text
stringlengths 0
512k
|
---|
Chợ Lớn (chữ Hán: 堤岸; âm Hán-Việt: Đê Ngạn; âm Quảng Đông: Thầy Ngòn), là một khu vực đông người Hoa sinh sống nằm ven kênh Tàu Hủ trải dài trên địa bàn Quận 5 và Quận 6, về phía nam tới Quận 8 và về phía bắc tới Quận 10 và Quận 11 ở Thành phố Hồ Chí Minh. Khu vực này trước kia lập thành một thành phố riêng biệt với Sài Gòn, gọi là thành phố Chợ Lớn. Trong những năm 1930-1950 do quá trình đô thị hóa, Sài Gòn và Chợ Lớn dần dần sáp nhập với nhau. Khu phố này từ lâu đã là nơi sinh sống của người Hoa và được coi là khu phố Tàu rộng nhất thế giới.
Từ nguyên
Giáo sư Trần Chính Hoằng tại Sở Nghiên cứu chỉnh lý cổ tịch, Đại học Phục Đán, Trung Quốc viết: "Như chúng ta đã biết, Đề Ngạn 堤岸 chính là bờ đê (đê Ngạn) Sài Gòn, xưa nay vốn là khu tụ cư của Hoa kiều."
Tuy nhiên, học giả An Chi bác bỏ quan điểm này. Ông cho rằng cách giải thích này là "ngớ ngẩn" vì Sài Gòn không hề có đê. Theo ông, ban đầu chữ Đề Ngạn được Hoa Kiều tại Chợ Lớn viết là 提岸 với chữ Đề 提 có bộ "thủ" 扌mà sau này vì cố muốn hiểu là bờ đê nên người ta mới đổi cách viết thành Đê Ngạn 堤岸 với chữ Đê 堤 có bộ "thổ" 土. Cả 提岸 và 堤岸 đều đồng âm và đọc là "Thầy Ngòn" trong tiếng Quảng Đông, và đều là cách phiên âm địa danh "Sài Gòn" trong tiếng Việt. Ông An Chi cũng cho rằng, trước khi thành phố Sài Gòn (khu vực quận 1 và quận 3 hiện nay) được thực dân Pháp thành lập thì Sài Gòn là tên của khu vực mà sau này là trung tâm của Chợ Lớn, còn nơi mà sau này gọi là Sài Gòn thì trước đó có tên Bến Nghé.
Lịch sử
Từ trước năm 1698, ở Đề Ngạn (mà sau này gọi là Chợ Lớn) đã có làng Minh Hương của người Hoa (vì không thần phục nhà Thanh, họ đã rời bỏ Trung Quốc sang định cư ở đàng Trong). Tuy nhiên, vùng đất ấy trở nên đông đúc kể từ khi người Hoa ở cù lao Phố (tức Biên Hòa ngày nay) chạy tới đây lánh nạn sau khi nơi ở của họ bị nhà Tây Sơn tàn phá năm 1776 .
Rồi do nhu cầu, người Hoa lập chợ (hay phát triển chợ có đã từ trước) để trao đổi hàng hóa. So với chợ Tân Kiểng của người Việt thì chợ Sài Gòn (khu vực Bưu điện Chợ Lớn ngày nay) có lớn hơn nên được người dân gọi là Chợ Lớn. Sau đó, tên chợ cũng được dùng để chỉ vùng đất mà nó tọa lạc. Theo học giả Vương Hồng Sển, thì "Chợ Lớn như nay ta còn gọi, đối với Hoa kiều là Thầy Ngòn (Đề Ngạn) hay Xấy Cung (Tây Cống: Sài Gòn); còn sách cũ Pháp viết là Cholon hay Cholen, Cho Leun".
Trong Gia Định thành thông chí soạn khoảng năm 1820, tác giả Trịnh Hoài Đức đã mô tả phố chợ Sài Gòn như sau:
Thành phố Chợ Lớn thành lập ngày 6 tháng 6 năm 1865 theo nghị định của Thống đốc Nam Kỳ, trên địa bàn một số thôn của ba tổng: Tân Phong Thượng (tổng này mặc nhiên giải thế), Tân Phong Trung và Tân Phong Hạ thuộc huyện Tân Long, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Đến ngày 3 tháng 10 năm 1865, địa giới thành phố được xác định cụ thể với diện tích gần 1 km², chỉ là một phần quận 5 hiện nay. Đến ngày 20 tháng 10 năm 1879, Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers ra Nghị định công nhận thành phố Chợ Lớn (Ville de Cholon) là đô thị loại 2 (municipalité de 2e classe) ngang cấp tỉnh, cùng với các thành phố Tourane và Phnôm Pênh được thành lập sau này của Liên bang Đông Dương. Đứng đầu thành phố là Thị trưởng (Maire), do Thống đốc Nam Kỳ đề cử và Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm. Thành phố Chợ Lớn là đơn vị hành chính tách biệt hẳn với tỉnh Chợ Lớn. Tuy nhiên, trụ sở các cơ quan chính quyền của tỉnh Chợ Lớn đều đặt tại thành phố Chợ Lớn.
Ngày 1 tháng 7 năm 1882, tuyến đường xe điện đầu tiên ở Việt Nam dài 5 kilômét, rộng 1 mét, nối Sài Gòn và Chợ Lớn bắt đầu hoạt động. Theo sách Bến Nghé xưa của Sơn Nam thì Giữa Sài Gòn và Chợ Lớn phía đất thấp, chưa có dự kiến nên nối liền, còn ruộng lúa với người cày, ao nuôi vịt, ngọn rạch cạn, đợi đến năm 1916 mới bắt đầu đắp đường, trải đá ong... (Đó là đường Galliéni, nay là Trần Hưng Đạo).
Đến năm 1930, hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn đã giáp nhau ở chỗ nay là đường Nguyễn Văn Cừ và Nguyễn Thiện Thuật. Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh hợp nhất thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là Khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Đứng đầu khu là một Khu trưởng, do Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm. Khu trưởng là Chủ tịch Hội đồng quản lý khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Chức Thị trưởng vẫn còn tồn tại đến năm 1934, nhưng một số quyền hạn của chức này chuyển sang cho Khu trưởng.
Năm 1951, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn đổi thành Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn và đến năm 1956 đổi thành Đô thành Sài Gòn.
Kể từ đây, địa danh "Chợ Lớn" chỉ còn được dùng để chỉ toàn bộ khu vực quận 5 và quận 6 của Đô thành Sài Gòn.
Các điểm tham quan
Ở đây có nhiều chùa, đình và hội quán của người Hoa, như: đình Minh Hương Gia Thạnh, hội quán Tuệ Thành, hội quán Hà Chương, hội quán Ôn Lăng, hội quán Nghĩa An, hội quán Nhị Phủ, hội quán Sùng Chính... Ngoài ra, ở đây còn các chợ luôn là những đầu mối bán sỉ của thành phố, như: chợ An Đông, chợ Xã Tây, chợ Bàu Sen, chợ Bình Tây, chợ Kim Biên, thương xá Đồng Khánh... Tại đây có nhiều quán ăn và tiệm thuốc bắc của người Hoa lẫn thuốc nam của người Việt (khu phố cổ Hải Thượng Lãn Ông).
Chú thích |
Vùng gen khởi động là trình tự các nuclêôtit của DNA cho phép một gen có thể tiến hành phiên mã tạo ra phân tử RNA. Trong sinh học, thuật ngữ này thường được gọi là vùng khởi động, dịch từ nguyên gốc tiếng Anh: promoter (phát âm Quốc tế: /prəˈmoʊtər/) là vị trí mà enzym RNA-pôlymeraza bám vào để tiến hành phiên mã.
Các thành phần của vùng khởi động
Phần lõi (Core) vùng khởi động
Vị trí khởi đầu phiên mã (TSS)
vị trí khoảng -35 tính ngược dòng về thượng nguồn gen, từ vị trí bắt đầu phiên mã là +1 (xem hình 1).
Vị trí bám của RNA polymerase
RNA-polymerase I: phiên mã gene mã hóa cho RNA ribosome
RNA-polymerase II: phiên mã gene mã hóa cho mRNA và một số RNA nhân nhỏ (small nuclear RNA)
RNA-polymerase III: phiên mã gene mã hóa cho RNA vận chuyển và những RNA nhỏ khác
Ví trí bảm của các nhân tố phiên mã
Phần cận biên (Proximal) vùng khởi động
vị trí khoảng -250
Điểm bám của một số nhân tố phiên mã đặc biệt
Phần ngoại biên (Distal) vùng khởi động
ví trí xa hơn ở phía thượng nguồn (upstream) (ngoại trừ enhancer hoặc các vùng điều hòa không phụ thuộc vị trí và chiều)
Điểm bám của một số nhân tố phiên mã đặc biệt
Vùng khởi động là những nhân tố quan trọng phối hợp với enhancer, silencer, nhân tố liên kết trong việc quyết định mức độ biểu hiện của một gene nhất định.
Trình tự vùng khởi động
Ở nhân sơ (Prokaryote)
Ở sinh vật nhân sơ (prokaryote), vùng khởi động chứa hai đoạn trình tự ngắn tại vị trí -10 và -35 thượng nguồn của gene, nghĩa là phía trước gene theo chiều phiên mã. Trình tự tại -10 được gọi là Hộp Pribnow và thường chứa sáu nucleotide TATAAT. Hộp Pribnow là tối cần thiết để khởi động quá trình phiên mã ở prokaryote. Ngoài ra, trình tự -35 thường chứa 6 nucleotde là TTGACA cho phép gene được phiên mã với tần số cao.
<-- upstream downstream -->
5'-XXXXXXXPPPPPXXXXXXPPPPPPXXXXGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGGXXXX-3'
-35 -10 Gene to be transcribed
Tần số xuất hiện nucleotide ở mỗi vị trí
Vị trí -10
T A T A A T
77% 76% 60% 61% 56% 82%
Vị trí -35
T T G A C A
69% 79% 61% 56% 54% 54%
Ở nhân thực (Eukaryote)
Vùng khởi động (promoter) của sinh vật nhân thực (eukaryote) thường rất đa hình và khó xác định. Chúng thường nằm ở thượng nguồn của gene và có thể có các yếu tố điều hòa nằm cách điểm khởi đầu phiên mã vài kilobase. Ngoài ra, phức hệ phiên mã cũng có thể uốn cong phân tử DNA tạo điều kiện đưa các vùng điều khiển ở xa tiến lại trong không gian. Nhiều vùng khởi động của eukaryote (không phải tất cả) chứa hộp TATA liên kết với Protein bám hộp TATA có chức năng hỗ trợ việc hình thành phức hệ phiên mã của RNA polymerase. Hộp TATA thường nằm khá gần vị trí khởi đầu phiên mã (trong khoảng 50 base).
Trình tự điều hòa vùng khởi động của eukaryote thường liên kết với các protein gọi là nhân tố phiên mã. Những protein này tham gia vào việc tạo thành phức hệ phiên mã. Ví dụ hộp E (trình tự CACGTG), liên kết với nhân tố phiên mã trong họ protein xoắn vòng xoắn kiềm (bHLH) (vd. BMAL1-Clock, cMyc). |
Hai Bà Trưng (? – 5 tháng 3 năm 43) là tên chỉ chung hai chị em Trưng Trắc (徵側) và Trưng Nhị (徵貳), hai người phụ nữ được đánh giá là anh hùng dân tộc của người Việt. Trong sử sách, hai bà được biết đến như là những thủ lĩnh khởi binh chống lại chính quyền đô hộ của Đông Hán, lập ra một quốc gia với kinh đô tại Mê Linh và Trưng Trắc tự phong là Nữ vương. Thời kì của hai Bà xen giữa thời kỳ Bắc thuộc lần 1 và Bắc thuộc lần 2 trong lịch sử Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư coi Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử, với tên gọi Trưng Nữ vương (徵女王).
Xuất thân và tên gọi
Thư Hán
Nguồn sử liệu đầu tiên đề cập đến chị em Hai Bà Trưng là cuốn Hậu Hán Thư viết vào thế kỷ thứ 5 (Công nguyên) bởi học giả Phạm Diệp, cuốn sách nói về lịch sử nhà Hán từ năm 6 đến năm 189 Công nguyên. Các tài liệu cổ của Trung Quốc đề cập đến hai chị em Bà Trưng khá ngắn gọn, được tìm thấy trong hai chương của Hậu Hán Thư mô tả về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà thời kỳ nhà Tây Hán.
Ở quyển 86 của Hậu Hán Thư, phần "Tây Nam di liệt truyện" có viết:
Năm Kiến Vũ thứ 16, thời Hán Quang Vũ Đế (40), hai người phụ nữ Giao Chỉ là chị em Trưng Trắc () và Trưng Nhị () tạo phản, tấn công quận phủ. Trưng Trắc là con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh. Bà ta được gả làm vợ cho người xứ Chu Diên tên Thi Sách (), là kẻ hùng dũng. Thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định () dùng luật pháp để kiềm chế bà ta. Trưng Trắc phẫn nộ, bèn tạo phản. Những tộc trưởng xứ Man ở các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố hưởng ứng, bà ta đã chiếm được 65 thành trì và tự xưng là Nữ vương. Thứ sử và Thái thú quận Giao Chỉ chỉ còn biết cố thủ. Hán Quang Vũ Đế vì vậy đã ra lệnh cho quận Trường Sa, Hợp Phố và Giao Chỉ chuẩn bị xe, thuyền bè, sửa cầu, mở thông lối đi qua khe núi, trữ lương thảo.
Năm thứ 18 (42), Quang Vũ Đế sai Phục Ba tướng quân Mã Viện (), Trung lang tướng Lưu Long () và Lâu thuyền tướng quân Đoàn Chí () dẫn quân Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng, Thương Ngô hơn vạn người đi thảo phạt. Vào mùa hè tháng 4 năm 43, Mã Viện phá Giao Chỉ, trảm Trưng Trắc và Trưng Nhị, những kẻ đồng đảng đầu hàng hoặc giải tán. Tiến đánh bọn Đô Dương () ở Cửu Chân, phá tan và bắt hàng phục. Bắt hơn 300 kẻ cầm đầu dời đi Linh Lăng (). Vùng Lĩnh Biểu () coi như bình định.
Việt sử
Bộ sử cổ nhất của Việt Nam đề cập đến Hai Bà Trưng là Đại Việt sử lược. Theo sách này, thời Việt Nam còn là Giao Chỉ, Trưng Trắc là con gái Lạc tướng ở huyện Mê Linh, lấy chồng là Thi Sách ở huyện Chu Diên.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Hai Bà Trưng vốn họ Lạc, là dòng dõi Lạc tướng ở Mê Linh. Chồng bà Thi Sách cũng là con Lạc tướng, con hai nhà tướng kết hôn với nhau. Khi lên ngôi, Hai Bà mới đổi sang họ Trưng.
Nguồn khác
Truyền thuyết xác nhận quê nội Hai Bà ở làng Hạ Lôi và quê ngoại Hai Bà ở làng Nam Nguyễn (nay thuộc huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội). Mẹ Hai Bà là Man Thiện, còn được ghi với tên gọi Trần Thị Đoan.
Tuy nhiên, theo các sử gia hiện đại, thời đầu Công nguyên, người Việt chưa có họ. Tên Trần Thị Đoan của mẹ Hai Bà chỉ là tên thần phả đặt sau này, khoảng thế kỷ 17, 18. Cả cái tên Man Thiện có nghĩa là người Man tốt có thể do người Hán gọi. Theo một số dẫn chứng biện giải không rõ luận cứ và nguồn gốc cho rằng, tên của Hai Bà có nguồn gốc từ nghề dệt lụa truyền thống của Việt Nam, tương tự như cách đặt tên theo các loài cá của các vua nhà Trần sau này vốn xuất thân từ nghề chài lưới. Xưa kia nuôi tằm, tổ kén tốt gọi là kén chắc, tổ kén kém hơn gọi là kén nhì; trứng ngài tốt gọi là trứng chắc, trứng ngài kém hơn gọi là trứng nhì. Do đó, theo Nguyễn Khắc Thuần, tên Hai Bà vốn rất giản dị là Trứng Chắc và Trứng Nhì, phiên theo tiếng Hán gọi là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Khi chữ Hán chưa được truyền bá hoặc chưa có điều kiện thấm sâu vào nhận thức xã hội thì xu hướng đặt tên người rất giản dị và mộc mạc, thể hiện sự gắn bó với cuộc sống đời thường và xu hướng này còn tiếp tục trong các thế hệ sau. Sau này các sử gia phương Bắc viết chệch tên Hai Bà thành Trắc và Nhị với nghĩa "phản trắc" và "nhị tâm". Tuy nhiên, những luận điểm trên hoàn toàn thiếu nguồn gốc và sự chứng minh một cách khoa học, mà thiên về tự biện giải của tác giả.
Tên của ông Thi Sách, theo Thủy kinh chú của Trung Quốc xác định: chồng bà Trưng Trắc tên là Thi.
Khởi nghĩa
Cuộc nổi dậy của Trưng Trắc, theo Hán thư cùng Việt sử ghi lại, chỉ gói gọn trong lý do vì Thái thú khi ấy là Tô Định dùng biện pháp khắc chế, nên Trưng Trắc cùng phẫn mà nổi dậy. Hán thư không đưa ra lý do Thi Sách bị giết, trong khi Việt sử thì chỉ có Đại Việt sử ký toàn thư ghi lý do này, Đại Việt sử lược trước đó thì không.
Theo một số học giả như Đào Duy Anh, Trần Quốc Vượng..., do chính sách đồng hóa gắt gao và bóc lột hà khắc của nhà Đông Hán đối với người Việt tại Giao Chỉ đương thời, các Lạc tướng người Việt liên kết với nhau để chống lại nhà Hán. Trưng Trắc kết hôn với con trai Lạc tướng ở Chu Diên là Thi Sách, hai nhà cùng có chí hướng chống Hán. Khoảng năm 39-40, nhằm trấn áp người Việt chống lại, Thái thú Tô Định giết Thi Sách.
Trưng Trắc và các Lạc tướng càng căm thù, cùng Trưng Nhị mang quân bản bộ về giữ Hát Giang nay là xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Hà Nội. Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 2 năm 40, Trưng Trắc cùng Trưng Nhị chính thức phát động khởi nghĩa chống lại nhà Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa được sự hưởng ứng của nhiều đội quân và nhân dân các nơi thuộc Âu Lạc và Nam Việt cũ. Quân Hai Bà đánh hãm trị sở Luy Lâu. Tô Định phải chạy về Nam Hải (Trung Quốc).
Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai Bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương, hay còn gọi là Trưng Vương.
Cai trị
Hai Bà Trưng cai trị lãnh thổ vùng Lĩnh Nam của người Việt, tương đương với Bộ Giao Chỉ của nhà Hán trong ba năm. Thời gian cai trị ngắn ngủi và phải toan tính chuẩn bị chống lại cuộc chiến của nhà Hán khiến Hai Bà Trưng không có hoạt động gì đáng kể trong việc xây dựng lãnh thổ mà mình cai quản.
Hành chính
Do thời gian cai trị của Hai Bà Trưng không dài và không còn tài liệu để khôi phục lại hệ thống tổ chức bộ máy thời Hai Bà Trưng. Tuy nhiên, các sử gia căn cứ trên các sử liệu liên quan đến sự cai trị của nhà Hán trước và sau thời Hai Bà Trưng cho rằng, về cơ bản Hai Bà Trưng vẫn duy trì hệ thống quản lý của nhà Hán trước đó, do người Việt nắm giữ. Các quận, huyện do nhà Hán lập ra trên đất Nam Việt cũ.
Ghi chép về Mê Linh trong hai tài liệu cổ nhất của Việt Nam, đều thuộc thời Hậu Lê và cách nhau 44 năm đã mâu thuẫn về kinh đô của Hai Bà:
Dư địa chí của Nguyễn Trãi (năm 1434) chép: Mê Linh là Hát Môn thuộc huyện Phúc Lộc bây giờ… huyện Phúc Lộc là Mê Linh ngày xưa
Đại Việt sử ký toàn thư (năm 1479) chép: Thời Tây Hán trị sở của thái thú (Giao Châu) tại Long Uyên tức Long Biên. Thời Đông Hán tại Mê Linh tức Yên Lãng.
Do đó, ba thế kỷ sau Lê Quý Đôn viết Vân đài loại ngữ (năm 1773) rất lộn xộn, chép Yên Lãng thuộc về ba quận khác nhau cùng tồn tại trong một thời kỳ: Mê Linh nay là Yên Lãng… Phong Khê là đất Yên Lãng… Chu Diên nay là Yên Lãng
Cương mục nhà Nguyễn chép: Mi Linh là Phong Châu… ở địa phận hai huyện Phúc Lộc và Đường Lâm
Do đó đã xuất hiện các tranh cãi về Mê Linh, một số cho rằng Mê Linh ở phía nam sông Hồng và số khác cho là ở phía bắc, ngay gần thành Cổ Loa của Thục Phán. Ở huyện Yên Lãng này cũng có làng Hạ Lôi nhưng không có tên Nôm. Năm 1977 huyện này được đổi tên thành Mê Linh.
Từ năm 1973-1990, nhà nghiên cứu Đinh Văn Nhật sử dụng phương pháp địa lý học lịch sử để nghiên cứu về các địa danh thời Hai Bà Trưng. Ông sau đó kết luận huyện Mê Linh nằm ở phía nam sông Hồng, cụ thể là phía tây sông Đáy của Hà Nội. Ở đây có các địa danh là Cấm Khê, Hạ Lôi, Đền Hát Môn và Miếu Mèn thờ mẹ Hai Bà là Bà Man Thiện. Các bài viết đều đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
Quận Giao Chỉ
Quận Giao Chỉ được xác định vị trí là đất Bắc Bộ Việt Nam và một phần phía tây nam tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) hiện nay (từ sông Uất hay Tây Giang về phía nam), trừ đi những phần đất sau:
Góc miền núi tây bắc ngoài phạm vi thống trị của nhà Hán.
Góc tây nam Ninh Bình thuộc về huyện Vô Công, quận Cửu Chân.
Vùng duyên hải từ thành phố Hải Phòng (huyện An Dương, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo) đến huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình khi đó chưa được bồi đắp thành đất liền (vẫn là biển).
Quận Giao Chỉ gồm có 10 huyện (縣) theo Đào Duy Anh như sau:
Luy Lâu (羸婁 hoặc 羸𨻻 hoặc 𨏩𨻻): hoặc Liên Lâu, tương đương phần lớn tỉnh Bắc Ninh.
Long Biên (龍編): tương đương gồm trung tâm Hà Nội và các huyện Hoài Đức, Thường Tín (Hà Nội), Khoái Châu (Hưng Yên), huyện Thuận Thành, huyện Quế Võ và Yên Phong tỉnh Bắc Ninh trở lên phía bắc, bao gồm cả các tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng và một phần phía tây nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. (quan điểm của Đinh Văn Nhật cho Long Uyên ở Bắc Giang và vùng núi đông bắc, ngăn cách với Cổ Loa (Tây Vu) bởi Lãng Bạc và không có Hà Nội).
Mê Linh (麊泠 hoặc 麋泠): gồm khu vực tây bắc tỉnh Vĩnh Phúc, tây bắc tỉnh Hà Tây cũ và tỉnh Yên Bái. (quan điểm của Đinh Văn Nhật cho rằng Mê Linh không có Vĩnh Phúc (Tây Vu) và thôn Hạ Lôi cùng suối Kim Khê (Cổ Lôi Trang) đều ở Thạch Thất. Mê Linh nằm ở hữu ngạn sông Lô và sông Hồng gồm Phú Thọ, Hòa Bình và vùng Sơn Tây. Đây là trung tâm của nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương với cư dân bản địa là người Mường, có mối quan hệ gần nhất với người Kinh. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng , Mê Linh gốc tiếng Mường là M'linh có nghĩa là "Con chim lớn" theo quan niệm tổ tiên là các loài chim của Mo Mường và sử thi Đẻ đất đẻ nước)
Tây Vu (西于): tương đương tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, phía bắc Hà Tây cũ và Hòa Bình. (quan điểm của Đinh Văn Nhật không có Phú Thọ, Hà Tây, Hòa Bình do trùng lặp với Mê Linh mà có thêm Thái Nguyên, Tuyên Quang đều ở tả ngạn sông Lô và sông Hồng. Trung tâm của Tây Vu là thành Cổ Loa của Thục Phán và nhóm người Tày - Thái chiếm đa số)
Chu Diên (朱鳶): tương đương phía nam tỉnh Hà Tây cũ, huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình và tỉnh Hà Nam (quan điểm của Đinh Văn Nhật là vùng đất giữa sông Hồng và sông Đáy, gồm cả trung tâm Hà Nội và vùng đầm lầy Hưng Yên)
An Định (安定): tương đương miền Hải Dương và Hưng Yên, ở giữa sông Thái Bình và sông Hồng.
Câu Lậu (苟漏 hoặc 笱屚 hoặc 句屚): tương đương tỉnh Nam Định và Ninh Bình, không kể vùng đông nam Nam Định và phía nam Ninh Bình lúc đó vẫn là biển, chưa được bồi đắp
Khúc Dương (曲昜): tương đương huyện Kinh Môn tỉnh Hải Dương, huyện Đông Triều và Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh trải lên phía bắc tới vùng Khâm châu thuộc Quảng Tây, Trung Quốc.
Bắc Đái (北帶): tương đương huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang và huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương.
Kê Từ (稽徐): tương đương huyện Lạng Giang và huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang (quan điểm của Đinh Văn Nhật cho là vùng Hải Phòng, Quảng Ninh, nơi có cửa biển Bạch Đằng)
Quận trị Giao Chỉ lần lượt đặt ở Mê Linh, Luy Lâu và Quảng Tín.
Quận Cửu Chân
Quận Cửu Chân thời Hán được xác định vị trí từ góc tây nam tỉnh Ninh Bình đến tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
Quận trị Cửu Chân được xác định ở huyện Tư Phố. Cửu Chân gồm có bảy huyện như sau:
Vô Thiết (無切): tương đương với Nho Quan, Yên Khánh tỉnh Ninh Bình hiện nay.
Vô Biên (無編): tương đương huyện Vĩnh Lộc, Thạch Thành tỉnh Thanh Hóa.
Tư Phố (胥浦): địa bàn tương đương huyện Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hóa và bắc Diễn Châu tỉnh Nghệ An.
Cư Phong (居風): tương đương phía tây nam tỉnh Thanh Hóa.
Dư Phát (餘發): tương đương các huyện Nga Sơn và Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa.
Đô Lung (都龐): tương đương vùng thượng lưu sông Mã.
Hàm Hoan (咸驩 hoặc 咸懽 hoặc 鹹驩): tương đương Nghệ An và Hà Tĩnh, là huyện lớn nhất ở cực nam Cửu Chân.
Quận Nhật Nam
Vị trí Nhật Nam được xác định là từ Quảng Bình tới địa giới Bình Định, Phú Yên hiện nay.
Nhật Nam gồm có năm huyện như sau:
Tây Quyển (西卷): vùng sông Gianh, bắc Quảng Bình.
Chu Ngô (硃吾): khoảng sông Thạch Hãn, tỉnh Quảng Trị.
Lô Dung (盧容): miền Thừa Thiên, lưu vực sông Hương và sông Bồ.
Ty Ảnh (比景): nam Quảng Bình, khoảng từ sông Nhật Lệ đến sông Bến Hải.
Tượng Lâm (像林): từ đèo Hải Vân đến mũi Đại Lãnh (tỉnh Phú Yên).
Quận Hợp Phố
Quận Hợp Phố gồm năm huyện: Hợp Phố (合浦), Từ Văn (徐聞), Cao Lương (高涼), Lâm Nguyên (臨元), Chu Nhai (朱崖).
Hợp Phố được xác định vị trí là vùng duyên hải vịnh Bắc Bộ tỉnh Quảng Tây và địa cấp thị Trạm Giang tỉnh Quảng Đông.
Quận Thương Ngô
Quận Thương Ngô gồm có 10 huyện: Quảng Tín (廣信), Tạ Mộc (謝沐), Cao Yếu (高要), Phong Dương (封陽), Lâm Hạ (臨賀), Đoan Khê (端谿), Phùng Thừa (馮乘), Phú Xuyên (富川), Lệ Phổ (荔浦), Mãnh Lăng (猛陵).
Thương Ngô thời Hán được xác định vị trí tương đương với khu vực dãy núi Đô Bàng tỉnh Quảng Tây, phía đông núi Đại Dao, địa cấp thị Triệu Khánh tỉnh Quảng Đông, phía tây huyện cấp thị La Định, huyện Giang Vĩnh tỉnh Hồ Nam, phía nam huyện Giang Hoa, huyện Đằng tỉnh Quảng Tây, phía bắc thành phố cấp huyện Tín Nghi tỉnh Quảng Đông.
Quận Uất Lâm
Quận Uất Lâm thời Hán gồm có 12 huyện: Bố Sơn (布山), An Quảng (安廣), Hà Lâm (河林), Quảng Đô (廣都), Trung Lưu (中留), Quế Lâm (桂林), Đàm Trung (譚中), Lâm Trần (臨塵), Định Chu (定周), Lĩnh Phương (領方), Tăng Thực (增食), Ung Kê (雍雞).
Uất Lâm được xác định vị trí là từ các địa cấp thị Nam Ninh, Bách Sắc đến đại bộ phận Liễu Châu, phía bắc Ngọc Lâm, phía đông và phía nam Hà Trì đều thuộc Quảng Tây.
Quận Nam Hải
Quận Nam Hải gồm có sáu huyện: Phiên Ngung (番禺), Trung Túc (中宿), Bác La (博羅), Long Xuyên (龍川), Tứ Hội (四會), Yết Dương (揭陽).
Nam Hải được xác định vị trí bao trùm tỉnh Quảng Đông và phần đất phía đông nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc hiện nay.
Như vậy tổng số huyện thành đương thời chỉ có 54 huyện. Ngô Sĩ Liên dẫn thêm hai huyện mới đặt trong quận Giao Chỉ là Vọng Hải và Phong Khê do Mã Viện mới tách đặt sau thời Hai Bà Trưng, được chép gộp vào danh sách các huyện thuộc Giao Chỉ lúc đó, tổng cộng là 56 huyện thành.
Những mặt khác
Theo Viện Sử học, đội ngũ các cánh quân mới tập hợp của các Lạc hầu, Lạc tướng, thủ lĩnh địa phương chưa có điều kiện tổ chức theo kiểu chính quy thành các đơn vị, quân thứ kiểu hệ thống, cấp bậc quy củ như các triều đại sau này. Thành phần họ gồm bình dân trong kẻ, chạ… gia nô, nô tỳ thuộc quyền quản lý của các thủ lĩnh vùng. Các sử gia nhìn nhận lực lượng mới họp này chưa được tổ chức chặt chẽ nên có những yếu điểm bộc lộ trong cuộc chiến chống Mã Viện sau này.
Sử sách không ghi lại bất cứ hoạt động chính trị nào khác thời kì này. Ngoại trừ Viện Sử học ghi lại một sự kiện duy nhất liên quan tới kinh tế thời Hai Bà Trưng là Trưng vương cho xá thuế trong hai năm cho dân chúng. Luật pháp chưa có văn bản chính thức. Các sử gia xác định luật thời Hai Bà Trưng là một thứ “tập quán pháp”, “luật tục” của nhiều đời trước được khôi phục và sử dụng điều hành xã hội.
Sách Hậu Hán thư của Phạm Diệp dẫn lời tâu báo của Mã Viện lên Hán Quang Vũ Đế rằng luật Việt khác với luật nhà Hán đến hơn 10 điều.
Thất bại
Ngày 30 tháng 1 năm Tân Sửu (41), nhà Hán thấy Trưng Trắc xưng Vương dấy quân đánh lấy các thành ấp, nên hạ lệnh cho các quận Trường Sa, Hợp Phố và Giao Châu sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, thông các núi khe, chứa thóc lương, cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm phó tướng, chỉ huy đạo quân lớn khoảng 2 vạn người, chia làm 2 cánh thủy, bộ sang xâm lược.
Cánh quân bộ tiến vào vùng Đông Bắc Mã Viện tiến theo đường ven biển, san núi làm đường hơn nghìn dặm, đến Lãng Bạc (ở phía tây Tây Nhai của La Thành) đánh nhau với Hai Bà. Quân Nam bấy giờ ô hợp, rất nhiều thủ lĩnh không phục hai vua là đàn bà, lớp tan rã, lớp tự ly khai hoặc đầu hàng quân Hán. Hai Bà thấy thế giặc mạnh lắm, không chống nổi, bèn lui quân về giữ Cấm Khê (sử chép là Kim Khê).
Năm Quý Mão (43), Hai Bà Trưng chống cự lại với quân nhà Hán ở Cấm Khê (nay thuộc huyện Thạch Thất, Hà Nội) thất thế, đều tử trận. Theo truyền thuyết Việt Nam, Hai Bà đã nhảy xuống sông Hát (tức sông Đáy, nay thuộc xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội) tự vẫn để bảo toàn khí tiết. Còn theo Hậu Hán thư, sách sử của Trung Quốc, Hai Bà đã bị quân Mã Viện bắt được và chặt đầu đem về Lạc Dương.
Tướng Đô Dương tiếp tục cầm quân chống lại quân Hán đến cuối năm 43. Mã Viện đuổi theo đánh quân còn sót lại huyện Cư Phong, cuối cùng lực lượng này cũng bị dẹp. Ngoài các cừ súy bị giết, hơn 300 cừ súy người Việt bị bắt và đày sang Linh Lăng (Hồ Nam). Mã Viện thu gom, phá hủy nhiều trống đồng và đúc rồi dựng cột đồng (tương truyền ở trên động Cổ Lâu châu Khâm) làm giới hạn biên giới của nhà Hán, và khắc lên đó dòng chữ thề: "Cột đồng gãy thì Giao Chỉ diệt" (Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt).
Từ đây, nước Việt lại thuộc quyền kiểm soát của nhà Hán, bắt đầu thời Bắc thuộc lần 2. Thời kỳ Hai Bà Trưng chỉ kéo dài được hơn ba năm.
Sau khi Hai Bà Trưng thất bại, chế độ giao quyền cai quản cấp huyện ở Bộ Giao Chỉ cho các Lạc tướng không còn, quyền lực của các Lạc tướng, Lạc hầu bị thủ tiêu. Theo như cách gọi của sử gia Madrolle thì chế độ bảo hộ chấm dứt, bắt đầu chế độ cai trị trực tiếp. Nhà Hán đặt quan lại cai trị đến cấp huyện.
Đánh giá
Sử gia Lê Văn Hưu viết trong Đại Việt sử ký toàn thư:
Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi! Có thể gọi là tự vứt bỏ mình vậy.
Theo sử gia Nguyễn Nghiễm thời Lê trung hưng:
Trưng Vương là dòng dõi bậc thần minh, nhân lòng dân oán hận, nổi giận, khích lệ người cùng chung mối thù. Nghĩa binh đi đến đâu gần xa đều hưởng ứng, 65 thành ngoài miền Ngũ Lĩnh một buổi sớm đều thu phục được, người dân chịu khổ từ lâu, không khác gì đã ra khỏi vực thẳm được thấy mặt trời. Bà quả là bậc anh hùng khí khái hơn người. Tuy rằng quân mới tập hợp, bị tan rã khi đã thành công, cũng làm hả được lòng căm phẫn của thần dân một chút... Khi đất nước bị chìm đắm, thì hầu như lại được khôi phục do một nữ chúa ở Mê Linh. Lúc đó bậc con trai mày râu phải cúi đầu ngoan ngoãn tuân theo không dám làm gì, chẳng đáng thẹn lắm sao?
Vua Tự Đức viết trong Khâm định Việt sử Thông giám cương mục:
Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng những mặt dày thẹn chết lắm!
Hai Bà Trưng và hàng chục, hàng trăm nữ tướng tham gia phong trào kháng Hán, được người Việt Nam hiện đại xem là một biểu tượng đáng tuyên dương và tôn sùng. Theo quan điểm này, việc khởi nghĩa này đã góp phần tạo nên truyền thống anh hùng bất khuất cho giới nữ và cho cả dân tộc Việt Nam. Nguyên lý Mẹ và sắc thái bình quyền trai gái in đậm nét trong nền văn hóa dân tộc, dân gian Việt Nam đến nỗi nhiều học giả cho rằng đấy là điểm vượt trội không còn phải bàn cãi gì nữa của Việt Nam so với Trung Quốc và phương Tây.
Di sản
Các công trình gắn liền với tên tuổi của Hai Bà Trưng
Hiện nay, trên cả nước Việt Nam có 103 nơi thờ Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh ở 9 tỉnh, thành phố như: Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Ninh Bình trong đó riêng huyện Mê Linh có 25 di tích ở 13 xã.
Hai Bà Trưng được coi là anh hùng dân tộc của Việt Nam và được thờ cúng tại nhiều đền thờ, trong đó lớn nhất là Đền Hát Môn thờ Hai Bà Trưng tại xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Hà Nội, Đền Đồng Nhân ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội và Đền Hạ Lôi tại thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, Hà Nội - quê hương của hai bà. Theo ghi nhận của sử gia Ngô Thì Sĩ, từ nhiều thế kỷ trước khi đền thờ Hai Bà được lập ra, vì Hai Bà chết do binh đao nên đền thờ kiêng màu đỏ là màu máu: hương án đều sơn màu đen, không có màu đỏ; người dân địa phương cũng không dám mặc áo đỏ, kể cả người đến viếng thăm nếu mặc áo đỏ phải cởi bỏ để bên ngoài theo lệ cấm.
Ngoài ra, tại tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc) hiện nay vẫn còn miếu thờ Trưng Vương (miếu này đã được kiểm chứng bởi hai nhà nho đi sứ là Nguyễn Thực và Ngô Thì Nhậm) do những thủ lĩnh bị bắt về đất Hán sau khi khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại lập ra để tưởng nhớ về quê hương và cũng là thể hiện tinh thần bất khuất của người Việt thời Hai Bà Trưng.
Các danh xưng của Hai Bà như Trưng Trắc, Trưng Nhị, Trưng Vương, Hai Bà Trưng còn được đặt cho nhiều trường học, đường phố, phường, xã, quận... ở Việt Nam.
Trong văn hóa đại chúng
Các câu chuyện về Hai Bà Trưng, Bà Triệu, và các nữ tướng khác được một số sử gia trích dẫn để làm bằng chứng cho luận điểm rằng xã hội Việt Nam trước khi bị Hán hóa là một xã hội mẫu hệ (hay còn gọi là chế độ mẫu hệ), trong đó phụ nữ có thể giữ vai trò lãnh đạo mà không gặp trở ngại.
Nhiều tác phẩm, sách, kịch, nhạc... viết hoặc dựa vào Hai Bà làm nhân vật chính. Vở cải lương Tiếng trống Mê Linh về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà là một vở cải lương kinh điển tại Việt Nam.
Đại Nam quốc sử diễn ca có đoạn kể về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã trở thành quen thuộc đối với người Việt:
Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn Tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành
Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta
Ba thu gánh vác sơn hà
Một là báo phục hai là Bá Vương
Uy danh động tới Bắc Phương
Hán sai Mã Viện lên đường tấn công
Hồ Tây đua sức vẫy vùng
Nữ nhi địch với anh hùng được sao!
Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo
Hai Bà thất thế cùng liều với sông!
Trước là nghĩa, sau là trung
Kể trong lịch sử anh hùng ai hơn.
Bài hát Hồn tử sĩ có nguyên bản là Hát Giang Trường Hận, gợi nhớ đến công ơn và sự hy sinh của Hai Bà Trưng.
Sự kiện
Hàng năm, vào ngày 6 tháng 2 âm lịch, ngày giỗ hay lễ hội tưởng nhớ Hai Bà được tổ chức là ngày lễ chính thức của Việt Nam Cộng hòa từ năm 1955 đến 1975 có diễu hành. Ngày này cũng là Ngày Phụ nữ Việt Nam của miền Nam Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Từ năm 1976 trở đi, sau khi hai miền thống nhất thì ngày lễ Hai Bà Trưng không còn là ngày lễ ở Việt Nam nữa.
Về sau, về truyền thuyết Hai Bà Trưng đã được lan rộng khắp người dân Việt Nam nhiều thế hệ sau này, và hình tượng của 2 bà tiếp tục được đưa vào những trò chơi dân gian, truyện tranh và tác phẩm thơ văn.
Tướng lĩnh của Hai Bà Trưng
Theo một số nguồn dã sử, cuộc khởi nghĩa Trưng Vương có đến hơn 70 tướng lĩnh, trong đó có nhiều thủ lĩnh các nghĩa quân địa phương, hiện còn nhiều đền thờ lập Thành hoàng làng ở miền Bắc Việt Nam và miền Nam Trung Quốc. Đặc biệt, trong số này có nhiều nữ tướng lĩnh.
Thánh Thiên – Nữ tướng anh hùng: Khởi nghĩa ở Yên Dũng, Bắc Đái (nay thuộc Bắc Giang). Tài kiêm văn võ, được Trưng Vương phong làm Thánh Thiên công chúa, giữ chức Bình Ngô đại tướng quân, thống lĩnh binh mã trấn thủ vùng Nam Hải (Hải Nam). Hiện có đền thờ ở Ngọc Lâm, Yên Dũng, Bắc Ninh (Việt Nam) và ở cả hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc.
Lê Chân – Nữ tướng miền biển: Khởi nghĩa ở An Biên, Hải Phòng, được Trưng Vương phong làm Thánh Chân công chúa, giữ chức Trấn Đông đại tướng quân, thống lĩnh đạo quân Nam Hải. Hiện có đền Nghè ở An Biên, Hải Phòng thờ bà.
Vũ Thị Thục: Khởi nghĩa ở Tiên La (Thái Bình), được Trưng Vương phong làm Bát Nạn đại tướng, Uy Viễn đại tướng quân, Trinh Thục công chúa. Hiện có đền thờ ở Phượng Lâu (Phù Ninh, Phú Thọ) và Tiên La (Hưng Hà, Thái Bình).
Vương Thị Tiên: Được Trưng Vương phong làm Ngọc Quang công chúa, được thờ ở đền Sầy và miếu thờ ở xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Tương truyền, bà có công giúp Hai Bà Trưng đánh giặc và gieo mình tự vẫn tại xã Hữu Bị, huyện Mỹ Lộc, phủ Thiên Trường, Nam Định. Sau này đến đời vua Lý Thái Tông có năm hạn hán lớn, nhà vua lập đàn cầu mưa, bà còn hiển linh giúp dân chống hạn. Nhà vua giáng chỉ cho dân địa phương thờ phụng theo nghi lễ đầy đủ hơn và tặng thêm hai chữ trong duệ hiệu, thành Ngọc Quang Thiên Hương công chúa.
Nàng Nội – Nữ tướng vùng Bạch Hạc: Khởi nghĩa ở xã Bạch Hạc (thành phố Việt Trì, Phú Thọ ngày nay), được Trưng Vương phong làm Nhập Nội Bạch Hạc Thủy công chúa. Hiện thành phố Việt Trì có đền thờ bà.
Lê Thị Hoa – Nữ tướng anh hùng: Khởi nghĩa ở Nga Sơn (Thanh Hóa), được Trưng Vương phong làm Nga Sơn công chúa, giữ chức Bình Nam đại tướng quân, phó thống lĩnh đạo binh Cửu Chân. Hiện có đền thờ ở Nga Sơn.
Hồ Đề – Phó nguyên soái: Khởi nghĩa ở động Lão Mai (Thái Nguyên), được Trưng Vương phong làm Đề Nương công chúa, giữ chức Phó nguyên soái, Trấn Viễn đại tướng quân. Đình Đông Cao, Yên Lập (Phú Thọ) thờ Hồ Đề.
Xuân Nương, chồng là Thi Bằng – em trai Thi Sách, trưởng quản quân cơ: Khởi nghĩa ở Tam Nông (Phú Thọ), được Trưng Vương phong làm Đông Cung công chúa, giữ chức Nhập Nội trưởng quản quân cơ nội các. Hiện có đền thờ ở Hưng Nha (Tam Nông), Phú Thọ.
Nàng Quỳnh và Nàng Quế – Tiên Phong phó tướng: Khởi nghĩa ở châu Đại Man (Tuyên Quang), được Trưng Vương phong làm Nghi Hòa công chúa, giữ chức Hổ Oai đại tướng quân, thống lĩnh đạo quân Nhật Nam trấn thủ vùng bắc Nam Hải. Hiện ở Tuyên Quang còn miếu thờ hai vị nữ anh hùng.
Trương Tử Nương là tướng Đô Đốc thủy quân của Hai Bà Trưng. Trong một trận giao tranh với quân Mã Viện, Trương Tử Nương đã hy sinh anh dũng tại cửa biển Thần Phù thuộc tỉnh Ninh Bình. Hai Bà Trưng đã sắc phong nàng là “Trinh Thục Đoan Trang Anh Túc Thần Nữ” và cho lập đền thờ ở quê nhà gọi là đình Bà Tía, thôn Vĩnh Ninh, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Đàm Ngọc Nga – Tiền Đạo tả tướng: Khởi nghĩa ở Thanh Thủy, Thanh Sơn, Phú Thọ, được Trưng Vương phong làm Nguyệt Điện Tế Thế công chúa, giữ chức Tiền Đạo tả tướng quân, phó thống lĩnh đạo binh Nam Hải. Hiện có đền thờ ở Khúc Giang (nay thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc).
Trần Thị Phương Châu: Tuẫn tiết ở Khúc Giang (nay thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc) năm 39 Công nguyên, được Trưng Vương phong làm Nam Hải công chúa. Hiện có đền thờ ở Khúc Giang. Sử cũ có chép vào năm 1288, vua Trần Nhân Tông đã sai Đại thần Đoàn Nhữ Hài qua Khúc Giang trùng tu đền thờ bà.
Đinh Bạch Nương và Đinh Tĩnh Nương: Quê ở động Hoa Lư (Ninh Bình), theo Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, được thờ ở đình Đông Ba thuộc thôn Đông Ba, xã Thượng Cát, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
Thiều Hoa – Tiên Phong nữ tướng: Khởi nghĩa ở Tam Thanh, Phú Thọ, được Trưng Vương phong làm Đông Cung công chúa, giữ chức Tiên Phong hữu tướng. Hiện ở xã Hiền Quan, Tam Nông, Phú Thọ có miếu thờ bà.
Quách A – Tiên Phong tả tướng: Khởi nghĩa ở Bạch Hạc, Phú Thọ, được Trưng Vương phong làm Khâu Ni công chúa, giữ chức Tiên Phong tả tướng, tổng trấn Luy Lâu. Hiện có đền thờ ở trang Nhật Chiêu (Phú Thọ).
Vĩnh Hoa – Nội Thị tướng quân: Khởi nghĩa ở Tiên Nha (Phú Thọ), được Trưng Vương phong làm Vĩnh Hoa công chúa, giữ chức Nội Thị tướng quân. Bà có trận đánh thần kỳ dẹp tan quân của đại tướng nhà Hán là Ngô Hán ở các vùng Độ Khẩu (nay thuộc Vân Nam), Khúc Giang (nay thuộc Quảng Đông) và đảo Hải Nam của Trung Quốc ngày nay. Đình Nghênh Tiên, xã Nguyệt Đức, huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc thờ Vĩnh Huy.
Lê Ngọc Trinh – Đại tướng: Khởi nghĩa ở Lũng Ngòi, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc, được Trưng Vương phong làm Ngọc Phượng công chúa, giữ chức Chinh Thảo đại tướng quân, phó thống lĩnh đạo quân Quế Lâm. Hiện có miếu thờ ở Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc.
Lê Thị Lan – Tướng quân: Khởi nghĩa ở Đường Lâm, Sơn Tây, được Trưng Vương phong làm Nhu Mẫn công chúa, giữ chức Trấn Tây tướng quân, phó thống lĩnh đạo binh Hán Trung. Hiện ở Hạ Hòa, Vĩnh Phúc có miếu thờ bà.
Phật Nguyệt – Tả tướng thủy quân: Khởi nghĩa ở Thanh Ba, Phú Thọ, được Trưng Vương phong làm Phật Nguyệt công chúa, giữ chức Thao Giang Thượng tả tướng thủy quân, Chinh Bắc đại tướng quân, tổng trấn khu hồ Động Đình - Trường Sa. Bà hình như không được ghi vào sử Việt Nam mà lại được ghi vào sử Trung Quốc. Bà có trận đánh kinh hồn chiến thắng Mã Viện, Lưu Long và Đoàn Chí ở hồ Động Đình (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc). Hiện di tích về bà còn rất nhiều: tại chùa Kiến Quốc thuộc thành phố Trường Sa (thủ phủ tỉnh Hồ Nam), tại ngôi chùa trên núi Thiên Đài trong hệ thống dãy núi Ngũ Lĩnh. Bà là nữ tướng gây kinh hoàng cho nhà Hán nhất.
Trần Thiếu Lan: Hiện có miếu thờ tại cửa Thẩm Giang chảy vào hồ Động Đình (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc). Cả ngàn năm qua, mỗi lần sứ thần của Việt Nam đi ngang qua đều vào tế lễ bà. Hiện nay cũng còn một ngôi mộ mang tên bà.
Phương Dung: Khởi nghĩa ở Lang Tài (Bắc Ninh), là người thông minh mưu lược, được Trưng Vương phong làm Đăng Châu công chúa, giữ chức Trấn Nam đại tướng quân, thống lĩnh đạo binh Giao Chỉ. Thời kỳ bắc tiến, bà giữ chức quân sư, Khi thiết lập triều đình Lĩnh Nam, vua Trưng phong cho Phương Dung làm tể tướng. Bà là vợ của Đào Kỳ (Bắc bình vương).
Trần Năng - Trưởng lĩnh trung quân: Khởi nghĩa ở Thượng Hồng (Hải Dương), được Trưng Vương phong làm Hoàng công chúa, Vũ Kỵ đại tướng quân, giữ chức Trưởng lĩnh trung quân. Hiện ở Yên Lãng, Vĩnh Phúc có đền thờ bà.
Trần Quốc hay nàng Quốc – Trung Dũng đại tướng quân: Khởi nghĩa ở Gia Lâm, Hà Nội, được Trưng Vương phong làm Gia Hưng công chúa, Trung Dũng đại tướng quân, giữ chức Đô đốc, trưởng quản thủy quân trấn bắc Nam Hải. Bà có trận thủy chiến lẫy lừng ở quận Uất Lâm (nay thuộc tỉnh Quảng Tây). Hiện ở Hoàng Xá, Kiêu Kỵ, Gia Lâm (Việt Nam) và cả dọc bờ biển các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam của Trung Quốc có nhiều đền thờ nàng Quốc. Dân ở các vùng này đã tôn bà là Giao Long tiên nữ giáng trần vì bà rất hiển linh.
Tam Nương – Tả Đạo tướng quân: Ba chị em Đạm Nương, Hồng Nương và Thanh Nương. Trưng Vương phong Hồng Nương làm An Bình công chúa, Thanh Nương làm Bình Xuyên công chúa, Đạm Nương làm Quất Lưu công chúa, giao cho chức Kỵ binh Lĩnh Nam. Đình Quất Lưu, Vĩnh Phúc thờ Tam Nương.
Quý Lan – Nội Thị tướng quân: Khởi nghĩa ở Lũng Động, Chí Linh (Hải Dương), được Trưng Vương phong làm An Bình công chúa, giữ chức Nội Thị tướng quân (Lễ bộ Thượng thư). Hiện ở Liễn Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc có đền thờ Quý Lan.
Bà Chúa Bầu: Khởi nghĩa ở vùng Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Hiện ở Lập Thạch, Sơn Dương có đền thờ tưởng nhớ công lao của bà.
Sa Giang: quê Trường Sa, người Hán, sang giúp Lĩnh Nam, được Trưng Vương phong làm Lĩnh Nam công chúa. Bà là một nhân vật lịch sử. Hiện ở ngoại ô huyện Phong Đô tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) có đền thờ bà.
Phùng Thị Chính: Tuấn Xuyên, Vạn Thắng, Ba Vì, được Trưng Vương phong làm Trưởng nội thị tướng quân, nổi tiếng với trận đánh ở Lãng Bạc, sinh con giữa trận chiến, một tay ôm con, một tay giết giặc. Có đền thờ bà tại thôn Tuấn Xuyên, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, TP. Hà Nội.
Ngoài ra còn có các thủ lĩnh người Tày, Nùng và Choang (Quảng Tây) lãnh đạo nhân dân tham gia cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.
Nam tướng
Đỗ Năng Tế: Thành hoàng làng Khánh Hiệp (nay là Mỹ Giang), xã Tam Hiệp, huyện Phúc Thọ, Hà Nội là thầy dạy võ và tướng của Hai Bà Trưng. Lăng mộ ông, Đình làng và Chùa Miếu thờ hai con ông đều là Di tích Quốc gia xếp hạng năm 1989.
Hoàng Đạo: Thành hoàng làng Hạ Hiệp, xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ, Hà Nội; xếp hạng Di tích quốc gia Đặc biệt 2020. Cả Tam Hiệp và Liên Hiệp xưa đều gọi chung là Kẻ Hiệp, nằm bên sông Hát, có lịch sử từ trước công nguyên.
Ba anh em họ Trương: Trương Tế, Trương Lại, Trương Độ ở động Thiểm Khê (nay là làng Thiểm Khê, xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng) đã lặn suối trèo non, giong thuyền về Mê Linh tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Hiện ba anh em họ Trương được thờ ở di tích Miếu Ba Vua, xã Liên Khê.
Đô Thiên: người Hán, ứng nghĩa theo Lĩnh Nam, được Trưng Vương phong làm Động Đình công, giữ chức Trung Nghĩa đại tướng quân, thống lĩnh đạo quân Hán Trung, tổng trấn Trường Sa. Hiện vùng Lưỡng Quảng của Trung Quốc có rất nhiều miếu, đền thờ ông.
Ba anh em họ Đào: Đào Chiêu Hiển, Đào Đô Thống và Đào Tam Lang, quê Thanh Hóa, là tướng của Hai Bà Trưng, Đào tam lang là em út, có tên là Đào Kỳ, rất giỏi võ và mưu lược, được phong là Bắc bình vương: Hi sinh trong trận Bồ Lăng, đánh với quân Hán tại khu vực nay là ngã ba sông Trường Giang và Ô Giang, thuộc địa phận thành phố Trùng Khánh, Trung Quốc. Hiện ở đây có miếu thờ. Để tưởng nhớ công ơn của ba anh em họ Đào, nhân dân Đa Tốn đã lập miếu thờ (Đào Đô Thống thờ ở miếu Sén Tóc, thôn Ngọc Động, Đào Chiêu Hiển thờ ở Nghè Ông Hai, thôn Lê Xá và Đào Tam Lang thờ ở nghè cũ sau chuyển về nghè Lê Xá). Về sau, từ thế kỷ XVII trở đi, dân làng Ngọc Động và Lê Xá đã thờ ba ông làm thành hoàng làng.
Nguyễn Tam Trinh, quê ở huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cũng có tài liệu nói ông quê ở Long Biên, không rõ họ Nguyễn hay họ Triệu (theo thần tích ông mang họ Triệu nhưng nhiều người làng Mai Động nói ông họ Nguyễn). Ông là đô vật giỏi, lại có ít vốn chữ nghĩa. Từ quê nhà, ông ngao du xứ Bắc và dừng chân ở hương Cổ Mai (nay là khu vực làng Mai Động và phụ cận). Tại đây, ông đã dạy văn, dạy võ cho người dân địa phương, lại truyền nghề làm đậu phụ cho dân làng. Ông được tôn làm Châu trưởng. Khi Hai Bà Trưng truyền hịch kêu gọi dân chúng đứng lên cứu nước, diệt Thái thú Tô Định của nhà Đông Hán, ông đã tập hợp được 3000 dân binh (có tài liệu nói hơn 5000 người) tham gia khởi nghĩa. Ông được giao tiến đánh Luy Lâu (nay thuộc Thuận Thành, Bắc Ninh) và cùng các cánh quân khác đã hạ được thành. Khi Hai Bà xưng vua, ông được phong tước hầu và giữ chức phụ chính. Năm 42, vua Đông Hán sai Mã Viện kéo đại quân sang đánh, mùa hè năm 43 đã đến Cổ Loa. Trước thế giặc mạnh, quân của Tam Trinh đã lui về Mai Động đào hào đắp lũy chống giặc. Không lâu sau khi Hai Bà Trưng tuẫn tiết ở Hát Môn, quân Tam Trinh cũng thua trận. Tam Trinh ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Than ôi ! Cơ đồ vua Trưng đã mất, nên bầy tôi cũng chỉ có về trời !“. Nói xong, ông bèn cưỡi ngựa lên núi rồi hoá. Theo thần tích ở Mai Động, ông mất vào đêm ngày 10 tháng 2 năm Quý Mão (43). |
Trưng Trắc (chữ Hán: 徵側, ? - 5 tháng 3 năm 43) là nữ vương của vương quốc Lĩnh Nam và anh hùng dân tộc của người Việt, người đứng đầu cuộc khởi nghĩa chống lại sự đô hộ của nhà Đông Hán trong lịch sử Việt Nam, lập ra một chính quyền riêng của người Việt trong 3 năm với trung ương tại Mê Linh. Vì vậy, bà là nữ quân chủ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam cũng như nữ vương đầu tiên của chế độ phong kiến Việt Nam (Lý Chiêu Hoàng là vị nữ quân chủ thứ hai và là nữ hoàng duy nhất). Tuy về sau cuộc khởi nghĩa bị quân Hán dưới sự chỉ huy của Mã Viện đánh bại, nhưng trong văn hóa người Việt, khởi nghĩa tượng trưng cho sự quật khởi, phục hưng tinh thần quốc gia. Sử gia Lê Văn Hưu đã nhận xét: "Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng. Việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, đủ biết tình thế đất Việt ta có thể dựng được nghiệp bá vương".
Danh tính và thân thế
Tài liệu sử học đầu tiên được cho là đã ghi nhận danh tính bà lại là sách Hậu Hán thư của Phạm Diệp, được viết vào khoảng năm 432 đến 445. Theo đó, nội dung được cho là ghi nhận tên bà là Trưng Trắc (徵側) và em gái là Trưng Nhị được viết như sau:
Năm [Kiến Vũ] thứ 16, người con gái Giao Chỉ là Trưng Trắc và em gái Trưng Nhị làm phản, tấn công quận thành.
Một tài liệu cổ sử khác của Trung Quốc là Thủy kinh chú do Lịch Đạo Nguyên viết vào khoảng năm 515 đến 524, dẫn theo một tài liệu khác là "Giao Châu ngoại vực ký", cũng chép tên bà là Trung Trắc. Sách này cũng cho biết thêm bà là con gái của Lạc tướng Mê Linh và có chồng là con trai của Lạc tướng Chu Diên.
Tài liệu chính sử Việt Nam đầu tiên là Đại Việt sử ký toàn thư chép bà vốn họ Lạc, là dòng dõi Lạc tướng ở Mê Linh, là vợ của Thi Sách, dòng dõi Lạc tướng ở Chu Diên.. Thông tin này có lẽ được ghi theo Hậu Hán thư, bản đã được Thái tử Lý Hiền bổ sung.
Tuy nhiên, theo các sử gia hiện đại, thời đầu công nguyên, người Việt chưa có họ. Còn tên của hai Bà, có nguồn gốc từ nghề dệt lụa truyền thống của Việt Nam, tương tự như cách đặt tên theo các loài cá của các vua nhà Trần sau này vốn xuất thân từ nghề chài lưới. Xưa kia nuôi tằm, tổ kén tốt gọi là kén chắc, tổ kén kém hơn gọi là kén nhì; trứng ngài tốt gọi là trứng chắc, trứng ngài kém hơn gọi là trứng nhì. Do đó, theo Nguyễn Khắc Thuần, tên hai bà vốn rất giản dị là Trứng Chắc và Trứng Nhì, phiên theo tiếng Hán gọi là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Khi chữ Hán chưa được truyền bá hoặc chưa có điều kiện thấm sâu vào nhận thức xã hội thì xu hướng đặt tên người rất giản dị và mộc mạc, thể hiện sự gắn bó với cuộc sống đời thường và xu hướng này còn tiếp tục trong các thế hệ sau. Sau này các sử gia phương Bắc viết chệch tên hai bà thành Trắc và Nhị với nghĩa “phản trắc” và “nhị tâm”.
Khởi nghĩa
Sách Thủy kinh chú dẫn theo "Giao Châu ngoại vực ký", mô tả bà là "người có đảm dũng".
Dưới sự cai trị tàn bạo và chính sách Hán hóa gắt gao của nhà Đông Hán, người Việt ở Giao Chỉ đều phẫn nộ và có ý định chống lại. Vợ chồng bà Trắc và ông Thi Sách trong số những thủ lĩnh người Việt đó. Thái thú Tô Định nhà Đông Hán bèn bắt giết ông Thi Sách để trấn áp tinh thần người Việt. Trưng Trắc cùng Trưng Nhị mang quân bản bộ về giữ Hát Môn.
Bà kết hôn với ông Thi cũng là dòng dõi Lạc tướng ở Chu Diên
Tháng 3, năm Canh Tý (40), thù Tô Định giết chồng mình, cộng thêm sự căm phẫn bị đô hộ, bà Trắc cùng với em gái là bà Nhị tập hợp lực lượng ủng hộ từ các nơi cùng phát động khởi nghĩa chống nhà Hán.
Đề cập đến sự kiện này, sách Hậu Hán thư chép:
Thái thú Giao Chỉ là Tô Định dùng luật hà khắc. Trắc phẫn nộ vì vậy nổi dậy. Sau đó, được các tộc Man ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, [thị] chiếm 65 thành, tự xưng là vương.
Sách Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ ghi lại lời chép trong dã sử cho biết, khi bà Trắc xuất quân vẫn chưa hết tang chồng, bà trang điểm rất đẹp. Các tướng hỏi vì sao, bà đáp rằng:Việc binh không thể ảnh hưởng. Nếu giữ lễ và làm xấu dung nhan thì nhuệ khí tự nhiên suy kém. Cho nên ta mặc đẹp để mạnh thêm nhiều màu sắc của quân, khiến cho bọn giặc trông thấy động lòng, lợi là chí tranh đấu, thì dễ giành phần thắng.Mọi người nghe đều thán phục là không bằng bà.
Tương truyền, Hai Bà Trưng đã đọc lời thề trước khi xuất binh:
"Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kêu oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này"
(Thiên Nam ngữ lục)
Cuộc khởi nghĩa được sự hưởng ứng của nhiều đội quân và nhân dân các nơi thuộc Âu Lạc và Nam Việt cũPhan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sách đã dẫn, tr 174. Quân Hai Bà đánh hãm trị sở Luy Lâu. Thái thú Tô Định bỏ chạy, quân khởi nghĩa giành được hơn 50 thành.
Khởi nghĩa thắng lợi, bà đổi sang họ Trưng và xưng vương, sử gọi là Trưng vương. Bà cùng em là Trưng Nhị cai trị lãnh thổ vùng Lĩnh Nam của người Việt tương đương với bộ Giao Chỉ của nhà Hán trong 3 năm.
Chống Hán thất bại
Ngày 30 tháng 1 năm Tân Sửu (41), nhà Hán thấy bà xưng vương dấy quân đánh lấy các thành ấp, nên hạ lệnh cho các quận Trường Sa, Hợp Phố và Giao Châu sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, thông các núi khe, chứa thóc lương, cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm phó tướng sang xâm lược.
Cánh quân bộ tiến vào vùng Đông Bắc Mã Viện tiến theo đường ven biển, san núi làm đường hơn nghìn dặm, đến Lãng Bạc (ở phía tây Tây Nhai của La Thành) đánh nhau với quân Hai Bà. Quân Nam bấy giờ ô hợp nên nhanh chóng tan rã. Hai bà thấy thế quân Hán mạnh, không chống nổi, bèn lui quân về giữ Cấm Khê (sử chép là Kim Khê).
Năm 43, Trưng Vương cùng Trưng Nhị chống cự với quân nhà Hán ở Cấm Khê. Quân Hai Bà thế cô không địch nổi quân Hán mạnh hơn nên bị thua. Trưng Vương và Trưng Nhị đều mất tại đây. Theo tục truyền, hai bà đã nhảy xuống sông Hát (Hát Môn, Hà Tây cũ) tự vẫn để bảo toàn khí tiết. Theo Hậu Hán thư thì hai bà đã bị Mã Viện giếtPhan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sách đã dẫn, tr 182. Sách Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ còn dẫn sách Biệt Lục chép rằng: Hai Bà thua trận, lên núi Hy Sơn rồi không biết đi đâu.
Bộ tướng của Trưng Vương là Đô Dương còn chống quân Hán thêm một thời gian nữa rồi thất bại.
Trưng Vương khởi nghĩa và ở ngôi được 3 năm.
Đánh giá Xem chi tiết: Hai Bà Trưng#Đánh giá |
Trưng Nhị (chữ Hán: 徵貳; ? - 5 tháng 3 năm 43) là nữ phó vương vương quốc Lĩnh Nam và là nữ thủ lĩnh chống sự đô hộ của nhà Đông Hán thời Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam. Bà cùng chị là nữ vương Trưng Trắc đã lãnh đạo người Việt đánh đuổi thái thú Tô Định nhà Đông Hán.
Sau khi cuộc khởi nghĩa này bị quân Đông Hán dưới sự chỉ huy của Mã Viện đánh bại, theo sử Trung Quốc, hai bà đã bị chặt đầu đem về Lạc Dương. Còn theo sử Việt Nam thì vì không muốn chịu khuất phục, Hai Bà Trưng đã gieo mình xuống dòng sông Hát Giang tuẫn tiết.
Nguồn gốc, tên gọi
Bộ sử cổ nhất của Việt Nam đề cập đến Trưng Nhị là Đại Việt sử lược. Theo sách này, Trưng Nhị là em của Trưng Trắc, con gái Lạc tướng ở Mê Linh.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trưng Nhị vốn họ Lạc, là dòng dõi Lạc tướng ở Mê Linh. Truyền thuyết xác nhận quê nội Hai Bà ở làng Hạ Lôi và quê ngoại hai Bà ở làng Nam Nguyễn thuộc Ba Vì, Hà Nội. Mẹ Hai Bà là Man Thiện, được thần phả ghi tên là Trần Thị Đoan.
Tuy nhiên, theo các sử gia hiện đại, thời đầu công nguyên, người Việt chưa có họ. Tên của bà, có nguồn gốc từ nghê dệt lụa truyền thống của Việt Nam. Xưa kia nuôi tằm, tổ kén tốt gọi là kén chắc, tổ kén kém hơn gọi là kén nhì; trứng ngài tốt gọi là trứng chắc, trứng ngài kém hơn gọi là trứng nhì. Do đó, theo các sử gia tên Trưng Nhị vốn là Trứng Nhì, phiên theo tiếng Hán gọi là Trưng Nhị. Khi chữ Hán chưa được truyền bá hoặc chưa có điều kiện thấm sâu vào nhận thức xã hội thì xu hướng đặt tên người rất giản dị và mộc mạc, thể hiện sự gắn bó với cuộc sống đời thường và xu hướng này còn tiếp tục trong các thế hệ sau.
Sự nghiệp
Theo Đại Việt sử lược, Trưng Nhị có cá tính mạnh mẽ như Trưng Trắc, không chịu ràng buộc theo pháp luật mà Tô Định áp đặt.
Các Lạc tướng Mê Linh và Chu Diên có ý chống lại sự cai trị tàn bạo của Thái thú Tô Định. Tô Định bèn bắt giết anh rể Trưng Nhị là Thi Sách để trấn áp tinh thần người Việt. Trưng Nhị cùng Trưng Trắc mang quân bản bộ về giữ Hát Môn.
Tháng 3, năm 40, Trưng Nhị theo chị là Trưng Trắc tập hợp các lực lượng ủng hộ nổi dậy đánh hãm trị sở ở Luy Lâu (thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay). Thái thú Tô Định bỏ chạy. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Trưng Vương. Thần phả cho biết Trưng Nhị được phong làm Phó Vương.
Sách Việt Nam sử lược ghi nhận Trưng Nhị cùng Trưng Trắc đều xưng vương. Các bộ sử ra đời trước đó như Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử lược, Khâm định Việt sử thông giám cương mục không xác nhận điều này.
Ngày 30 tháng 1 năm Tân Sửu (41), Hán Quang Vũ Đế thấy hai bà dấy quân đánh lấy các thành ấp, nên hạ lệnh cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm phó tướng sang đánh.
Năm 42, Trưng Nhị cùng chị cầm quân đụng độ với quân Hán ở Lãng Bạc. Do thế quân Hán mạnh hơn, bà cùng Trưng Trắc không chống nổi, bèn lui quân về giữ Cấm Khê (sử chép là Kim Khê).
Năm 43, Trưng Nhị cùng Trưng Trắc chống cự với quân nhà Hán ở Cấm Khê. Quân Hai Bà thế cô không địch nổi quân Hán mạnh hơn nên bị thua. Trưng Trắc và Trưng Nhị đều mất tại đây. Hai bà đã nhảy xuống sông Hát (Hát Môn, Hà Tây cũ) tự vẫn để bảo toàn khí tiết. Tuy nhiên, theo Hậu Hán Thư, một cuốn sử của Trung Quốc, truyện Mã Viện chép rằng hai bà đã bị Mã Viện giết. Trong khi đó, truyện Lưu Long lại cho rằng Trưng Nhị bị Lưu Long bắt rồi bị giết. Thế nhưng, sách Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ còn dẫn sách Biệt Lục chép rằng: Hai Bà thua trận, lên núi Hy Sơn rồi không biết đi đâu.
Cuộc đời hoạt động của Trưng Nhị trước sau gắn bó ở bên cạnh với Trưng Trắc, từ khi khởi nghĩa đến khi chống Hán thất bại và cái chết. Trong khởi nghĩa, bà là tướng đắc lực bên cạnh Trưng Vương. Tuy nhiên, sử sách không nhắc đến gia đình riêng tư của bà như Trưng Trắc.
Tưởng nhớ
Do cuộc đời sự nghiệp của Trưng Nhị luôn gắn liền với Trưng Trắc, sử sách khi nhắc đến Trưng Trắc thường đi cùng với Trưng Nhị, hoặc gọi chung là Hai Bà Trưng.
Hàng năm, vào ngày 6 tháng 3 âm lịch, là ngày giỗ hay là lễ hội tưởng nhớ Hai bà (cũng là Ngày Phụ nữ Việt Nam tại miền Nam trước kia) được tổ chức tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975 và hiện nay tại nhiều nơi trong nước Việt Nam cũng như cộng đồng người Việt tại nước ngoài. |
Trong mật mã học – một ngành toán học ứng dụng cho công nghệ thông tin, mã hóa là phương pháp để biến thông tin (phim ảnh, văn bản, hình ảnh...) từ định dạng bình thường sang dạng thông tin không thể hiểu được nếu không có phương tiện giải mã.
Giải mã là phương pháp để đưa từ dạng thông tin đã được mã hóa về dạng thông tin ban đầu, quá trình ngược của mã hóa.
Một hệ thống mã hóa bao gồm các thành phần:
thông tin trước khi mã hóa, ký hiệu là P (Plaintext).
thông tin sau khi mã hóa, ký hiệu là C (Ciphertext).
chìa khóa, ký hiệu là K (Key).
phương pháp mã hóa/giải mã, ký hiệu là E/C (Encryption/Decryption).
Quá trình mã hóa được tiến hành bằng cách áp dụng hàm toán học E lên thông tin P, vốn được biểu diễn dưới dạng số, để trở thành thông tin đã mã hóa D
Quá trình giải mã được tiến hành ngược lại: áp dụng hàm D lên thông tin C để được thông tin đã giải mã P
Các hệ thống mã hóa
Có hệ thống mã hóa đối xứng và hệ thống mã hóa bất đối xứng. Hai loại mã khóa này khác nhau ở số lượng khóa. Mã hóa đối xứng sử dụng cùng một khóa để mã hóa/giải mã. Trong khi đó, mã hóa bất đối xứng sử dụng hai khóa khác nhau để mã hóa và giải mã thông tin. Mỗi hệ thống mã hóa có ưu nhược điểm riêng. Mã hóa đối xứng xử lý nhanh nhưng độ an toàn không cao. Mã hóa bất đối xứng xử lý chậm hơn, nhưng độ an toàn và tính thuân tiện trong quản lý khóa cao. Trong các ứng dụng mã hóa hiện tại, người ta thường kết hợp các ưu điểm của cả hai loại mã hóa này.
Ứng dụng
Mã hóa có vai trò rất quan trọng, đặc biệt là trong giao dịch điện tử bằng các loại tiền mã hóa như Bitcoin chẳng hạn. Nó giúp đảm bảo bí mật, toàn vẹn của thông tin, khi thông tin đó được truyền trên mạng. Mã hóa cũng là nền tảng của kĩ thuật chữ ký điện tử, hệ thống PKI...
Phân loại
Các loại mã hóa SHA:
SHA-64
SHA-128
SHA-256
SHA-512 |
Gioan Bosco (1815-1888), hay Don Bosco (theo tiếng Ý truyền thống thì chữ "Don" là một từ xưng hô tôn kính) hoặc Giovanni Bosco, là một vị thánh của Giáo hội Công giáo Rôma. Nổi tiếng là một nhà hùng biện ở Torino, tuy nhiên, ông được biết nhiều nhất với tư cách là người sáng lập ra tu hội Salesian vào năm 1852.
Thân thế và sự nghiệp
Ông tên đầy đủ là Giovanni Melchiorre Bosco, sinh ngày 16 tháng 8 năm 1815 tại làng Becchi, thuộc tỉnh Piémont miền Bắc nước Ý, trong một gia đình nông dân nghèo. Cha ông là Phanxicô Bosco mất khi ông mới lên hai tuổi. Mẹ ông là bà Magarita. Bà qua đời cuối năm 1865.
Gia cảnh khó khăn, từ nhỏ, để có tiền đi học, ông đã phải làm nhiều việc khác nhau: chăn bò, việc đồng áng, bồi bàn cà phê, may quần áo, may giầy... Năm 11 tuổi, ông mới bắt đầu được đi học, tuy nhiên đến năm 16 tuổi ông đã vào được bậc trung học.
Tuy vậy, từ nhỏ ông đã có chí nguyện tu hành giúp đời. Vì vậy, năm 1835, ông vào Đại chủng viện Torino, được thụ phong linh mục 6 năm sau đó, vào ngày 5 tháng 6 năm 1841 (26 tuổi). Sau khi chịu chức, ông khởi đầu mục vụ tông đồ bằng cách đi thăm các Trại Giáo hóa dành cho các thanh thiếu niên phạm pháp tại Giáo phận Torino.
Cuối năm 1841, ông nhận nuôi dưỡng Bartôlômêô Garelli, một trẻ em vô gia cư. Dần dà, ông nhận nuôi thêm nhiều trẻ em vô gia cư hoặc mồ côi. Ban đầu, ông quy tụ các em để tổ chức vui chơi, tham dự Thánh Lễ và học giáo lý. Sau khi có nơi ở cố định ở Valdocco, Thành Torinô, ông đã cho xây nhà nội trú, mở các lớp dạy học và các xưởng dạy nghề. Số lượng trẻ em ngày càng đông, khiến nghĩa cử của ông ngày càng vất vả, khiến ông từng ngã bệnh do bị sưng phổi nặng nhưng may mắn qua khỏi.
Do bấy giờ chính phủ Ý gây nhiều rắc rối, nên ông đã phải nhờ một số tu sĩ đến giúp đỡ trong việc lo cho các trẻ mồ côi. Các tu sĩ này là những hạt nhân đầu tiên của một tu hội mới, ra đời với mục đích chăm lo giáo dục các trẻ em mồ côi nghèo khổ, noi gương Thánh Phanxicô Salê. Chính vì thế, từ năm 1854, các Cộng sự của Gioan Bosco được gọi là "Salêdiêng" (Salésienne).
Năm 1859, Gioan Bosco cùng với các đồng chí của mình chính thức thành lập Hội dòng của Thánh Phanxicô Đệ Salê (tiếng Latin: Societas Sancti Francisci Salesii), với hàm ý noi gương Đức ái Tông đồ, sự Hiền lành và lòng kiên nhẫn. Ngày 25 tháng 3 năm 1855, Micae Rua trở thành tu sĩ đầu tiên thực hiện lời tuyên khấn dòng. Năm 1860, Giuse Rossi trở thành Sư huynh đầu tiên được đón nhận vào Dòng. Sau đó, ngày 14 tháng 6 năm 1862, 22 tu sĩ Salêdiêng khác đã thực hiện lời tuyên khấn.
Gioan Bosco cũng đã thành lập Dòng Con Đức Mẹ phù hộ (còn được gọi là Dòng Nữ Salêdiêng Don Bosco) vào ngày 5 tháng 8 năm 1872. Năm 1876, ông thành lập Hiệp hội Cộng tác viên Salêdiêng. Ba Nhóm này và nhiều Nhóm được thành lập sau này liên kết với nhau thành Gia đình, một tổ chức xã hội Công giáo thống nhất. Vào năm 1872, ông tiếp tục lập thêm hai hội dòng khác: Hội Đức Mẹ hằng Cứu giúp để bảo trợ ơn gọi linh mục; Hội Dòng nữ Salésienne nhằm giáo dục các em cô nhi. Các tổ chức này có tầm ảnh hưởng rộng khắp ngay khi ông còn tại thế.
Với những nỗ lực không mệt mỏi của mình, Gioan Bosco kiệt sức, lâm bệnh và qua đời ngày 31 tháng 1 năm 1888 tại Torino, hưởng thọ 73 tuổi. Ghi nhận những công lao của ông với giáo hội và xã hội, 1909 được phong Á thánh, 2/6/1929 được phong Chân phước và 1/4/1934 Giáo hoàng Piô XI đã phong ngài lên bậc hiển thánh với biệt hiệu: CHA và THẦY của thanh thiếu niên.
Chú thích |
Dược điển Anh (British Pharmacopoeia) là bộ sách có thẩm quyền tập họp các tiêu chuẩn cho dược phẩm của Anh. Nó là tài liệu tham khảo chính yếu cho những ai làm trong ngành nghiên cứu, phát triển và sản xuất dược phẩm. Tài liệu này cũng bao gồm công thức chế tạo và thuốc dùng trong thú y. |
Dược điển Hoa Kỳ (United States Pharmacopoeia) là tiêu chuẩn quốc gia về thuốc được Hội đồng Dược điển Hoa Kỳ xuất bản hàng năm. Bao gồm các tiêu chuẩn của từng loại chất hóa học, sinh học (hoạt chất), làm thuốc. Nó cũng đề ra phương pháp thử nghiệm, kiểm tra chất lượng của hoạt chất. Trong dược điển còn nêu các phương pháp thử nghiệm, thuốc thử, dụng cụ, máy móc áp dụng cho các phương pháp kiểm tra chất lượng thuốc. Nó cũng được một số nước áp dụng khi các nước này chưa có dược điển (các nước chậm phát triển) hoặc một số nước mà trong dược điển của nước này chưa có các chuyên luận hoặc phương pháp kiểm tra chất lượng khi cần tham khảo.
Với những người trong ngành, dược điển này được gọi đơn giản là USP. Từ viết tắt chữ đầu USP cũng được thêm vào tên tên thuốc hay các nguyên liệu, hóa chất dùng làm thuốc để cho biết chúng tuân theo các quy định của USP (hay đạt tiêu chuẩn dược điển Hoa Kỳ). |
Pythagoras xứ Samos (, hoặc ; trong tiếng Hy Lạp Ionia; ), hay Py-ta-go theo phiên âm tiếng Việt, là một nhà triết học Hy Lạp Ionian cổ đại, đã có công sáng lập học phái Pythagoras. Những lời dạy của ông về chính trị và tôn giáo từng một thuở rất có tiếng tăm ở Magna Graecia, đã gây ảnh hưởng đến các triết gia lỗi lạc như Platon, Aristoteles. Và cũng chính qua những vị này mà ảnh hưởng đến triết học phương Tây nói chung. Tuy còn nhiều khuất tất xung quanh thân thế của Pythagoras, song ông có lẽ là con trai của Mnesarchus, một người thợ khắc ngọc quý trên hòn đảo Samos. Các học giả hiện đại bất đồng về học vấn và tầm ảnh hưởng của Pythagoras, nhưng nhất trí rằng, vào khoảng năm 530 TCN, ông đã lữ hành tới Croton miền nam Ý, nơi ông thu nạp nhiều đồ đệ và dạy cách sống khổ tu theo kiểu công xã dưới ngôi trường do mình thành lập.
Học thuyết được xác định một cách chắc chắn thuộc về Pythagoras là metempsychosis, hay "sự đầu thai/luân hồi của hồn". Theo đó, ông cho rằng hồn là thứ bất tử, sau khi chết đi, sẽ nhập vào cơ thể khác. Ngoài ra, ông có lẽ là người đề xướng thuyết musica universalis, cho rằng các hành tinh di chuyển theo quy luật của các phương trình toán học, vì thế cộng hưởng và tạo nên bản hòa tấu ca mà ta không thể nghe thấy. Hiện còn nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề liệu Pythagoras có thực sự đã phát triển các học thuyết số học và nhạc lý được quy cho ông hay không, hay chúng chỉ là sáng kiến từ các học trò của ông, đặc biệt là Philolaus xứ Croton. Sau chiến thắng của Croton trước thị quốc Sybaris vào khoảng năm 510 TCN, môn phái Pythagoras mâu thuẫn với những người ủng hộ chế độ dân chủ. Cuộc xung đột đã dẫn đến việc các hội quán Pythagoras bị thiêu rụi; bản thân Pythagoras có lẽ đã bị giết trong sự biến ấy, hoặc ông đã chạy trốn kịp thời tới Metapontum và dành phần đời còn lại ở đó.
Nguồn tiểu sử
Hiện không có bất kỳ một bản thảo xác tín nào của Pythagoras còn tồn tại, và ta hầu như không biết gì về cuộc đời ông. Những nguồn sớm nhất về cuộc đời Pythagoras rất vắn tắt, mơ hồ, và thường mang dụng ý châm biếm. Nguồn sớm nhất về những giáo huấn của Pythagoras là một bài thơ châm biếm, có lẽ được viết sau khi ông qua đời bởi Xenophanes xứ Colophon, một người cùng thời với Pythagoras. Trong bài thơ, Xenophanes miêu tả cảnh Pythagoras đứng ra bênh vực một con chó đang bị đánh đập, giãi bày rằng ông nhận ra giọng nói của một người bạn quá cố trong tiếng kêu khẩn của con chó. Alcmaeon xứ Croton, một dược sĩ sống ở Croton đồng thời với khi Pythagoras lưu trú tại đó, đã hợp nhất rất nhiều giáo huấn của Pythagoras vào các trước tác của mình và cũng dường như quen biết Pythagoras. Nhà thơ Heraclitus xứ Ephesus, sinh ra ở nơi cách xa Samos vài dặm đường biển và có lẽ sống cùng thời với Pythagoras, gièm pha Pythagoras là một kẻ bịp bợm, nhận định rằng "Pythagoras, con trai của Mnesarchus, rèn luyện khả năng chiêm nghiệm hơn bao kẻ khác, và lựa chọn từ những trước tác này mà ông ta đã có thể tạo nên một trí khôn cho bản thân — [kiểu trí khôn] đểu giả tinh ranh, học lắm."
Tiểu sử
Thuở đầu
Herodotus, Isocrates, và văn tịch thuở sớm đồng thuận rằng Pythagoras là con trai của Mnesarchus, và rằng ông chào đời trên hòn đảo Samos thuộc Hy Lạp phía đông Biển Aegean. Theo như những tường thuật ấy, cha Pythagoras không phải là thổ dân của hòn đảo, mặc dù ông đã nhập tục với nơi đó, song Iamblichus lại cho rằng ông đúng là dân bản địa. Tương truyền Mnesarchus là một thợ khắc ngọc hoặc một thương nhân khá giả, song lai lịch của ông còn mơ hồ và nhiều mâu thuẫn. Mẹ Pythagoras xuất thân trong một gia đình geomoroi tại Samos. Apollonius xứ Tyana cho biết tên bà là Pythaïs. Theo lời kể của Iamblichus, bà ấy khi mang thai Pythagoras đã nghe lời sấm của nữ tư tế Pythia, rằng bà sẽ hạ sinh một cậu trai hết mực tuấn tú, khôi ngô, và phước đức cho toàn nhân loại. Aristoxenus khẳng định Pythagoras rời Samos dưới thời Polycrates cai trị, ở tuổi 40; điều này ngụ ý ông sinh năm 570 TCN. Tên của Pythagoras dường như có mối tương liên với thần Apollo của Pythia (Pūthíā); Aristippus xứ Cyrene vào thế kỷ thứ 4 TCN đã giải thích tên gọi này như sau: "Ông ấy nói [, ] sự thật thường xuyên chẳng khác nào vị Pythia [ ]".
Trong những năm hình thành của Pythagoras, Samos là một trung tâm văn hóa thịnh vượng được biết đến với những kỳ tích về kỹ thuật kiến trúc tiên tiến, bao gồm cả việc xây dựng Đường hầm Eupalinos, và văn hóa lễ hội náo nhiệt của nó. Đó là một trung tâm thương mại lớn ở Aegean, nơi các thương nhân mang hàng hóa từ vùng Cận Đông đến. Theo Christiane L. Joost-Gaugier, những thương nhân này gần như chắc chắn đã mang theo những tư tưởng và truyền thống Cận Đông. Thời thơ ấu của Pythagoras nằm trong giai đoạn nở rộ của triết học tự nhiên thời kỳ đầu của người Ionia. Ông là người cùng thời với triết gia Anaximander,Anaximenes, và nhà sử học Hecataeus, tất cả đều sống ở Miletus, bên kia biển Samos. |
Vienna có thể là:
Địa danh
Tên tiếng Anh của thủ đô Viên của Áo
Tên tiếng Anh của sông Wien chảy qua thành phố này
Vienna, Ontario tại Canada
Vienna, Georgia
Vienna, Illinois
Vienna, Louisiana
Vienna, Maine
Vienna, Maryland
Vienna, Missouri
Vienna, New York
Vienna, South Dakota
Vienna, Virginia
Vienna, West Virginia
Vienna, Wisconsin
New Vienna, Iowa
New Vienna, Ohio
Vienna Township, Genesee County, Michigan
Vienna Township, Minnesota
Vienna Township, Montmorency County, Michigan
Âm nhạc
Nhạc sĩ Vienna Teng (sinh 1978)
Album Vienna của Ultravox
Bài hát "Vienna" trong album trên
Bài hát "Vienna" của Billy Joel
Bài hát "Vienna" củaThe Fray
Bài hát "Vienna" của Trans-Siberian Orchestra trong album Beethoven's Last Night |
Phong trào Giám lý là một nhóm các giáo hội có mối quan hệ lịch sử với nhau thuộc cộng đồng Kháng Cách. Bắt nguồn từ cuộc chấn hưng tôn giáo khởi phát bởi John Wesley tại Anh Quốc vào thế kỷ 18. John Wesley, một mục sư Anh giáo, cố giữ phong trào chấn hưng tâm linh này phát triển bên trong Giáo hội Anh, và cũng có khá đông chức sắc Anh giáo gia nhập phong trào.
Tín hữu Giám lý đến từ mọi giai tầng trong xã hội, kể cả giới thượng lưu nhiều quyền lực. Song, các nhà thuyết giáo Giám lý thường tìm đến các khu vực có nhiều người lao động nghèo và tội phạm là những người bị các giáo hội bỏ rơi, đem đến cho họ thông điệp phúc âm. Sau một thời gian chần chừ, Wesley tiếp bước Whitefield tổ chức những buổi truyền giảng bên ngoài khuôn viên các nhà thờ.
Về thần học, đa số tín hữu Giám lý chấp nhận tư tưởng Arminius, trong khi Howell Harris và George Whitefield thiên về thần học Calvin. Từ những thập niên đầu tiên của phong trào Giám lý đã có sự khác biệt này, trong đó phong trào Giám lý xứ Wales và hội đoàn Giám lý của Selina Hastings, Nữ bá tước Huntingdon áp dụng thần học Calvin theo ảnh hưởng của Whitefield. Wesley đã không để những dị biệt thần học này làm tổn thương tình bạn giữa ông và Whitefield, bài giảng của ông trong tang lễ của Whitefield bộc lộ tình cảm sâu sắc và sự tôn trọng Wesley dành cho người bạn quá cố.
Nhờ những hoạt động truyền giáo tích cực và hiệu quả, đức tin Giám lý lan toả khắp Đế quốc Anh, Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới.
Giáo nghi Giám lý thường đơn giản và chú trọng đến sự thành tâm khi thờ phượng theo giáo huấn của Chúa Giê-xu, "Thiên Chúa là Thần, nên ai thờ lạy Ngài phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy". Đến năm 2006, có khoảng 75 triệu tín hữu Giám lý trên khắp thế giới.
Phấn hưng
Cuộc phấn hưng Giám lý bắt đầu từ nước Anh, khởi phát bởi John Wesley, em ông, Charles Wesley, và George Whitefield. Ban đầu là một phong trào canh tân bên trong Giáo hội Anh vào thế kỷ 18, tập chú vào việc nghiên cứu Kinh Thánh và chú trọng đến việc sử dụng các phương pháp để học Kinh Thánh. "Methodist" là biệt danh dùng để chế giễu một hội đoàn được thành lập bởi một nhóm sinh viên Đại học Oxford, họ nhóm lại với nhau từ năm 1729 đến năm 1735 vì mục đích bồi dưỡng tâm linh, dự tiệc thánh mỗi tuần, thường xuyên kiêng ăn để cầu nguyện, tránh xa nếp sống xa hoa và hầu hết các hình thức giải trí vui chơi. Họ tìm đến thăm viếng người nghèo, người bệnh và tù nhân trong lao xá.
Những tín hữu Giám lý tiên khởi đề kháng thái độ vô cảm của Giáo hội Anh, trở thành những nhà thuyết giáo ngoài trời và bắt đầu thành lập các hội đoàn Giám lý bất cứ nơi nào họ đặt chân đến. Nhiều người nhìn xem họ với ít nhiều ác cảm vì cớ những bài giảng đầy nhiệt tâm của họ, nhiều người khác cáo buộc họ là cuồng tín. Nhiều tín hữu Anh giáo lo sợ các học thuyết mới như cần thiết phải trải nghiệm sự tái sinh sau khi được cứu, về sự xưng công chính bởi đức tin, và về sự vận hành của Chúa Thánh Linh trong linh hồn của tín hữu, sẽ gây ra hệ quả xấu trên những người có tâm trí yếu đuối. William Hogarth gọi người Giám lý là "những kẻ cuồng nhiệt, cả tin, mê tín và cuồng tín".
John Wesley chịu ảnh hưởng của giáo phái Moravia và nhà thần học người Hà Lan Jacobus Arminius, trong khi Whitefield chấp nhận quan điểm thần học của John Calvin. Do đó, những người theo họ bắt đầu phân rẽ, những người ủng hộ Whitefield thành lập các giáo hội Giám lý theo tư tưởng Calvin, những người còn lại theo Wesley, chấp nhận quan điểm thần học của Arminius.
Ly giáo
Dù Wesley không hề có ý định rời bỏ Giáo hội Anh nhưng sau cuộc Cách mạng Hoa Kỳ, Giáo hội Anh từ khước những người Mỹ theo Anh giáo và từ chối phong chức mục sư cho họ. Wesley quyết định làm lễ phong chức cho những người này, và vì ông không phải là Giám mục nên điều này đặt ông vào thế đối kháng với giáo hội. Năm 1784, Wesley và các nhà lãnh đạo khác thành lập Giáo hội Giám lý như là một thực thể độc lập với Anh giáo. Dù vậy, Wesley vẫn tiếp tục thi hành mục vụ của một mục sư Anh giáo cho đến khi qua đời.
Thần học và giáo nghi
Tín hữu Giám lý, theo thần học Arminius, tin vào ý chí tự do của con người, qua ân điển tiên kiến của Thiên Chúa, vì vậy bất đồng với thuyết tiền định, là thuyết được chấp nhận rộng rãi trong các giáo phái theo thần học Calvin như Trưởng lão phái. Tuy nhiên, tại những vùng chịu ảnh hưởng của tư tưởng Calvin như xứ Wales, vẫn tồn tại các giáo hội Giám lý theo Calvin.
John Wesley không phải là một nhà thần học, mặc dù nhiều sinh viên chủng viện vẫn thường nghiên cứu các bài giảng của Wesley để tìm hiểu tư tưởng thần học của ông. Thần học Giám lý lại được thể hiện và được chấp nhận rộng rãi qua các bài thánh ca được sáng tác bởi Charles Wesley.
Tín hữu Giám lý tin vào giáo lý Ba Ngôi, Thiên Chúa hiện hữu trong ba thân vị Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh. Niềm xác tín bao hàm lời chứng của Kinh Thánh rằng Thiên Chúa tạo dựng thế giới, kiểm soát dòng lịch sử của nhân loại và tể trị đời đời. Họ chỉ cử hành hai thánh lễ: Báp têm và Tiệc Thánh.
Quan điểm truyền thống của giáo hội là bất cứ tư tưởng thần học nào cũng cần quan tâm đến yếu tố lý trí. Nhờ lý trí, tín hữu đọc và giải thích Kinh Thánh, xét xem lời chứng nào là đúng, và tra vấn về đức tin cho đến khi thông hiểu ý chỉ của Thiên Chúa.
Tín hữu Giám lý cũng nhấn mạnh rằng sự cứu rỗi luôn luôn nối kết với truyền bá phúc âm và phục vụ người khác. Sự thánh khiết theo Kinh Thánh là trỗi hơn lòng mộ đạo; yêu Thiên Chúa có nghĩa là yêu người lân cận, khao khát sự công chính và sự sống viên mãn.
Một nét đặc thù về giáo nghi của phong trào Giám lý là lễ Giao Ước. Với một ít khác biệt trong nghi thức, hầu hết các giáo hội Giám lý làm theo lời dạy của Wesley, hằng năm làm mới lại giao ước với Thiên Chúa mà tâm điểm là lời cầu nguyện cho giao ước được viết bởi Wesley.
Có nhiều việc cần phải làm cho Chúa Giê-xu. Có việc dễ dàng, có việc khó khăn. Có việc đem đến vinh dự, có việc mang lại tủi nhục. Có việc làm ta yêu thích và mang đến lợi lộc, có việc ta không hề ưa thích mà cũng chẳng có bổng lộc… Nhưng năng lực sẽ được ban cho chúng ta để hoàn thành mọi việc trong Chúa Giê-xu, đấng làm chúng ta mạnh mẽ.
... nay con không thuộc về mình, nhưng thuộc về Chúa. Xin đặt con vào nơi ngài muốn con sống, đem con đến với những người ngài muốn con chia sẻ; khiến con phải làm việc, cho con chịu đau khổ; có lúc dùng con theo thánh ý, có khi vì ngài mà ở rỗi; do ngài mà được tôn vinh, vì ngài mà chịu sỉ nhục; cho con chịu đói khát, cho con được no đủ; cho con có đủ mọi sự, khiến con thiếu thốn mọi bề; hầu cho con tự nguyện hiến dâng tất cả cho ngài, với cả tấm lòng, để ý ngài được nên, để nước Chúa được đến.
Giám lý tại Anh Quốc
Tại Anh, phong trào Giám lý luôn được biểu trưng với cơ cấu tập quyền, hội đoàn (connexion), tổ chức hội nghị hằng năm. Hội đoàn được chia thành nhiều hạt (district), đặt dưới quyền lãnh đạo của một chủ tọa (có thể là nam hay nữ). Hạt lại được chia thành các khu vực (circuit) đứng đầu là một mục sư chủ nhiệm (superintendent minister). Giám lý ở nước Anh không thiết lập chức Giám mục. Các mục sư được bổ nhiệm vào những khu vực hơn là vào những nhà thờ riêng lẻ (mặc dù một số nhà thờ tại trung tâm các thành phố lớn, gọi là central hall, xem mình là ngang bằng một khu vực (nhà thờ Methodist Central Hall, đối diện Westminster Abbey tại trung tâm Luân đôn là một điển hình). Hầu hết các khu vực có số mục sư ít hơn số lượng nhà thờ, nên lễ thờ phụng thường được hướng dẫn bởi các truyền đạo địa phương (local preacher), hay bởi các mục sư hưu trí. Phong trào Giám lý có ảnh hưởng lớn tại xứ Wales và Cornwall, tại đây người dân không mấy thiện cảm với Giáo hội Anh.
Những cuộc ly giáo từ bên trong giáo hội Giám lý nguyên thủy, cùng với các cuộc phấn hưng dẫn đến việc hình thành nhiều giáo phái độc lập tự xem mình là Giám lý. Lớn nhất trong các giáo phái này là Giáo hội Giám lý Tiên khởi, xuất phát từ một cuộc phấn hưng tại Mow Cop, Staffordshire, và Giáo hội Giám lý Hiệp nhất (không phải giáo phái có cùng tên tại Hoa Kỳ). Từ đó, Giáo hội nguyên thủy được biết đến với tên Giáo hội Giám lý Wesley. Năm 1933, ba nhánh chính của Giám lý nước Anh quyết định hiệp nhất để trở thành Giáo hội Giám lý Anh.
Sau thất bại của những nỗ lực hiệp nhất với Giáo hội Anh, những cuộc đàm phán và hợp tác vẫn được duy trì, dẫn đến việc ký kết một giao ước giữa hai giáo hội vào năm 2003. Từ những năm 1970, giáo hội Giám lý tiến hành các đề án hợp tác với Giáo hội Anh và với Giáo hội Cải cách Hiệp nhất nhằm chia sẻ với nhau các cơ sở của nhà thờ, trường học, và trong một số trường hợp, các mục sư.
Truyền giáo đến Hoa Kỳ
Từ cuối thập niên 1760, đã có các người truyền đạo tình nguyện di cư đến Mỹ và thành lập những hội đoàn Giám lý đầu tiên ở vùng đất mới. Philip Embury bắt đầu ở New York. Không lâu sau đó, Đại uý Webb thuộc quân đội Anh đến trợ giúp Embury, ông thành lập một hội đoàn ở Philadelphia đồng thời tìm đến các khu dân cư dọc bờ biển để thuyết giáo. Trong năm 1770, hai nhà truyền giáo, Richard Boardman và Joseph Pilmoor, được gởi đến từ Anh. Rồi Francis Asbury đặt chân đến nước Mỹ, ông bắt tay tái tổ chức các hoạt động của hội thánh thuộc khu vực trung Đại Tây Dương theo mô hình của Wesley, mặc dù nảy sinh một số bất đồng nội bộ. Việc những giáo sĩ đến thay thế các người truyền đạo địa phương đã gây bất bình cho một số nhà lãnh đạo hàng đầu trong cộng đồng tín hữu. Song, do bùng nổ chiến tranh và do yêu cầu của Wesley, tất cả giáo sĩ đều rời khỏi khu vực này. Khoảng năm 1778, khu vực trung Đại Tây Dương chỉ còn lại một giáo hạt. Nhưng Asbury từ chối ra đi, ông ở lại Delaware suốt trong thời kỳ khó khăn này.
Robert Strawbridge bắt đầu phục hồi các hoạt động của phong trào Giám lý ở Maryland, cùng lúc Embury cũng khởi đầu một công tác tương tự tại New York. Hai người không cộng tác với nhau, cũng không biết về sự hiện hữu của người kia. Strawbridge tự phong chức cho mình và thiết lập một giáo hạt. Ông đào tạo nhiều phụ tá tài năng, sau này trở nên những nhà lãnh đạo đầu tiên có nhiều ảnh hưởng trên phong trào Giám lý tại Mỹ. Công việc của ông tiến triển nhanh chóng, thu hút nhiều tân tín hữu cũng như mở rộng địa bàn hoạt động. Lúc này, các truyền đạo địa phương cộng tác mật thiết với các giáo sĩ, tiếp tục tuyển dụng, đào tạo và sai phái nhiều truyền đạo tình nguyện hơn vào công trường thuộc linh. Trong khi đó, ở miền Nam, phong trào Giám lý không phụ thuộc vào các giáo sĩ như ở khu vực trung Đại Tây Dương.
Cho đến lúc này, ngoại trừ Strawbridge, không ai trong số các giáo sĩ và truyền đạo người Mỹ được phong chức, do đó họ tiếp tục nhận thánh lễ từ các chức sắc thuộc Anh giáo. Nhưng hầu hết mục sư Anh giáo đều đi đến Anh Quốc, New York hoặc Canada trong lúc chiến tranh. Để đáp ứng nhu cầu của hội thánh, một nhóm truyền đạo địa phương tự phong chức cho mình. Động thái này gây ra sự phân rẽ giữa Asbury và các truyền đạo phương Nam. Asbury tìm cách giải quyết cuộc khủng hoảng bằng cách thuyết phục những người này chờ đợi một giải pháp đến từ John Wesley. Năm 1784, Wesley cử Mục sư Thomas Coke đến Mỹ để thành lập một giáo hội độc lập tại đây. Một hội đồng được tổ chức vào tháng 12. Coke được uỷ nhiệm tấn phong Asbury để đồng lãnh đạo giáo hội. Nhưng Asbury trông đợi sự uỷ nhiệm từ đại biểu của hội đồng, tuyên bố ông sẽ không chấp nhận sự tấn phong trừ khi hội đồng biểu quyết bầu ông vào chức vụ ấy. Kể từ thời điểm ấy, các chức vụ lãnh đạo của giáo hội đều đến từ sự uỷ nhiệm của hội đồng. Về sau, Coke thuyết phục hội đồng chấp nhận chức vụ Giám mục và hội đồng đã tấn phong Coke và Asbury là những Giám mục đầu tiên của Giáo hội Giám lý, mặc dù quyết định này đã gây nhiều tranh cãi và Wesley cũng không phê chuẩn việc thiết lập chức danh Giám mục.
Đến kỳ đại hội đồng Giáo hội Giám lý tổ chức năm 1792, vấn đề chức danh Giám mục lại được đem ra bàn cãi; cuối cùng các đại biểu đồng ý với quan điểm của Giám mục Asbury. Tuy nhiên, trong đầu thập niên 1790, một số người tách khỏi giáo hội và thành lập Giáo hội Giám lý Tiên khởi và Giáo hội Giám lý Cộng hoà. Asbury tiếp tục được nhìn nhận là nhà lãnh đạo phong trào Giám lý tại Mỹ trong khi Coke gặp nhiều bất đồng với các người truyền đạo địa phương và ông mất dần ảnh hưởng.
Giám lý tại Hoa Kỳ
Thập niên 1730 và 1740, bùng nổ ở Mỹ trong những khu định cư phong trào phấn hưng tôn giáo gọi là Đại Tỉnh thức. Nhà thuyết giáo người Anh George Whitefield là người thủ giữ vai trò quan trọng trong phong trào. Ông tìm đến các khu định cư trên khắp đất nước để rao giảng Phúc âm với sức thuyết phục mạnh mẽ và khơi dậy các tình cảm tôn giáo.
Cung cách thuyết giảng mới lạ và sinh động cùng nhiệt tâm sống đạo của tín hữu đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống tôn giáo tại Mỹ. Người ta bày tỏ sự quan tâm đến tôn giáo với lòng nhiệt thành và đầy xúc cảm thay vì thụ động lắng nghe cách vô cảm những bài thuyết giảng thông thái. Họ bắt đầu nghiên cứu Kinh Thánh ngay tại nhà, điều này làm suy giảm ảnh hưởng của phương pháp phổ biến đức tin trong các buổi lễ tôn giáo, và đến gần với khuynh hướng chú trọng đến những trải nghiệm cá nhân trong qui đạo và sống đạo, được quảng bá ở Âu châu trong cuộc Cải cách Kháng nghị.
Những Giám mục đầu tiên của Giáo hội Giám lý tại Mỹ là Thomas Coke và Francis Asbury. Vào Hội đồng Giáng sinh Baltimore năm 1784 khai sinh Giáo hội Giám lý Hoa Kỳ, Coke (đã được phong chức trong Giáo hội Anh) tấn phong cho Asbury các chức vụ chấp sự, trưởng lão và Giám mục trong ba ngày liên tiếp. Các truyền đạo khu vực, hầu hết là tình nguyện, dong ruỗi trên lưng ngựa đi khắp nơi để rao giảng phúc âm và thành lập giáo đoàn cho đến khi khó có thể tìm thấy một cộng đồng dân cư nào ở Mỹ mà không tiếp xúc với thông điệp Cơ Đốc giáo theo cung cách giãi bày của người Giám lý. Một trong những nhà truyền đạo nổi tiếng nhất là Robert Strawbridge, sống ở vùng phụ cận Quận Carroll, Maryland ngay sau khi ông đặt chân đến đất Mỹ trong năm 1760.
Cuộc Đại Tỉnh thức lần thứ hai là một làn sóng phấn hưng tôn giáo lan toả khắp đất nước. Tại vùng New England, mối quan tâm về tôn giáo vừa được hồi sinh đã mở lối cho một làn sóng hoạt động xã hội trong vòng dân cư trong vùng; Phong trào Giám lý phát triển mạnh mẽ và thiết lập nhiều trường đại học, nổi tiếng nhất là Đại học Boston. Trong "khu vực bùng cháy" ở phía tây New York, tinh thần phấn hưng bùng phát mãnh liệt. Phong trào Giám lý chứng kiến sự xuất hiện của Phong trào Thánh khiết. Ở miền Tây, nhất là tại Cane Ridge, Kentucky và tại Tennessee, cuộc phấn hưng tôn giáo củng cố và phát triển đức tin Giám lý và Baptist.
Cuộc Đại Tỉnh thức lần thứ ba từ năm 1858 đến năm 1908 chứng kiến sự gia tăng vượt bậc số tín hữu Giám lý, và phát triển mạnh mẽ con số các định chế xã hội như các trường đại học. Tín hữu Giám lý thường tham gia tích cực vào phong trào truyền giáo và phong trào phúc âm xã hội.
Những bất đồng về vấn đề nô lệ đặt phong trào Giám lý vào một giai đoạn khó khăn trong thượng bán thế kỷ 19. Trong khi các nhà lãnh đạo miền Bắc không bày tỏ lập trường rõ ràng vì e sợ xảy ra ly giáo, thì Giáo hội Giám lý Wesley và Giáo hội Giám lý Tự do, chủ trương chống nô lệ, hoạt động tích cực trong Tuyến hoả xa ngầm (Underground Railroad), giúp giải thoát nô lệ. Năm 1845, các giáo hội chủ trương sở hữu nô lệ gặp nhau tại Louisville để thành lập Giáo hội Giám lý miền Nam, nhưng đến năm 1939, giáo hội tại hai miền quyết định tái hiệp nhất khi nô lệ không còn là vấn đề quan trọng.
Giáo hội Giám lý Hiệp nhất, thành lập năm 1968, là sự sáp nhập của Giáo hội Giám lý và Giáo hội Tin lành Anh em của các tín hữu Giám lý gốc Đức, họ không còn muốn duy trì sự thờ phụng bằng tiếng Đức. Giáo hội Giám lý Hiệp nhất có xấp xỉ 9 triệu tín hữu vào cuối thập niên 1990. Ngày nay, trong khi Giám lý tại Hoa Kỳ đang suy yếu dần thì phong trào này lại tăng trưởng mạnh tại các quốc gia đang phát triển.
Về thể chế, Giám lý tại Hoa Kỳ áp dụng mô hình liên kết. Mục sư được bổ nhiệm đến các nhà thờ bởi Giám mục. Các giáo phái Giám lý dành cho tín hữu quyền đại biểu tại các hội đồng cấp khu vực và cấp quốc gia, là các định chế có thẩm quyền xem xét và quyết định mọi vấn đề của giáo hội. Như vậy, về tổ chức, cấu trúc này khác với thể chế Giám mục (episcopalian) như Anh giáo, cũng khác với mô hình tự trị giáo đoàn (congregational) như Baptist và những giáo phái khác.
Ngoài Giáo hội Giám lý Hiệp nhất, có hơn 40 giáo phái khác bắt nguồn từ phong trào Giám lý khởi xướng bởi John Wesley. Tổ chức từ thiện Cứu Thế Quân (Salvation Army) được thành lập bởi William Booth, một mục sư Giám lý. Tổ chức này cũng chấp nhận nền thần học Giám lý. Một giáo phái có liên hệ với phong trào là Giáo hội Nazarene. Một số giáo phái Ngũ tuần (pentecostal) như Assemblies of God cũng có nguồn gốc hoặc chịu ảnh hưởng của tư tưởng Wesley.
Giáo hội Giám lý Hiệp nhất chấp nhận một quan điểm rộng mở về các xác tín thần học và chính trị. Điển hình là trong số các tín hữu nổi tiếng thuộc giáo hội này, Tổng thống George W. Bush và Phó Tổng thống Dick Cheney (thường xuyên đi nhà thờ dù không phải là thuộc viên) thuộc Đảng Cộng hoà, trong khi Hillary Clinton và John Edwards là đảng viên Dân chủ.
Phong trào Giám lý, khởi phát tại nước Anh từ những năm 1720, sớm quan tâm đến các hoạt động xã hội và giáo dục. Nhiều định chế xã hội và giáo dục được thành lập tại Hoa Kỳ từ đầu thế kỷ 19, cho đến nay có khoảng hai mươi viện đại học được đặt theo tên John Wesley.
Giáo hội Giám lý Hiệp nhất hình thành từ sự kết hợp giữa Liên hữu Tin Lành (Evangelical United Brethren) và Giáo hội Giám lý. Trước đó, Liên hữu Tin Lành cũng là thành quả từ sự hiệp nhất giữa các nhóm Giám lý gốc Đức. Trong thập niên 1990, Giáo hội Giám lý Hiệp nhất có khoảng 9 triệu thuộc viên.
Các quốc gia khác
Ước tính có khoảng 75 triệu tín hữu Giám lý trên thế giới, mặc dù con số này đang trên đà sụt giảm nghiêm trọng, nhất là ở Bắc Mỹ, khi nhiều thuộc viên Giám lý ở đây có khuynh hướng gia nhập các giáo hội theo khuynh hướng truyền thống trong thần học. Phần lớn các giáo hội Giám lý đều là thành viên của Hội đồng Giám lý Thế giới, trụ sở đặt ở Lake Junaluska, Bắc Carolina, Hoa Kỳ.
Có hai thời điểm đánh dấu sự kiện đức tin Giám lý truyền bá đến Ấn Độ: năm 1817 và 1856. Tiến sĩ Thomas Coke và sáu nhà truyền giáo lên tàu hướng về Ấn Độ đúng ngày đầu tiên năm 1814. Tiến sĩ Coke, khi ấy đã 66 tuổi, qua đời trong chuyến hải hành. Mục sư James Lynch là người duy nhất trong đoàn đặt chân lên Madras (nay là Chennai) trong năm 1817, tại một địa điểm gọi là Black Town (Broadway), về sau đổi tên thành George Town. Ngày 25 tháng 4 năm 1822, Lynch hướng dẫn lễ thờ phượng đầu tiên tại Ấn Độ theo giáo nghi Giám lý trong một chuồng ngựa. Nhà thờ Giám lý đầu tiên được cung hiến tại Royapettah năm 1819. Một nhà nguyện được xây dựng tại Broadway và được cung hiến ngày 25 tháng 4 năm 1822. Vào lúc này có khoảng 100 tín hữu Giám lý ở Madras, họ là người Âu hoặc người lai Á Âu. Năm 1874, Giáo hội Giám lý Mỹ khởi sự hoạt động tại Ấn Độ với những nhà truyền bá phúc âm nổi tiếng như William Taylor. Năm 1947, Giáo hội Giám lý hiệp nhất với Anh giáo, Trưởng Lão, và một số giáo hội Kháng Cách khác để thành lập Giáo hội Nam Ấn.
Tại Úc, sự hiệp nhất giữa Giáo hội Giám lý với Giáo hội Trưởng lão và Tự trị giáo đoàn (Congregational) vào năm 1977 giúp hình thành Giáo hội Hiệp nhất.
Tương tự, tại Canada, Giáo hội Hiệp nhất Canada là kết quả của một chuỗi các nỗ lực hiệp nhất khởi đầu từ năm 1884 đến năm 1968.
Tồn tại một số nhà thờ Giám lý ở Âu châu, mạnh nhất là tại Đức. Ở Âu châu, tư tưởng Giám lý được truyền bá từ Hoa Kỳ chứ không phải từ Anh.
Giáo hội Giám lý mạnh nhất có lẽ là tại Hàn Quốc (Xem Cơ Đốc giáo tại Hàn Quốc). Cũng có mặt tại Bắc Mỹ nhiều nhà thờ Giám lý nói tiếng Hàn, chăm sóc dân nhập cư nói tiếng Hàn, dù nhiều người trong số họ không phải là tín hữu Giám lý.
Quốc gia có tỷ lệ dân số là tín hữu Giám lý cao nhất trên thế giới là đảo quốc Fiji.
Các giáo sĩ đến từ Anh, Mỹ và Úc thành lập nhiều giáo hội Giám lý tại những quốc gia thuộc Khối Thịnh vượng chung Anh. Ngày nay, họ trở thành những giáo hội độc lập và lớn mạnh hơn các giáo hội "mẹ".
Hầu hết các giáo hội Giám lý đều gia nhập một tổ chức có tính biểu trưng gọi là Hội đồng Giám lý Thế giới, đặt trụ sở tại Lake Junaluska, Bắc Carolina, Hoa Kỳ.
Chú thích |
Gel (gheo) – từ tiếng Latinh gelu (đá, đông cứng, lạnh) hoặc từ chữ gelatus (đóng băng, cố định) – là một trạng thái vật chất của một hệ keo có môi trường phân tán ở thể rắn và chất phân tán ở thể lỏng. (Ở một số nơi người ta còn gọi gel là dung dịch keo đặc
Gel và sol có thể biến đổi lẫn nhau. Sol được tạo thành từ gel ví dụ như bằng cách pha loãng hay đun nóng và ngược lại gel được tạo thành từ sol bằng phương pháp keo tụ (đông tụ).
Gel có thể được sử dụng làm môi trường chứa cho các loại thuốc cao (thuốc xoa) và kem, gel xoa tóc và cũng được sử dụng làm mực cho bút bi. Gel còn được dùng làm tấm nền (tiếng Anh: matrix) trong phương pháp phân tách điện di trên gel. |
Quận 6 một quận nội thành thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Quận có Chợ Bình Tây (thường gọi là Chợ Lớn), đây được xem một khu trung tâm thương mại lớn nhất của người Hoa ở Việt Nam.
Địa lý
Quận 6 thuộc nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp Quận 5 với ranh giới là các tuyến đường Nguyễn Thị Nhỏ, Ngô Nhân Tịnh và bến xe Chợ Lớn
Phía tây giáp quận Bình Tân với ranh giới là đường An Dương Vương
Phía nam giáp Quận 8 với ranh giới là kênh Tàu Hủ và kênh Ruột Ngựa
Phía bắc giáp Quận 11 (với ranh giới là các tuyến đường Hồng Bàng, Tân Hóa) và quận Tân Phú.
Quận có diện tích 7,14 km², dân số năm 2019 là 233.561 người, mật độ dân số đạt 32.712 người/km².
