text
stringlengths
82
354k
Tuyến Janghang (Tiếng Hàn: 장항선, Hanja: 長項線) là tuyến đường sắt do Tổng công ty Đường sắt Hàn Quốc điều hành, bắt đầu tại Ga Cheonan ở Cheonan-si, Chungcheongnam-do, đi qua bờ biển phía tây và kết thúc tại Ga Iksan ở Iksan-si, Jeollabuk-do. Từ ga Cheonan đến ga Sinchang, Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1 chạy song song Nó được xây dựng như một tuyến đường sắt tư nhân bởi Chosun Gyeongnam Railway Co., Ltd. Tên ban đầu là Tuyến Chungnam và đoạn đầu tiên được mở vào thời điểm đó là từ Ga Cheonan đến Ga Onyang Oncheon. Năm 1931, đoạn từ Ga Nampo đến Ga Pangyo được khai trương và tất cả các đoạn đều hoạt động bình thường. Tuy nhiên, ngay cả sau khi được quốc hữu hóa vào năm 1946, đường đua vẫn không được cải thiện. Vào ngày 25 tháng 11 năm 1991, tàu Saemaeul bắt đầu hoạt động từ Ga Seoul đến Ga Janghang. Cho đến cuối năm 2008, Tuyến Janghang, là tuyến không có đường ray đơn trong tất cả các đoạn, có hướng tuyến rất kém, thường xuyên bị chậm trễ và thời gian thực hiện kéo dài đã được coi là một vấn đề. Trong điều kiện đó, nó đã không thể đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng tăng và gây ra những khó khăn đáng kể cho việc chạy tàu. Vào ngày 15 tháng 5 năm 2000, một tuyến đường sắt đôi từ Ga Cheonan đến Ga Sinchang và một tuyến đường không có đường ray đơn từ Ga Sinchang đến Ga Daeya đã được nâng cấp. Phần Cheonan-Onyangocheon được hoàn thành vào ngày 30 tháng 3 năm 2007, phần Onyangocheon-Sinchang vào ngày 15 tháng 12 năm 2008, phần Sinchang-Sinryewon và Jupo-Nampo vào ngày 21 tháng 12 năm 2007, phần Sinryewon-Hwayang và Ganchi-Sinjanghang vào ngày 28 tháng 11 năm 2008 và phần Hwayang-Sinseong vào năm 2008 .Vào ngày 1 tháng 12 năm 2007, đoạn Cảng Sinjang - Daeya đã được đi thẳng và khai trương vào ngày 28 tháng 12 năm 2007, và hầu hết các vấn đề về dịch vụ đã được cải thiện. Kết quả của việc xây dựng này là Tuyến Janghang và Tuyến Gunsan, vốn bị ngắt kết nối bởi sông Geumgang, đã được kết nối và vận hành trực tiếp. Từ ngày 1 tháng 1 năm 2008, một số chuyến tàu Mugunghwa trên Tuyến Janghang khởi hành từ Ga Yongsan và đi qua Janghang sẽ chạy đến Ga Seodaejeon. Hệ thống này hoạt động vào ngày 9 tháng 12 năm 2016. Kể từ đó, nhà ga đầu cuối được đổi thành Ga Iksan. Đoạn mở rộng 19,5 km của Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1, kết nối Ga Cheonan với Ga Sinchang qua Ga Onyangoncheon, cũng được khai trương cùng với việc hoàn thành dự án điện khí hóa đường đôi cho đoạn này. Do đi thẳng, 12 ga đã bị đóng cửa, đây là ga nhiều thứ hai sau Tuyến Gyeongbuk (17 bao gồm cả Tuyến Gyeongbuk trước đây) với 14 ga đã đóng cửa . Hiện tại, công việc nắn thẳng đang được tiến hành ở những đoạn còn lại chưa được cải thiện nhằm mục đích cải thiện tốc độ biểu đạt của tất cả các đoạn của Tuyến Janghang và kết nối thông suốt với Tuyến Seohae. Việc xây dựng đoạn Sinseong - Jupo và đoạn Nampo - Ganchi bắt đầu vào tháng 4 năm 2015 và khi các đoạn này hoàn thành, Ga Gwangcheon và Ga Ungcheon sẽ được chuyển đến vùng ngoại ô của thị trấn. Ngoài ra, vào năm 2020, có thông báo rằng đoạn Iksan - Daeya sẽ được xây dựng theo đường đôi và một tuyến đường sắt dẫn đến Khu liên hợp Công nghiệp Quốc gia Gunjang bắt đầu từ Ga Daeya. Khi dự án này hoàn thành, Tuyến Samgak nối Ga Dongiksan trên Tuyến Janghang và Tuyến Jeolla sẽ được thành lập mới và Ga Daeya sẽ được di chuyển. Mặt khác, Thành phố Asan cũng đang xem xét việc thành lập Ga Tangjeong (P173) và Ga Punggi (P175) trên Tuyến Janghang và năm 2018 Ga Tangjeong bắt đầu xây dựng. Kể từ năm 2020, đã có thông báo rằng dự án điện khí hóa đường đôi cho các đoạn Sinchang - Jupo và Ganchi - Daya của Tuyến Janghang đã bắt đầu và đang được xây dựng, và việc điện khí hóa đường đôi của đoạn tương ứng sẽ được hoàn thành vào thời điểm Tuyến Seohae mở cửa. Từ năm 2008 đến năm 2016, một chuyến tàu Mugunghwa khứ hồi đã mở rộng tuyến giữa Ga Yongsan và Ga Seodaejeon, nhưng hiện tại tất cả các chuyến tàu đều chạy giữa Ga Yongsan và Ga Iksan. Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1. Vào ngày 15 tháng 12 năm 2008, việc điện khí hóa tuyến đường đôi Tuyến Janghang giữa Ga Cheonan và Ga Sinchang đã hoàn thành và khai trương.
Đôi chân trần là ca khúc làm nên tên tuổi cho nhạc sĩ Y Phôn Ksor, được sáng tác năm 1995 theo phong cách âm nhạc của dân tộc Ê Đê. "Đôi chân trần" cũng là ca khúc duy nhất của Y Phôn được viết bằng tiếng Việt rồi mới chuyển lời sang tiếng Ê Đê, ca khúc được biết đến nhiều với giọng hát của Nghệ sĩ nhân dân Y Moan. Tháng 4 năm 1995, Y Phôn Ksor cùng Y Moan và Y Jack Arul có chuyến công tác trong tỉnh Đắk Lắk. Trên đường đi, Y Phôn thấy một cụ già người đồng bào đi chân đất, đầu trần giữa trời nắng oi ả. Trò chuyện với cụ một lúc khiến Y Phôn nhớ đến người bố, trên đường về, giai điệu bài hát đã hiển hiện trong đầu người nhạc sĩ, tối hôn đấy ông đã hoàn tất ca khúc với tựa đề Đôi chân trần. Y Phôn đã hát thử cho bà Mỹ Thanh, nguyên trưởng đoàn ca múa nhạc dân tộc Đắc Nông, và nhạc sĩ Nguyễn Cường, nhạc sĩ Vũ Lân. Sau này, nhờ sức hấp dẫn của ca khúc mà khi Y Phôn học đại học tại Hà Nội, đã có thêm thu nhập cho đình. Y Moan là ca sĩ đầu tiên được thử ca khúc, ông cũng tự chỉnh lại một số từ ngữ, ngữ pháp trong lời ca khúc. "Tôi muốn quên đi, tháng với ngày. Cha đi lượm quả ngọt rừng, cho con ngủ qua đêm. Tôi muốn quên đi, đôi chân trần, cha đi lượm từng hạt thóc, cho con một bữa cơm chiều…" "Tôi muốn quên đi, tháng với ngày. Cha đi lượm quả ngọt rừng, cho con đỡ đói qua đêm. Tôi muốn quên đi, đôi chân trần. Cha đi lượm, từng hạt thóc. Cho con một bữa cơm chiều." "Ôi ngày tháng, đôi tay gầy, run run tựa vào hàng cây. Ôi thời gian, hãy quên đi, đôi chân cồng kềnh. Đi giữa rừng hoang vu… Lưng cha gội nắng gầy. Ôi tóc bạc tựa trăng soi…" "Ôi ngày tháng, đôi vai gầy, run run tựa vào hàng cây. Ôi thời gian, hãy quên đi. Đôi chân cồng kềnh. Cha đi giữa rừng hoang vu. Lưng cha thì đội nắng ghềnh. Ôi tóc bạc, tựa trăng " Vào những năm 2000, ca sĩ Y Moan biểu diễn ca khúc tại các phòng trà và các buổi diễn văn nghệ tạo được ấn tượng đến khán giả khu vực Tây Nguyên. Chương trình Sao mai điểm hẹn năm 2001 giúp ca khúc đến được với khán giả cả nước. Ca khúc "Đôi chân trần" cùng ca sĩ Ya Suy đã giành chiến thắng trong liveshow Bài hát yêu thích tháng 9 năm 2013 của VTV3. "Đôi chân trần" là tựa đề và cũng là ca khúc chủ đề Album đầu tay, phát hành năm 2019 của ca sĩ Ygaria.
Quyền tự quyết của nhân dân là một nguyên tắc cơ bản trong luật pháp quốc tế hiện đại, ràng buộc (thường được coi là quy tắc "jus cogens"), với Liên Hợp Quốc là cơ quan giải thích có thẩm quyền các quy tắc của Hiến chương. Nó tuyên bố rằng các dân tộc, dựa trên sự tôn trọng nguyên tắc về quyền bình đẳng trước pháp luật và cơ hội bình đẳng, có quyền tự do lựa chọn chủ quyền và địa vị chính trị quốc tế mà không bị can thiệp. Khái niệm này lần đầu tiên xuất hiện vào những năm 1860 và nhanh chóng lan truyền sau đó. Trong và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nguyên tắc này đã được cả Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Vladimir Lenin và Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson khuyến khích. Sau khi công bố giải pháp Mười bốn Điểm của mình vào ngày 8 tháng 1 năm 1918, ngày 11 tháng 2 năm 1918, Wilson tuyên bố: "Khát vọng quốc gia phải được tôn trọng; người dân giờ đây chỉ có thể bị quản lý và cai trị bởi sự đồng ý của chính họ. 'Quyết định' không chỉ là một cụm từ; nó là một nguyên tắc bắt buộc của hành động." Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nguyên tắc này đã được đưa vào Hiến chương Đại Tây Dương, được tuyên bố vào ngày 14 tháng 8 năm 1941 bởi Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt và Thủ tướng Vương quốc Anh Winston Churchill, những người đã cam kết Tám điểm chính của Hiến chương. Nó được công nhận là một quyền quốc tế hợp pháp sau khi được liệt kê rõ ràng là một quyền trong Hiến chương Liên Hợp Quốc. Nguyên tắc không nêu rõ quyết định sẽ được đưa ra như thế nào, cũng như kết quả sẽ ra sao, cho dù đó là độc lập, liên bang, bảo hộ, một số hình thức tự chủ hay đồng hóa hoàn toàn. Nó cũng không nêu rõ ranh giới giữa các dân tộc nên là gì, cũng như điều gì tạo nên một dân tộc. Có nhiều định nghĩa và tiêu chí pháp lý mâu thuẫn nhau để xác định nhóm nào có thể yêu cầu quyền tự quyết một cách hợp pháp. Tổng quát hơn, thuật ngữ "quyền tự quyết" cũng đề cập đến quyền tự do lựa chọn các hành vi của chính mình mà không có sự ép buộc từ bên ngoài.
Horo (母衣 (Mẫu Y), Horo) là một loại áo choàng được gắn vào mặt sau áo giáp của các samurai Nhật Bản khi ra trận vào thời phong kiến. "Horo" có chiều dài khoảng 1,8 m (6 ft) và được may từ nhiều dải vải khâu lại với nhau bằng một đường diềm ở mép trên và mép dưới. Khi được khâu lại với nhau, các dải vải sẽ được kết hợp và tạo thành một loại túi chứa đầy không khí giống như một quả bóng bay khi chuyển động. Khi may áo, người ta sẽ sử dụng một loại khung nhẹ làm bằng liễu gai, tre hoặc xương cá voi được gọi là "Oikago" tương tự như khung làm cái vái phùng, được cho là do Hatakeyama Masanaga phát minh ra trong thời kỳ Chiến tranh Ōnin (1467–1477), đôi khi được sử dụng để mở rộng kích thước của "Horo". "Horo" thường được gắn bởi những sợi dây buộc gắn kết vào nhau và có thể được nối liền bởi một cây gậy. Các dây trên cùng được gắn vào lớp áo giáp của người mặc trong khi các dây dưới cùng được gắn vào thắt lưng. Bên cạnh đó, gia huy ( "mon" ) của người đeo sẽ được may trên mặt Horo. "Horo" đã được sử dụng từ thời Kamakura (1185–1333). Một chiếc "horo k"hi được bơm không khí được cho là có thể bảo vệ người đeo khỏi những mũi tên bắn từ phía sau và từ hướng song song với người mặc. Điều này đã được thử nghiệm trong tập Khám phá cổ đại "Lực lượng đặc biệt cổ đại" (Tập 6 của Phần 8) và theo đó, Horo được phát hiện là có hiệu quả đáng ngạc nhiên trong việc ngăn chặn các mũi tên (được bắn từ một cây cung Nhật Bản tương ứng với thời kỳ đó) trước khi chúng tiếp cận mục tiêu hoặc làm chậm chúng đáng kể để nếu chúng đến được mục tiêu, chúng sẽ không xuyên được gần như xa như cách khác. Đặc biệt, những cây cung như vậy khi bắn tên từ phía sau và trúng phải một chiếc horo đang căng phồng có lẽ sẽ không thể xuyên qua lớp áo giáp bằng da hoặc sắt sơn mài của một chiến binh samurai đang cưỡi trên lưng ngựa. Nhưng tuyên bố này chỉ dành cho trường hợp horo được làm từ vải lụa có đường kính từ 4 đến 6 feet và có độ phồng lớn (khiến ta có cảm giác người mặc đang phi nước đại), chứ không phải vải lụa bình thường và không có bề mặt phẳng. Việc đeo một chiếc "horo" cũng biểu thị cho địa vị sứ giả ("tsukai-ban") của người đeo, hoặc cũng có thể chỉ người đó là người có tầm quan trọng. Theo Hosokawa Yusai Oboegaki, nhật ký của Hosokawa (1534–1610) đã ghi rằng việc lấy đầu một sứ giả "tsukai-ban" ưu tú là một niềm vinh hạnh: "Khi lấy đầu của một chiến binh "Horo", hãy bọc nó trong lụa "Horo". Khi lấy đầu của một chiến binh bình thường, hãy bọc nó trong lụa Sashimono ".
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập vào ngày 8 tháng 6 năm 1969 khi Đại hội Đại biểu Quốc dân miền Nam Việt Nam giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam ở miền Nam cùng các lực lượng yêu nước khác đã thông qua nghị quyết thành lập Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời và Hội đồng Cố vấn Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Chính phủ được hẫu thuận bởi Đảng Lao động Việt Nam, trực tiếp là Trung ương Cục miền Nam lập ra trên cơ sở từ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Ngày 12 tháng 6 năm 1969, sau khi Đại hội Đại biểu Quốc dân miền Nam Việt Nam diễn ra thành công và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được chính thức thành lập, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trịnh trọng tuyên bố hoan nghênh và công nhận. Trong tháng 6 năm 1969, 23 nước đã công nhận Chính phủ cách mạng lâm thời, trong đó 21 nước kiến lập quan hệ ngoại giao. Ngay sau khi Hiệp định Geneve được ký kết, Mỹ tích cực âm mưu chia cắt Việt Nam nhằm mục tiêu biến miền Nam Việt Nam trở thành tiền đồn chống cộng sản tại Đông Nam Á. Mỹ đã ủng hộ chính quyền Ngô Đình Diệm trong việc củng cố quyền lực lâu dài nhằm thực hiện mục tiêu đề ra. Tháng 9 năm 1954, Mỹ thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) ""biến miền Nam Việt Nam thành một căn cứ quân sự quan trọng nằm dưới sự kiểm soát của Mỹ". Việc thực thi Hiệp định Geneve đã bị Mỹ và Việt Nam Cộng hòa ngăn cản, không thi hành các điều khoản, sử dụng mọi thủ đoạn, biện pháp chống lại việc bầu cử thống nhất Việt Nam. Chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện các chiến dịch Tố Cộng diệt Cộng, đàn áp những người được coi là cộng sản, thân cộng sản. Trong khi đó cuối năm 1956, Nikita Khrushchev, lãnh đạo tối cao Liên Xô, tuyên bố “"chung sống hòa bình"” với Mỹ, do đó các nước lớn trong phe Xã hội chủ nghĩa không muốn Đảng Lao động Việt Nam phát động chiến đấu vũ trang ở miền Nam Việt Nam. Tháng 1 năm 1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam triệu tập Hội nghị lần 15 (mở rộng), Hội nghị hoạch định hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng phải đồng thời tiến hành ở hai miền Nam, Bắc, nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước. Đảng Lao động Việt Nam đề ra giải pháp đưa cách mạng miền Nam có lợi nhất là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, tiến theo con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang để "đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ, tạo điều kiện thuận lợi nhất để hoà bình thống nhất nước nhà"". Sau khi Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15/1959 được ban hành, phong trào “Đồng khởi” trên quy mô lớn tại các tỉnh Nam Bộ và Khu V nhất tề đứng lên. Tiêu biểu như các cuộc khởi nghĩa ở Bác Ái (2/1959), Trà Bồng (8/1959), Tua Hai (1/1960), đặc biệt là phong trào nổi dậy ở tỉnh Bến Tre. Phong trào "Đồng khởi" đã đã tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng cách mạng phát triển nhanh chóng, hàng nghìn chi bộ được thành lập, số lượng đảng viên được tăng lên thành lập nhiều đội vũ trang. Ngày 20 tháng 12 năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, góp phần quy tụ, các tầng lớp nhân dân đấu tranh giành độc lập thống nhất. Thất bại trong việc bình định miền Nam Việt Nam, chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Mâu thuẫn trong giới lãnh đạo cầm quyền với nhau và mâu thuẫn với chính giới Mỹ đã làm trầm trọng khủng hoảng tại Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa. Mỹ đề ra Kế hoạch Staley–Taylor (Chiến tranh đặc biệt) nhắm mục tiêu tăng cường sức mạnh cho Việt Nam Cộng hòa, dập tắt các phong trao kháng chiến "bình định" và lập ấp chiến lược, cô lập và tiêu diệt lực lượng cộng sản còn sót lại ở miền Nam Việt Nam. Kế hoạch Staley-Taylor cuối cùng thất bại vào năm 1963, sau các trận đụng độ với Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, các ấp chiến lược bị phá không thực hiện đúng theo kế hoạch, đồng thời năm 1963 cuộc đảo chính đã lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm do Quân lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện đã gây rung động cho Việt Nam và thế giới. Việc lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm do phe quân sự là ngoài dự tính của Mật trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, vì không thể còn tuyên truyền việc Ngô Đình Diệm không được lòng dân. Mặt khác, những lãnh đạo quân sự kế nhiệm thường được thành lập một thời gian sau đó lại tiếp tục bị lật đổ, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng ở miền Nam phát triển. Báo Nhân Dân, cho rằng "Bằng cách lật đổ Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, đế quốc Mỹ đã tự mình phá hủy các cơ sở chính trị mà chúng đã xây dựng trong nhiều năm". Cuối năm 1963, Mỹ đề ra chiến lược "Chiến tranh cục bộ" bắt đầu giai đoạn leo thang chiến tranh dần dần và can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến. Sau vụ ám sát cả Ngô Đình Diệm và John Kennedy vào gần cuối năm 1963 và sự kiện Vịnh Bắc Bộ năm 1964 và trong bối cảnh chính trị Việt Nam Cộng hòa tiếp tục bất ổn, chính quyền Lyndon Johnson đưa ra cam kết chính sách trực tiếp bảo vệ chế độ Việt Nam Cộng hòa. Lực lượng quân sự Mỹ và các nước SEATO chống cộng tăng cường hỗ trợ, đưa lực lượng tác chiến quy mô lớn vào miền Nam Việt Nam; vào thời kỳ đỉnh cao vào năm 1969, hơn 400,000 lính Mỹ đã được triển khai. Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Đảng Lao động Việt Nam đã chỉ đạo đánh vào bộ chỉ huy chiến tranh của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt ném bom không điều kiện, chấp nhận đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh dấu sự thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Trong giai đoạn này Trung ương Cục miền Nam cũng đã vận động chính trị trong nhân dân để thành lập chính quyền cách mạng các cấp. Đến giữa năm 1969, đại bộ phận số xã, tỉnh và nhiều đô thị đều đã có chính quyền cách mạng, nhiều nơi các Ủy ban Nhân dân Cách mạng bước đầu thực hiện nhiệm vụ củng cố và phát huy vai trò chính quyền, làm tốt công tác lãnh đạo mọi mặt. Yêu cầu việc thành lập một chính quyền cách mạng ở miền Nam Việt Nam như một chính phủ được Trung ương cục đặt ra nhằm đấu tranh trên mọi mặt trận từ chính trị, ngoại giao đến quân sự. Đặt biệt tại Hội nghị Paris đòi hỏi cần có một chính phủ đại diện cho nhân dân miền Nam ""nhằm nâng cao hơn nữa vị trí, địa vị pháp lý của chính quyền cách mạng tại Hội nghị và trên trường quốc tế". Việc Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam thống nhất thành lập Chính phủ Lâm thời ở miền Nam cũng được báo chí nước ngoài dự báo trước: "Ngay từ năm 1966, Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tính đến việc thành lập một Chính phủ lâm thời làm đại diện thương thuyết với Hoa Kỳ. Ý định này chưa được chính thức công bố, nhưng tháng 3 năm 1966, chính quyền Sài Gòn đã “thâu lượm” được tin này. Tin tức này lần đầu tiên được chính quyền Sài Gòn đề cập đến trong một công văn của Bộ Ngoại giao gửi Phủ Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương: “theo nguồn tin mà Tòa Tổng Lãnh sự Việt Nam (Cộng hòa) tại New Delhi thâu lượm được thì Mặt trận Giải phóng miền Nam dự định lập một Chính phủ lâm thời để buộc Mỹ phải thương thuyết với họ chứ không điều đình thẳng với Bắc Việt. Đây chỉ là nguồn tin chưa được xác nhận, xong theo sự nhận xét của thiểm Bộ, có lẽ cho tới nay Mặt trận Giải phóng miền Nam chưa thực hiện được ý định lập một Chính phủ là vì họ chưa chiếm hẳn được một vùng đất nào"". Tờ Sài Gòn - Tokyo ngày 6 tháng 9 năm 1968 viết: Ngày 24 tháng 1 năm 1969, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi Điện số 32 kèm theo Bản dự thảo lời kêu gọi của Ban vận động hiệp thương tới Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục miền Nam, chủ trương mở hội nghị Hiệp thương giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam với Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam nhằm “"thống nhất nhận định, chủ trương và phương hướng đấu tranh cho việc lập một nội các hòa bình ở Sài Gòn"”. Ngày 25 tháng 5 năm 1969, trước những yêu cầu cấp thiết của cách mạng, Hội nghị Hiệp thương giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam để bàn về việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời mới được triệu tập. Đoàn đại biểu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam dự Hội nghị Hiệp thương gồm có: Đoàn đại biểu Ủy ban Trung ương Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam có: Tại hội nghị, hai đoàn đại biểu đã nhất trí đánh giá sự phát triển tình hình và thắng lợi của cách mạnh nhân dân ở miền Nam Việt Nam. Hai đoàn đại biểu đã nhất trí về thời cơ thuận lợi và sự cần thiết thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời thể theo nguyện vọng bức thiết của các tầng lớp nhân dân miền Nam Việt Nam và để đáp ứng nhu cầu cách mạng của nhân dân miền Nam đến thắng lợi. Hội nghị Hiệp thương đã quyết định triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân bao gồm đại biểu hết sức rộng rãi của các chính đảng cách mạng, các đoàn thể yêu nước, các tôn giáo, các dân tộc và các tầng lớp nhân dân, các địa phương, các nhân sĩ, trí thứ, quyết định đường lối, nhiệm vụ của nhân dân Việt Nam để giành thắng lợi hoàn toàn và cử ra Chính phủ Cách mạng lâm thời. Hội nghị đã quyết định lập một Ban trù bị đại hội để chuẩn bị Đại hội. Đại hội Đại biểu Quốc dân. Từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 6 năm 1969, Đại hội Đại biểu Quốc dân miền Nam Việt Nam giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam ở miền Nam cùng các lực lượng yêu nước khác đã họp tại một địa điểm thuộc tỉnh Tây Ninh. Đại hội nhận định tình hình "cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước" của nhân dân miền Nam và cử ra Chính phủ Cách mạng lâm thời và Hội đồng Cố vấn Chính phủ. Thành phần tham dự gồm có: Khai mạc Đại hội Trịnh Đình Thảo, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam thay mặt Ban trù bị Đại hội đọc diễn văn khai mạc. Luật sư Trịnh Đình Thảo nêu lên nhiệm vụ hàng đầu của Đại hội và nhìn lại một cách khái quát và biểu dương sự nghiệp kháng chiến của quân và dân miền Nam trong 15 năm qua, nhất là từ Tết Mậu Thân; đề ra phương hướng và nhiệm vụ cách mạng trước mắt của quân, dân miền Nam. Luật sư nhấn mạnh: "“Trên cơ sở ấy, Đại hội đại biểu quốc dân của chúng ta sẽ xếp việc thành lập “Chính phủ Cách mạng lâm thời”, một cơ quan quyền lực tập trung có đầy đủ tín nhiệm bao gồm những người tiêu biểu nhất của các tầng lớp nhân dân, tôn giáo, dân tộc, có đầy đủ đức, tài để động viên những nỗ lực lớn nhất của quân và dân miền Nam ta, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân của mọi lực lượng, mọi cá nhân yêu nước, yêu hòa bình và dân chủ ở các thành thị, nông thôn, đồng bằng và rừng núi, tăng cường hơn nữa khí thế mãnh liệt của cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước trong thời mới"." Sau báo cáo khai mạc đại hội của Trịnh Định Thảo, Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Đại hội, Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đọc bản "báo cáo chính trị". Trong đó có đoạn viết "để đáp ứng yêu cầu lớn lao của cuộc chiến đấu, đáp ứng nguyện vọng của toàn dân, để có cơ quan điều hành toàn bộ công việc nội bộ và ngoại giao của chúng ta trong giai đoạn lịch sử vinh quang này, sau khi có hiệp thương và hoàn toàn nhất trí giữa “Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam” và “Ủy ban Trung ương Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam”, chúng tôi đề nghị Đại hội đại biểu quốc dân xét và quyết định việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời để đoàn kết toàn dân, động viên toàn dân, toàn quân ta tiến lên đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ ngụy quyền tay sai, giành lấy thắng lợi hoàn toàn, thực hiện một miền Nam Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, trung lập, tiến tới hòa bình, thống nhất Tổ quố" Sau ba ngày làm việc, Đại hội đã nhất trí thông qua Nghị quyết cơ bản của Đại hội do Phùng Văn Cung thay mặt Chủ tịch đoàn trình bày về việc thành lập chế độ Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng Cố vấn bên cạnh chính phủ. Nguyễn Hữu Thọ thay mặt Ban trù bị Đại hội giới thiệu danh sách đại biểu được đề cử vào Ban Chấp hành Chính phủ Cách mạng lâm thời. Cơ cấu tổ chức Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam gồm có: 1 Chủ tịch, Phó chủ tịch, 8 Bộ và Văn phòng Chủ tịch Chính phủ. 8 Bộ gồn: Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam được thành lập xác nhận Cộng hòa miền Nam Việt Nam không phải là một nước mà là một chính thể... Đồng thời xóa bỏ sự "hợp hiến và hợp pháp" duy nhất của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Chính phủ lâm thời tạo điều kiện tranh thủ tầng lớp trung gian ở miền Nam, thúc đẩy phong trào đô thị. Chính phủ Cách mạng là một phe đối trọng với chính quyền Việt Nam Cộng hòa tại Hội nghị Pari, bác bỏ “đại diện hợp pháp duy nhất” cho miền Nam do Việt Nam Cộng hòa tuyên bố. Trong bài phát biểu bế mạc Đại hội, Chủ tịch Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Huỳnh Tấn Phát có đoạn:"Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam nhiệt liệt hoan nghênh và chính thức ghi nhận lời tuyên bố trịnh trọng của “Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam” chuyển giao cho Chính phủ Cách mạng lâm thời chức năng nhà nước đối nội cũng như đối ngoại, kể cả tư cách đại diện chân chính của nhân dân miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris về Việt Nam mà từ trước đến nay Mặt trận đã đảm đương một cách vẻ vang". Ngày 10 tháng 6 năm 1969, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Huỳnh Tấn Phát ký Quyết định số 07/QĐ/CT thành lập phái đoàn tham dự Hội nghị Paris về Việt Nam. Quốc tế công nhận. Trong tháng 6 năm 1969, 23 nước đã công nhận Chính phủ cách mạng lâm thời, trong đó 21 nước kiến lập quan hệ ngoại giao: Từ sau phiên họp thứ 21 (12/6/1969), Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam chính thức tham dự Hội nghị Paris với tư cách là Chính phủ độc lập, đại diện chân chính cho nhân dân miền Nam Việt Nam. Tháng 8 năm 1972, Hội nghị ngoại trưởng các nước không liên kết họp tại Guyanna đã công nhận địa vị hợp pháp của Chính phủ cách mạng lâm thời trong khối 59 nước Không liên kết. Ngày 27 tháng 1 năm 1973, là một trong bốn bên ký kết vào Hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Từ tháng 6 năm 1969 đến cuối năm 1975, có hơn 50 nước trên thế giới (trong đó có nhiều nước tư bản chủ nghĩa) công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Chính phủ Cách mạng lâm thời. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, lãnh thổ toàn miền Nam thuộc kiểm soát của Chính phủ Cách mạng lâm thời do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo. Sau khi giành được quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ Nam Việt Nam, tháng 9 năm 1975, Hội nghị Trung ương lần thứ 24 Đảng Lao động Việt Nam xác định mục tiêu thống nhất đất nước về mọi mặt. Từ ngày 15 đến 21 tháng 11 năm 1975, Hội nghị hiệp thương chính trị được tổ chức tại Sài Gòn, giữa đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Trường Chinh đứng đầu, và đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, do Phạm Hùng đứng đầu. Hội nghị đã nêu cao quyết tâm thực hiện lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “"Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi"”, đã đi đến tán thành tổ chức bầu cử Quốc hội thống nhất. Ngày 25 tháng 4 năm 1976 tổng tuyển cử toàn Việt Nam được tổ chức, bầu ra 492 đại biểu của Quốc hội Việt Nam thống nhất. Từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 3 tháng 7 năm 1976, Quốc hội họp phiên đầu tiên, thông qua các nội dung: Với sự kiện này, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã hoàn thành vai trò trong cuộc chiến tranh Việt Nam và chính thức chấm dứt mọi hoạt động. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Từ điển bách khoa Việt Nam
Mai Hoa (ca sĩ) Trần Mai Phương nghệ danh Mai Hoa (sinh năm 1975) là nữ ca sĩ dòng nhạc tiền chiến Việt Nam, bà được biết đến khi thể hiện các ca khúc nhạc phim do chồng mình là nhạc sĩ Trọng Đài sáng tác trong các bộ phim truyền hình. Mai Hoa tên đầy đủ là Trần Mai Phương sinh năm 1975 tại Hà Nam, gia đình bà sau này chuyển vào Thanh Hóa sinh sống trong 10 năm. Thi đậu vào hai môn Kịch nói và Cải lương, học kịch nói được khoảng nửa năm, Mai Hoa được đưa về Đoàn kịch, sau đó giành được huy chương vàng một cuộc thi hát bà chuyển sang học thanh nhạc tại Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Quân đội. Năm 1994, Mai Hoa gia nhập Ðoàn nghệ thuật Phòng không không quân đến quân hàm Thiếu tá, sau đó bà chuyển sang công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam. Mai Hoa bắt đầu sự nghiệp với Giải nhất cuộc thi Tiếng hát truyền hình Hà Nội năm 1996. Sau khi giành giải, Mai Hoa được Hội âm nhạc Hà Nội mời tham gia giao lưu với các nghệ sĩ Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây bà và nhạc sĩ Trọng Đài lần đầu được gặp nhau. Lần đầu Mai Hoa thể hiện một ca khúc nhạc phim là năm 2000 với bộ phim "Làm mẹ" với ca khúc cùng tên. Lúc này Trọng Đài đang tìm kiếm giọng ca thay thế cho một ca sĩ đã được chọn trước đó. Năm 2002, sự thành công của bộ phim truyền hình "Đất và người" giúp Mai Hoa được khán giả biết đến với ca khúc cùng tên với bộ phim, do nhạc sĩ Trọng Đài sáng tác. Năm 2005, Mai Hoa bất ngờ được chọn đóng vai nữ chính (Tám) trong phim truyền hình "Hương Đất". Khi đạo diễn Trần Quốc Trọng tìm kiếm người thay thế diễn viên Thu Hà - lựa chọn đầu tiên của ông cho nhân vật Tám - ông tình cờ xem được chương trình "Giới thiệu giọng hát Mai Hoa, Ánh Tuyết” trên truyền hình và nảy lửa ý tưởng chọn Mai Hoa. Tháng 12 cùng năm, Mai Hoa phát hành album đầu tay cũng có tựa đề Hương Đất; album gồm 8 ca khúc được nhạc sĩ Trọng Đài viết cho các bộ phim truyền hình khá thành công như: "Đất và người, Đường đời, Chuyện phố phường, Mùa lá rụng, Ca sĩ, Hương đất, Giá một lần"…. Năm 2007, Mai Hoa được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú. Năm 2010, Mai Hoa tham gia bộ phim Bí thư Tỉnh ủy với cả vai trò diễn viên, người sáng tác và thể hiện ca khúc chủ đề. Năm 2011, bà ra album phòng thu thứ ba với tựa đề "Dương cầm", album với các ca khúc tiền chiến được phối khí bởi nhạc sĩ Doãn Nguyên và nhạc sĩ Đức Minh. Năm 2018, Mai Hoa ra mắt MV "Đất và người", đồng thời được VTC tổ chức liveshow riêng với tên gọi "Mai Hoa - Thanh âm những nốt trầm”. Sau đó, bá phát hành hai album CD "Mùa thu vàng" và "Những ngày ta bên nhau". Năm 2023, Mai Hoa được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Mai Hoa kết hôn với nhạc sĩ Trọng Đài năm 1998, chuyện tình cảm của họ gặp nhiều cản trở từ gia đình và bàn luận của xã hội khi Trọng Đài từng là thầy của Mai Hoa và họ chênh lệch nhau 17 tuổi. Mai Hoa và Trọng Đài sinh được hai người con gái. Ca khúc thể hiện thành công. "Bến xuân", "Gửi người em gái", "Ngày về", "Bướm hoa", "Con thuyền không bến", "Hà Nội 49", "Lá đổ muôn chiều"... Ca khúc chủ đề của các phim "Đất và người", "Chuyện phố phường", "Hương đất", "Mùa lá rụng"…
Tôn Thất Lương (1793 - 1846) là một quan đại thần dưới triều đại nhà Nguyễn. Tôn Thất Lương thuộc dòng thứ bảy tôn thất nhà Nguyễn. Lúc nhỏ có học hạnh, từng học ở Quốc Tử Giám vào đầu thời Minh Mạng (1820 - 1841). Năm Minh Mạng thứ 5 (Giáp Thân, 1824), được bổ làm Hàn lâm viện Kiểm thảo, rồi thăng Lang trung Bộ Hộ, Thự Thiêm sự. Năm Mậu Tý (1828), thăng Tham hiệp trấn Thanh Hoa. Tháng Giêng năm Kỷ Sửu (1829), Tôn Thất Lương khi đó là Tham hiệp cùng các quan đầu trấn là Trấn thủ Lê Văn Hiếu, Hiệp trấn Đoàn Viết Nguyên, cho đấu thầu thuế cửa quan và bến đò. Có người muốn được trúng thầu đã hối lộ cho người thiếp của Lê Văn Hiếu 20 lạng bạc, cho người con của Đoàn Viết Nguyên 40 lạng cùng quà sau khi xong việc. Lê Văn Hiếu và Đoàn Viết Nguyên đều nhận, còn Tôn Thất Lương từ chối. Sau đó, việc nhận hối lộ của các vị quan đầu trấn Thanh Hoa bị phát giác. Các quan triều đình ra tra xét và lập án, trình lên bộ Hình, đề nghị xử Lê Văn Hiếu phải cách chức, Đoàn Viêt Nguyên tội đồ. Song vì trước đó hai vị quan này có nhiều công lao nên vua Minh Mạng gia ân cho họ: Lê Văn Hiếu bị giáng xuống làm Chánh Thất phẩm Thiên hộ, phái đi hiệu lực, Đoàn Viết Nguyên bị cách chức, cũng phải đi hiệu lực ở Nghệ An. Lê Văn Hiếu về sau chỉ được cấp bằng ở bộ, không được sắc phong. Vua Minh Mạng nhân đó dụ rằng, từ đây phàm những vị quan nào, cả quan văn và quan võ, có tội bị giáng bổ đi hiệu lực thì cứ chiếu theo lệ ấy. Còn Tham hiệp Tôn Thất Lương, vì giữ liêm khiết nên được vua khen ngợi, thưởng cho sa và đoạn mỗi thứ ba cuốn, lụa 10 tấm để khuyến khích người làm quan thanh bạch. Đầu năm Minh Mạng thứ 12 (Tân Mão, 1831), cũng tại trấn Thanh Hoa, các quan đầu trấn là Trấn thủ Hồ Văn Trương, Tham hiệp Nguyễn Văn Thắng được lệnh đi mua gỗ lim cho triều đình, đã dung túng cho người nhà và thuộc lại thông đồng với nhau, thao túng mua tất cả, làm lạm chi công quỹ triều đình tới hơn 50.000 quan. Sau đó, các quan này đều bị xử tội. Còn Tôn Thất Lương sau khi bị tra xét, các thanh tra thấy ông không dính dáng, nhưng vì là đồng sự của bọn Trương, Thắng nên bị cách chức và phát vãng tới đài Trấn Hải (Quảng Nam) để “hiệu lực”, gắng sức chuộc tội. Hết thời hạn đi “hiệu lực”, Tôn Thất Lương trở về được bổ làm Tư vụ ở Mộc thương. Sau đó, ông đã trải qua nhiều chức trách khác nhau. Trong một lần Tôn Thất Lương được về triều yết kiến, vua Minh Mạng đã dụ ông rằng: "“Tội của ngươi đáng phải truất bãi, nhưng vì trước ở Thanh Hoa, tự giữ được liêm khiết, đáng khen, nên trẫm không bỏ ngươi mà thôi. Phải nên rất tự xấu hổ mà hăng hái tiến lên, để cho sau này nên người tốt, người phải nghĩ đấy”". Khi được bổ chức Bố chính sứ Gia Định, đúng lúc tỉnh làm sổ sách về đinh, điền, ông vâng mệnh thi hành, mọi việc đâu vào đấy, được vua khen, thưởng gia một cấp. Năm Mậu Tuất (1838), được bổ làm Tuần phủ tỉnh Thuận Khánh, khi địa phương này đang bị giặc biển từ Trung Quốc sang cướp bóc. Tôn Thất Lương đích thân ngồi thuyền bắt, đuổi giặc cướp, làm yên tình hình. Ông còn thực hiện nhiều giải pháp để giúp dân vượt qua nạn đói, đề xuất khuyến học, lựa chọn người tài ra làm việc, được vua khen ngợi. Đầu năm sau (Kỷ Hợi, 1839), được thăng Thự Tổng đốc Bình - Phú, ông xin khai cừ, khai nước, huy động sức dân khai phá được hơn 1.000 mẫu ruộng, được vua khen là “vì dân làm việc lợi” và thưởng cho một cấp. Năm đầu thời Thiệu Trị (Tân Sửu 1841) trong kỳ đại kế, Tôn Thất Lương được vua biểu dương là "“người giữ mình trong sạch, cẩn thận, siêng năng, giao bộ ghi công để thăng chức”". Năm Quý Mão (1843) ở chức Tổng đốc Thanh Hóa, ông đã dẹp tan quân phiến loạn, được vua thưởng cho quân công một cấp, một đồng kim tiền. Sau đó, ông được gia hàm Thiếu bảo, Thự Hiệp biện đại học sĩ, Tổng đốc Hà Ninh. Đến tháng 9 năm 1846, ông qua đời, được tặng thực thụ Hiệp biện đại học sĩ, cấp tiền tuất, ban thêm gấm màu, vải lụa rất hậu. Năm đầu thời Tự Đức (Mậu Thân, 1848), được đưa vào đền Hiền Lương - nơi thờ những người có công của triều đình. Sách Đại Nam liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn chép:"“Lương là người có chí khí, giữ gìn, tình thanh liêm, tiết nghĩa. Khi ở Thanh Hóa, bạn đồng liêu tham tang nhận của đút riêng mà bản thân không dính dáng đến chút nào, được Thánh tổ Nhân hoàng đế [tức vua Minh Mạng] khen ngợi, nên bị cách bãi mà lại được khởi phục. Tới khi mấy lần nhận giữ nơi trọng khổn mà vẫn trong sạch, siêng năng, giữ tiết tháo, vỗ yên, có công lao rõ thực, không hổ là người ở Khánh phả”."
Thema Cherson (, "thema Chersōnos"), ban đầu và chính thức gọi là Klimata (tiếng Hy Lạp: ), là một thema của Đế quốc Byzantine (tỉnh quân sự-dân sự) nằm tại miền nam Krym, trụ sở tại Cherson. Thema được chính thức thành lập vào đầu thập niên 830 và là một trung tâm thương mại quan trọng của Biển Đen. Bất chấp sự tàn phá của thành phố Cherson vào thập niên năm 980, thema này đã phục hồi và thịnh vượng, tồn tại cho đến khi nó trở thành một phần của Đế quốc Trebizond sau khi Đế quốc Byzantine tan rã vào năm 1204. Khu vực này nằm dưới quyền kiểm soát của Đế quốc La Mã và sau đó là Byzantine cho đến đầu thế kỷ thứ 8, nhưng sau đó được chuyển sang dưới quyền kiểm soát của người Khazar. Quyền lực của Byzantine được tái lập bởi Hoàng đế Theophilos (trị vì 829–842), ông thể hiện sự quan tâm đến vùng duyên hải phía bắc của Biển Đen và đặc biệt là mối quan hệ của ông với người Khazar. Ngày hàn lâm truyền thống thành lập Cherson với vị thế trụ sở của một thema là khoảng 833/4, nhưng các nhà nghiên cứu gần đây đã liên kết nó với phái đoàn của Byzantine đến xây dựng thủ đô mới của người Khazar tại Sarkel vào năm 839, và xác định Petronas Kamateros, kiến ​​trúc sư của Sarkel, là thống đốc đầu tiên của thema ("strategos") vào năm 840/1. Tỉnh mới này ban đầu được gọi là "ta Klimata", "các vùng/khu", nhưng do sự nổi bật của thủ phủ Cherson, đến khoảng 860 nó thậm chí còn được ghi trong các tài liệu chính thức bằng tên gọi "thema Cherson". Tỉnh đóng một vai trò quan trọng trong quan hệ của Byzantine với người Khazar, và sau khi Hãn quốc Khazar sụp đổ thì là với người Pecheneg và Rus'. Đây là một trung tâm của ngoại giao Byzantine hơn là hoạt động quân sự, vì cơ sở quân sự trong thema này dường như còn nhỏ và chủ yếu bao gồm một lực lượng dân quân được gây dựng tại địa phương. Điểm yếu của nó được nhấn mạnh theo quy định trong các hiệp ước Byzantine với Rus' năm 945 và 971, khi người Rus' cam kết bảo vệ thema trước người người Bulgar Volga. Cherson rất thịnh vượng trong thế kỷ 9–11 với tư cách là trung tâm thương mại Biển Đen, bất chấp việc thành phố bị Vladimir của Kiev phá hủy vào năm 988/9 do tranh chấp về con gái của Hoàng đế Romanos II là Anna. Thành phố phục hồi nhanh chóng: các công sự của thành phố được khôi phục và mở rộng đến bến cảng vào đầu thế kỷ 11. Đồng thời, có thể sau thất bại của lãnh chúa Khazar Georgius Tzul vào năm 1016, thema này cũng được mở rộng sang miền đông Krym, bằng chứng là tước hiệu của một số người nhất định là ""strategos" của Cherson và Sougdaia" vào năm 1059. Tuy nhiên, khu vực này lại bị mất vào cuối thế kỷ 11 về tay người Cuman. Hầu như không biết được gì về Cherson trong thế kỷ 12, chỉ ra một thời kỳ khá yên bình. Cherson và tỉnh của nó vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Byzantine cho đến khi Đế quôc bị giải thể do Thập tự chinh thứ tư vào năm 1204, khi chủ quyền khu vực về tay Đế quốc Trebizond ly khai (xem Perateia). Thema Cherson dường như đã được tổ chức theo kiểu điển hình, với đầy đủ các quan chức cấp thema, trong đó có một "tourmarches" của Gothia được biết đến vào đầu thế kỷ 11, cũng như các quan chức tài chính và hải quan phổ thông được gọi là "kommerkiarioi". Tuy nhiên, các thành phố của thema này dường như vẫn giữ được quyền tự trị đáng kể cho chính quyền của họ, như chính Cherson được quản lý bởi các quý nhân địa phương ("archontes") dưới quyền một "proteuon" ("người đầu tiên"). Cherson cũng giữ quyền phát hành tiền xu của riêng mình, đã khôi phục việc đúc tiền dưới thời Hoàng đế Mikhael III (trị vì 842–867), và trong một thời gian dài là xưởng đúc tiền cấp tỉnh duy nhất bên ngoài Constantinople. Quyền tự chủ của tỉnh cũng được chứng minh bằng thực tế là chính phủ đế quốc đã trả trợ cấp hàng năm ("pakta") cho các nhà lãnh đạo thành phố theo kiểu của những người thống trị đồng minh, và theo lời khuyên của Hoàng đế Constantine Porphyrogennetos (trị vì 913–959) trong "De Administrando Imperio" của mình cho "strategos" địa phương liên quan đến khả năng xảy ra một cuộc nổi dậy trong thành phố: ông ấy phải ngừng thanh toán trợ cấp và chuyển đến một số thành phố khác trong thema. Vào cuối thế kỷ 11, thema được một "katepano" quản lý.
