text
stringlengths
82
354k
S.A.R.L French appétit ( ] ), phổ biến hơn được biết đến là French appétit, là một công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân có trụ sở chính tại Paris, Pháp. French appétit là một nhà bán lẻ và nhà phân phối quốc tế của các mặt hàng tiêu dùng nhanh liên quan đến thực phẩm và vệ sinh. Ngoài trụ sở chính ở Paris, công ty cũng hoạt động từ các thành phố Trappes và Châlons-en-Champagne ở Pháp. Nó được thành lập vào năm 2023 tại Paris bởi Rafik Zribi, một nhà buôn người Pháp, chuyên viên phân tích dữ liệu và cựu sinh viên của Trường Quản lý IÉSEG. Ban đầu, thương hiệu tập trung vào việc bán các hộp snack Pháp thông qua mô hình kinh doanh dựa trên đăng ký, phục vụ khách hàng quốc tế. Theo thời gian, họ mở rộng danh mục sản phẩm để bao gồm các lựa chọn bán buôn.
Volhynia (còn viết là Volynia) (, , ), là một khu vực lịch sử tại Trung và Đông Âu, giữa miền đông nam Ba Lan, miền tây nam Belarus và miền tây Ukraina. Ranh giới của khu vực này không được xác định rõ ràng, nhưng lãnh thổ mang cùng tên với nó là tỉnh Volyn ở miền tây Ukraine. Volhynia từng qua tay nhiều lần trong lịch sử và bị phân chia giữa các cường quốc kình địch nhau. Trong nhiều thế kỷ khu vực là bộ phận của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Sau đó bị Đế quốc Nga sáp nhập trong quá trình phân chia Ba Lan cuối thế kỷ 18. Các thành phố quan trọng trong khu vực là Zhytomyr, Rivne, Lutsk, Zviahel và Volodymyr. Tên gọi khác của khu vực là Lodomeria theo tên thành phố Volodymyr, nơi từng là thủ phủ chính trị của Thân vương quốc Volhynia thời trung cổ. Theo một số nhà sử học, khu vực này được đặt theo tên của một thành phố bán huyền thoại là "Volin" hoặc "Velin", được cho là nằm trên sông Nam Bug, tên của thành phố này có thể xuất phát từ gốc tiền-Slav 'ướt'. Trong các phiên bản khác, thành phố nằm cách Volodymyr hơn 20 km về phía tây, gần cửa sông Huczwa, một nhánh của sông Tây Bug. Về mặt địa lý, khu vực chiếm các phần phía bắc của vùng đất cao Volhynia-Podolia và các phần phía tây của vùng đất thấp Polesia, dọc theo thung lũng sông Prypyat và là một phần của Đồng bằng Đông Âu rộng lớn, giữa sông Tây Bug ở phía tây và thượng nguồn của các sông Uzh và Teteriv. Trước khi phân chia Ba Lan cuối thế kỷ 18, rìa phía đông kéo dài một chút về phía tây dọc theo hữu ngạn của sông Sluch hoặc ngay phía đông của nó. Trong lãnh thổ của Volhynia có Tiểu Polisie, một vùng đất thấp thực sự chia vùng đất cao Volhynia-Podolia thành vùng đất cao Volhynia riêng biệt và vùng ngoại vi phía bắc của vùng đất cao Podolia, được gọi là vùng đồi Kremenets. Volhynia nằm trong lưu vực của sông Tây Bug và Prypyat, do đó hầu hết các con sông của nó đều chảy theo hướng bắc hoặc tây. So với các khu vực lịch sử khác, nó nằm ở phía đông bắc của Galicia, phía đông của Tiểu Ba Lan và phía tây bắc của Podolia. Biên giới của khu vực không được xác định rõ ràng và nó thường được coi là chồng lên một số khu vực khác, trong đó có Polesia và Podlasie. Các lãnh thổ của Volhynia trong lịch sử hiện nay là một phần của các tỉnh Volyn, Rivne và một phần của các tỉnh Zhytomyr, Ternopil và Khmelnytskyi của Ukraina, cũng như một phần của Ba Lan (Chełm). Các thành phố lớn bao gồm Lutsk, Rivne, Kovel, Volodymyr, Kremenets (tỉnh Ternopil) và Starokostiantyniv (tỉnh Khmelnytskyi). Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều shtetl (thị trấn nhỏ) của người Do Thái, chẳng hạn như Trochenbrod và Lozisht, là một phần không thể thiếu của khu vực.:770 Tại một thời điểm, toàn bộ Volhynia là một phần của Hàng rào định cư cho phép người Do Thái định cư Đế quốc Nga chỉ định ở biên giới cực tây nam của lãnh thổ quốc gia. Những ghi chép đầu tiên có thể bắt nguồn từ các biên niên sử của người Ruthenia, chẳng hạn như "Biên niên sử sơ cấp", đề cập đến các bộ lạc Dulebe, Buzhan và Volhynia. Vùng đất đã được đề cập trong các tác phẩm của Al-Masudi và Abraham ben Jacob rằng vào thời cổ đại, "Walitābā" và vua "Mājik", mà một số người đọc là "Walīnānā" và được xác định với người Volhynia, là "người Saqaliba thuần chủng, nguyên thủy, được tôn vinh nhất" và thống trị phần còn lại của các bộ lạc Slav, nhưng do "bất đồng quan điểm" nên "tổ chức ban đầu của họ đã bị phá hủy" và "người dân chia thành các phe phái, mỗi phe do vua của mình cai trị", ngụ ý sự tồn tại của một Liên bang Slav đã bị diệt vong sau cuộc tấn công của người Avar Pannonia.:37 Volhynia có thể đã được đưa vào (hoặc nằm trong phạm vi ảnh hưởng của) Đại công quốc Kyiv (Ruthenia) ngay từ thế kỷ 10. Vào thời điểm đó, Đại công tước phu nhân Olga đã phái một cuộc tấn công trừng phạt chống lại người Drevlia để trả thù cho cái chết của chồng bà là Đại công tước Igor (Ingvar Röreksson); sau đó bà thành lập các pogost hành chính dọc theo sông Luha. Theo ý kiến ​​của nhà sử học Ukraina Yuriy Dyba, cụm từ biên niên sử «и оустави по мьстѣ. погосты và дань. и по лузѣ погосты и дань и ѡброкы» (và thiết lập các pogost và cống nạp dọc theo Luha), hướng đi của các pogost và cống nạp phản ánh lộ trình thực tế cuộc tấn công của Olga chống lại người Drevlia xa hơn về phía tây, cho đến nhánh sông Luha của Tây Bug. Ngay từ năm 983, Vladimir Đại đế đã bổ nhiệm con trai mình là Vsevolod làm người cai trị Thân vương quốc Volhynia. Năm 988, ông thành lập thành phố Volodymer ("Володимѣръ"). Lịch sử ban đầu của Volhynia trùng khớp với lịch sử của các công quốc hoặc thân vương quốc Halych và Volhynia. Hai quốc gia kế thừa Rus Kyiv này đã thành lập nhà nước Halych-Volhynia từ thế kỷ 12 đến 14. Su khi Đại công quốc Halych-Volhynia tan rã vào khoảng năm 1340, Vương quốc Ba Lan và Đại công quốc Litva phân chia khu vực giữa họ, theo đó Ba Lan chiếm Tây Volhynia và Litva chiếm Đông Volhynia (1352–1366). Sau năm 1569, Volhynia được tổ chức như một tỉnh của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Trong thời kỳ này, nhiều người Ba Lan và người Do Thái định cư trong khu vực. Các nhà thờ Công giáo La Mã và Hy Lạp được thành lập trong tỉnh. Năm 1375, một giáo phận Công giáo La Mã của Lodomeria được thành lập, nhưng nó bị đàn áp vào năm 1425. Nhiều nhà thờ Chính thống giáo đã tham gia tổ chức Công giáo Hy Lạp để hưởng lợi từ một địa vị pháp lý hấp dẫn hơn. Hồ sơ về các thuộc địa nông nghiệp đầu tiên của người Mennonite, là những người theo đạo Tin lành từ Đức, có từ năm 1783. Sau khi Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva bị phân chia lần thứ ba vào năm 1795, Volhynia được sáp nhập thành tỉnh Volhynia (Volyn) của Đế quốc Nga. Tỉnh này có diện tích 71.852,7 km². Sau vụ sáp nhập này, chính phủ Nga thay đổi đáng kể cấu trúc tôn giáo của khu vực: họ buộc thanh lý Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraina, chuyển tất cả các tòa nhà của họ sang quyền sở hữu và kiểm soát của Giáo hội Chính thống Nga. Nhiều tòa nhà của Giáo hội Công giáo La Mã cũng được trao cho Giáo hội Nga. Giáo phận Công giáo La Mã Lutsk đã bị đàn áp theo lệnh của Nữ hoàng Yekaterina II. Năm 1897, dân số tỉnh Volyn là 2.989.482 người (41,7/km²). Con số bao gồm 73,7% người Đông Slav (chủ yếu là người Ukraina), 13,2% người Do Thái, 6,2% người Ba Lan và 5,7% người Đức. Hầu hết những người Đức định cư đã nhập cư từ Ba Lan Lập hiến. Một số ít người Séc định cư cũng di cư đến đây. Mặc dù về mặt kinh tế, khu vực này đang phát triển khá nhanh chóng, nhưng trước Thế chiến thứ nhất, đây vẫn là tỉnh nông thôn nhất ở miền Tây của Đế quốc Nga. Cộng hòa Nhân dân Ukraina. Sau Cách mạng tháng Hai và sự kiện thành lập Chính phủ lâm thời Nga, những người theo chủ nghĩa dân tộc Ukraina tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Ukraina tự trị. Lãnh thổ của Volhynia bị chia đôi theo một chiến tuyến ngay phía tây thành phố Lutsk. Do một cuộc xâm lược của những người Bolshevik, chính phủ Ukraina đã buộc phải rút lui về Volhynia sau khi Kyiv bị chiếm lĩnh. Viện trợ quân sự từ Liên minh Trung tâm là kết quả của Hiệp ước Brest-Litovsk, giúp mang lại hòa bình và ổn định ở một mức độ nhất định trong khu vực. Từ đó cho đến khi chiến tranh kết thúc, khu vực này chứng kiến ​​sự hồi sinh của văn hóa Ukraina sau nhiều năm bị Nga áp bức và từ chối các truyền thống của Ukraina. Sau khi quân Đức rút đi, toàn bộ khu vực bị nhấn chìm bởi một làn sóng hành động quân sự mới của người Ba Lan và người Nga nhằm tranh giành quyền kiểm soát lãnh thổ. Quân đội Nhân dân Ukraina buộc phải chiến đấu trên ba mặt trận: những người Bolshevik, người Ba Lan và Quân tình nguyện Đế quốc Nga. Giai đoạn giữa hai thế chiến. Năm 1921, sau khi Chiến tranh Ba Lan-Liên Xô kết thúc, một hiệp ước được gọi là Hòa ước Riga đã phân chia tỉnh Volyn giữa Ba Lan và Liên Xô. Ba Lan chiếm phần lớn hơn và thành lập tỉnh Wołyń (Volhynia). Hầu hết phần phía đông tỉnh Volyn trở thành một phần của Ukraina Xô viết, cuối cùng được chia thành các khu nhỏ hơn. Trong thời kỳ đó, một số khu dân tộc được hình thành bên trong Ukraina Xô viết nằm trong quá trình tự do hóa văn hóa. Các chính sách Ba Lan hóa ở Ba Lan dẫn đến sự hình thành các phong trào kháng chiến khác nhau ở Tây Ukraina và Tây Belarus, bao gồm cả ở Volhynia. Năm 1931, Vatican thành lập miền Phủ Doãn Tông Tòa Công giáo Ukraina của Volhynia, Polesia và Pidliashia, nơi giáo đoàn thực hành Nghi thức Byzantine bằng tiếng Ukraina. Từ năm 1935 đến năm 1938, chính phủ Liên Xô trục xuất nhiều công dân từ Volhynia trong một đợt di chuyển dân số đến Siberia và Trung Á, trong quá trình diệt trừ phú nông, một nỗ lực nhằm đàn áp nông dân trong khu vực. Những người này bao gồm cả người Ba Lan ở Đông Volhynia. Sau khi ký kết Hiệp ước Molotov–Ribbentrop vào năm 1939, và sau đó là cuộc xâm lược và phân chia lãnh thổ Ba Lan giữa Đức và Liên Xô, Liên Xô đã xâm chiếm và chiếm đóng phần Volhynia của Ba Lan. Trong quá trình di chuyển dân số của Đức Quốc xã-Liên Xô sau liên minh Đức-Xô (tạm thời) này, hầu hết dân số thiểu số người Đức ở Volhynia đã được chuyển đến các khu vực Ba Lan bị Đức Quốc xã sáp nhập. Sau các vụ trục xuất và bắt giữ hàng loạt do NKVD thực hiện và các hành động đàn áp người Ba Lan do Đức thực hiện, bao gồm trục xuất đến Đức để đến các trại lao động cưỡng bức, bắt giữ, giam giữ trong trại và hành quyết hàng loạt, đến năm 1943, người Ba Lan chỉ chiếm 10–12% toàn bộ dân số của Volhynia. Trong cuộc xâm lược của Đức, khoảng 50.000–100.000 người Ba Lan ở Volhynia đã bị Quân nổi dậy Ukraina tàn sát. Số nạn nhân Ukraina trong các cuộc tấn công trả đũa của Ba Lan cho đến mùa xuân năm 1945 được ước tính là khoảng 2.000−3.000 người ở Volhynia. Năm 1945, Ukraina thuộc Liên Xô đã trục xuất người dân tộc Đức khỏi Volhynia sau khi chiến tranh kết thúc, tuyên bố rằng Đức Quốc xã đã sử dụng người dân tộc Đức ở Đông Âu như một phần của Kế hoạch chung Ost. Liên Xô sáp nhập Volhynia vào Ukraina sau khi Thế chiến II kết thúc. Năm 1944, những người cộng sản ở Volyhnia đã đàn áp miền Phủ Doãn Tông Tòa Công giáo Ukraina. Hầu hết những người dân tộc Ba Lan còn lại đã bị trục xuất sang Ba Lan vào năm 1945. Kể từ khi Liên Xô tan rã vào những năm 1990, Volhynia là một phần của Ukraina.
Aybüke Pusat (sinh ngày 25 tháng 2, 1995) là một nữ diễn viên, người mẫu người Thổ Nhĩ Kỳ. Sự nghiệp diễn xuất. Năm 2014, Aybüke Pusat ra mắt lần đầu tiên với một vai diễn nhỏ trong bộ phim truyền hình nổi tiếng "Medcezir". Sau đó, cô tiếp tục đóng thêm một số vai phụ trong các loạt phim như: "Beş Kardeş" (2015) và "O Hayat Benim" (2015–2016). Năm 2016, cô được mời đóng vai chính trong loạt phim hài "Familya" , trong đó cô đóng vai Su Beyoğlu, con gái duy nhất của gia đình Beyoğlu, người cùng với các anh chị em của mình nổ lực hàn gắn mọi thứ trong gia đình sau cái chết của mẹ. Cô trở nên nổi tiếng vào năm 2017 nhờ vào vai nữ chính - bác sĩ Bahar Kutlu với tính cách cứng rắn, kiên cường trong hai mùa phim ' (Lời Thề) - một trong những bộ phim hành động nổi tiếng và được quốc tế đón nhận nồng nhiệt nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, đóng cặp cùng Tolga Sarıtaş. Năm 2018"', cô tiếp tục đóng vai chính trong "," được chuyển thể từ loạt phim truyền hình nổi tiếng của Hoa Kỳ là Falcon Crest. Tuy nhiên, Şahin Tepesi chỉ kéo dài một thời gian ngắn do tỷ suất người xem thấp. Năm 2019, cô đóng vai chính cùng với Furkan Andıç trong bộ phim hài lãng mạn ' (Đâu Đâu Cũng Là Em), ở đó cô đóng vai Selin Sever, một kiến ​​trúc sư nội thất sôi nổi và thông minh, người bị buộc phải sống chung một nhà với nhân vật Demir Erendil của Furkan Andıç, đồng thời cũng chính là sếp mới của cô. Her Yerde Sen đã nhận được sự công nhận và đánh giá cao của quốc tế sau khi giành được Giải thưởng Ống kính Vàng từ Hiệp hội Nhà báo về lối kể chuyện, đạo diễn và kỹ xảo điện ảnh xuất sắc. Năm 2020, cả Pusat và Andıç đều giành được Giải thưởng Con bướm vàng cho Cặp đôi truyền hình xuất sắc nhất. Sau đó, Her Yerde Sen là tác phẩm duy nhất của Thổ Nhĩ Kỳ được nêu tên trong The Guardian 's danh sách 52 Phim hài lãng mạn cho Ngày lễ tình nhân năm 2021.
February Azure (), còn được gọi là February Blue, là một bức tranh phong cảnh của họa sĩ Nga Igor Emmanuilovich Grabar, thuộc trường phái hậu ấn tượng, được tạo năm 1904. Bức tranh được trưng bày công khai lần đầu tiên tại triển lãm thứ hai của Hiệp hội Họa sĩ Nga, mở cửa vào ngày 31 tháng 12 năm 1904 tại Sankt-Peterburg và sau đó chuyển đến Moskva vào tháng Hai năm 1905. Năm 1905, "February Azure" được Nhà trưng bày Tretyakov ở Moskva mua từ Grabar sau quyết định của ban giám đốc của bảo tàng. Grabar coi "February Azure" là sự tổng hợp của nhiều quan sát riêng rẽ, một cách nói khác, là sự kết hợp của chúng, và đây là một tác phẩm mang tính cách mạng, mở ra một con đường mới mà nghệ thuật Nga chưa từng khám phá trước đó. Các nghiên cứu và nguồn cảm hứng. Tại triển lãm đầu tiên của Hiệp hội Họa sĩ Nga năm 1903, Grabar quen được với một trong những nghệ sĩ tham gia triển lãm, Nikolai Meshcherin. Meshcherin mời Grabar ở lại tại biệt thự gia đình ông trên bờ sông Pakhra ở Moscow. Grabar, muốn vẽ tuyết và mùa đông, đã chấp nhận lời mời - ông thích phong cảnh mùa đông vì ông coi tuyết là cơ sở lý tưởng để sử dụng nhiều hiệu ứng ánh sáng khác nhau. Gia đình Meshcherin sở hữu nhà máy Danilovskaya và giàu có cùng hiếu khách. Grabar cảm thấy như ở nhà và họ cung cấp cho ông một chiếc xe trượt với một chiếc xe ngựa để ông di chuyển xung quanh khu vực để nghiên cứu. Trong một trong những cuộc lang thang thường xuyên gần biệt thự vào tháng Hai năm 1904, ông đã gặp "một điều phi thường đang diễn ra trong tự nhiên. [...] một lễ hội của bầu trời lam, cây tuyết ngọc trai, nhánh san hô và bóng sapphire trên mặt tuyết màu hoa oải hương", điều này ấn tượng ông sâu sắc đến mức ông quyết định biểu hiện nó trên một bức tranh. Grabar đã vẽ một nghiên cứu trên một bức tranh nhỏ trước, sau đó lấy một bức tranh lớn và làm việc trên một nghiên cứu khác trong ba ngày tiếp theo tại cùng một vị trí. Cả hai nghiên cứu đã được lưu giữ: nghiên cứu đầu tiên, mang tựa đề "Mùa đông", được lưu trữ trong bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Nga Quốc gia dưới số lưu trữ tại Sankt-Peterburg, và nghiên cứu thứ hai, mang tựa đề "February Azure", được giữ tại Bảo tàng Nghệ thuật Quốc gia Belarus tại Minsk. Sau đó, ông đào một rãnh sâu hơn một mét (3,3 ft) trong tuyết, trong đó ông ngồi xuống với một cái dụng cụ và một tấm bức tranh được gắn trên nó để ông có thể nhìn thấy "một đường chân trời thấp và trung điểm thiên văn, với tất cả các mức độ màu xanh từ màu xanh lá cây nhạt ở dưới đến màu xanh lục lam ở trên". Ông đã chuẩn bị tấm bức tranh trước đó trong phòng tạo hình, phủ lên một lớp dày của chất trắng chì có các tông màu khác nhau. Công việc hàng ngày kéo dài trong hai tuần, không bị gián đoạn và hoàn toàn "tại chỗ". Grabar nhớ lại rằng, may mắn cho ông, tuyết không tan trong suốt thời gian đó vì thời tiết giữ lạnh. Ông làm việc dưới một cái ô, và với mặt trước của tấm bức tranh hướng lên trời để ánh sáng mặt trời phản chiếu trên tuyết không rơi vào bức tranh - điều này sẽ ảnh hưởng đến cách ông nhìn thấy màu sắc trên bức tranh. Tiêu đề mô tả hiệu quả bản chất của bức tranh khi nó miêu tả sắc độ tươi sáng của bầu trời vào một ngày tháng Hai lạnh giá. Hầu hết diện tích phía trước của bức tranh được chiếm bởi một cây đuôi công với những cành cây mà, theo nhà sử học nghệ thuật Olga Podobedova, được "sắp xếp theo nhịp điệu ()" và phát sáng màu trắng hoặc màu vàng so với nền bầu trời. Grabar đã chú ý đến cấu trúc nhịp điệu của chúng trong "Automonograph" của mình. Mặt trên của cây không thể nhìn thấy vì bị cắt ngang bởi cạnh trên của bức tranh. Nhà sử học nghệ thuật Natalia Mamontova so sánh những cành cây này với "đôi cánh" và quan sát rằng những chiếc đỉnh đỏ của cây thực sự mang tính ấn tượng, trong khi định dạng dọc của bức tranh (142.6 cm × 84.8 cm hoặc 56.1 in × 33.4 in) tăng cường tính thể nổi của cây đuôi công và làm nổi bật "vô tận của không gian xanh da trời ()". Phía sau là những cây đuôi công khác, mảnh hơn và ở chân trời là một khu rừng đuôi công với ánh sáng trong một khoảng cách nào đó. Tuyết phía trước cho thấy bóng của cây phía sau người xem. Grabar đã viết trong "Automonograph" của mình rằng, mặc dù "March Snow" (Мартовский снег, 1904) có vẻ phổ biến hơn so với bất kỳ tác phẩm nào khác mà ông đã sáng tạo trong những năm đầu của mình, ông cảm thấy rằng "February Azure" quan trọng và toàn diện hơn vì nó là tổng hợp của nhiều quan sát khác nhau và, một cách nào đó, là sự tổng hợp của chúng, và ông tin rằng "February Azure" mở ra một con đường mới mà nghệ thuật Nga chưa khám phá cho đến thời điểm đó.
Shoro là một công ty đồ uống được thành lập năm 1992 ở Kyrgyzstan. Họ bán bốn loại đồ uống quốc gia, gồm: Maksym Shoro (), Chalap Shoro (), Jarma Shoro (), và Aralash Shoro (). Những đồ uống này là đồ uống truyền thống maksym, chalap, jarma, và sự kết hợp của hai thứ trước, tương ứng. Bạn có thể mua những thứ này dưới dạng chai ở hầu hết các cửa hàng, hoặc mua "trên vòi" ở các góc phố (xem trong hình) và chợ ở hầu hết các thành phố ở Kyrgyzstan. Ngoài ra, họ bán nước có ga đóng chai, tiếp thị nó là "Байтик". Đối thủ cạnh tranh chính của họ là Enesay, công ty chuyên sản xuất các loại đồ uống tương tự và phân phối chúng theo những cách tương tự.
Bên trong vỏ kén vàng Bên trong vỏ kén vàng (tên tiếng Anh: Inside the Yellow Cocoon Shell) là một bộ phim điện ảnh chính kịch của Việt Nam năm 2023 do Phạm Thiên Ân đạo diễn và dựng phim, đồng thời cũng là tác phẩm điện ảnh đầu tay của anh. Bộ phim do Trần Văn Thi và Jeremy Chua đảm nhiệm vai trò sản xuất, dựa trên phần kịch bản do chính Phạm Thiên Ân chấp bút. Phim được JK Film cùng Potocol chịu trách nhiệm sản xuất và CJ CGV giữ vai trò phân phối, với sự tham gia diễn xuất của Lê Phong Vũ, Nguyễn Thị Trúc Quỳnh, Vũ Ngọc Mạnh, Nguyễn Thịnh, Nguyễn Hân và Vũ Trọng Tuyền. Lấy bối cảnh tại chủ yếu tại Lâm Đồng vào năm 2018, nội dung phim xoay quanh Thiện sau khi đưa hài cốt của người chị dâu tên Hạnh về quê, anh bắt đầu hành trình tìm kiếm người anh trai đã biến mất từ lâu, cũng như có những cuộc gặp gỡ đầy mê hoặc trong suốt cuộc hành trình này. Với những cú máy dài và chuyển động chậm cùng những bối cảnh rộng lớn, đạo diễn tạo ra những khoảng trống về không gian để làm nổi bật những chiêm nghiệm mà nhân vật nhìn nhận về cuộc đời. Phim đã có buổi ra mắt thế giới trong hạng mục Directors' Fortnight tại Liên hoan phim Cannes lần thứ 76 vào ngày 24 tháng 5 năm 2023 và giành được giải Caméra d'Or (Giải máy quay vàng), giải thưởng cho phim truyện đầu tay hay nhất. Đây là phim nói tiếng Việt thứ hai đoạt giải thưởng này, sau "Mùi đu đủ xanh", cách đó đúng 30 năm. Phim kể về Thiện, một người đàn ông phải chở xác chị dâu chết trong một vụ tai nạn xe máy ở Sài Gòn, và đứa con trai 5 tuổi của cô ấy tên Đạo, người sống sót sau vụ tai nạn, về quê. Ở nông thôn Việt Nam, những hình bóng về tuổi trẻ của chính anh, về người anh trai của anh, người đã ra đi để làm lại cuộc đời ở nơi khác, và về chiến tranh cũng đang chờ đợi anh. Trong suốt cuộc hành trình tìm lại anh trai của mình và là cha của Đạo, Thiện đối diện với quá khứ và suy tư về cuộc đời, về đức tin và lẽ sống, đồng thời phim cũng đã đưa lên màn ảnh rất nhiều cảnh sắc, con người Sài Gòn cũng như Việt Nam. Trả lời đài RFI Tiếng Việt ngày 24 tháng 5 năm 2023, đạo diễn Phạm Thiên Ân cho rằng 'Vỏ kén' là vỏ bọc của con người trong xã hội chạy theo danh vọng và tiền bạc và xoay quanh câu hỏi "Sống vì điều gì". Phim dài 3 tiếng và phát triển từ phim ngắn "Hãy thức tỉnh và sẵn sàng" (Stay Awake, Be Ready) cũng của Phạm Thiên Ân năm 2019, với mong muốn của đạo diễn là thể hiện tác phẩm theo cách thức tối giản, bằng những chất liệu có sẵn và sử dụng cú máy dài (long take). Ông miêu tả phim là "bản nhạc chậm kéo người nghe trôi theo dòng chảy với những ngã rẽ của cuộc đời". "Bên trong vỏ kén vàng", do Ủy ban Điện ảnh Singapore, hãng Purin Pictures, Normandie Images và Hubert Bals Script Development Scheme tài trợ kinh phí, đây là sản phẩm hợp tác sản xuất giữa Việt Nam, Singapore, Pháp và Tây Ban Nha. Hãng Cercamon đã mua bản quyền phát hành phim từ tháng 4 năm 2023, trước khi phim ra mắt tại Cannes 2023. Phim có sự tham gia diễn xuất của các diễn viên phụ bao gồm Nguyễn Văn Lưu trong vai cụ Lưu và NSND Phi Điểu trong vai bà cụ ở tiệm sửa xe. Trên Rotten Tomatoes, bộ phim có tỷ lệ phê duyệt 100% dựa trên 10 bài phê bình, với điểm trung bình là 9/10. Guy Lodge của "Variety" đã gọi nó là "Rạp chiếu phim nghệ thuật đầy thách thức nhưng quyến rũ mời gọi so sánh với những người khổng lồ như Apichatpong Weerasethakul, Thái Minh Lượng và thậm chí Theo Angelopoulos, mà không cảm thấy bắt nguồn từ bất kỳ điều gì."
Jérôme Mombris Razanapiera (sinh ngày 27 tháng 11 năm 1987) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Gazélec Ajaccio tại Championnat National 3 bảng D. Anh sinh ra tại Pháp nhưng từng đại diện cho Madagascar trên đấu trường quốc tế. Sự nghiệp thi đấu. Ngày 19 tháng 8 năm 2021, anh ký hợp đồng 2 năm với Guingamp. Anh tuyên bố giải nghệ vào ngày 3 tháng 1 năm 2022 vì "lý do cá nhân". Anh sau đó đã rút lại ý định đó và ký hợp đồng với câu lạc bộ JS Saint-Pierroise. Chỉ sau một thời gian ngắn, anh lại ký hợp đồng với Gazélec Ajaccio lần thứ hai. Sự nghiệp thi đấu quốc tế. Mombris sinh ra tại Pháp, có bố là người Réunion, và bên ngoại là người gốc Madagascar. Anh ra mắt quốc tế cho Madagascar trong trận hòa 1–1 trước Comoros vào ngày 11 tháng 11 năm 2017. Anh thi đấu tại Cúp bóng đá châu Phi 2019, nơi Madagascar đã gây bất ngờ lớn khi lọt vào vòng tứ kết ngay lần đầu tham dự. "Tính đến 7 tháng 9 năm 2021"
La Passion de Dodin Bouffant La Passion de Dodin Bouffant ("Niềm đam mê của Dodin Bouffant"), (tên tiếng Anh: The Taste of Things, tạm dich: "Hương vị của vạn vật", hoặc The Pot-au-Feu, tạm dịch:" Món bò hầm") là một bộ phim chính kịch lãng mạn lịch sử Pháp năm 2023 của đạo diễn Trần Anh Hùng với sự tham gia của Juliette Binoche và Benoît Magimel. Lấy bối cảnh năm 1885, bộ phim miêu tả mối tình lãng mạn giữa một nữ đầu bếp và một người sành ăn mà bà ấy phục vụ. Nhân vật người sành ăn dựa trên Dodin-Bouffant do Marcel Rouff tạo ra trong cuốn tiểu thuyết "La Vie et la Passion de Dodin-Bouffant, người sành ăn (The Passionate Epicure)" năm 1924 của ông. Phim đã được chọn để tranh giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes 2023, nơi phim được công chiếu lần đầu vào ngày 24 tháng 5 năm 2023 và Trần Anh Hùng thắng giải đạo diễn xuất sắc. Phim đã lên lịch dự kiến ​​được công chiếu tại Pháp từ ngày 8 tháng 11 năm 2023 và tại Hoa Kỳ từ tháng 2 năm 2024. Pháp năm 1885: Eugénie đã làm đầu bếp cho chủ nhà hàng nổi tiếng Dodin trong 20 năm. Cô được coi là xuất sắc trong lĩnh vực của mình. Trong những năm qua, bởi Eugénie cùng Dodin dành rất nhiều thời gian vào bếp cùng nhau nên giữa họ đã nảy sinh tình cảm. Tình yêu ẩm thực chung của họ đã tạo ra những món ăn độc đáo, ngon và tinh tế đến mức không nơi nào sánh kịp và thu hút nhiều thực khách từ khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, Eugénie yêu tự do không bao giờ muốn kết hôn với Dodin. Sau đó, Dodin quyết định lần đầu tiên nấu ăn cho người mình yêu. Phim được quay tại một lâu đài ở Segré-en-Anjou Bleu, tỉnh Maine-et-Loire, vào tháng 4 và tháng 5 năm 2022. Đầu bếp người Pháp Pierre Gagnaire từng là giám đốc ẩm thực đồng thời xuất hiện trong phim với vai trò nhỏ như một đầu bếp.
Công viên nước ("Water park") hay thế giới nước ("Water world") hay Công viên thủy cung ("Aquapark") là một công viên giải trí có các khu vui chơi dưới nước như hồ bơi, bể bơi, máng trượt nước, miếng đệm nước, sân chơi nước và sông trôi ("Lazy river"), cũng như các khu vực thả nổi, tắm, bơi lội, và các môi trường giải trí dưới nước khác. Các công viên nước hiện đại cũng có thể được trang bị một số loại môi trường lướt sóng nhân tạo hoặc lướt ván nằm (trượt ván miếng), chẳng hạn như bể tạo sóng hoặc thiết bị tạo sóng ("Flowriding"). Công viên nước đã trở nên phổ biến kể từ khi được ra mắt vào cuối những năm 1940 và đầu những năm 1950. Hoa Kỳ có thị trường công viên nước lớn nhất và tập trung đông đảo nhất với hơn 1.000 công viên nước và hàng chục công viên mới mở cửa mỗi năm. Các công viên nước xuất hiện từ các spa có xu hướng gần giống với các khu nghỉ dưỡng trên núi hơn, vì chúng trở thành điểm đến quanh năm. Ví dụ như Khu nghỉ dưỡng Công viên nước Splash Universe có chủ đề phù hợp với cộng đồng nơi nó tọa lạc. Chủ đề này nhằm nâng cao sức hấp dẫn của điểm đến trong cộng đồng. Quá trình chuyên môn hóa có thể được thấy trong các phiên bản kết hợp của công viên chủ đề, các trò vui chơi giải trí kết hợp với nước. Vào những năm 2000, một nỗ lực đã được triển khai thực hiện nhằm giảm bớt hàng dài người chờ đợi bằng cách sử dụng băng chuyền nâng hành khách hoặc sử dụng vòi phun nước. Một tính năng khác thường tại công viên nước là trượt băng. Công viên nước Deep River ở phía tây bắc Indiana có trò trượt băng, có thể thực hiện được nhờ các ống làm mát được lắp đặt bên dưới quảng trường đồ sộ. Theo ước tính của Ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng Hoa Kỳ "(U.S. Consumer Product Safety Commission") đã có hơn 4.200 người mỗi năm được đưa đến phòng cấp cứu do bị chấn thương trên các đường trượt nước. Vào tháng 7 năm 2015, một trường hợp chết đuối và ít nhất ba trường hợp suýt chết đuối đã được báo cáo tại các công viên nước ở Hoa Kỳ.Vào ngày 7 tháng 8 năm 2016, Caleb Schwab đứa con trai 10 tuổi của chính trị gia người Mỹ Scott Schwab, đã bị chặt đầu trên trò chơi trượt nước Verrückt tại công viên nước Schlitterbahn ở Thành phố Kansas thuộc bang Kansas. Sau sự cố chết người này, công viên nước Verrückt đã bị đóng cửa vĩnh viễn.
TeleCuraçao (Call sign: PJC-TV) là một đài truyền hình phát sóng bằng tín hiệu analog trên NTSC, kênh 8 ở Curaçao, với một bộ lặp ở Bonaire trên kênh 16. Đài được thành lập vào ngày 31 tháng 7 năm 1960, là đài truyền hình đầu tiên của Antille thuộc Hà Lan. Đài truyền hình Mỹ Gerald Bartell đã thành lập đài với sự hỗ trợ của chính quyền địa phương và sự hỗ trợ Telearuba 13 sau này. Tại một thời điểm, đài đã mở rộng ra khắp đảo ABC còn lại với các bộ lặp (chẳng hạn như ở Aruba). Ban đầu, đài chủ yếu phát sóng phim của Hoa Kỳ (chẳng hạn như Gunsmoke), với tin tức địa phương. Tuy nhiên, ngày nay, họ đang dần dần bắt đầu sản xuất ngày càng nhiều chương trình của riêng mình, để ít phụ thuộc vào những chương trình từ Hoa Kỳ hơn và phục vụ nhiều hơn theo thị hiếu địa phương. Là một phần của việc chuyển đổi truyền hình kỹ thuật số ở Curaçao vào năm 2013, TeleCuraçao đã thêm một mô phỏng kỹ thuật số trên UHF 26 trong DVB-T, với hai kênh con được bổ sung thêm.
Mại dâm tại Vương quốc Anh Tại Vương quốc Anh (bao gồm Anh, Xứ Wales và Scotland), việc tham gia vào quan hệ tình dục để nhận tiền là hoàn toàn hợp pháp, Tuy nhiên, có những hoạt động liên quan đến mại dâm vi phạm pháp luật, chẳng hạn như quảng cáo mại dâm ở nơi công cộng, điều tra, sở hữu hoặc quản lý một nhà hoạt động mại dâm, điều hành môi giới và quảng cáo mại dâm. Ở Bắc Ireland, trước đây cũng áp dụng các luật tương tự, nhưng từ ngày 1 tháng 6 năm 2015, việc trả tiền cho dịch vụ mại dâm đã trở thành hành vi bất hợp pháp. Mặc dù có quy định về công việc tình dục, nhưng không phải lúc nào chúng cũng được tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Tháng 3 năm 2016, có báo cáo cho thấy một số lực lượng cảnh sát đã "nhắm mắt làm ngơ" không để ý đến những nơi hoạt động mại dâm, tức là họ đã không làm gì để ngăn chặn hoạt động này. Tuy nhiên, từ đó, đã có những báo cáo về việc truy quét những tụ điểm hoạt động mại dâm ở Vương quốc Anh. Nhiều tụ điểm hoạt động mại dâm ở các thành phố như Manchester, Luân Đôn và Cardiff hoạt động dưới hình thức "tiệm massage". Mặc dù tại Vương quốc Anh, độ tuổi tối thiểu tham gia hoạt động tình dục là 16 tuổi, nhưng việc trả tiền cho dịch vụ từ một người dưới 18 tuổi mà người mua không có lý do hợp lệ để tin rằng họ đã đủ 18 tuổi trở lên là vi phạm pháp luật. Ở Anh và Xứ Wales, trả tiền để mua dịch vụ tình dục từ một gái mại dâm bị "ép buộc" được coi là một tội danh nghiêm trọng, áp dụng nguyên tắc chịu trách nhiệm nghiêm ngặt. Điều này có nghĩa là ngay cả khi khách hàng của gái mại dâm không có ý đồ phạm tội hoặc không biết rằng gái mại dâm bị ép buộc, họ vẫn có thể bị truy tố tội. Số lượng người bán dâm tại Vương quốc Anh không thể xác định chính xác và khó để đánh giá. Năm 2009, các cơ quan chính phủ và tổ chức phi chính phủ ước tính có khoảng 100.000 người đang hoạt động trong ngành bán dâm tại đất nước này. Theo một nghiên cứu được công bố vào năm 2015, có khoảng 72.800 người bán dâm tại Vương quốc Anh. Trong số này, 88% là phụ nữ, 6% là nam và 4% là người chuyển giới. Theo một nghiên cứu của TAMPEP vào năm 2009, trong tổng số người bán dâm ở Vương quốc Anh, có 41% là người nước ngoài; tuy nhiên, ở Luân Đôn, tỷ lệ này lên đến 80%. Tuy số lượng người bán dâm di cư ở Vương quốc Anh thấp hơn đáng kể so với các nước phương Tây khác (như Tây Ban Nha và Ý, nơi tỷ lệ người bán dâm di cư chiếm 90%), người bán dâm di cư đến từ các khu vực như Trung Âu (bao gồm Ba Lan, Hungary, Slovakia và Cộng hòa Séc) chiếm 43%, các quốc gia Baltic chiếm 10%, Đông Âu (bao gồm Romania và Bulgaria) chiếm 7%, các quốc gia Balkan chiếm 4%, các quốc gia khác trong Liên minh châu Âu chiếm 16%, Trung và Nam Mỹ chiếm 10%, Châu Á chiếm 7%, Châu Phi chiếm 2%, và Bắc Mỹ chiếm 1%. Theo dữ liệu từ Văn phòng Thống kê Quốc gia cho thấy vào năm 2009, ngành công nghiệp mại dâm đã đóng góp số tiền là 5,3 tỷ Bảng Anh vào nền kinh tế Vương quốc Anh. Vào năm 2015, Cục Thuế và Hải quan của Vương quốc Anh đã thành lập một đội làm việc đặc biệt có tên "Đội công tác giải trí cho người trưởng thành". Mục tiêu của đội là thu thuế từ thu nhập chưa được khai báo của các công ty môi giới hẹn hò và các cơ sở kinh doanh mại dâm trực tuyến. Ngành mại dâm ở Vương quốc Anh có nhiều hình thức khác nhau, bao gồm mại dâm đường phố, mại dâm qua dịch vụ đi cùng và mại dâm tại các cơ sở. Các cơ sở này có thể là phòng xông hơi, phòng mát-xa, căn hộ riêng tư và các cửa hàng tại khu Soho. Vào năm 2003, cảnh sát điều tra đã kiểm tra một câu lạc bộ nhảy múa kiêm mại dâm có tên Spearmint Rhino trên đường Tottenham Court ở Luân Đôn và cho rằng đây là một địa điểm trá hình mại dâm. Theo một nghiên cứu của Dự án Poppy vào năm 2008, đã phát hiện ra sự tồn tại của những nhà chứa ở tất cả 33 khu chính quyền địa phương ở Luân Đôn. Westminster là nơi có số lượng nhà chứa cao nhất với 71 nhà chứa, trong khi Southwark chỉ có 8 nhà chứa. Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã giả danh làm khách hàng tiềm năng và đã gọi điện cho 921 nhà chứa đã quảng cáo trên các báo địa phương. Từ đó, các nhà nghiên cứu ước tính rằng ngành công nghiệp nhà chứa tạo ra từ 50 triệu đến 130 triệu bảng mỗi năm. Nhiều nhà chứa hoạt động thông qua các doanh nghiệp hợp pháp được cấp phép làm phòng xông hơi hoặc phòng mát-xa. Tuy nhiên, phần lớn nhà chứa lại tập trung trong các căn hộ riêng tư nằm trong các khu dân cư. Báo cáo cũng phát hiện rằng có tới 77 dân tộc khác nhau trong số những người bán dâm. Nghiên cứu này đã được gọi là "nghiên cứu toàn diện nhất từng được tiến hành về nhà chứa tại Vương quốc Anh". Tuy nhiên, phương pháp nghiên cứu của nó đã bị chỉ trích và từ chối bởi các nhà hoạt động và các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực ngành công nghiệp dịch vụ tình dục. Kích thước của các nhà chứa tại Vương quốc Anh thường nhỏ. Theo Cari Mitchell, người phát ngôn của Tổ chức Đoàn kết Nữ diễn viên ở Anh vào năm 2008, "hầu hết các nhà chứa được điều hành kín đáo bởi hai hoặc ba phụ nữ. Đôi khi có một lễ tân hoặc một phụ nữ khác, thường là những người trước đây đã từng làm công việc tình dục thuê người khác". Trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến 2014, đã có 55 vụ kiện liên quan đến việc duy trì nhà chứa. Năm 2014 đến 2015, số vụ kiện này tăng lên 96.. Vào năm 2017, một báo cáo đã tiết lộ rằng có một số tài sản bị cho thuê trong thời gian ngắn để sử dụng như nhà chứa "tạm thời". Thường thì những tài sản này được đặt ở những khu vực hẻo lánh. Các khảo sát cho thấy rằng số lượng đàn ông ở Anh thuê người bán dâm ít hơn so với các nước khác. Ước tính từ các nghiên cứu cho thấy khoảng 7% đàn ông ở Anh đã từng sử dụng dịch vụ của người bán dâm (dữ liệu năm 1991) đến 11% (dữ liệu từ 2010-2012). So với Mỹ (15-20%) và Pháp (16%), số lượng đàn ông ở Anh thuê người bán dâm ít hơn. Tuy nhiên, các tác giả nhấn mạnh rằng việc tìm dữ liệu đáng tin cậy gặp khó khăn do thiếu các nghiên cứu trước đây, sự khác biệt về kích thước mẫu và khả năng ước lượng thấp do quan tâm về quyền riêng tư của người tham gia khảo sát. Một cuộc khảo sát được tiến hành vào năm 2004 với những người bán dâm đường phố đã cho thấy tuổi trung bình khi bắt đầu hoạt động là 21 tuổi. Vào tháng 3 năm 2015, Đại học Leeds đã tiến hành một cuộc khảo sát quy mô lớn về người bán dâm tại Vương quốc Anh, với sự tài trợ từ Quỹ Wellcome. Kết quả cho thấy rằng 71% những người bán dâm trước đây đã từng làm việc trong lĩnh vực y tế, chăm sóc xã hội, giáo dục, chăm sóc trẻ em hoặc các tổ chức từ thiện. Ngoài ra, 38% trong số họ có bằng cử nhân. Nghiên cứu khác được công bố bởi Đại học Swansea cũng vào tháng 3 năm 2015 đã chỉ ra rằng gần 5% sinh viên tại Vương quốc Anh đã tham gia vào hoạt động tình dục, bao gồm cả mại dâm. Hầu hết sinh viên tham gia vào công việc tình dục để chi trả các chi phí sinh hoạt (hai phần ba) và trả nợ (45%). Khoảng 70% người bán dâm làm việc trong nhà, có nghĩa là họ tiếp khách và cung cấp dịch vụ tại các địa điểm như căn hộ riêng tư hoặc nhà riêng. Năm 2016, Ủy ban Lựa chọn Quốc gia về Công việc Nội vụ tiến hành cuộc điều tra đầu tiên về ngành công nghiệp dịch vụ tình dục. Chứng cứ được đệ trình cho cuộc điều tra cho thấy rằng có khoảng 70.000 người bán dâm ở Anh và họ kiếm trung bình 2.000 bảng Anh mỗi tuần. Các ước tính cũng cho thấy rằng người bán dâm ở Anh tính trung bình 78 bảng Anh cho mỗi dịch vụ và có khoảng 25 khách hàng mỗi tuần. Khoảng một phần tư được cho là làm việc đường phố trong ngành mại dâm, phần còn lại làm việc trong nhà chứa và phòng xông hơi. Các lý do chọn làm việc trong ngành mại dâm bao gồm vấn đề về vô gia cư và nghiện ma túy. Cuộc điều tra cũng đề xuất rằng các hồ sơ tội phạm về mại dâm trong quá khứ nên được gỡ bỏ. Ủy ban đã đề nghị rằng, do hiện tại thiếu dữ liệu đáng tin cậy về chủ đề này, Bộ Nội vụ nên tiến hành một nghiên cứu để thu thập thông tin phục vụ cho quá trình lập pháp trong tương lai.. Một trong những bằng chứng sớm nhất về hoạt động mại dâm ở Vương quốc Anh là phát hiện một món tiền đồng nhỏ gọi là "spintria" trên bờ sông Thames. Đây là những đồng xu từ thời La Mã, có hình vẽ mô tả một người đàn ông và một người phụ nữ đang thực hiện hành vi tình dục. Một số học giả cho rằng spintria là những token được sử dụng trong hoạt động mại dâm, có thể được dùng để vào các nhà chứa mại dâm hoặc trao đổi cho các đối tác trong giao dịch mại dâm. Thời kỳ Trung cổ. Trong thời Trung cổ, nhiều nhà chứa mại dâm ở Luân Đôn được đặt tại khu vực Southwark, nằm trong quyền hạn của cung điện Winchester, nơi cư trú của Giám mục Winchester. Năm 1161, vua Henry II ban hành các quy định cho phép các Giám mục cấp phép các nhà chứa mại dâm và người bán dâm ở khu vực này, dẫn đến việc hình thành Liberty of the Clink. Kết quả là, số lượng nhà chứa mại dâm tăng lên ở khu vực Bankside thuộc Liberty này. Những nhà chứa này thường được gọi là "stew-houses" vì nhiều trong số chúng cũng là các nhà tắm đầy hơi. Giám mục là chủ sở hữu của nhiều nhà chứa mại dâm, và thường đóng cửa chúng khi quốc hội họp để bảo vệ danh dự. Hồ sơ vụ án đã tiết lộ rằng có các linh mục, tu sĩ và tu sĩ fransiscô đã là khách hàng của các nhà chứa này. Các nhà chứa mại dâm phải chấp nhận việc kiểm tra hàng tuần từ công an hoặc người quản lý. Họ không được yêu cầu đòi hỏi phụ nữ bán dâm trả nhiều hơn 14 penny một tuần cho một phòng. Các nhà chứa không được mở cửa vào ngày lễ và việc ép buộc bán dâm là bị cấm. Người bán dâm không được phép sống tại nhà chứa mại dâm hoặc kết hôn, và họ phải trải qua một đêm đầy đủ với khách hàng của mình. Đây là luật mại dâm sớm nhất tại châu Âu, thể hiện việc điều chỉnh mại dâm thay vì đàn áp nó, và nhà chứa mại dâm cung cấp một nguồn thu lớn cho các Giám mục. Những người bán dâm, được gọi là Winchester Geese, được cho rằng có thể đã được chôn cất tại một nghĩa trang không được phép được biết đến với tên gọi Cross Bones Cemetery. Sau đó, một loạt quy định đã được ban hành nhằm hạn chế hoạt động mại dâm ở Luân Đôn, đặc biệt là trong khu vực Southwark, và giới hạn sự hấp dẫn của nó. Tại Thành phố Luân Đôn vào năm 1277, người bán dâm làm việc trong nhà chứa mại dâm bị cấm sống trong thành phố. Tuy nhiên, có những dấu hiệu cho thấy hoạt động mại dâm diễn ra trong Thành phố Luân Đôn ở các khu vực như Farringdon Without, nơi thường xuyên xuất hiện "phụ nữ bình thường". Khu vực giữa Cheapside và nhà thờ St Pancras, Soper Lane cũng nổi tiếng với tội ác tình dục, bao gồm một con phố được gọi là Gropecunt Lane. Năm 1310, vua Edward II ban hành lệnh đình chỉ hoạt động các nhà chứa mại dâm ở Luân Đôn. Ngoài Luân Đôn, hầu hết các thị trấn và thành phố khác ở Anh thời Trung cổ cũng có nhà chứa mại dâm. Ở một số nơi, nhà chứa mại dâm là hoạt động chính thức và do công chúng sở hữu. Thông thường, người bán dâm chỉ được phép hoạt động trên các tuyến đường cụ thể hoặc trong các khu vực đã được chỉ định. Có các quy định về phục vụ giàu có yêu cầu phụ nữ bán dâm mặc đồ khác với phụ nữ khác để được coi là "đáng kính". Các luật pháp về mại dâm khác nhau từ thị trấn này đến thị trấn khác, và hoạt động mại dâm ở một địa phương cụ thể được điều chỉnh theo cách được chấp nhận thực tế (de facto) nếu không được chấp nhận theo cách hợp pháp (de jure), hoặc bị cấm. Việc quy định về mại dâm ở Anh kéo dài cho đến năm 1546, khi lo ngại về việc nhà chứa mại dâm đóng vai trò trong sự lây lan của bệnh síphilis đã khiến vua Henry VIII ban hành một lời tuyên bố hoàng gia. Lời tuyên bố này cấm hoạt động của tất cả các nhà chứa mại dâm ở Anh và chấm dứt "sự dung thứ" đối với những người bán dâm, được xem là "những người đồi trụy và không hạnh phúc". Thế kỷ 17 và 18. Trong thế kỷ 17 và 18, sự hiện diện của mại dâm ở Luân Đôn được ghi nhận thông qua việc xuất bản các thư mục. Một trong số đó là "The Wandering Whore", được xuất bản trong thời kỳ Phục hưng, liệt kê các con phố nơi có thể tìm thấy các gái mại dâm và vị trí của nhà chứa mại dâm."A Catalogue of Jilts, Cracks Prostitutes" là một tác phẩm được xuất bản vào cuối thế kỷ 17, nó liệt kê các đặc điểm về ngoại hình của 21 phụ nữ mà bạn có thể tìm thấy xung quanh Nhà thờ St Bartholomew-the-Great trong sự kiện Bartholomew Fair tại khu vực Smithfield ở Luân Đôn. "Harris's List of Covent Garden Ladies" là một tác phẩm được xuất bản trong nửa sau của thế kỷ 18 dưới hình thức một cuốn sách nhỏ gọn. Nó cung cấp thông tin về ngoại hình và khả năng tình dục của khoảng 120-190 gái mại dâm làm việc tại và xung quanh khu vực Covent Garden (nổi tiếng là một quận đèn đỏ) cùng với địa chỉ và giá cả của họ. Bullough đã đưa ra luận điểm rằng mại dâm ở Anh thế kỷ 18 mang lại lợi ích cho đàn ông ở mọi tầng lớp xã hội và là một phần không thể thiếu trong kinh tế đối với nhiều phụ nữ nghèo, và xã hội chấp nhận điều này. Tuy nhiên, việc cấm hoạt động nhà chứa mại dâm đã được đưa vào luật chống lại mất trật tự công cộng, ghi trong Đạo luật Disorderly Houses Act 1751. Vào cuối thế kỷ, ý kiến công cộng bắt đầu chuyển dịch phản đối ngành công nghiệp dâm ô, và những người cải cách đã đề xuất các biện pháp hành động từ phía các cơ quan chức trách. Trong thế kỷ 19, phong trào Tin lành đã chỉ trích mạnh mẽ gái mại dâm và khách hàng của họ, coi họ như tội nhân và phê phán xã hội vì dung thứ cho hoạt động này. Đạo luật Vagrancy Act 1824 đã thêm thuật ngữ "common prostitute" vào pháp luật Anh và áp đặt hình phạt lên các gái mại dâm, có thể bao gồm lao động cực khổ kéo dài tới một tháng. Đạo luật định rõ rằng Đạo luật Vagrancy Act 1824 cũng xem việc một người đàn ông sống dựa vào thu nhập của một gái mại dâm là một tội phạm. Hành vi này thường được gọi là "sống nhờ vào thu nhập vô đạo" và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của đạo luật. Trong thời kỳ Victoria, mại dâm được coi là một tội ác khủng khiếp và bị xem là đe dọa đến đạo đức và giá trị xã hội. Đặc biệt, phụ nữ trẻ và nam giới được coi là những nạn nhân của mại dâm, và toàn xã hội đều lên án hành vi này. Đạo luật Town Police Clauses Act 1847 được coi là một trong những văn bản pháp luật đầu tiên để giới hạn mại dâm trong thời Victoria. Nó cấm mại dâm chung tập trung tại các "nơi công cộng" như quán cà phê Anh. Thế kỷ 19, mại dâm thường là một nghề phổ biến trong tầng lớp công nhân. Đối với nhiều phụ nữ, việc trở thành gái mại dâm thường là một trường hợp tình cờ. Trong thời kỳ này, công chúng bắt đầu quan tâm đến các vấn đề xã hội cụ thể. Đồng thời, xuất hiện một quan điểm lý tưởng về hình ảnh phụ nữ, như là "Thiên thần trong ngôi nhà". Sự gia tăng của đạo đức gia đình tầng trung và sự phân tách hoạt động giữa nam giới và nữ giới trong các lĩnh vực riêng biệt đã làm cho việc phụ nữ tìm được việc làm ngày càng khó khăn. Điều này dẫn đến sự gia tăng của các nghề như may vá, nhân viên cửa hàng, nông nghiệp, công việc nhà máy và làm người hầu gia đình, tất cả đều là các nghề có giờ làm việc dài và thu nhập thấp.Với thu nhập thấp này, phụ nữ phải dựa vào mại dâm để có thể nuôi sống chính mình và gia đình, đặc biệt là trong các gia đình mà người kiếm cơm chính không còn ở bên cạnh. Một nghiên cứu từ thời Victoria muộn đã chỉ ra rằng hơn 90% gái mại dâm tại nhà tù Millbank là con gái của "những người đàn ông lao động không chuyên nghiệp và nửa chuyên nghiệp", trong đó hơn 50% đã từng làm người giúp việc, và những người khác đã thực hiện các công việc như giặt là, dọn nhà và bán hàng trên đường phố. Trong thời kỳ Victoria, mức độ mại dâm ở Anh rất cao, tuy nhiên, việc xác định chính xác số lượng gái mại dâm hoạt động là khó khăn. Theo báo cáo tòa án từ năm 1857 đến 1869, mô hình mại dâm phổ biến hơn ở các cảng thương mại và các điểm nghỉ dưỡng, trong khi ít phổ biến hơn ở các thành phố chuyên sản xuất hàng hóa, trung tâm sản xuất vải bông và len, và trung tâm sản xuất vải len và len. "Westminster Review" đặt con số từ 50.000 đến 368.000. Điều này đưa mại dâm trở thành ngành nghề phụ nữ lớn thứ tư về quy mô. Một khó khăn trong việc đếm số lượng là trong thế kỷ 19, thuật ngữ "mại dâm" cũng được sử dụng để ám chỉ phụ nữ sống với đàn ông ngoài hôn nhân, phụ nữ có con ngoài giá thú, và những người có quan hệ tình dục vì niềm vui cá nhân chứ không phải vì tiền bạc. Các ước tính về số lượng gái mại dâm từ cảnh sát có thể khác nhau như sau: Tuy nhiên, bảng này chỉ đưa ra số liệu về các gái mại dâm được biết đến bởi cảnh sát. Sự không đáng tin cậy của dữ liệu trong thế kỷ 19 đã làm cho việc xác định liệu mại dâm có gia tăng hay giảm trong thời kỳ này trở nên không rõ ràng. Tuy nhiên, không có nghi ngờ gì rằng trong thời kỳ Victoria, đặc biệt là vào những năm 1840 và 1850, công chúng đã tin rằng mại dâm và bệnh lây truyền qua đường tình dục (được gọi là bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục vào thời điểm đó) đang gia tăng.. Trong ý thức công chúng, nghệ sĩ kịch thường được liên tưởng đến mại dâm, và điều này phản ánh sự thiếu tôn trọng đối với phụ nữ thông qua việc họ xuất hiện trong các nơi giải trí công cộng. Một loạt sách nhỏ có tên là "The Swell's Night Guides" đã được xuất bản, liệt kê các lợi ích và hạn chế của các nhà hát khác nhau đối với những người đàn ông tìm niềm vui, và cung cấp lời khuyên về cách tiếp cận nghệ sĩ kịch. Sách cảnh báo các người đàn ông không nên trực tiếp đề nghị tiền mặt cho nghệ sĩ kịch, mà nên tuyên bố muốn thuê họ để tổ chức các buổi biểu diễn tư nhân. Một số gái mại dâm làm việc tại các khu vực đèn đỏ đã được chỉ định, trong khi những người khác làm việc trong các khu vực tự do của riêng họ. Các khu vực cảng của Luân Đôn có một số lượng lớn gái mại dâm, và đường Granby, gần ga Waterloo của Luân Đôn, nổi tiếng với "phụ nữ mặc nửa trần" trưng bày trên các cửa sổ. Gái mại dâm cũng có thể làm việc trong lực lượng vũ trang, chủ yếu là do bị cưỡng bức tình dục bởi các nhân viên và phải sống trong điều kiện khắc nghiệt tại các khu trại lính mà các người đàn ông phải trải qua. Các khu trại quân sự thường quá tải và không đủ hệ thống thông gió và vệ sinh. Một số lính được phép kết hôn, nhưng thậm chí cả họ cũng không được cung cấp trợ cấp để nuôi vợ, điều này đôi khi buộc họ phải bán dâm để kiếm sống. quy định về mại dâm trong lực lượng vũ trang là một biện pháp mà chính phủ áp dụng để kiểm soát sự lây lan của bệnh lây truyền qua đường tình dục trong quân đội. Vào năm 1864, một trong ba trường hợp bệnh trong quân đội là do các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Số lượng nhập viện do viêm nhiễm âm đạo và bệnh giang mai cũng rất cao, đạt đến 290,7 trên 1.000 quân sự tổng cộng. Quy định mại dâm nhằm giảm thiểu rủi ro lây truyền bệnh và bảo vệ sức khỏe của binh lính. Cuốn sách "Prostitution, Considered in Its Moral, Social, and Sanitary Aspects" của William Acton năm 1857 đã gây ra sự chú ý và tranh cãi về vấn đề mại dâm ở London. Cuốn sách này thể hiện sự lo ngại của tác giả về việc thành phố trở thành trung tâm sự suy đồi đạo đức tại Anh và bị xâm nhiễm bởi những gái mại dâm mang các bệnh lây truyền. Nó đã gợi mở cuộc tranh luận rộng rãi về các khía cạnh đạo đức, xã hội và vệ sinh của mại dâm, và tạo ra sự quan tâm công chúng đối với vấn đề này. William Acton lên án mức lương thấp của phụ nữ như một trong những lý do dẫn đến việc họ trở thành gái mại dâm. Ông cho rằng tình trạng kinh tế khó khăn và thiếu cơ hội việc làm khả dụng làm cho mại dâm trở thành một lựa chọn tương đối hợp lý cho phụ nữ đối mặt với khó khăn kinh tế. Quan điểm này khác biệt với quan niệm phổ biến trong các tầng lớp trung và thượng lưu, cho rằng việc phụ nữ trở thành gái mại dâm là do bản chất ham muốn tình dục và tính tội lỗi bẩm sinh. Vào những năm 1860, Luật Bệnh lây truyền qua đường tình dục đã được áp dụng ở Anh với mục tiêu giảm thiểu bệnh lây truyền qua đường tình dục. Hệ thống mại dâm được cấp phép theo mô hình của Pháp được áp dụng, trong đó các gái mại dâm phải chịu kiểm tra bắt buộc về bệnh lây truyền qua đường tình dục và được giam giữ cho đến khi khỏi bệnh. Những phụ nữ trẻ chính thức trở thành gái mại dâm và bị ràng buộc trong hệ thống này suốt đời. Sau cuộc vận động quốc gia dẫn đầu bởi Josephine Butler, hệ thống mại dâm được hợp pháp đã bị dừng lại vào năm 1886. Josephine Butler trở thành một nhà hoạt động xã hội quan trọng trong việc giúp giải thoát cho những phụ nữ mà bà đã giúp đỡ. Đạo luật Sửa đổi Luật Hình sự 1885 đã có những thay đổi quan trọng ảnh hưởng đến mại dâm. Cụ thể, đạo luật này tăng cường việc truy tố tội mua bán gái trẻ cho mục đích mại dâm bằng cách sử dụng ma túy, đe dọa hoặc gian lận. Nó cũng đóng cửa các nhà chứa và nâng độ tuổi tối thiểu cho phụ nữ trẻ có thể bị cưỡng bức từ 12 lên 16 tuổi. Những thay đổi này nhằm bảo vệ quyền lợi và an toàn cho phụ nữ trẻ và giảm thiểu sự tàn ác và khủng bố trong ngành mại dâm. Việc áp dụng quy định cuối cùng này đã giảm nguồn cung gái trẻ, mà trước đây có nhu cầu cao nhất. Mã đạo luật mới về đạo đức đã có ý nghĩa là các người đàn ông lịch sự không dám để lộ việc sử dụng dịch vụ mại dâm. Điều này làm tăng sự thận trọng và giới hạn công khai về các hoạt động mại dâm. Những quy định này đặt nặng vào trách nhiệm cá nhân và đạo đức của mỗi người, đồng thời xây dựng một môi trường kín đáo hơn xung quanh các hoạt động mại dâm. Trong thời kỳ Victoria, mại dâm nam đồng tính đã tồn tại mặc dù bị coi là bất hợp pháp và bị cấm. Thông tin về mại dâm nam đồng tính trong thời kỳ này chủ yếu đến từ các vụ án tòa án và báo cáo. Có một số vụ báo cáo về việc đóng cửa nhà chứa mại dâm nam đồng tính hoặc quán rượu, tuy nhiên các địa điểm phổ biến nhất cho hoạt động mại dâm nam đồng tính là các công viên và các đường phố, đặc biệt là những đường phố gần các khu đồn. Điều này phản ánh sự tồn tại của một cộng đồng mại dâm nam đồng tính trong thời kỳ Victoria mặc dù nó bị xem là bất hợp pháp và bị xem là tội phạm. Trong giai đoạn sau của thế kỷ 20, đã có những nỗ lực nhằm hạn chế hoạt động mại dâm. Đạo luật Sexual Offences Act 1956 đã bổ sung các điều khoản xem việc quản lý nhà chứa mại dâm là một tội phạm. Đồng thời, Đạo luật Street Offences Act 1959 đã áp đặt các hạn chế mới để giảm mại dâm đường phố, theo đó "việc một gái mại dâm thường xuyên lẻn trốn hoặc dụ dỗ trong một con đường hoặc nơi công cộng với mục đích mại dâm là một tội phạm". Kết quả là, nhiều gái mại dâm đã rời khỏi đường phố vì sợ bị truy cứu pháp lý. Như Donald Thomas đã nói trong cuốn sách "Villains' Paradise": Đạo luật Street Offences năm 1959 được đưa ra nhằm ngăn chặn sự phiền toái của công chúng khi có gái mại dâm hoạt động trên vỉa hè, và từ đó biến họ thành 'gái gọi'. Sự phổ biến đại trà của điện thoại và quan niệm đạo đức của các cơ quan chức năng đã tạo điều kiện cho sự thay đổi này trở nên khả thi. Đạo luật này áp đặt mức phạt 60 bảng Anh cho hành vi mời mọc trên vỉa hè và có khả năng bị giam cầm theo luật mới, điều này đã làm gia tăng tình hình này.. Hình phạt cho hành vi sống dựa trên thu nhập không chính đạo đã được tăng lên, với mức tối đa là 7 năm tù giam. Vấn đề về việc xuất bản danh sách gái mại dâm (còn được gọi là các tạp chí liên lạc) đã gây tranh cãi pháp lý vào năm 1962 khi Frederick Charles Shaw xuất bản "Ladies Directory", một hướng dẫn về gái mại dâm ở Luân Đôn. Ông đã bị kết án về "âm mưu phá hoại đạo đức công cộng" và kháng cáo với lý do rằng không có tội danh như vậy tồn tại. Tuy nhiên, Hạ viện đã bác bỏ kháng cáo đó, từ đó tạo ra một tội danh thông thường mới. Trong Đạo luật Sexual Offences năm 1985, một số hoạt động của khách hàng mại dâm cũng đã được xem là tội phạm. Đạo luật này đã thiết lập hai tội danh mới, bao gồm kerb crawling (tiếp cận gái mại dâm bằng cách lảng vảng trên vỉa hè) và mời mọc liên tục phụ nữ với mục đích mại dâm. Điều này nhằm ngăn chặn và xử lý các hoạt động liên quan đến việc tìm kiếm dịch vụ mại dâm từ phía khách hàng. Sự gia tăng số lượng gái mại dâm nhập cư từ nước ngoài trong thế kỷ 21 đã gây ra lo ngại về buôn người và mại dâm ép buộc. Đạo luật Sexual Offences Act năm 2003 đã bao gồm các điều khoản đặc biệt xem việc buôn bán tình dục là một tội danh. Cuộc đánh giá "Paying the Price" được tiến hành bởi Bộ Nội vụ vào năm 2004 tập trung vào các dự án nhằm chuyển hướng phụ nữ tránh nhập vào mại dâm và tương tác với những người đã bị mắc kẹt để giúp họ thoát ra khỏi tình huống đó. Những nỗ lực này nhằm bảo vệ và hỗ trợ các nạn nhân của buôn người và mại dâm ép buộc. Một cuộc đánh giá thứ hai của Bộ Nội vụ, "Tackling the demand for prostitution" (2008), đề xuất xây dựng một tội danh mới để xử phạt những người trả tiền cho việc mua dâm với một người bị kiểm soát mà không đồng ý vì lợi ích của người khác. Phương pháp này đối với mại dâm bắt đầu được tiến triển pháp luật vào năm 2008, khi Bộ trưởng Nội vụ Jacqui Smith công bố rằng việc trả tiền cho dịch vụ của một gái mại dâm dưới sự kiểm soát của một gã điều khiển sẽ trở thành một tội danh hình sự. Khách hàng cũng có thể đối mặt với tội hiếp dâm nếu họ biết rằng họ đang trả tiền cho một phụ nữ bị buôn lậu trái phép, và những người vi phạm lần đầu có thể bị buộc tội. Điều này nhằm đẩy mạnh việc giảm thiểu sự cầu mua dâm và bảo vệ các phụ nữ bị buôn bán và ép buộc trong ngành mại dâm. Đạo luật Policing and Crime Act 2009 đã đưa ra các quy định liên quan đến mại dâm. Nó xác định việc trả tiền cho dịch vụ của một gái mại dâm "bị bắt buộc" là một tội danh. Đạo luật này cũng đề ra các quy định về đóng cửa các nhà chứa mại dâm và có những quy định khác nhằm kiểm soát hoạt động liên quan đến mại dâm. Mục tiêu của đạo luật là hạn chế và kiểm soát mại dâm, đồng thời bảo vệ những người bị bắt buộc và khai thác trong ngành này. Ở Holbeck, Leeds, đã thực hiện một thí nghiệm với việc "quản lý" một khu vực mại dâm, cho phép các gái mại dâm làm việc trong một khu vực nhất định từ 7 giờ tối đến 7 giờ sáng mà không phải lo ngại về nguy cơ bị truy tố. Vào tháng 1 năm 2016, quyết định về việc "quản lý" khu vực mại dâm tại Holbeck, Leeds đã được chính thức áp dụng vĩnh viễn. BBC đã sản xuất bộ phim tài liệu mang tên "Sex, Drugs Murder: Life in the Red Light Zone" về khu vực Holbeck, Leeds. Bộ phim này khám phá cuộc sống trong khu vực đỏ ánh đèn và tập trung vào các vấn đề liên quan đến tình dục, ma túy và tội ác. Khu vực này đã chấm dứt vào tháng 3 năm 2020.Năm 2015, Cảnh sát Gwent đã xem xét kế hoạch tương tự cho một khu vực tại Pillgwenlly, Newport, Wales. Kế hoạch này nhằm áp dụng một mô hình quản lý đặc biệt trong khu vực này, liên quan đến hoạt động mại dâm và các vấn đề liên quan. Theo một cuộc điều tra của tờ Guardian, nhiều phụ nữ đang đối mặt với khủng hoảng về chi phí sinh hoạt đã buộc phải bước vào ngành mại dâm để tự nuôi sống bản thân hoặc gia đình. Hiện tượng này đặc biệt ảnh hưởng đến những phụ nữ có điều kiện sống khiêm tốn hoặc đã ở trong tình huống dễ tổn thương. Các tổ chức đã nhận thấy rằng những phụ nữ nhập cư, người tị nạn và những phụ nữ đang cố gắng thoát khỏi mối quan hệ bạo lực là những nhóm chịu tác động đầu tiên.