Hành chính
Quận 6 có 14 phường trực thuộc, bao gồm: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13 và 14.
Lịch sử
Địa giới hành chính quận 6 trước và sau năm 1959 đều khác nhau hoàn toàn.
Thời Pháp thuộc
Năm 1874, Pháp đổi tên hạt Tham biện thành Địa hạt. Năm 1876, Pháp xoá bỏ lục tỉnh mà phân chia thành bốn khu vực mang tính quân sự, trong đó vùng quận 6 thuộc khu vực Sài Gòn.
Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh hợp nhất thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là Khu (một số tài liệu gọi là "Địa phương") Sài Gòn - Chợ Lớn (Région Saigon - Cholon ou Région de Saigon - Cholon).
Ngày 22 tháng 9 năm 1941, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn thành lập thêm quận 6. Quận 6 khi đó thuộc khu vực thành phố Sài Gòn cũ trước năm 1931, ngày nay thuộc địa giới quận 4 của Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 30 tháng 6 năm 1951, Thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam ký sắc lệnh số 311-cab/SG đổi tên Khu Sài Gòn - Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Lúc này, Quận 6 thuộc Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Theo sắc lệnh số 143/NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn. Khi đó, quận 6 lại thuộc Đô thành Sài Gòn.
Ngày 27 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 110-NV về việc phân chia sáu quận đang có thành tám quận mới: Nhứt, Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy và Tám (trừ ba quận: Nhứt, Nhì, Ba giữ nguyên, các quận còn lại đều đổi tên và thay đổi địa giới hành chính). Lúc này, quận 6 (quận Sáu) trùng với một phần địa giới của quận 5 cũ. Năm 1959, quận Sáu có 07 phường: Bình Tây, Bình Tiên, Chợ, Phú Lâm, Bình Thới, Cầu Tre, Phú Thọ Hoà.
Năm 1969 tách đất của hai quận: Năm, Sáu để lập mới quận 11 (quận Mười Một) với 04 phường (Phú Thọ, Bình Thới, Cầu Tre, Phú Thọ Hòa). Như thế quận Sáu còn 04 phường.
Năm 1972, lập thêm phường Bình Phú tại quận Sáu (quận này có 05 phường). Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, quận 6 (quận Sáu) gồm 05 phường: Bình Phú, Bình Tây, Bình Tiên, Chợ Lớn, Phú Lâm.
Từ năm 1975 đến nay
Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn - Gia Định được thành lập. Lúc này, quận 6 (quận Sáu) thuộc thành phố Sài Gòn - Gia Định cho đến tháng 7 năm 1976.
Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn - Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn - Gia Định). Theo đó, vẫn giữ nguyên quận 6 cũ có từ trước đó. Lúc này, các phường cũ đều giải thể, lập các phường mới có diện tích, dân số nhỏ hơn và mang tên số. Quận 6 bao gồm 20 phường và đánh số từ 1 đến 20.
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 1 chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 6 trở thành quận trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, theo Quyết định số 52-CP của Hội đồng Chính phủ về việc giải thể 3 phường: 3, 11 và 15, địa bàn 3 phường giải thể nhập vào các phường kế cận với số lượng phường trực thuộc còn 17:
Giải thể phường 3 để sáp nhập đất và dân cư của phường này vào các phường 1, 4 và 6
Giải thể phường 11 để sáp nhập đất và dân cư của phường này vào các phường 5, 10 và 12
Giải thể phường 15 để sáp nhập đất và dân cư của phường này vào các phường 14, 16 và 17
Ngày 14 tháng 2 năm 1987, theo Quyết định số 33-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về việc giải thể 17 phường hiện hữu để thay thế bằng 14 phường mới và đánh số từ 1 đến 14 với sự phân chia đơn vị hành chính và giữ ổn định cho đến ngày nay:
Sáp nhập một phần phường 16 cũ, một phần phường 17 cũ và phường 14 cũ thành phường 1.
Sáp nhập một phần của phường 6 cũ với một phần của phường 1 cũ thành phường 2.
Sáp nhập một phần phường 16 cũ với một phần phường 19 cũ thành phường 3.
Đổi tên phường 17 cũ (phần còn lại) thành phường 4.
Sáp nhập một phần của phường 1 cũ với phường 4 cũ thành phường 5.
Sáp nhập một phần của phường 6 cũ với phường 2 cũ thành phường 6.
Sáp nhập một phần phường 19 cũ với phường 20 cũ thành phường 7.
Sáp nhập một phần phường 20 cũ với phường 18 cũ thành phường 8.
Sáp nhập một phần phường 10 cũ với phường 9 cũ thành phường 9.
Đổi tên phường 13 cũ thành phường 10.
Sáp nhập một phần phường 12 cũ với phường 5 cũ thành phường 11.
Sáp nhập một phần phường 10 cũ với phần còn lại của phường 12 thành phường 12.
Đổi tên phường 7 cũ thành phường 13.
Đổi tên phường 18 cũ thành phường 14.
Thông tin thêm về các phường
Phường Bình Tây cũ: các phường 1, 3, 4, 7 và 8 hiện nay
Phường Chợ Lớn cũ: phường 2 hiện nay
Phường Bình Tiên cũ: các phường 5, 6 và 9 hiện nay
Phường Bình Phú cũ: các phường 10 và 11 hiện nay
Phường Phú Lâm cũ: các phường 12, 13 và 14 hiện nay
Đường phố
Các đường đặt tên sốBà HomBà KýBà LàiBãi SậyBến Phú LâmBình PhúBình TâyBình TiênBửu ĐìnhCao Văn LầuChợ LớnChu Văn AnĐặng Nguyên CẩnGia PhúHậu GiangHoàng Lê KhaHồng BàngHùng VươngKinh Dương VươngLê Quang SungLê Tấn KếLê TrựcLê Tuấn MậuLò GốmKênh Tân HóaLý Chiêu HoàngMai Xuân ThưởngMinh PhụngNgô Nhân TịnhNguyễn Đình ChiNguyễn Hữu ThậnNguyễn Phạm TuânNguyễn Thị NhỏNguyễn Văn LuôngNguyễn Xuân PhụngPhạm Đình HổPhạm Phú ThứPhạm Văn ChíPhan Văn KhỏeTân HóaTân Hòa ĐôngTháp MườiTrang TửTrần BìnhTrần Trung LậpTrần Văn KiểuVành ĐaiVăn ThânVõ Văn Kiệt
Tên đường phố quận Sáu trước năm 1975
Đường Trương Tấn Bửu nay là đường Lê Quang Sung.
Đường Lê Quang Hiển nay là đường Cao Văn Lầu.
Bến Lê Quang Liêm nay là đường Võ Văn Kiệt.
Đường Lục Tỉnh nay là đường Hồng Bàng.
Bến Nguyễn Văn Thành nay là đường Phan Văn Khoẻ.
Chú thích |
Quận 6 có thể là:
Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Quận 6, Paris, Pháp.
Quận 6, Lyon, Pháp.
Quận 6, Marseille, Pháp.
Quận 6, Québec, Canada.
Quận 6, Roma, Ý. |
Quận 5 là một quận nội thành thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Quận 5 cùng với Quận 6 còn được gọi chung là Chợ Lớn, khu trung tâm thương mại lớn nhất của người Hoa ở Việt Nam.
Địa lý
Quận 5 nằm ở trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp Quận 1 (với ranh giới là đường Nguyễn Văn Cừ) và Quận 4 (qua một đoạn nhỏ kênh Bến Nghé)
Phía tây giáp Quận 6 với ranh giới là các tuyến đường Nguyễn Thị Nhỏ, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Sung và bến xe Chợ Lớn
Phía nam giáp Quận 8 với ranh giới là kênh Tàu Hủ
Phía bắc giáp Quận 10 và Quận 11 với ranh giới là các tuyến đường Hùng Vương và Nguyễn Chí Thanh.
Quận có diện tích 4,27 km², dân số năm 2019 là 159.073 người, mật độ dân số đạt 37.254 người/km².
Hành chính
Quận 5 có 14 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13 và 14.
Lịch sử
Địa giới hành chính Quận 5 trước và sau năm 1959 đều khác nhau hoàn toàn.
Thời phong kiến
Lịch sử Quận 5 ngày nay gắn liền với sự hình thành, phát triển của khu vực Chợ Lớn và lịch sử hơn 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1623, chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi) cho thành lập đồn thu thuế Brai Konor (đồn Sài Gòn) tại Quận 5. Như vậy địa danh Sài Gòn nghĩa hẹp là để chỉ Quận 5.
Năm 1820, vùng đất này thuộc huyện Tân Long, phủ Tân Bình, trấn Phiên An. Năm 1836 thuộc huyện Tân Long, tỉnh Gia Định. Sau thuộc thành phố Chợ Lớn, tỉnh Chợ Lớn.
Thời Pháp thuộc
Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh hợp nhất thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là Khu (một số tài liệu gọi là "Địa phương") Sài Gòn - Chợ Lớn (Région Saigon - Cholon ou Région de Saigon - Cholon).
Ngày 31 tháng 8 năm 1933, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn thành lập thêm quận 5. Quận 5 khi đó thuộc khu vực thành phố Chợ Lớn cũ trước năm 1931, ngày nay thuộc địa giới Quận 6, Quận 8 và Quận 11 của Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 30 tháng 6 năm 1951, Thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam ký sắc lệnh số 311-cab/SG đổi tên Khu Sài Gòn - Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Lúc này, Quận 5 thuộc Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Theo sắc lệnh số 143/NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn. Khi đó, Quận 5 lại thuộc Đô thành Sài Gòn.
Ngày 27 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 110-NV về việc phân chia sáu quận đang có thành tám quận mới: Nhứt, Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy và Tám (trừ ba quận: Nhứt, Nhì, Ba giữ nguyên, các quận còn lại đều đổi tên và thay đổi địa giới hành chính). Lúc này, Quận 5 (Quận Năm) trùng với địa giới Quận 7 và phần địa giới thuộc Quận 4 cũ, phía bắc Kênh Tàu Hủ. Năm 1959, Quận Năm có 06 phường: An Đông, Chợ Quán, Trung ương, Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương, Phú Thọ.
Năm 1962, Quận Năm giải thể phường Trung ương; lập mới năm phường: Đồng Khánh, Hồng Bàng, Khổng Tử, Nguyễn Huỳnh Đức và Trang Tử. Như thế lúc này quận có 10 phường.
Năm 1969, tách đất của ba quận: Ba, Năm và Sáu, để lập mới quận Mười với 04 phường (Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Chí Hòa) và quận Mười Một với 04 phường (Phú Thọ, Bình Thới, Cầu Tre, Phú Thọ Hòa). Như thế Quận Năm còn 07 phường.
Năm 1974, lập thêm phường Nguyễn Trãi tại Quận Năm, lúc này Quận có 08 phường. Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, Quận 5 (Quận Năm) gồm 08 phường: An Đông, Chợ Quán, Đồng Khánh, Hồng Bàng, Khổng Tử, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Trãi, Trang Tử.
Từ năm 1975 đến nay
Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn - Gia Định được thành lập. Lúc này, Quận 5 (Quận Năm) thuộc Thành phố Sài Gòn - Gia Định cho đến tháng 7 năm 1976. Đồng thời, có những điều chỉnh do phường hiện hữu có diện tích quá nhỏ hoặc tương đối ít dân cư, trong đó sáp nhập Phường Hồng Bàng vào Phường Nguyễn Trãi và sáp nhập Phường Khổng Tử vào Phường Trang Tử. Như thế lúc này còn 06 phường.
Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn - Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn - Gia Định). Theo đó, vẫn giữ nguyên Quận 5 cũ có từ trước đó. Lúc này, các phường cũ đều giải thể, lập các phường mới có diện tích, dân số nhỏ hơn và mang tên số. Quận 5 bao gồm 24 phường và đánh số từ 1 đến 24.
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 1 chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 5 trở thành quận trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 26 tháng 4 năm 1986, theo Quyết định số 51-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về việc giải thể 24 phường hiện hữu để thay thế bằng 15 phường mới và đánh số từ 1 đến 15:
Sáp nhập 2 phường: 19 và 20 thành phường 1.
Giải thể 3 phường: 21, 22, 23 và 24 để thành lập 3 phường: 2, 3 và 4.
Sáp nhập 2 phường: 17 và 18 thành phường 5.
Giải thể 3 phường: 13 cũ, 14 cũ và 16 cũ để thành lập 2 phường: 6 và 7.
Giải thể 3 phường: 11 cũ, 12 cũ và 15 cũ để thành lập 2 phường: 8 và 9.
Giải thể 3 phường: 7 cũ, 8 cũ và 9 cũ để thành lập 2 phường: 10 và 11.
Giải thể 7 phường: 1 cũ, 2 cũ, 3 cũ, 4 cũ, 5 cũ, 6 cũ và 10 cũ để thành lập 4 phường: 12, 13, 14 và 15.
Ngày 9 tháng 12 năm 2020, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 1111/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2021). Theo đó, sáp nhập Phường 15 vào Phường 12.
Quận 5 có 14 phường như hiện nay.
Quận 5 nằm trong danh sách các quận của Thành phố Hồ Chí Minh dưới 7 km2, dân số dưới 300.000 người, phải sáp nhập trước năm 2025.
Thông tin thêm về các phường
Phường Chợ Quán cũ: các phường 1, 2, 3 và 4 hiện nay
Phường Nguyễn Huỳnh Đức cũ: các phường 5 và 6 hiện nay
Phường Đồng Khánh cũ: Phường 7 hiện nay
Phường An Đông cũ: các phường 8 và 9 hiện nay
Phường Nguyễn Trãi cũ: các phường 10 và 11 hiện nay
Phường Hồng Bàng cũ: Phường 12 hiện nay
Phường Khổng Tử cũ: Phường 13 hiện nay
Phường Trang Tử cũ: Phường 14 hiện nay
Xã hội
Y tế
Quận 5 là nơi tọa lạc của các bệnh viện lớn và nổi tiếng như Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Đại học Y Dược và rất nhiều bệnh viện lớn nhỏ khác như:
Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới
Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình
Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Thành phố Hồ Chí Minh
Bệnh viện An Bình
Bệnh viện Nguyễn Trãi
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Bệnh viện Hùng Vương
Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch
Giáo dục
Quận 5 là nơi tọa lạc của các trường trung học nổi tiếng như Trường Phổ thông Năng khiếu, THPT chuyên Lê Hồng Phong, cũng như các trường đại học lớn.
Các trường Đại học:
Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Sài Gòn (tiền thân là Trường Cao đẳng Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh)
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh (tiền thân là trường Sư phạm Thể dục Miền Nam)
Trường Đại học Hùng Vương Thành phố Hồ Chí Minh.
Văn hóa - du lịch
Thành ngữ
Ăn Quận 5, nằm Quận 3, la cà Quận Nhất, trấn lột Quận Tư.
Giao thừa ra Quận Nhất, Nguyên Tiêu về Quận 5.
Quận 5 lộng lẫy dáng hào hoa.
Sài Gòn có ông bánh bao, Quận Năm có bà há cảo.
Món ăn đặc trưng
1. Vịt quay, đặc biệt là vịt quay Bắc Kinh.
2. Bánh bao nhiều màu sắc, bánh bao Cả Cần
3. Dimsum, há cảo, sủi cảo, hoành thánh
4. Gà hấp muối mỡ (gà Lão Mã)
5. Hủ tiếu sa tế nai
6. Mỳ xào Phúc Kiến (xào tôm, xào hải sản, xào bò...) xào giòn, xào mềm, mỳ vịt tiềm.
7. Đậu phụ thối
8. Chân gà hấp tàu xì
9. Phật nhảy tường
10. Các loại chè: chè mè đen, chè trứng hồng trà, chè đu đủ tiềm, chè ỷ, đậu hũ hạnh nhân, quy linh cao, bo bo sữa Hồng Kông...
Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật
Di tích cấp quốc gia:
Khu trại giam bệnh viện Chợ Quán (nơi đồng chí Trần Phú hy sinh)
Nhà số 5 đường Châu Văn Liêm (nơi đồng chí Nguyễn Tất Thành ở trước khi ra đi tìm đường cứu nước)
Hội quán Nghĩa Nhuận.
Hội quán Tuệ Thành (Chùa Bà).
Hội quán Nghĩa An (Miếu Quan Đế hay Chùa Ông).
Hội quán Lệ Châu (Nhà thờ tổ thợ bạc).
Hội quán Quỳnh Phủ.
Hội quán Hà Chương.
Hội quán Ôn Lăng.
Đình Minh Hương Gia Thạnh.
Miếu Nhị Phủ (Chùa Ông Bổn).
Di tích cấp Thành phố:
Chùa Thiên Tôn.
Đình Tân Kiểng.
Hội quán Phước An.
Từ đường họ Lý.
Từ đường Phước Kiến (trong khuôn viên Bệnh viện Nguyễn Trãi).
Du lịch
Các hoạt động du lịch đặc trưng ở Quận 5 là xem biểu diễn Lân sư rồng, biểu diễn võ thuật như múa kiếm, đao, thương... ca múa hát, thắp đèn trời, treo đèn lồng, đố đèn, đấu giá đèn lồng, dán câu đối, thả cá, đi lễ chùa, đi mua sắm quần áo, đồ gia dụng, đi ăn uống, đi massage thư giãn, viết thư pháp/vẽ tranh/triển lãm tranh, thi đánh cờ...
Quận 5 thu hút du lịch nhất là vào các đêm trăng rằm, đặc biệt là Tết Nguyên Tiêu.
Một số địa điểm nổi tiếng thu hút du khách trong và ngoài nước:
Khách sạn 5 sao Windsor Plaza
Khu phố cổ Hải Thượng Lãn Ông (kinh doanh thuốc Bắc, vàng mã)
Công viên nước Đại Thế Giới
Trung tâm Văn hóa Quận 5, được xây dựng trên nền khu Đại Thế Giới nổi tiếng trước năm 1975 (nơi tổ chức lễ hội Tết Nguyên tiêu hằng năm của Thành phố Hồ Chí Minh)
Chợ Kim Biên
Chợ An Đông, được xây dựng năm 1954
Giao thông
Đường phố
An BìnhAn Dương VươngAn ĐiềmBà TriệuBãi SậyBạch VânBùi Hữu NghĩaCao ĐạtChâu Văn LiêmChiêu Anh CácDương Tử GiangĐào TấnĐặng Thái ThânĐỗ Ngọc ThạnhĐỗ Văn SửuGia PhúGò CôngHà Tôn QuyềnHàm TửHải Thượng Lãn ÔngHọc LạcHồng BàngHùng VươngHuỳnh Mẫn ĐạtKim BiênKý HòaLão TửLê Hồng PhongLê Quang ĐịnhLê Quang SungLương Nhữ HọcLưu Xuân TínLý Thường KiệtMạc CửuMạc Thiên TíchNghĩa ThụcNgô Gia TựNgô Nhân TịnhNgô QuyềnNguyễn An KhươngNguyễn ÁnNguyễn BiểuNguyễn Duy DươngNguyễn KimNguyễn ThiNguyễn Thị NhỏNguyễn Thời TrungNguyễn TrãiNguyễn Tri PhươngNguyễn Văn CừNguyễn Văn ĐừngNhiêu TâmPhan Huy ChúPhan Phú TiênPhan Văn KhỏePhan Văn TrịPhạm BânPhạm ĐônPhạm Hữu ChíPhó Cơ ĐiềuPhú ĐịnhPhú GiáoPhú HữuPhù Đổng Thiên VươngPhùng HưngPhước HưngSư Vạn HạnhTản ĐàTạ UyênTân HàngTân HưngTân ThànhThuận KiềuTống Duy TânTrang TửTrần Bình TrọngTrần Chánh ChiếuTrần ĐiệnTrần HòaTrần Hưng ĐạoTrần PhúTrần Tuấn KhảiTrần Tướng CôngTrần Xuân HòaTriệu Quang PhụcTrịnh Hoài ĐứcVạn KiếpVạn TượngVõ Trường ToảnVõ Văn KiệtVũ Chí HiếuXóm ChỉXóm VôiYết Kiêu
Dự án "Bảo tồn và cải tạo khu phố cổ Chợ Lớn" rộng 68 hecta, trải dài trên Quận 5 và Quận 6 đang được thảo luận và lấy ý kiến nhân dân.
Tên đường của quận 5 trước năm 1975
Bến Hàm Tử, Lê Quang Liêm nay là đường Võ Văn KiệtĐại lộ Đồng Khánh nay là đường Trần Hưng Đạo BĐại lộ Nguyễn Hoàng nay là đường Trần PhúĐại lộ Thành Thái nay là đường An Dương VươngĐại lộ Pétrus Ký nay là đường Lê Hồng PhongĐường Nguyễn Huỳnh Đức nay là đường Trần Tuấn KhảiĐường Bùi Duy Thanh nay là đường Nguyễn Văn ĐừngĐường Châu Văn Tiếp nay là đường Trần Xuân HòaĐường Ngô Quyền, Triệu Đà nay là đường Ngô QuyềnĐại lộ Nguyễn Văn Thoại nay là đường Lý Thường KiệtĐại lộ Trần Hoàng Quân nay là đại lộ Nguyễn Chí ThanhĐại lộ Tổng Đốc Phương nay là đường Châu Văn LiêmĐại lộ Khổng Tử, Trần Thanh Cần nay là đường Hải Thượng Lãn ÔngĐường Nguyễn Văn Thạch nay là đường Nguyễn ThiĐường Lý Thành Nguyên nay là đường Đỗ Ngọc ThạnhĐại lộ Tôn Thọ Tường nay là đường Tạ UyênBến Dương Công Trừng nay là đường Nguyễn Thị NhỏĐường Mạnh Tử nay là đường Dương Tử GiangĐại lộ Minh Mạng nay là đường Ngô Gia TựBến Nguyễn Văn Thành nay là đường Phan Văn Khỏe |
Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm là một phong trào văn hóa mang xu hướng chính trị của một số văn nghệ sĩ, trí thức sống ở miền Bắc dưới chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khởi xướng từ đầu năm 1955 và kết thúc vào tháng 6 năm 1958.
Phong trào này tuyên bố mục tiêu là đòi quyền tự do thể hiện quan điểm chính trị cho giới nghệ sĩ. Tuy nhiên, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho rằng phong trào đã lợi dụng việc sáng tác văn nghệ để tuyên truyền chống phá Nhà nước, khởi nguồn từ một nhóm trí thức bị tình báo nước ngoài cài vào ở miền Bắc nhằm lôi kéo, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, phủ nhận quyền lãnh đạo chính trị và nhà nước duy nhất của Đảng Lao động Việt Nam, gây phương hại đến sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và chủ nghĩa xã hội.
Bối cảnh
Tháng 2 năm 1956, Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức đại hội lần thứ 20. Trong đại hội này, Nikita Khrushchev đọc báo cáo Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó, còn Trung Quốc công bố chính sách Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng. Tháng 4 năm 1956, Phó Thủ tướng thứ nhất của Liên Xô đến Bắc Kinh và Hà Nội để giới thiệu đường lối mới của Liên Xô. Nhiều trí thức tại Việt Nam tìm đọc diễn văn của Lục Định Nhất cổ vũ Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng.
Tại Hội nghị của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội từ cuối tháng 7 năm 1956 đến đầu tháng 8 năm 1956, các đại biểu của ủy ban phê phán nhiều chính sách của Đảng, từ việc thiếu thực phẩm đến thuế. Hội nghị của Hội Văn Nghệ Việt Nam (1/8 đến 18/8) với chừng 300 đại biểu, nhằm học tập tinh thần của nghị quyết Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô và chính sách văn hóa mới của Trung Quốc đưa ra 5 đòi hỏi, trong đó có việc dịch và công bố chính sách Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng của Trung Quốc.
Tháng 8 năm 1956, Đảng Lao động Việt Nam đề ra chính sách nhấn mạnh đoàn kết, tin tưởng và hợp tác với trí thức chứ không nói đến cải tổ. Việt Nam gửi đại diện sang Trung Quốc theo dõi phong trào Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng. Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp từ đầu tháng 9 và kéo dài đến cuối tháng 10. Sau hội nghị, Đảng ra tuyên bố công khai thừa nhận các sai lầm trong chiến dịch cải cách ruộng đất và một số lĩnh vực khác. Tổng Bí thư Đảng Trường Chinh cùng với Thứ trưởng Bộ Nông Lâm Hồ Viết Thắng từ chức. Ngày 30 tháng 10 năm 1956, Đài Phát thanh Hà Nội tường thuật về Hội nghị 10, nói rằng dân chủ hóa và cải thiện đời sống nhân dân nay là hai trọng tâm đầu tiên của Đảng, trong khi việc thống nhất đất nước từ số một chuyển xuống số ba.
Trong bối cảnh này tại Việt Nam và tình hình quốc tế, một nhóm trí thức Việt Nam đã thực hiện Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm, trong một giai đoạn ngắn từ tháng 8 tháng 1956 đến tháng 11 năm 1956.
Khởi nguồn
Tháng 2/1955, khoảng 30 văn nghệ sĩ trong Quân đội Nhân dân Việt Nam viết bản "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hóa", bao gồm ba đề nghị:
Trao sự lãnh đạo văn nghệ cho văn nghệ sĩ;
Thành lập một hội văn nghệ bên trong cơ cấu văn nghệ quân đội;
Bãi bỏ cơ chế quân đội kiểm soát văn nghệ sĩ phục vụ trong quân đội.
Cùng thời điểm đó, nhà thơ Trần Dần dẫn đầu khoảng 20 văn nghệ sĩ đến gặp tướng Nguyễn Chí Thanh, người đứng đầu Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, để đề nghị ba yêu cầu này. Đề nghị này bị tướng Nguyễn Chí Thanh từ chối, ông lên án các văn nghệ sĩ này đã xa rời nguyên tắc kỷ luật và tinh thần chính trị của quân đội, và rằng hành động của họ "chứng tỏ ý thức hệ tư bản đã bắt đầu tấn công các đồng chí".
Cơ quan ngôn luận của phong trào này là báo Nhân Văn, một tờ báo văn hóa, xã hội có trụ sở tại 27 Hàng Khay, Hà Nội, do Phan Khôi làm Chủ nhiệm và Trần Duy làm Thư ký Tòa soạn, cùng với tạp chí Giai Phẩm, hình thành nên nhóm Nhân Văn–Giai Phẩm.
Đến tháng 4/1955, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, bạn thân và đồng nghiệp làm cùng tòa soạn báo với Nguyễn Hữu Đang (người sau này cầm đầu phong trào) bắt đầu khó chịu về tư tưởng của người bạn. Ông ghi trong nhật ký: "Nguyễn Hữu Đang có thái độ tiêu cực. Ở đâu cũng thấy không vừa ý. Người có caractère, ở đâu cũng có ảnh hưởng đến anh em. Anh em tòa soạn khen là chí công, vô tư, nhưng tư tưởng rất là nguy hiểm. Một điển hình của một chiến sĩ làm cách mạng bất mãn".
Trong tạp chí Giai phẩm Mùa xuân được ấn hành tháng 1 năm 1956, do nhà thơ Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương, có bài Nhất định thắng của Trần Dần, miêu tả hoàn cảnh đời sống miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong những ngày đầu đất nước chia cắt. Nhạc sĩ Đỗ Nhuận cho là bài thơ mang nặng thái độ chống phá, "bôi đen" chế độ. Đỗ Nhuận cũng kể rằng sau khi về Hà Nội, Trần Dần đã bắt đầu thể hiện sự lệch lạc tư tưởng: ông nói khi trở về Hà Nội điều trước tiên sẽ là đi tìm "gái nhà thổ", tập hợp gái nhà thổ để liên hoan, rồi lại đặt tên cho chiêu đãi sở của quân đội là cái "nhà phe"
Tháng 8 năm 1956, Phan Khôi có bài "Phê bình lãnh đạo văn nghệ", đăng trong Giai phẩm Mùa thu. Trong số ra mắt ngày 20 tháng 9 năm 1956, bán nguyệt san Nhân Văn đã đăng ngay trên trang nhất bài "Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ". Người được phỏng vấn đầu tiên là luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Ông nêu hai nguyên nhân khiếm khuyết về dân chủ thời bấy giờ:
Đảng viên [Đảng] Lao động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tinh thần dân chủ. Do đó xa lìa quần chúng, và tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình. Để sửa đổi, cần xây dựng quan điểm quần chúng cho đảng viên và cán bộ, và yêu cầu Trung ương Đảng và Chính phủ đảm bảo sự thi hành triệt để các tự do dân chủ.
Quần chúng chưa thấm nhuần tinh thần chủ nhân trên đất nước, do đó chưa tranh đấu đòi thực hiện dân chủ. Để sửa chữa, ta cần xây dựng ý thức dân chủ cho quần chúng.
Loạt bài được dự định tiếp tục với bác sĩ Đặng Văn Ngữ, nhà sử học Đào Duy Anh, nhà văn Nguyễn Đình Thi... nhưng cho đến số cuối cùng được ra mắt là số 5, ngày 20 tháng 11 cùng năm, Nhân Văn chỉ có thể công bố bài phỏng vấn Đặng Văn Ngữ và Đào Duy Anh.
Cũng trong Nhân Văn số 1, Nguyễn Hữu Đang ký tên XYZ (một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh). Trong bài này, Nguyễn Hữu Đang cố ý nhại lại giọng văn của Hồ Chí Minh khi nói chuyện với cán bộ, nhằm tỏ ý giễu cợt Hồ Chí Minh. Nhân Văn số 3 ra ngày 15 tháng 10 đăng bài của Trần Đức Thảo về mở rộng dân chủ, phát triển phê bình trong nhân dân. Trong số cuối cùng, số 5 báo Nhân Văn, Nguyễn Hữu Đang nhận xét về những điều bảo đảm tự do dân chủ trong Hiến pháp Việt Nam 1946 và so sánh với tình hình thực tế lúc bấy giờ.
Hai tác phẩm gây tức giận nhất là của Lê Đạt và Phan Khôi. Lê Đạt viết bài thơ về "ông bình vôi" (cái bình mà người ăn trầu dùng đựng vôi, người ta đổ nước vào rồi lấy cục vôi sống thả vào thành vôi tôi, qua nhiều năm như vậy thì miệng bình ngày càng nhỏ lại do vôi bám vào, cuối cùng bị vứt đi), Nhà nước Việt Nam cho rằng bài thơ mang hàm ý chế giễu Chủ tịch Hồ Chí Minh đã già và vô dụng.
{{cquote|
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại...|||Ông bình vôi - Lê Đạt
}}
Phan Khôi đã viết một bài khảo cứu nhỏ dựa trên bài thơ bốn câu này, ông kể khi 18 tuổi ông đã "hất một loạt ‘ông bình vôi’ thờ trên tường thành xuống đất", được chính quyền hiểu là Phan Khôi muốn ám chỉ về việc lật đổ chính quyền hiện tại. Điều này khiến Đảng Lao động Việt Nam giận dữ.
Nghệ sĩ Mạnh Phú Tư buộc tội Trần Hữu Đang cố ý đứng sau tờ Nhân Văn để bí mật tập hợp các nghệ sỹ có tư tưởng bất mãn:
"Hắn [Trần hữu Đang] lẩn mình và... rút lui vào bí mật. Suốt bốn số báo đầu, người ta không thấy một bài nào ký tên Nguyễn Hữu Đang! (...) Người ta không thấy tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu báo Nhân Văn, nhưng chính hắn là linh hồn của tờ báo. Hắn tìm tiền, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài nhưng lại ký tên người khác. Hắn che lấp những nguồn tài chính, những kẻ cung cấp phương tiện bằng hình thức dối trá là nêu danh những người góp tiền in báo có một nhân lên gấp mười! Hắn họp hành bí mật với một số nhà văn chống Đảng, với những người tư sản và trí thức cũng đang muốn lợi dụng thời cơ để phất lên lá cờ chính trị... Thông qua tờ báo Nhân Văn, hắn đã trở thành một thứ lãnh tụ của một bọn người cơ hội, có âm mưu chính trị..."
Trong thời gian này, một loạt các vụ biểu tình đã biến thành bạo động ở Đông Âu (như cuộc nổi dậy Posener ở Ba Lan, cuộc bạo động ở Hungary, cuộc bạo động ở Tiflis), cũng như tình hình miền Nam Việt Nam đang có những diễn biến phức tạp, gây lo ngại cho Đảng Lao động Việt Nam. Trong khi đó, cuối năm 1956, vài người cầm đầu Nhân Văn-Giai Phẩm đã bộc lộ tư tưởng chống Nhà nước ngày càng công khai trên báo chí. Báo Nhân văn số 6 có bài kích động người dân xuống đường biểu tình. Song Đảng viên, công nhân Nhà in Xuân Thu (nơi in báo Nhân văn) đã phát hiện ra và thông báo với chính quyền để xử lý. Ngày 15 tháng 12 năm 1956, Ủy ban Hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn. Số 6 không được in và phát hành.
Ngoài ra còn tồn tại một mối quan ngại về việc thống nhất đất nước vốn bị chia cắt từ giữa năm 1954, khi những văn nghệ sỹ bất mãn đã tập hợp được một diễn đàn công cộng thì các bài viết của họ sẽ được Hoa Kỳ và chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam sử dụng cho các hoạt động tuyên truyền làm mất uy tín chính phủ. Ở Sài Gòn, chế độ Ngô Đình Diệm đã cho in lại các bài báo Nhân văn–Giai phẩm để làm tài liệu tuyên truyền chống cộng. Ảnh hưởng từ sức ép quốc tế và nguy cơ chính trị trong nước khiến Đảng Lao động Việt Nam phải hành động dứt khoát.
Tổng cộng Nhân Văn ra được 5 số báo và Giai Phẩm ra được 4 số báo (Tháng Ba, Tháng Tư, Tháng Mười và Tháng Chạp 1956) trước khi phải đình bản.
Một số nhân vật liên quan
Một số văn nghệ sĩ tham gia phong trào, hoặc không tham gia nhưng từng viết bài đăng trên báo của phong trào này
Ngược lại, cũng có nhiều văn nghệ sĩ phản đối phong trào này bởi nhiều nguyên nhân khác nhau (người thì phê phán phong trào lợi dụng phê bình nghệ thuật để chệch hướng sang chống đối chính trị, người thì cho rằng phong trào ca ngợi thái quá tác phẩm của họ và cố ý hạ thấp tác phẩm của nghệ sỹ khác)
Trong tập tài liệu "Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận" in tháng 6/1959 tại Hà Nội đã tập hợp bài viết lên án phong trào của 83 văn nghệ sỹ, với những tên tuổi như: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Hồng Cương, Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Hồ Đắc Di, Vũ Đức Phúc, Quang Đạm, Bàng Sĩ Nguyên, Ngụy Như Kontum, Hằng Phương, Lương Xuân Nhị v.v…
Ngày 5/6/1958, tại Hà Nội, hơn 800 văn nghệ sĩ đã ký vào bản nghị quyết có tên là "Nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ" tuyên bố ủng hộ Nghị quyết của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, theo đó lên án phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm, ủng hộ việc khai trừ tư cách hội viên đối với một số cá nhân cầm đầu phong trào.
Chấm dứt phong trào
Ngày 8/7/1957, chiến dịch chống phái hữu ở Trung Quốc bắt đầu. Trong ngày đó, Hồ Chí Minh ghé Bắc Kinh trên đường đi Triều Tiên, Liên Xô và Đông Âu. Trên đường quay về Việt Nam, vào cuối tháng 8/1957, Hồ Chí Minh một lần nữa ghé thăm Trung Quốc và gặp các lãnh đạo Trung Quốc lúc ấy đang bận rộn với chiến dịch chống phái hữu. Theo Trình Ánh Hồng (một nhà nghiên cứu Trung Quốc), có lẽ ông đã bị ấn tượng mạnh về phong trào Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng và ý định cũng như chiến lược của Mao Trạch Đông nhằm buộc những người có quan điểm phản đối Đảng Cộng sản Trung Quốc lộ mình.
Đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tình hình quốc tế cuối năm 1957 và đầu năm 1958 đã chuyển biến rất khác giai đoạn trước đó. Một loạt các vụ biểu tình đã biến thành bạo động ở Đông Âu (như bạo động ở Ba Lan, cuộc bạo động ở Hungary, cuộc bạo động ở Gruzia). Tình hình miền Nam Việt Nam cũng đang có những diễn biến phức tạp (Mỹ tăng cường can thiệp, hậu thuẫn chế độ Ngô Đình Diệm khiến 2 miền bị chia cắt), những điều này gây lo ngại cho Đảng Lao động Việt Nam rằng đất nước sẽ bị xáo trộn nếu người dân bị kích động gây bạo loạn.
Khoảng hai tuần sau khi trở về nước, Hồ Chí Minh dùng bút danh Trần Lực, đăng một bài trên báo Nhân dân ngày 16/9/1957 với tựa đề "Đập tan tư tưởng hữu khuynh", lên án đó là tư tưởng độc hại và dễ lan tràn như cỏ dại, sau đó Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm bị dập tắt. Trước đó, một xã luận của báo Nhân dân ở Việt Nam có viết rằng: "Chúng ta không thể cho phép bất kỳ ai lợi dụng tự do dân chủ và tự do ngôn luận để tách rời nhân dân khỏi Đảng."
Tháng 11/1957, tại Hội nghị Moskva của các đảng cộng sản thế giới, Trung Quốc hợp tác với Liên Xô lên án "khuynh hướng xét lại" trong phong trào cộng sản quốc tế.
Ngày 6/1/1958, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 30 về Văn nghệ, trong đó có đoạn: "Sự hoạt động của những phần tử phá hoại trong giới văn nghệ là một hiện tượng hết sức nguy hiểm, một vấn đề cấp bách cần giải quyết (...) Chúng truyền bá những tài liệu và những báo chí phản động. Dưới chiêu bài "chống giáo điều, máy móc", chúng gieo rắc những nọc độc của chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ, nhằm lôi kéo văn nghệ sĩ đi vào con đường nghệ thuật tư sản suy đồi. Trước những hoạt động có hại đó, số đông văn nghệ sĩ, kể cả một số văn nghệ sĩ đảng viên, đã mất cảnh giác hoặc bị động, không kiên quyết đấu tranh, thậm chí một số còn hùa theo chúng".
Nhà văn Tố Hữu, khi ấy là Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, phụ trách về công tác văn hóa văn nghệ tuyên truyền, được coi là người ủng hộ việc dập tắt phong trào. Trong cuốn Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ mà ông là tác giả, Nhà Xuất bản Văn Hóa in năm 1958, Tố Hữu đã nhận định về phong trào này và những người bị coi là dính líu như sau:
Lật bộ áo "Nhân Văn – Giai Phẩm" thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, Trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm (trang 9).
Trong cái công ty phản động "Nhân Văn - Giai Phẩm" ấy thật sự đủ mặt các loại "biệt tính": từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn Trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ (trg 17).
Báo cáo tổng kết vụ "Nhân Văn – Giai Phẩm" cũng do Tố Hữu viết có kết luận về tư tưởng chính trị và quan điểm văn nghệ của phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm như sau:
Những tư tưởng chính trị thù địch
Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản.
Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo.
Chống lại chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Gieo rắc chủ nghĩa dân tộc tư sản, gãi vào đầu óc Sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Những quan điểm văn nghệ phản động
Nhóm "Nhân Văn – Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, thực tế là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đòi "tự do, độc lập" của văn nghệ, rêu rao "sứ mạng chống đối" của văn nghệ, thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động.
Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu lên "con người" trừu tượng, thực ra chúng đòi văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy.
Nhóm "Nhân Văn – Giai Phẩm" hằn học đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra, chúng phản đối chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng đòi đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa.
Nhóm "Nhân Văn – Giai Phẩm" phản đối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, chúng đòi "trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ", thực ra chúng đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng.
Báo Nhân văn số 6 có bài kích động người dân xuống đường biểu tình. Song Đảng viên, công nhân Nhà in Xuân Thu (nơi in báo Nhân văn) đã phát hiện ra và thông báo với chính quyền để xử lý. Nhà thơ Chính Hữu nhận xét:
"…Lê Đạt đã viết "Bài học về Ba Lan và Hung-ga-ri" trong Nhân Văn số 5... Bài của Lê Đạt đưa ra những nhận định nguy hiểm cho tình hình nước ta lúc đó: "… Nhưng tốc độ và mức độ sửa chữa không kịp với đòi hỏi của tình thế và yêu cầu của quần chúng nên càng thúc đẩy sự công phẫn và phong trào đấu tranh tự phát của quần chúng…" Hai bài báo đó là những lời kêu gọi làm loạn".
Hồng Cương viết: "Nhân cơ hội đó, tất cả các lực lượng đối lập với chủ nghĩa xã hội đều ngóc đầu dậy chống lại sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ. Bọn phản động trong Công giáo hành động phá rối trật tự ở Nghệ An, Nam Định v.v… Sự chống đối của chúng (Nhân Văn Giai Phẩm) không còn tính chất văn nghệ nữa mà đã trở thành một cuộc chống đối về chính trị công khai. Nhóm Giai Phẩm chống Đảng về văn nghệ đã biến thành nhóm phá hoại chính trị trắng trợn... Từ Nhân Văn số 4 trở đi thì chúng đã chuyển hẳn sang chống đối về chính trị, kích động quần chúng biểu tình chống lại Đảng và chính phủ ta nhân lúc Quốc Hội ta đang họp".
Ở Sài Gòn, chế độ Ngô Đình Diệm còn cho in lại các bài báo Nhân văn–Giai phẩm và phân phát rộng rãi để làm tài liệu tuyên truyền chống cộng. Ảnh hưởng từ sức ép quốc tế và nguy cơ chính trị trong nước khiến Đảng Lao động Việt Nam phải hành động dứt khoát để chấm dứt phong trào này.
Sau đó, phần lớn các văn nghệ sĩ tham gia phong trào phải tham gia học chỉnh huấn vì có tư tưởng bị xem là chống lại đường lối của Đảng Lao động Việt Nam. Một số phải ngừng sáng tác một thời gian như Lê Đạt, Trần Dần, số khác không tiếp tục con đường sự nghiệp văn chương. Có 5 người cầm đầu bị tuyên án tù vì tội kích động bạo loạn, hoạt động gián điệp và tiếp tục bị giám sát trong nhiều năm như trường hợp Nguyễn Hữu Đang (cùng Thụy An bị kết án 15 năm tù trong phiên tòa ngày 21/1/1960 tại Hà Nội, đến năm 1973 mới được ra tù nhưng bị quản thúc thêm một thời gian nữa); 3 người còn lại là Minh Đức, Phan Tại và Lê Nguyên Chí cũng chịu phạt giam từ 5 đến 10 năm.
Ngoài những nhân vật liên quan trực tiếp đến phong trào, dư âm của phong trào này kéo dài sang năm kế tiếp. Tháng 2/1957, Đảng Lao động cho thành lập một tổ chức mới là Hội Văn nghệ để tập hợp văn nghệ sĩ. Văn Cao được bầu làm Hội trưởng. Hội đoàn này cho ra tạp chí Văn, số đầu tiên phát hành 5/1957 nhưng được 37 số đến đầu năm 1958 thì bị đình bản. Bộ Chính trị ra quyết nghị đưa gần 500 văn nghệ sĩ đi học chỉnh huấn. Hơn 300 người đã ký tên cam kết chấp hành đường lối chính trị của Đảng.
Các quan điểm
Học giả Việt Nam
Theo cuốn "Đại cương Lịch sử Việt Nam" tập 3 của giáo sư sử học Lê Mậu Hãn, các tài liệu của Đảng Lao động Việt Nam ghi rằng: trong bối cảnh phương Tây đang tiến hành gây rối loạn ở hệ thống xã hội chủ nghĩa, lực lượng tình báo nước ngoài đã kích động một bộ phận văn nghệ sĩ có quan điểm đối lập với Nhà nước tạo nên phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm. Ban đầu, Nhân Văn – Giai Phẩm chỉ phê phán những sai lầm trong chính sách, nhưng về sau dần chuyển sang phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, phủ nhận quyền lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam về Chính trị và Nhà nước. Báo Nhân Văn số 6 thậm chí đã có bài kích động người dân biểu tình, nhưng bị công nhân nhà máy in Xuân Thu phát hiện và ngăn chặn. Sau các biến động trên thế giới, chính quyền quyết định chấm dứt Nhân Văn – Giai Phẩm. Qua đấu tranh, một số người trong nhóm "Nhân Văn-Giai Phẩm" đã tự kiểm điểm, tự phê bình và nhận những sai lầm, đồng thời tiếp tục rèn luyện tư tưởng chính trị. Một số bị xử lý hành chính do những sai phạm, chỉ có số ít hoạt động phạm pháp thì bị xử lý bằng pháp luật.
Các nhân vật trong phong trào
Trong các buổi học chỉnh huấn, Lê Đạt nói rằng Nguyễn Hữu Đang đã lợi dụng ông và các nghệ sĩ khác để phục vụ cho mưu đồ chính trị:
"Âm mưu của Đang sau này là biến Nhà xuất bản Minh Đức thành nhà in đối lập với Hội Nhà văn và tập họp nhóm Nhân văn quanh nhà Minh Đức. Cũng giai đoạn này nổi bật vai trò Thụy An. Nhà Thụy An, Phan Tại như một câu lạc bộ... Thụy An đưa vợ tôi đi may áo, đi mua vải, may áo cho con tôi và đi lấy cả một chiếc giường cũi cho con tôi. Thụy An nghiễm nhiên trở thành thân thuộc với cả gia đình tôi. Mỗi lần tôi gặp Thụy An sau khi nói chuyện về tư sản, tiểu thương bất mãn, chuẩn bị đi Nam, các tin BBC về hiệp thương, lại kể chuyện tướng Pháp Tassigny, chuyện các phóng viên chiến tranh, các tiểu thuyết tư sản, và sau hết đả kích vào sự lãnh đạo của Đảng..."
Sau này, trong nhật ký của Trần Dần (một nhà văn chủ chốt tham gia phong trào), ông viết rằng sau khi đi học chỉnh huấn chính trị, ông đã nhận ra việc Nhân Văn – Giai Phẩm lợi dụng văn nghệ để hoạt động chống đối chính trị, và tỏ ra hối hận khi tham gia phong trào này:
Nhân văn – Giai phẩm thế là đã đứng về phe tư bản chủ nghĩa, phản đối xã hội chủ nghĩa; hơn thế, lớp học trình bày sự thực, làm cho tất thẩy đều thấy rõ chân tướng bọn cầm đầu Nhân Văn – Giai Phẩm, đó là một công ty phá hoại bao gồm những kẻ phản cách mạng, đứa là phần tử Quốc dân Đảng cũ (Phan Khôi), đứa là mật thám trước, đứa là tên bất mãn chống Đảng có lịch sử, đi đến chủ nghĩa Trotskisme (Nguyễn Hữu Đang)... chúng ngoặc với bọn trotkistes Trương Tửu, Trần Đức Thảo, và với bọn gián điệp vẫn liên lạc với mật thám Pháp Sainteny, là Thụy An.
Sớm mai tòa xử Thụy An gián điệp và Nguyễn Hữu Đang phá hoại... Tôi đã từng có đứng với nhóm do Đang cầm đầu. Tôi đã ly khai với "lý tưởng" (Nhân văn –Giai phẩm) đó... Đang đã thấy cái sai lớn của Đang chưa? (...) Tôi cũng không thể nào nhởn nhơ với sự kiện này. Chao ơi!
Tháng 9 năm 1995, Nguyễn Hữu Đang trả lời phỏng vấn của Thụy Khuê cho rằng:
Ý kiến khác
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, trong nhật ký của mình, sau khi nhắc tới tên một số người trong nhóm Nhân văn – Giai phẩm đã phê phán tư tưởng văn nghệ của nhóm này: "Bọn họ có người nói: "Đừng viết nữa, để dành cho trẻ viết". Vô luận một bài, một sáng tác nào của anh em mà họ gọi là "cây đa cây đề", họ đều gạt đi, cho là tồi. Trong khi đó thì họ tâng bốc những bài của họ mà phần lớn là không ngửi được!" (trích nhật ký ngày 23-1-1956).
Nhà giáo Nguyễn Lân tham gia phê phán phong trào Nhân văn Giai phẩm:
Nhà văn Vũ Ngọc Phan nói thêm:
Hầu hết các tiểu thuyết của Trương Tửu, đều bênh vực người nghèo rõ rệt. Sự bênh vực ấy rất chính đáng, nhưng ông đã không đặt sự bênh vực vào chỗ phải chăng. Ông bênh vực cả những hành vi ngang trái và bất lương của họ… nên riêng mảng tiểu thuyết xã hội, ông là một nhà văn có những ý kiến chưa lấy gì làm chín chắn và sâu rộng... Về mặt phê bình, Trương Tửu là một nhà văn thiên vị, chỉ biết theo khuynh hướng chính trị của mình…"
Nhạc sĩ Đỗ Nhuận nhận xét:
Lối văn thơ của Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán trong Giai phẩm–Nhân văn tôi có thể ví như một lối văn cao bồi, đao to búa lớn, chụp mũ vào lãnh đạo khiến cho một số người lầm tưởng là họ có tài. Nhưng thực ra, không ai khen cái tài nói lớn nhưng nói khoác, nói vu cáo, nói phá hoại mà chỉ khen cái tài nói nhỏ nhưng nói thật. Đối với bản thân, Trần Dần và một số người gây ra chuyện Giai phẩm–Nhân văn, họ đã làm cái việc "kiếm củi mười năm, thiêu một giờ". Chúng tôi không nỡ khoanh tay nhìn nhà cháy. Cần phải dập tắt ngọn lửa tai hại đó đi! Sau đó các anh hãy, cần cù mà dựng lại ngôi nhà, làm lại cuộc đời để trả nợ nhân dân.
Theo nhà văn Phạm Khải, việc nhà thơ Tố Hữu tham gia phê phán phong trào này là đúng với nhiệm vụ của ông khi đó (Trưởng ban phụ trách về Tuyên giáo và Văn nghệ). Nhưng về sau, khi một số vụ việc trong quá khứ đã lùi xa, lợi dụng sự thiếu thông tin, một số người đã cố tình tung ra những cách đặt vấn đề làm sai lệch nhận thức của các bạn đọc trẻ, khiến họ lầm tưởng rằng Tố Hữu phê phán phong trào vì họ chê thơ của ông. Qua việc tung tin giả, những người này có một mục đích "sâu xa" khác là hạ uy tín cũng như giá trị sáng tác thơ của Tố Hữu.
Giải thưởng Nhà nước
Vào thời kỳ đổi mới, khi hoàn cảnh thời chiến tranh đã đi qua, một số nghệ sĩ từng tham gia Nhân Văn – Giai Phẩm đã được phong tặng các giải thưởng quan trọng, nhưng một số đã qua đời vì già yếu:
Giải thưởng Hồ Chí Minh: Giáo sư Cao Xuân Huy (về Khoa học Xã hội, 1996); Nhạc sĩ Văn Cao (về Âm nhạc, 1996); Họa sĩ Bùi Xuân Phái (về Hội họa, 1996), Nhà triết học Trần Đức Thảo (về Khoa học Xã hội, 2000); Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý (về Âm nhạc, 2000);
Giải thưởng Nhà nước: Nhà thơ Quang Dũng (về Văn học, 2000). Tháng 2 năm 2007, năm văn nghệ sĩ thuộc Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm gồm Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán, Yến Lan và Hoàng Cầm được Chủ tịch nước Việt Nam ký quyết định tặng thưởng Giải thưởng Nhà nước.
Trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 22 tháng 2 năm 2007, nhà thơ Hoàng Cầm tỏ ý buồn rằng các bạn cũ như Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung.... đã không còn sống để nhận được giải thưởng. Theo ông, thực tế là từ năm 1958 đến nay, tức là gần 50 năm, vụ Nhân Văn – Giai Phẩm mới "được giải tỏa", vì trước đó từ thời Đổi Mới, mọi thứ được bắt đầu phục hồi nhưng không công khai. Cùng ngày, khi trả lời phỏng vấn báo điện tử VietNamNet, nhà thơ Lê Đạt nói: "Tôi nghĩ chuyện giải thưởng này như một câu của ông Đỗ Chu (thành viên của Hội đồng Giải thưởng chuyên ngành Văn học) đã phát biểu: "Có thể cho đây là lời xin lỗi của anh em đối với các anh". Giải thưởng này là cử chỉ đẹp, cho dù là muộn, nhưng muộn còn hơn không".
Thư mục
"Trăm hoa đua nở trên đất Bắc" của Hoàng Văn Chí, Mặt trận Bảo vệ Tự Do Văn Hóa, Sài Gòn, 1959.
"Bọn Nhân văn Giai phẩm trước tòa án dư luận", Nhà Xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1959.
"Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam - Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam" của Georges Boudarel (tiếng Pháp).
Nguyễn Mạnh Tường: hồi ký Un Excommunié - Kẻ bị khai trừ (tiếng Pháp); và tiểu thuyết Une voix dans la nuit - Tiếng vọng trong đêm (tiếng Pháp).
"Nhân văn Giai phẩm và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc" của Nhà phê bình văn học Thụy Khuê, Nhà Xuất bản Tiếng Quê Hương, Virginia Hoa Kỳ, 2012.
Chú thích |
Đô la (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp dollar /dɔlaʁ/), ký hiệu là $, là đơn vị tiền tệ chính thức ở một số quốc gia, khu vực và vùng phụ thuộc trên thế giới. Trong tiếng Việt, từ đô la nếu không có tên quốc gia hay khu vực đặt đằng sau thường được dùng để chỉ đô la Mỹ.
Từ nguyên
Từ đô la trong tiếng Việt bắt nguồn từ từ tiếng Pháp dollar /dɔlaʁ/. Từ dollar trong tiếng Pháp thì bắt nguồn từ từ tiếng Anh dollar.
Tên gọi tiếng Anh dollar liên quan đến các đơn vị tiền trong quá khứ như Tolar ở Bohemia, Thaler hay Taler ở Đức, Daalder ở Hà Lan, và Daler ở Thụy Điển, Đan Mạch và Na Uy. Tên thaler (từ Thal, nay được viết là tal có nghĩa là "thung lũng") có nguồn gốc từ đồng Guildengroschen ("gulden vĩ đại", được đúc bằng bạc nhưng có giá trị bằng đồng guilden bằng vàng) được đúc từ bạc từ một mỏ ở Joachimsthal tại Bohemia (lúc đó một phần của Đế quốc Habsburg). Tên gọi "đô la Tây Ban Nha" (Spanish dollar) được sử dụng cho một đồng tiền bạc của Tây Ban Nha, tên thật là peso, có giá trị tám real, được thịnh hành trong thế kỷ 18 ở các thuộc địa của Tây Ban Nha tại Tân Thế giới. Việc sử dụng của đô la Tây Ban Nha và thaler Maria Theresa làm tiền tệ chính thức trong những năm đầu tiên của Hoa Kỳ là lý do đơn vị tiền tệ của nước này có tên đó. Từ "dollar" đã được sử dụng trong tiếng Anh để chỉ đồng thaler khoảng 200 năm trước Cách mạng Hoa Kỳ. Đồng đô la Tây Ban Nha, còn được gọi là "tám phần" (pieces of eight), được phổ biến ở 13 thuộc địa sau này trở thành Hoa Kỳ, và cũng là tiền tệ chính thức của Virginia.
Trong thế kỷ 17, đồng đô la cũng được sử dụng ở Scotland, và có người cho rằng nó được phát minh tại Đại học St. Andrews.
Các đơn vị tiền tệ có tên là đô la
Đô la Barbados
Đô la Bahamas
Đô la Belize
Đô la Bermuda
Đô la Brunei
Đô la Canada
Đô la Đài Loan mới
Đô la Đông Caribbe
Đô la Fiji
Đô la Guyana
Đô la Hồng Kông
Đô la Jamaica
Đô la Liberia
Đô la Mỹ
Đô la Namibia
Đô la New Zealand
Đô la Quần đảo Cayman
Đô la Quần đảo Solomon
Đô la Quốc tế
Đô la Singapore
Đô la Suriname
Đô la Trinidad và Tobago
Đô la Tuvalu
Đô la Úc
Đô la Zimbabwe
Các đơn vị tiền tệ dùng ký hiệu đô la ($)
escudo (Bồ Đào Nha)
peso (Argentina, Boliva, Chile, Colombia, Cuba, Cộng hòa Dominican, México, Uruguay)
real (Brasil) |
Chấm (Latinh: macula) là một vùng da đổi màu so với màu bình thường, có bờ, không gồ hay lõm so với da xung quanh nên không sờ được. Một số sang thương có thể giống chấm, nhưng lại gồ (tức là sẩn) khi chiếu ánh sáng nghiêng. Điều này quan trọng đối với sang thương nhiễm sắc tố. Chấm có thể có bất kì kích thước nào, nếu lớn hơn 10 mm đường kính nó thường được gọi là đốm (patch). Nguyên nhân của chấm có thể là:
giảm sắc tố (bệnh bạch biến) hay tăng sắc tố—melanin trong các chấm cà phê sữa (cafê-au-lait macule) hay hemosiderin D trong các đốm Mông Cổ,
bất thường mạch máu thường trực trên da, như u mạch mao mạch,
dãn mao mạch thoáng qua (ban đỏ)
Ép một lam kính (kính khám da) lên bờ của sang thương đỏ là cách đơn giản và hiệu quả để phát hiện hồng cầu thoát mạch. Nếu màu đỏ vẫn còn sau khi ép tấm kính, đó có thể là sang thương xuất huyết; nếu màu đỏ biến mất, đó là sang thương ban đỏ do dãn mạch. |
Sẩn (Latinh: papula) là sang thương nông, rắn, thường dưới 0,5 cm đường kính. Sẩn gồ khỏi bề mặt da xung quanh nên sờ được. Sẩn da gồ lên là do lắng đọng chuyển hoá hay thâm nhiễm khu trú hay tăng sản khu trú các yếu tố tế bào ở thượng bì. Sẩn nông có bờ rõ. Sẩn da sâu do thâm nhiễm tế bào có bờ không rõ. Sẩn có bờ rõ thường gặp khi sang thương là kết quả của sự tăng số lượng tế bào thượng bì hay tế bào melanin. Bề mặt sẩn có thể gồm nhiều sùi nhỏ, xếp sát nhau. Mật độ sẩn dày đặc tạo thành mảng. |
Mảng (tiếng Pháp: plaque) là một gồ dạng cao nguyên và chiếm một khoảng da tương đối rộng so với chiều cao của nó. Mảng thường có bờ rõ và thường được tạo thành do nhiều sẩn tập họp lại như trong bệnh vẩy nến hay u sùi dạng nấm (mycosis fungoides). Mảng lichen hoá là mảng rộng, bờ kém rõ ở vùng da trở nên dày và hiện rõ những vết ngang dọc trên da. Quá trình này là kết quả của việc gãi lặp đi lặp lại trên da và thường xuất hiện ở những người có cơ địa dị ứng. Mảng lichen hoá xảy ra điển hình ở viêm da dạng chàm (eczematous dermatitis), nhưng cũng có thể gặp ở bệnh vẩy nến hay u sùi dạng nấm. |
Nốt (Latinh: nodulus) là sang thương tròn hay bầu dục, rắn, sờ được và có thể liên quan đến lớp thượng bì, bì hay mô dưới da. Độ sâu của thương tổn và kích thước giúp phân biệt nốt với sẩn. Nguyên nhân của nốt là do thâm nhiễm, tân sản hay lắng đọng chuyển hoá ở lớp bì hay mô dưới da và thường là biểu hiện cho bệnh hệ thống. Thí dụ như lao, nhiễm nấm sâu, lymphoma, khối tân sinh di căn có thể có biểu hiện nốt ở da. Nốt có thể do tăng sinh lành tính hay ác tính tế bào keratin như trong u gai giác mạc (keratocanthoma) và carcinoma tế bào vẩy và tế bào đáy. Các nốt da không đau, tồn tại lâu là dấu hiệu quan trọng của bệnh đa hệ thống, cần thiết làm sinh thiết và cấy mẫu da. |
Hòa Bình là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc Bộ, Việt Nam. Tỉnh Hòa Bình có diện tích lớn thứ 29 trong 63 tỉnh thành của Việt Nam và là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 49 về số dân (năm 2018).
Năm 2018, xếp thứ 47 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 30 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 20 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 846,1 nghìn dân, GRDP đạt 40.867 tỉ Đồng (tương ứng với 1,7749 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 48,3 triệu đồng (tương ứng với 2.098 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,36%.
Hòa Bình có vị trí ở phía nam Bắc Bộ, giới hạn ở tọa độ 20°19' - 21°08' vĩ độ Bắc, 104°48' - 105°40' kinh độ Đông, tỉnh lỵ là thành phố Hòa Bình nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội 73 km.
Địa lý
Cũng giống như Ninh Bình và Thanh Hóa, tỉnh Hòa Bình nằm giáp ranh giữa ba khu vực: Tây Bắc Bộ, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ của Việt Nam.
Tỉnh Hòa Bình có vị trí địa lý:
Phía bắc giáp tỉnh Phú Thọ
Phía đông giáp tỉnh Hà Nam, tỉnh Ninh Bình và thủ đô Hà Nội
Phía tây giáp tỉnh Sơn La
Phía nam giáp tỉnh Thanh Hóa.
Các điểm cực của tỉnh Hòa Bình:
Điểm cực bắc tại: xóm Nghê, xã Nánh Nghê, huyện Đà Bắc.
Điểm cực tây tại: xã Cun Pheo, huyện Mai Châu.
Điểm cực đông tại: thôn Ngọc Lâm, xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy.
Điểm cực nam tại: xóm Hổ, xã Ngọc Lương, huyện Yên Thủy.
Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 4.662.5 km², chiếm 1,41% tổng diện tích tự nhiên của Việt Nam.
Hòa Bình là tỉnh miền núi, tiếp giáp với phía tây đồng bằng sông Hồng, Hòa Bình có địa hình núi trung bình, chia cắt phức tạp, độ dốc lớn và theo hướng tây bắc - đông nam, phân chia thành 2 vùng: vùng núi cao nằm về phía tây bắc có độ cao trung bình từ 600 – 700 m, địa hình hiểm trở, diện tích 212.740 ha, chiếm 44,8% diện tích toàn vùng; vùng núi thấp nằm ở phía đông nam, diện tích 262.202 ha, chiếm 55,2% diện tích toàn tỉnh, địa hình gồm các dải núi thấp, ít bị chia cắt, độ dốc trung bình từ 20 – 250, độ cao trung bình từ 100 – 200 m.
Bên cạnh đó, hệ thống sông ngòi trên địa bàn tỉnh phân bố tương đối đồng đều với các sông lớn như sông Đà, sông Mã, sông Bưởi, sông Lạng, sông Bùi...
Hòa Bình có khí hậu cận nhiệt đới ẩm, mùa đông phi nhiệt đới khô lạnh, ít mưa; mùa hè nóng, mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình hàng năm trên 23 °C. Tháng 7 có nhiệt độ cao nhất trong năm, trung bình 27 - 29 °C, ngược lại tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất, trung bình 15,5 - 16,5 °C.
Hành chính
Tỉnh Hòa Bình có 10 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố và 9 huyện với 151 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 12 phường, 10 thị trấn và 129 xã.
Lịch sử
Tỉnh Hòa Bình được thành lập ngày 22 tháng 6 năm 1886 theo nghị định của Kinh lược Bắc Kỳ với tên gọi là tỉnh Mường, tách phần đất có người Mường cư trú từ các tỉnh Hưng Hóa, Sơn Tây và Ninh Bình. Tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Chợ Bờ (thuộc châu Đà Bắc) nên cũng còn gọi là tỉnh Chợ Bờ. Ngày 29 tháng 11 năm 1886, Tổng sứ Trung - Bắc Kỳ ra quyết định chuyển tỉnh lỵ về Phương Lâm (trước đó thuộc huyện Bất Bạt, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây).
Theo Nghị định ngày 27/12/1888, tỉnh lỵ lại chuyển về Chợ Bờ, do Phó công sứ Moulié (1888 - 1890) cầm đầu. Ban đầu tỉnh gồm cả Mộc Châu, Yên Châu và Phù Yên Châu (tháng 7 năm 1888, cắt 3 châu này để nhập vào Đạo Quan binh thứ tư, sau thuộc Sơn La), cùng với vùng có dân tộc Mường thuộc hai châu Thanh Sơn và Yên Lập (tháng 10 năm 1888, cắt 2 châu này về tỉnh Hưng Hóa).
Sau cuộc tấn công bất ngờ của nghĩa quân Đốc Ngữ vào Chợ Bờ đêm 29 rạng ngày 30 tháng 1 năm 1891, phó công sứ Pháp Rougery (người thay thế J. Morel cuối năm 1890) bị giết chết ở sở tại. Sau khi De Goy lên làm Công sứ Hoà Bình ít lâu (thay thế Rougery), ngày 18 tháng 3 năm 1891, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuyển tỉnh lỵ tỉnh Mường về làng Vĩnh Diệu, xã Hòa Bình (nằm ở tả ngạn sông Đà, đối diện với Phương Lâm) và đổi tên tỉnh thành Hòa Bình, nhưng vẫn duy trì nhiệm sở ở Chợ Bờ.
Đến ngày 5 tháng 9 năm 1896, tỉnh lỵ chính thức được chuyển về xã Hòa Bình, do Ganella làm Công sứ Hoà Bình (1891 - 1899). Tỉnh Hòa Bình khi đó có 6 châu: Kỳ Sơn, Lạc Sơn, Lạc Thủy, Lương Sơn, Mai Châu (châu Mai) và Đà Bắc.
Ngày 24 tháng 10 năm 1908, thời Regnier làm Công sứ (1908 - 1910), châu Lạc Thủy chuyển sang tỉnh Hà Nam, và đến ngày 1 tháng 12 năm 1924, một số xã của Lạc Thủy được nhập vào phủ Nho Quan thuộc tỉnh Ninh Bình - Công sứ Hoà Bình lúc ấy là Collet (1924 - 1925)
Năm 1939, hợp nhất châu Mai (tức Mai Châu) và châu Đà Bắc thành châu Mai Đà.
Trong kháng chiến chống Pháp, Hòa Bình có 4 huyện: Lương Sơn, Kỳ Sơn, Lạc Sơn, Mai Đà, riêng huyện Lạc Thủy vẫn thuộc tỉnh Hà Nam, sau này mới trả về Hòa Bình. Ba huyện của Hòa Bình (Lương Sơn, Kỳ Sơn, Lạc Sơn) thuộc Liên khu 3, trong khi huyện Mai Đà lại thuộc Liên khu Việt Bắc từ tháng 11 năm 1949 cho đến ngày 9 tháng 8 năm 1950 mới trả về Liên khu 3.
Ngày 21 tháng 9 năm 1956, huyện Mai Đà chia thành 2 huyện: Đà Bắc ở phía bắc sông Đà và Mai Châu ở phía nam sông Đà.
Ngày 15 tháng 10 năm 1957, huyện Lạc Sơn chia thành 2 huyện: Lạc Sơn và Tân Lạc.
Ngày 17 tháng 4 năm 1959, huyện Lương Sơn chia thành 2 huyện: Lương Sơn và Kim Bôi.
Ngày 17 tháng 8 năm 1964, huyện Lạc Thủy chia thành 2 huyện: Lạc Thủy và Yên Thủy.
Ngày 27 tháng 12 năm 1975, tỉnh Hòa Bình hợp nhất với tỉnh Hà Tây thành tỉnh Hà Sơn Bình. Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 9 ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Hà Sơn Bình tách ra thành 2 tỉnh Hòa Bình và Hà Tây. Khi đó tỉnh có diện tích là 4.697 km², với dân số 670.000 người, gồm thị xã Hòa Bình và 9 huyện: Đà Bắc, Mai Châu, Lương Sơn, Kỳ Sơn, Lạc Sơn, Lạc Thủy, Kim Bôi, Tân Lạc, Yên Thủy.
Ngày 12 tháng 12 năm 2001, huyện Kỳ Sơn chia thành 2 huyện: Kỳ Sơn và Cao Phong. Tỉnh Hòa Bình có 11 đơn vị hành chính cấp huyện.
Ngày 27 tháng 10 năm 2006, chuyển thị xã Hòa Bình thành thành phố Hòa Bình.
Ngày 1 tháng 8 năm 2008, 4 xã: Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung thuộc huyện Lương Sơn được sáp nhập vào thành phố Hà Nội (nay thuộc các huyện Thạch Thất và Quốc Oai).
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của huyện Kỳ Sơn vào thành phố Hòa Bình.
Tỉnh Hòa Bình có 1 thành phố và 9 huyện như hiện nay.
Dân cư
Hòa Bình hiện có 854.131 dân (tính đến ngày 1/4/2019). Theo thống kê dân số toàn quốc năm 1999, trên địa bàn tỉnh có 6 dân tộc sinh sống, đông nhất là người Mường chiếm 63,3%; người Kinh chiếm 27,73%; người Thái chiếm 3,9%; người Dao chiếm 1,7%; người Tày chiếm 2,7%; người Mông chiếm 0,52%; ngoài ra còn có người Hoa sống rải rác ở các địa phương trong tỉnh. Người Hoa trước đây sống tập trung ở Ngọc Lương, Yên Thủy; nhưng sau năm 1979 còn lại một số gia đình và hiện nay sống phân tán ở các xã Yên Trị, Ngọc Lương và Phú Lai huyện Yên Thủy. Ngoài ra, còn có một số người thuộc các dân tộc khác chủ yếu do kết hôn với người Hòa Bình công tác ở các tỉnh miền núi khác. 15,7% dân số sống ở đô thị và 84,3% dân số sống ở nông thôn. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đặt 33,42%.
Hòa Bình là một trong chín tỉnh của Việt Nam mà trong đó có người Việt (Kinh) không chiếm đa số, đồng thời tỉnh này cũng được coi là thủ phủ của người Mường, vì phần lớn người dân tộc Mường sống tập trung chủ yếu ở đây. Người Mường xét về phương diện văn hóa - xã hội là dân tộc gần gũi với người Kinh nhất. Địa bàn cư trú của người Mường ở khắp các địa phương trong tỉnh, sống xen kẽ với người Kinh và các dân tộc khác.
Người Kinh, sống ở khắp nơi trong tỉnh. Những người Kinh sống ở Hòa Bình đầu tiên đã lên tới 4-5 đời; nhưng đa số di cư tới Hòa Bình từ những năm 1960 của thế kỉ trước, thuộc phong trào khai hoang từ các tỉnh đồng bằng lân cận (Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Tây...). Trong những năm gần đây, sự giao lưu về kinh tế và văn hóa mở rộng, nhiều người Kinh từ khắp các tỉnh thành đều tìm kiếm cơ hội làm ăn và sinh sống ở Hòa Bình.
Người Thái, chủ yếu sống tập trung ở huyện Mai Châu. Tuy sống gần với người Mường lâu đời và đã bị ảnh hưởng nhiều về phong tục, lối sống (đặc biệt là trang phục), nhưng vẫn giữ được những nét văn hóa độc đáo. Đây là vốn quý để phát triển du lịch công động và bảo lưu vốn văn hóa truyền thống. Hiện nay, khu du lịch Bản Lác là một trong những điểm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước hàng đầu ở Hòa Bình.
Người Tày, chủ tập trung ở huyện Đà Bắc, sống xen kẽ với người Mường, người Dao. Người Tày có tập quán và nhiều nét văn hóa gần giống với người Thái, đặc biệt là ngôn ngữ. Tuy nhiên, xét theo khía cạnh trang phục thì người Tày ở Đà Bắc giống người Thái trắng thuộc các huyện Phù Yên, Bắc Yên (tỉnh Sơn La).
Người Dao sống thành cộng đồng ở các huyện Đà Bắc, Lương Sơn, Kim Bôi, Cao Phong và thành phố Hòa Bình. Người H'mông sống tập trung ở xã Hang Kia và Pà Cò của huyện Mai Châu. Trước đây hai dân tộc này sống du canh du cư, nhưng từ những năm 70-80 đã chuyển sang chế độ đinh canh, định cư và đã đạt được những thành tựu đáng kể về phương diện kinh tế - xã hội.
Với sự đa dạng về sắc tộc như vậy và đặc biệt gần với đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội chỉ khoảng từ 80 tới 100 km, kết hợp với các điều kiện địa hình, phong cảnh của tỉnh; thì đây là tiềm năng lớn để phát triển du lịch.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 7 tôn giáo khác nhau đạt 35.836 người, nhiều nhất là Công giáo có 27.660 người, tiếp theo là Phật giáo có 2.120 người. Còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo có 25 người, đạo Tin Lành có 23 người, Phật giáo Hòa Hảo có năm người, đạo Cao Đài có hai người và 1 người theo Bửu Sơn Kỳ Hương.
Văn hóa
Phong tục
Trên địa bàn tỉnh cơ bản có bảy thành phần dân tộc sinh sống. Các dân tộc vừa giữ gìn bản sắc văn hóa riêng của mình, vừa bảo tồn tính đa dạng của văn hóa các dân tộc khác trong cộng đồng. Người Tày Thái sinh sống trong tỉnh có nhiều nét giống nhau trong phong tục và sinh hoạt. Dân tộc Mường có nền văn học dân gian phong phú như: hát ví Mường với nhạc trống đồng, nhạc cồng, trường ca Đẻ đất đẻ nước... Dân tộc Thái có làn điệu dân ca Thái tính cộng đồng cao. Số ít người Mông trong tỉnh có múa khèn, múa ô... Sản phẩm rượu cần trong các dịp lễ tết, hội hè tiếp khách quý của người Mường, người Thái là nét văn hóa độc đáo không thể thiếu trong bản sắc của con người sinh sống trên mảnh đất miền hạ sông Đà.
Ẩm thực
Hòa Bình là tỉnh chuyển tiếp giữa vùng đồng bằng sông Hồng và vùng núi Tây Bắc, Việt Bắc, vùng Bắc Trung Bộ. Là nơi có nhiều dân tộc sinh sống nên đặc sản, ẩm thực của tỉnh rất phong phú: cơm lam Hòa Bình, cam Cao Phong, lợn mán thui luộc, chè san tuyết Pà Cò, rượu Đù Địn, bánh uôi, mận Hang Kia, gà đồi Hương Nhượng, khoai sọ Phúc Sạn, rau rừng đồ, quýt đường Ôn Châu, rượu cần Mường, tiết canh Hòa Bình, ong rừng xáo măng Mai Châu, su su Lũng Vân, rau sắn nấu chua, rượu cần, hạt dổi Lạc Sơn, cá nướng sông Đà, sâu Lạc Sơn, canh loóng chuối, mía tím Hòa Bình, quất hồng bì Kỳ Sơn, dê núi, bánh dày Hang Kia, chả rau đáu, hạt dổi Chí Đạo, khoai lang Ba Khan, măng đắng Hòa Bình, mật ong Tự Do, lợn rừng xiên nướng bản Lác, canh rau đắng Lạc Sơn, bí đao Kim Bôi, chả cuốn lá bưởi, canh môn nấu da trâu khô, rượu Mai Hạ, nậm pịa Mai Châu, nhãn Sơn Thủy, quả lặc lè, vịt bầu Bến, cá ngần sông Đà, mật ong Lạc Sỹ, quýt Nam Sơn, thịt trâu lá lồm, dưa bở Mỵ Hòa, thịt lợn muối chua, rau sắng, gà chạy bộ Thung Nai, ốc núi Hòa Bình, củ dong Cao Sơn, xôi nếp nương Mai Châu, gà ri Lạc Thủy, tỏi tía Thành Sơn, gà nấu măng chua hạt dổi, bưởi đỏ Tân Lạc.
Lễ hội
Hội xên bản, xên mường: Hàng năm vào mùa xuân khi hoa ban nở trắng khắp núi đồi và nghe thấy tiếng sấm nơi đầu nguồn sông Đà thì cũng là lúc người dân huyện Mai Châu tổ chức lễ hội. Hội xên bản mường là hội cầu mùa, cầu phúc họ gửi gắm vào đó những ước vọng về cuộc sống yên bình ấm no trong bản. Lễ hội cũng là dịp trai gái vui chơi tìm hiểu nhau trong tiếng đàn, tiếng hát.
Hội cầu mưa (dân tộc Thái): hàng năm vào khoảng tháng Ba, tháng Tư âm lịch thời tiết hanh khô chuẩn bị bước sang mùa hè thì người Thái tổ chức lễ hội cầu mưa.
Lễ cầu mát: Đây là tục lệ của cư dân Mường vùng Hòa Bình. Vào buổi lễ thầy mo cầu khấn bốn vị: Trời, Đất, Nước, Lửa phù hộ cho dân bản luôn được mát mẻ. Lễ cũng được tổ chức sau khi một gia đình nào có hỏa hoạn.
Lễ cầu phúc bản mường: Lễ hội được tổ chức bởi cộng đồng người Thái ở Mai Châu, mục đích cầu thần phù hộ dân bản và cúng rửa lá lúa, xua đuổi thần Trùng. Vào ngày lễ hội, các miếu thờ thổ công, thổ địa ở các bản được sửa sang sạch sẽ, bờ ruộng nương cũng được tu sửa, be cao để đón nước.
Lễ hội rửa lá lúa ở Mường Bi vào tháng 7, tháng 8 lúc cây lúa bắt đầu ra hạt. Thầy mo cùng dân bản cúng tại ruộng lúa cầu mong cho mùa màng tươi tốt, sâu bệnh không phá hoại.
Lễ cơm mới: có trong cộng đồng người Mường Bi ở Hòa Bình. Dịp lễ hội các gia đình soạn cỗ mừng vụ thu hoạch, cúng vía lúa, cúng ông bà cha mẹ tỏ lòng thành kính.
Lễ khẩn chiêm: đây là lễ cúng cầu lúa mùa của người Dao ở Hòa Bình được tổ chức vào đầu tiết lập hạ. Đây là lễ cầu đất trời, tổ tiên phù hộ cho một năm làm ăn tốt lành.
Hội xéc bùa: hay còn gọi là hội cồng chiêng của dân tộc Mường vùng Hòa Bình. Xéc bùa là xách cồng chiêng đi hát của các phường bùa. Phường bùa gồm những người biết hát và đánh cồng chiêng, đọc theo lối ứng khẩu.
Mo Mường là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đang được đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Giao thông
Đường bộ
Các đường giao thông quan trọng trên địa bàn tỉnh như:
Quốc lộ 6 đi qua các huyện Lương Sơn, thành phố Hòa Bình, huyện Tân Lạc, Mai Châu nối liền Hòa Bình với thủ đô Hà Nội và các tỉnh tây bắc khác, điểm gần trung tâm Hà Nội nhất trên quốc lộ 6 của Hòa Bình thuộc huyện Lương Sơn là gần 40 km.
Quốc lộ 15A đi từ huyện Mai Châu nối quốc lộ 6 với các huyện vùng cao tỉnh Thanh Hóa.
Quốc lộ 12B nối thẳng quốc lộ 6 (ở Mãn Đức - Tân Lạc) đi qua các huyện Tân Lạc, Lạc Sơn, Yên Thủy và tỉnh Ninh Bình là con đường ngắn nhất từ tây bắc xuyên ra Biển Đông.
Quốc lộ 21A có điểm đầu là ngã ba giao cắt với quốc lộ 32, trước cửa ngõ vào thị xã Sơn Tây, điểm cuối là thị trấn Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định qua thị trấn Xuân Mai Hà Nội qua các huyện Lương Sơn, Kim Bôi, Lạc Thủy xuống Phủ Lý.
Quốc lộ 21C có điểm đầu là ngã ba giao cắt với Đường vành đai 3 (Hà Nội) tại Hoàng Mai, điểm cuối là nút giao Mai Sơn, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình qua huyện Lạc Thủy.
Quốc lộ 37C nối từ Hưng Thi (Lạc Thủy) qua Nho Quan, Gia Viễn (Ninh Bình) tới Ý Yên (Nam Định).
Đường Hồ Chí Minh chạy song song với quốc lộ 21, giao với quốc lộ 12B tại thị trấn Ba Hàng Đồi và quốc lộ 12A tại địa bàn giáp ranh giữa xã Yên Nghiệp của huyện Lạc Sơn và xã Lạc Thịnh của huyện Yên Thủy.
Đường cao tốc Hà Nội – Hòa Bình – Sơn La – Điện Biên đi qua các huyện thị thành phố Hòa Bình, Đà Bắc, Mai Châu.
Các tuyến đường chính này nối với hệ thống đường nối liền các huyện, xã trong tỉnh với thị xã và với các huyện, tỉnh bạn rất thuận lợi cho giao lưu kinh tế - xã hội.
Đường thủy
Hệ thống sông ngòi thủy văn: Hòa Bình có mạng lưới sông suối phân bổ tương đối dày và đều khắp ở các huyện. Sông Đà là sông lớn nhất chảy qua tỉnh có lưu vực 15.000 km² chảy qua các huyện Mai Châu, Đà Bắc, Tân Lạc và thành phố Hòa Bình với tổng chiều dài là 151 km. Hồ sông Đà có dung tích 9,5 tỷ m3 nước nối liền với Sơn La, phần hạ lưu chảy qua Phú Thọ, Hà Tây thông với sông Hồng, được điều tiết nước bởi hồ sông Đà, tại đây có thể phát triển vận tải thủy thuận lợi, có hiệu quả; sông Bưởi bắt nguồn từ xã Phú Cường, huyện Tân Lạc, dài 55 km; sông Bôi bắt nguồn từ xã Thượng Tiến, huyện Kim Bôi, dài 125 km; sông Bùi bắt nguồn từ xã Lâm Sơn huyện Lương Sơn, dài 32 km; sông Lạng bắt nguồn từ xã Bảo Hiệu huyện Yên Thủy, dài 30 km.
Kinh tế
Thủy điện
Hòa Bình cũng là nơi đặt Nhà máy Thủy điện Hòa Bình công suất thiết kế đạt 1.920 megawatt, được xây dựng tại hồ Hòa Bình, trên dòng sông Đà. Nhà máy Thủy điện Hòa Bình là một trong các nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Đây là một công trình do Liên Xô viện trợ cho Việt Nam. Công trình khởi công ngày 6 tháng 11 năm 1979, khánh thành ngày 20 tháng 12 năm 1994. Ngoài tác dụng phát điện, nhà máy này còn có chức năng ngăn lũ cho sông Hồng, cung cấp nước tưới tiêu và cải thiện giao thông đường thủy.
Nông nghiệp
Nhiều vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh nguyên liệu tập trung được phát triển và nhân rộng như: vùng cam huyện Cao Phong; vùng mía tím huyện Tân Lạc, Lạc Sơn, Cao phong; vùng gỗ, luồng nguyên liệu ở huyện Đà Bắc, Mai Châu; vùng lạc, đậu ở huyện Lạc Sơn, Yên Thủy; vùng cây dưa hấu ở huyện Lạc Thủy, Kim Bôi; vùng cây dược liệu ở Tân Lạc, Lạc Sơn; vùng chè ở huyện Lương Sơn, Mai Châu, Đà Bắc.
Đá thủ công mỹ nghệ
Làng nghề đá thủ công mỹ nghệ Sỏi, huyện Lạc Thủy là cái nôi của những sản phẩm đồ đá nổi tiếng như bàn ghế đá, lavabo đá (chậu rửa đá), tượng đá,... Với nguồn nguyên liệu đá sẵn có, cùng bàn tay điêu luyện lành nghề của những nghệ nhân hàng chục năm trong nghề các sản phẩm luôn được đánh giá cao. Làng Sỏi bao bọc những cụm KCN Phú Thành I, II và là nơi có nhiều công ty toạ lạc mang đến sự phát triển vượt bậc cho địa phương nói riêng và toàn tỉnh nói chung.
Du lịch
Địa hình đồi núi trùng điệp với các động thác Bờ, Hang Rết, động Hoa Tiên, vùng rừng nhiệt đới nguyên sinh Pù Noọc mở ra những tuyến du lịch mạo hiểm leo núi, đi bộ, săn bắn, tắm suối. Sức người và thiên nhiên đã tạo cho Hòa Bình một vùng hồ sông Đà thơ mộng cho phép phát triển du lịch vùng lòng hồ và ven hồ có đầy đủ vịnh, đảo và bán đảo mà ở đó động thực vật quý hiếm được bảo tồn. Thấp thoáng các bản Mường, bản Dao, bản Tày rải rác ven hồ, ven thung lũng tạo nên bức tranh sơn thủy hữu tình.
Hòa Bình là một tỉnh có khá nhiều những suối nước khoáng nóng, những thung lũng hoang sơ huyền bí. Tiêu biểu nổi bật như:
Suối nước khoáng Kim Bôi với nguồn nước phun lên ở nhiệt độ 36 °C, đủ tiêu chuẩn dùng làm nước uống, để tắm, chữa bệnh. Nước suối Kim Bôi đã được đóng chai làm nước giải khát, nó cùng loại với nước khoáng Thạch Bích ở Quảng Ngãi, Kum-dua ở Nga và Paven Barbia của Hungari.
Thung lũng Mai Châu thuộc huyện lỵ Mai Châu là một thung lũng với đồng lúa và những nếp nhà sàn được quy hoạch bảo tồn phục vụ du lịch.
Đà Bắc- một huyện vùng cao thích hợp cho du khách tham quan du lịch sinh thái và văn hóa. Đà Bắc với cảnh quan nguyên sơ yên ả, thơ mộng của thị trấn miền núi tây bắc.
Những hang động thiên tạo đa dạng hình thù có đỉnh Phù Bua bốn mùa mây phủ. Có bản Nanh, bản Nưa của người Mường, người Dao và xen kẽ một số gia đình người Thái, với những mái nhà sàn cổ.
Lương Sơn - huyện cửa ngõ của tỉnh Hòa Bình, nới tiếp giáp giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng và miền núi tây bắc, với vị trí chỉ cách Hà Nội khoảng 40 km tiện lợi về giao thông, là nơi tập trung rất nhiều khu du lịch sinh thái, địa điểm giải trí. |
Việt Nam qua các thời kỳ, triều đại nhà nước khác nhau với những tên gọi hoặc quốc hiệu khác nhau. Bên cạnh đó, cũng có những danh xưng chính thức hoặc không chính thức để chỉ một vùng lãnh thổ thuộc Việt Nam.
Tổng quát
Tên gọi của các nhà nước/triều đại
Dưới đây là danh sách tên gọi các nhà nước/triều đại từng tồn tại ở Việt Nam theo dòng lịch sử. Các quốc hiệu này đều được ghi chép trong các sách sử Việt Nam, hoặc được chính thức sử dụng trong nghi thức ngoại giao quốc tế.
Văn Lang
Văn Lang (chữ Hán: 文郎) được coi là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam. Quốc gia này có kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Lãnh thổ bao gồm khu vực đồng bằng sông Hồng và 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Quốc gia này tồn tại cho đến năm 258 TCN rồi bị thay thế bởi Âu Lạc.
Âu Lạc
Năm 257 TCN, nước Âu Lạc (甌雒, 甌駱, 甌貉) được dựng lên, từ việc liên kết các bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán – An Dương Vương. Âu Lạc có lãnh thổ bao gồm phần đất của Văn Lang trước đây cộng thêm vùng núi Đông Bắc Việt Nam và 1 phần Tây Nam Quảng Tây (Trung Quốc).
Khoảng cuối Thế kỷ 3 TCN, đầu Thế kỷ 2 TCN (năm 208 TCN hoặc 179 TCN), Triệu Đà (Quận úy Nam Hải – nhà Tần) tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại, nhà nước Âu Lạc bị xóa sổ.
Lĩnh Nam
Năm 40, Hai Bà Trưng đã khởi nghĩa chống lại sự cai trị của nhà Hán. Sử cũ ghi chép hai bà đã lấy được 65 thành trì của nhà Hán tại các quận Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ, Hợp Phố, Nam Hải,... Hai bà xưng vương, với câu hịch nối lại nghiệp xưa vua Hùng, lập tên nước là Lĩnh Nam (嶺南), đóng đô tại Mê Linh, ngày nay thuộc huyện Mê Linh, Hà Nội. Trưng Trắc được bầu làm vua (Đế) của Lĩnh Nam, Trưng Nhị được bầu làm vương của Giao Chỉ, 6 quận của Lĩnh Nam là: Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ, Tượng Quận, Nam Hải và Quế Lâm mỗi quận có 1 vương gia. Năm 43, khởi nghĩa Hai Bà Trưng bị đàn áp, bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc lần II.
Vạn Xuân
Vạn Xuân (萬春) là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi khỏi triều đình trung ương Trung Hoa của nhà Tiền Lý dưới sự lãnh đạo của Lý Nam Đế. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602 thì bị nhà Tùy tiêu diệt.
Đại Cồ Việt
Đại Cồ Việt (大瞿越) là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Đinh đến đầu thời nhà Lý, do Đinh Tiên Hoàng thiết đặt năm 968. Quốc hiệu này tồn tại 87 năm cho đến năm 1054, đời vua Lý Thánh Tông thì đổi sang quốc hiệu khác.
Đại Việt
Đại Việt (大越) là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lý, bắt đầu từ năm 1054, khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi. Quốc hiệu này tồn tại lâu dài nhất, dù bị gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh, kéo dài đến năm 1804, trải qua các vương triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, khoảng 724 năm.
Đại Ngu
Đại Ngu (大虞) là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ. Quốc hiệu Đại Việt được đổi thành Đại Ngu năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền. Sau khi nhà Hồ bị thất bại trước nhà Minh, và nhà Hậu Lê giành lại độc lập cho Việt Nam, quốc hiệu của Việt Nam đổi lại thành Đại Việt.
Về quốc hiệu này, theo truyền thuyết, họ Hồ là con cháu vua Ngu Thuấn (là một trong Ngũ Đế nổi tiếng ở Trung Hoa thời thượng cổ); sau này con Ngu Yên là Vĩ Mãn được Chu Vũ vương của nhà Chu phong cho ở đất Trần gọi là Hồ Công, sau dùng chữ Hồ làm tên họ. Hồ Quý Ly nhận mình là dòng dõi họ Hồ, con cháu Ngu Thuấn, nên đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Chữ Ngu (虞) ở đây có nghĩa là "sự yên vui, hòa bình", chứ không phải là từ "ngu" trong từ "ngu si" (愚癡).
Việt Nam
Quốc hiệu Việt Nam (越南) chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long đã dâng biểu đề nghị vua Gia Khánh nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt, với lý lẽ rằng "Nam" có ý nghĩa "An Nam" còn "Việt" có ý nghĩa "Việt Thường". Tuy nhiên, tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của quốc gia cổ Nam Việt thời nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa lúc bấy giờ. Nhà Thanh yêu cầu nhà Nguyễn đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn, và chính thức tuyên phong tên này năm 1804.Giáp Tý, Gia Long năm thứ 3 [1804] (nhà Thanh năm Gia Khánh thứ 9), mùa xuân, tháng Giêng, sứ nhà Thanh là Án sát Quảng Tây Tề Bố Sâm đến cửa Nam Quan. [Trước đó] mùa hạ năm Nhâm Tuất [1801], [Gia Long] sai Trịnh Hoài Đức vượt biển đưa những sắc ấn của Tây Sơn trả lại nhà Thanh. [Sau đó] lại sai Lê Quang Định sang xin phong và xin đổi quốc hiệu: "Các đời trước mở mang cõi viêm bang, mỗi ngày một rộng, bao gồm cả các nước Việt Thường, Chân Lạp, dựng quốc hiệu là Nam Việt, truyền nối hơn 200 năm. Nay đã quét sạch miền Nam, vỗ yên được toàn cõi Việt, nên khôi phục hiệu cũ để chính danh tốt". Vua Thanh trước cho rằng chữ Nam Việt giống chữ Đông Tây Việt nên không muốn cho... Vua Thanh gửi thư lại nói: "Khi trước mới có Việt Thường đã xưng Nam Việt, nay lại được toàn cõi An Nam, theo tên mà xét thực thì nên tóm cả đất đai mở mang trước sau, đặt cho tên tốt, định lấy chữ Việt mào ở trên để tỏ rằng nước ta nhân đất cũ mà nối được tiếng thơm đời trước, lấy chữ Nam đặt ở dưới để tỏ rằng nước ta mở cõi Nam giao mà chịu mệnh mới, tên [Việt Nam] xưng chính đại, chữ nghĩa tốt lành, mà đối với tên gọi cũ của Lưỡng Việt ở nội địa [Trung Quốc] lại phân biệt hẳn"... Ngày Quý Mão, làm đại lễ bang giao... Sứ giả nhà Thanh đến, vào điện Kính Thiên làm lễ tuyên phong... Tháng 2, đặt quốc hiệu là Việt Nam. Ngày Đinh Sửu, đem việc cáo Thái miếu. Chiếu rằng: "... lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa".Tuy nhiên, tên gọi Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn. Ngay từ cuối thế kỷ XIV, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay không còn) do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết đầu thế kỷ XV của Nguyễn Trãi (1380 – 1442) nhiều lần nhắc đến 2 chữ "Việt Nam". Điều này còn được đề cập rõ ràng trong những tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), ngay trang mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nền". Người ta cũng tìm thấy 2 chữ "Việt Nam" trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ XVI – XVII như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ "Việt Nam" kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam).
Đại Nam
Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi xin nhà Thanh cho phép đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam (大南), ngụ ý 1 nước Nam rộng lớn. Tuy nhiên, nhà Thanh đã không chính thức chấp thuận. Khi nhà Thanh bắt đầu suy yếu, vua Minh Mạng chính thức đơn phương công bố quốc hiệu mới là Đại Nam (hay Đại Việt Nam) vào ngày 15/2/1839. Quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945.
Sách Quốc sử di biên chép: "Tháng 3, ngày 2 (Mậu Tuất, 1838, Minh Mạng thứ 19), bắt đầu đổi quốc hiệu là Đại Nam. Tờ chiếu đại lược: [...] Vậy bắt đầu từ năm Minh Mạng thứ 20 (1839) đổi quốc hiệu là Đại Nam, hoặc xưng là Đại Việt Nam cũng được".
Đế Quốc Việt Nam
Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9/3/1945, hoàng đế Bảo Đại tuyên bố xóa bỏ các hiệp ước với Pháp và thành lập chính phủ vào ngày 17/4/1945, đứng đầu là nhà học giả Trần Trọng Kim, với quốc hiệu Đế quốc Việt Nam. Trong thực tế, Đế quốc Nhật Bản vẫn cai trị Việt Nam. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Nam Kỳ mới được trao trả ngày 14/8/1945, nhưng 10 ngày sau đó Hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố trao lại chủ quyền Việt Nam cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tên gọi của cả nước Việt Nam 1945 – 1954 và miền Bắc Việt Nam từ 1954 – 1976. Nhà nước này được thành lập vào ngày 2/9/1945 (Ngày Quốc khánh của Việt Nam ngày nay). Năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức Tổng tuyển cử trên phạm vi cả nước để chính thức trở thành người đại diện hợp pháp của nhân dân Việt Nam trên cả hai miền Nam-Bắc.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối đầu với thực dân Pháp và Quốc gia Việt Nam được lập ra dưới cái ô của Pháp năm 1949. Trong thời kỳ 1954 – 1975, chính thể này tiếp tục phải đối đầu với Việt Nam Cộng hòa tại miền Nam Việt Nam. Tới năm 1976, chính thể này cùng với chính thể Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tổ chức Tổng tuyển cử để thống nhất thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc gia Việt Nam
Quốc gia Việt Nam là danh xưng của 1 phần vùng lãnh thổ Việt Nam thuộc quyền kiểm soát của quân Pháp (mặc dù tuyên bố đại diện cho cả nước), ra đời chính thức từ Hiệp ước Élysée ký ngày 8/3/1949, giữa Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại. Thực tế, chính quyền Quốc gia Việt Nam vẫn thuộc khối Liên hiệp Pháp, đối kháng và tồn tại trên cùng lãnh thổ với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong suốt thời gian tồn tại, Quốc gia Việt Nam chưa từng tổ chức được Tổng tuyển cử trên phạm vi cả nước như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm năm 1946.
Danh xưng này tồn tại trong 6 năm (1949 – 1955). Năm 1955, Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, đổi tên Quốc gia Việt Nam thành Việt Nam Cộng hòa.
Việt Nam Cộng hòa
Việt Nam Cộng hòa là tên gọi của một chính thể được Ngô Đình Diệm thành lập tại miền Nam Việt Nam dưới sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, kế thừa Quốc gia Việt Nam (1949 – 1955). Trong Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, đổi tên chính phủ Quốc gia Việt Nam thành Việt Nam Cộng hòa.
Ở miền Nam Việt Nam giai đoạn đó, chính thể này tồn tại song song với chính thể Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Chính thể này sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 sau khi đầu hàng Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Sau đó, Cộng hòa miền Nam Việt Nam có tuyên bố kế thừa các nghĩa vụ, tài sản, quyền và các lợi ích của Việt Nam Cộng hòa.
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Cộng hòa miền Nam Việt Nam là 1 chính thể cũng ở miền Nam Việt Nam, tồn tại từ năm 1969-1976, tên đầy đủ là "Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam". Chính thể này được thành lập dựa trên cơ sở là những cán bộ Việt Minh được giữ lại miền Nam để chuẩn bị cho Tổng tuyển cử thống đất nước dự kiến được tổ chức năm 1957 (theo Hiệp định Genève 1954 thì chỉ tập kết quân sự, các thành phần chính trị ở nguyên tại chỗ để chuẩn bị tổng tuyển cử thành lập chính phủ hòa hợp dân tộc). Cộng hòa miền Nam Việt Nam có mục tiêu chống Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đế thống nhất đất nước. Sau cuộc Tổng tuyển cử 1976, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hợp nhất thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Sau khi cuộc Tổng tuyển cử 1976 do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tổ chức để thống nhất đất nước về mặt chính trị, ngày 2/7/1976, Quốc hội khóa VI quyết định thống nhất Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam với tên gọi Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu này được sử dụng từ đó đến nay.
Các danh xưng không chính thức
Dưới đây là những danh xưng không rõ về tính xác thực, hoặc do nước ngoài sử dụng để chỉ vùng lãnh thổ quốc gia Việt Nam. Những danh xưng không chính thức này được ghi nhận lại từ cổ sử, truyền thuyết hoặc từ các tài liệu nước ngoài từ trước năm 1945.
Xích Quỷ
Xích Quỷ (赤鬼), theo Việt Nam sử lược là quốc hiệu trong truyền thuyết về thủy tổ của người Việt là Kinh Dương Vương.
Sách chép:
Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Nam Hải.
Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây Lịch?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.
Nam Việt
Nam Việt (南越) là quốc hiệu thời nhà Triệu (204 TCN – 111 TCN). Nói chính xác thì đối tượng tranh cãi ở đây không phải là bản thân tên gọi Nam Việt, mà vấn đề là quốc hiệu này có đại diện cho nước Việt Nam ngày nay hay không. Thời phong kiến xem Nam Việt chính là quốc hiệu cũ của nước Việt, nhưng từ thời Hậu Lê trở về sau, cũng như quan điểm chính thống hiện nay cho rằng quốc gia Nam Việt khi đó là của người Trung Hoa. Lý do không thể coi Nam Việt là của người Việt Nam vì: Triệu Đà là người Hán, quê ở huyện Chân Định, tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc), nhân lúc nhà Tần suy loạn đã nổi lên lập ra nhà Triệu, lấy quốc hiệu là Nam Việt.
Các ý kiến cho rằng quốc hiệu này là của nước Việt có các nhận định của các học giả như Lê Văn Hưu hay Ngô Sĩ Liên. Lê Văn Hưu nói: "Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không thành phong tục mặc áo đội mũ (như Trung Hoa), đất Ngô Cối không có Thái Bá thì không thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam Đại. Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là "lão phu", mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngấp nghé được".
Ngô Sĩ Liên nói: "Truyện Trung Dung có câu: "Người có đức lớn thì ắt có ngôi, ắt có danh, ắt được sống lâu". Vũ Đế làm gì mà được như thế? Cũng chỉ vì có đức mà thôi. Xem câu trả lời Lục Giả thì oai anh vũ kém gì Hán Cao. Đến khi nghe tin Văn Đế đặt thủ ấp trông coi phần mộ tổ tiên, tuế thời cúng tế, lại ban thưởng ưu hậu cho anh em, thì bấy giờ vua lại khuất phục nhà Hán, do đó tông miếu được cúng tế, con cháu được bảo tồn, thế chẳng phải là nhờ đức ư? Kinh Dịch nói: "Biết khiêm nhường thì ngôi tôn mà đức sáng, ngôi thấp mà không ai dám vượt qua". Vua chính hợp câu ấy".
Hoặc vua Quang Trung sau khi đánh bại đội quân nhà Thanh năm 1789 đã có ý định đòi lại đất hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây với lý do đây là đất cũ của Nam Việt thời nhà Triệu.
An Nam
An Nam (安南) là danh xưng của người nước ngoài và với cả người Việt Nam để chỉ lãnh thổ Việt Nam cho đến khoảng giữa thế kỷ 20.
Nguồn gốc danh xưng này từ thời Bắc thuộc (Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ), nhà Đường ở Trung Quốc đã đặt tên cho khu vực lãnh thổ tương ứng với khu vực miền Bắc Việt Nam ngày nay là An Nam đô hộ phủ (673 – 757 và 768 – 866).
Sau khi giành được độc lập, các triều vua Việt Nam thường phải nhận thụ phong của Trung Quốc, danh hiệu là "An Nam quốc vương" (kể từ năm 1164).
Từ đó người Trung Quốc thường gọi nước Việt Nam là An Nam, bất kể quốc hiệu là gì. Cách gọi này đã ảnh hưởng đến cách gọi của người châu Âu trước năm 1945.
Thời kỳ thuộc Pháp, Annam (gọi theo tiếng Pháp) là tên gọi chỉ vùng lãnh thổ Trung Kỳ do nhà Nguyễn cai trị dưới sự bảo hộ của Pháp. Tuy vậy, người Pháp vẫn dùng danh xưng Annam để chỉ người Việt nói chung ở cả ba vùng Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam) và Nam Kỳ (Cochinchine). Nhiều khi từ này được người Pháp dùng với ý miệt thị người Việt.
Các danh xưng thời Bắc thuộc và Pháp thuộc
Các danh xưng này không được xem là quốc hiệu của Việt Nam vì các giai đoạn này Việt Nam bị nước ngoài đô hộ. Đây là tên gọi mà Trung Quốc và Pháp sử dụng để chỉ vùng lãnh thổ Việt Nam mà họ chiếm đóng.
Giao Chỉ
Là tên gọi của Việt Nam thời Bắc thuộc lần I từ 111 TCN – 39 CN; thời Bắc thuộc lần 2 từ 43–203, và thời Bắc thuộc lần 4 từ 1407–1427. Tổng cộng khoảng 262 năm.
Giao Châu
Là tên gọi của Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2 từ 203 – 544 và thời Bắc thuộc lần 3 từ 602–679. Tổng cộng khoảng 420 năm.
An Nam
Là tên gọi của Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3 từ 679 – 757 và 766 – 866. Tổng cộng khoảng 180 năm.
Trấn Nam
Là tên gọi của Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3 từ 757 – 766. Tổng cộng khoảng 10 năm.
Tĩnh Hải quân
Là tên gọi của Việt Nam cuối thời Bắc thuộc lần 3, thời kỳ tự chủ của Họ Khúc và thời kỳ độc lập của Nhà Ngô, từ 866 – 967. Tổng cộng khoảng 102 năm.
Liên bang Đông Dương
Là tên gọi của Việt Nam, Campuchia và Lào (lúc bấy giờ Việt Nam bị chia thành Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ) thời Pháp thuộc, từ 1887 – 1954. Tổng cộng khoảng 68 năm.
Tại các nước trên thế giới
Đối với nước ngoài, tên gọi "Việt Nam" thường được viết trong các ngôn ngữ dùng ký tự Latinh là Vietnam. Một số ngoại lệ như:
Tiếng Ba Lan: Wietnam
Tiếng Hawaii: Wiekanama
Tiếng Ireland: Vítneam
Esperanto: Vjetnamio
Tiếng Malta: Vjetnam
Tiếng Bồ Đào Nha: Vietname, tiếng Bồ Đào Nha Brasil: Vietnã
Trong các ngôn ngữ dùng hệ chữ viết khác:
Tại Trung Quốc và Đài Loan: 越南 (Yuènán, O̍at-lâm)
Tại bán đảo Triều Tiên: trước đây thường gọi theo âm Hán-Triều là 월남 (Wollam), nay tại Bắc Triều Tiên gọi là 윁남 (Wennam) và tại Hàn Quốc gọi là 베트남 (Beteunam)
Tại Nhật Bản: ベトナム (Betonamu), ヴェトナム (Vetonamu), ヴィエトナム (Vietonamu), ヴィエットナム (Viettonamu), hoặc theo âm Hán-Hòa là 越南 (hay えつなん) (Etsunan)
Tại Nga: Вьетнам (V'yetnam)
Tại Hy Lạp: Βιετνάμ (Byetnam) |
Sơn La là một tỉnh miền núi, vùng cao, nằm ở vùng Tây Bắc Việt Nam.
Năm 2018, Sơn La là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 31 về số dân, xếp thứ 40 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 49 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 63 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.242.700 người dân, GRDP đạt 47.223 tỉ Đồng (tương ứng với 2,0509 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 38 triệu đồng (tương ứng với 1.650 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 5,59%. Sơn La cũng là tỉnh có diện tích lớn nhất Bắc Bộ.
Lịch sử
Vào thời nhà Lý, thế kỷ 11-12, vùng trung tâm tỉnh Sơn La ngày nay (gồm thành phố Sơn La, các huyện Mường La, Thuận Châu (Mường Muổi), Mai Sơn,...) là khu vực lãnh thổ định cư của một vương quốc được ghi nhận trong Đại Việt sủ ký toàn thư tên là Ngưu Hống.
Ngày 24 tháng 5 năm 1886, thành lập châu Sơn La (thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hoá), tách từ tỉnh Hưng Hóa thành cấp tương đương với tỉnh. Thiếu tá De Chateaurochet làm Phó công sứ Sơn La. Kế nhiệm là Moulié (11/1886). Ngày 9 tháng 9 năm 1891, thuộc Đạo Quan binh 4.
Ngày 27 tháng 2 năm 1892, thành lập tiểu quân khu Vạn Bú gồm 2 phủ và 8 châu, do thiếu tá Pennequin làm chỉ huy trưởng. Kế nhiệm ông là Đại uý Diguet (1893 - 1895) và thiếu tá Norminot (1895). Ngày 10 tháng 10 năm 1895, thành lập tỉnh Vạn Bú, tỉnh lỵ ở Vạn Bú (tức Tạ Bú). Lúc này M.Caillat lên thay thiếu tá Norminot làm Công sứ Pháp ở tỉnh Vạn Bú.
Ngày 23 tháng 8 năm 1904, đổi tên thành tỉnh Sơn La, tỉnh lỵ chuyển về nơi ngày nay là thành phố Sơn La. Công sứ Pháp đầu tiên là Jean G. Monpeyrat, lên cầm quyền thay công sứ Sévénier từ năm 1902 đến năm 1909. Kế nhiệm ông là các công sứ Pháp như Hernandez (1909 - 1911), Fillion, Bonnermain, Louis Rene, Pierre Grossin, Nempont, Romanetti, Saint Poulof (1928 - 1933), Cousseau, Gabon, Robert. Năm 1907, công sứ Monpeyrat cho xây dựng nhà tù Sơn La. Năm 1917, công sứ Pháp Laumet mở trường dạy chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Năm 1933, công sứ Gabriel M. de Saint-Poulof (cầm quyền thay Romanetti từ năm 1928) bị đầu độc chết trong cuộc chiến đấu đòi vượt ngục của tù nhân ở Sơn La. Năm 1939, công sứ Cousseau lên thay. Năm 1944, Robert thay ông ta làm công sứ Sơn La và cai trị đến tận năm 1945.
Sau năm 1946, tỉnh Sơn La cùng với hai tỉnh Lai Châu và Phong Thổ (do Pháp lập ra) lập thành "Xứ Thái tự trị"nằm dưới sự chỉ đạo của Pháp. Bạc Cầm Quý làm tỉnh trưởng Sơn La. Từ nằm 1948 đến 1953, thuộc Liên khu Việt Bắc. Lúc này tỉnh Sơn La có 6 huyện: Mường La, Thuận Châu, Phù Yên, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu.
Từ năn 1953 đến 1955, Sơn La thuộc Khu Tây Bắc. Từ năm 1955 đến 1962, bỏ cấp tỉnh, thuộc Khu tự trị Thái Mèo. Từ năm 1962 đến 1975, tái lập tỉnh, thuộc Khu tự trị Tây Bắc (đổi tên từ Khu tự trị Thái Mèo), có 7 huyện: thêm huyện Quỳnh Nhai và Sông Mã, còn huyện Phù Yên chuyển sang tỉnh Nghĩa Lộ mới thành lập.
Đến cuối năm 1975, tỉnh Sơn La có tỉnh lị là thị xã Sơn La và 7 huyện: Mai Sơn, Mộc Châu, Mường La, Quỳnh Nhai, Sông Mã, Thuận Châu, Yên Châu. Sau khi giải thể Khu tự trị Tây Bắc, tỉnh Sơn La nhập thêm 2 huyện của tỉnh Nghĩa Lộ vừa giải thể là Phù Yên và Bắc Yên. Từ đó, tỉnh Sơn La có tỉnh lị là thị xã Sơn La và 9 huyện: Bắc Yên, Mai Sơn, Mộc Châu, Mường La, Phù Yên, Quỳnh Nhai, Sông Mã, Thuận Châu, Yên Châu. Ngày 2 tháng 12 năm 2003, chia huyện Sông Mã thành 2 huyện: Sông Mã và Sốp Cộp.
Ngày 3 tháng 9 năm 2008, chuyển thị xã Sơn La thành thành phố Sơn La. Ngày 10 tháng 6 năm 2013, chia huyện Mộc Châu thành 2 huyện: Mộc Châu và Vân Hồ. Tỉnh Sơn La có 1 thành phố và 11 huyện như hiện nay.
Địa lý
Vị trí và lãnh thổ
Tỉnh Sơn La có diện tích 14.174,5 km² chiếm 4,27% tổng diện tích Việt Nam, đứng thứ 3 trong số 63 tỉnh thành phố. Toạ độ địa lý: 20o37' - 22o02' vĩ độ Bắc và 103o11’ - 105o02' kinh độ Đông.
Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Sơn La, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 302 km, có vị trí địa lý:
Phía bắc giáp tỉnh Yên Bái và tỉnh Lai Châu.
Phía đông giáp tỉnh Phú Thọ và tỉnh Hoà Bình.
Phía tây giáp tỉnh Điện Biên và tỉnh Luangprabang (Lào).
Phía nam giáp với tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Huaphanh (Lào).
Sơn La có đường biên giới quốc gia dài 250 km, chiều dài giáp ranh với các tỉnh khác là 628 km.
Các điểm cực của tỉnh Sơn La:
Điểm cực bắc tại: xã Cà Nàng, huyện Quỳnh Nhai.
Điểm cực đông tại: xã Chiềng Yên, huyện Vân Hồ.
Điểm cực tây tại: xã Mường Lèo, huyện Sốp Cộp.
Điểm cực nam tại: xã Tân Xuân, huyện Vân Hồ.
Địa hình
Sơn La nằm cách Hà Nội 302 km trên trục Quốc lộ 6 Hà Nội - Sơn La - Điện Biên, Sơn La là một tỉnh nằm sâu trong nội địa. Tỉnh này có 3 cửa khẩu với Lào là cửa khẩu quốc tế Chiềng Khương, Cửa khẩu Lóng Sập và Nà Cài.
Sơn La có độ cao trung bình 600 - 700m so với mặt biển, địa hình chia cắt sâu và mạnh, 97% diện tích tự nhiên thuộc lưu vực sông Đà, sông Mã, có 2 cao nguyên là Cao nguyên Mộc Châu và Cao nguyên Sơn La, địa hình tương đối bằng phẳng. Cùng với các tỉnh Hòa Bình, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La là mái nhà của khu vực Bắc Bộ. Địa hình phần lớn là đồi núi, trong đó các đồi núi cao tập trung ở các huyện Sốp Cộp, Thuận Châu, Bắc Yên,... Sơn La có dòng sông Mã, sông Đà đi qua, phù sa từ hai con sông này đã bồi nên những thung lũng, 2 dòng sông này còn gây ra tình trạng xâm thực, sức nước mạnh khoét sâu vào các ngọn đồi, làm sụp những phần đất cao và mở rộng thung lũng ra. Phía Đông là các cao nguyên rộng lớn như cao nguyên Mộc Châu, đây là nơi có đồng cỏ lớn, là nơi chăn nuôi gia súc phù hợp.
Địa hình bị chia cắt mạnh, sông suối nhiều, lắm thác ghềnh, nên đây là nơi có nguồn thủy điện dồi dào, nhà máy thủy điện Sơn La được xây dựng ở đây là nhà máy lớn nhất Đông Nam Á hiện tại.
Phía Bắc và Đông là những dãy núi cao vắt ngang chắn lại các lối giao thông, vì thế đã tạo ra các đèo như đèo Pha Đin, đèo Tà Xùa, đèo Chiềng Đông, đèo Cón, đèo Lũng Lô...
Khí hậu
Sơn La có khí hậu cận nhiệt đới ẩm vùng núi, mùa đông phi nhiệt đới lạnh khô, mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều. Do địa hình bị chia cắt sâu và mạnh nên hình thành nhiều tiểu vùng khí hậu, cho phép phát triển một nền sản xuất nông - lâm nghiệp phong phú. Vùng cao nguyên Mộc Châu phù hợp với cây trồng và vật nuôi vùng ôn đới. Vùng dọc sông Đà phù hợp với cây rừng nhiệt đới xanh quanh năm.
Thống kê nhiệt độ trung bình năm của Sơn La có xu hướng tăng trong 20 năm lại đây với mức tăng 0,5 °C - 0,6 °C, nhiệt độ trung bình năm của Thành phố Sơn La hiện ở mức 21,1 °C, Yên Châu 23 °C; lượng mưa trung bình năm có xu hướng giảm (thành phố hiện ở mức 1.402 mm, Mộc Châu 1.563 mm); độ ẩm không khí trung bình năm cũng giảm. Mùa mưa kết thúc khá sớm vào khoảng đầu tháng 9 và bắt đầu một mùa khô kéo dài khốc liệt đến tận cuối tháng 4 năm sau gây ra tình trạng khô hạn và thiếu nước, gió tây khô nóng vào những tháng cuối mùa khô đầu mùa mưa (tháng 4-6) là yếu tố gây ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Sương muối, mưa đá, lũ quét là yếu tố bất lợi.
Dân số
Theo kết quả điều tra dân số ngày 1/4/2019, tỉnh Sơn La có 1.248.415 người, tổng số hộ là 289,516 hộ, nam có 632,598 người, nữ có 615,917 người. Sơn La là tỉnh đông dân nhất vùng Tây Bắc Bộ. 16.6% dân số sống ở thành thị và 83,4% dân số sống ở nông thôn.
Sơn La có tổng cộng 39 dân tộc anh em, trong đó người Thái là nhiều nhất với 669,265 người, người Kinh 203,008 người, người Mông 200,480 người.
Hành chính
Tỉnh Sơn La có 12 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 1 thành phố và 11 huyện; 204 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 188 xã, 7 phường và 9 thị trấn.