Danh sách sự kiện truyền thông của Apple Inc. Apple Inc. đã công bố các sản phẩm mới, các sản phẩm được thiết kế lại cũng như các bản nâng cấp của các phần mềm thông qua các cuộc họp báo, trong khi các bản cập nhật nhỏ thường diễn ra thông qua các thông cáo báo chí trên Apple Newsroom. Các cuộc họp báo trong lịch sử đã thu hút được một lượng lớn người theo dõi trên các phương tiện truyền thông truyền thống và trực tuyến. Các chi tiết của sự kiện thường được giữ bí mật để tạo tiếng vang và chỉ được tiết lộ trong sự kiện, mặc dù các dòng giới thiệu sự kiện đôi khi đưa ra gợi ý. Những sự kiện này thường được phát trực tiếp trên trang web của Apple và trong những năm gần đây là kênh YouTube của hãng. Video phát lại hầu hết các sự kiện của Apple kể từ năm 2007 đều có trên podcast "Apple Events" của Apple. Apple thường công bố các sản phẩm mới tại Hội nghị các nhà phát triển toàn cầu của Apple (WWDC) hàng năm, mặc dù nó chủ yếu tập trung vào phần mềm. Macworld New York 1999 diễn ra vào tháng Bảy. Apple ra mắt với tùy chọn mạng không dây. Có nhiều sự kiện Macworld vào năm 2000. Macworld 2000 San Francisco. Macworld 2000 được tổ chức vào ngày 5 tháng 1 năm 2000 tại San Francisco. Macworld 2000 tại San Francisco có sự ra mắt của giao diện người dùng " mới và công cụ đồ họa " của Mac OS X, và thông báo của Jobs rằng của nó sẽ được phát hành vào tháng 1 năm 2001 sau . Jobs cũng thông báo rằng ông đã được thăng chức thành Giám đốc điều hành toàn thời gian của Apple. Macworld 2004 được tổ chức tại San Francisco. WWDC 2004 được Apple công bố vào ngày 4 tháng 5 năm 2004, sẽ được tổ chức vào ngày 28 tháng 6 năm 2004 lúc 10:00 sáng tại San Francisco. Tại sự kiện này, các Màn hình Rạp chiếu phim mới với đầu nối DVI đã được công bố. Mac OS X Tiger đã được công bố cùng với các tính năng mới. MacWorld 2005 (Tháng 1/2005, San Francisco). iPod Shuffle đã được công bố, cùng với các sản phẩm khác. Mac Mini, iLife '05 và iWork đã được công bố. Tại sự kiện này, Steve Jobs gọi năm 2005 là "năm chỉnh sửa video HD". WWDC 2005 (Ngày 6–10 tháng 6 năm 2005). Sau khi cập nhật thị trường cơ bản, Jobs thông báo rằng Apple sẽ chuyển đổi nền tảng Macintosh sang bộ vi xử lý Intel x86 sau khi sử dụng PowerPC trong hơn một thập kỷ. Bài phát biểu có sự góp mặt của các nhà phát triển từ #đổi , những người đã thảo luận về trải nghiệm của họ khi chuyển Mathicala sang Mac OS X trên nền tảng Intel. Hội nghị bao gồm 110 phiên trong phòng thí nghiệm và 95 phiên trình bày, trong khi hơn 500 kỹ sư của Apple đã có mặt cùng với 3.800 người tham dự từ 45 quốc gia. Ban nhạc #đổi biểu diễn tại khuôn viên Apple. MacWorld 2006 (Tháng 1/2006). Tại sự kiện này, Apple đã giới thiệu những chiếc máy tính chạy Intel đầu tiên của mình là iMac và #đổi . Apple Special Event (28 tháng 2 năm 2006). Tại Sự kiện đặc biệt của Apple vào ngày 28 tháng 2 năm 2006, Steve Jobs đã công bố hệ thống loa #đổi tại trung tâm hội nghị Town Hall ở Cupertino. WWDC 2006 (7–11 tháng 8 năm 2006). Năm 2006, Steve Jobs một lần nữa có bài thuyết trình quan trọng tại WWDC, được tổ chức từ ngày 7 tháng 8 đến ngày 11 tháng 8 tại Moscone Center West, San Francisco. Mac Pro được công bố là sản phẩm thay thế cho #đổi , là máy tính để bàn chuyên nghiệp trước đây của Apple và là máy Mac dựa trên PowerPC cuối cùng còn lại. Mac Pro tiêu chuẩn có hai bộ xử lý Xeon (Woodcrest) lõi kép 2,66 GHz, RAM 1 GB, ổ cứng 250 GB và card đồ họa 256 MB. Bản nâng cấp Xserve, dựa trên Xeons lõi kép, cũng đã được công bố. Nguồn dự phòng và Lights Out Management là những cải tiến sản phẩm tiếp theo cho dòng máy chủ của Apple. Trong khi một số cải tiến chính của Mac OS X không được tiết lộ, có 10 cải tiến trong phiên bản tiếp theo, #đổi (10.5), bao gồm: hỗ trợ ứng dụng 64-bit đầy đủ, #đổi , #đổi , #đổi , #đổi , Spaces (Máy ảo), cải tiến #đổi , Core Animation, cải tiến Universal Access, cải tiến #đổi và cải tiến #đổi (bao gồm #đổi ) và cải tiến #đổi . Cùng với các tính năng của Leopard đã được công bố, một bản sửa đổi lớn cho sản phẩm Mac OS X Server đã được công bố. Các tính năng mới của Máy chủ bao gồm: quy trình thiết lập đơn giản hóa, Máy chủ (dựa trên tiêu chuẩn ), (một bộ dịch vụ cộng tác dựa trên web), Spotlight Server và Podcast Producer. WWDC 2006 đã thu hút 4.200 nhà phát triển từ 48 quốc gia, trong khi có 140 phiên và 100 phòng thí nghiệm thực hành dành cho nhà phát triển. Hơn 1.000 kỹ sư của Apple đã có mặt tại sự kiện này và DJ đã biểu diễn tại Apple Campus ở Cupertino. Apple Special Event (12 tháng 9 năm 2006). Apple đã công bố Apple TV (tên mã iTV vào thời điểm đó) tại sự kiện này, cùng với những cải tiến cho dòng sản phẩm iPod của họ. Địa điểm: Moscone West, San Francisco, California Dẫn chương trình: Steve Jobs, CEO của Apple Mô tả tập podcast: "Hãy xem Giám đốc điều hành của Apple, Steve Jobs khai mạc Hội nghị Triển lãm Macworld 2007 với bài phát biểu quan trọng từ Moscone West, San Francisco. Hãy xem những phát triển mới thú vị tại Apple, bao gồm việc bổ sung các bộ phim Paramount vào iTunes, Apple TV, cho phép bạn phát tất cả nội dung iTunes từ máy Mac hoặc PC của mình trên TV không dây và iPhone là tiên phong. Sản phẩm mang tính cách mạng này là một chiếc iPod màn hình rộng có điều khiển cảm ứng, một điện thoại di động và một thiết bị liên lạc Internet tất cả trong một." Thông tin đáng chú ý: Ngày hôm sau, cổ phiếu của Apple đạt 97,80 đô la, mức cao nhất mọi thời đại vào thời điểm đó. Vào tháng 5, giá cổ phiếu của Apple đã vượt mốc 100 USD. WWDC 2007 (11–15 tháng 6 năm 2007). WWDC 2007 được tổ chức từ ngày 11 tháng 6 đến ngày 15 tháng 6. Trong sự kiện này, Apple đã công bố việc phát hành iPhone OS 1, cũng như iPhone (thế hệ 1). Special Event 2007 (7 tháng 8 năm 2007). Apple giới thiệu iMac dựa trên Aluminum mới của Intel. Apple Music Event 2007 (5 tháng 9 năm 2007). Sự kiện được gọi là "The Beat Goes On". Apple đã công bố iPod touch thế hệ đầu tiên. Địa điểm: Moscone West, San Francisco, California Dẫn chương trình: Steve Jobs, CEO của Apple Mô tả tập podcast: "Hãy xem Giám đốc điều hành Apple, Steve Jobs khai mạc Macworld Conference Expo 2008 với bài phát biểu quan trọng đề cập đến những phát triển thú vị tại Apple, bao gồm cả MacBook Air và việc bổ sung dịch vụ cho thuê phim vào iTunes và trên Apple TV." Thông tin đáng chú ý: Apple đã công bố công nghệ push trong iPhone OS, iPhone SDK và iPhoneOS 2.0. WWDC 2008 (9–13 tháng 6 năm 2008). Các thông báo bài phát biểu quan trọng bao gồm App Store cho iPhone và iPod Touch, phiên bản ổn định của , phiên bản 3G được hỗ trợ của iPhone dành cho thị trường Toàn cầu, của iPhone OS, (10.6) và việc thay thế/đổi thương hiệu của .Mac thành . Apple Special Event (9 tháng 9 năm 2008). Các bản cập nhật trên iTunes và các bài nhạc mới từ thông báo của Jobs, loại bỏ iPod Classic có hệ số hình thức lớn hơn với dung lượng ổ cứng tăng lên trên iPod Classic còn lại và iPod Nano mới. Tại sự kiện này, Jobs cũng nói đùa rằng "các báo cáo về cái chết của tôi đã bị phóng đại quá mức". WWDC (8–12 tháng 6 năm 2009). Các thông báo tại bài phát biểu quan trọng bao gồm việc phát hành phần mềm được công bố cho các nhà phát triển vào tháng 3, trình diễn (10.6), MacBook Pro 13" mới, các bản cập nhật cho MacBook Pro 15" và 17" và iPhone 3GS mới. Apple Special Event (9 tháng 9 năm 2009). Các thông báo tại bài phát biểu quan trọng bao gồm việc phát hành iTunes 9, khả năng mua Nhạc chuông cho iPhone, , iPod nano thế hệ thứ 5, và 160GB thế hệ thứ 6 mỏng hơn. Apple Special Event (27 tháng 1 năm 2010). iPad được Steve Jobs công bố vào ngày 27 tháng 1 năm 2010 tại một cuộc họp báo của Apple tại ở San Francisco. Jobs sau đó nói rằng Apple đã bắt đầu phát triển iPad trước iPhone, nhưng tạm thời gác lại những nỗ lực khi nhận ra rằng ý tưởng của họ cũng sẽ hoạt động tốt trên điện thoại di động. Tên mã nội bộ của iPad là K48, được tiết lộ trong vụ kiện xung quanh việc rò rỉ thông tin iPad trước khi ra mắt. Apple Special Event (8 tháng 4 năm 2010). Steve Jobs trình bày tại sự kiện. Apple tiết lộ iOS 4 (khi đó được gọi là iPhone OS 4). Trong mô tả của Apple, nó bao gồm "hơn 100 tính năng người dùng mới dành cho chủ sở hữu iPhone và iPod Touch. Và đối với các nhà phát triển, bộ công cụ phát triển phần mềm (SDK) mới cung cấp hơn 1500 API mới để tạo ra các ứng dụng thậm chí còn mạnh mẽ, sáng tạo và tuyệt vời hơn. WWDC 2010 (7–11 tháng 6 năm 2010). Vào ngày 7 tháng 6 năm 2010, Jobs công bố iPhone 4. Ngoài ra, hệ điều hành iPhone được đổi tên thành iOS. Ứng dụng FaceTime và dành cho ứng dụng iPhone cũng đã được công bố. Apple Special Event (1 tháng 9 năm 2010). Steve Jobs đã hé lộ iOS 4.1, iOS 4.2 Preview, Shuffle thế hệ thứ 4, Nano thế hệ thứ 6, iPod Touch thế hệ thứ 4, iTunes 10 với Ping. và Apple TV thế hệ thứ 2. Sự kiện 'Back to the Mac' của Apple (20 tháng 10 năm 2010). Bản xem trước của đã được hé lộ, bao gồm các yếu tố thiết kế được cập nhật lấy cảm hứng từ iPad. Steve Jobs đã khai mạc sự kiện. iLife '11 đã được công bố, bao gồm các phiên bản cập nhật iPhoto, iMovie và Garageband. Gerhard Lengeling, Giám đốc cấp cao về mảng Ứng dụng sáng tạo âm nhạc tại Apple đã giúp đưa ra bản demo phiên bản mới của Garageband. iLife '11 được thông báo là miễn phí với mọi máy Mac mới và 49 USD cho các máy Mac hiện có. Sự chú ý được dành cho FaceTime. Steve Jobs thông báo rằng Apple đã xuất xưởng 19 triệu thiết bị có khả năng FaceTime (iPod touch và iPhone) kể từ tháng 6 năm 2010, khi FaceTime lần đầu tiên ra mắt. FaceTime cho Mac đã được công bố. Apple Special Event (2 tháng 3 năm 2011). Apple đã gửi lời mời tới các nhà báo vào ngày 23 tháng 2 năm 2011, cho một sự kiện truyền thông vào ngày 2 tháng 3. Giám đốc điều hành Apple Steve Jobs đã tiết lộ thiết bị iPad 2 tại vào ngày 2 tháng 3 năm 2011, mặc dù đang trong thời gian nghỉ chữa bệnh. WWDC 2023 (5–9 tháng 6 năm 2023). WWDC 2023 được tổ chức từ ngày 5/6 đến ngày 9/6. Cũng giống như WWDC 2020, được tổ chức từ ngày 22/6 đến ngày 26/6, WWDC 2021, được tổ chức từ ngày 7/6 đến ngày 11/6 và WWDC 2022, được tổ chức từ ngày 6/6 đến ngày 10/6, cũng đã diễn ra trực tuyến và với trải nghiệm trực tiếp tại Apple Park. Các thông báo về phần cứng tại bài phát biểu quan trọng của sự kiện đặc biệt trực tuyến vào ngày 5 tháng 6 bao gồm MacBook Air 15 inch, Mac Studio thế hệ tiếp theo với chip kép M2 Max và M2 Ultra, một phiên bản Mac Pro mới được nâng cấp với chip M2 Ultra và Apple Vision Pro, kính thực tế ảo tăng cường mới cũng có chip kép Apple M2 và Apple R1. Các thông báo về phần mềm bao gồm iOS 17, iPadOS 17, macOS Sonoma, watchOS 10, tvOS 17 và hệ điều hành visionOS cho Apple Vision Pro. Apple Event (12 tháng 9 năm 2023). Apple đã chính thức công bố sự kiện thường niên tháng 9 của họ vào ngày 29 tháng 8 năm 2023 với khẩu hiệu "Wonderlust". Nó sẽ diễn ra trực tuyến cùng với trải nghiệm trực tiếp tại Apple Park. Apple dự kiến ​​sẽ công bố Apple Watch X, iPhone 15, iPhone 15 Plus, iPhone 15 Pro, iPhone 15 Pro Max hoặc iPhone 15 Ultra, , thay thế cho cổng Lightning đã 11 năm tuổi khi bắt đầu được sử dụng từ iPhone 5 và sẽ kết thúc với dòng iPhone 14, khiến chúng trở thành những chiếc iPhone cuối cùng sử dụng cổng Lightning, được biết sự thay đổi trên do tuân thủ các quy định mới của EU. iOS 17, iPadOS 17, watchOS 10 và tvOS 17 được phát hành sáu ngày sau sự kiện, vào ngày 18 tháng 9. Apple Event (30 tháng 10 năm 2023). Một sự kiện của Apple được tổ chức vào ngày 30 tháng 10 năm 2023 với khẩu hiệu "Nhanh dựng tóc gáy (Scary fast)", lúc 5 giờ chiều theo Giờ chuẩn Thái Bình Dương, đây là sự kiện ban đêm đầu tiên của Apple. Sự kiện giới thiệu các mẫu MacBook Pro và iMac với chip Apple M3. Đây là sự kiện kỹ thuật số đầu tiên của Apple được quay bằng iPhone.
Kenneth Peter Zubay (22 tháng 6 năm 1924 - 14 tháng 3 năm 2010) là một doanh nhân và chính khách người Mỹ. Zubay sinh ra ở Endicott, New York. Ông tốt nghiệp Trường Trung học Union-Endicott năm 1942. Zubay phục vụ cho Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tại cơ sở sửa chữa tàu ở Norfolk, Virginia. Ông cũng đi học nghề và tham gia các khóa đào tạo về nghiệp vụ quản lý. Zubay từng làm việc cho IBM. Ông cùng vợ và gia đình chuyển đến Rochester, Minnesota vào năm 1956 và tiếp tục làm việc cho IBM. Zubac là nghị sĩ của Hạ viện Minnesota từ năm 1975 đến năm 1982 và là đảng viên Đảng Cộng hòa. Zubay qua đời tại Bệnh viện Methodist ở Rochester, Minnesota.
Okobo (おこぼ, Okobo), còn được gọi là hay (là tất cả những từ tượng thanh miêu tả tiếng do phát ra khi bước đi), là loại dép gỗ truyền thống của Nhật Bản được các bé gái và phụ nữ độc thân đeo trong lễ và Lễ Thành niên. Nó cũng được đeo bởi các Maiko (Geisha tập sự) tại một số vùng của Nhật Bản. thường được làm từ khối gỗ rắn lấy từ cây paulownia, loại gỗ phong mềm bản địa của vùng Đông Á và thường được canh tác ở đó. cao từ , và có thể thêm họa tiết trang trí, được sơn mài đen hoặc được mài cho phẳng hơn; Okobo được mài phẳng sẽ không cần phải cho thêm sáp. được giữ trên bàn chân của người sử dụng bằng một loại dây đeo được gọi là , được làm bằng cách thắt nút sợi dây rồi vòng qua lỗ đã được khoan từ trước – một sợi ở phía trước đôi dép, xỏ xuyên qua mặt gỗ phía dưới, và hai sợi sau được luồn vào điểm giữa của khối gỗ đó. Phần giữa của dép sẽ được khoan ra, để rỗng và những sợi sẽ được luồn vào phần rỗng. Nút dây thắt phía trước có thể được gắn thêm một chiếc chuông nhỏ, và phần lỗ thường được bịt kín bằng một nút kim loại gọi là (前金, nghĩa đen: 前 (tiền), "phía trước" + 金 (kim), "kim loại"). Ở những loại nhỏ hơn, chiếc chuông sẽ được giữ bởi hai nút dây được buộc phía sau. Các dành cho Maiko thường cao hơn loại thông thường, với chiều cao từ , và thường không có lớp sơn bên ngoài; vào mùa hè, Okobo của họ sẽ được sơn mài đen trơn. Loại dành cho các cô gái trẻ và phụ nữ thường thấp hơn và được sơn mài với nhiều màu sắc ở hai bên giày. Còn loại được dùng cho buổi lễ có thể có vải gấm trang trí bên ngoài, với phần mặt đế được đan bằng tre (được gọi là ). Dây đai có thể làm từ mọi nguyên liệu phù hợp với phụ nữ và các bé gái, mặc dù chúng thường được làm từ vải thổ cẩm, nhung, lụa và lụa Polyester. Đối với các geisha tập sự, luôn được làm từ vải trơn, với màu sắc tượng trưng cho giai đoạn học nghề của họ: Dây đai đỏ dành cho những người mới học việc, trong khi dây đai vàng được đeo bởi những người học việc lâu năm và sắp hoàn thành giai đoạn tập sự.
Nabila Muhsin Ali al-Zubayr (sinh năm 1964) là một nhà thơ và tiểu thuyết gia người Yemen. Bà sinh ra tại làng al-Hagara thuộc vùng Haraz và theo học tại Đại học Sanaa, tốt nghiệp bằng cử nhân tâm lý học. Bà từng là cộng tác viên thường xuyên cho các tạp chí ở Yemen, bao gồm al-Thawra, al-'Uruba, al-Mithaq và al-Mar'a. Tập thơ đầu tiên của bà có tựa đề "Mutawaliyat al-kidhba al-ra'i'a" đã được xuất bản ở Damascus vào năm 1990. Bà đã xuất bản thêm nhiều tập thơ kể từ đó. Thơ của al-Zubayr đã được dịch sang tiếng Anh trong tạp chí "Banipal" và được đưa vào hợp tuyển năm 2008 với tựa đề "".
Steak frites, có nghĩa là "bò bít tết [và] khoai tây chiên" trong tiếng Pháp, là một món ăn bao gồm một lát thịt bò bít tết ăn kèm với khoai tây chiên. Nó thường được phục vụ tại cá brasserie ở châu Âu, và được một số người coi là món ăn quốc gia của Bỉ, nơi tuyên bố là nơi phát minh ra nó. Trong lịch sử, phần đùi thăn thường được sử dụng cho món ăn này. Điển hình hơn ở thời điểm hiện tại, bít tết là một entrecôte, hay còn được gọi là thăn lưng, hoặc scotch fillet ở Úc, rán đến độ tái ("saignant"—nghĩa đen là "đẫm máu"), trong nước sốt giảm chảo, đôi khi với hollandaise hoặc béarnaise, ăn kèm với khoai tây chiên. Francophilia dẫn đến sự khái quát hóa của nó đối với thế giới nói tiếng Bồ Đào Nha, nơi nó được gọi là hoặc , đặc biệt là ở Brasil, trong đó nước xốt thường chỉ là những khoanh hành tây được nấu chín và chiên trong nước và dầu chiên của bò bít tết, là món ăn phổ biến nhất bỏ qua cơm và đậu. Steak frites cũng phổ biến ở các quốc gia khác, chẳng hạn như các nước nói tiếng Anh và các nước nói tiếng Tây Ban Nha ở châu Mỹ Latinh. Steak frites là chủ đề của một bài phân tích ký hiệu học của nhà lý luận văn hóa Pháp, Roland Barthes trong tác phẩm năm 1957 của ông, "Mythologies".
Bầu cử ở Phần Lan Việc bầu cử ở Phần Lan – dành cho công dân trên mười tám tuổi và có quyền bầu cử, gồm bầu cử Tổng thống, bầu cử Quốc hội, bầu cử Nghị viện châu Âu, bầu cử Hội đồng điều hành #đổi và bầu cử Hội đồng điều hành khu tự quản (ở địa phương). Bầu cử tổng thống mỗi sáu năm tiến hành một lần, sử dụng hệ thống bầu cử hai vòng với phuơng thức đầu phiếu phổ thông trực tiếp. Bầu cử Quốc hội mỗi bốn năm tiến hành một lần, sử dụng hệ thống bầu cử theo tỷ lệ đại diện với phương thức phân bổ ghế D’Hondt trên cơ sở mỗi khu vực bầu cử được bầu ít nhất một nghị sĩ. Vì Phần Lan sử dụng hệ thống đa đảng nên rất khó để một đảng phái có thể dành được số ghế đa số trong Quốc hội và thường phải thành lập liên minh cầm quyền với các đảng khác. Bầu cử Nghị viện châu Âu mỗi năm năm tiến hành một lần. Nước Cộng hòa Phần Lan có 14 đại biểu trong Nghị viện châu Âu. Bầu cử Hội đồng điều hành khu tự quản ở địa phương mỗi bốn năm tiến hành một lần. Riêng tại vùng tự trị Åland thì bầu cử hội đồng khu tự quản và bầu cử Nghị viện Åland được tiến hành đồng thời. Cùng lúc với bầu cử Hội đồng điều hành khu tự quản còn tổ chức bầu cử Hội đồng điều hành hạt phúc lợi, do nội các thủ tướng Sanna Marin lập ra và tổ chức lần đầu vào năm 2022, nhằm bầu ra ủy viên cho hai mươi mốt Hội đồng điều hành hạt phúc lợi của Phần Lan. Bầu cử tổng thống. Từ năm 1919 đến năm 1988, Tổng thống Cộng hoà Phần Lan được bầu lên gián tiếp thông qua đại cử tri đoàn, trong đó các đại cử tri được người dân trực tiếp bầu chọn ra. Vào năm 1988, người dân cả nước vừa bỏ phiếu cho các ứng cử viên tổng thống, vừa bỏ phiếu để bầu ra đại cử tri đoàn. Nếu như không có ứng cử viên tổng thống nào nhận được số phiếu đa số, đại cử tri đoàn sẽ bỏ phiếu để bầu ra Tổng thống mới cho nhiệm kỳ 1988 – 1994. Sau năm 1994, Tổng thống Cộng hoà Phần Lan do người dân trực tiếp bầu lên với nhiệm kỳ sáu năm. Cuộc bầu cử gần nhất diễn ra và ngày 28 tháng 1 năm 2018. Vui lòng xem tại đây. Bầu cử tổng thống năm 2018. Tổng thống Phần Lan đương nhiệm khi đó là Sauli Niinistö tái đắc cử tại vòng bầu cử thứ nhất với 62,7 % số phiếu ủng hộ (tỷ lệ cử tri tham gia bỏ phiếu trong cuộc bầu cử tổng thống đạt 66,7 %). Ứng cử viên đảng Liên đoàn Xanh Pekka Haavisto đứng thứ hai và ứng cử viên đảng Người Phần Lan Laura Huhtasaari đứng thứ ba. Bầu cử Quốc hội. Do bản chất thể chế đại nghị của Phần Lan, Thủ tướng Chính phủ có quyền yêu cầu Tổng thống giải thể Quốc hội tại một thời điểm giữa nhiệm kỳ rồi tổ chức một cuộc bầu cử sớm ngay sau đó. Tuy nhiên các cuộc bầu cử đã diễn ra đều đặn vào ngày Chủ Nhật lần thứ ba của tháng 3 vào các năm 1991, 1995, 1999, 2003 và 2007. Sau năm 2007, các cuộc bầu cử Quốc hội được tổ chức vào một ngày Chủ nhật trong tháng 4, như vào các năm 2011, 2015, 2019 và 2023. Phương pháp phân bổ phiếu D’Hondt theo hệ thống đầu phiếu đại diện tỷ lệ được sử dụng tại Phần Lan khuyến khích nhiều đảng chính trị hoạt động trong Quốc hội và là nguyên nhân hình thành nhiều chính phủ liên hiệp. Phương pháp phân bổ D’Hondt có ưu điểm là dễ hình dung và dễ thực hiện nhưng lại có một nhược điểm là phương pháp này có xu hướng biệt đãi các đảng chính trị lớn và lâu đời. Một ví dụ: vào năm 2007, có 2.000 ứng cử viên đại diện cho mười tám đảng (tính cả những ứng viên độc lập) tranh cử vị trí nghị sĩ Quốc hội. Và sau khi cuộc bầu cử kết thúc, hai trăm nghị sĩ Quốc hội tân nhiệm chỉ thuộc tám đảng trong số mười tám đảng tranh cử ban đầu. Thủ tướng là người được Tổng thống bổ nhiệm sau khi được Quốc hội bỏ phiếu phê chuẩn. Thông thường, chủ tịch của đảng với số ghế lớn nhất trong Quốc hội sẽ trở thành Thủ tướng mới. Bầu cử Nghị viện Åland. Dân số vùng tự trị Åland năm 2023 là 30.550 người, chiếm 0,547 % dân số Phần Lan. Theo quy định tại Luật Vùng tự trị Åland, Nghị viện Åland có quyền lập pháp trong một số lĩnh vực nhất định. Nhà nước Phần Lan với đại diện là Thống đốc Åland nắm quyền lập pháp đối với các lĩnh vực còn lại. Cư dân vùng Åland sẽ tham gia đầu phiếu cùng lúc với người dân trong lục địa để bầu ra một nghị sĩ đại diện cho vùng Åland trong Quốc hội Phần Lan. Các cuộc bầu cử hội đồng khu tự quản và bầu cử Nghị viện Åland được tiến hành đồng thời sau mỗi bốn năm. Hệ thống đầu phiếu đại diện tỷ lệ khuyến khích nhiều đảng chính trị hoạt động trong Nghị viện Åland và do đó hình thành nhiều chính phủ liên hiệp. Các đảng phái chính trị tại Åland khác với các đảng phái chính trị hoạt động trong lục địa. Thủ hiến Åland là người đứng đầu nhánh hành pháp của vùng Åland (Chính phủ Åland), do Nghị viện Åland bầu ra và bổ nhiệm. Thông thường sau một cuộc bầu cử, chủ tịch của đảng nắm số ghế lớn nhất trong Nghị viện Åland sẽ trở thành Thủ hiến tiếp theo. Bầu cử Nghị viện châu Âu. Phần Lan bắt đầu đưa ứng cử viên và bỏ phiếu tại các cuộc bầu cử của Nghị viện châu Âu từ khi gia nhập Liên minh châu Âu vào năm 1995.
Zubchaty () là một hòn đảo không có người ở trong vịnh Shelikhov thuộc phía đông bắc biển Okhotsk. Hòn đảo nằm ở phía đông của vịnh Penzhina. Hòn đảo có đỉnh hình răng cưa. Đảo Zubchaty thuộc huyện Tigilsky của vùng Kamchatka, ở vùng Viễn Đông Nga. Các tàu đánh cá voi Mỹ đã thăm dò tìm cá voi đầu cong ngoài khơi đảo từ năm 1863 đến năm 1889. Những người đánh bắt cá voi đã gọi hòn đảo là Đảo Crag. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Neapolitan ragù (tiếng Napoli: và tiếng Ý: [raˈɡu alla napoleˈtaːna] hoặc ragù napoletano) là một trong hai loại nước sốt thịt nổi tiếng nhất được gọi là ragù. Nó là đặc sản của Napoli, như tên gọi của nó. Một biến thể khác có nguồn gốc từ Bologna và được gọi trong tiếng Ý là "ragù bolognese" hoặc "ragù alla bolognese". Neapolitan ragù cũng được khen ngợi bởi Eduardo De Filippo trong một bài thơ của ông có nhan đề: "'O rraù". Theo truyền thuyết, ở Napoli vào cuối thế kỷ 14, có Công ty Công lý của Người da trắng đi bộ quanh thành phố để cầu xin "lòng thương xót và hòa bình". Công ty đã đến "Cung điện Hoàng đế" vẫn còn tồn tại qua Tribunali, nơi ở của Carlo, Hoàng đế Constantinople và Maria di Valois con gái của Vua Charles của Anjou. Vào thời điểm đó, cung điện là nơi sinh sống của một quý ông, người luôn thù địch với mọi người, vừa thô lỗ vừa độc ác, và là người mà mọi người đều cố gắng tránh xa. Lời rao giảng của công ty đã thuyết phục người dân làm hòa với kẻ thù của họ, nhưng chỉ có nhà quý tộc cư trú trong "Hoàng cung" quyết định không nhận lời mời của người da trắng, luôn nuôi mối hận thù lâu đời và ngoan cường. Anh ấy đã không bỏ cuộc ngay cả khi đứa con trai ba tháng tuổi, trong vòng tay của y tá, trượt đôi bàn tay nhỏ bé của nó ra khỏi băng và bắt chéo chúng, anh ấy đã khóc ba lần: "Xin thương xót và bình an". Nhà quý tộc bị mù quáng bởi sự tức giận, anh ta ôm mối hận thù và báo thù, và một ngày nọ, vợ anh ta, để làm anh ta mềm lòng, đã chuẩn bị một đĩa mì ống cho anh ta. Providence đổ đầy đĩa với một loại nước sốt đầy máu. Cuối cùng, cảm động trước thần đồng, người đàn ông bướng bỉnh đã làm hòa với kẻ thù của mình và khoác lên mình chiếc áo dài trắng của Công ty. Vợ anh, sau một quyết định bất ngờ, lại chuẩn bị món mì ống, một lần nữa, như có phép màu, lại chuyển sang màu đỏ. Nhưng thứ nước sốt bí ẩn đó có mùi thơm lạ mời gọi, rất ngon, và quý ông nếm thử thấy thật ngon. Vì vậy, cô gọi anh là "raù" cùng tên với con mình. Trên thực tế, thuật ngữ ragù bắt nguồn từ tiếng Pháp "ragoût", chỉ một kiểu nấu thịt và rau, tương tự như món hầm. Chúng ta cũng phải nhớ rằng cà chua đã không đến châu Âu trước cuối thế kỷ 16. Phiên bản Neapolitan được làm từ 2 phần: thịt và xốt cà cùng một vài loại gia vị được thêm vào. Tuy vậy, một điểm khác biệt chính là cách sử dụng thịt cũng như lượng cà chua trong nước sốt. Các phiên bản Bolognese sử dụng thịt thái nhỏ, trong khi các phiên bản Neapolitan sử dụng thịt nguyên miếng, lấy từ casserole khi được nấu chín và phục vụ như món thứ hai hoặc với pasta. Sở thích cho các thành phần cũng khác nhau. Ở Napoli, rượu vang trắng được thay thế bằng rượu vang đỏ, bơ thay thế bằng mỡ lợn hoặc dầu ô liu, và khá nhiều lá húng tây được thêm vào, nhưng Bolognese ragù không có húng tây. Ở phiên bản Neapolitan, nó cũng có thể được làm phong phú bằng cách thêm nho khô, hạt thông và involtini với các chất trám khác nhau. Sữa và kem không được sử dụng, và một lượng tương đối nhiều nước xốt cà chua được ưu tiên hơn, trái ngược với việc Bolognese sử dụng một lượng tối thiểu. Mùa cà chua ở miền nam Napoli dài hơn nhiều so với ở miền bắc Bologna. Giống như Bolognese, Neapolitan ragù cũng có khá nhiều biến thể, trong đó nổi tiếng nhất là "ragù guardaporta" (doorman's ragù). Neapolitan ragù có nhiều điểm tương đồng và là tổ tiên của "Sunday gravy" trong ẩm thực Ý-Hoa Kỳ, sự khác biệt chính là việc bổ sung nhiều loại thịt hơn trong phiên bản của Hoa Kỳ, nổi tiếng nhất là thịt viên (từ món Spaghetti thịt viên), braciole, xúc xích và sườn cốt lết.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Vòng loại đơn nam Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Vòng loại đơn nam là một loạt các trận đấu quần vợt diễn ra từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 6 năm 2023 để xác định 16 tay vợt vượt qua vòng loại và các tay vợt thua cuộc may mắn (nếu cần) vào vòng đấu chính Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đơn nam. Danh sách tham dự vòng loại được công bố dựa trên bảng xếp hạng ATP trong tuần của ngày 29 tháng 5 năm 2023. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng ATP vào ngày 19 tháng 6 năm 2023. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Thua cuộc may mắn. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Vòng loại đơn nữ Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Vòng loại đơn nữ là một loạt các trận đấu quần vợt diễn ra từ ngày 27 đến ngày 29 tháng 6 năm 2023 để xác định 16 tay vợt vượt qua vòng loại và các tay vợt thua cuộc may mắn (nếu cần) vào vòng đấu chính Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đơn nữ. Danh sách tham dự vòng loại được công bố dựa trên bảng xếp hạng WTA trong tuần của ngày 29 tháng 5 năm 2023. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng WTA vào ngày 19 tháng 6 năm 2023. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Thua cuộc may mắn. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Vòng loại đơn nam trẻ Dưới đây là kết quả vòng loại đơn nam trẻ Giải quần vợt Wimbledon 2023. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Vòng loại đơn nữ trẻ Dưới đây là kết quả vòng loại đơn nữ trẻ Giải quần vợt Wimbledon 2023. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đại Đường vinh diệu Đại Đường vinh diệu (tiếng trung: 大唐荣耀, tiếng Anh: The Glory of Tang Dynasty), là một bộ phim truyền hình dài tập được phát sóng năm 2017 lấy bối cảnh Nhà Đường được cải biên tiểu thuyết《 Đại Đường hậu phi truyện chi Trân Châu truyện kỳ 》của Thương Minh Thủy với sự tham gia của Cảnh Điềm, Nhậm Gia Luân, Thư Sướng, Tần Tuấn Kiệt, Vạn Thiến. Phim phát sóng trên đài truyền hình An Huy. Thẩm Trân Châu là một nữ tử Giang Nam xuất thân danh môn có nội tâm lương thiện, luôn thiện chí giúp đỡ mọi người. Do hồi nhỏ cô từng suýt chết đuối nhưng may mắn thay được một người lạ mặt cứu giúp nên khi lớn cô đã thề rằng "Nếu người cô cưới không phải ân nhân từng cứu cô thì nhất quyết không chịu gả". Nào ngờ đâu vì Thẩm gia bị vu oan mà dẫn tới diệt môn nên Trân Châu đành phải gả vào Quảng Bình vương phủ. Mặc dù sau này cô đã nhận ra Lý Thục chính là ân nhân đã cứu mạng mình khi xưa nhưng lại bị kẻ xấu lừa gạt, khiến cô cho rằng Lý Thục chính là hung thủ đã hãm hại Thẩm gia. Cuối cùng sau bao trắc trở, hiểu lầm của cả hai đã được hóa giải. Những tưởng đâu hai người sẽ có thể sống yên bình mãi mãi nhưng không ngờ Loạn An Sử bộc phát đã chia lại rẽ cả hai. Trân Châu bị kẹt lại trong thành Trường An không thể thoát ra, không thể ở bên Lý Thục. Trong thời gian xa cách, cạnh cô luôn có thanh mai trúc mã An Khánh Tự kề bên bảo vệ. Sau khi Đường quân thu phục thành Trường An sau, Trân Châu quyết định rời khỏi hoàng cung đầy rẫy hiểm nguy nhưng Lý Thục vẫn một lòng muốn đón Trân Châu trở về nhưng nàng nhất quyết cự tuyệt. Ngay lúc này Tam hoàng tử Lý Đàm bị Trương Hoàng hậu hãm hại mà chết. Lý Thục thân là hoàng huynh nên đau buồn không thôi, vì vậy mà nản lòng đối với triều chính, tinh thần sa sút sống qua ngày. Trên triều đình, Trương Hoàng hậu cùng Sử Tư Minh thừa cơ hãm hại Lý Thục, khiến cho Lý Thục bị đoạt mất binh quyền. Vì muốn Lý Thục lấy lại tinh thần, tiếp tục được Túc Tông trọng dụng, Độc Cô Tĩnh Dao quyết định gả vào vương phủ trợ giúp Lý Thục. Vì Lý Thục cùng tương lai của Đại Đường nên Trân Châu Châu nhận chủ động để Lý Thục cưới Độc Cô Tĩnh Dao làm thê tử. Về sau Lý Thục được lập làm Thái tử, vì Túc Tông bệnh nặng nên Lý Thục được thay phụ hoàng giám quốc.Ngay lúc này Trương Hoàng hậu lại có mưu đồ hãm hại Lý Thục để phế lập Thái tử khác nhưng quỷ kế bị trung thần Lý Tất nhìn thấu nên vị trí Thái tử của Lý Thục được đảm bảo. Đại cục đã mất Trương Hoàng hậu đành liều chết giãy dụa, ý đồ bắt cóc Trân Châu để áp chế Lý Thục. Hoạn quan Lý phụ quốc biết Trương Hoàng hậu đã hết đường lui bèn chuyển qua trợ giúp Lý Thục, trước mặt Túc Tông vạch mặt Trương Hoàng hậu, cuối cùng Trương Hoàng hậu không may bị ngã đập đầu vào tủ gỗ mà chết. Lý thục thành công bình định loạn tặc, giang sơn Đại Đường rung chuyển hồi lâu quay về vững chắc như ban đầu. Nhiều lần khó khăn trắc trở cuối cùng Lý Thục và Trân Châu lại đoàn tụ nhưng lại lần phải nữa đứng trước sinh ly tử biệt. Lý Thục trải qua biết bao nhiên gian khó leo lên Hoàng vị nhưng cuối cùng chỉ có thể một thân một mình trông coi thiên hạ vạm dặm, kéo dài vinh quang của Đại Đường.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đơn nam xe lăn Tokito Oda là nhà vô địch, đánh bại Alfie Hewett trong trận chung kết, 6–4, 6–2. Đây là danh hiệu đơn Grand Slam thứ 2 của Oda. Shingo Kunieda là đương kim vô địch, nhưng anh giải nghệ quần vợt vào tháng 1 năm 2023. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Tổng giáo phận Malta Tổng giáo phận Malta (: ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Malta. Câu chuyện truyền lại cho rằng thánh Sứ đồ Phaolô đã thành lập giáo phận Malta vào năm 60 khi ông tấn phong thủ lĩnh người Rôma, thánh Publiô, là thánh giám mục đầu tiên của Malta. Giáo phận Malta đã trở thành giáo phận trực thuộc của Tổng giáo phận Palermo theo một tông sắc từ Giáo hoàng Ađrianô IV vào ngày 10/7/1156 và tông sắc này đã được phê chuẩn bởi Giáo hoàng Alexanđê III vào ngày 26/4/1160. Giáo phận Malta, một trong những giáo phận lâu đời nhất thế giới, đã được nâng cấp thành một tổng giáo phận vào ngày 1/1/1944. Giáo phận Malta cũ có địa giới gồm các đảo Malta, Gozo và Comino. Vào ngày 22/9/1864, một phần địa giới bao gồm các đảo Gozo và Comino được tách ra bởi Giáo hoàng Piô IX để thành lập Giáo phận Gozo mà sau này trở thành giáo phận trực thuộc tổng giáo phận Malta. Nhà thờ chính tòa. Có hai nhà thờ chính tòa nằm trong tổng giáo phận: Nhà thờ chính tòa thánh Phaolô ở Mdina, và Nhà thờ chính tòa đôi thánh Gioan tẩy giả nằm tại Valletta.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đơn nữ xe lăn Diede de Groot là đương kim vô địch và bảo vệ thành công danh hiệu, đánh bại Jiske Griffioen trong trận chung kết, 6–2, 6–1. Đây là danh hiệu đơn Grand Slam thứ 11 liên tiếp của de Groot. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đơn xe lăn quad Niels Vink là nhà vô địch, đánh bại Heath Davidson trong trận chung kết, 6–1, 6–2. Sam Schröder là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng bán kết trước Davidson. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đôi nam xe lăn Alfie Hewett và Gordon Reid là nhà vô địch, đánh bại Takuya Miki và Tokito Oda trong trận chung kết, 3–6, 6–0, 6–3. Gustavo Fernández và Shingo Kunieda là đương kim vô địch, nhưng Kunieda giải nghệ quần vợt vào tháng 1 năm 2023. Fernández đánh cặp với Martín de la Puente, nhưng thua ở vòng bán kết trước Hewett và Reid. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đôi nữ xe lăn Yui Kamiji và Dana Mathewson là đương kim vô địch, nhưng Mathewson không tham dự giải đấu. Kamiji đánh cặp với Kgothatso Montjane, nhưng thua trong trận chung kết trước Diede de Groot và Jiske Griffioen, 1–6, 4–6. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Thềm băng Zubchatyy (#đổi ) là một thềm băng nhỏ giáp với phía nam của bán đảo Sakellari thuộc Vùng đất Enderby. Hình dạng của thềm băng được vẽ bởi các nhà vẽ bản đồ Nga dựa trên các bức ảnh chụp từ trên không được chụp bởi Đoàn thám hiểm châu Nam Cực của Liên Xô, 1961–62. Tên tiếng Nga của thềm băng có nghĩa là "có răng cưa", đề cập đến hình thái có răng cưa của mặt ngoài băng khi xem trong trên bản đồ. "Bài viết này kết hợp các tài liệu thuộc phạm vi công cộng từ website hay thư mục thuộc " thư mục "Thềm băng Zubchatyy" (nội dung từ Hệ thống Thông tin Địa danh).
Inro (印籠 (Ấn Lung), Inro) là chiếc hộp truyền thống của Nhật Bản dùng để đựng các vật nhỏ, được treo trên thắt quanh eo khi mặc kimono . Chúng thường được trang trí bằng nhiều chất liệu khác nhau như sơn mài cùng các kỹ thuật trang trí khác như , do đó, Inro được xem là món đồ có tính trang trí cao hơn những đồ dùng sơn mài khác của Nhật Bản . Vì trang phục truyền thống của Nhật Bản không có túi, nên khi muốn mang theo đồ vật nào đó bên mình, người mặc thường đựng chúng trong hộp đựng được gọi là (một vật treo gắn vào khăn thắt lưng) và treo lên . Hầu hết được tạo ra để đựng các vật chuyên dụng như thuốc lá, tẩu, bút và mực, nhưng vào thời kỳ Chiến Quốc (1467–1615) người ta đã phát minh ra loại thích hợp để mang theo những vật nhỏ với mục đích nhận dạng và dùng làm hộp đựng thuốc khi đi đường dài. Đến giữa thời kỳ Edo (1603–1868), trở nên phổ biến như một phụ kiện dành cho nam giới, và các thương nhân giàu có thuộc tầng lớp và samurai đã sưu tầm các được trang trí đẹp mắt bằng sơn mài. Từ cuối thời Edo cho đến thời kỳ Minh Trị (1868–1912), kỹ thuật trang trí trở nên phát triển, giá trị nghệ thuật của theo đó cũng tăng lên và không còn được sử dụng như một phụ kiện như trước. Thay vào đó, chúng được coi như là một đối tượng nghệ thuật dành cho giới sưu tầm. Thuật ngữ là sự kết hợp của chữ kanji: in (印 (ấn), in) , mang nghĩa là con dấu hoặc tem, và rō (籠 (Lung), rō) , có nghĩa là cái giỏ. Cấu tạo của Inro bao gồm các hộp nhỏ lồng vào nhau, công dụng phổ biến nhất của nó là dùng để đựng thuốc. Các chồng hộp được liên kết với nhau bằng một sợi dây được đan theo chiều chạy dọc xuống một bên, dưới đáy và lên phía đối diện. Các đầu của dây được cố định vào một , một loại dây buộc được luồn qua giữa thắt lưng và quần, sau đó sẽ được móc vào phần trên của thắt lưng để treo . Một hạt được thêm vào sợi dây nối giữa và để liên kết các hộp lại với nhau. Hạt này được trượt xuống hai dây treo lên trên cùng của để giữ các ngăn xếp lại với nhau khi bị mòn, và trượt lên khi các hộp cần được tháo dỡ để lấy các thứ bên trong ra ngoài . Hầu hết các đều được làm từ giấy, gỗ, kim loại và ngà voi, với chất liệu phổ biến nhất là giấy. Giấy dùng để làm là loại giấy nhiều lớp được cuộn lại và làm cứng bằng phương pháp sơn mài; giấy là nguyên liệu Inro được dùng nhiều nhất, vì những Inro sẽ không bị hỏng hay bị nứt theo thời gian như loại Inro làm từ gỗ. Ngày nay, có rất nhiều được sưu tầm và trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan, Bảo tàng Anh và Bảo tàng Victoria và Albert. Vì rất phổ biến trong giới sưu tầm ở nước ngoài, nên có rất ít có chất lượng cao được chế tác từ cuối thời kỳ Edo đến thời kỳ Minh Trị còn tồn tại ở Nhật Bản, nhưng Masayuki Murata đã tích cực sưu tầm nó trong thế kỉ 21, và hiện tại, chúng đã được trưng bày tại do chính Murata quản lý; đây cũng là ngôi nhà chung của rất nhiều được chế tác kỳ công. Hiện nay, có rất ít thợ thủ công có thể làm . Kỹ thuật sơn mài tuyệt kĩ được phát triển từ cuối thời kỳ Edo đến thời kỳ Minh Trị, đặc biệt là kỹ thuật làm , hầu hết đã bị thất truyền trong thời kỳ Tây hóa của Nhật Bản. Tuy nhiên, vào năm 1985, một thợ thủ công sơn mài tên là Tatsuo Kitamura (北村辰夫, Tatsuo Kitamura) đã thành lập studio riêng tên là "" (雲龍庵, "") và đã thành công trong việc hồi sinh kỹ thuật sơn mài từ xa xưa. Các tác phẩm sơn mài của ông đã được trưng bày tại Bảo tàng Victoria và Albert, và Bảo tàng Nghệ thuật đương đại Thế kỉ 21 tại Kanazawa, sau này đã trở thành món đồ sưu tập của giới nhà giàu trên khắp thế giới. Ngày nay, rất hiếm khi được dùng làm vật trang trí cho Kimono. nhưng có rất nhiều người sưu tầm nó trên khắp thế giới.
