text
stringlengths
82
354k
Đa La Đặc Sắc Lăng Đa La Đặc Sắc Lăng (; ? – 1909) là một vương công Mông Cổ thời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, người thứ 6 thừa kế tước vị A Lạp Thiện kỳ Trát Tát Khắc Thân vương. Đa La Đặc Sắc Lăng là hậu duệ của Chuyết Xích Cáp Tát Nhi – em trai ruột của Nguyên Thái Tổ Thành Cát Tư Hãn, và là con trai của Cống Tang Châu Nhĩ Mặc Đặc, Trát Tát Khắc Thân vương thứ 5 và kỳ chủ thứ 7 của A Lạp Thiện Ách Lỗ Đặc kỳ. Cha ông từng kết hôn với con gái của Trấn Quốc công Tường Lâm, nhưng không rõ ông có phải do vị cách cách Ái Tân Giác La này sinh ra hay không. Phần lớn thời gian Đa La Đặc Sắc Lăng sống tại vương phủ của A Lạp Thiện Thân vương ở Bắc Kinh (thường được gọi là La vương phủ). Với tư cách là con trai trưởng của Thân vương, ông từng được triều đình nhà Thanh phong làm A Lạp Thiện công, hàm Đầu đẳng Đài cát. Năm 1876 dưới triều Quang Tự, Cống Tang Châu Nhĩ Mặc Đặc qua đời, Đa La Đặc Sắc Lăng thừa kế tước vị Trát Tát Khắc Thân vương, trở thành kỳ chủ thứ 8 của A Lạp Thiện kỳ. Hai năm sau, ông được cho phép hành tẩu tại ngự tiền. Ngày 30 tháng 7 năm 1909 dưới triều Tuyên Thống, Đa La Đặc Sắc Lăng thông qua Lý phiên viện đã dâng tấu lên triều đình nhà Thanh yêu cầu thi hành tân chính ở khu vực địa khu Tây Mông, tiến hành khai thác tài nguyên và tổ chức khai hoang, khai mỏ, làm muối, để ngăn ngừa người phương Tây thèm muốn, lấn chiếm. Nhưng ngày 17 tháng 9 cùng năm, Đa La Đặc Sắc Lăng đã qua đời vì bệnh. Triều đình nhà Thanh phái Bối lặc Tái Nhuận thay mặt đến tế rượu, lại ban thưởng 500 lượng bạc để lo việc tang lễ. Đa La Đặc Sắc Lăng được truy thụy Hô Đồ Khắc Đồ Nặc Âm (). Tháp Vượng Bố Lý Giáp Lạp thừa kế tước vị Thân vương, trở thành A Lạp Thiện Trát Tát Khắc Thân vương cuối cùng được triều đình nhà Thanh phong tước. Đa La Đặc Sắc Lăng lần lượt cưới hai người con gái thứ 14 và 17 của Túc Thân vương Hoa Phong. Năm 1871, ông kết hôn với người vợ đầu tiên, nhưng vị Cách cách này qua đời vào năm 1875 khi chỉ vừa thành hôn được 4 năm. Tháng 12 năm 1878, ông tục huyền với em gái thứ 17 của vợ trước. Ông có tất cả 3 người con trai, trong đó con trai trưởng là Tháp Vượng Bố Lý Giáp Lạp đã kết hôn với Duệ Tiên Cách cách, con gái của Khắc Cần Quận vương Tung Kiệt. Ngoài ra, ông còn có 2 người con gái kết hôn với tông thất nhà Thanh. Một người gả cho Hằng Chiếu – con trai của Bối tử Dục Thu. Một người gả cho Phổ Tuấn – con trai của Đoan Quận vương Tái Y và em gái của Đa La Đặc Sắc Lăng. Đây là một cuộc hôn nhân cận huyết điển hình thời Thanh. Năm 1899, Phổ Tuấn được Từ Hi Thái hậu chọn làm người thừa tự của Đồng Trị, lập làm Đại a ca. Từ Hi Thái hậu muốn phế Quang Tự để Phổ Tuấn lên ngôi, nhưng kế hoạch bất thành. Sau sự kiện Nghĩa Hòa đoàn, Phổ Tuấn cùng Tái Y đều bị lưu đày đến Tân Cương.
Nơi sinh của Mozart Nơi sinh của Mozart (tiếng Đức: ' hoặc ') là nơi sinh của nhà soạn nhạc người Áo Wolfgang Amadeus Mozart. Toà nhà toạ lạc tại số 9 phố Getreidegasse ở Salzburg, Áo. Gia đình Mozart cư trú ở trên tầng ba từ năm 1747 đến năm 1773. Bản thân ông được sinh ra ở đây vào ngày 27 tháng 1 năm 1756. Ông là người con thứ bảy của Leopold Mozart, một nhạc sĩ của Hội âm nhạc thính phòng hoàng gia Salzburg. Kể từ năm 1880, tòa nhà này có một bảo tàng mô tả cuộc sống đầu đời của Wolfgang Amadeus Mozart, trong đó trưng bày những nhạc cụ đầu tiên của ông, những tư liệu về người bạn thời thơ ấu của ông và cả niềm đam mê mãnh liệt của ông đối với opera. Tầng thứ ba trưng bày cây vĩ cầm thời thơ ấu của Mozart cũng như các bức chân dung, tài liệu và các ấn bản đầu tiên về âm nhạc của ông, còn tầng hai dành cho niềm yêu thích của Mozart đối với opera và bao gồm cả đàn clavichord mà ông đã sáng tác vở "Cây sáo thần". Hiện nay toà nhà này thuộc sở hữu của Quỹ Mozart. Theo một tài liệu, ngôi nhà được xây dựng vào thế kỷ 12 trên khu đất từng là một phần của khu vườn thuộc về các tu sĩ dòng Biển Đức của tu viện Thánh Phêrô, Salzburg. Otto Keutzel, một thương gia, được đề cập tới là chủ sở hữu của căn nhà vào năm 1408 trong khi Chunrad Fröschmoser, dược sĩ của triều đình, đã mua khối tài sản vào năm 1585. Trên ô cửa có điêu khắc hình con rắn cuộn mình trong miệng sư tử, biểu tượng của Asclepius, minh chứng cho quyền sở hữu của ông. Năm 1703, ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của gia đình Hagenauer; họ đến Salzburg vào khoảng năm 1670. Cụ thể, gia đình này bao gồm Joseph Matin Hagenauer và Johann Laurenz Hagenauer, những người trở thành chủ nhà của gia đình Mozart. Sau khi kết hôn với Anna Maria Pertl vào ngày 21 tháng 11 năm 1747, Leopold Mozart thuê căn hộ trên tầng ba bao gồm một phòng bếp, một chiếc tủ nhỏ, một phòng khách, một phòng ngủ và một phòng làm việc. Đó là nơi ở của họ cho đến năm 1773 và 7 người con của họ được sinh ra ở đây. Tuy vậy chỉ có hai người là Maria Anna và Wolfgang Amadeus sống sót đến khi trưởng thành. Dù Leopold rời đi khỏi căn nhà vào năm 1773 nhưng ông vẫn thường xuyên liên lạc qua thư từ với chủ nhà trong chuyến lưu diễn lớn của gia đình Mozart từ năm 1763 đến năm 1766. Cũng tại ngôi nhà này, con trai ông đã sáng tác 350 tác phẩm âm nhạc. Một bảo tàng được thành lập từ năm 1880 để giới thiệu du khách về nơi sinh của Wolfgang Amadeus Mozart cũng như về cuộc sống đầu đời của nhà soạn nhạc. Nơi đây trưng bày những nhạc cụ đầu tiên của ông, những người bạn thời thơ ấu và niềm đam mê của ông đối với opera. Tầng thứ ba trưng bày cây vĩ cầm thời thơ ấu của Mozart, đàn harpsichord, cũng như các bức chân dung, tài liệu, thư từ gia đình và các ấn bản đầu tiên về âm nhạc của ông. Ngoài ra, còn có những ghi chép về cuộc sống của ông ở Viên cũng như của vợ và gia đình ông. Tầng thứ hai dành cho niềm yêu thích của Mozart đối với opera và bao gồm clavichord mà ông đã sáng tác vở "Cây sáo thần". Tầng đầu tiên tái hiện lại điều kiện sống trong thời kì của Mozart với đồ nội thất cổ cũng như các tài liệu và bức tranh gốc minh họa cuộc sống của ông ở Salzburg. Các hiện vật khác trong bảo tàng còn có một bức chân dung chưa hoàn thiện của Mozart do Joseph Lange do anh rể của ông vẽ vào năm 1789 (một trong những bức chân dung nổi bật của Mozart), những bức tranh và cây vĩ cầm thời thơ ấu của mình. Ngày nay, bảo tàng Mozart là một trong những điểm đến thu hút du khách nhất ở thành phố Salzburg.
Thân vương quốc Murom Thân vương quốc Murom (tiếng Nga: Муромское княжество) là một lãnh địa của người Rus' thời trung cổ có thủ phủ đặt tại thành phố Murom, nay thuộc tỉnh Vladimir, Nga. Murom nằm trong một khu vực có nhiều người Phần Lan và trong phần lớn lịch sử thời trung cổ của nó, nằm ở quê hương của người Muromia. Nó dường như là một khu định cư quan trọng của người Phần Lan vào thế kỷ thứ IX, với sự hiện diện đáng chú ý về mặt khảo cổ học của người Scandinavia từ thế kỷ thứ X, bằng chứng là những thanh kiếm của người Frank, một chiếc trâm mai rùa và một thanh kiếm. Sách "Primary Chronicle" cho rằng Murom nằm dưới sự kiểm soát của Rus vào thế kỷ thứ VIII. Gleb Vladimirovich, con trai của Vladimir Đại đế, cai trị thân vương quốc vào đầu thế kỷ XI. Murom là một phần lãnh thổ của Thân vương quốc Chernigov vào cuối thế kỷ XI, do gia tộc Sviatoslavichi, hậu duệ của Iaroslav Thông thái kiểm soát; có lẽ nó đã được Vsevolod Iaroslavich giữ lại ngay cả sau khi Thân vương xứ Chernigov trở thành Đại công tước xứ Kiev vào năm 1076. Oleg Sviatoslavich, cháu trai của Iaroslav và Thân vương xứ Chernigov, cai trị Murom thông qua một "posadnik" vào đầu những năm 1090, và nó được công nhận là phạm vi ảnh hưởng của Oleg tại Đại hội Liubech năm 1097. Tại đây, Davyd, anh trai của Oleg được phong làm đồng cai trị Chernigov, và các vùng đất của Oleg được phân chia giữa Oleg, Davyd và anh trai của họ là Iaroslav; sau này thu được Murom với Ryazan. Murom dường như đã bị phá hủy hoặc ít nhất là bị tàn phá bởi Cuộc xâm lược Rus của người Mông Cổ vào năm 1237-1238. Khan Batu đến biên giới Ryazan vào mùa đông năm 1237 và yêu cầu các Thân vương xứ Ryazan, Murom và Pronsk cống nạp. Điều này đã bị từ chối, và sau đó các vùng đất này đã bị tàn phá. Năm 1392, Vasily Dmitr'evich, Thân vương xứ Moscow và Đại công tước xứ Vladimir, nhận được quyền công nhận từ Khan Tokhtamysh cho phép sáp nhập Thân vương quốc Murom, cùng với các Thân vương quốc Nizhni Novgorod và Gorodets. Danh sách các Thân vương xứ Murom. Sau khi Iaroslav và sự tàn phá Murom bởi người Mông Cổ, các Thân vương của Murom biến mất trong gần một thế kỷ, tiếp tục với:
Alessio Curci (sinh ngày 16 tháng 2 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá người Luxembourg hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Francs Borains. Sự nghiệp thi đấu. Là một cầu thủ trẻ, Curci gia nhập lò đào tạo trẻ của Steinfort. Năm 2018, anh ta chuyển tới lò đào tạo trẻ Eintracht Trier sau khi nhận được lời mời của những lò đào tạo trẻ như Paris Saint Germain và A.C. Milan. Năm 2020, anh ta gia nhập đội trẻ của câu lạc bộ Mainz 05 tại Bundesliga. Vào ngày 27 tháng 7 năm 2023, Curci ký hợp đồng với câu lạc bộ Francs Borains tại Bỉ. "Tính đến 11 tháng 9 năm 2023" "Tỷ số và kết quả liệt kê bàn ​​thắng đầu tiên của Luxembourg, cột điểm cho biết điểm số sau mỗi bàn thắng của Curci."
Thân vương quốc Pereyaslavl Thân vương quốc Pereyaslavl (tiếng Ukraina: Переяславське князівство) là một thân vương quốc khu vực của Kiev Rus' từ cuối thế kỷ thứ IX cho đến năm 1323, có thủ sở tại thành phố Pereyaslavl (nay là Pereiaslav) trên sông Trubizh. Pereyaslavl thường được quản lý bởi các con trai thứ của Đại công tước xứ Kiev. Nó trải dài trên một lãnh thổ rộng lớn từ tả ngạn của trung lưu sông Dnepr ở phía Tây đến biên giới phía Đông của nó nằm cách Seversky Donets không xa về phía Tây, nơi có lẽ có thành phố Sharuk(h)an huyền thoại của người Cuman. "Biên niên sử chính yếu" xác định ngày thành lập thành phố Pereyaslavl' là năm 992; bằng chứng khảo cổ học cho thấy nó được thành lập không lâu sau mốc này. Trong những ngày đầu thành lập, Pereyaslavl' là một trong những thành phố quan trọng ở Kiev Rus', sau thủ đô Thân vương quốc Chernigov và Kiev. Thành phố tọa lạc tại một khúc sông cạn nơi Vladimir Vĩ đại đã chiến đấu chống lại người Pecheneg du mục. Thân vương quốc có thể được coi là một lãnh địa bán độc lập từ tài sản thừa kế của các con trai của Yaroslav Thông thái, khi Sviatoslav nhận Chernigov, Vsevolod nhận Pereyaslavl, Smolensk cho Viacheslav và Volodymyr cho Igor. "Biên niên sử chính yếu" tường thuật rằng vào năm 988 Vladimir giao các vùng đất phía bắc (sau đó liên kết với Pereyaslavl) cho Yaroslav. Pereyaslavl bị quân Mông Cổ tàn phá vào tháng 3 năm 1239.
Thân vương quốc Yaroslavl Thân vương quốc Yaroslavl (tiếng Nga: Ярославское княжество, chuyển tự Yaroslavskoye knyazhestvo) là một Thân vương quốc của người Rus' với thủ phủ đặt tại thành phố Yaroslavl. Nó tồn tại từ năm 1218 cho đến năm 1463 (de jure cho đến năm 1471) khi nó trở thành một phần của Đại công quốc Moskva. Yaroslavl tách khỏi Đại công quốc Vladimir-Suzdal khi các con trai của Konstantin Vsevolodovich phân chia lãnh thổ của ông sau khi ông qua đời. Vsevolod Konstantinovich thừa kế các vùng đất xung quanh Yaroslavl trên cả hai bờ sông Volga với các phụ lưu của nó - Mologa, Yukhot', Ikhra, Sit', Sheksna và Hồ Kubenskoye. Năm 1238, thành phố bị cướp phá bởi cuộc xâm lược của người Mông Cổ vào Kiev Rus'. Trong Trận sông Sit vào ngày 4 tháng 3 năm 1238, Vsevolod Konstantinovich bị giết và quân Nga đại bại. Kết quả là, ách thống trị của người Mông Cổ-Tatar được thiết lập trên Thân vương quốc Yaroslavl và tất cả các vùng đất của Đông Bắc Rus. Năm 1262, cuộc nổi dậy chống lại những người thu cống nạp Mông Cổ đã kết thúc bằng việc giết chết tất cả người Tatar địa phương. Cuộc tấn công trừng phạt đã bị ngăn chặn bởi Alexander Nevsky, người đã đến Kim Trướng Hãn quốc để đàm phán.
Cầu lông tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023 – Nội dung cá nhân Các nội dung cá nhân của môn Cầu lông tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023 ở Campuchia, dự kiến sẽ được tổ chức từ ngày 12 đến 16 tháng 5 năm 2023 tại Nhà thi đấu cầu lông thuộc Khu liên hợp thể thao Quốc gia Morodok Techo. Sẽ có năm nội dung thi đấu: đơn nam, đơn nữ, đôi nam, đôi nữ và đôi nam nữ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Chico Aura Dwi Wardoyo (Huy chương bạc) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Christian Adinata (Huy chương vàng) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Leong Jun Hao (Huy chương đồng) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Lee Shun Yang (Huy chương đồng) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Lalinrat Chaiwan (Huy chương bạc) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Supanida Katethong (Huy chương vàng) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Nguyễn Thùy Linh "(tứ kết)" Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Komang Ayu Cahya Dewi (Huy chương đồng) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Thân vương quốc Beloozero Thân vương quốc Beloozero (tiếng Nga: Белозерское княжество) là một Thân vương quốc của người Rus', phát triển rực rỡ từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV ở miền Bắc nước Nga. Về mặt phân chia hành chính hiện tại của Nga, thân vương quốc nằm ở phía Tây của tỉnh Vologda, xung quanh phía Nam của hồ Beloye. Thủ phủ của nó là Beloozero (nay là Belozersk), một trong năm thị trấn ban đầu được đề cập trong "Primary Chronicle". Nó được liên kết chặt chẽ với Đại công quốc Vladimir-Suzdal cho đến khi giành được độc lập vào năm 1238 trong các cuộc xâm lược của người Mông Cổ. Dmitry Donskoy đảm bảo quyền kiểm soát Beloozero và truyền nó cho con cháu của mình; nó chính thức được sáp nhập vào Moscow bởi Ivan III.
Vương Tăng Biện (chữ Hán: 王僧辩, ? – 555) là tướng lãnh nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công dẹp loạn Hầu Cảnh. Nhà họ Vương là thành viên nhánh Ô Hoàn của sĩ tộc họ Vương ở huyện Kỳ quận Thái Nguyên . Tăng Biện tự Quân Tài, là con trai thứ trong nhà, được sanh ra ở miền bắc, sau đó theo cha về miền nam. Tăng Biện học rộng biết nhiều, thuộc làu Tả thị xuân thu; biện luận mạnh mẽ, khí chất đứng đắn; tuy tài võ nghệ tầm thường, nhưng có chí khí cao vời. Ban đầu Tăng Biện được làm Tả thường thị của Tương Đông vương Tiêu Dịch. Tiêu Dịch được làm Đan Dương doãn, Tăng Biện được chuyển làm Phủ hành tham quân. Dịch được ra giữ Cối Kê, Tăng Biện được kiêm chức Trung binh tham quân sự. Dịch được làm Kinh Châu thứ sử, tiếp tục cho Tăng Biện trừ làm Trung binh, giới hạn trong châu. Khi quận Vũ Ninh nổi dậy, Tăng Biện đánh dẹp, được thăng làm Trinh uy tướng quân, Vũ Ninh thái thú. Sau đó Tăng Biện được thăng làm Chấn viễn tướng quân, Quảng Bình thái thú. Mãn nhiệm, Tăng Biện trở về vương phủ làm Trung lục sự, tham quân như cũ. Dịch được trưng làm Hộ quân tướng quân, cho Tăng Biện kiêm làm Phủ tư mã. Dịch được làm Giang Châu thứ sử, cho Tăng Biện trừ làm Vân kỵ tướng quân, giữ Bồn Thành. Bấy giờ quận An Thành có người nhà giàu là Lưu Kính Cung bày trò mê tín để chiêu dụ bọn vô lại, tính kế làm loạn. Dịch sai Trung trực binh tham quân Tào Tử Dĩnh đánh dẹp, khiến Tăng Biện tập kích An Thành. Tử Dĩnh phá được phản quân, Kính Cung chạy về An Thành, bị Tăng Biện bắt được. Sau đó Tăng Biện đánh dẹp các tộc thiểu số nổi dậy ở An Châu, từ đây nổi tiếng có tài dùng binh. Dịch được trừ làm Kinh Châu thứ sử, lấy Tăng Biện làm Trinh nghị tướng quân phủ Tư nghị tham quân sự, thay Liễu Trọng Lễ làm Cánh Lăng thái thú, cho đổi hiệu là Hùng tín tướng quân. Dẹp loạn Hầu Cảnh. Khi Hầu Cảnh nổi loạn (548), Dịch mệnh cho Tăng Biện làm Giả tiết, chỉ huy 1 vạn thủy quân, chở lương tiền tham gia cứu viện. Vừa đến kinh đô thì cung thành thất thủ, Lương Vũ đế bị giam cầm; bấy giờ viện quân nhiều hơn hẳn phản quân, Tăng Biện đề nghị tấn công, nhưng Liễu Trọng Lễ không nghe, khiến lòng quân tan rã. Sau đó Tăng Biện theo bọn Trọng Lễ đầu hàng Hầu Cảnh, kéo nhau vào chầu. Cảnh thu hết quân nhu của họ, rồi vỗ về an ủi, ít lâu sau cho phép Tăng Biện quay về Cánh Lăng. Vì thế Tăng Biện theo đường tắt đi gấp, về miền tây hội họp với Tiêu Dịch. Tiêu Dịch xưng chế, lấy Tăng Biện làm Lĩnh quân tướng quân. Đến khi Tiêu Dịch ra mặt xung đột với Tương Châu thứ sử, Hà Đông vương Tiêu Dự, lệnh cho Tăng Biện cùng Bảo Tuyền đem quân đi dẹp, phân chia lương thực, đòi họ gấp gáp lên đường. Bấy giờ bộ đội tinh nhuệ của Tăng Biện còn ở Cánh Lăng chưa đến, nên ông muốn đợi họ đến rồi mới khởi hành. Hai người vào gặp Dịch, Tăng Biện cứ thế trình bày, Dịch tính nghi kỵ, cho rằng ông lần lữa không đi, cả giận lớn tiếng nói: “Anh kháng mệnh không đi, muốn đồng mưu với giặc à? Nay chỉ có chết mà thôi.” Tăng Biện đáp rằng: “Nay chịu tội chết cũng cam lòng, chỉ hận không được gặp mẹ già.” Trước đó Tăng Biện đã nhờ Tuyền góp lời, nhưng ông ta sợ hãi không dám nói gì. Dịch tự tay chém Tăng Biện, trúng vào đùi trái, máu chảy đầy đất. Tăng Biện ngất đi, hồi lâu mới tỉnh, lập tức bị đưa đến Đình úy, con em cũng bị bắt giam. Mẹ của Tăng Biện cởi trâm đợi tội, Dịch nguôi giận, ban cho thuốc tốt, nên ông mới thoát chết. Gặp lúc Ung Châu thứ sử, Nhạc Dương vương Tiêu Sát tập kích Giang Lăng, lòng người xao động, chẳng biết làm sao. Dịch sai tả hữu vào ngục hỏi kế; Tăng Biện trình bày phương lược, lập tức được xá tội, cho làm Thành nội đô đốc. Ít lâu sau quân Tiêu Sát lui chạy, mà Bảo Tuyền cũng không thể hạ được Trường Sa, Dịch bèn lấy Tăng Biện thay thế ông ta. Dịch kể 10 tội của Tuyền, sai xá nhân La Trọng Hoan đem 300 cấm vệ cùng đi với Tăng Biện. Đến nơi, Trọng Hoan thông báo với Tuyền rằng: “La xá nhân nhận lệnh, đưa Vương Cánh Lăng đến.” Tuyền rất ngạc nhiên, nhưng vẫn chấp nhận. Ít lâu sau Trọng Hoan đem tờ lệnh vào trước, Tăng Biện theo cấm vệ vào sau, bắt giữ Tuyền ngay tại chỗ ngồi. Tăng Biện chỉ huy chư tướng, dốc sức vây đánh, chiếm được Tương Châu. Sau đó Tăng Biện được trở về làm Lĩnh quân tướng quân. Hầu Cảnh vượt Trường Giang tây tiến, đóng quân ở Hạ Thủ. Tăng Biện được làm Đại đô đốc, soái bọn Ba Châu thứ sử Thuần Vu Lượng, Định Châu thứ sử Đỗ Kham, Nghi Châu thứ sử Vương Lâm, Sâm Châu thứ sử Bùi Chi Hoành, cùng đến Tây Dương, đóng quân ở Ba Lăng. Nghe tin Dĩnh Châu đã mất, Tăng Biện nhân đó ở lại Ba Lăng. Tiêu Dịch bèn lệnh cho La Châu thứ sử Từ Tự Huy, Vũ Châu thứ sử Đỗ Trắc hội họp với Tăng Biện ở Ba Lăng. Hầu Cảnh chiếm được Dĩnh Thành, lực lượng càng mở rộng, đội ngũ càng tinh nhuệ, muốn chiếm lấy Kinh Châu. Cảnh bèn sai Nghi đồng Đinh Hòa nắm 5000 tinh binh lấy Giang Hạ, đại tướng Tống Tử Tiên đem 1 vạn người đi trước nhòm ngó Ba Lăng; còn mình dốc toàn quân thủy bộ đi sau. Vì thế Cảnh phái lính tuần tra ven Trường Giang, các nơi thấy bóng địch thì xin hàng; phản quân thừa thế mở rộng tuần canh đến Ẩn Ki. Tăng Biện lấy hết lương thực ở Giang Chử (bãi), đánh chìm toàn bộ thuyền của quân – dân. Khi tiền quân của phản quân đến Giang Khẩu, Tăng Biện bèn lệnh cho các cánh quân cố thủ trong thành, xếp cờ im trống, vờ như không có người. Hôm sau, phản quân vượt sông, kỵ binh đến dưới thành kêu gọi đầu hàng, Tăng Biện nhẹ nhàng từ chối. Cảnh soái thuyền hạm đậu ở Bắc Tử, rồi chia quân tiến vào trong cảng, lên bờ dọn đường, sắp đặt lều trại, diễu hành ở trên gò phía đông thành, dọn quang cây cỏ, mở 8 lối hướng đến thành, sai 5000 kỵ binh ‘đầu thỏ’ cầm binh khí ngắn gắng sức tấn công. Trong thành đồng thời nổi trống, tên đá bắn xuống như mưa, giết địch rất nhiều, khiến phản quân phải lui về. Dịch lại lệnh cho Bình bắc tướng quân Hồ Tăng Hữu soái quân đến giúp. Hôm ấy, phản quân lại đánh Ba Lăng, thủy bộ hơn 10 nơi, nổi trống hò reo, cầm binh khí ngắn trèo lên. Trên thành lăn gỗ, ném gạch nung, đẩy đá tảng, giết địch rất nhiều. Sau giờ Ngọ phản quân lui, rồi dựng lũy dài quanh thành, bày nhiều chiến hạm, dùng thuyền lầu tấn công mặt tây nam của thành. Tiếp đó phản quân dùng đê kéo xe con cóc lấp hào, đẩy xe chương ngại đến dưới thành, mất 2 ngày mới xong. Tiếp nữa phản quân ở trên thuyền dựng gỗ kết người cây, nhồi rơm châm lửa, nhằm đốt hàng rào trên sông; gặp thế gió bất lợi, bị lửa táp ngược nên phải lui. Phản quân chịu nhiều thất bại, còn có sao băng rơi vào giữa trại, khiến lòng quân sợ hãi; lại thêm tướng quân Nhâm Ước bị Lục Pháp Hòa bắt được, Hầu Cảnh bèn đốt trại bỏ trốn trong đêm, chạy về Hạ Thủ. Tiêu Dịch luận công ban thưởng, lấy Tăng Biện làm Chinh đông tướng quân, Khai phủ Nghi đồng tam tư, Giang Châu thứ sử, phong tước Trường Ninh huyện công. Tiêu Dịch thừa thắng mệnh cho Tăng Biện soái các cánh quân ở Ba Lăng, men sông đánh dẹp phản quân. Quan quân đến Dĩnh Thành, lên bờ đánh Lỗ Sơn. Tướng giữ thành Lỗ Sơn là Chi Hóa Nhân, vốn là kỵ tướng phản quân, soái quân ra sức chiến đấu; quan quân đại phá địch, khiến Hóa Nhân chịu hàng. Tăng Biện tiếp tục đốc liên quân vượt sông nhắm đến Dĩnh Thành, lập tức tiến vào La Thành. Tống Tử Tiên tụ binh cố thủ Kim Thành, quan quân chưa hạ được. Tử Tiên sai Thời Linh Hộ soái 3000 binh mở cửa ra đánh, Tăng Biện đại phá được, bắt sống Linh Hộ, chém hơn ngàn thủ cấp. Tử Tiên lui quân về giữ Thương Môn, dựa vào địa hình ven sông hiểm trở, liên quân tấn công nhiều lần không được. Hầu Cảnh nghe tin Lỗ Sơn đã mất, rồi nghe tin lại mất La Thành, bèn soái tàn quân chạy tắt về Kiến Nghiệp. Bọn Tử Tiên quẫn bách, không còn cách nào, xin nộp Dĩnh Thành, để được về với Cảnh. Tăng Biện vờ đồng ý, ra lệnh cấp cho trăm cỗ thuyền, khiến họ vững lòng. Tử Tiên tin là thực, lên thuyền sắp đi, Tăng Biện mệnh cho Đỗ Kham soái ngàn dũng sĩ, trèo qua tường vây, đồng thời nổi trống reo hò, đánh úp Thương Môn. Tướng coi thủy quân là Tống Diêu đưa lâu thuyền 4 mặt kéo đến, Tử Tiên vừa đánh vừa chạy; đến Bạch Dương phổ, quan quân đại phá địch, bắt sống bọn Tử Tiên, Đinh Hòa đưa về Giang Lăng. Tăng Biện lập tức soái liên quân tiến đến Cửu Thủy. Tướng phản quân là Nghi đồng Phạm Hy Vinh, Lư Huy Lược ngược dòng chiếm Bồn Thành, nghe tin Tăng Biện đến, bọn Hy Vinh cùng Giang Châu thứ sử Lâm Thành Công bỏ thành mà chạy. Tiêu Dịch gia chức cho Tăng Biện làm Thị trung, Thượng thư lệnh, Chinh đông đại tướng quân, cấp 1 bộ nhạc Cổ xuy; còn lệnh cho Tăng Biện dừng ở Giang Châu, đợi các cánh quân tụ tập, tìm thời cơ tiến công. Ít lâu sau, Dịch mệnh cho liên quân Giang Châu lên đường, Tăng Biện bèn thông báo tin dữ của Lương Giản Văn đế về Giang Lăng; ông còn soái hơn trăm tướng lĩnh, liên danh khuyên Dịch lên ngôi; sắp lên đường, ông lại dâng biểu lần nữa. Tuy Dịch chưa đồng ý, nhưng đáp thư trả lời rất nồng hậu. Vì thế Tăng Biện xuất phát từ Giang Châu, nhằm thẳng Kiến Nghiệp, trước tiên mệnh cho Nam Duyện Châu thứ sử Hầu Thiến soái quân tinh nhuê đi thuyền nhẹ, tập kích các đồn thú ở Nam Lăng, Thước Đầu; Thiến vừa đến thì lập tức đánh hạ được. Trước đó Trần Bá Tiên soái 5 vạn quân xuất phát ở Nam Giang, đem theo 5000 người làm tiền quân đến Bồn Khẩu. Tiếng tăm của Bá Tiên vượt qua Tăng Biện, khiến ông e dè. Đôi bên gặp mặt ở Bạch Mao châu, lập đàn kết minh, trích máu ăn thề. Khi liên quân đến Nam Châu, tướng địch là bọn Hầu Tử Giám soái hơn vạn bộ kỵ ở trên bờ khiêu chiến, lại thấy ngàn cỗ thuyền Điểu, Liễu chở binh sĩ, hai bên cả thảy 80 mái chèo, tay chèo đều là người Bách Việt , đi lại tập kích, nhanh như điện xẹt. Tăng Biện bèn vẫy thuyền nhỏ, lệnh cho họ lùi lại, sai tất cả hạm lớn đỗ vào 2 bên bờ. Phản quân cho rằng thủy quân của liên quân muốn lui, tranh nhau đuổi theo; liên quân bèn chèo đại hạm ra cắt đứt đường về của địch, nổi trống reo hò, giao chiến ở giữa sông, khiến phản quân đều nhào dưới nước. Tăng Biện đốc liên quân men sông xuôi dòng mà tiến, đến Đấu Thành thuộc Thạch Đầu, dựng trại liên hoàn để vây ép địch. Phản quân bèn đắp 5 thành giăng ngang trên bờ cao để phòng thủ, Hầu Cảnh tự đem quân ra giao chiến với quan quân ở phía bắc thành Thạch Đầu. Trần Bá Tiên cho rằng ta nhiều địch ít, đề nghị chia ra làm suy yếu đối phương. Bá Tiên sai 2000 lính mang nỏ cứng đánh 2 thành ở mặt tây, còn đại quân vẫn kết trận để đương đầu phản quân. Tăng Biện ở phía sau vẫy quân tiến lên, lần thứ 2 đại phá Cảnh. Lư Huy Lược nghe tin Cảnh thất bại, dâng thành Thạch Đầu xin hàng; Tăng Biện đưa quân vào chiếm cứ. Cảnh chạy về Chu Phương ở phía bắc, vì thế tàn binh của phản quân thông báo tình hình với Tăng Biện, ông bèn tiến vào Đài thành. Đêm ấy, binh sĩ liên quân gỡ xà nhà gây cháy, thiêu rụi các nơi điện Thái Cực cùng Đông – Tây đường. Bấy giờ liên quân cướp bóc kinh thành, bóc lột quan dân; người dân bị họ bắt trói, lột cả áo lót. Liên quân bức ép toàn bộ cư dân để đòi tiền chuộc; từ thành Thạch Đầu cho đến thành Đông, men theo sông Hoài dấy lên tiếng gào khóc, vang dội kinh thành, khiến cho nhân dân thất vọng. Tăng Biện lệnh cho Hầu Thiến, Bùi Chi hoành soái 5000 tinh binh, đông tiến đánh dẹp Hầu Cảnh. Hành đài của Cảnh là Triệu Bá Siêu xin hàng, Tăng Biện còn bắt được thành viên phản quân là bọn Vương Vĩ hơn 20 người, đều đưa về Giang Lăng. Dẹp xong Hầu Cảnh, Tiêu Dịch lên ngôi, là Lương Nguyên đế, xét công của Tăng Biện, cho ông tiến thụ Trấn vệ tướng quân, tư đồ, ban thêm 20 kiếm sĩ, cải phong Vĩnh Ninh quận công, thị trung, thượng thư lệnh, cổ xuy đều như cũ. Bảo vệ nhà Lương. Sau đó phản quân ở Tương Châu là bọn Lục Nạp đánh phá Hành Châu thứ sử Định Đạo Quý ở Lục Khẩu, lấy hết quân nhu. Triều đình rất lấy làm lo lắng, bèn sai Trung thư xá nhân La Trọng Hoan trưng Tăng Biện hội họp với Phiếu kỵ tướng quân, Nghi Phong hầu Tiêu Tuần nam chinh. Tăng Biện nhân đó đốc các cánh quân của bọn Đỗ Trắc xuất phát từ Kiến Nghiệp, đến đống quân ở Ba Lăng. Triều đình giáng chiếu lấy Tăng Biện làm Đô đốc đông thượng chư quân sự, Bá Tiên làm Đô đốc tây thượng chư quân sự. Trước đó Bá Tiên nhường Tăng Biện làm đô đốc, ông không nhận, nên Nguyên đế mới chia làm đông – tây đô đốc, để họ cùng nam chinh. Bấy giờ bọn Lục Nạp xuôi dòng chiếm cứ Xa Luân, ven bờ dựng thành, binh sĩ đều thân trải trăm trận, khí giới sắc bén, thuyền hạm giăng ngang mặt sông, to cao như núi. Tăng Biện kiêng dè, không dám xem thường, vì vậy dần dần xây thành để vây bắc. Phản quân thấy quan quân không dám đánh, sinh lòng khinh nhờn. Tăng Biện thừa dịp địch không phòng bị, mệnh cho liên quân thủy bộ cùng đánh, đích thân gõ trống, chỉ huy tiến thoái. Vì thế liên quân tranh nhau xông ra, đôi bên đại chiến ở Xa Luân, kể cả Tiêu Tuần cũng ra sức chiến đấu, chiếm được 2 thành của địch. Phản quân đại bại, chạy đường bộ về Trường Sa, bức hiếp cư dân vào thành để tham gia phòng thủ. Tăng Biện đuổi nà, mệnh cho đắp lũy bao vây, lệnh cho liên quân đều tham gia dựng rào. Tăng Biện lên gò cao để xem xét, phản quân trông thấy, cho rằng quan quân không đề phòng, nên Ngô Tàng, Lý Hiền Minh soái 1000 tinh binh mở cửa lẻn ra, dựng thuẫn che chắn rồi xông thẳng về phía Tăng Biện. Bấy giờ bên cạnh Tăng Biện có Đỗ Trắc, Đỗ Kham, còn vệ sĩ mặc giáp chỉ hơn trăm người; ông sai họ ra giao chiến với địch. Lý Hiền Minh cưỡi khải mã (ngựa khoác giáp) đem theo 10 kỵ binh, hô to xông đến. Tăng Biện ngồi trên hồ sàng (ghế dựa) không lay động, chỉ huy bộ hạ đón đánh, bắt được Hiền Minh, lập tức chém đầu. Phản quân bèn lui chạy vào thành. Ban đầu Lục Nạp nổi dậy, lấy Vương Lâm làm cớ, nói triều đình thả Vương Lâm, họ sẽ chịu hàng. Đến nay Vũ Lăng vương Tiêu Kỷ đóng quân ở thượng lưu, khiến trong ngoài triều đình lo sợ; Nguyên đế bèn sai Lâm đi hòa giải. Bình xong Tương Châu, Tăng Biện về Giang Lăng, rồi nhận chiếu hội họp các cánh quân để đánh dẹp Tiêu Kỷ, chỉ huy 2 vạn thủy quân, còn được đế đích thân đưa tiễn ở chùa Thiên Cư. Ít lâu sau Tiêu Kỷ thua chạy, Tăng Biện từ Chi Giang ban sư về Giang Lăng, rồi đi giữ Kiến Nghiệp. Ngay trong tháng ấy, Tăng Biện được quay lại Giang Lăng. Quân đội Bắc Tề uy hiếp Kiến Nghiệp, Trần Bá Tiên cấp báo, Nguyên đế lập tức giáng chiếu cho Tăng Biện đi Cô Thục rồi trấn thủ ở đấy. Tăng Biện đầu tiên lệnh cho Dự Châu thứ sử Hầu Thiến soái 3000 tinh binh đắp lũy ở Đông Quan, để ngăn quân Bắc Tề; trưng Ngô Quận thái thú Trương Bưu, Ngô Hưng thái thú Bùi Chi Hoành hội họp với Thiến. bọn họ giao chiến với quân Tề, đánh bại địch; Tăng Biện thừa thắng soái hưu chỉnh các cánh quân ở Kiến Nghiệp. Bấy giờ quan chức đầy đủ của Tăng Biện là Sứ trì tiết, thị trung, tư đồ, thượng thư lệnh, đô đốc Dương, Nam Từ, Đông Dương 3 châu chư quân sự, Trấn vệ tướng quân, Dương Châu thứ sử, Vĩnh Ninh quận Khai quốc công. Tháng 2 ÂL năm Thừa Thánh thứ 3 (554), triều đình giáng chiếu gia Tăng Biện làm Thái úy, Xa kỵ đại tướng quân, còn lại như cũ. Tháng 10 ÂL, 5 vạn liên quân Tây Ngụy – Nhạc Dương vương Tiêu Sát sắp tập kích Giang Lăng, Nguyên đế sai Chủ thư Lý Ưng trưng Tăng Biện ở Kiến Nghiệp, làm Đại đô đốc, Kinh Châu thứ sử. Nhân đó Tăng Biện lệnh cho bọn Dự Châu thứ sử Hầu Thiến làm tiền quân, bọn Duyện Châu thứ sử Đỗ Tăng Minh làm hậu quân; nhưng Tăng Biện nói với Ưng mình sẽ nhằm thẳng Hán Giang để chặn đường về của quân Tây Ngụy, chứ không đi Giang Lăng. Ít lâu sau, Giang Lăng thất thủ, Nguyên đế bị giết. Đến khi Tấn An vương Tiêu Phương Trí nắm quyền, Tăng Biện có công ủng hộ, được thừa chế tiến làm Phiếu kỵ đại tướng quân, Trung thư giám, Đô đốc trung ngoại chư quân sự, Lục thượng thư, cùng Trần Bá Tiên chia nhau binh quyền. Bấy giờ Bắc Tề đề nghị với Tăng Biện lấy Trinh Dương hầu Tiêu Uyên Minh làm hoàng đế nhà Lương, còn đưa ông ta về miền nam. Uyên Minh sắp đến Thọ Dương, nhiều lần gởi thư bày tỏ mong muốn lên ngôi, nhưng Tăng Biện không đồng ý. Quân Tề đến Đông Quan, Tán kỵ thường thị Bùi Chi Hoành ra đánh nhưng thất bại; Tăng Biện mới bước đầu đồng ý lập Uyên Minh. Hai bên gởi thư qua lại để thương lượng: Tăng Biện đồng ý gởi con tin sang Tề, Uyên Minh cũng đồng ý lập Tiêu Phương Trí làm Thái tử. Uyên Minh đòi 3000 vệ sĩ đưa sang sông, Tăng Biện lo ông ta gây biến, chỉ phái 1000 binh sĩ tầm thường, rồi sai thuyền rồng và pháp giá (xe ngựa) đi đón. Ngày Uyên Minh vượt sông, Tăng Biện đón tiếp ở giữa dòng, không dám sang bờ bên kia. Sau đó hai người cùng quay về bến Giang Ninh. Tiêu Uyên Minh đã lên ngôi, cho Tăng Biện làm Đại tư mã, lĩnh Thái tử thái phó, Dương Châu mục, còn lại như cũ. Khi xưa Tăng Biện giành lại Kiến Nghiệp, sai Bá Tiên giữ Kinh Khẩu, kết tình đồng chí, sánh với Liêm Pha – Lận Tương Như. Tăng Biện cầu hôn con gái của Bá Tiên và Chương Yêu Nhi cho con trai thứ 3 của mình là Vương Ngỗi. Gặp lúc mẹ của Tăng Biện mất (554) nên hôn sự bị trì hoãn, nhưng quan hệ của hai người vẫn rất tốt. Đến nay, có tin hoang báo quân Tề đã đến Thọ Xuân, Tăng Biện lại lấy làm thật, cho rằng người Tề dời sang Giang Nam, nên thông báo với Bá Tiên. Nhưng Bá Tiên đã sinh lòng bất mãn, từ Kinh Khẩu dấy 10 vạn binh, thủy lục cùng tiến, lặng lẽ tập kích Kiến Nghiệp. Vào lúc thủy quân đến, Tăng Biện đang ở thành Thạch Đầu để xử lý công việc ngày thường. Quân của Bá Tiên lẻn từ phía bắc mà vào, cửa nam lại thông báo có binh đến. Tăng Biện cùng Vương Ngỗi vội vàng chạy ra, bộ hạ tâm phúc chỉ còn vài mươi người. Quân của Bá Tiên kéo cả vào, Tăng Biện không còn kế gì, bèn ở trên lầu cửa nam thành xin hàng. Bá Tiên lệnh cho nổi lửa đốt lầu, Tăng Biện cùng con trai nhảy xuống, bị bắt sống. Bá Tiên hỏi Tăng Biện: “Tôi có tội gì, mà ngài cùng quân Tề đánh dẹp tôi?” Lại hỏi: “Ý gì mà không phòng bị như vậy?” Tăng Biện đáp: “Nhờ cậy anh ở cửa bắc, sao lại nói là không phòng bị.” Ngay đêm ấy Bá Tiên đem chém Tăng Biện. Cha là Dĩnh Xuyên thái thú Vương Thần Niệm nhà Bắc Ngụy, chạy sang nhà Lương, được làm đến Hữu vệ tướng quân. Thần Niệm, sử cũ có truyện. Mẹ là Ngụy thị. Đầu đời Lương, Thần Niệm đóng quân giữ phía tây Sào Hồ thuộc Hợp Phì, lấy Ngụy thị làm thiếp thất, sanh ra Tăng Biện. Ngụy thị tính hòa ái, rất giỏi tiếp đãi mọi người, được mọi người yêu mến. Khi Tăng Biện phải vào ngục, Ngụy thị vừa đi vừa khóc, muốn vào tạ tội, Tương Đông vương Tiêu Dịch không gặp. Bấy giờ con trai thứ của Dịch là Tiêu Phương Chư được sủng ái, đảm nhiệm nhiều quân quốc đại sự. Ngụy thị đón gặp Phương Chư ở cửa, tự trình bày không biết dạy con, nước mắt chảy quanh, khiến mọi người thương xót. Đến lúc Tăng Biện được thả ra, Ngụy thị nghiêm khắc trách mắng. Về sau Tăng Biện giành lại Kiến Nghiệp, công trùm thiên hạ, Ngụy thị vẫn tỏ ra khiêm tốn, không vì giàu sang mà trở nên kiêu ngạo. Mọi người đều khen ngợi, gọi Ngụy thị là người đàn bà sáng suốt. Năm Thừa Thánh thứ 3 (554), Ngụy thị mất, khiến ai cũng thương tiếc. Vì Tăng Biện có công lớn, khiến tang lễ trở nên long trọng. Lương Nguyên đế Tiêu Dịch phái thị trung, yết giả đến giám hộ việc tang, đặt thụy là Trinh Kính thái phu nhân. Linh cữu sắp lên đường về Kiến Nghiệp, Nguyên đế lại sai yết giả đến bến tàu điếu tế, lệnh cho Thượng thư tả bộc xạ Vương Bầu làm văn tế. Sử cũ không chép rõ Tăng Biện có bao nhiêu con trai. Con trai trưởng là Vương Nghĩ (? – 573), thời Nguyên đế được làm Thị trung. Khi xưa Nghĩ thường khuyên cha đề phòng Bá Tiên, nhưng Tăng Biện không nghe. Vào lúc quân Tây Ngụy chiếm Giang Lăng, Nguyên đế sai Nghĩ làm Đốc thành nội chư quân sự. Giang Lăng thất thủ, Nghĩ được trả lại cho Vương Lâm, sau đó theo Lâm sang Bắc Tề. Nghĩ ở Bắc Tề được làm đến Cánh Lăng thái thú. Nghe tin Lâm bị quân Trần giết ở Thọ Dương, Nghĩ trèo lên gò cao phía nam quận thành mà gào khóc, dứt tiếng thì đứt hơi. Con trai thứ là Vương Ban, sử cũ có truyện. Con trai thứ 3 là Vương Ngỗi, bị hại cùng cha. Còn có Vương Ngung, Vương Quỹ. Quỹ, sử cũ có truyện. Năm Kiến Trung thứ 3 (782) thời Đường Đức Tông, triều đình truy phong 64 danh tướng đời xưa, đặt miếu thờ. Tăng Biện là 1 trong số này. Năm Tuyên Hòa thứ 5 (1123) thời Tống Huy Tông, triều đình theo lệ nhà Đường, đặt miếu Võ Thành vương thờ 72 danh tướng đời xưa. Tăng Biện cũng là 1 trong số này.
Phạm Quốc Khánh (vận động viên wushu) Phạm Quốc Khánh (sinh ngày 2 tháng 9 năm 1990) là một vận động viên Wushu Việt Nam. Chiến thắng mang tầm quốc tế đầu tiên trong sự nghiệp của Phạm Quốc Khánh là tại Đại hội Thể thao châu Á 2006, anh ấy giành huy chương bạc tại nội dung biển diễn Nam quyền. Một năm sau, Khánh trở thành nhà vô địch thế giới ở nội dung biểu diễn Nam quyền tại Giải Vô địch Wushu Thế giới 2007. Anh ấy cũng giành được huy chương bạc ở nội dung biểu diễn Nam quyền tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2007. Hai năm sau, anh thi đấu tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2009 và đã giành được huy chương vàng ở nội dung biểu diễn Nam quyền. Gần một năm sau tại Đại hội Thể thao châu Á 2010, anh ấy giành được huy chương đồng ở nội dung biểu diễn Nam quyền. Tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2011, Phạm Quốc Khánh giành được huy chương bạc khác ở nội dung biểu diễn Nam quyền. Hai năm sau đó, anh ấy giành được huy chương bạc ở nội dung biểu diễn Nam côn tại Giải Vô địch Wushu Thế giới, tiếp đó là một huy chương vàng ở cùng nội dung đó và một huy chương đồng ở nội dung biểu diễn Nam đao tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2013. Tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2015, anh ấy cũng giành được 1 tấm huy chương bạc ở nội dung biểu diễn Nam quyền. Hai năm sau, Phạm Quốc Khánh giành được 2 tấm huy chương bạc tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2017, giành chiến thắng ở 2 nội dung biển diễn Nam quyền và Nam đao. Tại Giải Vô địch Wushu Thế giới 2017, anh ấy đã giành được huy chương đồng tại nội dung biểu diễn Nam quyền. Và anh ấy cũng đủ điều kiện để tham dự Giải Vô địch Biểu diễn Wushu Thế giới 2018 và giành huy chương bạc ở nội dung biểu diễn Nam quyền. Cùng năm đó, Khánh cũng giành được huy chương bạc ở nội dung biểu diễn Nam quyền tại Đại hội Thể thao châu Á. Tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2019, Phạm Quốc Khánh giành được 2 huy chương, 1 huy chương vàng ở nội dung biểu diễn Nam quyền và 1 huy chương đồng ở nội dung biểu diễn Nam đao và Nam côn kết hợp. Tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021, anh ấy dành được 1 huy chương vàng ở nội dung biểu diễn Nam đao và 1 huy chương bạc ở nội dung biểu diễn Nam côn và tuyên bố giải nghệ.
Lê Thị Diệu Muội Lê Thị Diệu Muội (1922–2021), bí danh Đào Nguyên, là một nhà cách mạng và nữ chính trị gia Việt Nam. Lê Thị Diệu Muội sinh ngày 1 tháng 1 năm 1922 ở làng Tường Vân, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (nay thuộc xã Triệu An, huyện Triệu Phong). Ông nội Lê Thế Vỹ là một chí sĩ từng tham gia nhiều phong trào yêu nước chống Pháp. Bác ruột Lê Thế Hiếu là Đại biểu Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị. Cha bà là Lê Thế Tiết, Bí thư đầu tiên của Tỉnh ủy Quảng Trị. Hoạt động cách mạng. Năm 1932, bà bắt đầu tham gia phong trào cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương, thường canh giữ cho cha trong các cuộc họp bí mật. Tháng 3 năm 1938, bà theo bác gái Lê Thị Quế vào Huế gây dựng cơ sở hiệu buôn nước mắm An Long. Tháng 5 năm 1938, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương khi mới 17 tuổi. Sau đó, bà trở về Quảng Trị hoạt động. Tháng 10 năm 1940, theo chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Trị, Phủ ủy Triệu Phong và Huyện ủy Cam Lộ tổ chức rải truyền đời kêu gọi người dân hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn, đánh đuổi phát xít Nhật và thực dân Pháp. Chính quyền thực dân tiến hành khủng bố trong ba tháng, phần lớn các cơ sở Đảng bị phá hủy, gần như tất cả các đồng chí trong Huyện ủy Cam Lộ đều bị bắt, chỉ có bà là chạy thoát. Để truy lùng tung tích của bà, thực dân Pháp đã tra tấn cha bà (đang bị đày ở nhà tù Lao Bảo) đến chết. Tháng 8 năm 1941, bà tham dự Hội nghị Tỉnh ủy ở làng An Nha (Gio Linh) với tư cách là cán bộ của Tỉnh ủy. Trong hội nghị này, bà cùng Đặng Thí, Bùi Trung Lập được bổ sung vào Tỉnh ủy Quảng Trị, phụ trách địa bàn Hải Lăng. Từ tháng 5 năm 1942, trước sự khủng bố, vây quét của chính quyền thực dân, Xứ ủy Trung Kỳ và nhiều cơ sở các cấp bị vỡ. Các thành viên trong Tỉnh ủy Quảng Trị là Trương An, Lê Chưởng, Trương Hoàn, Đặng Thí, Bùi Trung Lập, Trần Thị Biền lần lượt bị bắt, Trần Xuân Miên và Nguyễn Đức Thưởng chuyển sang địa bàn khác để tìm cách tái lập Xứ ủy. Tháng 8, Tỉnh ủy Quảng Trị được củng cố với các Tỉnh ủy viên Lê Thị Diệu Muội (Bí thư lâm thời), Cổ Văn Em, Thao, Hồ Văn Xích. Bà trở thành Bí thư Tỉnh ủy khi mới hai mươi tuổi. Ngày 21 tháng 11, bà bị bắt ở huyện Triệu Phong, tiếp đó là toàn bộ các Tỉnh ủy viên. Cuối năm 1942, bà bị kết án 20 năm tù khổ sai, 20 năm quản thúc, lưu đày ở nhà tù Quy Nhơn. Tháng 3 năm 1945, tận dụng thời điểm Nhật đảo chính Pháp, bà cùng nhiều đồng chí vượt ngục, trở về quê nhà tiếp tục hoạt động. Công tác chính quyền. Cách mạng Tháng Tám thành công, bà được cử làm Phó Chủ nhiệm Việt Minh tỉnh Quảng Trị. Tháng 10 năm 1945, quân Pháp mở cuộc tấn công vào tỉnh Quảng Trị, bà là Trưởng đoàn đại biểu phụ nữ tỉnh Quảng Trị mang quà của người dân ra tiền tuyến để trao cho các chiến sĩ. Tháng 12, bà được bầu làm Bí thư Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Quảng Trị (đến tháng 11 năm 1946), Ủy viên Ban Cán sự Bình Trị Thiên của Xứ ủy. Sau đó, bà làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Ủy viên Ban Phụ vận Trung ương, Vụ trưởng Vụ Lao động tiền lương và Tổ chức cán bộ. Ngày 31 tháng 12 năm 1964, bà được Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ nhiệm làm Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tối cao cùng Trần Văn Chung, Nguyễn Thị Thọ và Phan Tư Nghĩa. Năm 1967, bà giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Nội thương, phụ trách bộ phận B, chịu trách nhiệm thu gom, vận chuyển, tập kết hàng hóa, nhu yếu phẩm ở Bù Đốp để giao cho Ban Kinh tế Trung ương Cục miền Nam. Tháng 4 năm 1971, bà trúng cử Quốc hội khóa IV tỉnh Nghệ An, được bầu vào Ủy ban Kế hoạch và Ngân sách của Quốc hội. Tháng 4 năm 1975, bà tiếp tục trúng cử Quốc hội khóa V. Sau khi nghỉ hưu, bà sinh hoạt Đảng ở chi bộ số 10, Đảng bộ phường Vĩnh Phúc (Ba Đình, Hà Nội) và vẫn tham gia các hoạt động chính trị như bầu cử Quốc hội khóa XIV. Bà qua đời ngày 8 tháng 1 năm 2021, thọ 99 tuổi. Chồng bà là Thiếu tướng Lê Chưởng (1914–1973), đồng hương và cũng là đồng chí ở Tỉnh ủy Quảng Trị từ trước năm 1945. Ông Chưởng cũng từng làm Bí thư Tỉnh ủy và Thứ trưởng trong Chính phủ. Các con trai Lê Chí Hương, Lê Chí Hòa, Lê Tường Long đều tham gia quân ngũ. Đại tá Lê Chí Hương (1947–2019) là quyền Trưởng Bộ môn Chiến dịch Phòng không – Không quân (Học viện Phòng không – Không quân). Đại tá Lê Chí Hòa (1953–2021) từng làm Trưởng phòng Quân huấn (Cục Tác chiến Điện tử, Bộ Tổng Tham mưu).
Vincent Fenton (sinh ngày 26 tháng 3, năm 1990), được biết đến nhiều hơn với nghệ danh French Kiwi Juice, viết tắt là FKJ (đôi lúc viết là Fkj), là một nghệ sĩ, ca sĩ, và nhạc sĩ đến từ thành phố Tours, Pháp. Anh được biết đến nhờ những buổi biểu diễn trực tiếp, nơi anh phô diễn kĩ thuật bằng phần mềm Ableton Live và khả năng chơi được nhiều nhạc cụ của mình. Hiện tại, FKJ có 5,6 triệu người nghe hàng tháng trên Spotify, 2,3 triệu lượt đăng ký trên Youtube và tổng cộng 74,2 triệu lượt phát trên SoundCloud. Ở Việt Nam, anh được cộng đồng yêu âm nhạc biết đến qua bài Tadow, sản phẩm nổi tiếng nhất của anh. Hiện tại, bài nhạc này có hơn 447 triệu lượt xem trên Youtube và hơn 366 triệu lượt nghe trên Spotify. Album đầu tay của anh, "French Kiwi Juice", được phát hành vào ngày 3 tháng 3, năm 2017. FKJ đã trình diễn ở những lễ hội âm nhạc lớn, nổi bật nhất là lễ hội Coachella, , , , và . FKJ được miêu tả là "người tiên phong" và là "một trong những người đi đầu" của dòng nhạc New French House, một dòng nhạc được cách tân từ French house đã có phần lỗi thời. Anh từng được đào tạo về kỹ thuật âm thanh cho phim ảnh tại một trường điện ảnh. Theo chia sẻ của anh, ban đầu, anh muốn học ở một trường chuyên về âm nhạc. Tuy nhiên, ở Pháp, các trường dạy nhạc đa số là trường tư, và bố mẹ anh chỉ đủ tiền cho anh học trường công. Do vậy nên anh phải theo học ở trường điện ảnh, vốn là một trường công lập. Dù vậy, anh vẫn có thể áp dụng những kiến thức về âm thanh cho phim ảnh vào âm nhạc của mình, khiến cho nhạc của anh luôn có chất lượng cao và những yếu tố âm thanh vô cùng độc đáo. FKJ đạt được sự quan tâm đáng kể của công chúng sau khi phát hành bài nhạc hoàn toàn do anh ngẫu hứng viết ra và được thu âm vào năm 2017 "Tadow". Anh sáng tác bài nhạc này cùng với đồng nghiệp của mình là Masego, ngay sau khi hai người vừa gặp nhau. Tháng 4 năm 2017, FKJ thông báo rằng anh sẽ biểu diễn tại Lễ hội Coachella 2017 và Arts Festival ở the Do Lab Stage. Ngày 7 tháng 4, năm 2022, FKJ đã trình diễn single mới với tựa đề "Greener" cùng Carlos Santana. FKJ sinh ngày 26 tháng 3 năm 1990. Mẹ anh là người Pháp và bố anh là người New Zealand. Ngay từ khi còn nhỏ, anh đã đắm chìm trong âm nhạc từ thư viện của bố mẹ mình. Những tác phẩm anh được nghe gồm có "British rock của Queen, Pink Floyd, The P, , Miles D, nhưng không nhiều lắm, điển hình là Serge Gainsbourg." Tháng 3 năm 2019, FKJ kết hôn với một đồng nghiệp tên là (thường được biết đến với nghệ danh (((O)))), người anh đã từng hợp tác trong các sản phâm âm nhạc của mình, nổi bật là bài "Vibin' Out".
Mậu Hi Ung (; 1546–1627), tự Trọng Thuần (), là một thầy thuốc Trung Quốc hoạt động trong thời nhà Minh. Ông được biết đến là một thầy thuốc tự học, nhiều toa thuốc của ông đã được thu thập trong một bản tóm tắt. Mậu Hi Ung cũng là tác giả của một bài bình luận về "Thần Nông bản thảo kinh". Sinh ra trong một gia đình giàu có ở Thường Thục, Mậu không dự kỳ thi khoa cử và bắt đầu tự học y từ năm 17 tuổi. Trái ngược với các thầy thuốc khác thường hành nghề trong hiệu thuốc và tự bốc thuốc, Mậu là thầy thuốc rong ruổi khắp nơi không mang theo bất kỳ loại thuốc nào bên mình. Ông không quản ngại cưỡi ngựa đi đến những vùng xa xôi. Hầu hết bệnh nhân của ông thuộc giai cấp thượng lưu và dễ dàng tiếp cận những nguyên liệu xa xỉ mà ông kê đơn bằng tay. Một trong những bệnh nhân của ông đã phải chịu đựng một chế độ chữa trị đau bụng kéo dài một năm, tức tổng số sáu trăm liều thuốc, trước khi bệnh nhân được chữa khỏi. Mậu Hi Ung được biết khi dùng "thuốc lạnh và nguội", như thạch cao mà ông dùng để chữa sốt cho một phụ nữ mang thai. Dù vậy, đôi lúc ông cũng kê đơn các loại thuốc có "tính ấm tự nhiên". Ví dụ, ông yêu cầu một bệnh nhân ăn lượng lớn nhân sâm để giảm bớt chứng ợ hơi. Mậu Hi Ung dành phần lớn những năm cuối đời tại Kim Đàn, nơi ông ở lại hành nghề với vai trò nhà trí thức và thầy thuốc. Tuy nhiên, sau khi nhiều đồng môn của ông bị hoạn quan Ngụy Trung Hiền bức hại hoặc thanh trừng do tranh chấp về chính sách cai trị, Mậu trở về cố hương. Chuyên luận của ông về "Thần Nông bản thảo kinh", có tựa đề "Thần Nông bản thảo kinh sơ" (), được xuất bản năm 1625 với sự giúp đỡ từ người họ hàng tên Mao Phượng Bảo (1599–1659). Mậu trở lại Kim Đàn và qua đời vào năm 1627. Năm 1611, #đổi (1560–1625), một cựu quan lại và bằng hữu ba mươi năm của Mậu Hi Ung, ban đầu biên soạn một bộ sưu tập "phương pháp y học công hiệu" mà Mậu đã kê toa. Trong số các toa thuốc được bàn luận trong "Tiên tỉnh trai bút ký" () có một phương thuốc sắc chứa nước tiểu của một bé trai pha trộn nhiều loại thảo mộc khác nhau mà Mậu từng dùng để chữa cho Đinh Nguyên Tiến vào năm 1615, khi ông bị một cơn đột quỵ nhẹ. Một ấn bản sửa đổi, có tựa đề "Tiên tỉnh trai quảng bút ký" (), đề tên Mậu Hi Ung là tác giả chính và có bài bình luận của ông cùng với những ghi chép gốc của Đinh Nguyên Tiến. Nó được xuất bản lần đầu vào năm 1622, đáp ứng nhu cầu lớn đối với "Tiên tỉnh trai bút ký" trước đó đã hết hàng trong năm 1621. Một phiên bản sửa đổi khác của văn bản (phiên bản duy nhất còn tồn tại đến ngày nay) được xuất bản bởi một trong những đồ đệ của ông là #đổi vào năm 1642. Mậu Hi Ung có diện mạo là một "thân sĩ lập dị" cùng "ánh mắt khí chất và ria mép nhô ra". Còn theo nhà sử học #đổi nhận xét:
Omar Apolonio Velasco (sinh ngày 20 tháng 5 năm 1997), được biết đến với tên là Omar Apollo, là một ca sĩ và nhạc sĩ người Mỹ. Sau khi ký hợp đồng thu âm với Warner Records, album đầu tay của anh, "Ivory", được phát hành vào năm 2022 với những đánh giá tích cực và mang về cho anh một đề cử Giải Grammy cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất tại Lễ trao giải Grammy thường niên lần thứ 65. Apollo hát bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Tây Ban Nha. Sinh ra với cha mẹ là người México nhập cư vào Hoa Kỳ từ Guadalajara, Omar Apollo lớn lên ở Hobart, Indiana với ba anh chị em ruột. Cha mẹ của Apollo đều phải làm nhiều công việc để nuôi sống gia đình. Anh nhảy ba lê dân gian khi còn nhỏ. Anh cũng là một phần của ca đoàn nhà thờ Công giáo. Theo yêu cầu của anh, cha mẹ của Apollo đã mua cho anh một cây đàn guitar khi anh 12 tuổi; tuy nhiên, đó là một cây guitar điện không có bộ khuếch đại. Apollo đã đổi cây đàn guitar tại một cửa hàng cầm đồ để lấy một cây guitar acoustic và bắt đầu học cách chơi bằng cách xem và bắt chước các cover video trên YouTube. Apollo cũng được chú dạy và tập chơi ở nhà thờ. Anh sẽ tiếp tục thành lập một ban nhạc tồn tại trong thời gian ngắn với một người bạn ở nhà thờ. Apollo cũng có quốc tịch México. Apollo là người đồng tính công khai và phủ nhận những cáo buộc queerbaiting, nói rằng, "Đó không phải là sự lựa chọn, đó chỉ là con người của tôi. [...] Tôi hoàn toàn nhận thức được đặc ân mà chúng tôi có bây giờ là được là chính mình và vẫn có sự nghiệp [...] trước đây mọi người nghĩ rằng tôi queerbaiting. Tôi không quá cởi mở về tính dục của mình, nhưng mọi người đã biết mọi thứ. [...] Nó liên quan nhiều đến việc tôi lớn lên ở Indiana, nơi rất bảo thủ. Tôi đã ngừng đưa đại từ vào âm nhạc của mình trong vài năm rồi tôi mới nhận ra rằng, tôi không thể để ý kiến ​​của người khác ảnh hưởng và sai khiến cuộc sống của mình." Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2022, Apollo đã thảo luận về việc dán nhãn tính dục của mình, nói rằng "Tôi cảm thấy như lúc đầu, [...] tôi đã cố gắng giữ bí mật. Nhưng tôi thậm chí không quan tâm nữa [...] bây giờ tôi là, tôi rất đồng tính."
Quán cà phê Zimmermann, tiếng Đức là , là một quán cà phê của Gottfried Zimmermann ở Leipzig, nơi làm tiền đề cho các buổi công diễn đầu tiên của nhiều cantata thế tục của Bach, ví dụ như "Cantata cà phê" và các tác phẩm khí nhạc khác. Năm 1723, Bach chuyển đến Leipzig, và nơi đây đây là quán cà phê lớn nhất và hiện đại nhất ở Leipzig, cũng là trung tâm dành cho tầng lớp trung lưu và quý ông thường lui tới. Trong khi phụ nữ bị cấm lui tới các quán cà phê, họ có thể tham dự các buổi hòa nhạc cộng đồng tại đây của chủ quán Zimmermann. Quán cà phê nằm ở số 14 phố Katharinenstrasse, khi đó là con phố sang trọng nhất của Leipzig, nối con phố Brühl với một khu chợ. Tên của con phố được lấy từ Nhà nguyện Thánh Catherine cũ đã bị phá dỡ vào năm 1544. Vào thời của Telemann và Bach thì chỉ còn lại tên đường được nhớ tới. Trong những tháng mùa hè, Zimmermann cũng điều hành một khu vườn cà phê ngoài trời ở Grimmaischer Steinweg bên ngoài tường thành, gần Cửa Đông. Tòa nhà được thiết kế theo phong cách Baroque bốn tầng rưỡi được Doering xây dựng vào khoảng năm 1715. Kiến trúc của toà nhà bao gồm hai phòng liền kề, một phòng khoảng , phòng còn lại khoảng . Toàn bộ công trình đã bị phá hủy trong một cuộc không kích của quân Đồng minh vào Leipzig vào tháng 12 năm 1943. Biểu diễn âm nhạc. Từ năm 1720, quán cà phê tổ chức Collegium Musicum (một loại hình tổ chức âm nhạc) do Georg Philipp Telemann thành lập khi còn là sinh viên ngành luật vào năm 1702. Sau đó nơi đây được chỉ đạo bởi Johann Sebastian Bach trong khoảng thời gian từ 1729 đến 1741, với thời gian gián đoạn năm 1737 và 1739 trong khi học trò cũ của ông là Carl Gotthelf Gerlach thay thế Bach. Các buổi hòa nhạc do Bach chỉ huy kéo dài khoảng hai giờ bao gồm các vở opera, nhạc thính phòng, cantata thế tục của Đức và Ý cùng các tác phẩm cho dàn nhạc. Zimmermann không thu phí Collegium Musicum khi tổ chức các buổi hòa nhạc của họ, cũng như khán giả không phải trả phí mà thay vào đó chi phí thuê của Zimmermann được hoàn trả bằng việc bán cà phê. Nơi đây không còn tổ chức các buổi hoà nhạc sau khi Zimmermann qua đời vào năm 1741. Một thính phòng cổ điển đến từ Pháp đã lấy tên đặt theo quán cà phê này.
Polyplacotoma mediterranea là một loài thuộc ngành Placozoa, đại diện duy nhất của chi Polyplacotoma. Chúng khác rất nhiều so với các loài Placozoa khác về hình thái và cấu trúc di truyền, và đã được xếp vào lớp riêng biệt Polyplacotomia. P. mediterranea có bộ gen ty thể nhỏ nhất, hàm lượng GC thấp nhất. Cấu trúc cơ thể của chúng bao gồm các nhánh đa bào kéo dài và kích thước tối đa dài hơn 10 mm. Bộ gen ty thể của Polyplacotoma mediterranea cũng rất nhỏ và chứa các protein và gen tRNA lấn lên nhau.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Polyplacotomia là một lớp động vật thuộc ngành Placozoa, đến nay lớp này chỉ bao gồm một loài duy nhất Polyplacotoma mediterranea. Nó được đề xuất vào năm 2022 bởi Tessler và cộng sự. Hình thái của chúng nổi bật và khác với các loài của lớp Uniplacotomia. Nó khác với Uniplacotomia bởi 76 gen hiện diện duy nhất và 600 gen không có.