Văn hóa, du lịch
Sơn La là tỉnh có nhiều dân tộc cư trú nên có sự đa dạng về văn hoá truyền thống, đời sống, tập tục.
Sơn La có nhiều lễ hội của các dân tộc, mỗi lễ hội đều có nét đặc sắc riêng như Tết cơm mới của người Khơ Mú, Lễ hội hoa ban, Lễ hội Pang Cẩu Nỏ của dân tộc Khơ Mú, Xinh Mun; Lễ hội dâng hoa măng của người La Ha; Lễ cầu phúc của người Mường; Lễ hội xên bản, cầu mưa của người Thái, Lễ mừng măng mọc của nhiều dân tộc vùng Tây Bắc...
Sơn La còn có các di tích như Nhà tù Sơn La, bảo tàng Sơn La ở thành phố Sơn La, chùa Chiền Viện ở Mộc Châu...
Bên cạnh đó thiên nhiên còn tạo hóa cho Sơn La nhiều khu du lịch, khu danh thắng đẹp rất thích hợp với loại hình du lịch nghỉ dưỡng, dã ngoại và khám phá như: Suối nước nóng Bản Mòng (Hua La), danh thắng Yên Châu, các hang Thẩm Tát, Thẩm Ké... ở Chiềng An, Bản Hìn, cao nguyên Mộc Châu, khám phá chinh phục các đỉnh núi ở Bắc Yên...
Ẩm thực
Các đặc sản, ẩm thực địa phương trong tỉnh: táo mèo Bắc Yên, bánh dày Mông, rượu chuối Yên Châu, nộm da trâu, pa tỉnh tộp, măng trúc muối ớt Háng Đồng, nhót xanh chấm chéo, mận Phiêng Khoài, canh mọ, rượu thóc men lá Hang Chú, thảo quả Bắc Yên, mẳm cá, long nhãn Chiềng Khoong, cà rừng, cá ngần sông Đà, cam Phù Yên, hoa gừng, rượu hoẵng Mộc Châu, tỏi Chiềng Đông, thịt thối, trám, pa giảng, khoai sọ Cụ Cang, bọ xít rang, chè Mộc Châu, mắc ten, nậm pịa, quýt Chiềng Cọ, canh bon, tỏi tía Phù Yên, thịt trâu gác bếp, gỏi cá Thái, na dai Mai Sơn, ốc đá suối Bàng, nộm hoa ban, gà đen Mông, vịt Chiềng Mai, ớt ngâm Na Viên, mơ Mộc Châu, rau thối, thịt chua người Dao, dưa mèo, gân bò xé Mường Tấc, hạt dổi, mắc khén, thịt dơi Chiềng Khoi, nhãn Sông Mã, xôi sắn, cháo mắc nhung, nếp tan Mường Và, đào Mộc Châu, mẳm hén, bánh gai Hát Lót, măng, xôi ngũ sắc, cá tép dầu Quỳnh Nhai, xoài tròn Yên Châu, đọt song mây, rượu cần Thái, núc nác, xôi trám, mận hậu Mộc Châu, hoa đu đủ đực, bê chao Mộc Châu, chẳm chéo, cốm Mường Tấc, rêu đá, khoai sọ Thuận Châu, chè Tà Xùa.
Chè Tà Xùa
Chè Tà Xùa là loại búp trắng cánh vàng xuất xứ từ xã vùng cao Tà Xùa (Bắc Yên). Chè được bà con dân tộc Mèo sao tẩm trực tiếp. Nước chè vị đắng chát khi mới nhấp nhưng lại ngọt dần. Chè Tà Xùa kén nước, tốt nhất là pha bằng nước suối vùng này, nếu dưới xuôi phải là nước khoáng đun sôi mới ngon.
Thịt dơi Chiềng Khoi
Tại bản người Thái, bản Hiêm, Chiềng Khoi (Yên Châu) có một hang đá là hang Dơi. Đây là hang rộng, nhiều ngách rất nhiều Dơi. Từ xưa, người Thái nơi đây đã bắt Dơi về chế biến các món ăn như: Hăm pịch kia, Lám kia... Đây là món được coi là quý hiếm để biếu cha mẹ. Theo dân gian người Thái trẻ em ăn thịt Dơi thì chóng lớn, nhanh nhẹn, người già ăn thì khỏe mạnh, kéo dài tuổi thọ.
Sơn tra
Sơn tra ở đây có vị đậm đà hương thơm đặc trưng. Càng lên cao, khí hậu lạnh táo mèo sơn tra càng vàng tươi, thơm hơn và có vị chua ngọt. Sơn tra tiếng dân tộc Mông gọi là Tu Di. Mùa sơn tra ra hoa, màu trắng thấp thoáng giữa khu rừng trên những dãy núi cao càng làm vẻ đẹp nơi đây thêm thi vị.
Rêu Sông Mã
Người Thái ở đây chế biến rêu từ những tảng đá ngầm ở thượng nguồn sông Mã (thuộc huyện Sông Mã) thành món nướng, món xào ăn vừa thơm, vừa ngọt mát. Tháng giêng, sông Mã chỉ như một con suối hiền hòa, nước mát rượi, tinh khiết, xanh trong đó cũng là bắt đầu mùa rêu, một loại đặc sản của người Thái.
Kinh tế
Sơn La là một tỉnh thuộc Trung du và miền núi phía Bắc, rất khó khăn về mặt kinh tế.
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2018 ước tính tăng 5,59% so với năm 2017, trong đó 6 tháng đầu năm tăng 5,62%, mức tăng trưởng năm nay tuy không đạt mục tiêu tăng trưởng 8,5% đề ra nhưng trong bối cảnh kinh tế địa phương gặp nhiều khó khăn do thời tiết và biến đổi khí hậu thì đạt được mức tăng trưởng trên cũng đã khẳng định tính đúng đắn, kịp thời, hiệu quả của các biện pháp, giải pháp được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương cùng thực hiện.
Trong mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 6,18%, đóng góp 1,40 điểm phần trăm vào tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp, xây dựng tăng 4,33%, đóng góp 1,44 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,33%, đóng góp 2,40 điểm phần trăm; thuế sản phẩm tăng 5,67%, đóng góp 0,35 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 3,67% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,97 điểm phần trăm vào mức tăng chung, trong đó sản xuất và phân phối điện đạt mức tăng 2,53%, đóng góp 0,57 điểm phần trăm; ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 9,87%, đóng góp 0,32 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và hoạt động xử lý rác thải, nước thải giảm 1,69%, làm giảm 0,005 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tăng 34,66%, làm tăng 0,08 điểm phần trăm mức tăng trưởng chung. Ngành xây dựng tăng trưởng khá với tốc độ 6,95%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Trong khu vực dịch vụ, các ngành vẫn giữ mức tăng ổn định so với cùng kỳ năm trước đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, trong đó đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng chung như sau: Ngành giáo dục và đào tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất, đạt mức tăng 5,52% so với năm 2017, đóng góp 0,44 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; ngành bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy năm nay có mức tăng trưởng khá cao 7,62%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; hoạt động của Đảng cộng sản, tổ chức chính trị xã hội tăng 6,02%, đóng góp 0,33 điểm phần trăm; hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 4,27%, đóng góp 0,19 điểm phần trăm...
Về cơ cấu kinh tế năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 22,28%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,44%; khu vực dịch vụ chiếm 38,11%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,17% (cơ cấu tương ứng của năm 2017 là 21,88%; 34,59%; 37,36%; 6,17%). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp thủy sản, tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ.
Giao thông
Sơn La là một trong những tỉnh có hệ thống giao thông chưa đồng bộ, thiếu sót: đường bộ, đường thủy và đường hàng không.
Trên toàn tỉnh có 4 tuyến đường bộ của Việt Nam: Quốc lộ 6 (AH13) mở rộng, Quốc lộ 37, Quốc lộ 43, Quốc lộ 279, Quốc lộ 32B và đường tỉnh lộ, huyện lộ.
Đường thủy của Sơn La còn hạn chế chủ yếu dọc sông Đà bởi cảng Tà Hộc tại huyện Mai Sơn.
Đường hàng không của tỉnh Sơn La hiện tại đã ngừng hoạt động từ năm 2004 với sân bay Nà Sản đặt tại huyện Mai Sơn, cách thành phố Sơn La khoảng 20 km. Sân bay Nà Sản hiện đang trong quá trình trùng tu và nâng cấp, dự kiến sẽ hoàn thành trước năm 2020. Mục tiêu quy hoạch đến năm 2020 là sân bay nội địa cấp 4C theo quy định Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế (ICAO) với mức khai thác ban đầu đạt 0,9 triệu hành khách/năm.
Vận tải công cộng, đến năm 2019, Sơn La đã phát triển mạng lưới xe buýt tư nhân gồm 6 tuyến kết nối Thành phố Sơn La đi các huyện lân cận.
Tuyến số 1: Mai Sơn - Thành phố Sơn La với tần suất 30 phút/1 chuyến:
Ngã ba Cò Nòi - Thống Nhất - 19/5 - thị trấn Hát Lót - sân bay Nà Sản - Chiềng Mung - Bệnh viện Đa khoa Sơn La khu vực Tây Bắc - ngã tư Quốc lộ 4G - Đại học Tây Bắc - Vincom Center Plaza Sơn La - Bệnh viện Đa khoa Sơn La - Bản Cá
Tuyến số 2: Thuận Châu - Thành phố Sơn La
Tuyến số 3: Mường La - Thành phố Sơn La
Tuyến số 4: Sông Mã - Thành phố Sơn La
Tuyến số 5: Quỳnh Nhai - Thành phố Sơn La
Tuyến số 6: Bắc Yên - Thành phố Sơn La |
Phản ứng thế trong hóa học được hiểu theo hóa vô cơ và hóa hữu cơ hơi khác nhau một chút.
Trong hóa vô cơ, nó là phản ứng hóa học, trong đó một nguyên tố có độ hoạt động hóa học mạnh (ở các điều kiện cụ thể về nhiệt độ, áp suất) sẽ thay thế cho nguyên tố có độ hoạt động hóa học yếu hơn trong hợp chất của nguyên tố này, theo phản ứng sau:
A + BX -> AX + B
Trong hóa hữu cơ, phản ứng thế là phản ứng hóa học, trong đó một nhóm của một hợp chất được thay bằng một nhóm khác.
Hóa hữu cơ
Phản ứng thế thân hạch
Trong hóa hữu cơ và hóa vô cơ, phản ứng thế thân hạch, hay còn gọi là phản ứng thế nucleophile, là một loại phản ứng cơ bản trong đó các tác nhân thân hạch (tiếng Anh: nucleophille; ký hiệu Nuc:) liên kết hoặc tấn công các nguyên tử hoặc phân tử có điện tích hay phân cực dương một cách có chọn lọc. Trong quá trình này, tác nhân thân hạch sẽ thế chỗ cho tác nhân thân hạch yếu hơn. Khi tác nhân thân hạch yếu hơn tách ra khỏi một nguyên tử hay phân tử và trở thành nhóm xuất (ký hiệu: LG), nguyên tử hoặc phân tử đó sẽ mang điện tích hoặc phân cực dương sẽ trở thành nhóm electrophile. Nhóm thực thể phân tử bao gồm nhóm electrophile và nhóm xuất thường được gọi chung là chất nền.
Với R-LG là chất nền, dạng tổng quát của loại phản ứng này có thể được viết như sau:
Nuc: + R-LG → R-Nuc + LG:
Cặp electron (:) từ tác nhân thân hạch tấn công chất nền để tạo nên một liên kết cộng hóa trị mới Nuc-R-LG. Điện tích ban đầu được phục hồi khi nhóm xuất (LG) tách khỏi phân tử mang theo một cặp electron, và sản phẩm chính sẽ là R-Nuc. Trong những phản ứng như thế này, tác nhân thân hạch sẽ mang điện tích trung tính hoặc có phân cực âm, và chất nền thường sẽ trung tính hoặc mang phân cực dương.
Một ví dụ điển hình của phản ứng thế thân hach là phản ứng thủy phân của ankyl bromide (ký hiệu: R-Br) trong điều kiện kiềm. Trong phản ứng này, nhóm thân hạch sẽ là gốc kiềm OH− và nhóm xuất sẽ là Br−.
R-Br + OH− → R-OH + Br−
Các phản ứng thế thân hạch được sử dụng rất phổ biến trong hóa học hữu cơ. Loại phản ứng này có thể được phân loại dựa vào thành phần tham gia phản ứng. Phản ứng thế thân hạch thường xảy ra ở 1 nguyên tử cacbon của 1 hợp chất no không vòng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, phản ứng này có thể xảy ra ở 1 nguyên tố cacbon của một hợp chất vòng hoặc ở các trung tâm cacbon của một hợp chất không no.
Cơ chế
Các phản ứng thế hạch nhân có thể diễn ra theo hai loại cơ chế là: cơ chế phản ứng thế đơn phân (SN1) và cơ chế phản ứng thế lưỡng phân (SN2).
Cơ chế SN1 cần đến 2 bước phản ứng để tạo thành sản phẩm. Ở bước đầu tiên, nhóm xuất sẽ tách khỏi phân tử và giúp hình thành cacbocation C+ tại điểm tách rời. Ở bước thứ hai, tác nhân thân hạch (Nuc:) sẽ tấn công cacbocation và tạo nên liên kết cộng hóa trị sigma. Nếu chất nền là một cacbon bất đối, cơ chế này có thể đảo ngược cấu trúc lập thể hoặc sẽ giữ nguyên cấu trúc như ban đầu của sản phẩm. Sản phẩm bao gồm cả hai cấu trúc lập thể nguyên bản và đảo ngược sẽ được gọi là biến thể raxemic.
Cơ chế SN2 diễn ra chỉ trong 1 bước duy nhất. Trong cơ chế này, tác nhân thân hạch sẽ tấn công vào phân tử cùng thời điểm nhóm xuất tách khỏi phân tử đó. Nếu chất nền trong cơ chế này là một hợp chất bất đối, phản ứng này sẽ đảo ngược cấu trúc lập thể của sản phẩm và điều này được gọi là nghịch đảo Walden.
Cơ chế tấn công SN2 chỉ có thể xảy ra khi việc tấn công từ phía sau của các tác nhân thân hạch không bị cản trở trong không gian bởi các nhóm thế liên kết với chất nền. Do đó, cơ chế này thường diễn ra ở các chất nền có trung tâm cacbon bậc 1 khi mà các trung tâm này chỉ liên kết với 1 nhóm thế cacbon duy nhất. Trong trường hợp chất nền có trung tâm cacbon bậc 3, khi mà nhóm xuất bị che lấp bởi 3 nhóm chất nền cacbon trong không gian và rất khó để tách rời, phản ứng thế sẽ diễn ra theo cơ chế SN1 thay vì SN2 bởi cấu trúc này giúp ổn định điện tích của tiểu phân cacbocation trung gian và khiến cơ chế SN1 có thể xảy ra dễ dàng hơn.
Phản ứng thế electrophile
Phản ứng thế gốc
Phản ứng này thường gặp ở các hydrocarbon no, được ký hiệu là S (từ tiếng Anh substitution nghĩa là thế). Phản ứng thế halogen trong các phân tử ankan xảy ra theo cơ chế thế gốc (cơ chế SR). Đây là một phản ứng dây chuyền. Muốn khơi mào phản ứng, cần phải chiếu sáng hoặc thêm các chất dễ phân huỷ thành gốc tự do hoạt động vào.
Ví dụ:
Xét quá trình phản ứng giữa metan (CH4) và clo (Cl2), phản ứng xảy ra theo cơ chế thế gốc, trải qua 3 giai đoạn: khơi mào, phát triển mạch, tắt mạch.
Khơi mào:
Cl2 -> Cl' + Cl' (điều kiện: ánh sáng khuếch tán)
Phát triển mạch:
CH4 + Cl' -> CH3' + HCl
CH3' + Cl2 -> CH3Cl + Cl'
Tắt mạch:
Cl' + Cl' -> Cl2
CH3' + Cl' -> CH-> CH3-CH3
Cơ chế này giải thích sự tạo thành sản phẩm phụ etan (CH3-CH3) trong quá trình clo hoá metan. |
Quốc hội Hoa Kỳ là cơ quan lập pháp lưỡng viện của Hoa Kỳ, bao gồm Hạ viện và Thượng viện. Hạ viện có 435 hạ nghị sĩ, Thượng viện có 100 thượng nghĩ sĩ. Nghị sĩ Quốc hội do nhân dân bầu trực tiếp, nhưng thống đốc các bang có quyền bổ nhiệm thượng nghị sĩ tạm quyền. Phó tổng thống Hoa Kỳ chủ tọa phiên họp của Thượng viện nhưng chỉ được biểu quyết nếu Thượng viện biểu quyết hòa. Hạ viện có sáu đại biểu không biểu quyết. Quốc hội Hoa Kỳ họp ở Nhà Quốc hội tại Washington, D.C.
Thời gian một khóa Quốc hội là hai năm, bắt đầu từ tháng 1. Bầu cử Quốc hội được tổ chức vào năm chẵn vào thứ Ba tiếp theo sau thứ Hai thứ nhất trong tháng 11. Nhiệm kỳ của Hạ viện là hai năm. Pháp luật quy định số hạ nghị sĩ là 435, mỗi khu vực bầu cử bầu một hạ nghị sĩ. Mỗi tiểu bang được phân bổ một số lượng hạ nghị sĩ nhất định dựa theo dân số của tiểu bang căn cứ kết quả Điều tra dân số Hoa Kỳ nhưng mỗi tiểu bang được ít nhất một hạ nghị sĩ. Cứ mười năm là phân bổ lại số hạ nghị sĩ. Thượng nghị sĩ do nhân dân toàn tiểu bang bầu, nhiệm kỳ sáu năm. Cứ hai năm là bầu lại một phần ba số thượng nghị sĩ. Mỗi bang có hai thượng nghị sĩ, bất kể dân số hay diện tích. Hiện tại có 100 thượng nghị sĩ.
Hạ nghị sĩ phải là công dân Hoa Kỳ trong bảy năm và đủ 25 tuổi trở lên. Thượng nghị sĩ phải là công dân Hoa Kỳ trong chín năm và đủ 30 tuổi trở lên. Nghị sĩ phải thường trú ở tiểu bang bầu nơi ứng cử. Nghị sĩ không bị giới hạn số lần được tái cử.
Quốc hội Hoa Kỳ do Hiến pháp Hoa Kỳ thành lập thay thế Quốc hội Hợp bang. Quốc hội họp lần đầu tiên vào năm 1789. Kể từ thế kỷ 19, nghị sĩ Quốc hội thường là đảng viên Đảng Dân chủ hoặc Đảng Cộng hòa, hiếm khi là đảng viên những đảng khác hoặc không đảng phái. Nghị sĩ không đảng phái có thể liên minh với những nghị sĩ có đảng tịch. Nghị sĩ cũng có thể tùy nghi đổi đảng tịch nhưng trường hợp này khá hiếm.
Tổng quan
Quốc hội Hoa Kỳ thực hiện quyền lập pháp. Hạ viện và Thượng viện ngang quyền: luật phải được Hạ viện và Thượng viện thông qua. Mỗi viện có một số đặc quyền. Thượng viện phê chuẩn điều ước và đề nghị bổ nhiệm của tổng thống. Hạ viện được trình dự án luật thu ngân sách nhà nước trước.
Hạ viện đàn hặc quan chức, Thượng viện luận tội quan chức. Kết tội phải được hai phần ba tổng số thượng nghị sĩ biểu quyết tán thành. Quan chức bị Thượng viện kết tội thì bị cách chức.
Thời gian một khóa Quốc hội là hai năm. Tu chính án XX Hiến pháp Hoa Kỳ quy định mỗi khóa Quốc hội kết thúc vào buổi trưa ngày thứ ba trong tháng Giêng vào năm lẻ.
Quốc hội Hoa Kỳ luôn luôn thay đổi. Gần đây, miền Nam và miền Tây Hoa Kỳ được phân bổ nhiều hạ nghị sĩ hơn do dân số gia tăng. Quốc hội ngày càng nhiều nữ nghị sĩ và thiểu số.
Nghị sĩ Quốc hội thay mặt hai nhóm khác nhau: hạ nghị sĩ thay mặt địa phương, thượng nghị sĩ thay mặt tiểu bang.
Hầu hết các nghị sĩ đương nhiệm đều ứng cử lại. Căn cứ sử liệu thì cứ mười nghị sĩ là hơn chín người tái đắc cử.
Thủ đô Washington, D.C. trực thuộc Quốc hội Hoa Kỳ.
Lịch sử
Các đại biểu của mười hai trong Mười ba thuộc địa Mỹ họp lần đầu ở Hội nghị Lục địa khóa Một. Ngày 4 tháng 7 năm 1776, Hội nghị Lục địa khóa Hai thông qua Tuyên ngôn Độc lập, sáng lập nước "Hợp chúng quốc Mỹ". Hội nghị Lục địa khóa Hai ban hành Điều khoản Hợp bang, thành lập Quốc hội Hợp bang. Quốc hội Hợp bang gồm đại biểu các bang, mỗi bang được số đại biểu bằng nhau, đại biểu mỗi bang có quyền phủ quyết hầu hết các quyết định của Quốc hội Hợp bang. Quốc hội Hợp bang có quyền hành pháp, nhưng không có quyền lập pháp, quyền cưỡng chế thu thuế, quản lý nền kinh tế hay thi hành luật. Tư pháp thì Quốc hội Hợp bang chỉ được thành lập tòa án hàng hải.
Đối mặt sự bất lực của chính phủ trung ương, đại biểu các bang họp Hội nghị Lập hiến vào năm 1787. Đại biểu trình dự thảo hiến pháp cải tổ Quốc hội hợp bang thành Quốc hội gồm hai viện, bởi vì chế độ lưỡng viện hoạt động tốt trong chính quyền các bang. Những bang thưa dân chủ trương mỗi bang có số nghị sĩ bằng nhau. Những bang đông dân chủ trương phân bổ số nghị sĩ theo dân số. Các đại biểu thỏa hiệp rằng hạ nghị sĩ được phân bổ theo dân số, mỗi bang có hai thượng nghị sĩ do chính quyền bang cử. Hội nghị Lập hiến ban hành Hiến pháp Hoa Kỳ, thành lập chế độ liên bang gồm chính phủ liên bang và chính phủ các bang. Quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp khống chế lẫn nhau theo nguyên tắc tam quyền phân lập. Hai viện Quốc hội khống chế lẫn nhau. Hiến pháp Hoa Kỳ có hiệu lực vào năm 1789.
Thập niên 1780 đến thập niên 1820: Quốc hội non trẻ
Các đảng chính trị bắt đầu định hình. Phe ủng hộ Hiến pháp Hoa Kỳ thành lập Đảng Liên bang. Phe đối lập vào Đảng phản chính quyền do James Madison và Thomas Jefferson sáng lập, là tiền thân của Đảng Dân chủ Cộng hòa. Đảng phản chính quyền phản đối chính sách của Bộ trưởng Tài chính Alexander Hamilton. Đảng Liên bang và Đảng Dân chủ Cộng hòa tranh giành chính quyền. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1800, Thomas Jefferson thuộc Đảng Dân chủ Cộng hòa đánh bại John Adams thuộc Đảng Liên bang. Năm 1803, Tòa án tối cao ra quyết định rằng Tòa án Tối cao có quyền hủy bỏ luật của Quốc hội.
Thập niên 1830 đến thập niên 1900: đảng phái tranh quyền
Các đảng chính trị tăng thế lực. Sự kiện bước ngoặt của thời kỳ này là Nội chiến Hoa Kỳ: chế độ nô lệ bị thủ tiêu, chính phủ liên bang được củng cố, chính quyền các bang bị suy yếu. Vào Thời kỳ mạ vàng (1877–1901), Đảng Cộng hòa thống trị Quốc hội. Hoạt động vận động hành lang trở nên mạnh mẽ. Ví dụ: vào thời chính quyền Tổng thống Ulysses S. Grant, những nhóm lợi ích vận động chính phủ trợ cấp ngành đường sắt và đánh thuế quan đối với len nhập khẩu. Dân số Hoa Kỳ tăng chóng mặt do tỷ lệ nhập cư và sinh đẻ cao. Vào Thời kỳ Tiến bộ, hai đảng lãnh đạo Quốc hội một cách hiệu quả. Những nhóm cải cách kêu gọi cải cách chính trị xã hội, chỉ trích các nhóm vận động hành lang thao túng chính trị. Quyền thế của Chủ tịch Hạ viện trở nên cực kỳ lớn mạnh. Thượng viện chịu sự kiểm soát của nửa tá thượng nghị sĩ.
Thập niên 1910 đến thập niên 1960: ủy ban nắm quyền
Trong Quốc hội, những nghị sĩ càng thâm niên càng dễ được bầu vào ủy ban, phân nhiệm vụ quan trọng, cho nên nghị sĩ của cả hai đảng thường xuyên ứng cử lại. Chủ nhiệm ủy ban của hai viện có thế lực lớn cho đến khi Quốc hội thông qua cải cách vào thập kỷ 1970.
Tu chính án XVII quy định bầu cử trực tiếp thượng nghị sĩ. Một mặt, các thượng nghị sĩ nhạy cảm hơn đối với dư luận. Mặt khác, chính quyền các bang bị suy yếu do mất quyền lựa chọn thượng nghị sĩ. Tu chính án 20 quy định khóa cũ Quốc hội kết thúc cùng ngày khóa mới bắt đầu, giảm quyền lực của những nghị sĩ Quốc hội thất cử. Tòa án tối cao mở rộng quyền hạn quản lý nền kinh tế của Quốc hội.
Vào thời kỳ Đại khủng hoảng, Đảng Dân chủ chiếm đa số trong cả Quốc hội. Sau khi đắc cử tổng thống vào năm 1932, Franklin D. Roosevelt bắt đầu tập trung quyền hạn vào tay tổng thống để thi hành chính sách kinh tế mới. Tổng thống Roosevelt cắt cử nhân viên vào những ủy ban Thượng viện để dễ thực hiện chương trình nghị sự của mình trong Quốc hội. Đảng Cộng hòa liên minh với phe bảo thủ miền nam trong Đảng Dân chủ để chống Roosevelt. Suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Dân chủ giữ được đa số trong Quốc hội. Sau khi chiến tranh kết thúc, Quốc hội vừa tinh giản số ủy ban để tăng hiệu quả làm việc, vừa thành lập những ủy ban về những vấn đề mới như hàng không vũ trụ và năng lượng hạt nhân. Phe miền nam trong Đảng Dân chủ vào được nhiều ủy ban quan trọng. Từ cuối thập niên 40 tới đầu thập niên 50, Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy lợi dụng tâm lý chống cộng của dân Mỹ để lên truyền hình vu khống người khác. Năm 1960, John F. Kennedy đắc cử tổng thống, chính quyền lại về tay Đảng Dân chủ tới năm 1994.
Từ năm 1970
Từ năm 1964 tới năm 1965, Quốc hội thông qua chương trình giảm nghèo của Tổng thống Lyndon B. Johnson. Sau vụ bê bối Watergate, Quốc hội bắt đầu tăng cường giám sát đối với chính phủ. Năm 1971, Quốc hội thông qua luật hạn chế việc quyên góp tiền cho các ứng viên, nhưng các nhóm vận động lợi dụng những kẽ hở trong pháp luật để tiếp tục tài trợ những ứng viên mà ảnh hưởng kết quả bầu cử cho có lợi cho mình. Từ năm 1974 tới năm 1984, tổng số tiền quyên góp tăng từ 12,5 triệu đô la Mỹ tới 120 triệu đô la Mỹ. Năm 2002, Quốc hội tiếp tục thông qua luật hạn chế tài chính tranh cử. Từ năm 2007 tới năm 2008, có 175 nghị sĩ Quốc hội nhận "ít nhất một nửa số tiền tranh cử" từ các nhóm vận động. Năm 2009, có 4,600 nhóm vận động, bao gồm nhóm của luật sư, thợ điện và môi giới nhà đất.
Từ năm 1970, Puerto Rico, Washington, D.C., Quần đảo Virgin, Guam, Samoa và Quần đảo Bắc Mariana lần lượt được cử một đại biểu vào Hạ viện. Sáu đại biểu này có quyền đề nghị dự án luật, dự thảo nghị quyết và bỏ phiếu trong các ủy ban Hạ viện. Mỗi đại biểu được cấp văn phòng gần Quốc hội, nhân viên và hai dịp thăm bốn học viện quân sự của Hoa Kỳ mỗi năm. Đại biểu không được biểu quyết đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết.
Từ cuối thế kỷ 20, báo chí bắt đầu ảnh hưởng đến công tác của Quốc hội. Hiện tượng "báo lá cải hóa" chỉ nhấn mạnh tiêu cực trong Quốc hội và tạo cơ hội cho một nghị sĩ bất kỳ tác động quá đáng đến quyết định của Quốc hội. Tháng 10 năm 2013, Quốc hội không kịp nâng trần nợ chính phủ, khiến cho cả chính phủ liên bang ngừng hoạt động một vài tuần và gây ra nguy cơ vỡ nợ nghiêm trọng. Dư luận cực kỳ bất bình: 60% người dân trả lời thăm dò rằng họ sẵn lòng "đuổi việc tất cả các nghị sĩ Quốc hội", kể cả nghị sĩ do họ bầu lên; chỉ 5% tán thành công tác của Quốc hội. Hiện nay dư luận vẫn không tán thành tác phong của Quốc hội.
Ngày 6 tháng 1 năm 2021, những người ủng hộ tổng thống thất cử Donald Trump xông vào Quốc hội lúc Quốc hội đang kiểm phiếu xác nhận Joe Biden đắc cử tổng thống, khiến cho các nghị sĩ Quốc hội phải sơ tán. Đám đông ở lại Quốc hội tới khi bị cảnh sát giải tán. Đây là lần đầu tiên Quốc hội Hoa Kỳ bị chiếm đóng kể từ Trận đốt cháy Washington.
Vai trò
Quyền hạn
Tổng quan
Điều I Hiến pháp Hoa Kỳ quy định tổ chức và quyền hạn của Quốc hội. Khoản 1-6 quy định cách bầu và tổ chức của Hạ viện, Thượng viện. Khoản 7 quy định quy trình lập pháp. Khoản 8 liệt kê những quyền hạn của Quốc hội. Khoản 9 liệt kê giới hạn đối với quyền của Quốc hội. Khoản 10 quy định quyền hạn của Quốc hội đối với các bang. Quốc hội được những tu chính án bổ sung quyền hạn. Ngoài quyền hạn được liệt kê ra thì Quốc hội có những quyền hạn cần thiết để thực hiện những quyền hạn được liệt kê.
Quốc hội quy định các thứ thuế, thuế quan và thuế môn bài. Tu chính án XVI cho phép Quốc hội đánh thuế thu nhập mà không cần phải phân bổ giữa các bang theo dân số. Quốc hội quyết định ngân sách nhà nước, là một trong những cơ chế chính để kiểm soát chính phủ. Quốc hội có quyền vay tiền, quy định về thương mại với nước ngoài, giữa các bang và phát hành tiền. Ngân sách nhà nước phải trình lên Hạ viện trước.
Quốc hội quyết định tuyên chiến, kinh phí quân sự và các quy chế về quân đội. Trước đây, tổng thống yêu cầu Quốc hội tuyên chiến trước khi động binh, ví dụ như Chiến tranh Hoa Kỳ–Anh Quốc, Chiến tranh Hoa Kỳ–México, Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ, Chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai. Tuy nhiên, có nhận định rằng Quốc hội đã bị tổng thống lấn quyền. Khi quân Mỹ tham dự Chiến tranh Triều Tiên, Tổng thống Harry S. Truman không yêu cầu Quốc hội tuyên chiến mà gọi nó là "chiến dịch trị an". Năm 1970, tạp chí Time thống kê rằng các tổng thống Mỹ đã động binh mà không được Quốc hội cho phép tổng cộng 149 lần. Suốt lịch sử Hoa Kỳ luôn có tranh luận về quyền hạn của Quốc hội và tổng thống đối với vấn đề chiến tranh.
Quốc hội quyết định thành lập các bưu điện và mạng lưới bưu điện, quy định về quyền sở hữu trí tuệ, xác định tiêu chuẩn đo lường, thành lập các tòa án dưới quyền của Tòa án tối cao và làm những luật cần thiết để thực hiện quyền hạn của Quốc hội và chính phủ Hoa Kỳ. Điều IV quy định Quốc hội quyết định kết nạp bang mới.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát đối với chính phủ. Ủy ban Quốc hội có quyền triệu tập người ra ủy ban để phục vụ điều tra về một vấn đề nhất định. Quốc hội đã bị chỉ trích do lỏng lẻo trong việc giám sát chính phủ, tuy có điều tra về tính hợp pháp của những quyết định của tổng thống. Một nguyên nhân có thể là các nghị sĩ không thể tranh cử thành công bằng thành tích giám sát nên không tích cực yêu cầu Quốc hội thực hiện quyền giám sát. Quốc hội có quyền cách chức tổng thống, thẩm phán và những công chức khác. Có nhận định rằng những tổng thống gần đây đã lấn quyền của Quốc hội bằng những thủ đoạn như thi hành luật theo ý mình mà không kể tới dự định làm luật của Quốc hội. Ví dụ: những tổng thống Ronald Reagan, George H. W. Bush, Bill Clinton và George W. Bush đều tuyên bố cách hiểu của mình về luật của Quốc hội khi công bố luật.
Quyền hạn được tu chính án bổ sung
Tu chính án XIII, XIV và XV cho phép Quốc hội làm luật bảo đảm quyền lợi của người Mỹ gốc Phi, bao gồm quyền bầu cử, quyền bình đẳng trước pháp luật và các quyền lợi chính đáng.
Quyền hạn phái sinh
Quốc hội có những quyền hạn phái sinh từ các quyền hạn được liệt kê. Nhờ tòa án giải thích rộng rãi những quyền hạn phái sinh và quyền quản lý thương mại mà Quốc hội đã được mở rộng quyền hạn lập pháp của mình vượt dự định của Khoản 8.
Quyền hạn đối với các lãnh thổ, thành phố trực thuộc
Quốc hội trực tiếp quản lý thủ đô Washington, D.C., Guam, Samoa thuộc Mỹ, Puerto Rico, Quần đảo Virgin thuộc Mỹ và Quần đảo Bắc Mariana. Quốc hội đã thành lập chính quyền địa phương ở các khu vực này, gồm hội đồng lập pháp và thống đốc dân cử (D.C. thì là thị trưởng).
Mỗi lãnh thổ và Washington D.C. được cử một đại biểu vào Hạ viện. Đại biểu có các quyền giống như hạ nghị sĩ, trừ quyền biểu quyết ra. Ví dụ: đại biểu có quyền tiến cử người vào bốn học viện của Lục quân, Hải quân, Không quân và Tuần duyên Hoa Kỳ. Đại biểu được cấp văn phòng và nhân viên.
Cơ chế kiểm soát quyền lực
Hiến pháp Hoa Kỳ quy định các cơ chế cho quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp khống chế lẫn nhau. Các nhà lập hiến dự liệu cho Quốc hội có quyền lực cao nhất.
Ảnh hưởng của Quốc hội đối với tổng thống thay đổi tùy theo những nhân tố như lãnh đạo trong Quốc hội, thế lực của tổng thống, bối cảnh lịch sử và nỗ lực của các nghị sĩ Quốc hội. Sau khi Quốc hội đàn hặc Tổng thống Andrew Johnson, tổng thống chịu lép vế Quốc hội trong khoảng thời gian dài. Vào thế kỷ 20 và 21, một loạt tổng thống như Theodore Roosevelt, Woodrow Wilson, Franklin D. Roosevelt, Richard Nixon, Ronald Reagan và George W. Bush bắt đầu tập trung quyền hạn lại vào tay tổng thống. Quốc hội đối phó với tổng thống bằng cách tăng cường quyền hạn của mình đối với ngân sách nhà nước và vấn đề chiến tranh. Tuy nhiên, tổng thống hiện nay vẫn có nhiều quyền hạn hơn thế kỷ 19. Quốc hội và tổng thống hiếm tin tưởng nhau: chính phủ thì sợ báo cáo thông tin bí mật cho Quốc hội sẽ bị lộ, Quốc hội thì thấy chính phủ ngại báo cáo mà đâm nghi có điều mờ ám.
Hạ viện quyết định đàn hặc tổng thống, phó tổng thống và những công chức liên bang khác khi có ít nhất đa số hạ nghị sĩ biểu quyết tán thành. Thượng viện luận tội các công chức bị đàn hặc. Trường hợp kết tội phải được ít nhất hai phần ba số thượng nghị sĩ biểu quyết tán thành. Công chức mà bị kết tội thì tất nhiên bị cách chức. Thượng viện có quyền cấm người bị cách chức giữ chức vụ khác. Xưa nay 16 người đã bị đàn hặc, bảy người đã bị cách chức, một người từ chức trước khi Thượng viện bắt đầu luận tội. Chỉ có ba tổng thống bị đàn hặc: Andrew Johnson vào năm 1868, Bill Clinton vào năm 1999, Donald Trump vào năm 2019 và 2021. Không tổng thống nào bị kết tội; Johnson thoát án chỉ nhờ Thượng viện thiếu một phiếu để kết tội. Tổng thống Richard Nixon từ chức vào năm 1974 sau khi thấy rằng Quốc hội sẽ cách chức ông do vụ bê bối Watergate.
Thượng viện phê chuẩn bổ nhiệm bộ trưởng, thẩm phán và những công chức khác của tổng thống. Thượng viện phê chuẩn điều ước quốc tế do tổng thống ký khi có ít nhất hai phần ba số thượng nghị sĩ biểu quyết tán thành. Hạ viện không có vai trò trong việc phê chuẩn bổ nhiệm hay phê chuẩn điều ước. Tuy nhiên, trường hợp khuyết phó tổng thống thì mỗi viện phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm phó tổng thống của tổng thống.
Quyền lập pháp của Quốc hội bị các tòa án hạn chế. Án lệ Marbury v. Madison năm 1803 xác định quyền giám sát hiến pháp của tòa án các cấp, tuy Hiến pháp Hoa Kỳ không quy định thành văn. Những quốc phụ của Hoa Kỳ đã nói tới quyền giám sát hiến pháp trong lúc tranh luận soạn thảo hiến pháp mới. Năm 1857, Tòa án tối cao ra quyết định hủy bỏ luật cấm chế độ nô lệ của Quốc hội là vi hiến. Một mặt quyền giám sát hiến pháp hạn chế phạm vi lập pháp của Quốc hội, một mặt các tòa án có thể mở rộng quyền hạn của Quốc hội bằng cách giải thích rộng rãi các điều khoản hiến pháp.
Quốc hội lần đầu tiên thực hiện quyền giám sát đối với chính phủ vào năm 1791 sau khi quân đội Hoa Kỳ thua trận trước người Mỹ bản địa. Ủy ban Quốc hội có quyền tổ chức phiên điều trần và triệu tập người ra điều trần trước ủy ban. Người nào mà không chịu hầu ủy ban hay khai man thì có thể bị phạt. Phần lớn các phiên điều trần đều công khai, trừ phiên điều trần của ủy ban tình báo hai viện ra. Quốc hội công bố kết quả điều tra, nghiên cứu của các ủy ban và có cơ sở dữ liệu lưu trữ các ấn phẩm điện tử.
Sau cuộc bầu cử tổng thống, Quốc hội họp kiểm phiếu bầu vào ngày 6 tháng 1 theo thường lệ. Trường hợp không có ứng viên được đa số phiếu thì Quốc hội bầu tổng thống.
Tổ chức
Quốc hội gồm Hạ viện và Thượng viện. Hạ viện và Thượng viện thành lập các ủy ban về những vấn đề chuyên môn. Ngoài ra, Quốc hội có các cơ quan giúp việc như Phòng Trách vấn chính phủ và Thư viện Quốc hội phụ trách cung cấp thông tin cho Quốc hội. Nghị sĩ Quốc hội được cấp văn phòng và nhân viên.
Ủy ban Quốc hội
Chuyên môn
Ủy ban Quốc hội điều tra, nghiên cứu những vấn đề chuyên môn và báo cáo Quốc hội. Ở Thượng viện, hai thượng nghị sĩ của mỗi bang thường vào ủy ban khác nhau để tránh bị trùng lặp. Một số ủy ban có ảnh hưởng lớn đối với tất cả dự án luật ở Quốc hội. Ví dụ: Ủy ban Thuế vụ của Hạ viện thẩm tra các dự án luật về thuế.
Nhiệm vụ
Ủy ban Quốc hội soạn thảo, thẩm tra các dự án luật. Dự án luật phải được ủy ban Quốc hội thẩm tra trước khi đưa ra Quốc hội thảo luận, trừ trường hợp thủ tục đặc biệt ra. Mỗi ủy ban Quốc hội gồm các tiểu ban được phân công nhiệm vụ giấy tờ, giám sát và lập pháp.
Chủ tịch Hạ viện và Thượng viện
Đầu mỗi khóa Quốc hội, Hạ viện bầu Chủ tịch Hạ viện. Chủ tịch Hạ viện là lãnh đạo của đảng đa số trong Hạ viện nhưng thường không chủ trì phiên họp Hạ viện. Ở Thượng viện, Phó Tổng thống đương nhiên là Chủ tịch Thượng viện. Ngoài ra, Thượng viện bầu Chủ tịch Thượng viện tạm quyền, thường là thượng nghị sĩ thâm niên nhất thuộc đảng đa số trong Thượng viện. Người chủ trì phiên họp Hạ viện và Thượng viện thường là nghị sĩ mới thuộc đảng đa số, mục đích là tập cho quen nội quy của viện.
Cơ quan giúp việc
Thư viện Quốc hội
Thư viện Quốc hội được thành lập vào năm 1800. Trụ sở chính của Thư viện Quốc hội gồm ba tòa nhà đặt ở Đồi Quốc hội, ngoài ra còn có những cơ sở khác ở Washington, D.C., Culpeper, Virginia, Fort Meade, Maryland và các văn phòng ở nước ngoài. Năm 1812, Thư viện Quốc hội bị quân Anh thiêu trụi nhưng về sau được khôi phục và mở rộng nhờ Quốc hội mua lại thư viện riêng của Thomas Jefferson. Thư viện Quốc hội là thư viện lớn nhất trên thế giới, có gần 150 triệu tư liệu trong 470 thứ tiếng bao gồm sách, bản thảo, bản đồ, hình vẻ, phim ảnh và nhạc.
Phòng Nghiên cứu Quốc hội
Phòng Nghiên cứu Quốc hội thuộc Thư viện Quốc hội có nhiệm vụ cung cấp thông tin chi tiết, chính xác và khách quan cho các hạ nghị sĩ và thượng nghị sĩ. Phòng Nghiên cứu Quốc hội có khoảng 900 nhân viên.
Phòng Ngân sách Quốc hội
Phòng Ngân sách Quốc hội có nhiệm vụ cung cấp thông tin về kinh tế và ngân sách cho Quốc hội. Phòng Ngân sách Quốc hội được thành lập vào năm 1974. Phòng Ngân sách Quốc hội ước tính dự toán thu ngân sách nhà nước và những số liệu khác như nợ chính phủ và kinh phí của các dự án luật. Hàng năm Phòng Nghiên cứu Quốc hội trình báo cáo về triển vọng kinh tế và ngân sách lên Quốc hội.
Thủ tục
Kỳ họp
Hiến pháp Hoa Kỳ quy định Quốc hội họp ít nhất một lần mỗi năm và cấm Hạ viện hoặc Thượng viện họp ở nơi khác mà chưa có viện kia cho phép. Một khóa Quốc hội gồm hai kỳ họp. Mỗi kỳ họp khai mạc vào ngày 3 tháng 1, trừ phi Quốc hội quyết định thời gian khác. Quốc hội họp bất thường theo lệnh triệu tập của tổng thống.
Phiên họp chung
Quốc hội họp chung trong những trường hợp như kiểm phiếu bầu tổng thống sau cuộc bầu cử và nghe Thông điệp Liên bang của tổng thống. Phiên họp chung của Quốc hội thường do Chủ tịch Hạ viện chủ trì. Trường hợp kiểm phiếu bầu tổng thống thì Chủ tịch Thượng viện chủ trì.
Luật và nghị quyết
Chỉ nghị sĩ Quốc hội có quyền trình dự án luật và nghị quyết nhưng thực tế là hầu hết các dự án luật đều do chính phủ hay các nhóm lợi ích soạn trước rồi đưa cho nghị sĩ trình Quốc hội. Có bốn loại dự án trình Quốc hội:
Dự án luật
Nghị quyết chung: nghị quyết chung có hiệu lực pháp lý và cần phải được tổng thống ký.
Nghị quyết lưỡng viện: nghị quyết lưỡng viện chỉ điều chỉnh hai viện và không cần tổng thống ký.
Nghị quyết đơn viện: nghị quyết đơn viện chỉ điều chỉnh một trong hai viện.
Dự án luật được ủy ban của mỗi viện thẩm tra và lấy ý kiến của Phòng Giám sát Chính phủ. Hạ viện có 20 ủy ban, Thượng viện có 16 ủy ban. Ủy ban Quốc họp họp ít nhất một lần mỗi tháng. Phiên họp ủy ban Quốc hội phải công khai, trừ phi các thành viên yêu cầu họp kín. Chủ nhiệm ủy ban Quốc hội là thành viên thuộc đảng đa số. Ủy ban mời công chúng dự họp đối với những dự án luật quan trọng và có thể gọi chuyên gia ra ủy ban góp ý kiến về dự án luật. Thành viên ủy ban thảo luận dự án luật và có thể đề nghị sửa đổi nhưng mỗi viện có quyền bác bỏ đề nghị của ủy ban. Sau khi thảo luận thì ủy ban biểu quyết trình dự án luật lên toàn viện. Hạ viện và Thượng viện có thủ tục đặc biệt cho phép bỏ qua giai đoạn thẩm tra của ủy ban nhưng hiếm khi áp dụng.
Sau khi được một viện thông qua thì dự án luật được chuyển đến viện kia. Hạ viện và Thượng viện phải thông qua cùng nội dung. Trường hợp viện kia sửa đổi dự án luật thì Quốc hội thành lập một ủy ban hiệp thương gồm những hạ nghị sĩ và thượng nghị sĩ để thống nhất nội dung dự án luật. Trường hợp Hạ viện và Thượng viện tán thành dự thảo của ủy ban hiệp thương thì dự án luật được thông qua.
Hiến pháp Hoa Kỳ quy định cần phải có ít nhất đa số nghị sĩ của mỗi viện có mặt để tiến hành thảo luận. Tuy nhiên, nội quy là trừ phi có yêu cầu điểm danh thì mặc nhiên có đủ nghị sĩ nên mỗi viện thường thảo luận mà không có đa số nghị sĩ có mặt.
Biểu quyết ở Quốc hội có nhiều hình thức. Hạ viện và Thượng viện phần lớn biểu quyết bằng miệng, nghị sĩ chủ trì công bố phiên họp kết quả biểu quyết. Trường hợp ít nhất một phần năm số nghị sĩ có mặt yêu cầu hay biểu quyết chống phủ quyết của tổng thống thì mỗi viện ghi sổ biểu quyết của từng nghị sĩ.
Biểu quyết ở Thượng viện thường bằng hình thức điểm danh. Trường hợp ngang phiếu thì Phó Tổng thống được biểu quyết. Biểu quyết ở Hạ viện thường bằng thẻ nghị sĩ Quốc hội: sau khi cắm thẻ vào khe cắm thẻ thì nghị sĩ có thể biểu quyết tán thành, không tán thành hoặc không biểu quyết. Chỉ biểu quyết bằng điểm danh đối với các vấn đề nghiêm trang nhất do có tới 435 hạ nghị sĩ. Đôi khi có biểu quyết bằng phiếu giấy. Nghị sĩ không được ủy quyền nghị sĩ khác biểu quyết. Kết quả biểu quyết ở Hạ viện và Thượng viện được công bố.
Sau khi được Hạ viện và Thượng viện thông qua thì luật được chuyển lên tổng thống. Tổng thống hoặc công bố hoặc phủ quyết luật mà trả về Quốc hội kèm ý kiến của mình. Trường hợp Hạ viện và Thượng viện thông qua luật có hai phần ba số nghị sĩ biểu quyết tán thành thì luật tất nhiên được công bố. Trường hợp tổng thống không công bố hay trả luật về Quốc hội thì luật tất nhiên được công bố sau mười ngày (không tính chủ nhật), trừ phi Quốc hội đang hoãn họp thì luật không được công bố.
Quyền lợi của nghị sĩ Quốc hội
Quyền miễn trừ
Không được bắt nghị sĩ Quốc hội trong thời gian Quốc hội họp hoặc trong lúc nghị sĩ đi họp hay đi họp về, trừ trường hợp phạm tội phản quốc, tội gây rối trật tự công cộng và trọng tội khác. Sự "bắt" được hiểu rộng là bao gồm việc bị cảnh sát giam giữ, bị triệu hầu tòa và bị triệu điều trần. Hạ nghị sĩ không được tự ý từ bỏ đặc quyền của mình mà phải xin phép Hạ viện. Thượng nghị sĩ thì không cần phải xin phép Thượng viện.
Hiến pháp Hoa Kỳ quy định nghị sĩ Quốc hội không thể bị truy cứu trách nhiệm về ngôn luận ở Quốc hội nên nghị sĩ không thể bị kiện vu khống. Tuy nhiên, mỗi viện có quyền kỷ luật nghị sĩ có ngôn luận phản cảm.
Người nào mà cản trở công việc của Quốc hội thì bị phạt tù đến một năm. Một nghị sĩ bất kỳ có quyền yêu cầu công tố viên khởi tố người cản trở công việc của Quốc hội.
Miễn bưu phí
Nghị sĩ Quốc hội được miễn bưu phí khi gửi thư từ cho cử tri, trừ phi là thư từ tranh cử, nhưng thực tế là các nghị sĩ đều vận động cử tri qua bưu điện, nhất là trước những cuộc bầu cử ngang sức.
Lương, phụ cấp và các chế độ khác
Từ năm 1789 đến năm 1815, nghị sĩ Quốc hội được trả 6 đô la Mỹ mỗi ngày trong lúc Quốc hội họp. Từ năm 1815 đến năm 1817, được nhận mức lương hàng năm 1.500 đô la Mỹ. Từ năm 1818 đến năm 1855, được nhận công tác phí 8 đô la Mỹ mỗi ngày. Kể từ năm 1855, nghị sĩ Quốc hội chỉ được hưởng lương hàng năm. Năm 1855, mức lương hàng năm là 3.000 đô la Mỹ. Năm 1907, được tăng đến 7.500 đô la Mỹ mỗi năm, bằng 173.000 đô la Mỹ vào năm 2010. Năm 2006, mức lương là 165.200 đô la Mỹ. Năm 2008, tăng đến 169.300 đô la Mỹ. Chủ tịch Hạ viện được hưởng mức lương 212.100 đô la Mỹ, Chủ tịch Thượng viện tạm quyền được hưởng mức lương 183.500 đô la Mỹ.
Kể từ năm 1984, nghị sĩ Quốc hội được hưởng chế độ hưu trí. Nghị sĩ Quốc hội đóng 1,3% vào quỹ hưu trí, 6,2% vào bảo hiểm xã hội và được bảo hiểm y tế trả hai phần ba chi phí khám, chữa bệnh.
Mức lương hưu của nghị sĩ Quốc hội phụ thuộc vào số năm nhiệm kỳ và trung bình ba năm mức lương cao nhất. Mức lương hưu hàng năm không được vượt quá 80% mức lương cuối cùng của nghị sĩ . Năm 2018, mức lương hưu hàng năm của các nghị sĩ dưới chế độ hưu trí cũ là 75.528 đô la Mỹ, dưới chế độ hiện tại là 41.208 đô la Mỹ.
Nghị sĩ Quốc hội được cấp công tác phí để đi nước ngoài nhưng đã bị chỉ trích vì lãng phí tiền của vào các chuyến công du vô bổ. Ví dụ: năm 2009, nghị sĩ Quốc hội đi công tác ở nước ngoài chi tiền vào spa, phòng khách sạn trống và mua sắm.
Tu chính án XVII quy định việc tăng giảm mức lương của nghị sĩ Quốc hội không được áp dụng đối với khóa Quốc hội đó. Tuy nhiên, Quốc hội được điều chỉnh mức lương cho theo kịp chi phí sinh hoạt. |
RNA thông tin là một loại RNA mang bộ ba mã di truyền được tổng hợp trực tiếp từ gen trên DNA trong nhân, ra ngoài vùng nhân làm khuôn dịch mã tổng hợp nên chuỗi pôlypeptit.
Về mặt chức năng, thì RNA thông tin như là một bản sao của các thông tin di truyền gốc ở gen, nghĩa là nó làm nhiệm vụ truyền đạt bản thiết kế prôtêin bậc I do gen quy định. Bởi thế, người ta còn có thể gọi nó là RNA liên lạc hoặc RNA làm nhiệm vụ truyền đạt thông tin.
Khái niệm này dịch từ thuật ngữ tiếng Anh: messenger RNA có kết hợp với tiếng Pháp: ARN messager và đã được quy ước viết tắt trong sinh học phổ thông là mARN.
Sự tồn tại của mRNA được Francis Crick tiên đoán từ khoảng những năm 1954 - 1955, sau phát hiện vĩ đại của ông cùng James Watson về mô hình DNA không lâu, trong đó ông cho rằng phải có sự tồn tại của loại vật chất trung gian từ DNA đến Prôtêin. Bởi thế, nó cũng đã từng được gọi là RNA trung gian.
Phân tử mRNA được mô tả lần đầu tiên vào năm 1956 nhờ hai nhà khoa học Elliot Volkin và Lazarus Astrachan.
Đặc điểm cơ bản
mRNA chỉ gồm một chuỗi pôlyribônuclêôtit (hình 1), hay còn gọi là có cấu tạo mạch đơn.
mRNA mang thông tin di truyền quy định amino acid, nên gọi là loại RNA có mã hoá (nhiều loại RNA khác - như rRNA - không có đặc điểm này).
mRNA là bản phiên mã của gen cấu trúc (cistron), với trình tự pôlyribônuclêôtit y như trình tự pôlyđêôxiribônuclêôtit của mạch bổ sung cho mạch mã gốc của gen, chỉ khác U thay T.
mRNA làm bản "khuôn" để dịch mã, trực tiếp quy định vị trí các a xit amin trong chuỗi pôlypeptit (prôtêin bậc I).
"Vòng đời" một RNA thông tin
Vòng đời của một phân tử RNA thông tin được tính từ khi bắt đầu quá trình phiên mã và kết thúc khi phân tử này bị phân hủy bởi các RNase. Trong quá trình này, RNA thông tin có thể được chế biến, chỉnh sửa, và được vận chuyển trước khi xảy ra quá trình dịch mã. Những RNA thông tin của sinh vật nhân chuẩn thường phải trải quá nhiều quá trình chế biến và vận chuyển phức tạp hơn nhiều so với ở tế bào sinh vật nhân sơ.
Phiên mã
Trong quá trình phiên mã, trình tự nucleotide của các gen trên DNA được sao chép lại trên phân tử RNA thông tin nhờ sự hoạt động của RNA polymerase. Quá trình này tương đối giống nhau ở cả tế bào sinh vật nhân sơ và nhân chuẩn. Điều khác biệt đáng chú ý là ở sinh vật nhân chuẩn, RNA polymerase kết hợp với một số enzyme tham gia vào quá trình chế biến RNA thông tin, điều này cho phép quá trình chế biến RNA thông tin có thể diễn ra ngay khi khởi đầu sự phiên mã. Phân tử RNA thông tin mới đầu được tạo thành có tuổi thọ ngắn, chưa được hoặc chỉ mới xử lý một phần được gọi là tiền RNA thông tin (pre-mRNA) đến khi hoàn thành quá trình chế biến thì gọi là RNA thông tin trưởng thành.
Chế biến
Việc chế biến (xử lý) RNA thông tin rất khác nhau giữa sinh vật nhân chuẩn và nhân sơ. RNA thông tin của sinh vật nhân sơ là khá hoàn chỉnh việc phiên mã và không cần chế biến gì (ngoại trừ vài trường hợp hiếm). Còn RNA thông tin của sinh vật nhân chuẩn đòi hỏi xử lý rất nhiều.
Tạo tiền RNA thông tin ở sinh vật nhân chuẩn
cộng gốc 5' là quá trình ở đó nucleotid guanin thay đổi được cộng vào đầu 5' của tiền RNA thông tin. Quá trình sửa chữa này là quan trọng cho việc phát hiện và đính kèm đúng của RNA thông tin với ribosome. Nó cũng quan trọng với quá trình ghép và vận chuyển.
Vận chuyển - là quá trình ở đó tiền RNA thông tin được sửa chữa để kéo giãn các chuỗi không mã hóa, gọi là intron; và các chuỗi protein mã hóa được gọi là exons. Tiền RNA thông tin được vận chuyển bởi nhiều đường khác nhau, cho phép một gen đơn có thể mã hóa cho nhiều protein, quá trình như vậy được gọi là vận chuyển liên tiếp. Quá trình vận chuyển thường được thực hiện bởi một phức hợp gọi là thể cắt nối (spliceosome), nhưng các phân tử RNA cũng có khả năng làm chất xúc tác cho chính quá trình vận chuyển của chúng.
Polyadenylation - là liên kết không phân cực (covalent) của một nửa polyadenylyl với một phân tử RNA. Trong các sinh vật nhân chuẩn, polyadenylation là quá trình mà ở đó phần lớn các phân tử RNA thông tin được kết thúc ở các gốc 3' của chúng. Các đầu viện trợ poly(A) trong RNA thông tin ổn định để bảo vệ nó khỏi quá trình exonucleases. Polyadenylation cũng quan trọng với quá trình kết thúc phiên mã, đưa RNA thông tin ra ngoài hạt nhân và dịch mã nó.
Polyadenylation diễn ra trong và sau quá trình phiên mã DNA vào trong RNA. Sau khi quá trình phiên mã kết thúc, vòng RNA thông tin được phân ra nhờ sự hoạt động của một endonuclease phức gắn với RNA polymerase. Vị trí phân rã được xác định bởi sự xuất hiện của các chuỗi AAUAAA gốc gần chỗ phân rã. Sau khi RNA thông tin được tách ra, 80 đến 250 adenosine còn lại được gắn vào các gốc tự do 3' tại vị trí phân rã.
Một chuỗi (khoảng vài trăm) nucleotid loại adenin được cộng vào các đầu 3' của tiền RNA thông tin nhờ sự hoạt động của một enzyme có tên là polyadenylate (polyA) polymerase. Đuôi PolyA được gắn với bản sao ở đó chứa những chuỗi đặc biệt, ký hiệu AAUAAA. Tầm quan trọng của ký hiệu AAUAAA được chứng minh bởi một sự thay đổi trong mã hóa chuỗi DNA (AATAAA), dẫn đến sự thiếu hụt của hồng cầu. Polyadenylation làm tăng quá trình phân đôi trong quá trình sao chép, vì thế các bản sao cuối cùng dài hơn trong tế bào và dẫn đến việc dịch mã nhiều hơn, tạo ra nhiều protein hơn.
Sửa chữa
Trong một vài trường hợp, một RNA thông tin sẽ được sửa chữa, thành phần nucleotide của RNA thông tin lúc này được thay đổi. Một ví dụ trong cơ thể người đó là RNA thông tin apolipoprotein B, ở đó nó được sửa chữa ở một vài mô, nhưng không ở các mô khác. Sự sửa chữa làm ngừng sớm mã gen của bộ ba mã hóa, dẫn đến quá trình dịch mã, sản xuất các protein ngắn hơn.
Vận chuyển
Một sự khác biệt khác giữa các sinh vật nhân chuẩn và nhân sơ là ở quá trình vận chuyển RNA thông tin. Do sự phiên mã và dịch mã của các sinh vật nhân chuẩn diễn ra tách biệt nhau trong không gian tế bào, nên mRNA trưởng thànhcủa sinh vật nhân chuẩn phải được chuyển từ nơi nó được tổng hợp là nhân tế bào qua các lỗ nhân tới tế bào chất.
Dịch mã
Do RNA thông tin không nhất thiết phải được chế biến hay vận chuyển, quá trình dịch mã bởi ribosome có thể bắt đầu ngay sau khi quá trình phiên mã được thực hiện. Do vậy, người ta nói rằng quá trình dịch mã ở sinh vật nhân sơ là "kép" với quá trình phiên mã, và diễn ra sự " cùng sao chép".
RNA thông tin của sinh vật nhân chuẩn đã qua quá trình chế biến và vận chuyển tới tế bào chất (mRNA trưởng thành) có thể được dịch mã bởi ribosome. Quá trình dịch mã diễn ra tại các ribosome có thể trôi nổi trong chất nền trong tế bào chất hoặc ở trong mạng lưới nội chất. Do vậy, không giống như sinh vật nhân sơ, quá trình dịch mã của sinh vật nhân chuẩn không đồng thời với quá trình phiên mã.
Phân hủy
Sau một khoảng thời gian nhất định, các RNA thông tin phân hủy thành các thành phần nucleotide của nó, thường nhờ sự hỗ trọ của các RNase. Ứng với quá trình chế biến RNA thông tin, RNA thông tin của sinh vật nhân chuẩn được tổng hợp một cách ổn định hơn là RNA thông tin của các sinh vật nhân sơ.
Cấu trúc RNA thông tin
Vùng mã hóa
Các vùng mã là tổ hợp của các bộ ba mã hóa (codon), thứ được giải mã và dịch mã vào trong protein bởi ribosome. Các vùng mã bắt đầu với bộ ba đầu và kết thúc bởi một trong ba cuối. Trong quá trình mã hóa protein, các thành phần của các vùng mã hóa vẫn hoạt động như các chuỗi bình thường (xem exonic splicing enhancers, exonic splicing silencers)
Vùng không mã hóa
Có những đoạn của RNA trước và sau khi các chuỗi khởi động và ngừng của nó không tham gia quá trình dịch mã. Các đoạn này tạo bởi các sợi DNA mẫu, nơi mà RNA được sao chép. Những vùng này, được biết với cái tên 5' UTR và 3' UTR (các cùng không dịch mã 5' UTR và 3'UTR, ở đó DNA và RNA chuyển từ gốc 5' đến gốc 3' và nằm ở đuôi của chuỗi RNA) mã hóa cho các chuỗi không có protein. Tuy nhiên, tầm quan trọng của nó lại ở chỗ các chuỗi đuôi 5' UTR và 3' UTR có thể hấp dẫn với những loại enzyme RNase nhất định, đẩy mạnh hoặc ngăn chặn sự ổn định tương đối của các phân tử RNA. Các UTRs nhấn định có thể cho phép RNA tồn tại lâu hơn trong tế bào chất trước khi phân hủy, dẫn đến việc cho phép chúng sản xuất nhiều protein hơn, trong khi những RNA khác có thể bị phân hủy sớm hơn, dẫn đến vòng đời ngắn hơn và ứng với việc tạo ra số lượng protein ít hơn.
Một vài chức năng cơ sở chứa trong các vùng không mã hóa hình thành một dạng cấu trúc cấp II khi phiên mã vào trong RNA. Những RNA thông tin cấu trúc cơ sở này được gộp vào trong RNA thông tin thông thường. Một số chúng như SECIS cơ sở là mục tiêu để cho các protein kết lại. Một phân loại của RNA thông tin cơ sở, riboswitch, lại trực tiếp liên kết với các phân tử nhỏ, thay đổi sự cuốn gấp của chúng để chỉnh sửa các lớp của phiên mã hay dịch mã. Trong những trường hợp này, RNA thông tin tự chỉnh sửa nó.
RNA thông tin đối mã (anti-sense RNA thông tin)
Đối mã RNA thông tin có thể ngăn chặn quá trình dịch mã các gen trong nhiều sinh vật nhân chuẩn, khi các chuỗi đối mã RNA thông tin gắn với các RNA thông tin của gen. Điều này có nghĩa, một gen không biểu lộ như protein nếu nó hiện lên một đối mã RNA thông tin trong tế bào. Điều này có thể là một cơ chế bảo vệ, để chống lại quá trình dịch chuyển retrotransposon, ở đó sử dụng các RNA mạch kép làm trạng thái trung gian, hoặc virut, bởi vì cả hai đều sử dụng RNA thông tin mẫu kép như một hợp chất trung gian. Trong nghiên cứu hóa sinh, hiệu ứng này đã được sử dụng để nghiên cứu chức năng của gen, đơn giản như việc làm ngừng các gen nghiên cứu bằng việc cho thêm các phiên đối mã RNA thông tin. Các nghiên cứu này đã được thực hiện ở loài giun. |
Tế bào tua (tiếng Anh là Dendritic cells, DC) là tế bào chuyên trình diện kháng nguyên (tế bào APC) cho các tế bào lympho T trong đáp ứng miễn dịch của động vật có vú.
Chúng có các tua dài giống như các tua của tế bào thần kinh.Các tế bào có số lượng nhỏ và chủ yếu ở các mô có tiếp xúc với môi trường như da (gọi là tế bào Langerhans), ở dịch nhầy trong xoang mũi, phổi, dạ dày và biểu mô ruột. Các tế bào tua còn non có thể di chuyển trong máu. Sau khi thực bào các tác nhân gây bệnh, những tế bào tua được hoạt hoá và di chuyển về các mô thuộc hệ bạch huyết tìm kiếm các tế bào lympho.
Cấu trúc
Trên bề mặt của chúng có nhiều phân tử MHC lớp II, chúng hoạt động như những tế bào giúp kháng nguyên nhận biết để hoạt hoá tế bào T.
Chức năng
Sau khi thâu tóm được kháng nguyên ở các mô, các tế bào có tua di chuyển đến các cơ quan dạng lympho khác nhau.
Tại đây chúng giới thiệu kháng nguyên cho các tế bào lympho.
Các tế bào có tua có mặt cả trong các cơ quan và mô dạng lympho, máu và dịch lympho cũng như các cơ quan và mô không thuộc hệ lympho (bảng).
Các tế bào nằm trong các mô không thuộc hệ lympho bao gồm các tế bào Langerhan ở da và các tế bào có tua ở các mô khác (tim, phổi, gan, thận, đường tiêu hoá). Các tế bào này thâu tóm kháng nguyên và chuyển kháng nguyên đến các hạch lympho khu vực. Khi những tế bào có tua không nằm trong các hệ thống lympho di chuyển vào máu và dịch lympho, chúng thay đổi hình thái và trở thành các tế bào mạng (veiled cells). Trong máu những tế bào này chiếm khoảng 0,1% tổng số bạch cầu. Khi ghép cơ quan các tế bào có tua của cơ quan ghép có thể di chuyển từ cơ quan ghép vào các hạch lympho khu vực hoạt hoá tế bào lympho T của người nhận sinh ra đáp ứng miễn dịch chống lại các kháng nguyên có mặt trên mảnh ghép.
Trong một số giai đoạn phát triển, các tế bào tua có các cánh tay dài như những cái tua nên được gọi là dendritic cell. Mặc dù các tế bào neuron cũng có hình thái tương tự nhưng không phải là các tế bào tua.
Các loại tế bào có tua của mô lympho
Tế bào có tua xoè ngón
Những tế bào có tua xòe ngón có ở trong những vùng giàu tế bào T của cơ quan dạng lympho (lách, hạch lympho, tuyến ức). Các tế bào T và những tế bào có tua xòe ngón này tạo thành những đám ngưng tập lớn gồm nhiều tế bào thúc đẩy sự giới thiệu kháng nguyên cho các tế bào T.
Tế bào tua có nang
Chỉ được tìm thấy trong những vùng có cấu trúc nang lympho của hạch lympho vì vậy được gọi là tế bào có tua nang. Tại đây có nhiều tế bào B và người ta cho rằng các tế bào có tua nang làm nhiệm vụ bẫy kháng nguyên và thúc đẩy quá trình hoạt hoá tế bào B. Các tế bào có tua nang có nhiều thụ thể trên màng tế bào dành cho kháng thể và bổ thể. Các phức hợp kháng nguyên-kháng thể tuần hoàn sẽ gắn vào các thụ thể này và tồn tại trên màng tế bào có tua trong một thời gian dài từ vài tuần đến hàng tháng. Một lớp đậm đặc điện tử của các phức hợp kháng nguyên-kháng thể bao phủ các tua của tế bào này. Sự có mặt của các phức hợp kháng nguyên-kháng thể ở trên màng tế bào có tua nang có thể có vai trò trong quá trình phát triển tế bào B làm nhiệm vụ ký ức miễn dịch. |
Vô thường, còn gọi là vấn đề triết học về sự thay đổi, là một khái niệm triết học được đề cập trong nhiều tôn giáo và triết học.
Các tôn giáo Ấn độ
Ấn Độ giáo
Thuật ngữ Vô thường (अनित्य, anitya), theo nghĩa về tính không cố định của đối tượng và sự sống, xuất hiện trong dòng 1.2.10 của Áo-nghĩa-thư Katha, một trong Các Áo-nghĩa-thư Căn bản của Ấn Độ giáo.
Phật giáo và Ấn Độ giáo chia sẻ học thuyết Vô thường (zh. 無常; sa. anitya; pi. anicca), nghĩa là "không có gì tồn tại mãi mãi, mọi thứ đều ở trong trạng thái thay đổi liên tục"; tuy nhiên, họ không đồng ý với giáo lý về Vô ngã, đó là liệu linh hồn có tồn tại hay không. Theo Frank Hoffman và Deegalle Mahinda, ngay cả trong các chi tiết về lý thuyết vô thường của họ, cũng khác nhau. Phật giáo khẳng định sự thay đổi liên quan đến Vô thường và các chấp trước liên quan tạo ra nỗi buồn hoặc khổ đế (Dukkha) và do đó cần phải bị loại bỏ để giải phóng (nibbana: niết bàn), trong khi Hindu giáo khẳng định rằng không phải tất cả sự thay đổi và chấp trước dẫn đến Dukkha và một số thay đổi - tinh thần hoặc thể chất hoặc tự-tri kiến dẫn đến hạnh phúc và do đó cần phải được tìm kiếm để giải phóng (moksha). Nicca (vĩnh cửu) trong Phật giáo là anatta (không phải linh hồn), Nitya trong Ấn Độ giáo là atman (linh hồn).
Phật giáo
Vô thường là một trong ba tính chất (Tam pháp ấn, sa. trilakṣaṇa, bao gồm Ấn Vô thường, Ấn Khổ và Ấn Vô ngã) của tất cả các sự vật. Vô thường là đặc tính chung của mọi sự sinh ra có điều kiện, tức là Thành, Trụ, Hoại, Không (sinh, trụ, dị, diệt). Có thể nói, Vô thường là phép quán chiếu, hay nói một cách khác, vô thường là một đối tượng trong tu tập quán chiếu. Từ đó, Vô Thường là một phép thực tập Định trên Vô Thường. Rất sâu sắc và lớn rộng về nghĩa và về tính diệu dụng của định vô thường.
Giáo lý vô thường rất quan trọng cho toàn bộ cơ sở triết lý và thực hành trong Phật giáo. Nó mang đến một sự xác nhận như một sự phát hiện chân chính, đó là tất cả những hiện tượng – dù thuộc tâm lý, hay thuộc ngoại cảnh tự nhiên, không có ngoại hạng – đều là vô thường. Mặc dù chân lý này hoàn toàn hiển nhiên, có thể chứng nghiệm được mọi nơi, mọi lúc, nhưng chúng ta vẫn bị màn vô minh (sa. avidyā) vây phủ, không nhận thức được chân lý này một cách chân chính. Sự chuyển tiếp từ trạng thái không hiểu biết đến trạng thái ý thức (và thừa nhận) tính chất vô thường của vạn vật, cùng với sự thừa nhận hai tính chất kia, lập nên con đường tu học, và con đường này được Phật vạch ra trong giáo lý của mình.
Cách thể hiện của vô thường
Có nhiều dạng trình bày tính chân xác có giá trị chung của nguyên lý vô thường. Bằng một cách minh họa, ảnh hưởng của thời gian được so sánh với bánh xe của một chiếc xe đang chạy (chỉ chạm đất ở một khoảnh khắc nhất định nào đó), với một khe suối luôn luôn tuôn chảy, với một bọt nước, một dương diệm, âm thanh của một chuông đồng. Trong lúc thiền quán, chúng ta có thể xác nhận chân lý vô thường khi chứng kiến tư duy và cảm nhận không bao giờ giống nhau, mà thay vào đó, luôn nằm trong một dòng chảy (ví dụ như khoảnh khắc thật ngắn của một mối tư duy duy nhất không bao giờ đứng yên, mà luôn chuyển tiếp đến một mối tư duy kế tục).
Nếu quan sát một cách phân tích thì vô thường được xem như một sự thật, là vạn vật tồn tại trên cơ sở lệ thuộc vào cái khác nào đó, phát sinh từ cái khác nào đó và chuyển biến thành cái khác nào đó. Không một vật nào tồn tại độc lập, không vật nào thường còn. Chính ngay ở điểm này thì Niết-bàn được hiểu như thuyết tương phản trực tiếp của vô thường, có nghĩa là Niết-bàn mang những tính chất thường, lạc, tịnh và như vậy – khác với trường hợp các pháp thế tục – đáng được thành đạt hơn. Ý nghĩa tối trọng của vô thường được làm sáng tỏ nếu chúng ta nhớ đến những lời cuối của Phật: "Hoại diệt là bản chất của chữ hành, hãy cố gắng hết lòng." (pi. vayadhammā saṃkhārā, appamādena sampādethāti).
Thực hành
Như một kết quả của tất cả những điểm nêu trên, Phật giáo dạy chúng ta phương pháp Quán vô thường (pi. aniccānupassanā) để chứng nghiệm nguyên lý vô thường này. Truyền thống Phật giáo cho rằng, nếu việc thực hành quán vô thường này chỉ kéo dài như thời gian của một cái khảy tay thì nó hoàn toàn vô bổ, và qua đó cho thấy chúng ta ít quan tâm đến khái niệm vô thường như thế nào. Việc nhận thức nguyên lý vô thường không phải để thoả mãn tri thức. Nó rất quan trọng và thực tiễn, vì có thể giải thoát con người ra khỏi sự bám chặt vào các đối tượng (thuộc tâm thức cũng như ngoại cảnh). Nếu vạn vật vô thường thì chúng cũng không thật có giá trị, và đây cũng là lý do vì sao chúng không đáng được lưu ý. Đặc biệt là người ta nhấn mạnh đến tính vô thường của thân thể, cảm nhận và các tầng lớp tâm thức (khổ, lạc và trung tính), vì chúng không những là đối tượng của kinh nghiệm chúng ta thường có, mà cũng là những kênh mạch mà qua đó, các đối tượng trong thế gian được chúng ta nhận thức.
Quá trình quán chiếu vô thường bao gồm "sự chú ý" đến sự xuất hiện của một đối tượng đã được đề ra (để quán chiếu), và sự "xác định" tính "tùy thuộc" cũng như "nguyên nhân" của nó; sau đó ta "chú ý" đến sự tiêu giảm cũng như diệt vong, và nhận thức được tính chất "tạm thời" của nó. Nơi đây, một đối tượng được đề ra trước đây không đơn thuần được "thấy" là vô thường, mà còn được "diễn sinh" từ một cơ sở sự thật, là nó tồn tại trên cơ sở tùy thuộc vào một đối tượng khác và chính đối tượng khác này cũng vô thường. Ví dụ như "cảm nhận" là vô thường vì tùy thuộc vào "thân" cũng là vô thường, và v.v... Quán vô thường là một quá trình mà qua đó, hành giả đi từ cái biệt thể đến cái tổng thể, và ngược lại, từ tổng đến biệt thể, cho đến khi đạt được nhận thức sâu sắc, tức là trí huệ (sa. prajñā), là "tất cả đều vô thường" (sa. sarvam anityam). Trong thiền định vô thường phải được tu tập đến mức cao nhất gọi là thể nhập. Thể nhập là trạng thái người hành thiền luôn biết rõ như thật thế giới bên ngoài và tự thân là vô thường để không còn bám víu vào những gì đang hiện hữu kể cả tưởng (tưởng là những suy nghĩ ở trong đầu). Nông hay sâu trong phép quán có thể ví dụ như sau: chúng ta biết Chùa Một Cột nằm ở đâu, đẹp xấu làm sao, tại vị trí nào của Hà Nội. Một người không biết, nếu ta có chỉ cho rằng, nó ở chố này, chỗ này, như thế này, hôm sau có ai hỏi người ấy đã quên mất, hoặc nói lại một cách không rành mạch, và không thể chỉ vì người ấy đâu có biết rõ. Còn một người đã biết rõ thì dù ai có nói khác đi, hay đẹp hoành tráng đến mấy, thì người ấy có tin không? Không thể tin phải không, vì người ấy đã quá thạo, quá rõ, quá chắc chắn về nó. Như vậy là sự tu tập đã được thể nhập, sẽ nhận ra giải thoát là gì. Điều này không gì có thể thay đổi được!
Giá trị của tri kiến vô thường
Tri kiến vô thường chính là sự đập tan tất cả những tà kiến vì mỗi cấu trúc của một hệ thống siêu nhiên tất nhiên phải lập cơ sở trên một khái niệm, một kiến giải "trường tồn" nào đó, hoặc một nhân tố "trường tồn" nào đó chính bên trong nó. Thế nên, việc thừa nhận nguyên lý vô thường chống lại khuynh hướng kiến lập các kết cấu gán vào hiện thật.
Triết học phương Tây
Vô thường lần đầu tiên xuất hiện trong triết học Hy Lạp trong các tác phẩm của Heraclitus và học thuyết của ông về panta rhei (mọi thứ đều chảy). Heraclitus nổi tiếng vì nhấn mạnh sự thay đổi luôn luôn là bản chất cơ bản của vũ trụ, như trong câu nói nổi tiếng "Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông."
Chú thích
Đọc thêm
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986. |
Trong tiếng Việt, vô thường có thể là:
Một thuật ngữ quan trọng trong Phật học, chỉ đến tính chất không thường hằng, không chắc chắn, thay đổi của vạn vật. Xem vô thường.
Một thuật ngữ trong pháp lý chỉ sự miễn phí hay không phải trả tiền. Xem vô thường (pháp lý).
Vô Thường là nghệ danh của một nhạc sĩ guitar cổ điển đánh đàn bằng tay trái được nhiều giải thưởng. Ông tên thật là Võ Văn Thường (1940 – 2003). |
Hiệu ứng nhiệt điện là sự chuyển đổi trực tiếp sự chênh lệch nhiệt độ thành hiệu điện thế và ngược lại thông qua một cặp nhiệt điện. Một thiết bị nhiệt điện tạo ra một hiệu điện thế khi có nhiệt độ khác nhau ở mỗi bên. Ngược lại, khi đặt một hiệu điện thế vào nó, nhiệt sẽ truyền từ bên này sang bên kia, tạo ra sự chênh lệch nhiệt độ. Hiệu ứng này là cơ sở cho ứng dụng trong một số máy lạnh và pin nhiệt điện, không có các bộ phận chuyển động.
Hiệu ứng này có thể được sử dụng để tạo ra điện, đo nhiệt độ hoặc thay đổi nhiệt độ của các vật thể. Vì hướng sưởi ấm và làm mát bị ảnh hưởng bởi điện áp đặt vào, các thiết bị nhiệt điện có thể được sử dụng như bộ điều khiển nhiệt độ.
Thuật ngữ "hiệu ứng nhiệt điện" bao gồm ba hiệu ứng được xác định riêng biệt: hiệu ứng Seebeck, hiệu ứng Peltier và hiệu ứng Thomson.
Định luật Joule–Lenz, nhiệt được tạo ra bất cứ khi nào dòng điện chạy qua vật liệu dẫn điện, thường không được gọi là hiệu ứng nhiệt điện. Hiệu ứng Peltier–Seebeck và Thomson có thể đảo ngược về mặt nhiệt động lực học, trong khi định luật Joule-Lenz thì không.
Chú ý phân biệt hiệu ứng vật lý này với từ nhiệt điện, chỉ các phương pháp chuyển hóa nhiệt năng sang điện năng một cách tổng quát, trực tiếp hay gián tiếp, sử dụng hệ thống có hay không có các bộ phận chuyển động.
Lịch sử
Hiệu ứng Peltier do Jean Charles Athanase Peltier, nhà vật lý người Pháp, phát hiện vào năm 1834. Khi bạn nối hai sợi dây đồng và sắt với nhau, một đầu nhúng vào nước đá, một đầu vào nước sôi, sẽ có sự dịch chuyển của các điện tử. Như vậy, sự chênh lệch nhiệt độ sinh ra điện và ngược lại, sự dịch chuyển của các điện tử cũng tạo ra sự thay đổi nhiệt độ. Ông Peltier đã nối một mẩu dây đồng với một dây bismuth với một nguồn điện, tạo thành mạch kín. Ông nhận thấy, một mặt trở nên nóng, còn mặt kia lạnh đi. Nếu bạn đặt mặt lạnh vào một hộp kín, bạn sẽ có một chiếc tủ lạnh. Ưu điểm của hiệu ứng này là thiết bị lạnh hoạt động ổn định, tin cậy vì không cần sử dụng máy nén gas, van tiết lưu… Nhược điểm là công suất làm lạnh không cao.
Ứng dụng
Phương pháp truyền thống để phát điện là sử dụng lò hơi, tuabin hơi, máy phát điện; phương pháp này gây ra lãng phí lớn về nhiệt, kèm theo đó là phát thải quá mức khí gây ra hiệu ứng nhà kính.
Từ hàng chục năm nay, các nhà khoa học đã thăm dò tìm hiểu về hiệu ứng Seebeck, hiện tượng tạo ra điện áp khi duy trì các mối nối các kim loại khác nhau ở nhiệt độ khác nhau. Tuy nhiên các nguồn điện sử dụng hiệu ứng nhiệt điện loại này cao nhất cũng chỉ đạt được hiệu suất nhỏ nhoi là 7 phần trăm.
Các nhà nghiên cứu đã dùng nhiệt để phát ra điện bằng cách kẹp giữ các phân tử hữu cơ giữa các hạt nano kim loại, mở ra tiềm năng mới về khai thác năng lượng - Đây có thể là mốc quan trọng trên con đường tiến tới biến đổi trực tiếp nhiệt thành điện. Ví dụ: Phân tử hữu cơ bị kẹp giữ giữa hai bề mặt bằng vàng; tạo ra chênh lệch nhiệt độ giữa hai mặt kim loại sẽ sinh ra điện áp và dòng điện.
Đây là minh chứng đáng kể cho ý tưởng thiết kế và là bước đi đầu tiên của ngành nhiệt điện phân tử.
Ngày nay, hiện tượng áp điện (hiệu ứng Seebeck) được ứng dụng rất rộng rãi trong kỹ thuật phục vụ cho cuộc sống hàng ngày như: máy bật lửa, cảm biến, máy siêu âm, điều khiển góc quay nhỏ gương phản xạ tia lade, các thiết bị, động cơ có kích thước nhỏ, hiện nay người ta đang phát triển nhiều chương trình nghiên cứu như máy bay bay đập cánh như côn trùng, cơ nhân tạo, cánh máy bay biến đổi hình dạng, phòng triệt tiêu âm thanh, các cấu trúc thông minh, hầu hết các máy in hiện nay... một trong những ứng dụng quan trọng hiện nay trong kỹ thuật là dùng làm động cơ piezo.
Nguyên lý cơ bản
Giới thiệu các hệ số Seebeck, Peltier và Thomson
Hệ số Seebeck
Hệ số Seebeck, còn gọi là độ nhạy nhiệt điện, của một chất là mức độ cường độ điện áp nhiệt gây ra do phản ứng với sự khác biệt về nhiệt độ giữa vật liệu đó, như được gây ra bởi hiệu ứng Seebeck.
Trong hệ đơn vị SI hệ số Seebeck là V/°K (volts/độ Kelvin), song phần lớn vật chất có ở mức microvolt mỗi độ Kelvin (μV/K).
Việc sử dụng các vật liệu có hệ số Seebeck cao là một trong nhiều yếu tố quan trọng cho hoạt động hiệu quả của máy tạo nhiệt điện và bộ làm mát bằng nhiệt điện. Thông tin thêm về vật liệu nhiệt điện hiệu năng cao có thể tìm thấy trong bài báo về vật liệu nhiệt điện. Trong các cặp nhiệt điện, hiệu ứng Seebeck được sử dụng để đo nhiệt độ, và để đạt chính xác cao cần sử dụng các vật liệu có hệ số Seebeck ổn định theo thời gian.
Về mặt vật lý độ lớn và dấu của hệ số Seebeck có thể được hiểu là được cho bởi entropy trên một đơn vị tích điện chạy bằng dòng điện trong vật liệu. Nó có thể là dương hoặc âm. Trong các chất dẫn điện có thể hiểu được về các vận chuyển điện tử độc lập, các hạt tải điện gần như tự do, hệ số Seebeck là âm đối với các tải điện mang điện tích âm (như điện tử), và là dương đối với các tải điện mang điện tích dương (như các lỗ trống).
Hệ số Peltier
Hệ số Thomson
Liên hệ giữa hệ số Seebeck, Peltier và Thomson
Nguyên lý
Hiệu suất
Tính hiệu suất
Các thông số quan trọng cho hiệu suất cao
Cặp nhiệt điện
Tối ưu hình dáng
Cặp nối tiếp
Các vật liệu nhiệt điện
Vật liệu thông dụng
Nhiệt độ thấp
Nhiệt độ phòng
Nhiệt độ trung bình
Nhiệt độ cao
Tối ưu hóa vật liệu
Các hướng nghiên cứu
Cấu trúc thấp chiều
Tìm vật liệu tối ưu
Nguyên lý
Vật liệu có tiềm năng |
Fortran (hay FORTRAN) là một ngôn ngữ lập trình biên dịch, tĩnh, kiểu mệnh lệnh được phát triển từ thập niên 1950 và vẫn được dùng nhiều trong tính toán khoa học hay phương pháp số cho đến hơn nửa thế kỷ sau đó. Tên gọi này ghép lại từ tiếng Anh Formula Translator/Translation nghĩa là dịch công thức. Các phiên bản đầu có tên chính thức là FORTRAN, nhưng chữ hoa được chuyển sang chữ thường từ phiên bản Fortran 90. Tiêu chuẩn quốc tế cho tên gọi này ngày nay là "Fortran".
Fortran được phát triển ban đầu như là một ngôn ngữ thủ tục. Tuy nhiên các phiên bản mới của Fortran (từ Fortran 90) đã có các tính năng hỗ trợ lập trình hướng đối tượng.
Lịch sử
Một số phiên bản Fortran tiêu biểu:
Fortran IV
Fortran 77
Fortran 90
Fortran 95
Fortran 2003
Cú pháp
Các phiên bản cũ hơn cho đến Fortran 77 có sử dụng định dạng theo cột (fixed column) theo quy định:
Cột thứ 7 đến 72 dành cho các câu lệnh
Cột thứ 1 đến 5 dành cho nhãn lệnh. Nhãn lệnh là những số nguyên đứng đầu dòng lệnh, và trong Fortran không nhất thiết phải theo thứ tự tăng dần.
Cột thứ 6 dành cho ký tự nối dòng (nếu cần thiết).
Các phiên bản mới hơn (từ Fortran 90 trở đi) cho phép dùng định dạng tự do (free-form), không có ràng buộc về vị trí các cột trong chương trình. Dưới đây sẽ trình bày một số ví dụ cú pháp theo định dạng tự do này.
Lệnh gán
Dạng của lệnh gán tương tự như ngôn ngữ lập trình BASIC:
! Tên_biến = Giá_trị
A = 5
LoiChao = "Hello"
Lệnh gọi chương trình con
Các chương trình con được gọi bằng lệnh CALL:
! CALL tenCTC tham_so1, tham_so2,...
Các cấu trúc
Rẽ nhánh
IF T > 1.0 THEN
W = 23.7 * T
ELSE
W = 23.7 * (T ** 0.75)
END IF
Lặp
DO I = 1, N
B(I) = 2.8 * (I - 0.3)
END DO
Ví dụ
Chương trình "Hello world"
Chương trình "Hello world" có thể chạy được sau khi dịch bằng bất cứ trình dịch nào kể từ Fortran 90 trở đi.
program helloworld
print*,"Hello world"
end program helloworld
Chương trình tìm diện tích hình trụ
Chương trình này, tính diện tích của hình trụ, chạy khi được dịch bởi bất cứ trình dịch nào kể từ Fortran 90 trở đi. Các chữ đứng sau dấu ! trên cùng dòng sẽ không được dịch, và coi như chú thích của người viết chương trình, để giúp người đọc dễ hiểu hơn.
program HinhTru
! Tinh dien tich Hinh tru.
!
! Khai bao bien.
implicit none ! Yeu cau moi bien can duoc khai bao -- danh cho Fortran 90.
integer:: Loi
real:: BanKinh,ChieuCao,DienTich
real, parameter:: Pi = 3.14159
do
! Nhac nguoi dung nhap Ban kinh va Chieu cao.
write (*,*) "Nhap Ban kinh va Chieu cao, nhan 't' de thoat."
read (*,*,iostat=Loi) BanKinh,ChieuCao
!
! Neu khong nhap duoc, thoat.
if (Loi /= 0) stop "thoat"
!
! Tinh dien tich. Ky hieu ** nghia la "luy thua".
DienTich = 2*Pi*(BanKinh**2 + BanKinh*ChieuCao)
!
! Viet (BanKinh, ChieuCao) va (DienTich) ra man hinh.
write (*,"(1x,'BanKinh=',f6.2,5x,'ChieuCao=',f6.2,5x,'DienTich=',f6.2)") BanKinh,ChieuCao,DienTich
end do
end program HinhTru
Chú ý: câu lệnh
write (*,"(1x,'BanKinh=',f6.2,5x,'ChieuCao=',f6.2,5x,'DienTich=',f6.2)") BanKinh,ChieuCao,DienTich
có sử dụng khai báo định dạng trong Fortran. Có thể giải thích sơ lược như sau:
1x nghĩa là một ký tự trống. Số ký tự trống cần in ra đi trước chữx.
f6.2 tương ứng với số thực có 6 chữ số, trong đó 2 chữ số trong phần thập phân.
Kiểu định dạng chuỗi này của riêng Fortran, nó rất khác so với chuẩn định dạng printf của ngôn ngữ lập trình C vốn được sử dụng rộng rãi. |
Trong tiếng Việt, bồ đề hay Bồ Đề có thể có các nghĩa sau:
Phật giáo
Trong Phật giáo thì từ "Bồ đề" có thể có các nghĩa sau:
Trạng thái tu hành thành đạt, bồ-đề.
Tên của một đại sư Tây Tạng: Bồ-đề đạo thứ đệ và của Sơ Tổ Thiền Tông: Bồ-đề-đạt-ma.
Tên của một tác phẩm quan trọng của đại sư A-đề-sa: Bồ-đề đạo đăng luận.
Bồ Đề Đạo Tràng (tiếng Anh: Boddha Gaya): tên của một ngôi tháp tối cổ tại Patna, bang Bihar, Ấn Độ, một thánh địa nơi đức Phật Thích-ca Mâu-ni thành đạo.
Trường Bồ đề: tên gọi cơ sở giáo dục tư thục tiểu học và trung học của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Thực vật
Chi Styrax: chi an tức hương hay an tức.
Styrax tonkinensis: an tức Bắc bộ, cánh kiến trắng, còn gọi bồ đề.
Styrax benzoin: nhựa an tức hương, bồ đề nhựa, bồ đề vỏ đỏ, .
Chi Alniphyllum
Alniphyllum fortunei: lá dương đỏ (xích dương diệp), bồ đề vỏ đỏ, bồ đề xanh lá nhẵn.
Chi Ficus
Ficus religiosa: bồ đề, đề
Địa danh
Phường Bồ Đề, quận Long Biên, thành phố Hà Nội
Xã Bồ Đề, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam
Sông Bồ Đề chảy trên địa bàn xã Tam Giang Tây, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau.
Đá Bồ Đề, quần đảo Trường Sa. |
Tịnh độ tông hay Tịnh thổ tông (zh. jìngtǔ-zōng 淨土宗, ja. jōdo-shū), có khi được gọi là Liên tông (zh. 蓮宗), là một pháp môn quyền khai của Phật giáo, trường phái này được lưu hành rộng rãi tại Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam do Cao tăng Trung Quốc Huệ Viễn (zh. 慧遠, 334-416) sáng lập và được Pháp Nhiên (法然, ja. hōnen) phát triển tại Nhật. Mục đích của Tịnh độ tông là tu học nhằm được tái sinh tại Tây phương Cực lạc (sa. sukhāvatī) Tịnh độ của Phật A-di-đà.
Đặc tính của tông này là lòng tin nhiệt thành nơi Phật A-di-đà và sức mạnh cứu độ của vị Phật này, là vị đã thệ nguyện cứu độ mọi chúng sinh quán tưởng đến mình. Vì thế chủ trương tông phái này có khi được gọi là "tín tâm", thậm chí có người cho là "dễ dàng", vì chỉ trông cậy nơi một lực từ bên ngoài (tha lực) là Phật A-di-đà.
Phép tu của Tịnh độ tông chủ yếu là niệm danh hiệu Phật A-di-đà và quán tưởng Cực lạc. Ba bộ kinh quan trọng của Tịnh Độ tông là: Vô lượng thọ kinh (sa. sukhāvatī-vyūha), A-di-đà kinh (sa. amitābha-sūtra) và Quán Vô Lượng Thọ kinh (sa. amitāyurdhyāna-sūtra).
Ngày nay Tịnh độ tông là tông phái Phật giáo phổ biến nhất tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam.
Lịch sử
Năm 402, Huệ Viễn thành lập Bạch Liên xã, trong đó tăng sĩ và cư sĩ tụ tập trước tượng A-di-đà và nguyện thác sinh về cõi Cực lạc phương Tây. Như thế, Huệ Viễn được xem là sơ tổ của Tịnh độ tông. Sau đó Đàm Loan (zh. 曇鸞, 476-542) là người phát triển tích cực tông Tịnh độ. Sư cho rằng trong thời mạt pháp thì tự lực không còn đủ sức để giải thoát, Sư từ chối con đường "gian khổ" của những tông phái khác và chấp nhận giải pháp "dễ dãi" là dựa vào một tha lực là đức A-di-đà. Theo Sư, chỉ cần nhất tâm quán niệm danh hiệu A-di-đà là đủ để sinh về cõi của ngài. Sư viết nhiều luận giải về Quán vô lượng thọ kinh. Trong thời này tông Tịnh độ được truyền bá rộng rãi - vì so với các môn phái khác, tông này xem ra "dễ" hơn.
Phép niệm Phật
Mục đích của phép niệm danh hiệu A-di-đà là tìm cách chế ngự tâm. Thường thường hành giả tự đặt cho mình một chỉ tiêu niệm bao nhiêu lần. Phép quán niệm này được xem là có thể giúp hành giả "thấy" được A-di-đà và hai vị Bồ Tát tả hữu là Quán Thế Âm (sa. avalokiteśvara) và Đại Thế Chí (sa. mahāsthāmaprāpta) và biết trước được giờ chết của mình. Phép niệm này có thể thực hiện bằng cách đọc to hay đọc thầm, không nhất thiết phải có tranh tượng A-di-đà. Đó là cách tu thông thường nhất. Ngoài ra hành giả có thể thực hiện phép thứ 16 trong Vô lượng thọ kinh, bằng cách tạo linh ảnh của A-di-đà và thế giới Cực lạc, xem như hiển hiện trước mắt. Phép tu cao nhất của tông này là tự xem thể tính của mình chính là A-di-đà. Tất cả mọi hành giả của Tịnh độ tông đều mong muốn được thấy A-di-đà trong một linh ảnh, đó là bằng chứng chắc chắn nhất sẽ được tái sinh trong cõi Cực lạc. Niệm danh hiệu và tạo linh ảnh là điều kiện "bên ngoài", lòng tin kiên cố nơi A-di-đà là điều kiện "bên trong" của phép tu này, với hai điều kiện đó thì hành giả mới được tái sinh nơi cõi Cực lạc.
Tịnh độ tông Nhật Bản
Tịnh độ tông Nhật Bản vốn có nguồn gốc từ Tịnh độ tông Trung Quốc, được Viên Nhân (zh. 圓仁, ja. ennin, 793-864) truyền sang Nhật song song với giáo lý của Thiên Thai tông và Mật tông mà sư đã hấp thụ trong thời gian du học tại Trung Quốc. Sư là người truyền bá phương pháp Niệm Phật, niệm danh hiệu của Phật A-di-đà. Những vị nổi danh của tông này trong thời gian đầu là Không Dã Thượng Nhân (空也上人, ja. kūya shōnin, 903-972), cũng được gọi là Thị Thánh (市聖), "Thánh ở chợ", và Nguyên Tín (源信, ja. genshin, 942-1017). Trong thời này, niệm Phật là một thành phần trong việc tu hành của tất cả các tông phái tại Nhật, đặc biệt là Thiên Thai và Chân ngôn tông.
Trong thế kỉ 12, Pháp Nhiên (zh. 法燃, ja. hōnen, 1133-1212) chính thức thành lập tông Tịnh độ. Sư muốn mở một con đường tu tập mới, "dễ đi" trong thời mạt pháp cho những người sống đau khổ. Sư rất thành công trong việc thuyết phục quần chúng và rất nhiều người quy tụ lại, thành lập một trường phái rất mạnh. Vì sư tự tôn giáo lý mình - cho rằng đó là giáo lý tột cùng - nên không thoát khỏi sự tranh chấp dèm pha. Sư bị đày ra một vùng hoang vắng năm 74 tuổi.
Giáo lý cơ sở của Pháp Nhiên dựa trên các bộ Vô Lượng Thọ kinh (sa. sukhāvatī-vyūha), A-di-đà kinh (sa. amitābha-sūtra) và Quán vô lượng thọ kinh (sa. amitāyurdhyāna-sūtra). Cách tu hành của tông này chỉ là việc tụng câu "Nam-mô A-di-đà Phật" (ja. namu amida butsu). Việc niệm danh Phật rất quan trọng để phát triển lòng tin nơi Phật A-di-đà, nếu không thì hành giả không thể nào thác sinh vào cõi của ngài, mục đích chính của việc tu hành của tông này. Ngược với Tịnh độ chân tông, hành giả của tông này sống một cuộc đời tăng sĩ.
Không Dã Thượng Nhân là người đầu tiên tín ngưỡng đức A-di-đà và truyền bá công khai việc niệm Phật giữa chợ và vì vậy mang biệt hiệu là Thị Thánh. Sư nhảy múa ở ngoài đường và ca tụng danh hiệu A-di-đà theo nhịp gõ của bình bát trên tay. Lương Nhẫn (zh. 良忍, ja. ryōnin), một Cao tăng thuộc Thiên Thai tông đã nổi danh trong việc tín ngưỡng và tán tụng đức A-di-đà trong những bài hát. Sư chịu ảnh hưởng mạnh của hai tông Thiên Thai và Hoa Nghiêm và trên cơ sở này, Sư phát triển một cách "Dung thông niệm Phật" (zh. 融通念佛): Nếu một người nào đó niệm Phật thì công đức này sẽ đến với tất cả những người khác và ngược lại, ai cũng có phần của mình trong việc tụng niệm danh Phật. Cách diễn giảng giáo lý của sư như trên thuyết phục được nhiều người trong vương triều và sau khi tịch, giáo lý này được các vị đệ tử kế thừa.
Nguyên Tín (zh. 源信, ja. genshin), một Cao tăng trên núi Tỉ Duệ (zh. 比叡) - trung tâm của các trường phái tín ngưỡng A-di-đà - tin chắc rằng, có một con đường đưa tất cả chúng sinh đến giải thoát. Sư trình bày phương pháp tu tập của mình trong Vãng sinh yếu tập (zh. 往生要集), một quyển sách nói về niềm tin nơi đức A-di-đà. Trong sách này, Sư trình bày trong mười phẩm những hình phạt khủng khiếp dưới Địa ngục và ích lợi của cách tu hành niệm Phật. Sư tự tin là mình đã tìm biết được hai tính chất đặc thù của con người là: tâm trạng sợ hãi kinh khiếp địa ngục và lòng khao khát được tái sinh vào cõi Cực lạc. Quyển sách này là một trong những tác phẩm có ảnh hưởng lớn nhất trong truyền thống tín ngưỡng Phật A-di-đà tại Nhật. Sư không những viết sách phổ biến giáo lý của mình mà còn sử dụng hội họa, nghệ thuật tạc tượng để truyền bá tông phong của mình đến những người ít học. Nhưng đến đây, việc tôn thờ A-di-đà Phật vẫn chưa là một trường phái độc lập, mà chỉ là một thành phần tu học của những tông phái tại đây.
Với Pháp Nhiên, Tịnh độ tông chính thức được hình thành. Sư quan niệm rằng, đa số con người không thể đi con đường khó, hoàn toàn tin vào tự lực trong thời mạt pháp và cơ hội duy nhất của họ là tin vào sự hỗ trợ của Phật A-di-đà, tin vào tha lực.
Tịnh độ tông Việt Nam
Ở miền Nam, có cư sĩ Minh Trí thành lập "Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam", tổ đình đặt tại Minh Hưng Tự số 101 đường Lý Chiêu Hoàng, quận 6, thành phố Sài gòn, xây cất năm 1934. Hội này chọn phương pháp "Phước Huệ song tu" lấy pháp môn niệm Phật làm căn bản, mỗi chùa thuộc hội đều có một phòng thuốc Nam để hốt thuốc chữa bệnh miễn phí cho đồng bào. Minh Trí được tôn xưng là Giáo chủ Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam.
Ông Đoàn Trung Còn, một dịch giả Phật Học nổi tiếng trong nhiều thập kỷ qua. Năm 1955, chư Hòa Thượng Chơn Mỹ trụ trì chùa Giác Hải Phú Lâm Chợ Lớn, Hòa Thượng Chơn Minh, trụ trì chùa Giác Chơn, Chợ Lớn cùng ông Lý Trung Hiếu, Đốc công, Sở Công Chánh Sài Gòn đã thành lập Giáo hội Tịnh Độ Tông Việt Nam, trụ sở đặt tại chùa Giác Hải, sau dời về Liên Tông Tự, 145 đường Đề Thám, quận I, thành phố Sàigòn, Vào thập niên 60, ông Đoàn Trung Còn xuất gia, trở thành tu sĩ, pháp danh Hồng Tại, ông giữ chức vụ Trị sự trưởng của Giáo hội nầy, ông viên tịch năm 1988.
Các chùa thuộc hệ phái Non Bồng của Hòa Thượng Thích Thiện Phước, ở tổ đình Linh Sơn Cổ Tự trên núi Dinh, gần Thị Trấn Bà Rịa, cũng thuộc giáo hội Tịnh Độ Tông này, Hòa Thượng Thiện Phước đã viên tịch năm 1986, nay do ni trưởng Huệ Giác quản lý Tăng, Ni của gần 200 ngôi chùa khắp Miền Nam và Nam Trung Phần. Tông môn này thực hành rốt ráo theo pháp môn Niệm Phật. Ngoài những thời công phu, chấp tác, vào 11 giờ đêm đều dành riêng một thời niệm Phật A Di Đà. Riêng Nhất Nguyên Bửu Tự ở Xã Vĩnh Phú (Lái Thiêu), huyện Thuận An, tỉnh Sông Bé, hàng năm đều có tổ chức Khóa Bá Nhật Niệm Phật (100 ngày đêm liên tục niệm Phật). Từ năm 1964 bắt đầu tổ chức khóa Niệm Phật này, khai kinh vào đêm mồng 7 tháng 8 và hoàn kinh vào đêm 16 rạng ngày 17 tháng 11, nhằm ngày vía Đức A Di Đà Phật. Bất cứ ai cũng có thể đến đây niệm Phật 1 thời (2 giờ), một buổi, một ngày, nhiều ngày hay cả khóa, việc ăn ở do chùa cung cấp, phật tử chỉ có chuyên dùng thì giờ niệm Phật mà thôi. Mỗi năm phật tử Biên Hòa, Bình Dương, Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, Vĩnh Long, Long Xuyên... đều về đây tham gia khóa Niệm Phật, người ta thường nói "cửa chùa rộng mở", đặc biệt chùa này không có cánh cửa để đóng hay mở.
Quan Âm tu viện, ở phường Bửu Hòa (gần Cầu Hang, Biên Hòa), thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, do ni trưởng Huệ Giác làm viện chủ, Phật tử đi hành hương, viếng chùa, nhằm giờ thọ trai, đều được dọn một phần ăn như phần thọ trai của chư Tăng Ni ở chùa, những năm khó khăn về thực phẩm, chùa vẫn giữ được nề nếp nầy, mặc dù Tăng Ni sáng cháo, trưa cơm, chiều cháo.
Tịnh Độ Tông ngày nay có lẽ hệ phái Non Bồng, là một hệ phái lớn nhất có nhiều chùa từ miền Tây, miền Đông và miền Trung Việt Nam.
Chú thích
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren'', Bern 1986.
Triết lý Phật giáo
Tịnh độ tông
Phật giáo Trung Quốc
Phật giáo Nhật Bản |
Âm phủ (chữ Hán: 陰府) hay Âm giới (陰界), Minh phủ (冥府), Minh giới (冥界) là thế giới được cho là ở sâu trong lòng đất hoặc bên dưới trần gian, theo hầu hết các tôn giáo và thần thoại. Đây thường được cho là nơi linh hồn của con người đến sau khi chết. Các nền tín ngưỡng và văn hóa có các quan niệm khác nhau về âm phủ và địa ngục.
Trong tín ngưỡng Đông Á
Trong tín ngưỡng Đông Á, địa ngục (地獄, phát âm tiếng Trung dìyù, phát âm tiếng Nhật jigoku) là tù ngục trong lòng đất, nơi đó tội nhân phải chịu mọi loại tra tấn do kết quả của mọi việc ác đã làm khi còn sống.
Trong Phật giáo
Trong Phật giáo, địa ngục (地獄 naraka) được xem là nơi nhiều khổ ải, nhưng sau khi nghiệp ác chấm dứt có thể tái sinh trên những thiện đạo. Địa ngục là một thế giới có vị trí địa dư thông thường vừa là một trạng thái của tâm thức, nên hiểu Tịnh độ và 6 nẻo luân hồi cũng là như thế. Địa ngục là một trong ba ác đạo, song song với ngạ quỷ (quỷ đói) và súc sinh.
Trong quan điểm vũ trụ của Phật giáo, địa ngục có nhiều dạng khác nhau, gần giống với quan điểm của Ấn Độ giáo: hỏa ngục và hàn ngục, chia làm 8 ngục chính với 16 ngục phụ, mà A-tì địa ngục (avīcī) là ngục khủng khiếp nhất. Chúng sinh trong địa ngục chịu nhiều khổ hình trong những thời gian khác nhau, như bị lột da lóc thịt, bị cắn mổ,... Địa ngục của Phật giáo được Diêm vương (yama) cai trị.
Từ gốc trong thuật ngữ Ấn Độ là naraka (tiếng Phạn) và niraya (tiếng Pāli), dịch sang tiếng Hán là Nại-lạc (奈落), Na-lạc (那落) và Nê-lê (泥黎). Được xem là một trong 3 đường ác (Tam ác đạo 三惡道, Tam ác thú 三惡趣), hoặc là một trong Ngũ thú (五趣), Lục đạo (六道), hay Thập giới (十界). Kinh điển đề cập đến nhiều loại và tên các địa ngục, trong đó, nổi tiếng nhất là Bát nhiệt địa ngục (八熱地獄, hoặc Bát đại địa ngục 八大地獄) và Bát hàn địa ngục (八寒地獄), kéo dài từ địa ngục Đẳng hoạt (等活) đến Địa ngục A-tì (阿鼻, avīci), là toàn phần của Căn bản địa ngục (根本地獄). Còn có địa ngục nhỏ hơn, kế tiếp hoặc sát bên cạnh. Tầng thứ ba địa ngục gọi là những địa ngục biệt lập (Cô địa ngục 孤地獄) ở trong núi, sa mạc ở bên trên mặt đất. Sự tạo thành và tương quan giữa các địa ngục được giải thích chi tiết trong những kinh luận như A-tì-đạt-ma Câu-xá luận. Như người ta nghĩ, giáo lý chung về địa ngục được phát triển qua một thời gian dài, căn cứ vào nhiều nguồn và ảnh hưởng của tôn giáo Ấn Độ. Mọi cuốn từ điển Phật giáo đều có ghi đề mục này, bao gồm nhiều chi tiết về danh mục và thuộc tính của từng địa ngục.
Vị Bồ Tát cai quản địa ngục trong Phật giáo là Địa Tạng.
Trong Kitô giáo
Nơi người chết ngủ, cho đến khi sự sống lại:Truyền-đạo 9:10: Mọi việc tay ngươi làm được, hãy làm hết sức mình; vì dưới âm phủ, là nơi ngươi đi đến, chẳng có việc làm, chẳng có mưu kế, cũng chẳng có tri thức, hay là sự khôn ngoan.Kinh Thánh phân biệt địa ngục (trũng con trai Hi-nôm Hinnom, Gehenna) và âm phủ (Sheol, Hades). "Géhenne" là lối người Hy Lạp viết tiếng Hê-bơ-rơ ge-Hinom (trũng của Hi-nôm), là nơi người ta đưa con cái mình qua lửa cho Mô-lóc (II Các vua 23:10). |
Tịnh độ (zh. jìngtǔ 淨土, sa. buddhakṣetra, ja. jōdo) nguyên nghĩa Phạn ngữ là Phật (buddha) độ (kṣetra), cõi Phật, cõi thanh tịnh. Trong Bắc tông, người ta hiểu mỗi Tịnh độ thuộc về một vị Phật đã tạo ra, và vì có vô số chư Phật nên có vô số Tịnh độ.
Được nhắc nhở nhiều nhất là Tịnh độ mang tên Cực Lạc (sa. sukhāvatī) của Phật A-di-đà (sa. amitābha) ở phương Tây. Tịnh độ phía Đông là cõi Phật Dược Sư (sa. bhaiṣajyaguru-buddha) có tên là Tịnh Lưu Ly, có khi Tịnh độ đó được gọi là Điều hỉ quốc (sa. abhirati) của Phật Bất Động (sa. akṣobhya). Phía Nam là Tịnh độ của Phật Bảo Sinh (sa. ratnasambhava), phía Bắc là Tịnh độ của Phật Cổ Âm (sa. dundubhisvara). Vị Phật tương lai Di-lặc (sa. maitreya), là vị đang giáo hoá ở cõi Đâu-suất (sa. tuṣita), sẽ tạo một Tịnh độ mới. Nhưng được sanh về Tịnh độ rất khó, sách xưa có câu: Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn, Thiện duyên nan ngộ, Phật quốc nan sanh.
Tịnh độ được xem là "hoá thân" của thế giới mới tốt đẹp hơn, là cõi của người tu hành muốn được tái sinh. Muốn đạt được cõi này, hành giả không phải chỉ trau dồi thiện nghiệp, công đức phước báu mà còn phải nguyện cầu các đức Phật của các cõi đó cứu độ được tái sinh. Trong nhân gian, người ta thường hiểu Tịnh độ là một nơi có vị trí địa lý nhất định, nhưng thật ra Tịnh độ là một dạng của tâm thức giác ngộ vì thế giới vốn là ảo kể cả Ta Bà, sẽ không bị ô nhiễm và các phương hướng Đông, Tây, Nam, Bắc chỉ có tính chất hình tượng. Nên nhớ là trong Đạo Phật, Tịnh độ chưa phải là mục đích cuối cùng trên con đường tu tập - chỉ là nơi được xem là cõi cuối cùng mà hành giả phải tái sinh để rồi đạt Niết-bàn (trừ phi có hạnh nguyện riêng trên con đường Bồ tát muốn đến các cõi khác để cứu độ). Và trong tinh thần Đại thừa, Đức Phật đặc biệt nói những bộ Kinh cứu cánh như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Niết Bàn, ý chỉ nêu rõ "Những cõi nước do Đức Phật biến hóa, để làm phương tiện để an ủi chúng sanh những lúc cảm thấy mệt mỏi, chán nản đều gọi đó là cõi Phương tiện, Hóa thành. Chỉ có Niết Bàn của Phật mới là mới gọi là Bảo Sở". Như vậy cõi Tịnh độ chưa được xem là cõi cuối cùng, cho nên cõi Tinh độ là cõi Phương tiện. |
Cung Giũ Nguyên (28 tháng 4 năm 1909 – 7 tháng 11 năm 2008) là một nhà văn, nhà báo Việt Nam gốc Hoa được biết đến với những tác phẩm tiếng Pháp. Về mặt văn chương, tên tuổi ông được ít người Việt biết đến vì các tác phẩm của ông được viết bằng tiếng Pháp. Tuy nhiên về mặt hoạt động xã hội, ông là một huynh trưởng nổi bật thuộc thế hệ sáng lập ra phong trào Hướng đạo Việt Nam.
Cuối đời, ông sống tại thành phố Nha Trang và mất tại đây.
Tiểu sử
Ông sinh tại Huế, họ thật là họ Hồng. Tổ tiên của ông, người Phúc Kiến, đã qua lập nghiệp tại Việt Nam từ giữa thế kỷ 19. Cha là ông Cung Quang Bào, một Đốc học. Mẹ là Nguyễn Phúc Thị Bút, trưởng nữ của Quận công Hồng Ngọc và cháu nội của An Thành Vương Nguyễn Phúc Miên Lịch (con út vua Minh Mạng).
Sinh trưởng trong một gia đình nghèo và đông con, học xong trung học tại trường Quốc học Huế những năm 1922-27, ông phải từ bỏ giấc mộng học trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội để đi làm việc. Năm 1928 ông được bổ làm trợ giáo tập sự tại trường Nam Tiểu học Nha Trang, nhưng đến đầu năm 1930 bị bãi chức, vì lý do chính trị. Sau đó ông phiêu lưu vào Sài Gòn, Đà lạt, Huế, Nha Trang.
Năm 1936 cha của ông mất. Vì trách nhiệm đối với gia đình, ông về lại Nha Trang và năm 1941 trở lại nghề dạy học. Ông đã dạy các môn Việt văn, Hán văn, La tinh, Pháp văn, Anh văn, sử địa, kinh tế học, triết học, văn học... ở các trường Kim Yến, Trường Dòng Thánh Giuse Bình Tân, La San, Phanxicô, Collège Français de Nha Trang, Võ Tánh, Lê Quý Đôn... Trong khoảng 1955-75, ông làm hiệu trưởng trường Trung học đệ nhị cấp Lê Quý Đôn, Nha Trang. Trong thời gian 1972-1975 ông là giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Cộng đồng duyên hải, Nha Trang.
Từ 1989 đến 1999, ông là giáo sư thỉnh giảng môn ngôn ngữ và văn chương Pháp tại khoa Pháp văn, Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang.
Hoạt động Hướng đạo
Năm 1944, ông đảm nhiệm khoá huấn luyện chót ở Trại trường Bạch Mã thay thế Trưởng Tạ Quang Bửu vì bận việc riêng.
Năm 1958, Trại trường Quốc gia Tùng Nguyên được thành lập tại Đà Lạt dưới quyền điều khiển của ông. Đây là nơi đào tạo hầu hết các trưởng của thế hệ 1958-1975.