Eino Leino (tên khai sinh Armas Einar Leopold Lönnbohm; 6 tháng 7 năm 1878 – 10 tháng 1 năm 1926) là nhà thơ, nhà báo Phần Lan, được coi là một trong những tác giả tiên phong trong thi ca Phần Lan và là thi nhân dân tộc Phần Lan. Thơ ông kết hợp yếu tố hiện đại với dân gian Phần Lan. Phần lớn tác phẩm của Leino mang phong cách "Kalevala" và dân ca nói chung. Những chủ đề thường xuyên trong thơ Leino là thiên nhiên, tình yêu và sự tuyệt vọng. Ngày nay, người dân Phần Lan vẫn yêu mến và đọc thơ Leino. Ngày 6 tháng 7 được gọi là Ngày Eino Leino () cũng như ngày thơ ca Phần Lan và mừng mùa hạ. Từ năm 1992, ngày này trở thành ngày treo quốc kỳ Phần Lan. Cuộc đời và phong cách. Gia đình và thời trẻ. Eino Leino chịu báp têm với tên gọi Armas Einar Leopold Lönnbohm tại thị trấn Paltamo, là con út và con trai thứ bảy trong gia đình có mười người con. Gia đình Leino sống tại làng Paltaniemi. Cha Leino đã đổi tên từ "Antti Mustonen" thành "Anders Lönnbohm" để tăng khả năng có thể cưới được người vợ tương lai thuộc giới thượng lưu là Anna Emilia Kyrenius. Ông Lönnbohm làm công chức đạc điền, đồng thời quản lý trang trại Hövelö của riêng gia đình. Trang trại nằm trong vùng hồ Oulujärvi mà Elias Lönnrot từng sống trước đó 40 năm. Dòng họ Leino có nguồn gốc từ Liperi và Sortavala tại Karelia, còn bên ngoại truy ngược về Tây Nam Phần Lan. Nhà Lönnbohm dường như là nơi nuôi dưỡng và phát triển tinh thần phong trào Fennoman của Johan Vilhelm Snellman. Eino Leino sớm được tiếp thu tri thức và khả năng văn học từ các anh trai Oskar, Kaarlo, Viktor và đặc biệt là Kasimir. Kasimir Leino cũng là nhân vật văn hóa quan trọng tại Phần Lan trong vai trò nhà thơ, nhà phê bình và đạo diễn sân khấu; chính ông đã truyền lại ảnh hưởng văn hóa châu Âu đương thời cho anh chị em mình. Năm 1898, Kasimir và Eino lập ra một tạp chí văn học. Tuổi thơ Eino ở Hövelö thấm đẫm những câu chuyện, dân ca và lời chú Kainuu cổ, cũng như chuyện kể hấp dẫn về thời Đại nộ hay Lâu đài Kajaani ở Bắc Ostrobothnia. Những người chèo thuyền từ các vùng chết đói đến Oulu ghé qua bờ Hövelö cũng nhắc Eino về thực tế khắc nghiệt của cuộc sống. Cha mẹ qua đời khi Leino còn tuổi đi học. Leino bắt đầu đi học ở Kajaani rồi tiếp tục đến sống tại nhà họ hàng để học tại Oulu và Hämeenlinna. Sau khi tốt nghiệp trung học Hämeenlinna, Leino vào học Đại học Helsinki. Leino học trường tiểu học Kajaani rồi lên trung học Oulu (1889–1890). Năm 1890, cha qua đời khiến kinh tế gia đình khó khăn, ông cùng với anh trai là nhà báo Oskar Lönnbohm chuyển đến Hämeenlinna. Năm 1895, ông tốt nghiệp trung học Hämeenlinna ở tuổi 16. Leino cũng nhập học Đại học Helsinki nhưng sớm bỏ để theo đuổi niềm đam mêm văn học. Khi còn là học sinh, Leino đã bắt đầu tập tành làm thơ. Mùa thu năm 1890, khi 12 tuổi, ông có bài thơ "Kajaani linna" ("Lâu đài Kajaani") đăng trên tờ "Häme Sanomat" do tổng biên tập Oskar Lönnbohm hỗ trợ. Những bài thơ của Leino viết về tình cảm học trò dưới mái trường Hämeenlinna trên báo chép tay "Vasama" về sau được đưa vào tập thơ đầu tay "Maaliskuun lauluja" ("Khúc hát tháng Ba") xuất bản năm 1896. Khi còn học trung học, Leino đã tìm tòi về văn học thế giới. Ông biết về các tác gia văn học cổ đại qua những giờ tiếng Latinh. Ông cũng học đọc tác phẩm gốc bằng tiếng Đức và tiếng Pháp của Heinrich Heine, Friedrich Nietzsche, Émile Zola, Guy de Maupassant. Năm 1894, Leino bắt đầu sự nghiệp dịch thuật văn học thế giới với tác phẩm đầu tay "Kung Fjalar" ("Vua Fjalar") của nhà thơ Thụy Điển Johan Ludvig Runeberg, được Hội văn học Phần Lan ( - SKS) ấn hành. Nhà phê bình trên "Päivälehti" và thi sĩ với "Helkavirsiä". Đến Helsinki, Eino Leino tìm ra nơi phát huy khả năng tư tưởng mình tại tờ báo tân thời "Päivälehti". Ra đời năm 1889 theo sáng kiến của Eero Erkko, Juhani Aho và Arvid Järnefelt, tờ báo đã thúc đẩy cải cách quyền bầu cử và mở rộng các quyền chính trị, đồng thời phản đối chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và tư tưởng giáo hội bảo thủ của thế hệ cựu Fennoman. Tờ báo cũng chủ trương lập hiến trong quan hệ chính trị Đại công quốc Phần Lan trong Đế quốc Nga. Năm 1898, Leino là nhà phê bình văn học và sân khấu thường xuyên của "Päivälehti". Vài năm sau, ông bắt đầu lấn sân sang các vấn đề văn hóa với bút danh "Mikko Vilkastus". Khi nhà chức trách Nga đóng cửa "Päivälehti" vì mang những quan điểm cấp tiến, tờ "Helsingin Sanomat" ra đời thế chỗ và Leino tiếp tục với bút danh "Teemu". Vào Cách mạng Nga (1905), ông viết khoảng một trăm tiểu luận đả kích "giới chức thân Nga, những kẻ bóp nghẹt tự do tôn giáo, hệ thống cảnh sát và hiến binh nhà nước" như được mô tả trong tiểu sử Leino của L. Onerva. Vì giọng điệu châm biếm cay độc, Leino trở nên nổi tiếng nhưng cũng bị nhiều kẻ ghét bỏ. Eino Leino học nghề báo với anh trai Kasimir trên tạp chí văn hóa "Nykyajassa" (xuất bản 1897–1899). Hai anh em thành lập tạp chí này để có thể giới thiệu và bình luận về các xu hướng nghệ thuật mới nhất của châu Âu. Leino bày tỏ mong muốn ủng hộ giáo dục thẩm mỹ, yêu cầu bản dịch chất lượng cao cho các tác phẩm kinh điển và thúc đẩy lý tưởng về một "tổ quốc chung, không bị chia cắt" vì rào cản ngôn ngữ. Leino coi báo chí là kênh để mình nói chuyện trực tiếp với nhân dân Phần Lan. Viết báo khỏe cũng không ngăn nổi Eino Leino say sưa đắm mình vào thơ ca. Các tập thơ "Sata ja yki laulua" ("Một trăm lẻ một bài hát") (1898) và "Ajan aalloilla" ("Ta cưỡi sóng") (1899) có đặc trưng về sự chiêm nghiệm và thức tỉnh lòng yêu nước. Bài thơ "Hymyilevä Apollo" ("Nụ cười Apollo") ca ngợi lòng khoan dung, tình yêu với người chung quanh. Ước mơ cho dân tộc "Päivän poika" ("Chàng trai thời đại") thể hiện niềm tin lạc quan vào con người của chàng trai trẻ Leino. Ngược lại, tập thơ "Hiihätäjn virsiä" ("Thánh ca người trượt tuyết") (1900) nhuốm màu hoài niệm u sầu về ngôi nhà thời thơ ấu. Đánh bạn với những đại diện thế hệ nhạc sĩ và nghệ sĩ Phần Lan đang nổi lên là Akseli Gallen-Kallela, Jean Sibelius, Robert Kajanus, Pekka Halonen và Emil Wikstrom đã kích thích loại hình nghệ thuật mới trong Leino. Cùng với chủ nghĩa Karelia đang là chủ đạo cho Chủ nghĩa tân lãng mạn tại Phần Lan khi ấy, Leino bắt đầu đi sâu Kalevala. Vở kịch thơ "Tuonela joutsen" ("Con thiên nga của Tuonela") (1898) và "Sota valosta" ("Chiến đấu vì ánh sáng") (1900) được coi là khởi đầu cho chủ nghĩa tượng trưng trong văn học Phần Lan. Chạy theo xu hướng nghệ thuật toàn châu Âu chống lại chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên, thay vào đó tập trung coi thần thoại và cổ tích phổ quát là phản ánh cảm xúc và tư tưởng con người, Leino cũng tìm tư liệu để diễn giải thời đại mình thông qua Phần Lan cổ trong Kalevala. Nỗ lực này đạt đến đỉnh cao với tập thơ "Helkavirsiä" ("Khúc ca địa ngục") xuất bản năm 1903, được coi là một trong những tác phẩm mang tính bước ngoặt của nền thơ ca Phần Lan. Áp dụng và biến đổi ngữ liệu Kalevala, Leino đã tạo ra những khúc ballad và truyền thuyết theo phong cách cổ xưa, chủ đề và nhân vật thuộc thời Trung cổ Hämälä của Công giáo La Mã cũng như thế giới Đông La Mã-Karelia và Chính thống giáo-Kalevala. Nhưng sâu xa nhất, các bài thơ đó nhắm đến những câu hỏi cơ bản của con người hiện đại: mối quan hệ mỗi cá nhân với cái chưa biết và cái chết, tự do cá nhân và giới hạn của tri thức. "Helkavirsiä " được nhận xét là phản ánh "tính chất không khoan nhượng" dấu ấn của Ibsen và khả năng con người thách thức số phận chính mình dựa trên triết lý Nietzsche. "Vòng xoáy dân gian và ngụ ngôn thô ráp" cũng kết nối với truyện thơ "Simo Hurtta" xuất bản năm 1904, được Leino dùng để mô tả những sự kiện trong Isoviha tại Bắc Karelia. Thời kỳ sáng tạo của Leino trong những năm đầu thế kỷ 20 được khơi nguồn từ tình yêu dành cho dịch giả Freya Schoultz, hai người kết hôn năm 1905. Hai người có con gái là Eya Helka. Trong tập thơ "Talviyö" ("Đêm đông") (1905) có bài "Nocturne" ("Bóng đêm") tỏa ra vẻ thần bí của một đêm hè mà ông dành tặng cho người mình yêu. Sau chuyến đi dài ngày tới Paris và Berlin, quan hệ vợ chồng bắt đầu nguội lạnh. Năm 1908, Leino dọn khỏi nhà chung ở Länsi Ranta (nay là Eteläranta 12). Cũng trong khoảng thời gian đó, ông dần có tình cảm với người bạn là nữ văn sĩ L. Onerva. Tiểu thuyết "Routavuosi", kịch lịch sử, nhà phê bình trên "Päivä". Sau cách mạng Nga 1905, Leino đã đưa những trải nghiệm sâu sắc về thời cuộc vào tác phẩm vẫn thường gọi là bộ tiểu thuyết năm băng giá: "Tuomas Vitikka" (1906), "Jaana Rönty" (1907) và "Olli Suurpää" (1908). Trong đó, như sự tiếp nối luận chiến trên báo, ông đã nhổ tận gốc những điểm yếu dân tộc, phân định ra các hạng người trong thời đại mình, như kẻ phản bội lý tưởng và kẻ nổi loạn không đâu, cuối cùng trở nên những kẻ vô chính phủ. Trong tiểu thuyết "Tuomas Vitikka", Leino chế nhạo chủ nghĩa dân tộc tự mãn và tạo ra tuyến nhân vật châm biếm từ đại diện các thế hệ khác nhau thuộc phong trào dân tộc Phần Lan, độc giả đương thời có thể dễ dàng nhận ra những con người tiêu biểu này. Niềm đam mê cháy bỏng của Leino đối với sân khấu tiếp tục cả trong cả những bài phê bình lẫn các vở kịch do chính mình sáng tác. Lấy hình mẫu August Strindberg mà bản thân ngưỡng mộ, Leino tập trung vào lịch sử Trung Cổ và thử nghiệm phát triển tinh thần dân gian Phần Lan trong các vở "Lalli" (1907) và "Maunu Tavast" (1908). Vở "Simo Hurtta" (1908) tiếp tục chủ đề bài thơ cùng tên xuất bản trước đó. Cuộc Đại đình công 1905, Cải cách hiến pháp 1906 và Bầu cử quốc hội đầu tiên 1907 đã làm trầm trọng thêm các xung đột chính trị xã hội và đẩy Đảng Người Phần Lan, những người thân Thụy Điển, những người theo chủ nghĩa xã hội và Đảng Người Phần Lan Trẻ vào cuộc đấu tranh dữ dội tranh giành ảnh hưởng. Quan hệ với Nga bước vào "thời kỳ băng giá". Đảng Người Phần Lan Trẻ cũng bị chia rẽ nội bộ giữa giai cấp tư sản bảo thủ và những người theo chủ nghĩa cải cách xã hội tự do cùng người ủng hộ phong trào lao động tư sản. Giữa những rối ren này, Eino Leino từ bỏ vai trò nhà hoạt động chính trị cho Đảng Người Phần Lan Trẻ trên tờ "Helsingin Sanomat". Ông thất vọng lo sợ rằng tờ báo sẽ không còn tự do độc lập giữa các âm mưu chính trị và mong muốn có trao đổi thảo luận văn hóa-tư tưởng về tương lai đất nước. Các bài báo nổi tiếng của Leino "Aleksis Kivi ja Päivä" ("Aleksis Kivi và Päivä") (10 tháng 10 năm 1907), "Runebergin päivän vietosta sananen" ("Đôi lời về kỷ niệm Ngày Runeberg") (13 tháng 2 năm 1908) và "Hedelmättömyyen henki" ("Tinh thần khô héo") (1 tháng 12 năm 1908) xuất hiện trên tuần báo mới "Päivä" ("Ngày"). Tờ báo này kết hợp mạng lưới các nhà hoạt động nói tiếng Phần Lan và Thụy Điển và những người tự do cánh tả. Trong đó, ông tìm kiếm nguyên nhân mất đoàn kết dân tộc và đưa ra tuyên bố riêng mình về "người Phần Lan có văn hóa". Thay cho tinh thần Phần Lan được xây dựng trên Runeberg và Snellman, ông đã đào sâu dựa vào Aleksis Kivi và Elias Lönnrot. Leino dùng những bài báo này chỉ trích "nền giáo dục địa phương" tại trường học và "nỗi bi quan mòn mỏi" của đô thành văn minh. Ông nhìn coi kỷ niệm Ngày Runeberg là "cường điệu đánh trống bỏ dùi" và "trò vui thượng lưu". Tháng 8 năm 1908, Eino Leino rời Phần Lan đến Ý. Một phần kinh phí do quỹ quảng bá văn học Phần Lan tài trợ cho việc dịch thuật "Thần khúc" của Dante. Sau vài tháng ở Đức rồi đến Roma, Leino bắt đầu nghiên cứu chuyên sâu tiếng Ý và viết về Dante. Mùa đông năm 1908–1909, Leino tham gia cùng các tác gia Phần Lan khác đang ở lại Roma như L. Onerva, Aarni Kouta, Santeri Ivalo, Onni Okkonen, Liisi Karttunen và Henry Biaudet. Ngoài việc dịch Dante ra tiếng Phần Lan, Leino cũng phác thảo các vở kịch ở Roma và viết du khảo cho tờ "Turku Sanomat". MÙa xuân 1909, ông cùng Onerva rời Phần Lan, tạm dừng lại trên đường tới Berlin. Dù hai người không tiến tới hôn nhân nhưng họ tiếp tục giữ tình bạn và hợp tác với nhau cho đến khi Leino qua đời. Thập niên 1910, hình ảnh Leino định hình như thế giới về sau biết đến: một người Bohemia mặc áo choàng đeo trang sức với những lọn tóc dài, một "flâneur" lang thang trong các nhà hàng cùng có mạng lưới xã hội rộng rãi . Năm 1914, Leino kết hôn với nghệ sĩ đàn hạc Aino Kajanus là con gái của Robert Kajanus, nhưng ngay năm sau đó, ông bỏ lại lối sống vạch sẵn như vậy. Trong thời kỳ này, Leino sáng tác rất năng suất, dường như chỉ luôn gia tăng. Bản dịch "Thần khúc" tiếng Phần Lan được xuất bản từ năm 1912 đến 1914, các tập thơ mới nối tiếp nhau. Sau chuyến đi Roma, Leino bắt đầu viết các tiểu luận lịch sử văn học, trong đó vạch ra hướng phát triển của văn học trong và ngoài nước, đồng thời giới thiệu đại diện các xu hướng văn học khác nhau. Ban đầu, Leino điều chỉnh chân dung các nhà văn Phần Lan làm "câu chuyện nền" "Helsingin Sanomat" cho tác phẩm "Suomalaisias kirjailijaita" ("Nhà văn Phần Lan") (1909). Những phác thảo khéo léo về tinh thần và môi trường văn hóa các thời đại khác nhau, cũng như tóm lược phù hợp với đặc điểm từng nhà văn giúp cho tác phẩm trở thành một tiểu luận kinh điển của văn học Phần Lan. Leino tạo ra một lát cắt văn hóa và xã hội thời đại mình trong loạt tiểu thuyết "Orja" (1911–1913). Nhật vật chính trong đó kiếm ý nghĩa cuộc đời, trải từ Berlin đến Paris và qua Copenhagen đến Roma. Tiểu thuyết "Pankkiherroja" (1914) mô tả Helsinki của bọn cướp ngân hàng và lũ đầu cơ. Nội tâm và suy ngẫm số phận thi nhân được ẩn dụ trong chuyện về động vật "Mesikämmen" (1914), "Musti" (1916) và trong tác phẩm tự thú theo thông thiên học-thuyết phiếm thần "Alla kasvon Kaikkivallan" ("Dưới nhan Đấng Toàn Năng") (1917). Đầu thập niên 1910, Leino bận rộn với các công việc sân khấu và biểu diễn. Hè năm 1912, cùng với giám đốc nhà hát Kaarle Halme, ông thành lập sân khấu ngoài trời "Helkanäyttamö" ở Seurasaari dành cho các vở kịch Kalevala của mình. Tuy nhiên, hàng nghìn khán giả không nghe rõ lời thoại và chán chường vì thiếu vắng đạo cụ sân khấu hỗ trợ. Nỗ lực kết thúc trong thất bại. Leino cũng thương mại hóa thơ mình để kiếm thêm thu nhập khi đi đọc thơ trên khắp đất nước. Ông liên tục sáng tác kịch bản mới: "Tuomas biispa" (1909) cũng bối cảnh trung cổ như nhiều vở trước đó, cibf "Alcibiades" (1909) là bi kịch với bối cảnh Hy La cổ đại. "Kirkon vihollinen" ("Kẻ thù giáo hội") và "Maan parhaat" ("Điều hay nhất của đất nước") (1911) chế nhạo thói đạo đức giả của lớp cựu trào Phần Lan lấy bối cảnh đương thời. Kịch nghị luận "Karjalan kuningas" ("Vua Karelia") (1917) theo lăng kính Kalevala là hồi chuông cảnh tỉnh về lòng nhân hậu thuần khiết. Leino xuất bản gần như tất cả kịch bản trong loạt sáu phần "Naamioita" (1905–1911). Trong tập năm "Naamioiden" (1909), "Shakkipeli" ("Ván cờ") đã thu gọn lịch sử xen giữa vào dòng kịch, có thể là do sở thích cá nhân của tác giả. Cả đời Eino Leino thích chơi cờ vua, thậm chí đứng đầu giải Câu lạc bộ cờ vua Helsinki tháng 2 năm 1906. Leino với Kaarle Halme sau đó tiếp tục hợp tác với nhau trong điện ảnh. Bộ phim truyện đầu tiên của Phần Lan "Kesä" ("Mùa hè") do Leino viết kịch bản còn Halmee đạo diễn. Phim chiếu ra mắt tháng 1 năm 1915 tại nhà hát Lyyra, Helsinki. Năm 1915, Leino tham gia thành lập tuần báo văn học "Sunnuntai" ("Chúa Nhật"). Leino đứng vai trò biên tập, bên cạnh nhóm trí thức, những người theo chủ nghĩa hòa bình và những người theo thuyết thông thiên học tại Helsinki. Nhờ vào mối quan hệ rộng rãi, Leino được nhiều nhà văn và nhà nghiên cứu nổi tiếng trợ giúp. Ông dùng bút danh "Kanttori Sepeteus" để than phiền về thời cuộc thế giới và viết xã luận sâu rộng về tình hình chính trị đương thời. Trong đó, ông cố gắng duy trì niềm tin vào con người giữa sự hỗn loạn của chiến tranh thế giới. Cuối năm 1916, sau những đêm bận rộn biên tập "Sunnuntai", loạt "Helkavirsiä" thứ hai lên báo. Theo Viljo Tarkiainen, cái nhìn thơ ca về vũ trụ-thần thoại giờ đây bước sang "đôi khi dọc theo ngoại giáo - shaman giáo, đôi khi theo thuyết phiếm thần Cơ Đốc giáo, đôi khi là dòng mơ mộng thần học". Loạt thơ này được diễn giải theo hướng lột tả vẻ gợi cảm và khêu gợi. Cùng năm 1916, ông bắt đầu ngưỡng mộ và say mê Aino Kallas. Tình cảm dành cho nữ văn sĩ Estonia gốc Phần Lan đã cho ra đời"Juhana Herttuan ja Catharina Jagellonican lauluja" ("Khúc ca của Juhana Herttua và Catharina Jagellonica") (1919) sáng tác theo phong cách Phục Hưng. Lời đối thoại bằng thơ này lần đầu tiên ra mắt tại Turku rồi đến Gripsholm, được chính Leino gọi là món quà "lãng mạn cuối cùng" dành tặng người thương. Eino Leino cũng đề cập số phận thi sĩ của chính mình trong bài thơ "Bellerophon" (1919) thông qua chuyện thần thoại Hy Lạp về Bellerophon và ngựa thần Pegasus để tổng hợp quan điểm bi thảm-lạc quan về cuộc sống. Ngay từ tháng 11 năm 1917, Eino Leino đã căng thẳng cảnh báo trên tạp chí "Sunnuntai" rằng đất nước đang "bên bờ nội chiến " và chỉ trích gay gắt những người theo chủ nghĩa xã hội khi họ bắt đầu "theo đuổi sự nghiệp bằng máu nhân dân và nọc độc của lũ xâm lược ngoại bang" (Số 40-41/1917). Tình hình chính trị leo thang thành Nội chiến Phần Lan là trải nghiệm cay đắng đối với Leino, người vốn luôn viết về lòng khoan dung cũng như đánh giá cao phong trào lao động có nhiều bạn bè mình trong đó. Mùa xuân năm 1918, Leino chứng kiến Hồng vệ binh chiếm giữ Helsinki và mô tả cảm nhận của mình trong tiểu thuyết phóng sự "Xâm chiếm Helsinki" () năm 1918. Ông đã chào đón Sư đoàn biển Baltic của Đức mang danh nghĩa giải phóng để xâm lược miền nam Phần Lan và chiếm đóng Helsinki. Mặt khác, Leino về sau thúc đẩy lệnh ân xá chung cho các tù nhân Đỏ và yêu cầu bãi bỏ án tử hình. Tháng 4 năm 1918, loạt bài báo 6 kỳ của Leino "Vì công nhân Phần Lan" được đăng trên tạp chí Dân chủ Xã hội "Työn valta" ("Quyền lực Lao động"), với tư cách nhà văn vô tư thuộc tầng lớp "dân nghèo văn minh", ông kêu gọi mạnh mẽ cho hòa bình và hiểu biết lẫn nhau. Ông viết: "Nền dân chủ xã hội sẽ không có tương lai ở Phần Lan trừ khi có thể tiếp thu "những lý tưởng vĩnh cửu" về tính hợp pháp, dân chủ và tự do dân sự". Theo chủ nghĩa Karelia, Leino cũng từng phục vụ trong chiến tranh với tư cách là cố vấn không chính thức cho Sulo Wuolijoki, thư ký ủy ban đàm phán hiệp ước nhà nước giữa Phần Lan và nước Nga Xô viết. Sau chiến tranh, Leino không bị kết tội vì phục vụ cho chính quyền Phái đoàn Nhân dân Phần Lan (). Leino cũng thuật lại nội chiến trong tiểu thuyết "Punainen sankari" ("Anh hùng đỏ") (1919) và sử thi "Vanha pappi" ("Giáo sĩ già") (1921). Nhân vật chính của "Punainen sankari" là một thẩm phán cộng sản, tự bỏ đi danh dự để bao che cho tên trùm nhưng cuối cùng phải trả giá bằng chính mạng sống bởi luật pháp cộng sản. "Vanha pappi" vẽ nên bức tranh rộng lớn khắc họa Tavastia có những giáo sĩ hoạt động ngầm, bị "lũ bất lương trên phố" "bọn thú vật ngoại ô" phe đỏ bắt bớ. Ông mô tả "sự hy sinh quên mình" của những người phe trắng theo phong cách Runeberg với những lý tưởng mạnh mẽ. Tập thơ "Vapaude kirja" (1918) tập hợp các bài theo chủ đề chính trị và đất nước do Leino sáng tác trong hai thập kỷ, trong đó phản ánh những cảm xúc mâu thuẫn do cuộc nội chiến tạo ra. Đối với nhà phê bình đương đại Huugo Jalkanen, tập thơ giống như "chiếc trống ma thuật" để các thế hệ tương lai có thể hình dung ngay lập tức về số phận và trải nghiệm kinh hoàng của tiền nhân. Tháng 7 năm 1918, bạn bè tổ chức bữa tối sinh nhật lần thứ 40 linh đình cho Leino. Cùng năm, ông được Nhà nước tặng trợ cấp dành cho văn sĩ. Đầu thập niên 1920, sức khỏe và tinh thần Leino đều suy giảm, ông phải nằm viện dài ngày. Tâm trí chán nản dao động ảnh hưởng đến thái độ và quan điểm ông. Từ một người ủng hộ ứng cử viên tổng thống Carl Gustaf Emil Mannerheim, Leino quay sang ngưỡng mộ Kaarlo Juho Ståhlberg. Hè 1921, Leino dự chuyến du bút tới Estonia do thân hữu Phần Lan-Estonia là Aino và Gustav Suits tổ chức. Với những đêm thơ, đọc thơ và chào mừng tại Tartu và Tallinn, chuyến đi thành công tốt đẹp và Eino Leino được mọi nơi đón nhận như một thi sĩ nổi bật. Sau chuyến đi, Leino ký giấy kết hôn lần thứ ba với nhân viên ngân hàng Hanna Laitinen, cuộc hôn nhân thực tế chỉ kéo dài vài ngày. Năm 1921, Leino nộp đơn xin từ bỏ quốc tịch Phần Lan. Ông đã viết thư cho Tổng thống Phần Lan Kaarlo Juho Ståhlberg và người đứng đầu Estonia là Konstantin Päts để xin được làm công dân Estonia. Leino cảm thấy mệt mỏi vì thiếu tiền đồng thời bị chỉ trích. Năm 1925, Leino viết thư cho người bạn Bertel Gripenberg "Cuộc sống luôn là cuộc đấu tranh với những thế lực muôn đời". Năm ấy, ông biên soạn cuốn hồi ký "Elämäni kuvakirja". Ngôi nhà cuối cùng Leino thuê ở là Nuppulinna Hyvinkää (nay là Tuusula). Năm 1926, ông qua đời ở tuổi 47 và rồi được an táng tại Nghĩa trang Hietaniemi ở Helsinki. Là người nổi tiếng đương thời, nhà nước đã chi trả phí an táng đồng thời tổng thống Lauri Kristian Relander và các quan chức khác đến dự tang lễ. Hiện không chắc chắn về nguyên nhân cái chết của Eino Leino. Trong tác phẩm "Mestari," nhà văn Hannu Mäkelä mô tả Leino qua đời vì bệnh tủy sống tiến triển và vôi hóa mạch máu khiến xuất huyết não, trước đó bệnh đã làm rối loạn chức năng vùng bụng. Theo Mäkelä, cả hai bác sĩ Wasastjerna và Lindén đều đã xác định nguyên nhân tử vong của Leino. Nhưng bác sĩ tâm thần của Leino là Väinö Lindén lại dùng bút chì ghi chú bên lề cuốn tiểu sử của L. Onerva rằng ông qua đời vì bệnh giang mai. Phong cách văn chương và tầm quan trọng. Phong cách biến đổi. Leino được coi là người đầu tiên và người định hình quan trọng nhất cho chủ nghĩa lãng mạn dân tộc trong văn học Phần Lan. Trên thực tế, Leino đã tự đặt ra thuật ngữ "chủ nghĩa tân lãng mạn dân tộc" để mô tả tác phẩm của những tài năng trẻ Phần Lan như nhà soạn nhạc Jean Sibelius, họa sĩ Akseli Gallen-Kallela và kiến trúc sư Eliel Saarinen. Phong cách của Leino đã phát triển trong suốt 35 năm sự nghiệp. Các tác phẩm đầu tiên kể cả tập thơ nổi tiếng Helkavirsiä (1903) đều có thể thấy ảnh hưởng của sử thi dân tộc Kalevala. Những năm cuối đời, ông trở lại với chủ nghĩa lãng mạn dân tộc. Ở giai đoạn giữa sự nghiệp, Leino dịch các tác phẩm kinh điển của văn học thế giới sang tiếng Phần Lan. Đồng thời, ông sáng tác trong nhiều thể loại: thơ, kịch, tiểu luận, phê bình và các tác phẩm báo chí khác. Các tác phẩm của ông trải rộng trên khung cảm xúc, từ tình yêu nồng nàn đến ghét đời và chỉ trích gay gắt. Sau những biến cố năm 1908, sự u ám, cô đơn và thất vọng trong cuộc sống trở nên nổi bật trong tác phẩm. Động lực sáng tác bên trong của Leino bắt nguồn từ sự bất dung giữa chủ nghĩa anh hùng cá nhân tự cho mình là trung tâm và việc đón nhận tinh thần thời đại. Thành ngữ phổ biến. Nhiều câu thơ của Leino đã được sử dụng như những thành ngữ Phần Lan phổ biến, ví dụ: Đặc điểm và đánh giá. Tác phẩm của Leino luôn được đón nhận trái chiều cả trong giới học thuật và lẫn giới văn nghệ sĩ. Tài năng nhưng nhân cách đa đạng đã khơi dậy nhiều cảm xúc trong lòng độc giả đương thời. Đặc biệt là thế hệ nhà văn thập niên 1920 xa lánh tác phẩm của Leino dù vẫn ngưỡng mộ thời trẻ của ông. Ngay cả những người theo chủ nghĩa hiện đại khởi đầu sự nghiệp sau Thế chiến thứ hai cũng coi Leino đối lập với tác phẩm của họ. Sự coi thường của các tác giả đồng nghiệp dành cho Leino đã ảnh hưởng đến nhiều nhà nghiên cứu, và thực tế là Leino được nghiên cứu tương đối ít cho dù được nhiều giải thưởng, được nhà nước công nhận và trao tặng lương hưu. Tiểu sử chi tiết nhất về Leino được viết vào thập niên 1930 dưới ngòi bút người yêu và đồng nghiệp của ông là L. Onerva. Qua những trang giấy đầy kịch tính, Onerva cũng viết về đời mình. Cuối năm 1953, Onerva viết trên tạp chí "Kaltio": Trong những tác phẩm vượt trội của Leino, chẳng hạn như vở kịch "Maan parhaat" (1911), có thể dễ dàng nhận ra những người từng là bạn nhưng hiện thời lại là kẻ thù văn chương, như các tác giả Maila Talvio và V. A. Koskenniemi. Họ cũng đáp trả lại, ví dụ như Koskenniemi viết cho biên tập viên tờ Iltalehti: Trong lời tựa tuyển tập "Lyriskt Urval" dịch sang tiếng Thụy Điển năm 1931, nhà thơ Elmer Diktonius đã thử mô tả hai địa vị song hành đó của Leino trong văn hóa Phần Lan: Trong lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Leino tại Paltaniemi, nhà văn Erno Paasilinna phát biểu khẳng định tính bền vững của các tác phẩm phê bình văn hóa của Leino: Nhà phê bình văn hóa của tờ "Helsingin Sanomat" Seppo Heikinheimo thậm chí còn liệt khả năng ngôn ngữ của Leino vào hàng tốt nhất thế giới: Tuy vậy, trong vòng những thập niên sau đó, Leino vẫn không được đa số yêu thích, như Matti Klinge đã hạ thấp trong nhật ký của mình: Mặt khác, những người làm sân khấu tân thời vẫn tìm ra những góc nhìn mới và kịch tính trong các tác phẩm của Leino. Chỉ đạo sân khấu Juha Hurme viết: Thông tin đương thời cho rằng Leino không có khiếu thẩm mỹ âm nhạc, nhưng ông đã thể hiện nhịp điệu và tính nhạc một cách hoàn hảo qua ngôn ngữ thơ. Ông cũng rất giỏi phân tích các buổi hòa nhạc đã nghe. Những người phổ nhạc cho thơ Leino đầu tiên xuất sắc nhất chính là bạn bè ông: nhà soạn nhạc Toivo Kuula, Leevi Madetoja và Oskar Merikanto. Kuula phổ nhạc tổng cộng 22 bài thơ, trong đó nổi tiếng nhất là "Virta venhettä vie" (1906), tác phẩm đột phá "Tuijoti tulehen kauan" (xuất bản năm 1907), cantata "Koolemattumuuen tovosa" cho giọng nam trung, hợp xướng và dàn nhạc (1910), rồi "Merenkylpijäneidot", "Orja poika" và "Impi ja Pajarin poika" (1911) đều dựa trên "Helkavirsiä". Trong thơ Leino, Kuula tìm thấy âm thanh của những mảng màu tối lãng mạn đầy suy tư. Leevi Madetoja cũng bắt đầu sự nghiệp bằng thơ Leino; tác phẩm đầu tiên là "Shakkipeliin" (1910) viết cho dàn nhạc đã thu hút được sự chú ý. Các bài hát hợp xướng năm phần đầy thách thức, như "Iltatunnelma" (1916) và "Soita somer, helä sikta" đã khẳng định vị trí trong làng hợp xướng Phần Lan. Đến thập niên 1940, ngay trước khi qua đời, Madetoja còn tiếp tục hoàn thành các tác phẩm dựa vào thơ Leino như "Hän kulevi ö kikkien". So với Kuula và Madetoja, những khúc hát solo của Oskar Merikanno có giai điệu hay, mang âm hưởng dân gian hơn. Một số bài hát phổ thơ Leino được yêu thích nhất vẫn là dựa trên "Hymyilevän Apollon": bản song ca "Oi kiitos sa Luojani armollinen" (1906) và bản hợp xướng "O Misumatket stilln sen virren" (1905). Erkki Melartin là nhà soạn nhạc thời kỳ đầu cho Leino. Năm 1906, ông viết nhạc cho vở "Hiide miekka" của Leino. Ngoài ra, ông còn phổ nhạc cho 12 bản solo, trong số đó có Trong số mười hai bản độc tấu Leino của anh ấy có "Mirjamin laulut", "Minä metsän polkua kuljen" và "Päivän pojan" (1903) dựa trên một vài khổ thơ "Päivän laulu". Vở opera ngắn "Väinämöinen kosinta" (1914) của nhà soạn nhạc Sune Carlsson cũng dựa trên thơ Leino. Trong số ít tác phẩm phổ thơ của Jean Sibelius thì được biết đến nhiều nhất là "Maan virsi", cantata dành cho dàn hợp xướng và dàn nhạc giao hưởng ra đời năm 1920. Trong những thập kỷ đầu tiên của Phần Lan độc lập, đã có thêm thơ Leino được phổ theo phong cách hiện đại, như "Ukri" (1938–1943) được Aarre Merikkanno soạn cho hợp xướng nam ban và vở opera "Simo Hurtta" (1948) của Tauno Pylkkänen (1948). Trong số các bản tình ca nổi bật có "Tumma" (1941) của Lauri Parviainen soạn cho đơn ca với nhạc đệm dương cầm. Thập niên 1960, Kaj Chydenius đã khiến cho nhiều bài thơ nổi tiếng của Leino lại trở nên sống động theo một cách hoàn toàn mới. Những giai điệu tinh tế đầy cảm xúc của "Nocturne", "Lappi kesä" và "Lemminkäisen äidin kehtolaulun" lôi cuốn thế hệ thanh niên thời ấy. Bài hát "Lemminkäisen äidin kehtolaulun" cũng được sân khấu sinh viên Ylioppilasteatteri đưa vào nhạc kịch theo kịch thơ "Tuonela joutsen" (1966) của Leino. Từ đó, Chydenius cũng sáng tác và phổ biến thêm nhiều tác phẩm dựa trên thơ Leino. Năm 1978, kỷ niệm 100 năm ngày sinh Leino, các bài hát phổ thơ được phát hành dưới dạng bản ghi âm. Jukka Ruohomäki sáng tác nhạc điện tử dựa trên "Helkavirsiä" cho phim hoạt họa máy tính ba phần (1979–1982) do Antti Kari đạo diễn. Nhà soạn nhạc gốc Áo Johann Strohofer cũng dựa vào "Helkavirsiä" để cho ra đời oratorio "Herramme Vapahtajamme" ra mắt lần đầu năm 1975. Năm 1980, vở opera của Ilkka Kuusisto dựa trên kịch "Sota valosta" của Leino được công diễn lần đầu. Sang thế kỷ 21, "Helkavirsiä" tiếp tục duy trì là nguồn cảm hứng âm nhạc. Tháng 2 năm 2012, dàn nhạc giao hưởng Tampere trình diễn lần đầu bản giao hưởng số 1 "Tuuri" của Olli Mustonen viết cho giọng nam trung và dàn nhạc, dựa trên bài thơ "Tuuri" nằm trong loạt "Helkavirsiä" đầu tiên. Năm 2007, Kaija Saariaho phổ nhạc bốn bài thơ thời kỳ đầu của Leino để đưa vào "Leino Songs for voice and Orchestra". Trước đó vào năm 2006, công ty Hà Lan Munich Records phát hành CD "Aina Leino", do ban nhạc Hà Lan Aina cùng với nghệ sĩ độc tấu Phần Lan Pauliina May trình diễn. Album có 14 bài lấy từ thơ Leino, do nhạc sĩ Hà Lan Izak Boom biên soạn. Năm 1992, sinh nhật Leino vào ngày 6 tháng 7 được gọi là Ngày Eino Leino, thi ca và chào hạ; đồng thời trở thành ngày treo quốc kỳ của Phần Lan. Công viên Esplanadi ở Helsinki có tượng Eino Leino do Lauri Leppänen điêu khắc. Bức tượng ra mắt ngày 26 tháng 9 năm 1953, đúng 63 năm khi Leino xuất bản bài thơ đầu tiên trên tờ "Hämeen Sanomi". Trên đế tượng có khắc câu thơ trích trong bài "Väinämöisen laulu" của Leino: "Yksi on laulu ylitse muiden: ihmisen aattehen hengen ankara laulu" (tạm dịch: "Một là khúc ca trên phần còn lại: bài ca khó nghe của tâm hồn con người"). Một điều thú vị là trong bàn tay bức tượng có đồng xu 5 Mác được đặt vào khi đúc. Năm 1978, kỷ niệm 100 năm ngày sinh Leino, Jouko Toiviainen thiết kế đài tưởng niệm trừu tượng "Ukonlintu ja virvaliekki" tại nơi sinh của ông tại Paltamo. Dưới bệ là câu thơ trích từ "Väinämöisen laulusta": "Kansat katoo / ei katoa mahti / jonka on laulanut / mahtaja heimonsa hengen" (tạm dịch: "Các nước tiêu vong / sức mạnh còn lại / được cất tiếng ca / từ người mang linh hồn bộ tộc"). Năm 1980, tại Kajaani đã dựng tượng Leino nằm gần Koivukoski ở Rantapuisto, tác phẩm điêu khắc do Nina Sailo thực hiện dựa trên phác thảo của người chồng là Alpo Sailo. Năm 1978, ngôi nhà cũ vốn bị phá hủy của Leino tại Hövelö ở Paltaniemi đã được phục dựng. Mộ Leino có mã số U21-15-22 nằm trong khu vực mới tại nghĩa trang Hietaniemi, Helsinki. Bia mộ có khắc huy chương do Ville Vallgren thực hiện. Hội nhà văn Phần Lan dựng đài tưởng niệm mộ phần và chịu trách nhiệm giữ mộ. Trên bia mộ cũng khắc khổ thơ cuối bài "Hymni tulelle" của Leino. Trên điện ảnh và truyền hình. Năm 1978, đạo diễn Jaakko Pakkasvirta hoàn thành bộ phim "Runoilija ja musa" (tạm dịch: "Nhà thơ và nàng thơ") kể về cuộc đời Leino nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông. Đoạn mở đầu cho biết "tất cả cảnh phim đều là hư cấu, mặc dù được lấy cảm hứng từ các sự kiện có thật". Esko Salminen vào vai Eino Leino. Phim tập trung miêu tả mối quan hệ của Leino với người vợ đầu Freya Schoultz (do Katja Salminen đóng) và người tình L. Onerva (do Elina Salo đóng). Đồng thời, bộ phim mô tả phong trào dân tộc chủ nghĩa của giới văn hóa Phần Lan trước khi độc lập, với những nghệ sĩ như Akseli Gallen-Kallela và Jean Sibelius. Ngoài Esko Salminen, vai Eino còn được thể hiện bởi các diễn viên như Leo Riuttu trong phim "Rousu ja kulkuri" (tạm dịch: "Bông hồng và kẻ lang thang") của Ilmari Unho năm 1948, Kari Hietalahti trong phim "Sibelius" của Timo Koivusalo năm 2003 và Vesa-Matti Loiri trong phim truyền hình "Tähtikeinu" của Veli-Matti Saikkonen năm 2003 khắc họa cuộc tình tay ba Eino, L. Onerva và Leevi Madetoja. Năm 1993, Sulevi Peltola đạo diễn và cùng Helena Ihala viết kịch bản phim truyền hình "Pankkiherroja" dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Eino. Matti Pellonpää thủ vai chính Antti Puuhaara. Bản dịch các tác phẩm Leino. Tác phẩm của Leino cũng đã được dịch sang tiếng Anh, tiếng Ý, tiếng Latvia, tiếng Na Uy, tiếng Ba Lan, tiếng Thụy Điển, tiếng Đức, tiếng Hungary, tiếng Nga và tiếng Estonia. Một số bài thơ lẻ của Leino được dịch sang tiếng Việt và đăng trên tạp chí "Văn học nước ngoài":
Sự phun trào nhật hoa Sự phun trào nhật hoa (tiếng Anh: coronal mass ejection, CME) là sự phóng ra đáng kể của từ trường và khối lượng plasma đi kèm từ vành nhật hoa của Mặt Trời vào thái dương quyển. CME thường liên quan đến các vết lóa Mặt Trời và các dạng hoạt động khác của Mặt Trời, nhưng vẫn chưa có nhiều lý thuyết được chấp nhận rộng rãi về sự liên quan này. Nếu một CME đi vào môi trường liên hành tinh, thì nó được gọi là sự phun trào nhật hoa liên hành tinh (interplanetary coronal mass ejection, ICME). ICME có khả năng tiếp cận và va chạm với từ quyển của Trái Đất, nơi chúng có thể gây ra bão từ, cực quang và trong một số trường hợp hiếm hoi là làm hỏng lưới điện. Sự nhiễu loạn địa từ lớn nhất được ghi lại, có lẽ là do CME, là sự kiện Carrington. Mô tả vật lý. CME giải phóng một lượng lớn vật chất và từ trường từ bầu khí quyển của Mặt Trời vào gió Mặt Trời và môi trường liên hành tinh. Vật chất bị đẩy ra là plasma bao gồm chủ yếu là các electron và proton nằm trong từ trường bị đẩy ra. Khối lượng trung bình được đẩy ra là . Tuy nhiên, các giá trị khối lượng ước tính cho CME chỉ là các giới hạn thấp hơn, bởi vì các phép đo từ coronagraph chỉ cung cấp dữ liệu hai chiều.
Jinbei (甚平, Jinbei) (còn gọi là jinbē (甚兵衛, jinbē) hoặc hippari (ひっぱり, hippari)) là bộ quần áo mặc trong nhà truyền thống của Nhật Bản dành cho đàn ông, phụ nữ và trẻ em được mặc trong mùa hè. Với cấu tạo gồm một chiếc áo kiểu kimono đi kèm với quần, ban đầu chỉ dành cho nam giới, tuy nhiên, trong những năm gần đây, dành cho phụ nữ đã trở nên phổ biến. Một bộ tiêu chuẩn thường là một bộ hoàn chỉnh bao gồm áo và quần. Quần của Jinbei có thể ngắn hoặc dài tùy theo ý thích . Mặc dù quần được may theo kiểu phương Tây, song phần áo của nó lại được may theo kiểu kimono truyền thống, với phần cổ áo dài được vắt phía trước tạo thành đường chéo. Tuy nhiên, khác với kimono, một bộ tiêu chuẩn sẽ không được may phần mép phía trước (được gọi là ), thay vào đó nó sẽ có hai dây buộc, một dây nằm ngoài và một dây nằm ở mặt trong, giúp thắt kín áo lại. Phần áo phía trên có chiều dài gần đến hông và được quấn từ bên trái qua bên phải, và phần dây bên trong sẽ được buộc chặt trước khi thắt các dây buộc bên ngoài. Theo phong cách truyền thống, được may từ vải dệt bông hoặc cây gai dầu, và thường được nhuộm màu đơn sắc như chàm, xanh dương hoặc màu lục. Trong khi đó, kiểu hiện đại thường được may từ vải in và có nhiều kết cấu khác nhau cùng với những hoa văn đầy màu sắc. dành cho những phụ nữ quý tộc thường có màu sắc tươi sáng hơn, và thường có in hình của các nhân vật và các hình mẫu trong văn hóa đại chúng. có đường may rất lỏng lẻo giúp cho người mặc có cảm giác thông thoáng trong thời tiết nóng bức, cũng như giúp bộ đồ trông có vẻ đồng nhất hơn khi nhìn từ xa. thường được sử dụng như đồ ngủ hay đồ mặc ở nhà, và được coi như loại quần áo không được dùng cho những dịp trang trọng. Thông thường, chỉ được mặc bên ngoài trong những chuyến du lịch ngắn như đi làm một việc vặt ở địa phương, thu thập thư hay đi mua sắm. Việc mặc Jinbei một cách "trang trọng", tức là mặc nó khi đi ra ngoài trong một thời gian dài bị coi là một điều thô lỗ. cũng có thể được dùng để thay thế trong mùa hè, đặc biệt là trong các lễ hội. Tại Nhật Bản loài cá nhám voi được gọi là jinbei-zame (ジンベイザメ(甚平鮫), "jinbei shark") hay jinbē-zame (ジンベエザメ 《甚兵衛鮫》, "jinbee shark"), do loài động vật này có màu da trông giống như màu của .