Garfield là một mèo hư cấu và là nhân vật chính trong truyện tranh cùng tên, được sáng tạo bởi Jim Davis. Truyện tranh tập trung vào Garfield, được mô tả là một con mèo giống Ba Tư màu cam lười biếng, béo phì và lạc quan. Anh ta nổi tiếng với tình yêu đối với mì lasagna và việc đi ngủ, cũng như sự căm ghét ngày thứ Hai, chú mèo bạn Nermal và việc tập thể dục. Tiểu sử hư cấu. Garfield là một con mèo màu cam thuộc sở hữu của Jon Arbuckle. Anh ta sinh ra vào ngày , trong nhà bếp của nhà hàng Ý Mamma Leoni. Jim Davis đặt tên Garfield theo tên ông nội, James Garfield Davis. Khi còn con mèo, anh đã phát triển sở thích là ăn mì lasagna, món ăn yêu thích của anh. Do khẩu vị của mình, chủ nhân của nhà hàng Mamma Leoni phải lựa chọn giữa việc cho đi Garfield hoặc đóng cửa nhà hàng của mình; vì vậy, Garfield được bán trong một cửa hàng thú cưng. Garfield được Jon Arbuckle nhận nuôi từ cửa hàng vào ngày 19 tháng 8 năm 1978. Trong các tập phim hoạt hình, Garfield thường gây rối trong mỗi tập phim. Cũng đã được biết rằng Garfield đôi khi sử dụng "hộp cát" như một nơi chơi, ví dụ như trong một đoạn truyện tranh năm 1978; anh ta nói rằng anh ghét quảng cáo vì chúng "quá dài để xem và quá ngắn để đi tới hộp cát". Vào ngày 27 tháng 10 năm 1979, được tiết lộ rằng anh ta không thích nho khô. Sinh nhật của anh là ngày 19 tháng 6 năm 1978, cũng là ngày xuất bản tập truyện "Garfield" đầu tiên. Vào kỷ niệm 25 năm của Garfield vào năm 2003, nhiều đoạn truyện được đăng với sự tương tác giữa phiên bản Garfield năm 1978 và Garfield hiện tại. Garfield thường gặp nhiều cuộc phiêu lưu, như bị mắc kẹt trong màn cửa cuộn, đánh nhau với chuột và bị nhốt trong trại cứu hộ động vật. Năm 2005, Garfield và Jon xuất hiện trong một số đoạn truyện tranh của "Blondie" để tưởng nhớ kỷ niệm 75 năm thành lập. Cũng đã có một cuộc giao nhau trước đó giữa Blondie và Garfield trong đoạn truyện của Garfield được xuất bản vào ngày 1 tháng 4 năm 1997 và ngược lại, như một phần của comic strip switcheroo. Garfield là một trong số nhiều nhân vật hoạt hình xuất hiện trong bộ phim hoạt hình năm 1990 "Cartoon All-Stars to the Rescue". Đặc điểm nhân vật. Các đặc điểm nhân vật của Garfield bao gồm tính lười biếng, sự chua ngoa và tính châm biếm. Anh ghét ngày thứ Hai và chú mèo Nermal, và yêu thích mì lasagna. Anh cũng thường bực mình với chú chó Odie của Jon. Vào tháng 2 năm 2017, một tranh cãi nổ ra trên trang thảo luận của trang Wikipedia tiếng Anh về giới tính của nhân vật này. Mặc dù các nhân vật khác thường xuyên sử dụng đại từ xưng hô nam để chỉ Garfield, nhưng do những bình luận mà người tạo ra nhân vật, Jim Davis, đã đưa ra vào năm 2014 cho "Mental Floss", trong đó ông nói rằng "Garfield rất phổ biến. Do tính chất là một con mèo, thực sự, anh ta không phải là nam hay nữ hoặc thuộc một chủng tộc hoặc quốc tịch cụ thể, trẻ hay già. Điều đó mang lại cho tôi nhiều độ linh hoạt hơn cho tiểu hài trong các tình huống." Davis giải thích rằng mặc dù Garfield không phải là đực hay cái, anh ta sử dụng đại từ xưng hô nam. Tuy nhiên, Davis sau đó đã làm rõ rằng Garfield thực sự là đực. Lịch sử lồng tiếng. Người lồng tiếng trong các tác phẩm không chính thức:
Chung kết môn Bóng đá tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023 – Nam Trận chung kết môn Bóng đá nam tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023 là trận tranh huy chương vàng giữa hai đội tuyển U-22 Indonesia và U-22 Thái Lan, diễn ra vào lúc 19 giờ 30 ngày 16 tháng 5 năm 2022 tại Sân vận động Olympic Phnôm Pênh, Campuchia. Đây là trận chung kết thứ 24 của Bóng đá nam tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á, một môn thể thao của đại hội. Trên đường tiến đến trận chung kết, U-22 Indonesia đã toàn thắng cả năm trận đấu, trong đó họ đứng nhất bảng A và đánh bại đương kim vô địch U-22 Việt Nam ở bán kết. U-22 Thái Lan cũng đứng đầu ở bảng B nhưng với ba trận thắng và một trận hòa, sau đó vượt qua Myanmar ở bán kết. Trận chung kết diễn ra trước sự chứng kiến của 28.133 khán giả, và được điều khiển bởi trọng tài chính người Oman Al-Hatmi Qasim. Trận đấu đã kéo dài trong hơn 120 phút. U-22 Indonesia dẫn trước 2–0 nhưng để U-22 Thái Lan gỡ hòa 2–2 ở những giây bù giờ cuối cùng của trận đấu. Bước sang hiệp phụ, cùng với sự kịch tính và tranh cãi kịch liệt ở trên sân, Indonesia ghi thêm ba bàn nữa để giành chiến thắng chung cuộc 5–2. Trận thắng trước Thái Lan đã giúp cho Indonesia giành được tấm huy chương vàng bóng đá nam đầu tiên kể từ năm 1991, lần cuối cùng họ lên ngôi vô địch với tư cách là đội tuyển quốc gia. Tuy nhiên, chiến thắng này của Indonesia đã bị lu mờ bởi những hành động được cho là xấu xí, phi thể thao của cả hai đội, đặc biệt là trong khoảng thời gian cuối hiệp hai đến đầu hiệp phụ thứ nhất. 23 thẻ phạt (trong đó có 9 thẻ đỏ và 14 thẻ vàng) đã được rút ra cho các cầu thủ và thành viên ban huấn luyện của hai bên, biến đây trở thành một trong những trận chung kết SEA Games căng thẳng và kịch tích nhất trong lịch sử với số lượng thẻ phạt kỷ lục. Trong quá khứ, khi còn thi đấu dưới danh nghĩa đội tuyển quốc gia, Indonesia từng 2 lần giành huy chương vàng vào năm 1987 trên sân nhà của họ và năm 1991 tại Philippines. Ngoài ra, họ còn có hai lần khác vào chung kết vào các năm 1979 và 1997. Kể từ sau Đại hội năm 1991, các đội tuyển của Indonesia chưa giành được thêm một tấm huy chương vàng nào ở môn bóng đá nam. Từ khi bóng đá nam tại SEA Games được giới hạn cho lứa tuổi trẻ vào năm 2001, Indonesia đã 3 lần lọt vào đến trận đấu cuối cùng nhưng không lần nào thành công. Lần cuối cùng ở trận chung kết năm 2019, U-22 Indonesia đã để thua đậm 0–3 trước U-22 Việt Nam, đội cũng đã kết thúc chuỗi 60 năm không giành huy chương vàng của họ kể từ năm 1959. Thái Lan, với 16 tấm huy chương vàng, luôn là quốc gia giàu thành tích bậc nhất ở môn bóng đá nam tại các kỳ SEA Games. Sự thống trị của họ có lúc được thể hiện qua 8 lần vô địch liên tiếp trong các năm 1993 đến năm 2007. Tuy nhiên, ở hai kỳ Đại hội gần nhất, họ đều thất bại trong việc giành huy chương vàng bóng đá nam, khi Việt Nam lên ngôi vương ở cả hai lần đó. Trong trận chung kết gần nhất của họ tại Hà Nội, U-23 Thái Lan đã thua U-23 Việt Nam với tỷ số 0–1 bởi bàn thắng duy nhất của Nhâm Mạnh Dũng, trực tiếp chứng kiến đối thủ bảo vệ thành công tấm huy chương vàng ngay trên sân nhà. Indonesia và Thái Lan đã gặp nhau trong 3 trận chung kết SEA Games (1991, 1997, 2013), tính cả các cấp độ đội tuyển quốc gia và đội tuyển U-23/U-22. Ngoại trừ lần gặp nhau đầu tiên vào năm 1991 khi Indonesia đánh bại Thái Lan trên chấm luân lưu, hai lần còn lại đều chứng kiến chiến thắng dành cho người Thái. Tổng cộng, các đội tuyển quốc gia và đội tuyển trẻ của đôi bên đã đối đầu với nhau trong 23 trận đấu, trong đó Thái Lan chiếm ưu thế với 16 chiến thắng, 5 trận kết thúc với thắng lợi thuộc về Indonesia và chỉ có hai trận có kết quả bất phân thắng bại. Lần gần nhất hai đội gặp nhau vào năm ngoái tại Việt Nam, Thái Lan đã vượt qua Indonesia với tỷ số tối thiểu trong một trận đấu có tới 4 thẻ đỏ được rút ra cho cả hai bên. Tương quan lực lượng. U-22 Indonesia bước vào trận chung kết với sự vắng mặt của Pratama Arhan vì tấm thẻ đỏ đã nhận trong trận bán kết gặp Việt Nam. Trong khi đó, U-22 Thái Lan có đầy đủ đội hình mạnh nhất của họ. Trận chung kết được tổ chức vào ngày 16 tháng 5 năm 2023 trên sân vận động Olympic Phnôm Pênh nằm ở trung tâm thủ đô Phnôm Pênh. Trước khi có sân vận động Morodok Techo, sân Olympic từng là sân vận động quốc gia của Campuchia và thường xuyên được đội tuyển U-23 và đội tuyển quốc gia nước này lựa chọn làm sân nhà cho các trận đấu quốc tế. Để chuẩn bị cho Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023, sân vận động được nâng cấp một số hạng mục, trong đó có việc thay thế cỏ nhân tạo bằng cỏ tự nhiên và lắp đặt ghế ngồi bệt ở các khán đài chung quanh. Sân vận động là nơi đã diễn ra các trận đấu bóng đá tại bảng A, vòng bán kết và tranh huy chương đồng của giải đấu nam, cũng như các trận đấu loại trực tiếp của giải đấu nữ. Đường đến trận chung kết. Với việc là đội duy nhất toàn thắng tất cả các trận đấu tại SEA Games 2023, U-22 Indonesia nổi lên như là ứng cử viên sáng giá cho tấm huy chương vàng môn bóng đá nam. Họ khởi đầu hành trình của mình ở bảng A một cách hoàn hảo với những chiến thắng dễ dàng trước Philippines, Myanmar, Đông Timor và chủ nhà Campuchia. Trong ba trận đấu đầu tiên, họ thậm chí còn giữ sạch lưới. Tại vòng bán kết, Indonesia đã vượt qua nhà đương kim vô địch và là đối thủ đầy duyên nợ U-22 Việt Nam với tỷ số 3–2, dù thi đấu trong thế thiếu người ở phần lớn thời gian hiệp 2. Bên cạnh đó, U-22 Indonesia cũng sở hữu đồng thời hàng công tốt nhất giải với 16 bàn thắng ghi được và hàng thủ tốt nhất với chỉ 3 lần lọt lưới. Trong khi đó, U-22 Thái Lan cũng có một hành trình tương đối bằng phẳng ở bảng B, khi có những thắng lợi trước Singapore, Malaysia và Lào. Họ chỉ bị cầm hòa ở lượt trận cuối cùng gặp Việt Nam, đối thủ cạnh tranh trực tiếp cho ngôi vị nhất bảng sau khi cả hai cùng giành vé sớm vào vòng bán kết ở lượt trận trước đó. Cùng giành được 10 điểm như Việt Nam nhưng với hiệu số tốt hơn, Thái Lan đã giành vị trí đầu bảng và chạm trán Myanmar ở bán kết, nơi họ đã vượt qua một cách dễ dàng với tỷ số 3–0 nhờ những pha lập công của Teerasak Phoephimai, Leon James và Anan Yodsangwal. "Ghi chú: Trong tất cả các kết quả dưới đây, tỷ số của đội lọt vào chung kết được đưa ra trước." Diễn biến trận đấu. Trận chung kết được bắt đầu vào lúc 19:30 theo giờ địa phương, với U-22 Thái Lan là những người được giao bóng trước. Ngay sau tiếng còi khai cuộc của trọng tài Al-Hatmi, đoàn quân của huấn luyện viên Indra Sjafri đã sớm tỏ rõ thế chủ động khi quyết định dâng cao đội hình ngay từ đầu. Cơ hội đầu tiên của họ đến ở phút thứ 3, khi Marselino tung cú nã đại bác tầm xa đi vọt xà ngang. Bốn phút sau, thủ môn Ernando lao ra truy cản Teerasak bên ngoài vòng cấm để ngăn pha phản công nhanh của U-22 Thái Lan, nhận tấm thẻ vàng đầu tiên của trận đấu. Phút thứ 10, tiếp tục là Marselino đi bóng qua hàng phong ngự của đối phương nhưng cú dứt điểm của anh lại đi vọt xà. Phút thứ 18, trung vệ Komang dâng cao và tung cú sút xa bất ngờ về phía khung thành của U-22 Thái Lan, song bóng đã đi ra ngoài. Tuy vậy, Indonesia đã không phải chờ đợi quá lâu để có bàn thắng mở tỷ số ở phút thứ 21. Từ quả ném biên rất mạnh của Dewangga, tiền đạo Sananta cắt mặt đánh đầu đưa bóng đập chân hậu vệ Songchai của Thái Lan bay vào lưới trong sự bất lực của thủ môn Soponwit. Có được bàn thắng dẫn trước, Indonesia thi đấu hưng phấn và liên tục gây sức ép bên phần sân đối phương Trong khi đó, U-22 Thái Lan đẩy cao đội hình tìm kiếm bàn gỡ; họ có được những pha uy hiếp khung thành của thủ môn Ernando ở những phút cuối hiệp đấu nhưng đều không thành công. Họ thậm chí còn để thủng lưới thêm ở phút bù giờ cuối cùng của hiệp 1, khi Sanata tận dụng sự thiếu ăn ý giữa hai trung vệ Thái Lan đưa bóng qua đầu thủ môn Soponwit đi vào lưới trống, sau đường chuyền dài của Ridho. Hiệp một khép lại với cách biệt hai bàn cho U-22 Indonesia. Sang hiệp hai, U-22 Thái Lan tung tiền vệ công Purachet vào sân thay Chayapipat để cải thiện hàng công, trong khi tiền vệ phòng ngự Ananda là người thay thế cho Muhammad Taufany bên phía U-22 Indonesia. Đội bóng áo đỏ tiếp tục duy trì lối chơi phòng ngự chặt chẽ, sẵn sàng phạm lỗi ở xa cầu môn để gây khó khăn cho đối thủ. Cùng lúc đó, U-22 Thái Lan vẫn nỗ lực dâng cao nhằm tìm kiếm cơ hội ghi bàn, và đến phút 52, Settasit đã có một cú sút xa, căng chìm sau một pha phối hợp, trước khi thủ môn Ernando đổ người cứu thua cho U-22 Indonesia. Phút thứ 58, thủ môn Ernando nằm sân sau pha va chạm với cầu thủ Thái Lan; Teerasak tiến đến kéo áo thủ môn Indonesia ám chỉ đối thủ câu giờ và phải nhận thẻ vàng vì hành động này. 7 phút sau, Thái Lan được hưởng một quả phạt góc bên cánh trái của Channarong, và tiền đạo Anan đã băng vào đánh đầu chính xác làm tung lưới của Indonesia, rút ngắn tỷ số xuống còn 1–2. Bàn thắng này đã khiến cục diện trận đấu thay đổi theo cách nghẹt thở, khi Indonesia chủ động đá phòng ngự phản công nhằm chờ đợi thời cơ kết liễu đối thủ còn Thái Lan liên tục hãm thành để nuôi hy vọng san bằng tỷ số. Những phút cuối trận, khung thành cả hai bên đều liên tiếp bị đe doạ. Phút thứ 87, sau một tình huống phản công nhanh của U-22 Indonesia, bóng được đẩy lên phía trên cho Witan nhưng pha đẩy bóng hơi dài khiến cho Soponwit vừa kịp lao ra bịt góc sút của tiền vệ này. Ngay sau đó, Thái Lan đã đáp trả với một tình huống gần tương tự của Teerasak, nhung bị thủ môn Ernando cản phá ở cú chạm bóng cuối cùng. Các cầu thủ Indonesia trong khoảng thời gian bù giờ cuối hiệp đã tranh thủ nằm sân nhiều lần và thực hiện nhiều quyền thay đổi người để kéo dài thời gian. Bước ngoặt của trận đấu xảy đến ở phút bù giờ thứ 9 của hiệp hai. Các thành viên ban huấn luyện của Indonesia đã lao vào sân ăn mừng ngay khi tiếng còi của trọng tài vừa cất lên vì nghĩ rằng đó là hồi còi kết thúc trận đấu, nhưng họ đã nhầm lẫn khi trọng tài đang cho Thái Lan được hưởng một quả đá phạt. Tận dụng cơ hội cuối cùng này, cầu thủ mới vào sân thay người Yotsakorn Burapha đi bóng vào vòng cấm, vượt qua hai hậu vệ Indonesia và dứt điểm hạ gục thủ thành Ernando, ghi bàn gỡ hòa 2–2 đầy kịch tính. Trong niềm vui vỡ òa, ban huấn luyện và các cầu thủ Thái Lan đã tràn ra bên ngoài sân, thậm chí còn chạy đến khu vực kỹ thuật của Indonesia và ăn mừng đầy khiêu khích ngay trước mặt đối thủ. Chứng kiến hành động này, tiền đạo dự bị Titan Agung của U-22 Indonesia đã lao đến đạp vào một thành viên ban huấn luyện Thái Lan, mở đầu cho một cuộc xô xát giữa đôi bên. Cả hai người sau đó đã phải nhận thẻ đỏ trực tiếp. Các cầu thủ và ban huấn luyện U-22 Indonesia cũng phản ứng quyết liệt với quyết định của trọng tài, buộc lực lượng cảnh sát trên sân phải can ngăn. Hòa nhau với tỷ số 2–2 sau 90 phút thi đấu chính thức, U-22 Indonesia và U-22 Thái Lan phải tiếp tục bước vào 30 phút hiệp phụ. Hiệp phụ và màn hỗn chiến gây tranh cãi. Ngay từ phút đầu tiên của hiệp phụ thứ nhất, tận dụng sai lầm của hậu vệ Songchai Thongcham, Irfan Jauhari băng vào vòng cấm, bấm bóng kỹ thuật hạ thủ môn Soponwit, giúp Indonesia vượt lên dẫn trước 3–2. Lần này, đến lượt Indonesia có màn ăn mừng đáp trả đối thủ, dẫn đến một cuộc xô xát còn dữ dội hơn bên ngoài sân bóng. Hàng loạt cầu thủ, quan chức và nhân viên hai đội lao vào đấm đá, thách thức lẫn nhau. Trưởng đoàn Kombes Pol Sumardji của đội Indonesia cũng có mặt để can ngăn nhưng đã bị một số thành viên của Thái Lan đánh và đấm, khiến mặt ông đỏ bừng, chảy máu mũi và miệng. Cảnh tượng hỗn loạn chỉ lắng xuống khi đội cảnh sát cơ động đến can thiệp. Trọng tài phải nhờ đến các giám sát vào cuộc xác định những người gây hấn, đồng thời rút tổng cộng năm thẻ đỏ phạt cầu thủ và ban huấn luyện hai bên. Hai trong số đó được dành cho thủ môn Thái Lan Soponwit và trung vệ Indonesia Komang với hành vi bạo lực ngay trước mặt trong tài, cùng với 2 thành viên ban huấn luyện Thái Lan và 1 người bên phía Indonesia bị đuổi lên khán đài. Trận đấu đã bị tạm dừng trong khoảng hơn 8 phút. Phút thứ 102, trung vệ Jonathan Khemdee nhận thẻ vàng thứ 2 rời sân sau pha phạm lỗi với cầu thủ Indonesia. Có được lợi thế về quân số, đội bóng xứ vạn đảo tấn công dồn dập hàng thủ Thái Lan; hàng loạt tình huống nguy hiểm được tạo ra bởi những Fajar hay Marselino. Hệ quả là ở phút thứ 106, Fajar đã có pha xoay người tung cú sút hiểm hóc từ rìa vòng cấm, ghi bàn thắng thứ 4 cho Indonesia. Càng về cuối hiệp phụ thứ hai, các cầu thủ U-22 Thái Lan càng lộ rõ sự xuống sức. Nhiều cầu thủ áo xanh không còn có thể tranh chấp trực tiếp với các chân sút bên phía U-22 Indonesia. Họ thoát được một quả phạt đền trực tiếp sau tình huống Farha bị phạm lỗi trong vòng cấm, nhưng rồi họ đã phải chơi với chỉ 8 người còn lại trên sân không lâu sau đó, khi Teerasak phải nhận thẻ vàng thứ hai. Bị dẫn bàn lại chơi thiếu người trong lúc thể lực suy giảm nặng nề, U-22 Thái Lan nhận thêm bàn thua thứ năm do công của Beckham Putra ở phút thứ 120. Chung cuộc, U-22 Indonesia đã giành chiến thắng trước U-22 Thái Lan với tỷ số 5–2, qua đó sở hữu tấm huy chương vàng đầu tiên sau 32 năm chờ đợi. Luật của trận đấu Trận đấu chung kết đã được phát sóng trực tiếp thông qua kênh truyền hình #đổi của Indonesia, cùng với TV Pool và T Sport 7 của Thái Lan. Mặc dù trận đấu này, cũng như tất cả các nội dung thi đấu khác tại Đại hội, đều được phía chủ nhà Campuchia miễn phí bản quyền phát sóng và hầu hết các nước trong khu vực được xem sự kiện này một cách miễn phí, một số nước (bao gồm Indonesia) lại đưa các nội dung này lên những nền tảng trả phí. Do đó, nhiều cổ động viên (chủ yếu đến từ Indonesia) đã tràn sang các nền tảng phát sóng của các nước khác để theo dõi, đáng chú ý là kênh YouTube VTV Thể Thao của Đài Truyền hình Việt Nam (VTV). Theo ghi nhận của trang Facebook "ASEAN Football", đã có 2,5 triệu người theo dõi trực tiếp trận đấu trên kênh YouTube của đài này (lúc cao điểm nhất có tới 1,8 triệu người xem cùng lúc). Cho đến chiều ngày 17 tháng 5, một ngày sau khi trận đấu khép lại, video trận đấu giữa đội tuyển U-22 Indonesia và U-22 Thái Lan trên kênh này đã tăng vọt đến hơn 14 triệu lượt xem, cao nhất trong tất cả các trận đấu bóng đá tại SEA Games 32 mà đài từng chiếu trên YouTube trước đó. Mặc dù bị tranh giành sự ảnh hưởng tại Indonesia, chương trình phát sóng trực tiếp trận chung kết của RCTI đã đứng đầu trong bảng xếp hạng chỉ số lượt xem (rating) của ngày 17 tháng 5 với mức chia sẻ đạt 33,2%, theo báo cáo từ tài khoản Instagram indotvtrends. Indonesia đã giành tấm huy chương vàng SEA Games thứ ba trong lịch sử ở môn bóng đá nam và là tấm huy chương vàng đầu tiên từ sau chức vô địch trước chính Thái Lan vào năm 1991, chấm dứt cơn khát danh hiệu của họ trong suốt 32 năm. Đây là chiến thắng đầu tiên của Indonesia kể từ khi môn bóng đá nam tại SEA Games trở thành cuộc thi theo nhóm tuổi vào năm 2001, giúp cho họ vươn lên cân bằng với Việt Nam về số lượng huy chương vàng bóng đá nam ở tất cả các kỳ Đại hội từ năm 1959 (đều có 3 huy chương vàng), xếp sau Thái Lan (16 lần), Malaysia (6 lần) và Myanmar (5 lần). Indonesia cũng trở thành quốc gia thứ tư vô địch bóng đá nam SEA Games với thành tích toàn thắng (sau Myanmar các năm 1967 và 1973, Malaysia năm 1989, Thái Lan các năm 1993, 2001, 2005, 2007 và 2015) và là quốc gia thứ hai làm được điều này kể từ năm 2001. Đối với Thái Lan, thất bại trước U-22 Indonesia đã đánh dấu lần thứ ba liên tiếp họ không thể giành được tấm huy chương vàng ở môn bóng đá nam, lần đầu tiên kể từ năm 1991. Cùng với việc đội tuyển nữ nước này thất bại lần thứ 4 liên tiếp trong việc tìm kiếm huy chương vàng, đây tiếp tục là một kỳ SEA Games thất bại đối với nền bóng đá hàng đầu khu vực. U-22 Thái Lan nói riêng và bóng đá nói chung trở thành những cái tên gây thất vọng nhất ở SEA Games 32, theo một khảo sát của Đại học Kasem (Thái Lan). Trận chung kết này cũng đánh dấu lần đầu tiên đại diện Thái Lan để thủng lưới tới 5 bàn ở trận tranh huy chương vàng (trước đó họ chỉ để lọt lưới nhiều nhất 3 bàn, ở các kỳ Đại hội năm 1959 và 1969) và là trận thua đậm nhất với tỷ số cao nhất trong các trận chung kết SEA Games của Thái Lan. Trong lịch sử tham dự của Thái Lan tại Đại hội, chỉ có một trận đấu khác họ để thua đến 5 bàn là trận gặp đội tuyển Việt Nam Cộng hòa tại bán kết năm 1967. Ngoài ra, U-22 Thái Lan cũng trở thành đội bóng nhận nhiều bàn thua nhất ở trận chung kết trong lịch sử môn bóng đá nam tại SEA Games. Với 14 thẻ vàng và 7 thẻ đỏ (trong đó có 2 thẻ đỏ gián tiếp), trận đấu cũng đi vào lịch sử Đại hội với tư cách là trận đấu bóng đá có nhiều thẻ phạt nhất. Kỷ lục này thậm chí còn vượt qua cả kỷ lục về số thẻ phạt trong một trận đấu của World Cup, khi đã có đến 18 thẻ vàng và 1 thẻ đỏ được rút ra trong trận đấu giữa Hà Lan và Argentina tại vòng tứ kết World Cup 2022. Ngay sau khi Indonesia giành được tấm huy chương vàng, một lượng lớn người hâm mộ tại quê nhà đã tập trung tại trung tâm thủ đô Jakarta để ăn mừng chiến tích của đội bóng. Các cổ động viên đổ ra đường đi bão trong khi reo hò, vẫy quốc kỳ và hát vang các bài ca chiến thắng, thậm chí pháo sáng cũng đã xuất hiện trong bầu không khí cuồng nhiệt. Sự hân hoan của người Indonesia tiếp tục được thể hiện vào sáng ngày 19 tháng 5, trong ngày đội tuyển U-22 Indonesia thực hiện một cuộc diễu hành sau khi trở về nước từ Campuchia. Hàng vạn người đã vây kín chiếc xe buýt chở các cầu thủ Indonesia, làm cho nhiều tuyến đường ở thủ đô Jakarta bị tắc nghẽn hơn 2 giờ đồng hồ, chủ yếu ở khu vực xung quanh tòa nhà Bộ Thanh niên và Thể thao Indonesia và sân vận động Gelora Bung Karno. Điều này đã khiến cho một số người dân tại đây cảm thấy không hài lòng vì lễ mừng công diễn ra trong ngày đi làm gây phiền nhiễu tới công việc và kế hoạch của họ. Chiến thắng của U-22 Indonesia đã nhận được sự động viên và chúc mừng tới từ Tổng thống nước này Joko Widodo, thông qua tài khoản Twitter chính thức của ông. Trọng tài chính người Oman Al-Hatmi đã phải nhận nhiều chỉ trích bởi những quyết định và hiệu lệnh bị cho là khó hiểu. Bàn thắng nâng tỷ số lên 2–0 của Indonesia đã gây tranh cãi về tính hợp lệ của nó, khi Rizky Ridho phất bóng dài cho đồng đội Sanata ở phía trên từ một pha thả bóng. Mặc dù bàn thắng của Sananta đã được công nhận theo Luật 8 của Luật bóng đá (bóng đã chạm đủ hai lần vào chân các cầu thủ Indonesia trước khi vào lưới), song hậu vệ Jonathan Khemdee và huấn luyện viên trưởng Issara Sritaro của U-22 Thái Lan đều tố cáo phía Indonesia chơi bóng thiếu fair-play trong tình huống này, bởi trước đó khi cầu thủ của Indonesia bị chấn thương và phải rời sân, trọng tài đã cho dừng trận đấu trong lúc bóng không thuộc quyền kiểm soát của đội nào, và họ cho rằng bóng đáng lẽ phải được trả lại cho họ. Ngoài ra, cầu thủ Khemdee cũng chê trách trọng tài Al-Hatmi đã không kiểm soát được trận đấu và nhiều lần mắc sai sót, gây ức chế cho cầu thủ hai đội và dẫn đến vụ ẩu đả. Bên kia chiến tuyến, huấn luyện viên trưởng Indra Sjafri của U-22 Indonesia đã chỉ trích việc ban huấn luyện và cầu thủ Thái Lan ăn mừng khiêu khích đã khiến trận đấu trở nên điên loạn. Sjafri cho biết thêm, sau khi xảy ra ẩu đả, ông đã gọi tất cả ban huấn luyện và cầu thủ trở lại để nói chuyện và yêu cầu họ tập trung vào việc chơi bóng. Ông cũng tiết lộ cả hai đội đều đã gặp và xin lỗi lẫn nhau sau khi trận đấu khép lại. Trong khi đó, Liên đoàn bóng đá Campuchia (FFC), đơn vị tổ chức môn bóng đá tại Đại hội, tuyên bố từ chối nhận trách nhiệm về vụ việ="Template:Quote_box/" / "Một trận chung kết xấu xí và hỗn loạn. Đây là cuộc đối đầu sẽ được ghi nhớ vì những quyết định sai lầm" — Trang "ESPN Asia" nêu nhận định về trận chung kết SEA Games 32. Sự việc xảy ra trong trận chung kết đã thu hút sự quan tâm của truyền thông trong và ngoài khu vực Đông Nam Á. Tờ "Marca" (Tây Ban Nha) đăng tải lại video của vụ đánh nhau giữa U-22 Thái Lan với U-22 Indonesia và gọi đó là "vụ lộn xộn lớn nhất trong năm". Tờ này cũng nhận định những quyết định khó hiểu của trọng tài đã là nguyên nhân dẫn đến xung đột giữa cầu thủ hai đội. Trang "ESPN Asia" khẳng định tấm huy chương vàng của U-22 Indonesia đã bị hoen ố bởi những cuộc đụng độ xấu xí: "...Chiến thắng này của U-22 Indonesia dường như không trọn vẹn. Thật đáng tiếc khi vinh quang của Indonesia, bộ mặt của bóng đá Đông Nam Á cuối cùng lại bị những cảnh tượng ô nhục làm hỏng, thay vì những màn trình diễn đẹp đẽ của một trận chung kết SEA Games hấp dẫn". Trận đấu cũng đã gây ấn tượng mạnh cho các cổ động viên Đông Nam Á với những ý kiến trái chiều. Ngoài những ý kiến cho rằng trận đấu diễn ra đầy kịch tính và giàu cảm xúc, thậm chí còn được so sánh là hấp dẫn hơn cả trận chung kết của World Cup, một bộ phận người xem cũng để lại những bình luận chỉ trích về cuộc hỗn chiến. Những cảnh tượng bạo lực diễn ra trong trận đã khiến nhiều người hâm mộ ví von với một trận tranh đai vô địch trên võ đài UFC hay một cuộc đấu võ giữa Muay Thái và pencak silat. Hiệp hội bóng đá Thái Lan (FAT) đã thành lập một ủy ban điều tra tiến hành tìm hiểu kỹ sự việc và tuyên bố sẽ có hình thức kỷ luật nghiêm khắc đối với những người tham gia vụ ẩu đả. Ba thành viên ban huấn luyện U-22 Thái Lan đã bị đình chỉ làm nhiệm vụ ở các cấp độ đội tuyển trong 1 năm, cùng hai cầu thủ Soponwit Rakyath và Teerapak Pruengna bị cấm thi đấu cho các đội tuyển quốc gia nước này trong vòng 6 tháng. Giám đốc kỹ thuật kiêm trưởng đoàn U-22 Thái Lan Yuttana Yimkarun cũng đã quyết định nộp đơn từ chức sau sự việc. Ủy ban Olympic quốc gia Indonesia (NOC) kêu gọi Hiệp hội bóng đá nước này (PSSI) báo cáo sự việc lên FIFA để phối hợp xử lý, đồng thời cảnh báo đội U-22 Indonesia phải sẵn sàng chịu trách nhiệm cho hành vi của mình. Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) bày tỏ sự thất vọng về vụ ẩu đả xảy ra ở trận chung kết SEA Games 32 và cho rằng điều đó đi ngược với tinh thần fair-play của bóng đá. Dù không có án phạt tước huy chương nào, cơ quan này đã phạt tiền và treo giò các cầu thủ, thành viên ban huấn luyện tham gia vụ việc. 3 cầu thủ và 4 thành viên ban huấn luyện Indonesia đã bị cấm thi đấu và làm nhiệm vụ 6 trận, trong khi án phạt tương tự được dành cho 5 quan chức và 2 cầu thủ bên phía Thái Lan. Ngoài ra, FAT còn phải nộp phạt 10.000 USD vì vụ loạn đả trên.
Động đất Biển Hyūga Nada 2022 Động đất Biển Hyūga Nada 2022 (日向灘地震, Hyūga-nada jishin) là trận động đất xảy ra vào lúc 1:08 (theo giờ địa phương), ngày 22 tháng 1 năm 2022. Trận động đất có cường độ 6.6 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 45 km tại . Không có cảnh báo sóng thần từ trận động đất này. Hậu quả trận động đất chỉ làm 13 người bị thương.
Podolia hay Podilia (, ]; ) là một khu vực lịch sử tại Đông Âu, nằm tại phần tây-trung và tây-nam của Ukraina và tại phần đông bắc của Moldova (tức phần phía bắc Transnistria). Podolia bị bao quanh bởi sông Dniester và dãy núi Karpat. Diện tích khu vực là , có đặc trưng là một cao nguyên kéo dài và đất nông nghiệp màu mỡ. Các sông chính là Dniester và Nam Bug, đóng vai trò là các tuyến mậu dịch quan trọng. Khu vực có lịch sử phong phú, có niên đại từ thời đồ đá mới, với nhiều bộ lạc và nền văn minh khác nhau từng chiếm lĩnh. Khu vực từng trở thành bộ phận của Vương quốc Galicia–Volhynia, Vương quốc Ba Lan, Đế quốc Ottoman, quân chủ Habsburg Áo, và Đế quốc Nga. Trong thế kỷ 20, Podolia trải qua nhiều biến động chính trị, Ba Lan và Liên Xô từng kiểm soát một bộ phận khu vực trong các thời điểm khác nhau. Tên gọi khu vực bắt nguồn từ tiếng Slav cổ "po", nghĩa là "bên cạnh" và "dol", "thung lũng". Khu vực này là một phần của Đồng bằng Đông Âu rộng lớn, được giới hạn bởi sông Dniester và vòng cung Karpat ở phía tây nam. Khu vực có diện tích khoảng 40.000 km², kéo dài 320 km từ tây bắc đến đông nam trên tả ngạn sông Dniester. Theo cùng một hướng là hai dãy đồi tương đối thấp, ngăn cách bởi sông Nam Bug. Vùng đất cao Podolia là một cao nguyên kéo dài, cao 144 m và trải dài từ sông Tây Bug và Nam Bug đến sông Dniester, và bao gồm các vùng núi với các thung lũng sông giống như hẻm núi. Podolia nằm ở phía đông của Ruthenia Đỏ lịch sử, tức là nửa phía đông của Galicia, bên kia sông Seret, một nhánh của Dniester. Ở phía tây bắc, khu vực giáp với Volhynia. Khu vực phần lớn được tạo thành từ tỉnh Vinnytsia và miền nam và miền trung tỉnh Khmelnytskyi của Ukraina ngày nay. Vùng đất Podolia cũng bao gồm bộ phận của tỉnh Ternopil liền kề ở phía tây và tỉnh Kyiv ở phía đông bắc. Ở phía đông, nó bao gồm các phần lân cận của các tỉnh Cherkasy, Kirovohrad và Odesa, cũng như nửa phía bắc của Transnistria. Hai con sông lớn chảy qua khu vực với nhiều phụ lưu: Dniester, tạo thành biên giới với Moldova và tàu có thể đi lại suốt chiều dài của nó, và Nam Bug chảy gần như song song với Dniester ở một thung lũng cao hơn, đôi khi có đầm lầy, bị các ghềnh làm gián đoạn ở một số nơi. Dniester tạo thành một kênh giao thương quan trọng trong các khu vực Mohyliv-Podilskyi, Zhvanets và các cảng sông Podolia khác. Ở Podolia, loại 'đất đen' (chernozem) chiếm ưu thế, khiến nơi đây trở thành một khu vực nông nghiệp rất màu mỡ. Đầm lầy chỉ xuất hiện bên cạnh sông Nam Bug. Khí hậu ôn hòa chiếm ưu thế, với nhiệt độ trung bình tại Kamianets-Podilskyi là 9 °C (−4 °C vào tháng 1, 20 °C vào tháng 7). Podolia do Nga cai trị vào năm 1906 có dân số ước tính là 3.543.700, bao gồm chủ yếu là người Ukraina. Các nhóm thiểu số đáng kể bao gồm người Ba Lan và người Do Thái, cũng như 50.000 người Romania, một số người Đức và một số người Armenia. Podolia nổi danh với các loại rau quả như anh đào, dâu tằm, dưa, bí và dưa chuột. Vùng đất này có loài người ít nhất là từ đầu thời đại đồ đá mới. Herodotus đề cập đến nơi đây như là trung tâm của người Alazones Hy Lạp-Scythia và có thể cả người Neuri Scythia. Sau đó, người Dacia và người Getae đến. Người La Mã để lại dấu vết về quyền cai trị của mình qua bức tường Trajan, trải dài qua các khu hiện tại là Kamianets-Podilskyi, Nova Ushytsia và Khmelnytskyi. Trong Giai đoạn Di cư lớn, nhiều dân tộc đi qua lãnh thổ này hoặc định cư tại đây một thời gian, để lại nhiều dấu vết trong các di tích khảo cổ học. Nestor trong "Biên niên sử sơ cấp" có đề cập đến bốn bộ tộc rõ ràng là người Slav: người Buzhan và Dulebe dọc theo sông Nam Bug, và người Tivertsi và Ulich dọc theo sông Dniester. Người Avar xâm chiếm khu vực vào thế kỷ thứ 7. Sau đó, người Bolokhoveni chiếm cùng một lãnh thổ vào thế kỷ 13. Vương quốc Ruthenia và Ba Lan. Thân vương Oleg xứ Novgorod mở rộng quyền cai trị của mình trên lãnh thổ này, gọi là Ponizie, hay "vùng đất thấp". Những vùng đất thấp này sau đó trở thành một phần của các thân vương quốc Volhynia, Kyiv và Galicia của Rus Kyiv. Vào thế kỷ 13, Bakota đóng vai trò là trung tâm chính trị và hành chính. Trong thời gian đó, quân Mông Cổ đã cướp bóc Ponizie; Hoàng tử Algirdas (Olgierd) của Đại công quốc Litva giải phóng khu vực khỏi sự cai trị của người Mông Cổ sau chiến thắng trước Kim Trướng hãn quốc trong Trận chiến Nước Xanh năm 1362, sáp nhập nó vào lãnh thổ của mình dưới tên Podolia, có nghĩa tương tự như Ponizie. Ba Lan thuộc địa hóa bắt đầu vào thế kỷ 14. Sau cái chết của Hoàng tử Litva Vytautas (Vitovt) vào năm 1430, Podolia được hợp nhất thành tỉnh Podolia của Vương quốc Ba Lan, ngoại trừ phần phía đông của nó là tỉnh Bratslav, vẫn thuộc về Litva cho đến khi hợp nhất với Ba Lan trong Liên minh Lublin năm 1569. Từ năm 1672, Podolia trở thành một phần của Đế quốc Ottoman, khi đó nó được gọi là tỉnh (eyalet) Podolia. Trong thời gian này, khu vực là một tỉnh, với trung tâm là Kamaniçe, và được chia thành các sanjak (khu) Kamaniçe, Bar, Mejibuji và Yazlovets (Yazlofça). Khu vực trở lại quyền thống trị của Ba Lan vào năm 1699 theo Hiệp ước Karlowitz. Người Ba Lan giữ lại Podolia cho đến khi đất nước của họ bị phân chia vào năm 1772 và 1793, khi chế độ quân chủ Habsburg của Áo và Đế quốc Nga lần lượt sáp nhập các phần phía tây và phía đông. Đế quốc Áo và Nga. Vào năm 1772, khi diễn ra phân chia Ba Lan lần một, Nhà Habsburg của Áo đã nắm quyền kiểm soát một phần nhỏ của Podolia ở phía tây sông Zbruch (đôi khi còn được gọi là "Nam Podolia") xung quanh Borschiv, thuộc tỉnh Ternopil ngày nay. Vào thời điểm này, Hoàng đế Joseph II từng đi tham quan khu vực này, rất ấn tượng trước sự màu mỡ của đất đai và rất lạc quan về triển vọng tương lai của nó. Ba Lan biến mất với tư cách là một quốc gia trong phân chia lần thứ ba vào năm 1795 nhưng giới quý tộc Ba Lan vẫn tiếp tục duy trì quyền kiểm soát địa phương ở cả phía đông và phía tây Podolia đối với một bộ phận nông dân chủ yếu là người Ukraina, những người có nét tương đồng với những người Đông Slav khác đã chịu sự cai trị của chế độ quân chủ Habsburg. Điều này xuất hiện trong một cuốn sách năm 1772 của Adam F. Kollár và được sử dụng như một lập luận ủng hộ việc Nhà Habsburg thôn tính. Vùng Ternopil (Tarnopol) ở phía tây Podolia bị Nga chiếm một thời gian ngắn vào năm 1809 nhưng được trả lại cho Áo cai trị vào năm 1815. Trong Đế quốc Áo, phía tây Podolia là một phần của Vương quốc Galicia và Lodomeria. Đến năm 1867 với sự hình thành của Áo-Hung, thể chế này trở thành một đơn vị tự trị do dân tộc Ba Lan quản lý dưới quyền quân chủ của Áo. Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Podolia của Áo đã chứng kiến ​​một cuộc di cư quy mô lớn của cư dân nông dân đến miền tây Canada. Đối với cộng đồng Do Thái ở Podolia, Haskalah hoặc Sự khai sáng của người Do Thái đã tiếp cận đến vào thế kỷ 19, do người Do Thái từ Tây Âu giới thiệu. I A. Bar-Levy (Weissman), tác giả của " Sách Yizkor" nói về Podolia: "Nó chấm dứt sự tách biệt về văn hóa của người Do Thái với thế giới xung quanh. Người Do Thái bắt đầu học khoa học và ngôn ngữ hiện đại, đọc văn học thế giới và tham gia vào đời sống văn hóa của các quốc gia mà họ sống." Cũng giống như trường hợp ở các khu vực khác của Ba Lan cũ, người Do Thái bắt đầu học ngôn ngữ của đất nước họ sinh sống và viết về các chủ đề thế tục. Các tác giả của Haskalah ở Podolia bao gồm: nhà tiên phong Isaac Satanow (1733–1805), Menachim Mendel Lapin, tác giả và dịch giả, Ben-Ami (Mordecai Rabinowitz), người viết bằng tiếng Nga, và nhiều người khác. Giữa Ba Lan và Liên Xô. Với sự sụp đổ của Áo-Hung sau Chiến tranh thế giới thứ nhất vào tháng 11 năm 1918, miền tây Podolia được đưa vào Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina, nhưng nằm dưới sự kiểm soát của Ba Lan vào năm 1919, điều này đã được xác nhận trong thỏa thuận Ba Lan-CHND Ukraina vào tháng 4 năm 1920. Podolia do Liên Xô chiếm đóng một thời gian ngắn vào năm 1920 trong quá trình Chiến tranh Ba Lan-Liên Xô. Trong cùng một cuộc chiến, Ba Lan chiếm đóng một thời gian ngắn phía đông Podolia vào năm 1919 và một lần nữa vào năm 1920. Sau Hòa ước Riga, quyền kiểm soát của Ba Lan đối với phía tây Podolia được Liên Xô công nhận. Liên Xô giữ lại phía đông Podalia. Có những cuộc tàn sát trong thời kỳ này. Tại Ba Lan từ năm 1921 đến năm 1939, phía tây Podolia là một phần của tỉnh Tarnopol. Đông Podolia thuộc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina, và từ năm 1922 đến 1940 phần phía tây nam thành lập Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết tự trị Moldavia. Năm 1927, có một cuộc nổi dậy lớn của nông dân và công nhân nhà máy ở Mohyliv-Podilskyi, Kamianets-Podilskyi, Tiraspol và các thành phố khác của miền nam Ukraina chống lại chính quyền Xô Viết. Quân đội từ Moskva được gửi đến khu vực và đàn áp tình trạng bất ổn, khiến khoảng 4.000 người thiệt mạng, theo các phóng viên Hoa Kỳ được cử đến để đưa tin về cuộc nổi dậy, nhưng vào thời điểm đó đã bị báo chí chính thức của Điện Kremlin phủ nhận hoàn toàn. Năm 1939, sau khi ký kết Hiệp ước Molotov–Ribbentrop giữa Đức Quốc xã và Liên Xô và cuộc xâm lược Ba Lan của Liên Xô vào ngày 17 tháng 9 năm 1939, khu vực này trở thành một phần của Ukraina thuộc Liên Xô. Nhiều cư dân địa phương đã bị trục xuất đến các trại lao động. Sau cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô năm 1941, phần lớn Podolia bị Đức Quốc xã chiếm đóng và sáp nhập vào Reichskommissariat Ukraina. Khu vực Podolia giữa sông Nam Bug bên dưới Vinnytsia và sông Dniester bị Romania chiếm đóng như một phần của Transnistria. Năm 1944, Liên Xô giành lại Podolia và vào năm 1945, khi biên giới phía đông của Ba Lan chính thức được phân định lại dọc theo đường Curzon, toàn bộ Podolia vẫn thuộc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Ukraina. Hầu hết người Ba Lan và người Do Thái còn lại chạy trốn hoặc bị trục xuất sang Cộng hòa Nhân dân Ba Lan. Truyền thống vẽ biểu tượng dân gian của Podillia nổi tiếng ở Ukraina. Biểu hiện của nó là những tường biểu tượng ngôi nhà dài được vẽ trên vải bạt vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Màu đỏ, xanh lá cây và vàng chiếm ưu thế, khuôn mặt của các vị thánh dài hơn một chút, đôi mắt giống như quả hạnh nhân. Trên những họa tường biểu tượng này, những vị thánh gia đình đáng tôn kính nhất được vẽ. Các bộ sưu tập biểu tượng dân gian của Podillya thuộc sở hữu của Bảo tàng Nghệ thuật Vinnytsya và Bảo tàng Biểu tượng Gia đình Ukraina trong Lâu đài Radomysl.