Người ấy là ai (mùa 5) Mùa thứ năm của chương trình Người ấy là ai do Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và công ty Vie Channel phối hợp thực hiện, được phát sóng trên kênh HTV2, VTVCab 1 và ứng dụng VieON từ ngày 19 tháng 5 năm 2023 đến ngày 3 tháng 8 năm 2023. Trong mùa này, Châu Bùi thay Minh Tú làm cố vấn cố định, trong khi Trấn Thành vẫn tiếp tục làm MC của chương trình. Luật chơi cũng có sự thay đổi, khi cố vấn có quyền bảo vệ một ứng viên mà họ cho là có khả năng độc thân cao. Kế hoạch khởi động và casting "Người ấy là ai" mùa 5 đã được công bố vào ngày 16 tháng 3 năm 2023, với một phiên bản mới cùng nhiều thay đổi so với những mùa trước đây. Việc Trấn Thành không còn tham gia "Siêu tài năng nhí" mùa 4 mặc dù đã gây được ấn tượng với khán giả khi làm giám khảo cố định trong ba mùa trước đã khiến cho cộng đồng mạng tranh luận. Điều này khiến khán giả tò mò xem anh có còn làm MC của mùa này hay không khi chương trình đang chuẩn bị sản xuất và lên sóng. Đại diện chương trình chia sẻ với báo Thể thao và Văn hóa rằng chương trình sẽ sớm cập nhật thông tin đến khán giả. Thông tin này gây tranh luận trở lại khi hình ảnh của một buổi ghi hình với sự xuất hiện của Châu Bùi, Ngô Kiến Huy, Bảo Thy và Tiểu Vy nhưng không có Trấn Thành được lan truyền trên mạng xã hội tối ngày 29 tháng 4 năm 2023. Mặc dù vậy, theo ghi nhận của báo Thể thao và Văn hóa, Trấn Thành vẫn có mặt tại buổi ghi hình của mùa này. Tối ngày 12 tháng 5 năm 2023, fanpage chính thức của chương trình công bố phát sóng "Người ấy là ai" mùa 5 với giao diện hoàn toàn mới. Cùng với đó, Châu Bùi được xác nhận là xuất hiện trong chương trình với vai trò cố vấn cố định của chương trình. Một sự thay đổi khác của mùa này là ban cố vấn có đặc quyền bảo vệ ứng viên mà họ cho là phù hợp với nhân vật chính nhất (xem chi tiết ở phần luật chơi bên dưới). Tối ngày 16 tháng 5, chương trình xác nhận Trấn Thành vẫn làm MC của chương trình mùa này, trái ngược với tin đồn rằng anh sẽ bị thay thế. "Người ấy là ai" mùa 5 lên sóng tập đầu vào ngày 19 tháng 5 với khung giờ không thay đổi so với mùa 4. Chương trình lên sóng vào 19:30 trên ứng dụng VieON và 20:00 thứ 6 hàng tuần trên các kênh HTV2 và VTVCab 1 (Vie GIẢITRÍ trước ngày 15 tháng 6 năm 2023). Riêng tập 12, chương trình được phát sóng vào 20:00 thứ 5 ngày 3 tháng 8. Các tập đã phát sóng của chương trình được công chiếu lúc 21:00 cùng ngày trên kênh YouTube chính thức của đơn vị sản xuất Vie Channel. Tổng quan và luật chơi. Mỗi tập phát sóng có một người chơi là nữ chính và 5 chàng trai, hoặc nam chính và 5 cô gái. Họ sẽ trải qua ba vòng chơi để lựa chọn ra một người phù hợp cho nhân vật chính của tập đó. Cụ thể: Từng ứng viên sẽ xuất hiện và giới thiệu về bản thân mình thông qua một đoạn clip ngắn. Sau khi giới thiệu xong, ban cố vấn sẽ đưa ra những nhận định về người đó và từng cố vấn sẽ cầm lên 1 chiếc bảng màu xanh lá cây, đỏ hoặc tím để dự đoán người ấy là người độc thân, đã có chủ hoặc thuộc giới LGBT. Khán giả tại trường quay sẽ dự đoán qua một ứng dụng trên điện thoại, kết quả dự đoán sẽ được hiển thị trên màn hình theo tỷ lệ phần trăm. Cuối vòng này, nhân vật chính sẽ phải loại đi một người mà mình cho là không phù hợp nhất. Lưu ý: Các ứng viên không được phép nói trong suốt vòng này và vòng 2, trừ khi đã bị loại. Ban cố vấn có đặc quyền giữ một ứng viên mà họ cho là có khả năng độc thân cao, ứng viên đó sẽ ngay lập tức bước vào vòng tiếp theo mà không bị ảnh hưởng bởi quyết định của nhân vật chính. Đặc quyền này chỉ được sử dụng một lần duy nhất tại vòng này và vòng 2, và chỉ có hiệu lực khi tất cả các thành viên trong ban cố vấn đồng thuận chọn cùng một người để giữ lại. Sẽ có một trò chơi cho bốn ứng viên còn lại thể hiện đặc điểm của bản thân mình với sự hỗ trợ từ ban cố vấn. Kết thúc vòng chơi này, ban cố vấn và khán giả sẽ dự đoán về từng nhân vật (cách thức tương tự như vòng 1). Cuối vòng này, nhân vật chính sẽ phải tiếp tục loại đi một người mà cô ta cảm thấy không phù hợp nhất với mình. Trong vòng chơi này, mỗi ứng viên còn lại sẽ có một hashtag của riêng mình. Đối với mỗi hashtag mà mỗi nhân vật cung cấp, ban cố vấn và người chơi sẽ có một thời gian để hỏi đáp người đó theo chủ đề tương ứng với hashtag. Chỉ tại thời điểm này trong vòng chơi, mỗi người mới có thể trả lời câu hỏi mà ban cố vấn đặt ra. Kết thúc các phiên hỏi đáp với các nhân vật, ban cố vấn sẽ tư vấn cho nhân vật chính để nhân vật chính có thể lựa chọn đúng nhân vật độc thân phù hợp. Giai đoạn quyết định. Các ứng viên sẽ quay trở lại sân khấu và mỗi người sẽ có một thời gian ngắn để thuyết phục nhân vật chính chọn mình. Khán giả trong trường quay sẽ bình chọn trên điện thoại cho người mà mình cho rằng sẽ là người mà nhân vật chính sẽ lựa chọn; kết quả bình chọn của khán giả sẽ được hiển thị trên màn hình dưới dạng phần trăm bình chọn. Nhiệm vụ của nhân vật chính là phải lựa chọn một ứng viên duy nhất trong số ba người trên sân khấu bằng cách trao bó hoa do chương trình cung cấp tặng cho người mà người chơi muốn lựa chọn. Đây là khoảnh khắc quan trọng nhất trong chương trình này. Các ứng viên bị loại ở vòng 1, 2 hoặc sau khi người chơi đưa ra quyết định của mình trong vòng 3 sẽ xuất hiện trong phần này bằng một tiết mục đã được chuẩn bị trước. Trước khi người đó bắt đầu tiết mục của mình, ban cố vấn và người chơi sẽ dự đoán rằng người ấy độc thân, đã có chủ hoặc thuộc giới LGBT (gần giống như vòng 1). Trong quá trình thực hiện tiết mục của mình, người đó phải cho khán giả biết rằng mình đã có chủ, độc thân hoặc thuộc giới LGBT. Đèn trong sân khấu cũng sẽ thay đổi dựa trên danh tính cuối cùng của người ấy, cụ thể đèn trong sân khấu sẽ chuyển thành: Đối tượng tham gia. Các nhân vật chính và ứng viên tham dự chương trình đã được lựa chọn từ các buổi tuyển chọn diễn ra trước khi chương trình được ghi hình. Các tập phát sóng. Lưu ý: Những ứng viên được in đậm là ứng viên được nhân vật chính lựa chọn. Màu sắc và ký hiệu sử dụng trong bảng:br (n): Đã từng tham gia, với n là tổng số lần tham gia Ngay từ tập đầu tiên với màn kết đôi thành công của Elli Gia và Bai Long, chương trình nhanh chóng lên vị trí Top 1 thịnh hành trên YouTube, chứng tỏ sức hút vẫn chưa hề giảm mặc dù chương trình đã phát sóng đến mùa thứ 5. Sự thu hút của tập 1 với khán giả, theo báo Thanh Niên, là đến từ các cố vấn "đầy tính giải trí", cùng với đó là những cú twist đến từ phần lộ diện của các ứng viên, cũng như sự vui mừng của khán giả khi có cặp kết đôi thành công ngay từ tập đầu tiên của mùa thứ 5. Trước khi phát sóng. Việc Châu Bùi là cố vấn cố định của mùa 5 đã gây ra tranh cãi đối với khán giả. Trong khi nhiều ý kiến cho rằng cô sẽ là làn gió mới khi ngồi ghế cố vấn, thì không ít khán giả thất vọng vì hoa hậu Hương Giang - người đã gắn bó với chương trình trong ba mùa đầu tiên - không quay trở lại chương trình. Sau khi công bố Trấn Thành vẫn tiếp tục làm MC của chương trình, khán giả tiếp tục tranh luận trên fanpage chính thức của chương trình. Bên cạnh những ý kiến hài lòng về sự trở lại của anh, nhiều khán giả không hài lòng vì những phát ngôn gây ồn ào của anh trong thời gian qua. Một thống kê trên báo Dân Việt cho thấy Trấn Thành quyết định 50% sự thành công của chương trình. Bởi vậy, nhiều khán giả nghi ngại rằng nếu Trấn Thành rời chương trình thì chất lượng của chương trình sẽ giảm sút. Trong một cuộc trao đổi với báo điện tử VTC News, chuyên gia truyền thông Nguyễn Ngọc Long nhận định Trấn Thành chưa bị tẩy chay, nhưng việc ""nhận lời dẫn những chương trình này vào thời điểm ồn ào này thì Trấn Thành khá mạo hiểm". Tranh cãi về phát ngôn của Trấn Thành. Ngay trong tập đầu tiên của chương trình, Trấn Thành gây tranh cãi vì phát ngôn của mình. Cụ thể, khi giao lưu với ứng viên NPAK - một người chuyển giới từ nữ sang nam, Trấn Thành cũng đã giới thiệu về một nhân vật khác cũng là người chuyển giới - Nguyễn Hồ. Về nhân vật này, anh cho biết: "Để có thể trở thành nam, Nguyễn Hồ phải nhiều lần vỡ mạch máu, chích hormon nam [...]". Trên TikTok, bác sĩ Nguyễn Khoa Bình nhận xét: "Khi nghe những thông tin này, tôi cũng giật mình vì nếu đưa testosterone trực tiếp vào mạch máu thì người ta có thể "đăng xuất" tức khắc. Thực tế, chỉ có thể chích testosterone qua cơ chứ không thể là mạch máu như thông tin của chương trình đưa ra. Lỗi ở đây có thể do người làm thông tin của chương trình chưa tìm hiểu kỹ dẫn đến nhầm lẫn"". Điều này khiến Trấn Thành bị khán giả chỉ trích, mặc dù theo báo Người lao động, đây không phải là lỗi của anh, mà là lỗi biên tập của chương trình. Tối 23 tháng 5 năm 2023, chương trình lên tiếng xin lỗi khán giả và NPAK. Họ cho biết, do sơ suất trong khâu biên tập mà chi tiết NPAK nói về nguồn gốc vết sẹo trên cánh tay chưa được chương trình truyền tải theo đúng nội dung mà anh chia sẻ. Theo ghi nhận của Zing, sau khi xin lỗi khán giả, phần phụ đề và lời nói gây tranh cãi của Trấn Thành cũng được chương trình xử lí và cắt bỏ ở tập 1 của chương trình trên các trang mạng xã hội chính thức của nhà sản xuất và chương trình. Còn với riêng Trấn Thành, anh không phản hồi về sai sót này của mình. Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng mặc dù việc chương trình sai kiến thức là một sai lầm của chương trình không thể phủ nhận, nhưng hành động nhanh chóng của nhà sản xuất cho thấy trách nhiệm và thiện chí cải thiện chất lượng chương trình của họ. Liên quan tới các nhân vật tham gia. Sau khi tập 6 lên sóng, mạng xã hội lan truyền thông tin tiêu cực về Tiến Phát liên quan đến việc anh có quá khứ ăn chơi, tệ bạc với vợ cũ. Trước sự quan tâm của khán giả, Quỳnh Lương cho rằng ai cũng có quá khứ, nhưng nếu cứ chấp niệm quá khứ để đánh giá con người và từ chối cơ hội thì có nghĩa là đang vứt bỏ cơ hội đi tìm hạnh phúc của chính mình. Trong khi đó, bản thân Tiến Phát thừa nhận sai lầm của anh trong quá khứ và không chối bỏ những gì đã qua, đồng thời không muốn đề cập đến chuyện cũ để không ảnh hưởng đến những người trong cuộc. Liên quan tới cố vấn Phương Mỹ Chi. Tập 8 của chương trình có sự xuất hiện của Phương Mỹ Chi trong vai trò cố vấn. Ngay khi teaser của tập phát sóng được công bố, sự xuất hiện này của cô đã vấp phải những ý kiến trái chiều. Nhiều người cho rằng cô mới chỉ 20 tuổi nên chưa có đủ kinh nghiệm về tình yêu để tư vấn cho nữ chính và bởi vậy họ cho rằng cô ngồi vị trí này là "không phù hợp". Trong khi đó, một số khán giả cho rằng góc nhìn của những người trẻ cũng là yếu tố cần thiết trong chương trình và khẳng định "người ngoài cuộc sáng suốt hơn". Bài viết trên báo Dân Việt cho rằng sự xuất hiện của cô là một sự "chín ép", mà người xem khó có thể chấp nhận. Bài viết cho rằng Phương Mỹ Chi mới bước sang tuổi 20, và cô quá trẻ để nhận định và đưa ra lời khuyên cho nữ chính; bởi vậy sự góp mặt này có thể chỉ đáp ứng sự tò mò của khán giả về việc cô đã từng trải trong chuyện tình cảm hay không. Trao đổi với Người đưa tin, Phương Mỹ Chi nói rằng cô sẽ im lặng ở thời điểm hiện tại vì không muốn câu chuyện thêm ồn ào và bị đẩy đi xa, và "khi nào cần lên tiếng tôi sẽ lên tiếng". Sau khi tập 8 được lên sóng, nhiều khán giả bênh vực và nhận xét rằng cô không hề "lạc quẻ" khi tham gia chương trình vì những lời khuyên ý nghĩa của cô dành cho nữ chính. Chia sẻ với phóng viên báo Dân trí, chuyên gia truyền thông Nguyễn Ngọc Long cho rằng nhiều khán giả vẫn coi Phương Mỹ Chi là một ca sĩ nhí mà quên đi việc cô đã bước sang tuổi 20 - tuổi mà nhiều người đã có kinh nghiệm về tình yêu, và cho biết việc nhiều khán giả nói nhà sản xuất coi thường khán giả khi mời cô vào chương trình là "không thỏa đáng". Ông khẳng định rằng khán giả cần một "cú đấm" để thay đổi suy nghĩ về Phương Mỹ Chi - một người rất khôn ngoan, táo bạo khi nhận lời mời tham gia một chương trình như "Người ấy là ai" để tạo nên một hình ảnh mới với khán giả.
Lethrinus amboinensis là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1854. Từ định danh "amboinensis" được đặt theo tên gọi của đảo Ambon (thuộc quần đảo Maluku, Indonesia), nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập (–"ensis" trong tiếng Latinh là hậu tố biểu thị nơi chốn). Phân bố và môi trường sống. "L. amboinensis" có phân bố khá rộng rãi ở vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Indonesia trải dài về phía đông đến quần đảo Marshall, quần đảo Samoa và quần đảo Marquises, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản, giới hạn phía nam đến Tây Úc. "L. amboinensis" sống trên nền đáy cát với rạn san hô, hoặc trong đầm phá ở độ sâu khoảng 5–30 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất ở "L. amboinensis" có thể đạt đến 70 cm, nhưng thường bắt gặp với chiều dài trung bình khoảng 40 cm. Thân vàng nhạt, rải rác những đốm đen. Đầu màu nâu, có thể có vài sọc sáng màu; môi hơi đỏ. Gốc vây ngực màu đỏ cam. Viền ngoài vây ngực màu vàng. Vây bụng và vây hậu môn màu trắng hoặc phớt vàng. Vây lưng và vây đuôi lốm đốm nâu hoặc vàng với viền cam hoặc đỏ. "L. amboinensis" có thể bị nhầm với "Lethrinus microdon", mặc dù cả hai loài dễ phân biệt qua kích thước mõm và "L. microdon" không có màu đỏ cam ở gốc vây ngực. Mõm "L. amboinensis" dài, với kích thước gấp khoảng 1,7–1,9 lần chiều dài đầu. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 3 thường dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8 (tia thứ nhất thường dài nhất); Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 47–48. Thức ăn của "L. amboinensis" chủ yếu là cá nhỏ, nhưng cũng bao gồm động vật giáp xác, động vật thân mềm và cầu gai. "L. amboinensis" được đánh bắt chủ yếu bằng dây câu và thường được bán dưới dạng tươi sống trên thị trường. Loài này thuộc đơn vị quản lý cá tầng đáy ở khu vực đảo Guam, quần đảo Bắc Mariana và Samoa thuộc Mỹ.
Turla (phần mềm độc hại) Turla hoặc Uroboros (tiếng Nga: Турла) là gói Trojan bị các nhà nghiên cứu an ninh máy tính và nhân viên tình báo phương Tây nghi ngờ là sản phẩm của một cơ quan chính phủ Nga cùng tên. Tỷ lệ lây nhiễm vi-rút từ Turla mức cao là ở Nga, Kazakhstan và Việt Nam, tiếp theo là Hoa Kỳ và Trung Quốc. Tỷ lệ lây nhiễm từ loại vi-rút này mức thấp là ở Châu Âu, Nam Mỹ và Châu Á (bao gồm cả Ấn Độ). Phần mềm độc hại. Từ năm 2008, Turla đã nhắm mục tiêu đầu tiên là chính phủ và quân đội. Vào tháng 12 năm 2014, có bằng chứng về việc nhóm này nhắm mục tiêu vào các hệ điều hành chạy Linux. Những tổ chức có hoạt động tương tự đều được gọi là Turla. Dan Goodin trên "Ars Technica" mô tả Turla là "gián điệp Nga". Kể từ đó những cái tên như Snake, Krypton và Venomous Bear đã được đặt cho Turla.
Lũ lụt Emilia-Romagna 2023 Đợt lũ lụt vùng Emilia-Romagna tại Ý năm 2023 là một đợt lũ lụt lớn đang xảy ra ở nhiều thành phố bao gồm Bologna, Cesena, Forlì, Ravenna và Rimini thuộc vùng Emilia-Romagna của nước Ý vào giữa tháng 5 năm 2023. Do sự ảnh hưởng từ hạn hán kéo dài kết hợp với điều kiện thời tiết xấu, các tỉnh thuộc miền Bắc nước Ý đã phải hứng chịu những trận mưa rất lớn từ ngày 2 đến ngày 16 tháng 5 năm 2023 cho đến hiện tại, gây ra hai trận lũ lụt nghiêm trọng, nhấn chìm nhiều thành phố, làm hơn 30,000 người phải di dời nhà cửa và nâng tổng số người chết lên đến 16 người. Với cùng một lượng mưa thường rơi trong vòng 7 tháng đã giảm xuống chỉ trong vòng 2 tuần, gây lũ lụt cho 23 con sông trong khu vực. Hơn nữa, 300 vụ sạt lở đất đã xảy ra trong khu vực và khiến 43 thành phố và thị trấn bị ngập lụt. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha: "María Antonia Fernanda de España"; 17 tháng 11 năm 1729 – 19 tháng 9 năm 1785 ) là con gái út của Felipe V của Tây Ban Nha và Elisabetta Farnese. Thông qua cuộc hôn nhân với Vittorio Amadeo III của Sardegna, María Antonia trở thành Vương hậu Sardegna và là mẹ của ba vị Quốc vương Sardegna. Những năm đầu đời. María Antonia Fernanda sinh ra tại Vương thất Alcázar của Sevilla ở Sevilla, trong khoảng thời gian ký kết Hiệp ước Sevilla nhằm chấm dứt Chiến tranh Anh-Tây Ban Nha. María Antonia trải qua thời thơ ấu ở Sevilla trước khi chuyển đến Madrid vào năm 1733. Được rửa tội với tên "María Antonia" cùng với "Fernanda" để vinh danh người anh cùng cha khác mẹ, đương thời là trữ quân Tây Ban Nha Fernando. Ngoài ra María Antonia còn được biết đến với cái tên "Antonia Fernanda" và "Antonietta Ferdinanda". Với tư cách con gái của Quân chủ Tây Ban Nha, María Antonia được gọi là Infanta của Tây Ban Nha cùng kính xưng "Royal Highness". Trong kế hoạch liên hôn hôn kép ban đầu với Pháp, María Antonia sẽ được gả cho Louis Ferdinand, Thái tử nước Pháp, và anh trai của María là Feipe sẽ kết hôn với chị gái của Louis Ferdinand là Louise Élisabeth của Pháp. Trong khi mẹ của María Antonia Fernanda là Elisabetta đồng ý với mối hôn sự giữa Felipe và Louise Élisabeth, thì Elisabetta nhất quyết phải đợi María lớn hơn chút nữa. Ngoài ra, María Antonia còn được ngỏ lời cầu hôn bởi Tuyển hầu thế tử xứ Sachsen. Sau cùng Felipe kết hôn với Louise Élisabeth vào năm 1739 và chị gái của María Antonia Fernanda là María Teresa Rafaela kết hôn với Louis Ferdinand vào năm 1745. Tuy nhiên, sau khi María Teresa qua đời năm 1746, Fernando VI đã cố gắng dàn xếp mối hôn sự giữa María Antonia với Louis Ferdinand nhưng đã bị Louis XV coi là "loạn luân". Thay vào đó, Louis XV đã chọn cưới Maria Józefa của Ba Lan cho con trai. Công tước phu nhân xứ Savoia. Nhằm củng cố mối quan hệ giữa Madrid và Torino khi hai bên đã chiến đấu ở các phe đối lập trong Chiến tranh Kế vị Áo và kết thúc bởi Hiệp ước Aix-la-Chapelle, Fernando VI đã dàn xếp mối hôn sự giữa em gái khác mẹ María Antonia và Vittorio Amadeo, con trai cả của Carlo Emanuele III của Sardegna và Polyxena xứ Hessen-Rotenburg. Ngày 12 tháng 4 năm 1750, María Antonia Fernanda tiến hành kết hôn ủy nhiệm tại Madrid và sau đó kết hôn trực tiếp với Vittorio Amadeo tại Oulx vào ngày 31 tháng 5 năm 1750 Như một món quà cưới, các căn hộ của Tân Công tước phu nhân xứ Savoia tại Cung điện Vương thất Torino đã được tu sửa lại bởi kiến trúc sư Benedetto Alfieri. María Antonia đã được trao của hồi môn gồm 3.500.000 đồng Piemonte và lãnh địa Milano. Ở Ý, María Antonia được biết đến với cái tên "Maria Antonietta Ferdinanda". Các vở opera của Baldassare Galuppi được sáng tác đặc biệt cho cuộc hôn nhân của María Antonia và Vittorio Amadeo. Cuộc hôn nhân không được ưa chuộng, nhưng cả hai vợ chồng duy trì mối quan hệ thân thiết cho đến khi María Antonia qua đời. Từ khi kết hôn cho đến khi chồng kế vị, María Antonia được gọi là Công tước phu nhân xứ Savoia. Xung quanh cặp đôi là những nhà tư tưởng hiện đại và nhiều chính trị gia khác nhau. Là đệ nhất phu nhân của Vương quốc, María Antonia Fernanda đã mang đến cung đình Savoia lối sống cứng nhắc từ quê hương Tây Ban Nha. María Antonia còn là người rất sùng đạo và được cho là có tính cách lạnh lùng và nhút nhát. Cùng với Vittorio Amadeo, họ có với nhau mười hai người con, ba trong số đó đã qua đời khi còn nhỏ và chỉ hai người con có hậu duệ. Với cái chết của cha chồng lá Carlo Emanuele III của Sardegna năm 1773, Vittorio Amadeo và María Antonia trở thành tân vương và tân hậu của Sardegna. María Antonia cũng là vương hậu đầu tiên của Sardegna kể từ khi Élisabeth Thérèse xứ Lorraine qua đời năm 1741. Năm 1775, con trai cả của María Antonia là Carlo Emanuele, Thân vương xứ Piemonte kết hôn với Marie Clotilde của Pháp, em gái của Louis XVI của Pháp. Marie Clotilde và María Antonia Fernanda trở nên rất thân thiết. María Antonia Ferdinanda qua đời tại Lâu đài Moncalieri vào tháng 9 năm 1785 và được chôn cất tại Vương cung thánh đường Superga. Chồng của María Antonia, Vittorio Amadeo III qua đời mười một năm sau đó. Tư liệu liên quan tới
Bách Việt tiên hiền chí Bách Việt tiên hiền chí () là cuốn sách thuộc loại sử bộ do Âu Đại Nhậm đời Minh biên soạn, tổng cộng bốn quyển. Nội dung tác phẩm ghi chép rõ về thời đại, thân thế, sự nghiệp, quê quán, đạo lý và cách xử thế của các hiền giả đời xưa thuộc tộc Bách Việt lẫn các nước Sở, Ngô, Việt. Lịch sử ấn bản. "Bách Việt tiên hiền chí" là cuốn sách hiếm hoi còn sót lại đến nay do Âu Đại Nhậm biên soạn và tự viết lời tựa đề ngày Đông Chí tháng 11 năm Gia Tĩnh thứ 33 (1554) thời Minh. Theo bộ "Tứ khố toàn thư Tổng mục đề yếu" thì sách này gồm bốn quyển viết về 120 vị tiên hiền thuộc tộc Bách Việt. Qua lời bạt của "Bách Việt tiên hiền chí" do hiệu sách Văn Tự Hoan Ngu Thất ấn hành, được biết sử quán triều Minh coi cuốn sách này là nguồn sử liệu chính xác, đã khắc và in nguyên văn toàn bộ bản thảo, đóng chung vào "Nghệ văn chí" để làm tài liệu cho các sử gia tra cứu và trích dẫn, cất giữ ở "Tứ khố toàn thư". Do vậy mà được lưu truyền rất ít trong học giới Trung Quốc. Năm Càn Long thứ 37 (1772), hoàng đế xuống chiếu mở "Tứ khố toàn thư" của nhà Minh thì mới phát hiện nội dung của "Bách Việt tiên hiền chí" không còn nguyên vẹn nữa, có nhiều chữ và nhiều đoạn trong sách đã bị nát mất. Năm Đạo Quang thứ 11 (1831), hiệu sách Văn Tự Hoan Ngu Thất khắc in y nguyên bản còn sót lại gồm 106 vị tiên hiền. Những phần bị nát mất đều được khắc in chữ "khuyết", không tự ý bổ túc. Bản in này có lời bạt của học giả Ngũ Nguyên Vi, đề ngày bát tịch mùa thu năm Tân Mão (rằm tháng 8 năm 1831). Năm Hàm Phong thứ 10 (1860), liên quân Anh Pháp tiến vào Bắc Kinh đốt phá tan hoang. Số phận của bộ sách này thêm một lần điêu đứng. Tháng 12 năm Dân Quốc thứ 26 (1936), Thương vụ ấn thư quán ở Thượng Hải in lại bản mà Văn Tự Hoan Ngu Thất đã ấn hành chỉ thêm một chữ "Minh" thành "Minh Thuận Đức Âu Đại Nhậm Trinh Bá soạn" và sửa lại chữ "Mâu" trong tiên hiền thứ 18 quyển 2 là "Kỳ Mâu Tuấn" thành "Kỳ Vô Tuấn" mà thôi. Mục lục tiên hiền. Âu Dã Tử, Thù Vô Dư, Âu Dương, Văn Chủng, Kế Nghê, Phạm Lãi, Tiết Chúc, Trần Âm, Chư Kê Dĩnh, Cao Cố, Sử Lộc, Mai Huyên, Công Sư Ngung, Trương Mãi, Trịnh Nghiêm, Hà Di, Tất Thủ, Đô Kê, Nghiêm Trợ, Chu Mãi Thần, Đặng Mật, Tôn Báo, Ngô Bá, Trịnh Cát, Hà Đan, Mai Phúc. Nghiêm Quang, Trần Nguyên, Trầm Phong, Cố Phụng, Trần Hiêu, Trịnh Hoằng, Thái Luân, Vương Sung, Dương Phu, Trương Trọng, Dưỡng Phấn, Bao Hàm, Đặng Thịnh, Dương Phù, Chung Ly Ý, Hứa Kinh, Chiêu Mãnh, Kỳ Mâu Tuấn, Trần Lâm, Lý Tiến, Long Khâu Trường. Từ Hủ, Đạm Đài Kính Bá, Lưu Hy, Mạnh Thường, Hoàng Xương, Bành Tu, Ngụy Lãng, Từ Trưng, Thân Sóc, Trương Vũ, Lục Tục, Đái Tựu, Đường Trân, Chu Tuấn, Tạ Di Ngô, Hạ Thuần, Đổng Chính, Sơ Nguyên, Triệu Diệp, Hàn Thuyết. La Uy, Đường Tụng, Đốn Kỳ, Đinh Mật, Nhan Ô, Phí Phiếm, Từ Trĩ, Quách Thương, Diêu Tuấn, Đổng Phụng, Ngu Quốc, Đổng Ảm, Hoàng Hào, Đinh Mậu, Doãn Nha, Từ Đăng, Thịnh Hiến, Trầm Du, Diêu Văn Thức, Ngô Đãng, Hành Nghị, Sĩ Nhiếp, Ngu Phiên, Lý Tổ Nhân, Vương Phạm, Hoàng Thư, Đào Diên, Trương Phường, Diêu Thành Phủ, Hoàng Cung, Tẩy Kinh, Nguyễn Khiêm Chi, Liêu Xung, Phùng Dung, Vi Thiên Đạo, Mạc Tuyên Khanh, Dương Hoàn.
Bách Di truyện () còn gọi là Bách Di kỷ lược (百夷纪略) là cuốn sách do hai sứ giả thời Minh là Tiền Cổ Huấn và Lý Tư Thông biên soạn vào năm 1395. Tác phẩm ghi chép về lịch sử, địa lý, tổ chức chính trị và xã hội, phong tục, âm nhạc, thực phẩm, núi sông, con người, đường xá bên trong Ty Tuyên ủy Lộc Xuyên Bình Miến. Đây được coi là một tư liệu quý phản ánh hoàn cảnh lịch sử của các tộc người ở biên giới Vân Nam và Myanmar vào cuối thế kỷ 14. "Bách Di truyện" có hai ấn bản gọi là Tiền bản và Lý bản có nội dung hơi khác nhau, Tiền bản thì hoàn hảo hơn, riêng Lý bản được lưu hành rộng rãi dưới hai thời Minh, Thanh.
Trận Balikpapan lần thứ nhất diễn ra vào ngày 23-25 tháng 1 năm 1942, ngoài khơi thị trấn sản xuất dầu lớn và cảng Balikpapan, trên đảo Borneo, thuộc Đông Ấn Hà Lan. Sau khi chiếm được hầu hết các mỏ dầu bị phá huỷ tại Tarakan, quân đội Nhật Bản gửi tối hậu thư cho người Hà Lan rằng họ sẽ bị xử tử nếu họ phá huỷ các mỏ dầu ở đó, nhưng vô ích. Sau khi phá huỷ các mỏ dầu, các lực lượng Hà Lan rút lui vào đất liền, chiếm các vị trí trong và xung quanh sân bay Samarinda II, trong khi quân Nhật đổ bộ và chiếm giữ các nhà máy lọc dầu cũng bị phá huỷ. Không lâu sau đó, một lực lượng đặc nhiệm hải quân Mỹ đã phục kích đoàn tàu vận tải đổ bộ và đánh chìm nhiều tàu vận tải, nhưng cuối cùng họ đã thất bại trong việc ngăn chặn người Nhật nhanh chóng chiếm đóng Balikpapan. Trước chiến tranh, Balikpapan là một trung tâm quan trọng đối với các doanh nghiệp kinh tế Hà Lan ở Borneo. Trong thành phố, có 2 nhà máy chế biến dầu thô, một nhà máy parafin và dầu bôi trơn, một nhà máy nứt, một nhà máy axit sulfuric và một nhà máy lọc dầu quý, một nhà máy thiếc và thùng dầu và một số xưởng. Quan trọng nhất, Balikpapan có một nhà máy lọc dầu với một tổ hợp các bể chứa dầu mỏ có thể chứa gấp 8 lần so với tại Tarakan, sử dụng tới 7,000 công nhân bản địa và 100 nhà tuyển dụng châu Âu, những người sản xuất tới một triệu tấn dầu mỗi năm trước chiến tranh. Khi người Hà Lan bắt đầu dự tính khả năng xâm lược quân sự của Nhật Bản, họ bắt đầu tăng cường phòng thủ để bảo vệ các cơ sở. Năm 1924, một biệt đội gồm 6 lữ đoàn bộ binh đã đóng quân để bảo vệ các mỏ dầu Balikpapan, cũng như Semboja và Sanga Sanga (được hỗ trợ bởi 3 lữ đoàn bổ sung từ Samarinda). Cũng giống như đơn vị tại Tarakan, quân đội từ Java sẽ tăng cường cho biệt đội Balikpapan nếu một tình huống đe doạ xảy ra. Năm 1933, một bộ tham mưu tiểu đoàn và 2 đại đội đã được gửi đến để tăng cường phòng thủ Balikpapan, khi căng thẳng ở Thái Bình Dương đang âm ỉ vào thời điểm đó. Sau 4 tháng, quân tiếp viện trở lại Java. Sau đó, sức mạnh của đơn vị tại Balikpapan đã giảm xuống còn một tiểu đoàn bộ binh duy nhất. Trong kế hoạch chinh phục Đông Ấn Hà Lan của Nhật Bản, Balikpapan coi cả ý nghĩa chiến lược và chiến thuật là mục tiêu. Về mặt chiến lược, nhà máy lọc dầu của nước này rất quan trọng đối với ngành sản xuất dầu mỏ của Nhật Bản; Bằng cách chiếm đóng, Nhật Bản có thể tiếp cận trực tiếp đến các mỏ dầu lớn trong nội địa Borneo. Về mặt chiến thuật, thành phố cũng sở hữu cả bến cảng và sân bay (Manggar) rất quan trọng đối với việc Nhật Bản chiếm đóng miền nam Borneo và Java. Lực lượng hai bên. "Bài chi tiết: Lực lượng hai bên trong Trận Balikpapan (1942)". Kế hoạch của Hà Lan. Quân đồn trú Hà Lan ở Balikpapan được lệnh bảo vệ thành phố, đặc biệt là các nhà máy lọc dầu chống lại một cuộc đảo chính và tham gia vào một hành động trì hoãn để có thời gian thực hiện việc phá huỷ các cơ sở. Một khi rõ ràng rằng thành phố sẽ rơi vào tay kẻ thù, quân đội phải tiến hành một cuộc chiến tranh du kích ở vùng nội địa. Đối với khoảng thời gian phá huỷ các cơ sở, biệt đội phá dỡ Hà Lan phân bố lần lượt 3 giờ và 8 giờ cho Balikpapan và Sambodja. Tuy nhiên, cuộc tập trận phá huỷ cho thấy sẽ mất nhiều thời gian hơn nếu việc phá huỷ được thực hiện phù hợp. Để chuẩn bị phòng thủ, van den Hoogenband đã thiết lập một vị trí phòng thủ tại Klandasan để chặn con đường từ sân bay Manggar đến thành phố. Một tuyến phòng thủ thứ hai được đặt xung quanh đài phát thanh (vị trí vô tuyến), với một phòng tuyến thứ ba (vị trí Rapak) được xây dựng để yểm trợ cho cuộc rút lui vào vùng nội địa cho chiến tranh du kích. Để ngăn chặn cuộc đổ bộ của đối phương, các tàu rải mìn của Hải quân Hà Lan (Koninklijke Marine) "Gouden Leeuw", "Eland Dubois" và "Soemenep" đã đặt một hàng rào gồm 290 quả mìn xung quanh các lối tiếp cận vịnh Balikpapan từ tháng 9 năm 1939 đến tháng 12 năm 1941. Để cuối cùng, để chuẩn bị cho chiến dịch du kích, van den Hoogenband đã thiết lập các trại sơ tán có thể chứa khoảng 3,000 người cách Balikpapan khoảng 6 đến 9 km. Ngay sau khi Tarakan thất thủ, ông đã sơ tán thường dân Balikpapan đến các trại này. Ngoài ra, các kho thực phẩm cũng được xây dựng trên bờ sông cứ sau 10 km từ thành phố và gần các trạm bơm dầu ở sông Wain và Mentawir để duy trì quân đội trong chiến dịch du kích. Kế hoạch của Nhật Bản. Khi việc chiếm giữ Tarakan diễn ra nhanh hơn thời gian biểu dự đoàn của họ, Biệt đội Sakaguchi và Đơn vị Tấn công phía Tây đã dời ngày tiến chiếm Balikpapan. Mệnh lệnh của họ là: Mặc dù thời gian đã đi trước thời gian biểu, hoạt động xuống tàu và xây dựng để đảm bảo sự sẵn sàng của sân bay Tarakan đã đạt được rất ít tiến bộ. Trì hoãn khả năng sử dụng sân bay làm căn cứ cho cuộc tấn công Balikpapan, Nishimura và Sakaguchi cuối cùng đã đồng ý hoãn cuộc đổ bộ lên Balikpapan từ ngày 21-24 tháng 1. Tuy nhiên, vì việc trì hoãn không dành đủ thời gian để sẵn sàng sân bay Tarakan cho việc sử dụng máy bay vận tải, kế hoạch tấn công Balikpapan bằng lính dù đã bị loại bỏ. Lo ngại rằng những người bảo vệ Hà Lan có ý định phả huỷ các mỏ dầu ở Balikpapan để ngăn chặn việc chiếm giữ nó, người Nhật đã lên kế hoạch thả một số tù binh Hà Lan, với một thông điệp cảnh báo rằng một cuộc trả thù nhanh chóng sẽ rơi vào những người bảo vệ và dân thường, nếu họ phá huỷ các nhà máy lọc dầu. Tối hậu thư và phá huỷ (16-20 tháng 1). Để đưa ra tối hậu thư nói trên cho lực lượng phòng thủ, Sakaguchi đã giao nhiệm vụ cho Đại uý Gerard Reinderhoff, cựu tham mưu trưởng của chỉ huy đồn trú Tarakan, Trung tá Simon de Waal và Đại uý Anton Colijn, quản lý công ty dầu BPM ở Tarakan, quân nhân dự bị KNIL và là con trai cựu thủ tướng Hà Lan Hendrikus Colijn. Vào sáng ngày 16 tháng 1, họ khởi hành đến Balikpapan trên chiếc thuyền buồm "Parsifal" bị chiếm giữ cùng với một thuyền trưởng người Indo và ba thông dịch viên Nhật Bản (các nguồn khác cho biết hai trung uý hải quân Nhật Bản và hai thuỷ thủ; những người khác đề cập đến ba thông dịch viên Nhật Bản và hai sĩ quan cảnh sát Indonesia). Hai thuỷ phi cơ Dornier Do-24 thuộc Phi đội GVT.4 của MLD đã nhìn thấy "Parsifal", treo cờ Nhật Bản vào ngày 19 tháng 1. Các nguồn khác nhau chỉ ra rằng Colijn và Reinderhoff hoặc chế ngự hoặc lừa dối những kẻ bắt giữ họ-một số tài khoản cho rằng người Nhật đã say rượu-và tìm cách nhốt họ trong một cabin. Colijn sau đó ngay lập tức xé bỏ cờ hiệu Nhật Bản, trong khi Reinderhoff vẫy cờ Hà Lan. Vì biển động quá lớn để có thể đổ bộ, Dornier cất cánh và quay trở lại vào ngày hôm sau. Dornier quay trở lại và hạ cánh vào sáng hôm sau, đón Colijn và Reinderhoff và đưa họ đến Balikpapan, nơi họ gửi tối hậu thư trực tiếp cho van den Hoogenband. van den Hoogenband không lãng phí thời gian và ngay lập tức ra lệnh cho đội phá dỡ bắt đầu phá huỷ tất cả các giếng dầu, nhà máy lọc dầu và cơ sở cảng ở Balikpapan. Sự huỷ diệt đã thực sự bắt đầu vào ngày 18 tháng 1. Tại các mỏ dầu Louise nằm ở phía bắc Balikpapan, các đội phá dỡ của Hà Lan đã tháo dỡ ống giếng dầu, cắt xuống độ sâu 15 m, sau đó được thả xuống các lỗ cùng với piston bơm và thanh phụ kiện. Để hoàn thành công việc, các vật liệu như bu lông, đai ốc và mũi khoan hạng nặng đã được ném sau chúng. Cuối cùng, một hộp thiếc chứa bốn mảnh thuốc nổ TNT đã được ném vào để phá huỷ các dây vỏ. Trong vòng vài ngày, "tất cả các động cơ, máy bơm, máy phát điện và turbin đã bị nổ tung". Tại Balikpapan, các nồi hơi và nồi hơi đầu tiên bị đắm, mất khoảng một ngày rưỡi; khoảng ba mươi giờ "đốt lò nặng" được yêu cầu để làm sập vỏ của các máy chưng cất, sau đó các đội đã phá huỷ các nồi hơi trong năm đến tám giờ. Việc phá huỷ các cơ sở sau đó tiếp tục trên toàn khu vực và tại chính cảng. Đầu tiên, các đội đốt cầu cảng bằng cách bao quanh các kênh bằng dầu cháy từ các thùng xăng bốc cháy. Sau đó, họ cho nổ tung các nhà máy; Nhà máy sáp parafin, kho chứa thùng phuy dầu bôi trơn, trạm bơm nước mặn đều được kích hoạt. Một nhà máy thiếc mới được xây dựng trong nhà máy Pandansari cũng bị thiêu rụi. Các nỗ lực phá huỷ kết thúc với việc xoá xổ các phòng thí nghiệm, bãi xe tăng và nhà máy điện, với chuỗi vụ nổ làm vỡ cửa kính khắp thị trấn. Đến tối ngày 20 tháng 1, ngọn lửa từ các vụ phá huỷ có thể được nhìn thấy cách đó hơn 100 km. Triệt thoái (20-23 tháng 1). Từ giữa tháng 1 năm 1942, nhân viên BPM và dân thường còn sót lại bắt đầu được không vận ra khỏi Balikpapan. Sau khi Tarakan thất thủ, 3 chiếc Lockheed Lodestars từ ML-KNIL và một chiếc DC-2 từ KNILM đã đóng quân tại Surabaya để thực hiện các chuyến bay tiếp tế và sơ tán. Hàng trăm người sơ tán đã được đưa đến Surabaya từ sân bay Manggar, cũng như sân bay Oelin gần Banjarmasin. Tuy nhiên, từ ngày 20 tháng 1, việc sơ tán khỏi thành phố chỉ có thể thực hiện được bằng thuỷ phi cơ. Để tránh bị trả thù, các kỹ sư BPM và KNIL đã thực hiện việc phá huỷ, cũng như Colijn và Reinderhoff, cũng đã được sơ tán. Vào đêm 20 tháng 1, hai sĩ quan, cùng với 25 người di tản khác đã rời đi Java. Đồng thời, BPM đã gửi một chiếc Grumman Goose để sơ tán các quan chức và nhân viên công ty của họ, lần cuối cùng được thực hiện vào ngày 23 tháng 1. Vào đêm đó, MLD cũng bắt đầu các chuyến đi sơ tán, bắt đầu với hai chiếc Dorniers thuộc Phi đội GVT.4 thực hiện các chuyến đi qua lại giữa Balikpapan và Surabaya. Họ đã sơ tán chỉ huy hải quân của cảng thành phố và nhân viên của ông, cũng như các đội phá huỷ đã phá huỷ địa điểm khoan Samboja. Trong lượt sơ tán tiếp theo vào ngày 22 tháng 1, thêm 2 chiếc Dorniers gia nhập đoàn tàu vận tải, nhưng chỉ có 2 chiếc đổ bộ lên sông Wain và sơ tán 58 nhân viên BPM của đội phá dỡ và nhân viên mặt đất MLD còn lại. Bất chấp những lo ngại về thời tiết xấu và nhiên liệu, các máy bay đã tìm cách hạ cánh xuống Surabaya. Trong số hai chiếc Dorniers khác, một chiếc phải quay trở lại vì thời tiết xấu, trong khi chiếc còn lại bị rơi và phát nổ khi cố gắng hạ cánh xuống Sungai Wain, giết chết 4 trong số 5 phi hành đoàn. Trong suốt quá trình sơ tán, những đám cháy rực rỡ từ thị trấn đã giúp hướng dẫn các máy bay vào, vì chúng có thể nhìn thấy cách đó một giờ bay. Phần còn lại của đội phá dỡ, 87 người châu Âu và 10 người Indo từ BPM và các công ty khác, được hỗ trợ bởi 140 người khuân vác Indo, đã hành quân đến Banjarmasin. Khi quân Nhật cắt đứt tuyến đường, những người khuân vác bỏ chạy và nhóm quyết định chia thành các nhóm nhỏ hơn sẽ cố gắng tiếp cận Samarinda II theo tốc độ của riêng họ. Nhóm lớn nhất cuối cùng đã đến sân bay vào cuối tháng 2 và được sơ tán đến Java và một nhóm khác đến sân bay vào ngày 8 tháng 3, khi Hà Lan đầu hàng. Từ phần còn lại của các nhóm nhỏ, một số đến Banjarmasin bằng perahus (thuyền), hai nhóm đến Java sau khi đầu hàng và một nhóm đến Lombok. Tuy nhiên, cũng có những người bị quân Nhật bắt và giết. Tổng cộng, trong số 87 người châu Âu, 41 người sống sót. Hạm đội đánh chặn (21-23 tháng 1). Lúc 17:00 ngày 21 tháng 1, hạm đội đổ bộ Nhật Bản gồm một tuần dương hạm hạng nhẹ, 10 khu trục hạm, 4 tàu quét mìn, 3 tàu săn ngầm, 3 tàu tuần tra và 16 tàu vận tải rời Tarakan đi Balikpapan. Một chiếc MLD Dornier đã phát hiện ra hạm đội cùng ngày hôm đó, nhưng những đám mây lớn với gió mạnh và mưa kéo dài đã ngăn cản chiếc máy bay theo dõi hạm đội. Vào ngày hôm sau, các tàu ngầm "S-40", "Pickerel", "Porpoise", "Saury", "Spearfish" và "Sturgeon" của Hải quân Hoa Kỳ được lệnh đánh chặn hạm đội. Sau đó, chúng được tham gia bởi các tàu ngầm Hà Lan "K-XIV" và "K-XVIII". "Sturgeon" đã bắn nhiều ngư lôi vào đoàn tàu vận tải và báo cáo đã đánh chìm 3 tàu. Tuy nhiên, hồ sơ sau chiến tranh không xác nhận bất kỳ thiệt hại nào đối với đoàn tàu vận tải. Vào ngày 23 tháng 1, một thuỷ phi cơ PBY Catalina của Mỹ thuộc Phi đội Tuần tra 10 đã phát hiện ra hạm đội lúc 12:20 và theo dõi nó trong một giờ. Từ 16:25, có tới 3 đợt máy bay ném bom Martin B-10 của Hà Lan (tổng cộng 19 chiếc) được hộ tống bởi 12 chiếc Brewster Buffalo đã tấn công hạm đội. Đợt thứ nhất và thứ hai không trúng đích, và nhiều người buộc phải quay trở lại do thời tiết xấu. Trong đợt thứ ba, máy bay Hà Lan đã tấn công "Kawakaze" trong gang tấc, làm hư hại nhẹ tàu vận tải "Tatsugami Maru", và đánh chìm tàu vận tải "Nana Maru", với cái giá phải trả là một máy bay ném bom Martin bị bắn rơi. Bất chấp những cuộc tấn công này, lúc 22:30, quân Nhật bắt đầu đổ bộ lên Balikpapan khi Đơn vị Đột kích của Đại tá Kanauji lên bờ và băng qua vịnh để đổ bộ phía sau tuyến phòng thủ của van den Hoogenband. Sau đó vào lúc 01:40 ngày 24 tháng 1, Đơn vị Chiếm giữ Sân bay và Đơn vị Tấn công của Tướng Sakaguchi lên tàu đổ bộ và cũng bắt đầu đi đến các bãi biển. Lực lượng đổ bộ tham chiến (23-25 tháng 1). Khoảng nửa đêm, các bản báo cáo đến tay van den Hoogenband về sự di chuyển của tàu thuyền ở vịnh Balikpapan, hướng tới vị trí Klandasan. Khói dày đặc từ các cơ sở đang cháy khiến đèn pha Hà Lan gặp khó khăn trong việc quan sát mặt nước phía trước họ, cho phép Đơn vị Đột kích của Kanauji đi thuyền mà không bị cản trở vào sông Wain phía sau phòng tuyến của Hà Lan. Một đội tuần tra Hà Lan nhanh chóng báo cáo việc di chuyển này cho van den Hoogenband, người đã ra lệnh cho Đại đội 2 bảo vệ các khẩu pháo 120 mm của Hà Lan và gửi xe thiết giáp overvalwagen để tuần tra và báo cáo cho bất kỳ hoạt động nào của quân địch trên tuyến đường rút lui nội địa của họ. Vào lúc 03:30 ngày 24, Đơn vị Đột kích tiến vào cửa sông Wain, nơi họ được chào đón bởi 2 sĩ quan cảnh sát Indo hướng dẫn họ vào đất liền. Vào lúc bình minh, Đại đội 2 báo cáo rằng họ đã ngăn chặn được Kanauji đến Balikpapan và đe doạ đến tuyến đường rút lui của họ. Tuy nhiên, vào lúc 06:30, van den Hoogenband nhận được báo cáo về việc quân Nhật tiến về phía đông về phía phòng tuyến của họ, và đến 07:00, quân Nhật đã đến gần vị trí Klandasan. Với rất ít dự bị trong tay, van den Hoogenband suy nghĩ về việc quyết định có nên củng cố vị trí Klandasan, hay cố gắng đột phá qua Đơn vị Đột kích và rút lui vào trong đất liền. Vì có rất ít giá trị trong việc bảo vệ một thành phố đổ nát, van den Hoogenband đã quyết định chọn cách thứ hai. Ông thông báo cho Tổng hành dinh ở Bandung về quyết định của mình và ra lệnh cho quân của mình phá huỷ súng ống, đèn pha và đài phát thanh và tăng cường phòng thủ phía sau cho cuộc đột phá. Đại đội 2 lúc này được lệnh tiến hành tấn công, đánh chiếm và giữ trạm bơm sông Wain để cho phép các lực lượng còn lại rút lui. Sau đó, mặc dù không có báo cáo nào từ họ, van den Hoogenband có ấn tượng rằng Đại đội 2 đã giữ được trạm bơm và các cuộc tuần tra overvalwagen đã giữ cho các tuyến đường rút lui an toàn khỏi quân Nhật. Lúc 09:00, ông tập hợp quân đội của mình và gia đình của họ, tất cả 700 người trong khoảng 100 xe tải và các phương tiện khác. Bị dẫn dắt bởi overvalwagen, họ bắt đầu cuộc tấn công đột phá vào đất liền và rút lui về Batoehampar (Batu Ampar). Lực lượng của Kanauji cuối cùng đổ bộ lúc 17:30 ngày hôm đó. Vào ngày 25, Đơn vị Đột kích tách ra, với một phần tử tiến lên để chiếm trạm bơm, một phần tử khác tiến về phía Balikpapan, và phần còn lại của lực lượng chính di chuyển lên trên con đường giữa Batu Ampar và Balikpapan. Lúc 14:40, khi lực lượng chính tiến vào Batu Ampar, họ đã đánh bại một lực lượng Hà Lan (không rõ, Đại đội 2 hoặc một phần đội quân của van den Hoogenband) và bắt họ làm tù binh, cắt đứt hiệu quả mọi đường rút lui vào đất liền. Trước đó, vào lúc 02:40 ngày 24, các đơn vị chiếm giữ và tấn công sân bay đã hạ cánh mà không gặp bất kỳ sự kháng cự nào và đến rạng sáng, họ đã chiếm được sân bay và các cây cầu. Mặc dù quân đội của van den Hoogenband đã phá huỷ các cây cầu trên con đường ven biển, quân đội của Yamamoto đã đến được đầu phía bắc của Balikpapan vào ban đêm. Đến 04:00 ngày 25, Đơn vị Tấn công tiến vào Balikpapan mà không gặp phải sự kháng cự nào. Sau khi màn đêm buông xuống, Đơn vị Đột kích đã liên kết được với Đơn vị Tấn công khi họ tiến vào thành phố, và với nó, Balikpapan đã nằm trong tay người Nhật. Hải quân tham chiến (24 tháng 1). Khi các lực lượng Nhật Bản lên tàu đổ bộ và tiến đến Balikpapan, tàu ngầm Hà Lan HNLMS "K-XVIII", dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá hải quân Carel A.J. van Well Groeneveld đã chạm trán với đoàn tàu vận tải đổ bộ Balikpapan. Lúc 00:35, van Well Groenveld bắn 3 ngư lôi vào thứ mà ông báo cáo là một "khu trục hạm 1,400 tấn", thực ra là tuần dương hạm "Naka". Sau khi tất cả các quả ngư lôi bắn trượt "Naka", chiếc tàu ngầm đã bắn một quả ngư lôi khác đánh trúng và đánh chìm tàu vận tải "Tsuruga Maru" trong khoảng thời gian từ 00:40 đến 00:45, khiến một thuỷ thủ đoàn và 39 binh lính của Biệt đội Sakaguchi bị bắn hạ. Khi "Naka" và Chi đội Khu trục hạm 4 rời đoàn tàu vận tải để săn lùng "K-XVIII", chúng mở đường cho Hải đoàn Khu trục hạm 59 Hoa Kỳ tấn công đoàn tàu vận tải hiện không được bảo vệ. Đô đốc Thomas Hart, tư lệnh Hạm đội Á châu Hoa Kỳ, đã tập hợp một lực lượng tấn công (Lực lượng Đặc nhiệm 5) khởi hành từ vịnh Koepang (Kupang), Timor vào ngày 20 tháng 1. Dưới quyền chỉ huy của Đô đốc William Glassford và Paul Talbot, nó bao gồm các tuần dương hạm "Boise" và "Marblehead" cùng các khu trục hạm "John D. Ford", "Pope", "Parrott", "Paul Jones", "Pillsbury", và "Bulmer". Glassford phục vụ như là chỉ huy trưởng, trong khi Talbot dẫn đầu các khu trục hạm. Vào thời điểm đó, "Marblehead" chỉ có một turbin còn hoạt động, giới hạn tốc độ của nó ở mức 15 hải lý. Vào ngày 21 tháng 1, "Boise" đâm vào một rạn san hô chưa được khám phá ngoài khơi đảo Kelapa ở eo biển Sape gây ra một vết nứt dài 120 ft trong lườn tàu bên mạn trái của con tàu. Cùng với "Marblehead", 2 tuần dương hạm buộc phải rút lui về vịnh Waworada dưới sự hộ tống của "Bulmer" và "Pillsbury". Từ đây, "Boise" và "Pillsbury" quay trở lại Tjilatjap (Cilacap), trong khi "Marblehead" và "Bulmer" di chuyển về phía Surabaya. 4 khu trục hạm còn lại dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh Talbot tiếp tục hướng về Balikpapan. Để duy trì yếu tố bất ngờ, Talbot ra lệnh cho các khu trục hạm của mình sử dụng ngư lôi làm vũ khí tấn công chính trong đêm đó và chỉ bắn pháo khi chúng đã hết. Được dẫn đường bởi xác tàu "Nana Maru" và đám cháy dữ dội của Balikpapan, Lực lượng Đặc nhiệm 5 tiến vào eo biển Makassar ngay sau nửa đêm ngày 24 tháng 1. Lúc 02:35, chúng chạy thẳng vào đường đi của tuần dương hạm "Naka" và 4 khu trục hạm. Một trong những khu trục hạm báo hiệu một thách thức, nhưng không có câu trả lời nào từ các tàu của Talbot. Gỉa sử rằng chúng là những con tàu thân thiện, các khu trục hạm Nhật Bản đã vượt qua Lực lượng Đặc nhiệm 5 mà không gây ra bất kỳ báo động nào. Mười phút sau, Talbot phát hiện ham đội vận tải Nhật Bản, bị che khuất bởi ánh lửa từ các mỏ dầu đang bốc cháy trước mặt họ và được bảo vệ bởi 3 tàu tuần tra, 4 tàu quét mìn và 4 tàu săn ngầm. Lúc 02:57, "W-15" phát hiện các khu trục hạm, nhưng cho rằng đó là "Naka". "Parrott", tiếp nối bởi "John D. Ford" và "Paul Jones", đã bắn tổng cộng 7 quả ngư lôi vào chiếc tàu quét mìn, nhưng tất cả đều bị trượt do góc bắn kém. Khi chúng đi đến đầu phía bắc của hạm đội vận tải, "Parrott" đã bắn 3 quả ngư lôi vào lúc 03:00, đánh trúng "Sumanoura Maru" và gây ra một vụ nổ lớn đánh chìm con tàu, vì nó đang mang theo mìn sâu và mìn vào lúc đó. Không lâu sau đó, "W-15" báo động cho Đô đốc Nishimura rằng hạm đội vận tải đang bị tấn công. Bất chấp báo động, ông từ chối tin rằng tàu địch có thể xâm nhập vào nơi neo đậu và cho rằng cuộc tấn công phải đến từ "K-XVIII". Giữa sự hỗn loạn mới được tạo ra, "Pope", "Parrott" và "Paul Jones" đã bắn tổng cộng 10 quả ngư lôi vào lúc 03:06, một trong số đó đánh trúng "Tatsugami Maru". Kết hợp với thiệt hại từ cuộc không kích của Hà Lan vào ngày hôm trước, con tàu chở đầy đạn dược đã phát nổ và chìm 30 phút sau đó. Talbot sau đó quay Lực lượng Đặc nhiệm 5 về phía nam lúc 03:14, nhằm tấn công vào đầu phía nam của hạm đội. 5 phút sau, "Pope" và "Parrott" bắn 5 quả ngư lôi vào thứ mà họ cho là một khu trục hạm, nhưng thực ra là tàu tuần tra "P-37". Chiếc khu trục hạm cũ trong Thế chiến 1 đã trúng 3 quả ngư lôi làm hư hại nặng con tàu và giết chết 35 thuỷ thủ đoàn. "John D. Ford" và "Paul Jones" tiếp nối bằng một cuộc tấn công vào "Kuretake Maru", nhưng nó đã tránh được 2 quả ngư lôi đầu tiên. Một quả ngư lôi thứ hai từ "Paul Jones" sau đó đánh trúng giữa tàu và chiếc tàu vận tải nhanh chóng bị chìm. "Pope", "Parrott", và "Paul Jones" lúc này ra hiệu cho Talbot rằng họ đã sử dụng tất cả ngư lôi của mình, và ông cho phép họ sử dụng pháo 4 inch trên các tàu vận tải. Tuy nhiên, vào lúc này, đội hình của Lực lượng Đặc nhiệm 5 bắt đầu tan rã. "John D. Ford" đi theo hướng tây bắc lúc 03:35, ngay sau đó "Pope". "John D. Ford" sau đó bắn 2 quả ngư lôi cuối cùng vào xác tàu đắm "Tsuruga Maru", trước khi tấn công đồng thời "Kumagawa Maru" và "Asahisan Maru". Đạn pháo từ pháo 4 inch và súng máy cỡ nòng 50 đã bắn thủng cả hai con tàu, giết chết 6 thuỷ thủ đoàn của "Kumagawa Maru" và 50 người của "Asahisan Maru". Tuy nhiên, khi nó làm như vậy, một quả đạn pháo đã bắn trúng phía sau "John D. Ford" vào lúc 03:47, làm bị thương 4 thành viên thuỷ thủ đoàn. Để tránh mắc cạn trong vùng nước cạn, chỉ huy khu trục hạm, Trung tá hải quân Jacob D. Cooper, quay đầu sang mạn trái và quay trở lại để đuổi kịp phần còn lại của Lực lượng Đặc nhiệm 5, vốn đang di chuyển ra khỏi vịnh Balikpapan. "John D. Ford" chỉ đuổi kịp được phần còn lại của Lực lượng Đặc nhiệm 5 lúc 06:42, khi Talbot ra lệnh treo cờ tín hiệu trên chiếc khu trục hạm: WELL DONE. Đến lúc đó, Đô đốc Nishimura và Chi Hạm đội 4 vẫn đang trên một cuộc rượt đuổi ngỗng hoang dã của "K-XVIII" cách đó gần 6 đến 7 km (3 đến 4 dặm). Mãi đến 05:20, cuối cùng ông mới ra lệnh cho Hải đoàn Khu trục hạm 9 cắt đứt lối thoát của Lực lượng Đặc nhiệm 5. Tuy nhiên, vì không ai trong số họ biết được các tàu chiến Mỹ đang ở đâu, Nishimura cuối cùng đã ra lệnh cho các khu trục hạm của Hải đoàn 9 tiếp tục nhiệm vụ trước đó. Khi soái hạm "Naka" của ông đi vào nơi neo đậu để xác định tình trạng của các tàu vận tải, nó được tách khỏi Hải đoàn 9 và gia nhập trở lại lực lượng vận tải một mình. Rút lui về Samarinda II (24 tháng 1-6 tháng 2). Khi đến Batu Ampar, van den Hoogenband nhận ra rằng quân Nhật đã chiếm các điểm phòng thủ dẫn vào trạm bơm. Lực lượng của ông bây giờ phải rút lui qua các trại sơ tán, trên đó hàng trăm phụ nữ và trẻ em, chủ yếu là gia đình của binh lính Indo, tham gia vào đội quân của ông. Vào ngày 25 tháng 1, họ nhận được báo cáo rằng trạm bơm sông Wain đã nằm dưới quyền kiểm soát của Nhật Bản. Xét thấy quân đội của mình đã quá mệt mỏi, van den Hoogenband đã kiềm chế không tấn công trạm bơm và thuyết phục phụ nữ và trẻ em quay trở lại Balikpapan, vì có cơ hội tốt hơn để có được lương thực thực phẩm. Một phần trong số họ đã quay trở lại trại sơ tán, trong khi những người khác ở lại "kampung" (làng) xung quanh sông Wain. 500 binh sĩ còn lại tiếp tục rút lui về phía bắc. Trong suốt cuộc rút lui, quân đội Hà Lan gặp khó khăn trong việc bổ sung trang thiết bị và cung cấp lương thực thực phẩm, vì hầu hết các kho lương thực thực phẩm đã bị quân Nhật chiếm giữ. Mãi cho đến khi họ đến được con đường giữa Mentawir và Semoi, họ mới tìm được kho gạo trong một trại lao động. Vào ngày 3 tháng 2, đội quân đã đến kampung Boeat (Buat), nơi họ có được nhiều nguồn cung cấp hơn, cũng như thông tin tình báo bổ sung. Các quan chức địa phương thông báo cho van den Hoogenband rằng quân Nhật đã chiếm thành phố Samarinda cùng ngày hôm đó, nhưng sân bay Samarinda II vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Hà Lan. Theo lời khuyên của các quan chức, đội quân Hà Lan bây giờ rút lui vào Kota Bangoen (Kota Bangun), nơi có các tàu vận tải có thể đưa họ dọc theo sông Mahakam vào Samarinda II. Những người bệnh từ đội quân được di chuyển bằng thuyền gỗ ("perahu") trực tiếp từ Buat xuôi dòng đến Mahakam. Sau 3 ngày hành quân, van den Hoogenband và 200 binh sĩ đến Kota Bangun vào ngày 5 tháng 2 và đến Samarinda II vào ngày hôm sau. Từ ngày 7 đến ngày 8 tháng 2, họ được đưa đến Java, mặc dù một số lính bộ binh từ đội quân cuối cùng đã tăng cường cho đơn vị đồn trú bảo vệ sân bay. Các cuộc không kích vào Balikpapan của Đồng minh (24-30 tháng 1). Trong và sau khi chiếm đóng Balikpapan, Không quân ABDA, chủ yếu là Hà Lan, tiến hành các cuộc không kích hàng ngày từ sân bay Samarinda II để quấy rối, nếu không muốn nói là đánh bật quân đội Nhật Bản. Vào ngày 24 tháng 1, đợt không kích đầu tiên nhắm vào quân Nhật bắt đầu vào lúc 07:15, bao gồm 10 máy bay ném bom Martin B-10 thuộc Phi đội 1-VLG-I được hộ tống bởi 14 chiếc Buffalo thuộc các Phi đội 1-VLG-V và 2-VLG-V. Bất chấp hoả lực phòng không dữ dội của Nhật Bản, không có máy bay Hà Lan nào bị bắn rơi. Các phi công Hà Lan tuyên bố rằng họ đã đánh chìm một tàn vận tải, làm hư hại một chiếc khác và tấn công khu trục hạm "Kawakaze" một lần nữa. Tuy nhiên, các báo cáo của Nhật Bản cho thấy cuộc tấn công đã không làm hư hại hoặc đánh chìm một con tàu nào. Vào khoảng 08:00, 3 chiếc Zero của Hải quân Nhật Bản hoạt động ngoài khơi Tarakan tiến hành một cuộc bắn phá xuống sân bay Samarinda II. Một chiếc KNILM DC-3 với 3 người sơ tán BPM trên máy bay đã bị mắc kẹt nhưng đã tìm cách rơi xuống rừng rậm. Một nhóm người Dayak và một nhà truyền giáo sau đó đã cứu họ, mặc dù một trong những người sơ tán BPM đã chết vì vết thương trước đó. Hoả lực phòng không của Hà Lan từ sân bay đã bắn rơi một chiếc Zero còn nguyên vẹn, do đó cho phép lực lượng Hà Lan có được thông tin về điểm mạnh và điểm yếu của chiếc máy bay tiêm kích. Từ 09:00 đến 09:50, 8 chiếc B-17 Flying Fortresses thuộc Liên đội Ném bom 7 và 19 Hoa Kỳ khởi hành từ Malang đã tấn công các con tàu đang thả neo. Những chiếc B-17 đã bắn rơi 2 chiếc Zero đánh chặn đội hình, với cái giá phải trả là 3 máy bay ném bom bị hư hại nhẹ và không có phát bắn trúng nào. Cuối buổi chiều, 14 chiếc Buffalos thuộc Phi đội 1-VLG-V theo sau là 10 chiếc Martin B-10 bay từ Samarinda II để trinh sát và bắn phá các vị trí của quân Nhật. Những đám mây dày đặc và hoả lực phòng không Nhật Bản đã phân tán đội hình và cuộc tấn công không bắn trúng mục tiêu nào, nhưng chúng đã bắn rơi được 2 máy bay trinh sát Mitsubishi F1M 'Pete'. Khi đợt tấn công đổ bộ lúc 15:30, 6 chiếc Zero và 1 chiếc Bab đã bắt được chúng trong một cuộc đột kích thứ hai. 3 chiếc Zero đã bắn phá và phá huỷ 3 chiếc Martin B-10. 3 chiếc Buffalo thuộc Phi đội 1-VLG-V đã cố gắng đánh bật các máy bay tiêm kích, nhưng những chiếc Zero đã bắn rơi 2 chiếc trong số đó. Một chiếc Zero cuối cùng bị hư hại nặng do hoả lực phòng không và rơi xuống biển. Vào ngày hôm sau, cuộc tấn công bắt đầu với việc bố trí 9 chiếc Martin B-10 thuộc Phi đội 1-VLG-I. Một lần nữa, thời tiết xấu đã làm phân tán đội hình. Khi các máy bay ném bom đi đến Balikpapan lúc 08:00, chúng ngay lập tức đối đầu với 4 chiếc Zero. Trong một trận không chiến kéo dài 25 phút, những chiếc Zero đã bắn rơi một chiếc Martin và làm hư hại 3 chiếc khác, trong khi mất một chiếc do hoả lực phòng thủ của máy bay ném bom. Các máy bay ném bom còn lại sau đó được chuyển đến sân bay Oelin ở Banjarmasin. Người Hà Lan cũng gửi 6 chiếc Buffalo thuộc Phi đội 2-VLG-V để trinh sát vũ trang xung quanh Balikpapan. Chuyến bay không mang lại kết quả vì các lớp khói dày đặc và mưa dày đặc che khuất tầm nhìn của phi công. Ngay sau khi Buffalo quay trở lại vào khoảng 09:30, 27 máy bay ném bom Mitsubishi G4M 'Betty' đã bắn phá Samarinda II từ độ cao 21,000 ft (6,500 m), khiến chúng không thể chọc thủng hệ thống phòng không của Hà Lan. 3 chiếc Buffalo cất cánh và cố gắng đánh chặn chúng, nhưng chúng không gây hư hại hay bắn rơi bất kỳ máy bay ném bom nào. Cuộc đột kích khiến đường băng của Samarinda II không thể sử dụng được một phần và làm hư hại 2 chiếc Buffalo. Sau đó lúc 15:30, 4 chiếc Zero và 1 chiếc Bab bắn phá sân bay và tiêu diệt một chiếc Martin và một chiếc Buffalo. Người Mỹ tiếp nối cuộc tấn công này bằng cách gửi 8 chiếc B-17 thuộc Liên đội Ném bom 7 và 19 lúc 11:00. Thời tiết xấu buộc 4 chiếc phải quay trở lại Malang trên đường đi, với 3 trong số 4 chiếc cuối cùng đã hạ cánh khẩn cấp lên bãi biển của đảo Madura do thiếu nhiên liệu. Gặp số phận tương tự như những chiếc máy bay Hà Lan trước đó, những chiếc Flying Fortresses còn lại nhanh chóng bị những chiếc Zero đánh chặn. Hệ thống phòng thủ của B-17 đã bắn rơi được 2 chiếc trong số đó, nhưng một trong 4 chiếc B-17 bị hư hại nặng đến nỗi nó phải hạ cánh khẩn cấp xuống Oelin. Đến cuối ngày, các cuộc tấn công không gây ra bất kỳ thiệt hại hay tổn thất nào cho hạm đội Nhật. Cuộc đột kích tiếp theo diễn ra hai ngày sau đó, vì mây che phủ dày đặc đã ngăn cản cả Nhật Bản và Đồng minh tiến hành bất kỳ một cuộc tấn công nào. Trước đó, ML-KNIL đã rút phần lớn những chiếc Martin B-10 và Buffalo của họ khỏi Borneo từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 1, vì phát hiện Samarinda II đã trơ nên vô dụng. Những chiếc Martin được rút về Makassar vào ngày 25 tháng 1, từ đón chúng bay đến Bandoeng (Bandung) vào ngày hôm sau. Mặt khác, Buffalo rút lui về Banjarmasin trước khi bay đến Surabaya. Vào ngày 26 tháng 1, Bộ Tư lệnh ABDAIR ra lệnh cho ML-KNIL và Bộ Chỉ huy ném bom 5 của Không lực Hoa Kỳ tiếp tục các cuộc ném bom xuống Balikpapan. Vào ngày 27, Liên đội 7 và 19 gửi 6 chiếc Flying Fortresses từ Malang. Cho dù một trong số chúng phải quay trở lại do thời tiết xấu, lúc 13:00, các máy bay ném bom đã bắn trúng chiếc tàu chở thuỷ phi cơ "Sanuki Maru", buộc nó phải rút lui về eo biển Makassar. Cùng lúc đó, 6 chiếc Zero và một chiếc Bab từ Tarakan không kích hạm đội Martin B-10 tại Oelin vẫn được giao nhiệm vụ tiếp tục các cuộc tấn công lên Balikpapan. Những nỗ lực của Hà Lan nhằm bắn hạ những kẻ đột kích bằng súng máy Lewis và trung liên của họ đã thất bại, và tất cả 6 chiếc Martin của Phi đội 3-VLG-III đều bị tiêu diệt. Ngoài ra, 3 chiếc Martin khác của Phi đội 1-VLG-I cũng bị hư hại nặng. Do sự tổn thất này, ABDAIR chỉ có thể phụ thuộc vào người Mỹ và các máy bay ném bom hạng nặng của họ tiếp tục nhiệm vụ. Hai ngày sau, 5 chiếc Flying Fortresses thực hiện một cuộc tấn công khác vào hạm đội Nhật Bản. Một trong những chiếc máy bay ném bom quay trở lại trên đường đi, trong khi 4 chiếc còn lại bị 13 chiếc Zero tấn công trong 30 phút trên bầu trời Balikpapan. Một chiếc B-17 bị rơi trên chuyến bay trở về do hư hại. Người Mỹ tin rằng họ đã bắn hạ được 6 chiếc Zero, nhưng hồ sơ của Nhật Bản chỉ ra rằng chỉ có một chiếc bị bắn hạ, và một chiếc khác bị hư hại khi hạ cánh xuống sân bay Manggar. Một ngày sau đó, Liên đội Ném bom 19 tiến hành hai cuộc không kích riêng biệt, cả hai đều không gây ra bất kỳ thiệt hại nào. Cuộc không kích đầu tiên trong ngày của 3 chiếc B-17 đã không thành công, vì cả 3 máy bay ném bom phải quay trở lại trên đường đi do thời tiết xấu và hỏng động cơ. Cuối đêm hôm đó, 2 máy bay ném bom LB-30 đã tấn công từng hạm đội, cách nhau khoảng một giờ, nhưng không có kết quả. Cuộc tấn công ban đêm này là nỗ lực cuối cùng của Đồng minh nhằm ngăn chặn bước tiến của hạm đội Nhật Bản trong bối cảnh trận Balikpapan. Sau khi hoàn thành việc chiếm đóng khu vực đô thị của Balikpapan vào ngày hôm trước, Biệt đội Sakaguchi bắt đầu càn quét mọi sự kháng cự còn lại của Hà Lan và thiết lập sân bay Manggar vào ngày 26 tháng 1. Mặc dù người Hà Lan đã phá huỷ hoàn toàn các nhà máy lọc dầu và các cơ sở hỗ trợ khác, các chi tiết phòng thủ của Nhật Bản đã cố gắng sửa chữa các mỏ dầu và giữ cho chúng hoạt động từ tháng 6 năm 1942 đến tháng 8 năm 1943, khi các cuộc không kích đầu tiên của Đồng minh bắt đầu bắn phá chúng một lần nữa. Với chỉ số octan cao, nhà máy lọc dầu Balikpapan đã được sử dụng rất nhiều để hỗ trợ các hoạt động quân sự của Nhật Bản tại Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương. Sân bay Manggar được sửa chữa vào ngày 27 tháng 1 và vào ngày hôm sau, 9 chiếc Zero của Chi đội Không quân 23 đã hạ cánh xuống đây, và nó được thành lập tổng hành dinh tại sân bay vào ngày 30. Biệt đội Sakaguchi cũng đặt lực lượng chính và thành lập một chính quyền quân sự trong thành phố. Tổng cộng, tổn thất của Biệt đội Sakaguchi trong chiến dịch là 8 người chết trên đất liền và 39 người trên biển (khi "Tsuruga Maru" bị đánh chìm). Đối với Hải quân Nhật Bản, ít nhất 121 thuỷ thủ thiệt mạng. Tổng cộng, tổn thất vật chất của Nhật Bản là (khung trình bày hàng hoá của tàu): Bị hư hại nặng: Bị hư hại nhẹ: Trong số 1,100 quân phòng thủ Hà Lan, chỉ có 200 người đến được Samarinda II vào ngày 6 tháng 2, nơi phần lớn trong số họ đã được sơ tán đến Java. Trong trận hải chiến, Lực lượng Đặc nhiệm 5 đã tiêu hao 48 ngư lôi, nhưng chỉ đánh chìm được 4 trong số 12 tàu vận tải với 7 phát trúng đích được xác nhận (tỷ lệ thành công 15%). Hiệu suất kém này chủ yếu là do ngư lôi Mark 15 không đánh tin cậy có xu hướng chạy sâu hơn so với đặt hoặc trở nên ngu ngốc khi bắn trúng mục tiêu. Chỉ huy Talbot cũng bị chỉ trích vì tấn công các tàu vận tải ở tốc độ cao, điều này có thể làm giảm độ chính xác của ngư lôi, vốn được vận hành bởi các thuỷ thủ đoàn thiếu kinh nghiệm. Mặc dù trận chiến không có bất kỳ tác dụng nào trong việc ngăn chặn việc chiếm đóng Balikpapan, nhưng đây vẫn là trận chiến trên mặt nước đầu tiên ở Đông Nam Á mà Hải quân Mỹ tham gia kể từ Trận chiến vịnh Manila năm 1898. Thành công của nó đã giúp thúc đẩy tinh thần của người Mỹ và cho người Hà Lan biết rằng đồng minh của họ không né tránh một cuộc chiến nào. Balikpapan vẫn nằm dưới sự kiểm soát của người Nhật cho đến thánh 7 năm 1945, khi thành phố được giải phóng bởi quân đội Úc.