Beatrice của Liên hiệp Anh Beatrice của Liên hiệp Anh và Ireland, hay Beatrice của Liên hiệp Anh (tiếng Anh: "Princess Beatrice of the United Kingdom"; tên đầy đủ:Beatrice Mary Victoria Feodore; 14 tháng 4 năm 1857 – 26 tháng 10 năm 1944), sau này là Thân vương tử phi Heinrich xứ Battenberg, là con gái thứ năm và là người con út của Victoria I của Liên hiệp Anh và Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha. Beatrice cũng là người con qua đời cuối cùng của Nữ vương Victoria, gần 66 năm sau khi người con đầu tiên của Victoria qua đời là Vương nữ Alice. Tuổi thơ của Beatrice trùng với thời điểm Nữ vương Victoria đau buồn vì cái chết của chồng vào ngày 14 tháng 12 năm 1861. Khi các chị gái của Beatrice đã kết hôn và không còn gần bên mẹ, Nữ vương Victoria dựa dẫm vào người con gái út, và gọi Beatrice là "Đứa con bé nhỏ" trong phần lớn thời thơ ấu của vương nữ. Beatrice luôn được nuôi dưỡng bên nữ vương Victoria và vương nữ chấp thuận điều này. Nữ vương Victoria phản đối việc kết hôn của Beatrice đến nỗi từ chối thảo luận về hôn sự của con gái. Dù vậy, có nhiều người đã ngỏ lời cầu hôn Beatrice, trong đó có Louis-Napoléon, Hoàng thái tử Pháp, con trai của Hoàng đế lưu vong Napoléon III của Pháp, và Ludwig IV xứ Hessen, góa vợ của Vương nữ Alice, chị gái của Beatrice. Vương nữ bị thu hút bởi Louis-Napoléon và đã có những thảo luận về hôn nhân của hai người, nhưng Louis-Napoléon đã bị giết trong Chiến tranh Anh-Zulu năm 1879. Beatrice sau đó đem lòng yêu Thân vương tử Heinrich xứ Battenberg, con trai của Đại Công tử Alexander xứ Hessen và Rhine và Julia Hauke, đồng thời là em chồng của Đại Công nữ Viktoria xứ Hessen và Rhine, cháu gọi dì của Vương nữ Beatrice. Sau một năm thuyết phục, Nữ vương Victoria, người có thẩm quyền cho phép Beatrice và Heinrich kết hôn chiếu theo Đạo luật Hôn nhân Vương thất, cuối cùng đã đồng ý cho cuộc hôn nhân diễn ra tại Whippingham trên Đảo Wight vào ngày 23 tháng 7 năm 1885. Nữ vương Victoria đã đồng ý mối hôn sự với điều kiện Beatrice và Heinrich phải ở gần Nữ vương và Beatrice tiếp tục nhiệm vụ thư ký không chính thức của Victoria. Heinrich và Beatrice có với nhau bốn người con, nhưng 10 năm sau cuộc hôn nhân của hai vợ chồng, vào ngày 20 tháng 1 năm 1896, Thân vương tử Heinrich qua đời vì bệnh sốt rét khi chiến đấu trong Chiến tranh Anh-Ashanti. Beatrice vẫn ở bên mẹ cho đến khi Nữ vương Victoria qua đời vào ngày 22 tháng 1 năm 1901. Beatrice đã dành 30 năm tiếp theo để biên tập nhật ký của Nữ vương Victoria với tư cách là người phụ trách được chỉ định của Victoria và tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ trước công chúng. Vương nữ Beatrice qua đời ở tuổi 87 vào năm 1944. Những năm đầu đời. Beatrice sinh ngày 14 tháng 4 năm 1857 tại Cung điện Buckingham, Luân Đôn, là con gái thứ năm và là người con út trong số chín người con của Victoria của Liên hiệp Anh và Albrecht của Sachsen-Coburg và Gotha. Ca sinh nở này của Victoria đã gây ra tranh cãi khi có thông báo rằng Nữ vương sẽ sử dụng chloroform được cung cấp bởi Tiến sĩ John Snow nhằm giảm bớt cơn đau đớn do sinh nở. Chloroform được coi là nguy hiểm đối với người mẹ và đứa trẻ và bị Giáo hội Anh và các cơ quan y tế phản đối. Tuy nhiên, Victoria vẫn quyết định sử dụng "chất chloroform diệu kỳ" cho lần mang thai cuối cùng của mình. Hai tuần sau, Nữ vương Victoria đã ghi lại trong nhật ký rằng "Ta đã được đền đáp xứng đáng và quên đi tất cả những gì mình phải trải qua khi nghe tiếng Albert thân yêu nói rằng 'Đó là một đứa bé khỏe mạnh, và là một bé gái!'" Albert và Victoria quyết định đặt tên cho đứa trẻ là "Beatrice Mary Victoria Feodore": Mary theo tên của Vương nữ Mary của Liên hiệp Anh, người con cuối cùng còn sống của George III của Liên hiệp Anh; Victoria theo tên của Nữ vương và Feodore theo Feodora xứ Leiningen, Thân vương phi xứ Hohenlohe-Langenburg, chị gái cùng mẹ khác cha của Victoria. Vương nữ Beatrice được rửa tội trong nhà nguyện riêng ở Cung điện Buckingham vào ngày 16 tháng 6 năm 1857. Cha mẹ đỡ đầu của Beatrice là Thái Công tước phu nhân xứ Kent (bà ngoại); Victoria Adelaide, Vương nữ Vương thất (chị cả); và Vương tôn Friedrich của Phổ (anh rể tương lai của Beatrice). Ngay từ khi sinh ra, Beatrice đã trở thành đứa trẻ được yêu thích trong gia đình. Người con gái lớn được yêu thích nhất của Albert là Victoria, Vương nữ Vương thất sắp chuyển đến sống ở Đức với chồng là Friedrich ("Fritz") của Phổ. Cùng lúc đó, đứa trẻ Beatrice mới sinh nhận được sự yêu mến. Albert đã viết cho Augusta, mẹ của Fritz rằng "Con bé luyện giọng giống như một "prima donna" tài năng trước khi biểu diễn và có một giọng hát hay!" Mặc dù Nữ vương Victoria được biết là không thích trẻ sơ sinh, nhưng Victoria lại thể hiện sự yêu thích đối với Beatrice và cho rằng cô con gái út rất cuốn hút. Điều này mang lại lợi thế cho Beatrice so với các anh chị của mình. Nữ vương Victoria từng nhận xét Beatrice là "một đứa trẻ xinh xắn, mũm mĩm và khỏe mạ, cái miệng nhỏ xinh và làn da rất mịn màng". Mái tóc dài và vàng óng của Beatrice là tâm điểm trong các bức tranh do Nữ vương ủy quyền, người rất cho Beatrice tắm, trái ngược hoàn toàn so với những người con còn lại của nữ vương. Beatrice thể hiện bản thân là đứa trẻ thông minh, điều này càng khiến cho Vương nữ được cha quý mến và thích thú với sự trưởng thành sớm của con gái. Albert đã viết cho Nam tước Stockmar rằng Beatrice là "đứa trẻ thú vị nhất mà chúng ta có." Mặc dù cũng tiếp nhận chương trình giáo dục nghiêm khắc đến từ Vương phu Albert và cố vấn thân cận là Nam tước Stockmar, Beatrice có một thời thơ ấu thoải mái hơn so với các anh chị của mình vì mối quan hệ giữa vương nữ với cha mẹ. Khi mới 4 tuổi, vì là người con út và là đứa trẻ vương thất nhỏ tuổi nhất, Beatrice không bị buộc phải chịu sự kiểm soát của cha mẹ như các anh chị của mình, và tính cách hài hước của Beatrice đã mang lại niềm an ủi cho người cha đau ốm của mình. Người bạn tâm tình của Nữ vương Victoria. Vào tháng 3 năm 1861, mẹ của Nữ vương Victoria là Victorie xứ Sachsen-Coburg-Saafeld, Công tước phu nhân xứ Kent qua đời tại Frogmore. Nữ vương Victoria đã suy sụp trong đau buồn và tội lỗi vì sự xa cách giữa hai người trong khoảng thời gian đầu triều đại của Victoria. Beatrice đã cố gắng an ủi mẹ mình bằng cách nhắc nữ vương rằng Bà Công tước xứ Kent đang "ở trên thiên đường, nhưng Beatrice hy vọng bà ấy sẽ trở lại". Sự an ủi này rất có ý nghĩa với Victoria vì nữ vương đã tự cô lập mình với các con ngoại trừ cô con gái lớn nhất chưa lập gia đình là Alice và Beatrice. Victoria một lần nữa nương tựa vào Beatrice và Alice sau cái chết của chồng vì bệnh thương hàn vào ngày 14 tháng 12. Nỗi đau buồn sâu sắc của Nữ vương Victoria trước cái chết của chồng đã khiến cả gia đình, các triều thần, chính trị gia và dân chúng nói chung kinh ngạc. Như khi bà mẹ nữ vương qua đời, Victoria tự tách biệt mình ra khỏi gia đình— đặc biệt nhất là Thân vương xứ Wales (người mà Victoria đổ lỗi cho cái chết của chồng mình), ngoại trừ Alice và Beatrice. Nữ vương Victoria thường bế Beatrice khỏi giường, vội vã mang đến giường của mình và "nằm đó không ngủ, ôm chặt lấy đứa con nhỏ của mình, quấn trong bộ đồ ngủ của một người đàn ông sẽ không bao giờ mặc chúng nữa." Sau năm 1871, khi người chị gái cuối cùng của Beatrice kết hôn, Nữ vương Victoria dựa dẫm vào cô con gái út, người đã tuyên bố từ khi còn nhỏ rằng: "Con không thích đám cưới chút nào. Con sẽ không bao giờ kết hôn. Con sẽ ở mãi với mẹ." Với tư cách là thư ký của mẹ, Beatrice thực hiện các nhiệm vụ như viết thư thay mặt Nữ vương và giúp xử lý thư từ chính trị. Những nhiệm vụ thường trực này phản ánh những công việc đã được thực hiện liên tiếp bởi các chị gái của Beatrice là Alice, Helena và Louise. Tuy nhiên, Nữ vương Victoria đã bổ sung thêm nhiều nhiệm vụ cá nhân hơn. Trong một trận ốm nặng vào năm 1871, Victoria đã đọc cho con gái nghe về các hoạt động trong ngày để Beatrice ghi nhận lại, và vào năm 1876, Victoria cho phép Beatrice sắp xếp lại các bản nhạc mà nữ vương và vương phu đã chơi, vốn không được chơi kể từ khi Albert qua đời mười lăm năm trước đó. Sự tận tâm mà Beatrice dành cho mẹ đã được ghi nhận trong các bức thư và nhật ký của Nữ vương, nhưng nhu cầu liên tục của Victoria đối với con gái ngày càng lớn hơn. Victoria tiếp tục chịu đả kích khi biết tin về sự qua đời của một người cận thần là John Brown vào năm 1883 tại Balmoral. Một lần nữa, Victoria đắm chìm trong sự thương tiếc và phải nhờ cậy đến Beatrice để tìm đến sự an ủi. Không giống như các anh chị của mình, Beatrice không hề tỏ ra ghét Brown, và cả hai thường xuyên đi với nhau và họ đã làm việc cùng nhau để thực hiện những mong muốn của Victoria. Những ứng cử viên tiềm năng. Mặc dù nữ vương Victoria phản đối việc Beatrice kết hôn với bất kỳ ai vì nữ vương mong muốn rằng con gái sẽ luôn ở bên mình, nhưng đã có một số ứng cử viên đã ngỏ lời cầu hôn Beatrice, trước khi Beatrice kết hôn với Heinrich xứ Battenberg. Một trong số đó là Napoléon Eugéne, Hoàng thái tử nước Pháp, con trai và là người thừa kế của Hoàng đế lưu vong Napoléon III của Pháp và vợ là Hoàng hậu Eugenia. Sau khi Phổ đánh bại Pháp trong Chiến tranh Pháp-Phổ, Napoléon III bị phế truất và cùng gia đình sang Anh năm 1870. Sau cái chết của Hoàng đế vào năm 1873, Nữ vương Victoria và Hoàng hậu Eugenia đã hình thành một mối quan hệ gắn bó thân thiết, và các tờ báo đã đưa tin về việc Beatrice sắp đính hôn với Hoàng thái tử. Tuy nhiên, hững tin đồn này kết thúc với cái chết của Napoléon Eugéne trong Chiến tranh Anh-Zulu vào ngày 1 tháng 6 năm 1879. Victoria ghi lại trong nhật ký rằng: "Beatrice yêu quý, cũng đã khóc rất nhiều như ta, đã gửi cho ta bức điện tí; mọi người thì khá sốc." Sau cái chết của Hoàng thái tử Pháp, Vương tử Albert Edward, Thân vương xứ Wales đã đề nghị Beatrice kết hôn với người chồng của chị gái Alice quá cố là Đại Công tước Ludwig IV xứ Hessen. Alice đã qua đời vào năm 1878, và Thân vương lập luận rằng Beatrice có thể đóng vai trò là người mẹ thay thế cho những đứa con nhỏ của Ludwig và Alice và dành phần lớn thời gian ở Anh để chăm sóc cho nữ vương Victoria. Albert Edward cũng gợi ý rằng Nữ vương cũng có thể giám sát việc nuôi dạy những người cháu nhà Hessen của mình một cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, luật pháp cấm Beatrice kết hôn với người chồng góa vợ của chị gái mình. Điều này đã bị phản đối bởi Thân vương xứ Wales, người đã kịch liệt ủng hộ việc thông qua Dự luật Chị em gái của Người vợ đã khuất tại Nhà Quốc hội, theo đó sẽ loại bỏ trở ngại ngăn cản Beatrice kết hôn với Ludwig IV. Bất chấp sự ủng hộ cho dự luật này và mặc dù đã được thông qua tại Hạ viện, dự luật đã bị Thượng viện bác bỏ vì sự phản đối của các Giám mục tại Thượng viện. Mặc dù Nữ vương Victoria thất vọng vì dự luật không được thông qua, nữ vương rất vui khi được giữ con gái ở bên mình. Một số ứng cử viên khác, bao gồm hai anh trai của Thân vương tử Hdeinrich là Thân vương tử Alexander ("Sandro") và Thân vương tử Ludwig xứ Battenberg, được đề cử trở thành chồng của Beatrice nhưng không thành công. Mặc dù Alexander chưa bao giờ chính thức theo đuổi Beatrice, mà chỉ tuyên bố rằng "có thể đã đính hôn với người bạn thời thơ ấu của mình trong một khoảng thời gian, là Beatrice của Anh" trong khi đó Ludwig tỏ ra quan tâm hơn vơi môn hôn sự này. Nữ vương Victoria đã mời Ludwig ăn tối nhưng lại ngồi giữa Ludwig và Beatrice, và căn dặn Beatrice phớt lờ Ludwig để ngăn cản mối hôn sự này. Ludwig, không nhận ra nguồn cơn của sự im lặng này trong nhiều này, kết hôn với cháu gái gọi dì của Beatrice là Đại Công nữ Viktoria xứ Hessen. Mặc dù hy vọng của Beatrice về một cuộc hôn nhân đã một lần nữa không thành, khi tham dự đám cưới của Ludwig tại Darmstadt, Beatrice đã đem lòng yêu Thân vương tử Heinrich, người cũng đã đáp lại tình cảm của vương nữ. Đính hôn và đám cưới. Sau khi trở về từ Darmstadt, Beatrice đã thông báo với nữ vương Victoria về dự định kết hôn của mình. Trước thông tin này, Nữ vương đã phản ứng bằng sự im lặng đáng sợ. Mặc dù hai mẹ con vẫn ở bên cạnh nhau, nhưng Victoria đã không nói chuyện với con gái trong suốt bảy tháng mà chỉ giao tiếp thông qua những tờ giấy ghi chú. Hành vi của Nữ vương là điều cả gia đình cũng không ngờ tới, có thể à vì nỗi sợ rời xa con gái của Victoria. Nữ vương coi Beatrice như một "Đứa bé" (Baby) - đứa con ngây thơ của mình - và nhận định rằng việc quan hệ tình dục vốn đi kèm với hôn nhân chính là dấu chấm hết cho sự trong trắng của con gái út. Nhờ những lời thuyết phục tinh tế từ Thân vương phi xứ Wales và Vương thái tử phi nước Phổ, người đã nhắc nhở nữ vương nhớ về niềm hạnh phúc mà Beatrice đã mang lại cho Vương phu Albert, đã khiến cho nữ vương Victoria nói chuyện lại với Beatrice. Victoria cũng đồng ý cho phép Beatrice kết hôn với điều kiện Heinrich sẽ phải từ bỏ những ràng buộc từ dòng máu Đức và sống lâu dài với Beatrice và Nữ vương. Beatrice và Heinrich kết hôn tại Nhà thờ Thánh Mildred ở Whippingham, gần Điện Osborne vào ngày 23 tháng 7 năm 1885. Trong ngày cưới, Beatrice đã trùm tấm màn cưới bằng đăng ten Honiton của nữ vương Victoria và được hộ tống bởi mẹ và anh cả là Thân vương xứ Wales. Vương nữ Beatrice còn được hộ tống bởi mười phù dâu, tất cả đều là cháu gái của vương nữ: Vương tôn nữ Louise (18), Victoria và Maud xứ Wales; Đại Công nữ Irene và Alix xứ Hessen và Rhine; Vương tôn nữ Marie, Victoria Melita và Alexandra xứ Edinburgh; Vương tôn nữ Helena Victoria và Marie Louise của Schleswig-Holstein . Bên chú rể gồm có các anh em trai là Thân vương Alexander của Bulgaria và Thân vương tử Franz Joseph xứ Battenberg. Buổi lễ không có sự tham dự của chị cả và anh rể của Beatrice là Thái tử và Thái tử phi nước Phổ vì họ không thể rời khỏi Đức; William Ewart Gladstone; hay cô họ của Beatrice là Vương tôn nữ Mary Adelaide, Công tước phu nhân xứ Teck, người đang chịu tang cha chồng – kết thúc bằng việc cặp đôi lên đường đi hưởng tuần trăng mật tại Nhà Tu viện Quarr, cách Osborne vài dặm. Nữ vương từ giã hai vợ chồng và "dũng cảm chịu đựng cho đến điểm khởi hành và sau đó lùi bước cho hai vợ chồng" , theo như nữ vương chia sẻ với con gái cả Vicky . Những năm cuối đời của Nữ vương Victoria của Liên hiệp Anh. Sau khoảng thời gian trăng mật ngắn ngủi, Beatrice và chồng đã thực hiện lời hứa của mình và trở về bên Nữ vương. Nữ hoàng nói rõ rằng bà không thể tự mình xử lý mọi việc và cặp đôi không thể đi đâu mà không có nữ vương. Mặc dù Victoria đã nới lỏng hạn chế này sau một khoảng thời gian từ khi hai người kết hôn, Beatrice và Heinrichy chỉ đi thăm gia đình ông trong thời gian ngắn. Tình yêu của Beatrice dành cho Heinrich, giống như tình yêu của Nữ vương Victoria dành cho Vương phu Albert, dường như sâu đậm qua thời gian. Khi Heinrich đi xa mà không có Beatrice, vương nữ trở nên vui vẻ hơn khi chồng trở về. Việc Heinrich trở thành một thành viên của vương thất đã khiến Vương nữ Beatrice và Nữ vương Victoria trở nên tích cực hơn, và triều đình trở nên tươi sáng hơn so với kể từ khi cố Vương phu Albert qua đời. Mặc dù vậy, Heinrich với sự ủng hộ của Beatrice, vẫn quyết tâm tham gia vào các chiến dịch quân sự, điều khiến Victoria khó chịu và phản đối việc Heinrich tham gia vào những cuộc chiến đe dọa đến tính mạng. Xung đột cũng nảy sinh khi Heinrich tham dự lễ hội hóa trang Ajaccio và Beatrice đã cử một sĩ quan Hải quân Vương thất đến để phòng ngừa bất kỳ sự sa đọa nào có thể xảy ra. Trong một lần, Heinrich trốn đến Corsica với anh trai Ludwig; Nữ vương đã gửi một tàu chiến để đưa con rể trở về. Heinrich cảm thấy bị khó chịu bởi việc Nữ vương thường xuyên cần đến sự bầu bạn của hai vợ chồng. Mặc dù đã kết hôn, Beatrice vẫn thực hiện lời hứa của mình với Nữ vương bằng cách tiếp tục là người bầu bạn cũng như là thư ký toàn thời gian của Victoria. Nữ vương Victoria cũng có thái độ ấm áp với Heinrich. Tuy nhiên, Nữ vương Victoria đã chỉ trích hành vi của Beatrice trong lần mang thai đầu tiên. Cụ thể là khi vương nữ ngừng đến tham dự các bữa tối của Nữ vương khoảng một tuần trước khi sinh và ăn một mình trong phòng, Victoria đã tức giận viết thư cho bác sĩ của mình làJames Reid rằng, "Ta (mong muốn Vương nữ tiếp tục) đến ăn tối, chứ không ủ rũ trong phòng riêng, điều rất có hại cho con bé. Nếu là ta, ta sẽ thường xuyên đến ăn tối, trừ khi thực sự không khỏe (ngay cả khi phải chịu đựng rất nhiều) cho đến tận ngày cuối ngày." Tuần sau đó, với sự hỗ trợ chloroform, Beatrice đã hạ sinh con trai đầu lòng Alexander vào tuần sau. Mặc dù bị sẩy thai trong những tháng đầu của cuộc hôn nhân, Beatrice sinh được bốn người con: Alexander, gọi là "Drino", sinh năm 1886; Victoria Eugenie, gọi là "Ena", năm 1887; Leopold năm 1889; và Maurice vào năm 1891. Sau này, Beatrice quan tâm nhiệt thành đến các vấn đề xã hội, chẳng hạn như điều kiện làm việc ở các mỏ than. Tuy nhiên, mối quan tâm của Beatrice không mở rộng đến việc thay đổi tình trạng nghèo đói như anh trai là Thân vương xứ Wales. Mặc dù có rất ít các hoạt động giải trí trong cung đình từ khi Albert qua đời, Beatrice và Nữ vương Victoria rất thích chụp ảnh hoạt cảnh, thường được thực hiện tại các dinh thự vương thất. Trong khi đó Heinrich, ngày càng chán nản vì lượng hoạt động ít ỏi tại triều đình, khao khát được thực hiện nhiệm vụ và Nữ vương đã phong Heinrich làm Thống đốc của Đảo Wight vào năm 1889. Tuy nhiên, Heinrich khao khát được ở trong quân đội và cầu xin mẹ vợ cho mình tham gia cuộc chinh phạt Ashanti trong Chiến tranh Anglo-Asante. Bất chấp những lo ngại, Victoria đã đồng ý, Heinrich và Beatrice tạm biệt nhau vào ngày 6 tháng 12 năm 1895 mà không biếtranngg282 cả hai sẽ không còn gặp lại nhau. Heinrich sau đó mắc bệnh sốt rét và được gửi về nhà. Vào ngày 22 tháng 1 năm 1896, Beatrice, trong lúc đang đợi chồng trở về ở Madeira, nhận được một bức điện thông báo về cái chết của Heinrich vào hai ngày trước đó. Đau khổ vì mất chồng, Beatrice rời khỏi triều đình trong một tháng nhằm để tang chồng trước khi trở lại bên mẹ. Nữ vương Victoria đã ghi lại trong nhật kỳ của mình rằng ngài đã "đến phòng của Beatrice và ngồi bên con bé một lúc. Con bé thật đáng thương với nỗi khốn khổ mà nó phải chịu đựng." Bất chấp sự đau, Beatrice vẫn tiếp tục kề bên nữ vương, và khi Victoria già đi, nữ vương phụ thuộc nhiều hơn vào Beatrice trong việc giải quyết thư từ. Tuy nhiên, nhận ra rằng Beatrice cần một vị trí cho riêng mình, Victoria đã cho con gái các dãy phòng của Cung điện Kensington vốn từng là nơi ở của Nữ vương và cố Công tước phu nhân xứ Kent. Victoria cũng bổ nhiệm Beatrice vị trí thống đốc của Đảo Wight đã bị bỏ trống từ khi Heinrich qua đời. Đối với sở thích chụp ảnh của Beatrice, Victoria đã cho lắp đặt một căn phòng tối tại Điện Osborne. Những thay đổi trong gia đình, bao gồm cả sự ưu tiên hàng đầu của Beatrice dành cho mẹ, có thể đã ảnh hưởng đến những đứa con của vương nữ, khiến chúng trở nên nổi loạn ở trường học. Beatrice đã viết rằng Ena là đứa trẻ "rắc rối và nổi loạn", và Alexander thì nói "những điều sai sự thật không chấp nhận". Cuộc sống sau này. Cuộc sống của Beatrice bị đảo lộn Nữ vương Victoria qua đời vào ngày 22 tháng 1 năm 1901. Vương nữ đã viết thư cho Hiệu trưởng của Đại học Glasgow vào tháng 3, "...ông có thể tưởng tượng nỗi đau tệ như thế nào. Ta, người chưa bao giờ xa cách người mẹ thân yêu của mình, ta khó mà hình dung được cuộc sống sẽ ra sao nếu không có mẹ, người đã từng là trung tâm của mọi thứ." Beatrice vẫn tiếp tục xuất hiện trước công chúng, nhưng vị trí của vương nữ tại triều đình đã bị suy giảm. Khác với chị gái là Vương nữ Louise, Beatrice không thân thiết với tân vương Edward VII, người cũng là anh trai vương nữ, và không được đưa vào vòng tròn giao thiệp của Nhà vua. Mặc dù mối quan hệ của hai anh em không hoàn toàn tồi tệ, nhưng đôi khi cũng trở nên căng thẳng, chẳng hạn như khi Beatrice vô tình (một cách ồn ào) đánh rơi cuốn sách kinh của mình từ phòng trưng bày vương thất xuống một chiếc bàn bằng vàng trong lễ đăng quang của Edward VII. Sau khi thừa kế Điện Osborne, Edward VII đã cho dỡ bỏ những bức ảnh và vật dụng cá nhân của mẹ mình và thậm chí là một số trong số chúng đã bị cho tiêu hủy, đặc biệt là tài liệu liên quan đến John Brown, người mà Quốc vương căm ghét. Nữ vương Victoria đã dự định cho điện Osborne trở thành nơi ở riêng tư cho con cháu của nữ vương, tránh xa sự hào hoa và nghi lễ của cuộc sống cung đình. Tuy nhiên, vị tân vương không có nhu cầu tương tự đối với điện Osborne và đã hỏi ý kiến các luật sư của mình về việc xử lý điện Osborne, biến cánh chính trở thành nhà điều dưỡng, mở cửa các dãy phòng cho công chúng và xây dựng Trường Cao đẳng Hải quân trong khuôn viên. Tuy nhiên, kế hoạch của Edward VII vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ Beatrice và Louise. Nữ vương Victoria đã để lại cho hai chị em những ngôi nhà trong vùng lãnh thổ của Vương thất, và sự riêng tư mà nữ vương đã hứa với hai chị em bị đe dọa. Khi Edward VII thảo luận về số phận của ngôi nhà với hai chị em, Beatrice phản đối việc để ngôi nhà tách rời khỏi vương thất, với lý do rằng đây là nơi quan trọng đối với cha mẹ họ. Tuy nhiên, Quốc vương không muốn điện Osborne cho bản thân và đã tặng nó cho người thừa kế của mình, cháu trai gọi cô của Beatrice là Vương tử George nhưng Vương tử đã từ chối vì chi phí bảo trì cao. Edward VII sau đó đã mở rộng khuôn viên nơi ở của Beatrice là Osborne Cottage, để đền bù cho việc sự riêng tư Vương nữ sắp bị ảnh hưởng. Ngay sau đó, Nhà vua tuyên bố với thủ tướng là Arthur Balfour, rằng phần nhà chính sẽ được trao cho quốc gia như một món quà. Tuy nhiên với các dãy phòng cá nhân thì chỉ mở cửa cho các thành viên vương thấtviì khu vực này đã được dựng thành điện thờ để tưởng nhớ cố nữ vương. Vương nữ Beatrice tiếp tục vai trò Thống đốc của Đảo Wight từ năm 1896 cho đến khi qua đời vào năm 1944, đồng thời là Chủ tịch của Bệnh viện Tưởng niệm Frank James tại Đông Cowes từ năm 1903 cho đến khi qua đời. Beatrice tiếp tục xuất hiện trước công chúng sau khi nữ vương Victoria qua đời. Các nhiệm vụ công khai mà vương nữ thực hiện thường liên quan đến Nữ vương Victoria, vì công chúng luôn liên tưởng hình ảnh Beatrice kề bên nữ vương. Nhật ký của Nữ vương Victoria. Sau cái chết của Nữ vương Victoria, Beatrice bắt đầu nhiệm vụ quan trọng là ghi lại và biên tập nhật ký của Nữ vương Victoria. Hàng trăm tập nhật ký từ năm 1831 trở đi chứa đựng những quan điểm cá nhân của Nữ vương về công việc hàng ngày trong cuộc đời Victoria, đồng thời bao gồm các vấn đề cá nhân, gia đình cũng như các vấn đề của quốc gia. Nữ vương Victoria đã giao cho Beatrice nhiệm vụ biên tập các cuốn nhật ký để xuất bản, điều đó có nghĩa là loại bỏ các tài liệu riêng tư cũng như những đoạn văn mà nếu được xuất bản thì có thể gây tổn hại cho những người còn sống. Beatrice đã xóa nhiều tài liệu đến nỗi các cuốn nhật ký đã qua chỉnh sửa chỉ có độ dài bằng một phần ba so với bản gốc. Việc phá hủy những đoạn nhật ký lớn như vậy của Nữ vương Victoria khiến cháu trai của Beatrice là Quốc vương George V, và vợ là Vương hậu Mary, đau buồn nhưng không thể can thiệp. Beatrice đã sao chép một bản nháp từ bản gốc và sau đó sao lại bản nháp của vương nữ vào một tập sách màu xanh. Cả bản gốc và bản nháp đầu tiên của Beatrice đều bị phá hủy trong quá trình biên tập. Nhiệm vụ này kéo dài ba mươi năm và hoàn thành vào năm 1931. 111 cuốn sổ ghi chú còn sót lại được lưu giữ trong Văn khố Vương thất tại Lâu đài Windsor. Vương hậu Victoria Eugenie "Ena" của Tây Ban Nha. Nhan sắc của con gái Beatrice là Ena, được biết đến khắp châu Âu, và mặc dù có địa vị không cao nhưng Ena là một nàng dâu đáng mơ ước. Alfonso XIII của Tây Ban Nha đã ngỏ lời cầu hôn Victoria Eugenie và được Vương tôn nữ chấp nhận . Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đã gây ra tranh cãi ở Anh, vì kết hôn với Quốc vương Tây Ban Nha đồng nghĩa là Ena phải cải đạo sang Công giáo. Chuyện này đã bị phản đối bởi anh trai của Beatrice là Edward VII, và những người Tây Ban Nha cực kỳ bảo thủ đã phản đối cuộc hôn nhân của Alffonso XIII với một tín hữu Kháng Cách có xuất thân thấp kém, vì cha của Victoria Eugenie, Thân vương tử Heinrich, là con trai của một cuộc hôn nhân bất đăng đối. Vì vậy, họ coi Ena chỉ là một phần huyết mạch Vương thất và do đó không thích hợp để trở thành Vương hậu Tây Ban Nha. Tuy nhiên, cặp đôi đã kết hôn vào ngày 31 tháng 5 năm 1906. Cuộc hôn nhân bắt đầu không suôn sẻ khi một kẻ vô chính phủ cố gắng đánh bom họ vào ngày cưới. Ban đầu, cặp đôi rất gần gũi với nhau nhưng sau này lại ngày càng xa cách. Ena không được yêu thích ở Tây Ban Nha và tình hình trở nên nghiêm trọng hơn khi người con trai cả Alfonso Pio, trữ quân của ngai vàng Tây Ban Nha, mắc bệnh máu khó đông. Alfonso XIII quy trách nhiệm cho Beatrice vì đã mang căn bệnh này đến vương thất Tây Ban Nha và quay lưng lại với Ena một cách cay nghiệt. Trong thời gian đảm nhiệm vai trò là Vương hậu Tây Ban Nha, Ena đã nhiều lần trở lại thăm mẹ ở Anh, nhưng luôn không có mặt Alfonso và ít khi có mặt các con của mình. Trong khi đó, Beatrice sống tại Osborne Cottage ở Đông Cowes cho đến khi bán nơi này vào năm 1913, khi Lâu đài Carisbrooke, dinh thự của Thống đốc Đảo Wight, bị bỏ trống. Beatrice chuyển đến Lâu đài trong khi vẫn giữ một dãy phòng tại Cung điện Kensington ở Luân Đôn. Vương nữ đã tham gia tích cực vào việc thu thập tài liệu cho bảo tàng của Lâu đài Carisbrooke, mà đức nữ cho mở cửa vào năm 1898. Chiến tranh thế giới thứ nhất và rời xa khỏi công chúng. Sự hiện diện của Beatrice tại triêu đình ngày càng giảm khi vương nữ già đi. Đau buồn bởi cái chết của người con trai yêu dấu Maurice trong Thế chiến thứ nhất năm 1914, vương nữ bắt đầu rút lui khỏi công chúng. Trước tình hình của Thế chiến thứ nhất, Quốc vương George V đã đổi tên vương tộc từ Saxe-Coburg và Gotha thành Windsor, đồng thời lấy tên đó làm họ của vương thất, để làm lu mờ dòng máu Đức của vương thất. Sau đó, Beatrice và gia đình vương nữ từ bỏ các tước hiệu thuộc Đức của họ; do đó Beatrice đã ngừng sử dụng danh xưng "Thân vương tử phi Henry xứ Battenberg", thay vào đó sử dụng danh xưng thời con gái là "HRH Vương nữ Beatrice". Các con trai của Beatrice đã từ bỏ tước hiệu Thân vương tôn xứ "Battenberg" . Alexander, người con trai cả, trở thành Ngài Alexander Mountbatten và sau đó được phong tước hiệu Hầu tước xứ Carisbrooke trong Đẳng cấp quý tộc của Vương quốc Liên hiệp Anh . Người con trai thứ, Leopold, trở thành Ngài Leopold Mountbatten và được hưởng địa vị của con trai thứ của một hầu tước. Leopold cũng mắc bệnh máu khó đông, "căn bệnh vương thất" thừa hưởng từ mẹ và qua đời trong một ca phẫu thuật đầu gối vào năm 1922, chỉ một tháng trước sinh nhật lần thứ 33. Sau chiến tranh, Beatrice là một trong số các thành viên của vương thất trở thành người bảo trợ của Liên đoàn Ypres, được thành lập dành cho các cựu chiến binh của Khu vực Ypres và thân thích của những chiến sĩ thiệt mạng trong trận chiến ở Khu vực Ypres. Bản thân Beatrice cũng là một người mẹ mất con tại chiến trường, vì con trai út Maurice của Battenberg, đã tử trận trong Trận chiến Ypres lần thứ nhất. Những lần xuất hiện hiếm hoi trước công chúng của Beatrice sau khi Maurice qua đời bao gồm các lễ kỷ niệm, đặt vòng hoa tại mộ gió Cenotaph vào năm 1930 và 1935 để đánh dấu ngày kỷ niệm 10 và 15 ngày thành lập Liên đoàn. Những năm cuối đời. Ngay cả khi ở tuổi 70, Beatrice vẫn tiếp tục trao đổi thư từ với bạn bè, người thân của mình và hiếm khi xuất hiện trước công chúng, chẳng hạn như lần xuất hiện trên xe lăn để chứng kiến vòng hoa được đặt lên sau cái chết của George V vào năm 1936. Vương nữ đã xuất bản tác phẩm dịch thuật cuối cùng của mình vào năm 1941. Với tiêu đề "Trong những tháng ngày của Napoléon", đó là cuốn nhật ký cá nhân của bà ngoại của Nữ vương Victoria là Augusta, Công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld. Beatrice đã trao đổi thư từ với nhà xuất bản là John Murray, người đã rất tán thành tác phẩm. Beatrice sau này sống tại Brantridge Park ở Tây Sussex, thuộc sở hữu của em trai Vương hậu Mary là Alexander Cambridge, Bá tước thứ nhất của Athlone (sinh ra là Alexander xứ Teck), và vợ là Vương tôn nữ Alice, cháu gái gọi cô của Beatrice; nhà Athlone bấy giờ đang sống ở Canada, nơi ngài Bá tước đảm nhận vai trò Toàn quyền Canda. Tại nơi này, Beatrice qua đời trong giấc ngủ vào ngày 26 tháng 10 năm 1944, hưởng thọ 87 tuổi (một ngày trước kỷ niệm 30 năm ngày mất của con trai út Maurice). Sau khi tổ chức tang lễ cho Vương nữ tại Nhà nguyện St George, Lâu đài Windsor, quan tài của Beatrice được đặt trong Hầm mộ Hương thất vào ngày 3 tháng 11. Ngày 27 tháng 8 năm 1945, thi thể của Beatrice được di dời và đặt bên trong một ngôi mộ chung để an táng cùng với chồng tại Nhà thờ Thánh Mildred, Whippingham. Ước nguyện cuối cùng của Beatrice là được chôn cất cùng chồng trên hòn đảo quen thuộc nhất với Vương nữ, đã được thành toàn trong một buổi lễ riêng tư tại Whippingham, chỉ được tham dự bởi con trai Alexander, Hầu tước Carisbrooke và vợ. Beatrice là người nhút nhát nhất trong số các con của Nữ vương Victoria. Tuy nhiên, vì hầu như luôn tháp tùng Nữ vương Victoria tại mọi nơi có sự xuất hiện của mình, Beatrice trở thành một trong những thành viên vương thất được biết đến nhiều nhất. Mặc dù có tính nhút nhát, vương nữ là một diễn viên và vũ công có năng lực cũng như một nghệ sĩ và nhiếp ảnh gia sắc sảo. Vương nữ là người mẹ hết lòng vì con cái và lo lắng khi họ cư xử không đúng mực ở trường học. Đối với bạn bè, Beatrice là người trung thành và có khiếu hài hước, và với tư cách là người của công chúng, đức nữ có tinh thần trách nhiệm cao. Vương nữ là Người bảo trợ của Chi nhánh Đảo Wight của Viện Thuyền cứu sinh Quốc gia Vương thất từ năm 1920 cho đến khi qua đời. Giống với Nữ vương Victoria và Vương phu Albert, âm nhạc là niềm đam mê của Beatrice và bản thân vương nữ cũng rất xuất sắc trong lĩnh vực này. Beatrice chơi đàn piano theo tiêu chuẩn chuyên nghiệp và đôi khi cũng cũng là một nhà soạn nhạc. Giống như mẹ mình, Beatrice là một Cơ đốc nhân sùng đạo, có sự đam mê với thần học cho đến khi qua đời. Với tính cách điềm tĩnh và ấm áp, vương nữ được nhều người yêu mến. Những yêu cầu đặt ra đối với Beatrice trong thời kỳ trị vì của nữ vương Victoria rất cao. Mặc dù mắc bệnh phong thấp, Beatrice buộc phải chịu đựng thời tiết lạnh giá mà nữ vương yêu thích. Việc chơi piano của Beatrice bị ảnh hưởng khi bệnh phong thấp dần trở nên tồi tệ hơn, làm cho vương nữ không thích thú chơi đàn như trước; tuy nhiên vương nữ vẫn sẵn sàng thực hiện nếu như nữ vương muốn. Sự nỗ lực của vương nữ quả thật không bị công chúng Anh phớt lờ. Năm 1886, khi Beatrice đồng ý mở Buổi biểu diễn của Hiệp hội Làm vườn Vương thất ở Southampton, ban tổ chức đã gửi cho vương nữ một lời cảm ơn, bày tỏ "sự ngưỡng mộ đối với thái độ yêu thương mà từ đó vương nữ đã an ủi và giúp đỡ cho người mẹ góa bụa của mình, Nữ vương đáng kính của chúng tôi". Như một món quà cưới, Quý ông Moses Montefiore, một chủ ngân hàng và nhà từ thiện, đã tặng Beatrice và Heinrich một bộ trà bằng bạc có ghi: "Nhiều người con gái có lối sống đạo đức, nhưng ngài là người đức hạnh hơn cả." Thời báo "Times", ngay trước lễ cưới của Vương nữ Beatrice, đã viết rằng: "Sự hy sinh của Vương thân Điện hạ đối với vị Quân chủ yêu dấu của chúng tôi đã có được sự ngưỡng mộ nồng nhiệt và lòng biết ơn sâu sắc nhất của chúng tôi. Cầu mong những phước lành mà từ trước đến nay mà ngài đã trao cho người khác giờ đây sẽ được trở lại với chính ngài." Cau nói này, có khả năng là, chỉ trích việc Nữ vương quá kiểm soát con gái. Vương nữ Beatrice qua đời tại Brantridge Park, ngôi nhà của cháu gái là Vương tôn nữ Alice và chồng là Bá tước xứ Athlone, lúc đó đang đảm nhiệm chức vụ Toàn quyền Canada. Điện Osborne, nơi ở yêu thích của nữ vương Victoria, được mở cửa cho công chúng tiếp cận. Các dinh thự thuộc Điện Osborne của Beatrice, bao gồm Osborne và Albert Cottages, vẫn thuộc sở hữu tư nhân sau khi được bán vào năm 1912. Tước hiệu, kính xưng, huân chương và vương huy. Năm 1858, Beatrice và ba người chị gái được trao quyền sử dụng vương huy, ở giữa là một biểu tượng chiếc khiên của Công quốc Sachsen và được phân biệt bằng dải bạc có ba vạch kẻ. Trong đó, hai vạch kẻ ở hai bên có biểu tượng hoa hồng đỏ và vạch kẻ ở giữa có biểu tượng hình trái tim màu đỏ. Năm 1917, biểu tượng chiếc khiên đã bị xóa bỏ bởi sắc lệnh vương thất từ George V của Liên hiệp Anh. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Helena của Liên hiệp Anh Helena của Liên hiệp Anh và Ireland, hay Helena của Liên hiệp Anh (tiếng Anh: "Princess Helena of the United Kingdom"; tên đầy đủ: Helena Augusta Victoria; 25 tháng 5 năm 1846 – 9 tháng 6 năm 1923), sau này là Công tử phu nhân Christian xứ Schleswig-Holstein, là con gái thứ ba và là người con thứ năm của Victoria I của Liên hiệp Anh và Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha (tên Anh hóa là Albert). Helena được giáo dục bởi các gia sư được lựa chọn bởi Vương phu Albert và người bạn thân cũng như là cố vấn cố vấn của Albert là Nam tước Stockmar. Helena trải qua tuổi thơ bên cạnh cha mẹ và thường qua lại nhiều dinh thự vương thất khác nhau ở Anh. Bầu không khí thân mật của triều đình Anh kết thúc vào ngày 14 tháng 12 năm 1861, khi cha của Helena qua đời và mẹ của vương nữ thì ở trong thời kỳ thương tiếc mãnh liệt vì cái chết của chồng. Vào đầu những năm của thập niên 1860, Helena bắt đầu tán tỉnh một thủ thư người Đức của Vương phu Albert là Carl Ruland. Mặc dù mối quan hệ hầu như không được biết đến, nhưng những bức thư lãng mạn của Helena gửi cho Ruland vẫn còn tồn tại. Sau khi Nữ vương Victoria phát hiện ra mối quan hệ giữa con gái và Carl Ruland vào năm 1863, Victoria đã cho sa thải Ruland, Ruland do đó đã trở về quê hương Đức. Ba năm sau, vào ngày 5 tháng 7 năm 1866, Helena kết hôn với Công tử Christian xứ Schleswig-Holstein nghèo khó. Cặp đôi vẫn ở Anh, vì nữ vương muốn các các con gái ở gần mình. Helena, cùng với em gái út là Vương nữ Beatrice, trở thành thư ký không chính thức của mẹ mình. Tuy nhiên, sau cái chết của Nữ vương Victoria vào ngày 22 tháng 1 năm 1901, Helena ít gặp gỡ những người anh chị em còn sống của mình. Helena là thành viên hoạt động tích cực nhất của vương thất, thực hiện một lượng lớn phong phú về các cuộc chương trình thuộc nhiệm vụ vương thất. Vương nữ cũng là người bảo trợ tích cực cho các tổ chức từ thiện và là một trong những thành viên sáng lập của Hội Chữ thập đỏ Anh. Helena còn là chủ tịch sáng lập của Trường May vá Vương thất, đồng thời là chủ tịch của Hiệp hội Điều dưỡng Bệnh xá Cứu tế và Hiệp hội Y tá Vương thất Anh. Với tư cách là chủ tịch sau này, Vương nữ Helena là người ủng hộ mạnh mẽ việc thống kê y tá theo lời khuyên của Florence Nightingale. Năm 1916, Helena trở thành thành viên đầu tiên trong gia đình kỷ niệm 50 năm ngày cưới, nhưng chồng của Vương nữ đã qua đời chỉ một năm sau đó. Helena sống lâu hơn chồng sáu năm và qua đời ở tuổi 77 vào năm 1923. Những năm đầu đời. Helena được sinh ra tại Cung điện Buckingham, nơi ở chính thức của vương thất ở Luân Đôn, là con gái thứ ba và là người con thứ năm của Victoria của Liên hiệp Anh và Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha. Helena ra đời vào ngày 25 tháng 5 năm 1846, một ngày sau sinh nhật lần thứ 27 của Victoria. Albrecht/Albert đã chia sẻ với anh trai của mình là Ernst II, Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha rằng Helena "khá xanh xao khi mới sinh, nhưng hiện tại con bé đã ổn hơn nhiều". Vương phu còn chia sẻ rằng nữ vương Victoria "đã phải chịu đau đớn lâu hơn so với những lần khác và nàng sẽ phải nghỉ ngơi rất nhiều để hồi phục." Albert và Victoria quyết định đặt tên cho con gái là "Helena Augusta Victoria". Biệt danh tiếng Đức của Helena là "Helenchen", sau này được rút ngắn thành "Lenchen" và là cái tên mà các thành viên vương thất thường gọi Helena. Là con gái của một quân chủ Anh, Helena được gọi là Vương nữ Helena Điện hạ ("Her Royal Highness The Princess Helena") từ khi sinh ra. Helena được rửa tội vào ngày 25 tháng 7 năm 1846 tại nhà nguyện riêng ở Cung điện Buckingham. Cha mẹ đỡ đầu của vương nữ là Đại Công tước Mecklenburg-Strelitz (chồng của Augusta xứ Cambridge, em họ của Nữ vương Victoria); Công tước phu nhân xứ Orléans, đại diện bởi Thái Công tước phu nhân xứ Kent (mẹ của Nữ vương Victoria); và Công tước phu nhân xứ Cambridge (thím của Victoria). Helena là một đứa trẻ hoạt bát và bộc trực, vương nữ đã đáp trả lại sự trêu chọc của anh trai bằng hành động đấm vào mũi. Vương nữ còn có tài năng về hội họa. Phu nhân Augusta Stanley, một thị tùng của nữ vương Victoria đã đưa ra lời nhận xét có cánh về tác phẩm nghệ thuật của vương nữ Helena ba tuổi. Giống như các chị gái của mình, Helena có thể chơi piano với tiêu chuẩn cao ngay từ khi còn nhỏ. Các sở thích khác của vương nữ gồm có khoa học và công nghệ giống với cha của Helena là Vương phu Albert và cưỡi ngựa và chèo thuyền, hai trong số những hoạt động vương nữ ưa thích khi còn nhỏ. Tuy nhiên, Helena trở thành con gái thứ sau khi em gái là Vương nữ Louise chào đời vào năm 1848, và khả năng của Helena đã bị lu mờ bởi những người chị em gái khác. Cái chết của Vương phu Albert. Cha của Helena, Vương phu Albert đã qua đời vào ngày 14 tháng 12 năm 1861. Nữ vương Victoria vô cùng đau buồn và ra lệnh cho các thành viên trong hộ gia cùng với các con gái của mình chuyển từ Windsor đến Điện Osborne thuộc Đảo Wight. Helena cũng vô cùng đau buôn trước việc cha mình qua đời, và một tháng sau, vương nữ đã viết cho một người bạn kể rằng: Nữ vương Victoria giao cho cô con gái lớn thứ hai là Vương nữ Alice vai trò thư ký không chính thức, nhưng Alice cũng cần một trợ lý của riêng mình. Mặc dù Helena là người chị lớn chỉ sau Victoria (Vương nữ Vương thất) và Alice, nhưng Helena bị Victoria coi là không đáng tin cậy vì không thể đảm nhận trong thời gian dài mà không bật khóc. Vì vậy, Louise đã được chọn để đảm nhận vai trò này thay cho Helena. Năm 1862, Vương nữ Alice kết hôn với Đại Công tử Ludwig xứ Hessen, do đó Helena đảm nhận vai trò của chị gái. Helena được một người viết tiểu sử mô tả là "cái nạng" cho tuổi già của nữ vương - và luôn bên cạnh mẹ mình. Với vai trò mới, Helena thực hiện các nhiệm vụ như viết thư cho nữ vương, giúp mẹ mình xử lý thư từ chính trị và bầu bạn cùng mẹ. Vương nữ Helena bắt đầu tán tỉnh người thủ thư cũ của cha là Carl Ruland, sau khi Carl được bổ nhiệm vào Hộ gia Vương thất theo lời giới thiệu của Nam tước Stockmar vào năm 1859. Carl Ruland được tín nhiệm để dạy tiếng Đức cho anh trai của Helena là Thân vương xứ Wales trẻ tuổi, và được Nữ vương Victoria mô tả là "hữu ích và có năng lực". Khi Nữ vương phát hiện ra rằng Helena có quan hệ tình cảm với một cận thần của vương thất, Carl đã nhanh chóng bị cho nghỉ việc và phải trở về quê hương Đức và anh ta không bao giờ cải thiện được sự thù địch mà Nữ vương Victoria dành cho mình. Sau khi Ruland trở về Đức vào năm 1863, Nữ vương Victoria tiến hành tìm kiếm một người chồng cho Helena. Tuy nhiên, vì là người con giữa, triển vọng về một liên minh hùng mạnh với một vương thất châu Âu là rất thấp. Ngoại hình của Helena cũng là một mối quan tâm, vì ở độ tuổi mười lăm, người viết tiểu sử của Helena đã mô tả Vương nữ có dáng người mập mạp, xuề xòa và có hai cằm. Hơn nữa, Victoria nhấn mạnh rằng người chồng tương lai của Helena phải sống gần Nữ vương, do đó Victoria sẽ được ở gần con gái. Sau cùng, Helena đã chọn kết hôn với Công tử Christian xứ Schleswig-Holstein; tuy nhiên, việc kết giao này đã gây ra sự khó xử về mặt chính trị và gây ra sự rạn nứt nghiêm trọng trong vương thất. Schleswig và Holstein là hai lãnh thổ bị tranh chấp giữa Phổ và Đan Mạch trong Chiến tranh Schleswig lần thứ nhất và lần thứ hai. Phổ và Áo đánh bại Đan Mạch, nhưng Áo đã tuyên bố các công quốc này thuộc về gia tộc Công tử Christian. Tuy nhiên,do hệ quả từ Chiến tranh Áo-Phổ, trong đó Phổ xâm lược và chiếm đóng các công quốc, do đó hai công quốc Schleswig và Holstein thuộc về Phổ, nhưng tước hiệu Công tước xứ Schleswig-Holstein vẫn được gia tộc Công tử Christian tuyên bố thuộc về họ. Do đó, cuộc hôn nhân đã khiến con gái của Quốc vương Christian IX của Đan Mạch là Alexandra, Vương phi xứ Wales kinh hoàng, người đã thốt lên rằng: "Các Công quốc ấy thuộc về cha." Alexandra nhận được sự ủng hộ từ chồng, em chồng là Vương tử Alfred và người chị gái thứ hai của chồng là Vương nữ Alice, người đã công khai buộc tội nữ vương Victoria đã hy sinh hạnh phúc của Helena vì lợi ích của mình. Alice cũng lập luận rằng điều đó sẽ làm giảm mức độ yêu thích vốn đã thấp của người chị cả là Vương nữ Victoria Adelaide hiện là Vương thái tử phi nước Phổ tại triều đình ở Berlin. Tuy nhiên, bất ngờ thay là Vương nữ Victoria, người là bạn thân của gia đình Christian trong nhiều năm, lại nhiệt tình ủng hộ liên minh hôn nhân này. Bất chấp những tranh cãi về chính trị và sự chênh lệch tuổi tác giữa hai người - Christian lớn hơn Helena mười lăm tuổi - Helena vẫn hạnh phúc với Christian và quyết tâm gả cho Công tử. Là con trai thứ của một công tước không trị vì, việc không có bất kỳ cam kết ngoại quốc nào cho phép Christian ở lại Anh vĩnh viễn - đáp ứng được mối quan tâm hàng đầu của Nữ vương Victoria - và nữ vương tuyên bố cuộc hôn nhân sẽ được tiến hành. Helena và Christian cũng là họ hàng năm đời thông qua Frederick, Thân vương xứ Wales. Mối quan hệ giữa Helena và Alexandra vẫn căng thẳng, và Alexandra không sẵn sàng chấp nhận Christian (người cũng là anh năm đời của Alexandra thông qua Quốc vương Frederik V của Đan Mạch) với tư cách là anh họ hay là em rể. Nữ vương Victoria không bao giờ dung thứ cho Alexandra vì những cáo buộc về tính chiếm hữu, và đã viết về nhà Wales ngay sau đó: "Bertie là người tình cảm và tốt bụng nhất nhưng Alix (tên thân mật của Alexandra) hoàn toàn hành xử không phù hợp. Sẽ rất lâu, nếu có, trước khi con bé lấy lại được lòng tin của ta." Đính hôn và đám cưới. Lễ đính hôn được thông báo vào ngày 5 tháng 12 năm 1865, và bất chấp việc Thân vương xứ Wales ban đầu từ chối tham dự, Vương nữ Alice đã can thiệp và đám cưới đã rở thành một sự kiện vui vẻ. Nữ vương Victoria cho phép buổi lễ diễn ra tại Lâu đài Windsor, mặc dù l2 trong Nhà nguyện riêng chứ không phải tại Nhà nguyện Thánh George vốn rộng lớn hơn vào ngày 5 tháng 7 năm 1866. Nữ vương đội lên mình chiếc mũ tang màu trắng phủ qua lưng để giảm sự u ám từ trang phục tang màu đen của mình. Những người tham gia chính tiến vào nhà nguyện theo âm thanh của Bản nhạc khải hoàn của Beethoven, tuy nhiên buổi lễ bị gián đoạn bởi sự biến mất đột ngột của Vương tôn George, Công tước xứ Cambridge, người bị một cơn gút đột ngột. Christian tiến vào nhà nguyện cùng với Edward xứ Sachsen-Weimar-Eisenach và Frederic xứ Schleswig-Holstein, còn Helena được nữ vương trao cho Christian, người đã hộ tống vương nữ vào lễ đường cùng với Thân vương xứ Wales và tám phù dâu. Christian trông già hơn thường ngày, và một vị khách nhận xét rằng Helena trông như thể đang kết hôn với một ông chú lớn tuổi. Thật tế, khi lần đầu tiên được triệu tập đến Anh, Christian cho rằng vị Nữ vương góa chồng đang xem xét cưới Christian như một người chồng mới hơn là một ứng cử viên cho một trong những cô con gái của nữ vương. Cặp đôi trải qua đêm đầu tiên trong cuộc sống hôn nhân tại Điện Osborne, trước khi hưởng tuần trăng mật ở Paris, Interlaken và Genoa. Đời sống hôn nhân. Vương nữ Helena và chồng là Christian sống hết lòng vì nhau và có một cuộc sống bình lặng so với những người chị em của Helena. Sau khi đã kết hôn, Helena và Christian cư trú tại Cumberland Lodge ở Đại Công viên Windsor, nơi ở truyền thống của Kiểm soát viên Đại Công viên Windsor, chức vị danh dự được Nữ vương ban tặng cho Christian. Khi ở Luân Đôn, họ sống tại Dãy phòng Bỉ trong Cung điện Buckingham. Cặp đôi có với nhau sáu người con: Christian Victor vào năm 1867, Albert vào năm 1869, và Helena Victoria và Marie Louise lần lượt vào năm 1870 và 1872. Hai người con trai cuối cùng của hai vợ chồng qua đời từ khi còn rất nhỏ; trong đó Harald qua đời tám ngày sau khi ra đời vào năm 1876, và một đứa con trai chưa được đặt tên đã qua đời sau khi sinh vào năm 1877. Vương nữ Louise, em gái của Helena, đã ủy quyền cho nhà điêu khắc người Pháp Jules Dalou điêu khắc một đài tưởng niệm những đứa bé sơ sinh đã chết của chị gái. Hai vợ chồng được cấp một khoản tiền từ quốc hội là 6.000 bảng Anh hằng năm, được đích thân nữ vương Victoria yêu cầu. Ngoài ra còn có thêm khoản hồi môn trị giá 30.000 bảng Anh và Nữ vương cũng trao tặng cho cặp đôi 100.000 bảng Anh, kèm theo đó là thu nhập hằng năm khoảng 4.000 bảng Anh. Bên cạnh chức vị Kiểm soát viên của Công viên Windsor, Christian đã được trao vị trí danh dự là Đại Cận thần Cấp cao của Phố chợ Windsor, và được bổ nhiệm làm thành viên của Ủy ban Triển lãm Vương thất năm 1851. Tuy nhiên, Christian thường vắng mặt tại các cuộc họp, thay vào đó là dành thời gian chơi với chú chó Corrie, cho đàn chim bồ câu ăn và bắt tay vào các chuyến đi săn bắn. Helena, như đã hứa, tiếp tục sống gần Nữ vương Victoria và cùng với Beatrice thực hiện nghĩa vụ của mình đối với mẹ. Beatrice, người được Victoria chuẩn bị để đảm nhận vai trò bên cạnh nữ vương, thực hiện những nhiệm vụ quan trọng hơn, còn Helena đảm nhận những công việc đơn giản hơn mà Beatrice không có thời gian để thực hiện. Trong những năm sau đó, Helena được hỗ trỡ bởi cô con gái chưa lập gia đình là Helena Victoria, người thực hiện việc ghi nhận thông tin từ Victoria vào nhật ký của nữ vương. Sức khỏe của Helena không được tốt và vương nữ bị nghiện thuốc phiện và laudanum. Tuy nhiên, Nữ vương Victoria không tin rằng Helena thực sự bị bệnh và buộc tội con gái mắc chứng hoang tưởng thái quá về sức khỏe và bị thúc đẩy từ người chồng nuông chiều của vương nữ. Nữ vương Victoria đã viết thư cho con gái cả Vicky, phàn nàn rằng Helena có xu hướng "bảo vệ bản thân quá mức (và cả Christian nữa) và dễ suy sụp với mọi thứ và mục tiêu lớn nhất của các bác sĩ và y tá là khích lệ con bé và khiến nó bớt nghĩ về bản thân và bớt tự cô lập chính mình". Tuy nhiên không phải mọi nỗi sợ hãi về sức khỏe của Helena chỉ đơn giản là hệ quả của chứng hoang tưởng về sức khỏe; năm 1869, vương nữ phải hủy chuyến đi đến Lâu đài Balmoral khi bị bệnh ở nhà ga. Năm 1870, vương nữ bị bệnh thấp khớp nặng và các khớp xương của bà gặp vấn đề. Vào tháng 7 năm 1871, Helena bị tắc nghẽn phổi, nghiêm trọng đến mức bên Thông tư Triều đình thông báo rằng căn bệnh của vương nữ đem lại "nhiều lo lắng cho các thành viên vương thất". Năm 1873, vương nữ buộc phải dưỡng bệnh ở Pháp và vào những năm 1880, Helena đến Đức để gặp bác sĩ nhãn khoa. Các hoạt động xã hội. Helena rất quan tâm đến công việc điều dưỡng và là chủ tịch sáng lập của Ủy ban Phụ nữ của Hội Chữ thập đỏ Anh vào năm 1870, đóng vai trò tích cực trong việc tuyển dụng y tá và các tổ chức tiếp tế trong Chiến tranh Pháp-Phổ. Sau đó, vương nữ trở thành Chủ tịch của Hiệp hội Y tá Anh (RBNA) được thành lập vào năm 1887. Năm 1891, hiệp hội nhận được từ "Vương thất" vào tên và nhận được hiến chương vương thất vào năm sau. Helena là người ủng hộ mạnh mẽ việc đăng ký y tá, một vấn đề bị cả Florence Nightingale và những nhân vật hàng đầu phản đối. Trong một bài phát biểu của vào năm 1893, vương nữ đã phát biểu rằng RBNA đang hướng tới việc "cải thiện giáo dục và "địa vị" của những người phụ nữ tận tụy và hy sinh, cả đời cống hiến cho việc chăm sóc người bệnh, người đau khổ và người đang hấp hối". Cũng trong bài phát biểu, Helena cảnh báo về sự phản đối và xuyên tạc mà họ đã gặp phải. Mặc dù RBNA ủng hộ việc đăng ký như một phương tiện để nâng cao và đảm bảo tình trạng chuyên nghiệp của các y tá đã qua đào tạo, nhưng việc kết hợp với Hội đồng Cơ mật đã cho hiệp hội duy trì một danh sách các y tá hơn là một sổ đăng ký y tá chính thức. Sau cái chết của Nữ vương Victoria vào năm 1901, tân vương hậu Alexandra nhất quyết thay thế Helena trở thành Chủ tịch của Dịch vụ Điều dưỡng Quân đội. Điều này đã làm gia tăng thêm sự rạn nứt giữa các thành viên nữ trong vương thất, và Edward VII bị mắc kẹt giữa em gái và vợ của mình. Quý bà Roberts, một cận thần, đã viết cho một người bạn: "Các vấn đề đôi khi "rất" khó khăn và không phải lúc nào cũng dễ chịu." Tuy nhiên, xét theo cấp bậc, Helena đồng ý từ chức để thành toàn cho Alexandra, và vương nữ tiếp tục giữ chức vụ chủ tịch của Khu bảo tồn Điều dưỡng Quân đội. Mặc dù được cho là chỉ đơn thuần là một thực hành được tạo ra bởi các quý cô thượng lưu, Helena đã tạo nên một thể chế chuyên quyền và hiệu quả—"nếu có ai dám không đồng ý với Vương thân Điện hạ, vương nữ chỉ cần nói, 'Đó là ý muốn của ta, thế là đủ.'" Hiệp hội RBNA dần đi vào suy thoái sau Đạo luật Đăng ký Y tá năm 1919; sau sáu lần thất bại từ năm 1904 đến năm 1918, Quốc hội Liên hiệp Anh đã thông qua dự luật cho phép đăng ký y tá chính thức. Kết quả là Trường Đại học Điều dưỡng Vương thất (RCN) và RBNA mất tư cách thành viên và quyền thống trị. Helena ủng hộ đề xuất hợp nhất RBNA với RCN, nhưng không thành công khi RBNA rút lui khỏi các cuộc đàm phán. Tuy nhiên, vương nữ vẫn hoạt động tích cực trong các tổ chức điều dưỡng khác, và là chủ tịch của các chi nhánh Đường sắt Đảo Wight, Windsor và Great Western của Huân chương Thánh John. Ở vị trí này, Helena đã đích thân ký và xuất trình hàng ngàn chứng chỉ thành thạo về điều dưỡng. Công việc may vá. Helena cũng tích cực trong việc quảng bá nghề may vá, và trở thành chủ tịch đầu tiên của "Trường Nghệ thuật May vá" thành lập vào năm 1872; vào năm 1876, trương được nhận thêm có tiền tố "vương thất" vào tên gọi, do đó trở thành Trường May vá Vương thất. Theo như Helena, mục tiêu của trường học là: "thứ nhất, hồi sinh một môn nghệ thuật đẹp đẽ đã gần như bị mai một; và thứ hai, thông qua sự hồi sinh của nó, cung cấp việc làm cho những quý cô không có phương tiện kiếm sống phù hợp." Cũng như các tổ chức khác của mình, Helena là một chủ tịch tích cực và cố gắng để giữ cho trường được ngang hàng với các trường học khác. Vương nữ đã viết thư cho Ủy viên Vương thất yêu cầu tiền; chẳng hạn, vào năm 1895, Helena đã viết thư yêu cầu và nhận được 30.000 bảng Anh để xây dựng một tòa nhà cho trường học ở Nam Kensington. Thân phận vương thất của Helena cũng hỗ trợ cho việc quảng bá, và vương nữ đã tổ chức các bữa tiệc trà chiều thứ Năm tại trường học dành cho các quý cô thượng lưu, những người muốn được xuất hiện trước các thành viên vương thất như Vương nữ Helena. Khi Hội chợ Giáng sinh được tổ chức, Helena đóng vai trò là người bán hàng chính, khiến nhiều người xếp thành các hàng dài với mong muốn được phục vụ tận tay bởi vương nữ. Helena rất nhiệt thành trong việc giúp đỡ trẻ em và những người thất nghiệp, và bắt đầu tổ chức các bữa tối miễn phí vì lợi ích của nhóm người này tại Tòa thị chính Windsor. Vương nữ đã chủ trì hai trong số những bữa tối này vào tháng 2 và tháng 3 năm 1886, và hơn 3.000 bữa ăn đã được phục vụ cho trẻ em và những người đàn ông thất nghiệp trong mùa đông khắc nghiệt năm đó. Thông qua các hoạt động từ thiện, vương nữ được mọi người yêu mến; một cây viết đương thời là C. W. Cooper đã viết rằng "những người nghèo khổ ở Windsor tôn thờ đức ngài". Sự nghiệp viết lách. Một những sở thích khác của Helena chính là viết lách, đặc biệt là dịch thuật . Năm 1867, khi cuốn tiểu sử đầu tiên về cha của ngài là Vương phu Albert được chắp bút, tác giả của cuốn sách là Quý ông Charles Grey đã ghi nhận rằng những bức thư của Vương phu được Helena dịch từ tiếng Đức sang tiếng Anh "với độ chính xác đáng ngạc nhiên". Năm 1887, helena xuất bản bản dịch "Hồi ký của Wilhelmine của Phổ, Phong địa Bá tước phu nhân xứ Bayreuth". Tờ "Saturday Review" đã ghi nhận rằng Helena đã dịch nên một phiên bản tiếng Anh hoàn toàn sống động, với khả năng dịch thuật từ rất sát nghĩa và có tinh thần chính xác cao. Bản dịch cuối cùng của vương nữ được thực hiện vào năm 1882, dựa trên một cuốn sách nhỏ bằng tiếng Đức có tựa đề "Sơ cứu cho người bị thương" ("First Aid to the Injured"), ban đầu được xuất bản bởi anh rể của Christian. Bả dịch được tái bản nhiều lần cho đến năm 1906. Một vấn đề về bản quyền đã nảy sinh sau khi xuất bản bộ sưu tập những bức thư được viết bởi chị gái của Helena, Vương nữ Alice. Ở Đức, một ấn bản những bức thư của Alice đã được xuất bản vào năm 1883, bởi một giáo sĩ người Darmstadt có tên là Carl Sell. Carl Sell đã chọn một số bức thư của Alice đã được Nữ vương gửi cho mình để xuất bản. Khi bộ sưu tập được xuất bản, Helena đã viết thư cho Sell với mong muốn được phép xuất bản bản dịch tiếng Anh. Việc dịch thuật đã được chấp thuận, nhưng nhà xuất bản là Tiến sĩ Bergsträsser thì không hề hay biết về chuyện này. Vào tháng 12 năm 1883, Helena đã viết thư cho Ngài Theodore Martin, một nhà viết tiểu sử được vương thất ưu ái, thông báo với Theodore rằng Bergsträsser đang khiếu nại về bản quyền các bức thư của Alice, và trên cơ sở đó yêu cầu trì hoãn xuất bản ấn bản tiếng Anh. Martin đảm nhiệm vai trò trung gian giữa Helena và Bergsträsser, người tuyên bố rằng đã nhận được nhiều lời đề nghị từ các nhà xuất bản Anh, và người được chọn sẽ nhận được một khoản thù lao cao. Bergsträsser đã được thuyết phục từ bỏ yêu cầu trì hoãn việc xuất bản và sửa đổi các khiếu nại về bản quyền để đổi lấy một khoản tiền. Tuy nhiên, Nữ vương Victoria và Vương nữ Helena đã từ chối và cho rằng bản quyền vốn thuộc về Nữ vương và chỉ có lời tựa mở đầu của Sell mới có thể được thương lượng. Các quý bà của vương thất coi những tuyên bố của Bergsträsser là "không thể chấp nhận được nếu không muốn nói là láo xược", và sẽ không giao tiếp trực tiếp với Bergsträsser. Cuối cùng, Bergsträsser đến Anh vào tháng 1 năm 1884, sẵn sàng chấp nhận 100 bảng Anh cho 3.000 ấn bản đầu tiên và thêm 40 bảng cho mỗi 1.000 ấn bản tiếp theo được tiêu thụ. Martin đã chọn nhà xuất bản John Murray, người sau khi đàm phán thêm với Bergsträsser, đã in những ấn bản đầu tiên vào giữa năm 1884. Bản dịch đã bán hết gần như ngay lập tức; và đối với lần xuất bản thứ hai, Murray đã thay thế bản phác thảo tiểu sử của Carl Sell về Vương nữ Alice bằng phần hồi ký dài 53 trang do Vương nữ Helena viết. Do đó, vấn đề về bản quyền đã được giải quyết, và việc Helena đặt tên của mình cho cuốn hồi ký về chị gái đã thu hút sự quan tâm nhiều hơn cho cuốn sách. Cuộc sống sau triều đại của Nữ vương Victoria của Liên hiệp Anh. Người con trai cưng của Helena, Vương tôn Christian Victor qua đời năm 1900, ba tháng sau đó thì mẹ của Helena là Nữ vương Victoria cũng qua đời tại Điện Osborne vào ngày 22 tháng 1 năm 1901. Tân vương Edward VII không có quan hệ thân thiết với những người chị em gái còn sống của mình, ngoại trừ Vương nữ Louise. Người cháu trai gọi bác của Helena là Vương tôn Alexander của Battenberg (sau này là Hầu tước xứ Carisbrooke) đã ghi nhận rằng Vương hậu Alexandra ghen tị với các hành viên vương thất và sẽ không mời các chị em chồng của mình đến Sandringham. Hơn nữa, Alexandra chưa bao giờ hòa giải hoàn toàn với Helena và Christian sau những tranh cãi về hôn nhân của hai vợ chồng vào những năm 1860. Helena tương đối ít gặp những người anh chị em còn sống của mình nhưng vẫn tiếp tục vai trò hỗ trợ cho chế độ quân chủ và là người vận động cho nhiều tổ chức từ thiện mà vương nữ đại diện. Helena và Christian có một cuộc sống bình lặng, nhưng hai người đều thực hiện một số nhiệm vụ vương thất. Trong một lần, cặp đôi đã đại diện cho Quốc vương tại lễ kỷ niệm đám cưới bạc vào năm 1906 của Hoàng đế Wilhelm II của Đức (cháu trai gọi dì của Helena) và vợ ông là Auguste Viktoria (cháu gái gọi chú của Christian). Trong thời đại Edward, Helena đã đến thăm mộ của con trai, Vương tôn Christian Victor, người đã qua đời vào năm 1900 sau một cơn sốt rét khi phục vụ trong Chiến tranh Boer lần thứ hai.Vương nữ đã được gặp Thủ tướng Nam Phi là Louis Botha, nhưng Jan Smuts từ chối gặp Helena, một phần vì không quên được Nam Phi đã thua trong cuộc chiến và một phần vì con trai ông đã chết trong trại tập trung của Anh. Năm 1902, Công tử Christian và Vương nữ Helena chuyển đến Điện Schomberg, số 77–78 Đường Pall Mall, Luân Đôn, một nửa con đường hiện là một phần của Câu lạc bộ Oxford và Cambridge. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, Helena là một trong số ít họ hàng bên ngoại mà cháu trai Wilhelm II thân thiết. Khi đứa con đầu lòng ra đời, Wilhelm II đã đi ngược lại truyền thống của Phổ khi yêu cầu Helena, chứ không phải mẹ mình, chỉ định một nhũ mẫu cho con trai, gây ra một vụ bê bối trong gia đình. Những năm cuối đời. Sau khi Quốc vương Edward VII qua đời năm 1910, Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra vào năm 1914. Helena tiếp tục cống hiến cho việc điều dưỡng, và con gái của vương nữ, Vương tôn nữ Marie Louise, đã ghi lại trong hồi ký của mình rằng những yêu cầu về tin tức của những người thân tín đã đến tai Helena và các chị em gái của vương nữ. Các bức thư sau đó được quyết định rằng nên được chuyển tiếp tới Vương tôn nữ Margaret, Thái tử phi Thụy Điển, cháu gái gọi bác của Vương nữ Helena, vì Thụy Điển trung lập trong chiến tranh. Cũng trong khoảng thời gian này, Helena và Christian tổ chức lễ kỷ niệm đám cưới vàng của hai vợ chồng vào năm 1916, và bất chấp thực tế là Anh và Đức đang có chiến tranh, Kaiser Wilhelm II đã gửi một bức điện tín chúc mừng tới dì và dượng của mình thông qua Thái tử phi Thụy Điển. Quốc vương George V và Vương hậu Mary đã có mặt khi nhận được bức điện tín, và George V đã nhận xét với con gái của Helena là Marie Louise rằng chồng cũ của vương tôn nữ, Công tử Aribert xứ Anhalt, đã làm phước cho Marie Louise khi rời bỏ Vương tôn nữ. Khi Marie Louise nói rằng vương tôn nữ sẽ bỏ trốn đến Anh nếu vẫn còn kết hôn, George V đã đáp trả lại, "với một cái nháy mắt", rằng quốc vương sẽ phải giam Marie Louise lại. Năm 1917, trước làn sóng bài Đức bao trùm cuộc chiến, Quốc vương George V đã đổi tên vương tộc từ Saxe-Coburg và Gotha thành Windsor. George V cũng tước bỏ các danh hiệu và kính xưng Đức của gia đình, vì vậy Helena và các con gái chỉ được gọi đơn giản là "Công tử phu nhân Christian, Vương tôn nữ Helena Victoria và Vương tôn nữ Marie Louise" mà không có hậu tố chỉ định lãnh thổ. Người con trai còn sống của Helena là Albert chiến đấu theo phe Phổ nhưng tuyên bố rằng bản thân sẽ không chiến đấu chống lại đất nước của mẹ mình. Cùng năm đó, vào ngày 28 tháng 10, Công tử Christian qua đời tại Điện Schomberg. Trong những năm cuối đời của Helena phải nhiều lần tranh cãi với các Ủy viên vì họ muốn đuổi vương nữ ra khỏi Điện Schomberg và Cumberland Lodge vì chi phí duy trì các hộ gia của Helena. Tuy nhiên, phía Ủy viên đã thất bại vì có các bằng chứng rõ ràng rằng Helena có quyền được sống tại những nơi này suốt đời. Vương nữ Helena qua đời tại Điện Schomberg vào ngày 9 tháng 6 năm 1923 ở tuổi 77. Đám tang của vương nữ được nhà viết tiểu sử Seweryn Chomet mô tả là một "khung cảnh hoàng tráng", do Quốc vương George V dẫn đầu. Trung đoàn của người con trai Christian Victor xếp hàng dọc theo các bậc thang của Nhà nguyện St. George tại Lâu đài Windsor. Helena ban đầu được chôn cất trong Hầm mộ Vương thất tại Nhà nguyện Thánh George vào ngày 15 tháng 6 năm 1923, sau đó thi thể của vương nữ đã được cải táng tại Khu Chôn cất Vương thất tại Frogmore, cách Windsor vài dặm, sau khi được thánh hiến vào ngày 23 tháng 10 năm 1928. Helena tận tâm với công việc điều dưỡng và dẫn đầu các tổ chức từ thiện mà vương nữ đại diện. Vương nữ cũng là một nhà vận động tích cực, và đã viết thư cho các tờ báo và tạp chí để thúc đẩy lợi ích của việc đăng ký y tá. Thân phận vương thất của Helena đã giúp thúc đẩy sự quan tâm của công chúng và xã hội bao quanh các tổ chức như Hiệp hội Y tá Vương thất Anh. Hiệp hội vẫn tồn tại cho đến ngày nay với Aubrey Rose là chủ tịch. Emily Williamson, người thành lập Hiệp hội Việc làm cho Phụ nữ ở Manchester; một trong những dự án của nhóm này là Trường Cao đẳng Đào tạo Y tá của Helena ở Fallowfield, Manchester. Về ngoại hình, John Van der Kiste miêu tả Helena có dáng người bụ bẫm và xuề xòa; và về tính cách, thì là người điềm tĩnh và thích kinh doanh, với tinh thần độc đoán. Vào một dịp nọ, trong một cuộc Đình công Bến tàu Quốc gia, Tổng Giám mục Canterbury đã soạn một bài cầu nguyện với hy vọng sự việc này sẽ nhanh chóng kết thúc. Helena đã đến nhà thờ, xem xét giấy tờ và bằng giọng nói được mô tả là "tiếng thì thầm xuyên thấu của vương thất, vang xa hơn bất kỳ chiếc loa phóng thanh nào" của con gái, nhận xét rằng: "Lời cầu nguyện đó sẽ không giải quyết được bất kỳ cuộc đình công nào." Ngoại hình và tính cách của Helena đã bị Nữ vương Victoria chỉ trích trong các bức thư và nhật ký của mình, và các nhà viết tiểu sử cũng cùng quan điểm với nữ vương. Tuy nhiên, con gái của Helena, Vương tôn nữ Marie Louise, mô tả mẹ của mình như sau Âm nhạc là một trong những niềm đam mê của Helena; khi còn trẻ, vương nữ đã chơi piano với Charles Hallé, Jenny Lind và Clara Butt, những người bạn thân của đức nữ, và Helena là một trong những thành viên đầu tiên của Dàn hợp xướng Bach ở Luân Đôn, được thành lập bởi chồng của Lind (và là giáo viên dạy piano cũ của Helena) là Otto Goldschmidt. Quyết tâm thực hiện nhiều nghĩa vụ vương thất của Helena đã khiến đức ngài nhận được sự yêu mến của công chúng. Vương nữ đã hai lần đại diện cho mẹ tại Phòng Vẽ ("Drawing Rooms"), việc tham dự sự kiện được coi như là được diện kiến chính nữ vương. Helena thân thiết nhất với anh trai Alfred, người coi Helena là em gái cưng của mình. Mặc dù được những người đương thời mô tả là hết lòng vì Nữ vương Victoria, đến mức không có lập trường của riêng mình, nhưng Helena đã tích cực vận động cho quyền của phụ nữ, một lĩnh vực mà nữ vương ghê tởm. Tuy nhiên, cả cô và Beatrice vẫn là những người gần gũi với mẹ nhất, và Helena vẫn ở bên nữ vương cho đến khi Victoria qua đời. Helena là người cuối cùng được đề cập đến trong nhật ký bảy mươi tuổi của nữ vương Victoria. Tước hiệu, kính xưng, huân chương và vương huy. Năm 1858, Helena và ba người chị em gái được trao quyền sử dụng vương huy, ở giữa làvới một dấu khắc trên một biểu tượng chiếc khiên của Công quốc Sachsen, và được phân biệt bằng một dải bạc gồm 3 vạch kẻ. Trong đó, hai vạch kẻ ở hai bên có biểu tượng hoa hồng đỏ và vạch kẻ ở giữa có biểu tượng chữ thập đỏ. Năm 1917, biểu tượng chiếc khiên đã bị xóa bỏ sắc lệnh vương thất từ George V của Liên hiệp Anh. Christian và Helena có với nhau sáu người con, bốn người trong đó đã sống đến tuổi trưởng thành. Hai vợ chồng có một người cháu là Valerie Marie zu Schleswig-Holstein, mất năm 1953 với tư cách là hậu duệ cuối cùng của Christian và Helena. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Adel al-Zubeidi là một luật sư bào chữa trong các phiên toà xét xử Hussein thuộc nhóm pháp lý đại diện cho Taha Yassin Ramadan. Ông bị giết vào ngày 8 tháng 11 năm 2005, bởi ba tay súng lái một chiếc Opel hoặc một "chiếc xe của chính phủ" bên ngoài Adil, một khu lân cận có đông người theo Hồi giáo Sunni của Baghdad. Ông đi cùng với Thamer Hamoud al-Khuzaie, một luật sư khác cũng liên quan đến các phiên tòa, người đã bị thương trong vụ tấn công. Ông đã dự đoán được mình sẽ bị giết vào ngày hôm trước. Ông là luật sư thứ hai của Saddam bị sát hại bởi các thế lực không rõ danh tính, cái chết của ông xảy ra chưa đầy ba tuần trước cái chết của Saadoun Sughaiyer al-Janabi.