Ga Ramkhamhaeng (Tuyến đường sắt sân bay) Ga Ramkhamhaeng () là một ga thuộc Tuyến đường sắt sân bay (Bangkok) nằm trên đường Ramkhamhaeng (Sukhumvit 71) tại Suan Luang, Băng Cốc. Một dự án nhà ga nằm giữa Makkasan và Ramkhamhaeng tên là Sun Wichai, hiện tại vẫn chưa được xây dựng. Đường sắt dừng Sukhumvit 71. Bên cạnh nhà ga là một đường sắt dừng lại Sukhumvit 71 quản lý bởi Đường sắt Nhà nước Thái Lan. Nó vận hành dịch vụ nội thành trên trên Tuyến Đông.
Phố cổ hay Khu phố cổ ("Old town") trong một thành phố hoặc thị trấn là thuật ngữ chỉ về khu vực lõi mang tính lịch sử văn hóa hoặc tính kiến trúc nguyên bản của nó. Cảnh quan phố cổ là những ngôi nhà cổ, dãy phố, ngõ hẻm cũ kỹ và cổ kính. Mặc dù những thành phố thường lớn hơn ở thời điểm hiện tại, nhiều thành phố đã quy hoạch lại phần di tích cũ này của thành phố để kỷ niệm nguồn gốc của thành phố hoặc thị trấn đó. Luật pháp một số quốc gia quy định những khu phố cổ này là di sản và thuộc diện bảo tồn, việc xây dựng, sửa chữa, mua bán, chuyển nhượng phải đáp ứng quy hoạch và không được làm tổn hại nguyên trạng. Có rất nhiều nơi trên thế giới được gọi là phố cổ. Dưới đây là danh sách một số thị trấn cổ (cổ trấn) nổi tiếng ("Danh sách này liệt kê chưa đầy đủ"):
"Curtains" '(Rèm cửa)' là một bài hát của nam ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Anh Ed Sheeran. Ca khúc đã được phát hành dưới dạng bài hát thứ tám trong album phòng thu thứ sáu − (2023) vào ngày 5 tháng 5 năm 2023 thông qua hãng Asylum Records và Atlantic Records. Ca khúc do giọng ca chính Ed Sheeran sáng tác và được Aaron Dessner đảm nhận vai trò sản xuất. Bài hát đã được công bố trong danh sách ca khúc cùng với album vào ngày 1 tháng 3 năm 2023, tạo ra một số cơ hội đặt hàng trước cho album. Video ca nhạc của bài hát đã được công chiếu vào ngày 5 tháng 5 năm 2023, cùng ngày với album được phát hành. "Curtains" được viết bởi Ed Sheeran và được Aaron Dessner đảm nhận cho công việc sản xuất. Là một bài hát thuộc thể loại folk pop, ca khúc chia sẻ về ý nghĩa "chìm mình trong công việc để đem lại sự bình yên trong tâm hồn". Trong một cuộc phỏng vấn với tờ "The Guardian", Sheeran đã chia sẻ về cảm giác khó chắc chắn và sự chết chóc khi gần như không thể vượt qua khó khăn. Ca khúc được bao phủ bằng một lớp guitar điện thể hiện lên tâm trạng của anh trong từng giai điệu. Ngoài ra, cấu trúc của bài hát cũng được xây dựng dựa trên từng nốt tiến trình hợp âm thứ gợi nhớ đến phong cách nhạc grunge của Avril Lavigne. Đánh giá chuyên môn. Nick Levine viết cho tạp chí "NME" đã bày tỏ về bài hát "có một chút giai điệu xuân sang kèm thêm với tiếng guitar nhạc rock khiến cho anh liên tưởng đến ban nhạc The Cranberries. Đăc biêt là đoạn điệp khúc của bài hát đã được anh nhận xét là nó tạo nên sự ca ngợi thực sự, giống như một đĩa đơn của tương lai". Bà Maura Johnston từ tạp chí "Rolling Stone" đã chia sẻ về bài hát đã "biến cho trò chơi trốn tìm giống như một phép ẩn dụ để kéo bản thân ra khỏi mớ hỗn độn của cuộc đời". Video ca nhạc chính thức của "Curtains" đã được công chiếu lần đầu cùng với toàn bộ video ca nhạc còn lại trong album vào ngày 5 tháng 5 năm 2023, cùng ngày với album được phát hành. Ngoài ra, video như là một phần của album visual. Video được lấy bối cảnh tại một khu rừng. Trong nửa đoạn video đầu tiên, Sheeran đi lang thang trên khắp các khu rừng với những người xung quanh đang bỏ chạy một cách tán loạn. Màu sắc của video cũng biểu thị cho tâm trạng của anh khi nó được đan xen giữa màu xanh lam và màu cam, thể hiện cho nơi mà Sheeran mất phương hướng và đang cố gắng né tránh mọi người "(màu xanh lam)" và nơi mà Sheeran vui vẻ và hoà đồng với mọi người "(màu cam)". Ngay khi phần còn lại của video kết thúc, màn sương trong khu rừng đã bắt đầu tan dần và Sheeran cùng với những người xung quanh bước đi. Kể cả khi màu sắc có thay đổi tâm trạng thì Sheeran trong màn sương xanh cũng vẫn cảm thấy vui vẻ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Dulux là một thương hiệu sơn kiến trúc có nguồn gốc từ Vương quốc Anh. Tên thương hiệu Dulux đã được sử dụng bởi cả Imperial Chemical Industries (ICI) và DuPont từ năm 1931 và là một trong những loại sơn dựa trên alkyd đầu tiên. Sản phẩm này được sản xuất bởi AkzoNobel (được sản xuất bởi ICI trước năm 2008), trong khi thị trường Hoa Kỳ hiện nay được phục vụ bởi PPG Industries. Trong những năm đầu tồn tại, Dulux chủ yếu phục vụ các nhà trang trí và nhà cung cấp của họ, và slogan quảng cáo "Say Dulux to your decorator" đã được sử dụng trong thập kỷ 1950. Vào năm 1953, Dulux đã có mặt trên thị trường bán lẻ. Sau đó mười năm, chú chó nổi tiếng thuộc giống Old English Sheepdog đã xuất hiện trong các quảng cáo của Dulux, và "chó Dulux" đã trở thành biệt danh thông dụng dùng để chỉ giống chó này. Tên Dulux được hình thành từ hai từ "Durable" (bền bỉ) và "Luxury" (sang trọng). Vào tháng 5 năm 2010, Dulux đã giới thiệu dự án "Let's Colour" (Hãy Tô Màu), một chiến dịch tiếp thị toàn cầu nhằm sơn các không gian công cộng bằng những gam màu tươi sáng. Chó Old English Sheepdog là biểu tượng thương hiệu sơn Dulux. Chú chó này lần đầu tiên được giới thiệu trong các chiến dịch quảng cáo vào năm 1961. Kể từ đó, chó Dulux đã trở thành một phần không thể thiếu và rất phổ biến trong các quảng cáo truyền hình và in ấn của Dulux tại mọi nơi mà sơn Dulux được bán. Đến mức nhiều người trong các thị trường đó thường gọi giống chó này là "chó Dulux" thay vì chỉ đơn giản là Sheepdog. Trong suốt thời gian qua, đã có nhiều chú chó khác nhau xuất hiện trong các quảng cáo Dulux. Tuy nhiên, chúng đều có ngoại hình rất giống nhau nhờ vào quá trình chọn lọc kỹ lưỡng được thực hiện bởi agen quảng cáo của ICI. Chú chó Dulux đầu tiên là "Shepton Daphnis Horsa", được gọi với tên thân mật là Dash, đã đảm nhận vai trò này trong tám năm và là chú chó nuôi của Eva Sharp ở Tottenham. Người kế nhiệm của Dash là "Fernville Lord Digby", được coi là chú chó Dulux nổi tiếng nhất và cũng đã làm nổi tiếng chủ sở hữu của nó, Cynthia và Norman Harrison. Khi quay quảng cáo, Digby được đối xử như một ngôi sao, được đưa đến studio bằng một chiếc xe do tài xế lái. Barbara Woodhouse đã được thuê để huấn luyện Digby và ba chú chó đóng thế, được sử dụng khi cần quay những cảnh đòi hỏi kỹ năng hoặc hành động cụ thể. Sự phổ biến của Digby đã đưa anh ta đóng vai chính trong bộ phim hài năm 1973 có tựa đề "Digby, the Biggest Dog in the World". Gambit - một chú chó Dulux khác, đã được sử dụng trong một buổi chụp ảnh vào năm 1980 cho Philips Video và thế hệ mới của máy ghi video. Sau khi buổi chụp kết thúc, đã có đủ lông để lấp đầy một chiếc đệm - chú chó được chải chuốt liên tục trong suốt buổi chụp. King Hotspur of Amblegait đã được sử dụng từ năm 1974 đến năm 1979 và đã xuất hiện trong hơn năm mươi chương trình truyền hình cũng như các sự kiện công khai của ICI/Dulux. Ngoại trừ Dash, tất cả các chú chó Dulux khác đều là những chú chó giành được danh hiệu vô địch giống chó, và có năm trong số chúng đã giành giải 'Best in Show'. Chó Dulux đã được xếp hạng ở vị trí số 51 trong chương trình "100 Quảng cáo Truyền hình Vĩ đại nhất" của Channel 4. Dulux ở Australia và New Zealand. Tại Australia và New Zealand, Dulux đã tham gia vào việc sản xuất và tiếp thị sơn và các sản phẩm liên quan từ năm 1904 và là nhà sản xuất sơn lớn nhất tại Australia. Dulux bắt nguồn từ một công ty chế tạo kính lớn tại Australia, H. L. Vosz. Vào năm 1912, công ty Australasian United Paint Company Limited được thành lập tại South Australia để tiếp quản hoạt động sản xuất sơn từ H. L. Vosz. Trong những năm tiếp theo, nhà máy đã trải qua quá trình hiện đại hóa đáng kể. Hoạt động chế tạo kính tiếp tục độc lập dưới tên Vosz (mặc dù người sáng lập đã qua đời gần 30 năm trước), nhưng vào năm 1915, công ty đổi tên thành Clarkson Ltd nhằm phản đối ý kiến chống Đức trong thời điểm đó. Vào năm 1919, công ty Australasian United Paint Co được mua lại với giá 40.000 bảng Anh bởi British Australian Lead Manufacturers, một nhóm nhà sản xuất chì trắng người Anh, với văn phòng tại Melbourne hoặc Sydney. Sau đó, công ty trở thành BALM Paints. Vào những năm 1950, Dulux mở một nhà máy mới và Trung tâm Nghiên cứu Trung ương tại Clayton, Victoria. Dựa trên các cuộc khảo sát, công chúng ở Australia không biết gì về BALM Paints, trong khi mọi người đều quen thuộc với tên gọi Dulux. Do đó, công ty đã quyết định đổi tên thành Dulux Australia vào năm 1971. Trong thập kỷ 1970, Dulux đã mua lại Walpamur Paints. British Paints và Berger Paints là những đối thủ chính của Dulux vào thời điểm đó. Vào năm 1988, Dulux đã mua lại cả British Paints và Berger Paints. Năm 1996, Dulux tiếp tục mua lại Cabot's. Trên thị trường sơn Australia, Wattyl, Taubmans và Dulux là những thương hiệu nổi bật vào thời điểm đó. Cho đến năm 1997, Dulux Australia là một trong những thành viên quan trọng trong tập đoàn ICI Paints World Group. Tuy nhiên, sau đó, ICI thông báo ý định bán 62% cổ phần của ICI Australia để tăng vốn cho việc mua lại một phần của Unilever. Vào ngày 2 tháng 2 năm 1998, công ty trước đây là ICI Australia trở thành một công ty độc lập và đổi tên thành Orica. Tại Australia và New Zealand, Dulux trước đây là công ty con của Orica cho đến tháng 7 năm 2010, khi DuluxGroup được tách ra và trở thành một công ty độc lập được niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Úc. Trong quảng cáo trên truyền hình, bài hát "Perfect" của Fairground Attraction đã được sử dụng. Trước đây, Dulux Australia đã là một nhà sản xuất sơn hàng đầu trên tất cả các thị trường sơn (trang trí, ô tô, sơn bảo dưỡng, công nghiệp, sơn phủ bột). Tuy nhiên, công ty đã bán các phân khúc thị trường kỹ thuật (cũng như khuôn viên tại Clayton) cho PPG Industries và tập trung vào sơn trang trí, chăm sóc gỗ và sơn phủ bột. Dulux đã chuyển đến một vị trí mới trên Đường Dandenong, Clayton, trước đây thuộc sở hữu của Pond's. Trong các quảng cáo truyền hình, chó Dulux (Penny) cùng hàng trăm chú chó Old English Sheepdogs khác đã xuất hiện, chạy đua để thu thập các vật phẩm như cọc bóng cricket, gậy trống, muỗng gỗ, que và các vật phẩm khác để khuấy trong nồi sơn Dulux "Wash and Wear" vừa mở. Bài hát "I Woke Up Today" của ban nhạc Mỹ Port O'Brien, từ album "All We Could Do Was Sing", được sử dụng làm nhạc nền. Vào tháng 8 năm 2019, DuluxGroup đã được Nippon Paint mua lại và không còn niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Úc. Ngành kinh doanh sơn trang trí Dulux tại Canada đã được bán cho PPG Architectural Coatings - một bộ phận của PPG Industries vào tháng 12 năm 2012. Ở Vương quốc Anh, AkzoNobel điều hành chuỗi cửa hàng thương mại và bán lẻ của Dulux Decorator Centre. Hiện đã có hơn 200 cơ sở, chủ yếu tại nước Anh, tuy nhiên, có hơn hai mươi cơ sở ở Scotland, sáu cơ sở ở Wales và bốn cơ sở ở Bắc Ireland. Ngoài thương hiệu Dulux Trade, cửa hàng cũng cung cấp các thương hiệu khác của AkzoNobel như Armstead, Hammerite và Cuprinol, cũng như là nhà cung cấp các phụ kiện trang trí, giấy dán tường và đồ bảo hộ từ nhiều nhà sản xuất khác. Chương trình Dulux Select Decorators. Chương trình Dulux Select Decorators là một mạng lưới quốc gia của các thợ trang trí chuyên nghiệp. Ý tưởng này được Dulux sáng tạo vào năm 1996 để đảm bảo cho người tiêu dùng về chất lượng công việc cao cấp, bao gồm một bảo hành hai năm được hỗ trợ bởi thương hiệu sơn hàng đầu. Dulux Trade Contract Partnership. Dulux Trade Contract Partnership là một chương trình dành cho các nhà thầu đã được đánh giá độc lập và đảm bảo chất lượng. Các đối tác hợp đồng Dulux Trade phải chịu các cuộc thăm quan thường xuyên của các nhà đánh giá độc lập để theo dõi tiêu chuẩn và xác định các cơ hội để cải thiện.
Tengen là một thị trấn thuộc huyện Konstanz, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm gần biên giới với Thụy Sĩ, cách Schaffhausen về phía bắc. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đỗ Đức Thái (sinh năm 1961 tại Hà Nội) là một Giáo sư, Tiến sĩ khoa học người Việt Nam. Ông hiện là Thư ký Hội đồng Giáo sư Nhà nước ngành Toán học; trưởng khoa Toán – Tin, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ông cũng là thành viên Hội đồng Khoa học Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán nhiệm kỳ 2014-2018, phó chủ tịch Hội Toán học Việt Nam nhiệm kỳ 2018-2023. Ngoài ra, ông còn là giáo sư thỉnh giảng tại nhiều trường đại học của Pháp, Nhật, Đức, Thụy Sĩ. Ông sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, theo học tại trường Trung học cơ sở Trưng Vương. Từ năm 1975, ông theo học khối phổ thông chuyên Toán tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Năm 1978, ông là 1 trong 8 người được chọn vào đội tuyển tham dự cuộc thi Olympic Toán quốc tế tại Romania và đã nhận huy chương Đồng. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông ở lại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội làm giảng viên. Năm 1982, ông bắt đầu làm nghiên cứu sinh về hình học vi phân dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Đoàn Quỳnh. Trong thời gian này, ông cũng là học trò của nhà toán học Lê Văn Thiêm. Năm 1989, ông được cử đi làm luận án phó tiến sĩ ở Liên Xô. Tại đây, ông đã được Mikhail Zaidenberg chỉ bảo, hỗ trợ. Đến năm 1992, do biến cố chính trị ở Liên Xô, các thỏa thuận giáo dục giữa Việt Nam và Liên Xô ngừng được thi hành nên ông phải sống trong điều kiện thiếu thốn. Ông đã không có đủ kinh phí để hoàn thành luận án và buộc trở về nước. Dưới sự hỗ trợ của Giáo sư Nguyễn Văn Khuê, ông đã hoàn thành luận án phó tiến sĩ, rồi tiến sĩ vào năm 1995. Năm 1996, ông đã được phong hàm Phó Giáo sư. Ông nhận hàm Giáo sư năm 2003 khi mới 42 tuổi, là giáo sư trẻ nhất Việt Nam tại thời điểm đó. Ông từng là thầy giáo của nhiều nhà khoa học và nhà toán học như Đàm Thanh Sơn, Vũ Hà Văn, Nguyễn Tiến Dũng, Ngô Bảo Châu, Đinh Tiến Cườ Năm 2012, ông được đề cử làm hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội với số phiếu bầu cao nhất qua nhiều vòng. Tuy nhiên, việc bổ nhiệm không thành. Chủ biên chương trình phổ thông môn Toán năm 2018. Trong thời gian được chọn làm Chủ biên cho chương trình sách giáo khoa môn Toán mới năm 2018, ông đã nhận được nhiều ý kiến trái chiều về chương trình này. Ông đã khẳng định lại rằng "quan điểm xây dựng chương trình môn Toán theo chương trình phổ thông 2018 là tinh giản, thiết thực, hiện đại và khơi nguồn sáng tạo" chứ không chỉ tập trung cho các học sinh giỏi để đi thi. Đồng thời, ông cũng phủ nhận rằng chương trình này "không tạo điều kiện cho học sinh giỏi phát triển".
Maria xứ Kleve (19 tháng 9 năm 1426 – 23 tháng 8 năm 1487) là vợ thứ ba của Charles I xứ Orléans. Maria xuất thân là một công nữ người Đức, người con cuối cùng của Adolf I của Kleve và Marie xứ Bourgogne. Maria là người bảo trợ văn học và đã ủy quyền cho nhiều tác phẩm; bản thân Maria cũng là một nhà thơ và đã sáng tác ra những bản ballad và bài thơ khác nhau. Sau cái chết của Charles, Maria bí mật tái hôn vào năm 1480 với một trong các nam thị tùng túc trực phòng của Maria là "Sieur de Rabodanges" (Ngài "Rabodanges"), là người xứ Artois, kém hơn Maria vài tuổi. Maria qua đời ở Chaunay. Ở độ tuổi mười bốn, Maria kết hôn với Charles xứ Valois, Công tước xứ Orléans (lúc ấy đã được 46 tuổi, do đó lớn hơn Maria 32 tuổi ) vào ngày 27 tháng 11 năm 1440, tại Saint-Omer. Maria chính là người vợ thứ 3 và cuối cùng của Charles. Hai vợ chồng có với nhau ba người con, lần lượt là: Maria là một nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử của Hella Haasse về Charles I xứ Orléans có tên "Lang thang trong khu rừng tối" (tựa gốc tiếng Hà Lan "là Het Woud der Verwachting").
Nguyễn Văn Vực (1909–1952), tên thường gọi là Tư Vực, là một nhà cách mạng và chỉ huy quân sự Việt Nam. Nguyễn Văn Vực sinh năm 1909 trong một gia đình địa chủ ở làng Kênh Son (làng Son), tổng Cao Mại, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Làng Son hiện nay đã tách thành hai thôn Nguyên Kinh 1 và Nguyên Kinh 2, thuộc xã Minh Hưng (năm 2020 ghép với xã Quang Hưng thành xã Minh Quang), huyện Kiến Xương. Nguyễn Văn Vực là con thứ tư của ông Hàn Chất, người giàu có nhất làng nhờ có trăm mẫu ruộng tổ tiên để lại, song lại là người sống theo lễ giáo, tôn trọng mọi người. Ban đầu, ông đỗ Sơ học yếu lược, được tạo điều kiện lên thị xã Thái Bình học tập ở trường Tư thục Minh Thành. Hoạt động cách mạng. Năm 1926, ông bắt đầu tiếp xúc với chi bộ trường Minh Thành của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tháng 8 năm 1927, thông qua sự giới thiệu của bạn học cũ, ông được Nguyễn Phương Lãm kết nạp vào Chi bộ Thanh niên làng Thuận An (Vũ Thư). Đầu năm 1928, ông kết nạp ba Hội viên và thành lập một tổ Thanh niên gồm bốn người do bản thân làm Tổ trưởng, tiếp tục mở rộng tuyên truyền, phát triển cơ sở. Tháng 7 năm 1929, ông cùng Nguyễn Quýnh được kết nạp vào Chi bộ Lai Vi của Đông Dương Cộng sản Đảng. Cuối năm 1929, Chi bộ Lai Vi tách ra thành lập Chi bộ Kênh Son do Nguyễn Văn Vực làm Bí thư. Năm 1930, ông kết hôn và ra ở riêng, được cha mẹ chia 15 mẫu ruộng. Để ủng hộ phong trào cách mạng, ông và vợ đã đem bán một phần số ruộng của mình lẫn kỷ vật cưới. Tháng 4, ông cùng chi bộ lãnh đạo quần chúng đấu tranh ủng hộ công nhân dệt Nam Định, bản thân đứng ra vận động nhà giàu cho vay thóc để cứu đói, cũng như cứu tế những nạn nhân của chính quyền thực dân Pháp khi đàn áp cuộc biểu tình ở Tiền Hải. Từ tháng 10, ông chỉ đạo chi bộ rải truyền đơn tố cáo tội ác của chính quyền thực dân, kêu gọi mọi người đấu tranh, phát động hai cuộc mít tinh ở chợ Cao Mại (16 tháng 2 năm 1931) và lễ giỗ Hai Bà Trưng (tháng 3 năm 1931). Do có kẻ phản bội chỉ điểm, ông bị bắt và bị tra tấn trong nhiều ngày. Sau khi được thả, ông mở trường tư ở nhà, dạy học cho con em Đảng viên và người nghèo. Đầu năm 1937, lớp học đóng cửa, ông cùng Trần Cung xuất bản báo "Tiến Lên" làm cơ quan ngôn luận của tổ chức Đảng tỉnh Thái Bình. Hội Hiếu hữu làng Son được thành lập để gây dựng ảnh hưởng trong quần chúng. Tháng 7, hội nghị cán bộ toàn tỉnh được tổ chức ở làng Vũ Lăng, bầu ra Ban Tỉnh ủy Thái Bình do ông làm Bí thư. Dưới sự lãnh đạo của Ban Tỉnh ủy, phong trào nông dân ở Thái Bình phát triển mạnh mẽ, được Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ Hoàng Quốc Việt đánh giá là là "tỉnh mạnh nhất". Tháng 4 năm 1940, do Nguyễn Duy Trí phản bội, ông bị bắt và bị kết án 20 năm khổ sai, lưu đày Côn Đảo. Hoạt động kháng chiến. Tháng 9 năm 1945, sau Cách mạng Tháng Tám, các tù nhân ở Côn Đảo, gồm Nguyễn Văn Vực, được Tỉnh ủy Sóc Trăng đón trở về đất liền. Tháng 10, nhằm tăng cường cán bộ bảo đảm cho các mặt công tác, ông được Liên Tỉnh ủy Hậu Giang chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy Sóc Trăng thay cho Dương Kỳ Hiệp làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền. Cuối tháng 4 năm 1946, ông cùng Vũ Đức, Phan Trọng Tuệ, Trần Văn Đại được điều động làm Khu ủy viên Khu 9 (Khu ủy Hậu Giang) do Trần Văn Hiển làm quyền Bí thư, với nhiệm vụ thúc đẩy công tác xây dựng lực lượng vũ trang chống Pháp. Cùng năm, ông làm Bí thư Khu ủy Khu 9. Đầu năm 1948, ông được cử làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Khu 9. Năm 1950, ông được Trung ương Cục phân công làm Trưởng ban Nông vận miền Nam. Ngày 25 tháng 8 năm 1952, ông qua đời đột ngột sau một cơn đau dạ dày cấp tính. Năm 1977, hài cốt của ông được Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh di chuyển từ Kiên Giang về an táng tại nghĩa trang thành phố. Tên của ông được đặt cho một con đường ở thị trấn Kiến Xương (Thái Bình).
Trung Ukraina (, "Tsentralna Ukraina") bao gồm các khu vực lịch sử Ukraina tả ngạn và Ukraina hữu ngạn, ám chỉ đến sông Dnepr. Khu vực nằm xa bờ biển Đen và ở trung lưu của sông Dnepr. Trong bối cảnh lịch sử, Trung Ukraina bao gồm các vùng đất từng là cốt lõi của Rus Kyiv, và là đấu trường trực tiếp của phong trào Cossack, trùng với biên giới của nhà nước Cossack Ukraina. Các thành phố của Trung Ukraina nằm trong số những thành phố lâu đời nhất ở Ukraina. Cũng trái ngược với phần phía đông nam của đất nước, khu vực này thiên về nông nghiệp hơn với những cánh đồng ngũ cốc và hoa hướng dương rộng lớn ở trung tâm Ukraina. Surzhyk là một thuật ngữ chỉ phương ngữ hỗn hợp Nga-Ukraina, thường được nói trên khắp miền Trung Ukraina, tuy nhiên, theo RATING và Research Branding Group, hầu hết mọi người tự nhận mình là người nói tiếng Ukraina. Trong một cuộc thăm dò do Viện Xã hội học Quốc tế Kyiv thực hiện vào nửa đầu tháng 2 năm 2014, chỉ 5,4% số người được hỏi ở Trung Ukraina tin rằng "Ukraina và Nga phải thống nhất thành một quốc gia duy nhất", trong khi tỷ lệ này trên toàn quốc là 12,5%. Các cuộc bầu cử ở các tỉnh Trung Ukraina từng có lịch sử cạnh tranh giữa các ứng cử viên thân Nga và thân phương Tây. Tuy nhiên, kể từ Cách mạng Cam năm 2004, cử tri Trung Ukraina bắt đầu nghiêng về các đảng thân phương Tây hơn (Ukraina của chúng ta, Batkivshchyna) và các ứng cử viên tổng thống thân phương Tây (Viktor Yuschenko và Yulia Tymoshenko). Tôn giáo tại Trung Ukraina (2016) (6.5%)templatestyles src="Legend/" /   Công giáo La Mã (1.0%)templatestyles src="Legend/" /   Tin Lành (1.0%)templatestyles src="Legend/" /   Công giáo Hy Lạp (0.4%)templatestyles src="Legend/" /   Do Thái giáo (0.3%)templatestyles src="Legend/" /   Hồi giáo (0.1%)templatestyles src="Legend/" /  Tôn giáo khác (0.1%) Theo một cuộc khảo sát về tôn giáo ở Ukraina năm 2016 do Trung tâm Razumkov tổ chức, khoảng 73,5% dân số Trung Ukraine tuyên bố là tín đồ, trong khi 4,8% tuyên bố là người không tín đạo và 2,6% tuyên bố là người vô thần. Trong tổng dân số, 86,5% là Cơ đốc nhân (76,7% Chính thống giáo Đông phương, 6,5% là Cơ đốc nhân đơn thuần, 1,9% theo Công giáo Nghi thức Latinh, 1,0% là thành viên của các giáo hội Tin lành khác nhau, và 0,4% là thành viên của giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraina), 0,3 % là người Do Thái, và 0,1% là người Hồi giáo. Không tôn giáo và các tín đồ khác không xác định với bất kỳ tổ chức tôn giáo lớn nào được liệt kê chiếm khoảng 12,8% dân số.
Bắc Ukraina () là một khu vực văn hóa và lịch sử của Ukraina bao gồm các tỉnh Zhytomyr, Kyiv (cùng với thành phố Kyiv), Chernihiv, thường gồm tỉnh Sumy, và đôi khi gồm các tỉnh Volyn và Rivne. Đây là một khu vực có tầm quan trọng về văn hóa, tôn giáo và công nghiệp cao cấp, thủ đô của Ukraina là thành phố Kyiv nằm trên lãnh thổ của nó. Các thành phố có tầm quan trọng khu vực trong khu vực này là Chernihiv, Zhytomyr, Sumy và các thành phố khu vực — Bila Tserkva, Pereyaslav, Berezan, Boryspil, Brovary, Vasylkiv, Fastiv, Irpin, Slavutych, Romny, Glukhiv, Shostka, Nizhyn, Pryluky, Trostyanets. Sự gần gũi với biên giới Belarus để lại dấu ấn trong thành phần dân tộc của khu vực. Có khá nhiều người Belarus trong dân số. Ngoài ra còn có nhiều người Do Thái (ở vùng Kyiv), người Ba Lan (ở vùng Zhytomyr). Kyiv cũng là một thành phố đa dân tộc. Trên lãnh thổ của khu vực Bắc Ukraina, tiếng Nga và tiếng Ukraina được sử dụng để giao tiếp, cũng như ngôn ngữ hỗn hợp Nga-Ukraine (surzhik). Các phần Tây Bắc (Podolia) của khu vực trước đây chịu ảnh hưởng của tiếng Belarus. Ở Bắc Ukraina có tuyến đường sắt Tây Nam, tên của nó là một lời nhắc nhở về vị trí thuộc địa cũ của Ukraina đối với Moskva. Cái tên này được thiết lập vững chắc và duy trì trạng thái này, kể cả trong 25 năm đầu tiên Ukraina độc ​​lập chính trị khỏi Nga. Nghịch lý địa lý “tây nam hướng bắc” được bàn tán trong nhiều tin bài.
Đường cao tốc vành đai Thẩm Dương templatestyles src="Infobox road/" /#đổi Đường cao tốc vành đai Thẩm Dương ( ), được đánh số là G15 01, là một đường cao tốc vành đai ở Thẩm Dương, Liêu Ninh, Trung Quốc. Công trình đường cao tốc vành đai Thẩm Dương khởi công vào năm 1988, toàn bộ đường vành đai được hoàn thành và thông xe vào tháng 9 năm 1995. Tuyến đường được xây dựng là một phần của đường cao tốc Bắc Kinh – Cáp Nhĩ Tân theo kế hoạch với tổng chiều dài 82,051 km. Năm 2010, Ủy ban Nhân dân tỉnh Liêu Ninh khởi động dự án tái thiết và mở rộng đường cao tốc vành đai Thẩm Dương, dự án này đã hoàn thành vào cuối tháng 7 năm 2013. Bắt đầu từ ngày 31 tháng 7 năm 2013, đường cao tốc vành đai Thẩm Dương đã thực hiện chính sách miễn phí phương tiện đối với xe chở khách cỡ nhỏ đã đăng ký ở Thẩm Dương. Chính sách này chỉ áp dụng nếu phương tiện đi vào từ các trạm thu phí của đường cao tốc vành đai Thẩm Dương và đi ra tại các trạm thu phí của đường cao tốc Vành đai Thẩm Dương. Nếu phương tiện đi quá xa đường cao tốc Vành đai Thẩm Dương, phí cầu đường sẽ được trả theo số dặm thực tế đã đi. Theo quy định của Bộ Giao thông tỉnh Liêu Ninh, các phương tiện chở khách cỡ nhỏ được hưởng chính sách miễn phí phải được trang bị thẻ điện tử ETC và phải đi trên làn đường dành riêng cho ETC khi lái xe qua trạm thu phí đường cao tốc Vành đai Thẩm Dương. Từ giai đoạn đầu triển khai miễn phí đến ngày 31 tháng 3 năm 2014, các phương tiện đáp ứng các điều kiện nhưng chưa gắn thẻ điện tử được phép đi qua đường cao tốc vành đai Thẩm Dương. Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2020, hệ thống thu phí kết nối mạng lưới nâng cấp đã được triển khai ở các tuyến đường cao tốc trên cả nước. Tuy nhiên, người dân sử dụng thẻ trả trước của xe du lịch cỡ nhỏ dưới 9 chỗ ngồi (bao gồm cả 9 chỗ ngồi) từ Thẩm Dương vẫn tiếp tục được hưởng chính sách miễn phí của đường cao tốc vành đai Thẩm Dương. Điểm khác duy nhất là lối vào làn ETC chỉ có thể được thông qua bình thường khi số dư trong thẻ lớn hơn 0 Nhân Dân Tệ.
Thuật ngữ Ukraina Dnepr . Tên gọi trong tiếng Ukraina bắt nguồn từ "nad‑" (tiền tố: "trên") + "Dnipró" ("Dnepr") + "‑shchyna" (hậu tố biểu thị một khu vực địa lý). Về mặt lịch sử, khu vực này gắn bó chặt chẽ với lịch sử của Ukraina và được ví như trái tim của đất nước. Do kích thước địa lý, khu vực được chia có điều kiện thành Thượng Ukraina Dnepr, Trung Ukraina Dnepr và Hạ Ukraina Dnepr, liên quan đến dòng chảy của sông Dnepr. Thượng và Trung tách biệt ở cửa sông Desna, gần ở thành phố Kyiv, trong khi Hạ và Trung tách biệt xung quanh Khortytsia, gần ở thành phố Zaporizhia. Thuật ngữ "Ukraina Dnepr" xuất hiện ngay sau sự phân chia Ba Lan, khi phần Ukraina là lãnh thổ cũ của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva bị chia cắt giữa Đế quốc Nga và Đế quốc Áo, và khu vực được gọi là Ukraina do Nga kiểm soát. Thuật ngữ này đã bị loại bỏ ngay sau năm 1939. Người Ukraina đôi khi gọi khu vực là Đại Ukraina (Velyka Ukrayina). Thuật ngữ này được đề cập trong Đạo luật Thống nhất Ukraina (1919), trong đó có nội dung: "Từ giờ trở đ, Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina (Galicia, Bukovina, Ugric Ruthenia) và Dnepr Đại Ukraina". Bảo tàng Kiến trúc Dân gian và Lối sống khu vực của Trung Naddnipryanshchyna nằm ở thị trấn Pereiaslav. Bảo tàng ngoài trời này có 13 bảo tàng theo chủ đề, 122 ví dụ về kiến ​​trúc quốc gia và hơn 30.000 hiện vật văn hóa lịch sử.
Ukraina tả ngạn (; ) là tên gọi lịch sử của một phần Ukraina nằm bên bờ tả (đông) của sông Dnepr (Dnipro), gồm các tỉnh Chernihiv, Poltava và Sumy cũng như phần phía đông của các tỉnh Kyiv và Cherkasy. Thuật ngữ này xuất hiện vào năm 1663 với việc bầu chọn Ivan Bryukhovetsky làm hetman của Ukraina đối lập với Pavlo Teteria. Bryukhovetsky là hetman "Ukraina tả ngạn" đầu tiên được biết đến trong khu vực nằm dưới ảnh hưởng của Nga. Cho đến giữa thế kỷ 17, khu vực này thuộc về Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Hiệp ước Pereyaslav năm 1654 chứng kiến ​​khu vực này tạm thời nằm dưới sự kiểm soát của Nga, khi các thủ lĩnh Cossack địa phương thề trung thành với chế độ quân chủ Nga để đổi lấy bảo hộ về quân sự. Chủ quyền của Nga đối với khu vực này sau đó được tái khẳng định trong Hiệp ước Andrusovo (1667) và Hiệp ước Hòa bình vĩnh cửu (1686) giữa Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva và Sa hoàng Nga. Dưới quyền cai trị của Nga, Ukraina tả ngạn ban đầu được hưởng một mức độ tự trị trong nước Nga Sa hoàng (từ năm 1721 là Đế quốc Nga) với tên gọi Quốc gia hetman Cossack, nhưng dần bị thu hồi trong suốt thế kỷ 18 khi Sich Zaporizhzhia bị phá hủy. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Pierangelo Manzaroli (sinh ngày 25 tháng 3 năm 1969) là một cựu cầu thủ bóng đá người San Marino, hiện đang là một huấn luyện viên. Sự nghiệp thi đấu. Manzaroli từng thi đấu ở vị trí tiền vệ cho Đội tuyển bóng đá quốc gia San Marino. Sự nghiệp huấn luyện viên. Từng dẫn dắt đội U-21 San Marino có được chiến thắng đầu tiên với tỷ số 1-0 trên sân nhà trước Wales, ông chuyển sang dẫn dắt Đội tuyển bóng đá quốc gia San Marino, thay cho người tiền nhiệm Giampaolo Mazza. Trận đấu đầu tiên của đội bóng dưới thời huấn luyện viên Manzaroli là một trận giao hữu gặp Albania. Kết thúc trận, San Marino thua 0–3. Ngày 15 tháng 11 năm 2014, ông đã giúp cho đội bóng chấm dứt chuỗi 61 trận thua liên tiếp bằng trận hòa 0–0 trên sân nhà trước Estonia tại Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2016.
Feodora xứ Leiningen (tiếng Đức: "Feodora zu Leiningen"; tiếng Anh: "Feodora of Leiningen"; Anna Feodora Auguste Charlotte Wilhelmine; 7 tháng 12 năm 1807 – 23 tháng 9 năm 1872) là con gái duy nhất của Thân vương Emich Carl xứ Leiningen và Công nữ Victorie xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld. Feodora và anh trai Carl, Thân vương thứ 3 xứ Leiningen, là anh em cùng mẹ khác cha với Nữ vương Victoria I của Liên hiệp Anh. Thông qua con gái là Adelheid xứ Hohenlohe-Langenburg, Feodora là tổ mẫu của Quốc vương Carl XVI Gustaf của Thụy Điển và của Felipe VI của Tây Ban Nha (chỉ thông qua phụ nữ). Thân vương nữ Feodora xứ Leiningen sinh vào ngày 7 tháng 12 năm 1807 ở Amorbach, Bayern, con gái duy nhất của Victorie xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld và Emich Carl xứ Leiningen. Thân vương nữ được đặt tên là Anna Feodora Auguste Charlotte Wilhelmine, trong đó hai cái tên đầu tiên được đặt theo tên tiếng Nga của người bác bên ngoại là Đại vương công phu nhân Anna Fyodorovna của Nga, vốn là Juliane xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld . Năm 1814, cha của Feodora, Carl Emich qua đời. Ngày 29 tháng 5 năm 1818, mẹ của Feodora, Victorie tái hôn với Vương tử Edward Augustus của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Kent và Strathearn, con trai thứ tư của George III của Liên hiệp Anh và Charlotte xứ Mecklenburg-Strelitz và được gọi là Công tước phu nhân xứ Kent và Strathearn. Năm sau, khi Bà Công tước sắp đến ngày sanh nở, cả gia đình đã chuyển về Anh để người thừa kế tiềm năng mới của ngai vàng Liên hiệp Anh có thể được sinh ra ở Anh. Feodora có mối quan hệ rất thân thiết với em gái cùng mẹ Victoria, mặc dù Victoria rất phật lòng trước việc Feodora là một trong số ít những đứa trẻ cùng trang lứa mà Victoria được phép tiếp xúc thường xuyên. Feodora cũng mong muốn được tránh xa Cung điện Kensington vĩnh viễn, vì "khoảng thời gian hạnh phúc duy nhất của Thân vương nữ là ra ngoài lái xe" với Victoria và nữ gia sư Louise Lehzen, khi Feodora có thể "nói năng và ăn mặc theo ý thích" ("speak and look as she liked). Hôn nhân và cuộc sống sau này. Đầu năm 1828, Feodora kết hôn với Thân vương Ernst I xứ Hohenlohe-Langenburg (1794–1860) tại Cung điện Kensington. Cuộc hôn nhân được sắp xếp bởi Vương hậu Adelheid của Liên hiệp Anh, vì Thân vương Ernst I là anh họ ba đời của Adelheid. Trước đó, Feodora chỉ gặp mặt Ernst hai lần. Sau tuần trăng mật của hai vợ chồng, Feodora trở lại Liên bang Đức và sống ở đó cho đến khi qua đời vào năm 1872. Tuy nhiên, Thân vương Ersnt I không có lãnh địa nào vì Thân vương quốc Hohenlohe-Langenburg đã bị sáp nhập vào Württemberg vào năm 1806. Hai vợ chồng sống trong một lâu đài rộng lớn và không được thoải mái là Schloss Langenburg. Feodora duy trì việc trao đổi thư từ với em gái Victoria trong suốt cuộc đời và được trợ cấp 300 bảng Anh (tương đương với 27.652 bảng năm 2019) bất cứ khi nào Feodora có thể đến Anh. Feodora cũng là thành viên của bữa tiệc vương thất trong lễ đăng quang của Victoria năm 1838. Con gái út cùng tên của Feodora, Công tước phu nhân xứ Sachsen-Meiningen, qua đời vào đầu năm 1872 vì bệnh ban đỏ và Feodora cũng qua đời vào cuối năm đó. Khi nghe tin chị gái qua đời, Victoria đã viết rằng:— Feodora và Ernst có với nhau sáu người con (ba trai và ba gái):
Polsat Sport News là kênh truyền hình Ba Lan đầu tiên có nội dung về các tin tức liên quan đến thể thao. Kênh được lên sóng vào lúc 7:00, ngày 30 tháng 5 năm 2011. Vào ngày 25 tháng 10 năm 2010, chương trình xuất hiện dưới dạng kênh thử nghiệm nội bộ trên kênh 146 của Cyfrowy Polsat. Vào ngày 25 tháng 5 năm 2011, đài bắt đầu thử nghiệm truyền hình kỹ thuật số mặt đất trong bộ ghép kênh thứ hai. Ngày 30 tháng 5 năm 2011, kênh bắt đầu phát sóng lúc 7 giờ sáng, nhưng không có sẵn cho người dùng nền tảng vệ tinh kỹ thuật số. Ngày 11 tháng 8 năm 2011, trạm đã được cung cấp cho người dùng Cyfrowy Polsat. Ngày 4 tháng 11 năm 2011, kênh chính thức được thêm vào n và "Telewizji na Kartę". Vào ngày 1 tháng 11 năm 2012, Polsat Sport News đã tung ra quảng cáo. Kênh phát sóng từ 7:00 và kết thúc lúc 1:15. Ngày 2 tháng 2 năm 2017, Polsat Sport News được thay thế bởi Super Polsat trong kênh kỹ thuật số mặt đất thứ hai. Polsat Sport News bắt đầu phát sóng HD trên cơ sở nhượng bộ vệ tinh. Kênh sẽ có sẵn trên các nền tảng vệ tinh cũng như trên các mạng cáp và IPTV, và lịch trình của đài sẽ là phần tiếp theo của ưu đãi chương trình đã phát sóng trước đó trên cơ sở của Polsat Sport News.
Sân vận động René Gaillard Sân vận động René Gaillard là một sân vận động đa năng ở Niort, Pháp. Đây là sân nhà của câu lạc bộ Chamois Niortais tại Ligue 2 và có sức chứa 11,352 người. Niort thi đấu trận đầu tiên trên sân vận động này vào ngày 3 tháng 8 năm 1974. Kỷ lục đón khán giả vào sân vận động này là 16,715 người trong trận đấu giữa Chamois Niortais và Olympique Marseille vào năm 1988.