Warner Bros. Discovery, Inc. (WBD) là một tập đoàn giải trí và truyền thông đại chúng đa quốc gia của Mỹ có trụ sở chính tại thành phố New York. Nó được thành lập sau khi ATT tách WarnerMedia và sáp nhập với Discovery, Inc. vào ngày 8 tháng 4 năm 2022. Tài sản của công ty được chia thành chín đơn vị kinh doanh, bao gồm hãng phim và truyền hình hàng đầu của Warner Bros., nhà xuất bản truyện tranh DC Entertainment, Home Box Office, Inc. (bao gồm HBO), U.S. Networks (bao gồm phần lớn các công ty quảng cáo). các mạng cáp được hỗ trợ của những người tiền nhiệm của nó, bao gồm Discovery, Scripps Networks, Turner Broadcasting và Warner), CNN, Sports (bao gồm Motor Trend Group, ATT SportsNet, TNT Sports và Eurosport, trong số những người khác), Global Streaming Interactive Entertainment (trong đó bao gồm các dịch vụ phát trực tuyến Discovery+ và Max cũng như nhà phát hành trò chơi điện tử Warner Bros. Games) và Mạng quốc tế. Nó cũng nắm giữ cổ phần thiểu số trong The CW và phần lớn cổ phần trong Food Network (bao gồm cả mạng phụ của nó Cooking Channel), tất cả đều cùng với Nexstar Media Group và trước đây cùng với Paramount Global.
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1997) là một đô vật vật tự do người Việt Nam. Cô ấy đã giành được 1 huy chương vàng tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á và 1 huy chương đồng tại Đại hội Thể thao châu Á. Phạm Thị Mỹ Hạnh giành được 1 huy chương đồng ở nội dung Vật tự do nữ hạng cân 62 kg tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 được tổ chức tại Jakarta, Indonesia. Vào thời điểm đó, cô ấy đã thua ở trận tranh huy chương đồng trước đô vật Risako Kawai của Nhật Bản, nhưng sau đó, Mỹ Hạnh được trao huy chương đồng sau khi người dành huy chương vàng ban đầu, Pürevdorjiin Orkhon của Mông Cổ, bị tước huy chương sau khi có xét nghiệm dương tính với chất cấm. 2019, Phạm Thị Mỹ Hạnh giành được huy chương vàng ở nội dung Vật tự do nữ hạng cân 62 kg tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á được tổ chức tại Philippines.
Fromage blanc (; ]; hay còn được biết đến với cái tên maquée) là một loại pho mát tươi có nguồn gốc xuất xứ từ phía Bắc nước Pháp và phía Nam nước Bỉ. Cái tên này có nghĩa là "pho mát trắng" trong tiếng Pháp. "Fromage frais" ("pho mát tươi") khác so với "fromage blanc" trong đó, theo pháp luật của Pháp, "fromage frais" phải chứa vi khuẩn sống khi bán, trong khi với "fromage blanc", quá trình lên men đã bị ngưng lại. "Fromage blanc" là một loại phô mai mềm được làm từ sữa nguyên chất hoặc tách béo và kem. Đây là một chất bán lỏng, dạng kem, sệt. "Fromage blanc" nguyên chất hầu như không chứa chất béo, nhưng kem thường được thêm vào để tăng thêm hương vị, điều này cũng làm tăng thêm hàm lượng chất béo, lên tới 8% tổng trọng lượng.#đổi "Fromage blanc" có thể được phục vụ như món tráng miệng tương tự như sữa chua, thường được thêm trái cây, phết lên bánh mì, làm mứt hoặc dùng trong các món mặn. Ở nhiều nước phương Tây, "fromage blanc" được bán trong siêu thị cùng với sữa chua.
Anh ấy giành được 1 tấm huy chương đồng ở nội dung xà kép nam tại Đại hội Thể thao châu Á được tổ chức ở Incheon, Hàn Quốc. 2015, Đinh Phương Thành giành được 4 tấm huy chương vàng tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á được tổ chức ở Singapore. Năm 2018, anh tham gia thi đấu tại Đại hội Thể thao châu Á được tổ chức tại Jakarta, Indonesia. 2019, Đinh Phương Thành giành được huy chương vàng ở nội dung xà kép nam và ở nội dung xà đơn nam tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á được tổ chức tại Philippines. Anh ấy cũng giành được 1 tấm huy chương đồng tại nội dung ngựa tay quay nam.
Grégory Proment (sinh ngày 10 tháng 12 năm 1978) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp đã từng thi đấu ở vị trí tiền vệ. Trong suốt cả sự nghiệp, anh ta đã từng thi đấu cho những câu lạc bộ như: Metz, Caen, và Antalyaspor. Anh hiện đang là huấn luyện viên của Seraing tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ. Sự nghiệp thi đấu. Sinh ra tại Cormeilles-en-Parisis, Val-d'Oise, Proment dành ra phần lớn sự nghiệp tại câu lạc bộ FC Metz với 261 lần ra sân trong 6 mùa giải, và Stade Malherbe Caen. Sau khi giành quyền thăng hạng Ligue 2 với Caen, Proment ký hợp đồng 3 năm với Antalyaspor vào tháng 6 năm 2010. Tuy nhiên, anh ta rời câu lạc bộ vào tháng 1 năm 2011 sau khi chỉ có 8 lần ra sân tại giải quốc nội. Sự nghiệp thi đấu quốc tế. Proment đã từng giành chức vô địch tại Giải vô địch bóng đá U‑19 châu Âu 1997 với U-18 Pháp. Sự nghiệp huấn luyện viên. Vào tháng 6 năm 2023, Proment được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ Seraing. Proment trước đây đã làm việc tại câu lạc bộ với tư cách trợ lý huấn luyện viên.
Âu Đại Nhậm (chữ Hán: 歐大任, 1516 – 1595) tự Trinh Bá, hiệu Luân Sơn, là học giả và quan lại thời Minh. Ông sinh vào ngày 9 tháng 11 năm Chính Đức thứ 11 (1516) tại thôn Trần huyện Thuận Đức tỉnh Quảng Đông, hiếu học từ nhỏ, giỏi từ phú, thích thể thao, thạo đá cầu và đấu kiếm. Năm 14 tuổi, ông được bổ làm tuế cống sinh, theo học thầy Hoàng Tá cùng các bạn học khác là Lương Hữu Dự, Lê Dân Biểu và Lương Thiệu Chấn. Tám lần đều trượt kỳ thi hương. Năm Gia Tĩnh thứ 42 (1563), ông bốn mươi bảy tuổi lấy tư cách tuế cống sinh thi tại đại đình, xếp hạng nhất. Âu Đại Nhậm từng làm quan huấn đạo Giang Đô, học chính Quang Châu, trợ giáo Quốc tử giám và Đại lý tự bình sự. Năm Vạn Lịch thứ 12 (1584), từ quan về quê nghỉ hưu khi đang là Lang trung và Viên ngoại lang Công bộ Nam Kinh. Ông nổi tiếng vì tài thơ ca, cùng với Lương Hữu Dự, Ngô Đán, Lê Dân Biểu và Lý Thời Hành được người đời mệnh danh là "Nam Viên hậu ngũ tử". Ngày 1 tháng 11 năm Vạn Lịch thứ 23 (1595), ông qua đời hưởng thọ 80 tuổi. Trước tác gồm có "Âu Ngu Bộ văn tập" 22 quyển và "Bách Việt tiên hiền chí" 4 quyển.
Âu Ngọc Hồ (ngày 21 tháng 3 năm 1930 – ngày 15 tháng 7 năm 2015) là quan chức, kỹ nghệ gia và giáo sư giảng dạy Viện Đại học Huế. Ông từng giữ chức Tổng trưởng Bộ Kinh tế Việt Nam Cộng hòa dưới thời Đệ Nhị Cộng hòa. Âu Ngọc Hồ chào đời vào ngày 21 tháng 3 năm 1930 tại Huế, Trung Kỳ, Liên bang Đông Dương.:313 Năm 1968, ông được bổ nhiệm làm Tổng trưởng Bộ Kinh tế trong nội các Trần Văn Hương.:313 Năm 1981, quản lý cấp cao của Công ty Bách hóa Broadway ở Los Angeles nước Mỹ là giáo sư Nguyễn Thanh Trang đề nghị thành lập "Hội Thân hữu Viện Đại học Huế". Bốn mươi cựu giáo sư Viện Đại học Huế, trong đó có vợ chồng cựu hiệu trưởng Lê Thanh Minh Châu, trưởng ban giáo vụ Lê Văn và giáo sư Âu Ngọc Hồ, đã tham dự buổi họp mặt tổ chức tại Mission Viejo, Quận Cam, và quyết định thành lập Hội Thân hữu Viện Đại học Huế, giáo sư Nguyễn Thanh Trang từng là chủ tịch đầu tiên của hội này. Năm 1984, Âu Ngọc Hồ kế nhiệm giáo sư Nguyễn Thanh Trang lên làm chủ tịch hội. Về sau, Hội Thân hữu Viện Đại học Huế gần như ngừng hoạt động vì những lý do đột xuất. Ông qua đời tại Rancho Palos Verdes, California, Mỹ vào ngày 15 tháng 7 năm 2015.
Nguyễn Phương Nhi (sinh ngày 21 tháng 4 năm 2002) là một người mẫu, á hậu người Việt Nam. Cô đạt danh hiệu Á hậu 2 Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2022 và đại diện Việt Nam dự thi Hoa hậu Quốc tế 2023. Phương Nhi sinh năm 2002, tại Thanh Hóa, cô được nhiều người đánh giá cao về học thức. Người đẹp đang theo học chuyên ngành Luật thương mại Quốc tế tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Cô có thể giao tiếp bằng tiếng Anh, Tây Ban Nha. Hồi cấp ba, Phương Nhi từng nhiều năm liền nằm trong đội tuyển tiếng Anh của THPT Hàm Rồng. Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2022. Tối 12 tháng 8, trong đêm chung kết Hoa hậu Thế giới Việt Nam diễn ra tại Quy Nhơn, Bình Định, Phương Nhi đã xuất sắc đoạt ngôi vị Á hậu 2 bên cạnh Hoa hậu Huỳnh Nguyễn Mai Phương và Á hậu 1 Lê Nguyễn Bảo Ngọc. Cô cũng gây ấn tượng mạnh với công chúng bởi nhan sắc khả ái khi là một trong những thí sinh có gương mặt đẹp nhất cuộc thi. Hoa hậu Quốc tế 2023. Chiều 18 tháng 5, giám đốc quốc gia cuộc thi Hoa hậu Quốc tế tại Việt Nam - bà Phạm Thị Kim Dung thông báo cô sẽ trở thành đại diện tiếp theo của Việt Nam tham gia Hoa hậu Quốc tế 2023 diễn ra ở Tokyo, Nhật Bản. Trong đêm chung kết, cô dừng chân ở vị trí Top 15 người đẹp nhất và xếp hạng 9 chung cuộc.
Lê Nguyễn Ngọc Hằng Lê Nguyễn Ngọc Hằng (sinh ngày 8 tháng 12 năm 2003) là một á hậu, người mẫu, người dẫn chương trình người Việt Nam. Cô giành ngôi vị Á hậu 2 tại cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2022 cùng với giải phụ "Người đẹp Tài năng" Trước đó cô từng lọt vào Top 10 Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2022. Cô đại diện Việt Nam dự thi Hoa hậu Liên lục địa 2023 và đạt danh hiệu Á hậu 2 Hoa hậu Liên lục địa 2023, cùng danh hiệu "Hoa Hậu Liên lục địa châu Á châu Đại Dương 2023." Lê Nguyễn Ngọc Hằng (sinh năm 2003) sinh ra và lớn lên tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cô từng là cựu học sinh của trường THPT Trưng Vương. Đồng thời có 12 năm đạt được danh hiệu học sinh giỏi. Hiện tại, cô đang là sinh viên của trường Đại học Western Sydney của Australia. Ngọc Hằng còn là thành viên của một số chương trình, dự án cộng đồng như dự án phi lợi nhuận hướng về người cao tuổi như The Elderly of Saigon, dự án hướng nghiệp và chia sẻ kỹ năng ứng tuyển đến nhân tài trẻ VOCO C Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2022. Ngọc Hằng từng tham gia cuộc thi Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2022 tại Quy Nhơn, Bình Định. Cô dừng chân ở Top 10 chung cuộc cùng các thành tích Top 5 "Người đẹp Biển", Top 9 "Người đẹp Thể thao". Đăng quang ngôi vị cao nhất là Huỳnh Nguyễn Mai Phương, Á hậu 1 là Lê Nguyễn Bảo Ngọc và Á hậu 2 là Nguyễn Phương Nhi. Hoa hậu Việt Nam 2022. Cô tiếp tục tham dự và đã đạt danh hiệu Á hậu 2 chung cuộc bên cạnh Hoa hậu Huỳnh Thị Thanh Thủy và Á hậu 1 Trịnh Thùy Linh. Đồng thời trong cuộc thi, cô đã chiến thắng phần thi "Người đẹp Tài năng" và có mặt trong Top 3 "Người đẹp Thể thao". Hoa hậu Liên lục địa 2023. Với danh hiệu Á hậu 2 Hoa hậu Việt Nam 2022, cô đã được chỉ định là đại diện Việt Nam tham gia Hoa hậu Liên lục địa 2023 được tổ chức vào ngày 15 tháng 12 năm 2023 tại Ai Cập và giành ngôi vị Á hậu 2
Cerro Rico (tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "Núi giàu có"), Cerro Potosí ("Núi Potosí") hoặc Sumaq Urqu (tiếng Quechua "sumaq" "đẹp, tốt, dễ chịu", "urqu" "ngọn núi", là một ngọn núi thuộc dãy Andes gần thành phố Potosí của Bolivia. Cerro Rico, được mọi người quan niệm là được "làm từ" quặng bạc, nổi tiếng vì đã cung cấp số lượng lớn bạc cho Đế quốc Tây Ban Nha, phần lớn trong số đó được chuyển về Tây Ban Nha. Người ta ước tính rằng 85% lượng bạc được sản xuất ở trung tâm Andes trong thời gian này đến từ Cerro Rico. Do hoạt động khai thác mỏ trên núi, thành phố Potosí trở thành một trong những thành phố lớn nhất ở Tân Thế giới. Tương truyền rằng anh hùng cách mạng Simón Bolívar đã từng phất cờ từ trên đỉnh ngọn núi đồ sộ này trong thời khắc lịch sử tượng trưng cho sự thành lập một quốc gia mới. Chỉ một năm sau, quốc hội quyết định đổi màu cờ thành màu vàng-đỏ-lục và bao gồm một huy hiệu có biểu tượng Thần ưng Andes, Lạc đà Alpaca và núi Cerro Rico. Cerro Rico de Potosí là nguồn bạc dồi dào nhất trong lịch sử loài người. Việc khai thác quặng khoáng sản ở Cerro Rico de Potosí bắt đầu vào năm 1545 bởi Đế quốc Tây Ban Nha. Giữa thế kỷ XVI và XVIII, 80% nguồn cung cấp bạc của thế giới được khai thác từ mỏ này. Sau nhiều thế kỷ áp dụng các phương pháp khai thác khoáng sản đã hủy hoại nghiêm trọng hệ sinh thái địa phương, ngọn núi vẫn tiếp tục được khai thác để lấy bạc cho đến ngày nay. Do điều kiện lao động tồi tệ, chẳng hạn như thiếu thiết bị bảo hộ chống hít phải bụi liên tục, nhiều thợ mỏ mắc bệnh bụi phổi silic. Ngọn núi vẫn đóng góp đáng kể cho nền kinh tế của thành phố, sử dụng khoảng 15.000 thợ mỏ. Do quá trình khai thác kéo dài hàng thế kỷ, vào năm 2011, một hố sụt trên đỉnh núi đã xuất hiện và phải được lấp đầy bằng xi măng siêu nhẹ. Đỉnh cũng tiếp tục chìm vài centimet mỗi năm. Vào năm 2014, UNESCO đã thêm Cerro Rico và Potosí vào danh sách các địa điểm có nguy cơ biến mất do "các hoạt động khai thác không được kiểm soát" có nguy cơ "làm suy giảm địa điểm".
Xổ số tại Hoa Kỳ Tại Hoa Kỳ, các xổ số được điều hành bởi 48 đơn vị: 45 tiểu bang cùng với Quận Columbia, Puerto Rico, và Quần đảo Virgin thuộc Mỹ. Các xổ số phải tuân thủ pháp luật và được vận hành độc lập bởi mỗi đơn vị, và không có tổ chức xổ số quốc gia. Tuy nhiên, các liên minh của các xổ số tiểu bang thường cùng tổ chức các trò chơi trải rộng trên diện tích địa lý lớn hơn, và các trò chơi này thường có giải thưởng lớn hơn. Hai trò chơi xổ số lớn, Mega Millions và Powerball, đều được cung cấp ở gần hết tất cả các đơn vị vận hành xổ số, và chúng hoạt động như xổ số quốc gia "thực tế". Vào năm tài chính 2018, người Mỹ đã chi tiêu 77,7 tỷ đô la cho các xổ số khác nhau, tăng khoảng 5 tỷ đô la so với năm 2017. Nhà sử học Neal Millikan đã sử dụng các quảng cáo trên báo trong thời kỳ thuộc địa để tìm thấy ít nhất 392 cuộc xổ số đã được tổ chức trong 13 thuộc địa. Xổ số không chỉ được sử dụng như một hình thức giải trí mà còn là một nguồn thu để giúp tài trợ cho các thuộc địa. Các nhà tài trợ của Jamestown, Virginia, ví dụ, đã tài trợ các cuộc xổ số để kiếm tiền để hỗ trợ thuộc địa của họ. Những cuộc xổ số này khá tinh vi cho thời kỳ đó và thậm chí còn bao gồm các người chiến thắng ngay lập tức. Không lâu sau đó, mỗi trong số 13 thuộc địa ban đầu đã thành lập một hệ thống xổ số để tăng thu nhập. Trong giai đoạn sau độc lập sớm, các nhà lập pháp thường ủy quyền cho các cuộc xổ số để tài trợ cho các trường học, đường phố, cầu và các công trình công cộng khác. Những nhà cải cách tín hữu trong những năm 1830 bắt đầu lên án các cuộc xổ số dựa trên lý do đạo đức và kiến nghị với các cuộc họp đại biểu và hội nghị hiến pháp để cấm chúng. Các vụ bê bối liên tục liên quan đến xổ số và sự phản đối chung đối với tham nhũng của quốc hội sau Panic of 1837 cũng góp phần vào tình thế phản đối xổ số. Chỉ từ năm 1844 đến 1859, có 10 hiến pháp mới của các tiểu bang chứa đựng lệnh cấm xổ số. Đến năm 1890, xổ số đã bị cấm ở tất cả các tiểu bang trừ Delaware và Louisiana. Các xổ số ở Hoa Kỳ không phải lúc nào cũng có danh tiếng tốt. Một cuộc xổ số sớm nhất đặc biệt là Quốc gia, được Quốc hội thông qua với mục đích trang trí Washington, D.C. và được chính quyền địa phương quản lý, đã trở thành chủ đề của một vụ án quan trọng tại Tòa án Tối cao Hoa Kỳ - "Cohens v. Virginia". Cuộc xổ số này không bao giờ trả thưởng,#đổi và nó đã làm nổi lên vấn đề phổ biến về sự gian lận trong các cuộc xổ số ở Hoa Kỳ. Cuộc biểu tình phản đối xổ số cuối cùng đã bùng nổ khi, đến năm 1860, tất cả các tiểu bang đã cấm xổ số trừ Delaware, Missouri và Kentucky. Sự hiếm hoi của các cuộc xổ số ở Hoa Kỳ có nghĩa là vé được vận chuyển qua cả nước và cuối cùng dẫn đến sự hình thành các cuộc xổ số bất hợp pháp. Năm 1868, sau nhiều năm hoạt động bất hợp pháp, Công ty Xổ số Louisiana đã được cấp giấy phép 25 năm cho hệ thống xổ số tiểu bang. Giấy phép này được Quốc hội thông qua do sự hối lộ mạnh từ một tổ chức tội phạm ở New York. Công ty Xổ số Louisiana thu được 90% doanh thu từ việc bán vé qua các biên giới tiểu bang. Những vấn đề tham nhũng tiếp tục này đã dẫn đến việc cấm hoàn toàn các cuộc xổ số ở Hoa Kỳ vào năm 1895. Đã được phát hiện rằng các nhà tài trợ của Công ty Xổ số Louisiana đã tích lũy số tiền khổng lồ từ các nguồn không hợp pháp và Quốc hội đầy tham nhũng. Trước khi có xổ số được tài trợ bởi chính phủ, nhiều cuộc xổ số bất hợp pháp như trò chơi số đã phát triển mạnh. Thời đại hiện đại. Cuộc xổ số chính phủ đầu tiên được tổ chức ở Hoa Kỳ vào năm 1934 tại Puerto Rico. Một thập kỷ sau đó, vào năm 1964, New Hampshire Lottery được thành lập. Vé xổ số tức thì, còn được gọi là vé cào, đã được giới thiệu vào những năm 1970 và đã trở thành một nguồn thu chính của xổ số. Các cuộc xổ số cá nhân thường có các trò chơi ba số hoặc bốn số tương tự như trò chơi số; một trò chơi năm số, và một trò chơi sáu số (hai trò chơi cuối thường có một jackpot tiến độ.) Một số cuộc xổ số cũng cung cấp ít nhất một trò chơi tương tự như keno, và một số cung cấp các trạm máy xổ số video. Hiện nay, nhiều cuộc xổ số ở Hoa Kỳ hỗ trợ hệ thống giáo dục công. Đến tháng 11 năm 2019, đã có cuộc xổ số ở 45 tiểu bang, Quận Columbia, Puerto Rico và Quần đảo Virgin thuộc Hoa Kỳ; tiểu bang Hoa Kỳ mới nhất hợp pháp hóa xổ số là Mississippi, với thành viên ủy ban xổ số được bổ nhiệm vào ngày 19 tháng 10 năm 2018. Trò chơi xổ số nhiều tiểu bang đầu tiên ở Hoa Kỳ được thành lập vào năm 1985 tại Maine, New Hampshire và Vermont; trò chơi chủ đạo của nó vẫn là Tri-State Megabucks. Năm 1988, Hiệp hội Xổ số Đa tiểu bang (MUSL) được thành lập với Iowa, Kansas, Missouri, Oregon, Rhode Island, West Virginia và Quận Columbia là các thành viên đầu tiên; nó nổi tiếng với trò chơi Powerball, được thiết kế để tạo ra các jackpot lớn. Một cuộc xổ số chung khác, "The Big Game" (hiện được gọi là Mega Millions), được thành lập vào năm 1996 bởi sáu cuộc xổ số làm thành viên đầu tiên. Đến tháng 10 năm 2020, 45 cuộc xổ số tiểu bang đều cung cấp cả Mega Millions và Powerball như kết quả của thỏa thuận năm 2009 giữa tổ chức Mega Millions và MUSL để cấp phép chéo cho nhau, mặc dù hai tổ chức này vẫn tiếp tục quản lý Mega Millions và Powerball một cách riêng biệt. Mississippi là tiểu bang mới nhất tham gia cả hai, bắt đầu bán vé vào tháng 1 năm 2020. Puerto Rico là khu vực duy nhất không cung cấp cả hai, vì họ không cung cấp Mega Millions. Nguồn thu của tiểu bang. Cuộc xổ số của tiểu bang đã trở thành một nguồn thu quan trọng cho các tiểu bang, thu về 17,6 tỷ đô la lợi nhuận cho ngân sách tiểu bang trong năm tài chính 2009 (FY), với 11 tiểu bang thu thập nhiều thu nhập hơn từ xổ số tiểu bang của họ so với thuế thu nhập doanh nghiệp tiểu bang trong FY2009. Chính sách xổ số trong các tiểu bang có thể có mục tiêu mâu thuẫn. Do các hướng dẫn được truyền đạt từ các quốc hội tiểu bang, việc thực hiện cuộc xổ số thường được mong đợi sẽ được thực hiện với việc giảm quảng cáo và nguồn tài trợ nhưng vẫn đạt được cùng lượng thu nhập. Vấn đề này đã khiến các tiểu bang tìm kiếm những lỗ hổng trong hệ thống. Ví dụ, Massachusetts đã cắt giảm đáng kể ngân sách quảng cáo của mình, và do đó bắt đầu sử dụng phiếu chơi miễn phí như tiền để trả tiền quảng cáo. Điều này đã dẫn đến cuộc điều tra của IRS về việc không báo cáo thu nhập do IRS coi phiếu chơi là có giá trị tiền tệ. Các tiểu bang không có xổ số. Trong số các tiểu bang không có xổ số, Alabama trích dẫn các lý do về tôn giáo và hiến pháp tiểu bang Utah cấm mọi hình thức đánh bạc. Ngành công nghiệp đánh bạc của Nevada đã lên tiếng phản đối việc có xổ số tiểu bang ở đó, lo sợ sự cạnh tranh; tương tự, Ủy ban Đánh bạc Mississippi đã bày tỏ lo ngại rằng một cuộc xổ số tiểu bang sẽ tạo thành một "lực lượng cạnh tranh" cho số tiền đánh bạc được tiêu tại các sòng bạc Mississippi. Mặc dù vậy, vào tháng 8 năm 2018, Mississippi đã thông qua luật lệ để thành lập một cuộc xổ số tiểu bang. Thống đốc Phil Bryant bày tỏ sự ủng hộ của mình cho xổ số tiểu bang để tài trợ giao thông ở tiểu bang và cho biết ông sẽ ký vào dự luật này. Bán vé, ban đầu chỉ là vé sổ xố, bắt đầu vào ngày 25 tháng 11 năm 2019. Vé Mega Millions và Powerball đã có sẵn cho tiểu bang này vào ngày 30 tháng 1 năm 2020. Alaska và Hawaii, nằm ngoài lục địa của Hoa Kỳ, không cảm nhận áp lực từ việc mất doanh số bán hàng cho các đối thủ. Tuy nhiên, vào tháng 2 năm 2020, thống đốc Alaska Mike Dunleavy đã đưa ra dự luật đề xuất thành lập Công ty Xổ số Alaska như một phần của nỗ lực để khắc phục thiếu hụt ngân sách. Trong những năm gần đây, đã xuất hiện các ứng dụng mới như L, L Xổ số Hoa Kỳ. LA = Lotto Americabr LFL = Lucky for Lifebr TSM = Hợp tác Tri-State Megabucksbr 0 = Chỉ có các trò chơi đa tiểu bang là Mega Millions và/hoặc Powerball Các hợp tác xổ số khác tại Hoa Kỳ. Những trò chơi này cũng được cung cấp bởi nhiều cơ quan xổ số khác nhau. Một số trong số những trò chơi này có giải độc quyền tiến triển chung (được ghi chú bằng °):
Một grey hat (còn được gọi là greyhat hoặc gray hat) là một hacker máy tính hoặc chuyên gia An ninh máy tính có thể đôi khi vi phạm luật pháp hoặc các tiêu chuẩn hacker đạo đức, nhưng thường không có ý định độc hại như một hacker black hat. Thuật ngữ này được sử dụng vào cuối những năm 1990 và được tạo ra từ các khái niệm "white hat" và "black hat" hackers. Khi một hacker white hat phát hiện một lỗ hổng, họ sẽ khai thác nó chỉ khi có sự cho phép và không tiết lộ sự tồn tại của nó cho đến khi nó được khắc phục, trong khi hacker black hat sẽ khai thác nó bất hợp pháp và/hoặc cho người khác biết cách làm vậy. Grey hat sẽ không khai thác nó bất hợp pháp, cũng không cho người khác biết cách làm vậy. Một sự khác biệt khác giữa các loại hacker này nằm ở phương pháp khám phá các lỗ hổng. White hat xâm nhập vào các hệ thống và mạng theo yêu cầu của nhà tuyển dụng hoặc với sự cho phép rõ ràng nhằm xác định mức độ bảo mật chống lại các hacker, trong khi black hat sẽ xâm nhập vào bất kỳ hệ thống hoặc mạng nào để tìm ra thông tin nhạy cảm vì lợi ích cá nhân. Grey hat thông thường có kỹ năng và ý định tương tự như white hat nhưng sẽ xâm nhập vào bất kỳ hệ thống hoặc mạng nào mà không có sự cho phép. Theo một định nghĩa về hacker với tư cách grey-hat, khi họ phát hiện một lỗ hổng, thay vì thông báo cho nhà cung cấp biết cách tận dụng lỗi, họ có thể đề nghị sửa chữa nó với một khoản phí nhỏ. Khi một người truy cập bất hợp pháp vào một hệ thống hoặc mạng, họ có thể đề xuất cho quản trị hệ thống thuê một trong những người bạn của mình để khắc phục vấn đề; tuy nhiên, thực tế này đang giảm dần do sự sẵn lòng gia tăng của các doanh nghiệp kiện tụng. Một định nghĩa khác về grey hat cho rằng các hacker grey hat chỉ vi phạm pháp luật một cách có thể tranh cãi nhằm nghiên cứu và cải thiện bảo mật, với tính hợp pháp được xác định dựa trên hệ quả cụ thể của bất kỳ cuộc tấn công nào mà họ tham gia. Trong cộng đồng tối ưu hóa công cụ tìm kiếm (SEO), grey hat hackers là những người điều chỉnh xếp hạng công cụ tìm kiếm của các trang web bằng cách sử dụng các phương pháp không đúng hoặc không đạo đức, nhưng không được coi là spam của công cụ tìm kiếm. Thuật ngữ "grey hat" lần đầu được sử dụng công khai trong ngữ cảnh an ninh máy tính khi DEF CON công bố Black Hat Briefings lần đầu tiên vào năm 1996, mặc dù có thể đã được sử dụng bởi các nhóm nhỏ hơn trước thời điểm này. Bên cạnh đó, tại hội nghị này, một bài thuyết trình được trình bày trong đó Mudge, một thành viên chủ chốt của nhóm hacker L0pht, thảo luận về ý định của họ với tư cách là những hacker grey hat, nhằm cung cấp cho Microsoft các phát hiện về lỗ hổng để bảo vệ số lượng người dùng đông đảo của hệ điều hành của hãng. Cuối cùng, Mike Nash, Giám đốc nhóm máy chủ của Microsoft, đã cho biết những hacker grey hat tương tự như các chuyên gia kỹ thuật trong ngành phần mềm độc lập vì "họ có giá trị trong việc đưa ra phản hồi giúp chúng tôi cải thiện sản phẩm của mình". Thuật ngữ "grey hat" đã được nhóm hacker L0pht sử dụng trong một cuộc phỏng vấn năm 1999 với "The New York Times". to describe their hacking activities. Thuật ngữ được sử dụng để miêu tả các hacker ủng hộ việc báo cáo đạo đức về các lỗ hổng trực tiếp cho nhà cung cấp phần mềm, ngược lại với các phương pháp tiết lộ đầy đủ thông tin được thịnh hành trong cộng đồng white hat mà lỗ hổng không được tiết lộ ra bên ngoài nhóm của họ. Tuy nhiên, vào năm 2002, cộng đồng Anti-Sec đã sử dụng thuật ngữ này để chỉ những người làm việc trong ngành an ninh vào ban ngày, nhưng tham gia vào các hoạt động black hat vào ban đêm. Nỗi mỉa mai là đối với black hat, diễn giải này được coi là thuật ngữ mang ý nghĩa gánh nặng xấu xa; trong khi đó, đối với white hat, đó là thuật ngữ tạo nên sự nổi tiếng phổ biến. Sau sự tăng lên và sự suy giảm cuối cùng của "kỷ nguyên vàng" giữa việc tiết lộ đầy đủ thông tin và chống lại hoạt động Anti-Sec - và sự phát triển sau đó của triết lý "hack đạo đức" - thuật ngữ "grey hat" bắt đầu mang các ý nghĩa đa dạng. Vụ truy tố Dmitry Sklyarov tại Hoa Kỳ vì các hoạt động pháp lý trong nước gốc của anh đã thay đổi quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu an ninh. Khi Internet được sử dụng cho nhiều chức năng quan trọng hơn và lo ngại về khủng bố gia tăng, thuật ngữ "white hat" bắt đầu ám chỉ đến các chuyên gia an ninh doanh nghiệp không ủng hộ việc tiết lộ đầy đủ thông tin. Vào năm 2008, EFF định nghĩa grey hat là những nhà nghiên cứu bảo mật có đạo đức, ngẫu nhiên hoặc có thể xem là vi phạm luật pháp nhằm nghiên cứu và cải thiện an ninh. Họ tán thành việc xây dựng luật pháp về tội phạm máy tính rõ ràng và hẹp hơn. Vào tháng 4 năm 2000, nhóm hacker có tên là "{}" và "Hardbeat" đã truy cập trái phép vào trang web A, họ đã chọn thông báo vấn đề cho nhóm quản lý Apache. Vào tháng 6 năm 2010, một nhóm chuyên gia máy tính có tên Goatse Security đã phơi bày một lỗ hổng trong bảo mật của ATT, cho phép tiết lộ địa chỉ email của người dùng iPad. Nhóm đã tiết lộ lỗ hổng bảo mật cho báo chí ngay sau khi thông báo cho ATT. Kể từ đó, FBI đã mở cuộc điều tra vụ việc và đột kích nhà của weev, thành viên nổi bật nhất của nhóm. Vào tháng 4 năm 2011, một nhóm chuyên gia phát hiện ra rằng iPhone của Apple và iPad 3G đang "ghi lại nơi người dùng truy cập". Apple đã phát biểu rằng iPad và iPhone chỉ ghi lại các tháp mà điện thoại có thể kết nối. Có nhiều bài viết về vấn đề này và nó được coi là một vấn đề bảo mật nhỏ. Trường hợp này sẽ được xếp vào "grey hat" vì mặc dù những chuyên gia có thể sử dụng điều này với ý định độc hại, vấn đề này vẫn được báo cáo. Vào tháng 8 năm 2013, Khalil Shreateh, một nhà nghiên cứu bảo mật máy tính không có việc làm, đã hack trang Facebook của Mark Zuckerberg nhằm ép buộc họ khắc phục một lỗi mà anh ta đã phát hiện, cho phép anh ta đăng bài lên trang của bất kỳ người dùng nào mà không có sự đồng ý của họ. Anh ta đã cố gắng liên tục thông báo về lỗi này cho Facebook nhưng bị Facebook thông báo rằng vấn đề đó không phải là lỗi. Sau sự cố này, Facebook đã khắc phục lỗ hổng này, mà có thể đã trở thành một công cụ mạnh mẽ trong tay các spammer chuyên nghiệp. Shreateh không được bồi thường bởi chương trình White Hat của Facebook vì anh vi phạm chính sách của họ, do đó đây là một sự cố thuộc loại grey hat.
Một white hat (hoặc một hacker white-hat, whitehat) là một hacker có đạo đức. Ethical hacking là một thuật ngữ nhằm ám chỉ một danh mục rộng hơn chỉ là kiểm tra xâm nhập. Dưới sự cho phép của chủ sở hữu, những hacker white-hat nhằm mục tiêu xác định bất kỳ lỗ hổng hoặc vấn đề bảo mật nào mà hệ thống hiện tại đang gặp phải. White hat hacker tương phản với black hat, một hacker độc hại; sự phân định định nghĩa này xuất phát từ các bộ phim Western, trong đó các người hùng và những kẻ thù đều thường mặc một chiếc mũ trắng và một chiếc mũ đen tương ứng. Còn một loại hacker thứ ba được gọi là grey hat hack với những ý định tốt đẹp nhưng đôi khi không có sự cho phép. Một trong những trường hợp đầu tiên của việc sử dụng Ethical hacking là một "đánh giá bảo mật" được tiến hành bởi Lực lượng Không quân Hoa Kỳ, trong đó hệ điều hành Multics đã được kiểm tra để "sử dụng tiềm năng như một hệ thống hai cấp (bí mật/ bí mật cực kỳ)". Đánh giá xác định rằng trong khi Multics "đáng kể tốt hơn so với các hệ thống thông thường khác," nó cũng có "... các lỗ hổng về bảo mật phần cứng, bảo mật phần mềm và bảo mật thủ tục" có thể được phát hiện thông qua "một mức độ nỗ lực tương đối thấp." Các tác giả đã tiến hành các thử nghiệm dưới hướng dẫn của sự thực tế, để kết quả của họ có thể chính xác đại diện cho các loại truy cập mà một kẻ xâm nhập có thể đạt được. Họ thực hiện các thử nghiệm liên quan đến việc thu thập thông tin đơn giản, cũng như tấn công trực tiếp vào hệ thống có thể gây thiệt hại đến tính toàn vẹn của nó; cả hai kết quả đều đáng quan tâm đối với khán giả mục tiêu. Có một số báo cáo không được phân loại nói về các hoạt động Ethical hacking trong quân đội Mỹ. Vào năm 1981, "The New York Times" mô tả các hoạt động white-hat là một phần của "truyền thống 'hacker' tinh nghịch nhưng đáng kinh ngạc tích cực". Khi một nhân viên của National CSS tiết lộ sự tồn tại của phần mềm password cracker mà anh ta đã sử dụng trên tài khoản khách hàng, công ty chỉ trích anh ta không phải vì việc viết phần mềm mà vì không tiết lộ nó sớm hơn. Thư cảnh cáo nói "Công ty nhận ra lợi ích của NCSS và khuyến khích nhân viên nỗ lực xác định các điểm yếu về bảo mật cho VP, thư mục và phần mềm nhạy cảm khác trong tệp tin". Ý tưởng mang chiến thuật Ethical hacking này để đánh giá bảo mật hệ thống và chỉ ra các lỗ hổng đã được hình thành bởi Dan Farmer và Wietse Venema. Để nâng cao mức độ bảo mật tổng thể trên Internet và intranet, họ tiếp tục mô tả cách họ đã có thể thu thập đủ thông tin về mục tiêu của họ để có thể tấn công bảo mật nếu họ đã chọn làm như vậy. Họ cung cấp một số ví dụ cụ thể về cách thông tin này có thể được thu thập và khai thác để kiểm soát mục tiêu, cũng như cách ngăn chặn một cuộc tấn công như vậy. Họ đã thu thập tất cả các công cụ mà họ đã sử dụng trong quá trình làm việc của mình, đóng gói chúng trong một ứng dụng đơn giản, dễ sử dụng và chia sẻ miễn phí cho bất kỳ ai muốn tải xuống. Chương trình của họ gọi là Security Administrator Tool for Analyzing Networks, hoặc SATAN, đã nhận được rất nhiều sự chú ý từ truyền thông trên toàn thế giới vào năm 1992. Trong khi penetration testing (kiểm thử xâm nhập) tập trung vào tấn công phần mềm và hệ thống máy tính từ đầu - quét cổng, kiểm tra các lỗi đã biết trong giao thức và ứng dụng đang chạy trên hệ thống, và cài đặt bản vá, ví dụ - Ethical hacking có thể bao gồm các yếu tố khác. Một cuộc tấn công đạo đức đầy đủ quy mô có thể bao gồm gửi email cho nhân viên để yêu cầu chi tiết mật khẩu, lục tung thùng rác của các nhà lãnh đạo, thông thường mà không có sự hiểu biết và sự đồng ý của các mục tiêu. Chỉ có chủ sở hữu, CEO và thành viên Hội đồng quản trị (các bên liên quan) yêu cầu kiểm định bảo mật quy mô như vậy mới biết. Để cố gắng tái hiện một số kỹ thuật phá hoại mà một cuộc tấn công thực tế có thể sử dụng, những hacker đạo đức có thể sắp xếp các hệ thống kiểm tra đã được nhân bản, hoặc tổ chức một cuộc hack vào đêm khuya khi hệ thống ít quan trọng hơn. Trong các trường hợp gần đây nhất, các cuộc tấn công này kéo dài trong thời gian dài (một số ngày, thậm chí vài tuần, bằng cách xâm nhập vào tổ chức trong thời gian dài). Một số ví dụ bao gồm việc để lại ổ đĩa USB/flash chứa phần mềm tự động khởi động ẩn trong một khu vực công cộng như là một người nào đó để mất ổ đĩa nhỏ và một nhân viên không nghi ngờ nào đó tìm thấy và mang đi. Một số phương pháp khác để thực hiện điều này bao gồm: Phân tích dữ liệu đĩa và bộ nhớ Tấn công DoS (Denial-of-Service) Các khung công cụ như: Đảo ngược công nghệ Các công cụ quét bảo mật như: Chiến thuật hình thức kỹ thuật xã hội Nền tảng đào tạo Các phương pháp này xác định và khai thác các lỗ hổng bảo mật đã được biết đến và cố gắng tránh bị phát hiện để xâm nhập vào các khu vực được bảo mật. Họ có thể làm điều này bằng cách ẩn các "cánh cửa sau" phần mềm và hệ thống có thể được sử dụng như một liên kết đến thông tin hoặc quyền truy cập mà một hacker không đạo đức, còn được biết đến là "black hat" hoặc "grey hat", có thể muốn đạt được. Bỉ đã hợp pháp hóa hack white hat vào tháng 2 năm 2023. Struan Robertson, giám đốc pháp lý tại công ty luật Pinsent Masons LLP và biên tập viên của OUT-LAW.com, nói rằng "Nói chung, nếu quyền truy cập vào một hệ thống được ủy quyền, việc hack là đạo đức và hợp pháp. Nếu không được, sẽ có một tội danh theo Computer Misuse Act. Tội danh truy cập trái phép bao gồm mọi thứ từ đoán mật khẩu để truy cập vào tài khoản webmail của ai đó, đến việc phá vỡ bảo mật của một ngân hàng. Mức án tối đa cho việc truy cập trái phép vào một máy tính là hai năm tù và một mức phạt. Có các mức phạt cao hơn - lên đến 10 năm tù - khi hacker cũng sửa đổi dữ liệu". Robertson nói rằng truy cập trái phép ngay cả để phơi bày các lỗ hổng với lợi ích cho nhiều người cũng không hợp pháp. "Không có lý do nào trong luật hacking của chúng tôi rằng hành vi của bạn là vì lợi ích chung. Ngay cả khi đó là điều bạn tin tưởng." Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (National Security Agency) cung cấp các chứng chỉ như CNSS 4011. Chứng chỉ này bao gồm các kỹ thuật Ethical hacking và quản lý nhóm một cách có hệ thống. Nhóm tấn công được gọi là "nhóm đỏ" (red teams), trong khi nhóm phòng thủ được gọi là "nhóm xanh" (blue teams). Khi cơ quan này tuyển dụng tại sự kiện DEF CON vào năm 2020, họ đã hứa hẹn với ứng viên rằng "Nếu bạn có một số hành vi thiếu đạo đức trong quá khứ, đừng lo lắng. Bạn không nên tự động cho rằng bạn sẽ không được tuyển dụng". Một "white hat" giỏi là một nhân viên có kỹ năng cạnh tranh đáng chú ý cho một doanh nghiệp, vì họ có thể trở thành một biện pháp phòng ngừa để tìm ra các lỗi để bảo vệ môi trường mạng của doanh nghiệp. Do đó, một "white hat" giỏi có thể mang lại những lợi ích không ngờ trong việc giảm thiểu rủi ro trên các hệ thống, ứng dụng và điểm kết thúc cho một doanh nghiệp.
Câu lạc bộ bóng đá Becamex Bình Dương mùa bóng 2023 Mùa bóng 2023 là mùa giải thứ 26 trong lịch sử của câu lạc bộ bóng đá Becamex Bình Dương và là mùa thứ 20 liên tiếp đội bóng thi đấu tại V.League 1, giải bóng đá cấp độ cao nhất trong hệ thống giải đấu của bóng đá Việt Nam. Giải vô địch quốc gia. Lịch thi đấu Giải bóng đá Vô địch Quốc gia 2023 được công bố vào ngày 26 tháng 12 năm 2022. templatestyles src="Legend/" /  Chưa thi đấu Thống kê mùa giải. Thống kê đội hình. ! colspan=14 style="background:purple; color:white; text-align:center"| Thủ môn ! colspan=14 style="background:purple; color:white; text-align:center"| Hậu vệ ! colspan=14 style="background:purple; color:white; text-align:center"| Tiền vệ ! colspan=14 style="background:purple; color:white; text-align:center"| Tiền đạo
Diema Sport () là một kênh truyền hình có nội dung về thể thao của Bulgaria. Kênh là một phần của Nova Broadcasting Group, thuộc sở hữu của United Group. Ngoài ra, nó là một phần của gói thể thao cao cấp Diema Extra, bao gồm các kênh Diema Sport 2, Diema Sport 3 và Trace Sports Stars HD. Kênh phát sóng các sự kiện thể thao như Giải bóng đá vô địch quốc gia Bulgaria và Ngoại hạng Anh. Kênh cũng còn có các chương trình thể thao tạp chí, trường quay thể thao bình luận viên và các chương trình trò chuyện. Diema Extra () là một kênh truyền hình trả phí cao cấp của Bulgaria được ra mắt vào tháng 4 năm 2005. Kênh đã từng phát sóng các chương trình phim, cũng như các sự kiện thể thao chủ yếu từ Anh và Tây Ban Nha. Sau đó, hầu hết các chương trình đã được chuyển sang các kênh khác của Diema Vision, vì ít người đăng ký dịch vụ và quảng cáo mang lại nhiều lợi nhuận hơn. Tháng 9 năm 2007, Diema Extra đã bị dừng phát sóng sau khi Diema Vision được bán cho Apace Media. Ngày 21 tháng 2 năm 2015, Diema Extra đã được phát sóng trở lại dưới dạng gói thể thao cao cấp, ban đầu chứa các kênh Diema Sport và Trace Sports Stars HD. Vào ngày 8 tháng 8 năm 2015, Diema Sport 2 được ra mắt, tiếp đến là Diema Sport 3 vào ngày 1 tháng 7 năm 2021.
Tranh cãi tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023 Đã có nhiều tranh cãi xung quanh Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023, được tổ chức tại Phnom Penh, Campuchia. Sự cố treo ngược Quốc kỳ tại lễ khai mạc. Ngay đầu buổi lễ khai mạc, người hâm mộ Đông Nam Á đã phát hiện một vài điểm sai sót của nước chủ nhà. Cụ thể, cờ của Việt Nam và cờ của Myanmar đã bị treo ngược (đỉnh ngôi sao không hướng lên trên mà cắm xuống dưới) trong một màn trình diễn của các nghệ sĩ địa phương tại buổi biểu diễn hâm nóng trước lễ khai mạc. Bên cạnh đó, người hâm mộ còn nhanh chóng phát hiện ra cờ của Indonesia cũng đã bị treo ngược (giống với cờ của Ba Lan), họ tỏ ra không hài lòng vì điều này bởi quốc kỳ của một quốc gia luôn là một điều vô cùng thiêng liêng. Trước sự việc này, Ủy ban Olympic Indonesia (KOI) đã gửi công văn phản đối tới ban tổ chức của chủ nhà Campuchia (CAMSOC). Tổng thư ký KOI Harry Warganegara xác nhận rằng Campuchia đã gửi lời xin lỗi tới Indonesia, đồng thời hứa sẽ không để sự cố này lặp lại trong suốt đại hội. Ngoài CAMSOC, Town Production, một công ty sản xuất truyền thông của Campuchia tham gia buổi lễ, cũng đưa ra lời xin lỗi, mô tả sai lầm này là sự "thiếu tôn trọng". Công ty này cũng cho biết sẽ gửi thư xin lỗi tới đại sứ quán của 3 nước liên quan là Indonesia, Việt Nam và Myanmar. Sự cố mất Quốc kỳ tại lễ bế mạc. Ở buổi lễ bế mạc được tổ chức vào ngày 17 tháng 5, ban tổ chức chủ nhà lại để xảy ra sự cố liên quan đến quốc kỳ Việt Nam và Đông Timor ở một phần trình chiếu tại lễ bế mạc. Theo đó, sau nghi thức tắt đuốc và hạ cờ Liên đoàn Thể thao Đông Nam Á, ở khu vực trình chiếu trung tâm sân vận động Morodok Techo chỉ có cờ của 9/11 nước Đông Nam Á mà không có cờ của Việt Nam và Đông Timor. Việc thiếu vắng quốc kỳ 2 nước này gây ra sự khó hiểu với người hâm mộ Đông Nam Á; nhiều ý kiến thắc mắc cũng đã được để lại dưới phần bình luận của buổi phát sóng trực tiếp. Các môn thể thao. Vấn đề tên gọi bộ môn Muay Thái. Vào ngày 23 tháng 1 năm 2023, Campuchia đã tuyên bố bỏ môn võ Muay Thái để thay thế bằng "Kun Khmer" cho SEA Games 32, nhưng thực chất đây chỉ là việc đổi tên Muay Thái thành "Kun Khmer". Các quan chức Campuchia cũng đã khẳng định bộ môn võ này xuất phát từ người Khmer. Việc thay đổi tên môn đã khiến Thái Lan tức giận và xác nhận không gửi vận động viên Muay Thái đến tham dự và tẩy chay môn võ "Kun Khmer". Đáp lại, phía Campuchia cũng tuyên bố sẽ không cử vận động viên tham dự Muay Thái tại SEA Games 33 ở Thái Lan. Trước động thái của Campuchia, Liên đoàn Muay Thái thế giới (IFMA) đã gửi thư cảnh báo đến sáu liên đoàn thành viên trong khu vực rằng sẽ cấm các võ sĩ tham dự các giải đấu thuộc hệ thống Muay quốc tế nếu tham gia thi đấu môn Kun Khmer tại SEA Games, và đe dọa sẽ tố cáo vụ việc lên Ủy ban Olympic. Mặc dù vậy, vẫn có 7 nước quyết định đăng ký thi đấu ở nội dung này. Trưởng đoàn đội tuyển Kun Khmer Việt Nam Giáp Trung Thang nói rằng họ đã làm việc với chủ tịch IFMA và cho biết liên đoàn có cấm họ tham dự các giải quốc tế nhưng sau đó chấp nhận để họ thi đấu ở SEA Games. Lộ slide PowerPoint trong lễ bốc thăm môn bóng đá. Chiều ngày 5 tháng 4 năm 2023, trong lúc tiến hành bốc thăm chia các nhóm hạt giống cho môn bóng đá nữ, ban tổ chức đã bất ngờ để lộ giao diện phần mềm PowerPoint trong lúc trình chiếu. Việc này, cộng với kết quả bốc thăm có lợi cho đội bóng đá nam của nước chủ nhà trước đó đã dấy lên nghi vấn về việc ban tổ chức gian lận kết quả bốc thăm. Tuy nhiên, theo một bài viết trên Zing News, phần mềm PowerPoint từ bản 2016 trở về sau đã có tính năng "Keep Slides Updated", cho phép chỉnh sửa slide trong lúc trình chiếu. Vì vậy mà không có đủ bằng chứng để kết luận Campuchia gian lận khi tổ chức bốc thăm. Bốc thăm lại môn bóng chuyền nam vì thiếu đội. Sau buổi lễ bốc thăm chia bảng môn bóng chuyền nam vào ngày 5 tháng 4, Liên đoàn bóng chuyền Philippines (PNVF) đã tỏ ra ngạc nhiên khi đội tuyển bóng chuyền nam nước này không có tên trong danh sách bốc thăm, mặc dù phía Philippines cho hay họ đã đăng ký với ban tổ chức từ trước. Nguyên nhân sau đó được xác định là do Ủy ban Olympic nước này (POC) mới chỉ đăng ký đội tuyển nữ mà bỏ quên đội tuyển nam, và chỉ đến ngày bốc thăm họ mới nhận ra sai lầm. Phía Philippines đã nhận lỗi và bày tỏ mong muốn được bốc thăm lại; họ nhận được sự đồng ý của 5/8 nước tham dự nội dung này. Tuy nhiên, thay vì bốc thăm lại, nước chủ nhà đã xếp Philippines vào thẳng bảng A cùng với Indonesia, Campuchia và Singapore. Bảng B đã được xác định từ trước với các đội Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Myanmar. Thay đổi lịch thi đấu môn điền kinh. Ở nội dung điền kinh, ban tổ chức đã từng thay đổi lịch thi đấu trong ba ngày 8, 9 và 10 tháng 5. Tuy nhiên, trước ngày thi đấu 9 tháng 5, lịch thi đấu một lần nữa bị thay đổi. Điều này khiến cho vận động viên Nguyễn Thị Oanh (Việt Nam) phải đối diện với lịch thi đấu vô cùng dày đặc, khi phải thi đấu nội dung 1500m và 3000m chướng ngại vật trong vòng 20 phút. Với quãng nghỉ ngắn ngủi, Nguyễn Thị Oanh đã gây ngỡ ngàng khi liên tiếp về nhất ở hai nội dung đường dài này, với thành tích lần lượt là 4 phút 16 giây 85 và 10 phút 34 giây 39. Thậm chí, cô đã phải xin hoãn kiểm tra doping ngay sau khi hoàn thành nội dung 1500m để có đủ thời gian chuẩn bị cho nội dung tiếp theo. Sau sự việc, Giám đốc kỹ thuật môn Điền kinh tại SEA Games 32 đã gửi lời xin lỗi tới Liên đoàn Điền kinh Việt Nam và khẳng định, bộ phận điều hành không có ý định làm tổn hại các vận động viên tham dự SEA Games. Trước đó, vào tối ngày 9 tháng 5 đã diễn ra buổi họp giữa ban tổ chức môn điền kinh với các lãnh đội. Đại diện Việt Nam cùng các nước lên tiếng phản đối việc thay đổi lịch thi đấu liên tục làm ảnh hưởng đến chuyên môn của vận động viên. Đại diện Ban tổ chức môn điền kinh đã tiếp thu ý kiến của các đội và hứa không thay đổi lịch từ đây đến hết giải. Kình ngư Philippines thi đấu một mình vì sự cố xuất phát. Ở nội dung 100m bơi ngửa nam diễn ra ngày 6 tháng 5, kình ngư Jerard Dominic Jacinto của Philippines được sắp xếp xuất phát ở làn bơi số 2 cùng 7 vận động viên khác. Nhưng khi còi hiệu bắt đầu vang lên, thang đứng ở vạch xuất phát của Dominic bất ngờ gặp sự cố khi một bên dây giữ thang bị đứt và rơi xuống nước, khiến anh không thể thực hiện lượt bơi của mình. Anh được ban tổ chức sắp xếp thi đấu ở lượt tiếp theo, nhưng do lượt bơi vòng loại thứ ba đã đủ 8 vận động viên nên Dominic phải thi đấu riêng một lượt. Dù chỉ thi đấu một mình, anh đã dẫn đầu vòng loại với thành tích 56 giây 88. Tuyển bóng chuyền nữ Campuchia hai lần bỏ cuộc. Dù là chủ nhà, đội tuyển bóng chuyền nữ Campuchia đã gây thất vọng khi hai lần liên tiếp vắng mặt taị loạt trận đấu phân hạng 5-8 của môn bóng chuyền nữ mà không thông báo với ban tổ chức. Ở trận đấu đầu tiên gặp Malaysia ngày 13 tháng 5, họ đã không có mặt trong khi Malaysia đã tiến hành các thủ tục thi đấu từ trước, dẫn đến việc đội bóng này phải tự chia đội hình đấu nội bộ với nhau như một buổi tập. Một ngày sau đó, Campuchia tiếp tục bỏ trận tranh hạng 7 với Myanmar khiến đối thủ phải chờ đợi suốt 1 tiếng đồng hồ trước khi đội Myanmar chụp ảnh lưu niệm và ra về, còn sân bóng chuyền trở thành nơi thi đấu giao lưu cho các trọng tài và tình nguyện viên. Cả hai lần, Campuchia đều bị xử thua 0-3, qua đó xếp hạng 8 chung cuộc ở nội dung này. Hành động trên của đội tuyển nữ Campuchia được cho là bắt nguồn từ kết quả thi đấu kém cỏi của đội tại vòng bảng. Xô xát tại chung kết bóng đá nam. Trong trận chung kết môn bóng đá nam giữa U-22 Indonesia và U-22 Thái Lan, các cầu thủ và ban huấn luyện của hai đội đã tấn công lẫn nhau ở cuối hiệp 2 và đầu hiệp phụ, buộc trọng tài phải rút ra 7 thẻ đỏ và 12 thẻ vàng. Nguồn cơn ẩu đả xuất phát từ màn ăn mừng bàn thắng thái quá của Thái Lan, sau khi Yotsakon Burapha gỡ hoà 2–2 ở những giây bù giờ cuối cùng của hiệp 2. Trợ lý cùng các cầu thủ dự bị và một vài thành viên khác trong ban huấn luyện Thái Lan chạy về phía Indonesia ăn mừng bàn thắng đầy khiêu khích. Hành động này nhằm trả đũa cho việc Indonesia lao vào sân mừng chiến thắng trước đó 1 phút, trong khi thực tế, họ đã nhầm tưởng trận đấu kết thúc khi trọng tài thổi còi đá phạt. Chứng kiến màn khiêu khích của người Thái, cầu thủ dự bị Titan Agung của Indonesia lao đến đạp trợ lý huấn luyện viên của Thái Lan, thổi bùng bạo lực. Hai người này sau đó phải nhận thẻ đỏ trực tiếp. Đầu hiệp phụ, Indonesia nâng tỷ số lên 3–2, và cầu thủ của họ lao về phía Thái Lan để đáp trả. Một cuộc hỗn chiến khác nổ ra ngay bên ngoài sân. Thủ môn Thái Lan Soponvit nhảy lên đấm vào mặt trung vệ Komang, sau đó bị đánh trả. Cả hai phải nhận thẻ đỏ vì tình huống này, cùng với ba thành viên khác trong ban huấn luyện hai đội. Cuộc ẩu đả căng thẳng đến mức lực lượng cảnh sát đã phải vào sân để can ngăn. Khi thi đấu trở lại, cả hai đội đều còn 10 người trên sân. Thái Lan thậm chí còn mất thêm 2 cầu thủ nữa, khi Jonathan Khemdee và Teerasak Phoephimai nhận lần lượt tấm thẻ vàng thứ hai và thẻ đỏ trực tiếp sau đó. Chung cuộc, U-22 Indonesia thắng U-22 Thái Lan 5–2 và lên ngôi vô địch sau 32 năm chờ đợi. Truyền thông Indonesia đã lên tiếng việc trưởng đoàn bóng đá nước này Kombes Pol Sumardji bị tấn công khi trận đấu diễn ra, nhưng ông cho biết "đã cố gắng can ngăn mọi người lại nhưng chính tôi là người bị đánh". Báo "Antaranews" cho biết ông Sumardji bị chảy máu môi vì vụ xô xát. Sumardji cho biết ông đã gửi lời xin lỗi tới ban huấn luyện của U-22 Thái Lan về vụ ẩu đả. "CNN Indonesia" mô tả trong lúc giằng co, ông Sumardji đã bị một thành viên ban huấn luyện U-22 Thái Lan đẩy ngã xuống sân. Trưởng đoàn sau đó đã được 2 nhân viên ban huấn luyện của mình dìu về chỗ ngồi. Ông Yutthana Yimkarun quyết định từ chức Giám đốc Kỹ thuật LĐBĐ Thái Lan (FAT) kiêm trưởng đoàn đội Thái Lan sau vụ hỗn chiến ở chung kết SEA Games 32. Chủ tịch Ủy ban Olympic quốc gia Indonesia (NOC) Raja Sapta Oktohari cùng với Liên đoàn Bóng đá nước này (PSSI) dự định sẽ báo cáo vụ việc với Liên đoàn Bóng đá thế giới (FIFA). Sau khi xô xát xảy ra, FAT đã mời tướng Amnuay Nimmano chỉ đạo Ủy ban điều tra để làm rõ vụ việc. Đến ngày 18/5, FAT công bố kết quả. Theo đó, HLV thủ môn Prasadchok Chokmoh, trợ lý HLV Phatrawut Wongsripuek và quan chức đi cùng đội Mayid Madada bị cấm làm việc ở các đội tuyển quốc gia một năm. Ba người này bị buộc tội vi phạm quy tắc đạo đức và chuẩn mực cho cá nhân hoạt động trong lĩnh vực thể thao, theo điều lệ của FAT. Hai cầu thủ tham gia xô xát, gồm thủ môn Sohonwit Rakyath và cầu thủ dự bị Teerapak Pruengna, bị cấm khoác áo các đội tuyển trong sáu tháng. FAT tuyên bố nương tay với hai cầu thủ này vì họ còn trẻ và đã đưa ra lời xin lỗi sau vụ bạo loạn. Ủy ban kỷ luật của Liên đoàn Bóng đá châu Á (AFC) vào ngày 11 tháng 7 đã có án phạt nặng dành cho hai đội sau vụ ẩu đả ở chung kết bóng đá nam SEA Games 32. Tổng cộng 14 người, trong đó có 3 cầu thủ và 4 thành viên ban huấn luyện Indonesia, cùng với 2 cầu thủ và 5 thành viên ban huấn luyện Thái Lan, phải chịu hình phạt với các mức độ khác nhau. Ngoài ra, Hiệp hội Bóng đá Thái Lan (FAT) cũng phải nộp phạt 10.000 USD vì vi phạm điều 51.1 của Bộ quy tắc kỷ luật và đạo đức AFC. Cầu thủ Thái Lan ném huy chương bạc SEA Games. Sau trận chung kết môn bóng đá nam, Quốc vụ khanh Bộ Thông tin Campuchia Chum Kosal yêu cầu Thái Lan giáo dục lại trung vệ Jonathan Khemdee vì hành xử thiếu tế nhị sau chung kết môn bóng đá nam SEA Games 32. Kèm với đó là ba tấm ảnh chụp Khemdee ném tấm huy chương bạc lên khu vực khán đài có các cổ động viện Thái Lan. Khemdee đã lên tiếng thanh minh rằng anh muốn tặng huy chương cho một CĐV thân thiết, nhưng cách giải thích đó bị cho là không đủ thuyết phục và khiến trung vệ Thái Lan nhận thêm chỉ trích. Trước đó, tài năng 21 tuổi lai Đan Mạch đã gây bức xúc ngay trước chung kết khi đã tuyên bố không khoác áo bất kỳ đội tuyển nào của Thái Lan nữa sau SEA Games 32, để tập trung cho sự nghiệp câu lạc bộ. Giới hạn số nội dung tham dự và huy chương. Tại SEA Games lần này, chủ nhà Campuchia đã đưa ra các biện pháp hạn chế số lượng VĐV các đoàn thể thao khác thi đấu trong một số bộ môn thể thao, đặc biệt là các môn võ thuật và đối kháng. Theo đó, các nước khác chỉ được đăng ký không quá 70% số nội dung thi đấu, trong khi chủ nhà được toàn quyền tham dự ở tất cả các nội dung này. Philippines đã phản đối quy định nêu trên và cho rằng đây là cách để Campuchia tối đa hóa cơ hội giành huy chương vàng của mình và giảm khả năng cạnh tranh của đối thủ. Ở môn cầu lông, Campuchia đã tổ chức một nội dung mới, lần đầu tiên xuất hiện ở SEA Games là đồng đội hỗn hợp, trong đó các đội thi đấu theo đơn nam, đơn nữ, đôi nam, đôi nữ và đôi nam nữ. Các đoàn thể thao từng giành huy chương cầu lông (bao gồm Việt Nam, Thái Lan, Indonesia và Malaysia) đều không được tham dự, chỉ có Campuchia, Lào, Brunei, Đông Timor và Myanmar tranh tài ở nội dung này. Bambang Roedyanto, một quan chức kỹ thuật tại Đại hội, nói rằng “Campuchia [muốn] có cơ hội giành huy chương [ở môn cầu lông], vì vậy [nội dung đồng đội hỗn hợp] được tổ chức giữa các quốc gia [có nền cầu lông đang phát triển]”. Một số quy định hạn chế tương tự cũng được áp dụng ở các môn đua thuyền, thể thao điện tử. Indonesia đã càn quét bục huy chương ở nội dung đua xe đạp băng đồng của nam. Tuy nhiên, điều lệ của Liên đoàn Thể thao Đông Nam Á (SEAGF) điều 37 khoản C có quy định cấm các vận động viên của cùng một quốc gia giành toàn bộ bộ huy chương (vàng, bạc, đồng) trong cùng một nội dung. Vì vậy mà người về đích thứ ba, Ihza Muhammad phải nhường lại huy chương đồng cho tay đua về thứ tư Khim Menglong của Campuchia. Đáng nói, quy định này không có trong các quy định của IOC, khi một quốc gia có thể quét sạch huy chương. Công tác tổ chức. Tình trạng mặt sân được sử dụng cho nội dung bóng rổ 5x5 đã bị chỉ trích bởi huấn luyện viên trưởng tuyển bóng rổ nam Philipppines, Chot Reyes. Một số bức ảnh cận cảnh được chụp cho thấy sàn thi đấu đã được phủ lên trên một lớp sàn gỗ với nhiều nếp uốn, và dường như được làm từ vải sơn hoặc nhựa vinyl, những chất liệu chủ yếu được sử dụng trong nội trợ. Vì mặt sân này mà một vận động viên Campuchia đã gặp chấn thương trong trận đấu với Singapore ngày 9 tháng 5. Tại lễ trao huy chương nội dung đi bộ cự ly 20 km, do khu vực trao giải tại Siem Reap không có hệ thống đèn chiếu sáng nên ban tổ chức đã phải sử dụng đèn pha ô tô để thay thế. Điều này xuất phát từ việc lịch thi đấu nội dung này được ấn định vào buổi chiều thay vì buổi sáng như thường lệ, khiến các vận động viên phải nhận huy chương ngay trong buổi tối. Ở làng vận động viên, phòng của đội tuyển cầu lông nữ Indonesia gặp sự cố dột nước sau một trận mưa lớn. Hiện tượng này cũng xảy ra ở một số phòng của các vận động viên Indonesia khác trong làng vận động viên ở Campuchia. Các phòng bị thấm dột ngay lập tức được ban chỉ đạo phối hợp xử lý. Phán quyết trong các trận đấu. Tranh chấp huy chương trận chung kết môn pencak silat. Trận chung kết tanding B hạng cân 50–55 kg nữ môn pencak silat diễn ra ngày 10 tháng 5 giữa hai vận động viên Safira Dwi Meilani (Indonesia) và Nguyễn Hoàng Hồng Ân (Việt Nam). Khi trận đấu chỉ còn chưa đầy 18 giây, Hồng Ân đã tung đòn khoá tay Safira thành công và được tổ trọng tài xử thắng knock-out, lúc này tỷ số đang là 61-43 cho Indonesia. Kết quả này khiến phía Indonesia phản ứng mãnh liệt, họ gửi đơn khiếu nại lên ban tổ chức trận đấu và thậm chí xảy ra xô xát với ban huấn luyện Việt Nam. Sau một thời gian hội ý, điều phối viên thông báo thay đổi kết quả trận đấu, huy chương vàng thuộc về võ sĩ Indonesia. Diễn biến trên khiến đoàn Việt Nam bất ngờ và tiếp tục gửi đơn khiếu nại ngay lập tức. Sau hơn 1 tiếng nữa, trọng tài lại quyết định trao phần thắng cho Hồng Ân. Tuy nhiên, phía Indonesia lại tiếp tục phản đối , và sau cùng, võ sĩ Safira Dwi Meilani cũng được ban tổ chức công nhận đoạt huy chương vàng; cả hai cùng chia nhau vị trí cao nhất và không có huy chương bạc nào được trao. Tuyển Valorant Indonesia từ chối đấu chung kết. Trong trận chung kết bộ môn thể thao điện tử Valorant giữa Singapore và Indonesia ngày 10 tháng 5, đội tuyển Indonesia cho rằng các thành viên đội tuyển Singapore lạm dụng bug (lỗi) game để có lợi thế về tầm nhìn. Theo đó, Singapore được cho là sử dụng đặc vụ Cypher (nhân vật trong game) đặt camera quan sát ở vị trí không được phép. Indonesia đang bị dẫn 4-10 ở ván 2 (trước đó họ thua 8-13 ở ván 1) khi trận đấu bị dừng kéo dài vì lỗi kỹ thuật. Ban tổ chức cũng ngừng phát trực tiếp trận đấu trên các nền tảng. Cả hai đội được yêu cầu thi đấu lại vào sáng 11 tháng 5, theo người phát ngôn của Liên đoàn Thể thao điện tử Singapore (SGEA). Tuy nhiên, Indonesia từ chối tái đấu, chấp nhận để HCV về tay tuyển Singapore. Juanita Zelia Valeska Tanjung - đại sứ thương hiệu của đoàn Valorant Indonesia ở SEA Games 2023 cho rằng nguyên nhân khiến Indonesia quyết định bỏ trận chung kết là để "bảo vệ danh dự quốc gia". Sau đó, ban tổ chức thông báo tuyển Indonesia sẽ được nhận HCV cùng với Singapore, đồng nghĩa với việc nội dung này không có HCB. Bốc thăm để xác định huy chương vàng. Trận chung kết nội dung thi đấu đối kháng Vovinam hạng cân 65 kg nữ ngày 8 tháng 5 chứng kiến màn đối đầu kịch tính giữa hai võ sĩ Bùi Thị Thảo Ngân của Việt Nam và Hergie Tao-wag của Philippines. Cả hai võ sĩ hòa nhau sau 3 hiệp đấu đầu tiên và tiếp tục bằng điểm ở hiệp phụ thứ 4, một kết quả hiếm khi xảy ra ở môn võ này. Vì vậy, ban tổ chức trận đấu đã phải sử dụng thủ tục bốc thăm để tìm ra người chiến thắng. Dù không đồng ý với cách phân định này, cô đã được ban tổ chức tạo điều kiện bốc thăm trước để đảm bảo tính công bằng và khách quan. Tuy nhiên, lá thăm may rủi đã đứng về phía võ sĩ Bùi Thị Thảo Ngân của Việt Nam, đồng nghĩa với việc cô giành huy chương vàng ở nội dung này. Bản quyền truyền hình. Vào tháng 3 năm 2023, truyền thông Thái Lan đưa tin cơ quan thể thao của nước này (SAT) không đồng ý mua bản quyền phát sóng SEA Games 32 vì mức giá quá cao. Cụ thể, bản quyền phát sóng Đại hội tại đây được phía chủ nhà Campuchia báo giá lên đến 800.000 USD, mức cao chưa từng có trong lịch sử. Mức giá này đắt gấp nhiều lần so với 5.000 USD của SEA Games 30 tại Philippines, hay 10.000 USD cho SEA Games 31 tại Việt Nam. Ngoài Thái Lan, một số quốc gia khác như Indonesia cũng lên tiếng phàn nàn về mức giá bản quyền quá cao cho kỳ Đại hội lần này. Tại thời điểm, mới chỉ có 4 nước gồm Indonesia, Malaysia, Singapore và Việt Nam đã đồng ý mua bản quyền phát sóng, trong đó Singapore được cho là đã bỏ ra khoảng 500.000 USD. Theo truyền thống, các đài truyền hình muốn có quyền phát sóng đại hội thường chỉ phải trả một khoản phí tượng trưng cho nước chủ nhà, gọi là "phí truyền dẫn". Tuy nhiên, đây lại là năm đầu tiên bản quyền truyền hình được phía Campuchia bán một cách thực sự đến các quốc gia trong khu vực, với mong muốn có thêm nguồn kinh phí hỗ trợ tổ chức đại hội. Vào ngày 31 tháng 3 năm 2023, Thủ tướng Campuchia Hun Sen ra chỉ đạo không thu tiền bản quyền phát sóng SEA Games và ASEAN Para Games đối với các đài truyền hình trong và ngoài nước. Những nước đã mua bản quyền trước đó sẽ được hoàn lại tiền và chỉ tính phí truyền dẫn. Thủ tướng Hun Sen tiếp đó đã chỉ đạo các đài truyền hình quốc gia và tư nhân cùng tham gia truyền hình trực tiếp tất cả các môn thi đấu tại SEA Games để người dân có thể theo dõi trọn vẹn kỳ đại hội lịch sử này. Theo báo chí Campuchia, chính ông Hun Sen đã không xem được qua sóng truyền hình các trận bóng đá nam diễn ra chiều tối 30 tháng 4 và được biết, các nhà đài chỉ phát sóng những sự kiện có đoàn thể thao Campuchia tham dự. Không hài lòng vì điều này, ngay ngày hôm sau ông Hun Sen đã đe dọa sẽ sa thải giám đốc và phó giám đốc đài truyền hình quốc gia nếu tiếp tục để tình trạng này diễn ra đến tối hôm đó.
