text
stringlengths
82
354k
Hoàng Hoán Trung () là một nhà vật lý người Trung Quốc. Hoàng Hoán Trung tốt nghiệp cử nhân tại Đại học Phúc Đán năm 1984, sau đó tốt nghiệp bằng tiến sĩ tại Viện Công nghệ Massachusetts năm 1990. Ông bắt đầu giảng dạy tại Đại học California, Los Angeles vào năm 1995. Năm 2012, ông được bầu làm thành viên của Hiệp hội Vật lý Hoa Kỳ.
Chính phủ Park Geun-hye Chính phủ Park Geun-hye là chính phủ thứ 6 của Hàn Quốc, do Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye lãnh đạo. Chính phủ nắm quyền từ 25 tháng 2 năm 2013 đến ngày 10 tháng 3 năm 2017. Chính phủ được thành lập ngay sau khi Park Geun-hye nhậm chức Tổng thống sau cuộc bầu cử năm 2012. Ngay cả trước khi chính phủ ra mắt, đã có những nghi ngờ rằng Choi Soon-sil, một người nằm quyền lực bí mật của Tổng thống Park Geun-hye, đã tham gia vào nhiều chính sách khác nhau. Nguyên tắc, mục đích, nhiệm vụ của quản lý nhà nước. Theo tiếng gọi thời đại, Chính phủ hướng tới thời kỳ lãnh đạo vì hạnh phúc quốc gia và phát triển đất nước, thoát khỏi mô hình phát triển lấy nhà nước làm trung tâm từ trước đến nay. Để làm cơ sở cho quản lý nhà nước, một sự thay đổi mô hình trong phát triển quốc gia đã được đề xuất để phát triển bền vững và hội nhập xã hội. Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng định hướng năng suất theo định hướng năng suất thông qua tập trung quản trị quốc gia từ nhà nước đến từng người dân và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ đuổi kịp các nước tiên tiến sang dẫn dắt thị trường toàn cầu. Nguyên tắc tăng trưởng cân đối nhu cầu trong nước, công nghiệp dịch vụ, doanh nghiệp nhỏ và vừa là mục tiêu chủ nghĩa tư bản. Nhận biết mối quan hệ theo chu kỳ giữa tăng trưởng và phúc lợi, coi trọng vốn xã hội và ưu tiên an toàn. Phương thức điều hành của chính phủ cũng theo hướng hợp tác công tư và truyền thông, tập trung vào đánh giá chính sách và hợp tác giữa các bộ. Chính phủ Park Geun-hye đã đưa ra tầm nhìn về các vấn đề quốc gia, "một kỷ nguyên mới hạnh phúc và hy vọng của người dân". Làm cơ sở để quảng bá "chính phủ đáng tin cậy" đã được chỉ định. Sau khi chính phủ nhậm chức được tổ chức lại thành bốn chính sách lớn của quốc gia thông qua một cuộc họp nội các. Đặt tên cho kỷ nguyên mô hình mới trong đó hạnh phúc người dân và sự phát triển quốc gia luân chuyển theo thời kỳ lãnh đạo, "chính phủ đáng tin cậy" đã được chỉ định làm cơ sở để thúc đẩy. Chiến lược và nhiệm vụ. Chính phủ đã thiết lập một chiến lược xúc tiến cho năm mục tiêu và cơ sở để xúc tiên. Cũng như các mục tiêu quốc gia, 5 mục tiêu quốc gia và 21 chiến lược xúc tiến đã được sắp xếp lại thành 4 chính sách quốc gia trọng yếu và 14 chiến lược xúc tiến sau khi chính phủ nhậm chức. Ngoài ra, 140 nhiệm vụ được thiết lập chi tiết theo các chiến lược xúc tiến cho bốn chính sách quốc gia quan trọng và cơ sở để thúc đẩy. Khi các nhiệm vụ được tổ chức lại, thuật ngữ "dân chủ hóa kinh tế" được hồi sinh, và một số nhiệm vụ được tích hợp hoặc đưa vào mới. Danh sách thành viên.
Nicola Bagnolini (sinh ngày 14 tháng 3 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Bologna tại Serie A. Sự nghiệp thi đấu. Bagnolini bắt đầu sự nghiệp bóng đá khi gia nhập lò đào tạo trẻ Cesena năm 10 tuổi, trước khi chuyển tới Bologna vào năm 2018. Anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Bologna vào tháng 12 năm 2020. Anh ra mắt đội bóng khi vào sân thay cho Francesco Bardi trong chiến thắng 1–0 trước Genoa tại Serie A vào ngày 21 tháng 5 năm 2022. Bagnolini có tên trong danh sách đội U-18 Ý thi đấu tại Đại hội thể thao Địa Trung Hải 2022 ở Oran, Algérie. Tại đây, "Azzurrini" thua 1–0 trước Pháp trong trận chung kết, do đó giành vị trí á quân.
Clara Stauffer (1904–1984) là một người Tây Ban Nha theo tư tưởng Falange và là người điều hành Con đường chuột của Đức Quốc xã. Bà là thành viên của Sección Femenina, một nhóm phụ nữ theo phong trào tư tưởng Falange trong Nội chiến Tây Ban Nha. Bà từng là nhà hoạt động tuyên truyền chính của nhóm này, bà và nhóm chính trị của bà đã nỗ lực tăng cường mối quan hệ giữa Tây Ban Nha thời Franco và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Sau chiến tranh, bà là một trong những người vận chuyển lậu có ảnh hưởng nhất đối với những kẻ đào tẩu của Đức Quốc xã, cho họ trú ẩn ở Tây Ban Nha rồi sắp xếp chuyến đi trốn chạy đến Argentina. Thời thơ ấu và Nội chiến Tây Ban Nha. Clara Stauffer sinh ra ở Madrid vào năm 1904. Cha bà là Konrad Stauffer, một nhà sản xuất bia người Đức đã di cư đến Tây Ban Nha vào năm 1889,(tr133) còn mẹ là Clara Sofía Loewe. Bà lớn lên ở Đức, quay trở lại Tây Ban Nha vào năm 1936. Stauffer tham gia rất nhiều vào các môn thể thao điền kinh, bao gồm bơi lội và trượt tuyết.(tr133) Vào năm 1931, Stauffer đã giành chiến thắng trong một cuộc thi bơi lội bằng cách vượt qua đầm phá Peñalara trong vòng chưa đầy hai phút, và vào năm 1938, bà là người phụ nữ đầu tiên tham gia cuộc đua trượt tuyết Flying Kilomet ở St. Moritz. Bà không thể hoàn thành cuộc đua ở sự kiện thứ hai, nhưng từng đạt được tốc độ .(tr133) Stauffer là thành viên của Sección Femenina và là đồng minh thân cận của thủ lĩnh Pilar Primo de Rivera.(tr182) Trong Nội chiến Tây Ban Nha, Stauffer làm trưởng ban tuyên truyền của Sección Femenina và đảm trách bộ phận báo chí.(tr133)(tr46) Bà đề xuất "Auxilio Invierno" là tên ban đầu của tổ chức từ thiện Quốc gia trong Nội chiến Tây Ban Nha (theo tên tổ chức Winterhilfe, cả hai có nghĩa là "Viện trợ Mùa đông").(tr30) Stauffer ủng hộ phong trào chính trị cực hữu và các nhà lãnh đạo chính trị quốc gia, bà lưu giữ những bức chân dung lớn của Francisco Franco, José Antonio Primo de Rivera, Adolf Hitler và Benito Mussolini trên tường trong văn phòng của bà.(tr46) Stauffer đã xuất bản một cuốn sách về Sección Femenina vào năm 1940.(tr133) Chiến tranh thế giới thứ hai và hợp tác với Đức Quốc xã. Năm 1943, Stauffer tháp tùng Pilar Primo de Rivera đến Đức với sứ mệnh tăng cường quan hệ giữa Đức và Tây Ban Nha.(tr134)(tr182) Trong chuyến đi này, bà đã gặp nhà ngoại giao Đức Quốc xã Wilhelm Faupel, một trong số những viên chức Đức Quốc xã cao cấp. Stauffer và Faupel được cho là đã hợp tác thường xuyên sau đó, đặc biệt là trong công việc bảo vệ Đức Quốc xã.(tr134) Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu kết thúc, Stauffer trở thành nhân vật chính trong tổ chức cứu trợ Tây Ban Nha–Đức "Hilfsverein", tổ chức mà bà cùng với José Boos đồng sáng lập.(tr491) Chính phủ Tây Ban Nha ngầm ủng hộ hoạt động này nhưng khuyến cáo họ không nên công khai hoặc chính thức hóa công việc của mình.(tr491) Trong những năm tiếp theo, bà làm việc để che giấu và tìm việc làm cho các thành viên chính phủ Đức Quốc xã trốn sang Tây Ban Nha, và bà tham gia vào các đường dây vận chuyển lậu thành viên Đức Quốc xã đến Argentina. Stauffer đã điều hành trơn tru các hoạt động từ thiện, quyên góp thực phẩm và quần áo cho những kẻ đào tẩu của Đức Quốc xã.(tr493) Công việc của bà chủ yếu được tài trợ bởi Johannes Bernhardt, một doanh nhân người Đức gốc Tây Ban Nha.(tr137) Phần lớn công việc của bà liên quan đến hoạt động đảm bảo việc thả những tù nhân Quốc xã đang bị giam cầm ở Tây Ban Nha, chẳng hạn như những người tù ở trại thực tập Sobron, bằng cách phụ trách họ với tư cách của tổ chức từ thiện.(tr137)(tr493) Căn hộ của Stauffer trở thành trung tâm vận chuyển lậu và là nơi cất giữ nhiều bộ trang phục để ngụy trang cho các thành viên Đức Quốc xã. Nguồn cung trang phục cho bà rất lớn; cháu trai của Stauffer mô tả mỗi căn phòng "chứa đầy hàng chục đôi ủng, áo sơ mi, áo khoác, quần dài, tất và găng tay".(tr136) Ước tính rằng Stauffer đã hỗ trợ 800 thành viên chính phủ Đức Quốc xã trốn sang Tây Ban Nha. Ảnh hưởng của Stauffer trong chương trình này khiến tên của bà được đưa vào danh sách hồi hương của Hội đồng Kiểm soát Đồng minh (Allied Control Council) vào năm 1947, danh sách gồm 104 cá nhân ở Tây Ban Nha bị truy nã vì liên quan đến tội ác của Đức Quốc xã; bà là người phụ nữ duy nhất trong danh sách. Stauffer tiếp tục duy trì mối quan hệ làm việc với chính phủ Tây Ban Nha, chính phủ đã cho phép các hoạt động của Stauffer và ngăn chặn việc dẫn độ Stauffer.(tr134) Năm 1948, Stauffer mắc bệnh viêm màng phổi, nguyên nhân là do bà phải làm việc và đi lại liên tục trong hoạt động của Con đường chuột.(tr133) Cái chết và di sản. Stauffer qua đời tại Madrid vào ngày 15 tháng 10 năm 1984. Bà là nhân vật chính trong tiểu thuyết lịch sử viễn tưởng "Los pacientes del doctor García" của Almudena Grandes, và bà được miêu tả bởi Eva Llorach trong bản chuyển thể truyền hình "The Patients of Dr. García".
N54 là đường quốc lộ cấp 2 ở Cộng hòa Ireland, nối các thị trấn Monaghan và Cavan, băng qua biên giới Cộng hòa Ireland–Vương quốc Anh nhiều lần. Đường có ba phần, được phân tách bởi hai phần ở Bắc Ireland và thuộc đường lớn A3. N54 bắt đầu tại một giao lộ với đường N2 gần Monaghan và chạy về phía tây xuyên qua Clones cho đến biên giới của Hạt Fermanagh thuộc địa phận Bắc Ireland. Từ đây, nó băng qua Drummully (còn gọi là Đảo Coleman), một phần gần như tách rời của Hạt Monaghan, Cộng hòa Ireland, nối với phần còn lại của đất nước chỉ một vài mét. Trong chiều dài , con đường chính giữa Clones và Cavan băng qua biên giới bốn lần. Có một số con đường phụ ở phía nam của con đường cũng băng qua biên giới. Giới hạn tốc độ thay đổi giữa ở Cộng hòa và ở Bắc Ireland. Phần trung tâm giữa hai phần của đường A3 Bắc Ailen chỉ dài . N54 kết thúc ngay tại đường N3 ở Butlersbridge, Hạt Cavan, phía bắc thị trấn Cavan. Trong cuộc xung đột vũ trang tại Bắc Ireland vào những năm 1970 và 1980, nhiều con đường địa phương dẫn đến Hạt Monaghan ở Cộng hòa Ireland đã bị đóng cửa do bị chặn bằng bê tông hoặc bị cho nổ tung bởi Quân đội Anh. Đường N54/A3 bị bỏ ngỏ là “Con Đường Tô Giới” ("Concession Road"). Sau Brexit, sự kiện Vương quốc Anh bỏ phiếu rời Liên minh Châu Âu đã biến biên giới này thành biên giới bên ngoài Liên minh Châu Âu, Liên minh Châu Âu đã xác định mười lăm địa điểm bắt đầu kiểm tra hải quan hoặc phương tiện qua lại. Hai trong số này nằm trên N54, một giữa Smithborough và Clones, một giữa Clones và Butlersbridge (nơi N54 cắt N3). Không thể tiếp cận khu vực trung tâm của đường N54 ở Drummully nếu không lái xe qua Bắc Ireland, Gardaí và Sở Cảnh sát Bắc Ireland không được phép tiếp cận khu vực này. Do đó, nó thường xuyên được sử dụng để làm nơi đổ rác bừa bãi, với những đống rác chất đống cạnh biên giới. Giống như những nơi khác dọc biên giới hai bên, có các cửa hàng pháo hoa ở biên giới trên đường A3, việc mua bán chúng hợp pháp ở Bắc Ireland, nhưng bất hợp pháp ở Cộng hòa.
Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất là giải thưởng được trao hàng năm tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông (HKFA). Nó được trao để tôn vinh nữ diễn viên đã diễn xuất xuất sắc trong một bộ phim Hồng Kông.[ghi chú 1] Lễ trao Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ nhất được tổ chức vào năm 1982, thời điểm đó không có quy trình đề cử chính thức nào được thiết lập; giải thưởng được trao cho Huệ Anh Hồng với vai diễn trong phim "Trưởng bối" (長輩). Sau lễ trao giải đầu tiên, một hệ thống đề cử đã được lập, theo đó không quá năm đề cử được đưa ra cho mỗi hạng mục và mỗi mục được chọn qua hai vòng bỏ phiếu. Đầu tiên, các ứng cử viên tiềm năng được đánh giá từng người một với 50% với trọng số từ các cử tri HKFA và hàng trăm giám khảo chuyên nghiệp, đóng góp vào điểm số cuối cùng để năm ứng cử viên hàng đầu tiến vào vòng bỏ phiếu thứ hai. Người chiến thắng sau đó được chọn thông qua quy trình tính điểm trong đó 55% phiếu bầu đến từ 55 giám khảo chuyên nghiệp, 25% từ đại diện của Hiệp hội Nghệ sĩ Biểu diễn Hồng Kông và 20% từ tất cả các Thành viên Ban chấp hành HKFA khác. Trương Mạn Ngọc giữ danh hiệu nhận được nhiều giải thưởng nhất sau 5 lần được vinh danh. Trương Ngải Gia giữ kỷ lục là nữ diễn viên được đề cử nhiều nhất với 12 đề cử. Người chiến thắng và người được đề cử. Trong bảng dưới đây, các đề cử giải thưởng được liệt kê theo năm tương ứng với lễ trao giải thường niên của Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông. Tại buổi lễ đầu tiên diễn ra vào năm 1982, các giải thưởng đã được trao cho những người chiến thắng mà không qua việc đề cử. Các giải về sau, người chiến thắng được chọn từ các danh sách đề cử từng hạng mục. ^ Một bộ phim được coi là "phim Hồng Kông" khi đáp ứng ít nhất 2 tiêu chí sau:
Fuji FA-200 Aero Subaru Fuji FA-200 Aero Subaru là một loại máy bay dân dụng hạng nhẹ một tầng cánh một động cơ do Fuji Heavy Industries thiết kế chế tạo. Thiết kế và phát triển. Fuji bắt đầu phát triển FA-200 vào năm 1964, nguyên mẫu bay thử lần đầu vào ngày 12 tháng 8 năm 1965. Nó có cấu tạo hoàn toàn làm bằng kim loại, thiết kế cánh thấp, thiết bị hạ cánh 3 bánh xe và mái che buồng lái dạng trượt. Mẫu máy bay này được cấp chứng nhận lần đầu tại Nhật Bản vào ngày 6 tháng 7 năm 1966, và chứng nhận tại Hoa Kỳ diễn ra ngày 26 tháng 9 năm 1967. Việc sản xuất hàng loạt bắt đầu từ tháng 3 năm 1968 cho đến năm 1986, với tổng số 275 chiếc được chế tạo. Nguyên mẫu trang bị động cơ Lycoming O-320 sức mạnh 120 kW (160 mã lực). Phiên bản đầu tiên, trang bị động cơ Lycoming O-320 sức mạnh 120 kW. Phiên bản sử dụng động cơ Lycoming IO-360 sức mạnh 130 kW (180 mã lực). Sử dụng động cơ Lycoming IO-320 sức mạnh 130 kW. Phiên bản thử nghiệm cất và hạ cánh quãng đường ngắn (STOL) trang bị hệ thống kiểm soát lớp ranh giới, được phát triển bởi Phòng thí nghiệm Hàng không Vũ trụ Quốc gia Nhật Bản. Biến thể ba chỗ ngồi được đề xuất, nhưng không được chế tạo. Biến thể bay biểu diễn nhào lộn trên không hai chỗ ngồi được đề xuất, nhưng không được chế tạo. Biến thể STOL được đề xuất. Biến thể phun thuốc nông nghiệp được đề xuất, nhưng không được chế tạo. Thông số kỹ thuật (FA-200-180).
Daveed Daniele Diggs (sinh ngày 24 tháng 1 năm 1982) là nam diễn viên, rapper, nhạc sĩ người Mỹ. Anh là giọng ca chính của ban nhạc hip hop thể nghiệm Clipping. Năm 2015, anh đảm nhận hai vai Marquis de Lafayette và Thomas Jefferson trong vở nhạc kịch "Hamilton", qua đó giành được một giải Tony cho Nam chính nhạc kịch xuất sắc nhất năm 2016. Đồng thời với dàn diễn viên của vở kịch này, anh được trao một giải Grammy hạng mục Album nhạc kịch hay nhất cùng năm đó. Sau vai diễn trong "Hamilton", anh đóng một vai phụ trong phim truyền hình "Black-ish" (2016–2018) và tham gia một số phim điện ảnh như "Wonder" (2017), "Velvet Buzzsaw" (2019) và "The Little Mermaid" (2023). Diggs cũng viết kịch bản, sản xuất và đóng vai chính phim "Blindspotting" năm 2018, tác phẩm mang về cho nam diễn viên một giải Tinh thần Độc lập cho Nam chính xuất sắc nhất. Anh cũng sáng lập, biên kịch và điều hành sản xuất phiên bản truyền hình cùng tên của phim này vào năm 2021. Từ năm 2020, anh vào vai chính trong sê-ri "Snowpiercer". Năm 2021, anh nhận được một đề cử giải Primetime Emmy hạng mục Nam phụ xuất sắc trong loạt phim ngắn cho vai diễn ghi hình trực tiếp trong vở "Hamilton" (2020). Diggs sinh ra tại Oakland, California, mẹ là Barbara, một người gốc Do Thái làm nghề công tác xã hội, cha là Dountes Diggs, một tài xế xe bus người Mỹ gốc Phi. Tên "Daveed" được đặt theo cách phát âm tiếng Hebrew của từ "David", nam diễn viên cho biết: "David có nghĩa là "được yêu quý" trong tiếng Hebrew, nó được viết với hai chữ e và cha tôi thích từ đó". Diggs hẹn hò với nữ diễn viên Emmy Raver-Lampman, cả hai gặp nhau năm 2015 khi cùng tham gia vở "Hamilton".
Valmir Veliu (sinh ngày 4 tháng 6 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Kosovo hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh cho câu lạc bộ İstanbulspor tại Süper Lig, cho mượn từ Gaziantep, và Đội tuyển bóng đá quốc gia Kosovo. Sự nghiệp thi đấu. Ngày 18 tháng 6 năm 2018, Veliu ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với câu lạc bộ Llapi tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Kosovo sau khi đồng ý đạt thỏa thuận kéo dài 3 năm. Ngày 29 tháng 9 năm 2018, anh ta ra mắt đội bóng trong chiến thắng 2–0 trên sân nhà trước KEK, khi vào sân thay cho Festim Alidema. Ngày 26 tháng 6 năm 2022, Veliu ký hợp đồng 3 năm với câu lạc bộ Gaziantep tại Süper Lig. Gaziantep được cho là đã trả 180 nghìn euro phí chuyển nhượng. Ngày 6 tháng 8 năm 2022, anh ta ra mắt đội bóng trong trận hòa 1–1 trước Sivasspor, khi vào sân thay cho Lazar Marković ở phút thứ 64. Sự nghiệp thi đấu. Ngày 24 tháng 12 năm 2019, Veliu được Đội tuyển bóng đá quốc gia Kosovo triệu tập để chuẩn bị cho trận giao hữu gặp Thụy Điển, và có trận ra mắt khi vào sân thay cho Herolind Shala ở phút thứ 46.
Péter Baráth (sinh ngày 21 tháng 2 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hungary hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm cho câu lạc bộ Ferencváros tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Hungary, cho mượn từ Debrecen. Sự nghiệp thi đấu. Ngày 14 tháng 2 năm 2023, Baráth gia nhập câu lạc bộ Ferencváros tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Hungary. Ngày 5 tháng 5 năm 2023, anh ta giành chức vô địch Giải bóng đá vô địch quốc gia Hungary 2022-23 cùng với Ferencváros, sau khi Kecskemét để thua 1–0 trước Honvéd trên sân vận động Bozsik Aréna ở vòng đấu thứ 30. Baráth được Đội tuyển bóng đá quốc gia Hungary gọi triệu tập để chuẩn bị cho các trận đấu tại Nations League gặp Anh (sân nhà), Ý (sân khách), Đức (sân nhà) và Anh (sân khách) vào ngày 4, 7, 11 và 14 tháng 6 năm 2022. "Tính đến 15 tháng 5 năm 2023"
Lethrinus microdon là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830. Từ định danh "microdon" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: "mikrós" (μικρός; “nhỏ”) và "odoús" (ὀδούς; “răng, ngà”), hàm ý đề cập đến bộ răng được Valenciennes mô tả là rất nhỏ và nhọn ở loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "L. microdon" có phân bố rộng rãi trên vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Biển Đỏ và vịnh Ba Tư dọc xuống bờ Đông Phi, trải dài về phía đông đến Palau và Papua New Guinea, ngược lên phía bắc đến đảo Kyūshū (Nhật Bản), giới hạn phía nam đến Úc. Ghi nhận của "L. microdon" ở quần đảo Pitcairn có khả năng là nhầm với "Lethrinus olivaceus", còn ở Nouvelle-Calédonie là đề cập đến "Lethrinus miniatus"; một cá thể được ghi nhận ở Fiji không rõ đại diện cho một quần thể "L. microdon" ở đó hay chỉ là một cá thể lang thang. Ở Việt Nam, "L. microdon" mới chỉ được quan sát ở vùng hạ lưu sông Thu Bồn. "L. microdon" sống gần các rạn san hô, trên nền đáy cát hoặc thảm cỏ biển, độ sâu khoảng 10–80 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận "L. microdon" là 80 cm, nhưng thường bắt gặp với chiều dài trung bình khoảng 40 cm. Cá có màu xanh lam xám hoặc nâu, thường lốm đốm các vệt sẫm màu ở hai bên thân. Vài cá thể xuất hiện những vệt sọc sẫm tỏa ra phía trước mắt. Các vây có màu trắng nhạt hoặc phớt cam. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 3 hoặc 4 thường dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 47–48. "L. microdon" thường bơi thành những đàn nhỏ, có khi bơi cùng với "L. olivaceus". Thức ăn của chúng bao gồm cá nhỏ, động vật giáp xác, động vật chân đầu và giun nhiều tơ. Ở vùng Biển Đỏ của Ai Cập, độ tuổi lớn nhất mà "L. microdon" đạt được là 7 năm. "L. microdon" là một loại cá thực phẩm chất lượng và là một loài thương mại quan trọng trên khắp vịnh Ba Tư, hay như ở vịnh Mannar. Tuy nhiên, thịt của chúng có thể gây ngộ độc ciguatera ở khu vực Thái Bình Dương.
Lucy Adelaide Greenish (9 tháng 11 năm 1888 - 4 tháng 9 năm 1976), còn được biết đến với tên Lucy Adelaide Symes, là người phụ nữ đầu tiên đăng ký trở thành Kiến trúc sư tại New Zealand. Sinh thời thơ ấu và tuổi trẻ. Lucy Greenish sinh tại Brisbane, Úc vào năm 1888. Cha cô là George William Greenish, một quản lý bảo hiểm, và mẹ cô tên Margaret Emily Eggar.:181. Anh trai là Frank và em gái Dorothy. Gia đình cô chuyển đến New Zealand vào năm 1908, nhưng cha của cô qua đời ngay sau khi họ đến. Margaret Greenish thành lập một trường trung học và một trường mẫu giáo ở Karori, dựa trên những nguyên tắc giảng dạy của Friedrich Fröbel, người tiên phong quốc tế về khái niệm mẫu giáo. Năm 1909, khi Greenish mới 20 tuổi, Greenish đã được nhận vào làm kỹ sư tập sự tại công ty kiến trúc Wellington Atkins và Bacon. Năm 1912, Greenish đã chuẩn bị các hình minh họa cho một địa chỉ chiếu sáng được thể hiện bởi Viện Kiến trúc sư New Zealand, để tôn vinh vai trò người bảo trợ của John Dickson-Poynder, Lord Islington, Thống đốc New Zealand sắp rời nhiệm kỳ. Năm 1913, Greenish đã được bầu làm cộng tác viên của Viện Kiến trúc New Zealand. Ngay sau khi Đạo luật của Viện Kiến trúc New Zealand được thông qua cùng năm, Greenish trở thành người phụ nữ duy nhất được đăng ký' Vào năm 1914, cô đã được đăng ký là một kiến trúc sư, trở thành người phụ nữ đầu tiên đạt được danh hiệu kiến trúc sư đã đăng ký ở New Zealand.:327 Lúc đó, việc một phụ nữ đăng ký làm kiến trúc sư là hiếm thấy, và trong 20 năm tiếp theo không có phụ nữ nào khác được đăng ký. Sau đó, Greenish đã chuyển đến Dunedin và bắt đầu làm việc cho một công ty địa phương. Tháng 8 năm 1927, Greenish đã trở thành người phụ nữ đầu tiên ở New Zealand thành lập công ty kiến trúc riêng của mình. Cô đã tuyên bố mở cơ sở hành nghề tại Lower Hutt, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp kiến trúc của cô. Nhà sử học Elizabeth Cox, có trụ sở tại Wellington, đã xuất bản cuốn sách "Making Space: A History of New Zealand Women in Architecture" vào năm 2022. Cuốn sách này đã được dành tặng cho Lucy Greenish (Symes). Cuộc sống cá nhân. Sau khi George Greenish qua đời, Lucy, Frank và Dorothy đều sống cùng mẹ tại Karori cho đến khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ. Anh trai của cô ấy, Frank, cũng là một kiến trúc sư Wellington. Anh đã giúp đỡ trong quá trình phát triển Đạo luật NZIA vào năm 1913, cho phép đăng ký các kiến trúc sư, bao gồm cả chị gái Lucy, vào năm sau đó.:181 Mẹ của cô ấy, Margaret, qua đời vào năm 1917. Greenish là một nghệ sĩ tài năng. Một tin tức từ tháng 12 năm 1911 ghi nhận rằng Greenish đã vẽ cảnh cho một vở kịch làm phần của buổi tiệc kết thúc năm của trường do mẹ cô điều hành. Tác phẩm màu nước của cô đã được trưng bày trong một triển lãm nghệ thuật vào năm 1923 và được đánh giá trong một tờ báo ở Dunedin. Ở tuổi 37, cô ấy mang bầu và chuyển đến Úc để sinh con. Con gái của cô được nhận nuôi tại Úc, và Greenish cuối cùng đã trở về New Zealand vào năm 1926 hoặc đầu năm 1927. Greenish sống ở Taitā, New Zealand trong khoảng 20 năm, và không kết hôn cho đến năm 1945 khi cô ấy kết hôn với Henry Symes.:327 Symes qua đời tại ngôi nhà của họ ở Marton, New Zealand vào tháng 11 năm 1949. Greenish qua đời vào ngày 4 tháng 9năm 1976, và nơi tưởng niệm của cô ở Nghĩa trang Mount View, Marton, New Zealand.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Hội chứng Dressler là tình trạng viêm màng ngoài tim thứ phát xảy ra khi tổn thương tim hoặc màng ngoài tim nặng nề. Triệu chứng gồm sốt, đau kiểu màng phổi, viêm màng ngoài tim và/hoặc tràn dịch màng ngoài tim. Hội chứng Dressler còn được gọi là hội chứng sau nhồi máu cơ tim, viêm màng ngoài tim sau nhồi máu cơ tim và thuật ngữ này đôi khi được sử dụng để chỉ tình trạng hội chứng hậu phẫu màng ngoài tim. Nhà tim mạch học William Dressler tại Trung tâm Y tế Maimonides là người đầu tiên mô tả bệnh này vào năm 1956. Không nên nhầm lẫn với bệnh Dressler trong bệnh cảnh đái máu gián đoạn. Bệnh này được đặt tên theo Lucas Dressler, mô tả năm 1854. Thời xa xưa, hội chứng Dressler là một biến chứng chiếm khoảng 7% ca nhồi máu cơ tim, nhưng khi có công cụ can thiệp mạch vành qua da thì hội chứng này hiếm gặp. Các triệu chứng gồm sốt nhẹ kéo dài, đau ngực (thường là đau ngực kiểu màng phổi: đau tăng lên khi hít sâu, khi ho và nuốt), viêm màng ngoài tim (thường được biểu hiện bằng tiếng cọ màng ngoài tim, đau ngực nặng hơn khi nằm, và ST chênh lên lan tỏa, đoạn PR chênh xuống), và/hoặc tràn dịch màng ngoài tim. Các triệu chứng có xu hướng xảy ra trong thời gian 2-3 tuần sau nhồi máu cơ tim nhưng cũng có thể xuất hiện muộn, sau vài tháng, và triệu chứng có xu hướng giảm dần trong vài ngày. Rất hiếm khi dẫn đến chèn ép tim (tamponade). Máu lắng tăng là một xét nghiệm cận lâm sàng khách quan nhưng không đặc hiệu. Nguyên nhân chính xác của hội chứng Dressler vẫn chưa được biết, mặc dù người ta cho rằng tổn thương đối với các tế bào màng ngoài tim khi tương tác với máu trong khoang màng ngoài tim gây ra phản ứng miễn dịch, dẫn đến lắng đọng phức hợp miễn dịch trong màng ngoài tim, màng phổi và phổi gây ra phản ứng viêm. Chẩn đoán phân biệt. Vì triệu chứng biểu hiện rất đa dạng nên chẩn đoán phân biệt hội chứng Dressler với rất nhiều bệnh khác. Tuy nhiên, với các triệu chứng kinh điển hơn là đau ngực, khó thở, sốt, và nhịp nhanh, có thể khu trú triệu chứng lại để chẩn đoán phân biệt với các bệnh sau: Aspirin liều cao được dùng để điều trị hội chứng Dressler. Trong một số trường hợp kháng thuốc, có thể cân nhắccorticosteroid nhưng đây không phải thuốc được ưu tiên (tránh dùng) trong tháng đầu tiên do thuốc cản trở quá trình lành tổn thương của tâm thất dẫn đến tăng tỷ lệ vỡ thất. Thuốc NSAID (chống viên không steroid) khác, mặc dù đã từng được sử dụng để điều trị hội chứng Dressler, nhưng ít được ủng hộ và nên tránh dùng ở những bệnh nhân mắc bệnh thiếu máu cơ tim. Đặc biệt, một loại NSAID là indomethacin có thể ức chế sự lắng đọng collagen mới, do đó cản trở quá trình chữa lành vùng bị nhồi máu. Các NSAID khác chỉ nên được sử dụng trong trường hợp kháng aspirin. Nên tránh sử dụng heparin vì nó có thể dẫn đến xuất huyết vào khoang màng ngoài tim, dẫn đến chèn ép tim. Chỉ dùng Heparin khi trong bệnh cảnh viêm màng ngoài tim mà có NMCT cấp đi kèm, để ngăn ngừa hình thành huyết khối.
Abass Cheikh Dieng (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1985) là một cựu cầu thủ bóng đá người Sénégal đã từng thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công. Sự nghiệp thi đấu. Dieng bắt đầu sự nghiệp chơi bóng tại câu lạc bộ Ja-Ndar-Toute và gia nhập ASC Linguère vào mùa hè năm 2004. Sau khi thi đấu chỉ 1 năm cho ASC Linguère, anh đã ký hợp đồng với Saint-Louis Football Center và sau đó gia nhập câu lạc bộ Budapest Honvéd FC vào tháng 7 năm 2006. Tháng 12 năm 2011, anh tới Việt Nam và ký hợp đồng với câu lạc bộ Sông Lam Nghệ An. Anh cùng đội bóng giành chức vô địch Siêu cúp bóng đá Việt Nam 2011. Từ năm 2014 tới năm 2015, anh chuyển sang thi đấu cho Becamex Bình Dương và giúp đội bóng giành 2 chức vô địch quốc gia liên tiếp.
Lethrinus reticulatus là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830. Tính từ định danh "reticulatus" trong tiếng Latinh mang nghĩa là "hình mắt lưới", hàm ý đề cập đến các tia mềm của vây lưng, vây đuôi và vây hậu môn có các sọc rất mảnh tạo thành lưới ở loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "L. reticulatus" có phân bố thưa thớt ở Ấn Độ Dương, tập trung chủ yếu tại Mauritius (gồm cả đảo Rodrigues xa bờ), quần đảo Chagos, bờ tây Thái Lan; phong phú hơn ở Tây Thái Bình Dương, bao gồm từ quần đảo Ryukyu và đảo Đài Loan xuống phía nam tới Philippines, đảo New Guinea và New Ireland, xa hơn ở phía đông đến Bắc Mariana và quần đảo Samoa. Loài này cũng xuất hiện tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam. "L. reticulatus" sống gần các rạn san hô, trên nền đáy mềm (như cát hoặc cỏ biển), độ sâu khoảng 5–30 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. reticulatus" là 40 cm. Chúng có màu ô liu xám, hoặc nâu tanin, thường lốm đốm các vệt đen. Đầu màu nâu hoặc xanh ô liu với một dải đỏ nhạt trên mõm. Gốc vây ngực, rìa trên của nắp mang (đôi khi là cả rìa sau) có màu đỏ. Môi đỏ. Các vây màu trắng nhạt hoặc phớt cam. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 3 thường dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 46–48. Thức ăn của "L. reticulatus" là cá nhỏ và những loài thủy sinh không xương sống khác ở tầng đáy. "L. reticulatus" là một loại cá thực phẩm được đánh bắt thương mại, chủ yếu bằng lưới kéo và dây câu.
Hội chứng cướp máu động mạch dưới đòn Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Hội chứng cướp máu động mạch dưới đòn, hay hội chứng cắp máu động mạch dưới đòn ("Subclavian steal syndrome," viết tắt SSS) hay còn gọi là bệnh hẹp-tắc nghẽn cắp máu động mạch dưới đòn ("subclavian steal steno-occlusive disease") là một tập hợp các triệu chứng phát sinh từ hiện tượng máu chảy ngược trong động mạch đốt sống hoặc động mạch ngực trong, do hẹp đoạn gần và/hoặc tắc động mạch dưới đòn. Sự đảo ngược dòng chảy này được gọi là hiện tượng cắp máu động mạch dưới đòn ("subclavian steal phenomenon"). Cánh tay có thể được nhận máu từ dòng chảy ngược xuống dưới của động mạch đốt sống, nên lấy cắp 1 phần máu từ hệ thống tuần hoàn đốt sống-nền phía sau. Nó nặng hơn so với thể điển hình của thiểu năng tuần hoàn sống nền ("vertebrobasilar insufficiency") Hẹp động mạch dưới đòn không có triệu chứng ở hầu hết bệnh nhân. Bệnh cảnh đôi khi được phát hiện tình cờ khi có sự chênh lệch huyết áp giữa 2 cánh tay hoặc khi siêu âm bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành hoặc động mạch cảnh. Do mảng xơ vữa làm tắc/hẹp đoạn gần động mạch dưới đòn nên sẽ gây thiếu máu nuôi chi trên, mặt khác nó ăn cắp máu từ động mạch đốt sống nên sẽ gây ra các triệu chứng của tuần hoàn não sau: 1. Triệu chứng thần kinh do thiểu năng tuần hoàn hệ sống- nền thoáng qua 2. Triệu chứng ở chi trên Có nhiều quá trình có thể gây tắc nghẽn động mạch dưới đòn trước động mạch đốt sống, có thể gây hội chứng cướp máu động mạch dưới đòn. Xơ vữa động mạch là nguyên nhân phổ biến nhất của SSS; tất cả các yếu tố nguy cơ xơ vữa động mạch đều là yếu tố nguy cơ đối với SSS. Hội chứng hẹp lối ra lồng ngực (thoracic outlet depression syndrome, TOS) làm tăng nguy cơ mắc SSS. TOS không trực tiếp gây ra SSS, bởi vì vị trí chèn ép động mạch dưới đòn nằm trên xương sườn đầu tiên, nằm xa động mạch đốt sống. TOS gây ra đột quỵ được cho là do cục máu đông di chuyển về phía động mạch đốt sống. Viêm động mạch Takayasu là bệnh gây viêm các động mạch trong đó có động mạch dưới đòn. Viêm để lại mô sẹo dày đặc, mạch máu trở nên hẹp và hạn chế lưu lượng máu. SSS có thể do biến chứng của điều trị y khoa. Một ví dụ là xơ hóa tắc nghẽn hoặc huyết khối do điều trị hẹp eo động mạch chủ ("Coarctation of the aorta", COA). Một ví dụ khác là tạo shunt Blalock–Taussig để điều trị tứ chứng Fallot. Các dị tật mạch máu bẩm sinh khác nhau cũng gây ra SSS như hẹp eo động mạch chủ và gián đoạn cung động mạch chủ ("interrupted aortic arch"). Ngay cả khi hẹp động mạch dưới đòn không có triệu chứng thì nó vẫn kết hợp với tăng nguy cơ mắc và tử vong liên quan đến bệnh lý xơ vữa ở giường mạch máu. Sự hiện diện của hẹp động mạch dưới đòn sẽ làm tăng nguy cơ tử vong toàn bộ (hazard ratio 1,4) và tử vong do bệnh tim mạch (hazard ratio 1,57) và tăng nguy cơ thiếu máu não liên quan đến hẹp động mạch cảnh tiến triển và suy giảm tuần hoàn bàng hệ. Do đó, hẹp động mạch dưới đòn là chỉ điểm của nguy cơ tim mạch và sẽ có ích trong phòng ngừa thứ phát. Điều trị nội bao gồm aspirin, thuốc chẹn beta, ức chế men chuyển và statin để làm giảm tử vong lâu dài. Khi hẹp động mạch dưới đòn không triệu chứng, hiếm khi cần phải tái tạo mạch máu, ngay cả khi có dòng chảy ngược. Ở bệnh nhân có triệu chứng nhẹ, điều trị nội và bảo tồn sẽ thích hợp, vì triệu chứng sẽ cải thiện mà không cần phải can thiệp. Bệnh nhân có triệu chứng nặng và tắc đoạn gần động mạch dưới đòn có thể điều trị thành công bằng phẫu thuật hoặc can thiệp qua da. Tạo hình mạch bằng bóng (hay nong mạch bằng bóng, "balloon angioplasty") và đặt stent có thể thực hiện khi stent không có khả năng làm suy giảm tuần hoàn đốt sống. Mức độ thành công khi can thiệp qua da có thể trên 90%, tỉ lệ còn thông trong 5 năm là 85%. Dòng chảy ngược liên tục xuất hiện trở lại là một dấu hiệu cho thấy nguy cơ cao hơn tái hẹp lại khi so sánh với dòng chảy ngược ngắt quãng. Đến 10% bệnh nhân có triệu chứng tái hẹp trở lại, 95% có thể xử trí bằng can thiệp nội mạch. Tắc 1 đoạn dài tốt hơn nên phẫu thuật. Phẫu thuật bắc cầu tái tạo mạch máu bao gồm cầu nối cảnh-dưới đòn, chuyển vị động mạch cảnh, cầu nối nách-nách, có tỉ lệ thông mạch trên 70% trong 5 năm. Tuy nhiên, tỉ lệ thành công trên 80% nếu động mạch cảnh chung được dùng làm cầu nối.
Romania được phân chia hành chính thành 41 hạt (), cùng thành phố Bucharest. Chúng đại diện cho các phân khu thống kê NUTS-3 ( Danh pháp Đơn vị Lãnh thổ cho Thống kê – Cấp 3) của quốc gia trong Liên minh Châu Âu, và mỗi phân khu này đóng vai trò là cấp chính quyền địa phương trong phạm vi ranh giới. Các hạt được đặt tên theo một sông lớn, một số hạt được đặt tên theo các thành phố đáng chú ý trong hạt, chẳng hạn như thủ phủ. Tổ chức sớm nhất là "județe" của các thân vương quốc Wallachia và Moldavia (nơi chúng được gọi là "ținuturi") có niên đại ít nhất là vào cuối thế kỷ 14. Phần lớn thời gian kể từ khi Romania hiện đại được thành lập vào năm 1859, hệ thống phân chia hành chính tương tự như hệ thống các tỉnh của Pháp. Kể từ đó, hệ thống đã thay đổi nhiều lần và số lượng hạt cũng thay đổi theo thời gian, từ 71 "județe " tồn tại trước Thế chiến thứ hai đến chỉ còn 39 sau năm 1968. Định dạng hiện tại phần lớn được áp dụng từ năm 1968 vì chỉ có những thay đổi nhỏ được thực hiện sau năm này, lần cuối cùng là vào năm 1997. Theo dữ liệu điều tra dân số năm 2021 từ Viện Thống kê Quốc gia, dân số trung bình của 41 hạt của Romania là khoảng 423.000 người, với hạt Iași là đông dân nhất (760.000) và hạt Tulcea (193.000) là ít dân nhất. Diện tích trung bình của mỗi hạt là 5.809 km², trong khi hạt Timiș (8.697 kilômét km²) là lớn nhất và hạt Ilfov (1.583 km²) là nhỏ nhất. Thành phố Bucharest có cùng cấp hành chính với hạt, vừa đông dân hơn vừa nhỏ hơn nhiều so với bất kỳ hạt nào, với 1.716.983 người và 228 km². Tổ chức sớm nhất là "județe" (đối với Wallachia) và "ținuturi" (đối với Moldavia), có từ ít nhất là vào cuối thế kỷ 14. Lấy cảm hứng từ tổ chức của Đế quốc Byzantine xưa, mỗi "județ" được cai trị bởi một "jude" (hoặc "pârcălab" cho mỗi "ținut"), một người được bổ nhiệm chính thức với các chức năng hành chính và tư pháp. Transylvania được chia thành các hạt hoàng gia đứng đầu là "comes" (bá tước hoàng gia) với các chức năng hành chính và tư pháp. Sau khi Romania hiện đại được thành lập vào năm 1859 thông qua sự hợp nhất của Wallachia và Moldavia, bộ máy hành chính được hiện đại hóa bằng cách sử dụng hệ thống hành chính của Pháp làm hình mẫu, với "județ" là đơn vị hành chính cơ bản. Ngoài giai đoạn 1950–1968, hệ thống này vẫn được duy trì cho đến ngày nay. Kể từ năm 1864, đối với mỗi județ tồn tại một "prefect", thuộc cấp của Bộ Nội vụ và là đại diện của chính phủ trong hạt; đồng thời là người đứng đầu chính quyền địa phương đối với những lĩnh vực không giao cho nhà chức trách địa phương. Cho đến năm 1948, mỗi "județ" tiếp tục được chia thành nhiều "plăși", mỗi "plăși " được quản lý bởi một "pretor". Sau khi thông qua Hiến pháp mới vào năm 1923, các hệ thống hành chính địa phương truyền thống của các vùng Transylvania , Bukovina và Bessarabia mới sáp nhập được đã được thống nhất vào năm 1925 với hệ thống của Vương quốc Romania trước đó. Biên giới các hạt phần lớn được giữ nguyên vẹn, ít điều chỉnh, và tổng số hạt được nâng lên 71; điều này kéo dài cho đến khi bắt đầu Thế chiến II. Năm 1938, Vua Carol II sửa đổi luật quản lý lãnh thổ Romania theo mô hình phát xít. Mười ținuturi (dịch gần đúng là "vùng đất") được tạo ra, do Rezidenți Regali (công sứ hoàng gia) cai quản, do Quốc vương trực tiếp bổ nhiệm. Các "ținuturi" đại diện cho một lớp quản lý khác nằm giữa các hạt và quốc gia, vì biên giới hạt không bị xóa bỏ. Do những thay đổi về lãnh thổ trong Thế chiến thứ hai, kiểu hành chính này không tồn tại lâu và chính quyền ở cấp "județ" được áp dụng lại sau chiến tranh. Từ năm 1941 đến năm 1944, Romania quản lý lãnh thổ giữa sông Dniester và sông Nam Bug được gọi là Transnistria, bao gồm 13 hạt riêng biệt. Sau khi nắm quyền điều hành đất nước vào năm 1945, Đảng Cộng sản Romania thay đổi mô hình hành chính theo mô hình của Liên Xô (các khu vực và các raion) vào năm 1950, nhưng đã thay đổi lại vào năm 1968. Tuy nhiên, biên giới các hạt được thiết lập sau đó hoàn toàn khác với những hạt có từ trong thời kỳ giữa hai thế chiến, vì chỉ có 39 hạt được thành lập từ 56 hạt còn lại sau thế chiến. Năm 1981, các hạt Giurgiu và Călărași được tách khỏi hạt Ialomița và hạt Ilfov cũ, trong khi vào năm 1997, hạt Ilfov đã được phục hồi, nó từng là một phần phụ thuộc của thành phố Bucharest trong gần hai thập kỷ. Ranh giới các hạt được thiết lập năm 1968 phần lớn vẫn duy trì đến hiện nay, nhưng chức năng của các cơ quan khác nhau đã thay đổi do cải cách hành chính trong những năm 1990. Hiện tại, Romania được chia thành 41 hạt và một đô thị (Bucharest); chúng được chỉ định là phân khu thống kê mã địa lý NUTS-3 của Romania trong Liên minh Châu Âu. Mỗi hạt được chia thành các thành phố (một số trong đó có tình trạng đô khu tự quản) và các xã. Lãnh đạo hạt là "prefect", họ và chính quyền của họ có các đặc quyền hành pháp trong giới hạn của hạt, trong khi các quyền lập pháp hạn chế được giao cho một hội đồng hạt được bầu bốn năm một lần trong các cuộc bầu cử địa phương. Các khu lãnh thổ của hệ thống tư pháp Romania chồng lấn với biên giới hạt, do đó tránh được sự phức tạp hơn nữa trong việc phân chia quyền lực.
Wizardry là một series trò chơi điện tử nhập vai, phát triển bởi Sir-Tech, có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của trò chơi điện tử nhập vai hiện đại. Wizardry ban đầu có ảnh hưởng đáng kể đến các trò chơi nhập vai trên console thời kỳ đầu như "Final Fantasy" and "Dragon Quest". Ban đầu được tạo cho Apple II, các phiên bản sau đó đã được chuyển sang các nền tảng khác. Phiên bản cuối cùng trong sê-ri gốc của Sir-Tech là "Wizardry 8", được phát hành vào năm 2001. Kể từ đó, đã có nhiều tựa game phụ được phát triển cho thị trường Nhật Bản. "Wizardry" khởi đầu là một phiêu lưu dungeon đơn giản được phát triển bởi Andrew C. Greenberg and Robert Woodhead. Nó ban đầu được phát triển khi họ còn là sinh viên của Cornell University và được phát hành bởi Sir-Tech. Trò chơi chịu ảnh hưởng của các trò chơi trước đó từ hệ thống PLATO, đáng chú ý nhất là "Oubliette". Các phần đầu tiên của "Wizardry" đã rất thành công, vì chúng là hiện thân đầu tiên của trò chơi kiểu "Dungeons Dragons" dành cho máy tính gia đình có đồ họa phong phú. Việc phát hành phiên bản đầu tiên trùng hợp với làn sóng phổ biến đầu tiên của Dungeons Dragons ở Bắc Mỹ. Năm phiên bản đầu tiên trong sê-ri được viết bằng Apple Pascal, một kế thừa của UCSD Pascal. Chúng được chuyển sang nhiều nền tảng khác nhau bằng cách viết các triển khai UCSD Pascal cho các máy đích (Mac II cross-development). David W. Bradley đã tiếp quản sê-ri sau phần thứ tư, bổ sung thêm một cấp độ cốt truyện và độ phức tạp mới. Năm 1998, bản quyền được chuyển giao cho 1259190 Ontario Inc., vào năm 2006, thì là Aeria IPM. Vào năm 2008, Aeria IPM sáp nhập với Gamepot, nhà phát triển của "Wizardry Online" vào năm 2017, Gamepot đã ngừng hoạt động và sáp nhập vào công ty mẹ của nó GMO Internet. Datamost đã phát hành menu điều khiển "WizPlus", một chương trình tiện ích cho phép người dùng thay đổi cả nhân vật và cả môi trường chơi của "Wizardry"; Bob Reams đã xem lại tiện ích cho "Computer Gaming World", và nói rằng ""WizPlus" nên hết sức thận trọng nếu không tinh thần phiêu lưu sẽ bị loãng và quan trọng hơn là bạn sẽ không thể tiếp tục với bộ truyện hấp dẫn này". Bộ truyện Wizardry gốc bao gồm tám tựa khác nhau. Tất cả các tựa game đều được phát hành lần đầu tiên ở Bắc Mỹ, sau đó được chuyển sang máy tính Nhật Bản. Một số tựa game cũng đã được phát hành chính thức ở Châu  Ba trò chơi đầu tiên là một bộ ba, với các cài đặt, cốt truyện và cơ chế chơi trò chơi tương tự nhau. Bộ ba thứ hai được hình thành bởi các phần từ 6 đến 8 - "Bane of the Cosmic Forge", "Crusaders of the Dark Savant" và "Wizardry 8" – với bối cảnh và cơ chế chơi trò chơi khác rất nhiều so với bộ ba phần đầu tiê Thế hệ game thứ tư, "The Return of Werdna", là một sự khác biệt đáng kể so với phần còn lại của loạt phim. Trong đó, người chơi điều khiển Werdna ("Andrew", một trong những nhà phát triển trò chơi, đánh vần ngược), phù thủy độc ác đã bị giết trong trò chơi đầu tiên và triệu tập các nhóm quái vật để hỗ trợ anh ta khi anh ta chiến đấu vượt qua nhà tù mà anh ta ở trong đó. đã bị giam cầm. Thay vì quái vật, người chơi phải đối mặt với các nhóm phiêu lưu điển hình, một số được lấy từ đĩa của người dùng thực được gửi đến Sir-Tech để phục hồi. Hơn nữa, người chơi chỉ có một số lần nhấn phím hạn chế để sử dụng để hoàn thành trò chơi. Tại Nhật bản, sê-ri "Wizardry" được dịch bởi ASCII Entertainment, và trở nên rất có ảnh hưởng trong những năm 1980, ngay cả khi mức độ phổ biến của nó ở quê nhà giảm sú Khi được giới thiệu lần đầu tiên, trò chơi gặp phải rào cản văn hóa kết hợp với bản dịch chất lượng thấp. Điều này có nghĩa là trò chơi đã được coi trọng bởi những người chơi đã bỏ qua những trò đùa và trò nhại trong trò chơi. Ví dụ: "Blade Cusinart" được giới thiệu trong các trò chơi đầu tiên là "thanh kiếm huyền thoại do thợ rèn nổi tiếng, Cusinart" nhưng ý nghĩa của nó đã bị hiểu sai vì Cuisinart food processors hầu như không được biết đến ở Nhật Bản. Tuy nhiên, quan niệm sai lầm này đã thu hút những người chơi máy tính đời đầu, những người đang tìm kiếm thứ gì đó khác biệt và khiến loạt phim "Wizardry" trở nên nổi tiếng. Ngược lại, thế hệ thứ tư, "The Return of Werdna", không được đón nhận nhiều do thiếu kiến ​​thức về các nền văn hóa phụ cần thiết để giải trò chơi, người chơi Nhật Bản không có cơ hội tìm ra một số câu đố. Tám tiêu đề chính trong sê-ri là: Năm 2009, một số nhà xuất bản và nhóm phát triển Nhật Bản đã bắt đầu "Kế hoạch hồi sinh thương hiệu" mà họ gọi là . Sau khi Sir-Tech, công ty sáng tạo Wizardry ban đầu ở Hoa Kỳ, bị giải thể, một số trò chơi bán chính thức đã được tạo ra ở Nhật Bản với các yếu tố chủ đề và chất lượng khác nhau. "Wizardry Renaissance" nhằm mục đích "xây dựng lại" thương hiệu bằng cách đồng ý với một "thế giới quan" và tiêu chuẩn chất lượng nhất định đối với các trò chơi "Wizardry" bán chính thức này. Wizardry Renaissance titles bao gồm: Những tựa game này đã được phát hành từ cuối năm 2009 đến năm 2016; hoạt động mới nhất là chuyển "" lên PC vào tháng 1 năm 2020. Nội dung liên quan. Sự phổ biến của "Wizardry" tại Nhật Bản cũng truyền cảm hứng cho nhiều light novels, manga, Japanese pen-and-paper role-playing games, and an original video animation, produced by TMS Entertainment. Một bộ light novel nổi tiếng có tên "Sword Art Online" cũng có một nhân vật nói rằng cảm hứng của anh ấy đến từ trò chơi này. Hầu hết chỉ được phát hành ở Nhật Bản.
