text
stringlengths
82
354k
Lê Thị Bằng Hương thường được biết đến với nghệ danh Việt Hương là nữ đạo diễn âm nhạc và phim tài liệu người Việt Nam. Lê Việt Hương có tên đầy đủ là Lê Thị Bằng Hương sinh năm 1966, quê gốc Phú Diễn, Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Bố là nhạc sĩ Lê Việt Hòa, mẹ là một giáo viên. Việt Hương theo học đàn tam thập lục, khoa Nhạc cụ truyền thống ở Nhạc viện Hà Nội từ năm 1979 đến 1984. Khi nhạc sĩ Lê Việt Hòa sáng tác nhạc phim "Chốt tiền tiêu" mà chưa tìm được ca sĩ thể hiện ca khúc "Mùa xuân biên cương" của phim; ông đã chọn Việt Hương thể hiện. Giọng hát của Việt Hương được nhạc trưởng Đình Hùng đánh giá tốt, sau đó bà trở thành ca sĩ của Nhà hát Ca múa nhạc trung ương. Từ năm 1984, Việt Hương được biết đến qua sóng phát thanh với ca khúc "Hoa sim biên giới" (sáng tác năm 1979) của nhạc sĩ Minh Quang. Vì muốn được đạo diễn các video âm nhạc nên bà học thêm ngành điện ảnh. Trước khi tốt nghiệp, Việt Hương gặp được nhạc sĩ Thụy Kha và đọc được kịch bản phim ca nhạc "Tìm về những bài ca Hoàng Quý". Bà dựng phim theo kịch bản này và giành được Huy chương bạc Liên hoan truyền hình toàn quốc. Năm 1998, Việt Hương tiếp tục làm phim tài liệu về nhạc sĩ Hoàng Quý với tựa đề "Người viết Cảm Tử Quân"; bộ phim sau đó giành giải Bông sen Bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 12. Nhận thấy có ít phim nói về các nhạc sĩ của phong trào tân nhạc Việt Nam, Việt Hương nảy ra dự định làm thêm một phim tài liệu về chủ đề này. Năm 2000, Việt Hương tốt nghiệp khoa Đạo diễn Điện ảnh của Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội. Sau thành công của phim tài liệu "Người viết Cảm tử quân", bà được nhận vào làm đạo diễn âm nhạc cho Ban Văn nghệ, Đài Truyền hình Việt Nam. Năm 2003, Việt Hương tiếp tục học và tốt nghiệp Đạo diễn truyền hình tại Học viện Báo chí Tuyên truyền. Việt Hương là nữ đạo diễn duy nhất tham gia chương trình VTV – Bài hát tôi yêu lần thứ 2 và lần thứ 3; bà trở thành nữ đạo diễn đầu tiên có được giải thưởng của chương trình này khi MV "Mùa thu giấu em" do bà đạo diễn đã vào top 10 video được khán giả bình chọn của chương trình lần thư 3. Năm 2008, tốt nghiệp Thạc sỹ nghệ thuật Điện ảnh Truyền hình - Trường Đại học Sân khấu điện ảnh. Năm 2009, sau 10 năm tích lũy tư liệu, tích lũy vốn nghề cùng sự hỗ trợ của nhạc sĩ Thụy Kha, bà mới bắt tay thực hiện được bộ phim "Thuở bình minh tân nhạc". Bộ phim giành được giải Cánh diều vàng năm 2010 và Huy chương vàng tại Liên hoan truyền hình toàn quốc 2009. Năm 2012 bà đạo diễn chương trình âm nhạc "Gần lắm Trường Sa" giành Huy chương vàng lại Liên hoan truyền toàn quốc. Việt Hương đã kịp hoàn thành các cảnh quay của chương trình này để về đất liền dự lễ và nhận danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú. Năm 2019, Việt Hương được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân. Bà được bầu làm Phó chủ tịch Hội Điện ảnh Hà Nội từ năm 2022.
Ladies Open Lausanne 2023 - Đơn Elisabetta Cocciaretto là nhà vô địch, đánh bại Clara Burel trong trận chung kết, 7–5, 4–6, 6–4. Đây là danh hiệu WTA Tour đầu tiên của Cocciaretto. Petra Martić là đương kim vô địch, nhưng chọn không bảo vệ danh hiệu. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Thua cuộc may mắn. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Ladies Open Lausanne 2023 - Đôi Anna Bondár và Diane Parry là nhà vô địch, đánh bại Amina Anshba và Anastasia Dețiuc trong trận chung kết, 6–2, 6–1. Olga Danilović và Kristina Mladenovic là đương kim vô địch, nhưng chọn không bảo vệ danh hiệu. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Helltaker là một trò chơi phiêu lưu, giải đố, độc lập với các yếu tố mô phỏng hẹn hò miễn phí được thiết kếvà tạo ra bởi nhà phát triển trò chơi người Ba Lan Łukasz Piskorz, còn được biết đến với biệt danh là "vanripper". Trò chơi được phát hành vào tháng 5 năm 2020 cho Microsoft Windows, macOS và Linux, với phần mô tả là: "một trò chơi ngắn về những nữ quỷ ăn mặc sặc sỡ." Người chơi tiến hành một loạt các cấp độ giải đố với mục tiêu cuối cùng là tiếp cận một nữ quỷ, trả lời câu hỏi của cô ấy một cách thích hợp và đưa cô ấy vào hậu cung quỷ của người chơi. Mỗi giai đoạn giải đố bao gồm việc đẩy đá và lính xương xung quanh một lưới hai chiều từ trên xuống, giống như trò chơi "Sokoban" trong khi vẫn giữ trong giới hạn lượt đã định sẵn, đồng thời tránh bẫy gai và thu thập các vật phẩm quan trọng. Sau khi đạt được mục tiêu, nữ quỷ trong cấp độ cụ thể đó sẽ đặt một câu hỏi trong đó người chơi phải suy ra câu trả lời đúng dựa trên tính cách của cô ấy và một câu trả lời sai có thể dẫn đến một kết thúc tồi tệ như cái chết và đưa người chơi trở lại đầu cấp độ đầu tiên. Cấp độ trùm cuối bao gồm các cơ chế giống như Địa Ngục theo từng giai đoạn tương ứng trên màn hình. Được kể lại bởi Beelzebub, cốt truyện theo sau nhân vật người chơi, chỉ được biết đến với cái tên "The Helltaker", khi anh ta xuống Địa Ngục, để có thể có được một hậu cung quỷ. Khi trò chơi tiếp diễn, hậu cung ngày càng trở nên hỗn loạn, với việc Helltaker thừa nhận rằng tất cả những gì anh ta có thể cung cấp là "cà phê, chiến lược và bánh kếp sô-cô-la". Cấp độ cuối cùng, "Phần kết", cho thấy hậu cung trên Trái Đất, với một trong hai kết thúc; "Kết thúc thông thường" trong đó Helltaker mở cửa trước của ngôi nhà để cảnh sát bên ngoài và "Kết thúc Abysstaker" trong đó Helltaker mở một cánh cổng bằng cách sử dụng ba phiến đá, trên mỗi phiến đá có ghi một loạt các bước di chuyển mà người chơi phải di chuyển theo ở giữa tấm thảm nằm trong nhà của Helltaker trong phần kết. Người chơi có thể thu thập chúng trong ba giai đoạn trong trò chơi chính. Vanripper đã đăng truyện tranh trên tài khoản Twitter của mình, nó thường diễn ra trước "Phần kết" cũng như một số truyện tranh diễn ra sau "Kết thúc Abysstaker". Một gói cấp độ, được gọi là "Examtaker", bao gồm các cấp độ chơi khó hơn và phần tiếp theo của một trong các phần truyện tranh đã được phát hành vào năm 2021 để kỷ niệm một năm trò chơi ra đời. Łukasz Piskorz, được biết đến với biệt danh trên Twitter là "vanripper", đã tự mình phát triển toàn bộ trò chơi trong khoảng thời gian ước tính một năm và là giám đốc của trò chơi này. Theo Piskorz, Helltaker phần nào gợi nhớ đến loạt trò chơi điện tử "Leisure Suit Larry", vì các nhân vật chính của cả hai trò chơi đều có những đặc điểm gợi nhớ đến nhau. Trò chơi có thể được chơi miễn phí và đi kèm với một cuốn sách nghệ thuật và công thức làm bánh kếp, những cuốn sách này cũng có thể được mua riêng như một phương tiện hỗ trợ nhà phát triển. Mặc dù trò chơi điện tử chỉ có bản chính thức bằng tiếng Anh, nhưng Piskorz đã hỗ trợ các bản dịch do cộng đồng thực hiện, giải thích cách để tạo ra chúng và tự mình tạo một bản dịch bằng tiếng Ba Lan. Một chương bổ sung đã được thêm vào trò chơi vào ngày 11 tháng 5 năm 2021, nhân kỷ niệm một năm trò chơi ra đời. Vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, một phiên bản chuyển thể dành cho người hâm mộ dành cho Nintendo Switch, được ủy quyền bởi Piskorz, đã được phát hành qua GitHub. Vào ngày 7 tháng 9 cùng năm đó, theo sau nó là một cổng cho người hâm mộ tạo ra cho PlayStation Vita.
Nicola Nanni (sinh ngày 2 tháng 5 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá người San Marino hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Olbia tại Serie C bảng B và Đội tuyển bóng đá quốc gia San Marino. Anh được coi là một trong những cầu thủ bóng đá San Marino giàu kinh nghiệm, cùng với Massimo Bonini. Anh là một trong số ít cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp đến từ San Marino. Sự nghiệp thi đấu. Tháng 7 năm 2016, Nanni gia nhập Cesena từ San Marino Calcio cho lần di chuyển đầu tiên bên ngoài quê hương của mình. Crotone và cho mượn tại Monopoli. Anh ký hợp đồng 5 năm với câu lạc bộ Crotone tại Serie B vào ngày 3 tháng 8 năm 2018. 3 ngày sau, anh ra mắt chuyên nghiệp cho đội bóng, trong thắng lợi 4–0 trước Giana Erminio tại Coppa Italia 2018–19. Ngày 29 tháng 8 năm 2019, anh gia nhập câu lạc bộ Monopoli theo dạng cho mượn. San Marino Golden Boy Award. Nanni nhận được giải thưởng năm 2019, một giải thưởng được trao cho cầu thủ dưới 23 tuổi xuất sắc nhất San Marino. Quay trở lại Cesena và cho mượn tại Lucchese. Vào ngày 23 tháng 9 năm 2020, anh quay trở lại Cesena theo dạng cho mượn. Nanni được đem cho mượn tại Lucchese 1905 ở Serie C vào tháng 8 năm 2021 để chuẩn bị cho mùa giải 2021–22. Vào ngày 15 tháng 7 năm 2022, Nanni ký hợp đồng 2 năm với câu lạc bộ Olbia tại Serie C. Sự nghiệp quốc tế. Nanni ra mắt quốc tế vào ngày 15 tháng 11 năm 2018, trong trận thua 0-1 tại UEFA Nations League 2018–19 gặp Moldova. Anh ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên vào ngày 5 tháng 9 năm 2021 trong trận đấu thuộc khuôn khổ Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2022 gặp Ba Lan. Mặc dù San Marino thua đậm 7–1, bàn thắng của Nanni là bàn thắng đầu tiên trên sân nhà cho quê hương của anh ở vòng loại World Cup sau 8 năm. "Tính đến 19 tháng 6 năm 2023." "Tỷ số và kết quả liệt kê bàn ​​thắng đầu tiên của San Marino, cột điểm cho biết điểm số sau mỗi bàn thắng của Nanni."