Massamba Ndiaye (sinh ngày 8 tháng 10 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Sénégal hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Clermont Foot tại Ligue 1. Sự nghiệp thi đấu. Ndiaye gia nhập câu lạc bộ Pau vào năm 2021 từ câu lạc bộ CNEPS Excellence. Anh gia hạn hợp đồng với Pau vào ngày 25 tháng 5 năm 2022 cho đến tháng 6 năm 2025. Anh ra mắt đội bóng trong trận hòa 1–1 tại Ligue 2 trước Bastia vào ngày 5 tháng 2 năm 2022. Ngày 3 tháng 8 năm 2023, anh gia nhập câu lạc bộ Clermont Foot tại Ligue 1.
Trước khi ra mắt. Năm 2018, Louis tham gia chương trình thực tế sống còn "Under Nineteen" của đài MBC dưới tên thật Kim Tae-woo, và ra mắt với nhóm chiến thắng có tên 1the9 vào ngày 13 tháng 4 năm 2019, sau khi giành vị trí thứ 3 chung cuộc trong chương trình. 1the9 tan rã vào ngày 8 tháng 8 năm 2020. Donghyuk từng là thành viên của ENOi với nghệ danh Avin. Anh ra mắt vào ngày 19 tháng 4 năm 2019 với đĩa đơn "Bloom", tuy nhiên nhóm đã tan rã vào ngày 22 tháng 1 năm 2021. Năm 2019, Siwoo tham gia chương trình "Produce X 101" của Mnet. Anh bị loại ở vòng loại trừ đầu tiên, xếp hạng 81 chung cuộc. Anh sau đó tham gia chương trình "Wild Idol" vào cuối năm 2021, nhưng đã bị loại ở tập 3. Mikey từng tham gia mùa thứ hai của chưong trình "Produce 101 Japan" dưới tên thật Daisuke Morisaki, tuy nhiên đã bị loại trước khi chương trình bắt đầu phát sóng. Năm 2020, Youngbin tham gia chương trình thực tế sống còn "I-Land" do Mnet thực hiện. Anh bị loại ở giai đoạn một, xếp hạng 20 chung cuộc. Sungjun từng là thực tập sinh của Woollim Entertainment và từng tham gia dự án W Project 4. Họ ra mắt một đĩa đơn vào ngày 2 tháng 9 năm 2019. 2022: Ra mắt với "K2Y I: Confidence [Thumbs Up]" và "K2Y II: Passion [Fuego]". Ngày 24 tháng 5, nhóm chính thức ra mắt với EP đầu tay, "K2Y I: Confidence [Thumbs Up]". EP được công bố vào ngày 6 tháng 5. Ngày 2 tháng 8, nhóm công bố EP thứ hai, "K2Y II: Passion [Fuego]", phát hành vào ngày 24 tháng 8. 2023: Youngbin rời nhóm, năm thành viên rời khỏi Keystone. Ngày 25 tháng 2 năm 2023, một tài khoản ẩn danh tố cáo một nam thần tượng tên "Y" có đời tư phức tạp và từng hành hung bạn gái, về sau được tiết lộ là Youngbin. Cùng ngày, Keystone Entertainment đã xác nhận thông tin, và cho biết Youngbin đã rời Blank2y. Theo đó, nhóm sẽ tiếp tục hoạt động với đội hình 8 thành viên. Ngày 27 tháng 6 năm 2023, Keystone cho biết một số thành viên Blank2y đã chấm dứt hợp đồng độc quyền với công ty. Năm thành viên DK, Louis, U, Sungjun, và Sodam sẽ chuyển sang các công ty khác nhưng vẫn tiếp tục hoạt động với tư cách là thành viên nhóm. Trong ba thành viên còn lại, Donghyuk và Siwoo sẽ tập trung cho sự nghiệp diễn xuất, trong khi Mikey tiếp tục dừng hoạt động vì lý do sức khỏe. Quảng bá thưong hiệu. Ngày 9 tháng 7 năm 2022, Tổng cục Du lịch Hàn Quốc tại Việt Nam bổ nhiệm Blank2y làm Đại sứ danh dự du lịch Hàn Quốc tại Việt Nam.
Văn hóa Nghệ thuật (tạp chí) Văn hóa Nghệ thuật là tạp chí xuất bản 3 kỳ/tháng trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam. Tạp chí được thành lập vào năm 1973 với tên gọi ban đầu là "Nghiên cứu Nghệ thuật", trực thuộc Viện Nghệ thuật (Bộ Văn hóa). Các bài viết của tạp chí đi sâu vào lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật ở Việt Nam và trên thế giới, với tác giả là những chuyên gia đến từ nhiều lĩnh vực văn hóa nghệ thuật khác nhau trong nước. Tạp chí cũng từng được xuất bản dưới tên là "Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật". Tạp chí điện tử Văn hóa Nghệ thuật đã ra mắt và đi vào hoạt động từ ngày 28 tháng 8 năm 2021. Tạp chí đã có được sự công nhận từ giới chuyên môn và xã hội, với các giải thưởng của Hội Điện ảnh Việt Nam, Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam
Lethrinus ravus là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2003. Tính từ định danh "ravus" trong tiếng Latinh mang nghĩa là "xám xịt", vì hai tác giả Carpenter và Randall cho rằng loài cá này không có màu sắc nổi bật như những loài cùng chi. Phân bố và môi trường sống. "L. ravus" có phân bố thưa thớt ở Tây Thái Bình Dương, tập trung chủ yếu tại quần đảo Ryukyu, Philippines, Indonesia, Nouvelle-Calédonie, Úc. "L. ravus" sống gần các rạn san hô ở độ sâu khoảng 5–35 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất ở "L. ravus" được ghi nhận là 53,2 cm. "L. ravus" và "Lethrinus semicinctus" là hai loài chị em với nhau. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8. Thức ăn của "L. ravus" có lẽ tương tự như những loài "Lethrinus" khác, là cá nhỏ, động vật giáp xác và động vật thân mềm. Chúng có thể sống đơn độc hoặc hợp thành những nhóm nhỏ. Độ tuổi lớn nhất mà "L. ravus" đạt được là 14 năm, được ghi nhận ở Okinawa. "L. ravus" là một loài được đánh bắt thương mại trong nghề cá ở Tây Úc.
i486 là thiết kế x86 đầu tiên với pipeline chặt chẽ, và cũng là chip x86 đầu tiên với hơn một triệu transistor. Nó tích hợp một cache lớn và một bộ xử lý dấu phẩy động. Một chip i486 với xung 50 MHz xử lý khoảng 40 triệu dòng lệnh mỗi giây, tức nhanh hơn gấp đôi i386 trong cùng một chu kỳ. Tốc độ cải tiến của i486 đến từ pipeline năm giai đoạn của nó, tất cả các giai đoạn nằm trong một chu kỳ. Bộ xử lý dấu phẩy động của nó, i487, nhanh hơn đáng kể so với i387. Kế tiếp i486 là phiên bản gốc của dòng xử lý Pentium. i486 được công bố tại Spring Comdex vào tháng 4 năm 1989. Vào thời điểm đó, Intel nói rằng các bản mẫu sẽ có mặt vào quý ba và có thể phân phối với số lượng sản xuất vào quý bốn. PC dựa trên i486 đầu tiên được công bố vào cuối năm 1989. Bản cập nhật lớn đầu tiên cho thiết kế i486 diễn ra vào tháng 3 năm 1992 với việc phát hành dòng nhân đôi xung nhịp 486DX2. Đây là lần đầu tiên tần số xung nhịp của lõi CPU được tách ra khỏi tần số xung nhịp của bus hệ thống, bằng cách sử dụng bộ nhân đôi xung bên trong, hỗ trợ các chip 486DX2 40 và 50 MHz. Phiên bản nhanh nhất của DX2 có xung nhịp 66 MHz và được phát hành vào tháng 8 cùng năm. Bộ vi xử lý thế hệ thứ năm, Pentium, ra mắt năm 1993. Trong khi đó Intel vẫn tiếp tục sản xuất các chip i486, bao gồm 486DX4-100 với tốc độ xung nhịp được nhân ba (100 MHz) cùng cache L1 được tăng gấp đôi lên thành 16 KB. Trước đó, Intel đã quyết định không cung cấp công nghệ 80386 và 80486 cho AMD. Tuy nhiên, AMD tin rằng thỏa thuận của hai công ty bao gồm cả 80386, vì nó là một mở rộng của 80286. AMD đã thiết kế ngược 386 và cho ra mắt chip Am386DX-40 40 MHz với giá thành thấp hơn và có mức tiêu thụ điện năng thấp hơn so với phiên bản tốt nhất của Intel, i386 33 MHz. Intel cố gắng ngăn cản việc AMD bán bộ vi xử lý, nhưng AMD đã dành chiến thắng trước tòa, giúp công ty khẳng định vị thế đối thủ cạnh tranh với Intel. AMD tiếp tục tạo ra các chip giống Intel bằng việc phát hành Am486 thế hệ đầu tiên, vào tháng 4 năm 1993. Nó có tần số xung nhịp lần lượt là 25, 33 và 40 MHz. Chip thế hệ thứ hai Am486DX2 với tần số xung nhịp 50, 66 và 80 MHz được phát hành một năm sau đó. Các kiện cáo kéo dài từ năm 1987 của AMD chống lại Intel được giải quyết vào năm 1995, và AMD được phép đọc vi mã 80486 của Intel. Từ đó dẫn đến sự tồn tại của hai phiên bản bộ xử lý Am486: một phiên bản được thiết kế ngược từ vi mã của Intel, và phiên bản thứ hai sử dụng thiết kế phòng sạch của AMD. Tuy nhiên, vụ kiện cũng đi tới kết luận 80486 sẽ là thiết kế Intel cuối cùng mà AMD được phép sao chép. Một nhà sản xuất 486 khác là Cyrix, một công ty chuyên sản xuất chip đồng xử lý cho các hệ thống 80286/386. Bộ xử lý Cyrix 486 đầu tiên, 486SLC và 486DLC, được phát hành vào năm 1992. Cả hai bộ xử lý Cyrix, do Texas Instruments sản xuất, lần lượt là các bản năng cấp cho 386SX/DX. Tuy nhiên, chúng không hẳn là Intel 486, do chỉ có 1 KB cache và không có bộ đồng xử lý toán học tích hợp. Năm 1993, Cyrix phát hành các bộ xử lý Cx486DX và DX2 với hiệu suất tương tự với Intel. Sau đó hai công ty kiện nhau, với việc Intel nộp đơn vi phạm bằng sáng chế và Cyrix nộp đơn kiện chống độc quyền. Năm 1994, Cyrix thắng kiện vi phạm bằng sáng chế và bác đơn chống độc quyền. Vào năm 1995 cả Cyrix và AMD đều bắt đầu nhắm tới một bộ phận người dùng muốn nâng cấp bộ vi xử lý của họ. Cyrix phát hành một bộ xử lý dựa trên 486 với tên gọi 5x86. Nó sử dụng lõi Cyrix M1, có tốc độ xung nhịp lên tới 120 MHz, dành cho các bo mạch chủ 486 Socket 3. AMD phát hành bản nâng cấp Am5x86 133 MHz, về cơ bản là chip 80486 được cải tiến với bộ nhớ đệm gấp đôi và bộ nhân bốn xung nhịp, dành cho các bo mạch chủ 486DX thời đầu. Am5x86 còn là bộ xử lý đầu tiên được quảng cáo là có hiệu năng tương đương với một chip Pentium 75 MHz. Kingston Technology cũng ra mắt một bản nâng cấp tên là 'TurboChip' cho các hệ thống 486, sử dụng một Am5x86 133 MHz. Intel đáp trả bằng cách tạo ra một chip nâng cấp cho 486 với tên gọi Pentium OverDrive. Nó là một lõi Pentium đã được sửa đổi để chạy với xung nhịp lên đến 83 MHz trên các bo mạch có xung nhịp bus 25 hoặc 33 MHz. OverDrive không có tính cạnh tranh về hiệu năng cũng như giá cả, do đó nó không được phổ biến. 486 trở nên lỗi thời vào đầu năm 1996. Tuy nhiên, ngay cả sau khi dòng vi xử lý Pentium bắt đầu thịch hành, Intel vẫn tiếp tục sản xuất các lõi 486 cho các ứng dụng nhúng trong công nghiệp. Intel dừng sản xuất i486 vào cuối năm 2007. Tập lệnh của i486 rất giống với i386, thêm vào đó là một số lệnh mới như CMPXCHG, một phép so sánh và hoán đổi (compare-and-swap) atomic, và XADD, một lệnh atomic làm tăng giá trị một ô nhớ. Kiến trúc hiệu năng của i486 là một cải tiến lớn so với i386. Nó tích hợp một cache chung cho cả dữ liệu và lệnh, một bộ đồng xử lý dấu phẩy động (FPU) và giao diện bus được cải tiến. Do có pipeline chặt, các chuỗi lệnh đơn giản như là codice_1 hay codice_2 có thể được được xử lý xong trong một chu kỳ đồng hồ. Các cải tiến này giúp ALU của i486 đạt được hiệu năng gấp đôi so với i386. Một chip i486 16 MHz có hiệu năng tương đương với i386 33 MHz. Các điểm khác i386. Giống như trong i386, có thể triển khai một mô hình bộ nhớ phẳng 4 GB. Tất cả các thanh ghi "chọn phân đoạn" có thể được gán một giá trị bất kỳ trong chế độ bảo vệ hoặc được gán 0 trong chế độ thực, và chỉ sử dụng các thanh ghi độ lệch 32-bit như một địa chỉ ảo 32-bit tuyến tính, bỏ qua logic phân đoạn. Các địa chỉ ảo sau đó thường được hệ thống phân trang ("paging") gắn lên các địa chỉ thực. (Chế độ thực không có địa chỉ ảo.) Giống i386, việc bỏ qua sự phân đoạn bộ nhớ có thể cải thiện đáng kể hiệu suất của một số hệ điều hành và ứng dụng. Trên một bo mạch chủ PC điển hình, cần có bốn SIMM 30 chân (8 bit) giống nhau hoặc một SIMM 72 chân (32 bit) cho mỗi bank để phù hợp với bus dữ liệu 32 bit của i486. Bus địa chỉ sử dụng 30-bit (A31..A2) được bổ sung bởi bốn chân chọn byte (thay vì A0,A1), cho phép các lựa chọn bất kỳ 8/16/32-bit. Điều này có nghĩa là giới hạn của không gian bộ nhớ thực cũng là 4 gigabyte (230 32-bit word = 232 8-bit word). Intel bán một số biến thể và các phiên bản i486 khác nhau, phân biệt bởi hậu tố (xem bảng dưới). Xung nhịp tối đa của các phiên bản Intel dao động từ 16 MHz đến 100 MHz. Các chip i486 16 MHz được sử dụng bởi Dell Computers. AMD Am5x86 và Cyrix Cx5x86 là những bộ xử lý i486 cuối cùng, thường được sử dụng trong các bo mạch chủ i486 thế hệ cuối. Chúng đi kèm với khe cắm PCI và SIMM 72 chân được thiết kế để chạy Windows 95, ngoài ra cũng là các tùy chọn nâng cấp cho các bo mạch chủ 80486. Trong khi Cyrix Cx5x86 dần biến mất khi được thay thế bởi Cyrix 6x86 thì Am5x86 vẫn cần thiết do sự chậm trễ của AMD K5. Máy tính dựa trên i486 vẫn phổ biến cho đến cuối những năm 1990 như là các dòng PC cấp thấp. Việc sản xuất i486 cho các máy tính để bàn và máy tính xách tay ngừng vào năm 1998, khi Intel giới thiệu thương hiệu Celeron, mặc dù nó vẫn tiếp tục được sản xuất cho các hệ thống nhúng cho đến cuối những năm 2000. Các máy tính i486 vẫn được sử dụng cho đến đầu những năm 2000, khi mà Windows 95 đến 98 và Windows NT 4.0 là những hệ điều hành cuối cùng của Microsoft chính thức hỗ trợ các máy i486. Windows 2000 có thể chạy trên i486, mặc dù với hiệu suất thấp hơn mức tối ưu, do yêu cầu phần cứng tối thiểu của bộ xử lý Pentium. Khi các hệ điều hành mới hơn xuất hiện, các hệ thống i486 không còn được sử dụng, trừ khi có một yêu cầu về khả năng tương thích ngược với các chương trình cũ hơn (đặc biệt là các trò chơi). Tuy nhiên có thể sử dụng DOSBox có sẵn trên các hệ điều hành sau này để mô phỏng tập lệnh i486, ngoài ra nó còn tương thích hoàn toàn với hầu hết các chương trình trên DOS. Linux 6 có thể sẽ là nhân Linux cuối cùng hỗ trợ i486.
Louise của Orléans (tiếng Pháp: "Louise d'Orléans"; tiếng Tây Ban Nha: "Luisa de Orléans"; tên đẩy đủ: Louise Françoise Marie Laure của Orléans; 24 tháng 2 năm 1882 – 18 tháng 4 năm 1958) là Vương phi của Hai Sicilie và là bà ngoại của Quốc vương Felipe VI của Tây Ban Nha. Louise là con gái út của Philippe của Orléans (1838–1894), Bá tước xứ Paris và là người thừa kế ngai vàng nước Pháp với tên hiệu "Philippe VII". Mẹ của Louise là Vương tôn nữ María Isabel của Tây Ban Nha (1848–1919), con gái của Vương tử Antoine của Pháp, Công tước xứ Montpensier và Vương nữ María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha. Hôn nhân và con cái. Ngày 16 tháng 11 năm 1907, Louise kết hôn với Carlo của Hai Sicilie (1870–1949), (góa vợ của María de las Mercedes của Tây Ban Nha, Thân vương xứ Asturias) tại Wood Norton, Evesham, Worcestershire, Anh. Cặp đôi sinh sống ở Madrid và có 4 người con: Cuộc sống sau này. Năm 1931, khi Đệ Nhị Cộng hòa Tây Ban Nha được thiết lập, Louise cùng gia đình rời khỏi Tây Ban Nha đến Ý và sau đó là Thụy Sĩ. Sau chiến thắng của Francisco Franco trong Nội chiến Tây Ban Nha năm 1939, họ trở về Tây Ban Nha và định cư tại Sevilla.
Lethrinus borbonicus là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830. Từ định danh được đặt theo tên gọi của đảo Borbon, tức đảo Réunion ngày nay, nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập (–"icus" trong tiếng Latinh: "thuộc về"). Phân bố và môi trường sống. "L. borbonicus" có phân bố giới hạn ở Tây Ấn Độ Dương, từ Biển Đỏ và vịnh Ba Tư trải dài dọc theo Đông Phi về phía nam đến KwaZulu-Natal (Nam Phi), phía đông đến Pakistan, Madagascar và các đảo quốc xung quanh. Thông qua kênh đào Suez mà "L. borbonicus" đã đến được Địa Trung Hải, khi lần đầu tiên mà loài này được nhìn thấy ở bờ biển Tunisia. "L. borbonicus" sống gần các rạn san hô trên nền đáy cát hoặc trên thảm cỏ biển ở độ sâu đến ít nhất là 40 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất ở "L. borbonicus" là 40 cm, thường bắt gặp với chiều dài trung bình khoảng 25 cm. Thân màu xám đen hoặc nâu vàng, lớp vảy cá ở giữa sáng màu hơn, đôi khi có các vạch màu sẫm đứt đoạn; thân dưới trắng nhạt. Đầu màu xám nâu. Vây ngực và vây bụng màu trắng hoặc phớt hồng. Vây lưng và vây hậu môn lốm đốm trắng hoặc hơi vàng, có viền đỏ. Vây đuôi có các dải đỏ nhạt mờ. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 4 hoặc 5 thường dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8 (tia thứ nhất thường dài nhất); Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 46–48. Thức ăn của "L. borbonicus" chủ yếu bao gồm động vật giáp xác, động vật thân mềm và động vật da gai. Vào ban ngày, chúng có thể hợp thành nhóm nhỏ, nhưng về đêm, chúng sống đơn độc. Ở vịnh Ba Tư, mùa sinh sản của "L. borbonicus" kéo dài từ tháng 3 đến tháng 6; cũng tại đó, độ tuổi lớn nhất được biết đến ở loài này là 9 năm. "L. borbonicus" có tầm quan trọng thương mại tương đối nhỏ. Ở vịnh Ba Tư, chúng đang rơi vào tình trạng bị đánh bắt quá mức.
Động đất ngoài khơi phía Tây bán đảo Satsuma 2015 Động đất ngoài khơi phía Tây bán đảo Satsuma 2015 (薩摩半島西方沖地震, Satsumahantō Nishikata-oki jishin) là trận động đất xảy ra vào lúc 5:51 (theo giờ Nhật Bản), ngày 14 tháng 11 năm 2015. Trận động đất có cường độ 7.1 độ richter (theo JMA), tâm chấn ở độ sâu 17 km nằm ngoài khơi bờ biển phía Tây Bán đảo Satsuma. Ngay sau khi động đất xảy ra, Cơ quan Khí tượng Nhật Bản đã đưa ra cảnh báo sóng thần cho các khu vực ven biển phía Tây tỉnh Kagoshima, quần đảo Amami và quần đảo Tokara, ước tính chiều cao sóng thần đạt được khoảng 1m. Đây là trận động đất có kiểu đứt gãy trượt theo phương Tây Bắc – Đông Nam. Hậu quả trận động đất chỉ làm một số tàu thuyền bị thiệt hại nhẹ, không có trường hợp nào tử vong.
Rafael Grünenfelder (sinh ngày 20 tháng 3 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá người Liechtenstein hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Balzers và Đội tuyển bóng đá quốc gia Liechtenstein. Sự nghiệp thi đấu quốc tế. Grünenfelder ra mắt quốc tế cho Liechtenstein vào ngày 25 tháng 3 năm 2021 trong trận đấu thuộc khuôn khổ Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2022 gặp Armenia. Grünenfelder được sinh ra tại Vaduz, và anh cũng được cấp quốc tịch Thụy Sĩ. "Tính đến 26 tháng 9 năm 2022"
Hội chứng rối loạn nhận dạng toàn vẹn cơ thể Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Chứng phiền muộn về tính toàn vẹn của cơ thể (BID) còn được gọi là chứng rối loạn nhận dạng toàn vẹn cơ thể (BIID), rối loạn nhận dạng cụt chi hoặc xenomelia, trước đây được gọi là apotemnophilia, là một chứng rối loạn tâm thần được đặc trưng bởi mong muốn bị khuyết tật về giác quan hoặc thể chất hoặc cảm thấy khó chịu khi khỏe mạnh, bắt đầu từ đầu tuổi vị thành niên và dẫn đến những hậu quả có hại. BID dường như có liên quan đến somatoparaphrenia. Những người có tình trạng này có thể tự coi mình là người chuyển hóa. Những dấu hiệu và triệu chứng. BID là một tình trạng hiếm gặp, trong đó có sự bất đồng giữa cơ thể và tinh thần, đặc trưng bởi mong muốn được cắt cụt hoặc liệt một chi, thường là một chân hoặc bị mù hoặc điếc. Nhũng người bị mắc hội chứng đôi khi có cảm giác hưng phấn tình dục liên quan đến mong muốn mất một chi, cử động hoặc cảm giác. Một số người trở nên thoải mái hơn với cơ thể của họ bằng cách giả vờ rằng họ là người cụt chi bằng cách sử dụng chân tay giả và các công cụ khác để giúp họ vượt qua họi chứng này, bằng cách sử dụng xe lăn hoặc bằng cách cản trở tầm nhìn hoặc thính giác của họ. Một số người mắc BID đã báo cáo với phương tiện truyền thông hoặc qua phỏng vấn với các nhà nghiên cứu rằng họ đã tự cắt bỏ một chi "không cần thiết" bằng nhiều cách, chẳng hạn như để tàu hỏa cán qua hoặc làm tổn thương chi nghiêm trọng đến mức bác sĩ phải phẫu thuật cắt bỏ. Tuy nhiên, y văn ghi nhận rất ít trường hợp tự cắt cụt chi. Tuy nhiên, có ít nhất một ví dụ được ghi lại rõ ràng. Trong phạm vi có thể khái quát, những người mắc BID dường như bắt đầu mong muốn cắt cụt chi khi họ còn nhỏ, từ tám đến mười hai tuổi và thường biết một người bị cắt cụt chi khi họ còn nhỏ. Tuy nhiên, những người mắc BID có xu hướng chỉ tìm cách điều trị khi họ lớn lên. Những người mắc BID dường như chủ yếu là nam giới và mặc dù không có bằng chứng nào cho thấy có liên quan đến khuynh hướng tình dục, nhưng dường như có mối tương quan giữa người mắc BID và người mắc chứng paraphilia; dường như có một mối tương quan yếu với rối loạn nhân cách. Tiền sử tâm lí gia đình dường như không liên quan và dường như không có bất kỳ mối tương quan chặt chẽ nào với vị trí của chi hoặc các chi mà người đó mong muốn họ không có, cũng không phải với bất kỳ chấn thương trong quá khứ đối với chi không mong muốn. Từ năm 2014, không có nguyên nhân rõ ràng và đang là một chủ đề của nghiên cứu đang diễn ra và hiếm khi được nghiên cứu. Tuy nhiên, một phần nhỏ những người mắc BID liên quan đến chân trái của họ đã được quét MRI cho thấy ít chất xám hơn ở bên phải của tiểu thùy đỉnh trên của họ. Lượng chất xám bị thiếu có tương quan với mức độ mong muốn cắt bỏ chân của bệnh nhân. Theo ICD-11, BID được liệt vào trong danh mục "Rối loạn đau khổ về thể chất hoặc trải nghiệm về thể chất". Nó "được đặc trưng bởi một mong muốn mãnh liệt và dai dẳng được trở thành người khuyết tật về thể chất theo một cách đáng kể (ví dụ: cụt chi, liệt nửa người, mù), khởi phát sớm ở tuổi vị thành niên kèm theo sự khó chịu dai dẳng hoặc cảm giác không phù hợp về cơ thể lành lặn hiện tại mong muốn trở thành người khuyết tật về thể chất dẫn đến những hậu quả có hại, như được thể hiện bởi sự lo lắng với mong muốn (bao gồm cả thời gian giả vờ bị khuyết tật) ảnh hưởng đáng kể đến năng suất, hoạt động giải trí hoặc hoạt động xã hội (ví dụ: một người không muốn có mối quan hệ thân thiết vì điều đó sẽ gây khó khăn cho việc giả vờ) hoặc bằng cách cố gắng thực sự trở thành người khuyết tật đã khiến người đó đặt sức khỏe hoặc tính mạng của mình vào tình trạng nguy hiểm đáng kể, do Bệnh hệ thần kinh hoặc do một tình trạng của bệnh khác, hoặc do Suy nghĩ sai lệch." Phải loại trừ chẩn đoán phiền muộn giới. Trước khi phát hành ICD-11, việc chẩn đoán BID là một chứng rối loạn tâm thần đã gây tranh cãi. Đã có cuộc tranh luận về việc đưa nó vào DSM-5 và đã không được đưa vào; và cũng không được đưa vào ICD-10. Nó đã được đưa vào ICD-11, đã đưa ra phiên bản ổn định vào tháng 6 năm 2018, với tên gọi 'Chứng phiền muộn về tính toàn vẹn của cơ thể' với mã 6C21. Không có phương pháp điều trị dựa trên bằng chứng nào đối với BID; có những báo cáo về việc sử dụng trị liệu hành vi nhận thức và thuốc chống trầm cảm để điều trị BID. Đạo đức của việc phẫu thuật cắt bỏ chi không mong muốn của một người mắc bệnh BID là khó khăn và gây tranh cãi. Kết quả của BID được điều trị và không được điều trị vẫn chưa được biết; có rất nhiều trường hợp báo cáo rằng việc cắt cụt chi vĩnh viễn giải quyết được ham muốn ở những người bị ảnh hưởng. Khả năng chuyển đổi. Khả năng chuyển đổi (có thể được gọi là có thể chuyển đổi) là thuật ngữ được sử dụng để mô tả nhu cầu thay đổi cơ thể của một người khỏe mạnh để phát triển tình trạng suy yếu hoặc khuyết tật về thể chất. Điều này bị ảnh hưởng bởi quyết định và mong muốn cá nhân. Theo ISH News, những người có thể chuyển giới trải qua quá trình này bằng cách tự gây thương tích về thể xác theo cách dẫn đến tàn tật suốt đời, thỏa mãn nguyện vọng được tàn tật của họ. Người có thể chuyển đổi có thể muốn trở thành điếc, mù, cụt chi, liệt nửa người hoặc bất cứ điều gì khác. Apotemnophilia lần đầu tiên được mô tả trong một bài báo năm 1977 bởi các nhà tâm lý học Gregg Furth và John Money là chủ yếu có xu hướng tình dục. Năm 1986, Money mô tả một tình trạng tương tự mà ông gọi là acrotomophilia; cụ thể là, hưng phấn tình dục để đáp lại sự cắt cụt chi của bạn tình. Các ấn phẩm trước năm 2004 nói chung là nghiên cứu điển hình. Tình trạng này đã nhận được sự chú ý của công chúng vào cuối những năm 1990 sau khi bác sĩ phẫu thuật người Scotland Robert Smith cắt cụt chân tay của hai người khỏe mạnh khác đang khao khát được thực hiện điều này. Năm 2004, Michael First đã công bố nghiên cứu lâm sàng đầu tiên, trong đó ông khảo sát 52 người mắc BID, một phần tư trong số họ đã trải qua phẫu thuật cắt cụt chi. Dựa trên nghiên cứu đó, First đã đặt ra thuật ngữ "rối loạn nhận dạng toàn vẹn cơ thể" để diễn đạt điều mà ông coi là một chứng rối loạn nhận dạng hơn paraphilia. Sau công việc của First, những nỗ lực nghiên cứu về BID như một tình trạng rối loạn thần kinh đã tìm kiếm những nguyên nhân có thể xảy ra trong não của những người mắc BID bằng cách sử dụng kỹ thuật hình ảnh thần kinh và các kỹ thuật khác. Nghiên cứu tạm thời phát hiện ra rằng những người mắc BID có nhiều khả năng muốn cắt bỏ chi bên trái hơn bên phải, phù hợp với tổn thương ở thùy đỉnh bên phải; Ngoài ra, phản ứng độ dẫn của da khác nhau đáng kể ở trên và dưới đường cắt cụt mong muốn, và đường cắt cụt mong muốn vẫn ổn định theo thời gian, với mong muốn thường bắt đầu từ thời thơ ấu. Công việc này không hoàn toàn giải thích được tình trạng này và nghiên cứu tâm lý tình dục cũng đang được tiến hành.
Lực lượng Đổ bộ đường không Nga Lực lượng Đổ bộ đường không Nga (tiếng Nga: "Воздушно-десантные войска России", viết gọn là "ВДВ", "Vozdushno-desantnye voyska Rossii", viết tắt là VDV) là lực lượng đổ bộ đường không của Lực lượng vũ trang Nga. Lực lượng lính dù VDV được thành lập vào năm 1992 từ các đơn vị của "Lực lượng Dù Liên Xô" ("Vozdushno-desantnye voyska SSSR", tiếng Nga: "Воздушно-десантные войска СССР", "ВДВ") dưới sự kiểm soát của Nga sau khi Liên Xô tan rã. Binh lính của Lực lượng Dù Nga có truyền thống đội mũ nồi xanh và áo lót Telnyashka sọc xanh và được gọi là Desant (tiếng Nga: Десант). Lực lượng đổ bộ đường không Nga sử dụng một loạt các phương tiện tác chiến đổ bộ đường không chuyên dụng và được cơ giới hóa hoàn toàn. Theo truyền thống, họ có nhiều vũ khí hạng nặng hơn hầu hết các lực lượng đổ bộ đường không đương thời. Với truyền thống quân sự từ thời Xô Viết, Lính dù VDV đã trở thành tinh hoa của quân đội Nga. Trong chiến sự Nga-Ukraine thì lính dù tinh nhuệ của Nga chỉ là "hổ giấy" và phải vật lộn trong cuộc chiến, nơi giao tranh đã gây thiệt hại lớn về nhân mạng và làm tổn hại đến danh tiếng của đơn vị này. Lực lượng đổ bộ đường không tinh nhuệ của quân đội Nga VDV vốn được xem là lực lượng nòng cốt trong chiến dịch quân sự đặc biệt, tuy nhiên, lính dù Nga đã hứng tổn thất nặng nề trong một số thất bại gây bất ngờ trong chiến dịch. Các chỉ huy Nga cũng thất bại trong nỗ lực tăng cường lực lượng lính dù trên bộ thông qua các trực thăng bổ sung. Lực lượng VDV Nga được nhận dạng bằng các dấu "V" trên xe của họ, được cho là còn hứng một số thất bại khác, chịu tổn thất nặng nề trong suốt cuộc chiến ở Ukraine. Vào cuối tháng 4 năm 2022, nhà báo Christo Grozev của Bellingcat báo cáo rằng ông đã đích thân kiểm tra và cho rằng Nga đã mất "gần 90% lính dù giỏi nhất" trong đợt xung trận đầu tiên. Một số lượng lớn máy bay trực thăng đã bị lực lượng phòng thủ Ukraine bắn hạ và lính dù bị mắc kẹt mà không có xe bọc thép hoặc không quân yểm trợ. Vào đầu tháng 5, MoD của Vương quốc Anh tuyên bố rằng các đơn vị VDV và các lực lượng tinh nhuệ khác đã chịu tổn thất nặng nề và có lẽ Nga sẽ mất nhiều năm để tái thiết các lực lượng này. Theo trang BBC News Russian và trang web tin tức Mediazona thống kê đến 1.522 lính dù VDV tử vong đã được ghi nhận tính đến ngày 12 tháng 2 năm 2023. Bộ Quốc phòng Anh cho rằng Nga điều động sai mục đích, khiến lực lượng đổ bộ đường không chịu tổn thất nặng tại Ukraine. VDV được điều động tham gia các nhiệm vụ phù hợp hơn với bộ binh cơ giới với khí tài hạng nặng và chịu thương vong nặng nề trong suốt chiến dịch. Hiệu suất không ổn định của lực lượng phản ánh năng lực quản lý chiến lược kém và Nga chưa chiếm ưu thế trên không. Sau khi Nga rút khỏi miền bắc Ukraine để đẩy mạnh hoạt động ở miền đông Ukraine, các đơn vị VDV cũng được điều tới khu vực này và tham gia nhiều trận đánh, trong đó trận pháo kích đánh chìm cầu phao Ukraine bắc qua sông Siverskiy Donets. Giới quan sát cho rằng lực lượng lính dù Nga đang trở lại vai trò chủ đạo trong chiến dịch ở Ukraine, dù chưa khôi phục được vị thế trước đó. Viện Nghiên cứu chiến tranh ISW cho rằng trách nhiệm tiến hành các chiến dịch tấn công của Nga dường như ngày càng được chuyển nhiều cho lực lượng lính dù.
American International Group, Inc. (AIG) là một tập đoàn tài chính và bảo hiểm đa quốc gia của Mỹ có hoạt động tại hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ. #đổi , Các công ty AIG tuyển dụng 49.600 người. Công ty hoạt động thông qua ba mảng kinh doanh cốt lõi: Bảo hiểm phi nhân thọ, Nhân thọ Hưu trí và một công ty con độc lập hỗ trợ công nghệ. Bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm Bảo hiểm Thương mại, Bảo hiểm Cá nhân, các hoạt động tại Hoa Kỳ và Quốc tế. Cuộc sống Hưu trí bao gồm Hưu trí theo nhóm, Hưu trí cá nhân, Cuộc sống và Thị trường thể chế. AIG là nhà tài trợ chính của giải golf AIG Women's Open. Trụ sở công ty của AIG ở Thành phố New York và công ty cũng có văn phòng trên khắp thế giới. AIG phục vụ 87% của Fortune Global 500 và 83% của Forbes 2000. AIG được xếp hạng 60 trong danh sách Fortune 500 năm 2018. Theo danh sách Forbes Global 2000 năm 2016, AIG là công ty đại chúng lớn thứ 87 trên thế giới. Vào ngày 31 tháng 12 năm 2017, AIG có 65,2 tỷ USD vốn cổ đông. Trong suốt khủng hoảng tài chính 2007–08, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã bảo lãnh cho công ty với số tiền 180 tỷ đô la và nắm quyền kiểm soát cổ phần sở hữu, với Ủy ban điều tra khủng hoảng tài chính liên quan đến sự thất bại của AIG với việc bán hàng loạt bảo hiểm không được bảo hiểm. AIG đã hoàn trả 205 tỷ USD cho chính phủ Hoa Kỳ vào năm 2012. AIG là nhà tài trợ áo đấu của câu lạc bộ bóng đá Anh Manchester United F.C. từ năm 2006 đến 2010. AIG là nhà tài trợ áo đấu đầu tiên của Mỹ cho câu lạc bộ và áo đấu của AIG đã được mặc trong một trong những giai đoạn thành công nhất trong lịch sử của câu lạc bộ, trùng với đội United vĩ đại thứ ba của Ngài Alex Ferguson, đã giành được ba chức vô địch Premier League, cũng như Champions League, trong vòng bốn mùa giải. Vào năm 2019, AIG đã ký hợp đồng 5 năm để trở thành nhà tài trợ chính của Women's British Open, hợp đồng đầu tiên của AIG trong lĩnh vực golf. Vào năm 2020, hợp đồng được gia hạn đến năm 2025 và giải vô địch được đổi tên thành AIG Women's Open, với quỹ giải thưởng golf lớn dành cho nữ lớn nhất vào năm 2021, với tổng trị giá 5,8 triệu đô la Mỹ. AIG Women's Open đã thiết lập một chuẩn mực mới vào năm 2022 là 7,3 triệu đô la cho các khoản thanh toán giải thưởng gôn vô địch lớn dành cho nữ, tăng hầu bao của giải đấu 125% kể từ năm 2018.
Lim Ji-yeon (Hangul: 임지연, Hanja: 林智妍, Hán-Việt: Lâm Trí Nghiên; sinh ngày 23 tháng 6 năm 1990) là một nữ diễn viên người Hàn Quốc trực thuộc công ty giải trí Artist Company. Sau khi xuất hiện trong một số phim ngắn, cô có vai diễn điện ảnh đầu tiên trong "Ám ảnh ngoại tình" (2014). Vai diễn này đã mang về cho cô giải thưởng Grand Bell và đề cử Giải thưởng nghệ thuật Baeksang cùng nhiều giải thưởng khác. Sau đó, cô đóng vai chính trong bộ phim "Vương triều dục vọng" (2015) và phim truyền hình "Xã hội thượng lưu" (2015), cô giành được Giải thưởng Ngôi sao APAN và Giải thưởng Phim truyền hình Hàn Quốc. Cô đã gặt hái được nhiều thành công hơn nữa trong bộ phim truyền hình "Ngọn gió đời tôi" (2016–2017), "Cuộc đời thứ 2" (2019), và "Vinh quang trong thù hận" (2022–2023), cũng như bộ phim "Anh hùng hành giả" (2021). Lim Ji-yeon theo học chuyên ngành Diễn xuất tại Đại học Nghệ thuật Quốc gia Hàn Quốc. Tháng 5 năm 2020, Lim Ji-yeon ký hợp đồng với công ty quản lý mới Artist Company. Ngày 1 tháng 4 năm 2023, Artist Company xác nhận rằng Lim Ji-yeon đang hẹn hò với nam diễn viên Lee Do-hyun, người cô gặp khi quay phim "Vinh quang trong thù hận".
Lâu đài Dunrobin (chủ yếu là 1835–1845 - hiện tại) là một toà nhà ở Sutherland, thuộc khu vực Highland của Scotland, đồng thời là trụ sở gia đình của Bá tước xứ Sutherland và Thị tộc Sutherland. Nó nằm cách Golspie một dặm (1,6 km) về phía Bắc và cách Brora khoảng năm dặm (8,0 km) về phía Nam, nhìn ra Dornoch Firth. Nguồn gốc của Dunrobin có từ thời Trung cổ, nhưng phần lớn tòa nhà hiện tại và các khu vườn đã được bổ sung bởi Charles Barry từ năm 1835 đến năm 1850. Một số tòa nhà ban đầu có thể được nhìn thấy ở sân trong, mặc dù đã có một số lần mở rộng và thay đổi khiến nó trở thành ngôi nhà lớn nhất ở phía Bắc Scotland. Sau khi được sử dụng như một trường nội trú trong 7 năm, nó hiện đã mở cửa cho công chúng.
Bá tước xứ Sutherland Bá tước xứ Sutherland (tiếng Anh: "Earl of Sutherland") là một tước hiệu trong Đẳng cấp quý tộc Scotland. Nó được tạo ra vào khoảng năm 1230 cho William de Moravia và là bá tước hàng đầu thuộc Đẳng cấp quý tộc Scotland. Bá tước hoặc nữ bá tước của Sutherland cũng là thủ lĩnh của Thị tộc Sutherland. Dòng dõi ban đầu của bá tước Sutherland có họ "de Moravia" mặc dù đôi khi họ sử dụng họ "Sutherland", lấy từ tước vị cha truyền con nối của họ. Cái tên de Moravia có nghĩa là "của Moray" hoặc "của Murray". De Moravias từng là bá tước của Sutherland và là thủ lĩnh của thị tộc Sutherland, được cho là đã chia sẻ tổ tiên nội ban đầu của họ với các thủ lĩnh của thị tộc Murray thông qua tổ tiên chung của họ là Freskin de Moravia. Nhiều nhánh khác nhau của Gia tộc Murray tuyên bố có nguồn gốc từ Freskin, bao gồm cả những người từng là bá tước và sau này là Công tước xứ Atholl. Nghiên cứu hiện tại đang được tiến hành thông qua các nghiên cứu Y-DNA dòng nam phối hợp với cả hai nhánh của các thị tộc này để xác định xem có nhánh hiện đại nào có chung tổ tiên thời trung cổ hay không. Từ Robert, Bá tước thứ 6 (mất năm 1444) trở đi, họ Sutherland đã được sử dụng. Elizabeth Sutherland, Nữ bá tước thứ 10 xứ Sutherland (1470–1535) kết hôn với Adam Gordon, con trai nhỏ của George Gordon, Bá tước thứ 2 xứ Huntly, tộc trưởng Thị tộc Gordon. Con trai đầu lòng của họ là Alexander Gordon, Chủ nhân của Sutherland, có hậu duệ là một số bá tước tiếp theo của Sutherland, những người đều sử dụng họ Gordon. Tước hiệu một lần nữa được nắm giữ bởi một chuỗi dài các hậu duệ nam, cho đến khi William Gordon, Bá tước thứ 18 xứ Sutherland qua đời, không có con trai, khi tước hiệu này được truyền cho con gái của ông là Elizabeth, Nữ bá tước thứ 19 xứ Sutherland (1765–1839). Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Chư bệnh nguyên hậu luận Chư bệnh nguyên hậu luận (), còn được gọi là Chư bệnh nguyên hậu tổng luận () hoặc Sào thị bệnh nguyên (), là một chuyên khảo của Trung Quốc bao gồm năm mươi quyển. Văn bản được biên soạn trong thời nhà Tùy (581–618), tác giả được cho là của thái y Sào Nguyên Phương, mặc dù điều này mâu thuẫn với một số tài liệu gốc ban đầu. Bàn luận về khoảng 1739 hội chứng và 67 loại bệnh tật, "Chư bệnh nguyên nhân luận" là bộ bách khoa toàn thư y học lâu đời nhất còn tồn tại về nguyên nhân học và triệu chứng thực thể trong y học cổ truyền Trung Quốc. Văn bản được chia thành năm mươi quyển. Tác phẩm đề cập khoảng 1739 căn bệnh được phân loại bao gồm da liễu; phụ khoa; nhãn khoa; tai mũi họng; tiết niệu; nhi khoa và ngoại khoa. Thay vì hướng dẫn trị liệu bằng thảo dược hoặc châm cứu, tác phẩm khuyên thực hành khí công như một phương pháp chữa khỏi bách bệnh. Theo lời tựa của một bản thảo còn sót lại, soạn bởi #đổi , thì văn bản được soạn bởi thái y Sào Nguyên Phương, người đã "sưu tầm và biên soạn cốt lõi của các quan điểm ​​kinh viện khác nhau bằng một nghiên cứu kỹ lưỡng về chúng và xếp loại tất cả chúng ra" dưới triều Tùy Dạng Đế. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu Yan Liang, Abdulbaset M. Salim, Wendy Wu, và Paul E. Kilgore, "hầu như không chắc tác giả duy nhấ" "Tùy thư kinh tịch chí" (), được biên soạn trong khoảng năm 641 đến 656, xác định Ngô Cảnh Hiền () là tác giả của "Chư bệnh nguyên hậu luận". Ngoài ra, "Cựu Đường thư kinh tịch chí" (), được biên soạn vào thời Hậu Tấn, khẳng định văn bản này được soạn bởi Ngô Cảnh (). "Chư bệnh nguyên hậu luận" là bách khoa toàn thư y học lâu đời nhất về nguyên nhân học và triệu chứng thực thể trong y học cổ truyền Trung Quốc. Cuốn sách được tiếp nhận khi xuất bản lần đầu vào thời nhà Tùy, cũng như thời nhà Đường và nhà Tống sau đó, khi nó trở thành sách giáo khoa y học chủ đạo. Từ đầu thế kỷ thứ 8 trở đi, nó được đưa vào phần còn lại của thế giới và được trích dẫn rộng rãi trong các tác phẩm như tác phẩm y học cổ nhất còn sót lại của Nhật Bản, "Ishinpō", và "The Canon of Medicine" của Avicenna.
Stade Ange Casanova () là một sân vận động bóng đá ở Ajaccio, Corsica, Pháp. Sân đã từng là sân nhà của câu lạc bộ Gazélec Ajaccio từ năm 1961 tới năm 2023, có sức chứa 8,000 người. Stade Mezzavia được xây dựng vào năm 1961, và đổi tên thành Stade Ange Casanova vào ngày 16 tháng 7 năm 1994 để tưởng nhớ Ange Casanova, giám đốc của câu lạc bộ Gazélec. Trước năm 1961, câu lạc bộ thi đấu trên sân Stade Miniconi. Tính đến ngày 15 tháng 2 năm 2023, sân đã bị ngừng tổ chức các trận bóng đá chuyên nghiệp do câu lạc bộ Gazélec Ajaccio đã bị giải thể.
Lado Akhalaia (cầu thủ bóng đá, sinh 2002) Lado Akhalaia (sinh ngày 1 tháng 7 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá người Moldova hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Swift Hesperange, được cho mượn từ Torino. Sự nghiệp thi đấu. Akhalaia xuất thân từ lò đào tạo trẻ Dacia Buiucani. Năm 2019, anh gia nhập lò đào tạo câu lạc bộ Inter tại Serie A sau khi thử việc tại lò đào tạo Shakhtar Donetsk ở Ukraina và Sporting ở Bồ Đào Nha. Năm 2021, anh ký hợp đồng với câu lạc bộ Torino tại Serie A. Năm 2022, Akhalaia được đem cho câu lạc bộ Virton ở giải hạng hai Bỉ mượn. Ngày 14 tháng 1 năm 2023, anh chuyển đến Swift Hesperange theo dạng cho mượn. Anh là con của cựu cầu thủ bóng đá Gruzia Vladimir Akhalaia và là cháu của cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá Moldova Alexandru Spiridon.
Thị tộc Murray (tiếng Anh: "Clan Murray ") là một Thị tộc Scotland ở vùng Cao nguyên. Trưởng tộc Murray giữ tước hiệu Công tước xứ Atholl. Tổ tiên của họ là Morays xứ Bothwell, người đã thành lập gia tộc ở Scotland vào thế kỷ thứ XII. Vào thế kỷ XVI, hậu duệ của Morays xứ Bothwell, Murrays xứ Tullibardine, đảm bảo quyền lãnh đạo của thị tộc và được phong làm Bá tước xứ Tullibardine vào năm 1606. Bá tước Tullibardine đầu tiên kết hôn với người thừa kế của Lãnh địa Bá tước Stewart xứ Atholl Atholl do đó trở thành một bá tước xứ Murray vào năm 1626. Bá tước Murray của Atholl được phong làm Hầu tước xứ Atholl vào năm 1676 và vào năm 1703, đã được nâng lên hàng công tước. Danh hiệu hầu tước xứ Tullibardine tiếp tục là một tước hiệu phụ, được ban cho các con trai lớn của người đứng đầu thị tộc cho đến khi họ kế vị ông với tư cách là Công tước xứ Atholl. Các thủ lĩnh Murray đóng một vai trò quan trọng và nổi bật trong việc hỗ trợ William Wallace và Robert the Bruce trong Chiến tranh giành độc lập Scotland vào thế kỷ XIII và XIV. Thị tộc Murray cũng phần lớn ủng hộ phái Jacobite của Nhà Stuart trong Chủ nghĩa Jacobite trỗi dậy vào thế kỷ XVIII. Thị tộc Murray sở hữu một đội quân tư nhân duy nhất ở châu Âu được gọi là "Atholl Highlanders".
DIEMA () là kênh truyền hình Bulgaria, một phần của Nova Broadcasting Group, thuộc sở hữu của United Group. Những chương trình của kênh chủ yếu là phim, phim hành động. Bên cạnh đó, kênh cùng với Nova Sport và Diema Sport phát sóng các sự kiện thể thao, bao gồm các trận đấu thuộc khuôn khổ Ngoại hạng Anh, Cúp FA và vòng loại Giải vô địch bóng đá châu Âu, cũng như các trận đấu trên sân nhà của Đội tuyển Anh. Diema Vision được thành lập vào ngày 15 tháng 5 năm 1999 bởi Emil Slavchev, Anatoli Belchev và Asen Radulov. Kênh sở hữu đầu tiên là Diema +. Trong những năm qua, kênh này đã trở nên phổ biến và công ty đã ra mắt kênh thứ hai - Diema 2. Cuối năm 2005, nó đã được bán cho Apace Media, thuộc sở hữu của Kamen Vodenicharov. Tháng 3 năm 2007, Diema Vision trở thành một phần của Balkan Media Group Limited, một liên doanh giữa Apace Media Group UK và tập đoàn phát thanh truyền hình giải trí quốc tế Modern Times Group MTG AB và chỉ đổi tên kênh chính thành Diema, loại bỏ "+" khỏi tên của kênh. Tháng 3 năm 2009, MTG đã công bố một thỏa thuận sẽ chứng kiến ​​​​các tài sản của Balkan Media Group Limited hợp nhất với Nova mới được mua lại. Vào ngày 12 tháng 9 năm 2011, kênh lại thay đổi bộ nhận diện và logo cùng với các kênh Nova TV khác.
"Eclipse" là ca khúc cuối cùng trong album "The Dark Side of the Moon" (1973) của ban nhạc progressive rock Pink Floyd. Ca khúc được sáng tác và thể hiện bởi Roger Waters với giọng bè bởi David Gilmour và Rick Wright. Sau khi Waters chia tay ban nhạc, phần hát được Gilmour thể hiện trong các buổi trình diễn trực tiếp. "Eclipse" được nối với ca khúc trước đó "Brain Damage" liền mạch không có đoạn chuyển, do đó 2 ca khúc này thường được phát sóng và trình diễn trực tiếp cùng nhau. Ca khúc được kết thúc với nhịp tim đập, giống với âm thanh mở đầu album trong ca khúc "Speak to Me".
Money (bài hát của Pink Floyd) "Money" là đĩa đơn của ban nhạc progressive rock Pink Floyd, trích từ album "The Dark Side of the Moon" (1973). Ca khúc được sáng tác bởi Roger Waters và mở đầu cho mặt B của album. Đây là đĩa đơn thành công đầu tiên của ban nhạc tại thị trường Mỹ, đạt vị trí số 10 trên tạp chí "Cash Box" và vị trí số 13 trên bảng xếp hạng "Billboard". "Money" đặc trưng bởi nhịp – hiếm có, cùng âm thanh thu âm đồng xu từ các máy đánh bạc có thể được nghe từ đầu cho tới cuối của ca khúc.