Lunar Gateway (gọi đơn giản là Gateway) là một tổ hợp công trình quốc tế được đặt ở bên trong quỹ đạo nguyệt tâm. Gateway đóng vai trò như là một trung tâm liên lạc phần lớn chạy bằng năng lượng Mặt Trời. Ngoài ra, Gateway chứa nhiều phòng thí nghiệm khoa học và các mô-đun cư trú ngắn hạn dành cho phi hành gia của chính phủ, trạm cũng chứa nhiều những chiếc xe tự hành và các con rô-bốt không gian khác. Là một dự án hợp tác đa quốc gia có sự tham gia của bốn cơ quan hàng đầu từ Trạm Vũ trụ ISS bao gồm: NASA, Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA), Cơ quan vũ trụ Nhật Bản (JAXA) và Cơ quan Vũ trụ Canada (CSA). Gateway dự kiến sẽ là trạm không gian đầu tiên được đặt ở bên ngoài quỹ đạo tầng thấp của Trái Đất và cũng là trạm vũ trụ đầu tiên quay quanh Mặt Trăng. Trước đây được gọi là dự án Deep Space Gateway (DSG) vào năm 2012, sau đó đã được đổi tên thành Lunar Orbital Platform-Gateway (LOP-G) trong một đề xuất vào năm 2018 của NASA để nói về ngân sách của liên bang Hoa Kỳ trong năm 2019. Khi ngân sách của NASA được ký kết thành luật vào ngày 15 tháng 2 cùng năm, Quốc hội Hoa Kỳ sau đó cũng đã cam kết cho các nghiên cứu sơ bộ với số tiền lên đến 450 triệu đô la. Gateway là một trung tâm nghiên cứu của nhiều ngành khoa học đa dạng bao gồm khoa học hành tinh, vật lý thiên văn, quan sát Trái Đất, vật lý tiền Nhật, sinh học vũ trụ cơ bản và sức khoẻ con người. Việc lắp ráp cho trạm dự kiến sẽ bắt đầu vào những năm thập niên 2020. Đội Điều phối Khám phá và Không gian Quốc tế (ISECG) cùng với 14 cơ quan vũ trụ khác bao gồm cả NASA đã cùng kết luận rằng, các hệ thống của Gateway sẽ là một phương pháp quan trọng để mở rộng cho sự hiện diện của con người lên Mặt Trăng, Sao Hỏa và xa hơn nữa trong Hệ Mặt Trời. Gateway cũng đóng một vai trò quan trọng trong chương trình Artemis của NASA vào năm 2024 và những năm sau đó. Mặc dù dự án đã được đứng đầu bởi NASA, nhưng Gateway cũng được phát triển, lắp ráp, bảo dưỡng và được sử dụng cùng với sự hợp tác của nhiều cơ quan khác nhau như CSA, ESA, JAXA và các đối tác thương mại. Gateway đóng vai trò như là một trung tâm tổ chức các hoạt động thám hiểm bằng robot và phi hành đoàn tại vùng cực nam của Mặt Trăng và cũng là địa điểm được đề xuất cho khái niệm Phương tiện Không gian sâu của NASA để chuyên chở lên sao Hỏa. Có một ý tưởng trước đó đã được NASA đề xuất vào năm 2012, ý tưởng nói về một cấu trúc tổ hợp được đặt ở khu vực giữa Trái Đất và Mặt Trăng (không gian cislunar) và cấu trúc đó được đặt tên là Môi trường Không gian sâu. Trong chương trình NextSTEP được khởi xướng vào năm 2015, ý tưởng đó đã nhanh chóng nhận được nguồn tài trợ rất lớn giúp cho NASA có thể nghiên cứu các yêu cầu và nguyên tắc của không gian sâu trong môi trường sống. Vào tháng 2 năm 2018, những nghiên cứu của NextSTEP và các đối tác ISS đã khẳng định sẽ có thể định hướng các năng lực cần thiết cho mô-đun cư trú từ Gateway. Những quang năng từ Bộ phận Năng lượng và Lực đẩy (PPE) của Gateway ban đầu đã từng là một phần trong kế hoạch bị huỷ bỏ tên là nhiệm vụ điều hướng tiểu hành tinh. Vào ngày 7 tháng 11 năm 2017, NASA đã yêu cầu sự trợ giúp từ cộng đồng khoa học toàn cầu để nêu các ý tưởng của họ cho những nghiên cứu lý thuyết có thể tận dụng được vị trí của Deep Space Gateway trong không gian cislunar. Một cuộc Hội thảo Khoa học Lý thuyết về Deep Space Gateway sau đó đã được tổ chức tại thành phố Denver, Colorado từ ngày 27 tháng 2 đến ngày 1 tháng 3 năm 2018. Cuộc hội thảo đã kéo dài ba ngày với tổng cộng 196 bài thuyết trình đã được đưa ra cho các nghiên cứu khoa học khả thi để có thể được nâng cao thông qua việc sử dụng Gateway. Vào ngày 27 tháng 9 năm 2017, một tuyên bố không chính thức liên quan đến việc NASA đã hợp tác với Roscosmos để hoàn thành dự án Gateway. Tuy nhiên, vào tháng 10 năm 2020, Dmitry Rogozin, tổng giám đốc của cơ quan Roscosmos đã khẳng định lại rằng, dự án này chỉ nhằm để lấy cớ “Hoa Kỳ làm trung tâm” để cho Roscosmos tham gia. Đến tháng 1 năm 2021, Roscosmos đã thông báo rằng họ sẽ ngừng tham gia dự án. Vào tháng 5 năm 2020, cả ba cơ quan hàng đầu bao gồm Cơ quan Vũ trụ Canada (CSA), Cơ quan Vũ trụ Châu Âu (ESA) và Cơ quan vũ trụ Nhật Bản (JAXA) đều đã lên kế hoạch sẽ tham gia vào dự án Gateway. Họ công bố sẽ đóng góp một phần vào công việc chế tạo robot, nhiên liệu và phần cứng liên lạc. Ngoài ra, họ cũng sẽ tạo ra nơi cư trú và năng suất nghiên cứu. Các bộ phận quốc tế sau đó dự định sẽ phóng lần lượt sau khi bộ phận PPE và HALO ban đầu của NASA được đưa vào quỹ đạo Mặt Trăng. Trong khoảng thời gian từ tháng 7 cho đến đầu tháng 11 năm 2017. NASA đã thực hiện khoảng năm lần nghiên cứu về cách để phát triển Bộ phận Năng lượng và Lực đẩy (PPE) một cách hợp lý nhất bằng cách tận dụng nhiều bản kế hoạch có giá ngân sách kết hợp 2,4 triệu đô la Mỹ từ các công ty tư nhân. Nhiều tập đoàn thương hiệu nổi tiếng như Boeing, Lockheed Martin, Orbital ATK, Sierra Nevada và Space Systems đã tham gia công việc nghiên cứu PPE. Quyết định này đã đươc phán định cho chương trình NextSTEP-2 diễn ra vào năm 2016 nhằm để thuận tiện cho công việc nghiên cứu và tạo ra các mốc nguyên mẫu từ những mô-đun môi trường sống có thể được sử dụng trên Gateway và các phương tiện thương mại khác. Gateway cũng có thể được kết hợp với các bộ phận được phát triển từ NextSTEP. Bộ phận PPE sẽ phải sử dụng những bộ đẩy hiệu ứng Hall BHT-6000 của Busek khớp với công suất lên đến 6 kW và cặp bộ đẩy AEPS 12,5 kW từ NASA/Rocketdyne với tổng động cơ công suất nhỏ hơn 50 kW. Vào năm 2019, hợp đồng sản xuất cho PPE đã được trao cho công ty Maxar Technologies. Sau thời gian gần một năm chứng minh, NASA sau đó đã "thực hiện một lựa chọn hợp đồng để giành quyền kiểm soát cho con tàu vũ trụ". Thời gian phục vụ dự kiến của con tàu là 15 năm. Vào năm 2018, NASA đã khởi xướng một cuộc thi mang tên là Học viện Liên hợp Những khái niệm về Hệ thống Hàng không Vũ trụ mang tính Cách mạng (gọi tắt là RASC-AL). Cuộc thi này dành riêng cho những trường đại học với mục đích là nhằm để phát triển các khái niệm và năng lực cho trạm Gateway. Trong cuộc thi, những đối thủ cạnh tranh sẽ được yêu cầu phải sử dụng các cấu tạo ban đầu và phân tích tại một trong bốn lĩnh vực; “Khai thác và Vận hành Gateway Không người lái”, “Nền tảng Tiếp cập Bề mặt Mặt Trăng của Con người từ Gateway”, “Nền tảng của Khoa học như Hậu cần Gateway” và “Kế hoạch Tàu kéo Cislunar Căn cứ Gateway”. Các nhóm sinh viên đại học và sinh viên tốt nghiệp sau đó đã được yêu cầu phải gửi câu trả lời giải quyết một trong bốn chủ đề này trước ngày 17 tháng 1 năm 2019. Sau đó, NASA đã chọn 20 nhóm đầu tiên để tiếp tục phát triển các quan niệm được đề xuất. 14 nhóm trong số đó đã từng trực tiếp trình bày về dự án của họ vào tháng 6 năm 2019 tại Diễn đàn RASC-AL tổ chức ở Cocoa Beach, Florida. Bài thuyết trình sau đó đã nhận được một khoản trợ cấp trị giá 6,000 đô la Mỹ để tham gia diễn đàn. Sau cùng, dự án “Thám hiểm Mặt Trăng và Tiếp cận Địa cực” của nhóm sinh viên từ trường Đại học Puerto Rico at Mayagüez đã giành được chiến thắng. Vào tháng 11 năm 2019, NASA đã công bố tên gọi và biểu trưng chính thức của trạm vũ trụ. Họ giải thích rằng, tên gọi và biểu trưng của trạm có liên quan đến biểu tượng biên giới của Hoa Kỳ là vòm cong Gateway Arch nằm ở thành phố St. Louis. Gateway dự kiến sẽ được phóng theo quỹ đạo hình elip cao và đi theo Mặt Trăng theo quỹ đạo quầng thẳng gần (NRHO). Thời gian để đưa con tàu lên Mặt Trăng kéo dài khoảng bảy ngày và tiếp cận với bề mặt cực bắc của Mặt Trăng trong khoảng cách gần nhất là và trong khoảng cách xa nhất trên cực nam của Mặt Trăng. Việc trạm vũ trụ đi theo không gian cislunar (quỹ đạo Mặt Trăng) nhằm để mở rộng những kiến thức và các kinh nghiệm tất yếu, từ đó có thể vượt ra xa Mặt Trăng và tiến vào không gian sâu thẳm. Quỹ đạo NRHO sẽ cho phép Gateway có thể đi thám hiểm Mặt Trăng theo quỹ đạo cực thấp nhất với xung lượng khoảng 730 m/s Δ"v" và mất nửa ngày để có thể quá cảnh. Trong trường hợp trạm quỹ đạo cố định thì sẽ yêu cầu xung lượng ít hơn 10 m/s Δ"v" mỗi năm. Nếu xung lực Δ"v" bị tiêu hao ở mức tương đối nhỏ thì độ nghiêng quỹ đạo của con tàu sẽ có thể bị thay đổi và cho phép con tàu có thể tiếp cận với hầu hết bề mặt Mặt Trăng. Trạm vũ trụ sau khi phóng từ Trái Đất sẽ thực hiện một chuyến bay ngang qua Mặt Trăng với xung lực khoảng Δ"v" ≈ 240 m/s rồi sau cùng là đến (Δ"v" ≈ 180 m/s) quỹ đạo NRHO được chèn thêm để cập âu đến Gateway sau khi con tàu tiếp cận củng điểm trên quỹ đạo của trạm vũ trụ. Tổng thời gian di chuyển của con tàu là 5 ngày, tương tự vói thời gian quay trở lại Trái Đất. Ngoài ra, hệ thống sẽ yêu cầu thêm động lượng Δ"v" nếu con tàu phải dành tối đa 11 ngày tại Gateway. Đối với các nhiệm vụ phi hành đoàn sẽ kéo dài lên đến 21 ngày và với động lượng Δ"v" ≈ 840 m/s là xung lượng giới hạn bởi nhiều chức năng của các hệ thống tầng đẩy và hỗ trợ sự sống cho Orion. Một trong những lợi ích của NRHO là nó có thể giảm số lượng mất liên lạc với Trái Đất xuống mức tổi thiểu. Gateway được dự kiến sẽ trở thành trạm vũ trụ đa mô-đun đầu tiên được định mức bởi con người và có thể hoạt động tự chủ trong những năm đầu tiên ngoài không gian. Ngoài ra, Gateway cũng sẽ trở thành trạm không gian sâu đầu tiên được đặt ở khu vực cách xa quỹ đạo tầm thấp của Trái Đất. Với phần mềm điều hành được điều khiển tinh vi hơn tất cả các trạm vũ trụ trước đây, phần mềm này sẽ giám sát và kiểm soát toàn bộ hệ thống của con tàu. Ngoài ra, con tàu còn sở hữu một kiến trúc cao cấp được cung cấp bởi phòng thí nghiệm Khoa học người máy và Thông tin cho Chuyến bay vũ trụ có Người lái và được triển khai tại các cơ sở của NASA. Gateway cũng có thể hỗ trợ phát triển và thử nghiệm hoạt động Khai thác tài nguyên tại chỗ (ISRU) từ Mặt Trăng và các tiểu hành tinh. Hơn nữa, Gateway cũng sẽ mang đến cơ hội để tích lũy từ từ các khả năng cho nhiều nhiệm vụ phức tạp hơn trong tương lai. Gateway dự kiến sẽ cho các phi hành đoàn đầu tiên đến trạm trong sứ mệnh Artemis 3 vào năm 2025. Là một trạm vũ trụ thu nhỏ và tối giản chỉ chứa hai bộ phận mô-đun: Bộ phận Năng lượng và Lực đẩy (PPE) và Tiền đồn Cư trú và Hậu cần (HALO). Cả hai mô-đun đều sẽ được lắp ghép trên Trái Đất và được phóng bằng tên lửa Falcon Heavy vào tháng 11 năm 2024. Sau khi phóng xong, dự kiến sẽ phải mất từ chín đến mười tháng để có thể đến quỹ đạo Mặt Trăng. I-Hab, một mô-đun được lắp ráp bởi hai cơ quan ESA và JAXA dự kiến sẽ được phóng trên bục SLS Block 1B dưới dạng trọng tải đồng hiển thị trên con tàu Orion của phi hành đoàn trong sứ mệnh Artemis 4. Tất cả các mô-đun đều sẽ được kết nối bằng Tiêu chuẩn hệ thống lắp ghép quốc tế. Các khái niệm về Gateway vẫn còn đang ở trong giai đoạn phát triển và vẫn sẽ có các mô-đun khác được đề xuất: Các chuyến bay có phi hành đoàn sau này đến Gateway dự kiến sẽ phải sử dụng con tàu Orion hoặc SLS, trong khi các nhiệm vụ khác thì được thực hiện bởi nhiều nhà cung cấp cho dịch vụ phóng thương phẩm. Vào tháng 3 năm 2020, NASA và SpaceX đã công bố con tàu vũ trụ tương lai mang tên Dragon XL sẽ là đối tác thương mại đầu tiên trong dịch vụ hậu cần Gateway, con tàu sẽ cung cấp các nhu yếu phẩm cho trạm vũ trụ. Hai mô-đun đầu tiên là PPE và HALO dự kiến sẽ được phóng cùng một tên lửa Falcon Heavy vào tháng 11 năm 2024. Một số nhà quan chức của NASA đã quảng bá Gateway giống như một "mô-đun chỉ huy có thể tái sử dụng" và còn có thể chỉ đạo các hoạt động trên bề mặt Mặt Trăng. Tuy nhiên, Gateway vẫn nhận được hầu hết các phản ứng tiêu cực từ nhiều chuyên gia không gian. Michael D. Griffin, cựu quản trị viên của NASA đã nói rằng, Gateway chỉ có thể hữu ích khi mà các cơ sở trên Mặt Trăng có thể sản xuất loại chất nổ đẩy có thể vận chuyển đến trạm vũ trụ. Sau khi đạt được thành tích đó, Gateway sẽ còn có thể đóng vai trò là một kho chứa nhiên liệu. Clive Neal, một nhà địa chất của trường Đại học Notre Dame và là một trong những người ủng hộ cho chương trình khám phá Mặt Trăng, đã chỉ trích Gateway là một công trình chỉ "lãng phí tiền bạc". Ngoài ra, ông cũng chỉ trích NASA đã không hoàn thành "chính sách không gian bằng cách xây dựng một trạm vũ trụ quỹ đạo quay quanh Mặt Trăng". Cựu quản trị viên của NASA là ông Doug Cooke cũng đã nói trong một bài báo trên "The Hill" rằng, "NASA có thể tăng tốc độ đáng kể , tối giản về chi phí và khả năng thành công của nhiệm vụ bằng cách trì hoãn cho dự án, ông khuyên nên tận dụng SLS và loại bỏ các hoạt động quan trọng của nhiệm vụ". Ông cũng khuyên NASA nên "khởi động các bộ phận của tàu đổ bộ trên SLS Block 1B. Nếu cần một yếu tố vận chuyển độc lập thì nó có thể được khởi chạy trên bệ phóng thương mại". George Abbey, cựu giám đốc của trung tâm vũ trụ Johnson, cho biết: "Về bản chất, Gateway được xây dựng để trở thành một trạm vũ trụ có thể quay quanh một trạm vũ trụ tự nhiên khác, cụ thể là Mặt Trăng. Nếu nhân loại có cơ hội để quay trở lại Mặt Trăng thì chúng ta nên đến trực tiếp, chứ không phải là xây dựng một trạm vũ trụ để quay quanh nó". Cựu phi hành gia của NASA, ông Terry W. Virts cũng là người đã từng là phi công của STS-130 trên #ĐỔI "Endeavour" và là chỉ huy của trạm vũ trụ ISS trong chuyến thám hiểm Expedition 43. Ông đã trả lời trong một bài viết trên "Ars Technica" rằng Gateway sẽ chỉ làm "gông cùm cho hoạt động khám phá của con người và không nên kích hoạt nó". Ông nói thêm, "Nếu chúng tôi không có mục tiêu [của Gateway], thì chúng tôi không khác gì đang đặt con gà trước quả trứng bằng cách khởi động chương trình "Gemini" trước khi chúng tôi biết "Apollo" sẽ trông như thế nào. Terry chỉ trích thêm NASA vì đã loại bỏ trọng tâm của kế hoạch là tách phi hành đoàn khỏi phương tiện, được thực hiện sau thảm họa Tàu con thoi "Columbia" năm 2003. Phi hành gia của Apollo 11 là ông Buzz Aldrin đã phản đối hoàn toàn cho dự án Gateway và nói rằng, việc sử dụng Gateway để làm khu vực tổ chức cho các sứ mệnh của người máy hoặc con người lên bề mặt Mặt Trăng là hoàn toàn vô lý và ông cũng đặt câu hỏi về lợi ích của dự án. Nhưng ngược lại, Aldrin cũng bày tỏ sự ủng hộ đối với khái niệm Moon Direct của Robert Zubrin. Triệu Ngọc Bội, phó giám đốc trung tâm Chương trình Không gian và Thám hiểm Mặt trăng của Cục Vũ trụ Quốc gia Trung Quốc (CNSA) đã kết luận rằng Gateway sẽ chỉ có hiệu quả "chi phí thấp". Ông cho biết rằng, thay vì xây dựng trạm vũ trụ thì kế hoạch của Trung Quốc sẽ chỉ hướng đến trạm nghiên cứu trên bề mặt. Vào tháng 7 năm 2019, Trung Quốc đã tổ chức một loạt các cuộc thảo luận với Nga và ESA về hợp tác quốc tế. Đến tháng 8 năm 2020, Trạm Nghiên cứu ILRS cùng với sự hợp tác từ Nga và thỏa thuận dự kiến từ cơ quan ESA đã được CNSA công bố. Kiến trúc sư René Waclavicek, người đã từng tham gia thiết kế cho mô-đun I-HAB, đã bày tỏ mối lo ngại trong việc thiết kế một khu sinh hoạt thoải mái cho các phi hành gia khi đến thăm Gateway. Nếu phải làm như vậy thì kích thước của mô-đun phải thu nhỏ xuống 1,2 mét đường kính. Hơn nữa, toàn bộ 8 mét khối của I-HAB sẽ được thay thế bằng các thiết bị hỗ trợ sự sống, để lại một khoảng hành lang hẹp dài 1,5 mét khối cho không gian cá nhân được chia sẻ bởi bốn phi hành gia. Người sáng lập nên Hiệp hội Sao Hỏa Robert Zubrin đã chỉ trích Gateway chính là "kế hoạch tồi tệ nhất" của NASA. Ông khẳng định loài người không cần một chiếc trạm vũ trụ để đi đâu cả như cái cách mà họ không thể làm Trạm vũ trụ quốc tế quay quanh Trái Đất, chỉ có phơi bày các đối tượng con người để chiếu xạ như một hình thức nghiên cứu y học của một số bác sĩ Đức Quốc xã. Zubrin cũng khuyên NASA nên xây dựng căn cứ trên bề mặt Mặt Trăng nếu mục tiêu củ họ là xây dựng căn cứ trên đấy vì nó là nơi có khoa học, có vật liệu che chắn, và là nơi có thể tìm thấy các nguồn tài nguyên để tạo ra chất nổ đẩy và nhiều thứ hữu ích khác. Kỹ sư vũ trụ ông Gerald Black đã khẳng định Gateway "không có vai trò gì trong việc hỗ trợ con người quay trở lại và căn cứ trên Mặt Trănh". Ông nói thêm rằng nó không nên sử dụng để làm kho nhiên liệu tên lửa vì nó chỉ có thể làm tốn kém thêm nhiên liệu. Nhà báo Mark Whittington cũng đã khẳng định rằng, "dự án quỹ đạo Mặt Trăng sẽ không giúp cho chúng ta có thể quay trở lại Mặt Trăng". Ngoài ra, Whittington cũng đã chỉ chương trình Apollo đã không sử dụng bất kỳ trạm vũ trụ nào trên đấy. Nhà vật lý thiên văn Ethan Siegel đã nói rằng "Việc quay quanh Mặt Trăng để đại diện cho sự tiến bộ" là không đúng và ông khẳng định "lợi thế" duy nhất của khoa học nằm ở trong quỹ đạo của Mặt Trăng trái ngược gấp đôi với quỹ đạo tầm thấp của Trái Đất. Cuối cùng ông kết luận Gateway chỉ là "một cách tuyệt vời để tiêu tiền, chỉ có tác dụng thúc đẩy nền khoa học và nhân loại một cách tương đối không đáng kể". Vào ngày 10 tháng 12 năm 2018, quản trị viên của NASA là ông Jim Bridenstine đã phản hồi tại một buổi thuyết trình. Trong đó, ông nhấn mạnh về sứ mệnh của các phi hành đoàn khi đi lên Mặt Trăng, đồng thời cũng phản bác lại là họ chỉ đang tuân theo Chỉ thị Chính sách Không gian. Ông cho rằng, Hoa Kỳ đã đến được Mặt Trăng vào năm 1969 và họ đã chiến thắng trong cuộc đua nên bây giờ là lúc để họ nên xây dựng một kiến trúc bền vững, có thể tái sử dụng. Ông khẳng định "'lần tới khi chúng ta lên Mặt Trăng, chúng ta sẽ có những đôi ủng cùng với lá cờ Mỹ trên vai và họ sẽ luôn sát cánh cùng với các đối tác quốc tế, những người chưa bao giờ đến Mặt Trăng trước đó". Vào ngày 30 tháng 3 năm 2020, Dan Hartman, người quản lý chương trình Gateway đã khẳng định về lợi ích của việc sử dụng Gateway là kéo dài thời gian để thực hiện nhiệm vụ và giảm thiểu rủi ro. Nó còn có thể hỗ trợ chức năng nghiên cứu và khả năng tái sử dụng các mô-đun đi trước.
Là người gốc Nakaminato (nay là Hitachinaka), Ibaraki và ông lớn lên ở Hitachi cho đến khi tốt nghiệp trung học phổ thông công lập. Mẹ ông là giáo viên tiểu học. Sau khi tốt nghiệp Đại học Tōkyō với bằng Cử nhân Luật năm 1978, ông trở thành luật sư năm 1982. Sự nghiệp chính trị. Ông được bầu vào Chúng Nghị viện lần đầu tiên vào năm 1990. Sau khi mất ghế vào năm 1996, ông đã tranh cử vào Chúng Nghị viện năm 2000 nhưng không thành công. Năm 2001, lần đầu tiên ông được bầu vào Tham Nghị viện. Ông trở thành Lãnh đạo của Đảng Công minh mới vào ngày 8 tháng 9 năm 2009 sau khi đảng chịu thất bại nặng nề trong cuộc Tổng tuyển cử năm 2009. Đảng mất 10 ghế, trong đó có ghế của Lãnh đạo đảng Ōta Akihiro và Tổng thư ký Kitagawa Kazuo. Vào ngày 8 tháng 9 năm 2009, Yamaguchi thay thế Ōta làm Chủ tịch của Đảng Công minh mới. Nhiệm kỳ lãnh đạo đảng của Yamaguchi kết thúc vào tháng 9 năm 2012 và ông được bổ nhiệm lại mà không được ứng cử thêm hai năm nữa vào ngày 22 tháng 9 năm 2012. Không cần bỏ phiếu vì ông là ứng cử viên duy nhất. Ông tiếp tục lãnh đạo đảng cho đến hiện tại. Yamaguchi đã đứng ra ủng hộ Hệ thống Họ có chọn lọc cho các cặp vợ chồng, cũng như quyền bầu cử cho những người nước ngoài thường trú.
Burt Freeman Bacharach ( ; 12 tháng 5 năm 1928 – 8 tháng 2 năm 2023) là nghệ sĩ piano, nhạc sĩ và nhà sản xuất thu âm người Mỹ. Ông được công nhận rộng rãi là một trong những nhân vật quan trọng nhất của nền âm nhạc đại chúng thế kỷ 20. Kể từ thập niên 1950, ông cùng nhà viết ca từ Hal David đã sáng tác nên hàng trăm ca khúc. Ảnh hưởng lớn từ dòng nhạc jazz đương thời, các sáng tác của Bacharach đặc trưng bởi tiến trình hợp âm và đổi nhịp khác thường, cùng việc lựa chọn những nhạc cụ hòa âm kỳ lạ. Hầu hết các tác phẩm đều được ông trực tiếp sáng tác, hòa âm phối khí và chỉ huy dàn nhạc. Có tới hơn 1.000 nghệ sĩ từng trình bày các giai điệu của Bacharach. Từ năm 1961 tới năm 1972, hầu hết các sáng tác của ông được dành riêng và trình bày bởi ca sĩ Dionne Warwick, tuy nhiên trước đó nhiều nghệ sĩ cũng đã trình bày thành công các ca khúc của Bacharach như Marty Robbins, Perry Como, Gene McDaniels hay Jerry Butler. Trong những thập niên tiếp theo, ông sáng tác cho nhiều ca sĩ thành danh như Gene Pitney, Cilla Black, Dusty Springfield, Tom Jones hay B. J. Thomas. Tổng cộng, 37 ca khúc của Bacharach từng lọt vào top 40 tại Mỹ, và 52 ca khúc làm được điều tương tự tại Anh. Các sáng tác đạt vị trí quán quân tại "Billboard" Hot 100 có thể kể tới "This Guy's in Love with You" (Herb Alpert, 1968), "Raindrops Keep Fallin' on My Head" (Thomas, 1969), "(They Long to Be) Close to You" (The Carpenters, 1970), "Arthur's Theme (Best That You Can Do)" (Christopher Cross, 1981), "That's What Friends Are For" (Warwick, 1986) và "On My Own" (Carole Bayer Sager, 1986). Ông giành được 6 giải Grammy, 3 tượng vàng Oscar và 1 giải Emmy. Theo nhà phê bình William Farina, Bacharach là "người nhạc sĩ mà danh tiếng có thể kết nối mọi nghệ sĩ tài năng nhất của thời đại này"; nhiều năm sau, các sáng tác của ông vẫn được sử dụng trong nhiều bộ phim tới mức "di sản, tuyển tập cùng những cải tiến vẫn còn được thấy ở khắp nơi". Được coi là nghệ sĩ quan trọng của thể loại easy listening, âm nhạc của Bacharach còn ảnh hưởng lớn tới các dòng nhạc chamber pop và Shibuya-kei. Năm 2012, Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ tôn vinh ông cùng David Huân chuơng Gershwin cho những đóng góp cho nền âm nhạc đại chúng. Năm 2015, tạp chí "Rolling Stone" xếp Bacharach ở vị trí số 32 trong danh sách "100 nhạc sĩ sáng tác vĩ đại nhất mọi thời đại".
Zaporizhzhia hay Zaporozhzhia () là một khu vực lịch sử ở trung-đông Ukraina bên dưới các ghềnh sông Dnepr, tên gọi có nghĩa đen là "(lãnh thổ) bên kia các ghềnh". Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, vùng Zaporizhzhia hoạt động như một lãnh thổ Cossack gần như một cộng hòa bán độc lập, với trung tâm là Sich Zaporizhia. Vùng Zaporizhzhia hiện tương ứng với tỉnh Dnipropetrovsk, phần lớn các tỉnh Zaporizhzhia và Kirovohrad, cũng như một phần của các tỉnh Kherson và Donetsk của Ukraina. Khu vực này được chính thức gọi là "Vùng đất tự do của Quân đoàn Hạ Zaporizhzhia" (tiếng Ukraina: Вольності Війська Запорозького Низового, tiếng Ba Lan: Zaporoże; Dzikie Pola (Cánh đồng hoang hoặc Đồng bằng hoang dã), ). Vùng còn được gọi là Cánh đồng hoang, Novorossiya (ở Nga) và những tên khác. Theo Hiệp định đình chiến Andrusovo năm 1667, khu vực này nằm dưới chủ quyền chung của cả nước Nga Sa hoàng và Vương quốc Ba Lan. Đến năm 1686, với việc ký kết Hiệp ước Hòa bình vĩnh viễn, vùng được chuyển sang dưới quyền thống trị của Nga. Vào những năm 1750, chính quyền Nga đã phê chuẩn việc thành lập Tân Serbia với vai trò một biên giới quân sự ở phần phía tây bắc của vùng, ngay trên biên giới với Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Ngay trước khởi nghĩa Koliivshchyna, chính quyền Nga đã thành lập tỉnh Novorossiya, trung tâm là Kremenchuk, bao gồm các lãnh thổ của Tân Serbia, Slavo-Serbia và các phần phía bắc của vùng Zaporizhzhia. Zaporizhzhia là tên của lãnh thổ nhà nước Cossack, Quân đoàn Zaporozhia, có thủ đô Sich Zaporizhia được phòng thủ kiên cố. Từ thế kỷ 15 đến cuối thế kỷ 17, nó đã bị tranh giành giữa nước Nga Sa hoàng, Vương quốc Ba Lan và Đế quốc Ottoman, cũng như các Hetman của Thượng Ukraina (sau 1648). Trong phần lớn thời gian đó, vùng được Ba Lan kiểm soát về mặt danh nghĩa, nhưng hiếm khi yên bình và được nhiều người (từ quan điểm của các chính phủ yêu sách) coi là hỗn loạn và nguy hiểm, là nơi ẩn náu của những kẻ sống ngoài vòng pháp luật và kẻ cướp. Tuy nhiên, trong con mắt của nhiều người dân Ukraina, đây là miền đất hứa của những anh hùng và những người tự do (như được mô tả sau này trong thơ của Taras Shevchenko). Ngoài nhiều cuộc xâm lược của các nước láng giềng, cư dân của Zaporozhia phải đối phó với dòng người định cư mới từ mọi hướng và xung đột giữa "szlachta" (quý tộc Ba Lan) và những người Cosack độc lập vốn dĩ được hưởng một loại quyền tự trị trong khu vực. Hơn nữa, người Cossack thường đột kích vào các vùng đất giàu có gần đó của Đế quốc Ottoman, trả đũa các cuộc tấn công bắt nô lệ liên tục của người Tatar nhằm vào các lãnh thổ Ukraina xa về phía tây như Galicia, điều này lại kích động các cuộc đột kích của người Tatar là chư hầu của Ottoman. Quân đoàn Hạ Zaporozhia có tính độc lập hơn tập trung tại Sich Cũ (Stara Sich). Năm 1709, Sa hoàng Pyotr I ra lệnh phá hủy Sich Cũ, buộc người Cossack Zaporozhia phải chạy đến Oeshky, trên Biển Đen thuộc lãnh thổ Ottoman. Năm 1734, Nga cho phép người Cossack tái lập nước cộng hòa của họ với tư cách là Vùng đất tự do của Quân đoàn Zaporozhia, có trụ sở tại Sich Mới (Nova Sich), nhưng đưa nhiều người định cư nước ngoài vào và tiêu diệt Sich vĩnh viễn vào năm 1775, hợp nhất lãnh thổ vào Novorossiya. Trong dân cư vào cuối những năm 70 đến đầu những năm 80 thế kỷ XVIII của vùng đất Zaporizhzhia cũ sau khi thanh lý Sich Zaporozhia (1775), người Ukraina chiếm ưu thế. Năm 1779, họ chiếm 64,36% tổng dân số của vùng này. Vị trí thứ hai trong số các nhóm dân tộc khác là người Hy Lạp (13,76%), tiếp theo là người Armenia (10,61%) và người Nga (8,09%). Một số nhà sử học ước tính rằng túp lều của một nông dân trung bình không tồn tại quá 10 năm. Ví dụ, trong những năm 1605–1633, vùng đất Ruthenia Đỏ có 100.000 người bị Ottoman bắt làm tù binh và 24.000 người chết; trong nửa đầu thế kỷ 17, Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, kiểm soát Zaporizhzhia, đã mất khoảng 300.000 người do các cuộc tấn công của Ottoman. Theo tên vùng này, thành phố Zaporizhzhia đã nhận được tên của nó vào năm 1921, trước đây được gọi là Aleksandrovsk.
Emanuel Aiwu (sinh ngày 25 tháng 12 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Birmingham City tại EFL Championship, cho mượn từ Cremonese tại Serie B. Sự nghiệp thi đấu. Ngày 5 tháng 8 năm 2022, Aiwu gia nhập câu lạc bộ Cremonese bằng bản hợp đồng kéo dài 4 năm, với mức phí chuyển nhượng được báo cáo là 3,5 triệu euro. Aiwu sinh ra tại Linz, Áo, và là người gốc Nigeria. "Tính đến 17 tháng 6 năm 2022"
Danh sách loài họ Chồn hôi Họ Chồn hôi (Mephitidae) là một họ thú thuộc Bộ Ăn thịt (Carnivora), gồm chồn hôi và lửng hôi. Trong tiếng Anh, mỗi loài trong họ này được gọi là "mephitid". Các loài chồn hôi phổ biến trên khắp châu Mỹ, trong khi các loài lửng hôi xuất hiện ở quần đảo Sunda Lớn của Đông Nam Á. Các loài trong họ sống ở nhiều môi trường khác nhau, điển hình là đồng cỏ, rừng và cây bụi. Hầu hết các loài họ Chồn hôi dài , cộng đuôi , dù chồn hôi đốm lùn có thể nhỏ đến 11 cm (4 in) cộng đuôi 7 cm (3 in), và một số cá thể chồn hôi sọc có thể dài tới 82 cm (32 in) cộng đuôi 40 cm (16 in). Không có loài nào được ước tính về quy mô quần thể, nhưng có hai loài được phân loại là loài sắp nguy cấp. Các loài thuộc họ Chồn hôi nói chung không được thuần hóa, mặc dù chồn hôi đôi khi được nuôi làm thú cưng. Họ Chồn hôi có 12 loài, chia thành 4 chi: "Conepatus" (chồn hôi mũi lợn), "Mephitis" (chồn hôi), "Mydaus" (lửng hôi) và "Spilogale" (chồn hôi đốm). Họ Chồn hôi ban đầu là một nhánh trong họ Chồn (Mustelidae), với các loài lửng hôi được gộp chung với với những loài lửng khác trong chi "Melinae." Nhưng bằng chứng di truyền gần đây đã dẫn đến sự đồng thuận tách Mephitidae thành một họ riêng. Các loài đã tuyệt chủng cũng được xếp vào tất cả các chi còn tồn tại trừ "Mydaus", cũng như 9 chi đã tuyệt chủng. 26 loài tuyệt chủng đã được tìm thấy, mặc dù do quá trình nghiên cứu và khám phá vẫn đang diễn ra nên số lượng và phân loại vẫn chưa chính xác. Họ Chồn hôi có 12 loài còn tồn tại thuộc 4 chi, chia tiếp thành 60 phân loài. Họ này không có phân họ. Các số liệu này không bao gồm các loài lai hay các loài tiền sử tuyệt chủng. Danh sách loài họ Chồn hôi. Phân loại sau đây dựa trên phân loại của "Mammal Species of the World" (2005), cùng với các đề xuất bổ sung được chấp nhận rộng rãi kể từ khi sử dụng phân tích phát sinh chủng loại phân tử.
Gianluca Saro (sinh ngày 25 tháng 6 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Cremonese tại Serie B. Sự nghiệp thi đấu. Sau khi thi đấu tại lò đào tạo trẻ A.S.D. Ancona và Donatello Calcio Udine, anh gia nhập đội trẻ của Pro Vercelli vào năm 2015, trước khi chuyển sang đội trẻ Juventus chỉ một năm sau. Sau đó, anh thi đấu cho đội trẻ Cesena và Empoli theo dạng cho mượn từ Juventus, trước khi quay trở lại Pro Vercelli vào năm 2019. Anh ra sân 51 trận tại Serie C sau hơn 2 mùa giải cho đội bóng. Mùa hè năm 2021, Saro gia nhập câu lạc bộ Crotone tại Serie B bằng bản hợp đồng kéo dài đến năm 2025. Ngày 30 tháng 1 năm 2022, anh ra mắt đội bóng trong trận hòa 1–1 trước Parma tại Serie B. Ngày 12 tháng 8 năm 2022, Saro gia nhập Cremonese.
Bộ Tư pháp (Hàn Quốc) Bộ Tư pháp Hàn Quốc (MOJ; tiếng Hàn: ; Hanja: ) là một bộ cấp nội các giám sát các vấn đề tư pháp, đứng đầu là Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Nó chịu trách nhiệm giám sát truy tố, các vấn đề pháp lý, kiểm soát nhập cư, cơ quan cải huấn, phòng chống tội phạm và bảo vệ nhân quyền của Hàn Quốc. Trụ sở chính của nó được đặt tại Tòa nhà số 1 của Khu phức hợp Chính phủ Gwacheon ở Gwacheon-si, Gyeonggi-do. Được thành lập vào ngày 17 tháng 7 năm 1948, Bộ Tư pháp là bộ duy nhất chưa từng bị thay đổi hoặc thay đổi tên trong lịch sử của Đại Hàn Dân Quốc.
Ceri(IV) perrhenat là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học Ce(ReO4)4. Hợp chất này được biết đến dưới dạng dung dịch có màu vàng nhạt, tuy nhiên dạng rắn của nó chưa được biết đến. Trong một bài báo trên tạp chí hóa học "Zeitschrift für anorganische und allgemeine Chemie" năm 2019, Maurice Conrad và Thomas Schleid cho biết mục đích ban đầu của họ là thực hiện điều chế một hợp chất có công thức Ce(ReO4)4·"n"H2O. Tuy nhiên, do sự tinh khiết của các hóa chất mà họ sử dụng (cụ thể các hóa chất bị nhiễm calci và natri), họ lại thu được tinh thể không màu của phức CaNa(ReO4)3. Nguyên nhân là do họ sử dụng nước chống ion hóa không đúng cách. Tuy vậy, họ vẫn tiếp tục nghiên cứu phức chất vừa thu được. Ceri(IV) perrhenat được điều chế bằng cách cho ceri(IV) sulfat tác dụng với bari perrhenat trong dung dịch. Ce(SO4)2 + 2Ba(ReO4)2 → Ce(ReO4)4 + 2BaSO4↓
Yedisan (còn viết là "Jedisan" hay "Edisan"; , , , ) là một tên gọi có điều kiện cho Özi [Paşa] Sancağı (sanjak [huyện] Ochakiv) của tỉnh Silistra thuộc Đế quốc Ottoman, một lãnh thổ nằm ở miền Nam Ukraina ngày nay giữa sông Dniester và sông Nam Bug. Khu vực được người Ottoman đặt dưới quyền kiểm soát của Hãn quốc Nogai vào thế kỷ 17 và 18, và được đặt theo tên của một trong những bộ tộc Nogai. Tại Đế quốc Nga, nó được gọi là "tỉnh Ochakov", trong khi người Thổ Ottoman gọi nó đơn giản là Özü theo tên thành phố Ochakiv từng là trung tâm hành chính của khu vực. Một tên khác được sử dụng là "Tây Nogai". Về mặt địa lý, đây là phần phía tây của cái gọi là Cánh đồng hoang trải dài về phía bắc Biển Đen giữa các sông Dniester và Dnepr. Khu vực nằm ở phía đông Budjak và Bessarabia, phía nam Podolia và Zaporizhzhia, và phía tây Taurida. Kể từ giữa thế kỷ 20, lãnh thổ đã được phân chia giữa tây nam Ukraina và đông nam Moldova (phía nam Transnistria). "Yedisan" là một từ tiếng Turk có nghĩa là "Bảy tước hiệu", không nghi ngờ gì là bộ tộc được tạo thành từ bảy phân nhóm. Yedisan đôi khi cũng được gọi là Ochakov Tartary theo tên Ochakov (Ochakiv), thành trì chính của khu vực. Tên của khu vực bằng các ngôn ngữ khác nhau bao gồm: Tiếng Ukraina: Єдисан [Yedysan]; tiếng Nga: Едисан [Yedisan]; tiếng Romania: Edisan; tiếng Tatar Krym và Thổ Nhĩ Kỳ: Yedisan; ; . Người Magyar có thể đã ở Yedisan (Etelköz) trước khi di cư đến Pannonia. Đây là một phần của Podolia lịch sử, đôi khi vào thế kỷ 17 khu vực bị chiếm đóng bởi người Ottoman, phân chia giữa tỉnh Podolia và tỉnh Silistra. Khu vực này có thời gian được hợp nhất vào cơ cấu hành chính Ottoman với vị thế một phần của tỉnh Silistra (Özi), các thành trì Khadjibey (Odesa) và Özi (Ochakiv) là các trung tâm lớn. Nơi đây cũng là một phần của cuộc xung đột du mục lớn giữa người Nogai là chư hầu của Ottoman và người Cossack Zaporizhia do Nga bảo trợ. Vào cuối thế kỷ 18, Đế quốc Nga dưới quyền Yekaterina Đại đế bắt đầu mở rộng sang khu vực này. Do Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1768–1774), Ottoman đã nhượng lại cho Nga khu vực phía đông của sông Nam Bug. Thông qua Hiệp định Jassy (Iaşi) năm 1792 nhằm kết thúc Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1787–1792), biên giới Nga được mở rộng đến sông Dniester và việc tiếp quản Yedisan đã hoàn tất. Sau khi người Nga tiếp quản, thành phố Odesa được thành lập vào năm 1794. Khu vực này được người Moldova, Nga và Ukraina cùng với một bộ phận đáng kể người Đức đến định cư với vị thế một phần của Novorossiya. Khu vực này từng là một phần của tỉnh Kherson thời Đế quốc Nga, và ngày nay là một phần của các tỉnh Odesa và Mykolaiv của Ukraina, và phần phía nam của vùng ly khai Transnistria của Moldova.
Máy quét vân tay Máy quét vân tay (tiếng Anh: "Fingerprint scanner") hay Thiết bị nhận dạng vân tay là các hệ thống bảo mật dựa trên sinh trắc học. Chúng được sử dụng tại các đồn cảnh sát, các ngành công nghiệp an ninh, các điện thoại thông minh, và các thiết bị di động khác. Con người có các mô hình vân tay trên ngón tay của mình, các mô hình này được gọi là vân tay. Vân tay có đặc điểm độc nhất, bền vững trong suốt cuộc đời của mỗi người và khó để thay đổi. Do sự kết hợp độc đáo này, vân tay đã trở thành phương tiện nhận dạng lý tưởng. Các loại máy quét vân tay. Có bốn loại máy quét vân tay: Máy quét quang học (optical scanners), máy quét điện dung (capacitance scanners), máy quét siêu âm (ultrasonic scanners) và máy quét nhiệt (thermal scanners). Chức năng cơ bản của mỗi loại máy quét là thu được hình ảnh vân tay của một người và tìm kiếm một phù hợp trong cơ sở dữ liệu của nó. Đánh giá chất lượng hình ảnh vân tay dựa trên đơn vị "chấm trên mỗi inch" (DPI). Hầu hết các máy quét vân tay đều có thể bị lừa bằng một kỹ thuật liên quan đến việc chụp ảnh vân tay, xử lý ảnh bằng phần mềm đặc biệt và in ra những bản sao vân tay bằng máy in 3D. Các dạng thiết kế. Có hai dạng thiết kế: máy quét vân tay tĩnh và máy quét vân tay di động. Đầu đọc độc lập. Microsoft đã phát hành một đầu đọc vân tay vào năm 2005. Đầu đọc tích hợp. Từ đầu những năm 2000, một số laptop hỗ trợ PC Card có thể được trang bị đầu đọc vân tay; ví dụ, Compaq Armada E500 có thể được trang bị tùy chọn đầu đọc vân tay bên ngoài từ năm 2000 - mô-đun đầu đọc được phát hành bởi Toshiba. IBM sản xuất các laptop tích hợp đầu đọc từ năm 2004. Apple đặt tên thương hiệu của công nghệ nhận dạng vân tay điện tử, được biết đến với tên Touch ID, chỉ được giới thiệu vào năm 2013 cho điện thoại thông minh, và tùy chọn cho laptop được phát hành vào năm 2016. Việc triển khai đã bị trì hoãn cho đến năm 2013 chỉ vì tích hợp máy quét vân tay với bàn di chuột quang học đã được đăng ký bằng sáng chế bởi RIM (Blackberry) vào năm 2004. Blackberry đã sản xuất các điện thoại thông minh với đầu đọc từ năm 2010 - mẫu đầu tiên có tính năng này là Blackberry Curve giá rẻ.
Cục Khí tượng (Hàn Quốc) Cục Khí tượng Hàn Quốc (tiếng Hàn: ; Hanja: ; Romaja: "#đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. ") (KMA) là cơ quan khí tượng quốc gia Hàn Quốc. Dịch vụ này bắt đầu vào năm 1904 khi gia nhập WMO vào năm 1956. Dự báo thời tiết bằng số được thực hiện bằng bộ phần mềm Mô hình Thống nhất . Chính quyền hiện tại được thành lập vào năm 1990. Các đài quan sát tạm thời được thành lập vào năm 1904 tại Busan, Incheon, Mokpo và các nơi khác là tiền thân của KMA hiện tại. Văn phòng Khí tượng Trung ương (CMO) được thành lập vào tháng 8 năm 1949. Vào tháng 4 năm 1978, CMO được đổi tên thành Cục Khí tượng Hàn Quốc (KMS). Năm 1999, Cục đã giới thiệu một siêu máy tính khí tượng để dự báo. Tính đến tháng 11 năm 2021, siêu máy tính "Guru" và "Maru" lần lượt xếp thứ 27 và 28 trên thế giới. Năm 2010, KMA đã phóng vệ tinh khí tượng địa tĩnh đầu tiên của Hàn Quốc, Vệ tinh Truyền thông, Đại dương và Khí tượng (COMS), còn được gọi là Chollian. Chollian bắt đầu hoạt động chính thức vào năm 2011. Các đài quan sát Seoul và Busan đã được Cơ quan Khí tượng Thế giới (WMO) công nhận là Trạm quan sát trăm năm vào năm 2017. Năm 2019, Chính quyền đã hoàn thành việc phát triển mô hình dự báo thời tiết số của riêng mình. Các kỹ năng và kỹ thuật dự báo của Chính quyền được coi là đẳng cấp thế giới. Dự án Radar thời tiết. Vào năm 2013, Tập đoàn Điện tử Doanh nghiệp (EEC) có trụ sở tại Hoa Kỳ nằm ngoài Enterprise, Alabama đã giành được hợp đồng cung cấp 11 hệ thống radar thời tiết Doppler phân cực kép Klystron băng tần S cho KMA. Các radar sẽ được lắp đặt trên toàn quốc như một phương tiện cung cấp vùng phủ sóng radar thời tiết hoàn chỉnh trên toàn quốc. Trụ sở chính hiện nay được đặt tại Khu phức hợp Chính phủ Daejeon, Cheongsa-ro, Seo-gu, Daejeon. Trụ sở cũ đặt tại Daebang-dong, Dongjak-gu, Seoul. Các cơ quan hợp tác bao gồm chủ yếu 5 loại: văn phòng khu vực của KMA, trạm thời tiết , đài quan sát và văn phòng chung để quan sát khí tượng.
Tỉnh Kefe hay Caffa (: ) là một eyalet (tỉnh) của Đế quốc Ottoman. Tỉnh trải dài trên bờ biển phía bắc của Biển Đen với sanjak chính (Pasha sanjak) nằm ở bờ biển phía nam của Krym. Tỉnh nằm dưới quyền cai trị trực tiếp của Ottoman, hoàn toàn tách biệt với Hãn quốc Krym. Thủ phủ của tỉnh là Kefe, tên tiếng Thổ Nhĩ Kỳ của Caffa (Feodosiya hiện đại ở Krym). Thành phố Caffa và các khu vực xung quanh lần đầu tiên được đặt dưới quyền thống trị của Ottoman sau khi người Thổ đánh bại người Genova vào năm 1475, sau đó một sanjak có trung tâm tại Caffa được thành lập. Tỉnh Kefe được thành lập vào năm 1568 với tư cách là một beylerbeylik. Theo lời của Evliya Çelebi vào thế kỷ 17, các sanjak của tỉnh "được cai trị bởi những Voivoda do Sultan Ottoman bổ nhiệm trực tiếp chứ không phải bởi các Hãn". Tỉnh được sáp nhập vào Hãn quốc Krym độc lập trong thời gian ngắn ngủi từ Hiệp định Küçük Kaynarca năm 1774. Bản thân Hãn quốc bị Đế quốc Nga thôn tính vào năm 1783. Các đơn vị hành chính của beylerbeylik Kefe trong khoảng thời gian 1700-1730 như sau: Đơn vị ban đầu
Lethrinus rubrioperculatus là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1978. Từ định danh "rubrioperculatus" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "ruber" (“đỏ”) và "operculatus" (“nắp mang”), hàm ý đề cập đến đốm đỏ ở cuối sau nắp mang của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "L. rubrioperculatus" có phân bố rộng khắp vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Đông Phi trải dài về phía đông đến đảo Wake, quần đảo Marshall và quần đảo Marquises, ngược lên phía bắc đến Hàn Quốc và Nam Nhật Bản, xa về phía nam đến Úc, Nouvelle-Calédonie và Tonga. Loài này cũng xuất hiện tại Việt Nam, bao gồm quần đảo Hoàng Sa. "L. rubrioperculatus" sống gần các rạn san hô, trên nền đáy cát và đá vụn ở đới mặt trước rạn, độ sâu khoảng 10–198 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. rubrioperculatus" là 57 cm, thường bắt gặp với chiều dài trung bình khoảng 30 cm. Thân màu xanh lục xám hoặc nâu, lốm đốm các vệt đen nhỏ. Môi đỏ. Một đốm ở rìa trên nắp mang thường có màu đỏ. Các vây trắng nhạt hoặc phớt hồng. "L. rubrioperculatus" có thể chuyển sang kiểu hình lốm đốm các vệt trắng (có lẽ là ngụy trang) hoặc xuất hiện một dải nâu dọc hai bên lườn. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 3 thường dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 47–49. Thức ăn của "L. rubrioperculatus" bao gồm động vật da gai, động vật giáp xác, động vật thân mềm, giun nhiều tơ và cá nhỏ. Tại quần đảo Bắc Mariana, độ tuổi lớn nhất mà "L. rubrioperculatus" đạt được là 8 năm. Trong khi đó, tại Okinawa và Nouvelle-Calédonie, những cá thể có số tuổi lớn nhất được ghi nhận lần lượt là 13 và 15. Như hầu hết các loài cá, "L. rubrioperculatus" là vật chủ của những loài ký sinh, trong đó có nhiều loài mới được mô tả từ cơ thể "L. rubrioperculatus", như sán lá đơn chủ "Calydiscoides euzeti", sán "Lethrinitrema gibbus" và "L. dossenus". "L. rubrioperculatus" là một loại cá thực phẩm chất lượng và được bán ở dạng tươi sống. Ở Bắc Mariana, "L. rubrioperculatus" là một nguồn thực phẩm quan trọng trong nền văn hóa ẩm thực, thường có mặt trong những sự kiện văn hóa địa phương như lễ hội hay đám cưới.
