image:2005 seattle star wars penis.jpg|Năm 2005 Cuộc diễu hành thúc đẩy việc xét nghiệm bệnh giang mai tại Seattle, Washington, Hoa Kỳ. Syphilis | Giang mai | Bệnh lây truyền qua đường tình dục, Bệnh vi khuẩn |
là một đô thị thuộc huyện Dithmarschen, trong bang nước Đức. Đô thị Friedrichskoog có diện tích 53,96 km², dân số thời điểm 31 tháng 12 năm 2006 là 2522 người. Đô thị Friedrichskoog toạ lạc gần nơi sông Elbe đổ vào Biển Bắc, khoảng 25 km về phía tây nam của Heide, và 25 km về phía đông bắc của Cuxhaven. | null | Xã và đô thị huyện Dithmarschen |
Một chiếc gạc-măng-giê hoặc (phát âm trong tiếng Pháp) còn được biết với tên chạn bát, chiếc cụi, giàn tủ bếp, là một hàng nội thất được bố trí lắp đặt trong nhà bếp dùng để cất trữ thực phẩm, các loại đồ đoàn nấu ăn. Gạc-măng-giê thường được thiết kế bằng gỗ, thường được đặt không gian bếp. Việt Nam, nó được thiết kế là một cái giá chia từng ngăn, dát thưa hoặc bọc lưới các mặt, dùng để đựng bát đĩa, xoong, nồi, thức ăn. Gạc-măng-giê thường có bốn chân và nhô lên khỏi mặt đất. các quốc gia châu Âu, Gạc-măng-giê là một cái tủ hoặc giá để bảo vệ thực phẩm khỏi những côn trùng hoặc động vật như mèo, chim, động vật gặm nhấm, chuột, thằn lằn, v.v. mà thông thoáng và không quá kín. Tủ đựng thức ăn, trước kia từng phổ biến đặc biệt là vùng nông thôn, đã mất đi phần lớn tính hữu dụng của nó kể từ khi tủ lạnh lan rộng và giảm giá thành. Thuật ngữ garde manger ngày nay cũng đề cập đến người đầu bếp hoặc khâu chịu trách nhiệm cho các món ăn lạnh trong một bộ phận nhà bếp. Thuật ngữ "garde manger" bắt nguồn từ nước Pháp thời kỳ trước Cách mạng Pháp. Vào thời điểm đó, việc duy trì một nguồn cung cấp thực phẩm và đồ uống lớn là biểu tượng của quyền lực, sự giàu có và địa vị. Chính vì nhu cầu trữ và bảo quản thực phẩm và quản lý việc sử dụng nó mà nhiều người hiểu thuật ngữ "garde manger" là "giữ cho ăn". Gạc-măng-giê xác định không gian gần nhà bếp nơi họ giữ giăm bông, xúc xích, lạp xưởng, pho mát vì thời điểm xuất hiện thuật ngữ này thì không có đồ điện lạnh và muối, đường, cũng như gia vị để sử dụng làm chất bảo quản thực phẩm. Một tủ chạn trong phòng ăn (buffet de salle manger) theo phong cách Henri II cổ điển Thuật ngữ "garde manger" cũng liên quan đến các phòng bảo quản bên trong các lâu đài và trang viên nơi cất giữ thức ăn. Những khu vực lưu trữ thực phẩm này thường nằm các tầng thấp hơn, vì môi trường giống như tầng hầm mát mẻ là nơi lý tưởng để lưu trữ thực phẩm. Những khu vực lưu trữ lạnh được phát triển theo thời gian vào nhà bếp lạnh hiện đại. Hầu hết các thương gia người làm việc bên ngoài các trang viên quý tộc vào thời kỳ này đã được liên kết với một hiệp hội, hội của những người có cùng hoạt động trao đổi cấp hàng hóa và bảo vệ lẫn nhau của họ. Các bang hội sẽ phát triển các chương trình đào tạo cho các thành viên của họ, qua đó bảo tồn kiến thức và kỹ năng của họ. Charcuterie là tên của một bang hội đã chuẩn bị và bán các món nấu chín làm từ lợn. Thông qua tổ chức này, việc chuẩn bị giăm bông, thịt xông khói, xúc xích, pate và terrines đã được bảo quản. Khi hệ thống bang hội bị bãi bỏ vào năm 1791 sau Cách mạng Pháp năm 1789, gạc-măng-rê đã được dùng rộng khắp cho các nhiệm vụ mà trước đây được thực hiện độc quyền chỉ bởi Charcutieres, gạc-măng-giê cũ đã gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với những gạc-măng-giê đa năng do phạm vi sử dụng liên quan bị hạn chế. Vị trí "người bán thịt" lần đầu tiên được phát triển như bộ phận đặc biệt trong gạc-măng-giê nhà bếp. Khi cả chi phí và nhu cầu đối với thịt động vật đều tăng, cần nhiều không gian hơn cho việc chế biến và chia phần thịt sống. Nhu cầu về không gian này tăng lên không chỉ do sự gia tăng về khối lượng bán thịt, mà còn do nhu cầu tách thịt sống với thực phẩm chế biến để tránh lây nhiễm chéo và dẫn đến khả năng mắc bệnh từ thực phẩm. Tập chiếc Gạc-măng-giê Việt Nam Một cái chạn gỗ năm 2009 Vào thế kỷ 20, hầu như nhà nào Việt Nam cũng có hình ảnh của chiếc gạc-măng-giê. những gia đình khá giả thì chúng được đóng bằng gỗ, một số nơi đóng bằng tre, nhà thường dân chỉ có cái cũi để đựng bát đũa phơi ngoài sân nắng. Gạc-măng-giê là đồ vật duy nhất thời bao cấp Việt Nam không phải mua bằng tem phiếu dù được bày bán những cửa hàng mậu dịch và có một quy tắc hẳn hoi cho việc sản xuất chúng. Dù kích thước như thế nào nhưng bao giờ nó cũng được đóng thành ba tầng. Dưới cùng là tầng không cánh để úp xoong, nồi. Tầng giữa nan gỗ thưa để xếp bát đĩa. Trên cùng là tầng có lưới chạn vây ba mặt kể cả cánh. Bên hông treo một giỏ tre cắm đũa, muôi, thìa. Thường bốn chân, người Việt đặt bốn cái bát có chứa nước nhằm mục đích chống kiến, gián bò lên. Gạc-măng-giê là vật dụng đầu tiên để xác định quy mô một gia đình. Người ta tin rằng, chưa có nó thì dù vợ chồng đã có vài con vẫn chưa xứng được gọi là gia đình. Chúng là hình ảnh để nói về sự nghèo khổ tạm bợ thời ấy. Người ta thường dùng câu cửa miệng để nói về sự tạm bợ đó: “Đến cái chạn còn không có mà úp bát”. Trong thành ngữ, ca dao Việt Nam cũng có câu như "chó chui gầm chạn" dùng để chỉ về nỗi cay đắng những người chồng rể trong gia đình nhà vợ mà địa vị bị thua sút rõ rệt. vùng miền Trung Việt Nam, người dân đây quen dần với việc sống chung với bão lụt nên có những vùng, mỗi gia đình người dân đều dựng một cái gạc-măng-giê cao từ đến ngay trên trần nhà. Gạc-măng-giê thiết kế khá chắc chắn, nhưng khi cần thiết vẫn có thể di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác. Đặc biệt, khi nước dâng cao thì chúng có thể sử dụng như một chiếc thuyền đa năng. Trước mùa mưa lũ, lương thực và thực phẩm được người dân mua sẵn và cất trữ trên gạc-măng-giê loại này. Thậm chí khi nước lũ lên cao, nó là nơi ăn, ngủ của các thành viên trong gia đình. Một món thịt đông với vịt (Galantine de canard) Gạc-măng-giê hiện đại sử dụng theo nhiều cách khác nhau trong các nhà bếp chuyên dụng. Trong nhiều nhà hàng, nó thường có một vị trí nấu ăn trong nhà hàng, bởi vì nó thường liên quan đến việc chuẩn bị xà lách hoặc các đĩa nhỏ khác có thể được làm nóng nhanh mà không cần kinh nghiệm đáng kể. Trong các nhà hàng và khách sạn theo phong cách cổ điển cao cấp khác, vị trí liên quan đến các chế phẩm cổ điển, các món ăn lạnh, thường bao gồm pa tê, terrine (pa-tê làm trong một đồ đựng bằng gốm hay đất nung) và thạch, thịt đông (aspic hoặc galantine) | chạn bát | Nấu ăn |
Eneji Moses (sinh ngày tháng năm 1999) là một cầu thủ bóng đá người Nigeria thi đấu cho Plateau United, vị trí tiền đạo. Anh từng thi đấu bóng đá cho Plateau United. Anh ra mắt quốc tế cho Nigeria năm 2018. | Eneji Moses | Sinh năm 1999, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Nigeria, Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Nigeria, Cầu thủ bóng đá Plateau United F.C. |
CHXHCN Xô viết phổ biến nhất là Liên Xô (Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết, 1922–1991) CHXHCN Xô viết cũng có thể ám chỉ đến: CHXHCN Xô viết Ukraina CHXHCN Xô viết Uzbekistan Liên minh các quốc gia có chủ quyền tình trạng thay thế đề nghị Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết CHXHCN Xô viết, một tạp chí cũ của Liên Xô được phân phối tại Hoa Kỳ; người kế nhiệm hiện đại của nó là Cuộc sống Nga "USSR", một ca khúc hit của ca sĩ nhạc nhảy Euro Eddy Huntington, thu âm năm 1986 "USSR", một bản nhạc tiền thưởng từ việc tái phát hành Giấc mơ Xiêm bởi Smashing Pumpkins | null | |
Achhnera là một thành phố và là một ban đô thị (municipal board) trong quận Agra trong bang Uttar Pradesh của Ấn Độ. Achhnera có vị trí Nó có độ cao trung bình là 167 mét (547 foot). Theo điều tra dân số Ấn Độ năm 2001, Achhnera có dân số 19.974 người. Nam giới chiếm 53% dân số, nữ giới chiếm 47% dân số. Achhnera có tỷ lệ biết chữ bình quân 56%, thấp hơn mức trung bình 59,5% của toàn quốc; với 63% đàn ông và 37% phụ nữ biết chữ. 16% dân số có độ tuổi dưới 6. | Achhnera | |
Atair Mimito Rocha Biai, hay Mimito Biai (sinh ngày 12 tháng 12 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá người Bồ Đào Nha thi đấu cho Vitória Guimarães B, vị trí tiền vệ. Vào ngày 11 tháng năm 2016, Biai có màn ra mắt cho Vitória Guimarães trong trận đấu tại LigaPro 2016–17 trước Portimonense. Stats and profile at LPFP | Atair Mimito Rocha Biai | Sinh năm 1997, Vận động viên Bissau, Người Bồ Đào Nha gốc Guiné-Bissau, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha, Cầu thủ bóng đá Vitória S.C., Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha, Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Bồ Đào Nha, Cầu thủ bóng đá nước ngoài Bồ Đào Nha, Cầu thủ bóng đá nước ngoài Hy Lạp |
Lê Đình Ấn (14 tháng năm 1926 2008) là một trong những nhà quay phim hàng đầu của điện ảnh Việt Nam. Là quay phim chính trong nhiều bộ phim điện ảnh nổi tiếng, ông từng hai lần nhận giải Quay phim xuất sắc tại các kỳ Liên hoan phim Việt Nam và được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú. Lê Đình Ấn sinh ngày 14 tháng tại làng Phú Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, trong một gia đình công chức thời Pháp thuộc. Từ nhỏ, ông cùng các anh chị em đều theo học tại các trường của Pháp. Về sau, Lê Đình Ấn học tại trường Ecole Practique với định sẽ theo học ngành kỹ thuật cơ khí. Năm 1945, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông cùng ba người anh em trai khác đều gia nhập Việt Minh. Người anh cả không lâu sau đó, một người em ruột nhập ngũ và thăng đến quân hàm Thiếu tướng. Trong những năm chiến tranh Đông Dương diễn ra, Lê Đình Ấn đã dùng chiếc máy ảnh nhỏ và chiếc máy quay 16 ly để kiếm tiền phụ giúp gia đình. Năm 1951, ông mang máy ảnh và máy quay vào Sài Gòn. đây, ông bắt đầu công việc chụp hình thuê cho các tiệm ảnh và quay phim thuê. Nhờ làm nhiều việc, cộng tác nhiều nơi, ông dần mở rộng vòng quen biết của mình, bắt đầu nhận được các hợp đồng quay phim, phóng sự, tài liệu cho các cơ quan thông tấn, báo chí trong và ngoài nước như CBS, ABC, NHK. Năm 1952, ông quay bộ phim truyện đầu tiên của Tây Ban Nha mang tên Hồ Xá. Năm 1957, Trung tâm Quốc gia Điện ảnh bắt đầu được xây dựng số 15 Thi Sách, quận 1, nơi hiện nay là Xưởng in tráng của Hãng phim Giải Phóng. Lê Đình Ấn là người được chọn để quay lại lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng trung tâm điện ảnh này. Mặc dù đã thực hiện phim truyện nhựa, nhưng trước 1975, Lê Đình Ấn vẫn thường được biết đến là một trong những nhà quay phim phóng sự và tài liệu có tay nghề hàng đầu. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã từng mời ông làm công chức cho ngành Thông tin, nhưng ông từ chối, kiên trì làm một nhà quay phim tự do. Sau sự kiện 30 tháng năm 1975, chính quyền miền Bắc Việt Nam nhanh chóng tiếp quản toàn bộ Sài Gòn. Lê Đình Ấn trở thành nhà quay phim cho Hãng phim Giải Phóng, là một trong những nghệ sĩ điện ảnh Sài Gòn tham gia làm việc cho điện ảnh cách mạng sớm nhất. Chỉ một thời gian ngắn sau, ông nhận lời mời thực hiện bộ phim Cô Nhíp cùng đạo diễn Khương Mễ. Liền sau đó, ông hợp tác với đạo diễn Lê Hoàng Hoa trong bộ phim Trận tuyến trên sông. Cả hai bộ phim đều nhận được phản hồi tích cực từ khán giả. Sau hai bộ phim gây ấn tượng ngay khi Sài Gòn vừa chuyển giao chính quyền, Lê Đình Ấn bắt đầu làm phó quay cho nhiều bộ phim như Lê Thị Hồng Gấm và Cư xá màu xanh của đạo diễn Huy Thành, Ngọn lửa Krông Jung của đạo diễn Lê Hoàng Hoa, cho đến khi Nghệ sĩ nhân dân Huy Thành tin tưởng giao cho ông vai trò quay phim chính của Về nơi gió cát. Đây là bộ phim màu đầu tiên của điện ảnh Việt Nam kể từ sau năm 1975. Không chỉ là bộ phim màu đầu tiên của điện ảnh cách mạng Việt Nam, đây cũng là bộ phim màu đầu tiên ra rạp tại thành phố Hồ Chí Minh. Bộ phim không chỉ giành được Bông sen vàng trong Liên hoan phim Việt Nam lần thứ năm 1983 mà còn giúp Lê Đình Ấn nhận được giải quay phim xuất sắc. Sau sự thành công của Về nơi gió cát, Lê Đình Ấn tiếp tục hợp tác với đạo diễn Huy Thành trong nhiều phim tiếp theo như Xa và gần, Lối rẽ trái trên đường mòn, Cho đến bao giờ, Về đời, Đất lạ. Đạo diễn Hồ Quang Minh vốn tốt nghiệp tiến sĩ Khoa học Vật lý tại Trường Bách khoa liên bang Thụy Sĩ là đạo diễn điện ảnh Việt kiều đầu tiên trở về Việt Nam hợp tác cùng các hãng phim nhà nước để sản xuất phim truyện. Năm 1991, Lê Đình Ấn lần đầu tiên hợp tác với đạo diễn Hồ Quang Minh trong bộ phim Trang giấy trắng. Khi bộ phim được gửi đi dự các liên hoan phim quốc tế, tuần báo Variety đã nhận xét "về kỹ thuật, bộ phim thật hoàn hảo, với những cú máy đẹp và chất lượng cao trong in tráng". Đến năm 1995, hai người tiếp tục hợp tác quay Bụi hồng, bộ phim không chỉ giành được Bông sen bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 11 năm 1996 mà còn được gửi đi tranh giải phim quốc tế hay nhất tại Giải Oscar lần thứ 69. Với kinh nghiệm thể hiện rõ qua hiệu quả của những bộ phim đã quay trươc đó, Lê Đình Ấn trở thành ứng viên duy nhất khi đạo diễn người Pháp Jean-Jacques Annaud cần tìm một quay phim thứ hai cho bộ phim Người tình. Năm Phim Đạo diễn Biên kịch Đồng quay phim Nguồn 1972 Xa lộ không đèn Hoàng Anh Tuấn Hoàng Anh Tuấn 1976 Cô Nhíp Khương Mễ Nguyễn Trí Việt Khôi Nguyên, Kha Khâm 1977 Trận tuyến trên sông Lê Hoàng Hoa 1980 Ngọn lửa Krông Jung Lê Hoàng Hoa, Hồ Ngọc Xum Phạm Tường Hạnh, Sâm Thương Cư xá màu xanh Huy Thành Thanh Giang Trần Ngọc Huỳnh Lê Thị Hồng Gấm Huy Thành, Võ Trần Nhã, Lê Văn Duy Trần Huy 1981 Về nơi gió cát Huy Thành 1984 Xa và gần Huy Thành, Nguyễn Mạnh Tuấn 1985 Lối rẽ trái trên đường mòn Nguyễn Mạnh Tuấn Cho đến bao giờ Nguyễn Quang Sáng 1986 Đất lạ Huy Thành 1988 Về đời Chu Lai 1987 Cơn lốc đen Thụy Vân Bùi Cát Vũ 1989 Chân dung màu đỏ (2 tập) Hồ Nhân Vũ Thế Quang Có một tình yêu như thế Lê Hữu Lương Nguyễn Quang Sáng Trần Ngọc Huỳnh 1990 Tuổi thơ dữ dội Nguyễn Vinh Sơn, Đỗ Phú Hải Nguyễn Vinh Sơn, Phùng Quán 1991 Lệnh truy nã (2 tập) Lê Hoàng Hoa, Hồ Ngọc Xum Huỳnh Bá Thành Trang Công Hòa Mảnh tình nghiệt ngã Hồ Ngọc Xum 1992 Mênh mông tình buồn Ngôi nhà oan khốc Lê Mộng Hoàng Triệu Vũ, Nguyễn Chánh Tín Chiếc mặt nạ da người Nguyễn Chánh Tín 1993 Bản tình ca cuối cùng Phạm Thùy Nhân 1994 Con thuyền bị đánh đắm Vũ Xuân Hưng Vũ Xuân Hưng Vườn đào năm ấy Huy Thành Trầm Hương, Trần Vịnh 1995 Hoa đồng nội Xuân Cường Anh Ngọc 1991 Trang giấy trắng Hồ Quang Minh Hồ Quang Minh 1996 Bụi hồng Ngụy Ngữ 2000 Mặt trận không tiếng súng Bùi Đình Thứ Bùi Đình Thứ, Hùng Tú, Lịch Du Quốc Thành Năm Lễ trao giải Hạng mục Tác phẩm Kết quả Nguồn 1977 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ Phim truyện điện ảnh Cô Nhíp 1985 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ Xa và gần 1986 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ Về nơi gió cát Quay phim xuất sắc 1988 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ Phim truyện điện ảnh Cơn lốc đen 1990 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ Phim thiếu nhi Tuổi thơ dữ dội Quay phim xuất sắc 1996 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 11 Phim truyện điện ảnh Bụi hồng 1997 Giải thưởng Hội điện ảnh Việt Nam 1996 Phim truyện nhựa | Lê Đình Ấn | Nghệ sĩ ưu tú Việt Nam, Người Huế, Nhà quay phim Việt Nam, Phim và người giành giải Liên hoan phim Việt Nam |
Lythrum maritimum là một loài thực vật có hoa trong họ Lythraceae. Loài này được Kunth mô tả khoa học đầu tiên năm 1824. Tập tin:Starr 020808-9003 Lythrum maritimum.jpg Tập tin:Starr 030405-0058 Lythrum maritimum.jpg Tập tin:Starr 030628-0038 Lythrum maritimum.jpg Tập tin:Starr 030628-0039 Lythrum maritimum.jpg | ''Lythrum maritimum | Chi Thiên khuất |
121px Điện ảnh bán đảo Triều Tiên (tiếng Triều Tiên: 한국의 영화) là tên gọi ngành công nghiệp điện ảnh của Triều Tiên (tính cho đến trước năm 1945) hoặc hai nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Đại Hàn Dân Quốc (kể từ năm 1945 đến nay). Chịu ảnh hưởng từ nhiều biến cố chính trị xảy ra trong suốt thế kỷ XX, từ giai đoạn Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên, Chiến tranh Triều Tiên đến giai đoạn chia cắt hai miền từ năm 1953 đến hiện tại, điện ảnh Triều Tiên cũng có nhiều thăng trầm. Người đưa kỹ thuật điện ảnh vào Triều Tiên là một nhà du hành người Mỹ tên là Burton Holmes. Vào năm 1899, ông đã trình chiếu trước Hoàng gia Triều Tiên những thước phim đầu tiên. Buổi trình chiếu phim rộng rãi đầu tiên trước công chúng Triều Tiên diễn ra vào tháng năm 1903, là một đoạn phim quảng cáo cho việc xây dựng tuyến tàu điện Seoul do một công ty Mỹ thực hiện. Rạp phim đầu tiên của Hàn Quốc, rạp Tongdaemun hwaldong sajinso cũng được mở cửa trong năm 1903, tháng 11 năm 1907 một rạp phim khác, rạp Dansung-sa được mở tại Seoul và vẫn còn hoạt động đến ngày nay. Trong giai đoạn đầu, phần lớn các bộ phim trình chiếu được nhập từ châu Âu hoặc Hoa Kỳ, trong đó có một số phim rất được công chúng Hàn Quốc đón nhận như hai tác phẩm của đạo diễn huyền thoại D. W. Griffith, Broken Blossoms (1919) và Way Down East (1920), bộ phim Robin Hood (1922) của Douglas Fairbanks và hai bộ phim của đạo diễn Đức Fritz Lang, Nibelungen Siegfried và Kriemhilds Rache (đều sản xuất năm 1924). Hình quảng cáo phim Arirang của Triều Tiên năm 1926 Sự ra đời của ngành công nghiệp điện ảnh nội địa Triều Tiên gắn với ông chủ của rạp Dansung-sa Park Sung-pil, người đã bỏ tiền thực hiện bộ "phim" Triều Tiên đầu tiên, một vở kịch trên sân khấu có tựa đề Uirijeok Guto (의리적구토) được thu lại bằng kỹ thuật điện ảnh, và bộ phim tài liệu Phong cảnh thành phố Kyoungsoung, cả hai cùng được công chiếu tại rạp Dansung-sa ngày 27 tháng 10 năm 1919. Bộ phim điện ảnh thực sự đầu tiên của điện ảnh Triều Tiên có lẽ là một chuyển thể của Xuân Hương truyện (춘향전) được thực hiện vào năm 1921. Xuân Hương truyện là một tiểu thuyết khuyết danh nổi tiếng của Triều Tiên và cũng là tác phẩm được chuyển thể điện ảnh nhiều nhất, tính cho tới bộ phim chuyển thể của đạo diễn Im Kwon-taek năm 2000 thì đã có 14 bộ phim được xây dựng dựa trên cuốn tiểu thuyết này. Theo một số nguồn khác thì bộ phim thực sự đầu tiên được thực hiện Triều Tiên lại là một tác phẩm của đạo diễn Yun Baek-nam, bộ phim Ulha ui Mengse, được công chiếu tháng năm 1923. Do là thuộc địa của Nhật Bản từ năm 1910, các hãng phim Triều Tiên chủ yếu do người Nhật điều hành. Một thương gia người Nhật tên là Orajo Yodo đã bỏ vốn thành lập hãng phim Choson Kinema Productions, hãng phim tiên phong của điện ảnh Hàn Quốc thời kì này. Năm 1926, Choson Kinema giao cho diễn viên trẻ Na Woon-gyu thực hiện bộ phim Nongjungjo (농중조), trong đó Na đảm nhiệm cả vai trò biên kịch, đạo diễn và thủ vai chính. Sau Nongjungjo, Na thực hiện bộ phim tiếp theo của ông, Arirang (아리랑, lấy theo tên bài hát phổ biến nhất nước này), đây là bộ phim đánh dấu kỉ nguyên vàng của các bộ phim câm Triều Tiên. Giống như nhiều phim Nhật Bản cùng thời, Arirang có thêm một người đọc thoại và lời dẫn, một byeonsa (변사, hay benshi trong tiếng Nhật) để thuyết minh cho các bộ phim câm. Những năm cuối thập niên 1920, phim câm Triều Tiên đạt đến thời kì cực thịnh với hơn 70 tác phẩm ra đời trong thời kì này với chất lượng ngày một được nâng cao. Trong số đó phải kể tới các bộ phim khác của Na Woon-gyu như Punguna (1926) và Deuljwi (1927). Na vào năm 1927 cũng hợp tác cùng Park Sung-pil mở một hãng phim độc lập với tiêu chí người Triều Tiên sản xuất phim cho người Triều Tiên. Tuy tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng hãng này cũng cho ra đời được một số phim đáng chú như Jalitgeola (1927), Beongeoli Sam-ryong (1929) và Salangeul chajaseo (1929). Nửa đầu thập niên 1930 chứng kiến sự sa sút của ngành công nghiệp điện ảnh phim câm Triều Tiên vì sự kiểm duyệt và đàn áp ngày một ngặt nghèo của chính quyền chiếm đóng. Số lượng phim ra đời trong thời gian này giảm xuống chỉ còn khoảng hoặc phim mỗi năm, trong khi nhiều tài năng của điện ảnh Triều Tiên lại rời sang làm việc tại Thượng Hải, trung tâm điện ảnh của châu thời đó. Bộ phim câm đáng chú duy nhất có lẽ là Imjaeobtneun naleutbae (1932) của đạo diễn Lee Gyu-hwan. Bộ phim có tiếng đầu tiên của điện ảnh Triều Tiên được sản xuất năm 1935, đó là một chuyển thể khác của Xuân Hương truyện do Lee Myeong-woo đạo diễn. Trong nửa cuối thập niên 1930, số lượng phim có tăng trở lại và nghệ sĩ điện ảnh đi đầu vẫn là Na Woon-gyu, trước khi đột ngột qua đời năm 1937, ông đã cho ra đời các bộ phim đáng chú như Kanggeonneo maeul (1935) hay Oh Mong-nyeo (1937). Tuy vậy giai đoạn này cũng không kéo dài được lâu khi sự kiểm soát của chính quyền đối với các phim có tiếng còn trở nên gay gắt hơn so với các phim câm, từ năm 1938 toàn bộ các phim sản xuất tại Triều Tiên đều do người Nhật thực hiện và từ năm 1942 sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, việc sử dụng tiếng Triều Tiên bị cấm tuyệt đối trong điện ảnh. 115px Do tính chất cô lập cao độ của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên vì vậy thông tin về sự phát triển của nền điện ảnh nước này rất ít được thế giới biết tới. Hãng phim lớn nhất của CHDCND Triều Tiên là Xưởng phim truyện Triều Tiên với một trường quay rộng khoảng 930.000 m² ngoại Bình Nhưỡng. Các hãng phim lớn khác Triều Tiên có thể kể tới Xưởng phim tài liệu Triều Tiên, Xưởng phim mùng tháng và Xưởng phim Khoa học và Giáo dục Triều Tiên (SEK Studio). Hãng SEK nổi tiếng là nơi sản xuất phim hoạt hình có chất lượng cao và giá nhân công rẻ, đây chính là hãng phim đã thực hiện các công đoạn sản xuất cho những bộ phim hoạt hình nổi tiếng của Walt Disney Pictures như Vua sư tử (The Lion King, 1994) và Pocahontas (1995). Năm 2005, SEK cũng là hãng phim Triều Tiên thực hiện dự án điện ảnh hợp tác đầu tiên của hai miền, đó là bộ phim hoạt hình Thẩm Thanh Vương hậu (왕후 심청). Trong thời gian này trang web dữ liệu điện ảnh IMDb thống kê được 41 bộ phim sản xuất tại Triều Tiên. Hai trong số này được sản xuất trong khoảng thời gian từ khi Triều Tiên được giải phóng khỏi quân đội Nhật Bản (năm 1945) đến khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra (năm 1950), đó là Uri Geonseol (1946) và Tổ quốc (내 고향, 1949). Trong thời gian chiến tranh (1950-1953) có bộ phim được sản xuất, phần lớn tập trung vào đề tài khơi dậy lòng yêu nước. Sau khi chiến tranh kết thúc, nền điện ảnh Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên được khôi phục khá nhanh với những bộ phim chiến tranh hoặc phản ánh công cuộc khôi phục đất nước Triều Tiên bị tàn phá. Năm 1966 lãnh đạo Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Kim Nhật Thành đưa ra học thuyết về tư tưởng Chủ thể (Juche 주체) trong nghệ thuật, theo đó các tác phẩm nghệ thuật phải là những tác phẩm cách mạng phản ánh chủ nghĩa xã hội trong công cuộc xây dựng đất nước Triều Tiên. Tư tưởng này sau đó đã được con trai của Kim Nhật Thành là Kim Chính Nhật (lãnh tụ tương lai của Triều Tiên) cụ thể hóa trong chuyên luận "Lý thuyết nghệ thuật điện ảnh". Bộ phim tiêu biểu nhất cho tư tưởng nghệ thuật này là Bể máu (피바다, 1969), được chuyển thể từ tiểu thuyết kể về câu chuyện của một người phụ nữ nông dân trở thành anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Nhật của người Triều Tiên. Bộ phim này sau đó đã được chuyển thể thành nhiều loại hình nghệ thuật khác như nhạc kịch hay vũ kịch. Một tác phẩm đáng chú khác là Cô gái bán hoa (꽃파는 처녀, 1972) của Choe Ik-kyu (người sau này là Bộ trưởng Bộ Văn hóa), bộ phim này đã đoạt Giải đặc biệt tại Liên hoan phim quốc tế Film Festival) lần thứ 18 và là một trong các tác phẩm điện ảnh được biết đến nhiều nhất của Triều Tiên thập niên 1970. Trong những năm 1980, các bộ phim mang tính tư tưởng và tuyên truyền được giảm bớt, thay vào đó là những tác phẩm có đề tài gần gũi với cuộc sống hơn. Có thể kể tới một chuyển thể tiếp theo của Xuân Hương truyện năm 1980 hay bộ phim Hồng Cát Đồng (홍길동, 1986). Bộ phim đáng chú nhất thập niên 1980 của điện ảnh Triều Tiên là một phim khoa học giả tưởng về một quái vật khổng lồ có tên Pulgasari (불가사리, 1985), bộ phim này được thực hiện bởi Shin Sang-ok, một nhà điện ảnh không mấy tiếng tăm của Hàn Quốc bị bắt cóc sang Triều Tiên. Trong thập niên 1990, IMDb chỉ thống kê được bộ phim mà Triều Tiên được sản xuất, trong đó có bộ phim truyền hình dài tập mang tên Tổ quốc và số phận (민족과 운명) được thực hiện từ năm 1992 đến năm 1999. Thập niên 2000 chứng kiến những thay đổi theo hướng cởi mở hơn của điện ảnh nước này khi lần đầu tiên có bộ phim hoạt hình Thẩm Thanh Vương hậu là sản phẩm hợp tác của hai miền Nam Bắc Triều. Năm 2006, lần đầu tiên có một bộ phim Triều Tiên được bán cho các nhà phân phối phương Tây, đó là bộ phim Ilgi (한 녀학생의 일기). 115px Cùng với sự đầu hàng của quân đội Nhật Bản năm 1945, nền điện ảnh của Hàn Quốc cũng bắt đầu được xây dựng với bộ phim Jayu Manse (자유만세, 1946) của đạo diễn Choi In-gyu. Tuy vậy công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc phát triển khá chậm chạp do chịu ảnh hưởng của chiến tranh, từ năm 1950 đến năm 1953 mỗi năm chỉ có chừng hoặc bộ phim được sản xuất, thêm vào đó những bộ phim được lưu trữ thời gian trước đó cũng lại bị chiến tranh phá hủy ít nhiều. Sau khi hiệp định đình chiến được ký kết năm 1953, tổng thống Hàn Quốc Lý Thừa Vãn đã góp phần khôi phục nền điện ảnh nước này bằng việc miễn thuế cho mọi bộ phim sản xuất trong nước. Quá trình hồi phục và phát triển này được đánh dấu bằng một chuyển thể điện ảnh khác của Xuân Hương truyện do Lee Kyu-hwan thực hiện năm 1955. Bộ phim này đã thành công vang dội khi chỉ trong vòng tháng nó đã thu hút 10% dân số Seoul (khoảng trên 200.000 người) đến rạp, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc. Chất lượng và số lượng các bộ phim Hàn Quốc được cải thiện nhanh chóng, năm 1956 bộ phim Sijibganeun nal (시집가는 날) của Lee Byeong-il đã bắt đầu đem về cho nước này những giải thưởng quốc tế. Đến năm 1959 sản lượng phim của công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc đã lên tới 111 phim một năm, tức là gấp hơn 20 lần sản lượng trung bình 10 năm trước đó. Năm 1961, điện ảnh Hàn Quốc có hai tác phẩm xuất sắc là Hanyeo (하녀) của Kim Ki-young và Obaltan (오발탄) của Yu Hyun-mok, cả hai đều được đánh giá là nằm trong số những bộ phim hay nhất trong lịch sử điện ảnh nước này. Giai đoạn hoàng kim của điện ảnh Hàn Quốc chấm dứt sau khi Park Chung-hee lên nắm chính quyền năm 1962. Chính phủ Park Chung-hee đã ngay lập tức tăng sự kiểm soát của nhà nước đối với công nghiệp điện ảnh. Theo Luật điện ảnh năm 1963, một loạt các biện pháp kiểm duyệt khắc nghiệt được áp dụng đối với số lượng và nội dung các phim sản xuất trong nước. Chỉ trong vòng năm, số lượng phim sản xuất giảm từ 71 xuống còn 16. Sự kiểm soát của nhà nước lên đến đỉnh cao vào giữa và cuối thập niên 1970 đã phá hủy gần như toàn bộ những giá trị nghệ thuật điện ảnh Hàn Quốc xây dựng được trong những năm trước đó. Thêm vào đó điện ảnh cũng phải chịu sự cạnh tranh quyết liệt của một loại hình giải trí mới, truyền hình, vốn phát triển đột ngột từ cuối thập niên 1960. Năm 1979, lượng khán giả đến rạp phim giảm chỉ còn 1/3 so với 10 năm trước đó (65 triệu lượt người xem năm 1979 so với 173 triệu lượt người xem năm 1969). Sau những biến động liên tiếp đầu những năm 1980 gồm vụ ám sát Tổng thống Park Chung-hee, cuộc Đảo chính ngày 12 tháng 12 và vụ thảm sát Gwangju, Hàn Quốc bắt đầu quá trình dân chủ hóa đời sống chính trị và xã hội, trong đó có công nghiệp điện ảnh. Mặc dù trong thập niên này, lượng người đến rạp vẫn rất thấp nhưng điện ảnh đã dần có dấu hiệu hồi sinh khi chính phủ nới lỏng sự kiểm soát đối với ngành công nghiện điện ảnh. Điện ảnh Hàn Quốc cũng bắt đầu được quốc tế biết tới, sau khi bộ phim Mandala (만다라', 1981) của đạo diễn Im Kwon-taek giành Giải thưởng lớn tại Liên hoan phim Hawaii, đây cũng là bộ phim Hàn Quốc đầu tiên tham gia các liên hoan phim lớn châu Âu. Năm 1988, tổng thống Roh Tae-woo chính thức gỡ bỏ sự kiểm duyệt nội dung chính trị cho điện ảnh Hàn Quốc, giúp cho các đạo diễn có thể khai thác các đề tài xã hội gai góc và gần gũi với cuộc sống hơn. Tuy vậy thị trường phim Hàn Quốc tiếp tục đạt doanh thu thấp và lại bị các bộ phim Hollywood và Hồng Kông thống trị, năm 1993 chỉ có 16% số phim chiếu rạp là phim nội địa. Bước đột phá của nền công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc đến năm 1999 với bộ phim bom tấn Shiri (쉬리), bước cách mạng về thương mại hóa điện ảnh. Tuy bộ phim đầu tiên do tư nhân (hãng Samsung) tài trợ đã được thực hiện từ năm 1992 nhưng phải chờ đến Shiri điện ảnh Hàn Quốc mới thực sự tìm được hướng đi mới thu hút khán giả. Đó là những tác phẩm kinh phí lớn (kinh phí Shiri khoảng triệu USD, lớn nhất trong lịch sử điện ảnh Hàn Quốc cho đến thời điểm đó), đề tài hấp dẫn (Shiri đề cập đến xung đột hai miền Nam Bắc Triều trong cuộc rượt đuổi giữa các điệp viên Triều Tiên Seoul với những sĩ quan tình báo Hàn Quốc) và sự góp mặt của những ngôi sao điện ảnh (Shiri có một giàn diễn viên tên tuổi gồm Han Suk-kyu, Choi Min-sik, Kim Yoon-jin và Song Kang-ho). Với công thức như vậy, Shiri đã thành công vang dội về mặt thương mại khi bán được tới triệu vé chỉ tính riêng Seoul và trở thành bộ phim ăn khách nhất lịch sử điện ảnh Hàn Quốc, vượt qua các bộ phim bom tấn nổi tiếng của Hollywood như 'Titanic' hay Ma trận (The Matrix). Thành công của Shiri được tiếp nối ngay trong các năm tiếp theo bằng những bộ phim bom tấn về đề tài xung đột Nam-Bắc khác như Khu vực an ninh chung (2000) hay Cờ Thái cực giương cao (태극기, 2004). Một bước tiến nữa về thể loại của điện ảnh Hàn Quốc là bộ phim Cô nàng ngổ ngáo (엽기적인 그녀, 2001), một bộ phim tình cảm hài (rom-com) không chỉ ăn khách Hàn Quốc mà còn được ưa thích nhiều nước châu Á. Bộ phim này đã mở đầu cho trào lưu phim tình cảm hài vốn là thế mạnh của điện ảnh Hàn Quốc trong việc xâm nhập các thị trường điện ảnh khác (vốn không mặn mà với đề tài xung đột Nam Bắc Triều). Những bộ phim tình cảm của Hàn Quốc cũng bắt đầu được Hollywood chú và một số phim đã được mua bản quyền để làm lại (remake), trong số này bộ phim Il Mare (시월애, 2000) đã được làm lại thành một tác phẩm Hollywood có tựa đề Ngôi nhà bên hồ (The Lake House, 2006) với sự góp mặt của ngôi sao là Sandra Bullock và Keanu Reeves. Không chỉ thành công về mặt thương mại, các bộ phim Hàn Quốc còn bắt đầu thành công tại các liên hoan phim lớn trên thế giới. Năm 2002 bộ phim Oasis (오아시스) của đạo diễn Lee Chang-dong (sau này trở thành Bộ trưởng Bộ Văn hóa và Du lịch Hàn Quốc) đã giành giải hai tại Liên hoan phim Venezia. Cũng tại liên hoan phim này, bộ phim 3-Iron (빈집, 2004) của đạo diễn Kim Ki Duk đã giành giải Sư tử bạc. Kim Ki Duk là đạo diễn phim nghệ thuật nổi tiếng của Hàn Quốc, với bộ phim Samaria (사마리아, 2004) ông đã giành giải Đạo diễn xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Berlin. Bộ phim đạt giải cao nhất trong số các liên hoan phim cho đến nay có lẽ là Oldboy (올드보이, 2003) của đạo diễn Park Chan-wook, tác phẩm này đã đoạt Giải thưởng lớn (Grand Prix) tại Liên hoan phim Cannes, tức là chỉ xếp sau bộ phim đoạt giải Cành cọ vàng năm đó là Fahrenheit 9/11. Trong Liên hoan phim Cannes năm 2007, nữ diễn viên Hàn Quốc Jeon Do-yeon cũng đã giành giải Nữ diễn viên xuất sắc nhất (Prix féminine). Các bộ phim này được xếp theo số lượng khán giả đến rạp chứ không theo tổng doanh thu. Danh sách được cập nhật đến tháng năm 2007: Tên phim Năm phát hành Lượng khán giả 괴물(Quái vật sông Hàn) 2006 13.019.740 왕의 남자(Nhà vua và chàng hề) 2005 12.302.831 태극기 휘날리며(Cờ Thái cực giương cao) 2004 11.746.135 2003 11.074.000 2001 8.134.500 웰컴 동막골(Welcome To Dongmakgol) 2005 8.008.622 D-War 2007 6.902.034 타짜(Tazza: The High Rollers) 2006 6.847.777 미녀는 괴로워(Sắc đẹp ngàn cân) 2006 6.619.498 10 1999 6.210.000 11 투사부일체(My Boss, My Teacher) 2006 6.105.431 12 공동경비구역 JSA(Khu vực an ninh chung) 2000 5.830.000 13 가문의 위기(Marrying The Mafia 2) 2005 5.635.266 14 화려한 휴가(May 18) 2007 5.609.005 15 가문의 영광(Marrying the Mafia) 2002 5.021.001 16 2005 5.148.022 17 살인의 추억('Memories of Murder) 2003 5.101.645 18 엽기적인 그녀(Cô nàng ngổ ngáo) 2001 4.852.845 19 동갑내기 과외하기(Cô bạn gia sư) 2003 4.809.871 20 신라의 달밤(Kick The Moon 2001 4.353.800 21 조폭 마누라(Vợ tôi là Găng-tơ) 2001 4.180.900 22 2005 4.094.395 23 집으로(The Way Home) 2002 4.091.000 24 색즉시공(Tình dục là chuyện nhỏ) 2002 4.089.900 25 공공의 2(Another Public Enemy'') 2005 3.911.356 Kim Il-sung Kim Jong-il Choe Ik-gyu Kim Se-ryun Shin Sang-ok Bong Joon-ho Im Kwon-taek Kang Je-gyu Kim Ji-Woon Kim Ki-duk Kwak Jae-yong Lee Chang-dong Lee Jun-ik Park Chan-wook Shin Sang-ok Diễn viên Jang Dong-gun Văn hóa Triều Tiên Hàn lưu K-Pop Thông tin Điện ảnh Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Điện ảnh trong mơ của CHDCND Triều Tiên KOFIC Trang web của Hội đồng phim Hàn Quốc Koreanfilm.org Các bài giới thiệu phim, tin tức điện ảnh, thông tin về diễn viên của điện ảnh Triều Tiên Giới thiệu phim và DVD điện ảnh châu Á, trong đó có Hàn Quốc Trang web dữ liệu điện ảnh Hàn Quốc | Điện ảnh bán đảo Triều Tiên | |
'Zingiber là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Donald Mood và Ida Theilade mô tả khoa học đầu tiên năm 2001.. Tuy nhiên, các nguồn dữ liệu của IPNI, POWO, WCSP, The Plant List tại thời điểm tra cứu là ngày 13 tháng năm 2021 đều viết danh pháp thành Zingiber banhaoense. Mẫu định danh: Mood J.D. 506 thu thập ngày tháng năm 1993 tại núi Banahao, cuối hẽm núi dọc theo con suối phía trên làng Kinabuhayan, Dolores, tỉnh Quezon, Philippines. Holotype lưu giữ tại Đại học Aarhus, Đan Mạch (AAU), isotype tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K). Tính từ định danh banahaoense lấy theo tên núi Banahao, nơi mẫu điển hình được thu thập. Loài này có tại đảo Luzon, Philippines. Cây thảo mọc thành cụm, cao đến 1,5m. Các bẹ và lưỡi bẹ có lông dễ thấy màu ánh trắng. Lá màu xanh lục vừa. Các vảy và lá bắc của cụm hoa màu đỏ sẫm, không đổi màu, đầy chất nhớt; lá bắc con màu đỏ sẫm, trong; đài hoa màu trắng, trong suốt; ống tràng màu trắng sau trở thành vàng nhạt; các thùy và các bộ phận khác của hoa màu vàng đồng, không đốm. Hình ảnh cụm hoa của Zingiber banahaoense tại | null | |
Tuệ phi Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị (chữ Hán: 慧妃博爾濟吉特氏; 1670), Khoa Nhĩ Thấm Mông Cổ xuất thân, một người cháu của Hiếu Trang Văn hoàng hậu và là một trong những phi tần đầu tiên của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế trong lịch sử Trung Quốc. Tuệ phi Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị Xuất thân Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị của Khoa Nhĩ Thấm, Tuệ phi là con gái của Tam đẳng công Đài cát là Úc Tích (阿郁錫) con trai của đường thúc Ngạch Đức (额德) của Hiếu Trang Thái hoàng thái hậu. Theo vai vế, bà gọi Thái hoàng thái hậu là biểu cô, do cha bà Úc Tích là biểu đệ của Thái hoàng thái hậu. Bên cạnh đó, Tuệ phi cũng thuộc hàng biểu cô của Khang Hi Đế và cũng là thân thuộc của Hiếu Huệ Chương hoàng hậu, khi ấy đang là Hoàng thái hậu. Sử sách không ghi bà nhập cung khi nào, Thanh hoàng thất tứ phổ (清宗室四譜) ghi lại: "Tuệ phi tự ấu đãi niên cung trung"; 慧妃自幼待年宫中, điều này cho thấy Tuệ phi có lẽ chính là một trường hợp con dâu được nuôi ngay từ nhỏ rất phổ biến vào lúc ấy, Hán ngữ gọi là Đồng dưỡng tức; 童養媳. Nhưng theo hồ sơ Nội đình, vào tháng (ÂL) năm Khang Hi thứ (1669) đã có chỉ triệu bà vào cung, trên đường cấp đãi ngộ Tiểu Phúc tấn (小福晋), đến tháng 11 cùng năm đã chính thức đến cung, thăng đãi ngộ Phúc tấn (福晋). Năm Khang Hi thứ (1670), ngày 12 tháng (tức ngày 30 tháng dương lịch) thì bà qua đời, không rõ bao nhiêu tuổi. Nếu bà bằng tuổi Khang Hi Đế thì lúc đó chỉ mới 16 tuổi mà thôi, không kịp sinh con cái gì vì bà với Khang Hi Đế chưa chính thức thành hôn. Ngày tháng (ÂL) cùng năm, Khang Hi Đế chỉ dụ bộ Lễ, truy tặng bà làm Tuệ phi. Chỉ dụ nói: Dụ Lễ bộ: Bác Nhĩ Tế Kim thị, là con gái của Tam đẳng Đài cát Úc Tích, con trai của Ngạch Đức Đài cát, chú ruột của Băng Đồ Quận vương Ngạch Tế Âm thuộc Khoa Nhĩ Thấm. Tuyển tiến cung trung nhưng chưa kịp sách phong, đã rồi hoăng thệ. Trẫm thực tâm đau thương, nghĩ nên truy phong tước Phi. Còn như phong hiệu và lễ nghi nên tiến hành, sai các Bộ tra điển phạm rồi nghị tấu. Nay thuận theo Lễ bộ nghị, truy phong làm Tuệ phi. Khi Tuệ phi mất, Khang Hi Đế lệnh nghỉ triều ngày, tông thất trở lên trong ngày để tang đồ trắng, cung nhân trong cung của Tuệ phi cắt bím tóc, thành phục để tang 27 ngày. Lại định; thân vương, công chúa, quan lại nhất phẩm đến tham bái chịu tang. Năm Khang Hi thứ 20 (1681), Cảnh lăng của Khang Hi Đế xây cất xong, Tuệ phi được đưa vào an táng trong Phi viên tẩm, là vị tần phi nhập táng Cảnh lăng sớm nhất. Căn cứ 《Khâm định đại thanh hội điển tắc lệ》cuốn 42, hậu phi bài vị trình tự ghi lại: Ôn Hi Quý phi Tuệ phi, Huệ phi, Nghi phi, Vinh phi, Bình phi, Lương phi, Tuyên phi, Thành phi, Thuận Mật phi, Thuần Dụ Cần phi, Định phi. Hậu cung nhà Thanh Hiếu Trang Văn hoàng hậu Hiếu Thành Nhân hoàng hậu Ôn Hi Quý phi Thanh sử cảo Thanh tông thất tứ phổ 清宗室四谱 Khâm định Đại Thanh hội điển sự lệ | Tuệ phi Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị | Mất năm 1670, Phi tần nhà Thanh, Người Mông Cổ thuộc Thanh, Năm sinh không rõ |
Allentown là một thành phố thuộc quận quận lỵ Lehigh trong tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ. Thành phố có diện tích km², dân số theo điều tra năm 2010 của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ là 118.032 người. Đây là thành phố lớn thứ bang này. | Allentown | |
Andrzej Kotula (sinh ngày 10 tháng năm 1822 mất ngày 10 tháng 10 năm 1891) là một luật sư và nhà hoạt động chính trị người Ba Lan. Năm 1848, Kotula tốt nghiệp chuyên ngành Luật tại Đại học Vienna. Kể từ năm 1853, ông làm thư ký hành chính thị trấn Ipolyság (Slovakia). Ông chuyển đến làm công chứng viên tại thị trấn Frysztat (Cộng hòa Séc) vào năm 1853. Năm 1867, Kotula trở lại Cieszyn (Ba Lan) và điều hành một văn phòng công chứng cho đến những năm tháng cuối đời. Kotula luôn rất tích cực tham gia vào các hoạt động công ích. Ông là thư ký của hội Czytelnia Ludowa (People's Library), thành viên của nhiều tổ chức và là một trong những nhà sáng lập của Hiệp hội Trường học Công quốc Cieszyn (''Macierz Szkolna Księstwa Kotula có niềm yêu thích đặc biệt với lĩnh vực thực vật học. Ông đã sưu tầm và bảo tồn nhiều loài thực vật thuộc họ nấm, cũng như bọ cánh cứng và loài bướm. Bên cạnh đó, Kotula cũng sáng tác thơ, truyện cổ tích và các bản nhạc ballad. | Andrzej Kotula | Sinh năm 1822, Mất năm 1891, Chính trị gia Ba Lan theo thế kỷ, Cựu sinh viên Đại học Viên |
tennentii' là một loài thằn lằn trong họ Agamidae. Loài này được Günther mô tả khoa học đầu tiên năm 1861. Tập tin:Ceratophora tennentii.jpg | null | Động vật được mô tả năm 1861, Động vật đặc hữu Sri Lanka, Động vật bò sát Sri Lanka |
là một xã tỉnh Somme, vùng Pháp. Thị trấn này tọa lạc trên đường D68, khoảng 30 dặm Anh về phía đồng nam của Amiens. Biến động dân số 1962 1968 1975 1982 1990 1999 106 109 94 104 102 120 Số liệu điều tra dân số từ năm 1962, dân số không tính hai lần Xã của tỉnh Somme (tất cả đều bằng tiếng Pháp) Bus-la-Mésière sur le site de l'Insee Bus-la-Mésière sur le site du Quid | null | Xã của Somme |
Félix (; sinh ngày tháng năm 2000) là một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Canada. Thứ hạng đánh đơn ATP cao nhất của anh là vị trí số 28 vào ngày 20 tháng năm 2019 và thứ hạng trẻ ITF cao nhất là vị trí số vào ngày tháng năm 2016. Anh hiện đang là tay vợt trẻ nhất trong top 100 trên bảng xếp hạng ATP. Chú thích Grand Slam (0–0) ATP World Tour Finals (0–0) ATP World Tour Masters 1000 (0–0) ATP World Tour 500 (0–1) ATP World Tour 250 (0–0) Danh hiệu theo mặt sân Cứng (0–0) Đất nện (0–1) Cỏ (0–0) Danh hiệu theo lắp đặt Ngoài trời (0–1) Trong nhà (0-0) Kết quả T–B Ngày Giải đấu Thể loại Mặt sân Đối thủ Tỷ số quân 0–1 Rio Open, Brasil 500 Đất nện Laslo Đere 3–6, 5–7 Chú thích ATP Challenger Tour (4–1) ITF Futures (2–2) Kết quả T–B Ngày Giải đấu Thể loại Mặt sân Đối thủ Tỷ số quân 0–1 Spain F12, Lleida Futures Đất nện Ramkumar Ramanathan 6–7(1–7), 2–6 Vô địch 1–1 USA F35, Birmingham Futures Đất nện Juan Manuel Benítez Chavarriaga 7–5, 7–5 quân 1–2 USA F3, Plantation Futures Đất nện Roberto Cid Subervi 7–6(7–4), 6–7(3–7), 0–6 Vô địch 2–2 Canada F2, Sherbrooke Futures Cứng (i) Gleb Sakharov 3–6, 6–3, 6–4 Vô địch 3–2 Lyon, Pháp Challenger Đất nện Mathias Bourgue 6–4, 6–1 Vô địch 4–2 Seville, Tây Ban Nha Challenger Đất nện Íñigo Cervantes 6–7(4–7), 6–3, 6–3 Vô địch 5–2 Lyon, Pháp Challenger Đất nện Johan Tatlot 6–7(3–7), 7–5, 6–2 quân 5–3 Blois, Pháp Challenger Đất nện Scott Griekspoor 4–6, 4–6 Vô địch 6–3 Tháng 10 năm 2018 Tashkent, Uzbekistan Challenger Cứng Kamil Majchrzak 6–3, 6–2 Chú thích ATP Challenger Tour (1–0) ITF Futures (1–0) Kết quả T–B Ngày Giải đấu Thể loại Mặt sân Đồng đội Đối thủ Tỷ số Vô địch 1–0 USA F36, Niceville Futures Đất nện Patrick Kypson Patrick Daciek Dane Webb 7–5, 6–1 Vô địch 2–0 Budapest, Hungary Challenger Cứng (i) Nicola Kuhn Marin Draganja Tomislav Draganja 2–6, 6–2, 11–9 Kết quả Năm Giải đấu Mặt sân Đối thủ Tỷ số quân 2016 Pháp Mở rộng Đất nện Geoffrey Blancaneaux 6–1, 3–6, 6–8 Vô địch 2016 Mỹ Mở rộng Cứng Miomir Kecmanović 6–3, 6–0 Kết quả Năm Giải đấu Mặt sân Đồng đội Đối thủ Tỷ số Vô địch 2015 Mỹ Mở rộng Cứng Denis Shapovalov Brandon Holt Riley Smith 7–5, 7–6(7–3) quân 2016 Wimbledon Cỏ Denis Shapovalov Kenneth Raisma Stefanos Tsitsipas 6–4, 4–6, 2–6 quân 2016 Mỹ Mở rộng Cứng Benjamin Sigouin Juan Carlos Aguilar Felipe Meligeni Alves 3–6, 6–7(4–7) Tính đến Madrid Masters. Tournament 2015 2016 2017 2018 2019 SR T–B %Thắng Grand Slam Úc Mở rộng VL2 0–0 0% Pháp Mở rộng VL2 0–0 0% Wimbledon 0–0 0% Mỹ Mở rộng VL2 V1 0–1 0% Thắng–Bại 0–0 0–0 0–0 0–1 0–0 0–1 0% ATP World Tour Masters 1000 Indian Wells Masters V2 V3 3–2 60% Miami Masters VL1 BK 5–1 83% Monte-Carlo Masters V1 V2 1–2 50% Madrid Masters V2 1–1 50% Internazionali BNL d'Italia 0–0 0% Rogers Cup VL1 V2 1–1 50% Cincinnati Masters 0–0 0% Thượng Hải Masters 0–0 0% Paris Masters 0–0 0% Thắng–Bại 0–0 0–0 0–0 2–3 9–4 11–7 61% Đại diện quốc gia Davis Cup VL 1–1 50% Thống kê sự nghiệp 2015 2016 2017 2018 2019 Sự nghiệp Giải đấu 10 19 Danh hiệu Chung kết Thắng–Bại Sân cứng 0–0 0–0 0–0 4–7 7–3 10 11–10 52% Thắng–Bại Sân đất nện 0–0 0–0 0–0 2–3 10–7 12–10 55% Thắng–Bại Sân cỏ 0–0 0–0 0–0 0–0 0–0 0–0 0% Tổng số Thắng–Bại 0–0 0–0 0–0 6–10 17–10 19 23–20 54% Thắng 0% 0% 0% 37% 63% Xếp hạng cuối năm 760 601 162 108 $1,095,570 Dưới đây là thành tích đối đầu với các tay vợt đã từng nằm trong top 10 bảng xếp hạng ATP của trong đó tay vợt được in đậm là đã từng số 1. Lucas Pouille 1–0 Stefanos Tsitsipas 1–0 Alexander Zverev 0–1 John Isner 0–1 Kei Nishikori 0–1 Milos Raonic 0–1 Rafael Nadal 0–1 :* Tính đến ngày tháng năm 2019. *Auger-Aiassime có thành tích đối đầu với các tay vợt này là 1–4 (.200), tại thời điểm trận đấu diễn ra, đứng trong top 10. Mùa giải 2017 2018 2019 Tổng số Thắng 1 Tay vợt Xếp hạng Giải đấu Mặt sân Vg Tỷ số 2019''' 1. Stefanos Tsitsipas Số 10 Indian Wells Masters, Hoa Kỳ Cứng V2 6–4, 6–2 58 | Félix (; sinh ngày tháng năm 2000) là một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Canada. Thứ hạng đánh đơn ATP cao nhất của anh là vị trí số 28 vào ngày 20 tháng năm 2019 và thứ hạng trẻ ITF cao nhất là vị trí số vào ngày tháng năm 2016. Anh hiện đang là tay vợt trẻ nhất trong top 100 trên bảng xếp hạng ATP. ==Chung kết đơn ATP== ===Đơn: (1 quân)=== Chú thích Grand Slam (0–0) ATP World Tour Finals (0–0) ATP World Tour Masters 1000 (0–0) ATP World Tour 500 (0–1) ATP World Tour 250 (0–0) Danh hiệu theo mặt sân Cứng (0–0) Đất nện (0–1) Cỏ (0–0) Danh hiệu theo lắp đặt Ngoài trời (0–1) Trong nhà (0-0) Kết quả T–B Ngày Giải đấu Thể loại Mặt sân Đối thủ Tỷ số quân 0–1 Rio Open, Brasil 500 Đất nện Laslo Đere 3–6, 5–7 ==Chung kết ATP Challenger Tour và ITF Futures== ===Đơn: (6 danh hiệu, quân)=== Chú thích ATP Challenger Tour (4–1) ITF Futures (2–2) Kết quả T–B Ngày Giải đấu Thể loại Mặt sân Đối thủ Tỷ số quân 0–1 Spain F12, Lleida Futures Đất nện Ramkumar Ramanathan 6–7(1–7), 2–6 Vô địch 1–1 USA F35, Birmingham Futures Đất nện Juan Manuel Benítez Chavarriaga 7–5, 7–5 quân 1–2 USA F3, Plantation Futures Đất nện Roberto Cid Subervi 7–6(7–4), 6–7(3–7), 0–6 Vô địch 2–2 Canada F2, Sherbrooke Futures Cứng (i) Gleb Sakharov 3–6, 6–3, 6–4 Vô địch 3–2 Lyon, Pháp Challenger Đất nện Mathias Bourgue 6–4, 6–1 Vô địch 4–2 Seville, Tây Ban Nha Challenger Đất nện Íñigo Cervantes 6–7(4–7), 6–3, 6–3 Vô địch 5–2 Lyon, Pháp Challenger Đất nện Johan Tatlot 6–7(3–7), 7–5, 6–2 quân 5–3 Blois, Pháp Challenger Đất nện Scott Griekspoor 4–6, 4–6 Vô địch 6–3 Tháng 10 năm 2018 Tashkent, Uzbekistan Challenger Cứng Kamil Majchrzak 6–3, 6–2 ===Đôi: (2 danh hiệu)=== Chú thích ATP Challenger Tour (1–0) ITF Futures (1–0) Kết quả T–B Ngày Giải đấu Thể loại Mặt sân Đồng đội Đối thủ Tỷ số Vô địch 1–0 USA F36, Niceville Futures Đất nện Patrick Kypson Patrick Daciek Dane Webb 7–5, 6–1 Vô địch 2–0 Budapest, Hungary Challenger Cứng (i) Nicola Kuhn Marin Draganja Tomislav Draganja 2–6, 6–2, 11–9 ==Chung kết Grand Slam trẻ== ===Đơn: (1 danh hiệu, quân)=== Kết quả Năm Giải đấu Mặt sân Đối thủ Tỷ số quân 2016 Pháp Mở rộng Đất nện Geoffrey Blancaneaux 6–1, 3–6, 6–8 Vô địch 2016 Mỹ Mở rộng Cứng Miomir Kecmanović 6–3, 6–0 ===Đôi: (1 danh hiệu, quân)=== Kết quả Năm Giải đấu Mặt sân Đồng đội Đối thủ Tỷ số Vô địch 2015 Mỹ Mở rộng Cứng Denis Shapovalov Brandon Holt Riley Smith 7–5, 7–6(7–3) quân 2016 Wimbledon Cỏ Denis Shapovalov Kenneth Raisma Stefanos Tsitsipas 6–4, 4–6, 2–6 quân 2016 Mỹ Mở rộng Cứng Benjamin Sigouin Juan Carlos Aguilar Felipe Meligeni Alves 3–6, 6–7(4–7) ==Thống kê sự nghiệp đơn== ''Tính đến Madrid Masters.'' Tournament 2015 2016 2017 2018 2019 SR T–B %Thắng | Sinh năm 2000, Nhân vật còn sống, Vận động viên quần vợt Canada, Nam vận động viên quần vợt Canada, Vô địch Mỹ Mở rộng trẻ, Nhân vật thể thao đến từ Québec, Nhân vật thể thao đến từ Montréal |