Vầng trăng máu (tên đầy đủ: Vầng trăng máu: Cuộc thảm sát người Osage và sự ra đời của tổ chức FBI, tiếng Anh: Killers of the Flower Moon: The Osage Murders and the Birth of the FBI) là một cuốn sách thuộc thể loại phi hư cấu của nhà báo người Mỹ David Grann, xuất bản lần đầu vào ngày 18 tháng 4 năm 2017. Lấy chủ đề về vụ thảm sát người Osage, tác phẩm được tạp chí "Time" bầu chọn là một trong mười cuốn sách phi hư cấu hay nhất năm 2017. Tại Việt Nam, tác phẩm được dịch giả Phạm Quốc Anh biên dịch và được nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ phát hành. Một bộ phim điện ảnh cùng tên dựa trên tác phẩm này được ra mắt vào tháng 10 năm 2023. [[Thể loại:Sách phi hư cấu năm 2017]] [[Thể loại:Sách phi hư cấu được chuyển thể thành phim]] [[Thể loại:Sách lịch sử]]
Động đất Nankaidō 1946 Động đất Nankaidō 1946 (昭和南海地震, Shōwa Nankai jishin) là trận động đất xảy ra lúc 4:19 (JST), ngày 21 tháng 12 năm 1946. Trận động đất có cường độ 8.0 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 24 km. Trận động đất đã gây ra sóng thần lớn. Hậu quả trận động đất đã làm 1.330 người chết.
Komi Dzje (Ԇ ԇ, chữ nghiêng: "Ԇ" "ԇ") là một chữ cái trong bảng chữ cái Molodtsov, một biến thể của bảng chữ cái Kirin. Nó chỉ được sử dụng trong chữ viết của tiếng Komi vào những năm 1920. Hình dạng của nó giống với chữ cái Kirin Ze. Trong tiếng Komi, chữ cái này đại diện cho âm [d͡ʑ], giống với cách phát âm của ⟨ds⟩ trong "pods".
Komi Sje (Ԍ ԍ, chữ nghiêng: "Ԍ" "ԍ") là một chữ cái trong bảng chữ cái Molodtsov, một biến thể của bảng chữ cái Kirin. Nó chỉ được sử dụng trong chữ viết của tiếng Komi vào những năm 1920. Nó đại diện cho âm /ɕ/. Hình dạng của nó tương tự với chữ cái Latinh G (G g "G" "g").
Antimonide (đôi khi được gọi là stibnide hoặc stibinide) là hợp chất của antimon với các nguyên tố khác. Ion antimonide là . Khử antimon bằng kim loại kiềm hoặc bằng các phương pháp khác dẫn đến các antimonide kim loại kiềm. Các antimonide đã biết bao gồm ion bị tách ra (trong , ), dumbbell trong , các chuỗi antimon rời rạc, ví dụ như trong , và các anion hình lưới Một số antimonide là chất bán dẫn, ví dụ như những chất thuộc nhóm bor như indi antimonide. Nhiều antimonide dễ cháy hoặc bị phân hủy bởi oxy khi đun nóng vì ion antimonide là chất khử.
Vũ Ngọc Thụ (1927–2019) là một nhà khoa học pháp y người Việt Nam, phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam với hàm Đại tá. Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Thầy thuốc Nhân dân Vũ Ngọc Thụ sinh năm 1929 ở xã Châu Phong, nay thuộc xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông nhập ngũ năm 1947, bắt đầu từ công tác quân y cơ sở, đến các trung tâm y học của quân đội. Năm 1960, ông được giao nhiệm vụ xây dựng ngành pháp y ở Việt Nam và đảm nhận chức vụ Viện trưởng Viện Pháp y Quân đội thuộc Cục Quân y (Tổng cục Hậu cần). Ông qua đời ngày 15 tháng 4 năm 2019 ở Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.
Quí Nguyễn (sinh năm 1977) là một người chơi bài poker người Mỹ gốc Việt đang sống ở Las Vegas, Nevada. Anh đã giành chiến thắng tại Giải chính World Series of Poker 2016, kiếm được số tiền $8,005,310. Anh ra ở Việt Nam trước khi di cư đến Hoa Kỳ vào năm 2001, khi mới 24 tuổi. Anh ban đầu định cư tại California và làm việc tại một tiệm làm móng tay trước khi chuyển đến Las Vegas vào năm 2007. Nguyen bắt đầu chơi poker vào năm 2003, tập trung vào các trò chơi bài cash limit hold'em nhỏ. Sau khi đến Las Vegas, anh chuyển sang chơi các trò chơi bài no limit và đã ghi nhận một số tiền thưởng từ các giải nhỏ. Trước khi giành chiến thắng tại Giải chính World Series of Poker, anh chỉ ghi nhận một tiền thưởng WSOP duy nhất trong một sự kiện $1,500 No Limit Hold'em tại 2009 trị giá $9,029. Nguyen giành chiếc ghế của mình vào Giải chính World Series of Poker 2016 thông qua một ván chơi loại 1,100 đô la. Anh đã chơi suốt giải chính và đạt vị trí 9 người chơi cuối cùng (November Nine) ở vị trí chip thứ hai. Cho đến năm 2017, tổng số tiền thưởng trong các giải đấu trực tiếp của Nguyen vượt quá $8,050,000, trong đó phần lớn đến từ chiến thắng tại giải chính. Tự truyện của Quí Nguyễn, "Từ Việt Nam đến Vegas! Cách tôi chiến thắng Giải chính World Series of Poker", đã được xuất bản vào tháng 11 năm 2017 bởi DB Publishing. Trong quyển sách gồm 450 trang, Nguyen phân tích hơn 170 tay bài quan trọng từ bàn chung kết, và kể cả câu chuyện cuộc đời của mình. Steve Blay là người đồng tác giả. Steve Blay là người sáng lập, và kỹ sư phần mềm đằng sau trang web AdvancedPokerT, ông đã mời Blay đến Las Vegas để giúp đỡ ông luyện tập cho bàn chung kết. Sau khi giành chiến thắng tại WSOP, DB Publishing liên hệ với Nguyen và Blay để chia sẻ câu chuyện của họ. Đến tháng 11 năm 2017, Quí Nguyễn sống ở khu vực Summerlin của Las Vegas, Nevada, cùng với con trai Kyle.
Brenes bắt đầu sự nghiệp cờ bạc của mình bằng cách chơi baccarat, nhưng sau đó đã tìm đến poker. Anh bắt đầu tham gia giải đấu vào năm 1974 và trở thành một người chơi thường xuyên trong các giải đấu vào năm 1988. Vào năm 1988, anh đã vào bàn chung kết của World Series of Poker (WSOP) và đứng thứ tư, giành được 83,050 đô la. Anh đã sở hữu hai vòng đeo tay WSOP, đạt được 72 lần tới bàn cuối cùng tại WSOP và ba lần vào bàn chung kết của World Poker Tour. Các vòng tròn đeo tay của Brenes xuất hiện ở World Series of Poker năm 1993 trong trò chơi limit Texas hold 'em và pot limit Omaha. Ông cùng với Phil Hellmuth, Jr. đứng đầu với số lần hoàn thành vòng chơi có thưởng cao nhất (tám lần) trong WSOP năm 2006. Ông cũng giành hạng nhất và giành được 502,460 đô la tại giải Jack Binion 2002 World Poker Open, đánh bại Erik Seidel ở trận chung kết. Ông cũng là thành viên của Đội PokerStars. Brenes chơi dưới tên màn hình "HumbertoB". Hai trong số anh em của ông, Alex Brenes và Eric Brenes, đã giành được các danh hiệu của giải World Poker Tour. Năm 2006, Brenes đứng thứ 36 trong Giải chính WSOP 2006 với 8,773 người tham gia và sau đó vào năm 2007, ông tiếp tục giành tiền trong $10,000 Giải chính No Limit Hold'em, xếp thứ 83 trong số 6,358 người chơi, giành được 82,476 đô la. Brenes bị loại bởi Hevad Khan. Đến năm 2013, tổng số tiền thưởng giải đấu trực tiếp của ông vượt quá 6.000.000 đô la. Trong đó, 72 lần thắng tiền trong World Series of Poker (WSOP) đóng góp 2.264.333 đô la vào số tiền này, ông tự xem đó là thành quả của mình nhưng cũng coi đó là thành công lớn đến sự hướng dẫn và huấn luyện của người hướng dẫn và huấn luyện, Andrés "El Pemorado" Calderón. Humberto Brenes đã được chọn vào số 10 ứng cử viên cuối cùng để nhập danh tiếng của nhà hòa bình poker năm 2013..