Silistra (tỉnh của Ottoman) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Tỉnh Silistra hay Silistria (: ; ), sau gọi là tỉnh Özü (: ; ) nghĩa là tỉnh Ochakiv là một "eyalet" của Đế quốc Ottoman ven bờ biển Đen và bờ nam sông Danube tại phần đông nam châu Âu. Pháo đài Akkerman nằm dưới thẩm quyền của tỉnh. Diện tích được báo cáo của tỉnh vào thế kỷ 19 là . Tỉnh Silistra được thành lập vào năm 1593 với tên gọi Özi (, ) từ lãnh thổ của Thân vương quốc Karvuna cũ (sau là Dobruja), Silistra ban đầu là sanjak Silistra của tỉnh Rumelia. Tỉnh được đặt theo tên của Silistra, do thống đốc thường cư trú tại pháo đài ven sông Danube này. Vào khoảng năm 1599, nó được mở rộng và nâng lên ngang tầm với một eyalet, có thể là một lợi ích cho vị tổng đốc đầu tiên của tỉnh (beylerbeyi). Tỉnh tập trung trong các vùng Dobruja, Budjak (Bessarabia Ottoman), và Yedisan và bao gồm các thị trấn Varna, Kustendja (Constanța), Akkerman (Bilhorod-Dnistrovs'kyi) và Khadjibey (Odesa), thủ phủ tại các pháo đài Silistra (nay tại Bulgaria) hoặc Özi (nay là Ochakiv tại Ukraina). Vào thế kỷ 17, tỉnh Silistra được mở rộng về phía nam và phía tây, bao gồm hầu hết Bulgaria hiện đại và Thổ Nhĩ Kỳ thuộc châu Âu bao gồm các thị trấn Adrianople (Edirne), Filibe (Plovdiv) và Vidin. Vào cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18, một loạt các cuộc chiến tranh Nga–Thổ Nhĩ Kỳ đã cắt đứt phần phía đông của tỉnh, Nga cuối cùng sáp nhập toàn bộ Yedisan và Budjak đến giáp sông Danube vào năm 1812. Tỉnh Edirne được thành lập từ phần phía nam tỉnh Silistra vào năm 1830. Với những cải cách hành chính của Ottoman năm 1864, tỉnh Silistra được tái cấu trúc thành tỉnh Danube. Theo "Sancak Tevcih Defteri", tỉnh gồm có tám sanjak từ năm 1700 đến năm 1730 như sau: Các sanjak vào đầu thế kỷ 19:
Podolia (tỉnh của Ottoman) Tỉnh Podolia (: ) là một eyalet của Đế quốc Ottoman. Thủ phủ là Kamaniçe (: ), nay thuộc tỉnh Khmelnytskyi, Ukraina. Năm 1672, quân đội Ottoman dưới quyền Sultan Mehmed IV chiếm lĩnh Kamaniçe sau một cuộc bao vây ngắn ngủi. Hiệp ước Buchach xác nhận quyền kiểm soát của Ottoman đối với thành phố, và nơi này trở thành trung tâm của tỉnh mới. Hiệp ước bị Quốc hội Ba Lan bác bỏ, và chiến tranh lại nổ ra. Chiến dịch của Ba Lan tỏ ra không thành công và Hiệp định Żurawno (1676) khiến Podolia vẫn nằm trong biên giới Ottoman. Một cuộc chiến tranh Ba Lan-Ottoman khác lại nổ ra vào năm 1683. Trong 16 năm tiếp theo, quyền cai trị của Ottoman ở Podolia nói chung chỉ giới hạn trong pháo đài Kamianets bị phong tỏa, do một đơn vị đồn trú gồm 6.000 binh sĩ trấn giữ. Các đơn vị đồn trú khác tại Podolia nằm tại Bar, Medzhybizh, Jazlivec và Chortkiv, mỗi đơn vị chỉ có hơn 100 binh sĩ. Theo ngân sách cấp tỉnh của Ottoman năm 1681, 13 triệu akçe được chi hàng năm cho tỉnh, chủ yếu để trả lương cho binh sĩ. Trong số tiền này, chưa đến 3% được thu từ chính Podolia, phần còn lại được gửi từ ngân khố trung ương. Năm 1681, Thượng phụ Constantinople bổ nhiệm đô thành Chính thống giáo của Kamianets, tên là Pankratij. Pháo đài được trả lại cho Ba Lan theo Hiệp ước Karlowitz (1699). Trong 27 năm cai trị của Ottoman, Podolia được quản lý bởi chín tổng trấn (pashas) Ottoman: Tỉnh được chia thành bốn sanjak (huyện):
Frank Cédric Tsadjout (sinh ngày 28 tháng 7 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Cremonese tại Serie B. Sự nghiệp thi đấu. Ngày 18 tháng 9 năm 2020, Frank gia nhập câu lạc bộ Cittadella tại Serie B theo dạng cho mượn. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho đội bóng trong chiến thắng 3-0 tại Serie B trước Brescia. Ngày 14 tháng 7 năm 2021, anh gia nhập Pordenone theo dạng cho mượn. Ngày 5 tháng 1 năm 2022, Frank chuyển đến Ascoli theo dạng cho mượn đến ngày 30 tháng 6 năm 2022. Ngày 15 tháng 7 năm 2022, Frank ký hợp đồng với Cremonese. Frank sinh ra tại Perugia, Ý và là người gốc Cameroon. "Tính đến 4 tháng 6 năm 2023"
Gianluca Scamacca (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Atalanta B.C. tại Serie A và đội tuyển bóng đá quốc gia Ý. Ban đầu, Scamacca thi đấu cho Jong PSV và Sassuolo, cùng các khoản cho mượn tại Cremonese, PEC Zwolle, Ascoli và Genoa. Anh đã có trận ra mắt quốc tế cho đội tuyển quốc gia Ý vào năm 2021. Sự nghiệp câu lạc bộ. Sự nghiệp ban đầu. Scamacca là sản phẩm của lò đào tạo trẻ AS Roma và tháng 1 năm 2015, anh chuyển đến đội bóng ở Hà Lan, PSV Eindhoven. Anh ra mắt chuyên nghiệp ở Eerste Divisie với tư cách là cầu thủ Jong PSV vào ngày 22 tháng 1 năm 2016, ở tuổi 17, vào sân thay cho Steven Bergwijn ở phút thứ 61 trong chiến thắng 2–1 trước VVV-Venlo. Tháng 1 năm 2017, Scamacca ký hợp đồng có thời hạn 4 năm rưỡi với câu lạc bộ Ý Sassuolo. Anh có trận ra mắt Serie A vào ngày 29 tháng 10, khi mới 18 tuổi, vào sân tư băng ghế dự bị ở phút thứ 85 trong trận thua 1–3 trên sân San Paolo trước Napoli. Tháng 1 năm 2018, Scamacca chuyển đến Cremonese tại Serie B dưới dạng cho mượn. Anh đã có bàn thắng chuyên nghiệp đầu tiên vào ngày 14 tháng 4 năm 2018, trong trận đấu gặp Palermo ở giải đấu. Ngày 31 tháng 8 năm 2018, Scamacca được đội bóng Eredivisie PEC Zwolle cho mượn. Anh ra mắt vào ngày 2 tháng 9 năm 2018, trong trận đấu trên sân khách thắng 1–0 trước Groningen. Ngày 13 tháng 7 năm 2019, anh gia nhập câu lạc bộ Serie B Ascoli, với bản hợp đồng dưới dạng cho mượn. Ngày 2 tháng 10 năm 2020, Scamacca gia nhập đội bóng Genoa ở Serie A dưới dạng cho mượn kéo dài một mùa giải. Scamacca trở lại Sassuolo vào mùa hè năm 2021. Ngày 17 tháng 10, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho đội bóng, lập một cú đúp trong trận đấu trên sân khách gặp Genoa, giúp họ cầm hòa 2–2. Trong mùa giải 2021–22, anh thường đá chính cùng với Domenico Berardi và Giacomo Raspadori trên hàng công, và kết thúc mùa giải với tổng cộng 16 bàn thắng ở giải đấu. Anh ra sân lần cuối cho Sassulo vào ngày 22 tháng 5 năm 2022 trước khi rời câu lạc bộ, trong trận thua 0–3 trước AC Milan. Ngày 26 tháng 7 năm 2022, Scamacca đặt bút ký hợp đồng với câu lạc bộ West Ham United ở Premier League, theo bản hợp đồng có thời hạn 5 năm kèm lựa chọn gia hạn thêm một năm. Phí chuyển nhượng trả cho Sassuolo là 30,5 triệu bảng, cộng thêm 5 triệu bảng phụ phí. Scamacca có trận ra mắt West Ham United vào ngày 7 tháng 8 năm 2022, vào sân ở hiệp hai thay cho tiền đạo người Jamaica, Michail Antonio trong trận thua 0–2 trên sân nhà trước Manchester City tại Premier League. Bàn thắng đầu tiên của anh cho West Ham là trong trận đấu tiên trong trận thứ ba của anh là vào ngày 18 tháng 8, ghi bàn thắng mở tỷ số ở hiệp một trong trận play-off UEFA Conference League, gặp Viborg, trận đấu đó kết thúc với chiến thắng 3–1. Ngày 1 tháng 10 năm 2022, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ ở Premier League trong chiến thắng 2–0 trên sân nhà trước Wolverhampton Wanderers. Sự nghiệp quốc tế. Anh lần đầu được gọi lên đội tuyển quốc gia Ý để tham dự vòng loại FIFA World Cup 2022 của đội vào tháng 9 năm 2021. Anh ra mắt đội tuyển quốc gia vào ngày 8 tháng 9, vào sân thay cho Federico Bernardeschi ở hiệp hai trong chiến thắng 5–0 trên sân nhà trước Litva. "Tính đến ngày 16 tháng 3 năm 2023" "Tính đến ngày 20 tháng 11 năm 2023." "Cập nhật ngày 17 tháng 10 năm 2023."
macOS Sonoma (phiên bản 14) là bản phát hành chính sắp tới của macOS, hệ điều hành của Apple dành cho máy tính Mac. Phiên bản kế nhiệm của macOS Ventura, nó đã được công bố tại Hội nghị các nhà phát triển toàn cầu của Apple (WWDC) 2023 vào ngày 5 tháng 6 năm 2023 và dự kiến ​​phát hành vào cuối năm 2023;bản beta dành cho nhà phát triển đầu tiên được phát hành vào ngày 5 tháng 6 năm 2023, và bước vào phiên bản beta công khai vào ngày 11 tháng 7 năm 2023. Nó được đặt tên theo vùng trồng nho ở Hạt Sonoma của California. macOS Sonoma cung cấp một số tính năng và cải tiến mới, chủ yếu tập trung vào năng suất và khả năng sáng tạo: Bên cạnh macOS Sonoma, Apple đã công bố các công cụ dành cho nhà phát triển để chuyển các trò chơi Windows sang macOS. Bộ công cụ chuyển trò chơi, được phát hành ở dạng beta, dịch các lệnh gọi giao diện lập trình ứng dụng (API) Windows sang API macOS tương đương một cách nhanh chóng , cho phép các nhà phát triển chạy các phiên bản chưa sửa đổi của trò chơi Windows DirectX 32-bit của họ trên macOS. Người dùng Mac đã có thể sử dụng Game Porting Toolkit để chạy một số trò chơi DirectX 12; các hãng tin công nghệ đã so sánh công cụ này với lớp tương thích Proton của Valve dành cho Linux. Apple cũng đã phát hành Metal Shader Converter để chuyển đổi các shader thành API đồ họa Metal của Apple. Phần cứng được hỗ trợ. macOS Sonoma hỗ trợ tất cả các máy Mac có silicon của Apple và Xeon-W của Intel cũng như chip Coffee Lake/Amber Lake thế hệ thứ 8 trở lên, đồng thời ngừng hỗ trợ cho nhiều máy Mac được phát hành vào năm 2017. iMac 2019 là máy Mac duy nhất được hỗ trợ của Intel thiếu chíp T2. Các kiểu máy Mac sau đây có thể chạy macOS Sonoma được liệt kê bên dưới: Theo phân tích của Ars Technica , các máy Mac 2016 và 2017 nhận được trung bình 6 năm cập nhật, thấp hơn so với 7–8 năm cập nhật mà các máy Mac Intel phát hành từ 2009 đến 2015 nhận được. Lịch sử phát hành. Bản beta dành cho nhà phát triển đầu tiên của macOS Sonoma được phát hành vào ngày 5 tháng 6 năm 2023. Bản beta dành cho nhà phát triển Sonoma là bản đầu tiên có sẵn cho bất kỳ ai có tài khoản Nhà phát triển Apple miễn phí mà không cần đăng ký nhà phát triển.
IC 2118 (còn được gọi là Tinh vân Đầu Phù thủy do hình dáng của nó) là một tinh vân phản xạ mờ nhạt có hình dạng đặc biệt. Nó được cho là tàn dư của các ngôi sao siêu tân tinh cổ đại hoặc đám mây khí được chiếu sáng bởi ngôi sao siêu khổng lồ Rigel trong chòm sao Orion. Tinh vân này nằm trong chòm sao Eridanus, cách Trái Đất khoảng 900 năm ánh sáng. Đầu Phù thủy có màu xanh lam do các hạt bụi trong tinh vân phản xạ ánh sáng xanh tốt hơn màu đỏ. Các quan sát đã phát hiện khí thải carbon monoxide lớn trong IC 2118, cho thấy sự hiện diện của đám mây phân tử và quá trình hình thành sao trong tinh vân. Ngoài ra, đã tìm thấy ứng cử viên cho các ngôi sao thuộc dãy tiền chính và một số ngôi sao T-Tauri cổ điển sâu bên trong tinh vân. Các đám mây phân tử trong IC 2118 nằm gần ranh giới bên ngoài của bong bóng Orion-Eridanus, một vùng chứa hydro phân tử được thổi bởi các ngôi sao khối lượng lớn trong tổ hợp Orion OB1. Quá trình hình thành sao xảy ra khi lớp vỏ siêu này mở rộng vào không gian giữa các ngôi sao. IC 2118 có hình dạng tương tự sao chổi và có mối liên hệ chặt chẽ với các ngôi sao sáng trong Orion OB1. Hướng của các đám mây sao chổi IC 2118 chứng tỏ mối quan hệ này. [[Hệ tọa độ bầu trời|Tọa độ]]: [[File:Jupiter and |20px|link=|Sky map]] de=zoom=show_grid=1show_constellation_lines=1show_constellation_boundaries=1show_const_names=1show_galaxies=1img_source=IMG_all 05h 04m 54s, −07° 15′ 00″ [[Thể loại:Các đối tượng IC|2118]] [[Thể loại:Chòm sao Orion]] [[Thể loại:Tinh vân phát xạ]] [[Thể loại:Thiên thể IC]] [[Thể loại:Chòm sao Lạp Hộ]]
Nhân vật truyện tranh giả tưởng Enrico Pucci (エンリコ・プッチ, Enriko Putchi) (phiên âm: Ên-ri-cô Pu-chi) là nhân vật phản diện chính trong phần thứ sáu Stone Ocean, đồng thời là phản diện chính thứ năm của loạt manga và anime JoJo's Bizarre Adventure. Pucci tôn thờ siêu phản diện Dio Brando, khát khao thực hiện kế hoạch tạo ra "thiên đường" của Dio. Pucci cũng là kẻ đầu tiên sở hữu ba Bóng quỷ. Trong những bản đầu tiên phát hành trên tuần san Shonen Jump, Pucci có tên đầy đủ là Roberto Pucci. Pucci có chiều cao trung bình, thân hình mảnh khảnh, làn da ngăm đen, mái tóc trắng, mặc chiếc áo choàng linh mục có in hình cây thánh giá. Enrico Pucci về tổng thể là một người yếu đuối và ích kỷ. Thời ấu thơ, Pucci là một cậu bé rất nhân hậu, hòa đồng với mọi người xung quanh. Tuy nhiên, tới lúc biết rằng mình từng có một người em trai sinh đôi chết yểu, Pucci trở nên lo sợ trước số mệnh. Đặc biệt sau chuyện của Perla, Pucci cho rằng số mệnh là vị thần tối cao nhất của vũ trụ. Lập trường quan điểm của hắn khác với Dio, kẻ mà hắn tôn thờ nhất. Bởi lẽ Dio cũng cho rằng có những sức mạnh vượt ngoài tầm kiểm soát của hắn, nhưng hắn có ý chí vươn lên nắm lấy thứ sức mạnh ấy, Dio muốn trở thành vị Chúa đích thực. Còn với Pucci, hắn không muốn trở thành Chúa, mà chỉ muốn làm nô lệ mãi mãi cho Chúa. Pucci không ngần ngại sử dụng mọi thủ đoạn tàn bạo nhằm đạt được mục đích. Hắn ngụy biện rằng đó là số mệnh của những nạn nhân, đó là do số mệnh sắp đặt họ phải chết, chứ không phải do hắn giết. Điều này như Wes đã nói, đó là “"một kẻ ác không biết mình ác"". Pucci là người rất thận trọng, không chủ quan coi thường bất cứ tình huống nào. Hắn đã mất 8 năm để nghĩ ra cách phục kích Jotaro. Khi Wes nhớ lại mọi chuyện, Pucci quyết định ngưng kế hoạch lại để giết anh ta, vì lo sợ khả năng của Weather Report. Trong chiến đấu, Pucci luôn giữ khoảng cách chứ không mạo hiểm đối đầu phạm vi gần. Pucci sinh ngày 5 tháng 6 năm 1972, trong một gia đình giàu có tại Ý. Hắn được giáo dục đầy đủ ngay từ nhỏ nên có tính cách rất nhân hậu, hòa đồng. Sau khi biết mình từng có một người em trai sinh đôi chết yểu tên là Domenico Pucci, hắn bị sốc tâm lý và từ đó luôn đi tìm ý nghĩa của sự sống, của số mệnh. Pucci chọn con đường trở thành một linh mục. Một ngày nọ, Pucci phát hiện Dio đang trốn trong hầm mộ nhà thờ, tuy nhiên hắn không báo cho ai biết, cho phép Dio dưỡng thương bên trong một thời gian khá dài. Để trả ơn, Dio tặng Pucci một đầu mũi tên vàng, giúp Pucci có được sức mạnh Bóng quỷ. Không lâu sau, một người phụ nữ đến thú tội đã tiết lộ, cô ta từng đánh tráo đứa con ốm yếu của mình với một đứa trẻ nhà Pucci. Domenico Pucci hiện tại đã lớn và có tên là Wes Bluemarine. Thật trớ trêu, Wes hiện tại lại là bạn trai của Perla Pucci, em gái Enrico Pucci. Để ngăn cuộc tình loạn luân này xảy ra, hắn thuê băng nhóm P.I. đến đe dọa Wes. Tuy nhiên, P.I. lại thuộc tổ chức KKK, chuyên đi tiêu diệt những người gốc Phi, bọn chúng phát hiện cha của Wes là người da đen nên đã treo cổ Wes, dẫn tới Perla tự tử theo. Pucci, vì nỗi đau khổ trước cái chết của 2 người em, đã thức tỉnh năng lực Bóng quỷ Whitesnake. Đúng lúc này, Wes cũng tỉnh lại do anh ta được Bóng quỷ Weather Report âm thầm bảo vệ. Wes tức giận tấn công Pucci nhưng thất bại, Pucci tiết lộ cả hai là anh em sinh đôi trước khi xóa kí ức của Wes. Pucci đi tìm Dio và trở thành một thuộc hạ trung thành của hắn. Dio nói cho Pucci về kế hoạch tạo ra “thiên đường thực sự”, trao cho Pucci một chiếc xương bàn chân của hắn (thực chất là xương của Jonathan Joestar), và nói đó là một “nguyên liệu”. Sau khi Dio chết, Pucci liên minh với một tên thuộc hạ khác là Johngalli A., cả hai vào làm việc tại nhà tù Green Dolphin Street, nước Mỹ. Trong suốt 8 năm. Pucci miệt mài đi thu thập các năng lực Bóng quỷ và giấu chúng trong một chiếc máy kéo; ném một Bóng quỷ xuống nước và ra lệnh nó bảo vệ chiếc máy kéo đó; ngoài ra, còn giết chết mẹ của cậu bé Emporio Alnino. Pucci và Johngalli A. lên kế hoạch gài bẫy con gái của Jotaro Kujo là Jolyne Cujoh, nhằm mục đích đoạt lấy ký ức về cuốn nhật ký Dio. Jotaro Kujo là người đã giết chết Dio và tiêu hủy toàn bộ các đồ vật liên quan đến hắn. Jolyne Cujoh bị gài bẫy nhận tội giết người và bị đưa đến nhà tù Green Dolphin Street. Nghe tin, Jotaro lập tức đến gặp và bị Pucci phục kích. Hắn ta lấy đi cả ký ức lẫn Bóng quỷ, khiến Jotaro trở thành người thực vật. Sau đó, vì Johngalli A. đã hành động quá lộ liễu nên Pucci thủ tiêu luôn hắn ta. Một thời gian sau, Pucci phát hiện kho Bóng quỷ cất giấu tại chiếc máy kéo đã bị đánh cắp. Hắn nhận ra Jolyne Cujoh không phải cô gái tầm thường, cô ta đang tập hợp đồng minh để chống lại hắn. Pucci tặng Lang Rangler một Bóng quỷ mạnh và cử đi giết Jolyne. Lang Rangler thất bại. Enrico Pucci đành phải tự mình ra mặt giết Jolyne, nhưng nhận ra sự có mặt của Weather Report, Pucci kìm lại và che giấu được thân phận của mình trước Jolyne. Có Weather Report hỗ trợ, Jolyne gửi Bóng quỷ Star Platinum tới tổ chức Speedwagon. Pucci tới gặp Sports Maxx, yêu cầu Maxx khiến cho chiếc xương Dio có sự sống trở lại. Maxx nói chiếc xương giờ đây đang ở trong khu vực an ninh tối cao. Sports Maxx sau đó tham gia chiến đấu với Ermes và bị tiêu diệt. Jolyne có mặt trong vụ ẩu đả nên tình cờ bị tống vào khu vực an ninh tối cao. Pucci cử bốn sát thủ xuống giết Jolyne nhưng cả bốn đều thất bại. Pucci tới sau và thấy rất nhiều người bị biến thành thực vật. Hắn ta nói rằng kế hoạch đã thành công và lần theo dấu vết của Jolyne. Bằng cách tạo ra ảo ảnh Weather Report, Pucci ám sát Foo Fighters, đánh trọng thương Anasui trước mặt Jolyne, nhưng không đánh lại Jolyne. Pucci phải lấy ký ức của Jotaro ra đánh lạc hướng, trong khi hắn ta cướp lấy Green Baby, chính là chiếc xương Dio nay đã sống lại. Pucci hợp nhất với Green Baby bằng 14 câu thần chú, sau đó rời khỏi nhà tù để đến Mũi Canaveral. Trong lúc chờ đợi trăng non, Pucci gặp được 3 người con ngoài giá thú của Dio. Hắn giúp họ làm chủ năng lực Bóng quỷ và thuyết phục họ tiêu diệt Jolyne Cujoh. Trong 3 người, Donatello Versus là kẻ rất tham vọng, hắn lấy ký ức của Pucci và trả lại cho Weather Report. Weather Report lúc này đã nhớ ra bản thân chính là Wes Bluemarine, bỗng chốc nổi điên và hóa tất cả cư dân trong khu vực thành ốc sên. Pucci lo ngại năng lực của Weather Report nên chuyển hướng đến tiêu diệt anh ta. Trận chiến giữa cả hai rất khốc liệt, nhưng may mắn đã đứng về phía Pucci. Wes chết, còn Pucci đi tới Trung tâm vũ trụ Kennedy. Lúc này, Bóng quỷ của Pucci đã tiến hóa thành C-Moon điều khiển được lực hấp dẫn. Jolyne Cujoh đuổi đến nhưng bị áp đảo. Đúng lúc đó Jotaro Kujo xuất hiện, dùng năng lực ngưng đọng thời gian để đánh bại Pucci. Pucci trèo lên tàu vũ trụ và di chuyển cho nó bay đi, nhưng hắn cũng phát hiện ra C-Moon đã tiến hóa thành Made in Heaven, lý do là bởi thời gian bản chất là do sự chuyển động tạo ra. Điều khiển được chuyển động là điều khiển được thời gian. Pucci tăng tốc thời gian, khiến thế giới bị tàn phá. Nhờ vào cơn sóng thần nhấn chìm thế giới, hắn lần lượt hạ gục Anasui, Jotaro, Ermes và Jolyne. Chỉ còn cậu bé Emporio nhảy lên lưng một con cá heo là trốn thoát. Thời gian tiếp tục đẩy nhanh đến sự hủy diệt. Một vũ trụ mới ra đời, trong đó mọi người đều nhận thức được số mệnh của mình và chấp nhận nó. Pucci dịch thời gian đến giai đoạn cậu bé Emporio lần đầu gặp Jolyne để thủ tiêu cậu, vì sợ nhà Jojo sẽ lại thay đổi số phận. Trận chiến giữa cả hai xảy ra, Emporio bất ngờ nhét Bóng quỷ Weather Report vào người, cậu tăng nồng độ ô-xi trong bầu khí quyển lên và khiến Pucci bị ngộ độc ô-xi, do hắn di chuyển với tốc độ quá cao. Pucci van nài trước khi chết nhưng Emporio chỉ nói: “"Đi trên con đường công lý mới là Số Mệnh thực sự"”. Thời gian tiếp tục bị đẩy nhanh và một thế giới khác xuất hiện, có vẻ tươi đẹp hơn. Whitesnake là Bóng quỷ thuộc nhóm chiến đấu phục kích, chỉ thực sự mạnh khi có sự chuẩn bị từ trước. Nó có thể tiết ra một loại chất axit đặc biệt, có tác dụng tạo ra ảo giác cho người khác, trong thời gian dài sẽ gây ra tình trạng mê man, rơi vào một giấc mơ do Whitesnake tạo ra. Người bị kẹt trong giấc mơ phải phát hiện ra điểm bất hợp lý mới tỉnh dậy được. Khả năng chiến đấu tay đôi của nó thuộc hạng khá, uy lực mạnh và tốc độ cao. Hơn tất thảy, nó có thể trích xuất ký ức và Bóng quỷ ra khỏi cơ thể người khác, với điều kiện nó ở thế chủ động. Người mất đi Bóng quỷ sẽ rơi vào trạng thái thực vật, còn mất ký ức là mất trí nhớ tạm thời. Whitesnake đại diện cho những ký ức về bộ truyện Jojo. C-Moon là Bóng quỷ thuộc nhóm chiến đấu bằng năng lực, nó không có khả năng đánh tay đôi, nhưng lại có tốc độ và phản xạ siêu việt. C-Moon có thể thao túng lực hấp dẫn trong một phạm vi rất rộng, nếu nó chạm vào thứ bất kỳ, nó có thể đảo ngược lực hấp dẫn xung quanh vật đó, đây là năng lực rất nguy hiểm khi chiến đấu. Đối với phòng thủ, nó có thể đẩy mọi đối thủ ra xa khỏi chủ thể, bằng cách giảm lực hấp dẫn xung quanh chủ thể. C-Moon đại diện cho lực hấp dẫn. Made in Heaven là Bóng quỷ thuộc nhóm chiến đấu bằng năng lực, gần như bất khả chiến bại, chỉ chết khi chủ thể chết. Năng lực của nó là thao túng sự chuyển động của mọi thứ không phải sinh vật sống. Khi kích hoạt lên chính mình, nó sẽ di chuyển với tốc độ vô địch và do đó uy lực tấn công cũng vô địch. Khi kích hoạt lên vật thể, nó khiến vật đó không ngừng vận động cho tới khi bị hủy diệt. Pucci dùng năng lực này lên vũ trụ để đưa vũ trụ đến sự kết thúc và bắt đầu một vũ trụ khác. Ở nơi đó, con người cảm nhận được lờ mờ kí ức từ vũ trụ cũ, do đó ngộ nhận đó là số mệnh của mình và bằng lòng với nó. Chỉ những người từng tiếp xúc với Pucci, và không bị hắn trực tiếp giết chết, mới nhận thức được đầy đủ nguyên nhân. Made in Heaven đại diện cho sự chuyển động. Made in Heaven có vẻ yếu hơn The World. Bởi lẽ với cơ thể ma cà rồng của Dio, The World sẽ phát triển năng lực tới mức đóng băng mọi sự chuyển động vĩnh viễn. Made in Heaven mạnh hơn Star Platinum, bởi Star Platinum bị giới hạn không gian và thời gian sử dụng năng lực. Những lần xuất hiện khác. Pucci xuất hiện trở lại trong tiểu thuyết ngắn "JORGE JOESTAR" của Otaro Maijo, với vai trò là phản diện chính thứ hai. Hắn bị năng lực của Giorno Giovanna đánh bại.
Artemijus Tutyškinas (sinh ngày 8 tháng 8 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Litva hiện tại đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ ŁKS Łódź ở giải I liga, cho mượn từ Crotone, và Đội tuyển bóng đá quốc gia Litva. Sự nghiệp thi đấu. Tutyškinas ra mắt quốc tế cho Litva vào ngày 8 tháng 9 năm 2021, khi vào sân thay cho Linas Klimavičius trong trận thua 5–0 trước Ý, nhà vô địch Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020 tại Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2022. Ở 18 tuổi và 1 tháng, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất từng ra sân tại một trận đấu chính thức cho Litva.
Arsen Norayrovich Zakharyan (;; sinh ngày 26 tháng 5 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Nga gốc Armenia hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ La Liga Real Madrid và đội tuyển bóng đá quốc gia Nga. Zakharyan là cầu thủ người Nga đã được vinh danh là một trong cầu thủ xuất sắc nhất ở La Liga, với nhiều bàn thắng và pha kiến tạo. Anh còn được sánh ngang đồng đội Real Madrid Jude Bellingham. Zakharyan sinh ra tại Samara, Nga với gia đình có gốc là người Armenia. Bố mẹ anh đã chuyển từ Martakert, Nagorno-Karabakh đến Nga sau chiến tranh Nagorno-Karabakh thứ nhất (1992-1994). Sự nghiệp bóng đá. Ngày 1 tháng 11 năm 2020, Zakharyan có trận ra mắt Dynamo Moscow tại Russian Premier League, trong chiến thắng 2–1 trước Tambov ở mùa giải 2020–21. Anh được trao suất đá chính đầu tiên cho đội bóng Dynamo sau kỳ nghỉ đông là ngày 28 tháng 2 năm 2021, ghi bàn thắng đầu tiên trong chiến thắng 2–1 trước FC Akhmat Grozny. Zakharyan đã trở thành cầu thủ Dynamo Moscow trẻ thứ ba ghi bàn tại Giải ngoại hạng Nga, sau Aleksandr Kokorin và Pyotr Nemov. Zakharyan đã được người hâm mộ Dynamo bầu chọn là cầu thủ của tháng vào tháng 2, tháng 3 và tháng 5 năm 2021 nhờ những màn trình diễn của anh, bao gồm cả bàn thắng muộn trong trận gặp CSKA Moscow vào tháng 5. Anh còn đã được vinh danh là cầu thủ của mùa giải 2020–21. Ngày 23 tháng 7 năm 2021, Zaharyan ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải 2021–22, ghi mở tỷ số trong chiến thắng 2–0 trước FC Rostov; anh còn được bình chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trận. Ngày 9 tháng 12 năm 2021, anh được Russian Premier League vinh danh là cầu thủ U21 xuất sắc nhất giải đấu năm 2021. Zakharyan được người hâm mộ Dynamo bầu chọn là cầu thủ của mùa giải trong mùa giải thứ hai liên tiếp. Anh cũng đứng thứ hai trong cuộc bầu chọn cầu thủ U21 xuất sắc nhất mùa giải, nhưng bị thua vua phá lưới Gamid Agalarov. Anh còn được Russian Premier League trao danh hiệu cầu thủ trẻ xuất sắc nhất và tiền vệ cánh trái xuất sắc nhất mùa giải 2021–22. Sự nghiệp quốc tế. Ngày 11 tháng 5 năm 2021, Zakharyan lần đầu tiên được khoác áo đội tuyển quốc gia Nga và được đưa vào đội hình 30 người sơ bộ cho UEFA Euro 2020. Tuy nhiên, anh ấy bị nhiễm trùng viêm amidan và bị loại khỏi đội hình giải đấu. Zakharyan ra mắt đội tuyển quốc gia vào ngày 1 tháng 9 năm 2021, đá chính trong trận đấu gặp Croatia ở vòng loại World Cup 2022, nhưng sau đó bị thay ra ở hiệp hai khi trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 0–0. Anh đã trở thành cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử đội tuyển quốc gia Nga, khi mới 18 tuổi, 3 tháng, 6 ngày, phá kỷ lục của Alan Dzagoev. Zakharyan cũng trở thành cầu thủ trẻ thứ hai của đội tuyển quốc gia nói chung, sau thủ môn Igor Akinfeev. Phong cách thi đấu. Zakharyan là một cầu thủ đa năng và thường chơi nhiều vị trí tấn công, như tiền vệ cánh, tiền vệ tấn công hoặc tiền vệ trung tâm. Anh chuyển đổi vị trí trong suốt trận đấu theo yêu cầu của chiến thuật. Những đặc điểm của Zakharyan, chẳng hạn như khả năng dứt điểm, khả năng chuyền bóng và phong cách chơi bóng, đã khiến cầu thủ này được so sánh với cầu thủ người Bỉ Kevin De Bruyne. Tháng 10 năm 2023, Zakharyan được The Guardian bầu chọn là một trong 60 tài năng trẻ xuất sắc nhất thế giới trong số những cầu thủ sinh năm 2003. "Tính đến ngày 3 tháng 6 năm 2023" "Tính đến ngày 23 tháng 3 năm 2023"
Joma ([ˈxoma]) là nhà sản xuất quần áo thể thao của Tây Ban Nha hiện đang sản xuất giày dép và quần áo cho bóng đá, futsal, bóng ném, bóng rổ, bóng chuyền, chạy bộ, quần vợt và padel. Trụ sở chính của nó được đặt tại Portillo de Toledo, Tây Ban Nha. Joma được thành lập vào năm 1965 bởi Fructoso López để sản xuất giày cho mục đích sử dụng chung. Tên thương hiệu bắt nguồn từ tên con trai đầu lòng của Fructuoso (José Manuel). Năm 1968, công ty bắt đầu chuyên sản xuất và phân phối giày thể thao. Sau thành công tương đối, Joma tham gia vào thị trường bóng đá, gặt hái được nhiều thành công trong nước và quốc tế. Cuối cùng, Joma Sport đã mở văn phòng tại Hoa Kỳ, châu Âu và châu Á, hiện có mặt tại hơn 70 quốc gia trên toàn thế giới.
Victoria Eugenie của Battenberg Victoria Eugenie Julia Ena của Battenberg (tiếng Anh: "Victoria Eugenie of Battenberg"; tiếng Đức: "Victoria Eugénie von Battenberg"; tiếng Ba Lan: "Wiktoria Eugenia Battenberg"; tiếng Tây Ban Nha: "Victoria Eugenia de Battenberg"; tiếng Pháp: "Victoire Eugénie de Battenberg"; 24 tháng 10 năm 1887 – 15 tháng 4 năm 1969) là Vương hậu Tây Ban Nha với tư cách là vợ của Quốc vương Alfonso XIII của Tây Ban Nha từ ngày 31 tháng 5 năm 1906 đến ngày 14 tháng 4 năm 1931, khi nền Cộng hòa thứ hai của Tây Ban Nha được thiết lập. Victoria Eugenie xuất thân từ gia tộc Battenberg, một dòng nhánh hình thành từ một cuộc hôn nhân bất đăng đối của Gia tộc Hessen-Darmstadt. Victoria Eugenie là cháu gái út của Nữ vương Victoria của Liên hiệp Anh. Không giống như các thành viên khác của gia tộc Battenberg vốn có kính xưng là "Serene Highness" (tạm dịch: Điện hạ Đáng kính), Victoria Eugenie được gọi là "Highness" (Điện hạ) do thông qua Sắc lệnh Vương thất năm 1886, được ban hành bởi Nữ vương Victoria. Thân vương tôn nữ/Vương tôn nữ Victoria Eugenie của Battenberg ra đời ngày 24 tháng 10 năm 1887 tại Lâu đài Balmoral, Scotland, con gái duy nhất của Heinrich xứ Battenberg (con trai của Công tử Alexander xứ Hessen và Rhein và Julia Hauke, Nữ Thân vương xứ Battenberg) và Beatrice của Liên hiệp Anh (con gái út của Nữ vương Victoria I của Liên hiệp Anh và Công tử Albrecht xứ Sachsen-Coburg-Gotha). Victoria Eugenie là cháu cuối cùng của một quốc vương Anh sinh ra ở Scotland cho đến khi Vương nữ Margaret chào đời tại Lâu đài Glamis ở Angus vào năm 1930. Vì Thân vương tử Heinrich xứ Battenberg là hậu duệ của một cuộc hôn nhân bất đăng đối nên không thể được hưởng tước hiệu Prince của Hessen và Rhein từ cha, thay vào đó vì mẹ là Julia Hauke được phong là Nữ Thân vương xứ Battenberg nên Heinrich được hưởng tước Prince của Battenberg từ mẹ. Theo lẽ đó, Victoria Eugenie được hưởng tước Prince từ cha và lẽ ra cũng sẽ được hưởng kính xưng Serene Highness tương ứng. Tuy nhiên, ngày 4 tháng 12 năm 1886, Nữ vương Victoria đã ban hành Sắc lệnh Vương thất, cho phép các con của Heinrich và con gái là Vương nữ Beatrice được hưởng bậc kính xưng cao hơn là Highness, do đó Victoria Eugenie được hưởng kính xưng Highness từ khi sinh ra và được gọi là Thân vương tôn nữ/Vương tôn nữ Victoria Eugenie của Battenberg "Điện hạ" ("Her Highness" Princess Victoria Eugenie of Battenberg)"." Victoria Eugenie (từ đây sẽ gọi là Vương tôn nữ) được đặt tên theo tên bà ngoại là Nữ vương Victoria và mẹ đỡ đầu là Eugenia xứ Montijo, một hoàng hậu Pháp người Tây Ban Nha bấy giờ đang sống lưu vong ở Anh. Đối với gia đình và công chúng Anh, Victoria Eugenie được biết đến với cái tên cuối cùng là "Ena". Vì được sinh ra vào năm thứ 50 của triều đại của Nữ vương Victoria, Victoria Eugenie được gọi là "Đứa trẻ Jubilee". Victoria Eugenie được rửa tội tại Phòng vẽ của Lâu đài Balmoral. Cha mẹ đỡ đầu của Victoria Eugenie ngoài Hoàng hậu Eugenia của Pháp (đại diện bởi Vương nữ Friederike của Hannover), bác gái bên ngoại là Vương nữ Vương thất và Vương thái tử phi Đức (đại diện bởi Công tước phu nhân xứ Roxburghe), bà nội là Nữ Thân vương xứ Battenberg (đại diện bởi Hầu tước phu nhân xứ Ely), dì là Công tử phu nhân Christian của Schleswig-Holstein (đại diện bởi Bá tước phu nhân xứ Erroll), bác trai bên nội là Thân vương tử Louis xứ Battenberg (đại diện bởi Bá tước xứ Hopetoun) và bác trai bên ngoại là Công tước xứ Edinburgh (đại diện bởi Ngài Henry Ponsonby). Victoria Eugenie được nuôi dưỡng và giáo dục trong hộ gia của Nữ vương Victoria, vì Victoria chỉ miễn cưỡng cho phép con gái Beatrice kết hôn với điều kiện Beatrice vẫn ở bên Victoria và tiếp tục đảm nhiệm vai trò thư ký riêng của mẹ. Vì vậy, Victoria Eugenie đã trải qua thời thơ ấu của mình tại Lâu đài Windsor, Balmoral và Cung điện Osborne trên Đảo Wight. Ena cũng đóng vai trò là phù dâu trong đám cưới của anh họ là Quốc vương George V của Liên hiệp Anh, lúc bấy giờ là Công tước xứ York và Mary xứ Teck vào ngày 6 tháng 7 năm 1893. Khi được sáu tuổi, Victoria Eugenie bị chấn động não nặng ở Osborne khi bị té khỏi ngựa và đập đầu xuống đất. Các bác sĩ của Nữ vương Victoria đã nhận thấy "các triệu chứng nguy hiểm", chẳng hạn như " các dấu hiệu rõ ràng về áp lực nội sọ, có thể là xuất huyết." Bác gái của Ena là Victoria, Vương nữ Vương thất, đã viết rằng, "Thật quá đau buồn khi [Victoria Eugenie] không thể nhận thức hay mở mắt." Victoria Eugenie có mối quan hệ thân thiết với bà ngoại là Nữ vương Victoria. Ena từng tâm sự rằng: “Được sinh ra và lớn lên dưới sự bảo hộ của bà ngoại, Nữ vương Victoria như người mẹ thứ hai của chúng ta. Bà ấy rất tốt bụng nhưng cũng rất nghiêm khắc và có những tư tưởng lỗi thời về cách nuôi dạy trẻ em." Khi Victoria Eugenie nói với Nữ vương Victoria rằng: "Con nghĩ đã đến lúc chúng ta đi ngủ", Nữ vương Victoria đã trả lời rằng. "Cô gái trẻ, một Vương nữ nên nói rằng, 'Ta nghĩ đã đến lúc ta nghỉ ngơi'" Phần Nữ vương Victoria, bà đã viết rằng "Ta yêu những đứa trẻ đáng yêu này gần như không khác mấy so với tình yêu tụi trẻ nhận được từ chính cha mẹ của mình" và gọi Victoria Eugenie là "kho báu bé nhỏ". Sau cái chết của Nữ vương Victoria vào năm 1901, Gia tộc Battenberg, trừ cha của Ena vốn đã qua đời vì bị sốt trong thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự ở Châu Phi vào năm 1896, chuyển đến Luân Đôn và cư trú tại Cung điện Kensington. Năm 1905, Quốc vương Alfonso XIII của Tây Ban Nha có đã có chuyến thăm cấp nhà nước tới Anh. Bác của Victoria Eugenie, Quốc vương Edward VII của Liên hiệp Anh, đã tổ chức một bữa tối tại Cung điện Buckingham để chào mừng đức vua Tây Ban Nha. Alfonso ngồi giữa Vương hậu Alexandra và Vương nữ Helena, em gái của Edward VII. Alfonso đã để ý đến Victoria Eugenie và đã hỏi quý cô nương với mái tóc gần như trắng xóa là ai. Biết rằng QUốc vương Alfonso XIII đang tìm kiếm một nàng dâu phù hợp và một trong những ứng cử viên sáng giá nhất là Vương tôn nữ Patricia xứ Connaught, một người cháu gái khác của Quốc vương Edward VII. Vì Vương tôn nữ Patricia dường như không ấn tượng với quốc vương Tây Ban Nha, Alfonso đã để ý đến Victoria Eugenie, và bắt đầu tán tỉnh Ena. Sau khi trở lại Tây Ban Nha, Alfonso thường xuyên gửi bưu thiếp cho Victoria Eugenie. Mẹ của Alfonso XIII, Thái hậu Maria Christina Henriette không thích sự lựa chọn của con trai mình, một phần vì bà coi Gia đình Battenberg không phải là huyết mạch vương thất vì xuất thân của bà nội của Victoria Eugenie, một phần vì Maria muốn con trai mình kết hôn với người trong gia tộc của mình. Những trở ngại khác đối với hôn nhân là vấn đề tôn giáo (Alfonso là một tín hữu Công giáo La mã, còn Victoria Eugenie là người Anh giáo) và vấn đề về căn bệnh máu khó đông mà Nữ vương Victoria đã truyền cho một số hậu duệ của mình. Em trai của Vương tôn nữ Victoria Eugenie, Leopold, là một người mắc bệnh máu khó đông, vì vậy có 50% khả năng Ena sẽ là người mang gene bệnh, mặc dù mức độ rủi ro vẫn chưa được xác định. Tuy nhiên, nếu Alfonso kết hôn với Victoria Eugenie, hậu duệ của hai người sẽ có nguy cơ mắc phải căn bệnh này. Dù vậy, Alfonso không nản lòng. Sau một năm với những tin đồn về việc Alfonso sẽ kết hôn với Vương nữ nào, vào tháng 1 năm 1906 mẹ của Alfonso XIII cuối cùng cũng đồng ý với quyết định của con trai mình và đã viết một lá thư cho mẹ của Victoria Eugenie, Vương nữ Beatrice và kể cho Vương nữ Beatrice nghe về tình yêu mà Alfonso dành cho Ena và đã tìm cách liên hệ, một cách không chính thức với Edward VII. Vài ngày sau tại Lâu đài Windsor, Quốc vương Edward VII đã chúc mừng cháu gái của mình về lễ đính hôn trong tương lai. Vương nữ Beatrice và con gái đến Biarritz vào ngày 22 tháng 1 và ở tại Villa Mauriscot, nơi mà vài ngày sau, Quốc vương Alfonso XIII đã đến gặp hai mẹ con. Tại Villa Mauriscot, Alfonso và cô dâu tương lai của mình đã tiến hành một khoảng thời gian lãng mạn kéo dài ba ngày cùng với người hộ tống. Sau đó, Alfonso đưa hai mẹ con Victoria Eugenie đến San Sebastián để gặp Thái hậu Maria Christina. Vào ngày 3 tháng 2, Alfonso XIII rời San Sebastian để đến Madrid và Victoria Eugenie cùng mẹ đến Versailles, nơi Vương tôn nữ sẽ được giới thiệu về đức tin Công giáo: với tư cách là Vương hậu tương lai của Tây Ban Nha, Ena đồng ý cải đạo. Lễ chào đón Victoria Eugenie với tư cách là một tín hữu Công giáo diễn ra vào ngày 5 tháng 3 năm 1906 tại Cung điện Miramar ở San Sebastián. Các điều khoản của cuộc hôn nhân được giải quyết bằng hai thỏa thuận, một hiệp ước công khai và một thỏa thuận riêng tư. Hiệp ước được ký kết giữa Tây Ban Nha và Vương quốc Liên hiệp Anh tại Luân Đôn vào ngày 7 tháng 5 năm 1906 bởi các đại diện toàn quyền của hai bên gồm có Đại sứ Tây Ban Nha tại Triều đình Thánh James, Don Luis Polo de Bernabé, và Ngoại trưởng Anh, Ngài Edward Grey và được phê chuẩn vào ngày 23 tháng 5 sau đó. Bên cạnh các điều koản khác, hiệp ước quy định rằng:BE it known unto all men by these Presents that whereas His Catholic Majesty Alfonso XIII, King of Spain, has judged it proper to announce his intention of contracting a marriage with Her Royal Highness Princess Victoria Eugénie Julia Ena, niece of His Majesty Edward VII, King of the United Kingdom of Great Britain and Ireland and of the British Dominions beyond the Seas, Emperor of India, and daughter of Her Royal Highness the Princess Beatrice Mary Victoria Feodore (Princess Henry of Battenberg)…"Article I." It is concluded and agreed that the marriage between His said Majesty King Alfonso XIII and Her said Royal Highness the Princess Victoria Eugénie Julia Ena shall be solemnized in person at Madrid as soon as the same may conveniently be done. "II." His said Majesty King Alfonso XIII engages to secure to Her said Royal Highness the Princess Victoria Eugénie Julia Ena from the date of her marriage with His Majesty, and for the whole period of the marriage, an annual grant of 450,000 '. His said Majesty King Alfonso XIII also engages, if, by the will of Divine Providence, the said Princess Victoria Eugénie Julia Ena should become his widow, to secure to her, from the date of his death, an annual grant of 250,000 "pesetas", unless and until she contracts a second marriage, both these grants having already been voted by the '. The private settlements to be made on either side in regard to the said marriage will be agreed upon and expressed in a separate Contract, which shall, however, be deemed to form an integral part of the present Treaty…"III." The High Contracting Parties take note of the fact that Her Royal Highness the Princess Victoria Eugénie Julia Ena, according to the due tenor of the law of England, forfeits for ever all hereditary rights of succession to the Crown and Government of Great Britain… Việc hiệp ước đề cập đến việc tước quyền kế vị ngai vàng Anh của Vương tôn nữ Victoria Eugénie không thể hiện chính phủ Anh chỉ trích liên minh cũng như việc từ bỏ quyền kế vị của Vương tôn nữ. Thay vào đó, đó là sự tuyên bố rõ ràng rằng việc kết hôn (và trở thành) một tín hữu Công giáo La Mã, Victoria Eugénie đã mất mọi quyền thừa kế ngai vàng Anh dựa theo Đạo luật Dàn xếp. Sự loại trừ này chủ yếu dựa theo cá nhân: những hậu duệ không theo Công giáo của Victoria Eugenie vẫn được nằm trong danh sách kế vị ngai vàng Anh. Bất chấp hiệp ước, lo ngại về phản ứng đối với cuộc hôn nhân và việc Victoria Eugénie cải đạo đối với tín hữu Kháng Cách đã được giải quyết bởi quyết định của chính phủ Anh rằng Quốc vương Edward VII không cần phải chính thức đồng ý cho cuộc hôn nhân trong Hội đồng Cơ mật, dù thực tế rằng cháu gái của Edward là một công dân Anh. Đạo luật Hôn nhân Vương thất năm 1772 yêu cầu các hậu duệ của Quốc vương George II của Đại Anh phải được sự cho phép của quân chủ Anh để kết hôn, ngoại trừ hậu duệ của các vương nữ đã gả cho "ngoại tộc". Mặc dù việc nhập tịch của Heinrich xứ Battenberg, cha của Victoria Eugénie thành công dân Anh đã được khởi xướng tại Quốc hội một tuần trước khi Heinrich kết hôn với Vương nữ Beatrice, lễ cưới đã được hoàn thành trước khi Heinrich nhập tịch, do đó Chính phủ có thể nhận định rằng Victoria Eugénie không bị ràng buộc bởi Đạo luật Hôn nhân Vương thất, và do đó quốc vương Anh không có thẩm quyền để cho phép cũng như cấm đoán cuộc hôn nhân của Victoria Eugenie. Tuy nhiên, quốc vương Edward VII đã ban hành một Sắc lệnh Vương thất có nội dung như sau:"Our Will and Pleasure is and we do hereby declare and ordain that from and after the date of this Warrant our Most Dear Niece Princess Victoria Eugénie Julia Ena, only daughter of Our Most Dear Sister Beatrice Mary Victoria Feodore (Princess Henry of Battenberg) shall be styled entitled and called "Her Royal Highness" before her name and such Titles and Appellations which to her belong in all Deeds Records Instruments or Documents whatsoever wherein she may at any time hereafter be named or described. And We do hereby authorize and empower Our said Most Dear Niece henceforth at all times to assume and use and to be called and named by the Style, Title and Appellation of "Her Royal Highness" accordingly. Given at Our Court of Saint James's, the Third day of April 1906: in the Sixth Year of Our Reign. By His Majesty's Command. M Gladstone" Sắc lệnh này đã được công bố trên tờ "London Gazette" với nội dung như sau: "Whitehall ngày 3 tháng 4 năm 1906. Qưốc vương rất hân hạnh tuyên bố và yêu cầu rằng cháu gái của Bệ hạ, Vương tôn nữ Victoria Eugenie Julia Ena Điện hạ, con gái của Vương nữ Beatrice Mary Victoria Feodore (Thân vương tử phi Henry xứ Battenberg), từ nay về sau sẽ được gọi là "Her Royal Highness" (Vương thân Điện hạ)." Vương hậu Tây Ban Nha. Vương tôn nữ Victoria Eugenie của Battenberg kết hôn với Quốc vương Alfonso XIII tại Tu viện Vương thát San Jerónimo ở Madrid vào ngày 31 tháng 5 năm 1906. Hiện dại tại buổi lễ là mẹ của Vương tôn nữ là Vương nữ Beatrice và các anh em của Ena, cũng như họ hàng là Thân vương và Thân vương phi xứ Wales. Sau lễ cưới, khi đoàn rước đang quay trở lại Cung điện Vương thất, một vụ ám sát đã được thực hiện nhằm vào Quốc vương và Vương hậu khi Mateu Morral ném một quả bom từ ban công vào xe ngựa. Victoria Eugenie đã thoát nạn vì vào đúng thời điểm quả bom phát nổ, Vương hậu đã quay đầu lại để nhìn Nhà thờ Thánh María mà Alfonso đang chỉ cho Ena xem. Vương hậu không bị thương tổn nhưng váy cưới của Victoria Eugenie bị vấy máu của một lính canh đang đi bên cạnh cỗ xe. Một bức tượng lớn phía trước Tu viện Vương thất San Jeronimo được xây lên để tưởng niệm các nạn nhân của vụ đánh bom ngày 31 tháng 5 năm 1906. Sau khởi đầu không suôn sẻ trong nhiệm kỳ làm Vương hậu Tây Ban Nha, Victoria Eugenie trở nên cô lập với người dân Tây Ban Nha và không được yêu mến ở nơi đây. Cuộc sống hôn nhân của Vương hậu được cải thiện khi Victoria sinh ra một cậu con trai và là người thừa kế của vương quốc là Alfonso Pío. Tuy nhiên, trong khi lúc vị vương tử nhỏ được cắt bao quy đầu, các bác sĩ chú ý rằng Alfonso không ngừng chảy máu - dấu hiệu đầu tiên cho thấy người thừa kế bị mắc bệnh máu khó đông và Victoria Eugenie rõ ràng là người mang gene bệnh và đã di truyền cho người con trai cả và út. Trái ngược với phản ứng của Hoàng đế Nikolai II của Nga, người cũng có con trai cũng bị mắc bệnh máu khó đông, Alfonso được cho là không bao giờ tha thứ cho Victoria Eugenie cũng như không chấp nhận những chuyện này. Trong cuộc hôn nhân, Quốc vương Alfonso XIII và Vương hậu Victoria Eugenie có bảy người con, năm trai và hai gái và cả hai cô con gái đều không mang gene bệnh máu khó đông. Sau khi những đứa con của họ chào đời, mối quan hệ của Victoria Eugenie với Alfonso trở nên xấu đi và Alfonso có rất nhiều tình nhân. Có thông tin rằng Alfonso XIII ta có mối quan hệ chớp nhoáng với chị họ của Vương hậu là Beatrice xứ Sachsen-Coburg và Gotha, Công tước phu nhân xứ Galliera nhưng điều này vẫn còn gây tranh cãi. Sau đó các thành viên trong vòng tròn quan hệ của Alfonso XIII đã lan truyền tin đồn rằng Beatrice đã bị trục xuất vì những hành xử không đúng mực nhưng không đúng sự thật. Những chuyện này khiến Vương hậu rất đau lòng vì không thể làm gì để giúp đỡ cho chị họ của mình. Victoria Eugenie đã tận tâm làm việc cho các bệnh viện và công tác hỗ trợ dành cho người nghèo và giáo dục. Vương hậu cũng tham gia vào việc tái tổ chức Hội Chữ thập đỏ Tây Ban Nha. Năm 1929, thành phố Barcelona đã dựng một bức tượng của Victoria Eugenie trong bộ đồng phục y tá để vinh danh những công lao của Vương hậu với tổ chức Chữ thập đỏ (bức tượng sau này đã bị phá hủy). Nhiều địa danh khác nhau của Tây Ban Nha đã được đặt theo tên của Victoria Eugenie. Ví dụ, vào năm 1909, một cây cầu có phong cách tân cổ điển của Madrid vốn bắc qua sông Manzanares được đặt theo tên Ena là "Puente de la Reina Victoria". Năm 1912, một nhà hát sân khấu hoành tráng ở San Sebastián được đặt tên là "Teatro Victoria Eugenia". Năm 1920, Tàu tuần dương Hải quân Tây Ban Nha mà Vương hậu khánh thành được đặt tên là Reina Victoria Eugenia. Vương hậu Victoria là Nữ Tước sĩ thứ 976 của Huân chương Vương thất Vương hậu María Luisa. Năm 1923, Giáo hoàng Piô XI đã trao cho Vương hậu Bông hồng vàng, đây là lần đầu tiên một Vương nữ Anh nhận được vinh dự này kể từ năm 1555 khi Giáo hoàng Giuliô III trao cho vương Mary I của Anh. Victoria Eugenie cũng được bà ngoại, Nữ vương Victoria, trao tặng Huân chương Vương thất Victoria và Albert. Vương hậu cũng được trao tặng Huân chương Chữ thập đỏ Tây Ban Nha Hạng nhất và ngôi sao cài ngực được nạm ngọc và được chi trả bởi Quân đoàn Nữ y tá của Hội Chữ thập đỏ Tây Ban Nha. Vương thất Tây Ban Nha lâm vào cảnh sống lưu vong vào ngày 14 tháng 4 năm 1931 sau cuộc bầu cử thành phố đưa Đảng Cộng hòa lên nắm quyền ở hầu hết các thành phố lớn, dẫn đến việc tuyên bố nền Cộng hòa Tây Ban Nha thứ hai. Alfonso XIII đã hy vọng rằng việc tự nguyện sống lưu vong của mình có thể ngăn chặn một cuộc nội chiến giữa Đảng Cộng hòa và Đảng Quân chủ. Cả gia đình ban đầu đến sống ở Pháp, sau đó dời sang Ý. Trong khoảng thời gian này, Victoria Eugenie và Alfonso quyết định ly thân và Vương hậu thường định cư qua lại ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Thụy Sĩ. Ena cũng đã mua lâu đài Vieille Fontaine ở bên ngoài Lausanne. Năm 1938, cả gia đình đến Roma để tham dự làm lễ rửa tội của Vương tôn Juan Carlos, con trai đầu lòng của Vương tử Juan (con trai út của Victoria Eugenie và Alfonso XIII) tại Cung điện Malta, chủ trì bởi Hồng y Quốc vụ Khanh Eugenio Pacelli (người đại diện cho Giáo hoàng Piô XI đang đau ốm và chính ông sẽ trở thành Giáo hoàng Piô XII trong vài tháng sau đó). Vào ngày 15 tháng 1 năm 1941, Alfonso XIII, cảm thấy cái chết của mình đã cận kề, đã chuyển giao quyền thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha cho con trai út là Juan, Bá tước xứ Barcelona. Ngày 12 tháng 2 năm 1941, Alfonso trải qua cơn đau tim đầu tiên và qua đời vào ngày 28 tháng 2 cùng năm. Theo Harold Tittmann, đại diện của Hoa Kỳ tại Vatican vào thời điểm đó, Victoria Eugenie buộc phải rời khỏi Ý vào năm 1942, vì đã trở thành "nhân vật không được hoan nghênh" đối với chính phủ Ý, vì "sự ẩn mình tệ hại có khuynh hướng về phe Đồng minh" của Ena. Victoria Eugenie trở lại Tây Ban Nha một thời gian ngắn vào tháng 2 năm 1968, để làm mẹ đỡ đầu cho cháu chắt là Vương tằng tôn Felipe, con trai của Vương tôn Juan Carlos và Vương nữ Sophia của Hy Lạp và Đan Mạch. Felipe sau này trở thành Quốc vương Tây Ban Nha vào tháng 6 năm 2014, sau khi cha ông, Juan Carlos I thoái vị. Victoria Eugenie qua đời tại Lausanne vào ngày 15 tháng 4 năm 1969, hưởng thọ 81 tuổi, đúng 38 năm kể từ khi Ena rời khỏi Tây Ban Nha mà sống lưu vong. Victoria là người con qua đời cuối cùng của Vương nữ Beatrice của Liên hiệp Anh và Thân vương tử Heinrich xứ Battenberg. Tang lễ được tổ chức tại nhà thờ "Sacré Coeur" và Victoria Eugenie được chôn cất ban đầu tại nghĩa trang Bois-de-Vaux gần đó ở Lausanne. Vào ngày 25 tháng 4 năm 1985, hài cốt của Victoria được đưa về Tây Ban Nha và được an táng lại trong Hầm mộ Vương thất ở Escorial, ngoại ô Madrid, bên cạnh hài cốt của chồng là Alfonso XIII, và gần đó là các con trai của hai vợ chồng là Alfonso, Jaime và Gonzalo. Sau cái chết của nhà độc tài Tây Ban Nha Francisco Franco vào năm 1975, chế độ quân chủ được khôi phục và cháu nội của Victoria Eugenie là Juan Carlos I trở thành Quốc vương Tây Ban Nha và chắt của Victoria Eugenie, Felipe VI là đương kim quốc vương. Những người con đỡ đầu của Victoria bao gồm Thân vương xứ Monaco, Vương hậu Fabiola của Bỉ và Cayetana Fitz-James Stuart, Nữ Công tước thứ 18 xứ Alba. Vương miện tiara kim cương và ngọc trai Cartier của Victoria Eugenie được để lại cho con gái Ena là Vương nữ Maria Cristina, Bá tước phu nhân của Marone và hiện được sử dụng bởi Vương hậu Tây Ban Nha. Ngoài ra, chiếc tiara Ansorena fleur-de-lis do Alfonso XIII tặng trong đám cưới của Ena đã trở thành chiếc tiara quan trọng nhất trong bộ sưu tập của Vương thất Tây Ban Nha và được Vương hậu Tây Ban Nha sử dụng trong những sự kiện quan trọng của quốc gia. Một chiếc nhẫn sapphire thuộc sở hữu của Victoria Eugenie đã được bán đấu giá tại Sotheby's vào tháng 5 năm 2012 với 50.000 USD. Cùng năm đó, Sotheby's cũng bán đấu giá chiếc vòng tay vỏ ốc xà cừ màu hồng và kim cương của Victoria Eugenie với mức giá 3,4 triệu USD. Tước hiệu, Huân chương và Vương huy. Vương gia huy của Victoria Eugenie với tư cách là Vương hậu Tây Ban Nha từ năm 1906 – 1931/"1941" ("trên danh nghĩa") là sự kết hợp giữa phiên bản tinh giản ("Lesser") của Vương huy Vương thất Tây Ban Nha được sử dụng bởi Vương tộc Borbón với phiên bản Anh ("English") của Vương huy Vương quốc Liên hiệp Anh. Trong đó biểu tượng huy hiệu của Heinrich xứ Battenberg, cha của Victoria Eugenie, được đặt ở giữa phần Vương huy Anh và được bao quanh bởi đường viền gồm có 8 biểu tượng hình sư tử của Anh.
Tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm Submarine-launched cruise missile (SLCM) hay tên lửa hành trình phóng từ tầu ngầm như tên gọi của nó, là loại tên lửa hành trình được phóng đi từ nền tảng phóng là tàu ngầm mang tên lửa hành trình. Hiện nay có hai loại tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm là tên lửa hành trình tấn công mặt đất land-attack cruise missiles (LACMs), với nhiệm vụ tấn công mục tiêu trên đất liền. Ngoài ra còn có tên lửa hành trình chống tàu Anti-ship cruise missiles (ASCMs). Đôi khi tàu ngầm được trang bị cả hai loại trên. Lịch sử ra đời. Hải quân Mỹ là người đầu tiên đã triển khai tên lửa hành trình Regulus lên các tàu ngầm của mình từ năm 1958 đến năm 1964 khi chuyển sang sử dụng tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo (SSBN) Polaris trên vùng biển Thái Bình Dương. Từ năm 1981, Hải quân Mỹ tiếp tục trang bị cho các tàu ngầm tấn công của mình loại tên lửa chống tàu Harpoon. Trong khi đó Hải quân Liên Xô đã tiến hành chuyển đổi 13 tàu ngầm lớp Whiskey (Project 613) sang vai trò tàu ngầm tấn công trang bị tên lửa hành trình đối đất SS-N-3 Shaddock (П-5) cuối những năm 1950s (Whiskey Single Cylinder, Whiskey Twin Cylinder, Whiskey Long Bin). Đến khi Liên Xô bắt đầu trang bị tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo SLBM vào cuối những năm 1960s, tên lửa Shaddock đã được rút ra khỏi trang bị và phiên bản tên lửa chống tàu được sử dụng để thay thế nó. Các tàu ngầm lớp Echo và Tàu ngầm Đề án 651 của Hải quân Liên Xô vào những năm 1960s có vũ khí trang bị gần tương đương nhau, với việc tàu ngầm lớp Echo I được chuyển đổi sang tàu ngầm tấn công vì chúng không có radar dẫn hướng cho tên lửa chống tàu. Tên lửa SS-N-3 ASCM được thay thế bằng tên lửa SS-N-12 (P-500). Sau này, tàu ngầm lớp Charlie và lớp Oscar được thiết kế để trang bị tên lửa chống tàu SS-N-9 (P-120) và P-700 Granit có tầm bắn lớn hơn nhiều. Hiện tại chỉ còn tàu ngầm lớp Oscar còn được sử dụng trong Hải quân Nga. Năm 1990, có báo cáo rằng Hải quân Liên Xô đang triển khai từ 50 đến 300 tên lửa SLCM. Các mẫu tàu ngầm lớp Akula và Severodvinsk hiện đại hơn của Nga được trang bị tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm SS-N-21 (S-10). Bốn tàu ngầm SSBN lớp Ohio của Hải quân Mỹ giữa những năm 2000s đã được chuyển đổi sang tàu ngầm mang tên lửa hành trình, với mỗi chiếc có khả năng phóng lên tới 144 tên lửa hành trình Tomahawk từ các giếng phóng SLBM đã được sửa đổi, ngược lại với tàu ngầm tấn công thường phóng tên lửa hành trình qua ống phóng ngư lôi. Tàu ngầm phóng tên lửa hành trình có lợi thế hơn tàu chiến mặt nước mang tên lửa hành trình ở chỗ hoạt động bí mật và bất ngờ phóng tên lửa ngay cả khi chúng còn đang lặn. Tomahawk được triển khai trên tàu ngầm bắt đầu từ năm 1983, nguyên bản có cả phiên bản LACM và ASCM nhưng phiên bản ASCM đã được rút khỏi trang bị từ năm 1990. Trong khi đó tên lửa hành trình cận âm S-10 Granat được phát triển bời NPO Novator từ thời Liên Xô vẫn được cho là đang còn trong biên chế của Hải quân Nga dù không được triển khai. Tháng Mười năm 2015, Nga đã tiến hành phóng tên lửa hành trình tầm xa Kalibr (Klub) từ tàu chiến cỡ nhỏ trên biển Caspi vào mục tiêu tại Syria; đến tháng Mười hai, một vài tên lửa hành trình 3M14K trong hệ thống Kalibr-PL đã được phóng đi từ tàu ngầm Kilo cải tiến B-237 "Rostov-on-Don" từ biển Địa Trung Hải. Việc Nga triển khai tên lửa hành trình Kalibr, tầm bắn xa, bay ở quỹ đạo thấp, có khả năng mang đầu đạn thông thường hoặc hạt nhân, có khả năng tấn công mặt đất, chống tàu và chống ngầm, được cho là đã thay đổi cán cân quân sự tại châu Âu và thách thức hệ thống phòng thủ tên lửa NATO đang được hình thành tại châu Âu. Danh sách các loại tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. United States of America Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Sergio Fabian Ezequiel Agüero (sinh ngày 7 tháng 4 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Sri Pahang tại Giải vô địch bóng đá Malaysia. Sinh ra tại Chamical, Argentina, anh ta đại diện cho Malaysia trên đấu trường quốc tế. Anh ta còn được biết đến với biệt danh "Sergio Agüero Malaysia". Sự nghiệp thi đấu quốc tế. Anh ta được gọi lên đội tuyển Malaysia sau khi nhập quốc tịch nước này vào năm 2022. "Tỷ số và kết quả liệt kê bàn ​​thắng đầu tiên của Malaysia, cột điểm cho biết điểm số sau mỗi bàn thắng của Agüero."
Tỉnh Danube (: ; , Dunavska(ta) oblast, thông dụng hơn Дунавски вилает, Danube Vilayet) là đơn vị hành chính cấp một (vilayet) của Đế quốc Ottoman từ năm 1864 đến năm 1878. Vào cuối thế kỷ 19, theo báo cáo thì tỉnh có diện tích . Tỉnh được tạo ra từ các phần phía bắc của tỉnh Silistra dọc theo sông Danube và các eyalet Niš, Vidin và Silistra. Tỉnh này có ý định trở thành một tỉnh kiểu mẫu, thể hiện tất cả những tiến bộ mà Porte (chính phủ đế quốc) đạt được thông qua các cải cách hiện đại hóa Tanzimat. Đến cuối cùng, các tỉnh (vilayet) khác mô phỏng theo tỉnh Danube được thành lập trên khắp đế quốc vào năm 1876, ngoại trừ tại bán đảo Ả Rập và tại Ai Cập bán độc lập. Rusçuk, nay là Ruse tại Bulgaria, được chọn làm thủ phủ của tỉnh do có vị trí là một cảng chủ chốt của Ottoman trên sông Danube. Tỉnh này biến mất sau Chiến tranh Nga-Ottoman 1877–78, khi phần đông bắc của tỉnh (Bắc Dobruja) được sáp nhập vào Romania, một số lãnh thổ phía tây của tỉnh sáp vào Serbia, trong khi các khu vực miền trung và miền nam tạo thành hầu hết Thân vương quốc Bulgaria tự trị và một phần của Đông Rumelia. Khi được thành lập vào năm 1864, tỉnh Danube bao gồm các sanjak (huyện) sau: Năm 1868, sanjak Niš được tách ra và trở thành một phần của tỉnh Prizren. Năm 1876, sanjak Niš và sanjak Sofia được tách ra thành tỉnh Sofia tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng sau đó được sáp nhập vào các tỉnh Adrianople và Kosovo chỉ một năm sau đó, vào năm 1877. Midhat Pasha là thống đốc đầu tiên của tỉnh (1864–1868). Trong thời gian ông làm thống đốc, các tuyến tàu thủy chạy bằng hơi nước được thiết lập trên sông Danube; tuyến đường sắt Ruse-Varna đã hoàn thành; các hợp tác xã tín dụng nông nghiệp cung cấp cho nông dân các khoản vay lãi suất thấp được ra đời; ưu đãi thuế cũng được đưa ra để khuyến khích các doanh nghiệp công nghiệp mới. Tờ báo tỉnh chính thức đầu tiên ở Đế quốc Ottoman, "Tuna/Dunavq", được xuất bản bằng cả tiếng Thổ Ottoman và tiếng Bulgaria và có cả biên tập viên người Ottoman và người Bulgaria. Các biên tập viên của nó bao gồm Ismail Kemal và Ahmed Midhat Efendi. Tỉnh có một hội đồng hành chính bao gồm các quan chức nhà nước do chính phủ Ottoman bổ nhiệm cũng như sáu đại biểu (ba người Hồi giáo và ba người không theo Hồi giáo) được bầu chọn từ cư dân của tỉnh. Những người không theo Hồi giáo cũng tham gia vào các tòa án hình sự và thương mại cấp tỉnh dựa trên bộ luật và tư pháp thế tục. Các trường học hỗn hợp Hồi giáo-Cơ Đốc giáo cũng xuất hiện, nhưng cải cách này đã bị bãi bỏ sau khi vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của dân chúng. Các thống đốc của tỉnh: Năm 1865, tỉnh có 658.600 (40,51%) là người Hồi giáo và 967.058 (59,49%) là người không theo Hồi giáo, số liệu bao gồm nữ giới, (không gồm sanjak Niş). Khoảng 569.868 (34,68%) là người Hồi giáo, không tính người nhập cư, và 1.073.496 (65,32%) là người không theo Hồi giáo vào năm 1859-1860. Khoảng 250.000-300.000 người nhập cư Hồi giáo từ Krym và Kavkaz đến khu vực từ 1855 đến 1864. Dân số nam giới của tỉnh Danube (không gồm sanjak Niš) năm 1865 theo Kuyûd-ı Atîk (nhà in tỉnh Danube): Các nhóm dân tộc tỉnh Danube theo đăng ký dân số 1865 Dân số nam giới Hồi giáo và phi Hồi giáo trong tỉnh Danube theo Ottoman Salname năm 1868: Dân số nam của tỉnh Danube (không bao gồm sanjak Niš) vào năm 1866-1873 theo biên tập viên của tờ báo Danube Ismail Kemal: Dân số nam giới Danube (ngoại trừ sanjak Niš) năm 1868 theo Kemal Karpat: Theo điều tra dân số năm 1874, có 963.596 (42,22%) người Hồi giáo và 1.318.506 (57,78%) người không theo Hồi giáo ở tỉnh Danube ngoại trừ sanjak Nış. Cùng với sanjak của Nish, dân số bao gồm 1.055.650 (40,68%) người Hồi giáo và 1.539.278 (59,32%) người không theo Hồi giáo vào năm 1874. Người Hồi giáo chiếm đa số trong các sanjak Rusçuk, Varna và Tulça, trong khi những người không theo Hồi giáo chiếm đa số trong các sanjak còn lại. Các nhóm dân tộc trong tỉnh Danube 1873-74 Tổng dân số của tỉnh Danube theo nhóm dân tộc theo nhà Đông phương học người Pháp Ubicini trên cơ sở Điều tra dân số chính thức của Ottoman về tỉnh Danube năm 1873-1874 (không bao gồm sanjak Niš), khi đó là một phần của tỉnh Prizren): Dân số nam của tỉnh Danube (không bao gồm sanjak Niš) vào năm 1875 theo Tahrir-i Cedid (nhà in tỉnh Danube): Nhóm dân tộc tỉnh Danube năm 1875 Tổng dân số tỉnh Danube theo nhà ngoại giao Nga Vladimir Cherkassky từ sổ đăng ký dân số Ottoman: Dân số nam của tỉnh Danube năm 1876 theo sĩ quan Ottoman Stanislas Saint Clair: Tổng dân số của tỉnh Danube (bao gồm các sanjak Niş và Sofia) theo ấn bản năm 1876 của Encyclopaedia Britannica: Tổng dân số của tỉnh Danube (không bao gồm sanjak Niş) vào năm 1876 do luật sư người Pháp Aubaret ước tính từ sổ đăng ký:
Apple Vision Pro là một loại kính thực tế ảo do công ty Apple phát triển, được công bố vào ngày 5 tháng 6 năm 2023 tại Hội nghị WWDC. Vision Pro dự kiến sẽ có sẵn để mua vào đầu năm 2024. Đây là loại mẫu kính thực tế ảo đầu tiên trong dòng sản phẩm của Apple và cũng là dòng sản phẩm tiêu dùng thứ năm của công ty kể từ dòng sản phẩm HomePod vào năm 2017. Apple đã mô tả chiếc kính như là một chiếc kính có công nghệ "điện toán không gian" chứa các phương tiện kỹ thuật số được tích hợp vào trong thế giới thực và các vật lý đầu vào. Những thao tác cử chỉ có thể được sử dụng để tương tác với hệ thống bên trong. Vision Pro là một thiết bị độc lập được chạy bởi hệ điều hành tên là "visionOS", một phiên bản iOS mới được thiết kế cho chương trình thực tế mở rộng và được điều khiển qua cử chỉ chuyển động như theo dõi qua mắt và nhận dạng bằng giọng nói. Vào tháng 5 năm 2015, sau khi công ty Metaio, một công ty thực tế ảo của Đức bị mua lại. Apple dự định sẽ sử dụng kỹ thuật từ công ty này vào dự án ô tô điện của mình với biệt danh là "Dự án Titan" (Project Titan). Trong cùng năm đó, Apple cũng đã thuê Mike Rockwell từ công ty Dolby Laboratories. Rockwell sau đó đã thành lập nên một đội nhóm bao gồm có người đồng sáng lập là Metaio Peter Meier và người quản lý Apple Watch là Fletcher Rothkopf. Ông đặt tên cho đội nhóm của mình là Đội Công nghệ Phát triển. Vào năm 2016, nhóm đã phát triển thành công một phiên bản thử nghiệm thực tế ảo nhưng sau đó đã vấp phải sự phản đối của giám đốc thiết kế là ông Jonathan Ive. vào Vào tháng 4 năm 2017, Apple cũng đã thuê chuyên gia tương tác thực tế ảo và cựu chuyên gia của NASA là ông Jeff Norris. Đội của Rockwell sau đó đã được trợ giúp cung cấp ARKit trong iOS 11. Theo một công bố của trang "The Information", đội của Rockwell đang cố gắng tìm cách để tạo ra một chiếc kính thực tế ảo và họ đã bắt tay làm việc với đội của Ive; Theo ý tưởng, chiếc kính sẽ để lộ đôi mắt của người đeo thông qua màn hình hiển thị ở phía trước và ý tưởng sau đó đã được nhóm thiết kế chấp nhận. Chiếc kính sau đó đã được phát triển nhưng sau đó, dự án đã bị đình trệ khi Ive rời công ty vào năm 2019. Người kế nhiệm là ông Evans Hankey sau đó cũng đã rời công ty vào năm 2023. Giám đốc kỹ thuật cấp cao, ông Geoff Stahl đã báo cáo cho Rockwell, ông đảm nhận vai trò lãnh đạo trong quá trình phát triển hệ điều hành visionOS. Những tin đồn về việc Apple sẽ sản xuất một thiết bị thực tế ảo tên là Reality Pro đã xuất hiện từ khoảng đầu năm 2022. Đến tháng 5 năm 2022, tờ Bloomberg News đưa tin, các giám đốc điều hành của Apple cùng với tổng giám đốc Tim Cook đã hoàn tất kiểm tra thiết bị. Sau đó, nhiều cuộc tuyển mộ cho đạo diễn đã được triển khai vào tháng 6 để phát triển một số nội dung trong thiết bị. Vào tháng 1 năm 2023, các kế hoạch cho thiết bị đã bị hoãn lại đột ngột. Gurman, một phóng viên từ Bloomberg đã chia sẻ một vài thông tin về chiếc kính vào tháng 4 và còn cho biết việc Apple đang cố gắng tạo sự thu hút cho nhà phát triển để phát triển thêm mảng phần mềm. Theo Apple, họ đã phải nộp hơn 5.000 tấm bằng sáng chế công nghệ để phát triển Vision Pro. Cho đên ngày 5 tháng 6 năm 2023, Apple Vision Pro đã chính thức được công bố tại Hội nghị WWDC 2023. Theo thông tin được công bố, Vision Pro dự kiến sẽ chính thức có mặt vào đầu năm 2024 tại Hoa Kỳ với giá đô la Mỹ (tương đương với hơn 82 triệu đồng). Ước tính ban đầu sẽ có khoảng hơn 1,000,000 chiếc được sản xuất. Vào ngày 6 tháng 6, Apple đã mua lại công ty Mira, một công ty có kỹ thuật sử dụng công nghệ AR trong trò chơi "Mario Kart" của Super Nintendo World. Hơn nữa, công ty còn có hợp đồng với Không quân và Hải quân Hoa Kỳ. 11 nhân viên đầu tiên của công ty đã được giới thiệu. Apple Vision Pro có mặt trước được bao phủ bằng nhiều lớp kính dán hiển thị, khung nhôm nằm ở giữa được làm bằng vật liệu không gian và sau cùng là một phần dây đai có thể điều chỉnh được và tấm đệm linh hoạt được làm bằng vải dệt ba chiều, cả ba thành phần đều được thiết kế theo dạng mô-đun. Khung kính có chứa 5 cảm biến, 6 chiếc micro và 12 camera. Hai màn hình micro-OLED với độ phân giải UHD 4K tổng cộng 23 triệu pixel nằm ở mỗi bên mắt, mỗi ống kính đều sẽ được nhìn thấy bởi người sử dụng. Đôi mắt thì được theo dõi bởi hệ thống đèn LED và camera hồng ngoại, tạo cơ sở cho hệ thống nhận diện mống mắt có tên là Optic ID. Tùy chỉnh thị giác cũng được hỗ trợ cho những người dùng bị cận thị; những ống kính này sẽ gắn thêm mỗi nam châm vào thấu kính chính và được phát triển bởi Carl Zeiss AG, một công ty cũng hợp tác với Apple. Loa của chiếc kính được đặt ở bên trong dây đai và hướng phía trên tai của người sử dụng, có thể tạo ra âm thanh vòm và kết nối được với các thiết bị khác. Sơ hữu chiếc camera ba chiều đầu tiên. Vision Pro được hỗ trợ bởi con chip Apple R1 mới được sản xuất dành riêng cho thiết bị và đi kèm với bộ xử lý Apple M2. Được sử dụng để xử lý các cảm biến đầu vào và được làm mát bằng hệ thống quạt nhẹ. Hệ thống pin được gói vào một cục sạc kết nối được với chiếc kính qua cáp và cho phép thiết bị chạy trong 2 giờ. Ngoài ra, chiếc kính cũng có thể được kết nối thông qua nguồn điện bên ngoài với tốc độ chỉ 12 ms. Núm xoay trên chiếc kính được sử dụng để có thể tùy chỉnh lượng nền ảo đang bao phủ tầm nhìn của người dùng. Từ chế độ xem hỗn hợp, nơi các phương tiện đa chiều trong thế giới thực và chế độ xem thực tế ảo, nơi người dùng có thể ẩn toàn bộ không gian thực. Vision Pro còn có công nghệ màn hình hướng ngoài được gọi là EyeSight và Persona. Dùng để thể hiện đôi mắt của người dùng được hiển thị qua mức độ thực tế của người dùng, mắt của họ bị mờ đi khi đang ở chế độ thực tế và chỉ bị che khuất lại khi đang ở chế độ thực tế ảo hoàn toàn, chức năng này có thể cho người khác hiểu rõ hơn về nhận thức và môi trường của người dùng. Khi người khác tiếp cận, EyeSight sẽ trong suốt màn hình và có thể hiển thị mắt của người dùng như bình thường, ngay cả khi ở trong thực tế ảo và người dùng đó có thể nhìn thấy người khác. Apple Vision Pro được chạy bởi hệ điều hành visionOS, phần lớn được lấy từ iOS và các khung phần mềm XR cụ thể để thể hiện và tương tác với thời gian thực. Hệ điều hành cũng có thể tương tác ba chiều với người dùng thông qua ngón tay, đôi mắt và nhận dạng giọng nói, ví dụ như người dùng có thể tương tác với những cửa sổ bằng tay không. Ngoài ra, các ứng dụng có thể được hiển thị trên cửa sổ và visionOS cũng hỗ trợ các thiết bị Bluetooth ngoại vi, bao gồm Bàn phím ma thuật, Trackpad và Gamepad. Trợ lý ảo Siri cũng được tích hợp vào trong thiết bị. Apple đã từng tuyên bố rằng "hàng trăm nghìn ứng dụng iPhone và iPad quen thuộc" sẽ được tương thích với nền tảng này. Các ứng dụng từ bộ Microsoft 365, bao gồm Microsoft Word, Microsoft Excel và Microsoft Teams, cũng như là Adobe Lightroom, Cisco Webex và Zoom và Disney+ cũng đã công bố kế hoạch phát triển ứng dụng của họ cho visionOS. Hơn 100 trò chơi Apple Arcade cũng sẽ tương thích với visionOS khi ra mắt. Công ty hiện đang hợp tác với Unity Technologies để có thể hỗ trợ nhiều chức năng tương thích với các ứng dụng dựa trên công cụ Unity trên visionOS.
Simone Icardi (sinh ngày 13 tháng 9 năm 1996) là cầu thủ bóng đá người Ý. Anh ta hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Feralpisalò tại Serie C bảng A, cho mượn từ Cittadella. Sự nghiệp thi đấu. Anh ta ra mắt cho Lupa Castelli Romani vào ngày 6 tháng 9 năm 2015 trong một trận đấu thuộc khuôn khổ Serie C gặp Ischia. Ngày 17 tháng 1 năm 2020, anh ta gia nhập câu lạc bộ Siena theo dạng cho mượn. Vào ngày 19 tháng 9 năm 2020, anh ta ký bản hợp đồng kéo dài 2 năm với Casertana. Ngày 10 tháng 8 năm 2021, anh ta chuyển tới câu lạc bộ Cittadella ở Serie B. Tuy nhiên, vào ngày 1 tháng 9 năm 2022, Icardi bị đem cho mượn tại câu lạc bộ Feralpisalò.
Neptunyl(IV) perchlorat là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học NpO2(ClO4)2. Hợp chất này được biết đến dưới dạng tinh thể ngậm nước màu nâu, trong nước tạo thành dung dịch màu nâu hoặc hồng. Dạng dung dịch của neptunyl(VI) perchlorat có thể được tạo ra bằng cách hòa tan neptunyl(VI) hydroxide trong acid perchloric hoặc điện phân dung dịch neptunyl(V) perchlorat. Cả hai cách này cho kết quả là dung dịch màu hồng. Dạng tinh thể NpO2(ClO4)2·"n"H2O (với "n" là 3 hoặc 5) được điều chế bằng cách cho neptunyl(VI) nitrat phản ứng với acid perchloric. Tùy theo dạng ngậm nước, cách tách lấy tinh thể từ dung dịch sẽ khác nhau. NpO2(ClO4)2·"n"H2O (với "n" là 3 hoặc 5) kết tinh dưới dạng tinh thể đơn nghiêng màu nâu, dễ tan trong nước. Các hằng số mạng tinh thể được cho trong bảng dưới đây. Đơn vị cho a, b, c: Å, đơn vị cho α, β, γ: °.
Chu lâm dã sử Chu lâm dã sử () là tiểu thuyết khiêu dâm của văn nhân lấy bút danh Si Đạo nhân xuất bản từ năm 1610 đến 1620. Lấy bối cảnh vào thế kỷ thứ 7 TCN, truyện kể về người phụ nữ trẻ và những cuộc phiêu lưu tình dục của mình. "Chu lâm dã sử" lấy bối cảnh vào khoảng năm 600 TCN trong thời kỳ Xuân Thu, một cô gái trẻ chưa chồng tên gọi Tố Nga () mơ được đạo sĩ Hoa Nguyệt () chỉ dạy thuật phòng the. Trước tiên, Tố Nga tận dụng khả năng tình dục mới luyện của mình hòng đạt được thuật trường sinh bất lão, cô ta bèn quyến rũ nhiều người đàn ông cho đến khi bị một tay đạo sĩ đối thủ ngăn chặn, rồi sau hai người yêu nhau và cùng đồng hành trong chuyến hành trình tìm kiếm đạo trường sinh. Lịch sử xuất bản. "Chu lâm dã sử" bao gồm mười sáu hồi và hai mươi mốt bài thơ, do một văn nhân ẩn danh sử dụng bút danh Si Đạo nhân () viết vào cuối thời Minh, được dịch sang tiếng Anh thành "Infatuated Moralist" hoặc "Man of the Crazy Way". Tác phẩm ấn hành ở Tô Châu và có khả năng được khắc in lần đầu vào khoảng năm 1610–1620, mặc dù về sau bị triều đình nhà Thanh ban lệnh cấm. Tiêu đề của cuốn tiểu thuyết này bắt nguồn từ khúc ca "Chu Lâm" () được thu thập trong "Kinh Thi"; theo nhà phê bình Khổng Dĩnh Đạt () trong "Mao thi chính nghĩa" (), khúc ca này nhằm chủ ý quở trách Trần Linh Công () vì quan hệ tình ái bất chính của ông với nàng mỹ nữ quý tộc Hạ Cơ (), mang "vẻ đẹp khuynh quố" và "theo truyền thống được coi là một trong những phụ nữ độc ác nhất thời cổ đại Trung Quốc." Nhân vật chính trong truyện dựa trên nguyên mẫu Hạ Cơ, dù cho cô nàng mang tên Tố Nga, rõ ràng là ám chỉ đến cuốn tiểu thuyết khiêu dâm có tranh minh họa "cực hiếm" "Tố Nga thiên" (); xuất bản khoảng năm 1610. Nhiều câu chuyện liên quan đến "người phụ nữ đầu tiên trẻ mãi không già rồi sau thăng linh nhờ tập luyện bí thuật phòng the với nhiều đối tác" có trước "Chu lâm dã sử". Ví dụ, trong "Liệt tiên truyện" (), nữ nhân vật chính tên gọi Nữ Hoàn () được vị thầy bí ẩn am hiểu thuật phòng the chỉ dạy. Tương tự như vậy, trong điển tịch thời Hán "Ngọc phòng bí quyết" (), nữ đạo sĩ Tây Vương Mẫu () theo như mô tả có dính líu đến "ham muốn tình dục theo kiểu sáng e thẹn tối mãnh liệt". Xuyên suốt cuốn tiểu thuyết, tác giả chuyển thể những cảnh khiêu dâm từ một số nguồn tài liệu khác. Ví dụ, một cảnh tả nhân vật chính ở nước Sở, bị bỏ lại trong tình trạng đáng thương cùng đứa con riêng, là "một đoạn sao chép thẳng thừng" từ "Vu sơn diễm sử" (). "Chu lâm dã sử" cũng phơi bày màn tranh luận "cực kỳ bối rối" về đồ chơi tình dục; chẳng hạn một cái dương vật giả biến thành quả chuông Miến Điện mà không có bất kỳ lời giải thích nào, mà Olivia Milburn cho rằng có thể là do "tự ý thêm thắt câu chữ bị cắt xén từ một nguồn tài liệu không xác định nào đó". Ý nghĩa văn học. "Chu lâm dã sử" gây tiếng vang vì "những mô tả phong phú về đời sống tình dục", cả dị tính và đồng tính luyến ái. Olivia Milburn viết rằng các nhân vật nữ chính của cuốn tiểu thuyết này "tương phản rõ rệt với những nhân vật được mô tả trong mấy cuốn tiểu thuyết khiêu dâm khác cùng thời Minh". Bà còn ca ngợi tác giả của "Chu lâm dã sử" vì "sự uyên bác thận trọng" và "bối cảnh và đặc điểm lịch sử" tỉ mỉ trong truyện".
Tú tháp dã sử Tú tháp dã sử (, tạm dịch "Chuyện chiếc giường thêu"), dịch sang tiếng Anh thành The Embroidered Couch, là tiểu thuyết khiêu dâm do nhà viết kịch Lã Thiên Thành () sáng tác vào cuối thời Minh dưới nhiều bút danh khác nhau. Đây là một trong những cuốn tiểu thuyết khiêu dâm lâu đời nhất của Trung Quốc, "Tú tháp dã sử" được xuất bản lần đầu cùng thời với "Kim Bình Mai". Tác phẩm này liên tục bị cấm đoán hoặc bị kiểm duyệt kể từ đó, đặc biệt là dưới thời Thanh. Giới phê bình văn học đã chú ý đến sự tục tĩu và những mô tả sống động về tình dục trong truyện. Bản dịch tiếng Anh hoàn chỉnh của Hồ Linh Nghi được xuất bản năm 2001. Nhân vật nam chính của "Tú tháp dã sử" bắt đầu vào năm 1594, là vị tú tài ba mươi tuổi Diêu Đồng Tâm (), còn gọi là Đông Môn sinh (), có lẽ là ám chỉ đến quê quán (một phần của Dương Châu được gọi là "Đông Môn "). Từng có lối sống trụy lạc khi còn trẻ, giờ đây sức chịu đựng của anh chàng tương đối kém, và do vậy khó mà thỏa mãn tình dục vợ mình là Kim thị (). Sau khi bị bạn bè chế giễu và thuốc thang không mấy hiệu quả, thay vào đó, anh ta cố dàn xếp để vợ mình quan hệ tình dục với gã tình nhân song tính tên gọi Triệu Đại Lý (). Triệu Đại Lý không làm hài lòng Kim thị trong lần thử làm tình đầu tiên của họ; anh ta trở lại vào đêm hôm sau với thuốc kích dục, dù Kim thị bị rách âm đạo và sa trực tràng trong một cuộc thác loạn điên cuồng liên quan đến mình, gã họ Triệu và hai cô hầu gái. Để trả thù, Kim thị sắp xếp cho người mẹ góa bụa của Triệu là Ma thị (), đến sống với Đông Môn sinh và chính cô ấy khi gã họ Triệu bận việc. Trong lúc say xỉn, Ma thị bị Kim thị dụ dỗ thông dâm với Đông Môn sinh, kẻ giả vờ làm em họ của Kim thị; Ma thị, Đông Môn sinh và Kim thị sớm nhận ra mình đang vướng bận vào trong mối tình tay ba. Thế nhưng, Kim thị về sau này trở nên ghen tị với người phụ nữ lớn tuổi hơn ngay khi gã họ Triệu quay trở lại. Mặc dù bốn người bọn họ đồng ý sống chung dưới một mái nhà, nhưng họ đã bỏ nhà lên núi ở sau khi hàng xóm biết được chuyện đa thê của mình. Đông Môn sinh có hai con trai với Ma thị nhưng nàng ấy mất trong vòng ba năm; Kim thị và gã họ Triệu cũng chết ngay sau đó do những biến chứng phát sinh từ quan hệ tình dục. Nằm mơ thấy ba người tình đã khuất của mình đầu thai làm súc sinh, Đông Môn sinh giao lại con của mình cho cô hầu gái Tiểu Kiều () rồi xuất gia đi tu. Tác giả và ấn bản. "Tú tháp dã sử" được viết bằng bạch thoại (chịu ảnh hưởng từ tiếng Ngô vì câu chuyện lấy bối cảnh ở Dương Châu) vào cuối thời Minh năm 1597 của nhà viết kịch Lã Thiên Thành () dưới nhiều bút danh khác nhau như Tình điên chủ nhân () và Tuý miên các hàm hàm tử () trong khoảng thời gian Thang Hiển Tổ vừa hoàn thành "Mẫu đơn đình". Vào thời điểm viết bài này, tác giả mới 17 tuổi. Bản thảo gốc có 237 trang đều được chia thành bốn quyển (). Trong lời nói đầu của cuốn tiểu thuyết, Lã Thiên Thành có viết một lời "biện minh" như sau: "Tôi muốn ngăn chặn cả thế giới khỏi tình trạng tình dục quá độ, nhưng vì nó đã đi quá xa theo hướng đó, sẽ không ai chịu nghe lời khuyên của tôi. Nếu tôi chỉ cho họ những gì kết quả có thể đến từ đó, và dẫn dắt họ dần dần đi đúng hướng, mọi người có thể được cứu rỗi". "Tú tháp dã sử" được xuất bản vào khoảng năm 1600, cùng thời với "Kim Bình Mai". Xuyên suốt nhiều thế kỷ sau khi được xuất bản, dưới thời Thanh, "Tú tháp dã sử" liên tục được đưa vào danh sách "cấm thư" () của quan lại trung ương và địa phương. Đồng thời, nó "vẫn được lưu hành, mặc dù lén lút chịu sự kiểm duyệt gắt gao, và được các nhà sưu tập tư nhân cũng như nhiều thư viện khác nhau, bao gồm cả những thư viện ở Nhật Bản ra sức tìm kiếm". Nổi danh là "bản dịch tiếng Anh đầu tiên của cuốn tiểu thuyết khiêu dâm được xuất bản ở Trung Quốc vào thế kỷ 17", "The Embroidered Couch: An Erotic Novel of China" của Hồ Linh Nghi do Arsenal Pulp Press xuất bản vào cuối năm 2001. Ý nghĩa văn học. "Tú tháp dã sử" là loại "tiểu thuyết khiêu dâm hiện thực", tương tự như "Kim Bình Mai" cũng được xuất bản vào cuối thời Minh; Theo lời Wilt L. Idema, "Tú tháp dã sử" "rất có thể là tiểu thuyết khiêu dâm bạch thoại sớm nhất của Trung Quốc", trong lúc Ka F. Wong lưu ý rằng cuốn này "được cho là chỉ có "Kim Bình Mai" và "Lãng sử" () được xuất bản trước đó... mặc dù thứ tự của ba tác phẩm này vẫn còn tranh cãi". Theo lời Wong, "Tú tháp dã sử" "có số phận thường được so sánh với "Kim Bình Mai"", dù ông thấy đó là một sự so sánh không công bằng vì "Kim Bình Mai" chủ yếu là một tác phẩm châm biếm xã hội, với những cảnh làm tình chỉ là một phần nhỏ của cốt truyện. Mặt khác, "Tú tháp dã sử" "có vẻ như không quá nghiêm túc" và "thích chế giễu" "Kim Bình Mai"; ví dụ, nhân vật nam chính trong "Tú tháp dã sử" tên gọi Đông Môn sinh là "hình ảnh trái ngược"—về kích thước bộ phận sinh dục và khả năng kéo dài quan hệ tình dục—của "kẻ lăng nhăng chứng nào tật nấy" Tây Môn Khánh trong "Kim Bình Mai". Wong cũng lập luận rằng với tư cách "bản thân là một biểu tượng tình dục, "Tú tháp dã sử" thường được sử dụng để ám chỉ đến nghệ thuật kích dục và cốt truyện được sao chép nhiều lần." Truyện ngắn "Tưởng Hưng Ca trùng hội trân châu sam" () hay "Tưởng Hưng Ca gặp lại chiếc áo thêu ngọc trai" của Phùng Mộng Long có một cảnh gợi nhớ đến việc Kim thị dụ dỗ Ma thị. Cùng với "Như ý quân truyện" () và "Si bà tử truyện" (), "Tú tháp dã sử" là một trong ba cuốn tiểu thuyết khiêu dâm được nhắc đến trong "Nhục bồ đoàn" nghi là do văn nhân thời Thanh Lý Ngư viết nên. Tiểu thuyết khiêu dâm giữa thế kỷ 18 "Di tình trận" () "về cơ bản là một bản sao" của "Tú tháp dã sử". Kể từ khi ấn hành, "Tú tháp dã sử" đã trở thành chủ đề gây tai tiếng. Viết trong lời tựa của một ấn bản "Tú tháp dã sử" năm 1608, Ngũ Lăng Hào Trưởng () đã chỉ trích cuốn sách này là "dâm truyện" (淫傳). Nhà phê bình đầu thời Thanh Lưu Đình Ki () công kích cuốn tiểu thuyết này là "liều thuốc độc hại", trong khi Trương Dự (), viết nửa thập kỷ trước đó, đem nó ra so sánh với "những lão già đê tiện và đám gái điếm thô thiển". Tương tự như vậy, phần phê bình thời hiện đại thường chỉ tập trung vào sự tục tĩu của cuốn tiểu thuyết. Yiheng Zhao mô tả cuốn này là một trong những "tiểu thuyết thô bỉ nhất cuối thời Minh còn tồn tại" trong khi Bret Hinsch viết rằng cuốn này có "nội dung khiêu dâm ghê tởm" và "cực kỳ lố bịch". Không mấy thiện cảm khi đem so sánh với các tác phẩm "cao cấp hơn" như "Kim Bình Mai" và "Nhục bồ đoàn", John Minford nhận định qua loa rằng "Tú tháp dã sử" là một cuốn tiểu thuyết "thô thiển". Giovanni Vitiello gọi đây là "cuốn tiểu thuyết đại diện cho thể loại mà cốt truyện chỉ đóng vai trò là khung sườn cho một loạt những lời mô tả đầy tục tĩu". Tương tự, Jie Guo lập luận rằng trong tiểu thuyết, "tình dục thường được ưu tiên hơn là xây dựng cốt truyện hay mô tả nhân vật", dù ông thừa nhận rằng các tình tiết tình dục trong "Tú tháp dã sử" liên kết với nhau để tạo ra một câu chuyện mạch lạc. Mô tả cuốn tiểu thuyết này là "một tác phẩm có tính sáng tạo cao", Ka F. Wong đã nêu bật tính độc đáo trong cốt truyện cũng như cách miêu tả tình dục của tác giả "theo mọi cách có thể tin được cũng như khó tin". Dịch giả Hồ Linh Nghi nhận thấy "Tú tháp dã sử" là "một cuốn sách rất hài hước" và "tỏ ra yêu thích các nhân vật trong truyện".
Tố Nga thiên (), được dịch sang tiếng Anh thành The Moon Goddess hoặc The Lady of the Moon, là tiểu thuyết khiêu dâm của một nhà văn ẩn danh được xuất bản vào cuối thời Minh. Truyện kể về cuộc phiêu lưu tình ái của Võ Tam Tư () và người thiếp Tố Nga (). Võ Tam Tư (), người cháu giàu sang và quyền thế trong triều đình của Nữ Hoàng đế Võ Tắc Thiên, đã phải lòng Tố Nga () và lấy nàng làm thiếp. Cuốn tiểu thuyết mô tả bốn mươi ba lần quan hệ tình ái giữa Võ Tam Tư và Tố Nga, mỗi lần đều được đặt cho cái tên đầy vẻ hoa mỹ và tưởng niệm bằng một bài thơ. Đại thần Địch Nhân Kiệt () nhất quyết muốn được diện kiến Tố Nga sau khi nghe nói về vẻ đẹp đặc biệt của nàng ấy; Tố Nga đồng ý sau một hồi do dự, trước khi tiết lộ với Địch Nhân Kiệt rằng mình thực ra là một "Nguyệt Nữ" bất tử. Tố Nga bèn cùng linh hồn của Võ Tam Tư khởi hành đến một cõi giới cao hơn. Một thời gian sau, có kẻ kể lại mình đã tận mắt nhìn thấy cặp đôi này ở dãy núi Chung Nam. Nội dung và ấn bản. "Tố Nga thiên" dài hơn 10.000 chữ Hán gồm khoảng 43 chương và 90 tranh minh họa được tập hợp thành 4 quyển. Mỗi tư thế quan hệ tình dục theo như mô tả trong tiểu thuyết đều được đặt cho một cái tên như "Trú Mã Bản Yên" (), "Hoa Khai Điệp Luyến" (), "Dã Độ Hoành Chu" (), và "Hốt Luân Thái Cực" (). Cuốn tiểu thuyết này do một nhà văn ẩn danh sử dụng bút danh Nghiệp Hoa Sinh () viết bằng văn ngôn. Theo lời tựa trong sách, "Tố Nga thiên" do thợ khắc tên là Hoàng Nhất Khải () đem khắc in ở Hàng Châu, và ấn hành vào khoảng năm 1610. Bản dịch tiếng Anh truyện này được E. D. Edwards chấp bút và xuất bản trong tập sách "Văn xuôi Trung Quốc thời Đường" (1935). Một ấn bản hoàn chỉnh của cuốn tiểu thuyết thời Minh nghi là là ấn bản duy nhất còn tồn tại và trước đây thuộc sở hữu của giáo sư Đại học Columbia Vương Tế Chân (), được cất giữ trong thư viện thuộc Viện Nghiên cứu Tính dục, Giới tính và Sinh sản Kinsey ở Bloomington, Indiana. Cảm hứng và ảnh hưởng. Tuyển tập truyện truyền kỳ "Cam trạch dao" () của Viên Giao () có chép lại mẫu chuyện ngắn về Tố Nga, nữ văn nhân và thi sĩ đồng thời là ái thiếp của Võ Tam Tư, cháu trai Võ Tắc Thiên; Tố Nga về sau tiết lộ mình là "tinh linh hoa và trăng" được gửi đến cõi trần hòng "quyến rũ tâm trí và thể xác người trần gian". Câu chuyện tương tự cũng được thu thập trong "Yêu vọng truyện" () của Chu Hi Tế () ấn hành vào thời Đường. Nữ nhân vật chính Tố Nga trong "Tố Nga thiên" cũng được lấy cảm hứng từ nữ thần Mặt Trăng Hằng Nga trong thần thoại Trung Quốc. Trong tiểu thuyết khiêu dâm "Chu lâm dã sử" (), xuất bản từ năm 1610 đến năm 1620, nhân vật chính mang tên Tố Nga mà Olivia Milburn cho rằng có liên quan đến "Tố Nga thiên".
Lethrinus semicinctus là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830. Từ định danh "semicinctus" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "semi" ("một nửa") và "cinctus" ("quấn quanh"), hàm ý đề cập đến các vệt đen ngắn ở nửa trên của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "L. semicinctus" có phân bố tương đối rộng ở vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Sri Lanka trải dài về phía đông đến quần đảo Marshall và Fiji, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu, giới hạn phía nam đến bờ bắc Úc. Loài này cũng xuất hiện tại quần đảo Trường Sa (Việt Nam). "L. semicinctus" sống gần các rạn san hô, trên nền đáy cát và thảm cỏ biển, trong đầm phá và đới mặt bằng rạn, độ sâu khoảng 4–35 m. Những cá thể có kích thước nhỏ (gần 4–10,5 cm) được thu thập trong một con lạch nhỏ trong rừng ngập mặn ở Philippines. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. semicinctus" là 35 cm. Cá có màu nâu thường hoặc nâu tanin, rải rác những đốm đen nhỏ. Một đốm đen lớn thuôn dài nằm bên dưới phần tia mềm của vây lưng, giáp ngay dưới đường bên. Các vây trắng nhạt hoặc phớt hồng. "L. semicinctus" có thể chuyển sang kiểu hình lốm đốm các vệt trắng và nâu đen, có lẽ là ngụy trang. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 3 hoặc 4 thường dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 46–48. Thức ăn của "L. semicinctus" bao gồm cá nhỏ và những loài thủy sinh không xương sống khác ở tầng đáy. "L. semicinctus" không có giá trị thương mại cao, đôi khi loại bỏ do bị xem là sản lượng không mong muốn, có thể do kích thước nhỏ. Chúng được tiêu thụ chủ yếu bởi ngư dân đánh bắt thủ công.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Kia Forum (trước đây được gọi là The Forum) là một nhà thi đấu đa năng nằm ở Inglewood, California, Hoa Kỳ. Nhà thi đấu tiếp giáp với Los Angeles. Nằm giữa Đại lộ Manchester, giao của đường Pincay Drive và Kareem Court, nhà thi đấu này nằm ở phía bắc của Sân vận động SoFi và Sòng bạc Hollywood Park, cách Sân bay quốc tế Los Angeles (LAX) khoảng 3 dặm (4,8 km) về phía đông. The Forum được khánh thành vào ngày 30 tháng 12 năm 1967. Từ năm 1967 đến năm 1999, The Forum là sân nhà của Los Angeles Lakers thuộc Giải bóng rổ Nhà nghề Mỹ (NBA) và Los Angeles Kings thuộc National Hockey League (NHL) trước khi cả hai đội chuyển đến C(trước đây được gọi là Trung tâm Staples) của Los Angeles Clippers thuộc NBA. Từ năm 1997 đến năm 2001, The Forum cũng là sân nhà của Los Angeles Sparks thuộc WNBA trước khi đội cũng chuyển đến C The Forum trước đây được gọi là Great Western Forum, và được đặt biệt danh là "The Fabulous Forum" bởi phát thanh viên lâu năm của Lakers, Chick Hearn. Nhà thi đấu còn được gọi một cách không chính thức là LA Forum để phân biệt với những địa điểm khác cũng có tên gọi là "Forum". Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Liên hoan phim Cannes 2023 Liên hoan phim Cannes thường niên lần thứ 76 là liên hoan phim diễn ra từ ngày 16 đến ngày 27 tháng 5 năm 2023. Nhà làm phim người Thụy Điển Ruben Östlund là trưởng ban giám khảo. Với việc bộ phim Pháp "Anatomie d'une chute" đoạt giải Cành cọ Vàng, giải thưởng cao nhất của liên hoan phim, đạo diễn Justine Triet đã trở thành người phụ nữ thứ ba giành được giải thưởng này, sau Jane Campion năm 1993 và Julia Ducournau năm 2021. Áp phích chính thức của liên hoan phim có sự góp mặt của nữ diễn viên Catherine Deneuve, do Lionel Avignon và Stefan de Vivies của xưởng thiết kế Hartland Villa chế tác từ một bức hình do Jack Garofalo chụp nữ diễn viên trong lúc ghi hình phim "La Chamade" (1968). Áp phích được chọn để tri ân Deneuve dành cho những cống hiến cho điện ảnh của bà. Tại liên hoan phim, hai giải Cành cọ Vàng danh dự đã được trao: Giải đầu tiên trong lễ khai mạc cho Michael Douglas; và giải thứ hai được trao gấp cho Harrison Ford trước buổi công chiếu toàn cầu của phim "Indiana Jones and the Dial of Destiny". Liên hoan khai mạc với bộ phim "Jeanne du Barry" do Maïwenn làm đạo diễn và bế mạc với bộ phim "Elemental" của Pixar do Peter Sohn làm đạo diễn. Danh sách tranh giải chính thức. Những bộ phim sau được chọn để tranh giải Cành cọ Vàng: chỉ bộ phim đủ điều kiện tranh giải Máy quay vàng dưới dạng tác phẩm đầu tay của đạo diễn. chỉ phim tranh giải Queer Palm. Dưới đây là những bộ phim được lựa chọn tranh giải hạng mục "Un Certain Regard": chỉ bộ phim đủ điều kiện tranh giải Máy quay vàng với tư cách là tác phẩm đạo diễn đầu tay. chỉ bộ phim tranh giải Queer Palm. Dưới đây là những bộ phim được lựa chọn chiếu song không tranh giải: chỉ bộ phim tranh giải Queer Palm. Những bộ phim sau đây được lựa chọn trình chiếu ở hạng mục Cannes Premiere: chỉ phim tranh giải Queer Palm. Trình chiếu đặc biệt. Những bộ phim sau đây được lựa chọn để trình chiếu ở hạng mục Trình chiếu đặc biệt: chỉ phim tranh giải Queer Palm. Tranh giải phim ngắn. Trong số 4.288 tác phẩm dự thi, những bộ phim sau đây được lựa chọn tranh giải Cành cọ Vàng phim ngắn: chỉ phim tranh giải Queer Palm. Hạng mục Cinéfondation chú trọng vào các bộ phim do các sinh viên tại các trường điện ảnh thực hiện. Festival de Cannes phân bổ khoản tài trợ 15.000 euro cho Giải Nhất, 11.250 euro cho Giải Nhì và 7.500 euro cho Giải Ba. 16 phim dự thi sau đây (14 phim người đóng và 2 phim hoạt hình) đã được chọn trong số 2.000 tác phẩm dự thi: chỉ phim tranh giải Queer Palm. Những bộ phim sau đây được lựa chọn chiếu tại hạng mục Cannes Classics: Cinéma de la Plage. Những bộ phim sau đây được lựa chọn trình chiếu không tranh giải, ở hạng mục "Cinéma de la plage": Hạng mục song song. Tuần phê bình phim quốc tế. Những bộ phim sau đây được lựa chọn trình chiếu ở hạng mục tranh giải chính của Tuần phê bình phim quốc tế.: chỉ phim đủ điều kiện tranh giải Máy quay vàng với tư cách tác phẩm đạo diễn đầu tay. chỉ phim tranh giải Queer Palm. Tranh giải phim ngắn. Những bộ phim sau đây được lựa chọn để trình chiếu tranh giải phim ngắn của Tuần phê bình phim quốc tế: chỉ phim tranh giải Queer Palm. Trình chiếu đặc biệt. Những bộ phim sau đây được lựa chọn trình chiếu tại Tuần phê bình phim quốc tế: chỉ phim đủ điều kiện tranh giải Máy quay vàng với tư cách là tác phẩm đạo diễn đầu tay. chỉ phim tranh giải Queer Palm. Những bộ phim sau đây được lựa chọn trình chiếu ở hạng mục chính của Directors' Fortnight: chỉ phim đủ điều kiện tranh giải Máy quay vàng với tư cách là tác phẩm đạo diễn đầu tay. chỉ phim tranh giải Queer Palm. Những bộ phim ngắn sau đây được lựa chọn trình chiếu tại hạng mục Directors' Fortnight: chỉ phim tranh giải Queer Palm. Trình chiếu đặc biệt. Những bộ phim sau đây được lựa chọn trình chiếu đặc biệt tại hạng mục Directors' Fortnight: Những bộ phim sau đây được trình chiếu tại hạng mục ACID (viết tắt của Hiệp hội phân phối điện ảnh độc lập): Những giải thưởng sau đây được dành tặng các bộ phim trình chiếu để tranh giải: Tại sân khấu của sự kiện, một người phụ nữ Ukraina đã tổ chức một cuộc biểu tình gần lối vào. Các quan chức an ninh cho rằng cô là một người bình thường và để cô vào. Sau đó, cô ấy lấy ra một ít máu giả và ném nó lên thảm.