Bến Tre là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Năm 2021, Bến Tre là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 28 về dân số, xếp thứ 46 về tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 56 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 48 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.288.200 người, GRDP đạt 60.035 tỉ đồng (tương ứng với 2,83 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 45,1 triệu đồng (tương ứng với 1.924 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,85%. Bến Tre có 09 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm các huyện: Ba Tri, Bình Đại, Châu Thành, Chợ Lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam, Thạnh Phú và thành phố Bến Tre. Trước kia, tỉnh Bến Tre là vùng hoang vu, một thời gian sau đó có một vài nhóm người đến định cư và thường tập trung nơi đất cao trên các giồng và ven biển, hoặc dọc theo các đê sông, rạch, thuận tiện cho việc đi lại, sinh sống và tránh lũ lụt. Càng ngày số người đến định cư ngày càng đông, chính sự di cư này kèm theo sự gia tăng dân số, làm cho diện tích rừng ngày càng thu hẹp. Bến Tre ngày trước được người Khmer gọi là Sóc Treay (xứ cá) vì nhiều giống cá nằm rải rác trong tỉnh. Về sau người Việt lập nên một cái chợ mà họ gọi là Bến Tre. Con rạch chảy ngang trước chợ và đổ vào Sông Hàm Luông nên cũng mang tên này. Bến Tre cũng là quê hương của Đạo Dừa, với biệt danh là "Xứ Dừa". Từ thời Chiến tranh Việt Nam, Bến Tre được coi là "quê hương của Phong trào Đồng khởi", mở đầu cho cao trào đấu tranh vũ trang của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam chống chính quyền Ngô Đình Diệm, tiêu biểu nhất là trong năm 1960. Tỉnh Bến Tre có hình rẻ quạt, đầu nhọn nằm thượng nguồn, với các hệ thống kênh rạch chằng chịt. *Phía đông giáp Biển Đông với chiều dài bờ biển 65 km *Phía tây và phía nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh có ranh giới là sông Cổ Chiên. *Phía bắc giáp Tiền Giang có ranh giới là sông Tiền. Các điểm cực của tỉnh Bến Tre: *Điểm cực đông nằm trên kinh độ 106o48' Đông *Điểm cực tây nằm trên kinh độ 105o57' Đông. *Điểm cực nam nằm trên vĩ độ 10o20' Bắc *Điểm cực bắc của Bến Tre nằm trên vĩ độ 9o48' Bắc. Tỉnh Bến Tre có diện tích tự nhiên là 2.360 km², địa bàn nằm trên ba cù lao là cù lao An Hóa, cù lao Bảo, cù lao Minh và do phù sa của bốn nhánh sông Cửu Long bồi tụ nên (gồm sông Tiền dài 83 km, sông Ba Lai dài 59 km, sông Hàm Luông dài 71 km, sông Cổ Chiên dài 82 km) và đất phù sa màu mỡ, cây trái sum suê,... Bến Tre nằm trong miền khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhưng lại nằm ngoài ảnh hưởng của gió mùa cực đới, nên nhiệt độ cao, ít biến đổi trong năm, nhiệt độ trung bình hằng năm từ 26 °C 27 °C. Tỉnh Bến Tre chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc từ tháng 11 đến tháng năm sau và gió mùa tây nam từ tháng đến tháng 10, giữa mùa này thời kỳ chuyển tiếp có hướng gió thay đổi vào các tháng và tháng tạo nên mùa rõ rệt. Mùa gió đông bắc là thời kỳ khô hạn, mùa gió tây nam là thời kỳ mưa ẩm. Lượng mưa trung bình hằng năm từ 1.250 mm 1.500 mm. Trong mùa khô, lượng mưa vào khoảng đến 6% tổng lượng mưa cả năm. Khí hậu Bến Tre cũng cho thấy thích hợp với nhiều loại cây trồng. Tuy nhiên, ngoài thuận lợi trên, Bến Tre cũng gặp những khó khăn do thời tiết nóng ẩm nên thường có nạn sâu bệnh, dịch bệnh, và nấm mốc phát sinh, phát triển quanh năm. Trở ngại đáng kể trong nông nghiệp là vào mùa khô, lượng nước từ thượng nguồn đổ về giảm nhiều và gió chướng mạnh đưa nước biển sâu vào nội địa, làm ảnh hưởng đến năng suất cây trồng đối với các huyện gần phía biển và ven biển. Bến Tre nằm hạ lưu sông Mekong, giáp với biển Đông, với mạng lưới sông ngòi chằng chịt có tổng chiều dài xấp xỉ 6.000 km, trong đó có sông Cổ Chiên dài 82 km, sông Hàm Luông dài 71 km, sông Ba Lai dài 59 km, sông Tiền dài 83 km. Hệ thống sông ngòi Bến Tre rất thuận lợi về giao thông đường thủy, nguồn thủy sản phong phú, nước tưới cho cây trồng ít gặp khó khăn, tuy nhiên cũng gây trở ngại đáng kể cho giao thông đường bộ, cũng như việc cấp nước vào mùa khô, khi thủy triều biển Đông đưa mặn vào sâu trong kênh rạch vào mùa gió chướng. Địa hình tỉnh Bến Tre có độ cao trung bình từ mét so với mực nước biển, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, độ cao chênh lệch khá lớn, tối đa là 3,5 mét. Trong đó, phần cao nhất thuộc khu vực huyện Chợ Lách và một phần huyện Châu Thành, độ cao tuyệt đối có nơi đạt trên mét, nhưng đa số từ đến 3,5 mét. Phần đất thấp độ cao trung bình khoảng 1,5 mét, tập trung tại các vùng Phước An, Phước Tú huyện Châu Thành hoặc Phong Phú, Phú Hòa huyện Giồng Trôm. Phần đất trũng, độ cao tối đa không quá 0,5 mét, phân bố các huyện ven biển như huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú. Địa hình bờ biển của tỉnh chủ yếu là các bãi bồi rộng với thành phần chủ yếu là bùn hoặc cát. Khi triều rút, các bãi bồi nổi lên và trải rộng ra biển hàng nghìn mét, tạo thuận lợi cho nuôi trồng hải sản. Bến Tre có nhóm đất chính là nhóm đất cát, nhóm đất phù sa, nhóm đất phèn và nhóm đất mặn. Trong đó, nhóm đất mặn chiếm diện tích lớn nhất trong các loại đất của tỉnh 43,11%, nhóm đất phù sa chiếm 26,9% diện tích toàn tỉnh, nhóm đất phèn, chiếm khoảng 6,74% diện tích đất tự nhiên của tỉnh, nhóm đất cát chủ yếu là loại đất giồng chiếm diện tích thấp nhất 6,4% diện tích toàn tỉnh. Tỉnh Bến Tre nằm cuối nguồn sông Cửu Long, tiếp giáp biển Đông với chiều dài đường biển khoảng 65 km và các tỉnh Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long. Tỉnh lỵ Bến Tre cách Thành phố Hồ Chí Minh 87 km về phía Tây qua Tiền Giang và Long An. Địa hình của Bến Tre bằng phẳng, có độ cao trung bình từ đến mét so với mực nước biển, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, độ cao chênh lệch khá lớn, tối đa là 3,5 m. Khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa mưa thường kéo dài từ tháng đến tháng 10, các tháng còn lại là mùa khô. Nhiệt độ trung bình năm từ 26oC 27oC. Lượng mưa trung bình năm từ 1.250 1.500 mm. Tỉnh Bến Tre hiện có đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm thành phố và huyện. Trong đó có 157 đơn vị hành chính cấp xã gồm có 10 thị trấn, phường và 139 xã. Đơn vị hành chính cấp Huyện Thành phố Bến Tre Huyện Ba Tri Huyện Bình Đại Huyện Châu Thành Huyện Chợ Lách Huyện Giồng Trôm Huyện Mỏ Cày Bắc Huyện Mỏ Cày Nam Huyện Thạnh Phú Diện tích (km²) 70,60 367,40 427,60 224,90 169,10 312,60 165,20 231,00 426,50 Dân số (người) 124.560 184.805 137.392 175.979 111.493 170.051 113.286 143.628 127.904 Mật độ dân số (người/km²) 1.765 593 321 783 659 544 686 622 300 Số đơn vị hành chính phường, xã thị trấn, 21 xã thị trấn, 19 xã thị trấn, 19 xã thị trấn, 10 xã thị trấn, 20 xã thị trấn, 12 xã thị trấn, 15 xã thị trấn, 17 xã Năm thành lập 2009 1912 1975 1929 1945 1956 2009 2009 1867 Loại đô thị II Năm công nhận 2019 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bến Tre 2019 Đất Bến tre do phù sa sông Cửu Long bồi đắp. Đến đầu thế kỉ XVIII, phần lớn đất đai còn hoang vu, lầy lội, là nơi nhiều loài dã thú như cọp, heo rừng, trâu rừng, cá sấu, trăn, rắn sinh sống. Trong sách Phủ biên tạp lục viết về xứ Đàng Trong giữa thế kỉ XVIII, Lê Quý Đôn ghi: "Từ các cửa biển Cần Giờ, Lôi Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu trở vào toàn là rừng rậm hàng ngàn dặm" Nhưng đó chỉ là nhìn từ bên ngoài, còn bên trong đã có các "lõm" dân cư vào khai phá sinh sống. Đó là những lưu dân người Việt từ miền Bắc và miền Trung vào, chủ yếu là miền Trung, đa số là những nông dân nghèo khổ vào Nam tìm đất sống, nhất là vào thời gian quân Trịnh lợi dụng chúa Nguyễn đang lúng túng trước phong trào Khởi nghĩa Tây Sơn, đánh chiếm Thuận Hóa, Quảng Nam (1774). Ngoài ra còn có các thành phần khác như binh lính, trốn lính, tù nhân bị lưu đày, người có tội với triều đình, người Minh Hương hay một số người có tiền của vào khai phá,... Người di dân đến Bến Tre chủ yếu bằng đường biển và đường bộ, đa số là bằng đường biển. Khi đặt chân lên đất Bến Tre, những lưu dân người Việt chọn những giồng đất cao ráo để sinh sống. Vùng đất Ba Tri được khai phá sớm nhất vì nơi đây là địa điểm dừng chân của các lưu dân theo đường biển. Lần hồi, dân cư ngày càng đông đúc, lập nên thôn, trại, làng. Nhờ những kinh nghiệm trong sản xuất quê nhà, khi đến vùng đất mới mênh mông, những người dân đã tạo nên những cánh đồng bao la, những vườn dừa bạt ngàn, những vườn cây ăn trái tươi tốt. Chỉ trong hai thế kỉ, những vùng đất hoang vu đầy dã thú, các cù lao nằm cuối vùng sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên đã trở thành nơi sản xuất dừa, trái cây, gạo ngon nổi tiếng. Bản đồ hạt Bến Tre năm 1882 Từ năm 1757, Bến Tre được gọi là tổng Tân An thuộc châu Định Viễn, dinh Long Hồ. Đời vua Minh Mạng, miền Nam Việt Nam chia thành sáu tỉnh: Vĩnh Long, Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, An Giang và Hà Tiên. Đất Bến Tre bấy giờ là phủ Hoàng Trị gồm các huyện Tân Ninh, Bảo An, Bảo Hậu và trực thuộc tỉnh Vĩnh Long. Tỉnh Bến Tre vốn là một phần của dinh Hoằng Trấn lập ra năm 1803, năm sau đổi là dinh Vĩnh Trấn. Năm 1808 dinh này lại đổi là trấn Vĩnh Thanh. Năm 1832, cù Lao An Hóa với hai tổng Hòa Quới và Hòa Minh nằm trong huyện Kiến Hòa. Năm 1844, vua Minh Mạng bỏ trấn lập tỉnh, đất Bến Tre là hai phủ Hoằng An và Hoằng Trị, thuộc tỉnh Vĩnh Long. Thời Pháp thuộc, Ngày 15 tháng năm 1867 thành lập hạt (Sở tham biện) Bến Tre, cai trị đầu tiên là chủ hạt De Champeaux (1867 1868). Ngày tháng 12 năm 1867, tách hai huyện Tân Minh và Duy Minh của hạt Bến Tre thành lập hạt Mỏ Cày, lỵ sở đặt tại chợ Mỏ Cày. Ngày tháng năm 1871, hạt Bến Tre bị giải thể, nhập địa bàn vào hạt Mỏ Cày. Ngày tháng 11 năm 1871 dời lỵ sở từ chợ Mỏ Cày về chợ Bến Tre nên đổi tên thành hạt Bến Tre. Ngày 16 tháng năm 1872, hạt Bến Tre nhận thêm tổng Minh Chánh và Minh Lý từ hạt Vĩnh Long, do De Boullenois de Senuc làm chủ hạt. Ngày 25 tháng năm 1877, tổng Minh Chánh bị giải thể, nhập phần đất phía Tây kinh Giằng Xây của tổng này vào tổng Minh Thuận cùng hạt. Hạt (sở tham biện) Bến Tre vào thời gian này có 21 tổng. Chánh tham biện lúc này là Marquis. Theo Nghị định ngày 22 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đổi tên tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày tháng năm 1900 hạt (Sở tham biện) Bến Tre trở thành tỉnh Bến Tre (chỉ gồm có cù lao Bảo và cù lao Minh, có bốn quận: Châu Thành, Ba Tri, Mỏ Cày và Thạnh Phú; đến năm 1948 cù lao An Hóa thuộc Mĩ Tho mới được chính quyền cách mạng nhập vào phần đất Bến Tre). Năm 1912, tỉnh thành lập quận là Ba Tri, Sóc Sải, Mỏ Cày, Thạnh Phú; Daroussin làm chủ tỉnh Bến Tre. Từ ngày tháng năm 1927, thời chủ tỉnh Bến Tre là Rivoal, quận Sóc Sải được đổi tên thành quận Châu Thành. Từ ngày 22 tháng 10 năm 1956, tỉnh Bến Tre đổi tên thành tỉnh Kiến Hòa và gồm quận là Ba Tri, Bình Đại, Châu Thành, Đôn Nhơn, Giồng Trôm, Hàm Long, Hương Mỹ, Thạnh Phú, Trúc Giang. Tỉnh lị tỉnh Kiến Hòa đổi tên là Trúc Giang. Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Kiến Hòa mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Bến Tre. Ngày 20 tháng năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, tỉnh Long An, tỉnh Bến Tre, tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên. Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Bến Tre vẫn để thành tỉnh riêng biệt. Tháng năm 1976, tỉnh Kiến Hòa đổi thành tỉnh Bến Tre. Tỉnh Bến Tre có thị xã Bến Tre và huyện: Ba Tri, Bình Đại, Châu Thành, Chợ Lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Thạnh Phú. Ngày tháng năm 2009, chia huyện Mỏ Cày thành hai huyện: Mỏ Cày Bắc và Mỏ Cày Nam. Ngày 11 tháng năm 2009, chuyển thị xã Bến Tre thành thành phố Bến Tre. Tỉnh Bến Tre có đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố Bến Tre và các huyện: Ba Tri, Bình Đại, Châu Thành, Chợ Lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam, Thạnh Phú. Ngày 13 tháng năm 2019, thành phố Bến Tre được công nhận là đô thị loại II. Chợ huyện Ba Tri Cánh đồng lúa Cái Mơnhuyện Chợ Lách, Bến Tre Làng trồng hoa, cây cảnh Chợ Lách Bến Tre cũng có diện tích trồng lúa khá lớn, do phù sa sông Cửu Long bồi đắp, đặc biệt là Hàm Luông. Cây lương thực chính là lúa, hoa màu phụ cũng chiếm phần quan trọng là khoai lang, ngô, và các loại rau. Mía được trồng nhiều tại các vùng đất phù sa ven sông rạch; nổi tiếng nhất là có các loại mía tại Mỏ Cày và Giồng Trôm. Diện tích trồng thuốc lá tập trung Mỏ Cày, nơi có loại thuốc thơm cũng nổi tiếng. Đất bồi thích hợp trồng cói. Bến Tre có nhiều loại cây ăn trái như cam, quýt, sầu riêng, chuối, chôm chôm, măng cụt, mãng cầu, xoài cát, bòn bon, dứa, vú sữa, bưởi da xanh,... trồng nhiều huyện Chợ Lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày và Châu Thành. Ngoài đặc sản là kẹo dừa, bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc. Làng nghề Cái Mơn, huyện Chợ Lách, hàng năm cung ứng cho thị trường hàng triệu giống cây ăn quả và cây cảnh khắp nơi. Năm 2012, tỉnh Bến Tre đề ra mục tiêu cơ bản của năm là tăng trưởng kinh tế đạt 13%, cải thiện đời sống nhân dân, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 7,1%, bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững ổn định chính trị. Trong tháng đầu năm 2012, mặc dù kinh tế tỉnh gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn tiếp tục duy trì và phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt 9,29%, thị trường xuất khẩu được giữ vững và có bước phát triển, xuất khẩu tăng trưởng khá, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 247,72 triệu USD. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi chuyển đổi theo hướng tăng năng xuất, chất lượng, hiệu quả, mô hình trồng xen, nuôi xen trong vườn dừa tiếp tục được triển khai và nhân rộng, dịch bệnh nguy hiểm trên gia xúc, gia cầm không xảy ra. Sản xuất công nghiệp duy trì và phát triển khá, hoạt động thương mại nội địa đáp ứng được nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nhân dân. Tổng vốn đầu tư cho toàn xã hội 6.360 tỷ đồng. Chất lượng phục vụ các ngành dịch vụ đáp ứng tốt yêu cầu. Giải quyết việc làm, giảm nghèo, an sinh xã hội có nhiều tiến bộ, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân. Lĩnh vực tế, văn hóa, giáo dục, thể dục, thể thao tiếp tục phát triển, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục phát triển và nâng lên về chất. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều khó khăn, phức tạp. Trong đó giá cả một số loại hàng hóa vật tư thiết yếu tăng cao, giá một số hàng nông sản như dừa, cá tra,… giảm mạnh, dịch bệnh tôm nuôi phát sinh và gây thiệt hại lớn, sản xuất công nghiệp còn gặp nhiều khó khăn đã ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Công tác giải phóng mặt bằng một số công trình chậm ảnh hưởng đến tiến độ thi công do tình hình tranh chấp, khiếu kiện vẫn còn phức tạp, nhất là lĩnh vực tranh chấp đất đai, giải phóng mặt bằng, tình hình trật tự an toàn xã hội trên một số lĩnh vực vẫn còn diễn biến phức tạp, phạm pháp hình sự, tai nạn, tệ nạn xã hội mặc dù được kéo giảm so với cùng kỳ nhưng còn xảy ra nhiều vụ giết người, chết người, tài sản thiệt hại lớn. Đến tháng 10 năm 2012, Tình hình kinh tế xã hội tiếp tục phát triển, một số chỉ tiêu chủ yếu tăng khá, đạt kế hoạch và vượt so với cùng kỳ. Kinh tế tháng 10 tiếp tục có sự tăng trưởng khả quan trên tất cả các lĩnh vực và tăng so với cùng kỳ, tạo tiền đề và động lực để các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân tỉnh nhà hăng hái chăm lo sản xuất, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội của tỉnh tăng trưởng cao hơn trong những tháng còn lại của năm 2012. Trong tháng 10 năm 2012, Sản xuất nông nghiệp đã thu hoạch xong vụ lúa hè thu, với tổng diện tích là 22.234 ha, giảm 3,11% so cùng kỳ nhưng năng suất bình quân 47,32 tạ/ha, tăng 1,7% so cùng kỳ. Vụ thu đông, toàn tỉnh đã xuống giống khoảng 23.937 ha, đạt 93,9% kế hoạch, giảm 5,3% so cùng kỳ và vụ Mùa đã xuống giống 9.245 ha, đạt 110% kế hoạch và tăng 7% so cùng kỳ. Nuôi trồng thủy sản đã thả giống khoảng 28.867 ha tôm sú, giảm 2,8% so cùng kỳ. Diện tích nuôi cá tra thâm canh đã thả giống ước khoảng 700 ha, sản lượng thu hoạch ước đạt 141.331 tấn.Tình hình nuôi nghêu sò phát triển thuận lợi, sản lượng thu hoạch ước khoảng 16.596 tấn. Hoạt động khai thác thủy sản gặp khó khăn do bị ảnh hưởng của thời tiết và giá xăng dầu tăng nhưng nhờ trúng mùa cá ngừ và cá nục nên sản lượng khai thác thủy sản đạt 13.563 tấn, tăng 6,39% so với tháng trước. Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp tăng 15,57% so với tháng trước, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 404,5 tỷ đồng, luỹ kế 10 tháng đầu năm đạt 4.271 tỷ đồng, đạt 80,1% kế hoạch, tăng 22,1% so cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hàng hóa trong tháng ước đạt 511 ngàn tấn, luân chuyển đạt 47.810 ngàn tấn-km vận chuyển hành khách ước đạt 2.708 ngàn lượt hành khách. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tương đối ổn định. Tổng vốn thực hiện trong tháng khoảng 0,4 triệu USD, bằng 20% so cùng kỳ, doanh thu xuất khẩu ước 16,5 triệu USD, tăng 65% so cùng kỳ. Tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 16.687 người, trong đó khu công nghiệp là 16.111 người. Trong tháng, đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 19 doanh nghiệp, với tổng vốn đầu tư ban đầu 315,9 tỷ đồng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ xã hội trong tháng ước thực hiện 1.645,8 tỷ đồng. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10 tăng 1,2% so với tháng trước, tăng 2,85% so với đầu năm và bình quân 10 tháng tăng 8,59% so với cùng kỳ, trong đó nhóm thuốc và dịch vụ tăng mạnh 15,27%, các nhóm hàng hóa còn lại đều tăng nhẹ so với trước. Trong tháng, tỉnh đã đón và phục vụ 45.274 lượt du khách, giảm 8,96% so cùng kỳ, trong đó, khách quốc tế khoảng 19.563 lượt, giảm 10,91% so cùng kỳ. Doanh thu ước đạt 22,4 tỷ đồng. Hoạt động xuất khẩu tháng 10 tiếp tục phát triển, đạt 37,5 triệu USD, luỹ kế 10 tháng đầu năm đạt 347,14 triệu USD, đạt 80,7% kế hoạch, tăng 18,1% so cùng kỳ. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong tháng là, thủy hải sản các loại 2.200 tấn, chỉ xơ dừa 7.657 tấn, hàng may mặc 3,16 triệu USD… Năm 2019 các ngành, các cấp của Bến Tre đã có sự tăng tốc khá đồng bộ, nhiều nội dung đạt kết quả cao thể hiện tính bứt phá. Trên lĩnh vực kinh tế xã hội, có 24/24 chỉ tiêu đạt và vượt, trong đó thu ngân sách (vượt trên 31%), tăng trưởng kinh tế (đạt 7,39%), TP. Bến Tre đạt đô thị loại II, xây dựng Tầm nhìn chiến lược... là những nội dung thể hiện sự bứt phá rất đáng khích lệ. Theo thống kê năm 2020, tỉnh Bến Tre có diện tích 2.394 km², dân số năm 2020 là 1.288.463 người, mật độ dân số đạt 538 người/km². Dân số tính đến ngày tháng năm 2019 của Bến Tre đạt 1.288.463 người, với mật độ dân số 533 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 126.447 người, chiếm 9,8% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 1.162.016 người, chiếm 90,2% dân số. Dân số nam đạt 630.492 người, trong khi đó nữ đạt 657.971 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0,26% Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 23%. Tính đến ngày tháng năm 2019, toàn tỉnh có 12 tôn giáo khác nhau đạt 210.413 người, nhiều nhất là Phật giáo đạt 106.914 người, tiếp theo là Công giáo có 73.677 người, đạo Cao Đài có 17.020 người, đạo Tin Lành có 8.713 người, Phật giáo Hòa Hảo chiếm 3.679 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam đạt 191 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đạt 115 người. Còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo có 61 người, Minh Lý Đạo có 24 người, Minh Sư Đạo có 12 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có bốn người và tôn giáo Baha'i có ba người. Có hai lễ hội lớn Bến Tre là hội đình Phú Lễ và Lễ hội nghinh Ông. Đình Phú Lễ ấp Phú Khương, xã Phú Lễ, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, thờ Thành hoàng Bổn Cảnh. Hàng năm lễ hội đình Phú Lễ diễn ra lần: lễ Kỳ Yên vào ngày 18, ngày 19 tháng âm lịch để cầu cho mưa thuận, gió hòa và lễ Cầu Bông vào ngày 9, ngày 10 tháng 11 âm lịch cầu cho mùa màng tươi tốt. Lễ hội có rước sắc thần, lễ tế Thành Hoàng, người đã có công khai khẩn giúp dân trồng trọt. Đêm có hát bội và ca nhạc tài tử. Lễ hội nghinh Ông là lễ hội phổ biến của các làng ven biển của Việt Nam, trong đó có Bến Tre. Hàng năm vào các ngày 16/6 âm lịch tại các đình đền hay miếu của các xã thuộc huyện Bình Đại, huyện Ba Tri, mở lễ hội này. Trong ngày hội tất cả tàu thuyền đánh cá đều về tập trung neo đậu để tế lễ, vui chơi và ăn uống. Ngày 18 tháng năm 2016, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bến Tre phối hợp Ủy ban nhân dân huyện Bình Đại tổ chức Lễ công bố di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia Lễ hội Nghinh ông Nam Hải xã Bình Thắng, huyện Bình Đại. Tàu Douce Mekong trên kênh Chợ Lách Bến Tre có điều kiện thuận tiện để phát triển du lịch sinh thái, bởi đó còn giữ được nét nguyên sơ của miệt vườn, giữ được môi trường sinh thái trong lành trong màu xanh của những vườn dừa, vườn cây trái rộng lớn. Một số địa điểm du lịch có tiếng là: *Sân chim Vàm Hồ, thuộc địa phận xã Tân Mỹ, huyện Ba Tri, là nơi trú ngụ của gần 500.000 con cò, vạc cùng các loài chim và thú hoang dã khác. Sân chim Vàm hồ còn đặc trưng bởi rừng chà là và thảm thực vật phong phú gồm các loại cây: ổi, so đũa, đậu ván, mãng cầu xiêm, dừa nước, đước đôi, bụp tra, chà là, rô, rau muống biển... *Cồn Phụng (Cồn Ông Đạo Dừa) thuộc xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, nằm trên một cù lao nổi giữa sông Tiền, có các di tích của đạo Dừa với các công trình kiến trúc độc đáo. Trên Cồn Phụng còn có làng nghề với các sản phẩm từ dừa và mật ong. *Cồn Ốc (Cồn Hưng Phong) thuộc xã Hưng Phong, huyện Giồng Trôm, có nhiều vườn dừa và vườn cây ăn quả. *Cồn Tiên, thuộc xã Tiên Long, huyện Châu Thành, là một bãi cát đẹp. Vào ngày tháng âm lịch hàng năm, vùng đất này thu hút hàng ngàn du khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan du lịch. Một số người còn gọi đây là "Vũng Tàu 2''". Hiện nay nơi này đã được đầu tư thành nơi nuôi cá da trơn và Trai cánh đen. Các vườn cây ăn trái Cái Mơn, thuộc xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách. Bãi biển Thừa Đức thuộc huyện Bình Đại. Bãi biển Tây Đô thuộc huyện Thạnh Phú. Ngoài ra cũng có du lịch trên sông nước và các bãi như bãi Ngao, huyện Ba Tri. Khu lăng mộ Nguyễn Đình Chiểu Tại Bến Tre cũng có nhiều di tích Phật giáo hay mộ các nhân vật nổi tiếng. Các chùa Bến Tre là chùa Hội Tôn, chùa Tuyên Linh, chùa Viên Minh. Chùa Hội Tôn Chùa được thiền sư Long Thiền dựng vào thế kỷ XVIII tại ấp 8, xã Quới Sơn, huyện Châu Thành và được trùng tu vào các năm 1805, 1884, 1947 và 1992. Chùa Tuyên Linh được dựng vào năm 1861 ấp Tân Quới Đông B, xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày Nam, và được tu sửa và mở rộng vào các năm 1924, 1941, 1983. Chùa Viên Minh tọa lạc 156, đường Nguyễn Đình Chiểu, thành phố Bến Tre, với kiến trúc hiện nay được xây từ năm 1951 đến 1959. Các nhân vật có mộ đây là Nguyễn Đình Chiểu, Võ Trường Toản và Phan Thanh Giản, nữ tướng Nguyễn Thị Định, và lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng. Ngôi mộ của nhà bác học Trương Vĩnh Ký, trước cũng Bến Tre (Cái Mơn xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre), nay đã được cải táng đến Chợ Quán, thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Festival Dừa là một lễ hội về dừa được tổ chức tại tỉnh Bến Tre. Lễ hội đã được tổ chức qua kỳ vào các năm 2009, 2010, 2012, 2015, 2019. Hai kỳ đầu tiên được tổ chức với quy mô địa phương trong khi đó năm 2012, 2015 và 2019 được tổ chức với quy mô quốc gia. Festival Dừa năm 2012, 2015 và 2019 mang nhiều nghĩa hơn với mục đích mở rộng thị trường cho các sản phẩm dừa, giao lưu công nghệ sản xuất, chế biến dừa, khuyến khích, hỗ trợ nông dân trồng dừa, xúc tiến thương mại và du lịch, quảng bá thương hiệu các sản phẩm dừa Bến Tre trong và ngoài nước. *Quốc lộ: 57, 57B, 57C, 60; *Đường tỉnh: 882 (Mỏ Cày Bắc Chợ Lách), 885 (Thành phố Bến Tre Giồng Trôm Ba Tri), *Đường huyện: ĐH.01, ĐH.10, ĐH.14, ĐH.17, ĐH.19, ĐH.20, ĐH.22, ĐH.23, ĐH.24, ĐH.25, ĐH.27, ĐH.40, ĐH.173 ĐH.187; *Đường đô thị (bao gồm các tuyến nội Thành phố Bến Tre và đường thị trấn; *Đường nông thôn; *Cầu: Cầu Rạch Miễu (QL60), Cầu Hàm Luông (QL60), Cầu Cổ Chiên (QL60). Bến xe tỉnh Bến Tre Bến xe Mỏ Cày Bến xe Chợ Lách Bến xe Ba Tri Bến xe Bình Đại Bến xe Thạnh Phú Bến xe Tiên thủy Một số bến phà đang hoạt động trên địa bàn tỉnh: phà Tân Phú, phà Hưng Phong, phà Tam Hiệp, phà Mỹ An An Đức, phà tạm Rạch Miễu. +CÁC TUYẾN XE BUÝT NỘI TỈNH BẾN TRE Mã số tuyến Tên tuyến Lộ trình tuyến Cự ly Giãn cách tuyến Thời gian hoạt động Ghi chú 01 Cổ Chiên (H. Mỏ Cày Nam) Mỹ Tho Cầu Cổ Chiên (huyện Mỏ Cày Nam) Quốc lộ 60 Trương Định Chợ Phường Bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu Chợ Bến Tre Đồng Khởi BX. Bến Tre Cầu Rạch Miễu Ấp Bắc BX. Tiền Giang (TP. Mỹ Tho) 47 km 04h30' 16h Giãn cách tuyến khá lâu 02 TP. Bến Tre Tiệm Tôm (H. Ba Tri) BX. Bến Tre Quốc lộ 60 Đồng Khởi Đoàn Hoàng Minh Bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu Đường tỉnh 885 Giồng Trôm BX. Tiệm Tôm (thị trấn Tiệm Tôm, H. Ba Tri) 54 km 15 25' 03h 19h 03 TP. Bến Tre Phà Tân Phú TP. Bến Tre Bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu Phú Khương Quốc lộ 60 BX. Bến Tre (quay đầu) Quốc lộ 60 Đường tỉnh 884 (Quốc lộ 57C) Ngã Tiên Thủy Quốc lộ 57B Phà Tân Phú Ngừng hoạt động 04 TP. Bến Tre Thạnh Phú BX. Bến Tre Quốc lộ 60 Cầu Hàm Luông Quốc lộ 57 Khâu Băng (Thạnh Phú) 05 TP. Bến Tre Bình Đại BX. Bến Tre Quốc lộ 60 Quốc lộ 60 (cũ) Ngã tư H. Châu Thành TT. Châu Thành Đường tỉnh 883 TT. Bình Đại 50 km 20 25' 05h 18h 07 TP. Bến Tre Tân Xuân (huyện Ba Tri) BX. Bến Tre Đường tỉnh 887 Đường tỉnh 885 TT. Giồng Trôm Đường huyện 10 Tân Xuân (H. Ba Tri) Ngừng hoạt động từ 27/05/2021 08 TP. Bến Tre Phà Đình Khao (T. Vĩnh Long) BX. Bến Tre Chợ Bến Tre Bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu Phường Trương Định Quốc lộ 60 Cầu Hàm Luông Quốc lộ 57 TT. Chợ Lách Phà Đình Khao (T. Vĩnh Long) 54 km 15 25' 04h30' 17h Nguồn: Sở Giao thông Vận tải Bến Tre Toàn cảnh thành phố Bến Tre bên sông Bến Tre Tập học Phổ thông Chuyên Bến Tre Tập viên Trúc Giang Tập tin:Kênh Chợ Lách.jpg|Kênh Chợ Lách Tập tin:Một khách sạn cồn Phụng.jpg|Khách sạn Cồn Phụng Tập tin:Đình Tân Thạch.jpg|Đình Tân Thạch Tập tin:Nhà bia Trương Vĩnh Ký.jpg|Nhà bia tưởng niệmTrương Vĩnh Ký Tập tin:Nơi hành đạo của ông Đạo Dừa.jpg|Lưu tích Đạo Dừaở Cồn Phụng Tập tin:Nhà thờ dòng Ki Tô Vua.jpg|Nhà thờ DòngKi Tô Vua Tập tin:Nhatho Lama.jpg|Nhà thờ Đức MẹLa Mã Hình: Tàu du lịch cặp bến cồn Phụng.jpg|Tàu du lịch cặp bến Cồn Phụng trên sông Tiền Hình: Vườn bến tre.jpg|Vườn dừa xanh tốt nhờ vào phù sa Hình: là cây trồng chuyên canh diện rộng và phổ biến Bến Tre *Hộ bộ Thượng thư Phan Thanh Giản (1796-1867): quê xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri. Là quan đại thần nhà Nguyễn, Kinh lược sứ miền Tây Nam Kỳ. *Trung tướng Ngô Quang Trưởng (1929–2007), Tư lệnh Quân đoàn và Quân khu Việt Nam Cộng Hòa. *Nguyễn Thị Kim Ngân: quê xã Châu Hoà, huyện Giồng Trôm, Nguyên Chủ tịch Quốc hội. *Huỳnh Tấn Phát: quê xã Châu Hưng, huyện Bình Đại, Cố Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. *Trương Vĩnh Trọng: quê xã Bình Hoà, huyện Giồng Trôm, Cố Phó Thủ tướng. *Nguyễn Thị Định: quê xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm. Bà là nữ Thiếu tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam (thụ phong năm 1974), Nguyên Phó Tư lệnh Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. *Lê Văn Dũng: quê xã Phong Nẫm, huyện Giồng Trôm, Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam và Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. *Nguyễn Thành Phong: Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Kinh tế Trung ương. Nguyên Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh. *Phan Văn Mãi: Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh. *Lương Lê Phương: Nguyên Thứ Trưởng Bộ NN-PTNT. *Nguyễn Văn Hiếu: Nguyên Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. *Trần Văn Truyền: Cựu Tổng Thanh tra Chính phủ. *Huỳnh Thành Đạt: Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ. *Trần Thị Trung Chiến: Nguyên Bộ trưởng tế. Học giả Trương Vĩnh Ký (1837 1898). Nhà văn Trang Thế Hy (1924-2015), Trầm Hương (tác giả tiểu thuyết Người đẹp Tây Đô). Ca nhạc sĩ, nghệ sĩ: Hùng Cường. *Ca sĩ: Mai Thiên Vân. *Ca nhạc sĩ, rapper: Jack J97, VP Bá Vương *Diễn viên: Hải Triều, Lê Khánh, Hạnh Thúy, Đại An (Anh Áo Đen). *Vlogger: Khương Dừa, Khoai Lang Thang. *Vũ công: Quang Đăng. *Hoa hậu Trái đất 2018: Nguyễn Phương Khánh. *Hoa hậu phụ nữ Việt Nam qua ảnh 2006: Dương Mỹ Linh. *Hoa hậu Đại sứ Nhân ái Bến Tre: Phan Thuyền. *Nhạc sĩ: Hoàng Trang. | Bến Tre | Đồng bằng sông Cửu Long |
Bài này ghi lại dòng thời gian và dịch tễ học của SARS-CoV-2 vào tháng năm 2021, loại vi rút gây ra bệnh coronavirus 2019 (COVID-19) và là nguyên nhân gây ra đại dịch COVID-19. Các trường hợp nhiễm COVID-19 người đầu tiên được xác định Vũ Hán, Trung Quốc, vào tháng 12 năm 2019. Chuyên gia cảnh báo biến thể nCoV mới dễ lây lan hơn Ấn Độ từ tháng 3, nhưng chính phủ bị cho là không làm gì để ngăn chặn. Ấn Độ báo cáo 408.331 ca nhiễm trong 24 giờ qua, đánh dấu mức tăng kỷ lục khác về số ca nhiễm trong một ngày. Vùng dịch thứ hai thế giới cũng ghi nhận thêm 3.523 ca tử vong, nâng tổng số người chết lên 211.855. Cơ quan An toàn Giao thông Vận tải (TSA) thông báo gia hạn lệnh đeo khẩu trang cho toàn bộ hệ thống giao thông công cộng toàn nước Mỹ đến ngày 13 tháng 9. Những công dân Úc đã Ấn Độ trong vòng 14 ngày tính tới lúc về sẽ bị cấm nhập cảnh, những ai vi phạm sẽ đối diện nguy cơ bị phạt và tù. *Hai người Trung Quốc trốn khỏi khu cách ly Trường Quân sự Thành phố (huyện Củ Chi) vào tối 2-5. Các giới chức bang Bayern thông báo hủy lễ hội Oktoberfest năm thứ hai do quan ngại về việc COVID-19 lây lan. Chính phủ Đức nói người đã tiêm chủng hoàn toàn hay đã bình phục từ lây nhiễm virus corona sẽ được miễn những hạn chế về tiếp xúc và lệnh giới nghiêm. con sư tử trong một vườn thú miền nam Ấn Độ dương tính CoV và xuất hiện triệu chứng khó thở. Phái đoàn Ấn Độ dự hội nghị ngoại trưởng G7 London phải cách ly sau khi hai người được phát hiện nhiễm nCoV. Canada trở thành nước đầu tiên trên thế giới cho phép sử dụng vaccine COVID-19 của Pfizer cho trẻ em từ 12 đến 15 tuổi. Chính quyền Joe Biden ủng hộ tạm thời bỏ bản quyền vắc xin COVID-19. Trường phổ thông liên cấp Vinschool (TP.HCM) cho 150 học sinh thuộc lớp khối và khối nghỉ học từ ngày 6-5 trong khi chờ kết quả xét nghiệm COVID-19 của học sinh diện F1. Đức bác đề nghị của Mỹ về việc miễn thực thi bảo vệ tác quyền đối với vaccine COVID-19, nói rằng hạn chế lớn nhất của việc sản xuất vaccine không phải là quyền sở hữu trí tuệ mà là gia tăng năng suất và đảm bảo chất lượng. (VOA) Tử vong đầu tiên Việt Nam liên quan đến vắc-xin AstraZeneca là một nữ nhân viên tế 35 tuổi, làm việc tại Bệnh viện Đa khoa khu vực Tân Châu, tỉnh An Giang do sốc phản vệ trên nền cơ địa dị ứng non steroid (giảm đau kháng viêm). (RFI) *Từ ngày 27/4 đến 12h ngày 10/5, Việt Nam đã ghi nhận 442 ca mắc COVID-19 trong cộng đồng tại 26 tỉnh, thành phố, liên quan tới nhiều dịch. (vietnamplus) Bất chấp điều kiện tiêm chủng vô cùng dễ dàng, hàng triệu người Hong Kong vẫn nói "không" với vắc xin COVID-19 vì không tin chính quyền đặc khu. (tuoitre) *Tổ chức tế thế giới (WHO) đã phân loại biến thể B.1.617 phát hiện Ấn Độ là "biến thể đáng lo ngại" cấp toàn cầu. (tuoitre) *Ca nCoV châu bùng nổ, cao hơn tổng các khu vực khác. (vnexpress) Khoảng 20 nhà nghiên cứu tên tuổi trong một lá thư đăng trên tạp chí khoa học uy tín Science ngày 13/05/2021 khẳng định không nên bỏ qua giả thiết, con virus corona gieo rắc đại họa cho toàn thế giới đã thoát ra từ phòng thí nghiệm Vũ Hán. (RFI) *Việt Nam ngày 16/5 ghi nhận số ca nhiễm Covid-19 cao nhất từ khi đợt dịch thứ tư bùng phát với 187 ca, trong đó Bắc Giang nhiều nhất 98 ca. (vnexpress) Ít nhất 269 bác sĩ, trung bình 20-25 người mỗi ngày, tử vong khi làn sóng Covid-19 thứ hai tấn công Ấn Độ. (vnexpress) Ấn Độ ghi nhận 4.529 ca tử vong do Covid-19 trong 24 giờ qua, mức tăng hàng ngày cao nhất thế giới từ khi đại dịch bùng phát và 267.334 ca nhiễm mới. (vnexpress) Phòng khám thú tại thủ đô Moskva tiêm vaccine Covid-19 cho những con mèo đầu tiên sau khi giới chức cấp phép cho sản phẩm Carnivac-Cov. (vnexpress) Đại diện 27 nước Liên Hiệp Châu Âu (EU) chấp nhận khuyến cáo của Ủy Ban Châu Âu, cho phép nhập cảnh đối với hành khách từ các nước khác đã được chủng ngừa Covid với các loại vac-xin được châu Âu công nhận. (VOA) EU vừa đạt thỏa thuận về hộ chiếu vaccine, cho phép người tiêm chủng đầy đủ được đi lại tự do giữa các nước thành viên từ ngày 1/7. (vnexpress) Tổng thống Mỹ Joe Biden ký ban hành Luật Tội ác Thù ghét vì COVID-19 sau khi luật này được Quốc hội thông qua với đa số áp đảo sau một loạt các cuộc tấn công vào người Mỹ gốc giữa đại dịch COVID. (VOA) *Bộ Công nghệ thông tin (IT) Ấn Độ yêu cầu tất cả công ty mạng xã hội gỡ bỏ tất cả nội dung nào đề cập đến cụm từ "biến thể Ấn Độ" của virus corona. (tuoitre) *Các hãng dược như Pfizer, Moderna và Johnson Johnson tại Hội nghị thượng đỉnh G20 về sức khỏe toàn cầu đã cam kết cung cấp 3,5 tỉ liều vắc xin với giá gốc hoặc có chiết khấu cho các nước có thu nhập trung bình và thấp. (tuoitre) *Tại Hội nghị thượng đỉnh G20 về sức khỏe toàn cầu, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cam kết Trung Quốc viện trợ thêm tỉ USD trong vòng năm tới để giúp các nước đang phát triển phục hồi sau đại dịch COVID-19. (tuoitre) Các tập đoàn Moderna và Novavax của Mỹ muốn sản xuất vắc xin của họ cũng Hàn Quốc trong tương lai. (n-tv) Ba nhà nghiên cứu thuộc Viện Virus học Vũ Hán nhập viện để được chăm sóc tế vào tháng 11/2019, vài tháng trước khi Trung Quốc công bố Covid-19. (vnexpress) Lần đầu tiên Việt Nam có số ca nhiễm mới thường nhật trên 400 người, hai dịch lớn nhất là Bắc Ninh và Bắc Giang. (RFI) Thành phố Hồ Chí Minh ghi nhận 36 ca nhiễm COVID-19 liên quan đến Hội thánh Truyền giáo Phục Hưng, khiến nhiều khu vực 16 quận/huyện bị phong tỏa. (VOA) Argentina ghi nhận 41.080 ca mới trong ngày, số ca nhiễm cao nhất kể từ khi đại dịch bắt đầu, mặc dù đã có ban hành các biện pháp giới nghiêm và giản cách xã hội. (ntv) *Các chuyên gia Đức tuyên bố tìm ra nguyên nhân và cách chống biến chứng máu đông hiếm gặp liên quan tới vaccine Covid-19 của AstraZeneca và (vnexpress) Các kháng thể và vaccine COVID-19 kém hữu hiệu chống lại biến thể Ấn Độ, theo các nhà nghiên cứu. (VOA) Các bác sĩ cho rằng biến chủng nCoV mới tại Ấn Độ nguy hiểm hơn, khi nhiều bệnh nhân trẻ trở nặng vì hiện tượng bão cytokine. (vnexpress) Việt Nam cho biết họ đã phát hiện một biến thể mới của virus coronavirus đang lây lan nhanh chóng qua không khí. Nó đang được cho là sự kết hợp của chủng virus Ấn Độ và Anh. (Spiegel) Malaysia đóng cửa tất cả lĩnh vực kinh tế và xã hội từ ngày 1/6 đến 14/6 và dự kiến áp dụng phong tỏa theo giai đoạn, trong bối cảnh ca nhiễm tăng kỷ lục. (vnexpress) Brasil ghi nhận 79.670 ca Coronavirus mới trong ngày, tăng tổng số người nhiễm lên 16,5 triệu. Số người chết tăng thêm 2012 lên thành 461.057. (n-tv) *Nhà chức trách Thành phố Hồ Chí Minh ra lệnh giãn cách xã hội toàn thành phố với những hạn chế nghiêm ngặt đối với việc tụ tập và đóng cửa một số cơ sở kinh doanh và dịch vụ trong nỗ lực kiềm chế những ca nhiễm COVID-19 tăng vọt giữa một đợt bùng phát dịch mới. (VOA) Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội danh “lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người” liên quan Hội thánh truyền giáo Phục Hưng. (tuoitre) | null | Dòng thời gian của đại dịch COVID-19, Sự kiện tháng năm 2021 |
Claire Johnston (sinh ngày 16 tháng 12 năm 1967) là một ca sĩ và nhạc sĩ người Anh-Nam Phi. Cô là ca sĩ chính của ban nhạc hợp xướng Nam Phi Mango Groove. Sinh ra miền Nam nước Anh, Johnston đã sống Nam Phi từ khi ba tuổi. Cô tham gia Mango Groove tuổi 17, và kể từ đó đã thu âm sáu album phòng thu với ban nhạc này, cô đã đi lưu diễn rộng rãi và phát hành hai album solo. Trong số những người có ảnh hưởng đến âm nhạc của mình, cô liệt kê Ella Fitzgerald và Debbie Harry, cũng như Louis Armstrong và những người chơi khúc côn cầu giữa thế kỷ 20. Trong một thời gian, cô đã kết hôn với người sáng lập Mango Groove John Leyden. Cô sống Johannesburg, Nam Phi. Johnston được sinh ra Bishops Stortford, một thị trấn phía Nam nước Anh. Gia đình cô chuyển đến Nam Phi khi cô lên ba tuổi. tuổi lên mười, cô ra mắt với tư cách là một diễn viên, vũ công và ca sĩ trong một vở nhạc kịch của Annie Johannesburg. tuổi 17, trong năm cuối cùng của cô tại trường trung học Greenside, cô tham gia ban nhạc Mango Groove. Mặc dù gắn liền với ban nhạc, cô vẫn hoàn thành một văn bằng tiếng Anh, Triết học và Chính trị tại Đại học Witwatersrand năm 1988. Mango Groove đã phát hành một số đĩa đơn trước khi hoàn thành album đầu tiên của họ, Mango Groove, mà họ phát hành vào năm 1989. Những đĩa đơn trước album, Johnston ghi lại chúng trong khi vẫn đang học đại học. Ba album phòng thu nữa và nhiều đĩa đơn theo sau vào những năm 1990. Sau khi Mango Groove phát hành album phòng thu thứ tư của họ vào năm 1995, họ đã không sản xuất album khác cho đến năm 2009 với album Bang the Drum. Ban nhạc tiếp tục biểu diễn trực tiếp, nhưng họ đã sử dụng bản ghi âm này để làm mới bản thân với các dự án riêng biệt. Chính trong thời gian này, Johnston đã thu âm album solo đầu tiên của mình, Fearless (Sting Music, 2001). Tất cả các bản thu âm được thực hiện tại phòng thu Real World Studios Bath, và tại Sarm West Studios và Olympic Studios London. Các bài hát trong Fearless được sản xuất bởi Vic và Marius de Vries. | Claire Johnston | Sinh năm 1967, Nhân vật còn sống, Nữ ca sĩ Nam Phi, Người da trắng Nam Phi |
Bendorf là một xã thuộc tỉnh Haut-Rhin trong vùng Grand Est, đồng bắc Pháp. Xã này có diện tích 7,55 km², dân số năm 1999 là 232 người. Khu vực này có độ cao trung bình 540 mét trên mực nước biển. Xã của tỉnh Haut-Rhin INSEE commune file | Bendorf | Xã của Haut-Rhin |
được bán dưới tên thương mại Pepcid và các nhãn khác, là một loại thuốc làm giảm sản xuất axit dạ dày. Nó được sử dụng để điều trị bệnh loét dạ dày, bệnh trào ngược dạ dày thực quản và hội chứng Nó được đưa vào cơ thể bằng uống qua miệng hoặc tiêm tĩnh mạch. Nó bắt đầu có tác dụng trong vòng một giờ. Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm đau đầu, khó chịu ruột và chóng mặt. Tác dụng phụ nghiêm trọng có thể bao gồm viêm phổi và co giật. Sử dụng trong thai kỳ có vẻ an toàn nhưng chưa được nghiên cứu kỹ trong khi sử dụng trong thời gian cho con bú không được khuyến cáo. Nó là một chất đối kháng thụ thể histamine H2. Famotidine được cấp bằng sáng chế vào năm 1979 và được đưa vào sử dụng tế vào năm 1985. Nó có sẵn như là một loại thuốc gốc. Một tháng cung cấp thuốc này Vương quốc Anh tiêu tốn của NHS khoảng 30 vào năm 2019. Tại Hoa Kỳ, chi phí bán buôn của số thuốc này là khoảng USD. Năm 2016, đây là loại thuốc được kê đơn nhiều thứ 125 tại Hoa Kỳ với hơn triệu đơn thuốc. Giảm chứng nóng, khó tiêu axit và dạ dày chua Điều trị loét dạ dày và tá tràng Điều trị các bệnh lý quá mẫn tiêu hóa bệnh lý như hội chứng và nhiều tuyến nội tiết Điều trị bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) Điều trị viêm thực quản Một phần của chế độ đa trị liệu để loại bỏ Helicobacter pylori, mặc dù omeprazole có thể hiệu quả hơn. Phòng ngừa loét dạ dày do NSAID. Trao cho bệnh nhân phẫu thuật trước khi phẫu thuật để giảm nguy cơ viêm phổi do hít. Các tác dụng phụ phổ biến nhất liên quan đến việc sử dụng famotidine bao gồm đau đầu, chóng mặt và táo bón hoặc tiêu chảy. | Pepcid | RTT |
Sân bay quốc tế Roschino Sân bay quốc tế Roschino là một sân bay tỉnh Tyumen, Nga, 13 km về phía tây của Tyumen. Sân bay này có đường băng, có thể phục vụ máy bay lớn. *Aeroflot *Gazpromavia (Yamburg) *Rossiya (Saint Petersburg) *Sky Express *Yamal Airlines Nadym, Novy Urengoy, Salekhard) Trang mạng chính thức | Sân bay quốc tế Roschino | Sân bay Nga, Sân bay tỉnh Tyumen, Sân bay xây dưới thời Liên Xô |
ASD Arenzano FC là một câu lạc bộ bóng đá Ý, có trụ sở tại Arenzano, Liguria. Hiện tại đội đang chơi giải Promozine Liguria/A, giải hạng bóng đá Trong mùa giải 2010-11, Borgorosso Arenzano PD đã bị rớt xuống Eccellenza từ Serie nhóm A. Vào mùa hè năm 2011, câu lạc bộ đã đổi tên thành tên hiện tại trước khi tham gia năm 2011-12 Eccellenza Liguria. Trong mùa giải 2011-12, Arenzano đã xuống hạng Promozione Liguria từ Eccellenza Liguria. Màu sắc của đội là trắng, đỏ và đen. Để xem các cầu thủ của đội hiện tại bấm vào đây. Eccellenza Liguria: 2008 Trang web chính thức | ASD Arenzano FC | Câu lạc bộ bóng đá |
The Second Step: Chapter Two là mini album thứ hai của TREASURE. Nó được phát hành vào ngày tháng 10 năm 2022 với "HELLO" là ca khúc chủ đề của album. Các thành viên nhóm Mashiho và Yedam không thể tham gia vào quá trình thu âm và quảng bá cho album này do phải tạm ngừng hoạt động kể từ tháng sau khi hồi phục sức khỏe và theo học âm nhạc học thuật kéo dài. Sau đó, họ rời nhóm và YG Entertainment vào ngày tháng 11 năm 2022. Album vật lý có 13 phiên bản: Photobook, (Light Green Deep Blue) YG TAG Album và 10 phiên bản digipack dành riêng cho thành viên. Vào rạng sáng ngày tháng năm 2022, YG Entertainment thông báo Treasure sẽ phát hành đĩa mở rộng thứ hai (EP), The Second Step: Chapter Two, sẽ được phát hành vào ngày tháng 10. Đĩa mở rộng thứ hai bằng tiếng Nhật của họ, mang tên cùng tên sẽ được phát hành vào ngày 30 tháng 11 năm 2022. Đến ngày tháng 10, The Second Step: Chapter Two đã đạt vị trí số tại 15 quốc gia khác nhau trên bảng xếp hạng iTunes Top Albums. Biểu đồ thể hiện The Second Step: Chapter Two Chart (2022) Peakposition Album tổng hợp tiếng Nhật (Oricon) Album Hot Nhật Bản (Billboard Japan) Album Hàn Quốc (Circle) Biểu đồ hàng tháng cho The Second Step: Chapter Two Chart (2022) Peakposition Album tiếng Nhật (Oricon) Album Hàn Quốc (Circle) +Ngày phát hành và định dạng cho THE SECOND STEP: CHAPTER TWO Region Date Version Format(s) Label(s) Ref. Nhiều tháng 10, 2022 Tiếng Hàn YG Hàn Quốc Nhật Bản CD ngày 30 tháng 11 năm 2022 Japanese YGEX Đa dạng | The Second Step: Chapter Two | Đĩa mở rộng trực tiếp, Đĩa mở rộng tiếng Hàn, EP tiếng Triều Tiên, EP của YG Entertainment |