Danh sách tiền chấn và dư chấn Động đất và sóng thần Tōhoku 2011 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Theo Cục Khí tượng Nhật Bản, Nhật Bản đã trải qua hơn 900 cơn dư chấn sau trận động đất và sóng thần Tōhoku với khoảng 63 dư chấn mạnh có cường độ trên 6.0 richter. Dưới đây là Danh sách các tiền chấn và dư chấn Động đất và sóng thần Tōhoku 2011.
Đường sắt cao tốc Suseo–Pyeongtaek Đường sắt cao tốc Suseo–Pyeongtaek (Tiếng Hàn: 수서평택고속선, Hanja: 水西平澤高速線)là tuyến đường sắt cao tốc bắt đầu tại Ga Suseo ở Gangnam-gu, Seoul đi qua Ga Dongtan và Ga PyeongtaekJije, và kết nối với Đường sắt cao tốc Gyeongbu tại Tuyến kết nối Pyeongtaek. Hướng di chuyển là giao thông bên trái ở mọi nơi. Tên ga và khoảng cách kinh doanh đã được công bố trong Thông báo số 2016-219 của Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng và Giao thông vận tải và được sửa đổi trong Thông báo số 2016-732 của Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng và Giao thông vận tải. Đường sắt cao tốc Suseo–Pyeongtaek có tổng cộng 1 nhánh đường sắt. Tuyến cao tốc kết nối Pyeongtaek. Tuyến cao tốc kết nối Pyeongtaek kết nối Đường sắt cao tốc Suseo–Pyeongtaek và Tuyến Gyeongbu. Số tuyến trên Bảng khoảng cách kinh doanh đường sắt Hàn Quốc của Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng và Giao thông vận tải là 10301. Nó đang được xây dựng như một phần của dự án KTX từ Suwon. Trong tương lai, Đường sắt cao tốc Suseo–Pyeongtaek được lên kế hoạch sử dụng cho tuyến đường sắt cao tốc khu vực đô thị tuyến A.
Chiến tranh Pool là cuộc xung đột giữa Cộng hòa Congo và Ninja ở khu vực hành chính Pool, 1 khu vực hành chính của Congo. Căng thắng gia tăng giữa Frédéric Bintsamou (được biết đến là Pastor Ntumi) và tổng thống Congo là Denis Sassou-Nguesso, sau khi Bintsamou đặt vấn đề về việc sự thay đổi trong việc xây dựng. Bintsamou trước đó đã hợp tác với Sassou-Nguesso. Giữa tháng 4 năm 2017 đến tháng 4 năm 2017, tổng cộng đã có 115 người chết trong cuộc xung đột. 1 ước tính cho rằng có 13,000 người đã mất chỗ ở do xung đột.
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 – Khu vực châu Á Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 khu vực châu Á được tổ chức nhằm chọn ra những đội tuyển quốc gia ưu tú là thành viên của Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 diễn ra tại Đức. 44 đội tuyển là thành viên của AFC và FIFA đều đủ điều kiện tham dự Vòng loại. Campuchia, Philippines, Bhutan và Brunei không tham gia vòng loại; Myanmar bị cấm tham dự vòng loại. Do đó, có tổng cộng 39 đội tham gia để tranh 4,5 suất dự World Cup 2006. Vòng loại được tổ chức với 4 vòng như sau: - Vòng 1: 14 đội xếp cuối cùng theo Bảng xếp hạng FIFA được bốc thăm chia cặp với nhau, mỗi cặp thi đấu 2 trận theo thể thức sân nhà – sân khách. 7 đội chiến thắng và 25 đội còn lại (tổng cộng 32 đội) giành quyền vào vòng 2. - Vòng 2: 32 đội được chia thành 8 bảng với mỗi bảng 4 đội. Các đội trong mỗi bảng sẽ thi đấu với nhau 2 trận sân nhà – sân khách. 8 đội đứng đầu mỗi bảng giành quyền vào vòng 3. - Vòng 3: 8 đội được chia thành hai bảng với mỗi bảng 4 đội thi đấu theo thể thức sân nhà – sân khách. Hai đội đứng đầu mỗi bảng (tổng cộng 4 đội) giành quyền tham dự FIFA World Cup 2006. Hai đội đứng thứ ba ở mỗi bảng sẽ giành quyền vào vòng 4 (play-off AFC). - Vòng 4: Hai đội đá với nhau hai lượt trận trên sân nhà và sân khách để chọn ra một đội đá play-off với khu vực CONCACAF ở loạt trận play-off liên lục địa. Đội chiến thắng ở loạt trận play-off liên lục địa sẽ giành vé dự FIFA World Cup 2006. Trận đấu giữa Guam và Nepal đã được lên lịch thi đấu, sau đó Nepal đã rút lui nên Guam được vào vòng 2 nhưng sau đó Guam cũng rút lui. Do đó, FIFA quyết định bầu ra một "đội thua cuộc may mắn" để chọn ra đội xuất sắc nhất trong số các đội thua cuộc đi tiếp vào vòng 2. Những đội thua cuộc được xếp hạng dựa trên: a) điểm số; b) hiệu số bàn thắng bại; c) số bàn thắng ghi được. Lào là đội bước tiếp vào vòng 2. Ở vòng này, 25 đội được vào thẳng cùng với 7 đội thắng vòng 1 được bốc thăm vào 8 bảng với mỗi bảng 4 đội. Các đội chơi các trận sân nhà và sân khách với các đội còn lại trong bảng của họ. 8 đội đứng đầu ở 8 bảng đấu giành quyền vào vòng 3. Ở vòng này, 8 đội được chia thành hai bảng với mỗi bảng 4 đội. Mỗi đội thi đấu với các đội còn lại trong bảng của mình hai lượt trận sân nhà – sân khách để chọn ra 4 đội đứng đầu ở hai bảng (2 đội/bảng) giành quyền dự FIFA World Cup 2006. Trong khi đó, hai đội xếp thứ ba (ở hai bảng) tham gia trận play-off (AFC) để xác định một đội sẽ tranh suất play-off AFC – CONCACAF. Vòng 4 (play-off AFC). Hai đội đứng thứ ba ở vòng loại 3 sẽ thi đấu với nhau để xác định một suất tham dự vòng play-off liên lục địa. Trận lượt đi ban đầu được diễn ra vào ngày 3 tháng 9 năm 2005 nhưng trận đấu đã được FIFA yêu cầu đá lại sau một sai lầm của trọng tài. Khi Uzbekistan dẫn trước 1–0, họ được hưởng một quả phạt đền nhưng trọng tài không công nhận bàn thắng và cho Bahrain một quả phạt gián tiếp vì phạm lỗi. Bahrain giành quyền tham dự vòng play-off liên lục địa nhờ luật bàn thắng sân khách. Vòng play-off liên lục địa. Đội chiến thắng vòng play-off AFC (Bahrain) sẽ tham dự vòng này và gặp đại diện đến từ CONCACAF (Trinidad và Tobago). Hai đội sẽ đấu hai trận (sân nhà – sân khách). Đội chiến thắng chung cuộc sẽ giành quyền tham dự FIFA World Cup 2006. 1 In đậm là năm đội đó vô địch. In nghiêng là năm quốc gia đó làm chủ nhà. Có tổng cộng 401 bàn thắng/136 trận đấu (kể cả 1 bàn thắng ở hai lượt trận play-off liên lục địa), trung bình có 2,95 bàn thắng/trận đấu. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Phan Văn Tài Em Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Mohamed Salem Al Hamad Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Mohamad Yehya Al Rashed Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Mohamed Salmeen (trong trận gặp Nhật Bản) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Yahya Golmohammadi (trong trận gặp Qatar) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ebrahim Mirzapour (trong trận gặp Nhật Bản) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Nitsavong Khoupchansy (trong trận gặp Iran) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Battulga Khishigdalai (trong trận gặp Maldives)
Huỳnh Trần Ý Nhi Huỳnh Trần Ý Nhi (sinh ngày 18 tháng 6 năm 2002) là một hoa hậu người Việt Nam. Cô là người đăng quang Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023 và sẽ đại diện Việt Nam tại Hoa hậu Thế giới 2024. Trước đó cô từng đạt danh hiệu Á khôi 2 Duyên dáng Sinh viên Bình Định 2023. Tiểu sử và học vấn. Huỳnh Trần Ý Nhi sinh năm 2002 tại thị trấn Tăng Bạt Hổ, huyện Hoài Ân, Bình Định. Cô từng theo học tại Trường Trung học cơ sở Tăng Bạt Hổ và Trường Trung học phổ thông Hoài Ân và cô từng là sinh viên ngành Quản trị Kinh doanh tại Trường Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện tại, cô đang du học tại Đại học Sydney. Cô từng đăng quang ngôi vị Á khôi 2 tại cuộc thi Duyên dáng Sinh viên Bình Định 2023 cùng giải phụ Người đẹp Truyền thông. Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023. Năm 2023, Ý Nhi đã ghi danh vào cuộc thi Hoa hậu Thế giới Việt Nam. Trước đêm chung kết, cô đã đạt được các giải phụ Người đẹp Thời trang, Top 16 Người đẹp Nhân ái, Top 5 Người đẹp Biển và Top 10 Người đẹp Bản lĩnh. Tại đêm chung kết của cuộc thi diễn ra vào ngày 22 tháng 7 tại Bình Định, Ý Nhi chính thức đăng quang ngôi vị cao nhất của cuộc thi và được trao vương miện bởi hoa hậu tiền nhiệm Huỳnh Nguyễn Mai Phuơng, Á hậu 1 là Đào Thị Hiền và Á hậu 2 là Huỳnh Minh Kiên. Hoa hậu Thế giới 2025. Với tư cách là người chiến thắng tại cuộc thi Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023, ban đầu cô đã chính thức trở thành đại diện Việt Nam tham dự Hoa hậu Thế giới 2024. Ngay sau khi đăng quang Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023, Ý Nhi đã công khai mối tình kéo dài 6 năm của mình là bạn trai Nguyễn Anh Kiệt, sinh năm 2002, hiện đang là sinh viên Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh. Cả hai quen nhau từ lúc còn học trung học ở Bình Định. Khi được hỏi về việc liệu bạn trai có cần thay đổi gì sau khi cô đăng quang, Ý Nhi trả lời: "Tôi hiện tại đã ở một cương vị mới [...] Chắc chắn bạn trai của tôi cũng phải có những sự thay đổi nhanh chóng, tiến bộ nhiều hơn để có thể theo kịp tôi". Phát ngôn này đã trở thành một chủ đề tranh cãi lớn trên truyền thông Việt Nam cũng như mạng xã hội nước này. Anh Kiệt sau đó cũng lên mạng xã hội giải thích rằng bản thân không bị ảnh hưởng bởi những câu trả lời của bạn gái, đồng thời khuyên cộng đồng mạng "có cái nhìn khách quan" hơn đối với cô. Trong một cuộc phỏng vấn không lâu sau khi đăng quang, Ý Nhi tiếp tục gây tranh cãi với phát ngôn về bạn bè đồng trang lứa. Theo Ý Nhi, trong khi giới trẻ Việt Nam cùng độ tuổi với cô dành thời gian cho việc ngủ, chơi, uống trà sữa, thì cô đã tham gia cuộc thi Hoa hậu; vì vậy bây giờ cô đã trưởng thành hơn, trở thành Hoa hậu và có công việc trong khi các bạn trẻ khác vẫn chỉ là sinh viên hoặc vừa học vừa làm. Phát ngôn này tiếp tục trở thành chủ đề gây tranh cãi trên các trang mạng xã hội. Ngày 1 tháng 8 năm 2023, cô cùng hai Á hậu của cuộc thi Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023 ghé thăm bệnh nhân tại một bệnh viện cao cấp. Hình ảnh tân hoa hậu và á hậu với trang phục cầu kỳ đi kèm với vương miện tiếp tục trở thành đề tài tranh cãi trên các trang mạng xã hội trước khi ban tổ chức xác nhận đây không hoạt động từ thiện mà là hoạt động của các thi sinh nằm trong top 3 cuộc thi theo lịch trình với nhà tài trợ. Sau 10 ngày đăng quang Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023, số lượng các nhóm tẩy chay (antifan) tăng lên nhanh chóng, thậm chí có nhóm hơn 600.000 thành viên. Một số nhận xét. Sau phát ngôn của Ý Nhi về câu trả lời liên quan đến Hàn Mặc Tử, Quang Trung, tiến sĩ khoa học Đoàn Hương nhận xét rằng cô bị thiếu thốn về kiến thức chứ không thể đơn thuần là vạ miệng. Còn Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều cho rằng Hoa hậu Ý Nhi không có ý ngạo mạn gì trong câu trả lời này, chỉ là do chưa được dạy dỗ kỹ lưỡng; "Rất nhiều người ở tuổi cô đã có những ứng xử rất văn hoá và hiểu biết. Sự thiếu hụt văn hoá làm cô trở nên kệch cỡ, hầu hết những đứa trẻ 4 tuổi cũng đã biết phải chào ai trước khi đi nhà trẻ về". Trưởng ban tổ chức cuộc thi Hoa hậu Thế giới Việt Nam, bà Phạm Thị Kim Dung đã có văn bản gửi đến các cơ quan chức năng "đề xuất chia sẻ, hỗ trợ Hoa hậu Huỳnh Trần Ý Nhi trước việc bị bạo lực mạng xã hội khi phát ngôn vụng về".
Phú Quý (nghệ sĩ) NSƯT Phú Quý (sinh 1946) là nghệ sĩ hài kịch và cải lương gạo cội ở Việt Nam. NSƯT Phú Quý tên thật là Huỳnh Phú Quý, sinh năm 1946 tại quận Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn (nay là huyện Đức Hòa, tỉnh Long An). Ông là con út trong một gia đình nghèo có 10 người con, ba ông làm nghề chài lưới, mẹ ông bán cháo ở các gánh hát. Thuở nhỏ, ông phụ mẹ bán cháo ở trước gánh hát nên khi các nghệ sĩ biểu diễn thì ông nghe và học lỏm theo. Sau này, ông thường được dẫn đi hát ở chùa, đình, miếu,… do còn nhỏ nên ông thường hát vai đào và được mọi người gọi là "thần đồng Phú Quý" vì có thể hát giọng nữ . Năm ông 16 tuổi, có đoàn cải lương Thanh Tao về biểu diễn ở quê ông, vì quá mê hát nên ông đã xin ba mẹ cho theo đoàn hát và được đồng thuận. Sau 1 năm theo đoàn Thanh Tao, vì nhớ nhà nên NSƯT Phú Quý đã trốn về quê và học nghề thợ bạc rồi vào Sài Gòn lập nghiệp. Năm 1976, NSƯT Phú Quý làm công nhân ở Bến xe Miền Tây và tham gia vào đoàn văn công do Giám đốc Bến xe tổ chức, trong đoàn lúc đó còn có Khắc Triệu (chồng của danh ca Cẩm Vân). Với giọng ca thiên phú, ông đã được nhận Huy chương Vàng ở Liên hoan Văn nghệ Thành phố. Năm 1978, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đó đang là Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh quyết định đến Bến xe Miền Tây để ăn Tết, NSƯT Phú Quý đã tự sáng tác và hát bài ca cổ "Vợ chồng anh lái xe" cho Võ Văn Kiệt nghe, sau khi nghe xong NSƯT Phú Quý được ông Võ Văn Kiệt khen và khích lệ: "Đây là hạt nhân phong trào, phải ráng có chế độ nuôi dưỡng đàng hoàng." Trong những năm sau đó, ông miệt mài tham gia các cuộc thi văn nghệ quần chúng và đạt được nhiều huy chương nhưng vẫn chỉ là nghệ sĩ nghiệp dư khi ông vừa làm ở Bến xe vừa đi hát kiếm thêm tiền. Năm 1980, NSƯT Phú Quý xuất hiện trên truyền hình, ông được NSND Kim Cương chú ý đến và mời về Đoàn kịch nói Kim Cương diễn vở "Dưới hai màu áo", vở diễn thành công rực rỡ và NSƯT Phú Quý chính thức bước vào con đường nghệ thuật chuyên nghiệp vào năm 1981. Sau đoàn Kim Cương, NSƯT Phú Quý đầu quân về Đoàn Cải lương Sài Gòn 2 và để lại dấu ấn trong lòng khán giả qua các vở diễn "Tìm lại cuộc đời", "Khách sạn hào hoa", "Ánh lửa rừng khuya",…. Rời Đoàn Cải lương Sài Gòn 2, NSƯT Phú Quý về diễn tại Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang và trở nên nổi tiếng sau vai diễn "Tên Trộm" trong vở "Nàng Xê Đa" do cố NSƯT Đoàn Bá (khi đó là Giám đốc Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang) làm đạo diễn, vở cải lương gây tiếng vang lớn và trở thành vở diễn kinh điển trong nghệ thuật Cải lương, ngoài ra NSƯT Phú Quý còn góp mặt trong các vở "Hòn đảo Thần Vệ nữ", "Tình yêu và lời đáp",…. Trong thời kì hoàng kim của sân khấu Cải lương, tên tuổi NSƯT Phú Quý vang danh lẫy lừng cùng các nghệ sĩ khác như NSND Minh Vương, NSND Lệ Thủy, cố NSND Diệp Lang, cố NSƯT Thanh Sang, cố NSƯT Út Bạch Lan, cố NS Thanh Tú, NS Phượng Liên,…. Sau khi Cải lương dần đi xuống, NSƯT Phú Quý chuyển sang sân khấu hài kịch, tên tuổi ông gắn liền với chương trình hài kịch "Trong nhà ngoài phố" của Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh cùng với các nghệ sĩ như NSƯT Bảo Quốc, NSND Hồng Vân, cố NS Lê Vũ Cầu, cố NS Hoàng Lan, NS Duy Phương,…. Nhờ có "Trong nhà ngoài phố" nên NSƯT Phú Quý rất đắt show hài, ông được xem như là Bảo chứng phòng vé của các sân khấu hài kịch thời bấy giờ, ông cùng với cố NS Văn Chung, NSƯT Bảo Quốc và NS Duy Phương được mệnh danh là tứ đại danh hài một thời.Các bạn diễn ăn ý với NSƯT Phú Quý trên sàn diễn hài kịch là cố NSƯT Kim Ngọc, NSƯT Bảo Quốc, NS Kiều Mai Lý, NS Duy Phương. Hiện tại, dù hài kịch và cải lương đã qua đi thời hoàng kim nhưng NSƯT Phú Quý vẫn miệt mài tham gia nghệ thuật, ông thường đi hát ở các hội chợ, đám cưới hoặc tham gia các gameshow truyền hình.Ngoài ra, NSƯT Phú Quý còn làm MC cho chương trình truyền hình "Nhịp cầu vàng" và thường tổ chức các buổi từ thiện. Năm 2019, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú. NSƯT Phú Quý có đường tình duyên khá lận đận, ông từng trải qua nhiều mối tình và có 3 đời vợ. Sau 2 cuộc hôn nhân đầu tiên không thành, ông có 5 người con, 3 trai 2 gái và tất cả đều đã trưởng thành. Hiện tại, ông sống một cuộc sống viên mãn bên bà xã kém ông 22 tuổi Hoàng Diệu - người vừa là fan vừa là trợ lý của ông.
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 – Khu vực châu Á (Vòng 3) Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 khu vực châu Á (vòng 3) bắt đầu vào ngày 9 tháng 2 năm 2005 và kết thúc vào ngày 17 tháng 8 năm 2005. Hai đội đứng đầu ở mỗi bảng (tổng cộng 4 đội) sẽ giành quyền tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới (FIFA World Cup) 2006, còn hai đội thứ ba ở mỗi bảng sẽ đá play-off để chọn ra một đội đá play-off tranh vé dự FIFA World Cup với một đội đến từ CONCACAF. 8 đội đứng đầu ở 8 bảng đấu tại vòng 2 được chia vào hai bảng đấu, mỗi bảng 4 đội. Mỗi đội sẽ đá hai trận sân nhà − sân khách với các đội còn lại trong bảng của mình để chọn ra hai đội đứng đầu ở mỗi bảng giành quyền tham dự FIFA World Cup 2006. "Chú thích: Trận đấu này được dùng làm bối cảnh cho bộ phim "Offside" của Iran." "Chú thích: Vì có sự cố về khán giả trong hai trận đấu sân nhà trước đó của Triều Tiên, FIFA đã quyết định rằng trận đấu tiếp theo của Triều Tiên sẽ được chuyển đến một địa điểm trung lập (Thái Lan) và thi đấu trên sân không khán giả."
Tiếng Armenia cổ điển Tiếng Armenia cổ điển (, trong cách phát âm tiếng Armenia Đông: Grabar, tiếng Armenia Tây: Krapar; nghĩa là "[ngôn ngữ] văn học"; còn được gọi là tiếng Armenia cổ hoặc tiếng Armenia thiêng liêng) là một dạng được chứng thực cổ nhất của tiếng Armenia. Đây là ngôn ngữ lần đầu tiên được viết vào đầu thế kỉ 5, và tất cả văn học Armenia đến thế kỉ 18 được viết bằng ngôn ngữ này. Ban đầu nhiều bản thảo cổ viết bằng tiếng Hy Lạp cổ đại, tiếng Ba Tư, tiếng Hebrew, tiếng Syriac và tiếng Latinh (chỉ tồn tại trong bản dịch tiếng Armenia). Tiếng Armenia cổ điển tiếp tục sử dụng làm một ngôn ngữ thiêng liêng của Giáo hội Tông truyền Armenia và Giáo hội công giáo Armenia và thường được họp bởi các học giả Kinh Thánh, Liên Ước, và Giáo Phụ dành riêng cho nghiên cứu văn bản. Ngôn ngữ này cũng quan trọng cho việc phục dựng tiếng Ấn-Âu nguyên thủy. Có bảy nguyên âm đơn: Ngoài ra còn có sáu nguyên âm đôi theo truyền thống: Dưới đây là bảng phụ âm trong tiếng Armenia cổ điển. Các phụ âm tắc và tắc-xát, ngoài chuỗi hữu thanh và vô thanh, chúng đều thuộc chuỗi âm bật hơi riêng biệt, phiên âm với ký hiệu được sử dụng cho âm thở thô trong tiếng Hy Lạp cổ đại sau chữ: "p῾", "t῾", "c῾", "č῾", "k῾". Mỗi phụ âm có hai ký hiệu trong bảng. Bên trái biểu thị cách phát âm trong Bảng mẫu tự ngữ âm quốc tế (IPA); bên phải là ký hiệu tương ứng trong bảng chữ cái Armenia.
Plutoni(IV) sulfat là một hợp chất vô cơ của plutoni và acid sulfuric có công thức hóa học Pu(SO4)2 – tinh thể màu đỏ, tan trong nước, tạo thành tinh thể ngậm nước. Plutoni(IV) sulfat được điều chế bằng cách hòa tan plutoni(IV) oxide trong acid sulfuric đậm đặc có thêm acid fluorhydric, sau đó làm bay hơi trong cốc platin để thu được muối: Sau đó, cho dung dịch plutoni(IV) sulfat kết tủa bằng hỗn hợp methanol và acid sulfuric loãng, thu lấy tinh thể. Tính chất vật lý. Plutoni(IV) sulfat tạo thành tinh thể màu đỏ. Nó hòa tan tốt trong nước. Nó tạo thành Pu(SO4)2·4H2O, tồn tại dưới hai dạng. Cả hai dạng đều là tinh thể màu đỏ thuộc hệ tinh thể trực thoi. Với dạng α-, nhóm không gian Pnma, các hằng số mạng tinh thể "a" = 1,4544 nm, "b" = 1,098 nm, "c" = 0,5667 nm, Z = 4. Với dạng β-, nhóm không gian Fddd, các hằng số mạng tinh thể "a" = 0,56011 nm, "b" = 1,20323 nm, "c" = 2,6525 nm, Z = 8. Tính chất hóa học. Với sulfat kim loại kiềm, nó tạo thành muối kép M4[Pu(SO4)4]·"n"H2O có màu xanh lá cây.
Nhật Bản Tân Đảng Nhật Bản Tân Đảng (日本新党 (Nhật Bản Tân đảng), Nihon Shintō) là một đảng phái chính trị ở Nhật Bản tồn tại từ năm 1992 đến năm 1994. Đảng này được coi là theo khuynh hướng tự do, được thành lập bởi Hosokawa Morihiro, cựu nghị sĩ Quốc hội và là Thống đốc tỉnh Kumamoto, người đã rời Đảng Dân chủ Tự do để phản đối các vụ bê bối tham nhũng trong đảng này. Năm 1992, đảng đã bầu bốn thành viên vào Tham Nghị viện, bao gồm cả Hosokawa. Mặc dù đây là một kết quả đáng thất vọng đối với họ, nhưng vào năm 1993, họ đã có thể tận dụng sự bất mãn của cử tri đối với Đảng Dân chủ Tự do, bầu tổng cộng 35 thành viên (bao gồm 3 người tham gia sau cuộc bầu cử). Hosokawa trở thành Thủ tướng lãnh đạo một liên minh rộng rãi, nhưng nhanh chóng bị buộc phải từ chức do nội bộ liên minh này liên tục gặp lục đục. Đảng bảo vệ chủ nghĩa chính trị cải lương, quyền của người tiêu dùng và hỗ trợ phân quyền. Đến năm 1994, Nhật Bản Tân Đảng giải thể, các thành viên của đảng này chuyển sang Đảng Tân tiến (新進党).
Sân vận động Perth Rectangular Sân vận động Perth Rectangular (; còn được gọi là HBF Park vì lý do tài trợ) là một sân vận động thể thao ở Perth, thủ phủ của bang Tây Úc của Úc. Sân nằm gần quận kinh doanh trung tâm của Perth. Sân vận động hiện có sức chứa tối đa là 20.500 người cho các sự kiện thể thao và 25.000 người cho các buổi hòa nhạc, với số lượng khán giả kỷ lục của sân là 32.000 người được thiết lập trong buổi hòa nhạc của Ed Sheeran vào năm 2015. Sân vận động được xây dựng trên khu đất có tên gọi là Loton Park, một khu bảo tồn công cộng được thành lập vào năm 1904, với sân vận động chính được xây dựng vài năm sau đó. Từ năm 1910 đến năm 2002, sân được gọi là Perth Oval và là sân nhà của East Perth Football Club thuộc West Australian Football League (WAFL). Sân đã tổ chức một số trận chung kết của giải đấu trong thời gian đó. Vào năm 2004, sân vận động đã được tái phát triển, chuyển đổi từ mặt sân hình bầu dục thành mặt sân hình chữ nhật. Hiện tại, đây là sân nhà của hai câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp lớn: Perth Glory FC, một câu lạc bộ bóng đá thi đấu tại A-League và Western Force, một câu lạc bộ rugby union thi đấu tại Super Rugby Pacific. Sân cũng được sử dụng bởi West Coast Pirates, một câu lạc bộ rugby league bán chuyên nghiệp thi đấu tại S. G. Ball Cup, cũng như cho các buổi hòa nhạc.
Truyện Gối đầu (枕草子 (Chẩm Thảo Tử), Makura no Sōshi) là một tập truyện nói về những quan sát và suy ngẫm của nữ văn sĩ Sei Shōnagon trong khoảng thời gian bà làm nữ quan cho Hoàng hậu Teishi từ những năm 990 đến đầu những năm 1000 vào thời kỳ Heian của Nhật Bản. Tác phẩm được hoàn thành vào năm 1002. Tác phẩm "Truyện Gối Đầu" là tổng hợp tất cả những văn kiện, truyền thuyết, thơ ca, và cả những đoạn mô tả ít có mối liên hệ với nhau, chỉ trừ điểm chung duy nhất là chúng đều là những ý tưởng nảy ra bất chợt mà Shōnagon đã nghĩ ra dựa trên những khoảnh khắc trong cuộc sống thường nhật của bà, trong đó chứa đựng rất nhiều những thể loại, hình thức diễn đạt khác nhau như những sự kiện cung đình quan trọng, những bài thơ, cách nhìn nhận của tác giả đối với những nhân vật quan trọng thời đó cũng như những suy nghĩ của chính bà. Dù chỉ là tác phẩm mang dấu ấn cá nhân, song kỹ năng viết lách và sáng tác thơ tuyệt vời của nữ quan Shōnagon đã giúp cho "Truyện gối đầu" được nâng tầm và trở thành một tác phẩm văn học thực sự, và được coi là một tư liệu lịch sử có giá trị. Mặc dù Shōnagon chỉ dùng góc nhìn và quan điểm cá nhân để viết nên "Truyện gối đầu", nhưng một phần của tác phẩm ấy đã phản ánh gần như toàn bộ cuộc sống chốn cung đình, nơi mà nữ tác giả đã sống trong gần hết cuộc đời : "Bà đã vô tình đặt nó [tác phẩm] lên chiếc đệm được chuẩn bị cho khách, và vị khách đó đã mang nó đi bất chấp lời cầu xin của bà." Shōnagon viết "Truyện gối đầu" như một thú vui riêng tư trong cuộc sống hằng ngày; có lẽ đó là cách để bà có thể giãi bày tâm sự và bộc lộ những xúc cảm thầm kín - thứ mà những người có địa vị thấp kém trong cung không thể bộc lộ một cách trực tiếp. Mặc dù Shōnagon chưa bao giờ chia sẻ tác phẩm cho ai khác ngoài chính mình, song qua nhiều thế kỉ, nó đã trở thành một tác phẩm văn học nổi tiếng. Sáu đoạn văn thuộc tác phẩm đã được dịch sang tiếng Anh lần đầu tiên vào năm 1889 bởi T. A. Purcell và W. G. Aston. Một bản dịch tiếng Anh đáng chú ý khác là bản dịch của Arthur Waley; một phần của tác phẩm đã được dịch vào năm 1928, Ivan Morris đã dịch trọn vẹn tác phẩm này vào năm 1967, và bản dịch hoàn thiện của Meredith McKinney vào năm 2006. Sơ lược về tác phẩm. Được bắt đầu bởi "tính toàn diện" với việc "thu thập lại những điều giản đơn" và cách diễn đạt với những cụm từ như "giống như những chú sâu", "tựa như hoa của cây", "những điều ta không thích" và "những điều tươi đẹp" – chúng là những cụm từ mô tả theo lối viết cổ xưa, được ví như "danh sách kiểu Borgesian". Ta có thể thấy rằng, "những lời tản mạn" của tác giả Sei Shōnagon là thành quả của việc quan sát quang cảnh thiên nhiên và sắc thái bốn mùa trong năm, và dùng những câu từ để miêu tả chúng dưới dạng "hồi ức" (còn gọi là "nhật ký"), qua đó thể hiện sự hồi tưởng của tác giả đối với cuộc sống cung đình xoay quanh chủ nhân của bà là Hoàng hậu Teishi, nằm trong những điều khác mà tác phẩm đã khắc họa. Theo lời Meredith McKinney trong tờ báo Kyoto Journal, (người đã đóng góp bản dịch tiếng Anh cho tác phẩm),"Truyện gối đầu" là một tác phẩm đặc biệt, nó là tổ hợp những tác phẩm có dung lượng ngắn hơn và nội dung của chúng không hề liên quan đến nhau . Thành quả văn chương của nữ sĩ Shōnagon có thể được chia làm 3 phần; phần đầu là những mẩu chuyện tường thuật, nội dung của nó tập trung vào những sự kiện mà tác giả từng được chứng kiến và nếm trải trong suốt thời gian phục vụ trong cung đình, phần hai bao gồm những suy nghĩ và quan điểm của bà về những sự việc khác nhau trong cuộc sống, và phần cuối là danh sách các văn kiện có tiêu đề, ví dụ như văn kiện với tiêu đề "Những thứ khiến trái tim trở nên yếu mềm." Tác phẩm "Truyện gối đầu" chứa tổng cộng tất cả 164 văn kiện mang tiêu đề, nơi chứa đựng những chi tiết có giá trị về mặt mỹ học và ít cởi mở hơn so với những câu chuyện truyền thuyết của Shōnagon. Ý tưởng phân chia tác phẩm làm ba phần đã được đề xuất bởi Kikan Ikeda. Tuy nhiên, cũng có những phần khá mơ hồ và rất khó để phân loại (ví dụ như đoạn đầu trong phần tản văn của tác phẩm, "Tựa như mùa xuân, (đó là) cảnh bình minh [tuyệt đẹp]", đã có những tranh cãi về việc phân loại đoạn văn trên). Tác phẩm chủ yếu được biết bằng chữ hiragana của Nhật; đó là những kí tự bản địa bắt nguồn từ Trung Quốc, và có rất mẩu chuyện trong tác phẩm được viết theo phong cách hóm hỉnh và dí dỏm. Vào thời đó, những người phụ nữ như Shōnagon thường sử dụng chữ Hiragana làm ngôn ngữ viết. Theo Matthew Penney trong bài bình về "Truyện Gối đầu", những địa danh, chức tước là những trường hợp duy nhất cho phép các kí tự Hán ngữ xuất hiện trong tác phẩm, những phần còn lại đều được viết bằng Hiragana. Những lời thú nhận cảm xúc của tác giả đã được khéo léo lồng ghép vào trong những câu văn diễn tả sự suy sụp của Nhiếp chính quan Fujiwara no Michitaka cũng như việc cha ruột bà qua đời, và cả tình cảnh bất hạnh của Thiên hoàng và Hoàng hậu Teishi. Tác phẩm là cả một thể hòa hợp đồng nhất giữa giác quan nhạy cảm và góc nhìn tinh tế của tác giả; vì nếu ta so sánh với cảm xúc của (Mầm mống của sự vật) được tìm thấy trong "Truyện kể Genji", ta cũng sẽ thấy vẻ đẹp của thế giới này đã được diễn tả qua cách sử dụng từ ('đáng yêu') một cách đầy thông minh. Nhìn chung, "Truyện gối đầu" được viết dưới dạng những câu văn ngắn gọn, với những đoạn văn không quá dài với nội dung dễ đọc và dễ hiểu đối với những người nói tiếng Nhật trong thời hiện đại. Những câu chuyện được sưu tầm ngẫu hứng đã từng được tạm chia thành 3 loại, về sau chúng đã được tổng hợp lại và phân loại theo nhiều cách khác nhau và được biên soạn lại bởi những người không phải là Sei Shōnagon. Dựa trên niềm tin của một số học giả, ta có thể cho rằng hầu hết các tác phẩm văn học của Shōnagon đều được viết trong khoảng thời gian bà ở trong cung ; tuy vậy, bà vẫn có một số tác phẩm khác được viết trong những năm tháng cuối đời và nội dung của chúng chỉ đề cập đến những kí ức về khoảng thời gian trước đây khi còn làm Nữ quan trong Triều đình. Điểm khác biệt giữa tác phẩm "Truyện gối đầu" của Shōnagon với những tác phẩm khác cùng thể loại vào thời đó và thậm chí cả vào thời nay, đó là bản thân tác giả của nó không hề bỏ ra thời gian để cố tìm kiếm linh hồn cho tác phẩm, cũng như không tìm kiếm thái độ hay quan điểm của độc giả về tác phẩm, đơn giản là vì chính tác giả cũng không kỳ vọng đây sẽ là tác phẩm viết cho mọi người, chỉ là tác phẩm cho riêng mình mà thôi. "Truyện gối đầu của" Shōnagon được viết dựa trên cơ sở của những điều đáng yêu và đáng ghét trên trần thế dựa trên cảm xúc chủ quan của tác giả; tác phẩm thể hiện những thứ được quan tâm về mặt cá nhân và những điều tốt đẹp hiện hữu xung quanh thế giới riêng của người viết ra nó. Trong bài báo mang tên Kyoto Journal, McKinney giải thích rằng Shōnagon "có thể thu hút bạn [độc giả] qua nhiều thế kỉ, cho rằng bạn đã quen thuộc với bà ấy cũng như thế giới riêng của bà, sau đó khiến bạn phải gật đầu và mỉm cười." Thông thường, các phần được chọn lựa từ tuyển tập này đều hướng người đọc đến những suy nghĩ và giai thoại của Shonagon. Như vậy, ta có thể thấy rằng, Truyện gối đầu là cả một tuyển tập bao gồm những câu chuyện truyền thuyết, những điều hữu ích được liệt kê, tất cả đều hòa chung thành một tác phẩm văn học kiệt xuất và là nguồn thông tin tuyệt vời để tìm hiểu về đời sống cung đình vào hơn 1000 năm trước, và đã trở thành một dấu mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự phát triển của nền văn học Nhật Bản . "Truyện gối đầu" được viết hoàn toàn bằng tiếng Nhật. Trong suốt khoảng thời gian từ cuối thế kỷ 10 đến đầu thế kỉ 11, trong khi hầu hết đàn ông Nhật Bản đều lấy Hán tự làm ngôn ngữ viết thì những người phụ nữ đã viết bằng ngôn ngữ bản địa của họ với việc sử dụng các ký tự hiragana, một loại chữ tượng hình bản địa có nguồn gốc từ Trung Quốc. Do đó, ta có thể thấy rằng, "Truyện gối đầu" là một phần của truyền thống văn chương rộng lớn dành cho nữ giới. Phong cách văn học quyến rũ và tối giản của Shonagon đã được dùng làm hình mẫu chuẩn mực cho văn xuôi Nhật Bản cho đến tận ngày nay. Theo Penney và Matthew thì Shōnagon đã từng bị các độc giả đánh giá là một người kiêu căng và thích đối đầu; mặc dù vậy, ta cũng không thể phủ nhận lối diễn đạt cảm xúc theo cách tự do, phóng khoáng pha chút dí dỏm đã được thể hiện rất rõ trong tác phẩm. "Truyện Gối đầu" có sức ảnh hưởng rất lớn tới một thể loại văn xuôi của Nhật Bản được gọi là . Bối cảnh ra đời. "Truyện Gối đầu" ra đời vào thời kỳ Heian - nơi được xem là thời kỳ huy hoàng của giới quý tộc Nhật Bản. Thơ ca và nghệ thuật là một trong những phần quan trọng trong triều đình, tác giả Sei Shōnagon cũng là một phần trong đó. Vào thời đó, tất cả mọi người trong triều đình và Hoàng cung đều phải có kiến thức văn chương xuất sắc. Văn học thời kỳ này được xem như là một phương tiện giao tiếp quan trọng đến mức kỹ năng viết của một người được cho là có thể tạo nên hoặc phá vỡ danh tiếng của họ. Chẳng hạn như trong tác phẩm Truyện Gối đầu, Shōnagon đã đề cập đến việc một cận thần tới xin lời khuyên của bà để viết một bài thơ và rồi cuối cùng ông ta đã bị từ chối vì kỹ năng viết văn kém. Phụ nữ thời kỳ Heian cũng đóng vai trò quan trọng trong xã hội, đặc biệt là những người phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu. Các tác giả nữ ở Nhật Bản trong thời kỳ này được biết đến rộng rãi hơn vì hầu hết các tác phẩm của họ đều được viết bằng Nhật ngữ, được gọi là "ngôn ngữ của nhân dân", trong khi các tác giả nam sử dụng Hán ngữ để sáng tác vì thứ ngôn ngữ này vẫn được coi là có vị thế cao hơn. Vì các tác phẩm của những tác giả nữ thời đó phổ biến hơn với tầng lớp bình dân, nên chúng ta có thể chắc chắn rằng chúng có sức ảnh hưởng lớn đến xã hội lúc bấy giờ. Mặc dù phụ nữ trong thời kỳ Heian nắm giữ ít trọng trách hơn về mặt xã hội so với nam giới, song ngày nay, đã có nhiều nhà văn nghiên cứu về khả năng sáng tạo và cách chơi chữ hiragana của họ, vì nam giới thời Heian thường có xu hướng chỉ dùng Hán tự để thể hiện khả năng sử dụng hệ thống chữ viết vay mượn từ nước láng giềng Trung Hoa, trong khi Hiragana là loại chữ viết mới mẻ hơn và được những người phụ nữ độc quyền sử dụng. Hiragana (Bình giá danh) là hệ thống ngôn ngữ viết bao gồm các ký tự và các âm tiết cho phép thể hiện suy nghĩ bên trong theo cách tự do phóng khoáng hơn so với chữ Hán biểu trưng. Vì phụ nữ trong thời kỳ Heian thường không có những hoạt động xã hội, nên những người thuộc tầng lớp thượng lưu và có học thức cao thường có rất nhiều thời gian viết lách và sáng tác văn thơ. Bên cạnh đó, việc loại bỏ phụ nữ khỏi những nơi quan trọng như triều chính cũng góp phần bảo vệ họ khỏi những bất ổn chính trị. Chữ mềm Hiragana cho phép phụ nữ có thể truyền đạt suy nghĩ và cảm xúc của họ về cuộc sống bằng ngôn ngữ của riêng mình. Họ không cần thiết phải đi học chữ nhiều để có thể diễn tả mọi cảm giác trên giấy; vì các âm tiết của hiragana không giống như chữ kanji, nó có thể ghi nhận các biến tố nghe được trong lời nói. Tuy nhiên, những phụ nữ có học thức như Shōnagon thỉnh thoảng cũng sử dụng chữ Hán. Do Hán tự (hay Kanji) được xem là chữ viết của nam giới nên việc một người phụ nữ sử dụng và hiểu nó đúng cách chứng tỏ người đó đã dày công nghiên cứu Hán tự trong nhiều năm. Đó cũng là cách để Shōnagon thể hiện trí thông minh của mình thông qua việc sáng tác. Lịch sử biên soạn và dịch thuật. "Truyện Gối đầu" đã được phổ biến rộng rãi trong cung đình và nó đã tồn tại trong suốt hàng trăm năm qua dưới dạng các bản viết tay. Được in lần đầu vào thế kỷ 17, tác phẩm đã tồn tại với nhiều phiên bản khác nhau: thứ tự các mục có thể đã được thay đổi bởi người biên soạn, cùng với đó là những lời bình về tác phẩm và các đoạn văn đã được thêm vào, chỉnh sửa hoặc xóa đi. Bốn biến thể chính của tác phẩm đã được các học giả hiện đại biết đến. Hai bản văn kiện được coi là đầy đủ và chính xác nhất là phiên bản của Sankanbon và Nōinbon. Các biên tập viên sau này đã giới thiệu số phần và các bộ phận của một trong hai phiên bản trên; phiên bản Sankanbon được chia thành 297 phần, với 29 phần "bổ sung" - có thể đại diện cho những phần bổ sung sau này của tác giả hoặc người chép lại tác phẩm này. Các bản dịch tham khảo (bằng tiếng Anh). Machiko Midorikawa miêu tả bản dịch của McKinney là "sát nghĩa hơn nhiều so với bản dịch của Morris". Những điều ngoài lề xoay quanh "Truyện Gối đầu". Nói một cách tổng quát hơn, Truyện gối đầu là tập hợp tất cả các ghi chép đã được đối chiếu để thể hiện một giai đoạn trong cuộc đời của một người hay để thể hiện một điều gì đó. Ở Nhật Bản, thể loại văn chương "nhàn rỗi" như vậy thường được gọi là . Các tác phẩm lớn khác trong cùng thời kỳ bao gồm của Kamo no Chōmei và của Yoshida Kenkō. đã trở nên phổ biến rộng rãi vào thời Edo khi nó đã thu hút một lượng lớn khán giả trong các tầng lớp thương nhân mới phát triển. Hơn thế nữa, thể loại văn học này đã đạt được một chỗ đứng nhất định trong giới học thuật, khi các học giả cổ điển Nhật Bản bắt đầu sáng tác văn học theo phong cách . Các tác giả có uy tín trong thể loại này bao gồm Motoori Norinaga, Yokoi Yayu và Matsudaira Sadanobu . Tác phẩm "Truyện Gối đầu" đã được Peter Greenaway chuyển thể thành phim (xem thêm: "Truyện Gối đầu (phim))" vào năm 1996. Với sự tham gia của Vivian Wu và Ewan McGregor, phim kể một câu chuyện hiện đại có liên quan đến tác phẩm của Sei Shōnagon. Ngoài ra", Truyện Gối đầu" cũng là tên của một loạt phim kinh dị trên đài phát thanh được viết bởi Robert Forrest và được phát trên BBC Radio 4 thuộc chương trình "Woman's Hour Drama" . Đây là những câu chuyện trinh thám với Sei Shōnagon là nhân vật chính và cũng với những danh sách xuất hiện trong tác phẩm của bà.