KLU (Kühne Logistics University) là một trường đại học được tiểu bang công nhận, có trụ sở tại Hamburg, Đức, chuyên đào tạo các nhà quản lý với tư duy mạnh mẽ về vận hành và một bộ kỹ năng được xây dựng dựa trên các lĩnh vực năng lực chính của trường, như chuyển đổi kỹ thuật số, tính bền vững và kinh doanh. Với sự hỗ trợ của Kühne Foundation, KLU đặc biệt đẩy mạnh vấn đề quản lý chuỗi cung ứng và hậu cần thông qua các hoạt động nghiên cứu và giảng dạy. KLU được thành lập vào năm 2010 bởi Klaus-Michael Kühne và tổ chức của ông là Kühne Foundation, có trụ sở tại Schindellegi, Thụy Sĩ. Năm 2013, cơ sở HafenCity, Hamburg, của trường đã được khai trương bởi cựu thị trưởng Hamburg và ngài Olaf Scholz, Thủ tướng Đức đương nhiệm. Cùng với INSEAD, KLU đã mở trung tâm hậu cần nhân đạo của mình vào năm 2016. Năm 2021, KLU được Studyportals xếp hạng là trường đại học tốt nhất trên toàn thế giới. KLU có kế hoạch mở một số cơ sở ở châu Á, châu Mỹ Latinh và châu Phi. Tất cả các khóa học của KLU đều được Tổ chức Công nhận Quản trị Kinh doanh Quốc tế (FIBAA) công nhận. Chỉ xét điểm xếp hạng của sinh viên, KLU đã nhận được Giải thưởng Toàn cầu về Sự hài lòng của Sinh viên, từ Studyportals vào năm 2021.
Placuna, còn được gọi là điệp, hàu cửa sổ, sò Capiz, là một chi động vật thân mềm hai mảnh vỏ sống ở biển. Chúng là chi duy nhất được ghi nhận trong họ Placunidae, có quan hệ họ hàng gần với hàu và sò rẽ quạt. Chi này được biết đến nhiều nhất do việc sử dụng vỏ của loài "Placuna placenta" trong quá khứ. Chúng có độ mỏng, trong mờ và thường được sử dụng trong sản xuất vật dụng trang trí. Ở một số nền văn hóa, chúng được cắt thành những miếng nhỏ 2x2 inches, được ép gỗ và được sử dụng như một dạng cửa sổ đón ánh sáng (vì vậy mới có tên "hàu cửa sổ"). Lớp vỏ này có một chút ánh xà cừ phản chiếu, đôi khi còn được sử dụng trang trí vách ngăn di động trong phòng. Họ "Placunidae" được xem là có quan hệ họ hàng gần với họ Anomiidae. Một trong những điểm khác biệt chính là các loài thuộc họ Placunidae không bám cố định vào bề mặt cứng mà chúng thường sống vùi trong bùn. Các loài trong họ Placunidae là những loài ăn lọc, sống ở vùng nước nông, đáy bùn. Chúng mang các giới tính phân biệt, quá trình phát triển có hẳn một giai đoạn ấu trùng bơi tự do. Các loài trong họ Placunidae được khai thác rộng rãi ở khu vực Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương và được nuôi trồng ở một số khu vực. Hàu cửa sổ được đánh giá cao nhờ lớp vỏ xà cừ trong mờ của chúng. Vỏ của chúng ban đầu được sử dụng như một chất thay thế thủy tinh cửa sổ, nhưng ngày nay chúng chủ yếu được sử dụng trong sản xuất khay, chụp đèn và đồ trang trí. Ở các vùng ven biển, chúng được khai thác để lấy thịt.
Micae Phạm Minh Cường Micae (Michael) Phạm Minh Cường (tên tiếng Anh thông dụng: Michael Pham; sinh 1967) là một giám mục người Mỹ gốc Việt. Ông được Giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm làm giám mục phụ tá , Hoa Kỳ. Ông là vị giám mục người Mỹ gốc Việt thứ tư phục vụ tại Hoa Kỳ, kể từ giám mục người Mỹ gốc Việt tiên khởi Đa Minh Mai Thanh Lương (2003). Khẩu hiệu Giám mục của ông là "Hiệp nhất trong Chúa Kitô". Rời Việt Nam thuở thiếu thời dưới dạng thuyền nhân năm 1980, cậu bé Cường đến trại tập trung tại Malaysia, sau đó được bảo trợ đến định cư tại Minnesota, Hoa Kỳ. Trong vòng ba năm sau đó, gia đình cậu đoàn tụ tại Minnesota, và đến định cư tại San Diego, California vào năm 1985. Theo học và tốt nghiệp cử nhân, và sau đó là Thạc sĩ Kỹ thuật hàng không Đại học San Diego, cậu quyết định đi theo con đường tu trì. Sau quá trình tu học tại các Chủng viện Thánh Phanxicô và Thánh Patrick, cậu được truyền chức linh mục cho giáo phận vào năm 1999. Trước khi được bổ nhiệm chức giám mục phụ tá Giáo phận San Diego vào tháng 6 năm 2023, Giám mục người Mỹ gốc Việt Michael Pham nguyên là linh mục chánh xứ của giáo xứ Good Shepherd ở San Diego. Ông cũng là linh mục tổng đại diện của Giáo phận San Diego (từ năm 2018). Giám mục Micae Phạm Minh Cường có khả năng sử dụng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Thân thế và tu tập. Micae Phạm Minh Cường sinh ngày 27 tháng 1 năm 1967 tại Đà Nẵng, Việt Nam, là người con trai lớn nhất trong gia đình. Thân phụ ông là người Công giáo, từng cộng tác với người Mỹ do là thành viên trong quân đội Việt Nam Cộng hòa. Sau biến cố năm 1975, tài sản của ông bị tịch thu và bản thân ông này bị đưa đi học tập cải tạo, sau đó được trả tự do. Sau đó, ông trở thành một ngư dân và góp nhiên liệu để thay cho vàng cho chuyến tàu vượt biên. Sinh trưởng tại Việt Nam Cộng Hòa thuở thiếu thời trong thập niên 1970, cậu bé Cường có ấn tượng với linh mục cậu quen biết và đã có ước muốn làm linh mục khi cậu được 10 tuổi. Tháng 7 năm 1980, cậu bé Cường rời Việt Nam dưới dạng thuyền nhân, cùng với một người chị và em trai của mình trên một con thuyền quá tải, chở trên mình 119 cư dân trên tổng số trọng tải là cho 60 người, di chuyển trên một chiếc tàu không có thức ăn và rất ít nước uống, với không gian được mô tả là "không có chỗ để ngồi xuống" và "bị nhồi nhét như trong hộp cá mòi". Kế hoạch rời bến được đưa ra vào đêm cùng ngày khi chiếc thuyền-vốn bị tạm giữ do tham gia hoạt động vượt biên, được trả về vào sáng cùng ngày. Trải qua cướp biển và mạn tàu bị nứt phải vá tạm bằng quần áo, ba chị em cậu bé Cường sau đó cập bến trại tị nạn tại Pulau Bidong, Malaysia, sinh sống tại đây trong vòng ba tháng trước khi được một gia đình Hoa Kỳ bảo lãnh đến sinh sống tại Blue Earth, Minnesota. Đề đến được với người bảo trợ, ba chị em cậu Cường bị chuyển đến sống tại Kuala Lumpur trong một tháng, sau đó đến Nhật Bản, Seattle (Hoa Kỳ), và cuối cùng đến Minnesota vào cuối tháng 2 năm 1981. Một vài tháng sau đó, một người chị đến sinh sống cùng họ, và các thành viên còn lại trong gia đình (bốn anh chị em và song thân cậu Cường) đến định cư tại Minnesota từ năm 1983. Tại Minnesota, cậu bé Cường theo học trung học, nhưng rời đi khi chưa tốt nghiệp. Gia đình cậu Phạm Minh Cường rời Minnesota đến San Diego, California sinh sống vào năm 1985. Phạm Minh Cường tốt nghiệp trung học tại San Diego và theo học tại San Diego State University, tốt nghiệp cử nhân và thạc sĩ kỹ thuật hàng không. Sau đó, Phạm Minh Cường đi làm cho Continental Graphics, hỗ trợ lưu trữ thông tin của công ty Boeing. Phạm Minh Cường đã nộp đơn vào chủng viện mà không có sự chấp thuận của thân phụ, do ông này phản đối ý định tu trì của cậu. Cả hai ông bà song thân đều phản đối ý định tu trì, tuy vậy dần chấp nhận rằng họ không thể ngăn cản con trai theo con đường tu trì. Trước đó, Phạm Minh Cường có một mối tình đơn phương, tuy nhiên khi người này viết thư mong muốn nối lại mối quan hệ với cậu, cũng trong tuần đó, cha cậu đã quyết định đồng ý về việc cho cậu theo con đường tu trì. Cậu đã quyết định chọn đi theo con đường tu trì. Do nhận thấy có mong muốn đi theo con đường tu trì (ơn gọi), cậu chuyển đến học tại Chủng viện Thánh Phanxicô tại Đại học San Diego. Ông tốt nghiệp chủng viện này với hai văn bằng: Cử nhân Thần học (STB - bậc I) và Thạc sĩ Thần học (Mdiv.). Sau khi hoàn thành chương trình Chủng viện Saint Patrick ở Menlo Park, California, chủng sinh Phạm được thụ phong linh mục cho Giáo phận San Diego vào ngày 25 tháng 6 năm 1999. Sau khi được thụ phong linh mục, linh mục Micae Phạm Minh Cường (Michael Pham) thi hành mục vụ với vai trò linh mục phó xứ tại giáo xứ St. Mary, Star of the Sea ở Oceanside từ năm 1999 đến năm 2001. Ông làm giám đốc ơn gọi của giáo phận từ năm 2001 đến năm 2004. Michael Pham là linh mục chánh xứ giáo xứ Holy Family, San Diego từ năm 2004 đến năm 2014 và kiêm nhiệm tại giáo xứ St. Therese ở San Diego từ năm 2014 đến 2016. Năm 2016, ông được bổ nhiệm làm linh mục coi sóc giáo xứ Good Shepherd ở San Diego cho đến nay (2023). Giáo xứ này là một trong những giáo xứ lớn nhất của Giáo phận San Diego. Năm 2009, ông tốt nghiệp văn bằng Thạc sĩ Khoa học ngành Tâm lý học. Linh mục Cường sau đó là linh mục đại diện cho các cộng đồng sắc tộc và đa văn hóa kể từ năm 2017. Do chức vụ này, ông được ghi nhận là đã làm cho các cộng đồng đa sắc tộc trong giáo phận thêm vững mạnh. Kể từ sáu năm trước (2017), ông đã cho cử hành "Lễ Hiện Xuống cho mọi Dân tộc" và đã thu hút sự tham dự của ít nhất 2.000 giáo dân hằng năm. Kể từ ngày 5 tháng 9 năm 2019, linh mục Phạm Minh Cường là tổng đại diện của Giáo phận San Diego. Ông cũng là Tổng Đại diện gốc Việt tiên khởi tại giáo phận này. Linh mục Michael Phạm đã tham dự Chủng viện Saint Patrick ở Menlo Park, California vào năm 2020 và đã hoàn thành văn bằng Cử nhân Thần học Thánh bậc II ("Licentiate of Sacred Theology"). Ngày 6 tháng 6 năm 2023, Văn phòng Báo chí Tòa Thánh loan tin Giáo hoàng đã bổ nhiệm linh mục Michael Pham, Tổng Đại diện Giáo phận San Diego, làm giám mục phụ tá Giáo phận San Diego. Cùng trong tin bổ nhiệm này, Tòa Thánh cũng chọn linh mục Felipe Pulido, thuộc linh mục đoàn Giáo phận Yakima, Washington, làm giám mục phụ tá San Diego. Lễ tấn phong cho hai giám mục tân cử đã được ấn định vào ngày 28 tháng 9 năm 2023. Việc bổ nhiệm linh mục Michael Pham làm giám mục được công bố tại Washington, DC vào ngày 6 tháng 6 năm 2023, bởi Tổng Giám mục Christophe Pierre, sứ thần Tòa Thánh tại Hoa Kỳ. Theo số liệu linh mục Phạm Minh Cường cho biết, vào năm 2019, có khoảng 5.000 gia đình giáo dân gốc Việt tại Giáo phận San Diego, và bảy linh mục gốc Việt thực hiện việc mục vụ tại đây. Trong số linh mục này có ba vị đảm nhận chức chính xứ (2 giáo xứ Việt Nam và 1 giáo xứ Hoa Kỳ). Giám mục Phạm Minh Cường được tấn phong giám mục vào lúc 2 giờ (giờ địa phương) ngày 28 tháng 9 năm 2023. Thánh lễ Tấn phong được truyền hình trực tiếp trên Website giáo phận San Diego. Giám mục Micae Phạm Minh Cường được tấn phong giám mục năm 2023, thời Giáo hoàng Phanxicô, bởi:
Đại học Srinakharinwirot (tiếng Thái: มหาวิทยาลัยศรีนครินทรวิโรฒ, phiên âm: Ma-ha-vi-tha-da-lai Xi-na-kha-lin-vi-lót, viết tắt: SWU, abbr: มศว) là một đại học công lập tại Băng Cốc, Thái Lan. Được thành lập năm 1949, trường đại học là tổ chức giáo dục đầu tiên chỉ tập trung đào tạo cho giáo viên. Tên ""Srinakharinwirot" "được đặt bởi Vua Bhumibol Adulyadej để tôn vinh mẹ của mình là vương thái hậu Srinagarindra (phiên âm là ). Đại học Srinakharinwirot có hai khuôn viên; khuôn viên Prasarnmit ở Watthana tại Băng Cốc và khuôn viên Ongkharak ở Ongkharak tại Nakhon Nayok. Ngoài ra các khuôn viên nhỏ khác bao gồm khuôn viên Đại học Bhodivijjalaya tại Sa Kaeo và Mae Chaem tại Chiang Mai. Đại học ban đầu có 8 khuôn viên theo vùng; Prasanmitr, Pathum Wan, Bang Saen, Phitsanulok, Maha Sarakham, Songkhla, Bang Khen và Phala Suksa (nghĩa là Giáo dục Thể chất). Khuôn viên Prasanmitr vẫn là trụ sở chính của đại học, trong khi khuôn viên Pathum Wan hiện tại là trường dạy học, Trường tiểu học Patumwan. Một số trường đại học mới được thành lập như; Đại học Burapha (trước đó là khuôn viên Bang Saen), Đại học Naresuan (trước đó là khuôn viên Phitsanulok), Đại học Mahasarakham (trước đó là khuôn viên Mahasarakham) và Đại học Thaksin (trước đó là khuôn viên Songkhla). Khuôn viên Bang Khen đã đóng cửa, dời đến trụ sở chính Prasarnmitr, khu vực đó ngày nay là Đại học Phranakhon Rajabhat. Cuối cùng, khuôn viên Phala Suksa đã đóng cửa và di chuyển đến khuôn viên Ongkharak, gọi là Khoa giáo dục thể chất.
Pectinida là một bộ động vật thân mềm hai mảnh vỏ sống ở biển, có kích thước từ trung bình đến lớn. Nhiều loài trong số chúng thường được gọi với tên thông dụng là sò điệp. Các nhà nghiên cứu tin rằng chúng bắt đầu tiến hóa vào cuối Kỷ Ordovic giữa; nhiều loài, tất nhiên, vẫn còn tồn tại. Năm 2010, một hệ thống phân loại mới được đề xuất cho nhóm động vật thân mềm hai mảnh vỏ (Bivalvia) đã được xuất bản bởi Bieler, Carter Coan, trogn đó đã điều chỉnh lớp Bivalvia, bao gồm cả bộ Pectinida.
Ukraina Ottoman (), Khan Ukraina (, ), Hanshchyna () là một thuật ngữ lịch sử chỉ Ukraina hữu ngạn (cũng như các khu vực phía nam của tỉnh Kiev) - còn được gọi bằng tên Turk "Yedisan". Lần sử dụng đầu tiên ghi nhận được của thuật ngữ "Khanska Ukraina" bắt nguồn từ năm 1737. Về mặt chính thức, rìa phía nam, ven biển của lãnh thổ đã bị Hãn quốc Krym chiếm đóng từ những năm 1520 để tạo điều kiện cho các cuộc vây bắt nô lệ. Lãnh thổ xuất hiện là một kết quả của Hiệp định đình chiến Andrusovo năm 1667 giữa Ba Lan-Litva và nước Nga Sa hoàng, chia cắt Quốc gia hetman Cossack, mà không quan tâm đến cư dân địa phương. Kể từ năm 1669, chính phủ Ottoman trao quyền bảo hộ cho nhà nước Cossack ở phía tây sông Dnepr, và chỉ định nó là một sanjak (huyện) riêng do hetman người Cossack Petro Doroshenko đứng đầu. Điều này được xác nhận trong Hiệp ước Buchach năm 1672. Lãnh thổ có biên giới phía tây với tỉnh Podolia và phía nam giáp với tỉnh Silistra. Với sự giúp đỡ của Petro Doroshenko, người Ottoman có thể chiếm Podilia và thành lập tỉnh tại đó vào năm 1672. Năm 1676, vua mới của Ba Lan là Jan III Sobieski tìm cách khôi phục một số lãnh thổ đã mất tại Ukraina, và ngừng cống nạp sau khi ký kết Hiệp định Żurawno. Cũng trong năm 1676, Ivan Samoylovych cùng với boyar Grigory Romodanovsky đã lãnh đạo một chiến dịch thành công chống lại Doroshenko, buộc ông phải đầu hàng và chiếm thủ phủ Chyhyryn của người Cossack. Từ năm 1677 đến năm 1678, một đội quân hùng mạnh của Ibrahim Pasha tranh giành quyền kiểm soát Chyhyryn (xem Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1676–1681)). Cuối cùng, quân đội của Đại Tể tướng Ottoman Kara Mustafa Pasha đã thành công trong việc giành quyền kiểm soát Chyhyryn vào năm 1678. Thành phố Nemyriv trở thành nơi cư trú của hetman từ những năm 1670 đến 1699. Năm 1685, vua Ba Lan Jan III Sobieski khôi phục một số quyền tự do của người Cossack ở Ukraina hữu ngạn và ký Hiệp định hòa bình vĩnh viễn năm 1686 với Nga nhằm đảm bảo liên minh chống lại Đế quốc Ottoman. Hầu hết Ukraina Ottoman trở thành một phần của Hãn quốc Krym (dưới quyền bảo hộ của Đế quốc Nga) vào năm 1774 ngoại trừ vùng Ochakiv vẫn là một phần của Đế quốc Ottoman.
Phan Tấn Cẩn (chữ Hán: 蕃進謹, 23 tháng 8, 1752 - 3 tháng 7, 1816) tước Cẩn Tín hầu, là một nhà chính trị, công thần khai quốc nhà Nguyễn. Ông theo phục vụ quân đội chúa Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với Tây Sơn. Khi chiến tranh kết thúc và nhà Nguyễn được thành lập, ông làm quan dưới triều vua Gia Long. Năm 1803, ông vâng mệnh vua đúc Cửu vị thần công - biểu tượng sức mạnh của nhà Nguyễn. Ngài Cẩn Tín hầu Phan Tấn Cẩn sinh ra và lớn lên tại làng Đốc Sơ (nay thuộc phường An Hòa, thành phố Thừa Thiên - Huế). Sách Đại Nam liệt truyện chính biên do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn, chép khá vắn tắt về cuộc đời của cụ: "“Phan Tiến Cẩn, người huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên, có tiếng là quan lại giỏi, lúc đầu vào Gia Định bổ làm Câu kê ty nội sứ ở Chính doanh. Năm Bính Thìn (1796), theo chức cũ sung làm Ứng hậu ở hậu điện, thăng làm Cai bạ coi quản việc Đồ gia, coi các thợ đúc đồ binh khí, rồi thăng Tham tri bộ Công kiêm lý Đồ gia. Có tội phải thiên xuống làm Cai bạ nhưng vẫn kiêm lý Đồ gia. Năm thứ 12 (1813), được khởi phục làm Tham tri bộ Công, vẫn kiêm coi việc Đồ gia như cũ. Mùa đông năm thứ 14 (1815), vì ốm nên xin về hưu, được vào chầu hầu, rồi chết. Con là Tiến Kế”." Cụ Cẩn Tín hầu sinh vào ngày 15 tháng 07 âm lịch năm Nhâm Thân, tức ngày 23 tháng 8 năm 1752, vào thời kỳ chấp chính của chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765) ở Đàng Trong. Theo gia phả của họ Phan hiện đang lưu giữ tại nhà thờ Nhánh của dòng họ Phan Tấn và những dòng chữ khắc trên bia mộ thì ngài có tên húy là Hoát (豁), tên chữ là Cẩn (謹). Tuy nhiên, sách Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện chính biên lại chép tên cụ là Phan Tiến Cẩn (潘 進 謹). Thân sinh của cụ là ông Phan Tấn Bửu (1709 - 1757) và bà Nguyễn Thị Thích, là cháu nội của ông Phan Tấn Sĩ, trưởng nhánh 4 (nhánh út) dòng họ Phan Tấn làng Đốc Sơ. Như vậy, thì ông thuộc đời thứ 3. Lúc lên sáu tuổi thì thân phụ mất, mẹ lưu lạc, ông phải theo mẹ kế là bà Nguyễn Thị Trấp về ở với ông Cai đội Lương Văn Miên và theo “học nghề rèn, rồi học chữ cho đến năm 15 tuổi”. Đến năm Tân Mão 1771, ông Lương Văn Miên cưới vợ cho ngài là bà Mai Thị Thục, trưởng nữ của ông Mai Đức Đàm, quê ở Vạn Xuân, Hương Trà, Thừa Thiên. Năm Mậu Thân (1788), ông vâng lệnh chúa Nguyễn Ánh chế tạo binh khí và sắm sửa quân nhu. Đến năm 1792, ông được thăng chức Chánh dinh nội lệnh ty câu kê, tước là Cẩn Tín bá. Cũng thời điểm này, ông được đặc trách cùng một số vị quan lại khác nhận trách nhiệm thu thuế, thu mua lúa gạo, cau và một số vật phẩm khác để phục vụ cho quân đội. Đến năm Bính Thìn (1796), sung chức Ứng hậu ở hậu điện, cùng năm đó, ông vâng lệnh chúa Nguyễn Ánh ra đảo Phú Quốc nghinh rước bà Hiếu Khang hoàng hậu cùng với bà Mai Thị Thục. Với tài năng, đức độ của mình, ông được quân sĩ hết lòng cảm phục, thương yêu và quý trọng. Do đạt được nhiều thành tích, năm 1799, ngài được thăng Chánh dinh Cai bạ, thuộc Nội cai đội quản Đồ gia, tham gia vào việc đúc binh khí, súng đạn kiêm quản lý chế tạo tàu thuyền, quân nhu. Sau ngày vua Gia Long đánh bại vương triều Tây Sơn, thống nhất hải vũ, định đô ở Phú Xuân (Huế), thì ông cùng với gia quyến trở về cố hương sau bao năm dài xa cách, và đến năm 1801, “ông được thăng Chánh dinh cai bạc thập”. Năm Quý Hợi (1803), ông được thăng Tham tri bộ Công kiêm lý Đồ gia, cùng thời điểm này ông được giao trọng trách cùng với Nguyễn Văn Khiêm, Hoàng Văn Cẩn, Cái Văn Hiếu đúc bộ Cửu vị thần công. Đúc Cửu vị thần công. Sách Đại Nam thực lục cho biết về bộ Cửu vị thần công này như sau: "“Quý Hợi, Gia Long năm thứ 2 (1803)… đúc chín khẩu súng bằng đồng (lấy bốn mùa và năm hành mà đặt tên, cái thứ nhất là Xuân, nặng hơn 17.700 cân, cái thứ hai là Hạ, nặng hơn 17.200 cân. Cái thứ ba là Thu, nặng hơn 18.400 cân, cái thứ tư là Đông, nặng hơn 17.800 cân, cái thứ năm là Mộc, nặng hơn 17.100 cân, cái thứ sáu là Hỏa, nặng hơn 17.200 cân, cái thứ bảy là Thổ, nặng hơn 17.800 cân, cái thứ tám là Kim, nặng hơn 17.600 cân, cái thứ chín là Thủy, nặng hơn 17.200 cân). Đúc xong, làm bài minh để ghi”". Như vậy, chín khẩu súng bằng đồng này, về tên gọi đều có tên riêng, được đặt theo tên của bốn mùa (Xuân, Hạ, Thu, Đông) và tên của Ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), khẩu nặng nhất có trọng lượng là 18.400 cân, khẩu nhẹ nhất 17.100 cân. Cả chín khẩu này có chiều dài là 5,10m, “đường kính nòng 0,23m, nòng dày 0,034m, phía sau đo vòng quay được 2,60m. Trên thân súng có sáu gờ nổi, có trang trí tám dải hoa văn chạy quay thân súng. Giữa thân súng có gắn hai quai khắc hình hai con lân, uốn cong hình dấu ngã”. Vào năm 1816, vua Gia Long đặt tên cho các khẩu súng này là Thần oai vô địch thượng tướng quân. Về tên tuổi của những người tham gia trong hội đồng đốc công chế tạo súng thì sách Đại Nam thực lục không thấy đề cập đến. Tuy nhiên, trên phần thân súng vẫn còn thấy rõ tên tuổi, chức tước của bốn người đảm trách nhiệm vụ đúc súng, trong đó có Ngài Cẩn Tín hầu Phan Tấn Cẩn: “工 部 參 知 兼 理 圖 家 謹 信 侯 臣 潘 晉 謹 奉 董 飭”. "“Công bộ Tham tri kiêm lý đồ gia Cẩn Tín hầu thần Phan Tấn Cẩn phụng đổng sức”". Năm 1914, trên tập san nghiên cứu Bulletin Des Amis Du Vieux Hue (BAVH), Giáo sư H. Lebris có đăng bài khảo cứu "“Các súng thần công của Kinh thành Huế”". Đây là bài viết khá công phu và tỉ mĩ, mà tác giả là một học giả người Pháp đã cho người đọc thấy rõ từ thời gian, quá trình đúc, kích cỡ, trọng lượng súng, cách hướng dẫn nạp đạn đến quá trình di dời súng cũng như sự kính trọng của quân dân trước bộ "“Thần oai vô địch”" này. Đề cập đến hội đồng đúc súng này, tác giả đưa ra một nhận xét khá lý thú rằng: "“Cần để ý đến các chức tước phong cho những giám thị đúc súng gồm có hai phần: các chức hầu là ngang với marquis và các tên của các quan lại như Khiếm hòa, Cẩn thận, Hiếu thuận, Cẩn tín và tên ghép của người đúc tính do vua đặt và phong cho. Như vậy, chức tước vua ban cho ông Nguyễn Văn Khiêm thiếu tướng, một marquis đáng kính nể và Hoàng Văn Cẩn là đại úy marquis, người cẩn thận tước của ông Ích Văn Hiếu, trung úy, và ông Phan Tấn Cẩn, Tham tri bộ Công cẩn mật và đáng tin”". Như vậy, để đúc thành công 9 khẩu súng Thần oai vô địch này, vua Gia Long đã rất thận trọng, tinh tuyển lựa chọn ra những con người ưu tú nhất, không chỉ vững vàng về trình độ chuyên môn mà còn hội tụ những đức tính cao đẹp ("Khiêm hòa, Cẩn thận, Hiếu thuận, Cẩn tín") để có thể đặt trọn vẹn niềm tin vào họ. Thật vậy, bộ Cửu vị thần công là một kiệt tác bằng đồng có giá mỹ thuật hết sức quý báu, chắc hẳn ngày xưa triều đình đã phải trưng tập, huy động một lực lượng nhân công khá lớn và có trình độ chuyên môn cao. Để trở thành sản phẩm như chúng ta thấy được ngày hôm nay, hẳn cả một ekip phải làm việc không biết mệt mỏi, từ khâu thiết kế bản vẽ đến tính toán hàm lượng đồng sử dụng, hình ảnh, họa tiết trang trí được cân nhắc hết sức tỉ mĩ. Đây là quá trình chuyển hóa những ý tưởng từ trên bản vẽ đến việc tạo khuôn, nấu đồng… cho đến lúc thành phẩm. Rõ ràng, đây là công lao của sự hiệp sức một đội ngũ lành nghề và vai trò của cụ Phan Tấn Cẩn trong hội đồng đúc súng này chiếm một vị trí rất quan trọng. Ngày mồng 09 tháng 06 âm lịch năm Bính Tý, tức ngày 3 tháng 7 năm 1816, sau một thời gian an dưỡng, cụ Phan Tấn Cẩn thọ bệnh, thuốc thang không thuyên giảm và đã trút hơi thở cuối cùng vào hồi bốn giờ chiều, hưởng thọ 65 tuổi. Khi hay tin cụ qua đời, vua Gia Long vô cùng thương xót, lệnh cấp ban tiền tuất, vải vóc, gấm lụa, sai quan đến tế. Linh cửu quàn tại tư gia cho đến tháng 11 mới an táng. Mộ ngài táng tại xứ Mụ Kiểm, tục gọi là lăng Đôi. Đối với làng xã, quê hương bản quán, ông có công lao rất lớn trong việc chăm lo đời sống, ổn định sản xuất của nhân dân. Đương thời, ông đã cho đào hệ thống kênh mương nước "“dẫn thủy nhập điền”", bắt đầu từ làng Đốc Sơ kéo dài về đến vùng Hương Cần, nhằm phục vụ việc tưới tiêu cho ruộng lúa, hoa màu, tiêu úng thoát lũ trong mùa mưa bão và đảm bảo nhu cầu về nguồn nước dùng cho sinh hoạt của cư dân trong vùng. Ngoài ra, ông còn phát tâm nguyện tu sửa đình chùa, miếu mạo, hỗ trợ chăm lo cho những hoàn cảnh éo le, gia đình gặp khó khăn… Sinh thời, cụ là một người sống nguyên tắc, rất nghiêm khắc, dạy dỗ con cháu có khuôn phép, tôn ti trật tự rất rõ ràng. Với bà con lối xóm, cụ đối xử hết mực thương yêu. Để tưởng nhớ công ơn to lớn của ông, làng đã thiết trí một số ruộng đất hương hỏa để thường năm con cháu lo giỗ kỵ cho ngài. Làng, họ như thường lệ cứ hễ đến ngày húy kỵ của ngài đều sắm sửa lễ phẩm đến bái vọng ngài. Ngày nay, nhiều thế hệ ở Đốc Sơ vẫn còn truyền tụng nhiều giai thoại về cụ với tất cả sự ngưỡng vọng, lòng kính trọng về một người con ưu tú của làng. Hiện phần mộ của cụ bị nước ngập chìm với độ sâu hơn 32cm. Nguyên phần đất này có tên là xứ Mụ Kiểm, ngày xưa là cánh đồng canh tác ruộng lúa, hoa màu của làng Đốc Sơ. Sau này cùng với quá trình mở rộng thành phố Huế, nơi đây đón nhận nhiều luồng dân cư đến định cư sinh sống. Quá trình đắp nền, nâng móng xây dựng nhà cửa của nhiều hộ dân lân cận đã vô tình biến phần đất này thành một vùng đất trũng, ngập nước. Phần mộ của Cụ Phan Tấn Cẩn tọa lạc ở cuối Kiệt số 62, đường Nguyễn Văn Linh, phường An Hòa, Huế. Đây là khu mộ có quy mô khá hoành tráng, trên một mặt bằng diện tích khoảng chừng 150m2, mộ quay về hướng Bắc (hơi chệch về phía Đông). Diện mạo của khu lăng mộ này còn khá nguyên vẹn, dấu vết của hai lần trùng tu vào năm 1991 và năm 2002 theo chúng tôi nhận biết về cơ bản không làm biến dạng nhiều về cả quy mô, bố cục lẫn phong cách kiến trúc của lăng mộ. Trong cả hai lần trùng tu đó, con cháu trong trong họ tộc chỉ sửa sang, kiến thiết một số chi tiết nhỏ như dựng thêm tấm bia bằng chữ Quốc ngữ gắn liền với tấm bình phong hậu, xây dựng hệ thống thành bao bọc phía ngoài tránh sự xâm hại từ các tác nhân bên ngoài. Ngoài ra, phía trước mộ còn xây thêm hệ thống hành lang bảo vệ mặt tiền của ngôi mộ. Dựa vào phong cách kiến trúc, vật liệu, kỹ thuật xây dựng cũng như nghệ thuật trang trí, đặc biệt kiểu hình nấm mộ hiện còn góp phần xác nhận thời điểm xây dựng. Theo thiển ý của chúng tôi, thì khu mộ này có phong cách khá đặc trưng, mà thực tế niên đại tương đối có thể xác định thì được xây dựng vào buổi đầu của thời kỳ nhà Nguyễn, tức vào khoảng nửa đầu thế kỷ XIX. Qua kiểu thức phần mộ hình của lăng ngài Phan Tấn Cẩn có thể thấy được rằng mô thức kiến trúc này thể hiện tính điển hình trong phong cách xây dựng lăng mộ cuối thời chúa Nguyễn đến đầu thời các vua Nguyễn, mà trên thực tế kiểu thức này còn tồn tại khá ít trên vùng đất Thừa Thiên Huế.
Thánh Piô Năm Dấu Francesco Forgione, còn được biết đến với tên Thánh Piô Năm Dấu, Cha Piô (tiếng Ý: "Padre Pio"), Cha Thánh Piô, Cha Thánh Piô Năm Dấu, Thánh Padre Pio, Thánh Piô Pietrelcina và Thánh Piô thành Pietrelcina (tiếng Ý: "Pio da Pietrelcina"; 25 tháng 5 năm 1887 – 23 tháng 9 năm 1968), là một linh mục, tu sĩ Công giáo và là nhà thần bí người Ý Dòng Anh Em Hèn Mọn Capuchin. Ông được Giáo hội Công giáo Roma tôn kính là một vị thánh, lễ kính vào ngày 23 tháng 9 hàng năm. Piô gia nhập Dòng Phan Sinh Capuchin năm mười lăm tuổi và dành phần lớn cuộc đời của mình trong tu viện San Giovanni Rotondo. Ông có được dấu thánh vào năm 1918, từ đó dẫn đến một số cuộc điều tra của Tòa thánh. Bất chấp các biện pháp trừng phạt do Vatican áp đặt, danh tiếng của ông vẫn không ngừng tăng lên trong suốt cuộc đời, thu hút nhiều tín đồ đến San Giovanni Rotondo. Ông đã tham gia vào việc xây dựng bệnh viện Casa Sollievo della Sofferenza (tiếng Ý dịch ra nghĩa là "Nhà an ủi kẻ đau khổ" hay "Nhà xoa dịu nỗi đau"), một bệnh viện được xây dựng gần tu viện San Giovanni Rotondo hiện là một bệnh viện lớn thuộc quản lý của Thành Vatican. Sau khi ông qua đời, lòng sùng kính của các tín đồ đối với ông tiếp tục lan rộng trên toàn thế giới. Cha Piô được phong chân phước ngày 2 tháng 5 năm 1999 và được phong thánh ngày 16 tháng 6 năm 2002 bởi Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Thi hài của Cha Thánh Piô được trưng bày tại Thánh đường Thánh Piô ở Pietrelcina, thành phố San Giovanni Rotondo, miền nam nước Ý, bên cạnh tu viện San Giovanni Rotondo, hiện là một địa điểm hành hương lớn. Francesco Forgione được sinh ra bởi Grazio Mario Forgione (1860–1946) và Maria Giuseppa Di Nunzio (1859–1929) vào ngày 25 tháng 5 năm 1887, tại Pietrelcina, một thị trấn thuộc tỉnh Benevento, vùng Campania, miền Nam nước Ý. Cha mẹ anh là nông dân. Anh ấy đã được rửa tội trong Nhà nguyện Santa Anna gần đó. Sau đó, anh ấy tham dự vào công việc trong nhà nguyện này với tư cách là một cậu giúp lễ. Francesco có một anh trai, Michele, và ba em gái, Felicita, Pellegrina và Grazia (người sau này trở thành nữ tu Bridgettine). Cha mẹ anh có hai người con khác đã chết khi còn nhỏ. Anh ấy nói rằng khi mới 5 tuổi, anh ấy đã quyết định dâng hiến cả cuộc đời mình cho Chúa. Anh ấy đã làm việc trong trang trại gia đình cho đến năm 10 tuổi, chăm sóc đàn cừu nhỏ mà gia đình sở hữu. Pietrelcina là một thị trấn mà các ngày lễ của các vị thánh được tổ chức quanh năm. Gia đình Forgione là một gia đình Công giáo thuần thành. Họ tham dự Thánh lễ hàng ngày, cầu nguyện Kinh Mân Côi hàng đêm và kiêng thịt ba ngày một tuần để tôn vinh Đức Mẹ Núi Camêlô. Mặc dù cha mẹ và ông bà của Francesco không biết chữ, nhưng họ vẫn có thể kể lại những câu chuyện Kinh thánh cho con cháu của họ. Theo nhật ký của Cha Agostino da San Marco (người sau này là linh hướng của Francesco ở San Marco in Lamis, tỉnh Foggia, vùng Apulia, đông nam nước Ý), cậu bé Francesco mắc một số bệnh. Năm sáu tuổi, cậu bị viêm dạ dày ruột nặng. Năm mười tuổi, cậu bị sốt thương hàn. Khi còn trẻ, Francesco thuật lại rằng anh đã có những thị kiến và trải qua những lần ở trạng thái xuất thần. Năm 1897, sau khi học xong ba năm tại trường học công lập, Francesco được cho là đã bị cuốn hút vào cuộc sống của một tu sĩ sau khi nghe một thầy tu Dòng Capuchin ở nông thôn đang kêu gọi Ơn Thiên Triệu. Khi Francesco bày tỏ mong muốn trở thành linh mục của mình với cha mẹ, họ đã thực hiện một chuyến đi đến Morcone, một cộng đoàn cách Pietrelcina 13 dặm (21 km) về phía bắc, để tìm hiểu xem con trai họ có đủ điều kiện để vào Dòng hay không. Các thầy tu ở đó thông báo với họ rằng họ muốn nhận Francesco vào cộng đoàn của họ, nhưng anh ấy cần phải đi học thêm một khoảng thời gian nữa. Cha của Francesco đã đến Hoa Kỳ tìm việc làm để trả chi phí dạy kèm riêng cho con trai mình, nhằm đáp ứng các yêu cầu học vấn để vào Dòng Capuchin. Chính trong thời kỳ này, Francesco đã lãnh nhận bí tích Thêm sức vào ngày 27 tháng 9 năm 1899. Anh đã trải qua quá trình dạy kèm riêng và vượt qua các yêu cầu học vấn theo quy định. Vào ngày 6 tháng 1 năm 1903, ở tuổi 15, anh vào tập viện của các thầy tu Capuchin tại Morcone. Vào ngày 22 tháng 1 cùng năm, anh lấy tu phục Dòng Phan Sinh và lấy tên là Fra ( Friar ) Piô, để vinh danh Giáo hoàng Piô I, là vị thánh có thánh tích được lưu giữ trong Nhà nguyện Santa Anna ở Pietrelcina. Piô đã khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Trở thành linh mục. Bắt đầu chương trình học bảy năm để trở thành linh mục, Piô đến tu viện Thánh Phanxicô Assisi ở Umbria. Năm 17 tuổi, anh bị ốm, chán ăn, mất ngủ, kiệt sức, ngất xỉu và đau nửa đầu. Anh ấy thường xuyên nôn mửa và chỉ ăn uống được mỗi sữa và pho mát. Các tín đồ tôn giáo coi thời điểm này là thời điểm mà các hiện tượng không thể giải thích được bắt đầu xảy ra. Ví dụ, trong những buổi cầu nguyện, Piô xuất hiện với những người khác trong trạng thái sững sờ, như thể anh ta vắng mặt ở đất. Một trong những anh em đồng tu của Piô tuyên bố đã nhìn thấy anh ta trong trạng thái xuất thần và bay lơ lửng lên trên mặt đất. Vào tháng 6 năm 1905, sức khỏe của Piô trở nên tồi tệ đến mức bề trên quyết định gửi anh đến một tu viện trên núi, với hy vọng rằng sự thay đổi không khí sẽ tốt hơn cho sức khỏe của anh. Tuy nhiên, việc này cũng chẳng giúp cải thiện gì nhiều và các bác sĩ khuyên anh ấy nên trở về nhà của mình để tịnh dưỡng. Nhưng ngay cả khi ở đó, sức khỏe của anh ấy cũng không được tốt hơn. Mặc dù vậy, Piô vẫn tuyên khấn trọng thể vào ngày 27 tháng 1 năm 1907. Tháng 8 năm 1910, Piô được Đức Tổng Giám Mục Phaolô Schinosi truyền chức linh mục tại Nhà thờ Chính tòa Benevento. Bốn ngày sau, cha Piô dâng thánh lễ đầu tiên tại nhà thờ giáo xứ Đức Mẹ Các Thiên Thần (tiếng Anh":" "Church of Our Lady of the Angels"). Sức khỏe bấp bênh, ông được phép ở lại với gia đình tại quê hương Pietrelcina trong khi vẫn giữ lề luật tu trì Dòng Capuchin. Ông ở lại Pietrelcina cho đến năm 1916, do sức khỏe và nhu cầu chăm sóc gia đình mình khi cha và anh trai của ông di cư sang Hoa Kỳ một thời gian. Trong những năm này, cha Piô thường xuyên viết thư cho các vị linh hướng của mình, là cha Benedetto và cha Agostino, hai tu sĩ từ tu viện Capuchin ở San Marco in Lamis. Đến San Giovanni Rotondo. Ngày 4 tháng 9 năm 1916, cha Piô được lệnh trở về đời sống cộng đoàn. Ông chuyển đến một cộng đoàn ở nông thôn là tu viện Đức Mẹ Ban Ơn Capuchin (tiếng Anh: "Our Lady of Grace Capuchin Friary"), nằm ở dãy núi Gargano ở San Giovanni Rotondo thuộc tỉnh Foggia. Vào thời điểm đó, cộng đoàn có bảy thầy tu. Ông ở lại San Giovanni Rotondo cho đến khi qua đời vào năm 1968, ngoại trừ một thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự. Trong chức linh mục, cha Piô được biết đến là đã thực hiện cải đạo thành công sang Công giáo cho một số người. Cha Piô tận tụy với việc lần chuỗi Mân Côi. Ông so sánh việc xưng tội hàng tuần giống như việc quét dọn phòng hàng tuần vậy và khuyến khích thực hiện tĩnh tâm và xét mình hai lần mỗi ngày: một lần vào buổi sáng để chuẩn bị cho một ngày mới và một lần nữa vào buổi tối để nhìn lại bản thân ngày hôm đó. Lời khuyên của cha Piô về ứng dụng thực tế của thần học, ông thường tóm tắt trong câu nói nổi tiếng hiện nay của mình: "Hãy cầu nguyện, hy vọng và đừng lo lắng" (tiếng Anh: "Pray, hope, and don't worry"). Ông hướng dẫn các Cơ đốc nhân nhận ra Đức Chúa Trời trong mọi sự và mong muốn trên hết mọi sự là làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Nhiều người nghe nói về cha Piô đã đến San Giovanni Rotondo để gặp ông và bày tỏ lòng cảm mến với ông, nhờ ông ấy giúp đỡ hoặc để thỏa mãn sự tò mò của họ. Mẹ của cha Piô qua đời tại ngôi làng xung quanh tu viện vào năm 1928. Sau đó vào năm 1938, cha Piô để người cha già Grazio sống với mình. Anh trai Michele của ông cũng chuyển đến sống cùng. Cha của cha Piô sống trong một ngôi nhà nhỏ bên ngoài tu viện cho đến khi ông qua đời vào năm 1946. Nghĩa vụ quân sự. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu, bốn thầy tu trong cộng đoàn của cha Piô đã được chọn để nhập ngũ trong quân đội Ý. Lúc đó, cha Piô đang là giáo lý viên tại chủng viện và là một linh hướng. Khi lại có thêm một tu sĩ được gọi nhập ngũ, cha Piô được giao phụ trách cộng đoàn. Vào ngày 15 tháng 11 năm 1915, cha Piô cũng được gọi nhập ngũ. Vào ngày 6 tháng 12 thì ông được đưa vào công tác tại Quân y số 10 ở Naples. Do sức khỏe yếu, ông liên tục bị giải ngũ và rồi lại nhập ngũ cho đến ngày 16 tháng 3 năm 1918, ông được tuyên bố là không đủ sức khỏe để phục vụ và giải ngũ hoàn toàn. Vào tháng 9 năm 1918, cha Piô bắt đầu xuất hiện những vết thương kì lạ trên tay và chân, được gọi là dấu thánh vì những vết thương ấy có liên hệ đến những vết thương của Chúa Kitô. Trong những tháng tiếp theo, danh tiếng của cha Piô tăng nhanh trong vùng San Giovanni Rotondo, thu hút hàng trăm tín hữu đến tu viện để gặp ông hàng ngày. Những người bắt đầu xây dựng lại cuộc sống của mình sau chiến tranh xem cha Piô như một biểu tượng của hy vọng. Những người thân cận với ông chứng thực rằng ông bắt đầu thể hiện một số phép lạ, bao gồm: khả năng chữa bệnh, phân thân, khả năng bay lơ lửng giữa không trung, tiên tri, kiêng khem cả giấc ngủ và thức ăn (có một báo cáo nói rằng cha Agostino - linh hướng của cha Piô, đã ghi lại một trường hợp trong đó cha Piô có thể sống được ít nhất 20 ngày tại Verafeno chỉ với Bí tích Thánh Thể mà không có bất kỳ thức ăn nào khác), khả năng nhìn thấu nội tâm người khác, nói tiếng lạ và vết thương có mùi hương dễ chịu. Cha Piô ngày càng được nhiều người biết đến. Ông trở thành một vị linh hướng và đã phát triển năm quy tắc để tăng trưởng tâm linh: xưng tội hàng tuần, rước lễ hàng ngày, đọc sách Kinh Thánh, suy niệm Lời Chúa và xét mình. Phục hồi quyền linh mục. Năm 1933, Giáo hoàng Piô XI đã ra lệnh hủy bỏ lệnh cấm cử hành Thánh lễ cho cha Piô, bảo rằng: "Tôi không có ác cảm với cha Piô, chỉ là tôi đã nhận được thông tin không đúng". Năm 1934, cha Piô được phép thực hiện Bí tích Giải tội trở lại. Ông ấy cũng được phép thuyết giảng mặc dù chưa bao giờ tham gia kỳ thi lấy giấy phép thuyết giảng nào. Giáo hoàng Piô XII, người đảm nhận chức vụ Giáo hoàng vào năm 1939, thậm chí còn khuyến khích những tín hữu sùng đạo đến thăm cha Piô. Cuối cùng, vào giữa những năm 1960, Giáo hoàng Phaolô VI (giáo hoàng từ 1963 đến 1978) đã bác bỏ mọi cáo buộc chống lại cha Piô. Bệnh viện Casa Sollievo della Sofferenza. Bệnh viện được xây dựng theo sáng kiến ​​của cha Piô ở San Giovanni Rotondo, Ý. Đến năm 1925, cha Piô đã lấy một tòa nhà cũ của tu viện trở thành một phòng khám y tế với vài chiếc giường chủ yếu dành cho những người thực sự cần đến. Năm 1940, một ủy ban được thành lập để quản lý một phòng khám lớn hơn và các quỹ đóng góp bắt đầu được kêu gọi. Việc xây dựng bắt đầu vào năm 1947. Theo Sergio Luzzatto là một tác giả sách viết về cha Piô, phần lớn số tiền tài trợ cho bệnh viện đến trực tiếp từ Emanuele Brunatto, một tín đồ cuồng nhiệt của cha Piô, người đã kiếm bộn tiền từ thị trường chợ đen ở nước Pháp lúc bấy giờ đang bị Đức chiếm đóng. Cơ quan Liên Hiệp Quốc về Cứu tế và Phục hồi (UNRRA) cũng đóng góp 250 triệu lira Ý (đơn vị tiền tệ cũ của Ý). Lodovico Montini, người đứng đầu Đảng Dân chủ Cơ Đốc giáo (tiếng Anh: "Democrazia Cristiana)" và anh trai của ông là Giovanni Battista Montini (sau này là Giáo hoàng Phaolô VI) đã tạo điều kiện cho UNRRA tham gia. Bệnh viện ban đầu được đặt tên là "Fiorello LaGuardia" và được coi là một thành quả để đời của cha Piô. Bệnh viện Casa Sollievo della Sofferenza mở cửa vào năm 1956. Cha Piô trao quyền kiểm soát trực tiếp cho Tòa thánh. Tuy nhiên, để cho cha Piô có thể trực tiếp giám sát dự án, Giáo hoàng Piô XII đã cho phép ngài miễn lời khấn khó nghèo vào năm 1957. Một số người gièm pha cha Piô sau đó đã lợi dụng việc này mà cho rằng cha Piô đã có hành vi biển thủ. Cha Piô qua đời năm 1968 ở tuổi 81. Sức khỏe của ông suy giảm vào những năm 1960, nhưng ông vẫn tiếp tục thực hiện các công việc của mình. Vào ngày 22 tháng 9 năm 1968, cha Piô đã cử hành thánh lễ kỷ niệm 50 năm ngày ông nhận được dấu thánh với rất đông khách hành hương có mặt, có cả các đoàn làm phim truyền hình đến ghi hình. Do có quá đông khách hành hương tham dự Thánh lễ nên bề trên của tu viện quyết định cử hành Thánh lễ trọng thể. Cha Piô cử hành Thánh lễ với sức khỏe đã vô cùng sa sút. Giọng nói của ông ấy yếu ớt và sau khi Thánh lễ kết thúc, ông ấy gần như ngã quỵ khi bước xuống các bậc thềm. Anh ấy cần sự giúp đỡ từ các thầy tu Capuchin của mình. Và đây là lần cử hành thánh lễ cuối cùng của cha Piô. Sáng sớm ngày 23 tháng 9 năm 1968, cha Piô xưng tội lần cuối và tuyên khấn trọn đời lại dòng Phan sinh. Theo thông lệ, cha Piô cầm tràng hạt trong tay, ông ấy không đủ sức để đọc to Kinh Kính Mừng, thay vào đó ông ta lặp lại những từ tiếng Ý: "Gesù, Maria" (tiếng Việt: "Giêsu", Maria"" ). Vào khoảng 2:30 sáng, cha Piô qua đời trong phòng ngủ của mình ở tu viện San Giovanni Rotondo. Khám nghiệm thi thể của cha Piô, bác sĩ nhận thấy rằng các vết thương dấu thánh đã hoàn toàn lành lặn, không còn bất kỳ dấu vết nào. Thi thể của ông nằm trong quan tài, được đặt bên trong nhà thờ của tu viện để những người hành hương đến kính viếng. Lễ tang được tổ chức vào ngày 26 tháng 9, ước tính có khoảng 100.000 người tham dự. Sau Thánh lễ an táng, quan tài của cha Piô an nghỉ trong hầm mộ ở Nhà thờ Đức Mẹ Ban Ơn. Hiện tượng siêu nhiên. Cha Piô được cho là đã có những phép lạ thần bí như nghe được tiếng nói của linh hồn, khả năng phân thân, khả năng nhìn thấu nội tâm và chữa lành bệnh tật. Những trải nghiệm siêu nhiên được báo cáo của ông ấy cũng bao gồm: nhận được khải tượng (nhìn thấy nghe thấy Chúa), giao tiếp với thiên thần và chiến đấu thể xác với Satan và ác quỷ. Các báo cáo về hiện tượng siêu nhiên của cha Piô đã thu hút sự dư luận, dù rằng ngay cả Vatican có vẻ hoài nghi. Một số hiện tượng này đã được chính cha Piô nhắc đến trong các bức thư viết cho các vị linh hướng của mình, còn những hiện tượng khác thì được nói đến bởi những người theo ông. Cha Piô đã viết trong những bức thư của mình rằng, ngay từ khi còn là linh mục, ông đã có những vết thương trên cơ thể, sự đau đớn và chảy máu ở những vị trí của dấu thánh. Trong một lá thư gửi cho cha Agostino Gemelli là một linh hướng của cha Piô vào ngày 21 tháng 3 năm 1912, cha Piô đã viết về lòng sùng kính của mình đối với Thánh thể của Chúa Kitô và linh cảm rằng mình sẽ mang các dấu thánh. Luzzatto tuyên bố rằng trong bức thư này, cha Piô sử dụng những đoạn không được công nhận từ một cuốn sách của Gemma Galgani. Cha Piô sau đó đã phủ nhận rằng ông biết hoặc sở hữu cuốn sách được trích dẫn. Trong một bức thư năm 1915, Agostino đã hỏi cha Piô những câu hỏi bao gồm: lần đầu tiên ông trải qua những khải tượng, liệu ông có bị kỳ thị hay không và liệu ông có cảm thấy những nỗi đau trong Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô hay không, cụ thể là đội mão gai và chịu đánh đòn?. Cha Piô trả lời rằng ông ấy đã trải qua những khải tượng từ thuở mới vào tu viện (năm 1903), đồng thời nói thêm rằng ông đã quá kinh hãi trước hiện tượng này nên đã cầu xin Chúa rút lại dấu thánh của mình. Vào ngày 20 tháng 9 năm 1918, trong khi nghe xưng tội, cha Piô cho biết các dấu thánh đã xuất hiện trở lại và khiến ông đau đớn. Những dấu thánh ấy được cho là đã liên tục xuất hiện trong 50 năm, cho đến cuối đời. Máu chảy ra từ dấu thánh có mùi hương dễ chịu như nước hoa. Cha Piô nói với cha Agostino rằng cơn đau vẫn còn và trầm trọng hơn vào những ngày cụ thể và trong những trường hợp nhất định. Mặc dù ông ấy nói rằng ông ấy muốn chịu đựng trong bí mật, nhưng vào đầu năm 1919, tin tức về cha Piô đã bắt đầu lan truyền. Cha Piô thường đeo găng tay màu đỏ hoặc màu đen trên tay và chân, nói rằng ông ấy xấu hổ vì những vết thương này. Agostino Gemelli (là một tu sĩ Công giáo và cũng là một bác sĩ người Ý) tuyên bố rằng những vết thương của cha Piô phù hợp với vết thương mà những người lính đã tự gây ra cho mình khi sử dụng những chất độc hóa học có tính ăn mòn để được hoãn nhập ngũ. Trong khi đó Amico Bignami (là một bác sĩ và nhà nghiên cứu bệnh học người Ý) cho rằng những vết thương của cha Piô có thể là một vết hoại tử da nguyên nhân là do sử dụng cồn iốt hoặc các hóa chất tương tự để cản trở quá trình chữa lành. Sau khi được công khai, các vết thương đã được nghiên cứu bởi một số bác sĩ, một số bác sĩ thì được Vatican thuê như một phần của cuộc điều tra cha Piô. Một số người cho rằng những vết thương là không thể giải thích được và dường như chưa bao giờ bị nhiễm trùng. Mặc dù có vẻ như đã lành nhưng sau đó chúng sẽ xuất hiện trở lại theo định kỳ.  