Tập Phật tử rèn luyện sādhanā (Nhật Bản) Shugendō sādhanā (Nhật Bản) Sādhanā (Sanskrit साधना; Tibetan: སྒྲུབ་ཐབས་, THL: druptap; Chinese: 修行; pinyin: xiūxíng), nghĩa cơ bản "Sự kỉ luật có hệ thống để đạt được tri thức hay mục đích mong muốn", Sadhana cũng được thực hiện nhằm đạt được sự buông bỏ khỏi những sự vật của thế giới điều mà là mục đích của một Sadhu, Karma Yoga cũng được mô tả là Sadhana, Bhakti Yoga Gnyan Yoga cũng vậy, những nỗ lực liên tục để đạt được mức độ cao nhất của sự hoàn hảo trong tất cả sự nối tiếp liên tục ngày qua ngày có thể được mô tả như Sadhana, là một thuật ngữ chung đến từ truyền thống yoga và nó ám chỉ mọi hình thức luyện tập tâm linh nhắm đến quá trình luyện tập của một sādhaka hướng đến sự thể hiện rất cao của cuộc đời anh ta hay cô ta trong thực tế. Nó gồm sự đa dạng về các hình thức kỉ luật trong truyền thống Ấn Độ giáo, Phật giáo, đạo Jain và Sikh theo đuổi để đạt được nhiều mục tiêu nghi lễ và tâm linh khác nhau. Sādhanā cũng được ám chỉ là một hình thức cầu nguyện tantra hay hướng dẫn cầu nguyện, đó là, những hướng dẫn thực hiện một phương pháp luyện tập nhất định. Một bậc thầy tâm linh và yogi của thời hiện đại, Jaggi Vasudev, định nghĩa sādhanā như sau: Nhà sử học N. Bhattacharyya đưa ra định nghĩa cơ bản về lợi ích của sādhanā như sau: B. K. S. Iyengar (1993: tr. 22), trong bản dịch tiếng Anh và bình luận lên tác phẩm Yoga Sutras of Patanjali, định nghĩa sādhanā trong mối quan hệ với abhyāsa và kriyā: Thuật ngữ sādhanā nghĩa là "việc rèn luyện có hệ thống để đạt được kiến thức hay mục tiêu mong muốn." Sadhana cũng được thực hiện để đạt được sự lìa bỏ những thứ bên ngoài điều có thể là một mục tiêu, một người tuân theo việc thực tập này được gọi trong tiếng Sanskrit là một sādhu (phụ nữ là sādhvi), sādhaka (phụ nữ là sādhakā) hoặc yogi (pawo Tây Tạng; yogini nữ hoặc dakini, Khandroma Tây Tạng). Mục tiêu của sādhanā là đạt được một số mức độ nhận thức tâm linh, có thể là giác ngộ, tình yêu thuần khiết của Thượng đế (prema), giải thoát (moksha) khỏi vòng sinh tử (saṃsāra), hoặc một mục tiêu cụ thể như là những phước lành của thần linh như trong các truyền thống Bhakti. Sādhanā có thể liên quan đến thiền định, tụng chú đôi khi với sự trợ giúp của chuỗi hạt cầu nguyện, lễ puja cho một vị thần, yajña, và trong một số trường hợp hiếm hoi là hành xác bằng xác thịt hoặc thực hành mật tông như thực hiện sādhanā cụ thể trong khu hỏa táng người chết. Theo truyền thống trong một số truyền thống Ấn Độ giáo và Phật giáo, để bắt đầu một con đường cụ thể của sādhanā, một guru có thể được yêu cầu đưa ra những chỉ dẫn cần thiết. Cách tiếp cận này được tiêu biểu bởi một số truyền thống Mật thừa, trong đó sự điểm đạo của một guru đôi khi được xác định là một giai đoạn cụ thể của sādhanā. Mặt khác, cá nhân thoat lý thế tục có thể phát triển thực hành tâm linh của riêng họ mà không cần tham gia vào các nhóm có tổ chức. Các nghi lễ Mật thừa được gọi là sādhanā ". Một số sādhanā-s thường được biết đến là: 1/ śāva sādhanā(sādhanā được thực hiện khi ngồi quan sát một xác chết 2/ śmaśāna sādhanā(sādhanā được thực hiện khi quan sát trong khu vực hỏa thiêu người chết) 3/ pañca-muṇḍa sādhanā(sādhanā được làm khi chỗ ngồi có chiếc đầu lâu Trong Phật giáo Kim cương thừa và truyền thống Nalanda, có mười lăm sādhanā mật tông chính: Śūraṅgama Sitātapatrā Nīlakaṇṭha Tārā Mahākāla Hayagrīva Amitābha Phật Dược Sư Akṣobhya Guhyasamāja Vajrayoginī Vajravārāhī Heruka Cakrasaṃvara Yamāntaka Kālacakra Hevajra Chöd Vajrapāṇi Avalokiteśvara Không nằm trong danh sách này nhưng là một sādhanā trung tâm trong Kim Cương thừa là Vajrasattva. Tất cả những thứ này đều có dạng tiếng Tây Tạng, nhiều bản có sẵn bằng tiếng Trung Quốc và một số vẫn còn tồn tại trong các bản viết tay tiếng Phạn cổ. Kværne (1975: tr. 164) trong cuộc thảo luận mở rộng của mình về sahajā, vì vậy giải quyết mối quan hệ của sādhanā với mandala: Những lễ nghi bề ngoài và sādhanā bên trong hình thành một tổng thể không thể phân biệt, và sự hợp nhất này tìm thấy sự nhấn mạnh tràn đầy nhất của nó trong hình thức của họa tiết mandala, những vòng khép kín linh thiêng chứa những hình vuông đồng tâm và những vòng tròn được vẽ trên nền và đại diện cho mức độ mạnh mẽ mà tại đó hành giả khao khát thánh quả Phật mong ước thiết lập cho bản thân anh ta. Tính chất mở của nghi lễ tantric phụ thuộc vào mandala; và nơi họa tiết mandala không được sử dụng, quá trình lão luyện tiếp tục hình thành việc phát triển tâm trí bằng cách thiền định. | Sādhanā | Nghi thức Phật giáo |
Michel Piccoli (sinh ngày 27 tháng 12 năm 1925 mất ngày 12 tháng năm 2020) là một diễn viên Pháp. Destinées (1954) Ernst Thälmann (1955) La mort en ce jardin (1956) Les Sorcières de Salem (1957) Le Doulos (1962) Le Mépris (Contempt, 1963) Diary of Chambermaid (1964) La Chance et l'Amour (1964) All About Loving (1964) Masquerade (1965) The Sleeping Car Murders (1965) Dom Juan ou le Festin de pierre (1965, TV) Is Paris Burning? (1966) The Game Is Over (1966) The War Is Over (1966) My Love, My Love (1967) Belle de jour (A Bela da Tarde, 1967) Les Demoiselles de Rochefort (1967) Shock Troops (1967) Benjamin (1968) Danger: Diabolik (1968) La Chamade (1968) Dillinger Is Dead (Dillinger morto, 1969) La Voie lactée (1969) Topaz (1969) Les Choses de la vie (1970) Max et les ferrailleurs (1971) L'udienza (1971) Liza (1972) The Discreet Charm of the Bourgeoisie (Le charme discret de la bourgeoisie, 1972) Wedding in Blood (1973) La Grande Bouffe (The Grande Bouffe or Blow-Out, 1973) Themroc (1973) Don't Touch the White Woman! (1974) Le fantôme de la liberté (1974) Le Trio infernal (1974) Vincent, Paul, François, et les Autres (1974) Leonor (1975) Sept morts sur ordonnance (1975) La Dernière femme (1976) Mado (1976) F comme Fairbanks (1976) Des enfants gatés (1977) That Obscure Object of Desire (1977) The Accuser (film) (1977) Neapolitan Mystery (1978) Atlantic City (1980) A Leap in the Dark (Salto nel vuoto) (1980) Der Preis fürs Überleben (1980) Espion Lève-toi (1981) La Fille prodigue (1981) Une étrange affaire (1981) Beyond the Door (1982) La Passante du Sans-Souci (1982) Passion (1982) Une chambre en ville (1982) The General of the Dead Army (1983) Le Prix du Danger (1983) Success Is the Best Revenge (1984) Viva la vie (1984) La Diagonale du Fou (1984) Adieu Bonaparte (1985) Péril en la demeure (1985) Partir, revenir (1985) Mon beau-frère tué ma soeur (1986) Le Paltoquet (1986) La Puritaine (1986) Mauvais Sang (1986) The Distant Land (1987) Milou en Mai (1990) The Children Thief (1991) La Belle Noiseuse (1991) Le Visionarium (The Timekeeper, 1992) Les Cent et une Nuits de Simon Cinéma (1995) Traveling Companion (1996) (1996) Passion in the Desert (1997) Genealogies of Crime (1997) I'm Going Home (2001) That Day (2003) C'est pas tout fait la vie dont j'avais rêvé (2005 directed) Gardens in Autumn (2006) Party (2006) Boxes (2007) Belle Toujours (2007) De la guerre (2008) The Dust of Time (2008) We Have Pope (Habemus Papam, 2011) You Haven't Seen Anything Yet (2012) Holy Motors (2012) Lines of Wellington (2012) Piccoli đoạt giải Nam diễn viên xuất sắc nhất tại Liên hoan Phim Cannes năm 1980 với phim A Leap in the Dark. và năm 1982 đoạt giải Con gấu bạc dành cho Nam diễn viên xuất sắc nhất tại Liên hoan Phim Berlin với phim Strange Affair. | Michel Piccoli | Sinh năm 1925, Nam diễn viên điện ảnh Pháp, Người Pháp gốc, Đạo diễn điện ảnh Pháp, Mất năm 2020 |
John M. Slattery Jr. (sinh ngày 13 tháng năm 1962) là nam diễn viên, đạo diễn người Mỹ. Ông được biết đến qua vai Roger Sterling trong sê-ri Mad Men. Trong vũ trụ Điện ảnh Marvel, Slattery vào vai Howard Stark các phim Iron Man 2, Ant-Man, và Captain America: Civil War và Avengers: End Game 2018. Ông đã nhận được đề cử giải Primetime Emmy cho phim Mad Men. | John M. Slattery Jr. | Sinh năm 1962, Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 20, Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 21, Nam diễn viên điện ảnh Mỹ, Nam diễn viên sân khấu Mỹ, Nam diễn viên truyền hình Mỹ, Người Mỹ gốc Ireland, Đạo diễn truyền hình Mỹ, Nhân vật còn sống, Người giành giải thưởng của Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh cho Dàn diễn viên nổi bật |
Copiapoa hypogaea là một loài thực vật có hoa trong họ Cactaceae. Loài này được F.Ritter mô tả khoa học đầu tiên năm 1960. Tập tin:Copiapoa laui 01.jpg Tập tin:Copiapoa hypogaea pm1.jpg | ''Copiapoa hypogaea | Copiapoa |
Senegalia moggii là một loài rau đậu thuộc họ Fabaceae. Loài này chỉ có Somalia, và hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Thulin, M. 1998. Acacia moggii. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 18 tháng năm 2007. | ''Senegalia moggii | |
parksii' là một loài dương xỉ trong họ Loài này được Copel. ex Morton in Yuncker mô tả khoa học đầu tiên năm 1959. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Thể | null | Unresolved names |
Uroš Đerić (Serbian Cyrillic: Урош Ђерић; sinh ngày 28 tháng năm 1992) là một cầu thủ bóng đá Serbia thi đấu vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Hàn Quốc Gangwon. Sinh ra Trebinje, Đerić ra mắt với Radnički Nova Pazova Serbian League Vojvodina. Anh chuyển đến đội bóng Pháp Amiens trong kỳ chuyển nhượng mùa đông 2011. Sau đó, Đerić thi đấu trong thời gian ngắn tại (Inter Zaprešić) của Croatia và (VPS của Phần Lan), trước khi trở lại Serbia. Vào tháng năm 2013, Đerić ký hợp đồng với câu lạc bộ tại Serbian SuperLiga Radnički Niš. Anh rời đội bóng chỉ sau tháng và gia nhập đội bóng Serbian First League Borac Čačak, lập tức giúp họ lên chơi hạng đấu cao nhất. Anh chuyển đến Mladost Lučani trong kỳ chuyển nhượng mùa đông 2016. Vào tháng năm 2016, Đerić được Sloboda Užice sở hữu. Anh là vua phá lưới của Serbian First League với 19 bàn mùa giải 2016–17. Vào tháng năm 2017, Đerić anh chuyển đến đội bóng tại Serbian SuperLiga Napredak Kruševac. Vào tháng năm 2018, Đerić chính thức chuyển đến Hàn Quốc và gia nhập câu lạc bộ tại League Gangwon. | Uroš Đerić | Cầu thủ bóng đá Amiens SC, Cầu thủ bóng đá Bosna và Hercegovina, Cầu thủ bóng đá Championnat National, Cầu thủ bóng đá FK Borac Čačak, Cầu thủ bóng đá FK Mladost Lučani, Cầu thủ bóng đá FK Napredak Kruševac, Cầu thủ bóng đá FK Radnički Niš, Cầu thủ bóng đá FK Radnički Nova Pazova, Cầu thủ bóng đá FK Sloboda Užice, Cầu thủ bóng đá Gangwon FC, Cầu thủ bóng đá League, Cầu thủ bóng đá NK Inter Zaprešić, Người Trebinje, Cầu thủ bóng đá Serbia, Cầu thủ bóng đá Vaasan Palloseura, Sinh năm 1992, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá nước ngoài Pháp, Cầu thủ bóng đá Serbia nước ngoài |
Športno društvo Stojnci, thường hay gọi ŠD Stojnci hoặc đơn giản Stojnci, là một câu lạc bộ bóng đá Slovenia đến từ Stojnci thi đấu Ptuj Super League, giải bóng đá cao thứ tư the hệ thống giải bóng đá Slovenia. Câu lạc bộ được thành lập năm 1964. *Giải bóng đá hạng ba quốc gia Slovenia: 1 ** 1991-92 *Giải bóng đá hạng tư quốc gia Slovenia: 4 :: 1993-94, 1994-95, 1999-2000, 2013-14 *MNZ Ptuj Cup: 1 :: 2006-07 Mùa giải Giải vô địch Thứ hạng 1991-92 1. Class (cấp độ 3) thứ 1992-93 3. SNL Đông thứ 14 1993-94 1. Class (cấp độ 4) thứ 1994-95 1. Class (cấp độ 4) thứ 1995-96 1. Class (cấp độ 4) thứ 10 1996-97 1. Class (cấp độ 4) thứ 1997-98 1. Class (cấp độ 4) thứ 1998-99 1. Class (cấp độ 4) thứ 1999-2000 1. Class (cấp độ 4) thứ 2000-01 3. SNL Bắc thứ 2001-02 3. SNL Bắc thứ 2002-03 3. SNL Bắc thứ 2003-04 3. SNL Bắc thứ 2004-05 3. SNL Đông thứ 2005-06 3. SNL Đông thứ 2006-07 3. SNL Đông thứ 2007-08 3. SNL Đông thứ 10 2008-09 3. SNL Đông thứ 2009-10 3. SNL Đông thứ 2010-11 3. SNL Đông thứ 10 2011-12 3. SNL Đông thứ 2012-13 Super League (cấp độ 4) thứ 2013-14 Super League (cấp độ 4) thứ 2014-15 Super League (cấp độ 4) thứ 2015-16 Super League (cấp độ 4) thứ 2016-17 Super League (cấp độ 4) thứ 2017-18 Super League (cấp độ 4) thứ 2018-19 Super League (cấp độ 4) thứ Official website | Športno društvo Stojnci | Câu lạc bộ bóng đá khởi đầu năm 1964, Câu lạc bộ bóng đá Slovenia, Khởi đầu năm 1964 Slovenia |
Nguyễn Văn Phát là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 11, thuộc đoàn đại biểu Thanh Hoá. Nguyên UV BTV Tỉnh ủy, Nguyên Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tỉnh Thanh Hóa. | Nguyễn Văn Phát | Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XI, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XII, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XII Thanh Hóa |
Ken Rosewall và Fred Stolle đánh bại Roy Emerson và Rod Laver 6–3, 6–4, 6–3 trong trận chung kết để giành chức vô địch Đôi nam tại Giải quần vợt Pháp Mở rộng 1968. Rod Laver Roy Emerson (Chung kết) Ken Rosewall Fred Stolle (Vô địch) Bob Hewitt Frew McMillan (Bán kết) Andrés Gimeno Richard Pancho Gonzales (Tứ kết) Ilie Năstase Ion Ţiriac (Bán kết) Owen Davidson Michael Sangster (Vòng ba) Thomaz Koch José Edison Mandarino (Tứ kết) John Alexander Dick Crealy (Vòng hai) = = = = International Tennis Federation (ITF) tournament edition details Association of Tennis Professionals (ATP) main draw | Đôi nam | Giải quần vợt Pháp Mở rộng 1968, Giải quần vợt Pháp Mở rộng theo năm Đôi nam |
Hoàng là album phòng thu thứ ba của nữ ca sĩ Việt Nam Hoàng Thùy Linh được phát hành bởi Hãng đĩa Thời Đại và Sony Music Entertainment vào ngày 20 tháng 10 năm 2019. Album bao gồm bài hát theo thể loại future bass, dân ca điện tử với hai đĩa đơn đã ra mắt trước đó là "Để Mị nói cho mà nghe" và "Tứ phủ". Cả hai sản phẩm đều có sự kết hợp giữa chất liệu dân gian và cách làm nhạc hiện đại. Album mang về nhiều giải thưởng, bao gồm giải thưởng Âm nhạc Cống hiến cho "Album của năm", giúp cho DTAP cũng như chính Linh thắng hạng mục "Nhà sản xuất của năm" và "Ca sĩ của năm". Hoàng là album chủ đề mang đậm bản sắc văn hóa dân gian và văn học Việt Nam, đó còn là hành trình những cảm xúc của một người phụ nữ trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm trong cuộc đời. Chính vì lẽ đó, Hoàng không chỉ được đánh giá cao về chất lượng âm nhạc mà giai điệu và lời ca cũng nhận được những phản hồi tích cực. Nhóm sản xuất trẻ tuổi DTAP đã gửi demo ca khúc "Để Mị nói cho mà nghe" cho 10 người nhưng không nhận được hồi âm, sau đó ca khúc này được gửi đến Hoàng Thùy Linh và đã được cô phản hồi sau vài tiếng. Sau thành công vang dội của "Để Mị nói cho mà nghe, Hoàng Thùy Linh đã quyết định thực hiện một Album dân gian đương đại. Tối 20 tháng 10 năm 2019, Hoàng Thùy Linh giới thiệu CD tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ca sĩ cho biết tên sản phẩm là cách cô muốn khẳng định tên tuổi "Hoàng Thùy Linh". Hoàng Thùy Linh cho biết album được lên kế hoạch làm từ khi có "Bánh trôi nước" (2016), nhưng lúc đó nữ ca sĩ chưa tìm được ê-kíp phù hợp để thể hiện hết những điều cô mong muốn. Khi gặp được những người "tâm đầu hợp" DTAP Hoàng mới ra đời. Suốt ba năm qua, cô chuẩn bị nhiều bài hát xong phải bỏ đi, vì càng để lâu, yêu cầu của cô ngày một khắt khe. Dành hơn một năm trời để ra mắt album Hoàng, Hoàng Thuỳ Linh chia sẻ cô thật sự may mắn khi gặp được những người cộng sự tuyệt vời và đồng hành cùng cô là đội ngũ bạn trẻ với tên gọi DTAP. Album “Hoàng” mang trong mình dòng nhạc folktronica và EDM. Điểm đặc biệt của sản phẩm này là mặc dù việc vận dụng những chất liệu văn học dân gian như truyện cổ tích ("Kẽo cà kẽo kẹt"), ca dao tục ngữ ("Kẻ cắp gặp bà già"), tác phẩm văn học ("Em đây chẳng phải Thúy Kiều") hay tín ngưỡng dân gian ("Duyên âm")… nhưng album vẫn mang hơi thở vô cùng hiện đại và đại chúng. Toàn bộ các ca khúc trong album được phối và sắp xếp theo thứ tự hợp lý, mang màu sắc vui tươi không hề nặng nề. Các bài hát được sáng tác bởi các/ tên tuổi như nhạc sĩ Hồ Hoài Anh, Thịnh Kainz, Kata Trần, nhà sản xuất âm nhạc Đoàn Minh Vũ, TripleD. Năm 2019, Hoàng Thùy Linh cho phát hành lead single (bài hát mở đầu cho Album) mang tên "Để Mị nói cho mà nghe", MV gây bão lớn khi được lồng ghép để đoán đề thi tốt nghiệp. Tính đến hiện tại MV đã đạt được hơn 170 triệu lượt xem trên Youtube và triệu lượt nghe trên nảng tảng nhạc trực tuyến Spotify. Sau tháng của "Để Mị nói cho mà nghe", Hoàng Thùy Linh tiếp tục cho mắt bài hát Tứ Phủ mang màu sắc văn hóa tâm linh đã được khai thác triệt để trong MV, vì mang yếu tố tín ngưỡng thờ mẫu nên MV gây nhiều tranh cãi. Dù vây, bài hát nhanh chóng đạt Top iTunes Vietnam chỉ sau gần tiếng và Top Trending Youtube sau 18 tiếng phát hành. Bài hát vinh dự xuất hiện trong playlist Best of the week của Apple Music. Vào đúng 20 giờ 10 phút ngày 20 tháng 10 năm 2019, Ngày Phụ nữ Việt Nam, Album "Hoàng" được ra mắt với công chúng như sự tôn vinh người phụ nữ, Album được phát hành cùng lúc Digital song song với vật lý. ;Ghi chú phổ nhạc phổ thơ bổ sung lời Top Nghệ sĩ Việt Nam có lượt nghe cao nhất trên Spotify Top Album Thập kỷ trên Spotify Việt Nam Năm Giải thưởng Hạng mục Tác phẩm đề cử Kết quả 2019 Mnet Asian Music Awards Nghệ sĩ Việt Nam xuất sắc Châu Hoàng Thùy Linh Làn Sóng Xanh Ca sĩ của năm Hoàng Thùy Linh Ca khúc của năm Để Mị nói cho mà nghe Music video của năm Bài hát hiện tượng Hòa âm phối khí Sự kết hợp xuất sắc Top 10 ca khúc được yêu thích Ca sĩ đột phá Hoàng Thùy Linh Giải Mai Vàng Ca khúc của năm Để Mị nói cho mà nghe Nữ ca sĩ nhạc nhẹ Top 10 nghệ sĩ Hoàng Thùy Linh METUB WebTVAsia Awards Viral music video of the year Để Mị nói cho mà nghe WeChoice Awards Top 10 nhân vật truyền cảm hứng Hoàng Thùy Linh Ca sĩ có hoạt động đột phá Music Video của năm Để Mị nói cho mà nghe Star Awards Nữ ca sĩ của năm Hoàng Thùy Linh 2020 Giải thưởng Âm Nhạc Cống Hiến Ca sĩ của năm Hoàng Thùy Linh Album của năm Hoàng Nhà sản xuất của năm DTAP Bài hát của năm Để Mị nói cho mà nghe Music video của năm Giải Mai Vàng Nữ ca sĩ nhạc nhẹ Kẻ cắp gặp bà già Ấn tượng VTV Ca sĩ ấn tượng Hoàng Thùy Linh Men&Life Nữ nghệ sĩ của năm Hoàng Thùy Linh 2021 Giải thưởng Âm Nhạc Cống Hiến Music video của năm Kẻ cắp gặp bà già Bảng xếp hạng Vị trí cao nhất Vietnam iTunes Top Albums (iTunes) Vietnam Apple Music Top Albums (Apple Music) Greatest Album Of The Decade (Spotify) = Bảng xếp hạng Vị trí cao nhất Vietnam Apple Music Top Songs (Apple Music) 10 Top 50 bài hát hàng đầu tại Việt Nam (Spotify) 10 = Bảng xếp hạng Vị trí cao nhất Vietnam iTunes Top Songs (iTunes) Vietnam Apple Music Top Songs (Apple Music) Top 50 bài hát hàng đầu tại Việt Nam (Spotify) Top Trending (Youtube) = Bảng xếp hạng Vị trí cao nhất Vietnam iTunes Top Songs (iTunes) Vietnam Apple Music Top Songs (Apple Music) Top 50 bài hát hàng đầu tại Việt Nam (Spotify) Top Trending (Youtube) = Bảng xếp hạng Vị trí cao nhất Vietnam iTunes Top Songs (iTunes) Vietnam Apple Music Top Songs (Apple Music) Top 50 bài hát hàng đầu tại Việt Nam (Spotify) Billboard Vietnam Hot 100 57 Billboard Vietnam Top Vietnamese Songs 36 = Bảng xếp hạng Vị trí cao nhất Vietnam iTunes Top Songs (iTunes) Vietnam Apple Music Top Songs (Apple Music) Top 50 bài hát hàng đầu tại Việt Nam (Spotify) = Bảng xếp hạng Vị trí cao nhất Vietnam iTunes Top Songs (iTunes) Vietnam Apple Music Top Songs (Apple Music) Top 50 bài hát hàng đầu tại Việt Nam (Spotify) = Bảng xếp hạng Vị trí cao nhất Vietnam iTunes Top Songs (iTunes) Vietnam Apple Music Top Songs (Apple Music) Top 50 bài hát hàng đầu tại Việt Nam (Spotify) Top Trending (Youtube) = Bảng xếp hạng Vị trí cao nhất Vietnam iTunes Top Songs (iTunes) Vietnam Apple Music Top Songs (Apple Music) Top 50 bài hát hàng đầu tại Việt Nam (Spotify) Top Trending (Youtube) BillBoard Vietnam Top Vietnamese Songs 79 = Bảng xếp hạng Vị trí cao nhất Vietnam iTunes Top Songs (iTunes) Vietnam Apple Music Top Songs (Apple Music) Top 50 bài hát hàng đầu tại Việt Nam (Spotify) MV Để Mị nói cho mà nghe MV Tứ Phủ MV Duyên Âm MV Kẻ Cắp Gặp Bà Già Album "Hoàng" tại: Spotify Apple Music Nhaccuatui | ''Hoàng | Album năm 2019, Album nhạc Việt Nam, Album chủ đề tiếng Việt, Hoàng Thùy Linh |
HD 209458 là một ngôi sao có cấp sao biểu kiến là trong chòm sao Phi Mã. Nó là một ngôi sao G0V, và do đó rất giống với Mặt trời. Bởi vì nó nằm khoảng cách khoảng 159 năm ánh sáng, nên nó không thể nhìn thấy được bằng mắt. Với ống nhòm tốt hoặc kính thiên văn nhỏ, nó có thể dễ dàng phát hiện. HD 209458 Năm 1999, hai đội làm việc độc lập (một nhóm gồm các nhà thiên văn học tại Đài thiên văn Geneva, Trung tâm Vật lý thiên văn và Đài quan sát Wise; nhóm thứ hai là nhóm Tìm kiếm Hành tinh California và Carnegie) đã phát hiện ra một hành tinh ngoài hành tinh quay quanh ngôi sao bằng cách sử dụng phương pháp tìm kiếm hành tinh xuyên tâm. Ngay sau khi phát hiện ra, các đội riêng biệt do David Charbonneau và Gregory W. Henry dẫn đầu đã có thể phát hiện quá cảnh của hành tinh trên khắp bề mặt của ngôi sao khiến nó trở thành hành tinh ngoài hệ mặt trời được biết đến đầu tiên. Hành tinh nhận được chỉ định là HD 209458 b. Do hành tinh đi qua ngôi sao, ngôi sao bị mờ đi khoảng 2% cứ sau 3,5 ngày biến nó thành một biến số bên ngoài. Ký hiệu sao biến cho HD 209458 là V376 Pegasi. Nó là nguyên mẫu của lớp biến "EP" trong Danh mục chung các sao biến thiên, được định nghĩa là các ngôi sao hiển thị nhật thực bởi các hành tinh của chúng. HD 209458 là một hành tinh ngoài hành tinh quay quanh ngôi sao giống như Mặt trời HD 209458 trong chòm sao Phi Mã. Các nghiên cứu quang phổ lần đầu tiên tiết lộ sự hiện diện của một hành tinh xung quanh HD 209458 vào ngày tháng 11 năm 1999. Hành tinh này hiện đang được xem xét kỹ lưỡng hơn với thông báo rằng bầu khí quyển của nó có chứa hơi nước. Các nhà thiên văn học đã thực hiện các phép đo trắc quang cẩn thận của một số ngôi sao được biết là quỹ đạo của các hành tinh, với hy vọng rằng chúng có thể quan sát được độ sáng giảm xuống do sự di chuyển của hành tinh qua mặt sao. Điều này đòi hỏi quỹ đạo của hành tinh phải nghiêng sao cho nó đi qua giữa Trái đất và ngôi sao, và trước đó không có sự chuyển tiếp nào được phát hiện. Travis Barman tại Đài thiên văn Lowell Flagstaff, Arizona đã phân tích phổ phát xạ của hành tinh này và tin rằng bầu khí quyển của nó chứa nước, mặc dù nghiên cứu trước đây cho thấy bầu khí quyển chủ yếu là các đám mây silicat. Hệ thống hành tinh HD 209458 Đồng hành (theo thứ tự từ sao) Khối lượng Trục bán nguyệt (AU) Chu kỳ quỹ đạo (ngày) Độ lệch tâm Độ nghiêng Bán kính b 0,69 0,05 M 0,045 3.52474541 0,00000025 0,00 | HD 209458 | Sao dãy chính nhóm, Hệ hành tinh, Chòm sao Phi Mã |
Vị trí tại Liêu Ninh Phủ Thuận () là một thành phố trực thuộc tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc. Thành phố này cách Thẩm Dương khoảng 45 km. Thành phố Phủ Thuận có dân số 1,3 triệu người, diện tích 10.816 km², trong đó có 675 km² là nội thành. Hố nhân tạo lớn nhất thế giới gọi là hố Tây nằm gần trung tâm thành phố. Phủ Thuận là một thành phố công nghiệp hóa cao. Các mỏ than đây được khai thác từ thế kỷ 12. Đây cũng là nơi có các mỏ dầu đang được khai thác và chế biến các nhà máy lọc dầu tại đây. Phủ Thuận còn có ngành sản xuất nhôm, chế tạo máy. Phủ Thuận được kết nối với Thẩm Dương và Đại Liên bằng đường sắt. Địa cấp thị Phủ Thuận quản lý bốn quận (khu), một huyện và hai huyện tự trị: Quận Thuận Thành 顺城区 Shùnchéng Qū; Quận Tân Phủ 新抚区 Xīnfǔ Qū; Quận Đông Châu 东洲区 Dōngzhōu Qū; Quận Vọng Hoa 望花区 Wànghuā Qū; Huyện Phủ Thuận 抚顺县 Fǔshùn Xiàn; Huyện tự trị người Mãn Tân Bân 新宾满族自治县 Xīnbīn mǎnzú Zìzhìxiàn; Huyện tự trị người Mãn Thanh Nguyên 清原满族自治县 Qīngyuán mǎnzú Zìzhìxiàn. | Phủ Thuận | |
Takashi Seki (sinh ngày tháng năm 1978) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản. Takashi Seki đã từng chơi cho Tokyo Verdy. | Takashi Seki | Sinh năm 1978, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Nhật Bản, Cầu thủ bóng đá J1 League, Cầu thủ bóng đá Tokyo Verdy |
Thiếu nữ mặc đồ trắng thường được xem là biểu hiện cho trinh tiết Trinh tiết hay tiết hạnh là trạng thái chưa từng quan hệ tình dục của một người. Trinh nữ là từ để chỉ người con gái còn trinh tiết (chưa từng quan hệ tình dục với ai). Trinh tiết cũng có thể sử dụng với nghĩa rộng hơn. Về nghĩa rộng, trinh tiết còn dùng để chỉ người phụ nữ cả đời luôn giữ gìn đạo đức bản thân và chung thủy với chồng của mình (cô ta không quan hệ tình dục trước khi lấy chồng, và sau khi lấy chồng thì không ngoại tình với ai). Đối với nam giới, người ta không dùng khái niệm trinh tiết mà gọi là trai tân, hoặc đồng nam. Trên thế giới tồn tại nhiều nền văn hóa và tôn giáo đề cao giá trị của trinh tiết. Nó là biểu trưng cho sự trong trắng trong tâm hồn, đức hạnh trong tình yêu, thức tiết chế dục vọng để giữ gìn thể xác thuần khiết cả trước và sau hôn nhân, thể hiện sự tôn trọng và chung thủy với bạn đời (cả nam lẫn nữ) Trinh tiết là khái niệm chỉ giá trị của một người chưa từng quan hệ tình dục trong xã hội, hoặc là sự chung thủy của người đối với người khác. Nhiều người hay lẫn lộn giữa khái niệm: Trinh tiết (sự trong trắng) và màng trinh. Thực chất, đây là hai khái niệm riêng. Màng trinh là khái niệm sinh học chỉ một bộ phận của phụ nữ, còn trinh tiết là một khái niệm mang tính đạo đức, tinh thần và xã hội, chỉ người chưa từng quan hệ tình dục (ở cả phái nam và phái nữ). Như vậy, khi nói về các vấn đề xã hội liên quan (như quan hệ tình dục sớm, sống thử, hoặc giữ gìn thể xác tới đêm tân hôn) thì phải dùng từ "trinh tiết, trong trắng" mới thật chính xác. Những kiến cho rằng trinh tiết chỉ là "chiếc màng sinh học" (màng trinh) thực chất là không hiểu rõ, lẫn lộn giữa khái niệm hoặc cố tình hạ thấp giá trị tinh thần đích thực của trinh tiết. Vẻ đẹp thánh thiện của một trinh nữ, chủ đề phổ biến trong hội họa phương Tây. Cần phân định rõ rằng: con người coi trọng "sự trinh tiết" (virgin) chứ không đơn giản chỉ là "màng trinh" (hymen). Các nền văn hóa luôn đề cao trinh tiết bởi nó cho thấy sự trong trắng trong tâm hồn, chí kiên định trong việc tiết chế bản năng để giữ gìn thể xác thuần khiết trước hôn nhân. Trinh tiết là món quà tinh thần lớn lao khi "lần đầu tiên" của người bạn đời được họ giữ gìn và dành tặng cho mình, qua đó củng cố sự tin tưởng vào đức hạnh của bạn đời. Do giá trị đạo đức và tinh thần đó mà trinh tiết được nhiều người tôn vinh, chứ không đơn giản là việc màng trinh có tồn tại hay không (cụ thể hơn, nếu màng trinh bị mất do bị cưỡng hiếp hoặc phẫu thuật thì trinh tiết vẫn còn; nhưng ngược lại, nếu đã từng quan hệ tình dục thì xem như trinh tiết đã mất, dù vá lại màng trinh thì cũng không còn nghĩa gì nữa, thậm chí có thể xem đó là hành vi lừa bịp). Việc gìn giữ trinh tiết trước hôn nhân được xem là thể hiện đức hạnh của con người (kể cả phụ nữ cũng như đàn ông), biết dùng lý trí để trấn áp những dục vọng bản năng, biết hướng đến giá trị thiêng liêng của tình yêu và hôn nhân bền vững với người bạn đời, thay vì những quan hệ xác thịt dễ dãi và chớp nhoáng. Các tôn giáo, các nền văn hóa luôn đánh giá cao những con người có thức này. Theo nghiên cứu của Đại học Bắc Carolina, nhóm thanh niên có trí thông minh cao và được giáo dục tốt có tỉ lệ quan hệ tình dục sớm thấp hơn nhiều so với nhóm còn lại Các tôn giáo và nền văn hóa các nước luôn chú trọng đến đời sống tiết chế dục vọng và tinh thần trong sáng, trinh tiết cũng không ngoại lệ. Triết lý đạo đức các nước đều chỉ rõ: "Thân với tâm là "nhất như", thân thể ta cũng như tâm hồn ta. Tức là nếu ta không tôn kính thân thể người yêu thì cũng không tôn kính được tâm hồn người ấy. Yêu nhau là kính trọng nhau, giữ gìn trinh tiết trong sạch cho nhau tới ngày kết hôn. Khi sự rẻ rúng xem thường, ham muốn chiếm đoạt thể xác xảy ra thì tình yêu đích thực không còn. Có những nỗi niềm sâu kín trong tâm hồn, chúng ta chỉ chia sẻ với người tri kỉ. Thân thể ta cũng vậy, có những nơi thiêng liêng và riêng tư, ta không muốn ai chạm tới, ngoài người ta tin yêu, muốn sống trọn đời, trọn kiếp. Trong tình yêu lớn và cao quý, bất cứ lời nói và cử chỉ nào cũng phải biểu lộ sự tương kính. Người con trai phải tôn trọng người con gái mình yêu, cả thân thể lẫn tâm hồn, giữ gìn trinh tiết cho họ. Người con gái biết giữ gìn trinh tiết, cũng là biết làm người yêu thêm tương kính, nuôi dưỡng hạnh phúc lâu dài về sau." Trong nhiều lễ hội, chỉ có trinh nữ được tế lễ để tôn vinh sự thiêng liêng. Phù điêu cổ năm 526 Các tín ngưỡng chính thống đều hướng cho con người mở rộng nhãn quan, duy trì phẩm chất đạo đức thiện lương, tu tâm hướng thiện, xa lánh điều ác. Tôn giáo giúp con người điều chỉnh lại tư tưởng và hành vi của mình, người dân tôn sùng đạo đức, có trách nhiệm cao đối với sự hưng vong của cộng đồng, người tin cậy người, giúp xã hội an định, thuần phong mỹ tục được giữ gìn. Giá trị của trinh tiết cũng nằm trong số đó. Trong hầu hết các tôn giáo, tình dục và trinh tiết đều được xem là thiêng liêng. Khác với hành vi giao phối mang tính dục vọng bản năng loài vật, hoạt động tình dục của con người còn bao hàm tinh thần nghĩa vụ với bạn đời, gia đình và xã hội. Do đó tình dục của con người phải được gắn liền với hôn nhân, hoặc nghi thức kết hợp dưới sự chứng giám của gia đình, cộng đồng và các Đấng bề trên (như vong linh ông bà tổ tiên, Thiên Chúa, Allah... tùy theo mỗi tôn giáo). Các hành vi tình dục ngoài vợ chồng đều là sự coi thường, chà đạp lên lễ giáo đạo đức và các Đấng bề trên. Trong Thiên Chúa giáo, trong Mười điều răn của Thiên Chúa, điều thứ và thứ 9: "Chớ làm sự gian dâm… Chớ ham muốn vợ chồng người" (Xuất hành 20,14,17). Tội gian dâm bao gồm quan hệ tình dục trước hôn nhân, mại dâm và ngoại tình, bị coi là hành vi đi ngược lại sự công chính của nước Trời. Chúa Giêsu xếp tội này chung với tội ngoại tình và là điều xấu xa nhất xuất phát từ lòng dạ con người, làm con người bị uế. Thánh Phaolô dạy: "Những kẻ dâm đãng, ngoại tình, trụy lạc… sẽ không được nước Chúa làm cơ nghiệp... việc quan hệ với đĩ điếm và tìm sự thỏa mãn tình dục bất chính dưới mọi hình thức đều làm nguy hại nặng nề tới mối quan hệ thần thánh giữa người Kitô hữu và Thiên Chúa." (Thư gửi giáo dân Côrintô 6,9,17,18). Phật giáo cũng có tội "Tà dâm" (sự dâm dục phi lễ phi pháp). Quan hệ vợ chồng có cưới hỏi đủ lễ gọi là Chánh; ngoài ra, lén lút lang chạ khi chưa có danh phận đều gọi là Tà. Quan hệ tình dục trước hôn nhân, ngoại tình và loạn luân đều là tội tà dâm. Đức Phật Thích Ca dạy: "Kẻ ôm lòng ái dục cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tất bị họa cháy tay. Kẻ say mê sắc dục như cá nuốt lưỡi câu, như thiêu thân bay vào đèn, tự dấn thân vào chỗ chết mà không hay biết". Mỗi người ai cũng muốn gia đình mình đầm ấm yên vui, vợ con đoan chính, vậy cớ sao lại đi phá hại gia cương, làm nhục nhã tông môn người khác, đưa vợ con người khác vào đường dâm loạn... Ai cũng có lòng dâm dục, nhưng giữ gìn không tà dâm mới là đạo đức làm người, chớ để nhân dục làm bại hoại luân thường đạo lý thì uổng cả kiếp người. Tập tin:Buddhist nhân Tà dâm chịu quả báo trong Bát nhiệt địa ngục Tà dâm sẽ gây ra một Nghiệp chướng, sẽ phải nhận lãnh quả báo dù kiếp này hay kiếp sau theo nguyên lý "Nhân quả tuần hoàn, tất có báo ứng". Nam nữ lén lút làm chuyện tà dâm, dù qua được mắt người đời chứ không thoát được mắt Trời. Sự lạc thú từ tà dâm chỉ là nhất thời, nhưng tội nghiệt mang lại thì to như núi, quả báo là nghiêm trọng nhất. Hành vi này Trời Đất căm giận, Quỷ Thần phẫn nộ, quả báo không sớm thì muộn sẽ ập tới. Nếu phạm lỗi, không chỉ kẻ đó gây họa lớn cho chính mình, mà còn mang tới bất hạnh cho gia đình: bị lây bệnh hay chết yểu, số thì mất chức vị; vợ chồng lục đục, cha mẹ đau buồn, con cái trở nên lẳng lơ phóng đãng, gia đình tan nát... Trong 18 Tầng Địa Ngục, kẻ tà dâm sẽ đọa vào "Dầu Oa Địa Ngục" (Ngục dầu sôi), bị dầu sôi đun nấu giống như dục vọng sôi sục trong cơ thể họ khi còn sinh thời, khi đầu thai sẽ bị đưa vào súc sinh giới vô tri chỉ biết sống theo bản năng, đúng như Luật Nhân-Quả: "Gieo Nhân nào gặt Quả nấy". Đức Phật Thích Ca dạy, sự đau khổ trong địa ngục là ngoài sức mô tả. Một khi rơi vào ngục Vô Gián thì sẽ không còn đường ra nữa. Sự hưởng lạc phóng túng nơi nhân gian chỉ là rất ngắn ngủi, vì thế mỗi người không nên làm ngơ với những gì sẽ chờ đợi chúng ta thế giới bên kia. "Biết hổ thẹn để tự răn mình, thế gian ít người làm được. Nhưng người đã làm được, họ khéo tránh điều khổ nhục như ngựa hay khéo tránh roi da" Một người khôn ngoan, nghe được Phật pháp nên hiểu rõ điều này mà chiêm nghiệm, giữ mình khỏi cám dỗ của dục vọng. Tập tin:La vierge Mẹ đồng trinh, biểu tượng của trinh tiết và Đức khiết tịnh phương Tây Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các tôn giáo và dân tộc từ Đông sang Tây đều có khái niệm về trinh tiết và tôn vinh nó. Trinh tiết là biểu tượng của một tình yêu trong sáng, thủy chung, không bị chi phối bởi dục vọng xác thịt. Đây là một trong những giá trị Chân Thiện Mỹ mà dù thời đại nào thì con người cũng ca tụng và hướng tới. Từ nửa cuối thế kỷ 20 tới nay, xã hội loài người có nhiều biến chuyển, lối sống cá nhân dần lấn át đời sống cộng đồng. Con người bị cuốn vào vòng xoáy của lối sống hưởng thụ, đề cao cái tôi vị kỷ, trong khi các giá trị tinh thần truyền thống gắn kết xã hội bị lãng quên. Nhiều giá trị khuôn phép đạo đức, trong đó có trinh tiết, bị đả phá là "cổ hủ, lỗi thời" bởi những người tự nhận là có "lối sống hiện đại, phóng khoáng". Họ muốn phá bỏ những chuẩn mực cũ để tự do thỏa mãn lối sống cá nhân mà không bị xã hội ràng buộc, lên án. Họ lầm tưởng thế là "văn minh, tiến bộ" mà không lường được rằng, sự đả phá và không tôn trọng các chuẩn mực xã hội có thể dẫn tới những hệ lụy gì. Mọi sự bất ổn xã hội, tha hóa đạo đức không phải là bộc phát, mà đều tuân theo "Quy luật Nhân-Quả". Khi con người chạy theo dục vọng cá nhân và coi nhẹ các giá trị cộng đồng, thì xã hội sẽ phải trả giá bằng sự bất ổn ngày càng gia tăng, đó là quy luật của mọi thời đại. Tỷ lệ ly hôn tăng cao, sự suy đồi trong quan niệm thẩm mỹ về tình yêu, sự dâm tục lấn át nền văn hóa, những bữa tiệc thác loạn, thanh thiếu niên quan hệ tình dục bừa bãi, lòng chung thủy ngày càng hiếm hoi... là những gì mà xã hội phải trả giá khi trinh tiết không được coi trọng đúng mức. Nhiều người trong xã hội hiện đại thích lạm dụng "tự do cá nhân" để bào chữa cho hành vi của mình. Họ đã hiểu sai cái tự do đó. Tự do không phải là thoải mái làm những gì mình thích, mà tự do phải nằm trong khuôn khổ tôn trọng các chuẩn mực đạo đức xã hội. Nói như Jean-Jacques Rousseau: "Cái thảm kịch của giới trẻ, chính là họ tự đặt mình vào tình trạng không thể vâng lời vì sự tự do quá đáng." phương Đông, Khổng Tử cũng có câu "Nhân bất học bất tri lý", hàm con người không lo tu dưỡng thì sẽ không biết giữ gìn lễ phép gia quy, phải trái trắng đen lẫn lộn, bị lòng dâm dục mị hoặc, nam chẳng lo hiếu nghĩa, nữ chẳng giữ tiết trinh. Sống trong cơn lốc của kinh tế thị trường, giới trẻ mải chạy theo những giá trị vật chất mà không lo tu dưỡng những giá trị tinh thần cao đẹp, thay vào đó họ cứ lao đầu vào sự cạnh tranh, lối sống ích kỷ. Hệ quả tất yếu là tâm hồn họ trở nên chai sạn, chuẩn mực và lý tưởng sống lạc lối. Họ càng cố tranh đua, càng cố tìm cách thỏa mãn dục vọng thì lại càng thấy cuộc đời mình thật bế tắc, vô nghĩa. Tình trạng này lan rộng hiển nhiên sẽ kéo theo sự thụt lùi của các chuẩn mực xã hội cao đẹp. Nhiều người đã đúc rút: "Cuộc sống càng hiện đại bao nhiêu thì giới trẻ càng hư hỏng bấy nhiêu, con người càng làm nô lệ cho nhiều thứ chán nản, thất vọng. Khi đó họ muốn tìm đến với quan hệ tình dục dễ dãi, bừa bãi để khỏa lấp cho sự thất vọng đó". Tập tin:Statue of mother Yasukuni 112135011 bd2aaaa5d3 đài Bà mẹ Nhật Bản trước đền Yasukuni, ca ngợi những bà mẹ Nhật Bản chung thủy, dù chồng đã hy sinh trong chiến tranh nhưng vẫn vậy nuôi con khôn lớn Cái gọi là "tình yêu thời hiện đại", "yêu là phải có sex" được những người trẻ đó cổ xúy, nhưng đó không phải là tình yêu thật sự. Khi loài thú hoang muốn tình dục, nó ve vãn để chứng tỏ "tình yêu", nhưng sau khi thỏa mãn chữ "Tình", chúng quên ngay chữ "Yêu" và sẵn sàng dứt bỏ nhau. Đối với loài thú, tình dục chỉ là bản năng để thỏa mãn nhu cầu tính dục. Nhưng với con người, tình dục cần tuân theo những giá trị đạo đức, điều khiến chúng ta khác với thú vật. Bổn phận, trách nhiệm và hôn nhân là những yếu tố quan trọng đi kèm với tình dục. Những kẻ đã trở thành nô lệ cho ham muốn tình dục sẽ chỉ làm tiêu tan mất giá trị đích thực của tình yêu. Giáo sư Lý Gia Đồng, Viện trưởng Đại học Thanh Hoa (Đài Loan) báo động về tình trạng nạo phá thai của giới trẻ: "Từ năm 1975, tôi đã giảng dạy trong suốt 33 năm. Trong hơn ba mươi năm nay, tôi đã chứng kiến khung cảnh sân trường thay đổi từ mộc mạc và đơn giản thành phóng túng buông thả. Sự phóng túng sân trường chúng ta Đài Loan vượt trội hơn vài quốc gia khác. Trước kia trong khuôn viên đại học, nền tảng quan hệ nam nữ khép trong phép giao thiệp lịch sự, họ tôn trọng lẫn nhau trong khuôn khổ tiền hôn nhân của thời yêu đương tình tứ, hàm súc nét đẹp tự nhiên thấp thoáng trong sự tự kềm chế của đôi bên. Đem vấn đề tình dục trước hôn nhân ra mà nói, trong quá khứ, bất kể xã hội Tây phương cũng như Đông phương, chuyện này đều không nên. Thế nhưng hiện tại ư... Sự biến động hỗn loạn về quan điểm giá trị xã hội, khiến con người có xu hướng thiên về "tiền tài", dùng đồ hiệu, chạy theo công danh lợi lộc; hơn nữa tốc độ truyền thông tin học nhanh chóng, những khoái cảm tình dục phóng túng cũng lại phơi bày một cách không ngừng. "Miễn sao tôi thích là được, không ai có quyền phải ngăn cản" Thanh niên hùa theo sự biện hộ đó. Hậu quả là, những thanh niên vốn dĩ ngay thẳng trong sạch, hào khí sung sức và đầy nhiệt huyết, nhưng không có nền tảng đạo đức đúng đắn kềm chế, nên đưa chân sa lầy đắm thân vào xác thịt, hoặc là vì hành vi lỡ lầm trong quan hệ khác phái trước hôn nhân, dẫn đến hoàn cảnh mang thai túng quẫn... Trông thấy những gì xảy ra, chúng ta không khỏi lo ngại Nền giáo dục của chúng ta đã có vấn đề gì? Có phải là chúng ta nên bảo giới trẻ cái gì nên làm và những gì không nên làm theo quan điểm đạo đức cơ bản. Chúng ta không muốn những học sinh trẻ tuổi phải suốt đời vấn vương một vết thương hổ thẹn trong lòng chẳng vứt bỏ được!" Nhật Bản là một ví dụ điển hình cho tình trạng này. Nước Nhật vẫn được coi là tấm gương cho sự phát triển của châu Á, nhưng cái giá phải trả cho sự "Tây hóa" quá đà cũng không nhỏ. Suốt 100 năm với các biện pháp Âu hóa, cuối cùng nền văn hóa Nhật đã bị biến dạng đi rất nhiều. Hiện nước này đang bị đẩy vào "cơn bão sex" với đầy rẫy những nguy cơ. Trinh tiết đã bị loại bỏ khỏi những quan niệm truyền thống, phụ nữ Nhật trước kia nổi tiếng vì lòng chung thủy thì giờ đây mặc sức chạy theo những đam mê và dục vọng của mình, trong khi Quấy rối tình dục và quay lén phụ nữ đã trở thành "văn hóa nơi công cộng". Chuyện các nữ sinh phổ thông sẵn sàng bán dâm để lấy tiền mua quần áo, giày dép giờ đã không còn hiếm, và là nỗi nhức nhối của xã hội Nhật. "Không còn coi trọng sự trinh tiết, không còn sợ bị đánh giá vì tình dục bừa bãi, vậy cớ gì mà không thả lỏng mình ra trôi theo các cuộc vui để thỏa nhục dục" Những hệ lụy đang ngày càng lớn và nghiêm trọng do người Nhật đang dỡ đi ngày càng nhiều những truyền thống đạo đức trong vấn đề tình dục. Trong cuộc hội nhập, người Nhật đã giữ lại được khá nhiều những truyền thống văn hóa: các lễ hội, di tích lịch sử... nhưng họ lại "buông lơi" một thứ quan trọng đó là truyền thống văn hóa gia đình. Nhiều gia đình đã đánh mất nó bởi tư tưởng "giải phóng con người" được thực hiện quá nhiệt tình để rồi tự biến mình thành một phế phẩm của sự bắt chước không thành. Nó đã tạo nên một nền văn hóa sex Nhật mang đầy những thương tật, nó chỉ làm cho đạo đức xã hội thêm suy đồi bởi sự cổ súy cho những trò giải trí bệnh hoạn. Thông qua các thống kê thực tế (xem bên dưới), có thể kết luận, Trinh tiết với nghĩa tinh thần và thông điệp sâu xa của nó, thực sự ảnh hưởng đến sự bền vững của hôn nhân và sự phát triển bền vững của xã hội. Có những quan niệm đồng nhất tình yêu với tình dục. Họ cho rằng "yêu thì không cần lý trí, phải trao thân cho nhau mà không chút đắn đo". Một số còn cho rằng yêu thì phải quan hệ tình dục, phải có tình dục mới giữ được người yêu. Thực ra, để tình yêu bền vững thì sự hấp dẫn nhau lâu bền thông qua tâm hồn và trái tim đồng cảm mới là điều cần thiết, như Jean Lacordaire viết rằng "Tình yêu chân chính thì trong sạch, nó trong tim chứ không trong giác quan". Sự đòi hỏi thỏa mãn thể xác mà không đi liền với sự hòa hợp tâm hồn, nghĩa vụ trong tương lai (cụ thể là hôn nhân) thì không thể đem lại một tình yêu bền vững. Bởi vậy mới có câu nói: "Trái tim là khởi nguồn tình yêu, nhưng lý trí mới là thứ bảo vệ tình yêu". Một mối tình tan vỡ chỉ bởi không có tình dục, thì đó không phải là tình yêu mà chỉ là sự rung động giới tính nhất thời, hoặc lợi dụng tình yêu để thỏa mãn dục vọng mà thôi. Khảo sát năm 2006 về "tình yêu sinh viên" Việt Nam cho thấy, chỉ có 26% các cặp đôi cho biết mức độ yêu là đủ nghiêm túc để có thể dẫn đến hôn nhân, 74% còn lại chỉ là do sức hấp dẫn giới tính đơn thuần "thấy thích thì yêu". 74% này, hành vi quan hệ tình dục (nếu xảy ra) chỉ là để thỏa mãn dục vọng, còn "tình yêu" chỉ là lý do giả tạo. Nếu cặp vợ chồng từng quan hệ trước hôn nhân thì xem như đêm tân hôn không còn nghĩa thiêng liêng nữa, sự tôn kính nhau giảm đi rất nhiều. QHTD trước hôn nhân thường thực hiện lén lút, với tâm trạng căng thẳng nên không mang lại sự hưng phấn. Ngoài ra, có một thực tế mà rất ít bạn gái để là việc khi đã trao thân cho người yêu, cũng đồng nghĩa luôn với việc nhiều chàng trai sẽ nảy sinh nghi ngờ vì sự dễ dãi của cô ta. Họ sẽ không còn tin tưởng vào đức hạnh của cô ta nữa, bởi vì "cô ta dễ dàng trao thân cho mình thì cũng sẽ dễ trao thân cho kẻ khác", dẫn tới sự rạn nứt trong tình cảm. Bên cạnh đó, có rất nhiều trường hợp đàn ông "Sở Khanh" sẽ bỏ rơi bạn tình sau khi đã chiếm đoạt được trinh tiết cô gái. Dù quan điểm xã hội có thoáng đến đâu, thì trinh tiết và đức hạnh vẫn luôn là những tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá một người phụ nữ. Những người phụ nữ có đủ bản lĩnh để giữ gìn trinh tiết tới khi kết hôn luôn được người chồng tôn trọng và đánh giá cao hơn những phụ nữ không làm được điều đó. Có những bạn trẻ tôn sùng sex với suy nghĩ hời hợt đó là "chuyện nhỏ" giống như ăn uống hàng ngày, nghĩ rằng mình là "người trẻ hiện đại" thì phải "thoáng", phải "học theo Tây" trong những nhu cầu "bản năng" như thế. Thực ra, văn hóa phương Tây cũng rất nghiêm túc trong vấn đề này chứ không hề buông tuồng như họ vẫn nghĩ. Sự học đòi, dua theo "lối sống Tây" một cách thiếu hiểu biết khiến tình yêu đang dần mất đi nghĩa đích thực của nó. TS tâm lý Nguyễn Thị Kim Quý cho rằng: "Đây là một hiện tượng xuống cấp về đạo đức của xã hội. Khi cái tôi cá nhân được đề cao thái quá thì chuyện tình dục thoáng sẽ xảy ra. Đã là con người thì không thể tách rời khỏi xã hội. Khi bản năng không được kiềm chế, con người bản năng thắng thế thì xã hội sẽ suy thoái, sống theo bản năng, phần "con" nhiều hơn phần người". Tỷ lệ ly hôn của Mỹ giai đoạn 1990-2007 đã tăng tới mức 50%, trong khi tỷ lệ kết hôn ngày càng giảm Trong bối cảnh hiện nay, sự ảnh hưởng của lối sống phương Tây khiến truyền thống coi trọng trinh tiết trong giới tẻ Việt Nam bị suy yếu. Tiến sĩ Việt Nam học Vladimir Mazyrin đã phát biểu tại trường Đại học Tổng hợp Moskva như sau: "Ảnh hưởng ngày càng tăng của nền văn minh và lối sống phương Tây đến thanh niên Việt Nam đe dọa phá hủy sự ổn định của xã hội Việt Nam. Những giá trị phương Tây và văn hóa của họ đã thâm nhập vào xã hội Việt Nam thông qua truyền thông, Internet cũng như những công nghệ thông tin hiện đại. Giới trẻ đang đánh mất hứng thú trong việc tích cực học tập và lao động, đã xuất hiện việc coi thường pháp luật và suy yếu trật tự xã hội. Trong xã hội hình thành rõ xu hướng tổn hại các giá trị gia đình và các mối quan hệ. Đó là tự do tình dục với kết quả gần 300.000 ca phá thai hàng năm trong số trẻ vị thành niên. Việc tiêu xài hoang phí và theo đuổi những lợi ích vật chất là những nét hoàn toàn không đặc trưng cho những người Việt Nam cần kiệm... Nền tảng xã hội, truyền thống và văn hóa Việt Nam đang dần dần bị hủy hoại, làm gia tăng nguy cơ khó kiểm soát trong lĩnh vực chính trị xã hội và sự mất ổn định, điều đóng vai trò chính yếu trong sự phát triển thành công của đất nước" Hiện nay, nhiều trào lưu đang du nhập, nếu không biết tiếp thu có chọn lọc tốt-xấu thì sẽ gây ra những hệ lụy khôn lường, đạo đức sẽ ngày một suy đồi. Quan niệm dễ dãi về tình dục đang làm tổn hại đến truyền thống tốt đẹp ngàn đời của văn hóa Việt Nam, đó là: tôn trọng lễ nghĩa Gia phong, nét đẹp trong sáng thùy mị của người con gái. Quan hệ tình dục trước hôn nhân khiến tình dục mất hết giá trị thiêng liêng, trở thành một "thú chơi" mang tính bản năng, và sau những cuộc chơi đó chỉ cho thấy sự trống rỗng, vô nghĩa của cuộc đời mình. Về sinh lý học, khoa học đã chứng minh rằng: tình yêu là kết quả của phản ứng hóa học và hormone trong não. những cặp đôi đã quan hệ tình dục, não tiết ra amphetamine và dopamine gây hưng phấn, nhưng trạng thái "yêu mãnh liệt" này sẽ nhanh chóng nguội tắt khi não không tiết đủ lượng hormone nữa. Tiến sĩ Cindy Heizen của trường đại học Kornella đã kết luận là "tình yêu mãnh liệt" chỉ tồn tại được 18-30 tháng sau lần quan hệ tình dục đầu tiên, sau đó đôi tình nhân sẽ thấy nhàm chán nhau. Ngược lại những đôi giữ gìn trinh tiết và chú trọng đến sự hòa hợp tâm hồn, não tiết ra Serotonin tạo cảm giác tin cậy và bền vững. Theo Helen Fisher, "tình yêu trong sáng" dạng này sẽ sâu sắc và lâu bền hơn nhiều. Câu nói của dân gian "Cả thèm chóng chán", "Tình càng cháy mạnh thì càng sớm tàn" thực sự có cơ sở khoa học của nó. Về tâm lý học, nhiều phụ nữ dù đã kết hôn nhưng vẫn không thể quên được bạn tình cũ và thường ngầm so sánh họ với chồng mình, dẫn tới nguy cơ ngoại tình tăng lên. Nhiều người khác thì cảm thấy day dứt, tội lỗi, và lo ngại nếu con cái biết được quá khứ của mình thì chúng sẽ không còn tôn trọng và nghe lời họ nữa. Ngược lại, đàn ông có thể tuyên bố không coi trọng trinh tiết của vợ, nhưng thực sự không ai có thể quên được việc vợ mình từng ăn nằm với kẻ khác. Nhưng thực tế, chẳng có mối tình nào mãi mặn nồng, sau vài năm chung sống, tình yêu ban đầu sẽ phai nhạt, sự ám ảnh đó sẽ trở lại và khiến người chồng càng có thêm lý do để coi thường và chán ghét vợ, góp phần làm rạn nứt thêm quan hệ vợ chồng. Ngược lại những cặp vợ chồng giúp nhau gìn giữ trinh tiết cho tới hôn lễ luôn tỏ ra tự hào và thêm gắn bó vì họ đã chứng tỏ được sự tôn trọng nhau, cùng nhau vượt qua được cám dỗ dục vọng. = Những phụ nữ chấp nhận quan hệ tình dục trước hôn nhân có thể chia làm dạng: hoặc là dễ bị cảm xúc nhất thời làm lấn át lý trí và suy tính cho tương lai, hoặc là coi nhẹ giá trị đạo đức trong tình yêu và hôn nhân (so với những cô gái có thức giữ gìn "lần đầu tiên" cho người chồng tương lai). Dù thuộc dạng nào thì đó cũng là nguy cơ khiến đời sống tình cảm và hôn nhân của họ có xu hướng kém bền vững cũng như ít có khả năng hạnh phúc hơn. Các thống kê Mỹ đã chứng minh: "Quan hệ tình dục trước hôn nhân đồng nghĩa với sự đánh đổi cơ hội hạnh phúc trong tương lai": Những cặp đôi có quan hệ tình dục trước hôn nhân thường dùng tình yêu làm lý do biện minh cho hành động này. Nhưng thực tế 80% các cuộc tình này sẽ không kéo dài quá tháng, do vậy thực ra không có cái gọi là "tình yêu" đây, mà đó chỉ là sự biện hộ cho đam mê xác thịt theo lối bản năng. Ngược lại, những cặp tình nhân không quan hệ tình dục thực sự có mối quan hệ tốt hơn so với những cặp đã có quan hệ tình dục trước hôn nhân, điều này đúng trên cả bốn phương diện của mối quan hệ và với cả nam lẫn nữ. *Những cô gái có quan hệ tình dục sớm, sau này có 30% li dị trong năm đầu, và 47% li dị trong 10 năm đầu hôn nhân. Với các cô gái có thức giữ gìn trinh tiết, thì tỷ lệ này giảm tương ứng còn 15% và 27%. Nghiên cứu của Tạp chí Tâm lý học gia đình Mỹ cho thấy: các cặp vợ chồng giữ gìn trinh tiết tới khi kết hôn có tỉ lệ hạnh phúc cao hơn 22%, tỉ lệ hài lòng trong tình dục cao hơn 15%, tỉ lệ hòa hợp quan điểm cao hơn 12% so với các cặp đã quan hệ trước hôn nhân. 56% phụ nữ giữ gìn trinh tiết cho rằng họ "rất hạnh phúc" sau khi kết hôn, trong khi chỉ có 37% phụ nữ có quan hệ tình dục trước hôn nhân cảm thấy điều này. *So với các cô gái giữ gìn trinh tiết, những cô gái quan hệ tình dục trước hôn nhân có khả năng bị bệnh hoa liễu cao gấp 1,5-10 lần, khoảng 5-42% sẽ nhiễm bệnh hoa liễu ít nhất lần (tùy theo số bạn tình). 