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 – Khu vực châu Âu Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 khu vực châu Âu được tổ chức nhằm chọn ra các đội bóng là thành viên của FIFA và UEFA tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới (FIFA World Cup) 2006 diễn ra tại Đức. Các đội tham dự. Có tổng cộng 51 đội là thành viên của FIFA và UEFA tham dự vòng loại, để chọn ra 13 đội tham dự FIFA World Cup 2006. Trong đó, Kazakhstan lần đầu tham dự sau khi chuyển từ thành viên của AFC sang là thành viên của UEFA. Vòng loại bao gồm 2 vòng: - Vòng 1 (vòng bảng): 51 đội được bốc thăm vào 8 bảng đấu (trong đó: 5 bảng có 6 đội và 3 bảng có 7 đội). Mỗi đội trong cùng một bảng đá hai lượt trận sân nhà và sân khách với các đội còn lại. 8 đội đầu bảng và 2 đội nhì bảng xuất sắc nhất giành quyền tham dự FIFA World Cup 2006. Các đội nhì bảng còn lại giành quyền vào vòng 2. Các đội còn lại không vượt qua vòng loại. - Vòng 2 (play-offs): 6 đội nhì bảng được bốc thăm thành 3 cặp đá hai lượt trận sân nhà và sân khách để chọn ra 3 tấm vé cuối cùng của UEFA dự FIFA World Cup 2006. Bốc thăm hạt giống (UEFA). Lễ bốc thăm diễn ra vào ngày 5 tháng 12 năm 2003 tại Frankfurt, Đức. Các hạt giống được xác định bằng số điểm mỗi trận ở vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 và vòng loại UEFA Euro 2004. Pháp tự động vượt qua vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 với tư cách là đương kim vô địch, vì vậy chỉ thành tích của họ ở vòng loại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004 được sử dụng. Bồ Đào Nha tự động đủ điều kiện tham dự UEFA Euro 2004 với tư cách là chủ nhà, vì vậy chỉ thành tích của họ tại World Cup 2002 được sử dụng. Kazakhstan không được xếp hạng theo hệ thống này vì họ không tham gia cả hai cuộc thi. Đối với các câu lạc bộ trong nước tham gia các giải đấu cấp câu lạc bộ quốc tế, Anh, Pháp, Ý và Tây Ban Nha được chia thành các nhóm 6 đội. Các đội in đậm đủ điều kiện tham dự World Cup, các đội in nghiêng đậm đủ điều kiện tham dự World Cup thông qua vòng play-off và các đội "in nghiêng" tham dự vòng play-off nhưng không đủ điều kiện tham dự World Cup. templatestyles src="Legend/" /  Đội đầu bảng và đội nhì bảng xuất sắc nhất giành quyền tham dự FIFA World Cup 2006templatestyles src="Legend/" /  Các đội nhì bảng còn lại tham dự vòng 2 (play-offs)templatestyles src="Legend/" /  Các đội còn lại không vượt qua vòng loại Các đội vượt qua vòng loại. Có 14 đội vượt qua vòng loại. 1 In đậm chỉ ra nhà vô địch cho năm đó. "In nghiêng" chỉ ra nước chủ nhà cho năm đó. 2 Từ năm 1954 đến năm 1990, Đức tham dự với tên gọi Tây Đức. 3 Từ năm 1930 đến năm 1998, Serbia và Montenegro tham dự với tên gọi Nam Tư. 4 Từ năm 1934 đến năm 1990, Cộng hòa Séc tham dự với tên gọi Tiệp Khắc. Danh sách ghi bàn. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Rafael Van der Vaart Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Óscar Sonejee (playing against Armenia) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Avtandil Hacıyev (playing against Poland) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Olivier Deschacht (playing against Lithuania) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Súni Olsen (playing against France) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Gábor Gyepes (playing against Croatia) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Igor Avdeev (playing against Ukraine) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Daniel Hasler (playing against Portugal) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ben Federspiel (playing against Portugal) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Eric Hoffmann (playing against Latvia) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Manuel Schauls (playing against Estonia) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Brian Said (playing against Hungary) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Arkadiusz Głowacki (playing against England)
Giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ 2023 Giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ 2023 (tên chính thức là Formula 1 MSC Cruises Belgian Grand Prix 2023) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 30 tháng 7 năm 2023 tại trường đua Spa-Francorchamps ở Stavelot, Bỉ, và là chặng đua thứ 12 của giải đua xe Công thức 1 2023. Tại giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ, cuộc đua sprint thứ ba của mùa giải sẽ được tổ chức với tư cách là một phần của sự kiện này. Cuộc đua sprint (bao gồm sprint shootout và cuộc đua sprint) sẽ diễn ra vào thứ bảy. Vòng phân hạng cho cuộc đua chính sẽ diễn ra vào thứ Sáu lúc 5:00 chiều giờ địa phương và cuộc đua chính vào Chủ nhật lúc 3 giờ chiều giờ địa phương. Bảng xếp hạng trước cuộc đua. Sau giải đua ô tô Công thức 1 Hungary, Max Verstappen dẫn đầu trước Sergio Pérez (171 điểm) và Fernando Alonso (139 điểm) trong bảng xếp hạng các tay đua với 281 điểm. Trong bảng xếp hạng các đội đua, Red Bull Racing tiếp tục dẫn đầu trước Mercedes (223 điểm) và Aston Martin (184 điểm) với 452 điểm. Lựa chọn bộ lốp. Nhà cung cấp lốp xe Pirelli cung cấp các bộ lốp hạng C2, C3 và C4 (được chỉ định lần lượt là cứng, trung bình và mềm) để các đội sử dụng tại sự kiện này. Trong buổi tập đầu tiên và duy nhất với điều kiện thời tiết mưa ướt, Carlos Sainz Jr. lập thời gian nhanh nhất với 2:03,207 phút trước cả hai tay đua McLaren Oscar Piastri và Lando Norris. Vòng phân hạng bao gồm ba phần với thời gian chạy 45 phút. Trong phần đầu tiên (Q1), các tay đua có 18 phút để tiếp tục tham gia phần thứ hai vòng phân hạng. Tất cả các tay đua đạt được thời gian trong phần đầu tiên với thời gian tối đa 107% thời gian nhanh nhất được phép tham gia cuộc đua. 15 tay đua nhanh nhất lọt vào phần tiếp theo. Charles Leclerc là tay đua nhanh nhất trong phần này. Trong phần này, thời gian cuối cùng của Daniel Ricciardo bị xóa do anh vi phạm track limits tại góc cua số 4 khiến anh bị loại khỏi Q1 mặc dù thời gian của anh đã có thể đưa anh lên Q2. Sau khi Q1 kết thúc, cả hai tay đua Williams, Chu Quán Vũ, Ricciardo và Nico Hülkenberg bị loại. Phần thứ hai (Q2) kéo dài 15 phút và mười tay đua nhanh nhất của phần này đi tiếp vào phần thứ ba của vòng phân hạng. Piastri là tay đua nhanh nhất trong phần này. Sau khi Q2 kết thúc, Yuki Tsunoda, cả hai tay đua Alpine, Kevin Magnussen và Valtteri Bottas bị loại. Phần cuối cùng (Q3) kéo dài mười hai phút, trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên được xác định sẵn. Với thời gian là 1:46,168 phút, Max Verstappen giành được vị trí pole cho cuộc đua chính trước Leclerc và đồng đội Sergio Pérez. Sau khi vòng phân hạng kết thúc, Leclerc chính thức đứng ở vị trí pole sau khi Verstappen bị tụt xuống vị trí thứ sáu do thay đổi truyền động hộp số mới. Magnussen bị tụt từ vị trí thứ 13 xuống vị trí thứ 16 sau khi cản trở Leclerc ở Q2. Trong phần đầu tiên (SQ1) của sprint shootout, các tay đua có 12 phút để tiếp tục tham gia phần thứ hai của sprint shootout.​​ Tất cả các tay đua đạt được thời gian trong phần đầu tiên với thời gian tối đa 107% thời gian nhanh nhất được phép tham gia cuộc đua. 15 tay đua nhanh nhất lọt vào phần tiếp theo. Sau khi SQ1 kết thúc, Tsunoda, cả hai tay đua của Alfa Romeo và cả hai tay đua của Haas bị loại. Hülkenberg không thể lập thời gian trong suốt SQ1 do anh không tận dụng được các điều kiện thời tiết thay đổi và gặp bất tiện do sự cố với giắc cắm phía trước của pit crew của Haas. Phần thứ hai (SQ2) kéo dài 10 phút và mười tay đua nhanh nhất của phần này đi tiếp vào phần thứ ba của sprint shootout. SQ2 đã bị gián đoạn ở những phút cuối cùng do Lance Stroll va chạm hàng rào cản của đường đua và anh không thể thiết lập thời gian. Stroll định chuyển sang lốp khô trung bình trên đường ướt và do vậy bộ lốp này của anh thiếu độ bám trên mặt đường đua. Sau vụ va chạm đó, SQ2 chính thức kết thúc. Sau khi SQ2 kết thúc, Ricciardo, cả hai tay đua của Williams và Fernando Alonso - đồng đội của Stroll ở Aston Martin - bị loại. Trong khi Ricciardo có thể lập thời gian, cả hai tay đua của Williams và Alonso đều không thể lập được thời gian. Phần cuối cùng (SQ3) kéo dài 8 phút, trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên cho cuộc đua sprint được xác định sẵn. Verstappen giành vị trí pole cho cuộc đua sprint sau khi lập thời gian nhanh nhất với 1:49,056 phút