Tổng giáo phận Lyon Tổng giáo phận Lyon (; ), trước đây là Tổng giáo phận Lyon–Vienne–Embrun là một tổng giáo phận đô thành của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Pháp. Các tổng giám mục của Lyon phục vụ dưới danh nghĩa là người kế vị của các thánh Irênê và Pothinô, lần lượt là giám mục tiên khởi và thứ hai của Lyon, đồng thời là Giáo trưởng xứ Gaul. Các tổng giám mục của tổng giáo phận thường được thăng hồng y. Giám mục Olivier de Germay đã được chỉ định làm tổng giám mục vào ngày 22/10/2020. Lãnh đạo qua từng thời kì. Tổng giám mục Tổng giáo phận Lyon.
Tuyên thệ nhậm chức (Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) Tuyên thệ nhậm chức tại Việt Nam là điều bắt buộc với cá nhân được bầu đảm nhiệm vai trò của chức Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Trước năm 2013 các cá nhân được bầu giữ chức Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao không có quy định và không cần tuyên thệ nhậm chức, khác với Việt Nam Cộng hòa người được bầu phải tuyên thệ nhậm chức. Sau khi sửa đổi Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hoá trong nội quy kỳ họp Quốc hội vào ngày 24 tháng 11 năm 2015, Chủ tịch nước với tư cách là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Nhà nước và 3 chức danh là Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao đại diện cho các khối cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp ngay sau khi được Quốc hội bầu phải thực hiện việc tuyên thệ. Trần Đại Quang là người đầu tiên tuyên thệ nhậm chức Chủ tịch nước vào ngày 2 tháng 4 năm 2016, Nguyễn Xuân Phúc là người đầu tiên tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng Chính phủ vào ngày 7 tháng 4 năm 2016, Nguyễn Thị Kim Ngân là người đầu tiên tuyên thệ nhậm chức Chủ tịch Quốc hội vào ngày 31 tháng 3 năm 2016, Nguyễn Hòa Bình là người đầu tiên tuyên thệ nhậm chức Chánh án Tòa án nhân dân tối cao vào ngày 8 tháng 4 năm 2016. 1. Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp. 2. Ngoài nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, người tuyên thệ quyết định nội dung tuyên thệ phù hợp với trách nhiệm được giao. 3. Vị trí tuyên thệ là vị trí trang trọng của lễ đài. Đại biểu Quốc hội, người được mời tham dự, dự thính tại phiên họp đứng trang nghiêm chứng kiến Lễ tuyên thệ. 4. Lễ tuyên thệ được tiến hành theo trình tự sau đây: a) Quân nhạc cử nhạc nghi lễ và đội tiêu binh mang cờ Tổ quốc và Hiến pháp Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 vào vị trí. b) Người tuyên thệ chào Quốc kỳ, tiến vào vị trí tuyên thệ và tiến hành tuyên thệ. c) Sau khi tuyên thệ, người tuyên thệ phát biểu nhậm chức. Trước đây, thời gian tuyên thệ được quy định giới hạn không quá 3 phút nhưng hiện tại thời gian tuyên thệ không còn quy định giới hạn. Hiện tại, Việt Nam không có quy định cụ thể về lời tuyên thệ, người tuyên thệ được phép quyết định nội dung tuyên thệ phù hợp với trách nhiệm được giao và yêu cầu người tuyên thệ phải trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp do đó lời tuyên thệ mỗi người đều khác nhau. Tuy nhiên dựa vào các bài báo và video quay lại được thì lời tuyên thệ dưới đây là lời tuyên thệ không chính thức đang được các cá nhân dùng để tuyên thệ sau khi được Quốc hội Việt Nam bầu giữ chức: "Dưới cờ đỏ sao vàng thiêng liêng của Tổ quốc, trước Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước, tôi, "tên chức vụ cá nhân được bầu" nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xin tuyên thệ: Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân, với Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nỗ lực phấn đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó."
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 – Khu vực châu Á (Vòng 2) Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 khu vực châu Á (vòng 2) bắt đầu vào ngày 18 tháng 2 năm 2004 và kết thúc vào ngày 17 tháng 11 năm 2004. Ở vòng này, 32 đội (gồm 25 đội được vào thẳng cùng với 7 đội thắng vòng 1) được bốc thăm vào 8 bảng với mỗi bảng 4 đội. Các đội chơi các trận sân nhà và sân khách với các đội còn lại trong bảng của họ. 8 đội đứng đầu ở 8 bảng đấu giành quyền vào vòng 3. Ghi chú: "FIFA quyết định trận Iran vs Qatar đá trên sân không khán giả do hành vi bạo lực trong trận gặp CHDCND Triều Tiên trong khuôn khổ Vòng loại Cúp bóng đá châu Á vào ngày 12 tháng 11 năm 2003".
Hình ảnh lâm sàng, chẩn đoán và điều trị trong chuyên ngành da liễu Hình ảnh lâm sàng, chẩn đoán và điều trị trong chuyên ngành da liễu là bộ sách y học chuyên ngành da liễu của PGS.TS Nguyễn Văn Thường. Bộ sách bao gồm 2 cuốn đã đoạt giải A, giải cao nhất của Giải thưởng sách quốc gia năm 2020. Hoàn cảnh sáng tác. PGS.TS Nguyễn Văn Thường công tác tại Bệnh viện Da liễu Trung ương. Từ năm 2017 ông có ý tưởng biên soạn một cuốn sách da liễu để giúp cho người dạy, người học và các độc giả muốn tìm hiểu bệnh học da liễu dễ dàng nghiên cứu, tham khảo. Ý tưởng là kết hợp hình ảnh chi tiết với phần giải thích triệu chứng lâm sàng và chẩn đoán điều trị. Đầu năm 2018, PGS.TS Nguyễn Văn Thường bắt đầu thực hiện ý tưởng của mình. Ông phối hợp với nhiều chuyên gia hàng đầu trong ngành da liễu đã lưu giữ và chọn lọc gần 10.000 bức ảnh đặc trưng nhất về bệnh da liễu, để từ đó biên soạn thành 2 cuốn sách gồm 35 chương và 272 bài. Bộ sách được phát hành vào năm 2019. Năm 2020, bộ sách được trao giải A giải thưởng sách quốc gia. Đây là bộ sách y học đầu tiên được trao giải thưởng này.
Hervé Jean-Marie Roger Renard (sinh ngày 30 tháng 9 năm 1968) là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp, hiện là huấn luyện viên của Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Pháp. Renard trước đây đã từng là huấn luyện viên của Đội tuyển quốc gia Zambia, đội mà ông đã giành được Cúp bóng đá châu Phi 2012; ông cũng đã vô địch giải đấu năm 2015 với Bờ Biển Ngà, trở thành huấn luyện viên đầu tiên giành được hai Cúp bóng đá châu Phi với các đội bóng khác nhau. Ngoài ra, ông đã huấn luyện Maroc tại FIFA World Cup 2018. Năm 2019, ông được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của Ả Rập Xê Út. Hervé Jean-Marie Roger Renard sinh ngày 30 tháng 9 năm 1968 tại Aix-les-Bains, Auvergne-Rhône-Alpes. Sự nghiệp cầu thủ. Sinh ra ở Aix-les-Bains, Renard thi đấu ở vị trí hậu vệ cho các đội bóng Pháp AS Cannes, Stade de Vallauris và SC Draguignan trong sự nghiệp thi đấu kéo dài từ 1983 đến 1998.#đổi Sau khi giải nghệ với tư cách là một cầu thủ chuyên nghiệp, ông làm công việc dọn dẹp, làm việc ở đó vào buổi sáng và tập luyện với Draguignan vào buổi tối, cuối cùng ông thành lập công ty dọn dẹp của riêng mình. Sự nghiệp huấn luyện. Renard trở thành huấn luyện viên của câu lạc bộ Pháp Lille vào tháng 5 năm 2015. Vào ngày 11 tháng 11 năm 2015, ông bị sa thải sau khi chỉ giành được 13 điểm sau 13 trận tại giải VĐQG. Đội tuyển nữ Pháp. Vào tháng 3 năm 2023, Renard được mời làm huấn luyện viên của Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Pháp sau khi Corinne Diacre bị sa thải. Vào ngày 29 tháng 3, Liên đoàn bóng đá Ả Rập Xê Út đã chấp nhận đơn từ chức của Renard để bắt đầu nhiệm kỳ huấn luyện viên đội tuyển nữ Pháp. Vào ngày 30 tháng 3, Renard chính thức trở thành huấn luyện viên của đội tuyển quốc gia nữ Pháp, kế nhiệm Diacre với hợp đồng kéo dài đến tháng 8 năm 2024. Ông được giao nhiệm vụ chuẩn bị đội cho 2023 FIFA Women's World Cup giữa những thay đổi và xung đột của người chơi, đặc biệt là với việc quản lý. Renard trở thành huấn luyện viên đầu tiên huấn các đội ở hai kỳ World Cup cấp cao khác nhau trong cùng một năm. Vào ngày 29 tháng 7, ông trở thành huấn luyện viên đầu tiên giành chiến thắng trong một trận đấu ở cả hai kỳ World Cup nam và nữ sau khi Pháp đánh bại Brasil ở vòng bảng. Renard đang có mối quan hệ với Viviane Dièye, góa phụ của huấn luyện viên Bruno Metsu. Ông bà ngoại của ông đến từ Ba Lan.
They Knew Too Much About Flying Saucers They Knew Too Much About Flying Saucers là cuốn sách phi hư cấu xuất bản năm 1956 của tác giả huyền bí Gray Barker. Đây là cuốn sách đầu tiên cho rằng "Men in Black" đang che đậy sự tồn tại của đĩa bay. Vào mùa hè năm 1947, phi công Kenneth Arnold báo cáo đã nhìn thấy những vật thể được gọi là đĩa bay; Báo cáo của Arnold đã gây ra một làn sóng bắt chước. Đến năm 1949, các tác giả như Frank Scully và Donald Keyhoe cho rằng bên Không quân biết nhiều về những cái đĩa hơn là họ tiết lộ công khai. Năm 1952, nhà nghiên cứu UFO nghiệp dư Albert K. Bender thành lập Cục Đĩa bay Quốc tế, câu lạc bộ UFO dân sự lớn đầu tiên. Grey Barker là một thành viên. Tháng 10 năm 1953, nhóm xuất bản số cuối cùng của bản tin, thông báo về việc giải tán tổ chức này. Số báo cuối cùng đưa tin rằng "Bí ẩn về đĩa bay không còn là bí ẩn nữa. Theo như nguồn tin cho biết thì bất kỳ thông tin nào về vụ việc đang được giữ kín theo lệnh từ một nguồn cấp cao hơn". Tháng 4 năm 1956, University Books of New York City đã ấn hành "They Knew Too Much About Flying Saucers", lời kể đầy kịch tính của Barker về sự tham gia của ông với IFSB. Cuốn sách tuyên bố nổi tiếng rằng Bender và các nhà điều tra UFO khác đã bị những kẻ lạ mặt vận bộ vest đen "bịt miệng". Tác phẩm này bắt đầu từ mối quan tâm ban đầu của Barker đối với những chiếc đĩa bay trong cuộc điều tra "Quái vật Flatwoods" năm 1952 và những cuộc điều tra về chiếc đĩa bay sau đó của ông ở Brush Creek, California. Barker mô tả sự quan tâm của mình đối với Bí ẩn Shaver và mấy cuốn tạp chí của Raymond Palmer, sau cùng đã khiến ông ấy trao đổi thư từ với Albert K. Bender và gia nhập "Cục Đĩa bay Quốc tế" của Bender. Theo lời kể, Bender nhận được mẫu kim loại được cho là từ một UFO, sau đó có ba kẻ lạ mặt bất chợt đến thăm ông, mỗi tên đều mặc đồ đen, đám người này đã tịch thu lại các bản tin của nhóm. Bender nhớ lại có một gã trong bọn họ đã nói với Barker rằng nghiên cứu của ông ấy là vô nghĩa, tuyên bố rằng "Trong chính phủ của chúng tôi, chúng tôi có những kẻ thông minh nhất đất nước. Họ khó mà biện minh về chuyện này. Làm sao ngài có thể làm được gì đây?" Trước khi họ khởi hành, một tên trong bọn họ bèn cảnh báo Bender: "Tôi cho rằng ngài biết là ngài rất vinh dự với tư cách là một người Mỹ. Nếu tôi nghe thấy lời nói nào khác thốt ra từ văn phòng của ngài thì ngài hãy liệu hồn đấy". Barker kể lại câu chuyện năm 1947 về sự kiện đảo Maury, nơi có sự hiện diện của đĩa bay mà nhân chứng tuyên bố mình được một gã mặc đồ vest đen cảnh báo không được thảo luận về vụ việc. Barker suy đoán những chiếc đĩa bay này có thể có mối liên kết với Nam Cực hoặc hiện tượng yêu tinh quấy phá. Barker liệt kê những người khác mà ông ấy tin rằng đã phải "giữ mồm giữ miệng", một số ở các quốc gia khác. "They Knew Too Much About Flying Saucers" đã nhanh chóng lọt vào danh sách bán chạy nhất năm 1956. Học giả theo thuyết âm mưu Michael Barkun viết rằng 'người áo đen' ("Men in Black") trong sách này "nhanh chóng trở thành một yếu tố chính trong văn hóa dân gian về UFO". Nhà sử học Aaron Gulyas, mô tả cuốn sách là "một trong số ít cuốn sách về đĩa bay mà tôi có thể đọc đi đọc lại", lưu ý rằng "trong thập niên 1970, 1980 và 1990, những người theo thuyết âm mưu UFO kết hợp MIB vào quan điểm ngày càng phức tạp và hoang tưởng của họ". Nhà sử học văn hóa dân gian Curtis Peebles gợi ý rằng câu chuyện về người áo đen của Barker có thể được lấy cảm hứng từ câu chuyện của "người tiếp xúc UFO" George Adamski về cuộc chạm trán với đám đặc vụ FBI. Theo bài viết "Gray Barker: My Friend, the Myth-Maker" đăng trên tờ "Skeptical Inquirer", có thể có "một phần sự thật" đối với các bài viết của Barker về Men in Black, trong đó các cơ quan chính phủ đã cố gắng ngăn cản sự quan tâm của công chúng đối với UFO trong thập niên 1950. Tuy vậy, Barker được cho là đã tô điểm rất nhiều cho sự thật trong tình huống này. Trong cùng một bài viết của "Skeptical Inquirer", Sherwood tiết lộ rằng, vào cuối những năm 1960, ông và Barker đã hợp tác trong một thông báo hư cấu ngắn ám chỉ đến Men in Black, được xuất bản lần đầu trên tạp chí "Flying Saucers" của Raymond A. Palmer và một số ấn phẩm riêng của Barker. Trong câu chuyện này, Sherwood (viết là "Tiến sĩ Richard H. Pratt") kể lại rằng ông ấy đã bị "người áo đen" ra lệnh im lặng sau khi biết rõ UFO là cỗ máy du hành thời gian. Barker sau đó có viết cho Sherwood rằng "rõ ràng là người hâm mộ đã nuốt chửng chuyện này chỉ trong một ngụm". Năm 1962, chính Bender là tác giả của một tài liệu viết về các sự kiện, "Flying Saucers and the Three Men" có mô tả "Men in Black" là thực thể siêu nhiên, lơ lửng trên sàn và phát ra luồng ánh sáng màu xanh lam. "The Knew Too Much About Flying Saucer" đã ảnh hưởng đến nền văn hóa đại chúng thập niên 1990, đáng chú ý nhất là phim "The X-Files" và "dòng phim Men in Black". Một tác giả đã ví "The X-Files" như một "phần phụ của thuyết phúc âm theo lời Barker".
The Report on Unidentified Flying Objects The Report on Unidentified Flying Objects là cuốn sách phi hư cấu xuất bản năm 1956 của nhà điều tra UFO của Không quân Mỹ lúc bấy giờ đã về hưu Edward J. Ruppelt, trình bày chi tiết kinh nghiệm của ông khi điều hành Dự án Blue Book. Cuốn sách này gây được sự chú ý từ dư luận vì gợi ý rằng một vài trường hợp nhìn thấy UFO có thể liên quan đến các đợt phóng xạ nguyên tử. Giới truyền thông đương đại tóm tắt bốn chủ đề được thảo luận trong cuốn sách này: Năm 1960, Ruppelt là tác giả của ấn bản thứ hai qua đó ông tường thuật mang tính "tích cực" rằng UFO không tồn tại. Ruppelt là đại úy trong Không quân Mỹ, từng là giám đốc điều tra chính thức về UFO: Dự án Grudge và Dự án Blue Book. Trong thời gian làm giám đốc, Ruppelt đã đặt ra thuật ngữ UFO. Trong phần đề tựa, Ruppelt đưa ra lập luận: "Ai cũng biết rằng kể từ khi chiếc đĩa bay đầu tiên được báo cáo vào tháng 6 năm 1947, Không quân đã chính thức tuyên bố rằng không có bằng chứng nào cho thấy một thứ như tàu vũ trụ liên hành tinh tồn tại. Nhưng điều gì không ổn được biết là kết luận này còn lâu mới được sự nhất trí giữa quân đội và các cố vấn khoa học của họ". Bốn năm sau lần xuất bản đầu tiên, Ruppelt đã phát hành một ấn bản mới với ba chương bổ sung. Trong đó, Ruppelt "dường như đã thay đổi hướng đi", tuyên bố UFO là một "Thần thoại về Thời đại Không gian". Trong chương đầu tiên mang tên "And They're Still Flying", Ruppelt đã kể về những lần nhìn thấy UFO vào cuối thập niên 1950 ở Ohio, Colorado và Kansas. Ruppelt thảo luận về việc thành lập Ủy ban Điều tra Hiện tượng Không trung Quốc gia (NICAP), một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập để điều tra các báo cáo về UFO, và lời khai sau đó của ông trước Ủy ban Thượng viện Hoa Kỳ về Hoạt động của Chính phủ. Trong chương mới thứ hai nhan đề "Off They Go into the Wild Blue Yonder", Ruppelt kể chi tiết những câu chuyện hoang đường của George Adamski về việc liên tục du hành tới Sao Kim trên một chiếc đĩa bay, ví Adamski với P.T. Barnum. Trong chương cuối cùng "Do They or Don't They?", Ruppelt đáp lại câu hỏi "Các vật thể bay không xác định có tồn tại không?" với câu trả lời: "Tôi khẳng định là không". Cuốn sách này được coi là "quan trọng nhất" trong thời đại của nó. Tờ Buffalo News đã đưa tin về cuốn sách với hàng tít trên trang nhất "You Saw a Spacehip? Air Force Won't Deny It", viết rằng "Ruppelt báo cáo kết luận của họ là một trong những sự bác bỏ giả thuyết cho rằng vật thể nêu trên là tàu vũ trụ, trên thực tế không có bằng chứng rõ ràng. Tuy nhiên, họ không bác bỏ khả năng này và ra sức thúc giục Không quân tiếp tục điều tra thêm nữa". Một bài đánh giá năm 1956 đã mô tả sách này là "bản báo cáo tỉnh táo của một người đàn ông phụ trách một trong những cuộc điều tra chính thức", lập luận rằng "Ruppelt chẳng bao giờ đưa ra lời giải thích về những gì không thể giải thích được". Vào thập niên 1970, nhà nghiên cứu UFO J. Allen Hynek gợi ý rằng "cuốn sách của Ruppelt nên được đọc đối với bất kỳ ai quan tâm nghiêm túc đến lịch sử của chủ đề này". Nhà sử học Curtis Peebles kết luận rằng cuốn sách "lẽ ra phải chấm dứt suy đoán về sự che đậy của Không quân. Trên thực tế, những tuyên bố của Ruppelt đã được chuyển thành sự ủng hộ cho ý tưởng che đậy".
Tổng giáo phận Đài Bắc Tổng giáo phận Đài Bắc (; ) là một Tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Đài Loan. Ban đầu, Giáo hoàng Piô XII đã thành lập Hạt Phủ doãn Tông tòa Đài Bắc vào ngày 30/12/1949. Vào ngày 7/8/1952, hạt được nâng cấp thành một tổng giáo phận, quản lí các giáo phận trực thuộc là Giáo phận Gia Nghĩa, Giáo phận Tân Trúc, Giáo phận Hoa Liên, Giáo phận Cao Hùng, Giáo phận Đài Trung, và Giáo phận Đài Nam. Nhà thờ chính tòa của tổng giáo phận là Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội. Vì đây là tổng giáo phận duy nhất ở Đài Loan, tổng giáo phận Đài Bắc là nơi có tòa giám mục chính của quốc gia này. Ngày 23/5/2020, Giáo hoàng Phanxicô đã chấp thuận cho Tổng giám mục Gioan Hồng Sơn Xuyên từ nhiệm khi đến tuổi về hưu theo Giáo luật và chỉ định Tôma Chung An Trụ làm Tổng giám mục Tổng giáo phận Đài Bắc. Trong nhiều năm, các cá nhân giữ vị trí Tổng giám mục Đài Bắc cũng đã được chỉ định là Giám quản Tông tòa của đảo Kim Môn and quần đảo Mã Tổ mà trên lí thuyết do Giáo phận Hạ Môn quản lí.
Wayfair Inc. là một công ty thương mại điện tử của Mỹ có trụ sở chính tại Boston, Massachusetts. Công ty này kinh doanh bán đồ nội thất và hàng gia dụng trực tuyến. Trước đây được biết đến với tên CSN Stores, công ty được thành lập vào năm 2002 và hiện nay cung cấp hơn 14 triệu sản phẩm từ hơn 11.000 nhà cung cấp trên toàn cầu. Wayfair có các văn phòng và nhà kho trải rộng khắp Hoa Kỳ và tại Canada, Đức, Ireland và Vương quốc Anh. Wayfair điều hành năm trang web bán lẻ mang thương hiệu riêng bao gồm: trang chủ chính thức Wayfair, Joss Main, AllModern, Birch Lane, và Perigold.
Tòa nhà TV Asahi Tòa nhà TV Asahi (テレビ朝日本社ビル, Terebi Asahi Honsha Biru) là tòa nhà 8 tầng nằm ở Roppongi, Minato, Tokyo, Nhật Bản. Tòa nhà trên là trụ sở của đài truyền hình TV Asahi. Tòa nhà được thiết kế bởi kiến trúc sư Fumihiko Maki. Năm 2000, tòa nhà đã khởi công xây dựng và hoàn thành vào năm 2003. Tòa nhà TV Asahi là một phần của khu thương mại Roppongi Hills. Lối vào chính dành cho du khách là giếng trời. Vườn Mōri, dinh thự cũ của gia tộc Mōri nằm ngay tại tòa nhà này.
Kyahan (脚絆(きゃはん) (Cước Bán), Kyahan) là loại quần vải truyền thống của Nhật được mặc bởi các samurai và thuộc hạ của Nhật trong thời kỳ phong kiến. Trong tiếng Nhật, từ này còn được dùng để ám chỉ dáng đi của các chiến binh cổ của phương Tây. đã từng được mặc như một lớp đệm phía dưới trang phục của các samurai (). Một số loại có thể được bao phủ bởi một lớp áo giáp ( được gọi là hay ); chúng từng được mặc bởi những người lính đường bộ () hay các samurai với mục đích bảo vệ. cũng thường được mặc bởi khách lữ hành nhằm bảo vệ họ khỏi nhiệt độ lạnh, côn trùng và bụi rậm. thường được làm từ vải linen, hưng cũng có thể làm từ những chất liệu khác như cotton. Chất liệu dùng để may tùy thuộc vào từng mùa. Khi buộc , dải dây bên trong luôn ngắn hơn dải dây bên ngoài; dây thường được buộc ở mặt trong của chân thay vi mặt bên hay mặt ngoài, nhằm tránh cảm giác khó chịu bởi chất vải thô cứng của .
Dche (Ԭ ԭ, chữ nghiêng: "Ԭ" "ԭ") là một chữ cái trong bảng chữ cái Kirin. Hình dạng của Dche là chữ ghép của hai chữ cái De (Д д "Д" "д") và Che (Ч ч "Ч" "ч"). Dche từng được sử dụng trong bảng chữ cái Kirin cũ của tiếng Komi. Chữ cái này đại diện cho âm /d͡ʑ/. Dche có thể được Latinh hóa thành ⟨đ⟩. Dche từng được dùng cho tiếng Komi, một ngôn ngữ được nói bởi người Komi, là dân tộc sống chủ yếu ở vùng đông bắc lãnh thổ nước Nga thuộc châu Âu.
Charles Antoine François Thomson Charles Antoine François Thomson (ngày 25 tháng 9 năm 1845 – ngày 8 tháng 7 năm 1898) là một công chức người Pháp từng là phó tỉnh trưởng rồi sau lên làm tỉnh trưởng của nhiều tỉnh thuộc vùng thủ đô nước Pháp. Từ năm 1882 đến năm 1885, ông là Thống đốc Nam Kỳ ở miền nam Việt Nam ngày nay. Khi còn tại vị, ông đã buộc Quốc vương Norodom xứ Campuchia chấp nhận tăng cường quyền kiểm soát của thực dân Pháp đối với chế độ bảo hộ tại Campuchia. Thống đốc Nam Kỳ. Thomson được Đô đốc Jean Bernard Jauréguiberry bổ nhiệm làm Thống đốc Nam Kỳ năm 1882. Thomson là Thống đốc Nam Kỳ thuộc Pháp từ ngày 7 tháng 11 năm 1882 đến ngày 27 tháng 7 năm 1885. Ông lên thay thế cho vị Thống đốc tiền nhiệm là Charles Le Myre de Vilers. Trên cương vị là Thống đốc Nam Kỳ, Thomson chịu trách nhiệm bảo hộ Campuchia. Ông muốn đạt được một thỏa thuận với Quốc vương Norodom của Campuchia mà nhà vua cam kết tôn trọng thỏa thuận này. Norodom chống lại yêu cầu của người Pháp rằng ông phải trang trải chi phí cho chế độ bảo hộ của thực dân Pháp. Các cuộc thảo luận vào tháng 7 năm 1883 đã dẫn đến một thỏa thuận vào tháng 9 năm 1883 rằng bắt đầu từ năm 1884, chính quyền Pháp sẽ thu thuế bán thuốc phiện và rượu để trang trải chi phí. Người Pháp cũng kỳ vọng rằng Norodom cho phép thành lập các đồn cảnh sát trên khắp Campuchia và trao cho Thomson một bản dự thảo hiến pháp nhằm củng cố các cải cách đã được thống nhất. Tháng 4 năm 1884, Thomson đề xuất thêm rằng người Pháp nên tiếp quản ngành hải quan của Campuchia. Đồng thời Thomson đang đàm phán riêng với Sisowath, vị hoàng đệ cùng cha khác mẹ của Norodom, mà ông từng ca tụng "ông hoàng này, người tuyệt đối trung thành với chính sách của chúng ta, [người] từ lâu đã chấp nhận quan điểm chung của chúng ta dẫn đến sự thay đổi chế độ bảo hộ". Norodom cuối cùng buộc phải ký Công ước Phnôm Pênh vào ngày 17 tháng 6 năm 1884 để tránh việc người Pháp tôn phò Sisowath lấp vào ngôi vị của ông như một con rối của họ. Thomson dẫn theo một đội quân đến cung điện nơi ký kết bản công ước này, cùng các pháo hạm đóng gần đó được phô trương. Hiệp ước thiết lập chính quyền trực tiếp hơn của Pháp đối với xứ bảo hộ Campuchia, đứng đầu là một viên Thống sứ Pháp báo cáo trực tiếp lên Thống đốc Nam Kỳ. Thomson hăng hái bắt tay vào thực hiện những thay đổi đã được thống nhất trong công ước. Thế nhưng, vào đầu tháng 1 năm 1885, phần lớn đất nước Campuchia đã nổi dậy chống lại người Pháp. Ngày 21 tháng 7 năm 1885 Thompson được lệnh quay trở lại Pháp bằng thuyền tiếp theo để báo cáo tình hình, giao cho Tướng Charles Auguste Frédéric Bégin làm Quyền Thống đốc. Bégin là viên tư lệnh quân sự cao cấp của xứ Nam Kỳ từ ngày 20 tháng 3 năm 1885. Bégin không thích các chính sách của Thomson, và điều động lực lượng để đảm bảo rằng Thomson không trở lại. Ngày 28 tháng 10 năm 1885, ông viết, Thomson về mặt chuyên môn là Thống đốc Nam Kỳ cho đến tháng 3 năm 1886, nhưng không trở lại thuộc địa sau tháng 7 năm 1885. Ông là Công sứ Pháp quốc tại Copenhagen năm 1891, Giám đốc Ngân khố Hérault và sau đó là Bouches-du-Rhône. Thomson qua đời vào ngày 8 tháng 7 năm 1898 tại Marseille, Bouches-du-Rhône.
Charles Auguste Frédéric Bégin Charles Auguste Frédéric Bégin (ngày 2 tháng 7 năm 1835 – ngày 27 tháng 7 năm 1901) là một vị tướng lĩnh người Pháp từng giữ chức Quyền Thống đốc Nam Kỳ năm 1885–1886, và là Tổng Tư lệnh Quân đội Pháp ở Đông Dương từ năm 1887 đến năm 1889. Những năm đầu đời (1835–1863). Charles Auguste Frédéric Bégin sinh ngày 2 tháng 7 năm 1835 tại Marie-Galante, Guadeloupe. Cha tên là Joseph Charles Pierre Bégin (1800–1859), Phó ủy viên hải quân, và mẹ là Elisabeth Giraud. Ông theo học trường École spéciale militaire de Saint-Cyr, và vào ngày 1 tháng 10 năm 1856, ông được bổ nhiệm làm Thiếu úy trong Bộ binh Hải quân. Bégin được điều động đến công tác tại Guadeloupe suốt 5 năm, rồi sau thăng cấp Trung úy vào ngày 19 tháng 9 năm 1859. Ông trở lại Pháp vào năm 1861 và được chỉ định vào tiểu đoàn huấn luyện lính thủy đánh bộ fusilier tại đồn Lorient. Đại úy và Tiểu đoàn trưởng (1863–1873). Bégin được thăng Đại úy ngày 13 tháng 5 năm 1863, và đến Sài Gòn, Nam Kỳ vào tháng 1 năm 1864. Ông tham gia một đội quân viễn chinh nhỏ dẹp loạn ở tỉnh Tây Ninh, và được tuyên dương vào tháng 9 năm 1866. Tháng 3 năm 1867, ông được thưởng Huân chương Bắc Đẩu Bội tinh. Năm 1868, ông trở lại Pháp và gia nhập lại tiểu đoàn huấn luyện lính fusilier. Ngày 1 tháng 1 năm 1869, ông là sĩ quan phụ tá của Trung đoàn Bộ binh Thủy quân lục chiến số 2 ở Brest. Ông được bổ nhiệm làm Thiếu tá hay Tiểu đoàn trưởng vào ngày 16 tháng 3 năm 1870. Ông bèn trở lại Nam Kỳ đảm nhận chức chỉ huy trưởng quân Pháp ở các tỉnh miền Tây. Năm 1872, ông đem quân đánh dẹp quân nổi dậy bản xứ các tỉnh Mỏ Cày, Trà Vinh, Vĩnh Long. Ông lại được tuyên dương, và vào ngày 25 tháng 7 năm 1872 được thăng cấp Sĩ quan Quân đoàn Danh dự. Trung tá và Đại tá (1873–1882). Bégin được thăng cấp Trung tá vào ngày 10 tháng 3 năm 1873. Ông quay về Pháp và phục vụ trong Trung đoàn Bộ binh Thuộc địa số 3 ở Rochefort trong vài tháng. Năm 1874, ông đến Saint-Louis, Sénégal nắm quyền chỉ huy quân đội thuộc địa suốt hai năm liền. Ông có công trấn áp các cuộc nổi loạn từ các sắc dân Cayor, Toro và Dimar (Wolof). Bégin bèn quay trở lại Pháp năm 1876. Ngày 13 tháng 8 năm 1878, ông được thăng cấp Đại tá và được trao quyền chỉ huy Trung đoàn Thuộc địa số 1 ở Cherbourg. Vài tháng sau, ông trở lại Nam Kỳ thêm hai năm nữa. Sau đó ông về nước và được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng Trung đoàn Bộ binh Thủy quân lục chiến số 2. Bégin được thăng cấp Chuẩn tướng vào ngày 24 tháng 12 năm 1881. Ông được bổ nhiệm làm trợ lý tổng thanh tra quân đội của mình và được phong làm Tư lệnh Quân đoàn Danh dự. Ngày 20 tháng 3 năm 1885, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đội xứ Nam Kỳ. Bégin là Quyền Thống đốc Nam Kỳ từ ngày 27 tháng 7 năm 1885 đến ngày 19 tháng 6 năm 1886. Ông thay thế Charles Thomson là vị Thống đốc tiền nhiệm đã góp phần mở rộng vai trò của Pháp ở Campuchia. Bégin không thích các chính sách của Thomson, và dùng thủ đoạn để đảm bảo rằng Thomson không quay trở lại đây nữa. Ngày 28 tháng 10 năm 1885, ông viết, Bégin chiêu mộ những người Campuchia để thành lập một trung đoàn lính thuộc địa. Người kế vị ông là Ange Michel Filippini. Bégin trở lại Pháp làm Thanh tra trong một thời gian ngắn trước khi trở lại Sài Gòn vào tháng 11 năm 1887 với tư cách là Tổng Tư lệnh Quân đội Liên bang Đông Dương. Chính phủ Pháp vào thời điểm này lo ngại về chi phí cho các hoạt động quân sự ở Đông Dương và ủng hộ việc thành lập lực lượng dân quân, lực lượng này có chi phí thấp hơn nhiều so với quân chính quy vì họ có ít quân châu Âu hơn và không cần doanh trại. Công sứ Hải Dương là Neyret cho thấy rằng một lực lượng dân quân được vũ trang tốt, tích cực thu thập thông tin tình báo tỏ ra có hiệu quả trong việc chống lại bọn cướp. Quân đội phản ứng bằng cách cáo buộc Neyret che giấu thông tin tình báo với họ. Đến lượt Neyret cáo buộc Trung đoàn 4 Quân đoàn bộ binh Bắc Kỳ, được tuyển mộ ở Hải Dương, đã bán vũ khí cho quân nổi dậy. Bégin đòi mở một cuộc điều tra, nhận thấy Neyret không có bằng chứng cho lời buộc tội của mình, và đề nghị thuyên chuyển anh ta. Toàn quyền Đông Dương Jean Antoine Ernest Constans trả lời rằng Neyret chỉ làm tròn phận sự của mình và có lẽ trung đoàn này nên được thuyên chuyển thế chỗ anh ta thì hơn. Vài ngày sau, Constans được triệu hồi về Pháp và chức Quyền Thống đốc Nam Kỳ do Étienne Richaud thay thế. Richaud có thiện cảm hơn với quân đội, và xác định vai trò của quân đội là đẩy lùi các cuộc tấn công và dẹp loạn, trong khi vai trò của dân quân là duy trì hòa bình thông qua hành động của cảnh sát. Bégin đồng ý với đề xuất của Richaud, kẻ giữ chức vụ này từ tháng 4 năm 1888 đến tháng 5 năm 1889, về sự hợp tác giữa quân đội và dân thường. Các chỉ huy quân sự sẽ cố gắng giành được sự ủng hộ của người dân địa phương cho quá trình bình định của thực dân Pháp. Tổng số quân hiện hữu của Bégin thấp hơn nhiều so với con số trên giấy tờ, một phần do nhu cầu về lực lượng đặc biệt, nhưng phần lớn là do bệnh tật, với số lượng lớn quân nhân chết trong bệnh viện hoặc hồi hương. Năm 1888, Bégin ước tính rằng để có 8.000 tay súng trường người Âu đang hoạt động, ông cần một lực lượng trên danh nghĩa là 15.000 quân. Tháng 7 năm 1888, Bégin đã đánh giá cao một kế hoạch chi tiết nhằm bình định các tỉnh miền bắc do Auguste Pavie đệ trình. Ông viết rằng, Những năm cuối đời. Bégin trở lại Pháp vào tháng 7 năm 1889 trong vai trò là Phó Tổng thanh tra quân đội dưới quyền mình, và vào ngày 29 tháng 12 năm 1889 được bổ nhiệm làm Đại Trưởng quan Quân đoàn Danh dự. Ông được thăng cấp Thượng tướng ngày 10 tháng 10 năm 1891. Ngày 1 tháng 1 năm 1892, ông giữ chức Phó Tổng thanh tra và là thành viên ủy ban kỹ thuật của tổng thanh tra hải quân. Ngày 1 tháng 1 năm 1894, ông lên làm Tổng thanh tra và là chủ tịch ủy ban kỹ thuật của tổng thanh tra hải quân cho đến tận năm 1899. Bégin về hưu ngày 1 tháng 6 năm 1899. Ngày 6 tháng 6 năm 1899, ông được phong quân hàm Đại Thập Tự Quân đoàn Danh dự. Ông qua đời ngày 27 tháng 7 năm 1901 tại Pleumeur-Bodou, Côtes-d'Armor.
Chính phủ Phần Lan Chính phủ Phần Lan là cơ quan hành pháp tối cao của Phần Lan. Theo Hiến pháp năm 1999 của Phần Lan, Chính phủ nắm quyền lực hành pháp, có thẩm quyền ban hành nghị định; thực hiện các nghị quyết của Quốc hội và quyết định của Tổng thống Cộng hòa; chịu trách nhiệm tập thể và là cơ quan đại diện cho Cộng hòa Phần Lan tại Hội đồng Liên minh châu Âu. Nếu không tính đến một số ngoại lệ trong lịch sử, đặc trưng của nội các Phần Lan là sự liên hiệp của các đại biểu thuộc hai đảng lớn và một số đảng nhỏ hơn; nói cách khác thì Chính phủ Phần Lan thường là một chính phủ liên hiệp. Chính phủ – gồm thủ tướng và các bộ trưởng – là cơ quan hành pháp quan trọng nhất của Phần Lan. Hiến pháp Phần Lan năm 1999, Điều 3, Khoản 2 quy định quyền lực tối cao của Chính phủ:Quyền lực nhà nước do Tổng thống Cộng hòa và Chính phủ – bao gồm các thành viên do Quốc hội tín nhiệm – thực thi. Quyền lực về tư pháp do các tòa án độc lập thực thi, trong đó Tòa án tối cao và Tòa án hành chính tối cao là hai cơ quan xét xử cao nhất. Ủy ban Chính phủ. Chính phủ Phần Lan bao gồm bốn Ủy ban Chính phủ thường trực theo luật định để thực hiện chức năng chuẩn bị cho các vấn đề. Mỗi một ủy ban do Thủ tướng đứng đầu. Thủ tướng có thể tham gia họp bàn với một Ủy ban Chính phủ về những vấn đề mà không yêu cầu hay tốt nhất là không nên có sự góp mặt của toàn thể Nội các. Thủ tướng có thể tham gia họp bàn với một Ủy ban Chính phủ về những vấn đề không yêu cầu hoặc tốt nhất là không nên có sự góp mặt của toàn thể Nội các. Tuy tồn tại một số Ủy ban dành riêng cho chính phủ, dưới đây là Chính phủ là cơ quan hoạt động thường xuyên trong lĩnh vực lập pháp. Một luật kiến nghị () sẽ được một bộ hữu quan soạn thảo dưới sự điều phối của vị Bộ trưởng của bộ ấy, sau đó luật kiến nghị ấy được Chính phủ xem xét và trình lên cho Quốc hội xử lý và sửa đổi dưới dạng một dự luật Chính phủ (). Tuy nhiên vì bản chất của đa số các nội các Chính phủ Phần Lan là nội các liên hiệp nên các đảng thuộc phe Chính phủ sẽ nắm số ghế đa số đơn giản trong Quốc hội, nhờ đó quá trình xem xét và sửa đổi dự luật được diễn ra cách hài hòa. Để một dự luật được ban hành thành luật sau khi được Quốc hội thông qua thì dự luật ấy phải được Tổng thống Cộng hòa phê chuẩn. Do vậy, Tổng thống Cộng hòa có quyền trì hoãn việc phê chuẩn nhằm ngăn cản hành vi chính trị đám đông và giảm thiểu khả năng vi phạm các điều ước quốc tế. Khi Tổng thống Cộng hòa và Quốc hội đại diện cho hai vị thế khác biệt thì khả năng xung đột xảy ra là đáng kể. Quốc hội có thể vô hiệu hóa quyết định phủ quyết của Tổng thống Cộng hòa, tuy nhiên trong thực tế thì sự kiện này chưa từng xảy ra. Một tiền lệ hiếm gặp khác đó là các đảng phải cũng có thể nhất trí không bỏ phiếu biểu quyết theo đường lối của đảng mà giành quyền quyết định cho các nghị sĩ thuộc đảng. Quốc hội là cơ quan ban hành các luật trong khi Chính phủ hoặc Bộ thì ban hành các nghị định () với tư cách là một văn bản lập pháp theo ủy quyền (). Các nghị định có chức năng làm rõ, cụ thể hóa và hướng dẫn việc thi hành một đạo luật của Quốc hội mà không được mâu thuẫn với đạo luật ấy trong nội dung. Một thí dụ thông thường về chức năng của nghị định đó là cụ thể hóa số tiền trợ cấp thực tế dựa trên các điều khoản của một đạo luật có liên quan. Các nghị định trong mối tương quan tổng thể có thể được coi như một bộ luật quan trọng bên cạnh các đạo luật của Quốc hội. Vốn nhà nước phải được chi theo kế hoạch chi được ấn định trong ngân sách nhà nước () – do Quốc hội phê chuẩn. Chính phủ chịu trách nhiệm soạn ra ngân sách hằng năm rồi trình cho Quốc hội thảo luận và phê duyệt. Chính phủ phải nộp đề xuất ngân sách bổ sung lên Quốc hội nếu cần thêm vốn vào thời điểm giữa năm của kế hoạch chi. Chẳng hạn, ngân sách nhà nước trung ương là 55,8 tỷ euro vào năm 2018, không bao gồm ngân sách khu tự quản và ngân sách của các cơ quan không trực thuộc Bộ nào (doanh nghiệp quốc doanh là một ví dụ).
Liverpool F.C. 9–0 A.F.C. Bournemouth Trong trận đấu thuộc vòng 4 Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2022–23 giữa hai câu lạc bộ Liverpool và Bournemouth trên sân vận động Anfield, Liverpool vào ngày 27 tháng 8 năm 2022, câu lạc bộ Liverpool đã giành chiến thắng với tỷ số 9-0. Chiến thắng này của Liverpool cùng với trận thắng 9-0 của câu lạc bộ Manchester United trước Ipswich Town vào năm 1995 và 2021 đã trở thành những trận thắng đậm nhất trong lịch sử Giải bóng đá Ngoại hạng Anh. Trận đấu này cân bằng trận thắng đậm nhất của Liverpool tại giải đấu. Họ cũng đã từng giành chiến thắng với cùng tỷ số trước Crystal Palace vào mùa giải 1989–90. Đây cũng là trận thua đậm nhất của Bournemouth tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh. Huấn luyện viên của đội bóng, Scott Parker đã bị sa thải chỉ 3 ngày sau trận đấu đó. Bước vào vòng 4 Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2022–23, Liverpool, á quân mùa trước, đang chịu đựng một sự khởi đầu mùa giải tồi tệ nhất của họ tại Premier League dưới thời của huấn luyện viên Jürgen Klopp. Họ cầm hòa tân binh Fulham và Crystal Palace, trước khi để thua trước Manchester United ở trận derby Tây Bắc. Phía bên kia chiến tuyến, dù để thua trước Aston Villa trên sân nhà ở vòng đấu mở màn, Bournemouth, tân binh được thăng hạng từ EFL Championship, cũng đang trải qua một khởi đầu mùa giải tương tự với một trận thắng và hai trận thua. Liverpool thực hiện một thay đổi đối với đội hình xuất phát trong trận thua trước Manchester United; trung vệ người Brasil, Fabinho được thay thế cho James Milner. Trung vệ Virgil van Dijk và tiền vệ Jordan Henderson có ra sân lần thứ 200 và 400 tại Premier League. Bournemouth có 3 sự thay đổi trong đội hình thua 3–0 trước Arsenal với Lewis Cook, Ryan Christie và Jaidon Anthony được xuất phát ngay từ đầu. Tri ân Olivia Pratt-Korbel. Ở phút thứ 9 của trận đấu, khi Liverpool đang dẫn trước 2–0, một phút vỗ tay bắt đầu để tri ân cô bé 9 tuổi Olivia Pratt-Korbel: một cô gái đến từ Liverpool người đã bị sát hại bởi một kẻ xâm phạm trong chính ngôi nhà của mình. Đây là trận đấu đầu tiên của Liverpool kể từ sau vụ nổ súng đó. Hai ngày trước, trong một cuộc họp báo, huấn luyện viên Klopp đã mô tả vụ giết người là "một thảm kịch" trước khi nói "Nếu chúng tôi có thể giúp, chúng tôi sẽ làm". Vào ngày diễn ra trận đấu, Klopp đã viết trong nhật ký của mình: "9 tuổi? Làm thế nào điều này có thể xảy ra? Làm thế nào là nó thậm chí có thể? Tôi không thể hiểu nó và càng nghĩ về nó, nó càng trở nên khó hiểu. Điều đó có thể xảy ra ở một thành phố đặc biệt như thành phố này, nơi mọi người luôn quan tâm đến nhau và sát cánh cùng nhau thậm chí còn ít ý nghĩa hơn. Tôi muốn chuyển sự đồng cảm của mọi người ở Liverpool tới gia đình của Olivia. Họ ở trong suy nghĩ và lời cầu nguyện của tôi." Sau trận đấu, đội trưởng Jordan Henderson bên phía Liverpool đã cởi chiếc áo sơ mi của anh với một chiếc áo vest bên dưới có khẩu hiệu: "RIP Olivia YNWA". Anh đã đăng dòng trạng thái "That was for Olivia" trên Twitter vào tối ngày hôm đó. Diễn biến thi đấu. Liverpool dẫn trước 2–0 trong 6 phút đầu tiên nhờ cú đánh đầu của Luis Díaz và nỗ lực tầm xa của Harvey Elliott, bàn thắng đầu tiên của anh tại Premier League. Các pha dứt điểm tiếp theo từ Trent Alexander-Arnold và Roberto Firmino nâng tỷ số lên 4–0, trước khi Virgil van Dijk đánh đầu từ quả phạt góc ngay trước khi hiệp một kết thúc. Hậu vệ của Bournemouth, Chris Mepham phản lưới nhà trong vòng một phút sau khi hiệp hai bắt đầu, trước khi Firmino chọc khe ở bàn thắng thứ 7, trong quá trình đạt được 100 bàn thắng cho câu lạc bộ. Fábio Carvalho vô lê tạo ra bàn thắng đầu tiên của mình cho Liverpool trước khi Díaz đánh đầu ấn định tỷ số 9-0. Sau trận đấu, huấn luyện viên Scott Parker của Bournemouth nói rằng ông "không hề ngạc nhiên" trước kết quả này, nói rằng đội "được trang bị kém". Sau đó, ông bị câu lạc bộ sa thải vào ngày 30 tháng 8, với chủ sở hữu Maxim Demin với lý do cần "... [sự liên kết] vô điều kiện trong chiến lược của chúng tôi để điều hành câu lạc bộ bền vững", điều này được hiểu là phản ứng trước những nhận xét của Parker. Parker được thay thế Gary O'Neil cùng ngày; trên cơ sở tạm quyền, sau đó được bổ nhiệm vào ghế huấn luyện viên trưởng của đội bóng vào ngày 27 tháng 11. Hai đội gặp lại nhau vào ngày 11 tháng 3 năm 2023 trên Sân vận động Vitality, nhưng lần này Bournemouth đánh bại Liverpool với tỷ số tối thiểu 1–0 nhờ bàn thắng duy nhất trong hiệp 1 của Philip Billing và pha đá hỏng phạt đền trong hiệp 2 của Mohamed Salah. Kết quả này được coi như là một cú sốc, đưa ra kết quả trước đó và phong độ của 2 đội - Liverpool đã bất bại trong 5 trận gần nhất, sau trận thắng lịch sử 7–0 trước Manchester United, trong khi Bournemouth bước vào vòng đấu với vị trí cuối bảng.