Ukraina hữu ngạn (, "Pravoberezhna Ukrayina"; , "Pravoberezhnaya Ukraina") là tên gọi lịch sử và lãnh thổ của một phần Ukraine nằm ở bờ hữu (tây) của sông Dnepr (Dnipro), tương ứng với các tỉnh Vinnytsia, Zhytomyr, Kirovohrad, cũng như phần phía tây của các tỉnh Kyiv và Cherkasy. Nó chia tách với Ukraina tả ngạn trong thời Ruin (1659-1686). Ukraina hữu ngạn giáp với các khu vực lịch sử Volhynia và Podolia ở phía tây, Moldavia ở phía tây nam, Yedisan và Zaporizhzhia ở phía nam, Ukraina tả ngạn ở phía đông và Polesia ở phía bắc. Lịch sử của Ukraina hữu và tả ngạn gắn liền với Khởi nghĩa Khmelnytsky năm 1648–57. Lãnh thổ này là một phần của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva dưới thời Nhà Vasa, cho đến khi Chiến tranh Nga-Ba Lan xảy ra do Hiệp ước Pereyaslav của Khmelnytsky năm 1654, với liên minh Muscovy. Sau cuộc xung đột kéo dài 13 năm, Sa hoàng Nga chiến thắng và hợp nhất Ukraina tả ngạn cùng với thành phố Kyiv vào năm 1667 sau Thỏa thuận đình chiến Andrusovo. Trong khi đó, Ukraina hữu ngạn vẫn thuộc Thịnh vượng chung cho đến khi Ba Lan bị phân chia vào cuối thế kỷ 18. Là một phần của miền Tiểu Ba Lan, khu vực được chia thành hai tỉnh: Kiev và Bracław. Năm 1669, hetman Petro Doroshenko chấp thuận để Ukraina hữu ngạn trở thành một phần của Đế quốc Ottoman. Phần cực nam Podolia thuộc Ukraina hữu ngạn bị Ottoman xâm chiếm vào năm 1672. Sau chiến thắng năm 1683 của các cường quốc Kitô giáo trong Trận chiến Vien, đến năm 1699 Hiệp ước Karlowitz trả lại những vùng đất đó cho Thịnh vượng chung. Trong thế kỷ 18, hai cuộc nổi dậy của người Cossack diễn ra. Năm 1793, Ukraina hữu ngạn bị Đế quốc Nga sáp nhập trong Phân chia Ba Lan lần thứ hai, trở thành một phần của guberniya ('tỉnh') Tiểu Nga. Vào thế kỷ 19, dân số ở Ukraina hữu ngạn chủ yếu là người Ukraina, nhưng phần lớn đất đai thuộc sở hữu của giới quý tộc Ba Lan hoặc quý tộc Ukraina bị Ba Lan hóa. Nhiều thị trấn và thành phố thuộc về "Hàng rào định cư" và có một lượng lớn người Do Thái sinh sống, trong khi giới quý tộc nói tiếng Ba Lan chủ yếu theo Công giáo La Mã. Hầu hết nông dân trở nên tin theo Công giáo Hy Lạp chỉ mới trong thế kỷ 18, và sau Phân chia Ba Lan, phần lớn họ chuyển sang Chính thống giáo nhiều năm trước khi bãi bỏ Unia vào năm 1839. Ukraina hữu ngạn sau đó được chia thành bốn tỉnh (guberniya), mỗi tỉnh với chính quyền riêng của mình: Kiev, Volhynia, Kherson và Podolia. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Cảm biến nhiệt độ Cảm biến nhiệt độ (RTD), còn được gọi là cảm biến nhiệt độ điện trở (RTDs), được sử dụng để đo nhiệt độ. Rất nhiều thành phần RTD bao gồm một đoạn dây mỏng được cuộn quanh một lõi chịu nhiệt bằng gốm hoặc thủy tinh, nhưng cũng có những cấu trúc khác được sử dụng. Dây RTD là một vật liệu tinh khiết, thường là platinum (Pt), nickel (Ni) hoặc copper (Cu). Vật liệu này có mối quan hệ chính xác giữa điện trở và nhiệt độ, được sử dụng để chỉ thị nhiệt độ. Do các thành phần RTD dễ vỡ, chúng thường được bảo vệ trong các đầu đo bảo vệ. RTDs, có độ chính xác và độ lặp lại cao hơn, đang dần thay thế các cặp nhiệt trong các ứng dụng công nghiệp dưới 600 °C. Mối quan hệ giữa điện trở và nhiệt độ của kim loại. Các yếu tố cảm biến RTD thông thường được sử dụng trong ứng dụng y sinh học gồm platinum (Pt), nickel (Ni), hoặc copper (Cu) có mối quan hệ giữa điện trở và nhiệt độ ("R" vs "T") cùng với dải nhiệt độ hoạt động. Mối quan hệ "R" vs "T" được xác định là sự thay đổi điện trở của cảm biến trên mỗi độ thay đổi nhiệt độ. Sự thay đổi tương đối trong điện trở (hệ số nhiệt độ điện trở) chỉ biến đổi nhỏ trong phạm vi hữu ích của cảm biến. Platinum được đề xuất bởi Sir William Siemens làm thành phần cho cảm biến nhiệt độ điện trở trong bài giảng Bakerian năm 1871: Platinum là một kim loại quý và có mối quan hệ ổn định nhất giữa điện trở và nhiệt độ trong phạm vi nhiệt độ lớn nhất. Các yếu tố nickel có dải nhiệt độ hạn chế vì sự thay đổi điện trở trên mỗi độ thay đổi nhiệt độ trở nên không tuyến tính ở nhiệt độ trên 300 °C (572 °F). Copper có mối quan hệ điện trở và nhiệt độ tuyến tính rất cao; tuy nhiên, đồng bị oxi hóa ở nhiệt độ trung bình và không thể sử dụng ở trên 150 °C (302 °F). Đặc điểm đáng chú ý của kim loại được sử dụng làm các thành phần điện trở là sự xấp xỉ tuyến tính của mối quan hệ điện trở và nhiệt độ trong khoảng từ 0 đến 100 °C. Hệ số nhiệt điện trở được ký hiệu là α và thường được đưa ra trong đơn vị Ω/(Ω·°C): formula_2 là điện trở của cảm biến tại 0 °C, formula_3 là điện trở của cảm biến tại 100 °C. Platinum tinh khiết platinum có α = 0.003925 Ω/(Ω·°C) trong khoảng từ 0 đến 100 °C và được sử dụng trong việc xây dựng các cảm biến RTD chất lượng cao. Ngược lại, hai tiêu chuẩn rộng rãi được công nhận cho các cảm biến RTD công nghiệp IEC 60751 và ASTM E-1137 chỉ định α = 0.00385 Ω/(Ω·°C). Trước khi những tiêu chuẩn này được áp dụng rộng rãi, đã sử dụng nhiều giá trị α khác nhau. Vẫn có thể tìm thấy các đầu dò cũ được làm bằng platinum với α = 0.003916 Ω/(Ω·°C) và 0.003902 Ω/(Ω·°C). Các giá trị α khác nhau cho platinum được đạt được thông qua quá trình doping - giới thiệu một cách cẩn thận các chất tạp, được nhúng vào cấu trúc mạng tinh thể của platinum và dẫn đến một đường cong "R" vs. "T" và giá trị α khác nhau. Để xác định mối quan hệ "R" vs "T" của bất kỳ RTD nào trong một phạm vi nhiệt độ đại diện cho phạm vi sử dụng dự kiến, cần tiến hành hiệu chuẩn tại các nhiệt độ khác ngoài 0 °C và 100 °C. Điều này là cần thiết để đáp ứng yêu cầu hiệu chuẩn. Mặc dù RTD được coi là tuyến tính trong hoạt động, nhưng cần chứng minh rằng chúng chính xác đối với nhiệt độ mà chúng thực sự được sử dụng (xem chi tiết tại phần tùy chọn hiệu chuẩn so sánh). Hai phương pháp hiệu chuẩn phổ biến là phương pháp điểm cố định và phương pháp so sánh.#đổi Ba nhóm chính của các cảm biến RTD là các thành phần màng mỏng, cuộn dây và cuộn xoắn. Mặc dù các loại này là những loại được sử dụng rộng rãi nhất trong ngành công nghiệp, còn có các hình dạng kỳ lạ khác được sử dụng; ví dụ, carbon resistor được sử dụng ở nhiệt độ cực thấp (−273 °C đến −173 °C). Tiêu chuẩn quốc tế hiện tại quy định sự dung sai và mối quan hệ điện trở nhiệt độ cho cảm biến điện trở nhiệt platinum (PRTs) là IEC 60751:2008; ASTM E1137 cũng được sử dụng ở Hoa Kỳ. Đáng kể nhất là các thiết bị phổ biến được sử dụng trong ngành công nghiệp có điện trở danh nghĩa là 100 ohm tại 0 °C và được gọi Cảm biến nhiệt độ pt100 ("Pt" là ký hiệu cho platinum, "100" là điện trở tính bằng ohm tại 0 °C). Cũng có thể có cảm biến Pt1000, trong đó 1000 là điện trở tính bằng ohm tại 0 °C. Độ nhạy của một cảm biến 100 Ω tiêu chuẩn là 0.385 Ω/°C. Có sẵn các RTD với độ nhạy 0.375 và 0.392 Ω/°C, cũng như một loạt các loại khác. Các cảm biến nhiệt điện trở được xây dựng dưới nhiều dạng và đôi khi cung cấp sự ổn định, độ chính xác và độ lặp lại tốt hơn so với các cặp nhiệt. Trong khi các cặp nhiệt sử dụng hiệu ứng Seebeck để tạo ra điện áp, cảm biến nhiệt điện trở sử dụng điện trở điện và yêu cầu nguồn điện để hoạt động. Điện trở lý tưởng thay đổi gần như tuyến tính theo nhiệt độ theo phương trình Callendar–Van Dusen. Dây phát hiện platinum cần được giữ sạch để duy trì sự ổn định. Một sợi dây hay màng platinum được hỗ trợ trên một khuôn dạng sao cho nó không bị mở rộng chênh lệch hoặc các tải trọng khác từ khuôn dạng, nhưng vẫn chịu được rung động một cách hợp lý. Các bộ cảm biến nhiệt điện trở được làm từ sắt hoặc đồng cũng được sử dụng trong một số ứng dụng. Các loại platinum thương mại thường có hệ số nhiệt điện trở 0,00385/°C (0,385%/°C) (Khoảng nhiệt độ căn bản châu Âu). Thường thì cảm biến có điện trở là 100 Ω ở 0 °C. Điều này được xác định trong BS EN 60751:1996 (dựa trên IEC 60751:1995). Khoảng nhiệt độ căn bản của Mỹ là 0,00392/°C, dựa trên việc sử dụng loại platinum tinh khiết hơn so với tiêu chuẩn châu Âu. Tiêu chuẩn Mỹ này được đưa ra bởi Hiệp hội Nhà sản xuất Thiết bị Khoa học (SAMA), nhưng họ không còn hoạt động trong lĩnh vực này nữa. Do đó, "tiêu chuẩn Mỹ" hiếm khi còn là tiêu chuẩn thậm chí ở Mỹ. Cáp dây dẫn cũng có thể là một yếu tố; sử dụng ba hoặc bốn dây, thay vì hai dây, có thể loại bỏ ảnh hưởng của điện trở dây dẫn kết nối khỏi các đo lường (xem phía dưới); kết nối ba dây là đủ cho hầu hết các mục đích và là một phương pháp công nghiệp gần như phổ biến. Kết nối bốn dây được sử dụng cho các ứng dụng chính xác nhất. Ưu điểm và hạn chế. Các ưu điểm của cảm biến nhiệt điện trở platinum bao gồm: Các cảm biến nhiệt điện trở trong các ứng dụng công nghiệp hiếm khi được sử dụng ở nhiệt độ cao hơn 660 °C. Ở nhiệt độ trên 660 °C, trở kháng của cảm biến nhiệt điện trở dễ bị ô nhiễm bởi các tạp chất từ vỏ kim loại của nhiệt kế. Đây là lý do tại sao các nhiệt kế tiêu chuẩn trong phòng thí nghiệm thay thế vỏ kim loại bằng cấu trúc thủy tinh. Ở nhiệt độ rất thấp, chẳng hạn dưới −270 °C (3 K), do sự hiện diện rất ít phonon, trở kháng của cảm biến nhiệt điện trở chủ yếu được xác định bởi tạp chất và phản xạ biên và vì vậy gần như độc lập với nhiệt độ. Kết quả là, độ nhạy của cảm biến nhiệt điện trở gần như bằng không và do đó không hữu ích. So với các cảm biến nhiệt nhanh, các cảm biến nhiệt điện trở platinum có độ nhạy thấp hơn đối với các thay đổi nhiệt độ nhỏ và thời gian phản hồi chậm hơn. Tuy nhiên, các cảm biến nhiệt điện trở có phạm vi nhiệt độ và độ ổn định nhỏ hơn so với các cảm biến nhiệt điện trở. RTDs so với cặp nhiệt. Hai phương pháp phổ biến nhất để đo nhiệt độ trong ứng dụng công nghiệp là sử dụng cảm biến điện trở nhiệt (RTDs) và cặp nhiệt. Sự lựa chọn giữa chúng thường được xác định bởi bốn yếu tố. Các thành phần này hầu như luôn yêu cầu có dây dẫn cách điện kết nối. Các chất cách điện như PVC, cao su silicone hoặc PTFE được sử dụng ở nhiệt độ dưới khoảng 250 °C. Trên mức này, sợi thủy tinh hoặc gốm được sử dụng. Điểm đo, và thường là hầu hết các dây dẫn, yêu cầu có một vỏ hoặc ống bảo vệ, thường được làm bằng hợp kim kim loại không phản ứng hóa học với quá trình đang được giám sát. Việc lựa chọn và thiết kế ống bảo vệ có thể đòi hỏi sự cẩn thận hơn cả cảm biến thực tế, vì ống bảo vệ phải chịu được tác động hóa học hoặc vật lý và cung cấp điểm gắn kết tiện lợi. Cấu trúc thiết kế của RTD có thể được cải thiện để chịu được va đập và rung động bằng cách bao gồm bột magnesium oxide (MgO) bị nén trong ống bảo vệ. MgO được sử dụng để cách ly dây dẫn khỏi vỏ bên ngoài và lẫn nhau. MgO được sử dụng do hằng số điện trường, cấu trúc hạt được làm tròn, khả năng chịu nhiệt cao và tính không phản ứng hóa học của nó. Cấu hình kết nối dây. Cấu hình hai dây. Cấu hình cảm biến nhiệt điện trở đơn giản nhất sử dụng hai dây. Nó chỉ được sử dụng khi không cần độ chính xác cao, vì trở kháng của các dây nối được cộng vào trở kháng của cảm biến, dẫn đến sai số đo lường. Cấu hình này cho phép sử dụng 100 mét cáp. Điều này áp dụng cho cả hệ thống cầu cân bằng và cầu cố định. Đối với cầu cân bằng, thiết lập thông thường là với R2 = R1, và R3 nằm ở giữa khoảng giá trị của RTD. Vì vậy, ví dụ, nếu chúng ta đo giữa , trở kháng của RTD sẽ dao động từ 100 Ω đến 138,5 Ω. Chúng ta sẽ chọn R3 = 120 Ω. Điều này giúp chúng ta có một điện áp đo nhỏ trong cầu cân bằng. Cấu hình ba dây. Để giảm thiểu ảnh hưởng của trở kháng dây dẫn, có thể sử dụng cấu hình ba dây. Thiết lập được đề xuất cho cấu hình được hiển thị là R1 = R2, và R3 ở giữa khoảng giá trị của RTD. Nhìn vào mạch cầu Wheatstone được hiển thị, điện áp giảm ở phía góc dưới bên trái là V_rtd + V_lead, và ở phía góc dưới bên phải là V_R3 + V_lead, do đó điện áp cầu (V_b) là sự khác biệt, V_rtd - V_R3. Sự giảm điện áp do trở kháng dây dẫn đã được loại bỏ. Điều này luôn đúng nếu R1 = R2 và R1, R2 » RTD, R3. R1 và R2 có thể được sử dụng để giới hạn dòng đi qua RTD, ví dụ cho một PT100, giới hạn đến 1mA và 5V, gợi ý một trở kháng giới hạn xấp xỉ R1 = R2 = 5/0.001 = 5.000 Ohm. Cấu hình bốn dây. Cấu hình nhiệt điện trở bốn dây tăng độ chính xác của đo lường trở kháng. Cảm biến bốn điểm loại bỏ điện áp giảm trong các dây đo như một phần góp phần vào sai số. Để tăng độ chính xác hơn nữa, bất kỳ điện áp nhiệt điện dư thừa được tạo ra bởi các loại dây khác nhau hoặc kết nối vít được loại bỏ bằng cách đảo ngược hướng dòng 1 mA và dây dẫn đến DVM (bộ đo điện tử). Các điện áp nhiệt điện sẽ chỉ được tạo ra ở một hướng duy nhất. Bằng cách lấy trung bình các đo lường được đảo ngược, các điện áp lỗi nhiệt điện sẽ bị hủy bỏ.#đổi Phân loại của RTD. Cấp độ chính xác cao nhất của tất cả các PRT là "Cảm biến nhiệt điện trở Platinum Ultra Precise" (UPRTs). Độ chính xác này được đạt bằng chi phí và độ bền. Các thành phần UPRT được cuộn từ dây platinum chất lượng tham chiếu. Dây dẫn bên trong thường được làm từ platinum, trong khi các bộ chống chịu bên trong được làm từ thạch anh hoặc silica nung chảy. Vỏ thường được làm từ thạch anh hoặc đôi khi là Inconel, tùy thuộc vào phạm vi nhiệt độ. Dây platinum có đường kính lớn được sử dụng, điều này làm tăng chi phí và dẫn đến trở kháng thấp hơn cho cảm biến (thường là 25,5 Ω). UPRT có khoảng nhiệt độ rộng (−200 °C đến 1000 °C) và độ chính xác xấp xỉ ±0.001 °C trên khoảng nhiệt độ. UPRT chỉ phù hợp để sử dụng trong phòng thí nghiệm. Một phân loại khác của PRT phòng thí nghiệm là "Cảm biến nhiệt điện trở Platinum Chuẩn" (Standard SPRTs). Chúng được xây dựng tương tự như UPRT, nhưng vật liệu sử dụng có giá thành hợp lý hơn. SPRTs thường sử dụng dây platinum chất lượng tham chiếu, vỏ kim loại và cách điện loại gốm. Dây dẫn bên trong thường là hợp kim có chứa niken. PRT tiêu chuẩn có giới hạn nhiệt độ hẹp hơn (−200 °C đến 500 °C) và độ chính xác xấp xỉ ±0.03 °C trên khoảng nhiệt độ. "PRT công nghiệp" được thiết kế để chịu được môi trường công nghiệp. Chúng có thể gần bằng độ bền của một cặp nhiệt điện. Tùy thuộc vào ứng dụng, PRT công nghiệp có thể sử dụng các thành phần mỏng hoặc cuộn dây. Dây dẫn bên trong có thể là dây đồng niken mạ kẽm với cách điện PTFE hoặc dây bạc, tùy thuộc vào kích thước cảm biến và ứng dụng. Vật liệu vỏ thường là thép không gỉ; các ứng dụng nhiệt độ cao có thể đòi hỏi Inconel. Các vật liệu khác được sử dụng cho các ứng dụng đặc biệt. Việc ứng dụng tính chất của các dẫn điện điện trở tăng lên khi nhiệt độ tăng đã được ông Sir William Siemens mô tả lần đầu tại Bài giảng Bakerian năm 1871 trước Hội Khoa học Hoàng gia của Vương quốc Anh. Các phương pháp xây dựng cần thiết đã được thiết lập bởi Callendar, Griffiths, Holborn và Wein từ năm 1885 đến 1900. Chương trình Space Shuttle đã sử dụng rất nhiều cảm biến nhiệt điện trở platinum. Sự tắt máy duy nhất trong quá trình bay của động cơ chính Space Shuttle — nhiệm vụ STS-51F — đã được gây ra bởi nhiều lỗi của RTD do trở nên giòn và không đáng tin cậy do nhiều chu kỳ nhiệt lạnh. (Sự cố của các cảm biến đã gợi ý sai rằng một bơm nhiên liệu đang quá nóng, và động cơ đã tự động tắt máy.) Sau sự cố động cơ, các cảm biến RTD đã được thay thế bằng nhiệt điện cặp. Năm 1871, Carl Wilhelm Siemens đã phát minh Cảm biến Nhiệt điện trở Platinum và trình bày một công thức ba yếu tố nội suy. Cảm biến RTD của Siemens nhanh chóng trở nên không phổ biến do không ổn định khi đo nhiệt độ. Hugh Longbourne Callendar đã phát triển thành công thương mại cảm biến RTD platinum đầu tiên vào năm 1885. Một bài báo năm 1971 của Eriksson, Keuther và Glatzel đã xác định sáu hợp kim kim loại quý (63Pt37Rh, 37Pd63Rh, 26Pt74Ir, 10Pd90Ir, 34Pt66Au, 14Pd86Au) có đặc tính nhiệt độ điện trở gần tuyến tính. Hợp kim 63Pt37Rh tương tự như dây hợp kim 70Pt30Rh dễ có sẵn được sử dụng trong nhiệt điện cặp. Dữ liệu chuẩn của cảm biến nhiệt điện trở. Cảm biến nhiệt độ thường được cung cấp với các thành phần mỏng. Các thành phần điện trở được xếp hạng theo tiêu chuẩn BS EN 60751:2008 như sau: Các thành phần nhiệt điện trở có thể hoạt động lên đến 1000 °C có thể được cung cấp. Mối quan hệ giữa nhiệt độ và điện trở được cho bởi phương trình Callendar-Van Dusen: Ở đây, formula_6 là điện trở ở nhiệt độ "T", formula_2 là điện trở ở 0 °C, và các hằng số (cho một cảm biến nhiệt điện trở platinum với α = 0.00385) là: Vì các hệ số "B" và "C" tương đối nhỏ, điện trở thay đổi gần như tuyến tính với nhiệt độ. Đối với nhiệt độ dương, giải phương trình bậc hai cho ra mối quan hệ sau giữa nhiệt độ và điện trở: Sau đó, đối với một cấu hình bốn dây với nguồn dòng chính xác 1 mA, mối quan hệ giữa nhiệt độ và điện áp đo được formula_12 là: Điện trở phụ thuộc nhiệt độ cho một số cảm biến nhiệt điện trở phổ biến. Copied from German version, please don't remove
Kryvbas (, tên đầy đủ là bồn quặng sắt Kryvorizkyi, ) là một khu vực kinh tế và lịch sử quan trọng tại Trung Ukraina, nằm xung quanh thành phố Kryvyi Rih, chuyên khai thác quặng sắt và công nghiệp thép. Nơi này được cho là khu vực quặng sắt chính của Đông Âu. Cùng với Donbas, Kryvbas là một trung tâm công nghiệp nặng lớn của Ukraina. Được đặt tên theo thành phố Kryvyi Rih, khu vực này chiếm phần phía tây nam của tỉnh Dnipropetrovsk, cũng như một phần nhỏ lân cận của tỉnh Kirovohrad, trong thung lũng các sông Inhulets và Saksahan (cả hai đều là phụ lưu của sông Dnepr). Bồn trải dài theo một dải hẹp (2–7 km) từ bắc xuống nam gần 100 km, từ Zhovti Vody (Vùng nước màu vàng) đến vùng hồ chứa nước Kakhovka với tổng diện tích 300 km². Khu vực này có các mỏ chủ yếu là quặng sắt và một số quặng luyện kim khác. Để khai thác chúng, một số công ty khai thác lớn được thành lập ở đây vào giữa thế kỷ 20. Hầu hết chúng nằm ở Kryvyi Rih. Kryvorizhstal (đặt tại Kryvyi Rih) là công ty thép lớn nhất và hiện đại nhất trong khu vực và trong nước. Công ty bao gồm các cơ sở quặng và một nhà máy thép lớn (nhà máy duy nhất trong thành phố). Các công ty quặng khác cung cấp nguyên liệu thô cho Kryvorizhstal hoặc các nhà máy thép bên ngoài khu vực. Ngoại trừ Kryvorizhstal thuộc sở hữu của Mittal Steel, các công ty thép trong khu vực được kiểm soát bởi Tập đoàn Privat hoặc SCM. Đây từng là những ngành công nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Từ những năm 1990 cho đến năm 2004, sau khi Ukraina tuyên bố độc lập và hoạt động nhằm thiết lập chủ nghĩa tư bản, những ngành công nghiệp này đã trải qua những khó khăn và bê bối khi chúng được tư nhân hóa. Một nhà máy khai thác và chế biến lớn được xây dựng vào đầu thế kỷ 21 tại thành phố lân cận Dolynska (tỉnh Kirovohrad). Dự án công nghệ cao này được chính phủ Ukraina, Romania và Slovakia đồng tài trợ.
Koisuru (Otome) no Tsukurikata Koisuru (Otome) no Tsukurikata (恋する(おとめ)の作り方, Koisuru (Otome) no Tsukurikata) là sê-ri manga hài lãng mạn được sáng tác bởi Banjo Azusa, được xuất bản trên Comic Pool của Ichijinsha và được tập hợp lại thành các tập tankōbon. Ban đầu nó được ra mắt trên tài khoản Twitter chính thức của tác giả dưới tên Osananajimi (♂) o Onnanoko ni Shiteshimatta Hanashi (幼馴染(♂)を女の子にしてしまった話, Osananajimi (♂) o Onnanoko ni Shiteshimatta Hanashi) , sau đó đã được đăng nhiều kỳ do phản ứng tích cực của độc giả. Midou Kenshirou, một học sinh trung học có niềm yêu thích với mỹ phẩm, muốn được tập trang điểm cho một người khác ngoài các chị của mình. Sau khi có người bạn thuở nhỏ Hiura Mihate cho phép, Kenshirou cảm thấy bản thân bị thu hút bởi vẻ ngoài mới và nữ tính của Mihate. Mihate bắt đầu thích thể hiện bản thân một cách nữ tính, quan tâm đến trang điểm và thời trang phụ nữ, ngoài ra cậu cũng bắt đầu thấy sự thu hút của Kenshiro. Midou Kenshirou (御堂 賢士郎, Midou Kenshirou) Một học sinh trung học có niềm yêu thích với mỹ phẩm do sự ảnh hưởng của ba người chị. Ngoài ra cậu còn thích những tạp chí thời trang. Hiura Mihate (日浦 美果, Hiura Mihate) Bạn thời thơ ấu của Midou Kenshirou, là một người thích chơi game và mì ramen. Về tên của cậu, tác giả dựa vào cái tên "Pyrrha" (ピュラー, Pyurā), tên mà Achilles sử dụng để cải trang thời còn trẻ. Yoimachi Hatori (宵待 はとり, Yoimachi Hatori) Bạn cùng lớp của Midou, thuộc câu lạc bộ Nhiếp ảnh. Akechi Ginojou (明智 銀之丞, Akechi Ginojou) Học sinh năm nhất, thuộc Hội học sinh và câu lạc bộ Nhiếp ảnh. Futagoyama Airi (二子山 愛梨, Futagoyama Airi) Bạn cùng lớp với Kenshirou và Mihate, là người đã mời Mihate vào nhóm những người bạn của cô. Quá trình sáng tác. Banjo thích những nhân vật bất chấp giới tính, chẳng hạn như otokonoko, cross-dressing. Vì sở thích này, tác giả quyết định sáng tác một câu chuyện lãng mạn về một nhân vật nam nhút nhát và hơi vụng về. Cô ấy cũng giới thiệu các yếu tố trang điểm cho câu chuyện để biến một nhân vật không phải "otokonoko" trở thành chất xúc tác cho sự chuyển đổi. Khi thiết kế Hiura Mihate, tác giả bắt đầu hình dung nhân vật này trông như thế nào khi mặc quần áo phụ nữ, sau đó tạo ra một thiết kế trang điểm trước dựa trên điều đó. Tác giả muốn hai thiết kế tương phản, nhưng vẫn muốn Mihate trông dễ thương trước khi trang điểm để đảm bảo mọi người sẽ tiếp tục đọc qua vài trang đầu tiên. Trong khi coi sự dễ thương của Hiura là một khía cạnh quan trọng của bộ truyện, cô ấy cũng muốn thể hiện một cách tích cực về tình bạn nam giới và nỗ lực để Hiura và Kenshiro tình cờ gặp nhau như những người bạn thời thơ ấu. Khi nghiên cứu bộ truyện, Banjo sử dụng Instagram và các tạp chí thời trang dành cho giới trẻ, vì đó là những gì Midou Kenshiro sẽ đọc. Xuất bản và ra mắt. Bộ truyện được viết và minh họa bởi Banjo Azusa, được ra mắt dưới dạng web comic từ tài khoản Twitter của tác giả với tựa đề "Osananajimi (♂) o Onnanoko ni Shiteshimatta Hanashi" (幼馴染(♂)を女の子にしてしまった話, "Osananajimi (♂) o Onnanoko ni Shiteshimatta Hanashi") từ ngày 26 tháng 12 năm 2019. Ban đầu, tác giả đã cân nhắc việc tự xuất bản một tuyển tập in của bộ truyện nhưng đã quyết định đăng nhiều kỳ trên Comic Pool, bắt đầu từ ngày 21 tháng 2 năm 2020, do phản hồi tích cực từ độc giả. Bộ truyện cũng được tập hợp thành các tập tankōbon, được xuất bản bởi Ichijinsha từ ngày 11 tháng 9 năm 2020. Tập đầu tiên được quảng bá với một đoạn giới thiệu trong đó Kenshiro và Mihate lần lượt được lồng tiếng bởi Ono Yūki và Kuwahara Yūki. Bản tiếng Anh đã được xuất bản bởi Seven Seas Entertainment từ tháng 6 năm 2022. Bộ truyện đã được độc giả và các nhà phê bình, người thích Hiura Mihate đón nhận nồng nhiệt. "Biglobe News" bình luận rằng Hiura quá dễ thương đến nỗi quên mất nhân vật này là con trai. "Excite News" thích cách mà Mihate bẽn lẽn thể hiện sự thích thú với mỹ phẩm và sức hút của cậu với Kenshirou . Nó đã được đề cử cho giải Tsugi ni kuru Manga Taishō cho web manga mới hay nhất vào năm 2020, 2021 và 2022. Nó cũng trở thành một trong những manga lãng mạn mới nổi nhất nửa đầu năm 2020 được đăng nhiều kỳ trên Pixiv, trong một cuộc khảo sát mà phần lớn độc giả là phụ nữ và ở độ tuổi 18–34. Trong cuộc bình chọn "Web Manga General Election" thường niên năm 2020 của Nippon Shuppan Hanbai, 813.000 người đã bình chọn cho web manga yêu thích của họ, bộ truyện được bình chọn là truyện tranh nổi tiếng thứ 7, và nó nằm trong số năm bộ truyện hàng đầu trong giải thưởng Denshi Comic năm 2022, ở hạng mục dành cho web manga nhắm đến độc giả nam Biên tập viên truyện tranh Suzuki Kaito đã đặt bộ truyện vào những bộ truyện tranh được đề xuất của anh ấy vào năm 2021, đánh giá cao nó vì nó miêu tả tình yêu không phân biệt giới tính.
Eurovision Song Contest 2024 Cuộc thi Ca khúc Truyền hình châu Âu 2024 (hay còn được gọi là Eurovision Song Contest 2024) là cuộc thi Ca khúc truyền hình châu Âu lần thứ 68. Cuộc thi dự kiến sẽ diễn ra tại nhà thi đấu Malmö Arena ở thành phố Malmö, Thụy Điển, sau chiến thắng của quốc gia này tại cuộc thi năm 2023 với ca khúc "Tattoo", biểu diễn bởi Loreen. Cuộc thi sẽ do Liên hiệp Phát sóng châu Âu (EBU) và đài truyền hình quốc gia Thụy Điển Sveriges Television (SVT) đăng cai tổ chức, và sẽ bao gồm hai vòng bán kết vào ngày 7 và 9 tháng 5, và đêm chung kết vào ngày 11 tháng 5 năm 2024. Đây sẽ là lần thứ ba cuộc thi diễn ra ở Malmö, thành phố trước đó đã từng tổ chức các cuộc thi vào năm #đổi và năm #đổi . Đây cũng sẽ là lần thứ bảy cuộc thi diễn ra tại Thụy Điển, quốc gia tổ chức cuộc thi lần cuối là vào năm #đổi tại Stockholm. Cuộc thi Eurovision năm 2024 dự kiến sẽ được tổ chức tại Malmö, Thụy Điển, sau khi quốc gia này chiến thắng cuộc thi năm 2023 với ca khúc "Tattoo" được biểu diễn bởi Loreen. Đây là lần thứ bảy Thụy Điển tổ chức cuộc thi kể từ khi quốc gia này đã từng đăng cai vào các năm 1975, 1985, 1992, 2000, 2013 và 2016. Địa điểm được chọn làm nơi tổ chức cuộc thi là nhà thi đấu Malmö Arena với sức chứa 15,500 người, đây cũng là nơi đã từng tổ chức nhiều sự kiện như các trận đấu bóng ném, bóng sàn và những buổi hòa nhạc. Nhà thi đấu trước đó đã tổ chức cuộc thi Eurovision vào năm 2013. Giai đoạn đấu thầu. Sau khi Thụy Điển giành chiến thắng cuộc thi năm 2023, các thành phố đầu tiên đã lập tức bày tỏ mong muốn đăng cai tổ chức cuộc thi năm 2024 là Stockholm, Göteborg và Malmö, ba thành phố lớn nhất Thụy Điển và trước kia cũng đã từng tổ chức cuộc thi. Bên cạnh đó, một số thành phố khác cũng đã bày tỏ ý định dự thầu, bao gồm Eskilstuna, Jönköping, Örnsköldsvik, Partille và Sandviken. Đài SVT đã đặt ra thời hạn để các thành phố dự thầu là vào ngày 12 tháng 6 năm 2023. Vào ngày 7 tháng 6, Stockholm là thành phố đầu tiên chính thức đấu thầu. Ba ngày sau, Göteborg cũng đưa ra quyết định tương tự. Vào ngày 13 tháng 6, Malmö và Örnsköldsvik là hai thủ phủ cuối cùng gửi hồ sơ dự thầu. Ngay trước ngày kết thúc dự thầu, SVT công bố đã nhận được nhiều hồ sơ dự thầu từ một số thành phố tại Thụy Điển, và sau đó đã xác nhận rằng chỉ có Stockholm, Göteborg, Malmö và Örnsköldsvik đã gửi đơn dự thầu. Trước đó, chính quyền đô thị của Sandviken đã tuyên bố sẽ không chính thức dự thầu, và Jönköping cũng có quyết định tương tự do nhà thi đấu của họ không đủ sức chứa. Vào ngày 7 tháng 7, đơn thầu của Göteborg và Örnsköldsvik đã bị loại bỏ. Vào cùng ngày sau đó, EBU và đài SVT đã chính thức thông báo Malmö sẽ đăng cai cuộc thi. †  Thành phố chủ nhà Các quốc gia tham dự. Để đủ điều kiện tham gia cuộc thi Eurovision, các đài truyền hình quốc gia phải có tư cách là một thành viên của EBU và có khả năng phát sóng cuộc thi thông qua mạng viễn thông Eurovision trên toàn quốc. EBU đã gửi lời mời tham gia cuộc thi cho tất cả các thành viên chính. Vào ngày 5 tháng 12 năm 2023, EBU công bố tổng cộng 37 quốc gia sẽ tham gia cuộc thi năm 2024. Luxembourg dự kiến sẽ trở lại cuộc thi sau 31 năm vắng bóng kể từ lần cuối tham gia vào năm 1993. Romania, quốc gia đã tham gia cuộc thi năm 2023, hiện vẫn đang trong quá trình đàm phán với EBU về việc tham gia vào năm 2024. Các quốc gia khác. Vào ngày 12 tháng 9 năm 2023, Đài Truyền hình quốc gia Romania đã thông báo nộp đơn kế hoạch ngân sách mới của nhà nước lên Bộ Tài chính và sự tham gia của quốc gia này tại cuộc thi năm 2024 sẽ phải dựa vào sự chấp thuận của cơ quan. Các đài truyền hình hiện đang là thành viên của EBU hoạt động tại Andorra, Bosna và Hercegovina, Monaco và Slovakia đã xác nhận sẽ không tham gia cuộc thi trước khi EBU công bố danh sách các quốc gia dự thi. Eurovision Song Contest 2024 sẽ được đài truyền hình quốc gia Thụy Điển Sveriges Television (SVT) đảm nhiệm cho vai trò tổ chức sản xuất và phát sóng cuộc thi. Đội ngũ sản xuất chính sẽ bao gồm có Ebba Adielsson làm giám đốc sản xuất, #đổi làm giám đốc sản xuất điều phối mảng truyền thông, Tobias Åberg làm giám đốc phụ trách sản xuất, Johan Bernhagen làm giám đốc điều phối sản xuất, #đổi làm nhà sản xuất cho cuộc thi và #đổi làm nhà sản xuất cho mảng truyền hình. Ngoài ra, đội ngũ bổ sung sẽ bao gồm có David Wessén làm giám đốc sản xuất, Mats Lindgren làm giám đốc pháp lý, Madeleine Sinding-Larsen làm giám đốc truyền thông, và Linnea Lopez làm trợ lý điều hành. Willers, Åberg, Bernhagen, Björkman và Lindgren trước đó đã từng đảm nhận nhiều vai trò khác nhau trong các cuộc thi năm 2000, 2013 và 2016. Björkman đã từng sản xuất cho "American Song Contest" (một chương trình ca nhạc của Hoa Kỳ được chuyển thể từ Eurovision) và cũng đóng góp không nhỏ cho cuộc thi (vòng tuyển chọn quốc gia của Thụy Điển cho Eurovision), nơi mà Blankens, Sinding-Larsen và Willers cũng đã từng làm việc. Hội đồng thành phố Malmö công bố sẽ đóng góp hơn 30 triệu SEK (khoảng 64 tỷ VND) vào ngân sách của cuộc thi. Bốc thăm chia bảng bán kết. Một buổi lễ bốc thăm sẽ được tổ chức nhằm chỉ định vòng bán kết nào các quốc gia sẽ tham dự trong hai vòng bán kết. Những quốc gia dự thi hai vòng bán kết sẽ được chia vào nhiều "bô" khác nhau, nhằm giảm khả năng "các nước láng giềng bầu chọn cho nhau" và gia tăng tính hồi hộp trong hai vòng bán kết. Ngoài ra, buổi lễ bốc thăm cũng sẽ xác định vòng bán kết nước chủ nhà Thụy Điển và các nước thuộc nhóm "Big Five" (Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha và Anh Quốc) sẽ phát sóng và tham gia bầu chọn. Buổi lễ dự kiến sẽ được tổ chức vào tháng 1 năm 2024 và sẽ bao gồm nghi thức trao phù hiệu đăng cai từ thành phố đăng cai tiền nhiệm, Liverpool, sang Malmö. Các thay đổi được đề xuất. Một vài những thay đổi về hình thức của cuộc thi đã được đề xuất và xem xét cho cuộc thi năm 2024. Các cuộc thảo luận đầu tiên về vấn đề này đã diễn ra tại Hội thảo Eurovision được tổ chức tại phòng Meistersaal ở Berlin, Đức vào ngày 12 tháng 9 năm 2023. Bất kể thay đổi nào tới hình thức của cuộc thi sẽ do ban chấp hành quyết định. Trong những năm gần đây, các bài hát dự thi của Na Uy liên tục bị ban giám khảo phạt, đặc biệt là năm 2019 và 2023 khi quốc gia này lần lượt xếp hạng ở vị trí thứ sáu và năm chung cuộc trong khi lại chiến thắng ở năm 2019 và đứng thứ ba trong năm 2023 trong phần bầu chọn của khán giả. Với đỉnh điểm là sau kết quả của cuộc thi năm 2023, khi Thụy Điển giành chiến thắng chung cuộc bất chấp việc Phần Lan thắng phần bầu chọn của khán giả đã gây ra nhiều tranh cãi, đài NRK của Na Uy đã bắt đầu đàm phán với EBU về khả năng sửa đổi quy trình bỏ phiếu của ban giám khảo. Trong một cuộc phỏng vấn, trưởng đoàn đại biểu của Na Uy, #đổi đã đề xuất giảm tỷ trọng điểm số của ban giám khảo từ 49,4% xuống còn 40% hoặc 30%. Bất kể thay đổi nào sẽ được thông báo chính thức vào tháng 1 năm 2024. Tại Liên hoan truyền hình Edinburgh vào tháng 8 năm 2023, phó tổng giám đốc EBU Jean-Philip de Tender đã bày tỏ khả năng sẽ cấm những nội dung được tạo bởi trí tuệ nhân tạo ra khỏi cuộc thi nhằm khẳng định sự sáng tạo của con người. Cuối tháng 9 năm 2023, Carolina Norén, bình luận viên Eurovision cho đài Sveriges Radio, đã nói rằng cô đã nối lại thảo luận với giám sát điều hành Martin Österdahl để đánh giá lại đặc quyền đi thẳng vào vòng chung kết của nhóm "Big Five". Đài SVT hiện đang tinh chỉnh hình thức của cuộc thi nhằm cắt giảm khoảng một tiếng khỏi thời lượng của đêm chung kết, vốn đã tăng lên đáng kể kể từ khi các phân mục mới được thêm vào như phần khai mạc diễu hành quốc kỳ vào năm 2013 và hệ thống bầu chọn tách riêng điểm của ban giám khảo với khán giả vào năm 2016. Các đài truyền hình quốc gia dự thi có thể phái một hoặc nhiều bình luận viên trực tiếp hay gián tiếp để phổ biến thông tin chi tiết về cuộc thi và thể lệ bầu chọn cho khán giả nước sở tại. Mặc dù mỗi nước phải phát sóng ít nhất vòng bán kết chính nước đó được xếp vào bầu chọn và đêm chung kết, hầu hết các đài đều phát sóng cả ba vòng thi với lịch trình riêng biệt. Ngoài ra, các đài từ một số nước không dự thi cũng phát sóng cuộc thi. Kênh YouTube chính thức của Eurovision cung cấp các luồng phát sóng trực tiếp quốc tế không bao gồm phần bình luận của cả ba vòng thi. Tranh chấp vòng loại quốc gia Síp. Vào tháng 5 năm 2023, đài truyền hình CyBC của Síp đã công bố về kế hoạch sản xuất mùa thứ năm của chương trình "Fame Story" cùng với sự hợp tác của kênh truyền hình tư nhân Star đến từ Hy Lạp nhằm tuyển chọn ứng viên dự thi Eurovision 2024. Vào ngày 29 tháng 7, chủ sở hữu quyền phát sóng Eurovision tại Hy Lạp là đài ERT đã đệ đơn khiếu nại lên EBU để cáo buộc rằng chương trình "Fame Story" được Star phát sóng ở Hy Lạp là một hành vi vi phạm nội quy của cuộc thi. Đáp lại đơn khiếu nại, EBU đã sửa lại luật của cuộc thi theo yêu cầu của đài ERT, bao gồm thể lệ chỉ có sự chấp thuận trước của liên minh thì mới có thể được ký hợp đồng hợp tác sản xuất chương trình vòng loại quốc gia với tổ chức bên thứ ba. Vào ngày 7 tháng 8 năm 2023, EBU tổ chức một cuộc họp video để đàm phán nhằm đi đến thỏa thuận giữa CyBC và ERT. Vào cùng tháng đó, Star đã xác nhận rằng "Fame Story" sẽ không được sử dụng làm phương thức lựa chọn đại diện của Síp, và CyBC sau đó đã xác nhận rằng họ sẽ quay lại chọn đại diện dự thi Eurovision thông qua hình thức nội bộ.
Lethrinus crocineus là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1959. Tính từ định danh trong tiếng Latinh có nghĩa là "mang màu vàng cam của nghệ tây", không rõ hàm ý, có lẽ đề cập đến "màu vàng nhạt" ở loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "L. crocineus" có phân bố tương đối nhỏ hẹp ở Ấn Độ Dương, từ Socotra (Yemen) dọc theo Đông Phi đến Nam Phi, gồm các Madagascar và các đảo quốc xung quanh, còn quần thể ở Sri Lanka và biển Andaman dường như có sự khác biệt về mặt di truyền với quần thể từ Tây Ấn Độ Dương. "L. crocineus" sống gần các rạn san hô ở độ sâu khoảng 5–150 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất ở "L. crocineus" là 60 cm. Thân màu nâu tanin hoặc vàng nhạt, gốc vảy cá có khi màu đen. Đầu màu nâu sẫm hơn. Các vây hơi vàng hoặc trắng nhạt; rìa vây lưng hơi đỏ hoặc vàng. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 4 thường dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8 (tia thứ nhất thường dài nhất); Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 46–47. Thức ăn của "L. crocineus" có lẽ là động vật giáp xác và cá nhỏ như đa phần các loài cùng chi. "L. crocineus" được đánh bắt chủ yếu bằng dây câu và được bán tươi sống trên thị trường.
Trần Văn Độ (Thái Bình) Trần Văn Độ (sinh năm 1955) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Trần Văn Độ sinh năm 1955 ở xã Vũ Lăng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Ông nhập ngũ tháng 12 năm 1972, công tác ở C51 Tỉnh đội Thái Bình, được điều về Quân khu 3. Năm 1975, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1976, ông học Trường Sĩ quan Chính trị. Năm 1977, học Cử nhân ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, ngành Xây dựng Đảng. Năm 1981, ông tốt nghiệp, thụ phong quân hàm Trung úy, công tác ở trường Sĩ quan Lục quân đến năm 1995. Năm 1984, ông tham gia chiến đấu ở mặt trận biên giới phía bắc. Năm 1995, ông học Nghiên cứu sinh ở Học viện Chính trị. Năm 2003, là Phó Sư đoàn trưởng Sư đoàn 10 Quân đoàn 3. Năm 2004, ông công tác ở Học viện Lục quân. Năm 2008, làm Phó Cục trưởng Cục Chính trị Quân khu 5. Năm 2009, được bổ nhiệm làm Phó Chính ủy Học viện Lục quân. Ông nghỉ hưu năm 2016, hưởng lương Trung tướng.
Ethan David Loch (sinh năm 2004) là một nghệ sĩ dương cầm và nhà soạn nhạc người Scotland. Mặc dù bị mù bẩm sinh, anh đã tham gia vào cuộc thi nhạc sĩ trẻ BBC 2022 (BBC Young Musician 2022). Loch đã tiến vào tới vòng đấu chung kết tổng, sau khi chiến thắng vòng chung kết hạng mục đàn phím. Những năm đầu đời. Ethan David Loch sinh ra vào năm 2004 ở Blantyre, Scotland, là con trai của Larinda Loch và Fraser Loch. Khi mới 10 tuần tuổi, anh mắc bệnh viêm màng não và suýt tử vong. Trong quá trình kiểm tra mắt, các bác sĩ đã nhận thấy một khiếm khuyết ở võng mạc. Vào lúc 10 tháng tuổi, anh được chính thức chẩn đoán mắc bệnh mù bẩm sinh Leber. Cho đến khi lên 5 tuổi, Loch cư trú tại Vancouver, Canada. Loch bắt đầu biết chơi piano khi chỉ mới 18 tháng tuổi. Anh đã chơi được phần đầu bản Sonata Ánh trăng của nhà soạn nhạc Beethoven năm 3 tuổi. Vào năm 4 tuổi, mẹ anh sử dụng phương pháp Suzuki để dạy con chơi piano. Khi còn là một đứa trẻ, Loch đã biết sáng tác nhạc và có khả năng cảm âm tuyệt đối. Ở bậc giáo dục tiểu học, Loch được cha mẹ dạy tại nhà. Khi lên 12 tuổi, anh bắt đầu học piano với thầy Simon Bottomley ở Manchester. Dưới sự dạy dỗ của Bottomley, Loch đã phát triển kĩ thuật đàn piano của mình. Nhận xét về thầy Bottomley, Loch nói:Thầy là người đã dạy cho tôi những kĩ thuật tuyệt vời. Có thể nói rằng tôi cần một chút kỉ luật hơn ở mảng kĩ thuật, và thầy đã thực sự thúc đẩy tôi.Để giúp Loch đi lại an toàn hơn, Daniel Kish đã dạy phương pháp định vị bằng tiếng vang của âm thanh cho anh. Quan hệ thầy trò giữa Loch và Daniel Kish từng là chủ đề của một bộ phim tài liệu do đài BBC Radio thực hiện mang tên "Batman and Ethan". Sau một buổi thử giọng thành công vào ngày 26 tháng 1 năm 2015, Loch đã dành ra một năm tại Nhạc viện St Mary, Edinburgh. Anh là học sinh mù đầu tiên của nhạc viện. Kể từ năm 2023, Loch học piano tại Nhạc viện Hoàng gia Scotland dưới sự chỉ dạy của Fali Pavri. Ngoài piano, Loch cũng chơi được đàn phong cầm. Không dùng bảng chữ dành cho người mù Braille, Loch tiếp thu âm nhạc một cách tự nhiên. Để học được bản nhạc, đầu tiên anh sẽ nghe những bản thu khác nhau để hình dung ra được nốt nhạc và giai điệu. Sau khi được kiểm tra qua mẹ và thầy của mình, Loch bắt đầu luyện tập bản nhạc đó. Loch là một thí sinh của cuộc thi BBC Young Musician 2022. Anh đã chiến thắng vòng chung kết hạng mục đàn phím với các tiết mục biểu diễn gồm chương thứ tư bản Sonata cho dương cầm số 3 của Chopin; bản Scriabin "Poème" Op. 32, No. 1 của Scriabin; và "Feux d'artifice" của Debussy. Sau khi theo dõi màn trình diễn của Loch, chủ tịch ban giám khảo Anna Lapwood nhận xét:Có điều gì đó ở thí sinh này, cái cách cậu ta chơi, sự chân thành, tất cả đã khiến chúng ta nhớ lại lý do bản thân tham gia vào việc sáng tác nhạc, và điều đó khiến ta cảm động. Đó là khi trải nghiệm những khoảnh khắc này, khi bạn không nhất thiết phải mong đợi chúng, bạn chứng kiến ​​điều gì đó thực sự thay đổi cuộc đời thông qua âm nhạc.Loch sau đó tiến đến vòng chung cuộc, gặp những đối thủ Jaren Ziegler, Sofía Patterson-Gutiérrez, Sasha Canter và Jordan Ashman. Anh đã chơi Concerto số 2 cho piano của Chopin, trình diễn cùng Mark Wigglesworth và dàn giao hưởng BBC Philharmonic. Có 2 nguồn cảm hứng cho việc chơi đàn của Loch. Khi còn thơ ấu, anh đã được truyền cảm hứng bởi Rowlf the Dog, chú chó chơi piano trong "The Muppet Show". Nghệ sĩ dương cầm người Mỹ gốc Nga Vladimir Horowitz cũng là người đem đến cảm hứng Loch. Anh thường nghe bản Horowitz in Vienna thu năm 1987, phát hành dưới định dạng DVD.
Nos Pais (tiếng Anh: "Our Country") là một kênh truyền hình phát sóng trên NTSC, kênh 4 ở Curaçao. Các chương trình của đài được phát bằng những ngôn ngữ như: Papiamento, tiếng Hà Lan và tiếng Anh. Mavis Albertina đã thành lập kênh này vào năm 2012 với mục tiêu tạo ra một xã hội gắn bó hơn nhiều ở vùng Caribe thuộc Hà Lan. Nos Pais Television có một khu liên hợp trường quay hiện đại ở khu vực Saliña và đã đầu tư vào công nghệ HD.
Ninh Quốc Công chúa Ninh Quốc Công chúa (chữ Hán: 寧國公主; 1364 – 7 tháng 9 năm 1434), không rõ tên thật, là hoàng nữ của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, hoàng đế đầu tiên của nhà Minh. Ninh Quốc Công chúa là hoàng nữ thứ hai của Minh Thái Tổ, mẹ là Mã hoàng hậu. Ninh Quốc có em gái cùng mẹ là An Khánh Công chúa. Cả hai là em ruột với Minh Thành Tổ Chu Đệ. Hồng Vũ năm thứ 11 (1378), công chúa Ninh Quốc nhận sách phong, hạ giá với Mai Ân, cháu nội của "Nhữ Nam hầu" Mai Tư Tổ. Phò mã Ân bản tính cung cẩn, tài trí mưu lược. Lý Văn Trung trong một lần thị sát Sơn Đông cũng khen ngợi Mai Ân tinh thông kinh sử. Trong số các phò mã, Thái Tổ đặc biệt ưu ái Mai Ân. Khi Thái Tổ đã già, Mai Ân được lệnh phò tá Minh Huệ Đế, dẫn quân chống lại Yên vương Chu Đệ. Chu Đệ ép công chúa Ninh Quốc phải viết một bức huyết thư để thuyết phục Mai Ân đầu hàng. Ân nhận được thư, than khóc thảm thiết và buộc phải trở về Nam Kinh. Tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 3 (1405), Mai Ân chết đuối do bị "Tiền quân Đô đốc thiêm sự" Đàm Thâm và "Cẩm y vệ Chỉ huy" Triệu Hy đẩy ngã trong lúc qua cầu để vào triều. Hay tin phò mã chết, công chúa Ninh Quốc khóc lớn, cho rằng Thành Tổ chủ mưu giết phò mã. "Đô đốc đồng tri" Hứa Thành là người rõ chuyện đã tấu lên Thành Tổ, hoàng đế tức giận cho xử trảm Thâm và Hy. Năm Tuyên Đức thứ 9 (1426), tháng 8, công chúa Ninh Quốc qua đời, thọ 71 tuổi. Công chúa và phò mã có hai con trai, trưởng là Thuận Xương, nhậm chức "Trung phủ Đô đốc đồng tri", thứ là Cảnh Phúc, chức "Kỳ thủ vệ Chỉ huy sứ".
Adobe Creative Cloud là một bộ ứng dụng và dịch vụ của Adobe Inc., được cung cấp cho người dùng đăng ký để truy cập vào một bộ sưu tập phần mềm được sử dụng để thiết kế đồ họa, chỉnh sửa video, phát triển web, và nhiếp ảnh, kèm theo các ứng dụng di động và dịch vụ đám mây tùy chọn. Trong Creative Cloud, người dùng có thể đăng ký dịch vụ hàng tháng hoặc hàng năm thông qua Internet. Phần mềm từ Creative Cloud được tải xuống từ Internet và cài đặt trực tiếp trên máy tính cá nhân, sau đó có thể sử dụng miễn là đăng ký vẫn còn hiệu lực. Creative Cloud cung cấp cập nhật trực tuyến và hỗ trợ nhiều ngôn ngữ trong quá trình đăng ký. Ban đầu, Creative Cloud được lưu trữ trên dịch vụ Amazon Web Services, tuy nhiên, từ phiên bản 2017 trở đi, Adobe đã ký một thỏa thuận mới với Microsoft, và phần mềm được lưu trữ trên dịch vụ Microsoft Azure. Trước đây, Adobe cung cấp các sản phẩm phần mềm riêng lẻ cũng như bộ phần mềm, như Adobe Creative Suite hoặc Adobe eLearning Suite, với giấy phép phần mềm vĩnh viễn. Adobe Creative Cloud lần đầu tiên được công bố vào tháng 10 năm 2011. Một phiên bản mới của Adobe Creative Suite đã được phát hành vào năm sau. Vào ngày 6 tháng 5 năm 2013, Adobe đã thông báo rằng sẽ không có phiên bản mới nào của Creative Suite được phát hành và các bản phát hành phần mềm sẽ chỉ có sẵn thông qua Creative Cloud. Phiên bản Creative Cloud đầu tiên được phát hành vào ngày 17 tháng 6 năm 2013. Các ứng dụng và dịch vụ hiện tại. Adobe Creative Cloud giữ lại nhiều tính năng của Adobe Creative Suite và giới thiệu các tính năng mới; quan trọng nhất là khả năng nâng cấp ngay lập tức, lưu vào đám mây và chia sẻ dễ dàng hơn. Vào tháng 6 năm 2014, công ty đã công bố 14 phiên bản mới của các công cụ máy tính để bàn thiết yếu của Creative Cloud, bốn ứng dụng di động mới và sự sẵn có của phần cứng sáng tạo dành cho khách hàng doanh nghiệp, giáo dục và nhiếp ảnh. Adobe đã ngừng sản xuất chương trình tạo đĩa video Adobe Encore và trình chỉnh sửa bitmap tập trung vào web Adobe Fireworks vào năm 2013. Tuy nhiên, qua Creative Cloud, cả hai chương trình này vẫn có sẵn để tải xuống cho người dùng cho đến tháng 5 năm 2019.
Isabel của Castilla, Công tước phu nhân xứ York Isabel của Castilla (tiếng Tây Ban Nha: "Isabel de Castilla"; tiếng Anh: "Isabella of Castile"; 1355 - 23 tháng 12 năm 1392) là con gái của Pedro I của Castilla và tình nhân María của Padilla. Isabel cùng chị gái là Constanza đến Anh sau cuộc hôn nhân của Constanza với John xứ Gaunt, Công tước thứ 1 xứ Lancaster, và kết hôn với em trai của John là Edmund xứ Langley, Công tước thứ 1 xứ York, do đó Isabel trở thành Công tước phu nhân xứ York. Isabel là con út trong ba người con gái của Quốc vương Pedro I của Castilla với người tình María của Padilla, một nữ quý tộc Castilla. Ngày 21 tháng 9 năm 1371, con trai thứ tư của Edward III của Anh là John xứ Gaunt, kết hôn với chị gái của Isabel là Constanza. Isabel sau đó cùng chị gái đến Anh và vào ngày 11 tháng 7 năm 1372, khi khoảng 17 tuổi, Isabel kết hôn với em trai của John xứ Gaunt là Edmund xứ Langley, Công tước xứ York thứ nhất, con trai thứ năm của Edward III của Anh và Philippa xứ Hainault tại Wallingford, Oxfordshire, như một phần của liên minh để Vương tộc Plantagenet tuyên bố quyền cai trị đối với ngai vàng Castilla. Theo Pugh, Isabel và Edmund không phải là một cặp " xứng đôi vừa lứa". Do những hành vi thiếu đứng đắn của mình, trong đó việc ngoại tình với anh trai cùng mẹ khác cha của Quốc vương Richard II của Anh là John Holland, Công tước thứ 1 xứ Exeter, người mà Pugh gọi là "bạo lực và vô luật pháp". Theo biên niên sử Thomas Walsingham ghi nhận, lối sống buông thả của Isabel đã khiến cho danh tiếng của mình bị tổn hại. Theo Pugh, khả năng John Holland là cha của đứa con trai yêu thích của Isabel là Richard xứ Conisburgh, Bá tước thứ 3 xứ Cambridge là "không thể làm ngơ". Trong di chúc của mình, Isabel chỉ định Quốc vương Richard II là người thừa kế và yêu cầu Richard ban cho người con trai út của mình là Richard xứ Conisburgh một khoản trợ cấp hàng năm trị giá 500 đồng mark, điều mà nhà vua đã làm theo. Tuy nhiên, sự trông đợi về một khoản trợ cấp lớn hơn khi Richard xứ Conisburgh trưởng thành đã không xảy ra Quốc vương Richard II đã bị phế truất vào năm 1399, và theo Harriss thì người con trai út của Isabel "không nhận được ân huệ nào từ vị Quốc vương mới là Henry IV của Anh". Isabel qua đời ngày 23 tháng 12 năm 1392 khi được khoảng 37 tuổi và được chôn cất vào ngày 14 tháng 1 năm 1393 tại tu viện của Dòng Đa Minh ở Kings Langley. Sau cái chết của Isabel, Edmund xứ Langley tái hôn với Joan Holland, chị gái và là đồng thừa kế của Edmund Holland, Bá tước thứ 4 xứ Kent. Isabella được phong làm Quý cô Garter vào năm 1379. Trong cuộc hôn nhân, Isabel của Castilla và Edmund xứ Langley có ba người con với nhau:
Otto Barch (sinh ngày 20 tháng 12 năm 1943, tại Frunze) là một vận động viên điền kinh đã giải nghệ, đại diện cho Liên Xô. Ông đã tham gia thi đấu tại Olympic Mùa hè 1968, 1972 và 1976. Barch đã là thành viên của câu lạc bộ Burevestnik Frunze. Thành tựu lớn nhất của ông là đạt hạng nhì trong cuộc đua 50 km tại Cúp Đi bộ Đường trường Thế giới năm 1973.