30% sẽ phải phá thai (gấp lần), gần 40% sẽ sinh con ngoài giá thú, 30-57% sẽ trở thành mẹ đơn thân (gấp 4-8 lần). 7% sẽ bị trầm cảm (cao gấp lần), ít hơn 1/3 cảm thấy hạnh phúc khi tuổi 20 và hơn một nửa sẽ ly dị trước tuổi 30. *Cuộc điều tra của Tổ chức ngăn ngừa mang thai tuổi vị thành niên Mỹ (từ 12-19 tuổi) cho thấy: 77% nữ sinh và 60% nam sinh đã từng quan hệ tình dục tỏ ra hối hận và ao ước mình chưa từng quan hệ. 88% mong muốn truyền thông cảnh tỉnh nhiều hơn về những hậu quả của tình dục sớm như mang thai, bệnh truyền nhiễm. 85% đồng rằng tình dục chỉ nên xảy ra trong mối quan hệ gắn với nghĩa vụ dài hạn là hôn nhân *Một nghiên cứu có tên Sex Education in America (Giáo dục giới tính tại Mỹ) do Đại học Harvard tiến hành năm 2003 đối với người dân Mỹ, có 50% số người đồng rằng tình dục trước hôn nhân là không đúng về mặt luân lý, 83% đồng rằng đó là điều tội lỗi. 63% đồng rằng quan hệ tình dục trước hôn nhân của thanh thiếu niên là sai về mặt đạo đức, trong khi số người không đồng chỉ 35%, có 77% đồng rằng điều này là tội lỗi. Có gần 50% số người Mỹ cho rằng dù độ tuổi nào cũng cần phải chờ đến khi kết hôn thì mới quan hệ tình dục. *Đặc biệt đối với phụ nữ, những người đã quan hệ tình dục trước hôn nhân sẽ ít có khả năng chung thủy hơn những người giữ gìn trinh tiết. Họ thường mong nhớ về bạn tình cũ, thích so sánh chồng mình với những người đàn ông khác, và họ cũng thành thạo hơn trong việc tìm kiếm nhân tình mới ngoài chồng mình, nên sẽ có tỉ lệ ngoại tình cao gấp lần những người giữ gìn trinh tiết trước hôn nhân. Phụ nữ quan hệ tình dục trước hôn nhân càng sớm, càng nhiều thì tỷ lệ ngoại tình sẽ càng cao, hơn nữa số bạn tình cũng tăng lên. Mỹ, những phụ nữ mất trinh tiết tuổi 16 trung bình sẽ có bạn tình trong suốt cuộc đời, cứ năm sẽ có thêm nhân tình mới. Trong khi với những phụ nữ giữ trinh tiết đến khi kết hôn (23-25 tuổi), con số này giảm còn 2,7 bạn tình trong suốt cuộc đời. Kaká, cầu thủ bóng đá Brasil, Quả bóng vàng châu Âu 2007, tự hào rằng mình vẫn còn là trai tân cho tới ngày cưới. Trả lời phỏng vấn tờ Vanity Fair, Kaká hãnh diện cho biết: "Tôi và Caroline quyết định giữ cho nhau đến ngày đám cưới. Kinh Thánh dạy rằng đó mới chính là tình yêu đích thực. Sự thật là chúng tôi đã có đêm tân hôn thực sự có nghĩa". Kaká tin rằng kiêng sex trước hôn nhân là điều đúng đắn, và anh nhắn gửi tới tất cả mọi người nên làm theo: "Tôi tự cho mình là một tấm gương tốt. Nhiều người nói rằng sau khi kết hôn, họ chán ngấy cuộc sống tình dục với bạn đời, vì họ đã "no xôi chán chè" từ trước rồi. Tôi và vợ tôi không như vậy. Tôi yêu cô ấy, và chúng tôi đều nghĩ đáng để chờ đợi một điều thiêng liêng trong đêm động phòng... Tôi nghĩ mọi người cần tránh việc quan hệ tình dục trước khi cưới". Những cặp nam nữ "sống thử" có tỉ lệ ngoại tình cao gấp lần so với những cặp vợ chồng thực sự, chất lượng đời sống thể chất và tình cảm cũng thấp hơn. Họ thường đến nhanh theo kiểu "tình yêu gấp gáp", tình dục là lý do chính thôi thúc họ sống thử. Vì vậy nếu xảy ra xung đột hoặc vỡ mộng, họ sẵn sàng chia tay, nên nó không có tính bền vững. Những người ủng hộ sống thử cho rằng cái gì có thử cũng hơn, chẳng hạn đi mua xe cũng cần chạy thử. Tuy nhiên, hôn nhân là một nghĩa vụ lâu dài và thiêng liêng chứ không phải một đồ vật. Các cặp vợ chồng chính thức thường cố gắng điều chỉnh để hợp nhau vì họ được gắn kết bởi nghĩa vụ gia đình lâu dài. Trong khi đó, các cặp sống thử mang sẵn tâm lý "thử" tức chỉ kiểm tra xem có hợp nhau không, mà không bị ràng buộc bởi nghĩa vụ, nên nếu thấy thất vọng họ rất dễ bỏ cuộc. Thực ra, những mối quan hệ tốt đẹp phải dựa trách nhiệm với bạn đời, sự hiểu biết và trao đổi lẫn nhau về mặt xã hội, đạo đức, trí tuệ và nhiều thứ khác chứ không chỉ là tình dục. Tại Hoa Kỳ, nghiên cứu của đại học Columbia cho biết chỉ có 14% các cặp đi đến hôn nhân chính thức sau sống thử. Số 14% này cũng thường bất hòa, không có hạnh phúc. Tờ Psychology Today công bố kết quả nghiên cứu của nhà xã hội học Neil Bennett, đại học Yale cho biết những đôi kết hôn sau thời gian sống thử có tỷ lệ ly dị trong năm đầu cao hơn 80% so với những đôi kết hôn mà trước đó không sống thử. Quá trình chung sống cũng ít hạnh phúc hơn, bởi họ thường phàn nàn về người bạn đời thay đổi quá nhiều từ khi chuyển sang "sống thật". Những phụ nữ đã sống thử trung bình chỉ 3,3 năm sau khi kết hôn đã có ngoại tình với người khác. Về hậu quả xã hội lâu dài, con cái của các cặp sống thử có tỷ lệ ly hôn cao hơn trung bình tới 170%, và gặp nhiều vấn đề xã hội và tình cảm (lạm dụng ma túy, trầm cảm, bỏ học, yêu đương sớm), nguy cơ bị lạm dụng tình dục hoặc tình cảm cao gấp lần. Viện Giá trị Hoa Kỳ kết luận: "Việc sống thử gia tăng là mối đe dọa tiềm ẩn đối với chất lượng và tính ổn định của đời sống con cái trong các gia đình ngày nay".. Tại Việt Nam, do ảnh hưởng từ cách mạng tình dục thập niên 1970 tại phương Tây tràn vào, cùng sự thiếu kiến thức xã hội và định hướng cho tương lai, nên tình trạng quan hệ tình dục và "sống thử" trước hôn nhân giới trẻ đang tăng cao. Nhiều bạn trẻ dễ dãi, cho rằng việc đó là bình thường, họ suy nghĩ đơn giản rằng chỉ là "thử" thì sẽ không gây hậu quả gì. Một số khác thì sống thử chỉ vì dua theo bạn bè. Đồng thời, do ảnh hưởng của "yêu nhanh sống gấp", một số bạn trẻ quan niệm về tình yêu "rất hiện đại" hay còn gọi "tình yêu tốc độ", rằng yêu thì cần "hết mình" mà không cần phải suy tính cho tương lai. Họ thích một cuộc sống hưởng thụ, không cần tôn trọng chuẩn mực đạo đức của cộng đồng, không coi trọng giá trị của đời sống gia đình. Theo TS tâm lý học Trương Thị Bích Hà: "Do đến với nhau chỉ vì tò mò, vì tiết kiệm, vì người khác sống thử thì mình cũng sống thử và chỉ để thỏa mãn dục vọng nhất thời. Mặt khác, sự du nhập văn hoá thực dụng làm giới trẻ chạy theo "tây hoá" mà không còn biết đến nền tảng đạo đức của con người". Với 300.000 ca độ tuổi 15-19 trong năm 2013, Việt Nam có tỷ lệ nạo phá thai tuổi vị thành niên cao nhất Đông Nam và đứng thứ trên thế giới. Con số này cho thấy ngoài vấn đề giáo dục đạo đức thì giáo dục giới tính, tình dục và sức khỏe sinh sản cho tuổi vị thành niên cũng quan trọng không kém. Theo thống kê tại Việt Nam thì sống thử trước hôn nhân, đặc biệt là sinh viên, có trên 90% các cặp đôi tan vỡ, bởi họ chưa có khả năng tự quyết định cuộc sống của mình, chưa có công ăn việc làm ổn định. Khảo sát năm 2006 cho thấy, 56% sinh viên cho biết hiện đang có người yêu, nhưng chỉ có 26% trong số họ cho biết mức độ yêu là nghiêm túc để có thể dẫn đến hôn nhân, do vậy khi gặp vấn đề trở ngại thì khả năng tan vỡ mối tình là rất cao. Phần lớn cũng không lường trước những hậu quả để lại nên sau khi tan vỡ, hậu quả phần lớn thuộc về các bạn nữ. Về sức khỏe, họ có nguy cơ mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục, các viêm nhiễm đường sinh sản, nạo thai dẫn đến tai biến như vô sinh, ung thư... Về tâm lý, sau cú sốc họ sẽ trở nên chai sạn, mất niềm tin vào tình yêu và hôn nhân. Nhiều người khác thì trở nên buông thả, vì không còn trinh tiết để giữ gìn nữa nên họ sẵn sàng quan hệ tình dục bừa bãi với nhiều người khác. Tập tin:Joan of Arc miniature nữ Joan of Arc, anh hùng dân tộc của Pháp. phương Tây, cho tới giữa thế kỷ 20, trinh tiết cũng rất được các nền văn hóa coi trọng chứ không như nhiều người vẫn lầm tưởng. Mười điều răn của đạo Thiên Chúa có điều liên quan tới trinh tiết và sự chung thủy. Hình ảnh các trinh nữ luôn được tôn vinh trong văn học, nghệ thuật, hội họa... Trinh nữ được xem là biểu tượng của sự thuần khiết, là tuyệt tác của Chúa trời chưa bị trần gian làm vấy bẩn. Chiếc váy cưới truyền thống phương Tây mang màu trắng là để tôn vinh sự trong trắng, trinh bạch của cô dâu trong ngày cưới. Nhiều trinh nữ đã được tôn làm thánh như Đức Mẹ đồng trinh, Joan of Arc... Tuy nhiên gần đây, nhân danh "giải phóng phụ nữ", cách mạng tình dục bùng nổ vào thập niên 1970, con người hướng đến tình dục nhiều hơn là tình yêu, sự thoả mãn thể xác hơn là các nghĩa vụ đạo đức và tinh thần. Theo trào lưu này, giá trị của trinh tiết bị xem nhẹ, bị nhiều người coi là lỗi thời, thậm chí bị quy kết là "xiềng xích trói buộc phụ nữ". Những giá trị đạo đức truyền thống bị xói mòn bởi chủ nghĩa thực dụng, sùng bái vật chất, kéo theo đó là cả một hệ lụy xã hội. Một khảo sát vào năm 2011 cho thấy 85% người Mỹ chấp nhận vấn đề tình dục trước hôn nhân. Nhiều ngôi sao nhạc pop từ Britney Spears, Jessica Simpson, the Jonas Brothers, Miley Cyrus, cho tới Justin Bieber đã tuyên bố sẽ giữ gìn trinh tiết để làm tấm gương tốt cho thanh niên, nhưng trên thực tế thì khác hẳn.. Theo nhà báo Jill Filipovic thì 95% người Mỹ không đợi cho tới ngày làm đám cưới, mặc dù đó là giá trị lâu đời của nước Mỹ. Cũng như nhiều người phương Tây hiện nay, Filipovic cho rằng tình dục làm cho con người hạnh phúc hơn tiền bạc, giúp sống lâu hơn, dễ ngủ hơn, giải quyết vấn đề căng thẳng vì tâm lý hay sinh học, hệ miễn dịch và tim hoạt động tốt hơn, trên căn bản đồng tình và sự vui thú của đôi bên.... Tuy vậy, trái với quan điểm của Jill Filipovic, khảo sát thực tế tại Mỹ năm 2011 cho thấy việc quan hệ tình dục trước hôn nhân làm giảm đáng kể sự bền vững và hạnh phúc trong đời sống hôn nhân sau này. Những cặp đôi trì hoãn quan hệ tình dục thực sự có mối quan hệ tốt hơn so với những cặp có quan hệ tình dục trước hôn nhân, điều này đúng trên cả bốn phương diện của mối quan hệ và với cả nam lẫn nữ. Cuộc điều tra quốc gia về gia đình năm 1991 cho thấy rằng: phụ nữ có quan hệ tình dục trước hôn nhân phải đối mặt với nguy cơ đổ vỡ hôn nhân cao hơn đáng kể so với những phụ nữ còn trong trắng tới khi kết hôn Sau 30 năm trải nghiệm, ngày nay phương Tây nhận ra rằng xã hội đang gặp phải những vấn đề nghiêm trọng: tỉ lệ ly hôn đã tăng nhanh, các giá trị gia đình trở nên lỏng lẻo, tình cảm nhạt nhoà, thanh thiếu niên hư hỏng, quan hệ tình dục bừa bãi... Hàng triệu người phương Tây chọn sống cô đơn vì không còn tin tưởng vào tình yêu và hôn nhân, tỷ lệ sinh giảm mạnh trong khi tỷ lệ con ngoài giá thú tăng vọt, nòi giống tương lai trở nên đáng báo động. "Hạt cơ bản" cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Michel Houellebecq kết luận: "Tình dục đã trở nên thảm hại", văn minh phương Tây xuống dốc từ cách mạng tình dục mà cứ tưởng đang giải phóng phụ nữ. Thoả mãn tình dục một cách dễ dãi chỉ đưa đến trống rỗng và bế tắc. Các triết gia cổ kim từ lâu đã nhận ra rằng, khi con người sống thiếu kiềm chế và coi nhẹ các giá trị đạo đức, thì xã hội sẽ phải trả giá bằng sự bất ổn ngày càng gia tăng.. Nhà văn Nga nổi tiếng Yuri Bondarev thì nhận xét: "Tình yêu một trong những trạng thái tình cảm thiêng liêng, thánh thiện mà nhân loại đã nhận được và đã đặt vào đó một nội dung tình cảm và thể xác trong sáng nhất bị thay bằng từ "sex" tầm thường và hời hợt. Sự dâm hiện nay ngự trị tuyệt đối trên truyền hình, sân khấu, văn học. Có biết bao những vụ sát nhân, những sự đồi bại ghê tởm, những điều quái dị mà chúng ta nhìn thấy trên màn ảnh nhỏ! Con cái chúng ta đang bị hư hỏng, nhân dân ta một thời vốn cực kì trong sáng đang bị trụy lạc hoá một cách trắng trợn." Nhẫn trinh tiết Mặt khác, sự xuất hiện của virus chết người AIDS vào những năm 1980 đã giáng cú đòn mạnh vào tự do tình dục. Các nhóm tôn giáo cho rằng đó chính là sự cảnh cáo của Chúa Trời trước sự dâm loạn của con người, nỗi sợ hãi này đã được kết lại bằng một lá thư trên tờ tạp chí Time năm 1988, là một lời kêu gọi trở về với "Chúa Trời nỗi sợ hãi tìm về tiêu chuẩn đạo đức của ngày hôm qua". Ngày nay giá trị của trinh tiết đang dần được phương Tây tôn vinh trở lại. Khảo sát Quốc gia 2008 tại Mỹ cho thấy 28% những người được phỏng vấn không tham gia bất cứ hình thức quan hệ tình dục nào, tăng 6% so với năm 2002, có 29% thiếu nữ (so với 27% nam) cho biết, họ vẫn còn trinh trắng trước khi kết hôn. Ngành "công nghiệp trinh tiết" đang bùng nổ với những sản phẩm như trang sức, quần áo, CD, áo sơ mi... liên quan tới chủ đề giữ gìn trinh tiết Từ năm 1998, Mỹ có Vũ hội trinh tiết là nơi các ông bố đưa con gái đến khiêu vũ, ký vào bản giao kèo và đọc to lời hứa trước Chúa sẽ bảo vệ, gìn giữ trinh tiết cho tới lúc kết hôn.. Nhóm tình nguyện có tên True Love Waits đã kêu gọi được 2,4 triệu thanh niên Mỹ tham gia ký vào tấm thiệp có chữ: "Tin tưởng rằng tình yêu đích thực sẽ chờ đợi, tôi xin thề trước Chúa, trước bản thân, gia đình và bạn đời tương lai, tôi sẽ giữ gìn trọn vẹn trinh tiết đến khi kết hôn", hoặc Thi-thiên 51:10 trong Kinh thánh: "Đức Chúa Trời hỡi! Xin hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch, và thanh tẩy trong tôi một tinh thần ngay thẳng". Chính phủ Mỹ đã chi triệu USD để thúc đẩy phong trào này, cũng như sản xuất những chiếc "Nhẫn trinh tiết" để giới trẻ đeo biểu trưng cho lời cam kết. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, ĐH Phạm Ngọc Thạch, Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, trong khi nhiều bạn trẻ Việt Nam ào ào "sính ngoại" thì nhiều nước tiên tiến lại đang có xu hướng quay về với kiểu yêu "cổ điển". Họ dành cho nhau những giây phút lãng mạn, những buổi dạo chơi đồng quê, tâm sự dưới đêm trăng và "nói không với quan hệ tình dục". Người Việt Nam từ xa xưa đã coi trọng vấn đề trinh tiết của phụ nữ. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu "Chữ trinh đáng giá nghìn vàng", hay nhân vật Thúy Kiều có những câu nói với Kim Trọng (người yêu của nàng) như: :Đã cho vào bậc bố kinh :Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu. :Ra tuồng trên bộc trong dâu. :Thì con người ấy ai cầu làm chi hoặc: :"Chữ trinh còn một chút này, :Xin anh cầm vững đừng giày nát tan". Ngoài ra ca dao, tục ngữ còn có những câu như: :Gái khôn tránh khỏi đò đưa :Trai khôn tránh khỏi vợ thừa người ta hoặc nhân vật Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu, vốn tiêu biểu cho những bậc nam nhi trọng lễ nghĩa, có câu nói với nàng Kiều Nguyệt Nga như sau: :Trai thời trung hiếu làm đầu :Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình Tập tin:Den Ba Chua thờ Bà Chúa Kho, một tiết phụ trong lịch sử Việt Nam Trước kia, Bộ Lễ của các triều đình định kỳ ban thưởng tấm bảng có chữ Tiết hạnh khả phong (Tiết: Chí khí cứng cỏi. Hạnh: tính nết, đức hạnh. Khả: cho nên. Phong: phong thưởng) cho những phụ nữ có đức hạnh và có lòng chung thủy với chồng đã chết, để làm gương tốt cho dân chúng noi theo. Lễ rước biển có trống đánh và kèn thổi, đám rước sẽ dừng lại trước nhà thờ họ chồng để tiết phụ lễ bái tổ tiên nhà chồng, sau đó đám rước có thêm nhiều đám tháp tùng và cùng tiến về nhà thờ họ. Trên đường đám rước đi qua, đầu mỗi làng đều có thiết lập hương án cung kính đón chào, khắc ghi cho đông đảo người xem một ấn tượng khó phai mờ về sự tôn vinh mà xã hội dành riêng cho tiết hạnh của người quả phụ. Bản thân người tiết phụ được người dân tôn kính, còn gia tộc bên nội ngoại đều vô cùng tự hào vì đã làm rạng rỡ gia phong tổ tiên. Tấm biển sẽ lưu lại nhà thờ họ, để gia tộc người tiết phụ lấy đó làm tấm gương răn dạy con cháu về phẩm chất "Tam tòng tứ đức, thủ tiết thờ chồng". Hiện Việt Nam vẫn còn nhiều dòng họ lưu giữ được những tấm bảng có từ hàng trăm năm trước, truyền giữ suốt hàng chục thế hệ, được coi là bảo vật gia tộc để răn dạy con cháu về thuần phong mỹ tục tốt đẹp của tổ tiên. Sử thần Ngô Sĩ Liên viết: "Công chúa Thiều Dương nghe tin Thái Tông băng, kêu gào mãi rồi chết; Lê thị nghe tin chồng chết, không ăn mà chết; Mỵ phu nhân tiết nghĩa không thờ hai chồng, nhảy xuống sông mà chết; vợ Ngô Miễn là Nguyễn Thị không phụ nghĩa chồng, cũng nhảy xuống sông chết theo chồng. Mấy người này đức hạnh thuần hiếu, trung trinh tiết liệt, trên đời thực không có nhiều. Các vua đương thời nêu khen họ để khuyến khích đời sau thực là phải lắm!" Lịch sử Việt Nam ca ngợi nhiều tấm gương phụ nữ tiết hạnh. Ví dụ như: Bà Chúa Kho, tên thật là Lý Thị Châu (? ?), tục gọi là Châu Nương, là một viên quan nhà Trần (1225-1400). Năm 22 tuổi, bà về làm vợ một viên Thái bảo họ Trần (không rõ tên), làm chức Đốc bộ Châu Hoan (nay là Nghệ An Hà Tĩnh). Cuối tháng 12 năm 1287, quân Nguyên chia làm cánh tiến đánh Đại Việt. Thái bảo Trần được lệnh chặn địch phía sông Hồng, và ông đã tử trận sau nhiều ngày cầm cự để vua quan cùng quân sĩ rút lui an toàn. Nghe tin chồng mất, kinh thành sắp thất thủ, Lý Thị Châu cố nén đau thương để làm nhiệm vụ, bà sai quân chuyển kho, cất giấu của cải và lương thực. Khi mọi chuyện đã thu xếp xong, bà lấy khăn hồng thắt cổ tự vẫn để giữ gìn tử tiết. Quyển Thần phả lưu giữ đình Giảng Võ chép: "Bà được phong là Chủ Khố Phu Nhân... nhà vua truyền dựng đền thờ Bà ngay trong khu kho để nước nhà thờ cúng... lại truyền cho phường Võ Trại tu sửa lại cung doanh để thờ tự, lấy nơi cũ làm đền thờ chính. Còn nhiều nơi cũng được lập thờ Bà... Bà được cấp 13 đạo sắc phong." Nhà Hồ mất nước vào tay giặc Minh, Hành khiển tham tri chính sự Ngô Miễn, trực trưởng Kiều Biểu nhảy xuống nước tuẫn quốc. Khi Miễn chết, vợ là Nguyễn thị ngửa mặt lên trời than rằng: "Chồng ta thờ chúa, một đời ăn lộc, ngày nay giữ tiết nghĩa mà chết, thế là chết xứng đáng, còn oán hận gì nữa? Nếu thiếp muốn sống cho qua ngày, chẳng lẽ lại không còn chỗ đến nữa hay sao? Nhưng đạo chồng, ơn vua, một chốc mà phụ bạc thì thiếp không nỡ nào! Chi bằng, xin theo nhau!" Nói xong, bà cũng nhảy xuống nước tuẫn tiết theo chồng. Bà Nguyễn Thị Kim là hoàng phi của vua Lê Chiêu Thống, vị vua cuối cùng của nhà Hậu Lê. Năm 1789, sau khi Nguyễn Huệ đánh bại 29 vạn quân Thanh, Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc rồi sau chết đó. Bà không kịp chạy theo, bèn lánh loạn vùng quê nhà Kinh Bắc. Năm 1802, Gia Long xin đem linh cữu vua Lê về nước. Tháng năm 1804, di hài vua Lê được đưa về cửa ải, bà nghe tin, liền lặn lội từ Kinh Bắc lên cửa ải để đón linh cữu. Ngay từ hôm ấy, hoàng phi tuyệt thực, vật vã bên linh cữu mà khóc lóc. Ngày 12 tháng 10, tế vua Lê xong, hoàng phi đến trước hương án khóc lóc thảm thiết và nói với Diên tự công rằng: "Ta nhẫn nhục vất vả đã mười lăm mười sáu năm nay, không phải là không dám chết, chỉ vì thái hậu, vua ta, con ta vẫn bên Trung Quốc, âm tín không thông, còn mất không rõ, nên ta còn chờ đợi một chút. Nay thái hậu cùng vua ta đều mất, con ta cũng chết, linh cữu đã về đến nước nhà, thế là việc của ta xong rồi, ta phải chết theo để hầu bên lăng tẩm mới phải." Rồi đó, hoàng phi liền uống thuốc độc tự tử. Ai nghe tin ấy cũng đều thương xót. Sứ thần Trung Hoa bấy giờ đang đấy cũng than thở, ngợi khen mãi. :Sau khi hoàng phi chết theo vua Lê, được người khắp cả nước ca tụng là bậc tiết nghĩa. Vua Gia Long bèn "hạ chỉ ban khen, sai lập đền quê hoàng phi, là xã Tỳ Bà thuộc huyện Lang Tài để thờ; cấp ruộng tế và tha thuế khoá cho dân làng ấy để dùng vào việc đèn nhang thờ cúng: lại sai dựng bia khắc chữ để nêu gương tiết hạnh." Tô phái hầu Nguyễn Huy Túc làm bài "Tiêu cung tuẫn tiết hành" để ca ngợi: ::Ban gấm vóc bạc vàng phúng viếng, ::Bao vần thơ lên tiếng ngợi khen. ::Khen thay! Một chết phỉ nguyền, ::Thơm tho muôn thuở con thuyền thanh danh... ::...Thân khuê các giúp bề Tiết giáo ::Mặt phấn son phụ đạo Cao hình. ::So thơ Cù, Cát đã đành, ::Trúc Tương vằn đẹp lưu danh muôn đời. ::Người xưa làm việc dễ rồi. ::Nay làm việc khó chẳng Người đó sao? Bà Sương Nguyệt Anh, tên thật là Nguyễn Thị Khuê, sinh ngày 24 tháng 12 năm Quý Hợi (1863) tại Gia Định, con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đình Chiểu. Bà có nhan sắc xinh đẹp, lại có tài văn chương, đoan trang, tiết hạnh, nhưng lập gia đình trễ. Trên 25 tuổi bà mới kết hôn, sinh được một gái thì chồng chết. Bà vậy nuôi con, vui với thơ văn, lấy bút hiệu là Sương Nguyệt Anh (nghĩa là người sương phụ, thủ tiết thờ chồng). Bà viết: :"Gương tỏ đời nay trong tiết phụ :Lâu dài tiếng tốt tạc non sông" Bà Ba Đề Thám, tên thật là Đặng Thị Nhu (còn có tên là Đặng Thị Nho tức Bà Ba Cẩn), vợ thứ ba của nhà cách mạng Hoàng Hoa Thám (Đề Thám). Bà là một nữ tướng can trường, cùng sát cách với chồng trong cuộc kháng chiến chống Pháp tại Yên Thế cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Ngày 1-2-1909, bà và con gái là Hoàng Thị Thế bị Pháp bắt và đầy đi Guyanne thuộc Pháp Nam Mỹ. Trên đường lưu đày, bà Ba Đề Thám đã nhảy xuống biển tự vẫn để giữ vững khí tiết với chồng. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam ghi nhận "Bà là một tấm gương sáng của phụ nữ nước Việt. Bà Thái Thị Huyên, vợ nhà Cách mạng Phan Bội Châu (1867-1940), người làng Diên Lân, tỉnh Nghệ An. Bà làm dâu nhà họ Phan năm 23 tuổi, hết lòng giữ trọn đạo dâu hiền. Chồng thi đỗ Giải Nguyên, bà vẫn giữ nếp nhà, sống đời bình dị, lo cho chồng cho con. Chồng bà xuất dương cứu nước hơn 20 năm, bà vẫn giữ lòng chung thủy, một mình nuôi con. Khi Phan Bội Châu bị bắt về nước năm 1925, bà được gặp mặt chồng nửa tiếng đồng hồ tại Nghệ An rồi ly biệt cho đến lúc mãn phần. Trong mấy lời chia tay, bà đã nói: "Vợ chồng ly biệt nhau hơn 20 năm, nay được một lần giáp mặt Thầy, trong lòng tôi đã mãn túc rồi. Từ đây trở về sau, chỉ mong Thầy giữ được lòng xưa". Bà một lòng trung trinh tiết hạnh, thờ chồng nuôi con, giúp cho chồng giữ vững tinh thần trên bước đường cứu nước. Bà Thái Thị Huyên mất ngày tháng âm lịch (21-5-1936), thọ 70 tuổi. Bà Nguyễn Thị Giang (?-1930) là vợ của Nguyễn Thái Học, Đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng. Năm 1929, cô Giang gặp Nguyễn Thái Học và hai người cùng chí hướng đã yêu nhau. Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái bị thất bại, ngày 17-6-1930, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị Pháp đưa lên máy chém Yên Bái, bà đã đến tận pháp trường để chứng kiến cái chết của người yêu. Sau đó cô về nhà trọ viết thư tuyệt mệnh gửi song thân và gửi hương hồn Nguyễn Thái Học, trong đó có câu: "Con chết là vì hoàn cảnh bó buộc con; không báo được thù nhà, rửa được nhục cho nước! Sau khi đã đem tấm lòng trinh bạch dâng cho chồng con Đền Hùng. Giờ con tìm về chỗ quê cha, đất tổ, mượn phát súng này mà kết liễu đời con!." Cô Giang còn làm một bài thơ lục bát, tỏ rõ chí hy sinh vì nước. Hôm sau cô về quê chồng lạy tạ cha mẹ chồng, rồi dùng súng lục tự vẫn để bảo toàn danh tiết và bảo toàn bí mật cho đảng. Khi nghe tin Cô Giang tuẫn tiết, nhà cách mạng Phan Bội Châucảm khái làm bài văn tế có câu: "Dưới Long Thành máu thắm cỏ xanh, gái đến thế rành rành chữ liệt... Nguyễn Thái Học trổ tài kiện tướng, nhờ có cô mà lông cánh thêm dài Phạm Thị Hào nổi tiếng trung trinh, em có chị mà xứng danh nữ kiệt." Bà Nguyễn Thị Seo là vợ của Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, liệt sĩ Trần Đức Thông, người chỉ huy đã hy sinh trong trận đánh bảo vệ Trường Sa năm 1988. Hai người kết hôn năm 1971, do ông trong bộ đội và thường xuyên phải ra đảo nên dù kết hôn được 17 năm nhưng thời gian hai vợ chồng bên nhau chỉ chưa đầy một năm. Khi ông hi sinh, bà mới ngoài 40 tuổi. Bà vậy nuôi nấng hai con cho đến khi qua đời năm 2005. Con bà kể lại: "Trong lúc hấp hối mẹ vẫn nhắc đến bố. Suốt cuộc đời mẹ dành trọn tình yêu cho bố."'' *Màng trinh *Đức mẹ đồng trinh Maria *Joan of Arc | Trinh tiết | Quan hệ tình dục, Đức hạnh |
Pallet gỗ tiêu chuẩn Pallet hay kệ kê hàng là một cấu trúc phẳng dùng để cố định hàng hóa khi hàng được nâng lên bởi xe nâng pallet (Forklift)hoặc các thiết bị vận chuyển khác. Pallet có cấu tạo cơ bản của một đơn vị lượng tải (unit load) cho phép di chuyển và xếp vào kho một cách hiệu quả. Hầu hết các pallet làm bằng gỗ, tuy nhiên cũng có những loại pallet được làm bằng nhựa, kim loại, giấy, vật liệu tái chế. Mỗi loại vật liệu có những ưu nhược điểm khác nhau. Pallet là cụm từ được từng được biết đến trong suốt đầu thế kỷ XX. Vào thời điểm đó, cụm từ pallet được hiểu là hộp gỗ, thùng gỗ, thường sử dụng để bảo vệ, lưu trữ và vận chuyển hàng hoá. Nguồn gốc ban đầu của pallet là các ván trượt bằng gỗ, và được làm bằng dây buộc gắn chặt vào tạo thành một mặt phẳng. Chúng xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng thời gian mà những chiếc xe nâng tầm thấp được sử dụng vào cuối những năm 1880. Xe nâng chỉ có thể nâng các tấm trượt lên tối đa vài inch và cần phải có sự trợ giúp bằng tay. Dù còn khó khăn nhưng cách này cho phép công nhân di chuyển hàng đống sản phẩm quá nặng đối với cơ tay Sự phát triển của pallet đã trở nên mạnh mẽ vào đầu những năm 1940 sau khi sản xuất và vận chuyển trong thời chiến tăng cường. Các nhà sản xuất pallet nhận ra hai điều: thứ nhất, đó là điều chỉnh tiêu chuẩn vận chuyển cho mỗi lần lắp đặt vận chuyển hải quân gây lãng phí tài nguyên; và thứ hai, các pallet đó không chỉ được vận chuyển đến các nhà máy khác của Mỹ mà còn nước ngoài. Năm 1961 là một năm mang tính bước ngoặt. Nó đánh dấu sự thành lập của Hiệp hội Pallet Châu Âu (The European Pallet Association) và sứ mệnh tiêu chuẩn hóa việc sử dụng pallet trên khắp Châu Âu. Hiệp hội Pallet Châu Âu đã giới thiệu Euro pallet như một loại pallet nhập cảnh bốn chiều đơn giản có thể chứa bất kỳ xe nâng hoặc xe đẩy nào và có thể được sử dụng bất kỳ quốc gia nào bởi bất kỳ người dùng nào. Ấn tượng là Euro pallet vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay. Pallet gỗ (hay kệ gỗ kê hàng) là sản phẩm công nghiệp được sử dụng rộng rãi trong kho vận và vận chuyển hàng hóa. Pallet giúp việc bốc xếp, di chuyển hàng hóa trong kho và giữa các phương tiện được dễ dàng và nhanh chóng. Phối hợp chặt chẽ với xe nâng máy, xe nâng tay giúp giải phóng sức lao động bốc xếp thủ công, năng suất lao động có thể tăng hơn vài chục lần bốc xếp bằng tay bởi công nhân. Ngoài ra, sử dụng hệ thống giá đỡ tầng, tầng càng giúp tiết kiệm không gian lưu trữ và diện tích kho chứa cần thiết để chứa hàng. Pallet nhựa hiện nay được sử dụng ngày một nhiều và thông dụng hơn. Trong tương lai sẽ dần thay thế các loại pallet chất liệu gỗ, giấy, kim loại truyền thống. Với nhiều ưu điểm nổi trội hơn trong quá trình sử dụng. Nhưng pallet nhựa thường có giá thành cao hơn pallet gỗ. Lợi ích rõ ràng của pallet đã giúp công nghiệp sản xuất pallet ngày càng có nhiều cải tiến và mở rộng cùng với quy mô giao thương, các hoạt động xuất nhập khẩu. Pallet được phát triển và sản xuất thành nhiều loại khác nhau, đáp ứng từng yêu cầu cụ thể. Về chất liệu, pallet được phân thành các loại phổ biến như sau: 1. Pallet giấy: Được làm từ loại giấy đặc biệt dạng nhiều lớp ép chặt cùng với keo dưới tác động của áp lực cao, thích hợp với hàng hóa có giá trị rất cao, yêu cầu độ ẩm pallet rất thấp, trọng lượng pallet nhẹ, thường dưới 200 kg/pallet. Giá thành pallet giấy cao nhất so với các loại pallet cùng kích thước. 2. Pallet nhựa: Được đúc hàng loạt bằng nhựa cứng, độ bền rất cao, chịu mưa nắng, thích hợp cho hàng hóa lưu kho lâu dài và sử dụng ngoài trời, không bị ẩm, mốc. Giá thành cao và khó sản xuất theo đơn hàng quy mô nhỏ. Pallet nhựa cứng thường được sử dụng là kệ, khay kê cho hàng hóa nặng như đá, sắt, thép, gạch...thường đặc biệt hữu dụng trong các dây chuyền sản xuất gạch không nung. 3. Pallet sắt: Được sản xuất theo số lượng hạn chế theo từng yêu cầu cụ thể, thường áp dụng cho hàng hóa siêu nặng như đá, sắt thép, gạch... Phạm vi áp dụng hạn chế và giá thành cao. 4. Pallet gỗ: Pallet phổ biến nhất do kết hợp được các yếu tố giá thành rẻ, số lượng sản xuất không hạn chế theo đơn đặt hàng, chắc chắn, dễ sử dụng, thích ứng tốt với nhiều loại hàng hóa cũng như có thể sản xuất với đơn hàng số lượng nhỏ và là lựa chọn duy nhất cho hàng hóa xuất khẩu, hàng hóa dùng pallet một lần. Pallet mặt chiều nâng Pallet mặt chiều nâng Pallet mặt chiều nâng Pallet thiết kế đặc biệt dạng khóa chân v.v Tùy theo thiết kế mà tải trọng của pallet dao động từ 300–2000 kg. Pallet theo cấu tạo: mặt kín,mặt hở, mặt bông, mặt lưới, chân cốc, mặt, mặt, đường nâng, đường nâng v.v.. Pallet theo mục đích sử dụng: Pallet xuất khẩu, pallet cũ, pallet đã qua sử dụng, pallet thanh lý, pallet cho xe nâng v.v.. Palelt theo tải trọng: Pallet tải trọng nhẹ, pallet tải trọng vừa, pallet tải trọng nặng và pallet tải trọng rất nặng. Pallet thường có kích thước (dài rộng cao) sau: 1000mm 1000mm 135mm 1100mm 1100mm 140mm 1100mm 1100mm 120mm 1200mm 900mm 135mm 1200mm 1000mm 150mm 1219mm x1000mm 140mm Yam, K. L., Encyclopedia of Packaging Technology, John Wiley Sons, 2009, ISBN MHIA/ANSI MH1–2005 Pallets, Slip Sheets, and Other Bases for Unit Loads ASTM 1185 Test Methods for Pallets and Related Structures ASTM D6253 Treatment and/or Marking of Wood Packaging Materials | Pallet | Vận tải, Đóng gói |
Đại Túc (chữ Hán giản thể:大足区, Hán Việt: Đại Túc khu) là một khu thuộc thành phố trực thuộc trung ương Trùng Khánh, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tháng 10 năm 2011, quận Song Kiều sáp nhập với huyện Đại Túc để tạo thành quận Đại Túc mới. Huyện Đại Túc trước kia có diện tích 1390 km², dân số năm 2006 là 930.000 người. Mã số bưu chính: 402360. Huyện này nằm cách trung tâm Trùng Khánh 80 km, cách Thành Đô 256 km. Về mặt hành chính, huyện này được chia ra thành nhai đạo biện sự xứ, 21 trấn, hương. Huyện này có Tượng khắc đá Đại Túc là di sản văn hóa thế giới. | Đại Túc | Đơn vị cấp huyện Trùng Khánh |
spinosus' là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (Nutt.) Rydb. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1917. Jepson Manual Treatment USDA Plants Profile Flora of North America Photo gallery Thể | null | |
"Help!" là bài hát của The Beatles trở thành tên của bộ phim và bản soundtrack vào năm 1965. Ca khúc được phát hành dưới dạng đĩa đơn và đứng đầu tại Mỹ và Anh cùng trong tuần. "Help!" được viết bởi John Lennon, song vẫn được ghi cho Trong bài phỏng vấn trên tạp chí Playboy vào năm 1964, Paul McCartney nói nhan đề của ca khúc phản ánh "đỉnh điểm của sự chán chường". Năm 2004, "Help!" được tạp chí Rolling Stone xếp vị trí số 29 trong danh sách "500 ca khúc vĩ đại nhất mọi thời đại". John Lennon hát chính, guitar acoustic 12-dây, hát bè. Paul McCartney bass, hát nền. George Harrison lead guitar, hát nền. Ringo Starr trống, sắc-xô. Bảng xếp hạng (1965) Vị trícao nhát Canada (RPM Singles Chart) Ireland (Irish Singles Chart) UK singles (The Official Charts Company) US Billboard Hot 100 Bảng xếp hạng (1976) Vị trícao nhất UK singles (The Official Charts Company) 37 | Help! | Bài hát của The Beatles, Bài hát viết bởi, Bài hát năm 1964, Đĩa đơn năm 1964, Đĩa đơn quán quân Billboard Hot 100, Đĩa đơn quán quân tại Vương quốc Liên hiệp Anh, Đĩa đơn quán quân tại Ireland, Đĩa đơn quán quân tại Na Uy, Đĩa đơn năm 1965, Bài hát năm 1965, Đĩa đơn năm 1984, Đĩa đơn năm 1989, Nhạc chủ đề, Đĩa đơn năm 1968, Bài hát năm 1968, Đĩa đơn của Parlophone, Đĩa đơn của Capitol Records, Bài hát trong phim, Bài hát hard rock, Đĩa đơn quán quân UK Singles Chart, Bài hát sản xuất bởi George Martin |
Lớp tàu khu trục Gearing bao gồm 98 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ trong và ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Lớp Gearing có những cải tiến nhỏ so với lớp Allen M. Sumner dẫn trước, khi lườn tàu được kéo dài thêm phía giữa tàu, giúp chúng có thêm khoảng trống chứa nhiên liệu, và do đó tăng thêm tầm xa hoạt động. Những chiếc Gearing đầu tiên chỉ sẵn sàng hoạt động vào giữa năm 1945, nên chúng chỉ có một ít phục vụ trong Thế Chiến II, nhưng đã tiếp tục phục vụ qua một loạt các nâng cấp cho đến thập niên 1970. Đến lúc đó, nhiều chiếc đã được bán cho các nước khác, nơi chúng tiếp tục hoạt động thêm nhiều năm nữa. Chín chiếc lớp Gearing hiện vẫn còn tồn tại. ARM (nguyên là phục vụ cùng Hải quân Mexico cho đến năm 2014, và sẽ bị đánh chìm như một bãi san hô nhân tạo; ROCS Chien Yang (nguyên là và ROCS Sheng Yang (nguyên là đang bị bỏ không tại Cao Hùng, Đài Loan cho đến tháng năm 2012. Sáu chiếc khác hiện đang là những tàu bảo tàng: TCG Gayret (nguyên là tại Izmit, Thổ Nhĩ Kỳ; ROKS Jeong Buk (nguyên là gần Gangneung, Nam Triều Tiên; ROCS Te Yang (nguyên là tại Đài Nam, Đài Loan; tại Fall River, Massachusetts; ROKS Jeong Ju (nguyên là gần Cheonan, Nam Triều Tiên; và tại Lake Charles, Louisiana. ROKS Kang Won (nguyên là ), từng là một tàu bảo tàng gần Busan, Nam Triều Tiên, đã bị tháo dỡ vào tháng 12 năm 2016. 31 chiếc được chấp thuận chế tạo vào ngày tháng năm 1942: DD-710 đến DD-721 được giao cho Federal Shipbuilding, Kearny. DD-742 đến DD-743 được giao cho Bath Iron Works, Bath, Maine. DD-763 đến DD-769 được giao cho Bethlehem Steel, San Francisco. DD-782 đến DD-791 được giao cho Todd Pacific Shipyards, Seattle. chiếc được chấp thuận chế tạo vào ngày 13 tháng năm 1942: DD-805 đến DD-808 được giao cho Bath Iron Works, Bath, Maine. chiếc được chấp thuận chế tạo vào ngày 27 tháng năm 1943 theo Đạo luật DD-809 đến DD-811 được giao cho Bath Iron Works, Bath, Maine. (bị hủy bỏ sau đó) 114 chiếc được chấp thuận chế tạo vào ngày 19 tháng năm 1943 theo Đạo luật Mở rộng 70%: DD-812 được giao cho Bath Iron Works, Bath, Maine. (bị hủy bỏ sau đó) DD-813 đến DD-814 được giao cho Bethlehem Steel, Staten Island. (bị hủy bỏ sau đó) DD-815 đến DD-825 được giao cho Consolidated Steel, Orange. (815 and 816 bị hủy bỏ sau đó) DD-826 đến DD-849 được giao cho Bath Iron Works, Bath, Maine. DD-850 đến DD-853 được giao cho Bethlehem Steel, Fore River Shipyard, Quincy. DD-854 đến DD-856 được giao cho Bethlehem Steel, Staten Island. (bị hủy bỏ sau đó) DD-858 đến DD-861 được giao cho Bethlehem Steel, San Pedro. DD-862 đến DD-872 được giao cho Bethlehem Steel, Staten Island. DD-873 đến DD-890 được giao cho Consolidated Steel, Orange. DD-891 đến DD-893 được giao cho Federal Shipbuilding, Kearny. (bị hủy bỏ sau đó) DD-894 đến DD-895 được giao cho Consolidated Steel, Orange. (bị hủy bỏ sau đó) DD-896 đến DD-904 được giao cho Bath Iron Works, Bath, Maine. (bị hủy bỏ sau đó) DD-905 đến DD-908 được giao cho Xưởng hải quân Boston. (bị hủy bỏ sau đó) DD-909 đến DD-916 được giao cho Bethlehem Steel, Staten Island. (bị hủy bỏ sau đó) DD-917 đến DD-924 được giao cho Consolidated Steel, Orange. (bị hủy bỏ sau đó) DD-925 đến DD-926 được giao cho Xưởng hải quân Charleston. (bị hủy bỏ sau đó) (Trong số những số hiệu lườn bị thiếu trong loạt này, 722 đến 741, 744 đến 762, 770 đến 781 và 857 được dành để đặt hàng lớp Allen M. Sumner; còn 792 đến 804 được dành để đặt hàng lớp Fletcher) Vào tháng năm 1945, đơn đặt hàng của 36 chiếc nêu trên bị hủy bỏ, và thêm 11 đơn đặt hàng khác bị hủy bỏ vào tháng năm 1945. Sau khi Thế Chiến II kết thúc, thêm chiếc khác bị hủy bỏ trong năm 1946: Castle (DD-720) và Woodrow R. Thomson (DD-721), cặp cuối cùng trong số 12 chiếc do Federal Shipbuilding hạ thủy tại Kearny, bị hủy bỏ vào ngày 11 tháng năm 1946. Chúng bị bán vào ngày 29 tháng năm 1955 và bị tháo dỡ. Lansdale (DD-766) và Seymour D. Owens (DD-767), được Bethlehem hạ thủy tại San Francisco, bị hủy bỏ vào ngày tháng năm 1946. Mũi tàu của chúng được sử dụng để sửa chữa các tàu khu trục khác, phần còn lại bị tháo dỡ vào năm 1958-1959. Hoel (DD-768) và Abner Read (ii) (DD-769), được Bethlehem đóng tại San Francisco, bị hủy bỏ vào ngày 12 tháng năm 1946 trước khi hạ thủy và được tháo dỡ trên ụ. Seaman (DD-791) do Todd Pacific Shipyards đóng tại Seattle; đã hoàn tất một phần. Được đưa về dự bị ngày 25 tháng năm 1946, bị bán ngày 12 tháng năm 1961 và bị tháo dỡ ngày 22 tháng năm 1961. Bốn chiếc chưa đặt tên (DD-809 đến DD-812) được giao cho Bath Iron Works, năm chiếc khác (DD-813, DD-814, và DD-854 đến DD-856) được giao cho Bethlehem tại Staten Island, và thêm hai chiếc (DD-815 và DD-816) được giao cho Consolidated Steel Corporation tại Orange, tất cả bị hủy bỏ vào ngày 12 tháng năm 1945. DD-815 dự định đặt tên Charles H. Roan (tên này được chuyển cho DD-853) và DD-816 dự định đặt tên Timmerman (tên này được chuyển cho DD-828). Thêm ba chiếc chưa đặt tên (DD-891 đến DD-893) được giao cho Federal Shipbuilding tại Kearney, bị hủy bỏ vào ngày tháng năm 1945. Thêm mười chiếc chưa đặt tên (DD-894, DD-895, và DD-917 đến DD-924) được giao cho Consolidated Steel Corporation tại Orange, và thêm bốn chiếc (DD-905 đến DD-908) được giao cho Xưởng hải quân Boston, cùng thêm hai chiếc (DD-925 và DD-926) được giao cho Xưởng hải quân Charleston, tất cả bị hủy bỏ vào ngày 27 tháng năm 1945. Thêm chín chiếc chưa đặt tên (DD-896 đến DD-904) được giao cho Bath Iron Works, và tám chiếc khác (DD-909 đến DD-916) được giao cho Bethlehem tại Staten Island, tất cả bị hủy bỏ vào ngày 28 tháng năm 1945. Chiếc đầu tiên trong lớp được đặt lườn vào tháng năm 1944, trong khi chiếc cuối cùng được hạ thủy vào tháng năm 1946; trong giai đoạn này Hoa Kỳ đã đóng 98 chiếc tàu khu trục lớp Gearing. Chúng có những cải tiến nhỏ so với lớp Allen M. Sumner dẫn trước, vốn được đóng từ năm 1943 đến năm 1945. Khác biệt chính là lườn tàu lớp Gearing được kéo dài thêm phía giữa tàu, giúp chúng có thêm khoảng trống chứa nhiên liệu, và do đó tăng thêm tầm xa hoạt động, một đặc tính quan trọng trong các chiến dịch tại Mặt trận Thái Bình Dương. Quan trọng hơn về dài hạn, kích thước lớn hơn của Gearing giúp chúng dễ nâng cấp hơn những chiếc Allen M. Sumner, ví dụ như những cải biến thành kiểu tàu khu trục cột mốc radar (DDR) và tàu khu trục hộ tống (DDE) vào những năm 1950, và Chương trình Hồi sinh và Hiện đại hóa Hạm đội (FRAM) đầu những năm 1960. Vào lúc thiết kế, lớp Gearing được trang bị vũ khí tương tự như của lớp Allen M. Sumner. Dàn hỏa lực chính bao gồm ba tháp pháo /38 caliber Mark 38 nòng đôi đa dụng, được dẫn đường bởi hệ thống kiểm soát hỏa lực pháo Mark 37 cùng với radar điều khiển hỏa lực Mark 25, kết nối bởi máy tính kiểm soát hỏa lực Mark và được ổn định bởi con quay hồi chuyển Mark tốc độ 8.500 rpm. Hệ thống kiểm soát hỏa lực này cho phép có được hỏa lực chống hạm hay phòng không tầm xa hiệu quả. Nó cũng được trang bị hỏa lực phòng không gồm 12 khẩu pháo Bofors 40 mm trên hai bệ bốn nòng và hai bệ nòng đôi, cùng 11 khẩu pháo Oerlikon 20 mm trên các bệ nòng đơn. Thiết kế ban đầu giữ lại dàn vũ khi ngư lôi mạnh của lớp Allen M. Sumner, bao gồm 10 ống phóng ngư lôi bên hai bệ năm nòng, bắn ra kiểu ngư lôi Mark 15. Tuy nhiên, do mối đe dọa của không kích kiểu Kamikaze vào cuối Thế Chiến II, cũng như số lượng hạm tàu nổi ít ỏi còn lại của Hải quân Nhật, đa số những chiếc trong lớp tháo bỏ bệ ngư lôi năm nòng phía sau để tăng cường thêm một khẩu đội 40 mm bốn nòng, nâng tổng số nòng pháo 40 mm phòng không lên 16. Sau này, 26 chiếc (DD-742-745, 805-808, 829-835, và 873-883) được đặt hàng mà không có ống phóng ngư lôi để lấy chỗ cho thiết bị điện tử radar; chúng được xếp lại lớp như những tàu khu trục cột mốc radar (DDR) vào năm 1948. Sơ đồ trình bày sự phát triển của lớp Gearing. Tập tin:QSA Item ID 436402 United States Navy ships under the Story Bridge, Brisbane, January 1958 và bên dưới cầu Story, Brisbane, Australia vào tháng 1, 1958. Sau Thế Chiến II, đa số những chiếc trong lớp được nâng cấp vũ khí phòng không và chống ngầm. Pháo phòng không 40 mm và 20 mm được thay bằng hai đến sáu khẩu pháo /50 caliber bố trí tối đa trên hai bệ nòng độ và hai bệ nòng đơn. Một đường ray thả mìn sâu được tháo dỡ và hai súng cối chống tàu ngầm Hedgehog được trang bị; máy phóng mìn sâu K-gun được giữ lại. Vào đầu những năm 1950 có thêm chín chiếc được cải biến thành tàu khu trục cột mốc radar (DDR), nâng tổng số lên 35 chiếc; chúng thường chỉ có một tháp pháo 3-inch/50 caliber nòng đôi để tiết kiệm trọng lượng cho thiết bị radar, tương tự như những tàu cột mốc radar thời chiến. Chín chiếc được cải biến thành tàu khu trục hộ tống (DDE), nhấn mạnh đến khả năng chống ngầm. là chiếc được cải biến thành tàu khu trục hộ tống triệt để nhất, có bốn khẩu pháo inch/70 Mark 26 trên hai tháp pháo nòng đôi bọc kín, hai máy phóng vũ khí Alpha chống ngầm, bốn ống phóng ngư lôi 21-inch kiểu mới để phóng ngư lôi Mark 37 chống ngầm, và một đường ray thả mìn sâu. (trên) khi đưa vào hoạt động, và (dưới) sau nâng cấp FRAM I. Vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, 78 chiếc lớp Gearing được nâng cấp rộng rãi trong Chương trình Hồi sinh và Hiện đại hóa Hạm đội (Fleet Rehabilitation and Modernization), hay còn gọi là FRAM I, nhằm cải biến chúng từ những tàu khu trục phòng không thành những tàu khu trục chống ngầm. FRAM tháo dỡ mọi thiết bị DDR và DDE, và xếp lại lớp thành những tàu khu trục thông thường (DD). Việc nâng cấp FRAM và FRAM II hoàn tất từ năm 1960 đến năm 1965, và cuối cùng mọi chiếc lớp Gearing, ngoại trừ ba chiếc, đều được cải biến FRAM hoặc FRAM II. Những nâng cấp của FRAM bao gồm cải tạo cấu trúc thượng tầng và nâng cấp các thiết bị điện tử, radar, sonar và vũ khí. Tháp pháo 5-inch nòng đôi thứ hai cùng mọi pháo phòng không và thiết bị chống ngầm bị tháo dỡ. Chúng được nâng cấp các hệ thống sonar SQS-23, radar dò tìm mặt biển SPS-10, hai dàn phóng ống phóng ngư lôi Mark 32 chống ngầm ba nòng, một dàn phóng tên lửa chống ngầm RUR-5 ASROC (Anti-Submarine ROCket) tám nòng, và một máy bay trực thăng không người lái chống ngầm Gyrodyne QH-50 DASH với sàn đáp và hầm chứa dành riêng. Cả ống phóng Mark 32 lẫn ống phóng tên lửa ASROC đều có thể phóng kiểu ngư lôi Mark 44 chống ngầm; ngoài ra tên lửa ASROC còn có thể mang một mìn sâu mang đầu đạn hạt nhân. Vào ngày 11 tháng 5, 1962, tàu khu trục đã phóng thử nghiệm thành công một tên lửa ASROC mang đầu đạn hạt nhân trong khuôn khổ cuộc thử nghiệm Swordfish. Gyrodyne QH-50C DASH (Drone Anti-Submarine Helicopter) là một kiểu máy bay trực thăng không người lái chống ngầm được điều khiển từ tàu mẹ. Nó cũng có thể mang hai ngư lôi Mark 44 chống ngầm dẫn đường bằng sonar chủ động hay thụ động. Vào thời kỳ này tầm xa tối đa của tên lửa ASROC chỉ đạt được trong khi DASH cho phép triển khai tấn công chống tàu ngầm vào mục tiêu do sonar phát hiện tầm xa đến Tuy nhiên, DASH tỏ ra kém tin cậy khi hoạt động trên tàu, với trên một nữa trong tổng số 746 chiếc bị rơi xuống biển, có thể là do việc hỗ trợ bảo trì không thỏa đáng, vì DASH hoạt động trong những lĩnh vực khác ít gặp trục trặc. Cho đến năm 1970 DASH được rút khỏi phục vụ trên các tàu FRAM I, nhưng vào nữa đầu thập niên 1970 vẫn được giữ lại trên các tàu FRAM II do không có tên lửa ASROC. Một giới hạn của máy bay không người lái trong chống ngầm là đòi hỏi phải bắt lại mục tiêu khi nó bên ngoài tầm sonar hiệu quả của tàu mẹ. Điều này đã đưa đến việc chuyển sang chương trình LAMPS (Light Airborne Muliti-Purpose System) sử dụng máy bay trực thăng có người lái, mà lớp quá nhỏ để có thể chở theo. QH-50D, một phiên bản nâng cấp của DASH, tiếp tục được Lục quân Hoa Kỳ sử dụng