Ông từng làm phụ tá Trại trưởng Trại Huấn luyện Hướng đạo quốc tế Gilwell, Anh Quốc. Đây là nơi huấn luyện các huynh trưởng Hướng đạo.
Cho đến năm 2007, ông đã 98 tuổi nhưng vẫn còn gắn bó với phong trào Hướng đạo tại Việt Nam; hướng dẫn Toán Alpha và Bêta Hướng đạo Việt Nam tại Nha Trang.
Tác phẩm
Một người vô dụng (1930)
Nợ văn chương (1931)
Volontés d'existence (Nhà xuất bản France-Asie, Saigon, 1954)
Le Fils de La Baleine (Nhà xuất bản Arthène Fayard, Paris, 1956) bản dịch tiếng Việt Kẻ thừa tự của ông Nam Hải của Nguyễn Thành Thống (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1980).
Le domaine maudit (Nhà xuất bản Arthène Fayard, Paris, 1961)
Le Boujoum (1980)
Chú thích |
Mụn mủ (Latinh: pustula), hay còn gọi là nhọt, là một ổ nông ở da, được bao bọc, chứa dịch tiết mưng mủ, có thể có màu trắng, vàng, vàng xanh hay xuất huyết. Quá trình này có thể phát sinh trong một nang lông hay độc lập với nang lông. Mụn mủ có thể khác nhau về kích thước và hình dạng; tuy nhiên mụn mủ nang lông luôn có hình nón và thường chứa một cọng lông ở trung tâm. Sang thương mụn nước do nhiễm herper simplex và varicella zoster virus có thể trở thành mụn mủ. Nhuộm Gram và cấy nên được thực hiện để định danh vi khuẩn và nấm. |
Mụn nước (Latinh: vesicula, nhỏ hơn 0,5 cm) và bóng nước (Latinh: bulla, lớn hơn 0,5 cm) là một ổ nông chứa dịch, gồ lên và được bao bọc. Thường thành rất mỏng nên có thể được nhìn xuyên thấu và thấy được huyết thanh, dịch lymph, máu hay dịch ngoại bào. Mụn nước và bóng nước hình thành do sự bóc tách da ở các mức khác nhau; sự bóc tách có thể bên trong thượng bì (giộp nội thượng bì) hay ở mặt phân cách thượng bì-bì (dưới thượng bì). Các mụn nước giống herpes có chỉ định thử nghiệm Tzanck và/hoặc cấy virus. |
Bài này nói về một hiện tượng bệnh lý. Các nghĩa khác xem bài: Mào (định hướng).
Mào (Latinh: crusta) hình thành khi huyết thanh, máu hay dịch tiết mủ khô trên bề mặt da. Mào có thể mỏng, dễ vụn (chốc khô) hay dày và dính (chốc loét). Mào có màu vàng khi được hình thành từ huyết thanh khô, màu xanh hay vàng xanh khi từ dịch tiết mủ, màu nâu khi hay đỏ đậm khi từ máu. Mào nông thường xuất hiện như những hạt mỏng, lấp lánh, có màu mật ong, điển hình như trong chốc khô (impetigo). Khi chất tiết xâm nhập vào toàn bộ thượng bì, mào có thể dày và dính, và nếu kèm theo hoại tử mô sâu hơn, nó được gọi là chốc loét (ecthyma).
Bệnh sùi mào gà là gì?
Sùi mào gà (Genital Warts) còn được gọi là mụn cóc sinh dục, đặc trưng bởi sự xuất hiện của các u nhú trông giống như súp lơ hoặc mào gà, tập trung chủ yếu ở bộ phận sinh dục và hậu môn của bệnh nhân.
Người bị bệnh sùi mào gà không chỉ bị ảnh hưởng trầm trọng đến tâm sinh lý và quan hệ vợ chồng, mà còn có nguy cơ ung thư cổ tử cung, ung thư dương vật và ung thư hậu môn sau này.
Bệnh sùi mào gà là bệnh xã hội lây truyền chủ yếu qua quan hệ tình dục không an toàn, gây ra bởi một hoặc một vài chủng vi rút HPV (Human papilloma virus).
Đây là căn bệnh phổ biến trên thế giới do tốc độ lây truyền nhanh qua quan hệ tình dục không an toàn. Bệnh sùi mào ở nam giới và nữ giới sẽ gây ra mụn cóc và ung thư nếu không điều trị kịp thời. |
Tế bào thượng bì được thay thế mỗi 27 ngày. Sản phẩm cuối của quá trình toàn tiết (holocrine) này là lớp sừng, là lớp ngoài cùng của da và không chứa hạt nhân và bị mất đi mà không cảm thấy được. Khi tốc độ tăng sinh của tế bào thượng bì cao, như trong bệnh vảy nến, lớp sừng không được hình thành như bình thường mà các lớp ngoài cùng của da vẫn còn chứa hạt nhân (á sừng), biểu hiện như là vảy trên lâm sàng, và hiện tượng này được gọi là tróc vảy (tiếng Anh: desquamation, scaling). Vì vậy vảy là các mảnh của lớp sừng. Chúng có thể rộng (như màng) hay nhỏ (như bụi), dính hay lỏng lẻo. Vảy dày và dính tạo cảm giác sạn (như giấy nhám) do tăng lớp sừng khu trú và là đặc điểm của dày sừng do nắng (solar ketarosis). |
Loét (Latinh:ulcus) là tổn thương da do mất thượng bì và phần trên lớp nhú của lớp bì. Nó có thể mở rộng vào lớp dưới da và luôn luôn xảy ra trong mô có thay đổi về bệnh học. (Điều này phân biệt loét với vết thương, ở vết thương tổn thương da trên nền mô bình thường.) Một vết xước (erosion) chỉ tổn thương lớp thượng bì, không vào đến lớp bì và khi lành không để lại sẹo trong khi loét luôn luôn tạo sẹo khi lành. Một vài đặc điểm giúp xác định nguyên nhân loét gồm vị trí, bờ, đáy, dịch tiết và các đặc điểm bề mặt có liên quan như nốt, mất da (excoriation), dãn tĩnh mạch, phân bố lông, có/mất mồ hôi và mạch. Loét không liên quan đến bệnh mạch máu cần được làm sinh thiết nêm (wedge biopsy) để khảo sát mô học và cấy mô tìm vi sinh vật. |
Mào trong tiếng Việt có nhiều hơn một nghĩa. Nó có thể là:
Một bộ phận trên đầu các loài chim, ví dụ mào gà, mào ngỗng. Xem bài Mào (động vật).
Là một hiện tượng bệnh lý. Xem bài Mào.
Là chỏm lông trên các mũ sắt của các chiến binh ngày xưa. Xem bài Mào (quân sự).
Trong các từ ghép như:
Một từ hợp thành trong tên gọi chào mào. Ở đây chào mào là tên gọi riêng của một loài chim hoặc là tên gọi của một loại mũ là mũ chào mào.
Chỉ một bộ phận trong cơ quan sinh dục của động vật có vú giống đực, tức mào tinh hoàn (epididymis).
Trong từ cây mào gà (các loài cây thuộc chi Celosia họ Dền (tên khoa học: Amaranthaceae)) - là một loài thực vật, do hoa của nó có hình dạng và màu sắc giống như mào gà. |
Bóng nước có thể là
Môn thể thao dưới nước (water polo), xem bài Bóng nước (thể thao).
Bóng nước (thực vật)
Bóng, hay ảnh ảo, của một vật thể nào đó dưới mặt nước.
Dấu hiệu bệnh lý trong da liễu học, xem bài Mụn nước. |
Đại thừa (,; chữ Hán: 大乘), phiên âm Hán-Việt là Ma-ha-diễn-na (摩訶衍那) hay Ma-ha-diễn (摩訶衍), tức là "cỗ xe lớn" hay còn gọi là Đại Thặng tức là "bánh xe lớn" là một trong hai trường phái lớn của đạo Phật, phổ biến tại các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Hàn Quốc và Triều Tiên. Trong một số tài liệu hiện đại, các danh xưng Phật giáo Bắc tông, Phật giáo Bắc truyền hay Phật giáo Phát triển, cũng được xem là tương đương và có thể được dùng để thay thế thuật ngữ Phật giáo Đại thừa.
Theo các học giả nghiên cứu, Phật giáo Đại thừa phát triển ở Ấn Độ vào khoảng từ thế kỷ 1 trước Công nguyên trở đi. Đại thừa chấp nhận các kinh điển và giáo lý chính của Phật giáo sơ kỳ, nhưng được bổ sung nhiều học thuyết và kinh điển mới. Ban đầu, Đại thừa chỉ là một phong trào cải cách Phật giáo nhỏ ở Ấn Độ, nhưng trường phái này dần phát triển thành trường phái có ảnh hưởng trong Phật giáo Ấn Độ. Các trung tâm học thuật lớn liên quan đến Đại thừa như Nalanda và Vikramashila phát triển mạnh trong khoảng từ thế kỷ VII đến thế kỷ XII. Theo dòng lịch sử, Phật giáo Đại thừa lan rộng khắp Nam Á, Trung Á, Đông Á và Đông Nam Á, trở thành truyền thống Phật giáo lớn nhất có ngày nay, với 53% Phật tử thuộc Đại thừa Đông Á và 6% theo Kim cương thừa, so với 36% của Phật giáo Thượng toạ bộ (khảo sát năm 2010), có ảnh hưởng mạnh mẽ ở Trung Quốc, Đài Loan, Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Nepal, Malaysia và Bhutan.
Phật giáo Đại thừa đề cao con đường của Bồ Tát phấn đấu để đạt được giác ngộ hoàn toàn (samyaksaṃbuddha) vì lợi ích của tất cả chúng sinh, và do đó còn được gọi là "Bồ tát thừa" (,). Nhìn chung, Phật giáo Đại thừa xem mục tiêu trở thành Phật thông qua con đường bồ tát là có sẵn cho tất cả mọi người và xem trạng thái của quả vị A-la-hán là chưa hoàn thiện. Các hình tượng giác ngộ trong Phật giáo Đại thừa rất đa dạng và phong phú, nhiều vị Phật và Bồ tát không hiện diện trong kinh điển của Phật giáo Nguyên thủy (như hình tượng A-di-đà). Triết học Đại thừa cũng thúc đẩy phát triển các tông phái với những học thuyết độc đáo, chẳng hạn như Trung quán tông với Thuyết tính Không (śūnyatā), Duy thức tông và thuyết Phật tính.
Truyền thống Kim Cương thừa được các nhà nghiên cứu xem là một nhánh của Đại thừa, chú trọng sử dụng chân ngôn (sa. mantra), và những nghi lễ bao gồm những phương pháp dùng các ấn thủ trong tu tập, một phương pháp mà các tu sĩ thuộc truyền thống này cho rằng có hiệu quả mạnh mẽ hơn và nhanh hơn trong việc đạt được Phật quả.
Từ nguyên
Xuất hiện ý nghĩa trong các Kinh nguyên thủy, nhưng được triển khai vào thế kỉ thứ nhất trước công nguyên, Đại thừa là tâm tánh rộng lớn, tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, là cỗ xe lớn nhờ dựa trên tính đa dạng của giáo pháp để mở đường cho số lớn chúng sinh có thể giác ngộ, giải thoát sinh tử, lìa khổ được vui. Cả hai Tiểu thừa và Đại thừa đều bắt nguồn từ vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni, nhưng khác nhau nơi sự quan tâm về thực hành giáo pháp và tư tưởng.(sa. sarvasattva). Hình tượng tiêu biểu của Đại thừa là Bồ Tát (sa. bodhisattva) với đặc tính vượt trội là lòng bi (sa., pi. karuṇā). Bộ kinh được xem là kinh văn Đại thừa đầu tiên là Bát-nhã bát thiên tụng (般若八千頌, sa. aṣṭasāhasrikā prajñāpāramitā).
Sơ kỳ, các đại sư của phái này gọi pháp môn của mình là Đại thừa để phân biệt với Phật giáo Nguyên thủy, mà họ gọi là Tiểu thừa hay Tiểu Thặng, nghĩa là "cỗ xe nhỏ" hay "bánh xe nhỏ" (sa. hīnayāna), còn có cả Nhị thừa, Tam thừa... Ngoài ra còn một trường phái Phật giáo thứ ba là Kim cương thừa, còn gọi là Mật tông hoặc Chân ngôn, cũng phát sinh từ phái Đại thừa.
Vấn đề Đại Thừa và Tiểu Thừa
Trước đây người thường cho rằng giáo lý Tiểu thừa không đưa đến quả vị tối hậu thành Phật, chỉ có giáo lý Đại thừa mới là giáo lý chân chính của Phật. Ngược lại, các nhà sư Tiểu thừa thì cho rằng giáo lý Tiểu thừa mới chính là giáo lý nguyên thủy của Phật, còn giáo lý Đại thừa là ngoại đạo. Sự bất đồng quan điểm ấy đã làm băng giá mối quan hệ của hai truyền thống cả ngàn năm. Ngày nay với những phương tiện tiến bộ, mọi mặt trong xã hội đều thay đổi, những quan điểm Tiểu thừa và Đại thừa không còn thích hợp. Qua nghiên cứu, cho thấy rằng:
1. Thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy cho đến thời kỳ Bộ phái (sau Đức Phật 400 năm) chưa có danh từ Đại thừa hay Tiểu thừa.
2. Danh từ Tiểu thừa nên hiểu là Thượng tọa bộ và Thuyết nhất thiết hữu bộ. Ngày nay chỉ còn 2 hệ Tiểu thừa này có mặt trên thế giới.
3. Từ ít lâu nay người ta có khuynh hướng tránh dùng từ ngữ "Tiểu thừa" vì một số người không thông hiểu Phật pháp kỹ càng có thể cảm thấy bị tổn thương. Do đó, 2 khái niệm Phật giáo Bắc Tông và Phật giáo Nam Tông ra đời.
4. Giáo lý được phân làm hai truyền thống theo địa lý, truyền thừa, và được gọi là Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Nam tông. Sử dụng từ ngữ Bắc tông và Nam tông nói lên tính xuyên suốt của cây đại thọ, giáo lý đạo Phật.
5. Mặc dù truyền thống Bắc Tông và Nam Tông có những khác biệt, tuy nhiên, những khác biệt ấy không cơ bản. Trái lại, những điểm tương đồng lại rất cơ bản như sau:
a/. Cả hai đều nhìn nhận Đức Phật là bậc Đạo sư.
b/. Cả hai đều chấp nhận và hành trì giáo lý Tứ thánh đế, Bát chính đạo, Duyên khởi...; đều chấp nhận Tam pháp ấn Vô thường, Khổ, Vô ngã; đều chấp nhận con đường tu tập: Giới-Định-Tuệ.
c/. Cả hai đều từ chối có đấng tối cao tự sáng tạo và ngự trị thế giới.
Ngược lại với quan điểm nguyên thủy, Đại thừa không quá nhấn mạnh đến đời sống xuất gia, cho rằng cư sĩ tại gia cũng có thể đạt Niết-bàn với sự tế độ của chư Phật và chư Bồ Tát. Hình tượng cư sĩ Duy-ma-cật trong Duy-ma-cật sở thuyết kinh là ví dụ tiêu biểu nhất cho trường hợp này. Cách xưng hô trong kinh cũng có khác đi đôi chút. Những lời dạy trong kinh giờ đây được hướng thẳng đến giới cư sĩ như: Thiện nam tử (sa. kulaputra), thiện nữ nhân (sa. kuladuhitṛ), như câu hỏi của tôn giả Tu-bồ-đề trong Kim Cương kinh cho thấy:
Thưa Thế Tôn, thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân đã khởi hành với Bồ Tát thừa nên an trụ như thế nào, nên thực hành như thế nào, nên điều phục tâm như thế nào?
Theo quan điểm Đại thừa, Niết-bàn không phải chỉ là giải thoát khỏi Luân hồi—mà hơn thế nữa, hành giả giác ngộ về Chân tâm và an trụ trong đó, đã tiến vào " cửa vô sinh vô tử". Mỗi chúng sinh đều mang Phật tính (sa. buddhatā) và giác điều đó là điều tuyệt đối quan trọng.
Đại thừa lại được chia ra nhiều bộ phái khác nhau, xuất phát từ Ấn Độ và truyền qua Tây Tạng, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Tại Ấn Độ, Đại thừa đã chia ra Trung quán tông (sa. mādhyamika) do Long Thụ (sa. nāgārjuna) đề xuất và Duy thức tông (sa. vijñānavādin, yogācārin) do Vô Trước (sa. asaṅga) và Thế Thân (sa. vasubandhu) sáng lập. Song song với Tantra (Mật tông) của Ấn Độ giáo, đạo Phật cũng sản sinh ra một trường phái là Kim cương thừa (sa. vajrayāna), rất thịnh hành tại Tây Tạng. Thuộc về Đại thừa tại Trung Quốc và Nhật Bản, người ta có thể kể đến Thiền tông, Hoa Nghiêm tông, Thiên Thai tông, Tịnh Độ tông. Giáo lý căn bản của Đại thừa được chứa đựng trong những bộ kinh (sa. sūtra) và luận (sa. śāstra). Nói chung, Đại thừa phát triển một cách uyển chuyển, thích nghi, tùy thuận, để phù hợp với khả năng Giác ngộ của căn cơ mọi người.
Một số học giả nghiên cứu về Phật giáo cho rằng: vấn đề về Tiểu thừa và Đại thừa ngày nay có thể hiểu đơn giản qua hình ảnh của một cái cây. Một cái cây gồm rễ, thân và lá từ lúc còn nhỏ đến lúc đang phát triển chính là Tiểu thừa. Khi cây phát triển ra nhánh và thêm nhiều lá thì nhánh và lá là Đại thừa, còn thân, rễ, và những nhánh cũ là Tiểu thừa. Cũng như vậy, khi cây ra quả, quả đó là Mật tông. Vì là cùng một cây nên việc phân biệt Tiểu thừa và Đại thừa chỉ mang tính hình tượng (giống như so sánh bạn lúc nhỏ và bạn khi lớn lên, trưởng thành). Hay nói cách khác, dù là Tiểu thừa hay Đại thừa thì mục đích cuối cùng của Phật giáo là đưa con người đạt được sự giải thoát mọi khổ đau, sống an vui hạnh phúc trọn vẹn mãi mãi. Tiểu thừa nói về giáo lý của Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế. Đại thừa nói về giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lúc tại thế và lúc sống tại cõi Niết Bàn cùng với các Chư Phật và Bồ Tát (đệ tử của ngài). |
Trong quang học, đặc biệt là trong quang hình, ảnh ảo là thuật ngữ để chỉ các hình ảnh quan sát được khi thấy các quang tuyến ánh sáng, hay bức xạ điện từ nói chung, như cùng đi ra từ nơi đó mà trên thực tế thì đường đi qua của các quang tuyến không đi qua các điểm trên hình ảnh ảo này.
Tính chất ảnh ảo qua các loại gương
– Ảnh ảo qua gương phẳng có kích thước lớn bằng vật
– Ảnh ảo qua gương cầu lồi có kích thước nhỏ hơn vật
– Ảnh ảo qua gương cầu lõm có kích thước lớn hơn vật
Ví dụ
Phản xạ
Gương phẳng hay gương cầu lồi luôn tạo ra ảnh ảo nằm sau gương nhờ phản xạ ánh sáng của vật thể đặt trước chúng. Đối với người quan sát trước gương, các tia sáng dường như phát ra từ ảnh nằm sau gương, nhưng thực tế các tia chỉ đi lại trong không gian nằm trước gương.
Khúc xạ
Thấu kính phân kỳ luôn tạo ra ảnh ảo của vật thể đặt xa hơn tiêu cự của kính.
Sự khúc xạ tia sáng đi từ dưới nước lên không khí cũng tạo ra ảnh ảo của vật thể dưới nước, còn gọi là bóng nước. |
Côngxoocxiom hay công-xooc-xi-om là từ phiên âm từ tiếng Latinh của consortium, có nghĩa gần giống như hiệp hội hay liên đoàn, có nguồn gốc ở từ consors có nghĩa là người sở hữu của các phương tiện hay đồng đội.
Từ này chỉ tới sự cộng tác tạm thời để thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó hay để đưa ra một dịch vụ hoặc sản phẩm nhất định một cách có hiệu quả hơn. Một côngxoocxiom là sự liên kết của hai hay nhiều các cá nhân (thuật ngữ pháp lý là thể nhân), công ty, trường đại học, hoặc chính quyền (hoặc bất kỳ tổ hợp nào của các thực thể pháp lý này) với mục đích tham dự vào các hoạt động chung hoặc đóng góp các tài nguyên của mình để đạt được mục tiêu chung. Mỗi bên tham gia vẫn duy trì tư cách pháp nhân riêng biệt của mình và nhờ thế, việc kiểm soát của côngxoocxiom đối với mỗi bên tham gia nói chung bị giới hạn trong các hoạt động tham dự vào các nỗ lực chung, cụ thể là phân chia lợi nhuận.
Một côngxoocxiom được tạo lập ra bởi hợp đồng, trong đó miêu tả quyền lợi và trách nhiệm của mỗi thành viên. Các côngxoocxiom nói chung là phổ biến trong các lĩnh vực phi lợi nhuận. Ví dụ, Five Colleges, Inc. (Massachusetts) là một trong những côngxoocxiom lâu đời và thành đạt nhất tại Mỹ. Các bên tham gia vào Five Colleges, Inc. là: Đại học Amherst, Đại học Hampshire, Đại học Mount Holyoke, Đại học Smith, và Đại học tổng hợp Massachusetts Amherst. Một ví dụ khác về côngxoocxiom thành đạt là Năm trường đại học ở Ohio: Đại học Oberlin, Đại học tổng hợp Ohio Wesleyan, Đại học Kenyon, Đại học Wooster và Đại học tổng hợp Denison. Các côngxoocxiom này sử dụng các tài nguyên của các thành viên như trong việc chia sẻ các tài sản vật chất và nguồn nhân lực cũng như liên kết các tài nguyên kinh điển và quản lý hành chính.
Ví dụ về côngxoocxiom để thu lợi nhuận là Airbus Industrie ("Airbus"). Được lập ra năm 1970, Airbus là một trong những nhà sản xuất máy bay dân dụng hàng đầu thế giới. Airbus do Công ty vũ trụ và phòng thủ hàng không châu Âu (EADS) (sở hữu 80%) và British Aerospace (sở hữu 20%) lập ra. EADS tự bản thân nó là sự hợp thành của Aérospatiale-Matra của Pháp, Daimler-Chrysler Aerospace của Đức, và Construcciones Aeronáuticas của Tây Ban Nha, mà nguyên thủy là các đối tác riêng biệt trong côngxoocxiom, sở hữu tương ứng 37,9%, 37,9% và 4,2% cổ phần trong Airbus. Địa vị pháp lý của Airbus như là một côngxoocxiom có nghĩa là lợi nhuận (hay khoản thua lỗ) được tích lũy cho các công ty đối tác thể hiện cho các lợi ích của họ. Công việc cũng được phân bổ trên cùng nguyên lý như lợi nhuận (hay thua lỗ).
Một ví dụ khác của côngxoocxiom thu lợi nhuận là khi các nhóm ngân hàng hợp tác với nhau để cho vay tiền (các khoản vay mà một ngân hàng sẽ rất khó để thực hiện do lượng tiền lớn cũng như thời hạn kéo dài và rủi ro cao).
Phân biệt với hiệp hội hay liên đoàn
Một hiệp hội hay một liên đoàn cũng là tổ chức do các thành viên tự nguyện tham gia với nhau giống như côngxoocxiom nhằm mục đích bảo vệ các quyền lợi và chia sẻ các trách nhiệm chung. Các thành viên của các tổ chức này vẫn là các thể nhân hay pháp nhân riêng biệt. Tuy nhiên, giữa các hình thức liên kết này có nhiều điểm khác biệt. Cụ thể như sau:
Một hiệp hội có thể có tư cách pháp nhân hoặc không (mặc dù rất ít khi thấy các hiệp hội không có tư cách pháp nhân), còn một liên đoàn hay một côngxoocxiom thì phải có tư cách pháp nhân, tức là phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được cấp phép hoạt động.
Một hiệp hội hay liên đoàn thông thường đưa ra điều lệ để điều chỉnh các hoạt động trong khuôn khổ chung của hiệp hội hay liên đoàn đó. Các quy định trong điều lệ được áp dụng bình đẳng cho mọi thành viên của các tổ chức này, không phụ thuộc vào quy mô hay địa vị pháp lý của từng thành viên riêng biệt. Ví dụ, liên đoàn bóng đá Việt Nam có thể quy định mỗi câu lạc bộ bóng đá là thành viên không được phép có quá 3 cầu thủ mang quốc tịch nước ngoài ra sân trong một trận đấu bóng đá, không phụ thuộc vào việc câu lạc bộ này có bao nhiêu cầu thủ ngoại quốc hay họ đóng góp bao nhiêu hội phí. Trong khi đó các thành viên tham gia vào côngxoocxiom có quyền lợi và nghĩa vụ phụ thuộc vào phần đóng góp của mình. Các quyền lợi và nghĩa vụ này được thể hiện trên hợp đồng có thời hạn thay vì điều lệ.
Liên đoàn hay hiệp hội (nếu có tư cách pháp nhân) là pháp nhân thay mặt cho các thành viên trong các vụ việc pháp lý hoặc trong các quan hệ xã hội với các tổ chức khác mà có liên quan đến hoạt động chung của cả liên đoàn hay hiệp hội, nhưng côngxoocxiom thì có vai trò pháp lý độc lập với các thành viên và nó không thể thay mặt cho các thành viên, do trách nhiệm pháp lý của mỗi thành viên này trong côngxoocxiom không trực tiếp phụ thuộc vào vai trò pháp lý chung của côngxoocxiom mà chỉ phụ thuộc vào phần vốn góp của họ trong đó. Việc chia sẻ trách nhiệm pháp lý được quy định cụ thể trong hợp đồng.
Các hiệp hội hay liên đoàn duy trì hoạt động của mình trên cơ sở hội phí (hoặc các cách gọi khác đi) từ đóng góp của các thành viên hàng năm. Hội phí dựa trên cơ sở tự nguyện nhưng có thể có quy định mức đóng góp tối thiểu, cùng với thu nhập từ các hoạt động chung khác. Các côngxoocxiom duy trì hoạt động trên cơ sở vốn góp của các thành viên, không có quy định cụ thể về phần vốn góp của mỗi thành viên trong côngxoocxiom.
Các thành viên của hiệp hội hay liên đoàn có thể rút khỏi hiệp hội hay liên đoàn bất kỳ lúc nào mà họ muốn hoặc khi bị mất tư cách hội viên (khi họ không nộp đủ hội phí chẳng hạn), còn các thành viên của côngxoocxiom chỉ có thể rút ra khỏi tổ chức này khi hợp đồng hết hiệu lực (trừ khi có điều khoản cho phép rút vốn trước hạn) mà không muốn gia hạn thêm hoặc khi họ không còn đủ tư cách pháp nhân để tham gia vào côngxoocxiom. |
Mào gà còn gọi là kê quan, kê đầu hay mồng gà là tên gọi chung của một số loài thực vật thuộc chi Celosia, chi thực vật có hoa trong họ Amaranthaceae. Chúng là những cây làm cảnh hay có thể ăn được, có hình dạng và sử dụng tương tự như cây rau dền. Chúng được gọi là cây mào gà do màu sắc và hình dạng hoa giống như mào của gà.
Celosia argentea là loài cây làm rau và lấy hạt làm ngũ cốc, đặc biệt ở Tây Phi, Trung Phi và Đông Nam Á. Nó là loại rau quan trọng nhất ở miền nam Nigeria, ở đó nó có tên gọi là soko.
Celosia cristata là loài cây cảnh phổ biến trong vườn ở Trung Quốc và một số nơi khác.
Các loài
Celosia argentea
Celosia cristata
Celosia nitida
Celosia palmeri
Celosia plumosa
Celosia trigyna
Celosia virgata
Y học
Ở Việt Nam, loài Celosia cristata là phổ biến và còn có tên gọi khác là kê quan hoa hay kê đầu.
Hoa và hạt cây mào gà dùng làm thuốc thu liễm. Có công dụng cầm huyết, chứa nốt trĩ ra huyết, thổ huyết, đổ máu cam, lỵ ra máu. Liều dùng: Hoa mào gà đỏ khô 10 g (tươi 25-30 g) sấy khô tán nhỏ dùng trong ngày. Mỗi lần uống 1-2 g.
Chú thích |
Trong tiếng Việt chữ không có nghĩa phủ định hoặc trống rỗng; nó có thể chỉ các khái niệm sau:
Số đầu tiên của tập hợp số tự nhiên và ký hiệu là 0.
Không (đại số Bool): trạng thái logic phủ định.
Không (bài hát), bài hát của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9.
Từ ngữ dùng để ám chỉ bầu trời hoặc không gian (trên không, không lưu, không ảnh,...)
Khái niệm về tính Không của vạn vật trong Phật học.
Trong từ ghép chân không: một không gian không có vật chất, ngay cả không có không khí. |
Java (phiên âm Tiếng Việt: "Gia-va") là một ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng, dựa trên lớp được thiết kế để có càng ít phụ thuộc thực thi càng tốt. Nó là ngôn ngữ lập trình có mục đích chung cho phép các nhà phát triển ứng dụng viết một lần, chạy ở mọi nơi (WORA), nghĩa là mã Java đã biên dịch có thể chạy trên tất cả các nền tảng hỗ trợ Java mà không cần biên dịch lại. Các ứng dụng Java thường được biên dịch thành bytecode có thể chạy trên bất kỳ máy ảo Java (JVM) nào bất kể kiến trúc máy tính bên dưới. Cú pháp của Java tương tự như C và C++, nhưng có ít cơ sở cấp thấp hơn các ngôn ngữ trên. Java runtime cung cấp các khả năng động (chẳng hạn như phản ánh và sửa đổi mã thời gian chạy) thường không có sẵn trong các ngôn ngữ biên dịch truyền thống. Java là một trong những ngôn ngữ lập trình phổ biến nhất được sử dụng theo GitHub, đặc biệt cho các ứng dụng web máy khách-máy chủ, với 9 triệu nhà phát triển đã được báo cáo.
Java ban đầu được James Gosling tại Sun Microsystems (sau đó đã được Oracle mua lại) phát triển và được phát hành vào năm 1995 như một thành phần cốt lõi của nền tảng Java của Sun Microsystems. Các trình biên dịch Java, máy ảo và thư viện lớp thực thi gốc và tham chiếu ban đầu được Sun phát hành theo giấy phép độc quyền. Kể từ tháng 5 năm 2007, tuân theo các thông số kỹ thuật của Quy trình Cộng đồng Java, Sun đã cấp phép hầu hết các công nghệ Java của mình theo Giấy phép Công cộng GNU. Oracle cung cấp Máy ảo Java HotSpot của riêng mình, tuy nhiên việc triển khai tham chiếu chính thức là OpenJDK JVM, là phần mềm mã nguồn mở miễn phí và được hầu hết các nhà phát triển sử dụng và là JVM mặc định cho hầu hết các bản phân phối Linux.
Tính đến tháng 10 năm 2023, phiên bản mới nhất là Java 21, cũng là một phiên bản hỗ trợ dài hạn (LTS), được phát hành vào 19 tháng 9 năm 2023. Oracle phát hành bản cập nhật miễn phí cho công chúng với phiên bản kế thừa Java 8 LTS vào tháng 1 năm 2019 cho mục đích sử dụng thương mại, mặc dù nếu không nó sẽ vẫn hỗ trợ Java 8 với các bản cập nhật công khai cho mục đích sử dụng cá nhân vô thời hạn. Các nhà cung cấp khác đã bắt đầu cung cấp các bản miễn phí của OpenJDK 8 và 11 mà vẫn đang nhận được bảo mật và các nâng cấp khác.
Oracle (và những công ty khác) khuyên người dùng nên gỡ cài đặt các phiên bản Java đã lỗi thời vì những rủi ro nghiêm trọng do các vấn đề bảo mật chưa được giải quyết. Vì Java 9, 10, 12, 13 và 14 không còn được hỗ trợ, Oracle khuyên người dùng nên chuyển ngay sang phiên bản mới nhất (hiện tại là Java 15) hoặc bản phát hành LTS.
Lịch sử
James Gosling, Mike Sheridan và Patrick Naughton khởi xướng dự án ngôn ngữ Java vào tháng 6 năm 1991. Java ban đầu được thiết kế cho truyền hình tương tác, nhưng nó quá tiên tiến đối với ngành truyền hình cáp kỹ thuật số vào thời điểm đó. Ban đầu ngôn ngữ này được gọi là Oak theo tên một cây sồi bên ngoài văn phòng của Gosling. Sau đó, dự án có tên là Green và cuối cùng được đổi tên thành Java, từ cà phê Java, loại cà phê đến từ Indonesia. Gosling đã thiết kế Java với cú pháp kiểu C/C++ mà các lập trình viên hệ thống và ứng dụng đã quen thuộc.
Sun Microsystems đã phát hành bản triển khai công khai đầu tiên dưới dạng Java 1.0 vào năm 1996. Nó hứa hẹn khả năng Viết một lần, Chạy mọi nơi (WORA), cung cấp thời gian chạy miễn phí trên các nền tảng phổ biến. Khá an toàn và có tính năng bảo mật có thể định cấu hình, nó cho phép các hạn chế truy cập mạng và tệp. Các trình duyệt web lớn đã sớm kết hợp khả năng chạy các ứng dụng Java trong các trang web và Java nhanh chóng trở nên phổ biến. Trình biên dịch Java 1.0 được viết lại bằng Java bởi Arthur van Hoff để tuân thủ nghiêm ngặt đặc tả ngôn ngữ Java 1.0. Với sự ra đời của Java 2 (ban đầu được phát hành với tên gọi J2SE 1.2 vào tháng 12 năm 19981999), các phiên bản mới có nhiều cấu hình được xây dựng cho các loại nền tảng khác nhau. J2EE bao gồm các công nghệ và API cho các ứng dụng doanh nghiệp thường chạy trong môi trường máy chủ, trong khi các API đặc trưng của J2ME được tối ưu hóa cho các ứng dụng di động. Phiên bản dành cho máy tính để bàn được đổi tên thành J2SE. Năm 2006, vì mục đích tiếp thị, Sun đã đổi tên các phiên bản J2 mới lần lượt là Java EE, Java ME và Java SE.
Năm 1997, Sun Microsystems đã tiếp cận cơ quan tiêu chuẩn ISO/IEC JTC 1 và sau đó là Ecma International để chính thức hóa Java, nhưng sau đó công ty nhanh chóng rút khỏi quy trình này. Java vẫn là một tiêu chuẩn thực tế, được kiểm soát thông qua Quy trình cộng đồng Java. Đã có lúc, Sun cung cấp hầu hết các triển khai Java của mình mà không tính phí, bất chấp trạng thái phần mềm độc quyền của họ. Sun đã tạo ra doanh thu từ Java thông qua việc bán giấy phép cho các sản phẩm chuyên biệt như Hệ thống Doanh nghiệp Java.
Vào ngày 13 tháng 11 năm 2006, Sun đã phát hành phần lớn máy ảo Java (JVM) của mình dưới dạng phần mềm mã nguồn mở và miễn phí (FOSS), theo các điều khoản của Giấy phép Công cộng GNU (GPL). Vào ngày 8 tháng 5 năm 2007, Sun đã hoàn thành quá trình, cung cấp tất cả mã cốt lõi của JVM theo các điều khoản phân phối phần mềm miễn phí / nguồn mở, ngoại trừ một phần nhỏ mã mà Sun không giữ bản quyền.
Phó chủ tịch Rich Green của Sun nói rằng vai trò lý tưởng của Sun đối với Java là như một nhà truyền giáo. Sau khi Tập đoàn Oracle mua lại Sun Microsystems vào năm 2009–10, Oracle đã tự mô tả mình là người quản lý công nghệ Java với cam kết không ngừng thúc đẩy cộng đồng tham gia và minh bạch. Điều này không ngăn được Oracle đệ đơn kiện Google ngay sau đó vì đã sử dụng Java bên trong Android SDK.
Ngày 2 tháng 4 năm 2010, James Gosling từ chức tại Oracle.
Vào tháng 1 năm 2016, Oracle đã thông báo rằng môi trường thời gian chạy Java dựa trên JDK 9 sẽ ngừng cung cấp plugin trình duyệt.
Phần mềm Java chạy trên mọi thứ, từ máy tính xách tay đến trung tâm dữ liệu, bảng điều khiển trò chơi đến siêu máy tính khoa học.
Nguyên tắc
Có 5 mục tiêu chính trong việc xây dựng ngôn ngữ Java:
Nó phải đơn giản, hướng đối tượng và quen thuộc.
Nó phải mạnh mẽ và an toàn.
Nó phải không phụ thuộc vào kiến trúc và có tính di động.
Nó phải thực thi với hiệu suất cao.
Nó phải được thông dịch, phân luồng và động.
Phiên bản
Các phiên bản Java đã phát hành:
Phiên bản
Sun đã xác định và hỗ trợ bốn phiên bản Java nhắm mục tiêu các môi trường ứng dụng khác nhau và phân đoạn nhiều API của nó để chúng thuộc về một trong các nền tảng. Các nền tảng là:
Java Card cho thẻ thông minh.
Nền tảng Java, Phiên bản Micro (Java ME) - nhắm mục tiêu môi trường với tài nguyên hạn chế.
Nền tảng Java, Phiên bản Tiêu chuẩn (Java SE) - nhắm mục tiêu môi trường máy trạm.
Nền tảng Java, Phiên bản Doanh nghiệp (Java EE) - nhắm mục tiêu các môi trường doanh nghiệp hoặc Internet phân tán lớn.
Các lớp trong Java API được tổ chức thành các nhóm riêng biệt gọi là gói. Mỗi gói chứa một tập hợp các giao diện, lớp, gói con và ngoại lệ liên quan.
Sun cũng cung cấp một phiên bản có tên là Personal Java đã được thay thế bằng các cặp cấu hình Java ME dựa trên tiêu chuẩn sau này.
Hệ thống thực thi
Java JVM và bytecode
Một mục tiêu thiết kế của Java là tính di động, có nghĩa là các chương trình được viết cho nền tảng Java phải chạy tương tự nhau trên bất kỳ sự kết hợp nào giữa phần cứng và hệ điều hành với hỗ trợ thời gian chạy thích hợp. Điều này đạt được bằng cách biên dịch mã ngôn ngữ Java sang một đại diện trung gian được gọi là Java bytecode, thay vì trực tiếp tới mã máy cụ thể về kiến trúc. Các lệnh mã bytecode trong Java tương tự như mã máy, nhưng chúng được thiết kế để thực thi bởi một máy ảo (VM) được viết riêng cho phần cứng máy chủ. Người dùng cuối thường sử dụng Java Runtime Environment (JRE) được cài đặt trên máy của họ cho các ứng dụng Java độc lập hoặc trong trình duyệt web cho các ứng dụng Java.
Các thư viện tiêu chuẩn cung cấp một cách chung để truy cập các tính năng dành riêng cho máy chủ như đồ họa, phân luồng và mạng.
Việc sử dụng bytecode phổ biến làm cho việc chuyển cổng trở nên đơn giản. Tuy nhiên, chi phí của việc thông dịch bytecode thành các lệnh máy làm cho các chương trình được thông dịch hầu như luôn chạy chậm hơn các chương trình thực thi gốc. Các trình biên dịch Just-in-time (JIT) biên dịch mã byte thành mã máy trong thời gian chạy đã được giới thiệu từ giai đoạn đầu. Bản thân Java độc lập với nền tảng và được điều chỉnh cho phù hợp với nền tảng cụ thể mà máy ảo Java (JVM) chạy trên nó, máy này sẽ dịch mã bytecode của Java sang ngôn ngữ máy của nền tảng.
Hiệu suất
Các chương trình được viết bằng Java nổi tiếng là chậm hơn và đòi hỏi nhiều bộ nhớ hơn các chương trình được viết bằng C++. Tuy nhiên, tốc độ thực thi của các chương trình Java được cải thiện đáng kể với sự ra đời của tính năng biên dịch đúng lúc vào năm 1997/1998 cho Java 1.1, việc bổ sung các tính năng ngôn ngữ hỗ trợ phân tích mã tốt hơn (chẳng hạn như các lớp bên trong, lớp StringBuilder, các xác nhận tùy chọn, v.v.) và tối ưu hóa trong máy ảo Java, chẳng hạn như HotSpot trở thành mặc định cho JVM của Sun vào năm 2000. Với Java 1.5, hiệu suất đã được cải thiện với việc bổ sung gói java.util.concurrent, bao gồm khóa các triển khai miễn phí của ConcurrentMaps và các bộ sưu tập đa lõi khác và nó đã được cải thiện hơn nữa với Java 1.6.
Không JVM
Một số nền tảng cung cấp hỗ trợ phần cứng trực tiếp cho Java; có những bộ điều khiển vi mô có thể chạy Java bytecode trong phần cứng thay vì máy ảo Java phần mềm, và một số bộ xử lý dựa trên ARM có thể có hỗ trợ phần cứng để thực thi Java bytecode thông qua tùy chọn Jazelle của chúng, mặc dù hỗ trợ hầu hết đã bị loại bỏ trong các triển khai hiện tại của ARM.
Quản lý bộ nhớ tự động
Java sử dụng bộ thu gom rác tự động (AGC) để quản lý bộ nhớ trong vòng đời đối tượng. Lập trình viên xác định thời điểm các đối tượng được tạo và thời gian chạy Java chịu trách nhiệm khôi phục bộ nhớ khi các đối tượng không còn được sử dụng. Khi không còn tham chiếu đến một đối tượng, bộ nhớ không thể truy cập sẽ đủ điều kiện để được giải phóng tự động bởi bộ thu gom rác. Một cái gì đó tương tự như rò rỉ bộ nhớ vẫn có thể xảy ra nếu mã của lập trình viên giữ một tham chiếu đến một đối tượng không còn cần thiết, thường là khi các đối tượng không còn cần thiết được lưu trữ trong các bộ chứa vẫn đang được sử dụng. Nếu các phương thức cho một đối tượng không tồn tại được gọi, một ngoại lệ con trỏ null sẽ được đưa ra.
Một trong những ý tưởng đằng sau mô hình quản lý bộ nhớ tự động của Java là các lập trình viên có thể không phải chịu gánh nặng khi phải thực hiện quản lý bộ nhớ thủ công. Trong một số ngôn ngữ, bộ nhớ để tạo các đối tượng được cấp phát ngầm trên ngăn xếp hoặc được cấp phát và phân bổ rõ ràng từ heap. Trong trường hợp thứ hai, trách nhiệm quản lý bộ nhớ thuộc về lập trình viên. Nếu chương trình không phân bổ một đối tượng, một rò rỉ bộ nhớ sẽ xảy ra. Nếu chương trình cố gắng truy cập hoặc phân bổ bộ nhớ đã được phân bổ, kết quả là không xác định và khó dự đoán, và chương trình có thể trở nên không ổn định hoặc gặp sự cố. Điều này có thể được khắc phục một phần bằng cách sử dụng các con trỏ thông minh, nhưng chúng làm tăng thêm chi phí và sự phức tạp. Lưu ý rằng việc thu gom rác không ngăn chặn rò rỉ bộ nhớ logic, tức là những nơi bộ nhớ vẫn được tham chiếu nhưng không bao giờ được sử dụng.
Việc thu gom rác có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Lý tưởng nhất, nó sẽ xảy ra khi một chương trình không hoạt động. Nó được đảm bảo sẽ được kích hoạt nếu không có đủ bộ nhớ trống trên heap để cấp phát một đối tượng mới; điều này có thể khiến một chương trình bị dừng trong giây lát. Không thể quản lý bộ nhớ rõ ràng trong Java.
Java không hỗ trợ số học con trỏ kiểu C/C++, trong đó địa chỉ đối tượng có thể được thao tác số học (ví dụ: bằng cách thêm hoặc trừ một phần bù). Điều này cho phép bộ thu gom rác di chuyển các đối tượng được tham chiếu và đảm bảo an toàn và bảo mật kiểu.
Giống như trong C++ và một số ngôn ngữ hướng đối tượng khác, các biến của kiểu dữ liệu nguyên thủy của Java hoặc được lưu trữ trực tiếp trong các trường (đối với các đối tượng) hoặc trên ngăn xếp (đối với các phương thức) chứ không phải trên heap, điều này thường đúng đối với dữ liệu không nguyên thủy các loại (nhưng hãy xem phân tích thoát). Đây là một quyết định có ý thức của các nhà thiết kế của Java vì lý do hiệu suất.
Java chứa nhiều loại trình thu gom rác. Theo mặc định, HotSpot sử dụng bộ thu gom rác quét song song. Tuy nhiên, cũng có một số trình thu gom rác khác có thể được sử dụng để quản lý đống rác. Đối với 90% ứng dụng trong Java, bộ thu gom rác đồng thời Mark-Sweep (CMS) là đủ. Oracle đặt mục tiêu thay thế CMS bằng Garbage-First Collector (G1).
Giải quyết được vấn đề quản lý bộ nhớ không giúp lập trình viên bớt gánh nặng xử lý đúng cách các loại tài nguyên khác, như kết nối mạng hoặc cơ sở dữ liệu, xử lý tệp, v.v., đặc biệt là khi có lỗi.
Các lớp đặc biệt
Applet
Java applet là các chương trình được nhúng vào trong các ứng dụng khác, thường là trong một trang web hiển thị trong trình duyệt web. API của Java applet hiện không còn được dùng nữa kể từ ngày 9 tháng 1 năm 2017.
Servlet
Công nghệ Java servlet cung cấp cho các nhà phát triển Web một cơ chế nhất quán, đơn giản để mở rộng chức năng của máy chủ Web và để truy cập các hệ thống kinh doanh hiện có. Servlet là các thành phần Java EE phía máy chủ tạo ra các phản hồi (thường là các trang HTML) cho các yêu cầu (thường là các yêu cầu HTTP) từ máy khách.
Ở một mức độ nào đó, API của Java servlet đã được thay thế bởi hai công nghệ Java cho dịch vụ web:
Java API cho RESTful Web Services (JAX-RS 2.0) hữu ích cho AJAX, JSON và dịch vụ REST, và
Java API cho XML Web Services (JAX-WS) hữu ích cho dịch vụ web SOAP.
Sự phổ biến
Tính đến ngày 21 tháng 1 năm 2021, Java là ngôn ngữ lập trình phổ biến thứ nhì thế giới với tỉ lệ 11,96% chỉ xếp sau ngôn ngữ C. Qua nhiều năm Java và C vẫn luôn chiếm hai vị trí đầu tiên trong bảng các ngôn ngữ lập trình phổ biến nhất suốt 20 năm qua, tuy những năm gần đây độ phổ biến có xu hướng giảm nhưng Java vẫn giữ được tỉ lệ trên 10% mặc cho sự phát triển chóng mặt của thế giới công nghệ, Java thể hiện đẳng cấp một ngôn ngữ lập trình chất lượng của nhân loại. |
Sa hoàng (tiếng Anh: Tsar; hay ; Tiếng Slav Giáo hội cổ: ц︢рь), còn gọi là Nga hoàng, là tước vị chính thức của các vua trong lịch sử Nga từ năm 1547 đến năm 1721 và là tên gọi không chính thức của các Hoàng đế của Đế quốc Nga từ đó về sau.
Thực ra, vị vua đầu tiên xưng Sa hoàng là Simeon I của Bulgaria. Đây cũng là tước vị của các vị vua của Bulgaria trong thời gian 893-1014, 1085-1396 và 1908-1946; và của các vua Serbia trong thời gian 1346-1371.
Trên thực tế, Sa hoàng được xem là nguyên thủ quốc gia suốt chiều dài lịch sử Nga kể từ khi Moskva trở thành một công quốc độc lập cho đến chế độ quân chủ bị lật đổ vào tháng 2 năm 1917. Như vậy Sa hoàng kế thừa các đại công tước Moskva, và là tiền thân của các Hoàng đế Nga. Trong những thời kỳ thiếu Sa hoàng, như "Thời kì lộn xộn" (1610 - 1613), Giáo trưởng Moskva, là người đứng đầu Giáo hội Chính thống giáo Nga, đóng vai trò như vua Nga và nguyên thủ quốc gia.
Lịch sử
Từ nguyên của Tsar có nghĩa là "nguyên thủ quốc gia", "quân vương", "người đứng đầu", và cũng là tước vị chính thức của quân vương, hoặc người mang danh hiệu đó. Từ này bắt nguồn từ danh hiệu "Caesar" có từ thời La Mã cổ đại. Theo nghĩa hẹp, từ Царь (tiếng Anh: Tsar, gốc từ tiếng Latin Caesar, viết theo tiếng Nga là Цезарь) có họ hàng với từ tiếng Đức Kaiser và là tước vị chính thức của các vua Nga từ năm 1547 đến năm 1721.
Trước năm 1547, đứng đầu quốc gia Moskva là một Đại công tước (Великий князь, Velikiy Knyaz). (Hồi đó các vua Nga thực ra là lãnh chúa từng vùng, phạm vi quyền lực hạn chế nên chỉ là Đại công tước). Năm 1547 Đại công tước Moskva là Ivan IV, tức Ivan Hung đế (Иван Грозный) xưng là Sa hoàng (Царь) để khẳng định vị trí đặc biệt hơn hẳn các đại công tước khác. Tước vị đó đặt Ivan IV ngang hàng với các vua chúa châu Âu, coi như ông là ngưởi kế thừa các hoàng đế Đông La Mã năm xưa. Thực ra, sau khi Đông La Mã sụp đổ thì các đại công tước Ivan III và Vasily III xứ Moskva đã xưng làm "Sa hoàng" khi giao tiếp với các nước nhỏ như Livonia. Đế hiệu chính thức của các Sa hoàng Nga là "Sa hoàng và Đấng cầm quyền chuyên chính của toàn Nga".
Năm 1721, Pyotr I, tức Pyotr Đại đế (Пётр Великий), đổi tước hiệu từ Sa hoàng thành Hoàng đế (Император Imperator), là từ cùng gốc với từ Emperor của Tây Âu, nhưng tước vị Sa hoàng vẫn được dùng một cách không chính thức để gọi hoàng đế Nga cho đến khi Cách mạng tháng Hai năm 1917 lật đổ chế độ quân chủ. Hoặc, xem tước hiệu đầy đủ của Hoàng đế Nikolai II, ông xưng làm "Hoàng đế và Đấng cầm quyền chuyên chính của Nga" kèm theo nhiều danh hiệu khác như "Sa hoàng của Moskva, Kiev, Vladimir, Novgorod, Kazan, Astrakhan, Siberia, Chersonesos dãy Taurus, Gruzia…".
Các Sa hoàng trong lịch sử Nga
Nhà Ryurik
Thời kỳ hỗn độn (1598 - 1613)
Nhà Godunov
Giai đoạn tiếm ngôi
Nhà Shuisky
Giai đoạn Hội đồng 7 vị Boyars (27 tháng 7 1610 - 4 tháng 11 1612)
(Từ ngày 6 tháng 12 năm 1610 (thiếu Władysław IV Vasa):
Hoàng thân Fyodor Ivanovich Mstislavsky
Hoàng thân Ivan Mikhailovich Vorotynsky (to March 1611)
Mikhail Fyodorovich Nagoy (from March 1611)
Hoàng thân Andrey Vasilyevich Trubetskoy
Hoàng thân Vasily Vasilyevich Golitsyn (to 8 April 1611)
Ivan Simeyonovich Kurakin (from 8 April 1611)
Hoàng thân Boris Mikhailovich Lykov-Obolenskiy
Ivan Nikitich Romanov
Fyodor Ivanovich Sheremetev
Giai đoạn Hội đồng toàn lãnh thổ (17 tháng 4 1611 - 26 tháng 7 1613):
Prokopy Petrovich Lyapunov (to 1 August 1611)
Hoàng thân Dmitry Timofeyevich Trubetskoy
Ataman Ivan Martynovich Zarutsky (to 7 August 1612)
Nhà Romanov (1613-1917)
Các tước vị trong hoàng gia
Царица Tsaritsa — Sa hậu hoặc nữ Sa hoàng
Цесаревич Tsesarevich — Thái tử, tước vị đầy đủ là Наследник Цесаревич Naslednik Tsesarevich; không chính thức còn gọi là Наследник Naslednik, nghĩa là Người kế vị.
Царевич Tsarevich — Hoàng tử. Trước kia từ này được dùng để chỉ thái tử thay vì Tsesarevich. Các hoàng tử không phải là người kế vị và các hoàng tôn (cháu nội vua) thì được phong Đại công tước.
Царевна Tsarevna — Hoàng nữ
Цесаревна Tsesarevna — Thái tử phi (vợ của Thái tử) |
Thuật từ Đại Tỉnh thức được dùng để chỉ các cuộc phục hưng tôn giáo trong lịch sử Hoa Kỳ và Anh Quốc, cũng được dùng để miêu tả các giai đoạn cách mạng về tư tưởng tôn giáo tại Hoa Kỳ. Phong trào này, với mục tiêu đánh thức sự sùng tín đã ngủ yên trong lòng tín hữu, lại kiến tạo cho mình ảnh hưởng đáng kể trong xã hội qua nỗ lực tuyên xưng các giá trị đạo đức, sự công chính và lòng nhân ái.
Theo sự phân loại được chấp nhận rộng rãi nhất, có cả thảy bốn cuộc đại tỉnh thức xảy ra trong lịch sử Hoa Kỳ:
Đại Tỉnh thức lần thứ nhất (thập niên 1730 - thập niên 1740)
Đại Tỉnh thức lần thứ nhì (thập niên 1800 - thập niên 1830)
Đại Tỉnh thức lần thứ ba (thập niên 1880 - thập niên 1900)
Đại Tỉnh thức lần thứ tư (thập niên 1960 - thập niên 1970)
Đặc điểm
Joseph Tracy - một mục sư và sử gia, người đã mang đến cho hiện tượng tôn giáo này thuật ngữ "Đại Tỉnh thức" (cũng là tựa đề một tác phẩm của ông được xuất bản vào năm 1842) - cho rằng cuộc đại tỉnh thức lần thứ nhất là tiền thân của cuộc chiến dành độc lập của Hoa Kỳ. Cũng theo lập luận của Tracy, phong trào bãi nô, một phần của cuộc đại tỉnh thức lần thứ hai và là một trong những nhân tố kiến tạo sự phân hóa trong nước Mỹ về vấn đề nô lệ, được xem như là một trong những yếu tố dẫn nước Mỹ vào cuộc Nội chiến với mục tiêu chính là giải phóng nô lệ.
Trong các cuộc Đại Tỉnh thức xuất hiện những hiện tượng nổi bật như bùng phát nhiều giáo phái, ngay cả một số tôn giáo mới, và các hệ thống tín ngưỡng mới xuất hiện cũng như các giáo hội truyền thống đều phát triển mạnh mẽ và tạo nhiều ảnh hưởng trong xã hội.
Mặc dù chịu ảnh hưởng từ những trào lưu thần học khởi phát ở châu Âu, hiện tượng tôn giáo này chủ yếu diễn ra trong vòng nước Mỹ và thể hiện những đặc thù của đất nước này. Một phần có lẽ do Hoa Kỳ là vùng đất màu mỡ cho sự phát triển nhiều giáo phái, dù hầu hết đều chia sẻ những giá trị chung của cộng đồng Kháng Cách. Truyền thống Kháng Cách khuyến khích sự tự do bày tỏ các xác tín khác nhau. Sự thiếu vắng một tôn giáo chủ đạo hoặc một hệ thống quốc giáo là môi trường thuận lợi cho việc truyền bá những ý tưởng mới mà không cần nỗ lực, thường khi chậm chạp, cải cách từ bên trong.
Đại Tỉnh thức lần thứ nhất
Cuộc Đại Tỉnh thức thứ nhất là phong trào tôn giáo bùng phát trong cộng đồng Kháng Cách (Protestant) tại các khu định cư tại Bắc Mỹ trong những năm thuộc các thập niên 1730 và 1740. Khởi phát bởi Jonathan Edwards, một nhà thuyết giáo sống tại Massachusetts, người tìm cách phục hồi các giá trị cội rễ của Thần học Calvin (đã được chấp nhận và truyền bá rộng rãi trong thời kỳ lập quốc), và nỗ lực đánh thức tình cảm kính yêu Thiên Chúa đang phôi phai trong lòng tín hữu. Bài giảng Tội nhân trong tay Thiên Chúa đang thịnh nộ là một trong những bài giảng nổi tiếng nhất của ông. Edwards là diễn giả có sức thuyết phục lớn, và nhiều người tìm đến để nghe ông thuyết giảng. Nhà thuyết giáo người Anh George Whitefield tiếp nối phong trào, du hành khắp các khu định cư và thu hút số lượng thính giả đông đảo với cung cách thuyết giáo sinh động và đầy cảm xúc.
Phương pháp giảng dạy mới cùng cung cách sống đạo của những người theo phong trào này đã thổi sức sống mới vào đời sống tôn giáo tại Mỹ. Người ta tìm đến tôn giáo với lòng nhiệt tâm, chứ không còn chịu ngồi nghe các bài luận thuyết tôn giáo cách lặng lẽ và xa cách. Nhiều người bắt đầu thói quen nghiên cứu Kinh Thánh tại nhà, tập quán này làm suy giảm ảnh hưởng của các nghi thức thờ phụng công cộng, và đem tín hữu đến gần với khynh hướng chú trọng vào sự trải nghiệm cá nhân đã được rao giảng tại Âu châu trong cuộc Cải cách Kháng Cách.
Tất cả những điều này tạo nên sức mạnh thuyết phục cho thông điệp của Jonathan Edwards và các truyền đạo du hành (itinerant preacher), những người dong ruỗi dọc ngang nước Mỹ, tìm đến các khu định cư để giảng đạo. Họ thường được xem là thuộc về nhóm "Tân Quang", để phân biệt với nhóm "Cựu Quang". Sự tranh chấp giữa hai nhóm này dẫn đến việc thành lập một số viện đại học, nay được xếp vào danh sách của Ivy League, như Kings College (Đại học Columbia) và Đại học Princeton. Cuộc đại tỉnh thức có lẽ là biến cố thuần Mỹ nhất cho đến lúc ấy, nên thường được xem là một trong những yếu tố thúc đẩy tiến trình thống nhất các khu định cư và làm gia tăng quyết tâm dành độc lập và quyền tự quyết của người định cư.
Cuộc đại tỉnh thức cũng được giải thích là sự thể hiện sau cùng các lý tưởng tôn giáo; vì cớ các lý tưởng này mà các khu định cư vùng New England được thành lập. Lòng sùng tín đang trên đà suy giảm trong các thập niên trước cuộc đại tỉnh thức, một phần là do ảnh hưởng của phong trào Khai sáng (Englightenment), cùng với phản ứng tiêu cực của công chúng đối với vụ án xét xử các phù thủy tại Salem. Sau cuộc đại tỉnh thức, lòng sùng tín lại thoái trào, mặc dù lịch sử Hoa Kỳ luôn điểm xuyết bởi các cuộc phục hưng tôn giáo (đáng kể nhất là cuộc đại tỉnh thức thứ nhì). Sức mạnh dẫn dắt các khu định cư trong suốt 60 năm kế tiếp căn bản là thế tục, mặc dù Hoa Kỳ vẫn còn là một quốc gia sùng đạo sâu sắc (nhiều vùng trên nước Mỹ vẫn duy trì lòng sùng tín cho đến ngày nay).
Ảnh hưởng
Các sử gia vẫn tiếp tục tranh luận về ảnh hưởng chính trị của cuộc đại tỉnh thức đối với cuộc Cách mạng Mỹ, diễn ra ngay sau đó. Heimert (1966) lập luận rằng trong thời kỳ trước khi xảy ra cuộc Cách mạng Mỹ, Thần học Calvin và Jonathan Edwards là nguồn cung ứng ý thức hệ chính trị cấp tiến theo khuynh hướng dân chủ xã hội; mặt khác, tôn giáo Tin Lành thể hiện và khuyến khích chủ nghĩa quốc gia. Thần học Calvin được vun trồng tại các khu định cư Mỹ lập nền cho hiện tượng thức tỉnh tâm linh, cùng lúc là tác nhân thúc đẩy cuộc Cách mạng Mỹ. Theo Heimert, ảnh hưởng chủ đạo của cuộc đại tỉnh thức là kiến tạo tinh thần quốc gia cho người Mỹ, đây là nhân tố quyết định dẫn đến cuộc cách mạng.
Cuộc Đại Tỉnh thức lần thứ nhất khởi phát từ những lời thuyết giáo mạnh mẽ và đầy sức thuyết phục tập chú vào việc quở trách tội lỗi và nhu cầu nhận lãnh ơn cứu chuộc qua hành động công khai xưng tội để tiếp nhận ân điển của Thiên Chúa, dẫn người nghe đến "trải nghiệm tiếp xúc với Thiên Chúa theo cách riêng của mỗi người". Các diễn giả tra xem bản chất của điều người Mỹ thường xem là giao ước của Thiên Chúa dành cho dân tộc họ, và quở trách nếp sống suy đồi, chuộng vật chất, thích hưởng thụ tại các khu định cư đang trở nên giàu có tại Mỹ. Họ xem đó là ảnh hưởng đến từ Anh, như thế, cần cắt đứt quan hệ với mẫu quốc để có thể tái cung hiến nước Mỹ cho Thiên Chúa.
Cuộc Đại Tỉnh thức biến tôn giáo trở thành trải nghiệm cá nhân cho người bình thường bằng cách kiến tạo nhận thức sâu sắc về tội lỗi và ơn cứu chuộc, cùng lúc với sự tra xét nội tâm và tinh thần tận hiến cho những chuẩn mực mới trong đời sống tâm linh. Nhà sử học Sydney E. Ahlstrom nhận thấy yếu tố này trong các cuộc phục hưng tôn giáo xảy ra ở những nơi khác như Phong trào Sùng tín tại Đức, cuộc Phục hưng Tin Lành và Phong trào Giám Lý tại Anh.
Đại Tỉnh thức lần thứ nhì
Cuộc Đại Tỉnh thức thứ nhì là phong trào phục hưng tôn giáo lớn xảy ra trong lịch sử Hoa Kỳ. Nảy sinh từ phong trào này là nhiều loại hình hoạt động khác nhau, nổi trội nhất là tính chủ động của các địa phương và sự bày tỏ nhiệt tâm tôn giáo. Tại vùng New England, sự quan tâm về tôn giáo vừa được hồi sinh dẫn đến một làn sóng hoạt động xã hội. Tại miền tây tiểu bang New York, tinh thần của cuộc phục hưng mở đường cho sự xuất hiện của các giáo phái tân lập, và tạo ra ảnh hưởng đáng kể trên Phong trào Thánh khiết. Tại vùng Appalachia của Kentucky và Tennessee, cuộc phục hưng đã tăng cường sức mạnh cho các giáo phái Giám Lý và Baptist, và sản sinh một hình thức truyền đạo mới - giảng phúc âm trong các lều trại.
Vào cuối thế kỷ 18, nhiều người Mỹ thuộc giới trí thức không còn quan tâm đến đức tin Cơ đốc truyền thống, và cuộc phục hưng tôn giáo quét qua miền tây vào thượng bán thế kỷ 19 là một phản ứng đối với trào lưu thế tục của thời kỳ này.
New England
Phong trào Tin Lành bùng phát tại đây sản sinh nhiều hội đoàn truyền giáo liên giáo phái với mục tiêu truyền bá phúc âm cho vùng đất miền Tây còn hoang sơ. Thành viên của các hội đoàn này không chỉ hoạt động như nhà truyền giáo mà còn là nhà giáo dục, truyền bá các giá trị văn hóa đô thị của miền Đông, trong khi những hiệp hội xuất bản và giáo dục chăm lo phát triển giáo dục Cơ đốc, nổi bật nhất là Thánh Kinh Hội Hoa Kỳ, ra đời năm 1816. Cũng từ cuộc phục hưng này, xuất hiện Hội Tiết độ và các nhóm vận động bãi bỏ chế độ nô lệ, khởi phát các nỗ lực nhằm cải cách chế độ lao tù, chăm sóc người tàn tật và người mắc bệnh tâm thần.
New York
Cuộc phục hưng tại miền tây tiểu bang New York chịu nhiều ảnh hưởng của Charles Grandison Finney, một luật sư đến từ Adam, New York. Một vùng rộng lớn từ hồ Ontario đến dãy núi Adriondack chứng kiến quá nhiều cuộc phục hưng tôn giáo đến nỗi nó thường được nhắc đến với tên "Khu vực Bùng cháy" (Burned-over district). Năm 1821, Finney trải nghiệm một sự soi dẫn tâm linh trong khi đang tìm kiếm niềm xác tín tôn giáo cho mình. Ông khởi sự rao giảng Phúc âm tại miền tây tiểu bang New York. Các cuộc phục hưng của Finney nổi bật bởi những đặc điểm như chuẩn bị chu đáo, thuyết giáo với sức thuyết phục mạnh mẽ và kết quả sung mãn với số lượng lớn người qui đạo. Finney thuyết giảng tại khu vực này suốt từ những năm 1820 sang đến những năm đầu thập niên 1830 trước khi nhận lời giảng dạy môn thần học, và về sau trở thành viện trưởng, tại Đại học Oberlin.
Cũng từ khu vực này đã sản sinh hai giáo phái quan trọng tại Hoa Kỳ - phong trào Thánh hữu Ngày sau (Mormon) với 12 triệu tín hữu và phong trào Phục lâm – dù cả hai đều không được cộng đồng Cơ Đốc giáo công nhận vì những dị biệt của họ về các vấn đề thần học.
Appalachia
Trong vùng núi Appalachia, cuộc phục hưng mang những đặc điểm tương tự với cuộc đại tỉnh thức thứ nhất của thế kỷ trước. Nhưng tại đây, tâm điểm của cuộc phục hưng là những buổi truyền giảng trong lều trại (camp meeting), thường kéo dài trong vài ngày, dành cho các nhóm cư dân, vì đòi hỏi của công việc, phải sống xa gia đình. Những con người lang bạt này nhìn xem các buổi truyền giảng trong lều bạt như là một nơi trú ẩn cho cuộc đời cô độc của họ tại vùng đất biên cương hoang dã. Bối cảnh đặc thù cộng với sự phấn khích khi tham dự các cuộc phục hưng tôn giáo đã nảy sinh một phong cách mới trong việc biểu lộ các tình cảm tôn giáo như nhảy múa, kêu la và ca hát, những đặc điểm thường được nối kết với các cuộc phục hưng xảy ra tại đây.
Buổi truyền giảng trong lều bạt được tổ chức lần đầu tiên vào tháng 7 năm 1800 tại Nhà thờ Gasper River, tây nam Kentucky. Một buổi truyền giảng khác lớn hơn được tổ chức tại Cane Ridge, Kentucky vào tháng 8 năm 1801 với sự tham dự của từ 10 ngàn đến 25 ngàn người; cũng có mặt nhiều mục sư thuộc các giáo phái Trưởng lão, Baptist và Giám Lý. Buổi truyền giảng này đã giúp định hình các chương trình truyền giảng phục hưng có tổ chức, để trở nên hình mẫu cho sự phát triển của các giáo phái như Giám Lý hay Baptist. Nó cũng là công cụ giúp sản sinh các giáo phái thuộc phong trào Hồi cố như Disciples of Christ và Church of Christ.
Cuộc phục hưng mau chóng quét qua khắp Kentucky, Tennessee và miền nam Ohio cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các giáo phái Giám Lý và Baptist. Mỗi giáo phái có thế mạnh của mình để thu hoạch từ cuộc phục hưng. Giáo phái Giám Lý với cơ cấu tổ chức hiệu quả, dựa vào các truyền đạo khu vực (circuit rider), những người này tìm đến các vùng xa xôi, hẻo lánh để giảng đạo. Thường xuất thân từ giới bình dân, họ dễ dàng tìm được sự đồng cảm từ các gia đình sinh sống tại vùng biên cương.
Trong khi đó, giáo phái Baptist chọn lựa cấu trúc tổ chức mềm dẻo. Những người truyền đạo nông dân của họ, những người nhận lãnh "ơn gọi" từ Thiên Chúa, chuyên cần nghiên cứu Kinh Thánh và đi ra thành lập nhà thờ; sau đó, họ được phong chức bởi giáo đoàn của họ. Các giáo đoàn này đào tạo nhiều mục sư và gởi họ đến các vùng xa hơn, sâu trong các hoang mạc để thành lập nhà thờ. Nhờ tính hiệu quả của phương pháp này, giáo phái Baptist chiếm vai trò chủ đạo trong đời sống tôn giáo tại những tiểu bang biên giới và hầu hết các tiểu bang miền Nam.
Cuộc đại tỉnh thức thứ nhì có ảnh hưởng sâu sắc trên lịch sử Hoa Kỳ. Với số lượng tín hữu gia tăng mạnh, các giáo phái Baptist và Giám Lý đạt đến vị trí cân bằng, về sau vượt trội các giáo phái truyền thống có ảnh hưởng lớn trong thời kỳ thuộc địa như Anh giáo, Trưởng Lão, Tự trị giáo đoàn và Quaker. Trong vòng các tín hữu Quaker, những nỗ lực nhằm ứng dụng tư tưởng Cơ đốc giáo vào các giải pháp xã hội là tiền thân của phong trào Phúc âm xã hội của thế kỷ 19. Đến giữa thế kỷ 19, nước Mỹ trở nên một quốc gia đa dạng, và những dị biệt bên trong cộng đồng Kháng Cách tại Mỹ vừa phản ánh vừa đóng góp vào tình trạng đa dạng này.
Ảnh hưởng
Cùng lúc với những canh tân trong thần học và cấu trúc hội thánh là những cải cách xã hội xảy ra trong giai đoạn này. Các tín hữu Cơ Đốc tích cực tham gia vào các cải cách xã hội như chống nạn nghiện rượu, bảo vệ nữ quyền, phong trào bãi nô, và các hoạt động nhằm giải quyết những vấn nạn khác của xã hội từ nhận thức về vai trò của họ trong xã hội là thanh tẩy thế giới qua nỗ lực giới thiệu ơn cứu rỗi đến cho từng cá nhân.
Đại Tỉnh thức lần thứ ba
Đây là thời kỳ kéo dài từ thập niên 1850 đến thập niên 1900 ảnh hưởng đến nhiều giáo phái Kháng Cách. Công cuộc truyền giáo đem thông điệp Phúc âm đến khắp nơi trên thế giới và Phong trào Phúc âm Xã hội khởi phát trong giai đoạn này. Cũng xuất hiện một số hiện tượng như Phong trào Thánh khiết, Phong trào Nazarene và giáo phái Cơ Đốc Khoa học.
Cuộc Đại Tỉnh thức bùng phát tại nhiều thành phố trong năm 1858, nhưng bị cắt đứt bởi cuộc Nội chiến Mỹ. Tuy vậy, ở miền Nam, chính cuộc nội chiến là nhân tố phát triển các cuộc phục hưng tôn giáo, đặc biệt trong vòng các binh sĩ dưới quyền Tướng Robert E. Lee. Sau chiến tranh, Dwight L. Moody xem chấn hưng niềm tin là trọng tâm trong các hoạt động của ông ở Chicago, dẫn đến việc thành lập Học viện Kinh Thánh Moody.
Các giáo hội Kháng Cách mở rộng hoạt động truyền giáo ở Hoa Kỳ và tại nhiều nước trên khắp thế giới. Số lượng các đại học do các giáo hội thành lập tăng trưởng nhanh cùng với chất lượng giáo dục. YMCA có mặt ở nhiều thành phố, cùng lúc với các nhóm thanh niên Cơ Đốc như Epworth League (Giám Lý), và Walther League (Lutheran).
Ảnh hưởng
Cuộc Đại Tỉnh thức lần thứ ba được xem là ảnh hưởng chủ đạo dẫn dắt nước Mỹ qua những ngày khó khăn khi phải gánh chịu hậu quả nặng nề của cuộc Đại Suy thoái và chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ý nghĩa của thuật từ "thức tỉnh" ngụ ý một xã hội mê ngủ hoặc trì trệ, thụ động và bị thế tục hóa. Như thế, "thức tỉnh" là thuật từ bắt nguồn từ những người Tin Lành và được sử dụng thường xuyên bởi cộng đồng này, kéo dài cho đến ngày nay như trong trường hợp của Tổng thống George W. Bush.
Đại Tỉnh thức lần thứ tư
Dù vẫn còn bất đồng về việc liệu có nên áp dụng thuật từ "Đại Tỉnh thức" cho giai đoạn từ cuối thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970 hay không, thời kỳ này chứng kiến nhiều sự thay đổi đáng kể trong lĩnh vực tôn giáo tại Hoa Kỳ.
Trong khi các giáo hội "chính lưu" thuộc cộng đồng Kháng Cách sút giảm đáng kể số lượng tín hữu và ảnh hưởng xã hội thì một số giáo phái truyền thống như Baptist Nam phương và Missouri Synod Lutheran phát triển mạnh mẽ số lượng thành viên, mở rộng ảnh hưởng trên khắp nước Mỹ, tham gia các cuộc tranh luận thần học, và trở nên các thế lực chính trị hùng mạnh. Cùng lúc, là sự lớn mạnh của chủ nghĩa thế tục, và các giáo hội phải đối đầu với các vấn đề như quyền của người đồng tính, quyền phá thai và phải nỗ lực bảo vệ học thuyết sáng tạo.
Thời kỳ này cũng chứng kiến sự phát triển của các nhà thờ độc lập có chủ trương liên phái, và các "trung tâm đức tin cộng đồng", cùng lúc là sự trỗi dậy của hiện tượng đại giáo đoàn, và các tổ chức truyền giáo và công tác xã hội phi giáo phái. Phong trào Giê-xu được xem là một phần trong cuộc đại tỉnh thức lần thứ tư.
Cũng thuộc thời kỳ này, theo quan điểm của một số người, là cuộc Phong trào Ân tứ từ năm 1961 đến 1982. Khởi nguồn từ Phong trào Ngũ Tuần, tập chú vào trải nghiệm mà họ xem là những "ân tứ" của Chúa Thánh Linh như nói tiếng lạ, chữa bệnh bằng đức tin và nói tiên tri; các "ân tứ" này cũng được xem là dấu chứng của trải nghiệm "đầy dẫy Chúa Thánh Linh". Dù khởi phát từ cộng đồng Kháng Cách, ảnh hưởng của phong trào này lan rộng trong Giáo hội Công giáo La Mã vào lúc các nhà lãnh đạo giáo hội tỏ thái độ rộng mở với chủ trương đại kết, bớt nhấn mạnh đến cấu trúc giáo hội, đồng thời quan tâm nhiều hơn đến vai trò của giáo dân trong giáo hội.
Chú thích |
Jonathan Edwards (sinh 5 tháng 10 năm 1703 – mất 28 tháng 3 năm 1758) là nhà thần học và nhà thuyết giáo người Mỹ thuộc giáo phái Tự trị Giáo đoàn (Congregational). Ông được biết đến như là nhà thần học lớn nhất và sâu sắc nhất trong cộng đồng Tin lành (Evangelical) tại Hoa Kỳ. Tuy Edwards viết về nhiều lãnh vực khác nhau, ông thường được xem là người nhiệt tâm bảo vệ nền thần học Calvin và di sản Thanh giáo.
Tuổi trẻ
Jonathan là con của Timothy Edwards (1669-1729), một mục sư tại East Windsor, Timothy phải tìm cách bù đắp phần lợi tức ít ỏi của mình bằng cách dạy kèm các sinh viên. Vợ của Timothy, Esther Stoddard, là con gái của Mục sư Solomon Stoddard ở Northampton, bà là một phụ nữ có nhiều khả năng về trí tuệ cùng với một cá tính độc lập.
Jonathan, con trai duy nhất và là người con thứ năm trong số chín người con của họ. Cha và chị của Jonathan, cả hai đều được hưởng một nền giáo dục tốt, dạy cậu bé học. Năm lên mười, Jonathan viết một luận đề khá hài hước về tính phi vật chất của linh hồn; cậu bé tỏ ra thích thú môn lịch sử thiên nhiên, và viết một tiểu luận khá xuất sắc về tập quán của "loài nhện bay".
Jonathan nhập học tại Đại học Yale năm 1716 khi chưa đủ tuổi 13. Năm sau, cậu bắt đầu làm quen và chịu thuyết phục bởi những luận văn của John Locke. Trước khi tốt nghiệp vào tháng 9 năm 1720 với tư cách là thủ khoa và trưởng lớp, xem ra trong tâm trí của chàng trai này đã định hình một hệ thống triết học. Jonathan dành hai năm kế tiếp để theo học môn thần học tại New Haven.
Từ năm 1720 đến năm 1726, theo những điều ghi lại trong nhật ký, Jonathan khao khát tìm kiếm sự cứu rỗi và không chịu hài lòng cho đến khi có được một trải nghiệm vào năm cuối tại trường đại học, khi cậu không còn cảm giác rằng, theo sự tuyển chọn của Thiên Chúa, một số người được dành sẵn cho sự cứu chuộc trong khi những người khác bị phó cho sự hư mất đời đời, là "một học thuyết đáng ghê sợ"; nhưng ngược lại, cậu nhận biết đây là "một điều hết sức vui thỏa, tươi sáng và ngọt ngào". Jonathan nhận được niềm vui lớn lao khi ngắm xem vẻ đẹp của thiên nhiên, và vui thú khi thưởng thức ý nghĩa ẩn giấu đằng sau những dòng chữ của sách Nhã ca trong Cựu Ước.
Jonathan được phong chức mục sư tại Northampton vào ngày 5 tháng 2 năm 1727 và nhận làm phụ tá quản nhiệm cho ông ngoại ông, Solomon Stoddard. Trong năm này, ông kết hôn với Sarah Pierpont, cô con gái 17 tuổi của James Pierpont, người sáng lập Đại học Yale.
Năm 1729, Stoddard qua đời, để lại cho người cháu nhiệm vụ khó khăn của một quản nhiệm, chăm sóc một trong những giáo đoàn lớn nhất và giàu có nhất tại khu định cư.
Đại Tỉnh thức
Năm 1731 Edwards bắt đầu một loạt bài giảng tại Boston, về sau được xuất bản dưới tựa đề Thiên Chúa được Tôn vinh khi con người Phụ thuộc vào Ngài, nhằm phản bác tư tưởng của nền thần học Arminius.
Năm 1733, một cuộc phục hưng tôn giáo bùng phát tại Northampton, lên đến đỉnh điểm vào mùa đông năm 1734 và kéo dài cho đến mùa xuân năm sau. Cuộc phục hưng thu hút sự quan tâm đặc biệt của dân chúng trong thị trấn đến nỗi họ xao lãng công việc hằng ngày. Trong sáu tháng, có gần ba trăm người gia nhập giáo đoàn. Đây cũng là cơ hội cho Edwards nghiên cứu tiến trình qui đạo trong mọi giai đoạn của nó, ông ghi lại những quan sát của mình với nhiều chi tiết về tâm lý cùng với các nhận xét trong Câu chuyện về Hành động của Thiên Chúa trong Kinh nghiệm Qui đạo của hàng trăm người tại Northampton (1737).
Năm 1741, Edwards cho xuất bản tác phẩm Những Dấu chỉ Đặc trưng khi Linh của Thiên Chúa Hành động, đặc biệt xem xét đến một hiện tượng thường bộc phát trong các cuộc truyền giảng phục hưng: tình trạng ngất xỉu, kêu la, và co giật. Những "hiệu ứng thể chất" này, theo quan điểm của Edwards, không phải là những dấu hiệu đặc trưng khi Linh của Thiên Chúa vận hành. Năm 1742, ông viết một luận văn khác, Những Suy nghĩ về Phục hưng ở New England, những luận cứ trình bày trong tác phẩm này góp phần đáng kể giúp cải thiện tình trạng đạo đức của xứ sở. Edward cho rằng những biểu lộ cảm xúc khi người nghe chịu thuyết phục về tội lỗi là tình trạng tự nhiên, ông cũng biện hộ cho phương cách thuyết giảng nhấn mạnh đến cơn thịnh nộ và sự trừng phạt của Thiên Chúa dành cho người có tội.
Mùa xuân năm 1735, cuộc phục hưng bắt đầu thoái trào và tinh thần thế tục quay trở lại. Nhưng thời kỳ này kéo dài không lâu, và cuộc phục hưng lại bùng phát khắp thung lũng Connecticut, tiếng tăm của nó lan đến Anh và Scotland. Cuộc phục hưng được tiếp bước bởi cuộc Đại Tỉnh thức dưới sự dẫn dắt của Edwards. Vào thời gian này, ông bắt đầu tiếp xúc với George Whitefield và thuyết giảng một trong những bài giảng nổi tiếng nhất của ông Tội nhân trong tay Thiên Chúa đang thịnh nộ tại Enfield, Connecticut năm 1741. Dù vậy, cuộc phục hưng được tiếp nhận với thái độ lạnh nhạt của giới lãnh đạo giáo hội.
Năm 1749 Edwards cho xuất bản hồi ký về David Brainerd, một mục sư trẻ tuổi tìm đến rao giảng Phúc âm cho người da đỏ, đính hôn với Jerusha, con gái của Edwards, đến sống với gia đình ông trong vài tháng và qua đời tại Northampton vào ngày 7 tháng 10 năm 1747.
Năm 1748 xảy ra sự bất đồng giữa Edwards và giáo đoàn của ông liên quan đến các điều kiện được áp dụng cho lễ báp têm, cuối cùng dẫn đến việc Edwards phải rời khỏi nhà thờ ông đã phục vụ trong gần hai mươi năm. Năm 1750, ông nhận lời làm quản nhiệm cho một nhà thờ tại Stockbridge, cùng lúc đến giảng đạo cho người da đỏ Housatonic. Ông đứng ra bảo vệ người da đỏ chống lại những người da trắng đang tìm cách bóc lột họ.
Năm 1757, nhân cái chết của Mục sư Aaron Burr, người đã kết hôn với Esther, con gái của Edwards năm năm trước (con trai của họ, Aaron Burr, sau này là Phó Tổng thống Hoa Kỳ), Edwards miễn cưỡng nhận lời thế chỗ con rể của mình để làm viện trưởng Đại học New Jersey (nay là Đại học Princeton) vào tháng 2 năm 1758, nhưng ông qua đời chỉ 40 ngày sau đó, vào ngày 28 tháng 3 năm 1758.
Khoa học
Edwards tỏ ra thích thú với những phát minh của Isaac Newton và các nhà khoa học đương thời. Trước khi dành trọn thời gian cho chức vụ mục sư, Edwards đã viết về các chủ đề khác nhau trong ngành triết học tự nhiên. Trong khi bày tỏ sự quan ngại vì nhiều người bị thu hút bởi chủ nghĩa vật chất và thái độ tin tưởng tuyệt đối vào lý trí, ông nhận biết rằng những quy luật thiên nhiên được tạo lập bởi Thiên Chúa nhằm bày tỏ sự khôn ngoan và sự quan tâm của ngài dành cho thế giới. Do đó, những khám phá khoa học không phải là hiểm họa cho đức tin của ông; đối với Edwards, không hề có sự mâu thuẫn nào giữa tâm linh và vật chất.
Di sản
Trong số những người chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng thần học của Jonathan Edwards có những tên tuổi lớn như Samuel Hopkins, Joseph Bellamy, Gideon Hawley và con trai ông, Jonathan Edwards, Jr. Nhiều người trong số các hậu duệ của Jonathan và Sarah Edwards sau này là các công dân nổi tiếng của Hoa Kỳ như Phó Tổng thống Aaron Burr, viện trưởng các đại học như Timothy Dwight, Jonathan Edwards, Jr. và Merril Edwards Gates. Jonathan và Sarah Edwards cũng là tổ phụ của Đệ Nhất Phu nhân Edith Roosevelt (vợ của Tổng thống Theodore Roosevelt), nhà văn O. Henry, nhà xuất bản Frank Nelson Doubleday và nhà văn Robert Lowell.
Tác phẩm
Cho đến nay nhiều tác phẩm của Edwards vẫn được xuất bản. Một số trong những tác phẩm quan trọng của ông:
A Faithful Narrative of the Surprising Work of God, reprinted by Diggory Press ISBN 978-1-84685-722-5
A History of the Work of Redemption including a View of Church History, reprinted by Diggory Press ISBN 978-1-84685-633-4
A Treatise Concerning Religious Affections, reprinted by Diggory Press ISBN 978-1-84685-746-1
Concerning the End for Which God Created The World, reprinted by Diggory Press ISBN 978-1-84685-624-2
Distinguishing Marks of a Work of the Spirit of God, reprinted by Diggory Press ISBN 978-1-84685-637-2
Freedom of the Will, reprinted by Diggory Press ISBN 978-1-84685-619-8
Original Sin, reprinted by Diggory Press ISBN 978-1-84685-760-7
Some thoughts concerning the present revival in New England and the way it ought to be acknowledged and promoted, reprinted by Diggory Press ISBN 978-1-84685-379-1
The Life and Diary of David Brainerd, Missionary to the Indians, reprinted by Diggory Press ISBN 978-1-84685-381-4
The Nature of True Virtue, reprinted by Diggory Press ISBN 978-1-84685-759-1
Charity and its Fruits, reprinted by Banner of Truth ISBN 978-0-85151-351-5 |
Charles Grandison Finney (29 tháng 8 năm 1792 – 16 tháng 8 năm 1875) thường được xem là "nhà phục hưng tôn giáo hàng đầu của Hoa Kỳ", và là nhân tố chính khởi phát cuộc Đại Tỉnh thức thứ nhì. Sự thức tỉnh tâm linh này đã tạo ra ảnh hưởng sâu sắc trên lịch sử Hoa Kỳ.
Cuộc đời và tư tưởng
Chào đời tại Warren, Connecticut, là con út trong một gia đình có bảy người con, Finney có một xuất thân khiêm nhường. Cha mẹ ông là nông dân, còn Finney chưa bao giờ có cơ hội hưởng một nền học vấn đại học. Dù vậy, chàng trai cao 6 feet 2 inch (188 cm) với năng khiếu âm nhạc và khả năng lãnh đạo này đã giành được vị trí tốt trong cộng đồng. Đến tập sự và học luật tại một văn phòng luật sư với dự tính hành nghề luật, nhưng Finney trải nghiệm một sự soi dẫn tâm linh dẫn đến quyết định tiếp nhận đức tin Cơ Đốc vào tuổi 29 tại Adams, New York. Sau đó, Finney nhận lãnh chức vụ mục sư thuộc giáo phái Trưởng Lão, dù ông không hoàn toàn đồng ý với Bản Tín điều Westminster của giáo hội, ông thích xây dựng đức tin cho mình trực tiếp từ Kinh Thánh.
Finney đến Thành phố New York vào năm 1832 để quản nhiệm nhà thờ Broadway Tabernacle. Cung cách trình bày thông điệp phúc âm cách khúc chiết với tính luận lý cao của ông giúp đem hàng ngàn người tiếp xúc với tình yêu và sự sống viên mãn của Chúa Giê-xu. Một số ước tính cho rằng những bài giảng của Finney đã dẫn dắt hơn 500 000 người tiếp nhận niềm tin Cơ Đốc. Các tác phẩm của ông cho đến nay vẫn tiếp tục thách thức nhiều người đi đến quyết định theo đuổi nếp sống thánh khiết và đẹp lòng Thiên Chúa. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Finney là Những Luận văn về Phục hưng Tôn giáo. Ca sĩ hát nhạc Cơ Đốc Keith Green chịu ảnh hưởng của ông, các nhân vật nổi tiếng khác thuộc cộng đồng Tin lành (Evangelical) như Billy Graham trân trọng ông. Về sau Finney gia nhập giáo phái Tự trị Giáo đoàn (Congregational) và, vì vậy, nhận nhiều sự chỉ trích từ những người Trưởng Lão bảo thủ.
Về thần học, Finney chấp nhận những yếu tố căn bản từ nhà thần học và thuyết giáo của thế kỷ 18, Jonathan Edwards, và nền thần học New Divinity theo tư tưởng Calvin.
Đang khi là một nhà truyền bá phúc âm rất thành công, cùng lúc Finney tham gia vào Phong trào Bãi nô thường xuyên dùng toà giảng để đả kích chế độ sở hữu nô lệ. Từ thập niên 1830 ông từ chối ban lễ tiệc thánh cho các chủ nô trong nhà thờ của ông.
Năm 1835, ông đến Ohio để giảng dạy, sau đó trở thành viện trưởng của Đại học Oberlin. Oberlin sớm trở thành vườn ươm cho phong trào chống sở hữu nô lệ khi ấy còn trong thời kỳ sơ khai. Oberlin cũng là viện đại học đầu tiên tại Mỹ cho phép người da đen và phụ nữ theo học chung lớp với nam giới da trắng.
Vai trò lịch sử
Là một quốc gia tân lập, Hoa Kỳ trong suốt thế kỷ 19 chứng kiến nhiều biến động xã hội. Thời kỳ này sản sinh một loạt các phong trào tôn giáo như Chứng nhân Giêhôva (1870), Cơ Đốc Phục lâm (1863), đạo Miller (1830 trở về sau) và đạo Mormon (1830). Cuộc di dân Tây tiến mang đến nhiều cơ hội cho cuộc sống và khiến người ta dễ dàng chối bỏ tư duy cũ. Thái độ này cũng được áp dụng cho tôn giáo. Cần lưu ý rằng các giáo phái kể trên không được công nhận bởi cộng đồng Cơ Đốc giáo.
"Khu vực bùng cháy" (Burned-over district) là một vùng địa lý được miêu tả bởi Finney như là vườn ươm cho phong trào phục hưng tôn giáo; đó là một khu vực thuộc miền tây Tiểu bang New York, nơi Finney gặt hái nhiều thành công. Vì thiếu hụt các chức sắc nên hoạt động tôn giáo trong vùng ít chịu ảnh hưởng bởi các giáo hội truyền thống.
Điều Finney cố làm trong khu vực đã khiến ông trở nên nhà truyền bá phúc âm thành công nhất vào thời kỳ này. Trong khi những nhóm như Chứng nhân Giê-hô-va, Mormon và Cơ Đốc Phục lâm trở nên những cộng đồng khép kín thì Finney có được ảnh hưởng rộng lớn trong vòng các giáo phái chính lưu (mainstream). Finney không bao giờ thiết lập cho mình một giáo phái riêng, cũng không tự nhận một vị trí lãnh đạo đặc biệt nào nhằm tỏ ra vượt trội hơn các nhà truyền bá phúc âm khác. Các giáo phái có cấu trúc tổ chức linh hoạt như Baptist và Giám Lý thu hoạch nhiều từ những thành quả của Finney, trong khi các giáo phái có khuynh hướng thủ cựu như Trưởng Lão tỏ ra không mấy thành công.
Thái độ tích cực của Finney đối với phong trào chống chế độ nô lệ đã giúp các tiểu bang miền Bắc kiến tạo một nền tảng tôn giáo ủng hộ lập trường chống chế độ nô lệ. Vào thời điểm ấy, niềm tin tôn giáo của người miền Nam tỏ ra bảo thủ và liên kết chặt chẽ với các tôn giáo truyền thống. Trong ý nghĩa này, tư tưởng của Finney được chấp nhận dễ dàng hơn ở miền Bắc. Nó cũng thiết lập một sự nối kết trực tiếp giữa phong trào phục hưng và phúc lợi xã hội, một sự nối kết trở nên chặt chẽ hơn trong hội thánh sau cuộc Nội chiến.
Thần học
Finney chịu ảnh hưởng sâu đậm tinh thần "phục hưng" của nền thần học xuất hiện từ thế kỷ 19. Mặc dù lập nền trên Thần học Calvin, Finney bác bỏ khuynh hướng "Old Divinity" của nên thần học này bởi vì ông xem nó là không phù hợp với Kinh Thánh và cản trở các nỗ lực truyền giáo và truyền bá phúc âm.
Một số luận điểm của Finney đi ngược lại Thần học Calvin, như được trình bày trong tác phẩm chính của ông, Religious Revivals (Phục hưng Tôn giáo). Finney cho rằng sự cứu rỗi có phụ thuộc vào ý chí con người muốn ăn năn, chứ không phải là sự áp đặt ngược với ý muốn của họ.
Tuy nhiên, Finney không bác bỏ toàn bộ Thần học Calvin. Trong Systematic Theology (Thần học Hệ thống), Finney chấp nhận hoàn toàn học thuyết "Bảo tồn các Thánh đồ" với nhận xét "Tôi cảm thấy dè dặt hơn khi thành lập và trình bày quan điểm của tôi về giáo lý Bảo tồn các Thánh đồ so với các vấn đề thần học khác". Cùng lúc, Finney thừa nhận tình trạng vẫn còn những tội lỗi che giấu trong đời sống các tín hữu, và mạnh mẽ khuyến cáo rằng họ cần phải ăn năn xưng tội ngay lập tức hoặc sẽ bị hư mất. Hậu thuẫn cho luận điểm này, theo Finney, là các hành xử của Sứ đồ Peter đối với Simon được chép trong Công vụ các Sứ đồ 8, và những chỉ dẫn của Sứ đồ Phao-lô đối với hội thánh Corinth (1Corinthians 5). Quan điểm này của Finney làm nổi bật quan điểm tập chú vào đời sống thánh khiết được trình bày trong các tác phẩm của ông.
Trong khi một số nhà thần học nối kết tên tuổi Finney với tư tưởng Pelagius, cần biết rằng Finney mạnh mẽ hậu thuẫn giáo lý cứu rỗi bởi ân điển chỉ qua đức tin, không phải bởi việc lành hoặc lòng vâng phục. Tuy nhiên, Finney khẳng định rằng việc lành là chứng cứ của đức tin; khó có thể tin rằng một đời sống chứa chấp tội lỗi là người có đức tin để được cứu.
Chú thích |
Mề đay có thể là:
Huy chương, thường mề đay được dùng để chỉ huy chương do chính quyền thực dân Pháp hoặc phong kiến trao thưởng trong thời kì Pháp thuộc ở Việt Nam; có nguồn gốc từ tiếng Pháp médaille.
Mày đay, một triệu chứng bệnh lý trong da liễu học. Từ mề đay thường được người miền Nam Việt Nam dùng. |
Trong quang học, một thấu kính là một dụng cụ quang học dùng để hội tụ hay phân kỳ chùm ánh sáng, nhờ vào hiện tượng khúc xạ, thường được cấu tạo bởi các mảnh thủy tinh được chế tạo với hình dạng và chiết suất phù hợp. Khái niệm thấu kính cũng được mở rộng cho các bức xạ điện từ khác, ví dụ, thấu kính cho vi sóng được làm bằng chất nến. Trong ngữ cảnh mở rộng, các thấu kính làm việc với ánh sáng và bằng kỹ thuật truyền thống được gọi là thấu kính quang học.
Lịch sử
Từ thấu kính trong tiếng Anh xuất phát từ tên Latinh là lentil, nghĩa là loài họ Đậu có hoa, vì thấu kính có 2 mặt lồi giống như loại thực vật này.
Các loại thấu kính
1 - Thấu kính lồi kép đối xứng.
2 - Thấu kính hai mặt lồi không đối xứng
3 - Thấu kính lồi.
4 - Thấu kính khum dương.
5 - Thấu kính hai mặt lõm đối xứng.
6 - Thấu kính hai mặt lõm không đối xứng.
7 - Thấu kính lõm Plano.
8 - Thấu kính khum âm.
Thấu kính hội tụ
Thấu kính hội tụ (còn gọi là thấu kính rìa mỏng) là thấu kính mà chùm tia sáng song song sau khi đi qua kính sẽ được hội tụ tại 1 tâm nhất định tùy theo hình dạng của thấu kính.
Thấu kính phân kỳ
Thấu kính phân kỳ (còn gọi là thấu kính rìa dày) là thấu kính mà chùm tia sáng song song sau khi đi qua thấu kính sẽ bị phân tán ra.
Thông thường, trong điều kiện chiết suất của vật liệu làm thấu kính lớn hơn chiết suất của môi trường chung quanh thì thấu kính phân kỳ có hình dạng lõm.
Trường hợp khác, khi chiết suất của thấu kính nhỏ hơn chiết suất môi trường thì các thấu kính lồi sẽ là thấu kính phân kỳ. Ví dụ: các bọt khí trong môi trường nước, trong lòng các chất trong như thủy tinh...
Thấu kính lồi
Thấu kính lồi hay còn gọi là thấu kính hội tụ là thấu kính có phần trung tâm dày hơn phần rìa.
Thấu kính lõm
Thấu kính lõm hay thấu kính phân kỳ là thấu kính có phần trung tâm mỏng hơn phần rìa, có tác dụng phân kỳ chùm tia sáng sau khi đi qua thấu kính. Về cấu tạo, thấu kính lõm được phân thành: phẳng_Lõm và lõm_Lõm.
Thấu kính mỏng
Là thấu kính có khoảng cách giữa hai đỉnh của 2 chỏm cầu (d) rất nhỏ so với bán kính R1 và R2 của 2 chỏm cầu. Thấu kính mỏng có thể là thấu kính hội tụ, nhưng cũng có thể là thấu kính phân kỳ. Với thấu kính mỏng, một số tính toán quang hình có thể được làm xấp xỉ về dạng đơn giản.
Thấu kính hấp dẫn
Thấu kính hấp dẫn là các thấu kính tự nhiên, thường có kích thước lớn, ví dụ như các lỗ đen thiên hà, sao neutron...
Cách vẽ ảnh qua thấu kính
Sử dụng 3 tia đặc biệt
Tia tới đi qua quang tâm O cho tia ló tiếp tục truyền thẳng.
Tia tới song song với trục chính cho tia ló đi qua tiêu điểm F' của thấu kính.
Tia tới đi qua tiêu điểm F cho tia ló song song với trục chính của thấu kính.
Sử dụng 2 tia bất kì
Tia tới song song với trục chính cho tia ló qua tiêu điểm ảnh chính.
Tia tới qua quang tâm cho tia ló truyền thẳng.
Tia tới qua tiêu điểm vật chính cho tia ló song song với trục chính.
Tia tới song song với trục phụ cho tia ló qua tiêu điểm ảnh phụ.
Các khái niệm trong quang học thấu kính
Hệ thấu kính
Hệ thấu kính là một quang cụ kết hợp từ 2 thấu kính đồng loại trở lên nhằm mục đích tạo ra công cụ mới có tính năng tạo ảnh tốt hơn. Ví dụ như kính hiển vi, kính thiên văn.
Ứng dụng
Thấu kính hội tụ:
- Dùng làm vật kính và thị kính ở kính hiển vi và kính thiên văn.
- Dùng làm vật kính ở máy ảnh.
- Dùng làm kính lúp.
- Dùng làm kính chữa tật viễn thị, lão thị.
Thấu kính phân kì:
- Dùng làm kính chữa tật cận thị.
- Sử dụng ở lỗ nhìn trên cánh cửa ra vào nhà. |
Khoa điện toán là một danh từ được dùng ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 và hiện nay vẫn được một số nơi, nhất là ở hải ngoại, dùng để chỉ:
Khoa học máy tính
Tin học |
Phương thức sản xuất (tiếng Đức: Produktionsweise), một khái niệm trong kinh tế chính trị và học thuyết duy vật lịch sử của chủ nghĩa Marx, là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Khái niệm
Theo Karl Marx, phương thức sản xuất là tổ hợp hữu cơ cụ thể của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Hay nói khác đi, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đối với Marx, 'bí mật' tổng thể của "tại sao/như thế nào" mà trật tự xã hội tồn tại và các nguyên nhân của các thay đổi xã hội cần phải khám phá trong phương thức sản xuất cụ thể mà xã hội đó có. Ông còn chứng minh xa hơn rằng phương thức sản xuất thể hiện sự tồn tại qua bản chất của phương thức phân phối, phương thức lưu thông và phương thức tiêu thụ, tất cả chúng cùng nhau tạo thành môi trường kinh tế. Để hiểu cách thức mà của cải được phân bổ và tiêu thụ, thì cần thiết phải hiểu các điều kiện mà nó đã được sản xuất ra.
Phương thức sản xuất là đặc biệt lịch sử đối với Marx vì nó tạo thành 'tổng thể hữu cơ' (hay tái sản xuất tổng thể), mà nó có khả năng tái tạo liên tục các điều kiện ban đầu của chính nó, và vì thế nó tồn tại theo những cách thức ổn định nhiều hay ít trong hàng thế kỷ hoặc thậm chí hàng thiên niên kỷ. Bằng cách tạo ra lao động thặng dư xã hội trong một hệ thống cụ thể, các giai cấp lao động tái sản xuất liên tục những nền tảng của trật tự xã hội. Khi các lực lượng sản xuất mới hay các quan hệ xã hội mới phát triển đến mức mâu thuẫn với phương thức sản xuất hiện hành, phương thức sản xuất này sẽ hoặc là tiến hóa mà không làm mất đi cấu trúc cơ sở của nó, hoặc là bắt đầu bị phá vỡ. Khi đó nó chuyển sang thời kỳ chuyển tiếp của bất ổn và mâu thuẫn xã hội, cho đến khi trật tự xã hội mới được thiết lập với phương thức sản xuất mới.
Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động để tạo ra sức sản xuất vật chất nhất định. Kết cấu của lực lượng sản xuất bao gồm:
Người lao động (lực lượng lao động)
Tư liệu sản xuất gồm:
Đối tượng lao động hay đối tượng sản xuất: đất đai, nguyên vật liệu, thông tin...
Công cụ lao động hay công cụ sản xuất
Phương tiện lao động: đường xá, cầu cống, bến bãi, kho...
Khoa học - kĩ thuật
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất mà trước hết là công cụ lao động. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất; được thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong những giai đoạn lịch sử nhất định; được biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, kinh nghiệm, kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất... Gắn với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hoá. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất trở thành không phù hợp, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển, tất yếu dẫn đến việc thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời.
Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, nó do con người tạo ra, nhưng lại hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Các quan hệ kiểm soát và phân chia sản phẩm được sản xuất ra trong xã hội, thông thường được đưa ra trong các hình thức của luật, lệ và các quan hệ giữa các giai cấp xã hội. Quan hệ sản xuất bao gồm:
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Quan hệ trong tổ chức, quản lý sản xuất.
Quan hệ trong phân phối sản phẩm.
Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Theo Marx, tổ hợp của lực lượng và quan hệ sản xuất có nghĩa là cách thức mà con người tác động tới thế giới vật chất và cách thức mà con người có quan hệ xã hội với nhau, được gắn kết cùng nhau theo những cách thức cần thiết và cụ thể nào đó. Con người cần phải tiêu dùng để tồn tại, nhưng để tiêu dùng thì con người phải sản xuất, và trong quá trình sản xuất họ cần thiết phải tham gia vào các quan hệ mà chúng tồn tại độc lập với ý chí của họ.
Các phương thức sản xuất
Theo Marx, xã hội loài người trong các giai đoạn lịch sử và ở các khu vực khác nhau có thể trải qua 7 phương thức sản xuất khác nhau. Cụ thể là:
Phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy: Xã hội loài người được tổ chức trong các cấu trúc bộ lạc truyền thống với ít hơn 50 người trên một đơn vị sản xuất, điển hình bởi việc chia sẻ sản xuất và tiêu thụ toàn bộ sản phẩm xã hội. Do không có sản phẩm thặng dư nào được sản xuất, nên không có khả năng tồn tại các giai cấp thống trị. Do phương thức sản xuất này không có sự phân chia giai cấp, nó được coi là xã hội không giai cấp. Các công cụ của thời kỳ đồ đá, các hoạt động săn bắn, hái lượm và nông nghiệp thời kỳ đầu là các lực lượng sản xuất chính của phương thức sản xuất này.
Phương thức sản xuất châu Á: Đây là đóng góp gây tranh cãi của học thuyết Marx, nguyên thủy được sử dụng để giải thích các công trình xây dựng bằng đào đắp đất lớn tiền slavơ và tiền phong kiến ở Trung Quốc, Ấn Độ, Ơ-phrát và lưu vực sông Nin (và nó được đặt tên trên cơ sở này của các chứng cứ nguyên thủy có được từ châu Á). Phương thức sản xuất châu Á được cho là hình thức sơ khai của xã hội có giai cấp, trong đó một nhóm nhỏ thu được các sản phẩm thặng dư xã hội bằng bạo lực nhắm vào các nhóm cộng đồng định cư hay không định cư trong lãnh thổ đó. Sự bóc lột lao động là khai thác lao động cưỡng bức không trả công trong thời kỳ nhàn rỗi mỗi năm (để xây dựng những công trình như kim tự tháp ở Ai Cập, đền thờ ở thung lũng Mesopotamia cổ đại và Ba Tư, nhà tắm công xã cổ ở Ấn Độ hay Vạn lý trường thành ở Trung Quốc). Ngoài ra việc bóc lột lao động cũng là việc bòn rút sản phẩm trực tiếp từ các cộng đồng bị bóc lột. Dạng sở hữu chính của phương thức này là chiếm hữu tôn giáo trực tiếp trong các cộng đồng (làng, xóm thôn, nhóm) đối với tất cả những gì tồn tại trong chúng. Tầng lớp cai trị của xã hội này nói chung là tầng lớp quý tộc bán thần quyền, tự cho mình là hiện thân của thần thánh trên trái đất. Các lực lượng sản xuất chính của xã hội này bao gồm các nông dân với các kỹ thuật canh tác nông nghiệp nền tảng, các công trình xây dựng lớn và các kho chứa khổng lồ của các sản phẩm dành cho phúc lợi xã hội.
Phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ: Nó tương tự như phương thức châu Á, nhưng khác biệt ở dạng sở hữu là sự chiếm hữu cá nhân trực tiếp những gì thuộc về loài người. Ngoài ra, tầng lớp thống trị thông thường tránh nói rằng họ là hiện thân của thánh thần mà thích nói rằng họ là hậu duệ của thánh thần, hay tìm kiếm các lý lẽ bào chữa khác để bảo vệ quyền cai trị của mình. Các xã hội Hy Lạp và La Mã cổ đại là các ví dụ điển hình của phương thức sản xuất này. Các lực lượng sản xuất của phương thức này bao gồm nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi), sử dụng tích cực gia súc trong nông nghiệp làm sức kéo, cũng như hệ thống thương mại bắt đầu phát triển.
Phương thức sản xuất phong kiến:
Phương thức sản xuất tư bản:
Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa:
Phương thức sản xuất cộng sản: |
Trang này liệt kê những sự kiện quan trọng vào tháng 7 năm 2005.
Thứ tư, ngày 6 tháng 7
Luân Đôn được chọn làm nơi tổ chức Thế vận hội mùa hè 2012.
Thứ năm, ngày 7 tháng 7
Luân Đôn bị tấn công: Lúc 8:50 sáng giờ Luân Đôn, bốn vụ nổ liên tiếp đã xảy ra trên các trục giao thông của thủ đô nước Anh. Ba vụ nổ trong số đó tấn công vào hệ thống xe điện ngầm. Số thiệt hại nhân mạng hiện lên đến 40, hàng trăm người bị thương, số thiệt hại có thể tăng cao hơn. Tổ chức tự nhận tên là Group of al-Qaeda of Jihad Organization in Europe (nhóm tổ chức al-Qaeda của Jihad tại châu Âu) đã lên tiếng nhận trách nhiệm trong vụ này. Thủ tướng Tony Blair đã phải cắt ngắn cuộc hội nghị G8 để trở về Luân Đôn. Một số nước đồng minh chống khủng bố, đặc biệt là Mỹ, Đan Mạch và Ý, đã ra lệnh cho các hệ thống phòng thủ tăng cường đề cao cảnh giác nhất là tại các tuyến đường xe điện. BBC VOA
Thứ bảy, ngày 9 tháng 7
Bão Dennis, cơn bão đầu tiên trong mùa bão Đại Tây Dương năm 2005, xuyên qua Cuba để vào vùng vịnh Hoa Kỳ.
Tổng thống Hamid Karzai của Afghanistan nói ở một cuộc họp báo là ông không tin là Osama bin Laden đang ở nước đó. Porter Goss, chủ tịch của CIA, đã nói trong phỏng vấn gần đây là ông có "ý niệm rõ ràng" về bin Laden ở chỗ nào. Boston Globe, CNN
Những người ở hội nghị G8 lần thứ 31 ở Gleneagles (Scotland) nhất định phân bổ tiền viện trợ tới 50.000 triệu Mỹ kim để chống nghèo đói ở Phi Châu, rồi 3.000 triệu Mỹ kim cho Palestine để xây dựng hạ tầng cơ sổ. Reuters ReutersAlert
Thứ hai, ngày 11 tháng 7
Chính phủ Indonesia xin những đài TV tắt chương trình từ 1 giờ sáng đến 5 giờ sáng hàng ngày trong sáu tháng cho để tiết kiệm điện, sau khi giá xăng tăng lên gần đây. Những chương trình bóng đá vào nửa đêm được miễn, do rất nhiều người coi nó. BBC
Người giữ quyền tổng thống Kyrgyzstan Kurmanbek Bakiyev đắc cử tổng thống với gần 90% số phiếu ủng hộ.
Ở Trung Quốc, vụ nổ mỏ đã giết 22 công nhân mỏ ở tỉnh Tân Cương. 35 đàn ông được cứu, nhưng khi hơn 30 người vẫn không kiếm được. Xinhua China Daily Reuters
Thứ tư, ngày 13 tháng 7
Việc phóng phi thuyền Discovery của NASA bị đình hoãn. Đây là lần đầu tiên một phi thuyền có người được phóng lên không gian sau khi phi thuyền Columbia bị nổ.
Thứ sáu, ngày 15 tháng 7
Sau nhiều cuộc bố ráp, cảnh sát Anh tuyên bố nghi ngờ của họ rằng cuộc nổ bom ngày 7 tháng 7 tại Luân Đôn là do 4 công dân Anh nổ bom cảm tử, ba người từ Leeds và một người từ Aylesbury. Một chuyên gia hoá chất cũng bị cầm giữ tại Ai Cập vì dính líu đến chuyện này.
Thứ bảy, ngày 16 tháng 7
Sách Harry Potter và hoàng tử lai được phát hành khắp nơi.
Ở Đài Loan (THDQ), kỳ bầu cử cho chủ tịch Quốc Dân Đảng năm 2005, lần bầu cử thẳng đầu tiên trong lịch sử đảng, thị trưởng Mã Anh Cửu (Ma Ying-jeou) của Đài Bắc thắng Chủ tịch Quốc hội Vương Kim Bình (Wang Jin-pyng), có đa số 72% đối với 28%. BBC
Chủ nhật, ngày 17 tháng 7
Phóng viên Matthew Cooper của tạp chí Time bảo ban hội thẩm là ông Karl Rove – một cố vấn chính trị cao cấp của Tổng thống George W. Bush của nước Mỹ – là người đầu tiên lộ ra Valerie Plame là đặc vụ CIA.
Sir Edward Heath KG, Thủ tướng Anh từ 1970 đến 1974, mất ở nhà ông tại Salisbury, thọ 89.
Chính phủ Indonesia và Phong trào Giải phóng Aceh (ASNLF) ký hòa ước để kết thúc xung đột 30 năm ở miền Aceh của đảo Sumatra.
Thứ hai, ngày 18 tháng 7
Cựu Đại tướng William Westmoreland, người chỉ huy quân đội Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam từ 1964 đến 1968, đã qua đời ở nhà ẩn dật tại Nam Carolina, thọ 91 tuổi. BBC Mạng Ý Kiến Người Việt Thanh Niên Tuổi Trẻ Việt Báo Vietmedia VnDaily VNExpress VTV VOV
Chính phủ Đài Loan bắt hàng trăm người phải trốn khi bão Hải Đường tới đó. Trận bão này đang trên đường đi tới huyện Okinawa (Nhật Bản).
Sau khi giết ít nhất bảy người và bắt hàng ngàn người phải trốn, bão Emily đã đi qua bán đảo Yucatán và sắp tới đất liền lần thứ hai vào bang Tamaulipas của México.
Thứ ba, ngày 19 tháng 7
Tổng thống George W. Bush của Hoa Kỳ tuyên bố ông sẽ đề cử John G. Roberts, Jr., thẩm phán Tòa Thượng thẩm Hoa Kỳ tại Đặc khu Columbia, vào Tối cao Pháp viện để thay cho bà Sandra Day O'Connor. BBC Việt Báo VNExpress VNN VOA
Thứ tư, ngày 20 tháng 7
Bão Emily đã tới đất liên lần thứ hai vào bang Tamaulipas của México, sau khi qua bán đảo Yucatán. Bão Emily đã giết bảy người và bắt hàng ngàn người phải trốn.
Thẩm phán đầu Beverly McLachlin của Canada ký dự luật C-38 thành luật pháp để công nhận hôn nhân đồng tính tại nước đó.
Thứ năm, ngày 21 tháng 7
Trung Quốc sẽ bỏ chính sách cho 11 năm qua để định giá trị của đơn vị tiền tệ đồng nhân dân tệ theo đồng đôla Mỹ, đó là bước đầu tiên để đổi thành giá hối đoái luân chuyển. BBC Người Việt Việt Báo
Loạt bom thứ hai nổ tại Luân Đôn (Anh), hai tuần sau vụ nổ bom ngày 7 tháng 7 cùng thành phố, nhưng mà lần này chỉ có một người bị thương. Người Việt VNN VOA
Thứ sáu, ngày 22 tháng 7
Cảnh sát ở Luân Đôn (Anh) bắn chết một người khả nghi là người khủng bố trong xe điện ngầm tại nhà ga Stockwell. BBC Calitoday Người Việt Việt Báo VNN VOA
Microsoft tuyên bố là hệ điều hành trước đây gọi là "Windows Longhorn" hiện nay chính thức gọi là "Windows Vista". Phiên bản beta đầu tiên sẽ được phát hành vào ngày 3 tháng 8.
Thứ bảy, ngày 23 tháng 7
Loạt bom nổ tại khu nghỉ mát Sharm el-Sheikh (Ai Cập), giết ít nhất 83 người. BBC Calitoday Người Việt Việt Báo VNN VOA VOV
Cảnh sát tại Anh thừa nhận là người bị cảnh sát bắn hôm qua không có liên quan đến những cuộc nổ bom tại Luân Đôn vào tháng này. Sở cảnh sát Scotland Yard gọi vụ bắn này là một "thảm kịch". BBC
Chủ nhật, ngày 24 tháng 7
Lance Armstrong thuộc Đội Xe Đạp Nhà Nghề Đài Discovery thắng Tour de France bảy lần liên tục và dự tính kết thúc sự nghiệp đua xe đạp. BBC RFA VOA
Cảnh sát trưởng Luân Đôn xin lỗi vì bắn chết ông Jean Charles de Menezes, thợ điện từ Ba Tây không có liên quan đến vụ nổ bom tại Luân Đôn vào thứ năm. Gia đình của ông Menezes còn ngờ lời xin lỗi này, nói là cảnh sát "bất tài". BBC VOA
Thứ ba, ngày 26 tháng 7
Tàu vũ trụ Discovery của NASA phóng lên thành công từ bộ phóng 39B ở Trung tâm Vũ trụ John F. Kennedy tại Florida (Mỹ). Chuyến vũ trụ này có người lái, lần đầu tiên sau vụ tàu Columbia rơi vào tháng 2 năm 2003. NASA đang nghiên cứu về một vài mảnh rớt khi tàu Discovery lên trời. BBC Calitoday VNN VOA VOA
Thứ năm, ngày 28 tháng 7
Quân đội Cộng hoà Lâm thời Ireland (IRA) tuyên bố kết thúc chiến dịch vũ trang tại Bắc Ireland (Anh) để tìm biện pháp chính trị để thống nhất Ireland. BBC VNN VOA
Phi vụ STS-114: NASA tạm thời ngưng chương trình tàu con thoi cho đến khi vấn đề tại thùng chứa nhiên liệu bên ngoài được giải quyết. BBC VOA
Thứ sáu, ngày 29 tháng 7
Ba vật thể mới trong vòng đai Kuiper được phát hiện, 2003 EL61, 2005 FY9, và 2003 UB313, vật thứ ba được tin rằng lớn hơn Diêm Vương Tinh.