Tổng tuyển cử Campuchia 2023 Cuộc tổng tuyển cử dự kiến sẽ được tổ chức tại Campuchia vào ngày ngày 23 tháng 7 năm 2023 để bầu các thành viên của Quốc hội. Đây là cuộc tổng tuyển cử lần thứ bảy của Campuchia kể từ khi chúng được khôi phục vào năm 1993. Đảng Nhân dân Campuchia hiện nắm giữ toàn bộ số ghế tại Quốc hội. Thủ tướng Campuchia đương nhiệm là ông Hun Sen đã tuyên bố sẽ tiếp tục tranh cử cho nhiệm kì thủ tướng tiếp theo. Chính phủ mới dự kiến sẽ tuyên thệ nhậm chức vào ngày 28 tháng 8 năm 2023. Hun Sen đã từng đảm nhận chức vụ Thủ tướng Campuchia và các nước tiền nhiệm của nó (Cộng hòa Nhân dân Campuchia và Nhà nước Campuchia) kể từ tháng 1 năm 1985 (tại vị từ tháng 12 năm 1984). Sau khi cuộc xung đột đảo chính năm 1997 kết thúc, ông đã củng cố lại quyền lực, dẫn đến sự khởi đầu cho chế độ cai trị độc tài. Đỉnh điểm là khi thành lập hệ thống đơn đảng "thực quyền (de facto)" vào năm 2018 sau khi Tòa án Tối cao Campuchia đảm bảo sẽ trung thành với Hun Sen và ngăn chặn các cuộc đảo chính từ phe đảng đối lập lớn nhất, Đảng Cứu quốc Campuchia do Sam Rainsy và Kem Sokha lãnh đạo. Hun Sen hầu hết đã được mọi người đồng ý trở thành ứng cử viên cho thủ tướng của đảng CPP cho cuộc bầu cử lần này trong Đại hội lần thứ 43 của đảng. Ủy ban Trung ương cũng có đồng nhất trí với Hun Manet, con trai cả của Hun Sen, ông cũng là ứng cử viên cho thủ tướng tương lai của đảng sau Hun Sen. Hun Sen sau đó đã công bố là ông sẽ tiếp tục âm thầm hoạt động cho đến khi cuộc bầu cử năm 2028 kết thúc mặc dù việc chuyển giao quyền lực cho con trai ông từ năm 2023 đến năm 2028 vẫn chưa bị loại bỏ hoàn toàn. Bất chấp việc có một số thiếu sót, đặc biệt là trong thời điểm có đợt bùng phát dịch bệnh quy mô lớn vào đầu năm 2021. Chính phủ Campuchia đã được ca ngợi rộng rãi về phản ứng của họ với đại dịch COVID-19 khi họ đã khởi xướng một chương trình tiêm chủng thành công với hơn 80% dân số được tiêm chủng đầy đủ, tính đến tháng 1 năm 2022. Một cuộc tranh cãi gay gắt giữa hai phe chủ nghĩa khác nhau của Kem Sokha và Sam Rainsy trong Đảng Cứu quốc Campuchia (CNRP) trước đó khi họ khó có thể trở thành một đảng đối lập thống nhất chống lại phe CPP. Trong cuộc bầu cử cấp xã năm 2022 đã trở thành một yếu tố dẫn đến sự thành công như mong đợi đối với phe CPP, được coi như là hồi chuông báo hiệu cho cuộc tổng tuyển cử sắp tới. Dựa theo những kết quả trước đó, bên CPP mơ hồ dự đoán rằng họ có thể sẽ giành được 104 ghế chiếm 83,20% của Quốc hội và Đảng Sam Rainsy có thể sẽ giành được 21 ghế chiểm 16,80%. Nhưng sau đó, phát ngôn viên của CPP là ông Sok Eysan đã cho biết, bây giờ CPP sẽ có thể nhắm mục tiêu nâng số ghế lên 120 và chiếm 90% số ghế của Quốc hội. Vào ngày 15 tháng 5 năm 2023, Đảng Sam Rainsy đã chính thức bị Ủy ban Bầu cử Quốc gia từ chối đăng ký tham dự. Do đó họ đã bị mất quyền tư cách tham gia cuộc bầu cử với lý do là vì họ đã không nộp kịp những tài liệu đăng ký thích hợp, mà bên kia cho biết sẽ kháng cáo. Cựu lãnh đạo của Đảng Cứu quốc Campuchia (CNRP) là ông Kem Sokha đã bị kết án 27 năm tù vì tội âm mưu với các thế lực ngoại quốc nhằm lật đổ chính phủ Campuchia. Theo bản án, ông sẽ phải tạm giam tại nhà riêng nằm ở khu phố Tuol Kork của Phnom Penh và trong khoảng thời gian xét xử, ông bị tạm giam ở nhà tù Trapeang Phlong. Do lo ngại về đại dịch COVID-19, phiên tòa xét xử ban đầu của ông đã buộc phải hoãn lại. Cho đến ngày 3 tháng 3 năm 2023, tòa án thành phố đã chính thức kết tội ông với 27 năm tù theo Điều 439 và 443 của Bộ luật Hình sự, đồng thời sẽ loại ông ra khỏi các hoạt động chính trị và bầu cử theo Điều 450. Sokha không bị giam ngay lập tức mà thay vào đó, ông bị hạn chế ở nhà riêng dưới sự giám sát của tòa án. Phán quyết của tòa án sau đó đã bị các nhóm nhân quyền, bao gồm cả đại sứ quán Hoa Kỳ và Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc lên án. Sau khi ông Kem Sokha bị phiên toà xét xử, 15 đảng viên của Đảng Thanh niên Campuchia đã bị cách chức. Trong đó có bao gồm ba thành viên cấp cao và các thành viên còn lại đều nằm trong ủy ban thường vụ Neou Bora, Huon Thearith và Chhom Chanthorn. Chủ tịch Đảng là ông Pich Sros đã nói rằng, "Việc từ chức của các quan chức cấp cao không phải là điều đáng lo ngại, và đảng sẽ tiếp tục có kế hoạch đăng ký tham gia và mở rộng thêm nhiều danh sách cho những ứng cử viên của NEC nhằm tạo điều kiện cho cuộc bầu cử năm 2023. Kong Korm, cố vấn cấp cao của Đảng Sam Rainsy, đã bị cách chức sau khi bị chính quyền Campuchia lên tiếng về những ngôn từ mà ông chỉ trích khi bị tịch thu tài sản vào hồi đầu năm, đồng thời chính quyền cũng đệ đơn kiện chống lại ông. Sau đó, ông đã phải xin lỗi phía đảng CPP và ông Hun Sen vì đã buộc họ phải đệ đơn kiện và nói ông liên kết với Đảng Ánh nến là một sai lầm. Trong bức thư xin lỗi, Kong Korm đã nói: "Tôi đã nhận ra sai lầm của mình và đã xin lỗi nhà lãnh đạo CPP, người đã khuyên các hoạt động chính trị mới nhất của tôi sẽ có hại cho phẩm giá của các nhà lãnh đạo CPP khác và làm xáo trộn sự hài hòa của xã hội". Chính sách đối ngoại. Trong giai đoạn chiến tranh giữa Nga với Ukraina 2022, thủ tướng Hun Sen cùng với chính phủ Campuchia đã công bố sẽ giữ thái độ trung lập, mặc dù đã thiết lập nhiều mối quan hệ ngoại giao với Ukraina. Hun Sen cùng với Bộ trưởng Ngoại giao Prak Sokhonn đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao Ukraina Dmytro Kuleba và ông đã cử "Người phá mìn" đến và huấn luyện cho những binh lính Ukraina, trở thành một yếu tố quan trọng để Ukraina lên kế hoạch mở Đại sứ quán tại Phnom Penh. Phản ứng của Hun Sen đã khiến cho cả hai bên bao gồm Nga và Ukraina đều phải ca ngợi Chính phủ Campuchia về thái độ duy trì sự trung lập trong cuộc xung đột. Sự kiện núi Kulen. Vào tháng 8 năm 2022, nhà sáng lập của Đảng Liên minh vì Dân chủ (LDP) là ông Khem Veasna đã soạn một bức tối hậu thư và công bố chúng trước đám đông đang tụ tập ở một ngôi nhà nhỏ nằm tại phía nam Núi Kulen. Họ đều là những người dân đã cùng ồ ạt đến khu vực này sau khi nghe được một lời cảnh báo về "ngày tận thế" của một chính trị gia địa phương và không ít người đã tin vào lời cảnh báo trên. Theo lời kể của một nạn nhân, người chính trị gia đó đã khuyên mọi người nên đến ngôi nhà trên để "sống sót sau trận lũ lụt tàn khốc trong nước và thế giới" khiến không ít người tin rằng, khu vực này chính là một "nơi trú ẩn an toàn". Nhiều nhà chức trách sau đó đã phải đưa ra một bức tối hậu thư sau khi nhận thấy lượng đám đông gia tăng từ 15.000 lên đến 20.000 người. Vào ngày 8 tháng 10 năm 2022, Quốc vương Norodom Sihamoni đã ban hành một sắc lệnh hoàng gia yêu cầu ông Veng Sakhon cách chức; lúc bấy giờ là Bộ trưởng Nông Lâm Ngư nghiệp Campuchia, sắc lệnh sau đó đã có hiệu lực ngay lập tức. Tuyên bố trên đã được đưa ra theo yêu cầu của Thủ tướng Hun Sen. Sau đó, chính phủ đã chỉ định ông Aun Pornmonirath; Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Tài chính ra làm chủ Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp bên cạnh các chức vụ hiện tại của ông. Nhờ vào sự trông nom mà sau này, Quốc hội đã phê chuẩn ông Dith Tina làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp tiếp theo. Vào ngày 24 tháng 8 năm 2022, thống đốc thành phố Takhmao là ông Nou Sovannara đã bị cách chức và bị bắt phải điều động lại làm việc tại Cơ quan hành chính tỉnh Kandal do thái độ "thiếu tích cực" trong vấn đề giải quyết nguồn cung cấp nước sạch cho người dân. Vào ngày 21 tháng 11 năm 2022, do thống đốc trước đó là ông Cheav Tay đã bị thuyên chuyển do các vấn đề về sức khỏe. Khoy Rida đã được Bộ trưởng bộ Nội vụ Sar Kheng bổ nhiệm làm thống đốc tiếp theo của tỉnh Pursat. Theo quy định hiến pháp Campuchia, quốc hội sẽ được bầu theo nhiệm kỳ 5 năm 1 lần từ 25 khu vực bầu cử đa thành viên dựa trên các tỉnh theo đại diện tỷ lệ danh sách kín. Số ghế sẽ được phân bổ theo phương pháp d'Hondt và cuộc bầu cử sẽ diễn ra vào ngày chủ nhật thứ 4 của tháng Bảy. Dưới đây là danh sách số ghế được phân bố theo các tỉnh: Theo hiến pháp, mọi công dân từ 18 tuổi trở lên đều có quyền được bầu cử và việc bỏ phiếu là không bắt buộc. Theo cơ quan NEC, có tổng cộng 9.710.645 cử tri đã đăng ký tham gia trong năm 2023, tăng thêm 504.964 cử tri kể từ cuộc bầu cử cấp xã năm 2022 và cũng tăng 13,7% (tương đương với 1.330.428) kể từ cuộc tổng tuyển cử năm 2018. Bầu cử bổ sung. Một nghị định bổ sung do thủ tướng Hun Sen ký vào ngày 5 tháng 1 năm 2023 đã phân bổ lại các số lượng thành viên từ những hội đồng thành phố riêng biệt và mới được thành lập tại các huyện Kandal, Kampong Speu và Kratie cho nhiệm kỳ đầu tiên. Nghị định nội dung rằng, đối với thành phố Arey Ksat ở huyện Kandal có 19 ủy viên hội đồng thì riêng thành phố Sampov Poun ở cùng huyện đó cũng phải có 19 ủy viên hội đồng. Đối với thành phố Sameakki Mean Chey ở huyện Kampong Speu thì phải có 17 ủy viên hội đồng thì quận Samakki Monichey nằm ở cùng huyện đó phải có số ủy viên hội đồng tương tự. Còn đối với quận O'Kreang Sen Chey mới thành lập ở huyện Kratié thì chỉ cần có 15 ủy viên hội đồng. Teng Channat, người đứng đầu sở cảnh sát tỉnh Siem Reap đã cảnh báo là nếu ông Khem Veasna không thể giải tán đám đông trước ngày 30 tháng 8 như lời hứa, chính phủ có thể sẽ đệ đơn kiện lên tòa. Chủ tịch huyện Banteay Srei là ông Khim Finan đã công bố một báo cáo cho rằng, kể từ thứ Bảy, các quan chức của huyện đã phải nhấn mạnh về việc cuộc tụ tập trên núi Kulen cần phải được giải tán. Trao đổi với báo chí, ông nói rằng: “Chúng tôi hiện đang phải chờ xem liệu đám đông có giải tán hay không bởi vì tôi nhận thấy rằng. Nhiều người đang cố gắng tụ tập bên trong và xung quanh trang trại của ngôi nhà, thậm chí nhiều người còn tụ tập trên con đường đến Núi Kulen nhiều hơn là rời đi khiến điều này thực sự rất khó khăn khi phải chứng kiến như vậy”. Chủ tịch tỉnh Siem Reap là ông Tea Seiha đã đích thân đến thăm trang trại của Khem Veasna và phải yêu cầu ông đến và giải tán đám đông. Tổng tư lệnh Hun Manet cùng với các sĩ quan khác cũng đã xuống trang trại nơi diễn ra sự kiện và cũng đã yêu cầu Khem Veasna phải giải tán đám đông. Ngôi nhà chỉ cách tỉnh Siem Reap khoảng một giờ lái xe. Theo lệnh của thủ tướng Hun Sen, khu vực này hiện đã được sơ tán bằng xe tải quân đội và xe cứu thương. Hun Sen đã khuyên chính quyền nên tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi để người dân có thể rời khỏi ngôi nhà và quay trở về nếu họ muốn. Hun Sen cũng đã cáo buộc Khem Veasna đang gây áp lực cho chính quyền và buộc ông phải sử dụng vũ lực để giải tán cho cuộc tụ tập.
Bùi Thị Trường (1917–1988) là một nhà cách mạng Việt Nam. Bùi Thị Trường sinh năm 1917 ở khu vực xã Mỹ Hòa, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ, nay thuộc thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1935, chịu ảnh hưởng từ tư tưởng yêu nước của sư Nhựt Quang, bà bắt đầu tham gia phong trào chống Pháp. Năm 1936, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, là cán bộ Liên Tỉnh ủy Cần Thơ. Cùng năm, bà cùng Nguyễn Văn Nhẫn (sư Nhựt Quang) và Chiêm Thị Ngó được Liên Tỉnh ủy điều động đến Thành Bạc Liêu để phát triển cơ sở. Từ năm 1936 đến 1938, bà đã thành lập được nhiều chi bộ cộng sản tại tỉnh Bạc Liêu. Ngày 25 tháng 10 năm 1938, Hội nghị các tổ chức Đảng ở Bạc Liêu được Liên Tỉnh ủy tổ chức ở Lung Lá–Nhà Thể, với sự góp mặt của đại biểu ba quận Cà Mau, Giá Rai và Vĩnh Châu. Hội nghị đã bầu ra Ban Chấp hành lâm thời của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu gồm bảy Ủy viên do Bùi Thị Trường làm Bí thư, Trần Văn Đại làm Phó Bí thư, Nguyễn Tấn Khương làm Ủy viên Thường vụ. Cuối năm 1938, bà được Liên Tỉnh ủy Cần Thơ cử đến tỉnh lỵ Vĩnh Long để hoạt động. Năm 1939, bà được bổ sung vào Tỉnh ủy lâm thời Sóc Trăng. Năm 1940, bà được Xứ ủy Nam Kỳ điều về xây dựng ở cơ sở ở Ô Cấp (Vũng Tàu). Năm 1945, bà là Ủy viên Thị ủy Thị xã Cần Thơ, giữ chức vụ Phó Hội trưởng Hội Phụ nữ Cứu quốc tỉnh Cần Thơ. Năm 1948, bà được bầu vào Tỉnh ủy Sóc Trăng, phụ trách Bí thư Đảng đoàn Phụ nữ tỉnh. Năm 1950, bà được điều động về Khu 9 làm Phó Hội trưởng Hội Phụ nữ Khu 9. Năm 1955, bà làm cán bộ Phụ nữ ở Quận 2 (Hà Nội). Năm 1957, bà được bầu làm Hội trưởng Hội Phụ nữ Quận 1. Năm 1960, được bầu làm Ủy viên Khu phố Hoàn Kiếm. Năm 1966, bà giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy Bệnh viện B Nhi. Bà nghỉ hưu năm 1981 và qua đời ngày 3 tháng 8 năm 1988. Tên của bà được đặt cho một con đường ở thành phố Bạc Liêu, thị trấn Ngan Dừa (Hồng Dân) và thành phố Cà Mau.
Sloboda Ukraina (; ), hoặc Slobozhanshchyna (, ]; , ]), là một vùng lịch sử, ngày nay nằm ở Đông Bắc Ukraina và Tây Nam Nga. Khu vực phát triển và hưng thịnh vào thế kỷ 17 và 18 ở biên giới phía tây nam của nước Nga Sa hoàng. Năm 1765, khu vực được chuyển đổi thành tỉnh Sloboda Ukraina. Tên này bắt nguồn từ thuật ngữ "sloboda" dành cho một khu định cư thuộc địa không có nghĩa vụ thuế, và từ "ukraina" theo nghĩa gốc là "vùng biên thùy". Từ nguyên của từ "Ukraina" được nhìn nhận theo cách này trong các nhà sử học Nga, Ukraina và phương Tây như Orest Subtelny, Paul Magocsi, Omeljan Pritsak, Mykhailo Hrushevskyi, Ivan Ohiyenko, Petro Tolochko và những người khác. Nó được hỗ trợ bởi Bách khoa toàn thư Ukraina và từ điển Từ nguyên của tiếng Ukraina. Lãnh thổ của Sloboda Ukraina lịch sử tương ứng với lãnh thổ của tỉnh Kharkiv (toàn bộ), và một phần của các tỉnh Sumy, Donetsk và Luhansk của Ukraina ngày nay, cũng như một phần của các tỉnh Belgorod, Kursk, và Voronezh của Nga. Nga giành quyền kiểm soát lãnh thổ này nhờ các cuộc chinh phạt chống lại Đại công quốc Litva trong các cuộc chiến tranh Moskva-Litva vào thế kỷ 16. Lần đầu tiên khu vực được người Nga chiếm làm thuộc địa vào nửa đầu thế kỷ 16 và trở thành một phần của tuyến phòng thủ được sử dụng để chống lại các cuộc đột kích của người Tatar. Một làn sóng định cư thứ hai diễn ra vào những năm 1620–1630, phần lớn dưới hình thức các trung đoàn Cossack Ukraina, những người được phép định cư ở đó để giúp bảo vệ lãnh thổ chống lại người Tatar. Những người Cossack đến Sloboda Ukraina thuộc chủ quyền của các sa hoàng Nga và tướng quân sự của họ, và đăng ký nghĩa vụ quân sự của Nga. Một số lượng lớn người tị nạn Ukraina đến từ Ba Lan-Litva sau cuộc nổi dậy năm 1637-1638 và nhận được trợ cấp tái định cư hào phóng từ chính phủ Nga. Trong nhiều thập kỷ, người cossack Ukraina đã băng qua biên giới vào miền nam nước Nga để thu lại gia súc, nhưng nhiều người trong số họ cũng xâm nhập để cướp bóc, vì vậy Nga phải xây dựng một thị trấn đồn trú mới trên sông Boguchar trong nỗ lực bảo vệ vùng đất từ các nhóm người Ukraina và tái định cư nhiều người tị nạn Ukraina tại Valuyki, Korocha, Voronezh và xa đến Kozlov. Người Tatar Krym và người Tatar Nogai có truyền thống sử dụng khu vực dân cư thưa thớt của vùng Cánh đồng hoang dã ở biên giới phía nam của Nga ngay phía nam Severia để tiến hành các cuộc tấn công hàng năm vào lãnh thổ Nga dọc theo Đường mòn Muravsky và Đường mòn Izyum. Năm 1591, một cuộc đột kích của người Tatar đến khu vực Moskva, buộc chính phủ Nga phải xây dựng các pháo đài mới Belgorod và Oskol năm 1593, Yelets năm 1592, Kromy năm 1595, Kursk năm 1597, Tsarev-Borisov và Valuyki năm 1600. Tsarev-Borisov, được đặt theo tên của Sa hoàng Boris I, là khu định cư lâu đời nhất ở Sloboda Ukraine. Trong các cuộc tấn công đó, các khu vực gần Ryazan và dọc theo sông Oka bị thiệt hại nhiều nhất. Với việc Nga mở rộng lãnh thổ về phía nam và phía đông vào vùng đất Sloboda Ukraina hiện đại và giữa sông Volga, xung đột ngày càng gia tăng. Vào khoảng giữa những năm 1580 và 1640, Tuyến phòng thủ Belgorod với một số công sự, hào và pháo đài được xây dựng ở Sloboda Ukraina, đảm bảo an ninh cho khu vực. Sau một số cuộc Chiến tranh Nga-Krym, các quốc vương Nga bắt đầu khuyến khích người Cossack định cư trong khu vực, những người này hoạt động như một loại lực lượng bảo vệ biên giới chống lại các cuộc tấn công của người Tatar. Ngoài người Cossack, những người định cư còn bao gồm nông dân và thị dân từ Ukraina hữu ngạn và tả ngạn, bị chia cắt bởi Hiệp ước Andrusovo năm 1667. Cái tên Sloboda Ukraina bắt nguồn từ từ sloboda, một thuật ngữ Slav có nghĩa là "tự do" (hoặc "miễn phí"), và cũng là tên của một loại dàn xếp. Sa hoàng sẽ giải phóng những người định cư ở sloboda khỏi nghĩa vụ nộp thuế và phí trong một khoảng thời gian nhất định, điều này tỏ ra rất hấp dẫn đối với những người định cư. Đến cuối thế kỷ 18, những người định cư đã chiếm 523 sloboda (slobody) ở Sloboda Ukraina. Từ năm 1650 đến năm 1765, lãnh thổ được gọi là Sloboda Ukraina ngày càng được tổ chức theo phong tục quân sự Cossack, tương tự như của quân đoàn Zaporozhzhia và quân đoàn Don. Những người Cossack di dời được gọi là người Cossacks Sloboda. Có năm khu (polky) của người Cossack Sloboda, được đặt tên theo các thị trấn triển khai lâu dài của họ và được chia thành các "sotni". Các trung tâm khu vực bao gồm Ostrogozhsk, Kharkiv, Okhtyrka, Sumy và Izyum, trong khi thủ phủ của người Cossack Sloboda Ukraina được đặt tại Sumy cho đến năm 1743. Chính quyền của Yekaterina Đại đế giải tán các trung đoàn của Slobozhanshchina và bãi bỏ các đặc quyền của người Cossack theo sắc lệnh ngày 28 tháng 7 năm 1765. Khu vực bán tự trị trở thành một tỉnh được gọi là tỉnh Sloboda Ukraina ("Slobodsko-Ukrainskaya guberniya"). Triều đình Saint Petersburg thay thế chính quyền cấp trung đoàn bằng các trung đoàn hussar Nga, và trao cho người Cossack cấp bậc cao hơn về chức vụ ("starshina") và quyền quý tộc ("dvoryanstvo"). Năm 1780, tỉnh được chuyển đổi thành Phó vương quốc Kharkov tồn tại cho đến cuối năm 1796, khi nó một lần nữa được đổi tên thành tỉnh Sloboda Ukraina. Mỗi cuộc cải cách hành chính đều kéo theo những thay đổi về lãnh thổ. Năm 1835, tỉnh Sloboda Ukraina bị bãi bỏ, nhường phần lớn lãnh thổ cho tỉnh Kharkov mới, và một số cho Voronezh và Kursk, thuộc quyền Toàn quyền Tiểu Nga của Ukraina tả ngạn. Sau khi thành lập Liên bang Xô viết, Sloboda Ukraina bị chia cắt giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga. Đầu những năm 1930 chứng kiến ​​sự kết thúc của quá trình Ukraina hóa ở các vùng của Sloboda Ukraina nằm trong ranh giới CHXHCNXVLB Nga, dẫn đến sự sụt giảm lớn số lượng người Ukraina được báo cáo ở các khu vực này trong Điều tra dân số Liên Xô năm 1937 so với Điều tra dân số toàn liên bang đầu tiên năm 1926 của Liên Xô. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina đã tổ chức lại phần của họ trong khu vực nhiều lần trước khi thiết lập biên giới của tỉnh Kharkiv ngày nay vào năm 1932.
Danh sách loài họ Chó Họ Chó (Canidae) là một họ thuộc Bộ Ăn thịt (Carnivora) nằm trong Lớp Thú (Mammalia), bao gồm chó nhà, sói xám, sói đồng cỏ, cáo, chó rừng, chó Dingo và nhiều loài thú dạng chó còn tồn tại và tuyệt chủng khác. Tất cả các loài còn tồn tại đều cùng thuộc một phân họ duy nhất, Caninae. Chúng được tìm thấy trên tất cả các châu lục ngoại trừ Nam Cực, nơi chúng đã đến một cách độc lập hoặc đi cùng với con người trong một khoảng thời gian dài. Các loài họ Chó có kích thước khác nhau, bao gồm cả đuôi, từ loài sói xám dài 2 mét (6 ft 7 in) đến cáo fennec dài 46 cm (18 in). Số lượng cá thể dao động từ cáo quần đảo Falkland, đã tuyệt chủng từ năm 1876, đến chó nhà, với hơn 1 tỷ cá thể trên toàn thế giới. Các dạng hình thái của các loài tương tự nhau, điển hình là có mõm dài, tai dựng đứng, răng thích nghi với việc bẻ xương và cắt thịt, chân dài và đuôi rậm. Hầu hết các loài là động vật xã hội, sống cùng nhau trong các đơn vị gia đình hoặc các nhóm nhỏ và hợp tác với nhau. Thông thường, chỉ có cặp ưu thế trong một nhóm sinh sản và một lứa con non được nuôi hàng năm trong hang dưới lòng đất. Các loài họ Chó giao tiếp bằng tín hiệu mùi hương và tiếng kêu. Ngoài ra, chó nhà đã bắt đầu cộng tác với con người ít nhất 14.000 năm trước và ngày nay vẫn là một trong những loài vật nuôi được nuôi phổ biến nhất. Có 13 chi còn tồn tại và 37 loài được bao gồm chủ yếu trong hai tông: Canini, gồm 11 chi và 19 loài, chia tiếp thành phân tông Canina (chó dạng sói) và phân tông Cerdocyonina (cáo Nam Mỹ); và Vulpini (gồm chó dạng cáo), gồm 3 chi và 15 loài. Chi "Urocyon" không thuộc bất kỳ tông nào, gồm 2 loài, chủ yếu bao gồm cáo xám, và được cho là nhánh cơ sở của họ. Trong khi đó, chi "Dusicyon" thuộc tông Canini bao gồm 2 loài tuyệt chủng gần đây: cáo Nam Mỹ tuyệt chủng khoảng 400 năm trước và cáo quần đảo Falkland tuyệt chủng năm 1876. Ngoài phân họ Caninae còn tồn tại, Họ Chó cũng bao gồm hai phân họ đã tuyệt chủng là Hesperocyoninae và Borophaginae. Một số loài đã tuyệt chủng cũng đã được xếp vào các chi thuộc Caninae. Ít nhất 80 loài thuộc Caninae đã được tìm thấy, cũng như hơn 70 loài thuộc Borophaginae và gần 30 loài trong Hesperocyoninae. Mặc dù vậy, do các nghiên cứu và khám phá vẫn đang tiếp diễn, số lượng và phân loại chưa chắc chính xác. Dấu vết loài họ Chó cổ nhất được biết cho đến nay thuộc Hesperocyoninae, và được cho là đã tách khỏi phân bộ Dạng chó (Caniformia) khoảng 37 triệu năm trước. Họ Chó gồm 37 loài còn tồn tại thuộc 12 chi, và được chia tiếp thành 194 phân loài, cũng như là chi tuyệt chủng "Dusicyon", bao gồm 2 loài đã tuyệt chủng, và 13 phân loài sói xám đã tuyệt chủng, là loài duy nhất đã tuyệt chủng kể từ thời tiền sử. Danh sách này không bao gồm các loài lai (như là chó sói lai hay ) hoặc các loài tuyệt chủng từ thời tiền sử (như "Aenocyon dirus" hay chi "Epicyon").Các nghiên cứu phân tử hiện đại chỉ ra rằng 13 chi có thể được nhóm lại thành 3 tông hay nhánh. Danh sách họ Chó. Phân loại sau đây dựa trên phân loại của "Mammal Species of the World" (2005), cùng với các đề xuất bổ sung được chấp nhận rộng rãi kể từ khi sử dụng phân tích phát sinh chủng loại phân tử, chẳng hạn như tách sói vàng châu Phi khỏi chó rừng lông vàng thành một loài riêng biệt, và tách chi "Lupulella" ra khỏi "Canis". Bản đồ phạm vi dựa trên dữ liệu phạm vi của IUCN. Có một số đề xuất bổ sung đang bị tranh cãi, chẳng hạn như việc tách sói đỏ Bắc Mỹ và sói phương Đông ra khỏi sói xám thành một loài riêng biệt, được đánh dấu bằng thẻ "(tranh cãi)".
Tarte tropézienne, hay còn được biết đến với tên gọi La Tarte de Saint-Tropez, là một loại bánh ngọt tráng miệng bao gồm một nửa brioche chứa đầy kem chanh và vani, phủ đường ngọc trai. Món ăn này được tạo ra vào năm 1955 bởi một người bán bánh kẹo Ba Lan tên là Alexandre Micka, một chủ cửa hàng pâtisserie ở Saint-Tropez, nơi ông chuyển đến vào năm 1945, chỉ một thời gian ngắn sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Micka đã điều chỉnh một công thức của chính gia đình mình (truyền thuyết nói rằng đó là công thức của người bà của ông) để tạo ra phiên bản tarte tropézienne đầu tiên vào năm 1952. Vài năm sau, nữ diễn viên Brigitte Bardot phát hiện ra tình yêu với bánh ngọt khi cô ấy đang ở Saint-Tropez để quay bộ phim "And God Created Woman". Trên thực tế, nó được đặt theo tên của cô ấy và được phổ biến rộng rãi sau khi cô ấy "phát hiện ra" nó. Năm 1973, Micka chính thức đăng ký nhãn hiệu. Cửa hàng bánh ngọt nguyên bản của Micka, La Tarte Tropézienne, vẫn còn tồn tại. Micka đã học công thức từ người bà Ba Lan của mình. Kể từ những năm 1970, món tráng miệng tương tự cũng đã trở nên phổ biến ở Praha, nơi nó được gọi là "bánh Praha" ("Pražský koláč"). Người ta không biết liệu chiếc bánh này có được nướng ở Bohemia sớm hơn ở Pháp hay không.
Ghana (Katakana: , tiếng Hàn: ) là một thương hiệu sô cô la được sản xuất bởi công ty Lotte Confectionery từ năm 1964 và Hàn Quốc từ năm 1975. Tên của nó là một sự tôn kính đối với đất nước Ghana, một trong những đất nước xuất khẩu hạt cacao lớn nhất thế giới để sản xuất sô cô la. Loại kẹo này có kết cấu dạng kem và là một thương hiệu phổ biến ở cả Hàn Quốc lẫn Nhật Bản. Loại socola Ghana phiên bản Nhật được tạo ra bởi Lotte ở Nhật Bản, và nó không giống so với loại của Hàn Quốc nó sử dụng bơ cacao bằng phương pháp microglind. Giống như Hàn Quốc, sô cô la Ghana của Nhật Bản được viết là "Ghana" bằng tiếng Anh. Ghana có bốn loại sô cô la bọc màu đỏ, đen, trắng và be.
Giải vô địch bóng đá U-23 Đông Nam Á 2023 Giải vô địch bóng đá U-23 Đông Nam Á 2023 là mùa giải thứ 4 của Giải vô địch bóng đá U-23 Đông Nam Á, do Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á (AFF) tổ chức. Giải đấu được tổ chức từ ngày 17 đến ngày 26 tháng 8 tại Rayong, Thái Lan. Việt Nam là đương kim vô địch của giải sau khi đánh bại Thái Lan với tỉ số 1–0 ở trận chung kết năm 2022, đã có lần thứ hai liên tiếp bảo vệ thành công ngôi vô địch khi vượt qua Indonesia với tỷ số 6–5 trên loạt đá luân lưu sau khi hai đội hòa nhau không bàn thắng trong cả thời gian đá chính và hai hiệp phụ. Các đội tuyển tham dự. Giải đấu này không có vòng loại, tất cả các đội tuyển đều được vào vòng chung kết. Singapore đã không tham dự giải đấu vì họ vẫn đang hoàn thiện các đánh giá sau thất bại của họ ở SEA Games 2023 tại Campuchia. Các đội tuyển sau đây từ các liên đoàn thành viên của AFF được tham dự giải đấu: Không giống như AFF Cup hay bóng đá nam SEA Games thường được chia thành 2 bảng, giải U-23 Đông Nam Á kém quan trọng hơn, vì vậy, với số đội tham dự tương đương, giải đấu thường được chia thành 3 bảng để giảm bớt số trận thi đấu. Lễ bốc thăm chia bảng đã được tổ chức vào ngày 29 tháng 5 năm 2023 tại Băng Cốc, Thái Lan và được phát sóng trực tiếp trên kênh YouTube chính thức của giải đấu. Phân loại hạt giống dựa trên thành tích của mỗi đội ở mùa giải trước. Cầu thủ sinh vào hoặc sau ngày 1 tháng 1 năm 2000 có đủ điều kiện để tham gia giải đấu. Một đội hình cuối cùng có 23 cầu thủ (ba trong số đó phải là thủ môn) phải được đăng ký một ngày trước trận đấu đầu tiên của giải đấu. Đội đứng đầu mỗi bảng và đội xếp thứ hai có thành tích tốt nhất giành quyền vào bán kết. Thứ hạng trong mỗi bảng sẽ được xác định như sau: Tất cả trận đấu diễn ra theo giờ địa phương (UTC+7) Xếp hạng các đội đứng thứ hai. Chỉ một đội nhì bảng giành quyền vào bán kết. Kết quả của đội đối đầu với đội xếp thứ tư trong bảng A sẽ không được tính trong bảng xếp hạng này. Vòng đấu loại trực tiếp. Trong vòng đấu loại trực tiếp, hiệp phụ và loạt sút luân lưu được sử dụng để quyết định đội thắng nếu cần thiết. Cầu thủ dự bị thứ sáu có thể được thực hiện trong hiệp phụ. Một cầu thủ hoặc quan chức của đội sẽ tự động bị đình chỉ thi đấu trận tiếp theo nếu vi phạm các lỗi sau: Các đình chỉ sau đây đã được thực hiện trong suốt giải đấu: Đội hình tiêu biểu của giải đấu. Đội hình tiêu biểu của giải đấu, do ban tổ chức bình chọn, là đội hình gồm những cầu thủ thi đấu ấn tượng nhất tại các vị trí được chọn lựa trong giải đấu. em; top:-0.65em; width:10em; line-height:1.4em; white-space:nowrap" Robi em; top:-0.65em; width:10em; line-height:1.4em; white-space:nowrap" Frengky em; top:-0.65em; width:10em; line-height:1.4em; white-space:nowrap" Sananta em; top:-0.65em; width:10em; line-height:1.4em; white-space:nowrap" Arkhan em; top:-0.65em; width:10em; line-height:1.4em; white-space:nowrap" Alif
Nhan Huệ Khánh Là người gốc Thượng Hải và tốt nghiệp Đại học Virginia (nơi ông học khoa học chính trị, nhận giải thưởng và huy chương tranh luận, và được bầu vào Phi Beta Kappa), ông đã dạy tiếng Anh tại Đại học St. John's, Thượng Hải trong một thời gian ngắn sau đó. trở về từ Hoa Kỳ, nơi ông trở thành Hội Tam điểm, và sau đó đến Bắc Kinh để bắt đầu sự nghiệp chính trị của mình. Năm 1906, ông trở thành biên tập viên của Nhà xuất bản Thương mại, nhận bằng Tiến sĩ văn học. từ Đại học Peiyang (nay là Đại học Thiên Tân) và danh hiệu Tiến sĩ Nho học trong nền công vụ của triều đình, và được bổ nhiệm vào Bộ Giáo dục Hoàng gia. Ông từng giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao, thủ tướng (và quyền thủ tướng) năm lần và là quyền tổng thống trong nhiệm kỳ thủ tướng cuối cùng của ông vào năm 1926. Ngô Bội Phu đã tự tay chọn ông làm quyền tổng thống để mở đường cho sự phục hồi của Tào Côn, và ông đã thiết lập dự kiến ​​sẽ lập nội các nhưng ông không thể nhậm chức do bị Trương Tác Lâm phản đối. Cuối cùng, khi Nhan Huệ Khánh nhận chức vụ của mình, ông lập tức từ chức và bổ nhiệm bộ trưởng hải quân Đỗ Tích Khuê làm người kế nhiệm. Là một nhà ngoại giao kỳ cựu, ông là đại sứ đầu tiên của Trung Quốc tại Liên Xô, và là đại biểu của Hội nghị Hải quân Washington và Hội Quốc Liên; ông cũng từng là nhà ngoại giao tới Đức, Thụy Điển, Đan Mạch, và cuối cùng là Hoa Kỳ, nơi ông lên án cuộc xâm lược Mãn Châu của Nhật Bản. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ông đã dịch và biên soạn Những câu chuyện về Trung Quốc cổ đại ở Hồng Kông khi bị Nhật Bản quản thúc vào năm 1942. Đầu năm 1949, ông đến thăm Mátxcơva và gặp gỡ Joseph Stalin, với hy vọng đàm phán một giải pháp trong Nội chiến Trung Quốc. Sau khi thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949, ông đã chúc mừng chiến thắng của Mao Trạch Đông, trở thành Ủy viên Ủy ban Toàn quốc của Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc và ông cũng được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Ủy ban Chính trị và Quân sự Hoa Đông. Vào ngày 24 tháng 5 năm 1950, Nhan Huệ Khánh qua đời vì bệnh tim ở Thượng Hải ở tuổi 73. Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đều gửi lời chia buồn. Ông đã sống sót nhờ vợ và sáu đứa con. Danh sách Nguyên thủ Trung Hoa Dân Quốc. Dưới đây là danh sách các cá nhân từng giữ vai trò Nguyên thủ quốc gia Trung Hoa Dân quốc chính thức trên thực tế từ năm 1912 đến thời điểm hiện tại.
Lethrinus enigmaticus là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1959. Tính từ định danh trong tiếng Latinh có nghĩa là "bí ẩn", hàm ý sự không chắc chắn của Smith về tình trạng phân loại của mẫu định danh loài này, mà ông “tạm cho là một loài mới”. Phân bố và môi trường sống. "L. enigmaticus" có phân bố tương đối nhỏ hẹp ở Tây Ấn Độ Dương, cụ thể tại Seychelles, bãi ngầm Saya de Malha, Madagascar, từ Trung Mozambique xuống Nam Phi. "L. enigmaticus" sống gần các rạn san hô, trên thảm cỏ biển hoặc vùng đáy cát ở độ sâu đến ít nhất là 50 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất ở "L. enigmaticus" là 55 cm, thường bắt gặp với chiều dài khoảng từ 25 đến 40 cm. Thân màu vàng đồng hoặc xám, bụng nhạt màu hơn; thân trên có 7–9 vạch dọc sẫm màu với 3 sọc ngang màu đồng ở thân dưới. Đầu màu xám hoặc nâu, đôi khi có các vệt sọc chéo màu vàng nhạt trên mõm; một vệt nhạt màu băng dài từ mắt đến lỗ mũi. Phía dưới mắt có các đốm màu tím sẫm. Các vây trắng nhạt, hơi vàng hoặc nâu đồng. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 3 hoặc 4 thường dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8 (tia thứ nhất thường dài nhất); Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 47–48. Thức ăn của "L. enigmaticus" chủ yếu là động vật da gai, động vật giáp xác và cá nhỏ, ít thấy hơn là động vật thân mềm. "L. enigmaticus" được đánh bắt thương mại và được bán tươi sống trên thị trường.
Galicia (, ]#đổi ; , ]) là một khu vực lịch sử và địa lý trải dài tại nơi ngày nay là miền đông nam Ba Lan và miền tây Ukraina, một thời gian dài là bộ phận của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Nó bao gồm phần lớn các khu vực lịch sử Ruthenia Đỏ (trung tâm là Lviv) và Tiểu Ba Lan (trung tâm là Kraków). Tên của khu vực bắt nguồn từ thành phố thời trung cổ Halych, và lần đầu tiên được nhắc đến trong biên niên sử lịch sử Hungary vào năm 1206 với tên gọi "Galiciæ". Phần phía đông của khu vực được kiểm soát bởi Vương quốc Galicia–Volhynia thời trung cổ trước khi nó bị Vương quốc Ba Lan sáp nhập vào năm 1352 và trở thành một phần của tỉnh Ruthenia. Trong phân chia Ba Lan thế kỷ 18, khu vực được sáp nhập thành một lãnh địa hoàng gia của Đế quốc Áo - Vương quốc Galicia và Lodomeria. Hạt nhân của Galicia lịch sử nằm trong các khu vực hiện đại của miền Tây Ukraina: các tỉnh Lviv, Ternopil và Ivano-Frankivsk nằm gần Halych. Vào thế kỷ 18, các lãnh thổ mà nay là một phần của các tỉnh của Ba Lan: Małopolskie, Podkarpackie và Śląskie được đưa vào Galicia sau khi Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva sụp đổ. Đông Galicia trở thành vùng đất tranh chấp giữa Ba Lan và Ruthenia trong thời trung cổ và bị Áo-Hung và Nga tranh giành trong Thế chiến I, cũng như Ba Lan và Ukraina trong thế kỷ 20. Vào thế kỷ thứ 10, một số thành phố đã được thành lập ở đây, chẳng hạn như Volodymyr và Jaroslaw. Có sự chồng lấn đáng kể giữa Galicia và Podolia (về phía đông) cũng như giữa Galicia và tây nam Ruthenia, đặc biệt là ở một khu vực xuyên biên giới là nơi sinh sống của nhiều nhóm dân tộc và tôn giáo khác nhau. Vào thời La Mã, khu vực là nơi sinh sống của các bộ lạc hỗn chủng Celt-German khác nhau, bao gồm các bộ lạc có nền tảng Celt, người Lugii, người Cotini, người Vandal và người Goth (văn hóa Przeworsk và Púchov). Trong Giai đoạn Di cư, nhiều nhóm du mục xâm chiếm khu vực này. Các bộ lạc Đông Slav là người Croat Trắng và Tivertsi thống trị khu vực này từ thế kỷ thứ 6 cho đến khi nó được sáp nhập vào Kiev Rus' vào thế kỷ thứ 10. Vào thế kỷ 12, Thân vương quốc Halych (Halicz, Galic) thuộc dòng dõi Rurik được thành lập, đến cuối thế kỷ được sáp nhập với Volhynia láng giềng thành Vương quốc Ruthenia. Galicia và Volhynia ban đầu là hai thân vương quốc dòng dõi Rurik riêng biệt, được giao luân phiên cho các thành viên trẻ của triều đình Kiev. Dòng dõi thân vương Roman Đại vương xứ Volodymyr nắm quyền Thân vương quốc Volhynia, còn dòng dõi của Yaroslav Osmomysl nắm quyền Thân vương quốc Halych. Galicia–Volhynia hình thành sau cái chết vào năm 1198 hoặc 1199 của vị thân vương Galicia cuối cùng là Vladimir II Yaroslavich; Roman giành được Thân vương quốc Galicia và thống nhất các vùng đất của ông thành một nhà nước. Những người kế vị của Roman hầu hết sẽ sử dụng Halych (Galicia) làm tên gọi cho vương quốc kết hợp của họ. Vào thời Roman, các thành phố chính của Galicia–Volhynia là Halych và Volodymyr. Năm 1204, Roman chiếm Kyiv khi liên minh với Ba Lan, ký hiệp ước hòa bình với Vương quốc Hungary và thiết lập quan hệ ngoại giao với Đế quốc Byzantine . Năm 1205, Roman chống lại các đồng minh Ba Lan của mình, và bị giết trong trận Zawichost (1205), và Galicia–Volhynia bước vào thời kỳ nổi dậy và hỗn loạn, trở thành đấu trường tranh giành giữa Ba Lan và Hungary. Vua Andrew II của Hungary tự phong mình là "rex Galiciæ et Lodomeriæ", tiếng Latinh có nghĩa là "vua của Galicia và Vladimir [tại-Volhynia]", tước hiệu này sau đó được Nhà Habsburg tiếp nhận. Trong một thỏa thuận thỏa hiệp được thực hiện vào năm 1214 giữa Hungary và Ba Lan, ngai vàng của Galicia–Volhynia được trao cho con trai của Andrew là Coloman của Lodomeria. Năm 1352, khi thân vương quốc được phân chia giữa Ba Lan và Đại công quốc Litva, lãnh thổ này trở thành chủ thể của Vương quốc Ba Lan. Với Liên minh Lublin năm 1569, Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva tồn tại trong 200 năm cho đến khi bị Nga, Phổ và Áo chinh phục và chia cắt. Phần phía đông nam của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva trước đây được trao cho Hoàng hậu Habsburg Maria-Theresa, các quan chức đã đặt tên cho lãnh thổ là Vương quốc Galicia và Lodomeria, theo tên một trong những tước hiệu của các thân vương Hungary, biên giới của nó gần với biên giới của thân vương quốc thời trung cổ trước đây. Được gọi một cách không chính thức là Galicia, nó trở thành tỉnh lớn nhất, đông dân nhất và cực bắc của Đế quốc Áo. Sau năm 1867, nó là một phần của bộ phận Áo của Áo-Hung, cho đến khi chế độ quân chủ bị giải thể vào cuối Thế chiến I năm 1918. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Galicia chứng kiến ​​giao tranh ác liệt giữa các lực lượng của Đế quốc Nga và Các cường quốc Trung tâm. Quân Nga chiếm phần lớn khu vực vào năm 1914 sau khi đánh bại quân đội Áo-Hung trong một trận chiến biên giới hỗn loạn trong những tháng đầu của cuộc chiến. Người Nga bị đẩy lùi vào mùa xuân và mùa hè năm 1915 trước một cuộc tấn công phối hợp của Đức/Áo-Hung. Năm 1918, Tây Galicia trở thành một phần của Cộng hòa Ba Lan mới được khôi phục, nước cộng hòa này đã tiếp nhận Cộng hòa Lemko-Rusyn. Người Ukraina địa phương tuyên bố nền độc lập của Đông Galicia với tư cách là Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina, tồn tại trong thời gian ngắn. Trong Chiến tranh Ba Lan-Xô Viết, Liên Xô cố gắng thành lập nhà nước bù nhìn CHXHCNXV Galicia ở Đông Galicia, nhưng lãnh thổ này sau đó bị người Ba Lan chinh phục. Hòa ước Riga năm 1921 xác nhận địa vị của Galicia là một phần của Cộng hòa Ba Lan thứ hai. Mặc dù chưa bao giờ được một số người theo chủ nghĩa dân tộc Ukraina chấp nhận là hợp pháp, điều này đã được phê chuẩn trong Hội nghị các Đại sứ vào ngày 14 tháng 3 năm 1923 và được quốc tế công nhận vào ngày 15 tháng 5 năm 1923. Người Ukraina ở Đông Galicia và vùng lân cận Volhynia chiếm khoảng 12% dân số Cộng hòa Ba Lan và là nhóm thiểu số lớn nhất. Do các chính sách của chính phủ Ba Lan phân biệt đối xử đối với các nhóm thiểu số, căng thẳng giữa chính phủ Ba Lan và người Ukraina ngày càng gia tăng, cuối cùng làm nảy sinh tổ chức chiến binh ngầm của những người theo chủ nghĩa dân tộc Ukraina. Năm 1773, Galicia có khoảng 2,6 triệu cư dân ở 280 thành phố và thị trấn và khoảng 5.500 làng. Có gần 19.000 gia đình quý tộc với 95.000 thành viên (khoảng 3% dân số). Nông nô chiếm 1,86 triệu, hơn 70% dân số. Một số nhỏ là nông dân toàn thời gian, nhưng số lượng áp đảo (84%) chỉ có mảnh ruộng nhỏ hoặc không có tài sản. Galicia được cho là có dân số đa dạng về sắc tộc nhất trong tất cả các quốc gia trong chế độ quân chủ Áo, bao gồm chủ yếu là người Ba Lan và "người Ruthenia"; là dân tộc sau này được gọi là người Ukraina và người Rusyn, cũng như người Do Thái, người Đức, người Armenia, người Séc, người Slovak, người Hungary, người Roma và những dân tộc khác. Ở Galicia nói chung, thành phần dân số năm 1910 được ước tính là 45,4% người Ba Lan, 42,9% người Ruthenia, 10,9% người Do Thái và 0,8% người Đức. Dân số này không phân bố đều, người Ba Lan sống chủ yếu ở phía tây, còn người Ruthenia chiếm ưu thế ở khu vực phía đông ("Ruthenia"). Vào đầu thế kỷ XX, người Ba Lan chiếm 88% tổng dân số Tây Galicia và người Do Thái chiếm 7,5%. Dữ liệu tương ứng của Đông Galicia cho thấy những con số sau: người Ruthenia 64,5%, người Ba Lan 22,0%, người Do Thái 12%. Trong số 44 đơn vị hành chính của miền đông Galicia thuộc Áo, Lviv (tiếng Ba Lan: Lwów, tiếng Đức: Lemberg) là đơn vị duy nhất mà người Ba Lan chiếm đa số dân số. Nhà nhân chủng học Marianna Dusharđã lập luận rằng sự đa dạng này đã dẫn đến sự phát triển của một nền văn hóa ẩm thực đặc trưng trong khu vực. Ngôn ngữ Ba Lan có lịch sử chiếm ưu thế trên khắp Galicia. Theo điều tra dân số năm 1910, 58,6% người Galicia nói tiếng Ba Lan như tiếng mẹ đẻ, so với 40,2% nói tiếng Ruthenia. Số lượng người nói tiếng Ba Lan có thể đã bị thổi phồng lên vì người Do Thái không được lựa chọn liệt kê tiếng Yiddish là ngôn ngữ của họ. Đông Galicia là phần đa dạng nhất của khu vực, và là một trong những khu vực đa dạng nhất ở châu Âu vào thời điểm đó. Năm 1910, Đông Galicia có 5,3 triệu cư dân, với 39,8% là người Ba Lan và 58,9% là người Ruthenia. Người Do Thái Galicia di cư vào thời Trung cổ từ Đức. Những người nói tiếng Đức thường được gọi theo vùng của Đức nơi họ có nguồn gốc (chẳng hạn như Sachsen hoặc Swabia). Đối với những người nói các ngôn ngữ bản địa khác nhau, chẳng hạn như tiếng Ba Lan và tiếng Ruthenia, việc nhận dạng ít gặp vấn đề hơn và việc đa ngôn ngữ phổ biến đã làm mờ đi sự phân chia sắc tộc. Về mặt tôn giáo, Galicia chủ yếu theo Công giáo, và Công giáo được thực hành theo hai nghi thức. Người Ba Lan theo Công giáo La Mã, trong khi người Ukraina theo Công giáo Hy Lạp. Các Kitô hữu khác thuộc về một trong các Giáo hội Chính thống Ucraina. Cho đến Holocaust, đạo Do Thái đã lan rộng và Galicia là trung tâm của phái Hasid. Sau phân chia Ba Lan, biên giới nhà nước mới cắt Galicia khỏi nhiều tuyến đường thương mại và thị trường truyền thống của khu vực Ba Lan, dẫn đến đời sống kinh tế đình trệ và sự suy tàn của các thị trấn Galicia. Lviv mất vị thế là một trung tâm thương mại quan trọng. Sau một thời gian ngắn đầu tư hạn chế, chính phủ Áo bắt đầu khai thác tài chính Galicia và rút cạn nhân lực của vùng thông qua việc bắt quân dịch cho đế quốc. Người Áo quyết định rằng Galicia không nên phát triển công nghiệp mà vẫn là một vùng nông nghiệp, đóng vai trò là nơi cung cấp thực phẩm và nguyên liệu thô cho các tỉnh Habsburg khác. Các loại thuế mới được ban hành, đầu tư không được khuyến khích, các thành phố và thị trấn bị bỏ quên. Kết quả là tình trạng nghèo đói đáng kể ở Galicia thuộc Áo. Galicia là tỉnh nghèo nhất của Áo-Hung, và theo Norman Davies, có thể coi là "tỉnh nghèo nhất châu Âu". Galicia là nguồn cung dầu mỏ nội địa lớn duy nhất của Liên minh Trung tâm trong Thế chiến I.
vùng Hertsa, còn gọi là vùng Hertza (; ), là một khu vực nằm xung quanh thị trấn Hertsa thuộc huyện Chernivtsi của tỉnh Chernivtsi ở miền tây nam Ukraina, gần biên giới với Romania. Vùng này có diện tích khoảng , với dân số khoảng 32.300 người (năm 2001), 93% trong đó là người dân tộc Romania. Lãnh thổ này trong lịch sử là một phần của Moldavia, là một trong năm huyện của hạt Dorohoi. Sau Hiệp ước Molotov–Ribbentrop ngày 23 tháng 8 năm 1939, Liên Xô ban hành vào ngày 26 tháng 6 năm 1940 một tối hậu thư cho Romania đe dọa sử dụng vũ lực. Chính phủ Romania đáp lại tối hậu thư của Liên Xô, đồng ý rút quân khỏi các vùng lãnh thổ để tránh xung đột quân sự. Vài ngày sau, Bessarabia và Bắc Bukovina bị Liên Xô chiếm đóng, và vùng Hertsa bị đưa về Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Ukraina. Vì không được đề cập trong tối hậu thư, việc sáp nhập vùng Hertsa đã không được Romania đồng ý. Khu vực này (cùng với phần còn lại của Bessarabia và Bukovina) bị Romania chiếm lại trong giai đoạn 1941–1944 trong cuộc tấn công của phe Trục vào Liên Xô trong Thế chiến thứ hai, cho đến khi Hồng quân chiếm lại nó vào năm 1944. Việc Liên Xô sáp nhập lãnh thổ này đã được quốc tế công nhận theo các Hiệp ước Hòa bình Paris năm 1947. Romania và Ukraina đã ký kết và phê chuẩn một thỏa thuận biên giới và là các bên ký kết các hiệp ước và liên minh quốc tế mà theo đó bác bỏ bất kỳ yêu sách lãnh thổ nào. Các tổ chức người Romania trong khu vực coi Hertsa là thuộc về Romania trong lịch sử, việc bị Liên Xô tách khỏi vào năm 1940 là vi phạm luật pháp quốc tế. Phóng viên của "Khu vực mới", Sergei Vulpe, có tham khảo tờ báo Bucharest Ziua đã đưa tin vào ngày 17 tháng 4 năm 2008 rằng Tổng thống Romania Traian Băsescu tuyên bố rằng nếu Ukraina muốn sáp nhập Transnistria, thì họ nên trả lại Nam Bessarabia (Budjak) và Bắc Bukovina (tỉnh Chernivtsi bao gồm vùng Hertsa) cho Moldova.
Giải bóng đá vô địch quốc gia Đức 2023–24 Giải bóng đá vô địch quốc gia Đức 2023-24 (Bundesliga 2023-24) là mùa giải thứ 61 của Giải bóng đá vô địch quốc gia Đức, giải đấu bóng đá hàng đầu của Đức. Giải bắt đầu vào ngày 18 tháng 8 năm 2023 và kết thúc vào ngày 18 tháng 5 năm 2024. Bayern Munich là đương kim vô địch 11 lần liên tiếp. Lịch thi đấu được công bố vào ngày 30 tháng 6 năm 2023. Tổng cộng có 18 câu lạc bộ tham dự Bundesliga mùa giải 2023–24. SV Darmstadt 98 trở lại Bundesliga sau 6 năm vắng bóng trong khi 1. FC Heidenheim thi đấu ở Bundesliga lần đầu tiên trong lịch sử câu lạc bộ. Vòng play-off xuống hạng. Vòng play-off xuống hạng diễn ra vào ngày 22 hoặc 23 và ngày 27 hoặc 29 tháng 5 năm 2024. "Tính đến ngày 24 tháng 11 năm 2023" "Tính đến ngày 11 tháng 11 năm 2023" "Tính đến ngày 24 tháng 11 năm 2023"
María de las Mercedes của Orléans María de las Mercedes của Tây Ban Nha, María de las Mercedes của Orléans, María de las Mercedes de Orleans y Borbón hay Mercedes của Orléans (tiếng Tây Ban Nha: "María de las Mercedes de España", "María de las Mercedes de Orleans", "María de las Mercedes de Orleans y Borbón", "Mercedes de Orleans"; 24 tháng 6 năm 1860 – 26 tháng 6 năm 1878) là con gái của Antoine của Pháp, Công tước xứ Montpensier và María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha. Thông qua hôn nhân với Quốc vương Alfonso XII, María de las Mercedes cũng là Vương Tây Ban Nha. María de las Mercedes của Orléans sinh ra tại "Cung điện Vương thất" ở Madrid vào ngày 24 tháng 6 năm 1860, là người con thứ sáu trong số chín người con. Cha của María là Antoine của Pháp, Công tước xứ Montpensier, còn mẹ là María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha. Bác gái của María de las Mercedes là Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha và bác rể là Phối vương Francisco của Tây Ban Nha đảm nhận vai trò cha mẹ đỡ đầu trong lễ rửa tội của María. Tại lễ rữa tội, Vương tôn nữ đã được đặt tên là: "María de las Mercedes Isabel Francisca de Asís Antonia Luisa Fernanda Felipa Amalia Cristina Francisca de Paula Ramona Rita Cayetana Manuela Juana Josefa Joaquina Ana Rafaela Santísima Trinidad Gaspara Melchora Baltasara Filomena Teresa de Todos los Santos". Mặc dù theo dòng dõi của cha, María de las Mercedes là một Vương nữ Pháp của Vương tộc Orléans, nhưng bên dòng mẹ, María cũng là một Vương tôn nữ Tây Ban Nha và đã trải qua tám năm đầu đời tại đây, ở Cung điện San Telmo, Andalusia. Với tin đồn mong muốn chiếm đoạt ngai vàng của chị vợ của Antoine, cha của María de las Mercedes đã khiến cho Antoine không được chào đón tại triều đình ở Madrid. Khi Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha bị phế truất vào năm 1868, gia đình của María de las Mercedes đã rời khỏi Tây Ban Nha để sống lưu vong. Có thông tin cho rằng trong lần bị trục xuất vào năm 1872, María đã gặp người anh họ của mình là Alfonso, Thân vương của Asturias, con trai của Isabei II, cũng đang sống lưu vong. Isabel II đã phản đối cuộc hôn nhân giữa hai người do sự thù địch giữa cha của María và cựu vương Tây Ban Nha. Sau khi chế độ quân chủ Tây Ban Nha được phục hồi, Quốc vương Alfonso XII của Tây Ban Nha đã kết hôn với María de las Mercedes tại nhà thờ Atocha ở Madrid vào ngày 23 tháng 1 năm 1878, sau một vũ hội lớn vào tháng 12 năm 1877. Có thông tin rằng, sự lựa chọn của Alfonso XII đã làm tiêu tan hy vọng của người mẹ vẫn đang bị lưu đày của Alfonso XII, Nữ vương Isabel II về cuộc hôn nhân của Alfonso với Infanta Blanca của Tây Ban Nha, con gái của phe đối địch Carlos là Carlos, Công tước xứ Madrid. Ngay sau tuần trăng mật của hai vợ chồng, Vương hậu Mercedes đã bị sốt thương hàn. Cuộc hôn nhân giữa Alfonso và María chỉ kéo dài sáu tháng, trong thời gian đó María được cho là đã bị sảy thai. Ngày 26 tháng 6 năm 1878, María đã qua đời khi chỉ được 18 tuổi. Tin tức về cái chết của María de las Mercedes đã dẫn đến sự ra đời của nhiều bài hát dân gian về sự qua đời của Vương hậu, đáng chú ý nhất là bài copla nổi tiếng, với nhiều biến thể ở Tây Ban Nha và Mỹ, đặc biệt phổ biến đối với trẻ em khi đi kèm với trò chơi nhảy dây. Theo Benito Pérez Galdós, ông đã nghe về bài hát đó vài ngày sau sự việc: “ "¿Dónde vas Alfonso XII?" "¿Dónde vas triste de ti?" "Voy en busca de Mercedes que ayer tarde no la vi…”" ("Ngài đang đi đâu hỡi, Alfonso XII? Ngài đang đi đâu hỡi người đàn ông đau buồn? — Ta đang đi tìm nàng Mercedes, người mà ta không gặp được vào chiều " ). Một bộ phim về mối tình lãng mạn giữa María de las Mercedes và Alfonso XII của Tây Ban Nha có tên là "Where Are You Going, Alfonso XII?", được phát hành vào năm 1958. Vương hậu María de las Mercedes đã đồng khởi xướng việc xây dựng Nhà thờ chính tòa Almudena ở Madrid, đối diện với cung điện vương thất và được bắt đầu xây dựng vào năm 1883. Vào tháng 5 năm 2004 Felipe VI của Tây Ban Nha, bấy giờ là Thân vương xứ Asturias, đã kết hôn với Letizia Ortiz tại đây. Bên cạnh đó, ngày 8 tháng 11 năm 2000, hài cốt của Vương hậu María de las Mercedes được an táng lại tại đây, theo nguyện vọng của chồng Alfonso XII của María. Một thị trấn ở tỉnh Isabela, phía bắc Philippines được đặt tên là Reina Mercedes để vinh danh Vương hậu Mercedes vào năm 1886 khi chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha chính thức tách thị trấn này khỏi Cauayan. Khi bộ trưởng của Nhà vua Cánovas del Castillo đề nghị Alfonso XII lấy một người vợ mới, nhà vua đã đồng ý và chọn em gái của Mercedes là María Cristina. Tuy nhiên, María Cristina cũng mắc bệnh lao và qua đời. Cuối năm 1879, Alfonso XII tái hôn với Nữ đại vương công Maria Christina Henriette của Áo; và đặt tên cho người con cả của họ là María de las Mercedes để vinh danh cố Vương hậu María de las Mercedes của Orléans.