cho đến tháng 5, 2006. Nâng cấp FRAM được chia thành hai nhóm như sau: FRAM "A" (tám chiếc được cải biến đầu tiên): Tháo dỡ tháp pháo inch/38 caliber phía đuôi (bệ 53). Trang bị hai dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog MK10/11 hai bên cầu tàu mức sàn trên, các ống phóng ngư lôi MK-32 ba nòng được bố trí phía sau ống khói số 2. FRAM "B" (những chiếc còn lại): Giữ lại tháp pháo inch trước mũi (bệ 51) và tháp pháo inch phía đuôi (bệ 53); tháp pháo inch thứ hai (bệ 52) được tháo dỡ thay bằng thiết bị nạp đạn tự động cho pháo 5-inch, và hai dàn ống phóng ngư lôi Mark 32 được bố trí tiếp theo sau. Nhóm này cũng có chỗ chứa tên lửa ASROC và ngư lôi rộng rãi hơn cạnh mạn trái của hầm chứa trực thăng DASH. sau khi được nâng cấp FRAM II. Chương trình FRAM II được thiết kế chủ yếu dành cho tàu khu trục lớp Allen M. Sumner, nhưng mười sáu chiếc lớp Gearing cũng đã được nâng cấp tương tự. Chương trình nâng cấp này bao gồm việc tân trang để kéo dài tuổi thọ phục vụ, và trang bị mới hệ thống radar, ống phóng ngư lôi Mark 32, máy bay trực thăng DASH không người lái, và sonar độ sâu thay đổi (VDS variable depth sonar). Điểm khác biệt quan trọng là chúng không có tên lửa ASROC. Những chiếc FRAM II bao gồm sáu chiếc DDR và sáu chiếc DDE vốn được giữ lại những thiết bị chuyên dụng trong giai đoạn 1960-1961, cùng bốn chiếc DDR được cải biến thành DD và gần tương tự như FRAM II của lớp Allen M. Sumner trong giai đoạn 1962-1963. Những chiếc FRAM II giữ lại toàn bộ sáu khẩu pháo 5-inch, ngoại trừ những chiếc DDE giữ lại bốn khẩu pháo 5-inch cùng một bệ Hedgehog xoay được tại vị trí tháp pháo số 2. Mọi chiếc FRAM II giữ lại hai dàn Hedgehog cùng với tháp pháo 5-inch số hay bệ Hedgehog xoay được. Bốn chiếc DDR cải biến thành DD trang bị hai dàn ống phóng ngư lôi 21-inch cho kiểu ngư lôi Mark 37. Hình ảnh của sáu chiếc DDR được giữ lại cho thấy không có sàn đáp cho DASH cũng như một sàn sau nhỏ hơn nhiều, gợi rằng chúng không mang theo máy bay trực thăng DASH. Tên (số hiệu lườn) Xưởng đóng tàu Đặt lườn Hạ thủy Nhập biên chế FRAM FRAM II Xuất biên chế Số phận Federal Shipbuilding and Drydock Company, Newark, New Jersey 10 tháng 8, 1944 18 tháng 2, 1945 tháng 5, 1945 tháng 7, 1973 Bán để tháo dỡ, tháng 11, 1974 17 tháng 8, 1944 18 tháng 3, 1945 tháng 6, 1945 31 tháng 8, 1972 Chuyển cho Tây Ban Nha, 31 tháng 8, 1972 tháng 9, 1944 15 tháng 4, 1945 tháng 7, 1945 22 tháng 10, 1969 Đánh chìm như mục tiêu, 11 tháng 6, 1970 21 tháng 9, 1944 17 tháng 6, 1945 31 tháng 7, 1945 20 tháng 1, 1970 Bán cho Iran, 13 tháng 1, 1975, tháo dỡ làm nguồn phụ tùng 19 tháng 10, 1944 tháng 7, 1945 21 tháng 9, 1945 tháng 7, 1978 Chuyển cho Hàn Quốc 1978; trở thành tàu bảo tàng 2000; tháo dỡ tháng 12, 2016 tháng 11, 1944 29 tháng 7, 1945 24 tháng 11, 1945 tháng 12, 1976 Đánh chìm như mục tiêu ngoài khơi Puerto Rico, tháng 3, 1983 13 tháng 3, 1945 31 tháng 8, 1945 12 tháng 1, 1946 23 tháng 1, 1976 Bán cho Pakistan, 29 tháng 4, 1977 23 tháng 4, 1945 20 tháng 10, 1945 22 tháng 3, 1946 tháng 4, 1975 Bán để tháo dỡ, 30 tháng 12, 1975 25 tháng 4, 1945 24 tháng 11, 1945 12 tháng 7, 1946 tháng 10, 1979 Bán cho Đài Loan, 17 tháng 12, 1980 20 tháng 6, 1945 22 tháng 12, 1945 19 tháng 3, 1949 tháng 12, 1975 Chuyển cho Pakistan, 29 tháng 4, 1977 Bath Iron Works, Bath, Maine tháng 5, 1944 17 tháng 9, 1944 11 tháng 12, 1944 30 tháng 1, 1971 Chuyển cho Hy Lạp, tháng 2, 1971 27 tháng 5, 1944 tháng 10, 1944 22 tháng 12, 1944 26 tháng 2, 1981 Đánh chìm như mục tiêu, tháng 8, 1997 Bethlehem Shipbuilding Corporation, San Francisco, California 12 tháng 3, 1944 21 tháng 5, 1945 18 tháng 12, 1946 tháng 10, 1983 Đánh chìm như mục tiêu, 14 tháng 7, 1999 26 tháng 3, 1944 tháng 10, 1945 21 tháng 3, 1947 12 tháng 10, 1972 Bán cho Đài Loan, 12 tháng 10, 1972 23 tháng 4, 1944 24 tháng 6, 1946 23 tháng 5, 1947 tháng 7, 1972 Bán cho Thổ Nhĩ Kỳ Todd Pacific Shipyards, Seattle, Washington 25 tháng 3, 1944 29 tháng 12, 1944 31 tháng 3, 1945 18 tháng 12, 1975 Mắc cạn và đắm đang khi kéo đi tháo dỡ, 22 tháng 8, 1977 tháng 7, 1944 15 tháng 2, 1945 12 tháng 5, 1945 30 tháng 1, 1976 Chuyển cho Hy Lạp, 17 tháng 3, 1977 15 tháng 9, 1944 31 tháng 3, 1945 tháng 6, 1945 tháng 10, 1981 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, tháng 11, 1982 27 tháng 10, 1944 28 tháng 5, 1945 tháng 8, 1945 30 tháng 9, 1980 Bán cho Pakistan, tháng 10, 1980 tháng 12, 1944 tháng 7, 1945 26 tháng 10, 1945 20 tháng 12, 1975 Chuyển cho Đài Loan, tháng 6, 1977 27 tháng 12, 1944 tháng 8, 1945 tháng 2, 1946 31 tháng 3, 1973 Chuyển cho Đài Loan, 18 tháng 4, 1973 18 tháng 1, 1945 tháng 10, 1945 29 tháng 3, 1946 31 tháng 8, 1979 Chuyển cho Đài Loan, tháng 3, 1983 28 tháng 2, 1945 tháng 1, 1946 10 tháng 5, 1946 11 tháng 7, 1973 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, 11 tháng 7, 1973 31 tháng 5, 1945 tháng 3, 1946 21 tháng 6, 1946 31 tháng 3, 1973 Bán cho Đài Loan, 18 tháng 4, 1973 Bath Iron Works, Bath, Maine 12 tháng 6, 1944 29 tháng 10, 1944 tháng 1, 1945 tháng 7, 1972 Chuyển cho Hàn Quốc, tháng 7, 1972 26 tháng 6, 1944 13 tháng 11, 1944 27 tháng 1, 1945 15 tháng 7, 1979 Đánh chìm như mục tiêu, 24 tháng 4, 1986 10 tháng 7, 1944 30 tháng 11, 1944 13 tháng 2, 1945 20 tháng 11, 1970 Bán để tháo dỡ, 18 tháng 4, 1975 24 tháng 7, 1944 20 tháng 12, 1944 tháng 3, 1945 tháng 7, 1973 Bán để tháo dỡ, 29 tháng 4, 1974 Consolidated Steel Corporation, Orange, Texas tháng 4, 1945 28 tháng 7, 1945 27 tháng 2, 1946 27 tháng 2, 1981 Chuyển cho Hy Lạp, tháng 7, 1981 14 tháng 4, 1945 18 tháng 8, 1945 tháng 4, 1946 tháng 7, 1976 Chuyển cho Hàn Quốc, 23 tháng 2, 1977 23 tháng 4, 1945 25 tháng 8, 1945 18 tháng 5, 1946 tháng 10, 1976 Chuyển cho Ecuador, 23 tháng 2, 1977 16 tháng 5, 1945 tháng 10, 1945 tháng 7, 1946 10 tháng 11, 1977 Bán để tháo dỡ, tháng 12, 1979 26 tháng 3, 1945 10 tháng 10, 1945 23 tháng 8, 1946 27 tháng 2, 1981 Chuyển cho Đài Loan, 27 tháng 2, 1981 20 tháng 6, 1945 tháng 11, 1945 23 tháng 10, 1946 tháng 6, 1980 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, tháng 6, 1980 27 tháng 6, 1945 30 tháng 11, 1945 22 tháng 12, 1946 tháng 11, 1970 Đánh chìm như mục tiêu, 14 tháng 11, 1971 tháng 7, 1945 21 tháng 12, 1945 26 tháng 7, 1949 tháng 11, 1977 Đánh chìm trong thực tập, tháng 4, 1982 30 tháng 7, 1945 28 tháng 9, 1945 15 tháng 12, 1949 20 tháng 2, 1981 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, 20 tháng 2, 1981 Bath Iron Works, Bath, Maine 10 tháng 9, 1945 30 tháng 3, 1946 20 tháng 6, 1946 tháng 12, 1978 Đánh chìm như mục tiêu, 18 tháng 7, 1982 29 tháng 10, 1945 15 tháng 7, 1946 tháng 11, 1949 16 tháng 2, 1982 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, 16 tháng 2, 1982 tháng 10, 1945 19 tháng 5, 1951 26 tháng 9, 1952 27 tháng 7, 1956 Bán để tháo dỡ, 21 tháng 4, 1959 14 tháng 8, 1944 13 tháng 1, 1945 20 tháng 3, 1945 tháng 10, 1979 Chuyển cho Hy Lạp để làm nguồn phụ tùng, tháng 8, 1980 tháng 9, 1944 28 tháng 1, 1945 tháng 4, 1945 30 tháng 10, 1972 Chuyển cho Hàn Quốc, 30 tháng 10, 1972 18 tháng 9, 1944 25 tháng 2, 1945 24 tháng 4, 1945 30 tháng 11, 1969 Bán để tháo dỡ, 12 tháng 9, 1977 tháng 10, 1944 11 tháng 3, 1945 11 tháng 5, 1945 31 tháng 3, 1973 Chuyển cho Đài Loan, 18 tháng 4, 1973 30 tháng 10, 1944 25 tháng 3, 1945 29 tháng 5, 1945 tháng 12, 1970 Chuyển cho Đài Loan, tháng 6, 1974 13 tháng 11, 1944 tháng 4, 1945 12 tháng 6, 1945 26 tháng 9, 1969 Bán để tháo dỡ, 13 tháng 10, 1970 tháng 12, 1944 tháng 4, 1945 29 tháng 6, 1945 tháng 10, 1979 Bán cho Hy Lạp, tháng 8, 1980 21 tháng 12, 1944 13 tháng 5, 1945 13 tháng 7, 1945 30 tháng 9, 1976 Đánh chìm như mục tiêu, 15 tháng 10, 1976 15 tháng 1, 1945 27 tháng 5, 1945 31 tháng 7, 1945 tháng 10, 1977 Chuyển cho Đài Loan, tháng 10, 1977; hiện là tàu bảo tàng tại cảng An Bình, Đài Nam. 30 tháng 1, 1945 14 tháng 6, 1945 21 tháng 8, 1945 13 tháng 11, 1970 Chuyển cho Đài Loan, 13 tháng 4, 1971 26 tháng 2, 1945 30 tháng 6, 1945 13 tháng 9, 1945 tháng 10, 1977 Bán cho Đài Loan, tháng 10, 1977 12 tháng 3, 1945 14 tháng 7, 1945 tháng 10, 1945 tháng 10, 1976 Đánh chìm như mục tiêu, 26 tháng 2, 1981 26 tháng 3, 1945 30 tháng 7, 1945 tháng 11, 1945 31 tháng 10, 1973 Chuyển cho Tây Ban Nha, 31 tháng 10, 1973; bán, 17 tháng 5, 1978 tháng 4, 1945 tháng 9, 1945 28 tháng 11, 1945 tháng 6, 1980 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, tháng 6, 1980 23 tháng 4, 1945 27 tháng 9, 1945 20 tháng 12, 1945 30 tháng 9, 1972 Chuyển cho Đài Loan, 24 tháng 4, 1973, tháo dỡ làm nguồn phụ tùng 14 tháng 5, 1945 25 tháng 10, 1945 17 tháng 1, 1946 tháng 7, 1973 Bán để tháo dỡ, 24 tháng 6, 1974 28 tháng 5, 1945 19 tháng 11, 1945 tháng 2, 1946 30 tháng 5, 1978 Đánh chìm như mục tiêu, 17 tháng 7, 1987 16 tháng 6, 1945 22 tháng 12, 1945 tháng 3, 1946 30 tháng 5, 1975 Bán để tháo dỡ, tháng 12, 1975 tháng 7, 1945 tháng 1, 1946 28 tháng 3, 1946 30 tháng 9, 1974 Đánh chìm như mục tiêu, tháng 3, 1980 16 tháng 7, 1945 tháng 2, 1946 23 tháng 4, 1946 19 tháng 8, 1968 Đánh chìm như mục tiêu, tháng 7, 1969 31 tháng 7, 1945 tháng 3, 1946 23 tháng 5, 1946 tháng 7, 1976 Chuyển cho Hàn Quốc, 23 tháng 2, 1977 Bethlehem Shipbuilding Corporation, Fore River Shipyard, Quincy, Massachusetts tháng 4, 1945 26 tháng 7, 1945 15 tháng 12, 1945 tháng 7, 1973 Tàu bảo tàng tại Battleship Cove tháng 5, 1945 21 tháng 9, 1945 tháng 3, 1946 10 tháng 7, 1973 Chuyển cho Hy Lạp, 10 tháng 7, 1973 tháng 5, 1945 tháng 1, 1946 28 tháng 6, 1946 tháng 11, 1976 Bán cho Đài Loan, 10 tháng 3, 1978 tháng 4, 1945 15 tháng 3, 1946 12 tháng 9, 1946 21 tháng 9, 1973 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, 21 tháng 9, 1973 Bethlehem Shipbuilding Corporation, San Pedro, California 16 tháng 7, 1944 28 tháng 1, 1945 12 tháng 5, 1945 15 tháng 9, 1970 Đánh chìm như dãi san hô nhân tạo, 14 tháng 5, 1972 29 tháng 8, 1944 25 tháng 2, 1945 tháng 6, 1945 tháng 12, 1970 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, tháng 7, 1974 tháng 10, 1944 12 tháng 4, 1945 26 tháng 7, 1945 30 tháng 9, 1973 Bán để tháo dỡ, 11 tháng 6, 1974 29 tháng 10, 1944 22 tháng 5, 1945 28 tháng 9, 1945 tháng 2, 1971 Bán cho Thổ Nhĩ Kỳ, 17 tháng 12, 1973 Bethlehem Steel Corporation, Staten Island, New York tháng 8, 1944 15 tháng 1, 1945 28 tháng 4, 1945 24 tháng 2, 1982 Bán cho Mexico, 24 tháng 2, 1982 tháng 9, 1944 13 tháng 2, 1945 26 tháng 5, 1945 24 tháng 2, 1982 Bán cho Mexico, 24 tháng 2, 1982 tháng 10, 1944 14 tháng 3, 1945 23 tháng 6, 1945 tháng 10, 1983 Chuyển cho Pakistan, tháng 10, 1983 tháng 11, 1944 12 tháng 4, 1945 21 tháng 7, 1945 30 tháng 11, 1974 Đánh chìm như mục tiêu 15 tháng 11, 1981 30 tháng 11, 1944 10 tháng 5, 1945 18 tháng 8, 1945 tháng 10, 1982 Chuyển cho Pakistan, tháng 10, 1982 15 tháng 1, 1945 tháng 6, 1945 29 tháng 9, 1945 tháng 7, 1976 Đánh chìm như mục tiêu, 27 tháng 7, 1980 13 tháng 2, 1945 tháng 7, 1945 17 tháng 11, 1945 30 tháng 9, 1976 Bán để tháo dỡ, 10 tháng 6, 1977 14 tháng 3, 1945 tháng 8, 1945 tháng 1, 1946 tháng 12, 1973 Bán cho Hy Lạp, tháng 12, 1973 12 tháng 4, 1945 19 tháng 9, 1945 tháng 3, 1946 11 tháng 9, 1970 Bán để tháo dỡ, 28 tháng 6, 1972 10 tháng 5, 1945 21 tháng 11, 1945 27 tháng 4, 1946 30 tháng 9, 1980 Chuyển cho Pakistan, tháng 10, 1980 tháng 6, 1945 17 tháng 1, 1946 29 tháng 6, 1946 27 tháng 3, 1971 Bán cho Thổ Nhĩ Kỳ, 27 tháng 3, 1971 Consolidated Steel Corporation, Orange, Texas 14 tháng 5, 1944 tháng 10, 1944 10 tháng 2, 1945 tháng 10, 1979 Bán cho Đài Loan, 17 tháng 3, 1983 22 tháng 5, 1944 27 tháng 10, 1944 25 tháng 2, 1945 15 tháng 1, 1971 Đánh chìm như mục tiêu, 31 tháng 7, 1980 29 tháng 5, 1944 tháng 11, 1944 12 tháng 3, 1945 tháng 12, 1973 Chuyển cho Brazil, tháng 12, 1973 tháng 6, 1944 20 tháng 11, 1944 26 tháng 3, 1945 tháng 10, 1980 Chuyển cho Hàn Quốc, 25 tháng 7, 1981 19 tháng 6, 1944 tháng 12, 1944 tháng 4, 1945 15 tháng 1, 1973 Chuyển cho Argentina, 15 tháng 1, 1973 tháng 7, 1944 29 tháng 12, 1944 23 tháng 4, 1945 tháng 12, 1976 Đánh chìm như mục tiêu, 14 tháng 4, 1983 11 tháng 8, 1944 20 tháng 1, 1945 tháng 5, 1945 31 tháng 10, 1973 Chuyển cho Tây Ban Nha, 17 tháng 5, 1978 17 tháng 8, 1944 26 tháng 1, 1945 21 tháng 5, 1945 27 tháng 1, 1981 Bán cho Hy Lạp, tháng 7, 1981, tháo dỡ làm nguồn phụ tùng tháng 9, 1944 tháng 3, 1945 tháng 6, 1945 tháng 2, 1977 Chuyển cho Iran, tháng 7, 1977 23 tháng 9, 1944 tháng 3, 1945 10 tháng 7, 1945 31 tháng 8, 1972 Loaned to Tây Ban Nha, 1972; Sold, 17 tháng 5, 1978 10 tháng 10, 1944 17 tháng 3, 1945 26 tháng 7, 1945 27 tháng 2, 1981 Chuyển cho Hàn Quốc, 27 tháng 2, 1981 30 tháng 10, 1944 31 tháng 3, 1945 31 tháng 7, 1945 tháng 7, 1973 Bán để tháo dỡ, tháng 4, 1974 17 tháng 11, 1944 14 tháng 4, 1945 20 tháng 8, 1945 27 tháng 7, 1979 Đánh chìm như mục tiêu, 17 tháng 6, 1980 28 tháng 11, 1944 12 tháng 5, 1945 15 tháng 9, 1945 tháng 10, 1982 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, tháng 10, 1982 20 tháng 12, 1944 26 tháng 5, 1945 tháng 10, 1945 tháng 12, 1973 Chuyển cho Brazil, tháng 12, 1973 tháng 1, 1945 16 tháng 6, 1945 31 tháng 10, 1945 tháng 7, 1972 Chuyển cho Hy Lạp, tháng 7, 1972 27 tháng 1, 1945 22 tháng 6, 1945 29 tháng 11, 1945 31 tháng 10, 1973 Chuyển cho Tây Ban Nha, 31 tháng 10, 1973; bán, 17 tháng 5, 1978 27 tháng 1, 1945 28 tháng 6, 1945 31 tháng 12, 1945 29 tháng 6, 1979 Chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ, 29 tháng 6, 1979 NavSource.org Destroyer Photo Gallery index page destroyers at Destroyer History Foundation Gearing Class | Lớp tàu khu trục ''Gearing | Lớp tàu khu trục, Lớp tàu khu trục Gearing |
Shadyside là một làng thuộc quận Belmont, tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của làng này là 3785 người. *Dân số năm 2000: 3675 người. *Dân số năm 2010: 3785 người. American Finder | Shadyside | Làng thuộc tiểu bang Ohio, Quận Belmont, Ohio |
Định vị là xác định vị trí. Định hướng là xác định vị trí cùng phương hướng. Điều hướng là định hướng liên tục, tức theo dõi, xử lý, và điều khiển, để chuyển động mình hoặc máy móc tới nơi khác trong môi trường thực tế hoặc ảo. Định vị, định hướng, và điều hướng đều quan trọng trong các nghề hàng hải (đối với tàu thuyền), hàng không, hậu cần, và địa tin học, cũng như trong môn chạy định hướng. | Định vị | Khoa học |
1492 Oppolzer (1938 FL) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 23 tháng năm 1938 bởi Y. Vaisala Turku. JPL Small-Body Database Browser ngày 1492 Oppolzer | 1492 Oppolzer | |
là một xã của tỉnh Pas-de-Calais, thuộc vùng miền bắc nước Pháp. Biến động dân số 1962 1968 1975 1982 1990 1999 150 169 132 132 116 126 Census count starting from 1962: Population without duplicates Xã của tỉnh Pas-de-Calais INSEE IGN The CWGC cemetery Gommecourt on the Quid website | null | Xã của Pas-de-Calais |
Lubuntu () là một dự án chính thức bắt nguồn từ hệ điều hành Ubuntu, nó có đặc điểm "nhẹ hơn, ít đòi hỏi tài nguyên và tiết kiệm năng lượng một cách hiệu quả", sử dụng môi trường LXDE. Máy tính để bàn LXDE sử dụng chương trình quản lý cửa sổ Openbox, khuyến cáo sử dụng hệ điều hành này cho các thiết bị có dung lượng RAM thấp như netbook, laptop cũ và những máy tính đời cũ. Với đặc điểm như vậy, hệ điều hành này sẽ cạnh tranh với Xubuntu. Xem xét ban đầu cho thấy nó sử dụng chỉ một nửa lượng RAM so với Xubuntu hoặc Ubuntu khi sử dụng. Cái tên Lubuntu là sự kết hợp giữa LXDE và Ubuntu. LXDE là viết tắt của cụm từ Lightweight X11 Desktop Environment, trong khi đó Ubuntu có nghĩa là "tình người" trong ngôn ngữ Zulu và Xhosa. Môi trường LXDE lần đầu tiên được phát hành như một gói tùy chọn dành cho Ubuntu từ phiên bản 8.10 "Intrepid Ibex". LXDE có thể cũng được cài đặt trong những phiên bản trước đó của Ubuntu. Tháng năm 2009, Mark Shuttleworth biến LXDE trở thành dự án tự duy trì trong cộng đồng Ubuntu với mục đích chính là tạo ra một phát sinh mới chính thức bắt nguồn từ Ubuntu được gọi là Lubuntu. Tháng 3/2009, dự án Lubuntu được bắt đầu trên Launchpad bởi Mario Behling, bao gồm biểu tượng dự án ban đầu. Dự án đồng thời lập ra một trang chính thức về Ubuntu trên wiki cũng thuộc quyền quản lý của Behling, trang này bao gồm những ứng dụng, những gói tin và các thành phần. Tháng 8/2009, lần kiểm tra đầu tiên sử dụng một đĩa CD trực tiếp, không có tùy chọn cài đặt. 30/12/2009, phiên bản Alpha "Preview" ISO Lubuntu 10.04 Lucid Lynx có sẵn để tải về, bản Alpha vào ngày 24, tháng năm 2010 cũng tương tự. Tháng năm 2010, người phát triển chính của Lubuntu là Julien Lavergne đã thông báo rằng Lubuntu vẫn chưa thể trở thành một bản phân nhánh chính thức của Ubuntu như một phần của Gia đình Ubuntu vì vẫn còn vấn đề về tài nguyên trong cơ sở hạ tầng của vẫn chưa được giải quyết trong kỳ phát hành này (Bản 10.04), và Canonical đang trong tiến trình tích hợp thành viên mới Lubuntu vào gia đình Ubuntu, tuy nhiên tiến trình này vẫn chưa hoàn tất. Mục tiêu trở thành thành viên chính thức trong gia đình Ubuntu vẫn sẽ được tiếp tục cho đến ngày phát hành Ubuntu 10.10. Lubuntu 10.10 đã được phát hành vào ngày 10 tháng 10 năm 2010. Trong lần phát hành này Lubuntu vẫn chưa thể trở thành thành viên trong gia đình Ubuntu vì vấn đề cơ sở hạ tầng Lubuntu 10.10 giới thiệu artwork mới như panel, logo, ảnh nền, giao diện Openbox... Những kiểm tra ban đầu được thực hiện bởi Linux Magazine, người tường thuật là Christopher Smart đã chỉ ra rằng sử dụng RAM của Lubuntu thì bằng khoảng một nửa của Xubuntu và Ubuntu cài đặt thông thường và sử dụng trên máy tính để bàn, và ít hơn 1/3 khi sử dụng trên trực tiếp CD. Phiên bản không còn được hỗ trợ Phiên bản vẫn còn được hỗ trợ Phiên bản trong tương lai Phiên bản Code Name Ngày phát hành Hỗ trợ đến Các chú thích 8.10 Intrepid Ibex 30/10/2008 04/2010 Chỉ có sẵn như một gói màn hình nền tùy chọn 9.04 Jaunty Jackalope 23/04/2009 10/2010 Chỉ có sẵn như một gói màn hình nền tùy chọn 9.10 Karmic Koala 26/10/2009 04/2011 Chỉ có sẵn như một gói màn hình nền tùy chọn 10.04 Lucid Lynx 02/05/2010 10/2011 Phiên bản độc lập đầu tiên 10.10 Maverick Meerkat 10/10/2010 04/2012 Phiên bản "stable-beta" 11.04 Natty Narwhal 28/04/2011 10/2012 11.10 Oneiric Ocelot 13/10/2011 04/2013 Phiên bản đầu tiên với đĩa CD X86-64. Phiên bản đầu tiên vào gia đình Ubuntu 12.04 Precise Pangolin 26/04/2012 10/2013 Ubuntu 12.04 là phiên bản LTS (hỗ trợ dài hạn), nhưng Lubuntu 12.04 thì không phải 12.10 Quantal Quetzal 18/10/2012 04/2014 Chủ đề "Box Icon" mới 13.04 Raring Ringtail 25/04/2013 12/2013 13.10 Saucy Salamander 17/10/2013 06/2014 Chromium bị thay thế bởi Mozilla Firefox 14.04 LTS Trusty Tahr 17/04/2014 04/2019 Phiên bản LTS (hỗ trợ dài hạn) đầu tiên, hỗ trợ trong năm 14.10 Utopic Unicorn 24/10/2014 06/2015 15.04 Vivid Vervet 23/04/2015 12/2015 15.10 Wily Werewolf 22/10/2015 06/2016 16.04 LTS Xenial Xerus 21/04/2016 04/2021 Phiên bản LTS (hỗ trợ dài hạn) thứ 16.10 Yakkety Yak 13/10/2016 06/2017 17.04 Zesty Zapus 13/04/2017 12/2017 17.10 Artful Aardvark 19/10/2017 06/2018 18.04 LTS Bionic Beaver 26/04/2018 04/2023 Phiên bản LTS (hỗ trợ dài hạn) thứ 18.10 Cosmic Cuttlefish 18/10/2018 06/2019 Phiên bản đầu tiên dùng môi trường làm việc LXQt 19.04 Disco Dingo 18/04/2019 12/2019 19.10 Eoan Ermine 17/10/2019 06/2020 20.04 LTS Focal Fossa 23/04/2020 04/2025 Phiên bản LTS (hỗ trợ dài hạn) hiện tại 20.10 Groovy Gorilla 22/10/2020 07/2021 21.04 Hirsute Hippo 22/04/2021 01/2022 Phiên bản thông thường hiện tại Linux Mint LXDE một dự án tương tự dựa trên Ubuntu và LXDE. Peppermint OS Bản phân phối phát triển từ Lubuntu 10.04 Alpha với một số tiện ích từ Linux Mint LXDE. LXDE Xubuntu Ubuntu Website chính thức của Lubuntu Lubuntu trên Ubuntu Wiki | Lubuntu | Ubuntu (operating system) derivatives, LXDE |
Cymatium comptum là một loài ốc biển săn mồi, là động vật thân mềm chân bụng sống biển trong họ Ranellidae, họ ốc tù và. Chiều dài tối đa của vỏ ốc được ghi nhận là 34 mm. Độ sâu tối thiểu được ghi nhận là m. Độ sâu tối đa được ghi nhận là 214 m. | ''Cymatium comptum | Cymatium |
Sân bay Kim Loan Châu Hải (tiếng Trung: 珠海金湾机场, tên giao dịch tiếng Anh: Zhuhai Jinwan Airport) là một sân bay Châu Hải, Quảng Đông, Trung Quốc Các điểm đến Châu Hải *Quảng Đông *Danh sách các sân bay Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Kim Loan Châu Hải | Sân bay Kim Loan Châu Hải | Chu Hải |
svensonii' là một loài thực vật thuộc họ Verbenaceae. Đây là loài đặc hữu của Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Santiana, J. Pitman, N. 2004. svensonii''. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 23 tháng năm 2007. | null | |
Pinus brutia là một loài thực vật hạt trần trong họ Thông. Loài này được Ten. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1811. Phạm vi phân bố Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng nó cũng mở rộng đến quần đảo Aegea của Hy Lạp, bán đảo Krym, Iran, Gruzia, Azerbaijan, miền bắc Iraq, phía tây Syria, Israel, Liban, và Síp. | ''Pinus brutia | Chi Thông, Cây trang trí |
Huyện Fraubrunnen là một trong 26 huyện hành chính bang Bern, Thụy Sĩ. Thủ phủ là đô thị Fraubrunnen. Huyện này có diện tích 124 km² và gồm có 27 đô thị: Huyện Fraubrunnen Các đô thị của Fraubrunnen Đô thị Dân số (tháng năm 2005) Diện tích (km²) Ballmoos 54 1.5 Bangerten 163 2,2 Bätterkinden 2,780 10,1 Büren zum Hof 455 3,5 Deisswil bei Münchenbuchsee 80 2,1 Diemerswil 185 2,8 Etzelkofen 350 2,8 Fraubrunnen 1,691 7,7 Grafenried 912 4.7 Iffwil 399 5.0 Jegenstorf 4,181 7,4 Limpach 327 4.4 Mattstetten 565 3,8 Moosseedorf 3,437 6.3 Mülchi 250 3,8 Münchenbuchsee 9,519 8,9 Münchringen 544 2,4 Ruppoldsried 256 2,2 Schalunen 378 1.4 Scheunen 71 2, 5,337 7,2 Utzenstorf 3,763 17.0 Wiggiswil 95 1.4 Wiler bei Utzenstorf 794 3,8 Zauggenried 314 3,7 Zielebach 337 1.9 Zuzwil 504 3,5 | Huyện Fraubrunnen | Huyện của Thụy Sĩ |
Bệnh nấm Candida là một bệnh nhiễm nấm do bất kỳ loại nấm men Candida nào. Khi nó ảnh hưởng đến miệng, nó thường được gọi là thrush. Những dấu hiệu và triệu chứng bao gồm những đốm trắng trên lưỡi hoặc các khu vực khác của miệng và cổ họng. Các triệu chứng có thể, bao gồm đau nhức và khó nuốt. Khi nó ảnh hưởng đến âm đạo, nó thường được gọi là một bệnh nhiễm nấm (yeast infection). Những dấu hiệu và triệu chứng bao gồm ngứa bộ phận sinh dục, rát, và đôi khi có chất dịch trắng giống "pho mát" chảy ra từ âm đạo. Dương vật có thể bị ảnh hưởng, kết quả là cảm giác ngứa. Rất hiếm khi sự nhiễm trùng có thể trở thành xâm hại lan rộng khắp cơ thể, tạo ra sốt cùng với các triệu chứng khác tùy thuộc vào các bộ phận nào của cơ thể bị ảnh hưởng. Hơn 20 loại nấm Candida có thể gây nhiễm trùng với Candida albicans là loại nấm phổ biến nhất. Nhiễm trùng đường miệng là phổ biến nhất với trẻ sơ sinh ít hơn một tháng tuổi, người già, và với những người bị suy giảm hệ thống miễn dịch. Điều kiện dẫn đến suy giảm hệ thống miễn dịch bao gồm HIV/AIDS, các loại thuốc sử dụng sau khi cấy ghép nội tạng, tiểu đường, và sử dụng corticosteroid. Các rủi ro khác bao gồm việc sử dụng răng giả và sau khi dùng kháng sinh trị liệu. Nhiễm trùng âm đạo xảy ra thường xuyên trong khi mang thai, với những người có hệ thống miễn dịch yếu, và sau khi sử dụng thuốc kháng sinh. Nguy cơ để bệnh này lây lan rộng rãi bao gồm việc chữa trị trong một phòng chăm sóc chuyên biệt, sau phẫu thuật, trẻ sơ sinh sinh thiếu cân, và với những người có hệ thống miễn dịch bị suy yếu. Nỗ lực ngăn chặn nhiễm trùng đường miệng, bao gồm việc sử dụng chlorhexidine để rửa miệng với những người có khả năng miễn dịch thấp và rửa miệng nhổ ra ngoài sau khi sử dụng steroid bằng cách hít. Có ít bằng chứng cho thấy hiệu quả trong việc dùng probiotic để phòng ngừa hoặc điều trị ngay cả với những người thường xuyên bị nhiễm trùng âm đạo. Đối với nhiễm trùng đường miệng, điều trị với clotrimazole tại chỗ hay nystatin thường tỏ ra hiệu quả. Uống qua đường miệng hoặc tiêm tĩnh mạch các thuốc fluconazole, itraconazole, hoặc amphotericin là phương pháp điều trị nếu các phương pháp trên không hiệu quả. Một số thuốc bôi kháng nấm như clotrimazole có thể được sử dụng cho nhiễm trùng âm đạo. Đối với những người bệnh bị nấm lây lan rộng một thuốc họ echinocandin như caspofungin hoặc micafungin được sử dụng. Có thể sử dụng tiêm ven thuốc Amphotericin trong vòng vài tuần để thay thế cho các thuốc trên. Đối với nhóm người có nguy cơ cao nhiễm nấm, thuốc chống nấm có thể được sử dụng trước khi có bệnh để phòng tránh. Nhiễm nấm đường miệng xảy ra với khoảng 6% trẻ sơ sinh ít hơn một tháng tuổi. Khoảng 20% những người đang trải qua hóa trị liệu ung thư và 20% của những người mắc AIDS cũng phát bệnh này. Khoảng ba phần tư phụ nữ có ít nhất một lần nhiễm nấm trong cả đời. Hiếm khi bệnh này lây lan rộng rãi ngoại trừ với những người có nguy cơ cao. | Bệnh nấm Candida | RTT |
Ea Hu là một xã thuộc huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, Việt Nam. Xã Ea Hu có vị trí địa lý: *Phía đông giáp huyện Krông Bông *Phía tây giáp xã Ea Ning *Phía nam giáp xã Ea Bhôk *Phía bắc giáp xã Cư Êwi. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, xã lak ma uăn, thuộc quận Lắk, sau nhập vào quận Phước An, tỉnh Đắk Lắk. Sau năm 1975, quận Phước An đổi thành huyện Krông Pắk, gồm thị trấn và 26 xã trong đó có Ea Bhôk. Dân cư xã phần lớn là người xứ Huế, Nghệ An, Hà Tĩnh họ là những người đặt chân đến đây sớm. Cơ sở hạ tầng cơ bản cư dân những vùng khác cũng di cư nhiều hơn. Đồng bào như Êđê, M'nông, dân tộc miền núi phía bắc sống phía Đông. Năm 1993 trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Ea Bhôk thành lập xã Cư Êwi và xã Ea Hu, người dân vừa trồng cà phê, điều, cây công nghiệp và đặc biệt là các cánh đồng trù phú như cánh đồng Nàng Tiên, cánh đồng Thái Bình và cánh đồng 24 gắn liền với con đập 24 cùng chiếc cầu Duyên Anh đã cung cấp lượng nước dồi dào phục vụ cho việc sản xuất cây trồng được thuận lợi hơn... Sau tách xã nhiều có rất ít sự hiện diện của người dân tộc bản địa như Êđê, M'nông, chỉ có Dân tộc miền núi phía bắc một thôn gần xã Cư Ewi. Mỏ đá của xã Có thôn, thành phần dân tộc có 07 dân tộc sinh sống trên địa bàn là: Kinh, Tày, Mường, Nùng, Sán Chay, Sán Dìu, Cao Lan. Trong 1.586 hộ của xã trong đó 473 hộ thuộc và diện nghèo. 403 hộ là kinh, 70 hộ là người đồng bào từ miền Bắc vào định cư. Tỉ lệ nghèo chiếm 25% số hộ. Công nghiệp dần đinh hình, có một vài điểm khai thác đá xây dựng. Các năm gần đây, người dân làm giàu từ tiêu nổi lên rất nhiều, kinh tế Eahu lớn mạnh. Có bốn trường học, một cấp II, hai trường tiểu học, một trường Mẫu giáo. Hệ thống giao thông đường trải nhựa vẫn chưa vào đến xã. | Ea Hu | |
Huyện Mansky () là một huyện hành chính tự quản (raion), của Vùng Krasnoyarsk, Nga. Huyện có diện tích 5332 kilômét vuông, dân số thời điểm ngày tháng năm 2000 là 20400 người. Trung tâm của huyện đóng Shalinskoe. | Huyện Mansky | Huyện của Vùng Krasnoyarsk, Huyện của Nga |
Nền kinh tế quà tặng hay văn hóa quà tặng là một hệ thống trao đổi trong đó các vật có giá trị không được bán, mà được trao mà không có thỏa thuận rõ ràng để nhận phần thưởng ngay lập tức hoặc trong tương lai. Các chuẩn mực và phong tục xã hội chi phối việc tặng quà trong văn hóa tặng quà; mặc dù có một số kỳ vọng về sự có đi có lại, quà tặng không được trao trong một cuộc trao đổi rõ ràng hàng hóa hoặc dịch vụ lấy tiền, hoặc một số hàng hóa hoặc dịch vụ khác. Điều này trái ngược với nền kinh tế hàng đổi hàng hoặc nền kinh tế thị trường, nơi hàng hóa và dịch vụ chủ yếu được trao đổi rõ ràng để lấy giá trị nhận được. Bản chất của nền kinh tế quà tặng là chủ đề của một cuộc tranh luận cơ bản trong nhân học. Nghiên cứu nhân chủng học về nền kinh tế quà tặng bắt đầu với mô tả của Bronisław Malinowski về vành đai Kula quần đảo Trobriand trong Thế chiến thứ nhất. Việc buôn bán Kula có vẻ giống như một món quà vì những người Trobriander sẽ đi một quãng đường xa qua những vùng biển nguy hiểm để trao những thứ được coi là vật có giá trị mà không có bất kỳ sự đảm bảo nào được trả lại. Cuộc tranh luận của Malinowski với nhà nhân chủng học người Pháp Marcel Mauss đã nhanh chóng thiết lập sự phức tạp của "trao đổi quà tặng" và đưa ra một loạt thuật ngữ kỹ thuật như có đi có lại, tài sản bất khả nhượng, và cách trình bày để phân biệt giữa các hình thức trao đổi khác nhau. Theo các nhà nhân chủng học Maurice Bloch và Jonathan Parry, chính mối quan hệ bất ổn giữa thị trường và trao đổi phi thị trường là yếu tố thu hút nhiều sự chú nhất. Một số tác giả cho rằng nền kinh tế quà tặng xây dựng cộng đồng, trong khi thị trường làm tổn hại các mối quan hệ cộng đồng. Trao đổi quà tặng được phân biệt với các hình thức trao đổi khác bởi một số nguyên tắc, chẳng hạn như hình thức quyền tài sản điều chỉnh các vật phẩm được trao đổi; tặng quà có tạo thành một "lĩnh vực trao đổi" riêng biệt có thể được mô tả như một "hệ thống kinh tế" hay không; và đặc điểm của mối quan hệ xã hội mà việc trao đổi quà tặng thiết lập. Tư tưởng quà tặng trong các xã hội thương mại hóa cao khác với các "trợ cấp" điển hình của các xã hội phi thị trường. Nền kinh tế quà tặng cũng khác với các hiện tượng liên quan, chẳng hạn như chế độ tài sản chung và trao đổi lao động phi hàng hóa. | null | |
Thuế hôn nhân ngoài lãnh địa là một loại thuế nước Pháp thời trung đại. Nông nô một lãnh địa muốn lấy vợ hoặc chồng lãnh địa khác (hoặc lấy người tự do) phải được sự đồng của lãnh chúa và nộp một số tiền do lãnh chúa quy định (gọi là: "tiền ngoại hôn"). Con cái do các cặp vợ chồng này sinh ra phải chia cho cả hai lãnh chúa. Đây là loại thuế khẳng định sự lệ thuộc hoàn toàn về thân phận của tầng lớp nông nô. Người nào nếu không thực hiện hay làm trái sẽ bị phạt rất nặng. | Thuế hôn nhân ngoài lãnh địa | Lịch sử Pháp, Luật pháp Pháp |
Quách Điền Vũ (sinh ngày tháng năm 1999) là một cầu thủ bóng đá người Trung Quốc hiện tại thi đấu cho Sơn Đông Lỗ Năng Thái Sơn tại Giải bóng đá Ngoại hạng Trung Quốc và Đội tuyển bóng đá quốc gia Trung Quốc Tháng năm 2011, Quách Điền Vũ gia nhập học viện trẻ của đội bóng Giải bóng đá Ngoại hạng Trung Quốc Sơn Đông Lỗ Năng Thái Sơn. Anh được huấn luyện viên Mano Menezes đôn lên đội một vào năm 2016. Ngày 29 tháng năm 2016, anh có trận đấu ra mắt vòng thứ tư Cúp FA Trung Quốc 2016 trong chuyến làm khách thất bại 0-1 trước Thượng Hải Thân Hoa, vào sân từ băng ghế dự bị thay cho Ngô Hưng Hàm phút 83. Ngày tháng năm 2017, anh có màn ra mắt Giải bóng đá Ngoại hạng Trung Quốc trong chiến thắng 2-0 trên sân nhà trước Thiên Tân Thái Đạt, vào sân thay cho Vương Đồng trong thời gian bù giờ. Tháng năm 2019, anh được cho mượn tại đội bóng tân binh Giải bóng đá Ngoại hạng Trung Quốc Vũ Hán Trác Nhĩ trong mùa giải 2019. Tháng năm 2022, anh được cho mượn tại Vizela Giải bóng đá Ngoại Hạng Bồ Đào Nha đến ngày 30 tháng năm 2022. Thống kê chính xác tính đến trận đấu diễn ra ngày 16 tháng năm 2018 Thành tích câu lạc bộ Giải đấu Cúp Cúp Liên đoàn Châu lục Tổng cộng Mùa giải Câu lạc bộ Giải đấu Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Trung Quốc Giải đấu Cúp FA Cúp CSL Châu Tổng cộng 2016 Sơn Đông Lỗ Năng Thái Sơn Giải bóng đá Ngoại hạng Trung Quốc 2017 2018 Tổng cộng sự nghiệp | Quách Điền Vũ | Cầu thủ bóng đá Trung Quốc, Người Sơn Đông |
Little Ashes là một bộ phim Tây Ban Nha-Anh năm 2008 lấy bối cảnh Tây Ban Nha trong những năm 1920 và 1930, khi ba trong số những tài năng trẻ sáng tạo nhất thời đại gặp nhau tại trường đại học và bắt đầu một khóa học để thay đổi thế giới của họ. Luis Buñuel quan sát một cách bất lực khi tình bạn giữa siêu thực họa sĩ Salvador Dalí và nhà thơ Federico García Lorca phát triển thành một mối tình. Little Ashes đã giành được GLAAD Media Award cho "Phim xuất sắc Phát hành có giới hạn" trong Giải thưởng truyền thông GLAAD lần thứ 21. Năm 1922, Salvador Dalí (Robert Pattinson) đến trường nghệ thuật Madrid. Residencia de Estudiantes, hay Nơi của sinh viên, là một môi trường hiện đại khuyến khích những bộ óc trẻ trung nhất của Tây Ban Nha. Salvador, người quyết tâm trở thành một nghệ sĩ vĩ đại, sớm thu hút sự chú của giới thượng lưu xã hội Resi Federico García Lorca (Javier Beltrán) và nhà làm phim đầy tham vọng Luis Buñuel (Matthew McNulty). Cùng nhau, họ tạo thành hạt nhân của nhóm nghệ sĩ hiện đại nhất Madrid. Cuộc sống riêng tư của họ ngày càng trở nên phức tạp, khi Federico bỏ qua những tiến bộ của người bạn và nhà văn tận tụy Magdalena (Marina Gatell), và chính Salvador cảm thấy sức hút của từ tính của Federico. Luis, ngày càng bị cô lập bởi sự gần gũi của bộ đôi, quyết định chuyển đến Paris để thực hiện tham vọng nghệ thuật của riêng mình. Trong khi đó, Salvador và Federico rời Madrid để trải qua mùa hè tại ngôi làng bên bờ biển Cadaques, tại nhà của gia đình Dalí. Federico thấy mình được chấp nhận vào gia đình Dalí khi anh và Salvador ngày càng thân thiết cho đến một đêm, tình bạn của họ trở nên lãng mạn. Ngay cả khi họ đến gần hơn, mối quan hệ của họ dường như bị hủy hoại. Luis đến thăm họ tại trường đại học và trở nên nghi ngờ và kinh hoàng hơn bởi sự thân mật rõ ràng của họ. Salvador tìm thấy nỗi ám ảnh của Federico hơn là anh ta chuẩn bị xử lý, và cuối cùng rời khỏi Paris. Được bao bọc bởi xã hội cao và suy đồi đó, Salvador sớm vướng vào Gala (Arly Jover), một phụ nữ đã kết hôn với một người đàn ông nổi tiếng. Khi Federico đến thăm, anh thấy bạn mình là một người đàn ông đã thay đổi, cả trong cuộc sống và chính trị của anh. Chi tiết về mối quan hệ giữa nghệ sĩ Salvador Dalí và nhà thơ Federico García Lorca từ lâu đã trở thành đề tài suy đoán và tranh luận giữa các nhà sử học và nhà viết tiểu sử. Trong Little Ashes, cảm xúc của Dalí và Lorca được thể hiện sâu sắc trong một mối tình mà họa sĩ bị kìm nén tình dục cố gắng (nhưng không thành). Giữa năm 1925 và 1936, trong suốt quá trình kết bạn, Dalí và Lorca đã trao đổi rất nhiều thư. Các bản thảo gốc của những lá thư của Dalí gửi cho Lorca được tổ chức bởi Fundación Federico García Lorca Madrid, và những bức thư của Lorca cho Dalí được giữ bởi Fundaci Gala-Salvador Dalí trong Pubol, cũng như trong các bộ sưu tập tư nhân. Trong khi người ta thừa nhận rộng rãi rằng Lorca đã say mê Dalí, trong nhiều năm, họa sĩ đã từ chối quan hệ với Lorca. Dalí nói: Nhà văn của bộ phim Philippa Goslett cho rằng: Người viết tiểu sử của cả Dalí và Lorca, Ian Gibson, đã nêu: Tây Ban Nha bị đàn áp vào giữa những năm 1930, đồng tính luyến ái của Lorca dường như đã mang đến một sự hồi hộp bổ sung cho những người ám sát ông vào năm 1936. Nhà viết tiểu sử của Lorca Leslie Stainton đã gợi rằng những kẻ giết người đã nhận xét về xu hướng tính dục của ông Robert Pattinson vai Salvador Dalí Javier Beltrán vai Federico García Lorca Matthew McNulty vai Luis Buñuel Marina Gatell vai Magdalena Bruno Oro vai Paco Esther Nubiola vai Adela Marc Pujol vai Carlos Arly Jover vai Gala Dalí Simón Andreu vai Fernando del Valle Vicky Peña vai dì của Magdalena Rubén Arroyo vai Rafael Diana Gómez vai Ana María Pep Sais vai Art Teacher Joan Picó vai Young Officer Ferran Audí vai Guard Adría Allué vai Guard Ferran Lahoz vai Señor Milagro Cristian Rodrigo vai Young Journalist Sue Flack vai Madam Adrian Devant as Puppeteer Ramón Enrich vai Professor Xavi Siles vai Man Philippa Goslett và Hannah Rũtzou vai chị em của Federico Paco Alonso vai Gypsy Singer Tiêu đề được lấy từ bức tranh Cenicitas (Little Ashes) năm 1927 của Salvador Dalí. Ban đầu nó được gọi là The Birth of Venus, trước khi được đổi thành Sterile Efforts và cuối cùng Cenicitas. Nó được trưng bày lần đầu tiên vào ngày 20 tháng năm 1929 trong một triển lãm Madrid. Nó một lần nữa được trưng bày trong triển lãm cá nhân đầu tiên của ông Paris vào tháng năm 1931. Bức tranh hiện đang nằm trong bộ sưu tập Dalí của Museo Nacional Centro de Arte Reina Sofía Madrid. Little Ashes được công chiếu tại thường niên lần thứ 16 Liên hoan phim Raindance tại London. Buổi chiếu bán hết được lên kế hoạch vào ngày tháng 10 năm 2008 lúc 19:00 và buổi chiếu thứ hai cũng được thêm vào ngày tháng 10 lúc 14:30. Little Ashes được công chiếu tại Mỹ tại liên hoan phim Miami Gay Lesbian. Vào ngày tháng năm 2009, nó chỉ được công chiếu tại 11 địa điểm của Hoa Kỳ. DVD Anh Quốc đã được phát hành vào ngày 13 tháng năm 2009 và được xếp hạng 15. DVD Hoa Kỳ được phát hành vào ngày 26 tháng năm 2010. Bộ phim giữ tỷ lệ "Rotten" 24% dựa trên 70 đánh giá với điểm trung bình là 4.2 trên tổng số 10 trên tổng hợp đánh giá phim Rotten Tomatoes. Sự đồng thuận của trang web nói: "Nó có một dàn diễn viên tuyệt đẹp, nhưng Little Ashes phải chịu một giai điệu không đồng đều và dư thừa những khoảnh khắc ngớ ngẩn vô tình." Ty Burr của Quả cầu Boston đã chiếu bộ phim và viết: "Điều gì có định là một cái nhìn táo bạo về tình dục bị kìm nén, ba cách và tất cả, có sức mạnh kịch tính của một sự thật- yêu truyện tranh ". Greg Quill của Toronto Star đã viết: "Ngay cả các nhà quay phim Adam Suschitzky có kết cấu phong phú và cảnh quan thành phố và cảnh nông thôn cũng không thể bù đắp cho một kịch bản thiếu sót và những màn trình diễn yếu đuối trong những gì có thể là một bộ phim lịch sử mạnh mẽ". Chris Hewitt của St. Paul Pioneer Press nhận xét rằng: "Bộ phim, với phông nền được vẽ xấu, diễn xuất cứng và hoàn toàn thiếu động lực kịch tính, thật đáng xấu hổ khi xem". Tuy nhiên, Steven Rea của Philadelphia Inquirer đã cho bộ phim một đánh giá tích cực bằng cách gọi nó: "Một tiểu sử dũng cảm và tha thiết". "Were Spain's Two Artistic Legends Secret Gay Lovers?", The Guardian (ngày 28 tháng 10 năm 2007) Aria film synopsis George E. Haggerty, Gay Histories and Cultures Ian Gibson, The Shameful Life of Salvador Dalí Salvador Dalí: An Illustrated Life, Tate Publishing | ''Little Ashes | Phim năm 2008, Phim chính kịch thập niên 2000, Phim Vương quốc Liên hiệp Anh, Phim chính kịch Vương quốc Liên hiệp Anh, Phim tiểu sử của Anh, Phim liên quan đến LGBT của Vương quốc Liên hiệp Anh, Phim Tây Ban Nha, Phim tiếng Anh, Phim độc lập của Vương quốc Liên hiệp Anh, Phim liên quan đến đồng tính nam |
Vi Thủ An (Chữ Nho: 韋守安; ?) là một thủ lĩnh địa phương từng phục vụ cho nhà Lý trong lịch sử Việt Nam và nhà Tống trong lịch sử Trung Quốc. Vi Thủ An là châu mục châu Tô Mậu của nhà Lý, Từ điển tiếng Việt cho là người Tày, đời đời quy thuận. Châu Tô Mậu nằm vùng biên giới giữa nhà Lý và nhà Tống, tù trưởng châu này thường tổ chức tấn công sang đất Tống để cướp bóc. Họ Vi là họ lớn trong vùng, ngoài Tô Mậu còn nắm giữ các châu Tư Lăng, Lộc, Tây Bình bên nhà Tống. Năm 1050, bọn thủ lĩnh Vi Thiệu Tự, Vi Thiệu Khâm đem người trong châu trốn sang đất Tống, Lý Nhân Tông cho người sang trao đổi, phía Tống liền giao trả toàn bộ. Năm 1075, Thái úy Lý Thường Kiệt nhận thấy nguy cơ quân Tống xâm lược, bèn tổ chức một cuộc tấn công vào các căn cứ hậu cần của quân Tống ba châu Ung, Khâm, Liêm. Các thủ lĩnh vùng biên như Tông Đản, Thân Cảnh Phúc, Lưu Kỷ, Vi Thủ An, Hoàng Kim Mãn,... được phân công các nhiệm vụ khác nhau. Trong đó, Vi Thủ An dẫn quân châu Tô Mậu đánh chiếm trại Cổ Vạn, mở rộng chiến quả ra xung quanh, góp phần vào thắng lợi chung của nhà Lý. Sau trận chiến đó, nhà Tống vẫn không từ bỏ kế hoạch đánh Việt. Tống Thần Tông quyết định dùng phẩm hàm để chiêu dụ các tướng giữ biên thùy của nhà Lý, trong đó Vi Thủ An nhận hàm Cung bị khố Phó sứ. Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết chỉ huy vượt qua biên giới, Thân Cảnh Phúc, Lưu Kỷ chống trả không được, phải rút vào rừng. Vi Thủ An vốn được Lý Thường Kiệt giao nhiệm vụ giữ con đường từ châu Tư Lăng đến Lạng Châu, nhưng do đã bị các quan Tống là Tri Khâm châu Lưu Sơ và Trại chủ Vĩnh Bình Dương Nguyên Khanh dụ dỗ từ trước, nên nhanh chóng đầu hàng. Quân Tống sau đó thua trận sông Như Nguyệt, buộc phải rút quân về. Nhà Tống chiếm đóng bốn châu Quảng Nguyên, Tô Mậu, Môn và huyện Quang Lang. Năm 1078, Lý Thường Kiệt cho quân thu phục Quang Lang, hai châu Tô Mậu và Môn cũng trở về nhà Lý. Không rõ kết cục của Vi Thủ An. Quốc sử quán; Ngô Sĩ Liên (chủ biên). Đại Việt sử ký toàn thư. ** Viện Khoa học Xã hội Việt Nam; Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích); Hà Văn Tấn (hiệu đính) (1998). Đại Việt sử ký toàn thư (Tập 1). Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội. | Vi Thủ An | Võ tướng nhà Lý, Nhân vật chính trị nhà Tống, Người Tày, Người Quảng Ninh, Người Lạng Sơn, Người họ Vi tại Việt Nam |
Sant Martí Sarroca là một đô thị trong ‘‘comarca’’ Alt Penedès, Barcelona, Catalonia, Tây Ban Nha. *Biến động dân số từ năm 1717 đến năm 2006 Colors= id:a value:gray(0.9) id:b value:gray(0.7) id:c id:d ImageSize width:400 height:200 PlotArea left:50 bottom:30 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:3000 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor gridcolor:b increment:500 start:0 ScaleMinor gridcolor:a increment:125 start:0 canvas:c BarData= bar:1717 text:1717 bar:1787 text:1787 bar:1857 text:1857 bar:1887 text:1887 bar:1920 text:1920 bar:1950 text:1950 bar:1981 text:1981 bar:1992 text:1992 bar:2000 text:2000 bar:2006 text:2006 PlotData= color:d width:20 align:left bar:1717 from:0 till: 473 bar:1787 from:0 till: 943 bar:1857 from:0 till: 1761 bar:1887 from:0 till: 2039 bar:1920 from:0 till: 2345 bar:1950 from:0 till: 2607 bar:1981 from:0 till: 2315 bar:1992 from:0 till: 2422 bar:2000 from:0 till: 2478 bar:2006 from:0 till: 2849 PlotData= bar:1717 at: 473 fontsize:s text: 473 shift:(-10,5) bar:1787 at: 943 fontsize:s text: 943 shift:(-10,5) bar:1857 at: 1761 fontsize:s text: 1.761 shift:(-10,5) bar:1887 at: 2039 fontsize:s text: 2.039 shift:(-10,5) bar:1920 at: 2345 fontsize:s text: 2.345 shift:(-10,5) bar:1950 at: 2607 fontsize:s text: 2.607 shift:(-10,5) bar:1981 at: 2315 fontsize:s text: 2.315 shift:(-10,5) bar:1992 at: 2422 fontsize:s text: 2.422 shift:(-10,5) bar:2000 at: 2478 fontsize:s text: 2.478 shift:(-10,5) bar:2006 at: 2849 fontsize:s text: 2.849 shift:(-10,5) 1717-1981: población de hecho; 1990-: población de derecho | Sant Martí Sarroca | Đô thị Barcelona, Alt Penedès |
Sân bay Comandante Espora cũng gọi là Sân bay Bahía Blanca, là một sân bay nội địa Bahía Blanca, Argentina. Đây là nơi hãng Aerolíneas Argentinas và Líneas Aéreas del Estado (LADE) đang hoạt động. Sân bay này có đường băng bề mặt nhựa đường. Aerolíneas Argentinas Austral Líneas Aéreas (Buenos Aires) LADE (Buenos Aires, Comodoro Rivadavia, Córdoba, Mar del Plata, Necochea, Paraná, San Antonio Oeste, Trelew, Viedma) Aeropuerto de Bahia Blanca "Comandante Espora" at Organismo Regulador del Sistema Nacional de Aeropuertos | Sân bay Comandante Espora | Sân bay Argentina, Danh sách sân bay |
Sephora là chuỗi cửa hàng mỹ phẩm của Pháp được thành lập vào năm 1969. Với gần 300 nhãn hiệu, cùng với nhãn hiệu cá nhân sở hữu riêng, Sephora cung cấp sản phẩm làm đẹp bao gồm đồ trang điểm, dưỡng da, dưỡng thể, nước hoa, sơn móng và dưỡng tóc. Sephora thuộc sở hữu của tập đoàn xa xỉ phẩm LVMH vào năm 1997. Biểu trưng Sephora là một ngọn lửa hình chữ "S" trắng nổi trên nền đen. Tên gọi này đến từ phát âm tiếng Hy Lạp Zipporah (, người vợ đẹp nhất của Moses. Sephora được thành lập lần đầu tiên vào ngày 14 tháng năm 1969 tại Paris, Pháp. Sau này Sephora được mua lại bởi Dominique Mandonnaud vào năm 1993, và sáp nhập Sephora với nhãn hiệu nước hoa của mình cùng dưới tên Sephora. Mandonnaud là người khởi xướng cho việc thành lập cũng như là người đầu tiên phát triển phương thức mua sắm "tự phục vụ", nghĩa là khách hàng được phép thử và trải nghiệm sản phẩm trước khi mua. Mandonnaud tiếp tục mở rộng Sephora vào thập niên 1990s, và khai trương cửa hàng đầu tiên tại Champs Elysees vào năm 1997. Tháng năm 1997, Mandonnaud và cộng sự bán lại Sephora cho tập đoàn thời trang LVMH, nơi mà sau này đã bành trướng Sephora trên toàn thế giới cũng như mở rộng các mặt hàng buôn bán bao gồm sản phẩm chăm sóc sắc đẹp và mỹ phẩm. Sephora khai trương cửa hàng đầu tiên Mỹ tại New York vào năm 1997, và cửa hàng đầu tiên Canada tại Toronto vào năm 2004. Văn phòn đại diện tại thị trường Bắc Mỹ tọa lạc tại San Francisco, đồng chủ quản với văn phòng đại diện tại Montreal và New York. Hiện tại, Sephora đã khai trương hơn 360 cửa tiệm tại thị trường Bắc Mỹ. Sephora khai trương trang web mua sắm trực tuyến đầu tiên tại Mỹ vào năm 1999 và tại Canada vào năm 2003. Văn phòng đại diện của Sephora tại Canada được ra đời vào tháng năm 2007 và được quản lý bởi Marie-Christine Marchives, cô từng là nhân viên của Sephora Mỹ và Sephora Pháp. Tháng năm 2010, Marie quay trở về Pháp để làm quản lý cửa hàng của Sephora Pháp. Người thay thế cô tiếp quản vị trí văn phòng đại diện là Klaus Ryum-Larsen. Sephora hiện tại có hơn 23,00 cửa hàng hoạt động 33 quốc gia toàn thế giới và đạt doanh thu hơn tỉ đôla Mỹ vào năm 2013. Tháng năm 2013, ước tính có hơn triệu lượt khách hàng đã tới mua sắm tại Sephora Champ Elysees Paris, Pháp. Năm 2010, trang Women's Wear Daily trao tặng Sephora giải nhà buôn bán lẻ mỹ phẩm tốt nhất của năm. Ngày 18 tháng 11 năm 2014, bốn khách hàng đã đâm đơn kiện Sephora cáo buộc Sephora đã có hành động phân biệt đối xử vì đã vô hiệu hóa tài khoản mua sắm của một khách hàng Châu Á, cho rằng người này đã mua hàng tại Sephora theo lố và bán lại. Ngày tháng năm 2014, Calvin McDonald thay thế David Suliteanu cho vị trí chủ tịch và CEO của Sephora Mỹ. Suliteanu được bổ nhiệm vị trí CEO cho thương hiệu Kendo đến từ tập đoàn LVMH. Năm 2016, Sephora ra mắt ứng dụng điện thoại mang tên Virtual Artist, cho phép người dùng chỉnh sửa các tính năng make up ảo, và trải nghiệm các màu sắc khác nhau trên mặt của mình từ nhiều sản phẩm. Ngày 26 tháng năm 2016, Sephora khai trương cửa hàng thứ 400 thị trường Bắc Mỹ Magnificient Mile Chicago. Đây là cửa hàng đầu tiên Chicago. Ngày 31 thán năm 2017, Sephora khai trương cửa hàng bán lẻ lớn nhất Bắc Mỹ, gần quảng trường Herald. Cửa hàng rộng xấp xỉ 11,380 mét vuông và bày bán hơn 13,000 sản phẩm. Đây là một tron cửa hàng với hệ thống phục vụ tự động cũng như các linh kiện cần thiết, Bắc Mỹ bên cạnh các cửa hàng khác tọa lạc San Francisco, Boston, Chicago, Santa Clara Valley và Toronto. Sephora trưng và bày bán hơn 100 thương hiệu mỹ phẩm bao gồm NARS, Make Up For Ever, Too Faced Cosmetics, Anastasia Beverly Hills, Urban Decay, Benefit Cosmetics, Amazing Cosmetics, First Aid Beauty, Lancome Cosmetics, Sunday Riley Skincare, philosophy, YSL Beauty by Yves Saint Laurent, Tatcha, Huda Beauty, Kat Von và Bobbi Brown Cosmetics. Sephora cũng cho ra mắt dòng mỹ phẩm riêng của mình bao gồm trang điểm, chăm sóc da, phụ kiện làm đẹp và phụ kiện nói chung. Bao bì của sản phẩm được có biểu tượng lâu đời của Sephora trong màu mực đen. Năm 2013, công ty cũng cho ra đời dòng sản phẩm nước hoa hợp tác với hai chị em sinh đôi Mary-Kate và Ashley Olsen, mang tên Elizabeth và James, cũng như dòng sản phẩm trang điểm hợp tác với Marc Jacobs. | Sephora | Nhãn hiệu Pháp |