Cả bốn nghi can đều bị bắt giữ trong việc dính líu đến vụ nổ bom ngày 21 tháng 7 tại Luân Đôn. BBC VNN
Một cuộc trưng cầu dân ý tại Uganda hồi phục hệ thống đa đảng sau khi các đảng phái bị cấm trong gần 20 năm qua.
Thứ bảy, ngày 30 tháng 7
Số người bị thiệt mạng do lũ lụt tại bang Maharashtra (Ấn Độ) qua 1.000.
Sự kiện tháng qua |
Kính lúp, hay kiếng lúp, (tiếng Pháp: loupe) là một thấu kính hội tụ thường được dùng để khuếch đại hình ảnh. Nó có đường kính từ vài cm đến khoảng vài chục cm, thường được bảo vệ bởi một khung, có thể có thêm tay cầm. Nó là dạng đơn giản nhất của kính hiển vi.
Chữ "lúp" có gốc từ chữ loupe trong tiếng Pháp, tên của loại kính này.
Kính lúp hoạt động nhờ tạo ra một ảnh ảo nằm đằng sau kính, cùng phía với vật thể cần phóng đại. Để thực hiện được điều này, kính phải đặt đủ gần vật thể, để khoảng cách giữa vật và kính nhỏ hơn tiêu cự của kính.
Một số kính có tấm bảo vệ gập lại được khi không dùng, tránh việc xây xước mặt kính. Một số kính được chế tạo giống như thấu kính Fresnel, để giảm độ dày xuống như một miếng thẻ, gọi là thẻ lúp.
Kính lúp thường phục vụ trong việc đọc chữ hay quan sát các vật thể nhỏ, và dùng trong một số thí nghiệm khoa học đơn giản ở các trường học. Nó cũng từng là biểu tượng cho các chuyên gia trinh thám, khi họ dùng kính lúp để quan sát dấu vết tội phạm.
Kính lúp sơ khai được phát hiện khi một người nông dân tìm được một hòn ngọc mà khi nhìn qua thì vật rõ hơn và có thể đốt cháy cỏ và vải.
Sau này kính lúp được các nhà chế tác đá quý khác thành hình cầu lồi và được sử dụng bởi quý tộc để đọc sách báo. Nhưng khi thuật thổi thủy tinh ra đời thì kính lúp được phổ biến rộng rãi và dùng để làm kính hiển vi, ống nhòm, kính thiên văn... |
Hệ keo, còn gọi là hệ phân tán keo, là một hệ thống có hai thể của vật chất, một dạng hỗn hợp ở giữa hỗn hợp đồng nhất và hỗn hợp không đồng nhất.
Trong một hệ phân tán keo, các giọt nhỏ hay hạt nhỏ của một chất, chất phân tán, được phân tán trong một chất khác, môi trường phân tán.
Trong một hệ keo cao phân tử, các chất cao phân tử được phân tán trong một trường đồng nhất (môi trường phân tán).
Rất nhiều chất quen thuộc bao gồm cả bơ, sữa, kem sữa, các aerosol (Ví dụ như sương mù, khói sương (tiếng Anh: Smog, kết hợp của từ smoke và fog), khói xe), nhựa đường, mực, sơn, bọt biển đều là hệ keo. Bộ môn nghiên cứu về hệ keo được nhà khoa học người Scotland Thomas Graham mở đầu vào năm 1861.
Các hạt phân tán trong một hệ keo có kích thước từ 0,001 đến 1 micrômét. Một số tài liệu khác định nghĩa là các hạt keo có kích thước không nhìn được bằng kính hiển vi quang học thông thường, tức là các hạt keo có kích thước lớn nhất vào khoảng 0,1 micrômét. Các hệ phân tán với kích thước hạt phân tán nằm trong khoảng này gọi là aerosol keo, nhũ tương keo, bọt keo, huyền phù keo hay hệ phân tán keo. Hệ keo có thể có màu hay mờ đục vì hiệu ứng Tyndall, là sự tán xạ ánh sáng bởi các chất phân tán trong hệ keo.
Phân loại
Thường các hệ keo được phân loại theo trạng thái vật lý của môi trường phân tán và của các hạt keo:
Ngoài ra còn có cách phân biệt các hệ keo theo đặc tính tương tác giữa chất phân tán và môi trường phân tán: kỵ nước hay ưa nước.
Kỵ nước: được đặc trưng bởi tương tác yếu giữa chất phân tán và môi trường phân tán, năng lượng bề mặt lớn. Đây là dạng hệ keo phổ biến.
Ưa nước: được đặc trưng bởi tương tác mạnh giữa chất phân tán và môi trường phân tán, làm giảm năng lượng bề mặt.
Tương tác giữa những hạt keo
Các hạt keo thường có kích thước lớn nên không bị tác động của hiệu ứng lượng tử. Mặc dầu vậy chúng đủ nhỏ để có thể bị tác động bởi các chuyển động nhiệt trong hệ keo.
Các lực sau đây đóng vai trò quan trọng trong tương tác giữa những hạt keo:
Lực đẩy hạt rắn: Thường các hạt keo là các chất rắn, vì thế hai hạt keo không thể ở gần nhau hơn là tổng số bán kính của chúng.
Tương tác tĩnh điện: Hạt keo có thể mang khả năng tích điện. Lực tương tác Coulomb tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa chúng. Mặc dầu vậy, nếu có hạt phân tán tích điện ngược với hạt keo, chúng sẽ tích tụ chung quanh hạt keo và chắn các lực tương tác này.
Lực Van der Waals: Nếu chỉ số khúc xạ của các hạt keo khác với chỉ số khúc xạ của môi trường phân tán chúng sẽ bị hút theo thế năng của lực van der Waals tỉ lệ với .
Lực entropy: Theo định luật thứ hai của nhiệt động lực học, một hệ thống có thể đi đến trạng thái có entropy cực đại. Điều này có thể dẫn đến các lực có hiệu quả ngay cả giữa những khối rắn.
Độ bền
Một hệ keo được gọi là hệ keo bền khi các hạt keo không lắng xuống đáy của môi trường phân tán và không kết dính lại với nhau. Ổn định không gian và ổn định tĩnh điện là hai phương pháp chính để ổn định một hệ keo. Ổn định tĩnh điện dựa trên lực đẩy tương tác giữa những phần tử có cùng điện tích. Các thể khác nhau thường có tính hấp thụ điện khác nhau, vì thế mà tạo thành hai lớp tích điện trên mọi bề mặt. Các hạt keo có kích thước nhỏ dẫn đến tỷ lệ bề mặt rất lớn (so với thể tích của hạt keo) nên hiệu ứng này được tăng cường rất nhiều trong các hệ keo. Trong một hệ keo bền, trọng lượng của chất phân tán rất nhỏ nên lực đẩy của chất lỏng hay động năng không đủ lớn để vượt qua được lực đẩy tĩnh điện giữa các lớp tích điện của môi trường phân tán. Hạt keo có tích điện có thể quan sát thấy bằng cách đưa hệ keo vào một điện trường: tất cả các hạt đều đi về cùng một điện cực và vì thế phải có cùng điện tích.
Sự phá vỡ một hệ keo gọi là đông tụ hay keo tụ, có thể thực hiện bằng cách đun nóng hay cho thêm chất điện phân. Đun nóng sẽ làm tăng vận tốc của các hạt keo, làm cho chúng có đủ năng lượng xuyên qua lớp cản và kết hợp lại với nhau. Vì được lặp lại nhiều lần, các hạt keo lớn đủ để lắng xuống. Chất điện phân được thêm vào sẽ trung hòa các lớp ion trên bề mặt các hạt keo.
Hệ keo như là mô hình cho nguyên tử
Trong vật lý hệ keo là một hệ mô hình thú vị cho các nguyên tử. Ví dụ như sự kết tinh và chuyển đổi trạng thái đều có thể quan sát được
Có thể tạo hình tương tác giữa những hạt keo. Vì thế mà có thể mô phỏng được năng lực nguyên tử (tiếng Anh: Atomic potential).
Hạt keo lớn hơn nguyên tử rất nhiều và vì thế có thể quan sát được bằng kính hiển vi.
Vì có kích thước lớn nên tốc độ khuếch tán của các hạt keo chậm hơn. Các quá trình như kết tinh, xảy ra khoảng vài picôgiây trong các hệ nguyên tử, đủ chậm để có thể được quan sát một cách chi tiết.
Hạt keo quá lớn để có thể bị ảnh hưởng bởi các hiệu ứng lượng tử một cách đáng kể, vì thế nên động lực học của chúng dễ hiểu hơn là của các nguyên tử.
Hệ keo trong sinh vật học
Đầu thế kỷ 20, trước khi enzim học phát triển, hệ keo được xem như là chìa khóa cho các tác dụng của enzim; Ví dụ cho thêm một lượng nhỏ enzim vào một lượng nước sẽ làm thay đổi tính chất của nước, phá hủy chất nền (tiếng Anh: Substrate) đặc trưng của enzim như dung dịch của ATPase phá hủy ATP. Chính sự sống cũng đã có thể được giải thích bằng các tính chất chung của tất cả các chất keo tạo thành một sinh vật. Tất nhiên là từ khi sinh vật học và sinh hóa học phát triển, lý thuyết hệ keo được thay thế bởi lý thuyết cao phân tử, xem enzim như là một tập hợp của nhiều phân tử lớn giống nhau, hoạt động như các bộ máy rất nhỏ, chuyển động tự do giữa những phân tử nước trong dung dịch và hoạt động riêng lẻ trên các chất nền, không bí hiểm hơn một nhà máy chứa đầy những cỗ máy. Tính chất của nước trong hệ keo không bị thay đổi, khác với những thay đổi thẩm thấu đơn giản mà nguyên nhân có thể là sự hiện diện của một chất được hòa tan trong nước.
Đọc thêm
Hóa keo |
Thiên Bình (hay còn gọi Thiên Xứng, Hán ngữ: 天秤/天稱, ♎, trong ngôn ngữ một số nước phương Tây và tiếng Latinh là Libra để chỉ cái cân đĩa) là một chòm sao trong hoàng đạo. Nó là một chòm sao khá mờ và không có ngôi sao nào có độ sáng cấp một, nằm giữa Xử Nữ về phía tây và Thiên Yết về phía đông. Như tên gọi của các sao sáng hơn cả, nó là một phần trong các vuốt của Bọ Cạp.
Các đặc trưng nổi bật
Các ngôi sao sáng nhất trong Thiên Bình tạo ra một hình tứ giác:
α Librae, Zubenelgenubi ("vuốt phía nam"), là sao đôi thấy được;
β Librae, Zubeneschamali ("vuốt phía bắc");
γ Librae, Zubenelakrab ("vuốt của bọ cạp");
σ Librae, là sao đôi biến thể.
α và β Librae là đòn cân, còn γ và σ là đĩa cân.
σ Librae trước đây được coi là γ Scorpii mặc dù nó nằm trong ranh giới của Thiên Bình. Nó đã không được đặt lại tên là σ Librae cho tới tận năm 1851 (bởi Benjamin A. Gould).
Huyền thoại
Chòm sao này nguyên thủy được coi là tạo thành một phần vuốt của con bọ cạp (Bọ Cạp), là cung chiêm tinh xuất hiện muộn nhất và là cung duy nhất không có đại diện tượng trưng là các thực thể sống. Trong thần thoại Hy Lạp sau này, chòm sao khi quan sát nó riêng rẽ thì lờ mờ giống như bộ cân đĩa và được miêu tả như là cái cân được giữ bởi nữ thần công lý Astraea.
Bởi vì Thiên Bình nguyên thủy là một phần của Xử Nữ (Virgo) (như là cái cân), và trước đó là của Thiên Hạt, nên nó đã không phải là một thực thể rõ rệt mà cung hoàng đạo đã được đặt tên theo. Vị trí của nó có thể bị chiếm bởi Mục Phu, là chòm sao gần nhất đối với hoàng đạo. Do vị trí của Mục Phu (Boötes) cần phải được giữ trên hoàng đạo là bị khuyết, nó có thể cùng với Đại Hùng, Thiên Long (Draco) và Tiểu Hùng, cũng trong Thiên Bình, dẫn tới huyền thoại về các quả táo của Hesperides, một trong Mười hai kỳ công của Hercules.
Các ngôi sao
Các sao có tên chính xác:
Zubenelgenubi [Zuben Elgenubi] hay Kiffa Australis [Elkhiffa australis] (8/α1 Lib, 9/α2 Lib) – sao đôi 5,15 và 2,75.
الزبن الجنوبي az-zuban al-janūbiyy Vuốt phía nam (của con bọ cạp)
? al-kiffah al-janūbiyy Đĩa cân phía nam (của cái cân)
Zubeneschamali [Zuben Eschamali, Zuben el Chamali, Zubenesch, Zubenelg] hay Kiffa Borealis (27/β Lib) 2,61.
الزبن الشمالي az-zuban aš-šamāliyy Vuốt phía bắc (của con bọ cạp)
? al-kiffah aš-šamāliyy Đĩa cân phía bắc (của cái cân).
Zuben Elakrab [Zuben (el) Hakrabi, Zuben Hakraki] (38/γ Lib) 3,91.
زبن العقرب zuban al-caqrab Vuốt của bọ cạp.
Zuben Elakribi hay Mulu-lizi (xem γ Lib) (19/δ Lib) 4,91.
Zuben Hakrabi [Zuban Alakrab] (xem γ Lib) (η Lib) 5,41.
21/ν Lib (hay Zuben Hakrabim, xem γ Lib) 5,19.
Brachium hay Cornu (hay Zuben el Genubi, xem α Lib; hay Zuben Hakrabi, xem γ Lib; hay Ankaa, xem α Phe) (2/σ Lib) 3,29 — sao đôi biến thể.
Các sao theo danh pháp Bayer:
ε Lib 4,92; ζ Lib 5,53; θ Lib 4,13; ι Lib 4,54; κ Lib 4,75; λ Lib 5,04; μ Lib 5,32; ξ1 Lib 5,78; ξ2 Lib 5,48; ο Lib 6,14; τ Lib 3,66; υ Lib 3,60
Các sao theo danh pháp Flamsteed:
2 Lib 6,22; 4 Lib 5,70; 5 Lib 6,33; 11 Lib 4,93; 12 Lib 5,27; 16 Lib 4,47; 17 Lib 6,61; 18 Lib 5,88; 22 Lib 6,41; 23 Lib 6,47 – has a planet; 25 Lib 6,07; 26 Lib 6,18; 28 Lib 6,16; 30 Lib 6,46; 32 Lib 5,64; 33 Lib 6,69; 34 Lib 5,82; 36 Lib 5,13; 37 Lib 4,61; 41 Lib 5,36; 42 Lib 4,97; 47 Lib 5,95; 48 Lib 4,95; 49 Lib 5,47; 50 Lib 5,53 |
Áo dài là trang phục được cách tân theo hướng Tây hóa từ Áo ngũ thân lập lĩnh. Chính vì thế, áo dài còn gọi là Áo tân thời (sau này còn được chiết eo). Chúa Nguyễn Phúc Khoát là người được xem là có công sáng chế chiếc áo ngũ thân - tiền thân của áo dài. Họa sĩ Le Mur Nguyễn Cát Tường là người có công định hình áo tân thời như ngày nay.
Đặc điểm của trang phục này là dáng áo bó, hai tà thẳng trước sau và hai bên. Các nhà thiết kế không áp dụng hoa văn truyền thống, phụ kiện trang sức truyền thống lên Áo dài.
Áo dài trông giống với trang phục Salvar kameez, Kurta của các nước Nam Á như Ấn Độ, Pakistan, v.v. Áo dài nữ được người Ấn gọi là "Kurti kiểu Việt" hoặc "Kurti dài kiểu Việt".
Cấu tạo áo dài
Cổ áo cổ điển cao khoảng 4 đến 5 cm. Ngày nay, kiểu cổ áo dài được biến tấu khá đa dạng như kiểu cổ trái tim, cổ tròn, cổ chữ U, trên cổ áo thường được đính ngọc.
Thân áo được tính từ cổ xuống phần eo. Cúc áo dài thường từ cổ chéo sang vai rồi kéo xuống ngang hông. Từ eo, thân áo dài được xẻ làm hai tà, vị trí xẻ tà ở hai bên hông.
Áo dài có hai tà: tà trước và tà sau. Ngày xưa tà trước bằng tà sau nhưng ngày nay đã có nhiều loại áo tà trước ngắn hơn tà sau. Trên tà áo trước thường được thêu những hoa văn hay những bài thơ.
Tay áo được tính từ vai, may ôm sát cánh tay, có kiểu tay lỡ hoặc dài đến qua khỏi cổ tay.
Chiếc áo dài được mặc với quần thay cho chiếc váy ngày xưa. Quần áo dài được may chấm gót chân, ống quần rộng. Áo dài khi xưa may bằng vải cứng cáp, nay thường được may với vải mềm, rũ. Màu sắc thông dụng nhất là màu trắng. Nhưng xu thế thời trang hiện nay thì chiếc quần áo dài có màu đi tông với màu của áo. Nhưng ngày nay còn được cách tân phối cùng chiếc chân váy dài tạo vẻ dịu dàng, thanh lịch.
Điểm yếu của áo dài tân thời là không dùng hoa văn cổ truyền, cách may hiện đại không sử dụng triết lý ngũ hành, không kết hợp được với các phụ kiện được sử dụng thời xưa như áo ngũ thân, nên không dùng để giao lưu văn hóa. Trong sinh hoạt thường nhật, áo dài tân thời khá bất tiện vì bó sát.
Lịch sử
Áo ngũ thân
Quan điểm thứ nhất: "Từ năm 1627-1634, Đào Duy Từ phò chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã khuyên chúa đổi tập tục cho khác hẳn dân Bắc, như bỏ nón thượng đội nón chóp, bỏ quần đen mặc quần nâu, đàn bà bỏ áo tứ thân mà mặc áo ngũ thân gài khuy, bỏ tóc bao mà búi tó, bỏ váy để mặc quần."
Quan điểm thứ hai: "Năm 1744, Áo ngũ thân được chúa Nguyễn Phúc Khoát tạo ra trong cuộc cải cách trang phục Đàng Trong có tham khảo sách Tam tài đồ hội,..."
Trước năm 1930, nữ vẫn mặc áo ngũ thân lập lĩnh truyền thống, xỏ hài và búi tóc khi học trường nữ sinh. Năm 2018, áo ngũ thân lập lĩnh đã được thế hệ trẻ phục dựng. Từ năm 2023, các dạng trang phục truyền thống (Việt phục) tiếp tục được khôi phục.
Áo dài tân thời
Áo dài Lemur (1934)
"Lemur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường, một họa sĩ tên Lemur Nguyễn Cát Tường vào thập niên ba mươi đã thực hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo ngũ thân để biến nó chỉ còn lại hai vạt trước và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ uyển chuyển trong bước đi đồng thời thân trên được may ôm sát theo những đường cong cơ thể người mặc tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn, điểm chia hai tà áo trước - sau cũng trễ dưới eo độ 8 cm. Điều khác biệt nhất là eo áo được nhấn nhẹ. Áo này khi mặc lên hơi sát vào bụng, nên trông như ngực nở ra. Đó là nét mỹ thuật Âu Tây đầu tiên được đưa vào y phục phụ nữ Việt mà cũng vì chuyện này từng gây phản ứng mạnh một thời trong dư luận. Tuy nhiên, áo dài Le Mur có nhiều biến cải mà nhiều người thời đó cho là "lai căng" thái quá, như áo may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Thêm nữa áo Le Mur mặc cho đúng mốt phải với quần xa tanh trắng, đi giày cao, một tay cắp ô và quàng vai thêm chiếc bóp đầm. Lối tân thời này tuy được nhiều người yêu thích nhưng cũng đã bị một số dư luận khi đó tẩy chay và cho là "đĩ thõa" (như được phản ảnh không hề thiện cảm trong tác phẩm "Số đỏ" của Vũ Trọng Phụng).
Theo sách Áo dài Lemur và bối cảnh Phong Hóa & Ngày Nay của tác giả Phạm Thảo Nguyên (do Khai Tâm và Nhà xuất bản Hồng Đức phát hành năm 2019 và tư liệu trong cuốn sách do Nguyễn Trọng Hiền, con trai họa sĩ Lemur Nguyễn Cát Tường sưu tầm và gìn giữ) thì trên báo Phong Hóa số 90 ra ngày 23 tháng 3 năm 1934, ông Cát Tường mạnh dạn đưa ra mẫu áo dài Lemur ("Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường) đầu tiên. Theo đó, khi phát hiện chiếc áo dài mà người phụ nữ mặc, ở trong lót áo yếm làm thân hình phẳng lì quá, họa sĩ tìm tới chủ hiệu Cự Chung chuyên sản xuất áo khoác, áo bơi ở phố Hàng Bông, đề nghị dệt thêm... áo ngực để nâng ngực cho người mặc. Đến năm 1935 thì cho xuất xưởng những chiếc áo đầu tiên. Do được nội hóa, giá cả vừa phải, hợp túi tiền người mua nên từ đó, phụ nữ Việt Nam có đầy đủ "phụ tùng", hết ngại mặc chiếc áo dài Lemur tân thời duyên dáng mà sắc đẹp lại được nổi bật, sang trọng khiến các bà, các cô hãnh diện bước ra đường, tạo ra một phong trào đổi mới y phục phụ nữ quy mô sâu rộng nhất ở Việt Nam.
Cũng trong năm 1935, họa sĩ Cát Tường đã thực hiện một chuyến đi xuyên Việt để giới thiệu cho phụ nữ toàn quốc chiếc áo dài tân thời Lemur. Tại Huế, ông may mắn gặp bà Công Tằng Tôn Nữ Trinh Diêu, người từng được nhiếp ảnh gia Võ An Ninh chụp nhiều ảnh nghệ thuật, và ông được nhà Nguyễn mời thực hiện riêng một tủ áo dài tân thời Lemur cho Hoàng hậu Nam Phương. Sau này ông còn tiếp tục đi vào Nam vẽ áo dài cho nhiều nghệ sĩ cải lương, trong đó có nghệ sĩ Phùng Há.
Họa sĩ Lê Phổ cũng không có cải tiến áo dài Lemur theo cách dung hòa giữa váy phương Tây với áo ngũ thân truyền thống như nhiều lời đồn. Khi tiệm Marie khánh thành (tiệm của Lê Nghi Sương là cháu của họa sĩ Lê Phổ), họa sĩ Cát Tường có giới thiệu một thợ may giỏi cho Lê Phổ. Trong cuốn đặc san ĐẸP Mùa Nực 1934 của Cát Tường, Lê Phổ có một trang vẽ nữ trang, chứ ông không hề thiết kế áo dài. Tới cuối tháng 10 năm 1937, Lê Phổ trả người thợ may giỏi lại cho hiệu may Lemur để đi Pháp lần thứ hai, sau khi chuyện tình duyên của ông với người bạn gái bị tan vỡ thì Lê Phổ không trở về nữa mà lấy vợ và ở lại hẳn nước Pháp vẽ tranh tới khi mất. Trên Báo Phong Hóa số 115 ngày 14 tháng 9 năm 1934 có đăng một quảng cáo: "May quần áo phụ nữ lối mới và lối cũ. Có họa sĩ Lê Phổ cho kiểu". (Cho kiểu không phải là vẽ kiểu mới, mà chỉ là chọn một kiểu trong số kiểu áo Lemur có sẵn cho mỗi khách hàng. Có thể chỉnh sửa chút ít cho hợp dáng người, cũng như chọn hàng hợp với màu da khách. Như bác sĩ "cho thuốc" là cho đơn, đi mua thuốc làm sẵn).
Đời sống mới (1945)
Năm 1947 trong bối cảnh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới tuyên bố độc lập và các phong trào "diệt giặc đói, giặc dốt" đang được phát động, nhằm phát động phong trào tiết kiệm.
Ngày 20 tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh với bút hiệu Tân Sinh, đã viết bài Đời sống mới: "Vận động dân bỏ thói quen mặc áo dài để thay bằng áo vắn vì mặc áo dài đi đứng, làm việc bất tiện, lượt thượt, luộm thuộm. Áo dài tốn vải, khoảng 2 cái áo dài may được 3 cái áo vắn, nếu chỉ mặc áo vắn có thể sẻn được 200 triệu đồng/năm. Áo dài không hợp với phụ nữ Việt Nam đời sống mới". Cuộc vận động này dần đã được người dân hưởng ứng và áo dài không còn là trang phục thông dụng của phụ nữ Việt Nam trong một thi gian ở miền bắc vĩ tuyến 17.
Áo dài Lê Phổ (1950)
Lúc này dáng áo dài vẫn giữ cách may nách truyền thống,cổ lập lĩnh,tay áo ôm sát,Áo 3 thân & hơi chit eo
Áo dài Trần Lệ Xuân (1958)
Cuối năm 1958 khi bà Trần Lệ Xuân còn tại vị Đệ Nhất Phu Nhân của nước Việt Nam Cộng Hòa, bà đã thiết kế ra kiểu áo dài cách tân mới bỏ đi phần cổ áo gọi là áo dài cổ thuyền, cổ hở, cổ khoét, dân gian gọi là áo dài Trần Lệ Xuân hay áo dài bà Nhu. Không chỉ lạ về mẫu áo, chiếc áo dài hở cổ còn được 'phá cách' với họa tiết trang trí trên áo: nhành trúc mọc ngược. Một số nhà phê bình phương tây cho rằng nó hợp lý với thời tiết nhiệt đới của miền nam Việt Nam. Nhưng kiểu áo này khiến những người theo cổ học lúc đó tức giận và lên án nó không hợp với thuần phong mỹ tục. Loại áo dài không có cổ này vẫn phổ biến đến ngày nay và phần cổ được khoét sâu cho tròn chứ không ngắn như bản gốc.
Áo dài với tay Raglan (1960)
Thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra kiểu may áo dài với cách ráp tay Raglan (giác lăng). Cách ráp này đã giải quyết được vấn đề khó khăn nhất khi may áo dài: những nếp nhăn thường xuất hiện hai bên nách. Cách ráp này cải biến ở chỗ hàng nút cài được bố trí chạy từ dưới cổ xéo xuống nách, rồi kế đó chạy dọc một bên hông. Với cách ráp tay Raglan làn vải được bo sít sao theo thân hình người mặc từ dưới nách đến lườn eo, khiến chiếc áo dài ôm khít từng đường cong của thân hình người phụ nữ, tạo thêm tính thẩm mỹ theo đánh giá của một số nhà thiết kế.
Lúc này áo vẫn giữ vị trí nút áo như áo 5 thân truyền thống nhưng cổ áo bị thay thế bằng cổ Tàu.
Áo dài mini raglan (1971)
Áo áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên bản gốc này, áo ngắn tay Raglan có tà chỉ ngắn tới bàn chân, nhưng hai ống quần ôm lòa xòa phủ kín đôi chân, quần dùng fecmotuy để cố định. Lúcúc này vị trí nút áo biến đổi, tay áo loe và có thêm túi.
Áo dài tân thời hiện đại (1980)
Áo chit eo mạnh, tà áo dài đến mắt cá chân. Đây là kiểu áo phổ thông đến hiện tại.
Áo dài ren, hở cổ, tay lỡ (2007)
Áo dài cưới có chất liệu, kiểu dáng gần với váy cưới soiree (quần đủ các màu, kim tuyến, thêu hiện đại, phéc-mơ-tuya sau lưng, tà áo sau dài xếp ly ra sau để phù dâu cầm). Thời kỳ này, người Việt Nam gần như đã quên hình ảnh truyền thống áo ngũ thân cổ đứng, vấn khăn (hoặc cài trâm), đội nón 3 tầm, chân xỏ hài (hoặc guốc cong).
Áo dài trong nghệ thuật
Thơ văn
Hình ảnh phụ nữ Việt Nam với chiếc áo dài đã được nhiều nhà nghệ sĩ ghi lại, nổi bật nhất là trong thơ và nhạc. Bài thơ nổi tiếng về chiếc áo dài có thể kể là "Áo lụa Hà Đông" của Nguyên Sa, bài này được phổ nhạc thành một bài hát nổi tiếng và là cảm hứng cho một bộ phim điện ảnh cùng tên, với những câu:
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông...
Nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc bài này cũng không quên làm nổi bật hình ảnh áo dài khi sửa thành:
Ôm nghiêng tập vở, tóc dài, tà áo vờn bay...
Áo dài cũng in đậm nét trong những vần thơ nghịch ngợm của Nguyễn Tất Nhiên:
Đài các chân ngà ai bước khẽ
Nguyện theo tà lụa cả phương Đông (Tháng giêng, chim)
đưa em về dưới mưa/ áo dài sầu hai vạt/ khi chấm bùn lưa thưa... (Em hiền như Ma-soeur)
Trong thơ Bùi Giáng, màu áo dài của ký ức được nâng lên thành huyền thoại:
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh
Và có lẽ trong những vần thơ rất dung dị sau đây của Huy Cận cũng có hình bóng của chiếc áo dài trắng nữ sinh:
Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong
Hôm xưa em đến mắt như lòng
Nở bừng ánh sáng em đi đến
Gót ngọc dồn hương bước tỏa hồng (Áo trắng).
Hay vô cùng gợi cảm trong bài thơ Chiếc áo dài Việt Nam của nhà thơ Đinh Vũ Ngọc ở Quảng Nam:
Chiếc áo quê hương dáng thướt tha
Non sông gấm vóc mở đôi tà
Tà bên Đông Hải lung linh sóng
Tà phía Trường Sơn rực rỡ hoa
Vạt rộng Nam phần chao cánh gió
Vòng eo Trung bộ thắt lưng ngà
Nhịp tim Hà Nội nhô gò ngực
Hương lúa ba miền thơm thịt da.
Âm nhạc
Chiếc áo dài cũng phảng phất hay xuất hiện nhiều trong các ca khúc Việt Nam. Trong nhạc Trịnh Công Sơn có thể nhìn thấy khá nhiều. Theo hồi ký, chính những bước chân hoàng cung của những nữ sinh áo tím Huế đã làm cho nhạc sĩ họ Trịnh viết nên bài "Diễm xưa" nổi tiếng. Hay trong bài "Hạ trắng", hình ảnh áo dài cũng chập chờn:
Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay... (Hạ trắng)
"Bé ca" của Phạm Duy viết cho con gái mới lớn, có bài "Tuổi ngọc" tả về niềm hân hoan của cô bé khi bước chân vào trung học, lần đầu khoác lên mình "một chiếc áo như mây hồng":
Xin cho em một chiếc áo dài, cho em đi mua xuân tới rồi
Mặc vào đời rồi ra, mừng lạy chào mẹ cha
Hàng lụa là thơm dáng tuổi thơ
Phạm Duy cũng không quên nhắc về chiếc áo này trong một giấc mơ hòa bình từ thập niên 1940:
Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời, áo dài đùa trong nắng cười... (Quê nghèo)
Bài "Một thoáng quê hương" của Từ Huy nổi tiếng một thời với câu:
Tà áo em... bay, bay, bay, bay... trong gió nhẹ nhàng...
Dù ở đâu, Paris, Luân Đôn hay ở những miền xa. Thoáng thấy áo dài bay trên đường phố, sẽ thấy tâm hồn quê hương ở đó... em ơi...
Nhạc sĩ Sỹ Luân cũng có bài "Áo dài ơi" vui tươi:
Có chiếc áo dài tung tăng trên đường phố
Những lúc buồn vui vu vơ nào đó
Ánh mắt hồn nhiên vô tư dễ thương á hà......
...Áo dài vui áo dài hát bao nắng xuân đang về khắp nơi
Áo dài nói áo dài cười mang hạnh phúc đến cho mọi người
Áo dài vui vui áo dài hát hát bao nắng xuân đang về khắp nơi
Áo dài nói nói áo dài cười cười mang hạnh phúc đến cho mọi người
Nhạc sĩ Huỳnh Nhật Tân với bài "Cô gái Việt Nam":
Em, cô gái kiêu sa trong tà áo dài Việt Nam
Em, duyên dáng thơ ngây trong vườn nắng đẹp bình minh
Em chân bước mượt mà, em tay trắng ngọc ngà, đẹp lộng lẫy thướt tha.
Em như đóa hoa xinh trong tà áo dài Việt Nam.
Em yêu quý quê hương, yêu tà áo dài Việt Nam...
Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng với ca khúc "Một đời áo mẹ áo em" kể lại lịch sử và sự gắn kết nhiều thế hệ của chiếc áo dài.
Nhạc sĩ Jo Marcel và ca khúc "Áo dài Việt Nam":
...Người Việt Nam trong chiếc áo dài
Người Việt Nam tha thướt bước về
Vẻ đẹp Việt Nam ngàn đời không phai
Cùng tha thướt bước trên đường của xứ khách
Cùng nắm tay nhau chia sẻ buồn vui
Cùng tiếp tay nhau duy trì nét đẹp
Vẻ đẹp của người Việt Nam
Gần đây, nhạc sĩ Nguyễn Đức Cường với ca khúc "Em trong mắt tôi":
Em đẹp không cần son phấn... xinh thật xinh... thật xinh... rất hiền...
Không quần jeans... giầy cao gót... em chọn riêng mình em áo dài... duyên dáng...
Giống như hoa kia bên thềm... ngát hương không khoe sắc màu... ngàn đóa hoa đang rực rỡ không sánh bằng...
Nhẹ nhàng tung bay tà áo dài... Em phụ nữ Việt...
Ánh lên bao rạng ngời người Phương Đông...
Các nhạc sĩ tiền chiến cũng hay ca ngợi áo dài như bài "Tà áo xanh" của Đoàn Chuẩn - Từ Linh. Và cảm xúc về chiếc áo dài cũng làm nên những câu hát nổi tiếng của Hoàng Trọng:
Ngàn thu mưa rơi trên áo em màu tím
Ngàn thu đau thương vương áo em màu tím
Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau
Tháng năm càng lướt mau
Biết bao giờ trông thấy nhau
(Ngàn thu áo tím)
Bài hát "Áo trắng đến trường" của nhạc sĩ Xuân Phương được phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của nhạc sĩ Trần Hoàng Vy:
Áo trắng em mặc đến trường
Đừng bao giờ để... ai thương lại gần
Áo trắng thì phải biết lo
Biết không cô nhỏ học trò sáng nay ?
Bài Hát "Cho tôi một vé đi tuổi thơ" có câu:
"Áo trắng ai bay khiến cho ai kia mơ màng"
Ca khúc Bốn màu áo nói việc cô gái mặc áo dài đi gặp người mình yêu của nhạc sĩ Anh Thy.
Hội họa
Bức tranh "Thiếu nữ bên hoa huệ" của họa sĩ Tô Ngọc Vân sáng tác năm 1943, là một trong những tác phẩm hội họa hiện đại Việt Nam đầu tiên và nổi tiếng bậc nhất, miêu tả một cô gái mặc áo dài trắng ngồi bên một bình hoa huệ.
Trình diễn thời trang
Đã có rất nhiều cuộc thi thiết kế và trình diễn áo dài được tổ chức tại Việt Nam cũng như ở nước ngoài.
Nhà thiết kế Minh Hạnh, người từng giữ vị trí cao nhất ở nhiều Tuần lễ thời trang Việt Nam hay các lễ hội lớn, là một trong những người đã gặt hái được nhiều thành công khi giới thiệu và quảng bá các bộ sưu tập áo dài do chính mình thiết kế tới Nhật Bản với bộ sưu tập được thiết kế trên nền vải lụa sống hai da, cổ và tay áo được xếp thành nhiều lớp áo như kimono. Gam màu chủ đạo là hồng phấn và hồng đào lấy cảm hứng từ màu hoa anh đào; tới Anh với 100 mẫu áo dài lấy ý tưởng từ các họa tiết trong trang phục của Hoàng gia Anh được kết hợp với các màu sắc trang phục dân tộc Việt; cùng nhà thiết kế Lan Hương tới Mỹ trong bộ sưu tập từ chất liệu jeans và hoa sen vừa kết hợp truyền thống và hiện đại, vừa thể hiện những giao hoa văn hóa Việt Mỹ. Bà cũng là người thiết kế bộ trang phục áo dài mới cho Vietnam Airline với những cách tân táo bạo gây nên những tranh luận đa chiều.
Đại nhạc hội Paris By Night 106 mang tên Silk Lụa, trực tiếp thu hình trong hai ngày 1 và 2 tháng 9 năm 2012 tại Planet Hollywood Resorts and Casino, Las Vegas trình diễn bộ sưu tập áo "Dáng Lụa" được thiết kế trên công nghệ in hiện đại của nhà thiết kế Thái Tuấn, Việt Nam.
Trong các cuộc thi nhan sắc tầm cỡ thế giới như Hoa hậu Thế giới, Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Trái đất, những người đẹp đại diện Việt Nam luôn đầu tư và chuẩn bị kỹ lưỡng cho phần thi trang phục dân tộc, và đã không hiếm lần tà áo dài đồng hành cùng chiến thắng với chủ nhân của trang phục. Bộ áo dài đen cách điệu với đuôi công kết cườm và kim sa đã giúp Mai Phương Thúy lọt top 20 thí sinh mặc trang phục dân tộc đẹp nhất cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2006. Bộ áo dài "vũ khúc hạc" của nhà thiết kế Thuận Việt với cách thiết kế hai lớp áo theo kiểu dáng áo của Nam Phương Hoàng Hậu giúp hoa hậu Thùy Lâm lọt top 10 người đẹp trình diễn trang phục truyền thống đẹp nhất tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2008. Bộ áo dài lấy cảm hứng từ rồng phương Đông, với các họa tiết thổ cẩm đặc trưng của dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam, được hoa hậu Lưu Thị Diễm Hương lựa chọn tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2012 cũng lọt Top 10 trang phục dân tộc đẹp nhất do trang web nổi tiếng về các cuộc thi sắc đẹp Missosology bình chọn. Đặc biệt bộ áo dài lấy ý tưởng từ bông sen với hai màu chủ đạo là đỏ và vàng, điểm xuyết đá pha lê đậm chất hoàng gia của á hậu Trương Thị May tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ năm 2013 được Missology bình chọn đứng đầu bảng xếp hạng những bộ quốc phục đẹp nhất; và trong chính cuộc thi, bộ áo dài này cũng đứng thứ 4 trong Top 10 trang phục dân tộc đẹp nhất.
Hình ảnh
Chú thích |
Léon Charles Albert Calmette (12 tháng 7 năm 1863 – 29 tháng 10 năm 1933) là một bác sĩ, một nhà vi khuẩn học, miễn dịch học người Pháp và là một thành viên quan trọng của viện Pasteur (tiếng Pháp: Institut Pasteur). Ông nổi tiếng nhờ công trình nghiên cứu vắc xin chống bệnh lao. Ông còn phát triển thành công kháng độc tố đầu tiên chống nọc độc của rắn. Khi trẻ, ông đã đến và làm việc ở nhiều nơi trên thế giới, cuối thế kỉ 19 ông làm việc tại Pháp đến cuối đời.
Các nghiên cứu
Calmette sinh ra ở Nice, Pháp. Ông mong muốn trở thành thầy thuốc phục vụ cho Hải quân, vì thế ông đã vào trường Y tế Hải quân ở Brest vào năm 1881. Năm 1883, ông bắt đầu phục vụ trong Vụ Y tế Hải quân tại Hồng Kông, nơi ông nghiên cứu bệnh sốt rét, đến năm 1886 ông nhận học vị tiến sĩ với đề tài này. Sau đó ông phục vụ ở Tây Phi, tại Gabon và Congo, tại đây ông tiếp tục các nghiên cứu về sốt rét, bệnh ngủ và bệnh pelagrơ.
Trong thời gian trở về Pháp năm 1890, Calmette đã gặp Louis Pasteur (1822-1895) và Emile Roux (1853-1933), là giáo sư dạy ông về khóa học trong vi khuẩn học. Ông đã trở thành hội viên và được Pasteur giao trách nhiệm xây dựng và chỉ đạo một chi nhánh của viện Pasteur tại Sài Gòn, Đông Dương vào năm 1891. Tại đây, ông đã cống hiến cuộc đời mình cho những ngành mới ra đời của độc tính học, mà chúng có mối tương quan quan trọng với miễn dịch học. Ông nghiên cứu nọc độc của rắn và ong, nhựa và các chất độc của thực vật. Ông cũng tổ chức sản xuất các vắc xin chống bệnh đậu mùa, bệnh dại và thực hiện nghiên cứu về bệnh tả, cũng như sự lên men của thuốc phiện và gạo.
Năm 1894, ông trở lại Pháp một lần nữa và phát triển kháng độc tố đầu tiên, chống các vết cắn của rắn độc bằng cách sử dụng huyết thanh miễn dịch lấy từ các con ngựa đã được tiêm chủng vắc xin (huyết thanh Calmette). Ông cũng tham gia vào việc phát triển huyết thanh miễn dịch đầu tiên chống dịch hạch, dựa trên phát hiện của Alexandre Yersin (1863-1943) về tác nhân gây nhiễm của nó là Yersinia pestis, sau đó ông đến Bồ Đào Nha để nghiên cứu để chống bệnh dịch ở Oporto.
Albert Calmette đi đến kết luận rằng, một động vật có thể miễn dịch đối với vết rắn cắn bằng cách tiêm cho động vật đó một liều lượng nọc cực nhỏ và sau đó tăng dần liều lượng. Động vật bị rắn độc cắn có thể cứu sống nếu được tiếp huyết thanh của sinh vật miễn dịch. Ngày nay, phát hiện này vẫn là cơ sở của quá trình sản xuất các loại thuốc chống nọc rắn.
Năm 1895, Roux giao cho ông làm giám đốc chi nhánh của viện Pasteur ở Lille, là nơi ông đã làm việc trong 25 năm tiếp theo. Năm 1909, ông đã giúp đỡ để thành lập chi nhánh của viện tại Algérie. Năm 1901, ông đã thành lập phòng khám chữa bệnh lao đầu tiên tại Lille, và đặt tên cho nó là Emile Roux. Năm 1904, ông thành lập Ligue du Nord contre la Tuberculose (Liên đoàn phòng chống bệnh lao miền bắc), là tổ chức tồn tại đến nay. Năm 1918, ông nhận vị trí trợ lý giám đốc của viện tại Paris.
Nghiên cứu về bệnh lao
Công trình nghiên cứu khoa học chính của Calmette, đã làm ông nổi tiếng trên thế giới và đã gắn liền tên tuổi của ông với lịch sử y học là công sức của ông trong việc phát triển vắc xin chống bệnh lao, đúng trong thời kì mà bệnh lao là một loại bệnh nan y, đã cướp đi nhiều mạng sống. Vào năm 1882, nhà vi sinh học người Đức Robert Koch đã phát hiện ra các khuẩn que u lao (Mycobacterium tuberculosis), là tác nhân gây bệnh lao và Louis Pasteur cũng nghiên cứu chúng. Năm 1906, nhà thú y và miễn dịch học Camille Guérin đã khẳng định rằng cơ chế miễn dịch chống lại bệnh lao gắn liền với số lượng khuẩn que u lao sống trong máu. Sử dụng cách tiếp cận của Pasteur, Calmette kiểm tra xem cơ chế miễn dịch đã phát triển như thế nào để phản ứng lại với khuẩn que lấy từ bò đã bị làm suy yếu, được tiêm vào các động vật khác. Cách điều chế này đã được đặt tên theo hai người phát hiện ra nó (Bacillum Calmette-Guérin, hay viết tắt là BCG). Sự làm suy yếu thu được nhờ việc nuôi cấy chúng trong chất môi trường chứa mật, dựa trên ý tưởng của nhà nghiên cứu người Na Uy Kristian Feyer Andvord (1855-1934). Từ năm 1908 đến năm 1921, Guérin và Calmette đã cố gắng sản xuất các mẫu dược phẩm ngày càng ít độc hơn của khuẩn que, bằng cách dịch chuyển chúng trong các môi trường nuôi dưỡng kế tiếp nhau. Cuối cùng, năm 1921, họ đã sử dụng BCG để chủng vắc xin thành công cho trẻ sơ sinh tại Charité ở Paris.
Tuy nhiên, chương trình chủng vắc xin đã gặp phải cản trở nghiêm trọng khi 72 trẻ em đã mắc bệnh lao vào năm 1930 tại Lübeck (Đức) sau khi được tiêm chủng lô vắc xin bị sản xuất sai tại Viện Pasteur. Việc chủng vắc xin đại trà cho trẻ em ở nhiều nước chỉ được khôi phục trở lại sau năm 1932, khi công nghệ sản xuất mới và an toàn hơn đã được hoàn thiện. Sự kiện này đã làm Calmette bị chấn động mạnh và ông mất một năm sau đó ở Paris.
Chuyện ngoài lề
Ông là em trai của Gaston Calmette (1858-1914), Giám đốc (chủ báo) của Le Figaro - là người đã bị bắn chết năm 1914 bởi Henriette Caillaux, người vợ có tiếng trong xã hội của bộ trưởng tài chính Pháp Joseph Caillaux. |
NNP là từ viết tắt trong tiếng Anh của Net National Product tức Tổng sản phẩm ròng quốc gia, là tổng giá trị thị trường của tất cả sản phẩm cuối cùng và các dịch vụ được sản xuất hay cung ứng bởi công dân của một quốc gia (GNP) trong một khoảng thời gian nào đó trừ đi khấu hao. Khấu hao được đo bằng giá trị của một phần GNP mà cần phải chi tiêu vào các sản phẩm vốn nhằm duy trì luồng vốn hiện tại.
NNP là giá trị ròng của sản phẩm trong một năm cụ thể nào đó mà có thể tiêu dùng không có khấu trừ đi phần giá trị mà có thể tiêu dùng trong tương lai. Việc để ra một phần của NNP vào đầu tư sẽ giúp cho việc tăng trưởng của luồng vốn và việc tiêu dùng được nhiều sản phẩm hơn trong tương lai.
Trần Vinh Hiển
Công thức tính
NNP = GNP - Khấu hao |
NNI là từ viết tắt trong tiếng Anh của Net National Income, tức Tổng thu nhập ròng quốc gia, là một thuật ngữ kinh tế được sử dụng trong thống kê thu nhập quốc dân. Nó có thể xác định như là Tổng sản phẩm ròng quốc gia (NNP) trừ đi các loại thuế gián tiếp.
Nó có thể biểu diễn như sau:
NNI = C + I + G + (NX) + thu nhập ròng từ nước ngoài - thuế gián tiếp - khấu hao
hay:
NNI = NNP - thuế gián tiếp
Trong đó:
C = Chi tiêu
I = Đầu tư
G = Chi tiêu của nhà nước
NX = Kim ngạch xuất khẩu ròng (Xuất khẩu- Nhập khẩu)
Thu nhập ròng từ nước ngoài: Là phần thu nhập của công dân nước đó khi đầu tư ở nước ngoài trừ đi phần thu nhập của công dân nước ngoài đầu tư tại nước đó.
Công thức này sử dụng phương pháp chi tiêu trong thống kê thu nhập quốc gia. |
Tội nhân trong tay Thiên Chúa đang thịnh nộ (Sinners in the Hands of an Angry God) là bài giảng nổi tiếng nhất trong số các bài giảng theo thể loại lửa và diêm sinh, nhấn mạnh đến sự đoán phạt dành cho những người khước từ ân điển của Thiên Chúa. Jonathan Edwards, một mục sư Thanh giáo, trình bày bài thuyết giáo này lần đầu vào năm 1741 tại Enfield, Connecticut. Theo thông lệ tại vùng Tân Anh cát lợi (New England) vào thế kỷ 18, bài giảng được in ra nhiều bản và được phân phối rộng rãi. Bài giảng là một thông điệp của nền thần học Calvin, nghiêm khắc và không thoả hiệp, được rao giảng lần đầu và suốt một thời gian dài trong khi xảy ra cuộc Đại Tỉnh thức.
Khi nghe giảng, nhiều người đã kinh hãi đến độ bật lên la khóc, cũng có các ghi nhận về những biểu hiện của trạng thái cảm xúc cao độ như co giật, kêu la và ngất xỉu.
Ngày nay, cung cách thuyết giảng này không còn thịnh hành trong vòng các nhà truyền bá phúc âm và các nhà thuyết giáo. Họ thường thích trình bày với thính giả của mình về tình yêu thương và sự tha thứ của Thiên Chúa thể hiện qua Chúa Giê-xu. Dù vậy, nhiều tín hữu thuộc các giáo phái khác nhau trong cộng đồng Kháng Cách, đang tổ chức các nhóm cầu nguyện liên hoàn, theo quan điểm của họ, khẩn nài Thiên Chúa sai một Jonathan Edwards khác đến để phục hưng hội thánh tại Hoa Kỳ.
Nội dung
Edwards cung cấp những hình ảnh sinh động miêu tả số phận của những người cương quyết khước từ ân điển của Thiên Chúa. Cảm xúc kinh hãi của cử tọa khi nhận thức được số phận của tội nhân trước Thiên Chúa công chính đang thịnh nộ lớn đến nỗi, theo tường thuật của Stephen Williams (một nhân chứng và là người ghi chép các sự kiện liên quan đến bài thuyết giáo), Edwards phải yêu cầu họ giữ yên lặng để ông có thể tiếp tục truyền đạt thông điệp của bài thuyết giáo. Khi thuyết giảng, Edwards phải cố kiềm giữ giọng nói nhẹ nhàng để tránh khích động người nghe đến trạng thái hoảng loạn. Đây là chủ đề Edwards thường xuyên đề cập trong các bài giảng của ông. Những gợi ý sống động về sự hiện hữu của hỏa ngục như là một phần trong sự thể hiện tình yêu của Thiên Chúa qua ân điển cứu chuộc của Chúa Giê-xu, là luận đề có thể dễ dàng tìm thấy trong các tuyển tập những bài thuyết giáo của Edwards. Edwards không có ý định chất thêm gánh nặng trên vai của tội nhân, ông chỉ muốn đánh thức họ khỏi tình trạng hiểm nghèo bằng cách trình bày cho họ thấy số phận thảm khốc của những người đang bị đặt dưới cơn thịnh nộ của Thiên Chúa thánh khiết, nếu họ không chịu quay trở lại. Mục đích của Edwards không phải là nói về hỏa ngục, nhưng về sự hư mất đời đời dành cho những người không chịu tiếp nhận ân điển, và ông nhấn mạnh hôm nay là kỳ thuận tiện để họ ăn năn và được cứu rỗi. Bởi vì, theo quan điểm này, Thiên Chúa yêu thương cũng là Thiên Chúa công chính và thánh khiết, ngài không thể dung chịu tội lỗi. "Nếu chúng ta căm ghét cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, ấy là vì chúng ta căm ghét chính Thiên Chúa. Có thể chúng ta sẽ mạnh mẽ phản bác luận cứ này, nhưng chính thái độ ấy khẳng định sự thù nghịch của chúng ta đối với Thiên Chúa." (Sproul, "God in the Hands ò Angry Sinners)
Ảnh hưởng
Tội nhân trong tay Thiên Chúa đang thịnh nộ là bài thyết giáo kiểu mẫu trong cuộc Đại Tỉnh thức, nhấn mạnh đến niềm xác tín được chấp nhận rộng rãi về sự hiện hữu của hỏa ngục. Edwards hi vọng rằng thông điệp và những phác họa của bài giảng sẽ đánh thức cử tọa đến một thực tế kinh hoàng đang chờ đợi họ, nếu họ tiếp tục khước từ ân điển. Điểm mấu chốt của bài giảng là Thiên Chúa ban cho con người cơ hội thay đổi nếp sống tội lỗi. Edwards nói rằng ấy chính là ý chỉ của Thiên Chúa đang cầm giữ những người gian ác khỏi vực thẳm hỏa ngục; hành động tự kiềm chế này của Thiên Chúa nghĩa là ngài đang chờ đợi con người từ bỏ nếp sống tội lỗi để quay về với Chúa Cơ Đốc.
Trích dẫn
{{cquote|...Không có sự an toàn nào cho kẻ gian ác dù chỉ trong giây phút. Không có sự an toàn nào cho con người tự nhiên, dù người ấy đang sống khỏe mạnh, dù mắt trần không thể thấy bằng cách nào mà người ấy có thể lìa bỏ thế gian trong chốc lát, cũng không thể tìm thấy bất kỳ hiểm nguy nào đang hiện hữu chung quanh. Kinh nghiệm đa dạng và miên viễn trải qua các thời đại chỉ ra rằng con người đang chênh vênh bên bờ vực của sự vĩnh cửu, chỉ cần sẩy một bước chân là rơi vào thế giới bên kia. Có vô số phương cách của tử thần, ẩn giấu rình rập chung quanh con người, đột ngột cướp lấy mạng sống của họ. Con người tự nhiên đang bước đi trên một lớp mỏng và mục nát che giấu hố sâu của hỏa ngục ở bên dưới, có nhiều chỗ quá mục nát không thể chống đỡ nổi sức nặng của thân thể họ, mà những chỗ ấy là không thể nhận ra. Những mũi tên của thần chết bay vun vút vô hình giữa ban trưa, con mắt tinh tường nhất cũng không thể thấy chúng. Thiên Chúa có vô số cách để cất mạng sống của họ và ném họ vào hỏa ngục. Không cần có dấu kỳ phép lạ, cũng không cần đến những hiện tượng bất thường để hủy diệt kẻ ác, bất kỳ lúc nào. Mọi phương tiện được dùng để kết thúc mạng sống kẻ ác đều có sẵn trong tay Chúa, phục tùng quyền bính và ý chỉ ngài...Hồ lửa diêm sinh bùng cháy đang rộng mở dưới chân bạn. Vực thẳm đang hừng hực lửa thịnh nộ của Thiên Chúa; địa ngục đang há miệng chực chờ; chẳng có gì có thể giữ bạn lại, giữa bạn và hỏa ngục chẳng có gì khác hơn là không khí. Chỉ có quyền năng và ý chỉ Thiên Chúa đang cầm giữ bạn trong tay Ngài...}}
Chú thích |
Lưu ý: Xin đến trang đăng nhập để đăng nhập mình vào Wikipedia tiếng Việt.
Đăng nhập (login) là một thủ tục khi bắt đầu tham gia vào một trang web nào đó có mục đăng ký thành viên. Người muốn đăng nhập phải theo trình tự hướng dẫn để nhập tên thường dùng ID và mật khẩu (password).
Muốn đăng nhập thì người dùng trước đó đã phải đăng ký làm thành viên với một trình tự thủ tục thường là chọn và ghi tên thường dùng (user name), chọn và ghi mật khẩu. Ngoài ra còn có thể phải điền (fill in) một số thông tin cá nhân khác như mã điện thoại của nước mình sinh sống, mã xác minh, địa chỉ thư điện tử...
Thủ tục trên giúp hệ thống máy tính phân biệt các người dùng khác nhau trước khi phục vụ hoặc từ chối các dịch vụ nhất định. Đối với web, thủ tục nói trên để đảm bảo sự nghiêm túc và an ninh cho trang web và dịch vụ của nó cũng như cho chính người dùng.
Quy trình
Đăng nhập thường được sử dụng để vào một trang, trang web hoặc ứng dụng cụ thể mà những người xâm phạm không thể nhìn thấy. Khi người dùng đã đăng nhập, mã thông báo đăng nhập có thể được sử dụng để theo dõi những hành động mà người dùng đã thực hiện khi kết nối với trang web. Đăng xuất có thể được thực hiện rõ ràng bởi người dùng thực hiện một số hành động, chẳng hạn như nhập lệnh thích hợp hoặc nhấp vào nhãn liên kết trang web như vậy. Nó cũng có thể được thực hiện hoàn toàn, chẳng hạn như bằng cách người dùng tắt nguồn máy trạm của họ, đóng cửa sổ trình duyệt web, rời khỏi trang web hoặc không làm mới trang web trong một khoảng thời gian xác định.
Trong trường hợp các trang web sử dụng cookie để theo dõi phiên, khi người dùng đăng xuất, cookie chỉ phiên từ trang web đó thường sẽ bị xóa khỏi máy tính của người dùng. Ngoài ra, máy chủ làm mất hiệu lực mọi liên kết với phiên, do đó làm cho bất kỳ trình xử lý phiên nào trong cửa hàng cookie của người dùng đều vô dụng. Tính năng này rất hữu ích nếu người dùng đang sử dụng máy tính công cộng hoặc máy tính đang sử dụng kết nối không dây công cộng. Để phòng ngừa bảo mật, người ta không nên dựa vào các phương tiện ngầm để đăng xuất khỏi hệ thống, đặc biệt là không sử dụng máy tính công cộng; thay vào đó, người ta nên đăng xuất một cách rõ ràng và chờ xác nhận rằng yêu cầu này đã diễn ra.
Đăng xuất khỏi máy tính, trước khi rời khỏi, là một thực tiễn bảo mật phổ biến ngăn người dùng trái phép giả mạo. Cũng có những người chọn cài đặt trình bảo vệ màn hình được bảo vệ bằng mật khẩu để kích hoạt sau một thời gian không hoạt động, do đó yêu cầu người dùng nhập lại thông tin đăng nhập của mình để mở khóa trình bảo vệ màn hình và truy cập vào hệ thống. Có thể có các phương pháp đăng nhập khác nhau có thể thông qua hình ảnh, dấu vân tay, quét mắt, mật khẩu (nhập bằng miệng hoặc bằng văn bản), v.v. |
Origami (tiếng Nhật: 折り紙, hay ) là một loại nghệ thuật gấp giấy có xuất xứ từ Nhật Bản. Chữ origami trong tiếng Nhật bắt nguồn từ hai chữ: ori là gấp hay xếp và kami là giấy. Origami chỉ được dùng từ 1880; trước đó, người Nhật dùng chữ orikata. Origami kết hợp những cách gấp đơn giản để biến miếng giấy hình chữ nhật (2 chiều), mà thường là hình vuông, thành những hình phức tạp (3 chiều), không cắt dán trong quá trình gập, đây cũng là xu hướng của origami hiện đại. Không giống như người ta thường nghĩ, các quy tắc origami truyền thống của Nhật Bản (bắt đầu từ khoảng triều Edo 1603-1867), lại ít nghiêm ngặt hơn origami hiện đại: giấy gấp có thể là hình tròn, tam giác, và có thể cắt dán trong quá trình gấp.
Lịch sử
Thuật xếp giấy đã có từ khoảng thế kỷ thứ 1 hay thứ 2 ở Trung Hoa. Sau đó, thuật xếp giấy này đã lan sang Nhật vào thế kỷ thứ 6 và dần dà trở thành một nghệ thuật độc đáo của xứ Hoa Anh Đào. Origami truyền thống Nhật Bản có thể là để phục vụ lễ nghi, như noshi (triều Muromachi 1392–1573).
Các mẫu origami
Mẫu origami có thể đơn giản như chiếc thuyền hay máy bay giấy chúng ta thường gặp, nhưng cũng có thể hết sức phức tạp như hình rồng, phượng, tháp Eiffel. Những mẫu origami phức tạp có thể dùng lá kim loại mỏng thay vì giấy thường để có thể giảm độ dày của mẫu gập. Origami hiện đại thay đổi rất nhiều, các mẫu thường được gấp khi ướt (gấp ướt) hoặc sử dụng vật liệu ngoài giấy và lá kim loại. Người Nhật xem origami như một phần văn hoá và truyền thống đất nước hơn là một hình thức nghệ thuật.
Một trong số những mẫu origami được biết tới nhiều nhất là hình con hạc. Con hạc là điềm tốt lành trong quan niệm của người Nhật. Truyền thuyết kể rằng ai gấp được 1000 con hạc giấy có thể biến điều ước thành thật. Sau câu chuyện về bé gái Nhật Sasaki Sadako năm 1955, hình ảnh hạc giấy cũng trở thành một biểu tượng của hoà bình.
Hướng dẫn căn bản
Hầu như mọi mẫu gập phức tạp nhất đều có thể quy về các bước đơn giản theo lý thuyết hình cây. Ví dụ bạn muốn gập một con mèo thì đầu, thân và đuôi là một đường thẳng tựa như thân cây, 4 chân tạo thành bốn nhánh như các cành. Ứng dụng các nguyên tắc trong hình học topo để tạo hình chiếu, tìm ra các góc giấy là chân, đầu...vv... Ngày nay có rất nhiều tài liệu hướng dẫn origami. Máy tính cũng góp phần không nhỏ trong việc sáng tác ra các mẫu mới.
Ngày nay vẫn còn một số lượng lớn người yêu thích origami, tuy nhiên để theo đuổi và học cách gấp, cách sáng tác những mẫu mới thì không phải ai cũng làm được, vì nó đòi hỏi người ta có lòng kiên nhẫn và sự cẩn thận trong từng bước gập. Hơn nữa số lần gấp lại tỉ lệ thuận với sự phức tạp của mẫu, một mẫu gấp đơn giản như hình con bướm cũng trải qua trên dưới 100 bước. Tại Việt Nam, cũng có các nhóm bạn yêu thích origami hoạt động online, offline, trao đổi thông tin và gửi các sáng tác mới.
Tác dụng với tâm lý
Origami là một nghệ thuật nhẹ nhàng tỉ mỉ. Nó đã chứng minh trong rất nhiều trường hợp có tác dụng làm êm dịu thần kinh, chữa bệnh mất ngủ và chống stress. Nhiều bác sĩ và chuyên gia vật lý trị liệu đã dùng origami như một liệu pháp bổ ích vật lý và tinh thần. Bác sĩ Ronald S. Levy, tại Hội Thảo Quốc tế lần thứ nhì về origami đối với giáo dục và trị liệu, đã kêu gọi dùng origami để phục hồi chức năng và trị liệu về tay.
Với nhiều người, Origami là thứ giải trí rất hữu hiệu, đặc biệt khi sáng tác một mẫu mới: tự do bay bổng, tự do tìm kiếm một thứ gì đó, mang màu sắc của riêng mình. Khi tự tay hoàn thành một mẫu khó, hay tự tay sáng tác một mẫu hay, thì cảm giác thật vui thích.
Origami với toán học
Việc tạo được mẫu origami mới liên quan đến rất nhiều quy tắc hình học. Không phải ngẫu nhiên mà các cao thủ origami sáng tác được những mẫu phức tạp. Các cao thủ origami có phương châm "bạn nhìn thấy gì, tôi tưởng tượng được; bạn tưởng tượng gì, tôi gấp được." Một số nơi trên thế giới đã có nơi đưa origami vào thành một môn học, khởi điểm là ở mẫu giáo. Việc gấp giấy đem lại cho trẻ nhiều nhận thức hình học, và cả hình học trừu tượng: nhận biết hình tam giác, hình vuông, hình lục giác, tia phân giác một góc, đoạn thẳng, các đường nét, hình không gian, các khối 3 chiều. |
Vô ngã (無我, sa. anātman, pi. anattā), là một trong Ba pháp ấn (sa. trilakṣaṇa) (Tam Pháp Ấn) của sự vật theo Phật giáo.
Vô ngã là pháp ấn chỉ có trong Phật giáo, cho rằng, không có một Ngã (sa. ātman, pi. attā), một cái gì trường tồn, bất biến, cốt tủy, vững chắc, tồn tại mà không phụ thuộc vào cái khác. Nghĩa là sự vật có mặt là do duyên sinh (tùy thuộc điều kiện) khởi phát, chứ sự vật không có quyền gì với sự sinh ra và sự hoại diệt của chính nó. Như thế, theo đạo Phật, cái ngã, cái "tôi" là không có mà chỉ là một tập hợp của Ngũ uẩn (sa. pañcaskandha), luôn luôn thay đổi, sinh diệt. Vô Ngã là một trong 3 pháp ấn. Hai pháp ấn còn lại là Khổ và Vô Thường. Cái gì có sinh thì phải có diệt là vô thường; cái gì vô thường thì là khổ; cái gì khổ mà nó biến đổi theo duyên sinh (không tùy thuộc vào ý muốn của nó) thì là vô ngã. Mọi pháp hữu vi (pháp có sinh thì có diệt) thì là Khổ, Vô Thường, Vô Ngã. Pháp Vô Vi (pháp không có sự tạo tác nên không có sự diệt) cũng là vô ngã. Pháp Vô Vi không có tính chất Vô thường và Khổ như pháp hữu vi.
Kinh văn
Kinh Vô ngã tướng (pi. anattālakkhaṇasutta, Saṃyutta Nikāya 22.59, bản dịch của Thích Minh Châu) bàn về vô ngã.
Thuyết Vô ngã trong Thượng Toạ bộ
Câu hỏi giáo lý vô ngã thật sự là gì và có đúng là giáo lý của đức Phật lịch sử hay không đã gây nhiều cuộc tranh luận dài dẳng trong giới Phật học. Thượng Toạ bộ (sa. sthaviravādin, pi. theravādin) và Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ diễn giảng những lời dạy của Phật bằng một cách mà, qua đó, họ quả quyết là không có một tự ngã nào, như chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy trong các tác phẩm của họ.
Từ attā (thân danh từ attan) trong tiếng Pali là một đại từ phản thân chính quy (regular reflexive pronoun), được dịch thành "nơi chính người ấy", "chính tôi" tuỳ trường hợp. Nếu attā là một thật danh từ (substantive) thì cũng không phải lúc nào dịch là "ngã" cũng đúng, mà thỉnh thoảng chính xác hơn nếu ta sử dụng từ "bản chất", hay "nội tại [của người ấy]". Để diễn tả một "cá nhân" thì Thượng Toạ bộ dùng chữ Pali puggala (bổ-đặc-già-la 補特伽羅, sa. pudgala), trong ngôn ngữ hằng ngày ta cũng có thể hiểu đây là chủ thể của các hoạt động tâm lý cũng như thân thể. Hai chữ khác thường gặp là satta (chúng sinh, sa. sattva) hoặc từ ghép nāmarūpa (danh sắc), trong trường hợp này đặc biệt chỉ một "cá nhân được hợp thành".
Thượng Toạ bộ cũng tìm cách tiếp cận vấn đề vô ngã, nhưng lại không hoàn toàn sa lạc vào phương pháp thuần lý luận như Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ. Họ cũng không tìm cách giải quyết những gì đức Phật lịch sử để lại không giải thích. Tuy nhiên, họ vẫn muốn kiến lập một toà nhà tư tưởng tiền hậu nhất trí, tổng hợp và giải thích những vấn đề triết học và thuộc về những vấn đề triết học này – điều dĩ nhiên – là vô ngã, một vấn đề par excellence được ghi lại trong nhiều bộ kinh. A-tì-đạt-ma bảy phần của Thượng Toạ bộ được hình thành trên chính cơ sở này.
Sự tái sinh không có một tự ngã được đức Phật giải thích qua thuyết Duyên khởi với mười hai nhân duyên hệ thuộc. Các vị Cao tăng Thượng Toạ bộ phát triển từ cơ sở này một thế giới quan mang tính chất năng động tương quan. Tất cả những gì hiện hữu, kể cả con người, đều là một tiến trình được hình thành bởi những tính chất đặc thù, được gọi là Pháp (hoặc đạt-ma, pi. dhamma, sa. dharma), H.W. Schumann tóm tắt như sau (Buddhismus, tr. 118.):
Các pháp được kiến tạo bởi những pháp khác, kết hợp với những pháp hiện hành để trở thành những kết hợp khác hình thành thế giới hiện hữu, để rồi sau đó huỷ hoại, trở thành nhân duyên cho những pháp khác, nhường chỗ cho những pháp khác xuất hiện. Chúng không phải là những đặc tính của một thật chất, mà phối hợp không cần một chủ thể để trở thành những hiện tượng "con người" và "thế giới". Các pháp tương tự như một giai điệu âm nhạc. Không một âm nào có thể tồn tại lâu hơn một phần giây, một khoảnh khắc người ta có thể nghe được nó, nhưng chính qua đó mà những đơn âm này có thể tiếp nối nhau để tạo thành một giai điệu. Hiện thật chỉ nằm trong thế giới hiện tượng được tạo bởi chư pháp. Không có sự tồn tại, chỉ có sự lưu chuyển.
Người ta phân biệt hai tiến trình của chư pháp, bên trong và bên ngoài. Tiến trình bên trong giải thích những hiện tượng xảy ra nội tâm, sự thăng trầm của tâm thức chúng ta và sự biến chuyển liên tục của các mối tư duy. Vì Phật định nghĩa "thế giới" chính là những gì được phản ánh trong tâm thức cho nên tiến trình bên trong này của Thượng Toạ bộ cũng giải thích hiện tượng "thế giới chủ quan". Tuỳ theo sự xuất hiện của chư pháp và sự kết hợp của chư pháp trong tâm thức mà hình tượng của thế giới bên ngoài biến chuyển.
Tiến trình bên ngoài tạo cơ sở lý thuyết cho sự tái sinh không một chủ thể. Một tiến trình được khởi động bằng nghiệp và hình thành một "cá nhân" nhất định tuỳ theo chất lượng của chính nghiệp này. Mặc dù các biểu thị như "khổ", "nghiệp" và "giải thoát" được quy về một chủ thể, nhưng theo Thượng Toạ bộ thì chủ thể này chỉ là một cái gì đó mang tính chất kinh nghiệm, một khối tổng hợp tạm thời của chư pháp, không có một thật thể nào.
Đại luận sư Phật Âm (pi. buddhaghosa) viết như sau trong bộ luận Thanh tịnh đạo (Bản dịch của Nyānatiloka, Der Weg zur Reinheit, tr. 597, 719-720):
Chỉ có khổ, nhưng chẳng có người chịu khổ,
Có nghiệp, nhưng chẳng có người tạo nghiệp
Có giải thoát, nhưng không có người đạt giải thoát
Đường đi thì có, nhưng chẳng thấy người đi (Vism 16, 19II S. 513)
✧✧✧
Không tìm được người tạo nghiệp
Chẳng có chúng sinh chịu nghiệp quả
Chỉ có những vật trống không
Ai nhận thức được như vậy là người có trí. (Vism 19, 20II S. 602)
Thượng Toạ bộ liệt kê 82 pháp khác nhau và quan trọng ở đây là sự phân loại chư pháp thành hữu vi (pi. saṅkhata) và vô vi (pi. asaṅkhata). Các pháp hữu vi chính là những nhân tố hình thành cuộc sống, thế giới và khổ ách. Pháp vô vi duy nhất là Niết-bàn. Như đặc tính "vô vi" cho thấy, pháp này không được tạo bởi nghiệp lực mà tồn tại thường hằng.
Như vậy thì theo Thượng Toạ bộ, thế giới chung quy được hình thành bởi chư pháp. Chỉ chư pháp mới là hiện thật. Thượng Toạ bộ nhấn mạnh vai trò của ngôn ngữ trong thế giới chúng ta. Tỉ-khâu Na-tiên nói với vua Di-lan-đà: "Xe" chỉ là một biểu thị, một cách gọi, một tên được sử dụng khi các yếu tố quy tụ, và trường hợp "cá nhân" cũng tương tự như vậy (Frauwallner: Geschichte der Buddhistischen Philosophie, tr. 69-70).
Nhưng qua đó thì một vấn đề khác lại xuất hiện: Sự thừa nhận chư pháp mang một thật thể, một ngã. Tuy nhiên, giữa lập trường chấp pháp ngã này và chấp ngã của Bà-la-môn giáo có một điểm tương phản rất lớn, được Volker Zotz ghi lại rất chính xác (Die Geschichte der buddhistischen Philosophie, S. 73.):
"Việc phản bác một thật thể chủ quan dẫn đến trường hợp thừa nhận hiện thật của các pháp khách quan. Để chứng minh 'con người' không có một ngã, một bổ-đặc-già-la thì chư pháp lại mang những đặc tính của một ngã. Nhưng, vì đây không phải là một nguyên tắc mà chỉ là một mạng lưới nhân duyên sinh khởi, cho nên, không một pháp nào trở thành cái tuyệt đối, như trường hợp Ātman trong Ấn Độ giáo."
Bổ-đặc-già-la của Độc Tử bộ
Độc Tử bộ được khai sáng bởi một cao tăng tên Độc Tử (sa. vātsīputra) thuộc nhánh Trưởng lão bộ. Trước khi hoà nhập tăng-già, vị này theo giáo lý Bà-la-môn. Tài liệu của trường phái này đã bị huỷ gần hết, chỉ còn bốn tác phẩm đã được dịch sang Hán văn trong Đại Chính Tân tu Đại Tạng kinh. Ngoài ra, người ta có thể tìm thấy lập trường của Độc Tử bộ trong các bộ luận của các trường phái khác.
Đối nghịch quan điểm của các trường phái Phật giáo khác, Độc Tử bộ thừa nhận một bổ-đặc-già-la (पुद्गल, pudgala), một "cá nhân" và cá nhân này là chủ thể của sự tồn tại, sự chuyển biến và sự tịch diệt.
Ba đặc tướng của bổ-đặc-già-la
Theo Tam-di-để bộ luận thì ba đặc tướng xác định một bổ-đặc-già-la như sau:
1. Bổ-đặc-già-la được xác định qua cơ sở (sa. āśrayaprajñaptapudgala).
問曰。云何依說
答如佛所說。語跋婆耶言。是是行所依說。是
是其名安
是名依說如火譬。如佛語舍利弗。有人名象
白淨可愛。四大所成是名我。如是一切亦如
乳譬。如是依修多羅等所說。是名依說
Hỏi: Thế nào là "được xác định qua cơ sở?" Đáp: Tương tự như Phật thuyết. Ngài nói với Bạt-bà-da (跋婆耶, sa. pāpaka): "Trên cơ sở của các hành (行, ở đây chỉ những pháp hữu vi chung chung, không phải là hành trong nhóm ngũ uẩn) này các hành nọ mà người ta gọi là 'được xác định qua cơ sở'. Cá nhân được xác định qua cơ sở giống như lửa vậy". Và Phật bảo Xá-lợi-phất (舍利弗, sa. śāriputra) như sau: "Có một người tên Tượng, thanh tịnh khả ái, được hình thành bởi tứ đại và được gọi là một 'ngã'. Và tất cả những trường hợp khác đều như vậy. Hãy lấy ví dụ của sữa." Kinh văn đều thuyết giải như thế, và đó chính là "được xác định qua cơ sở".
Cơ sở đây chính là ngũ uẩn. Bổ-đặc-già-la này hơn là sự tổng hợp của ngũ uẩn và là nhân tố chính phối hợp đời sống của một cá nhân. Nói cách khác: Bổ-đặc-già-la chính là nhân vật nắm giữ một thân thể, gìn giữ nó một khoảng thời gian nhất định để rồi tiếp nhận một thân thể khác sau khi chết. Bổ-đặc-già-la tương tự một người mang nhiều quần áo khác nhau. Mối tương quan đặc thù giữa ngũ uẩn và bổ-đặc-già-la được gọi là tương tục thống nhất thể của một cá nhân và tương tục thống nhất thể này là một cái gì đó độc lập không hệ thuộc. Nếu có một tương tục thống nhất thể thì phải có người chủ của sự tương tục này. Bổ-đặc-già-la chính là người sống một thời gian, là người vui mừng hoặc âu lo về nghiệp quả của mình. Bổ-đặc-già-la là cơ sở của trí nhớ, của tâm thức v.v...
2. Bổ-đặc-già-la được xác định qua sự chuyển đổi (sa. saṃkramaprajñaptapudgala).
問曰。云何度說人
答曰。以是時度異有是時。佛說度眾生。云何
度說眾生。過去說未來說現在說
。。。。
。。。佛依三世行制三說。如是
應知
以是行度說是名度說
Hỏi: Thế nào là "một người được xác định qua sự chuyển đổi (độ 度, sa. saṃkrama)?" Đáp: Vào thời điểm bước từ cuộc sống này sang một cách hiện hữu khác thì Phật gọi là một chúng sinh trên cơ sở chuyển đổi. Vì sao nói đến "một chúng sinh được xác định qua sự chuyển đổi?" Vì sự xác định của quá khứ, vị lai và hiện tại.
Nên biết rằng, Phật nương vào chư hành trong tam thế mà lập ba xác định. Đó là cách xác định chư hành qua sự chuyển đổi và cách xác định [bổ-đặc-già-la] qua sự chuyển đổi.
Bổ-đặc-già-la được xác định qua sự chuyển đổi là một cách gọi tương ưng với ba chi phần khác: Quá khứ, vị lai và hiện tại. Sự kiện này chứng minh việc tương tục thống nhất thể không những lưu chuyển trong hiện tại, mà có nguồn gốc từ dĩ vãng và sẽ tiếp tục lưu chuyển trong tương lai. Hơn nữa, đây cũng là cách giải thích của Độc Tử bộ về "người tiếp nhận quả báo", mối tương quan giữa người tạo nghiệp và người thụ nhận.
3. Bổ-đặc-già-la được xác định qua sự diệt độ (sa. nirodhaprajñaptapudgala).
云何滅說。答逐依說人度說人
佛說滅說人。如過去身壞時。是名滅說。
如是
如佛所說。漏盡比丘五陰無常滅。是名滅說。
如佛說偈言
智者莫能測得至無動樂
是名滅說。
Hỏi: Thế nào là "được xác định qua sự diệt độ (滅, sa. nirodha)?" Đáp: Sau khi nói về sự xác định qua cơ sở và sự xác định qua chuyển đổi, Phật nói về một cá nhân được xác định bởi sự diệt độ. Vì thân thể quá khứ bị huỷ diệt nên gọi là được xác định bởi sự diệt độ. Phật nói: "Nơi Tỉ-khâu đã tận diệt được các lậu hoặc (漏, sa. āsrava) thì ngũ ấm vô thường huỷ diệt". Phật nói trong một kệ-đà: "Chiều sâu của một trí giả khó mà lường được, vì ông ta đã đến nơi an lạc bất động". Đó là cách xác định [một bổ-đặc-già-la] qua sự diệt độ.
Mục đích ở đây là đề cao sự kiện Phật hoặc một A-la-hán, sau khi đạt vô dư y Niết-bàn là hiện thân của một người đạt giải thoát, lưu trú trong an lạc.
Theo Độc Tử bộ thì có năm nhân tố có thể nhận thức được (sa. jñeya) mà trong đó, ba nhân tố đầu là ba loại pháp hữu vi, là các pháp ta có thể tìm thấy trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Nhân tố thứ tư là một pháp vô vi, là Niết-bàn. Nhân tố thứ năm là cái "bất khả thuyết" (sa. avaktavya), chính là bổ-đặc-già-la, chẳng thuộc vào pháp vô vi, mà cũng chẳng thuộc vào pháp hữu vi.
Bổ-đặc-già-la không khác nhưng cũng không giống ngũ uẩn. Bổ-đặc-già-la không thể là ngũ uẩn, vì nếu như vậy, y phải xuất hiện và huỷ diệt cùng với ngũ uẩn. Bổ-đặc-già-la cũng không khác ngũ uẩn, bởi vì nếu khác, y có thể tồn tại bên ngoài ngũ uẩn, và trường tồn, không mang một đặc tính nào, giống như hư không, không có khả năng hoạt động.
Ngoài ra, Độc Tử bộ còn đề xướng 15 thuyết mà trong đó, hai điểm rất quan trọng quy về thuyết vô ngã: 1. Có một thật thể bất hoại và 2. Chỉ có một cái tuyệt đối, là Niết-bàn.
Giáo lý của Độc Tử bộ có thể xem là phản ứng trực tiếp đối đầu thuyết đạt-ma của Thượng Toạ bộ, đặc biệt là các học giả chuyên theo A-tì-đạt-ma. Độc Tử bộ tìm cách giải quyết vấn đề Phật lưu lại hiển nhiên khi nói đến thuyết vô ngã: Một mặt nói về sự tái sinh và giải thoát của một chúng sinh có vẻ như chúng sinh này tồn tại một cách cụ thể và mặt khác nói đến thuyết nhân duyên sinh và vô ngã mà vì thế, chúng sinh ấy không thể tồn tại. Độc Tử bộ biện luận rằng, nếu có tái sinh và giải thoát thì tất nhiên có một chủ thể tái sinh và đạt giải thoát.
Song song với vấn đề phải suy nghĩ như "làm mà không có người làm" cũng có một vấn đề thực tế khác: Tại sao một người nào đó phải trau dồi kiến thức, tuân thủ giới luật và thực hành thiền định nếu không phải chính ông ta thâu nhận những kết quả ấy? Đối với Độc Tử bộ thì luật nhân quả chỉ có ý nghĩa khi có một chủ thể tiếp nhận quả báo của chính mình làm, tốt cũng như xấu. |
O-nigiri (お握り hay là 御握り; おにぎり), còn gọi là o-musubi (お結び; おむすび), nigirimeshi (握り飯; にぎりめし) là cơm nắm của người Nhật. Nó thường có hình tam giác hoặc bầu dục và được phủ (hoặc gói) bằng rong biển (nori). Theo truyền thống, onigiri có chứa umeboshi (mơ muối), shake (cá hồi muối), katsuobushi hay các thành phần được muối hay chua khác. Onigiri vừa có tính cơ động, vừa tiện lợi trong việc bảo quản cơm.
Lịch sử
Các tài liệu viết vào khoảng những năm 1600 cho thấy nhiều samurai giữ cơm nắm bọc trong lá tre để dùng cho bữa trưa ăn nhanh vào lúc chiến tranh, nhưng nguồn gốc của onigiri có từ lâu trước đó. Trước khi việc dùng đũa phổ biến vào thời kì Nara, cơm được nắm thành nắm nhỏ để dễ cầm. Vào thời kì Heian, cơm cũng được nắn thành hình tứ giác nhỏ để dễ xếp chồng lên nhau trên đĩa và dễ ăn.
Từ thời kì Kamakura đến đầu thời kì Edo, onigiri được dùng trong bữa ăn nhanh. Điều này có ý nghĩa vì đầu bếp chỉ cần nghĩ làm thế nào để làm đủ onigiri mà không cần lưu tâm đến việc phục vụ. Onigiri lúc bấy giờ chỉ là nắm cơm có rắc muối. Việc thêm nori vào onigiri chỉ trở nên rộng rãi kể từ thời kì Meiji khi nori được trồng và làm thành tấm mỏng phổ biến.
Trước đây người ta cho rằng onigiri không thể được sản xuất với máy móc vì kĩ thuật nắn thành nắm quá khó để máy móc có thể thực hiện được. Vào những năm 1980, máy làm onigiri hình tam giác được chế tạo. Lúc đầu nó đã phải đương đầu với những người hoài nghi nhờ vào việc thay vì cuộn phủ thứ được thêm vào, thứ thêm vào này chỉ cần được đặt vào lỗ trong onigiri và lỗ này được nori che phủ. Thêm vào đó, onigiri làm bằng máy này luôn được bọc sẵn nori, và sau một thời gian nori trở nên ẩm và dính. Lối bao bọc đã được cách tân bằng cách cho phép nori được bọc riêng biệt với cơm. Vào lúc dùng, người ăn có thể mở gói nori và bọc lên onigiri. Việc thành phần thêm vào onigiri được lắp vào thay vì được cuộn bọc, vốn là một hạn chế, nhưng lại làm cho việc thay đổi thành phần được dễ dàng.
Tính sẵn có
Ở Nhật Bản hầu hết các cửa hàng tiện dụng (convenience store) đều có bán onigiri với nhiều loại thành phần. Các cửa hàng chuyên biệt, gọi là Onigiri-ya, cung cấp cơm nắm làm bằng tay.
Ngày nay, do ẩm thực phương Tây du nhập vào Nhật Bản nên người Nhật có món cơm nắm kiểu sandwich có tên Onigirirazu (おにぎらず). Ở Hàn Quốc, onigiri được gọi là samgak kimbap (삼각김밥).
Hình ảnh |
Cây đa (tên khác: cây đa đa, dây hải sơn, cây dong, cây da) có danh pháp hai phần (theo Bailey năm 1976) là Ficus bengalensis, một loài cây thuộc họ Dâu tằm (Moraceae), nó có thể phát triển thành loài cây khổng lồ mà tán của nó che phủ đến một vài nghìn mét vuông. Tại Việt Nam, một số người nhầm nó với cây sanh là cây cùng chi nhưng có tên khoa học khác hẳn (xem dưới đây).
Giống như nhiều loài cây thuộc chi Ficus khác như si (Ficus stricta), sanh (Ficus benjamina), vả (Ficus auriculata), quả vả hoặc vô hoa quả (Ficus carica), đa lông (Ficus drupacea), gừa (Ficus microcarpa), trâu cổ (Ficus pumila), sung (Ficus racemosa), bồ đề hay đề (Ficus religiosa) v.v. Đa có phương thức sinh trưởng không bình thường. Chúng là loài cây lớn mà thông thường bắt đầu sự sống như là loại cây biểu sinh trồng từ hạt trên các loại cây khác (hoặc trên các công trình kiến trúc như nhà cửa, cầu cống) do các loài chim ăn quả phân tán hạt. Cây trồng từ hạt nhanh chóng phát triển các rễ khí từ các cành cây, và các rễ khí này sẽ phát triển thành thân cây thực thụ khi chúng chạm tới mặt đất. Cây chủ cuối cùng sẽ bị bóp nghẹt hay bị phân chia ra bởi sự phát triển nhanh của cây đa.
Đặc trưng này cho phép một cây lan tỏa trên một diện tích rộng. Cây đa lớn nhất còn sống tại Pune (Ấn Độ) có đường kính tán tới 800 m xung quanh thân chính của nó.
Sinh học và sinh thái học
Nuôi trồng: Cây đa được trồng nhiều ở vùng nhiệt đới (Bailey và Bailey 1976). Cây đa là loài cây lớn nhất thế giới tính theo bề rộng thân và cành cây (Riffle 1998) với một số cây đa cổ thụ có thể che phủ một diện tích tới vài nghìn mét vuông. Loài cây này có quả màu huyết dụ và các rễ khí mọc từ các cành cây đâm xuống đất.
Phổ biến: Cây đa có thể sinh sôi phát triển ở những vùng mà loài sinh vật thụ phấn cho nó là loài ong bắp cày (Eupristina masoni) (theo Nadel 1991) có mặt. Cây đa cũng có thể phát triển nhờ các kỹ thuật sinh sản vô tính như chiết hay giâm cành. Nó có thể bắt đầu cuộc sống biểu sinh trên các loại cây khác.
Phân tán: Loài cây này có thể phân tán nhờ một số loài chim ăn quả như sáo nâu (Acridotheres tristis), một số loài bồ câu như bồ câu vằn (Geopelia striata) hay chim cu gáy (Streptopelia chinensis) và chim sẻ (Passer domesticus).
Phân bổ
Nguồn gốc: Theo Neal (1965) thì cây đa có nguồn gốc từ Ấn Độ, nó sinh sống được với cao độ tới khoảng 600 m (khoảng 2.000 ft), đặc biệt trong những khu vực khô ráo. Theo Riffle (1998)thì cây đa có nguồn gốc trong một khu vực rộng lớn của châu Á, từ Ấn Độ tới Myanmar, Thái Lan, Đông Nam Á, nam Trung Quốc và Malaysia.
Phân bổ toàn cầu: Cây đa được trồng rộng khắp khu vực nhiệt đới và mọc hoang tại phần lớn các khu vực nhiệt đới ẩm ướt trên Trái Đất (Riffle 1998).
Tại Mỹ, nó có mặt tại Miami (Florida), Hawaii. Cây đa đầu tiên tại Mỹ đã được Edison trồng tại Fort Myers (Florida).
Tại Úc, nó được tìm thấy mọc hoang ở khu vực đông bắc và trung tâm Queensland (Chew 1989, PIER 2000). PIER (2000) còn thông báo là nó được trồng ở Samoa, quần đảo Bắc Mariana, Guam, Fiji, Polynesia và Kiribati.
Cây đa tại Việt Nam
Tại Việt Nam, cây đa được tìm thấy tại nhiều đình, chùa và khu vực làng quê. Hầu như làng quê truyền thống ở Bắc Bộ nào cũng có những cây đa cổ thụ trong làng và bên cạnh các di tích. Ý nghĩa biểu tượng đầu tiên của cây đa là sự trường tồn, sức sống dẻo dai. Cây đa còn là biểu tượng thần quyền và tâm linh của con người. Trong làng, cây đa có mặt ở nhiều nơi khác nhau nhưng hầu như nó không vắng bóng ở các di tích, đặc biệt là đình chùa. Dưới gốc đa người Việt thời xưa hay dựng miếu thờ và lại có lệ khi bình vôi không dùng được nữa, thay vì vất bỏ thì đem treo ở cây đa.
Nó còn gắn liền với hình ảnh của làng quê Việt Nam qua những hình tượng như "cây đa, giếng nước, sân đình" hay "cây đa, bến nước, con đò", qua điệu dân ca lý cây đa. Nó cũng xuất hiện trong sự tích Thằng Cuội trên Cung Quảng Hàm.
Ở Hải Phòng, có một cây đa nhiều gốc (13 gốc), tên gọi của nó trở thành một địa danh: Cây đa 13 gốc, ở tại xóm Trại, xã Đằng Giang, quận Ngô Quyền. Cây đa 13 gốc là một cảnh quan đẹp, thu hút nhiều khách tới tham quan. Ngày rằm, mùng 1 hằng tháng, đặc biệt là đêm giao thừa, người ta tới thắp hương, cầu may đông như trảy hội.
Cây đa trong tục ngữ
Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa
Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề
Hình ảnh |
Trần Đăng Khoa (sinh ngày 26 tháng 4 năm 1958), quê làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, là một nhà thơ, nhà báo, biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam. Ông nguyên là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, Giám đốc Hệ Phát thanh có hình VOVTV của Đài tiếng nói Việt Nam, Phó Bí thư thường trực Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam. Hiện nay, ông giữ chức Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Phó Chủ tịch Liên hiệp VHNT Hà Nội. Ông cũng là Trưởng Ban Chung khảo, Hội đồng Giám khảo Quốc gia của cuộc thi Viết thư quốc tế UPU tại Việt Nam từ năm 2016 đến nay, thay cho Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (Nguyễn Trí Huân).
Tiểu sử
Từ nhỏ, ông đã được nhiều người cho là thần đồng thơ văn. Lên 8 tuổi, ông đã có thơ được đăng báo. Năm 1968, khi mới 10 tuổi, tập thơ đầu tiên của ông: Từ góc sân nhà em (tập thơ tiếp theo là Góc sân và khoảng trời) được nhà xuất bản Kim Đồng xuất bản. Có lẽ tác ph người biết đến nhất của ông là bài thơ "Hạt gạo làng ta", sáng tác năm 1968, được thi sĩ Xuân Diệu hiệu đính, sau được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc (1971).
Ông cũng được biết đến nhiều với câu chuyện khi mới hơn 10 tuổi đã đề nghị đổi câu thơ "Đường ta đi rộng thênh thang tám thước" thành "Đường ta rộng thênh thang ta bước" trong bài thơ Ta đi tới của nhà thơ nổi tiếng thời bấy giờ là Tố Hữu.
Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngày 26 tháng 2 năm 1975 khi đang học lớp 10 trường phổ thông cấp 3 Nam Sách, quân số tại Tiểu đoàn 691 Trung đoàn 2 Quân tăng cường Hải Hưng. Sau khi thống nhất, việc bổ sung quân cho chiến trường không còn cần thiết nữa, ông được bổ sung về Quân chủng Hải quân, ông cũng từng chiến đấu ở Chiến trường Tây Nam Việt Nam giai đoạn 1978-1979. Sau đó ông theo học Trường Viết văn Nguyễn Du và được cử sang học tại Viện Văn học Thế giới M. Gorki thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nga. Khi trở về nước ông làm biên tập viên Tạp chí Văn nghệ quân đội. Từ tháng 6 năm 2004, khi đã mang quân hàm thượng tá Quân đội nhân dân Việt Nam, ông chuyển sang công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam, giữ chức Phó Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, sau đó là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam. Năm 2008, khi Đài tiếng nói Việt Nam thành lập Hệ phát thanh có hình VOVTV (tiền thân của Kênh truyền hình VOV và nay là Kênh truyền hình Văn hóa - Du lịch Vietnam Jouney), ông được phân công làm Giám đốc đầu tiên của hệ này. Đến khoảng giữa năm 2011, chức vụ này được chuyển giao cho ông Vũ Hải – Phó Tổng Giám đốc của Đài kiêm nhiệm để ông chuyển sang làm Phó Bí thư thường trực Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam VOV. Hiện nay ông là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khóa IX.
Tác phẩm
Trần Đăng Khoa không có nhiều tác phẩm, và danh hiệu "thần đồng thơ trẻ" của nhà thơ thời thơ ấu không hề liên quan hay được nối tiếp đến quãng đời về sau khi nhà thơ tham gia nhập ngũ, theo học ở Nga, khi về nước làm biên tập viên, làm báo. Thi hứng một thời không là động lực cho cảm xúc khi tác giả đã cao tuổi. Những tác phẩm nổi bật của Trần Đăng Khoa :
Từ góc sân nhà em, 1968.
Góc sân và khoảng trời, tập thơ, 1968, 107 bài thơ, tái bản khoảng 30 lần, được dịch và xuất bản tại nhiều nước trên toàn thế giới.
Đi đánh thần Hạn, trường ca 4 chương, 1970.
Thơ Trần Đăng Khoa (tập 1), tuyển tập thơ, 1970.
Trường ca Trừng phạt, trường ca, 1973.
Khúc hát người anh hùng, trường ca, 1974.
Trường ca Giông bão, trường ca, 1983.
Thơ Trần Đăng Khoa (tập 2), tuyển tập thơ, 1983.
Bên cửa sổ máy bay, tập thơ, 1986, 26 bài thơ.
Chân dung và đối thoại, tiểu luận phê bình, Hà Nội: Nhà xuất bản Thanh niên, 1998, tái bản nhiều lần. Tác giả cho biết ban đầu đã dự kiến phát hành tập II của tác phẩm này, nhưng hiện đã gộp bản thảo vào phần I để tái bản.
Bài "Thơ tình người lính biển" đã được Hoàng Hiệp phổ nhạc.
Đảo chìm, tập truyện - ký, 2000, đến đầu năm 2009 đã tái bản 25 lần.
Hầu chuyện Thượng đế, đàm thoại văn học, 2015, gồm 80 bài.
Đảo chìm Trường Sa, tuyển tập thơ văn, 2016.
Giải thưởng
Ông ba lần được tặng giải thưởng thơ của báo Thiếu niên Tiền phong (các năm 1968, 1969, 1971), Giải nhất báo Văn nghệ (1982) và Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (năm 2001).
Gia đình
Trần Đăng Khoa có một anh trai là nhà thơ, nhà báo Trần Nhuận Minh – tác giả các tập thơ "Nhà thơ và Hoa cỏ", "Bản xô nát hoang dã", "45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh"..., từng là Chủ tịch Hội văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh. Một chị gái là Trần Thị Bình, hiện sống ở quê cùng với thân mẫu của nhà thơ. Ông còn có một người em gái tên là Trần Thị Thuý Giang, hiện làm giáo viên tại thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.
Nhận xét
Về việc Trịnh Xuân Thanh trở về Việt Nam
Viết trên trang trực tuyến của đài ông (hiện là người duy nhất trong Đảng phát biểu): "Tôi rất ngạc nhiên khi một số người Việt, trong đó có cả trí thức lại tỏ ra ngờ vực việc đầu thú của Trịnh Xuân Thanh, rồi có những việc làm mà người phát ngôn Bộ Ngoại giao ta đã phải lên tiếng và "rất lấy làm tiếc." |
Voọc Cát Bà (còn gọi là voọc đầu vàng, voọc thân đen đầu vàng Cát Bà) (tên khoa học: Trachypithecus poliocephalus và 1 phân loài poliocephalus) là động vật có vú thuộc bộ linh trưởng, phân bộ Haplorrhini, siêu họ Cercopithecoidea, họ Cercopithecidae, phân họ Colobinae, chi Trachypithecus, nhóm francoisi, là họ hàng gần với voọc đầu trắng ở Trung Quốc.
Phân biệt
Có hai phân loài của voọc đầu trắng là poliocephalus và leucocephalus. Phân loài đầu tiên có lông trên đầu màu trắng vàng, là voọc Cát Bà, phân loài sau là voọc có lông đầu màu trắng thuần túy, sinh sống ở Trung Quốc. Voọc Cát Bà là loài linh trưởng rất quý hiếm chỉ có trong các cánh rừng nhiệt đới ẩm ướt của đảo Cát Bà, Hải Phòng với diện tích sinh sống nhỏ hơn 100 km² và có tên trong danh sách 25 loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất thế giới và có lẽ là dạng linh trưởng hiếm nhất ở châu Á.
Lý do
Một số tài liệu vẫn gọi là voọc đầu trắng vì trước đây người ta chỉ biết loài voọc đầu trắng nói chung là Trachypithecus poliocephalus, sau này khi phát hiện ra voọc Cát Bà là phân loài của loài này, có đặc điểm và đặc tính không hoàn toàn giống với voọc đầu trắng Trung Quốc thì mới tách ra làm hai phân loài là poliocephalus và leucocephalus. Voọc đầu trắng cũng là loài đang gặp nguy hiểm, nhưng mức độ thấp hơn của voọc Cát Bà. Giống như mọi thành viên của nhóm loài Trachypithecus francoisi, phân loài này có tập tính sinh sống tập thể, kiếm ăn ban ngày trong các khu rừng đá vôi.
Sinh sản trong bảo tồn
Ngày 2 tháng 6 năm 2003, tại Trung tâm cứu hộ linh trưởng thuộc Vườn Quốc gia Cúc Phương, lần đầu tiên trên thế giới một con voọc Cát Bà đã sinh được một voọc con khỏe mạnh. Cặp voọc bố mẹ được lực lượng kiểm lâm Cát Bà cứu thoát từ tay thợ săn năm 1998 và 2000 sau đó đưa về nuôi dưỡng tại Trung tâm cứu hộ linh trưởng. Hiện nay, số lượng loài này trong tự nhiên chỉ còn từ 50 đến 60 cá thể (nguồn IUCN) và chúng đang phải đối mặt với việc mất môi trường sinh sống từ các mối đe doạ lớn nhất là: nạn săn bắt trộm, việc phá rừng làm đất trồng trọt và sự phát triển du lịch ồ ạt tại đảo Cát Bà.
Chú thích |
Đa đa trong tiếng Việt có thể là:
Chim đa đa (tên gọi khác: chim bắt tép kho cà, gà gô), thuộc bộ Gà (Galliformes), họ Trĩ (Phasianidae) chi: Francolinus tên khoa học: Francolinus pintadeanus. Loài này có ở Việt Nam.
Lưu ý là từ gà gô là danh từ chung chỉ nhiều chi hoặc loài chim khác nhau có hình dáng bề ngoài giống gà, sống định cư, kiếm ăn riêng lẻ hoặc từng đôi, thích sống trong các bụi cây và đồi cỏ tranh, làm ổ đẻ trứng dưới đất. Riêng chi Francolinus nghĩa rộng (sensu lato) hiện biết 41 loài khác nhau. Ngoài ra, các chi khác như chi Tetrao: gà gô lia (Tetrao tetrix), gà gô đen (Tetrao urogallus), chi Lagopus: gà gô trắng Alpes (Lagopus mutus), chi Alectoris: gà gô đá (Alectoris graeca) v.v. Thức ăn chủ yếu của chúng là thực vật và hạt. Trừ Francolinus pintadeanus thì toàn bộ các chi, loài này không có ở Việt Nam.
Tên gọi khác của cây cần thăng (Feroniella lucida).
Đa-đa: cách gọi cho thầy dạy môn Yoga (còn cô giáo thì được gọi là Đi-đi)
Trào lưu Đa đa
Tên gọi khác của một loại thực vật là cây đa, tên khoa học: Ficus bengalensis. |
Gà rừng (tên khoa học Gallus) là một chi gồm 4 loài chim thuộc họ Trĩ (Phasianidae) tồn tại ở Ấn Độ, Sri Lanka và khu vực Đông Nam Á.
Chúng là các loài chim lớn, với con trống có bộ lông sáng và tươi màu, nhưng nói chung khó phát hiện trong các khu vực rừng rậm rạp, nơi chúng sinh sống.
Giống như nhiều loài chim khác trong họ Trĩ, con trống không tham gia vào việc ấp trứng hay nuôi nấng các con non có thể sống độc lập ngay từ khi mới sinh ra. Các công việc này do con mái có bộ lông nâu xám và dễ ngụy trang đảm nhận.
Gà rừng là chim ăn hạt, nhưng chúng cũng ăn cả sâu bọ khi có thể, đặc biệt là ở các con non.
Một loài trong chi này, gà rừng lông đỏ, có tầm quan trọng lịch sử đối với con người, như là tổ tiên có thể nhất của gà nhà, mặc dù một số tác giả cho rằng gà rừng lông xám cũng có thể là tổ tiên của gà nhà.
Các loài
Gà rừng lông đỏ, Gallus gallus
Gà rừng Sri Lanka, Gallus lafayetii
Gà rừng lông xám, Gallus sonneratii
Gà rừng lông xanh, Gallus varius
Trong quá khứ, chi Gallus được tìm thấy trên khắp đại lục Á-Âu; trên thực tế chúng dường như cũng có mặt tại đông nam châu Âu. Một vài loài hóa thạch đã được miêu tả, nhưng các khác biệt của chúng không phải là chắc chắn trong mọi trường hợp:
Gallus aesculapii † (Hậu Miocen/Tiền Pliocen ở Hy Lạp) - có thể thuộc chi Pavo
Gallus moldovicus † (Hậu Pliocen ở Moldavia) - đôi khi viết thành moldavicus, có thể là đồng nghĩa của Pavo bravardi
Gallus beremendensis † (Hậu Pliocen/Tiền Pleistocen ở châu Âu)
Gà rừng lớn Gallus karabachensis † (Tiền Pleistocen ở Nagorno-Karabakh)
Gallus tamanensis † (Tiền Pleistocen? ở bán đảo Taman)
Gallus kudarensis † (Tiền/Trung Pleistocen ở Kudaro, Nam Ossetia)
Gallus europaeus † (Trung Pleistocen ở Italia)
Gallus sp. † (Trung/Hậu Pleistocen ở hang Trinka, Moldavia)
Gallus imereticus † (Hậu Pleistocen ở Gvardjilas-Klde, Imeretia)
Gallus meschtscheriensis † (Hậu Pleistocen ở Soungir, Nga)
Gallus georgicus † (Hậu Pleistocen - Tiền Holocen ở Gruzia)
Gallus sp. † (Hậu Pleistocen ở hang Krivtcha, Ukraina)
Gallus sp. † (Tiền Holocen ở khu vực Dnepr, Ukraina)
Chú thích |
Ngụy Bảo La hay Paul Wei (魏保羅, 1877–1919), là một thương gia tại Hà Bắc, Trung Quốc; trước kia ông là một thành viên của Hội truyền giáo Luân Đôn (London Missionary Society) nhưng sau khi nghiên cứu giáo hội Cơ đốc Phục lâm An Thất Nhật (Seventh Day Adventist) ông trở thành một tín đồ của giáo hội này.
Sau khi ông bị bệnh trầm trọng không có thuốc chữa, nhưng sau khi có một trưởng lão từ Tín tâm hội (Apostolic Faith Mission) đặt tay lên mình ông, ông được chữa khỏi và, do đó, trở thành một tín đồ của giáo hội này. Dưới sự chỉ đạo của mục sư Fendelson người Mỹ, ông đã được rửa chân và rất cảm động trong lễ này.
Một hôm ông đang cầu nguyện tại một nhà thờ ở Bắc Kinh, ông được báp têm của Thánh Linh và bắt đầu nói linh ngôn. Năm 1917 ông đến một sông lớn và quỳ xuống cầu nguyện và cảm thấy linh hồn được rửa tội. Sau khi tuyệt thực 39 ngày, ông khởi đầu Chân Giê-xu Giáo hội (真耶穌教會).
Sau khi truyền đạo được hai năm, ông qua đời năm 1919 và được chôn tại quê nhà. |
Thảm sát Katyn là một cuộc xử bắn hàng loạt những tù binh Ba Lan do Bộ Dân ủy Nội vụ (NKVD), cảnh sát mật Liên Xô thực hiện vào tháng 4 và tháng 5 năm 1940, khởi đầu từ đề xuất của L. P. Beriya đề nghị xử bắn tất cả các sĩ quan Ba Lan vào ngày 5 tháng 3 năm 1940. Tài liệu chính thức này đã được Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô, gồm cả lãnh đạo I. V. Stalin ký và đóng dấu. Số tù binh bị xử bắn được ước tính khoảng 22.000 người, với con số thấp hơn là 21.768 người.
Các tù binh bị xử bắn tại rừng Katyn, các trại tù Kalinin, Kharkiv và những nơi khác. Trong tổng số người bị xử bắn, khoảng 8.000 là các sĩ quan Ba Lan bị bắt làm tù binh trong cuộc tấn công Ba Lan của Liên Xô năm 1939, 6.000 người khác là các sĩ quan cảnh sát, số còn lại là những người thuộc giới trí thức Ba Lan bị bắt giữ vì bị kết tội là các thành phần "gián điệp, sen đầm, địa chủ, những kẻ phá hoại, chủ nhà máy, luật sư, viên chức và thầy tu".
Chính phủ Đức Quốc xã đã thông báo việc phát hiện những ngôi mộ tập thể ở rừng Katyn năm 1943. Khi Chính phủ Ba Lan lưu vong tại Luân Đôn yêu cầu Chữ thập đỏ quốc tế điều tra, Stalin ngay lập tức chấm dứt quan hệ ngoại giao với chính phủ này. Liên Xô tuyên bố các nạn nhân đã bị phát xít Đức giết hại, và tiếp tục phủ nhận trách nhiệm với các vụ xử bắn cho tới năm 1990, khi tổng thống Gorbachev chính thức thừa nhận và lên án việc xử bắn tù binh của NKVD, cũng như sự từ chối sau đó của chính phủ Liên Xô.
Ngày 7 tháng 4 năm 2010, Thủ tướng Nga Vladimir Putin đã đến đặt vòng hoa tại đài tưởng niệm dành cho các nạn nhân của vụ xử bắn Katyn. Trong bài phát biểu tại buổi lễ tưởng niệm, Putin tuyên bố rằng vụ thảm sát Katyn là một "tội ác không thể biện minh bằng bất cứ cách nào". Cũng trong bài phát biểu, ông Putin cho rằng Stalin đã ra lệnh thực hiện vụ xử bắn như một cách để "trả thù cho 32.000 tù binh Hồng quân đã chết" vì đói khát và dịch bệnh trong những trại giam của Ba Lan trong cuộc chiến năm 1919-1921. (ít nhất 20.000 tù binh đã chết trong trại giam Ba Lan trong cuộc chiến này)
Theo một cuộc khảo sát năm 2009, 54% số người Nga được hỏi không biết một chút gì về sự kiện này và đa số người dân Nga không muốn chính phủ Nga đưa ra lời xin lỗi.
Trong tháng 11 năm 2010, Quốc hội Nga đã chính thức thông qua một tuyên bố quy kết trách nhiệm cho Stalin và các viên chức Liên Xô khác đã đích thân ra lệnh cho vụ xử bắn.
Bối cảnh
Ngày 1 tháng 9 năm 1939, Phát xít Đức xâm lược Ba Lan. Cùng lúc đó, Anh và Pháp đã yêu cầu Đức rút quân do họ bị ràng buộc bởi Hiệp ước Phòng thủ chung Ba Lan-Anh và Liên minh quân sự Ba Lan-Pháp buộc phải tuyên chiến với Đức trong trường hợp xảy ra một cuộc xâm lược như vậy.
Ngày 3 tháng 9 năm 1939, sau khi Đức không thực hiện rút quân, Pháp, Anh và hầu hết các nước thuộc Khối thịnh vượng chung Anh tuyên chiến với Đức nhưng không có nhiều sự hỗ trợ quân sự cho Ba Lan. Họ ít thực hiện hành động quân sự lớn trong cái sẽ được gọi là cuộc Chiến tranh Giả vờ.
Liên Xô cũng bắt đầu cuộc tấn công của mình vào ngày 17 tháng 9 theo Hiệp ước Molotov-Ribbentrop. Hồng quân tiến nhanh chóng và gặp ít kháng cự, bởi các lực lượng Ba Lan đối mặt với họ nhận được lệnh không tham chiến với quân Liên Xô. Khoảng 250.000 - 454,700 binh sĩ và cảnh sát Ba Lan đã bị bắt làm tù binh và bị chính quyền Liên Xô giam giữ. Khoảng một nửa số tù binh được trả tự do hoặc trốn thoát, trong khi 125.000 người bị giam tại các trại do NKVD điều hành. Trong số đó, có 42.400 binh sĩ, chủ yếu là người thuộc sắc tộc Ukraina và Belarus phục vụ trong quân đội Ba Lan và sống tại các lãnh thổ cũ của Ba Lan khi ấy đã bị Liên Xô sáp nhập, và được thả ra vào tháng 10. 43.000 binh sĩ sinh ra tại Tây Ba Lan, khi ấy thuộc quyền kiểm soát của Đức, được chuyển cho người Đức; đổi lại Người Liên Xô nhận được 13.575 tù nhân Ba Lan từ phía Đức.
Ngoài những quân nhân và viên chức chính phủ, các công dân Ba Lan khác cũng bị trấn áp nếu bị kết tội chống chính quyền. Hàng ngàn thành viên giới trí thức Ba Lan cũng bị bắt giam vì bị kết án là "nhân viên tình báo, sen đầm, địa chủ, những kẻ phá hoại, chủ nhà máy, luật sư và thầy tu." Bởi hệ thống đăng lính của Ba Lan yêu cầu tất cả những người tốt nghiệp đại học không thuộc diện miễn trừ phải đăng ký làm sĩ quan dự bị, NKVD đã bắt giữ một lượng lớn giới trí thức Ba Lan. Theo những ước tính của Viện Tưởng niệm Quốc gia (IPN), khoảng 320.000 công dân Ba Lan đã bị trục xuất sang Liên Xô (con số này bị một số nhà sử học, những người ủng hộ ước tính cũ khoảng 700.000 - 1.000.000 người, nghi ngờ). IPN ước tính con số công dân Ba Lan chết dưới chế độ cai trị Liên Xô trong Thế chiến II là 150.000 người (một con số đã được sửa đổi so với ước tính cũ là 500.000). Trong một nhóm 12.000 người Ba Lan bị gửi tới trại Dalstroy (gần Kolyma) năm 1940 - 1941, hầu hết là tù binh chiến tranh, chỉ 583 người còn sống sót, họ được thả ra năm 1942 để gia nhập Các lực lượng vũ trang Ba Lan ở phía Đông. Theo Tadeusz Piotrowski, "...trong cuộc chiến và sau năm 1944, 570.387 công dân Ba Lan đã là đối tượng của một số hình thức trấn áp chính trị của Liên Xô."
Ngay từ ngày 19 tháng 9, Dân ủy Nội vụ và Dân ủy hạng nhất về An ninh Quốc gia, Lavrentiy Beria, đã ra lệnh cho NKVD thành lập "Cơ quan quản lý tù binh chiến tranh và những người bị giam giữ" để quản lý tù binh Ba Lan. NKVD nhận các tù binh Ba Lan từ Hồng quân, và tiến hành tổ chức một mạng lưới các trung tâm tiếp nhận và chuyển tiếp và thu xếp việc vận chuyển bằng đường sắt tới các trại tù binh chiến tranh ở phía tây Liên bang Xô viết. Các trại lớn nhất nằm tại Kozelsk (Tu viện Optina), Ostashkov (Đảo Stolbnyi trên Hồ Seliger gần Ostashkov) và Starobelsk. Các trại khác nằm ở Jukhnovo (ga "Babynino"), Yuzhe (Talitsy), ga "Tyotkino" 90 kilômét/56 dặm từ Putyvl), Kozelshchyna, Oranki, Vologda (ga "Zaonikeevo") và Gryazovets.
Kozelsk và Starobelsk chủ yếu giam các sĩ quan quân đội, trong khi Ostashkov được dùng chủ yếu cho các hướng đạo sinh Ba Lan, sen đầm, cảnh sát và cai ngục. Một số tù nhân là thành viên của các nhóm trí thức khác của Ba Lan, như tu sỹ, địa chủ và những người làm trong ngành luật. Con số tù nhân xấp xỉ tại các trại như sau: Kozelsk: 5.000; Ostashkov: 6.570; và Starobelsk: 4.000. Tổng số là 15.570 người.
Theo một báo cáo từ ngày 19 tháng 11 năm 1939, NKVD có khoảng 40.000 tù nhân chiến tranh người Ba Lan: khoảng 8.000 - 8.500 sĩ quan và sĩ quan dự bị, 6.000 - 6.500 sĩ quan cảnh sát và 25.000 binh sĩ và NCO vẫn đang bị giam giữ như tù binh chiến tranh. Trong tháng 12, một làn sóng bắt giữ khiến một số sĩ quan Ba Lan chưa bị bỏ tù bị giam cầm, Ivan Serov đã báo cáo với Lavrentiy Beria ngày 3 tháng 12 rằng "tổng cộng 1.057 cựu sĩ quan Quân đội Ba Lan đã bị bắt giữ." 25.000 binh sĩ và sĩ quan không chính quy bị đưa vào các trại cưỡng bức lao động (xây dựng đường, công nghiệp nặng).
Khi đã bị đưa vào các trại, từ tháng 10 năm 1939 đến tháng 2 năm 1940, những người Ba Lan phải qua những cuộc thẩm vấn dài dằng dặc và bị các sĩ quan NKVD như Vasily Zarubin lung lạc chính trị. Các tù nhân cho rằng họ sẽ sớm được thả ra sớm, nhưng những cuộc thẩm tra thực tế là một quá trình lựa chọn để quyết định ai là người sẽ được sống và ai sẽ phải chết. Theo các báo cáo của NKVD, nếu các tù nhân không thể bị thuyết phục chấp nhận có một thái độ ủng hộ Liên Xô, họ bị coi là "những kẻ thù tiềm năng cứng rắn và không thể thỏa hiệp của chính quyền Xô viết."