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 – Khu vực châu Á (Vòng 1) Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 khu vực châu Á (vòng 1) là vòng đầu tiên của Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2006 khu vực châu Á. Vòng này bao gồm 14 đội là thành viên của Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) xếp hạng thấp nhất theo Bảng xếp hạng FIFA, được bốc thăm thành 7 cặp thi đấu hai lượt trận sân nhà – sân khách để chọn ra 7 đội thắng cuộc vào vòng 2. Turkmenistan thắng với tổng tỉ số 13–0 và giành quyền vào vòng 2. Đài Bắc Trung Hoa thắng với tổng tỉ số 6–1 và giành quyền vào vòng 2. Tajikistan thắng với tổng tỉ số 4–0 và giành quyền vào vòng 2. Sri Lanka thắng với tổng tỉ số 3–0 và giành quyền vào vòng 2. Kyrgyzstan thắng với tổng tỉ số 6–0 và giành quyền vào vòng 2. Maldives thắng với tổng tỉ số 13–0 và giành quyền vào vòng 2. Bảng xếp hạng các đội thua cuộc. Cả Guam và Nepal sẽ đối đầu với nhau để chọn ra đội đi tiếp vào vòng trong. Sau khi Nepal rút trước, lẽ ra Guam sẽ vào vòng 2 nhưng sau đó Guam cũng rút lui. Vì vậy, FIFA đã quyết định bầu ra một "đội thua cuộc may mắn", để tìm ra một đội xuất sắc nhất trong số các đội thua cuộc bước tiếp vào vòng 2. Tiêu chí xếp hạng các đội thua theo thứ tự ưu tiên như sau: b) hiệu số bàn thắng bại c) số bàn thắng ghi được Cuối cùng, Lào là đội bước tiếp vào vòng 2.
Lê Phạm Thành Long Lê Phạm Thành Long (sinh ngày 5 tháng 6 năm 1996 tại tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho Công an Hà Nội. Sự nghiệp câu lạc bộ. Hoàng Anh Gia Lai (2007-2018). 11 tuổi, Thành Long trúng tuyển vào khóa 1 Học viện HAGL - JMG. Cùng lứa với anh là Công Phượng, Tuấn Anh, Xuân Trường… Nhưng chỉ sau một năm ăn tập, Thành Long đã phải xuống chơi ở đội năng khiếu vì không phát triển tốt như các đồng đội. Cú sốc đầu đời đó giúp cậu bé quê Quảng Ngãi buộc phải nỗ lực hơn trên sân tập nếu như không muốn tiếp tục bị đào thải. Nhưng khổ nỗi Học viện HAGL - JMG và tuyến năng khiếu lại đào tạo ra nhiều tiền vệ trung tâm xuất sắc như Tuấn Anh, Xuân Trường, Minh Vương, Triệu Việt Hưng… Vì vậy, Thành Long và nhiều cầu thủ khác buộc phải tìm đường đến các CLB hạng thấp để được thi đấu. Năm 2014, Thành Long được cho CLB Phú Yên mượn thi đấu ở Giải hạng nhì 2014 rồi Giải hạng nhất 2015 khi đội giành quyền thăng hạng. Lứa 1 và 2 của Học viện HAGL-JMG đa số đều được bầu Đức đôn lên chơi ở V-League 2015. Nhưng Thành Long vẫn không có chỗ ở đội 1 HAGL vì không thể cạnh tranh được nơi tuyến giữa. Rời Phú Yên sau 2 năm, Thành Long tiếp tục được cho CLB Đắk Lắk mượn thi đấu ở Giải hạng nhất 2016 rồi lượt đi của mùa 2017. Những năm tháng sau đó anh thi đấu cho Long An và Hải Phòng theo dạng cho mượn cho đến khi được Hải Phòng mua đứt vào cuối năm 2018. Mùa giải 2017, Thành Long lọt vào mắt xanh nhà cầm quân Minh Phương khi ấy vị HLV này đang dẫn dắt Long An. Thành Long được câu lạc bộ chủ quản Hoàng Anh Gia Lai cho Long An mượn đến hết mùa giải 2017. Anh sớm trở thành nhân tố chủ chốt khi thi đấu tất cả các trận ở giai đoạn 2 nhưng tiếc là không đủ để giúp Long An ở lại V. League. Sau khi kết thúc mùa giải, Thành Long lại chuyển sang câu lạc bộ Hải Phòng dưới hình thức cho mượn cầu thủ. Mùa giải 2018, Thành Long chính thức chuyển sang thi đấu cho Hải Phòng dưới dạng cho mượn từ Hoàng ANh Gia Lai. Tại đây, Thành Long là cầu thủ tạo ấn tượng tốt nhất khi thể hiện tài kiểm soát bóng tốt hơn hẳn so với các cầu thủ đang thi đấu cho CLB Hải Phòng lúc bấy giờ. Qua những trận bóng, Thành Long ghi được 3 bàn, 3 kiến tạo và thi đấu 20 trận. Thành Long đã góp công lớn giúp đội nhà lọt vào top 6 cuối mùa. Với những màn thể hiện mãn nhãn của Thành Long trên sân bóng, giúp Thành Long trở thành cầu thủ được yêu mến bậc nhất tại Hải Phòng mùa rồi. Chính vì vậy ngay sau khi V. League 2018 khép lại, lãnh đạo CLB Hải Phòng đã tích cực đàm phán với phía HAGL, và tìm được sự đồng thuận về việc gia hạn hợp đồng cho mượn. Như vậy Thành Long vẫn chơi ở câu lạc bộ Hải Phòng trong mùa giải tới. Mùa giải 2019, Thành Long thi đấu nổi bật và là mắt xích rất quan trọng của Hải Phòng. Mặc dù thi đấu vẫn nổi bật nhưng anh không thể giúp Hải Phòng thi đấu tốt hơn và cả đội chỉ trụ hạng ở những vòng cuối cùng. Anh chuyển sang thi đấu cho Thanh Hóa từ mùa giải 2020. Mùa giải 2023, Thành Long được huấn luyện viên Popov kéo xuống đá thấp nhất ở tuyến giữa để vừa thu hồi vừa giữ nhịp và phân phối bóng. Có thể nói, phát hiện lớn nhất của HLV Popov khi đến CLB Thanh Hóa chính là Thành Long. Đánh giá cậu học trò có kỹ thuật và nhãn quan chiến thuật tốt, ông không ngần ngại biến Thành Long thành một "Andrea Pirlo của Thanh Hóa" như cuộc nói chuyện với chính ban huấn luyện. Sự tỏa sáng của Thành Long đã góp phần giúp CLB Thanh Hóa đang bay cao ở ngôi đầu bảng xếp hạng V-League 2023. Tiền vệ cao 1,65m này cũng được HLV Philippe Troussier gọi vào đội tuyển Việt Nam. Sự nghiệp đội tuyển Quốc gia. Thành Long đã được triệu tập vào danh sách tập trung của Olympic Việt Nam chuẩn bị cho ASIAD 2018. Dù không thể trụ lại song đây có thể xem là cột mốc đáng chú ý trong sự nghiệp non trẻ của Thành Long. Anh được triệu tập lên đội tuyển Việt Nam sau giai đoạn thăng hoa cùng đội bóng xứ Thanh ở V League 2023. Thành Long hoàn toàn có cơ hội nếu thể hiện được mình trên sân tập và trong những trận giao hữu sắp tới với Hong Kong và Syria vào tháng 6 này. Thành Long có những điểm mạnh mà HLV Troussier muốn ở một tiền vệ trung tâm. Anh có thể phòng ngự, chuyền bóng chính xác ở mọi cự ly, quan sát nhạy bén và chơi bóng sáng tạo. Điều quan trọng chỉ là Thành Long hòa nhập như thế nào ở môi trường mới. Tiếc thay anh bị chấn thương trong lúc tập luyện và vẫn chưa thể ra sân được.
Động đất ngoài khơi Chūetsu, Niigata 2007 Động đất ngoài khơi Chūetsu, Niigata 2007 (新潟県中越沖地震, Niigata-ken Chūgoshi Oki Jishin) là trận động đất xảy ra vào lúc 10:13 (JST), ngày 16 tháng 7 năm 2007. Trận động đất có cường độ 6.6 richter. Tâm chấn độ sâu khoảng 10 km. Hậu quả trận động đất đã làm 15 người chết, 2.346 người bị thương.
Eiga Monogatari (栄花物語 (Vinh Hoa Vật Ngữ), Eiga Monogatari tạm dịch "Truyện Vinh Hoa") là một tác phẩm văn học của Nhật Bản thuộc thể loại "monogatari", kể về những sự kiện quan trọng diễn ra trong cuộc đời của Nhiếp chính quan bạch Fujiwara no Michinaga. Nhiều người cho rằng tác phẩm này do một lượng lớn các tác giả sáng tác ra trong khoảng thời gian từ năm 1028 đến năm 1107. Đây được coi là nguồn tư liệu quan trọng và đáng giá về gia tộc Fujiwara, đặc biệt là về Michinaga. Tác phẩm đã được dịch sang tiếng Anh bởi William H. và Helen Craig McCullough vào năm 1980 với tiêu đề "A Tale of Flowering Fortunes (tạm dịch: Chuyện Vinh hoa)". Nó được coi là bản dịch chuẩn mực và thường được sử dụng làm tư liệu tham khảo. Trong phiên bản kể lại của Fumiko Enchi, tác phẩm còn có tiêu đề khác là "Câu chuyện về thời vinh quang đã mất" ("A Tale of False Fortunes)". Tóm tắt tác phẩm. Trong văn học Nhật Bản, nội dung của thể loại "monogatari" có liên quan mật thiết đến cuộc sống chốn cung đình, chẳng hạn như tác phẩm "Rikkokushi", cũng như các tác phẩm văn xuôi khác như "Truyện kể Genji". Tác phẩm đã miêu tả chi tiết cuộc đời cũng như những sự kiện mà Michinaga và gia tộc từng nếm trải cho đến tận lúc ông qua đời. Phần đầu tác phẩm gồm 30 tập truyện, đi sâu vào những chi tiết trong thời gian trị vì của Thiên hoàng Uda kéo dài cho đến khi Michinaga qua đời. Tác phẩm được cho là đã được viết trong khoảng thời gian từ 1028 đến năm 1034 bởi Akazome Emon và/hoặc Fujiwara no Tamenari. Phần hai của tác phẩm chứa 10 tập truyện khác nhau, nói về triều đại của Thiên hoàng Horikawa và tất cả những tập truyện này được gọi chung là "zokuhen". Nó thường được quy vào thể loại Idewa no Ben và người ta cho là phần này được viết trong khoảng thời gian từ năm 1092 đến năm 1107. Tác phẩm là tổng hợp đầy đủ của 40 cuộn văn kiện được viết bằng "kana", trong đó có chứa nhật ký và ghi chép của các Nữ quan cung đình. Trong đó có đến 28 cuộn văn kiện nói về vai trò của Michinaga trong triều, trong khi 12 chủ đề còn lại đều nói về những thứ khác có liên quan tới nội dung chính của tác phẩm như những khía cạnh khác trong cuộc sống của Michinaga cũng như các thành viên khác trong gia tộc. Lịch sử biên soạn. Dựa vào định dạng của cuốn sách mà người ta chia dòng văn bản của tác phẩm thành ba dòng riêng biệt: dòng cổ đại, dòng phổ biến và dòng biến thể. Các loại văn kiện chính được sử dụng bao gồm Umezawa-bon và Yōmeibunko-bon (thuộc dòng cổ đại); Nishihonganji-bon, Kokatsuji-bon, Meirekikan-bon, và Eirikyūkanshōshutsu-bon (dòng phổ biến); và Tomioka-bon (dòng biến thể). Trong số các văn kiện ấy có Umezawa-bon là bản chép tay hoàn chỉnh lâu đời nhất, được chép lại vào giữa thời kỳ Kamakura, sau đó đã được mua lại bởi Sanjōnishi Sanetaka và được truyền lại cho con cháu của ông. Nó đã được công nhận là Quốc bảo vào năm 1935 theo quy định hiện hành về việc Bảo vệ Bảo vật Quốc gia. Nó lại được công nhận một lần nữa vào năm 1955 theo Luật Bảo vệ tài sản văn hóa. Văn kiện này là một sự kết hợp hoàn hảo giữa Ōgata-bon (bản chép tay của tác phẩm vào giữa thời kỳ Kamakura, được chép lại cho đến cuốn thứ 20) và Masugata-bon (bản chép lại đầu thời kỳ Kamakura kéo dài cho đến cuốn thứ 40). Các chi tiết về việc Sanetaka mua lại bản chép tay này đã được trình bày cụ thể trong các văn bản được viết vào vào ngày thứ tư và thứ tám của tháng thứ mười một năm Eishō thứ 8 (1509). Văn kiện Umezawa-bon đã được sử dụng làm hình mẫu văn bản chuẩn mực cho những ấn phẩm xuất bản khác như "Iwanami bunko", "Nihon koten bungaku taikei và" "Shinpen nihon koten bungaku zenshū". Danh sách chương truyện. Bản dịch tiếng Anh được đề cập ở đây được lấy từ bản dịch 30 chương đầu tiên của Helen và William McCullough và từ bản dịch trực tuyến của Takeshi Watanabecho phần chương "zokuhen". Những ấn phẩm tiếng Nhật đều được lấy từ "Nihon koten bungaku zenshū".
Vlaai Limburg (tiếng Limburg: "vlaai, vlaoj hoặc flaai." Số nhiều: "vlaaien)" là một loại bánh pastry bao gồm bột và nhân, theo truyền thống, nó gắn liền với các tỉnh Limburg được tìm thấy ở cả Hà Lan và Bỉ, cùng với Đức thông qua đường biên giới. Vlaai thường được ăn vào những dịp đặc biệt và cho các sự kiện quan trọng trong đời, đặc biệt là ở tỉnh Limburg của Hà Lan, ví dụ như dịp sinh nhật và tang lễ. Khi ăn vào dịp đám tang, vlaai thường được làm bằng mận đen (được gọi là: "Zwarte pruimenvlaai"). Có thể nói chắc chắn rằng có rất ít thông tin về lịch sử của vlaaien, ngoại trừ việc chúng không phải là một loại bánh ngọt thuần túy của người Limburg. Một truyền thuyết khẳng định rằng vlaiien có từ trước thế kỷ 12. Theo một đề cập trong biên niên sử của tu viện của Sint-Truiden (bản sao còn tồn tại đến năm 1503), Công tước Henry van Leuven bao vây thành phố (ngày nay nằm ở Bỉ), vào năm 1189. "Những hoạn quan và những tên trộm trung thực và thận trọng của thị trấn" đã đề nghị anh "Placenta" (như nó được diễn đạt bằng tiếng Latinh thời trung cổ) được nướng theo công thức cũ của địa phương. Nó được cho là điều này đã thuyết phục Henry từ bỏ cuộc bao vây. "Placenta" đồng nghĩa với từ tiếng Hà Lan Trung cổ "vlade" nhưng truyền thuyết không được xác minh theo cách khác, cũng như không thể chắc chắn chính xác những món nướng nào có thể đã được cung cấp. "Bản thảo Gent KANTL", một cuốn sách dạy nấu ăn của người Trung cổ Hà Lan từ thế kỷ 15, liệt kê một số loại nhân cho "vlade" giống như nhân trái cây hoặc sữa trứng, cũng như một công thức vỏ bánh nước nóng cho "vlade". Chỉ riêng văn bản thì không rõ liệu các công thức nấu ăn vlade có được đặt trong một lớp vỏ hay không và một trong số chúng có đề cập cụ thể đến việc làm đầy một cái bát - "vla" trong tiếng Hà Lan hiện đại ám chỉ bánh flan hoặc bánh pudding. Tuy nhiên, nó cũng liệt kê các loại bánh nướng ("tarten") với nhân táo hoặc anh đào được nướng đặc biệt trong bánh mì ("broot"), có nét giống vlaai hiện đại hơn. Cho đến giữa thế kỷ 20, vlaai được coi là một mặt hàng xa xỉ ở Limburg và chỉ được ăn trong các lễ kỷ niệm. Ở nông thôn, chúng hầu như luôn được người dân tự nướng, thường là theo cách truyền thống là trong những tiệm bánh. Vlaaien sẽ được phục vụ vào khoảng 4 giờ chiều trong giờ giải lao uống cà phê, thường là hai hoặc ba phần khác nhau cho mỗi người. Do sự thịnh vượng kinh tế ngày càng tăng sau Chiến tranh thế giới thứ hai, mọi người bắt đầu ăn chúng thường xuyên hơn. Vlaaien bắt đầu được biết đến rộng rãi hơn bên ngoài Limburg vào cuối thế kỷ 19 chủ yếu là do du lịch ngày càng tăng ở phía Nam Limburg thuộc Hà Lan. Nhiều khách du lịch đã mang vlaai về nhà từ những người thợ làm bánh địa phương. Năm 1986, cửa hàng vlaaien đầu tiên được mở tại Amsterdam. Việc bán vlaaien của một số chuỗi siêu thị cũng giúp phổ biến loại bánh ngọt này. Maria Hubertina Hendrix, còn được gọi là 'Antje van de Stasie', cũng giúp chúng phổ biến ra bên ngoài Limburg. Vào đầu thế kỷ 20, cô đã bán 'Weerter vlaaitjes' của mình tại nhà ga xe lửa ở Weert, và điều này đã khiến món bánh ngọt trở nên nổi tiếng bởi du khách từ khắp Hà Lan. Sau một thời gian, Weerter vlaaien cũng được bán ở Nijmegen. Cô đã có một bức tượng ở Weert từ năm 1988. Các biến thể tồn tại trên khắp Hà Lan, Bỉ và các khu vực ở bang Nordrhein-Westfalen của Đức gần biên giới với Hà Lan. Một chiếc bánh "vlaai" thường có đường kính 26–31 centimet. Nó có sẵn trong nhiều loại nhân trái cây khác nhau, chẳng hạn như anh đào, mơ, dâu tây và mận. Các biến thể khác là một hỗn hợp bơ vụn và đường (""greumellevlaai" trong tiếng Limburg, hoặc "kruimelvlaai" trong tiếng Hà Lan) và cháo sữa trứng ("rijstevlaai""). Chỉ dẫn địa lý. Vào ngày 17 tháng 11 năm 2022, Hà Lan và Bỉ đã nộp đơn xin bảo hộ cho "Vlaai Limburg" như một đặc sản truyền thống và chỉ định địa phương của Liên Âu.
Quốc lộ 9E là một tuyến quốc lộ thứ yếu của khu vực miền Trung và Tây Nguyên, nằm hoàn toàn trong địa phận tỉnh Quảng Bình. Tuyến đường có chiều dài là 43 km, là đường giao thông cấp III - IV, rộng 2-4 làn xe. Điểm đầu của tuyến giao cắt với đường ven biển thành phố Đồng Hới, và điểm cuối cắt với đường Hồ Chí Minh, thuộc huyện Quảng Ninh. Ngoài ra, quốc lộ 9E còn giao cắt với quốc lộ 1 tại xã Đức Ninh, thành phố Đồng Hới.
Akshata Narayan Murty (sinh ngày 25 tháng 4 năm 1980) là một nữ doanh nhân, nhà thiết kế thời trang và nhà đầu tư người Ấn Độ. Bà là phu nhân của Thủ tướng và lãnh đạo Đảng Bảo thủ Anh Rishi Sunak. Theo "Sunday Times Rich List", Murty và Sunak là những người giàu thứ 222 ở Anh tính đến năm 2022, với tổng tài sản trị giá 730 triệu bảng Anh (830 triệu USD). Năm 2022, tài sản cá nhân của bà trở thành đề tài tranh luận của giới truyền thông Anh trong bối cảnh bà không đăng ký thường trú, một thỏa thuận được coi là có lợi cho giới "siêu giàu". Murty sau đó tự nguyện từ bỏ các lợi ích tài chính từ tình trạng cư trú của mình. Cha bà là N. R. Narayana Murthy, người sáng lập công ty đa quốc gia Infosys, mẹ là Sudha Murty. Bà nắm giữ 0,93% cổ phần của Infosys, cùng với cổ phần tại một vài doanh nghiệp khác của Anh. Đầu đời và học vấn. Akshata Murty sinh vào tháng 4 năm 1980 tại Hubli, Ấn Độ, Murty được ông bà ngoại nuôi nấng khi cha bà N. R. Narayana Murthy và mẹ Sudha Murty làm việc để thành lập công ty công nghệ Infosys. Mẹ bà là nữ kỹ sư đầu tiên làm việc tại Tata Motors, nhà sản xuất ô tô lớn nhất Ấn Độ lúc đó, rồi trở thành một nhà từ thiện. Murty có một người em trai là Rohan Murty, cả hai lớn lên ở Jayanagar vùng ngoại ô của Bangalore. Ông bà ngoại của Murty là R. H. Kulkarni, một bác sĩ phẫu thuật, vợ ông Vimala Kulkarni là giáo viên. Thập niên 1990, Murty theo học Trường trung học Nữ sinh Baldwin ở Bangalore, đến năm 1998 theo học ngành kinh tế và tiếng Pháp tại Đại học Claremont McKenna ở California. Bà có bằng cấp về chế tạo quần áo của Học viện Thiết kế Thời trang Kinh doanh, và bằng MBA từ Đại học Stanford. Sự nghiệp kinh doanh. Năm 2007, Murty gia nhập công ty Tendris của Hà Lan khi là giám đốc marketing, bà công tác trong hai năm, trước khi thành lập công ty thời trang. Nhãn hiệu thời trang của bà dừng hoạt động vào năm 2012. Năm 2013, bà là giám đốc quỹ đầu tư mạo hiểm Catamaran Ventures. Bà cùng chồng Rishi Sunak đồng sáng lập, chi nhánh Luân Đôn của công ty Ấn Độ thuộc sở hữu của cha bà, N. R. Narayana Murthy. Sunak chuyển nhượng cổ phần cho vợ trước khi ông được bầu làm nghị sĩ Đảng Bảo thủ đại diện cho khu vực bầu cử Richmond vào năm 2015. Từ năm 2015, bà sở hữu 0,91% hoặc 0,93% cổ phần của công ty công nghệ Infosys, trị giá khoảng 700 triệu bảng Anh vào tháng 4 năm 2022, và có vốn trong hai nhà hàng kinh doanh của Jamie Oliver là Wendy's ở Ấn Độ và Koro Kids. Điều này khiến vợ chồng bà giàu hơn cả Nữ hoàng Elizabeth II kể từ tháng 4 năm 2022, và giàu hơn Vua Charles III từ tháng 10 năm 2022 (nếu chỉ tính tài sản cá nhân). Từ năm 2022, Murthy là giám đốc của Digme Fitness và Soroco, công ty chuyển đổi số do người em trai Rohan Murty đồng sáng lập. Murty là công dân Ấn Độ. Vào tháng 8 năm 2009, Murty kết hôn với Rishi Sunak, họ gặp nhau tại Đại học Stanford. Họ có hai con gái – Anoushka và Krishna. Cả hai là chủ Điền trang Kirby Sigston ở làng Kirby Sigston, Bắc Yorkshire, cũng như một ngôi nhà cải tạo từ chuồng ngựa ở Earl's Court ở trung tâm Luân Đôn, một căn hộ trên Đường Old Brompton, Nam Kensington và một căn hộ penthouse trên Ocean Avenue ở Santa Monica, California. Vào tháng 4 năm 2022, Sunak và Murty được cho là đã chuyển khỏi số 11 Phố Downing đến một ngôi nhà mới được trang hoàng lại ở Tây Luân Đôn. Vào tháng 4 năm 2022, tài sản của Murty trở thành tâm điểm tranh luận của giới truyền thông Anh khi tình trạng không đăng ký thường trú của bà ở Vương quốc Liên hiệp Anh, cho phép bà không phải trả thuế đối với thu nhập ngoài nước Anh, với khoản thanh toán hàng năm là 30.000 bảng Anh. Cuối tháng đó, Murty thông báo bà sẽ từ bỏ tình trạng không thường trú và tự nguyện nộp thuế đối với thu nhập trên toàn thế giới. Nếu Murty đóng thuế đối với thu nhập trên toàn thế giới của bà, nhưng vẫn là không nơi cư trú, bà được lợi từ một điều khoản trong hiệp ước năm 1956 tránh đánh thuế hai lần của công dân Ấn Độ cũng như Vương quốc Liên hiệp Anh.
Liên minh Thần thánh (1684) Liên minh Thần thánh (tiếng Latinh: "Sacra Ligua"; tiếng Anh: "Holy League") năm 1684 là một liên minh gồm các quốc gia châu Âu được thành lập trong Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ. Ra đời từ Hiệp ước Warszawa, liên minh được thành lập như một phương tiện để ngăn chặn sự bành trướng của Đế quốc Ottoman vào châu Âu. Sự hợp nhất này của một phần lớn quân đội châu Âu có thể dẫn đến những thành công quân sự chưa từng có, với những vùng đất rộng lớn đã được nhượng lại trước đây ở Morea, Dalmatia và Danubia trong cái được mệnh danh là "cuộc thập tự chinh thứ 14". Sự hình thành của Liên minh đã được công nhận là một bước ngoặt trong lịch sử Ottoman. Bằng cách buộc Đế chế đầu hàng nhiều lần, nó đã chuyển cán cân quyền lực ra khỏi Ottoman, dẫn đến sự hiện diện của Ottoman giảm dần ở châu Âu và sự giải thể sau đó của Liên minh vào năm 1699. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Hall of Fame Open 2023 Hall of Fame Open 2023 (còn được biết đến với Infosys Hall of Fame Open vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt nam chuyên nghiệp thi đấu trên mặt sân cỏ ngoài trời. Đây là lần thứ 47 giải đấu được tổ chức, và là một phần của ATP 250 trong ATP Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại International Tennis Hall of Fame ở Newport, Rhode Island, Hoa Kỳ, từ ngày 17 tháng 7 đến ngày 23 tháng 7 năm 2023. Vận động viên khác. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Radu Albot → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Christopher Eubanks → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Dominik Koepfer → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jason Kubler → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Michael Mmoh → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Yosuke Watanuki → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vận động viên khác. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Kevin Anderson / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Tommy Paul / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Christopher Eubanks / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Reese Stalder → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Rinky Hijikata / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Rinky Hijikata / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jason Kubler → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Théo Arribagé / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Marcelo Melo / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. John Peers → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Chung Yun-seong / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Adrian Mannarino đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Alex Michelsen, 6–2, 6–4 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Nathaniel Lammons / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jackson Withrow đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. William Blumberg / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Max Purcell, 6–3, 5–7, [10–5]
Hall of Fame Open 2023 - Đơn Adrian Mannarino là nhà vô địch, đánh bại Alex Michelsen trong trận chung kết, 6–2, 6–4. Maxime Cressy là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 1 trước Michelsen. 4 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Hall of Fame Open 2023 - Đôi William Blumberg và Steve Johnson là đương kim vô địch, nhưng Johnson chọn không tham dự giải đấu. Blumberg đánh cặp với Max Purcell, nhưng thua trong trận chung kết trước Nathaniel Lammons và Jackson Withrow, 3–6, 7–5, [5–10]. Blumberg có cơ hội giành 3 danh hiệu liên tiếp tại Newport với ba tay vợt khác nhau, nhưng thua trong trận chung kết. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Swiss Open Gstaad 2023 Swiss Open Gstaad 2023 (còn được biết đến với EFG Swiss Open Gstaad vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt nam thi đấu trên mặt sân đất nện ngoài trời. Đây là lần thứ 55 Giải quần vợt Thụy Sĩ Mở rộng được tổ chức, và là một phần của ATP Tour 250 trong ATP Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại Roy Emerson Arena ở Gstaad, Thụy Sĩ, từ ngày 17 đến ngày 23 tháng 7 năm 2023. Vận động viên khác. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Thua cuộc may mắn: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Félix Auger-Aliassime → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jiří Lehečka → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Denis Shapovalov → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jan-Lennard Struff → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Mikael Ymer → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vận động viên khác. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Mika Brunold / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Dominic Stricker / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Zizou Bergs / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Sriram Balaji / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jeevan Nedunchezhiyan → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Sriram Balaji / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Roberto Carballés Baena / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Luis David Martínez → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Zizou Bergs / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jamie Murray / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Michael Venus → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Boris Arias / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Petros Tsitsipas / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Sem Verbeek → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Arthur Rinderknech / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Pedro Cachin đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Albert Ramos Viñolas, 3–6, 6–0, 7–5 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Dominic Stricker / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Stan Wawrinka đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Marcelo Demoliner / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Matwé Middelkoop, 7–6(10–8), 6–2
Swiss Open Gstaad 2023 - Đơn Pedro Cachin là nhà vô địch, đánh bại Albert Ramos Viñolas trong trận chung kết, 3–6, 6–0, 7–5. Đây là danh hiệu đơn ATP Tour đầu tiên của Cachin. Casper Ruud là đương kim vô địch, nhưng chọn tham dự ở Båstad. 4 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Thua cuộc may mắn. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Trịnh Xuân Hoàng (sinh ngày 6 tháng 11 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam, chơi ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ V League 1 Đông Á Thanh Hóa. Sự nghiệp câu lạc bộ. Trịnh Xuân Hoàng được đôn lên từ đội trẻ Thanh Hóa vào giữa năm 2020 để thi đấu trong mùa giải 2020. Trận bắt chính đàu tiên của anh là trận ặp SHB Đà Nẵng ngày 6 tháng 7 năm 2020. Với sự non kinh nghiệm cũng như hàng thủ đội bóng chơi không thực sự tốt, anh để thủng lưới 3 bàn và đội thua tỉ số 0-3 trên san nhà. Sau đó là những lần ngồi dự bị và không được đăng kí. Anh được ra sân thêm 1 lần nữa vào ngày 31 tháng 10 năm 2022, vẫn là đội SHB Đà Nẵng và tiếp tục thủng lưới 3 bàn, nhưng lần này đội bóng có tỉ số hòa 3-3. Dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Petrovic và trợ lý năm 2021 và 2022, Hoàng thi đấu tròn vai và thể hiện được phẩm chất tốt của 1 thủ môn. Kết thúc mùa giải 2022, Xuân Hoàng thi đấu 5 trận trên mọi mặt trận và đạt huy chương đồng Cúp Quốc gia 2022 cùng đội bóng. Sang mùa giải 2023, Xuân Hoàng có tên trong danh sách đăng kí thi đấu của đội ngay từ đầu nhưng chưa được ra sân nhiều và chưa chiếm được lòng tin tưởng của huấn luyện viên mới Velizar Popov, 1 phần nữa là thủ thành Thanh Diệp thi đấu rất xuất sắc. Anh được ra sân từ vòng 8 sau khi thủ thành chính của đội là Thanh Diệp dính chấn thương sau khi vòng 7 kết thúc. Sự nghiệp quốc tế. Với thể hình, kỹ năng bắt bóng tốt, có tiềm năng để phát triển, HLV Park Hang Seo đã sớm gọi Xuân Hoàng lên đội tuyển U22 Việt Nam. Chuẩn bị cho SEA Games 31 và đặc biệt là vòng loại giải U23 châu Á 2022. Trận U23 Việt Nam thắng U23 Thái Lan 1-0 là lần đầu tiên thủ môn Trịnh Xuân Hoàng có cơ hội xuất phát ngay từ đầu do thủ môn số 1 Y Êli Niê không thể thi đấu do nhiễm Covid-19. Trong trận đấu này, thủ môn trẻ của Đông Á Thanh Hóa đã tỏa sáng rực rỡ trong màu áo U23 Việt Nam. Thủ môn Trịnh Xuân Hoàng đã truyền đi thông điệp xúc động khi chúc các đồng đội sớm chiến thắng dịch Covid-19. Cụ thể, anh đã khoe dòng chữ được viết trên áo: “Sớm khỏe nhé các đồng đội của tôi”, như lời động viên đầy cảm xúc đến các đồng đội đang phải cách ly điều trị Covid-19. "Tính đến 22 tháng 7 năm 2023" #Đổi Vô địch: 2023 #Đổi Hạng 3: 2022 #Đổi Vô địch: 2023
Swedish Open 2023 (còn được biết đến với Nordea Open vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt chuyên nghiệp thi đấu trên mặt sân đất nện ngoài trời. Giải đấu là một phần của ATP Tour 250 trong ATP Tour 2023 và WTA 125. Giải đấu diễn ra ở Båstad, Thụy Điển, từ ngày 10 đến ngày 15 tháng 7 năm 2023 (nữ), và từ ngày 17 đến ngày 23 tháng 7 năm 2023 (nam). Đây là lần thứ 75 (nam) và lần thứ 13 (nữ) giải đấu được tổ chức. Điểm và tiền thưởng. 1 Tiền thưởng vượt qua vòng loại cũng là tiền thưởng vòng 1/32br Nội dung đơn ATP. Vận động viên khác. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Tallon Griekspoor → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Aslan Karatsev → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Nội dung đôi ATP. Vận động viên khác. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Filip Bergevi / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Leo Borg / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Sergio Martos Gornés / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jaume Munar → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Victor Vlad Cornea / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ariel Behar / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Adam Pavlásek → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ariel Behar / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Hugo Nys / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jan Zieliński → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Diego Hidalgo / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Nội dung đơn WTA. Vận động viên khác. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Bảo toàn thứ hạng: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Lucia Bronzetti → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Léolia Jeanjean → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Sofia Kenin → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Nuria Párrizas Díaz → thay thế bởi Irina Khromacheva Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Kamilla Rakhimova → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Alison Riske-Amritraj → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Clara Tauson → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jil Teichmann → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Taylor Townsend → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Martina Trevisan → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Simona Waltert → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Andrey Rublev đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Casper Ruud, 7–6(7–3), 6–0 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Olga Danilović đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Emma Navarro 7–6(7–4), 3–6, 6–3 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Gonzalo Escobar / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Aleksandr Nedovyesov đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Francisco Cabral / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Rafael Matos, 6–2, 6–2 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Panna Udvardy đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Eri Hozumi / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jang Su-jeong 4–6, 6–3, [10–5]
Swedish Open 2023 - Đơn nam Andrey Rublev là nhà vô địch, đánh bại Casper Ruud trong trận chung kết, 7–6(7–3), 6–0. Francisco Cerúndolo là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng bán kết trước Rublev. 4 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Swedish Open 2023 - Đôi nam Rafael Matos và David Vega Hernández là đương kim vô địch, nhưng Vega Hernández chọn tham dự ở Gstaad. Matos đánh cặp với Francisco Cabral, nhưng thua trong trận chung kết trước Gonzalo Escobar và Aleksandr Nedovyesov, 2–6, 2–6. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Gustavo Sant'Ana Santos (sinh ngày 23 tháng 2 năm 1995), thường gọi là Gustavo, là một cầu thủ bóng đá người Brasil hiện tại thi đấu ở vị trí hậu vệ cho Đông Á Thanh Hóa. Sự nghiệp câu lạc bộ. Đông Á Thanh Hóa. Ngày 21 tháng 7 năm 2022, Gustavo gia nhập Đông Á Thanh Hóa trong nửa sau mùa giải 2022 V League 1. Anh thi đấu hầu hết các trận cho Thanh Hóa. Kết thúc mùa giải, anh thi đấu 14 trận và giành được huy chương đồng cúp Quốc gia 2022 cùng đội bóng. Cuối năm 2022, anh kí hợp đồng mới và tiếp tục thi đấu cho Đông Á Thanh Hóa. Mùa giải 2023, Gustavo là mảnh ghép không thể thiếu trong đội hình Thanh Hóa và tiếp tục được câu lạc bộ giữ lại. Anh thi đấu xông xáo năng nổ, thể hiện sức mạnh ở hàng thủ đội bóng xứ Thanh. Ngày 17 tháng 4 năm 2023, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ trong chiến thắng 5-3 trên sân nhà trước Hồng Lĩnh Hà Tĩnh. Ngày 22/7/2023 trong chiến thắng giòn giã 3-0 trước Hải Phòng, anh đã ghi được 1 cú đại bác không thể cản phá, khiến thủ môn Đình Triệu bó tay. Cho đến hiện tại anh đã có 4 bàn thắng sau 14 trận đá chính cho Thanh Hóa. Thống kê sự nghiệp. "Tính đến ngày 22 tháng 7 năm 2023" #Đổi Vô địch: 2023 #Đổi Hạng 3: 2022 #Đổi Vô địch: 2023
Swedish Open 2023 - Đơn nữ Jang Su-jeong là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 1 trước Rebecca Peterson. Olga Danilović là nhà vô địch, đánh bại Emma Navarro trong trận chung kết, 7–6(7–4), 3–6, 6–3. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Swedish Open 2023 - Đôi nữ Misaki Doi và Rebecca Peterson là đương kim vô địch, nhưng chọn không tham dự giải đấu. Irina Khromacheva và Panna Udvardy là nhà vô địch, đánh bại Eri Hozumi và Jang Su-jeong trong trận chung kết, 4–6, 6–3, [10–5]. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Budapest Grand Prix 2023 Budapest Grand Prix 2023 (tên chính thức là Hungarian Grand Prix) là một giải quần vợt nữ thi đấu trên mặt sân đất nện ngoài trời. Đây là lần thứ 21 giải đấu được tổ chức, và là một phần của WTA 250 trong WTA Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại Római Tennis Academy ở Budapest, Hungary, từ ngày 17 đến ngày 23 tháng 7 năm 2023. † Bảng xếp hạng vào ngày 3 tháng 7 năm 2023 Vận động viên khác. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Bảo toàn thứ hạng: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Thua cuộc may mắn: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Sorana Cîrstea → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Camila Giorgi → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Viktoriya Tomova → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Taylor Townsend → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. † Bảng xếp hạng vào ngày 3 tháng 7 năm 2023 Vận động viên khác. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Adrienn Nagy / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Rebeka Stolmár / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Kateryna Baindl, 6–3, 3–6, 6–0 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Katarzyna Piter / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Fanny Stollár đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jessie Aney / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Anna Sisková, 6–2, 4–6, [10–4]
Budapest Grand Prix 2023 - Đơn Maria Timofeeva là nhà vô địch, đánh bại Kateryna Baindl trong trận chung kết, 6–3, 3–6, 6–0. Timofeeva vô địch giải đấu trong lần đầu tham dự vòng đấu chính ở WTA Tour. Cô trở thành tay vợt thua cuộc may mắn đầu tiên giành một danh hiệu đơn WTA Tour sau Coco Gauff vào năm 2019 (là tay vợt thứ tư làm được), và là tay vợt đầu tiên giành một danh hiệu trong lần đầu tham dự tour sau Angelique Widjaja vào năm 2001. Bernarda Pera là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 1 trước Diana Shnaider. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Thua cuộc may mắn. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 – Khu vực châu Á (Vòng 4) Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 khu vực châu Á (vòng 4) được tổ chức vào ngày 8 tháng 10 và 12 tháng 10 năm 2005 giữa hai đội đứng thứ ba ở hai bảng tại vòng 3. Đội thắng cuộc ở vòng này sẽ đá play-off với đại diện đến từ CONCACAF (Trinidad và Tobago) để tranh tấm vé duy nhất dự FIFA World Cup 2006. Trận lượt đi ban đầu được diễn ra vào ngày 3 tháng 9 năm 2005 nhưng trận đấu đã được FIFA yêu cầu đá lại sau một sai lầm của trọng tài. Khi Uzbekistan dẫn trước 1–0, họ được hưởng một quả phạt đền nhưng trọng tài không công nhận bàn thắng và cho Bahrain một quả phạt gián tiếp vì phạm lỗi. Uzbekistan đã đề nghị được xử thắng 3–0 hoặc bắt đầu trận đá lại từ phút 39 khi họ đang dẫn 1–0 và được chơi hơn người. Tổng tỉ số là 1–1. Bahrain giành chiến thắng theo luật bàn thắng sân khách và sẽ gặp đại diện đến từ CONCACAF (Trinidad và Tobago) để tranh một tấm vé dự FIFA World Cup 2006.
Quốc lộ 46C là một tuyến quốc lộ thứ yếu nằm hoàn toàn trong địa phận tỉnh Nghệ An. Quốc lộ 46C dài 112 km, là đường cấp III-IV, với 2-4 làn xe, có điểm đầu tại phường Nghi Hải thuộc thị xã Cửa Lò, và điểm cuối tại xã Nam Sơn thuộc huyện Đô Lương. Tuyến đường trên đi qua các địa phương bao gồm: thị xã Cửa Lò, huyện Nghi Lộc, thành phố Vinh, huyện Hưng Nguyên, huyện Nam Đàn, huyện Thanh Chương, huyện Đô Lương. Tuyến đường cũng đi qua huyện lỵ của một số địa phương như: thị trấn Hưng Nguyên (huyện Hưng Nguyên), thị trấn Nam Đàn (huyện Nam Đàn), thị trấn Thanh Chương (huyện Thanh Chương), thị trấn Đô Lương (huyện Đô Lương). Dự án nâng cấp cầu treo sông Giăng. Quốc lộ 46C vượt sông Giăng qua cầu treo sông Giăng. Cây cầu này được khởi công xây dựng năm 1985 và đưa vào sử dụng năm 1987, có chiều dài 120 m, bề rộng 4 m. Sau nhiều năm sử dụng, cầu treo sông Giăng đã xuống cấp và dễ xảy ra tai nạn cho người dân. Sau đó, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã đề xuất xây dựng cầu cứng mới thay cho cầu treo, có tổng mức đầu tư khoảng 68 tỷ đồng để đáp ứng nhu cầu lưu thông cao qua khu vực trên.
Budapest Grand Prix 2023 - Đôi Katarzyna Piter và Fanny Stollár là nhà vô địch, đánh bại Jessie Aney và Anna Sisková trong trận chung kết, 6–2, 4–6, [10–4]. Ekaterine Gorgodze và Oksana Kalashnikova là đương kim vô địch, nhưng chọn không bảo vệ danh hiệu. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Lẽ thường, hay lương thức (tiếng Anh: Common sense) là phán đoán đúng đắn, thực tế liên quan đến các vấn đề hàng ngày hoặc vấn đề cơ bản để từ đó cách nhận thức, hiểu và phán đoán được gần như tất cả mọi người truyền đạt cho nhau. Sự hiểu biết hàng ngày về lẽ thường xuất phát từ cuộc thảo luận triết học lịch sử liên quan đến một số ngôn ngữ châu Âu. Các thuật ngữ liên quan trong các ngôn ngữ khác bao gồm tiếng Latinh "", tiếng Hy Lạp ("#đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. ") và tiếng Pháp "", nhưng đây không phải là cách dịch hợp lý trong mọi ngữ cảnh. Tương tự như vậy trong tiếng Anh, từ này có nhiều sắc thái nghĩa khác nhau, hàm ý ít nhiều liên quan đến học vấn và trí tuệ: "good sense" đôi khi được coi là tương đương với "common sense", đôi khi thì không. "Lẽ thường" có ít nhất hai ý nghĩa triết học cụ thể. Một là khả năng của linh hồn động vật (, #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. ) do Aristotle đề xuất để giải thích cách các ý thức khác nhau kết hợp với nhau và cho phép con người và các động vật khác phân biệt các đối tượng cụ thể. Lẽ thường này khác với tri giác giác quan cơ bản và lý tính của con người, nhưng có liên quan chặt chẽ với cả hai. Ý nghĩa triết học thứ hai của thuật ngữ này chịu ảnh hưởng của La Mã và được sử dụng cho sự nhạy cảm tự nhiên của con người đối với những người khác và cộng đồng. Giống như nghĩa thông thường, cả hai nghĩa này đều đề cập đến một loại nhận thức cơ bản và khả năng phán đoán mà hầu hết mọi người đều mong muốn truyền đạt một cách tự nhiên, ngay cả khi họ không thể giải thích tại sao. Tất cả những ý nghĩa của "lẽ thường", bao gồm cả những ý nghĩa hàng ngày, được kết nối với nhau trong một lịch sử phức tạp và đã phát triển trong các cuộc tranh luận chính trị và triết học quan trọng trong nền văn minh phương Tây hiện đại, đặc biệt là liên quan đến khoa học, chính trị và kinh tế. Sự tương tác giữa các ý nghĩa đã trở nên đặc biệt đáng chú ý trong tiếng Anh, trái ngược với các ngôn ngữ Tây Âu khác, và thuật ngữ tiếng Anh đã được quốc tế hóa. Kể từ Thời kỳ Khai Sáng, thuật ngữ "lẽ thường" đã được sử dụng để biện chứng cả về mặt tán thành, như một tiêu chuẩn cho gu thẩm mỹ tốt và nguồn gốc của các tiên đề khoa học và logic, và mặt không tán thành, tương đương với định kiến ​​và mê tín dị đoan. Vào đầu thế kỷ 18, thuật ngữ triết học cũ này lần đầu tiên có được nghĩa tiếng Anh hiện đại: "Những sự thật đơn giản, hiển nhiên hoặc trí tuệ thông thường mà người ta không cần sự phức tạp để nắm bắt và không cần bằng chứng để chấp nhận chính xác bởi vì chúng rất phù hợp với năng lực và kinh nghiệm trí tuệ cơ bản (common sense) của mọi mặt xã hội." Điều này bắt đầu với sự chỉ trích của Descartes đối với nó, và lẽ thường trở thành cái được gọi là tranh chấp giữa "chủ nghĩa duy lý" và "chủ nghĩa kinh nghiệm". Trong dòng mở đầu của một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất của ông, "Discourse on Method", Descartes đã thiết lập ý nghĩa hiện đại phổ biến nhất cùng những tranh cãi của lẽ thường, khi ông tuyên bố rằng mọi người đều có một mức độ thông thường tương tự nhau và đủ (), nhưng nó hiếm khi được sử dụng tốt. Do đó, cần phải tuân theo một phương pháp logic hoài nghi do Descartes mô tả và không nên quá tin tưởng vào lẽ thường. Trong thế kỷ 18 giữa Thời kỳ Khai Sáng, lẽ thường đã được nhìn nhận tích cực hơn như là cơ sở cho tư duy hiện đại. Nó trái ngược với siêu hình học, giống như thuyết Descartes, gắn liền với . Cuốn sách mang tính luận chiến "Common Sense" (1776) của Thomas Paine được mô tả là tác phẩm về chính trị có ảnh hưởng nhất trong thế kỷ 18, ảnh hưởng đến cả hai cuộc cách mạng Mỹ và Pháp. Ngày nay, khái niệm về lẽ thường, và cách sử dụng nó tốt nhất, vẫn được liên kết với nhiều chủ đề lâu đời nhất trong tri thức luận và luân lý học, đặc biệt tập trung vào lĩnh vực triết học của khoa học xã hội hiện đại.
Hakan Şükür (; sinh ngày 1 tháng 9 năm 1971) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thổ Nhĩ Kỳ thi đấu ở vị trí tiền đạo cắm. Có biệt danh là "Bò mộng Bosphorus" và "Kral" (vua), ông đã dành phần lớn sự nghiệp chuyên nghiệp của mình với Galatasaray, ba lần "Gol Kralı" (Goal King, danh hiệu và giải thưởng được trao cho cầu thủ ghi bàn hàng đầu hàng năm của Süper Lig), đại diện cho câu lạc bộ trong ba giai đoạn khác nhau và giành được tổng cộng 14 danh hiệu lớn. Şükür đã đại diện cho Thổ Nhĩ Kỳ tổng cộng 112 lần, ghi được 51 bàn thắng, trở thành cầu thủ ghi bàn hàng đầu của quốc gia và hạng 19 thế giới vào thời điểm ông giải nghệ. Là một trong những tiền đạo ghi nhiều bàn thắng nhất trong kỷ nguyên hiện đại, ông đã ghi 383 bàn thắng trong suốt sự nghiệp cấp câu lạc bộ của mình cũng như bàn thắng nhanh nhất từ trước đến nay tại World Cup, vào năm 2002. Ông đã giã từ bóng đá vào năm 2008. Trong cuộc Tổng tuyển cử năm 2011, ông được bầu làm nghị sĩ Istanbul cho Đảng Công lý và Phát triển. Ông đã từ chức khỏi đảng vào tháng 12 năm 2013, để phục vụ với tư cách là chính khách độc lập. Ông bị truy nã ở Thổ Nhĩ Kỳ kể từ tháng 8 năm 2016 vì là thành viên của phong trào Gülen và đã sống lưu vong ở Hoa Kỳ từ giữa năm 2016. Sự nghiệp quốc tế. Şükür có lần đầu tiên khoác áo Thổ Nhĩ Kỳ trong trận giao hữu với Luxembourg vào tháng 3 năm 1992 – trận ra mắt của ông được trao bởi huấn luyện viên người Đức Sepp Piontek – ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên trong trận đấu tiếp theo, trước Đan Mạch, và ghi tổng cộng sáu bàn trong 11 lần ra sân đầu tiên. Ông ghi bảy bàn vòng loại cho UEFA Euro 1996 và đá chính tất cả các trận tại vòng chung kết ở Anh, trong đó họ bị loại ở vòng bảng mà không ghi nổi một bàn thắng nào. Şükür đã ghi tám bàn tại vòng loại cho FIFA World Cup 1998: một nửa số đó trong chiến thắng 6–4 trên sân nhà trước Wales vào ngày 20 tháng 8 năm 1997, nhưng Thổ Nhĩ Kỳ đã không lọt vào vòng play-off. Tại Euro 2000, ông ghi hai bàn cho đội vào tứ kết, trong chiến thắng 2–0 ở vòng bảng trước đội đồng chủ nhà Bỉ. Tại FIFA World Cup 2002, được tổ chức tại Hàn Quốc và Nhật Bản, Şükür đã ghi một bàn cho Thổ Nhĩ Kỳ trong bảy trận đấu, khi đội tuyển quốc gia kết thúc ở vị trí thứ ba. Vào ngày 29 tháng 6, anh ghi bàn thắng nhanh nhất chưa từng có tại FIFA World Cup, vào lưới Hàn Quốc 10,8 giây trong trận play-off tranh hạng ba, mà Thổ Nhĩ Kỳ đã giành chiến thắng 3–2. Trong số 112 lần ra sân cấp cao của ông, Şükür đeo băng đội trưởng Thổ Nhĩ Kỳ ở tuổi ba mươi. Sau khi xuất hiện ở một số Vòng loại Euro 2008, đáng chú ý là ghi bốn bàn vào lưới Moldova trong chiến thắng 5–0 trước Frankfurt, Đức, ông không được chọn vào vòng chung kết, trận đấu cuối cùng của ông là trận thua 0–1 trên sân nhà trước Hy Lạp ở tuổi 36 (17 tháng 10 năm 2007). Şükür có nguồn gốc Albania. Cha mẹ anh đều là người nhập cư từ Nam tư, cha ông sinh ra ở Pristina, và mẹ ông ở Skopje. Họ của ông được đánh vần là "Shykyr" trong tiếng Albania. Người vợ đầu tiên của ông, Esra Elbirlik, kết hôn với ông trong một buổi lễ được truyền hình trực tiếp, được khởi xướng bởi Thủ tướng Tansu Çiller và được thực hiện bởi Thị trưởng Istanbul Recep Tayyip Erdoğan. Cặp đôi ly hôn sau bốn tháng, Elbirlik và gia đình cô ấy chết trong trận động đất ở İzmit năm 1999. Şükür có ba người con với người vợ thứ hai, Beyda. Năm 2010, sân vận động bóng đá Sancaktepe được đặt theo tên ông. Vào tháng 4 năm 2014, tên của ông lại bị xóa. Vào ngày 18 tháng 6 năm 2011, Şükür đã được bầu làm nghị sĩ quốc hội vào Hội nghị Đại quốc dân Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc Tổng tuyển cử năm 2011, từ Đảng Công lý và Phát triển (AKP), đại diện cho khu vực bầu cử thứ 2 của Tỉnh Istanbul. Vào ngày 16 tháng 12 năm 2013, Şükür, được biết đến với mối liên hệ với phong trào Gülen Hồi giáo của giáo sĩ Thổ Nhĩ Kỳ Fethullah Gülen, đã từ chức để phản đối sau sự ngăn cấm của hệ thống "dershane" của nhóm, và quyết định tiếp tục làm việc với tư cách là một nghị sĩ độc lập. Sau đó, ông tiếp tục làm chuyên gia bóng đá cho Tập đoàn Phát thanh và Truyền hình Thổ Nhĩ Kỳ. Truy tố và đày ải. Vào tháng 2 năm 2016, Şükür bị buộc tội xúc phạm tổng thống Recep Tayyip Erdoğan trên Twitter. Vào tháng 8, lệnh bắt giữ ông được ban hành vì ông bị buộc tội là thành viên của phong trào Gülen, được chỉ định là một tổ chức khủng bố ở Thổ Nhĩ Kỳ. Şükür trốn khỏi Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng 11 năm 2017, sống lưu vong ở San Francisco, California và dự định trở thành chủ nhà hàng ở Palo Alto. Ông bỏ nghề vì "người lạ cứ vào bar". Vào tháng 1 năm 2020, Şükür nói với "Welt am Sonntag" của Đức rằng ông đang làm tài xế Uber và bán sách ở Hoa Kỳ. Ông cũng nói rằng nhà cửa, cơ sở kinh doanh và tài khoản ngân hàng của ông ở Thổ Nhĩ Kỳ đã bị chính phủ tịch thu. Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ dường như vẫn rất nhạy cảm với chủ đề này. Vào tháng 12 năm 2022 trong buổi phát sóng của TRT của trận đấu World Cup giữa Canada và Maroc, bình luận viên Alper Bakircigil đã bình luận về bàn thắng ở phút thứ tư của Hakim Ziyech về kỷ lục do Şükür nắm giữ, người đã ghi bàn thắng nhanh nhất trong lịch sử World Cup với 10,8 giây, trong trận tranh hạng ba với Hàn Quốc tại World Cup 2002. Anh ta đã bị loại khỏi chương trình phát sóng vào giờ nghỉ giữa hiệp và bị đuổi việc vào cuối ngày hôm đó. Các tài khoản tin tức suy đoán rằng việc anh bị sa thải là do chủ của anh ta (TRT do nhà nước điều hành) phản ứng với việc nhắc đến cái tên này.