trước Piastri và Sainz Jr. Cuộc đua sprint chính thức bắt đầu sau khi xe an toàn đi vào làn pit sau bốn vòng đội hình diễn ra vì thời tiết mưa ướt. Cuộc đua sprint này dự định diễn ra trong vòng 15 vòng đua nhưng được giảm xuống còn 11 vòng đua do bốn vòng đội hình. Sau bốn vòng đó, Piastri, Sainz Jr., Pierre Gasly, Lewis Hamilton, Pérez, Ricciardo, Alexander Albon, Stroll, Valtteri Bottas và Hülkenberg vào làn pit chuyển sang bộ lốp ướt trung gian "(intermediate)". Verstappen sau đó đã dẫn đầu cho đến vòng thứ hai khi anh và những tay đua còn lại chuyển sang bộ lốp ướt trung gian. Sau đó, Piastri đã dẫn đầu cuộc đua sprint và đây là lần đầu tiên anh dẫn đầu một cuộc đua trong sự nghiệp Công thức 1 của mình. Ở vòng 4, Alonso mất lái ở góc cua số 4 và lao vào bãi sỏi. Anh đã không thể đưa chiếc xe trở lại mặt đường đua và do vậy anh phải bỏ cuộc. Đây cũng là lần đầu tiên trong mùa giải anh phải bỏ cuộc. Sau khi giai đoạn xe an toàn kết thúc ở vòng 6, Verstappen vượt qua Piastri tại đường thẳng Kemmel sau góc cua số 4. Sau đó, Hamilton và Pérez đã va chạm với nhau ở góc cua số 17 trong cuộc tranh giành vị trí thứ tư. Vụ va chạm này khiến phần thân chiếc xe của Pérez bị hư hỏng nặng và do vậy, anh phải bỏ cuộc. Hamilton nhận một án phạt 5 giây vì đã gây ra vụ va chạm này. Verstappen tiếp tục dẫn đầu cho đến hết cuộc đua sprint và giành chiến thắng trước Piastri và Gasly. Các tay đua ghi điểm còn lại trong cuộc đua này là Leclerc, Sainz Jr., Norris, Hamilton và Russell. Mặc dù Hamilton về đích ở vị trí thứ 4, anh bị tụt xuống vị trí thứ 7 vì án phạt 5 giây của anh vì vụ va chạm với Pérez trong cuộc đua sprint. Sau khi cuộc đua chính bắt đầu, Leclerc giữ vững vị trí đầu tiên của mình ở góc cua đầu tiên. Tại góc cua này, Sainz Jr. va chạm với Piastri và ép chiếc xe McLaren của Piastri vào tường rào phía bên trong. Chiếc xe của Piastri va chạm với tường chắn và hệ thống treo lốp bị hỏng nặng. Vì vậy, anh đã phải bỏ cuộc ở vòng đầu tiên. Mặc dù thân xe của Sainz bị hư hỏng sau vụ va chạm này, anh được yêu cầu điều chỉnh cân bằng khí động học và do vậy anh tiếp tục giữ vị trí thứ năm. Sau khi vòng đầu tiên kết thúc, Pérez đã vượt qua Leclerc trên đường thẳng Kemmel và dẫn đầu với khoảng cách hơn một giây. Ở vòng đua thứ 6, Verstappen, bắt đầu từ vị trí thứ sáu sau một án phạt vì thay đổi truyền động hộp số mới, đã vượt qua Hamilton để giành vị trí thứ ba trên đường thẳng Kemmel. Ở vòng đua thứ 9, Verstappen vượt qua Leclerc ở khúc cua số 7 để giành vị trí thứ hai. Trong khi đó, Sainz tụt xuống vài bậc sau Alonso, Tsunoda, Albon và Logan Sargeant do thân xe của anh vẫn bị hư hại sau vụ va chạm trước đó. Ở vòng đua thứ 18, Verstappen đã vượt qua Pérez trên đường thẳng Kemmel để chiếm lấy vị trí dẫn đầu và sau đó, anh tiếp tục giữ nguyên vị trí này cho đến khi cuộc đua kết thúc. Một cơn mưa rào ngắn ập đến ở vòng đua thứ 20 nhưng không một tay đua nào chuyển sang lốp mưa trung gian. Sau khi một nửa của cuộc đua kết thúc, Sainz bỏ cuộc do xe của anh vẫn bị hỏng nặng. Đến vòng đua thứ 31, tất cả các tay đua đã đổi lốp hai lần ngoại trừ George Russell, Gasly và Stroll. Esteban Ocon vượt qua các tay đua khác nhau trong những vòng đua cuối cùng. Anh vượt qua Tsunoda để giành vị trí thứ chín và Stroll để giành vị trí thứ tám. Ở những vòng cuối cùng của cuộc đua, Lewis Hamilton đổi lốp lần thứ ba và anh chuyển sang bộ lốp trung bình mới và lấy điểm cho vòng đua nhanh nhất từ tay Verstappen ở vòng đua cuối cùng. Verstappen giành chiến thắng cuộc đua chính trước Pérez và Leclerc. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua này là Hamilton, Alonso, Russell, Norris, Ocon, Stroll và Tsunoda.
Roger Allen LaPorte (16 tháng 7 năm 1943 – 10 tháng 11 năm 1965) là một người phản đối Chiến tranh Việt Nam, người đã tự thiêu trước tòa nhà Liên Hợp Quốc ở Thành phố New York vào ngày 9 tháng 11 năm 1965, để phản đối việc Hoa Kỳ can dự vào cuộc chiến. Từng là chủng sinh, ông là thành viên của Phong trào Công nhân Công giáo vào thời điểm ông qua đời. Sinh ra ở Geneva, New York ,  LaPorte hoạt động tích cực trong các câu lạc bộ tranh luận và diễn thuyết trước công chúng, nhờ đó ông đã giành được giải thưởng. Cha mẹ ômg ly hôn sau khi ông tốt nghiệp trung học. Trước khi gia nhập Công nhân Công giáo, ông đã theo học một trường dòng ở Vermont và hy vọng trở thành một tu sĩ. Tuy nhiên, ông rút khỏi chủng viện sớm và theo học và tốt nghiệp Học viện Holy Ghost, Tupper Lake, New York năm 1961. Bối cảnh của vụ tự thiêu. Bài chi tiết: Tự thiêu để phản đối chiến tranh Việt Nam Ngày 11 tháng 6 năm 1963 Thích Quảng Đức , một tu sĩ Phật giáo Đại thừa Việt Nam tự thiêu tại một ngã tư đường sầm uất Sài Gòn . Thích Quảng Đức đang phản đối cuộc đàn áp Phật tử của Tổng thống Miền Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm , một thành viên của thiểu số Công giáo. Những bức ảnh về vụ tự thiêu của ông đã được lan truyền rộng rãi trên toàn thế giới và gây chú ý đến các chính sách của chế độ Diệm. Vào ngày 16 tháng 3 năm 1965, người theo chủ nghĩa hòa bình 82 tuổi Alice Herz đã tự thiêu ở một góc phố Detroit để phản đối Chiến tranh Việt Nam leo thang. Một người đàn ông và hai cậu con trai của anh ta đang lái xe ngang qua và nhìn thấy cô ấy đang bốc cháy nên đã dập lửa. Cô ấy chết vì vết thương của mình mười ngày sau đó. Vào ngày 2 tháng 11 năm 1965, Norman Morrison đã tẩm dầu hỏa và tự thiêu bên dưới văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara ở Lầu Năm Góc . Việc Morrison tự thiêu tại Lầu Năm Góc là tin tức trên trang nhất khi Công nhân Công giáo tập trung cho một cuộc biểu tình phản chiến trên Quảng trường Union ở Thành phố New York vào ngày 6 tháng 11 năm 1965, mà LaPorte đã tham dự ngay sau khi gia nhập Công nhân Công giáo. Dorothy Day , lãnh đạo của Công nhân Công giáo, phát biểu trước đám đông: "Tôi phát biểu hôm nay với tư cách là một người già, và là người phải ủng hộ lòng can đảm của những người trẻ tuổi sẵn sàng từ bỏ tự do của mình," Day nói. "Chính cuộc đấu tranh này đã được bắt đầu bằng lòng dũng cảm, ngay cả trong sự tử đạo, được chia sẻ bởi những đứa trẻ nhỏ, trong cuộc đấu tranh cho tự do hoàn toàn và phẩm giá con người." Công nhân Công giáo Tom Cornell được biết đến vào năm 1960 vì đã đốt thẻ quân dịch của mình trong các hành động và đã lặp lại hành động này nhiều lần, kể cả đối với máy quay truyền hình quốc gia trong Cuộc đình công vì hòa bình năm 1962. Vào tháng 10 năm 1965, một Công nhân Công giáo khác, David Miller, trở thành người đốt thẻ quân dịch đầu tiên bị bắt theo luật liên bang mới cấm hành vi này. Ngay sau bài phát biểu của Day trên Quảng trường Union, Cornell và bốn người khác đã đốt thẻ quân dịch của họ trên bục. Những người chơi khăm ở New York hét lên, "Hãy đốt cháy chính mình, không phải quân bài của bạn." Ba ngày sau, trước Thư viện Dag Hammarskjold của Liên Hợp Quốc ở New York, LaPorte tự xưng là các nhà sư Phật giáo Việt Nam, tưới xăng lên người rồi tự thiêu. Anh ấy qua đời vào ngày hôm sau tại Bệnh viện Bellevue do bỏng cấp độ hai và độ ba chiếm 95% cơ thể. Mặc dù bị bỏng nhưng anh ấy vẫn tỉnh táo và có thể nói được. Khi được hỏi tại sao lại tự thiêu, LaPorte bình tĩnh trả lời: "Tôi là một Công nhân Công giáo. Tôi phản đối chiến tranh , tất cả các cuộc chiến tranh. Tôi làm điều này như một hành động tôn giá" Tại bệnh viện, Công nhân Công giáo đã hát " This Little Light of Mine ." Dorothy Day đã phản ứng với thảm kịch bằng một bài báo trên tờ "Công nhân Công giáo" với tựa đề: "Tự tử hay Hy sinh?" Bà viết: "Không chỉ có nhiều thanh niên, sinh viên trong cả nước vô cùng nhạy cảm trước những đau khổ của thế giới. "Họ có ý thức sâu sắc rằng họ phải có trách nhiệm và tuyên xưng đức tin của mình rằng mọi thứ không cần phải tiếp diễn như họ vẫn luôn làm - rằng con người có khả năng hy sinh mạng sống của mình cho người khác, có lập trường, ngay cả khi quốc gia xâm lược toàn diện và thực sự là cả thế giới đang chống lại họ." Một nhà văn trên tờ "National Catholic Reporter" đã viết rằng mặc dù Công nhân Công giáo rất quan trọng đối với Giáo hội, nhưng họ đã thể hiện "một kiểu từ chối sự phức tạp tích hợp sẵn mà tôi hy vọng không có tác dụng trong cái chết của LaPorte." [ "cần dẫn nguồn" ] Tu sĩ Trappist nổi tiếng Thomas Merton cũng có vấn đề với hành động của LaPorte và tranh chấp kéo dài với Day sau khi đổ lỗi cho vụ việc do phong trào Công nhân Công giáo gây ra.