Ngày 5 tháng 3 năm 1940, theo một bức thư gửi Joseph Stalin từ Beria, bốn thành viên của Bộ chính trị - Stalin, Vyacheslav Molotov, Kliment Voroshilov và Anastas Mikoyan – đã ký một sắc lệnh hành quyết 25.700 "người quốc gia và phản cách mạng" Ba Lan đang bị giữ tại các trại và các nhà tù tại vùng phía Tây Ukraina và Belarus đang bị chiếm đóng. Lý do cho cuộc xử bắn hàng loạt, theo nhà sử học Gerhard Weinberg, là Stalin muốn loại bỏ một phần lớn nhân tài của quân đội Ba Lan trong tương lai: "Đã có ý kiến cho rằng động cơ của hành động kinh hoàng này [vụ thảm sát Katyn] là để đảm bảo với người Đức về chiến lược chống Ba Lan thực sự của Liên xô. Sự giải thích này hoàn toàn không có cơ sở từ góc nhìn rằng chế độ Liên xô đã cố gắng giữ bí mật vụ xử bắn khỏi chính phủ Đức, đối tượng họ muốn gây tác động.... Một sự giải thích có khả năng hơn khác rằng... [vụ thảm sát] phải được coi như một ý định cho tương lai theo đó sẽ lại có một nước Ba Lan ở biên giới phía tây Liên bang Xô viết. Bởi muốn giữ vùng phía tây đất nước trong mọi tình huống, Stalin có thể chắc chắn rằng một nước Ba Lan được khôi phục sẽ không thể thân thiện. Theo những hoàn cảnh đó, việc loại bỏ đi của Ba Lan một phần lớn lực lượng vũ trang và giới tinh hoa công nghệ sẽ khiến nước này yếu ớt hơn."
Ngoài ra, những người Xô viết nhận ra rằng những tù nhân chiếm một phần lớn trong số những người Ba Lan có trình độ và khuynh hướng không chấp nhận một hành động phân chia Ba Lan lần thứ tư.
Những vụ xử bắn
Thuật ngữ "thảm sát Katyn " ban đầu chỉ đề cập tới vụ xử bắn hàng loạt tại Rừng Katyn, gần các ngôi làng Katyn và Gnezdovo (xấp xỉ 19 kilômét, 12 dặm phía tây Smolensk, Nga), và nạn nhân là các sĩ quan quân đội Ba Lan tại trại tù binh Kozelsk. Đây là vụ lớn nhất trong số các vụ hành quyết tù binh chiến tranh cùng thời điểm. Các vụ xử bắn khác xảy ra ở khá xa tại các trại Starobelsk và Ostashkov, tại trụ sở NKVD ở Smolensk, và các nhà tù tại Kalinin (Tver), Kharkiv, Moskva và các thành phố Liên Xô khác. Các vụ xử bắn khác diễn ra ở nhiều địa điểm tại Belarus và Tây Ukraina, dựa trên các danh sách đặc biệt về tù binh Ba Lan, do NKVD chuẩn bị đặc biệt cho các vùng đó. Cuộc điều tra thời hiện đại của Ba Lan về những vụ xử bắn không chỉ hướng tới vụ xử bắn tại rừng Katyn, mà cả những vụ xử bắn khác được đề cập ở trên. Các tổ chức của Ba Lan như, Ủy ban Katyn và Liên hiệp các gia đình Katyn, coi những tù binh bị xử bắn tại các địa điểm khác ngoài Katyn cũng là một phần của vụ xử bắn hàng loạt.
Số lượng người bị xử bắn được ước tính khoảng 22.000, với con số người chết thấp nhất được xác nhận là 21.768. Theo các tài liệu của Liên Xô được giải mật năm 1990, 21.857 tù nhân và người bị giam giữ đã bị xử bắn sau ngày 3 tháng 4 năm 1940: 14.552 tù nhân chiến tranh (hầu hết trong số họ thuộc ba trại giam) và 7.305 tù nhân ở những vùng phía tây các Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Belarus và Ukraina. Trong số họ 4.421 người từ Kozelsk, 3.820 từ Starobelsk, 6.311 từ Ostashkov, và 7.305 từ các nhà tù Belarus và Ukraina. Lãnh đạo phòng tù binh chiến tranh của NKVD, Thiếu tướng P.K. Soprunenko, đã tổ chức "các cuộc lựa chọn" sĩ quan Ba Lan sẽ bị xử bắn tại Katyn và những nơi khác.
Những người chết tại Katyn bao gồm cả một vị đô đốc, hai tướng, 24 đại tá, 79 trung tá, 258 thiếu tá, 654 đại úy, 17 thuyền trưởng hải quân, 3.420 sĩ quan dự bị, bảy giáo sĩ, ba địa chủ, một quý tộc, 43 quan chức, 85 binh nhì, 131 người tị nạn, 20 giáo sư đại học, 300 nhà vật lý; hàng trăm luật sư; kỹ sư và giáo viên; và hơn 100 tác gia và nhà báo cũng như khoảng 200 phi công. Tổng cộng, NKVD đã hành quyết một nửa số sĩ quan của Ba Lan. Tổng thể, trong vụ xử bắn, NKVD đã xử bắn 14 tướng lĩnh Ba Lan: Leon Billewicz (đã nghỉ hưu), Bronisław Bohatyrewicz (đã nghỉ hưu), Xawery Czernicki (đô đốc), Stanisław Haller (đã nghỉ hưu), Aleksander Kowalewski (đã nghỉ hưu), Henryk Minkiewicz (đã nghỉ hưu), Kazimierz Orlik-Łukoski, Konstanty Plisowski (đã nghỉ hưu), Rudolf Prich (bị giết tại Lviv), Franciszek Sikorski (đã nghỉ hưu), Leonard Skierski (đã nghỉ hưu), Piotr Skuratowicz, Mieczysław Smorawiński và Alojzy Wir-Konas (được truy thăng). Không phải tất cả những người bị xử bắn đều mang quốc tịch Ba Lan bởi từ Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan đây đã là một quốc gia đa sắc tộc, và các sĩ quan Ba Lan bao gồm cả những người Belarus, Ukraina, và Do Thái. Ước tính 8% nạn nhân vụ xử bắn ở Katyn là người Do Thái Ba Lan. 395 tù nhân được thoát chết, trong số đó có Stanisław Swianiewicz và Józef Czapski. Họ được đưa tới trại Yukhnov và sau đó tới Gryazovets.
Có tới 99% số tù nhân còn lại sau đó cũng bị xử bắn. Những người ở trại Kozelsk bị xử bắn tại các điểm tập trung ở vùng đồng quê Smolensk, trong rừng Katyn; những người từ trại Starobelsk bị xử bắn trong các trại tù của NKVD ở Kharkiv và các thi thể bị chôn gần Piatykhatky; và các sĩ quan ở trại Ostashkov bị xử bắn trong các nhà tù của NKVD tại Kalinin (Tver) và bị chôn tại Mednoye.
Thông tin chi tiết về các vụ xử bắn tại nhà tù của NKVD tại Kalinin đã được hé lộ trong một phiên tòa xử Dmitrii Tokarev, cựu lãnh đạo Bộ phận của NKVD tại Kalinin. Theo Tokarev, việc xử bắn bắt đầu vào buổi tối và chấm dứt lúc bình minh. Lần chuyển tù đầu tiên ngày 4 tháng 4 năm 1940, với 390 người, và những đội thi hành án đã khá khó khăn trong việc xử bắn nhiều người tới vậy trong một đêm. Chuyến vận chuyển tiếp theo với số tù nhân không hơn 250 người. Các vụ xử bắn thường được tiến hành bằng các khẩu súng lục Walther PPK 7,65 mm của Đức sản xuất do Moskva cung cấp song các khẩu súng lục ổ quay 7.62x38R Nagant M1895 cũng được sử dụng. Những người hành quyết dùng súng Đức thay vì những khẩu súng lục ổ quay tiêu chuẩn của Liên Xô, bởi súng của Liên Xô có độ giật quá lớn, khiến phát bắn trở nên khó khăn sau mười hai viên đầu tiên. Vasili Mikhailovich Blokhin, lãnh đạo hành quyết của NKVD—và có lẽ cũng là người thi hành án xử bắn nhiều nhất trong lịch sử - được cho là đã đích thân xử bắn khoảng 7.000 người bị kết án, một số mới 18 tuổi, từ trại Ostashkov ở nhà tù Kalinin trong giai đoạn 28 ngày trong tháng 4 năm 1940.
Các vụ xử bắn được tiến hành có phương pháp. Sau khi thông tin cá nhân của người bị kết án được kiểm tra, anh ta bị trói tay và dẫn tới một xà lim cách ly với các bao cát dọc theo các bức tường và một nỉ lót, cánh cửa nặng. Nạn nhân phải quỳ giữa phòng, sau đó kẻ hành quyết tiến lại từ phía sau và lập tức bắn vào sau đầu anh ta. Thi thể sau đó được mang qua cánh cửa đối diện và bị bỏ vào năm hay sáu chiếc xe tải đợi sẵn, và người bị hành quyết tiếp sau vào phòng. Ngoài việc cách ly kín phòng hành quyết, tiếng nổ của đạn còn được ngụy trang bằng cách cho hoạt động những loại máy có tiếng ồn lớn (có lẽ là những chiếc quạt) cả đêm. Quy trình này diễn ra hàng đêm, ngoại trừ Ngày Quốc tế Lao động.
Khoảng 3.000 tới 4.000 tù nhân Ba Lan tại các nhà tù Ukraina và những người từ các nhà tù Belarus có lẽ đã bị chôn tại Bykivnia và tại Kurapaty. Porucznik Janina Lewandowska, con gái của tướng Józef Dowbor-Muśnicki, là phụ nữ duy nhất bị hành quyết trong vụ xử bắn tại Katyn.
Phát hiện
Số phận của những tù nhân Ba Lan được đề cập tới ngay sau khi phe Trục tấn công Liên xô tháng 6 năm 1941. Chính phủ Ba Lan lưu vong và chính phủ Liên Xô đã ký Thỏa thuận Sikorski-Mayski, thông báo ý định cùng chiến đấu chống lại Phát xít Đức và nhanh chóng thành lập một quân đội Ba Lan trên lãnh thổ Liên Xô. Tướng Ba Lan Władysław Anders đã bắt đầu tổ chức đội quân của mình, và lập tức ông yêu cầu thông tin về các sĩ quan Ba Lan bị mất tích. Trong một cuộc gặp cá nhân, Stalin đã đảm bảo với ông và Władysław Sikorski, Thủ tướng Ba Lan, rằng tất cả tù binh người Ba Lan đã được trả tự do, và rằng không phải tất cả đều có thông tin bởi người Liên Xô "đã mất dấu" họ tại Mãn Châu.
Năm 1942 các công nhân đường sắt Ba Lan nghe từ phía những người dân địa phương về một hố chôn tập thể các binh sĩ Ba Lan tại Kozielsk gần Katyn, và đã tìm thấy một mộ chôn tập thể và thông báo tới Nhà nước Bí mật Ba Lan. Sự phát hiện không được coi là quan trọng, bởi không ai nghĩ ngôi mộ đó lại chứa nhiều nạn nhân đến vậy. Đầu năm 1943, Rudolf Christoph Freiherr von Gersdorff, một sĩ quan Đức là liên lạc tình báo giữa Đội quân Trung tâm và Abwehr của Wehrmacht, nhận được những báo cáo về các hố chôn tập thể các sĩ quan Ba Lan. Những báo cáo đó nói rằng các ngôi mộ nằm trong rừng ở Goat Hill gần Katyn. Ông đã chuyển các báo cáo lên cấp trên (các nguồn nói khác nhau về thời điểm chính xác khi người Đức biết về các ngôi mộ — từ "cuối 1942" tới tháng 1/2 năm 1943, và khi những người đứng đầu nước Đức tại Berlin nhận được những báo cáo đó (ngay từ 1 tháng 3 hay chậm là ngày 4 tháng 4). Joseph Goebbels coi sự phát hiện này là một công cụ tuyệt vời để chia rẽ Ba Lan, Đồng minh phương Tây và Liên bang Xô viết, và tăng cường tuyên truyền về những sự kinh hoàng của chủ nghĩa Bolshevik và sự che giấu của Mỹ và Anh với việc này. Sau khi được chuẩn bị kỹ lưỡng, ngày 13 tháng 4, Đài tiếng nói Berlin phát sóng ra thế giới rằng các lực lượng quân đội Đức ở rừng Katyn gần Smolensk đã phát hiện "một hố đào... 28 mét chiều dài và 16 mét chiều rộng [92 ft nhân 52 ft], trong đó có thi thể 3.000 các sĩ quan Ba Lan được chất thành 12 lớp." Chương trình truyền thông tiếp theo lên án Liên xô chịu trách nhiệm về vụ thảm sát diễn ra năm 1940.
Người Đức đưa tới một ủy ban của châu Âu gồm 12 chuyên gia pháp lý và các nhân viên của họ từ Bỉ, Bulgaria, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Ý, Croatia, Hà Lan, România, Thụy Điển, Slovakia, và Hungary. Họ có mục tiêu chứng minh rằng người Liên Xô đứng đằng sau vụ thảm sát và thậm chí họ còn đưa vào cả một số tù binh chiến tranh Đồng Minh, kể cả tác gia Ferdynand Goetel, AK tù nhân Ba Lan từ Pawiak. Sau chiến tranh, Goetel bỏ trốn với một hộ chiếu giả vì có trát bắt ông ta; hai trong số 12 người, Marko Markov người Bulgaria, và Frantisek Hajek người Séc, vì đất nước họ bị Liên Xô chiếm đóng, bị buộc phải rút bằng chứng, bảo vệ người Liên Xô và lên án người Đức. Vụ thảm sát Katyn thực sự mang lại lợi ích cho Phát xít Đức, họ dùng nó để làm mất uy tín Liên Xô. Goebbels viết trong nhật ký của mình ngày 14 tháng 4 năm 1943: "Chúng ta đang sử dụng việc phát hiện ra 12.000 sĩ quan Ba Lan, bị GPU giết hại, để tuyên truyền chống Bolshevik trên diện rộng. Chúng ta đã gửi các nhà báo trung lập và các nhà trí thức người Ba Lan tới nơi những mồ chôn tập thể được tìm thấy. Các báo cáo gửi về cho chúng ta thật khủng khiếp. Quốc trưởng cũng đã cho phép chúng ta đưa ra một chủ đề mạnh mẽ và mới mẻ cho báo chí Đức. Tôi đã ra lệnh sử dụng chúng ở mức cao nhất cho mục đích tuyên truyền. Chúng ta sẽ có thể bám lấy chúng trong vài tuần." Người Đức đã có một thắng lợi tuyên truyền to lớn, phác họa chủ nghĩa cộng sản như một mối hiểm nguy với văn minh phương Tây.
Chính phủ Liên Xô lập tức bác bỏ những cáo buộc của Đức và tuyên bố rằng những tù binh chiến tranh người Ba Lan đã tham gia vào công việc xây dựng ở phía tây Smolensk và sau đó bị các đơn vị xâm lược của Đức bắt giữ và hành quyết vào tháng 8 năm 1941. Người Liên Xô trả lời vào ngày 15 tháng 4 đáp trả chương trình phát thanh đầu tiên của Đức ngày 13 tháng 4, được chuẩn bị bởi Văn phòng Thông tin Liên xô, nói rằng "[...] Các tù nhân chiến tranh người Ba Lan năm 1941 đang tham gia vào công việc xây dựng ở phía Tây Smolensk và [...] rơi vào tay những kẻ sát nhân Phát xít Đức [...]."
Tháng 4 năm 1943 chính phủ Ba Lan lưu vong nhấn mạnh việc đưa vấn đề này ra trước bàn đàm phán với người Liên Xô và về việc mở một cuộc điều tra do Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế tiến hành. Stalin, đổi lại, buộc tội chính phủ Ba Lan hợp tác với Phát xít Đức, hủy bỏ quan hệ ngoại giao với họ, và bắt đầu một chiến dịch để Đồng minh phương Tây công nhận chính phủ Ba Lan ủng hộ Liên xô ở Moskva dưới sự lãnh đạo của Wanda Wasilewska. Sikorski chết trong một vụ đâm máy bay vào tháng 7—một sự kiện khiến các lãnh tụ Đồng minh cảm thấy dễ chịu.
Các hành động của Liên Xô
Trong khi đó, vào tháng 9 năm 1943, khi Goebbels được thông tin rằng quân đội Đức đang phải rút khỏi khu vực Katyn, ông đã viết một dự báo trong nhật ký của mình. Đoạn nhật ký viết ngày 29 tháng 9 năm 1943 viết: "Không may thay là chúng ta phải rời bỏ Katyn. Những người Bolshevik chắc chắn sẽ nhanh chóng 'tìm ra' rằng chúng ta đã bắn 12.000 sĩ quan Ba Lan. Việc này sẽ gây ra chút ít khó khăn cho chúng ta trong tương lai. Người Xô viết chắc chắn sẽ tuyên bố việc mình tìm thấy càng nhiều hố chôn càng tốt và sau đó buộc tội chúng ta."
Việc chiếm lại vùng Katyn diễn ra hầu như ngay sau khi Hồng quân tái chiếm Smolensk, khoảng tháng 9/10 năm 1943, các lực lượng NKVD bắt đầu một chiến dịch che giấu. Một nghĩa trang mà người Đức đã cho phép Chữ thập Đỏ Ba Lan xây dựng bị phá hủy và các bằng chứng khác bị xóa bỏ. Các nhân chứng "được phỏng vấn", và bị đe dọa sẽ bị bắt với tư cách là những kẻ cộng tác với Đức nếu lời chứng của họ không giống với sự tuyên truyền chính thức. Bởi không một tài liệu nào được tìm thấy trên xác những người chết muộn hơn tháng 4 năm 1940, cảnh sát mật Liên Xô đã đưa những bằng chứng giả đẩy thời điểm diễn ra vụ xử bắn thành mùa hè năm 1941 khi Phát xít Đức kiểm soát vùng này. Một báo cáo ban đầu do mật vụ NKVD Vsevolod Merkulov và Sergei Kruglov, ngày 10–11 tháng 1 năm 1944, kết luận rằng các sĩ quan Ba Lan đã bị người Đức bắn.
Tháng 1 năm 1944, Liên Xô gửi một ủy ban khác, Ủy ban Đặc biệt để Xác định và Điều tra vụ bắn giết các tù binh Ba Lan của quân Phát xít Đức xâm lược tại rừng Katyn (, Spetsial'naya Kommissiya po ustanovleniyu i rassledovaniyu obstoyatel'stv rasstrela nemetsko-fashistskimi zakhvatchikami v Katynskom lesu voyennoplennyh polskih ofitserov) tới khu vực; cái tên của ủy ban đã ẩn chứa một kết luận được đưa ra từ trước. Ủy ban nằm dưới sự dẫn đầu của Nikolai Burdenko, Chủ tịch Viện hàn lâm Khoa học Y khoa Liên Xô (vì thế nó thường được gọi là "Ủy ban Burdenko"), người được Moskva chỉ định, tới điều tra vụ việc. Các thành viên của ủy ban gồm những nhân vật nổi bật người Liên Xô như tác gia Alexei Tolstoy, nhưng không có người ngoại quốc nào được tham gia ủy ban. Ủy ban Burdenko khai quật các tử thi, bác bỏ những phát hiện của người Đức vào năm 1943 cho rằng những người Ba Lan đã bị người Liên Xô giết hại, quy trách nhiệm cho người Đức và kết luận rằng tất cả những vụ xử bắn đều do các lực lượng chiếm đóng của Đức thực hiện vào mùa thu năm 1941. Dù thiếu bằng chứng, ủy ban cũng cáo buộc người Đức đã bắn giết các tù binh chiến tranh Nga được dùng để đào các hố chôn. Không rõ bao nhiêu thành viên của ủy ban bị lừa bịp bởi những báo cáo và bằng chứng giả, và bao nhiêu người nghi ngờ sự thực; Cienciala và Materski ghi chú rằng ủy ban không có lựa chọn nào khác ngoài việc đưa ra những bằng chứng phù hợp với báo cáo của Merkulov-Kruglov, và rằng chính Burdenko đã biết được về sự che giấu sự thực. Ông được cho là đã thừa nhận điều đó với người thân và bạn bè một thời gian ngắn trước khi chết. Các kết luận của ủy ban Burdenko thường được các nguồn tin Liên xô viện dẫn cho tới khi có sự thừa nhận chính thức về tội ác của chính phủ Xô viết ngày 13 tháng 4 năm 1990.
Tháng 1 năm 1944, Liên Xô cũng đã mời một nhóm hơn 12 nhà báo chủ yếu từ Anh và Mỹ, cùng với Kathleen Harriman, con gái của Đại sứ mới của Mỹ W. Averell Harriman), và John Melby thư ký thứ ba của Đại sứ quán Mỹ tại Moskva tới Katyn. Melby và Harriman được mời vào là động thái mà một số người ở thời điểm ấy coi là nỗ lực của Liên xô nhằm mang lại một số trọng lượng cho sự tuyên truyền của họ. Báo cáo của Melby chỉ ra những thiếu sót trong dẫn chứng của Liên Xô; những lời chứng có hệ thống; những nỗ lực để phỏng vấn người làm chứng bị ngăn cản; những tuyên bố của người làm chứng rõ ràng đưa ra một bản khai gần như thuộc lòng, và rằng "vụ việc đã được dựng ra để lợi dụng các phóng viên". Tuy nhiên Melby, ở thời điểm ấy, cảm thấy rằng người Nga cũng có một số sức thuyết phục. Báo cáo của Harriman có cùng kết luận và cả hai người sau chiến tranh đã bị yêu cầu giải thích tại sao những kết luận của họ không tương thích với những bằng chứng họ tìm thấy và sự nghi ngờ rằng họ đã báo cáo những gì mà Bộ ngoại giao muốn nghe. Các nhà báo ít ấn tượng hơn, và không hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi màn kịch do người Liên Xô dựng lên.
Phản ứng của phương Tây
Cuộc khủng hoảng Ba Lan-Xô viết ngày càng gia tăng đe dọa tới các quan hệ Phương Tây-Liên Xô ở thời điểm khi tầm quan trọng của người Ba Lan với Đồng minh bắt đầu giảm bớt, dẫu cho nó đã khá lớn trong những năm đầu tiên của cuộc chiến, lý do là vì sự tham dự vào cuộc xung đột của hai cường quốc quân sự và chính trị là Liên bang Xô viết và Hoa Kỳ. Phản ứng trước vụ việc, cả Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt đều dần xa rời những cam kết của mình với đồng minh Ba Lan và những yêu cầu của Stalin và các nhà ngoại giao Liên xô.
Một cách cá nhân, Churchill đồng ý rằng vụ việc dường như do người Liên Xô thực hiện. Theo Edward Raczyński, vào ngày 15 tháng 4 năm 1943 trong một cuộc trò chuyện với Tướng Sikorski, Churchill đã nói: "Than ôi, những phát hiện của người Đức có lẽ là sự thật. Những người Bolshevik quả rất man rợ." Tuy nhiên, cùng thời điểm ngày 24 tháng 4 năm 1943 Churchill đảm bảo với người Liên Xô rằng: "Chúng tôi chắc chắn sẽ phản đối mạnh mẽ bất kỳ cuộc 'điều tra' nào của Chữ thập Đỏ Quốc tế hay bất kỳ tổ chức nào khác tại bất kỳ lãnh thổ nào dưới quyền kiểm soát của Đức. Một cuộc điều tra như vậy sẽ là một sai lầm và những kết luận của nó chỉ có được nhờ hành động khủng bố." Các tài liệu giải mật hay không chính thức của Anh kết luận rằng tội ác của Liên Xô là "hầu như chắc chắn", nhưng sự liên minh với người Liên Xô được cho là có tầm quan trọng hơn các vấn đề đạo đức; vì thế trên chính thức họ vẫn ủng hộ Liên Xô, tới mức kiểm duyệt bất kỳ nguồn thông tin trái ngược nào. Churchill đã yêu cầu Owen O'Malley điều tra vấn đề, nhưng trong một bức thư gửi Ngoại trưởng ông đã viết: "Tất cả những thứ này chỉ đơn giản là để xác định các sự thực, bởi không một ai trong chúng ta nên nói một lời nào về vấn đề này.". O'Malley đã chỉ ra nhiều mâu thuẫn và những điều phi lý trong các lý lẽ của Liên Xô. Sau này, Churchill đã gửi một bản sao của báo cáo tới Roosevelt ngày 13 tháng 8 năm 1943. Bản báo cáo bác bỏ tường thuật của phía Liên Xô về vụ xử bắn và ám chỉ tới những hậu quả chính trị bên trong một khuôn khổ đạo đức nhưng ghi nhận rằng không có một khả năng nào khác thay thế cho chính sách hiện tại. Không có bình luận nào của Roosevelt về bản báo cáo của O'Malley được ghi nhận. Quan điểm của chính Churchill thời hậu chiến về vụ việc Katyn không đưa lại thêm nhiều thông tin. Trong hồi ký của mình, ông có đề cập tới cuộc điều tra năm 1944 của Liên Xô với kết luận đổ tội cho người Đức và thêm, "lòng tin có lẽ là một hành động của đức tin."
Đầu năm 1944, một điệp viên của Anh đồng thời là tình báo của Ba Lan là Ron Jeffery đã trốn khỏi Abwehr và đi tới Luân Đôn với một báo cáo từ Ba Lan gửi chính phủ Anh. Những nỗ lực của ông ban đầu được người Anh đánh giá cao nhưng sau đó lại bị bỏ lơ, với hình ảnh một Jeffery bị cho có liên quan tới sự phản bội của Kim Philby và các điệp viên cộng sản cao cấp khác trong chính quyền Anh. Jeffery đã cố thông tin cho chính phủ Anh về vụ xử bắn Katyn nhưng cuối cùng lại bị thải hồi khỏi quân đội.
Tại Hoa Kỳ cũng có tình trạng tương tự, không kể hai báo cáo tình báo chính thức về vụ xử bắn Katyn trái ngược với quan điểm chính thức. Năm 1944, Roosevelt đã cử các phái viên đặc biệt của mình tới Balkan, Thiếu tá hải quân George Earle, để thực hiện một báo cáo về vụ Katyn. Earle kết luận rằng vụ xử bắn hàng loạt do người Liên Xô tiến hành. Sau khi đã tham vấn với Elmer Davis, giám đốc Phòng Thông tin Chiến tranh, Roosevelt bác bỏ kết luận (chính thức), tuyên bố rằng ông tin người Đức chịu trách nhiệm, và ra lệnh che giấu báo cáo của Earle. Khi Earle chính thức yêu cầu cho phép xuất bản những phát hiện của mình, Tổng thống đã ra một sắc lệnh bằng văn bản ngăn cấm việc này. Earle được bố trí công việc khác và trải qua thời gian còn lại của cuộc chiến tại Samoa thuộc Mỹ.
Một bản báo cáo nữa năm 1945, ủng hộ cùng kết luận, được đưa ra và bị ngăn cản. Năm 1943, hai tù binh chiến tranh Hoa Kỳ – Trung tá Donald B. Stewart và Đại tá John H. Van Vliet – đã được người Đức đưa tới Katyn trong một cuộc hội thảo thông tin quốc tế. Sau này, vào năm 1945, Van Vliet đã đệ trình một báo cáo kết luận rằng người Liên Xô chịu trách nhiệm về vụ xử bắn. Thượng cấp của ông, Thiếu tướng Clayton Bissell, trợ lý của Tướng George Marshall lãnh đạo Ban tham mưu tình báo, đã tiêu hủy bản báo cáo. Trong cuộc điều tra năm 1951–1952 của Nghị viện về vụ Katyn, Bissel đã bảo vệ hành động của mình trước Quốc hội, cho rằng việc gây ra sự thù địch từ một đồng minh (Liên Xô) không mang lại lợi ích cho nước Mỹ, và Mỹ vẫn cần sự hỗ trợ của Liên Xô để chống lại Nhật Bản.
Tại các phiên tòa Nürnberg
Từ ngày 28 tháng 12 năm 1945 đến ngày 4 tháng 1 năm 1946, bảy người làm việc cho Wehrmacht Đức bị một tòa án quân sự Liên Xô tại Leningrad đưa ra xét xử. Một người trong số đó, Arno Diere, bị buộc tội tham gia vào việc đào các hố chôn tập thể tại Katyn trong các vụ xử bắn. Diere, người bị buộc tội dùng súng máy xử bắn tại các làng Liên xô, thú nhận tham gia vào việc chôn cất (dù không phải tham gia vào việc hành quyết) 15-20 nghìn tù binh chiến tranh Ba Lan tại Katyn. Vì việc này anh ta thoát chết và bị kết án 15 năm lao động khổ sai. Lời khai của anh ta đầy những điều vô lý, và vì thế anh ta đã không được sử dụng như một nhân chứng cho bên nguyên trong Tòa án Nürnberg. Trong một bức thư ngày 29 tháng 11 năm 1954 anh ta đã rút lời thú tội, tuyên bố rằng mình đã bị những người điều tra buộc phải thú nhận.
Tại hội nghị Luân Đôn để lập ra các bản cáo trạng cho các tội ác chiến tranh của Đức trước các phiên tòa Nuremberg, những nhà đàm phán Liên xô đã đưa ra cáo buộc, "Vào tháng 9 năm 1941, 925 sĩ quan Ba Lan đang là tù binh chiến tranh đã bị xử bắn tại Rừng Katyn gần Smolensk." Những nhà đàm phán Hoa Kỳ đồng ký đưa vào cáo buộc này, nhưng "cảm thấy bối rối" với việc đó (lưu ý rằng cáo buộc đã được tranh luận rất nhiều trên báo chí) và kết luận rằng người Liên xô có trách nhiệm phải chứng minh điều đó. Tại các cuộc xét xử năm 1946, Tướng Liên Xô Roman Rudenko, nêu ra cáo trạng, nói rằng "một trong những hành động tội ác quan trọng nhất mà các tội phạm chiến tranh chủ chốt phải chịu trách nhiệm là việc xử bắn hàng loạt các tù binh chiến tranh Ba Lan trong rừng Katyn gần Smolensk của những kẻ xâm lược Phát xít Đức," nhưng không thể hoàn thành việc tố tụng và các thẩm phán Hoa Kỳ và Anh đã loại bỏ các cáo buộc. Phiên tòa không có mục đích quyết định liệu nước Đức hay Liên bang Xô viết phải chịu trách nhiệm về tội ác, mà để buộc tội cho ít nhất một trong những bị đơn, là điều mà tòa không thể làm.
Các quan điểm thời Chiến tranh Lạnh
Năm 1951 và 1952, với bối cảnh là cuộc Chiến tranh Triều Tiên, một ủy ban điều tra của Quốc hội Hoa Kỳ do nghị sĩ Ray J. Madden làm chủ tịch được gọi là Ủy ban đã điều tra vụ xử bắn Katyn. Ủy ban kết luận những người Ba Lan đã bị Liên Xô xử bắn và đề xuất rằng nên đưa những người Liên Xô có trách nhiệm ra trước Tòa án Công lý Quốc tế. Tuy nhiên, câu hỏi về trách nhiệm vẫn còn gây tranh cãi ở phương Tây cũng như phía sau Bức màn sắt. Một kế hoạch xây dựng đài tưởng niệm ghi năm 1940 (thay vì 1941) của Anh đã bị lên án là khiêu khích trong bối cảnh chính trị của cuộc Chiến tranh Lạnh. Cũng có ý kiến cho rằng sự lựa chọn vị trí đài tưởng niệm chiến tranh năm 1969 tại nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Belorussia tại ngôi làng cũ của Belarusia mang tên Khatyn, một địa điểm của vụ thảm sát của Phát xít Đức năm 1943 đã được đưa ra để gây sự nhầm lẫn với Katyn. Hai cái tên gần tương tự trong nhiều ngôn ngữ, và thường bị nhầm lẫn.
Tại Ba Lan, chính quyền thân Liên Xô đã che giấu vụ việc theo tuyên truyền chính thức của Liên Xô, cố ý kiểm duyệt bất kỳ nguồn tin nào có thể cung cấp thông tin về tội ác. Katyn là một chủ đề cấm kỵ ở nước Ba Lan thời hậu chiến. Kiểm duyệt tại Cộng hòa Ba Lan được thực hiện ở diện rộng và Katyn đã được đề cập tới một cách đặc biệt trong "Sách Đen kiểm duyệt" được chính quyền sử dụng để kiểm soát truyền thông và giới hàn lâm. Không chỉ chính phủ kiểm duyệt toàn bộ những sự đề cập tới nó, mà ngay cả việc nhắc tới sự tàn bạo cũng là một sự nguy hiểm. Vào cuối thập niên 1970, các nhóm dân chủ như Ủy ban Bảo vệ Công nhân và Uniwersytet Latający do không tuân thủ sự kiểm duyệt và bàn luận về cuộc xử bắn, đã phải đối mặt với sự đánh đập, bắt giữ, giam cầm, và khai trừ. Năm 1981, Công đoàn Đoàn kết Ba Lan đã dựng một đài tưởng niệm với dòng chữ đơn giản "Katyn, 1940". Nó đã bị cảnh sát tịch thu và thay thế bằng một đài tưởng niệm chính thức với dòng chữ: "Cho những binh sĩ Ba Lan – nạn nhân của chủ nghĩa phát xít Hitler – yên nghỉ trên mảnh đất Katyn". Tuy nhiên, hàng năm vào Lễ các linh hồn, những thánh giá tưởng niệm tương tự được dựng lên tại nghĩa trang Powązki và nhiều nơi khác ở Ba Lan, và lại bị cảnh sát giải tán. Katyn vẫn là một điều cấm kỵ chính trị tại nước Ba Lan cộng sản cho tới khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ năm 1989.
Tại Liên bang Xô viết trong thập niên 1950, lãnh đạo KGB, Aleksandr Shelepin đã đề xuất tiến hành việc tiêu hủy nhiều tài liệu liên quan tới vụ xử bắn Katyn nhằm giảm nguy cơ sự thực bị phơi bày.
Bức thư ngày 3 tháng 3 năm 1959 của ông gửi Nikita Khrushchev, với thông tin về vụ hành quyết 21.857 người Ba Lan cùng đề xuất tiêu hủy các hồ sơ cá nhân của họ, trở thành một trong những tài liệu được lưu giữ và cuối cùng được công khai.
Những tiết lộ của Liên Xô
Từ cuối những năm 1980 về sau đã có sự gia tăng áp lực với cả chính phủ Ba Lan và Liên Xô yêu cầu giải mật các thông tin liên quan tới vụ xử bắn. Viện hàn lâm Ba Lan đã tìm cách đưa vụ Katyn vào trong lịch làm việc của ủy ban hỗn hợp Ba Lan-Liên Xô năm 1987 để điều tra những khoảng thời gian bị kiểm duyệt trong lịch sử Ba Lan-Liên Xô. Năm 1989 các học giả Liên Xô đã tiết lộ rằng quả thực Joseph Stalin đã ra lệnh tiến hành vụ xử bắn, vào năm 1990 Mikhail Gorbachev thừa nhận rằng NKVD đã hành quyết những người Ba Lan và xác nhận hai địa điểm chôn cất tương tự khác ở địa điểm gần Katyn: Mednoye và Piatykhatky.
Ngày 30 tháng 10 năm 1989 Gorbachev đã cho phép một phái đoàn gồm hàng trăm người Ba Lan, được tổ chức bởi hội Các gia đình nạn nhân Katyń, tới thăm đài tưởng niệm Katyn. Nhóm này bao gồm cả cựu Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Zbigniew Brzezinski. Một buổi lễ đã được tổ chức và các biểu ngữ có tên Công đoàn Đoàn kết được dựng lên. Một người tham gia đã dán chữ "NKVD" trên đài tưởng niệm, che đi từ "Phát xít" trong đoạn văn thành "Để tưởng niệm những sĩ quan Ba Lan bị NKVD giết hại năm 1941." Nhiều vị khách đã trèo qua hàng rào của KGB và để những cây nến cháy sáng trên mặt đất. Brzezinski bình luận rằng:
Không phải một nỗi đau cá nhân đã đưa tôi tới đây, bởi đây là trường hợp của hầu hết mọi người có mặt, mà là sự công nhận sự thực mang tính biểu tượng của Katyń. Những người Nga và người Ba Lan, bị tra tấn đến chết, đã yên nghỉ ở đây cùng nhau. Có lẽ điều rất quan trọng với tôi là sự thực phải được nói ra về điều đã diễn ra, bởi chỉ với sự thực giới lãnh đạo mới của Liên Xô mới có thể tách mình khỏi những tội ác của Stalin và NKVD. Chỉ sự thực mới có thể là nền tảng của một tình hữu nghị thực sự giữa người dân Liên Xô và Ba Lan. Sự thực sẽ tự tạo con đường cho riêng nó. Tôi tin vào điều này bởi sự thực rằng tôi đã có thể đến đây.
Brzezinski còn nói thêm:
Sự thực rằng chính phủ Liên Xô đã cho phép tôi có mặt ở đây – và người Liên Xô biết quan điểm của tôi – là biểu tượng của sự chia tách với chủ nghĩa Stalin mà Cải tổ đại diện.
Những lời nói của ông được đưa tin liên tục trên vô tuyến truyền hình Liên xô. Tại buổi lễ ông đã đặt một bó hồng đỏ với dòng chữ viết tay bằng cả tiếng Ba Lan và tiếng Anh: "Cho các nạn nhân của Stalin và NKVD. Zbigniew Brzezinski."
Ngày 13 tháng 4 năm 1990, kỷ niệm lần thứ 47 việc khám phá những hố chôn tập thể, Liên bang Xô viết chính thức bày tỏ sự "hối tiếc sâu sắc" và thừa nhận trách nhiệm của mật vụ Liên Xô. Ngày này được tuyên bố là Ngày Tưởng niệm Katyn trên toàn thế giới ().
Một cuộc điều tra do Văn phòng Trưởng Công tố Liên Xô (1990–1991) và Liên bang Nga (1991–2004) tiến hành, đã xác nhận trách nhiệm của Liên Xô với các vụ xử bắn. Cuộc điều tra đã xác nhận cái chết của 1.803 công dân Ba Lan nhưng từ chối coi hành động này là một tội ác chiến tranh. Cuộc điều tra bị đóng lại, với lý do là những nhân vật thực hiện vụ xử bắn hàng loạt đã chết, và bởi chính phủ Nga không coi những người chết là nạn nhân của cuộc đàn áp của Stalin, việc chính thức khôi phục cho các nạn nhân đã bị loại bỏ. Tổ chức nhân quyền Memorial đã ra một tuyên bố nói rằng "sự chấm dứt điều tra này là không thể chấp nhận" và việc họ chỉ xác nhận 1.803 người bị xử bắn "đòi hỏi sự giải thích bởi mọi người đều thừa nhận rằng có hơn 14.500 người đã bị xử bắn." Tháng 11 năm 2010, Duma Quốc gia Nga đã thông qua một tuyên bố lên án I. V. Stalin và các quan chức Liên Xô khác vì đã ký lệnh thực hiện vụ xử bắn hàng loạt.
Những diễn biến thời hậu Liên Xô
Nga và Ba Lan tiếp tục chia rẽ về cách miêu tả pháp lý cho vụ xử bắn Katyn. Người Ba Lan coi đó là một vụ diệt chủng và yêu cầu những cuộc điều tra thêm nữa, cũng như việc giải mật hoàn toàn các tài liệu thời Xô viết.
Sau khi người Ba Lan và người Mỹ khám phá thêm bằng chứng năm 1991 và 1992, Tổng thống Nga Boris Yeltsin đã giải mật các tài liệu tối mật thuộc "Gói №1" và chuyển chúng tới Tổng thống mới của Ba Lan Lech Wałęsa, Trong số các tài liệu có một bản đề xuất của Lavrenty Beria, ngày 5 tháng 3 năm 1940, để hành quyết 25.700 người Ba Lan từ các trại Kozelsk, Ostashkov và Starobels, và từ một số nhà tù ở Tây Ukraina và Belarus, được Stalin (cùng những người khác) ký. Tài liệu khác được chuyển cho người Ba Lan là bức thư ngày 3 tháng 3 năm 1959 của Aleksandr Shelepin gửi Nikita Khrushchev, với thông tin về vụ hành quyết 21.857 người Ba Lan, cũng như một đề xuất tiêu hủy các hồ sơ cá nhân của họ để giảm nguy cơ các tài liệu về vụ xử bắn bị phát hiện sau này. Những phát hiện cũng được công bố trên báo chí Nga, nơi chúng được thể hiện như một trong những chủ đề của cuộc cạnh trạnh quyền lực đang diễn ra giữa Yeltsin và Gorbachev.
Năm 1991, Trưởng Công tố Quân đội Liên bang Xô viết bắt đầu tố tụng chống lại P.K. Soprunenko vì vai trò của ông trong vụ xử bắn Katyn, nhưng cuối cùng đã hủy bỏ truy tố vì Soprunenko đã 83 tuổi, hầu như mù, và vừa hồi phục sau một cuộc phẫu thuật ung thư. Trong khi hỏi cung, Soprunenko đã bảo vệ mình bằng cách bác bỏ chữ ký của mình. Tháng 6 năm 1998, Yeltsin và Aleksander Kwaśniewski đồng ý xây dựng một khu phức hợp tưởng niệm tại Katyn và Mednoye, hai địa điểm hành quyết của NKVD trên lãnh thổ Nga. Tuy nhiên, vào tháng 9 năm ấy Nga cũng nêu ra vấn đề các tù binh chiến tranh Nga chết tại các trại tù binh Nga và người Nga bị giam giữ tại Ba Lan (1919–1924). Khoảng 16.000 tới 20.000 tù binh chiến tranh đã chết tại các trại đó vì các bệnh lây truyền. Một số quan chức Nga cho rằng 'so với vụ Katyn đó cũng là một cuộc diệt chủng'. Một tuyên bố tương tự được đưa ra năm 1994; những nỗ lực như vậy bị một số người, đặc biệt tại Ba Lan coi là một nỗ lực mang ý nghĩa khiêu khích của Nga để tạo ra một vụ 'phản Katyn' và một sự 'cân bằng phương trình lịch sử'.
Trong chuyến thăm của Kwaśniewski tới Nga vào tháng 9 năm 2004, các quan chức Nga thông báo rằng họ muốn chuyển tất cả thông tin về vụ xử tử ở Katyn cho chính quyền Ba Lan ngay khi chúng được giải mật. Tháng 3 năm 2005 Văn phòng Trưởng Công tố Liên bang Nga kết luận một vụ điều tra đã kéo dài một thập kỷ về vụ xử bắn. Trưởng Công tố Quân đội Alexander Savenkov thông báo rằng cuộc điều tra đã có thể kết luận cái chết của 1.803 người trong số 14.542 công dân Ba Lan bị xem là đã bị kết án tử hình ở ba trại giam của Liên Xô. Ông không đề cập tới số phận của 7.000 nạn nhân, những người không ở trong các trại giam giữ tù binh chiến tranh, mà trong các nhà tù. Savenkov đã tuyên bố rằng vụ xử bắn không phải là một sự diệt chủng, rằng các quan chức Liên xô bị kết án có tội trong vụ việc đã chết và rằng, vì thế "hoàn toàn không có cơ sở để đàm phán về nó theo các thuật ngữ pháp lý ". 116 trong số 183 tập hồ sơ được thu thập trong cuộc điều tra của Nga, bị tuyên bố có chứa các bí mật quốc gia và bị giữ kín.
Ngày 22 tháng 3 năm 2005 Sejm (Hạ viện) Ba Lan nhất trí thông qua một đạo luật yêu cầu giải mật các tài liệu của Nga. Sejm cũng yêu cầu Nga xem vụ xử bắn hàng loạt ở Katyn là một tội ác diệt chủng. Nghị quyết nhấn mạnh chính quyền Nga "tìm cách gỡ bỏ gánh nặng của tội ác bằng cách từ chối thừa nhận nó là một sự diệt chủng và không cho tiếp cận các hồ sơ điều tra về vụ việc, khiến khó xác định toàn bộ sự thật về vụ giết hại và những kẻ gây ra nó." Năm 2008, Bộ trưởng Ngoại giao Ba Lan yêu cầu Nga về cái gọi là hình ảnh về nhữung vụ xử bắn được NKVD quay lại trong các vụ thi hành án. Các quan chức Ba Lan tin rằng những thước phim tài liệu này cũng như các tài liệu khác thể hiện sự hợp tác giữa Liên xô và Đức trong các chiến dịch, là lý do để Nga quyết định bảo mật hầu hết tài liệu về vụ xử bắn. Tháng 6 năm 2008, các tòa án Nga đã đồng ý nghe xét xử một vụ về việc giải mật các tài liệu về vụ Katyn và việc phục hồi pháp lý cho các nạn nhân. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn với một tờ báo Ba Lan, Vladimir Putin đã gọi Katyn là một "tội ác chính trị."
Ngày 4 tháng 2 năm 2010 Thủ tướng Nga, Vladimir Putin, đã mời người đồng cấp Ba Lan, Donald Tusk, tham giữ một cuộc tưởng niệm Katyn vào tháng 4. Chuyến viếng thăm diễn ra ngày 7 tháng 4 năm 2010, khi Tusk và Putin cùng kỷ niệm lần thứ 70 ngày diễn ra vụ thảm sát. Trước chuyến thăm, bộ phim Katyń năm 2007 lần đầu tiên được chiếu trên truyền hình Nga. Tờ The Moscow Times bình luận rằng việc bộ phim lần đầu được chiếu ở Nga dường như là kết quả của một sự can thiệp của Putin.
Ngày 10 tháng 4 năm 2010, chiếc máy bay chở Tổng thống Ba Lan Lech Kaczyński cùng phu nhân và 87 chính trị gia và các sĩ quan cao cấp khác đâm xuống đất tại Smolensk, làm thiệt mạng toàn bộ 96 người trên máy bay. Các hành khách đang trên đường tới dự một lễ tưởng niệm 70 năm vụ xử bắn ở Katyn. Đất nước Ba Lan choáng váng; Thủ tướng Donald Tusk, người không ở trên máy bay, gọi đây là "sự kiện bi thảm nhất của Ba Lan từ cuộc chiến tranh." Sau đó, một số giả thuyết âm mưu bắt đầu lan truyền. Thảm họa cũng gây tiếng vang lớn trên thế giới và đặc biệt là trên báo chí Nga, dẫn tới việc chiếu lại Katyń trên truyền hình Nga. Tổng thống Ba Lan, Lech Kaczyński dự định có bài diễn văn tại các buổi lễ tưởng niệm chính thức. Bài diễn văn để vinh danh cách nạn nhân, nêu lên tầm quan trọng của các vụ xử bắn trong bối cảnh lịch sử chính trị cộng sản thời hậu chiến, cũng như nhấn mạnh trên nhu cầu giúp hòa giải quan hệ Ba Lan-Nga. Dù bài diễn văn không bao giờ được đọc, nó đã được xuất bản với một bài tường thuật trong phiên bản gốc tiếng Ba Lan và một bản dịch bằng tiếng Anh.
Ngày 21 tháng 4 năm 2010, có thông báo rằng Tòa án Tối cao Nga đã ra lệnh cho Tòa án Thành phố Moskva xét xử phúc thẩm một vụ việc pháp lý đang diễn ra về Katyn. Một nhóm nhân quyền, Memorial, nói rằng sự chi phối có thể dẫn tới một quyết định của tòa án công bố các tài liệu mật cung cấp thông tin về hành động xử bắn hàng nghìn sĩ quan Ba Lan. Ngày 8 tháng 5 năm 2010, Nga đã chuyển cho 67 tập "hồ sơ tội phạm Số.159," được đưa ra trong những năm 1990 để điều tra hành động xử bắn hàng loạt các sĩ quan Ba Lan thời Liên Xô. Các bản sao của 67 tập, mỗi tập 250 trang, được đóng trong sáu hộp. Mỗi hộp nặng xấp xỉ 12 kg (26.5 lbs), tổng trọng lượng hồ sơ khoảng 70 kg (153 lbs). Tổng thống Nga Dmitry Medvedev đã giao một trong các tập cho Tổng thống tạm quyền, Bronislaw Komorowski. Medvedev và Komorowski đồng ý rằng hai quốc gia nên tiếp tục các nỗ lực của mình nhằm tìm ra sự thực của tấn thảm kịch. Tổng thống Nga nhấn mạnh rằng Nga sẽ tiếp tục giải mật các hồ sơ về vụ xử bắn Katyn. Tổng thống tạm quyền của Ba Lan nói rằng hành động của Nga có thể tạo một nền móng tốt để cải thiện quan hệ song phương.
Tháng 11 năm 2010, Duma Quốc gia (hạ viện Nga) đã thông qua một nghị quyết tuyên bố rằng các tài liệu từ lâu đã bị giữ bí mật "cho thấy rằng tội ác Katyn được tiến hành theo các chỉ thị trực tiếp của Stalin và các quan chức Nga khác". Tuyên bố cũng kêu gọi tiếp tục điều tra vụ xử bắn nhằm xác định danh sách các nạn nhân. Các thành viên Duma thuộc Đảng Cộng sản bác bỏ rằng Liên bang Xô viết đã bị buộc tội về vụ xử bắn ở Katyn và bỏ phiếu chống lại tuyên bố. Ngày 6 tháng 12 năm 2010, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev hứa hẹn toàn bộ sự thực về vụ xử bắn, tuyên bố rằng "Gần đây Nga đã thực hiện một số hành động chưa từng có nhằm xóa bỏ hoàn toàn di sản của quá khứ. Chúng tôi sẽ tiếp tục theo hướng này."
Năm 2011, Tòa án Nhân quyền châu Âu tuyên bố có thể chấp nhận hai khiếu nại của người thân các nạn nhân vụ xử bắn chống lại Nga liên quan tới sự điều tra thích đáng..
Các ý kiến tranh cãi về vụ thảm sát Katyn
Cho tới năm 2007 một số chính trị gia, nhà bình luận và các đảng viên Đảng Cộng sản Nga ủng hộ Liên Xô vẫn tiếp tục bác bỏ mọi cáo buộc đối với Liên Xô, họ cho rằng các tài liệu được giải mật là tài liệu giả, và nhấn mạnh quan điểm ban đầu của Liên Xô – các tù nhân Ba Lan bị người Đức giết năm 1941 – là đúng. Cuối năm 2007 và đầu năm 2008, nhiều báo chí Nga, gồm cả tờ Rossiyskaya Gazeta, Komsomolskaya Pravda và Nezavisimaya Gazeta đưa ra các câu chuyện ám chỉ Phát xít Đức phải chịu trách nhiệm về vụ xử bắn chứ không phải Liên Xô. Một số học giả có cách nghĩ khác như Yuriy Murkhin đã xuất bản tác phẩm "Bí ẩn vụ giết người Katyn" (1995), trong đó tuyên bố rằng "gói tài liệu mật số 1" do chính phủ Nga công bố năm 1992 là giả mạo. Murkhin và các đồng sự đã tiếp tục xuất bản những bài viết khác có hướng đi tương tự. Ý kiến này nhận được sự ủng hộ của những người cánh tả tại Nga.
Không nhiều nhà nghiên cứu ở phương Tây cũng ủng hộ các quan điểm trên, như trong cuốn sách "The War Against the Working Class" (Cuộc chiến chống lại giới cần lao) của Will Podmore, dẫn lại nghiên cứu của giáo sư văn học Grover Furr cho rằng Bộ trưởng tuyên truyền Đức là Goebbel viết trong nhật ký: "Thật không may là các viên đạn của Đức đã được tìm thấy trong các ngôi mộ tại Katyn. Điều này phải được giữ tuyệt đối bí mật". Theo như Podmore viết trong cuốn sách này thì các viên đạn tìm thấy trong các ngôi mộ phần lớn là loại 7,65mm của Đức, một số khác là đạn 9mm, nhưng Liên Xô không có cỡ đạn này cho tới sau thế chiến. Viên tướng chống Xô viết người Ba Lan là Wladyslau Anders cũng công nhận rằng các thi thể bị bắn bởi đạn của Đức và không có những viên đạn của Liên Xô được dùng. Cuộc khai quật năm 2011-2012 của Ba Lan và Ucraina tìm ra rằng phần lớn các viên đạn tại hiện trường là đạn của Đức, và chúng không có sớm hơn năm 1941. Các bằng chứng này cho thấy vụ xử bắn là do Đức tiến hành, không phải Liên Xô Trong chính tài liệu gốc, Grover Furr còn cho rằng cách diễn dịch "chính thức" về sự kiện Katyn hàm chứa nhiều vấn đề, và ông này còn kết luận là chỉ có một phần nhỏ các tù binh Ba Lan đúng là bị Liên Xô xử bắn và có thể là những người này có thể đã bị Liên Xô trừng trị vì tham gia vào các hoạt động đàn áp chủ nghĩa cộng sản, đàn áp người Belarus, Ukraina, và ngược đãi tù binh Hồng quân. Một số khác chỉ bị chuyển đi giam giữ trong các trại cải tạo, phần lớn tù binh còn lại đã bị quân Đức bắt giết khi phát xít Đức xâm lược Liên Xô năm 1941; và Furr còn cho rằng bức thư Beria gửi Stalin là giả.
Trong văn học và nghệ thuật
Thảm sát Katyn là một chủ đề trong nhiều bộ phim, tác phẩm văn học và nghệ thuật. Ví dụ, nó là cốt truyện cho tiểu thuyết The Lieutenants (Trung úy) của W.E.B. Griffin, là một phần của tập sách Brotherhood of War (Tình anh em của Chiến tranh) cũng như trong tiểu thuyết Enigma (Điều bí ẩn) của Robert Harris và bộ phim cùng tên. Rag and Bone (loạt truyện Billy Boyle) của James R. Benn cũng sử dụng vụ Thảm sát Katyn làm cốt truyện. Nhà thơ người Ba Lan Jacek Kaczmarski đã dành một trong những thơ hát (sung poetry) của mình cho sự kiện này. Trong một tuyên bố chính trị liều lĩnh thời điểm cao điểm Chiến tranh Lạnh, nhà đạo diễn và biên kịch người Serb Dušan Makavejev đã sử dụng đoạn phim nguyên bản của Phát xít trong bộ phim Sweet Movie năm 1974 của mình. Nhà soạn nhạc người Ba Lan Andrzej Panufnik đã viết một bản phổ năm 1967 gọi là "Văn bia Katyn" để tưởng nhớ vụ thảm sát.
Năm 2000, nhà làm phim người Mỹ Steven Fischer đã sản xuất một thông báo công cộng với tựa đề Silence of Falling Leaves (Sự im lặng của lá rơi) vinh danh những binh sĩ đã ngã xuống, gồm cả hình ảnh những chiếc lá mùa thu rơi rụng với một đoạn nhạc và tường thuật bằng tiếng Ba Lan của nghệ sĩ Bożena Jędrzejczak sinh ra tại Warszawa. Nó đã được một đề cử cho giải Emmy.
Người nhận Giải Oscar danh dự năm 1999, nhà đạo diễn phim người Ba Lan Andrzej Wajda, người có cha là Đại úy Jakub Wajda, bị xử bắn trong nhà tù của NKVD ở Kharkiv, đã thực hiện một bộ phim thể hiện sự việc, Katyn. Bộ phim tập trung vào số phận của một số người mẹ, người vợ và con gái của các sĩ quan Ba Lan bị người Liên Xô xử bắn. Một số cảnh rừng Katyn được dựng lại. Kịch bản dựa trên cuốn sách Post mortem—the Katyn story của Andrzej Mularczyk. Bộ phim được sản xuất bởi Akson Studio, và giới thiệu tại Ba Lan ngày 21 tháng 9 năm 2007. Bộ phim đã được đề cử Academy Award năm 2008 cho mục Phim nước ngoài hay nhất.
Năm 2008, nhà sử học người Anh Laurence Rees đã sản xuất loạt phim tài liệu truyền hình thời lượng 6 giờ cho BBC/PBS với tiêu đề Thế chiến II Phía sau những cánh cửa đóng: Stalin, Phát xít và phương Tây. Thảm sát Katyn là chủ đề trung tâm của phim.
Đài tưởng niệm
Nhiều đài tưởng niệm vụ thảm sát đã được dựng lên trên khắp thế giới. Trong Chiến tranh Lạnh, chính phủ Anh phản đối các kế hoạch xây dựng một đài tưởng niệm chính cho vụ thảm sát Katyn tại Anh Quốc. Liên bang Xô viết không muốn vụ thảm sát Katyn được nhớ tới, và đã yêu cầu chính phủ Anh ngăn cản việc dựng đài tưởng niệm. Chính phủ Anh không muốn tạo sự thù địch với người Liên Xô, và việc dựng tượng đài đã bị hoãn lại trong nhiều năm. Khi cộng đồng địa phương có được quyền dựng tượng đài, không một đại diện nào của chính phủ có mặt tại buổi lễ (dù đại diện của Đảng Bảo thủ đối lập có mặt). Một công trình tưởng niệm cuối cùng được khánh thành ngày 18 tháng 9 năm 1976 tại Nghĩa trang Gunnersbury trong sự tranh cãi. Đài tưởng niệm khác tại Anh Quốc được dựng lên ba năm sau đó, năm 1979, tại Cannock Chase, Staffordshire.
Tại Nga, năm 2000, đài tưởng niệm tại nghĩa trang chiến tranh Katyn được khai trương. Trước đó, địa điểm này là một công trình tưởng niệm "các nạn nhân của Hitler". Tại Canada, một công trình điêu khắc lớn bằng kim loại được dựng lên tại cộng đồng người Ba Lan ở Roncesvalles, Toronto, Ontario, để tưởng nhớ các vụ xử bắn. Tại Nam Phi, một đài tưởng niệm ở Johannesburg tưởng nhớ các nạn nhân vụ Katyn cũng như các phi công Nam Phi và Ba Lan đã thực hiện các phi vụ thả đồ tiếp tế cho cuộc Cuộc nổi dậy Warszawa.
Tại Wrocław, Ba Lan, một tác phẩm của nhà điêu khắc Ba Lan Tadeusz Tchórzewski được dành cho các tù binh bị xử bắn tại Katyń. Được khai trương năm 2000, nó nằm trong một công viên phía đông trung tâm thành phố, gần tòa nhà Racławice Panorama. Nó thể hiện 'Người mẹ Tổ quốc' tuyệt vọng trên thi thể một người lính đã chết, trong khi trên một bệ cao hơn thần chết đang hiện ra, tựa về phía trước trên một thanh kiếm.
Tại Hoa Kỳ, một bức tượng vàng, được gọi là Tưởng niệm Thảm sát Katyn Quốc gia, nằm ở Baltimore, Maryland, trên Phố Aliceanna tại Inner Harbor East. Người Mỹ gốc Ba Lan tại Detroit đã dựng một bức tượng tưởng niệm nhỏ bằng đá trắng theo hình một cây thập tự với một tấm bảng tại Nhà thờ Công giáo Rôma St. Albertus.
Một bức tượng, Đài tưởng niệm Katyń, tưởng nhớ vụ thảm sát đã được dựng lên tại Exchange Place trên Sông Hudson ở Thành phố.
Các công trình tưởng niệm khác nằm ở Doylestown, Pennsylvania và Niles, Illinois.
Tại Ukraina, một khu phức hợp tưởng niệm được xây dựng để tưởng niệm hơn 4.300 sĩ quan là nạn nhân vụ xử bắn Katyn bị xử bắn ở Pyatykhatky, 14 kilômét/8,7 dặm về phía bắc Kharkiv ở Ukraina; khu phức hợp nằm ở một góc của khu nghỉ dưỡng cũ cho các sĩ quan NKVD. Trẻ em đã phát hiện ra hàng trăm cúc áo sĩ quan trong khi vui chơi trên khu vực này. |
Trần Quốc Vượng (12 tháng 12 năm 1934 – 8 tháng 8 năm 2005) là một giáo sư, nhà sử học, nhà khảo cổ học Việt Nam.
Tiểu sử
Ông sinh tại huyện Kinh Môn, Hải Dương nhưng quê quán ở thôn Lê Xá, xã Châu Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Sau khi tốt nghiệp thủ khoa cùng với Phan Huy Lê, Đinh Xuân Lâm năm 1956 ông được giữ lại làm cán bộ giảng dạy tại Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội).
1956-1980 ông là Cán bộ giảng dạy Cổ sử Việt Nam, Khoa Sử, Đại học Tổng hợp
1959 ông là Trưởng nhóm/ Trưởng môn Khảo cổ học, Khoa Sử, Đại học Tổng hợp
1980-1993 ông là Giáo sư, Chủ nhiệm Bộ môn Khảo cổ học, Khoa Sử, Đại học Tổng hợp
1989-2005 ông trở thành Nhà giáo Ưu tú, Giám đốc Trung tâm Liên Văn hoá - Lịch sử Khoa Sử, Đại học Tổng hợp
1993-1996 Trưởng môn Văn hoá học, Đại học Đại cương, Đại học Quốc gia Hà Nội
1993-1996 Trưởng ngành Du lịch học, Đại học Tổng hợp
1996-2005 Chủ tịch Hội đồng Khoa học và đào tạo, Khoa Du lịch, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử Văn hoá Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Ngày 22 tháng 9 năm 2003 ông lập gia đình lần thứ hai với người vợ trẻ kém ông gần 30 tuổi (sinh năm 1963). Người vợ trước của ông đã mất trước đó khá lâu.
Tứ trụ sử học Việt Nam đương đại
Ông được xem là một trong "tứ trụ" "Lâm, Lê, Tấn, Vượng" (tức gồm các Giáo sư Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn và Trần Quốc Vượng) của sử học Việt Nam đương đại. Theo lời giải thích của chính ông, đó là chuyện huyền thoại có lẽ hình thành vào cuối thập kỷ 1960, khi cả bốn ông đều nổi tiếng học giỏi. Ra trường vào giữa thập kỷ 1950, ba ông "Lâm, Lê, Vượng" học cùng khoá, còn ông "Tấn" học sau (thủ khoa năm 1957). Sau đó, theo lệnh của khoa, ông và giáo sư Hà Văn Tấn góp sức xây dựng ngành Khảo cổ học của khoa Sử, vì sau năm 1954, khi Pháp rút khỏi Việt Nam thì ngành Khảo cổ Việt Nam hầu như chỉ còn là con số 0, không có một nhà khảo cổ học nào. Ông đã lên lớp đầu tiên về Khảo cổ học Việt Nam niên khoá 1959 – 1960, cùng với sự giúp đỡ tư liệu của giáo sư Hà Văn Tấn.
Tác phẩm
Ông đã viết nhiều bài nghiên cứu khoa học (trên 400 bài) đăng trên các tạp chí chuyên môn trong nước (Khảo cổ, Lịch sử, Văn học, Văn hoá Dân gian, Văn hoá Nghệ thuật...) và ngoài nước (Cornell University Press, North Ilinois, Yale University (Mỹ), Tokyo, Kyoto, Osaka University (Nhật), Seoul University (Hàn Quốc), Oxford University Press (Anh)…). Ngoài ra, ông đã viết và được in ấn nhiều sách (trên 40 cuốn) ở cả trong và ngoài nước, có thể kể đến như:
Việt Nam khảo cổ học (tiếng Nhật, Tokyo, 1993)
Trong cõi (California, 1993)
Theo dòng lịch sử (1995)
Some aspects of Vietnam culture (Mỹ, 1995)
Tìm hiểu văn hoá dân gian Hà Nội (1997)
Việt Nam, cái nhìn địa văn hoá (1998)
Vietnam folklore and history (Mỹ, North Ilinois, 1998)
Essay into the Vietnam past (New York, Mỹ, 1999)
Ngành nghề, tổ nghề, làng nghề Việt Nam (1999)
Làng nghề, phố nghề Thăng Long, Hà Nội (2000)
Văn hoá Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm (2000)
Trên mảnh đất nghìn năm văn vật (2001)
Tìm hiểu bản sắc văn hoá xứ Huế (2001)
Confusianism in East Asia (Seoul, Hàn Quốc, 2001)
Khoa Sử và tôi (2001)
Tìm hiểu bản sắc văn hoá xứ Quảng (2002)
Tìm hiểu bản sắc văn hoá dân gian Nam Bộ (2004)
Hà Nội như tôi hiểu (2005)
Con người – Môi trường – Văn hoá (2005)
Hoạt động gây tranh cãi
Trần Quốc Vượng đã đưa các kết luận của mình về Các bãi cọc trên sông Bạch Đằng vào bài giảng của mình ở môn Cơ sở khảo cổ học. Những năm 1960, Việt Nam đã gửi mẫu nhờ các nhà khoa học Cộng hòa dân chủ Đức và Trung Quốc giám định niên đại các cọc gỗ Bạch Đằng bằng phương pháp C14. Kết quả là tuổi các cọc gỗ ấy không trùng với sự kiện lịch sử xảy ra được ghi lại bởi sử liệu chữ viết. Theo ông Lê Văn Sinh, nguyên giảng viên bộ môn Phương pháp luận sử học tại khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, đó là một sai lầm kinh điển trong môi trường học thuật Lịch sử ở Việt Nam.
Trần Quốc Vượng cũng bị phê phán sai lầm khi dùng thuật ngữ thời đại đồng thau trong sách do ông biên soạn, cụ thể là quyển Giáo trình Lịch sử Việt Nam tập 1 (Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H.1991; các tác giả: Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Lương Ninh) . Theo tác giả Lê Mạnh Chiến: Sai lầm này là một “công trình tập thể”, trong đó có đóng góp to lớn của các GS Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê… Chính các ông đã rao giảng nó, truyền bá nó, tự hào về nó và ra sức bảo vệ nó. Cụm từ này được sử dụng để dịch cho khái niệm Bronze Age (thời đại đồ đồng) theo lý thuyết phân kỳ ba giai đoạn Đồ đá - Đồ đồng - Đồ sắt do nhà khảo cổ học Đan Mạch Christian Jürgensen Thomsen đề xướng. Tuy nhiên, điểm cần nhắc tới là khi chuyển ngữ, một vấn đề mà ngay cả các nhà khảo cổ học và bảo tàng học trên thế giới cũng vấp phải là sự không rạch ròi giữa Bronze (đồng điếu, đồng thanh) và Brass (đồng thau) trong các văn bản cổ. Chính vì vậy, Bảo tàng Anh cũng phải chú thích rằng, do hai thuật ngữ hay được sử dụng chồng chéo với cùng ý nghĩa là hợp kim của đồng, các hiện vật nên được sắp xếp theo cách hiểu là Hợp kim của đồng (copper alloy) hơn là nêu đích danh đồng điều/thanh hay đồng thau (đơn cử như trong Bộ sưu tập danh tiếng Đồ đồng điếu Benin (Benin Bronzes), phần lớn hiện vật lại chế tác bằng đồng thau).
Các hoạt động khác
- Tổng Thư ký Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội (từ 1976 đến 2005)
- Phó Tổng Thư ký Hội Văn hoá Văn nghệ Dân gian Việt Nam (từ 1989 đến 2005)
- Chủ tịch Hội Sử học Hà Nội (từ 1990 đến 1996)
- Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Sử học Việt Nam (từ 1993 đến 2005)
- Chủ tịch Câu lạc bộ Ngành nghề thủ công truyền thống
- Chủ nhiệm câu lạc bộ Văn hoá Ẩm thực Việt Nam (từ 1995 đến 2005)
- Cố vấn Bộ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin về Chương trình thiết kế - tu bổ - tôn tạo các di tích lịch sử (từ 1995 đến 2005)
- Tư vấn Uỷ ban nhân dân Hà Nội về các di tích lịch sử Hà Nội và Chương trình "Ngàn năm Thăng Long" (từ 1995 đến 2005)
- Uỷ viên Hội đồng tư vấn của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam về Khu di tích Hoàng thành Thăng Long (2003-2004)
Khen thưởng
Ông đã được Chính phủ Việt Nam tặng Huân chương Lao động hạng Nhất (1997) và rất nhiều Huân Huy chương khác.
Ngày 20 tháng 1 năm 2012, ông được Chủ tịch nước ký quyết định truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt IV về Khoa học - công nghệ với cụm công trình Văn hóa Việt Nam: Truyền thống và Hiện đại gồm 3 tác phẩm: Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và Suy ngẫm, Việt Nam cái nhìn Địa - Văn hóa, Trên mảnh đất ngàn năm văn vật .
Vinh danh
Tên ông được đặt cho một phố ở quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, đoạn từ ngã ba giao cắt với đường Xuân Thủy (tại số nhà 165) đến ngã ba giao cắt đường Phạm Hùng (đối diện Bệnh viện Y học Cổ truyền), dài 750 m, rộng 13,5 m.
Tên ông cũng được đặt cho một phố tại Khu đô thị Liêm Chính, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, dài 1000 m, rộng 18 m, đoạn từ điểm giao cắt phố Trần Quang Tặng đến đoạn giao cắt với đường 68 m.
Theo Nghị quyết số 120/2017/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng khóa IX ngày 7 tháng 12 năm 2017, tên ông được đặt cho đoạn đường từ đường Đào Duy Tùng đến giáp đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, thuộc khu đô thị Phú Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn, chiều dài 1.260m.
Theo Nghị quyết 04/2020/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Nam khoá XVIII ngày 12 tháng 5 năm 2020, tên ông được đặt cho đoạn đường từ Tuyến D4, KĐT Hòa Mạc (phố Cao Bá Quát) tới Tuyến D1, KĐT Hòa Mạc (phố Lê Quý Đôn), thuộc phường Hòa Mạc, thị xã Duy Tiên, dài 561m, rộng 24m.
Chú thích |
Sol, còn gọi là dung dịch keo, là một hệ phân tán các hạt rắn kỵ dung môi có kích thước từ 1 đến 1000 nanômét trong một chất lỏng, có thể được tạo thành từ một huyền phù hay bằng cách ngưng kết. Các kỹ thuật huyền phù bao gồm cả việc nghiền nát chắt rắn trong một máy nghiền. Ngưng kết hay các phương pháp kết tủa dùng chất kết tủa (muối) hay thay đổi nhiệt độ để các hạt keo chuyển từ trạng thái dung dịch sang trạng thái hệ keo. Người ta dùng các chất tạo huyền phù để tăng độ bền cho sol. Một hình ảnh để ta có thể dễ hình dung đó là "Sự hình thành chân giả" ở Tế bào, khi di chuyển bằng cách này (trườn) tế bào chất có sự chuyển đổi từ dạng sol sang dạng gel (nguồn Cambell ver.8th) |
William Jefferson Clinton (tên khai sinh là William Jefferson Blythe III) sinh ngày 19 tháng 8 năm 1946, là Tổng thống thứ 42 của Hoa Kỳ từ năm 1993 đến năm 2001. Trước khi vào Nhà Trắng, Clinton đã phục vụ hai nhiệm kỳ thống đốc tiểu bang Arkansas.
Clinton được xem là thuộc cánh Tân Dân chủ có khuynh hướng trung dung trong Đảng Dân chủ. Có nhiều nhãn hiệu được gán cho ông như "ôn hòa" hoặc "trung dung", nhưng chính xác hơn, có lẽ ông nên được xem là người của quần chúng (populist). Suốt trong nhiệm kỳ của mình, ưu tiên hàng đầu của Tổng thống trong các vấn đề trong nước là thúc đẩy thông qua các đạo luật nâng cấp giáo dục, hạn chế bán súng ngắn, củng cố các quy định về môi trường và bảo vệ việc làm cho các cá nhân cần nghỉ hộ sản hoặc nghỉ bệnh. Trên trường quốc tế, ông thiết lập ưu tiên cho nỗ lực giảm thiểu hàng rào mậu dịch giữa các quốc gia, và làm trung gian hòa giải cho các cuộc tranh chấp tại Bắc Ireland và Trung Đông (giữa Israel và Palestine). Nhằm tìm kiếm sự ủng hộ từ giới bảo thủ, Clinton đưa vào danh mục các ưu tiên cuộc chiến chống ma tuý và án tử hình. Năm 1996, chính phủ Clinton một mình phủ quyết việc tái bổ nhiệm tổng thư ký Liên hiệp quốc Boutros Boutros-Ghali.
Là Tổng thống trẻ tuổi thứ ba trong lịch sử Hoa Kỳ và là người đầu tiên thuộc thế hệ Baby Boomer (sinh trong thời gian 1946–1964), nhiệm kỳ Tổng thống của Clinton đánh dấu sự chuyển giao quyền lực từ thế hệ các Tổng thống tiền nhiệm là cựu binh Chiến tranh thế giới thứ hai, và là những người chứng kiến sự khởi đầu của cuộc Chiến tranh Lạnh trong thập niên 1950.
Nhiệm kỳ của Clinton cũng được đánh dấu bởi mối quan hệ thù địch với Đảng Cộng hòa đang kiểm soát Quốc hội. Ông cũng là mục tiêu của một loạt các cuộc điều tra tiến hành bởi công tố viên độc lập được bổ nhiệm bởi quốc hội, như vụ Whitewater, khi một vài phụ tá của ông bị truy tố về những tội danh mà gia đình Clinton không dính líu, Clinton cũng được tuyên bố vô tội trong vụ tai tiếng Whitewater. Ông là người thứ hai trong số các Tổng thống Hoa Kỳ bị đem ra luận tội về các tội danh man khai và ngăn cản công lý trước một đại bồi thẩm đoàn do cung cách hành xử của ông trong mối quan hệ tình cảm với Monica Lewinsky. Vụ bê bối về tình cảm này của ông đã bị Kenneth Starr – một công tố viên độc lập phanh phui, nhưng cuối cùng ông được tha bổng bởi Thượng viện.
Một trong những đặc điểm nổi trội nhất trong giai đoạn cầm quyền của Clinton là thời kỳ bùng nổ kinh tế lâu dài nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, có lẽ được cấu thành bởi các nhân tố như cơn sốt tăng giá tại thị trường chứng khoán, chiến dịch gìn giữ hòa bình của NATO trong cuộc chiến Kosovo, và sự chuyển đổi ngoạn mục từ mức thâm hụt ngân sách khoảng 250 tỷ đô la vào lúc bắt đầu nhiệm kỳ Tổng thống, trở nên thặng dư ngân sách vào khoảng 523 tỷ vào cuối nhiệm kỳ của ông.
Thời thơ ấu
giữa|nhỏ|Bill Clinton khi còn là một cậu bé.
Clinton chào đời với tên William Jefferson Blythe III tại Hope, tiểu bang Arkansas và lớn lên tại Hot Spring, Arkansas. Clinton được đặt tên theo tên cha, William Jefferson Blythe Jr., một người chào hàng lưu động, qua đời trong một tai nạn xe hơi tại hạt Scott, tiểu bang Missouri, ba tháng trước khi con trai của ông chào đời. Mẹ ông, Virginia Dell Cassidy, tái hôn vào năm 1950 với Roger Clinton. Billy được nuôi dưỡng bởi mẹ và cha kế, sử dụng họ Clinton cho mình suốt những năm tiểu học, nhưng không chịu chính thức đổi họ cho đến năm 14 tuổi. Cậu bé lớn lên trong một gia đình truyền thống, nhưng cha kế của cậu, nghiện cả rượu và cờ bạc, thường ngược đãi mẹ cậu, và đôi khi, cả người em cùng mẹ khác cha với cậu, Roger Clinton, Jr..
Năm 1963, xảy ra hai sự kiện khiến Clinton quyết định trở thành người của công chúng. Đó là khi cậu được chọn vào đoàn học sinh trung học đến thăm Nhà Trắng và gặp Tổng thống John F. Kennedy. Sự kiện thứ hai là khi cậu nghe bài diễn văn "Tôi có một giấc mơ" của Martin Luther King, Jr. đọc trong cuộc Tuần hành vì Tự do và Việc làm tại Washington, D.C..
Tiểu bang Arkansas
Clinton theo học tại trường ngoại giao Edmund A. Walsh thuộc Đại học Georgetown tại Washington, D.C., tại đây Clinton làm việc cho thượng nghị sĩ J. William Fulbright, rồi giành được học bổng Rhodes để theo học tại Đại học Oxford. Trở về từ Oxford, Clinton đến học tại trường luật thuộc Đại học Yale, nơi ông gặp người bạn cùng lớp và sau này là vợ của ông, Hillary Rodham.
Sau khi tốt nghiệp từ Yale, Clinton về dạy môn luật tại Đại học Arkansas. Trong thời gian này, ông ra tranh cử dân biểu năm 1974, đối đầu với John Paul Hammerschmidt, một dân biểu đương nhiệm, và thất cử. Năm 1976, ông được bầu làm bộ trưởng tư pháp tiểu bang Arkansas; hai năm sau, năm 1978, ông đắc cử thống đốc tiểu bang Arkansas, trở thành thống đốc tiểu bang trẻ tuổi nhất vào lúc ấy, và là người trẻ tuổi nhất từng được bầu vào chức vụ thống đốc kể từ năm 1938. Nhiệm kỳ đầu của ông sa lầy trong nhiều khó khăn như kế hoạch thuế đánh trên xe hơi rất mất lòng dân, và sự phẫn nộ của công luận về vụ đào thoát vào năm 1980 của các tù nhân Cuba (là các thuyền nhân đến nước Mỹ trong đợt Mariel boatlift) bị giam giữ tại nhà tù Fort Chafee. Thêm vào đó, quyết định của Hillary Rodham duy trì họ của bà khi đang là Phu nhân Thống đốc một bang có truyền thống bảo thủ như Arkansas đã gây ra nhiều bực tức ở đây. Cuối cùng, Hillary cũng chấp nhận họ của chồng và vai trò truyền thống làm vợ của một chính trị gia, trong khi lặng lẽ gây dựng cho mình sức mạnh chính trị qua kỹ năng của một luật sư.
Hết nhiệm kỳ đầu, Clinton bị đánh bại bởi một đối thủ thuộc Đảng Cộng hòa, Frank D. White, vào năm 1980; và theo cách nói đùa của ông, trở thành cựu thống đốc trẻ tuổi nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Trong kỳ tuyển cử kế tiếp vào năm 1982, ông đắc cử và đảm nhiệm chức vụ thống đốc trong bốn nhiệm kỳ liên tiếp cho đến năm 1992, khi ông trở thành ông chủ Nhà Trắng. Năm 1984, Clinton đã gặt hái thành công khi cố tu chính để thay đổi nhiệm kỳ thống đốc từ 2 năm trở thành 4 năm.
Thái độ thân thiện với giới doanh nghiệp làm giảm thiểu các chỉ trích từ phe bảo thủ trong suốt nhiệm kỳ này của Clinton, nhưng một vài giao dịch của ông trong giai đoạn này dẫn đến cuộc điều tra Whitewater, theo đuổi ông trong suốt nhiệm kỳ Tổng thống sau này.
Tổng thống Hoa Kỳ
Clinton xuất hiện lần đầu trên sân khấu chính trị quốc gia khi đăng đàn diễn thuyết tại đại hội Đảng Dân chủ năm 1988, giới thiệu ứng cử viên Michael Dukakis. Bài diễn văn là một thất bại thảm hại khi ông nói dông dài đến nửa giờ thay vì giới hạn trong 15 phút cho phép.
Bốn năm sau, Clinton chuẩn bị tranh cử chống lại Tổng thống đương nhiệm George H. W. Bush. Sau cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh, Bush được xem như bất khả chiến bại. Đặt mình vào vị trí của một người đơn độc thích nói thẳng, Clinton khéo léo giành được sự đề cử của Đảng Dân chủ.
Ngày 9 tháng 7 năm 1992, Clinton chọn thượng nghị sĩ Albert A. Gore, Jr. (Dân chủ – Tennessee) là người đứng cùng liên danh với mình. Lúc đầu, sự chọn lựa này bị chỉ trích bởi nhiều nhà chiến lược với lý do Gore đến từ tiểu bang Tennessee kề cận với tiểu bang quê hương của Clinton. Nay nhìn lại, nhiều người nhận thấy Gore là nhân tố hữu dụng dẫn đến sự thành công của chiến dịch tranh cử năm 1992.
Trong suốt chiến dịch, các đối thủ của Clinton nêu lên nhiều điểm yếu của ông như việc trốn quân dịch trong Chiến tranh Việt Nam, cung cách ông giải thích về việc sử dụng cần sa trước đây, theo lời miêu tả của ông, "hút nhưng không hít", cùng với những cáo buộc về tính trăng hoa và một số giao dịch mờ ám. Dù những cáo buộc này không ngăn được Clinton bước chân vào Nhà Trắng, chúng đã khuấy động được sự chống đối mạnh mẽ từ những người bảo thủ ngay từ những ngày đầu tiên của nhiệm kỳ Tổng thống.
Nhờ chọn lựa chiến lược thích hợp cho chiến dịch tranh cử, tập chú vào các vấn đề trong nước, đặc biệt là tình trạng suy thoái kinh tế trong giai đoạn ngay trước cuộc tuyển cử năm 1992, Clinton trở thành người chiến thắng với 42,9% số phiếu bầu; George H. W. Bush giành được 37,4%, và ứng cử viên độc lập H. Ross Perot được 18,9%.
Kể từ Franklin D. Roosevelt, Clinton là Tổng thống đầu tiên thuộc Đảng Dân chủ phục vụ đủ hai nhiệm kỳ, mặc dù ông cũng là Tổng thống đầu tiên kể từ John F. Kennedy không giành được đa số phiếu phổ thông, vì bị chia phiếu bởi ứng cử viên đảng thứ ba. Chiến thắng của Clinton chấm dứt thời kỳ thống trị của Đảng Cộng hòa nắm giữ chức vụ Tổng thống trong 12 năm liên tiếp, và trong suốt 20 năm trong số 24 năm trước đó. Chiến thắng này cũng trao quyền kiểm soát cho Đảng Dân chủ tại các nhánh của Chính phủ liên bang, bao gồm hai viện quốc hội và chức vụ Tổng thống, lần đầu tiên kể từ chính phủ của Tổng thống Dân chủ sau cùng, Jimmy Carter.
Đề án quan trọng nhất trong nghị trình lập pháp của Clinton là kế hoạch cải cách hệ thống chăm sóc sức khỏe, thực hiện bởi Hillary Clinton, nhắm vào mục đích thiết lập một hệ thống chăm sóc sức khoẻ cho toàn dân. Dù được chào đón vào lúc đầu, cuối cùng kế hoạch này bị sụp đổ khi gặp sự chống đối có tổ chức từ những người bảo thủ và từ ngành công nghiệp bảo hiểm; họ thuyết phục người dân Mỹ hãy đọc kỹ từng chi tiết của kế hoạch. Đây là thất bại quan trọng đầu tiên của chính phủ Clinton.
Sau hai năm cầm quyền dưới sự lãnh đạo của Clinton, Đảng Dân chủ thất bại thảm hại trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ năm 1994. Họ mất quyền kiểm soát tại hai viện quốc hội lần đầu tiên trong suốt 40 năm, phần lớn là do những dự luật đang bị cầm giữ tại quốc hội như việc không thể xây dựng một hệ thống chăm sóc sức khỏe phổ thông trong khuôn khổ của kế hoạch được thiết lập bởi Đệ Nhất Phu nhân Hillary Rodham Clinton.
Sau cuộc tuyển cử năm 1994, sự quan tâm của công luận chuyển sang sáng kiến Khế ước với nước Mỹ (Contract with America) đang được đẩy mạnh bởi Chủ tịch Hạ viện Newt Gingrich. Với quốc hội đang ở trong tay của Đảng Cộng hòa, Clinton phải chống đỡ dữ dội để bảo vệ ngân sách, dẫn đến sự tê liệt của chính quyền, vì chính phủ Clinton và quốc hội không đồng ý được với nhau về một biện pháp thoả hiệp.
Trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1996, Clinton tái đắc cử với 49,2% số phiếu phổ thông, ứng viên Đảng Cộng hòa Bob Dole nhận được 40,7% và ứng viên Đảng Cải cách Ross Perot 8,4%, trong khi Đảng Cộng hòa vẫn duy trì quyền kiểm soát quốc hội dù mất một ít ghế.
Clinton xây dựng mối quan hệ công việc thân thiết với Tony Blair, thủ tướng Anh, khi Blair đắc cử năm 1997.
Năm 1999, qua những nỗ lực của Clinton, Hoa Kỳ có được thặng dư ngân sách liên bang lần đầu tiên kể từ năm 1969.
Clinton quan tâm đến các cuộc bạo động xảy ra tại Bắc Ireland; ba lần trong nhiệm kỳ Tổng thống, ông đến thăm Bắc Ireland nhằm cổ vũ cho hòa bình tại vùng đất này. Sự can thiệp của ông giúp thúc đẩy tiến trình giải giới PIRA bắt đầu từ ngày 23 tháng 10 năm 2001.
Năm 2002, một mẫu tin của UPI trình bày những tư liệu được tìm thấy tại Afghanistan cho thấy al-Qaeda đang âm mưu hạ sát Clinton vào lúc cuối nhiệm kỳ của ông.
Bổ nhiệm
Nội các
Tối cao Pháp viện
Clinton bổ nhiệm hai thẩm phán cho Tối cao Pháp viện
Ruth Bader Ginsburg – 1993
Stephen Breyer – 1994
Kinh tế
Trong hai nhiệm kỳ Tổng thống của Clinton, người dân Mỹ hưởng một sự phát triển liên tục về kinh tế, số người thất nghiệp sụt giảm, tài sản gia tăng qua sự tăng giá ào ạt tại thị trường chứng khoán. Mặc dù còn nhiều tranh cãi về nguyên nhân của sự phát triển kinh tế, Clinton có thể tự hào về một số thành tựu sau:
Hơn 22 triệu chỗ làm mới
Số người sở hữu nhà tăng từ 64,0% lên đến 67.5%
Mức thất nghiệp thấp nhất trong 30 năm
Lợi tức được nâng cao tại mọi mức độ
Mức thâm hụt ngân sách cao nhất trong lịch sử Mỹ được đảo ngược để trở nên mức thặng dư cao nhất vượt qua con số 200 tỷ đô la
Chi tiêu của chính quyền thấp nhất tính theo tỷ lệ với GDP kể từ năm 1974
Số gia đình sở hữu chứng khoán nhiều nhất
Nguyên nhân của sự tăng trưởng vẫn còn đang tranh cãi, nhưng nhiều người cho rằng nhờ kế hoạch tăng thuế vào năm 1993 kéo mức thâm thủng xuống thấp, dẫn đến việc hạ lãi suất, nhờ vậy mà kích cầu và làm gia tăng mức tiêu dùng. Cần biết rằng Chủ tịch Quỹ dự trữ liên bang Alan Greenspan ủng hộ kế hoạch này, trong khi những người chỉ trích Clinton cho rằng sự tăng trưởng là thành quả đến từ Alan Greenspan, chương trình cắt giảm chi tiêu của quốc hội năm 1995 (dưới quyền kiểm soát của Đảng Cộng hòa), những đề xuất của "Hợp đồng với nước Mỹ" và ngay cả kế hoạch giảm thuế của chính phủ Ronald Reagan năm 1980.
Đối ngoại
Vài lần Clinton đã gởi quân đến những vùng đất thù nghịch. Năm 1993, quân đội Hoa Kỳ chiến đấu tại Mogadishu để cố bắt giữ lãnh chúa Mohamed Farah Aidid tại Somalia. Năm 1994, Clinton gởi quân đến Haiti để phục hồi chế độ Jean-Bertrand Aristide, chấm dứt một thời kỳ bạo loạn. Aristide đắc cử Tổng thống, nhưng bảy tháng sau lại bị lật đổ trong một cuộc đảo chính vào năm 1997. Quân đội Hoa Kỳ cũng hai lần có mặt tại Kosovo để ngăn chặn những cuộc bạo động giữa các sắc tộc. Thêm vào đó, Clinton đã cho quân đội đột kích vào Iraq vài lần với mục đích trừng phạt chính quyền Saddam Hussein vì vi phạm lệnh cấm vận của Liên Hợp Quốc và vì âm mưu ám sát cựu Tổng thống George H. W. Bush. Tuy nhiên, vì bị ám ảnh bởi sự thất bại và sỉ nhục tại Somalia, Clinton từ chối can thiệp vào Rwanda, lúc đó đang đẫm máu vì những cuộc tàn sát diệt chủng.
Vào tháng 1 năm 1994, chính phủ Clinton gỡ bỏ lệnh cấm vận kinh tế và thương mại đối với Việt Nam; tháng 5 năm 1994, hai bên tuyên bố thiết lập văn phòng liên lạc tại Hà Nội và Washington, D.C.. Mười lăm tháng sau, ngày 15 tháng 7 năm 1995, Clinton tuyên bố thiết lập bang giao đầy đủ với Việt Nam.
Ngày 17 tháng 11 năm 2000, Bill Clinton, cùng với vợ và con gái, Hillary và Chelsea Clinton, bắt đầu chuyến viếng thăm Việt Nam kéo dài bốn ngày. Clinton là Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên đến thăm đất nước "hình chữ S" kể từ lúc chấm dứt cuộc chiến Việt Nam 25 năm trước.
Sau khi rời Nhà Trắng, Clinton cho rằng thành quả ngoại giao lớn nhất của ông là dàn xếp những cuộc đàm phán hòa bình giữa Israel và Palestine, dẫn đến Thoả ước Oslo. Theo Clinton, thất bại lớn nhất trong chính sách đối ngoại của ông là không chịu làm gì khi cuộc bạo động diệt chủng xảy ra tại Rwanda năm 1994. Cùng với Liên hiệp quốc, chính phủ Clinton lúc ban đầu không chịu thừa nhận là cuộc diệt chủng đang xảy ra.
Luận tội
Clinton, với tư cách là Tổng thống Hoa Kỳ, bị đem ra luận tội ngày 19 tháng 12 năm 1998 bởi Hạ viện. Các cáo buộc là man khai và ngăn cản công lý. Thượng viện tha bổng Clinton vào ngày 12 tháng 2 năm 1999. Một ngày trước khi rời chức vụ, Clinton đồng ý chịu đình chỉ 5 năm giấy phép hành nghề luật tiểu bang Arkansas, như là một phần trong một thoả thuận với công tố viên độc lập nhằm chấm dứt cuộc điều tra. Dựa vào sự đình chỉ này, Clinton đương nhiên bị đình chỉ tại luật sư đoàn toà án tối cao, lần này Clinton quyết định xin rút khỏi luật sư đoàn mặc dù trong thực tế ông chưa bao giờ hành nghề luật tại toà tối cao, cũng không dự tính làm công việc này trong tương lai.
Ngoài chuyện bị luận tội, Nhà Trắng dưới thời Clinton còn là mục tiêu trong nhiều vụ tai tiếng khác. "Travelgate" liên quan đến vụ sa thải các nhân viên văn phòng du lịch tại Nhà Trắng. "Tập tingate" liên quan đến cung cách Nhà Trắng xử lý hàng trăm hồ sơ nhân viên mà không xin phép họ. "Chinagate" dính líu đến các đảng viên Dân chủ nhận những khoản đóng góp bất hợp pháp cho chiến dịch tranh cử; người ta cho rằng số tiền này đến từ chính quyền Trung Quốc. "Pardongate" là chuyện ân xá cho các thành viên của FALN (một tổ chức khủng bố) vào năm 1999, lệnh ân xá cho Marc Rich và những người khác vào ngày cuối cùng của nhiệm kỳ Tổng thống năm 2001.
Tháng 3 năm 1998, Kathleen Willey, một nhân viên Nhà Trắng, cáo buộc Clinton về tội cưỡng bức tình dục. Cũng trong năm 1998, Juanita Broaddrick nói rằng đã bị Clinton cưỡng bức vào năm 1978.
Uy tín
Là Tổng thống đầu tiên thuộc thế hệ Baby Boomer, Clinton được xem là dấu mốc của sự chuyển đổi từ các Tổng thống thuộc thế hệ Chiến tranh thế giới thứ hai. Với kỹ năng cao trong thuật dụng ngữ nhằm nhấn mạnh vào trọng tâm của chủ đề khi đối thoại, và đi tiên phong trong việc du nhập văn hoá bình dân vào các chiến dịch tranh cử của mình, Clinton thường được miêu tả, một cách tiêu cực, là "Tổng thống MTV". Bất kể những chỉ trích cho rằng sức thu hút của ông đối với giới trẻ là thiếu nền tảng, Clinton giành được đa số phiếu của cử tri thuộc thế hệ trẻ trong cuộc tuyển cử năm 1992.
Clinton rất được yêu thích trong cộng đồng người Mỹ gốc Phi, ông cũng xem việc cải thiện các quan hệ chủng tộc là chủ đề chính cho nhiệm kỳ Tổng thống của mình. Nhà văn Toni Morrison gọi Clinton là "Tổng thống da đen đầu tiên", giải thích rằng "xuất thân của Clinton phô bày mọi đặc điểm của một người da đen tiêu biểu: một cậu bé Arkansas sống trong một gia đình thiếu cha hoặc mẹ, luôn túng thiếu, lao động chân tay, chơi kèn saxophone, thích thức ăn McDonald".
Ảnh hưởng lớn của Hillary Clinton trong chính phủ dẫn đến nhiều chỉ trích nhất nhắm vào một Đệ Nhất Phu nhân kể từ Eleanor Roosevelt. Nhiều người xem Bill và Hillary Clinton là cặp bài trùng chưa từng có trên chính trường nước Mỹ, trong khi nhiều người khác cho rằng chính Hillary, chứ không phải Clinton, là sức mạnh chủ đạo đằng sau bộ máy cầm quyền.
Sự kiện Clinton từng thử cần sa - được bào chữa cách vụng về là "hút chứ không hít" – làm hoen ố hình ảnh của ông đối với một số cử tri. Clinton ủng hộ án tử hình, giới nghiêm, đồng phục trong trường công, và một số biện pháp khác đi ngược lại quan điểm của những người ủng hộ quyền của giới trẻ, ông cũng đẩy mạnh cuộc chiến chống ma túy.
Từ khi bắt đầu chiến dịch tranh cử Tổng thống năm 1992, đã có nhiều lời đồn đại về vụ ngoại tình của Clinton. Tuy nhiên, điều này được công luận quan tâm khi Paula Jones cáo buộc ông về hành vi quấy rối tình dục. Tiếp bước Paula Jones là Gennifer Flower và Kathleen Willey với những cáo buộc tương tự.
Cuộc sống tình dục của Clinton đã trở thành tâm điểm của công luận vào tháng 1 năm 1998 khi những lời tự sự của Monica Lewinsky, bị ghi âm bí mật bởi Linda Tripp, nói về những kinh nghiệm kích thích dương vật bằng miệng thực hành với Clinton được đưa ra công luận.
Di sản
Những năm cầm quyền của Clinton là giai đoạn phát triển kinh tế lâu dài nhất trong lịch sử hiện đại của Mỹ.
Cùng với Hội đồng lãnh đạo Đảng Dân chủ, Clinton dẫn dắt Đảng Dân chủ tách rời khỏi khuynh hướng thiên tả, hướng về chủ trương trung dung ôn hòa. Suốt trong thập niên 1990, Đảng Dân chủ bị cáo buộc là bỏ rơi các thành trì truyền thống của họ (nghiệp đoàn, giới lao động, các nhóm thiểu số) để chấp nhận khuynh hướng trung hữu, hầu có thể có được những khoản đóng góp từ các tập đoàn và từ những bà mẹ mẫu mực (soccer mom).
Trong mắt của nhiều người Mỹ, những khuyết tật của Clinton về mặt đạo đức đã vấy bẩn lên di sản của ông bất kể những thành quả kinh tế đạt được vào cuối thập kỷ 1990. Cơn sốt giá tại thị trường chứng khoán cùng với tình trạng tham nhũng tại Enron đã làm suy yếu những thành quả kinh tế có được trước đó.
Thêm vào đó là những tranh cãi về các quyết định của Clinton trong chính sách đối ngoại; nhiều người cho rằng chính sách ngoại giao của ông đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép những tay khủng bố như Osama bin Laden và mạng lưới al-Qaeda chuẩn bị và tổ chức các cuộc tấn công như Sự kiện 11 tháng 9. Cũng vậy, trong mắt của những người chỉ trích ông, Clinton là một Tổng thống dựa vào hình ảnh của mình được khuếch trương trên TV, cùng với khả năng dụng ngữ điêu luyện nhằm che giấu sự thiếu thực chất.
Mãn nhiệm
Ngày 18 tháng 1 năm 2001, tại Phòng Bầu dục (Oval Office), Clinton đọc bài diễn văn trước toàn thể quốc dân lần cuối cùng, hai ngày trước khi bàn giao cho George W. Bush, con trai của người tiền nhiệm mà Clinton đã đánh bại trong cuộc tuyển cử năm 1992. Hiện nay, ông là hội viên của Câu lạc bộ Madrid.
Diễn thuyết
Giống các Tổng thống tiền nhiệm, Clinton hoạt động tích cực trong cương vị một diễn giả về các đề tài khác nhau. Trong những chuyến du hành diễn thuyết trên khắp thế giới, Clinton tiếp tục nhận định về những khía cạnh của nền chính trị đương đại. Một trong những chủ đề ông thích đề cập là các giải pháp đa phương nhằm giải quyết các vấn nạn đang thách thức thế giới. Mối quan hệ mật thiết với cộng đồng người Mỹ gốc Phi là điểm nổi bật trong các hoạt động của vị Tổng thống mãn nhiệm với chọn lựa đặt văn phòng của ông tại khu Harlem (một trung tâm văn hóa và doanh nghiệp của người da đen) thuộc Thành phố New York. Tại đây, với sự hỗ trợ từ chồng, Hillary Clinton đã giành được ghế tại Thượng viện Hoa Kỳ đại diện cho tiểu bang New York.
Ngày 26 tháng 7 năm 2004, Clinton đăng dàn diễn thuyết lần thứ năm liên tiếp tại Đại hội Toàn quốc Đảng Dân chủ, sử dung cơ hội này để ủng hộ ứng cử viên John Kerry. Nhiều đảng viên Dân chủ tin rằng đây là một trong những bài diễn văn hay nhất trong lịch sử các kỳ đại hội.
Ngày 9 tháng 12 năm 2005, khi diễn thuyết trước Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Thay đổi Khí hậu tổ chức tại Montréal, Clinton công khai phê phán chủ trương của chính phủ Bush về hạn chế khí thải. Trong năm 2006, hai lần Clinton đến thăm Đại học California tại Los Angeles, để cổ xúy cho những sáng kiến liên quan đến bảo vệ môi trường. Lần đầu vào ngày 1 tháng 8 năm 2006, Clinton hội kiến với Tony Blair, Ken Livingstone, Antonio Villaraigosa và Gavion Newsom để quảng bá Nhóm Lãnh đạo về Khí hậu tại các thành phố lớn. Lần sau, ông vận động cho Đề án California 87, về sau đề án này bị bác bỏ.
Ngày 22 tháng 6 năm 2004, Clinton cho phát hành cuốn hồi ký My Life (Đời tôi), lập kỷ lục ba lần có tên trong danh mục sách bán chạy nhất của Amazon.com. Trong một cuộc phỏng vấn phát trên sóng BBC ngày 23 tháng 6 năm 2004, khi được hỏi về những ảnh hưởng của vụ tai tiếng Monica Lewinsky đối với chức vụ Tổng thống của ông, Clinton thừa nhận ông đã phạm nhiều sai lầm trong thời gian đương chức. Ông cũng nói về triển vọng cho nhiệm kỳ Tổng thống của một Clinton khác khi vợ ông, Hillary Clinton, có thể quyết định ra tranh cử vào năm 2008.
Ngày 18 tháng 11 năm 2004, ông khánh thành thư viện Tổng thống, Trung tâm William J. Clinton, tại Little Rock, tiểu bang Arkansas. Dưới trời mưa, Clinton nhận những lời khen ngợi từ các cựu Tổng thống Jimmy Carter và George H. W. Bush, cũng như Tổng thống đương nhiệm George W. Bush.
Hoạt động từ thiện
Khi tham dự Diễn đàn Doanh nghiệp Toàn cầu ở Sydney, Clinton ký kết bản ghi nhớ với chính phủ Úc nhằm quảng bá các chương trình phòng chống HIV/AIDS trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.
Ngày 5 tháng 12 năm 2006, Việt Nam là điểm dừng chân sau cùng của Clinton trong hành trình châu Á thăm các nước bị ảnh hưởng bởi Thảm họa Sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004 và thăm các dự án sáng kiến phòng chống HIV/AIDS của Quỹ Clinton. Tại đây, ông ký một biên bản thỏa thuận với Bộ Y tế Việt Nam về việc cung cấp thuốc điều trị và thuốc thử nghiệm HIV cho 1.200 trẻ em nhiễm HIV ở Việt Nam đến cuối năm 2007.
Clinton cũng tham dự một buổi tọa đàm với sinh viên và học sinh Việt Nam về vai trò của thanh niên trong nỗ lực chống HIV/AIDS.
Tình bạn với George H. W. Bush
Có những dấu hiệu cho thấy mối thân tình đang phát triển giữa hai cựu Tổng thống, Clinton và George H.W. Bush. Sau buổi lễ giới thiệu chân dung Clinton tại Nhà Trắng vào tháng 6 năm 2004, thảm họa sóng thần châu Á, Bão Katrina, và kỳ bầu cử năm 2004, Clinton và Bush đã gặp nhau.
Ngày 3 tháng 1 năm 2005, Tổng thống George W. Bush ủy nhiệm Clinton và George H.W. Bush lãnh đạo chiến dịch toàn quốc trợ giúp nạn nhân thảm họa động đất Ấn Độ Dương năm 2004. Ngày 1 tháng 2 năm 2005, Clinton được Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan mời cầm đầu những nỗ lực của LHQ về cứu trợ và tái thiết sau thảm họa. Năm ngày sau đó, Clinton cùng xuất hiện với Bush trong một chương trình của đài truyền hình Fox biểu thị sự ủng hộ dành cho nỗ lực của hai chính đảng nhằm quyên góp tiền cứu trợ, một hành động mà Bush mô tả là "vượt qua các lằn ranh chính trị". Mười ba ngày sau, cả hai cùng đến thăm những khu vực bị ảnh hưởng.
Ngày 31 tháng 8 năm 2005, sau những thiệt hại nặng nề bởi Cuồng phong Katrina, Clinton lại cộng tác với George H.W. Bush để điều phối các quỹ từ thiện trong khuôn khổ của một chiến dịch đáp ứng các nhu cầu cấp thiết cho nạn nhân.
Ngày 2 tháng 4 năm 2005, cùng với Tổng thống George W. Bush và cựu Tổng thống George H. W. Bush, Bill Clinton tham dự tang lễ của Giáo hoàng John Paul II tại Vatican.
Sang Bắc Triều Tiên năm 2009
Clinton đã thực hiện một chuyến đi không được thông báo tới Bắc Triều Tiên, mà Hoa Kỳ không có quan hệ ngoại giao, ngày 4 tháng 8 năm 2009. Clinton tới Bình Nhưỡng để đàm phán giải thoát các công dân Mỹ Euna Lee và Laura Ling, đã bị các lực lượng Bắc Triều Tiên bỏ tù do xâm nhập bất hợp pháp nước này từ Trung Quốc khi đang quay một phim tài liệu và tuyên án 12 năm tù. Chuyến thăm Bắc Triều Tiên của ông là chuyến đi thứ hai như thế của một cựu Tổng thống Mỹ, chuyến viếng thăm kia xảy ra khi Jimmy Carter tới nước này năm 1994. Sau khi gặp gỡ với lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong-il, Kim đã ra một lệnh ân xá đặc biệt cho 2 nhà báo Mỹ. Buổi sáng ngày 5 tháng 8, 2 nhà báo được thả và bay về Mỹ với Clinton.
Tác phẩm
Between Hope and History (Giữa hi vọng và lịch sử, 1996), chính luận
My Life (Đời tôi, 2004), hồi kí
Giving: How Each of Us Can Change the World (2009), ghi chép
Back to Work (Trở lại công việc, 2011), chính luận
The President Is Missing (Tổng thống mất tích, 2018), tiểu thuyết viết cùng James Patterson
Chuyện bên lề
Bill Clinton vật lộn với thói quen phàm ăn của mình, thói quen này là một trong những nguyên nhân dẫn đến bệnh tim của ông. Năm 2004, ông Clinton đã phải trải qua một cuộc phẫu thuật hở tim. Sau đó, ông phải điều chỉnh chế độ ăn uống để giảm lượng cholesterol trong máu và không lâu sau đó ông trở thành một người ăn chay.
Tiếng tăm của Clinton lớn đến nỗi đã có một vài cuốn phim và các bài hát "nhái" được sáng tác nói về kỹ năng sử dụng cần sa "hút mà không hít", tính trăng hoa, và bà vợ đầy uy quyền của ông.
Clinton cao 6 foot, 3 inch (191 cm).
Clinton theo đạo Baptist
Roger Clinton, Jr. là một trong số 140 người được ông anh ân xá trong ngày cuối cùng của nhiệm kỳ Tổng thống của Clinton.
Sau khi mãn nhiệm Tổng thống, ông Clinton đã bị tòa dân sự rút bằng luật sư hành nghề vì tội khai man trong các vụ việc bê bối ngoại tình của mình lúc còn đương nhiệm.
Trong thời gian diễn ra World Cup 2010, ông tỏ ra là một tín đồ trung thành của đội tuyển bóng đá quốc gia Hoa Kỳ. |
Sol có thể là:
Một thần mặt trời của La Mã, xem bài Sol invictus.
Nữ thần mặt trời trong thần thoại Đức, xem bài Sol (thần thoại).
Đồng tiền xưa của Pháp, còn gọi là Sou, xem bài Sol (tiền Pháp).
Đơn vị tiền tệ hiện nay của Peru, xem bài Nuevo Sol.
Đơn vị tiền tệ cũ của Peru, xem bài Sol (tiền Peru).
Một hệ phân tán cao trong hóa học, xem: bài Sol (hệ keo).
Tên một quảng trườnng tại Madrid (Tây Ban Nha).
Một cách viết nốt nhạc xon
Thời gian bằng một ngày trên Sao Hỏa.
Tên con gái của Jack - J97, một ca sĩ người Việt. |
Hóa keo là lĩnh vực hóa học nghiên cứu về các cách chế tạo, đặc điểm và biến đổi các hệ keo. Hệ keo là một hệ thống phân tán các phần tử có kích thước từ một phần triệu cho đến vài phần ngàn milimét. Các phần tử này được phân tán trong một môi trường phân tán.
Hệ keo là một hệ phân tán giữa dung dịch và huyền phù. Hệ keo không có áp suất thẩm thấu, không tăng nhiệt độ sôi và không giảm nhiệt độ đông đặc của môi trường phân tán (gọi là các tính chất của hệ keo). Các hạt keo thường mang điện tích hấp thụ vì thế mà có thể tách chúng ra bằng phương pháp điện di. Các hạt keo chống sự kết tụ của các loại hạt keo khác thường được gọi là keo bảo vệ, ví dụ như dextrin. Trong cơ thể động vật và thực vật có rất nhiều hoạt chất tồn tại trong hệ keo. |
Huyền phù (nổi lơ lửng, từ phù có nghĩa là nổi và huyền là treo hay đeo lơ lửng) là một hệ gồm pha phân tán là các hạt rắn lơ lửng trong môi trường phân tán lỏng (hỗn hợp dị thể); các hạt rắn không tan hoặc khó tan vào môi trường phân tán.
Nếu để yên một huyền phù thì ngược lại với dung dịch, chất rắn có kích thước không nhỏ lắm sẽ lắng xuống dưới tạo thành một lớp cặn (sa lắng hay trầm tích). Chất lỏng phía trên có thể được chiết ra (lắng gạn) và tách chất rắn ra khỏi chất lỏng.
Ở các phần tử có kích thước nhỏ có thể tăng nhanh quá trình sa lắng bằng phương pháp ly tâm vì kích thước các phần tử rắn càng nhỏ thì sự sa lắng càng chậm.
Huyền phù đóng vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực kĩ thuật như vật liệu sơn, vescni, giấy, vật liệu xây dựng...
Một vài ví dụ về thí nghiệm hóa học liên quan đến huyền phù:
Điều kiện: Không có
Điều kiện: Ở nhiệt độ phòng
Ví dụ
Cát được khuấy lên trong nước biển.
Lớp cảm ứng ánh sáng trên phim và giấy ảnh (thường được gọi một cách sai lầm là nhũ tương)
Mực tàu
Dung dịch giữ thành trong thi công cọc nhồi bê tông
Đọc thêm
Hệ keo
Sol
Nhũ tương
Dung dịch |
Xứ tuyết (tiếng Nhật: 雪国 Yukiguni, Tuyết quốc) là tiểu thuyết của văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari, được khởi bút từ 1935 và hoàn thành năm 1947. Trước khi xuất bản dưới dạng ấn phẩm hoàn chỉnh, tác phẩm đã được đăng tải thành nhiều kỳ trên nhật báo. Xứ tuyết được đánh giá là quốc bảo của nền văn học Nhật Bản. Cùng với Ngàn cánh hạc (千羽鶴 Senbazuru, Thiên vũ hạc) và Cố đô (古都 Koto, Cổ đô), Xứ tuyết đã mang lại cho tác giả giải thưởng Nobel văn học vào năm 1968, nhân kỷ niệm 100 năm (1868-1968) hiện đại hóa văn học Nhật Bản với công cuộc cải cách Minh Trị.
Cốt truyện
Xứ tuyết mang âm hưởng truyền thống lữ hành của các thi nhân văn sĩ Nhật Bản từ xa xưa. Câu chuyện theo bước chân của chàng trai trẻ Shimamura du hành ngoạn cảnh và tắm suối nước nóng. Shimamura, sinh ra và lớn lên ở một khu phố thương mại của Tokyo, đã lập gia đình, nhưng lại say mê với cái đẹp như bị một huyền lực điều khiển, vì vậy chàng đam mê theo học nghệ thuật vũ đạo Tây phương và hoạt kịch. Là một chàng trai tài tử nhàn rỗi thiếu thành khẩn với chính mình, lại có đôi lúc khát vọng tự tìm hiểu bản thân thôi thúc, nên chàng thích lên miền núi một mình và đã ba lần lên xuống xứ tuyết phía Bắc Nhật Bản trong ba mùa khác nhau Xuân - Thu - Đông.
Trong lần thứ nhất vào thời điểm mở cửa mùa leo núi, mùa xuân bắt đầu với chồi non xanh thẳm và hương thơm ngát, chàng gặp nàng ca kỹ (geisha) Komako. Komako là một cô gái đại diện cho vẻ đẹp tràn trề nữ tính, mạnh mẽ, tương phản giữa thánh thiện và trần tục, giữa tỉnh táo và đam mê, giữa vẻ đẹp sáng ngời nét thơ ngây bên ngoài và sức trầm lắng của nội cảm. Cảm giác mà nàng đem lại cho Shimamura là sự tươi mát và thanh sạch tuyệt vời. Trong những đêm khi mà nàng giúp vui tiệc tùng bằng cách đánh đàn samisen cho những khách du hành, uống rượu say và mệt lả, nàng về bên Shimamura với sự nồng nhiệt khiến chàng rung động đến tận tơ lòng.
Con tàu đưa Shimamura vượt qua đường hầm đến xứ tuyết lần thứ hai để gặp lại Komako vào mùa đông, vài tuần trước khi mở mùa trượt tuyết. Trong ánh sáng mờ ảo, Shimamura mê mẩn ngắm khuôn mặt người thiếu nữ ngồi đối diện với chàng ngời lên trên tấm kính cửa sổ toa tàu, với vẻ đẹp vừa huyền ảo vừa siêu phàm, với sự duyên dáng kỳ lạ của khuôn mặt trôi qua phong cảnh ban đêm. Cô gái đó, chàng còn gặp lại ở vùng băng tuyết, chính là Yoko. Một cô gái với vẻ đẹp trong trắng và xa vời, mong manh và mờ ảo, tin cậy và thơ ngây ngay cả trong cách nàng thể hiện tình cảm với Shimamura, với giọng nói "truyền cảm, trong thanh và đẹp đến não lòng", khiến chàng mỗi lần tiếp xúc là mỗi lần khám phá thêm một nét quyến rũ nơi nàng.
Rồi những ngày đầu mùa thu với lá phong đỏ thắm, Shimamura lại rời Tokyo để đi nghỉ ở xứ tuyết. Ở đó, giữa hai người con gái xứ tuyết, trong khung cảnh của một vương quốc mà cảnh sắc, con người, phong tục, lối sống đều hồn hậu, chất phác và dịu dàng, chàng mẫn cảm sâu sắc trước cái đẹp nhưng lại đắn đo lưỡng lự giữa hai mối tình, một nặng về thể xác, một nặng về tâm hồn. Say đắm Komako nhưng trong Shimamura luôn hiện diện ánh sáng kỳ ảo lóe lên từ Yoko. Xúc cảm tình yêu của chàng dành cho Yoko ngày càng lớn dần khi chàng cảm nhận được cái mờ ảo và mong manh của vẻ đẹp khó diễn tả ấy, một vẻ đẹp chàng khao khát theo đuổi và nắm bắt cả đời. Trong khi Komako càng đến bên chàng thân thiết, gần gũi, mãnh liệt và hy sinh bao nhiêu, thì cứ mỗi lần rời xa xứ tuyết chàng lại thấy nàng biến mất không còn lưu lại chút dư tình trong tâm trí. Tình yêu của Shimamura với Komako bắt đầu chớm những giận hờn đầu tiên. Komako hoang mang không biết Shimamura còn yêu mình thật hay không, còn chàng cũng không sao hiểu nổi sự lạnh lùng của lòng mình, tại sao mình không thể sống được mãnh liệt, trọn vẹn và hy sinh trong dâng hiến không đòi hỏi chút gì trả lại như nàng.
Đúng vào lúc Shimamura quyết định rời xa trạm nước nóng ở xứ tuyết để tránh cơn bão lòng và cắt đứt duyên nợ một cách lặng lẽ thì mọi sự đã kết thúc trong bi thảm. Trong một buổi chiếu bóng tại một nhà kho gần nơi chàng ở, một đám cháy dữ dội đã xảy ra. Mặt đất rừng rực trong tia lửa và tàn tro bốc cao lên tận bầu trời đêm, một bầu trời với dải Ngân Hà lóng lánh trong ánh sáng đẹp một cách ma quái. Yoko, người yêu thuần khiết và mối tình lý tưởng của chàng đã chết trong đám cháy đó. Khi chàng chạy tới thì thấy thân hình bất động của Yoko với gương mặt thanh tú và thánh thiện trên đôi tay Komako, còn Komako thì lời nói như mê sảng và vẻ mặt như sắp hóa điên. Chàng lảo đảo ngẩng mặt lên trời và có cảm giác dải Ngân Hà trôi tuột vào trong người chàng với tiếng gầm thét dữ dội.
Ý nghĩa
Đánh giá về tác phẩm, dịch giả người Pháp Armel Guerne cho rằng "Đây là một tác phẩm thuần túy Nhật Bản khác với lối tư duy trong ngôn ngữ phương Tây vốn nặng về gò bó duy lý. Nghệ thuật mờ ảo, cái Đẹp được miêu tả tinh tế lộng lẫy, lối kết cấu gần như vô hình". Quả thật, về phương diện kết cấu, Xứ tuyết có một cốt truyện đơn giản, nhưng nó thể hiện đỉnh cao mỹ học của Kawabata, một "thẩm mĩ của chiếc gương soi" như trước đó đã từng biểu hiện trong truyện ngắn nổi danh "Thủy nguyệt", thông qua cái nhìn huyền ảo hóa thế giới thực. Ngay đầu tác phẩm người đọc đã thấy vùng đất tuyết được miêu tả như một thế giới khác, ở bên kia đường hầm: Một đường hầm dài ngăn cách giữa hai vùng và đây đã là vào Xứ tuyết. Chân trời đã rạng trong bóng đêm. Con tàu chậm lại.... Từ đây Shimamura, một lữ khách u buồn, bước vào thế giới đó như bước vào truyện cổ tích, nơi mà mọi thứ đều xưa cũ với sàn nhà cũ, với tấm biển cũ rích của phòng trà, với chiếc mặt nạ cổ xưa, cỗ xe đã tròn một thế kỷ v.v. Nhưng đó không phải là một thế giới của cổ tích, của những yếu tố hoang đường mà là một thế giới được cảm nhận như một đối chứng với thế giới thực về bản ngã và cái đẹp.