Pokuttia, còn viết là Pokuttya hay Pokutia (; ), là một khu vực lịch sử của Đông-Trung Âu, nằm giữa sông Dniester và Cheremosh và dãy núi Karpat, ở phía tây nam của Ukraina hiện đại. Khu vực là một phần của liên minh bộ lạc Antes kể từ thế kỷ thứ 4, gia nhập Kiev Rus' vào thế kỷ thứ 10, và cuối cùng bị Ba Lan sáp nhập vào thế kỷ 14. Khu vực này liên quan đến một loạt cuộc chiến tranh giữa Ba Lan và Moldavia. Đôi khi, sự cai trị của Ba Lan đã gây ra sự bất mãn cho người Pokuttia. Khu vực này vẫn nằm dưới sự cai trị của Ba Lan cho đến năm 1772. Mặc dù trung tâm lịch sử của khu vực là Kolomyia, nhưng tên gọi này bắt nguồn từ thị trấn Kuty. Lời kể của các nhà sử học Hy Lạp và La Mã mô tả về "sự định cư rộng rãi của người Slav" ở Pokuttia đã được xác nhận nhờ các phát hiện khảo cổ học. Vào thế kỷ thứ 4, cư dân Slav của Pokuttia trở thành một phần của liên minh bộ lạc được gọi là liên minh bộ lạc Antes. Đến thế kỷ thứ 6, họ đã trở thành một phần của liên minh Dulebes, và trong thế kỷ thứ 8 và thứ 9, họ là một phần của liên minh bộ lạc Tivertsi. Cuối cùng, vào thế kỷ thứ 10, họ gia nhập Kiev Rus'. Sau Hội đồng Liubech, Pokuttia trở thành một phần của Thân vương quốc Halych. Khu vực này có dân cư thưa thớt, nhưng có một số thị trấn, chẳng hạn như Sniatyn và Kolomyia, được chứng thực lần đầu tiên vào năm 1240 trong Hypatian Codex (tiếng Ukraina: Ипатьевская летопись), một biên niên sử Đông Slav cổ là nguồn dữ liệu lịch sử quan trọng nhất của miền nam Rus'. Vào đầu thời trung cổ, khu vực này bị Vương quốc Ba Lan chinh phục vào năm 1325, và sau đó bị Kazimierz III của Ba Lan sáp nhập vào năm 1349. Năm 1388, Władysław II Jagiełło vì cần hỗ trợ tài chính cho các trận chiến chống lại Hiệp sĩ Teuton, nên đặt Pokuttia dưới sự quản lý của Petru II của Moldavia, một thống đốc của Moldavia, với khoản vay 3.000 đồng tiền vàng. Năm 1485, Thân vương Moldavia Ștefan III do đã mất quyền tiếp cận Biển Đen vào năm trước vào tay người Ottoman, nên rất cần liên minh, và đã thề trung thành với Quốc vương Ba Lan Kazimierz IV Jagiellończyk và trao đổi Pokuttia, trong thứ được gọi là lời thề Colomeea. Người kế vị của Kazimierz là Jan I Olbracht sử dụng hiệp ước nói trên như một cái cớ để bắt đầu cuộc xâm lược Moldavia vào năm 1497. Năm 1490, do người Ba Lan gia tăng áp bức người Ukraina, xảy ra một loạt cuộc nổi dậy thành công dưới quyền lãnh đạo bởi anh hùng Ukraina Petro Mukha, với sự tham gia của những người Ukraina khác, bao gồm cả người Cossack và người Hutsul, bên cạnh người Moldova và người Ukraina đến từ Bukovina. Được gọi là Cuộc nổi dậy Mukha, loạt trận chiến này được hỗ trợ bởi Thân vương Moldavia Ștefan III, và đây là một trong những cuộc nổi dậy sớm nhất được biết đến của người Ukraina chống lại sự áp bức của Ba Lan. Những cuộc nổi dậy này chứng kiến ​​việc chiếm được nhiều thành phố khác nhau của Pokuttia, và tiến xa về phía tây đến Lviv. Năm 1498, Ștefan III với sự hỗ trợ của người Thổ Nhĩ Kỳ và người Tatar, đã tiến hành chiến dịch đầu tiên của mình ở Pokuttia. Ông tiến hành chiến dịch thứ hai vào năm 1502, đẩy người Ba Lan vượt sông Bystrytsia. Thành công của Ștefan III là ở chỗ anh ta đã chiếm được Pokuttia trong một khoảng thời gian trong cuộc đời của mình. Con trai của ông ta là Bogdan III (1504–1517), "người chột mắt" đã từ bỏ khu vực này rồi lại chiếm đóng nó trong một thời gian ngắn từ năm 1509 đến năm 1510. Thống đốc Petru Rareș từng cố gắng chiếm lại Pokuttia, nhưng cả hai nỗ lực của ông vào năm 1531 và 1535 đều thất bại. Nỗ lực chiếm lĩnh Pokuttia cuối cùng của người Moldavia xảy ra vào năm 1572, với Ioan III Bạo chúa. Các cuộc xâm lược của người Moldavia và các cuộc chiến tranh sau đó giữa người Ba Lan và người Moldavia đã gây ra những đau khổ lớn cho người dân, với nhiều người Pokuttia bị bắt và tái định cư ở Moldavia, củng cố thành phần Ukraina ở các vùng của người Moldova như Bukovina. Kolomyia được cho là đã "chịu đựng nặng nề trong thế kỷ 15 và 16 trước các cuộc tấn công của người Moldavia và người Tatar". Trong suốt thời Trung cổ, Obertyn là lâu đài chính của Pokuttia, trong khi Kolomyia là thị trấn chợ và hội chợ chính của vùng. Pokuttia vẫn nằm dưới sự cai trị của Ba Lan cho đến năm 1772, rồi khu vực trở thành một phần của Đế quốc Áo. Các opryshok (băng đảng) Ukraina hoạt động trong khu vực từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19. Với sự sụp đổ của Áo-Hung sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phần lớn Pokuttia trở thành một phần của Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina và tranh chấp với Ba Lan. Khu vực là một phần của Ba Lan năm 1919–1939, sau đó được chuyển cho Liên Xô. Khu vực này thuộc về Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina, rơi vào tay Đức Quốc xã sau khi bắt đầu Chiến dịch Barbarossa cho đến năm 1944. Sau đó, nó được sáp nhập vào tỉnh Ivano-Frankivsk do Liên Xô kiểm soát, gần tương ứng với nửa phía nam của tỉnh này. Sau khi Ukraina tuyên bố độc lập vào năm 1991, lãnh thổ này trở thành một phần của đất nước. Ngôn ngữ của người Ukraina địa phương chịu ảnh hưởng của tiếng Romania, và phương ngữ Pokuttia–Bukovina được hình thành. Nó khác với các phương ngữ tiếng Ukraina khác vì tất cả chúng đều chịu ảnh hưởng của các ngôn ngữ Slav khác, trong khi phương ngữ Pokuttia–Bukovina chịu ảnh hưởng từ một ngôn ngữ Roman (tiếng Romania). Phương ngữ bảo tồn một số âm cuối cổ xưa và giảm âm mềm, và một số đặc thù từ vựng nhất định. Việc mở rộng các đặc điểm ngữ âm Pokuttia cổ trong thế kỷ 14-16 ở phía tây Podolia đã góp phần hình thành một nhóm phương ngữ Dniester rộng lớn hơn.#đổi Pokuttia là một trong những khu vực dân cư dày đặc nhất của Ukraina. Vào thời điểm các cuộc điều tra dân số đầu tiên được thực hiện vào thế kỷ 18, 75% dân số là người Ukraina. Cũng có một số người Do Thái, một số người Ba Lan và người Armenia. Trong những năm 1920 và 1930, nhiều người Ba Lan định cư trong khu vực. Thành phần người Ukraina giảm nhẹ trong những năm tiếp theo, vì vào năm 1939, dân số bao gồm 64% người Ukraina, 20% người Ba Lan, 9% người Do Thái và 7% người Công giáo La Mã nói tiếng Ukraina. Trong thế kỷ 21 (những năm 2000), có 97% người Ukraine, 2% người Nga, chưa đến 1% người Ba Lan và 0,2% người Do Thái Dân số Pokuttia ngày nay vẫn còn gồm một số người Ba Lan, người Do Thái, người Hutsul Ukraina, và nó cũng gồm một số người Romania. Trong cuộc điều tra dân số năm 2001 đã có 600 người Romania (bao gồm cả tự nhận là người Moldova) được ghi nhận.
Đô trưởng Phnôm Pênh Đô trưởng Phnôm Pênh () là trưởng quan hành chính Phnôm Pênh, thủ đô của Campuchia. Đô trưởng đồng thời là người đứng đầu Hội trường Thủ đô Phnôm Pênh và được bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm. Đô trưởng hiện tại là Khuong Sreng được bổ nhiệm vào ngày 16 tháng 6 năm 2017. Danh sách Đô trưởng. Đây là danh sách Đô trưởng Phnôm Pênh kể từ năm 1941.
Bầu cử ở Campuchia Campuchia là một quốc gia độc đảng với Đảng Nhân dân Campuchia nắm quyền. Cơ quan lập pháp của Campuchia được lựa chọn thông qua một cuộc bầu cử quốc gia. Tổng tuyển cử được tổ chức năm năm một lần vào Chủ nhật thứ tư của tháng Bảy. Nghị viện Campuchia có hai viện. Quốc hội ( #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. ) có 125 thành viên, mỗi người được bầu với nhiệm kỳ 5 năm theo cơ chế đại diện tỷ lệ. Thượng viện ( #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. ) có 62 thành viên, hầu hết được bầu gián tiếp. Kể từ khi ký kết Hiệp định Hòa bình Paris năm 1991 chấm dứt nhiều thập kỷ nội chiến và bị nước ngoài chiếm đóng, và với việc loại bỏ lần cuối các nhóm nổi dậy vũ trang trong nước vào năm 1998, sáu cuộc bầu cử quốc gia đã diễn ra ở Campuchia. Cuộc bầu cử quốc gia đầu tiên do Cơ quan chuyển tiếp Liên Hợp Quốc tại Campuchia (UNTAC) tổ chức vào tháng 7 năm 1993, cuộc bầu cử cấp xã đầu tiên được tổ chức vào tháng 2 năm 2002 và Thượng viện Campuchia được quan chức hội đồng xã bầu chọn lần đầu tiên vào tháng 1 năm 2006. Ba đảng chính trị chính đã thống trị nền chính trị Campuchia trong thập kỷ qua: Đảng Nhân dân Campuchia (CPP), Mặt trận Thống nhất vì một Campuchia Độc lập, Trung lập, Hòa bình và Hợp tác (FUNCINPEC) và gần đây hơn là Đảng Cứu quốc Campuchia (CNRP); đảng bị cấm vào năm 2017). Mặc dù CPP chiếm ưu thế trong cuộc bầu cử được tổ chức vào ngày 27 tháng 7 năm 2003, nhưng đảng này đã không giành được 2/3 đa số ghế theo quy định của hiến pháp để tự thành lập chính phủ. Một chính phủ mới được thành lập vào ngày 15 tháng 7 năm 2004, sau các cuộc đàm phán kéo dài giữa CPP và FUNCINPEC về việc thành lập chính phủ liên hiệp. Đầu năm 2006, CPP tiếp tục củng cố quyền lực của mình bằng cách thông qua Nghị viện sửa đổi hiến pháp cho phép 50% cộng với một đa số trong Quốc hội thành lập chính phủ (thay vì đa số 2/3), do đó làm giảm sự phụ thuộc trong tương lai của nó vào FUNCINPEC hoặc một đối tác liên hiệp khác.
Bầu cử ở Lào Lào là quốc gia độc đảng bầu chọn cơ quan lập pháp trên toàn quốc và nhân dân địa phương cũng tham gia bầu trưởng thôn ở mỗi tỉnh thành. Quốc hội ("Sapha Heng Xat") có 164 đại biểu, được bầu với nhiệm kỳ 5 năm. Theo hiến pháp nước này, các cuộc bầu cử đều được tiến hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đóng vai trò là "hạt nhân lãnh đạo" của hệ thống chính trị.. Cuộc bầu cử gần đây nhất được tổ chức vào ngày 21 tháng 2 năm 2021. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (LPRP) chiếm 158 ghế trong Quốc hội gồm 164 đại biểu trong khi sáu ghế còn lại thuộc về các đảng viên độc lập. Bầu cử gần đây nhất. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Tỉnh Izmail (; ) được hình thành sau sự kiện sáp nhập Bessarabia vào Liên Xô vào ngày 7 tháng 8 năm 1940, với tên gọi tỉnh Akkerman với trung tâm là thành phố Akkerman. Vào ngày 7 tháng 12 năm 1940, theo Nghị định của Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô, nó được đổi tên thành tỉnh Izmail, trung tâm tỉnh được chuyển đến Izmail. Tỉnh có diện tích 12,4 nghìn km², về cơ bản tương ứng với khu vực lịch sử Budjak. Tỉnh tồn tại cho đến khi gia nhập tỉnh Odesa của CHXHCNXV Ukraina - ngày 15 tháng 2 năm 1954. Tỉnh được hình thành do sự kiện Bessarabia sáp nhập vào Liên Xô vào ngày 7 tháng 8 năm 1940 với tên gọi vùng Akkerman với trung tâm là thành phố Akkerman. Có 6 thành phố trong khu vực: Akkerman, Bolgrad, Vilkovo, Izmail, Kiliya, Reni. Vào ngày 7 tháng 12 năm 1940, theo Nghị định của Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô, khu vực được đổi tên thành tỉnh Izmail, theo cùng một nghị định, trung tâm khu vực đã được chuyển đến Izmail. Vào ngày 1 tháng 3 năm 1941, Xô viết Tối cao Liên Xô đã thông qua việc đổi tên tỉnh.. Vào ngày 19 tháng 7 năm 1941, lãnh thổ của tỉnh Izmail bị quân đội Romania và Đức chiếm giữ, và cho đến ngày 25 tháng 8 năm 1944 nằm dưới sự cai trị của Romania với tư cách là một phần của tỉnh Bessarabia. Nền tảng của nền kinh tế tỉnh Izmail là ngành công nghiệp thực phẩm (chủ yếu là nấu rượu, đóng hộp và đánh cá), cũng như nông nghiệp thâm canh cao: trồng ngũ cốc và rau, dưa, nho, bông, trái cây. Các thí nghiệm đã được thực hiện trong việc trồng chanh và sung. Tỉnh đã bị bãi bỏ bởi Nghị định của Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô ngày 15 tháng 2 năm 1954, lãnh thổ được chuyển giao cho tỉnh Odesa của CHXHCNXV Ukraina. Hai tháng sau, vào ngày 26 tháng 4, Xô viết Tối cao Liên Xô phê chuẩn việc thanh lý tỉnh. Theo nhà sử học Alexander Androshchuk, tỉnh Izmail đã bị thanh lý do một cuộc kiểm tra vào năm 1952-1953, cho thấy nhiều vi phạm. Theo điều tra dân số Romania năm 1930, có 550.433 người sống trong địa bàn sau này là tỉnh Izmail, trong đó có 133.501 người Nga (24,25%), người Bulgaria - 122.530 (22,26%), người Romania (và người Moldova) - 100.150 (18,19%), người Ukraina - 81.767 (14,86%), người Đức - 60.881 (11,06%), người Gagauz - 21.593 (3,92%), những dân tộc khác - 12.373 (2,25%). Chính quyền Romania đã chọn ra 7 nghìn người Lipova thành một danh mục riêng biệt, mặc dù họ thực sự cũng là người Nga. 3.000 người Bulgaria từ làng Vaysal (Vasilyevka) được ghi nhận là người Romania. Người Đức rời Bessarabia sau khi khu vực sáp nhập vào Liên Xô. Đơn vị hành chính. Phân chia hành chính-lãnh thổ của vùng Izmail - 13 huyện::
Sự mở rộng của ASEAN Sự mở rộng của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á là quá trình mở rộng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) thông qua việc kết nạp các quốc gia thành viên mới. Quá trình này bắt đầu từ khi năm thành viên sáng lập hiệp hội ký thông qua Tuyên bố Bangkok năm 1967. Kể từ đó, số lượng thành viên ASEAN đã tăng đến con số 10 tính tới khi Campuchia gia nhập năm 1999. Hiện tại, có hai quốc gia đang ứng cử vị trí thành viên ASEAN: Papua New Guinea và Đông Timor. Hiến chương ASEAN xác định các tiêu chí sau đây để trở thành thành viên: Một trong những nghĩa vụ của một thành viên là thành viên đó trong tương lai phải đồng ý, đăng ký hoặc gia nhập tất cả các điều ước, tuyên bố và thỏa thuận trong ASEAN, bắt đầu với những điều được nêu trong Tuyên bố Bangkok ngày 8 tháng 8 năm 1967 và những điều được xây dựng và phát triển trong nhiều hiệp ước tiếp theo, các tuyên bố và thỏa thuận của ASEAN. Thành viên tương lai phải có khả năng giải quyết vấn đề chung thông qua đàm phán thì mới được tham gia vào Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN và tất cả các thỏa thuận hợp tác kinh tế khác. Một phương tiện quan trọng để định hướng cho một thành viên tương lai là tham dự các cuộc họp của ASEAN và tham gia vào các dự án hợp tác. Các nghĩa vụ khác của một thành viên là một quốc gia phải duy trì các đại sứ quán ở tất cả các quốc gia thành viên hiện tại của khối, và quốc gia đó phải tham dự tất cả các cuộc họp cấp bộ trưởng và hội nghị thượng đỉnh. Tuyên bố Bangkok không đưa ra điều kiện nào để quốc gia ở ngoài Đông Nam Á trở thành thành viên và các nguyên tắc thông thường trong quan hệ giữa các quốc gia. ASEAN không có tiêu chí thành viên nào liên quan đến đặc điểm của chính phủ, hệ thống tư tưởng và định hướng, chính sách kinh tế hay trình độ phát triển. Nếu có những tiêu chí như vậy để trở thành thành viên, thì một hiệp hội khu vực sẽ không thể tồn tại ở Đông Nam Á do tính đa dạng của nó. Các quan chức cấp cao của ASEAN đã đồng ý vào năm 1983 rằng tư cách quan sát viên chỉ nên được trao cho các thành viên tiềm năng của ASEAN đáp ứng các tiêu chí đặt ra cho tư cách thành viên ASEAN. Tiêu chí tham gia Diễn đàn Khu vực ASEAN. Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) là cơ chế đối thoại đa phương giữa các quốc gia châu Á–Thái Bình Dương nhằm thúc đẩy đối thoại và tham vấn, cũng như xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng vệ trong toàn khu vực. Các tiêu chí thành viên của ARF, cũng như các Đối tác Đối thoại khác, đã được vạch ra trong Diễn đàn ARF lần thứ hai vào năm 1996, tại Jakarta, Indonesia. Các bộ trưởng ARF đã thông qua các tiêu chí rằng các bên tham gia ARF phải là các quốc gia có chủ quyền, mà theo lệnh của Trung Quốc, rõ ràng là nhằm loại trừ Đài Loan. Họ phải "tuân thủ và tôn trọng đầy đủ các quyết định và tuyên bố do ARF đưa ra". Các tiêu chí nhấn mạnh rằng các thành viên ASEAN "tự động" tham gia ARF. Lịch sử hình thành. Thành viên sáng lập. ASEAN được thành lập vào ngày 8 tháng 8 năm 1967, khi các bộ trưởng ngoại giao của năm quốc gia - Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan - gặp nhau tại tòa nhà Bộ Ngoại giao Thái Lan ở Bangkok và ký Tuyên bố ASEAN, thường được gọi là Tuyên bố Bangkok. Năm ngoại trưởng: Adam Malik của Indonesia, Narciso Ramos của Philippines, Abdul Razak của Malaysia, S. Rajaratnam của Singapore và Thanat Khoman của Thái Lan được coi là các Nhà sáng lập của tổ chức. Tiếp tục mở rộng. Năm 1976, Papua New Guinea - quốc gia thuộc vùng Melanesia - được công nhận là quan sát viên. Khối này tiếp tục phát triển khi Brunei trở thành thành viên thứ sáu sau khi gia nhập vào ngày 8 tháng 1 năm 1984, chỉ một tuần sau khi nước này giành được độc lập vào ngày 1 tháng 1. Việt Nam trở thành quan sát viên của ASEAN vào năm 1993 và là thành viên đầy đủ thứ bảy vào ngày 28 tháng 7 năm 1995. Lào, Myanmar và Campuchia. Ba thành viên mới nhất của ASEAN bắt đầu nộp đơn xin gia nhập khối vào những năm 1990. Lào trở thành quan sát viên của ASEAN tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM) lần thứ 25 tại Manila, Philippines, vào tháng 7 năm 1992. Tại Hội nghị AMM lần thứ 28 tại Bandar Seri Begawan, Brunei, Bộ trưởng Ngoại giao Lào tuyên bố rằng ông mong muốn nhìn thấy Lào gia nhập ASEAN vào năm 1997, nêu trong đơn xin gia nhập thành viên ngày 15 tháng 3 năm 1996. Campuchia được công nhận tư cách quan sát viên tại AMM lần thứ 28 vào tháng 7 năm 1995. Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia đã nộp đơn xin trở thành thành viên trong một lá thư đề ngày 23 tháng 3 năm 1996. Giống như Lào, Campuchia cũng mong muốn gia nhập ASEAN vào năm 1997. Bộ trưởng Ngoại giao Myanmar tham dự AMM lần thứ 27 và 28 với tư cách khách mời của chính phủ nước chủ nhà. Trong cuộc họp lần thứ 28, Myanmar đã tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á và xin quy chế quan sát viên. Những người đứng đầu chính phủ của Myanmar, Lào và Campuchia đã gặp gỡ những người đồng cấp của ASEAN trong Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ năm tại Bangkok vào ngày 15 tháng 12 năm 1995. Đại diện của Myanmar bày tỏ hy vọng rằng đất nước của ông sẽ được trao tư cách quan sát viên tại AMM lần thứ 29 vào năm 1996. Ủy ban An ninh ASEAN (ASC) đã thành lập một nhóm công tác do Phó Tổng thư ký ASEAN Mahadi Haji Wasli làm trưởng nhóm, để xem xét tất cả các vấn đề về tư cách thành viên tiềm năng của Campuchia và Lào. Ngày 17 tháng 7 năm 1996, nhóm công tác đã tiến hành cuộc tham vấn với Vụ trưởng Vụ ASEAN của Lào tại Jakarta. Tại AMM lần thứ 29, Myanmar được trao tư cách quan sát viên và lần đầu tiên tham gia ARF. Ngày 12 tháng 8 năm 1996, Myanmar nộp đơn xin gia nhập ASEAN với hy vọng gia nhập vào năm 1997 cùng với Campuchia và Lào.  ASC sau đó đã mở rộng nhiệm vụ của Nhóm công tác về tư cách thành viên của Campuchia và Lào để bao gồm cả tư cách thành viên của Myanmar. Lào và Myanmar trở thành thành viên của ASEAN vào ngày 23 tháng 7 năm 1997. Tư cách thành viên của Campuchia bị hoãn lại do xung đột chính trị nội bộ; sau khi ổn định chính phủ, Campuchia gia nhập vào ngày 30 tháng 4 năm 1999. Ngoài sự gia tăng về số lượng thành viên, khối này đã nỗ lực để hội nhập sâu rộng hơn vào những năm 1990. Năm 1990, Malaysia đề xuất thành lập một (EAEC) bao gồm các thành viên lúc bấy giờ là ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, với ý định cân bằng ảnh hưởng ngày càng tăng của Hoa Kỳ tại Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) nói riêng và trong khu vực Châu Á nói chung. Tuy nhiên, đề xuất này đã thất bại do vấp phải sự phản đối gay gắt từ Hoa Kỳ và Nhật Bản. Bất chấp thất bại này, các quốc gia thành viên vẫn tiếp tục nỗ lực để hội nhập sâu hơn và ASEAN+3 được thành lập vào năm 1997. Năm 1992, Chương trình Thuế ưu đãi có Hiệu lực chung (CEPT) đã được ký kết như một lịch trình giảm dần thuế quan và nhằm tăng "lợi thế cạnh tranh của khu vực với vị thế là cơ sở sản xuất hướng đến thị trường thế giới". Chính sách này đóng vai trò là khuôn khổ cho Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN. Sau cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997, đề xuất của Malaysia đã được hồi sinh ở Chiang Mai, được gọi là Sáng kiến ​​Chiang Mai, kêu gọi hội nhập kinh tế tốt hơn giữa các nước ASEAN và ASEAN+3. Sự mở rộng trong tương lai. Papua New Guinea (PNG) là quan sát viên của khối từ năm 1976, sớm hơn bất kỳ thành viên không sáng lập ASEAN nào khác. Các nhà lãnh đạo của PNG đã thúc đẩy việc trở thành thành viên đầy đủ từ những năm 1980. Trong Hội nghị AMM lần thứ 29 năm 1996, Bộ trưởng Ngoại giao PNG Kilroy Genia đã đề xuất rằng Papua New Guinea sẽ trở thành thành viên liên kết lâu dài với ASEAN. Thủ tướng PNG Michael Somare đã tuyên bố trong chuyến thăm Philippines năm 2009 rằng đất nước của ông đang xem xét việc đăng ký trở thành thành viên chính thức. Tháng 3 năm 2012, Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono bày tỏ sự ủng hộ của ông đối với tư cách thành viên của PNG trong ASEAN. Tháng 6 năm 2013, Ngoại trưởng PNG Rimbink Pato nhắc lại rằng nước này "rất quan tâm" đến việc gia nhập ASEAN. Một trở ngại đối với việc gia nhập ASEAN của PNG là vị trí địa lý. Mặc dù nằm cách trụ sở ở Jakarta của ASEAN không xa hơn phía bắc Myanmar, PNG thường được coi là nằm ngoài Đông Nam Á và do đó không đủ tư cách thành viên. Khi quốc gia này được trao tư cách quan sát viên vào năm 1976, họ đã thừa nhận rằng PNG có cùng khu vực chính trị và kinh tế với thành viên ASEAN, và được kết nối về mặt địa lý, bởi vì quốc gia này tạo thành từ một nửa đảo New Guinea, với nửa còn lại bao gồm các tỉnh Papua và Tây Papua của Indonesia. Năm 2015, PNG đã cử đặc phái viên phụ trách các vấn đề liên quan đến ASEAN, thể hiện quyết tâm thúc đẩy việc trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN. PNG cũng đang thực hiện các bước cần thiết để chuẩn bị cho việc gia nhập. Tháng 3 năm 2011, Đông Timor đã nộp đơn xin gia nhập ASEAN, một động thái được hỗ trợ bởi Indonesia, quốc gia chiếm đóng cũ của họ nay đã trở thành đối tác và Philippines, đồng minh Công giáo duy nhất của họ ở châu Á. Timor-Leste giành được độc lập vào năm 2002 và từ năm sau đã tham gia Đại hội Thể thao Đông Nam Á, sự kiện thể thao đa môn liên kết với ASEAN. Năm 2005, nước này trở thành nước thứ 25 tham gia ARF. Khó khăn lớn nhất để gia nhập ASEAN là để đất nước trẻ và bị chiến tranh tàn phá này duy trì các đại sứ quán ở tất cả mười quốc gia thành viên ASEAN. Tổng thống Đông Timor José Ramos-Horta hy vọng sẽ trở thành thành viên trước năm 2012. Việc thiếu sự đồng thuận đã cản trở ASEAN đi đến quyết định về tư cách quan sát viên của Đông Timor và việc nước này gia nhập Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác. Hiệp ước phân biệt rõ ràng giữa quyền của các bên ký kết trong khu vực và ngoài khu vực, nhưng liệu Đông Timor có phải là một phần của khu vực hay không vẫn còn gây tranh cãi. Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long vào cuối năm 2011 đã phản đối tư cách thành viên của Đông Timor, do mong muốn đạt được hội nhập kinh tế vào năm 2015, điều mà một nước tương đối kém phát triển như Đông Timor sẽ gây khó khăn. Một số quốc gia thành viên lo ngại rằng, sau khi có sự gia nhập của bốn thành viên tương đối kém phát triển, ASEAN sẽ kết nạp thêm một thành viên thậm chí còn nghèo hơn. Năm 2015, Đại sứ Đông Timor tại Malaysia cho biết nước này sẵn sàng gia nhập ASEAN khi đáp ứng hai yêu cầu chính là có vị trí trong khu vực và đã mở đại sứ quán tại các nước thành viên ASEAN. Năm 2016, Indonesia tuyên bố rằng việc Đông Timor trở thành thành viên có thể được thực hiện vào năm 2017, dựa trên các nghiên cứu khả thi do cả hai nước tiến hành về sự ổn định, an ninh, kinh tế và văn hóa của Đông Timor sẽ được hoàn thành vào cuối năm 2016. Philippines, một đồng minh thân cận của Đông Timor, sẽ là chủ nhà ARF năm 2017.#đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vào tháng 11 năm 2022, sau Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 40 và 41 tại Phnôm Pênh, khối đã đưa ra tuyên bố đồng ý "về nguyên tắc" tư cách thành viên của Đông Timor, trao cho Đông Timor tư cách quan sát viên tại các cuộc họp cấp cao và nêu rõ rằng lộ trình trở thành thành viên đầy đủ sẽ được đệ trình trong hội nghị thượng đỉnh năm 2023. Các quốc gia muốn tham gia. Một số quốc gia đã bày tỏ sự quan tâm đến việc trở thành một phần của ASEAN mặc dù nằm ngoài giới hạn địa lý của Đông Nam Á. Năm 2011, Lào ủng hộ Bangladesh trở thành quan sát viên ASEAN. Fiji đã và đang bày tỏ sự quan tâm đến việc được cấp tư cách quan sát viên tại ASEAN. Năm 2011, Tổng thống Indonesia, Susilo Bambang Yudhoyono, được cho là đã khuyên Thủ tướng Fiji, Chuẩn đô đốc Frank Bainimarama, rằng ông sẽ ủng hộ việc xem xét yêu cầu này trong nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN của Indonesia. Sri Lanka ban đầu được mời tham gia ASEAN với tư cách là thành viên sáng lập vào ngày 8 tháng 8 năm 1967, tuy nhiên quốc gia này đã không tiến hành vì khi đó ASEAN thân phương Tây và Sri Lanka đang theo đuổi chính sách không liên kết. Singapore cũng có phản đối từ vì lo ngại bất ổn trong nước do căng thẳng giữa hai nhóm sắc tộc chính của Sri Lanka. Sự quan tâm từ trong nước sau đó trở nên rõ ràng và nước này đã cố gắng gia nhập ASEAN vào năm 1981. Năm 2007, Sri Lanka nằm trong số 27 nước tham gia ARF. Các quốc gia khác. Tháng 2 năm 2018, tổ chức tư vấn độc lập đã khuyến nghị rằng Úc nên tìm kiếm tư cách thành viên ASEAN vào năm 2024. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2018 với Fairfax Media, Tổng thống Indonesia Joko Widodo đã tuyên bố rằng Úc nên tham gia tổ chức này. Năm 2016, cựu thủ tướng Úc Paul Keating đề nghị Úc tham gia ASEAN. Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ. Tháng 5 năm 2017, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte cho biết Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ bày tỏ mong muốn gia nhập ASEAN. Sau đó, ông tuyên bố rằng ông sẽ thúc đẩy các quốc gia thành viên khác tham gia. Tháng 2 năm 2018, tổ chức tư vấn độc lập đã khuyến nghị rằng Úc và New Zealand nên cùng tham gia ASEAN vào năm 2024. Tháng 6 năm 2019, một nhà nghiên cứu tại Đại học Johns Hopkins đã khuyến nghị rằng Palau có tiềm năng tham gia một cách có ý nghĩa vào ASEAN. Sau đó, ông lập luận rằng Hoa Kỳ nên cố gắng thuyết phục Thái Lan thúc đẩy tư cách quan sát viên cho Palau trong nhiệm kỳ chủ tịch ASEAN.
Kosmopoisk (, tên đầy đủ: Общеросси́йская нау́чно-иссле́довательская обще́ственная организа́ция, ОНИОО, được dịch thành "Tổ chức Cộng đồng Nghiên cứu Toàn nước Nga"), còn gọi là Spacesearch, là một nhóm quan tâm đến nghiên cứu UFO, động vật học thần bí và điều tra hiện tượng huyền bí khác. Tổ chức này bắt đầu vào năm 1980 và mở rộng vào năm 2001 để rồi trở thành một phong trào quốc tế. Năm 2004, nhóm đăng ký dưới cái tên Tổ chức Khoa học Toàn nước Nga. Kosmopoisk hiện có hơn 2.500 thành viên tích cực, trong hơn 100 nhóm ở 25 quốc gia. Nhóm còn tự tổ chức hơn 250 chuyến thám hiểm đến các địa điểm được cho là có liên quan đến hoạt động của người ngoài hành tinh hoặc sinh vật dị thường ở Nga. Tổ chức này do nhà văn khoa học viễn tưởng người Nga Alexander Kazantsev, kỹ sư hàng không vũ trụ Vadim Chernobrov, phi hành gia Georgy Beregovoy và những người đam mê khác lập nên nhằm khám phá những bí ẩn của vũ trụ và tự nhiên, nghiên cứu những cách phát triển công nghệ vũ trụ mới và làm việc để tạo ra bước đột phá. ngành khoa học. Năm 1945, Kanzanstev bắt đầu nghiên cứu sự kiện Tunguska năm 1908 và liên kết nó với một vụ va chạm và vụ nổ UFO. Hai năm sau, có những vụ nhìn thấy UFO ở Mỹ. Năm 1980, Chernobrov và các đồng nghiệp của ông từ Viện Hàng không Moskva đã thành lập một nhóm với mục tiêu thu thập thông tin về UFO và các sự kiện dị thường ở Liên Xô, phát triển thiết bị Lovondatr (còn được gọi là "xe thời gian") và gửi các đoàn thám hiểm nhằm khám phá những vùng dị thường hứa hẹn nhất. Năm 2004, nhóm tự đăng ký là Kosmopoisk (Tổ chức Khoa học Toàn nước Nga). Họ coi mình là tổ chức nghiên cứu công cộng phi thương mại lớn nhất trên thế giới. Một sự kiện thường niên khác là chuyến thám hiểm "giám sát" tới miền Nam nước Nga, chủ yếu là tới Krasnodar Krai để điều tra vòng tròn đồng ruộng trước khi chúng bị khách du lịch hủy hoại. Nhóm còn triển khai "UfoSETI" nhằm mục đích thu thập và phân tích các báo cáo về phát hiện UFO và khám phá vòng tròn đồng ruộng ở Nga. Từ năm 2002 đến năm 2003, nhóm đã thực hiện các chuyến thám hiểm đến Hồ Brosno ở tỉnh Tver để tìm kiếm sinh vật dưới nước mang tên Rồng Brosno hoặc "Brosnya".
Vision Ovni là một tổ chức nghiên cứu UFO quốc gia của Argentina được Silvia Simondini thành lập vào năm 1991. Vào giữa năm 1991, Vision Ovni bắt đầu hoạt động tại thành phố Victoria, Entre Rios. Báo chí Argentina bắt đầu đưa tin về vụ chứng kiến luồng ánh sáng lạ phát ra từ hồ Laguna del Pescado. Nhiều người từng nhìn thấy hiện tượng này và đài truyền hình quốc gia ghi nhận hiện tượng chưa được các trường đại học hoặc chuyên gia UFO nghiên cứu chi tiết. Báo chí đưa tin về các vụ nhìn thấy UFO rất cao trong suốt thập niên 1990 cho đến nay. Có những nhóm nhỏ tồn tại ở một số thành phố của Argentina nhưng không ai cư trú ở Victoria cho đến khi Vision Ovni được thành lập. Trong thập niên 1970, quân đội Argentina đã rà soát đáy hồ Laguna del Pescado để tìm kiếm những hiện tượng kỳ lạ. Hầu hết đều tin rằng luồng ánh sáng dị thường hiện diện ở đó. Năm 2009, Vision Ovni và nhiều nhà nghiên cứu UFO khác đã lập nên một tổ chức của Argentina mang tên Cefora ("Ủy ban Cộng hòa Argentina về Nghiên cứu Hiện tượng UFO") nhằm nghiên cứu chi tiết về hiện tượng UFO. Silvia Simondini và nhiều người khác bắt đầu thu thập các dấu hiệu để lấy tài liệu giải mật UFO của Argentina. Mục tiêu của Vision Ovni gồm:
UfoCom hoặc UFOCOM là viết tắt của Belarusian UFOlogical COMmunity (tên trước đây và tên nội bộ: "Ủy ban UFO học Belarus") là một tổ chức công phi thương mại, phi chính phủ, không đăng ký tại Belarus. UfoCom do nhóm những người đam mê, chủ yếu là sinh viên thuộc Học viện Nông nghiệp Nhà nước Belarus thành lập vào năm 2001 tại Horki, Belarus, chủ yếu nghiên cứu các hiện tượng huyền bí tại khu vực địa phương. Sau đó, nhóm đã phát triển thành một cộng đồng tình nguyện viên được kết nối trên toàn quốc, thực hiện các dự án nghiên cứu phân tích và giám sát hoạt động của UFO tại địa phương và trên khắp cả nước. Quan hệ với Kosmopoisk. Kể từ năm 2005, UfoCom đã là một phần của phong trào quốc tế Kosmopoisk, chính thức đóng vai trò là văn phòng không đăng ký và nút công khai cho mạng lưới nghiên cứu dị thường/UFO toàn CIS. Các cuộc họp thực địa hàng năm toàn Belarus được Kosmopoisk và UfoCom đồng tổ chức ở những địa điểm trên khắp cả nước được coi là đáng chú ý và hấp dẫn nhất theo quan điểm của giới nghiên cứu UFO.#đổi Điều phối viên của UfoCom cũng đóng vai trò là điều phối viên cho chi nhánh khu vực Belarus của Kosmopoisk Unity (Kosmopoisk-Belarus). Từ năm 2006, điều phối viên của UfoCom là Ilya Butov. Quan hệ với Giáo hội Chính thống giáo. Năm 2005, UfoCom được đưa vào danh sách các tổ chức tôn giáo phá hoại của Belarus do một loạt bài báo không thân thiện đối với nhà thờ, do lãnh đạo trước đây của UfoCom tên là Ruslan Linnik xuất bản. Vấn đề cuối cùng đã được giải quyết là nhờ Linnik rút khỏi các hoạt động của UfoCom vào năm 2006. Cơ cấu tổ chức. UfoCom bao gồm một số nhóm địa phương ở các thành phố lớn ở Belarus, hoạt động tích cực nhất ở Minsk và Brest, cũng như ở Vitebsk, Horki và các khu vực khác, cùng với một số thành viên cá nhân và thành viên tương ứng từ Belarus và nước ngoài. Ngoài ra, còn tồn tại một nhóm thám hiểm đô thị đặc biệt có tên là Diggers of Brest, chuyên thực hiện nghiên cứu về các địa điểm dưới lòng đất như Pháo đài Brest và các công sự cổ xưa và bị bỏ hoang từ thời Xô Viết, và một nhóm khảo cổ có tên là Artefact. UfoCom tập trung nghiên cứu các hiện tượng dị thường khác nhau (UFO, vòng tròn đồng ruộng, yêu tinh phá hoại), các địa điểm va chạm thiên thạch, các di tích lịch sử dân sự, quân sự và tôn giáo. Nghiên cứu được tiến hành với sự hợp tác chặt chẽ với Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Belarus và các cơ sở của Viện này. Hợp tác và đối tác. Hoạt động nghiên cứu chung. UfoCom tham gia rộng rãi và hỗ trợ các sáng kiến nối nối mạng lưới khác nhau (chủ yếu dựa trên Kosmopoisk) ở Belarus: Kể từ năm 2005, một số thành viên UfoCom và các hoạt động vừa triển khai được đề cử giải thưởng thường niên Kosmopoisk. Năm 2007, hai tình nguyện viên UfoCom đã được trao bằng khen từ March for Parks, do chương trình môi trường quốc tế của Trung tâm Bảo tồn Đa dạng sinh học Nga tổ chức (lần đầu tiên trong lịch sử hậu Liên Xô, các thành viên của cộng đồng UFO nhận được giải thưởng cho các hoạt động bảo vệ thiên nhiên). Truyền thông đưa tin. UfoCom thu thập và cung cấp cả một thư viện tài liệu khác nhau dành cho việc nghiên cứu hiện tượng dị thường, bao gồm cả các vật phẩm quý hiếm. Để thúc đẩy nghiên cứu và kết quả của chúng, tổ chức này còn xuất bản tờ báo định kỳ "Anatomy of Phenomena" trên cơ sở phi thương mại.
Từng đảm nhiệm MC phía đông Lễ Khai Mạc Thế Vận Hội Trung Học Sinh Thế Giới Năm 98. Chủ trì Đêm văn nghệ chào mừng Ma Cao Trở Về - Khu Tịnh An Năm 1999. Cùng thời, còn đảm nhiệm giáo dục đài "Máy Tính và Thông Tin" và MC chuyên mục "Tác Phẩm Bộ Tác". Năm 2001, Vu Nghị tốt nghiệp Khoa Nghệ Thuật Truyền Hình - Học viện Hý kịch Thượng Hải Đến nay, Anh vẫn hoạt động trong showbiz. Vai diễn của Vu Nghị bao gồm Vu Nghị cũng là người có tình yêu kịch và nhạc kịch. Anh đã từng cùng Trương Học Hữu hợp tác diễn xuất trong "Hồ Sói Tuyết". Năm 2007, Vu Nghị đạt được "Tá Lâm - Giải Nam Diễn Viên Phụ Xuất Xắc". Năm 2008, Vu Nghị không dự định hoạt động nhạc kịch và kịch. Vậy nên, anh chỉ diễn xuất trên phim truyền hình. Năm 2010, anh lại lần nữa lên trên sân khấu kịch. Đảm nhận diễn chính "Thằng Khốn Chiến Lược". Khán giả yêu mến Vu Nghị một lần nữa đánh giá cao phong thái của anh trên sân khấu. Dựa vào " đoạt được giải “ - Nhân Vật Được Khán Giả Yêu Thích Nhất 2013”. Ngày 4 Tháng 2 Năm 2019, cùng ca sĩ Ngạo Nhật Kỳ Lăng, tham gia ". Ngày 22 tháng 2, cùng tham gia quay phát sóng Hồ Nam Tinh Vệ "". Cùng năm, anh còn tham gia "Tân Tiến Ca Sĩ" tham gia thân phận cuộc thi âm nhạc ". Ngày 24 Tháng 1 Năm 2020, cùng ca sĩ Lý Vinh Hạo, Vương Tuấn Khải tham gia ", biểu diễn bài "Ba Ba Ma Ma" nhất trí được mọi người khen khợi. Sự nghiệp diễn xuất. Năm 2001, tham gia quay một người tập một bộ phim truyền hình "Quạt Xếp Thám Hoa" trong vai diễn tên Thẩm Tây Minh. Và dựa vào bộ phim mà chính thức bước chân vào showbiz. Năm 2002, tham gia quay phim Trương Đình, Nhậm Đạt Hoa đóng vai chính chủ đề phim bóng đá truyền cảm hứng tuổi trẻ "Ý chí hùng tráng" trong vai Lưu Duy. Năm 2003, tham gia diễn xuất phim do Tưởng Gia Tuấn đạo diễn. Lâm Tâm Như, Lục Nghị diễn cùng vai chính bộ phim tình cảm đô thị truyền cảm hứng thời trang "Trai Tài Gái Sắc" trong vai diễn Triệu Lỗi. Năm 2004, cùng Tôn Hưng, Choi Ji-woo hợp tác. Diễn chính do Hoắc Diệu Lương, Trương Mẫn đạo diễn phim bộ chủ đề tình yêu “101 Lần cầu hôn” trong phim đóng vai em Tôn Hưng - Trịnh Kim Nguyên. Cùng năm, tham gia diễn do Tưởng Gia Tuấn đạo diễn. Huỳnh Hiểu Minh, Vu Na đóng vai thứ chính trong phim thời trang “Trai Tài Nữ Sắc”. Phim vào tháng 4 năm 2005 ở CCTV 8 phát sóng. Năm 2005, tham gia diễn phim Tưởng Gia Tuấn, Chung Thiếu Hùng đạo diễn. Lâm Phong, Trần Di Dung đóng chính phim thời trang tình yêu “Sức Sống Mới Của Tình Yêu” trong phim đóng vai Richard. Năm 2006, tham gia quay phim Đồng Lôi, Quách Hiểu Đông đóng chính phim bộ hồi hộp, tình yêu “Ai Hiểu Trái Tim Tôi” đóng vai anh Thiệu Vĩnh Khang - La Nhất Dương. Phim vào tháng 4 năm 2008 phát sóng. Năm 2007, lại tham gia diễn phim Tưởng Gia Tuấn đạo diễn phim bộ tình cảm thành phố đô thị “Thương Thành Chi Luyến”, phim do Hoắc Kiến Hoa, Tần Lam đóng vai chính. Vào năm 2008, phát sóng ở Hồng Kông, Trung Quốc. Năm 2008, cùng Lưu Chi Băng, Tôn Ninh đóng chung vai chính phim bộ đô thị “Vĩnh Bất Ngôn Thối” trong phim đóng vai Triệu Bác Phong. Cùng năm, trong phim hồi hộp do Liên Gián đạo diễn ”Lời Hứa Sống Chết” trong phim đóng vai Lục Thiên Dương. Sau đó, tham gia diễn cùng Diêu Thiên Vũ, Bảo Kiếm Phong cùng đóng vai chính trong phim bộ tình cảm “Nhân Sinh Ảo Mộng” trong phim đóng vai anh Nhạc Tiểu Mai - Nhạc Phong. Năm 2009, tham gia diễn do Hà Lạc, La Cương hợp tác đạo diễn. Hoắc Kiến Hoa, Trương Manh, Hoàng Giác cùng đóng chính phim bộ dân quốc “Thám Tử Đường Lang” . Năm 2010, tham gia diễn xuất trong phim do Lâm Long, Hà Lạc cùng đạo diễn. Phim bộ tình cảm đô thị “Kim Chi Ngọc Diệp” trong vai cảnh sát Đỗ Xuyên. Vào tháng 8 năm 2011 ở CCTV 8 phát sóng. Cùng năm, tham gia diễn trong phim do Trương Quốc Lập đạo diễn. Đường Quốc Cường, Trương Quốc Lập, Tưởng Cần Cần cùng đóng chính, phim bộ lấy bối cảnh đàm phán Trùng Khánh và lịch sử chiến tranh “Mưa Gió Trùng Khánh Năm 1945” đóng vai Vương Long Nhất. Năm 2011, cùng Ngô Tú Ba, Trương Gia Dịch cùng đóng vai chính phim chuyên ngành Y tế “Tâm Thuật” trong phim đóng vai bác sĩ làm náo bị bệnh viện khai trừ. Được bệnh viện sắp xếp lại có mối quan hệ xấu với luật sư, Cốc Siêu Hoa. Và hát bài hát “Cảm Động” chủ đề cho phim. Cùng năm, tham gia diễn xuất cùng Hồ Tĩnh, Trần Sở Hà diễn chính trong phim “Tiếu Hồng Nhan” đóng vai Tô Minh Lợi. Và hát bài hát “Tìm Hoa” mở đầu phim. Sau đó cùng Huỳnh Hải Băng, Trương Manh cùng diễn vai chính. Phim nhân ngày 90 năm thành lập đảng “Khai Thiên Lập Địa” trong phim đóng vai phản diện Uông Tinh Vệ. Cùng năm, đóng chính do Lý Huệ Dân đạo diễn trong phim “Tiếng Chuông Sống Chết” trong phim đóng một vai phong độ ngời ngời, tâm cơ cẩn mật, tôn sùng mỹ ý nghiêm trọng phản diện Cú Ngôn Bạch. Năm 2012, diễn xuất thủ vai trong bộ phim điện ảnh "Nguỵ Tình” cải biên từ bộ tiểu thuyết kinh dị cùng tên mà thành. Do Lương Đình đạo diễn, vào năm 2012 công chiếu tại Trung Quốc nhân ngày Halloween. Cùng năm, tham gia diễn xuất trong phim Lư Luân Thường và Lý Văn Long đạo diễn. Phim bộ đô thị tình cảm “Phía Trước Tình Yêu Ai Sợ Ai” đóng vai lương thiện, ngay thẳng chủ quản Lê Hải Ba. Năm 2013, đóng chính trong phim Trương Đa Phúc đạo diễn “Bộ Ba Hạnh Phúc” loạt phim bộ thứ hai “Hạnh Phúc Ở Nơi Nào” đóng vai nhân vật phản diện, bề ngoài tốt bụng nhưng tính cách không ra gì - Hàn Giang Xuyên. Cùng năm, trong phim Lâm Thiêm Nhất đạo diễn. Hồ Tĩnh, Ông Hồng đóng chính trong phim bộ “Giọt Nước Mắt Mỹ Nhân” đóng trong vai Cao Lập Bá. Cùng năm, diễn xuất phim cổ trang “Nữ Nhân Của Hoàng Đế” trong phim đóng Vua Trần Quốc - Hồ Hợi, bộ phim cổ trang thứ hai Vu Nghị diễn xuất. Cùng năm tháng 10, nhờ vào phim bộ “Đả Cẩu Bổng” trong vai Nhị Nha Đầu, đoạt được giải “Quốc Tịch Thịnh Điển - Nhân Vật Được Khán Giả Yêu Thích Nhất 2013”. Năm 2014, cùng Dương Chí Cương diễn chính phim do Quách Tĩnh Vũ, Bách Sam đạo diễn phim “Trái Tim Dũng Cảm” vai Triệu Thư Thành, và hát nhạc chủ đề và kết thúc phim. Cùng năm, lần đầu đóng chính trong phim web drama “Dẫn Độ Linh Hồn”. Sau đó, đóng chính phim bộ do Trương Đa Phúc đạo diễn “Tuyệt Địa Thương Vương” phát sóng trên bốn kênh truyền hình vệ tinh. Năm 2015, tiếp tục diễn chính “Dẫn Độ Linh Hồn” tiếp tục bộ phim web drama thứ 2 “Dẫn Độ Linh Hồn 2” cùng biểu diễn bài hát chủ đề cùng tên “Dẫn Độ Linh Hồn” và sáng tác bài hát kết thúc phim “Quân Sinh Ta Chưa Sinh”. Cùng năm, đóng chính phim do Thường Âu Dương đạo diễn “Quay Người Gặp Được Em”.
Tía tui là cao thủ Tía tui là cao thủ là một bộ phim điện ảnh Việt Nam thuộc thể loại hài – hành động – võ thuật công chiếu năm 2016 do Trần Ngọc Giàu và Nguyễn Thành Nam làm đạo diễn, với phần kịch bản do Ngô Thế Đàm chắp bút. Với sự tham gia diễn xuất của các diễn viên chính gồm Hoài Linh, Việt Hương, Khả Như, Ái Phương, Ngô Kiến Huy, Hoài Lâm, Tấn Beo và Cát Tường, phim theo chân ông Tư Nho – một vị thầy thuốc có kỹ năng võ thuật siêu đẳng phải tức tốc sang thành phố Hồ Chí Minh để giải cứu người vợ và những đứa con của mình thoát khỏi cạm bẫy trước dinh thự của bà Liên – người yêu cũ của ông. Bộ phim có buổi ra mắt tại các cụm rạp ở Việt Nam vào ngày 29 tháng 1 năm 2016, và nhận về những lời nhận xét trái chiều từ giới chuyên môn. Mặc dù vậy, bộ phim là một thành công về mặt doanh thu khi thu về 50 tỷ VND từ kinh phí sản xuất 10 tỷ VND. Một phiên bản truyền hình dài ba tập của bộ phim được công chiếu với thời lượng 45 phút mỗi tập. Ông Tư Nho và bà Nhã là một cặp vợ chồng sống yên ấm cùng bốn người con gồm Trúc, Sương, Vũ và Dũng ở một làng quê miền Tây Nam Bộ. Là một cao thủ võ thuật với kỹ năng siêu đẳng, thế nhưng ông Tư Nho lại có một lối sống rất giản dị, hằng ngày ông chuyên châm cứu và chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, vì thế ông được người dân trong xóm yêu mến, kính trọng. Các con của ông hằng ngày được dạy và luyện võ, họ thường ra tay giúp đỡ và bênh vực những người yếu. Bỗng một ngày, cuộc sống gia đình của ông Tư Nho bất ngờ bị xáo trộn khi có được số tiền lớn từ việc bán đất. Sau một hồi cãi vã, bọn họ quyết định đi đến thành phố Hồ Chí Minh để lập nghiệp, nhưng vì những sự cố phút cuối đã khiến cho cả gia đình bị chia tách làm hai và mất liên lạc với nhau. Trong khi ông Tư Nho và Dũng ở lại chữa bệnh cho người nghèo và cùng nhau luyện võ, thì bà Nhã và ba người con còn lại bị mắc kẹt ở thành phố, và họ may mắn gặp được ông Bá – một trùm giang hồ khét tiếng và là cánh tay đắc lực của bà Liên, một thương gia giàu có vừa trở về từ Mỹ. Dưới sự giúp đỡ của ông Bá, bà Nhã và ba người con của mình chuyển đến dinh thự của bà Liên để sinh sống. Từ đó, họ có một cuộc sống yên vui và hạnh phúc trong giàu sang. Đến một ngày nọ, khi đã đến ngày thanh toán cho việc sống ở dinh thự, bà Nhã và ba người con do không có tiền nên họ đều bị bắt nhốt trong phòng tối. Vũ nhanh chóng nhìn thấy chiếc điện thoại và gọi điện yêu cầu ông Tư Nho đến giải cứu họ, thế là ông và Dũng nhanh chóng đi đến dinh thự của bà Liên để giải cứu. Dũng lẻn vào phòng tối và giải cứu các anh chị của mình, còn ông Tư Nho vào trong sảnh và đối mặt với bà Liên. Cả hai đều có những màn tranh đấu rất quyết liệt và bà Liên đã thắng ông Tư Nho một nhịp. Nhưng khi vô tình lấy được chiếc vải thêu hoa sen – thứ mà ông Tư Nho bao lâu nay vẫn gìn giữ, bà Liên mới nhận ra rằng bà là người yêu cũ khi xưa của ông Tư Nho. Nhiều năm trước, ông Tư Nho và bà Liên đều luyện võ và nảy sinh tình cảm với nhau từ khi còn rất trẻ, nhưng không biết vì một lý do gì mà bà Liên đã rời xa ông. Sau những phút trải lòng, dù không còn ở bên nhau như trước, nhưng cả hai vẫn sẽ giữ liên lạc với nhau. Bên phía đối diện, bà Nhã tự mình giải cứu, và cả gia đình ông Tư Nho cùng với bà Liên đều hợp sức đánh bại những kẻ xấu gian ác. Lúc này, ông Bá mới trở mặt, và bà Liên mới nhận ra rằng hắn đã lợi dụng sự tin tưởng của gia đình ông Tư Nho cũng như chính bà để thực hiện một phi vụ phạm pháp. Ngay khi ông Bá chuẩn bị cầm súng bắn chết họ, thì Dũng đã nhanh chóng phi kim châm trúng vào cổ của hắn, làm cho hắn rơi vào trạng thái ngủ vĩnh viễn. Dũng cuối cùng cũng đã được công nhận tài năng bằng sự nhanh trí của mình, và cả gia đình đều ôm chầm lấy nhau đầy hạnh phúc. Nhiều ngày sau, bà Liên quay về Mỹ để sinh sống, còn gia đình ông Tư Nho đều trở về với cuộc sống hạnh phúc như xưa ở làng quê. Các diễn viên khác xuất hiện trong phim bao gồm Lê Khâm trong vai Gấu; Dũng nhí vào vai một trong những giang hồ ngoài đường; Thanh Phương vào vai một trong những đàn em của ông Bá và Thành Khôn trong vai hàng xóm ở làng quê. [[Thể loại:Phim năm 2016]] [[Thể loại:Phim tiếng Việt]] [[Thể loại:Phim Việt Nam]] [[Thể loại:Phim lấy bối cảnh ở Sài Gòn]] [[Thể loại:Phim quay tại Việt Nam]] [[Thể loại:Phim lấy bối cảnh ở Việt Nam]] [[Thể loại:Phim hài Việt Nam]] [[Thể loại:Phim hành động Việt Nam]] [[Thể loại:Phim võ thuật Việt Nam]] [[Thể loại:Phim hài võ thuật]] [[Thể loại:Phim hài hành động]] [[Thể loại:Phim về gia đình]] [[Thể loại:Phim của Sóng Vàng]]
Sáng kiến ​​Chiang Mai Sáng kiến ​​Chiang Mai (tiếng Anh: Chiang Mai Initiative, viết tắt: CMI) là một thỏa thuận hoán đổi tiền tệ đa phương giữa mười thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Trung Quốc (bao gồm cả Hồng Kông), Nhật Bản và Hàn Quốc. Sáng kiến này được trích từ dự trữ ngoại hối nhà nước 120 tỷ đô la Mỹ và được khởi động vào ngày 24 tháng 3 năm 2010. Quỹ đó đã được mở rộng lên 240 tỷ đô la Mỹ vào năm 2012. Sáng kiến ​​bắt đầu như một loạt các thỏa thuận hoán đổi song phương sau khi các nước ASEAN+3 gặp nhau tại một cuộc họp thường niên của Ngân hàng Phát triển châu Á, vào ngày 6 tháng 5 năm 2000 tại Chiang Mai, Thái Lan. Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997, các nước thành viên khởi động sáng kiến ​​này nhằm quản lý các vấn đề thanh khoản ngắn hạn trong khu vực và tránh phụ thuộc vào Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Bloomberg ước tính rằng các thành viên Sáng kiến Chiang Mai đã nắm giữ hơn 4,1 nghìn tỷ đô la Mỹ dự trữ ngoại hối trong năm 2009.