là một tông linh dương trong phân họ Linh dương gồm các loài Linh dương cỡ trung bình và nhỏ trong nhóm các loài linh dương Gazelle và Linh dương lùn châu Phi, gồm các loài linh dương sống trong và xung quanh vùng sa mạc Sahara, vùng Sừng châu Phi và lục địa Á-Âu. Những con linh dương cái có sừng rất ngắn so với những con đực, và chúng còn có bộ lông màu nâu và trắng mịn, trông bóng loáng. Phần lớn các loài linh dương trong bộ này đều có sọc đen và một dấu hiệu là vệt đen trên khuôn mặt. Những con đực thường chiếm cứ một lãnh thổ khá rộng lớn như một con đầu đàn lãnh chúa thống trị theo bầy đàn và đôi khi nhóm với các loài khác, chẳng hạn như Linh dương Grant cùng với con linh dương Thomson Đây là những con linh dương đặc trưng với tốc độ là sự lanh lợi, là những con linh dương rất có tốc độ chúng có tốc độ lên đến 50 mphs (80 km/giờ) và có khả năng nhảy rất tốt và thực hiện được nhiều bước nhảy lần lượt liên tiếp (nhảy tưng tưng) một cách mạnh mẽ. Chúng đã thích nghi tốt với các môi trường mở. Các loài linh dương trong bộ này là con mồi ưa thích của báo săn, cũng là loài săn mồi dựa vào tốc độ. Sự rượt đuổi giữa báo săn và linh dương trong những cuộc đua tốc độ nước rút sinh tử là một trong những cảnh ngoạn mục trên thảo nguyên châu Phi. Tập tính lãnh thổ là một trong những đặc điểm chung của loài linh dương thuộc bộ này. Trong suốt mùa mưa, khi nguồn thức ăn dồi dào, những con linh dương đực trưởng thành tạo lập một lãnh thổ riêng và xua đuổi những con đực còn non, gọi là nhóm độc thân, ra khỏi lãnh thổ của chúng. Trong khi đó, những con cái sẽ hợp thành những nhóm "di cư", di chuyển từ vùng lãnh thổ này sang vùng khác, thông thường là những vùng có nguồn thức ăn dồi dào nhất. Khi những nhóm "di cư" này đi ngang qua một vùng lãnh thổ để tìm kiếm thức ăn, con đực sẽ tìm cách quây chúng lại, và thường thì chúng sẽ giữ lại được một vài con cái cho mình. Trong mùa sinh sản, những con đực mới lớn cố gắng tìm cách chứng tỏ ưu thế của mình qua các trận chiến, còn những con đực trưởng thành thích phô trương sức mạnh với nhau hơn là lao vào những trận chiến này. Nếu một con đực trong "nhóm độc thân" đi ngang qua lãnh thổ của một con đực trưởng thành, kẻ thống trị sẽ đuổi nó ra khỏi lãnh thổ của mình. Một con đực trưởng thành thường sẽ không xâm phạm lãnh thổ của những con đực khác. Cuộc tán tỉnh của linh dương đực với linh dương cái sẽ dừng lại nếu con cái chạy sang lãnh thổ của tên hàng xóm, nhưng tất nhiên là gã hàng xóm sẽ tiếp tục cuộc cuộc vui này. Phân họ Antilopinae (Phân họ Linh dương) ** Tông Antilopini (Tông Linh dương) *** Chi Ammodorcas **** Ammodorcas clarkei *** Chi Antidorcas: Linh dương nhảy **** Antidorcas marsupialis: Linh dương nhảy ***** Antidorcas marsupialis marsupialis ***** Antidorcas marsupialis angolensis ***** Antidorcas marsupialis hofmeyri *** Chi Antilope **** Antilope cervicapra: Linh dương đen Ấn Độ ***** Antilope cervicapra cervicapra ***** Antilope cervicapra rajputanae *** Chi Eudorcas **** Eudorcas albonotata: Linh dương Mongalla **** Eudorcas rufina †: Linh dương đỏ (đã tuyệt chủng) **** Eudorcas rufrifrons: Linh dương mặt đỏ ***** Eudorcas rufifrons centralis ***** Eudorcas rufifrons hasleri ***** Eudorcas rufifrons kanuri ***** Eudorcas rufifrons laevipes ***** Eudorcas rufifrons rufifrons ***** Eudorcas rufifrons tilonura **** Eudorcas thomsoni: Linh dương Thomson hay còn gọi là Tomie ***** Eudorcas thomsoni thomsonii ***** Eudorcas thomsoni nasalis **** Eudorcas tilonura *** Chi Gazella: Linh dương Gazelle **** Thứ chi Deprezia ***** Gazella psolea †: Loài linh dương tiền sử, đã tuyệt chủng **** Thứ chi Gazella ***** Gazella arabica †: Linh dương gazelle rập ***** Gazella benettii hay Chinkara ***** Gazella bilkis †: Linh dương Yemen (đã tuyệt chủng) ***** Gazella dorcas: Linh dương Dorcas ****** Gazella dorcas beccarii ****** Gazella dorcas dorcas ****** Gazella dorcas isabella ****** Gazella dorcas massaesyla ****** Gazella dorcas osiris ****** Gazella dorcas pelzelni ***** Gazella gazella: Linh dương núi ****** Gazella gazella gazella ****** Gazella gazella acaiae ****** Gazella gazella merrilli ****** Gazella gazella hatay ****** Gazella gazella cuvieri ***** Gazella saudiya ***** Gazella spekei **** Thứ chi ***** Gazella cuvieri: Linh dương Cuvier ***** Gazella leptoceros: Linh dương Rhim ***** Gazella subgutturosa ****** Gazella subgutturosa subgutturosa ****** Gazella subgutturosa gracilicornis ****** Gazella subgutturosa yarkandensis ****** Gazella subgutturosa marica *** Chi Litocranius **** Litocranius walleri: Linh dương Gerenuk ***** Litocranius walleri walleri ***** Litocranius walleri sclateri *** Chi Nanger **** Nanger dama: Linh dương Dama ***** Nanger dama mhorr ***** Nanger dama dama ***** Nanger dama ruficollis **** Nanger granti: Linh dương Grant ***** Nanger granti brighti (Thomas, 1901) Linh dương Gazelle Bright ***** Nanger granti granti (Brooke, 1872) Linh dương Grant phương Nam ***** Nanger granti lacuum (Neumann, 1906) Linh dương Grant phương Bắc ***** Nanger granti petersi (Günther, 1884) Linh dương Gazelle Peter ***** Nanger granti robertsi Linh dương Gazelle Roberts **** Nanger soemmerringii ***** Nanger soemmerringii berberana ***** Nanger soemmerringii soemmeringii ***** Nanger soemmerringii butteri *** Chi Procapra **** Procapra gutturosa **** Procapra picticaudata **** Procapra przewalskii ***** Procapra przewalskii przewalskii ***** Procapra przewalskii diversicornis Trong số các loài linh dương thuộc bộ này, loài Linh dương Thomson hay còn gọi là tommie là loài loài linh dương phổ biến nhất tại khu vực Đông Phi với khoảng hơn 500 nghìn cá thể trên toàn bộ châu Phi. Môi trường sống lý tưởng của loài Thomson là các khu vực cỏ thấp với nền đất khô và cứng. Chúng là nguồn thức ăn chủ yếu của loài báo săn. Thông thường, báo săn có tốc độ nhanh hơn linh dương Thomson nhưng bù lại linh dương có thể duy trì tốc độ trên một quãng đường dài và đổi hướng đột ngột. Linh dương Thomson sở hữu một tốc độ đáng kinh ngạc, từ tới 96 km/h (60 mph) trong khi vẫn di chuyển zigzag. Khả năng phi thường này đã nhiều lần cứu thoát chúng khỏi móng vuốt những con thú săn mồi. Một hành vi vô cùng đặc biệt loài linh dương Thomson là những bước nhún nhảy của chúng dùng để đánh lạc hướng kẻ thù hoặc phô diễn sức mạnh. Linh dương Grant thì phân bố từ phía bắc Tanzania đến miền nam Sudan và Ethiopia, và từ bờ biển Kenya đến Hồ Victoria. Linh dương Grant là loài cực kỳ nhanh chóng, chúng có thể chạy 80 km/h (50 mph) nhưng những con đực to lớn hơn thường không vượt quá 72 km/h (45 mph). Chúng là động vật di cư, nhưng đi theo hướng ngược lại của hầu hết các động vật móng guốc khác, chẳng hạn như linh dương Thompson, ngựa vằn, linh dương đầu bò, phụ thuộc vào nơi nhiều nước hơn. Chúng cũng có thể tồn tại trên thảm thực vật trong có nước, khu vực bán khô cằn nơi chúng phải đối mặt với sự cạnh tranh ít khốc liệt hơn. Những kẻ săn mồi phổ biến nhất của con linh dương Grant là loài báo săn và những con chó hoang. Linh dương Gazel khá nhỏ, hầu hết khi đứng chúng cao đến 2-3,5 ft (61–110 cm) cao đến vai. Chúng có thể bị đe dọa bởi những kẻ săn mồi tốc độ, như Loài báo săn. Trên khoảng không gian rộng lớn các đồng cỏ, loài linh dương gazelle có thể chạy với vận tốc 70 km/h. Mặc dù có tốc độ chạy nhanh như vậy, nhưng linh dương gazelle vẫn phải đối mặt với những mối đe dọa đến từ loài báo săn bởi linh dương là món ăn báo yêu thích nhất. Đối với những con báo, khoảng cách lý tưởng nhất để bắt con mồi là 50 met, nhưng nó phải xuất phát khi con mồi cách khoảng 80 met. Điều may mắn cho những con linh dương là chúng có giác quan rất nhạy và phản ứng cơ thể rất nhanh nhẹn mỗi khi biết mình bị tấn công. Trong quá trình rượt đuổi, linh dương thường hay thay đổi hướng chạy khiến kẻ săn mồi luôn gặp khó khăn. | Phân họ Antilopinae | Linh dương, Động vật có vú châu Phi, Phân họ Linh dương |
life year (DALY) rates of unipolar depressive disorders by country (per 100,000 inhabitants) in 2004. Dịch tễ học trầm cảm đã được nghiên cứu nhiều trên toàn thế giới. Và trầm cảm là nguyên nhân chính gây nên bệnh tật toàn cầu. Tỷ lệ lưu hành trọn đời ước tính rất khác nhau giữa các khu vực, từ 3% Nhật Bản đến 17% Mỹ. Dữ liệu dịch tễ học cho thấy tỷ lệ trầm cảm cao hơn Trung Đông, Bắc Phi, Nam và Mỹ so với các quốc gia khác. Trong 10 quốc gia được nghiên cứu, số người sẽ bị trầm cảm trong suốt cuộc đời rơi vào khoảng 8% 12% tại hầu hết các quốc PMID PMID 12813115. Bắc Mỹ, xác suất xuất hiện giai đoạn trầm cảm chính (major depressive;trầm cảm dạng điển hình hay thường gặp) trong bất kỳ khoảng thời gian dài nào trong năm là 3–5% đối với nam giới và 8–10% đối với nữ PMID PMID 10711905. Các nghiên cứu dân số học liên tục cho thấy trầm cảm chính có xu hướng xuất hiện nữ giới gấp đôi so với nam giới, mặc dù vẫn chưa rõ lý do cho điều PMID 12890270. Sự tăng tương đối trầm cảm liên quan đến thời kỳ phát triển của tuổi dậy thì hơn là tuổi theo thời gian sống, đạt tỷ lệ đỉnh trong độ tuổi từ 15 đến 18. Trầm cảm liên quan nhiều đến yếu tố tâm lý xã hội hơn yếu tố nội tiết tố. Một người nhiều khả năng phải chịu đựng cơn trầm cảm lần đầu tiên trong độ tuổi 30 đến 40, và lần hai, nhẹ hơn tuổi 50 đến PMID 9366655. Nguy cơ trầm cảm chính tăng khi có các vấn đề về thần kinh như đột quỵ, bệnh Parkinson hay bệnh đa xơ cứng và trong năm đầu sau PMID 15718222. PMC 1765679. Nguy cơ trầm cảm chính cũng có mối liên hệ với các yếu tố gây căng thẳng như khi một người phải đối mặt với sự khắc nghiệt của môi trường xã hội xung quanh như trong đào tạo chiến binh hay bác sĩ. Trầm cảm phổ biến hơn sau bệnh tim PMID PMID 11383983. Có sự mâu thuẫn trong các nghiên cứu về tỷ lệ trầm cảm người cao tuổi, nhưng hầu hết các dữ liệu cho thấy có sự giảm đi nhóm tuổi PMID 10722172. Rối loạn trầm cảm thường hay gặp thành thị hơn so với nông thôn và nói chung, tỷ lệ cao hơn các nhóm dân cư có yếu tố kinh tế xã hội bất lợi (như người vô gia cư). Dữ liệu tỷ lệ tương đối của trầm cảm chính giữa các nhóm dân tộc khác nhau không đạt được sự đồng thuận rõ ràng. Tuy nhiên, nghiên cứu duy nhất được biết đến bao gồm chứng loạn trương lực (covered dysthymia) đặc biệt cho thấy phổ biến hơn người Mỹ gốc Phi và người Mỹ gốc México so với người Mỹ gốc Âu Dự báo trầm cảm có thể trở thành nguyên nhân hàng đầu cướp đi mạng sống đứng thứ hai sau bệnh tim vào năm 2020. Năm 2016, một nghiên cứu đã tìm thấy mối liên quan giữa thuốc trách thai nội tiết tố với trầm cảm. Tỷ lệ số năm sống điều chỉnh theo bệnh tật (DALY) trên 100.000 dân. Xếp Quốc gia DALY rate 23x23pxHoa Kỳ 1,454.74 20x20px Nepal 1,424.48 23x23px Đông Timor 1,404.10 23x23px Bangladesh 1,401.53 23x23px Ấn độ 1,400.84 23x23px Pakistan 1,400.42 22x22px Brazil 1,396.10 23x23px Maldives 1,391.61 23x23px Bhutan 1,385.53 10 23x23px Afghanistan 1,385.14 11 23x23px Finland 1,344.13 12 21x21px Israel 1,273.92 13 23x23px Slovenia 1,248.47 14 23x23px Belgium 1,244.46 15 23x23px France 1,234.32 16 23x23px Chile 1,221.23 17 23x23px Guatemala 1,177.03 18 23x23px Haiti 1,170.73 19 22x22px Bolivia 1,161.56 20 23x23px Nicaragua 1,161.25 21 23x23px Canada 1,157.07 22 23x23px Ecuador 1,156.30 23 23x23px Peru 1,156.07 24 23x23px Croatia 1,141.79 25 23x23px Armenia 1,133.20 26 23x23px Azerbaijan 1,120.05 27 16x16px Switzerland 1,114.11 28 23x23px Turkmenistan 1,112.94 29 23x23px Tajikistan 1,112.45 30 23x23px Kyrgyzstan 1,112.10 31 20x20px Denmark 1,110.76 32 23x23px Uzbekistan 1,110.18 33 23x23px Luxembourg 1,110.00 34 23x23px Austria 1,108.30 35 23x23px El Salvador 1,103.93 36 23x23px Jamaica 1,100.10 37 23x23px Colombia 1,099.51 38 23x23px Bahamas 1,099.29 39 23x23px Honduras 1,098.66 40 23x23px Trinidad and Tobago 1,098.21 41 23x23px Grenada 1,098.14 42 23x23px Saint Lucia 1,097.85 43 23x23px Uruguay 1,095.86 44 23x23px Barbados 1,095.76 45 23x23px Dominica 1,094.66 46 23x23px Antigua and Barbuda 1,094.65 47 23x23px Saint Kitts and Nevis 1,094.64 48 23x23px Argentina 1,094.20 49 23x23px Dominican Republic 1,093.04 50 23x23px Suriname 1,091.56 51 23x23px Venezuela 1,088.72 52 23x23px Saint Vincent and the Grenadines 1,087.50 53 23x23px Cuba 1,087.25 54 23x23px Guyana 1,086.82 55 23x23px Panama 1,086.71 56 23x23px Belize 1,085.63 57 23x23px Paraguay 1,085.28 58 23x23px Costa Rica 1,083.23 59 23x23px Sweden 1,060.42 60 23x23px Georgia 1,056.60 61 21x21px Albania 1,047.94 62 23x23px Bosnia and Herzegovina 1,044.53 63 23x23px Poland 1,043.18 64 23x23px Slovakia 1,042.62 65 23x23px Romania 1,041.97 66 23x23px Bulgaria 1,040.66 67 23x23px Serbia and Montenegro 1,039.45 68 23x23px Macedonia 1,037.76 69 23x23px Turkey 1,037.51 70 21x21px Norway 996.780 71 23x23px United Kingdom 960.624 72 23x23px Ireland 959.325 73 19x19px Monaco 959.222 74 22x22px Andorra 956.319 75 21x21px Iceland 955.986 76 23x23px Germany 955.011 77 23x23px Lebanon 939.728 78 23x23px Cyprus 936.667 79 23x23px Morocco 936.319 80 23x23px Czech Republic 934.095 81 23x23px Egypt 931.894 82 23x23px Iraq 931.842 83 23x23px Yemen 931.675 84 23x23px Tunisia 931.414 85 23x23px Syria 930.510 86 23x23px Iran 929.554 87 23x23px Indonesia 927.707 88 23x23px Thailand 925.765 89 23x23px Cambodia 923.746 90 23x23px Jordan 923.086 91 23x23px Laos 923.076 92 23x23px Sri Lanka 922.893 93 23x23px Philippines 921.373 94 23x23px Libya 919.740 95 23x23px Singapore 919.158 96 23x23px Malaysia 918.331 97 23x23px Burma 917.689 98 23x23px Brunei 912.718 99 23x23px Vietnam 911.415 100 20x20px Papua New Guinea 909.399 101 23x23px Tonga 909.227 102 23x23px Federated States of Micronesia 904.903 103 23x23px Fiji 903.122 104 23x23px Nauru 900.547 105 23x23px Marshall Islands 900.546 106 23x23px Palau 900.533 107 23x23px Kiribati 900.401 108 23x23px Solomon Islands 900.169 109 23x23px Niue 899.281 110 23x23px Tuvalu 899.004 111 23x23px Cook Islands 898.923 112 23x23px Vanuatu 898.831 113 23x23px Samoa 896.317 114 23x23px Saudi Arabia 895.616 115 23x23px Bahrain 892.281 116 23x23px Oman 888.392 117 23x23px Kuwait 877.069 118 23x23px North Korea 868.902 119 23x23px Mongolia 866.490 120 23x23px South Korea 863.421 121 20x20px San Marino 862.099 122 23x23px Netherlands 861.586 123 23x23px Kazakhstan 860.070 124 23x23px Ukraine 858.312 125 23x23px Estonia 857.445 126 23x23px China 857.314 127 23x23px Russia 856.718 128 23x23px Belarus 855.825 129 23x23px Lithuania 855.363 130 23x23px Latvia 855.207 131 23x23px Moldova 855.040 132 23x23px New Zealand 851.065 133 23x23px Qatar 847.175 134 23x23px Hungary 847.062 135 23x23px Australia 846.943 136 23x23px U.A.E. 841.571 137 23x23px Mexico 784.702 138 23x23px Italy 776.376 139 23x23px Malta 763.792 140 23x23px Cape Verde 748.052 141 23x23px Mali 746.409 142 23x23px Lesotho 745.348 143 23x23px Angola 739.066 144 23x23px Burkina Faso 738.634 145 23x23px Sierra Leone 738.366 146 23x23px São Tomé and Príncipe 737.979 147 23x23px Guinea-Bissau 737.928 148 23x23px Equatorial Guinea 737.167 149 23x23px Chad 736.668 150 23x23px Togo 736.605 151 23x23px Nigeria 736.038 152 23x23px Senegal 735.975 153 23x23px Somalia 735.670 154 23x23px Swaziland 735.205 155 23x23px Madagascar 735.148 156 23x23px Liberia 734.677 157 23x23px Cameroon 734.635 158 23x23px Rwanda 734.221 159 23x23px Gambia 734.206 160 23x23px Benin 733.968 161 23x23px Mauritania 733.944 162 23x23px Comoros 733.904 163 23x23px Mozambique 733.777 164 20x20px Gabon 733.615 165 23x23px Djibouti 733.559 166 23x23px Guinea 732.777 167 23x23px Mauritius 732.672 168 23x23px Seychelles 732.305 169 23x23px Sudan 732.233 170 23x23px Algeria 731.743 171 23x23px Burundi 731.009 172 18x18px Niger 730.976 173 23x23px Ghana 730.842 174 23x23px Eritrea 730.154 175 23x23px C.A.R. 728.622 176 23x23px Namibia 726.357 177 23x23px Malawi 725.934 178 23x23px South Africa 725.772 179 20x20px D.R. of the Congo 725.756 180 23x23px Tanzania 724.539 181 23x23px Zimbabwe 724.516 182 23x23px Zambia 724.126 183 23x23px Botswana 723.997 184 23x23px Rep. of the Congo 723.945 185 23x23px Ethiopia 723.892 186 23x23px Kenya 723.667 187 23x23px Uganda 722.676 188 23x23px Portugal 721.798 189 23x23px Côte d'Ivoire 714.969 190 23x23px Greece 632.054 191 23x23px Spain 620.772 192 23x23px Japan 531.252 | Dịch tễ học trầm cảm | |
Định dạng tập tin là một cách chuẩn để thông tin được mã hóa trong việc lưu trữ trong các file. Nó chỉ định cách các bit được sử dụng để mã hóa thông tin trong một phương tiện lưu trữ kỹ thuật số. Các định dạng tập tin có thể là độc quyền hoặc tự do và có thể không được công bố hoặc mở. Một số định dạng tập tin được thiết kế cho các loại dữ liệu rất đặc biệt: ví dụ: file PNG, lưu trữ hình ảnh bitmap bằng cách sử dụng nén không mất dữ liệu. Tuy nhiên, các định dạng tập tin khác được thiết kế để lưu trữ một số loại dữ liệu khác nhau: định dạng Ogg có thể đóng vai trò là bộ chứa cho các loại đa phương tiện khác nhau, bao gồm mọi kết hợp âm thanh và video, có hoặc không có văn bản (như phụ đề) và siêu dữ liệu. Một tệp văn bản có thể chứa bất kỳ luồng ký tự nào, bao gồm các ký tự điều khiển có thể và được mã hóa theo một trong các sơ đồ mã hóa ký tự khác nhau. Một số định dạng tập tin, chẳng hạn như HTML, SVG và mã nguồn của phần mềm máy tính là các tệp văn bản với các cú pháp được xác định cho phép chúng được sử dụng cho các mục đích cụ thể. Các định dạng tập tin thường có một đặc tả được công bố mô tả phương pháp mã hóa và cho phép thử nghiệm chức năng dự định của chương trình. Không phải tất cả các định dạng đều có tài liệu đặc tả có sẵn miễn phí, một phần vì một số nhà phát triển xem tài liệu đặc tả của họ là bí mật thương mại và một phần vì các nhà phát triển khác không bao giờ tạo tài liệu đặc tả chính thức, cho phép các chương trình khác xác định định dạng. Nếu nhà phát triển định dạng không xuất bản thông số kỹ thuật miễn phí, nhà phát triển khác muốn sử dụng loại file đó phải dò ngược file để tìm cách đọc hoặc lấy tài liệu đặc tả từ nhà phát triển định dạng có tính phí và một thỏa thuận không tiết lộ. Cách tiếp cận thứ hai chỉ có thể khi một tài liệu đặc tả chính thức tồn tại. Cả hai chiến lược đều đòi hỏi thời gian, tiền bạc hoặc cả hai; do đó, các định dạng tập tin với thông số kỹ thuật có sẵn công khai có xu hướng được hỗ trợ bởi nhiều chương trình hơn. Luật sáng chế, thay vì bản quyền, thường được sử dụng để bảo vệ định dạng tập tin. Mặc dù bằng sáng chế cho các định dạng tập tin không được phép trực tiếp theo luật pháp Mỹ, một số định dạng mã hóa dữ liệu bằng thuật toán được cấp bằng sáng chế. Ví dụ: sử dụng nén với định dạng tệp GIF yêu cầu sử dụng thuật toán được cấp bằng sáng chế và mặc dù chủ sở hữu bằng sáng chế ban đầu không thực thi bằng sáng chế của họ, sau đó họ bắt đầu thu phí bản quyền. Điều này đã dẫn đến việc giảm đáng kể việc sử dụng GIF và chịu trách nhiệm một phần cho việc phát triển định dạng PNG thay thế. Tuy nhiên, bằng sáng chế đã hết hạn Mỹ vào giữa năm 2003 và trên toàn thế giới vào giữa năm 2004. Theo truyền thống, các hệ điều hành khác nhau thường áp dụng các cách tiếp cận khác nhau để xác định định dạng của một file cụ thể, với mỗi cách tiếp cận có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Hầu hết các hệ điều hành hiện đại và các ứng dụng riêng lẻ cần sử dụng tất cả các cách tiếp cận sau đây để đọc các định dạng tệp "bên ngoài", nếu không hoạt động hoàn toàn với chúng. Một phương pháp phổ biến được sử dụng bởi nhiều hệ điều hành, bao gồm Windows, Mac OS X, CP/M, DOS, VMS và VM/CMS, là xác định định dạng của file dựa trên phần cuối của tên của nó. Phần này của tên file được gọi là phần mở rộng tên file. Ví dụ: các tài liệu HTML được xác định bằng các tên kết thúc bằng .html (hoặc .htm) và hình ảnh GIF theo .gif. Trong hệ thống tệp FAT ban đầu, tên file được giới hạn định danh tám ký tự và phần mở rộng ba ký tự, được gọi là tên tệp 8.3. Có rất nhiều phần mở rộng ba chữ cái, vì vậy, thường thì mọi phần mở rộng đã cho có thể được liên kết với nhiều chương trình. Nhiều định dạng vẫn sử dụng các phần mở rộng ba ký tự mặc dù các hệ điều hành và chương trình ứng dụng hiện đại không còn giới hạn này nữa. Vì không có danh sách các tiện ích mở rộng tiêu chuẩn, nhiều định dạng có thể sử dụng cùng một tiện ích mở rộng, điều này có thể gây nhầm lẫn cho cả hệ điều hành và người dùng. Một yếu tố của cách tiếp cận này là hệ thống có thể dễ dàng bị đối xử lý với một file theo định dạng khác chỉ bằng cách đổi tên nó ví dụ, file HTML có thể dễ dàng được coi là văn bản thuần túy bằng cách đổi tên từ filename.html thành filename.txt. Mặc dù chiến lược này hữu ích với những người dùng chuyên gia có thể dễ dàng hiểu và thao tác thông tin này, nhưng nó thường gây nhầm lẫn cho những người dùng ít kỹ thuật hơn, những người có thể vô tình làm cho một file không thể sử dụng (hoặc "mất" nó) bằng cách đổi tên không chính xác. Điều này khiến các hệ điều hành gần đây hơn, chẳng hạn như Windows 95 và Mac OS X, ẩn phần mở rộng khi liệt kê các file. Điều này ngăn người dùng vô tình thay đổi loại file và cho phép người dùng chuyên gia tắt tính năng này và hiển thị các tiện ích mở rộng. Tuy nhiên, ẩn phần mở rộng có thể tạo ra sự xuất hiện của hai hoặc nhiều tên file giống nhau trong cùng một thư mục. Ví dụ: logo công ty có thể cần cả định dạng (để xuất bản) và định dạng .png (cho các trang web). Với các phần mở rộng có thể nhìn thấy, chúng sẽ xuất hiện dưới dạng tên tệp duy nhất và Mặt khác, việc ẩn các tiện ích mở rộng sẽ khiến cả hai xuất hiện dưới dạng "CompanyLogo". Ẩn tiện ích mở rộng cũng có thể gây ra rủi ro bảo mật. Ví dụ: người dùng độc hại có thể tạo một chương trình thực thi với tên vô tội, chẳng hạn như "Holiday sẽ bị ẩn và người dùng sẽ thấy "Holiday photo.jpg ", có vẻ như là một hình ảnh JPEG, không thể làm hại máy lưu cho các lỗi trong ứng dụng được sử dụng để xem nó. Tuy nhiên, hệ điều hành vẫn sẽ thấy phần mở rộng ".exe" và do đó chạy chương trình, sau đó có thể gây hại cho máy tính. Điều tương tự cũng đúng với các file chỉ có một phần mở rộng: vì nó không được hiển thị cho người dùng, không có thông tin nào về file có thể được suy luận mà không điều tra rõ ràng về file. Phần mở rộng có thể bị giả mạo. Một số virus macro Word tạo một file Word định dạng mẫu và lưu nó với một phần mở rộng.DOC. Vì Word thường bỏ qua các phần mở rộng và xem định dạng của file, những file này sẽ mở dưới dạng mẫu, thực thi và phát tán vi-rút. Để lừa thêm người dùng, có thể lưu trữ một biểu tượng bên trong chương trình, trong trường hợp đó, việc gán biểu tượng của một số hệ điều hành cho file thực thi (.exe) sẽ bị ghi đè bằng một biểu tượng thường được sử dụng để thể hiện hình ảnh JPEG như một hình ảnh. Vấn đề này đòi hỏi người dùng có các tiện ích mở rộng bị ẩn phải cảnh giác và không bao giờ để hệ điều hành chọn chương trình nào để mở tệp không đáng tin cậy (điều này mâu thuẫn với tưởng làm cho mọi thứ dễ dàng hơn cho người dùng). Điều này thể hiện một vấn đề thực tế cho các hệ thống Windows, nơi ẩn tiện ích mở rộng được bật theo mặc định. Cách thứ hai để xác định định dạng tập tin là sử dụng thông tin liên quan đến định dạng được lưu trữ bên trong file, thông tin có nghĩa cho mục đích này hoặc chuỗi nhị phân luôn lưu trữ các vị trí cụ thể trong một số định dạng. Vì vị trí dễ nhất để xác định vị trí của chúng là đầu, khu vực như vậy thường được gọi là file header khi nó lớn hơn một vài byte hoặc một số magic number nếu nó chỉ dài vài byte. = Siêu dữ liệu chứa trong file header thường được lưu trữ đầu file, nhưng cũng có thể có các khu vực khác, thường bao gồm cả cuối file, tùy thuộc vào định dạng tập tin hoặc loại dữ liệu được chứa. Các file dựa trên ký tự (văn bản) thường có các tiêu đề dựa trên ký tự, trong khi các định dạng nhị phân thường có các tiêu đề nhị phân, mặc dù đây không phải là quy tắc. Các tiêu đề file dựa trên văn bản thường chiếm nhiều dung lượng hơn, nhưng có thể đọc được bằng con người, chúng có thể dễ dàng được kiểm tra bằng cách sử dụng phần mềm đơn giản như trình soạn thảo văn bản hoặc trình soạn thảo Hex. Cũng như xác định định dạng tập tin, các tiêu đề file có thể chứa siêu dữ liệu về file và nội dung của file. Ví dụ: hầu hết các file hình ảnh lưu trữ thông tin về định dạng hình ảnh, kích thước, độ phân giải và không gian màu và tùy chọn thông tin tác giả như ai đã tạo ra hình ảnh, khi nào và đâu, chế độ máy ảnh và cài đặt ảnh nào được sử dụng (Exif). Siêu dữ liệu như vậy có thể được sử dụng bằng phần mềm đọc hoặc giải thích file trong quá trình tải và sau đó. Các tiêu đề file có thể được sử dụng bởi một hệ điều hành để nhanh chóng thu thập thông tin về một file mà không tải tất cả vào bộ nhớ, nhưng làm như vậy sẽ sử dụng nhiều tài nguyên của máy tính hơn là đọc trực tiếp từ thông tin thư mục. Ví dụ, khi trình quản lý file đồ họa phải hiển thị nội dung của thư mục, nó phải đọc các tiêu đề của nhiều tệp trước khi có thể hiển thị các biểu tượng thích hợp, nhưng chúng sẽ được đặt các vị trí khác nhau trên phương tiện lưu trữ, do đó mất nhiều thời gian hơn để truy cập. Một thư mục chứa nhiều file có siêu dữ liệu phức tạp như thông tin hình thu nhỏ có thể cần thời gian đáng kể trước khi có thể được hiển thị. Nếu một tiêu đề được mã hóa nhị phân sao cho chính tiêu đề cần diễn giải phức tạp để được nhận ra, đặc biệt là vì mục đích bảo vệ nội dung siêu dữ liệu, có nguy cơ định dạng tập tin có thể bị hiểu sai. Nó thậm chí có thể đã được viết xấu tại nguồn. Điều này có thể dẫn đến siêu dữ liệu bị hỏng, trong trường hợp cực kỳ xấu, thậm chí có thể khiến file không thể đọc được. Một ví dụ phức tạp hơn về các tiêu đề file là những tiêu đề được sử dụng cho các định dạng tập tin của trình bao bọc (hoặc vùng chứa). = Một cách để kết hợp siêu dữ liệu loại file, thường được liên kết với Unix và các dẫn xuất của nó, chỉ là lưu trữ "số ma thuật" bên trong file. Ban đầu, thuật ngữ này được sử dụng cho một bộ định danh byte cụ thể khi bắt đầu các file, nhưng vì bất kỳ chuỗi nhị phân nào cũng có thể được coi là một số, bất kỳ tính năng nào của định dạng tập tin phân biệt duy nhất có thể được sử dụng để nhận dạng. Chẳng hạn, hình ảnh GIF luôn bắt đầu bằng đại diện ASCII của GIF87a hoặc GIF89a, tùy thuộc vào tiêu chuẩn mà chúng tuân thủ. Nhiều loại file, đặc biệt là file văn bản thuần, khó phát hiện hơn bằng phương pháp này. Ví dụ, các file HTML có thể bắt đầu bằng chuỗi (không phân biệt chữ hoa chữ thường) hoặc định nghĩa loại tài liệu phù hợp bắt đầu bằng DOCTYPE HTML>, hoặc, đối với XHTML, mã định danh XML, bắt đầu bằng Các file cũng có thể bắt đầu bằng các nhận xét HTML, văn bản ngẫu nhiên hoặc một số dòng trống, nhưng vẫn có thể sử dụng được HTML. Phương pháp số ma thuật đảm bảo tốt hơn rằng định dạng sẽ được xác định chính xác và thường có thể xác định thông tin chính xác hơn về file. Do các phép thử "số ma thuật" đáng tin cậy có thể khá phức tạp và mỗi file phải được kiểm tra hiệu quả trước mọi khả năng trong cơ sở dữ liệu ma thuật, nên cách tiếp cận này tương đối không hiệu quả, đặc biệt là để hiển thị danh sách lớn các file (ngược lại, tên file và siêu dữ liệu- các phương thức dựa trên chỉ cần kiểm tra một phần dữ liệu và đối chiếu nó với một chỉ mục được sắp xếp). Ngoài ra, dữ liệu phải được đọc từ chính file, tăng độ trễ so với siêu dữ liệu được lưu trữ trong thư mục. Khi các loại file không cho phép nhận dạng theo cách này, hệ thống phải quay lại siêu dữ liệu. Tuy nhiên, đây là cách tốt nhất để chương trình kiểm tra xem file đã được xử lý có đúng định dạng hay không: trong khi tên hoặc siêu dữ liệu của file có thể bị thay đổi độc lập với nội dung của nó, không thực hiện kiểm tra số ma thuật được thiết kế tốt là một dấu hiệu khá chắc chắn rằng file bị hỏng hoặc sai loại. Mặt khác, một số ma thuật hợp lệ không đảm bảo rằng file không bị hỏng hoặc thuộc loại chính xác. Cái gọi là dòng shebang trong file script là trường hợp đặc biệt của số ma thuật. đây, số ma thuật là văn bản có thể đọc được bằng con người xác định một trình thông dịch lệnh cụ thể và các tùy chọn sẽ được chuyển cho trình thông dịch lệnh. Một hệ điều hành khác sử dụng số ma thuật là AmigaOS, trong đó số ma thuật được gọi là "Magic Cookies" và được sử dụng như một hệ thống tiêu chuẩn để nhận ra các file thực thi định dạng tập tin thực thi Hunk và cũng để các chương trình, công cụ và tiện ích đơn lẻ tự động xử lý các file dữ liệu đã lưu của chúng hoặc bất kỳ loại file nào khác khi lưu và tải dữ liệu. Hệ thống này sau đó được cải tiến với hệ thống nhận dạng Datatype tiêu chuẩn Amiga. Một phương pháp khác là phương pháp FourCC, bắt nguồn từ OSType trên Macintosh, sau đó được điều chỉnh bởi Định dạng tệp trao đổi (IFF) và các dẫn xuất. Cách cuối cùng để lưu trữ định dạng của file là lưu trữ rõ ràng thông tin về định dạng trong hệ thống file, thay vì trong chính file. Cách tiếp cận này giữ siêu dữ liệu tách biệt với cả dữ liệu chính và tên, nhưng cũng ít di động hơn so với phần mở rộng file hoặc "số ma thuật", vì định dạng phải được chuyển đổi từ hệ thống file sang hệ thống file. Mặc dù điều này cũng đúng với các phần mở rộng tên file ví dụ, để tương thích với giới hạn ba ký tự của MS-DOS hầu hết các dạng lưu trữ có định nghĩa gần giống với dữ liệu và tên của file, nhưng có thể thay đổi hoặc không có đại diện metadata nào. Lưu rằng file zip hoặc file lưu trữ giải quyết vấn đề xử lý siêu dữ liệu. Một chương trình tiện ích thu thập nhiều file cùng với siêu dữ liệu về mỗi file và các mà chúng đến từ tất cả trong một file mới (ví dụ: file zip có đuôi.zip). File mới cũng được nén và có thể được mã hóa, nhưng giờ đây có thể truyền thành một file duy nhất trên các hệ điều hành bởi các hệ thống FTP hoặc được đính kèm vào email. Tại đích, nó phải được giải nén bởi một tiện ích tương thích để có ích, nhưng các vấn đề về truyền được giải quyết theo cách này. = Hierarchical File System của Mac OS lưu trữ mã cho người tạo và nhập như một phần của mục nhập thư mục cho mỗi file. Các mã này được gọi là OSTypes. Các mã này có thể là bất kỳ chuỗi byte nào, nhưng thường được chọn sao cho biểu diễn ASCII tạo thành một chuỗi các ký tự có nghĩa, chẳng hạn như viết tắt tên của ứng dụng hoặc tên viết tắt của nhà phát triển. Ví dụ: file "ngăn xếp" của HyperCard có người tạo WILD (từ tên trước đó của Hypercard, "WildCard") và một loại STAK. Trình soạn thảo văn bản BBEdit có mã người tạo R*ch đề cập đến lập trình viên gốc của nó, Rich Siegel. Mã loại chỉ định định dạng của file, trong khi mã người tạo chỉ định chương trình mặc định để mở file khi người dùng nhấp đúp. Ví dụ: người dùng có thể có một số file văn bản tất cả với mã loại Text, nhưng mỗi file mở trong một chương trình khác nhau, do có mã người tạo khác nhau. Tính năng này được dự định để, ví dụ, các file văn bản đơn giản có thể đọc được có thể được mở trong trình soạn thảo văn bản cho mục đích chung, trong khi các file lập trình hoặc mã HTML sẽ mở trong một trình soạn thảo hoặc IDE chuyên dụng, nhưng tính năng này thường là nguồn sự nhầm lẫn của người dùng vì chương trình nào sẽ khởi chạy khi các file được nhấp đúp thường không thể đoán trước. Hệ điều hành RISC sử dụng một hệ thống tương tự, bao gồm số 12 bit có thể tra cứu trong bảng mô tả, ví dụ số thập lục phân FF5 là "bí danh" đối với PoScript, đại diện cho file PostScript. = Mã định danh loại thống nhất (UTI) là một phương thức được sử dụng trong Mac OS để xác định duy nhất các lớp thực thể "được gõ", chẳng hạn như định dạng tập tin. Nó được Apple phát triển để thay thế cho OSType (mã loại người tạo). UTI là chuỗi Core Foundation, sử dụng chuỗi DNS ngược. Một số loại phổ biến và tiêu chuẩn sử dụng tên miền public (ví dụ: public.png cho hình ảnh PNG), trong khi các tên miền khác có thể được sử dụng cho các loại của bên thứ ba (ví dụ com.adobe.pdf cho Portable Document Format). UTI có thể được định nghĩa trong cấu trúc phân cấp, được gọi là phân cấp tuân thủ. Do đó, public.png phù hợp với một siêu kiểu của public.image, chính nó phù hợp với một siêu kiểu của public.data. Một UTI có thể tồn tại trong nhiều hệ thống phân cấp, cung cấp sự linh hoạt tuyệt vời. Ngoài các định dạng tập tin, UTI cũng có thể được sử dụng cho các thực thể khác có thể tồn tại trong OS X, bao gồm: Dữ liệu bảng Folders (directories) Các loại có thể dịch (được xử lý bởi Translation Manager) Bundles Frameworks Truyền dữ liệu Bí danh và liên kết tượng trưng Các hệ thống file HPFS, FAT12 và FAT16 (chứ không phải FAT32) cho phép lưu trữ "thuộc tính mở rộng" với các file. Chúng bao gồm một bộ ba tùy có tên, loại được mã hóa cho giá trị và giá trị, trong đó tên là duy nhất và giá trị có thể dài tới 64 KB. Có nghĩa tiêu chuẩn hóa cho các loại và tên nhất định (theo OS/2). Một trong số đó là ".TYPE" thuộc tính mở rộng được sử dụng để xác định loại file. Giá trị của nó bao gồm một danh sách một hoặc nhiều loại file được liên kết với file, mỗi loại là một chuỗi, chẳng hạn như "Plain Text" hoặc "Tài liệu HTML". Do đó, một file có thể có một số loại. Hệ thống file NTFS cũng cho phép lưu trữ các thuộc tính mở rộng của OS/2, như một trong các file forks, nhưng tính năng này chỉ hiện diện để hỗ trợ hệ thống con OS/2 (không có trong XP), vì vậy hệ thống con Win32 coi thông tin này là khối dữ liệu mờ đục và không sử dụng nó. Thay vào đó, nó dựa vào các file forks khác để lưu trữ thông tin meta các định dạng dành riêng cho Win32. Các thuộc tính mở rộng của OS/2 vẫn có thể được đọc và ghi bởi các chương trình Win32, nhưng dữ liệu phải được phân tích hoàn toàn bởi các ứng dụng. = Trên các hệ thống tương tự Unix và Unix, các hệ thống file ext2, ext3, ReiserFS phiên bản 3, XFS, JFS, FFS và HFS+ cho phép lưu trữ các thuộc tính mở rộng với các file. Chúng bao gồm một danh sách các chuỗi "name value" tùy ý, trong đó các tên là duy nhất và một giá trị có thể được truy cập thông qua tên liên quan của nó. = Mã định danh duy nhất liên tục PRONOM (PUID) là một chương trình mở rộng gồm các định danh liên tục, duy nhất và rõ ràng cho các định dạng tập tin, được phát triển bởi The National Archives of the UK như một phần của dịch vụ đăng ký kỹ thuật PRONOM. PUID có thể được thể hiện dưới dạng Định danh tài nguyên đồng nhất bằng cách sử dụng namespace info:pronom/. Mặc dù chưa được sử dụng rộng rãi bên ngoài chính phủ Vương quốc Anh và một số chương trình bảo quản kỹ thuật số, chương trình PUID cung cấp mức độ chi tiết cao hơn so với hầu hết các chương trình thay thế. = MIME types được sử dụng ngày càng rộng rãi trong nhiều ứng dụng liên quan đến Internet và nhiều nơi khác, mặc dù việc sử dụng chúng cho thông tin loại trên đĩa rất hiếm. Chúng bao gồm một hệ thống định danh được tiêu chuẩn hóa (được quản lý bởi IANA) bao gồm một type và một sub-type, được phân tách bằng dấu gạch chéo ví dụ: text/html hoặc image/gif. Chúng ban đầu được dự định như một cách để xác định loại file nào được đính kèm vào e-mail, độc lập với hệ điều hành nguồn và đích. MIME types xác định các file trên BeOS, AmigaOS 4.0 và MorphOS, cũng như lưu trữ các chữ ký ứng dụng duy nhất để khởi chạy ứng dụng. Trong AmigaOS và MorphOS, hệ thống MIME types hoạt động song song với hệ thống Datatype cụ thể của Amiga. Có vấn đề với các MIME types; một số tổ chức và nhiều người đã tạo các MIME types của riêng họ mà không đăng ký chúng đúng cách với IANA, điều này khiến việc sử dụng tiêu chuẩn này trở nên khó xử trong một số trường hợp. = Định danh file định dạng là một cách khác, không được sử dụng rộng rãi để xác định định dạng tập tin theo nguồn gốc và loại file của chúng. Nó được tạo ra cho bộ phần mềm Description Explorer. Nó bao gồm một số chữ số có dạng Phần đầu tiên cho biết nguồn gốc/người duy trì tổ chức (số này biểu thị một giá trị trong cơ sở dữ liệu tổ chức công ty/tiêu chuẩn), chữ số sau phân loại loại file theo hệ thập lục phân. Phần cuối cùng bao gồm phần mở rộng file thông thường của file hoặc số tiêu chuẩn quốc tế của file, được đệm bằng số không. Ví dụ: đặc tả file PNG có FFID là trong đó 31 chỉ ra file hình ảnh, 0015948 là số chuẩn và 000000001 biểu thị Tổ chức ISO. = Một cách khác nhưng ít phổ biến hơn để xác định định dạng tập tin là kiểm tra nội dung file để biết các mẫu có thể phân biệt giữa các loại file. Nội dung của một file là một chuỗi các byte và một byte có 256 hoán vị duy nhất (0 đến 255). Do đó, việc đếm sự xuất hiện của các mẫu byte thường được gọi là phân phối tần số byte cung cấp các mẫu có thể phân biệt để xác định các loại file. Có nhiều lược đồ nhận dạng loại file dựa trên nội dung sử dụng phân phối tần số byte để xây dựng các mô hình đại diện cho loại file và sử dụng bất kỳ kỹ thuật khai thác dữ liệu và thống kê nào để xác định loại file Có một số cách để cấu trúc dữ liệu trong một file. Những cách phổ biến nhất được mô tả dưới đây. Các định dạng tập tin trước đó đã sử dụng các định dạng dữ liệu thô bao gồm trực tiếp đổ hình ảnh bộ nhớ của một hoặc nhiều cấu trúc vào file. Điều này có một số nhược điểm. Trừ khi các hình ảnh bộ nhớ cũng có không gian dành riêng cho các phần mở rộng trong tương lai, việc mở rộng và cải thiện loại file có cấu trúc này là rất khó khăn. Nó cũng tạo các file có thể dành riêng cho một nền tảng hoặc ngôn ngữ lập trình (ví dụ: cấu trúc chứa chuỗi Pascal không được nhận dạng như vậy trong C). Mặt khác, việc phát triển các công cụ để đọc và viết các loại tệp này rất đơn giản. Những hạn chế của các định dạng phi cấu trúc đã dẫn đến sự phát triển của các loại định dạng tập tin khác có thể dễ dàng mở rộng và tương thích ngược cùng một lúc. Trong loại cấu trúc file này, mỗi phần dữ liệu được nhúng vào một bộ chứa bằng cách nào đó xác định dữ liệu. Phạm vi của bộ chứa có thể được xác định bằng một số loại bắt đầu và đánh dấu kết thúc bằng một loại trường độ dài rõ ràng đâu đó hoặc theo các yêu cầu cố định của định nghĩa định dạng tập tin. Trong suốt những năm 1970, nhiều chương trình đã sử dụng các định dạng thuộc loại chung này. Ví dụ: các trình xử lý văn bản như troff, Script và Scribe và xuất các file cơ sở dữ liệu như CSV. Electronic Arts và Commodore Amiga cũng đã sử dụng loại định dạng tập tin này vào năm 1985, với định dạng tệp IFF (Interchange File Format). Một container đôi khi được gọi là "chunk", mặc dù "chunk" cũng có thể ngụ rằng mỗi mảnh nhỏ và/hoặc khối đó không chứa các khối khác; nhiều định dạng không áp đặt những yêu cầu đó. Thông tin xác định một "khối" cụ thể có thể được gọi là nhiều thứ khác nhau, thường là các thuật ngữ bao gồm "tên trường", "mã định danh", "nhãn" hoặc "thẻ". Các mã định danh thường có thể đọc được và phân loại các phần của dữ liệu: ví dụ: "họ", "địa chỉ", "hình chữ nhật", "tên phông chữ",v.v. Đây không giống với mã định danh theo nghĩa của khóa cơ sở dữ liệu hoặc số sê-ri (mặc dù mã định danh có thể xác định tốt dữ liệu được liên kết của nó như một khóa như vậy). Với kiểu cấu trúc file này, các công cụ không biết một số định danh chunk nhất định chỉ cần bỏ qua những công cụ mà chúng không hiểu. Tùy thuộc vào nghĩa thực tế của dữ liệu bị bỏ qua, điều này có thể có hoặc không hữu ích (CSS xác định rõ ràng hành vi đó). Khái niệm này đã được sử dụng lặp đi lặp lại bởi RIFF (Microsoft-IBM tương đương với IFF), PNG, lưu trữ JPEG, Các stream và file được mã hóa DER (Distinguished Encoding Rules) (được mô tả ban đầu trong CCITT X.409: 1984 và do đó có trước IFF) và Định dạng trao đổi dữ liệu có cấu trúc (SDXF). Thật vậy, bất kỳ định dạng dữ liệu bằng cách nào đó phải xác định tầm quan trọng của các bộ phận cấu thành của nó và các dấu mốc biên được nhúng là một cách rõ ràng để làm như vậy: Các tiêu đề MIME thực hiện điều này với nhãn được phân tách bằng dấu hai chấm đầu mỗi dòng logic. Các tiêu đề MIME không thể chứa các tiêu đề MIME khác, mặc dù nội dung dữ liệu của một số tiêu đề có các phần phụ có thể được trích xuất bằng các quy ước khác. CSV và các file tương tự thường làm điều này bằng cách sử dụng bản ghi tiêu đề có tên trường và bằng dấu phẩy để đánh dấu ranh giới trường. Giống như MIME, CSV không có điều khoản nào cho các cấu trúc có nhiều hơn một cấp. XML và họ hàng của nó có thể được coi là một loại định dạng dựa trên khối, vì các yếu tố dữ liệu được xác định bằng cách đánh dấu gần giống với định danh chunk. Tuy nhiên, nó có những lợi thế chính thức như lược đồ và xác nhận, cũng như khả năng thể hiện các cấu trúc phức tạp hơn như cây, DAG và biểu đồ. Nếu XML được coi là định dạng "chunk", thì SGML và IBM GML tiền nhiệm của nó là một trong những ví dụ sớm nhất về các định dạng đó. JSON tương tự như XML mà không có lược đồ, tham chiếu chéo hoặc định nghĩa cho nghĩa của các tên trường lặp lại và thường thuận tiện cho các lập trình viên. Bộ đệm giao thức lần lượt tương tự như JSON, đáng chú là thay thế các điểm đánh dấu ranh giới trong dữ liệu bằng số trường, được ánh xạ đến/từ tên theo một số cơ chế bên ngoài. Đây là một định dạng mở rộng khác, gần giống với một hệ thống file (Tài liệu OLE là các hệ thống file thực tế), trong đó file bao gồm các 'mục nhập thư mục' có chứa vị trí của dữ liệu trong chính file cũng như chữ ký của nó trường hợp loại của nó). Ví dụ điển hình của các loại cấu trúc file này là ảnh đĩa, tài liệu OLE TIFF, thư viện. ODT và DOCX, được dựa trên PKZip được chunk và cũng mang một thư mục. | Định dạng tập tin | |