Lutjanus aratus là một loài cá biển thuộc chi "Lutjanus" trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1864. Từ định danh "aratus" trong tiếng Latinh có nghĩa là “cày xới”, không rõ hàm ý, còn theo Jordan và Evermann (1898) thì đề cập đến các sọc nâu sẫm ở hai bên thân vủa loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "L. aratus" có phân bố rộng rãi ở Đông Thái Bình Dương, từ mũi nam bán đảo Baja California và cửa vịnh California trải dài về phía nam đến Peru, bao gồm quần đảo Galápagos, đảo Malpelo và đảo Cocos xa bờ. "L. aratus" sống xung quanh các rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu độ sâu ít nhất là 60 m; cá con thường bắt gặp ở gần bờ, bao gồm các vũng thủy triều và cửa sông. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. aratus" là 100 cm, thường bắt gặp với chiều dài trung bình khoảng 35 cm. Loài này có màu xan lục xám (sẫm hơn ở lưng), những cá thể sống ở vùng nước sâu có thể đỏ hơn (các vây ửng đỏ). Vảy cá có tâm màu vàng nhạt, tạo thành các sọc đậm nhạt xen kẽ ở hai bên lườn. Số gai ở vây lưng: 11–12; Số tia vây ở vây lưng: 12; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7–8. Thức ăn của "L. aratus" bao gồm cá và một số loài thủy sinh không xương sống như giáp xác. Cá trưởng thành có thể hợp thành đàn lớn đến vài trăm cá thể. "L. aratus" có giá trị thương mại quan trọng và dễ dàng bị đánh bắt vì chúng thường hợp thành đàn lớn. Ở bờ biển Thái Bình Dương của Panama, đặc biệt là tỉnh Veraguas, "L. aratus" là một trong những loài thương mại quan trọng nhất của khu vực.
Vùng đất Nam bộ Vùng đất Nam bộ là một bộ sách nghiên cứu văn hóa lịch sử vùng Nam bộ do tập thể những nhà nghiên cứu văn hóa, dẫn đầu là giáo sư Phan Huy Lê, thực hiện từ năm 2008. Bộ sách gồm 12 cuốn, trong đó 2 tập tổng quan là Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển được trao giải A giải thưởng sách quốc gia năm 2019. Bộ sách Vùng đất Nam bộ là kết quả của chương trình nghiên cứu tổng thể về vùng đất Nam Bộ dưới dạng một đề án khoa học cấp nhà nước được Bộ Khoa học - Công nghệ thực hiện từ năm 2008. Đề án được giao cho Giáo sư Phan Huy Lê làm chủ nhiệm, có sự tham gia của hơn 100 nhà nghiên cứu văn hóa. Giáo sư Phan Huy Lê chủ biên 2 tập tổng quan mang tên Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển. Hai cuốn sách này được trao giải thưởng khoa học Trần Văn Giàu năm 2017, sau đó là giải A giải thưởng sách quốc gia năm 2019. Bộ sách Vùng đất Nam bộ gồm 2 tập tổng quan và 10 tập chuyên sâu, bao gồm:
Bơm màng (còn được gọi là Diaphragm pump ) là một loại bơm chuyển tích cực sử dụng kết hợp hoạt động chuyển động qua lại của màng cao su, nhựa dẻo hoặc teflon kết hợp với bi và đế bi để bơm chất lỏng. Bi và đế bi đóng vai trò như van 1 chiều để chất lỏng được bơm ra đi theo 1 hướng. Máy bơm có lịch sử lâu đời, chúng ra đời từ năm 2000 trước Công nguyên. Để lấy nước, công cụ ban đầu được phát minh được gọi là shadoof. Ngay cả khi nó không hoạt động theo phương pháp cơ học, nó đã được nhiều người chấp nhận rộng rãi và phục vụ tốt nhất cho hoạt động bơm. Đây là cơ sở cho sự phát triển của máy bơm màng và có mặt trên thị trường từ năm 1854 trở đi. Phát minh cơ bản của bơm màng được thực hiện bởi J. Pease. Cho đến ngày nay, máy bơm màng ngày càng được sử dụng phổ biến trong các ngành công nghiệp và sản xuất. Các bộ phận chính cấu thành và điều hòa hoạt động của máy bơm màng gồm có: Thân trung tâm: Là bộ phận thân giữa của bơm, kết nối giữa 2 bên buồng bơm. Buồng chất lỏng: khoang chứa chất lỏng, kết hợp giữa ốp trụ và màng bơm. Các màng ngăn: Thông thường mỗi bên sẽ có 1 - 2 màng bơm, có thể là màng teflon, Polyether, cao su. Bi và đế bi: Đóng vai trò như van 1 chiều, chất liệu teflon, inox hoặc cao su Động cơ: Có thể là buồng van khí hoặc motor điện. Giảm thanh: Đây là bộ phận giúp làm giảm tiếng ồn của bơm khi hoạt động Nguyên lý hoạt động. Toàn bộ chu kỳ hoạt động của máy bơm màng dựa trên việc sử dụng khí nén làm chất lỏng dẫn động. Máy bơm màng sử dụng hai màng linh hoạt được gắn trên một trục chung di chuyển qua lại liên tục để bơm chất lỏng vào và ra khỏi khoang chứa chất lỏng của máy bơm. Chuyển động này tạo ra chân không, cho phép chất lỏng đi qua cổng hút. Giai đoạn 1 : Màng bơm bên trái co lại để tạo lực hút chất lỏng vào buồng chứa bên trái thì màng bơm bên phải lập tức giãn ra tạo lực đẩy chất lỏng ra ngoài. Giai đoạn 2 : Màng bơm bên phải tạo lực hút chất lỏng đi vào buồng chứa bên phải thì màng bơm bên trái sẽ tạo lực đẩy chất lỏng Các vị trí bi và đế bi sẽ giữ chất lỏng trong buồng bơm và chỉ cho phép chất lỏng được đi ra theo 1 hướng. Hai màng bơm sẽ di chuyển cùng chiều, hoạt động liên tục, đều đặn, trái ngược nhau thông qua trục nối như vậy sẽ giúp việc vận chuyển không bị gián đoạn. Máy bơm màng kích hoạt cơ học nhỏ cũng được sử dụng làm máy nén khí và là nguồn chân không cấp thấp. So với các thiết kế khác, máy nén màng yên tĩnh, rẻ tiền và không có bộ phận chuyển động trong luồng không khí. Điều này cho phép chúng được sử dụng mà không cần bôi trơn thêm khi tiếp xúc với không khí, do đó khí nén được tạo ra có thể được đảm bảo sạch. Một ví dụ là một máy bơm không khí hồ cá điển hình.
Ethan Chidiebere Nwaneri (sinh ngày 21 tháng 3 năm 2007) là một cầu thủ bóng đá người Anh hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Arsenal tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh. Nwaneri ra mắt Giải bóng đá Ngoại hạng Anh trong chiến thắng 3–0 trước Brentford vào ngày 18 tháng 9 năm 2022, trở thành cầu thủ trẻ nhất từng khoác áo Arsenal và là cầu thủ trẻ nhất ra sân tại giải đấu hàng đầu nước Anh. Ethan Nwaneri sinh ngày 21 tháng 3 năm 2007 ở Anh và theo học tại trường St John's Senior School ở Enfield. Anh là người gốc Nigeria. Sự nghiệp thi đấu. Nwaneri gia nhập Arsenal năm 9 tuổi. Ở tuổi 14, anh đã chơi cho đội U-18. Anh chủ yếu chơi ở vị trí tiền vệ. Nwaneri bắt đầu mùa giải 2022–23 cho đội U-18 Arsenal, nhưng anh được đôn lên đội U-21 một cách nhanh chóng. Xuất hiện chỉ một lần duy nhất tại Premier League 2 2022–23, anh đã gia nhập đội 1 để tập luyện vào tháng 9, và ra mắt chuyên nghiệp vào ngày 18 tháng 9 khi anh được điền tên trong danh sách dự bị cho trận đấu tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh gặp Brentford. Vào sân thay cho Fábio Vieira ở phút bù giờ của hiệp 2, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất từng ra sân tại Premier League – phá vỡ kỷ lục trước đó của Harvey Elliott, và kỷ lục của giải đấu hàng đầu của Anh kể từ tháng 8 năm 1964 bởi cựu thủ môn Sunderland Derek Forster, trong ba ngày. Anh cũng trở thành cầu thủ trẻ nhất từng khoác áo Arsenal ở bất kỳ giải đấu nào, phá kỷ lục trước đó là 16 tuổi 177 ngày, được thiết lập bởi Cesc Fàbregas tại Cúp Liên đoàn bóng đá Anh 2003-04. Trong cuộc họp báo sau trận đấu, huấn luyện viên Mikel Arteta giải thích rằng họ phải điền tên Nwaneri và hai cầu thủ dưới 21 tuổi khác trên băng ghế dự bị vì đội một gặp một số ca chấn thương, đặc biệt là chấn thương của tiền vệ đội trưởng Martin Ødegaard, và "linh cảm" đằng sau quyết định để Nwaneri tiếp tục thi đấu. Vào tháng 6 năm 2023, khi kết thúc thời học sinh, Nwaneri đã đồng ý với một thỏa thuận mới với Arsenal về các điều khoản học bổng với một thỏa thuận cho một hợp đồng chuyên nghiệp vào ngày sinh nhật tuổi 17 của anh vào tháng 3 năm 2024. Sau khi vượt qua vòng loại, Nwaneri đã có tên trong đội hình của U-17 Anh tham dự Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu 2023. Anh đã ghi bàn thắng quyết định trong trận mở màn với Croatia trên sân vận động Balmazújvárosi Városi Sportpálya. Phong cách thi đấu. Nwaneri được coi như là một cầu thủ có thể hoạt động như một "số 10", nhưng cũng có thể chơi ở mọi vị trí tấn công, với khả năng tiếp nhận và rê bóng bằng chân, đồng thời cũng góp phần phòng ngự. Anh cảm thấy thoải mái trong cả hai vai trò rộng và trung tâm. "Tính đến 18 tháng 9 năm 2022"