Lethrinus erythracanthus là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830. Từ định danh "erythracanthus" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: "eruthrós" (ἐρυθρός; “đỏ”) và "ákantha" (ἄκανθα; “gai, ngạnh”), hàm ý đề cập đến màu đỏ nổi bật trên các tia vây của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "L. erythracanthus" có phân bố trải rộng trên vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Marshall và Tuamotu, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), giới hạn phía nam đến Úc, Nouvelle-Calédonie và Tonga. Ghi nhận ở Oman đối với "L. erythracanthus" cần phải xác minh lại. "L. erythracanthus" cũng xuất hiện tại quần đảo Trường Sa (Việt Nam), được ghi nhận dưới danh pháp "L. kallopterus". "L. erythracanthus" sống ở khu vực có nền đáy mềm, trong vùng đầm phá sâu và đới trước rạn, độ sâu khoảng 15–120 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất ở "L. erythracanthus" là 70 cm, nhưng thường bắt gặp với chiều dài khoảng 50 cm. Thân màu nâu đến xám đậm, lốm đốm những chấm sáng và sẫm màu rải rác, đôi khi có các vệt sọc nhạt ở thân dưới. Đầu màu nâu hoặc xám, thường có nhiều chấm cam trên má. Vây ngực và vây bụng màu trắng hoặc cam, vây lưng và vây hậu môn lốm đốm cam và hơi xanh, vây đuôi thường có màu cam sáng. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 4 hoặc 5 thường dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 47–48. Thức ăn của "L. erythracanthus" chủ yếu là động vật da gai, động vật giáp xác và động vật thân mềm. "L. erythracanthus" được bán ở dạng tươi sống. Đây được coi là một loại cá có giá trị dinh dưỡng cao và được nhắm mục tiêu ở Fiji. Tuy nhiên, ở một số khu vực, thịt của chúng có thể gây ngộ độc ciguatera.
Lâm Tích Diệu (; sinh ngày 25 tháng 12 năm 1961) là một chính trị gia người Đài Loan. Lâm Tích Diệu theo học ngành kỹ thuật xây dựng dân dụng tại Đại học quốc lập Đài Loan, nơi ông lấy bằng cử nhân và thạc sĩ vào năm 1983 và 1990. Vào ngày 7 tháng 4 năm 2016, Viện trưởng được bổ nhiệm Lâm Toàn đã chỉ định Lâm Tích Diệu vào vị trí phó viện trưởng. Lâm Tích Diệu từ chức vào tháng 9 năm 2017, sau đó được trao tặng Huân chương Cảnh tinh. Sự nghiệp chính trị. Lâm Tích Diệu sau đó hoạt động trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2020 của Thái Anh Văn. Bà chiến thắng trong nhiệm kỳ thứ hai, sau đó ông được bổ nhiệm làm bí thư trưởng của Đảng Dân chủ Tiến bộ.
Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2023 Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2023 là một giải quần vợt Grand Slam thi đấu trên mặt sân đất nện ngoài trời. Giải đấu được diễn ra tại Stade Roland Garros ở Paris, Pháp, từ ngày 28 tháng 5 đến ngày 11 tháng 6 năm 2023, bao gồm các nội dung đơn, đôi và đôi nam nữ. Giải đấu cũng có nội dung trẻ và xe lăn. Đây là lần thứ 127 Giải quần vợt Pháp Mở rộng được tổ chức và là giải Grand Slam thứ hai trong năm 2023. Rafael Nadal là đương kim vô địch nội dung đơn nam, nhưng rút lui do chấn thương. Đây là lần đầu tiên Nadal không tham dự giải đấu kể từ lần đầu tham dự vào năm 2005. Iga Świątek là đương kim vô địch nội dung đơn nữ. Tóm tắt từng ngày. Ngày 1 (28 tháng 5). Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Dan Evans [20], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Maria Sakkari [8], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Magda Linette [21], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ngày 2 (29 tháng 5). Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Félix Auger-Aliassime [10], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jan-Lennard Struff [21], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Botic van de Zandschulp [25], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Bernabé Zapata Miralles [32] Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Petra Kvitová [10], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Veronika Kudermetova [11], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Belinda Bencic [12], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Karolína Plíšková [16], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ngày 3 (30 tháng 5). Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Daniil Medvedev [2], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Barbora Krejčíková [13], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Victoria Azarenka [18], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Anhelina Kalinina [25], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Sorana Cîrstea [30], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Marie Bouzková [31], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Nikola Mektić / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Mate Pavić [8], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Rinky Hijikata / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ngày 4 (31 tháng 5). Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Roberto Bautista Agut [19], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Caroline Garcia [5], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Liudmila Samsonova [15], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jeļena Ostapenko [17], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Rohan Bopanna / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Matthew Ebden [6], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Nathaniel Lammons / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Barbora Krejčíková / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Demi Schuurs / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ngày 5 (1 tháng 6). Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jannik Sinner [8], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Tommy Paul [16], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Alex de Minaur [18] Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Madison Keys [20], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jessica Pegula / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ngày 6 (2 tháng 6). Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Andrey Rublev [7], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Hubert Hurkacz [13], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Cameron Norrie [14], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Denis Shapovalov [26], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Alejandro Davidovich Fokina [29] Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jessica Pegula [3], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Anastasia Potapova [24], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Hugo Nys / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Desirae Krawczyk / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Joe Salisbury [2], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ellen Perez / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ngày 7 (3 tháng 6). Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Taylor Fritz [9], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Frances Tiafoe [12], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Elena Rybakina [4], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Rajeev Ram / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Joe Salisbury [2], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Santiago González / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Édouard Roger-Vasselin [9], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jamie Murray / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Lyudmyla Kichenok / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jeļena Ostapenko [4], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Shuko Aoyama / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Giuliana Olmos / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Neal Skupski [3], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Lyudmyla Kichenok / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Matthew Ebden [5], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Zhang Shuai / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ngày 8 (4 tháng 6). Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Daria Kasatkina [9], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Lloyd Glasspool / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Kristina Mladenovic / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Zhang Shuai [9], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Xu Yifan / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Yang Zhaoxuan [11], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Asia Muhammad / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Giuliana Olmos [12], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Marta Kostyuk / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Elena-Gabriela Ruse [13], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Miyu Kato / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ngày 9 (5 tháng 6). Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Francisco Cerúndolo [23], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Yoshihito Nishioka [27], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Marcelo Arévalo / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jean-Julien Rojer [3], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Máximo González / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Storm Hunter / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Elise Mertens [3], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Desirae Krawczyk / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Demi Schuurs [5], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Gabriela Dabrowski / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ngày 10 (6 tháng 6). Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Stefanos Tsitsipas [5], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Wesley Koolhof / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Neal Skupski [1], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Kevin Krawietz / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Marta Kostyuk / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ngày 11 (7 tháng 6). Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Coco Gauff [6], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Chan Hao-ching / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Latisha Chan [14], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Veronika Kudermetova / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ngày 12 (8 tháng 6). Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Aryna Sabalenka [2], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Beatriz Haddad Maia [14] Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Marcel Granollers / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Horacio Zeballos [10], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Matwé Middelkoop / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ngày 13 (9 tháng 6). Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Carlos Alcaraz [1], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Coco Gauff / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jessica Pegula [2], #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Nicole Melichar-Martinez / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ngày 15 (11 tháng 6). Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Leylah Fernandez / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng ATP vào ngày 22 tháng 5 năm 2023. Xếp hạng và điểm trước vào ngày 29 tháng 5 năm 2023. † Tay vợt không vượt qua vòng loại ở giải đấu năm 2022 nhưng có điểm bảo vệ từ một giải ATP Challenger Tour (Little Rock). Tay vợt rút lui khỏi giải đấu. Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống, nhưng rút lui trước khi giải đấu bắt đầu. Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng WTA vào ngày 22 tháng 5 năm 2023. Xếp hạng và điểm trước vào ngày 29 tháng 5 năm 2023. † Tay vợt không vượt qua vòng loại ở giải đấu năm 2022. Thay vào đó, điểm tốt nhất của lần 16 sẽ được thay thế vào. Tay vợt rút lui khỏi giải đấu. Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống, nhưng rút lui trước khi giải đấu bắt đầu. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Novak Djokovic đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Casper Ruud, 7–6(7–1), 6–3, 7–5 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Iga Świątek đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Karolína Muchová, 6–2, 5–7, 6–4 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ivan Dodig / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Austin Krajicek đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Sander Gillé / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Joran Vliegen, 6–3, 6–1 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Hsieh Su-wei / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Wang Xinyu đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Taylor Townsend 1–6, 7–6(7–5), 6–1 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Miyu Kato / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Tim Pütz đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Bianca Andreescu / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Michael Venus, 4–6, 6–4, [10–6] Đơn nam xe lăn. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Tokito Oda đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Alfie Hewett, 6–1, 6–4 Đơn nữ xe lăn. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Diede de Groot đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Yui Kamiji, 6–2, 6–0 Đơn xe lăn quad. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Niels Vink đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Sam Schröder, 3–6, 6–4, 6–4 Đôi nam xe lăn. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Alfie Hewett / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Gordon Reid đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Martín de la Puente / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Gustavo Fernández, 7–6(11–9), 7–5 Đôi nữ xe lăn. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Yui Kamiji / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Kgothatso Montjane đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Diede de Groot / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. María Florencia Moreno, 6–2, 6–3 Đôi xe lăn quad. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Andy Lapthorne / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Donald Ramphadi đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Heath Davidson / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Robert Shaw, 1–6, 6–2, [10–3] Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Dino Prižmić đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Juan Carlos Prado Ángelo, 6–1, 6–4 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Alina Korneeva đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Lucciana Pérez Alarcón, 7–6(7–4), 6–3 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Yaroslav Demin / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Rodrigo Pacheco Méndez đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Lorenzo Sciahbasi / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Gabriele Vulpitta, 6–2, 6–3 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Tyra Caterina Grant / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Clervie Ngounoue đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Alina Korneeva / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Sara Saito, 6–3, 6–2 Điểm và tiền thưởng. Dưới đây là bảng phân bố điểm cho từng giai đoạn của giải đấu: Tổng số tiền thưởng của Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2023 là €49,600,000, tăng 12.3% so với năm 2022. Miyu Kato và Aldila Sutjiadi bị truất quyền thi đấu sau khi Kato vô tình đánh bóng trúng vào một cô bé nhặt bóng trong trận đấu đôi của họ ở vòng 3. Vụ việc đã gây ra tranh cãi và chỉ trích Marie Bouzková và Sara Sorribes Tormo, những người đã phản ứng quyết liệt yêu cầu về việc loại. Kato đánh một cú trái một tay vô tình trúng cô bé nhặt bóng, khiến cô bé này bật khóc vì đau. Mặc dù Kato đã xin lỗi và nhận cảnh cáo từ trọng tài, Bouzková và Sorribes Tormo nhất quyết phải truất quyền thi đấu. Sau khi tham khảo ý kiến ​​của các quan chức, Kato và Sutjiadi đã bị xử thua. Hình phạt nặng đã nhận được phản ứng dữ dội từ người xem và bình luận viên quần vợt. Cựu tay vợt Gilles Simon đã chỉ trích hành động của Bouzková và Sorribes Tormo. Vụ việc đã thu hút sự chú ý rộng rãi và làm dấy lên những cuộc tranh cãi về tinh thần thể thao trong quần vợt. Kato đã đưa ra lời xin lỗi, bày tỏ sự hối tiếc về sự cố ngoài ý muốn. Trong buổi lễ trao cúp, Ivan Dodig, nhà vô địch đôi nam Roland Garros, bày tỏ sự thất vọng với ban tổ chức Giải quần vợt Pháp Mở rộng, nói rằng anh đã không được đối xử như mọi vận động viên nên có. Dodig nói rằng anh đã di chuyển bằng taxi trong 15 ngày, thường xuyên bị chậm chuyến và có cảm giác như một khách du lịch ở Paris. Anh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đối xử bình đẳng với tất cả các tay vợt để duy trì sự cạnh tranh công bằng. Đáp lại lời chỉ trích của Dodig, giám đốc giải đấu Amelie Mauresmo cho rằng lời nói của anh là "không thể chấp nhận được" và tìm cách làm rõ tình hình. Mauresmo chỉ ra rằng có rất nhiều khách sạn trong bán kính ba dặm tính từ địa điểm thi đấu và bất kỳ tay vợt nào cũng có thể đặt phương tiện di chuyển trong phạm vi năm kilômét. Cô đề cập rằng Dodig đã chọn một khách sạn ở một khu vực khác của Paris, cách xa địa điểm thi đấu, nhưng các lựa chọn thay thế đã được đưa ra cho anh. Tuy nhiên, Mauresmo giải thích rằng ban tổ chức ưu tiên tính bền vững của môi trường và có nguồn lực hạn chế, bao gồm cả cách tiếp cận với giao thông vận tải.
Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2023 - Đơn nam Novak Djokovic là nhà vô địch, đánh bại Casper Ruud trong trận chung kết, 7–6(7–1), 6–3, 7–5. Đây là danh hiệu Pháp Mở rộng thứ 3 và danh hiệu đơn nam Grand Slam thứ 23 của Djokovic, vượt qua Rafael Nadal để giữ kỷ lục giành nhiều danh hiệu đơn Grand Slam. Với chức vô địch, Djokovic trở thành tay vợt nam đầu tiên giành được ba lần Grand Slam sự nghiệp, và trở thành tay vợt cao tuổi nhất vô địch Pháp Mở rộng (36 tuổi 20 ngày). Nadal là đương kim vô địch, nhưng rút lui do chấn thương hông trái. Đây là lần đầu tiên Nadal không tham dự giải đấu kể từ lần đần tham dự vào năm 2005. Với việc rút lui, Nadal lần đầu rời khỏi top 100 bảng xếp hạng ATP kể từ năm 2003. Với chức vô địch, Djokovic giành lại vị trí số 1 bảng xếp hạng đơn ATP từ Carlos Alcaraz; Daniil Medvedev và Stefanos Tsitsipas cũng cạnh tranh vị trí số 1 khi giải đấu bắt đầu, nhưng lần lượt thua ở vòng 1 và vòng tứ kết. Trận thua của Medvedev ở vòng 1 trước Thiago Seyboth Wild đánh dấu lần đầu tiên kể từ năm 2000 hạt giống số hai (khi đó là Pete Sampras) thua ở vòng 1. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. "Nhấn vào số hạt giống của một vận động viên để tới phần kết quả của họ." Vận động viên khác. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Bảo toàn thứ hạng. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Thua cuộc may mắn. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Danh sách tham dự được công bố dựa trên bảng xếp hạng ATP trong tuần của ngày 17 tháng 4 năm 2023. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Thinzar Shunlei Yi (, [θɪ̀ɴzà ʃʊ́ɴlɛ̰ jì]; sinh ngày 14 tháng 11 năm 1991) là một nhà hoạt động dân chủ và người dẫn chương trình truyền hình người Miến Điện. Sau cuộc đảo chính năm 2021, cô đã giúp tổ chức các cuộc biểu tình quần chúng chống lại Tatmadaw (quân đội Myanmar). Kể từ năm 2022, cô sống lưu vong ở Thái Lan. Thinzar Shunlei Yi sinh ra ở thị trấn Sagaing, là con cả trong một gia đình có ba người con. Là con gái của một gia đình quân nhân, cô đã trải qua mười sáu năm đầu của cuộc đời mình trong các khu nhà quân sự và ủng hộ Tatmadaw khi còn nhỏ. Cô di chuyển hai năm một lần, sống ở bang Rakhine và bang Mon, cùng những nơi khác, và theo học một số trường trung học quân sự. Cuối cùng cô định cư ở Yangon vào khoảng năm 2010. Khi còn là một thiếu niên, Thinzar Shunlei Yi đã bị một gia sư tấn công tình dục. Cô từng mắc chứng rối loạn trầm cảm và tự trách bản thân về vụ việc. Hoạt động chính trị. Sau khi chuyển đến Yangon, Thinzar Shunlei Yi đã trải qua một sự thay đổi về ý thức hệ. Cô ít ủng hộ quân đội hơn sau khi gặp một số tù nhân chính trị cũ tại cơ sở của Trung tâm Mỹ tại Yangon, và coi Aung San Suu Kyi là người truyền cảm hứng cho các hoạt động sau này của mình. Cô đã bắt đầu hoạt động chính trị từ năm 2012 khi đồng tổ chức một cuộc tuần hành ôn hòa vào Ngày Quốc tế Hòa bình. Cuối cùng, cô trở thành nữ điều phối viên quốc gia đầu tiên của Đại hội Thanh niên toàn quốc, và là chủ tịch Mạng lưới thanh niên Yangon. Trong thời gian này, cô thường xuyên bị quấy rối trực tuyến và #đổi trên các trang web khiêu dâm. Năm 2017, cô đồng sáng lập và dẫn chương trình "Under 30 Dialogue" (tạm dịch: "Đối thoại dưới 30 tuổi"), một chương trình truyền hình định hướng chính trị cho giới trẻ trên Mizzima TV. Hiện không rõ tình trạng của chương trình sau sự kiện Đảo chính năm 2021. Vào năm 2018, cô và 16 nhà hoạt động khác, bao gồm Maung Saungkha, bị giam giữ vì phản đối cuộc đàn áp người Rohingya. Các vụ xét xử cô kéo dài trong hai năm và kết thúc bằng một bản án. Cô đã bày tỏ sự thất vọng về Aung San Suu Kyi, người mà trước đây cô từng coi như thần tượng, vì sự thụ động của bà trong vụ đàn áp. 2021–nay: Hậu đảo chính. Sau cuộc đảo chính tháng 2 năm 2021, Thinzar Shunlei Yi lập tức lẩn trốn để tránh bị truy bắt ngay sau khi lệnh bắt giữ cô được công bố vào tháng 3 hoặc 20 tháng 4. Việc thường xuyên bị tiết lộ thông tin cá nhân bởi các nguồn tin thân Tatmadaw khiến cô phải thay đổi nơi ẩn nấp thường xuyên quanh vùng Yangon. Một số người bạn của cô đã bị bắt cóc, tra tấn và giết hại. Vào tháng 5 năm 2021, cô đã làm chứng thông qua video call trước Ủy ban Đặc biệt về ngoại giao của Hạ viện Anh về tình trạng của Myanmar dưới sự quản lý của chính quyền quân sự. Sau một tháng rưỡi lẩn trốn, cô lánh nạn trong rừng nhiệt đới của Miến Điện và gia nhập một nhóm phiến quân, nhưng đến cuối cùng đã rời bỏ. Một tháng sau đó, mùa hè năm 2021, Thinzar Shunlei Yi đã vượt qua biên giới Myanmar–Thái Lan để tìm nơi lưu vong và kể từ tháng 1 năm 2022, người ta không còn biết tung tích chính xác của cô.Năm 2022, cô xuất bản tự truyện với một nhà báo Pháp. Kể từ năm 2022, cô đang điều hành chiến dịch #Sisters2Sisters nhằm mục đích nâng cao nhận thức về bạo lực tình dục do chính quyền quân sự gây ra và là cộng tác viên thường xuyên trên các hãng tin phương Tây như "CNN" và "The Australian". Giải thưởng và vinh danh. Năm 2016, Thinzar Shunlei Yi đã giành được Giải thưởng Nhà lãnh đạo trẻ mới nổi từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nhờ việc tổ chức Diễn đàn Thanh niên ASEAN và lễ kỷ niệm Ngày Quốc tế Thanh Thiếu niên, cùng với các hoạt động chăm sóc sức khỏe tâm thần. Năm 2019, cô giành chiến thắng ở hạng mục Truyền thông Liên lạc Giải thưởng Phụ nữ của Đông Nam Á Tương lai. Vào năm 2022, cô đã giành được Giải thưởng Nhân quyền Magnitsky "Nhà hoạt động trẻ xuất sắc" vì vận động cho những người di tản ở bang Kachin, Myanmar; tổ chức các buổi diễu hành nhân Ngày Quốc tế Hòa bình và thành lập chiến dịch #Sisters2Sisters.
Sân bay quốc tế Funafuti Sân bay quốc tế Funafuti #đổi là một sân bay ở Funafuti, ở thủ đô của đảo quốc Tuvalu. Đây là sân bay quốc tế duy nhất ở Tuvalu. Fiji Airways có các chuyến bay giữa Suva và Funafuti. Sân bay ở độ cao 3 m trên mực nước biển trung bình. Nó có một đường băng dài 1524m. Việc không có đèn chiếu sáng đường băng, thiết bị điều hướng hàng không và vô tuyến VHF tối thiểu có nghĩa là các hoạt động bị hạn chế vào ban ngày. Sân bay Funafuti được xây dựng bởi tiểu đoàn Seabee thuộc Tiểu đoàn Xây dựng Hải quân số 2 của Hải quân Hoa Kỳ vào năm 1943 trong chiến tranh thế giới thứ hai. Sân bay quân sự bao gồm một đường băng, tháp điều khiển và các cơ sở, với một đài vô tuyến tại Tepuka, được kết nối bằng cáp với sân bay. Các tòa nhà trụ sở chính của căn cứ là nơi ở của Teagai Apelu ngày nay, và một boongke vẫn còn đó cho đến ngày nay.
Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2023 - Đơn nữ Iga Świątek là đương kim vô địch và bảo vệ thành công danh hiệu, đánh bại Karolína Muchová trong trận chung kết, 6–2, 5–7, 6–4. Đây là danh hiệu Pháp Mở rộng thứ 3 và danh hiệu Grand Slam thứ 4 của Świątek. Świątek trở thành tay vợt nữ thứ 3 trong Kỷ nguyên Mở (sau Monica Seles và Naomi Osaka) thắng cả bốn trận chung kết Grand Slam đầu tiên, và là tay vợt nữ trẻ nhất giành 4 danh hiệu Grand Slam sau Serena Williams vào năm 2002. Świątek cũng trở thành tay vợt đầu tiên bảo vệ thành công danh hiệu Pháp Mở rộng sau Justine Henin vào năm 2007, và là tay vợt nữ đầu tiên bảo vệ thành công danh hiệu ở một giải Grand Slam sau Serena Williams tại Giải quần vợt Wimbledon 2016. Świątek chỉ để thua một set trong suốt giải đấu, trước Muchová trong trận chung kết. Świątek giữ nguyên vị trí số 1 bảng xếp hạng đơn WTA sau khi cô vào trận chung kết và Aryna Sabalenka thua ở vòng bán kết. 12 trong số 32 hạt giống vào vòng ba, ít nhất kể từ khi vòng đấu chính Pháp Mở rộng tăng lên 32 hạt giống vào năm 2002. Elina Avanesyan trở thành tay vợt thua cuộc may mắn đầu tiên vào vòng 4 sau Nicole Jagerman vào năm 1988, và là tay vợt đầu tiên làm được tại bất kỳ một giải Grand Slam sau María José Gaidano tại Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 1993. Beatriz Haddad Maia trở thành nữ tay vợt Brazil đầu tiên vào vòng bán kết Pháp Mở rộng trong Kỷ nguyên Mở, và là tay vợt đầu tiên làm được tại bất kỳ một giải Grand Slam sau Maria Bueno tại Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 1968. Với việc vào vòng bán kết, Haddad Maia có lần đầu tiên vào top 10 bảng xếp hạng WTA, trở thành nữ tay vợt Brazil đầu tiên vào top 10 thế giới. Xếp hạng 333 thế giới, Anastasia Pavlyuchenkova trở thành tay vợt có thứ hạng thấp nhất trong lịch sử vào vòng tứ kết Pháp Mở rộng, và là tay vợt có thứ hạng thấp thứ ba vào vòng tứ kết một giải Grand Slam, sau Kaia Kanepi tại Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2017 và Martina Hingis tại Giải quần vợt Úc Mở rộng 2006. Với Elina Svitolina, xếp hạng 192 trên thế giới, cũng vào vòng tứ kết, đánh dấu lần đầu tiên hai tay vợt có thứ hạng ngoài top 150 thế giới vào vòng tứ kết ở cùng một giải Grand Slam. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. "Nhấn vào số hạt giống của một vận động viên để tới phần kết quả của họ." Vận động viên khác. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Bảo toàn thứ hạng. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Thua cuộc may mắn. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Danh sách tham dự được công bố dựa trên bảng xếp hạng WTA trong tuần của ngày 17 tháng 4 năm 2023. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Sportklub, trước đây được hiển thị dưới dạng Sport Klub, là một kênh truyền hình về thể thao đã được phát sóng tại Bosna và Hercegovina, Montenegro, Serbia và Slovenia từ 2006, Croatia từ 2007 và Bắc Macedonia từ 2011. Một phiên bản khác của kênh cũng đã có tại Ba Lan từ năm 2006. Sportklub phát sóng khá nhiều các sự kiện thể thao như bóng đá, bóng rổ, quần vợt, bóng bầu dục Mỹ, khúc côn cầu trên băng, bóng chuyền, bóng ném, điền kinh, và golf, trong số những thứ khác. Các chương trình được phát sóng bằng tiếng Serbia, tiếng Croatia, tiếng Slovenia, tiếng Macedonia và tiếng Albania. Kênh được IKO Media Group ra mắt vào năm 2006 và sau đó được bán cho nhiều công ty khác nhau. Nó trước đây có ở Hungary (2006–2015) và România (2006–2012). Ngày 4 tháng 12 năm 2019, The United Group đã ra mắt kênh thể thao thứ 2 có tên Nova Sport.
Serie A 2022–23 (được gọi là Serie A TIM vì lý do tài trợ) là mùa giải thứ 121 của hạng đấu cao nhất bóng đá Ý, lần thứ 91 của một giải đấu vòng tròn tính điểm, và lần thứ 13 kể từ khi nó được tổ chức dưới một ủy ban giải đấu riêng, Lega Serie A. Milan là nhà đương kim vô địch. Vào ngày 4 tháng 5 năm 2023, Napoli đã giành được chức vô địch Serie A thứ ba và là chức vô địch đầu tiên kể từ năm 1990 với năm trận đấu chưa đá, sau trận hòa 1–1 trước Udinese. Bắt đầu từ mùa giải 2022–23, nếu các đội xếp thứ nhất và thứ hai, hoặc thứ 17 và 18 vào cuối mùa giải bằng điểm nhau, một trận play-off tiebreak sẽ được tổ chức tại một địa điểm trung lập để xác định danh hiệu và đội cuối cùng xuống hạng tương ứng. Các trận đấu sẽ không có hiệp phụ, và thay vào đó sẽ trực tiếp chuyển sang đấu luân lưu nếu hai đội hòa nhau sau 90 phút. Đây là lần đầu tiên các trận play-off được sử dụng kể từ chiến dịch 2004–05. Lega Serie A ban đầu đã lên kế hoạch tổ chức một giải đấu gồm các đội Serie A ở Hoa Kỳ trong FIFA World Cup 2022, nhưng điều này sau đó đã bị hủy bỏ. Tháng 1 năm 2023, Juventus bị trừ 15 điểm vì vi phạm tài chính. Vào tháng 4 năm 2023, quyết định được hủy bỏ và Juventus được trả lại số điểm đó. Tuy nhiên, sau điều tra mới, Juventus bị trừ 10 điểm vào tháng 5 năm 2023. Cagliari xuống hạng sau sáu năm ở giải đấu hàng đầu, Genoa xuống hạng hai sau 15 năm, và Venezia xuống hạng chỉ sau một năm ở giải hạng nhất chuyến bay hàng đầu. Chúng được thay thế bởi Lecce, Serie B vô địch, Cremonese, á quân Serie B, và Monza, đội vô địch Serie B. Lecce trở lại đỉnh cao sau 2 năm vắng bóng, trong khi Cremonese trở lại sau 26 năm vắng bóng và Monza được thăng hạng Serie A lần đầu tiên trong lịch sử câu lạc bộ. Vị trí theo vòng. Bảng liệt kê vị trí của các đội sau mỗi tuần thi đấu. Để duy trì các diễn biến theo trình tự thời gian, bất kỳ trận đấu bị hoãn nào sẽ không được tính vào vòng mà chúng đã được lên lịch ban đầu mà được thêm vào vòng đầy đủ được diễn ra ngay sau đó. Bởi vì Spezia và Hellas Verona bằng điểm nhau ở vị trí xuống hạng cuối cùng, nên một trận hòa xuống hạng một trận được tổ chức tại một địa điểm trung lập để xác định đội cuối cùng sẽ xuống hạng Serie B. "Hellas Verona thắng 3–1 và ở lại Serie A, trong khi Spezia xuống hạng Serie B." "Tính đến 28 tháng 5 năm 2023" Thống kê mùa giải. (H) – Đội nhà(A) – Đội khách "Tính đến 28 tháng 5 năm 2023" "Tính đến 28 tháng 5 năm 2023"
Lethrinus erythropterus là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830. Từ định danh "erythracanthus" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: "eruthrós" (ἐρυθρός; “đỏ”) và "pterón" (πτερόν; “vây, cánh”), hàm ý đề cập đến màu đỏ cam nổi bật trên các vây của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "L. erythropterus" có phân bố trải rộng trên vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Tanzania và Mozambique trải dài về phía đông đến quần đảo Caroline và quần đảo Solomon, ngược lên phía bắc đến đảo Đài Loan, giới hạn phía nam đến Úc. "L. erythropterus" cũng xuất hiện tại cồn Cỏ và quần đảo Trường Sa (Việt Nam). "L. erythropterus" sống ở khu vực có nền đáy cát, gần các rạn san hô, độ sâu khoảng 2–25 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất ở "L. erythropterus" là 50 cm, nhưng thường bắt gặp với chiều dài khoảng 30 cm. Đầu và thân màu nâu hoặc đỏ nâu, bụng nhạt màu hơn, có khi có 2 vạch sáng ở cuống đuôi. Một dải sọc từ mắt đến chóp mõm và môi trên có màu đỏ, gốc vây ngực cũng màu đỏ. Tất cả các vây đều có màu đỏ tươi hoặc cam. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 4 hoặc 5 thường dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 44–46. Thức ăn của "L. erythropterus" chủ yếu là động vật da gai, động vật giáp xác, động vật thân mềm và cá nhỏ. "L. erythropterus" có tầm quan trọng đáng kể trong nghề đánh bắt thủ công.
Tỉnh Drohobych () là một tỉnh của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina từ ngày 4 tháng 12 năm 1939 đến ngày 21 tháng 5 năm 1959. Tỉnh Drohobytsk được sáp nhập vào tỉnh Lviv. Trung tâm hành chính là thành phố Drohobych. Tỉnh có diện tích khoảng 9.600 km², và tính đến năm 1956 có dân số 853.000 người. Tỉnh Drohobych là một trong sáu tỉnh (năm tỉnh còn lại là tỉnh Lviv, tỉnh Rivne , tỉnh Stanislav (Ivano-Frankivsk), tỉnh Tarnopil (Ternopil) và tỉnh Volyn) được thành lập trên lãnh thổ Tây Ukraina sau cuộc xâm lược Ba Lan năm 1939. Vào ngày 27 tháng 11 năm 1939, tám powiat của tỉnh Lwow và hai powiat của tỉnh Stanislawow được chỉ định để thành lập tỉnh Drohobych, việc thành lập đã được xác nhận vào ngày 4 tháng 12 năm 1939. Sau khi tỉnh này được chiếm lại từ Đức vào ngày 15 tháng 8 năm 1944, ba raion được đổi tên: Zhydechuv thành Zhydachiv, Streliski Novi thành Novi Strelyshcha, và Ustryki Dolni thành Nyzhnio Ustryki. Đến tháng 3 năm 1945, raion Bircha, raion Lisko, và hầu hết raion Peremyshl (gồm thành phố Przemyśl) được chuyển sang Ba Lan. Trên phần còn lại của raion Peremyshl trước đây, raion Nyzhankovychy (có trung tâm là thị trấn Nyzhankovychy) được thành lập. Vào ngày 15 tháng 5 năm 1948, toàn bộ raion Medyka cũng được chuyển cho Ba Lan. Ngày 15 tháng 7 năm 1951, đô thị Truskavets được thành lập. Ngày 10 tháng 12 năm 1951, raion Nyzhnio Ustryky tiếp tục theo một quá trình chuyển giao khác cho Ba Lan. Tháng 7 năm 1957, raion Khyriv bị giải thể. Năm raion khác được thanh lý vào ngày 21 tháng 1 năm 1959: Dubliany, Zhuravno, Krukenych, Novi Strelyshcha và Strilky. Khoảng trước tháng 5 năm 1959, raion Pidbuzh bị thanh lý, tuy nhiên raion Boryslav được phục hồi. Vào ngày 1 tháng 5 năm 1959, có 19 raion và năm thành phố. Ngày 21 tháng 5 năm 1959, tỉnh Drohobych được sáp nhập với tỉnh Lviv. Khu vực được lãnh đạo bởi: Bí thư thứ nhất của ủy ban khu vực của Đảng Cộng sản: Cơ quan đại diện cao nhất của khu vực Drohobych là Hội đồng đại biểu nhân dân tỉnh Drohobych và cơ quan quản lý của nó - Ủy ban điều hành của Hội đồng khu vực (Ủy ban điều hành tỉnh). Những người đứng đầu của ủy ban điều hành tỉnh là:
Marco Imperiale (sinh ngày 1 tháng 5 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá người Ý hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Carrarese tại Serie C bảng B. Sự nghiệp thi đấu. Anh ta có lần ra mắt Serie C cho Catanzaro vào ngày 20 tháng 11 năm 2016 trong trận đấu gặp Foggia. Ngày 9 tháng 8 năm 2019, anh ta gia nhập Piacenza theo dạng cho mượn. Ngày 29 tháng 8 năm 2020, anh ta chuyển đến Carrarese theo dạng cho mượn. Ngày 16 tháng 7 năm 2021, anh ta quay trở lại Carrarese bằng bản hợp đồng kéo dài 3 năm.
RuPaul's Drag Race All Stars (mùa 8) Mùa thứ tám của chương trình truyền hình thực tế RuPaul's Drag Race All Stars được phát sóng vào ngày 12 tháng 5 năm 2023. Ban giám khảo của mùa này vẫn là drag queen RuPaul, Michelle Visage, Carson Kressley, Ross Mathews, bên cạnh đó có sự góp mặt của thành viên giám khảo cũ Ts Madison. Ngày phát sóng cuộc thi được công bố trong một đoạn teaser tập cuối mùa 15 của "RuPaul's Drag Race". Dàn thí sinh ra mắt vào ngày 20 tháng 4 cùng năm. Bên cạnh chiến thắng thông thường, mùa thi này còn có thêm một giải phụ trị giá 50.000 USD cho thí sinh bị loại có trang phục catwalk đẹp nhất (Fame Games). Mùa thi này có 12 tập phát sóng, người chiến thắng là Jimbo đến từ Canada. Bên cạnh đó, LaLa Ri thắng giải phụ "Queen of the Fame Games". templatestyles src="Legend/" /  QUÁN QUÂN: Chiến thắng chung cuộc templatestyles src="Legend/" /  NHÌ: Về nhì templatestyles src="Legend/" /  THẮNG: Thắng thử thách và màn Lip Sync for Your Legacy templatestyles src="Legend/" /  THẮNG: Thắng thử thách nhưng thua màn Lip Sync for Your Legacy templatestyles src="Legend/" /  THẮNG: Thắng giải phụ Queen of the Fame Games ở vòng chung kết templatestyles src="Legend/" /  AT: An toàn templatestyles src="Legend/" /  NH: Rơi vào nhóm nguy hiểm templatestyles src="Legend/" /  LOẠI: Bị loại templatestyles src="Legend/" /  BỎ: Tự bỏ cuộc templatestyles src="Legend/" /  FG: Tham gia giải phụ Fame Games Variety Extravaganza nhưng không thắng thử thách
Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2023 - Đôi nam Ivan Dodig và Austin Krajicek là nhà vô địch, đánh bại Sander Gillé và Joran Vliegen trong trận chung kết, 6–3, 6–1. Đây là danh hiệu đôi nam Grand Slam thứ 3 của Dodig và danh hiệu Grand Slam đầu tiên của Krajicek. Marcelo Arévalo và Jean-Julien Rojer là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng tứ kết trước Matwé Middelkoop và Andreas Mies. Krajicek vượt qua Wesley Koolhof và Neal Skupski để giành vị trí số 1 bảng xếp hạng đôi ATP. Rajeev Ram, Lloyd Glasspool, Harri Heliövaara, và Jan Zieliński cũng cạnh tranh vị trí số 1 khi giải đấu bắt đầu, nhưng Ram, Glasspool và Heliövaara thua ở vòng 3 và Zieliński thua ở vòng 2. Mate Pavić có cơ hội hoàn thành Slam Vàng sự nghiệp, nhưng thua ở vòng 1. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. "Nhấn vào số hạt giống của một vận động viên để tới phần kết quả của họ." Vận động viên khác. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Bảo toàn thứ hạng. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Grégoire Barrère / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Quentin Halys → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Thiago Monteiro / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Nikola Ćaćić / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Dušan Lajović → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Victor Vlad Cornea / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Francisco Cerúndolo / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Federico Coria → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Sriram Balaji / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Maxime Cressy / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Adrian Mannarino → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Tallon Griekspoor / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Patrik Niklas-Salminen / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Emil Ruusuvuori → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Roman Jebavý / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Yoshihito Nishioka / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jiří Veselý → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Christopher Eubanks / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2023 - Đôi nữ Hsieh Su-wei và Wang Xinyu là nhà vô địch, đánh bại Leylah Fernandez và Taylor Townsend trong trận chung kết, 1–6, 7–6(7–5), 6–1. Đây là danh hiệu Pháp Mở rộng thứ 2 của Hsieh (sau năm 2014), và danh hiệu Grand Slam thứ 5 của Hsieh; và danh hiệu Grand Slam đầu tiên của Wang. Fernandez trở thành tay vợt Canada đầu tiên vào trận chung kết. Caroline Garcia và Kristina Mladenovic là đương kim vô địch, nhưng Garcia chọn không tham dự. Mladenovic đánh cặp với Zhang Shuai, nhưng thua ở vòng 2 trước Hsieh và Wang. Barbora Krejčíková và Kateřina Siniaková có cơ hội giành 4 danh hiệu Grand Slam liên tiếp, nhưng thua ở vòng 1. Siniaková giữ nguyên vị trí số 1 bảng xếp hạng đôi WTA sau khi Jessica Pegula thua ở vòng bán kết. Elise Mertens có cơ hội hoàn thành Grand Slam sự nghiệp, nhưng thua ở vòng 3. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vận động viên khác. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Bảo toàn thứ hạng. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Paula Badosa / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Nuria Párrizas Díaz → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Nuria Párrizas Díaz / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Lauren Davis / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Claire Liu → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Dalma Gálfi / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Linda Fruhvirtová / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Aliaksandra Sasnovich → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Anastasia Dețiuc / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Anna Kalinskaya / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Caty McNally → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Danka Kovinić / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Danka Kovinić / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Rebecca Peterson → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ysaline Bonaventure / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Magda Linette / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Wang Xiyu → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ingrid Gamarra Martins / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Sabrina Santamaria / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Patricia Maria Țig → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ingrid Neel / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2023 - Đôi nam nữ Miyu Kato và Tim Pütz là nhà vô địch, đánh bại Bianca Andreescu và Michael Venus trong trận chung kết, 4–6, 6–4, [10–6]. Pütz trở thành nam tay vợt Đức đầu tiên vô địch nội dung đôi nam nữ; Venus trở thành tay vợt New Zealand đầu tiên vào trận chung kết. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vận động viên khác. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Nina Radovanovic / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Arthur Bouquier → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Bianca Andreescu / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Cố Luân Trang Tĩnh Công chúa Cố Luân Trang Tĩnh Công chúa (Giản thể:固伦庄静公主, Phồn thể: 固伦莊静公主, 7 tháng 9 năm 1784 - 7 tháng 5 năm 1811), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ tư của Gia Khánh Đế trong lịch sử Trung Quốc. Trang Tĩnh Công chúa sinh ngày 7 tháng 9 (âm lịch), năm Càn Long thứ 49 (1784). Bà là con gái thứ tư của Gia Khánh Đế và là em ruột của Đạo Quang Đế, mẹ bà là Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu Hỉ Tháp Lạp thị, lúc đó vẫn là Đích phúc tấn của Gia Thân vương. Vào năm Gia Khánh thứ 7 (1802), tứ công chúa được ban phong hào Cố Luân Trang Tĩnh Công chúa (固伦莊静公主). Tháng 10 cùng năm, tiến hành "Sơ định lễ". Gia Khánh Đế ngự ở Bảo Hòa điện mở yến tiệc chiêu đãi các Hoàng tử, Vương công đại thần cùng đoàn người của Ngạch phò. Tháng 11 năm đó, bà chính thức hạ giá lấy Mã Ni Ba Đạt Lạt (玛尼巴达喇) của Bát Nhĩ Tế Cát đặc bộ. Vào khoảng tháng 4 năm Gia Khánh thứ 13, Trang Tĩnh Công chúa trở về Bắc Kinh, không biết ở lại bao lâu Năm Gia Khánh thứ 16 (1811), ngày 7 tháng 5 (âm lịch), bà qua đời, thọ 28 tuổi, được an táng ở Vương Tá thôn Viên tẩm phụ cận Xương lăng, Thanh Tây lăng. Vào ngày 10 tháng 8 năm Gia Khánh thứ 25, ngạch phò Mã Ni Ba Đạt Lạt được cử về Bắc Kinh. Trang Tĩnh Công chúa và chị gái là Hòa Thạc Trang Kính Công chúa đều được an táng ở Vương Tá thôn Viên tẩm (王佐村园寝). Theo quy chế triều Thanh, sau khi Công chúa xuất giá, không thể táng nhập Hoàng lăng, cũng không được an táng vào mộ phần của nhà chồng mà phải xây dựng mộ phần riêng. Ngoại thành Bắc Kinh có rất nhiều phần mộ của Công chúa, còn có địa phương gọi là "Công chúa phần". Vì Trang Tĩnh Công chúa và Trang Kính Công chúa mất cùng năm, chỉ cách nhau 2 tháng, vì vậy liền an táng chung một nơi. Viên tẩm của Công chúa có các tường vây, Nghi môn, Hưởng điện, vây quanh bốn phía là rừng cây rậm rạp cổ tùng, cổ bách, quốc hòe, ngân hạ, cực kì kiên cố. Hai mộ phần của hai Công chúa đều là hợp táng hai vợ chồng, có vật bồi táng theo như binh khí, đao Mông Cổ, châu báu, lăng la tơ lụa các loại.
Scotty Maurice Pippen Sr. (sinh ngày 25 tháng 9 năm 1965), thường được gọi là Scottie Pippen, là cựu vận động viên bóng rổ chuyên nghiệp người Mỹ. Trong 17 năm thi đấu tại National Basketball Association (NBA), ông có được 6 chức vô địch trong màu áo Chicago Bulls. Pippen thường được coi là một trong những tiền đạo phụ (small forward) xuất sắc nhất mọi thời đại, và cùng Michael Jordan đã tạo nên bộ đôi quan trọng góp phần biến Bulls từ một đội bóng tầm trung trở thành ứng cử viên vô địch suốt một thập kỷ, từ đó phổ biển NBA với thế giới trong thập niên 1990. Pippen là vận động viên duy nhất trong lịch sử 2 lần cùng giành chức vô địch NBA và Huy chương vàng Thế vận hội Mùa hè trong cùng một năm, đó là các năm 1992 và 1996. Ông là thành viên của "Dream Team" tại Thế vận hội Mùa hè 1992 thống trị giải đấu với điểm số cách biệt mỗi trận lên tới 44 điểm. Ông cũng là cầu thủ quan trọng vô địch giải đấu 4 năm sau đó với thế hệ của Karl Malone, John Stockton, Charles Barkley, David Robinson, cùng những gương mặt trẻ như Shaquille O'Neal, Anfernee "Penny" Hardaway và Grant Hill. Ngày 13 tháng 8 năm 2010, Pippen vinh dự 2 lần được vinh danh tại Đại sảnh danh vọng Bóng rổ Naismith Memorial, một trong vai trò thành viên của "Dream Team", một dành cho sự nghiệp cá nhân. Bulls trước đó cũng đã treo vĩnh viễn số áo 33 của ông vào ngày 8 tháng 12 năm 2005. Trường Đại học Central Arkansas nơi ông từng theo học cũng treo số áo 33 vào ngày 21 tháng 1 năm 2010. Pippen kết hôn cùng ngôi sao truyền hình Larsa Younan vào năm 1997. Họ có 4 người con, trong đó người con trai Scotty Pippen Jr. (sinh năm 2000) cũng là vận động viên bóng rổ chuyên nghiệp tại NBA.
Phúc Thanh Công chúa Phúc Thanh Công chúa (chữ Hán: 福清公主; 1370 – 28 tháng 2 năm 1417), không rõ tên thật, là hoàng nữ của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, hoàng đế đầu tiên của nhà Minh. Phúc Thanh Công chúa sinh năm Hồng Vũ năm thứ 3 (1370), là hoàng nữ thứ 8 của Minh Thái Tổ, mẹ là An phi họ Trịnh (không rõ xuất thân). Hồng Vũ năm thứ 18 (1385), công chúa Phúc Thanh nhận sách phong, hạ giá lấy Trương Lân, con trai của "Phụng Tường hầu" Trương Long. Hai người có một con trai là Trương Kiệt. Sau khi Trương Long mất, không rõ vì cớ gì mà phò mã Lân không được tập tước Hầu. Đầu thời Minh Thành Tổ, Trương Kiệt hầu mẫu thân nên được ở lại kinh sư. Con của Kiệt là Trương Tự, thời Minh Tuyên Tông, dựa vào ân chiếu để xin được tập tước nhưng không được. Vĩnh Lạc năm thứ 15 (1417), công chúa Phúc Thanh qua đời, thọ 47 tuổi. Mộ táng của bà tại Vũ Hoa Đài (Nam Kinh) được phát hiện vào năm 1998. Năm 2006, nơi đây được công nhận là một đơn vị bảo vệ di tích văn hóa ở Nam Kinh.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Tỉnh Lwów () là một đơn vị hành chính của Ba Lan trong giai đoạn giữa hai thế chiến (1918–1939). Chỉ khoảng một nửa lãnh thổ tỉnh được trả lại cho Ba Lan sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Nửa phía đông của tỉnh, bao gồm cả thành phố Lwów, được nhượng lại cho Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina trước sự kiên quyết của Joseph Stalin. Thủ phủ Lwów (nay là Lviv) là thành phố lớn nhất và quan trọng nhất tỉnh. Tỉnh bao gồm 27 powiat (huyện), 58 thị trấn và 252 làng. Năm 1921, đây là nơi sinh sống của 2.789.000 người. Mười năm sau, con số này tăng lên 3.126.300 (khiến nó trở thành tỉnh đông dân nhất trong tất cả các tỉnh của Ba Lan). Năm 1931, mật độ dân số là 110 người/km². Phần lớn dân số (57%) là người Ba Lan, đặc biệt là ở các huyện phía tây. Người Ukraina (chủ yếu ở phía đông và đông nam) chiếm khoảng 33% và người Do Thái (chủ yếu ở các đô thị) - khoảng 7%. Ngoài ra, có những cộng đồng nhỏ của người Armenia, người Đức và các dân tộc khác. Năm 1931, tỷ lệ mù chữ của cư dân tỉnh là 23,1%, tương đương với mức trung bình quốc gia và đồng thời là mức thấp nhất trong Vùng biên giới phía đông Ba Lan. Diện tích của tỉnh là . Tỉnh nằm ở phía nam Ba Lan, giáp với Tiệp Khắc ở phía nam, tỉnh Kraków ở phía tây, tỉnh Lublin ở phía bắc và tỉnh Wołyń, tỉnh Stanisławów và tỉnh Tarnopol ở phía đông. Cảnh quan là vùng đồi (ở phía bắc) và vùng núi (ở phía nam, dọc theo biên giới Tiệp Khắc, với nhiều suối khoáng nằm ở đó, chẳng hạn như Slawsko). Rừng bao phủ 23,3% diện tích tỉnh (thống kê ngày 1 tháng 1 năm 1937; còn mức trung bình toàn quốc là 22,2%). Lwów là thủ phủ của tỉnh, là thành phố lớn vượt trội trên địa bàn, với dân số 318.000 người (tính đến năm 1939). Đây cũng là thành phố lớn nhất ở đông nam Ba Lan và là thành phố lớn thứ ba trong cả nước (sau Warszawa và Łódź), trước Kraków (259.000). Các trung tâm quan trọng khác trong tỉnh là: Przemyśl (dân số 51.000 năm 1931), Borysław (dân số 41.500), Drohobycz (dân số 32.300 ), Rzeszów (dân số 27.000), Jarosław (dân số 22.200), Sambor (dân số 22.000) ), Sanok (dân số 14.300) và Gródek Jagielloński (dân số 12.900). Các huyện của tỉnh Lwów: Giữa hai cuộc chiến, Ba Lan được chia thành hai phần không chính thức - Ba Lan "A" (phát triển tốt hơn) và Ba Lan "B" (kém phát triển hơn). Tỉnh Lwów nằm trên đường ranh giới của những khu vực này, với hai trung tâm chính - thành phố Lwów và khu vực giàu dầu mỏ phía nam là Borysław và Drohobycz. Bắt đầu từ giữa những năm 1930, chính phủ Ba Lan quyết định bắt đầu một dự án công trình công cộng lớn, được gọi là Centralny Okreg Przemyslowy (COP). Dự án bao gồm các huyện phía tây của tỉnh, tại đây một số nhà máy được xây dựng (một nhà máy thép ở thành phố mới thành lập Stalowa Wola, một nhà máy sản xuất động cơ máy bay và pháo binh ở Rzeszów, cũng như một nhà máy sản xuất vũ khí ở Sanok). Đây là một sự thúc đẩy to lớn đối với các khu vực nông thôn đã quá tải dân số, nơi có tỷ lệ thất nghiệp cao. Dự án vẫn chưa hoàn thành vào đầu Thế chiến thứ hai. Mạng lưới đường sắt chỉ phát triển tốt ở khu vực Lwów, vì bản thân thành phố là một trung tâm quan trọng với tận tám tuyến xuất phát từ đó. Ngoài ra, một số huyện (như Kolbuszowa, Brzozów hoặc Jaworów) thiếu kết nối đường sắt, trong khi những huyện khác (Lesko, Lubaczów , Rudki, Stary Sambor) thì kém phát triển. Các trung tâm đường sắt khác là Rawa Ruska, Rzeszów, Rozwadów, Sambor, Drohobycz, Przeworsk, Chodorów, and Przemyśl. Tính đến ngày 1 tháng 1 năm 1938, tổng chiều dài đường sắt trong ranh giới tỉnh là 1.534 km, tức là 5,4 km trên mỗi 100 km². Tỉnh Lwów được thành lập vào ngày 23 tháng 12 năm 1920 từ thành phố Lviv và 19 huyện của Đông Galicia (17 huyện có dân số chủ yếu là người Ukraina) và 8 huyện của Tây Galicia (người Ukraina là thiểu số ở sáu huyện; hai huyện có dân số thuần túy là người Ba Lan). Vào ngày 17 tháng 12 năm 1920, Quốc hội Ba Lan đã thông qua luật "Trao đất cho binh lính của Quân đội Ba Lan", thực hiện lời hứa trong cuộc chiến với những người Bolshevik, khi Warszawa đang bị đe dọa chiếm giữ. Chính phủ đã cố gắng thực hiện lời hứa của mình trên vùng đất của người Ukraina, nơi bắt đầu cái gọi là cuộc bao vây—việc tạo ra các khu định cư Ba Lan từ nông dân và cựu quân nhân. Sau Hiệp ước Molotov–Ribbentrop và cuộc xâm chiếm Ba Lan sau đó của Xô-Đức, tỉnh được chia cho những người chiến thắng vào cuối tháng 9 năm 1939. Phần phía tây của tỉnh được Đức sáp nhập và thêm vào Phủ Tổng đốc Ba Lan, trong khi phần phía đông (bao gồm thành phố Lwów) được sáp nhập vào Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina. Sau tháng 7 năm 1941, Lwów và phần phía đông bị Đức chiếm đóng và cũng được bổ sung vào Phủ Tổng đốc; chính phủ ngầm Ba Lan tồn tại ở đó cho đến tháng 8 năm 1944. Năm 1945, khi biên giới hiện tại của Ba Lan được thiết lập, phần phía tây của tỉnh Lwów cũ (đến sông San) được tổ chức thành tỉnh Rzeszów mới được thành lập; lãnh thổ này là một phần của tỉnh Podkarpackie từ năm 1999. Phần phía đông còn lại trở thành tỉnh Lviv của Ukraina.