William Gilbert Grace (18 tháng 7 năm 1848 - 23 tháng 10 năm 1915) là vận động viên cricket nghiệp dư người Anh. Ông đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển cricket và được nhiều người coi là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất của môn này. Dù trên danh nghĩa chỉ thi đấu nghiệp dư nhưng Grace kiếm được nhiều tiền từ cricket hơn bất cứ vận động viên cricket chuyên nghiệp nào. Ông thi đấu đua tranh rất quyết liệt. Và dù là một trong những người nổi tiếng nhất Anh quốc, ông cũng bị gây tranh cãi nhiều nhất vì chơi không đẹp và việc kiếm lời của mình. Grace đã chơi 44 mùa giải cricket hạng nhất từ 1865 đến 1908, bằng với kỷ lục khi ấy. Ông là đội trưởng tuyển Anh, Gloucestershire, Gentlemen, Marylebone Cricket Club (MCC), United South of England Eleven (USEE) và một số đội khác. Thuận tay phải khi đánh bóng lẫn ném bóng, Grace đã thống trị môn thể thao này cả suốt sự nghiệp thi đấu. Sự đổi mới kỹ thuật và tầm ảnh hưởng của Grace đã để lại di sản lâu dài. Là vận động viên toàn diện xuất sắc, Grace hội tụ đủ các kỹ năng giỏi khi đánh bóng, ném bóng và lượm bóng. Nhưng chính khả năng đánh bóng mới khiến ông nổi tiếng nhất. Grace được coi là người đã phát minh ra kỹ thuật đánh bóng hiện đại. Thường khởi đầu lượt chơi, Grace khiến người khác đặc biệt ngưỡng mộ và khả năng bậc thầy về tất cả cú đánh bóng, các nhà phê bình đánh giá trình độ chuyên môn của Grace là độc nhất vô nhị đương thời. Với kỹ năng và nhạy bén chiến thuật, Grace thường dẫn dắt đội nhà ở mọi cấp độ thi đấu. Gia đình Grace đều chơi cricket: ông có anh trai là E. M. Grace và em trai là Fred Grace. Năm 1880, dưới màu áo tuyển Anh, lần đầu tiên ba anh em cùng nhau chơi trận test cricket. Grace cũng tham gia các môn thể thao khác: vô địch chạy vượt rào 440 yard khi còn trẻ và chơi bóng đá cho đội Wanderers. Về sau, ông còn hứng thú với golf, bowling trên cỏ và bi đá. Ông có chứng chỉ hành nghề y năm 1879. commentĐã di chuyển đến /comment templatestyles src="Giới hạn mục lục/" / W. G. Grace sinh ngày 18 tháng 7 năm 1848 tại nhà ở Downend, gần Bristol và chịu lễ báp-têm tại nhà thờ ngày 8 tháng 8. Ở nhà, mọi người gọi cậu là Gilbert trừ mẹ thì thường kêu là Willie. Chủ yếu Grace được biết đến rộng rãi qua chữ cái đầu "W. G.". Cha là Henry Mills Grace và mẹ là Martha ("nhũ danh" Pocock), kết hôn ngày 3 tháng 11 năm 1831 ở Bristol. Hai người sống cả đời tại Downend, nơi Henry Grace là bác sĩ đa khoa thôn. Downend gần Mangotsfield, nay là ngoại ô Bristol nhưng khi đó chỉ là "ngôi làng cách biệt giữa vùng nông thôn" và cách Bristol khoảng bốn dặm. Henry và Martha Grace có tất cả chín người con "bằng với Victoria và Albert – về mọi mặt, họ là một gia đình điển hình thời Victoria". Grace là con thứ tám; phía trên có 3 anh trai (bao gồm E. M. Grace, gọi tắt là "E. M.") và 4 chị gái. Người em trai út Fred Grace sinh năm 1850. Grace mở đầu tác phẩm "Cricketing Reminiscences" ("Hồi ức chơi cricket") (1899) bằng câu trả lời khi thường bị hỏi "có phải sinh ra đã là một vận động viên cricket không?" Ông phủ nhận điều này vì tin rằng "vận động viên cricket được tạo ra là nhờ huấn luyện và luyện tập". Nhưng ông cũng nói thêm rằng dù không phải một vận động viên cricket bẩm sinh nhưng lại được sinh ra "trong bầu không khí môn cricket". Cha mẹ Grace "tràn đầy nhiệt huyết với cricket" và đó là "chủ đề nói chuyện chung ở nhà". Năm 1850, khi W. G. lên hai và Fred chuẩn bị ra đời, gia đình chuyển đến ngôi nhà gần đó tên là "The Chesnuts" (Hạt dẻ). Nhà mới có vườn cây ăn trái rộng và Henry Grace cho dọn sạch để làm sân tập. Tất cả chín đứa trẻ nhà Grace kể cả bốn cô con gái đều được khuyến khích chơi cricket, dù cho các cô gái chỉ được chơi ở vị trí lượm bóng cùng với lũ chó. Grace ghi dấu lần đầu cầm gậy cricket là khi mới hai tuổi. Chính tại vườn cây trái Downend và khi tham gia câu lạc bộ cricket địa phương, anh em nhà Grace đã phát triển kỹ năng chơi bóng, chủ yếu do huấn luyện viên giỏi lại chính là ông cậu Alfred Pocock. Ngoài việc đến trường và chơi cricket, Grace là một cậu bé nông thôn và thường chơi thoải mái với bọn con trai trong làng. Cậu hay lấy đá ném lũ chim ngoài đồng và Grace nói rằng nhờ đó mà bản thân có được kỹ năng cho vị trí sân ngoài. Grace "nổi tiếng học không giỏi". Đầu tiên, câu học với cô Trotman ở làng Downend rồi tới thầy Curtis ở Winterbourne. Sau đó, cậu học trường bán trú Ridgway House do Malpas điều hành đến khi 14 tuổi. Một hiệu trưởng của trường là David Bernard về sau cưới chị Alice của Grace. Năm 1863, Grace bị viêm phổi và được cha cho rời Ridgway House. Sau trận ốm này, Grace cao lên nhanh chóng tới 6 ft 2 inch (1,88 m). Cậu tiếp tục học tại gia, một trong những gia sư chính là mục sư John Dann quản nhà thờ giáo xứ Downend. Cũng giống như hiệu trưởng Bernard, mục sư Dann về sau cũng trở thành anh rể của Grace khi kết hôn với Blanche Grace năm 1869. Grace không bao giờ vào đại học vì cha muốn anh theo nghề y. Nhưng Grace đã được cả Câu lạc bộ Cricket Đại học Oxford và Câu lạc bộ Cricket Đại học Cambridge tiếp cận. Năm 1866, khi chơi một trận đấu tại Oxford, Edmund Carter là cầu thủ tại đó đã cố gắng thu hút Grace trở thành sinh viên. Năm 1868, Grace nhận được lời mời từ Cao đẳng Caius, Cambridge, nơi có truyền thống ngành y lâu đời. Grace nói rằng nếu được cha chấp thuận thì mình đã đến Oxford hoặc Cambridge rồi. Nhưng thay vào đó, tháng 10 năm 1868, Grace đăng ký Trường Y Bristol khi 20 tuổi. Vận động viên cricket. Năm 1845, Henry Grace thành lập Câu lạc bộ Cricket Mangotsfield đại diện cho nhiều làng cạnh nhau gồm cả Downend. Năm 1846, câu lạc bộ này hợp nhất với Câu lạc bộ Cricket West Gloucestershire và dùng tên này đến năm 1867. West Gloucestershire bị bàn tán rằng nhà Grace điều hành nơi này "gần như là một câu lạc bộ riêng". Henry Grace sắp xếp tổ chức các trận đấu với câu lạc bộ hàng đầu của West County là Câu lạc bộ Cricket Lansdown ở Bath. West Gloucestershire chơi những trận này rất kém. Khoảng thập niên 1850, Henry và Alfred Pocock quyết định gia nhập Lansdown dù họ vẫn tiếp tục điều hành West Gloucestershire và đây vẫn là câu lạc bộ chính của họ. Alfred Pocock đặc biệt có công trong việc đào tạo và dành nhiều thời gian với anh em nhà Grace trên sân tập ở Downend. E. M. luôn dùng gậy đánh bóng cỡ chuẩn và có khuynh hướng vượt vạch để không đánh trượt; gậy quá to cho cậu để có thể "đánh thẳng". Pocock nhận ra vấn đề này và đề ra W. G. và em út Fred không được bắt chước. Do đó, ông chế ra gậy đánh bóng nhỏ hơn phù hợp với tụi nhỏ và dạy cách đánh thẳng cũng như "học cách phòng thủ, với vai trái hướng về phía trước" trước khi định đánh bóng. Trong "Hồi ức", Grace viết rằng mình được xem trận cricket lớn đầu tiên khi lên sáu vào năm 1854, giữa All-England Eleven (AEE) của William Clarke với 22 người đội West Gloucestershire. Grace bày tỏ mình đã chơi cho West Gloucestershire ngay từ năm 1857, khi mới 9 tuổi và có 11 lượt đánh năm 1859. "CricketArchive" ghi nhận trận đấu sớm nhất của Grace diễn ra chỉ vài ngày sau sinh nhật lần thứ 11 năm 1859, Grace chơi cho Câu lạc bộ Cricket Clifton đấu với Câu lạc bộ Cricket South Wales tại Durdham Down, đội Grace giành chiến thắng với 114 "run". Nhiều thành viên nhà Grace trong đó có E. M. cũng chơi trận này. Grace đánh bóng thứ 11, ghi 0 điểm và 0 không loại. Lần đầu tiên Grace có số điểm đáng kể là vào tháng 7 năm 1860 với 51 điểm cho West Gloucestershire gặp Clifton; ông thú nhận đó là những lượt tuyệt vời giàu cảm xúc nhất của mình. Nhờ E. M. mà họ Grace trở nên nổi tiếng lần đầu tiên. Bà Martha đã viết thư cho người kế nhiệm William Clarke là George Parr khoảng năm 1860 hoặc 1861: Tôi viết thư này mong ông xem xét việc đưa con trai tôi là E. M. Grace vào tuyển Anh XI, nó là một tay đánh bóng cừ khôi và bắt bóng xuất sắc. Tôi chắc rằng nó sẽ chơi rất tốt và mang lại thành tích cho đội. Ông cũng có thể quan tâm đến đứa con trai khác của tôi hiện 12 tuổi, về sau có thể giỏi hơn anh nó vì có cú đánh nghịch thành thạo hơn và nó luôn đánh thẳng. Ngày 5 tháng 7 năm 1861, khi sắp 13 tuổi, Grace ra mắt Lansdown và chơi hai trận trong tháng đó. E. M. lần đầu ra mắt năm 1857 ở tuổi 16. Tháng 8 năm 1862, ở tuổi 14, Grace chơi cho West Gloucestershire gặp Devonshire. Một năm sau, sau khi nằm giường vài tuần do viêm phổi, Grace ghi được 52 điểm không loại và giành được 5 "wicket" trước Somerset XI. Ngay sau đó, W. G. là một trong bốn thành viên nhà Grace chơi cho Bristol and Didcot XVIII trong trận gặp All-England Eleven. Grace ném bóng tốt và ghi được 32 điểm trước các lượt ném của John Jackson, George Tarrant và Cris Tinley. E. M. giành được 10 wicket trong lượt mà Bristol and Didcot thắng, nên được mời đi du đấu Úc cùng tuyển Anh của George Parr vài tháng sau. Cho đến tháng 7 năm 1864, sự vắng mặt của E. M. đã tạo cơ hội cho Grace thể hiện trên vũ đài lớn cricket. Grace và anh trai Henry được mời chơi cho Câu lạc bộ South Wales. Với một loạt trận đấu ở London và Sussex, Grace khôi hài tự hỏi làm sao mà họ lại đủ điều kiện để đại diện cho South Wales. Đây là lần đầu tiên Grace rời West Country và cũng lần đầu xuất hiện trên sân The Oval và sân Lord's. Trong trận đấu với "Gentleman of Sussex" ngay trước sinh nhật thứ 16, Grace lần đầu tiên đạt "century" với 170 "run", trong đó có thành tích phối hợp 188 điểm với đội trưởng John Lloyd trong wicket thứ hai. Sự nghiệp cricket (1864–1914). Sự nghiệp hạng nhất. Mặc dù còn tranh cãi về các chi tiết trong sự nghiệp hạng nhất của Grace, nhưng vẫn có đồng thuận chung là Grace chơi 44 mùa giải từ 1865 đến 1908. Một nguồn tư liệu liệt kê 29 đội gồm tuyển Anh và 28 đội trong nước mà có Grace làm đại diện trong các trận đấu hạng nhất hoặc được coi là quan trọng trong lịch sử. Hầu hết các trận này là ad hoc và có khách mời thi đấu. Với giải nhỏ, Grace đã đại diện cho hơn bốn mươi đội. Bên cạnh tuyển Anh trong Test cricket (1880–1899), các đội quan trọng trong sự nghiệp hạng nhất của Grace là Gentlemen (1865–1906), All-England "Toàn Anh" (không thi đấu quốc tế; 1865–1899), Marylebone Cricket Club (MCC; 1869–1904), Gloucestershire (1870–1899), United South of England Eleven (USEE; 1870–1876) và London County (1900–1904). Ngoài London County là những năm về sau, Grace đã xác nhận bản thân quyết chơi cho những đội còn lại vào cuối mùa giải năm 1870 khi 22 tuổi. Cricket thập niên 1860 trải qua cuộc cách mạng khi hợp pháp hóa kỹ thuật ném bóng quá vai vào tháng 6 năm 1864. Chính Grace phát ngôn rằng "không ngoa khi giữa 1860 và 1870, cricket của Anh trải qua giai đoạn quan trọng nhất" khi đang chuyển đổi và "đó là thời kỳ cách mạng liên đới hết đến luật cricket". Grace 15 tuổi khi mùa giải năm 1864 khởi tranh và bước sang tuổi 20 khi kết thúc mùa giải năm 1868, Grace bắt đầu đăng ký học tại Trường Y Bristol ngày 7 tháng 10 năm 1868. Trong giai đoạn chuyển tiếp, cụ thể là vào năm 1866, Grace được nhiều người công nhận là vận động viên cricket giỏi nhất nước Anh. Tháng 7 năm 1866, ngay sau sinh nhật 18 tuổi, Grace khẳng định khả năng với 224 không loại cho All-England trước Surrey trên sân The Oval. Đó là "century" đầu tiên của Grace ở hạng nhất. Theo Harry Altham, Grace "từ đó là tên tuổi lớn nhất trong môn cricket và là điểm thu hút khán giả với những thành công (đến) dày đặc và nhanh chóng". Năm 1868, Grace ghi hai "century" trong một trận, đây là lần thứ hai trong lịch sử cricket sau khi William Lambert lập được năm 1817. Tổng kết mùa giải năm 1868, Simon Rae viết rằng Grace "giờ đây không thể chối cãi là vận động viên cricket của thời đại, Nhà vô địch". Năm 1869, Grace tham gia MCC và ghi được bốn "century" vào tháng 7, trong đó có lượt 180 "run" tại sân The Oval. Bên cạnh đó còn có thành tích phối hợp wicket cao nhất trong toàn bộ sự nghiệp Grace; cùng với Bransby Cooper, bộ đôi đạt được đến 283 "run" cho wicket đầu tiên. Cuối tháng, Grace ghi được 122 trên 173 điểm trong các điều kiện đánh bóng khó khăn tại trận Bắc-Nam diễn ra trên sân Bramall Lane. Tom Emmett gọi đùa Grace là "nonsuch" (độc nhất vô nhị) và tuyên bố: "Anh ta nên dùng gậy đánh bóng nhỏ hơn". Grace có mùa giải nổi bật khác năm 1870, khi đó Gloucestershire được chơi ở hạng nhất. Derek Birley ghi lại rằng Grace "khinh thường kiểu ria mép hiện đại nhỏ bé" mà để râu rậm xồm xoàm rất dễ nhận ra. Ngoài ra, "bộ ngực đồ sộ" to ra khi Grace nặng 95 kg ở tuổi đôi mươi. Grace không hút thuốc nhưng thích ăn ngon và rượu. Nhiều năm sau, khi nói về chi phí phát sinh trong chuyến du đấu phi lợi nhuận của Lord Sheffield tới Úc vào năm 1891–92, Arthur Shrewsbury nhận xét: "Tôi đã kể về loại rượu mà những người nghiệp dư sẽ uống; Grace mà uống thì đủ cho cả thuyền bơi trên ấy cũng được." Theo Harry Altham, năm 1871 là "annus mirabilis" của Grace, nếu không tính năm 1895 cũng là một năm ngoại hạng khác. Grace ghi được 10 trên 17 "century" trong các trận đấu hạng nhất, với "century" đầu tiên ghi được tại Trent Bridge. Grace ghi trung bình 78,25 điểm, trong khi người kế tiếp đánh bóng trong một lượt chỉ được có 39,57, nhỉnh hơn nửa điểm trung bình của Grace một ít. Trong cả mùa giải, Grace ghi được 2.739 "run" và đây là lần đầu tiên có người ghi được 2.000 "run" hạng nhất trong một mùa giải; Harry Jupp đứng sau với 1.068 "run". Điểm nhấn là trận Nam-Bắc tại The Oval khi Grace đạt điểm số cao nhất trong sự nghiệp là 268, đáng chú ý là ông đã bị Jem Shaw loại khi có điểm trong lượt đầu. Tuy thành tính lớn như vậy nhưng trận này hòa và để lại một bình luận đáng nhớ của Jem Shaw khi nói một cách tội nghiệp: "Tôi đặt bóng nơi mình thích nhưng anh ta lại đặt nó vào nơi anh ta thích". Grace có nhiều biệt danh trong suốt sự nghiệp, bao gồm "The Doctor" (Bác sĩ) sau khi lãnh chứng chỉ ngành y, "The Old Man" (Lão già) khi ở giai đoạn kỳ cựu. Nhưng cái tên nổi nhất là "The Champion" (Nhà vô địch). Lần đầu tiên ông được "Lillywhite's Companion" ca ngợi là "the Champion Cricketer" (Vận động viên cricket vô địch) để ghi nhận những chiến công năm 1871. Tuy vậy, năm kỳ tích của của Grace không được trọn vẹn khi người cha qua đời vào tháng 12. Grace và em trai Fred vẫn sống với mẹ ở Downend. Cha qua đời để lại số tiền vừa đủ để trang trải gia đình nhưng giờ đây hai anh em phải tăng thu nhập từ môn cricket để chi trả học phí y khoa (Fred bắt đầu học vào mùa thu năm 1872). Họ kiếm được tiền nhờ tham gia với tư cách nhà tổ chức cho United South of England Eleven chơi sáu trận trong mùa giải 1872 ở Edinburgh và Glasgow, khi Grace lần đầu tới Scotland. Hè 1872 nhiều mưa và Grace kết thúc mùa giải vào đầu tháng 8 để có thể tham gia du đấu Bắc Mỹ. Grace trở thành cầu thủ đánh bóng đầu tiên ghi được century 134 "run" trước bữa trưa trong trận hạng nhất khi của Gentlemen of the South gặp Players of the South tại The Oval năm 1873. Cũng trong mùa giải đó, Grace trở thành cầu thủ đầu tiên hoàn thành "cú đúp" đạt được 1.000 "run" và 100 wicket trong một mùa giải. Grace còn tiếp tục đạt cú đúp như vậy 8 lần: Năm 1873, môn cricket đưa ra một số hình thức quản lý đối với việc vận động viên lưu trú tại hạt. Điều này chủ yếu nhằm vào cầu thủ ném bóng xuất sắc của Anh James Southerton sống ở Surrey nhưng sinh ở Sussex, từng chơi cho cả hai hạt. Southerton từ đó đã chọn chơi cho Surrey và giữ được vị trí cầu thủ ném bóng hàng đầu nước Anh. Các hạt đồng thuận về nơi cư trú của vận động viên nhưng không quyết định được về Giải vô địch Hạt nên danh hiệu "Champion County" (Hạt vô địch) vẫn là giải thưởng không chính thức cho đến năm 1889. Năm 1873, Gloucestershire của Grace tuyên bố mạnh đạt được danh hiệu này nhưng kết quả đồng thuận là Nottinghamshire cùng chia sẻ danh hiệu. Hai đội đều không đấu với nhau và đều bất bại sáu trận nhưng Nottinghamshire thắng năm còn Gloucestershire thắng bốn. Ngày 18 tháng 5 năm 1874, sau chuyến du đấu Úc mùa đông 1873–74, Grace về Anh và nhanh chóng trở lại với giải cricket quốc nội. Mùa giải 1874 rất thành công khi Grace hoàn thành cú đúp thứ hai liên tiếp. Gloucestershire một lần nữa khẳng định đạt danh hiệu County Championship nhưng một nguồn tư liệu lại cho biệt giải vô địch thuộc về Derbyshire, bản thân Grace nói rằng đáng ra phải vô địch phải là Yorkshire. Năm 1875 cũng thành công khi Grace lại có cú đúp 1.498 "run" và 191 "wicket". Đây là mùa giải thành công nhất của Grace trong vị trí ném bóng. Một trong những giai đoạn nổi bật nhất trong sự nghiệp của Grace là mùa giải năm 1876, ông ghi được điểm số cá nhân cao nhất là 344 với Marylebone Cricket Club (MCC) gặp Kent tại sân St Lawrence Ground, Canterbury vào tháng 8. Hai ngày sau khi kết thúc lượt Canterbury, ông kiếm được 177 điểm cho Gloucestershire khi gặp Nottinghamshire; rồi hai ngày tiếp là 318 điểm không loại cho Gloucestershire đối đầu Yorkshire. Cả hai lượt này Grace đều gặp các hạt có những tay ném bóng tấn công cực mạnh. Như vậy, trong ba lượt liên tiếp, Grace ghi được 839 "run" và chỉ bị loại hai lần. Số điểm 344 là kỷ lục "century" gấp ba trong cricket hạng nhất cũng như phá kỷ lục điểm cá nhân cao nhất cricket mọi thứ hạng vốn trước đó do William Ward nắm giữ với 278 điểm năm 1820. Kỷ lục của Ward tồn tại trong 56 năm và chỉ trong vòng một tuần, Grace xô đổ đến hai lần. Năm 1877, Gloucestershire giành chức vô địch không chính thức lần thứ ba và là lần cuối (cho đến nay), phần lớn nhờ vào một mùa giải xuất sắc khác của Grace, ông ghi được 1.474 "run" và 179 "wicket". Có suy đoán rằng Grace dự định nghỉ hưu trước mùa giải 1878 để tập trung vào nghề y nhưng ông quyết định tiếp tục chơi cricket. Có thể việc đội Úc đến Anh du đấu hồi tháng 5 đã ảnh hưởng đến quyết định của Grace. Ngày 27 tháng 5 tại sân Lord's, Úc đã đánh bại đội mạnh MCC mạnh khi có cả Grace trong đội hình, với 9 wicket trong trận đơn nhật. Theo Chris Harte, tin tức về trận đấu "lan truyền như cháy rừng, gây chấn động Luân Đôn và khắp nước Anh". Tạp chí trào phúng "Punch" đã nhại lại bài thơ "Sự hủy diệt của Sennacherib" của Byron để mỉa mai bình luận về đóng góp của Grace: Có chuyện không hay giữa Grace và một số người Úc năm 1878, đặc biệt là nhà quản lý đội Úc John Conway. Căng thẳng cực độ vào ngày 20 tháng 6 trong vụ cãi lộn vì Billy Midwinter, cầu thủ Úc là bạn Grace từng chơi cho Gloucestershire năm 1877. Midwinter đã ở Anh trước khi cả đội Úc đến và cùng tham gia trận đầu tiên trong tháng 5. Ngày 20 tháng 6, Midwinter có mặt tại sân Lord's để chơi cho đội Úc gặp Middlesex. Cùng ngày, đội Gloucestershire lại ở sân The Oval để đấu với Surrey nhưng bị thiếu một người. W. G. và E. M. Grace dẫn một nhóm cầu thủ Gloucestershire đến Lord's thuyết phục Midwinter cùng trở lại The Oval cho đủ quân số. Ba người Úc rượt theo và bắt kịp tại cổng The Oval và người xung quanh được chứng kiến một cuộc cãi lộn dữ dội. Có lúc Grace chửi người Úc là "lũ lén lút đáng ghét" (về sau đã xin lỗi). Cuối cùng, Grace đạt được mục đích và Midwinter ở lại với Gloucestershire cho đến hết mùa giải, chỉ không tham gia trận nào đấu với Úc. Sau đó, hòa khí được lấy lại, Gloucestershire mời đội Úc thi đấu với đội của hạt tại Clifton College, tất nhiên Midwinter không tham gia. Đội Úc coi đây là cơ hội phục thù và chiến thắng dễ dàng hơn 10 "wicket", trong đó Fred Spofforth giành được được điểm cao nhất 12 "wicket". Đó là lần đầu tiên Gloucestershire thua trên sân nhà. Mùa đông tiếp theo, W. G. và E. M. phải giải trình chi phí trận đấu này vì đã yêu cầu Surrey nhưng khi Surrey khước từ việc đứng ra. Bất chấp những rắc rối năm 1878, Grace lại có một mùa giải hay khác trên sân đấu khi hoàn thành cú đúp thứ sáu liên tiếp. Ông 24 lần ra sân hạng nhất, ghi được tổng 1.151 "run", điểm cao nhất 116, điểm trung bình 28,77, 1 "century" và 5 lần nửa century. Trên sân, ông có 42 lần bắt bóng và được 152 "wicket" với kết quả phân tích tốt nhất 8/23. Điểm trung bình ném bóng là 14,50; 12 lần được 5 "wicket" trong một lượt và 6 lần được 10 "wicket" trong một trận. Grace bỏ lỡ phần lớn mùa giải năm 1879 vì bận làm bài thực hành cuối khóa để lấy chứng chỉ ngành y. Lần đầu tiên kể từ năm 1869, Grace đã không hoàn thành 1.000 "run" dù vẫn được 105 "wicket". Tháng 11 năm 1879, Grace đạt chứng chỉ hành nghề bác sĩ và phải ưu tiên cho công việc mới ở Bristol trong 5 năm tiếp theo. Ông đôi khi buộc phải gác cricket lại. Grace cũng gặp rắc rối khác như bị quai bị nặng năm 1882. Trong thập niên 1880, Grace không bao giờ đứng đầu về số điểm đánh bóng trung bình ghi được. Giai đoạn này, Grace cũng không có được 1.000 "run" trong mùa giải. Năm 1880, Grace vô cùng đau buồn khi em trai Fred qua đời, ngay sau khi cả ba anh em thi đấu cho tuyển Anh gặp Úc trong trận đấu được công nhận là trận Test đầu tiên ở Anh. Việc mất mát Fred được coi là nhân tố chính dẫn đến sự sa sút của đội Gloucestershire sau đó. Năm 1881, Grace chỉ ra sân 13 lần. Năm 1882, Grace có mặt trong đội hình tuyển Anh thua trận "The Ashes" trước Úc tại The Oval. Năm 1883, Grace ưu tiên công tác y tế nên lần đầu tiên bỏ lỡ trận "Gentlemen v Players" từ năm 1867. Các chấn thương cũng khiến Grace giảm ra sân năm 1884. Năm 1886, Grace đạt được phân tích ném bóng tốt nhất trong sự nghiệp là 10/49 khi chơi cho MCC gặp Đại học Oxford trên sân The Parks; ông ghi được 104 điểm trong lượt nhì phía Oxford. Năm 1886 là lần cuối cùng Grace ghi được 100 "wicket" trong một mùa giải. Năm 1888, Grace ghi hai "century" trong trong một trận đấu với Yorkshire (148 và 153) và gọi đây là "trận đấu vô địch của tôi". Trong vài mùa giải trước, Grace đã giảm số lần ném bóng và chỉ còn đôi khi chơi vị trí này từ năm 1889. Đầu thập niên 1890, cácVấn đề chấn thương, đặc biệt ở đầu gối, tác động vào đầu thập niên 1890 và Grace đã có mùa giải tệ nhất vào năm 1891 khi không có "century" nào và điểm trung bình chỉ đạt 19,76. Tuy vậy, ít ai nghi ngờ việc Grace dẫn dắt tuyển Anh du đấu 1891–92 tại Úc. Đội Úc dưới sự dẫn dắt của Jack Blackham thắng 2–1 trong loạt ba trận. Sau các vấn đề chấn thương và sa sút phong độ năm 1890 và 1891, Grace hồi phục phần nào trong ba mùa giải tiếp theo và đạt 1.000 "run" mỗi mùa. Ngược với mọi dự đoán, Grace đã tạo ra kỳ tích "Mùa hè Ấn Độ" vào mùa giải 1895. Ông hoàn thành trận đấu thứ 100 của mình cho Gloucestershire khi gặp Somerset vào tháng 5. Đồng đội đánh bóng lúc ấy Charlie Townsend nói khi Grace sắp đạt: "Đây là lần duy nhất tôi thấy anh ấy bối rố" Cuối cùng thì khi Sammy Woods ném bóng thẳng tới, Grace đã đánh bóng ghi được 4 "run" để có "century". Sau đó, Grace tiếp tục có mức 1.000 "run" trong tháng, lần đầu tiên đạt được với các điểm 13, 103, 18, 25, 288, 52, 257, 73 không bị loại, 18 và 169 tổng cộng là 1.016 "run" từ ngày 9 đến 30 tháng 5. Tổng điểm của Grace cả mùa giải là 2.346 với điểm trung bình 51,00 cùng đạt 9 "century". Lưu ý ông đã 46 tuổi vào đầu mùa giải. Sau "Mùa hè Ấn Độ", Grace là người duy nhất nhận được giải thưởng Wisden Cricketers of the Year (Cầu thủ cricket của Năm do Wisden trao tặng) cho năm 1896, lần đầu tiên trong ba lần duy nhất "Wisden" giới hạn chỉ một cầu thủ nhận giải, vì thường có năm người nhận. Tháng 7 năm 1898, khi tròn 50, Grace đã hơi mập và không còn nhanh nhẹn như trước, đồng nghĩa sẽ không chơi ở vị trí lượm bóng (fielder) được nữa. Ông vẫn là tay đánh bóng cừ khôi và ném bóng chậm hữu ích khi cần, nhưng rõ ràng sự nghiệp cricket đã ở giai đoạn cuối và thường được gọi là "The Old Man" (Ông già). Như một dịp đặc biệt, ủy ban MCC sắp xếp trận đấu Gentlemen v Players năm 1898 trùng với sinh nhật lần thứ 50 của Grace, ông ghi được 43 điểm và 31 không loại dù đi khập khiễng và tay bị thương. Năm 1899, Grace dừng góp mặt cho tuyển Anh lẫn Gloucestershire và chuyển đến Nam Luân Đôn, tại đó ông gia nhập câu lạc bộ mới London County. Năm 1904, London County không còn tư cách chơi hạng nhất nữa, số lần ra sân của Grace giảm dần trong bốn mùa giải tiếp theo cho đến ngày cuối cùng vào năm 1908. Lần Grace ra sân cuối cùng cho Gentlemen đấu với Players thì đã kết thúc vào tháng 7 năm 1906 tại The Oval. Ngày 20–22 tháng 4 năm 1908 là trận hạng nhất cuối cùng của Grace khi chơi cho Gentlemen of England gặp Surrey trên sân The Oval. Mở đầu lượt chơi, Grace ghi được 15 và 25. Năm 1864, sau khi ghi được 5 và 38 cho câu lạc bộ South Wales trong trận đấu đầu tiên trên sân The Oval, Grace thể hiện xuất sắc trong trận tiếp theo khi ghi được 170 và 56 không loại khi gặp Gentlemen of Sussex trên sân Royal Brunswick Ground ở Hove. Lượt đạt 170 điểm là "century" đầu tiên của Grace trong một trận có thứ hạng. Trận thứ ba gặp Marylebone Cricket Club (MCC) là lần đầu tiên Grace thi đấu trên sân Lord's, trận này cũng có cả E. M. mới trở về sau khi du đấu Úc. Grace ghi được 50 điểm trong lượt đầu tiên chỉ ba ngày sau sinh nhật thứ 16. Đã có danh tiếng trong làng cricket, Grace chơi cho Gentlemen of the South gặp Players of the South vào tháng 6 năm 1865 khi mới 16 tuổi nhưng đã cao cao và nặng . "CricketArchive" coi đây là trận hạng nhất đầu tiên của Grace. Grace ném bóng cực hay với đánh giá 13/84. Chính màn trình diễn này đã giúp Grace lần đầu được dự loạt Gentlemen v Players danh giá. Trong thời kỳ này, trước khi có Test cricket vào năm 1877, Gentlemen v Players là trận đấu danh giá nhất mà cầu thủ có thể tham dự. Trận này khác với trận Bắc-Nam. Trận đối đấu Bắc-Nam thường có chất lượng cao hơn về mặt kỹ thuật do các Gentlemen nghiệp dư thường dưới cơ cầu thủ chuyên nghiệp (cho đến khi Grace hiện diện). Grace đại diện cho Gentlemen đấu với Players từ năm 1865 đến năm 1906. Chính ông là người tạo điều kiện cho những người nghiệp dư thi đấu được với cầu thủ chuyên nghiệp được chi trả theo cấp độ, để rồi thường đánh thắng họ nhiều hơn là thua. Khả năng thành thạo ném bóng nhanh của Grace chính là mấu chốt. Trước khi có Grace, Gentlemen thua 19 trận liên tiếp; còn khi có Grace trong đội hình, trong 39 trận tiếp theo họ thắng 27 và chỉ thua 4. Trong các lượt đấu từ 1871 đến 1873, Grace ghi được 217, 77 và 112, 117, 163, 158 và 70. Trong toàn bộ sự nghiệp, Grace đạt kỷ lục 15 "century" trong loạt trận này. Trận Grace ra mắt năm 1865 đã không lật ngược tình thế khi Players giành chiến thắng với 118 "run" trên sân The Oval. Grace chơi khá tốt và được 7 "wicket" nhưng chỉ ghi được 23 và 12 không bị loại. Trong trận đấu thứ hai năm 1865 tại sân Lord's, Gentlemen cuối cùng đã chấm dứt được chuỗi thua dài khi thắng hơn 8 "wicket", nhưng không phải W. G. mà là E. M. Grace mới đóng vai trò quan trọng với 11 "wicket". Dù vậy, Grace kịp ghi dấu ấn với 34 trên 77–2 trong lượt thứ hai để đưa Gentlemen đến chiến thắng. Năm 1870, Grace ghi được 215 điểm là "century" kép đầu tiên trong loạt trận Gentlemen v Players. Năm 1899, Grace chơi lần cuối cho Gentlemen trên sân Lord's, về sau ông vẫn tiếp tục đại diện cho Gentlemen trên những sân khác cho cho đến năm 1906. Câu lạc bộ Cricket Marylebone (MCC). Năm 1860, Grace gia nhập Marylebone Cricket Club (MCC) sau khi được thủ quỹ Thomas Burgoyne đề xuất và thư ký Robert Allan Fitzgerald tán thành. Do rạn nứt gia tăng giữa những cầu thủ chuyên nghiệp phía bắc và Surrey, MCC e ngại mất đi uy thế nếu Grace theo chuyên nghiệp, nên cốt yếu phải kéo được Grace về phía mình. Khi có được Grace, cuộc tranh chấp gần như đã kết thúc nhưng người ta nói rằng "MCC đã giành uy thế nhờ vào thành công của W. G.". Grace mang màu sắc MCC trong phần sự nghiệp còn lại, chơi không thường xuyên cho đến năm 1904, chiếc mũ đỏ vàng MCC gắn liền với ông giống như bộ râu đen vậy. Grace chỉ chơi trên cơ sở MCC trả chi phí nhưng mọi hy vọng rằng câu lạc bộ hàng đầu này sẽ giữ chắc ông ở hạng nghiệp dư sẽ sớm phải thất vọng vì họ cần đến Grace quá nhiều. Khi còn là sinh viên y khoa, Grace là người đầu tiên có mặt khi George Summers bị đánh vào đầu dẫn đến tử vong 4 ngày sau đó. Tai nạn xảy ra trong trận MCC gặp Nottinghamshire tại sân Lord's vào tháng 6 năm 1870. Khi Summers bị đánh thì Grace đang ở vị trí lượm bóng liền đến bắt mạch cho Summers. Summers tỉnh lại nhưng Grace khuyên nên rời sân. Summers không đi viện và về sau thì phát hiện ra bị nứt sọ. Trong thế kỷ 19, sân Lord's nổi tiếng gồ ghề, không bằng phẳng và không dự tính được, nhiều cầu thủ trong đó gồm cả Grace coi sân này là nguy hiểm. Ý kiến rộng rãi cho rằng Câu lạc bộ cricket hạt Gloucestershire được chính thức thành lập năm 1870, phát triển từ câu lạc bộ West Gloucestershire của tiến sĩ Henry Grace. Gloucestershire giành quyền chơi hạng nhất sau khi thắng Surrey tại Durdham Down gần Bristol vào ngày 2, 3 và 4 tháng 6 năm 1870. Với sự góp sức của ba anh em nhà Grace, Gloucestershire thắng hơn đến 51 "run" và nhanh chóng trở nên một trong những đội xuất sắc nhất nước Anh. Câu lạc bộ được đồng thuận trao Champion County năm 1876 và 1877, đồng nhận vào năm 1873 cũng như tuyên bố có được vào năm 1874. Trận lượt về diễn ra tháng 7 năm 1870 trên sân The Oval, Gloucestershire tiếp tục thắng lợi trước một lượt và 129 "run". Grace ghi được 143 điểm, tổng phối hợp với Frank Townsend (89) là 234. Nhà Grace "chạy show" tại Gloucestershire và E. M. được chọn làm thư ký, như Birley cho hay "anh ta quản lý chi phí, dẫn đến bê bối bị phanh phui cuối thập kỷ". Dù chỉ mới 21 tuổi, W. G. đã bắt đầu làm đội trưởng, Birley lý giải là do ông có "sức hút thương mại". Tháng 7 năm 1878, Gloucestershire lần đầu tiên đến sân Old Trafford Cricket Ground để đấu với Lancashire, trận này được Francis Thompson bất tử hóa trong bài thơ điền dã "At Lord's". Trong một trận đấu với Surrey tại Clifton, bóng lọt vào áo Grace sau khi đánh, ông đã chớp cơ hội hoàn thành một số "run" trước khi bên lượm bóng buộc ông dừng lại. Grace tuyên bố rất khôn rằng nếu định bỏ bóng ra sẽ bị loại với lỗi tay chạm bóng. Sau khi thảo luận, đồng thuận là Grace được 3 "run". Sau những thành công rực rỡ thập niên 1870, Gloucestershire tàn lụi vào thập niên 1880. Một trong những lý do là Fred chết sớm vì viêm phổi năm 1880, quan điểm được đưa ra là "[đội] hạt không bao giờ trở lại được như cũ khi thiếu vắng anh ta". Ngoài W. G., để mà sánh với Fred Grace khi ấy thì chỉ có dân chuyên nghiệp mà thôi. Khác với các hạt đông nam và bắc, Gloucestershire không thu được nhiều tiền vé cũng như ngân quỹ cần thiết đảm bảo có được các cầu chuyên nghiệp chất lượng cao. Đây là thời điểm thế hệ chuyên nghiệp mới xuất hiện như Billy Gunn, Maurice Read và Arthur Shrewsbury. Kết quả là Gloucestershire trượt ngã trong cuộc đua các hạt, không còn sánh được với Nottinghamshire, Surrey và Lancashire, những đội có tuyển thủ mạnh nhất thập niên 1880. Công ty Crystal Palace ở Luân Đôn mời Grace đến giúp thành lập Câu lạc bộ Cricket hạt Luân Đôn (London County Cricket Club). Grace chấp nhận và trở thành thư ký, quản lý và đội trưởng câu lạc bộ với mức lương năm là 600 bảng Anh. Kết quả là Grace cắt quan hệ với Gloucestershire trong mùa giải năm 1899. United South of England Eleven (USEE). Edgar Willsher thành lập đội United South of England Eleven (USEE) năm 1865 nhưng thời hoàng kim của các đội du đấu đã qua và nhà tổ chức cạn hết cả sức thu hút mới. Grace đã từng chơi cho USEE trước đó rồi chính thức gia nhập làm nhà tổ chức trận đấu cho câu lạc bộ năm 1870. Ông được trả cho công việc này nhưng cũng chỉ nhận phần phí tổn mà thôi. Du đấu nước ngoài. Trong cả sự nghiệp, Grace đã ba lần du đấu nước ngoài. Lần đầu là đến Hoa Kỳ và Canada với đội Robert Allan Fitzgerald vào tháng 8 và tháng 9 năm 1872. Câu lạc bộ Montréal trả phí tổn. Mùa đông trước đó, họ viết thư mời Fitzgerald lập đội tuyển. Grace và đồng đội nghiệp dư hoàn toàn đã "giải quyết lẹ những đội yếu" khi đối mặt. Đội hình khi đó có hai đội trưởng Anh tương lai khác. Một là A. N. Hornby những năm về sau trở thành đối thủ của Grace; hai là George Harris (Lord Harris) về sau là bạn thân và đồng đội ăn ý. Ngày 8 tháng 8, cả gặp nhau tại Liverpool rồi lên tàu cập cảng Québec ngày 17 tháng 8. Simon Rae kể lại rằng Grace và Harris gắn bó với nhau vì cả hai đều bị say sóng. Các trận đấu diễn ra ở Montréal, Ottawa, Toronto, London, New York, Philadelphia và Boston. Ngày 27 tháng 9, đội rời Québec và cập cảng Liverpool ngày 8 tháng 10. Chuyến du đấu là "đỉnh cao (của Grace) những năm đầu" và ông đã "lưu giữ những kỷ niệm đẹp về nó" trong suốt quãng đời còn lại, gọi đó là "chuyến dã ngoại vui vẻ kéo dài" như đề cập trong "Hồi ức". Grace đến Úc năm 1873–74 với tư cách đội trưởng "W. G. Grace's XI". Vào sáng khởi hành từ Southampton, Grace đáp lại những lời chúc rằng "có nhiệm vụ thi đấu để duy trì danh dự cricket Anh và nâng tầm phẩm chất cao đẹp của các cầu thủ cricket Anh". Nhưng toàn đội và cá nhân Grace không đạt được mục tiêu này. Kết quả tích cực nhất chỉ là có được chuyến du đấu sau 10 năm, "bổ sung cần thiết cho cricket Úc". Gần như mọi vấn đề đều do chính Grace với "tính cách độc đoán" đã đánh mất tất cả thiện chí mọi người dành cho mình. Bản thân cả đội cũng có cảm thấy tệ vì Grace vốn thường hòa đồng với các cầu thủ chuyên nghiệp, thì nay trong suốt chuyến du đấu lại áp đặt vấn đề phân biệt thứ hạng. Còn về kết quả, đội đã thi đấu khá tốt sau khởi đầu tệ hại, nhận thua trước cả Victoria lẫn New South Wales. Tổng cộng có 15 trận nhưng không trận nào được ghi nhận là hạng nhất. Bất chấp chấn thương năm 1891, ít ai nghi ngờ việc Grace sẽ làm đội trưởng tuyển Anh du đấu mùa đông năm sau khi dẫn dắt Lord Sheffield đến Úc vào năm 1891–92. Jack Blackham dẫn dắt Úc đã giành chiến thắng 2–1 trong loạt ba trận. Tuy có những trận được công nhận ngược về trước, nhưng chính thức thì Test cricket khởi đầu vào năm 1877 khi Grace đã 28 tuổi. Năm 1880, Grace lần đầu tiên tham gia và ghi được "century" đầu tiên cho đội Anh gặp Úc. Trong suốt thập niên 1880 và 1890, Grace đã thi đấu 22 trận Test cho đội Anh, đều là gặp Úc. Ông nghiễm nhiên được lựa chọn vào tuyển Anh khi thi đấu trên sân nhà, chuyến du đấu Test duy nhất của Grace tới Úc là năm 1891–92. Trận Test đáng nhớ nhất của Grace là Anh gặp Úc năm 1882 trên sân The Oval. Nhờ Spofforth ăn 14 "wicket", Úc đã giành chiến thắng hơn 7 "run" và huyền thoại cúp The Ashes ra đời ngay sau đó. Grace chỉ ghi được 4 và 32 và phải chịu trách nhiệm về việc đã "khai hỏa" Spofforth. Khi ấy, Grace đã thực hiện hành vi hợp lệ nhưng phi thể thao để loại Sammy Jones. Năm 1886 trên sân The Oval, Grace đạt "wicket" phối hợp Test cao nhất là 170 cùng với William Scotton. Grace cũng ghi được riêng 170 và đó là điểm cao nhất trong sự nghiệp Test của ông. Năm 1896, trên sân xảy ra một chuyện thường hay được nhắc lại, cầu thủ ném bóng nhanh phía Úc Ernie Jones thực hiện cú ném ngắn (short-pitched) gần mặt Grace đến nỗi như xuyên qua cả bộ râu. Grace được cho là đã phản ứng với đội trưởng Úc Harry Trott: "Này, thế này là sao?" Trott bảo Jones: "Bình tĩnh đi Jonah". Jones đáp: "Xin lỗi bác sĩ, lỡ thôi". Câu chuyện có nhiều phiên bản, dù một số nguồn chép lại việc này xảy ra trong một trận Test, nhưng có chút ngờ vực rằng phải là trong trận trận mở màn du dấu tại Sheffield Park mới đúng. Cả hai cầu thủ chơi trận ấy là C. B. Fry và Stanley Jackson đã xác nhận độc lập về việc này, khi ấy Jackson còn đang đánh cặp với Grace. Grace 51 tuổi làm đội trưởng tuyển Anh gặp Úc trong loạt Test thứ nhất năm 1899 tại Trent Bridge. Sự ục ịch của Grace đã trở thành gáng nặng trên sân. Nhận ra hạn chế của mình, Grace quyết định từ chức giao lại cả vị trí thi đấu lẫn chức đội trưởng cho Archie MacLaren. Có bằng cớ cho thấy rõ ràng Grace đã "sắp xếp" rời tuyển Anh khi hỏi C. B. Fry rằng có nên để MacLaren được chơi trong trận Test thứ hai không. Fry cũng là một ứng viên cho vị trí này nhưng đến họp muộn và đã trả lời có. Grace nói "Như vậy đi" rồi nhanh chóng giã từ sự nghiệp cricket quốc tế. Giải thích về quyết định của mình sau đó, Grace buồn bã thừa nhận kỹ năng chạy sân lượm bóng đã giảm "sân chơi đã xa quá rồi". Kết thúc sự nghiệp thi đấu quốc tế năm 1899, Grace bước vào giai đoạn cuối trong sự nghiệp hạng nhất nói chung khi gia nhập Câu lạc bộ Cricket Hạt Luân Đôn (London County Cricket Club) mới thành lập, trụ sở tại Crystal Palace Park. Câu lạc bộ chơi hạng nhất từ năm 1900 đến năm 1904. Sự hiện diện của Grace ban đầu đã thu hút các cầu thủ hàng đầu khác vào đội, bao gồm C. B. Fry, Ranjitsinhji và Johnny Douglas. Nhưng giải County Championship càng trở nên quan trọng, kết hợp với phong độ sa sút không thể tránh khỏi của Grace, cũng như thiếu yếu tố cạnh tranh trong các trận đấu ở Luân Đôn làm số cầu thủ đến suy giảm và hậu quả là câu lạc bộ thua lỗ. Tuy nhiên, Grace vẫn là điểm thu hút và vẫn có thể tạo ra những màn trình diễn hay. Cuối năm 1902, dù ở tuổi 54 vào cuối mùa giải, ông vẫn ghi được 1.187 "run" ở hạng nhất, 2 "century", điểm trung bình đạt 37,09. London County chơi những trận hạng nhất cuối vào năm 1904 và giải thể năm 1908. Bất chấp tuổi tác và phát tướng, Grace vẫn tiếp tục chơi cricket nhỏ (minor) trong vài năm sau khi nghỉ thi đấu hạng nhất. Trận áp chót cũng là trận cuối Grace chơi ở vị trí đánh bóng diễn ra vào ngày 25 tháng 7 năm 1914 chỉ một tuần sau sinh nhật thứ 66, ông chơi cho Cricket Eltham Club trên sân của Grove Park. Ông đóng góp 69 điểm bất bại trên tổng điểm 155–6, khi bắt đầu lượt thì đang là 31–4. Grove Park cũng đáp trả 99–8. Trận cuối của Grace là trận Eltham gặp Northbrook ngày 8 tháng 8, vài ngày sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, trận này ông không đánh bóng hay ném bóng. Phong cách và kỹ thuật. Bản thân Grace đã nói nhiều về cách chơi cricket trong hai cuốn sách "Cricket" (1891) và "Reminiscences" (1899) đều thuê người viết. Ý kiến nền tảng là các vận động viên cricket "không phải bẩm sinh" mà phải được nuôi dưỡng để phát triển các kỹ năng thông qua huấn luyện và tập tành. Cá nhân ông có được kỹ năng là thực hành liên tục khi còn bé dưới sự hướng dẫn của người cậu Alfred Pocock. Dù đạo đức nghề nghiệp có tầm quan trọng hàng đầu trong quá trình phát triển bản thân, nhưng Grace nhấn mạnh rằng cricket cũng phải vui và thoải mái thừa nhận rằng cả nhà mình đều chơi theo cách "ồn ào náo nhiệt" với nhiều "trò đùa" (thời Victoria từ này để chỉ sự trêu chọc). Cụ thể trong suốt sự nghiệp, W. G. và E. M. luôn được chú ý vì ồn ào náo nhiệt trên sân. Tính tranh đua của họ cực cao và và luôn chơi nhằm tới chiến thắng. Đôi lúc cực đoan trở thành chơi không đẹp khiến người ta luôn tranh cãi về E. M. và W. G.. Người Úc chúng ta không ưa W. G.. Một người lớn như vậy lại không ngừng gây kinh ngạc khi cứ bám vào những điểm quá ư nhỏ nhặt. Chúng tôi nghĩ rằng anh ta phù hợp để làm một luật sư bám luật để cãi lộn về những điểm nhỏ trong môn thể thao này. "Ký thuật trên báo Úc, 1874" Vì chơi không đẹp cũng như cứ cho mình đúng, rồi lại cho rằng người Úc mới là những kẻ như vậy, nên Grace chưa bao giờ có quan hệ tốt với người Úc nói chung dù rằng cũng có những người bạn như Billy Midwinter và Billy Murdoch. Ở Anh cũng vậy, thậm chí bạn cũ Lord Harris cũng đồng ý "việc chơi không đẹp là một trong những câu chuyện về anh ta". Vấn đề là Grace "tiếp cận cricket như thể đang trong cuộc chiến nhỏ" và "phải chiến thắng bằng mọi giá". Người Úc hiểu ra sau 20 năm khi Joe Darling phát biểu trong lần đầu du đấu nước Anh năm 1896: "Tất cả chúng tôi đều được dặn không được tin cậy Old Man vì ông ta luôn muốn giành chiến thắng và là một kẻ đại bịp". "W. G." là cầu thủ đánh bóng rất chính xác. Vai trái hướng về người ném bóng. Anh cầm gậy thẳng và vụt thẳng vào bóng. Bộ râu ngay phía trên bóng khi Grace đánh– ý tôi là đánh vào bóng ấy chứ không phải râu. Anh là người đánh thẳng mạnh nhất mà tôi từng thấy. Khi anh ấy đánh bóng, tôi mừng vì là người đứng phía sau cọc "wicket". Về kỹ năng đánh bóng, C. L. R. James cho rằng bản phân tích tốt nhất về phong cách và kỹ thuật của Grace được một tay đánh bóng có hạng khác là K. S. Ranjitsinhji viết trong "Jubilee Book of Cricket" (đồng viết với C. B. Fry). Theo Ranjitsinhji, bằng kỹ năng phi thường, Grace đã "cách mạng hóa môn cricket và phát triển hầu hết các kỹ thuật đánh bóng hiện đại" và là "sách gối đầu giường về đánh bóng". Trước thời Grace, cầu thủ đánh bóng sẽ chơi tiến hoặc lùi, tạo ra điểm đặc sắc cho một cú đánh nhất định. Grace "lấy thực dụng làm tiêu chí cho phong cách", kết hợp cả lối chơi tiến và lùi vào các cú đánh, chỉ làm những gì phù hợp với lúc bóng bay tới. Ranjitsinhji hay trích dẫn về Grace "anh ấy đã biến nhạc cụ một dây cổ [ám chỉ gậy cricket] thành đàn lia nhiều dây" và rằng "lý thuyết đánh bóng hiện đại về cơ bản là kết quả đến từ suy nghĩ và hành động của W. G. cho môn thể thao này". Ranjitsinhji tóm tắt tầm quan trọng của Grace đối với sự phát triển của môn cricket: "Tôi cho rằng anh ấy không chỉ là cầu thủ xuất sắc nhất từng có trên đời hay còn chưa sinh ra, mà còn là người tạo ra cách đánh bóng hiện đại". Năm 1975, tác giả kiêm phát thanh viên cricket John Arlott ủng hộ quan điểm này rằng Grace "đã tạo ra cricket hiện đại". Nhưng kỹ năng phi thường của Grace đã được sớm công nhận trong sự nghiệp, đặc biệt là từ các cầu thủ ném bóng chuyên nghiệp. Sau lần đầu chạm trán Grace năm 1869, cầu thủ ném bóng nhanh Tom Emmett của Yorkshire và tuyển Anh đã gọi ông là "không ai sánh được như vậy" với "sinh ra để chơi với gậy đánh bóng nhỏ hơn". H. S. Altham chỉ ra rằng trong phần lớn sự nghiệp, Grace đã chơi trên những sân pitch mà "nam sinh thời hiện đại cho là không phù hợp cho một trận đấu trong nhà" hay trên sân không có đường biên khiến cho mọi cú đánh bóng bao gồm cả những cú "bay mất hút" được trọn hết cả "run". Rowland Bowen ký thuật lại "Mùa hè Ấn Độ" năm 1895 của Grace là mùa giải đầu tiên mà các sân pitch tại Anh được dùng vật liệu marl kết dính, đảm bảo cho "wicket đứng vững". Chính nhờ sự kiên trì của Alfred Pocock mà Grace đã học được cách đánh thẳng và phát triển khả năng phòng ngự hợp lý để ngăn chặn hoặc bỏ lại bóng ném tới tốt, và ghi điểm khi đối thủ ném bóng kém. Điều này đối lập với E. M., người "luôn đánh bóng" và khả năng phòng ngự cơ bản không tốt bằng. Tuy nhiên khi kỹ năng phát triển, Grace trở thành tay đánh bóng mạnh mẽ với đầy đủ các cú đánh. Khi phong độ tốt nhất, Grace dễ dàng ghi điểm. Có thể chơi mọi vị trí, Grace cũng là cầu thủ đánh bóng mở màn. Altham gọi Grace là mẫu người ném bóng thuộc về "trung học tại gia dễ dàng thời xưa". Dùng kỹ thuật ném "roundarm" (vòng tay), Grace rất thạo thay đổi tốc độ ném và đường ném chậm hiệu quả từ nửa trái sân. Đặc điểm chính là độ dài bóng tuyệt vời mà Grace luôn duy trì được. Ban đầu, Grace luôn ném bóng tốc độ trung bình nhanh nhưng vào thập niên 1870 lại chuyển sang phong cách chậm với kỹ thuật "leg break". Nhưng bóng của Grace chỉ lái trái một ít, vừa đủ ngang qua trái người đánh bóng cho tới "wicket". Ông cũng đặt một cầu thủ lượm bóng tại vị trí chiến thuật trên đường biên trái, cái bẫy này đôi lúc thành công. Grace vẫn tiếp tục dùng kỹ thuật ném "roundarm" trong khi hầu hết các cầu thủ ném bóng khác đều áp dụng "overarm" (trên tay) mới. Khi ở đỉnh cao, Grace được chú ý nhờ khả năng lượm bóng (fielding) ngoại hạng và ném bóng lại rất mạnh; từng có ghi nhận ông ném trái bóng cricket xa đến 122 thước trong một sự kiện điền kinh ở Eastbourne. Grace thừa nhận có được kỹ năng này là do hàng ngày luyện tập ném quạ khi còn nhỏ. Giai đoạn sau trong đời, Grace nhận xét tiêu chuẩn lượm bóng của Anh bị suy giảm và đó là do "số bọn con trai nhà quê được cánh tay mạnh mẽ bằng cách lấy đá ném chim ngoài đồng ngày càng giảm". Phần lớn thành công của Grace khi ở vị trí ném bóng chính là nhờ chơi lượm bóng cừ bổ sung vào đó. Ngay sau khi giao bóng, Grace đã kiểm soát phần sân trái nhiều đến nỗi giống như có một đường trung lộ thêm vào và thực hiện một số pha bắt bóng phi thường theo cách này. Trong thời kỳ đầu sự nghiệp, Grace thường chơi lượm bóng ở vị trí "long-leg" hoặc "cover-point," còn về sau hay đứng tại "point". Vào thời kỳ đỉnh cao, khi chơi lượm bóng, Grace là tay ném cừ, chạy nhanh và bắt bóng an toàn. Thi đấu nghiệp dư. Tháng 1 năm 1879 diễn ra cuộc điều tra chi phí tại Gloucestershire, W. G. và E. M. buộc phải trả lời các cáo buộc khi nhận "chi phí cắt cổ", đây là một trong vài lần hoạt động kiếm tiền của họ bị thách thức nghiêm trọng. Yêu cầu thanh toán được gửi tới Surrey liên quan đến trận đấu gây tranh cãi năm 1878, trong đó Billy Midwinter được đưa vào thay người muộn, nhưng Surrey từ chối thanh toán và dẫn đến điều tra. Nhà Grace cố đứng vững qua "cuộc họp kéo dài và đầy sóng gió", E. M. vẫn giữ được ghế chủ chốt là thư ký câu lạc bộ. Dù vậy về sau ông buộc phải kết nối với ủy ban tài chính mới và tuân thủ quy tắc nghiêm ngặt hơn. Vụ việc soi rọi vấn đề tình trạng nghiệp dư trên danh nghĩa của anh em nhà Grace. Theo định nghĩa, cầu thủ nghiệp dư không được trả tiền, châm ngôn của Câu lạc bộ cricket Marylebone do nghiệp dư nắm giữ là "một quý ông (gentleman) không nên kiếm lời chút nào từ việc chơi cricket". Giống như tất cả cầu thủ nghiệp dư, họ yêu cầu thanh toán chi phí đi lại và chỗ ở nơi đến và nơi đi để chơi các trận cricket. Nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy anh em Grace kiếm được nhiều hơn từ việc chơi bóng hơn là chỉ nhận hoàn trả chi phí thực tế, riêng W. G. "kiếm được nhiều hơn bất kỳ cầu thủ chuyên nghiệp nào". Trong những năm về sau, Grace phải trả tiền thuê "locum tenens" (bác sĩ thực hành thay thế tạm thời) để điều hành cơ sở y tế của mình khi đang chơi cricket; ông nổi tiếng về việc chữa trị cho bệnh nhân nghèo mà không tính phí. Ông được trả lương cho vai trò thư ký và quản lý của câu lạc bộ London County. Ông cũng nhận hai quà tặng mến mộ. Lần đầu vào ngày 22 tháng 7 năm 1879 tại sân Lord's, Lord Fitzhardinge trao quà là đồng hồ bằng đá cẩm thạch, hai đồ trang trí bằng đồng và tấm séc trị giá 1.458 bảng Anh (). Lần thứ hai là năm 1896, MCC, hạt Gloucestershire, "The Daily Telegraph" và "The Sportsman" cùng tổng lại tới £9.703 () tặng cho Grace để thể hiện sự đánh giá cao "Mùa hè Ấn Độ" năm 1895 của ông. Bất kể chỉ trích Grace kiếm tiền từ cricket ra sao thì ông vẫn "rất tận tâm trợ giúp khi (các cầu thủ chuyên nghiệp) được hưởng lợi". Ví dụ vào năm 1879 khi mưa làm hỏng trận đấu mang lại khoản lợi cho Alfred Shaw, Grace nhất quyết lấy tiền từ một trận khác vốn dành làm quỹ tặng phẩm riêng mình để quyên góp cho Shaw. Khi Edgar Willsher gặp phải vấn đề tương tự, Grace lựa ra một đội đấu với Kent vài ngày sau, toàn bộ số tiền thu cũng được dành cho Willsher. Lần khác, vì một cầu thủ Yorkshire mà Grace đã đổi lịch đấu của Gloucestershire để có thể đến Sheffield, ông biết rõ sự hiện diện của mình sẽ giúp tăng tiền vé thu được. John Arlott ghi lại "không lạ khi thấy bên ngoài sân cricket": "TRẬN CRICKETVé vào cửa 6dNếu W. G. Grace thi đấuVé vào cửa 1/–" Grace và em trai Fred gặp khó khăn tài chính lúc vẫn ở cùng mẹ sau khi cha qua đời để lại chỉ đủ cho bà lo toan cả nhà. Bên cạnh chi phí sinh hoạt, họ phải chuẩn bị số tiền học y đáng kể, nên bắt buộc phải kiếm thêm từ cricket hết mức có thể, đặc biệt là United South of England Eleven. Là nhà tổ chức trận đấu, Grace phải tìm ra những khoảng trống trong danh sách trận hạng nhất để tập hợp đội hình đi thi đấu mang về lợi nhuận phù hợp. Ước tính theo tiêu chuẩn USEE trả 100 bảng cho một trận đấu kéo dài ba ngày () với mỗi £5 (£) cho chín cầu thủ chuyên nghiệp trong đội, còn lại £45 (£) thuộc về W. G. và Fred. Mặt khác, Grace chơi theo chi phí nhưng có thể yêu cầu cụ thể, như 15 bảng mỗi lần cho Gloucestershire và 20 bảng khi đứng vào đại diện cho Gentlemen. Dù số tiền chỉ là "khoản vặt" so với các ngôi sao thể thao thế kỷ 21, nhưng chắc chắn Grace đã có cuộc sống thoải mái nhờ vào cricket và kiếm được nhiều tiền hơn bất kỳ cầu thủ chuyên nghiệp đương thời nào. So sánh với xã hội khi ấy, một người giúp việc chỉ kiếm được ít hơn 50 bảng một năm. Thống kê sự nghiệp hạng nhất. Theo "CricketArchive", Grace có 870 lần ra sân hạng nhất, kéo dài 44 mùa từ năm 1865 đến 1908, bằng với kỷ lục sự nghiệp dài nhất trước đó do John Sherman thiết lập từ năm 1809 đến 1852. Nhưng theo một phiên bản hồ sơ trước đó của "Wisden" xuất bản năm 1916, Grace chơi 878 trận đấu hạng nhất trong cùng khoảng thời gian. Các nguồn khác liệt kê Grace đã chơi 880 trận đấu hạng nhất. Bản thân Grace coi các trận đấu ở South Wales năm 1864 là trận hạng nhất và đề cập những trận "thực sự lớn" trong "Cricketing Reminiscences". "Lillywhite's Guide to Cricketers" (ấn bản năm 1865) ủng hộ quan điểm này khi liệt kê các lượt chơi của Grace tại Hove trong danh sách "Điểm từ 100 các trận hạng nhất tính từ năm 1850". Grace nằm trong số 6 cầu thủ được hơn 150 điểm. Khác với quan điểm riêng của Grace, F. S. Ashley-Cooper xác nhận "kỷ lục sự nghiệp hạng nhất" một cách hiệu quả bằng cách đưa ra danh sách số liệu từng mùa giải vào tiểu sử sơ lược Grace trong ấn bản năm 1916 của "Wisden Cricketers 'Almanack". Những con số này được gọi là kỷ lục sự nghiệp "truyền thống" của Grace với 126 "century" hạng nhất, Jack Hobbs phá được kỷ lục này vào năm 1925. Mãi đến thập niên 1950, nghiên cứu của Roy Webber mới thách thức tính chính xác của danh sách Ashley-Cooper. Nghiên cứu sâu hơn của Hiệp hội các nhà thống kê và nhà sử học Cricket ( - ACS) trong thập niên 1970 và 1980 đã "điều chỉnh" số "century" của Grace xuống còn 124. Năm 1983, "Wisden" lấy nguyên cớ lịch sử thách thức lại con số này, cho đến tình hình hiện tại là cả hai bên thường chấp nhận quan điểm của nhau. Ví dụ, Rae chỉ ra rằng các nhà thống kê có quyền chỉ trích những người biên soạn thời Victoria vì đã "bao gồm các trận đấu nhỏ giúp Grace đạt được những cột mốc nhất định", nhưng ông cũng tôn trọng quan điểm thời Grace rằng "sự hiện diện của Grace tại bất kỳ trận nào cũng làm cho địa vị trận ấy được nâng lên". Tháng 5 năm 2022, "Wisden" cập nhật lại các kỷ lục và xóa đi 10 trận không được kể là hạng nhất trong thống kê của Grace, tương đồng với ACS. Các môn thể thao khác. Grace khi còn trẻ là một vận động viên xuất sắc và đã giành được danh hiệu chạy vượt rào tại Olympic toàn quốc ở Crystal Palace tháng 8 năm 1866. Ngoài môn chạy, ông còn là vận động viên ném bóng cừ, khi ném trái bóng cricket đi xa trong sự kiện điền kinh ở Eastbourne. Grace chơi bóng đá cho Wanderers nhưng không góp mặt trong đội hình giành cúp FA nào. Giai đoạn sau, khi gia đình chuyển đến Mottingham, Kent, Grace lại thích bowling trên cỏ. Năm 1903, ông thành lập Hiệp hội Bóng cỏ Anh () và trở thành chủ tịch đầu tiên. Ông cũng góp phần khai sinh một giải đấu quốc tế với Scotland, Ireland và Wales, làm đội trưởng tuyển Anh từ khi khai mạc tại Crystal Palace năm 1903 cho đến năm 1908. Ông ủng hộ Womanhood Bowling Club, câu lạc bộ bowling nữ tiên phong tại Crystal Palace bằng cách cho họ dùng một nhà rạp năm 1902. Grace cũng thích chơi bi đá. Sở thích chơi golf giúp Grace có mối quan hệ chặt chẽ với người viết tiểu sử cho mình là Bernard Darwin. Darwin nói Grace chơi golf "pha trộn nghiêm túc sắc nét và ồn ào vui vẻ". Grace có thể đánh thẳng hoặc đôi lúc gạt tốt, nhưng Darwin không hiểu sao "anh ấy không bao giờ dùng tốt được gậy sắt cả". Đời tư và sự nghiệp y tế. Tầm quan trọng của gia đình. Dù sống ở Luân Đôn nhiều năm nhưng Grace chưa bao giờ đánh mất giọng vùng Gloucestershire. Toàn bộ cuộc đời ông gồm cả cricket hay y tế không thể tách rời khỏi nền tảng gia đình chặt chẽ. Việc này chịu ảnh hưởng mạnh từ người cha, Henry Grace đặt ra trình độ chuyên môn phải cao và quyết tâm thành công. Ông truyền lại thái độ này cho từng người trong cả năm con trai mình. Do đó, giống như cha và các anh trai, Grace chọn sự nghiệp y khoa chuyên nghiệp, dù cũng do những cống hiến cho cricket, ông đã không thể hoàn thành bằng bác sĩ cho đến năm 1879 khi đã 31 tuổi. Hôn nhân và nghề y. Ngày 9 tháng 10 năm 1873, Grace kết hôn với Agnes Nicholls Day (1853–1930), vợ ông là con gái của anh em chú bác William Day. Hai tuần sau, họ đi trăng mật bằng tàu thủy đến Úc để Grace du đấu 1873–74. Tháng 5 năm 1874, khi trở về thì Agnes đang bầu sáu tháng. Con trai đầu lòng William Gilbert (1874–1905) sinh ngày 6 tháng 7. Grace phải bắt kịp việc học tại Trường Y Bristol, ông cùng vợ và con trai sống tại Downend với mẹ, anh trai Fred và em gái Fanny cho đến tháng 2 năm 1875. Tháng 2 năm 1875, nhà Grace chuyển đến Luân Đôn, khi W. G. được phân vào Bệnh viện Thánh Bartholomew và sống tại Erl's Court cách thành phố khoảng 5 dặm. Con trai thứ hai Henry Edgar (1876–1937) sinh ở London vào tháng 7 năm 1876. Trước khi tòa Nữ hoàng Elizabeth II của bệnh viện Thánh Bartholomew bị dỡ bỏ, một buồng bệnh tại đây từng mang tên "Phòng W. G. Grace" dùng để chăm sóc bệnh nhân hồi phục sau phẫu thuật thần kinh. Mùa thu năm 1877, gia đình chuyển về Gloucestershire sống với anh trai Henry cũng làm bác sĩ đa khoa. Lúc ấy, việc học đang ở thời điểm mang tính quyết định khi Grace phải bắt kịp phần lý thuyết còn nợ sau kỳ thực hành cuối. Cùng lúc, Agnes lại mang thai và đứa con thứ ba Bessie (1878–98) chào đời vào tháng 5 năm 1878. Sau mùa giải năm 1878, Grace được bổ vào Trường Y Bệnh viện Westminster để thực hành năm cuối. Ông phải hạn chế chơi cricket và đến tháng 6 mới tham gia mùa giải 1879 được. Gia đình chuyển về Luân Đôn và sống ở Acton. Tháng 11 năm 1879, Grace cuối cùng đã nhận được bằng tốt nghiệp từ Đại học Edinburgh, đủ tiêu chuẩn với Bằng cấp của Đại học Bác sĩ Hoàng gia ( - LRCP) và trở thành Thành viên Cao đẳng Bác sĩ phẫu thuật Hoàng gia ( - MRCS). Sau khi đủ điều kiện, Grace mở cơ sở hành nghề riêng tại Thrissle Lodge, 61 Đường Stapleton ở Easton, đây là quận phần lớn người nghèo. Ông cũng thuê hai bác sĩ thực hành thay thế vào mùa cricket. Ông là bác sĩ tiêm vắc xin công cộng tại địa phương và có thêm nhiệm vụ là cán bộ y tế cho Barton Regis Union liên quan đến việc chăm sóc bệnh nhân trong nhà tế bần. Có nhiều bệnh nhân xác chứng ông là bác sĩ tốt, như: "Nhà nghèo biết rằng gọi ông đến cũng không phải lo vì không bị hóa đơn đòi tiền". Gia đình sống ở bốn địa chỉ khác nhau gần nơi Grace hành nghề trong 20 năm tiếp theo cùng con út Charles Butler (1882–1938) chào đời. Năm 1900, sau khi rời Gloucestershire, nhà Grace sống ở vùng ngoại ô Mottingham phía đông nam Luân Đôn, cách không xa Crystal Palace nơi ông chơi cho London County, cũng gần Eltham là nơi ông chơi cricket câu lạc bộ ở tuổi 60. Bảng kỷ niệm xanh được gắn tại nhà nơi họ ở Fairmount, Mottingham Lane. Bi kịch cá nhân. Một số bi kịch xảy ra trong đời Grace bắt đầu từ khi cha qua đời tháng 12 năm 1871. Grace rất đau buồn vì em trai Fred mất sớm năm 1880. Tháng 7 năm 1884, đối thủ của Grace là A. N. Hornby dừng trận đấu Lancashire gặp Gloucestershire tại Old Trafford để E. M. và W. G. có thể trở về nhà khi nhận điện báo bà Martha Grace qua đời ở tuổi 72. Năm 1899 xảy ra bi kịch lớn nhất với Grace khi con gái cưng Bessie không qua khỏi bệnh thương hàn khi mới 20 tuổi. Tháng 2 năm 1905, con trai cả cũng qua đời vì viêm ruột thừa ở tuổi 30. Ngày 26 tháng 8 năm 1914, trước tin thương vong trong Trận Mons, Grace viết thư cho báo "The Sportsman" kêu gọi dừng ngay mùa giải cricket của hạt và tất cả cầu thủ cricket làm gương đi phục vụ đất nước. Tuy được xuất bản ngay hôm sau nhưng không như niềm tin phổ biến là nó đã kết thúc mùa giải cricket ngay, vì sau đó một lượt County Championship vẫn tiếp tục diễn ra. Grace được cho là rất đau khổ vì chiến tranh, vung nắm đấm la hét những chiếc Zeppelin của Đức bay trên nhà mình ở Nam Luân Đôn. Khi H. D. G. Leveson-Gower phản đối rằng không cho phép những cầu thủ ném bóng nhanh làm phiền mình, Grace vặn lại: "Tôi có thể thấy những gã đó; tôi không thể thấy những gã này sao". Ngày 23 tháng 10 năm 1915, Grace qua đời sau một cơn đau tim tại Mottingham, thọ 67 tuổi. Tin ông mất "làm rung chuyển cả nước như 50 năm sau khi Winston Churchill qua đời vậy". Ông được an táng trong mộ phần gia đình tại Nghĩa trang Beckenham, Kent. MCC quyết định tưởng nhớ cuộc đời và sự nghiệp W. G. Grace bằng cuốn sách "Memorial Biography" (Tiểu sử tưởng niệm) xuất bản năm 1919. Lời nói đầu có đoạn: Chưa bao giờ cầu thủ cricket tập hợp lại đi du đấu lại nhiều như khi vinh danhh cầu thủ vĩ đại nhất trong cuốn Tiểu sử tưởng niệm này. Ủy ban MCC bảo trợ phát hành tập sách như vậy cũng là độc nhất vô nhị trong lịch sử cricket. Và một loạt các cầu thủ, nhà phê bình và tín đồ cricket nên bày tỏ lòng kính trọng với con người tiêu biểu hay nhất, không có ai tương tự trong bất kỳ môn thể thao nào khác. Bản thân tập sách đã thể hiện tượng đài cao quý về W. G. Grace, minh chứng cho năng lực và nhân cách của ông. Năm 1923, Cổng tưởng niệm W. G. Grace được dựng lên trên lối vào Đường St John's Wood của sân Lord's. Sir Herbert Baker là người thiết kế, còn Sir Stanley Jackson làm lễ khai trương và gợi ý đưa thêm cụm "The Great Cricketer" vào đề tặng. Ngày 12 tháng 9 năm 2009, Grace được truy tặng vào Đại sảnh Danh vọng Cricket ICC tại Lord's. Con cháu Grace đã tham dự buổi lễ: Dominic là chắt và George là con trai Dominic. Theo cháu trai của H. H. Asquith là Mark Bonham-Carter, lẽ ra Grace nằm trong số ứng viên thượng nghị sĩ nếu kế hoạch Asquith muốn đưa Đảng Tự do chiếm đa số Thượng Nghị viện thành hiện thực. Ngày 16 tháng 5 năm 1973, Anh phát hành bộ tem bưu chính kỷ niệm County Cricket Centenary có ba mẫu về W. G. Grace của Harry Furniss với giá mặt 3p (về sau là thư loại 1), 7½p và 9p. Danh tiếng Grace vẫn vang vọng lâu dài, đặc biệt biểu trưng bộ râu xồm là hình ảnh quen thuộc, ví dụ phim "Monty Python và Chén Thánh" lấy mặt ông làm "mặt Chúa" trong phân cảnh Chúa sai đội hiệp sĩ đi tìm chén thánh. Một trong số nhiều tên mà người ta gọi Grace là "The Great Cricketer" (Vận động viên cricket vĩ đại). Còn H. S. Altham mô tả ông là "vĩ đại nhất trong số tất cả vận động viên cricket". John Arlott tổng kết về Grace là "vượt thời gian" và "vĩ đại nhất trong tất cả" (vận động viên cricket). Trong "Beyond a Boundary" (Vượt đường biên) kinh điển, tác giả kháng chính thống C. L. R. James đã có bốn chương về "W. G.: nhân vật xuất chúng thời Victoria tiền nổi tiếng" với khoảng 60 trang. Ông tuyên bố Grace là "người Anh nổi tiếng nhất thời mình" và xếp cùng với Thomas Arnold và Thomas Hughes là "ba nhân vật thời Victoria xuất sắc nhất". James viết cricket là "trò chơi nhờ ông (Grace) mà biến thành một định chế quốc gia". Simon Rae cũng nhận xét về sự nổi tiếng của Grace ở nước Anh thời Victoria khi cho rằng chỉ Nữ hoàng Victoria và William Ewart Gladstone là được công chúng công nhận ngang bằng mà thôi. Ấn bản "Playfair Cricket Annual" đầu tiên năm 1948 trùng với kỷ niệm một trăm năm ngày sinh Grace, trong đó có lời tri ân ông "Vua trong lãnh địa mình" và "nhân cách Olympic". "Playfair" tiếp tục cho biết Grace đã "phá bỏ hoàn toàn những cú ném bóng nhanh may rủi" và rồi "làm cả thế giới kinh ngạc" bằng chiến tích "Mùa hè Ấn Độ" năm 1895. Trong lời tựa ấn bản này, C. B. Fry nhấn mạnh rằng khi bắt đầu mùa giải 1894, Grace không có ý niệm nào về việc để thua Úc, "anh rất lạc quan" và hết sức để chỉ thắng chứ không có bại "cho đến khi nó xảy ra". Như đã đề cập trong "Playfair", cả MCC lẫn Gloucestershire đều sắp xếp các trận đấu đúng ngày kỷ niệm 100 năm sinh nhật Grace. Trong "Wisden Cricketers' Almanack" ấn bản năm 1963, Neville Cardus chọn Grace là một trong Sáu Khổng lồ thế kỷ Wisden Đây là tuyển chọn đặc biệt cho ấn bản "Wisden" thứ 100. Năm cầu thủ còn lại là Sydney Barnes, Don Bradman, Jack Hobbs, Tom Richardson và Victor Trumper. Nhân dịp 150 năm Cricketers 'Almanack, Wisden cũng vinh danh ông trong Test World XI mọi thời đại. Trong loạt Doctor Who năm 1982 với tựa đề "Black Orchid", Grace được gọi là "The Master" (Bậc Thầy) (khiến Doctor bối rối cho đến khi Ngài Robert giải thích rằng ông ấy đang ám chỉ Grace). Derek Birley dành toàn bộ cuốn sách của mình để chỉ trích lối chơi không đẹp và cách kiếm tiền của Grace, ông viết "Grace qua đời tháng 11 năm 1915 càng làm tăng sự thê lương (của chiến tranh), dường như đánh dấu cáo chung một thời đại". Rowland Bowen viết rằng "nhiều thành tựu của Grace theo tiêu chuẩn chúng ta [ngày nay] sẽ được đánh giá là cực giỏi" nhưng "theo tiêu chuẩn thời ấy thì phải gọi là "phi thường": chưa từng có điều gì trước đó giống như vậy". David Frith tổng kết di sản Grace đối với cricket "ảnh hưởng vẫn rất dài lâu sau lần cuối Grace ra sân hạng nhất năm 1908 và qua đời năm 1915". Frith tiếp tục "Trong nhiều thập kỷ, Grace được coi là người nổi tiếng nhất nước Anh", dễ dàng nhận ra vì "bộ râu và thân hình to lớn", được tôn kính vì "kỹ năng đánh bóng". Frith nói thêm dù các kỷ lục Grace thiết lập về sau đã bị xô đổ nhưng sự "xuất chúng" thì không, nên Grace "vẫn là vận động viên cricket nổi tiếng nhất trong tất cả số đó, người nâng tầm môn thể thao này trong lòng công chúng". templatestyles src="Bản mẫu:Đầu tham khảo/" / "Tài liệu tham khảo trực tuyến sử dụng Cricinfo hoặc Wisden có thể yêu cầu đăng ký miễn phí để truy cập."