Danh sách loài họ Trâu bò Họ Trâu bò (Bovidae) là một họ thú nhai lại có móng guốc thuộc Bộ Guốc chẵn (Artiodactyla). Trong tiếng Anh, mỗi loài trong họ này được gọi là "bovid". Chúng phân bố rộng khắp châu Phi, châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ, và được tìm thấy trong nhiều khu sinh học, điển hình nhất là rừng, xavan, cây bụi và đồng cỏ. Các loài họ Trâu bò có kích thước khác nhau, từ linh dương hoàng gia dài đến bò tót dài , và có thể nặng đến . Hơn một tỷ cá thể cừu, bò nhà và dê thuần hóa, hơn 200 triệu cá thể trâu thuần hóa, 14 triệu cá thể bò Tây Tạng thuần hóa và 300.000 cá thể bò tót nhà được sử dụng trong nông nghiệp trên toàn thế giới. Nhiều loài hoang dã không có ước tính về số lượng dân số, mặc dù linh dương Impala, linh dương nhảy và linh dương bụi rậm phương Bắc có quy mô quần thể hơn một triệu con, trong khi một số loài bò rừng được coi là có nguy cơ tuyệt chủng hoặc cực kỳ nguy cấp với số lượng quần thể thấp tới 25 cá thể. Ngoài ra, loài linh dương sừng mác tuyệt chủng trong tự nhiên, linh dương lam đã tuyệt chủng 200 năm trước và bò rừng châu Âu đã tuyệt chủng cách đây 400 năm. Loài tuyệt chủng thứ ba, linh dương gazelle đỏ, có khả năng chưa bao giờ tồn tại, và loài bò xám có khả năng đã tuyệt chủng khi không có ai nhìn thấy loài này kể từ năm 1969. Họ Trâu bò có 146 loài còn tồn tại thuộc 52 chi trong 8 phân họ: Aepycerotinae (linh dương Impala), Alcelaphinae (linh dương Hartebeest, linh dương đầu bò và họ hàng), Antilopinae (linh dương, linh dương Gazelle, và họ hàng), Bovinae (bò nhà, trâu, bò rừng bison và các loài linh dương khác), Caprinae (dê, cừu, sơn dương, tỳ linh và họ hàng), Cephalophinae (linh dương hoẵng), Hippotraginae (linh dương sừng xoắn châu Phi, linh dương sừng thẳng và họ hàng) và Reduncinae (linh dương lau sậy và linh dương Kob). Các loài tuyệt chủng cũng được xếp vào các phân họ này, cũng như các phân họ tuyệt chủng Hypsodontinae, Oiocerinae và Tethytraginae. Hơn 100 loài họ Trâu bò đã tuyệt chủng đã được phát hiện, mặc dù do các nghiên cứu và khám phá vẫn đang tiếp diễn, số lượng và phân loại chưa chắc chính xác. Họ Trâu bò có 146 loài còn tồn tại thuộc 52 chi trong 8 phân họ, và được chia tiếp thành hàng trăn phân loài. Phân loại này không bao gồm các loài lai hoặc các loài tuyệt chủng thời tiền sử. Ngoài ra, linh dương lam đã tuyệt chủng 200 năm trước và bò rừng châu Âu đã tuyệt chủng cách đây 400 năm. Danh sách loài họ Trâu bò. Phân loại sau đây dựa trên phân loại của "Mammal Species of the World" (2005), cùng với các đề xuất bổ sung được chấp nhận rộng rãi kể từ khi sử dụng phân tích phát sinh chủng loại phân tử. 2 chi đã tuyệt chủng chưa phân loại
Moussa Diaby (sinh ngày 7 tháng 7 năm 1999) là một Cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh cho câu lạc bộ Premier League Aston Villa và Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp. Sự nghiệp câu lạc bộ. Diaby là sản phẩm của Học viện đào tạo trẻ Paris Saint-Germain. Anh ấy gia nhập câu lạc bộ khi mới 13 tuổi và bắt đầu chơi cho đội B vào năm 2017. Diaby là người đã nhận giải Titi d'Or 2016 với tư cách là tài năng triển vọng nhất và xuất sắc nhất trong học viện Paris Saint-Germain. Cho mượn tới Crotone. Diaby được cho Crotone mượn trong nửa sau của mùa giải Serie A 2017–18. Anh ra mắt chuyên nghiệp ngày 14 tháng 4 năm 2018 trong trận đấu tại Serie A trước Genoa. Anh ấy vào thay Marcello Trotta sau 84 phút trong trận thua 1-0 trên sân khách. Anh ấy đã có thêm một lần ra sân ở đội một cho Crotone trong trận hòa 1-1 của họ trước nhà vô địch ở vòng đấu cuối cùng là Juventus vào ngày 18 tháng 4. Quay trở lại Paris Saint-Germain. Vào ngày 14 tháng 9 năm 2018, Diaby vào thay người cho Lassana Diarra trong giờ nghỉ giải lao, đã ghi bàn cho PSG ở phút 86 trong chiến thắng 4–0 trước AS Saint-Étienne. Diaby trở thành cầu thủ tốt nghiệp học viện thứ 124 được ra sân cho đội chuyên nghiệp. Anh ấy đã có 25 lần ra sân ở Ligue 1 trong mùa giải 2018–19, ghi bốn bàn trên mọi đấu trường và trung bình cứ sau 190 phút lại có một pha kiến ​​​​tạo trong quá trình bảo vệ thành công danh hiệu của câu lạc bộ. Vào ngày 14 tháng 6 năm 2019, có thông báo rằng Diaby sẽ gia nhập Bayer Leverkusen trong một hợp đồng kéo dài 5 năm. Diaby đã ghi bàn thắng đầu tiên tại Bundesliga cho Leverkusen trong trận ra quân đầu tiên vào ngày 23 tháng 11 năm 2019 trong trận hòa 1-1 của câu lạc bộ với SC Freiburg. Diaby ghi bàn thắng thứ ba cho Leverkusen trong thời gian bù giờ để ấn định chiến thắng trước 1. FC Union Berlin trong trận tứ kết DFB-Pokal vào ngày 4 tháng 3 năm 2020. Ở vòng tiếp theo, vào ngày 9 tháng 6 năm 2020, Diaby ghi bàn thắng đầu tiên trong chiến thắng 3–0 của Leverkusen trước đội bóng ở giải hạng tư 1. FC Saarbrücken để giành một suất vào Chung kết DFB-Pokal 2020. Vào ngày 21 tháng 8 năm 2021, anh ấy ghi bàn ở Bundesliga vào lưới Borussia Mönchengladbach và đó là bàn thắng đầu tiên của anh ấy trong mùa giải. Anh ấy đã ghi được 9 bàn thắng và có 8 pha kiến ​​tạo trong mùa giải 2022–23. Vào ngày 22 tháng 7 năm 2023, Diaby gia nhập câu lạc bộ Premier League Aston Villa với mức phí không được tiết lộ, được cho là kỷ lục của câu lạc bộ 51,9 triệu bảng, tái hợp với cựu huấn luyện viên PSG Unai Emery. Vào ngày 27 tháng 7, Diaby đã ghi bàn sau khi vào sân thay người trong chiến thắng 2–0 trước mùa giải trước Fulham trong Premier League Summer Series ở Hoa Kỳ.
Girona Futbol Club, S.A.D. là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Tây Ban Nha có trụ sở tại Girona, Catalunya, Tây Ban Nha. Được thành lập vào ngày 23 tháng 7 năm 1930, đội đang thi đấu ở La Liga, nơi họ đã thăng hạng sau khi thắng play-off tại Segunda División năm 2022. Girona tổ chức các trận đấu trên sân nhà Montilivi với sức chứa 11.810 và được biết đến với sự liên kết với chủ nghĩa dân tộc Catalunya. Câu lạc bộ cũng có các đội trẻ và đội nữ nghiệp dư để thi đấu. "Tính đến 8 tháng 9 năm 2023" Ban quản lý, huấn luyện. Đội ngũ kỹ thuật hiện tại. Cập nhật lần cuối: ngày 8/11/2021Nguồn: Girona Cập nhật lần cuối: tháng 12/2022Nguồn: Girona FC
Ga Yōga (Yōga-eki, Ga Yōga) là ga đường sắt nằm ở Setagaya, Tokyo, Nhật Bản, được quản lý bởi #đổi . Ga Yōga lần đầu tiên mở cửa vào 7 tháng 4 1977. Bố trí nhà ga. Ga Yōga có hai sàn chờ nằm ở hai bên, giữa là hai đường ray hai chiều. Các ga kế tiếp. !colspan=5 style="background:#018d54;"|Tuyến Tokyu Den-en-toshi
Lutjanus jordani là một loài cá biển thuộc chi "Lutjanus" trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1898. Từ định danh "jordani" được đặt theo tên của nhà ngư học David Starr Jordan, giáo viên trung học và cố vấn ngư học của tác giả Gilbert, cũng là cộng tác viên thường xuyên và đồng nghiệp tại Đại học Stanford (Hoa Kỳ). Phân bố và môi trường sống. "L. jordani" có phân bố rộng rãi ở Đông Thái Bình Dương, từ giữa bán đảo Baja California và cửa vịnh California trải dài về phía nam đến Peru, bao gồm quần đảo Galápagos, đảo Malpelo và đảo Cocos xa bờ. "L. jordani" sống xung quanh các rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu độ sâu ít nhất là 200 m; cá con thường bắt gặp ở vùng vịnh nông hoặc rừng ngập mặn. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. jordani" là 60 cm. Loài này có màu ô liu xám, ánh bạc dưới bụng hoặc đỏ thẫm toàn thân. Mẫu vật mới đánh bắt thường có các đốm trắng bạc ở giữa vảy cá tạo thành các hàng sọc, những đốm này sau đó nhanh chóng mờ đi và cá chủ yếu có màu nâu sẫm hoặc đen. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 14; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 9. Thức ăn của "L. jordani" bao gồm cá và một số loài thủy sinh không xương sống như giáp xác. Cá trưởng thành có thể hợp thành đàn.