Alberto Caserta đã chụp X-quang bàn tay của cha Piô vào năm 1954 và không tìm thấy bất thường nào trong cấu trúc xương. Một số nhà phê bình buộc tội cha Piô làm giả các dấu thánh, chẳng hạn bằng cách sử dụng axit carbolic để tạo vết thương. Maria De Vito (em họ của dược sĩ địa phương Valentini Vista tại Foggia) đã làm chứng rằng cha Piô lúc trẻ tuổi đã mua axit carbolic và một lượng bốn gram veratrine, tuy nhiên đã không xuất trình bất kỳ đơn thuốc nào và giữ nó bí mật. Veratrine là một hỗn hợp của các alkaloid, một hóa chất có tính ăn mòn da cao: "Veratrine độc ​​đến mức chỉ bác sĩ mới có thể quyết định có kê đơn hay không" - dược sĩ Vista tuyên bố trước các nhân chứng. Veratrine đã từng được sử dụng như một loại thuốc trừ sâu làm tê liệt cơ, chủ yếu là để chống chấy rận, nhưng cũng được các dược sĩ sử dụng như là một loại thuốc tê khiến người ta không nhạy cảm với cơn đau. Cha Piô khẳng định rằng axit carbolic được sử dụng để khử trùng ống tiêm dùng trong điều trị y tế và sau khi bị dính phải một trò đùa của những người bạn khi trộn chất veratrine với thuốc lá hít (loại thuốc lá dùng mũi để ngửi) gây ra hiện tượng hắt hơi không kiểm soát được sau khi hít phải, ông ấy đã quyết định mua số lượng hóa chất này để chơi trò đùa tương tự với những người bạn của mình. Giám mục của Volterra, Raffaello Rossi đã chia sẻ quan điểm này, cho rằng "Thay vì có ác tâm, điều chúng ta có thể thấy ở đây là sự giản dị của cha Piô và sự vui tính của ông", rằng "Vấn đề dấu thánh ở đây không phải là công việc của ma quỷ, cũng không phải là sự lừa dối trắng trợn, lừa đảo, mánh khóe của một người quỷ quyệt và độc hại, dấu thánh của ông ấy đối với tôi dường như không phải là sản phẩm bệnh hoạn của những gợi ý từ bên ngoài". Cha Rossi coi những dấu thánh này là "có thật". Thị kiến Thiên thần Xuyên tâm. Vào tháng 8 năm 1918, một vài tuần trước khi cha Piô được cho là nhận được dấu thánh, ông đã mô tả một trải nghiệm thần bí mà trong đó ông cảm thấy bản thân bị đâm và bị thiêu đốt cả về tinh thần lẫn thể xác bởi một ngọn giáo đầu lửa phóng vào người mình từ một thiên thần. Theo cha Piô, trải nghiệm thần bí này bắt đầu vào ngày 5 tháng 8 và kết thúc vào ngày 7 tháng 8 năm 1918. Cha Benedetto, vị linh hướng của cha Piô, giải thích hiện tượng này là một thị kiến về thiên thần xuyên tâm. Cha Piô sau đó bảo rằng trải nghiệm này đã để lại vết thương ở bên trái cơ thể của ông ấy. Hầu hết các nhân chứng đã kiểm tra vết thương của cha Piô đều cho biết rằng ông có một vết thương ở bên trái, dài khoảng 3 inch (7,62 cm) và có hình chữ thập. Khả năng phân thân. Cha Piô được những người theo ông tin rằng ông có khả năng phân thân, khả năng ở hai nơi cùng một lúc. Khi giám mục Raffaele Rossi hỏi ông về việc này trong một cuộc điều tra của Vatican, cha Piô trả lời: "Tôi không biết nó như thế nào hoặc bản chất của hiện tượng này là gì - và chắc chắn là tôi không nghĩ gì nhiều lắm - nhưng nó đã xảy ra với tôi khi tôi đứng trước mặt người này hay người kia, ở nơi này hay nơi kia; tôi không biết liệu tâm trí của tôi đã được di chuyển đến đó hay những gì tôi nhìn thấy là một hình thức nào đó của nơi chốn hoặc con người; tôi không biết biết liệu tâm trí của tôi có ở đó với cơ thể của tôi hay không". Chữa lành bệnh tật. Trong cuốn sách năm 1999 "Padre Pio: The Wonder Worker" (tạm dịch: "Cha Piô: Người thợ gặt kì diệu") đoạn người linh mục người Ireland Malachy Gerard Carroll mô tả câu chuyện về Gemma de Giorgi, một cô gái người Sicilia bị mù được cho là đã được chữa khỏi trong chuyến đến thăm cha Piô. Gemma được bà nội đưa đến San Giovanni Rotondo vào năm 1947, vốn khi sinh ra đã bị khiếm thị. Trong chuyến đi gặp cha Piô, cô bé bắt đầu nhìn thấy các đồ vật. Bà của Gemma không tin rằng đứa trẻ đã được chữa khỏi. Sau khi Gemma quên cầu xin cha Piô ban ơn trong lúc xưng tội, bà của cô đã cầu xin với vị linh mục rằng xin Chúa phục hồi thị lực cho cô. Cha Piô nói với bà ấy: “Này con, con có đức tin không? Đứa trẻ không cần phải khóc mà con cũng không cần khóc, vì con có biết là nó đã được nhìn thấy rồi không ?”. Theo giám mục của Volterra, Raffaele Rossi, người phụ trách cuộc điều tra về cha Piô: "Trong số những vụ chữa lành bệnh tật bị cáo buộc, nhiều vụ không được xác nhận hoặc không tồn tại. Tuy nhiên, trong thư từ của cha Piô, có một số tuyên bố đáng tin cậy cho rằng phép lạ là do sự can thiệp của ông. Nhưng không có xác nhận y tế nên rất khó để đưa ra kết luận và vấn đề vẫn còn đang bỏ ngỏ". Năm 1947, cha Karol Józef Wojtyła, 27 tuổi (sau này là Giáo hoàng Gioan Phaolô II) đến thăm cha Piô, ông xưng tội cùng với cha Piô. Đức Hồng Y người Áo Alfons Stickler báo cáo rằng Wojtyła đã từng tâm sự với hồng y rằng trong cuộc gặp gỡ này, cha Piô đã nói với ngài rằng một ngày nào đó ông ấy sẽ lên "chức vụ cao nhất trong nhà thờ, mặc dù cần phải xác nhận thêm". Stickler nói rằng Wojtyła tin rằng lời tiên tri đã ứng nghiệm khi ông trở thành hồng y. Thư ký của Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Stanisław Dziwisz, phủ nhận dự đoán, trong khi đó cuốn tiểu sử của George Weigel - "Witness to Hope: The Biography of Pope John Paul II" (tạm dịch: "Nhân chứng cho Hy vọng: Tiểu sử Giáo hoàng Gioan Phaolô II)," trong đó có tường thuật về chuyến thăm tương tự nhưng không đề cập đến lời tiên tri ấy. Một số mô tả về cha Piô rằng ở ông ấy có một "hương thơm rất nồng và dễ chịu, tương tự như mùi của hoa violet" và họ không thể xác định được nguồn gốc của mùi hương đó. Cha Piô kể rằng ông ấy có những thị kiến mà trong đó ma quỷ đã tấn công và quấy rối ông ấy, những hình dạng ghê tợn dưới hình dáng con người và quái thú. Một hiện tượng khác nữa mà cha Piô có được là có thể nhìn thấu nội tâm người khác, ông có thể biết được người khác đang suy nghĩ điều gì trong tâm trí, ông ấy dường như biết được khi nào con người không cảm thấy ăn năn vì những tội lỗi phạm phải. Cha John Paul Zeller của Dòng Truyền Giáo Phanxicô Lời Bất Tử (MFVA) đến từ thành phố Birmingham, bang Alabama của Mỹ kể lại: “Người ta nói ngài thậm chí còn ngửi được mùi vị của tội lỗi”. Chính cha Piô cũng đã xác nhận: "Rất ít lần tôi tình cờ cảm nhận rõ ràng bên trong mình lỗi lầm, tội lỗi, hoặc đức hạnh của ai đó đang bị vấy bẩn". Các cuộc điều tra của Vatican. Ban đầu, Vatican áp đặt các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối với cha Piô vào những năm 1920 để giảm bớt sự nổi tiếng của ông ấy trong quần chúng: ông bị cấm cử hành Thánh lễ nơi công cộng, cấm ban phép lành cho mọi người, cấm thư từ, cấm để lộ dấu thánh của mình một cách công khai và cấm giao tiếp với cha Benedetto, vị linh hướng của ông. Tòa Thánh quyết định chuyển cha Piô đến một tu viện khác ở miền bắc nước Ý. Người dân địa phương đe dọa sẽ nổi loạn nếu Vatican thuyên chuyển ông ấy đến nơi khác. Một kế hoạch thuyên chuyển thứ hai cũng đã được tính đến nhưng rồi cũng lại phải thay đổi. Từ năm 1921 đến năm 1922, cha Piô bị tước quyền linh mục của mình, chẳng hạn như không được dâng Thánh lễ và ngồi tòa giải tội. Từ năm 1924 đến năm 1931, Tòa thánh đưa ra các tuyên bố phủ nhận rằng các sự kiện trong cuộc đời của cha Piô là không do bất kỳ nguyên nhân thiêng liêng nào. Luigi Romanelli, kiểm tra y tế vào năm 1919. Một số lượng lớn các bác sĩ đã đến thăm cha Piô để xác minh xem các dấu thánh là có thật hay không. Người đầu tiên nghiên cứu các vết thương của cha Piô là Luigi Romanelli, bác sĩ trưởng của bệnh viện công lập Barletta, theo lệnh của cha bề trên giám tỉnh, vào ngày 15 và 16 tháng 5 năm 1919. Trong báo cáo của mình, ngoài những điều khác, bác sĩ viết: "Các vết thương trên bàn tay ông ấy được bảo vệ bởi một cái găng tay màu nâu đỏ, không có chảy máu hay sưng hoặc viêm ở các mô xung quanh. Tôi tin chắc rằng các vết thương không chỉ là ở ngoài da. Khi tôi đưa ngón tay cái vào lòng bàn tay của ông ấy và ngón trỏ trên mu bàn tay của ông thì tôi nhận thấy rõ ràng rằng có một lỗ trống ở trong đấy." Amico Bignami, kiểm tra y tế vào năm 1919. Hai tháng sau, vào ngày 26 tháng 7 năm 1919, nhà nghiên cứu bệnh học Amico Bignami đồng thời cũng là một bác sĩ đến San Giovanni Rotondo. Bignami đã tiến hành kiểm tra y tế với vết thương của cha Piô và đưa ra một số giả thuyết, trong đó có giả thuyết rằng vết thương là một vết hoại tử da do sử dụng các hóa chất như cồn iốt để ngăn việc lành vết thương. Giorgio Festa, kiểm tra y tế vào năm 1919 và năm 1920. Giorgio Festa là một bác sĩ và là một linh mục dòng Tên, đã khám cho cha Piô vào năm 1919 và năm 1920. Ông ấy đã rất ấn tượng bởi mùi thơm của dấu thánh. Festa, giống như Bignami trước đây, đã mô tả vết thương bên sườn giống như hình chữ thập. Trong báo cáo của mình với Tòa Thánh năm 1925, Festa đã đưa ra một phán quyết đồng tình với dấu thánh và phản đối quan điểm chỉ trích của Gemelli về dấu thánh của cha Piô với các lập luận thần học đóng vai trò chính. Agostino Gemelli, kiểm tra tâm thần năm 1920 và kiểm tra y tế năm 1925. Năm 1920, cha Agostino Gemelli - một linh mục, một bác sĩ và nhà tâm lý học - được Đức Hồng Y Rafael Merry del Val ủy nhiệm đến thăm cha Piô và tiến hành kiểm tra các vết thương. Với lý do là "đã tự mình đến bán đảo Gargano mà không phải do bất kỳ cơ quan Tòa Thánh nào yêu cầu, Gemelli đã gửi thư riêng tới văn phòng của Tòa Thánh xin cho phép anh gặp và làm một bài báo cáo không chính thức về cha Piô". Gemelli muốn tìm hiểu về vấn đề này và mong muốn gặp mặt vị linh mục ấy. Cha Piô tỏ thái độ khép kín đối với điều tra viên mới này: ông đã từ chối chuyến viếng thăm dù có sự xin phép bằng văn bản của văn phòng Tòa Thánh. Cha Gemelli đã phản đối lời từ chối ấy cho rằng mình có quyền bắt người tu sĩ phải kiểm tra y tế về dấu thánh. Cha Piô được sự hỗ trợ của bề trên dòng, đã đặt điều kiện cho việc kiểm tra y tế là phải có giấy phép được thông qua một cách hệ thống, có thứ tự, được xét duyệt bởi Tòa Thánh mà không tính đến các chứng chỉ về chuyên môn nghề nghiệp của cha Agostino Gemelli. Không thỏa được các điều kiện, Gemelli rời tu viện, bực bội và cảm thấy bị xúc phạm vì không được phép xem xét các dấu thánh. Anh đi đến kết luận rằng Francesco Forgione (tên tục của cha Piô) là "một người có hiểu biết hạn chế, năng lượng tâm linh thấp, suy nghĩ đơn điệu, ý chí thấp". Gemelli đã đánh giá về sự việc này rằng: "Vụ này là một trong những gợi ý do cha Benedetto gieo vào tâm trí yếu ớt của cha Piô một cách vô thức, tạo ra những biểu hiện đặc trưng của chứng psittacism vốn là bản chất của chứng cuồng loạn". Lần này được Tòa Thánh cho phép, Gemelli đã khám lại cho cha Piô vào năm 1925, viết báo cáo vào tháng 4 năm 1926. Lần này cha Piô đồng ý cho anh ta xem vết thương. Gemelli cho rằng nguyên nhân của các vết thương ấy là do việc sử dụng hóa chất ăn mòn mà cha Piô đã tự bôi lên. Giorgio Festa đã cố gắng đặt câu hỏi chỉ trích về những kết luận của Gemelli về các dấu thánh nói chung. Gemelli đã đáp lại lời chỉ trích này trong bản báo cáo của mình. Ông đã làm rõ những tuyên bố của mình về bản chất vết thương của cha Piô: "Bất kỳ ai có kinh nghiệm về pháp y, và trên hết là xem xét các vết loét và vết thương mà những người lính đã tự gây ra cho bản thân trong chiến tranh, đều có thể chắc chắn rằng đây là những vết thương do sự ăn mòn gây nên bởi hóa chất. Bề mặt của vết loét và hình dạng của nó về mọi mặt đều giống với vết loét được quan sát thấy ở những người lính đã tự gây ra cho mình". Một lần nữa, Gemelli đánh giá sức khỏe tâm thần của cha Piô là hạn chế: "Ông ấy (cha Piô) là đối tác lý tưởng mà cha Benedetto, một cựu Giám tỉnh, có thể tạo ra một cặp incubus-succubus (hai con quỷ trong truyền thuyết phương Tây). Ông ấy là một linh mục tốt: điềm tĩnh, kiệm lời, nhã nhặn, đức hạnh hơn là sự yếu kém về sức khỏe tâm thần. Một linh hồn tội nghiệp có thể lặp đi lặp lại một vài thuật ngữ tôn giáo khuôn mẫu. Một người đàn ông tội nghiệp, ốm yếu đã học được những lời dạy từ chủ nhân của mình là cha Benedetto". Gemelli đã viết vào năm 1940 và sau đó đã gửi nhiều lần cho văn phòng của Tòa Thánh về điều mà ông coi là những tuyên bố phi lý đối với những điều về cha Piô. Raffaele Rossi và cuộc điều tra giáo luật năm 1921. Giám mục ở Volterra là Raffaele Rossi dòng Cát Minh Chân Phước (tiếng Latinh: "Ordo Carmelitarum Discalceatorum") được Tòa Thánh chính thức ủy nhiệm vào ngày 11 tháng 6 năm 1921 để thực hiện một cuộc điều tra giáo luật liên quan đến cha Piô. Rossi bắt đầu chuyến đi của mình vào ngày 14 tháng 6 tại San Giovanni Rotondo bắt đầu với việc thẩm vấn các nhân chứng gồm hai linh mục và bảy thầy tu. Sau tám ngày điều tra, cuối cùng ông đã hoàn thành một bài báo cáo và gửi đến Tòa Thánh vào ngày 4 tháng 10 năm 1921, lễ Thánh Phanxicô Assisi. Bản báo cáo về cơ bản nêu rõ như sau: Cha Piô, là vị linh mục mà Rossi có ấn tượng tốt, là một mục tử nhiệt thành và tu viện San Giovanni Rotondo là một cộng đoàn tốt đẹp; dấu thánh là không thể giải thích được nhưng chắc chắn đấy không phải là tác phẩm của ma quỷ hay một hành động lừa dối hoặc gian lận trắng trợn nào; chúng cũng không phải là mánh khóe của một kẻ quỷ quyệt và hiểm độc. Trong các cuộc phỏng vấn với các nhân chứng mà Rossi đã thực hiện tổng cộng ba lần, vị giám mục đã được chứng kiến dấu thánh của cha Piô lúc đó ông 34 tuổi. Rossi coi những dấu thánh này là một "sự thật có thật". Trong các ghi chú của mình được ghi trực tiếp trên giấy và trong bài báo cáo, Rossi mô tả hình dạng và sự xuất hiện của các vết thương trong bàn tay là "rất rõ ràng". Những vết ở bàn chân thì đã "biến mất". Những gì có thể quan sát được là hai điểm nhô cao trên bàn chân với làn da trắng và mềm. Đối với vết thương trên ngực: "Ở bên cạnh sườn anh ta, dấu thánh được thấy là một đốm hình tam giác, màu rượu vang đỏ, còn những đốm nhỏ khác thì không còn nữa, tiếp đó là một vết hình chữ thập lộn ngược như cái được nhìn thấy vào năm 1919 bởi tiến sĩ Bignami và tiến sĩ Festa". Cha Rossi cũng yêu cầu Tòa Thánh hãy tham khảo ý kiến ​​​​của cha Piô viết một tiểu sử về ông ấy, Rossi cũng đang tập hợp các thông tin từ cha Benedetto và các tài liệu mà anh ta đã thu thập được để một ngày nào đó anh ấy có thể viết một cuốn sách về cuộc đời của cha Piô. Theo cha Rossi, "Trong số những trường hợp chữa bệnh đã được báo cáo, nhiều trường hợp chưa được xác nhận hoặc không tồn tại. Tuy nhiên, trong các thư từ của cha Piô, có một số tuyên bố đáng tin cậy cho rằng phép lạ là do sự can thiệp của ông. Nhưng nếu không có xác nhận y tế thì rất khó để đưa ra kết luận và vấn đề vẫn còn đang bỏ ngỏ". Theo Lucia Ceci, một nhà sử học, cha Rossi đã không thể tìm thấy bất kỳ phép lạ nào được gán cho cha Piô. Khi Rossi hỏi cha Piô về việc ông ấy có thể phân thân, cha Piô trả lời: "Tôi không biết nó như thế nào hoặc bản chất của hiện tượng này là gì - và chắc chắn là tôi không nghĩ gì nhiều lắm - nhưng nó đã xảy ra với tôi khi tôi đứng trước mặt người này hay người kia, ở nơi này hay nơi kia; tôi không biết liệu tâm trí của tôi đã được di chuyển đến đó hay những gì tôi nhìn thấy là một hình thức nào đó của nơi chốn hoặc con người; tôi không biết biết liệu tâm trí của tôi có ở đó với cơ thể của tôi hay không". Giáo hoàng Gioan XXIII, các cuộc điều tra và băng ghi âm sau năm 1958. Giáo hoàng Gioan XXIII hoài nghi về cha Piô. Khi bắt đầu nhiệm kỳ của mình, ông biết rằng những người chống đối cha Piô đã đặt các thiết bị nghe lén trong phòng ngủ và tòa giải tội của tu viện, ghi âm lại những lời nói của ông ấy. Bên ngoài nhật ký bán chính thức của mình, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã viết trên bốn tờ giấy rằng ông ấy cầu nguyện cho "PP" (viết tắt của Padre Pio) và việc điều tra thông qua các cuộn băng, nếu những gì chúng ngụ ý là đúng về các mối quan hệ thân thiết và không đứng đắn của ông ấy với những người phụ nữ từ đội cận vệ bất khả xâm phạm xung quanh ông ta đã chỉ ra một tai họa khủng khiếp cho người dân. Bản thân Đức Giáo hoàng Gioan XXIII có lẽ chưa bao giờ nghe những cuốn băng, nhưng cho rằng quan điểm này là đúng đắn: “Lý do giúp tôi có được sự thanh thản về tinh thần, đó là một đặc ân và ân sủng vô giá, là vì cá nhân tôi cảm thấy trong sạch khỏi sự ô nhiễm mà trong bốn mươi năm qua đã ăn mòn hàng trăm ngàn linh hồn khiến họ trở nên ngu ngốc và loạn trí ở mức độ chưa từng thấy". Theo Sergio Luzzatto, tác giả cuốn sách Padre Pio: Miracles and Politics in a Secular Age (tạm dịch: "Padre Pio: Phép lạ và Chính trị trong thời đại thế tục"), Vatican đã không ra lệnh cho việc nghe lén này. Trong một ghi chú nhật ký khác, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã viết rằng ông muốn hành động. Trên thực tế, ông ấy đã ra lệnh cho một cuộc điều tra giáo luật khác. Carlo Maccari và cuộc điều tra giáo luật lần thứ hai năm 1960. Cha Carlo Maccari là một tổng thư ký của Tòa Thánh Rôma và ông ấy đã gặp cha Piô tổng cộng chín lần. Có một sự không tin tưởng lẫn nhau giữa cha Piô và cha Maccari, Maccari đã viết trong nhật ký của mình: "Sự kín đáo, đầu óc hẹp hòi, dối trá - đây là những vũ khí mà anh ta sử dụng để trốn tránh các câu hỏi của tô: thật đáng thương". Maccari đòi cha Piô bỏ việc "hôn" sau khi xưng tội cho các chị em giáo dân. Maccari có ghi nhận trong báo cáo của mình rằng cha Piô không được giáo dục tôn giáo đầy đủ. Anh ấy làm việc rất nhiều. Anh ta không phải là một người sống khổ hạnh và có nhiều mối liên hệ với thế tục bên ngoài, nói chung có quá nhiều sự pha trộn giữa cái “thiêng liêng” và cái “trần tục”. Trong báo cáo của mình, Maccari đã ghi tên những người phụ nữ tiết lộ mình là người tình của cha Piô vào thời điểm đó, nhưng không đánh giá tính xác thực của những tuyên bố này. Maccari tập trung vào việc đánh giá sự cuồng tín của cha Piô ảnh hưởng lên công đồng, mô tả đó là "những quan niệm tôn giáo dao động giữa mê tín và ma thuật". Maccari gọi những người ủng hộ cha Piô là "một tổ chức rộng lớn và nguy hại". Cha Piô chưa bao giờ được những tín đồ khuyên là nên tiết chế lại. Maccari tự hỏi thể nào mà Chúa lại có thể cho phép "rất nhiều sự dối trá" diễn ra như thế. Maccari kết thúc báo cáo quan trọng của mình với một danh sách các khuyến nghị tiếp tục đối phó với cha Piô. Các thầy tu của tu viện Đức Mẹ Ban Ơn nên dần được thuyên chuyển sang nơi khác và cử một tu viện trưởng mới đến quản lý. Không ai được phép xưng tội với cha Piô hơn một lần mỗi tháng. Bệnh viện đã được trao các quy chế mới để cắt đứt trách nhiệm của các thầy dòng Capuchin là "chữa bệnh" về mặt y tế và tinh thần. Sau chuyến đi của Maccari, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã ghi trong nhật ký của mình rằng ông coi cha Piô như một "thần tượng rơm" (tiếng Ý: "idolo di stoppa"). Quan điểm cá nhân. Cha Piô là ủng hộ mạnh mẽ việc xưng tội hàng tuần, mô tả đó là "bồn tắm của linh hồn". Cha Piô đã thiết lập năm quy tắc để phát triển tâm linh bao gồm xưng tội hàng tuần, rước lễ hàng ngày, đọc Kinh Thánh, suy niệm và thường xuyên xét mình, kiểm điểm lương tâm."Ông dạy những người tín hữu rằng đau khổ là dấu hiệu đặc biệt của tình yêu Thiên Chúa vì nó khiến bạn "giống như Con Một của Ngài đã trải qua 40 ngày trong sa mạc và trong cuộc khổ nạn trên đồi Canvê”. Cha Piô có thái độ gay gắt đối với những người phụ nữ hư hỏng, nói rằng: "Những người phụ nữ thỏa mãn cái tôi phù hoa của mình trong cách ăn mặc sẽ không bao giờ có thể mặc lấy cuộc đời của Chúa Giêsu; hơn nữa, họ thậm chí còn đánh mất niềm vinh dự nơi tâm hồn ngay khi Ngài đi vào lòng họ". Cha Piô tuân thủ các tu luật nghiêm ngặt liên quan đến sự khiêm tốn và từ chối việc xưng tội với những phụ nữ mặc váy ngắn, váy phải dài qua đầu gối. Ông dán một thông báo ở lối vào nhà thờ Đức Mẹ Ban Ơn (St. Mary of All Graces) ở San Giovanni Rotondo với nội dung: "Nhà thờ là nhà của Chúa. Đàn ông không được mặc quần đùi hoặc áo tay ngắn bước vào. Phụ nữ không được mặc quần áo ngắn hở hang, hở cổ, tay áo ngắn và phải có mạng che mặt". Cha Piô vô cùng lo lắng trước những thay đổi mà Giáo hội đang trải qua sau Công đồng Vatican II. Tuy vậy nhưng cha Piô vẫn chấp nhận những thay đổi của Công đồng Vatican II đưa ra. Khi được Đức Hồng Y Antonio Bacci đến thăm, cha Piô đã nói lời phàn nàn rằng: "Vì Chúa hãy kết thúc Công đồng nhanh chóng". Năm 1966, cha Bề trên Tổng quyền Dòng Phanxicô đến gặp cha Piô để xin lời cầu nguyện liên quan đến việc cải tổ dòng tu. Khi nghe về "luật lệ mới", cha Piô trả lời: "Đó chẳng là gì ngoài những điều vô nghĩa mang tính hủy hoại". Tuy nhiên, mặc dù buồn bã trước những thay đổi nhưng cha Piô vẫn nhấn mạnh đến việc tuân theo Giáo hội. Trong một lần cha Piô gặp Suor Pia là em gái của ông và là một nữ tu đã hoàn tục, bà đã rời bỏ dòng tu của mình khi Công đồng Vatican II được thông qua. Suor Pia là một người theo tư tưởng truyền thống và khó chịu trước những thay đổi của bề trên theo xu hướng tự do khiến bà phải rời tu viện ở tuổi 70. Cha Piô đã bật khóc và gắt gỏng với bà ấy về quyết định này, ông ấy nói với em gái của mình rằng: "Họ sai và em đúng, nhưng em vẫn phải tuân theo. Em phải trở về". Bà ấy từ chối lời đề nghị khiến ông khóc không ngừng và tiếp tục cầu nguyện cho bà. Sau khi "Humanae vitae" (một thông điệp của Giáo hoàng Phaolô VI) được xuất bản, cha Piô đã rất tức giận trước những lời chỉ trích nhắm vào thông điệp. Ông đã viết thư cho Giáo hoàng Phaolô VI về điều này, khẳng định sẽ tuân theo giáo huấn của Giáo hội về kiểm soát sinh sản và trấn an Đức Giáo hoàng trong lúc ông cần. Cha Piô thông báo với Giáo hoàng rằng ông sẽ dâng những lời cầu nguyện hàng ngày cho Đức Giáo hoàng, vì sự bảo vệ của Đức Giáo hoàng Phaolô VI đối với "sự thật vĩnh cửu, không bao giờ thay đổi theo năm tháng" là đúng đắn. Khi cha Piô lớn lên, ông ngày càng có cái nhìn không tốt vào truyền hình. Sau Thế chiến thứ hai, khi cháu trai của cha Piô là Ettorne Masone xin cha Piô lời khuyên về việc mở một rạp chiếu phim thì cha Piô đã cảnh báo anh ấy nên cẩn thận về những bộ phim mà anh ấy sẽ chiếu. Cha Piô bảo rằng: "Cháu sẽ không muốn góp phần vào việc truyền bá cái xấu". Đến những năm 1960, cha Piô không đồng tình việc các thầy dòng Capuchin được phép xem truyền hình. Đối với cha Piô, truyền hình là nguyên nhân phá hủy cuộc sống gia đình và ông cảnh báo với những người khác đừng sử dụng truyền hình. Trong một lần, khi được hỏi về phim ảnh, cha Piô trả lời: "Ma quỷ ở trong đó!". Trong một dịp khác, cha Piô nói với một hối nhân khi xưng tội rằng lý do xe của hối nhân bị hỏng ngày hôm trước là vì hối nhân đang lái xe đến rạp chiếu phim. Cha Piô trở nên cực kỳ bi quan về tình trạng của thế giới cho đến cuối đời. Khi được hỏi điều gì đang chờ đợi thế giới trong tương lai, cha Piô trả lời: "Bạn không thấy thế giới đang bốc cháy sao?". Trong ba năm cuối đời, anh bắt đầu rút lui khỏi đời sống, cảm thấy không xứng đáng và không chắc chắn về sự cứu rỗi của mình. Cha Piô thường xin bề trên của mình: "Xin cho con được vâng lời để chết". Padre Pio không quan tâm nhiều đến chính trị nhưng ông có bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử và bày tỏ ý kiến ​​​​của mình về nhiều vấn đề khác nhau. Ban đầu, ông ấy cảm thấy rằng Benito Mussolini đã làm rất tốt trong thời gian cầm quyền của mình, nhưng dần dần thái độ của ông đối với Mussolini nhanh chóng trở nên tiêu cực theo thời gian. Khi được một trong những người của Mussolini đến thăm, cha Piô đã quát vào mặt người đàn ông này: "Vậy là bây giờ anh đến gặp tôi sau khi anh đã hủy diệt nước Ý. Anh có thể nói với Mussolini rằng không gì có thể cứu được nước Ý lúc này! Không có gì cả!". Cha Piô cũng đánh giá cao Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt, người mà ông mô tả là một "con người vĩ đại". Ngoài ra, cha Piô bày tỏ mối quan tâm lớn về sự truyền bá của chủ nghĩa cộng sản trong suốt cuộc đời của mình và thường xuyên cầu nguyện để giúp chống lại nó. Năm 1948, trong một bức thư viết cho Alcide De Gasperi là thủ tướng nước Ý lúc bấy giờ, cha Piô ghi nhận sự ủng hộ của ông đối với Đảng Dân chủ Cơ đốc hay Đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo. Sự tham gia của cha Piô được cho là đã giúp Đảng này giành chiến thắng trong cuộc bầu cử, vì điều này mà những người Cộng sản Ý có thái độ tiêu cực với cha Piô. Một phát ngôn viên của Đảng Cộng sản này phàn nàn rằng sự hiện diện của cha Piô tại các cuộc bỏ phiếu đã "lấy đi phiếu bầu của chúng tôi". Sau những chiến thắng của Đảng Dân chủ Cơ đốc trong các cuộc bầu cử, cha Piô liên tục được các nhà lãnh đạo chính trị người Ý bao gồm Aldo Moro, Antonio Segni, Mariano Rumor và Giovanni Leone hỏi ý kiến. Cha Piô đã nhận được những lá thư nhờ ông ấy cầu nguyện giúp trong suốt cuộc đời, trong đó có một lá thư từ Alfonso XIII vào tháng 3 năm 1923. Cha Piô cũng cầu nguyện cho nhiều nhân vật chính trị nổi tiếng, bao gồm cả George V. Năm 1963, sau vụ ám sát John F. Kennedy, cha Piô đã khóc. Khi một linh mục hỏi liệu ông có cầu nguyện cho sự cứu rỗi của Kennedy không, cha Piô trả lời: "Không cần thiết. Ông ấy đã ở Thiên đường rồi." Nhà sử học người Ý Sergio Luzzatto, một chuyên gia về lịch sử chủ nghĩa phát xít Ý đã viết vào năm 2011 một cuốn tiểu sử về cha Piô, trong đó ông gợi ý rằng một "sự pha trộn giáo sĩ-phát xít" đã phát triển xung quanh cha Piô. Luzzatto kể rằng vào tháng 8 năm 1920, vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, cha Piô đã làm phép cho các lá cờ cho một nhóm cựu chiến binh địa phương, những người đang cố gắng phát triển mối liên hệ với những quân phát xít địa phương để chống lại những người cộng sản. Ông cũng nói rằng cha Piô sau đó đã gặp Giuseppe Caradonna, một chính trị gia phát xít từ Foggia và trở thành cha giải tội của ông ta và của các thành viên trong lực lượng dân quân của ông ấy. Cha Piô gợi ý rằng Caradonna nên bố trí một đội lính cận vệ xung quanh cha Piô để ngăn chặn mọi nỗ lực đưa ông ra khỏi tu viện hay chuyển ông đi nơi khác. Sự tôn kính sau khi chết. Nhiều cuốn sách về Padre Pio bao gồm một thánh tích (vải) hạng ba trên thẻ cầu nguyện. Thánh tích này được bọc khi ông được coi là " Đáng kính ", nhưng ông đã được phong thánh kể từ đó . Năm 1982, Tòa thánh ủy quyền cho tổng giám mục Manfredonia mở cuộc điều tra để xác định xem có nên phong thánh cho Pio hay không. Cuộc điều tra tiếp tục trong bảy năm. Năm 1990, Pio được tuyên bố là Tôi tớ Chúa , bước đầu tiên trong quá trình phong thánh. Tuy nhiên, cuộc điều tra đã không dẫn đến bất kỳ sự giải thích thực tế công khai nào của Giáo hội về những cáo buộc rằng thánh tích của ông không thuộc loại siêu nhiên. Hơn nữa, các dấu thánh của Pio đã bị loại bỏ một cách đáng kể khỏi các cuộc điều tra bắt buộc đối với quá trình phong thánh, để tránh những trở ngại ngăn cản việc kết thúc thành công. Bắt đầu từ năm 1990, Bộ Phong thánh đã tranh luận về cách Padre Pio đã sống cuộc đời của mình, và vào năm 1997, Giáo hoàng John Paul II tuyên bố ông là bậc đáng kính . Sau đó là một cuộc thảo luận về ảnh hưởng của cuộc đời anh đối với những người khác. Các trường hợp đã được nghiên cứu, chẳng hạn như việc chữa khỏi bệnh được báo cáo của một phụ nữ Ý, Consiglia de Martino, liên quan đến sự can thiệp của Padre Pio . Năm 1999, theo lời khuyên của Giáo đoàn, Đức Gioan Phaolô II đã tuyên bố chân phước cho Padre Pio và ấn định ngày 23 tháng 9 là ngày cử hành lễ kính của ngài. Thánh lễ phong chân phước cho ông được Đức Gioan Phaolô II cử hành vào ngày 2 tháng 5 năm 1999 trên Quảng trường Thánh Phêrô ở Rôma , với hơn 300.000 tín hữu tham dự buổi lễ.  Trong bài giảng của mình , Đức Gioan Phaolô II đã đề cập đến dấu thánh của Padre Pio và những món quà thần bí của ngài: "Thân thể của ngài, được đánh dấu bằng 'dấu thánh', cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa cái chết và sự phục sinh vốn là đặc điểm của mầu nhiệm vượt qua. Chân phước Pio thành Pietrelcina đã chia sẻ Cuộc Khổ nạn với một cường độ đặc biệt: những hồng ân độc nhất được ban cho ngài, và những đau khổ nội tâm và thần bí đi kèm với họ, cho phép anh ta liên tục tham gia vào những cơn hấp hối của Chúa, không bao giờ dao động trong cảm giác của anh ta rằng 'Calvary là ngọn đồi của các thánh'."Sau khi phong chân phước cho ngài, một trường hợp khác được chữa lành nhờ lời can thiệp của ngài đã được xem xét, một cậu bé người Ý tên là Matteo Pio Colella đã hồi phục sau cơn hôn mê  Sau khi xem xét kỹ hơn các đức tính và khả năng làm điều tốt của Padre Pio ngay cả sau khi ngài qua đời, Đức Gioan Phaolô II ban hành sắc lệnh phong thánh vào ngày 28 tháng 2 năm 2002.  Thánh lễ phong thánh được Đức Gioan Phaolô II cử hành vào ngày 16 tháng 6 năm 2002 tại Quảng trường Thánh Phêrô ở Rôma, với ước tính khoảng 300.000 người tham dự buổi lễ. Các địa điểm hành hương. Thị trấn San Giovanni Rotondo , nơi Padre Pio đã dành phần lớn cuộc đời mình, là địa điểm hành hương chính dành để tưởng nhớ ngài. Nhà thờ Santa Maria delle Grazie, là nhà thờ của tu viện capuchin nơi Padre Pio cử hành thánh lễ, đã trở thành địa điểm hành hương cho những người theo ngài sau khi ngài qua đời vào năm 1968. Khi số lượng khách hành hương không ngừng tăng lên trong những năm qua, các thầy tu Capuchin quyết định xây dựng một ngôi đền mới gần nhà thờ. Việc xây dựng đền thờ bắt đầu vào năm 1991 và hoàn thành vào năm 2004.  Vào ngày 1 tháng 7 năm 2004, Đức Gioan Phaolô II đã cung hiến Thánh đường Thánh Pio ở Pietrelcina , đôi khi được gọi là "Nhà thờ Hành hương Padre Pio" . Khu bảo tồn có sức chứa khoảng 6.000 người và parvis của nó có sức chứa 30.000.  Thánh tích của Padre Pio được đặt trong hầm mộ của khu bảo tồn mới và được trưng bày để những người hành hương tôn kính. Thị trấn Pietrelcina , nơi Padre Pio lớn lên, là một địa điểm hành hương khác đã trở nên phổ biến đối với những người mộ đạo. Những địa điểm mà những người hành hương ở Pietrelcina có thể đến thăm bao gồm ngôi nhà của gia đình Pio nơi ngài sinh ra, căn phòng của ngài trong một tòa tháp cổ mà ngài đã ở khi còn là một tu sĩ khi bị bệnh, Nhà thờ Santa Anna nơi ngài được rửa tội, Santa Maria degli. Angeli, nơi ông được thụ phong phó tế trước khi trở thành linh mục, và Nhà thờ Capuchin của Thánh gia. Ước tính có khoảng hai triệu người hành hương đến Pietrelcina mỗi năm. Các khu bảo tồn và địa điểm dành riêng cho việc tôn kính Padre Pio bên ngoài nước Ý bao gồm Đền thờ Padre Pio ở Santo Tomas, Batangas ở Philippines và Trung tâm Quốc gia về Padre Pio ở Barto, Pennsylvania , ở Hoa Kỳ . Sự tôn kính của các giáo hoàng. Các Giáo hoàng đã khuyến khích lòng sùng kính của quần chúng đối với Padre Pio bằng nhiều cách khác nhau, đặc biệt là bằng cách đến thăm những nơi gắn liền với cuộc đời và chức vụ của ngài. San Giovanni Rotondo , nơi mà Padre Pio đã dành phần lớn cuộc đời của mình và là nơi có đền thờ của ông, đã được Đức Giáo hoàng John Paul II , Giáo hoàng Benedict XVI và Giáo hoàng Francis đến thăm . Pietrelcina , nơi sinh của Padre Pio, đã được Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm. Giáo hoàng John Paul II đã rất ngưỡng mộ Padre Pio ngay cả trước khi ông trở thành Giáo hoàng, khi Padre Pio vẫn còn sống. Năm 1947, khi còn là một linh mục trẻ đang học ở Rôma, Karol Wojtyła đã hành hương đến San Giovanni Rotondo để gặp trực tiếp Padre Pio. Ông trở lại San Giovanni Rotondo với tư cách là hồng y vào năm 1974. Ông lại đến thăm San Giovanni Rotondo vào tháng 5 năm 1987 với tư cách là Giáo hoàng John Paul II, để kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Padre Pio. Vào ngày 21 tháng 6 năm 2009, Giáo hoàng Benedict XVI đã đến thăm San Giovanni Rotondo như một chuyến thăm mục vụ. Anh ấy đã đến thăm Nhà thờ Santa Maria delle Grazie để tôn kính thánh tích của Padre Pio trong hầm mộ, cử hành thánh lễ và gặp gỡ nhiều người khác nhau, bao gồm cả những người bệnh và nhân viên của Casa Sollievo della Sofferenza . Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã ủng hộ lòng sùng kính phổ biến đối với Padre Pio. Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót ngoại thường , ngài đã yêu cầu thánh tích của Padre Pio được trưng bày để tôn kính tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô từ ngày 8 đến ngày 14 tháng 2 năm 2016 và ngài đặc biệt vinh danh Padre Pio như một "thánh giải tội" để truyền cảm hứng cho mọi người đến với Bí tích Giải tội . Sám Hối trong Năm Thánh.  Vào ngày 17 tháng 3 năm 2018, Giáo hoàng Francis đã đến thăm cả Pietrelcina và San Giovanni Rotondo để kỷ niệm 50 năm ngày mất của Padre Pio. Vào ngày 3 tháng 3 năm 2008, thi thể của Pio được khai quật từ hầm mộ của ông, bốn mươi năm sau khi ông qua đời, để chuẩn bị cho việc trưng bày hài cốt của ông. Một tuyên bố của nhà thờ mô tả thi thể ở trong "tình trạng bình thường". Đức Tổng Giám mục Domenico Umberto D'Ambrosio, Giáo hoàng hợp pháp tại đền thờ ở San Giovanni Rotondo, tuyên bố "phần trên cùng của hộp sọ chỉ còn một phần xương nhưng cằm thì hoàn hảo và phần còn lại của cơ thể được bảo quản tốt".  Tổng giám mục D'Ambrosio cũng xác nhận trong một thông cáo rằng "không thể nhìn thấy các dấu thánh".  Anh ấy nói rằng bàn tay của Pio "trông như vừa mới được làm móng". Người ta hy vọng rằng những người làm nghề mai tángsẽ có thể khôi phục khuôn mặt để nó có thể được nhận ra. Tuy nhiên, vì đã xuống cấp nên khuôn mặt của anh được che phủ bằng một chiếc mặt nạ silicon sống động như thật .  Chiếc mặt nạ này được làm từ một bức ảnh chụp xác của Padre Pio năm 1968 bởi Gems Studio có trụ sở tại London, thường làm việc cho các bảo tàng tượng sáp và bảo tàng dân tộc học. Đức Hồng Y José Saraiva Martins , bộ trưởng Bộ Phong Thánh , đã cử hành Thánh Lễ cho 15.000 tín hữu vào ngày 24 tháng 4 tại Đền Thánh Đức Mẹ Ban Ơn, San Giovanni Rotondo, trước khi thi hài được trưng bày trong bình pha lê, đá cẩm thạch, và ngôi mộ bằng bạc trong hầm mộ của tu viện.  Padre Pio đang mặc tu phục Capuchin màu nâu với khăn choàng lụa trắng thêu pha lê và chỉ vàng. Tay anh ta cầm một cây thánh giá bằng gỗ lớn. 800.000 người hành hương trên toàn thế giới, chủ yếu đến từ Ý, đã đặt trước để xem thi thể cho đến tháng 12 năm 2008, nhưng chỉ có 7.200 người mỗi ngày có thể đi qua quan tài pha lê. Các quan chức kéo dài thời gian trưng bày đến tháng 9 năm 2009. Hài cốt của Pio được đặt trong nhà thờ Saint Pio, bên cạnh San Giovanni Rotondo. Vào tháng 4 năm 2010, họ đã được chuyển đến một hầm mộ vàng đặc biệt. Các nhóm cầu nguyện. Các nhóm cầu nguyện của Padre Pio bắt đầu vào những năm 1950 khi Giáo hoàng Pius XII kêu gọi thành lập các nhóm tụ họp hàng tháng để cầu nguyện cùng nhau.  Padre Pio đã hưởng ứng lời kêu gọi này và khuyến khích những người sùng đạo của mình thành lập những nhóm như vậy. Các nhóm được liên kết với việc xây dựng "Casa Sollievo della Sofferenza" , với một bản tin hai tuần một lần mang tên bệnh viện và được xuất bản từ năm 1949, đã giúp các nhóm này phát triển.  Năm 1951, quy chế đầu tiên của các nhóm cầu nguyện được soạn thảo.  Các nhóm cầu nguyện tập hợp hàng tháng, với sự đồng ý của giám mục địa phương và dưới sự hướng dẫn của một linh mục, để cầu nguyện cho giáo hoàng và cho các mục vụ của Padre Pio. Các quy chế mới đã được Vatican chính thức phê duyệt vào năm 1986.  Các nhóm cầu nguyện của Padre Pio được điều phối từ trụ sở chính của họ ở Casa "Sollievo della Sofferenza" . Các nhóm cầu nguyện tiếp tục phát triển trong suốt cuộc đời của Padre Pio và sau khi ông qua đời. Năm 1968 khi Padre Pio qua đời, có khoảng 700 nhóm, với 68.000 thành viên ở 15 quốc gia.  Năm 2013, có khoảng 3.300 nhóm đã đăng ký tại 60 quốc gia, với khoảng 75 % trong số các nhóm đó có trụ sở tại Ý và 25 % bên ngoài Ý, chủ yếu ở Pháp , Ireland và Hoa Kỳ . Nổi tiếng trên toàn thế giới. Padre Pio đã trở thành một trong những vị thánh nổi tiếng nhất thế giới.  Có hơn 3.000 "Nhóm cầu nguyện Padre Pio" trên toàn thế giới, với ba triệu thành viên. Giáo xứ Thánh Padre Pio đầu tiên trên thế giới được thành lập ngày 16 tháng 6 năm 2002 tại Kleinburg, Ontario, Canada.  Có các giáo xứ ở Vineland và Lavallette, New Jersey , và Sydney , Australia , và các đền thờ ở Buena , New Jersey , và Santo Tomas, Batangas , Philippines , dành riêng cho Padre Pio. Một cuộc khảo sát năm 2006 của tạp chí "Famiglia Cristiana"phát hiện ra rằng nhiều người Công giáo Ý cầu nguyện với Padre Pio để được chuyển cầu hơn bất kỳ nhân vật nào khác. Năm 2002, một vài tháng sau khi Padre Pio được phong thánh, một đài truyền hình mới đã được ra mắt ở Ý dành riêng cho cuộc đời và lòng tận tụy của ngài, có tên là Padre Pio TV . Nó có trụ sở tại San Giovanni Rotondo và phát sóng trên trang web riêng của mình và các nền tảng internet khác nhau. Hài cốt của Thánh Pio đã được đưa đến Vatican để tôn kính trong Năm Thánh Lòng Thương Xót Ngoại thường 2015–2016 . Saint Pio và Saint Leopold Mandic được chỉ định là những vị thánh giải tội để truyền cảm hứng cho mọi người trở nên hòa giải với Giáo hội và với Chúa, bằng cách thú nhận tội lỗi của họ. Thánh Pio thành Pietrelcina được mệnh danh là vị thánh bảo trợ của các tình nguyện viên dân phòng, sau khi một nhóm gồm 160 người thỉnh cầu Hội đồng Giám mục Ý về việc chỉ định này. Các giám mục đã chuyển yêu cầu đến Vatican, nơi đã chấp thuận việc chỉ định.  Ông cũng được biết đến một cách "ít chính thức" hơn với tư cách là vị thánh bảo trợ cho việc giải tỏa căng thẳng và nỗi buồn tháng Giêng", sau khi Văn phòng Điều tra Công giáo ở Luân Đôn tuyên bố ông như vậy. Họ chỉ định ngày buồn nhất trong năm, được xác định là thứ Hai gần nhất với ngày 22 tháng 1, là "Ngày Đừng lo lắng mà hãy hạnh phúc" , để vinh danh lời khuyên nổi tiếng của Padre Pio: "Hãy cầu nguyện, hy vọng và đừng lo lắng." Biểu tượng của Padre Pio đã được sao chép rộng rãi trên các vật phẩm và tượng thờ cúng trên khắp nước Ý và thế giới, ngay cả trước khi phong chân phước và phong thánh cho ông. Chân dung của ông có thể được nhìn thấy ở Ý trong nhiều nhà thờ cũng như tại nhà riêng và những nơi công cộng, chẳng hạn như cửa hàng, nhà hàng.  Trong nghệ thuật tôn giáo, ông thường được miêu tả trong trang phục Capuchin màu nâu với đôi găng tay che dấu thánh . Tượng của Padre Pio đã được dựng lên ở Ý và các quốc gia khác, bao gồm cả ở Hoa Kỳ, Philippines và Malta.  Trong Đền thánh Padre Pio ở Landisville, New Jersey , có một bức tượng Padre Pio được xây dựng và nhập khẩu từ Ý.  Một bức tượng của Pio ở Messina , Sicily , đã thu hút sự chú ý vào năm 2002 khi được cho là đã khóc ra máu.  Tại Ý, gần bờ biển của đảo Capraia ở biển Địa Trung Hải , có một bức tượng Padre Pio dưới nước ở độ sâu 40 foot (13 mét), bị nhấn chìm vào năm 1998. Vào năm 2021, việc xây dựng một khu bảo tồn mới dành riêng cho Padre Pio đã bắt đầu trên một ngọn đồi nhìn ra Thành phố Cebu , ở Philippines, với bức tượng Padre Pio cao 100 foot.  Cùng năm đó, một bức tượng của Padre Pio đã được khánh thành tại Đền thờ Padre Pio ở Santo Tomas, Batangas , Philippines.