Internazionali Femminili di Palermo 2023 Internazionali Femminili di Palermo 2023 (or Palermo Ladies Open) là một giải quần vợt nữ chuyên nghiệp thi đấu trên mặt sân đất nện ngoài trời. Đây là lần thứ 31 giải đấu được tổ chức và là một phần của WTA Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại "Country Time Club" ở Palermo, Ý, từ ngày 17 đến ngày 23 tháng 7 năm 2023. Vận động viên khác. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Thua cuộc may mắn: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Anna-Lena Friedsam → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Elizabeth Mandlik → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Alycia Parks → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Elina Svitolina → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ajla Tomljanović → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Anna-Lena Friedsam / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Arantxa Rus → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Nigina Abduraimova / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ankita Raina / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Prarthana Thombare → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Sara Errani / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Zheng Qinwen đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jasmine Paolini, 6–4, 1–6, 6–1 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Kimberley Zimmermann đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Angelica Moratelli / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Camilla Rosatello, 6–2, 6–4
Sàn là bề mặt dưới của một căn phòng hoặc phương tiện di chuyển. Sàn có thể thay đổi từ đất trống đơn giản trong một hang động đến các bề mặt nhiều lớp được làm bằng công nghệ hiện đại. Sàn có thể là đá, gỗ, tre, kim loại hoặc bất kỳ vật liệu nào khác có thể chịu được tải trọng dự kiến. Các tầng của một tòa nhà thường được gọi là các tầng, mặc dù đôi khi cũng được gọi là tầng. Thường thì sàn bao gồm một lớp nền để hỗ trợ và một lớp phủ sàn được sử dụng để tạo ra bề mặt đi bộ tốt. Trong các tòa nhà hiện đại, lớp nền thường có dây điện, ống nước và các dịch vụ khác được tích hợp. Vì sàn phải đáp ứng nhiều nhu cầu, trong đó có những yêu cầu về an toàn, các sàn được xây dựng tuân thủ các mã xây dựng nghiêm ngặt ở một số khu vực. Tư liệu liên quan tới
Internazionali Femminili di Palermo 2023 - Đơn Zheng Qinwen là nhà vô địch, đánh bại Jasmine Paolini trong trận chung kết, 6–4, 1–6, 6–1. Đây là danh hiệu đơn WTA Tour đầu tiên của Zheng, và cô là tay vợt Trung Quốc đầu tiên vô địch nội dung đơn tại Palermo. Irina-Camelia Begu là đương kim vô địch, nhưng cô chọn tham dự giải WTA 125 ở Iași. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Thua cuộc may mắn. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Internazionali Femminili di Palermo 2023 - Đôi Anna Bondár và Kimberley Zimmermann là đương kim vô địch, nhưng Bondár chọn tham dự ở Budapest. Zimmermann đánh cặp với Yana Sizikova và bảo vệ thành công danh hiệu, đánh bại Angelica Moratelli và Camilla Rosatello trong trận chung kết, 6–2, 6–4. Đây là danh hiệu đôi thứ 3 liên tiếp của Zimmermann ở Palermo. Hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng tứ kết. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Pokémon Horizons: The Series (Tiếng nhật: ポケットモンスター リコとロイの旅立 "Tiếng Anh: Liko and Roy's Departure") dịch sang tiếng Việt là "Cuộc hành trình của Liko và Roy" là phần thứ 8 của series Pokémon được hé lộ lần đầu vào ngày 16 tháng 12 năm 2023, sau đó được giới thiệu qua trailer vào tháng 3 năm 2023 và chính thức phát sóng tại Nhật Bản trên TV Tokyo vào ngày 14 tháng 4 năm 2023. Phim được thực hiện bởi Saori Den, với Daiki Tomiyasu là giám đốc sáng tạo, Tetsuo Yajima là giám đốc hành động và Dai Satō giám sát kịch bản. Thiết kế nhân vật do Rei Yamazaki phụ trách, âm nhạc do Conisch sáng tác, biên tập âm thanh là và Akane Yamago, những người thay thế Ryōko Nashimoto, Bessatsu CoroCoro Comic và Gakushu Yochien không còn được công nhận là nhà xuất bản, còn Junichi Masuda và Ken Sugimori không còn được công nhận là người sáng tạo. Đây được coi là phần series Pokémon đầu tiên không còn sự xuất hiện của nhân vật chính Satoshi cùng với Pikachu kể từ phần đầu tiên cho đến phần , thay vào đó là Liko và Roy, những người hợp tác với Rising Volt Tacklers, một nhóm các nhà thám hiểm khám phá thế giới Pokémon và ghé thăm nhiều khu vực khác nhau, bao gồm cả vùng đất Paldea, được giới thiệu trong phần trò chơi Scarlet và Violet. Trong hành trình, họ bị truy đuổi bởi Explorers, một tổ chức bí ẩn đang tìm kiếm mặt dây chuyền của Liko mà không rõ lý do. Phiên bản lồng tiếng Anh hiện đã được phát sóng vào tháng 12 năm 2023 trên BBC iPlayer và CBBC tại Anh. Bộ phim cũng sẽ được phát sóng phiên bản đó vào tháng 2 năm 2024 trên nền tảng Netflix tại Mỹ, kênh 9Go! tại Australia và tháng 3 năm 2024 trên kênh truyền hình Cartoon Network và Télétoon tại Canada. Ngoài ra, bộ phim cũng có phiên bản lồng tiếng Hàn vào tháng 8 năm 2023 trên kênh truyền hình Tooniverse và KBS Kids tại Hàn Quốc. Ở phiên bản Tiếng Nhật, nhạc mở đầu của phim là ドキメキダイアリー, "Dokimeki Daiarī" (Tiếng Việt: "Nhật ký thót tim") của asmi kết hợp với Chinozo. Nhạc kết thúc của phim là RVR〜ライジングボルテッカーズラップ〜 , "RVR: Raijingu Borutekkāzu Rappu" (Tiếng Việt: "RVR: Rap Voltackers vang lên" ), là một bài hát do Suzuki Minori thực hiện trong vai Liko,do Yuka Terasaki trong vai Roy thể hiện. Từ tập 26 trở đi, nhạc mở đầu phim là ハロ, "Haro" (Tiếng Việt: "Hào Quang") của yama kết hợp với BotchiBoromaru, trong khi nhạc kết thúc của phim là phần thứ 2 của bài hát RVR〜ライジングボルテッカーズラップ〜 , "RVR: Raijingu Borutekkāzu Rappu" (Tiếng Việt: "RVR: Rap Voltackers vang lên" ). Ở phiên bản Tiếng Anh, nhạc mở đầu phim là Becoming Me (Tiếng Việt: "Trở thành chính mình") được thể hiện bởi Haven Paschall và Ed Goldfarb. Còn phiên bản Tiếng Hàn, nhạc mở đầu phim là bài We Go (Tiếng Việt: "Chúng ta cùng tiến lên") do nhóm nhạc aespa thể hiện.Tuy nhiên thì cả phiên bản Tiếng Hàn và tiếng Anh đều cùng sử nhạc kết thúc là bài hát RVR〜ライジングボルテッカーズラップ〜 , "RVR: Raijingu Borutekkāzu Rappu" (Tiếng Việt: "RVR: Rap Voltackers vang lên" ) như phiên bản Tiếng Nhật.
Ván sàn là thuật ngữ chung cho một lớp phủ cố định của một sàn, hoặc cho công việc lắp đặt một lớp phủ sàn như vậy. Lớp phủ sàn là một thuật ngữ để mô tả chung bất kỳ vật liệu hoàn thiện nào được áp dụng lên cấu trúc sàn để cung cấp một bề mặt đi lại. Cả hai thuật ngữ đều được sử dụng có thể thay thế cho nhau nhưng lớp phủ sàn thường chỉ đến các vật liệu rải lỏng. Vật liệu hầu như luôn được phân loại là sàn bao gồm thảm, gỗ công nghiệp, gạch, và vinyl. Sàn dưới lớp sàn được gọi là sàn dưới, nơi cung cấp sự hỗ trợ cho lớp sàn. Có các loại sàn dưới đặc biệt như sàn nổi, sàn nâng hoặc sàn nhảy có thể được lắp đặt trên một sàn dưới khác cung cấp độ cứng vững cấu trúc. Sàn dưới ở mức dưới mặt đất (dưới lòng đất) hoặc sàn tầng trệt trong các toà nhà không có tầng hầm thường có sàn dưới bằng bê tông. Sàn dưới ở mức trên mặt đất (trên mặt đất) thường có sàn dưới bằng gỗ dán. Lựa chọn vật liệu cho lớp phủ sàn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như chi phí, độ bền, cách âm, sự thoải mái, và công sức làm sạch. Một số loại sàn không được lắp đặt dưới mặt đất, bao gồm gỗ công nghiệp và gỗ tự nhiên do tiềm năng hư hỏng từ độ ẩm. Sàn dưới có thể được hoàn thiện theo cách mà nó có thể sử dụng mà không cần công việc thêm, xem: Thảm là một loại sàn mềm được làm từ sợi thảm buộc lại hoặc sợi đóng ghim. Thảm chỉ đến việc lót từ tường này sang tường kia, trong khi thảm lớn chỉ được sử dụng để che một không gian. Loại sàn này thường được sử dụng trong nhà và có thể được sử dụng ở cả khu vực lưu lượng lớn và thấp. Nó thường kéo dài 15-18 năm trước khi cần được thay thế. Chất lượng của một thảm thường được đo bằng trọng lượng mặt, hoặc có bao nhiêu sợi trên mỗi inch vuông. Trọng lượng mặt càng cao thì thảm càng mềm mại. Thảm có nhiều loại vật liệu khác nhau bao gồm len, nylon, olefin và polyester. Có các loại thảm khác nhau như thảm xoắn, thường được gọi là berber. Thảm xoắn được làm từ nhiều sợi xoắn được đặt vào lớp lót thảm. Nó thường được sử dụng ở khu vực lưu lượng thấp. Một loại thảm khác là thảm vòng, được làm từ sợi vòng được đặt vào lớp lót thảm. Loại thảm này thường được sử dụng ở khu vực lưu lượng lớn vì nó dễ dàng làm sạch. Có bốn chiều rộng phổ biến cho thảm: 6' rộng, 12' rộng, 13'6" rộng, và 15' rộng. Phương pháp lắp đặt. Hiện nay, có hai hình thức chính để lắp đặt thảm: lắp đặt không cần đinh và lắp đặt bằng keo trực tiếp. Lắp đặt không cần đinh xảy ra khi thanh đinh được lắp đặt xung quanh viền của một căn phòng và thảm được căng qua lớp đệm lên những thanh đinh đó để giữ nó ở vị trí. Trước phương pháp lắp đặt này, thảm được gắn đinh vào toàn bộ lắp đặt bằng ghim, do đó phương pháp mới được gọi là lắp đặt "không cần đinh"; vì bạn không còn cần móng tay ở giữa sàn. Lắp đặt bằng keo trực tiếp xảy ra khi bạn thoa keo đặc biệt cho thảm lên bề mặt và sau đó cuốn thảm lên lớp keo để giữ nó ở vị trí. Lớp lót dưới thảm. Lớp đệm có thể được đặt dưới thảm để tăng thêm sự thoải mái và cung cấp một ít cách âm. Mức độ thoải mái phụ thuộc vào loại vật liệu sử dụng, có thể bao gồm bọt nhớ và cao su tái chế. Lớp lót dưới thảm được đánh giá theo mật độ tính bằng đơn vị pound. Ví dụ, bạn có thể mua một lớp đệm thảm với đánh giá mật độ 8 pound, sẽ mềm hơn so với lớp đệm thảm có đánh giá mật độ 10 pound. Lớp đệm mềm hơn sẽ mang lại cảm giác đi trên thảm tốt hơn, nhưng có thể giảm độ bền của thảm đặt lên trên nó. Mật độ càng cao, thảm càng bền. Có nhiều loài gỗ khác nhau được chế tạo thành sàn gỗ với hai hình thức chính: sàn ván và đan chéo. Gỗ cứng thường bền hơn nhiều so với gỗ mềm. Gỗ tái chế có một diện mạo độc đáo và được sử dụng trong Xây dựng xanh|công trình xây dựng xanh (tiêu chuẩn môi trường). Khả năng dẫn nhiệt của sàn gỗ cứng thấp hơn so với sàn gỗ dán ép. Sàn gỗ kỹ thuật có một lớp gỗ cứng mỏng ở phía trên với lõi composite. Đây có thể là một lựa chọn giá rẻ hơn so với việc mua sàn gỗ thật, nhưng không thể mài và sơn lại được. Loại sàn này thường được lắp đặt bằng phương pháp khóa chặt. Sàn gỗ tre là một loại sàn được sản xuất từ cây tre và không phải là loại sàn gỗ. Tre được biết đến với tính bền và thân thiện với môi trường. Nó có sẵn trong nhiều mẫu, màu sắc và kết cấu khác nhau. Có ba loại cấu trúc sàn gỗ tre: cắt ngang, cắt dọc và dệt sợi tre. Dệt sợi tre là loại cứng nhất và bền nhất trong ba loại này. Sàn nhựa bằng vật liệu sản xuất từ phụ phẩm của cây sồi nhựa (cork oak tree). Sàn nhựa được xem là thân thiện với môi trường vì vỏ cây sồi nhựa được lột mỗi chín đến mười năm và không gây hại cho cây. Sàn nhựa có dạng dạng viên gạch và thanh, có thể cần keo hoặc không cần keo khi lắp đặt. Độ bền và cứng của gỗ cứng được xác định bởi hệ thống xếp hạng gọi là thang đo độ cứng Janka. Thang đo Janka là lượng PSI cần thiết để nhúng một quả bóng thép vào gỗ cứng. Càng cần nhiều PSI để làm điều đó, gỗ càng cứng. Laminate là một loại vật liệu lót sàn giống như gỗ cứng nhưng được làm từ lõi gỗ dán hoặc sợi gỗ trung bình ("MDF") với lớp phủ nhựa laminate trên cùng. Laminate HDF bao gồm sợi gỗ mật độ cao được phủ bởi một hoặc nhiều lớp giấy trang trí và một lớp bảo vệ trong suốt. Laminate có thể bền hơn gỗ cứng, nhưng không thể tái tạo như gỗ cứng. Sàn laminate có sẵn trong nhiều họa tiết khác nhau, có thể giống các loại gỗ khác nhau hoặc thậm chí gạch men. Nó thường được khóa hoặc gõ vào nhau. Cần có lớp đệm dưới sàn laminate để kiểm soát độ ẩm và tiếng ồn. Phương pháp lắp đặt phổ biến cho sàn laminate là lắp đặt nổi, có nghĩa là sàn được kết nối với nhau để hình thành hệ thống sàn liên kết và không được gắn vào sàn phụ, có nghĩa là nó có thể "nổi" trên nhiều loại sàn khác nhau. Điều này bao gồm các loại sàn hiện có như gạch men và sàn gỗ cứng. Đây là phương pháp lắp đặt linh hoạt nhất vì nó có thể được đặt trên bất kỳ chất nền nào miễn là nó bằng phẳng. Hybrid kết hợp những đặc điểm tốt nhất của cả laminate và vinyl để tạo ra một sàn nổi cứng có thể được lắp đặt trên toàn bộ ngôi nhà. Hybrid được làm từ nhiều lớp vật liệu được ép chung lại với nhau để tạo ra một sàn cực kỳ bền. Sàn cứng (không nên nhầm lẫn với "gỗ cứng") là một nhóm các vật liệu lót sàn bao gồm bê tông hoặc xi măng, gạch sứ, gạch kính, và các sản phẩm đá tự nhiên. Gạch sứ là sản phẩm từ đất sét được tạo thành dạng gạch mỏng và nung cháy. Gạch sứ được đặt trên lớp vữa hoặc chất kết dính với các đường nối giữa các viên gạch được trám. Các loại gạch sứ bao gồm gạch đá mỏ, gạch sứ, gạch đất nung. Nhiều loại đá tự nhiên khác nhau được cắt thành nhiều kích thước, hình dạng, và độ dày khác nhau để sử dụng làm sàn. Phương pháp lắp đặt sàn đá tương tự như gạch sứ. Đá phiến và đá cẩm thạch là các loại sàn đá phổ biến cần được đánh bóng và dùng chất kết dính. Các hạt đá dùng trong xây dựng, như Terrazzo, cũng có thể được sử dụng thay vì đá cắt thô và có sẵn dưới dạng viên gạch đã được tạo hình hoặc được xây dựng ngay tại chỗ bằng vữa xi măng. Gạch sứ có thể được sử dụng thay cho đá tự nhiên. Đây là một vật liệu gốm giống như gạch; tuy nhiên, nó thường có độ dày và thường có dạng hình vuông với kích thước . Bê tông mài bóng. Sàn bằng bê tông hoặc xi măng cũng được sử dụng vì khả năng của nó được xử lý để tạo cảm giác khác nhau và độ bền của nó, chẳng hạn như bê tông mài bóng. Việc tái tạo bề mặt sàn bằng epoxy được sử dụng để cập nhật hoặc nâng cấp bề mặt sàn bê tông trong các ứng dụng thương mại và nhà ở - xem mục sàn polymer liền mạch phía dưới. Sàn gạch nổi, còn được gọi là sàn gạch mô-đun, bao gồm một loạt các sản phẩm gạch sứ và gạch men có thể được lắp đặt mà không cần sử dụng keo hoặc vữa. Nói chung, gạch được chỉnh sửa với các kích thước chính xác, và được kết nối với một cơ sở liên kết. Một số sản phẩm yêu cầu sử dụng vữa linh hoạt và một số sản phẩm khác có một dải vữa tích hợp. Những lợi ích bao gồm tốc độ lắp đặt, sự dễ dàng sử dụng, khả năng tái sử dụng, và chi phí thấp so với việc sử dụng các phương pháp lắp đặt gạch truyền thống. Khác với gạch men và đá, được làm từ khoáng chất, sàn dẻo được làm từ các vật liệu có độ đàn hồi nhất định, tạo cho sàn có một mức độ linh hoạt gọi là độ dẻo dai. Các bề mặt biểu diễn dùng cho múa hoặc thể thao thường được làm từ gỗ hoặc sàn dẻo. Sàn dẻo bao gồm nhiều sản phẩm khác nhau bao gồm linoleum, vinyl dạng tấm, gạch vinyl tổng hợp (VCT), nút cây (dạng tấm hoặc gạch), và cao su. Sàn vinyl có sẵn dưới dạng tấm lớn hoặc gạch đã cắt sẵn; loại trước là dẻo dai. Một số sản phẩm có keo đã được dán sẵn cho việc lắp đặt dạng b peel-and-stick, trong khi những sản phẩm khác yêu cầu keo phải được phết lên bề mặt nền. Hai loại cơ bản của gạch vinyl là vinyl nguyên chất (sản phẩm với nội dung vinyl hoặc chất kết dính cao hơn 34%) và vinyl tổng hợp (sản phẩm với nội dung vinyl hoặc chất kết dính thấp hơn 34%), và ba loại cơ bản của sàn vinyl dạng tấm là đồng nhất, inlaid, và lớp phức hợp. Những loại sàn vinyl này khác nhau về quá trình sản xuất và nội dung, nội dung vinyl (polyvinyl chloride) dao động từ 11% đến 55%. Các sản phẩm sàn dẻo, như PVC và polypropylene đang trở nên phổ biến hơn trong các ứng dụng đặc biệt như sàn của xe tải và sàn garage. Cũng có các ứng dụng mới xuất hiện cho sàn tàu biển. Có những yếu tố quan trọng cần xem xét trong các ứng dụng đặc biệt, có thể không có trong ứng dụng tiêu chuẩn. Ví dụ, một số loại lốp xe sẽ để lại dấu trên sàn PVC nhưng những dấu vết đó sẽ kém rõ rệt hơn trên các sản phẩm polypropylene. Keo dính cũng thay đổi dựa trên ứng dụng. Sàn polymer liền mạch. Có nhiều loại vật liệu sàn liền mạch khác nhau có sẵn, từ polymer latex tự khô cho tới nhựa tự cứng thermoset resin như urethane, polyaspartic và epoxy không tan trong nước, trong dung môi hoặc không dung môi. Khi được áp dụng dưới dạng lỏng, khi cho phép khô và/hoặc cứng để tạo ra lớp phủ sàn hoàn toàn liền mạch. Chúng được sử dụng trong các tình huống từ bảo vệ đơn giản sàn garage gia đình, tới việc phục hồi và bảo vệ sàn thương mại và công nghiệp. Chúng cũng được sử dụng để giải quyết một loạt các vấn đề trong công nghiệp như các khu vực ẩm trong phòng thí nghiệm hoặc nhà máy chế biến thực phẩm, nơi các chất tràn như dầu và mỡ có xu hướng dễ dàng hấp thụ và/hoặc khó làm sạch. Lý do khác để phủ bê tông bằng sàn nhựa tổng hợp là để cải thiện khả năng chống hóa chất, tăng cường khả năng chống va đập và mài mòn, và vì mục đích ngoại hình thẩm mỹ. Sàn polymer liền mạch có thể có nhiều hình thức: Chúng thường có các hạt cơ bản hoặc các hạt cao su được thêm vào để tạo độ bám tốt hơn/kháng trượt trên các lối đi và bậc thang, đặc biệt là ở các khu vực thường xuyên được rửa, và cho độ bám tốt hơn/kháng trượt trên các làn đi. Sàn bền vững được sản xuất từ các vật liệu bền vững hơn (và thông qua các quy trình bền vững hơn) giảm yêu cầu đối với các hệ sinh thái trong suốt chu kỳ đời của nó. Có một số tính năng đặc biệt có thể được sử dụng để trang trí hoặc cung cấp các dịch vụ hữu ích cho sàn:
Mafalda của Castilla sinh ra tại Plasencia, là người con thứ bảy và là con gái thứ năm của Alfonso VIII của Castilla và Eleanor của Anh. Năm 1204, Vương nữ đính hôn với Vương tử Fernando của León (qua đời năm 1214), con trai của Alfonso IX của León. Hôn ước giữa Mafalda và Fernando không thành vì Vương nữ đã qua đời vào năm 1204 tại Salamanca. Mafalda được chôn cất tại Tu viện Thánh María la Real de Las Huelgas ở Burgos. Trên bia mộ của Mafalda có khắc dòng văn bia rằng: "AQUÍ YACE DOÑA MAFALDA, HIJA DE ALFONSO VIII Y DE LA REINA DOÑA LEONOR Y HERMANA DE DOÑA BERENGUELA, QUE FINÓ EN SALAMANCA POR CASAR, EN 1204". Vương tử Pedro de Castilla, Lãnh chúa xứ Cameros cũng được chôn cất trong cùng một gian với Mafalda.
María Isabel của Tây Ban Nha Vương nữ Tây Ban Nha. María Isabel là con gái thứ 5 và là người con thứ 11 của Carlos IV của Tây Ban Nha và María Luisa của Parma. Sự ra đời của María Isabel trùng với thời điểm sủng thần của mẹ vương nữ là Manuel Godoy, lên nắm quyền ở Tây Ban Nha. Có tin đồn trong triều đình cho rằng María Isabel không phải là con gái Quốc vương Tây Ban Nha mà là của cận thần Godoy trẻ tuổi, người đã trở thành thủ tướng Tây Ban Nha vào năm 1792. Tuổi thơ của Vương nữ trùng hợp với khoảng thời gian diễn ra các sự kiện của cuộc cách mạng Pháp và bất ổn chính trị ở Tây Ban Nha. Là người con gái út còn sống sót trong một gia đình đông con, María Isabel được cả cha mẹ cưng chiều và tiếp nhận một nền giáo dục sơ sài. María Isabel cùng với các thành viên khác trong gia đình được Francisco Goya họa trong bức chân dung "Carlos IV của Tây Ban Nha và Gia đình của Ngài" vào khoảng thời gian từ năm 1800–1801. Vào tháng 12 năm 1800, Lucien Bonaparte đã đến Tây Ban Nha với tư cách là đại sứ mới của Pháp. Thông qua Lucien, Vương hậu María Luisa đã ngỏ lời lập hôn ước giữa María Isabel với Napoléon Bonaparte vào tháng 4 năm 1801. Lúc đó Ngài Đại Lãnh sự Napoléon đã kết hôn với Joséphine de Beauharnais được hai năm, nhưng có ý kiến cho rằng Napoléon nên ly hôn với Joséphine để cưới một vương nữ mang dòng máu vương giả. Napoléon không coi trọng Vương tộc Borbón và có một nhận xét (một cách riêng tư) rằng: "Nếu tôi phải tái hôn, tôi sẽ để ý đến một gia tộc đổ nát cho hậu duệ của mình". Nóng lòng tìm kiếm ngai vàng cho con gái, vào mùa xuân năm 1801, mẹ của María Isabel muốn gả vương nữ với người anh họ bên nội là Công tước xứ Calabria, Vương tử Francesco của Napoli và Sicilia, đã có vợ là Maria Klementine Josepha của Áo, khi đó vẫn còn sống, nhưng đã qua đời vì bệnh lao vào tháng 11 năm đó. Ý tưởng này đến từ nhà ngoại giao Pháp Alquier, người từng là đại sứ ở Madrid và Napoli. Kế hoạch của Alquier là đưa Vương quốc Napoli, một đồng minh của Anh và thù địch với Pháp, vào liên minh Tây Ban Nha-Pháp mới thành lập bằng cách gắn kết hai bên Tây Ban Nha và Napoli thông qua cuộc hôn nhân kép. Trong đó, María Isabel và người anh cả Fernando, Thân vương xứ Asturias, sẽ kết hôn với anh em họ của hai anh em là: Maria Antonia của Napoli và Sicilie và Francesco, Công tước xứ Calabria. Maria Karolina của Áo, Vương hậu Napoli, người căm ghét nước Pháp và không tin tưởng vào sự thiện chí của Tây Ban Nha đối với Napoléon, đã phản đối mối hôn sự này. María Isabel bấy giờ mới được mười hai tuổi và ngay cả khi vào thời điểm đó các vương nữ thường kết hôn khi còn rất trẻ thì việc kết hôn ở độ tuổi của María Isabel vẫn là điều không bình thường. Nhưng cuộc hôn nhân của María Isabel được lý giải là để đảm bảo việc nối lại quan hệ thân thiết giữa Tây Ban Nha và Napoli một cách nhanh chóng vào thời điểm đặc biệt quan trọng đối với các triều đình châu Âu, đang gặp khó khăn với chính sách bành trướng của Napoléon. Thỏa thuận của hai cuộc hôn nhân được ký kết tại Aranjuez vào tháng 4 năm 1802. Vào ngày 6 tháng 7 năm 1802 tại sinh nhật thứ mười ba, María Isabel kết hôn ủy nhiệm tại Madrid với người em họ 25 tuổi Francesco, do đó trở thành kế phối của Francesco. Anh trai vương nữ là Fernando đứng trong lễ đường thay mặt cho chú rể. Vương thất Tây Ban Nha đã đến Barcelona vào ngày 13 tháng 8. Hai cặp đôi trực tiếp kết hôn vào ngày 4 tháng 10 trước sự hiện diện của Francesco và em gái Maria Antonia. Các lễ hội kéo dài đến ngày 12 tháng 10 khi María Isabel, gọi theo tên Ý "là Maria Isabella", rời Barcelona đến Napoli. Vương thái tử phi. Maria Isabella không tạo được ấn tượng tốt khi đến triều đình Napoli. Cả bốn cô con gái của Carlos IV (Carlota Joaquina, María Amalia, María Luisa và María Isabel) đều thấp bé và không đơn điệu. Không giống như các chị gái của mình, María Isabel có những đường nét phổ biến, nhưng trông trẻ hơn so với tuổi mười ba của tân vương phi. María Isabel được mô tả là "nhỏ bé và tròn như một quả bóng". Mẹ chồng của vương nữ, Vương hậu Maria Karolina, rất thân thiết với người vợ đầu tiên của con trai, người đồng thời cũng là cháu gái gọi cô của Maria Karolina. Maria Karolina có ấn tượng ban đầu không tốt về nàng dâu trẻ María Isabel và đã viết rằng: Khi chỉ mới mười lăm tuổi, María Isabel đã hạ sinh con gái đầu lòng Luisa Carlotta tại Portici vào ngày 24 tháng 10 năm 1804. María cũng có một người con chồng là Vương nữ Carolina, được dự tính sẽ kết hôn với Charles Ferdinand xứ Artois, Công tước xứ Berry (con trai thứ hai của Charles X của Pháp). Cuộc đời của María Isabel chịu nhiều ảnh hưởng sâu sắc bởi những hành động của Napoléon. Lo sợ cho ngai vàng của mình, Quốc vương Ferdinando tham gia Liên minh thứ ba chống lại Napoléon Bonaparte. Quân đội của Napoléon đã đánh bại quân đội đồng minh trong Trận Austerlitz vào tháng 12 năm 1805 và quân đoàn của Napoli tại Campo Tenese. Sau những chiến thắng này, lực lượng của Napoléon đã chiếm đóng Napoli vào năm 1806 và Hoàng đế Pháp đã trao ngai vàng của Vương quốc Napoli cho anh trai Joseph Bonaparte, và bốn năm sau đó cho em rể Joachim Murat. María Isabel, cùng với các thành viên còn lại của vương thất, phải chạy trốn từ Napoli đến Sicilia vào tháng 2 năm 1806. Bất chấp những nỗ lực liên tiếp của Murat nhằm xâm chiếm hòn đảo, Ferdinando và Maria Karolina vẫn giữ được địa vị và quyền lực của họ ở Sicilia dưới sự bảo vệ của quân đội Anh, nhưng sẽ không thể thách thức quyền kiểm soát của Pháp đối với lục địa Ý. Quyền lực thực sự ở Sicilia do Lãnh chúa William Bentinck, chỉ huy quân đội Anh trên đảo nắm giữ. Quốc vương do đó dành thời gian đẻ săn bắn trong những năm kế tiếp và chỉ xuất hiện ở Palermo khi cần thiết. Năm 1812, Francesco, chồng của María Isabel, được bổ nhiệm làm nhiếp chính. María Isabel không tham gia vào các chính sự phức tạp của Sicilia của triều đình Napoli đang lưu vong ở Palermo. Francesco xung đột với tầng lớp quý tộc bản địa, những người phản đối các loại thuế mới nhằm tài trợ cho cuộc chiến chống Pháp và đòi quyền tự trị ở mức độ cao. Vương hậu Maria Karolina thì bị đày về Áo vào năm 1813 và qua đời tại quê nhà vào năm 1814. Công tước phu nhân xứ Calabria. Năm 1815, dưới sự bảo hộ của Áo, Ferdinando trở lại Napoli. Ferdinando đã bãi bỏ hiến pháp của Sicilia và hợp nhất hai vương quốc Napoli và Sicilia thành Vương quốc Hai Sicilie vào năm 1816, phong cho con trai Francesco danh hiệu Công tước xứ Calabria với tư cách là người thừa kế của vương quốc mới. Vì phục vụ với tư cách là trung úy ở Sicilia (1815–20), Francesco và María Isabel vẫn ở Sicilia và hiếm khi đến thăm Napoli. Dù rời Tây Ban Nha từ rất sớm nhưng María Isabel vẫn gắn bó với gia đình và quê hương. Vào mùa thu năm 1818, María Isabel đến thăm cha mẹ đang sống lưu vong ở Roma. Đức nữ vẫn ở với mẹ lúc Vương hậu María Luisa qua đời vào tháng 1 năm 1819. María Isabel có vai trò quan trọng trong việc lựa chọn hôn nhân của triều đình Napoli cho các con gái, trong đó bốn (trong số sáu) người đã kết hôn với các thành viên vương thất Tây Ban Nha. Cuộc hôn nhân đầu tiên trong số đó diễn ra vào tháng 4 năm 1819 giữa con gái cả của Bà Công tước là Luisa Carlotta và em trai của María Isabel là Francisco de Paula của Tây Ban Nha, do đó Francisco de Paola là chồng cũng như là cậu của Luisa Carlotta. Trong những năm khó khăn này, María Isabel liên tục hoài thai. Trong khoảng thời gian chưa đầy hai năm, vương nữ đã sinh chín người con ở Palermo. Cuối cùng, María Isabel đã trở lại Napoli cùng chồng vào tháng 7 năm 1820. Bố chồng của vương phi, Quốc vương Ferdinando I của Hai Sicilie giờ đã hoàn toàn thần phục Áo; một người Áo là Bá tước Nugent trở thành tổng tư lệnh quân đội. Trong bốn năm tiếp theo, bố chồng của María Isabel trị vì như một quân chủ chuyên chế, không đưa ra cải cách hiến pháp nào. Trong thời kỳ này, María Isabel có thêm hai người con sinh ra ở Napoli. Vương hậu Hai Sicilie. Quốc vương Ferdinando I của Hai Sicilie qua đời vào ngày 4 tháng 1 năm 1825, do đó chồng của María Isabel trở thành tân Vương và bản thân María Isabel trở thành Vương hậu. Francesco I, lúc này đã 47 tuổi, là một người đàn ông to lớn; thiện chí; có sở thích đơn giản và quan tâm đến nông nghiệp hơn là chính trị. Nông nghiệp là hoạt động ưa thích của nhà vua. Francesco I được giáo dục tốt hơn cha mình, nhưng lại có tuổi, tính cách và thể chất thì yếu ớt. Ngay từ đầu, Francesco I đã cư xử rất khác so với vị vương tử tự do khi còn là người thừa kế và triều đại ngắn ngủi của quốc vương về cơ bản là theo thể chế cũ. Mặc dù ghen tị với quyền lực của thủ tướng Luigi de' Medici (1759 - 1830), nhà vua vẫn giao chính quyền cho thủ tướng. Một người hầu cận của nhà vua, Michelangelo Viglia, và Caterina de Simone, thị tùng của Vương hậu, quản lý hộ gia vương thất và khiếnc cho nạn tham nhũng tràn lan. Với vai trò mới là vương hậu, María Isabel không có tham vọng cũng như không quan tâm đến chính quyền để có thể hỗ trợ cho người chồng hiền lành của mình. Ba mươi bốn tuổi và là mẹ của mười hai đứa con, khi đó vương hậu vẫn đang cho chăm sóc cho con trai mình là Bá tước xứ Aquila mới sinh vào năm ngoái. Có dáng người mập mạp từ khi còn trẻ, nhiều năm sinh nở đã khiến Vương hậu phát tướng. María Isabel là người phù phiếm, trẻ con nhưng tốt bụng. Vương hậu yêu thích nhà hát, vũ hội và các lễ hội công cộng. Với tính cách đơn giản và hào phóng, María Isabel được yêu mến hơn chồng. Cặp vợ chồng được bảo vệ bởi quân đội, luôn sợ hãi về khả năng nổ ra một cuộc cách mạng. An ninh của hai vợ chồng được đảm bảo bởi quân đội Áo đang đóng quân tại Napoli, nhưng chi phí cho quân đội là gánh nặng cho ngân khố nhà nước và là nguyên nhân chính dẫn đến mức nợ công cao. Theo lời khuyên của Luigi de' Medici, Francesco I và María Isabel mang theo đứa con trai một tuổi là Bá tước xứ Aquila đến Milano vào tháng 5 năm 1825 để giảm lượng binh lính. Sau một thỏa thuận giữa Medici và đại sứ Áo là Bá tước Karl Ludwig von Ficquelmont, Quốc vương và Vương hậu trở về Napoli vào ngày 18 tháng 7. Quân đội Áo giảm xuống còn 12.000 người, bắt đầu từ cuối năm và khởi hành vào tháng 2 năm 1827. Người bạn tâm tình thường trực của Vương hậu là cô con gái thứ hai Maria Christina, người cũng có sở thích tán tỉnh như mẹ mình. Maria Christina đã ngoài hai mươi tuổi và cha mẹ vương nữ rất mong muốn tìm được một người chồng vương gia cho con gái. Cơ hội đến khi anh trai của María Isabel, Ferdinand VII của Tây Ban Nha, đột nhiên lâm vào cảnh góa vợ vào tháng 5 năm 1829. Con gái lớn của Maria Isabel, hiện là Infanta Luisa Carlota, đã nhanh chóng sắp xếp cuộc hôn nhân giữa em gái và bác của hai chị em. Fernando VII đã mời em gái và anh rể cùng con gái họ đến dự đám cưới ở Madrid. Francesco I bị bệnh gút và sức khỏe giảm sút, nhưng María Isabel lại nóng lòng về thăm cố hương sau 27 năm xa cách. Vương hậu thuyết phục chồng thực hiện chuyến đi dài ngày đến Tây Ban Nha. Con trai cả của họ, Vương tử Ferdinando, Công tước xứ Calabria được giao vai trò nhiếp chính trong thời gian Quốc vương và Vương hậu vắng mặt. Di chuyển bằng đường bộ, đoàn người Hai Sicilie khởi hành đến Tây Ban Nha vào ngày 28 tháng 9 năm 1829. Trên đường đi, họ đến thăm Giáo hoàng Piô VIII ở Roma. Tại Grenoble, hai vợ chồng gặp lại Vương nữ Maria Carolina, hiện là Công tước phu nhân xứ Berry, bản thân Công tước phu nhân cũng rất vui khi gặp lại cha mẹ sau mười ba năm. Khi đến Tây Ban Nha, hôn lễ được cử hành vào ngày 25 tháng 1 năm 1830. Trên đường trở về, hai vợ chồng lại lần nữa đoàn tụ với Bà Công tước xứ Berry, người đã giới thiệu cha mẹ với đứa con trai mới sinh là Henri xứ Artois, Công tước xứ Bordeaux, tại Chambord . María Isabel và chồng đến Paris, nơi họ được tiếp đãi bởi Quốc vương Charles X của Pháp. Vào tháng 6, Quốc vương và Vương hậu rời Genova đến Napoli vào ngày 30 tháng 7. Sau khi trở về, sức khỏe của nhà vua xấu đi nhanh chóng. Francesco I qua đời ngày 8 tháng 11 năm 1830. Sau cái chết của chồng, con trai cả của María Isabel trở thành Quốc vương Ferdinando II của Hai Sicilie. María Isabel không hề hay biết rằng bản thân là đối tượng của một âm mưu do Thân vương Vincenzo Ruffo xứ Scaletta và Peter Ugo, Hầu tước xứ Favare dựng nên. Mục tiêu của họ là đưa María Isabel trở thành nhiếp chính phòng kìm hãm quyền lực người con trai bảo thủ của Vương hẫu hậu trong ít nhất vài năm. Âm mưu bị phát hiện và ngay lập tức bị tân vương trẻ dập tắt. Ferdinando II khi đó mới 20 tuổi. Mặc dù nhút nhát và ít nói, Ferdinando II tràn đầy nhiệt huyết hơn hẳn cha và ông của mình và thực hiện nghĩa vụ của mình với tư cách là một vị vua một cách nghiêm túc hơn. Mối quan hệ giữa María Isabel và Ferdinando II vốn lạnh nhạt. Thái hậu dành sự ưa thích rõ rệt cho người con trai thứ hai Carlo Ferdinando, Thân vương xứ Capua, người hướng ngoại hơn và cũng sự phù phiếm với María Isabel. Trong những năm đầu góa bụa, María Isabel vẫn còn trẻ, tràn đầy sức sống và tương đối xinh đẹp, dù tình trạng béo phì ngày càng gia tăng. Được bao quanh bởi những người ngưỡng mộ, Thái hậu có cảm tình với những cận thần đẹp trai và trẻ trung hơn mình. Theo tin đồn ở triều đình, María Isabel đã có người trong lòng. Hành vi của vương mẫu hậu khiến đức bà trở thành mục tiêu dễ dàng cho những lời phỉ báng và khiến Ferdinando II bực tức. María Isabel rất tốt với con dâu Maria Cristina của Sardegna, người đã kết hôn với Ferdinando II vào ngày 21 tháng 11 năm 1832. Tân hậu đã giúp cho quốc vương và vương hậu hàn gắn lại mối quan hệ. Năm 1835, María Isabel bắt đầu mối quan hệ tình ái với Nam tước Peter von Schmuckher, một sĩ quan người Áo đã có gia đình. Mối quan hệ của họ rất sóng gió. Tuy nhiên, khi vợ của Schmuckher qua đời vào năm 1837, thái hậu đã có ý định kết hôn với Peter. Khi nam tước đầy tham vọng tuyên bố muốn hưởng kính xưng và đặc quyền của một "Vương thân Điện hạ" như một điều kiện để kết hôn với thái hậu, María Isabel đã từ chối và nhờ con trai xử lý tên người tình cũ. Ferdinando II đã trục xuất Schmuckher khỏi Napoli vào tháng 1 năm 1838. Những năm sau này. Vào tháng 1 năm 1836, María Isabel trở thành mẹ đỡ đầu cho cháu trai Francesco, Công tước xứ Calabria . Vào tháng 3 cùng năm, Carlo Ferdinando, Thân vương xứ Capua có một cuộc hôn nhân bất đăng đối. María Isabel đã cầu xin cho đứa con trai yêu của mình, nhưng những nỗ lực của vương mẫu hậu để xin ân xá cho Carlo Ferdinando đều không có kết quả. Ferdinando II đã không tha thứ cho em trai mình: Carrlo Ferdinando phải sống lưu vong vĩnh viễn ở Anh, và María Isabel không bao giờ gặp lại con trai nữa. Khi María Isabel quyết tâm tái hôn, con trai Ferdinando II đã đưa cho mẹ mình một danh sách tên các quý tộc trẻ của vương quốc để Thái hậu lựa chọn. Hai lựa chọn đầu tiên của María Isabel do dự và Vương mẫu hậu ấy đã rút lại lời cầu hôn của mình. Cuối cùng thì María Isabel đã chọn Francesco, Bá tước dal Balzo dei Duchi di Presenzano (1805–1882), một trung úy trẻ đẹp trai xuất thân từ một gia đình quý tộc cổ xưa nhưng nghèo khó. Cuộc hôn nhân của họ diễn ra một cách riêng tư vào ngày 15 tháng 1 năm 1839. Vương mẫu hậu lúc này đã 50 tuổi và chú rể được 34. Các cặp vợ chồng không có con với nhau. Hai vợ chồng từ giã triều đình Napoli và chuyển đến Cung điện Capodimonte. Bi kịch ập đến với Thái hậu khi vào tháng 1 năm 1843, Antonio Pasquale, Bá tước xứ Lecce, con trai thứ tư của María Isabel bị giết. Con trai thứ năm của thái hậu, Luigi Carlo, Bá tước xứ Aquila, theo nghiệp hải quân. Vào tháng 7 năm 1843, vương tử đến Brasil khi Teresa Cristina, con gái út của María Isabel, kết hôn với Hoàng đế Pedro II của Brazil. Năm 1845, để giữ ngai vàng Tây Ban Nha trong tay Vương tộc Borbón, Louis-Philippe I của Pháp đã đưa ra ý tưởng về một cuộc hôn nhân giữa con trai út của María Isabel là Francesco di Paola, Bá tước xứ Trapani, người ban đầu được hướng đến đời sống thánh hiến, với Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha, cháu ngoại của María Isabel. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đã không thành hiện thực. Trong cuộc khủng hoảng chính trị vào cuối năm 1847, con trai của María Isabel là Leopoldo Beniamino, Bá tước xứ Syracuse và em chồng là Leopoldo Giovanni, Thân vương xứ Salerno, đã vận động ủng hộ các cải cách tự do một cách vô ích. Do tính cách niềm nở và hào phóng đối với người nghèo, María Isabel vẫn là một nhân vật được yêu mến cho đến cuối đời. María Isabel qua đời vào ngày 13 tháng 9 năm 1848 ở tuổi 59. Francesco I và María Isabel rất hợp nhau và Francesco I đối xử tốt với vợ. Hai người có mười hai người con, sáu gái và sáu trai:
Taiheiki (太平記 (Đại Bình Ký), Taiheiki) (nghĩa đen: Biên niên sử hòa bình vĩ đại) là một sử thi lịch sử của Nhật Bản (xem thêm thể loại "gunki monogatari") được viết vào cuối thế kỉ 14 và nội dung của nó bao trùm lên các sự kiện diễn ra trong khoảng thời gian từ năm 1319 đến năm 1367. Giai đoạn lịch sử cốt lõi trong tác phẩm này là thời kỳ Nam - Bắc triều, thời kì giao chiến giữa phe Bắc triều thuộc về Ashikaga Takauji ở Kyoto, và phe Nam triều của Thiên hoàng Go-Daigo tại Yoshino. Bản dịch tiếng Anh mới nhất chứa 12 chương trong tổng số 40 chương sử thi, và thời gian trong tác phẩm được đánh dấu bởi lễ đăng cơ của Thiên hoàng Go-Daigo vào năm 1318 (khi ấy Takauji vẫn là một chư hầu cấp thấp trong gia tộc Hōjō thuộc Mạc phủ Kamakura ), tới khoảng thời gian Takauji mưu phản nhà Hōjō, Thiên hoàng Go-Daigo bị phế truất và bị Takauji đày ải vào năm 1333, cho đến khi Thiên hoàng trở về Kyoto năm 1338. Khác với những bậc tiên đế đi trước, Thiên hoàng Go-Daigo đã tìm cách thay thế quyền lực của các "shōgun", và bắt đầu nắm thực quyền bên cạnh việc trị vì trên danh nghĩa. Đây cũng chính là nguyên do dẫn đến hàng loạt các cuộc nội chiếc xảy ra sau đó, cả trên phương diện chính trị lẫn quân sự, cộng với việc gia tộc Fujiwara vốn nắm quyền phụ chính cho Hoàng thất sau khi gia tộc Hōjō ngã ngựa cũng tìm cách duy trì sức ảnh hưởng. Nói chung, hầu hết các trận đánh, những thủ đoạn chính trị, và những thứ khác được phát triển qua thời gian đều được diễn tả trong "Taiheiki". Ý nghĩa lịch sử. Những trận đánh được thể hiện trong tác phẩm có giá trị lịch sử vô cùng lớn vì đã dẫn đến sự suy vong của phe Nam triều thuộc dòng dõi Hoàng gia Nhật, đây vẫn được coi là điều hợp pháp cho đến tận bây giờ. Mặc dù những thành viên thuộc phe Bắc triều bị nhận định là những kẻ ngụy Hoàng gia, song ta cũng không thể phủ nhận sự tồn tại của họ cũng chính là quy luật tất yếu của lịch sử. Một trong những hậu duệ của dòng dõi Nam triều, Kumazawa Hiromichi, sau Đệ nhị thế chiến đã tự xưng mình là Thiên hoàng của Nhật Bản, gọi Thiên hoàng lúc bấy giờ là một kẻ giả mạo vì toàn bộ dòng dõi của Nhật hoàng Hirohito đều đến từ dòng dõi Hoàng gia Bắc triều. Tuy vậy, Kumazawa đã không bị bắt vì "tội khi quân" vì ông ta đã có trong tay quyển koseki mô tả chi tiết mối quan hệ huyết thống của mình với Thiên hoàng Go-Daigo ở Yoshino. Cuối cùng, Kumazawa chỉ có thể thu được sự đồng cảm từ phía dư luận mà không thể tạo ra bất kỳ sự thay đổi chính trị nào. Giống như hầu hết các tác phẩm sử thi khác của Nhật Bản, văn phong trong sử thi "Taiheiki" được nhận xét là mang khuynh hướng kịch tính và cường điệu, nhưng tính chính xác của nó lại được đánh giá cao. Nó là nguồn tư liệu tham khảo chính về các cuộc chiến thời bấy giờ, cũng như ghi lại các yếu tố dẫn đến sự sụp đổ của một gia tộc hùng mạnh và có tầm quan trọng trong lịch sử như gia tộc Hōjō. Ảnh hưởng đến văn hóa. Một câu nói của võ sĩ Kusunoki Masashige trong "Taiheiki" (về việc "ngài ấy ước rằng mình có thể tái sinh bảy lần để chiến đấu cho Thiên hoàng một cách tốt hơn") đã trở nên nổi tiếng trong giới dân tộc chủ nghĩa Nhật Bản vào thế kỷ 19 và 20 và những truyền thuyết về vị võ sĩ ấy đã trở thành một hình mẫu lý tưởng để họ noi theo. Tác phẩm "Taiheiki" đã được chuyển thể thành phim taiga vào năm 1991 do NHK sản xuất. Bộ phim được chú ý nhờ miêu tả Ashikaga Takauji như một tác nhân góp phần cải cách và chống lại suy đồi trong gia tộc Hōjō, chứ không phải là một kẻ phản quốc như các nhà sử học Nhật Bản thường nhìn nhận.
Hạt Phủ doãn Tông tòa Ulaanbaatar Hạt Phủ doãn Tông tòa Ulaanbaatar (; ) là một Hạt Đại diện Tông tòa (lãnh thổ truyền giáo tiền giáo phận) của Giáo hội Công giáo Rôma tại Mông Cổ và phụ trách toàn bộ lãnh thổ nước này. Nhà thờ chính tòa của Hạt Phủ doãn Tông tòa là Nhà thờ chính tòa Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, nằm tại thủ đô Ulaanbaatar của Mông Cổ. Hạt Phủ doãn Tông tòa chịu sự quản lí trực tiếp từ Tòa Thánh và không trực thuộc một giáo tỉnh nào. Vào ngày 28/8/2016, Đức ông Wenceslao Padilla đã tấn phong cho linh mục người Mông Cổ bản địa đầu tiên của Hạt Phủ doãn Tông tòa. Các chủng sinh khác hiện tại đang tu trì tại Hàn Quốc. Đến năm 2014, Hạt Phủ doãn Tông tòa có 919 giáo dân (0,03% trong dân số 3.227.000) trên diện tích 1,564,120 km2 với 6 giáo xứ và giáo hội với 17 linh mục (14 linh mục dòng và 3 linh mục triều), 61 giáo dân có đời sống tín ngưỡng (43 nữ, 18 nam) và 2 chủng sinh.