Hội đồng Liên bang (Thụy Sĩ) Hội đồng Liên bang (; ; ; #đổi ) là nội các liên bang của Liên bang Thụy Sĩ. Hội đồng gồm bảy thành viên với vai trò là nguyên thủ quốc gia và chính phủ của Thụy Sĩ. Từ sau khi kết thúc Thế chiến II, Hội đồng Liên bang được quy ước là một chính phủ đại liên hiệp thường trực bao gồm đại diện của các chính đảng và vùng ngôn ngữ lớn. Trong khi toàn bộ Hội đồng Liên bang chịu trách nhiệm lãnh đạo Chính quyền liên bang Thụy Sĩ, mỗi Ủy viên Hội đồng đứng đầu một trong bảy cơ quan hành pháp liên bang. Tổng thống Liên bang Thụy Sĩ chủ trì hội đồng, nhưng không thực hiện quyền hạn cụ thể nào; đúng hơn, chức vụ này là một trong những người đứng đầu đồng cấp trong số những người đồng cấp và luân phiên giữa bảy Ủy viên Hội đồng hàng năm. Hội đồng Liên bang được bầu bởi 246 đại biểu Quốc hội Liên bang Thụy Sĩ với nhiệm kỳ 4 năm sau mỗi cuộc bầu cử Quốc hội liên bang mà không có khả năng bị bãi nhiệm hoặc bỏ phiếu bất tín nhiệm. Những người đương nhiệm không bị giới hạn nhiệm kỳ và theo quy ước hầu như luôn được bầu lại; hầu hết đảm nhiệm chức vụ từ khoảng 8 đến 12 năm. Kể từ năm 2023, các thành viên của Hội đồng Liên bang, theo thứ tự thâm niên: Nguồn gốc và Lịch sử. Hội đồng Liên bang được thành lập theo Hiến pháp Liên bang năm 1848 với vai trò là "cơ quan hành pháp và đốc chính tối cao của Liên bang". Khi Hiến pháp được viết ra, nền dân chủ hợp hiến vẫn còn ở giai đoạn sơ khai, và những nhà kiến quốc ra Thụy Sĩ có rất ít ví dụ điển hình về dân chủ. Trong khi các nhà kiến quốc dựa nhiều vào Hiến pháp Hoa Kỳ để tổ chức toàn bộ nhà nước liên bang, những nhà kiến quốc này đã chọn hệ thống đồng trị hơn là hệ thống Tổng thống cho nhánh hành pháp chính phủ (Chế độ Đốc chính). Điều này phù hợp với truyền thống lâu đời về quy tắc các cơ quan tập thể ở Thụy Sĩ. Dưới "chế độ cũ", các bang Cựu Liên bang Thụy Sĩ được điều hành bởi các hội đồng gồm các công dân ưu tú từ thời xa xưa, và Cộng hòa Helvetic sau này (với tương đương Đốc chính) cũng như các bang đã có hiến pháp tự do từ những năm 1830 cũng đã có kinh nghiệm tốt với phương thức quản trị đó. Ngày nay, chỉ có ba quốc gia khác, Bosnia và Herzegovina, Andorra và San Marino, có nguyên thủ quốc gia tập thể chứ không phải nguyên thủ quốc gia đơn nhất. Tuy nhiên, trong các nền dân chủ hiện đại hệ thống chính phủ tập thể đã được áp dụng rộng rãi dưới hình thức chính phủ nội các với trách nhiệm tập thể. Thay đổi về thành phần. Điều khoản hiến pháp năm 1848 quy định về Hội đồng Liên bang - và thực sự là thể chế của chính Hội đồng - vẫn không thay đổi cho đến ngày nay, mặc dù xã hội Thụy Sĩ đã thay đổi sâu sắc kể từ đó. Độc quyền Đảng Dân chủ Tự do, 1848–1891. Hiến pháp 1848 là một trong số ít thành công của các cuộc cách mạng dân chủ trên toàn châu Âu năm 1848. Ở Thụy Sĩ, phong trào dân chủ được lãnh đạo – và nhà nước liên bang mới được định hình một cách dứt khoát – bởi phe "Cấp tiến" (hiện là Đảng Dân chủ Tự do, FDP). Sau khi giành chiến thắng trong "Chiến tranh Sonderbund" (cuộc nội chiến ở Thụy Sĩ) trước các bang Công giáo, những người Cấp tiến lúc đầu sử dụng đa số phe Cấp tiến trong Quốc hội Liên bang để chiếm tất cả các ghế trong Hội đồng Liên bang. Điều này khiến các đối thủ chiến tranh trước đây của phe Cấp tiến, "Công giáo-Bảo thủ" (hiện là Đảng Nhân dân Dân chủ Cơ đốc giáo, CVP), trở thành đảng đối lập. Chỉ sau Emil Welti từ chức vào năm 1891 sau một cuộc trưng cầu dân ý thất bại về quốc hữu hóa đường sắt đã khiến phe Cấp tiến quyết định chọn phe Bảo thủ bằng cách ủng hộ cuộc bầu cử của Josef Zemp. Chính phủ Liên minh mới nổi, 1891–1959. Quá trình liên quan đến tất cả các phong trào chính trị lớn Thụy Sĩ vào trách nhiệm chính phủ tiếp tục trong nửa đầu thế kỷ 20. Nó đã được thúc đẩy nhanh chóng bởi tỷ lệ cử tri giảm dần của FDP và CVP, được bổ sung bởi sự trỗi dậy các đảng mới có quyền lực thấp hơn ở các đầu của phổ chính trị. Đó là Đảng Dân chủ Xã hội (SP) phe Cánh tả và Đảng Nông dân, Thương nhân và Độc lập (BGB; hiện nay là Đảng Nhân dân, SVP) phe Cánh hữu. Tất nhiên, CVP đã nhận được ghế thứ hai vào năm 1919 với Jean-Marie Musy, trong khi BGB gia nhập Hội đồng vào năm 1929 với Rudolf Minger. Năm 1943, trong Thế chiến II, Đảng Dân chủ Xã hội cũng tạm thời đưa Ernst Nobs vào Hội đồng. Đại liên hiệp, 1959–2003. Cuộc bầu cử năm 1959, sau khi bốn Ủy viên Hội đồng từ chức, cuối cùng đã thành lập "Zauberformel", "công thức kỳ diệu" xác định thành phần của Hội đồng trong suốt thời gian còn lại thế kỷ 20 và thiết lập bản chất lâu dài Hội đồng như một đại liên hiệp lâu dài, tự nguyện. Trong tương quan gần đúng với quyền lực tương ứng các đảng trong Quốc hội Liên bang, các ghế được phân bổ như sau: Trong thời gian này, FDP/PRD và CVP/PDC rất chậm nhưng đều đặn liên tục mất tỷ lệ cử tri vào tay SVP/UDC và SP/PS, tương ứng, những đảng này đã vượt qua các đảng cũ về mức độ yêu mến của nhân dân trong những năm 1990. Kết thúc đại liên hiệp, 2008. Sự cân bằng của chính phủ đã thay đổi sau cuộc bầu cử năm 2003, khi SVP/UDC được trao thêm một ghế trong Hội đồng cho Christoph Blocher, ghế trước đây thuộc về Ruth Metzler của CVP/PDC. Do những tranh cãi xung quanh hành vi khi đương chức, đa số hẹp trong Quốc hội đã không bầu lại Blocher vào năm 2007 và thay vào đó chọn Eveline Widmer-Schlumpf, một chính trị gia SVP/UDC ôn hòa hơn, chống lại chính sách của đảng. Điều này dẫn đến sự chia rẽ của SVP/UDC vào năm 2008. Sau khi các nhóm SVP/UDC khu vực tự do bao gồm các Ủy viên Hội đồng Liên bang Widmer-Schlumpf và Samuel Schmid thành lập Đảng Dân chủ Bảo thủ mới, SVP/UDC lần đầu tiên bị đối lập kể từ năm 1929, nhưng đã trở lại Hội đồng với cuộc bầu cử đưa Ueli Maurer vào Hội đồng ngày 10 tháng 12 năm 2008, đã giành lại chiếc ghế trước đây do Schmid nắm giữ từ chức. SVP/UDC đã giành lại ghế thứ hai trong Hội đồng vào năm 2015, khi Widmer-Schlumpf quyết định từ chức sau khi SVP/UDC thắng lớn trong cuộc bầu cử năm 2015, được thay thế bằng Guy Parmelin. Phụ nữ trong Hội đồng. Phụ nữ giành được quyền bầu cử ở cấp liên bang vào năm 1971. Họ vẫn không có đại diện trong Hội đồng Liên bang trong ba cơ quan lập pháp tiếp theo, cho đến cuộc bầu cử năm 1984 khi Elisabeth Kopp vào Hội đồng. Năm 1983, cuộc bầu cử thất bại ứng cử viên nữ chính thức đầu tiên, Lilian Uchtenhagen và một lần nữa vào năm 1993, cuộc bầu cử thất bại Christiane Brunner (SP/PS), đã gây tranh cãi và Đảng Dân chủ Xã hội từng cân nhắc rút khỏi Hội đồng hoàn toàn. Có hai nữ Ủy viên giữ chức đồng thời lần đầu tiên vào năm 2006, và ba trong số bảy Ủy viên là phụ nữ từ năm 2007 đến năm 2010, khi Simonetta Sommaruga được bầu làm phụ nữ thứ tư trong chính phủ thay cho Moritz Leuenberger, khiến nam giới chiếm thiểu số trong chính phủ, lần đầu tiên trong lịch sử. Cũng đáng chú ý là thành viên thứ tám không bỏ phiếu của chính phủ, Thủ tướng, người đặt ra chương trình nghị sự chính phủ, cũng là một phụ nữ. Tổng số đã có 10 nữ Ủy viên trong giai đoạn 1989 đến nay: Đạo luật cân bằng khu vực. Cho đến năm 1999, Hiến pháp quy định rằng không bang nào có thể có nhiều đại diện trong Hội đồng Liên bang cùng một lúc. Trong phần lớn lịch sử Thụy Sĩ, bang của bất kỳ ủy viên hội đồng nhất định nào được xác định theo nơi xuất xứ của họ, nhưng bắt đầu từ năm 1987, điều này đã được đổi thành bang mà họ được bầu (đối với các cựu thành viên Hội đồng Liên bang hoặc các cơ quan lập pháp hoặc hành pháp bang) hoặc nơi cư trú. Không có gì ngăn cản các ứng cử viên chuyển đến các bang phù hợp về mặt chính trị; đây là một trong những động lực để bãi bỏ quy tắc. Tại cuộc trưng cầu dân ý năm 1999 Thụy Sĩ, Hiến pháp đã được thay đổi để yêu cầu phân bổ số ghế công bằng giữa các bang và nhóm ngôn ngữ trong nước mà không đặt ra hạn ngạch cụ thể. Kể từ khi quy định cấm các Ủy viên Hội đồng Liên bang đến từ cùng một bang bị bãi bỏ, đã có một số ví dụ về việc này xảy ra. Lần đầu tiên là từ năm 2003 đến năm 2007, khi cả Moritz Leuenberger và Christoph Blocher cùng bang Zürich cùng giữ chức. Điều này tiếp tục xảy ra từ năm 2010 đến 2018, bắt đầu khi Simonetta Sommaruga và Johann Schneider-Ammann cùng bang Bern được bầu năm 2010. Tính đến năm 2023, năm bang chưa bao giờ có đại diện trong Hội đồng Liên bang: Nidwalden, Schaffhausen, Schwyz, Uri. Với hiến pháp của Hội đồng vào năm 2023, yêu cầu hiến định rằng các ngôn ngữ và khu vực phải được cân bằng một cách thích hợp đang ngày càng tăng. "Những người nói tiếng Latinh" – những người nói tiếng Pháp, tiếng Ý hoặc tiếng Romansh – chiếm đa số trong Hội đồng, mặc dù hơn 70% công dân Thụy Sĩ nói tiếng Đức như ngôn ngữ mẹ đẻ. Tương tự như vậy, tất cả các Ủy viên Hội đồng Liên bang (tính đến năm 2022) không lớn lên ở khu vực thành thị (ngoại trừ Karin Keller-Sutter, đã học vài năm học ở Neuchâtel NE). Bất cứ khi nào một thành viên từ chức, họ thường được thay thế bởi một người không chỉ cùng đảng mà còn cùng nhóm ngôn ngữ. Tuy nhiên, vào năm 2006, Joseph Deiss, một người nói tiếng Pháp, đã từ chức và được kế nhiệm bởi Doris Leuthard, một người nói tiếng Đức. Vào năm 2016, Eveline Widmer-Schlumpf,một người nói tiếng Đức, đã được kế nhiệm bởi Guy Parmelin, một người nói tiếng Pháp. Trong lịch sử, ít nhất hai ghế Hội ​​đồng luôn được nắm giữ bởi những người nói tiếng Pháp hoặc Ý. Cấu trúc ngôn ngữ của Hội đồng tính đến năm 2022 là bốn người nói tiếng Đức, hai người nói tiếng Pháp và một người nói tiếng Ý. Vào tháng 11 năm 2017, Ignazio Cassis trở thành người nói tiếng Ý đầu tiên phục vụ trong Hội đồng kể từ năm 1999. Đối với các Bầu cử Hội đồng Liên bang, các ứng viên thường được nâng đỡ nhờ khả năng thông thạo tiếng Đức, tiếng Pháp và tiếng Ý ở mức độ cao. Hoạt động Hội đồng Liên bang. Mỗi năm, một trong bảy Ủy viên Hội đồng được bầu bởi Quốc hội Liên bang trở thành Tổng thống Liên bang. Quốc hội Liên bang cũng bầu ra Phó Tổng thống Thụy Sĩ. Theo quy ước, các vị trí Tổng thống và Phó Tổng thống sẽ luân phiên hàng năm, do đó mỗi Ủy viên Hội đồng sẽ trở thành Phó Tổng thống và sau đó là Tổng thống mỗi bảy năm một lần khi đương chức. Theo thứ tự ưu tiên của Thụy Sĩ, Tổng thống Liên bang là quan chức cấp cao nhất của Thụy Sĩ. Người này chủ trì các cuộc họp của Hội đồng và thực hiện một số chức năng đại diện mà ở các quốc gia khác gọi là công việc của nguyên thủ quốc gia. Trong những tình huống khẩn cấp mà quyết định của Hội đồng không thể được đưa ra kịp thời, Tổng thống được trao quyền để hành động thay mặt cho toàn Hội đồng. Tuy nhiên, ngoài điều đó ra, họ là những người ngang hàng với nhau ("primus inter pares"), không có quyền lực nào trên và ngoài sáu Ủy viên Hội đồng còn lại. Tổng thống không phải là nguyên thủ quốc gia Thụy Sĩ; chức năng này do Hội đồng "toàn thể" thực hiện, tức là toàn bộ. Tuy nhiên, trong thực tế gần đây, Tổng thống hành động và được công nhận là nguyên thủ quốc gia khi thực hiện các chuyến thăm chính thức ra nước ngoài, vì Hội đồng (cũng theo quy ước) không rời khỏi đất nước "toàn thể" được. Tuy nhiên, thường xuyên hơn, các chuyến thăm chính thức nước ngoài được thực hiện bởi người đứng đầu Bộ Ngoại giao. Các nguyên thủ quốc gia đến thăm được Hội đồng Liên bang tiếp đón "toàn thể". Cuộc họp Hội đồng. Hội đồng Liên bang hoạt động chủ yếu thông qua các cuộc họp hàng tuần, được tổ chức vào thứ Tư hàng tuần tại Cung điện Liên bang ở Bern, trụ sở chính phủ liên bang Thụy Sĩ. Ngoài bảy Ủy viên Hội đồng, các quan chức sau đây cũng tham dự các cuộc họp: Trong các cuộc họp, các Ủy viên hội đồng xưng hô với nhau một cách trang trọng (ví dụ: Quý bà Sommaruga, Quý ông Berset), mặc dù họ gọi tên nhau. Điều này được thực hiện để tách các vấn đề trong chương trình nghị sự khỏi người phụ trách chúng. Sau các cuộc họp, các Ủy viên Hội đồng cùng nhau dùng bữa trưa. Hội đồng cũng thường xuyên họp kín để thảo luận về các chủ đề quan trọng; hàng năm nó tiến hành cái thường được gọi là "chuyến đi thực địa", một chuyến đi trong ngày đến một số điểm tham quan ở bang quê hương của Tổng thống. Về khía cạnh đó và các khía cạnh khác, Hội đồng hoạt động giống như một ban giám đốc một tập đoàn lớn. Quyết định và trách nhiệm. Mỗi Ủy viên Hội đồng Liên bang đứng đầu một cơ quan chính phủ, giống như các bộ trưởng trong chính phủ các quốc gia khác. Theo thông tục và báo chí (đặc biệt là bên ngoài Thụy Sĩ), họ thường được gọi là bộ trưởng mặc dù không có chức vụ nào như vậy tồn tại chính thức. Ví dụ, người đứng đầu Bộ Quốc phòng, Bảo vệ Dân sự và Thể thao Liên bang thường được gọi là "Bộ trưởng Quốc phòng," mặc dù không có chức vụ nào như vậy tồn tại chính thức. Tuy nhiên, với tư cách là thành viên Hội đồng, họ không chỉ chịu trách nhiệm về ngành phụ trách mà còn về công việc hoạt động các ngành khác, cũng như đối với hoạt động chính phủ và chính quyền liên bang nói chung. Các quyết định được đưa ra bởi Hội đồng luôn được chuẩn bị bởi bộ chịu trách nhiệm. Theo đó, một sự thay đổi về tiền lương viên chức liên bang sẽ được đề xuất với Hội đồng bởi người đứng đầu Bộ Tài chính, cơ quan trực thuộc Văn phòng Nhân sự Liên bang. Tuy nhiên, trước khi bỏ phiếu tại một cuộc họp Hội đồng, tất cả các đề xuất đều được gửi bằng văn bản tới người đứng đầu các bộ, những người này ủy quyền cho các quan chức cấp cao trong bộ – những người đứng đầu Văn phòng Liên bang – chuẩn bị một văn bản trả lời để đưa ra những lời bình luận, gợi ý và phê bình. Đây được gọi là "thủ tục đồng báo cáo" ("Mitberichtsverfahren"/"procédure de co-rapport"), được thiết kế để xây dựng sự đồng thuận rộng rãi trước cuộc họp Hội đồng. Để chuẩn bị cho các quyết định quan trọng, một cuộc tham vấn cộng đồng bổ sung đôi khi được tiến hành, trong đó các bang, các chính đảng và các nhóm lợi ích lớn được mời tham gia và tất cả công chúng đều có thể tham gia. Nếu một thay đổi trong đạo luật Liên bang được đề xuất lên Quốc hội Liên bang, thì bước này được quy định theo luật. Trong những trường hợp như vậy, thủ tục tham vấn cũng nhằm xác định các mối quan tâm chính trị mà sau này có thể là trọng tâm một cuộc trưng cầu dân ý để ngăn chặn việc thông qua dự luật đang tranh cãi. Bản thân các quyết định được đưa ra chính thức bằng bỏ phiếu bằng giọng nói đa số các Ủy viên Hội đồng có mặt tại cuộc họp. Tuy nhiên, phần lớn các quyết định được đưa ra bởi sự đồng thuận; mặc dù gần đây người ta cho rằng có xu hướng hướng tới các cuộc thảo luận gây tranh cãi hơn và bỏ phiếu kín. Các cuộc họp của Hội đồng Liên bang và kết quả các cuộc bỏ phiếu được thực hiện không được công khai và hồ sơ vẫn được niêm phong trong 50 năm. Điều này gần đây đã là chủ đề của một số lời chỉ trích. Đặc biệt, các đảng ở hai cực phổ chính trị tranh luận rằng việc giữ bí mật này trái với nguyên tắc minh bạch. Tuy nhiên, Hội đồng luôn khẳng định rằng bí mật là cần thiết để đạt được sự đồng thuận và để duy trì tính tập thể và tính độc lập chính trị của từng Ủy viên Hội đồng. Quy ước hiến pháp. Do tính chất độc đáo của Hội đồng Liên bang là một đại liên minh tự nguyện của các đối thủ chính trị, hoạt động của nó phải tuân theo nhiều quy ước hiến pháp. Đáng chú ý nhất là nguyên tắc tập thể; nghĩa là, các Ủy viên Hội đồng không được công khai chỉ trích lẫn nhau, mặc dù họ thường là đối thủ chính trị. Trên thực tế, họ phải công khai ủng hộ tất cả các quyết định Hội đồng, thậm chí chống lại quan điểm cá nhân hoặc chính đảng của họ. In the eye of many observers, this convention has become rather strained after the 2003 elections (see below). Du lịch nước ngoài. Do thực tế là về mặt kỹ thuật, không có ủy viên hội đồng liên bang duy nhất mà toàn bộ hội đồng về mặt pháp lý là nguyên thủ quốc gia Thụy Sĩ, các Ủy viên Hội đồng Liên bang đã có một thời gian dài không đi công tác nước ngoài trong công việc chính thức. Ở các quốc gia khác, Thụy Sĩ gần như chỉ có các nhà ngoại giao đại diện. Sau vụ ám sát John F. Kennedy, các Ủy viên Hội đồng Liên bang đã triệu tập một cuộc họp khẩn cấp, nơi họ thảo luận về việc cử một Ủy viên Hội đồng đến dự tang lễ của Kennedy. Cho rằng sự vắng mặt chính phủ Thụy Sĩ sẽ không được người dân hiểu, họ quyết định gửi Friedrich Traugott Wahlen. Trong chuyến công du tới thủ đô Hoa Kỳ, Wahlen cũng đã gặp Ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk để thảo luận thuế quan. Bất chấp việc Thụy Sĩ mở cửa do vụ ám sát Kennedy, các chuyến công du nước ngoài của các Ủy viên Hội đồng Liên bang chỉ được bình thường hóa sau khi Liên Xô tãn rã. Bầu cử và cấu trúc. Vào ngày 11 tháng 12 năm 2019, các Ủy viên Hội đồng Liên bang sau đây đã được bầu lại, do không có ghế khuyết (bầu cử theo từng ghế): Sau khi Ueli Maurer và Simonetta Sommaruga từ chức kể từ ngày 31 tháng 12 năm 2022, các Ủy viên Hội đồng Liên bang sau đây đã được bầu vào ngày 7 tháng 12 năm 2022: Ngoài ra, Walter Thurnherr (CVP/PDC) đã được bầu lại làm Thủ tướng Liên bang với 219 trên tổng số 224 phiếu. Chế độ bầu cử. Các thành viên của Hội đồng Liên bang được bầu với nhiệm kỳ 4 năm bởi cả hai viện của Quốc hội Liên bang ngồi cùng nhau với tư cách là Quốc hội Liên bang Thống nhất. Mỗi ghế trong Hội đồng Liên bang sẽ được bầu (tái) theo thứ tự thâm niên, bắt đầu với Ủy viên Hội đồng có nhiệm kỳ dài nhất. Sau đó, những người giữ chức vụ được bầu riêng lẻ bằng cách bỏ phiếu kín với đa số tuyệt đối số phiếu hợp lệ. Mọi công dân Thụy Sĩ trưởng thành đều đủ điều kiện vào Hội đồng (và thậm chí có thể được bầu trái với ý muốn của mình), nhưng trên thực tế, chỉ các thành viên Nghị viện hoặc hiếm hơn, các thành viên chính quyền bang, được các đảng chính trị đề cử và nhận được một số phiếu bầu đáng kể. Việc biểu quyết được tiến hành thành nhiều vòng, theo hình thức bỏ phiếu đa số tuyệt đối nhiều vòng. Sau khi cuộc bầu cử kết thúc, người chiến thắng có một bài phát biểu ngắn và chấp nhận hoặc từ chối chức vụ Ủy viên Hội đồng Liên bang. Sau đó, lời tuyên thệ nhậm chức được thực hiện, ngay cả khi nhiệm kỳ thông thường chức vụ chỉ bắt đầu sau đó vài tuần, vào ngày 1 tháng 1. Thông thường, đảng nào có ghế trống sẽ trình bày hai ứng cử viên có quan điểm chính thống trước Quốc hội Liên bang Thống nhất, sau đó sẽ chọn một người. Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra trong cuộc bầu cử năm 2003, cuộc bầu cử gây tranh cãi nhất trong lịch sử gần đây. Cho đến cuối thế kỷ 19, các Ủy viên Hội đồng Liên bang được yêu cầu một cách không chính thức phải được bầu vào Hội đồng Quốc gia tại bang xuất xứ của họ bốn năm một lần để kiểm tra mức độ nổi tiếng với công chúng. Hành động này được biết đến với thuật ngữ tiếng Pháp là "élection de compliment" (bầu bởi lời khen). Ủy viên Hội đồng đầu tiên không được bầu lại (Ulrich Ochsenbein) đã thua cuộc bầu cử vào Hội đồng Quốc gia năm 1854. Sau khi được bầu, các Ủy viên Hội đồng vẫn là thành viên chính đảng của họ, nhưng không giữ chức vụ lãnh đạo nào với họ. Trên thực tế, họ thường duy trì một khoảng cách chính trị nhất định với ban lãnh đạo đảng, bởi vì theo các quy tắc về [tính tập thể, họ sẽ thường phải công khai thúc đẩy một quyết định Hội đồng không phù hợp với niềm tin chính trị của đảng họ (hoặc của chính họ). Sau khi được bầu cho nhiệm kỳ bốn năm, các Ủy viên Hội đồng Liên bang không thể bị bãi nhiệm do bỏ phiếu bất tín nhiệm cũng như không thể bị luận tội. Trong lịch sử, việc Nghị viện không bầu lại một Ủy viên đang đương nhiệm là điều cực kỳ hiếm trong lịch sử. Điều này chỉ xảy ra bốn lần – với Ulrich Ochsenbein năm 1854, Jean-Jacques Challet-Venel năm 1872, Ruth Metzler năm 2003 và Christoph Blocher năm 2007. Do đó, trên thực tế, các Ủy viên Hội đồng phục vụ cho đến khi họ quyết định từ chức và lui về cuộc sống riêng tư, thường là sau ba đến năm nhiệm kỳ. Địa vị các Ủy viên Hội đồng Liên bang. Không giống như hầu hết các thành viên cấp cao của chính phủ ở các quốc gia khác, các Ủy viên Hội đồng Liên bang không được quyền có dinh thự chính thức (tuy nhiên, Cung điện Liên bang có các căn hộ sinh sống cho cả Thủ tướng Liên bang và Tổng thống). Hầu hết, họ đã chọn thuê căn hộ hoặc dãy phòng khách sạn ở Bern (bằng chi phí của họ). Tuy nhiên, họ được quyền sử dụng bất động sản quốc gia Hội đồng Liên bang, Lohn, cho các ngày lễ; khu đất này cũng được sử dụng để đón tiếp các vị khách chính thức Liên bang Thụy Sĩ. Mặc dù các Ủy viên Hội đồng có thể sử dụng cắt cử an ninh của Quân đội nếu họ cần được bảo vệ cá nhân (đặc biệt là trong các sự kiện chính thức), nhưng thông thường sẽ gặp họ mà không có bất kỳ người hộ tống nào trên đường phố, nhà hàng và đường xe điện ở Bern, và Ueli Maurer được biết là sử dụng xe đạp trong hầu hết các ngày từ căn hộ ở Münsingen tới Cung điện Liên bang ở Bern. Các ủy viên hội đồng cũng được quyền có một người đại diện cá nhân ("huissier" hoặc"Bundesweibel") người đi cùng họ, trong bộ đồng phục nghi lễ màu đỏ và trắng tới các sự kiện chính thức. Vợ hoặc chồng của các Ủy viên Hội đồng không đóng vai trò chính thức trong công việc chính phủ, ngoại trừ việc tháp tùng các Ủy viên đến các buổi chiêu đãi chính thức. Các ủy viên hội đồng liên bang nhận mức lương hàng năm là 445,000 CHF (khoảng 416,000 EUR/ 451,000 USD), cộng với 30,000 CHF khác hàng năm cho các chi phí. Các ủy viên hội đồng nộp thuế cho khoản thu nhập này. Các cựu ủy viên hội đồng với ít nhất bốn năm phục vụ được nhận lương hưu tương đương với một nửa mức lương của các thành viên Hội đồng Liên bang tại chức. Nếu một ủy viên hội đồng rời nhiệm sở vì lý do sức khỏe, họ có thể nhận khoản trợ cấp này ngay cả khi thời gian phục vụ của họ dưới ba năm. Các nghị viên rời nhiệm sở sau chưa đầy bốn năm cũng có thể nhận được một phần lương hưu. Sau khi rời nhiệm sở, "các cựu ủy viên hội đồng liên bang thường theo đuổi một số hoạt động sinh lợi khác," nhưng "thu nhập của họ, khi được cộng vào khoản lương hưu mà họ nhận được với tư cách là cựu ủy viên hội đồng liên bang, không được vượt quá mức lương của một ủy viên hội đồng liên bang tại chức, nếu không lương hưu của họ sẽ bị giảm tương ứng." Phục vụ các ủy viên hội đồng liên bang "được hưởng một số lợi ích đặc biệt nhất định, từ hợp đồng điện thoại miễn phí đến xe hơi có tài xế riêng cho công việc chính thức, xe hơi ưu đãi cho mục đích cá nhân hoặc sử dụng máy bay và trực thăng của liên bang cho các chuyến công tác chính thức. Mỗi thành viên của Liên bang Hội đồng cũng có quyền có thẻ du lịch hạng nhất SBB (kể cả khi đã nghỉ hưu). Họ cũng được cung cấp bảo mật cá nhân, điều này thường rất kín đáo." Các Ủy viên Hội đồng Liên bang, giống như các thành viên của quốc hội, được hưởng miễn trừ tư pháp tuyệt đối đối với tất cả các tuyên bố được đưa ra với tư cách chính thức của họ. Việc truy tố các tội phạm và tội nhẹ liên quan đến năng lực chính thức các Ủy viên Hội đồng cần có sự đồng ý của các ủy ban miễn trừ Quốc hội Liên bang. Trong những trường hợp như vậy, Nghị viện cũng có thể đình chỉ chức vụ Ủy viên Hội đồng (nhưng không thực sự cách chức họ). Theo tuyên bố với giới truyền thông của một quan chức Phủ Thủ tướng Liên bang, không có trường hợp nào trong số ít trường hợp buộc tội một Ủy viên Hội đồng Liên bang được phép truy tố từng được cấp. Những trường hợp như vậy thường liên quan đến những tuyên bố bị các thành viên công chúng coi là xúc phạm. Tuy nhiên, một Ủy viên Hội đồng giấu tên liên quan đến một vụ tai nạn giao thông ngay trước ngày từ chức được cho là đã tự nguyện từ bỏ quyền miễn trừ của mình và Ủy viên Hội đồng Elisabeth Kopp đã quyết định từ chức khi đối mặt với cuộc điều tra về cáo buộc vi phạm bí mật.
Aaron Brooking Dessner (sinh ngày 23 tháng 4 năm 1976) là một nhạc sĩ, người viết bài hát và nhà sản xuất nhạc người Mỹ. Anh được biết đến nhiều nhất như một thành viên sáng lập của ban nhạc rock The National, anh đã thu âm chín album phòng thu với ban nhạc; người đồng sáng lập bộ đôi indie rock Big Red Machine với Justin Vernon của nhóm nhạc Bon Iver; và là người hợp tác trên album phòng thu "Folklore" and "Evermore" của Taylor Swift, cả hai album đã được đề cử cho giải Grammy cho Album của năm vào năm 2021 và 2022 và album thứ nhất đã giành được giải thưởng này. Dessner đã đồng sáng tác, sản xuất hoặc đồng sản xuất các bài hát của Taylor Swift, Ed Sheeran, Michael Stipe, Gracie Abrams, Frightened Rabbit, Ben Howard, Sharon Van Etten, Local Natives, This Is the Kit, Adia Victoria, Lisa Hannigan, và Lone Bellow, và những người khác. Với người anh song sinh Bryce của mình, cả hai đã sưu tầm các bài hát và sản xuất hai album tổng hợp từ thiện, "Dark Was the Night" (2009) và "Day of the Dead" (2016), cho tổ chức Red Hot Organization. Dessner đã đồng sáng lập và giám tuyển ba lễ hội âm nhạc: Eaux Claires ở Eau Claire, Wisconsin cùng với Vernon của Big Red Machine; HAVEN ở Copenhagen cùng anh trai Bryce, và Boston Calling Music Festival. Vào ngày 19 tháng 5 năm 2022, Dessner được trao bằng Tiến sĩ Nghệ thuật danh dự của đại học University of the Arts cùng với Questlove, vì "sự say mê tìm kiếm những cơ hội của anh, vì anh là một hợp tác viên chu đáo, và anh là người sẽ khuyến khích mọi sinh viên tại UArts để khám phá các lĩnh vực, cơ hội và ý tưởng mới cùng các sinh viên khác." Dessner và vợ có ba người con. Dessner là một fan bóng đá sôi nổi và là một người ủng hộ cuồng nhiệt của Liverpool F.C.
Leonor của Bồ Đào Nha, Vương hậu Aragón Leonor của Bồ Đào Nha (tiếng Bồ Đào Nha: "Leonor de Portugal"; 1328 – 30 tháng 10 năm 1348), là một Infanta của Bồ Đào Nha và là Vương hậu Aragón từ năm 1347 đến 1348 với tư cách là vợ thứ hai của Quốc vương Pero IV. Con gái út của Quốc vương Afonso IV của Bồ Đào Nha và Beatriz của Castilla, Leonor là cháu nội của Quốc vương Denis I và Isabel của Aragón và cháu ngoại của Sancho IV của Castilla và María xứ Molina và là em gái của Quốc vương Pedro I của Bồ Đào Nha. Không có nhiều thông tin về thời thơ ấu của Leonor. Lần đề cập đầu tiên về Leonor là khi nàng Infanta 18 tuổi được hai vị quốc vương tranh giành để đảm bảo liên minh với Bồ Đào Nha: một là Alfonso XI của Castilla muốn hỏi cưới Leonor cho cháu trai Ferrando của Aragón, và Pero IV của Aragón. Sau cùng Leonor đã gả cho Pero IV vào ngày 14 hoặc 15 tháng 11 năm 1347 tại Barcelona, cùng năm người vợ đầu tiên của Pero IV là María của Navarra qua đời. Leonor là Vương hậu Aragón duy nhất sinh ra ở Bồ Đào Nha. Leonor qua đời vào ngày 29 tháng 10 năm 1348, một năm sau khi kết hôn do mắc bệnh từ đại dịch Cái chết đen ở Teruel trên đường đến Jérica. Mặc dù có một số khẳng định rằng Leonor có một người con gái tên là Beatriz được nuôi dưỡng bởi mẹ của Leonor và đã qua đời, trong đó có Jerónimo de Zurita và Rui de Pina nhưng Leonor và Pero IV không có con chung với nhau. Đứa trẻ không được nhắc đến trong di chúc của Leonor nhưng được đề cập trong di chúc của mẹ Leonor là Vương hậu Beatriz vào năm 1357 và 1358, trong đó Vương hậu Beatriz yêu cầu rằng hài cốt của đứa trẻ ban đầu được chôn cất tại Tu viện Thánh Francisco ở Santarém được đặt tại lăng mộ của bà. Vì thế có thể đứa trẻ là con ngoại hôn của Pedro I của Bồ Đào Nha. Leonor ban đầu được chôn cất tại Jérica và vào tháng 6 năm 1350, sau đó hài cốt của Leonor được chuyển đến và chôn cất tại Đền thờ Vương thất của Tu viện Poblet theo như ý nguyện Leonor đã bày tỏ trong di chúc tháng 9 năm 1348.
Cải cách Tin lành ở Memmingen Cuộc Cải cách Tin lành ở Memmingen bắt đầu vào năm 1513 với việc bổ nhiệm Christoph Schappeler với chức vụ chủ trì nhà thờ St. Martin ở Memmingen, một chức vụ do gia đình Vöhlin tài trợ, và kéo dài đến năm 1563. Trong mười một năm đầu, cuộc Cải cách do người dân thúc đẩy. Trong Chiến tranh Nông dân, thành phố bị chiếm đóng bởi Liên minh Schwaben và buộc trở lại theo đạo Công giáo. Sau đó, Hội đồng Thành phố lại thúc đẩy Cải cách. Ban đầu được định hướng theo những lời dạy của Huldrych Zwingli, thành phố chỉ sau đó mới theo đạo Tin lành của Martin Luther. Cuộc sống trước khi cải cách. Memmingen có khoảng 5000 cư dân vào cuối thế kỷ 15 và do đó lớn như Freiburg im Breisgau. Nhiều thị trấn, làng mạc và ấp của khu vực xung quanh thuộc về thành phố, Quỹ Unterhospital hoặc những người giàu có ở Memmingen. Những người bảo trợ và các bang hội đã quyết định cùng với những Hội đồng lớn và nhỏ về số vận của thành phố đế chế tự do. Những người bảo trợ chủ yếu có tài sản lớn lao và có đủ thời giờ để chăm sóc các mối quan tâm ở thành phố. Hầu hết một người trong số họ là người quản lý tài chính và thị trưởng. Thành phố có ảnh hưởng đáng kể đến Liên minh Schwaben và hầu như luôn có đại diện trong Hội đồng Liên bang. Đó là lực lượng mạnh thứ ba trong chính quyền liên bang sau Ulm và Augsburg. Tình trạng kinh tế. Tình trạng kinh tế vào cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16 rất khó khăn ở khắp Oberschwaben. Nền kinh tế Memmingen, chủ yếu xuất khẩu, đi vào tình trạng suy thoái bắt đầu vào đầu thế kỷ 16. Vào năm 1450, có 13 người nộp thuế vẫn được xem là giàu có, chỉ còn có sáu người vào năm 1530. Số lượng những người vô sản tăng từ cùng thời kỳ từ 731 lên 1206. Nó thậm chí còn đen tối hơn đối với các thợ dệt: năm 1450 năm người vẫn có một tài sản đáng kể, nhưng không còn ai nữa vào năm 1530. Chính nghề này, chiếm phần lớn các thợ thủ công Memmingen, đã rơi vào một cuộc suy thoái đặc biệt dữ dội. Người ta lo sợ sẽ có các cuộc nổi dậy của thợ dệt đở thành phố này, như đã xảy ra ở Ulm năm 1516. Của cải nằm trong tay một số ít người và phần lớn dân số thành phố thuộc giai cấp nghèo khó. Ngoài ra, Hội đồng thành phố quy định nghiêm ngặt cuộc sống của những thường dân. Tất cả các lĩnh vực của đời sống công cộng và tư nhân đều được quy định. Ví dụ, chỉ những người có ít nhất 50 Gulden bất động sản hay động sản hoặc bằng tiền mặt mới có thể kết hôn. Nếu ai đó có ít hơn, anh ta đã được cho là nghèo đói và bị cấm làm hôn thú. Ngoài ra chỉ có một số lượng hạn chế khách có thể được mời đến dự đám cưới. Tình trạng nhà thờ. Như trong toàn bộ đế chế, Giáo hội đã ở trong một trạng thái tâm linh ảm đạm. Trong số 5000 cư dân có 130 giáo sĩ vào khoảng năm 1500, bao gồm 52 giáo sĩ, 28 tu sĩ và 50 nữ tu, nhưng chỉ một vài người trong số họ được dùng trong chăm sóc mục vụ. Trong thời gian này, dân số lại trở lại sùng đạo sâu sắc. Họ chủ yếu tuân theo các quy định mà Giáo hội áp đặt lên họ. Toàn bộ cuộc sống đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi tôn giáo. Tuy nhiên, mọi người cảm thấy kém được chăm sóc bởi các giáo sĩ. Chăm sóc mục vụ và các nhiệm vụ từ thiện sa sút đi nhiều, vì nhiều giáo sĩ đã không hoặc hoàn thành rất kém nhiệm vụ của họ. Ví dụ, những người được bổng lộc đã ủy thác việc chủ trì các buổi lễ cho các giáo sĩ được đào tạo kém, mà họ không thực hiện vào thời điểm dự định, nhưng vào những ngày khác. Hội đồng thành phố đã can thiệp vào các vấn đề của nhà thờ trước khi Cải cách. Tranh chấp của Hội đồng thành phố với các tu viện, đặc biệt là Tu viện Augustine và Tu viện Antonia đã củng cố xu hướng này. Tuy nhiên, các công dân đã quyên góp nhiều buổi lễ từ 1470 đến 1521 so với trước đó. Chức phẩm nhà thờ do dân đóng góp. Một phương tiện mới để đảm bảo sự chăm sóc mục vụ là chức phẩm nhà thờ do dân đóng góp. Vào thứ Sáu sau Maria Magdalena (ngày 22 tháng 7) năm 1479, gia đình Vöhlin đã đóng góp một chức phẩm cho Nhà thờ St. Martins. Người giữ chức phẩm này nên cử hành ít nhất hai buổi thánh lễ hàng tuần. Các buổi thánh lễ cũng phải được cử hành vào Chủ nhật và 21 ngày lễ được nêu tên. Người giữ chức phẩm cũng phải có bằng thạc sĩ. Tuy nhiên, địa vị này cũng cạnh tranh với các chức vụ giáo sĩ bình thường tại nhà thờ, nên cũng đưa tới các tranh chấp ở đây. Những người nắm giữ chức phẩm này, hay xem mình đứng ở một vị trí cao hơn đối với các giáo sĩ, do thường được đào tạo về mặt thần học tốt hơn các giáo sĩ. do đó, các giáo sĩ đã thấy mình mất dần ảnh hưởng với dân chúng. Ở Memmingen, nơi giáo sĩ chính của Giáo hội Giáo xứ St. Martin là từ Tu viện Antonius gần đó - nhà thờ được nhập vào tu viện - nên có thêm căng thẳng. Người đứng đầu tu viện đã nhiều lần bị cáo buộc không có khả năng vì ông hiếm khi có mặt ở thành phố và bỏ bê các hoạt động mục vụ của ông. Người giữ chức phẩm đầu tiên của Vöhlin, Dr. Jodokus Gay đã tranh cãi sớm với Hội đồng thành phố và Tu viện Antonius. Ông được coi là người tiên phong cho nhà cải cách Dr. Christoph Schappeler Từ thời Trung cổ, dân chúng đã nhiều lần gây ảnh hưởng đến đời sống nhà thờ trong phạm vi thành phố. Hai nhà thờ giáo xứ lớn của St. Martin và Unser Frauen không được xây dựng bởi các tu viện tương ứng mà chúng được nhập vào, mà bởi người dân. Lời thề của thị trưởng cũng diễn ra vào ngày thề nguyện ở nhà thờ St. Martin. Dr. Jodokus Gay muốn thay đổi điều này và do đó đã viết thư cho Giám mục Augsburg năm 1507. Giám mục Heinrich IV. von Lichtenau, tuy nhiên, không quyết định và gửi một nghị thư cho Hoàng đế. Tuy nhiên, Gay bị đe dọa nhận lệnh trục xuất khỏi nhà thờ từ giáo hoàng và không được cử hành những buổi thánh lễ nữa. Hoàng đế Maximilian I. ra lệnh Gay từ bỏ đòi hỏi của mình. Tranh chấp này đã kéo dài cho đến khi Gay qua đời vào năm 1512. Ngay cả với người kế nhiệm, thành phố cũng vẫn có tranh chấp. Cải cách đã xảy ra trong thời gian này. Đối với nhiều tín đồ, buổi thánh lễ đo lường là một buổi diễn xuất thiêng liêng không thể hiểu được mà tín đồ chỉ tham dự một cách thụ động, hoặc một sự kiện bí ẩn. Ngôn ngữ phụng vụ Latin không thể hiểu được đã làm cho nó khó hiểu hơn. Một xu hướng khác cũng muốn dành ảnh hưởng đến các vấn đề của nhà thờ.
"Bộ ba B" (tên tiếng Anh là "Three Bs") là cụm từ để chỉ sự viết tắt chữ cái đầu tên họ của 3 nhà soạn nhạc người Đức Johann Sebastian Bach, Ludwig van Beethoven và Johanes Brahms (trước đó là Hector Berlioz). Thuật ngữ này bắt nguồn từ cách diễn đạt do Peter Cornelius đề ra vào năm 1854, trong đó ông cho rằng Hector Berlioz mới là người thứ ba đạt được những đỉnh cao về âm nhạc mà Johann Sebastian Bach và Ludwig van Beethoven đã có. Cuối thế kỷ 19, nhạc trưởng Hans von Bülow đã thay thế Berlioz bằng Johannes Brahms. Cụm từ này thường được sử dụng trong các cuộc thảo luận về âm nhạc cổ điển để chỉ ưu thế được cho là của Bach, Beethoven và Brahms trong lĩnh vực âm nhạc. Trong một bài báo trên "", Cornelius đã giới thiệu Berlioz là người thứ ba trong bộ ba B. Sau đó ông kết thúc bài viết của mình với lời khẩu hiệu hô vang, "Bach, Beethoven, Berlioz!" Nhiều thập kỷ sau, Bülow nghĩ ra một cách chơi chữ khác cho một người bạn: "Mein musikalisches Glaubensbekenntniss steht in Es dur, mit drei B-en in der Vorzeichnung: Bach, Beethoven, und Brahms!" (tạm dịch: "Tín ngưỡng âm nhạc của tôi nằm trong điệu tính của Mi giáng trưởng và chứa ba chữ B [nốt giáng] trong hoá biểu của nó: Bach, Beethoven và Brahms!"). Bülow đã bị thu hút bởi ý tưởng về thể loại Ba ngôi của âm nhạc cổ điển trong một vài năm, như ông từng viết vào những năm 1880: "Tôi tin vào Bach, Cha, Beethoven, Con và Brahms, Thánh Linh của âm nhạc". Ông còn so sánh Beethoven và Brahms bằng cách coi bản giao hưởng đầu tiên của Brahms sau này là bản giao hưởng thứ mười của Beethoven. Năm 1838, Niccolò Paganini đã xác định Berlioz là người kế vị xứng đáng của Beethoven. Quả thực, hai năm trước bài báo của Cornelius, Hans von Bülow đã tự gọi Berlioz là "người kế vị nghiễm nhiên và năng nổ nhất của Beethoven". David Matthews đề nghị rằng nếu có một "B thứ tư" được thêm vào sự kế thừa này, thì đó có thể là Benjamin Britten.
Môi trường liên hành tinh Môi trường liên hành tinh hoặc không gian liên hành tinh (tiếng Anh: interplanetary medium (IPM) hoặc interplanetary space) là môi trường bao gồm khối lượng và năng lượng nằm giữa các thiên thể trong Hệ Mặt Trời, chẳng hạn như hành tinh, hành tinh lùn, tiểu hành tinh, sao chổ, và bên ngoài đó là môi trường liên sao. Trước năm 1950, môi trường liên hành tinh được nhiều người cho là khoảng chân không trống rỗng hoặc là có bao gồm "aether". Thành phần và đặc điểm vật lý. Môi trường liên hành tinh bao gồm bụi liên hành tinh, tia vũ trụ và plasma nóng từ gió Mặt Trời.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Uniplacotomia là một lớp động vật hiển vi, bao gồm phần lớn các loài thuộc ngành Placozoa, ngoại trừ "Polyplacotoma". Nó được đề xuất vào năm 2022. It comprises the orders Trichoplacea, Cladhexea and Hoilungea. Hình thái của cả lớp đều giống nhau, như loài "Trichoplax" điển hình là các sinh vật phẳng, tròn khác với cấu trúc phân nhánh, đa hình của loài Polyplacotomia. Mặc dù hình thái là đồng nhất, Uniplacotomia thể hiện một mức độ đa dạng quan trọng về hình thái phân tử, với ít nhất 20 loài ước tính tồn tại.
Lukas Graber (sinh ngày 3 tháng 5 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá người Liechtenstein hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Eschen/Mauren và Đội tuyển bóng đá quốc gia Liechtenstein. Sự nghiệp thi đấu. Graber ra mắt quốc tế cho Liechtenstein vào ngày 3 tháng 6 năm 2022, trong trận giao hữu gặp Moldova. "Tính đến 26 tháng 9 năm 2022" Anh ta là anh em sinh đôi của cầu thủ bóng đá Liechtenstein, Noah Graber.
Mattia Zanotti (sinh ngày 11 tháng 1 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh phải cho câu lạc bộ Inter Milan tại Serie A. Sự nghiệp thi đấu. Zanotti là sản phẩm của lò đào tạo trẻ Virtus Feralpi Lonato và Brescia, trước khi chuyển đến lò đào tạo Inter Milan vào năm 2017. Ngày 1 tháng 10 năm 2021, Zanotti ký hợp đồng chuyên nghiệp với Inter Milan, có thời hạn đến năm 2025. Anh có trận ra mắt Serie A cho đội bóng, trong chiến thắng 4–0 trước Cagliari vào ngày 12 tháng 12 năm 2021, khi vào sân thay người ở phút thứ 83. Sự nghiệp thi đấu quốc tế. Zanotti đã từng đại diện cho Ý ở các cấp độ U-15, U-16, U-17 và U-19. Tháng 5 năm 2023, anh có tên trong danh sách cầu thủ U-20 Ý của huấn luyện viên #đổi tham dự Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2023 ở Argentina.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Cladhexea hiện nay là thành viên thuộc ngành Placozoa, một bộ đến nay chưa một loài nào được mô tả. Đặt tên vào năm 2022, là nhóm chị em với bộ Hoilungea, và tương ứng với Clade VI của tài liệu.
Ajesaia là một câu lạc bộ bóng đá Madagascar được thành lập vào năm 1998 tại Antananarivo, Madagascar. Câu lạc bộ đã từng vô địch Cúp bóng đá Madagascar vào năm 2006, giúp họ tiến vào Siêu cúp bóng đá Madagascar (nơi họ thua 1-0 trước AS Adema) và Cúp Liên đoàn bóng đá châu Phi (nơi họ đánh bại Curepipe Starlight SC tại vòng sơ loại, nhưng thua Ismaily SC ở vòng 1). Đội bóng có một câu lạc bộ trung chuyển thỏa thuận với SS Saint-Pauloise của Réunion, đội có một thỏa thuận với câu lạc bộ Pháp Olympique Lyonnais. 2010 – Vòng sơ loại 2007 – Vòng 1
Thủy Triều Đỏ (ban nhạc) Thủy Triều Đỏ là một ban nhạc heavy metal người Việt Nam được thành lập vào năm 1999. Tính đến nay, nhóm đã phát hành hai album lần lượt là "Nắng mới" (2003) và "Sau cơn mưa" (2006). Nhóm từng được trang MTV Việt Nam xếp là một trong những ban nhạc rock nổi tiếng nhất Việt Nam. Lịch sử hoạt động. 1999–2007: Thành lập, "Nắng mới" và "Sau cơn mưa". Thủy Triều Đỏ được thành lập vào năm 1999 với tên gọi là Coming Late, chủ yếu cover nhạc của Metallica và Pantera. Ngày 29 tháng 11 năm 2003, Thủy Triều Đỏ cùng một số ban nhạc gồm Bức Tường, Ngọn Lửa Nhỏ, The Light và Automega tham dự Đại hội Rock Việt lần I tại Hà Nội; chung cuộc ban nhạc đã giành giải "ban nhạc heavy metal xuất sắc nhất" của sự kiện. Ngày 24 tháng 12 năm 2003, Thủy Triều Đỏ phát hành album đầu tay mang tên "Nắng Mới". Ban nhạc là đại diện nhạc rock duy nhất tham gia chương trình Bài hát tôi yêu (2004) rồi tiếp tục tham gia Bài hát Việt (2005) của VTV. Năm 2006, ban nhạc phát hành album thứ hai mang tên "Sau cơn mưa". Tháng 4 năm 2007, Thủy Triều Đỏ tham gia tranh tài tại Liên hoan các ban nhạc nhẹ toàn quốc được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 17 tháng 4 năm 2007, ban nhạc giành được giải tư chung cuộc tại Liên hoan ban nhạc nhẹ toàn quốc cùng với nhóm Khoai Lang Tây. Ngày 12 tháng 5 năm 2007, Thủy Triều Đỏ cùng các ban nhạc Microwave, UnlimiteD và Trần Lập đã trình diễn trong đêm nhạc "Piero Pelu’ Live in Vietnam" tại Triển lãm Giảng Võ, Hà Nội nhân dịp ca sĩ rock người Ý Piero Pelù đến Việt Nam. Ngày 2 và 3 tháng 8 năm 2008, Thủy Triều Đỏ, Ngũ Cung, Final Stage và Re-cycle tham dự lễ hội âm nhạc và nghệ thuật mang tên "Art port '08" tại Triển lãm Giảng Võ, Hà Nội. Thủy Triều Đỏ đã tham gia trình diễn tại chuỗi nhạc hội Rock Storm trong ba mùa liên tiếp (2008, 2009, 2010) do MobiFone tổ chức. 2008–nay: Hoạt động rải rác. Tháng 6 năm 2011, Thủy Triều Đỏ cùng Re-cycle và Oringchains có mặt tại ABC Cafe để biểu diễn trong đêm nhạc "Loving You". Ngày 25 tháng 9 năm 2011, Thủy Triều Đỏ, Vinh Xiêm và Cuộc SốngS cùng tham gia nhạc hội rock "Keep Your Passion" diễn ra tại Kandy Land Club, phố Trường Chinh, Hà Nội. Tháng 10 năm 2011, Thủy Triều Đỏ trình diễn tại đêm nhạc "Be There" ở Hà Nội. Ngày 24 tháng 12 năm 2011 (đúng vào ngày lễ Giáng Sinh), ban nhạc nhận lời tham gia chương trình Câu lạc bộ 2M: Acoustic Rock của VTV6 cùng khách mời là nhạc sĩ Lưu Quang Minh. Ngày 25 tháng 3 năm 2012, Thủy Triều Đỏ trình diễn tại sân khấu ngoài trời của Học viện Kỹ thuật Quân sự. Tháng 10 năm 2013, Thủy Triều Đỏ công bố đội hình mới gồm: Thành Nam hát chính (lúc ấy là sinh viện trường Đại học Ngoại Thương, thay thế Anh Tuấn), Công Thành chơi trống, còn lại vẫn giữ nguyên. Ngày 17 tháng 11 năm 2013, ban nhạc và Oringchains tham dự đêm nhạc rock giao lưu Việt-Nhật mang tên "Go! Go! Japan! 2013" với các ban nhạc Nhật Okamoto's, The Ton-up Motors và Ryukyudisko diễn ra tại Trung tâm Triển lãm Vân Hồ, Hà Nội. Thủy Triều Đỏ tiếp tục có mặt ở chuỗi nhạc hội Rock Storm với đêm diễn cuối tại sân vận động Mỹ Đình, Hà Nội vào ngày 11 tháng 1 năm 2014. Ngày 13 tháng 11 năm 2022, Thủy Triều Đỏ và Ngũ Cung biểu diễn tại "Lễ hội thiết kế sáng tạo 2022" diễn ra ở phố đi bộ Hà Nội. Dấu ấn nghệ thuật. Thủy Triều Đỏ được xem là một trong những đại diện tiêu biểu của nhạc rock tại Việt Nam vào thời điểm dòng nhạc này thịnh hành ở nước này từ thập niên 1990 đến thập niên 2000. Nhóm từng được trang MTV Việt Nam chọn ở vị trí số 6 trong danh sách "Top 10 ban nhạc rock nổi tiếng Việt Nam". Đánh về album đầu tiên "Nắng mới", trang VnExpress viết: "12 tác phẩm trong album đều là những câu chuyện riêng lẻ, có phân đoạn rõ ràng, mỗi đoạn thể hiện một cảm xúc khác nhau. Chẳng hạn, 'Ánh sáng nơi núi rừng"'," với giai điệu lúc nhẹ nhàng da diết, lúc mạnh mẽ trào dâng, thể hiện lòng biết ơn và sự kính trọng với thầy, cô - những người đã tự nguyện rời xa chốn phồn hoa đô thị để đem ánh sáng kiến thức lên miền núi. Còn hoà tấu 'Đàn dơi' trên nền nhạc u buồn, cùng với hình ảnh săn mồi ban đêm của đàn dơi đã biểu hiện chủ đề: nếu mỗi người không tự nỗ lực vươn lên trong cuộc sống thì sẽ bị chính xã hội đào thải."
National Railroad Passenger Corporation (tên thương mại: Amtrak), là một công ty vận tải hành khách bằng đường sắt quốc gia của Hoa Kỳ. Đây là công ty vận hành dịch vụ đường sắt liên thành phố ở 46 trong số 48 tiểu bang lục địa Hoa Kỳ, cùng với 3 tỉnh của Canada. Về tên gọi, "Amtrak" là của "America" và "trak", một của từ "track". Thành lập vào năm 1971 với tư cách một vận hành nhiều tuyến đường sắt chở khách tại Hoa Kỳ, Amtrak được trợ cấp bởi cả chính quyền tiểu bang lẫn liên bang, nhưng lại được quản lý như một . Trụ sở chính của công ty nằm cách ở Washington, D.C. một dãy nhà về phía Tây. Amtrak được lãnh đạo bởi một Hội đồng quản trị, hai trong số đó là Bộ trưởng Giao thông Hoa Kỳ, và Giám đốc điều hành (CEO) của Amtrak, trong khi tám thành viên khác được đề cử để phục vụ với nhiệm kỳ 5 năm. "Amtrak" là một cơ quan do chính phủ quản lý. Vì vậy cổ phiếu ưu đãi của công ty được nắm giữ bởi Chính phủ Hoa Kỳ. Các thành viên Hội đồng quản trị của Amtrak được bổ nhiệm bởi Tổng thống Hoa Kỳ và phải được Thượng viện phê chuẩn. Mạng lưới của Amtrak bao gồm hơn 500 trạm dọc theo đường ray. Công ty trực tiếp sở hữu khoảng đường ray và vận hành thêm đường ray của các công ty khác. Một số đoạn đường ray cho phép tàu chạy với tốc độ . Tính đến năm tài chính 2021, công ty đã có hơn 17.100 nhân viên. Trong năm tài chính 2022, Amtrak đã phục vụ 22,9 triệu hành khách và đạt doanh thu 2,1 tỷ USD. Gần 87.000 hành khách đi hơn 300 chuyến tàu Amtrak mỗi ngày. Trong đó, gần 2/3 hành khách đến từ 10 khu vực đô thị lớn nhất, 83% hành khách đi trên các tuyến đường ngắn hơn . Dịch vụ hành khách tư nhân. Năm 1916, 98% khách du lịch thương mại liên thành phố ở Hoa Kỳ di chuyển bằng đường sắt, 2% còn lại di chuyển bằng . Gần 42 triệu hành khách đã sử dụng đường sắt làm phương tiện di chuyển chính. Các chuyến tàu chở khách được sở hữu và vận hành bởi cùng các công ty tư nhân vận hành các chuyến tàu chở hàng. Khi thế kỷ 20 phát triển, trước sự cạnh tranh của xe buýt, và ô tô, sự bảo trợ dành cho các công ty đường sắt bị giảm sút. Các chạy bằng động cơ diesel mới, chẳng hạn như , được người đi du lịch ưa chuộng nhưng vẫn không thể đảo ngược xu hướng. Đến năm 1940, đường sắt chiếm 67% tổng số hành khách-dặm thương mại ở Hoa Kỳ. Thực tế, số hành khách-dặm đã giảm 40% kể từ năm 1916, từ 42 tỷ xuống còn 25 tỷ. Nhu cầu giao thông tăng mạnh trong Thế chiến thứ hai, chủ yếu bởi việc di chuyển binh lính và . Thị phần của ngành đường sắt đã tăng lên 74% vào năm 1945, với 94 tỷ lượt hành khách. Sau chiến tranh, các tuyến đường sắt xuềnh xoàng đã được "trẻ hóa" với những chuyến tàu nhanh và sang trọng hơn. Tuy vậy, những chuyến tàu mới này chỉ mang lại giải pháp tạm thời cho tình hình khủng hoảng khi đó. Ngay cả khi du lịch bùng nổ sau chiến tranh, tỷ lệ hành khách đi lại trong thị phần chung đã giảm xuống 46% vào năm 1950, sau đó là 32% vào năm 1957. Ngành đường sắt thực chất đã thua lỗ về dịch vụ hành khách kể từ Đại khủng hoảng, kéo dài đến sau này. Trầm trọng nhất có thể kể đến khoản thâm hụt lên tới 723 triệu đô la vào năm 1957. Đối với nhiều tuyến đường sắt, những khoản lỗ này có thể đe dọa nghiêm trọng đến khả năng tài chính. Nguyên nhân của sự suy giảm đã được tranh luận gay gắt. Hệ thống đường cao tốc quốc gia và các sân bay, thứ cạnh tranh trực tiếp với đường sắt, được chính phủ tài trợ. Trong khi đó, các công ti đường sắt phải tự chi trả cho cơ sở hạ tầng của mình. cũng phát triển trong những năm sau Thế chiến thứ hai. Quy định về giá cước của đã hạn chế khả năng thu lợi nhuận của đường sắt. Ngoài ra, họ cũng phải đối mặt với các quy tắc làm việc cổ hủ và mối quan hệ không linh hoạt với các tổ chức công đoàn. Ví dụ, người lao động sẽ tiếp tục nhận được một ngày lương cho những ngày làm việc từ . Streamliners đã đề cập đến điều đó trong hai giờ. Các vấn đề tiếp cận một cuộc khủng hoảng trong những năm 1960. Dịch vụ vận tải hành khách tuyến-dặm đã giảm từ vào năm 1958 xuống còn vào năm 1970, năm cuối cùng của hoạt động tư nhân. Việc chuyển phát thư của Bộ Bưu điện Hoa Kỳ chuyển hướng hầu hết từ tàu chở khách sang xe tải, máy bay và tàu chở hàng vào cuối năm 1967 đã tước đi doanh thu rất cần thiết của những chuyến tàu đó. Đáp lại điều đó một cách trực tiếp, Tuyến đã đề nghị ngừng 33 trong số 39 chuyến tàu còn lại của họ, chấm dứt gần như tất cả dịch vụ vận tải hành khách trên một trong những tuyến đường sắt lớn nhất trong nước. Thiết bị mà các tuyến đường sắt đặt hàng sau Thế chiến thứ hai giờ đã 20 năm tuổi, cũ nát và cần được thay thế. Khi dịch vụ chở hành khách giảm sút, nhiều đề xuất khác nhau đã được đưa ra để giải cứu tình trạng này. Báo cáo Doyle năm 1961 đề xuất các tuyến đường sắt tư nhân nên tập hợp các dịch vụ của họ thành một thể duy nhất. Các đề xuất tương tự đã được đưa ra vào năm 1965 và 1968 nhưng không thu hút được sự ủng hộ. Chính phủ liên bang đã thông qua để tài trợ cho các chương trình thí điểm ở , nhưng điều này không giải quyết được tình trạng thiếu hụt hành khách. Vào cuối năm 1969, nhiều đề xuất đã xuất hiện tại Quốc hội Hoa Kỳ, bao gồm trợ cấp thiết bị, trợ cấp tuyến đường và cuối cùng là thành lập một "công ty bán công" để tiếp quản hoạt động của các chuyến tàu chở khách liên tỉnh. Các vấn đề trở nên căng thẳng vào ngày 21 tháng 6 năm 1970, khi , tuyến đường sắt lớn nhất ở Đông Bắc Hoa Kỳ, đang đứng trước nguy cơ phá sản và đệ đơn xin ngừng hoạt động 34 chuyến tàu chở khách của mình. Vào tháng 10 năm 1970, Quốc hội đã thông qua và Tổng thống Richard Nixon đã ký thành luật, Đạo luật Dịch vụ Hành khách Đường sắt. Những người ủng hộ dự luật, do (NARP) đứng đầu, đã tìm kiếm nguồn tài trợ của chính phủ để đảm bảo việc tiếp tục các chuyến tàu chở khách. Họ hình thành Công ty Hành khách Đường sắt Quốc gia (NRPC), một sẽ được quản lý như một , nhưng sẽ nhận tài trợ của người nộp thuế và đảm nhận việc vận hành các chuyến tàu chở khách liên tỉnh. Có một số quy định chính: Trong số 26 tuyến đường sắt vẫn cung cấp dịch vụ hành khách liên tỉnh vào năm 1970, chỉ có sáu tuyến từ chối tham gia NRPC. Tên thương hiệu hoạt động ban đầu của NRPC là Railpax, nhưng chưa đầy hai tuần trước khi bắt đầu hoạt động, tên tiếp thị chính thức đã được đổi thành Amtrak, một của các từ "America" và "trak", bản thân từ sau này là một của "track". Gần như tất cả mọi người tham gia dự kiến ​​thử nghiệm sẽ tồn tại trong thời gian ngắn. Chính quyền Nixon và nhiều người trong cuộc ở Washington coi NRPC là một cách thích hợp về mặt chính trị để Tổng thống và Quốc hội cung cấp cho các chuyến tàu chở khách một "cơn bão cuối cùng" theo yêu cầu của công chúng. Họ mong đợi NRPC sẽ lặng lẽ biến mất khi sự quan tâm của công chúng giảm dần. Sau khi tạp chí Fortune vạch trần sự quản lý yếu kém vào năm 1974, , chủ tịch của , nhận xét rằng câu chuyện đang phá hoại kế hoạch phá bỏ Amtrak. Những người ủng hộ cũng hy vọng rằng sự can thiệp của chính phủ sẽ diễn ra trong thời gian ngắn và Amtrak sẽ sớm có thể tự hỗ trợ. Cả hai quan điểm đều không được chứng minh là đúng; sự ủng hộ rộng rãi đã cho phép Amtrak tiếp tục hoạt động lâu hơn những gì các nhà phê bình tưởng tượng, trong khi kết quả tài chính khiến cho dịch vụ tàu chở khách quay trở lại hoạt động của đường sắt tư nhân là không khả thi. Thập niên 70: Kỷ nguyên Cầu vồng. Amtrak bắt đầu hoạt động vào ngày 1 tháng 5 năm 1971. Amtrak không được tiếp nhận các đường ray hoặc khi mới thành lập. Tất cả các tuyến đường của Amtrak đều là sự tiếp tục của dịch vụ trước đó, mặc dù Amtrak đã cắt bớt khoảng một nửa mạng lưới đường sắt chở khách. Trong số 366 tuyến đường tàu hoạt động trước đây, Amtrak chỉ tiếp tục 184 tuyến. Một số hành lang chính trở thành tuyến đường chỉ dành cho vận chuyển hàng hóa, bao gồm của cũ từ New York đến Ohio và tuyến đường Chicago đến Detroit của . Lịch trình tàu chở khách giảm đã tạo ra sự nhầm lẫn giữa các nhân viên. Tại một số nhà ga, dịch vụ của Amtrak chỉ hoạt động vào đêm khuya hoặc sáng sớm, khiến hành khách phàn nàn. Tranh chấp với các tuyến đường sắt vận chuyển hàng hóa về việc sử dụng đường ray đã khiến một số dịch vụ phải định tuyến lại, tạm thời hủy bỏ hoặc thay thế bằng xe buýt. Mặt khác, việc tạo ra (tuyến Los Angeles–Seattle) từ ba tuyến đường tàu riêng biệt trước đây đã thành công ngay lập tức, dẫn đến sự gia tăng phục vụ hàng ngày vào năm 1973. Chỉ cần vận hành một nửa số tuyến đường tàu đã hoạt động trước đó, Amtrak sẽ thuê khoảng 1.200 toa chở khách tốt nhất trong số 3.000 toa mà các tuyến đường sắt tư nhân sở hữu. Tất cả đều có máy lạnh, và 90% là thép không gỉ dễ bảo trì. Khi Amtrak tiếp quản, các toa hành khách và đầu máy xe lửa ban đầu vẫn giữ nguyên cách phối màu sơn và logo của chủ sở hữu cũ, dẫn đến việc Amtrak chạy các đoàn tàu có màu sắc không đồng đều và thời kỳ này được gọi là "Kỷ nguyên Cầu vồng". Vào giữa năm 1971, Amtrak bắt đầu mua một số thiết bị mà nó có cho thuê, gồm 286 đầu máy diesel E và F, 30 đầu máy điện và 1.290 toa xe khách. Đến năm 1975, màu sơn của Amtrak chính thức được sơn trên hầu hết các thiết bị của Amtrak và các đầu máy xe lửa mới mua cũng như đầu máy toa xe bắt đầu xuất hiện. Amtrak thừa hưởng các vấn đề với các nhà ga xe lửa (đáng chú ý nhất là việc ) và các cơ sở dư thừa từ các tuyến đường sắt cạnh tranh từng phục vụ cùng trong khu vực. Ví dụ: vào ngày bắt đầu, Amtrak được giao trách nhiệm định tuyến lại các chuyến tàu chở khách từ bảy nhà ga xe lửa ở Chicago (, , , , , và Union) thành một nhà ga duy nhất, . Tại Thành phố New York, Amtrak phải duy trì hai ga ( và ) do thiếu kết nối đường ray để đưa các chuyến tàu từ ngoại ô New York vào Ga Penn; vấn đề đã được khắc phục sau khi được xây dựng vào năm 1991. Chương trình Nhà ga Tiêu chuẩn Amtrak được khởi động vào năm 1978 và đề xuất xây dựng một thiết kế nhà ga tiêu chuẩn trên toàn hệ thống với mục đích giảm chi phí, tăng tốc độ xây dựng và cải thiện hình ảnh công ty. Tuy nhiên, tuyến đường sắt thiếu kinh phí cuối cùng sẽ xây dựng tương đối ít các nhà ga tiêu chuẩn này. Amtrak sớm có cơ hội giành được quyền ưu tiên. Sau sự phá sản của một số tuyến đường sắt phía đông bắc vào đầu những năm 1970, bao gồm cả Penn Central, công ty sở hữu và vận hành Hành lang Đông Bắc (Northeast Corridor - NEC), Quốc hội đã thông qua năm 1976. Một phần lớn của đạo luật hướng đến việc tạo ra , nhưng luật cũng cho phép chuyển các phần của NEC chưa thuộc sở hữu của các cơ quan nhà nước sang Amtrak. Amtrak mua lại phần lớn NEC vào ngày 1 tháng 4 năm 1976. (Phần ở Massachusetts thuộc sở hữu của Commonwealth và do Amtrak quản lý. Tuyến đường từ New Haven đến New Rochelle thuộc sở hữu của New York và với tên gọi .) Tuyến đường chính này đã trở thành tài sản được ví như "viên ngọc quý" của Amtrak và giúp ngành đường sắt tạo ra doanh thu. Mặc dù lượng hành khách và doanh thu của NEC cao hơn bất kỳ các phân khúc khác trong hệ thống, nhưng chi phí vận hành và bảo trì các tuyến hành lang tỏ ra quá cao. Do đó, trợ cấp liên bang của Amtrak đã tăng lên đáng kể. Trong những năm tiếp theo, các đoạn tuyến đường ngắn khác không cần thiết cho hoạt động vận chuyển hàng hóa đã được chuyển giao cho Amtrak. Trong thập kỷ đầu tiên, Amtrak không đạt được sự độc lập về tài chính, điều này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay, nhưng nó đã đạt được thành công khiêm tốn trong việc xây dựng lại về mặt thương mại. Các yếu tố bên lề không khuyến khích các phương tiện giao thông cạnh tranh, chẳng hạn như tình trạng thiếu nhiên liệu làm tăng chi phí đi lại bằng ô tô và máy bay, và các cuộc đình công làm gián đoạn hoạt động của các hãng hàng không. Các khoản đầu tư vào đường ray, thiết bị và thông tin của Amtrak cũng khiến Amtrak phù hợp hơn với nhu cầu vận tải của Mỹ. Lượng hành khách của Amtrak tăng từ 16,6 triệu vào năm 1972 lên 21 triệu vào năm 1981. Vào tháng 2 năm 1978, Amtrak chuyển trụ sở chính đến 400 N Capitol Street W, Washington D.C. Thập niên 1980 và 1990: Kỷ nguyên xây dựng. Năm 1982, , cựu Bộ trưởng Hải quân và cũng là người đứng đầu đã nghỉ hưu để lãnh đạo Amtrak. Trong thời gian làm việc tại Southern, Claytor là người chỉ trích gay gắt những người quản lý trước đây của Amtrak, đều là những người đều không xuất thân từ ngành đường sắt. Bộ trưởng Giao thông vận tải đã trích dẫn lời chỉ trích này như một lý do tại sao Claytor của Đảng Dân chủ được Nhà Trắng Reagan chấp nhận.(tr7) Mặc dù thường xuyên xung đột với chính quyền Reagan về vấn đề tài trợ, Claytor lại có mối quan hệ tốt với Lewis, , người đứng đầu (FRA) và với các thành viên của Quốc hội. Nguồn vốn hạn chế khiến Claytor phải sử dụng nợ ngắn hạn để tài trợ cho các hoạt động của công ty. Dựa trên sự phát triển về cơ khí trong những năm 1970, Dịch vụ Washington–New York tốc độ cao đã được cải tiến với thiết bị mới và lịch trình nhanh hơn. Thời gian di chuyển giữa New York và Washington, D.C. đã giảm xuống dưới 3 giờ do cải tiến hệ thống và trạm dừng được hạn chế. Cải tiến này được cho là lý do tại sao Amtrak tăng tỷ lệ các chuyến đi liên thành phố giữa các thành phố dọc theo hành lang. Ở những nơi khác trong nước, có nhu cầu về dịch vụ đường sắt chở khách đã dẫn đến việc tạo ra 5 tuyến đường mới do tiểu bang hỗ trợ ở California, Illinois, Missouri, Oregon và Pennsylvania, với tổng số 15 tuyến đường do tiểu bang hỗ trợ. Amtrak đã bổ sung thêm hai chuyến tàu vào năm 1983, "" giữa Oakland và Chicago qua Denver và hồi sinh , một dịch vụ độc đáo chuyên chở cả hành khách và phương tiện của họ. Amtrak đã quảng cáo đây là một cách tuyệt vời để tránh giao thông dọc theo I-95 chạy giữa Lorton, Virginia (gần Washington, D.C.) và Sanford, Florida (gần Orlando) trên tuyến . Trong những năm 1980 và 1990, các nhà ga ở Baltimore, Chicago và Washington, D.C. đã được cải tạo, sửa chữa lớn và đường hầm Empire Connection mở cửa vào năm 1991, cho phép Amtrak hợp nhất tất cả các dịch vụ của mình ở New York tại . Bất chấp những cải tiến, lượng hành khách của Amtrak bị đình trệ ở mức khoảng 20 triệu hành khách mỗi năm, trong bối cảnh viện trợ của chính phủ không đảm bảo từ năm 1981 đến khoảng năm 2000. Vào đầu những năm 1990, Amtrak đã thử nghiệm một số tàu cao tốc khác nhau từ Châu Âu trên Hành lang Đông Bắc. Một từ Thụy Điển để chạy thử từ tháng 10 năm 1992 đến tháng 1 năm 1993, sau đó là các chuyến tàu dịch vụ thu về doanh thu giữa Washington, D.C. và Thành phố New York từ tháng 2 đến tháng 5 và tháng 8 đến tháng 9 năm 1993. Siemens đã giới thiệu chuyến tàu từ Đức, tổ chức , bắt đầu hoạt động trên Hành lang Đông Bắc vào ngày 3 tháng 7 năm 1993. Năm 1993, Thomas Downs kế nhiệm Claytor, trở thành vị chủ tịch thứ năm của Amtrak. Mục tiêu được nêu vẫn là "hoạt động tự cung tự cấp". Tuy nhiên, vào thời điểm này, Amtrak đã có một khoản nợ lớn sau nhiều năm thiếu vốn. Vào giữa những năm 1990, Amtrak đã phải trải qua một cuộc khủng hoảng tiền mặt nghiêm trọng. Dưới thời Downs, Quốc hội đã thêm vào một điều khoản trong dẫn đến việc Amtrak nhận được một khoản hoàn thuế trị giá 2,3 tỷ đô la để giải quyết cuộc khủng hoảng tiền mặt của công ty. Tuy nhiên, Quốc hội cũng thiết lập một "con đường trượt" để tự cung tự cấp về mặt tài chính, ngoại trừ các khoản thanh toán thuế hưu trí đường sắt. trở thành vị chủ tịch thứ sáu của Amtrak vào năm 1998, với nhiệm vụ giúp cho Amtrak tự túc về mặt tài chính. Dưới thời Warrington, công ty đã cố gắng mở rộng sang lĩnh vực vận chuyển hàng hóa hỏa tốc, đặt Amtrak vào thế cạnh tranh với các tuyến đường sắt vận chuyển hàng hóa "chủ nhà" và . Vào ngày 9 tháng 3 năm 1999, Amtrak công bố kế hoạch của mình cho "Acela Express", một chuyến tàu cao tốc trên giữa Washington, D.C. và Boston. Một số thay đổi đã được thực hiện đối với hành lang để phù hợp với các chuyến tàu điện tốc độ cao hơn. đã mở rộng quá trình điện khí hóa hiện có từ New Haven, Connecticut, đến Boston để hoàn thành việc cung cấp điện trên cao dọc theo tuyến đường dài và một số điểm giao cắt đã được cải thiện hoặc loại bỏ. Thập niên 2000: Tăng trưởng trong thế kỷ 21. Lượng hành khách đã tăng lên trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 sau khi thực hiện các cải thiện vốn ở NEC và do tăng chi phí nhiên liệu ô tô. Ngoài ra việc khánh thành Đường sắt cao tốc "" vào cuối năm 2000 đã tạo ra sự chú ý và dẫn đến lượng hành khách tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, đến cuối những năm 1990 và đầu thế kỷ 21, Amtrak không thể bổ sung đủ doanh thu từ mảng vận chuyển hàng hóa nhanh hoặc cắt giảm các khoản chi tiêu khác để hòa vốn. Đến năm 2002, Amtrak rõ ràng là không thể tự cung tự cấp về tài chính, nhưng Quốc hội vẫn tiếp tục cho phép tài trợ và giải phóng Amtrak khỏi việc tự cung tự cấp về mặt tài chính. Đầu năm 2002, thay thế Warrington lên làm vị chủ tịch thứ bảy của Amtrak. Khác với lời hứa của những người tiền nhiệm về việc giúp Amtrak tự cung tự cấp trong ngắn hạn, Gunn lập luận rằng không có hình thức vận tải hành khách nào ở Hoa Kỳ là tự túc vì nền kinh tế hiện đang được cấu trúc. Đường cao tốc, sân bay và kiểm soát không lưu đều yêu cầu sự chi tiêu lớn từ chính phủ để xây dựng và vận hành, và được thanh toán bằng phí sử dụng, lượng nhiên liệu đường cao tốc và thuế đường bộ, còn trong trường hợp của Quỹ chung, từ thuế chung. Gunn đã loại bỏ hầu hết các hoạt động kinh doanh chuyển phát nhanh hàng hóa và tiếp tục làm việc để loại bỏ việc bảo trì bị trì hoãn. Kế hoạch của chính quyền Bush là "tư nhân hóa các bộ phận của hệ thống đường sắt chở khách quốc gia và tách các bộ phận khác thành sở hữu một phần của nhà nước" đã gây ra sự bất đồng trong hội đồng quản trị của Amtrak. Đến cuối năm 2005, Gunn bị sa thải và được thay thế bởi (2006–2008), đã cam kết vận hành mạng lưới đường sắt quốc gia, và giống như Gunn, phản đối quan điểm đặt Hành lang Đông Bắc dưới quyền sở hữu riêng. Ông nói rằng việc loại bỏ các tuyến đường dài của hệ thống sẽ đồng nghĩa với việc bán tài sản quốc gia ngang bằng với các công viên quốc gia và việc Amtrak từ bỏ các tuyến đường này sẽ là không thể đảo ngược. Vào cuối năm 2006, Amtrak đã không thành công trong việc tìm kiếm khoản tài trợ của quốc hội hàng năm trị giá 1 tỷ đô la trong mười năm. Đầu năm 2007, Amtrak đã tuyển dụng 20.000 người ở 46 tiểu bang và phục vụ 25 triệu hành khách mỗi năm, đây mức cao nhất kể từ khi thành lập vào năm 1970. "Politico" đã lưu ý một vấn đề quan trọng là: "hệ thống đường sắt thường xuyên hoạt động trong tình trạng thua lỗ. Một mô hình đã xuất hiện: Quốc hội bác bỏ các khoản cắt giảm do Nhà Trắng yêu cầu và chiếm dụng đủ tiền để giữ cho Amtrak không rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Nhưng, những người ủng hộ Amtrak nói, điều đó không phải là đủ để sửa chữa những tai ương của hệ thống." đã thay thế Kummant làm chủ tịch và CEO vào cuối năm 2008. Năm 2011, Amtrak công bố ý định cải thiện và mở rộng hành lang đường sắt cao tốc từ ở New York, trong các đường hầm và những tuyến đường đôi mới dưới Sông Hudson đến Newark, NJ, được gọi là , ban đầu dự án được ước tính với trị giá 13,5 tỷ USD (tương đương 18 tỷ USD vào năm 2022). Từ tháng 5 năm 2011 đến tháng 5 năm 2012, Amtrak kỷ niệm 40 năm thành lập với các lễ hội trên khắp đất nước, dịp kỷ niệm được bắt đầu vào Ngày Tàu lửa Quốc gia (7 tháng 5 năm 2011). Một cuốn sách kỷ niệm có tựa đề "Amtrak: An American Story" đã được xuất bản, một bộ phim tài liệu được sản xuất, và một Đoàn tàu Triển lãm đã đi khắp đất nước thăm 45 cộng đồng và chào đón hơn 85.000 du khách. Sau nhiều năm làm CEO tại Amtrak, vào tháng 12 năm 2013, Boardman đã được tạp chí "Railway Age" vinh danh là "Người làm đường sắt của năm", trong đó lưu ý rằng với hơn 5 năm làm việc, ông là người quản lý có thời gian tại vị lâu thứ hai trong công ty kể từ khi Amtrak được thành lập cách đây hơn 40 năm. Vào ngày 9 tháng 12 năm 2015, Boardman thông báo trong lá thư gửi nhân viên rằng ông sẽ rời Amtrak vào tháng 9 năm 2016. Ông đã thông báo cho Hội đồng quản trị Amtrak về quyết định của mình vào tuần trước. Vào ngày 19 tháng 8 năm 2016, Hội đồng quản trị Amtrak đã bổ nhiệm cựu Chủ tịch Giám đốc điều hành của là làm người kế nhiệm Boardman và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 9 năm 2016. Trong nhiệm kỳ của mình, Moorman không nhận lương và ông coi vai trò của mình là một trong những "Giám đốc điều hành chuyển tiếp", người sẽ tổ chức lại Amtrak trước khi chuyển giao nó cho ban lãnh đạo mới.
Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2031 Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2031 (hay còn được gọi là FIFA Women's World Cup 2031) là giải bóng đá nữ vô địch thế giới lần thứ 11, do Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) tổ chức. Giải đấu sẽ có sự tham gia của 32 đội tuyển quốc gia, bao gồm cả đội tuyển của nước chủ nhà sẽ được quyết định vào năm 2025. Chọn nước chủ nhà. Quốc gia đăng cai cho Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2031 sẽ được Đại hội FIFA quyết định vào quý 2 năm 2025, khoảng một năm sau khi chọn nước chủ nhà cho giải đấu năm 2027, với các quy định đăng cai sẽ chính thức được phê duyệt vào quý 2 năm 2024. Vào khoảng tháng 10 năm 2022, Hiệp hội bóng đá Trung Quốc cùng với Bộ Tổng cục Thể thao đã chính thức công bố một chương trình bóng đá nữ bao gồm cả việc họ sẽ tranh quyền đăng cai tổ chức cho giải đấu này. Quốc gia này trước đây đã từng được giành quyền đăng cai tổ chức cho giải đấu năm 2003, nhưng thay vào đó, giải đấu lại được tổ chức bởi Hoa Kỳ với nguyên nhân là do dịch SARS đang hoành hành tại thời điểm đó; Phải đến tận giải đấu năm 2007, FIFA đã tự động trao quyền đăng cai cho Trung Quốc như là một khoản đền bù cho giải đấu trước. Các giải đấu khác mà Trung Quốc đã từng đăng cai bao gồm có Giải vô địch bóng đá U-16 thế giới 1985 và Cúp bóng đá châu Á 2004. Vào cuối tháng 5 năm 2023, tổ chức Hiệp hội bóng đá Anh đã đưa ra một thông báo xác nhận về ý định dự thầu của họ sau sự thành công của đội tuyển nữ quốc gia tại Giải bóng đá nữ vô địch châu Âu năm 2022 cùng với sự tham dự đông đảo của người hâm mộ tại Sân vận động Wembley cho trận chung kết Cúp FA nữ 2022. Đây sẽ là lần thứ 2 quốc gia này tổ chức một giải đấu bóng đá dành cho nữ, mặc dù họ đã từng có kinh nghiệm tổ chức nhiều giải đấu bao gồm Giải bóng đá vô địch thế giới 1966, giải bóng đá vô địch châu Âu 1996 và một số trận đấu của giải bóng đá vô địch châu Âu 2020. Một đơn thầu tương tự với đơn của Giải vô địch bóng đá châu Âu 2028 bao gồm có Scotland, Wales, Ireland và Bắc Ireland cũng được thảo luận để tranh ngôi chủ nhà. Vào tháng 5 năm 2023, cựu thị trưởng thành phố Barcelona là bà Ada Colau đã thông báo nên đề xuất đấu thầu thành phố này làm địa điểm tổ chức giải đấu. Sau chiến thắng ở Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023, phó thủ tướng Yolanda Díaz đã đề xuất với thủ tướng Pedro Sánchez về việc đăng cai World Cup.
Tottenham là một quận thuộc về khu Haringey của Luân Đôn ở Bắc Luân Đôn, Anh. Tottenham cách trung tâm Charing Cross 10 km theo hướng phía bắc-đông bắc, giáp với Edmonton ở phía bắc, Walthamstow và sông Lea ở phía đông và Stamford Hill ở phía nam. Ở hướng Tây, Tottenham giáp ranh với Wood Green và Harringay. Nguồn gốc tên gọi. Tottenham được cho là đã được đặt theo tên của Tota, một nông dân có ngôi làng được nhắc đến trong quyển Domesday Book. Thêm vào đó, người ta cho rằng 'ấp Tota', nơi mà người nông dân đó ngụ cư, đã phát triển thành 'Tottenham'. Khu định cư này được ghi lại trong Domesday Book là Toteham, tên gọi được sử dụng trong phạm vi hundred thời xưa của khu Edmonton. Vị trí trong Luân Đôn. Tottenham cách trung tâm Charing Cross 10 km theo hướng phía bắc-đông bắc, giáp với Edmonton ở phía bắc, Walthamstow và sông Lea ở phía đông và Stamford Hill ở phía nam. Ở hướng Tây, Tottenham giáp ranh với Wood Green và Harringay. Do lịch sử lâu đời của Tottenham với tư cách là một quận trong thành phố Luân Đôn, biệt danh Tottenham mà được một số người sử dụng cho đến ngày nay là để mô tả toàn bộ khu vực trước đây thuộc quận cũ, bao gồm khu vực mã bưu điện N17 và một phần của mã bưu điện N15. Tuy nhiên, có nhiều quan điểm khác nhau về những gì tạo nên khu phố Tottenham ngày nay. Nhiều người coi Tottenham ngày nay là phần lớn diện tích được bao phủ bởi mã bưu chính N17, đôi khi sử dụng cụm từ 'Tottenham Right' để mô tả nó và để phân biệt nó với các phần khác của quận cũ. Các tiểu khu của Tottenham được phân như sau: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Trần Văn Đại (1912–2000), thường gọi là Tám Đại, là một nhà cách mạng và chính trị gia Việt Nam. Trần Văn Đại sinh năm 1912 ở làng Phong Lạc, tổng Quản Xuyên, quận Cà Mau, tỉnh Bạc Liêu (nay là ấp Giao Vàm, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau). Ông là con thứ tám trong mười người con của ông Trần Văn Hưng (Tám Hưng; ?–1966) và bà Ngô Thị Hưởn (1882–1947). Ông Tám Hưng là Đảng viên cộng sản, từng cùng Võ Hoành phụ trách xưởng vũ khí của Xứ ủy Nam Kỳ và Tỉnh ủy Bạc Liêu (năm 1940 và năm 1941), Phó Chủ tịch Mặt trận làng Phong Lạc sau Cách mạng Tháng Tám. Bà Hưởng được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 1997. Trong mười anh chị em, có năm người tham gia phong trào đấu tranh trước Cách mạng Tháng Tám, trong đó có hai liệt sĩ (Trần Văn Thời và Trần Tấn Tài), ba người tham gia lực lượng vũ trang. Anh thứ ba Trần Văn Thời từng đảm nhận vai trò Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu, còn Trần Tấn Tài là Bí thư Quận ủy Cà Mau. Người anh con bác là Trần Văn Phán từng giữ vai trò Thường vụ Tỉnh ủy Bạc Liêu. Hoạt động cách mạng. Năm 1936, Trần Văn Đại tham gia phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ ở Cà Mau do Lâm Thành Mậu và Phạm Hồng Thám lãnh đạo. Ngày 21 tháng 1 năm 1937, Phạm Hồng Thám thành lập Chi bộ làng Phong Lạc của Đảng Cộng sản Đông Dương gồm Trần Văn Thời, Trần Văn Đại, Ngô Văn Chỉ, Quách Văn Lực do Trần Văn Đại làm Bí thư, sau kết nạp thêm Trần Tấn Tài, Trần Thị Bướm, Lê Văn Bảy, Nguyễn Văn Khánh. Trong thời gian này, ông đã lãnh đạo người dân phản đối địa chủ Dương Thị Kiểu lợi dụng chức quyền cướp đoạt ruộng đất của người dân, buộc tòa án phải xử tù Dương Thị Kiểu. Ngày 5 tháng 7 năm 1937, tại Hội nghị Đảng bộ quận Cà Mau, Quận ủy Cà Mau được thành lập với Bí thư Phạm Hồng Thám, Phó Bí thư Trần Văn Đại, Thường vụ Nguyễn Tấn Khương. Ngày 25 tháng 10 năm 1938, Hội nghị các tổ chức Đảng ở Bạc Liêu được Liên Tỉnh ủy tổ chức ở Lung Lá–Nhà Thể, với sự góp mặt của đại biểu ba quận Cà Mau, Giá Rai và Vĩnh Châu. Hội nghị đã bầu ra Ban Chấp hành lâm thời của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu gồm bảy Ủy viên do Bùi Thị Trường làm Bí thư, Trần Văn Đại làm Phó Bí thư. Cuối năm 1938, Bùi Thị Trường được Xứ ủy Nam Kỳ cử đến Sóc Trăng để hoạt động, ông giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy. Từ ngày 2 đến ngày 3 tháng 2 năm 1939, với sự góp mặt của Hoàng Ấn (đại diện Xứ ủy) và Phạm Hồng Thám (đại diện Liên Tỉnh ủy), Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu được tổ chức, Tỉnh ủy chính chức được thành lập do Trần Văn Đại làm Bí thư, Lê Hữu Ngọc làm Phó Bí thư. Cuối tháng 10, chính quyền thực dân tiến hành khủng bố, hầu hết các ủy viên trong Tỉnh ủy Bạc Liêu bị thực dân Pháp bắt giữ, ông bị đi đày ở Côn Đảo. Tháng 11 năm 1941, ông ra tù, bị quản thúc gắt gao, song vẫn tìm cách liên lạc với tổ chức Đảng. Đầu năm 1945, ông bắt liên lạc được với Phạm Hồng Thám, Trần Văn Mân, Lê Văn Thạnh, Thái Ngọc Sanh, tham gia thành lập Ban vận động tái lập Đảng bộ Nam Kỳ. Ngày 5 tháng 5, Ban vận động tái lập Đảng bộ Nam Kỳ triệu tập Hội nghị đại biểu các chi bộ ở quận Cà Mau, Đảng bộ lâm thời tỉnh Bạc Liêu được thành lập do Trần Văn Đại làm Bí thư. Tỉnh ủy lâm thời xuất bản báo "Độc lập" làm cơ quan ngôn luận, hoạt động độc lập với Tỉnh ủy ở tỉnh lỵ Bạc Liêu (Tỉnh ủy Tiền phong do Lê Khắc Xương làm Bí thư) nên thường được gọi là nhóm Độc Lập. Tháng 7, Tỉnh ủy Độc lập bắt được liên lạc với Liên Tỉnh ủy Hậu Giang, ông được bổ sung làm Ủy viên Thường vụ Liên Tỉnh ủy phụ trách ba tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Rạch Giá. Hai Tỉnh ủy Tiền phong và Độc lập được đặt dưới sự chỉ đạo chung của Liên Tỉnh ủy. Ngày 10 tháng 8, Trần Văn Đại truyền lại mệnh lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy đến các cơ sở ở Cà Mau. Ngày 20 tháng 8, Ủy ban Dân tộc Giải phóng quận Cà Mau do Đỗ Khắc Toàn làm Chủ tịch được thành lập. Ngày 25 tháng 8, các lãnh đạo Tỉnh ủy Độc lập là Trần Văn Đại và Thái Ngọc Sanh lãnh đạo người dân tổ chức mít tinh ở sân vận động Cà Mau. Cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình vũ trang, đoàn người bao vây dinh quận trưởng, yêu cầu Đốc phủ Nguyễn Văn Kế bàn giao lại chính quyền. Bất chấp mọi toán tính kéo dài thời gian, Tỉnh ủy đã thành công đoạt được chính quyền, đồng thời đón lực lượng chi viện của Ủy ban Dân tộc Giải phóng tỉnh Bạc Liêu do Ủy viên Quân sự Tào Văn Tỵ chỉ huy. Công tác chính quyền. Tháng 10 năm 1945, dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Bộ và Liên Tỉnh ủy Hậu Giang, hội nghị thống nhất các nhóm cộng sản trong tỉnh Bạc Liêu được tổ chức, bầu ra Ban Chấp hành lâm thời do Lê Khắc Xương làm Bí thư Tỉnh ủy, Trần Văn Đại làm Phó Bí thư, Nguyễn Văn Quảng, Tào Văn Tỵ và Trần Hoàng Cung làm Thường vụ. Mấy ngày sau, Xứ ủy Nam Bộ chỉ định Tô Thúc Rịch làm Bí thư Tỉnh ủy, Lê Khắc Xương làm Phó Bí thư, ông trở thành Ủy viên Thường vụ. Ngày 15 tháng 3 năm 1946, tại Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tại ấp Bà Bèo, ông được bầu làm quyền Bí thư Tỉnh ủy thay Tô Thúc Rịch bị kỷ luật. Tháng 4, ông cùng Vũ Đức, Phan Trọng Tuệ, Nguyễn Văn Vực được điều động làm Khu ủy viên Khu 9 (Khu ủy Tây Nam Bộ) do Trần Văn Hiển làm quyền Bí thư, với nhiệm vụ thúc đẩy công tác xây dựng lực lượng vũ trang chống Pháp. Tháng 5 năm 1946, ông được thôi chức vụ Bí thư Tỉnh ủy. Năm 1952, ông được điều về Trung ương Cục miền Nam, giữ chức Trưởng ban Nông dân, rồi Phó Trưởng ban Mặt trận. Tiếp đó, ông được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Mặt trận Liên Việt Nam Bộ. Năm 1954, ông được bầu làm Ủy viên Thường vụ Khu ủy Khu 9. Tháng 11, ông là Ủy viên Xứ ủy Nam Kỳ, Bí thư Tỉnh ủy Cần Thơ. Hơn một tháng sau, ông tập kết ra miền Bắc. Năm 1955, ông được bầu làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Khi đất nước thống nhất, ông trở về Cà Mau, làm Trưởng ban Nghiên cứu tỉnh sử Đảng tỉnh Minh Hải. Tháng 4 năm 1982, ông nghỉ hưu và mất năm 2000. Tên của ông được đặt cho một con đường ở thành phố Bạc Liêu (Bạc Liêu) và một con đường ở huyện Trần Văn Thời (Cà Mau).
Jean Buridan (]; tiếng Latinh: Johannes Buridanus; c. 1301 – c. 1359/62) là một triết gia người Pháp có ảnh hưởng ở thế kỷ XIV. Trong toàn bộ sự nghiệp của mình, Buridan là một giảng viên phân khoa nghệ thuật tại Đại học Paris, người đặc biệt tập trung vào logic và các tác phẩm của Aristotle. Buridan đã gieo mầm Cách mạng Copernic ở châu Âu. Ông đã phát triển khái niệm động lực, bước đầu tiên hướng tới khái niệm quán tính hiện đại và là bước phát triển quan trọng trong lịch sử khoa học thời trung cổ. Tên của ông ấy được đặt cho thí nghiệm giả tượng được gọi là "Con lừa của Buridan", nhưng thí nghiệm này không xuất hiện trong các tác phẩm còn tồn tại của ông.
Đội tuyển bóng đá U-20 quốc gia Kyrgyzstan Đội tuyển bóng đá U-20 quốc gia Kyrgyzstan là một đội tuyển bóng đá trẻ được quản lý bởi Liên đoàn bóng đá Kyrgyzstan. Đội tuyển này đại diện cho Kyrgyzstan tham dự Cúp các quốc gia độc lập năm 2015, Giải vô địch bóng đá trẻ châu Á 2006 và Cúp bóng đá U-20 châu Á 2023. Đội hình hiện tại. Dưới đây là danh sách 23 cầu thủ được triệu tập cho Cúp bóng đá U-20 châu Á 2023.
Sierra (lớp tàu ngầm) Tàu ngầm lớp Sierra, định danh của Liên Xô là Project 945 "Barrakuda và Project 945A "Kondor, (ký hiệu của NATO là Sierra I và Sierra II), là một lớp tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân của Hải quân Liên Xô, và nay đang hoạt động trong thành phần trang bị của Hải quân Nga. Lớp tàu ngầm Sierra rất đặc biệt do trọng lượng nhẹ và có thân tàu làm từ titanium giúp tàu có khả năng lặn rất sâu, giảm tiếng ồn và giúp tàu ngầm lẩn tránh các đòn tấn công bằng ngư lôi. Tàu ngầm lớp Sierra được trang bị một lò phản ứng áp lực nước OK-650. Phiên bản nâng cấp là Sierra II được phát triển để tìm kiếm và tiêu diệt các tàu ngầm hạt nhân của Mỹ. Tốc độ và khả năng lặn sâu của nó lớn hơn các tàu ngầm tấn công hạt nhân của Mỹ vào thời điểm nó ra đời. Đồng thời nó cũng được nâng cao mức độ tàng hình về thuỷ âm. Project 945 "Barrakuda" (Sierra I). Tàu ngầm đầu tiên thuộc Project 945, "Carp", được đặt keel vào tháng bảy năm 1979 tại nhà máy đóng tàu Gorky và được hạ thuỷ vào tháng Tám năm 1983 trước khi được chuyển đến Severodvinsk. Tàu ngầm thứ hai được đóng mang tên "Kostroma", khởi đóng tháng Bảy năm 1986 được đưa vào hoạt động tháng Chín năm 1987. "K-276 Kostroma" được đưa lên ụ cạn sau sự kiện ngày 11 tháng Hai năm 1992 khi nó va chạm với tàu ngầm SSN-689 của Hải quân Mỹ trên biển Barents, ngoài khơi đảo Kildin. Tàu ngầm được sửa vào ngày 3 tháng 6 năm 1992 trước khi được đổi tên thành Krab vào ngày 6 tháng 4 năm 1993, nhưng nó lại được giữ lại cái tên cũ của mình là Kostroma vào năm 1996. Tàu ngầm lớp Sierra I cũng đồng thời được trang bị các pod thoát hiểm cho thuỷ thủ đoàn. Pod được bảo vệ bởi vỏ hình chữ V bên cạnh thân tàu ngầm. Project 945A "Kondor" (Sierra II). Tàu ngầm "Project 945A" �dài hơn 5 m so với tàu ngầm "Sierra I". Cột tàu ngầm có dạng phẳng và vuông cạnh. Cột kính tiềm vọng được thay đổi vị trí để có chỗ cho hai kén thoát hiểm. Mạn phải của tàu ngầm cũng có 10 điểm gắn sensor môi trường. Ngoài ra, Sierra II cũng có pod cỡ lớn bên trên cánh vây đuôi. Pod này chứa sonar thụ động tần số rất thấp Skat 3. Chỉ có hai tàu ngầm thuộc lớp tàu ngầm Sierra II, tàu "Pskov" đã trải qua đại tu (2011-2015) theo như nguồn từ trang web Deep Storm của Nga. Cũng theo trang tin này, tàu ngầm "Nizhniy Novgorod" nằm dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng cấp 1 Alexey Ananko hai năm 2008 và 2013. Cả tàu ngầm "Nizhniy Novgorod" và "Pskov" đã tham gia tập trận lớn vào tháng 10 năm 2019. Project 945AB (Sierra III). Chiếc tàu ngầm duy nhất thuộc "Project 945AB" khởi đóng vào tháng 3 năm 1990 nhưng sau đó đã bị tháo dỡ vào tháng 11 năm 1993 trước khi hoàn tất. Kế hoạch hiện đại hoá Barrakuda (Sierra I). Nga có kế hoạch hiện đại hoá tàu ngầm "Carp" và "Kostroma" thuộc Project 945 vào những năm 2010s, nhưng không bao giờ hoàn thiện. Một hợp đồng hiện đại hoá 2 tàu ngầm được ký kết với nhà máy đóng tàu Zvezdochka Shipyard, Severodvinsk, với dự kiến việc tái trang bị sẽ mất khoảng 3 năm. Ban đầu người ta dự kiến tàu ngầm sẽ được chuyển đến xưởng đóng tàu Zvezdochka trước thời điểm cuối tháng Tư năm 2013 và việc tu sửa sẽ bắt đầu vào mùa hè năm 2013. Theo kế hoạch, xưởng đóng tàu Zvezdochka sẽ đảm nhiệm việc tân trang, sửa chữa các chi tiết cơ khí, và thay mới nhiên liệu hạt nhân cùng với các thiết bị điện của con tàu. Các tàu ngầm cũng dự kiến sẽ được trang bị sonar mới, hệ thống quản lý chiến đấu "(combat information management system (BIUS))", hệ thống định vị vệ tinh GLONASS cùng với việc trang bị các tên lửa hành trình Kalibr. Tuy nhiên, vào tháng Ba năm 2015, việc hiện đại hoá hai chiếc tàu ngầm chưa được hoàn tất do vấn đề chi phí.
Criminal Minds (mùa 8) Mùa thứ tám của "Criminal Minds" lần đầu phát sóng trên đài CBS vào ngày 26 tháng 9 năm 2012. Phim được gia hạn mùa mới vào ngày 14 tháng 3 năm 2012. Ở Canada, mùa tám phát sóng trên đài CTV sớm hơn CBS ở Mỹ một ngày. Vào ngày 15 tháng 2 năm 2012, "Deadline Hollywood" đăng tin Paget Brewster (Emily Prentiss) sẽ rời phim khi mùa bảy kết thúc. Tất cả các diễn viên chính khác đã chốt hợp đồng cho mùa sau. Vào ngày 13 tháng 6 năm 2012, CBS thông báo Jeanne Tripplehorn sẽ gia nhập dàn diễn viên của phim.
Trận chiến cuối cùng của thiết giáp hạm Bismarck Trận chiến cuối cùng của thiết giáp hạm "Bismarck" diễn ra vào ngày 26-27 tháng 5 năm 1941 tại vùng biển Đại Tây Dương, cách khu vực Brest của Pháp khoảng về phía tây, giữa thiết giáp hạm "Bismarck" của Hải quân Đức Quốc Xã và các đơn vị không-hải lực của Hải quân Hoàng gia Anh. Trận chiến này không có tên chính thức dù đây là một trận chiến mang tính quyết định giữa các tàu chủ lực. Cuộc giao tranh này đã đánh dấu sự sụp đổ của Chiến dịch Rheinübung, một nỗ lực đánh chặn tuyến vận tải Đại Tây Dương tới Anh bằng hai tàu chủ lực của Đức, và kết thúc bằng việc "Bismarck" bị bắn chìm. Trận chiến được chia thành bốn giai đoạn chính. Giai đoạn đầu tiên bắt đầu vào chiều muộn ngày 26 tháng 5 bằng các đợt không kích của hàng không mẫu hạm "Ark Royal", đã vô hiệu hóa hệ thống lái của "Bismarck", làm kẹt bánh của tàu ở góc rẽ và ngăn không cho "Bismarck" trốn thoát thành công. Giai đoạn hai diễn ra vào đêm 26/27 tháng 5 bằng các đợt giao tranh lẻ tẻ của các khu trục hạm của Anh và Ba Lan, và không gây ra được thiệt hại đáng kể cho hai bên. Giai đoạn 3 bắt đầu vào sáng ngày 27 tháng 5, bằng các cuộc tấn công của thiết giáp hạm "King George V" và "Rodney" cùng với lực lượng tuần dương hạm hỗ trợ. Sau khoảng 100 phút giao chiến, thiết giáp hạm "Bismarck" chìm bởi các tác động của đạn pháo, ngư lôi và được thủy thủ cố tình đánh đắm tàu. Thiết giáp hạm "Rodney" bị hư hại nhẹ bởi những phát đạn gần trúng từ "Bismarck" và chớp lửa quá lớn từ các khẩu pháo của nó. Người Anh chỉ cứu được hơn 100 thủy thủ của "Bismarck" trước khi phải rút lui vì phát hiện ra tàu ngầm Đức trong khu vực, bỏ lại hàng trăm người sống sót ở phía sau; thêm năm thủy thủ nữa được tàu ngầm Đức và tàu khí tượng cứu sống vào ngày hôm sau. Trong giai đoạn cuối cùng, các tàu chiến Anh bị máy bay của Không quân Đức Quốc Xã khi đang rút về căn cứ, và HMS "Mashona" đã bị đánh chìm trong cuộc không kích này. Dưới sự chỉ huy của Đô đốc Günther Lütjens, thiết giáp hạm "Bismarck" và tuần dương hạm hạng nặng "Prinz Eugen", đã khởi hành ra Đại Tây Dương để làm nhiệm vụ tấn công đánh phá các đoàn tàu vận tải tới Anh. Đội tàu này bị một lực lượng được tách ra từ Hạm đội Nhà của Hải quân Hoàng gia Anh đánh chặn, dẫn đến trận chiến ở Eo biển Đan Mạch vào ngày 24 tháng 5. Trong trận đánh, "Bismarck" đã bắn chìm tàu chiến-tuần dương "Hood" và làm hư hại đáng kể thiết giáp hạm "Prince of Wales". Tuy nhiên, con tàu cũng trúng một viên đạn trực diện từ thiết giáp hạm "Prince of Wales" vào khu vực mũi tàu, tạo một lỗ thủng lớn và khiến hơn 2.000 tấn nước tràn vào bên trong, làm hư hại đáng kể khoang chứa nhiên liệu và hệ thống động cơ của nó. Hải quân Hoàng gia Anh nhanh chóng huy động mọi tàu chiến của họ trong khu vực vào việc săn đuổi "Bismarck". Trên đường rút lui, "Prince of Wales" hội quân với lực lượng của Chuẩn Đô đốc Frederic Wake-Walker, bao gồm hai tuần dương hạm hạng nặng "Suffolk" và "Norfolk", và tiếp tục làm nhiệm vụ truy đuổi "Bismarck". Khoảng 18:00 cùng ngày, ba con tàu giao chiến với "Bismarck" nhưng cả hai bên đều không gây được thêm thiệt hại nào cho đối phương. Tính đến thời điểm đó, Hải quân Hoàng gia Anh đã huy động 19 tàu chiến các loại tham gia vào cuộc săn lùng "Bismarck", bao gồm sáu thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương, hai hàng không mẫu hạm và các đơn vị tuần dương hạm, khu trục hạm khác. Đích thân Đô đốc John Tovey, Chỉ huy trưởng Hạm đội Nhà, trực tiếp chỉ huy lực lượng truy đuổi xuất phát từ Anh. Sau khi giao chiến với "Prince of Wales", Đô đốc Lütjens cho "Prinz Eugen" tách ra khỏi đội hình để tiếp tục chiến dịch, và "Bismarck" sẽ quay về cảng ở Brest, Pháp để sửa chữa những hư hại trong trận chiến buổi sáng. Trước đêm ngày 24 tháng 5, một nhóm máy bay Fairey Swordfish thuộc Phi đoàn 825 của hàng không mẫu hạm "Victorious" đã tấn công "Bismarck". "Bismarck" trúng một quả ngư lôi trong cuộc tấn công, và sức ép của vụ nổ, kết hợp với việc "Bismarck" đang cơ động với tốc độ cao, đã làm hỏng các miếng thép được thủy thủ đoàn vá tạm thời để ngăn chặn nước tràn vào trong (gây ra bởi phát đạn của "Prince of Wales" vào buổi sáng). Con tàu phải giảm tốc độ xuống còn còn 16 hải lý/giờ (30 km/h; 18 dặm/giờ) để làm giảm lượng nước tràn vào bên trong tàu và giúp các đội sửa chữa có thể khẩn trương khắc phục lại các thiệt hại cũ. Sáng ngày 25 tháng 5, Lütjens ra lệnh cho con tàu tăng lên tốc độ tối đa nhằm mở rộng khoảng cách với các tàu chiến Anh. "Bismarck" nhanh chóng biến mất trên màn hình radar của "Suffolk", khiến nhóm tàu Anh phải chuyển hướng di chuyển về phía tây để tìm kiếm "Bismarck". Tuy nhiên, Lütjens không hề biết rằng mình đã cắt đuôi tàu chiến Anh thành công, nên ông đã cho phá vỡ im lặng điện đài và gửi đi nhiều thông điệp vô tuyến về đất liền để yêu cầu hỗ trợ. Các thông điệp này đã được tình báo Anh bẻ mã được và được cung cấp cho tàu chiến Anh dùng để định vị lại vị trí của "Bismarck". Vấn đề nhiên liệu cũng khiến việc truy đuổi "Bismarck" của người Anh và bản thân "Bismarck" trong cuộc rút chạy gặp nhiều trở ngại. Do đó, Lütjens đã cho Bismarck duy trì tốc độ 21 knot thay vì tốc độ tối đa để tiết kiệm nhiên liệu. Các tàu chiến Anh của Hạm đội Nhà là "Prince Of Wales", "Repulse", "Victorious" và năm tuần dương hạm cũng phải hủy bỏ nhiệm vụ để quay về căn cứ, chỉ còn lại "King George V", "Rodney" và "Norfolk" là còn đủ nhiên liệu để tiếp tục truy đuổi. Chi hạm đội Khu trục hạm số 4 của Đại tá Philip Vian, bao gồm năm khu trục hạm của Anh ("Cossack", "Sikh", "Maori" và "Zulu") và một khu trục hạm của Ba Lan ("Piorun"), được lệnh tách ra khỏi Đoàn vận tải WS-8B và di chuyển về hỗ trợ thiết giáp hạm "King George V". Khoảng 10:30 sáng ngày 26 tháng 5, một thủy phi cơ PBY Catalina thuộc Phi đoàn 209 của Bộ tư lệnh Duyên hải Anh đã phát hiện ra "Bismarck" nhờ vệt dầu loang của nó. Con tàu cách Brest khoảng 1.280 km về phía tây bắc, và với tốc độ hiện tại của "Bismarck", nó có thể tiến đủ gần về khu vực nằm trong tầm hoạt động của tàu ngầm U-boat và Không quân Đức Quốc Xã trong vòng không đến một ngày. Đơn vị Anh ở gần với "Bismarck" nhất là tàu chiến-tuần dương "Renown" và nhóm tác chiến của hàng không mẫu hạm "Ark Royal". Trước 09:00, hàng không mẫu hạm "Ark Royal" bắt đầu phóng máy bay trinh sát và họ phát hiện ra "Bismarck" nửa tiếng sau đó. Sau khi nhận được thông tin từ chiếc Catalina, Đại tá Vian đã cho Chi hạm đội 4 của ông tiến thẳng về "Bismarck" thay vì gia nhập với thiết giáp hạm "King George V" như ban đầu. Giai đoạn 1: "Ark Royal" vô hiệu hóa "Bismarck". Lúc 14:50 ngày 26 tháng 5, "Ark Royal" phóng 15 chiếc Swordfish làm nhiệm vụ tấn công "Bismarck". Tuy vậy, trước khi xuất kích, các phi công Swordfish không được thông báo rằng tuần dương hạm "Sheffield" đã được tách ra để bám đuôi "Bismarck". Họ chỉ biết là không có tàu chiến đồng minh nào khác ở khu vực tấn công. Thời tiết xấu đã khiến các phi công Swordfish nhận dạng nhầm và vô tình tấn công chiếc "Sheffield". May mắn là trong đợt đầu tiên, nhóm Swordfish được trang bị loại ngư lôi dùng kíp nổ từ tính kiểu mới. Chúng tỏ ra là thiếu hiệu quả khi nhiều quả đã bị xịt khi đâm vào "Sheffield", và "Sheffield" đã né được những quả ngư lôi còn lại. Sau khi quay trở lại "Ark Royal", những chiếc Swordfish được tái vũ trang bằng ngư lôi với kíp nổ tiếp xúc thông thường, và đợt tấn công thứ hai bao gồm 15 máy bay thuộc Phi đoàn 820 được tung ra lúc 19:10. Đến 19:50, Lực lượng H bị tàu ngầm "U-556" phát hiện, nhưng "U-556" không thể tấn công vì đã dùng hết số ngư lôi hiện có, dù con tàu có một góc bắn rất tốt. Dù được "Sheffield" chỉ dẫn cụ thể về vị trí của "Bismarck", phải đến 20:30, 15 máy bay Swordfish của "Ark Royal" mới phát hiện ra "Bismarck" và bắt đầu tấn công. "Bismarck" dùng pháo chính và dàn pháo phụ để bắn trả cuộc tấn công. Do Swordfish bay rất thấp và chậm, nên các pháo thủ của "Bismarck" đã hạ pháo bắn thẳng xuống mặt biển để tạo những cột nước lớn nhằm đốn hạ những chiếc máy bay đang tiếp cận "Bismarck". Tuy vậy, máy bay Anh vẫn cắt ngư lôi thành công, và ít nhất ba quả đã được phóng trúng "Bismarck". Một quả trong số đó phát nổ ở khu vực đuôi tàu và làm kẹt bánh lái của "Bismarck" ở góc 12° về phía bên phải. Hư hại do quả ngư lôi gây ra nặng nề tới mức thủy thủ đoàn của "Bismarck" không thể sửa chữa được, và con tàu bắt đầu chạy theo hình vòng tròn, quay đầu về phía các tàu chiến Anh đang truy đuổi phía sau. Sau khi cuộc không kích kết thúc, "Bismarck" khai hỏa dàn pháo chính vào chiếc "Sheffield". Loạt đạn đầu tiên lệch khỏi "Sheffield" khoảng một dặm, nhưng loạt thứ hai đã phát nổ ngay xung quanh con tàu và khiến con tàu chìm trong mưa mảnh pháo, làm ba thủy thủ thiệt mạng và hai người khác bị thương. "Bismarck" bắn thêm bốn loạt nữa nhưng không trúng đích, và "Sheffield" nhanh chóng xả khói rút lui. Khoảng 22:00, "Sheffield" gặp Chi hạm đội Khu trục hạm số 4 của Đại tá Vian. Thiết giáp hạm "King George V" và "Rodney" gặp nhau vào khoảng 18:00 và tiến về chỗ "Bismarck" từ hướng tây bắc; tuần dương hạm hạng nạng "Dorsetshire" di chuyển từ hướng tây; "Norfolk" và tuần dương hạm hạng nhẹ "Edinburgh" cũng tiếp cận từ phía tây bắc nhưng di chuyển độc lập, nhưng "Edinbrugh" phải hủy bỏ nhiệm vụ truy đuổi vì thiếu nhiên liệu, nên chỉ còn "Norfolk" khi con tàu thiết lập được vị trí tấn công ở hướng bắc. Trong khi đó, Chi hạm đội 4 của Đại tá Vian vòng về phía nam, tây nam để tạo đội hình tấn công quấy rối "Bismarck" từ đêm đến rạng sáng. Sau khi hoàn thành việc thu hồi máy bay, "Ark Royal" và Lực lượng H di chuyển về hướng bắc, nhưng đã đổi lộ trình về phía nam trong đêm để giữ khoảng cách với "Bismarck". Với bánh lái mạn trái không thể vận hành hiệu quả, "Bismarck" giờ đây đang di chuyển trên một vòng tròn rộng, không thể thoát khỏi lực lượng của Đô đốc Tovey. Mặc dù việc thiếu hụt nhiên liệu đã làm giảm số tàu chiến sẵn có của phía Anh, nhưng hạm đội Anh vẫn còn rất mạnh, với hai thiết giáp hạm và hai tuần dương hạm hạng nặng đang tiến thẳng về "Bismarck". Vào 23:40 ngày 26 tháng 5, Đô đốc Lütjens cho gửi một đoạn tin về Bộ Tổng chỉ huy Hải quân phía Tây, "Con tàu không thể cơ động. Chúng tôi sẽ chiến đấu tới viên đạn cuối cùng. Führer muôn năm." Giai đoạn 2: Khu trục hạm của Vian tấn công. Lúc 22:38 ngày 26 tháng 5, khu trục hạm "Maori" và "Piorun" phát hiện ra "Bismarck". "Piorun" liều lĩnh tấn công đầu tiên trong sự bất ngờ của người Anh. Vào 22:50, thuyền trưởng của "Piorun" - Trung tá Eugeniusz Pławski, đã cho đánh tín hiệu đèn không mã hóa tới "Bismarck", "Piorun" áp sát "Bismarck" và hai con tàu đấu pháo nhau dữ dội. Do thời tiết xấu và tầm nhìn kém nên không phát đạn nào được bắn trúng, và Piorun sau đó lạc khỏi "Bismarck". "Piorun" được lệnh rút khỏi khu vực trước khi kịp sử dụng ngư lôi do không còn đủ nhiên liệu để chạy. Theo sau "Piorun" là các cuộc tấn công quấy phá dồn dập kéo dài từ 22:38 đến 06:56 sáng ngày 27 tháng 5. Các khu trục hạm "Cossack", "Maori", "Zulu" và "Sikh" đã bắn tổng cộng mười sáu quả ngư lôi vào "Bismarck" nhưng không quả nào trúng đích. "Bismarck" phản pháo mãnh liệt, với một quả đạn đã cắt đứt cột ăng-ten của "Cossack", và ba quả đạn khác nổ sát khu trục hạm "Zulu", khiến ba thủy thủ của nó bị thương. Đến 02:30, Đô đốc Tovey ra lệnh cho các khu trục hạm bắn pháo sáng liên tục đến 03:00 để đánh dấu vị trí giao tranh cho các thiết giáp hạm Anh. Các cuộc tấn công này đã gây ảnh hưởng xấu tới tinh thần của thủy thủ Đức và khiến họ càng thêm mệt mỏi hơn sau hơn bốn ngày trực chiến liên tục. Vào khoảng 05:00-06:00, Lütjens ra lệnh phóng một thủy phi cơ Arado 196, đem theo nhật ký hải trình của tàu cùng những thước phim quay lại cuộc đối đầu với "Hood" và những tài liệu quan trọng khác về Pháp. Tuy nhiên, máy phóng thủy phi cơ đã bắn bị hỏng bởi một quả đạn của thiết giáp hạm "Prince of Wales" vào ngày 24, và chiếc thủy phi cơ sau đó bị đẩy xuống biển để tránh nguy cơ bị phát nổ trong trận chiến. Đến 07:10, Lütjens gửi yêu cầu một tàu ngầm U-Boat có mặt tại vị trí của "Bismarck" để chuyển giao tài liệu quan trọng. Tàu ngầm "U-556" được giao nhiệm vụ này, nhưng "U-556" không nhận được tín hiệu trên do con tàu đang trong trạng thái lặn. Công việc sau đó được giao cho tàu ngầm "U-74", nhưng khi con tàu đến nơi thì Bismarck đã chìm. Giai đoạn 3: "Bismarck" bị đánh chìm. Khi các tàu chiến Anh đang dần áp sát vị trí của "Bismarck", Đô đốc Tovey đưa ra chỉ thị cho trận chiến sắp tới. Đầu tiên, ông cho tàu chiến-tuần dương "Renown" án ngữ xung quanh "Bismarck" trong phạm vi 17 dặm, không cho phép con tàu tham chiến vì Tovey không muốn mạo hiểm để lặp lại thảm họa như đối với chiếc "Hood". Tovey cho thiết giáp hạm "Rodney" tiến cận ở khoảng cách 14 km càng nhanh càng tốt, có quyền tự do di chuyển nhưng phải phối hợp với thiết giáp hạm "King George V". Bình minh ngày 27 tháng 5, trời xám xịt, tầm nhìn kém, biển động mạnh và gió thổi từ hướng tây bắc. Do đó, Tovey đã hoãn cuộc tấn công vào bình minh đến khi thời tiết đẹp hơn và cho hạm đội vòng về hướng tây bắc để thiết lập đội hình tấn công. Tuần dương hạm "Norfolk" là con tàu đầu tiên phát hiện ra "Bismarck" vào sáng ngày 27 tháng 5. Ban đầu do tầm nhìn kém, nên "Norfolk" đã không xác định được con tàu và đã cho nháy đèn tín hiệu liên tục tới khi nhận ra đó là "Bismarck". "Norfolk" nhanh chóng vòng lại để liên lạc với hạm đội của Đô đốc Tovey. Lúc 08:43, hoa tiêu trên thiết giáp hạm "King George V" phát hiện ra "Bismarck" cách đó 23 km; "Rodney" nổ súng đầu tiên lúc 08:47, theo sau bởi các khẩu pháo của "King George V". Do bị hỏng hệ thống lái, nên các khẩu pháo của "Bismarck" không thể bắn hiệu quả do con tàu di chuyển một cách bất ổn định, và bị phức tạp hơn bởi điều kiện thời tiết xấu. Dù vậy, lúc 08:50, "Bismarck" phản pháo tàu chiến Anh bằng hai tháp pháo "Anton" và "Bruno". Đến 09:02, "Bismarck" trúng một loạt đạn pháo 406 mm của "Rodney" vào đài chỉ huy và tháp dẫn bắn của nó, làm thiệt mạng phần lớn các sĩ quan cao cấp của tàu, đồng thời hai tháp pháo "Anton" và "Bruno" cũng bị vô hiệu hóa bởi bởi loạt đạn này. Nửa tiếng sau, hai tháp pháo 380 mm còn lại của "Bismarck" ("Caesar" và "Dora") cũng bị phá hủy. "Norfolk" và "Dorsetshire" thu hẹp khoảng cách và nã pháp 203 mm vào "Bismarck". Vào khoảng 09:10, "Norfolk" bắn bốn quả ngư lôi và "Rodney" bắn sáu quả ở khoảng cách 10 km về "Bismarck", nhưng không được xác nhận bắn trúng. Vào 09:31, với việc "Bismarck" không còn khả năng chiến đấu, Trung tá Hans Oels, sĩ quan cấp cao nhất của "Bismarck" còn sống sót, đã cho ngừng toàn bộ hoạt động kiểm soát thiệt hại, mở toàn bộ cửa kín nước để tổ vận hành ở khoang máy chuẩn bị đặt thuốc nổ phá hủy tàu, và ra lệnh bỏ tàu. Oels chạy dọc con tàu để truyền lại mệnh lệnh trên tới những người mà ông gặp, tới khi một viên đạn 356 mm từ "King George V" bắn trúng phòng ăn phía sau của "Bismarck" vào lúc 10:00, cướp đi sinh mạng của Oels cùng hơn trăm thủy thủ khác đang tập trung ở đó. Đại úy Gerhard Junack, sĩ quan cấp cao nhất của tổ vận hành động cơ còn sống sót, đã cho cài dây cháy chín phút vào khối thuốc nổ trong phòng động cơ. Do hệ thống liên lạc của "Bismarck" đã bị sập nên Junack phải cử một người đưa tin chạy lên đài chỉ huy xác nhận lệnh châm dây cháy cho thuốc nổ. Không thấy người đưa tin quay trở lại, Junack đã châm cháy dây và ra lệnh cho đội kỹ thuật của ông rời tàu. Cũng trong khoảng thời gian trên, "Rodney" bắt đầu áp sát ở khoảng cách 2,7 km để bắn phá hệ thống thượng tầng của "Bismarck". "King George V" vẫn duy trì ở khoảng cách xa để giúp các viên đạn của tàu có góc rơi và xuyên tốt hơn. Lúc 10:05, "Rodney" bắn bốn quả ngư lôi về phía "Bismarck", tuyên bố một quả bắn trúng đích. Khoảng 10:15, "Rodney" và "King George V" ngừng bắn, và "Bismarck", lúc này đã bị vô hiệu hóa hoàn toàn, nghiêng 20° về bên trái, chìm trong biển lửa. Dù các tàu chiến Anh đang rơi vào tình trạng thiếu nhiên liệu trầm trọng, nhưng "Bismarck" vẫn chưa chìm. Vào khoảng 10 giờ 20 phút, Tovey ra lệnh cho "Dorsetshire" tiếp cận và phóng ngư lôi vào con tàu Đức, trong khi "King George V" và "Rodney" dần rút khỏi khu vực giao chiến. Chiếc tuần dương hạm phóng hai quả ngư lôi vào mạn phải của "Bismarck", trong đó một quả đã trúng đích, rồi nó vòng qua mạn trái phóng tiếp một quả khác cũng trúng đích. Khoảng 10:35, độ nghiêng của "Bismarck" gia tăng đáng kể; con tàu lật úp và chìm với đuôi chìm trước, biến mất khỏi mặt biển lúc 10:40. Giai đoạn 4: "Luftwaffe" tấn công. Do thời tiết ngày 26 tháng 5 rất xấu, nên Không quân Đức Quốc Xã không thể cất cánh hỗ trợ "Bismarck". Chỉ có một vài chiếc Focke-Wulf Fw 200 "Condor" cất cánh làm nhiệm vụ trinh sát, và phát hiện ra thiết giáp hạm "Rodney". Vào ngày 27, một đội bay Heinkel He 111 tấn công Lực lượng H nhưng không quả bom nào được ném trúng. Sang ngày 28, khu trục hạm "Mashona" và "Tartar" bị máy bay Đức tấn công khi đang trên đường rút về Bắc Ireland. Lúc 09:00, "Mashona" trúng một quả bom vào phòng động cơ của tàu, khiến 46 thủy thủ thiệt mạng và thủy thủ đoàn phải bỏ tàu. Khu trục hạm "Tartar" cứu được 184 người sống sót và xác của "Mashona" bị bắn chìm bởi một nhóm khu trục hạm của Hải quân Hoàng gia Canada vào buổi chiều cùng ngày. Giải cứu người sống sót. Với hàng trăm người sống sót ở trên mặt nước, "Dorsetshire" và khu trục hạm "Maori" tiến đến gần và thả dây thừng để kéo những người sống sót lên tàu. Vài thủy thủ của "Dorsetshire" thậm chí đã nhảy xuống biển để hỗ trợ đưa những thủy thủ Đức bị thương lên tàu. Tuy nhiên, lúc 11:40, thuyền trưởng của "Dorsetshire" ra lệnh ngừng mọi nỗ lực giải cứu sau khi một hoa tiêu báo cáo phát hiện ra một thứ mà họ nghĩ là tàu ngầm U-boat. "Dorsetshire" đã vớt được 85 người và "Maori" được 25 người vào lúc chúng rời khỏi hiện trường. Tàu chiến của Tovey trở về Anh với 110 người sống sót của "Bismarck;" một người trong số đó, Gerhard Lüttich, đã không qua khỏi vì vết thương quá nặng, và anh được thủy thủ đoàn của "Dorsetshire" tổ chức an táng trên biển với đầy đủ nghi lễ của quân đội. Tàu ngầm "U-74" cứu được ba người lúc 19:30, và hai người nữa được tàu quan sát khí tượng "Sachsenwald" cứu vớt vào khoảng 22:45 ngày 28 tháng 5. Tuần dương hạm "Canarias" của Hải quân Tây Ban Nha cũng có mặt tại khu vực sau trận đánh nhưng không tìm thấy người sống sót. Trong tổng số thủy thủ đoàn hơn 2.200 người, chỉ có 114 người sống sót. Sau khi "Bismarck" bị đánh chìm, Đô đốc John Tovey đã phát biểu rằng, Hội đồng Bộ Hải quân Hoàng gia đã cho gửi đi một bức thư tới những cá nhân đã tham gia vào trận đánh này như sau, Không hay biết về số phận của "Bismarck", Bộ Tổng chỉ huy Hải quân phía Tây vẫn tiếp tục gửi đi những thông báo tới "Bismarck" trong nhiều giờ tiếp theo, tới khi báo Reuters đưa tin từ Anh rằng con tàu đã bị đánh chìm. Vào chiều ngày 27 tháng 5, Viện Thứ dân được thông báo về việc "Bismarck" đã bị đánh chìm.
Chariots of the Gods (phim) Chariots of the Gods () là bộ phim tài liệu của Tây Đức năm 1970 do Harald Reinl đạo diễn. Nó dựa trên cuốn sách "Chariots of the Gods?" của Erich von Däniken, đây là loại sách giả khoa học đưa ra giả thuyết về người ngoài hành tinh đã tác động đến sự sống và quá trình tiến hóa ban đầu của loài người. Bộ phim được đề cử Giải Oscar cho phim tài liệu xuất sắc nhất. Bộ phim bắt đầu bằng việc giới thiệu các giáo phái hàng hóa do thổ dân vùng Nam Thái Bình Dương thành lập sau khi tiếp xúc với máy bay Mỹ trong Thế chiến thứ hai. Phim đưa ra lời tuyên bố rằng có khả năng tất cả các tôn giáo đã bắt đầu theo một cách thức tương tự. Sau đó, phim giới thiệu cho người xem nhiều văn bản, kiến trúc và tác phẩm nghệ thuật cổ xưa. Một số trong số này bao gồm Kinh Thánh, Kim tự tháp, "Sử thi Gilgamesh" và Đường kẻ Nazca. Bộ phim đã được hãng Sunn Classic Pictures biên tập lại và lồng tiếng Anh để phát hành tại Mỹ vào năm 1973. Việc phát hành "Chariots of Gods" tại Mỹ đã thu về 25.948.300 đô la. Nhà phê bình phim Phil Hall cho biết "Họ không làm những bộ phim như thế này nữa và chúng tôi nên vui mừng vì điều đó." Bộ phim bị chỉ trích vì thiếu bằng chứng khoa học. Nhà nhân chủng học Robert Ardrey gọi đó là khoa học viễn tưởng.
Chariots of the Gods? Chariots of the Gods? Unsolved Mysteries of the Past (; có nghĩa là "Ký ức về tương lai: Những bí ẩn quá khứ chưa giải đáp") là một cuốn sách phi hư cấu do Erich von Däniken viết vào năm 1968 và được Michael Heron dịch từ nguyên bản tiếng Đức. Tác phẩm này liên quan đến giả thuyết cho rằng công nghệ và tôn giáo của nhiều nền văn minh cổ đại do nhà du hành cổ trao lại vốn được người dân thời đó chào đón như những vị thần linh. Bản thảo đầu tiên của ấn phẩm từng bị nhiều nhà xuất bản từ chối. Cuốn sách này được biên tập viên Wilhelm Roggersdorf (bút danh của nhà biên kịch người Đức Wilhelm Utermann) viết lại nhiều lần. Luận điểm chính của "Chariots of the Gods" là sinh vật ngoài Trái Đất đã ảnh hưởng đến công nghệ cổ đại. Von Däniken gợi ý rằng một số công trình và cổ vật dường như phản ánh kiến thức công nghệ phức tạp hơn những gì con người biết đến hoặc được cho là đã tồn tại vào thời điểm chúng được sản xuất. Von Däniken khẳng định rằng những hiện vật này do du khách ngoài Trái Đất hoặc những người đã học được kiến ​​thức cần thiết từ người ngoài hành tinh tạo ra. Những cổ vật như vậy bao gồm các kim tự tháp Ai Cập, Stonehenge, và Moai của Đảo Phục Sinh. Những ví dụ khác bao gồm tấm bản đồ thế giới nguyên thủy gọi là bản đồ Piri Reis, mà von Däniken mô tả là phơi bày toàn cảnh Trái Đất khi nhìn từ không gian, và Đường kẻ Nazca ở Peru, mà ông cho rằng có thể đã được con người xây dựng dưới dạng những bản sao thô sơ từ công trình kiến trúc trước đây của người ngoài hành tinh, như một cách để kêu gọi người ngoài hành tinh quay trở lại Trái Đất. Ông sử dụng cách giải thích tương tự này để lập luận rằng các vết bánh xe ở Malta có thể có mục đích ngoài hành tinh cùng với những đường kẻ tương tự ở Úc, Ả Rập Xê Út và Biển Aral. Cuốn sách này cũng đưa ra lời gợi ý rằng các tác phẩm nghệ thuật cổ đại trên khắp thế giới có thể được hiểu là nhằm mô tả phi hành gia, phương tiện bay và tàu vũ trụ, người ngoài hành tinh và công nghệ phức tạp. Von Däniken mô tả mấy yếu tố mà ông tin là giống nhau trong nghệ thuật của những nền văn hóa không liên quan. Trong số tác phẩm nghệ thuật mà ông mô tả có những bức tượng nhỏ "Dogū" cổ của Nhật Bản (mà von Däniken tin là giống nhà du hành vũ trụ trong bộ đồ phi hành gia) và những bức chạm khắc 3.000 năm tuổi trong Đền thờ thời Tân Vương quốc của Ai Cập dường như mô tả những cỗ máy giống như máy bay trực thăng. Cuốn sách tiếp tục thêm gợi ý rằng nguồn gốc của nhiều tôn giáo, bao gồm cả cách giải thích Cựu Ước của Kinh Thánh, là phản ứng khi tiếp xúc với một chủng tộc ngoài hành tinh. Theo von Däniken, nhân loại coi công nghệ của người ngoài hành tinh mang đậm tính siêu nhiên và bản thân người ngoài hành tinh là thần thánh. Von Däniken đặt câu hỏi liệu tập tục truyền khẩu và thành văn của hầu hết các tôn giáo có đề cập đến những vị khách đến từ các vì sao và phương tiện di chuyển trong không trung và không gian hay không. Ông nói, những điều này nên được hiểu là những mô tả theo nghĩa đen rồi dần thay đổi theo thời gian và trở nên khó hiểu hơn. Những ví dụ trong sách kể đến bao gồm linh ảnh của Ezekiel về thiên thần và bánh xe, mà von Däniken hiểu là mô tả về một con tàu vũ trụ; Hòm Giao Ước, được giải thích là loại thiết bị dùng để liên lạc với một chủng tộc ngoài hành tinh; và sự hủy diệt của Sodom bằng lửa và diêm sinh, được hiểu là một vụ nổ hạt nhân. Von Däniken cố gắng tạo ra sự tương đồng với "giáo phái hàng hóa" hình thành trong và sau Thế chiến thứ hai, khi các bộ lạc từng bị cô lập ở Nam Thái Bình Dương đã tưởng nhầm những người lính Mỹ và Nhật tiến bộ là thần linh. Von Däniken cũng dành khoảng một phần ba cuốn sách nhằm thảo luận khả năng con người về mặt lý thuyết có thể cung cấp công nghệ tối tân cho các nền văn minh nguyên thủy trên thế giới giữa các vì sao vào năm 2100. Ông viết rằng điều này sẽ bắt chước sự tiếp xúc với người ngoài hành tinh thời cổ đại mà von Däniken tin rằng đã từng xảy ra trên Trái Đất. Bỏ qua tính học thuật. Cuốn sách của von Däniken và nhiều ấn phẩm tiếp theo của ông như "Gods from Outer Space" và "The Gold of the Gods," đã thu hút phần lớn sự đón nhận tiêu cực từ giới học thuật chính thống dù đây là những cuốn sách bán chạy nổi tiếng. Nhiều nhà khoa học và nhà sử học đã bác bỏ ý tưởng của ông, cho rằng kết luận của cuốn sách này dựa trên bằng chứng sai trái, giả khoa học, một vài bằng chứng trong số đó về sau đã được chứng minh là gian dối hoặc bịa đặt, và dựa trên cơ sở phi logic. Một cuốn sách bán chạy nhất quốc tế của Clifford Wilson mang tên "Crash Go the Chariots", được xuất bản năm 1972. Cuốn sách năm 1976 của Ronald Story bác bỏ ý tưởng của von Däniken có tựa đề "The Space Gods Revealed." Một lời chỉ trích tiêu cực khác về cuốn sách của von Däniken đến từ nhà khảo cổ học Kenneth Feder trong cuốn sách của ông có nhan đề "Frauds, Myths, and Mysteries" xuất bản vào năm 2018. Đề cập đến việc von Däniken ủng hộ lý thuyết nhà du hành vũ trụ cổ, Feder giải thích cách bằng chứng của ông được sử dụng và trình bày một cách sai lệch theo thứ tự nhằm thuyết phục người đọc rằng sự sống ngoài Trái Đất có liên quan đến sự phát triển của các nền văn minh cổ đại. Tranh cãi về đạo văn. Ngay sau khi xuất bản cuốn "Chariots of the Gods?", von Däniken bị buộc tội ăn cắp ý tưởng của tác giả người Pháp Robert Charroux. Một bài viết năm 2004 đăng trên tạp chí "Skeptic" nói rằng von Däniken đã đạo văn nhiều khái niệm của sách này lấy từ cuốn "The Morning of the Magicians," đến lượt tác phẩm này lại chịu ảnh hưởng nặng nề từ vũ trụ hư cấu Cthulhu Mythos, và cốt lõi của lý thuyết nhà du hành vũ trụ cổ bắt nguồn từ truyện "The Call of Cthulhu" và "At the Mountains of Madness" của nhà văn H. P. Lovecraft. Hiện vật bị nghi ngờ. Một hiện vật được đưa ra làm bằng chứng trong cuốn sách đã bị chính von Däniken phủ nhận. "Chariots" khẳng định rằng một cây cột sắt được cho là không rỉ sét ở Ấn Độ là bằng chứng về ảnh hưởng của người ngoài hành tinh, nhưng von Däniken thừa nhận trong một cuộc phỏng vấn trên tạp chí "Playboy" rằng cây cột này là do con người tạo ra và theo như những gì ủng hộ cho lý thuyết của ông thì "chúng ta có thể quên thứ sắt này đi". Tuy vậy, điều này cũng như bất kỳ bằng chứng đáng tin cậy nào khác đã bị xóa khỏi các ấn bản tiếp theo của "Chariots of the Gods?". "Chariots of the Gods?" nằm trong danh sách sách bán chạy nhất của tờ The New York Times và giúp khởi động sự nghiệp diễn giả trước công chúng của von Däniken. Tính đến tháng 1 năm 2017, tác giả đã bán được 70 triệu bản sách của mình. Cuốn sách này được chuyển thể thành phim tài liệu của Đức mang tên "Chariots of the Gods" do hãng Terra-Filmkunst sản xuất. Bộ phim được phát hành vào năm 1970 ở Tây Đức và lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ vào năm sau. Phim này được đề cử Giải Oscar cho phim tài liệu xuất sắc nhất tại Lễ trao Giải Oscar lần thứ 43 năm 1971. Năm 1972, một phiên bản đã chỉnh sửa của bộ phim xuất hiện dưới dạng phim tài liệu truyền hình có tên gọi "In Search of Ancient Astronauts" trên kênh NBC do hãng Alan Landsburg Productions sản xuất. Bộ phim tài liệu này được Rod Serling làm người dẫn chuyện. Phần tiếp theo mang tên "In Search of Ancient Mysteries" được phát sóng vào năm sau, cũng do Serling làm người dẫn chuyện. Loạt phim tài liệu "In Search O", do Leonard Nimoy dẫn chương trình (Serling đã qua đời năm 1975), được công chiếu lần đầu trên cơ sở hai bộ phim "thí điểm" đó. Một bộ phim tài liệu truyền hình khác có nhan đề "Horizon Special: The Case of the Ancient Astronauts" do Graham Massey đạo diễn, được phát hành vào năm 1977 và xem xét những lời tuyên bố của von Däniken. Năm 1993, von Däniken sản xuất một loạt phim gồm 25 phần có tựa đề "Auf den Spuren der All-Mächtigen (Con đường của các vị thần)" cho đài truyền hình Sat.1 của Đức. Năm 1996, một chương trình truyền hình đặc biệt kéo dài một giờ mang tên "Chariots Of The Gods – The Mysteries Continue", được phát sóng trên kênh ABC và do ABC/Kane sản xuất. ABC/Kane đã sản xuất một chương trình truyền hình đặc biệt khác với von Däniken vào năm sau có tựa đề "The Mysterious World – Search for Ancient Technology". Phim được phát sóng trên kênh Discovery Channel ở Mỹ và qua kênh RTL ở Đức. bản quyền truyền thông toàn cầu đối với cuốn sách này kể từ đó được hãng Media Invest Entertainment vốn đang phát triển dòng thương hiệu "giải trí 360 độ" mang tên "Chariots of the Gods". Ngày nay, phim tài liệu về thần thoại người ngoài hành tinh có thể được tìm thấy trên hầu hết các nền tảng phát trực tuyến và rất nhiều trên YouTube. "Chariots of the Gods?" đã tạo ra nhiều phần tiếp theo, bao gồm "Gods from Outer Space" và "The Gods Were Astronauts". Lý thuyết trong cuốn sách gốc được cho là đã ảnh hưởng đến nhiều loại sách, phim và phim truyền hình khoa học viễn tưởng. Ví dụ, nó được coi là nguồn cảm hứng cho chương trình truyền hình "Ancient Aliens" chiếu trên kênh History Channel. Khái niệm về người ngoài hành tinh cổ đại đã được sử dụng như một yếu tố cốt truyện trong các chương trình truyền hình và phim điện ảnh như "Star Trek" (thực sự đã giải đáp câu hỏi này trước khi cuốn sách của von Däniken được xuất bản), "Stargate", "The Thing", "The X-Files", dòng sản phẩm "Alien" (đáng chú ý nhất là "Prometheus"), "Neon Genesis Evangelion", "Indiana Jones and the Kingdom of the Crystal Skull" và "The Eternals".