Agnes Matilda Kalibata là một nhà khoa học và nhà hoạch định chính sách nông nghiệp Rwandan, đồng thời là Chủ tịch của Liên minh vì một cuộc cách mạng xanh châu Phi (AGRA).. Cô đã từng là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Tài nguyên động vật của Rwanda từ năm 2008 đến 2014 và bắt đầu nhiệm kỳ của mình với tư cách là Chủ tịch của AGRA vào năm 2014. Kalibata được sinh ra Rwanda và lớn lên như một người tị nạn Uganda, với cha mẹ là những người chủ doanh nghiệp nhỏ. Cô có bằng cử nhân về côn trùng học và hóa sinh, sau đó là bằng thạc sĩ nông nghiệp, cả hai đều từ Đại học Makerere Uganda. Sau đó cô đã nhận được bằng tiến sĩ trong lĩnh vực côn trùng học từ Đại học Massachusetts Amherst. Sau khi tốt nghiệp vào năm 2005, cô thực hiện nghiên cứu tại Viện nghiên cứu nông nghiệp Kawanda với Viện nông nghiệp nhiệt đới quốc tế, hợp tác với Đại học Makerere của Uganda và Đại học Massachusetts. Kalibata từng là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Tài nguyên động vật của Rwanda từ năm 2008 đến 2014. Trong suốt nhiệm kỳ của mình, cô đã thúc đẩy việc sử dụng các phương pháp tiếp cận dựa trên khoa học vào nông nghiệp để tăng sản lượng lương thực và cải thiện an ninh lương thực, tập trung vào nông dân gia đình. Cô thực hiện các chính sách, được thiết kế để kết nối nông dân với hàng xóm và khách hàng, cũng như các chương trình hợp tác và các chương trình chia sẻ kinh nghiệm chăn nuôi bò giúp các gia đình sở hữu bò dễ dàng hơn. Trong sáu năm cô làm Bộ trưởng, tình trạng đói nghèo của Rwanda đã giảm hơn 50%; ngân sách hàng năm của ngành nông nghiệp đã tăng từ dưới 10 triệu USD lên hơn 150 triệu USD; và Rwanda trở thành quốc gia đầu tiên ký hợp đồng theo Chương trình phát triển nông nghiệp toàn diện châu Phi (một sáng kiến của Ủy ban Liên minh châu Phi). Cô đã được ca ngợi bởi nhiều những thành tựu xuất sắc nhưng một số tổ chức nhân quyền đã chỉ trích các chính sách hỗ trợ tài chính bởi vì chỉ được trao cho những người nông dân theo chính sách đồn điền đổi thửa của Chính phủ Rwanda. Vào năm 2014, cô đã phục vụ trong một thời gian ngắn với tư cách là Phó hiệu trưởng của Đại học Rwanda vì sự tiến bộ của tổ chức. Kể từ tháng năm 2014, cô là chủ tịch của Liên minh vì một cuộc cách mạng xanh châu Phi (AGRA), một tổ chức do người châu Phi lãnh đạo có nhiệm vụ cải thiện an ninh lương thực và thu nhập của 30 triệu hộ gia đình 11 quốc gia châu Phi 2021 bởi, trong số những thứ khác, cung cấp quyền truy cập vào hạt giống và tín dụng tốt hơn. Kalibata đã giữ nhiều vai trò trong MINAGRI, Bộ Nông nghiệp và Tài nguyên động vật của Rwanda; bà được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Thường trực Bộ này vào năm 2006, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp năm 2008 và Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Động vật năm 2009. Cô cũng đã từng giữ nhiều vị trí khác, bao gồm chủ tịch Hội đồng quản trị của Viện Nông nghiệp và Chăn nuôi và Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Lâm sàng Quốc gia của Rwanda. Cô phục vụ trong Hội đồng tư vấn của Viện nghiên cứu chính sách thực phẩm quốc tế và quản lý một dự án của Ngân hàng Thế giới Rwanda. Kalibata là thành viên của Hội đồng quản trị của Trung tâm phát triển phân bón quốc tế (IDFC) từ năm 2008, nơi cô làm chủ tịch Ủy ban châu Phi của ủy ban và là thành viên của Ủy ban điều hành và kiểm toán của họ. Cô cũng là thành viên của nhiều hội đồng quốc gia và quốc tế bao gồm Đại học Rwanda, Năng lực rủi ro châu Phi, Hội đồng chương trình nghị sự toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới, Ủy ban thích ứng toàn cầu và Hội đồng chuyên gia về an ninh lương thực và nông nghiệp Malabo Montpellier. Kalibata là người ủng hộ mạnh mẽ cho bình đẳng giới Rwanda, nhấn mạnh lợi ích kinh tế của việc khuyến khích phụ nữ đóng vai trò công khai hơn trong xã hội khi Rwanda phục hồi kinh tế sau cuộc diệt chủng Rwandan năm 1994 đã giết chết 800.000 người trong ba tháng và khiến dân số Rwanda mất 60%. Năm 2012, Kalibata đã được trao Giải thưởng Yara (nay gọi là Giải thưởng Thực phẩm Châu Phi), công nhận một cá nhân hoặc tổ chức xuất sắc dẫn đầu nỗ lực thay đổi thực tế canh tác Châu Phi. Năm 2018, Đại học Liege, Bỉ đã trao cho cô một bằng tiến sĩ danh dự cho vai trò lãnh đạo xuất sắc (2018). Cô là người nhận Huân chương Phúc lợi Công cộng NAS 2019: được Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia mô tả là giải thưởng uy tín nhất, huy chương này được trao hàng năm cho một nhà khoa học sử dụng khoa học vì lợi ích cộng đồng. | Agnes Matilda Kalibata | Nhân vật còn sống, Cựu sinh viên Đại học Massachusetts Amherst, Nữ khoa học gia |
Agharta: The Hollow Earth là tựa game đồ họa 3D thuộc thể loại hành động, phiêu lưu kể về chuyến hành trình đến thành phố huyền thoại nằm sâu dưới lòng đất Agharta do hãng Aniware AB phát triển và được Egmont Interactive phát hành vào năm 2000. Bản beta cho phiên bản lồng tiếng Đức của tựa game này được phát hành vào tháng năm 2001. Lấy bối cảnh năm 1926, người chơi vào vai chàng phi công trẻ tuổi được cấp trên giao nhiệm vụ tìm kiếm một nhà khoa học nổi tiếng đã biến mất tăm hơi khi đang lưu lạc Bắc Cực. Agharta: The Hollow Earth lấy cảm hứng từ thuyết âm mưu Trái Đất rỗng. Riêng về phần lối chơi thì noi theo thể loại game phiêu lưu trỏ và nhấp truyền thống. Trong quá trình chơi game, người chơi điều khiển nhân vật chính là chàng phi công trẻ tuổi cùng chú chó đốm nhỏ khám phá môi trường xung quanh để lấy vật phẩm và sử dụng chúng nhằm hoàn thành phần giải đố và tiếp tục tìm hiểu câu chuyện đến cùng. Cũng có đôi lúc người chơi sẽ phải dùng đến vũ khí có sẵn hoặc nhặt được dọc đường để tự vệ trước những sinh vật thù địch quanh đây. Chris Kellner của DTP Entertainment chuyên xử lý việc bản địa hóa game Đức, đã bật mí doanh số bán hàng trọn đời của tựa game này là từ 10.000 đến 50.000 bản trong khu vực. Comrad của Absolute Games đã mô tả trò chơi này là một tựa game kinh điển nên là một phần không thể thiếu trong bộ sưu tập của người chơi. Nhà phê bình Michael Zacharzewski của Gry cho biết game đã đưa ra lời tuyên bố quan trọng với thế giới rằng Thụy Điển sở hữu cả một ngành công nghiệp phát triển trò chơi điện tử phát triển mạnh mà có thể vẫn còn bị nghi vấn vào lúc đó. Thorsten Wiesner của trang web Đức Golem nghĩ rằng câu chuyện của game khá hay với rất nhiều tiềm năng bị lãng phí. Game Guru ca ngợi phong cảnh âm thanh và âm nhạc của tựa game này. PC Player cho rằng thiết kế của trò chơi này không có tính sáng tạo và các câu đố thì rỗng tuếch. | ''Agharta: The Hollow Earth | |
Alan Hill (sinh ngày tháng 11 năm 1943) là một cựu cầu thủ bóng đá người Anh từng thi đấu vị trí thủ môn, có hơn 250 lần ra sân Football League cho câu lạc bộ từ năm 1960 đến năm 1970. Sinh ra Barnsley, Hill bắt đầu sự nghiệp với đội trẻ of câu lạc bộ quê nhà Barnsley, lên thi đấu chuyên nghiệp năm 1960. Sau khi có hơn 130 lần ra sân, ông ký hợp đồng với Rotherham United năm 1966. Hill kết thúc sự nghiệp năm 1970 cùng với Nottingham Forest, sau khi bị gãy tay. ;Chung Post War English Scottish Football League Player's Transfer Database ;Cụ thể | Alan Hill | Sinh năm 1943, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Anh, Cầu thủ bóng đá Barnsley F.C., Cầu thủ bóng đá Rotherham United F.C., Cầu thủ bóng đá Nottingham Forest F.C., Cầu thủ bóng đá English Football League |
là một ứng cử viên thuốc có chức năng bằng cách ức chế đảo ngược monoamin oxydase A; nó được tổng hợp lần đầu tiên Moscow vào đầu những năm 1990. Tetrindole có cấu trúc hóa học tương tự pirlindole (Pyrazidol) và metralindole. | null | Chất ức chế monoamin oxidase |
Chi Ái lợi hoặc Alây (danh pháp khoa học: là một chi thực vật thuộc họ Rubiaceae. Chi này có các loài sau (tuy nhiên danh sách này có thể chưa đủ): Alleizettella rubra, Pitard | Chi Ái lợi | |
Tống Thanh Bình (sinh ngày tháng 11 năm 1970) là một chính trị gia người Việt Nam, dân tộc Thái. Ông hiện là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021, thuộc đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Lai Châu, Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lai Châu, Ủy viên Hội đồng Dân tộc của Quốc hội. Ông đã trúng cử đại biểu Quốc hội năm 2016 đơn vị bầu cử số 1, tỉnh Lai Châu gồm có thành phố Lai Châu và các huyện: Than Uyên, Tân Uyên, Tam Đường. Tống Thanh Bình sinh ngày tháng 11 năm 1970 quê quán bản Nậm Củm, xã Mường Tè, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Ông hiện cư trú số 001, tổ 9, phường Đoàn Kết, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. *Giáo dục phổ thông: 12/12 *Đại học Nông lâm, chuyên ngành Lâm nghiệp *Thạc sĩ *Cử nhân lí luận chính trị Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 23/9/1994. Ông từng là đại biểu hội đồng nhân dân Huyện Mường Tè nhiệm kỳ 2004-2009, huyện Than Uyên nhiệm kỳ 2010-2015. Khi ứng cử đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 vào tháng năm 2016 ông đang là Tỉnh ủy viên, Bí thư chi bộ, Trưởng ban dân tộc tỉnh Lai Châu, làm việc Ban dân tộc tỉnh Lai Châu. Ông đã trúng cử đại biểu quốc hội năm 2016 đơn vị bầu cử số 1, tỉnh Lai Châu gồm có thành phố Lai Châu và các huyện: Than Uyên, Tân Uyên, Tam Đường, được 113.999 phiếu, đạt tỷ lệ 88,50% số phiếu hợp lệ. Ông hiện là Tỉnh ủy viên, Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lai Châu, Ủy viên Hội đồng Dân tộc của Quốc hội. Ông đang làm việc Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lai Châu. | Tống Thanh Bình | Người Lai Châu, Người Thái, Sống tại Lai Châu, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV Lai Châu, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV chuyên trách địa phương, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV trúng cử lần đầu |
Một nền kinh tế carbon thấp (Low Carbon Economy-LCE, economy LFFE), hoặc kinh tế không carbon''' là một nền kinh tế dựa trên các nguồn năng lượng ít cácbon mà có một sản lượng tối thiểu phát thải khí nhà kính (GHG) vào sinh quyển, nhưng đặc biệt đề cập đến khí nhà kính cacbon dioxide. Việc thải khí GHG do hoạt động của con người (con người) là nguyên nhân chính của ấm lên toàn cầu (biến đổi khí hậu) kể từ giữa thế kỷ 20. Tiếp tục phát thải khí nhà kính sẽ gây ra những thay đổi lâu dài hơn nữa và lâu dài trên khắp thế giới, tăng khả năng tác động nghiêm trọng, tràn lan và không thể đảo ngược đối với con người và các hệ sinh thái. Chuyển đổi sang nền kinh tế các bon thấp trên phạm vi toàn cầu có thể mang lại những lợi ích đáng kể cho cả các nước phát triển và đang phát triển. Nhiều quốc gia trên thế giới đang thiết kế và thực hiện các chiến lược phát triển khí thải thấp (LEDS). Các chiến lược này nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và giảm phát thải khí nhà kính và tăng khả năng thích ứng với các tác động của biến đổi khí hậu. Do đó các nước có nền kinh tế các bon thấp được các nước có thể đưa ra kết luận này xem như là một phương pháp để tránh biến đổi khí hậu thảm khốc, và là tiền thân của nền kinh tế phi carbon cao cấp hơn. Các quốc gia có thể tìm cách trở thành nền kinh tế có ít carbon hoặc loại bỏ carbon như là một phần của chiến lược giảm thiểu biến đổi khí hậu quốc gia. Một chiến lược toàn diện để giảm nhẹ biến đổi khí hậu là thông qua trung hòa carbon. Mục đích của LCE là lồng ghép tất cả các khía cạnh của nó từ sản xuất, nông nghiệp, vận tải và phát điện, vv xung quanh các công nghệ sản xuất năng lượng và vật liệu có ít phát thải GHG và do đó xung quanh các khu định cư, và các thiết bị sử dụng năng lượng và vật liệu một cách hiệu quả, và vứt bỏ hoặc tái chế chất thải của chúng để có sản lượng GHG tối thiểu. Hơn nữa, người ta đã đề xuất rằng để chuyển đổi sang nền kinh tế LCE, chúng ta phải tính một chi phí (mỗi đơn vị đầu ra) vào GHG thông qua các phương tiện như buôn bán khí thải và/hoặc thuế cacbon. Một số quốc gia hiện nay có nền kinh tế các bon thấp: những xã hội này không được công nghiệp hoá hoặc chưa đông dân. Để tránh thay đổi khí hậu cấp độ toàn cầu, tất cả các quốc gia đều coi các xã hội nhiều khí thải carbon và các xã hội đông dân cần phải trở thành các xã hội và các nền kinh tế phi carbon. Một số quốc gia cam kết cắt giảm phát thải 100% thông qua phát thải bù trừ thay vì ngừng phát thải tất cả các phát thải (tính trung hòa cacbon); nói cách khác, phát ra sẽ không chấm dứt nhưng sẽ tiếp tục và sẽ được bù đắp cho một khu vực địa lý khác. Hệ thống giao dịch phát thải của EU cho phép các công ty mua tín dụng carbon quốc tế, do đó các công ty có thể kênh công nghệ sạch để thúc đẩy các nước khác áp dụng các phát triển các-bon thấp. Các nền kinh tế các bon thấp mang lại nhiều lợi ích cho sự bền vững của hệ sinh thái, thương mại, việc làm, sức khoẻ, an ninh năng lượng và khả năng cạnh tranh công nghiệp. = Các chiến lược phát triển phát thải thấp cho ngành sử dụng đất có thể ưu tiên bảo vệ các hệ sinh thái giàu cacbon không chỉ để giảm phát thải mà còn để bảo vệ đa dạng sinh học và bảo vệ sinh kế của người dân nhằm giảm đói nghèo nông thôn tất cả những điều này có thể dẫn tới nhiều hệ thống chống chịu với khí hậu hơn. một báo cáo của Chiến lược phát triển toàn cầu phát thải thấp (LEDS GP). Các sáng kiến về REDD và cacbon xanh là một trong những biện pháp sẵn có để bảo tồn, quản lý bền vững và khôi phục các hệ sinh thái giàu cacbon này, điều quan trọng đối với việc lưu giữ và hấp thụ các-bon tự nhiên và để xây dựng các cộng đồng chịu được biến đổi khí hậu. = Việc chuyển đổi sang các nền kinh tế ít carbon, môi trường và xã hội bền vững có thể trở thành động lực thúc đẩy việc tạo việc làm, nâng cao việc làm, công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo nếu được quản lý tốt với sự tham gia đầy đủ của chính phủ, người lao động và các tổ chức của người sử dụng lao động. Ước tính từ mô hình Liên kết Kinh tế Toàn cầu của Tổ chức Lao động Quốc tế cho thấy rằng thay đổi khí hậu không bị ảnh hưởng, với các tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp và người lao động, sẽ có những tác động tiêu cực đến sản lượng trong nhiều ngành, giảm sản lượng 2,4% vào năm 2030 và 7,2% vào năm 2050. Chuyển đổi sang nền kinh tế các-bon thấp sẽ gây ra sự dịch chuyển về khối lượng, thành phần và chất lượng việc làm giữa các ngành và sẽ ảnh hưởng đến mức độ và phân phối thu nhập. Nghiên cứu chỉ ra rằng tám ngành sử dụng khoảng 1,5 tỷ công nhân, khoảng một nửa lực lượng lao động toàn cầu, sẽ trải qua những thay đổi lớn: nông nghiệp, lâm nghiệp, đánh bắt, năng lượng, sản xuất tài nguyên, tái chế, xây dựng và vận tải. = Phát thải công nghiệp phát thải thấp và hiệu quả nguồn tài nguyên có thể mang lại nhiều cơ hội để tăng sức cạnh tranh của các nền kinh tế và công ty. Theo Quan hệ đối tác phát triển toàn cầu phát thải thấp (LEDS GP), thường có một trường hợp kinh doanh rõ ràng để chuyển sang công nghệ phát thải thấp hơn, với thời gian hoàn vốn chủ yếu từ 0,5–5 năm, tận dụng đầu tư tài chính. = Các chính sách thương mại và thương mại có thể đóng góp cho nền kinh tế các-bon thấp bằng cách cho phép sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực và trao đổi quốc tế về hàng hóa và dịch vụ thân thiện với khí hậu. Loại bỏ thuế quan và các rào cản phi thương mại đối với việc kinh doanh năng lượng bền vững và các công nghệ giúp tăng hiệu quả năng lượng là một trong những biện pháp như vậy. Trong một lĩnh vực mà các sản phẩm thành phẩm bao gồm nhiều thành phần vượt biên giới rất nhiều lần một turbine gió điển hình, ví dụ, có tới 8.000 thành phần thậm chí chỉ cần cắt giảm thuế nhỏ cũng sẽ làm giảm chi phí. Điều này sẽ làm cho các công nghệ này trở nên giá cả phải chăng và cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, đặc biệt là khi kết hợp với việc loại bỏ các công cụ sử dụng nhiên liệu hóa thạch. = Tập suất điện gió được lắp đặt trên toàn thế giới 1997–2020 MW, lịch sử và dự đoán. Nguồn dữ liệu: WWEA Các tấm pin mặt trời tại Nhà máy năng lượng mặt trời Nellis. Các tấm này đi theo mặt trời một góc cố định. Credit: U.S. Air Force photo by Senior Airman Larry E. Reid Jr. Những tiến bộ gần đây về công nghệ và chính sách sẽ cho phép năng lượng tái tạo và việc sử dụng năng lượng hiệu quả đóng vai trò chính trong việc thay thế nhiên liệu hóa thạch, đáp ứng nhu cầu năng lượng toàn cầu trong khi giảm lượng khí thải cacbon dioxide. Công nghệ năng lượng tái tạo đang được thương mại hóa nhanh chóng, và kết hợp với lợi ích về mặt hiệu quả, có thể đạt được giảm phát thải lớn hơn nhiều so với mỗi bên hoạt động một cách độc lập. | kinh tế carbon thấp | Kinh tế năng lượng, Công nghệ bền vững |
Marçay là một xã, tọa lạc tỉnh Vienne trong vùng Pháp. Xã này có diện tích 30,32 km², dân số năm 2006 là 764 người. Xã nằm khu vực có độ cao trung bình 105 trên mực nước biển. Marçay Trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia Marcay | Marçay | |
Idea electra là một loài bướm giáp thuộc phân họ Danainae. Đây là loài đặc hữu của Philippines. Lepidoptera Specialist Group 1996. Idea electra. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 31 tháng năm 2007. | ''Idea electra | Idea, Bướm Philippines |
Đàm Ngọc Linh (phồn thể: 譚玉齡; giản thể: 谭玉龄; 11 tháng năm 1920 14 tháng năm 1942), là phi tần của Tuyên Thống Hoàng đế Phổ Nghi vị Hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Thanh và cả nền quân chủ chuyên chế Trung Hoa trong lịch sử Trung Quốc. Bà kết hôn với Phổ Nghi khi ông chỉ còn là một Hoàng đế bù nhìn của Mãn Châu Quốc trong Chiến tranh Trung-Nhật. Trong những người vợ của Phổ Nghi, bà là người duy nhất được chính ông ban thụy hiệu và tổ chức tang lễ. Đàm Ngọc Linh được sinh ra trong một gia đình Mãn Châu Bắc Kinh. Gia tộc của bà tên Tha Tha Lạp thị, nhưng bà đã cải sang họ Đàm một họ gốc Hán phổ biến. Bà làm vậy để tránh gặp rắc rối vì các phong trào chống Mãn Thanh dâng cao sau khi nhà Thanh bị lật đổ năm 1911 bởi Cách mạng Tân Hợi. Đầu năm 1937, khi bà còn đang học trung học tại Bắc Kinh, bà được chọn để phối ngẫu với Phổ Nghi và được đưa đến Trường Xuân, thủ đô của Mãn Châu Quốc. Ngày tháng (tức ngày 25 tháng âm lịch) cùng năm, bà thành thân với Phổ Nghi tại Cung điện Trường Xuân và được ban hiệu Tường Quý nhân (祥貴人). Trong khi Tinh nguyên tập khánh (星源集庆) lại ghi rằng Đàm Ngọc Linh được gọi là Khánh Quý nhân (慶貴人), thậm chí lại có kiểu gọi là Đổng Quý nhân (董貴人). Bà trở nên rất gần gũi với Phổ Nghi sau đám cưới, và Phổ Nghi được ghi nhận rất yêu thích người thiếp này. Ngày 14 tháng năm 1942, Đàm Ngọc Linh qua đời chỉ mới 22 tuổi, khi đang được chữa bệnh nhiễm trùng đường tiểu. Đau lòng cho người yêu quý ra đi khi còn trẻ, Phổ Nghi đã ban cho bà thụy hiệu Minh Hiền Quý phi (明賢貴妃) và tổ chức đám tang cho bà tại Bàn Nhược Tự (般若寺) Trường Xuân. Bà là hậu phi duy nhất trong số tổng vị của Phổ Nghi từng được hưởng lễ truy tặng thụy hiệu cũng như cử hành lễ tang chính thức. Sau sự sụp đổ của Mãn Châu Quốc năm 1945 khi Nhật Bản đầu hàng vào cuối Thế Chiến II, Phổ Nghi yêu cầu hài cốt của bà được hỏa táng và gửi về cho người thân tại Bắc Kinh. Phổ Nghi được cho rằng đã yêu thương Đàm Ngọc Linh rất nhiều và luôn giữ bên mình tấm ảnh của bà cho đến khi ông mất. Năm 2006, ngày tháng 9, bà được an táng cùng phổ Nghi Hoa Long hoàng gia lăng viên (华龙皇家陵园), thuộc Thanh Tây lăng. Những tình huống xoay quanh cái chết của bà bị nghi ngờ liên quan đến người Nhật, bởi vì bà được cho là đã làm người Nhật cảm thấy bị đe dọa khi đã có những hành động kiểm soát Phổ Nghi. Trung tướng Yoshioka Yasunori, một tùy viên của triều đình, đã từng yêu cầu Phổ Nghi kết hôn với một người Nhật nhưng ông đã kết hôn với Ngọc Linh, thế nên Phổ Nghi đã nghi ngờ và phớt lờ Yoshioka. Và Yoshioka được cho là đã không hài lòng về việc này. Sau cái chết của Ngọc Linh, Yoshioka lại yêu cầu Phổ Nghi kết hôn với một người Nhật nhưng ông đã từ chối. Cho đến nay, nguyên nhân thật sự khiến Đàm Ngọc Linh qua đời, tuy không có chứng cứ cụ thể, nhưng vẫn được tin là có sự nhúng tay của người Nhật. Mãn Châu Quốc Hậu cung nhà Thanh Uyển Dung Văn Tú Quý phi | Đàm Ngọc Linh | Sinh năm 1920, Mất năm 1942, Người Mãn Châu, Người Bắc Kinh, Người Trung Hoa Dân Quốc |
Một con voi sa mạc mẹ đang cho con bú Voi sa mạc là những con voi sinh sống tại các vùng sa mạc, chúng không phải là một loài riêng biệt của voi châu Phi, nhưng những con voi đồng cỏ châu Phi (Loxodonta africana) đã chọn cho mình môi trường sinh sống trong sa mạc khô cằn và điều này dẫn đến chúng có một số đặc điểm, khả năng riêng biệt để thích nghi với môi trường sống. Trong một thời gian dài, người ta tin rằng nó là một phân loài của loài voi đồng cỏ châu Phi nhưng điều này không còn được cho là phù hợp. Voi sa mạc đã từng phổ biến hơn châu Phi trong lịch sử so với hiện nay và hiện đang chúng chỉ có Namibia và Mali. Chúng có xu hướng di chuyển từ một hố nước này đến hồ nước khác tuyến đường truyền thống của chúng và sau đó phụ thuộc vào sự sẵn có của các loại thực phẩm theo mùa và nguồn nước. Họ phải đối mặt với áp lực từ săn bắn và những thay đổi trong việc lấn chiếm, sử dụng đất của con người. Những con voi sa mạc đã được phát triển theo hướng thích nghi nhất định cho cuộc sống sa mạc và cấu tạo cơ thể của chúng có xu hướng có bàn chân tương đối rộng hơn, chân dài hơn và các cơ quan nhỏ hơn voi bụi rậm châu Phi khác. Chúng là động vật ăn cỏ và chế độ ăn uống của chúng thay đổi theo thời gian trong năm. Vào mùa mưa, chúng thích bứt ăn nụ và lá xanh tươi nhưng trong mùa khô chúng phải tồn tại với các cây chịu hạn như camelthorn (keo erioloba), bụi cây nhựa thơm, các mopane hoặc cây nhựa thông (Colophospermum mopane) cũng như lá và quả, hạt khô của cây ana (Faidherbia albida). Voi đực trưởng thành có thể ăn khoảng 250 kg (550 lb) thức ăn trong một ngày và uống khoảng 160 lít (35 imp gal; 42 US gal), nhưng chúng có thể đi mà không có nước đến ba ngày tại một thời điểm. Chúng sử dụng nước, bùn hoặc bụi cho tắm hoặc phủ bùn đầy da của chúng. Khu vực Kunene phía tây của Namibia là một khu vực sa mạc, chủ yếu là cát, núi đá và vùng đồng bằng sỏi đá, trong đó diện tích này bao gồm khoảng 115.154 km vuông (44.461 sq mi). Những con voi có truyền thống sống khu vực này và trong những năm đầu của thế kỷ 20 đã có khoảng 3.000 cá thể sinh sống trong khu vực Kunene. Đến năm 1980 thì số lượng của chúng đã giảm bớt rất nhiều, tuy nhiên kể từ đó, các biện pháp bảo tồn đã được đưa ra vào năm 2013 và số lượng voi đã tăng lên khoảng 600 cá thể. Trong giai đoạn năm 1995-1996, Namibia có mưa nhiều và voi mở rộng phạm vi của chúng về phía nam đến sông Ugab. Trong khu vực sông Hoanib voi đực có ngà nhưng chỉ khoảng một phần ba con voi cái có ngà. Con voi sa mạc trưởng thành thường đơn độc và đi lang thang trên diện rộng. Một cá thể được ghi nhận là đi lang thang giữa các Vườn quốc gia Skeleton Coast và Công viên quốc gia Etosha trong một vài tháng. Những con đực khác đã thỉnh thoảng di chuyển vào khu vực từ khu vực tươi tốt hơn về phía đông. Các nhóm gia đình trong đó hầu hết voi sa mạc di chuyển thành từng nhóm nhỏ và thường bao gồm một con voi cái và con của mình hoặc hai chị em gái và phụ thuộc số con của chúng. Chúng có xu hướng gần các con sông phù sa, nơi có sẵn một lượng dự trữ lớn hơn của thực phẩm. Một số nhóm cư dân trong thung lũng sông Hoarusib và một nhóm lại vĩnh viễn gần sông Hoanib trong khi các nhóm khác di chuyển giữa hai nơi với khoảng cách khoảng 70 km (43 dặm). Chúng thường di chuyển trong một đêm duy nhất, khi nhiệt độ lạnh hơn ban ngày. Vào những thời điểm nhất định trong năm, chúng di chuyển vào nội địa theo những con đường truyền thống để thu hẹp khu vực núi tìm bụi cây nhựa thơm (Commiphora spp.) dường như là một loại thực phẩm yêu thích của chúng. Những nghệ thuật vẽ hình đá có niên đại từ thời kỳ đồ đá mới trên khắp sa mạc Sahara cho thấy con voi này tại thời điểm đó phổ biến rộng rãi trên nhiều Bắc Phi. Ngày nay chúng bị hạn chế về số lượng. Gourma, một khu vực hẻo lánh phía nam của Mali được bao quanh bởi con sông Niger gần Timbuktu. Những con voi là tàn dư của một số nhóm trong đó sinh sống khu vực rộng lớn của Sahel và gần đây nhất là năm 1970, trước khi chúng bị bắn hạ số lượng lớn bởi những kẻ săn trộm. Chúng thường có hành trình lên đến một ba trăm dặm hành trình di cư mỗi năm, di chuyển lên đến 35 dặm một ngày. Voi theo một lộ trình ngược mà sẽ đưa chúng qua những hố nước tạm thời và vĩnh viễn. Chúng vẫn còn trong phần phía bắc của phạm vi của chúng cho đến khi những cơn mưa đến vào tháng Sáu. Sau đó chúng đi về phía nam, di chuyển một thời gian ngắn vào miền bắc Burkina Faso trước khi chuyển về phía bắc một lần nữa. Chúng là khó nắm bắt và có xu hướng tiết ra mồ hôi giữa các cây keo trong ngày để uống và thức ăn vào ban đêm. Các Quỹ WILD Foundation và Quỹ Bảo tồn loài voi là tổ chức từ thiện có chức năng bảo tồn đã làm việc với Chính phủ Mali để bảo tồn những con voi. Một số động vật được trang bị với vòng cổ gắn định vị GPS để theo dõi chuyển động của chúng và xác định hành lang di chuyển, thông qua đó chúng cần phải đi qua để hoàn thành cuộc hành trình của chúng, vì vậy mà các tuyến đường của chúng có thể tránh được khi con người thành lập các khu định cư mới. Những người dân du mục Touareg, người sống trong này khu vực có đàn gia súc của họ đã được khoan dung với con voi. Họ nói rằng những con voi ăn những tán lá trên cùng của một cái cây, lạc đà ăn hai bên và dê sẽ gặm phần gốc. Họ biết khi các con voi sẽ đi qua làng của họ, quý khách đến thăm ao họ cũng sử dụng để tưới vườn của họ. Ngày nay, những người đang sống cuộc sống ổn định hơn và xây dựng những túp lều, chăm sóc vườn, trồng vườn cây ăn trái và trồng cỏ thức ăn gia súc tại mép nước của ao. Điều này có nghĩa là có sự cạnh tranh hơn giữa voi và người. Một sáng kiến địa phương được thành lập vào năm 1997, "Les Amis des Elephants" nhằm mục đích thông báo cho dân làng khi những con voi được dự kiến sẽ đến trong khu vực của họ. Nó cũng khuyến khích họ hành động như hướng dẫn và tạo ra thu nhập từ du lịch sinh thái. Trong một đợt hạn hán kéo dài vào năm 1983, Chính phủ Mali đã hỗ trợ cho những con voi bằng việc cung cấp nước cho chúng bằng xe tải. Những cơn mưa lại thiếu vắng trong năm 2008 và một năm sau khi con voi trưởng thành được đào xuống vùng nước sâu bên dưới bề mặt nhưng các con voi trẻ không thể tìm thấy nước và đã chết. Các tổ chức từ thiện đã làm những gì họ có thể nhưng tình trạng suy yếu của các loài động vật đã làm cho họ khó khăn để giúp bảo tồn chúng. | Voi sa mạc | Loxodonta, Động vật có vú Tây Phi, Động vật có vú Namibia, Họ Voi |
là một chi thực vật có hoa trong họ Hoa chuông Các loài trong chi này là bản địa Bắc Phi và đại lục Âu. Nhiều loài là đặc hữu Thổ Nhĩ Kỳ. Các loài này có tên gọi thông thường trong tiếng Anh là harebells (chuông thỏ). Chi này chứa khoảng 30-33 loài. Các đặc trưng được sử dụng để nhận dạng các loài Asyneuma bao gồm tràng hoa nói chung có hình bánh xe (quay) với các cánh hoa hợp tại đế và tỏa ra phía ngoài thành các thùy rất hẹp, thiếu hoặc chỉ có các phần phụ thô sơ trên đài hoa, đầu nhụy với thùy, và một quả nang thuôn dài hay gần tròn nứt theo các lỗ hai bên. Tuy nhiên, các đặc trưng này không phải là luôn luôn hữu ích trong việc phân biệt Asyneuma với chi có quan hệ họ hàng gần là Campanula, do các tác giả không thống nhất về việc đặc trưng nào là quan trọng hơn: phạm vi mà các cánh hoa hợp lại hay vị trí của các lỗ trên quả nang. Các dữ liệu phân tử từng được yêu cầu để xác định việc đặt một số loài vào chi nào là tốt hơn. Asyneuma amplexicaule (Willd.) Hand.-Mazz. Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Iraq, Kavkaz. Asyneuma anthericoides (Janka) Bornm. Balkan. Asyneuma argutum (Regel) Bornm. Trung Á. Asyneuma babadaghense Yildiz Kit Tan Thổ Nhĩ Kỳ. Asyneuma campanuloides (M.Bieb. ex Sims) Bornm. Kavkaz. Asyneuma canescens (Waldst. Kit.) Griseb. Schenk Balkan, Ukraina. Asyneuma chinense D.Y.Hong Mục căn thảo quả tròn Trung Quốc (Quảng Tây, Quý Châu, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Vân Nam). Asyneuma compactum Damboldt Thổ Nhĩ Kỳ. Asyneuma davisianum Yildiz Kit Tan Thổ Nhĩ Kỳ. Asyneuma ekimianum Yildiz Kit Tan Thổ Nhĩ Kỳ. Asyneuma filipes (Nábelek) Damboldt Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq. Asyneuma fulgens (Wall.) Briq. Mục căn thảo quả dài Tiểu lục địa Ấn Độ, Tây Tạng, Myanmar. Asyneuma giganteum (Boiss.) Bornm. Các đảo thuộc Hy Lạp. Asyneuma ilgazense Yildiz Kit Tan Thổ Nhĩ Kỳ. Asyneuma isauricum Contandr., Quézel Pamukç Thổ Nhĩ Kỳ. Asyneuma japonicum (Miq.) Briq. Mục căn thảo Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên, Mãn Châu, Viễn Đông Nga. Asyneuma junceum Parolly Thổ Nhĩ Kỳ. Asyneuma limonifolium (L.) Janch. Balkan, Italia, Thổ Nhĩ Kỳ. Asyneuma linifolium (Boiss. Heldr.) Bornm. Thổ Nhĩ Kỳ. Asyneuma lobelioides (Willd.) Hand.-Mazz. Thổ Nhĩ Kỳ, Kavkaz. Asyneuma lycium (Boiss.) Bornm. Thổ Nhĩ Kỳ. Asyneuma macrodon (Boiss. Hausskn.) Bornm. Iran Asyneuma michauxioides (Boiss.) Damboldt Thổ Nhĩ Kỳ. Asyneuma persicum (A.DC.) Bornm. Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq, Iran. Asyneuma pulchellum (Fisch. C.A.Mey.) Bornm.- Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq, Iran, Kavkaz. Asyneuma pulvinatum P.H.Davis Thổ Nhĩ Kỳ. Asyneuma rigidum (Willd.) Grossh. Algeria, Kavkaz, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Iraq, Lebanon, Sinai, Syria. Asyneuma thomsonii (C.B.Clarke) Bornm. Tây Himalaya. Asyneuma trichostegium (Boiss.) Bornm. Thổ Nhĩ Kỳ. Asyneuma virgatum (Labill.) Bornm. Các đảo thuộc Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Kavkaz, Syria. Asyneuma (Ten.) K.Malý Thổ Nhĩ Kỳ. The Plant List và WCSPF xếp loài này trong chi Campanula với danh pháp Campanula Ten., 1811. | null | |
Yên Vượng là một xã thuộc huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam. Xã Yên Vượng có diện tích 31,36 km², dân số năm 1999 là 2.465 người, mật độ dân số đạt 79 người/km². Theo thống kê năm 2019, xã Yên Vượng có diện tích 31,36 km², dân số là 2.971 người, mật độ dân số đạt 95 người/km². | Yên Vượng | |
Impossible Remixes là một album phối lại của ca sĩ nhạc pop-dance người Úc Kylie Minogue. Album đã được phát hành bởi hãng Mushroom Records vào ngày 10 tháng năm 1998 tại Úc, gồm những bản phối trích từ album phòng thu thứ sáu của Minogue, Impossible Princess (1998). Impossible Remixes gồm một bản phối là "Breathe" của TNT đã không xuất hiện trong album phối trước của cô là Mixes (1998). CD 1: #"Too Far" (Brothers in Rhythm mix) 10:21 #"Breathe" (TNT Club mix) 6:45 #"Did It Again" (Trouser Enthusiasts' Goddess of Contortion mix) 10:22 #"Breathe" (Tee's Freeze mix) 6:59 #"Some Kind of Bliss" (Quivver mix) 8:39 CD 2: #"Too Far" (Junior Vasquez mix) 11:44 #"Did It Again" (Razor Go mix) 11:21 #"Breathe" (Sash! Club mix) 5:20 #"Too Far" (Brothers in Rhythm dub mix) 8:31 #"Breathe" (Nalin Kane remix) 10:11 Kylie.com official website. | ''Impossible Remixes | Album phối lại của Kylie Minogue, Album phối lại năm 1998, Album phối lại hai đĩa |
Grudziądz (, là một thành phố Ba Lan. Grudziądz có khoảng 95.045 cư dân (2018) trên sông Vistula phía bắc Ba Lan. Nằm tỉnh (từ năm 1999), trước đó thành phố nằm trong Toruń từ năm 1975 đến 1998. Grudziądz là thành phố lớn thứ trong tỉnh và Kho thóc Grudziądz từ thế kỷ 14 là Di tích lịch sử quốc gia Ba Lan. 400px | Grudziądz | Huyện thành phố của Ba Lan |
Lớp Petya là tên ký hiệu của NATO cho một lớp tàu frigate hạng nhẹ được chế tạo cho Hải quân Liên Xô trong thập niên 1960. Tên định danh Liên Xô là Storozhevoi Korabl (Сторожевой Корабль) Dự án 159. Đây là những con tàu đầu tiên chạy bằng động cơ tuốc bin khí của Hải quân Liên Xô. Vai trò của những tàu này là chống tàu ngầm tại các vùng nước nông và chúng tương tự như các tàu thuộc Lớp tàu hộ tống Mirka. Chi tiết kỹ thuật (TTZ trong tiếng Nga) được công bố năm 1955 và thiết kế được thông qua năm 1956. Một kiểu bố trí ba trục được lựa chọn với chân vịt giữa dùng động cơ Diesel để tăng tính kinh tế khi tuần tra thông thường và hai trục chân vịt bên sử dụng động cơ tuốc bin khí để có tốc độ cao. Trang bị súng là hai tháp súng đôi 76 mm vị trí và Y, được điểu khiển bởi một rđa giám sát duy nhất. Vũ khí chống tàu ngầm gồm các bệ phóng rocket RBU-6000 chống tàu ngầm và một bệ phóng thủy lôi chống tàu ngầm 400 mm. Một số tàu được thiết kế cho xuất khẩu thay thế các ống phóng thủy lôi 400mm bằng ống phóng thủy lôi chống tàu 533mm. Một bộ thiết bị sonar đầy đủ gồm cả VDS cũng được trang bị. Có tổng cộng 54 tàu được đóng tại hai xưởng đóng tàu: Xưởng tàu Kaliningrad Yantar đóng 22 tàu bao gồm cả hàng xuất khẩu và xưởng Khabarovsk đóng 32 tàu bao gồm cả những chiếc xuất khẩu. Tất cả các tàu của Liên Xô đã ngừng hoạt động từ năm 1989-1992 nhưng một số vẫn đang phục vụ các khách hàng xuất khẩu. Hải quân Azerbaijan tàu Hải quân Ai Cập chiếc được mua từ năm 1965 đến năm 1971, chiếc bị chìm trong chiến đấu năm 1973, chiếc vẫn đang hoạt động. Hải quân Ethiopia tàu bán phế liệu Djibouti sau khi Eritrea độc lập. Hải quân Ấn Độ 11 chiếc thuộc lớp tàu corvette Arnala (tất cả đều đã loại khỏi biên chế). Được phân loại là tàu corvette do kích thước và vai trò của tàu nhỏ hơn. Hải quân Rập Syria tàu đang hoạt động trong tình trạng vô chủ tại cảng Tartus. Có thể sẽ nghỉ hưu vào năm 2017 hoặc 2018. khinh hạm Syria đã ngừng hoạt động bị không quân Nga đánh chìm (Có thể là do Su-34 với tên lửa phóng từ không trung Kh-35) làm mục tiêu huấn luyện vào ngày 15 tháng năm 2018 ngoài khơi Syria. Hải quân Ukraine tàu. Thủy thủ đoàn thân Ukraine của tàu khu trục nhỏ SKR-112 đã thực hiện quá trình chuyển đổi độc lập khỏi Hạm đội Biển Đen do Moscow kiểm soát vào ngày 21 tháng năm 1992. Con tàu này thuộc biên chế của Ukraine cho đến khi ngừng hoạt động vào năm 1997. Hải quân Nhân dân Việt Nam tàu (vẫn đang hoạt động) Danh sách các tàu của Hải quân Liên Xô Danh sách các tàu của Nga theo số hiệu dự án Conway's All the World's Fighting Ships 1947-1995 Page from FAS Page in Russian Russian Petya Class Frigates Complete Ship List | Lớp Petya | Các lớp tàu hộ tống |
Android 10 (còn gọi với tên Android Q) là phiên bản thứ mười của hệ điều hành di động Android. Bản beta đầu tiên của Android 10 phát hành sớm vào ngày 13 tháng năm 2019 trên các thiết bị Google Pixel. Bản chính thức của hệ điều hành được phát hành vào ngày tháng năm 2019. Android 10 giới thiệu hệ thống cử chỉ hoàn toàn mới, cụ thể là cử chỉ ví dụ như kéo từ góc màn hình để quay lại, kéo lên để quay về màn hình chính, kéo và giữ để truy cập màn hình Tổng quát, kéo theo hướng chéo từ góc dưới màn hình để kích hoạt Trợ lý ảo Google Assistant và kéo theo cử chỉ trên thanh bên dưới màn hình để chuyển đổi ứng dụng. Tính năng của cử chỉ góc màn hình được coi là thao tác "Back" từng được coi là gây ảnh hưởng đến một số ứng dụng có thư mục slidebar và một số chức năng khác liên quan đến kéo. Ứng dụng có thể sử dụng API để bỏ xử lý thao tác Back trên một số vùng trên màn hình, Kiểm soát về độ nhạy được bổ sung để điều chỉnh kích cỡ đến một số vùng nhất định để được kích hoạt cử chỉ, Google cũng công bố rằng Drawer Widget hỗ trợ hiển thị bằng cách nhấn lâu gần góc màn hình và kéo để mở. Và những cử chỉ được nói trên cần phải được hỗ trợ tùy theo nhà sản xuất OEM. nhưng có thể thêm một số cử chỉ một cách thoải mái đối với họ. Hệ thống điều hướng nút vẫn được hỗ trợ. Tính năng "bubbies" vẫn có thể được sử dụng để hiển thị những app hỗ trợ lớp phủ Pop-up. Ứng dụng có thể hiện pop-up qua thông báo. Nó có thể được dùng cho những ứng dụng Nhắn tin và chat, lời nhắc, và sự kiện hay cập nhật Bubbies được giới thiệu nhằm để thay thế quyền lớp phủ mà nhiều người không sử dụng nữa vì vấn đề bảo mật và vấn đề về hiệu năng. Phiên bản Android 10 Go xóa bỏ hoàn toàn quyền lớp phủ ấy. Android 10 cũng bổ sung thêm nền tối. Ứng dụng bên thứ ba có thể tự động chuyển nền tối khi mà tính năng này được kích hoạt. Android 10 đồng thời cũng bổ sung thêm "thanh Cài đặt" cho những Cài đặt cụ thể (Kết nối, Wi-Fi nếu ứng dụng đòi hỏi Internet) qua thanh lớp phủ, để người dùng không cần phải rời app để cài đặt nó. Nhiều thay đổi lớn về bảo mật và riêng tư được giới thiệu: Người dùng có thể hạn chế ứng dụng khi cố gắng truy cập vị trí khi họ sử dụng trong một trường hợp nào đó. Và có một số quyền được hạn chế khác về hoạt động của những ứng dụng chạy nền. Vào tháng năm 2019, Google đã hé lộ Adiantum, một mã hóa được sử dụng cho những thiết bị không có hỗ trợ phần cứng cho Advanced Encryption Standard (AES), chủ yếu là những thiết bị đời thấp. Google nói rằng mã hóa này nhanh gấp lần AES-256-XTS cho những CPU ARM Cortex-A7. Vì vậy việc mã hóa thiết bị là điều bắt buộc cho tất cả các thiết bị chạy Android 10, cho dù bất cứ cấu hình nào. Ngoài ra, việc mã hóa "dựa trên File" cũng được bắt buộc cho tất cả các thiết bị. Những thiết bị được cài đặt sẵn Android 10, những bản vá cho những linh kiện hệ thống đều được phát hành thông qua Google Play Store. Để có thể đăng ký dịch vụ di động Google, nhà sản xuất phải hỗ trợ bản cập nhật cho những dòng máy nhất định, trong khi phần còn lại được đánh dấu là "Đề nghị" ngoài việc tùy chọn. Những thiết bị được chọn sẽ được sử dụng định dạng APEX mới, là một biến thể của file APK được thiết kế để lưu trữ và phục vụ cho những thiết bị thấp. Một thay đổi lớn nữa có tên là "Scoped Storage" được hỗ trợ trên Android 10, và sẽ trở thành bắt buộc cho tất cả các app bắt đầu từ Android 11. Ứng dụng sẽ chỉ được cho phép trup cập file trong bộ nhớ bên ngoài mà chính nó được tạo ra và âm thanh, hình ảnh, video trong thư mục Music, Picture hoặc Video. Bất kỳ file nào khác đều phải được sự đồng từ người dùng thông qua Storage Access Framework. Ứng dụng bắt buộc phải thêm quyền "đọc dữ liệu trạng thái cuộc gọi" để đọc những thiết bị nhận dạng không thể phục hồi, ví dụ như số IMEI. Những chiếc điện thoại màn hình gập sẽ tối ưu nhiều về nền tảng, bao gồm có thể chuyển đổi chế độ app liên tục, chuyển đổi chế độ nhiều màn hình cho phép ứng dụng chạy cùng một lúc (thay vì chỉ với một ứng dụng hoạt động chính, và ứng dụng còn lại thì bị tắt), và hỗ trợ cho nhiều màn hình. "Direct Share" đã được thay thế bằng "Sharing shortcuts". Cũng giống như lần trước, nó sẽ cho phép đưa những yêu cầu cụ thể có thể chia sẻ để sử dụng trong menu chia sẻ. Không giống như Direct Share, những ứng dụng sẽ phát hành những mục tiêu trước đó và không cần phải bỏ phiếu trong lúc tiến hành để có thể cải thiện hiệu năng. Những hỗ trợ gốc đã được thêm vào cho những thiết bị điều khiển MIDI, định dạng video AVI, định dạng audio Opus và HDR10+. Đồng thời cũng hỗ trợ thêm tiêu chuẩn API mới để khôi phục những dữ liệu quan trọng từ ảnh camera, mà có thể được sử dụng cho những hiệu ứng cao cấp hơn. Android 10 cũng hỗ trợ giao thức mã hóa WPA3 và Mở rộng, có thể mã hóa cao hơn cho Wi-Fi. Android 10 hỗ trợ thêm DSDS, nhưng ban đầu sẽ chỉ hỗ trợ cho những chiếc Pixel 3a và Pixel 3a XL. | Android 10 | Phần mềm 2019, Android (hệ điều hành) |
Bản đồ Cebu với vị trí của Malabuyoc Malabuyoc là một đô thị hạng tỉnh Cebu, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2007, đô thị này có dân số 18.117 người. Malabuyoc được chia thành các đơn vị hành chính gồm 14 khu dân cư (khu phố) (barangay). Armeña (Cansilongan) Tolosa (Calatagan) Cerdeña (Ansan) Labrador (Bulod) Lo-oc Lombo Mahanlud Mindanao (Pajo) Montañeza (Inamlang) Salmeron (Bulok) Santo Niño (Saliring) Sorsogon (Balikmaya) Barangay (Poblacion Uno) Barangay II (Poblacion Dos) Mã địa lý chuẩn Philipin | Malabuyoc | Đô thị của Cebu |
Mount Orab là một làng thuộc quận Brown, tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của làng này là 3664 người. *Dân số năm 2000: 2307 người. *Dân số năm 2010: 3664 người. American Finder | Mount Orab | Làng thuộc tiểu bang Ohio, Quận Brown, Ohio |
Huệ Hoàng Hậu (chữ Hán惠皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến khu vực Đông. *Tây Tấn Hiếu Huệ Đế Huệ hoàng hậu *Hậu Hán Cung Hy Đế Cung Huệ hoàng hậu (truy tôn, trước từng được phong tặng làm Quắc Quốc Thái Phu Nhân) *Lý Huệ Tông Huệ hoàng hậu (còn gọi theo niên hiệu của chồng là Kiến Gia hoàng hậu, có thụy hiệu khác là Thuận Trinh hoàng hậu, ngoài ra còn được biết đến với danh hiệu Linh Từ quốc mẫu) *Nam Minh Huệ Đế Huệ hoàng hậu *Việt Nam Nguyễn Cung Tông Huệ hoàng hậu (gọi tắt theo thụy hiệu dài Từ Minh Thục Thiện Nhu Thuận Huệ Hoàng Hậu, có khi lại gọi là Từ Minh hoàng hậu hay Từ Minh thái hậu) *Huệ đế *Hiếu Huệ Đế *Huề Vương *Huệ vương *Huệ Văn vương *Văn Huệ Vương *Hiếu Huệ hoàng hậu *Huệ công *Huệ hầu *Huệ bá *Huệ tử *Huệ nam *Huệ Thúc *Huệ phi *Huệ thế tử *Huệ Tổ *Huệ Tông | Huệ Hoàng Hậu | |
'Parkia là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được Wight Arn. miêu tả khoa học đầu tiên. Tập of Parkia Tập tin:Parkia biglandulosa (badminton ball tree) IMG 4677.jpg Tập tin:Parkia biglandulosa (badminton ball tree) IMG 4680.jpg Tập tin:Parkia biglandulosa (badminton ball tree) IMG 4681.jpg | null | Parkia |
1138 Attica là một tiểu hành tinh vành đai chính bay quanh Mặt Trời. Nó hoàn thành một chu kỳ quay quanh Mặt Trời là năm. Nó được phát hiện bởi Karl Wilhelm Reinmuth ngày 22 tháng 11 năm 1929. Nó được đặt theo tên the region in eastern Hy Lạp with the capital Athens. Tên ban đầu của nó là 1929 WF. | 1138 Attica | Được phát hiện bởi Karl Wilhelm Reinmuth |
Tân Tiến là một xã thuộc thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận, Việt Nam. Xã Tân Tiến nằm về phía đông thị xã La Gi, cách trung tâm khoảng 10 km, cách thành phố Phan Thiết khoảng 50 km theo tỉnh lộ 719, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp xã Tân Hải *Phía tây giáp xã Tân Bình *Phía nam giáp Biển Đông với chiều dài bờ biển khoảng km *Phía bắc giáp huyện Hàm Thuận Nam. Xã Tân Tiến có diện tích 41,72 km², dân số năm 2019 là 10.459 người, mật độ dân số đạt 251 người/km². Xã Tân Tiến được chia thành thôn: Hiệp Phú, Hiệp An, Hiệp Cường, Hiệp Tín, Hiệp Tiến, Tam Tân. Ngày tháng năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 114/2005/NĐ-CP về việc thành lập xã Tân Tiến trên cơ sở 4.171,50 ha diện tích tự nhiên và 9.183 nhân khẩu của xã Tân Hải. | Tân Tiến | |
11886 Kraske (1990 TT10) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 10 tháng 10 năm 1990 bởi L. D. Schmadel và F. Borngen Tautenburg. JPL Small-Body Database Browser ngày 11886 Kraske | 11886 Kraske | |
Kaplityny () là một ngôi làng thuộc khu hành chính của Gmina Barczewo, thuộc huyện Olsztyński, miền bắc Ba Lan. Nó nằm khoảng về phía tây nam của Barczewo và về phía đông của thủ đô khu vực Olsztyn. Trước năm 1772, khu vực này là một phần của Hoàng gia Phổ thuộc Vương quốc Ba Lan, 1772-1945 Phổ và Đức (Đông Phổ). Ngôi làng có dân số 350 người. | Kaplityny | |
Enargia paleacea là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Tập tin:Enargia paleacea male.JPG Tập tin:Enargia paleacea female.JPG Tập tin:Enargia paleacea Tập tin:Moths of the British Isles Series2 Plate004.jpg | ''Enargia paleacea | Enargia, Côn trùng châu Âu, Động vật được mô tả năm 1788 |
Trong các nền văn minh cổ đại, việc loại bỏ dương vật của con người đôi khi được sử dụng để thể hiện sự vượt trội hoặc thống trị đối với kẻ thù. Quân đội đôi khi được biết đến để cắt đứt dương vật của kẻ thù để đếm người chết, cũng như đếm số kẻ thù bị giết để phong thưởng. Việc thực hành thiến (cắt bỏ tinh hoàn) đôi khi liên quan đến việc loại bỏ tất cả hoặc một phần của dương vật, nói chung với một ống được chèn để giữ cho niệu đạo mở để tiểu tiện. Việc thiến đã được sử dụng để tạo ra một lớp người hầu hoặc nô lệ được gọi là hoạn quan nhiều nơi và thời đại khác nhau. Nga, những người đàn ông thuộc nhóm Spiritual Christianity được gọi là Skoptsy đã bị thiến, hoặc trải qua "việc thiến nhiều hơn", trong đó đòi hỏi phải cắt bỏ dương vật, hoặc "thiến ít hơn", trong đó phụ nữ nhóm Skoptsy đã thực hiện cắt bỏ vú. Các thủ tục này được thực hiện trong một nỗ lực để loại bỏ ham muốn và khôi phục Cơ đốc giáo về trạng thái nguyên sơ tồn tại trước tội lỗi nguyên thủy. Trong kỷ nguyên hiện đại, việc cắt bỏ dương vật của con người cho bất kỳ hoạt động như vậy là rất hiếm (với một số ngoại lệ được liệt kê dưới đây), và các tài liệu tham khảo để loại bỏ dương vật hầu như luôn luôn biểu tượng. Việc cắt bỏ dương vật ít gặp hơn và được thực hiện như là phương án cuối cùng trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt nhạy cảm androgen. Một số đàn ông có dương vật bị cắt cụt, được gọi là penectomies, vì lý do tế. Ung thư, ví dụ, đôi khi cần phải loại bỏ tất cả hoặc một phần của dương vật. Trong một số trường hợp, cắt bao quy đầu thời thơ ấu cũng đã dẫn đến kết quả dương vật toàn phần hoặc một phần. Một người đàn ông đã cắt bỏ dương vật của mình có thể có một hoặc nhiều vấn đề với tính cách, tiểu tiện, đời sống tình dục và tinh hoàn dễ bị tổn thương; anh ta cũng có thể trải nghiệm cảm giác có một dương vật ảo (xem chi ảo). Thủ tục phẫu thuật bộ phận sinh dục cho phụ nữ chuyển giới (chuyển giới hoặc chuyển đổi giới tính) trải qua phẫu thuật xác định lại giới tính, thường không liên quan đến việc cắt bỏ hoàn toàn dương vật; một phần hoặc toàn bộ qui đầu thường được giữ và định hình lại như một âm vật, và da của trục dương vật cũng có thể được đảo ngược để tạo thành âm đạo. Khi các thủ tục như thế này là không thể, các thủ tục khác như được sử dụng liên quan đến việc loại bỏ dương vật. Các vấn đề liên quan đến việc loại bỏ dương vật xuất hiện trong tâm lý, ví dụ trong tình trạng được gọi là lo lắng bị thiến. Một số người đàn ông đã trải qua phẫu thuật chỉnh sửa cơ thể tự nguyện, do đó bao gồm nó như là một phần của rối loạn dị dạng cơ thể. kiến chuyên môn được chia cho mong muốn cắt cụt dương vật như một bệnh lý, giống như tất cả các hình thức điều trị khác bằng cắt cụt chi cho rối loạn dị dạng cơ thể. Tự nguyện cắt đáy dương vật, loại bỏ các qui đầu dương vật, và phân nhánh của dương vật là các chủ đề liên quan. | null | Dương vật, Hình phạt |
baiotis' là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch miêu tả khoa học đầu tiên năm 1998. Đây là loài đặc hữu của Colombia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | null | Động vật được mô tả năm 1998, Động vật lưỡng cư Colombia, Động vật lưỡng cư Andes, Động vật đặc hữu Colombia |