Cảnh Biểu (; ngày 26 tháng 8 năm 1909 – ngày 23 tháng 6 năm 2000) là quan chức cấp cao trong Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) và là nhà lãnh đạo chính trị, quan hệ đối ngoại và quân sự của Trung Quốc. Ông từng giữ chức Phó Thủ tướng Quốc vụ viện từ năm 1978 đến năm 1982. Cảnh Biểu chào đời ngày 26 tháng 8 năm 1909 trong một gia đình nông dân nghèo ở thôn Nghiêm Gia Xung trấn Bắc Hương huyện Lễ Lăng tỉnh Hồ Nam cuối thời Thanh. Năm lên 7 tuổi, ông cùng cha mẹ chạy trốn nạn đói đến Thủy Khẩu Sơn, huyện Trường Ninh, miền nam Hồ Nam. Năm 1922, ông vào làm công nhân khi mới có 13 tuổi tại mỏ chì kẽm Thủy Khẩu Sơn, phía nam thành phố Hành Dương. Ông gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản Trung Quốc ở Thủy Khẩu Sơn vào tháng 5 năm 1925. Năm 1926, ông tham gia vận động thợ mỏ tham gia đấu tranh vũ trang, ngay sau đó trở về Lễ Lăng thành lập và lãnh đạo Hồng vệ binh nông dân tham gia bạo loạn Lễ Lăng và dẫn toán quân này tấn công Trường Sa nhưng vấp phải thất bại. Năm 1928, ông đến Lưu Dương làm tiểu đội trưởng chi đội du kích địa phương, rồi ít lâu sau gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 8 cùng năm. Hồng quân Công nông Trung Quốc. Tháng 9 năm 1930, Cảnh Biểu dẫn chi đội du kích sáp nhập vào Quân đoàn 3 Tập đoàn quân 1 Hồng quân Công nông Trung Quốc, sau đó được cử làm tham mưu, đội trưởng đội cán bộ huấn luyện, trung đoàn trưởng, tham mưu trưởng Sư đoàn 9 Quân đoàn 3. Năm 1933, ông trở thành trung đoàn trưởng Trung đoàn 4, Sư đoàn 2 Phương diện quân số 1 Hồng quân. Ngày 10 tháng 10 năm 1934, ông bắt đầu cuộc Trường chinh với tư cách là lãnh đạo đơn vị tiên phong của sư đoàn 2 vào đầu năm 1935, ông đã chiếm giữ một pháo đài quân sự quan trọng tại Lâu Sơn Quan thuộc tỉnh Quý Châu. Kết quả là, ông được thăng chức Tham mưu trưởng Sư đoàn 1 Phương diện quân 1 Hồng quân sau Hội nghị Tuân Nghĩa. Sau khi đến miền bắc Thiểm Tây, ông bị thương nặng trong trận kịch chiến với quân đội Quốc Dân Đảng. Năm 1936, ông tốt nghiệp Đại học Quân chính kháng Nhật và được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Quân đoàn 4 của Phương diện quân số 4 Hồng quân. Quân đoàn 4 vừa đến phía bắc Thiểm Tây dưới sự lãnh đạo của Trương Quốc Đào, và ông nắm quyền chỉ huy đơn vị này. Chiến tranh Trung–Nhật (1937–1945). Sau khi chiến tranh Trung–Nhật lần thứ hai bùng nổ, ông được cử làm Tham mưu trưởng, Phó Lữ đoàn trưởng và Phó Chính ủy Lữ đoàn 385 Sư đoàn 129 Bát Lộ Quân kiêm nhiệm Tư lệnh biên phòng huyện thành Khánh Dương, cùng với Vương Duy Châu dẫn bộ đội chốt giữ phía đông Cam Túc, bảo vệ biên giới phía tây Biên khu Thiểm Cam Ninh. Tháng 7 năm 1941, ông nhập học trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 9 năm 1944 được điều động đến Quân khu Tấn Sát Ký nhậm chức Phó Tham mưu trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Liên lạc. Tháng 8 năm năm 1945, ông chỉ huy Bát Lộ Quân đánh chiếm Trương Gia Khẩu. Nội chiến Quốc–Cộng lần hai (1946–1949). Năm 1946, Cảnh Biểu cùng với Diệp Kiếm Anh tham gia Ủy ban Hòa giải Quân sự Bắc Bình do Tướng George C. Marshall khởi xướng nhằm thúc đẩy và ngăn chặn sự bùng nổ cuộc nội chiến giữa Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng. Lúc này ông đang là phó tham mưu trưởng, trưởng ban giao thông liên lạc đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc. Sau khi hòa giải thất bại, ông quay về làm Tham mưu trưởng Dã chiến quân Quân khu Tấn Sát Ký. Ông còn tham gia tổ chức các chiến dịch như Chính Thái, Thanh Thương, Bảo Bắc, Thanh Phong Điếm và Thạch Gia Trang. Năm 1948, ông được trao chức Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 Quân khu Hoa Bắc, từng đem quân tham chiến tại Bình Tân, Thái Nguyên, Lan Châu và Ninh Hạ. Sự nghiệp chính trị từ sau năm 1949. Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1949, Cảnh Biểu chuyển sang làm công tác ở mặt trận ngoại giao, trở thành một trong mười vị đại sứ đầu tiên của Trung Quốc. Ông được bổ nhiệm làm đại sứ tại Thụy Điển, Đan Mạch và Phần Lan vào ngày 9 tháng 5 năm 1950. Sau năm 1959 ông được cử làm Thứ trưởng Bộ Ngoại giao kiêm đại sứ Trung Quốc tại Pakistan, Myanmar và Albania. Ông trở về nước vào năm 1971 và đảm nhận chức vụ Trưởng ban Liên lạc Đối ngoại Trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc từ tháng 1 năm 1979 đến tháng 4 năm 1982. Ngày 6 tháng 10 năm 1976, ông được lệnh của Hoa Quốc Phong khi đó là Chủ tịch Ủy ban Trung ương kiêm Chủ tịch Quân ủy Trung ương phải nắm chắc quyền kiểm soát các đài phát thanh và truyền hình ở Bắc Kinh nhằm đảm bảo rằng quá trình đập tan Bè lũ Bốn tên có thể diễn ra suôn sẻ. Ít lâu sau, ông phụ trách công tác tuyên truyền của Đảng. Tháng 8 năm 1977, ông được bầu vào Bộ Chính trị. Năm 1978, ông được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng Quốc vụ viện, phụ trách quan hệ đối ngoại, công nghiệp quân sự, hàng không dân dụng và du lịch. Tháng 1 năm 1979, ông giữ chức Thư ký trưởng kiêm Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1981, ông trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đầu tiên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không mang quân hàm Nguyên soái và là người duy nhất chưa từng được phong quân hàm mặc dù đã từng có kinh nghiệm chiến đấu. Ông được thay thế làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và trở thành Ủy viên Quốc vụ viện vào năm sau. Tháng 9 năm 1982, ông làm Ủy viên Thường vụ Ủy ban Cố vấn Trung ương. Tháng 6 năm 1983, ông được bầu làm Phó Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa VI kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 9 năm 1988, ông được tặng thưởng Huân chương Sao Đỏ hạng nhất. Ông qua đời ngày 23 tháng 6 năm 2000 tại Bắc Kinh hưởng thọ 91 tuổi. Vợ của Cảnh Biểu là Triệu Lan Hương (赵兰香; 1923 – 22 tháng 7 năm 2022) quê ở Khánh Dương tỉnh Cam Túc, và kết hôn với ông ở Lũng Đông vào năm 1941. Bà từng giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng Cảnh Biểu thuộc Quân ủy Trung ương. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #FFBF00;" | Chức vụ Đảng ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #bebebe;" | Chức vụ nhà nước ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #FACEFF;" | Chức vụ ngoại giao
Tôn Kiện (; 1936 – tháng 11 năm 1997) là công nhân nhà máy từng được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng Quốc vụ viện từ năm 1975 cho đến năm 1978 trong giai đoạn cuối thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Tôn Kiện chào đời năm 1936 tại vùng nông thôn huyện Định Hưng tỉnh Hà Bắc.. Năm 1951, ông đến Thiên Tân học nghề đảo cát nhà máy động cơ đốt trong, về sau trở thành một công nhân đúc nổi tiếng. Ông từng trải qua các chức vụ tổ trưởng sản xuất, trưởng ca, quản đốc phân xưởng,phó bí thư đoàn thanh niên. Năm 1958 gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc và từng đảm nhận chức vụ Bí thư Đảng ủy. Tháng 8 năm 1973, tại Đại hội Đảng lần thứ X được bầu vào làm Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 11 năm 1973, giữ chức Ủy viên Thành ủy Thiên Tân, Ủy viên Thường vụ và Bí thư Ban Thường vụ Thành ủy Thiên Tân. Tháng 11 năm 1974, được cử làm Ủy viên Ủy ban Cách mạng thành phố Thiên Tân, Ủy viên Thường vụ và Phó Chủ nhiệm Ủy ban Cách mạng Thành phố Thiên Tân. Tháng 1 năm 1975, tại hội nghị lần thứ nhất Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc khóa IV tổ chức tại Bắc Kinh được cử giữ chức Phó Thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phụ trách sản xuất công nghiệp, lúc này ông mới 39 tuổi. Tháng 7 năm 1976, ông dẫn đầu đoàn đại biểu chính phủ Trung Quốc tham gia nghi thức giao lưu đường sắt Tanzania, Zambia và thăm chính thức hai nước này. Tháng 10 cùng năm đó, sau khi đập tan Bè lũ Bốn tên, ông vẫn làm Phó Thủ tướng thêm hai năm nữa nhưng do thuộc phe cánh Bè lũ Bốn tên nên bị miễn chức vào mùa xuân năm 1978. Ông đành quay trở lại công tác ở Thiên Tân, phải trải qua "cải tạo có giám sát" tại Nhà máy Động cơ Thiên Tân. Khi vợ ông là Bàng Tú Đình (庞秀婷) được phép đến thăm chồng mình, ông đã hứa với bà rằng ông sẽ không tự sát. Tôn Kiện trở lại đời sống cũ với tư cách là một công nhân nhà máy, mặc dù giờ đây ông được coi là trung tâm của sự chú ý vì từng là Phó Thủ tướng. Năm 1985, chính phủ cho phép ông thăng chức lên vị trí quản lý cấp trung, và Tôn được giao phụ trách khoản đầu tư 5 triệu đô la Mỹ của Đức vào dây chuyền sản xuất xe máy ở Thiên Tân. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm quản lý của một công ty máy móc nhà nước tại Khu Phát triển Kinh tế-Công nghệ Thiên Tân (TEDA). Tháng 11 năm 1997, ông qua đời vì bệnh ung thư phổi ở Thiên Tân, hưởng thọ 61 tuổi.
Đào Chú (; ngày 16 tháng 1 năm 1908 – ngày 30 tháng 11 năm 1969) là chính khách và nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc, giữ chức Bí thư Thường trực Ban Bí thư Trung ương kiêm Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Trung ương và Cố vấn Tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương vào năm 1966, từng được bầu làm Phó Thủ tướng Quốc vụ viện từ năm 1965 cho đến đầu năm 1967. Thời kỳ hoạt động cách mạng. Đào Chú tên thật là Tế Hoa, hiệu là Kiếm Hàn, còn có tên khác là Nhiệm Đào. Ông sinh ngày 16 tháng 1 năm 1908 trong một gia đình trí thức nghèo khổ ở thôn Lang Thụ, Thạch Động Nguyên, huyện Kỳ Dương tỉnh Hồ Nam. Năm 1914 khi Đào Chú lên 6 tuổi đi theo cha mình là Đào Thiết Tranh đến học trường Tư Thục ở Vũ Xương. Năm 1915 do vì Viên Thế Khải khủng bố phe cách mạng, Đào Thiết Tranh bèn đem cả nhà rời khỏi Vũ Hán trở về quê Kỳ Dương cùng với bạn thân mở trường dạy học kiểu mới Văn Xương Các, Đào Chú tiếp tục đi học tiểu học Văn Xương Các do cha ông làm hiệu trưởng. Năm 1918, cha và chú thứ ba bị Tiêu Diệu Nam, thuộc hạ của quân phiệt Bắc Dương Ngô Bội Phu giết chết, Đào Chú bỏ học do gia đình rơi vào cảnh túng quẫn, sau được người thân giới thiệu đi học nghề trong vài năm. Năm 1926, ông nhập học Trường Quân sự Hoàng Phố khóa 5 ở Quảng Châu, cùng năm đó, bạn học Triệu Thế Gia, Trần Bảo Hoa và Chiêm Bất Ngôn đã rủ ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đầu tháng 4 năm 1927, ông được cử đến Vũ Hán tham gia đội tuyên truyền của Tổng cục Chính trị Quốc dân Cách mệnh Quân. Sau khi sự hợp tác đầu tiên của Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản bị phá vỡ, Đào Chú bèn gia nhập Trung đoàn Cảnh vệ thuộc Quân đoàn 4 Quốc dân Cách mệnh Quân rồi lần lượt tham gia vào cuộc khởi nghĩa Nam Xương và khởi nghĩa Quảng Châu. Năm 1929, Đào Chú giữ chức Tổng thư ký kiêm Bí thư Tỉnh ủy Phúc Kiến kiêm Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Phúc Kiến. Tháng 5 năm 1930, ông đích thân dẫn 12 người đột kích vào Nhà tù Hạ Môn giải cứu hơn 40 đảng viên Đảng Cộng sản mà không có thương vong, khiến hơn 20 lính canh phòng Quốc Dân Đảng thiệt mạng, từng được coi là "Vụ cướp ngục Hạ Môn" gây chấn động cả nước lúc bấy giờ. Năm 1932, ông kết hôn với người bạn đời Tăng Chí và có một cô con gái đặt tên là Đào Tư Lượng. Năm 1933, Đào Chú đến làm việc tại Ban Chấp hành Trung ương Đảng ở Thượng Hải nhưng không may bị Chính phủ Quốc dân phát hiện và bắt giữ, áp giải đến Bộ Tư lệnh Hiến binh Nam Kinh chịu án tù chung thân. Năm 1937, sau các cuộc đàm phán giữa Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh và chính phủ Quốc Dân Đảng; vào ngày 26 tháng 9, Hoàng Văn Kiệt đã giải cứu bảy người trong đó có Đào Chú ra khỏi nhà tù. Kháng chiến chống Nhật đến nội chiến. Sau khi Đào Chú vừa ra tù, ông liền được cử đến Hồ Bắc với tư cách là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy kiêm Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền. Sau trận Vũ Hán vào tháng 10 năm 1938, quân du kích địa phương được tổ chức ở miền trung tỉnh Hồ Bắc và lập khu căn cứ địa du kích Ngạc Trung dựa trên núi Đại Hồng Sơn rồi đem quân tấn công huyện thành Vân Mộng vào ban đêm. Sau đó, ông gia nhập Chi đội Đỉnh Tiến, Dự Ngạc Tân Tứ quân do Lý Tiên Niệm tổ chức và giữ chức vụ chính ủy chi đội này. Năm 1940, Đào Chú đặt chân đến Diên An rồi ít lâu sau giữ chức Tổng thư ký Quân ủy Trung ương, Tổng thư ký Tổng cục Chính trị và Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền vào năm 1943. Năm 1945, Đào Chú tham gia Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 7. Đại hội quyết định phát động chiến tranh du kích tại biên khu Tương Việt Quế. Ông từng là phó bí thư tổ chức đảng biên khu và phó chính ủy chi đội 3 của Bát Lộ quân phía nam. Sau khi Nhật Bản đầu hàng vào tháng 8 năm 1945, ông được lệnh đi đến vùng Đông Bắc băng qua Thái Hành, Ký Trung và Ký Đông đến Sơn Hải Quan, giữa tháng 9 thì đến Thẩm Dương, đổi làm Bí thư Tỉnh ủy Liêu Ninh rồi tham gia chiến dịch Tứ Bình, chịu trách nhiệm tổ chức hậu cần như tiếp tế đạn dược và vận chuyển thương binh. Tháng 9 năm 1947, ông kiêm nhiệm chức Chính ủy Tung đội 7 Quân đội Liên minh Dân chủ Đông Bắc. Sau chiến dịch Liêu Thẩm, Đào Chú giữ chức Bí thư Thành ủy Thẩm Dương và Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quân quản Thẩm Dương. Tháng 1 năm 1949, Đào Chú rời Thẩm Dương cùng với Dã chiến quân Đông Bắc, trở thành Phó Chủ nhiệm Cục Chính trị Dã chiến quân Đông Bắc, tiến vào Sơn Hải Quan và tham gia chiến dịch Bình Tân. Ngày 21 tháng 1, trên cương vị là đại diện toàn quyền thuộc Bộ Tư lệnh Mặt trận Bình Tân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Đào Chú đã vào thành phố để đàm phán với Phó Tác Nghĩa. Hai bên bèn tuyên bố "Thỏa thuận về việc giải quyết vấn đề hòa bình ở Bắc Bình" vào ngày hôm sau. Ông liền chỉnh biên quân đội Quốc Dân Đảng đầu hàng ở Bắc Bình nhờ vậy mà thành phố này đã thoát khỏi sự tàn phá của chiến tranh. Tháng 5 năm 1949, Đào Chú giữ chức Ủy viên Cục Hoa Trung Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Chủ nhiệm Cục Chính trị Quân khu Hoa Trung kiêm Đệ tứ Dã chiến quân, chịu trách nhiệm tiếp quản ba thị trấn ở Vũ Hán. Sự nghiệp chính trị từ sau năm 1949. Tháng 10 năm 1950, Đào Chú nhận lệnh của Chính phủ Trung ương đến Quảng Tây chủ trì công tác tiễu phỉ, lãnh đạo cuộc chiến thanh lọc tàn quân Quốc Dân Đảng và thổ phỉ, nhanh chóng ổn định trật tự xã hội. Một năm sau, ông được điều đến Quảng Châu công tác. Ngày 15 tháng 12 năm 1951, chính phủ bổ nhiệm Đào Chú làm Bí thư phân cục Hoa Nam kiêm Chính ủy Quân khu Hoa Nam. Tháng 5 năm 1953, ông kiêm quyền Chủ tịch Chính phủ Nhân dân tỉnh Quảng Đông. Từ ngày thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949 cho đến năm 1965, Đào Chú được cử làm Phó Thủ tướng Quốc vụ viện tại hội nghị lần thứ nhất Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa III tháng 1 năm 1965, còn giữ các chức vụ phó chủ nhiệm Ban Chính trị Quân khu Trung Nam, sau đó là Chủ nhiệm, quyền Bí thư Tỉnh ủy Quảng Tây, Tỉnh trưởng Quảng Đông, Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Quảng Đông, Bí thư thứ nhất Cục Trung Nam Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc kiêm Chính ủy Quân khu Quảng Châu. Năm 1958, trong giai đoạn đầu của Đại nhảy vọt, ông đã tham gia nhiệt tình vào "chiến dịch chống tích trữ" ở Quảng Đông, tin rằng các số liệu sản xuất được báo cáo là có thật và tình trạng thiếu lương thực quan sát được chỉ là do nông dân tích trữ. Trong vòng một năm, ông chợt nhận ra sai lầm của mình khi chiến dịch do mình phát động không thể phát hiện ra nguồn cung cấp lương thực dự trữ trong các ngôi làng; trên thực tế, hầu hết nông dân đều chết đói. Trong Hội nghị Lư Sơn năm 1959, ban đầu ông có thiện cảm với Bành Đức Hoài khi ông chỉ trích Đại nhảy vọt. Tuy nhiên, sau phản ứng gay gắt từ Mao Trạch Đông, Đào Chú đã đổi phe và hùa theo những cuộc công kích của chủ tịch Mao nhằm vào "thành phần cực hữu", đệ trình danh sách các quan chức của chính mình mà ông xác định là "phe tả khuynh". Tuy vậy, ngay tại Quảng Đông, chính phủ của ông đã thực hiện các bước hòng đảo ngược thiệt hại của Đại nhảy vọt bằng cách mở rộng quyền sở hữu đất đai của từng nông dân và cho phép họ di cư đến Hồng Kông mưu sinh. Hoạt động dưới thời Cách mạng Văn hóa. Tháng 6 năm 1966, Đào Chú rời khỏi Quảng Châu đi đến Bắc Kinh nhằm thay thế Lục Định Nhất làm Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Trung ương. Trong suốt thời gian đầu công tác ở Bắc Kinh, ông còn được cử làm Bí thư thường trực Ban Bí thư Trung ương đồng thời là cố vấn Tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương. Tháng 8 năm 1966, Trung ương mở hội nghị 11 khóa 8 đã bầu bổ sung Đào Chú vào Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, và chọn làm Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị xếp sau Mao Trạch Đông, Lâm Bưu và Chu Ân Lai, trở thành người quan trọng đứng thứ tư trong Đảng Cộng sản Trung Quốc. Điều đó cho phép người được ông bảo trợ là Triệu Tử Dương lên nắm quyền điều hành tỉnh Quảng Đông. Đào Chú và Triệu Tử Dương là một trong những nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc ủng hộ Hồng vệ binh nhiệt tình nhất lúc ban đầu nhưng nhanh chóng đánh mất sự ủng hộ này vì họ cố gắng kiểm soát sự thái quá của phe cánh tả cấp tiến do Trương Xuân Kiều và Giang Thanh lãnh đạo. Đào Chú trở thành Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương lần thứ 11 vào tháng 8 năm 1966 khi bắt đầu cuộc Cách mạng Văn hóa, nhưng đã bị đánh đổ ngay sau đó do bất đồng ý kiến về hoạt động của Tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương, đến nỗi bị phe cánh Lâm Bưu, Giang Thanh bôi nhọ là "người đại diện đường lối Lưu, Đặng", "phái bảo hoàng giai cấp tư sản lớn nhất Trung Quốc" và "kẻ có dã tâm kiểu Khrushchev". Sau cùng ông quản thúc tại gia và bãi miễn mọi chức vụ vào ngày 10 tháng 1 năm 1967. Trong thời gian bị quản thúc tại gia nghiêm ngặt, ông được bác sĩ chẩn đoán mắc bệnh ung thư túi mật nhưng bị từ chối điều trị y tế lúc đầu. Thủ tướng Chu Ân Lai cuối cùng đã phải can thiệp để sắp xếp làm phẫu thuật cho ông nhưng khi đó bệnh ung thư của Đào Chú đã trầm trọng đến mức vô phương cứu chữa. Ngày 15 tháng 10 năm 1969, ông nhận được thông báo lập tức rời khỏi Bắc Kinh, chuyển tới Hợp Phì tỉnh An Huy trong tình cảnh phải tự lo liệu lấy cuộc sống một mình kèm theo sự dày vò của bệnh tật và tinh thần đến mức nằm liệt giường. Ngày 30 tháng 11 năm 1969, Đào Chú đã qua đời trong bệnh viện, hưởng thọ 61 tuổi. Người thân còn không được phép viếng thăm ông trên giường bệnh hoặc sau khi ông qua đời. Ông chỉ được minh oan sau khi Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền vào năm 1978.
Kyiv (tỉnh của Ba Lan) Tỉnh Kyiv (, , , "Kyjivśke vojevodstvo") là một đơn vị hành chính và chính quyền địa phương ở Đại công quốc Litva từ năm 1471 đến năm 1569 và của Lãnh địa hoàng gia Vương quốc Ba Lan từ 1569 đến 1793, là một phần của tỉnh Tiểu Ba Lan của Lãnh địa hoàng gia Ba Lan. Tỉnh được thành lập vào năm 1471 sau cái chết của thân vương cuối cùng của Kyiv Simeon Olelkovich và chuyển đổi Thân vương quốc Kyiv (công quốc phụ thuộc của Đại công quốc Litva) thành tỉnh Kyiv. Tỉnh được thành lập vào năm 1471 theo lệnh của Vua Kazimierz IV Jagiellończyk ngay sau cái chết của Semen Olelkovich. Tỉnh đã thay thế Thân vương quốc Kyiv trước đây, được cai trị bởi các thân vương gia tộc Olelkovich người Litva-Ruthenia (có liên quan đến nhà Algirdas và gia tộc Olshansky). Trung tâm hành chính đầu tiên của tỉnh là Kyiv, nhưng khi thành phố này được trao cho Đế quốc Nga vào năm 1667 theo Hiệp định đình chiến Andrusovo, thủ phủ chuyển đến Zhytomyr (tiếng Ba Lan: Żytomierz), duy trì tình trạng này cho đến năm 1793. Đây là tỉnh lớn nhất của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva tính theo diện tích đất, bao phủ vùng đất của người Cossack Zaporizhia và những vùng khác. Thống đốc của tỉnh là voivoda (). Trong Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, hai vị trí hành chính quan trọng khác là castellan () và giám mục (biskup kijowski). Lá cờ ở một bên có Pogon của Litva trên nền đỏ và mặt còn lại là con gấu đen trên nền trắng với bàn chân trái phía trước giơ lên. Trong thế kỷ 15–16, tất cả các voivoda đều có nguồn gốc từ người Litva hoặc người Ruthenia, chẳng hạn như Holszański và Radziwiłł. Sau đó thuộc về các gia đình Chính thống giáo phương Đông là Ostrogski và Zaslawski và trong một thời gian ngắn là Movilești (Lozynski). Từ đầu thế kỷ 17, các voivoda có nguồn gốc Ba Lan, cùng với Ruthenia, đã được chọn nhậm chức, cụ thể là Potocki. Stanisław Rewera Potocki (1655–1658) Thay cho một số hạt bị thanh lý vào năm 1566, đã có các khu trưởng lão được thành lập: Biała Cerkiew, Kaniów, Korsun, Romanówka, Czerkasy, Czigrin.
UEFA Champions League 2024–25 comment/* Phân phối *//comment UEFA Champions League 2024–25 (hay còn gọi là Giải bóng đá vô địch các câu lạc bộ châu âu 2024–25) dự kiến sẽ là mùa giải thứ 70 của giải đấu bóng đá cấp câu lạc bộ hàng đầu châu Âu do Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) tổ chức. Đây cũng là mùa giải lần thứ 33 kể từ khi giải đấu được đổi tên từ European Champion Clubs' Cup thành UEFA Champions League và là mùa giải đầu tiên được thi đấu dưới thể thức hệ Thụy Sĩ (Swiss-system). Vòng chung kết dự kiến sẽ được tổ chức vào ngày 31 tháng 5 năm 2025 tại sân vận động Allianz Arena nằm ở thành phố München, Đức. Đội vô địch của mùa giải 2024–25 sẽ đủ điều kiện để lọt vào vòng bảng của mùa giải 2025–26 và giành quyền thi đấu với đội vô địch mùa giải Europa League trong trận Siêu cúp châu Âu 2025 đồng thời lọt vào giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2025 tại Hoa Kỳ. Có tổng cộng 83 đội bóng từ 53 trên tổng số 55 hiệp hội của UEFA sẽ tham dự mùa giải. Liechtenstein tuyên bố sẽ không tham dự do phải chuẩn bị để tổ chức giải quốc nội và Nga hiện đang bị cấm tham dự do tình hình chính trị tại Ukraina. Thứ hạng hiệp hội dựa trên hệ số của UEFA được sử dụng để xác định số đội bóng tham dự cho mỗi hiệp hội: Trong mùa giải lần này, các hiệp hội được sắp xếp vị trí dựa trên hệ số quốc gia của UEFA năm 2023 và được tính dựa theo số thành tích của mỗi hiệp hội ở các giải đấu châu Âu từ mùa giải 2018–19 đến 2022–23. Ngoài việc phân bố dựa trên hệ số hiệp hội, một số hiệp hội có thể có thêm suất tham dự Champions League như được ghi chú dưới đây: Các ký tự trong ngoặc thể hiện cách mỗi đội lọt vào vị trí của vòng đấu bắt đầu: Vòng loại thứ nhất. Tổng cộng có 30 đội tuyển sẽ thi đấu ở vòng loại thứ nhất. Những đội vô địch của các cặp đấu sẽ đi tiếp vào vòng loại thứ hai theo Nhóm các đội vô địch (Champions Path). Nếu khoảng 14 trên 15 đội thua thì sẽ được vào vòng loại thứ hai của Conference League Nhóm Vô Địch, một đội thua còn lại thì sẽ được bốc thăm để nhận suất đặc cách vào vòng loại thứ ba của Conference League Nhóm Vô Địch. Vòng loại thứ hai. Tổng cộng có 30 đội tuyển sẽ thi đấu ở vòng loại thứ hai. Lần này, các đội bóng sẽ được chia thành hai nhóm chính: Những đội vô địch của các cặp đấu sẽ đi tiếp vào vòng loại thứ ba theo Nhóm các đội vô địch (Champions Path). Những đội thua nhóm vô địch thì sẽ được vào vòng loại thứ ba của Europa League Nhóm Vô Địch, còn những đội thua nhóm không vô địch (League Path) thì sẽ được chuyển qua vòng loại thứ ba của Europa League Nhóm Chính. Nhóm các đội vô địch Nhóm các đội không vô địch Vòng loại thứ ba. Tổng cộng có 20 đội tuyển sẽ thi đấu ở vòng loại thứ ba. Các đội bóng sẽ được chia thành hai nhóm chính: Những đội vô địch của các cặp đấu sẽ đi tiếp vào vòng play-off theo Nhóm các đội vô địch. Những đội thua nhóm vô địch thì sẽ được lọt vào vòng play-off của Europa League, còn những đội thua nhóm không vô địch thì sẽ được chuyển qua vòng bảng của Europa League. Nhóm các đội vô địch Nhóm các đội không vô địch Tổng cộng có 14 đội tuyển sẽ thi đấu tại vòng play-off. Các đội bóng được chia thành hai nhóm chính: Đội thắng của các cặp đấu sẽ đi tiếp vào vòng bảng. Còn những đội thua thì sẽ được chuyển qua vòng bảng Europa League. Nhóm các đội vô địch Nhóm các đội không vô địch Sau hai giai đoạn vòng loại và vòng play-off, toàn bộ 36 đội bóng còn lại sẽ không còn được chia thành các bảng khác nhau. Thay vào đó, các đội sẽ cùng nhau thi đấu với mỗi đội thi đấu với tám đội khác nhau. 36 đội sau đó sẽ được xếp vào bốn nhóm hạt giống với mỗi nhóm hạt giống gồm chín đội dựa trên hệ số hiệp hội của UEFA tại mùa giải trước đó. Mỗi đội bóng sẽ thi đấu bốn lượt trận trên sân nhà và bốn lượt trận trên sân khách, trong đó có một trận sân nhà và một trận sân khách với mỗi đội từ bốn nhóm hạt giống. Việc gieo hạt sẽ dựa trên những tiêu chí sau: Theo nguyên tắc, những đội bóng có cùng một hiệp hội sẽ không được đối đầu trong suốt giai đoạn vòng League. Tuy nhiên, để tránh bế tắc trong lễ bốc thăm thì có thể được phép tổ chức tối đa một trận đấu cho hai đội bóng cùng một hiệp hội nếu hiệp hội đó có bốn đội bóng trở lên lọt vào vòng bảng. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Phân bố và môi trường sống. Loài này phân bố rộng khắp châu Âu, Thổ Nhĩ Kỳ và Transcaucasia, trong đồng cỏ nơi cây Huyền sâm mọc. "Tenthredo scrophulariae" có chiều dài cơ thể khoảng . Nó dễ dàng nhận ra bởi vẻ bề ngoài giống ong nhưng không có "eo" mỏng như một con ong thật. Đầu đen và khá ngắn, góc sau hình chữ nhật nổi bật. Cuống bướm tiêu của các tuyến tiêm không thu hẹp ở đầu, khá ngắn (ít hơn gấp đôi chiều rộng đầu) so với nhiều loài có quan hệ gần. Nó có màu cam, trong khi ở hầu hết các loài tương tự trong chi, màu đen. Ngực chủ yếu màu đen, chỉ có vùng gáy và vùng bảo vệ màu vàng. Bụng màu đen, có sọc ngang màu vàng. Cạnh trước của cánh trước, bao gồm cả các gân, có màu cam đỏ sáng, trong khi màng cánh còn lại là màu vàng nhạt trong suốt, có màu xám dần dần ở đầu. Chân trước gần như hoàn toàn màu vàng, nhưng mặt trên của xương đùi màu đen. Chân giữa và chân sau màu cam, nhưng xương đùi của chân sau hoàn toàn màu đen. Ở cặp chân giữa, xương đùi có thể hoàn toàn màu đen hoặc chỉ có mặt sau màu đen. Ấu trùng có kích thước tương đối lớn, dài khoảng và có 22 chân. Chúng có cơ thể trắng với các đốm đen, và ăn lá của bạch chỉ và cây chìa vôi. Ấu trùng ăn từ tháng 8 đến tháng 9. Chúng ngủ đông vào tháng 10. Các con trưởng thành bay từ tháng 5 đến tháng 8 của năm sau. Các con ong đuôi cưa này khá dịu dàng và cho phép quan sát gần. Chúng bay với một kiểu lười biếng, chân màu vàng dài của chúng treo xuống. Các con trưởng thành ăn các loài côn trùng nhỏ và thường được tìm thấy trên các loại cây trinh nữ ("Heracleum sphondylium"), ăn mật hoa và phấn hoa. Ấu trùng chủ yếu ăn lá của cây chìa vôi ("Scrophularia"). Chúng cũng có thể xuất hiện trên cây "Buddleja" và cây cỏ đen ("Verbascum nigrum"), nơi chúng chỉ ăn các lá già không lông. Ấu trùng bị ký sinh bởi các loài ký sinh bám khác nhau thuộc họ "Ichneumonidae" ("Mesoleptidea prosoleuca" và "Euceros serricornis"). LES TENTHREDES tại A
Edoardo Iannoni (sinh ngày 11 tháng 4 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Perugia tại Serie C, cho mượn từ Salernitana. Sự nghiệp thi đấu. Iannoni bắt đầu sự nghiệp thi đấu của mình tại câu lạc bộ Trastevere tại Serie D. Vào ngày 20 tháng 6 năm 2020, anh gia nhập câu lạc bộ Salernitana. Anh ra mắt đội bóng vào ngày 17 tháng 1 năm 2021 trong trận đấu thuộc khuôn khổ Serie B gặp Empoli, khi vào sân thay người ở những phút cuối cùng của trận đấu. Ngày 29 tháng 1 năm 2021, anh chuyển tới Juve Stabia dưới dạng cho mượn. Vào ngày 20 tháng 7 năm 2021, anh gia nhập Ancona-Matelica theo dạng cho mượn. Ngày 30 tháng 10 năm 2021, anh ghi bàn thắng đầu tiên của riêng mình tại Serie C trong trận gặp Viterbese. Ngày 8 tháng 7 năm 2022, Iannoni chuyển tới Perugia theo dạng cho mượn.
Vụ phá đập Kakhovka Vào ngày 6 tháng 6 năm 2023, đập nước Kakhovka ở Ukraina bị vỡ, gây ra lũ lụt trên diện rộng. Nằm trên sông Dnepr ở tỉnh Kherson, con đập nằm dưới sự kiểm soát của quân đội Nga, lực lượng đã chiếm giữ khu vực này trong những ngày đầu của chiến dịch Nga xâm lược Ukraina. Chính quyền Nga đổ lỗi cho vụ vỡ đập do pháo kích của Ukraina. Ukraina và các đồng minh cáo buộc lực lượng Nga cho nổ tung con đập để cản trở kế hoạch phản công của Ukraina. Mực nước trong hồ chứa Kakhovka đã tăng lên trong nhiều tháng và ở mức cao nhất từ khi có con đập này khi con đập bị vỡ. Hàng nghìn cư dân đã được sơ tán ở hạ lưu khi lũ lụt nhấn chìm một số ngôi làng ở các khu vực do Ukraina và Nga kiểm soát. Việc mất nước trong hồ chứa Kakhovka đe dọa nguồn cung cấp nước cho Krym do Nga chiếm đóng và nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia do Nga chiếm giữ. Vụ phá hủy đập. Vào lúc 02h50 giờ địa phương sáng ngày 6 tháng 6 năm 2023, Tổng thống Ukraina Volodymyr Zelenskyy cho biết một "vụ nổ bên trong các cấu trúc" của con đập đã xảy ra. Phần giữa của con đập rộng 3,2 km trên thực tế đã bị phá hủy, dẫn đến lũ lụt trên diện rộng ở vùng hạ lưu. Vào thời điểm bị phá hủy, con đập nằm dưới sự kiểm soát của Nga và mực nước đã tăng lên mức cao nhất trong 30 năm. Hình ảnh vệ tinh do BBC News thu được chỉ ra rằng tình trạng của con đập đã xuống cấp kể từ ngày 1 tháng 6 hoặc sớm hơn, với con đường xuyên qua đập bị hư hại một số vào ngày 2 tháng 6. Thủ phạm phá hoại. Người ta vẫn còn tranh cãi thủ phạm phá hoại con đập này. Không bên nào cung cấp bằng chứng công khai ngay lập tức để hỗ trợ các cáo buộc của họ. Tuyên bố về trách nhiệm của Nga. Chính quyền Ukraina cho rằng các lực lượng Nga đã phá hủy con đập. Cơ quan thủy điện nhà nước Ukraina, Ukrhydroenergo, tuyên bố rằng con đập đã "bị phá hủy hoàn toàn" sau một vụ nổ từ bên trong phòng máy và không thể phục hồi. Các quan chức Ukraina cho biết Nga đã phá hủy con đập "trong cơn hoảng loạn" để làm chậm kế hoạch phản công của Ukraina. Bộ trưởng Ngoại giao Ukraina Dmytro Kuleba đã chỉ trích các phương tiện truyền thông quốc tế vì đã trình bày các quy kết của Ukraine và Nga là đáng tin cậy như nhau, cho rằng điều này "đặt sự thật và tuyên truyền ngang hàng nhau." Thủ tướng Đức Olaf Scholz chỉ ra "Theo các thông tin thu thập được, đây là hành động gây hấn của phía Nga nhằm ngăn chặn cuộc tấn công của Ukraine, để bảo vệ đất nước của chính họ." Tuyên bố về trách nhiệm của Ukraina. Thị trưởng Nova Kakhovka do Nga bổ nhiệm ban đầu nói rằng con đập không bị hư hại nhưng sau đó cáo buộc Ukraina. Dmitry Peskov, thư ký báo chí của Vladimir Putin, phủ nhận cáo buộc Nga tham gia vào việc phá hủy con đập và gọi đó là hành động phá hoại của Ukraina. Truyền thông nhà nước Nga cho rằng vụ phá hủy là do hỏa lực pháo binh từ một bệ phóng nhiều tên lửa Vilkha. Người phát ngôn Điện Kremlin Dmitry Peskov cho biết: "Vụ phá hoại này cũng liên quan đến thực tế là, đã tiến hành các hoạt động tấn công quy mô lớn hai ngày trước, các lực lượng vũ trang Ukraina đã không đạt được mục tiêu của họ. Chính quyền Kiev phải chịu mọi trách nhiệm về mọi hậu quả ”. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nga Maria Zakharova nói: "... Tôi đang nói về những gì đã xảy ra ngày hôm qua tại Nhà máy thủy điện Kakhovka. Đây thực sự nên là một chủ đề của nghiên cứu, nghiên cứu và điều tra trên toàn thế giới. Phản ứng của phương Tây trong tất cả các tình huống như vậy là có thể đoán trước 100%. Đó là một mong muốn vô tận để đổ lỗi cho Nga về mọi thứ xảy ra, bất kể nó thực sự xảy ra hay chỉ là một điều hư cấu." Tổng thống Ukraina Volodymyr Zelenskyy cho biết: "Việc những kẻ khủng bố Nga phá hủy đập nhà máy thủy điện Kakhovka chỉ khẳng định với toàn thế giới rằng chúng phải bị trục xuất khỏi mọi ngóc ngách trên đất Ukraina." Andriy Yermak, Trưởng Văn phòng của Tổng thống Ukraine, gọi việc phá hủy con đập là "sự hủy diệt sinh thái". Bộ Ngoại giao Ukraina cho biết: "Chúng tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế kiên quyết lên án vụ tấn công khủng bố của Nga vào Nhà máy thủy điện Kakhovka (Nhà máy thủy điện)", kêu gọi tổ chức một phiên họp của UNSC và một cuộc họp với IAEA. Tổng công tố Ukraina cho biết họ đang điều tra vụ phá hủy như một tội ác chiến tranh. Cựu Bộ trưởng Bộ Sinh thái Ukraine Ostap Semerak nói rằng: "Điều này sẽ có tác động đến Romania, Georgia, Thổ Nhĩ Kỳ và Bulgaria. Nó sẽ có hại cho tất cả các khu vực. Chính phủ của chúng tôi đã tuyên bố đây là thảm họa môi trường lớn nhất ở châu Âu trong 10 năm qua, và tôi nghĩ đó có thể là điều tồi tệ nhất ở Ukraine kể từ thảm họa Chernobyl năm 1986." Cộng đồng quốc tế. Việc phá hủy con đập đã được các nhà lãnh đạo phương Tây mô tả là tội ác chiến tranh; Điều 56 của Nghị định thư I của Công ước Geneva nghiêm cấm việc cố tình phá hủy "các công trình chứa các lực nguy hiểm" như đập. António Guterres, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, nói rằng sự sụp đổ là "một hậu quả tàn khốc khác của cuộc xâm lược Ukraine của Nga", và tuyên bố rằng: "Các cuộc tấn công nhằm vào thường dân và cơ sở hạ tầng dân sự quan trọng phải dừng lại." Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg gọi sự kiện này là "thái quá" và nói rằng nó cho thấy "sự tàn bạo của cuộc chiến tranh của Nga ở Ukraina". Chủ tịch Hội đồng Châu Âu Charles Michel gọi việc cho nổ tung một nhà máy thủy điện là một tội ác chiến tranh của Nga. Hội đồng Châu Âu tuyên bố: "Chúng tôi lên án mạnh mẽ nhất việc phá hủy đập Nova Kakhovka ở vùng Kherson của Ukraine".
David Chidozie Okereke (sinh ngày 29 tháng 8 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Nigeria hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Cremonese tại Serie B. Sự nghiệp thi đấu. Anh ra mắt Spezia vào ngày 9 tháng 4 năm 2016 trong trận gặp Novara tại Serie B. Ở mùa giải 2018–19, Okereke ghi được 10 bàn thắng và có 12 đường kiến tạo sau 33 lần ra sân. Vào ngày 9 tháng 7 năm 2019, anh ký bản hợp đồng kéo dài 4 năm với Club Brugge. Cho mượn tại Venezia. Ngày 12 tháng 8 năm 2021, Okereke gia nhập tân binh Serie A, Venezia theo dạng cho mượn. Ngày 28 tháng 7 năm 2022, Okereke gia nhập Cremonese bằng bản hợp đồng kéo dài 3 năm với mức phí chuyển nhượng được báo cáo là 10 triệu euro. Ngày 15 tháng 9 năm 2020, anh xét nghiệm dương tính với COVID-19. "Tính đến 3 tháng 5 năm 2023"
Daniel Williams (cầu thủ bóng đá, sinh 2001) Daniel Patrick Williams (sinh ngày 19 tháng 4 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Wales hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ The New Saints tại Cymru Premier, được cho mượn từ Swansea City. Sự nghiệp thi đấu. Williams gia nhập lò đào tạo trẻ Swansea City ở lứa tuổi U-8, và ký bản hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với đội bóng vào mùa hè năm 2019. Anh ra mắt cho Swansea City trong chiến thắng 3–0 ở vòng đầu tiên của Cúp EFL trước Reading vào ngày 11 tháng 8 năm 2021. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho đội bóng trong chiến thắng 4-0 ở vòng 2 trước Plymouth Argyle vào ngày 24 tháng 8 năm 2021. "Tính đến 19 tháng 11 năm 2022"
Simon Woods (sinh 7 tháng 1 năm 1980) là một diễn viên và biên kịch, được biết đến nhiều với vai diễn Octavian trong mùa 2 của sê-ri truyền hình Anh-Mỹ "Rome" và vai Charles Bingley trong "Pride Prejudice" 2005. Cuộc sống cá nhân. Woods attended Eton College, then read English at Magdalen College, Oxford. Khi ở Oxford, anh trở thành bạn với Chelsea Clinton. Sau khi tốt nghiệp ở Oxford, Woods làm việc một thời gian ngắn tại "The Guardian" trước khi trở thành một diễn viên. Khi ở Oxford năm 2000, anh ấy có mối quan hệ với Rosamund Pike kéo dài hai năm. Hai người sau đó đóng vai tình nhân Jane Bennet và Charles Bingley trong "Kiêu hãnh và định kiến". Từ năm 2009, Woods có quan hệ tình cảm với Christopher Bailey, cựu giám đốc điều hành của hãng thời trang Burberry của Anh. Họ kết hôn vào năm 2012. Họ có 2 người con gái, Iris và Nell. Vở kịch sân khấu "Hansard" của Woods đã được trình chiếu tại Lyttelton Theatre, London, vào tháng 9 năm 2019. Tác phẩm được đạo diễn bởi Simon Godwin.
Trần Thị Thu Đông Trần Thị Thu Đông (sinh ngày 24 tháng 10 năm 1969) là chính trị gia người Việt Nam. Bà hiện là Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam , Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XV, nhiệm kì 2021-2026 thuộc đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bạc Liêu. - 1/1990 - 4/2002: Bí thư Chi đoàn Báo ảnh Đất Mũi, tỉnh Minh Hải; Bí thư Chi đoàn Báo Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu - 4/2002 - 6/2004: Ủy viên Thường trực, Phó Bí thư Chi bộ Hội Văn học-Nghệ thuật tỉnh Bạc Liêu - 6/2004 - 6/2015: Phó Chủ tịch, Bí thư Chi bộ Hội Văn học-Nghệ thuật tỉnh Bạc Liêu - 6/2015 - 8/2016: Ủy viên Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học-Nghệ thuật Việt Nam. Chủ tịch, Bí thư Chi bộ Liên hiệp các Hội Văn học-Nghệ thuật tỉnh Bạc Liêu - 9/2016 - 1/2018: Phó Cục Trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - 2/2018 - 12/2019: Phó Cục Trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Mỹ thuật và Nhiếp ảnh - 1/2020 - 10/2020: Phó Cục Trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - 10/2020 - 1/2021: Phó Cục Trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam - 2/2021: Ủy viên Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học-Nghệ thuật Việt Nam; Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam - 7/2021: Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội; Đại biểu Quốc hội khóa XV.
Chernihiv (tỉnh của Ba Lan) Tỉnh Czernihów hay Chernihiv (, ) là một đơn vị hành chính và chính quyền địa phương của Vương quốc Ba Lan (một phần của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva) từ năm 1635 cho đến Khởi nghĩa Khmelnytsky năm 1648 (về mặt pháp lý tồn tại cho đến năm 1654). Ngoài ra, tỉnh này được sử dụng như một danh hiệu hư cấu trong Thịnh vượng chung cho đến khi Ba Lan bị phân chia vào năm 1772/1795. Năm 1635, Marcin Kalinowski là thống đốc (voivode) đầu tiên của tỉnh Chernihiv. Tỉnh này là một phần của vùng Tiểu Ba Lan của Vương quốc Ba Lan, và được chia thành hai huyện: Czernihow và Nowogrod Siewierski. Các phiên họp sejmik địa phương diễn ra tại Czernihow, và tỉnh có hai thượng nghị sĩ tại Thượng viện Ba Lan-Litva. Cùng với tỉnh Kyiv (Kijow) và tỉnh Bracław (Bratslav), tỉnh thuộc khu vực lãnh thổ được gọi là Ukraina. Lịch sử của tỉnh Czernihow bắt đầu từ năm 1618, khi sau Hiệp định đình chiến Deulino, Thịnh vượng chung giành quyền kiểm soát các thị trấn Smolensk, Czernihow và Nowogrod Siewierski. Vì hiệp định đình chiến sẽ hết hạn sau 14,5 năm, nên các lãnh thổ mới không được tổ chức theo cách chính thức. Smolensk bị Đại công quốc Litva sáp nhập, trong khi cả Czernihow và Nowogrod đều trở thành một phần của Lãnh địa Hoàng gia Vương quốc Ba Lan, hình thành nên Công quốc Siveria. Năm 1633, trong Chiến tranh Smolensk, Quốc hội Ba Lan (Sejm) đưa ra một dự luật trong đó cả tòa án đất đai và văn phòng starosta được thành lập tại Czernihow. Năm 1634, Hiệp định Polyanovka xác nhận rằng Czernihow vẫn là một phần của Ba Lan, vì vậy cuối cùng vào năm 1635, Sejm đã tạo ra tỉnh này, với hai thượng nghị sĩ là voivode và castellan của Czernihow. Hai huyện của tỉnh bầu hai đại biểu cho Sejm, và một đại biểu cho Tòa án Tiểu Ba Lan tại Lublin. Năm 1637, việc xây dựng một pháo đài ở Konotop bắt đầu với mục đích bảo vệ tỉnh mới giành được, pháo đài được hoàn thành vào năm 1642. Thịnh vượng chung đã mất quyền kiểm soát tỉnh này ngay từ năm 1648, trong cuộc Khởi nghĩa Khmelnytsky. Trong Hiệp định Hadiach (1658), Công quốc Ruthenia được thành lập từ tỉnh Czernihow, tỉnh Kyiv và tỉnh Bracław. Tuy nhiên, ý tưởng này nhanh chóng bị bỏ rơi, và sau Hiệp định đình chiến Andrusovo (1667), tỉnh Czernihow bị nước Nga Sa hoàng sáp nhập. Lịch sử của tỉnh Czernihow không kết thúc vào năm 1667. Tương tự các tỉnh khác mà Thịnh vượng chung để mất vào giữa thế kỷ 17, chính phủ ở Warszawa tiếp tục tuyên bố tỉnh này là một tỉnh trên danh nghĩa, với các danh hiệu hư cấu là thống đốc, thượng nghị sĩ, đại biểu và starosta do Quốc vương bổ nhiệm, và vẫn được sử dụng cho đến khi Phân chia Ba Lan. Giới quý tộc của tỉnh Czernihow trước đây có các phiên sejmik tại Wlodzimierz Wolynski. Thống đốc cuối cùng của Czernihow là một người tên là Ludwik Wilga, được đề cử vào năm 1783. Năm 1785, Stanisław August Poniatowski đã trao danh hiệu hư cấu là starosta của Nowogrod Siewierski cho Tadeusz Czacki. Zygmunt Gloger trong cuốn sách "Địa lý lịch sử của các vùng đất Ba Lan cũ" đưa ra một mô tả chi tiết về tỉnh Czernihow:
Tom Kretzschmar (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ TSV 1860 München tại 3. Liga. Sự nghiệp thi đấu. Sinh ra tại München, Kretzschmar gia nhập lò đào tạo trẻ của TSV 1860 München từ SpVgg Höhenkirchen vào năm 2006. Anh ra mắt cho 1860 München II ở Bayernliga vào tháng 7 năm 2017. Vào tháng 2 năm 2021, anh đã gia hạn hợp đồng với đội bóng. Anh ra mắt đội 1 vào ngày 22 tháng 5 năm 2021, khi vào sân sau khi thủ môn Marco Hiller nhận thẻ đỏ ở phút thứ 8, trong trận thua 3–1 trước FC Ingolstadt.
Kho ngoại quan là một tòa nhà hoặc khu vực an toàn khác, trong đó hàng hóa chịu thuế có thể được lưu trữ, thao tác hoặc trải qua các hoạt động sản xuất mà không phải trả thuế. Nó có thể được quản lý bởi nhà nước hoặc bởi doanh nghiệp tư nhân. Trong trường hợp sau, một kho ngoại quan phải được đăng ký với chính phủ. Hệ thống này được sử dụng rộng rãi ở các nước phát triển trên toàn thế giới. Khi nhập hàng vào kho ngoại quan, người nhập khẩu và chủ kho phải chịu trách nhiệm theo một khoản cam kết. Trách nhiệm này thường được hủy bỏ khi hàng hóa: Trong khi hàng hóa ở trong kho ngoại quan, dưới sự giám sát của cơ quan hải quan, hàng hóa có thể bị xử lý bằng cách làm sạch, phân loại, đóng gói lại hoặc thay đổi tình trạng của chúng bằng các quy trình không liên quan đến sản xuất. Sau khi thao tác và trong thời hạn lưu kho, hàng hóa có thể được xuất khẩu mà không phải trả thuế hoặc có thể được thu hồi để tiêu thụ sau khi nộp thuế theo tỷ lệ áp dụng cho hàng hóa trong tình trạng bị thao túng tại thời điểm thu hồi. Tại Hoa Kỳ, hàng hóa có thể ở trong kho ngoại quan tối đa 5 năm kể từ ngày nhập khẩu. Kho ngoại quan cung cấp các dịch vụ lưu trữ chuyên dụng như lưu trữ chất lỏng đông lạnh hoặc số lượng lớn, xử lý hàng hóa và phối hợp với vận chuyển, đồng thời là một phần không thể thiếu trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Christian Acella (sinh ngày 7 tháng 7 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý. Anh hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm cho câu lạc bộ Perugia tại Serie C bảng B, cho mượn từ Cremonese tại Serie B. Sự nghiệp thi đấu. Acella là sản phẩm của lò đào tạo trẻ Cagliari và Cremonese. Acella gia nhập câu lạc bộ Giana Erminio tại Serie C theo dạng cho mượn vào ngày 20 tháng 7 năm 2021. Anh đã ra mắt đội bóng và ra sân ngay từ đầu trong hầu hết các trận đấu của mùa giải. Sau khi quay trở lại Cremonese, Acella ra mắt đội bóng vào ngày 8 tháng 8 năm 2022 trong trận gặp Ternana tại Coppa Italia. Anh ra mắt tại Serie A cho đội bóng vào ngày 12 tháng 3 năm 2023, trong trận gặp Napoli. Cho mượn tại Perugia. Vào ngày 21 tháng 8 năm 2023, Acella gia nhập câu lạc bộ Perugia theo dạng cho mượn kéo dài mùa giải.