Thi pháp ảo hóa cũng thể hiện trong tái họa nhân vật, nhân vật nữ - và cả đàn ông cũng vậy - trong các tác phẩm của Kawabata thường được phác thảo mờ nhạt và mong manh xét về mặt con người, họ chỉ được miêu tả như một yếu tố của khung cảnh được ghi lại qua sự cảm nhận của giác quan. Mặc dù Komako, theo Kawabata, là một nhân vật có thực và chính điều đó tạo sức sống sinh động tuyệt vời của nhân vật trong tác phẩm, nhưng qua cái nhìn huyền ảo của tác giả, hóa thân trong hình tượng nhân vật Shimamura, luôn thể hiện vẻ đẹp của Komako qua những tấm gương soi, qua ánh trăng hắt xuống và khi trực diện thì mọi chi tiết đều chiếu vào nhau, hóa lung linh.
Cứ thế, Xứ tuyết thực sự là bản giao hưởng ngân vang trong lòng người một nỗi u buồn, một hoài niệm về cái Đẹp, về cành hoa tuyết đã tan, về mối tình đã mất, và tất cả được tái họa trước mắt độc giả như trong một bức tranh thủy mạc với một ngôn ngữ miêu tả chính xác vô song, phản ánh được thế giới cảm giác rất riêng của tác giả. Cái nhìn huyền ảo xuyên suốt qua cõi thực và hư, nhưng Xứ tuyết không phải là một thế giới trong một tấm gương soi, mà quan trọng hơn là có một thế giới thực và một thế giới ảo cùng soi chiếu vào nhau, tồn tại trong nhau bằng những sắc màu lung linh, huyền ảo. Đó là sự tương giao của nội tâm và khung cảnh; của sự nối tiếp thời tiết Xuân, Đông rồi Thu; của sự hội ngộ và chia ly; của sự sống và cái chết; của màu tuyết trắng và màu lửa đỏ; của tình yêu thuần khiết và tình yêu đam mê. Ở nơi đó con người dường như đạt tới sự tự do về tinh thần trong hành trình tìm lại chính mình, với sự nảy nở của tình yêu và những rung động sâu xa trước cái mĩ lệ đang hiện hữu.
Lịch sử phát hành
Bản dịch Tiếng Việt
Kawabata Yasunari, Xứ tuyết, Chu Việt dịch, Trình Bầy xuất bản, Sài Gòn, 1969.
Kawabata Yasunari, Vùng băng tuyết, Giang Hà Vỵ dịch, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 1988.
Yasunari Kawabata, Xứ tuyết, Ngô Văn Phú và Vũ Đình Bình dịch, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1995.
Kawabata Yasunari, Xứ tuyết, Lam Anh dịch, IPM và Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội, 2018.
Ngôn ngữ khác
Revised in 2003.
1956, Snow Country. New York: Knopf. OCLC: 3623808. Paperback. (translated by Edward G. Seidensticker).
1957, Snow Country. Tokyo: Charles E. Tuttle. OCLC: 29197673. Paperback.
1986, Snow Country and Thousand Cranes. UK: Penguin. . Paperback.
1996, Snow Country. New York: Vintage. . Paperback. |
Nhũ tương là một hệ phân tán cao của hai chất lỏng mà thông thường không hòa tan được vào nhau. Nhũ tương là một dạng phân loại của hệ keo, mặc dù hệ keo và nhũ tương đôi khi được dùng thay thế cho nhau, về bản chất nhũ tương nên được dùng khi cả hai pha, pha phân tán và pha liên tục là chất lỏng. Trong một nhũ tương, một chất lỏng (pha phân tán, pha nội) được phân tán trong một chất lỏng khác (pha liên tục, pha ngoại). Ví dụ về các nhũ tương bao gồm dầu giấm, sữa, mayonnaise, và một số chất lỏng cắt kim loại trong gia công kim loại.
Từ "nhũ tương" xuất phát từ chữ Latin có nghĩa là "vắt sữa", vì sữa là một nhũ tương của chất béo trong nước, và một số thành phần khác.
Tùy theo môi trường chất phân tán mà người ta gọi ví dụ như là nhũ tương nước trong dầu-trong -nước (dầu là pha phân tán, nước là môi trường phân tán, như lipoprotein) hay nhũ tương nước-trong-dầu (nước là pha phân tán, dầu là môi trường phân tán). Trong một số trường hợp, có thể có nhũ trương kép, có thể là nhũ tương "nước/dầu/nước" và nhũ tương "dầu/nước/dầu".
Để tạo độ bền cho nhũ tương có thể cho thêm các chất hoạt tính bề mặt (chất nhũ hóa, xà phòng,...), các chất này ngăn trở hỗn hợp lại tự tách ra thành các thành phần riêng lẻ. Nhìn về mặt nhiệt động lực học thì nhũ tương lại là một hệ thống không bền.
Các chất lỏng hoặc là có thể hòa tan tốt vào nước (chất lỏng ưa nước) hoặc là có thể hòa tan tốt vào dầu (chất lỏng kỵ nước). Nguyên nhân là do các phân tử nước chỉ tạo thành các lực liên kết hiđrô trong khi các phân tử mỡ chỉ tạo thành các lực van der Waals. Chất nhũ hóa như xà phòng có thể liên kết các chất lỏng này. Chúng có tính chất này vì các phân tử của chất nhũ hóa có một phần phân cực và một phần không phân cực. Phần phân cực có thể tạo liên kết hiđrô và liên kết với các chất lỏng ưa nước trong khi phần không phân cực của phân tử tạo nên lực van der Waals và liên kết với các chất kỵ nước. Điều này giải thích tác dụng tẩy rửa của xà phòng: xà phòng làm giảm sức căng bề mặt của nước và tạo điều kiện rửa các chất chỉ tan trong dầu mỡ bằng cách cho thêm nước vào. Trong sữa, chất nhũ hóa là các prôtêin có trong sữa.
Trạng thái và tính chất
Chất nhũ hóa
Chất nhũ hóa là một chất phụ gia được sử dụng làm giảm sức căng bề mặt của các pha trong hệ, từ đó duy trì được sự ổn định cấu trúc của hệ nhũ tương. Hệ nhũ tương bao gồm hai chất lỏng không hòa tan nhưng lại được trộn lẫn với nhau. Trong đó sẽ có một chất lỏng tồn tại dưới dạng "pha phân tán" trong cùng một hệ, chất lỏng còn lại được gọi là "pha liên tục".
Cấu trúc phân tử của chất nhũ hóa có cả phần háo béo và phần háo nước nên được sử dụng nhằm tạo sự ổn định của hệ keo phân tán trong pha liên tục. Mặt khác nó còn làm giảm sức căng bề mặt của pha phân tán từ đó làm giảm năng lượng hình thành các giọt trong hệ.
Hiện nay các chất nhũ hóa đa số là ester của acid béo và rượu. Mức độ ưa béo hay ưa béo được đánh giá bằng HBL. Nếu HBL thấp thì chất nhũ hóa phù hợp với hệ nước trong dầu và ngược lại.
Cơ chế sự nhũ hóa
Ứng dụng |
Carl Friedrich Benz (tên tiếng Đức: Karl Friedrich Michael Benz; 25 tháng 11 năm 1844 tại Karlsruhe, Đức – 4 tháng 4 năm 1929 tại Ladenburg, Đức) là một kỹ sư người Đức và là người tiên phong trong ngành ô tô.
Cuộc đời
Benz sinh vào ngày 25 tháng 11 năm 1844 dưới tên là Karl Friedrich Michael Vaillant trong khu phố Mühlburg thuộc thành phố Karlsruhe ngày nay. Một năm sau khi sinh ra ông, mẹ là bà Josephine Vaillant thành hôn với cha của ông là Johann Georg Benz. Người lái tàu hỏa này mất năm 1846, một năm sau khi cưới. Tên ông trở thành Karl Friedrich Michael Benz, sau này ông đổi tên thành Carl Friedrich Benz.
Từ năm 1853 ông đi học trường trung học Gymnasium (tiếng Pháp: Lycée - trường lít xê) có xu hướng nghiên về khoa học tự nhiên tại Karlsruhe. Năm 15 tuổi Carl Benz thi đậu vào trường Đại học Bách khoa (sau này là trường Đại học Kỹ thuật) tại Karlsruhe vào ngày 30 tháng 9 năm 1860. Ông tốt nghiệp sau bốn năm học vào ngày 9 tháng 7 năm 1864. Ngày 20 tháng 7 năm 1872 ông thành hôn với bà Bertha Ringer.
Nhà kỹ sư chế tạo máy người Đức trở thành người tiên phong trong ngành công nghiệp ô tô. Ngày 25 tháng 11 năm 1914 Trường Đại học Kỹ thuật Karlsruhe đã trao tặng bằng tiến sĩ danh dự cho Carl Friedrich Benz.
Ông mất ngày 4 tháng 4 năm 1929 tại Ladenburg vì hậu quả của bệnh viêm phổi, thọ 84 tuổi.
Karl hay Carl?
Cách viết tên của ông Benz vẫn còn gây rắc rối cho đến ngày nay. Nếu thành phố này có quảng trường Karl Benz thì làng lân cận lại có trường Carl Benz. Chính nhà tiên phong ô tô đã tự tạo ra sự lộn xộn trong chính tả này. Trong sổ khai sinh của Mühlburg, trong phần ngày 25 tháng 11 năm 1844, tên ông được ghi là Karl Friedrich Michael. Năm 1860 ông cũng đã tự viết tên mình là Karl Benz khi nhập học trường Đại học Bách khoa Karlsruhe và trong bằng phát minh đầu tiên của ông vào năm 1880 tên của ông cũng được viết là Karl Benz từ Mannheim. Cuối thế kỷ 19 việc viết tên họ Đức theo cách viết của tiếng Pháp trở thành mốt, Karlsruhe trở thành Carlsruhe và Karl Benz cũng từ đó thường ký tên là Carl Benz. Bằng phát minh kế tiếp của ông vào năm 1882 là bằng phát minh của Carl Benz ở Mannheim. Nhà máy ở Ladenburg của ông cũng hoạt động dưới tên là "Carl Benz Söhne KG" (Công ty hợp danh Carl Benz và các con).
Benz cung cấp cho cả "phái C" và lẫn "phái K" lý do chính đáng cho cả hai cách viết mà không có cách nào thật sự là sai cả. Công ty cổ phần Daimler đã quyết định viết theo lối "K" như là lối viết rõ ràng hơn trong lịch sử. Ít nhất thì cơ quan lưu trữ tiểu bang tại Karlsruhe cũng đã công nhận cách viết này dựa trên các ghi chú trong sổ khai sinh.
Các phát minh kỹ thuật
Trong khoảng thời gian 1878/1879 Benz đã phát triển một động cơ đốt trong hai thì và sau đó là một động cơ bốn thì loại nhẹ. Ông cũng đã phát triển hay cải tiến nhiều bộ phận khác của xe cơ giới như bộ truyền động vi sai, trục lái nối khuỷu, bộ phận đánh lửa (bu gi), bộ chế hòa khí, bộ làm mát bằng nước và hộp số.
Năm 1885 ông chế tạo chiếc "ô tô" đầu tiên, một chiếc xe 3 bánh với một động cơ đốt trong và bộ phận đánh lửa bằng điện chạy lần đầu trong Mannheim (Đức) vào năm 1886. Chiếc xe có 0,8 mã lực (0,6 kW) và đạt vận tốc nhanh nhất là 16 km/h.
Ngày 29 tháng 1 năm 1886 Carl Friedirch Benz đã viết lịch sử công nghiệp bằng cách đăng ký bằng phát minh số 37435 cho chiếc xe này tại Cơ quan quản lý bằng phát minh Đế chế (tiếng Đức: Reichspatentamt). Carl Benz đã bị nhiều chế giễu từ giới công khai vì công việc làm của ông. Chiếc xe này đã được chế giễu như là "cỗ xe không ngựa". Nhưng mặt khác tờ báo "Generalanzeiger der Stadt Mannheim" trong tháng 9 năm 1886 đã bình luận là "chiếc xe này sẽ có một tương lai tốt đẹp", vì nó "có thể sử dụng không phức tạp lắm và vì nó sẽ trở thành phương tiện chuyên chở rẻ tiền nhất với vận tốc nhanh cho các nhà doanh thương phải đi lại và cũng có thể cho cả khách du lịch". Carl Benz cũng nhận thấy tương tự như vậy và liên tục cải tiến xe của ông. Năm 1888 vợ của ông, Bertha Benz, thực hiện chuyến đi xa đầu tiên từ Mannheim về Pforzheim (Đức).
Năm 1888 nhờ tham gia vào cuộc "Triển lãm máy làm việc và máy năng lực" tại München (Đức) loại xe mới này ("thay thế hoàn toàn xe ngựa!") bắt đầu được biết đến bên ngoài nước Đức, thế nhưng những người có thể là khách hàng vẫn còn hoài nghi. Việc phổ biến ô tô bắt đầu tại Pháp, nước có hệ thống đường bộ tốt nhất thời bấy giờ. Các kiểu xe mới của Carl Benz được trình bày trong cuộc Triển lãm quốc tế tại Paris vào năm 1889.
Các nhà máy của Carl Benz
Năm 1871 Benz thành lập "Eisengießerei und mechanische Werkstätte" (Nhà máy đúc sắt và phân xưởng cơ khí), sau đó đổi tên thành "Fabrik für Maschinen zur Blechbearbeitung" (Nhà máy chế tạo máy gia công thép lá). Việc phát triển tốn kém dẫn đến ngân hàng yêu cầu ông phải chuyển nhà máy thành một công ty cổ phần và qua đó tên cũng được đổi thành "Gasmotorenfabrik in Mannheim" (Nhà máy động cơ khí tại Mannheim). Nhà thiết kế không nhận được nhiều sự đồng ý từ phía hội đồng giám sát cho những hoài bão của ông, vì thế Benz rời bỏ công ty và thành lập một công ty mới vào năm 1883, "Benz & Co. Rheinische Gasmotorenfabrik Mannheim" (Nhà máy động cơ khí Rhein Mannheim Benz & Co.) (từ 1899 là công ty cổ phần), là nhà máy ô tô lớn nhất thế giới vào khoảng năm 1900. Từ năm 1903 Benz không tham gia trực tiếp vào các công việc của nhà máy nữa. Ông cùng các con trai thành lập công ty "Carl Benz Söhne" (Carl Benz và các con) chuyên về sản xuất xe cơ giới. Năm 1926 hai công ty "Benz & Co. Rheinische Gasmotorenfabrik Mannheim" và "Daimler Motorengesellschaft" (Công ty động cơ Daimler) hợp nhất thành Daimler-Benz AG (Công ty cổ phần Daimler-Benz).
Benz chưa từng quen biết cá nhân với nhà thiết kế Gottlieb Daimler, người cùng với bạn là Wilhelm Maybach đã cho chạy chiếc mô tô đầu tiên (còn có bánh chống phụ) vào năm 1885 tại Cannstatt (Đức) và mất năm 1900. |
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Maha Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra, Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn.
Kinh này được hầu hết các Phật tử tại Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, Tây Tạng, và Trung Quốc biết đến và rất thường dùng trong việc đọc tụng.
Lịch sử
Tình trạng xuất hiện của kinh này không được các tác giả thống nhất. Thời điểm ra đời của nó có thể là từ năm 100 TCN đến thế kỷ thứ 2 và một số tác giả cho rằng bài kinh này do bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) viết. Tuy nhiên, lời thoại của trong Kinh này vẫn là lời thoại chúng thời Phật tại thế. Vì vậy những tác giả cho rằng "Kinh có sau thời Đức Phật" đó vẫn là giả thuyết mơ hồ.
Bản kinh phổ biến nhất ở Việt Nam là bản của sư Trần Huyền Trang (Tam Tạng) sau khi thỉnh kinh về đã dịch lại vào năm 649. Trước đó đã có nhiều sư dịch từ tiếng Phạn ra Hán ngữ trong đó có Cưu Ma La Thập (402-412), Nghĩa Huyền, Pháp Nguyệt, Bát Nhã và Lợi Ngôn, Trí Tuệ Luận, Pháp Thành, và Thi Hộ.
Kinh cũng đã được sự chú giải của rất nhiều sư từ nhiều quốc gia. Riêng ở Việt Nam, người chú giải kinh này đầu tiên là thiền sư Đạo Tuân Minh Chánh ở chùa Bích Động (tỉnh Ninh Bình) thời vua Minh Mạng.
Dị bản
Về đại cương thì các bản văn đều khá rõ và giống nhau nhưng về chi tiết ngay các bản chữ Phạn để lại cũng có chi tiết khác nhau. Dĩ nhiên là trong các bản dịch đều có những chi tiết khác nhau nhỏ (tiếng Hán, tiếng Pháp và tiếng Việt).
Trong thập niên cuối của thế kỷ 19 thì bản kinh mới được Samuel Beal dịch ra Anh ngữ.
Edward Conze, một nhà nghiên cứu Phật học Anh (1904-1979) với nhiều công nghiên cứu đã không thể tìm thấy được bài văn nguyên thủy của kinh này, mặc dù đã có nhiều bằng chứng cho thấy có một nguyên bản ban đầu của kinh này.
Toàn bộ bộ kinh lớn Đại Bát Nhã cũng đã bị quân Hồi giáo tiêu hủy khi họ đánh chiếm Đại học Phật giáo Nalanda. (Xem thêm Lịch sử Phật giáo.)
Khi so lại bản dịch phổ biến hiện nay hầu hết dịch lại từ bản Hán ngữ của sư Trần Huyền Trang với một phiên bản khác còn lưu lại được trong Tạng ngữ thì bộ kinh này thiếu vắng phần khai kinh và phần kết luận hoan hỉ vâng làm theo của chư vị nghe giảng kinh. Trong bản dịch từ Tạng ngữ, phần này vẫn còn đầy đủ
Chú thích |
Đại hội Thánh Mẫu (tên chính thức là Ngày Thánh Mẫu) là đại hội chính của dân Mỹ gốc Việt theo Công giáo tổ chức vào mùa hè từ năm 1978 tại Dòng Mẹ Chúa Cứu Chuộc ở Carthage, Missouri.
Lịch sử
Hội Dòng đã tổ chức Đại Hội Thánh Mẫu đầu tiên tại trụ sở chính ở Hoa Kỳ vào năm 1978, để kỷ niệm Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria. Khoảng 1.500 người Công giáo Việt Nam từ khu vực Carthage đã tham gia trong một tĩnh tâm một ngày.
Thông thường, các Đại Hội Thánh Mẫu diễn ra mà không có sự cố lớn. Sở cảnh sát Carthage và các nhà tổ chức sự kiện thực thi các quy tắc chống lại hành vi khiếm nhã và sử dụng ma túy. Các thành viên băng đảng bị cấm tham gia đại hội, sau khi hai băng đảng giết một người đàn ông trong một đánh nhau vào năm 2003. Trong Đại hội năm 2008, 17 người hành hương bị thiệt mạng trong một tai nạn xe buýt trên đường đến Carthage từ Houston.
Những giám mục nổi bật đã tham dự và đã chủ tế các Thánh Lễ vào Đại Hội Thánh Mẫu là: Đấng đáng kính Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Nguyên Tổng giám mục Phó Tổng giáo phận Sài Gòn và cháu trai cố Tổng thống Ngô Đình Diệm; Đức cố Tổng Giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục, Nguyên Tổng Giám mục Tổng giáo phận Huế và là anh của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm; Đức Tổng Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên, vào thời điểm đó là giám mục chính tòa Giáo phận Hải Phòng; Đức cố Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Hòa, hồi đó là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam và giám mục chính tòa Giáo phận Nha Trang; Hồng y Raymond Leo Burke, hồi đó là Tổng Giám mục Tổng giáo phận St. Louis; Hồng y Wilton Daniel Gregory, hồi đó là Giám mục chính tòa Giáo phận Belleville và Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ; Hồng y Daniel Nicholas DiNardo, Tổng giám mục Tổng giáo phận Galveston–Houston. |
Microsoft Windows (Windows) là một họ hệ điều hành dựa trên giao diện người dùng đồ hoạ được phát triển và được phân phối bởi Microsoft. Nó bao gồm một vài các dòng hệ điều hành, mỗi trong số đó phục vụ một phần nhất định của ngành công nghiệp máy tính. Các dòng Windows hiện tại gồm Windows NT, Windows Embedded Compact và Windows Phone; chúng có thể bao gồm các phân họ, ví dụ như Windows Embedded Compact (Windows CE) hoặc Windows Server. Các dòng gia đình Windows đã bị ngừng gồm Windows 9x, Windows Mobile và Windows Phone.
Microsoft giới thiệu một môi trường điều hành có tên là Windows vào 20 tháng 11 năm 1985 như một giao diện hệ điều hành đồ hoạ cho MS-DOS để đáp ứng với sự quan tâm ngày càng tăng với các giao diện người dùng đồ hoạ (GUI). Microsoft Windows dần chiếm ưu thế trong thị trường máy tính cá nhân thế giới với hơn 90% thị phần, vượt qua Mac OS, đã được giới thiệu năm 1984. Tuy nhiên, từ 2012, thị phần của nó đã bị tụt lại so với Android, trước khi trở thành hệ điều hành phổ biến nhất năm 2014, khi tính tất cả các nền tảng máy tính mà Windows chạy (giống như Android)
Tính đến tháng 1 năm 2022, phiên bản cập nhật mới nhất cho PC, máy tính bảng và các hệ thống nhúng là Windows 11 đã được phát hành. Phiên bản cập nhật mới nhất dành cho máy chủ, là Windows Server 2019 20H2 và phiên bản Windows chuyên dụng chạy trên hệ máy chơi video game Xbox One..
Các dòng sản phẩm chính
Theo mục đích tiếp thị
Microsoft, nhà phát triển của Windows, đã đăng ký nhiều nhãn hiệu, mỗi nhãn hiệu nhằm biểu thị cho một họ hệ điều hành Windows được nhắm vào một phần cụ thể của ngành công nghiệp máy tính. Tính đến năm 2014, các họ Windows đang được phát triển tích cực là:
Windows NT: Được bắt đầu dưới dạng một họ hệ điều hành với Windows NT 3.1, một hệ điều hành cho máy chủ và máy trạm. Phiên bản mới nhất là Windows 11. Đối thủ chính của họ này là hệ điều hành macOS của Apple Inc. Họ này được phân ra thành ba họ hệ điều hành con được phát hành gần như cùng lúc và chia sẻ chung một nhân (Core), bao gồm:
Windows 10X: Hệ điều hành cho các thiết bị ARM, sau đó bị khai tử bởi Microsoft.
Windows Server: Hệ điều hành dành cho máy chủ. Phiên bản mới nhất là Windows Server 2022. Không giống như các phiên bản cho khách hàng, các hệ điều hành trong họ này đều được đặt tên theo quy luật (Windows Server + tên năm phát hành). Đối thủ chính của họ này là hệ điều hành Linux.
Windows PE: Một phiên bản nhẹ của Windows được tạo ra để vận hành như một hệ điều hành trực tiếp, được sử dụng để cài đặt Windows trên các máy tính hoàn toàn mới (đặc biệt khi phải cài đặt nhiều máy tính cùng lúc), hoặc sử dụng với mục đích phục hồi hoặc sửa lỗi. Phiên bản mới nhất là Windows PE 10.0.10586.0.
Windows IoT: Ban đầu, Microsoft phát triển Windows CE dưới dạng một hệ điều hành mục đích chung cho tất cả các thiết bị có tài nguyên (cấu hình phần cứng) hạn chế. Sau đó, Windows CE lại được đổi tên thành Windows Embedded Compact và được xếp lại dưới thương hiệu Windows Compact cũng được bao gồm Windows Embedded Industry, Windows Embedded Professional, Windows Embedded Standard, Windows Embedded Handheld và Windows Embedded Automotive.
Các họ Windows sau không còn được phát triển nữa:
Windows 9x: Hệ điều hành được nhắm vào thị trường tiêu dùng. Họ này đã bị ngừng phát triển do làm việc không còn hiệu quả. (PC World còn gọi phiên bản cuối của nó, Windows ME, là một trong những sản phẩm tệ nhất mọi thời đại.) Microsoft nay dùng Windows NT cho thị trường tiêu dùng.
Windows Mobile: Phiên bản tiền nhiệm của Windows Phone, là một hệ điều hành cho điện thoại di động. Phiên bản đầu tiên có tên là Pocket PC 2000; phiên bản thứ ba, Windows Mobile 2003 là phiên bản đầu tiên có thương hiệu Windows Mobile. Phiên bản cuối cùng là Windows Mobile 6.5.
Windows Phone: Hệ điều hành chỉ được bán cho các nhà sản xuất điện thoại thông minh. Phiên bản đầu tiên là Windows Phone 7, và phiên bản cuối là Windows 10 Mobile
Lịch sử
Thuật ngữ Windows thường được dùng để mô tả chung bất kỳ hoặc tất cả thế hệ hệ điều hành của Microsoft. Những sản phẩm này thường được phân loại như sau:
Các phiên bản đầu tiên
Tháng Chín năm 1981, Chase Bishop, một kĩ sư tin học đã thiết kế mẫu thiết bị điện tử đầu tiên và dự án "Interface Manager" được bắt đầu. Nó được công bố vào tháng 11 năm 1983 dưới cái tên "Windows" (Cửa sổ), nhưng mãi đến tháng 11 năm 1985, Windows 1.0 mới được ra mắt. Windows 1.0 được cho là cạnh tranh với hệ điều hành của Apple nhưng lại ít phổ biến hơn. Windows 1.0 là bản mở rộng của MS-DOS. Giao diện của Windows 1.0 thường được biết đến với cái tên MS-DOS Executive. Các tiện ích bao gồm Máy tính (Calculator), Lịch (Calendar), Cardfile (trình quản lý thông tin cá nhân), trình xem bộ nhớ tạm, Đồng hồ (Clock), Bảng điều khiển (Control Panel), Notepad, Paint (Vẽ), Trò chơi Reversi, Dòng lệnh (Command) và Viết (Write). Windows 1.0 không cho phép chồng xếp các cửa sổ. Chỉ có một số hộp thoại mới được chồng lên các cửa sổ khác.
Windows 2.0 ra mắt vào tháng 12 năm 1987 và còn phổ biến hơn phiên bản tiền nhiệm. Các tính năng bao gồm cải thiện giao diện và quản lý bộ nhớ.Windows 2.0 đã bắt cho phép các cửa sổ xếp chồng lên nhau. Sau sự thay đổi này, Apple đã cáo buộc Microsoft vi phạm bản quyền của mình. Windows 2.0 còn thêm vào các phím tắt bằng bàn phím và có thể sử dụng với bộ nhớ ngoài.
Windows 2.1 ra mắt với 2 phiên bản: Windows/286 và Windows/386. Windows/386 sử dụng chế độ ảo hóa 8086 của Intel 80386 để chạy nhiều chương trình DOS. Windows/286, đúng như tên gọi, chạy trên Intel 8086 và Intel 80286. Nó chạy trên chế độ thực nhưng có thể dùng vùng bộ nhớ lớn.
Windows 3.x
Windows 3.0 được ra mắt vào năm 1990 đã cải tiến thiết kế, chủ yếu nhờ dung lượng bộ nhớ ảo và VxDs cho phép Windows chia sẻ các thiết bị tùy ý giữa các chương trình đa nhiệm MS-DOS.Các ứng dụng trên Windows 3.0 có thể chạy trong chế độ bảo vệ giúp cho chúng truy cập đến một vài megabyte bộ nhớ mà không cần phải tham gia vào quá trình bộ nhớ ảo. Windows 3.0 cũng thêm vào một số cải tiến mới cho giao diện người dùng. Microsoft viết lại các hoạt động quan trọng từ C sang hợp ngữ. Windows 3.0 là phiên bản Windows đầu tiên đạt được thành công thương mại lớn. bán được 2 triệu bản trong 6 tháng đầu.
Windows 3.1 phát hành rộng rãi vào 1 tháng 3 năm 1992 cho thấy một sự đổi mới. Tháng Tám 1993, Windows cho Workgroups, một phiện bản đặc biệt kèm theo giao thức mạng ngang hàng và cái tên Windows 3.11 được ra mắt và được bán cùng Windows 3.1. Các hỗ trợ cho Windows 3.1 kết thúc vào 31 tháng 12 năm 2001.
Windows 3.2, được phát hành năm 1994, là một phiên bản cập nhật cho phiên bản tiếng Trung của Windows 3.1. Bản cập nhật chỉ được phát hành cho phiên bản ngôn ngữ này, và cũng chỉ sửa các lỗi liên quan đến hệ thống viết phức tạp của tiếng Trung. Windows 3.2 được bán ra rộng rãi bởi các hãng sản xuất máy tính với một phiên bản MS-DOS 10 đĩa cùng có ký tự tiếng Trung Giản thể trong các đầu ra cơ bản và một số tiện ích đã được biên dịch.
Windows 9X
Phiên bản tiêu dùng theo định hướng lớn tiếp theo và có lẽ là lớn nhất của Windows là Windows 95, được ra mắt vào 24 tháng 8 năm 1995. Trong khi vẫn phụ thuộc vào MS-DOS, Windows 95 được giới thiệu là hỗ trợ các ứng dụng 32-bit, phần cứng Plug and Play, đa nhiệm ưu tiên, tên tập tin dài đến 255 ký tự và cung cấp tăng tính ổn định hơn người tiền nhiệm. Windows 95 cũng giới thiệu một giao diện mới, hướng tới đối tượng, thay thế Trình quản lý chương trình bằng Menu Start, thanh điều hướng và Windows Explorer. Windows 95 là một thành công thương mại lớn cho Microsoft; Ina Fried của CNET nhận xét rằng "vào thời điểm Windows 95 cuối cùng cũng bị khai tử trên thị trường năm 2001, nó đã trở thành vật bất ly thân với mọi máy tính để bàn khắp thế giới." Microsoft đã phát hành bốn bản OSR (OEM Service Releases) cho Windows 95 mỗi bản tương đương với một bản service pack. Bản OSR đầu tiên phiên bản đầu tiên của Windows được đi kèm với trình duyệt web của Microsoft, Internet Explorer. Hỗ trợ chính cho Windows 95 kết thúc vào 31 tháng 12 năm 2000 và hỗ trợ mở rộng kết thúc vào 31 tháng 12 năm 2001.
Windows 95 được tiếp nối bằng sự ra mắt của Windows 98 vào 25 tháng 6 năm 1998, giới thiệu Windows Driver Model, hỗ trợ các thiết bị USB tổng hợp, ACPI, chế độ ngủ đông và các thiết lập đa màn hình. Windows 98 cũng kèm theo Internet Explorer 4. Tháng Năm 1999, Microsoft ra mắt Windows 98 Second Edition, một bản cập nhật cho Windows 98. Windows 98 SE thêm vào Internet Explorer 5 (thêm tính năng Internet), Windows Media Player 6.2 và Connect To Internet (Internet Connection Wizard) cùng với một số nâng cấp khác. Hỗ trợ chính cho Windows 98 kết thúc vào 30 tháng 6 năm 2002 và hỗ trợ mở rộng kết thúc vào 11 tháng 7 năm 2006.
Ngày 14 Tháng Chín 2000, Microsoft ra mắt Windows ME (Millennium Edition), phiên bản Windows dựa trên nền MS-DOS cuối cùng. Windows ME kết hợp cải tiến giao diện trực quan của nó từ Windows 2000 dựa trên nền Windows NT, có thời gian khởi động nhanh hơn các phiên bản trước (tuy nhiên, nó yêu cầu loại bỏ các khả năng truy cập vào một chế độ thực môi trường DOS, loại bỏ khả năng tương thích với một số chương trình cũ), mở rộng chức năng đa phương tiện (bao gồm Windows Media Player 7, Windows Movie Maker và Windows Image Acquisition để nhận ảnh từ máy scan và máy ảnh kỹ thuật số), một số tiện ích tuỳ chọn như Bảo vệ tập tin hệ thống (System File Protection) và Khôi phục hệ thống (System Restore) và cập nhật các công cụ mạng ở nhà. Tuy nhiên, Windows ME đã phải đối mặt với những lời chỉ trích do tốc độ và sự bất ổn định của nó, cùng với vấn đề tương thích phần cứng và sự loại bỏ hỗ trợ chế độ thực nền DOS. PC World đã cho Windows ME là hệ điều hành tồi nhất mà Microsoft đã từng phát hành, và là sản phẩm công nghệ tồi thứ 4 mọi thời đại.
Windows NT
Các phiên bản đầu tiên
Tháng Mười Một 1988, một nhóm lập trình từ Microsoft bắt đầu làm việc với một phiên bản mới của IBM và OS/2 của Microsoft với cái tên "NT OS/2". NT OS/2 được dự định là một hệ điều hành bảo mật, nhiều người dùng với khả năng tương thích POSIX nhân di động với khả năng đa nhiệm ưu tiên và hỗ trợ nền tảng đa nhân. Tuy nhiên với thành công của Windows 3.0, nhóm NT đã quyết định làm lại dự án với bản 32-bit của Windows API với cái tên Win32 thay vì OS/2. Win32 duy trì cấu trúc tương tự như Windows API (cho phép ứng dụng Windows hiện có thể dễ dàng được chuyển đến các nền tảng khác) nhưng vẫn hỗ trợ nhân NT đã có. Sau khi được phê duyệt bởi các nhân viên của Microsoft, các lập trình viên tiếp tục với bản gọi là Windows NT, phiên bản 32-bit đầu tiên của Windows. Tuy nhiên, IBM đã phản đối những thay đổi trên và cuối cùng tự tiếp tục phát triển OS/2 theo riêng họ.
Bản phát hành đầu tiên của hệ điều hành này, Windows NT 3.1 (được đặt tên để liên kết với Windows 3.1) được phát hành tháng 7 năm 1993, với các phiên bản cho các máy trạm để bàn và máy chủ. Windows NT 3.5 được phát hành tháng 9 năm 1994, tập trung cải thiện hiệu suất và hỗ trợ NetWare của Novell, và được tiếp nối bởi Windows NT 3.51 vào tháng 5 năm 1995, bao gồm một số cải thiện và hỗ trợ cấu trúc PowerPC. Windows NT 4.0 được phát hành tháng 6 năm 1996, giới thiệu một giao diện được thiết kế mới của Windows 95 lên dòng NT. Ngày 17 tháng 2 năm 2000, Microsoft phát hành Windows 2000, phiên bản kế tiếp Windows NT 4.0. Cái tên Windows NT đến lúc đó đã bị lược đi nhằm tập trung nhiều hơn nữa vào nhãn hiệu Windows.
Windows XP
Phiên bản lớn tiếp theo của Windows, Windows XP được ra mắt vào 25 tháng 10 năm 2001. Windows XP được giới thiệu để nhằm hợp nhất dòng Windows 9x hướng tới người tiêu dùng với cấu trúc được giới thiệu trong Windows NT, một thay đổi mà Microsoft đã hứa hẹn sẽ cung cấp một hiệu suất tốt hơn so với các phiên bản trước dựa trên DOS. Windows XP cũng giới thiệu một giao diện người dùng được thiết kế mới (bao gồm menu Start được cập nhật và một phiên bản Windows Explorer được "hướng tới các tác vụ"), các tính năng đa phương tiện và mạng, Internet Explorer 6, tích hợp với dịch vụ .NET Passport của Microsoft, các chế độ giúp tương thích với các phần mềm được thiết kế cho các phiên bản Windows trước, và tính năng Remote Assistance.
Windows XP được phân phối và bán lẻ theo 2 phiên bản chính: phiên bản "Home" hướng tới người tiêu dùng, còn bản "Professional" hướng tới môi trường doanh nghiệp và người dùng chuyên nghiệp, và còn kèm theo các tính năng mạng và bảo mật tuỳ chọn. Hai phiên bản trên sau đó được đi kèm với bản "Media Center" (dành cho PC để giải trí tại nhà với trọng tâm là hỗ trợ chơi DVD, card TV, chức năng ghi hình DVR và điều khiển từ xa) và bản "Tablet PC" (được thiết kế cho các thiết bị di động đáp ứng thông số kỹ thuật của nó cho một máy tính bảng, hỗ trợ bút cảm ứng) Hỗ trợ chính cho Windows XP kết thúc vào 14 tháng 4 năm 2009. Hỗ trợ mở rộng kết thúc vào 8 tháng 4 năm 2014.
Sau Windows 2000, Microsoft còn đổi kế hoạch ra mắt cho các hệ điều hành máy chủ; phiên bản cho máy chủ của Windows XP, Windows Server 2003 được ra mắt vào tháng 4 năm 2003. Phiên bản tiếp theo của nó là Windows Server 2003 R2 ra mắt vào tháng 12 năm 2005.
Windows Vista
Sau một thời gian phát triển dài, Windows Vista được ra mắt vào 30 tháng 11 năm 2006 cho cấp phép số lượng lớn và vào 30 tháng 1 năm 2007 cho người tiêu dùng và nó đi cùng phiên bản dành cho máy chủ, Windows Server 2008 được ra mắt vào năm 2008. Nó chứa một số tính năng mới như giao diện mới (Aero Theme), đặc biệt tập trung vào bảo mật, vấn đề mà mọi người dùng Windows XP vào thời đó luôn gặp phải. Nó được chia ra thành nhiều phiên bản và là đề tài của nhiều lời chỉ trích. Tuy nhiên, phiên bản này đã thất bại thảm hại do yêu cầu cấu hình khá cao so với cấu hình máy tính thời đó. Dù cho như thế, Windows Vista là 1 sự nâng cấp lớn của phiên bản Windows XP trước đó. Một trong số thành phần của Windows Vista vẫn làm nền tảng cho các phiên bản Windows sau, các thay đổi lớn như chuyển giao diện cài đặt DOS trên Windows XP sang giao diện GUI trên Windows PE trực quan hơn. Windows không hỗ trợ cài đặt trên phân vùng FAT32 nữa, cùng với rất nhiều cải tiến khác.
Windows 7
Ngày 22 tháng 7 năm 2009, Windows 7 và Windows Server 2008 R2 ra mắt bản RTM, và được ra mắt chính thức vào 22 tháng 10 năm 2009. Windows 7 được dự định là tập trung hơn, là bản nâng cấp lớn vào dòng Windows, với mục tiêu là tương thích với các ứng dụng và phần cứng mà Windows Vista đã tương thích. Windows 7 hỗ trợ cảm ứng đa điểm, giao diện cải tiến với thanh điều hướng mới, hệ thống mạng nhà gọi là HomeGroup và cải thiện hiệu năng. Windows 7 còn là một trong những phiên bản Windows còn nhiều người dùng cho đến hiện nay, dù cho Windows 7 đã kết thúc hỗ trợ vào ngày 14 tháng 1 năm 2020.
Windows 8 và 8.1
Windows 8, kế nhiệm Windows 7, được chính thức ra mắt vào 26 tháng 10 năm 2012. Một số thay đổi đáng kể đã được thực hiện trên Windows 8, bao gồm giao diện Metro mới (sau đổi thành Modern vì lý do bản quyền) thích hợp cho các thiết bị cảm ứng như máy tính bảng và máy tính AIO. Các thay đổi này bao gồm màn hình Start sử dụng các ô lớn để dễ dàng hơn trong cảm ứng và hiển thị các thông tin cập nhật, các ứng dụng mới được thiết kế dành riêng cho cảm ứng. Các thay đổi khác gồm tăng độ liên kết với các dịch vụ đám mây và các nền tảng trực tuyến khác (như mạng xã hội và 2 dịch vụ của Microsoft: SkyDrive và Xbox Live), cửa hàng Windows Store để phân phối các ứng dụng, và một biến thể khác là Windows RT sử dụng cho các thiết bị ARM. Một bản cập nhật của Windows 8 là Windows 8.1 ra mắt vào 17 tháng 10 năm 2013, thêm nhiều tính năng mới như các kích cỡ ô vuông mới, liên kết với SkyDrive nhiều hơn,...
Windows 10
Ngày 30 tháng 9 năm 2014, Microsoft giới thiệu Windows 10, là sự kế thừa cho Windows 8.1. Nó được phát hành vào ngày 29 tháng 7 năm 2015 và nhằm tới những thiếu sót trong giao diện người dùng đầu tiên được giới thiệu với Windows 8. Những thay đổi bao gồm sự trở lại của Start Menu, một hệ thống Desktop ảo, và khả năng chạy các ứng dụng Windows Store trong cửa sổ trên máy tính để bàn hơn là trong chế độ toàn màn hình. Windows 10 sẽ được cập nhật miễn phí cho các máy tính Windows 7 và Windows 8.1 đủ điều kiện từ ứng dụng 'Get Windows 10' (cho Windows 7, Windows 8.1) hoặc Windows Update (Windows 7)
Ngày 12 tháng 11 năm 2015, một bản cập nhật cho Windows 10, phiên bản 1511, đã được phát hành.
Bản cập nhật này có thể được kích hoạt với một mã sản phẩm của cả các phiên bản Windows 7, 8 hoặc 8.1 cũng như mã sản phẩm Windows 10. Các tính năng bao gồm các biểu tượng và menu chuột phải mới, trình quản lý máy in mặc định, cho phép mở rộng số lượng các ô xếp trong menu Start, tính năng Find My Device, và cập nhật cho Edge. Phiên bản cập nhật mới nhất của hệ điều hành này là phiên bản 22H2 (OS Build 19045), phát hành vào tháng 10 năm 2022. Đây cũng là bản cập nhật cuối cùng của Windows 10, sau này chỉ còn các bản cập nhật bảo mật hàng tháng nhỏ.
Windows 11
Bài chi tiết: Windows 11
Windows 11 là một hệ điều hành của Microsoft được công bố vào ngày 24 tháng 6 năm 2021, là một phần của họ hệ điều hành Windows NT. Windows 11 được phát hành rộng rãi vào ngày 5 tháng 10 năm 2021 dưới dạng bản nâng cấp miễn phí thông qua Windows Update cho các thiết bị đủ điều kiện chạy Windows 10.
Hỗ trợ đa ngôn ngữ
Hỗ trợ đa ngôn ngữ được tích hợp trong Windows. Ngôn ngữ của cả bàn phím và giao diện có thể được thay đổi qua mục Region and Language (Vùng và ngôn ngữ) trong Control Panel. Các thành phần cho tất cả các ngôn ngữ nhập vào được hỗ trợ, như các bộ gõ, được tự động cài đặt trong quá trình cài đặt Windows (trong Windows XP về trước, các tập tin cho các ngôn ngữ Đông Á, như tiếng Trung, và các ngôn ngữ bố cục phải qua trái, như tiếng Ả Rập, có thể phải cài đặt riêng biệt, cũng từ trong Control Panel). Các bộ gõ bên thứ ba cũng có thể được cài đặt nếu người dùng thấy bộ gõ có sẵn không đủ cho nhu cầu của họ.
Các ngôn ngữ giao diện cho hệ điều hành có thể được tải về miễn phí, nhưng một số ngôn ngữ bị giới hạn trong một số phiên bản nhất định của Windows. Các gói Language Interface Pack (Gói Ngôn ngữ Giao diện - LIP) được phát hành và có thể được tải về từ Trung tâm Tải xuống của Microsoft và được cài đặt cho bất cứ phiên bản Windows nào (từ XP về sau) - các gói này biên dịch gần hết, nhưng không phải tất cả, giao diện của Windows, và yêu cầu một ngôn ngữ gốc nhất định (ngôn ngữ mà Windows đi kèm lúc đầu). Các gói này được sử dụng cho hầu hết ngôn ngữ tại các thị trường đang phát triển. Các gói Full Language Pack (Gói Ngôn ngữ Đầy đủ), biên dịch toàn bộ hệ điều hành, chỉ có sẵn cho một số phiên bản Windows (các phiên bản Ultimate và Enterprise của Windows Vista và 7, và tất cả các phiên bản Windows 8, 8.1,10 và RT ngoại trừ Single Language). Chúng không yêu cầu một ngôn ngữ gốc nào cụ thể, và thường được dùng cho các ngôn ngữ phổ biến hơn cả như tiếng Pháp hay tiếng Trung. Các ngôn ngữ này không thể được tải về qua Trung tâm Tải xuống, nhưng có thể được tải về qua dịch vụ Windows Update dưới dạng bản cập nhật tùy chọn (trừ Windows 8).
Ngôn ngữ giao diện của các ứng dụng đã cài đặt không bị ảnh hưởng bởi các thay đổi về ngôn ngữ giao diện Windows. Điều này phụ thuộc vào các nhà phát triển ứng dụng đó.
Windows 8 và Windows Server 2012 giới thiệu một Language Control Panel (Panen Điều khiển Ngôn ngữ) mới, nơi cả ngôn ngữ giao diện cà ngôn ngữ nhập có thể thay đổi cùng lúc, và các gói ngôn ngữ, bất kể thuộc loại nào, đều có thể được tải về từ một vị trí trung tâm. Ứng dụng PC Settings trong Windows 8.1 và Windows Server 2012 R2 cũng bao gồm một trang cài đặt cho việc này. Thay đổi ngôn ngữ giao diện cũng sẽ thay đổi ngôn ngữ của các ứng dụng Windows Store đã được cài đặt sẵn (như Thư, Bản đồ và Tin tức) và một số các ứng dụng do Microsoft phát triển khác (như Remote Desktop). Những giới hạn trên cho các gói ngôn ngữ vẫn có hiệu lực, ngoại trử việc các gói ngôn ngữ đầy đủ có thể được cài đặt cho bất kì phiên bản nào ngoại trừ Single Language, nhằm hướng tới các thị trường đang phát triển.
Nền tảng hỗ trợ
Windows NT hỗ trợ một vài nền tảng khác nhau trước khi các máy tính cá nhân dựa trên x86 thống trị thế giới chuyên nghiệp. Windows NT 4.0 và các phiên bản trước hỗ trợ PowerPC, DEC Alpha và MIPS R4000. (Mặc dù một số nền tảng này thực hiện tính toán 64-bit, hệ điều hành lại xử lý chúng như 32-bit.) Tuy nhiên, Windows 2000, phiên bản kế tiếp Windows NT 4.0, ngừng hỗ trợ cho tất cả các nền tảng trên ngoại trừ thế hệ thứ ba của x86 (còn gọi là IA-32) hoặc mới hơn trong chế độ 32-bit. Dòng sản phẩm khách hàng của họ Windows NT vẫn chạy trên IA-32, cho dù dòng Windows Server đã ngừng hỗ trợ nền tảng này từ phiên bản Windows Server 2008 R2.
Với sự giới thiệu nền tảng Intel Itanium (IA-64), Microsoft đã phát hành các phiên bản Windows mới để hỗ trợ nền tảng này. Các phiên bản Itanium của Windows XP và Windows Server 2003 được phát hành cùng với phiên bản x86 chính. Windows XP 64-Bit Edition, phát hành năm 2005, là hệ điều hành khách hàng cuối cùng hỗ trợ Itanium. Dòng Windows Server tiếp tục hỗ trợ nền tảng này cho tới phiên bản Windows Server 2012; Windows Server 2008 R2 là hệ điều hành Windows cuối cùng hỗ trợ cấu trúc Itanium.
Vào ngày 25 tháng 4 năm 2005, Microsoft phát hành Windows XP Professional x64 Edition và Windows Server 2003 x64 Edition để hỗ trợ x86-64 (hoặc đơn giản là x64), thế hệ thứ tám của cấu trúc x86. Windows Vista là phiên bản khách hàng đầu tiên của Windows NT được cùng phát hành cả hai phiên bản IA-32 và x64 editions. x64 vẫn đang được hỗ trợ.
Một phiên bản Windows 8 có tên là Windows RT được tạo ra dành cho các máy tính với cấu trúc ARM và khi ARM vẫn được sử dụng cho các điện thoại thông minh Windows với Windows 10, các máy tính bảng Windows RT sẽ không được cập nhật.
Microsoft 365 (trước đây là Office 365)
Ngày 14 tháng 7 năm 2021 – Tập đoàn Microsoft chính thức giới thiệu Office 365 (nay là Microsoft 365), một dịch vụ đám mây cho phép doanh nghiệp thuộc mọi quy mô được trải nghiệm Windows 10 hoặc Windows 11 theo một cách thức hoàn toàn mới. Theo đó, Microsoft 365 (trước đây là Office 365) sẽ đưa hệ điều hành Windows lên đám mây Microsoft Cloud, giúp người dùng có được trải nghiệm Windows toàn diện – từ ứng dụng, dữ liệu đến cài đặt – cho dù họ đang sử dụng thiết bị của công ty hay cá nhân. Dịch vụ mới sẽ cho phép sử dụng đa nền tảng, nhằm mục đích cung cấp hệ điều hành cho cả người dùng Apple và Android. Microsoft 365 có thể truy cập được thông qua bất kỳ hệ điều hành nào có trình duyệt web.
Microsoft đã công bố cho phép khách hàng doanh nghiệp đăng ký trải nghiệm Office 365 vào ngày 2 tháng 8 năm 2021.
Windows CE
Windows CE (Windows Embeded Compact) là một phiên bản Windows chạy trên các máy tính gọn nhẹ như thiết bị định vị vệ tinh và điện thoại di động.Windows Embedded Compact được dựa trên hạt nhân riêng của nó, có tên là Windows CE.
Windows CE được sử dụng trong Dreamcast cùng với hệ điều hành độc quyền của Sega dành cho giao diện điều khiển. Windows CE là cốt lõi mà từ đó Windows Mobile xuất hiện. Người kế nhiệm của nó, Windows Phone 7 dựa trên thành phần của cả Windows CE 6.0 và Windows CE 7.0. Tuy nhiên, Windows Phone 8 lại dựa trên nhân NT của Windows 8.
Không nên nhầm lẫn giữa Windows XP Embedded hay Windows NT 4.0 Embedded (2 phiên bản mô-đun của Windows dựa trên nhân WIndows NT) với Windows CE.
Xbox OS
Xbox OS là một tên chưa chính thức được đặt cho phiên bản Windows chạy trên Xbox One. Phiên bản này chú trọng vào việc ảo hóa (sử dụng Hyper-V) khi mà có ba hệ điều hành cùng chạy cùng một lúc, bao gồm hệ điều hành chính, hệ điều hành thứ hai được thiết kế cho trò chơi và một môi trường tương tự Windows hơn cho các ứng dụng.
Microsoft cập nhật HĐH của Xbox One mỗi tháng, và những bản cập nhật này có thể được tải về tử dịch vụ Xbox Live và có thể được cập nhật sau, hoặc sử dụng các ảnh đĩa hồi phục ngoại tuyến đã được tải về qua một chiếc PC. Phần lõi dựa trên Windows 10 mới đã thay thế phần dựa trên Windows 8 trong bản cập nhật này, và hệ thống mới này đôi khi được gọi là "Windows 10 trên Xbox One" hoặc "OneCore".
Hệ thống của Xbox One cũng cho phép tương thích ngược với Xbox 360, và hệ thống của Xbox 360 cũng tương thích ngược với phiên bản Xbox nguyên gốc.
Dòng thời gian
Thị phần sử dụng và doanh số các thiết bị
Theo Net Applications, Windows là họ hệ điều hành được sử dụng nhiều nhất cho máy tính cá nhân cho tới tháng 6 năm 2016 với gần 90% thị phần sử dụng. Nếu tính cả máy tính cá nhân với các thiết bị khác, v.d như các thiết bị di động, vào tháng 7 năm 2016, theo StatCounter, cũng phân tích theo việc sử dụng trên web, các HĐH Windows chiếm 46,87% thị phần sử dụng, so sánh với 36,48% của Android, 12.26% của iOS, và 4.81% của OS X.
Tính theo số thiết bị được cài đặt sẵn hệ điều hành, trên điện thoại thông minh, Windows Phone là HĐH được cài đặt sẵn nhiều thứ ba (2.6%) sau Android (82.8%) và iOS (13.9%) trong quý hai năm 2015 theo IDC. Nếu tính cả PC và thiết bị di động, trong năm 2014 các HĐH Windows được cài đặt sẵn nhiều thứ hai (333 triệu thiết bị, hay 14%) sau Android (1.2 tỷ, 49%) và nhiều hơn iOS và Mac OS cộng lại (263 triệu, 11%).
Việc sử dụng phiên bản mới nhất Windows 10 đã vượt quá Windows 7 trên toàn cầu kể từ đầu năm 2018. Ở hầu hết các quốc gia phát triển, như Nhật Bản, Úc và Mỹ, Windows 10 đã là phiên bản phổ biến nhất kể từ đầu năm 2017.
Chia sẻ sử dụng trên máy chủ
Tỷ lệ sử dụng Windows trên các máy chủ - những máy chủ đang chạy một máy chủ web (cũng có các loại máy chủ khác) - ở mức 33,6%.
Bảo mật
Phiên bản tiêu dùng của Windows được thiết kế ban đầu cho tính dễ sử dụng trên máy tính một người dùng mà không cần kết nối mạng, và không có tính năng bảo mật được xây dựng từ đầu. Tuy nhiên, Windows NT và những người kế nhiệm của nó được thiết kế cho bảo mật (bao gồm cả trên mạng) và máy tính đa người dùng, nhưng ban đầu không được thiết kế với an ninh Internet, kể từ khi nó được phát triển đầu tiên vào đầu những năm 1990, việc sử dụng Internet ít phổ biến hơn.
Những vấn đề thiết kế kết hợp với lỗi lập trình và sự phổ biến của Windows khiến nó trở thành mục tiêu của virus và sâu máy tính. Tháng Sáu 2005, Counterpane Internet Security của Bruce Schneier báo cáo rằng trong 6 tháng có tới hơn 1000 mẫu virus và sâu mới. Năm 2005, Kaspersky tìm thấy khoảng 11.000 các chương trình độc hại và virus, Trojan,... cho Windows.
Microsoft thường tung ra các bản vá lỗi qua Windows Update khoảng 1 tháng một lần (thường vào ngày thứ Ba thứ hai của tháng), còn một vài các cập nhật quan trọng thường được tung ra sớm hơn khi cần. Trong các phiên bản từ Windows 2000 SP3 trở lên, các bản cập nhật có thể được tự động tải xuống và cài đặt khi người dùng cho phép. Kết quả là các Gói dịch vụ (Service Pack) 2 cho Windows XP và 1 cho Windows Server 2003 được cài đặt nhanh chóng hơn nhiều.
Trong khi các dòng Windows 9x được cung cấp tùy chọn có các thông tin cho nhiều người dùng, chúng không có khái niệm về quyền truy cập, và không cho phép truy cập đồng thời; và như vậy không phải là hệ điều hành đa người dùng thực sự. Ngoài ra, các HĐH này chỉ thực hiện bảo vệ bộ nhớ một phần. Việc này đã bị chỉ trích nhiều vì sự thiếu an toàn.
Dòng hệ điều hành Windows NT thì ngược lại, là hệ điều hành đa người dùng thực sự và thực hiện bảo vệ bộ nhớ tuyệt đối. Tuy nhiên, rất nhiều lợi thế của một hệ điều hành đa người dùng thực sự đã được vô hiệu hóa bởi một thực tế là, trước Windows Vista, tài khoản người dùng đầu tiên được tạo ra trong quá trình cài đặt là một tài khoản quản trị, mà đó cũng là mặc định cho tài khoản mới. Mặc dù Windows XP đã có tài khoản hạn chế, đa số người dùng gia đình không thay đổi một loại tài khoản có ít quyền - một phần do số lượng các chương trình không cần yêu cầu quyền quản trị - và vì vậy hầu hết người dùng gia đình vẫn chạy tài khoản quản trị.
Windows Vista đã thay đổi điều này bằng cách giới thiệu một hệ thống đặc quyền cao được gọi là User Account Control (UAC). Khi đăng nhập như một người dùng chuẩn, một phiên đăng nhập được tạo ra và một thẻ chỉ chứa các đặc quyền cơ bản nhất được đưa ra. Bằng cách này, các phiên đăng nhập mới sẽ không có khả năng làm những thay đổi ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống. Khi một ứng dụng yêu cầu đặc quyền cao hơn hoặc "Run as administrator" được nhấp, UAC sẽ yêu cầu để xác nhận, và nếu đồng ý (bao gồm cả thông tin quản trị nếu tài khoản yêu cầu độ cao không phải là một thành viên của nhóm quản trị viên), bắt đầu quá trình sử dụng các mã thông báo không hạn chế.
Các tài liệu bị rò rỉ do WikiLeaks xuất bản, có tên mã Vault 7 và ngày 2013 20132016, chi tiết về khả năng của CIA để thực hiện giám sát điện tử và chiến tranh mạng, như khả năng thỏa hiệp các hệ điều hành như Microsoft Windows.
Quyền truy cập tập tin
Tất cả các phiên bản Windows từ Windows NT 3 đã được dựa trên hệ thống cấp phép hệ thống tập tin được gọi là AGDLP (Tài khoản, Toàn cầu, Địa phương, Quyền) trong đó quyền truy cập tập tin được áp dụng cho tập tin / thư mục ở dạng 'nhóm cục bộ' sau đó có các "nhóm toàn cầu" khác làm thành viên. Các nhóm toàn cầu này sau đó giữ các nhóm hoặc người dùng khác tùy thuộc vào các phiên bản Windows khác nhau được sử dụng. Hệ thống này khác với các sản phẩm của nhà cung cấp khác như Linux và NetWare do phân bổ quyền 'tĩnh' đang được áp dụng cho tập tin hoặc thư mục. Tuy nhiên, sử dụng quy trình AGLP / AGDLP / AGUDLP này cho phép áp dụng một số lượng nhỏ quyền tĩnh và cho phép dễ dàng thay đổi các nhóm tài khoản mà không cần áp dụng lại quyền truy cập tập tin trên các tập tin và thư mục.
Windows Defender
Ngày 06 tháng 1 năm 2005, Microsoft phát hành phiên bản Beta của Microsoft AntiSpyware, dựa trên bản phát hành trước đó Giant AntiSpyware. Ngày 14 tháng 2 năm 2006, Microsoft AntiSpyware đã trở thành Windows Defender với việc phát hành bản Beta 2. Windows Defender là một chương trình phần mềm miễn phí được thiết kế để bảo vệ chống lại phần mềm gián điệp và phần mềm không mong muốn. Người dùng Windows XP và Windows Server 2003 có bản sao chính hãng của Microsoft Windows có thể tự do tải chương trình từ trang web của Microsoft và Windows Defender như một phần của Windows Vista và 7. Trong Windows 8, Windows Defender và Microsoft Security Essentials được kết hợp thành một chương trình duy nhất, có tên là Windows Defender. Nó dựa trên Microsoft Security Essentials, vay mượn những tính năng và giao diện người dùng. Mặc dù nó được kích hoạt theo mặc định, nó có thể được tắt để sử dụng một giải pháp chống virus khác. Windows Malicious Software Removal Tool và Microsoft Safety Scanner là hai sản phẩm bảo mật miễn phí khác được cung cấp bởi Microsoft.
Phân tích bên thứ ba
Trong một bài viết dựa trên báo cáo của Symantec, internetnews.com đã mô tả Microsoft Windows có "số lượng bản vá ít nhất và thời gian phát triển bản vá trung bình ngắn nhất trong số 5 hệ điều hành được theo dõi trong sáu tháng cuối năm 2006. "Một nghiên cứu được thực hiện bởi Kevin Mitnick và công ty truyền thông tiếp thị Avantgarde năm 2004, đã phát hiện ra rằng một hệ thống Windows XP không được bảo vệ và chưa được vá với Gói dịch vụ 1 chỉ tồn tại bốn phút trên Internet trước khi nó bị xâm nhập và hệ thống Windows Server 2003 không được bảo vệ và cũng không được bảo vệ bị xâm nhập sau khi được kết nối với internet trong 8 giờ. Máy tính đang chạy Windows XP Service Pack 2 không bị xâm phạm. Nghiên cứu an toàn trực tuyến của Liên minh an ninh mạng quốc gia AOL tháng 10 năm 2004, đã xác định rằng 80% người dùng Windows đã bị nhiễm ít nhất một sản phẩm phần mềm gián điệp / phần mềm quảng cáo. [Cần dẫn nguồn] Có nhiều tài liệu mô tả cách tăng tính bảo mật của các sản phẩm Microsoft Windows. Các đề xuất điển hình bao gồm triển khai Microsoft Windows đằng sau tường lửa phần cứng hoặc phần mềm, chạy phần mềm chống vi-rút và chống phần mềm gián điệp và cài đặt các bản vá khi chúng có sẵn thông qua Windows Update.
Chương trình giả lập
Do sự phổ biến của hệ điều hành, một số ứng dụng đã được phát hành nhằm cung cấp khả năng tương thích với các ứng dụng Windows, như là một lớp tương thích cho một hệ điều hành khác, hoặc là một hệ thống độc lập có thể chạy phần mềm được viết cho Windows. Bao gồm:
Wine – phần mềm mã nguồn mở có chức năng tương đương của các hàm Windows API, cho phép vài chương trình ứng dụng Windows chạy trên nền x86 Unix, bao gồm cả Linux.
CrossOver Office của Codeweavers, cũng giả lập được hoàn toàn để các chương trình Windows có thể chạy trên các hệ điều hành khác.
Cedega (trước đây gọi là WineX) – là một nhánh của Wine thuộc sở hữu của TransGaming Technologies, được thiết kế chuyên để chạy các trò chơi viết cho Microsoft Windows trên Linux
Mono và CLI chung mã nguồn – hệ thống tương đương với cơ sở Microsoft.NET.
ReactOS – hệ điều hành mã nguồn mở được phát triển với mục tiêu là tương thích với các chương trình và trình điều khiển thiết bị của Windows NT, mặc dù vậy hiện tại vẫn còn đang trong giai đoạn phôi thai.
Freedows và Alliance OS – một dự án có nhiều tham vọng, dự định là một bản sao của Windows và bổ sung thêm nhiều tính năng lợi ích nhưng đã thất bại.
Project David – một dự án đầy tham vọng và đã gây nhiều tranh cãi với mục đích là giả lập hoàn toàn để các chương trình Windows có thể chạy trên các hệ điều hành khác.
Captive NTFS – một phần mềm gói, dạng nguồn mở có tính tương thích cao hơn cho hệ NTFS.
E/OS – với mục tiêu có thể chạy bất kì chương trình thuộc hệ điều hành nào mà không cần phải cài đặt thêm hệ điều hành đó |
Windows (tiếng Anh: cửa sổ, số nhiều) có thể có nghĩa là:
Microsoft Windows: hệ điều hành từ Microsoft
Windows: một phim kinh dị Mỹ của năm 1981 |
Mít (danh pháp hai phần: Artocarpus heterophyllus) là loài thực vật ăn quả, mọc phổ biến ở vùng Đông Nam Á và Brasil. Mít thuộc họ Dâu tằm (Moraceae) và được cho là có nguồn gốc từ Ấn Độ. Quả mít là loại quả quốc gia của Bangladesh.
Đặc điểm
Cây mít thuộc loại cây gỗ nhỡ cao từ 8 đến 15 m. Cây mít ra quả sau ba năm tuổi và quả của nó là loại quả phức, ăn được. Mít được coi là loại cây ăn trái với quả chín lớn nhất lớn trong các loài thảo mộc. Mít có giá trị thương mại. Mỗi trái khá lớn hình bầu dục kích thước 30–60 cm x 20–30 cm. Vỏ mít sù sì, có gai nhỏ. Mít ra quả vào khoảng giữa mùa xuân và chín vào cuối mùa hè (tháng 7-8).
Nó là một loại quả ngọt nhiệt đới. Ở vùng ôn đới thì mít thường bán trong dạng đóng hộp với siro nhưng sau này ở Mỹ và Âu châu cũng nhập cảng mít tươi.
Ngoài dạng mít đóng lon, mít còn được chế biến bằng cách sấy khô hoặc cắt thành lát mỏng rồi chiên giòn.
Đóng nõ
Trái mít có nhiều nhựa mít. Ở Việt Nam khi mít chín cắt xuống không bổ ra ngay mà để nguyên quả rồi dùng một thanh gỗ vót nhọn một đầu, đem đóng vào cuống mít để cho chảy bớt nhựa. Đợi thêm hai ba hôm sau, mới bổ mít ra thì bớt dính nhựa. Cách đó gọi là đóng nõ, trong bài thơ "Quả mít" của Hồ Xuân Hương có nhắc đến.
Gỗ mít
Gỗ của cây mít thuộc gỗ nhóm IV, đôi khi được sử dụng để sản xuất các dụng cụ âm nhạc như các loại mộc cầm, là một phần của gamelan ở Indonesia (một thể loại dàn nhạc bao gồm chiêng, cồng, trống, các loại nhạc cụ bằng các thanh kim loại hay gỗ).
Ở Việt Nam gỗ mít được chuộng dùng làm các tượng thờ.
Các món ăn có sử dụng mít
Các múi mít chín có thể ăn tươi, có vị rất ngọt do có hàm lượng đường như glucoza, fructoza cao (10-15%).
Ở Huế có món mít trộn với tôm, hành, nước mắm ăn kèm với bánh tráng nướng
Quả mít non có thể sử dụng như rau để nấu canh, kho với cá, xào với thịt, làm gỏi.
Xơ mít có thể dùng làm dưa muối gọi là nhút. Món này làm từ xơ mít chín hoặc từ quả mít xanh. Phương ngôn "Nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn" nhắc đến hai đặc sản của vùng quê ở Nghệ An.
Hạt mít cũng ăn được và có giá trị dinh dưỡng nhất định. Hột có thể đem rang, luộc, hoặc hấp, kho cá. Trước khi ăn thì bóc lớp vỏ mỏng bên ngoài; có mùi thơm và vị bùi. Hay có thể sơ chế hột mít với nước muối để tẩy nhớt, sau đó phơi khô, tách vỏ đem luộc chín, tán nhuyễn như với nhân đậu xanh để làm bánh như bánh nếp hay bánh nướng,...
Mứt mít.
Hạt mít rang: hạt mít bóc vỏ và rửa sạch rồi đem rang,
Gudeg món ăn truyền thống ở Jogyakarta, miền trung Java, Indonesia
Lodeh
Sayur Asam
Cơm cà ri mít ở bên Sri Lanka
Canh tác
Châu Mỹ
Cây mít được trồng ở vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới châu Mỹ. Với cộng đồng người Mỹ gốc Việt đáng kể để tiêu thụ, mít từ México được xuất cảng sang Mỹ nhắm vào thị trường này.
Việt Nam
Cây mít được trồng phổ biến ở các vùng nông thôn. Mít có nhiều loại như mít mật, mít ướt, mít dai, mít tố nữ (đặc sản của miền Nam) v.v... Ngoài giá trị dinh dưỡng trong ẩm thực như nói trên, nhiều bộ phận của cây mít còn là vị thuốc.
Lá mít có địa vị đặc biệt dùng để lót oản cúng Phật. Lá mít cũng được dùng để gói thuốc lào truyền thống. Gỗ mít cũng là loại gỗ được chuộng để tạc tượng thờ trong các đền chùa vì thớ gỗ mịn, dễ khắc nhưng nặng và chắc.
Lưu ý khi canh tác trồng nếu cây hay bị ngập nước quả hay bị thối, nứt vỏ trước khi chín. Ở miền Bắc, trái mít chín vào tháng 7 - 8 múi thường sượng và ít ngọt (tục gọi là mít mùa thị). Cách nhận biết quả mít ngon là gai to rộng thì múi to, gai nhỏ cao mau và lồi lõm thì múi bé nhiều sơ. Bắt đầu ngửi thấy mùi thơm thì trẩy sau đó đóng cọc phơi nắng khi ngửi thấy mùi thơm đậm thì ăn. Nếu phơi quá cũng làm thối múi.
Cơ bản có hai loại là mít dai và mít mật. Trong đó mít dai được trồng phổ biến hơn cả có thể ăn được sơ cái và cả sơ con. Mít mật ăn không nóng như mít dai nhưng nát và ngọt khó ăn hơn. Ngày nay giống mít Thái được trồng khá phổ biến nhưng không ăn được sơ và thơm ngọt như giống mít dai.
Mít trong ngôn ngữ
Trái mít non là bông cái đã được thụ phấn còn rất nhỏ cỡ ngón tay. Cái gọi dái mít là bông đực chỉ nở ra nhị phát tán phấn hoa rồi rụng đi (địa phương Huế gọi là mít đái). Dái mít có vị chát thơm nhẹ được dùng trộn làm gỏi hay làm thức ăn chay.
Thành ngữ, tục ngữ Việt Nam có câu:
Nhà ngói cây mít: tả cảnh nhà nông sung túc.
Mít đặc: dốt
Mít ướt: hay khóc
Tiêu tiền như lá mít
Mít ngon anh đánh cả xơ
Thơ Hồ Xuân Hương có bài "Quả mít":
Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì, múi nó dày
Quân tử có thương thì đóng cọc
Xin đừng mân mó nhựa ra tay
Tuy không hẳn trực tiếp liên quan đến cây mít, hoặc trái mít nhưng dưới thời Pháp thuộc, người Việt còn gọi đùa nhau là "mít" vốn nhại âm annamite mà người Pháp áp dụng để chỉ dân tộc Việt.
Hình ảnh |
Florida (phát âm tiếng Anh: ) là một tiểu bang ở đông nam bộ của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, giáp vịnh Mexico ở phía tây, giáp Alabama và Georgia ở phía bắc, giáp Đại Tây Dương ở phía đông, và ở phía nam là eo biển Florida. Florida là tiểu bang rộng lớn thứ 22, đông dân thứ 4, và có mật độ dân số đứng thứ 8 trong số 50 tiểu bang của Hoa Kỳ. Thủ phủ là Tallahassee, thành phố lớn nhất là Jacksonville, và vùng đô thị Miami là vùng đô thị lớn nhất.
Về mặt địa thế, phần lớn lãnh thổ Florida là một bán đảo nằm giữa vịnh Mexico, Đại Tây Dương, và eo biển Florida. Florida có đường bờ biển dài nhất trong số 48 bang liền kề của Hoa Kỳ, với xấp xỉ , và là tiểu bang duy nhất tiếp giáp vịnh Mexico lẫn Đại Tây Dương. Địa hình Florida không có núi non, đất đai trũng thấp không cao hơn mực nước biển là bao, cấu tạo bởi đất trầm tích. Khí hậu Florida gồm vùng cận nhiệt đới ở phía bắc; còn phía nam có khí hậu nhiệt đới. Muông thú trong vườn quốc gia Everglades có những loài tiêu biểu của Florida như cá sấu Mỹ, báo, lợn biển.
Năm 1513, nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Juan Ponce de León trở thành người châu Âu đầu tiên tiếp xúc với lãnh thổ Florida ngày nay, ông đặt tên cho lãnh thổ này là La Florida ( "đất nhiều hoa") khi đổ bộ lên bờ vào mùa Phục Sinh. Florida từ đó trở thành thách thức đối với các cường quốc thực dân châu Âu cho đến khi trở thành một bang của Hoa Kỳ vào năm 1845. Đây là một địa điểm chính trong các cuộc chiến tranh Seminole chống lại người da đỏ, và cách ly chủng tộc sau Nội chiến Mỹ. Ngày nay, Florida đáng chú ý với cộng đồng nói tiếng Tây Ban Nha lớn, tăng trưởng dân số cao, cũng như các mối quan tâm ngày càng tăng lên về môi trường. Kinh tế Florida dựa chủ yếu vào du lịch, nông nghiệp, và vận tải. Florida cũng được biết đến với các công viên giải trí, sản xuất cam, và Trung tâm vũ trụ Kennedy.
Văn hóa Florida phản ánh các ảnh hưởng và kế thừa đa dạng; có thể nhận thấy các di sản của người da đỏ, người Mỹ gốc Âu, người gốc Mỹ Latinh, và người Mỹ gốc Phi trên các công trình kiến trúc và ẩm thực.
Lịch sử
Nghiên cứu khảo cổ học cho thấy rằng người da đỏ cổ là giống người đầu tiên cư trú tại Florida, có lẽ sớm nhất là từ 14 nghìn năm trước. Khu vực liên tục có người cư trú trong suốt thời kỳ cổ đại. Sau năm 500 TCN, văn hóa cổ xưa tương đối bất biến trước đó bắt đầu hợp lại thành các văn hóa bản địa đặc biệt. Đến khoảng thế kỷ 16, tức lần đầu tiên có ghi chép lịch sử về Flordia, các nhóm người da đỏ lớn là Apalachee (Florida Cán xoong), Timucua (bắc bộ và trung bộ Florida), Ais (trung bộ duyên hải Đại Tây Dương), Tocobaga (khu vực vịnh Tampa), Calusa (tây nam bộ Florida) và Tequesta (duyên hải đông nam bộ).
Florida là nơi đầu tiên tại Hoa Kỳ liền kề có người châu Âu đến. Conquistador người Tây Ban Nha Juan Ponce de León phát hiện bán đảo vào ngày 2 tháng 4 năm 1513. Theo biên niên sử của ông, ông đặt tên cho khu vực là La Florida ("đất nhiều hoa") vì khi đó là mùa Phục Sinh, trong tiếng Tây Ban Nha gọi là Pascua Florida, và do thực vật trong khu vực nở hoa. Loài ngựa bị cư dân bản địa dùng làm thực phẩm đến mức tuyệt chủng vào khoảng 10.000 năm trước, và đến năm 1538 những nhà thám hiểm người châu Âu lại đưa chúng đến Bắc Mỹ và đến Florida.
Trong thế kỷ sau đó, cả người Tây Ban Nha và người Pháp đều thiết lập các khu định cư tại Florida với mức độ thành công khác nhau. Năm 1559,Tristán de Luna y Arellano thiết lập một thuộc địa tại Pensacola ngày nay, đây là một trong những nỗ lực đầu tiên của người châu Âu nhằm định cư tại Hoa Kỳ lục địa. Những người Huguenot từ Pháp thành lập pháo đài Caroline tại Jacksonville ngày nay vào năm 1564. Diện tích của Florida thuộc Tây Ban Nha bị thu nhỏ do Anh thiết lập các thuộc địa ở phía bắc và Pháp thiết lập các thuộc địa ở phía tây. Người Anh làm suy yếu quyền lực của người Tây Ban Nha trong khu vực bằng cách cung cấp vũ khí cho các đồng minh Creek và Yamasee, thúc giục họ tấn công các bộ lạc đối tác của người Tây Ban Nha là Timucuan và Apalachee. Florida thu hút nhiều người da đen đến từ các thuộc địa phía nam của Anh tại Bắc Mỹ nhằm thoát khỏi thân phận nô lệ. Khi họ đến Florida, người Tây Ban Nha cải đạo cho họ sang Công giáo La Mã và ban cho họ quyền tự do.
Anh Quốc giành quyền kiểm soát Florida và các lãnh thổ khác bằng phương thức ngoại giao vào năm 1763 theo Hòa ước Paris trong Chiến tranh Bảy năm. Anh Quốc chia lãnh thổ họ mới thu được thành Đông Florida với thủ phủ tại St. Augustine, và Tây Florida với thủ phủ tại Pensacola. Anh Quốc cố gắng phát triển hai thuộc địa Florida thông qua nhập di dân để có thêm lao động, song dự án này cuối cùng thất bại. Tây Ban Nha nhận lại hai thuộc địa Florida sau khi Anh Quốc bị các 13 thuộc địa Bắc Mỹ đánh bại và theo Hòa ước Versailles năm 1783, và vẫn tiếp tục được phân thành Đông và Tây Florida. Tây Ban Nha cấp đất cho những ai đến định cư tại thuộc địa, và nhiều người Mỹ chuyển đến đây.
Sau khi những người định cư tấn công các đô thị của người da đỏ, người da đỏ Seminole tại Đông Florida bắt đầu tấn công các khu định cư tại Georgia, tuyên bố là theo mệnh lệnh của người Tây Ban Nha. Quân đội Hoa Kỳ dẫn đầu các cuộc xâm nhập ngày càng sâu vào lãnh thổ Tây Ban Nha, bao gồm chiến dịch chống người Seminole vào năm 1817-1818. Sau chiến tranh, Hoa Kỳ kiểm soát Đông Florida trên thực tế.
Năm 1819, theo các điều khoản của Hiệp định Adams-Onís, Tây Ban Nha nhượng Florida cho Hoa Kỳ để đổi lấy 5 triệu USD và Hoa Kỳ từ bỏ mọi tuyên bố chủ quyền tại Texas mà họ có thể từ Thương vụ Louisiana. Người da đen tự do và các nô lệ người da đỏ, người Seminole Đen, sống gần St. Augustine, chạy sang La Habana của Cuba để tránh phải chịu sự quản lý của Hoa Kỳ. Một số người Seminole cũng bỏ các khu định cư của họ và di chuyển xa hơn về phía nam. Hàng trăm người Seminole Đen và nô lệ bỏ trốn đã chạy thoát vào đầu thế kỷ 19 từ mũi Florida sang Bahamas, định cư trên đảo Andros.
Năm 1830, do Đạo luật người da đỏ Di dời được thông qua và do định cư tăng lên, chính phủ Hoa Kỳ chịu áp lực lớn hơn trong việc di dời người da đỏ khỏi các vùng đất của họ tại Florida. Để cản trở các địa chủ Georgia, người Seminole chứa chấp và tích hợp những người da đen chạy trốn, gọi là người Seminole da đen, và xung đột giữa người da trắng và người da đỏ tăng lên cùng với dòng người đến định cư. Năm 1832, chính phủ Hoa Kỳ ký kết Hiệp định Payne's Landing với một số tù trưởng người Seminole, hứa hẹn với họ về các vùng đất phía tây sông Mississippi nếu họ chấp thuận tự nguyện dời khỏi Florida. Khi đó, một số người Seminole dời đi, song một số còn lại vẫn chuẩn bị phòng phủ bảo vệ đất đai mà họ tuyên bố. Quân đội Hoa Kỳ đến vào năm 1835 và bắt người Seminole phải thi hành hiệp ước trước áp lực từ những người định cư da trắng. Chiến tranh Seminole lần thứ hai kết thúc khi Hoa Kỳ từ bỏ việc chiến đấu do chi phí quá lớn.
Ngày 3 tháng 3 năm 1845, Florida trở thành bang thứ 27 của Hoa Kỳ, là bang duy trì chế độ nô lệ, song ban đầu dân số tăng trưởng chậm. Những người định cư da trắng tiếp tục xâm phạm các vùng đất mà người Seminole đang sử dụng, và chính phủ Hoa Kỳ quyết định tiến hành nỗ lực khác nhằm chuyển những người Seminole còn lại về phía tây. Chiến tranh Seminole lần thứ ba kéo dài từ năm 1855 đến năm 1858, kết quả là di dời hầu hết những người Seminole còn lại. Song sau ba cuộc chiến, Hoa Kỳ vẫn thất bại trong việc buộc toàn bộ người da đỏ Seminole tại Florida dời về phía tây. Hàng trăm người Seminole vẫn ở lại và hậu duệ của họ vẫn sinh sống tại bang, hai bộ lạc tại Florida được công nhận ở cấp liên bang.
Những người định cư da trắng bắt đầu lập các đồn điền trồng bông tại Florida, do đây là lĩnh vực đòi hỏi nhiều lao động nên họ mua nô lệ trong thị trường nội địa.
Ngày 10 tháng 1 năm 1861, trước khi nổ ra Nội chiến Hoa Kỳ, Florida tuyên bố ly khai khỏi Liên bang; mười ngày sau, bang trở thành một thành viên sáng lập của Liên minh quốc châu Mỹ. Sau Nội chiến, ngày 25 tháng 6 năm 1868, Florida phục hồi đại diện trong quốc hội liên bang.
Sau thời kỳ Tái thiết, các đảng viên Dân chủ giành được quyền lực trong quốc hội bang vào thập niên 1870. Năm 1885, họ tạo ra một hiến pháp mới, sau đó là các điều luật mà trên thực tế tước quyền bầu cử của hầu hết người da đen và nhiều người da trắng nghèo khổ trong vài năm sau đó, với các yêu cầu về thuế khoán, kiểm tra việc biết chữ, và đòi hỏi về cư trú. Việc tước quyền bầu cử đối với hầu hết người da đen trong bang kéo dài cho đến Phong trào dân quyền vào thập niên 1960.
Cho đến giữa thế kỷ 20, Florida vẫn là bang miền Nam ít dân nhất, với chỉ 528.542 người vào năm 1900, trong đó 44% là người Mỹ gốc Phi. Mọt bông tàn phá các vụ mùa bông, các tư hình và bạo lực sắc tộc vào đầu thế kỷ 20 dẫn đến một số lượng kỷ lục người Mỹ gốc Phi rời khỏi bang trong Đại di cư để đến các thành thị công nghiệp ở phía bắc và trung tây. Bốn mươi nghìn người da đen, chiếm khoảng 1/5 dân số của họ vào năm 1900, dời đi để tìm các cơ hội tốt hơn.
Về mặt lịch sử, kinh tế Florida dựa trên các nông sản như chăn nuôi gia súc, đường, cam, cà chua, dâu tây. Thịnh vượng kinh tế trong thập niên 1920 tại Hoa Kỳ thúc đẩy du lịch đến Florida và các phát triển liên quan về khách sạn và cộng đồng nghỉ dưỡng. Cuộc bùng nổ đất đai tại Florida trong thập niên 1920 khiến bất động sản phát triển mãnh liệt trong một giai đoạn ngắn. Florida bị tàn phá trong các trận bão năm 1926 và 1928, tiếp theo là thị trường chứng khoán sụp đổ và Đại suy thoái. Kinh tế Florida không phục hồi hoàn toàn cho đến khi Hoa Kỳ tiến hành tăng cường quân sự trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Khí hậu được điều hòa và mức phí sinh hoạt thấp khiến Florida trở thành một nơi cư trú lý tưởng. Di dân từ Rust Belt và đông bắc khiến dân số bang tăng mạnh sau chiến tranh. Trong các thập niên gần đây, có thêm nhiều di dân đến Florida để tìm việc làm trong nền kinh tế đang phát triển của bang.
Địa lý
Địa hình
Phần lớn bang Florida nằm trên một bán đảo giữa vịnh Mexico, Đại Tây Dương và eo biển Florida. Florida trải dài trên hai múi giờ, duỗi thẳng về tây bắc tạo thành một cán xoong, dọc theo phía bắc của vịnh Mexico. Ở phía bắc, Florida giáp với các bang Georgia và Alabama, và ở cực tây, cũng là phần cuối của cán xoong, là Alabama. Florida lân cận với hai quốc gia Bahamas và Cuba. Florida là một trong các bang lớn nhất ở phía đông của sông Mississippi, và chỉ xếp sau Alaska và Michigan về diện tích nội thủy.
Đồi Britton là điểm cao nhất tại Florida với cao độ , cao độ thấp nhất trong các điểm cao nhất bang tại Hoa Kỳ. Phần lớn diện tích nằm ở phía nam của Orlando thấp và bằng phẳng; phần lớn Florida có cao độ dưới , bao gồm nhiều khu vực dân cư như Miami. Miami và những nơi khác tại nam Florida là những khu vực dễ bị tổn thương nhất trên thế giới do mực nước biển dâng có liên hệ với sự ấm lên toàn cầu.
Tuy nhiên, tại một số nơi như Clearwater có các cảnh quan cao so với mực nước biển. Phần lớn Trung và Bắc Florida, đặc biệt là những nơi cách đường bờ biển hoặc hơn, có các đồi lượn sóng với cao độ biến đổi từ . Điểm cao nhất trên bán đảo Florida (đông và nam sông Suwanee) là núi Sugarloaf với một đỉnh cao tại quận Lake.
Khí hậu
Khí hậu tại Florida được điều hòa phần nào vì mọi nơi tại bang đều năm không quá xa biển. Ở phía bắc hồ Okeechobee, kiểu khí hậu thường thấy là cận nhiệt đới ẩm (Köppen: Cfa), trong khi các khu vực duyên hải ở phía nam của hồ có khí hậu nhiệt đới (Köppen: Aw). Nhiệt độ tối cao trung bình vào cuối tháng 7 là khoảng 90 °F (32–34 °C). Nhiệt độ tối thấp trung bình từ đầu đến giữa tháng 1 dao động từ khoảng 40 °F (4–7 °C) tại bắc bộ Florida đến trên từ Miami về phía nam. Với nhiệt độ trung bình ngày là , Florida là bang ấm nhất tại Hoa Kỳ.
Biệt danh của Florida là "bang ánh nắng", song thời tiết khắc nghiệt là điều diễn ra phổ biến trong bang. Trung Florida được gọi là thủ đô tia sét của Hoa Kỳ do là nơi bị sét đánh nhiều nhất quốc gia.
Florida nằm trong số các bang có lượng mưa bình quân cao nhất, phần lớn là do dông vào buổi chiều là hiện tượng phổ biến, chúng diễn ra tại bang từ cuối mùa xuân đến đầu mùa thu. Một phần nhỏ ở phía đông của Florida, gồm có Orlando và Jacksonville, có số giờ nắng hàng năm từ 2.400 đến 2.800. Phần còn lại của bang, gồm có Miami, nhận được từ 2.800 đến 3.200 giờ nắng mỗi năm.
Xoáy thuận nhiệt đới là một mối đe dọa nghiêm trọng trong mùa bão, vốn kéo dài từ tháng 6 đến hết tháng 11, song một số cơn bão xuất hiện ngoài mùa này. Florida là bang chịu nhiều bão nhất, với vùng nước cận nhiệt đới và nhiệt đới và một đường bờ biển dài. Từ năm 1851 đến năm 2006, Florida bị 114 cơn bão tấn công, 37 trong số đó ở cấp 3 hoặc lớn hơn theo thang bão tại Hoa Kỳ.
Môi trường và tài nguyên
Florida có tiêu thụ năng lượng bình quân ở mức thấp. Có ước tính rằng khoảng 4% năng lượng của bang được phát từ các nguồn tài nguyên tái tạo. Sản xuất năng lượng của Florida chiếm 6% tổng sản phẩm năng lượng quốc gia, trong khi sản sinh các chất gây ô nhiễm ở mức thấp hơn, với 5.6% đối với nitơ oxide, 5,1% với các bon dioxide, và 3,5% đối với sunphua dioxide. Các nguồn tài nguyên dầu khí quan trọng được cho là nằm ngoài khơi bờ biển phía tây của Florida trong vịnh Mexico, song khu vực này đóng cửa đối với thăm dò kể từ năm 1981.
Nhân khẩu
Cục Thống kê Hoa Kỳ ước tính dân số Florida vào ngày 1 tháng 7 năm 2013 là 19.552.860, tăng 4,0% kể từ cuộc điều tra nhân khẩu Hoa Kỳ năm 2010. Dân số Florida trong cuộc điều tra nhân khẩu năm 2010 là 18.801.310. Năm 2010, trung tâm dân số của Florida nằm giữa Fort Meade và Frostproof. Trung tâm dân số dời ít hơn 5 dặm về phía đông và xấp xỉ 1 dặm về phía bắc từ năm 1980 đến 2010 và nằm trong quận Polk kể từ điều tra nhân khẩu năm 1960. Khoảng hai phần ba dân số Florida sinh ra tại bang khác, đây là tỷ lệ cao thứ hai tại Hoa Kỳ.
Năm 2010, di dân bất hợp pháp chiếm khoảng 5,7% dân số Florida, đây là tỷ lệ cao thứ sáu tại Hoa Kỳ. Có khoảng 675.000 di dân bất hợp pháp tại bang trong năm 2010. Năm 2008, có 186.102 người hưu trí từng là nhân viên quân sự tại bang. Một thăm dò của Gallup vào năm 2013 cho thấy 47% cư dân Florida chấp thuận rằng bang nhà là bang tốt nhất để sống.
Theo điều tra nhân khẩu Hoa Kỳ năm 2010, Florida có thành phần dân tộc:
75,0% người Mỹ da trắng (57,9% người da trắng phi Mỹ Latinh và Iberia, 17,1% người Mỹ Latinh và Iberia da trắng)
16,0% người da đen hay người Mỹ gốc Phi
0,4% người da đỏ và thổ dân Alaska
2,4% người Mỹ gốc Á
0,1% thổ dân Hawaii và dân đảo Thái Bình Dương khác
3,6% từ một vài sắc tộc khác
2,5% người Mỹ đa chủng
Trong cùng năm, người gốc Mỹ Latinh và Iberia chiếm 22,5% dân số.
Các nguồn gốc được thuật lại lớn nhất trong cuộc điều tra nhân khẩu năm 2000 là người Đức (11,8%), người Ireland (10,3%), người Anh (9,2%), người Mỹ (8%), người Ý (6,3%), người Cuba (5,2%), người Puerto Rico (3,0%), người Pháp (2,8%), người Ba Lan (2,7%) và người Scotland (1,8%). Trong cuộc điều tra này, 1.278.586 người tại Florida tự xác định có tổ tiên "người Mỹ"; hầu hết những người này có nguồn gốc người Anh, một số có nguồn gốc Scotland-Ireland; tuy nhiên gia đình họ sống tại Hoa Kỳ từ rất lâu, có trường hợp là từ thời kỳ thuộc địa, do vậy họ chọn tự xác định đơn giản là có tổ tiên "người Mỹ" hoặc không biết rõ về tổ tiên họ. Trong điều tra nhân khẩu Hoa Kỳ năm 1980, nhóm dân tộc lớn nhất ghi nhận tại Florida là người Anh với 2.232.514 người Florida tuyên bố rằng họ là người Anh hoặc hầu hết tổ tiên là người Anh.
Trước Nội chiến Mỹ, khi chế độ nô lệ còn hợp pháp, và trong thời kỳ Tái thiết sau đó, người da đen chiếm gần một nửa dân số của bang. Thành phần của họ suy giảm trong thế kỷ sau đó, do nhiều người da đen tại Florida chuyển đến phía bắc trong Đại di cư, trong khi có một lượng lớn người da trắng chuyển đến bang từ phía bắc. Vào năm 1970, người da trắng phi Hispanic chiếm gần 80% dân số của Florida. Gần đây, thành phần cư dân de đen tại Florida lại tăng lên, hiện những nơi tập trung đông người da đen là bắc bộ Florida, vùng vịnh Tampa, khu vực Orlando. Người gốc Mỹ Latinh và Iberia (Hispanic) tại Floria gồm có các cộng đồng lớn của người Mỹ gốc Cuba tại Miami và Tampa, của người Puerto Rico tại Orlando và Tampa, và của các công nhân di cư người Trung Mỹ tại nội địa Tây-Trung và Nam Florida. Cộng đồng Hispanic tiếp tục phát triển đông hơn và lưu động hơn. Năm 2011, 57% trẻ em Florida dưới 1 tuổi thuộc các nhóm dân thiểu số.
Năm 2012, 75% dân cư Florida sống cách bờ biển dưới .
Do có số lượng lớn người nhập cư và công dân Hoa Kỳ chuyển đến Florida từ toàn quốc (đặc biệt là từ đông bắc), có nhiều phương ngôn của tiếng Anh được nói tại Florida. Có thể nghe thấy phương ngữ khu vực thành phố New York và nhiều loại tiếng Anh New England dọc theo vùng bờ biển Đại Tây Dương, đặc biệt la dọc theo Gold Coast và Nam Florida. Vùng bờ biển phía tây dọc theo vịnh Mexico có nhiều người nói tiếng Anh Mỹ nội địa đông bắc hơn, họ có nguồn gốc từ Trung Tây và Đại Hồ và chuyển đến Tây Nam Florida hay vịnh Tampa Bay. Trung Florida có xu hướng hiện diện tất cả các phương ngôn chiếm ưu thế.
Giọng Miami có xu hướng được nói bởi những người sinh ra và/hoặc lớn lên tại hoặc quanh quận Miami-Dade và một vài nơi khác tại Nam Florida, không phân biệt bối cảnh chủng tộc hay dân tộc, song nổi bật hơn trong cộng đồng người Hispanic. Tại Trung Florida và vùng vịnh Tampa, tiếng Anh Latinh New York có thể phổ biến hơn với các thế hệ người Puerto Rico tại Hoa Kỳ, người Mỹ gốc Dominica, người Mỹ gốc Colombia, và những người Mỹ gốc Hispanic khác tiếp tục chuyển khỏi vùng đô thị New York với số lượng lớn.
Năm 2010, 73,36% cư dân Florida 5 tuổi hoặc lớn hơn nói tiếng Anh tại nhà như ngôn ngữ chính, trong khi 19,54% nói tiếng Tây Ban Nha, 1,84% nói tiếng Pháp bồi (hầu như toàn bộ là tiếng Haiti bồi), 0,60% nói tiếng Pháp, và tiếng Bồ Đào Nha được 0,50% dân số nói. Tổng cộng, 26,64% dân số Florida 5 tuổi hoặc lớn hơn có ngôn ngữ mẹ đẻ không phải là tiếng Anh.
Năm 2010, ba giáo phái chi phối tại Florida là Giáo hội Công giáo Rôma, Hội Báp-tít phương Nam, và Giám hội Giám Lý Thống nhất. Tại Florida có một cộng đồng Do Thái đáng kể, tập trung chủ yếu tại nam Florida; đây là cộng đồng Do Thái lớn nhất tại miền Nam Hoa Kỳ và lớn thứ ba toàn quốc sau New York và California. Tín đồ các tôn giáo hiện nay tại Florida gồm Tin Lành với 48%, Công giáo La Mã với 26%, Do Thái với 3%, Nhân Chứng Giê-hô-va với 1%, Hồi giáo với 1%, Chính Thống giáo với 1%, Phật giáo với 0,5% và Ấn Độ giáo với 0,5%. Người vô thần, thần luận tự nhiên và không tôn giáo khác chiếm 16% dân số của Florida.
Quản trị
Cấu trúc, nhiệm vụ, chức năng và hoạt động cơ bản của chính phủ bang Florida được xác định thông qua Hiến pháp Florida, văn kiện này thiết lập các luật cơ bản của bang và đảm bảo nhiều quyền lợi và tự do khác nhau của nhân dân. Chính phủ bang gồm ba nhánh riêng biệt là tư pháp, hành pháp, và lập pháp. Các dự luật do Cơ quan lập pháp Florida ban hành sẽ trở thành luật khi được thống đốc ký.
Cơ quan lập pháp Florida gồm có Tham nghị viện tức Thượng viện Florida với 40 thành viên, và Chúng nghị viện tức Hạ viện Flordia với 120 thành viên. Tòa án Tối cao Florida gồm một chánh án và sáu thẩm phán.
Florida gồm có 67 quận, một số tài liệu chỉ ghi 66 do Duval County được đồng nhất với Thành phố Jacksonville. Florida có 379 thành phố (trong tổng số 411) báo cáo thường xuyên đến Bộ Thuế Florida, song nhiều khu tự quản hợp nhất khác không thực hiện. Nguồn thu chính của chính phủ bang là thuế tiêu thụ, nguồn thu chính của các thành phố và quận là thuế tài sản.
Mặc dù hầu hết cử tri đăng ký theo Đảng Dân chủ, song từ năm 1952 thì bang bỏ phiếu cho các ứng cử viên tổng thống của Đảng Cộng hòa ngoại trừ vào năm 1964, 1976, 1996, 2008 và 2012. 2008 đánh dấu lần đầu tiên kể từ thời Franklin D. Roosevelt mà Florida bỏ phiếu cho một ứng cử viên Dân chủ miền Bắc. Đại biểu quốc hội đầu tiên thuộc Đảng Cộng hòa tại Florida thời hậu Thái thiết đắc cử vào năm 1954. Thượng nghị sĩ Cộng hòa đầu tiên đắc cử thời hậu Tái thiết là vào năm 1968, hai năm sau khi thống đốc Cộng hòa đầu tiên thời hậu Tái thiết đắc cử.
Năm 1972, Florida thực hiện bảo hộ thiệt hại cá nhân bảo hiểm ô tô bắt buộc đối với các lái xe, trở thành bang thứ nhì trong toàn quốc ban hành một luật bảo hiểm không kể bên có lỗi. Việc dễ dàng được nhận tiền theo luật này được cho là dẫn đến gia tăng gian lận bảo hiểm.
Florida được xếp hạng bang nguy hiểm thứ năm vào năm 2009, xếp hạng này dựa trên báo cáo các tội ác nghiêm trọng trong năm 2008.
Florida xếp hạng sáu về lừa đảo vào năm 2010. Bang xếp hạng nhất về lừa đảo thế chấp vào năm 2009.
Năm 2009, 44% tai nạn trên xa lộ liên quan đến đồ uống có cồn. Florida là một trong bảy bang cấm mang súng ngắn công khai (tức không để người khác trông thấy), luật này được ban hành vào năm 1987.
Kinh tế
Trong thế kỷ 20, du lịch, công nghiệp, xây dựng, ngân hàng quốc tế, y sinh học và khoa học sinh mệnh, nghiên cứu y tế, đào tạo mô phỏng, không gian và phòng thủ, và du hành không gian thương mại đóng góp cho sự phát triển kinh tế của bang.
Tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Florida trong năm 2010 là $748 tỷ. GDP của bang cao thứ tư tại Hoa Kỳ. Năm 2010, Florida trở thành bang xuất khẩu hàng hóa thương mại lớn thứ tư. Đóng góp chính cho tổng sản phẩm của bang trong năm 2007 là dịch vụ tổng hợp, dịch vụ tài chính, mậu dịch, giao thông vận tải và tiện ích công cộng, chế tạo và xây dựng. Trong năm 2010–11, ngân sách của bang là $70,5 tỷ, từng đạt đến $73,8 tỷ trong năm 2006–07. Chief Executive Magazine cho rằng Florida là bang tốt thứ ba để kinh doanh vào năm 2011.
Kinh tế được thúc đẩy hầu như hoàn toàn nhờ 19 khu vực đô thị trong bang, vào năm 2004 chúng chiếm tổng cộng 95,7% tổng sản phẩm nội địa của bang.
Năm 2011, thu nhập bình quân đầu người của Florida là $39.563, xếp thứ 27 toàn quốc. Trong tháng 2 năm 2011, tỷ lệ thất nghiệp của bang là 11,5%. Florida là một trong bảy bang không áp đặt thuế thu nhập cá nhân.
Hiến pháp Florida thiết lập một mức lương tối thiểu cấp bang, nó được điều chỉnh theo lạm phát thường niên. Tính đến 1 tháng 1 năm 2012, mức lương tối thiểu của Florida là $4,65 đối với vị trí "được tip"', và $7,67 cho vị trí "không được tip"- cao hơn mức của liên bang là $7,25.
Florida có 4 thành phố trong 25 thành phố đứng đầu toàn quốc về nợ thẻ tín dụng (2011). Bang cũng có tỷ lệ nợ quá hạn thẻ tín dụng cao thứ hai.
Có 2,4 triệu người Florida sống trong nghèo khổ vào năm 2008. 18,4% trẻ 18 tuổi và nhỏ hơn sống trong nghèo khổ. Miami là thành phố lớn nghèo thứ sáu tại Hoa Kỳ (2010). Năm 2010, trên 2,5 triệu người Florida dựa vào tem thực phẩm, tăng từ 1,2 triệu vào năm 2007. Để đủ điều kiện, người Florida cần có thu nhập ít hơn 133% mức nghèo liên bang, tức là dưới $29.000 cho một gia đình bốn người.
Đầu thế kỷ 20, các nhà đầu cơ đất chú ý đến Florida, và các doanh nhân như Henry Plant và Henry Flagler phát triển các hệ thống đường sắt, điều này khiến dân chúng chuyển đến do hấp dẫn từ khí hậu và kinh tế địa phương. Từ đó trở đi, du lịch bùng nổ, thúc đẩy một chu kỳ chôn vùi một phần lớn đất nông nghiệp.
Bùng nổ xây dựng đầu thế kỷ 21 để lại cho Florida 300.000 nhà trống vào năm 2009, theo số liệu của bang. Năm 2009, Cục điều tra nhân khẩu Hoa Kỳ ước tính rằng người Florida dành trung bình 49,1% thu nhập cá nhân cho các phí tổn liên quan đến nhà ở, một tỷ lệ cao thứ ba toàn quốc.
Du lịch là lĩnh vực lớn nhất trong kinh tế Florida. Thời tiết ấm, ánh nắng mặt trời và hàng trăm dặm bãi biển thu hút khoảng 60 triệu du khách đến bang mỗi năm. Florida là địa điểm đứng đầu trong năm 2011.
Nhiều đô thị bãi biển là các địa điểm du lịch phổ biến, đặc biệt là trong mùa đông và nghỉ xuân. 23 triệu du khách đến các bãi biển của Florida vào năm 2000, chi tiêu $22 tỷ. Công chúng có quyền tiếp cận bãi biển theo thuyết tín thác công cộng, song một số khu vực thực tế có thể bị chủ sở hữu tư nhân ngăn tiếp cận trong một khoảng cách dài.
Nông nghiệp là ngành kinh tế lớn thứ hai tại Florida. Các loại quả thuộc chi Cam chanh, đặc biệt là cam, là một phần quan trọng trong kinh tế, và Florida sản xuất phần lớn các loại quả thuộc chi Cam chanh trồng tại Hoa Kỳ. Năm 2006, 67% quả thuộc chi Cam chanh, 75% quả cam, 58% quả quýt, và 54% quả bưởi chùm được trồng tại Florida. Khoảng 95% số cam thương mại sản xuất trong bang là dành cho chế biến (hầu hết là nước cam ép, đồ uống chính thức của bang). Các nông sản khác gồm có mía, dâu tây, cà chua và cần tây. Bang đứng đầu Hoa Kỳ về sản xuất ngô ngọt và đậu cô ve.
Năm 2009, giá trị ngư nghiệp tại Florida là $6 tỷ, tạo 60.000 việc làm cho các mục đích thể thao và thương mại.
Khai mỏ Phosphat tập trung tại Thung lũng Bone, đây là ngành kinh tế lớn thứ ba tại Florida. Bang sản xuất khoảng 74% nhu cầu phosphat của các nông dân tại Hoa Kỳ và chiếm 25% nguồn cung thế giới, với khoảng 95% sử dụng cho nông nghiệp.
Từ khi NASA cho lập các địa điểm phóng Merritt Island trên mũi Canaveral (nổi tiếng nhất là Trung tâm vũ trụ Kennedy) vào năm 1962, Florida phát triển một ngành công nghiệp không gian đáng kể.
Lĩnh vực kinh tế chính khác tại Florida là quân sự, có 24 căn cứ quân sự trong bang, Bộ Tư lệnh Trung ương Hoa Kỳ nằm tại Tampa, Bộ Tư lệnh miền Nam Hoa Kỳ nằm tại Doral, và Bộ Tư lệnh các hoạt động đặc biệt Hoa Kỳ nằm tại Tampa. Có khoảng 100 nghìn nhân viên quân sự Hoa Kỳ đóng tại Florida, đóng góp trực tiếp và gián tiếp $52 tỷ mỗi năm cho kinh tế bang.
Địa phương kết nghĩa |
Báp-tít là một nhóm các giáo hội Cơ Đốc giáo cho rằng phép báp têm chỉ nên được cử hành cho những người tự tuyên xưng đức tin. Họ được xem là một trong những giáo phái thuộc cộng đồng Kháng Cách (Protestantism), và về mặt giáo lý, hầu hết có quan điểm theo phong trào Tin Lành (evangelicalism). Tín hữu Báp-tít nhấn mạnh đến nghi thức báp têm theo cách dầm mình, xem nghi thức này là sự xưng nhận đức tin vào Chúa Giê-xu là Chúa và Cứu Chúa. Cấu trúc tổ chức theo thể chế tự trị giáo đoàn (congregationalism), chú trọng vào quyền tự trị dành cho các nhà thờ địa phương. Thường thì các nhà thờ Baptist tự nguyện kết hợp lại với nhau trong các tổ chức như Liên hiệp Báp-tít Nam phương. Tín hữu Baptist gọi nhà thờ địa phương là hội thánh, vì họ bác bỏ các khái niệm về giáo hội cấp quốc gia hoặc cấp khu vực. Như vậy, trong cộng đồng Baptist, các cấu trúc tổ chức cấp quốc gia hoặc khu vực chỉ được xem là những tổ chức có tính hội đoàn (không phải giáo hội), liên kết các hội thánh địa phương nhằm phục vụ một số mục đích như hợp tác trong truyền bá phúc âm, hoặc hỗ trợ nhau
Xác tín
Vì không chấp nhận một cơ chế tập trung quyền lực vào trung ương, các xác tín được chấp nhận trong vòng các hội thánh Báp-tít là đa dạng. Tuy nhiên, có một số xác tín được chấp nhận rộng rãi trong cộng đồng Báp-tít, tương tự với các tín lý của nhiều giáo phái sản sinh từ cuộc Cải cách Kháng Cách.
Đặc điểm
Những xác tín của cộng đồng Báp-tít được thể hiện qua cách trình bày sau với nội dung xuất phát từ những chữ cái đầu dòng (theo tiếng Anh):
Biblical authority (Thẩm quyền Kinh Thánh)
Autonomy of the local church (Quyền tự trị của hội thánh địa phương)
Priesthood of all believers (Chức vị tư tế dành cho mọi tín hữu)
Two ordinances - Believer's Baptism and Symbolic Communion (Chỉ có hai thánh lễ - Báp têm cho tín hữu và Tiệc thánh)
Individual soul liberty (Quyền tự do cá nhân trong các vấn đề tâm linh)
Separation of Church and State (Sự phân lập giữa giáo hội và nhà nước)
Two offices of the church - Pastor and Deacon (Chỉ có hai chức vụ trong hội thánh - Mục sư và Chấp sự)
Báp têm là thánh lễ dành cho một cá nhân sau khi người ấy xưng nhận Giê-xu là Chúa và Cứu Chúa. Tín hữu Báp-tít chấp nhận báp têm theo ý nghĩa là một sự thể hiện có tính biểu trưng cho sự tẩy sạch tội lỗi từ bên trong, khi một người chấp nhận Giê-xu là Cứu Chúa, cũng là cơ hội để một tín hữu gia nhập vào cộng đồng Cơ Đốc giáo nói chung, và vào một hội thánh địa phương nói riêng. Hầu hết các hội thánh Báp-tít đều xem Lễ Báp têm là điều kiện căn bản để gia nhập hội thánh.
Tín hữu Báp-tít nhấn mạnh (dù không luôn luôn) đến nghi thức báp têm theo cách dầm mình. Nghi thức này được cho là được thực hành bởi Giăng Báp-tít (John the Baptist), theo đó người thụ lễ được ấn sâu vào trong nước. Người hành lễ (thường là mục sư, nhưng tín hữu cũng có thể hành lễ) nhân danh Ba Ngôi theo Phúc âm Mátthêu 28. 19 ("hãy nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh mà làm báp têm cho họ"). Nghi thức này được xem là biểu trưng cho sự chết, sự chôn và sự phục sinh của Chúa Giê-xu.
Trong những trường hợp đặc biệt như người thụ lễ là người bệnh hoặc người lớn tuổi, lễ báp têm được cử hành theo cách rảy nước có thể được chấp nhận như một nghi thức thay thế. Một số hội thánh Báp-tít công nhận lễ báp têm của các giáo phái khác miễn là không phải báp têm dành cho trẻ em. Tuy nhiên, theo quan điểm phổ biến trong cộng đồng Báp-tít, nghi thức báp têm theo cách dầm mình là chọn lựa tốt nhất.
Tín hữu Báp-tít bác bỏ nghi thức báp têm dành cho trẻ em vì họ tin rằng, trong phạm trù của sự cứu rỗi linh hồn, cha mẹ không thể quyết định thay cho con cái của mình. Chỉ có những người đã đến "tuổi chịu trách nhiệm" mới có thể thụ lễ báp têm. Đó là tuổi mà con người có đủ hiểu biết để chịu trách nhiệm về tội lỗi của mình. Nhiều tín hữu Báp-tít tin rằng ở tuổi 12, Chúa Giê-xu bắt đầu thi hành công việc của Thiên Chúa, nên tuổi này có thể là một gợi ý điển hình cho "tuổi chịu trách nhiệm".
Thể chế
Thể chế tự trị giáo đoàn, được chấp nhận rộng rãi trong cộng đồng Báp-tít, giành quyền tự trị cho các hội thánh địa phương trong các lãnh vực như điều hành, tổ chức và thần học. Nhiều hội thánh Báp-tít từ chối đặt mình dưới quyền kiểm soát của bất cứ cấu trúc hành chính nào như hội đồng quốc gia hay bất cứ chức sắc nào như giám mục hay giáo hoàng.
Về tổ chức, việc chọn các viên chức lãnh đạo hội thánh, chấp nhận hoặc bác bỏ một học thuyết, sẽ được quyết định bởi toàn thể thành viên trong hội thánh theo một tiến trình dân chủ. Tuy nhiên, một số đại giáo đoàn (megachurch) chấp nhận một thể chế trao nhiều quyền hạn cho các mục sư, khi ấy các thành viên sẽ không còn nhiều cơ hội tham gia vào các quyết định của hội thánh qua lá phiếu của mình.
Ngay từ đặc tính của mình, vì nhu cầu hợp tác để tồn tại và phát triển, thể chế tự trị giáo đoàn là vườn ươm sản sinh nhiều cấu trúc liên kết các hội thánh địa phương vào các hiệp hội như Liên hiệp Báp-tít Nam phương (Southern Baptist Convention), tổ chức Báp-tít lớn nhất Hoa Kỳ với gần 16 triệu tín hữu. Những hiệp hội này được hình thành nhằm hỗ trợ các công tác như truyền giáo hay các hoạt động từ thiện, nhưng các hiệp hội không có bất kỳ thẩm quyền nào trên các hội thánh địa phương; các hội thánh địa phương tự quyết định cho mình mức độ họ muốn tham gia vào các hiệp hội. Dù đang hiện hữu hàng trăm hiệp hội Baptist, nhiều hội thánh địa phương lại không muốn tham gia vào bất cứ hiệp hội nào.
Phân lập giữa Giáo hội và Nhà nước
Tín hữu Báp-tít, nhiều người đã bị cầm tù hoặc hi sinh mạng sống vì niềm tin của họ, đóng vai trò quan trọng trong các cuộc đấu tranh cho quyền tự do tôn giáo và nguyên tắc phân lập giữa giáo hội và nhà nước tại Anh Quốc và Hoa Kỳ. Năm 1612, Smyth viết "các viên chức chính phủ, chiếu theo chức trách của mình, không nên can thiệp vào tôn giáo, hay các vấn đề của lương tâm". Cũng vào năm ấy, Thomas Helwys viết, Hoàng đế Anh có thể "đòi hỏi nơi thần dân những điều nhà vua muốn, và chúng ta phải vâng phục, nhưng đối với Vương quốc của Thiên Chúa, nhà vua không nên can dự vào".
Ủng hộ nguyên tắc phân lập giữa giáo hội và nhà nước không có nghĩa là rút lui khỏi lãnh vực chính trị, và tín hữu Báp-tít thường không tránh né các hoạt động chính trị. Gần đây tại Hoa Kỳ, tín hữu Báp-tít thường tham gia các hoạt động chính trị gây tranh cãi như chống cờ bạc, rượu, phá thai, hôn nhân đồng tính... Tại một số tiểu bang miền Nam, nơi tín hữu Báp-tít cấu thành đại bộ phận dân số, họ đã thành công trong nỗ lực thông qua các đạo luật cấm bán rượu và ngăn cản một số hình thức cờ bạc.
Thẩm quyền của Kinh Thánh
Thẩm quyền của Kinh Thánh, hay sola scriptura, ngụ ý Kinh Thánh là nguồn thẩm quyền duy nhất đến từ Thiên Chúa để trình bày chân lý, nên được hiểu trong nội dung của sự tương phản với thẩm quyền của truyền thống tông đồ trong Giáo hội Công giáo Rôma. Bất cứ quan điểm nào không được hậu thuẫn bởi Kinh Thánh đều được xem là dựa vào truyền thống của con người hơn là theo sự dẫn dắt của Thiên Chúa. Mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm trước Thiên Chúa về cách người ấy hiểu biết Kinh Thánh, vì vậy tín hữu được khuyến khích tìm kiếm sự cứu rỗi bằng cách nghiên cứu Kinh Thánh với nhiệt tâm và lòng tôn kính.
Tín hữu Báp-tít thuộc Phong trào Nền tảng (Fundamentalism) chia sẻ một quan điểm chung về tính chân xác của Kinh Thánh cùng với cách giải thích Kinh Thánh theo nghĩa đen và một số vấn đề thần học khác. Tuy nhiên, do tính đa nguyên của thể chế tự trị giáo đoàn, nhiều tín hữu Báp-tít không giải thích Kinh Thánh theo nghĩa đen, cũng không theo khuynh hướng Nền tảng; dù phần lớn tín hữu Báp-tít đều tin vào thẩm quyền của Kinh Thánh. Hầu hết những người theo khuynh hướng trung dung trong cộng đồng Báp-tít thích dùng thuật ngữ "soi dẫn" để miêu tả Kinh Thánh hơn là thuật ngữ "không sai lầm".
Dù tín hữu Báp-tít vẫn xem Kinh Thánh là nguồn thẩm quyền duy nhất, họ lại thích trích dẫn những tác phẩm có tính minh hoạ cho Kinh Thánh, nhiều nhất là Thiên lộ Lịch trình của John Bunyan.
Chức Tư tế cho mọi tín hữu
Mệnh đề này ngụ ý mọi tín hữu Cơ Đốc đều có quyền trực tiếp đến với Thiên Chúa, và chân lý có thể được tìm thấy trong Kinh Thánh mà không cần có sự giúp đỡ của một giai cấp trung gian. Học thuyết này đặt nền tảng trên 1 Peter (Phêrô hoặc Phi-e-rơ) 2.9 ("Anh em là dòng dõi được lựa chọn, là chức tư tế của nhà vua, là dân thánh, là dân thuộc về Thiên Chúa"). Martin Luther, tiếp bước John Wycliff, rao giảng học thuyết này trong cuộc Cải cách Kháng Cách vào thế kỷ 16. Đây là một trong những tín lý căn bản giúp xây dựng niềm xác tín của tín hữu Báp-tít về quyền tự do tôn giáo.
Công chính bởi đức tin
Được xưng công chính bởi đức tin, hay sola fide, ngụ ý rằng chỉ bởi đức tin (không phải bởi công đức) mà tín hữu nhận lãnh sự cứu rỗi. Thần học Báp-tít cho rằng nhân loại đã bị ô uế bởi tội lỗi vì cớ sự phản loạn của Adam và Eva chống nghịch Thiên Chúa, vì tội nguyên thủy này mà con người bị hư mất đời đời. Nhưng Chúa Cơ Đốc chết trên thập tự giá để ban cho con người sự sống vĩnh hằng, miễn là họ chấp nhận Chúa Cơ Đốc vào trong đời sống của mình và khẩn cầu Ngài tha thứ tội lỗi.