Mariana Victoria của Tây Ban Nha Mariana Victoria của Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha: "Mariana Victoria de España"; tiếng Bồ Đào Nha: "Mariana Vittória của Bồ Đào Nha"; 31 tháng 3 năm 1718 – 15 tháng 1 năm 1781) là một Vương nữ Tây Ban Nha và là Vương hậu Bồ Đào Nha với tư cách là vợ của José I của Bồ Đào Nha. Mariana Victoria đảm nhiệm vai trò nhiếp chính Bồ Đào Nha từ năm 1776 – 1777, trong khoảng thời gian cuối đời của của chồng và là cố vấn cho con gái là Nữ vương Maria I của Bồ Đào Nha. Mariana Victoria được sinh ra tại Vương thất Alcazar ở Madrid, là trưởng nữ của Felipe V của Tây Ban Nha và người vợ thứ hai là Elisabetta Farnese. Mariana Victoria được đặt tên theo với bà nội là Maria Anna Victoria xứ Bayern, vợ của Louise của Pháp, Đại Trữ quân. Cha của Mariana là cháu nội của Louis XIV của Pháp và đã thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha vào năm 1700 thông qua quyền thừa kế được thừa hưởng từ bà nội là María Teresa của Tây Ban Nha. Vào thời điểm ra đời, Mariana Victoria đứng thứ năm trong danh sách thừa kế ngai vàng của Tây Ban Nha, sau các anh là Vương tử Luis, Thân vương xứ Asturias, Vương tử Fernando và Vương tử Carlos. Đính hôn với Louis XV của Pháp. Sau Chiến tranh Liên minh Bốn nước, Pháp và Tây Ban Nha quyết định hòa giải bằng cách gả Mariana Victoria cho người anh họ là Louis XV của Pháp. Mối hôn sự được thực hiện bởi Philippe II xứ Orléans, Nhiếp chính nước Pháp cho Quốc vương Louis XV mười tuổi. Ngoài hôn ước giữa Louis XV của Pháp và Mariana Victoria của Tây Ban Nha, Philippe II xứ Orléans còn định hôn ước cho hai con gái là Élisabeth của Orléans, Đức nữ xứ Montpensier và con trai cả của Felipe V của Tây Ban Nha là Vương tử Luis, Thân vương xứ Asturias và Philippine Élisabeth của Orléans, Đức nữ xứ Beaujolais với Vương tử Carlos. Louis de Rouvroy, Công tước xứ Saint-Simon, đại sứ Pháp đã ngỏ lời cầu hôn Mariana Victoria vào ngày 25 tháng 11 năm 1721. Cuộc trao đổi giữa vị Infanta nhỏ tuổi và Đức nữ xứ Montpensier diễn ra tại "Île des Faisans" ("Đảo Gà lôi"). Đây cũng là nơi mà Louis XIV của Pháp và María Teresa của Tây Ban Nha gặp nhau vào năm 1660. Mariana Victoria đến Paris vào ngày 2 tháng 3 năm 1722 trong sự chào đón và cư trú tại Cung điện Louvre. Nàng Infanta được đặt biệt danh là "l'infante Reine" ("Vương hậu (Pháp) - Vương nữ (Tây Ban Nha)") vì Louis XV của Pháp và Mariana Victoria sẽ không kết hôn cho đến khi Victoria lớn tuổi hơn. Mariana Victoria rất kính trọng Louis XV và được triều đình yêu thích ngoại trừ bản thân nhà vua, người luôn tránh né sự hiện diện của Mariana. Theo mẹ của ngài nhiếp chính, Elisabeth Charlotte xứ Pfalz, Mariana Victoria là "cô bé ngọt ngào và xinh đẹp nhất" và thông minh đáng kể so với tuổi. Việc giáo dục của Mariana được giao cho Marie Anne de Bourbon (người con gái ngoại hôn của Louis XIV và Louise de La Vallière) và Phu nhân xứ Ventadour được bổ nhiệm làm gia sư của Victoria. Vào tháng 2 năm 1723, Louis XV đã đạt tuổi trưởng thành do đó cai trị đất nước theo ý mình. Sau cùng, hôn ước giữa Louis XV của Pháp và Mariana Victoria của Tây Ban Nha đã không thành. Dưới ảnh hưởng của Thủ tướng Louis Henri, Công tước xứ Bourbon và tình nhân là Phu nhân xứ Prie, vị Infanta 7 tuổi Mariana Victoria bị đưa trở lại Tây Ban Nha vào ngày 11 tháng 3 năm 1725. Công tước xứ Bourbon muốn duy trì ảnh hưởng đối với Quốc vương Louis XV trẻ tuổi và đã đề nghị gả em gái của mình là Henriette Louise de Bourbon, quý cô nương trẻ đã đủ lớn để có thể mang thai. Tình hình không được cải thiện khi triều đình Tây Ban Nha đã gửi trả Louise Élisabeth xứ Orléans, góa phụ Luis I của Tây Ban Nha. Vì cuộc hôn nhân giữa Luis I và Élisabeth không hoàn thiện, triều đình Tây Ban Nha từ chối chu cấp cho Louise Élisabeth với tư cách là Thái hậu Pháp và buộc Louise trở về Pháp cùng với em gái Philippine Élisabeth. Ngày 5 tháng 4 năm 1725, Mariana Victoria của Tây Ban Nha rời Versailles đến vùng biên giới, nơi Mariana và hai cô con gái nhà Orléans trở về quê nhà của mình. Louis XV sau đó kết hôn với Maria Karolina của Ba Lan vào tháng 9 năm 1725 và em gái của Mariana Victoria, Vương nữ María Teresa Rafaela đã gả cho con trai cả của Louis XV là Louis Ferdinand của Pháp vào năm 1745 để xoa dịu triều đình Tây Ban Nha. Vương thái tử phi Bồ Đào Nha. Việc Mariana Victoria bị trả về Tây Ban Nha bị coi là một sự xúc phạm lớn và gây ra rạn nứt ngoại giao giữa Tây Ban Nha và Pháp. Do đó vào năm 1725, Tây Ban Nha đã ký kết một hiệp ước với Áo, được gọi là Hiệp ước Viên, trong khi Anh tìm kiếm sự hỗ trợ từ Pháp. Năm 1727, mối hôn sự với Vương quốc Bồ Đào Nha được thảo luận và một thỏa thuận hôn nhân đã được thương lượng bởi đại sứ Bồ Đào Nha là Hầu tước xứ Abrantes. Bên cạnh đó, Mariana từng được đồn đại là sẽ được gả cho Hoàng đế Pyotr II của Nga, cháu nội của Pyotr Đại đế. Sau cùng, một cuộc hôn nhân kép khác đã được lên kế hoạch, theo đó Mariana Victoria sẽ kết hôn với Vương tử José, Thân vương xứ Brasil , con trai và là người thừa kế của João V của Bồ Đào Nha và anh trai cùng cha khác mẹ của Mariana là Vương tử Fernando, Thân vương xứ Asturias sẽ kết hôn với chị gái của José, Vương nữ Maria Bárbara của Bồ Đào Nha. Ngày 19 tháng 1 năm 1729, Mariana Victoria kết hôn với Vương tử José, Thân vương xứ Brasil tại Elvas ở Bồ Đào Nha. Ngày hôm sau, Vương tử Fernando, Thân vương xứ Asturias kết hôn với Maria Bárbara tại Badajoz, Tây Ban Nha. Từ khi kết hôn cho đến khi chồng lên ngôi vào năm 1750, Mariana Victoria được gọi là Vương phi xứ Brasil. Mariana và José nhanh chóng hình thành một mối quan hệ thân thiết. Cả hai đều thích săn bắn cũng như âm nhạc – và Mariana Victoria là một ca sĩ tài năng – họ bảo trợ cho các ca sĩ opera người Ý và các nhà hát và cả hai đều rất sùng đạo. Tuy nhiên, José vẫn có nhiều tình nhân khiến Mariana Victoria phật lòng. Trong cuộc hôn nhân của hai vợ chồng, Mariana Victoria sinh được 8 người con, 4 trong số đó sống qua được tuổi ấu thơ. Đứa con đầu lòng của Maria, Infanta Maria, sau này được tấn phong là Thân vương xứ Beira với tư cách là người thừa kế ấn định khi José lên ngôi. Một người con gái khác của Mariana là Infanta Maria Ana Francisca, được ngỏ ý gả cho Trữ quân nước Pháp, con trai của Louis XV, nhưng bản thân Mariana Victoria đã từ chối mối hôn sự này. Một cô con gái khác nữa là, Infanta Maria Doroteia được hỏi cưới cho Louis Philippe xứ Orléans nhưng Mariana Victoria cũng từ chối. Người con gái út là Infanta Maria Benedita kết hôn với José, Thân vương xứ Brasil, cháu ngoại của Mariana Victoria. Cuộc hôn nhân này được chính Mariana Victoria tổ chức sau chồng qua đời. Vương hậu và nhiếp chính Bồ Đào Nha. Sau cái chết của bố chồng, Quốc vương João V của Bồ Đào Nha vào năm 1750, chồng của Mariana, José trở thành người cai trị Đế quốc Bồ Đào Nha, trong đó có các vùng lãnh thổ ở Nam Mỹ. Triều đại của José bị chi phối bởi Hầu tước xứ Pombal, người được Thái hậu Maria Anna yêu thích. José I sớm giao quyền điều hành nhà nước cho Hầu tước xứ Pombal và Pombal đã nhân đó loại bỏ ảnh hưởng của Giáo hội khỏi triều đình cũng như là kẻ thù của Pombal. Mariana Victoria và các con gái ảnh hưởng của Pombal đối với José I. Triều đại của José bị tổn hoại bởi trận động đất kinh hoàng ở Lisboa vào ngày 1 tháng 11 năm 1755 khiến 100.000 người thiệt mạng. Trận động đất đã khiến José I mắc chứng sợ không gian kín nghiêm trọng và không bao giờ cảm thấy thoải mái khi sống trong ở nơi có tường bao quanh nữa. Do vậy, José đã chuyển triều đình đến một khu phức hợp lều rộng lớn trên đồi Ajuda. Chính Pombal là người đã tái thiết Lisboa sau trận động đất. Năm 1759, vụ xét xử Távora được tiến hành sau nỗ lực ám sát José thất bại và gia đình nhà Távora hùng mạnh, trong mắt của Hầu tước xứ Pombal, hoàn toàn chịu trách nhiệm. Pombal sau đó đã ra lệnh hành quyết tất cả các thành viên của gia đình quý tộc và chỉ nhờ sự can thiệp của Mariana Victoria và con gái lớn là Nữ Thân vương xứ Brasil, thì một bộ phận phụ nữ và trẻ em mới được tha mạng. Vì Pombal là người cai trị trên thực tế, nên Mariana Victoria và chồng có vai trò kém nổi bật hơn trong chính trường. Sau khi trải qua một loạt các cơn đột quỵ, José I đã quyết định để Mariana Victoria thay thế vị trí người đứng đầu chính phủ. Do đó, vào ngày 29 tháng 11 năm 1776, Mariana Victoria được phong làm Nhiếp chính của Bồ Đào Nha cho đến khi José qua đời vào ngày 24 tháng 2 năm 1777. Sau khi José qua đời, con gái lớn của hai vợ chồng trở thành nữ vương đầu tiên của Bồ Đào Nha với tên hiệu Maria I. Trong suốt triều đại của nữ vương Maria I, Mariana Victoria có ảnh hưởng đáng kể đến con gái và nữ vương thường hỏi xin lời khuyên của mẹ về các vấn đề quốc gia. Và trong những ngày đầu trị vì của Maria I, Hầu tước xứ Pombal bị trục xuất khỏi đất nước. Thái hậu Bồ Đào Nha. Khi con gái Maria I nắm quyền cai trị, Mariana Victoria quyết định cải thiện mối quan hệ với quê hương Tây Ban Nha, hiện được cai trị bởi anh trai là Carlos III. Tạit thời điểm đó, hai quốc gia đang có có xung đột về lãnh thổ ở châu Mỹ. Ngày 28 tháng 10 năm 1777, Mariana Victoria rời Bồ Đào Nha để đến Tây Ban Nha và ở lại hơn một năm, cư trú ở Madrid và Aranjuez. Nhờ Mariana Victoria, một hiệp ước giữa hai quốc gia được hình thành và được củng cố bằng cuộc hôn nhân kép giữa các cháu của của Mariana và con cháu của Carlos III. Trong đó, cuộc hôn nhân đầu tiên là giữa Vương tử Gabriel của Tây Ban Nha và cháu gái của Mariana Victoria là Vương nữ Mariana Vitória của Bồ Đào Nha; cuộc hôn nhân thứ hai là giữa Vương tôn nữ Carlota Joaquina của Tây Ban Nha (cháu gái lớn của Carlos III) và Vương tử João. Tháng 11 năm 1778, Mariana Victoria trở lại Bồ Đào Nha. Trong thời gian ở Tây Ban Nha, Mariana Victoria đã bị bệnh phong thấp và phải ngồi xe lăn một thời gian vào tháng 8 năm 1778. Bệnh tình của Mariana trở nên trầm trọng hơn khi Mariana cũng đang mắc bệnh tim. Mariana Victoria sau đó qua đời tại "Real Barraca de Ajuda", nơi sau này là Cung điện Quốc gia Ajuda. Mariana Victoria được chôn cất tại Pantheon của Vương tộc Bragança ở Lisboa. Mariana Victoria chính là mẹ đỡ đầu của Maria Antonia của Áo, được sinh ra một ngày sau trận động đất ở Lisboa năm 1755. Mariana còn là tổ mẫu của đương kim Quốc vương Tây Ban Nha, Bỉ, Luxembourg, Carlos của Borboné-Parma, Công tước xứ Parma "(trên danh nghĩa)" và Henri Philippe, Bá tước xứ Paris "(trên danh nghĩa)". Năm 1822, cháu chắt của Mariana Victoria là Pedro trở thành hoàng đế đầu tiên của Brasil. Tư liệu liên quan tới
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Tỉnh Wołyń hay tỉnh Volhynia là một khu vực hành chính của Ba Lan giữa hai thế chiến (1918–1939) với diện tích 35.754 km², 22 đô thị và tỉnh lị ở Łuck. Tỉnh được chia thành 11 huyện (powiaty), bao gồm một phần của khu vực lịch sử Volhynia. Vào cuối Thế chiến II, do sự kiên quyết của Joseph Stalin và Liên Xô, biên giới của Ba Lan được Đồng minh vẽ lại và lãnh thổ tỉnh được sáp nhập vào Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina của Liên Xô. Hiện nay, khu vực được phân chia giữa các tỉnh Rivne và Volyn của Ukraina. Sau một thế kỷ dưới quyền cai trị của ngoại bang, nhà nước Ba Lan tái sinh sau Thế chiến I. Biên giới của nước cộng hòa được mở rộng về phía Đông do Chiến tranh Ba Lan-Xô viết (1920). Ba Lan lập ra tỉnh Wołyń là một trong 16 đơn vị hành chính chính của đất nước. Một trong những thành tựu lớn nhất của chính quyền khu vực ở Wołyń trong thời kỳ giữa hai thế chiến là sự phát triển của cơ sở hạ tầng hiện đại. Khoảng 1.000 tòa nhà trường học được xây dựng từ đầu, với số tiền đáng kể từ ngân quỹ nhà nước. Tổng cộng, khoảng 2.000 trường tiểu học được mở và hơn mộtchục trường trung học, sử dụng 4.500 giáo viên.[p. 128] Các dự án mới được thực hiện ở các thị trấn và thành phố khi trước hầu như bị các thế lực đế quốc bỏ rơi, bao gồm các tòa thị chính và tòa án, bưu điện, tòa nhà cảnh sát, tổ chức tài chính, bệnh viện và phòng khám sức khỏe. Năm 1928, tuyến đường sắt Lwów qua Stojanów được khánh thành. Những con đường được trải nhựa trên quy mô lớn. Vào khoảng năm 1925, các đường dây điện thoại và điện báo được xây dựng, kết nối các bưu điện trên toàn bộ khu vực tỉnh, giúp cho việc phân phối báo chí rộng rãi hơn. Vào ngày 17 tháng 9 năm 1939, các lực lượng Liên Xô đã xâm chiếm miền đông Ba Lan. Hồng quân xâm chiếm khu vực của tỉnh một cách dễ dàng, gặp quân Đức xâm lược dọc theo đường Curzon và tổ chức một cuộc diễu hành chiến thắng chung. Tỉnh Wołyń bị Wehrmacht tràn ngập vào tháng 7 năm 1941 trong cuộc tấn công của quân Đức vào các vị trí của Liên Xô ở miền đông Ba Lan. Các hạn chế hà khắc đối với người Do Thái Ba Lan được áp đặt vào tháng 8 năm 1941. Ghetto Lutsk được chính quyền chiếm đóng của Đức thành lập tại thủ phủ.ref name="geni/Lutsk"Dr Pawel Goldstein, Lutsk (Luck) Ghetto. G"In the spring of 1942 a group of young Jews attempted to escape from the ghetto to the forests, but most of them were caught and murdered by the Ukrainians. A few, however, managed to join the Soviet partisans and fought the Germans as part of the Kowpak units."/ref Trong những năm 1942–1944, Wołyń là nơi xảy ra nạn diệt chủng do các nhóm bán quân sự liên kết với Tổ chức những người theo chủ nghĩa dân tộc Ukraina (OUN), đặc biệt là Quân đội nổi dậy Ukraina (UPA) tiến hành. Władysław và Ewa Siemaszko ước tính rằng khoảng 60.000 người Ba Lan đã bị tàn sát trong tỉnh. Tỉnh Wołyń nằm ở góc đông nam của Ba Lan, giáp với Liên Xô ở phía đông, tỉnh Lublin ở phía tây, tỉnh Polesie ở phía bắc, và tỉnh Lwów và Tarnopol ở phía nam. Ban đầu, diện tích của tỉnh ở Ba Lan mới là 30.276 km². Vào ngày 16 tháng 12 năm 1930, huyện Sarny với 5.478 km² được chuyển từ tỉnh Polesie sang Tỉnh Wołyń. Do đó, tổng diện tích của tỉnh Wołyń tăng lên 35.754 km², khiến nó trở thành tỉnh lớn thứ hai của Ba Lan. Phần lớn cảnh quan là bằng phẳng và đồi. Ở phía bắc, có một dải đất bằng phẳng tên là Polesie Volhynia, kéo dài khoảng 200 km từ sông Nam Bug đến biên giới Ba Lan-Liên Xô. Cảnh quan ở phía nam có nhiều đồi hơn, đặc biệt là ở góc cực đông nam xung quanh thị trấn lịch sử Krzemieniec, thuộc vùng núi Gologory. Các con sông chính của tỉnh là Styr, Horyń và Słucz. Tỉnh Wołyń được thành lập chính thức vào ngày 19 tháng 2 năm 1921. Ban đầu tỉnh được chia thành các huyện Dubno, Horochow, Kowel, Krzemieniec, Luboml, Łuck, Ostróg, Równe và Włodzimierz Wołyński. Thủ phủ của tỉnh Wołyń là Łuck (nay thuộc Ukraina). Tỉnh bao gồm 11 powiat (huyện), 22 đô thị lớn, 103 làng và hàng nghìn cộng đồng nhỏ và khutor (tiếng Ba Lan: futory, kolonie), với các cụm trang trại không thể thực hiện bất kỳ hình thức kháng cự nào trước các cuộc tấn công quân sự trong tương lai. In 1921 Wołyń Province was inhabited by 1,437,569 people, and the population density was 47.5 persons per km2. Đến năm 1921, tỉnh Wołyń có 1.437.569 người sinh sống và mật độ dân số là 47,5 người/km². Đến năm 1931, dân số tăng lên 2.085.600 và mật độ đạt 58 người/km². Theo điều tra dân số Ba Lan năm 1931, tiếng Ukraina được nói bởi 1.418.324 cư dân (68,0%), tiếng Ba Lan là 346.640 (16,6%), tiếng Yiddish là 174.157 (8,3%), tiếng Hebrew là 31.388 (1,5%), tiếng Đức là 46.883 (2,2%), tiếng Séc là 30.977 (1,5%), tiếng Nga là 23.387 (1,1%), tiếng Ruthenia là 8.548 (0,4%) và tiếng Belarus là 2.417 (0,1%). Các tôn giáo chính được thực hành trong khu vực là Cơ đốc giáo Chính thống Đông phương (69,8%), Công giáo La Mã (15,7%) cũng như Do Thái giáo (10%), Tin lành (2,6%) và đức tin Hồi giáo của người Tatar. Đối với cộng đồng người Ukraina theo Chính thống giáo ở miền đông Ba Lan, ban đầu chính phủ Ba Lan ban hành một sắc lệnh bảo vệ quyền của các nhóm thiểu số Chính thống giáo. Trên thực tế, điều này thường thất bại, vì người Công giáo cũng mong muốn củng cố vị thế của mình, đã có đại diện chính thức tại Sejm và tòa án. Cùng với thời gian, khoảng 190 nhà thờ Chính thống giáo đã bị phá hủy hoặc tháo dỡ (nhiều trong số đó đã bị bỏ hoang sẵn), và 150 nhà thờ khác được chuyển thành nhà thờ Công giáo La Mã. Những hành động như vậy đã bị người đứng đầu Nhà thờ Công giáo Hy Lạp Ukraina là Andrei Sheptytsky lên án. Cải cách ruộng đất được thiết kế để có lợi cho người Ba Lan ở Volhynia vốn có phần lớn dân cư là người Ukraina, lãnh thổ nông nghiệp là nơi vấn đề đất đai đặc biệt nghiêm trọng, đã tạo ra sự xa lánh đối với nhà nước Ba Lan của ngay cả những người Volhynia theo Chính thống giáo, những người có xu hướng ít cấp tiến hơn nhiều so với người người Galicia theo Công giáo Hy Lạp. Tỉnh Wołyń nằm ở cái gọi là Ba Lan "B". Phần lớn dân số của tỉnh là người nghèo, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Rừng bao phủ 23,7% diện tích tỉnh (tính đến năm 1937). Nhiều thập kỷ dưới sự cai trị của Đế quốc Nga đã khiến Volhynia rơi vào tình trạng kinh tế bế tắc, nhưng sản lượng nông nghiệp sau khi Ba Lan tái lập đã tăng lên nhanh chóng. Việc áp dụng các biện pháp canh tác hiện đại đã mang lại sản lượng lúa mì tăng gấp hàng chục lần trong khoảng thời gian từ 1922/23 đến 1936/37. Đến năm 1937, tỉnh này có 760 nhà máy, sử dụng 16.555 công nhân. Khai khoáng, lâm nghiệp và sản xuất lương thực cung cấp việc làm cho 14.206 người. Công nhân bị sa thải khỏi các nhà máy công nghiệp cũng là những người có khả năng thành lập doanh nghiệp mới cao nhất. Xét về thành phần dân tộc trong số các chủ doanh nghiệp mới, phần lớn họ là người Do Thái. Tỉnh đã trải qua thời kỳ suy thoái vào năm 1938/39. Căng thẳng giữa các chủ cửa hàng người Do Thái với người Ukraina gia tăng đáng kể sau khi các cửa hàng hợp tác ra đời, điều này làm suy yếu các doanh nghiệp tư nhân do người Do Thái điều hành. Các chủ doanh nghiệp Do Thái đã bị đuổi khỏi khoảng 3.000 ngôi làng Ukraina vào năm 1929, trong khi người Ukraina hướng tới sự tự bền vững về kinh tế thông qua các hợp tác xã đi kèm với những khát vọng chính trị mới của họ. Tình hình tốt hơn nhiều đối với người Séc và người Đức, những người có trang trại có tính hiệu quả cao. Mạng lưới đường sắt mỏng, chỉ có một vài trung tâm, quan trọng nhất ở Kowel, với những trung tâm nhỏ hơn ở Zdołbunów, Równe và Włodzimierz. Tổng chiều dài đường sắt trong tỉnh là 1.211 km - chỉ 3,4 km trên 100 km². Đây là kết quả của nhiều thập kỷ kinh tế bóc lột của Nga. Năm 1938, chính phủ Ba Lan bắt đầu chương trình điện khí hóa Wołyń. Vào mùa xuân năm 1939, một nhà máy điện 30.000 Volt được xây dựng ở Krzemieniec, nơi cung cấp ánh sáng và điện năng cho các thị trấn và làng mạc ở năm huyện. Các nhà máy điện khác đã không được hoàn thành do Cuộc xâm lược của Ba Lan. Hội chợ Thương mại Wołyń hàng năm (1929–1938) diễn ra ở Równe, được coi là một trong những hội chợ khu vực quan trọng nhất của Ba Lan. Năm 1939, hội chợ được lên kế hoạch diễn ra vào ngày 15–25 tháng 9. Trước năm 1917 nạn mù chữ tràn lan ở Wołyń. Đế quốc Nga chỉ duy trì 14 trường trung học trong toàn tỉnh. Dưới thời Cộng hòa Ba Lan, số trường công lập tăng lên rất nhiều: đến năm 1930, đã có 1.371 trường, con số này tăng lên 1.934 vào năm 1938. Tình trạng mù chữ kéo dài và theo điều tra dân số năm 1931, có tới 47,8% dân số Wołyń vẫn mù chữ, so với tỷ lệ trung bình toàn quốc là 23,1% của toàn Ba Lan (đến đầu năm 1939, tỷ lệ mù chữ ở Wołyń tiếp tục giảm xuống còn 45%). Để chống nạn mù chữ, chính quyền Wołyń đã tổ chức một mạng lưới được gọi là thư viện di động, vào năm 1939 bao gồm 300 phương tiện và 25.000 quyển. Tỷ lệ học sinh ở các trường chỉ dùng tiếng Ukraina giảm từ 2,5% năm 1929/1930 xuống 1,2% năm 1934/35.
Akula (lớp tàu ngầm) Tầu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân lớp Akula, tên định danh của Liên Xô là Project 971 "Shchuka-B (, tên định danh của NATO là Akula") là tàu ngầm tấn công năng lượng hạt nhân thế hệ thứ Tư đầu tiên được Hải quân Liên Xô triển khai vào năm 1986. Có bảy tầu ngầm lớp Akula I (project 971) được đưa vào trang bị từ năm 1984 đến năm 1990, sáu chiếc thuộc Project 971Is (Phiên bản cải tiến của tàu ngầm lớp Akula I), được đưa vào trang bị từ năm 1991 đến 2009, một tàu ngầm thuộc Project 971U (Akula II) đưa vào trang bị năm 1995 và một tàu Project 971M (Akula III) được đưa vào trang bị năm 2001. Hải quân Nga đặt tên gọi cho tất cả các phiên bản này là "Shchuka-B", mà không phân biệt giữa các phiên bản. Ở đây có thể dễ bị nhầm lẫn do cái tên "Akula" (, nghĩa là cá mập trong tiếng Nga được sử dụng bởi một lớp tàu ngầm khác của Liên Xô là Project 941, với cái tên ở phương Tây là tàu ngầm lớp Typhoon. Project 971 được Liên Xô đặt tên là "Shchuka-B" nhưng ở các nước phương Tây người ta gọi nó là Akula theo tên của chiếc tàu ngầm đầu tiên thuộc lớp tàu này, chiếc K-284. Theo như trang phân tích Norman Polmar, việc chiếc tàu ngầm Shchuka-B ra đời vào năm 1985 đã gây shock cho các nước phương Tây, khi giới tình báo phương Tây cho rằng Liên Xô không thể chế tạo được một chiếc tàu ngầm như vậy trong vòng mười năm. Tàu ngầm Project 971 Shchuka-B sử dụng thiết kế thân kép với vỏ chịu áp lực bên trong và vỏ nhẹ hơn bên ngoài. Điều này giúp cho việc thiết kế hình dáng khoang bên trong con tàu được dễ dàng hơn, cụ thể là tàu ngầm có nhiều không gian để nổi hơn tàu ngầm của phương Tây. Tàu ngầm có một cái bướu tròn phía đuôi để chứa sonar dạng kéo phía sau tàu. Phần lớn các tàu ngầm Project 971 Shchuka-B có hệ thống phát hiện thuỷ âm () (SOKS), có khả năng phát hiện sự thay đổi của nhiệt độ nước và độ mặn của nước biển. "Akulas" (bao gồm "Nerpa") được trang bị bốn ống phóng ngư lôi cỡ 533 mm sử dụng ngư lôi Type 53 hoặc tên lửa chống ngầm RPK-2, RPK-6, và bốn ống phóng lôi cỡ 650 mm sử dụng ngư lôi Type 65 hoặc tên lửa chống ngầm RPK-7. Các ống phóng lôi được thiết kế với hai hàng mỗi hàng bốn ống phóng. Các ống phóng ngư lôi phụ được gắn bên ngoài vỏ áp lực theo một hàng ngang, phía trên các ống phóng ngư lôi chính, và chỉ có thể nạp ngư lôi cho các ống phóng này tại cảng hoặc với sự trợ giúp của Tàu tiếp liệu tàu ngầm. phóng ngư lôi 650 mm có thể sử dụng chung ngư lôi cỡ 533 mm. Tàu ngầm cũng có khả năng sử dụng ống phóng ngư lôi để rải thuỷ lôi. Các thông tin về tàu ngầm lớp Akula không được Nga công bố, nhưng một số thông tin có thể tìm thấy trên các nguồn khác nhau. Project 971 ("Akula I"). Trong số bảy tầu ngầm Project 971 chỉ còn 3 chiếc được biết đến là vẫn còn hoạt động. Những tàu ngầm này được trang bị hệ thống định vị thuỷ âm MGK-540 Skat-3 (tên ký hiệu NATO Shark Gill). Tàu đầu tiên của lớp tàu ngầm này là K-284 "Akula" (Hạm đội Thái Bình Dương) nó bị loại biên từ năm 2001, để tiết kiệm ngân sách cho Hải quân Nga. K-322 "Kashalot" và K-480 "Bars" ["Ak Bars"] được đưa vào dự trữ. K-480 "Bars" được đưa vào dự trữ từ năm 1998, và bị tháo dỡ vào tháng Hai năm 2010. Chiếc tàu thứ tư "Pantera" được đưa trở lại hoạt động vào tháng Một năm 2008 sau khi trải qua đại tu. Tất cả các tàu ngầm thuộc lớp Project 971 đều được tái trang bị với cảm biến thuỷ động SOKS. Các tàu ngầm được chế tạo trước K-391 "Bratsk" có lò phản ứng tương tự như lớp tàu ngầm SSBN Typhoon. Kể từ tàu ngầm "Bratsk" trở đi được lắp lò phản ứng tương tự như trên tàu ngầm Oscar II (Tàu ngầm lớp "Typhoon", "Akula" và "Oscar" đều sử dụng lò phản ứng OK-650). Project 971 và 971I (Phiên bản nâng cấp từ "Akula I"). Có sáu chiếc thuộc Project 971 và 971I được chế tạo và vẫn đang hoạt động. Chúng hoạt động yên lặng hơn lớp Akula nguyên mẫu. Có nguồn tin cho rằng việc chế tạo hai lớp tàu này vẫn đang được tiếp tục, với hai chiếc nữa sẽ được đóng theo kế hoạch. Các tàu ngầm thuộc lớp này bao gồm: K-328 "Leopard", K-461 "Volk", K-154 "Tigr", K-419 "Kuzbass", K-295 "Samara" và K-152 "Nerpa". Những tàu ngầm này cũng được trang bị cảm biến thuỷ động SOKS trừ tàu ngầm "Leopard". Project 971U ("Akula II"). K-157 "Vepr" là chiếc tàu ngầm duy nhất thuộc Project 971U được hoàn thiện. "Akula II" có chiều dài dài hơn và lượng giãn nước khi chìm lớn hơn 700 tấn so với "Akula I". Tàu ngầm K-157 "Vepr" là tàu ngầm đầu tiên của Nga có độ ồn thuỷ âm bé hơn tàu ngầm tấn công tương đương của Hải quân Mỹ là tàu ngầm tấn công lớp Los Angeles (SSN 751 và các tàu sau nó). Hai chiếc thuộc lớp này đã được sử dụng để chế tạo một chiếc tàu ngầm lớp Borei. Project 971M ("Akula III"). Tàu ngầm K-335 "Gepard" là chiếc thứ 14 của lớp tàu ngầm Shchuka-B được hoàn thiện và cũng là chiếc duy nhất thuộc phiên bản Project 971M được chế tạo cho Hải quân Nga. Đây cũng là tàu ngầm đầu tiên được đưa vào trang bị cho Hải quân Nga sau hoạ chìm tàu ngầm Kursk, lễ bàn giao của tàu ngầm diễn ra rất long trọng với Tổng thống Nga Vladimir Putin tham dự. Không có tên định danh của NATO dành cho phiên bản tàu ngầm "Akula III". Phiên bản này dài hơn và có lượng dãn nước lớn hơn phiên bản "Akula II", có thân tàu rộng hơn và có sonar kéo theo dạng khác với các phiên bản khác. Phiên bản này cũng áp dụng nhiều hơn nữa các biện pháp để làm giảm tiếng ồn. Tàu ngầm K-335 Gepard do đó là tàu ngầm tiên tiến nhất của Hải quân Nga trước khi tàu ngầm Severodvinsk và tàu ngầm lớp Borei được đưa vào hoạt động. Những bước tiến công nghệ cải thiện tiếng ồn thuỷ âm của tàu ngầm Nga đã gây ra những sự chú ý đáng kể của các nước Phương Tây, với việc mức bộc lộ tiềng ồn thấp luôn là điểm mạnh của tàu ngầm Mỹ so với các tàu ngầm của Liên Xô cũ. Năm 1983–1984 công ty Toshiba của Nhật đã bán máy phay chín chục cùng thiết bị điều khiển cho Liên Xô, vốn được phát triển bởi công ty Na Uy là Kongsberg Vaapenfabrik. Hải quân Hoa Kỳ và Quốc hội Hoa Kỳ đã đưa ra phát ngôn rằng những công nghệ mà Nhật bán cho Liên Xô đã giúp người Nga có khả năng chế tạo tàu ngầm với chân vịt chính xác và yên tĩnh hơn. Sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1991, việc chế tạo tàu ngầm Akula đã bị chậm lại. Lịch sử hoạt động. Từ tháng 12 năm 1995 đến tháng 2 năm 1996, tàu ngầm "Volk" đã được triển khai đến biển Địa trung hải cùng với tàu sân bay Kuznetsov, tại đây nó đã theo dõi hoạt động của tàu ngầm NATO. Chỉ huy của tàu là thuyền trưởng đại tá hạng nhất S. V. Spravtsev. Từ tháng Tư đến tháng Sáu năm 1996, tàu ngầm "Tigr" đã theo dõi hành trình của tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo SSBN lớp Ohio của Hải quân Mỹ. Ngày 23 tháng Bảy năm 1996, chỉ huy của con tàu là Thuyền trưởng cấp 1 Alexey Burilichev, đã được trao tặng danh hiệu anh hùng Liên Xô. Tháng Tám năm 2009, các phương tiện truyền thông đưa tin hai tàu ngầm lớp Akula đã tuần tra ngoài khơi bờ biển phía Đông của Hoa Kỳ, với một chiếc trong số đó được nhận diện là thuộc Project 971 Shchuka-B. Các nguồn tin của quân đội Mỹ lưu ý rằng đây là lần đầu tiên tàu ngầm Nga quay trở lại bờ biển phía Đông Hoa Kỳ kể từ sau Chiến tranh Lạnh, gây ra mối quan ngại từ quân đội Mỹ. Bộ chỉ huy khu vực Bắc Mỹ đã xác nhận thông tin này. Một trong hai tàu ngầm dường như là tàu ngầm "Gepard" đã hoàn thành một hải trình tuần tra dài ngày từ tháng Sáu đến tháng Chín cùng năm dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Alexey Vyacheslavovich Dmitrov, người cũng đã được tặng thưởng Huân chương anh hùng Liên Bang Nga vào ngày 15/2/2012 do những hành động dũng cảm trong lúc chỉ huy con tàu. Chiếc tàu còn lại có thể là chiếc "Tigr" dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng E. A. Petrov, có lịch trình tuần tra vào khoảng giữa tháng Ba và tháng Mười Một năm 2009. Dường như không có tàu ngầm nào khác thuộc Project 971 cũng tuần tra vào thời điểm đó tại khu vực biển Đại Tây Dương. Chiếc "Pantera" đã neo đậu tại cảng Severemorsk trong suốt mùa hè, trong khi "Vepr", "Leopard" và "Volk" không được báo cáo có bất kỳ hoạt động nào trong năm đó (1-3 tàu ngầm thuộc lớp Akula của Hạm đội Phương Bắc thường xuyên được triển khai vào bất kỳ thời điểm nào). Tháng Tám năm 2012, các kênh thông tin đưa ra tin tức rằng một tàu ngầm lớp Akula khác đã hoạt động tại Vịnh Mexico mà không hề bị phát hiện trong hơn một tháng. Nhiều khả năng đây là tàu ngầm "Tigr", thuyền trưởng chỉ huy là Pavel Bulgakov. Anh đã được nhận Huân chương lòng dũng cảm vào ngày 22 tháng Hai năm 2013. Sự cố "Nerpa" năm 2008. Ngày 27 tháng Mười năm 2008, có báo cáo rằng tàu ngầm K-152 Nerpa thuộc Hạm đội Thái Bình Dương đang trong quá trình thử nghiệm trên biển tại khu vực biển Nhật Bản trước khi được bàn giao lại cho Hải quân Ấn Độ. Vào ngày mùng 8 tháng 11 năm 2008, trong khi thực hiện một cuộc thử nghiệm, một tai nạn đã xảy ra đối với hệ thống chống cháy bằng khí Halon ở khu vực phía trước của tàu ngầm. Chỉ trong vòng vài giây, khí helon đã chiếm toàn bộ không gian của không khí trên tàu. Kết quả là đã có 20 người gồm 17 chuyên gia và 3 thủy thủ thiệt mạng. Hàng chục người khác bị tổn thương do hít phải khí freon và được di tản đến một cảng không rõ vị trí tại Primorsky Krai. Đây là thảm kịch tồi tệ nhất đối với Hải quân Nga kể từ sau khi tàu ngầm Kursk chìm vào năm 2000. Tàu ngầm Nerpa không bị tổn hại quá nhiều và chất phóng xạ không bị rò rỉ. Bán cho Ấn Độ. Ba trăm sĩ quan và thủy thủ người Ấn Độ đã được đào tạo tại Nga để vận hành tàu ngầm lớp Akula II Nerpa. Ấn Độ thỏa thuận thuê tàu ngầm của Nga với điều khoản về việc mua lại tàu ngầm. Chiếc tàu được đổi tên thành INS "Chakra". "Chakra" được thông báo bắt đầu triển khai trong Hải quân Ấn Độ vào ngày 4 tháng Tư năm 2012. Trong khi được biên chế trong Hải quân Nga, tàu ngầm Akula II được trang bị với 28 tên lửa hành trình có khả năng mang đầu đạn hạt nhân với tầm bắn , phiên bản của Ấn Độ sử dụng tên lửa hành trình Club-S có khả năng mang đầu đạn hạt nhân với tầm bắn . Theo như Hiệp ước MTCR về mua bán tên lửa, Nga không được phép bán tên lửa với tầm bắn lớn hơn cho Hải quân Ấn Độ. Ngày 7 tháng Ba năm 2019, Ấn Độ và Nga đã ký thỏa thuận trị giá 3 tỉ đô la để cho Ấn Độ mua thêm tàu ngầm tấn công Akula. Con tàu với tên gọi "Chakra III" sẽ được chuyển giao cho Hải quân Ấn Độ và năm 2025. Tháng Sáu năm 2021, tàu ngầm "Nerpa" đã quá cảnh qua Singapore trên đường quay trở về Nga sau thời hạn thuê tàu 10 năm ký từ tháng Tư năm 2012.
Đảng Tiến lên là một đảng chính trị dân chủ xã hội và tiến bộ ở Thái Lan. Nó phản đối ảnh hưởng còn sót lại của chính quyền quân sự, nhóm cai trị đất nước từ năm 2014 đến 2019. Nó được thành lập vào năm 2014 với tên gọi "Ruam Pattana Chart Thai Party" và sau đó đổi tên thành Đảng Phung Luang, nhưng sau cuộc tổng tuyển cử năm 2019 của Thái Lan, trở lại đến tên ban đầu của nó. Nó có được tên hiện tại của nó vào năm 2020 sau khi trở thành đảng kế thừa trên thực tế cho Đảng Tương lai mới. Đảng này chính thức thành lập vào ngày 1 tháng 5 2014 với tên gọi là Đảng Ruam Pattana Chart Thai. Đầu năm 2020, Đảng đã trở thành đảng kế thừa thực tế cho Đảng Tương lai mới, đã bị giải thể bởi một lệnh gây tranh cãi của Tòa án Hiến pháp, khi sau quyết định này, 55 dân biểu của đảng đó tuyên bố sẽ tham gia. Họ tuyên bố sẽ tiếp tục chương trình nghị sự tiến bộ và chống chính quyền quân sự của Đảng Tương lai mới. Tên của đảng này sau đó được đổi thành Đảng Tiến lên, cùng với việc phát hành một logo mới tương tự như của đảng cũ. Đảng này dành được 36,23 % số phiếu trong cuộc tổng bầu cử 2023 ở Thái, đạt được 152 ghế và trở thành đảng mạnh nhất trong Hạ nghị viện Thái Lan, một kết quả bất ngờ. Đảng Tiến lên là một đảng chính trị trung tả tiến bộ. Họ được biết đến như là một nền tảng ủng hộ dân chủ và mục tiêu của họ là loại bỏ ảnh hưởng của quân đội trong nền chính trị Thái Lan. Một số chính sách của họ bao gồm hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới, bình đẳng kinh tế, bãi bỏ nghĩa vụ quân sự, trưng cầu dân ý về việc viết lại hiến pháp và cải cách chế độ quân chủ. Nó cũng nhằm mục đích sửa đổi luật khi quân nghiêm ngặt của Thái Lan, cũng như hỗ trợ việc kiểm tra ngân sách hoàng gia. Vào năm 2023, đảng này đã tranh cử trên một cương lĩnh nhấn mạnh "3D" là phi quân sự hóa, phi độc quyền hóa và phi tập trung hóa, mà Limjaroenrat cho rằng sẽ dẫn đến dân chủ hóa, tiến trình hòa bình và chủ nghĩa cải cách.
Lethrinus haematopterus là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1844. Từ định danh "haematopterus" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: "haímatos" (αἵματος; “máu”) và "pterón" (πτερόν; “vây, cánh”), hàm ý đề cập đến màu đỏ như máu trên một vài hoặc tất cả các vây của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "L. haematopterus" có phân bố giới hạn trong vùng Tây Bắc Thái Bình Dương, từ Nam Nhật Bản trải dài về phía nam đến Hàn Quốc, bờ nam Trung Quốc, và xa nhất là đến quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Chiều dài cơ thể lớn nhất ở "L. haematopterus" là 45 cm. Thân màu ô liu xám, lốm đốm các vệt đen. Đầu màu xám, đôi khi có hai sọc xanh lam tỏa ra từ phía trước mắt. Các vây có thể có màu xám hoặc đỏ, riêng vây lưng có viền đỏ. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 4 thường dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 47–49. Thức ăn của "L. haematopterus" có lẽ tương tự như những loài "Lethrinus" khác, là cá nhỏ, động vật giáp xác và động vật thân mềm. Một loài sán lá đơn chủ mới thuộc họ Capsalidae gần đây được phát hiện trên cơ thể "L. haematopterus", được đặt danh pháp là "Benedenia armata".
Yayah Kallon (sinh ngày 30 tháng 6 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Sierra Leone hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Hellas Verona tại Serie A, cho mượn từ Genoa. Sự nghiệp thi đấu. Năm 2018, Kallon ký hợp đồng với câu lạc bộ Savona tại Serie D, sau khi thử việc ở câu lạc bộ Virtus Entella tại Serie C. Ngày 22 tháng 5 năm 2021, anh ra mắt cho Genoa trong chiến thắng 1–0 tại Serie A trước Cagliari. Ngày 13 tháng 8 năm 2021, Kallon ghi bàn thắng đầu tiên cho Genoa, trong chiến thắng 3–2 tại Coppa Italia trước Perugia. Ngày 26 tháng 8 năm 2022, Kallon gia nhập Hellas Verona theo dạng cho mượn.
Sa hải (phim truyền hình) Sa hải (tiếng Trung: 沙海, tiếng Anh: Tomb of the Sea) là một bộ phim truyền hình trực tuyến Trung Quốc năm 2018 được chuyển thể từ Đạo mộ bút ký thiếu niên thiên: Sa Hải (盜墓筆記少年篇:沙海) trong bộ tiểu thuyết Đạo mộ bút ký của nhà văn Trung Quốc Nam Phái Tam Thúc. Phim được công chiếu vào ngày 20 tháng 7 năm 2018 trên dịch vụ phát trực tuyến Tencent Video và WeTV. Sa hải là bộ phim có giá bản quyền cao nhất năm 2018 tại Trung Quốc, lên tới 15 triệu NDT (51,3 tỷ đồng) cho một tập phim. Lưu ý: "Phân đoạn dưới đây tiết lộ toàn bộ nội dung của tác phẩm." Lê Thốc là một học sinh trung học phổ thông bình thường, sống trong một gia đình cha mẹ ly hôn, do lười biếng nên thi trượt tốt nghiệp. Lê Thốc có cậu bạn thân tên Tô Vạn, một phú nhị đại tính tình hiền lành, có phần nhút nhát, học kém y như Lê Thốc và Dương Hảo - người anh lưu manh đường phố, hay bảo kê cho Lê Thốc, Tô Vạn. Một ngày nọ Lê Thốc nhận được món quà của cô bạn Thẩm Quỳnh, là một chiếc hộp sắt hình mặt người. Vì chiếc hộp đó, Lê Thốc bị Hoàng Nghiêm - là một người trong nhóm của Ngô Tà từng đến đến di tích Cổ Đồng Kinh cướp hộp, đồng thời người này rạch lên lưng Lê Thốc một đồ hình bí ẩn. Lê Thốc bị thương, được đưa vào viện và được bác sĩ Lương Loan chữa trị. Hoàng Nghiêm bị thương nặng nên chết tại bệnh viện. Chưa kịp hồi phục vết thương, Lê Thốc bị bắt cóc bởi Ngô Tà. Vì đồ hình trên lưng Lê Thốc, Ngô Tà ép Lê Thốc phải tham gia chuyến hành trình đến di tích Cổ Đồng Kinh ở sa mạc Badain Jairan (Ba Đan Cát Lâm) cùng mình và Vương Minh. Chuyến đi này do Mã Mậu Niên là một ông chủ giàu có tài trợ, đi cùng có Tô Nan và đàn em do Mã Mậu Niên thuê. Đoàn quay phim tài liệu của đạo diễn Vương Đạo xin đi cùng. Người dẫn đường vào sa mạc Badain Jairan (Ba Đan Cát Lâm) tên Mã Nhật La. Ngô Tà lấy thân phận giả là nhiếp ảnh gia Quan Căn. Lê Thốc, Vương Minh là trợ lý cho nhiếp ảnh gia. Ngoài ra còn có Hắc Hạt Tử bí mật đi theo cả nhóm trong suốt hành trình. Tô Vạn, Dương Hảo biết tin Lê Thốc mất tích thì đến bệnh viện tìm hiểu và gặp được bác sĩ Lương Loan. Lương Loan vẽ lại hình ảnh của Ngô Tà, Vương Minh. Quá trình điều tra, Tô Vạn, Dương Hảo đến khách sạn Tân Nguyệt và quen với Trương Nhật Sơn. Trương Nhật Sơn trong một lần chiến đấu với Người của Uông gia mà bị thương ở tay. Khi đến bệnh viện khâu vết thương, anh làm quen với bác sĩ Lương Loan. Vì tránh để Người của Uông gia phát hiện mình bị thương nặng, anh nhờ Lương Loan khâu vết thương tại nhà riêng và muốn cô làm bạn gái mình. Một lần tình cờ phát hiện sau lưng của cô có hình xăm phượng hoàng. Trương Nhật Sơn nghi ngờ cô là Người của Uông gia và âm thầm xác minh. Tô Vạn thay Lê Thốc nhận bưu phẩm chuyển phát đến nhà của Lê Thốc. Khi mở ra thì đó là một băng ghi âm kiểu cũ. Tô Vạn, Dương Hảo đem băng ghi âm trên đến các tiệm đồ cổ tại Phan Gia Viên tìm cách sửa chữa hy vọng có được thông tin về Lê Thốc. Tại đây, họ gặp được Vương Bàn Tử và Kim Vạn Đường. Vương Bàn Tử nhờ Trương Nhật Sơn giúp đỡ liên hệ với Doãn Nam Phong mượn Máy hát chuyên dụng hiện đang trưng bày tại khách sạn Tân Nguyệt để có thể nghe được nội dung của băng ghi âm này. Nội dung trong băng ghi âm Bàn Tử chép lại cho Tô Vạn một bản. Tô Vạn vô cùng kinh ngạc khi nghe trong đoạn băng là nội dung về một cuộc thí nghiệm và tên của Thẩm Quỳnh. Trải qua nhiều khó khăn nguy hiểm, chỉ còn Lê Thốc, Ngô Tà, Vương Minh và Hắc Hạt Tử đến được một công trường bị bỏ hoang có cột mốc Cổ Đồng Kinh. Tại đây, có nhiều người bị rắn lông đen cắn giờ trở thành quái vật. Đồ hình mà Hoàng Nghiêm rạch lên lưng Lê Thốc chính là văn tự, ấn viên đá trên bia đá theo một quy luật nhất định để mở cửa vào điện yết kiến bên trong. Lê Thốc, Hắc Hạt Tử phát hiện Ngô Tà, Vương Minh bị trúng độc của rắn lông đen. Họ quay lại công trường để tìm huyết thanh giải độc. Tuy nhiên, chỉ có 1 liều, Ngô Tà dùng liều huyết thanh đó cứu Vương Minh. Sau đó, Hắc Hạt Tử đưa Lê Thốc rời khỏi chỗ này và trở về nhà. Trương Nhật Sơn đưa ra các manh mối dẫn dụ Lê Thốc đến tiệm kinh doanh đồ cổ, gọi là Ngô Sơn cư (吳山居) tại Hàng Châu. Lương Loan qua quá trình điều tra cũng quyết định đến Ngô Sơn cư tìm hiểu về hình xăm phượng hoàng sau lưng. Hết phần truyền thông nội dung. Thời gian phát sóng. Thời gian trong bảng dựa theo giờ địa phương
Trèo cây Siberi (Sitta arctica) là một loài chim thuộc họ Trèo cây. Sau một thời gian dài được coi là phân loài của Trèo cây Á Âu ("S. europaea"), nó đã được phân biệt thành loài riêng vào năm 2006 trên cơ sở hình thái học và các dấu hiệu phân tử. Về trung bình, nó lớn hơn so với loài trèo cây Á Âu và cũng khác ở một số đặc điểm hình thái như hình dạng của mỏ, kích thước móng vuốt, màu sắc phần dưới cánh và các lông bay đuôi bên ngoài. Tiếng kêu của nó cũng được mô tả là "khác biệt rõ rệt" với tiếng kêu của loài trèo cây Á Âu, mặc dù không được giải thích cụ thể.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Tỉnh Tarnopol () là một khu vực hành chính của Ba Lan vào giữa hai thế chiến (1918–1939), được thành lập vào ngày 23 tháng 12 năm 1920, với diện tích 16.500 km² và tỉnh lỵ ở Tarnopol (nay là Ternopil, Ukraina). Tỉnh được chia thành 17 huyện (powiaty). Vào cuối Thế chiến thứ hai, do sự kiên quyết của Joseph Stalin, biên giới của Ba Lan bị vẽ lại và tỉnh Tarnopol được sáp nhập vào Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina của Liên Xô. Kể từ năm 1991, phần lớn diện tích nằm ở tỉnh Ternopil thuộc Ukraina độc lập. Trong cuộc xâm lược Ba Lan của Đức-Xô, Tarnopol bị chiếm đóng ngay từ ngày 18 tháng 9 năm 1939 mà không có sự phản đối đáng kể nào từ Ba Lan, và nằm trong tay Liên Xô cho đến Chiến dịch Barbarossa. Các tượng đài bị phá hủy, tên đường phố bị thay đổi, hiệu sách đóng cửa, bộ sưu tập thư viện bị đánh cắp và vận chuyển bằng xe tải đến kho lưu trữ của Nga. Tỉnh bị Xô viết hóa trong không khí khủng bố. Các gia đình bị trục xuất đến Siberia trong các chuyến tàu chở gia súc, chủ yếu là Kitô hữu người Ba Lan. Trong cuộc tấn công của Đức vào Liên Xô năm 1941, Tarnopol bị Wehrmacht tràn ngập vào ngày 2 tháng 7 năm 1941. Một cuộc tàn sát người Do Thái kéo dài từ ngày 4 tháng 7 đến ngày 11 tháng 7 năm 1941, ước tính khoảng 1.600 (Yad Vashem) và 2.000 (Virtual Shtetl).ref name=""/ref Vào tháng 9 năm 1941, chính quyền chiếm đóng của Đức đã thành lập các khu ghetto của người Do Thái tại một số thị trấn bao gồm ghetto Tarnopol với 12.000–13.000 tù nhân. Hình phạt tử hình đã được đưa ra, và thực phẩm bị hạn chế nghiêm trọng. Thủ phủ của tỉnh Tarnopol là Tarnopol. Sau khi Ba Lan tái lập, theo điều tra dân số Ba Lan năm 1921, tỉnh này có 1.428.520 người sinh sống với mật độ dân số là 88 người/km². Điều tra dân số quốc gia tiết lộ rằng một số lượng đáng kinh ngạc những người không thể đọc hoặc viết do các chính sách đàn áp của các cường quốc trước đây; họ chiếm hơn một nửa dân số khu vực. Trong tổng số cư dân có 447.810 người Công giáo La Mã, và 847.907 người Công giáo Hy Lạp, cũng như 128.967 người Cơ đốc giáo Chính thống. Mười năm sau, cuộc điều tra dân số quốc gia tiếp theo vào tháng 9 năm 1931 được thực hiện bằng các tiêu chí khác nhau. Những người trả lời được hỏi về tiếng mẹ đẻ và tôn giáo của họ. Mật độ dân số tăng lên 97 người/km². Tổng số cư dân trong tỉnh lên 1.600.406 người vào năm 1931, trong đó 789.114 người nói tiếng Ba Lan, 401.963 người nói tiếng Ukraina như ngôn ngữ đầu tiên của họ, 326.172 người nói tiếng Ruthenia (tiếng Ukraina), 71.890 người nói tiếng Yiddish, 7.042 người nói tiếng Hebrew, 2675 người nói tiếng Đức và 287 người nói Belarus, Séc và Litva. Trong số những người nói tiếng Ukraina ở Ba Lan, 397.248 người thuộc Giáo hội Công giáo Hy Lạp, và 3.767 người theo Công giáo La Mã; tuy nhiên, trong số những người nói tiếng Ba Lan, 157.219 cũng thuộc về Giáo hội Công giáo Hy Lạp. Sự chồng chéo của các giáo phái tôn giáo đã khiến cộng đồng được tích hợp ở một mức độ đáng kể. Trong khi đó, đại đa số người nói tiếng Ruthenia (tiếng Ukraina) là người Công giáo Hy Lạp giống như người nói tiếng Ukraina, và chỉ 7.625 người theo Công giáo La Mã. Người Do Thái chiếm 44% thành phần đa văn hóa đa dạng của Tarnopol, nói cả tiếng Yiddish và tiếng Hebrew. Thành phần tôn giáo là Công giáo Hy Lạp 50%, Công giáo La Mã 41%, Do Thái 9%. Người Công giáo Hy Lạp gốc Ukraina và người Do Thái thế tục nói tiếng Ba Lan trong một số trường hợp được phân loại là người Ba Lan trong cuộc điều tra dân tộc, chứ không phải người Ukraine hay người Do Thái; điều này giải thích sự khác biệt giữa các con số điều tra dân số tôn giáo và dân tộc. Diện tích của tỉnh là 16.533 km². Nó nằm ở góc đông nam của Ba Lan, giáp với Liên Xô ở phía đông, tỉnh Lwów và tỉnh Stanisławów ở phía tây, Romania ở phía nam và tỉnh Wołyń ở phía bắc. Phong cảnh nhiều đồi, với vùng đất cao Podole bao phủ phần lớn tỉnh. Ở phía tây bắc có dãy Hologory với ngọn núi Kamula (473 mét trên mực nước biển) là đỉnh cao nhất (tuy nhiên, Kamula nằm cách biên giới của tỉnh khoảng 5 km, ở tỉnh Lwów). Phần phía nam của tỉnh được biết đến với các nhà máy rượu vang và vườn đào. Dniester và Seret là những con sông chính. Biên giới với Liên Xô được đánh dấu bằng sông Zbruch, dọc theo toàn bộ dòng chảy của nó. Biên giới của tỉnh (và đồng thời – của Ba Lan) với Romania được đánh dấu bằng Dniester. Nơi cực đông nam là thành trì nổi tiếng của Ba Lan Okopy Swietej Trojcy (Thành lũy của Chúa Ba Ngôi), trong một thời gian đã bảo vệ Ba Lan khỏi các cuộc xâm lược của người Thổ Nhĩ Kỳ và người Tartar. Tỉnh Tarnopol được chính thức thành lập vào ngày 23 tháng 12 năm 1920. Tỉnh này bao gồm 17 powiat (huyện), 35 thị trấn và 1087 làng. Thủ phủ của tỉnh cũng là thành phố lớn nhất, với dân số khoảng 34.000 người (tính đến năm 1931). Các trung tâm đô thị quan trọng khác của tỉnh là: Czortków (dân số 19.000), Brody (16.400), Złoczów (13.000), Brzeżany (12.000) và Buczacz (11.000). Tỉnh Tarnopol bao gồm 17 powiat (huyện): Tỉnh Tarnopol nằm ở cái gọi là Ba Lan "B", có nghĩa là nó kém phát triển, khan hiếm về ngành công nghiệp. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp vẫn đạt kết quả tốt do khí hậu ôn hòa và đất đen màu mỡ, vốn phổ biến ở những khu vực này của châu Âu. Phần phía nam của tỉnh rất phổ biến đối với khách du lịch, với trung tâm chính ở Zaleszczyki - một thị trấn biên giới, nằm trên sông Dniester. Mạng lưới đường sắt được phát triển tốt hơn ở phía nam, với nhiều kết nối địa phương. Các nút giao thông đường sắt chính là: Tarnopol, Krasne, Kopczynce. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1938, tổng chiều dài đường sắt trong ranh giới tỉnh là 931 km (5,6 km trên 100 km²)
Lethrinus laticaudis là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1877. Từ định danh "laticaudis" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "latus" (“rộng rãi”) và "cauda" (“đuôi”), hàm ý đề cập đến vây đuôi của loài cá này được mô tả là “có khía, xòe rộng”. Phân bố và môi trường sống. "L. laticaudis" có phân bố giới hạn ở vùng tiếp giáp Đông Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương, từ Nam Indonesia và Papua New Guinea trải dài về phía nam đến Úc, phía đông đến quần đảo Solomon, Vanuatu và Nouvelle-Calédonie. "L. laticaudis" trưởng thành thường sống trên các rạn san hô, trong khi cá con được tìm thấy chủ yếu trong thảm cỏ biển và đầm lầy ngập mặn, độ sâu khoảng 5–35 m. Dựa trên việc giải trình tự DNA ty thể, "L. laticaudis" tạo thành một nhánh chị em với "Lethrinus obsoletus". Chiều dài cơ thể lớn nhất ở "L. laticaudis" là 56 cm, nhưng thường bắt gặp với chiều dài trung bình khoảng 35 cm. Thân màu nâu tanin, nâu thường hoặc vàng nâu lốm đốm. Đầu màu nâu hoặc vàng, có nhiều chấm xanh lam trên má và các vạch xanh tỏa ra quanh mắt (đôi khi có vài sọc xanh chéo giữa hai mắt). Các vây có thể trắng hoặc vàng. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 4 thường dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 46–48. Thức ăn của "L. laticaudis" chủ yếu là động vật giáp xác và cá nhỏ. "L. laticaudis" là một loại cá thực phẩm chất lượng và được bán ở dạng tươi sống. Đây cũng là một loại cá được nhắm đên trong bộ môn câu cá thể thao.