Bằng chứng màu sắc động vật cho chọn lọc tự nhiên Màu sắc động vật đã cung cấp bằng chứng ban đầu quan trọng về tiến hóa qua chọn lọc tự nhiên, vào thời điểm có rất ít bằng chứng trực tiếp. Ba chức năng chính của màu sắc được phát hiện vào nửa sau của thế kỷ 19 và sau đó được sử dụng làm bằng chứng của quá trình chọn lọc: ngụy trang (màu sắc ngụy trang), bắt chước (bao gồm cả bắt chước kiểu Bates và kiểu Müller) và tín hiệu xua đuổi. Cuốn sách "Nguồn gốc các loài" của Charles Darwin được xuất bản năm 1859, lập luận từ bằng chứng gián tiếp rằng quá trình chọn lọc của các nhà lai tạo có thể tạo ra sự thay đổi, và rằng, vì rõ ràng có một cuộc đấu tranh để tồn tại nên chọn lọc tự nhiên phải diễn ra. Nhưng ông thiếu một lời giải thích cho biến dị di truyền hay cho di truyền, khi cả hai đều cần thiết cho học thuyết. Theo đó, nhiều lý thuyết thay thế đã được các nhà sinh vật học đề xuất, đe dọa làm suy yếu học thuyết tiến hóa của Darwin. Một số bằng chứng đầu tiên được các nhà tự nhiên học Henry Walter Bates và Fritz Müller, những người cùng thời với Darwin, cung cấp. Các nhà khoa học này đã mô tả các hình thức bắt chước, thứ hiện nay đã được đặt tên theo tên của họ, dựa trên những quan sát về các loài bướm nhiệt đới. Những kiểu màu có tính đặc trưng cao này dễ dàng được giải thích bằng chọn lọc tự nhiên, vì những loài săn mồi như chim săn mồi bằng mắt thường sẽ bắt và giết những con côn trùng bắt chước kém. Tuy vậy, các loại họa tiết khác lại khó giải thích. Những người theo học thuyết Darwin như Alfred Russel Wallace, Edward Bagnall Poulton, và các nhà khoa học ở thế kỷ 20 như Hugh Cott và Bernard Kettlewell đã tìm ra bằng chứng cho thấy quá trình chọn lọc tự nhiên đang diễn ra. Wallace lưu ý rằng khả năng ngụy trang tuyết, đặc biệt là bộ lông thay đổi theo mùa, gợi ý một lời giải thích rõ ràng về sự thích nghi để ngụy trang. Cuốn sách năm 1890 của Poulton, "The Colours of Animals", được viết trong thời kỳ suy yếu tồi tệ nhất của học thuyết Darwin, đã sử dụng tất cả các dạng màu sắc để lập luận ủng hộ chọn lọc tự nhiên. Cott đã mô tả nhiều kiểu ngụy trang. Đặc biệt, những bức vẽ của ông về màu sắc gây nhiễu trùng hợp ở ếch đã thuyết phục các nhà sinh vật học khác tin rằng những đặc điểm ngụy trang này là kết quả của chọn lọc tự nhiên. Kettlewell đã tiến hành thí nghiệm về sự tiến hóa của "Biston betularia", cho thấy loài này có sự thích nghi khi ô nhiễm làm thay đổi môi trường. Điều này cung cấp bằng chứng thuyết phục cho học thuyết tiến hóa của Darwin. Charles Darwin xuất bản tác phẩm "Nguồn gốc các loài" vào năm 1859, lập luận rằng sự tiến hóa trong tự nhiên phải được thúc đẩy bởi chọn lọc tự nhiên, giống như các giống vật nuôi và giống cây trồng được thúc đẩy bởi chọn lọc nhân tạo. Học thuyết Darwin đã thay đổi hoàn toàn quan điểm phổ biến và khoa học về sự phát triển của sự sống. Tuy nhiên, Darwin chưa có bằng chứng và lời giải thích xác đáng cho một số mắt xích quan trọng của quá trình tiến hóa. Ông chưa giải thích được ngọn nguồn của sự biến dị tính trạng loài, cũng như chưa đề ra được một cơ chế di truyền mà các đặc điểm có thể được truyền một cách toàn diện từ thế hệ này sang thế hệ sau. Những khiếm khuyết này khiến học thuyết của ông dễ bị công kích. Nhiều giả thuyết thay thế đã được đề ra trong thời kỳ che khuất học thuyết Darwin. Điều này buộc các nhà tự nhiên học ủng hộ thuyết Darwin như Wallace, Bates và Müller đi tìm bằng chứng rõ ràng cho thấy sự chọn lọc tự nhiên đang diễn ra. Màu sắc động vật, một đặc điểm có thể dễ dàng quan sát được, đã sớm cung cấp các bằng chứng mạnh mẽ và độc lập, từ các đặc tính ngụy trang, bắt chước và tín hiệu xua đuổi, rằng chọn lọc tự nhiên thực sự đang diễn ra. Nhà lịch sử khoa học Peter J. Bowler viết rằng học thuyết Darwin "cũng được mở rộng sang các chủ đề rộng lớn hơn về hình thái giống nhau và bắt chước để ngụy trang, và đây là thành công lớn nhất của học thuyết trong việc giải thích sự biến đổi để thích nghi.". Trong cuốn sách "Darwinism" năm 1889 của mình, nhà tự nhiên học Alfred Russel Wallace đề xuất đánh giá bộ lông màu trắng của động vật vùng Bắc Cực. Ông ghi nhận rằng cáo tuyết Bắc Cực, thỏ Bắc Cực, chồn ecmin và "Lagopus muta" thay đổi màu sắc theo mùa và đưa ra "lời giải thích hiển nhiên" rằng đó là để ngụy trang. Nhà điểu cầm học hiện đại W. L. N. Tickell, trong việc xem xét các giải thích được đề xuất về bộ lông trắng ở chim, viết rằng ở "Lagopus muta" "rất khó để tách khỏi kết luận rằng bộ lông nâu ẩn trốn vào mùa hè trở thành một vấn đề trong tuyết, và bộ lông trắng do đó là một sự thích nghi ẩn trốn khác." Đồng thời, ông cũng lưu ý "bất chấp bộ lông mùa đông, nhiều cá thể "Lagopus muta" ở đông bắc Iceland đã bị cắt Bắc Cực giết xuyên suốt mùa đông." Gần đây, việc giảm độ phủ tuyết ở Ba Lan do sự ấm lên toàn cầu được phản ánh qua tỷ lệ triết bụng trắng có bộ lông chuyển sang màu trắng vào mùa đông giảm. Số ngày có tuyết phủ giảm một nửa, từ năm 1997 đến năm 2007, và chỉ có 20% số cá thể có bộ lông mùa đông màu trắng. Điều này được chứng minh là kết quả của chọn lọc tự nhiên, khi những loài săn mồi dễ phát hiện và ăn thịt những cá thể có màu ngụy trang không thích hợp. Màu sắc gây nhiễu trùng hợp. Theo lời của các nhà nghiên cứu ngụy trang Innes Cuthill và A. Székely, cuốn sách "Adaptive Coloration in Animals" năm 1940 của nhà động vật học và chuyên gia ngụy trang người Anh Hugh Cott đã cung cấp "những lập luận thuyết phục về giá trị tồn tại của màu sắc nói riêng và sự thích nghi nói chung, vào thời điểm mà chọn lọc tự nhiên không được chấp nhận rộng rãi trong sinh học tiến hóa." Đặc biệt, họ lập luận, "Coincident Disruptive Coloration" ("Màu sắc Gây nhiễu Trùng hợp") (một trong những mục của Cott) "khiến các bức vẽ của Cott trở thành bằng chứng thuyết phục nhất về việc chọn lọc tự nhiên tăng khả năng sống sót thông qua ngụy trang gây nhiễu." Cott giải thích, trong khi đang bàn luận về màu sắc gây nhiễu trùng hợp của "một loài ếch nhỏ được gọi là "Megalixalus fornasinii"" trong chương của ông, rằng "chỉ khi các chi tiết hoa văn được xem xét trong mối liên hệ với các tư thế bình thường của con ếch thì bản chất đáng chú ý của chúng mới trở nên rõ rà, tư thế hoạt động và cách phối màu rất nổi bật kết hợp với nhau để tạo ra một hiệu ứng phi thường, mà vẻ ngoài đánh lừa của nó phụ thuộc vào việc chia toàn bộ cơ thể thành hai vùng màu nâu và trắng tương phản mạnh. Xem xét riêng rẽ, không bộ phận nào giống bộ phận nào của con ếch. Trong tự nhiên, chỉ riêng phần cơ thể màu trắng là dễ thấy. Điều này làm nổi bật và đánh lạc hướng sự chú ý của sinh vật quan sát khỏi hình dạng thực và đường viền của cơ thể, cũng như các phần phụ mà các bộ phận khác xếp chồng lên". Cott kết luận rằng hiệu ứng này là sự che giấu "miễn là hình thái sai được nhận ra hơn là hình thái thật". Những hoa văn như vậy, như Cott nhấn mạnh, có độ chính xác đáng kể vì các chi tiết phải thẳng hàng chính xác để lớp ngụy trang hoạt động. Mô tả của Cott và đặc biệt là các bức vẽ của ông đã thuyết phục các nhà sinh vật học rằng các hoa văn, phần tạo nên lớp ngụy trang, phải có giá trị tồn tại (chứ không phải xảy ra một cách tình cờ). và hơn nữa, như Cuthill và Székely đã chỉ ra, rằng cơ thể của những động vật có hoa văn như vậy thực sự phải được định hình bởi chọn lọc tự nhiên. Hóa đen công nghiệp. Trong khoảng thời gian từ 1953 đến 1956, nhà di truyền học Bernard Kettlewell thử nghiệm quá trình tiến hóa của "Biston betularia". Ông trình bày kết quả cho thấy rằng trong một khu rừng gần đô thị bị ô nhiễm với thân cây sẫm màu, những cá thể bướm đêm sẫm màu sống sót tốt hơn những con màu nhạt, gây ra hiện tượng hóa đen công nghiệp, trong khi ở một khu rừng nông thôn sạch sẽ với những thân cây nhạt màu, những con bướm đêm màu nhạt sống sót tốt hơn những con màu sẫm. Kết quả hàm ý rằng cá thể có thể sống hay không là do lớp ngụy trang trên nền phù hợp, nơi những loài săn mồi bằng mắt (chim ăn côn trùng, chẳng hạn như bạc má lớn được sử dụng trong thí nghiệm) bắt và giết có chọn lọc những con bướm đêm ngụy trang kém hơn. Kết quả gây ra tranh cãi gay gắt, và từ năm 2001, Michael Majerus cẩn thận lặp lại thí nghiệm. Kết quả được công bố sau khi ông qua đời vào năm 2012, chứng minh công trình của Kettlewell là "bằng chứng trực tiếp nhất" và là "một trong những ví dụ rõ ràng và dễ hiểu nhất về học thuyết tiến hóa của Darwin". Bắt