Nghi thức
Tâm điểm của nghi thức thờ phụng Báp-tít là phần giảng luận. Bài giảng thường có độ dài từ 30 đến 60 phút. Diễn giả có thể chọn trình bày bài giảng của mình theo phương pháp luận giải - tập chú vào một đoạn kinh thánh và giải thích ý nghĩa của nó - hay theo chủ đề, biện luận về một chủ đề đang được quan tâm, với sự hỗ trợ của các đoạn Kinh Thánh liên quan. Bên cạnh đó là phần âm nhạc, với sự tham gia của các ca đoàn và toàn thể giáo đoàn. Hiện nay có hai chọn lựa cho phần âm nhạc trong nghi thức thờ phụng, các bài thánh ca truyền thống hay âm nhạc Cơ Đốc đương đại.
Thánh lễ Tiệc Thánh có thể được cử hành hằng tuần, hằng tháng hoặc ba tháng một lần, thường vào cuối lễ thờ phụng. Tín hữu dự tiệc thánh để tưởng niệm sự chết của Chúa Cơ Đốc và để dự phần vào thân thể và huyết của Chúa Giê-xu, được biểu trưng bởi bánh và nước.
Nguồn gốc
Có một số quan điểm cho rằng đức tin Báp-tít đã hiện hữu ngay từ thời kỳ hội thánh tiên khởi, từ những ngày của Giăng Báp-tít (Gioan Tẩy giả) và Chúa Giê-xu. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng truyền thống Baptist được lưu truyền qua sự tiếp nối của các giáo đoàn Cơ Đốc. Đức tin Baptist được thể hiện qua thần học và sống đạo của các giáo đoàn này, dù thuật ngữ Baptist không được biết đến. Quan điểm này đặt nền tảng trên Phúc âm Mátthêu (Matthêu hoặc Ma-thi-ơ) 16. 18, "...ta sẽ lập hội thánh ta trên đá này; và cửa âm phủ không thể thắng hơn hội thánh".
Thành viên
Thống kê
Ước tính có hơn 90 triệu tín hữu Báp-tít trên toàn thế giới tập trung trong gần 300 000 giáo đoàn, với khoảng 47 triệu tín hữu Báp-tít tại Hoa Kỳ.
Những cộng đồng Baptist đông đảo có mặt ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latin, đáng kể nhất là tại Ấn Độ (2,4 triệu), Nigeria (2,3 triệu), Cộng hòa Dân chủ Congo (1,9 triệu), và Brasil (1,5 triệu).
Theo một cuộc khảo sát trong thập niên 1990, cứ năm người Mỹ có một người tự nhận mình là tín hữu Báp-tít. Cộng đồng Báp-tít tại Hoa Kỳ có hơn năm mươi nhóm khác nhau, nhưng có đến 92% số thành viên gia nhập một trong năm giáo phái sau: Liên hữu Baptist Nam phương (SBC); Liên hữu Báp-tít Quốc gia (NBC); Liên hữu Baptist Quốc gia Mỹ (NBCA); Hội thánh Baptist Mỹ (ABC); và Thông công Baptist Quốc tế (BBFI).
Tư cách Thành viên
Chỉ có những tín hữu đã chịu lễ báp têm mới được công nhận là thành viên của một giáo đoàn địa phương thuộc cộng đồng Báp-tít. Mặc dù không giới hạn số tuổi để gia nhập giáo đoàn, hầu hết nhà thờ Baptist đều không xem trẻ em là thành viên chính thức. Theo quan điểm của họ, trẻ em chưa trưởng thành đủ để có thể hiểu biết và xưng nhận đức tin theo sự chọn lựa và nhận thức của mỗi cá nhân. Cũng có những người công khai xưng nhận đức tin nhưng không hội đủ phẩm chất để trở nên thành viên chính thức. Nếu kể cả những người chưa chịu lễ báp têm (trong đó có trẻ em chưa đủ tuổi), con số ước tính lên đến 120 triệu người Baptist trên toàn thế giới.
Chú thích |
Tẩu pháp (fugue) là tiến trình nhạc Phức điệu trong đó một chủ đề được trình bày lúc ban đầu bằng mối tương quan chủ âm/át âm, sau đó được khai triển bằng kỹ thuật Đối âm. Thuật ngữ Tẩu pháp còn ám chỉ một tác phẩm âm nhạc nhiều chương (tương tự như thuật ngữ Sonata) có cấu trúc chặt chẽ, với quá trình sáng tác có tính cách luận lý (logic) và quá trình sáng tác này được mệnh danh là Luận Nhạc (composition).
Tính chất của Tẩu pháp
Một bản tẩu pháp tổng quát có chứa một chuỗi những đoạn trình bày và những đoạn phát triển không giới hạn số lượng. Đơn giản nhất, một khúc tẩu pháp chỉ có một đoạn trình bày và một đoạn phát triển tự do. Một bản tẩu pháp phức tạp hơn gồm một đoạn trình bày và nhiều đoạn phát triển, hoặc có thêm một đoạn trình bày khác với một hoặc nhiều đoạn phát triển. Loại tẩu pháp cung thể trung tâm sẽ trình bày chủ đề không có chuyển cung ra ngoài mối tương quan chủ âm/át âm ban đầu.
Các thành phần của Tẩu pháp
Nhạc đề chính của Tẩu pháp và cách khởi tấu của nó
Nhạc đề (subject): Dòng nhạc có chứa yếu tố giai điệu/tiết tấu của tẩu pháp. Nhạc đề tiêu biểu có hai phần: phần "đầu" nhằm gây sự chú ý với khán thính giả nên không nhấn mạnh về tiết tấu hoặc quãng nhạc, còn phần "đuôi" có nhiều liên kết, nhiều hình thức tiết tấu, đôi khi có chuyển cung thể. Phần đầu và/hoặc phần đuôi có thể có tiềm năng biến tấu thành một hoặc hai nhạc tố nhỏ hơn và chúng có đặc điểm về tiết tấu và/hoặc quãng nhạc.
Đáp đề (answer): Nhạc đề phỏng tạo đi theo ngay sau lần trình bày thứ nhất của Nhạc đề, nằm ở một bè khác và thường được nâng cao một quãng năm. Đáp đề là một lớp con của chủ đề có mang đặc tính quãng nhạc nằm trong mối tương quan với chủ đề gốc.
Đáp đề Thang âm (tonal answer): một đáp đề tiêu biểu (không phải nhất định như vậy) nằm cùng bộ khóa với chủ đề. Thực hiện điều này cần phải thay đổi một vài quãng nhạc so với chủ đề. Trong một đáp đề thang âm "do" và "sol" hoán vị cho nhau: Bậc đang sử dụng là "do," trong chủ đề, trở thành "sol" trong đáp đề và ngược lại. Phân tích kỹ thuật: các chủ đề chỉ nhảy quãng trong các bậc của âm giai chủ và âm giaí át để tạo đáp đề thang âm.
Đáp đề Thực trạng (real answer): một đáp đề được thực hiện bằng cách dịch giọng chủ đề sang một cung khác, thông thường là cung át. Phân tích kỹ thuật: các chủ đề phải nhảy quãng đúng y như chủ đề và không nằm trong các bậc của âm giai chủ và âm giaí át để tạo đáp đề thực trạng.
Phản đề (countersubject): một âm hình độc lập nối trực tiếp ngay sau chủ đề hoặc đáp đề (trong cùng bè). Phản đề được thực hiện bằng phương pháp đối âm với chủ đề hoặc đáp đề đang dược phát biểu ở bè khác. Không phải mỗi bài tẩu pháp chỉ có một phản đề. Nhiều bản tẩu pháp có nhiều hơn một phản đề.
Chủ đề giả (false subject): Một số người dùng thuật ngữ "chủ đề giả" để miêu tả chủ đề (hoặc đáp đề) được khởi đầu nhưng không đi đến giai kết. Thuật ngữ này được dự trù cho những trường hợp chủ đề vừa xuất hiện, bị bẻ gãy ngang, và được nối tiếp ngay bằng một nét nhạc khác. Hầu hết những trường hợp chủ đề không giai kết sẽ được phát triển thành những câu nhạc "phỏng tạo".
Các chương chính của Tẩu pháp
Trình bày (exposition): Chương này trình bày chủ đề với ít nhất một đáp đề và có thể có phản đề. Đặc tính của chương trình bày là chủ đề lần lượt xuất hiện ở tất cả các bè, và đáp đề (thang âm hoặc thực trạng) có liên hệ chính xác với chủ đề. Các chủ đề và đáp đề thường xuất hiện nối tiếp ngay lập tức ở các bè khác nhau, nghĩa là khi một chủ đề vừa được trình bày xong thì đáp đề xuất hiện ở một bè khác ngay lập tức. Giai kết của phần trình bày cỏ thể được dời xuống phần Tái hiện. Chương này có thể được mở rộng bằng cách trình bày lại lần nữa với sự đảo thứ tự giữa các bè (so với lần trình bày đầu tiên) và có hoặc không thay đổi chủ đề.
Tái trình bày (re-exposition): phần trình bày lại, nối với phần trình bày đầu tiên, trật tự các bè được giữ nguyên giống như lần trình bày đầu tiên.
Đối trình bày (counter exposition): phần trình bày lại, nối với phần trình bày đầu tiên, trật tự các bè được thay đổi hoặc chủ đề thay đởi bằng biến thể đối âm củ chủ đề nguyên thủy.
Trình bày kép (double exposition): phần trình bày sử dụng một nét nhạc chủ đề mới (có thể không dùng thủ pháp đối âm trên chủ đề một). Nếu chủ đề mới độc đáo, thì đó là một bản ‘tẩu pháp kép’ (trường hợp có ba chủ đề khác nhau, đó là tẩu pháp kép ba).
Khai triển (developmental): Chương Khai triển xử lý các nhạc tố trong chương trình bày bằng những thủ pháp như Chuyển tiến, Chuyển cung thể, Chuyển ngược, Đối âm kép, Xiết chặt, Khuếch đại / Thu hẹp, Âm nền... Chương này thường kết thúc bằng một giai kết hoặc vài giai kết nối tiếp nhau. Đặc điểm của chương khai triển là chủ đề được phân đoạn hoặc biến thể bằng nhiều bút pháp khác nhau, nhưng xây dựng dần dần Chủ đề Biến cách tồn tại trong ít nhất một bè nào đó. Các chủ đề biến cách thường không nằm trong tương quan chủ âm / át âm như đoạn trình bày và được mệnh danh là "những đoạn du hứng" (divertimento). Chương Khai triển tiêu biểu không cần phát biểu chủ đề ở tất cả mọi bè.
Tái hiện (coda hoặc codetta): Bao gồm phân đoạn của một chương (codetta) hoặc toàn bộ tẩu pháp (coda). Các coda và codetta thường có âm hưởng dường chúng là phần thêm vào sau cấu trúc kết thúc của một chương. Chức năng của các codetta thường là chuyển cung ngược (để quay về cung thể của chủ đề chính). Không phải mọi bản tẩu pháp đều có chương này.
Kỹ thuật sáng tác Tẩu pháp
Biến tấu Cung thể (Tonal variation)
Chuyển cung (modulation): Phỏng diễn một nhạc tố ở một cung khác. Nhạc sĩ J. S. Bach thường sắp xếp các tẩu pháp của ông ở những cung gần (các cung trưởng và thứ nằm kề nhau trong vòng tròn công năng quãng năm).
Chuyển thể (mutation): Phát biểu chủ đề hoặc đáp đề (hoặc những chất liệu sơ cấp khác) ở "thể" ngược lại. Thí dụ chủ đề ban đầu ở thể thứ (minor) và chủ đề sau ở thể trưởng (major) thì gọi là "chuyển thể".
Biến tấu Đối âm (Contrapuntal variation)
Xiết chặt (stretto): Nhạc tố ở bè thứ nhì xuất hiện trước khi nhạc tố ở bè thứ nhất kết thúc. Nhạc tố có thể là chủ đề, đáp đề, phản đề, hoặc những phỏng diễn khác phát xuất từ giai điệu / tiết tấu.
Khuếch đại / Thu hẹp (augmentation/diminution): Phát biểu nhạc tố với tiết tấu được tăng đôi hoặc chia đôi.
Âm nền (pedal point): duy trì liên tục một cao độ, thường là âm trầm, tạo nên sự luân phiên giữa hoà âm thuận và hoà âm nghịch với các bè bên trên. Tẩu pháp rất thường sử dụng âm nền.
Chuyển ngược (retrograde): (ít thấy) Phát biểu các nốt của nhạc tố "ngược trật tự".
Nghịch đảo Giai điệu (melodic inversion): (contrary motion) Phát biểu nhạc tố với các quãng nhạc đi "ngược hướng" với nhạc tố nguyên thủy. Nếu tính chất của các quãng nhạc được giữ nguyên thì chuyển hành được gọi là "đối xứng qua gương".
Chuyển tiến (sequence): Lặp lại nhạc tố ở "cao độ khác", bước cao hơn hoặc thấp hơn. Mỗi câu lặp lại được gọi là một "bước tiến". Chuyển tiến mà mỗi bước tiến tự nó có chứa một mẫu chuyển tiến được gọi là "làm tổ". Thủ pháp chuyển tiến của J. S. Bach có khuynh hướng trở thành biến tấu tiếp theo, với toàn bộ chuyển tiến bao gồm hai hoặc ba bước tiến, mỗi bước tiến có chứa hai hoặc ba đơn vị phụ trợ. Thí dụ: kỹ thuật chuyển tiến trong tác phẩm bút pháp đối xứng qua gương trong Nghệ thuật Tẩu pháp. Phần Chuyển tiến tự thân xuất hiện trong Chương Trình bày và có tiềm năng để khai triển.
Nghịch đảo Đối âm (contrapuntal inversion): Phỏng diễn tay đôi hoặc tay ba. Tái hiện từng cặp bè (Đối âm kép đôi) hoặc ba bè (Đối âm kép) trong đó những bè đã xuất hiện sẽ được phân bố lại "khác thứ tự", nhờ đó tương quan quãng nhạc sẽ tạo nên sự thay đổi.
Thể loại Nghịch đảo Đối âm
Đảo Quãng Tám: Quãng Bốn trở thành Quãng Năm, đồng âm trở thành Quãng Tám... Trong khi âm thanh quãng bốn song song, không thể đối âm nghịch đảo, và phỏng diễn tay đôi theo Quãng Tám phải tránh điều này. Xem bài Canon per Augmentationem in contrario Motu trong tác phẩm Art of Fugue là thí dụ về Đối âm Kép quãng tám.
Đảo Quãng Mười (8va+3rd): các bước chuyển hành song song được tránh. Bởi vì bước song song ở nguyên vị thì được chấp nhận (vd: Q3 & Q6), nhưng sau khi nghịch đảo thì bị phạm lỗi (Q8 & Q5). Xem bài Canon alla Decima trong tác phẩm Art of Fugue.
Đảo Quãng Mười Hai (8va+5th): Ngoại trừ Quãng ba, chuyển hành song song bị phạm lỗi sau khi nghịch đảo Quãng Mười Hai. Tuy nhiên, trong bài Canon alla Duodecima của tác phẩm Art of Fugue (có đặc tính của loại phỏng diễn tay đôi) tác giả sử dụng nhiều quãng ba song song.
Cách tính kiểu Nghịch đảo Đối âm
Xác định quãng nào ở bè trầm sẽ được đảo lên.
Xác định quãng nào ở bè cao sẽ được đảo xuống. Lưu ý: nếu bè nào được dự trù để thay đổi, bè cao sẽ trở nên thấp hơn và ngược lại, khi đó nghịch đảo đối âm không diễn ra được.
Nếu bước một và hai ở từng bát độ riêng, khi đó đối âm kép là một quãng tám. Ngoài ra, lấy kết quả của bước một và hai, trừ cho 1.
Cách tính Quãng sau khi nghịch đảo
Đối âm Kép @8va: Trừ 9 cho quãng nguyên thì tìm được quãng đảo. Thí dụ: quãng bốn đảo thành quãng năm.
Đối âm Kép @10th: Trừ 11 cho quãng nguyên thì tìm được quãng đảo. Thí dụ: quãng bốn đảo thành quãng bảy.
Đối âm Kép @12th: Trừ 13 cho quãng nguyên thì tìm được quãng đảo. Thí dụ: quãng bốn đảo thành quãng chín. |
Wolfgang Amadeus Mozart (; tên đầy đủ là Johannes Chrysostomus Wolfgangus Theophilus Mozart (27 tháng 1 năm 1756 – 5 tháng 12 năm 1791) là nhà soạn nhạc người Áo. Ông là một trong những nhà soạn nhạc nổi tiếng, quan trọng và có nhiều ảnh hưởng nhất trong thể loại nhạc cổ điển châu Âu. Các tác phẩm của ông được xem là đỉnh cao trong các thể loại nhạc như piano, nhạc thính phòng, nhạc giao hưởng, nhạc tôn giáo và opera. Tuy phong cách nhạc của ông bị một số người chê bai và khinh thường trong thời điểm đó, ông được nhiều nhà soạn nhạc sau này ngưỡng mộ và các tác phẩm của ông trở thành một phần quan trọng trong nhiều buổi hoà nhạc. Joseph Haydn đã viết rằng: "Hậu thế sẽ không thể nhìn thấy tài năng như vậy trong 100 năm".
Tiểu sử
Thời thơ ấu
Wolfgang Amadeus Mozart sinh ngày 27tháng 1 năm 1756. Cha ông là Leopold Mozart (1719–1787) và mẹ là bà Anna Maria, nhũ danh Pertl (1720–1778), cư trú tại căn nhà số 9 Getreidegasse ở Salzburg. Thành phố này từng là thủ phủ của Tổng giáo phận Giáo hội Công giáo La Mã, một công quốc giáo hội thuộc Đế quốc La Mã Thần thánh mà sau này thuộc Áo.
Ông Leopold Mozart là người gốc Augsburg, Đức, một nhà soạn nhạc nhỏ, một giáo viên có nhiều kinh nghiệm. Năm 1743, ông được bổ nhiệm là nhạc chơi vĩ cầm thứ 4 trong đoàn nhạc được thành lập bởi Giám mục Công giáo Count Leopold Anton von Firmian Giám mục cầm quyền của Salzburg (1213–1803). Bốn năm sau, ông kết hôn với bà Anna Maria ở Salzburg. Leopold trở thành chỉ huy phó của dàn nhạc Kapellmeister vào năm 1763. Vào năm Mozart ra đời, ông Leopold đã xuất bản một cuốn sách giáo khoa về vĩ cầm có tên Versuch einer gründlichen Violinschule và đã đạt được thành công vang dội.
Mozart là con út trong số 7 người con mà có 5 người đã mất khi còn bé. Chị gái duy nhất còn lại của ông là Maria Anna Mozart (1751–1829) với biệt danh "Nannerl". Mozart được làm lễ rửa tội sau khi sinh tại nhà thờ St. Rupert's Cathedral. Theo hồ sơ rửa tội thì ông được đặt tên tiếng La-tinh là Joannes Chrysostomus Wolfgangus Theophilus Mozart. Ông thường tự gọi mình là "Wolfgang Amadè Mozart" khi lớn lên nhưng ông còn có nhiều tên gọi khác nhau.
Khi chị gái của Mozart là Nannerl lên 7 tuổi, cô bé bắt đầu được cha dạy các bài học về chơi đàn phím, trong lúc đó cậu em trai 3 tuổi Mozart ngồi nhìn. Nhiều năm sau khi Mozart mất, người chị gái đã hồi tưởng lại:
Cậu ấy thường dành nhiều giờ liền trên phím đàn, lựa chọn các quãng 3 mà cậu ấn tượng sâu sắc nhất và niềm vui của cậu hiện rõ khi nó nghe có vẻ hay... Ở tuổi lên 4, cha cậu, với một mục tiêu rõ ràng, đã bắt đầu dạy cậu một vài bản nhạc đơn giản trên phím đàn. Với sự mềm mại và chính xác tuyệt vời, cậu chơi đàn không một chút lỗi... Năm 5 tuổi, cậu đã sáng tác những bản nhạc đầu tiên trong khi chơi với cha và Leopold là người ghi lại.
Những phần đầu này thuộc Köchel-Verzeichnis. 1–5, được ghi lại trong cuốn hồi ký Nannerl Notenbuch.
Có một số tranh cãi của học giả về việc Mozart lên 4 hay 5 tuổi khi ông tạo ra các tác phẩm âm nhạc đầu tiên của mình, dù có những chút nghi ngờ về việc Mozart đã sáng tác ra những quãng 3 nhạc đầu tiên trong một vài tuần ở các phần các nhau: KVs 1a, 1b and 1c.
Solomon lưu ý rằng dù ông Leopold là giáo viên tận tụy cho các con ông, có bằng chứng rằng cậu bé Mozart đã tỏ ra xuất sắc trong việc phát triển xa hơn những gì cậu được dạy. Những sáng tác đầu tiên đầy vết mực loang của ông và những kết quả đạt được cho thấy trí tuệ phát triển sớm với đàn vĩ cầm là nhờ óc sáng tạo của chính bản thân cậu bé và mang đến sự ngạc nhiên vô cùng lớn cho người cha. Ông Leopold cuối cùng đã từ bỏ sự nghiệp sáng tác để tập trung phát triển tài năng của con trai, mà tài năng đó đang ngày càng nở rộ. Trong những năm đầu đời, cha Mozart là giáo viên duy nhất của ông. Cùng với âm nhạc, cha ông đã dạy các con mình nhiều ngoại ngữ và các môn học thuật.
1762–73: Du lịch
Trong suốt thời niên thiếu, Mozart cùng gia đình đã thực hiện nhiều chuyến đi khắp Châu Âu mà tại đó ông cùng người chị gái đã biểu diễn như những thần đồng.
Những sự kiện này bắt đầu bằng một buổi triển lãm vào năm 1762 tại cung điện của Tuyển hầu tước Maximilian III Joseph của Bavaria ở Munich và tại Cung điện Hoàng gia ở Viên và Prague.
Một chuyến lưu diễn tiếp đó kéo dài 3 năm rưỡi, cả gia đình đã đến các cung điện tại Munich, Mannheim, Paris, London, The Hague, tiếp đến lại tới Paris và trở về nhà qua Zurich, Donaueschingen và Munich.
Mozart viết bản giao hưởng đầu tiên năm lên 8 tuổi. Có thể cha ông đã chuyển biên hầu hết cho ông.
Trong chuyến đi này, Mozart đã gặp một số nhạc công và tự mình làm quen với các tác phẩm của các nhạc công khác. Một trong những sự ảnh hưởng quan trọng đó là Johann Christian Bach, người mà Mozart ghé thăm ở London trong năm 1764 và 1765. Gia đình ông lại tới Viên vào cuối năm 1767 và ở lại đó cho đến tháng 12 năm 1768.
Những chuyến đi này thường gặp khó khăn do điều kiện đi lại còn thô sơ. Cả gia đình phải đợi thư mời và tiền hoàn trả từ giới quý tộc và họ phải chịu đựng các căn bệnh hiểm nghèo, dai dẳng xa nhà: đầu tiên là ông Leopold (London, mùa hè năm 1764), sau đó đến hai con (The Hague, mùa thu năm 1765).
Sau một năm về Salzburg, ông Leopold và Mozart bắt đầu lên đường đến Italia, để lại mẹ và chị gái ở nhà. Chuyến đi kéo dài từ tháng 12 năm1769 tới tháng 3 năm 1771. Giống với những hành trình thuở đầu, ông Leopold muốn phô diễn các khả năng của con trai như một nghệ sĩ trình diễn và một nhạc công trưởng thành nhanh chóng. Mozart đã gặp Josef Mysliveček và Giovanni Battista Martini ở Bologna và được nhận làm thành viên của dàn nhạc giao hưởng Học viện nghệ thuật Accademia Filarmonica danh tiếng.
Tại Roma, năm 14 tuổi, ông được nghe bản nhạc Miserere của Gregorio Allegri hai lần trong buổi biểu diễn tại nhà thờ Sistine Chapelle và đã viết lại theo trí nhớ, nhờ vậy xuất bản các bản sao chép trái phép đầu tiên khi mà bản nhạc này thuộc quyền sở hữu được bảo vệ nghiêm ngặt của tòa thánh Vatican.
Tại Milan, Mozart đã viết vở nhạc kịch Mitridate, re di Ponto (1770) và đã được trình diễn tạo nên thành công. Điều này đã dẫn đến sự ra đời của các vở nhạc kịch sau này. Ông cùng cha trở lại Milan 2 lần (tháng 8–tháng 12 năm 1771; tháng 10 năm 1772 – tháng 3 năm 1773) với việc sáng tác và cho ra mắt Ascanio in Alba (1771) và Lucio Silla (1772). Ông Leopold đã hy vọng chuyến viếng thăm này sẽ đem lại kết quả là con trai ông được bổ nhiệm vị trí chuyên nghiệp ở Ý nhưng những hy vọng này chưa bao giờ được thực hiện.
Cuối chuỗi hành trình cuối cùng ở Ý, Mozart đã viết nên những tác phẩm thánh ca độc tấu đầu tiên, mà vẫn còn được trình diễn rộng rãi cho đến ngày nay, Exsultate, jubilate, K. 165.
Sự nghiệp
Khoảng cuối năm 1769, năng khiếu âm nhạc sớm phát triển của Mozart đã bắt đầu nở rộ, tuy mới chỉ lên mười ba, cậu bắt đầu sự nghiệp sáng tác một cách nghiêm túc. Đức Tổng Giám mục tại Salzburg là Sigismund von Schrattenbach (1753 - 1771) đã chấp nhận Mozart như một nhạc trưởng, bằng cách cấp một khoản thu nhập cho cậu. Hai cha con Mozart đã thực hiện ba chuyến viễn du sang Ý để công diễn, họ đã được công nhận và gây được sự chú ý đến sự nghiệp của cậu trong giới quý tộc ở đó. Tại Milano Mozart được ủy nhiệm viết opera, vở Mitridate. Vở này sau đó, do chính Mozart chỉ huy, đã được tán thưởng nồng nhiệt. Trở về Salzburg, Mozart biên soạn một loạt giao hưởng và nhạc phụng sự cho giáo hội.
Việc trở về Salzburg của Wolfgang vào 1773 là một trong những cột mốc, lúc ấy có một sự bùng nổ sáng tác khác thường, và một sự chuyển tiếp ra khỏi ảnh hưởng âm nhạc Ý để thiên về phong cách âm nhạc Đức, được đại diện bởi Joseph Haydn.
Vị Tổng Giám mục mới, ngài Bá tước Hieronymus von Colloredo (1772 - 1803), không mấy hài lòng với tần suất yêu cầu của Mozart. Về phần Mozart, khi thấy mức sống của Salzburg đã tăng lên nhiều, nhưng sự yêu chuộng nghệ thuật thì xuống dốc đáng đau buồn, lúc ấy, mối quan hệ của Mozart với Bá tước Colloredo ngày càng trở nên gay gắt.
Cuối cùng, vào tháng 8 năm 1777, ở tuổi hai mươi mốt, Wolfgang xin từ nhiệm, và Bá tước Colloredo đã đồng ý. Thời gian này, Leopold quyết định rằng ông phải còn ở lại phục vụ nhà thờ. Cho nên Wolfgang cùng mẹ đã chuyển đi München, rồi đến Mannheim.
Trong những thành phố này, Mozart có cơ hội để trình diễn với một số những nhạc sĩ tinh tế nhất châu Âu, nhưng không có việc làm lâu dài nào.
Tuy vậy, Mozart đã lưu lại Mannheim một ít lâu. Anh đã phải lòng một ca sĩ mười sáu tuổi vừa tài năng vừa xinh đẹp, tiểu thư Aloysia Weber. Wolfgang đã làm kinh hoảng người cha, khiến ông phải ra sức thuyết phục con trai chuyển tới Paris.
Tại Paris, Mozart biên soạn giáo trình âm nhạc, tiếp xúc các nhà xuất bản, viết bất cứ cái gì anh có thể bán hoặc trình diễn - những bản sonata cho đàn violin và đàn phím, một concerto cho sáo và thụ cầm, những bản biến tấu đàn phím, và symphony Paris của anh. Nhưng thành phố này tỏ ra là sự chán nản khác. Mozart tiếp tục đánh vật với khoản tài chính eo hẹp và lại bị đè nặng thêm bằng cái chết của người mẹ. Buồn bã và miễn cưỡng, anh trở về Salzburg quê cha, mang theo nợ nần, nhưng tin tưởng rằng viễn cảnh của mình sẽ sáng sủa hơn. Người yêu của anh, tiểu thư Aloysia, trong thời gian ấy đã chuyển đi với gia đình tới thành Viên, nơi mà người ta muốn cô ấy kết hôn với một diễn viên kiêm họa sĩ tài tử, Joseph Lange.
Khi nhận nhiệm vụ nhạc trưởng và đệm đại phong cầm cho nhà thờ lớn, Mozart cảm thấy những nhiệm vụ đó quá tẻ nhạt. Vào 1781 anh tới München để diễn opera, vở Idomeneo, một thành công rực rỡ. Sau đó, được tòa Tổng Giám mục triệu hồi về thành Viên, Mozart đã tìm thấy một công việc có uy tín. Nhưng mối quan hệ căng thẳng giữa vị giáo sĩ và nhạc sĩ đã khiến Mozart cuối cùng đã tự rút lui vào tháng 6 năm đó.
Có lẽ trong những tháng kế tiếp Mozart đã gặp Haydn lần thứ nhất, người nhạc sĩ này đang viếng thăm thành Viên. Tình bằng hữu phát triển đã mang lại ảnh hưởng cho tốt công việc của cả hai nhạc sĩ về sau. Mozart, trong thời gian ấy, đã cư ngụ với gia đình Weber, và rồi, vào năm 1782, kết hôn với tiểu thư Constanze (1762 - 1842), em gái của Aloysia, mặc dù gặp sự phản đối mạnh mẽ của cha ruột. Từ đó, có một sự lãnh đạm giữa Wolfgang và cha của anh mà không bao giờ hàn gắn được. Trong những vấn đề tài chính, cả Wolfgang lẫn Constanze đều không thận trọng. Họ đã sớm rơi vào tình trạng khó khăn.
Không có khả năng để giữ một sự chỉ định lâu dài, Mozart lại soạn giáo trình và viết nhạc để kiếm tiền. Vì muốn được nêu danh như một người chơi piano, ông viết nhiều những concerto piano tuyệt vời cho chính mình.
Một thời gian sau, ông đạt được kết quả đáng kể. Thành công vang dội sau vở opera Le nozze di Figaro (Đám cưới Figaro), Mozart du lịch tới Praha, nơi ông được ủy nhiệm viết một opera mới. Hợp tác với văn hào Lorenzo da Ponte, trong năm 1787, Mozart hoàn thành vở Don Giovanni. Đa số mọi người khen ngợi, nhưng có nhiều ý kiến cho rằng âm nhạc của ông ngày càng khó tiếp cận hơn. Phong thái âm nhạc nhẹ nhàng trước đây của ông đang biến mất dần; nhạc công và thính giả có nhiều lời than phiền là ngày càng khó cảm thụ hơn.
10 năm cuối đời của Mozart là một thời kỳ dài của cả sự đau khổ do tài chính kiệt quệ, lẫn sức mạnh sáng tạo khác thường. 3 bản giao hưởng cuối cùng, được viết trong vòng 6 tuần lễ vào năm 1788 đã không bao giờ được trình tấu lúc sinh thời của ông. Tổng cộng, những năm này ông đã sáng tác những hơn 200 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau.
Năm 1791, Mozart gặp khó khăn trong việc soạn nhạc cho vở opera Die Zauberfloete (Cây sáo thần), khi hợp tác với văn hào Emanuel Schikaneder.
Công việc bị gián đoạn trong tháng 7 vì một chuyến viếng thăm của nhân vật lạ mặt huyền bí đã đưa ra đề nghị hậu hĩnh cho tác phẩm Requiem. Tâm hồn bị chấn động với đề tài này vì cảm nghiệm sự suy tàn do sức khỏe cạn kiệt, Mozart trở nên bị ám ảnh với nhạc đề lễ mồ dành cho sự ra đi của chính mình. Có nhiều giả thuyết cố lý giải rằng ai có thể đã ủy nhiệm một công việc như vậy. Một nhà sáng tác nào đó muốn sử dụng tác phẩm với tên của họ? Một người bạn già cố gắng bí mật giúp đỡ Mozart về mặt tài chính?
Tháng 9, tác phẩm Die Zauberflote được hoàn thành và trình diễn. Mozart viết tiếp Requiem, nhưng không thể hoàn thành nó. Ông qua đời vào lúc 0:55 rạng sáng ngày 5 tháng 12 năm 1791. Hôm sau, bạn bè đến tham dự tang lễ ngoài trời; Constanze không đủ sức để có mặt. Sau đó, giữa một cơn bão tuyết dữ dội, thi hài được chuyên chở không có người đưa tiễn tới một đất thánh bên ngoài cổng thành phố, theo tập tục lúc bấy giờ của tầng lớp trung lưu Áo. Gia đình Mozart vì khó khăn đã đưa thi hài chôn trong một nghĩa trang công cộng của người nghèo để Mozart yên giấc ngàn thu. Ông được chôn cất tại nghĩa trang Sankt Marxer Friedhof
Tóm tắt sự nghiệp
Tác phẩm
Dưới đây là một số tác phẩm của Mozart theo một vài thể loại. "K." hoặc "KV" là viết tắt của "Köchel Verzeichnis", nghĩa là niên đại (theo ngày sáng tác) các tác phẩm của Mozart theo Ludwig von Köchel. Chú ý rằng danh mục này được cải thiện nhiều lần, dẫn đến một vài sự nhập nhằng ở một vài số KV.
Hành khúc
March in D major, K. 62
March in D major, K. 189
March in C major, K. 214
March in D major, K. 237
March in F major, K. 248
March in D major, K. 249
March in D major, K. 290
March in D major, K. 335, số 1
March in D major, K. 335, số 2
March in C major, K. 408, số 1
March in D major, K. 408, số 2
Sonata dành cho dương cầm
Piano Sonata số 1 Đô trưởng, K. 279 (mùa hè tại Munich năm 1774)
Piano Sonata số 2 Fa trưởng, K. 280 (Mùa hè tại Munich năm 1774)
Piano Sonata số 3 Si giáng, K. 281 (Mùa hè tại Munich năm 1774)
Piano Sonata số 4 Mi giáng, K. 282 (Mùa hè tại Munich năm 1774)
Piano Sonata số 5 Sol trưởng, K. 283 (Mùa hè tại Munich năm 1774)
Piano Sonata số 6 Rê trưởng, K. 284 (mùa xuân tại Munich năm 1775)
Piano Sonata số 7 Đô trưởng, K. 309 (tháng 11 tại Mannheim năm 1777)
Piano Sonata số 8 La thăng, K. 310 (Mùa hè tại Paris năm 1778)
Piano Sonata số 9 Rê trưởng, K. 311 (tháng 11 Mannheim năm 1777)
Piano Sonata số 10 Đô trưởng, K. 330 (năm 1783)
Piano Sonata số 11 "Turkish Rondo" La trưởng, K. 331 (năm 1783)
Piano Sonata số 12 Fa trưởng, K. 332 (năm 1783)
Piano Sonata số 13 Si giáng, K. 333 (năm 1783)
Piano Sonata số 14 Đô thăng, K. 457 (tháng 10 tại Viên năm 1784)
Piano Sonata số 15 Fa trưởng, K. 533/494 (tháng 1 tại Viên năm 1788)
Piano Sonata số 16 Đô trưởng, K. 545 (ngày 26 tháng 6 năm 1788 tại Viên)
Piano Sonata số 17 Si giáng, K. 570 (tháng 2 năm 1789 tại Viên)
Piano Sonata số 18 Rê trưởng, K. 576 (tháng 7 tại Viên năm 1789)
Concerto dành cho dương cầm
Piano Concerto số 1 Fa trưởng, K. 37
Piano Concerto số 2 Si giáng trưởng, K. 39
Piano Concerto số 3 Rê trưởng, K. 40
Piano Concerto số 4 Sol trưởng, K. 41
Piano Concerto số 5 Rê trưởng, K. 175
Piano Concerto số 6 Si giáng trưởng, K. 238
Piano Concerto số 7 Fa trưởng, K. 242
Piano Concerto số 8 Đô trưởng, K. 246
Piano Concerto số 9 Mi giáng trưởng, K. 271
Piano Concerto số 10 Mi giáng trưởng, K. 365
Piano Concerto số 11 Fa trưởng, K. 413
Piano Concerto số 12 La trưởng, K. 414
Piano Concerto số 13 Đô trưởng, K. 415
Piano Concerto số 14 Mi giáng trưởng, K. 449
Piano Concerto số 15 Si giáng trưởng, K. 450
Piano Concerto số 16 Rê trưởng, K. 451
Piano Concerto số 17 Sol trưởng, K. 453
Piano Concerto số 18 Si giáng trưởng, K. 456
Piano Concerto số 19 Fa trưởng, K. 459
Piano Concerto số 20 Rê thứ, K. 466
Piano Concerto số 21 Đô trưởng, K. 467
Piano Concerto số 22 Mi giáng trưởng, K. 482
Piano Concerto số 23 La trưởng, K.488
Piano Concerto số 24 Đô thứ, K. 491
Piano Concerto số 25 Đô trưởng, K. 503
Piano Concerto số 26 Rê trưởng, K. 537
Piano Concerto số 27 Si giáng trưởng, K. 595
Khiêu vũ
7 Menuets, K. 65a/61b
4 Contredanses, K. 101/250a
20 Menuets, K. 103
6 Menuets, K. 104/61e
6 Menuets, K. 105/61f
Menuet in E-flat, K. 122
Contredanse in B-flat, K. 123
6 Menuets, K. 164
16 Menuets, K. 176
4 Contredanses, K. 267/271c
Gavotte in B-flat, K. 300
3 Menuets, K. 363
5 Menuets, K. 461
6 Contredanses, K. 462/448b
2 Quadrilles, K. 463/448c
6 German Dances, K. 509
Contredanse in D, "Das Donnerwetter", K. 534
Contredanse in C, "La Bataille", K. 535
6 German Dances, K. 536
6 German Dances, K. 567
12 Menuets, K. 568
6 German Dances, K. 571
12 Menuets, K. 585
12 German Dances, K. 586
Contredanse in C, "Der Sieg vom Helden Koburg", K. 587
6 Menuets, K. 599
6 German Dances, K. 600
4 Menuets, K. 601
4 German Dances, K. 602
2 Contredanses, K. 603
2 Menuets, K. 604
3 German Dances, K. 605
6 German Dances, K. 606
5 German Dances, K. 609
Contredanse in G, K. 610
Xônat nhà thờ
Church Sonata No. 1 K. 41h (1772)
Church Sonata No. 2 K. 68 (1772)
Church Sonata No. 3 K. 69 (1772)
Church Sonata No. 4 in D, K. 144 (1772)
Church Sonata No. 5 in F, K. 145 (1772)
Church Sonata No. 6 in B', K. 212 (1775)
[[Church Sonata No. 7 in F]], K. 241a (1776) Church Sonata No. 8 in A, K. 241b (1776)
Church Sonata No. 9 in G, K. 241 (1776)
Church Sonata No. 10 in F, K. 244 (1776)
Church Sonata No. 11 in D, K. 245 (1776)
Church Sonata No. 12 in C, K. 263 (1776)
Church Sonata No. 13 in G, K. 274 (1777)
Church Sonata No. 14 in C, K. 278 (1777)
Church Sonata No. 15 in C, K. 328 (1779)
Church Sonata No. 16 in C, K. 329 (1779)
Church Sonata No. 17 in C, K. 336 (1780)
Organ
Fugue in E-flat major, K. 153 (375f)
Fugue in G minor, K. 154 (385k)
Ouverture in C major, K. 399 (385i)
Fugue in G minor, K. 401 (375e)
Eine kleine Gigue, K. 574
Adagio and Allegro in F minor for a Mechanical Organ, K. 594 (1790)
Fantasia in F minor for a Mechanical Organ, K. 608 (1791)
Andante in F for a Small Mechanical Organ, K. 616 (1791)
Opera
Die Schuldigkeit des ersten Gebots, K. 35 (1767)
Apollo et Hyacinthus, K. 38 (1767)
Bastien und Bastienne, K. 50=46b (1768)
La finta semplice, K. 51 (1768)
Mitridate, re di Ponto, K. 87 (1770)
Ascanio in Alba, K. 111 (1771)
Betulia liberata, K. 118=74c (1771)
Il sogno di Scipione, K. 126 (1772)
Lucio Silla, K. 135 (1772)
Thamos, König in Ägypten (1773, 1775)
La finta giardiniera, K. 196 (1774–75)
Il re pastore, K. 208 (1775)
Zaide, K. 344 (1779)
Idomeneo, K. 366 (1781)
Die Entführung aus dem Serail, K. 384 (1782)
L'oca del Cairo, K. 422 (1783)
Lo sposo deluso, K. 430
Der Schauspieldirektor, K. 486 (1786)
Le nozze di Figaro, K. 492 (1786)
Don Giovanni, K. 527 (1787)
Così fan tutte, K. 588 (1789)
Die Zauberflöte, K. 620 (1791)
La clemenza di Tito, K. 621 (1791)
Nhạc cụ
Mặc dù một số tác phẩm ban đầu của Mozart được viết cho harpsichord, ông cũng được biết đến trong những năm đầu của mình với những cây đàn piano được chế tạo bởi người thợ vùng Regensburg Franz Jakob Späth. Sau đó, khi Mozart đến thăm Augsburg, ông ấn tượng bởi những cây đàn piano Stein và chia sẻ điều này trong một bức thư gửi cho cha mình. Vào ngày 22 tháng 10 năm 1777, Mozart đã công diễn tác phẩm concerto triple-piano(K.242) của mình trên các nhạc cụ được cung cấp bởi Stein. Demmler, người chơi đàn organ của Nhà thờ Augsburg, chơi phần đầu tiên, Mozart chơi phần thứ hai và Stein chơi phần thứ ba. Năm 1783 khi sống ở Viên, ông mua một nhạc cụ của Walter. Leopold Mozart xác nhận sự gắn bó mà Mozart đã có với chiếc fortepiano Walter của mình: "Không thể diễn tả được sự hối hả ấy. Đàn piano của anh trai đã được di chuyển ít nhất mười hai lần từ nhà anh ấy đến nhà hát hoặc đến nhà người khác."
Các bản nhạc
Tham khảo
Sách
Abert, Hermann (2007) W. A. Mozart. Stewart Spencer dịch, kèm ghi chú của Cliff Eisen. New Haven: Yale University Press. ISBN 0300072236
Deutsch, Otto Erich (1966) Mozart: A Documentary Biography, Stanford University Press, ISBN 0804702330.
Halliwell, Ruth (1998) The Mozart Family: Four Lives in a Social Context, Oxford: Oxford University Press, ISBN 0198163711.
Robbins Landon, H. C. (1990) Mozart's Last Year, Luân Đôn, Fontana Paperbacks, ISBN 0-00-654324-3
Rushton, Julian (1998) New Grove Dictionary of Opera, Luân Đôn: Grove Publications, ISBN 0-333-73432-7.
Solomon, Maynard (1996) Mozart: A Life, Harper Perennial, ISBN 0060926929.
Steptoe, Andrew (1990) The Mozart—da Ponte Operas, Oxford: Oxford University Press, ISBN 0198162219.
Till, Nicholas (1994) Mozart and the Enlightenment: Truth, Virtue and Beauty in Mozart's Operas, W. W. Norton & Company, ISBN 0393313956.
Đọc thêm
Cairns, David (2006) Mozart and His Operas, University of California Press, ISBN 0520228987.
Eisen, Cliff (2006) The Cambridge Mozart Encyclopedia, Cambridge University Press, ISBN 0521856590.
Gutman, Robert W. (2000), Mozart: A Cultural Biography, Harvest Books, ISBN 0156011719,
Rosen, Charles (1998) The Classical Style: Haydn, Mozart, Beethoven'', W. W. Norton & Company, ISBN 0393317129. |
Bit (viết tắt của "Binary digit", nghĩa đen: Số nhị phân) là đơn vị thông tin của máy tính. Một bit chỉ có thể nhận và hiểu được một trong 2 giá trị, có thể là: đúng hoặc sai, bật hoặc tắt, có hoặc không. Nhưng thông thường, nó được coi là 0 hoặc 1. Máy tính sử dụng dãy bit để biểu diễn số, văn bản, hình ảnh, âm thanh, bit cũng là đơn vị nhỏ nhất trong lưu trữ thông tin. |
Kofi Atta Annan (, phát âm như "Cô-phi A-tha A-nan"; 8 tháng 4 năm 1938 – 18 tháng 8 năm 2018), là nhà ngoại giao Ghana và là Tổng Thư ký thứ 7 của Liên Hợp Quốc từ năm 1997 đến cuối năm 2006.
Thời thơ ấu
Annan sinh ngày 8 tháng 4 năm 1938 tại Kumasi, Ghana, con của Reginald và Victoria Annan. Kofi nghĩa là "cậu bé sinh vào ngày thứ Sáu". Annan là con song sinh, một sự kiện được xem là đặc biệt trong văn hoá Ghana. Người chị song sinh của ông được đặt tên Efua Atta, qua đời năm 1991. Trong tiếng Akan, Efua có nghĩa là "cô bé sinh vào ngày thứ Sáu" và Atta có nghĩa là "sinh đôi".
Gia đình Annan thuộc thành phần ưu tú của đất nước; ông nội, ông ngoại và bác của Annan là tù trưởng bộ tộc. Cha của Annan mang hai dòng máu Asante và Fante; mẹ ông thuộc bộ tộc Fante. Cha của Annan trong một thời gian dài là giám đốc xuất khẩu cho công ty cacao Lever Brothers.
Gia đình
Annan kết hôn với Nane Maria Annan, một luật sư và họa sĩ người Thụy Điển, bà là cháu họ của Raoul Wallenberg (nhà ngoại giao thuộc gia tộc Wallenberg danh giá tại Thụy Điển). Hai trong số ba người con của họ, Kojo Annan và Ama Annan, là con của Titi Alakija, người vợ trước của Annan. Annan và Alakija ly hôn vào cuối thập niên 1970. Người con thứ ba, Nina Cronstedt de Groot, là con của người chồng trước của Nane Annan. Kojo Annan là tâm điểm của dư luận vào năm 2005 vì dính líu vào vụ tai tiếng đổi dầu lấy lương thực của Iraq.
Học vấn
Từ năm 1954 đến năm 1957, Annan theo học tại trường Mfansipim, một trường nội trú thuộc giáo hội Giám Lý, thành lập vào thập niên 1870 tại Cape Coast. Năm 1957, khi Annan tốt nghiệp, Ghana là thuộc địa đầu tiên của Anh thuộc châu Phi hạ Sahara giành được độc lập.
Năm 1958, Annan bắt đầu học chuyên ngành kinh tế tại trường đại học khoa học và kỹ thuật Kumasi. Annan giành được học bổng của Tổ chức Ford để hoàn thành chương trình cử nhân vào năm 1961 tại Đại học Macalester ở St. Paul, Minnesota, Hoa Kỳ. Trong thời gian 1961 – 1962, Annan theo học tại Học viện Cao học Quan hệ quốc tế tại Geneva, Thụy Sĩ, về sau ông đến học tại trường Quản lý Sloan thuộc Viện Công nghệ Massachusetts và được cấp bằng thạc sĩ.
Annan thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Kru, các phương ngữ thuộc ngôn ngữ Akan và các ngôn ngữ Phi châu khác.
Sự nghiệp
Annan bắt đầu làm việc cho Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), một tổ chức của Liên Hợp Quốc, vào năm 1962. Từ 1974 đến 1976 ông về Ghana làm giám đốc du lịch.
Sau đó, ông trở lại Liên Hợp Quốc đảm trách chức vụ Phụ tá Tổng Thư ký chuyên trách các lĩnh vực quản lý nhân lực và phối hợp an ninh từ 1987 đến 1990; Hoạch định chương trình, ngân quỹ và tài chính từ 1990 đến 1992; và phụ trách các chiến dịch gìn giữ hoà bình từ tháng 3 năm 1993 đến tháng 2 năm 1994.
Trong tác phẩm Shake Hands with the Devil: The Failure of Humanity in Rwanda (Bắt tay với quỷ dữ: Sự thất bại của nhân loại tại Rwanda), tướng Roméo Dallaire cho rằng Annan đã tỏ ra thụ động đối với cuộc diệt chủng năm 1994 tại Rwanda. Ông nói rằng Annan, lúc ấy là phụ tá tổng thư ký đặc trách các chiến dịch gìn giữ hoà bình, không chịu gửi quân Liên Hợp Quốc đến can thiệp để giải quyết cuộc tranh chấp, cũng như không chịu cung cấp thêm viện trợ.
Đến tháng 10 năm 1995, Annan được bổ nhiệm làm đặc phái viên cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc tại Nam Tư cũ, phục vụ trong thời gian 5 tháng, rồi trở về đảm trách chức vụ phụ tá tổng thư ký vào tháng 4 năm 1996.
Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc
Ngày 13 tháng 12 năm 1996, Annan đắc cử tổng thư ký Liên Hợp Quốc, bốn ngày sau ông được phê chuẩn bởi Đại hội đồng và bắt đầu nhiệm kỳ của mình ngày 1 tháng 1 năm 1997. Annan thế chỗ tổng thư ký người Ai Cập Boutros Boutros-Ghali vừa mãn nhiệm và trở nên nhân vật da màu đầu tiên đến từ một quốc gia châu Phi đảm nhận vị trí lãnh đạo Liên Hợp Quốc.
Annan tái đắc cử và bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai ngày 1 tháng 1 năm 2002. Sự kiện này được xem như là một ngoại lệ vì theo thông lệ, đại diện từ các châu lục tuần tự đảm nhận chức vụ này trong hai nhiệm kỳ. Vì người tiền nhiệm của Annan, Ghali, đến từ châu Phi, nên theo lệ thường, Annan chỉ nên phục vụ một nhiệm kỳ. Dù vậy, Annan đã có thể bảo đảm cho mình được tái bổ nhiệm cho nhiệm kỳ thứ hai.
Tháng 4 năm 2001, Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan đưa ra lời hiệu triệu năm điểm "Tiến tới hành động" nhắm vào đại dịch HIV/AIDS. Ông xem việc chống lại đại dịch này là một ưu tiên cá nhân, như là tổng thư ký Liên Hợp Quốc và là một người thường. Ông đưa ra sáng kiến thành lập Quỹ Y tế và AIDS toàn cầu, nhằm khuyến khích gia tăng mức chi tiêu cho mặt trận đối đầu với cuộc khủng hoảng HIV/AIDS tại các quốc gia đang phát triển.
Ngày 10 tháng 12 năm 2001, Annan và Liên Hợp Quốc được trao giải Nobel Hoà bình, "vì những nỗ lực giúp kiến tạo một thế giới an bình hơn và được tổ chức tốt hơn".
Trong nhiệm kỳ của mình, Tổng Thư ký Annan chứng kiến các diễn biến của cuộc chiến Iraq, ông kêu gọi Hoa Kỳ và Anh không nên hành động mà không có sự hậu thuẫn của Liên Hợp Quốc. Năm 2004, Annan gọi cuộc chiếm đóng Iraq là bất hợp pháp.
Tháng 5 năm 2004, Annan nhận một bản báo cáo từ Ban Nội chính Văn phòng Liên Hợp Quốc (OIOS), xác nhận Cao ủy Tị nạn Liên Hợp Quốc Ruud Lubbers có trách nhiệm về những cáo buộc quấy rối tình dục đối với một nữ viên chức thuộc quyền. Tuy nhiên, ngày 15 tháng 7 năm 2004, Annan tuyên bố Lubbers vô tội, mặc dù Lubbers viết một bức thư cho người phụ nữ này có nội dung, theo nhận xét của nhiều người, được hiểu là một lời đe doạ.
Tháng 12 năm 2004, thượng nghị sĩ Hoa Kỳ thuộc đảng Cộng hoà Norm Coleman kêu gọi Annan từ chức sau khi xuất hiện các bản báo cáo cho rằng con trai của ông, Kojo Annan, nhận những khoản tiền từ một công ty Thụy Sĩ, Cotecna Inspection SA. Công ty này đã giành được những hợp đồng béo bở từ chương trình đổi dầu lấy lương thực của Liên Hợp Quốc. Annan cho mở cuộc điều tra về cáo giác này. Ủy ban điều tra, dưới quyền của Paul Volcker, trong bản báo cáo tháng 3 năm 2005, không đưa ra kết luận rõ ràng nào, chỉ nhận xét rằng lẽ ra cuộc điều tra nên được tiến hành sớm hơn. A. Yakolev, viên chức phụ trách đấu thầu của Liên Hợp Quốc, vào ngày 8 tháng 8 năm 2005, ra đầu thú với FBI; sau đó, tại toà án Manhattan, New York, Yakolev thú nhận đã nhận "hàng trăm ngàn đô la" từ các công ty làm ăn với chương trình đổi dầu lấy lương thực, ông chấp nhận ba tội danh: nhận hối lộ, gian lận tài chính và rửa tiền. Vụ án này gợi lại những nghi vấn liệu ông tổng thư ký Liên Hợp Quốc có biết những việc làm của con trai mình hay không .
Tuy nhiên, bên ngoài Hoa Kỳ, Annan ít gặp chống đối hơn; ông có được sự ủng hộ của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
Ngày 21 tháng 3 năm 2005, Annan đệ trình Đại hội đồng Liên Hợp Quốc bản báo cáo về sự tiến bộ "Tự do hơn nữa" (In Larger Freedom). Annan ủng hộ sáng kiến mở rộng Hội đồng bảo an cùng với một loạt các kế hoạch cải tổ Liên Hợp Quốc khác.
Đối đầu giữa Hoa Kỳ và Liên Hợp Quốc
Kofi Annan ủng hộ Phó Tổng Thư ký Mark Malloch Brown, người đã công khai chỉ trích các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ trong bài diễn văn đọc ngày 6 tháng 6 năm 2006: "Hiện nay đang thịnh hành chủ trương ngấm ngầm sử dụng Liên Hợp Quốc như là một công cụ ngoại giao thay vì ủng hộ tổ chức này chống lại những chỉ trích từ bên trong... Bằng cách này hay cách khác, chúng ta có thể đánh mất LHQ". Người ta nói rằng Đại sứ Mỹ tại LHQ vào lúc ấy, John R. Bolton, đã nói với Annan trên điện thoại: "Tôi đã biết ông từ năm 1989 cho đến nay, tôi muốn bảo cho ông biết đây là sai lầm tệ hại nhất của một viên chức cao cấp LHQ mà tôi từng thấy suốt trong thời gian này."
Đề xuất cải cách Liên Hợp Quốc
Ngày 21 tháng 3 năm 2005, Annan đệ trình Đại hội đồng LHQ bản báo cáo In Larger Freedom. Ông đề nghị mở rộng Hội đồng Bảo an và thêm những cải cách cho LHQ. Ngày 7 tháng 3 năm 2006, Annan đệ trình Đại hội đồng đề án kiểm tra toàn bộ Ban Thư ký LHQ. Bản báo cáo cải cách có tựa đề: "Đầu tư vào LHQ để có một tổ chức toàn cầu hiệu quả hơn".
Diễn văn từ biệt
Ngày 19 tháng 9 năm 2006, trước nhiều nhà lãnh đạo từ các quốc gia trên thế giới quy tụ về trụ sở LHQ ở New York, Annan đọc diễn văn từ biệt chuẩn bị cho ngày chấm dứt nhiệm kỳ thứ hai của ông vào 31 tháng 12 năm 2006, trong đó ông nhắc đến ba vấn nạn lớn của thế giới, "nền kinh tế không công bằng, tình trạng hỗn loạn, và sự phát triển khuynh hướng xem thường nhân quyền và thể chế pháp trị", những vấn đề mà ông tin là "không những không được giải quyết mà ngày càng tồi tệ hơn" suốt trong thời gian ông đảm nhiệm chức vụ Tổng Thư ký LHQ. Ông xem tình hình bạo loạn tại châu Phi và sự đối đầu giữa Israel và khối Ả Rập là những vấn đề cần quan tâm.
Ngày 11 tháng 12 năm 2006, trong bài diễn văn cuối cùng trong cương vị Tổng Thư ký LHQ đọc tại Thư viện Tổng thống Harry S. Truman tại Independence, Missouri, Annan nhắc đến vai trò lãnh đạo của Truman trong tiến trình thành lập LHQ. Annan kêu gọi Hoa Kỳ trở về với chính sách ngoại giao đa phương của Tổng thống Truman và đi theo cương lĩnh của Truman: "trách nhiệm của các cường quốc là phục vụ chứ không phải thống trị các dân tộc khác trên thế giới", rõ ràng là nhắm vào chính sách đơn phương của chính phủ George W. Bush. Ông cũng nói rằng Hoa Kỳ cần duy trì những cam kết của mình đối với nhân quyền, "ngay cả trong cuộc chiến chống khủng bố".
Ông là hội viên danh dự của Câu lạc bộ Madrid. Năm 2007, ông được trao Giải Bruno Kreisky.
Sau khi nghỉ hưu và qua đời
Cựu Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan qua đời ngày 18 tháng 8 năm 2018 tại một bệnh viện ở Bern, Thụy Sĩ sau một thời gian ngắn lâm bệnh. Ghana và các cơ quan ngoại giao của nước này sẽ treo cờ rủ trong 7 ngày để tưởng niệm ông, bắt đầu từ 20 tháng 8.
Trích dẫn
Hơn bao giờ hết trong lịch sử nhân loại, chúng ta đang chia sẻ với nhau cùng một số phận. Chúng ta chỉ có thể làm chủ số phận của mình khi nào chúng ta cùng nhau đối diện với nó. Đó là lý do tại sao chúng ta có Liên Hợp Quốc.
– Ngày 31 tháng 12 năm 1999, thông điệp cho thiên niên kỷ mới.
Quý vị có thể làm nhiều điều qua các biện pháp ngoại giao, nhưng quý vị có thể làm nhiều điều hơn nữa nếu các biện pháp ngoại giao được hỗ trợ bởi vũ lực.
– Ngày 24 tháng 2 năm 1998, nói về khả năng sử dụng vũ lực để buộc Saddam Hussein tuân thủ các nghị quyết Liên Hợp Quốc.
Đánh giá |
Harry Potter và Hòn đá Phù thủy (nguyên tác: Harry Potter and the Philosopher's Stone) là tiểu thuyết kỳ ảo của văn sĩ người Anh J. K. Rowling. Đây là cuốn đầu trong series tiểu thuyết Harry Potter và là tiểu thuyết đầu tay của J. K. Rowling. Nội dung sách kể về Harry Potter, một phù thủy thiếu niên chỉ biết về tiềm năng phép thuật của mình sau khi nhận thư mời nhập học tại Học viện Ma thuật và Pháp thuật Hogwarts vào đúng dịp sinh nhật thứ mười một. Ngay năm học đầu tiên, Harry đã có những người bạn thân lẫn những đối thủ ở trường như Ron Weasly, Hermione Granger, Draco Malfoy,.... Được bạn bè giúp sức, Harry chiến đấu chống lại sự trở lại của Chúa tể Hắc ám Voldemort, kẻ đã sát hại cha mẹ cậu nhưng lại thảm bại khi toan giết Harry dù cậu khi đó chỉ mới 15 tháng tuổi.
Sách được Bloomsbury xuất bản lần đầu tại Anh Quốc vào năm 1997. Năm 1998, Scholastic Corporation xuất bản tác phẩm tại Hoa Kỳ với nhan đề Harry Potter and the Sorcerer's Stone (Harry Potter và Hòn đá Phù thủy) và có chút thay đổi về văn phong để phù hợp với độc giả Mỹ; bản dịch tiếng Việt của Nhà xuất bản Trẻ cũng dựa trên ấn bản này.
Harry Potter và Hòn đá Phù thủy giành hầu hết các giải thưởng về sách ở Anh Quốc do trẻ em bầu chọn cũng như một số giải thưởng khác ở Hoa Kỳ. Tác phẩm đứng đầu danh sách tiểu thuyết bán chạy nhất trong tháng 8 năm 1999 của Thời báo New York và liên tục nằm trong top đầu của danh sách này trong suốt gần hai năm tiếp theo (1999 và 2000). Truyện đã được dịch ra ít nhất bảy mươi tư thứ tiếng cũng như được chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên.
Tiểu thuyết nhận được nhiều phản hồi tích cực cho tác giả, đó là trí tưởng tượng, sự hài hước, phong cách đơn giản và cách sắp xếp cốt truyện thông minh của Rowling, mặc dù vẫn còn một số ít phàn nàn rằng vài chương cuối của truyện có vẻ hơi gấp gáp. Tiểu thuyết đã được so sánh với tác phẩm của Jane Austen – một trong những tác giả yêu thích của Rowling, Roald Dahl – nhà văn thống trị lĩnh vực truyện thiếu nhi trước khi Harry Potter xuất hiện, và nhà văn cổ người Hi Lạp Hómēros. Trong khi một vài nhà bình luận cho rằng cuốn sách đi ngược với những câu chuyện về trường nội trú thời Victoria và Edward, một số khác lại đánh giá truyện được đặt vào đúng bối cảnh thế giới hiện đại với việc đan xen các yếu tố đạo đức và xã hội đương đại như bạo lực học đường.
Tương tự như sáu tập còn lại của loạt truyện Harry Potter, Harry Potter và Hòn đá Phù thủy bị một số nhóm tôn giáo chỉ trích dữ dội và bị cấm ở một vài quốc gia vì các cáo buộc cho rằng tiểu thuyết cổ xúy cho thuật phù thủy, tuy nhiên các nhà bình luận tôn giáo khác lại cho rằng tác phẩm đã minh chứng cho các luận điểm quan trọng, trong đó có sức mạnh hi sinh và khẳng định rằng nhân cách và phẩm giá con người định hình bởi chính lựa chọn trong hành động của người đó. Loạt truyện được sử dụng làm nguồn tham khảo cho các bài học về phương pháp giáo dục, phân tích xã hội và tiếp thị.
Tóm lược
Cốt truyện
Ngày 31/10/1981, một trong những Phù thủy Hắc ám vĩ đại nhất lịch sử, Chúa tể Voldemort, đã sát hại cặp vợ chồng phù thủy James Potter và Lily Potter. Tuy nhiên, khi hắn niệm lời nguyền Chết Chóc (Avada Kedavra) lên đứa con trai 15 tháng tuổi của họ là Harry Potter, một sức mạnh cổ xưa vô hình đã khiến lời nguyền bị phản ngược, khiến thân xác Voldemort tan biến và linh hồn của hắn vất vưởng trong hư vô. Điều duy nhất hắn làm được với Harry vào đêm đó là để lại một vết sẹo hình tia chớp trên trán cậu bé. Trong khi thế giới phù thủy ăn mừng sự sụp đổ của đế chế Voldemort, giáo sư Albus Dumbledore, Hiệu trưởng Trường đào tạo Ma thuật và Pháp thuật Hogwarts, cùng với hai phụ tá là giáo sư Minerva McGonagall và người giữ khóa Rubeus Hagrid gửi cậu bé Harry đến cho một gia đình Muggle, Vernon và Petunia Dursley cùng với con trai của họ là Dudley chăm sóc. Dù giáo sư McGonagall tỏ ra lo lắng vì đây là gia đình Muggle rất xấu tính, giáo sư Dumbledore vẫn quả quyết để Harry ở lại. Vì bà Petunia chính là chị gái ruột của Lily - mẹ của Harry, và gia đình Dursley là những người thân duy nhất còn sống của cậu bé. Cụ đặt cậu bé lên bậc cửa cùng một bức thư rồi rời đi, để lại một bùa chú bảo vệ, để dòng máu ruột thịt từ người dì Petunia sẽ là lá bùa bảo vệ Harry khỏi những thế lực hắc ám đến năm cậu 17 tuổi.
Trong suốt 10 năm sống cùng gia đình dì dượng Dursley, Harry bị đối xử như một người ở trong gia đình. Cậu phải làm tất cả việc nhà, ngủ dưới gầm cầu thang, mặc lại đồ cũ của Dudley, và thường xuyên bị dì dượng mắng nhiếc cũng như bị cậu anh họ hư hỏng bắt nạt. Không những thế, cậu còn không biết gì về cha mẹ cũng như thân phận phù thủy của mình, vì Dursley đã giấu nhẹm chuyện đó, để cậu trở thành một đứa trẻ bình thường. Bước ngoặt xảy đến với Harry khi cậu vô tình nhốt Dudley vào chuồng rắn ở sở thú, xổ lồng con rắn và còn nói chuyện với nó. Đó là lúc Harry phát hiện ra những khả năng đặc biệt của bản thân. Sau đó, Harry nhận được thư nhập học tại Hogwarts. Nhưng dì dượng không muốn cậu đọc được nó nên đã đốt lá thư đi. Nhưng những lá thư vẫn được đàn cú gửi đến mỗi ngày khiến gia đình Dursley sợ hãi đến mức dọn ra một hòn đảo hoang trên biển để tránh bọn chúng. Nhưng vào đêm sinh nhật thứ 11 của Harry, Rubeus Hagrid tìm đến tận căn lều trên đảo hoang, trao tận tay Harry bức thư cùng chiếc bánh sinh nhật, và thông báo rằng cậu là một phù thủy. Nhưng dì dượng Dursley kiên quyết không để cậu đến Hogwarts, thậm chí còn xúc phạm giáo sư Dumbledore. Hagrid lập tức trừng phạt họ bằng cách biến một cái đuôi heo mọc ra sau mông của Dudley rồi đưa Harry đi.
Hagrid giới thiệu Harry vào thế giới phù thủy khi đưa cậu tới một con phố bí mật ở London, ẩn mình với Muggle gọi là Hẻm Xéo, nơi cậu được tặng món quà sinh nhật là chú cú trắng "Hedwig" cũng như mọi dụng cụ học tập. Hagrid dẫn Harry đến ngân hàng phù thủy Gringotts, nơi ông tiết lộ về tài sản thừa kế kếch xù từ cha mẹ quá cố của Harry trong hầm của cậu. Tại đây, cậu rất ngạc nhiên khi biết mình rất nổi tiếng trong giới phù thủy. Khi đến cửa tiệm Olivander để sắm một cây đũa phép, chủ cửa tiệm là cụ Garrick Olivander kinh ngạc khi cây đũa chọn Harry làm chủ có cấu tạo giống hệt với cây đũa của kẻ đã gây ra vết sẹo trên trán cậu - Voldemort, giống như một định mệnh. Tại quán rượu, Harry gặng hỏi Hagrid tại sao cậu lại nổi tiếng đến thế trong giới phù thủy, và kẻ đã gây ra vết sẹo trên trán cậu là ai. Hagrid đành phải giải thích mọi thứ, từ việc Voldemort tàn phá cả thế giới phù thủy, sát hại cha mẹ cậu, cho đến việc cậu đã vô tình khiến hắn tan thành mây khói, cũng là lý do cậu được gọi là "cậu bé sống sót". Ông cũng dặn Harry không được nói thẳng tên của hắn khi nói chuyện với người khác.
Một tháng sau, Harry rời nhà Dursley để bắt chuyến tàu tốc hành Hogwarts từ sân ga 9¾, một địa điểm bí mật ở nhà ga Ngã Tư Vua. Trên tàu, cậu kết thân với hai người bạn cùng năm nhất là Ron Weasley, một cậu bé đến từ một gia đình phù thủy nghèo nhưng có truyền thống lâu đời và Hermione Granger, một cô phù thủy có cha mẹ đều là Muggle, và cũng trở thành kẻ thù với bạn học cùng năm nhất khác là Draco Malfoy, một thằng bé sinh ra trong một gia đình phù thủy thượng lưu. Harry đã đứng ra bênh vực Ron vì Draco tỏ ra thượng đẳng, khoe mẽ về xuất thân quyền quý của nó và miệt thị Ron vì gia cảnh nghèo khó của cậu.
Khi bước chân vào Hogwarts, các học sinh năm nhất được chiếc Nón Phân Loại xếp vào bốn Nhà Gryffindor, Slytherin, Hufflepuff và Ravenclaw. Khi nghe Ron kể về danh tiếng của Nhà Slytherin gắn liền với những phù thủy hắc ám, Harry đã cầu xin Nón Phân Loại không đưa cậu vào đó, dù chiếc nón nói rằng Nhà Slytherin sẽ giúp cậu trở nên vĩ đại. Cuối cùng chiếc nón cũng chấp thuận thỉnh cầu của Harry, và đưa cậu vào Nhà Gryffindor.
Khi bắt đầu học tại Hogwarts, Harry trong một lần bênh vực cậu bạn cùng Nhà là Neville Longbottom trước trò đùa ác ý của Draco đã phát hiện tài năng thiên bẩm về cưỡi chổi bay và được chọn làm Tầm thủ trong đội Quidditch (một môn thể thao của giới phù thủy) của Nhà Gryffindor. Cậu không ưa giáo sư Severus Snape, giáo viên môn Độc dược kiêm Chủ nhiệm Nhà Slytherin, vì ông luôn thiên vị học sinh của mình và luôn kiếm cớ để trù dập Nhà Gryffindor. Draco thì luôn tìm cách gây sự với Harry. Nó đã lừa Harry và Ron tham gia một trận giao đấu tại phòng truyền thống để dụ hai cậu lẻn khỏi phòng vào ban đêm, rồi bí mật tiết lộ cho thầy giám thị Argus Filch về chuyện này. Ngăn cản hai cậu bạn không thành, Hermione buộc phải đi cùng vì bị khóa ngoài ký túc xá và Bà Béo, người phụ nữ bảo vệ lối vào ký túc xá của Nhà Gryffindor, đang đi dạo. Harry, Ron và Hermione tìm thấy Neville đang ngủ trên sàn nhà ở bên ngoài vì cậu quên mật khẩu phòng sinh hoạt chung. Khi cả bọn đến phòng truyền thống thì không thấy Draco đâu cả và Flich đột nhiên bước vào phòng tìm họ. Cả bọn chạy trốn và tìm đến một cánh cửa bị khóa, Hermione liền mở cửa với câu thần chú đơn giản. Bốn đứa phát hiện ra một con chó ba đầu đang đứng canh một chiếc cửa sập trong khu vực cấm của trường. Cả bọn sợ hãi cong mông chạy trốn, còn Hermione rất giận dữ với hai cậu bạn vì sự liều lĩnh đã suýt giết chết cả bọn.
Năm học đang yên bình thì bị gián đoạn khi một con quỷ khổng lồ xổng ra và đi vòng quanh trường trong ngày lễ Halloween. Khi Harry và Ron tìm Hermione để cảnh báo về con quỷ thì vô tình đụng mặt nó tại nhà vệ sinh nữ, nơi Hermione đang khóc trong đó vì Ron đã thốt ra một lời nhận xét khó chịu về cô bé. Tuy nhiên hai cậu đã kịp thời giải cứu Hermione và hạ gục con quỷ, từ đó cô bé và hai cậu bạn trở thành tri kỷ của nhau. Khi phát hiện vết thương ở chân của Snape, cùng với những sự kiện gần đây thì đám bạn ngày càng nghi ngờ Snape đang tìm cách đột nhập vào cửa sập. Hermione đã cấm hai cậu bạn điều tra vì sợ bị đuổi học, thay vào đó cô bé muốn Harry chú ý nhiều hơn đến trận đấu Quidditch đầu tiên của cậu. Trận đấu diễn ra tốt đẹp đến khi cây chổi của Harry bỗng hóa điên và suýt hất văng cậu xuống đất. Hermione nghi ngờ Snape chơi xấu khi thấy ông đang lẩm bẩm câu thần chú gì đó. Cô bé lẻn ra sau lưng Snape phá đám, giúp cây chổi của Harry bình thường trở lại và giúp Gryffindor thắng trận.
Vào dịp Giáng Sinh, Harry nhận được một chiếc Áo choàng Tàng hình từ một người giấu tên nói rằng nó từng thuộc về cha cậu. Sử dụng chiếc áo để khám phá trường vào ban đêm và điều tra đồ vật bí ẩn giấu dưới cửa sâp, cậu vô tình phát hiện ra Tấm gương Ảo ảnh, nơi Harry nhìn thấy cha mẹ của mình, mong ước sâu thẳm của cậu trở thành sự thật. Cụ Dumbledore đột nhiên xuất hiện bên cạnh Harry, nói rằng sẽ chẳng có ích gì nếu cứ chìm đắm trong ảo ảnh quá khứ. Cụ sẽ mang chiếc gương đi nơi khác, và dặn Harry đừng cố tìm nó nữa.
Trong chuyến thăm ngôi nhà của Hagrid ở chân đồi, Harry, Ron và Hermione tìm thấy một tờ báo đăng tin về vụ trộm ở hầm Gringotts — cùng nơi mà Harry và Hagrid đã ghé qua trong khi mua dụng cụ học tập. Nhờ lời nói bất cẩn từ Hagrid, Harry và đám bạn phát hiện ra thứ được cất giấu dưới cửa sập là Hòn đá Phù thủy, do một người bạn của cụ Dumbledore là Nicolas Flamel tạo ra. Hòn đá giúp người dùng trở nên bất tử cũng như biến kim loại thành vàng nguyên chất. Đó chính là lý do giúp cụ Nicolas Flamel có thể sống đến hơn 650 tuổi. Nhưng cả ba bị Draco phát hiện và nó lập tức đi tố giác với giáo sư McGonagall vì tội đi lung tung vào buổi tối. Giáo sư McGonagall, với tư cách là Chủ nhiệm Nhà Gryffindor kiêm Phó hiệu trưởng, đã phạt cả bốn đứa, kể cả Draco vì nó cũng đang vi phạm nội quy giống ba đứa kia, phải vào Rừng Cấm với Hagrid để tìm xác một con kỳ lân đã chết. Harry và Draco vô tình nhìn thấy một kẻ lạ mặt đang uống máu kỳ lân. Draco sợ hãi chạy trốn, còn kẻ lạ mặt kia quay lại tấn công Harry. Nhưng Nhân mã Frienze kịp thời đến cứu cậu và khiến tên kia bỏ chạy. Anh ta nói với Harry rằng đó là phiên bản Voldemort suy yếu, phải sống ký sinh trên người kẻ khác và uống máu kỳ lân để tồn tại. Hắn cũng cần Hòn đá Phù thủy để hồi sinh và trở lại thời kỳ thống trị. Ghép các bằng chứng lại, Harry, Ron và Hermione nghi ngờ chính Snape là kẻ lạ mặt kia, và ông ta sẽ đi lấy trộm Hòn đá Phù thủy vào buổi đêm để hồi sinh Voldemort. Cả bọn lập tức đi báo với cụ Dumbledore, nhưng cụ đã đi công tác từ trước đó. Cả bọn quyết định cùng đi xuống cửa sập để bảo vệ hòn đá. Neville biết vậy liền đứng ra ngăn cản, và bị Hermione đóng băng ngay lập tức
Sau khi xuống cửa sập, Harry, Ron và Hermione gặp phải một loạt chướng ngại vật. Hermione đã giải cứu cả bọn khỏi Tấm lưới sa tăng đang cuốn chặt chúng bằng phép tạo lửa. Sau đó Harry, với kỹ năng của một Tầm thủ đã lấy được chiếc chìa khóa cửa hầm giữa hàng ngàn chiếc chìa khóa khác. Cuối cùng, Ron đã hy sinh thân mình để giúp cả bọn giành chiến thắng trong ván cờ phù thủy, và Hermione phải ở lại để chăm sóc. Khi chỉ còn một mình Harry bước tới căn phòng cuối cùng, cậu phát hiện giáo sư Quirinus Quirrell, giáo viên dạy môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám mới là kẻ gây ra mọi chuyện. Hắn là kẻ đã xổ lồng con quỷ vào đêm Halloween, khiến Hermione gặp nguy hiểm và làm Snape bị thương ở chân. Cũng chính hắn đã niệm lời nguyền khiến chiếc chổi của Harry nổi điên trong trận Quidditch, và Snape phải lẩm bẩm câu thần chú giải nguyền. Hắn kéo Harry đến trước Tấm gương Ảo ảnh và bắt cậu khai ra Hòn đá Phù thủy ở đâu. Bằng một cách tình cờ, Harry tìm thấy hòn đá trong túi quần nhưng im lặng không nói. Lúc này, Quirrell tháo khăn xếp trên đầu xuống, để lộ ra khuôn mặt của Voldemort đã suy yếu ở sau đầu. Hắn ra lệnh cho Quirrell tấn công Harry để đoạt lại hòn đá. Nhưng khi Quirrell vừa chạm vào người Harry, hắn đột nhiên bị bỏng nặng. Harry lập tức tận dụng sức mạnh bí ẩn đó để khiến hắn thành tro. Quirrell chết và linh hồn Voldemort thoát ra, đâm xuyên qua người Harry, khiến cậu ngất lịm rồi bay đi mất.
Harry tỉnh lại trong bệnh xá của trường. Cụ Dumbledore giải thích khi Harry còn nhỏ, cậu đã sống sót sau cuộc tàn sát của Voldemort bởi mẹ cậu đã hy sinh thân mình để cứu cậu, để lại một phép thuật bảo vệ đầy quyền năng trong máu cậu. Đó chính là nguyên nhân cậu có thể thiêu chết Quirrell. Cụ cũng tiết lộ chính cụ là người gửi cho Harry chiếc Áo choàng Tàng hình của cha cậu, và hiện giờ Hòn đá Phù thủy đã bị phá hủy, đồng nghĩa là cụ Nicolas Flamel cũng sẽ qua đời. Trong bữa tiệc cuối năm, cụ Dumbledore tặng thưởng 50 điểm/người cho Ron và Hermione, 60 điểm cho Harry và 10 điểm cho Neville để giúp Nhà Gryffindor giật Cúp Nhà ngay trước mũi Nhà Slytherin. Năm học kết thúc, Harry tạm biệt hai người bạn để trở về nghỉ hè tại gia đình Dursley. Nhưng với Harry, Hogwarts mới thật sự là nhà của cậu.
Nhân vật chính
Harry Potter là một đứa trẻ mồ côi, được Rowling miêu tả là "một cậu nhóc mảnh khảnh, tóc đen, đeo kính và không hề biết mình là một phù thủy." Rowling đã phát triển các tình tiết và tính cách nhân vật để chứng minh Harry vượt lên hoàn cảnh như thế nào và cuộc sống cậu đã được giải thoát ra sao. Ngoài chương đầu tiên, những sự kiện trong cuốn sách còn diễn ra trước và trong năm sau sinh nhật thứ mười một của Harry. Cuộc tấn công của Voldemort đã để lại một vết sẹo hình tia chớp trên trán của Harry, nó gây đau đớn cho cậu mỗi lần Voldemort xuất hiện. Harry có tài năng thiên bẩm về Quidditch và cậu đã trở thành học sinh năm nhất đầu tiên có vị trí trong đội hình thi đấu.
Ron Weasley là cậu nhóc bằng tuổi Harry, Rowling miêu tả cậu là người bạn thân nhất, "luôn có mặt mỗi khi bạn cần cậu ấy." Cậu có tàn nhang trên mặt, tóc đỏ và khá cao. Cậu lớn lên trong một gia đình phù thủy thuần chủng phúc hậu có bảy người con, cậu là con thứ sáu. Lòng trung thành và can đảm của cậu khi đối mặt trong trò chơi cờ vua đóng vai trò quan trọng trong việc tìm ra Hòn đá phù thủy.
Hermione Granger, con gái của một gia đình người Muggle, là một cô bé thích chỉ huy, ghi nhớ gần hết những lí thuyết trong sách giáo khoa trước khi bắt đầu kì học. Rowling miêu tả Hermione là một nhân vật "thẳng thắn, lương thiện và tư duy logic", với "rất nhiều bất an và nỗi sợ hãi thất bại to lớn ẩn dưới sự miệt mài của mình." Mặc dù cô luôn giúp Harry và Ron thoát khỏi rắc rối bằng cách rầy la, cô lại trở thành bạn thân của hai cậu sau khi họ cứu cô khỏi một con quỷ. Kĩ năng phân tích và phép thuật của cô đóng vai trò quan trọng để tìm ra Hòn đá Phù thủy. Cô có mái tóc nâu dày và hàm răng hô lớn.
Neville Longbottom là một cậu bé mập, thiếu tự tin và rất đãng trí nên bà cậu phải đưa cho cậu một quả cầu gợi nhớ, mặc dù cậu không thể nhớ tại sao. Khả năng phép thuật của Neville rất yếu và xuất hiện đúng lúc để cứu mạng cậu lúc tám tuổi. Mặc dù rất nhút nhát, Neville sẽ chiến đấu với bất cứ kẻ thù nào sau khi được khuyến khích hoặc khi cậu nghĩ rằng điều đó quan trọng và đúng lẽ phải.
Rubeus Hagrid là một người lai khổng lồ có chiều cao , với bộ tóc và râu đen rối. Ông bị đuổi khỏi Hogwarts và đũa phép của ông bị gãy một nửa nên không bao giờ sử dụng đũa phép nữa, tuy nhiên giáo sư Dumbledore vẫn để ông là người giữ rừng của trường, một công việc cho phép ông thoải mái tiếp cận và âu yếm những sinh vật huyền bí dù là nguy hiểm nhất. Hagrid hết mực trung thành với cụ Dumbledore và nhanh chóng trở thành bạn thân Harry, Ron và Hermione, nhưng tính bất cẩn khiến ông không đáng tin cậy.
Giáo sư Albus Dumbledore là một người đàn ông cao và gầy, đeo cặp kính hình bán nguyệt và có mái tóc bạc cùng bộ râu quấn vào dây lưng. Ông là hiệu trưởng Hogwarts và có lẽ là nỗi sợ duy nhất của chúa tể Voldemort. Dumbledore, tuy nổi tiếng vì những thành tựu trong giới phép thuật, lại thường không quan tâm mấy đến những lời tán dương, dù ông tự nhận thức được về khả năng của mình. Rowling miêu tả ông là "hình mẫu của sự lương thiện".
Giáo sư McGonagall là một bà giáo cao ráo, trông nghiêm nghị, tóc bà bới thành một búi chặt. Bà dạy môn Biến hình và thỉnh thoảng lại tự biến mình thành một con mèo. Bà là Phó hiệu trưởng kiêm Chủ nhiệm Nhà Gryffindor, và theo như tác giả, "bên dưới bộ dạng cộc cằn đó" có "một chút yếu đuối già nua".
Petunia Dursley, là dì ruột của Harry, chị của Lily, là một người đàn bà "ốm nhom" "với một cái cổ dài gấp đôi bình thường, rất tiện cho bà nhóng qua hàng rào để dòm ngó nhà hàng xóm". Bà gọi người chị phù thủy của mình là "đồ đồng bóng" và "giả đò rằng mình chẳng có chị em nào hết".
Vernon Dursley là chồng của dì Petunia Dursley, là người đàn ông có thân hình nặng nề cao lớn nhưng ông ta lại dễ bị ám ảnh bởi những điều dị thường.
Dudley là anh họ của Harry Potter. Nó "mập ú", "ghét thể thao" ngoại trừ "môn thể thao đấm đá người khác", và "cái bao cát mà Dudley khoái nhất là Harry".
Draco Malfoy là một thằng bé có "gương mặt nhọn nhợt nhạt" với một chất giọng có "âm điệu nhừa nhựa chán ngắt". Thằng bé hay khoe khoang về tài chơi Quidditch, và khinh miệt bất cứ ai không có dòng máu phù thủy thuần khiết – hoặc những phù thủy không cùng quan điểm với nó. Bố mẹ nó từng ở dưới trướng Voldemort, nhưng đã ngay lập tức đổi phe khi Chúa tể Hắc ám biến mất, nói rằng họ bị "bỏ bùa". Draco thách đấu với Harry Potter, nhưng nó không đến chỗ hẹn mà lén báo cho thầy giám thị Filch hòng khiến cho Harry và đám bạn gặp rắc rối.
Oliver Wood là đội trưởng đội bóng Quidditch Nhà Gryffindor của Harry. Anh chơi ở vị trí Thủ quân.
Giáo sư Quirrell là người đàn ông cà giật và cà lăm. Ông dạy môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám. Được cho là người có "trí tuệ phi thường", nhưng thần kinh ông bị tổn hại khi gặp phải ma cà rồng. Quirrell đội khăn vành để che đi gương mặt Voldemort ở phía sau đầu khi hắn nhập xác vào ông ta.
Giáo sư Snape, "có mái tóc đen nhờn bóng, mũi khoằm, da tái xám", giảng dạy môn Độc dược, nhưng ông rất mong muốn được dạy Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám. Thầy Snape đặc biệt thiên vị học sinh Nhà Slytherin, những học sinh thầy chủ nhiệm nhưng lại tranh thủ cơ hội để làm bẽ mặt học sinh khác, đặc biệt là Harry. Nhiều sự cố, bắt đầu là cơn đau thốn nơi vết sẹo trên trán Harry trong tiệc khai giảng, khiến cho bọn Harry cứ nghĩ thầy Snape là tôi tớ của Voldemort.
Argus Filch, giám thị của trường, người biết rõ mọi hành lang bí mật của trường hơn bất kì ai, có lẽ chỉ sau cặp song sinh nhà Weasley. Ông có một con mèo tên là Bà Norris, trợ thủ đắc lực cho Filch lùng bắt những học sinh vi phạm luật lệ nhà trường.
Những nhân viên và giáo viên khác trong trường gồm có: Giáo sư Pomona Sprout, giáo viên dạy môn Thảo dược học và chủ nhiệm Nhà Hufflepuff, bà có thân hình khá mập; Giáo sư Filius Flitwick, giáo viên dạy môn Bùa chú và chủ nhiệm Nhà Ravenclaw, ông có thân hình nhỏ bé và dễ bị kích động; Giáo sư Binns, giáo viên dạy môn Lịch sử Phép thuật, ông là một hồn ma nhưng dường như chẳng bao giờ để ý rằng mình đã chết; Cô Hooch, huấn luyện viên môn Quidditch tuy là một người nghiêm khắc nhưng dạy rất có phương pháp và chu đáo. Ngoài ra có yêu tinh Peeves thường đi quanh lâu đài để trêu học sinh và gây rắc rối ở bất cứ nơi nào có thể.
Trong truyện, Rowling giới thiệu một dàn nhân vật chiết trung. Nhân vật đầu tiên được giới thiệu là dượng của Harry, Vernon Dursley. Hầu hết các hành động đều tập trung vào nhân vật anh hùng cùng tên Harry Potter, một đứa trẻ mồ côi thoát khỏi tuổi thơ khốn khố với gia đình nhà Dursley. Rowling tưởng tượng cậu là "một cậu nhóc mảnh khảnh, tóc đen, đeo kính và không hề biết mình là một phù thủy"; bà cũng cho biết đã truyền tải nỗi đau mất mẹ từ bản thân mình sang cậu. Trong sách, Harry kết thân với hai người bạn là Ronald Weasley và Hermione Granger. Rowling miêu tả Ron là người bạn thân nhất, "luôn có mặt mỗi khi bạn cần cậu ấy". Cô còn miêu tả Hermione là một nhân vật "thẳng thắn, lương thiện và tư duy logic" với "rất nhiều bất an và nỗi sợ hãi thất bại to lớn ẩn dưới sự học gạo miệt mài của mình".
Rowling cũng tưởng tượng một dàn diễn phụ là người lớn. Hiệu trưởng trường Hogwarts là Albus Dumbledore, một vị phù thủy quyền năng nhưng tốt bụng, người dần trở thành bạn tri kỷ của Harry trong truyện. Rowling miêu tả ông là "hình mẫu của sự lương thiện". Cánh tay phải của ông là một nhà giáo nghiêm nghị Minerva McGonagall, nhân vật mà theo như tác giả miêu tả, "bên dưới bộ dạng cộc cằn đó" có "một chút yếu đuối già nua". Ngoài ra còn có các nhân vật người lai khổng lồ thân thiện Rubeus Hagrid và thầy giáo nham hiểm Severus Snape. Giáo sư Quirrell cũng xuất hiện trong tiểu thuyết.
Những nhân vật phản diện chính là Draco Malfoy, bạn học cùng lớp với Harry có tính trịch thượng và hay bắt nạt; và Chúa tể Voldemort, phù thủy độc ác và quyền năng, bị lìa hồn khỏi xác khi hắn cố giết Harry lúc bé. Theo một cuộc phỏng vấn với Rowling vào năm 1999, bà cho biết nhân vật Voldemort được tạo ra giống như một nét tương phản văn học với Harry, và Rowling đã cố tình không viết rõ ràng về phần tiền truyện của Harry lúc đầu:
Phát triển, xuất bản và đón nhận
Phát triển
Tiểu thuyết đầu tay này của Rowling được viết trong thời gian từ khoảng tháng 6 năm 1990 đến năm 1995. Năm 1990, Jo Rowling, bút danh khi đó của tác giả, muốn cùng bạn trai đến sống ở một căn hộ chung cư tại thành phố Manchester và theo lời bà, "Sau một tuần tìm phòng, tôi đón xe lửa một mình về lại Luân Đôn và ý tưởng về Harry Potter bắt đầu nhen nhóm trong đầu... Một chú bé phù thủy gầy gò, nhỏ bé, tóc đen, đeo kiếng dần hiện hữu trong tôi... Tôi bắt đầu viết Hòn đá Phù thủy mỗi tối. Mặc dù những trang đầu tiên nhìn chẳng có vẻ gì là một tác phẩm hoàn chỉnh." Không lâu sau, để vượt qua nỗi đau mất mát trước sự ra đi của thân mẫu, Rowling đã truyền tải cảm xúc đau thương đó qua thân phận mồ côi của Harry. Rowling dành sáu năm để hoàn chỉnh tác phẩm Harry Potter và Hòn đá Phù thủy, và sau khi cuốn sách được Bloomsbury phát hành, tác giả giành được một giải thưởng trị giá 8.000 bảng Anh từ Hội đồng Nghệ thuật Scotland, giúp bà thêm nguồn lực để lên kế hoạch cho các phần sau của bộ truyện. Bà gửi cuốn này đến đại diện xuất bản và một nhà xuất bản, và sau đó, khi đến tay đại diện thứ hai dành suốt một năm để tìm nơi đồng ý xuất bản, hầu hết các nơi đều cho rằng với dung lượng 90.000 từ, cuốn sách này quá dài. Khi Barry Cunningham, đang bổ sung sách thuộc thể loại kỳ ảo từ các tác giả mới cho Tủ sách thiếu nhi Bloomsbury, gợi ý chấp nhận cuốn sách, cô con gái tám tuổi của Tổng Giám đốc Điều hành Nhà xuất bản Bloomsbury nói quyển sách "hay hơn nhiều cuốn sách khác".
Phát hành và đón nhận tại Anh Quốc
Bloomsbury đồng ý xuất bản, đặt cọc cho Rowling một khoản 2.500 bảng Anh, và Cunningham cẩn thận gởi bản bông của sách tới các tác giả, nhà phê bình văn học và các đại lý sách chọn lọc để thu thập phản hồi có thể trích dẫn khi cuốn sách được ra mắt độc giả. Ông ít chú tâm tới độ dầy cuốn sách hơn là tên của tác giả, lý do ông đưa ra là bởi nhan đề cuốn sách xem qua có vẻ như dành cho các nam thiếu niên, và ông tin rằng trẻ trai sẽ chuộng sách của các tác giả nam hơn. Thế nên, Rowling chọn bút danh mới là J.K. Rowling vừa trước lúc xuất bản. Tháng 6 năm 1997, Bloomsbury phát hành cuốn Hòn đá Phù thủy với 500 bản bìa cứng cho loạt ấn hành đầu tiên, trong đó có 300 cuốn được phát đến các thư viện. Tên thật của tác giả, "Joanne Rowling", được in nhỏ trên trang bản quyền của ấn bản đầu tiên tại Anh Quốc. (Ấn bản đầu tiên tại Mỹ năm 1998 gỡ bỏ hoàn toàn chữ "Joanne"). Lượng ấn bản ít ỏi trong đợt phát hành đầu tiên thường dễ thấy ở các sáng tác đầu tay, Cunningham hy vọng các đại lý sách sẽ chịu đọc sách và giới thiệu nó tới khách hàng. Một quyển sách trong đợt phát hành đầu tiên đã được trả giá khá cao, lên đến 33.460 đô la Mỹ trong một phiên đấu giá năm 2007 do Nhà đấu giá Heritage tổ chức.
Lindsey Fraser được cho là người viết bài giới thiệu cho Harry Potter và Hòn đá Phù thủy đầu tiên trên tờ The Scotsman vào ngày 28 tháng 6 năm 1997. Bà nói rằng Harry Potter và Hòn đá Phù thủy là "câu chuyện ly kỳ mang tính giải trí" và Rowling quả là "tác giả hạng nhất cho thiếu nhi". Một nhận xét cũng xuất hiện khá sớm khác, trên The Herald, nói, "Tôi chưa tìm thấy đứa trẻ nào có thể đặt cuốn sách này xuống." Báo chí xuất bản bên ngoài địa phận Scotland bắt đầu chú ý đến cuốn sách, đi cùng với ngôn từ đánh giá đầy mĩ miều trên các tờ The Guardian, The Sunday Times và The Mail on Sunday, và đến tháng 9 năm 1997, tờ Books for Keeps, tạp chí chuyên đề sách thiếu nhi, dành tặng cuốn sách bốn trên năm sao trong phần đánh giá. Tờ The Mail on Sunday bầu chọn đây là "tiểu thuyết giả tưởng đầu tay hay nhất kể từ thời Roald Dahl"; một đánh giá gây tiếng vang trên tờ Sunday Times ("những sự so sánh với Dahl là, lần này, thật chính đáng"), trong khi The Guardian gọi đây là "một cuốn tiểu thuyết được tổ chức chặt chẽ được thăng hoa bởi sự thông minh hóm hỉnh đầy sáng tạo" và The Scotsman nói cuốn sách "đang trở thành kinh điển".
Năm 1997, ấn bản tại Anh Quốc của cuốn sách thắng Giải Sách Quốc gia và một huy chương vàng cho hạng mục sách cho trẻ từ 9 tới 11 tuổi của giải Nestlé Smarties Book Prize. Giải thưởng Smarties, do chính trẻ em bầu chọn, giúp cuốn sách được chú ý chỉ sáu tháng sau khi ra mắt độc giả, trong khi hầu hết các sách thiếu nhi khác phải mất tới nhiều năm để làm được điều tương tự. Trong năm kế tiếp, cuốn Hòn đá Phù thủy thắng tại hầu hết các giải thưởng lớn khác cũng do trẻ em bình chọn trên toàn Anh Quốc. Tác phẩm cũng nằm trong danh sách rút gọn cho giải thưởng sách trẻ em được người lớn đánh giá, nhưng không thắng giải. Sandra Beckett đưa bình luận rằng cuốn sách tuy được trẻ em yêu thích nhưng bị xem là dễ viết dễ đọc và chưa đạt được những tiêu chí văn học cao nhất – và lấy ví dụ là việc xây dựng tác phẩm của Rowling quả là một sự giễu nhại khi so sánh với các công trình của Roald Dahl, thứ đã làm trẻ em say mê trước khi có sách của Rowling. Năm 2003, cuốn tiểu thuyết đứng vị trí 22 trong kết quả khảo sát The Big Read của đài thông tấn BBC.
Harry Potter và Hòn đá Phù thủy giành hai giải thưởng xuất bản cho số lượng ấn bản được bán ra chứ không phải do tiêu chí giá trị văn học tại giải thưởng British Book Awards cho hạng mục Sách Thiếu nhi của Năm, và Booksellers' Association / Bookseller cho hạng mục Tác giả của Năm. Tính đến tháng 3 năm 1999, lượng sách in tại Anh Quốc đã được tiêu thụ hơn 300.000 bản, và một lần nữa trở thành đầu sách bán chạy nhất tại Anh Quốc vào tháng 12 năm 2001. Bản in chữ nổi Braille được nhà xuất bản Scottish Braille Press phát hành tháng 5 năm 1998.
Sân ga 9¾, mà từ đây chuyến xe lửa Tốc hành Hogwarts rời Luân Đôn, đã được đánh dấu kỷ niệm tại nhà ga Ngã Tư Vua ngoài đời thực bằng một tấm bảng và chiếc xe đẩy hành lý như được mô tả trong sách đang vượt qua bức tường.
Phát hành và đón nhận tại Mỹ
Scholastic Corporation mua bản quyền phát hành tại Mỹ vào tháng 4 năm 1997 với giá 105.000 đô la Mỹ tại Hội sách thiếu nhi Bologna, mức gia cao bất thường cho một tác phẩm thiếu nhi. Phía Nhà xuất bản nghĩ rằng trẻ con sẽ không thích đọc cuốn sách có từ "philosopher" (nghĩa "nhà hiền triết" khi đứng một mình) ngay tại nhan đề; sau vài cuộc đàm phán, ấn bản tại Mỹ phát hành tháng 9 năm 1998 với tên mới do Rowling đề nghị, Harry Potter and the Sorcerer's Stone thay vì Harry Potter and the Philosopher's Stone. Rowling tỏ vẻ hối tiếc khi phải đổi tên cuốn sách của mình và nói rằng sẽ đấu tranh mạnh mẽ hơn nếu lúc ấy tiếng nói của tác giả có nhiều trọng lượng hơn. Philip Nel chỉ ra việc đổi tên này đã làm mất đi mối liên hệ với giả kim thuật, và ngữ nghĩa câu từ trong tác phẩm cũng thay đổi khi điều chỉnh văn phong, như bánh "crumpet" thành bánh "muffin". Rowling đồng ý thay đổi cả "mum" trong tiếng Anh của người Anh và "mam" là cách nhân vật Seamus Finnigan dùng theo chất giọng Ireland (cả hai từ đều mang nghĩa là "mẹ") thành "mom" trong cuốn Harry Potter và Hòn đá Phù thủy, tuy vậy, trong các tập sau, bà không chấp thuận kiểu thay đổi này nữa, và cũng trong những lần tái bản sau của cuốn Hòn đá Phù thủy phiên bản Mỹ, từ ngữ cũng đổi lại theo nguyên tác. Tuy nhiên, cũng chính Nel lại nhận xét rằng việc biên tập của Scholastic đã được cân nhắc thận trọng hơn hầu hết các sách viết theo văn phong ở Anh Quốc vào thời điểm đó, và rằng trong số những hiệu đính từ nhà xuất bản, cũng có những chỗ hữu ích. Cũng bởi những tập sách Harry Potter đầu tiên tại Anh lên kệ sớm hơn vài tháng so với Mỹ, nhiều độc giả Mỹ nhanh tay đặt hàng qua Internet để sớm có sách và đã quen thuộc với văn phong Anh Quốc qua các bản sách này. Lúc mới đầu, hầu hết các nhà phê bình văn học uy tín nhất đều gạt cuốn sách ra bên lề, phó thác nó cho thị trường sách và các bài điểm sách thư viện như trên tạp chí Kirkus Reviews và Booklist, những nơi chỉ đánh giá sách trên tiêu chí giải trí của một tiểu thuyết dành cho thiếu nhi. Tuy vậy, nhiều bài phê bình sâu sắc của các chuyên gia (như một bài đăng trên Chọn lọc từ Liên hiệp Trung tâm Sách thiếu nhi, với việc chỉ ra sự phức tạp, sâu sắc và nhất quán mà thế giới của Harry Potter được nhà văn Rowling dựng nên) đã thu hút sự quan tâm từ giới phê bình văn học trên các tờ báo lớn. Mặc dù tờ The Boston Globe và Michael Winerip trên tờ Thời báo New York cảm thán rằng chương cuối cùng là phần kém nhất trong cuốn sách, họ và hầu hết các nhà phê bình người Mỹ khác đều dành những lời có cánh cho tác phẩm.
Một năm sau đó, ấn bản tại thị trường Mỹ được bình chọn là Sách nổi bật của Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ (American Library Association Notable Book), giải Sách hay nhất năm 1998 của tạp chí Publishers Weekly, giải Sách hay nhất năm 1998 do Thư viện công New York trao tặng. Ấn bản này đồng thời cũng thắng giải Sách của năm 1998 từ tờ Parenting Magazine, Sách hay nhất năm do School Library Journal bình chọn, và giải Sách hay nhất cho thanh niên từ Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ. Tháng 8 năm 1999, Harry Potter và Hòn đá Phù thủy dẫn đầu danh sách tiểu thuyết ăn khách nhất trên tờ Thời báo New York, và dao động ở vị trí đó trong suốt năm 1999 tới năm 2000, cho đến khi Thời báo New York phân danh sách này thành hai phần cho riêng cho các tác phẩm thiếu nhi và người lớn dưới áp lực từ các nhà xuất bản khác khi muốn sách của họ lên vị trí cao hơn. Theo báo cáo vào tháng 12 năm 2001 của Publishers Weekly thì tổng lượng sách lũy tích của cuốn Harry Potter và Hòn đá Phù thủy đạt trên 5 triệu bản bìa cứng (xếp hạng thứ 19 ở hạng mục sách thiếu nhi) và hơn 6,6 triệu bản bìa mềm (đứng hạng 7 ở hạng mục sách thiếu nhi).
Tháng 5 năm 2008, Scholastic đưa thông báo ấn bản kỷ niệm 10 năm ngày Harry Potter và Hòn đá Phù thủy ra mắt lần đầu tại Hoa Kỳ sẽ được phát hành vào ngày 1 tháng 10 năm 2008. Cho lần kỷ niệm thứ 15, Scholastic tái bản Hòn đá phủ thủy và các tập khác trong bộ truyện với hình bìa mới do họa sỹ Kazu Kibuishi minh họa vào năm 2013.
Bản dịch
Tới giữa năm 2008, các bản dịch chính thức đã được xuất bản với 67 ngôn ngữ khác nhau. Nhà xuất bản Bloomsbury đã phát hành bản dịch tiếng Latin và Hy Lạp cổ, và phiên bản Hy Lạp cổ đã được miêu tả là "một trong những áng văn Hy Lạp cổ quan trọng nhất trong nhiều thế kỷ trở lại đây".
Phong cách và chủ đề
Philip Nel nhấn mạnh sự ảnh hưởng của nữ văn sĩ Jane Austen, một nhân vật mà Rowling đã ngưỡng mộ từ năm mười hai tuổi. Cả hai nhà văn đều khuyến khích việc đọc lại các tác phẩm, bởi vì những chi tiết trông có vẻ thừa thãi lại là điềm báo của những sự kiện hay nhân vật quan trọng xuất hiện sau này trong nội dung câu chuyện – ví dụ như Sirius Black đã được khéo léo nhắc tới trong phần đầu của Harry Potter và Hòn đá Phù thủy, và trở thành nhân vật trung tâm từ tập ba đến tập năm của bộ truyện. Cũng giống với những nữ anh hùng trong truyện của Austen, Harry Potter thường rà soát lại những ý tưởng của mình ở gần cuối mỗi cuốn sách. Nhiều thái độ cư xử trong bộ Harry Potter gợi lại các chi tiết trong những tác phẩm của Austen. Cả hai tác giả đều châm biếm nhiều thái độ cư xử và đặt tên cho các nhân vật của mình theo tính cách riêng của họ. Tuy nhiên theo Nel, tính hài hước của Rowling chủ yếu dựa theo các tranh biếm họa nhiều hơn và những cái tên mà bà nghĩ ra lại nghe giống những cái tên trong những câu chuyện của Charles Dickens hơn, và Amanda Cockrell cũng nhấn mạnh rằng nhiều trong số đó biểu lộ đặc điểm của người sở hữu thông qua lời truyền lại từ các thần thoại La Mã cổ đại cho tới văn học Đức thế kỷ mười tám. Rowling, cũng giống như C.S. Lewis, tác giả của loạt truyện Biên niên sử Narnia, nghĩ rằng không có một ranh giới cụ thể nào giữa những câu chuyện dành cho trẻ em và người lớn. Nel còn nhận xét, cũng giống như các nhà văn viết cho thiếu nhi khác, J. K. Rowling đã kết hợp nhiều thể loại văn học khác nhau lại với nhau, bao gồm kỳ ảo, truyện giả tưởng cho thiếu niên, những câu chuyện về trường nội trú, Bildungsroman và nhiều thể loại khác.
Nhiều nhà bình luận so sánh Harry Potter và Hòn đá Phù thủy với những tác phẩm của nhà văn Roald Dahl, người đã qua đời vào năm 1990. Nhiều cây viết từ sau thập niên 1970 đều được ví như những truyền nhân của Roald Dahl, tuy nhiên chưa một ai nhận được sự hưởng ứng từ các độc giả thiếu nhi nhiều như ông, và trong một cuộc khảo sát sau khi Hòn đá Phù thủy được phát hành, bảy trên mười cuốn sách thiếu nhi ăn khách nhất thuộc về Dahl, trong đó bao gồm cả vị trí dẫn đầu. Chỉ có một tác giả truyện thiếu nhi duy nhất khác gây được khá nhiều tiếng vang vào những năm cuối thập niên 1990 đó là nhà văn R. L. Stine. Nhiều yếu tố trong nội dung của Hòn đá Phù thủy gợi lại những câu chuyện trong tác phẩm của Dahl; ví dụ như cậu bé anh hùng trong truyện James và quả đào khổng lồ mồ côi cha mẹ từ khi còn bé và phải chuyển đến sống cùng cùng hai người cô khắc nghiệt, một béo và một gầy—cũng tương tự như hình ảnh hai ông bà Dursley, những người coi Harry như kẻ đầy tớ trong nhà. Dù sao đi nữa, Harry Potter vẫn là một nhân vật được sáng tạo riêng biệt, với khả năng đảm nhận những trách nhiệm của một người trưởng thành trong khi vẫn chỉ là một đứa trẻ.
Librarian Nancy Knapp và giáo sư chuyên ngành marketing Stephen Brown còn chú ý đến sự sống động và chi tiết trong những đoạn miêu tả, đặc biệt là các đoạn miêu tả những cửa tiệm trong Hẻm Xéo. Tad Brennan bình luận rằng cách hành văn của Rowling gợi ta nhớ tới Hómēros: "nhanh gọn, dễ hiểu, và cách diễn đạt đi thẳng vào vấn đề." Nhà văn Stephen King thì khâm phục "những chi tiết khôi hài mà chỉ những tưởng tượng gia của Anh Quốc mới có thể tạo ra được" và kết luận rằng những thứ đó hoàn toàn có tác dụng trong tác phẩm.
Nicholas Tucker miêu tả những cuốn đầu trong bộ truyện Harry Potter qua việc nhìn lại những mẩu truyện thiếu nhi trong thời đại của Victoria của Anh và Vua Edward VII: Hogwarts là một trường nội trú kiểu cổ, nơi giáo viên thường gọi học trò của mình bằng tên họ, và điểm số của nhà chung mà những học sinh cùng ở được đánh giá rất cao; tính cách của từng nhân vật được miêu tả rõ ràng qua vẻ bề ngoài, bắt đầu với nhà Dursley; các nhân vật xấu xa hay độc ác thường bị tiêu diệt thay vì ăn năn hối cải, trong đó có cả Bà Norris, con mèo của giám thị Filch; và nhân vật anh hùng, một đứa trẻ mồ côi bị ngược đãi sau đó tìm được nơi mà cậu thực sự thuộc về, là một người cuốn hút, giỏi thể thao, ân cần và luôn bảo vệ kẻ yếu. Nhiều nhà bình luận khác cho rằng cuốn sách đã xây dựng nên một cộng đồng có tính phân tầng xã hội cao với nhiều loại người khác nhau. Tuy nhiên, Karin Westerman lại tạo một sự so sánh ngang bằng với hình ảnh nước Anh những năm 1990: một hệ thống lớp học đã bị phá vỡ nhưng lại được bảo vệ bởi những kẻ có quyền lực và địa vị; tính đa sắc tộc của những học sinh trường Hogwarts; sức ép đồng loại giữa những giống loài có cùng mức độ hiểu biết; và vấn đề bạo lực học đường thường xảy ra trong các trường học.
Susan Hall viết rằng, hoàn toàn không có một pháp quyền nào được sử dụng trong loạt truyện; những hành động của Bộ Pháp thuật tuyệt đối không bị gò bó bởi luật pháp, trách nhiệm giải trình hay bất cứ một thách thức pháp lý nào. Đây chính là cơ hội để Voldemort đề ra những mệnh lệnh khủng khiếp của hắn. Cũng nhờ vậy Harry và Hermione, những nhân vật đến từ thế giới Muggle, thường tìm ra cách giải quyết vấn đề thông qua việc suy nghĩ theo cách hoàn toàn không giống một phù thủy. Ví dụ, Hermione cho rằng trở ngại trong việc tìm kiếm Hòn đá Phù thủy chính là bài kiểm tra về trí óc thay vì năng lực phép thuật, và hầu hết các phù thủy đều không thể giải được nó.
Nel cho rằng những tính cách xấu của một nhà Dursley quá quy tắc, coi trọng địa vị xã hội và đặt nặng về vật chất, đã phản ánh chính thái độ của Rowling đối với các chính sách gia đình của chính phủ Anh vào đầu những năm 1990 khi coi việc kết hôn giữa hai người dị tính luyến ái là "quy chuẩn hàng đầu", trong khi nữ nhà văn lại là một bà mẹ đơn thân. Các mối quan hệ giữa Harry với những phù thủy thiếu niên cũng như trưởng thành ở trong truyện đều xuất phát từ tình cảm và lòng trung thành. Điều này được phản ánh rõ trong suốt loạt truyện, ví dụ như niềm vui của Harry khi cậu trở thành một thành viên tạm thời trong gia đình nhà Weasley, hay việc cậu đối xử với Rubeus Hagrid, và sau đó là Remus Lupin và Sirius Black như cha ruột của mình.
Sản phẩm có liên quan
Tập tiếp nối
Cuốn sách thứ hai trong bộ truyện mang tên Harry Potter và Phòng chứa Bí mật, được xuất bản lần đầu tiên tại Anh Quốc vào ngày 2 tháng 7 năm 1998 và tại Mỹ vào ngày 2 tháng 6 năm 1999. Harry Potter và tên tù nhân ngục Azkaban được phát hành một năm sau đó tại Anh Quốc vào ngày 8 tháng 7 năm 1999 và tại Mỹ vào ngày 8 tháng 9 năm 1999. Hai ấn bản của Harry Potter và Chiếc cốc lửa do hai nhà xuất bản Bloomsbury và Scholastic thực hiện được phát hành cùng vào ngày 8 tháng 7 năm 2000. Harry Potter và Hội Phượng Hoàng là tập truyện dài nhất của loạt tiểu thuyết với 766 trang ở phiên bản của Anh Quốc, 870 trang ở ấn bản tại Mỹ và 1138 trang ở ấn bản tiếng Việt. Phiên bản tiếng Anh của cuốn sách được phát hành trên toàn thế giới vào ngày 21 tháng 6 năm 2003. Harry Potter và Hoàng tử lai được phát hành trên toàn thế giới vào ngày 16 tháng 7 năm 2005, và 11 triệu bản in của cuốn sách được tiêu thụ hết chỉ trong 24 giờ đầu ra mắt. Cuốn thứ bảy và cũng là tập truyện cuối cùng, Harry Potter và Bảo bối Tử thần, được xuất bản vào ngày 21 tháng 7 năm 2007. Cuốn sách cũng bán được tổng cộng 11 triệu bản in trong 24 giờ đầu phát hành, trong đó có 2,7 triệu bản được tiêu thụ tại Anh Quốc và 8,3 triệu bản được tiêu thụ tại Mỹ.
Ấn bản minh họa
Một phiên bản minh họa của Harry Potter và Hòn đá Phù thủy được phát hành vào tháng 10 năm 2015, với phần minh họa được thực hiện bởi họa sĩ Jim Kay. Phiên bản minh họa tiếng Việt dày 250 trang được Nhà xuất bản Trẻ ấn hành tại Việt Nam vào tháng 2 năm 2016. Cuốn sách bao gồm tổng cộng 100 tranh minh họa và sẽ được tiếp nối bởi phiên bản minh họa của sáu cuốn tiếp theo, với Jim Kay giữ nguyên vai trò họa sĩ minh họa xuyên suốt.
Phim điện ảnh
Năm 1999, Rowling bán bản quyền điện ảnh của bốn tập truyện Harry Potter đầu tiên cho hãng phim Warner Bros. với giá tổng cộng 1 triệu GBP (tương đương 1,65 triệu USD vào năm 1999). Rowling yêu cầu rằng bộ nhân vật chính bắt buộc phải là người Anh nhưng cho phép một số diễn viên Ireland như Richard Harris vào vai Dumbledore và các diễn viên nước ngoài khác đối với các nhân vật có cùng quốc tịch sẽ xuất hiện trong các cuốn sách tiếp theo. Sau quá trình tuyển diễn viên rộng rãi, công tác quay phim được bắt đầu từ tháng 9 năm 2000 tại Leavesden Film Studios và Luân Đôn, và công việc sản xuất được hoàn tất vào tháng 7 năm 2001. Harry Potter và Hòn đá Phù thủy bắt đầu được công chiếu tại Luân Đôn từ ngày 14 tháng 11 năm 2001. Giới chuyên môn dành cho phim nhiều nhận định tích cực, với đánh giá Fresh trên trang Rotten Tomatoes lên tới 80% và điểm số 64% trên trang Metacritic, với chủ yếu là các ý kiến thuận lợi.
Trò chơi điện tử
Tổng cộng năm video game riêng biệt do năm nhà phát triển khác nhau thực hiện đã được ra mắt từ năm 2001 tới năm 2003 bởi hãng Electronic Arts, với cốt truyện chủ yếu dựa theo nội dung phim và tiểu thuyết:
Minh họa trong kinh doanh và giáo dục
Nhiều tác giả viết về kinh doanh và giáo dục sử dụng sách Harry Potter và Hòn đá Phù thủy làm ví dụ minh họa. Về giảng dạy lâm sàng trong các trường y, Jennifer Conn đã nhắc tới chuyên môn và phương pháp sư phạm đáng sợ của Snape đối với học trò của mình. Trái lại, Bà Hooch, giáo viên môn Quidditch, với phương pháp hữu hiệu đã chia nhỏ các động tác phức tạp thành nhiều bước đơn giản cũng như giúp học sinh tránh khỏi những sai sót thường gặp. Joyce Fields viết rằng sách Harry Potter minh họa cho bốn trên năm chủ đề chính của chương trình xã hội học của sinh viên năm nhất: "các khái niệm xã hội học bao gồm văn hóa, xã hội và xã hội hóa; sự phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội; thiết chế xã hội; và lý thuyết xã hội".
Stephen Brown lưu ý là các tập truyện Harry Potter đầu tiên, nhất là tập Harry Potter và Hòn đá Phù thủy, vẫn dễ dàng có được thành công dù cho công tác quảng bá nghèo nàn và thiếu thốn. Brown khuyên các nhà điều hành marketing bớt chú tâm đến phân tích số liệu một cách triệt để và mô hình "phân tích, lập kế hoạch, thực hiện và kiểm soát" trong quản lý. Thay vào đó, anh gợi ý rằng họ nên xem câu chuyện như "một lớp học marketing cao cấp", tràn ngập những sản phẩm và thương hiệu hấp dẫn. Chẳng hạn như một sản phẩm dựa trên thế giới pháp thuật trong truyện là Kẹo dẻo hình hạt đậu đủ vị hiệu Bertie Bott đã được giới thiệu năm 2000 dưới giấy phép của hãng đồ chơi Hasbro.
Lịch sử phát hành |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.