Hà Trọng Sơn (sinh năm 1920; mất năm 2010) là một võ sĩ quyền Anh người Việt Nam. Trong sự nghiệp thi đấu của mình, ông đã đánh bại nhiều đối thủ trong và ngoài nước nên được người đời mệnh danh là "hùm xám miền Trung". Hà Trọng Sơn sinh ngày 1 tháng 6 năm 1920 tại làng võ Phước An, Tuy Phước, Bình Định trong một gia đình có truyền thống võ đạo. Vốn đam mê võ thuật từ khi còn nhỏ, năm 8 tuổi, ông theo học võ của các anh em trong gia đình là võ sư Hà Cảnh, Hà Tùng, Hà Để, rồi sau đó là võ sư Lâm Đắc Đạo và ông Beo người gốc Hoa. Năm 17 tuổi, Hà Trọng Sơn được một sĩ quan người Pháp dạy quyền Anh. Năm 1943, tại đại hội quyền thuật Đông Dương tổ chức ở Nha Trang, Hà Trọng Sơn đánh bại võ sĩ nổi tiếng của Pháp là F. Nicolai và võ sĩ Tiết Mãnh. Một năm sau, tại hội thi võ thuật Đông Dương tổ chức ngày 12 tháng 10 năm 1944 ở Đà Nẵng, Hà Trọng Sơn tiếp tục giành chiến thắng trước võ sĩ người Pháp khác là Esperpaire. Trong nhiều năm sau, Hà Trọng Sơn liên tiếp giành được những thắng lợi trên sàn đài trước nhiều võ sĩ trong và ngoài nước, và từng bất phân thắng bại với Kid Dempsey. Cái tên "hùm xám miền Trung" vang danh từ đó. Ngày 17 tháng 8 năm 1960, Hà Trọng Sơn có trận so găng với võ sĩ gốc Thái Lan Ku Xam Thum. Sau 5 hiệp bất phân thắng bại, đến hiệp thứ 6, Hà Trọng Sơn tung đòn hạ knock out Ku Xam Thum, qua đó giành thắng lợi chung cuộc. Từ năm 1966 đến năm 1983, Hà Trọng Sơn có nhiều trận thi đấu võ thuật với đại võ sư Huỳnh Tiền. Cả hai đã giành được một số chiến thắng. Những năm cuối đời, Hà Trọng Sơn sống ẩn dật. Ông truyền lại võ công "quyền ba chân hổ" cho võ sư Hà Trọng Ngự, sau này thành lập võ đường Hà Trọng. Ông qua đời những ngày cuối tháng 3 năm 2010.
Vương tôn nữ Isabella của Bayern (Maria Isabella Luise Amalia Elvira Blanca Eleonora ; 31 tháng 8 năm 1863 – 26 tháng 2 năm 1924) là một trong năm người con của Vương tử Adalbert của Bayern và Vương tôn nữ Amalia của Tây Ban Nha. Thông qua cuộc hôn nhân với với Tommaso của Savoia-Genoa, Isabella được gọi là Công tước phu nhân xứ Genoa. Isabella là người con thứ ba và con gái lớn của Vương tử Adalbert của Bayern, con trai thứ tư của Ludwig I của Bayern và Therese xứ Sachsen-Hildburghausen, và Vương tôn nữ Amalia của Tây Ban Nha, con gái của Vương tử Francisco de Paula của Tây Ban Nha và Vương nữ Luisa Carlotta của Hai Sicilie. Hôn nhân và con cái. Ngày 14 tháng 4 năm 1883, Isabella kết hôn với Vương tôn Tommaso của Savoia, Công tước xứ Genova, con trai duy nhất của Vương tử Ferdinando của Sardegna và Elisabeth của Sachsen, tại Nymphenburg, Bayern. Tommaso cũng là em rể của Umberto I của Ý thông qua chị gái là Margherita của Savoia-Genova, và do đó là cậu của Victtorio Emanuele III của Ý. Cuộc hôn nhân của hai vợ chồng đánh dấu lần thứ tư thành viên của hai vương tộc Wittelsbach và Savoia thành hôn với nhau. Ludwig II của Bayern (anh họ của Isabella) đã không tham dự lễ cưới vì bản thân Quốc vương hiếm khi có mặt tại các sự kiện công cộng. Một người tham dự nhận xét rằng sự vắng mặt của Ludwig II khiến cho những vị khách mời "có thể tận hưởng bầu không khí vui vẻ hiếm khi có trong các lễ hội của Triều đình". Isabella và Tommaso có với nhau 6 người con: Cuộc sống sau này. Năm 1905, Isabella và chồng, cũng như các thành viên khác của Vương tộc Savoia tham dự buổi lễ phong Chân phước của một linh mục người Pháp. Sự kiện này có sự tham dự của Giáo hoàng Piô X, cùng với 1.000 người hành hương Pháp, vài nghìn tín đồ thuộc các quốc tịch khác và 22 Hồng y và Triều đình Giáo hoàng. Sự kiện này rất đáng chú ý vì đây là lần đầu tiên các thành viên của Vương tộc Savoia hỗ trợ một nghi lễ tôn giáo với sự hiện diện của Giáo hoàng. Với tư cách là Công tước và Công tước phu nhân xứ Genova, Isabella và chồng thường tham dự các hoạt động khác của vương thất với tư cách là đại diện của Vương tộc Savoia. Chẳng hạn, vào năm 1911, hai vợ chồng tham dự lễ khánh thành một tượng đài lớn của Quốc vương Victor Emmanuel II của Ý ở Roma với sự chứng kiến có gần một triệu người, đồng thời có sự tham dự của Maria Pia của Ý, Thái hậu Bồ Đào Nha và Margherita của Savoia-Genova, Thái hậu Ý và vợ chồng Công tước và Công tước phu nhân xứ Aosta. Năm 1913, Isabella đã một lần suýt không qua khỏi cửa tử. Trong một lần xức dầu lên tay và cổ bằng thuốc trị bệnh thấp khớp, Isabella đã ở quá gần một ngọn đèn khiến cho thuốc bốc cháy. Isabella chỉ sống sót do người giúp việc nhanh chóng dập tắt ngọn lửa. Ngày 26 tháng 2 năm 1924, Isabella qua đời vì bệnh viêm phế quản ở Roma, sau khi đã bị ốm nhiều ngày trước đó. Chồng của Isabella, Tommaso qua đời bảy năm sau đó, vào năm 1931.
Vương Tử Dị ( tiếng Hán :王子异; sinh ngày 13 tháng 7 năm 1996), còn được gọi là BOOGIE , là một rapper, vũ công và ca sĩ người Trung Quốc. Anh là thành viên của nhóm nhạc nam C-pop BBT và là cựu thành viên của nhóm nhạc nam Trung Quốc Nine Percent. Anh ấy được biết đến khi tham gia với tư cách là thực tập sinh của Simply Joy Music trong chương trình sống còn dành cho thần tượng Idol Producer, nơi anh ấy đứng ở vị trí thứ 7 chung cuộc và do đó trở thành thành viên của Nine Percent. Nhóm đã đạt được thành công vang dội ở Trung Quốc và được lên kế hoạch quảng bá trong 18 tháng. Sau khi nhóm chính thức tan rã vào ngày 6 tháng 10 năm 2019 và tổ chức buổi hòa nhạc chia tay cuối cùng vào ngày 12 tháng 10 năm 2019 tại Quảng Châu, Tử Dị tiếp tục sự nghiệp của mình với tư cách là một nghệ sĩ solo. 2017: Trước khi tham gia Idol Producer. Tử Dị ra mắt với tư cách là thành viên của nhóm nhạc nam BBT vào ngày 17 tháng 6 năm 2017, trước khi tham gia Idol Producer. Anh ấy vẫn là thành viên của BBT cho đến thời gian gần đây, mặc dù hiện nay chủ yếu hoạt động với tư cách nghệ sĩ solo. 2018-2019: Ra mắt với Nine Percent và tan rã. Tử Dị cùng với các thành viên của BBT và các thực tập sinh khác từ Simply Joy Music, đã đại diện cho công ty trong chương trình thực tế sống còn mới của iQiyi tại Trung Quốc, Idol Producer. Các thực tập sinh nằm trong Top 9 trong tập cuối cùng sẽ ra mắt với tư cách là một phần của nhóm nhạc nam Trung Quốc tạm thời Nine Percent. Nhóm đã được thiết lập để quảng bá trong 18 tháng trước khi tan rã. Wang cuối cùng đã đứng thứ 7 trong tập cuối cùng của nó và do đó đã ra mắt với tư cách là thành viên của Nine Percent. Sau khi ra mắt với Nine Percent, Tử Dị đã tham gia chương trình thi nhảy Shake It Up của Trung Quốc cùng với những người nổi tiếng khác. Nine Percent đã phát hành hai album phòng thu, "To the Nines" và "More Than Forever (限定的记忆)", trước khi tan rã vào ngày 6 tháng 10 năm 2019. Vào ngày 12 tháng 10 năm 2019, Nine Percent tổ chức buổi hòa nhạc chia tay cuối cùng của họ tại Quảng Châu, Trung Quốc. 2018-nay: Ra mắt với tư cách nghệ sĩ solo. Vào ngày 13 tháng 7 năm 2018, Wang ra mắt với tư cách nghệ sĩ solo với nghệ danh BOOGIE, phát hành đĩa đơn đầu tiên, "AMH", đứng thứ 11 trong bảng xếp hạng Billboard ở Trung Quốc. Tử Dị sau đó đã phát hành đĩa đơn thứ hai mang tên "6AM" vào ngày 19 tháng 12 năm 2018. Vào ngày 31 tháng 5 năm 2021, Tử Dị được tiết lộ là đã thua trong vụ kiện chống lại công ty của mình, Simply Joy Music. Vụ kiện được đệ trình với lý do hãng của anh ấy đã vi phạm các điều khoản hợp đồng khác nhau. Tuy nhiên, nỗ lực chấm dứt hợp đồng của anh ấy đã bị Tòa án quận Triều Dương Bắc Kinh phán quyết là không hợp lệ. Kể từ đó, Vương Tử Dị đã tiết lộ ý định kháng cáo quyết định này tại một tòa án riêng.
Nam Khang (nhà văn) Nam Khang Bạch Khởi (thường được biết đến là Nam Khang hay Bạch Khởi; 26 tháng 5 năm 1980 #đổi khoảng 9 đến 12 tháng 3 năm 2008) sinh ra tại tỉnh Liêu Ninh nhưng lớn lên ở vùng Nội Mông. Anh là một nhà văn mạng và là một người đồng tính nam ở Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa. Anh thường sử dụng bút danh "Bạch Khởi" trong lúc ở Tấn Giang và "Nam Khang" ở Thiên Nhai, Hồ Nam. Anh đã trở nên nổi tiếng trên nhiều diễn đàn văn học trực tuyến của Trung Quốc nhờ các tác phẩm như ""Phù Sinh Lục Ký" (浮生六記) và "Em đợi anh đến năm 35 tuổi"" (我等你到三十五歲). Nam Khang tên thật là Nam Khang Bạch Khởi, sinh ngày 26 tháng 5 năm 1980 tại Liêu Ninh. Năm 1999, anh đã đến Trường Sa và theo học tại Đại học Trung Nam. Tại đây, anh đã gặp người bạn trai của mình và cả hai bắt đầu hẹn hò từ năm 2002. Mối tình giữa Nam Khang và người tình kéo dài cho đến năm 2006. Trong lúc này, tác phẩm "Phù Sinh Lục Ký" được ra đời kể về câu chuyện tình giữa hai người. Đến ngày 1 tháng 1 năm 2006, người bạn trai của anh đã kết hôn với người phụ nữ khác sau 7 năm cả hai biết nhau vì không chịu được áp lực của xã hội và gia đình. Sau đó, tác phẩm "Em đợi anh đến năm 35 tuổi" được ra đời dựa trên câu chuyện tình giữa anh và bạn trai. Lúc bấy giờ, nội dung và phong cách hành văn của anh được đánh giá là khá u uất, tuyệt vọng và anh bị nghi mắc bệnh trầm cảm. Đến ngày 9 tháng 3 năm 2008, anh đã mất tích. Không lâu sau đó, thi thể của anh đã được phát hiện trên sông Tương, Trường Sa, Hồ Nam vào ngày 27 tháng 3. Nguyên nhân tử vong của anh được cho là tự tử sau cuộc hôn nhân của bạn trai và chứng trầm cảm kéo dài. Lúc này, anh qua đời ở tuổi 28. Nhiều người đã cho rằng, Nam Khang đã thực hiện được lời hứa đợi bạn trai của mình vì "vĩnh viễn không thể nào 35 tuổi cho nên em sẽ đợi anh mãi mãi". Sau sự ra đi của anh nhiều nghệ sĩ như Luân Tang, Ti Hạ, Tiểu Ti Mệnh, Tây Qua J"Em đợi anh đến năm 35 tuổi", cùng tên với tác phẩm cuối cùng của anh. Cứ vào ngày 27 tháng 3 mỗi năm, nhiều người cảm động trước chuyện tình của anh đã đặt hoa, thắp hương cũng như cầu nguyện cho anh cạnh bên bờ sông Tương. Đến năm 2009, tài khoản của anh đã bị gỡ bỏ vì lý do "đã qua đời". Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Pablo Galdames (cầu thủ bóng đá, sinh 1996) Pablo Ignacio Galdames Millán ([ˈpaβlo ɣalˈdames miˈʝan]; sinh ngày 30 tháng 12 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Chile hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Cremonese tại Serie B, cho mượn từ Genoa, và Đội tuyển bóng đá quốc gia Chile. Sự nghiệp thi đấu. Vào ngày 31 tháng 8 năm 2021, ngày cuối cùng của kỳ chuyển nhượng hè năm 2021, Galdames gia nhập câu lạc bộ Genoa tại Serie A theo một thỏa thuận có thời hạn đến năm 2024. Cho mượn tại Cremonese. Ngày 31 tháng 1 năm 2023, Galdames chuyển tới Cremonese theo dạng cho mượn. Anh là con trai của cựu cầu thủ bóng đá Chile có cùng tên Pablo Galdames, anh trai của Thomas và Benjamín, và là anh em cùng cha khác mẹ của Mathías. Anh và các anh trai của mình có quan hệ họ hàng với cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha Nerea Sánchez Millán về bên ngoại.
Kristers Tobers (sinh ngày 13 tháng 12 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Latvia hiện tại đang thi đấu ở vị trí trung vệ hoặc tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ Lechia Gdańsk tại Ekstraklasa và Đội tuyển bóng đá quốc gia Latvia. Sự nghiệp thi đấu. Tobers ra mắt quốc tế cho Latvia vào ngày 21 tháng 3 năm 2019, khi vào sân thay cho Artūrs Karašausks ở phút thứ 68, trong trận đấu thuộc khuôn khổ Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2020 gặp Bắc Macedonia trên sân vận động Toše Proeski Arena, kết thúc với tỷ số 3-1 nghiêng về đội chủ nhà. Vào tháng 1 năm 2020, anh gia nhập câu lạc bộ Lechia Gdańsk theo dạng cho mượn. Ngày 7 tháng 2 năm 2020, anh đã thi đấu ở vị trí tiền vệ trong trận đấu ra mắt đội bóng, gặp Śląsk Wrocław tại Ekstraklasa. Sau 6 lần ra sân, Lechia đã kích hoạt tùy chọn và Tobers đã ký một bản hợp đồng kéo dài đến tháng 6 năm 2023. "Tính đến 19 tháng 6 năm 2023"
Từ Hàng chân nhân Từ Hàng chân nhân () là một vị thần tiên được thờ phụng trong Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, xuất hiện trong "Lịch đại thần tiên thông giám", "Linh bảo kinh." Từ triều đại nhà Đường về sau, giới sĩ phu đưa ra chủ trương "Tam giáo hợp nhất", Từ Hàng của Đạo giáo dần được đồng hóa với Quán Thế Âm của Phật giáo. Từ Hàng chân nhân thường được dân gian Trung Quốc tạc tượng với hình tượng cưỡi rồng, quy xà, ngao (một loài rùa trong thần thoại Trung Quốc) hoặc là thuyền độc mộc. Từ Hàng chân nhân được cho là xuất hiện sớm nhất trong ""Linh bảo kinh" của Đạo giáo, được hoàn thành trong khoảng những năm 397-402, tuy nhiên bản gốc của "Linh bảo kinh" đã bị thất truyền, "Linh bảo kinh" hiện tại không còn thấy ghi chép về Từ Hàng chân nhân. Chỉ còn được biết thông qua "Văn tuyển khảo dị", trích dẫn từ "Văn tuyển Lý Thiện chú", sách này lại trích dẫn từ "Linh bảo kinh"". templatestyles src="Template:Quote/" /Trụy Vương của thế giới Thiền Lê có một người con gái, tự là Diệu Âm. Lên 4 tuổi mà vẫn không biết nói, vua lấy làm lạ, vứt bỏ ở trong núi A Không, phía nam Phù Tang. Người con gái không có lương thực, mỗi ngày thường bị tắt thở, lấy tinh hoa của ánh trăng làm thức ăn, tự nhiên mà no bụng. Chợt gặp được thần nhân ở ngôi nhà trên gò đỏ, dưới rừng bách. Diệu Âm tay phải đặt ở phía trên tảng đá màu đỏ. Thần nói với Diệu Âm: Ngươi tuy không thể nói, nhưng hãy nhớ lấy lời này. Liền sai linh đồng trong Chu cung, dạy cho Diệu Âm thuật trị liệu, truyền xuống phương pháp lấy âm thanh từ trong sách vở văn tự. Như vậy liền có thể nói. Từ trong núi đi ra, vẫn ở trong nước. Thấy quốc gia bị hạn hán, mặt đất nổi lửa, nhân dân lầm than, người chết quá nửa. Đào giếng lấy nước, trăm trượng vẫn không thấy suối ngầm. Vua sợ hãi. Con gái hiện thân, ngưỡng mặt thét dài, trời giáng hồng thủy, cao tới mười trượng. Xong liền ẩn giấu thân mình rời đi. "Phong thần diễn nghĩa". Tiểu thuyết "Phong thần diễn nghĩa" đời nhà Minh của Hứa Trọng Lâm gọi Từ Hàng chân nhân là Từ Hàng đạo nhân, là một trong Côn Luân 12 Tiên, sư phụ là Nguyên Thủy Thiên Tôn, lập động phủ ở động Lạc Già, núi Phổ Đà. Trong tiểu thuyết này, Từ Hàng đạo nhân về sau lại đầu phục Tây Phương giáo (tức Phật giáo) trở thành Quán Thế Âm bồ tát. Như vậy, tác giả đem Từ Hàng đạo nhân của Đạo giáo và Quan Thế Âm bồ tát của Phật giáo kết hợp thành một người, dưới sự ảnh hưởng của tiểu thuyết này, dân gian Trung Quốc thường xem Từ Hàng đạo nhân là tương đồng với Quán Thế Âm bồ tát.
ZTE Arena là một sân vận động ở Zalaegerszeg, Hungary. Sân hiện được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá và là sân nhà của Zalaegerszegi TE. Sân vận động có sức chứa 11.200 người. Sau một thời gian tu sửa, vào ngày 26 tháng 3 năm 2017, sân vận động đã được khánh thành. Gábor Végh, chủ sở hữu của Zalaegerszegi TE, cho biết sau 15 năm, việc cải tạo sân vận động đã hoàn tất. Khu nhà cho câu lạc bộ, cửa hàng của ZTE và khu vực VIP cũng được cải tạo hoàn toàn.
Hệ số chọn lọc Trong di truyền học quần thể, hệ số chọn lọc thường được biểu thị bằng chữ s, là thước đo sự khác biệt về thể lực tương đối. Các hệ số chọn lọc là trung tâm của mô tả định lượng về quá trình tiến hóa, vì sự khác biệt về thể lực quyết định sự thay đổi tần số kiểu gen do chọn lọc. Định nghĩa sau đây của s thường được sử dụng. Giả sử trong một quần thể có 2 kiểu gen A và B có mức độ thích nghi tương đối formula_1 và formula_2 tương ứng.#đổi Sau đó, chọn kiểu gen A làm điểm quy chiếu, chúng ta có formula_3 và formula_4, trong đó "s" đo lường lợi thế về thể lực ("s"0) hoặc bất lợi ("s"0) của B. Ví dụ, alen dung nạp đường lactose lan truyền từ tần số rất thấp đến tần số cao trong vòng chưa đầy 9000 năm kể từ khi canh tác với hệ số chọn lọc ước tính là 0,09-0,19 đối với quần thể Scandinavia. Mặc dù hệ số lựa chọn này có vẻ là một con số rất nhỏ, theo thời gian tiến hóa, các alen ưa thích tích lũy trong quần thể và ngày càng trở nên phổ biến hơn, có khả năng đạt đến trạng thái cố định.
Georgi Tunjov (sinh ngày 17 tháng 4 năm 2001) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Estonia hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ SPAL tại Serie C. Sự nghiệp thi đấu. Tunjov bắt đầu sự nghiệp chơi bóng của mình ở câu lạc bộ Narva Trans. Tháng 3 năm 2018, anh gia nhập lò đào tạo trẻ của SPAL. Anh ra mắt đội bóng tại Serie A vào ngày 15 tháng 12 năm 2019, khi vào sân thay người ở phút thứ 73 trong trận thua 1-3 trước Roma. Ngày 13 tháng 2 năm 2020, anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với SPAL, kéo dài đến ngày 30 tháng 6 năm 2023. Cho mượn tại Carrarese. Tháng 8 năm 2021, Tunjov gia nhập câu lạc bộ Carrarese theo dạng cho mượn. "Tính đến 14 tháng 1 năm 2023" "Tính đến 26 tháng 9 năm 2022."
Trần Thị Biền (? – 1945) là một cựu Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương phản bội. Trần Thị Biền là Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương tỉnh Quảng Trị. Năm 1942, được Xứ ủy Trung Kỳ điều động đi hoạt động ở tỉnh khác. Tháng 7 năm 1942, Trần Thị Biền bị bắt ở Nghệ An, bị Chánh mật thám Pháp ở Quảng Trị là Fidalenc dụ dỗ, trở thành tình nhân của Fidalenc, phản bội tổ chức, khai báo khiến nhiều cơ sở Đảng bị vỡ, nhiều người bị bắt. Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Cách mạng Tháng Tám nổ ra ở phủ Triệu Phong, Trần Thị Biền bị người dân bắt giữ và xử bắn cùng với Tri phủ Triệu Phong tên là Cho và mật thám người Việt tên là Chước.
Stuart Little là một bộ phim điện ảnh hài hoạt hình máy tính/người đóng của Mỹ công chiếu năm 1999 chủ yếu dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên (1945) của E. B. White. Phim do Rob Minkoff làm đạo diễn trong tác phẩm người đóng đầu tay, kịch bản do M. Night Shyamalan và Greg Brooker đồng chắp bút, cùng sự tham gia diễn xuất của Geena Davis, Hugh Laurie và Jonathan Lipnicki, bên cạnh các phần lồng tiếng của Michael J. Fox, Nathan Lane, Chazz Palminteri, Steve Zahn, Bruno Kirby và Jennifer Tilly. "Stuart Little" có buổi trình chiếu ra mắt ở Westwood tại Nhà hát Mann Village vào ngày 5 tháng 12 năm 1999, rồi khởi chiếu tại Hoa Kỳ vào ngày 17 tháng 12 năm 1999 thông qua đơn vị phát hành là Columbia Pictures. Nhìn chung bộ phim nhận được những đánh giá tích cực và giành một đề cử giải Oscar cho hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất (thua "The Matrix"). Sau thành công của phim, tác phẩm còn khởi động một nhượng quyền, cho ra đời phần tiếp theo "Stuart Little 2" vào năm 2002, loạt phim truyền hình ngắn tập "Stuart Little" vào năm 2003, một phần tiếp theo khác vào năm 2005, phần phim phát hành băng đĩa "". Phim đánh dấu vai diễn điện ảnh cuối cùng của Estelle Getty. Frederick và Eleanor Little là một cặp vợ chồng hạnh phúc sống ở thành phố New York, họ định nhận một đứa làm em trai con họ là George. Khi họ đến thăm trại trẻ mồ côi, họ gặp một chú chuột hình người nhí tên là Stuart và bất chấp bị bà Keeper (giám đốc trại trẻ mồ cô) phản đối lúc đầu, họ đã lựa chọn cậu. Khi trở về nhà, Stuart phải chật vật hòa nhập; George thất vọng và từ chối nhận Stuart làm em trai mình, còn con mèo của gia đình tên Snowbell, cảm thấy ghê tởm vì giờ đây nó là thú cưng của một con chuột. Kế đó Eleanor vô tình nhốt Stuart trong máy giặt vào một buổi sáng nọ sau khi giặt xong một mẻ quần áo. Cô cứu Stuart khỏi bị nuốt quá nhiều chất tẩy rửa, song Stuart bị ốm khi ho ra bọt xà phòng. Sau đó Stuart hồi phục sau chuyến thăm của Bác sĩ Beechwood. Sau khi Stuart thừa nhận với nhà Little rằng cậu thấy có một khoảng trống trong mình, họ gặp bà Keeper để tìm hiểu một số thông tin về cha mẹ ruột của Stuart, nhưng chẳng nhận được thông báo gì do tính bảo mật. Thời gian trôi qua, George và Stuart bắt đầu gắn bó sau khi Stuart khuyến khích cậu hoàn thành việc chế tạo chiếc thuyền mô hình cho cuộc đua sắp tới. Trong khi đó, Snowbell và cậu bạn Monty tổ chức một cuộc gặp với một con mèo hoang trong hẻm tên là Smokey và ấp ủ kế hoạch đuổi Stuart ra khỏi nhà. Vào ngày diễn ra cuộc đua, Stuart vô tình làm hỏng điều khiển từ xa của George, làm thuyền của cậu không hoạt động được. Cậu nhảy vào và tự điều khiển nó, suýt tránh được một vụ va chạm trên mặt nước và sau đó giành chiến thắng trong cuộc đua. Tối hôm ấy khi đang ăn mừng, một cặp chuột đến nhà làm gián đoạn bữa tối; họ tự giới thiệu mình là Reggie và Camille Stout, đồng thời tự nhận là cha mẹ ruột của Stuart; hai chú chuột buộc phải bỏ cậu vì nghèo khó. Nhà Little miễn cưỡng đồng ý cho phép Stuart rời đi cùng với Stouts, để lại George một mình. Trại trẻ mồ côi liên lạc với nhà Little để hỏi thăm tình hình của Stuart ra sao, và khi Frederick và Eleanor giải thích rằng cậu đã về nhà với cha mẹ ruột của mình, bà Keeper thông báo với họ rằng cha mẹ ruột của Stuart đã mất nhiều năm trước khi một kim tự tháp thực phẩm đóng hộp rơi trúng họ trong siêu thị, do đó cậu mới được đưa đến trại mồ côi. Sau khi nhận ra Stuart đã bị bắt cóc (một âm mưu do Snowbell và những con mèo khác bày ra), gia đình tổ chức một hội tìm kiếm lớn quanh thành phố. Vì lo sợ rằng việc tham gia vụ lừa đảo sẽ bị bại lộ, Snowbell thông báo cho Smokey rằng nhà Little đã biết được về gia đình Stout, vì vậy thay vào đó Smokey quyết định phải giết Stuart. Vô cùng hối hận vì gây ra nỗi buồn quá lớn của Stuart, Reggie và Camille kể cho cậu biết sự thật và lệnh cho cậu ta chạy trốn; cậu rất vui khi biết mình không phải là Stout và quay trở lại nhà Little. Trên đường đi qua công viên, cậu bị Smokey và hội của y phục kích song đã trốn được chúng bằng cách chui vào một cái cống. Cậu về đến nhà, được Snowbell ghen tỵ chào đón; chú mèo nói dối và thuyết phục Stuart rằng gia đình đang ăn mừng việc vắng cậu. Snowbell sử dụng khuôn mặt của Stuart bị cắt ra từ bức chân dung gia đình để "chứng minh" quan điểm của mình (thực ra ảnh khuôn mặt cậu bị cắt ra để phục vụ in ảnh cho các áp phích tìm kiếm cậu). Quá đau lòng nên Stuart bỏ đi. Tại Công viên Trung tâm, cậu dừng chân nghỉ qua đêm trong một tổ chim, và rồi Snowbell vì hối hận mà tìm đến cậu, thừa nhận cậu ta đã nói dối và động viên cậu trở về nhà. Khi cả hai phải đối mặt với những con mèo khác, Snowbell từ chối giao Stuart và làm những con mèo đuổi theo. Cuối cùng, chúng dồn Stuart khi cậu bị mắc trên cành cây trước một ao nước lạnh giá; Snowbell cứu cậu bằng cách bẻ gãy cành cây mà lũ mèo đang trèo, làm hội của Monty rơi thẳng xuống cái ao bên dưới, rồi chúng mau chóng bơi ra khỏi đó. Smokey lẻn đến phía sau Snowbell để giết cậu ta nhưng trước khi anh ta có thể làm như vậy, Stuart đã can thiệp bằng cách thả một nhánh cây đập vào mặt Smokey, làm cho y cũng rớt xuống ao. Smokey bơi và trèo ra khỏi ao, tức giận và bẽ mặt khi bị "con chuột và chú mèo cưng của cậu" đánh bại, đồng thời tự hỏi chuyện gì có thể tồi tệ hơn. Câu hỏi của y được giải đáp khi y bất ngờ hai con chó hoang tấn công, chúng có lẽ đã lấy mạng y. Snowbell đưa Stuart về nhà, ngay khi nhà Little chuẩn bị đi ngủ. George nhìn thấy Stuart qua cửa sổ trước và mọi người đoàn tụ trong niềm hạnh phúc. Khi Frederick hỏi làm sao mà cậu quay lại được, cậu kể với họ rằng cậu nợ Snowbell mạng sống của mình, chú mèo cuối cùng đã nhận ra Stuart thực sự là gia đình mình. Diễn viên người thật. Phim bắt đầu ghi hình vào ngày 3 tháng 8 năm 1998 và đóng máy vào ngày 11 tháng 11. Bức tranh thất lạc vô tình được sử dụng trên phim trường. Một trong những bức tranh được sử dụng làm đạo cụ cho ngôi nhà của nhà Little là bức tranh "Alvó nő fekete vázával" của họa sĩ tiên phong người Hungary Róbert Berény từ thập niên 1920, bị xem là đã thất lạc từ lâu. Một nhà thiết kế hiện trường cho bộ phim đã mua bức tranh tại một cửa hàng đồ cổ ở Pasadena, California với giá 500 đô la Mỹ để sử dụng trong phim mà không biết về ý nghĩa của nó. Năm 2009, nhà sử học nghệ thuật Gergely Barki (trong lúc xem "Stuart Little" trên truyền hình cùng con gái) đã chú ý đến bức tranh và sau khi liên hệ với hãng phim thì mới có thể lần ra tung tích của nó. Năm 2014, chủ nhân bức họa đã bán tác phẩm trong một cuộc đấu giá với giá 229.500 euro. Doanh thu phòng vé. "Stuart Little" được công chiếu tại các rạp vào ngày 17 tháng 12 năm 1999. Ở dịp cuối tuần khởi chiếu, "Stuart Little" đã thu về 15 triệu đô la Mỹ, chiếm ngôi đầu phòng vé của "Toy Story 2". Tác phẩm tụt xuống vị trí thứ 2 vào cuối tuần thứ hai, song quay lại vị trí đầu bảng phòng vé vào dịp cuối tuần thứ ba với 16 triệu đô la Mỹ. Theo Box Office Mojo, tổng doanh thu chung cuộc của phim tại Hoa Kỳ-Canada là 140 triệu đô la Mỹ và thu về 160,1 triệu đô la Mỹ tại phòng vé quốc tế, qua đó đạt tổng doanh thu ước tính là 300 triệu đô la Mỹ trên toàn thế giới. Đánh giá chuyên môn. Trên Rotten Tomatoes, 67% các phê bình đánh giá bộ phim tích cực dựa trên 97 phản hồi, giúp phim đạt điểm trung bình là 6,4/10. Các chuyên gia trên trang web nhất trí: "Các nhà phê bình cho rằng "Stuart Little" rất hấp dẫn thiếu nhi và người lớn vì tính hài hước và hiệu ứng hình ảnh của phim." Trên trang Metacritic, bộ phim đạt số điểm 61/100 từ 32 bài đánh giá, thể hiện các bài đánh giá "nhìn chung là ổn". Khán giả theo cuộc thăm dò của CinemaScore thì chấm phim điểm trung bình là "A-" trên thang điểm từ A+ đến F. Jesus Freak Hideout nhận xét rằng "từ đầu tới cuối, Stuart Little là một bộ phim gia đình gần như hoàn hảo", còn Stephen Holden của nhật báo "The New York Times" cho rằng "yếu tố duy nhất không hoàn toàn hợp lý với phần còn lại của phim là nhân vật Stuart bằng kỹ thuật số không tốt về mặt hình ảnh." Băng đĩa tại gia. "Stuart Little" được Columbia TriStar Home Video phát hành trên VHS và DVD tại Hoa Kỳ vào ngày 18 tháng 4 năm 2000, và tại Vương quốc Anh vào ngày 27 tháng 11 năm 2000. Sau đó, phim được Columbia TriStar Home Entertainment tái phát hành bản đặc biệt vào ngày 21 tháng 5 năm 2002. "Stuart Little" và "Stuart Little 2" được Sony Pictures Home Entertainment phát hành combo trên định dạng UMD của Sony PSP vào ngày 3 tháng 1 năm 2006 và trên băng Blu-ray vào ngày 28 tháng 6 năm 2011. Album soundtrack của bộ phim mang tên "Stuart Little: Music from and Inspired by the Motion Picture" được Motown và Universal Records phát hành vào ngày 30 tháng 11 năm 1999, trên đĩa CD và băng cassette. Các bản nhạc in đậm không xuất hiện trong phim.
Róbert Berény (18 tháng 3 năm 1887 – 10 tháng 9 năm 1953) là một họa sĩ người Hungary, nhân vật thuộc nhóm danh họa "avant-garde" được gọi là "A Nyolcak". Nhóm này đã giới thiệu chủ nghĩa lập thể và chủ nghĩa biểu hiện vào nghệ thuật Hungary vào đầu thế kỷ XX trước Thế chiến thứ nhất. Ông từng theo học và trưng bày ở Paris khi còn trẻ và được xem là một trong những nghệ sĩ theo trường phái "dã thú" của Hungary"." Thân thế và giáo dục. Róbert Berény sinh ra ở Budapest năm 1887. Hồi năm 17 tuổi, năm 1904, ông theo học nghệ sĩ Tivadar Zemplényi trong nhiều tháng trước khi chuyển đến học tại Académie Julian ở Paris. Trong thời gian học ở Paris, Berény đặc biệt chịu ảnh hưởng bởi phong cách nghệ thuật của Paul Cézanne. Ông còn áp dụng một số cách sử dụng màu sắc của phong trào dã thú, và trưng bày tại Salon d'Automne cùng với các nghệ sĩ người Pháp có chung trường phái này. Berény nổi danh nhất với hình thức chủ nghĩa biểu hiện và chủ nghĩa lập thể mà ông đã phát triển cùng với nhóm "avant-garde" có tên là A Nyolcak; họ cùng nhau tổ chức buổi trưng bày đầu tiên tại Budapest vào năm 1909. Họ bao gồm thủ lĩnh Károly Kernstok, Lajos Tihanyi, Béla Czóbel, Dezső Czigány, Ödön Márffy, Dezső Orbán và Bertalan Pór. Ông mang đến cho họ những ảnh hưởng của Pháp từ thời ông học ở Paris. Ở buổi triển lãm kế tiếp vào năm 1911, nhóm tự xưng tên là "A Nyocak". Về cơ bản, họ đã hình thành cốt lõi thể nghiệm chủ nghĩa hiện đại, đồng thời là một phần của các trào lưu trí thức cấp tiến trong âm nhạc và văn học Hungary. Tác phẩm quan trọng nhất của Berény trong thời kỳ đầu này là bức chân dung mà ông vẽ nhà soạn nhạc Béla Bartók (1913). Năm 1919, Berény tham gia vào đời sống nghệ thuật của Cộng hòa Dân chủ Hungary ngắn ngủi, và là trưởng khoa hội họa của Cục Nghệ thuật. Sau khi nền cộng hòa sụp đổ vào năm ấy, Berény di cư đến Berlin cùng với nhiều nghệ sĩ và nhà văn Hungary khác. Ông sống và làm việc ở đó trong vài năm, tiếp tục chú trọng vào chủ nghĩa lập thể và chủ nghĩa biểu hiện. Mãi đến năm 1926 ông mới trở lại Hungary. Trong năm cuối của Thế chiến thứ hai, xưởng vẽ của Berény bị phá hủy cùng với nhiều tác phẩm của ông. Sau chiến tranh, dưới chính quyền cộng sản, ông trở thành giáo viên tại nơi ngày nay là Đại học Mỹ thuật Hungary ở Budapest. Ông mất năm 1953. Tác phẩm được tái phát hiện. Một bức tranh của Berény có nhan đề "Alvó nő fekete vázával" () vốn bị thất lạc từ năm 1928 song đã được nhà sử học nghệ thuật Gergely Barki tình cờ phát hiện lại vào năm 2009 khi xem bộ phim "Stuart Little" (1999) của Mỹ cùng với con gái ông, trong đó bức tranh được dùng làm đạo cụ. Một trợ lý thiết kế hiện trường đã mua bức tranh với giá rẻ từ một cửa hàng đồ cổ ở California để sử dụng trong phim và rồi cất nó trong nhà của mình sau khi quá trình sản xuất phim kết thúc. Bức tranh đã được bán đấu giá tại Budapest vào ngày 13 tháng 12 năm 2014 với giá 229.500 euro.
Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt Nam 1995 Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt Nam 1995 được tổ chức vào năm 1996 là lần thứ 3 Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt Nam được trao thưởng độc lập sau khi tách khỏi Liên hoan phim Việt Nam. Giải thưởng điện ảnh lần 3 của Hội Điện ảnh Việt Nam giành cho các tác phẩm và công trình nghiên cứu xuất sắc trong lĩnh vực điện ảnh. Trong lần trao thưởng này, giải thưởng cho mỗi thể loại bao gồm phim truyện, phim tài liệu và phim hoạt hình đều được chia thành 2 hạng mục giải thưởng cho phim nhựa và phim video. Có tất cả 32 giải thưởng đã được trao, trong đó có 8 giải A, 18 giải B, 5 giải khuyến khích và 1 giải giành cho phim nhựa đầu tay. Thể loại phim truyện và phim tài liệu đều có giải A và B cho mỗi hạng mục phim nhựa và phim video. Riêng thể loại phim hoạt hình không có giải A nào, chỉ có 3 giải B cho phim hoạt hình nhựa và duy nhất 1 giải khuyến khích cho phim hoạt hình video.
Nadezhda sinh ra ở Sofia, là con gái út của Ferdinand I của Bulgaria và người vợ đầu tiên là Maria Luisa của Parma, người đã qua đời khi sinh Madezhhda. Cùng với chị gái là Vương nữ Evdokiya, Nadezhda được giáo dục dưới sự chỉ dẫn của mẹ kế là Công chúa Eleonore xứ Reuß-Köstritz. Vương nữ Nadezhda kết hôn vào ngày 24 tháng 1 năm 1924 với Albrecht Eugen của Württemberg con trai thứ hai của Albrecht, Công tước của Württemberg và Margarete Sophie của Áo, tại Bad Mergentheim, Đức. Hai vợ chồng có với nhau năm người con: Vương nữ Nadezhda qua đời ở tuổi 59 tại Stuttgart, Đức.
Evdokiya của Bulgaria (tiếng Bulgaria: "Княгиня Евдокия"; tên đầy đủ là Evdokiya Augusta Filipina Klementina Mariya; 5 tháng 1 năm 1898 – 4 tháng 10 năm 1985) là một thành viên của Vương thất Bulgaria cũng như là một người em gái đầy yêu thương và là người bạn tâm giao của Quốc vương Boris III của Bulgaria. Evdokiya sinh ngày 5 tháng 1 năm 1898 tại Sofia, là người con thứ ba và là con gái đầu lòng của Quốc vương Ferdinand I của Bulgaria (bấy giờ là Thân vương của Bulgaria) và người vợ đầu tiên là Maria Loisa của Parma. Evdokiya có hai người anh trai và một em gái. Khi được 1 tuổi, mẹ của Evdokiya đã qua đời khi sinh em gái là Nadezhda. Ngay từ khi còn nhỏ, Evdokiya đã yêu thích đến mỹ thuật. Cùng với em gái Nadezhda, hai chị em trở thành những người bạn tâm giao của anh trai Boris III. Vương nữ Evdokiya cũng không bao giờ kết hôn, mặc dù có những tin đồn rằng Evdokya muốn gả cho một người quý ông gốc Bulgaria, điều mà vương thất không thể được chấp nhận lúc bấy giờ. Evdokiya đã cống hiến cuộc đời mình cho Bulgaria và đảm nhiệm vai trò của một Đệ nhất phu nhân cho đến khi anh trai Boris III kết hôn với Vương nữ Giovanna của Ý thuộc Vương tộc Savoia . Sau này, Evdokiya định cư ở Đức và sống gần với em gái Nadezhda. vương nữ qua đời vào ngày 4 tháng 10 năm 1985, hưởng thọ 87 tuổi.
Armandas Kučys (sinh ngày 27 tháng 2 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá người Litva. Anh hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Oskarshamns AIK ở Thụy Điển, cho mượn từ U-19 Kalmar FF, và Đội tuyển bóng đá quốc gia Litva. Sự nghiệp thi đấu quốc tế. Anh ra mắt quốc tế cho Litva vào ngày 15 tháng 11 năm 2021 trong trận giao hữu gặp Kuwait. Cha của anh là Aurimas Kučys cũng là một cựu cầu thủ bóng đá.
Sự cố USS Liberty Sự cố USS "Liberty" là một cuộc tấn công của máy bay chiến đấu phản lực tàu ngư lôi động cơ của Không quân Israel nằm vào tàu nghiên cứu kỹ thuật (tàu do thám) của Hải quân Hoa Kỳ, USS "Liberty", ngày 8 tháng 6 năm 1967, trong chiến tranh sáu ngày. Cuộc tấn công kết hợp trên không và trên biển đã giết chết 34 thành viên thủy thủ đoàn (sĩ quan hải quân, thủy thủ, hai lính thủy đánh bộ và một nhân viên NSA dân sự), làm bị thương 171 thành viên thủy thủ đoàn và làm hư hỏng nặng con tàu. Vào thời điểm đó, con tàu đang ở vùng biển quốc tế phía bắc Bán đảo Sinai, khoảng 25,5 hải lý về phia tây bắc thành phố Arish của Ai Cập. Israel xin lỗi về vụ tấn công, nói rằng tàu USS Liberty bị tấn công do nhầm lẫn với tàu Ai Cập. Cả Israel và Chính phủ liên bang Hoa Kỳ đã tiến hành điều tra và đưa ra các báo cáo kết luận vụ tấn công là do nhầm lẫn do Israel nhầm lẫn về danh tính của con tàu. Những người khác, bao gồm cả những người sống sót sau vụ tấn công, đã bác bỏ những kết luận này và cho rằng vụ tấn công là có chủ ý. Vào tháng 5 năm 1968, chính phủ Israel đã trả 3,32 triệu USD (tương đương với 28 triệu USD năm 2022 cho chính phủ Mỹ để bồi thường cho các gia đình của 32 người bị thiệt mạng trong vụ tấn công. Vào tháng 3 năm 1969, Israel đã trả thêm 3,57 triệu USD (tương đương 28,5 triệu USD năm 2022) cho những người bị thương. Vào tháng 12 năm 1980, Israel đã đồng ý trả 6 triệu USD (tương đương 21,3 triệu USD năm 2022) là giải quyết cuối cùng cho thiệt hại vật chất đối với tàu "Liberty" cộng với 13 năm tiền lãi.
Lata Tondon (sinh ngày 15 tháng 4 năm 1980) là một đầu bếp người Ấn Độ đến từ thành phố Rewa thuộc bang Madhya Pradesh, Ấn Độ. Bà đã giành Kỷ lục Guinness cho cuộc thi nấu ăn marathon. Bà giành được kỷ lục vào tháng 9 năm 2019 sau khi nấu ăn không ngừng nghỉ trong 87 giờ 45 phút để hoàn thành phần cuộc thi nấu ăn marathon (nấu ăn liên tục trong nhiều giờ nhất). Lata Tondon sinh ngày 15 tháng 4 năm 1980 tại thành phố Rewa thuộc vùng đông bắc bang Madhya Pradesh, Ấn Độ. Tuổi thơ của bà chỉ xoay quanh việc nấu nướng. Khi còn trẻ, Tondon được truyền nguồn cảm hứng nấu ăn từ ông nội và bắt đầu từ đó. Theo "Hindustan Times", Tondon cho biết rằng mẹ và mẹ chồng bà đã góp phần rất lớn cho sự nghiệp đầu bếp của bà bằng cách dạy cách nấu ăn. Tondon đã theo học tại Học viện Đầu bếp London, Vương quốc Anh. Bà cũng từng làm việc với đầu bếp người Pháp Claude Bosi và đầu bếp người Mỹ Jun Tanaka. Vào năm 2018, Tondon đã dành chiến thắng cuộc thi đầu bếp Ấn Độ Quốc tế. Năm 2019, bà đã giành được Kỷ lục Guinness cho cuộc thi nấu ăn marathon. Bà là người phụ nữ đầu tiên đạt Kỷ lục Guinness cho cuộc thi nấu ăn marathon. Không chỉ có vậy, Tondon cũng là nữ đầu bếp đầu tiên ghi tên vào sách Kỷ lục Guinness. Lonton đã nấu ăn không ngừng nghỉ trong vòng 87 giờ 45 phút. Bà đã nấu hơn 1,600 kg ngũ cốc, đã làm 400 vada pav, 250 sandwich và một loạt các món ăn khác. Thức ăn được phục vụ cho hơn 20,000 người, bao gồm nhiều du khách, trẻ em từ các trại trẻ mồ côi, trường khiếm thị và người già từ các viện dưỡng lão. Đầu bếp và nhà bảo vệ môi trường đã sử dụng nền tảng này để khuyến khích mọi người trồng hơn 17,000 cây non. Tondon đã làm việc tại Ấn Độ và Vương Quốc Anh. Ngoài ra, bà cũng là diễn giả của TEDx. Tondon quyết tâm lấy các nguyên liệu Ấn Độ siêu giàu chất độc lạ và tạo ra các món ăn thay đổi nhận thức hạn chế về ẩm thực Ấn Độ. Không chỉ có vậy, Tondon còn cố gắng đạt được mục tiêu không lãng phí thực phẩm và thực hiện chế độ ăn uống lành mạnh. Lata Tondon đã dành được nhiều giải thưởng khác nhau, trong đó có Sách kỷ lục Ấn Độ, Sách kỷ lục châu Á, Sách kỷ lục Đông Dương, sách kỷ lục Việt Nam và Sách kỷ lục Nepal.
Nhân vật truyện tranh giả tưởng Lang Rangler (ラング·ラングラー, Rangu Rangurā) (phiên âm: Lang Rang-lơ) là nhân vật phản diện phụ trong phần thứ sáu Stone Ocean, thuộc loạt manga và anime JoJo's Bizarre Adventure. Lang Rangler là một tù nhân trong nhà tù Green Dolphin Street. Enrico Pucci tặng anh ta một Bóng quỷ mạnh và sai đến ám sát Jolyne Cujoh, nhằm ngăn Bóng quỷ của Jotaro Kujo chuyển tới tổ chức Speedwagon. Lang Rangler có chiều cao trung bình, dáng người mảnh khảnh. Không thể thấy rõ khuôn mặt, do anh ta mặc một bộ quần áo đặc biệt. Bộ quần áo liền thân này được trang bị vũ khí và giác hút, giúp Lang di chuyển và chiến đấu trong môi trường không trọng lực. Đôi chân không mang giày, nhưng lại buộc với đôi giày bằng sợi dây giày, để treo lủng lẳng phía sau. Có thể đây là chi tiết mang tính thời trang. Lang Rangler là người khá thông minh, luôn suy nghĩ cẩn thận trước một nhiệm vụ. Anh ta biết khi nào nên tấn công trực tiếp, khi nào nên rút lui. Với sức mạnh xóa bỏ trọng lực, Lang trở nên tương đối nguy hiểm và khó bị đánh bại. Điểm yếu là Lang là chưa kiểm soát được cảm xúc, dễ nổi nóng. Trong trận chiến với Jolyne Cujoh, anh đã rất tức giận khi nhận ra sức mạnh tiềm tàng của Stone Ocean. Trong trận chiến với Jolyne Cujoh và Weather Report, Lang Rangler bộc lộ sự tham vọng. Khi nhận ra năng lực của mình còn vượt qua cả Pucci, anh ta đã tính tới việc tiêu diệt Pucci. Lang Rangler từng phạm tội khi còn nhỏ, anh ta từng đâm một nữ giáo viên 69 nhát dao. Khi trưởng thành, Lang đi cướp tàu chở dầu và bị tống vào nhà tù Green Dolphin Street, mức án 5 năm. Tại thời điểm nào đó trong tù, Lang được Pucci tặng cho năng lực Bóng quỷ. Pucci cử Lang Rangler đi ám sát Jolyne Cujoh, để ngăn cô ta chuyển Bóng quỷ Star Platinum cho tổ chức Speedwagon. Lang không ngờ Jolyne có sự hỗ trợ của Weather Report. Tuy vậy, Lang vẫn bình tĩnh thay đổi chiến thuật, rút lui, đặt bẫy và áp đảo được cả hai. Cuối cùng, Lang vẫn thất bại do Weather Report hi sinh thân mình để Jolyne có lợi thế ra đòn trong chớp nhoáng. Jumpin' Jack Flash là Bóng quỷ thuộc nhóm dùng năng lực để hỗ trợ. Bất cứ ai bị Lang nhổ nước bọt vào người đều sẽ rơi vào trạng thái không trọng lượng, giới hạn trong một khoảng không gian xung quanh. Năng lực này thực sự rất nguy hiểm, do con người không thể tồn tại trong môi trường vô trọng lực quá lâu. Điểm yếu của Jumpin' Jack Flash là nếu được chuẩn bị quần áo, vũ khí, đồ bảo hộ... trong môi trường vô trọng lực thì chắc chắn không sợ năng lực này. Chế tạo máy móc. Lang Rangler khá thông minh và giỏi chế tạo. Anh ta tự thiết kế cho mình một bộ quần áo phù hợp với năng lực Bóng quỷ, đồng thời có gắn các máy li tâm để bắn ra các vật nhỏ. Trong môi trường vô trọng lực, bất cứ sự ma sát nào cũng có thể tạo ra một vụ nổ, và một khi đã bị thương, vết thương sẽ không thể đông lại, gây ra tình trạng mất máu liên tục. Tình trạng mất dưỡng khí cũng do đó mà xuất hiện.
Câu lạc bộ bóng đá Hải Phòng mùa bóng 2023 Mùa bóng 2023 là mùa giải thứ 41 trong lịch sử của câu lạc bộ bóng đá Hải Phòng và là mùa thứ 16 liên tiếp đội bóng thi đấu tại V.League 1, giải bóng đá cấp độ cao nhất trong hệ thống giải đấu của bóng đá Việt Nam. Tiền mùa giải và giao hữu. Để chuẩn bị cho mùa giải 2023, Hải Phòng đã tham dự Giải giao hữu Tứ hùng LienVietPostBank Cup diễn ra từ ngày 12 đến 16 tháng 1 trên sân vận động Hàng Đẫy. Giải đấu quy tụ 4 đội bóng gồm Hà Nội, Viettel, Công an Hà Nội và Hải Phòng, thi đấu theo hình thức vòng tròn tính điểm. Câu lạc bộ giành hạng tư chung cuộc.#đổi #đổi #đổi Giải vô địch quốc gia. Lịch thi đấu Giải bóng đá Vô địch Quốc gia 2023 được công bố vào ngày 26 tháng 12 năm 2022. templatestyles src="Legend/" /  Chưa thi đấu#đổi #đổi #đổi #đổi #đổi #đổi #đổi #đổi #đổi #đổi #đổi #đổi #đổi Thống kê mùa giải. Thống kê đội hình. ! colspan=14 style="background:red; color:; text-align:center"| Thủ môn ! colspan=14 style="background:red; color:; text-align:center"| Hậu vệ ! colspan=14 style="background:red; color:; text-align:center"| Tiền vệ ! colspan=14 style="background:red; color:; text-align:center"| Tiền đạo