Phân họ Sẻ bụi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Phân họ Sẻ bụi (danh pháp khoa học: Saxicolinae) là một phân họ gồm các loài chim Cựu Thế giới nhỏ ăn côn trùng thuộc họ Đớp ruồi (Muscicapidae). Phân họ này bao gồm các loài đớp ruồi kiếm ăn trên mặt đất được tìm thấy ở châu Âu, châu Á và hầu hết các loài phía bắc là những loài di trú thường xuyên. Các loài thuộc phân họ này trước đây thuộc họ Hoét (Turdidae), nhưng sau khi phân tích DNA di truyền, chúng hiện được coi là thuộc họ Đớp ruồi (Muscicapidae). Các chi thuộc phân họ Sẻ bụi thường không dùng tên "sẻ bụi" gồm: Các chi đuôi đỏ có thể thuộc phân họ này:
Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 2025 Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 2025 (hay còn được gọi là Women's Euro 2025) là giải bóng đá nữ vô địch châu Âu lần thứ 14, do Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) tổ chức. Vòng chung kết dự kiến sẽ được tổ chức tại Thụy Sĩ vào tháng 7 năm 2025. Đây cũng là mùa giải thứ ba có 16 đội tuyển tranh tài kể từ Euro 2017 và cũng là giải đấu bóng đá nữ cấp cao châu Âu đầu tiên được tổ chức ở một quốc gia không giáp biển. Giải đấu sẽ quay trở lại theo chu kỳ 4 năm 1 lần như thường lệ sau khi mùa giải trước đó đã bị hoãn sang năm 2022 do đại dịch COVID-19. Chọn nước chủ nhà. Quá trình đăng cai đã bắt đầu từ khoảng tháng 8 năm 2019 cho đến tháng 10 năm 2022. Ban đầu có tổng cộng 8 quốc gia đầu tiên tranh quyền đăng cai để tổ chức cho trận chung kết bao gồm Thụy Sĩ, Đan Mạch / Phần Lan / Na Uy / Thụy Điển, Ba Lan, Pháp và Ukraina. Vào ngày 3 tháng 6 năm 2021, chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Ba Lan là ông Zbigniew Boniek đã thông báo rằng, tổ chức của ông đã nộp hồ sơ lên cho cơ quan UEFA để tranh quyền đăng cai với lý do là nền bóng đá nữ đang trở nên phổ biến tại nhiều quốc gia ở châu Âu, bao gồm cả Ba Lan. Vào ngày 15 tháng 10 năm 2021, một nhóm Liên minh các nước Bắc Âu bao gồm Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy và Thụy Điển đã xác nhận sẽ tham gia giành quyền đăng cai tổ chức cho giải đấu cùng với sự hỗ trợ của Iceland và Quần đảo Faroe. Vào ngày 6 tháng 4 năm 2022, những quốc gia trong nhóm đã đệ đơn đăng ký cho nhiều sân vận động khác nhau ở mỗi nước chủ nhà. Chính phủ Thụy Điển sau đó cũng đã tuyên bố ủng hộ việc đăng kí vào ngày 12 tháng 4. Phần Lan cũng đã hoàn tất thủ tục nộp đơn đăng ký vào ngày 12 tháng 10 năm 2022. Vào ngày 3 tháng 2 năm 2022, ông Noël Le Graët, chủ tịch của tổ chức Liên đoàn bóng đá Pháp đã xác nhận rằng, tổ chức của ông đã đệ đơn dự thầu để tổ chức cho giải đấu. Và vào ngày 14 tháng 9 năm 2022, tổ chức Hiệp hội bóng đá Thụy Sĩ đã chính thức xác nhận đơn dự thầu và đã công bố những thành phố có thể có khả năng tổ chức giải đấu bao gồm Basel, Bern, Genève, Luzern, Lausanne, Zürich, Thun, St. Gallen và Sion. Vào tháng 10 năm 2022, cả 4 ứng cử viên trên đã chính thức hoàn thành giai đoạn hồ sơ thứ hai trước khi UEFA tiến hành khảo sát thực trạng vào ngày 12 tháng 10. Sau cùng, ứng cử viên Thụy Sĩ đã được lựa chọn sau một cuộc bỏ phiếu của Ủy ban điều hành UEFA tại Lisbon vào ngày 4 tháng 4 năm 2023. Mặc dù Đan Mạch đã từng tuyên bố sẽ đấu thầu một mình kể từ năm 2018, nhưng cuối cùng lại thất bại do quốc gia này lại chuyển trọng tâm sang đấu thầu chung với các quốc gia khác và từ bỏ nhiều nỗ lực của họ do yêu cầu ngày càng tăng từ UEFA sau khi nền bóng đá nữ đang trở nên phổ biến. Vào tháng 11 năm 2021, mặc dù Hiệp hội bóng đá Ukraina đã từng tuyên bố đơn dự thầu của họ. Tuy nhiên, do sự kiện Nga xâm lược Ukraina vào năm 2022 đã khiến cho ban tổ chức buộc phải hủy bỏ kế hoạch này. Theo dự kiến, sẽ có 16 đội tuyển quốc gia sẽ tham dự cho vòng chung kết của giải Euro nữ 2025, những đội tuyển này sẽ phải vượt qua vòng loại để tham dự cho giải đấu cuối cùng với nước chủ nhà là Thụy Sĩ. Vì sự kiện Nga xâm lược Ukraina 2022 nên sự tham gia của đội tuyển Nga vẫn được coi là một quốc gia hiện đang bị cấm thi đấu. 9 thành phố đã được UEFA lựa chọn làm địa điểm đăng cai cho giải đấu, các trận đấu của mỗi bảng sẽ được tổ chức tại hai sân vận động khác nhau, các thành phố chủ nhà như Zürich, Bern và Genève đều là các những địa điểm nổi tiếng. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 2024 Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2024 dự kiến sẽ​​ diễn ra vào thứ Ba ngày 5 tháng 11 năm 2024, là cuộc bầu cử tổng thống thứ 60 liên tiếp 4 năm 1 lần trong lịch sử Hoa Kỳ. Cuộc bầu cử này yêu cầu phải bầu chọn một vị tổng thống và phó tổng thống. Joe Biden, tổng thống đương nhiệm của Hoa Kỳ đang thực hiện chiến dịch tái tranh cử tổng thống. Trong khi cựu tổng thống là ông Donald Trump cũng đang thực hiện chiến dịch tái tranh cử theo nhiệm kỳ lần thứ hai không liên tiếp. Nếu cả hai ứng viên đều được đề cử bởi số đảng tương ứng của họ, đây có thể sẽ đánh dấu lần tái đấu tổng thống đầu tiên kể từ cuộc bầu cử năm 1956. Một số người đã thách thức các cuộc bầu cử sơ bộ để tuyên bố các ứng viên của họ cho sự đề cử của cả hai đảng lớn. Người chiến thắng trong cuộc bầu cử này sẽ được nhậm chức vào ngày 20 tháng 1 năm 2025. Theo quy trình, trước khi cuộc tổng tuyển cử bắt đầu, các chính đảng sẽ phải chọn những ứng cử viên của mỗi đảng tại hội nghị đề cử. Các đại biểu tham dự đại hội sẽ được cử tri lựa chọn trong những cuộc họp kín và bầu cử sơ bộ theo cấp tiểu bang. Cuộc bầu cử tổng thống sẽ được diễn ra cùng lúc với cuộc bầu cử vào Thượng viện và Hạ viện. Một số tiểu bang cũng sẽ tổ chức các cuộc bầu cử thống đốc và cơ quan lập pháp tiểu bang. Những vấn nạn như tội phạm, giáo dục, nhập cư, kiểm soát súng, chăm sóc sức khỏe, nạn phá thai, quyền LGBT, tình trạng kinh tế, liêm chính trong bầu cử, sự sụt giảm dân chủ, biến đổi khí hậu và những vụ kiện chống lại Donald Trump sẽ là những vấn đề hàng đầu trong chiến dịch tranh cử. Theo Điều Hai của Hiến pháp Hoa Kỳ đã từng quy định rằng, để 1 người làm Tổng thống Hoa Kỳ, cá nhân người đó phải là công dân Hoa Kỳ từ lúc mới chào đời, khoảng 35 tuổi trở lên và phải là cư dân Hoa Kỳ trong vòng ít nhất 14 năm. Theo tu chính án thứ hai mươi hai đã quy định sẽ không cho phép bất kỳ người nào được bầu làm tổng thống hơn hai lần liên tiếp. Suy ra rằng, cả tổng thống đương nhiệm Biden và cựu tổng thống Donald Trump đều có thể đủ điều kiện để tiếp tục tái tranh cử. Các ứng cử viên cho chức tổng thống thường tìm kiếm sự đề cử của 1 trong các đảng chính trị khác nhau của Hoa Kỳ. Trong trường hợp đó, mỗi đảng phát triển 1 phương thức (như bầu cử sơ cấp) để chọn ứng cử viên mà đảng cho là phù hợp nhất để tranh cử. Các cuộc bầu cử sơ bộ thường là các cuộc bầu cử gián tiếp, trong đó các cử tri bỏ phiếu cho 1 nhóm đại biểu đảng cam kết với 1 ứng cử viên cụ thể. Sau đó, các đại biểu của đảng chính thức đề cử 1 ứng cử viên để thay mặt đảng. Tiếp theo, người được đề cử chọn 1 ứng viên phó tổng thống để tạo ra 1 liên danh của đảng đó (ngoại trừ Đảng Tự do, trong đó chỉ định ứng cử viên phó tổng thống từ lá phiếu đại biểu bất kể ý muốn của người được đề cử tổng thống). Cuộc bầu cử vào tháng 11 cũng là 1 cuộc bầu cử gián tiếp, nơi các cử tri bỏ phiếu cho 1 nhóm thành viên của Đại cử tri đoàn; những đại cử tri này sau đó trực tiếp bầu tổng thống và phó tổng thống. Sau khi cựu Tổng thống Donald Trump đã bị đánh bại trong cuộc bầu cử năm 2020, rất nhiều văn phòng bầu cử đã ngờ vực cho sự thất bại này. Số lượng người nghỉ hưu thì gia tăng đột biến khiến cho nhiều văn phòng phải đối mặt với tình trạng khổi lượng công việc ngày càng dày đặc cộng thêm với sự dòm ngó của công chúng. Chính vì vậy nên các quan chức ở nhiều bang trọng điểm đã cố gắng tìm kiếm thêm ngân sách để có thể mướn thêm nhân sự, cải tiến an ninh và phát triển các khu đào tạo. Cả Biden và Trump đều đã nói rằng họ sẽ tái tranh cử tổng thống vào năm 2024 khiến cho nhiều người dự đoán, đây có thể sẽ là một cuộc bầu cử tái tranh đấu tổng thống đầu tiên kể từ cuộc bầu cử năm 1956. Còn nếu như ông Trump đắc cử, ông sẽ trở thành vị tổng thống thứ hai có được hai nhiệm kỳ không liên tiếp kể từ vị tổng thống Grover Cleveland với nhiệm kỳ tương tự vào năm 1892. Cuộc bầu cử Hoa Kỳ năm 2024 sẽ là cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên diễn ra sau khi phân bố lại khu vực trong đại cử tri đoàn sau cuộc điều tra dân số năm 2020. Nếu kết quả của cuộc bầu cử năm 2020 vẫn giữ nguyên trong năm 2024 thì đảng Dân chủ sẽ có 303 phiếu đại cử tri, nhiều hơn so với đảng Cộng hòa với 235 phiếu. Nếu so với cuộc bầu cử lần trước khi mà đảng Dân chủ có 306 phiếu đại cử tri và đảng Cộng hòa có 232 phiếu, điều đó cho thấy cả hai phía đảng đã mất 3 phiếu đại cử tri trong quá trình tái phân bổ. Sự phân bổ này sẽ chỉ duy trì cho đến cuộc bầu cử năm 2028 và sẽ được tiến hành lại sau cuộc điều tra dân số năm 2030. Trong các cuộc bầu cử tổng thống gần đây, hầu hết các bang đều không cạnh tranh với nhau do lượng thống kê nhân khẩu khiến người dân luôn ủng hộ với một chính đảng duy nhất. Do bản chất của Đại cử tri đoàn đã khiến cho các tiểu bang dao động, phần lớn trạng thái đều cạnh tranh giữa hai đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa, việc các bang dao động là một yếu tố rất quan trọng để tranh cử được tổng thống. Nhiều tiểu bang ở Vành đai rỉ sét như Wisconsin, Michigan và Pennsylvania và các bang ở vùng Vành đai Mặt trời như Nevada, Arizona và Georgia luôn có xu hướng dao động. Bắc Carolina cũng là một bang chiến trường do bang này chỉ hướng về phía Trump khoảng 1,34% trong cuộc bầu cử trước đó. Vì những thay đổi từ từ về lượng nhân khẩu, một số tiểu bang Dân chủ như Iowa, Ohio và Florida đã chuyển hướng đáng kể sang các chính đảng Cộng hòa, ủng hộ đảng trong các cuộc bầu cử trong tương lai. Trong khi đó, một số tiểu bang Cộng hòa như Colorado, New Mexico và Virginia cũng đã chuyển hướng rõ rệt sang những chính đảng Dân chủ, trở thành lực lượng chính trị thống trị tại đó. Liên minh bầu cử truyền thống của đảng Dân chủ luôn đảm bảo được nhiều "bang xanh" cho các ứng viên tổng thống, hầu hết là các nhóm thiểu số (đặc biệt là người Mỹ gốc Phi và người Latinh), phụ nữ, những chuyên gia có học thức và các cử tri thành thị. Các cử tri thuộc tầng lớp lao động cũng từng là chỗ dựa chính của liên minh Dân chủ kể từ khi New Deal được thành lập. Cho đến những năm 1970, khi mà đảng Dân chủ đang dần trở nên có học thức, đa dạng và tự do hơn về mặt văn hóa khiến cho nhiều thành viên muốn chuyển sang đảng Cộng hòa. Liên minh truyền thống của đảng Cộng hòa sau đó thống trị nhiều tiểu bang Dân chủ, phần lớn cử tri đều là những người da trắng sinh sống ở các vùng nông thôn, người theo đạo Tin lành, người già và những người không có học thức. Kể từ năm 1950, đảng Cộng hòa đã giữ bộ mặt tốt với nhiều cử tri thuộc tầng lớp trung lưu sinh sống ở các vùng ngoại ô, nhưng những năm gần đây, sau sự trỗi dậy của phong trào Tiệc trà và phong trào Make America Great Again (Tạo Một Hoa Kỳ Vĩ Đại Trở Lại), một thương hiệu của chủ nghĩa dân túy cánh hữu được phát triển bởi cựu Tổng thống Donald Trump đã khiến cho những khối này dần rời xa. Sự gia tăng nhanh chóng của các xu hướng này đa số là do cuộc bầu cử tổng thống năm 2020 đã nghiêng về phía Dân chủ là ông Joe Biden, cũng là vì ông Trump trước đây vốn đã không được ưa chuộng ở các vùng ngoại ô đối với một ứng viên của Đảng Cộng hòa và ông luôn hoạt động kém hơn tại đó. Vấn đề về phá thai được nhiều người dự đoán sẽ là chủ đề hàng đầu trong cuộc bầu cử lần này. Đây là cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên được tổ chức sau hai lần phán quyết của tòa án gây ra tầm ảnh hưởng nhất định liên quan đến vấn đề phá thai. Vụ kiện đầu tiên diễn ra vào năm 2022 khi một người phụ nữ tên Dobbs đã kiện Tổ chức Sức khỏe và Phụ nữ Jackson. Sau khi Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đảo ngược vụ kiện vào năm 1973, họ đã để lại một điều luật mới cho phép các tiểu bang được phá thai hoàn toàn, bao gồm cả lệnh cấm phá thai. Vụ kiện tiếp theo chỉ diễn ra sau một năm kể từ vụ kiện đầu tiên khi một nhóm liên minh tôn thờ Hippocrates đã kiện cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ. Trong vụ kiện lần này, một vị thẩm phán đã loại bỏ sự chấp nhận của cơ quan đối với loại thuốc mifepristone vào năm 2000, nếu điều này được các tòa án cấp cao ủng hộ thì khả năng cao là loại thuốc sẽ buộc phải rút khỏi thị trường. Cả hai vụ kiện này đều nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ các chính trị gia và các nhà lập pháp của đảng Cộng hòa. Vào năm 2022, có tổng cộng sáu tiểu bang đã tổ chức hàng loạt các cuộc bầu cử để bỏ phiếu cho những biện pháp cấm phá thai nhưng sau đó, bên ủng hộ phá thai đã giành được chiến thắng. Nhưng đến tháng 4 năm 2023, phần lớn các bang do Đảng Cộng hòa cầm quyền đã thông qua toàn bộ lệnh cấm phá thai khiến cho việc này đang dần trở nên "bất hợp pháp" tại Hoa Kỳ. Theo thông tin từ tổ chức Gia đình Kaiser, có tổng cộng 15 tiểu bang tại đây có điều luật cấm phá thai giai đoạn đầu mà không có ngoại lệ đối với tội hiếp dâm hay loạn luân. Các đảng viên của đảng Dân chủ phần lớn đều ủng hộ cho phong trào này và coi việc phá thai như là một quyền lợi. Chủ đề về phá thai có thể sẽ đóng một vai trò nhất định trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Cộng hòa, một số ứng viên như cựu phó tổng thống Mike Pence, người cũng ủng hộ các giới hạn của liên bang đối với vấn nạn phá thai trong khi một số ứng viên khác bao gồm cả cựu tổng thống Donald Trump vốn đã không ủng hộ cho những giới hạn này. Tuy nhiên, chủ đề này vốn cũng không nhận được nhiều sự quan tâm từ ông Ron DeSantis, thống đốc bang Florida và là người đang tranh cử tổng thống, ông được coi là đối tượng thách thức lớn đối với ông Trump. Tuy là vậy nhưng cơ quan lập pháp Florida đã cho phép giới hạn việc phá thai trong thời hạn sáu tuần, DeSantis đã chấp thuận và ký thành luật vào ngày 16 tháng 4. Kinh tế lạm phát. Sau khi Đại dịch COVID-19 có dấu hiệu suy giảm, nhưng những tác động kinh tế có khả năng sẽ ảnh hưởng đến năm 2024. Trong khoảng thời gian đó, giai đoạn lạm phát đã bắt đầu tăng vào năm 2021 do nhiều ảnh hưởng của sự kiện như đại dịch, khủng hoảng chuỗi cung ứng và cả ảnh hưởng kinh tế từ sự kiện Nga xâm lược Ukraina năm 2022. Những cuộc thăm dò ý kiến về cách xử lý cho nền kinh tế của Biden liên tục cho thấy nhiều kết quả tiêu cực kể từ cuối năm 2021. Các vị cử tri luôn khẳng định các vấn đề về kinh tế sẽ là vấn nạn hàng đầu cho cuộc bầu cử năm 2024. Phụ nữ là đối tượng đặc biệt bị ảnh hưởng trong giai đoạn suy thoái kinh tế, đặc biệt là những người phải nghỉ việc để chăm sóc cho con cái. Nhiều biện pháp chăm sóc tạm thời cho trẻ em đã được mở rộng như là một phần của Kế hoạch Cứu hộ Hoa Kỳ, những biện pháp đó đã hỗ trợ đáng kể cho tình hình kinh tế của các bậc phụ huynh, nhưng sau khi cuộc bầu cử năm 2024 kết thúc, tất cả những biện pháp này sau cùng cũng sẽ hết hạn. Biden đã tuyên bố việc cung cấp các dịch vụ mầm non phổ cập sẽ là ưu tiên cho nhiệm kỳ thứ hai. Quy định giáo dục. Dưới thời ông Biden cầm quyền, một số đợt miễn nợ dành cho những khoản vay sinh viên đã được ban hành với số tiền cứu trợ lên đến 32 tỷ đô la. Số tiền đấy cũng được quyên góp cho những người đi vay có cơ sở giáo dục đã từng lầm lạc chính mình trong công việc bố trí chức vụ, cho những người đi vay bị tàn tật vĩnh viễn và cho những người đi vay đã từng đăng ký vào chương trình Miễn nợ Cho vay Dịch vụ Công cộng. Vào tháng 8 năm 2022, một kế hoạch khác đã được công bố với mục tiêu là để loại bỏ những khoản nợ vay cho sinh viên với số tiền khoảng 10,000 đô la cho những sinh viên đã tốt nghiệp và kiếm được dưới 125,000 đô la và cho những sinh viên đã kết hôn, kiếm được dưới 250,000 đô la. Những sinh viên chỉ kiếm được dưới 20,000 đô la thì sẽ bị miễn đối với những người vay Pell Grants, một chương trình cung cấp hỗ trợ dựa trên nhu cầu. Tuy nhiên vào tháng 6 năm 2023, kế hoạch này đã bị loại bỏ theo phán quyết của Tối cao Pháp viện trong "vụ kiện của Biden với Nebraska". Theo phán quyết, Đạo luật HEROES mà chính quyền Biden đã dựa vào để thẩm quyền không cho phép được miễn nợ một cách rộng rãi. Trong giai đoạn giáo dục tiểu học và trung học, một số tiểu bang đã ban hành những bộ luật hạn chế LGBT vào trong chương trình học, bộ luật phần lớn nói về những cải cách về chương trình giáo dục giới tính ở trường và loại bỏ những cuốn sách có liên quan đến chủ đề này ra khỏi thư viện của trường. Một đạo luật liên bang cũng có thể giải quyết những chủ đề tương tự là Đạo luật Ngăn chặn Tình dục hóa Trẻ em, được đề xuất bởi Mike Johnson vào năm 2022. Những người ủng hộ với bộ luật này cho rằng, những chủ đề liên quan đến giới tính và tình dục không phù hợp với môi trường học đường. Nhiều nhà phê bình bày tỏ mối lo ngại khi luật này có thể sẽ hạn chế quyền tự do ngôn luận và tạo nên phong trào chống LGBT trên toàn quốc. Do một số ứng viên của đảng Cộng hòa coi hệ thống giáo dục là chìa khoá để đắc cử trong chiến dịch nên nhiều tiểu bang đã thêm một điều luật nhằm để loại bỏ chương trình CRT, một chương trình được giảng dạy nhằm để tập trung xem xét về các vấn đề về chủng tộc. Những người ủng hộ điều luật này cho rằng, nó có thể sẽ thúc đẩy mối quan hệ bình đẳng giữa các học sinh hay những cuộc trò chuyện về chủng tộc đáng lẽ không nên cho vào môi trường học đường. Còn những người chỉ trích lại cho rằng, nó chỉ được tạo ra để che giấu đi mặt khuất trong lịch sử nước Mỹ cũng như đóng vai trò chỉ là luật ký ức để viết lại lịch sử. Bầu cử trái phép. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, Donald Trump vốn đã không chấp nhận thất bại trước Joe Biden và ông vẫn luôn viện dẫn những thông tin không xác thực về gian lận bầu cử. Các quan chức của Đảng Cộng hòa dưới chính quyền Trump và trong Quốc hội cũng đã ủng hộ các nỗ lực để lật ngược cuộc bầu cử. Nhiều chuyên gia an ninh đã cảnh báo rằng, các quan chức phủ luôn lấy tính hợp pháp của cuộc bầu cử năm 2020 và nó có thể cản trở cho quá trình bỏ phiếu hay phủ nhận kết quả bầu cử trong lần này. Sau cuộc tấn công tại Điện Capitol, giám đốc của FBI, ông Christopher A. Wray khẳng định về các hành động khủng bố cực hữu đã từng di căn trên khắp đất nước trong một thời gian dài và ông lo ngại rằng, mối đe dọa này sẽ không sớm biến mất. Vào tháng 8 năm 2022, Ali Alexander, thủ lĩnh của nhiều cuộc biểu tình trước cuộc tấn công ngày 6 tháng 1, đã tuyên bố sẽ trở lại Điện Capitol vào năm 2025. Nhiều cuộc thăm dò ý kiến đã chỉ ra rằng, đa số người Mỹ từ cả hai chính đảng đều tin về nền dân chủ đang gặp phải nhiều rủi ro tại đất nước này. Các cử tri thường trích dẫn nhiều nguồn đe dọa khác nhau nhằm để lật đổ nền dân chủ. Những người theo chủ nghĩa tự do thì lại tin về bên bảo thủ đang có âm mưu đe dọa đất nước bằng khuynh hướng chuyên quyền nhằm để lật đổ cuộc bầu cử năm 2020. Nhưng nhiều người bên phía bảo thủ lại tin về các đảng viên của Đảng Dân chủ đã gian lận trong nhiều cuộc bầu cử, và họ đang cố gắng để loại bỏ cựu tổng thống Trump một cách công bằng và cần thiết bằng phương pháp luận tội hay truy tố. Những vị cử tri của cả hai chính đảng đều hiểu rõ về tầm ảnh hưởng của đồng tiền trong chính trị nên khả năng xảy ra bạo lực và tình trạng tham nhũng của các quan chức nhà nước sẽ là một trong nhiều yếu tố làm suy giảm cho nền dân chủ Mỹ. Bạo lực súng đạn. Trong một cuộc hội nghị của Hiệp hội Súng trường Quốc gia tại Indianapolis vào ngày 14 tháng 4 năm 2023. Cựu tổng thống Donald Trump cùng với các ứng viên của Đảng Cộng hòa đã bày tỏ sự ủng hộ đối với quyền lợi sử dụng súng. Tuy nhiên, sau hàng loạt các vụ xả súng gần đây ở Nashville và Louisville, các quan chức của đảng Dân chủ đã chỉ trích sự chấp thuận của các ứng viên GOP trước NRA, họ lo ngại rằng, súng sẽ trở thành một vấn đề không nhỏ trong suốt cuộc bầu cử 2024. Tổng thống Joe Biden đã yêu cầu Quốc hội ban lệnh cấm vũ khí tấn công sau vụ xả súng trường học tại Nashville. Chính sách đối ngoại. Trong thời gian Nga xâm lược Ukraina, Hoa Kỳ đã cung cấp rất nhiều viện trợ nhân đạo và quân sự cho Ukraina. Nhiều chính trị gia từ đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa đã bày tỏ ủng hộ kế hoạch này, cho rằng Hoa Kỳ phải có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nền dân chủ và chống lại sự xâm lược của Nga. Tuy nhiên, một số ứng cử viên như Ron DeSantis và Donald Trump lại cho rằng, việc viện trợ cho Ukraina và ngăn chặn sự can thiệp của Nga không thể là một lợi ích đáng kể đối với Hoa Kỳ, họ khuyên kế hoạch này nên bị hạn chế nhiều hơn. Vivek Ramaswamy ủng hộ việc chấm dứt viện trợ quân sự của Mỹ cho Ukraina và sẽ chấp nhận các vùng lãnh thổ bị Nga sáp nhập. Vào đầu tháng 2 năm 2023, một chiếc khinh khí cầu tầm cao do Trung Quốc vận hành được phát hiện đang bay qua không phận của Hoa Kỳ, nó đã bị bắn hạ ngay lập tức sau vài ngày quan sát. Toàn bộ những hạ nghị sĩ sau đó đã bỏ phiếu theo nghị quyết nhằm lên án Trung Quốc sau vụ việc. Có tổng cộng 34 trên 50 tiểu bang đã ban hành lệnh cấm sử dụng TikTok trên các thiết bị di động của chính phủ hay nhà nước, đa số điều luật do các chính trị gia của Đảng Cộng hòa ban hành. Nhiều quan chức dân cử bày tỏ mối lo ngại về khả năng Trung Quốc sẽ xâm lược Đài Loan trong tương lai gần và cho rằng, Hoa Kỳ nên tiếp tục thể hiện sức mạnh quân sự và sự tự lực. Những quan chức khác lại lập luận nên giảm ngân sách quân sự và phải tôn trọng chính sách Một Trung Quốc bằng cách giảm sự căng thẳng và hành vi gây hấn có thể xảy ra giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc. Trong những năm gần đây, các chính trị gia trong các cơ quan lập pháp từ phía bảo thủ đã đưa ra một số lượng lớn các dự luật nhằm hạn chế quyền lợi với những người LGBT, đặc biệt là người chuyển giới. Các dự luật này có bao gồm nhiều biện pháp như hạn chế sử dụng phòng tắm, cấm chăm sóc phân định giới tính (đặc biệt là trẻ vị thành niên), ủng hộ các chương trình chống LGBT, phụ nữ chuyển giới nên hạn chế tham gia các môn thể thao nữ, ban hành lệnh cấm đối với cải trang giới tính, và lệnh cấm sách có liên quan đến LGBT. Một số điều trong số bộ đã bị hủy bỏ tại tòa án, các chính trị gia bảo thủ sau đó đã từ bỏ lập trường và cho rằng hành động đó thể hiện sự vi phạm của chính phủ. Họ đã truyền bá những thuyết âm mưu của LGBT và kêu gọi tẩy chay các công ty có ủng hộ với niềm tự hào LGBT. Trong một thông điệp tranh cử vào tháng 2 năm 2023, Donald Trump đã tuyên bố nếu ông tái đắc cử, ông sẽ ban hành một bộ luật liên bang mà chỉ có hai giới tính được công nhận, ông còn khẳng định chuyển giới chỉ là một khái niệm do "phái tả cấp tiến" tạo nên và ông dự định sẽ ban hành thêm hàng chục chính sách nhắm vào người chuyển giới. Ron DeSantis đã ký vào một số bộ luật chống LGBT với tư cách là Thống đốc bang Florida, quyết định của ông sau đó đã gây ra tranh cãi khi ông ủng hộ các phong trào "Nói Không với đồng tính". Vài ngày trước khi tuyên bố tranh cử tổng thống, DeSantis đã ký một loạt các dự luật bao gồm cả luật cấm chăm sóc sức khỏe theo giới tính và phẫu thuật chuyển giới cho trẻ vị thành niên và giới hạn sử dụng các đại từ nhân xưng về giới tính trong các trường công lập. Vào ngày 25 tháng 4 năm 2023, Tổng thống Joe Biden cùng với Phó Tổng thống Kamala Harris đã chính thức tuyên bố tái tranh cử cho cuộc bầu cử năm 2024. Vào cuối năm 2021, vì Biden bị cho là xếp hạng tín nhiệm thấp khiến cho nhiều người dự đoán rằng ông sẽ không tái tranh cử, một vài đảng viên nổi tiếng từ Đảng Dân chủ đã công khai tuyên bố Biden sẽ không tái tranh cử. Một số người đã khuyên ông không nên tái tranh cử bởi vì họ lo ngại về tuổi tác của ông khi ông là tổng thống lớn tuổi nhất đảm nhận chức vụ này ở tuổi 78 và vào cuối nhiệm kỳ đầu tiên thì ông sẽ lên 82 tuổi. Nếu tái đắc cử một lần nữa thì số tuổi của ông sẽ tăng lên đến 86 tuổi vào cuối nhiệm kỳ thứ hai. Trong một cuộc thăm dò của NBC, gần 70% số người Mỹ tin rằng Biden sẽ không tái đắc cử tổng thống. Trong số đó, gần 50% chọn là do độ tuổi của ông. Một cuộc thăm dò toàn quốc của "FiveThirtyEight", tỷ lệ tán thành hiện tại của Biden chỉ là 41% trong khi 55% người Mỹ không tán thành cho Biden lên làm tổng thống. Nhưng Biden cũng có thể sẽ phải đối mặt với thách thức chính từ một thành viên thuộc phe cấp tiến trong Đảng Dân chủ. Trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ năm 2022, Đảng Dân chủ đã vượt xa độ kỳ vọng khiến nhiều người tin về Biden sẽ có nhiều cơ hội hơn để ra tranh cử và giành được đề cử của đảng. Cho đến nay, đối thủ đáng gờm nhất của Biden chính là Robert F. Kennedy Jr.. Ông là một nhà luật sư môi trường, người sáng lập của nhiều tổ chức liên minh đồng thời là một nhà hoạt động phòng chống vắc-xin và cũng là người phản đối kiểm duyệt quyền tự do ngôn luận của chính phủ và tư nhân. Kể từ tháng 7 năm 2023, lượt ủng hộ của Kennedy vẫn tiếp tục duy trì ở mức từ 10 đến 15% trong các cuộc thăm dò trung bình của RealClear Politics. Mặc dù Kennedy là một đảng viên Dân chủ suốt đời nhưng tỷ lệ chấp thuận của ông trong Đảng Dân chủ lại thấp hơn đáng kể so với Đảng Cộng hòa. Trong một cuộc thăm dò của "The New York Times" kết hợp với trường cao đẳng Sienna, Kennedy có tỷ lệ không chấp thuận là 31% trong Đảng Dân chủ trong khi ông có tỷ lệ chấp thuận là 36% trong Đảng Cộng hòa. Trong cuộc bầu cử năm 2020, tổng thống đương nhiệm lúc bấy giờ là ông Donald Trump đã bị Biden đánh bại khiến ông sẽ phải tái tranh cử vào năm 2024. Điều này đã khiến ông trở thành cựu tổng thống thứ năm tranh cử nhiệm kỳ thứ hai không liên tiếp, nếu ông đắc cử thì ông sẽ trở thành vị tổng thống thứ hai có hai nhiệm kỳ không liên tiếp chỉ đứng sau Grover Cleveland. Vào ngày 15 tháng 11 năm 2022, ông đã nộp đơn ứng cử lên Ủy ban Bầu cử Liên bang, đồng thời ông cũng công bố về chiến dịch tái tranh cử của mình trong một bài phát biểu tại Mar-a-Lago. Sau khi công bố chiến dịch, ông được coi là người đầu tiên của Đảng Cộng hòa làm ứng viên tổng thống. Ông cũng mạnh dạn tuyên bố nếu ông tái tranh cử và giành được ngôi vị tổng thống của Đảng Cộng hòa thì cựu phó tổng thống Mike Pence sẽ không còn là người bạn tranh cử của ông nữa. Đến cuối tháng 3 năm 2023, Trump đã bị Tòa án tối cao New York truy tố vì nghi có liên quan đến những khoản tiền bịt miệng cho nữ diễn viên phim người lớn Stormy Daniels. Vào giữa tháng 6, Trump một lần nữa đã bị Tòa án S.D. Fl. truy tố về việc ông xử lý các tài liệu được phân loại có chứa những thông tin nhạy cảm đối với an ninh quốc gia. Tuy nhiên, Trump đã từ chối nhận tội đối với toàn bộ cáo buộc trong những cáo trạng này. Thống đốc Florida Ron DeSantis được coi sẽ chính là mối lo ngại lớn đối với ông Trump trong Đảng Cộng hòa khi ông có nhiều phiếu ủng hộ hơn và có quá trình vận động tranh cử nhiều hơn ông Trump. Vào ngày 24 tháng 5 năm 2023, trong một cuộc đàm luận trực tuyến với giám đốc điều hành Twitter là ông Elon Musk, DeSantis đã công bố thông tin ứng cử của mình trên Twitter và kèm thêm một lời hứa sẽ dẫn dắt cho nước Mỹ vĩ đại trở lại. Chiến dịch tranh cử của ông sau đó đã huy động được hơn 1 triệu đô la chỉ trong vài giờ đầu tiên. Phát biểu trên chương trình "Fox Friends", ông tuyên bố sẽ "tiêu diệt chủ nghĩa cánh tả" tại Hoa Kỳ. Vào tháng 6 năm 2023, trong cuộc bỏ phiếu toàn quốc của trang FiveThirtyEight đã tiết lộ số điểm trung bình từ các cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Cộng hòa cho thấy Trump đang dẫn trước DeSantis 33 điểm với tỷ lệ là 54% với 21% rồi đến 39 điểm với tỷ lệ là 52% với 15%. Ngày 28/10 (giờ địa phương), cựu Phó Tổng thống Mỹ Mike Pence bất ngờ tuyên bố dừng chiến dịch tranh cử tổng thống của mình khi chiến dịch tranh cử của ông gặp nhiều khó khăn về tài chinh.
Nguyễn Công Viên (ngày 12 tháng 6 năm 1914 – ngày 17 tháng 12 năm 2006) là kỹ sư nông nghiệp và nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức Tổng trưởng Bộ Canh nông Quốc gia Việt Nam và Bộ trưởng Bộ Canh nông Việt Nam Cộng hòa, rồi về sau làm Công sứ Việt Nam Cộng hòa tại Trung Hoa Dân Quốc. Nguyễn Công Viên sinh ngày 12 tháng 6 năm 1914, quê quán Nam Định miền Bắc Việt Nam:654 (có thuyết nói là Ninh Bình). Ông tốt nghiệp chuyên ngành nông học rồi ra trường làm kỹ sư nông nghiệp.:654 Năm 1955, ông trở thành Tổng trưởng Bộ Canh nông Quốc gia Việt Nam, sau cuộc trưng cầu dân ý cùng năm, miền Nam Việt Nam thực hiện chính thể cộng hòa và đổi tên thành Việt Nam Cộng hòa. Trong ba năm đầu thời Đệ Nhất Cộng hòa, Tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn để cho ông giữ nguyên chức Bộ trưởng Bộ Canh nông phục vụ tân chính phủ. Năm 1958, ông được chính phủ bổ nhiệm làm Công sứ Việt Nam Cộng hòa tại Trung Hoa Dân Quốc cho đến năm 1964 thì từ chức để Đại sứ Phạm Xuân Chiểu lên thay. Ông qua đời ở Fairfax, Virginia, Mỹ vào ngày 17 tháng 12 năm 2006, và được chôn cất tại Công viên Tưởng niệm Fairfax.
Nguyễn Bá Lương (ngày 21 tháng 1 năm 1902 – ngày 11 tháng 5 năm 1992) là kỹ sư và chính khách Việt Nam Cộng hòa, từng là dân biểu Hạ nghị viện Việt Nam Cộng hòa từ năm 1967 cho đến khi Sài Gòn thất thủ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông cũng từng là Chủ tịch thứ nhất Hạ nghị viện Việt Nam Cộng hòa từ năm 1967 đến năm 1971. Nguyễn Bá Lương chào đời ngày 21 tháng 1 năm 1902 tại huyện Cao Lãnh, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương. Trước khi tham gia chính trị, ông chỉ là viên chức ngành bưu điện Nam Kỳ thuộc Pháp. Về sau lên làm tỉnh trưởng tỉnh Phước Long. Tháng 1 năm 1968 sau khi được bầu làm Chủ tịch Hạ nghị viện, trong bài phát biểu đầu tiên trước Hạ nghị viện, ông nhấn mạnh việc bầu cử Hạ nghị viện là một bước ngoặt đánh dấu sự ra đời của nền Đệ Nhị Cộng hòa. Ông còn nói thêm rằng Hạ nghị viện nên hợp tác chặt chẽ với Thượng nghị viện để điều chỉnh các nhánh hành pháp và tư pháp của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Sau bài phát biểu của Tổng thống Thiệu trước phiên họp chung của Quốc hội Việt Nam Cộng hòa vào ngày 2 tháng 11 năm 1968, Nguyễn Bá Lương và cùng với các nhà lập pháp khác đã tuần hành đến Dinh Độc Lập yêu cầu Thiệu và Phó Tổng thống Kỳ trả lời về tương lai của Việt Nam Cộng hòa sẽ ra sao nếu người Mỹ bỏ rơi họ. Năm 1969 trong một chuyến đi sang thăm Hàn Quốc, đích thân Tổng thống Park Chung-hee đã trao tặng Huân chương Công trạng Ngoại giao của Hàn Quốc cho ông nhằm biểu thị tình hữu nghị giữa hai quốc gia. Ngày 23 tháng 4 năm 1970, Nguyễn Bá Lương gửi thư cho Chủ tịch Quốc hội kiêm Quyền Quốc trưởng Campuchia Cheng Heng và Thủ tướng Campuchia Lon Nol đề nghị có biện pháp thích hợp để bảo vệ tính mạng và tài sản của kiều bào Việt Nam đang sinh sống tại Campuchia. Ông và các dân biểu bày tỏ: "Hơn ai hết, họ rất đau buồn trước thông tin tính mạng và tài sản của đông đảo kiều dân Việt Nam bị thiệt hại nặng nề". Ngày 30 tháng 5 năm 1970, Nguyễn Bá Lương và các thành viên khác trong ban lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa đến tham dự tang lễ của cố Quốc trưởng Phan Khắc Sửu tại Sài Gòn. Ông bày tỏ sự đau buồn sâu sắc trước sự ra đi của Quốc trưởng và ca ngợi Sửu là một nhà cách mạng vĩ đại. Ngày 14 tháng 1 năm 1971, Nguyễn Bá Lương dẫn đầu một phái đoàn gồm mười thành viên Quốc hội đến Đài Bắc trong chuyến thăm kéo dài 5 ngày. Khi đến sân bay Đào Viên, ông bày tỏ với các phóng viên rằng mối quan hệ giữa Trung Hoa Dân Quốc và Việt Nam Cộng hòa rất thân thiết, hai quốc gia có nhiều điểm tương đồng về văn hóa và phong tục. Ông hy vọng chuyến thăm Trung Quốc lần này sẽ thúc đẩy hơn nữa quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước. Nguyễn Bá Lương đã kết hôn và có tới năm người con. Bản thân ông là người tu tập theo đạo Phật kèm thêm một vài khía cạnh của Đạo giáo và Nho giáo. Năm 1969, ông tuyên bố tái hôn với một góa phụ lúc đó đã 48 tuổi làm dấy lên một cuộc thảo luận sôi nổi ở Sài Gòn và bị một số nghị sĩ khác phản đối.
Francisco de Asís của Tây Ban Nha Francisco de Asís của Tây Ban Nha (Francisco de Asís María Fernando de Borbón y Borbón-Dos Sicilias; 13 tháng 5 năm 1822 – 17 tháng 4 năm 1902), Công tước xứ Cádiz, là Vương quân Tây Ban Nha với tư cách là chồng của Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha từ ngày 10 tháng 10 1846 cho đến khi Isabel II bị soán ngôi ngày 30 tháng 9 năm 1868. Francisco và vợ là "double cousin" . Francisco và Isabel II có với nhau mười hai người con, trong số đó có Quốc vương Alfonso XII. Năm 1868, Isabel II bị phế truất trong Cách mạng Vinh quang, nhưng chế độ quân chủ được phục hồi dưới thời con trai của họ là Alfonso XII vào năm 1874. Sau khi con trai lên ngôi, Francisco trở thành "king father" . Francisco de Asís sinh ra tại Aranjuez, Tây Ban Nha, là con trai thứ hai của Vương tử Francisco de Paula của Tây Ban Nha và Vương nữ Luisa Carlotta của Hai Sicilie. Francisco được đặt tên theo Thánh Francisco thành Assisi (Phanxicô thành Assisi) . Hôn nhân và con cái. Ngày 10 tháng 10 năm 1846, Francisco de Asís kết hôn với người chị em họ Isabel II của Tây Ban Nha. Có bằng chứng cho thấy rằng Isabel thà kết hôn với em trai của Francisco là Enrique, Công tước xứ Sevilla, và phàn nàn nặng nề về thói hư tật xấu của chồng sau đêm đầu tiên bên nhau. Thông qua cuộc hôn nhân, Francisco và Isabel II có với nhau mười hai người con, trong đó năm người sống qua tuổi trưởng thành: Cuộc sống sau này. Từ năm 1864, Francisco de Asís đảm nhiệm vai trò chủ tịch của Hội đồng Cơ mật Tây Ban Nha ("Consejo del Reino"). Năm 1868, Francisco cùng Isabel II sống lưu vong ở Pháp và lấy tước hiệu ẩn danh là "Bá tước xứ Moratalla". Ngày 25 tháng 6 năm 1870, Isabel II thoái vị để ủng hộ con trai của hai vợ chồng là Alfonso XII — người đã lên ngôi năm 1874 sau khi chế độ quân chủ được phục hồi. Trong khoảng thời gian đó, Francisco de Asís và Isabel II đã ly thân và dần trở thành bạn tốt của nhau. Năm 1881, Francisco de Asís đến cư trú tại lâu đài Épinay-sur-Seine (hiện là tòa thị chính). Francisco qua đời ở đó vào năm 1902, dưới sự chứng kiến của Isabel II và hai con gái, Isabel và Eulalia. Tước hiệu, kính xưng và huân chương. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vương quốc Phổ: Bậc Hiệp sĩ của Huân chương Chim ưng Đen, cùng vòng cổ, "8 tháng 3 năm 1853" Bậc Grand Cross của Huân chương Thánh Charles, "7 tháng 9 năm 1865" Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Thụy Điển-Na Uy: Bậc Hiệp sĩ của Huân chương Luyến thần, cùng vòng cổ, "3 tháng 5 năm 1853" Bậc Grand Cross của Huân chương Vương quyền Württemberg, "1866" Bậc Grand Cross của Huân chương Ludwig, "4 tháng 9 năm 1860" Bậc Hiệp sĩ của Huân chương Voi, "21 tháng 5 năm 1848" Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vương quốc Pháp: Bậc Grand Cross của Quân đoàn Danh dự, "Tháng 10 năm 1846" Bậc Grand Cordon của Huân chương của Léopold (quân đội), "12 tháng 5 năm 1863" María Isabel Francisca de Asís của Tây Ban Nha Alfonso XII của Tây Ban Nha María del Pilar của Tây Ban Nha María de la Paz của Tây Ban Nha María Eulalia của Tây Ban Nha
Brenz an der Brenz Brenz an der Brenz là một ngôi làng nằm ở thị xã Sontheim, thuộc huyện Heidenheim, bang Baden-Württemberg của Đức. Đây từng là một ngôi làng độc lập cho đến khi sát nhập vào Sontheim. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Châu Văn Đặng (1917–1959) là một nhà cách mạng Việt Nam. Châu Văn Đặng sinh ra tại làng Long Thạnh, quận Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Tháng 2 năm 1936, ông bắt đầu tham gia phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ do Đảng Cộng sản Đông Dương phát động. Tháng 5 năm 1937, ông được kết nạp vào Đảng, gia nhập chi bộ Phong Thạnh do Nguyễn Văn Uông làm Bí thư. Tháng 12 năm 1938, Quận ủy Giá Rai được thành lập gồm năm thành viên: Bí thư Quận ủy Tạ Tài Lợi, Phó Bí thư Trần Văn Sớm, Thường vụ Nguyễn Văn Uông và hai Ủy viên Châu Văn Đặng, La Bích Sơn. Năm 1940, ông bị chính quyền thực dân bắt giữ và tù đày. Tháng 3 năm 1945, ông thoát khỏi nhà tù, trở về lãnh đạo chi bộ Long Thạnh và Quận ủy Giá Rai. Tháng 2 năm 1946, quân Pháp đánh chiếm huyện Giá Rai, ông đã chủ trương rút lui xây dựng lực lượng, trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh như đồn Rau Dừa, Hộ Phòng - Gành Hào, Gò Muồng (1947)... Cuối năm 1947, ông được bầu làm Phó Bí thư Huyện ủy Giá Rai. Tháng 3 năm 1948, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu bầu ra Tỉnh ủy gồm 15 ủy viên: Bí thư Trần Văn Sớm, Phó Bí thư Dương Kỳ Hiệp, Ủy viên Thường vụ Lê Văn Út, Châu Văn Đặng, Nguyễn Khắc Cung. Ông tham gia Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy, phụ trách tuyên huấn miền Tây và thành lập trường Đảng của tỉnh, rồi Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy, Liên Tỉnh ủy viên Liên tỉnh ủy Hậu Giang. Tháng 10 năm 1954, Bí thư Tỉnh ủy Võ Văn Kiệt thay mặt Xứ ủy Nam Bộ và Liên Tỉnh ủy chỉ định Tỉnh ủy bí mật của tỉnh Bạc Liêu, do Châu Văn Đặng làm Bí thư, Nguyễn Sấn làm Phó Bí thư. Năm 1955, ông đã lãnh đạo Tỉnh ủy và người dân phá vỡ âm mưu lợi dụng cộng đồng Thiên Chúa giáo nhằm "xẻ ruột rừng U Minh" (thông qua việc xây dựng khu dinh điền Công giáo ở Thới Bình) của chính quyền Sài Gòn. Cuối năm 1956, để phù hợp với tình hình mới (chính quyền Sài Gòn xóa bỏ tỉnh Bạc Liêu thành lập tỉnh Ba Xuyên và An Xuyên), Tỉnh ủy Bạc Liêu giải thể, một bộ phận chuyển sang Tỉnh ủy Sóc Trăng, một bộ phận sang Tỉnh ủy Cà Mau mới được thành lập. Ông được điều về Liên Tỉnh ủy Hậu Giang, làm Phó Bí thư liên Tỉnh ủy kiêm Giám đốc trường Đảng liên Tỉnh ủy Hậu Giang. Ngày 10 tháng 8 năm 1959, ông qua đời ở trường vì bệnh nặng. "Từ điển địa chí Bạc Liêu" ghi là ngày 1 tháng 4. Tên của ông được đặt cho một con đường ở thành phố Bạc Liêu (Bạc Liêu) và một con đường ở huyện Năm Căn (Cà Mau). Ngày 20 tháng 1 năm 2013, trường Chính trị tỉnh Bạc Liêu được đổi tên thành trường Chính trị Châu Văn Đặng.
Mitsubishi T-2 là một loại máy bay huấn luyện phản lực siêu thanh do Mitsubishi thiết kế sản xuất và được sử dụng bởi Lực lượng Phòng vệ Trên không Nhật Bản (JASDF). Đây là mẫu máy bay đầu tiên do Nhật Bản thiết kế có thể phá vỡ rào cản âm thanh. Nó là cơ sở nền tảng để phát triển máy bay chiến đấu Mitsubishi F-1. Tất cả những chiếc T-2 đã ngừng hoạt động và loại khỏi biên chế vào năm 2006. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản không có máy bay chiến đấu phản lực hiện đại cho mục đích phòng thủ lãnh thổ quốc gia. Hai thập kỷ sau đó, Lực lượng Phòng vệ Trên không bắt đầu xem xét việc phát triển một loại máy bay phản lực siêu thanh có tên tạm thời là "TX". Nhật Bản nhận ra rằng máy bay huấn luyện phản lực cận âm Fuji T-1 đã không đáp ứng được khả năng huấn luyện cho các phi công thực tập cách xử lý phức tạp và khó khăn trên những chiếc tiêm kích có tốc độ Mach 2 như Lockheed F-104J Starfighter và McDonnell Douglas F-4EJ Phantom. Do đó, năm 1964–1965, JASDF bắt đầu nghiên cứu một loại máy bay huấn luyện mới tên TX, được kỳ vọng cũng sẽ tạo cơ sở nền tảng cho loại máy bay cường kích một chỗ ngồi trong tương lai là SF-X. Nhật Bản cũng cân nhắc mua máy bay nước ngoài thay vì phát triển máy bay mới khi Hoa Kỳ chào bán Northrop T-38 Talon và tập đoàn Anh/Pháp SEPECAT mời chào SEPECAT Jaguar. Nhật đã xem xét cả hai loại máy bay này một cách cẩn thận và cố gắng đàm phán để được cấp phép sản xuất Jaguar, nhưng những kế hoạch này thất bại, có thể là do chủ nghĩa dân tộc và các khoản thanh toán tiền bản quyền cao mà SEPECAT yêu cầu. Cuối cùng, Nhật quyết định tự thiết kế máy bay gần giống với Jaguar để đáp ứng nhu cầu của riêng mình. Năm 1967, các công ty hàng không Nhật Bản gồm có Fuji, Kawasaki, Mitsubishi từng gửi đề xuất thiết kế nhận thầu dự án. Tháng 9 năm 1967, dưới sự chỉ đạo của nhà thiết kế chính là tiến sĩ Kenji Ikeda, thiết kế của Mitsubishi đã được chọn. Hợp đồng chính thức phát triển XT-2 được ký kết vào ngày 30 tháng 3 năm 1968, với Mitsubishi là nhà thầu chính và Fuji là nhà thầu phụ chính. Một số hợp đồng phụ với các công ty hàng không vũ trụ và các nhà sản xuất hàng không nhỏ khác cũng được ký kết. Đến tháng 3 năm 1969, việc thiết kế hoàn thành, nguyên mẫu XT-2 được đưa ra thị trường vào ngày 28 tháng 4 năm 1971, chuyến bay đầu tiên diễn ra ngày 20 tháng 7 năm 1971, giới thiệu ra công chúng năm 1975. Ngoài XT-2 ra còn có thêm 3 nguyên mẫu nữa, và trở thành dòng máy bay đầu tiên do Nhật Bản thiết kế có thể bay đạt vận tốc phá vỡ rào cản âm thanh. Trong số 4 nguyên mẫu thì có 2 nguyên mẫu trang bị vũ khí và 2 nguyên mẫu không vũ trang. Tổng cộng có 90 chiếc T-2 được sản xuất, bao gồm 28 chiếc T-2(Z) không trang bị vũ khí, chữ "Z" viết tắt của ""Zenkigata" (nghĩa là mẫu giai đoạn đầu)"; và 62 chiếc T-2(K) có trang bị vũ khí, chữ "K" viết tắt của ""Kokigata" (mẫu giai đoạn sau)"; một số nguồn dịch tên của các biến thể này lần lượt là T-2A và T-2B. Thêm hai chiếc T-2(Z) nữa được chế tạo nhưng đã bị sửa đổi cho chương trình máy bay chiến đấu tấn công S-FX / F-1. Chiếc T-2 cuối cùng xuất xưởng khỏi dây chuyền lắp ráp vào năm 1988. T-2 và SEPECAT Jaguar có cấu hình tổng thể và một số chi tiết giống nhau. Đặc biệt, T-2 còn được trang bị hai động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt Rolls-Royce Turbomeca Adour, đây cũng là động cơ sử dụng cho Jaguar. Rolls-Royce Turbomeca Adour của T-2 được tập đoàn Ishikawajima-Harima Heavy Industries chế tạo theo giấy phép với tên gọi "TF40-IHI-801A". Mặc dù giống nhau nhưng T-2 không phải là bản sao của Jaguar vì có thể phân biệt được hai máy bay này khi nhìn thoáng qua, T-2 có hình dáng giống phi tiêu khi nó dài hơn đáng kể và có sải cánh ngắn hơn rõ rệt so với Jaguar. T-2 cũng có nhiều điểm khác biệt về chi tiết. Ví dụ, vì JASDF không có yêu cầu máy bay phải đáp trên địa hình gồ ghề nên T-2 có thiết bị hạ cánh là một bánh xe đáp thông thường chứ không phải là dạng bánh đáp hạng nặng đặc biệt của Jaguar. T-2 được chế tạo chủ yếu bằng hợp kim nhôm, mặc dù có một số đặc điểm sử dụng titan chọn lọc. Cánh chính thuộc dạng cánh cao có góc quét mép trước là 42,5°; góc tạo thành giữa độ nghiêng xuống của cánh và mặt phẳng đuôi là 9° (anhedral). Các đặc điểm đáng chú ý là có "phần mở rộng ở gốc mép cánh trước (leading edge root extensions - LERX)" và các thanh gờ hỗ trợ điều khiển khí động lực học trên mép cánh trước (leading edge slat) dài bằng sải cánh, với phần mở rộng nhô ra trên thanh gờ (răng chó - dogtooth) nằm ở phía ngoài, mặc dù răng chó không chia tách thanh gờ. Có một cánh tà (flap) đơn dài ¾ sải cánh ở mép cánh sau, không giống như Jaguar là cánh tà dài bằng sải cánh và bị tách đôi có rãnh, nhưng T-2 lại có hai tấm chắn luồng không khí (spoiler) gắn trên mỗi cánh chính ngay phía trước cánh tà để kiểm soát khí động lực bay, thay vì là dạng cánh tà kiểm soát bên (aileron) như của Jaguar. Không có thùng nhiên liệu nằm bên trong cánh T-2. Cụm đuôi là loại thông thường, có các cánh đuôi chuyển động toàn phần dạng tấm, góc tạo thành giữa độ nghiêng xuống của cánh đuôi và mặt phẳng đuôi là 15° (anhedral). Các vây bụng giữ cho cánh đuôi thoát khỏi khí thải của động cơ trong khi vẫn cho phép chúng duy trì hiệu quả trong quá trình rửa cánh. Giống như Jaguar, có một vây bụng cố định ở phía dưới mỗi ống xả khí thải, và có hai phanh hơi vận hành bằng thủy lực được lắp ngay phía trước mỗi vây bụng. Mỗi động cơ Adour cung cấp lực đẩy khô tối đa là 22,75 kN (5.115 lbf) và lực đẩy khi đốt nhiên liệu phụ trội tăng áp (đốt sau) là 32,49 kN (7.305 lbf). TF40-IHI-801A không có tính năng "hâm nóng van tiết lưu một phần" như của phiên bản Adour 102, đây là một tính năng giữ an toàn khi tắt động cơ. T-2 chưa bao giờ được tái trang bị với các biến thể động cơ Adour mạnh hơn, trong khi Jaguar sau cùng được tái trang bị Adour 104, việc này khiến cho T-2 có phần kém hiệu quả hơn. Cửa hút không khí có hình chữ nhật cố định, gắn kết hợp với tấm kim loại chia tách giữa cửa hút và thân máy bay, cùng với một bộ cửa hút khí phụ tải bằng lò xo phía sau môi nạp để tăng luồng không khí khi máy bay chạy trên mặt đất. Có những cánh cửa lớn bên dưới thân máy bay giúp dễ dàng tiếp cận với động cơ để bảo dưỡng. Thiết bị hạ cánh ba bánh của T-2 đều là bánh đơn, với bánh lái ở dưới mũi máy bay hướng về phía sau, còn bánh chính chịu tải hướng về phía trước vào thân máy bay, xoay 90° để nằm phẳng và tích hợp hệ thống kiểm soát chống trượt. Bánh lái hơi lệch về bên phải, với một cánh gió nhỏ thẳng đứng cố định được gắn phía trước nó để bù cho xu hướng gây ra hiện tượng lệch hướng bánh lái kéo dài. Một móc hãm tốc độ được lắp dưới đuôi phía sau ống xả động cơ. Kíp lái và an toàn. Kíp lái có 2 người gồm học viên ngồi phía trước và người hướng dẫn bay ngồi phía sau trên vị trí cao hơn để có tầm nhìn tốt về phía trước. Có một tấm chắn gió ở giữa hai buồng lái. Kíp lái ngồi trên ghế phóng Weber ES-7J zero-zero (độ cao bằng không, tốc độ bằng không) do Daiseru chế tạo. Những chiếc ghế phóng có thể phóng xuyên qua mái che buồng lái được sửa đổi đặc biệt để đảm bảo phóng an toàn ngay cả khi mái che buồng lái không bị thổi bay. Ghế sau khi phóng cũng có thể rải một đám mây các "mảnh nhỏ" phản xạ radar giúp bộ phận điều khiển không lưu dưới đất phát hiện ra nơi xảy ra vụ phóng và chỉ đạo các đội tìm kiếm cứu hộ đến khu vực thích hợp. Hệ thống điện tử hàng không. Hệ thống điện tử tiêu chuẩn của T-2(K) gồm một radar tìm kiếm và định vị Mitsubishi Electric J/AWG-11 gắn ở mũi máy bay; màn hình hiển thị tích hợp trên nón phi công Thomson-CSF (HUD) của Pháp, được sản xuất theo giấy phép của Mitsubishi Electric; một hệ thống tham chiếu và dẫn hướng tự động Lear-Siegler 501OBL (AHRS); đài radio tần số cực cao (UHF), hệ thống nhận dạng bạn hay thù (IFF) và hệ thống thu định vị đèn hiệu vô tuyến TACAN, tất cả đều được sản xuất tại Nhật Bản. Radar J/AWG-11 về cơ bản là một thành viên trong dòng họ radar trang bị cho F-4 Phantom của Hoa Kỳ, rất giống với AN/AWG-11 trên Phantom FG.1 của Hải quân Hoàng gia Anh. T-2(Z) trang bị thiếu radar, mặc dù rõ ràng hệ thống điện tử của nó giống với T-2(K). Lịch sử hoạt động. XT-2 đổi tên thành T-2 vào ngày 29 tháng 8 năm 1973, chính thức đi vào hoạt động năm 1975, cho phép loại bỏ North American F-86 Sabre khỏi vai trò huấn luyện nâng cao. Đội biểu diễn nhào lộn trên không "Blue Impulse" của JASDF được tái trang bị T-2 vào mùa đông năm 1981–1982. Những chiếc T-2 đã từng được sử dụng bởi phi đội đối phương (phi đội được huấn luyện để hoạt động như một lực lượng đối lập trong diễn tập chiến tranh quân sự), về sau thay thế bằng McDonnell Douglas F-15 Eagle. Những chiếc T-2 cũng được sử dụng làm máy bay huấn luyện chuyển đổi cho các phi đội lái Mitsubishi F-1. T-2 đã ngừng hoạt động toàn bộ vào năm 2006 và thay thế bằng máy bay huấn luyện nâng cao Kawasaki T-4. Thông số kỹ thuật (T-2(K)). Máy bay có sự phát triển liên quan Máy bay có vai trò, cấu hình và thời đại tương đương
Niklas Beck (sinh ngày 25 tháng 3 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá Liechtenstein hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Vaduz II và Đội tuyển bóng đá quốc gia Liechtenstein. Sự nghiệp thi đấu quốc tế. Beck ra mắt quốc tế cho Liechtenstein vào ngày 25 tháng 3 năm 2021 trong trận đấu thuộc khuôn khổ Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2022 gặp Armenia. "Tính đến 26 tháng 3 năm 2023"
Geir Flaaen Ramnefjell (sinh ngày 8 tháng 6 năm 1981) là một nhà báo người Na Uy, từng là biên tập viên mảng chính trị của tờ "Dagbladet" từ năm 2016. Trước đây, anh từng là biên tập viên mảng văn hóa của tờ báo từ năm 2011 đến năm 2016. Ramnefjell bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một nhà báo của tờ "Romerikes Blad" và bắt đầu làm việc cho "Dagbladet" từ năm 2005. Năm 2017, anh đã giành được Giải SKUP cho bài báo chỉ trích về các vấn đề tài chính của gia đình hoàng gia Na Uy. Anh là con trai của nhà báo và biên tập viên lâu năm của tờ "Dagbladet" Erling Ramnefjell.
Timothé Rupil (sinh ngày 12 tháng 6 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá người Luxembourg hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Mainz 05 và Đội tuyển bóng đá quốc gia Luxembourg. Sự nghiệp thi đấu quốc tế. Rupil ra mắt quốc tế cho Luxembourg vào ngày 7 tháng 10 năm 2020 trong trận giao hữu gặp Liechtenstein, kết thúc với tỷ số 2-1 nghiêng về Liechtenstein. "Tính đến 25 tháng 3 năm 2023"
Emma Lazarus (22 tháng 7 năm 1849 - 19 tháng 11 năm 1887) là một tác giả người Mỹ chuyên viết thơ, văn xuôi và dịch thuật, đồng thời là một nhà hoạt động đấu tranh vì người Do Thái và chủ nghĩa Gruzia. Bà được nhớ đến vì đã viết bài thơ " The New Colossus ", được lấy cảm hứng từ Tượng Nữ thần Tự do, vào năm 1883. Bài thơ được khắc trên một tấm bảng bằng đồng, được lắp đặt vào năm 1903, trên bệ của Tượng Nữ thần Tự do. Lazarus đã tham gia hỗ trợ những người tị nạn đến New York, những người đã chạy trốn khỏi những cuộc tàn sát chống Do Thái ở Đông Âu, và bà đã bày tỏ sự đồng cảm của mình đối với những người tị nạn này thông qua bức tượng. Những dòng cuối cùng của sonnet được Irving Berlin phổ nhạc thành bài hát "Give Me Your Tired, Your Poor" cho vở nhạc kịch năm 1949 "Miss Liberty", dựa trên tác phẩm điêu khắc Tượng Nữ thần Tự do ( "Liberty Enlightening the Thế giới" ). Phần sau của sonnet cũng được Lee Hoiby đặt trong bài hát "The Lady of the Harbour" được viết vào năm 1985 như một phần trong chuỗi bài hát "Three Women" của ông. Lazarus cũng là tác giả của "Những bài thơ và bản dịch" (New York, 1867); "Admetus, và những bài thơ khác" (1871); "Alide: An Episode of Goethe's Life" (Philadelphia, 1874); "Những bài thơ và bản ballad của Heine" (New York, 1881); "Bài thơ, 2 Tập." ; "Tường thuật, trữ tình và kịch tính" ; cũng như "các bài thơ và bản dịch của người Do Thái" . Tuổi thơ và học vấn. Emma Lazarus sinh ra ở Thành phố New York, ngày 22 tháng 7 năm 1849, trong một gia đình Do Thái Sephardic đông con. Bà là con thứ tư trong số bảy người con của Moses Lazarus, một thương gia người Do Thái giàu có , nhà tinh chế đường, và Esther Nathan. Một trong những ông cố nội của Emma Lazarus đến từ Đức; phần còn lại của tổ tiên Lazarus và Nathan là người gốc Bồ Đào Nha và họ đã cư trú ở New York từ lâu về trước Cách mạng Hoa Kỳ, họ nằm trong số 23 người Do Thái gốc Bồ Đào Nha đến New Amsterdam sau khi chạy trốn khỏi khu định cư của họ ở Recife, Brazil trong nỗ lực chạy trốn khỏi Tòa án dị giáo. Bà cố ngoại của Lazarus, Grace Seixas Nathan (sinh ra ở Stratford năm 1752) cũng là một nhà thơ. Lazarus có quan hệ họ hàng thông qua mẹ với Benjamin N. Cardozo, Phó Tư pháp của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Anh chị em của bà bao gồm các chị em Josephine, Sarah, Mary, Agnes và Annie, và một người anh trai, Frank. Được giáo dục riêng bởi các gia sư từ khi còn nhỏ, bà học văn học Mỹ và Anh cũng như một số ngôn ngữ, bao gồm tiếng Đức, tiếng Pháp và tiếng Ý. Khi còn trẻ, bà bị thu hút bởi thơ ca, viết lời bài hát đầu tiên khi mới 11 tuổi. Cảm hứng cho những tác phẩm của Emma Lazarus đến từ Nội chiến Hoa Kỳ. Một bộ sưu tập "các bài thơ và bản dịch" của Emma Lazarus cùng những câu thơ được viết khi bà mới chỉ 14 đến 17 tuổi, ra đời vào năm 1867 (New York), và được William Cullen Bryant khen ngợi. Nó bao gồm các bản dịch của Friedrich Schiller, Heinrich Heine, Alexandre Dumas và Victor Hugo. "Admetus and Other Poems" tiếp nối vào năm 1871. Bài thơ có tựa đề "Gửi người bạn của tôi, Ralph Waldo Emerson ", được dành tặng cho Ralph, người có những tác phẩm và tầm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của bà. Trong thập kỷ tiếp theo, các tác phẩm "Phantasies" và "Epochs" đã được viết, những bài thơ của bà chủ yếu được xuất hiện trên "Tạp chí hàng tháng của Lippincott" và "Scribner'" . Vào thời điểm này, tác phẩm của Lazarus đã được công nhận ở nước ngoài. Tác phẩm văn xuôi đầu tiên của bà, "Alide: An Episode of Goethe's Life", một câu chuyện tình lãng mạn kể về sự cố Friederike Brion, được xuất bản năm 1874 (Philadelphia), theo sau đó là "The Spagnoletto" (1876), một vở bi kịch. Kế tiếp là "Poems and Ballads of Heinrich Heine" (New York, 1881), và được bắt đầu bằng một bản phác thảo tiểu sử của Heine; Bản dịch của Lazarus về một số câu thơ của Heine được coi là một trong những bản dịch hay nhất bằng tiếng Anh. Cũng trong năm 1881, bà trở thành bạn của Rose Hawthorne Lathrop. Vào tháng 4 năm 1882, Lazarus đăng một bài báo trên "Tạp chí Thế kỷ" với tựa đề " Bá tước Beaconsfield là đại diện cho những người Do Thái ?" Tuyên bố của bà về lý do trả lời câu hỏi này theo chiều khẳng định có thể coi như là kết thúc giai đoạn được gọi là thời kỳ Hy Lạp và thời kỳ học việc trong cuộc đời của Lazarus, trong đó các chủ đề của bà được rút từ các nguồn cổ điển và lãng mạn.. Lazarus cũng đã viết "Tiếng gáy của con gà trống đỏ" và tuyển tập 16 bài thơ nằm trong tập "Kỷ nguyên". Ngoài việc viết những bài thơ của riêng mình, Lazarus còn biên tập nhiều bài thơ chuyển thể từ tiếng Đức, đặc biệt là của Johann Wolfgang von Goethe và Heinrich Heine. Bà cũng đã viết một cuốn tiểu thuyết và hai vở kịch trong năm màn, "The Spagnoletto", một vở kịch bi thảm về Jusepe de Ribera và "The Dance to Death", một truyện ngắn của Đức về việc thiêu sống người Do Thái ở Nordhausen trong Cái chết Đen. Trong thời gian Lazarus bắt đầu quan tâm đến nguồn gốc Do Thái của mình, bà tiếp tục công việc phê bình và văn học thuần túy của mình trên các tạp chí với các bài báo như "Tommaso Salvini", "Salvini's 'King Lear '" , "Emerson's Personality", "Heine, the Poet", "A Day in Surrey with William Morris", và các tạp chí khác. Not like the brazen giant of Greek fame, With conquering limbs astride from land to land; Here at our sea-washed, sunset gates shall stand A mighty woman with a torch, whose flame Is the imprisoned lightning, and her name Mother of Exiles. From her beacon-hand Glows world-wide welcome; her mild eyes command The air-bridged harbor that twin cities frame. With silent lips. "Give me your tired, your poor, Your huddled masses yearning to breathe free, The wretched refuse of your teeming shore. Send these, the homeless, tempest-tost to me, Những dòng từ bài thơ " The New Colossus " của bà được khắc trên một tấm bảng đồng được đặt trên bệ của Tượng Nữ thần Tự do vào năm 1903. Bài thơ được viết vào năm 1883 và đã được đưa tới một buổi đấu giá tổ chức bởi "Viện trợ của Quỹ Bartholdi Pedestal cho Tượng Nữ thần Tự do" nhằm gây quỹ xây dựng bệ tượng. Rose Hawthorne Lathrop, bạn thân của Lazarus, đã lấy cảm hứng từ "The New Colossus" để thành lập Nữ tu Đa Minh ở Hawthorne. Bà đã đi du lịch châu Âu hai lần, lần đầu tiên vào năm 1883 và một nữa từ năm 1885 đến năm 1887. Trong những chuyến đi đó, Georgiana Burne-Jones, vợ của họa sĩ Raphaelite Edward Burne-Jones, đã giới thiệu bà với William Morris. Bà ấy cũng đã gặp Henry James, Robert Browning và Thomas Huxley trong chuyến du lịch châu Âu của mình. Tập "thơ bằng văn xuôi" (1887) là cuốn sách cuối cùng của bà. "Những bài thơ hoàn chỉnh kèm theo hồi ký" của bà xuất hiện vào năm 1888, tại Boston. Hoạt động xã hội. Lazarus là một người bạn và là người ngưỡng mộ nhà kinh tế chính trị người Mỹ Henry George. Bà tin tưởng một cách sâu sắc vào các cải cách kinh tế của Gruzia và tích cực tham gia phong trào "thuế đơn" đối với thuế giá trị đất đai. Lazarus đã đăng một bài thơ trên tờ "New York Times" được đặt tên theo cuốn sách của George, "Progress and Poverty" . Emma Lazarus bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến tổ tiên Do Thái của mình khi nghe nói về các cuộc tàn sát ở Nga sau vụ ám sát Sa hoàng Alexander II vào năm 1881. Do bạo lực bài Do Thái này và mức sống thấp ở Nga nói chung, hàng nghìn người Do Thái Ashkenazi cơ cực đã di cư từ Vùng định cư Nga đến New York. Lazarus bắt đầu vận động thay mặt cho những người nhập cư Do Thái nghèo khổ. Bà đã hỗ trợ giúp thành lập Viện Kỹ thuật tiếng Do Thái ở New York để cung cấp khóa đào tạo nghề nhằm hỗ trợ những người nhập cư Do Thái nghèo khổ trở nên tự lực cánh sinh. Lazarus tình nguyện trong văn phòng việc làm của Hiệp hội Hỗ trợ Người di cư Do Thái; cuối cùng bà ấy đã trở thành một nhà phê bình mạnh mẽ của tổ chức. Năm 1883, bà thành lập Hiệp hội Cải thiện và Thực dân hóa người Do Thái Đông Âu. Thành quả văn học đồng cảm với tôn giáo của bà là những bài thơ như "Tiếng gáy của con gà trống đỏ", "Ngọn cờ của người Do Thái", "Sự lựa chọn", "The New Ezekiel", "The Dance to Death" (một tác phẩm mạnh mẽ, mặc được thực hiện một cách không công bằng), và tác phẩm được xuất bản cuối cùng của bà (tháng 3 năm 1887), "By the Waters of Babylon: Little Poems in Prose", đã khẳng định mạnh mẽ vị thế hàng đầu trong văn học Mỹ của bà. Trong cùng thời kỳ (1882–87), Lazarus đã dịch các bài thơ tiếng Do Thái của Tây Ban Nha thời trung cổ với sự trợ giúp của các bản dịch tiếng Đức của Michael Sachs và Abraham Geiger, đồng thời viết các bài báo, có ký tên và không dấu, về các chủ đề Do Thái cho báo chí Do Thái, cùng với các bài tiểu luận trên "Bar Kochba", "Henry Wadsworth Longfellow", "M. Renan và người Do Thái", và các tác phẩm khác cho hiệp hội văn học Do Thái. Một số bản dịch của bà từ các nhà văn Do Thái thời trung cổ đã tìm thấy một vị trí trong nghi lễ của các giáo đường Do Thái ở Mỹ. Loạt bài báo đáng chú ý nhất của Lazarus có tựa đề "Thư tín gửi cho người Do Thái" ( "The American Hebrew", 10 tháng 11 năm 1882 – 24 tháng 2 năm 1883), trong đó bà thảo luận về các vấn đề của người Do Thái thời đó, thúc giục một kỹ thuật và một nền giáo dục Do Thái dành cho người Do Thái, và tự xếp mình trong số những người ủng hộ quốc tịch Do Thái độc lập và hồi hương của người Do Thái ở Palestine. Tập thơ duy nhất được phát hành trong thời kỳ này là "Songs of a Semite: The Dance to Death and Other Poems" (New York, 1882), dành để tưởng nhớ George Eliot. Năm tháng cuối đời. Lazarus trở về Thành phố New York và bị ốm nặng sau khi hoàn thành chuyến đi thứ hai tới Châu Âu, bà qua đời hai tháng sau đó vào ngày 19 tháng 11 năm 1887, nguyên nhân đến từ bệnh ung thư hạch Hodgkin. Bà chưa bao giờ kết hôn. Lazarus được chôn cất tại Nghĩa trang Beth Olam ở Cypress Hills, Brooklyn. "Những bài thơ của Emma Lazarus" (2 tập, Boston và New York, 1889) được xuất bản sau khi bà qua đời, bao gồm hầu hết các tác phẩm thơ của bà từ các tuyển tập trước đó, các ấn phẩm định kỳ và một số di sản văn học mà những người thân thuộc của bà cho là phù hợp để bảo tồn. Các bài báo của bà được lưu giữ bởi Hiệp hội Lịch sử Do Thái Hoa Kỳ, Trung tâm Lịch sử Do Thái, và các bức thư của bà được thu thập tại Đại học Columbia. Một con tem có hình Nữ thần Tự do và bài thơ của Lazarus, "The New Colossus", do Antigua và Barbuda phát hành năm 1985. Năm 1992, bà được Dự án Lịch sử Phụ nữ Quốc gia vinh danh là Người được vinh danh trong Tháng Lịch sử Phụ nữ. Lazarus đã được Văn phòng Chủ tịch Khu Manhattan vinh danh vào tháng 3 năm 2008 và ngôi nhà của bà trên Phố 10 phía Tây đã được đưa vào bản đồ Địa điểm Lịch sử về Quyền của Phụ nữ. Năm 2009, bà được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Phụ nữ Quốc gia. Bảo tàng Di sản Do Thái đã trưng bày một cuộc triển lãm về Lazarus vào năm 2012. Người viết tiểu sử Esther Schor đã ca ngợi sự đóng góp lâu dài của Lazarus: Phong cách và chủ đề. Lazarus đã đóng góp vào việc định hình hình ảnh của Hoa Kỳ cũng như cách đất nước này hiểu được nhu cầu của những người di cư đến Hoa Kỳ. Các chủ đề của bà tạo ra những bài học nhạy cảm và lâu dài về người nhập cư và nhu cầu về phẩm giá của họ. Điều cần thiết để biến bà thành một nhà thơ của nhân dân cũng như một người có giá trị văn học là một chủ đề vĩ đại, việc thiết lập giao tiếp tức thì giữa một thực tế đầy bất ngờ và tính chất chưa rõ ràng và do dự của bà. Một chủ đề tương tự như vậy đã được cung cấp bởi sự di cư của người Do Thái Nga đến Mỹ, do Luật tháng 5 năm 1882 có tính chất cấm đoán. Bà đã lên tiếng mạnh mẽ bảo vệ đồng bào dân tộc của mình trong các bài báo cũng như những đóng góp cho "Thế kỷ" (tháng 5 năm 1882 và tháng 2 năm 1883). Cho đến nay, cuộc sống của bà không có cảm hứng Do Thái. Mặc dù có tổ tiên là người Sephardic và có niềm tin bề ngoài là Chính thống giáo, gia đình bà cho đến lúc đó vẫn chưa tham gia vào các hoạt động của giáo đường Do Thái hoặc của cộng đồng Do Thái. Tiếp xúc với những người bất hạnh từ Nga đã khiến bà nghiên cứu kinh Torah, tiếng Do Thái, đạo Do Thái và lịch sử Do Thái. Trong khi những bài thơ đầu tiên của bà không có chủ đề Do Thái, "Songs of a Semite" (1882) của bà được coi là tập thơ đầu tiên của người Mỹ gốc Do Thái. Một bài đánh giá về "Alide" của "Tạp chí hàng tháng của Lippincott" đã chỉ trích phong cách và các yếu tố kỹ thuật của Lazarus.