Giải bóng đá Ngoại hạng Anh (), thường được biết đến với tên gọi English Premier League hoặc EPL, là hạng đấu cao nhất của hệ thống các giải bóng đá Anh. Gồm 20 câu lạc bộ, giải đấu sử dụng hệ thống thăng hạng và xuống hạng với English Football League (EFL). Mùa giải kéo dài từ tháng đến tháng với mỗi đội chơi 38 trận đấu (đấu với 19 đội khác trên sân nhà và sân khách). Đa số các trận đấu được diễn ra vào chiều Thứ Bảy và Chủ Nhật. Giải đấu được thành lập vào ngày 20 tháng năm 1992 với tên gọi FA Premier League sau quyết định của các câu lạc bộ tham dự Football League First Division tách khỏi Football League, một giải đấu khởi nguồn từ năm 1888, nhằm tận dụng lợi thế về các thỏa thuận bản quyền truyền hình. Thỏa thuận trong nước trị giá tỉ bảng/năm được ký cho mùa 2013–14, với việc BSkyB và BT Group giành quyền phát sóng lần lượt 116 và 38 trận đấu. Giải đấu thu về 2,2 tỉ euro/năm tiền bản quyền truyền hình trong nước và quốc tế. Tính đến mùa 2014–15, các câu lạc bộ được chia khoản lợi nhuận 1,6 tỉ bảng, và 2,4 tỉ bảng vào mùa 2016–17. Hiện tại, Premier League là giải đấu bóng đá được xem nhiều nhất trên thế giới, phát sóng trên 212 vùng lãnh thổ tới 643 triệu hộ gia đình và khoảng 4,7 tỉ khán giả truyền hình. Trong mùa giải 2014–15, trung bình trận đấu tại Premier League thu hút khoảng 36,000 khán giả tới sân, cao thứ trong các giải bóng đá chuyên nghiệp sau Bundesliga với 43.500 khán giả. Phần lớn các sân bóng đều được lấp đầy khán giả. Premier League xếp thứ trong Hệ số UEFA dành cho các giải đấu dựa theo thành tích của các câu lạc bộ tại các giải đấu châu Âu trong mùa giải, tính đến năm 2021. Đã có tất cả 50 câu lạc bộ tham dự kể từ mùa giải đầu tiên của Premier League năm 1992, nhưng mới chỉ có trong số đó giành được chức vô địch: Manchester United (13), Manchester City (7), Chelsea (5), Arsenal (3), Blackburn Rovers, Leicester City và Liverpool (1). Sau thành công tại châu Âu những năm 1970 và đầu 1980, đến cuối những năm 80 đánh dấu những bước lùi của bóng đá Anh. Các sân vận động xuống cấp, những cổ động viên phải sử dụng cơ sở vật chất nghèo nàn, hooligan đầy rẫy, và các câu lạc bộ Anh bị cấm thi đấu tại các giải châu Âu trong năm sau thảm họa Heysel năm 1985. Football League First Division, giải đấu cao nhất của nước Anh ra đời năm 1888, xếp sau Serie của Italia và La Liga của Tây Ban Nha về số lượng khán giả cũng như doanh thu, một vài cầu thủ Anh nổi bật chuyển ra nước ngoài thi đấu. Đầu thập niên 1990, xu hướng dần đảo ngược: tại World Cup 1990, lọt tới vòng bán kết; UEFA, cơ quan quản lý bóng đá châu Âu, dỡ bỏ lệnh cấm các câu lạc bộ Anh thi đấu tại các giải đấu châu Âu cũng trong năm đó, kết quả là Manchester United giành chức vô địch UEFA Cup Winners' Cup một năm sau đó, cùng với đó Lord Justice Taylor đưa ra bản báo cáo vào tháng năm đó sau thảm họa Hillsborough, đề nghị các sân vận động phải nâng cấp trở thành những sân vận động gồm tất cả các khán đài ngồi. Vào thập niên 1980, những câu lạc bộ lớn Anh bắt đầu chuyển dịch thành những dự án kinh doanh khi áp dụng các cơ chế thị trường vào quản lý câu lạc bộ để tối đa hóa lợi nhuận. Martin Edwards của Manchester United, Irving Scholar của Tottenham Hotspur và David Dein của Arsenal là những người dẫn đầu trong sự chuyển dịch này. Điều này đem lại cho các câu lạc bộ lớn nhiều quyền lực hơn. Bằng cách đe dọa sẽ ly khai, các câu lạc bộ Division One đã cố gắng làm tăng quyền chi phối biểu quyết của họ. Họ còn chiếm 50% cổ phần từ thu nhập truyền hình và tài trợ vào năm 1986. Doanh thu về truyền hình cũng dần trở nên quan trọng hơn: Football League nhận được 6,3 triệu bảng trong một thỏa thuận hai năm năm 1986, nhưng khi gia hạn hợp đồng mới năm 1988, giá trị đã tăng lên 44 triệu bảng cho bốn năm, với các đội bóng lớn chiếm 75% số tiền. Theo Scholar, người trực tiếp tham gia những cuộc đàm phán về thỏa thuận truyền hình, các đội bóng giải Hạng Nhất chỉ nhận được khoảng 25.000 bảng từ tiền bản quyền truyền hình, nhưng con số đó đã tăng lên vào khoảng 50.000 bảng trong đàm phán năm 1986 và 600.000 bảng vào năm 1988. Những cuộc đàm phán năm 1988 là những dấu hiệu đầu tiên của một giải đấu ly khai: 10 câu lạc bộ dọa rời khỏi và thành lập một "siêu giải đấu", nhưng cuối cùng đã được thuyết phục để lại, khi các đội bóng lớn chiếm phần lớn nhất của thỏa thuận. Khi mà các sân vận động được tu bổ, lượng khán giả và doanh thu tăng lên, các câu lạc bộ hàng đầu lại một lần nữa cân nhắc việc rời khỏi Football League để tận dụng dòng tiền chảy vào các môn thể thao. Năm 1990, giám đốc điều hành của London Weekend Television (LWT), Greg Dyke, đã gặp mặt đại diện của những đội bóng "big five" Anh (Manchester United, Liverpool, Tottenham, Everton và Arsenal) trong một bữa tối. Mục đích của cuộc gặp là sự mở đường cho cuộc ly khai khỏi Football League. Dyke tin rằng việc này sẽ đem lại lợi ích cho LWT nếu chỉ có những đội bóng lớn hơn trong nước xuất hiện trên truyền hình quốc gia, đồng thời muốn xác minh liệu các câu lạc bộ có quan tâm đến cổ phần tiền bản quyền truyền hình lớn hơn hay không. Tuy nhiên giải đấu sẽ không có uy tín nếu như không có sự ủng hộ của Liên đoàn bóng đá Anh (FA), vì thế David Dein của Arsenal đã đàm phán với FA để tiếp nhận tưởng. FA vốn đang không có mối quan hệ tốt với Football League vào thời điểm đó nên coi đó như là một cách làm suy yếu đi vị thế của Football League. Kết thúc mùa bóng 1991, một lời đề nghị đã được đưa ra về việc tạo ra giải đấu mới sẽ mang về nhiều tiền hơn. Bản hiệp định các thành viên sáng lập do các câu lạc bộ của giải đấu cấp cao nhất lúc đó ký ngày 17 tháng năm 1991, nhằm lập ra các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập FA Premier League.> Giải đấu cấp cao nhất mới được thành lập này sẽ độc lập tài chính với Hiệp hội bóng đá Anh và Football League, giúp cho FA Premier League tự chủ về việc thỏa thuận các hợp đồng tài trợ và bản quyền truyền hình. Lý lẽ được đưa ra khi đó là việc tăng thu nhập sẽ giúp các câu lạc bộ Anh tăng khả năng cạnh tranh với các đội bóng khác châu Âu. Mặc dù Dyke đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập giải bóng đá Ngoại hạng Anh, Dyke và ITV lại thất bại trong cuộc đấu thầu bản quyền phát sóng khi BSkyB là đơn vị giành gói thầu với trị giá 304 triệu bảng trong năm, còn BBC nhận gói phát sóng các chương trình tổng hợp vòng đấu trên Match of the Day. Năm 1992, các câu lạc bộ Hạng Nhất đồng loạt từ bỏ Football League và tới ngày 27 tháng năm 1992, FA Premier League thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn làm việc tại văn phòng của Hiệp hội bóng đá Anh sau đó đặt trụ sở chính Lancaster Gate. Điều đó có nghĩa Football League chấm dứt 104 năm hoạt động với bốn giải đấu; Premier League sẽ hoạt động như một hạng đấu riêng còn Football League chỉ còn ba hạng. Không có sự thay đổi nào về thể thức; vẫn giữ nguyên số đội hạng đấu cao nhất, việc lên xuống hạng giữa Premier League và Hạng Nhất mới vẫn giữ nguyên như giữa Hạng Nhất và Nhì cũ với đội lên hạng và đội xuống hạng. Mùa giải đầu tiên diễn ra vào 1992–93 và có 22 câu lạc bộ tham dự. Bàn thắng đầu tiên tại Premier League được ghi bởi Brian Deane của Sheffield United trong trận thắng 2–1 trước Manchester United. 22 thành viên ban đầu của Premier League mới là Arsenal, Aston Villa, Blackburn Rovers, Chelsea, Coventry City, Crystal Palace, Everton, Ipswich Town, Leeds United, Liverpool, Manchester City, Manchester United, Middlesbrough, Norwich City, Nottingham Forest, Oldham Athletic, Queens Park Rangers, Sheffield United, Sheffield Wednesday, Southampton, Tottenham Hotspur, và Wimbledon. Luton Town, Notts County và West Ham United là đội bị xuống hạng giải hạng nhất cũ mùa 1991–92, nên không được tham dự mùa giải đầu tiên của Premier League. Kết quả thi đấu của 'Top Four' trong thập niên 2000 Mùa giải 2000–01 1 2001–02 1 2002–03 1 2003–04 1 2004–05 1 2005–06 1 2006–07 1 2007–08 1 2008–09 1 2009–10 1 10 10 Trên 10 vô địch Ngoại hạng vòng bảng Champions League vòng play-off vòng loại thứ ba của Champions League vòng loại đầu tiên của Champions League UEFA Cup Europa League Một dấu hiệu nổi bật của Ngoại hạng Anh vào giữa thập niên 2000 là sự thống trị của nhóm "Top Four" gồm bốn câu lạc bộ: Arsenal, Chelsea, Liverpool và Manchester United. Trong thập kỷ đó, cá biệt là từ 2002 tới 2009, họ thống trị vị trí đầu, nơi có suất tham dự UEFA Champions League. Họ góp mặt cả trong vị trí này trong mùa giải từ 2003–04 tới 2008–09, cùng với đó là việc Arsenal giành chức vô địch mà không thua trận nào mùa 2003–04, lần duy nhất diễn ra tại Premier League. Trong thập niên 2000 có bốn đội bóng ngoài "Big Four" đã giành được một suất trong top Ngoại hạng Anh và giành vé tới đấu trường UEFA Champions League. Đó là Leeds United (1999–2000), Newcastle United (2001–02 và 2002–03), Everton (2004–05) và Tottenham Hotspur (2009–10) mỗi đội đều đứng vị trí thứ và giành suất cuối cùng dự Champions League, riêng Newcastle mùa bóng 2002–03, họ kết thúc vị trí thứ ba. Tháng năm 2008, Kevin Keegan phát biểu rằng việc thống trị của "Top Four" đe dọa đến giải đấu: "Giải đấu này có nguy cơ trở thành một trong những giải đấu lớn nhưng nhàm chán nhất thế giới." Giám đốc điều hành Premier League, Richard Scudamore phản biện lại rằng: "Có nhiều sự cạnh tranh khác nhau Premier League tại các vị trí đầu bảng, giữa bảng hay cuối bảng xếp hạng. Điều đó làm nên sự thú vị của giải đấu." Trên đấu trường châu Âu, từ năm 2005 đến năm 2012, các đội bóng trong Big Four xuất hiện chung kết Champions League đến trong tổng số lần (ngoại trừ năm 2010). Liverpool (2005), Manchester United (2008) và Chelsea (2012) đã giành được chức vô địch, với Arsenal (2006), Liverpool (2007), Chelsea (2008) và Manchester United (2009 và 2011) đều để thua chung kết Champions League. Arsenal là đội bóng duy nhất trong "Big Four" chưa giành được chức vô địch Champions League nào trong lịch sử. Leeds United là đội bóng duy nhất ngoài Big Four tiến tới bán kết Champions League (2000–01). các cúp châu Âu khác (UEFA Cup và Europa League sau này), bốn đội bóng Anh đã tiến đến các trận chung kết của UEFA Cup (hay Europa League sau này), trong đó chỉ Liverpool đoạt cúp vào năm 2001. Arsenal (2000), Middlesbrough (2006) và Fulham (2010) đều thua trận chung kết. Từ sau năm 2009, đánh dấu sự thay đổi cấu trúc của "Top 4" với việc Tottenham Hotspur và Manchester City cùng lọt vào top 4. Trong mùa giải 2009–10, Tottenham kết thúc vị trí thứ tư, qua đó trở thành đội bóng đầu tiên lọt vào top bốn kể từ sau Everton năm 2005. Tuy nhiên, những chỉ trích về khoảng cách giữa nhóm các "siêu câu lạc bộ" và phần còn lại của Premier League thì vẫn tiếp diễn, do họ chi tiêu nhiều hơn so với các câu lạc bộ khác Premier League. Kể từ khi liên tục có sự hiện diện của Manchester City và Tottenham Hotspur các vị trí đầu bảng xếp hạng, không có đội bóng nào bảo vệ thành công chức vô địch Ngoại hạng Anh. Ngoài ra, Premier League là giải vô địch quốc gia duy nhất tại các quốc gia thuộc UEFA mà không có câu lạc bộ nào bảo vệ thành công chức vô địch. Manchester City vô địch mùa 2011–12, trở thành câu lạc bộ đầu tiên ngoài "Top Four" vô địch kể từ mùa 1994–95. Đó cũng là mùa đầu tiên trong đội Top Four (Chelsea và Liverpool) kết thúc ngoài top kể từ 1994–95. Kết quả và thứ hạng của 'Big Six' trong thập niên 2010 Mùa bóng 2010–11 1 2011–12 1 2012–13 1 2013–14 1 2014–15 1 2015–16 10 2016–17 1 2017–18 1 2018-19 1 2019-20 1 10 10 10 Tính đến hết mùa 2019/2020 Vô địch Vòng bảng Champions League Vòng play-off champions League Europa League Chỉ với vị trí đầu tiên của giải đấu có được suất dự UEFA Champions League mà hiện nay có sự cạnh tranh lớn hơn suất đó, mặc dù chỉ mới mở ra đến đội bóng. Nếu các đội bằng điểm và hiệu số bàn thắng, một trận đấu phân định suất dự cúp Châu Âu sẽ được chơi sân trung lập. Trong năm mùa giải tiếp theo sau mùa bóng 2011–12, Manchester United và Liverpool đều đứng ngoài top bốn lần trong khi Chelsea kết thúc vị trí 10 trong mùa giải 2015–16. Arsenal khép lại giải đấu vị trí thứ vào mùa bóng 2016–17, kết thúc kỷ lục của họ với 20 lần liên tiếp kết thúc trong top bốn. Mùa bóng 2015–16, top bốn đã bị phá vỡ bởi một đội bóng nằm ngoài nhóm Big Six lần đầu tiên kể từ sau Everton năm 2005. Leicester City viết thành công câu chuyện cổ tích khi giành được chức vô địch Premier League và được tham dự vòng bảng Champions League. Ngoài sân cỏ, "Top 6" nắm giữ sức mạnh và tầm ảnh hưởng về tài chính, các đội bóng này cho rằng họ nên được hưởng phần doanh thu lớn hơn do tầm vóc của câu lạc bộ của họ trên toàn cầu và thứ bóng đá hấp dẫn mà họ nhắm đến. Những người phản đối điều đó cho rằng cơ cấu doanh thu bình đẳng Premier League giúp duy trì tính cạnh tranh của giải đấu, điều đó rất quan trọng cho sự thành công trong tương lai. Do yêu cầu của Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), cơ quan quản lý bóng đá quốc tế, rằng các giải đấu trong nước phải giảm số trận đấu, số câu lạc bộ giảm xuống còn 20 năm 1995, với việc đội xuống hạng và chỉ có lên hạng. Và cao nhất chỉ có 22 đội vào năm đầu tiên của mùa giải. Ngày tháng năm 2006, FIFA yêu cầu tất cả các giải đấu lớn của châu Âu, gồm cả Serie của Italia và La Liga của Tây Ban Nha giảm xuống còn 18 đội bắt đầu từ mùa 2007–08. Premier League phản ứng bằng cách đưa ra các định của họ để phản đối việc cắt giảm. Cuối cùng, mùa 2007–08 vẫn khởi tranh với 20 đội. Giải đấu được đổi tên FA Premier League đơn giản hơn thành Premier League năm 2007. Football Association Premier League Ltd (FAPL) được tổ chức như công ty và được sở hữu bởi 20 thành viên câu lạc bộ. Mỗi câu lạc bộ là cổ đông, với phiếu mỗi khi biểu quyết về các vấn đề như thay đổi quy tắc và hợp đồng. Các câu lạc bộ lựa chọn ra chủ tịch, giám đốc điều hành, và các thành viên ban giám đốc để giám sát các hoạt động của giải đấu. Chủ tịch hiện tại là Sir Dave Richards, được bổ nhiệm vào tháng năm 1999, và giám đốc điều hành là Richard Scudamore, được bổ nhiệm tháng 11 năm 1999. Cựu chủ tịch và giám đốc điều hành, John Quinton và Peter Leaver, bị buộc từ chức vào tháng năm 1999 sau khi trao hợp đồng tư vấn cho cựu giám đốc Sky Sam Chisholm và David Chance. Liên đoàn bóng đá Anh không trực tiếp tham gia vào việc điều hành Premier League, nhưng có quyền phủ quyết với tư cách cổ đông đặc biệt trong việc lựa chọn chủ tịch và giám đốc điều hành và khi các luật mới được đưa ra áp dụng cho giải đấu. Premier League có đại diện tại Hiệp hội các Câu lạc bộ châu Âu của UEFA, số câu lạc bộ và những câu lạc bộ được lựa chọn theo hệ số UEFA. Mùa giải 2012–13, Premier League có 10 đại diện trong Hiệp hội: Arsenal, Aston Villa, Chelsea, Everton, Fulham, Liverpool, Manchester City, Manchester United, Newcastle United và Tottenham Hotspur. Hiệp hội các Câu lạc bộ châu Âu có trách nhiệm lựa chọn ra thành viên tham gia Ủy ban các giải đấu cấp câu lạc bộ của UEFA, nơi tham gia điều hành các giải đấu của UEFA như Champions League và UEFA Europa League. Có 20 câu lạc bộ tại Premier League. Trong một mùa giải (từ tháng tới tháng 5), mỗi câu lạc bộ sẽ thi đấu với các đối thủ khác lần (vòng tròn lượt) bao gồm trận sân nhà và trận sân khách, tính ra có 38 trận đấu. Các đội sẽ giành được điểm/trận thắng, điểm/trận hòa và không có điểm khi thua trận. Các đội sẽ được xếp hạng theo tổng số điểm giành được, rồi sau đó mới xét tới hiệu số bàn thắng và số bàn ghi được. Nếu vẫn bằng điểm nhau, các đội sẽ được tính là xếp cùng vị trí. Nếu việc bằng nhau đó quyết định tới chức vô địch, xuống hạng hay giành quyền tham dự giải đấu khác, trận play-off sẽ được diễn ra trên sân trung lập để xác định thứ hạng. vị trí thấp nhất sẽ xuống chơi tại Football League Championship, còn đội đứng đầu Championship, cùng với đội thắng vòng play-off dành cho các đội xếp từ thứ tới thứ Championship, sẽ giành quyền lên hạng. Năm 2008 đã từng có đề xuất thêm vòng đấu 39 nhưng tưởng này đã bị hủy bỏ. Tập tin:Arsenal vs Borussia gặp Borussia Dortmund tại UEFA Champions League năm 2011 Mùa giải 2009–10, suất tham dự UEFA Champions League thay đổi, đội đứng đầu Premier League giành quyền tham dự UEFA Champions League, với việc đội dẫn đầu lọt trực tiếp vào vòng bảng. Trước đó chỉ có đội dẫn đầu lọt trực tiếp. Đội xếp thứ tham dự Champions League vòng play-off dành cho các đội không vô địch và phải thắng sau lượt trận mới được vào vòng bảng. Đội xếp thứ Premier League sẽ trực tiếp tham dự UEFA Europa League, đội thứ và thứ được tham dự hay không, phụ thuộc vào đội vô địch cúp quốc nội là FA Cup và League Cup. Hai suất Europa League sẽ được dành cho đội vô địch của giải đấu đó; nếu đội vô địch FA Cup hoặc League Cup đã giành quyền tham dự Champions League, thì suất đó sẽ dành cho đội có vị trí kết thúc vị trí cao hơn tại Premier League. Một suất tham dự UEFA Europa League khác cũng có thể giành được nhờ giải Fair Play. Nếu Premier League là một trong ba giải đứng bảng xếp hạng Fair Play của châu Âu, đội xếp cao nhất trong bảng xếp hạng Fair Play Premier League nếu chưa giành quyền tham dự cúp châu Âu sẽ được tham dự từ vòng loại thứ nhất UEFA Europa League. Một ngoại lệ xảy ra năm 2005, khi Liverpool vô địch Champions League năm trước đó, nhưng họ không giành được quyền tham dự Champions League tại Premier League mùa giải đó. UEFA dành cho Liverpool quyền đặc biệt tham dự Champions League, giúp Anh có đội tham dự. UEFA sau đó đưa ra quy định đội đương kim vô địch mặc nhiên được tham dự vào mùa sau bất chấp kết quả của họ tại giải quốc nội. Tuy nhiên, đối với những quốc gia có suất tham dự Champions League, nếu nhà vô địch Champions League kết thúc vị trí ngoài đội đứng đầu giải quốc nội, đội đó sẽ lấy suất tham dự của đội xếp thứ 4. Tại thời điểm đó, không có một liên đoàn nào có hơn đại diện tham dự Champions League. Điều này diễn ra vào năm 2012, khi Chelsea đội vô địch Champions League năm trước đó nhưng xếp thứ tại giải trong nước giành suất tham dự Champions League của Tottenham Hotspur, đội phải tham dự Europa League. Bắt đầu từ mùa 2015–16, đội vô địch Europa League sẽ được tham dự Champions League mùa giải tiếp theo, suất tối đa tham dự Champions League cho mỗi quốc gia được nâng lên 5. Một quốc gia có suất Champions League, như Anh, sẽ chỉ kiếm được suất thứ nếu một câu lạc bộ không giành được quyền tham dự Champions League thông qua giải quốc nội mà vô địch Champions League hoặc Europa League. Năm 2007, Premier League trở thành giải đấu đứng đầu bảng xếp hạng Các giải đấu châu Âu dựa theo thành tích của các câu lạc bộ Anh tại cúp châu Âu trong giai đoạn năm. Điều này đã phá vỡ sự thống trị năm của giải vô địch quốc gia Tây Ban Nha, La Liga. Từ mùa 1992–93 tới 2021–22, các câu lạc bộ Premier League đã lần giành chức vô địch UEFA Champions League (và lần giành quân), xếp sau La Liga của Tây Ban Nha với 12 lần và Serie của Italia với lần, và Bundesliga của Đức với lần vô địch. FIFA Club World Cup (hay FIFA Club World Championship, theo tên gọi ban đầu) từng lần được các câu lạc bộ Premier League giành được (Manchester United năm 2008, Liverpool năm 2019, Chelsea năm 2021), họ cũng lần giành chức quân (Liverpool vào 2005, Chelsea vào 2012), xếp sau và La Liga của Tây Ban Nha với 12 lần, và Brasileirão của Brazil với 4lần. Các câu lạc bộ của Giải Ngoại hạng và Giải bóng đá hạng nhất Anh có sự chuyển đổi hạng thi đấu sau mỗi mùa giải. Cụ thể, ba đội bóng đứng cuối bảng xếp hạng của giải Ngoại hạng Anh sẽ trực tiếp xuống chơi tại Giải bóng đá hạng nhất Anh. Còn đội đứng đầu bảng của giải hạng nhất Anh sẽ trực tiếp thăng hạng lên Ngoại hạng Anh, một câu lạc bộ còn lại sẽ lên hạng sau chiến thắng trong trận play-off giữa các đội đứng thứ 3, thứ 4, thứ và thứ giải hạng nhất Anh. Số lượng các câu lạc bộ có sự chuyển đổi hạng thi đấu được thể hiện như sau: 1992–1995: 22 câu lạc bộ 1995–nay: 20 câu lạc bộ Có tổng cộng 50 câu lạc bộ từng tham dự Premier League từ khi thành lập năm 1992, tính đến mùa 2021–22. STT Mùa giải Đội vô địch 1 1992–93 Manchester United 2 1993–94 3 1994–95 Blackburn Rovers 1995–96 Manchester United 1996–97 1997–98 Arsenal 1998–99 Manchester United 1999–2000 2000–01 10 2001–02 Arsenal STT Mùa giải Đội vô địch 11 2002–03 Manchester United 12 2003–04 Arsenal 13 2004–05 Chelsea 14 2005–06 15 2006–07 Manchester United 16 2007–08 17 2008–09 18 2009–10 Chelsea 19 2010–11 Manchester United 20 2011–12 Manchester City STT Mùa giải Đội vô địch 21 2012–13 Manchester United 22 2013–14 Manchester City 23 2014–15 Chelsea 24 2015–16 Leicester City 25 2016–17 Chelsea 26 2017–18 Manchester City 27 2018–19 28 2019–20 Liverpool 29 2020–21 Manchester City 30 2021–22 31 2022–23 = Câu lạc bộ Số lần Năm vô địch 13 1992–93, 1993–94, 1995–96, 1996–97, 1998–99, 1999–2000, 2000–01, 2002–03, 2006–07, 2007–08, 2008–09, 2010–11, 2012–13 Manchester City 2011–12, 2013–14, 2017–18, 2018–19, 2020–21, 2021–22, 2022–23 Chelsea 2004–05, 2005–06, 2009–10, 2014–15, 2016–17 Arsenal 1997–98, 2001–02, 2003–04 Blackburn Rovers 1994–95 Leicester City 2015–16 Liverpool 2019–20 Do việc lên xuống hạng, chỉ có thành viên sáng lập Premier League chưa từng xuống hạng, trong khi đó đội sáng lập khác chưa thể trở lại sau khi xuống hạng. Có 25 câu lạc bộ giành được quyền thăng hạng, chỉ có đội không xuống hạng trong mùa tiếp theo, trong khi đó có đội xuống hạng ngay sau giai đoạn. Số còn lại 15 câu lạc bộ lên xuống nhiều lần, như trường hợp của thành viên sáng lập Crystal Palace là giai đoạn khác nhau. Thành viên sáng lập Các câu lạc bộ lên hạng Đang thi đấu tại giải Không thi đấu tại giải Đang thi đấu tại giải Không thi đấu tại giải Chưa xuống hạng Arsenal, Chelsea, Everton, Liverpool, Manchester United, Tottenham Hotspur Brighton Hove Albion, Brentford,Luton Town Xuống hạng lần Aston Villa Coventry City, Oldham Athletic, Sheffield Wednesday, Wimbledon A.F.C Bournemouth Barnsley, Blackpool, Bradford City, Portsmouth, Swindon Town, Wigan Athletic, Stoke City, Swansea City, Huddersfield Town Xuống hạng lần Manchester City Blackburn Rovers, Ipswich United West Ham United, Newcastle United, Wolverhampton Wanderers Charlton Athletic, Derby County, Reading, Cardiff City Xuống hạng lần Nottingham United Queens Park Rangers Fulham,Burnley Birmingham City, Bolton Wanderers, Hull City, Xuống hạng lần Crystal Palace Middlesbrough Sunderland, West Bromwich Albion, City Xuống hạng lần Norwich City Dưới đây là 20 câu lạc bộ tham dự Premier League mùa 2022–23: Câu lạc bộ Vị trímùa 2021–22 Mùa đầu tiêntạigiải VĐQG Số mùatại giải VĐQG Số mùatại Premier League Mùa đầu tiêntrong giai đoạn hiện tại giải VĐQG Số danh hiệuVĐQG Chức VĐQG gần nhất Arsenala, 1904–05 105 30 1919–20 13 2003–04 Aston Villaa 11 1888–89 108 27 2019–20 1980–81 Brentford tại Championship 1935–36 2021–22 Brighton Hove Albion F.C. 16 1979–80 2017–18 Bournemouth tại Championship 2015–16 2022–23 Chelseaa, 1907–08 87 30 1989–90 2016–17 Crystal Palacea 14 1969–70 22 13 2013–14 Evertona, b, 10 1888–89 119 30 1954–55 1986–87 Leeds United 1924–25 52 14 2020–21 1991–92 Leicester City 1908–09 53 16 2014–15 2015–16 Liverpoola, 1894–95 107 30 1962–63 19 2019–20 Manchester Citya 1899–1900 93 25 2002–03 2020–21 Manchester Uniteda, 1892–93 97 30 1975–76 20 2012–13 Newcastle United F.C. 12 1898–99 90 27 2017–18 1926–27 Nottingham Forestc tại Championship 1892–93 46 24 2022–23 1977–78 Southamptona 15 1966–67 45 23 2012–13 Tottenham Hotspura, 1909–10 87 30 1978–79 1960–61 Fulham tại Championship 1949–50 28 16 2022–23 West Ham United 1923–24 64 26 2012–13 Wolverhampton Wanderersc 13 1888–89 67 2018–19 1958–59 *Burnley, Watford và Norwich City xuống chơi tại Championship mùa giải 2022–23, trong khi đó Norwich City, Watford và Brentford, lần lượt là đội vô địch, quân và đội thắng trong trận chung kết playoff, lên thi đấu từ Championship mùa giải 2021–22. *Brighton Hove Albion và Brentford là câu lạc bộ vẫn tiếp tục tại Premier League sau lần lên hạng đầu tiên với mùa giải thứ và (trong tổng cộng 31 mùa). a: Thành viên sáng lập Premier League b: Chưa từng xuống hạng từ Premier League c: Một trong 12 đội Football League ban đầu ;Wales Năm 2011, câu lạc bộ của Wales tham dự Premier League lần đầu tiên, khi Swansea City giành suất lên hạng. Trận đấu đầu tiên của Premier League diễn ra bên ngoài nước Anh là trận đấu sân nhà của Swansea City Sân vận động Liberty gặp Wigan Athletic ngày 20 tháng năm 2011. Mùa 2012–13, Swansea giành quyền tham dự Europa League khi vô địch League Cup. Số câu lạc bộ của Wales tại Premier League được tăng lên lần đầu tiên mùa 2013–14, khi Cardiff City giành quyền thăng hạng, nhưng Cardiff City đã xuống hạng ngay mùa đó. Cardiff được quay lại vào 2017-18 nhưng số lượng đội của Xứ Wales vẫn tương tự. Vì họ là thành viên của Hiệp hội bóng đá Wales (FAW), vấn đề là những câu lạc bộ như Swansea nên đại diện cho Anh hay Wales các giải đấu châu Âu đã đặt ra những cuộc thảo luận kéo dài tại UEFA. Swansea giành một trong ba suất của Anh tham dự Europa League mùa 2013–14 sau khi vô địch League Cup 2012–13. Quyền của các câu lạc bộ Wales thi đấu dưới danh nghĩa đại diện của Anh được tranh cãi cho tới khi Welsh UEFA làm rõ vấn đề tháng năm 2012. ;Scotland và Ireland Việc tham dự Premier League của một vài câu lạc bộ Scotland hay Ireland được đưa ra thảo luận vài lần nhưng không có kết quả. tưởng khả thi nhất là vào năm 1998, khi Wimbledon được Premier League chấp thuận di chuyển tới Dublin, Ireland, nhưng cuối cùng bị chặn lại bởi Hiệp hội bóng đá Cộng hòa Ireland. Thêm vào đó, giới truyền thông thi thoảng lại đưa ra tưởng về việc hai đội bóng lớn nhất Scotland, Celtic và Rangers, nên hoặc sẽ gia nhập Premier League, nhưng không có gì ngoài các cuộc thảo luận. Từ 1993 tới 2016, Premier League đã bán quyền tài trợ giải đấu cho hai công ty; Barclays là nhà tài trợ gần nhất, họ tài trợ cho Premier League từ năm 2001 tới 2016 (trước 2004, tài trợ thông qua thương hiệu Barclaycard trước khi trở lại với nhãn hiệu ngân hàng chính năm 2004). Giai đoạn Nhà tài trợ Tên 1992–1993 Không nhà tài trợ FA Premier League 1993–2001 Carling FA Carling Premiership 2001–2004 Barclaycard FA Barclaycard Premiership 2004–2007 Barclays FA Barclays Premiership 2007–2016 Barclays Premier League 2016– Không nhà tài trợ Premier League Hợp đồng của Barclays với Premier League kết thúc vào cuối mùa giải 2015–16. FA thông báo vào ngày tháng năm 2016, rằng sẽ không còn bất cứ nhà tài trợ nào gắn tên với Premier League nữa, họ muốn xây dựng một thương hiệu "sạch" cho giải đấu giống như các giải đấu thể thao nhà nghề Mỹ. Ngoài nhà tài trợ chính của giải đấu, Premier League còn có một số đối tác chính thức và các nhà cung cấp. Bóng chính thức được cung cấp bởi Nike có hợp đồng từ mùa 2000–01 khi họ giành được quyền từ tay Mitre. Premier League là giải đấu bóng đá có doanh thu cao nhất thế giới, với tổng doanh thu các câu lạc bộ là 2.48 tỉ Euro mùa 2009–10. Mùa 2013–14, do doanh thu truyền hình được cải thiện và kiểm soát chi phí, Premier League đã có lợi nhuận ròng vượt trên 78 triệu bảng Anh, vượt qua tất cả các giải bóng đá khác. Năm 2010 Premier League giành Giải thưởng Nữ hoàng dành cho doanh nghiệp trong hạng mục Thương mại quốc tế tôn vinh những đóng góp xuất sắc của họ đối với thương mại quốc tế và giá trị mà nó mang lại cho bóng đá Anh và ngành công nghiệp truyền hình của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Premier League có một vài câu lạc bộ giàu nhất thế giới. Bảng xếp hạng "Football Money League" của Deloitte có bảy câu lạc bộ Premier League nằm trong top 20 trong mùa giải 2009–10, và cả 20 câu lạc bộ nằm trong top 40 toàn cầu tới cuối mùa 2013–14, phần lớn là kết quả của việc tăng doanh thu bản quyền truyền hình. Từ năm 2013, giải đấu thu về 2.2 tỉ Euro một năm tiền bản quyền truyền hình nội địa và quốc tế. Các câu lạc bộ tại Premier League đã đồng về nguyên tắc trong tháng 12 năm 2012, để kiểm soát chi phí mới một cách triệt để. Hai đề xuất bao gồm quy tắc hòa vốn và một mức trần mà các câu lạc bộ có thể tăng quỹ lương của họ theo từng mùa. Từ năm 1992, sau khi 20 CLB hàng đầu nước Anh rời hệ thống Football League, Ngoại hạng Anh ra đời và hoạt động như một tập đoàn. Nó được điều hành bởi chính các đội bóng tham dự, độc lập với Liên đoàn bóng đá Anh. Sky là kênh phát sóng chủ yếu giải đấu này tại Vương quốc Anh và Ireland, sau này có thêm các kênh khác cùng phát như ESPN, Setanta Sports, hiện nay là BT Sport, BT Sport bắt đầu nhảy vào tranh chấp miếng bánh ngon này với Sky, kênh truyền hình từ trước đến nay vốn độc quyền giải đấu trên lãnh thổ Anh từ năm 2013. Khi ấy, nhờ luật "đấu thầu mù" của Ngoại hạng Anh, hãng này bất ngờ lần đầu tiên giành quyền phát sóng 38 trận mỗi mùa. Từ khi BT Sport nhảy vào, giá bản quyền truyền hình trong lãnh thổ Anh tăng đột biến, từ 1,5 tỷ đôla mỗi mùa trong khoảng thời gian 2013–2016 lên 2,6 tỷ đôla trong giai đoạn 2016–2019. Tính ra, mỗi trận đấu từ năm 2016 sẽ có giá 15 triệu đôla chỉ riêng trên đất Anh. +Số trận phát tại Vương quốc Anh và Ireland Mùa Sky Đài khác 1992–1993 60 60 1993–1997 66 66 1997–2001 66 66 2001–2004 110* 110 2004–2007 138* 138 2007–2009 96 Setanta 42 138 2009–2010 96 ESPN 42 138 2010–2013 115 23 138 2013–2016 116 BT Sport 38 154 2016–2019 126 42 168 2019–2020 153 64 Amazon Prime Video 24 BBC 245 2020–2021 162 85 28 281 2021–2022 128 52 20 200 Premier League là giải đấu bóng đá được xem nhiều nhất trên thế giới, phát sóng trên 212 vùng lãnh thổ tới 643 triệu hộ gia đình và khoảng 4,7 tỉ khán giả truyền hình. Tại Việt Nam, từ hơn 20 năm trước, người hâm mộ vẫn được thưởng thức miễn phí EPL trên truyền hình khi giải phát trên sóng VTV3. Nhưng sau đó, một số đài truyền hình trả tiền tại Việt Nam muốn tăng thị phần nên đã sẵn sàng bỏ ra hàng núi tiền để mua độc quyền bản quyền phát sóng EPL. Cuộc đua giữa các nhà đài luôn diễn ra rất căng thẳng khiến giá bản quyền EPL tăng với tốc độ phi mã. Kể từ năm 2010 đến nay, công ty truyền hình số vệ tinh VSTV (K+ liên doanh giữa VTV và Canal Plus) đã đánh bật các đối thủ khác trong nước và trở thành đơn vị duy nhất sở hữu tất cả các trận đấu của mỗi mùa giải. Khoảng cách giữa Premier League và Football League ngày càng tăng. Kể từ khi tách khỏi Football League, nhiều câu lạc bộ sáng lập Premier League vẫn đang vật lộn các giải thi đấu thấp hơn. Do một phần lớn là sự chênh lệch về doanh thu bản quyền truyền hình giữa các giải đấu, nhiều câu lạc bộ mới lên hạng rất khó khăn để trụ lại sau mùa giải đầu tiên của họ tại Premier League. mọi mùa bóng trừ 2001–02, 2011–12 và 2017–18 có ít nhất một đội bóng mới lên Premier League phải quay trở lại với Football League. Mùa 1997–98, cả ba đội mới lên hạng đều phải xuống hạng vào cuối mùa bóng. Premier League vẫn phân chia một phần doanh thu bản quyền truyền hình cho các câu lạc bộ phải xuống hạng. Bắt đầu từ mùa 2013–14, khoản này đã vượt quá 60 triệu bảng cho bốn mùa bóng. Mặc dù đã có kế hoạch để giúp các đội bóng điều chỉnh sự không cân đối về doanh thu truyền hình (trung bình các đội Premier League nhận 55 triệu bảng trong khi đó các câu lạc bộ Football League Championship chỉ là triệu), người ta cho rằng chính các khoản được chia này đã làm sâu thêm khoảng cách giữa các đội từng được tham dự Premier League với các câu lạc bộ khác, dẫn đến việc các câu lạc bộ thường trở lại sau khi xuống hạng. Một vài câu lạc bộ không thể quay trở lại ngay với Premier League, các vấn đề về tài chính, bao gồm một vài trường hợp bị chính quyền tiếp quản hoặc thậm chí là phá sản. Tính tới mùa 2017–18, Premier League đã được diễn ra trên 58 sân vận động kể từ mùa giải đầu tiên của Premier League. Sau thảm họa Hillsborough năm 1989 và kết quả của Báo cáo Taylor đề nghị loại bỏ khán đài đứng; kết quả là các sân vận động tại Premier League đều là khán đài ngồi. Từ khi thành lập Premier League, các sân bóng Anh đã được nâng cấp sức chứa và cơ sở vật chất, một số câu lạc bộ còn chuyển tới những sân vận động xây mới. sân vận động từng diễn ra Premier League đã bị phá hủy. Các sân đấu của mùa 2010–11 sân có sức chứa lớn nhất là: Old Trafford, sân nhà của Manchester United với sức chứa 75,957 còn nhỏ nhất là Vitality stadium, sân nhà của Bournemouth A.F.C., với sức chứa 11464. Tổng sức chứa của các sân vận động Premier League mùa 2017–18 là 806,033 trung bình là 40,302 một sân. Khán giả tới sân là một nguồn thu đáng kể của các câu lạc bộ Premier League. Mùa 2016–17, trung bình có 35,838 khán giả tới xem một trận đấu tại Premier League trong tổng số 13,618,596. Con số này tăng 13,089 so với số 21,126 khán giả ghi nhận trong mùa giải đầu tiên (1992–93). Tuy nhiên, sau mùa bóng 1992–93, sức chứa của các sân giảm xuống do phải loại bỏ khán đài đứng và đến hạn chót là mùa 1994–95 các sân phải bao gồm toàn bộ khán đài ngồi. Kỉ lục trung bình khán giả tới sân tại Premier League là 36,144 được thiết lập vào mùa giải 2007–08. Kỉ lục đó sau đó bị phá mùa 2013–14 với 36,695 khán giả, cao nhất kể từ năm 1950. Huấn luyện viên tại Premier League phụ trách đội bóng ngày qua ngày bao gồm tập luyện, lựa chọn đội hình và mua bán cầu thủ. Tầm ảnh hưởng của họ thay đổi từ cầu lạc bộ này đến câu lạc bộ khác và có liên quan tới chủ sở hữu đội bóng và mối quan hệ với các cổ động viên. Các huấn luyện viên phải đạt chứng chỉ UEFA Pro Licence bằng cấp cao nhất, sau khi hoàn thành cả UEFA 'B' và 'A' Licences. UEFA Pro Licence là yêu cầu cần thiết đối với những người muốn huấn luyện lâu dài tại Premier League (nghĩa là dưới 12 tuần là thời gian huấn luyện viên tạm quyền được cho phép huấn luyện đội bóng). Vị trí tạm quyền sẽ được bổ nhiệm trong khoảng thời gian trống chờ đợi huấn luyện viên chính thức mới. Một vài huấn luyện viên đã được bổ nhiệm làm huấn luyện viên chính thức sau thời gian tạm quyền; ví dụ như trường hợp của Paul Hart Portsmouth hay David Pleat Tottenham Hotspur. Huấn luyện viên có thời gian làm việc dài nhất là Alex Ferguson, người nắm quyền Manchester United từ tháng 11 năm 1986 tới khi nghỉ hưu mùa 2012–13, nghĩa là ông huấn luyện cả 21 mùa đầu tiên của Premier League. Arsène Wenger hiện là huấn luyện viên có thời gian làm việc dài nhất, khi dẫn dắt Arsenal tại Premier League từ 1996.. Hiện tại ông đã không còn dẫn dắt Arsenal F.C Tập tin:Alex huấn luyện viên Manchester United Sir Alex Ferguson người huấn luyện lâu nhất và thành công nhất Premier League. Huấn luyện viên Câu lạc bộ Vô địch Năm vô địch Alex Ferguson Manchester United 13 1992–93, 1993–94, 1995–96, 1996–97, 1998–99, 1999–00, 2000–01, 2002–03, 2006–07, 2007–08, 2008–09, 2010–11, 2012–13 Pep Guardiola Manchester City 2017–18, 2018–19, 2020–21, 2021–22, 2022–23 Arsene Wenger Arsenal 1997–98, 2001–02, 2003–04 José Mourinho Chelsea 2004–05, 2005–06, 2014–15 Kenny Dalglish Blackburn Rovers 1994–95 Carlo Ancelotti Chelsea 2009–10 Roberto Mancini Manchester City 2011–12 Manuel Pellegrini 2013–14 Claudio Ranieri Leicester City 2015–16 Antonio Conte Chelsea 2016–17 Jürgen Klopp Liverpool 2019–20 Q.tịch Tên Câu lạc bộ Bổ nhiệm Thời gian nắm quyền Arsenal Aston Villa Bournemouth Brentford Burnley Brighton Hove Albion Chelsea Crystal Palace Everton Fulham Liverpool Luton Town Manchester City Manchester United Newcastle United Nottingham Forest Sheffield United Tottenham Hotspur West Ham United Wolverhampton Wanderers Ra sân nhiều nhất Thứ hạng Cầu thủ Gareth Barry 653 Ryan Giggs 632 Frank Lampard 609 David James 572 Gary Speed 535 Emile Heskey 516 Mark Schwarzer 514 Jamie Carragher 508 Phil Neville 505 10 Steven Gerrard 504 Rio Ferdinand In nghiêng: Cầu thủ đang thi đấu chuyên nghiệpIn đậm: Cầu thủ đang thi đấu tại Premier League. Gareth Barry đang giữ kỉ lục số lần ra sân tại Premier League, nhiều hơn bất cứ cầu thủ nào. Trong mùa giải Premier League đầu tiên 1992–93, vòng đấu mở màn chỉ có 11 cầu thủ ra sân trong đội hình xuất phát đến từ bên ngoài của Vương quốc Anh hoặc Ireland. Tới mùa 2000–01, số cầu thủ nước ngoài tham dự Premier League là 36%. Mùa 2004–05 con số tăng lên 45%. Ngày 26 tháng 12 năm 1999, Chelsea trở thành đội bóng đầu tiên tại Premier League ra sân với toàn cầu thủ nước ngoài, còn ngày 14 tháng năm 2005, Arsenal trở thành đội bóng đầu tiên đăng ký cả 16 cầu thủ cho trận đấu là người nước ngoài. Tới năm 2009, chỉ còn dưới 40% cầu thủ tham dự Premier League là người Anh. Để đối phó với những lo ngại rằng các câu lạc bộ ngày càng bỏ qua các cầu thủ trẻ Anh để sử dụng các cầu thủ nước ngoài, năm 1999, Cục Xuất nhập cảnh Vương quốc Anh thắt chặt quy định của cấp giấy phép lao động cho cầu thủ đến từ ngoài Liên minh châu Âu. Một cầu thủ ngoài EU chỉ được cấp giấy phép lao động khi thi đấu 75% số trận đấu hạng 'A' mà cầu thủ đó được lựa chọn trong vòng năm, và quốc gia của cầu thủ đó trung bình phải xếp ít nhất là thứ 70 trong bảng xếp hạng FIFA trong vòng năm. Nếu cầu thủ không đạt được những tiêu chí đó, câu lạc bộ muốn ký hợp đồng với cầu thủ đó có thể đưa ra lời yêu cầu. Các cầu thủ sẽ chỉ được chuyển nhượng khi thị trường chuyển nhượng mở cửa bởi Hiệp hội bóng đá. Sẽ có kỳ chuyển nhượng bắt đầu từ ngày cuối cùng của mùa giải tới 31 tháng và từ 31 tháng 12 tới 31 tháng Giêng. Cầu thủ đã được đăng ký sẽ không được thay đổi trong kì chuyển nhượng đó trừ khi có giấy phép đặc biệt từ FA, thường là trong trường hợp khẩn. Tới mùa 2010–11, Premier League đưa ra luật mới về việc các câu lạc bộ chỉ được phép đăng ký tối đa 25 cầu thủ trên 21 tuổi, cùng với đó là danh sách đội hình chỉ được phép thay đổi trong kì chuyển nhượng hoặc trong trường hợp đặc biệt. Cùng với đó là khái niệm 'home grown' cũng được áp dụng, theo đó cũng từ năm 2010 ít nhất là trong số 25 cầu thủ đăng ký phải là 'cầu thủ home-grown'. Không có mức lương trần dành cho một cá nhân hay một đội bóng nào tại Premier League. Đây là kết quả của những bản hợp đồng bản quyền truyền hình ngày càng hấp dẫn, lương các cầu thủ tăng mạnh kể từ khi Premier League ra đời khi mà mức lương trung bình của cầu thủ chỉ là 75.000 bảng Anh một năm. Mức lương trung bình vào mùa 2008–09 là 1,1 triệu bảng. Tới năm 2015, trung bình lương của Premier League cao nhất trong các giải bóng đá trên thế giới. Kỷ lục chuyển nhượng dành cho một cầu thủ Premier League tăng đều đặn qua từng năm. Trước khi bắt đầu mùa giải Premier League đầu tiên Alan Shearer mới trở thành cầu Anh có mức chuyển nhượng trên triệu bảng. Các kỷ lục tăng đều đặn trong vài mùa giải đầu tiên Premier League, cho đến khi Alan Shearer đã phá vỡ kỷ lục 15 triệu bảng khi chuyển tới Newcastle United vào năm 1996. Ba kỉ lục chuyển nhượng cao nhất lịch sử thể thao thì đều là các câu lạc bộ Premier League bán đi, khi Tottenham Hotspur bán Gareth Bale cho Real Madrid với giá 85 triệu bảng năm 2013, Manchester United bán Cristiano Ronaldo cho Real Madrid với mức giá 80 triệu bảng năm 2009, và Liverpool bán Luis Suárez cho Barcelona thu về 75 triệu năm 2014. +Phí chuyển nhượng cao nhất ngoại hạng Anh STT Cầu Thủ Giá Trị Năm Chuyển từ Chú thích Enzo Fernández £107m 2023 Benfica Chelsea Jack Grealish £100m 2021 Aston Villa Manchester City Romelu Lukaku £97.5m 2021 Inter Milan Chelsea Paul Pogba £89m 2016 Juventus Manchester United Mykhailo Mudryk £88.5m 2023 Shakhtar Donetsk Chelsea Antony £81.3m 2022 Ajax Manchester United Harry Maguire £80m 2019 Leicester City Romelu Lukaku £75m 2017 Everton Virgil van Dijk £75m 2018 Southampton Liverpool 10 Jadon Sancho £73m 2021 Borussia Dortmund Manchester United Phí chuyển nhượng các cầu thủ ngoại hạng Anh STT Cầu Thủ Giá trị Năm Chuyển từ Chú thích(s) Philippe Coutinho £106m 2018 Liverpool Barcelona Jack Grealish £100m 2021 Aston Villa Manchester City Eden Hazard £89m 2019 Chelsea Real Madrid Gareth Bale £86m 2013 Tottenham Hotspur Cristiano Ronaldo £80m 2009 Manchester United Harry Maguire £80m 2019 Leicester City Manchester United Romelu Lukaku £75m 2017 Everton Luis Suárez £75m 2014 Liverpool Barcelona Virgil van Dijk £75m 2018 Southampton Liverpool 10 Romelu Lukaku £74m 2019 Manchester United Inter Milan Tập tin:Alan Shearer Shearer là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất lịch sử Premier League.|thế= Thứ hạng Tên Năm Bàn thắng Trận Tỉ lệ Alan Shearer 1992–2006 260 441 Harry Kane 2009– 213 319 0.67 Wayne Rooney 2002–2018 208 491 Andrew Cole 1992–2008 187 414 Sergio Agüero 2011–2021 184 275 Frank Lampard 1995–2015 177 609 Thierry Henry 1999–2007, 2012 175 258 Robbie Fowler 1993–2009 163 379 Jermain Defoe 2001–2003, 2004–2014, 2015–2020 162 492 10 Michael Owen 1996–2004, 2005–13 150 326 Nghiêng cầu thủ vẫn đang thi đấu chuyên hiện đang thi đấu tại Premier League. Chiếc giày vàng được trao cho cầu thủ ghi nhiều bàn thắng tại Premier League vào cuối mỗi mùa bóng. Cựu tiền đạo Blackburn Rovers và Newcastle United Alan Shearer đang giữ kỉ lục ghi nhiều bàn thắng nhất tại Premier League với 260. Hai mươi tư cầu thủ đã đạt cột mốc 100 bàn thắng. Kể từ mùa giải Premier League đầu tiên 1992–93, 14 cầu thủ đến từ 10 câu lạc bộ khác nhau đã giành hoặc chia sẻ danh hiệu vua phá lưới giải đấu. Thierry Henry giành danh hiệu vua phá lưới thứ tư với 27 bàn vào mùa 2005–06. Andrew Cole và Alan Shearer cùng nhau giữ kỉ lục ghi nhiều bàn thắng nhất trong một mùa giải (34) cho lần lượt Newcastle và Blackburn. Ryan Giggs của Manchester United giữ kỉ lục ghi bàn trong nhiều mùa liên tiếp nhất, với việc ghi bàn trong cả 21 mùa giải đầu tiên. Cúp Premier League Premier League có chiếc cúp một chiếc cúp thật (được giữ bởi nhà đương kim vô địch) và một bản sao dự trữ. Hai chiếc cúp sẽ được sử dụng trong trường hợp hai câu lạc bộ có thể có cơ hội vô địch ngày thi đấu cuối cùng của mùa giải. Trong trường hợp có nhiều hơn hai đội cùng cạnh tranh nhau chức vô địch trong ngày thi đấu cuối cùng của mùa giải thì một bản sao từng được giành bởi một câu lạc bộ trước đó sẽ được sử dụng. Chiếc cúp Premier League hiện tại được tạo ra bởi Royal Jewellers Asprey of London. Chiếc cúp bao gồm thân cúp với chiếc vương miện bằng vàng và chiếc đế bằng malachit. Chiếc đế nặng còn thân cúp nặng Cả thân và đế cao rộng và sâu Thân chính được làm từ bạc đặc thật và bạc mạ vàng, trong khi đó đế được làm từ malachit, một loại đá quý. Đế có một dải bạc xung quanh chu vi của nó, nơi ghi tên các nhà vô địch giải đấu. Malachit màu xanh cũng là tượng trưng cho màu xanh của cỏ trên sân. Chiếc cúp được thiết kế dựa trên huy hiệu của Tam Sư kết hợp với bóng đá Anh. Hai con sư tử được đặt hai bên chiếc cúp phía trên tay nắm– con thứ ba được biểu tượng chính là người đội trưởng của đội vô địch người nâng cao chiếc cúp, và khi ấy chiếc vương miện vàng sẽ trên đầu của anh ta. Các ruy băng treo lên tay nắm được thể hiện bằng màu của đội vô địch giải đấu năm đó. Năm 2004, một phiên bản vàng đặc biệt được trao cho Arsenal khi họ giành chức vô địch mà không để thua một trận đấu nào. Bên cạnh việc cúp dành cho đội vô địch và huy chương dành cho các cá nhân cầu thủ, Premier League cũng trao các giải Huấn luyện viên xuất sắc nhất tháng và Cầu thủ xuất sắc nhất hàng tháng. Có cả các giải Huấn luyện viên xuất sắc nhất mùa giải, Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải. Hàng năm có giải Chiếc giày vàng và Găng tay vàng hàng năm. Năm 2012, Premier League kỉ niệm thập niên thứ hai bằng lễ trao Giải thưởng 20 năm: Đội hình tiêu biểu ** Chuyên gia bình chọn: Peter Schmeichel, Gary Neville, Tony Adams, Rio Ferdinand, Ashley Cole, Cristiano Ronaldo, Roy Keane, Paul Scholes, Ryan Giggs, Thierry Henry, Alan Shearer ** Khán giả bình chọn: Peter Schmeichel, Gary Neville, Tony Adams, Nemanja Vidić, Ashley Cole, Cristiano Ronaldo, Steven Gerrard, Paul Scholes, Ryan Giggs, Thierry Henry, Alan Shearer Huấn luyện viên xuất sắc nhất: Sir Alex Ferguson Cầu thủ xuất sắc nhất: Ryan Giggs Ra sân nhiều lần nhất: Ryan Giggs (598) Ghi được nhiều bàn thắng nhất: Alan Shearer (260) Giữ sạch lưới nhiều nhất: David James (173) Câu lạc bộ 500: Ryan Giggs, David James, Gary Speed, Frank Lampard, Emile Heskey, và Sol Campbell. Bàn thắng đẹp nhất: Wayne Rooney, 12 tháng năm 2011, Man. United vs Man. City Cứu thua xuất sắc nhất: Craig Gordon, 18 tháng 12 năm 2010, Sunderland vs Bolton Bàn thắng đẹp nhất: Arsenal 2003–04 ;Tài liệu tham khảo | Giải bóng đá Ngoại hạng Anh | Khởi đầu năm 1992 Anh Anh, Giải thể thao thành lập năm 1992, Giải thể thao chuyên nghiệp Vương quốc Liên hiệp Anh |
Pleocnemia javanica là một loài dương xỉ trong họ Tectariaceae. Loài này được Pr mô tả khoa học đầu tiên năm 1851. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Pleocnemia javanica | Pleocnemia, Unresolved names |
Muhammed Alperen Uysal (sinh ngày tháng năm 1994) là một cầu thủ bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ thi đấu vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Thổ Nhĩ Kỳ İstanbulspor. Anh ra mắt chuyên nghiệp cho Gaziantepspor trong trận thua 4-0 trước Beşiktaş ngày tháng năm 2016. | Muhammed Alperen Uysal | Sinh năm 1994, Nhân vật còn sống, Người Balıkesir, Cầu thủ bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ, Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ, Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ, Cầu thủ bóng đá Galatasaray S.K., Cầu thủ bóng đá Gaziantepspor, Cầu thủ bóng đá Çaykur Rizespor, Cầu thủ bóng đá Süper Lig |