chước kiểu Bates. Bắt chước kiểu Bates, được đặt theo tên của nhà tự nhiên học thế kỷ 19 Henry Walter Bates, người đầu tiên ghi nhận hiệu ứng này vào năm 1861, "cung cấp nhiều ví dụ xuất sắc về chọn lọc tự nhiên" trong nghiên cứu. Nhà côn trùng học tiến hóa James Mallet lưu ý rằng bắt chước là "học thuyết Darwin lâu đời nhất không thể quy cho Darwin." Lấy cảm hứng từ "Nguồn gốc các loài", nhận ra rằng những con bướm Amazon không liên quan có hình thái giống nhau khi chúng sống trong cùng một khu vực, nhưng có màu sắc khác nhau ở những địa điểm khác nhau ở Amazon, một điều chỉ có thể là do sự thích nghi Bắt chước kiểu Müller. Trong kiểu bắt chước kiểu Müller, hai hoặc nhiều loài nguy hiểm hay độc hại có chung một hoặc nhiều kẻ săn mồi bắt chước các tín hiệu cảnh báo của nhau, một điều rõ ràng là nhằm thích nghi. Fritz Müller mô tả hiệu ứng này vào năm 1879, với một hình thức đáng chú ý khi đây là lần đầu tiên sử dụng một lập luận toán học trong sinh thái học tiến hóa để chỉ ra tác động của chọn lọc tự nhiên có thể mạnh mẽ như thế nào. Tín hiệu xua đuổi. Một số chức năng tiến hóa đã được đề xuất về sự tác động của màu sắc lên tín hiệu quang học (về thị giác). Một sinh vật có màu sắc dễ phát hiện thì sẽ thu hút sự chú ý về phía nó. Như vậy, màu sắc có thể dùng để xua đuổi hoặc thu hút các động vật khác. Năm 1867, trong một bức thư gửi Darwin, Wallace đã mô tả tín hiệu xua đuổi (hay màu sắc cảnh báo). Nhà động vật học tiến hóa James Mallet lưu ý rằng phát hiện này "khá phi logic" vì nó được phát hiện sau chứ không phải trước các hình thức bắt chước Bates và Müller, vốn dựa trên sự tồn tại và hiệu quả của màu sắc cảnh báo. Màu sắc và họa tiết nổi bật của các loài có khả năng phòng vệ mạnh mẽ như độc tố nhằm báo hiệu rõ ràng cho động vật ăn thịt rằng con vật đó không đáng để tấn công. Điều này trực tiếp làm tăng tỉ lệ thành công sinh sản của con mồi tiềm năng, mang lại lợi thế chọn lọc mạnh mẽ. Do đó, sự tồn tại của màu sắc cảnh báo là bằng chứng rõ ràng về chọn lọc tự nhiên. Bảo vệ học thuyết Darwin. Edward Bagnall Poulton, trong cuốn "The Colours of Animals" năm 1890, đã đổi tên khái niệm màu sắc cảnh báo của Wallace thành "tín hiệu xua đuổi" (xua đuổi bằng màu sắc, "aposematic"), đồng thời ủng hộ lý thuyết chọn lọc tự nhiên và chọn lọc giới tính vốn đang không phổ biến lúc bấy giờ của Darwin. Lối giải thích của Poulton về màu sắc sinh vật rõ ràng bị ảnh hưởng bởi học thuyết Darwin. Ví dụ, khi bàn về "tín hiệu xua đuổi" bằng màu sắc, ông cho rằng: Poulton bày tỏ sự ủng hộ với học thuyết Darwin bằng cách giải thích gói gọn trong một câu về bắt chước kiểu Bates: "Mỗi bước trong sự thay đổi ngày càng tăng theo hướng tự vệ đặc biệt của bắt chước, sẽ là một lợi thế trong cuộc đấu tranh sinh tồn". Nhà lịch sử khoa học Peter J. Bowler nhận xét rằng, Poulton đã mượn lời cuốn sách của mình để phàn nàn về việc các nhà thực nghiệm ít để ý đến các đặc điểm thích nghi, vốn là những gì mà các nhà tự nhiên học (như Wallace, Bates và Poulton) đã có thể dễ dàng nhận thấy. Bowler nói thêm: "Thực tế rằng ý nghĩa của sự thích nghi của màu sắc đã bị thách thức rộng rãi, điều đó cho thấy rằng tư tưởng chống lại học thuyết Darwin thực sự phát triển đến mức nào. Chỉ những nhà tự nhiên học thực địa như Poulton mới từ chối nhượng bộ, tin rằng những gì họ quan sát được cho thấy giá trị của chọn lọc tự nhiên, ngay cả khi học thuyết Darwim còn nhiều vấn đề."
Ukraina phản công 2023 Cuộc phản công của Ukraina năm 2023 ("Ukrainian counteroffensive") chính thức diễn ra vào ngày 4 tháng 6 năm 2023. Trong chiến dịch phản công này, phía Ukraina đã phát động một cuộc tấn công ồ ạt trên diện rộng và quy mô lớn nhắm vào các lực lượng Nga đang chiếm đóng lãnh thổ với mục tiêu lâu dài là chọc thủng tiền tuyến kéo dài hàng trăm cây số. Những nỗ lực tấn công dồn dập không biết mệt mỏi đã được triển khai thực hiện theo nhiều hướng, đặc biệt là ở Donetsk ("Đô-nhét") với Zaporizhzhia ("Za-pô-ri-zi-a") và diễn biến trên những nơi khác. Cuộc phản công này được nhiều người coi là một thời khắc quan trọng trong cuộc chiến, dù có cảnh báo rằng cuộc phản công sẽ kéo dài và thương vong lớn. Một quan chức Anh cho rằng rằng mục đích cuộc phản công của Ukraina là "cô lập, kéo căng và tấn công" các tuyến phòng thủ của Nga, nhưng cũng thừa nhận các bãi mìn của Nga nguy hiểm hơn dự kiến. Cuộc phản công của Ukraina được so sánh với cuộc đổ bộ Normandy với chiến dịch được coi là thời khắc then chốt trong trận chiến này sẽ ảnh hưởng đến chiến cuộc cuối cùng. Thắng lợi trong cuộc phản công sẽ chứng minh rõ ràng rằng những viện trợ quân sự của phương Tây cho Ukraina là đáng tiền và rằng một chiến thắng toàn diện của Ukraine là điều hoàn toàn có thể, việc này sẽ khuyến khích phương Tây viện trợ quân sự nhiều hơn nữa. Hai mục tiêu chiến quả tối yếu là việc quân đội Ukraina tái chiếm lại các vùng lãnh thổ do Nga chiếm đóng và/hoặc làm suy yếu quân đội Nga. Tùy thuộc vào các mục tiêu cụ thể của cuộc phản công, một chiến thắng có thể làm suy yếu vị thế chiến lược của Nga trong cuộc chiến, đồng thời bảo đảm rằng Ukraina sẽ nhận được sự đảm bảo an ninh lâu dài từ phương Tây. Tổng thống Zelensky cũng mong muốn đem lại một chiến quả to lớn như một món quà dành cho các nước phương Tây trước thềm Hội nghị thượng đỉnh Vilnius 2023 của NATO. Đến ngày 12 tháng 7 năm 2023, phía Ukraina tuyên bố đã thu hồi được 162 km² (63 dặm vuông). Viện nghiên cứu chiến tranh ISW ước tính diện tích thu hồi thêm là 253 km² (98 dặm vuông) và diện tích trước đó của Nga kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2023 là 282 km². Vào ngày 17 tháng 7 năm 2023, Thứ trưởng Quốc phòng Ukraina Hanna Maliar đã viết trên Telegram rằng Ukraina đã chiếm lại 18 km² (7 dặm vuông) trong tuần giao tranh cuối cùng nâng tổng diện tích thu hồi lên 210 km² (81 dặm vuông) kể từ khi cuộc phản công bắt đầu. Theo Bộ Quốc phòng Anh thì các lực lượng Nga đang lo sợ và hối hả củng cố Crimea bao gồm một khu vực phòng thủ rộng lớn có chiều dài lên đến 9 km, cách thị trấn Armyansk khoảng 3,5 km về phía bắc trên cây cầu đất hẹp nối Crimea với vùng Kherson. Trong một bài phát biểu trước Quốc hội, Bộ trưởng Quốc phòng Vương quốc Anh Ben Wallace cho rằng Ukraina đã chiếm được 300 km² lãnh thổ, hơn cả những gì Nga đạt được trong cả cuộc tấn công mùa đông. ISW cho rằng các lực lượng Ukraina đã chiếm lại khoảng 253 km² lãnh thổ, trong khi đó, các lực lượng Nga chỉ chiếm được tổng cộng 282 km² trong toàn bộ chiến trường kể từ ngày mồng một tháng Giêng. Do đó chỉ trong 5 tuần, các lực lượng Ukraina đã giải phóng gần bằng số lượng lãnh thổ mà các lực lượng Nga đã chiếm được trong hơn 6 tháng. Sau những cuộc phản công dành thắng lợi vang dội ở cuộc phản công Kherson năm 2022 và cuộc phản công Kharkiv năm 2022 diễn ra vào cuối năm 2022, giao tranh trên tiền tuyến phần lớn bị đình trệ, giao tranh chủ yếu tập trung xung quanh thành phố Bakhmut trong nửa đầu năm 2023 nơi phía Nga đã chiếm đóng nhưng Ukraina chưa công nhận bị mất. Đến tháng 2 năm 2023, các quan chức Ukraine và phương Tây bắt đầu thảo luận về kế hoạch cho một cuộc phản công tiềm năng vào mùa xuân, trong khi quân đội Ukraina đang được NATO huấn luyện quân sự và cung cấp đầy đủ các thiết bị của phương Tây, chủ yếu là xe tăng M1 Abrams và Leopard 2. Những tháng sau đó, Ukraina đã bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc phản công được dự đoán trước và sẽ không thông báo rõ ràng khi nào cuộc phản công sẽ bắt đầu. Phía bên kia chiến tuyến, thì các công sự của Nga ở Ukraina đã được "Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế" (CSIS) mô tả là "công trình phòng thủ quy mô nhất ở châu Âu". Việc xây dựng để tạo cơ sở hạ tầng quân sự đã bắt đầu vào đầu tháng 11 năm 2022 nhằm cũng cố thủ hàng thủ quân đội Nga trong lãnh thổ Ukraina. Đến tháng 4 năm 2023, Nga đã xây dựng đường phòng thủ dài đến 800 cây số để chuẩn bị nghênh đón cuộc phản công của Ukraina. Sau khi phía Ukraina tuyên bố phản công, chiến sự diễn ra ác liệt và dồn dập với những điểm nóng giao tranh giành giật tại các mặt trận, chiến tuyết, điểm giao tranh đã được ghi nhận lại như: ISW đánh giá rằng giao tranh đã chuyển hướng khỏi Orikhiv và nhắc lại tuyên bố về một cuộc tiến công dọc theo mặt trận Velyka Novosilka. Các lực lượng Nga ở Rivnopil ("Ri-vnô-pin") đang phải đối mặt với sự bao vây chia cắt. Ramzan Kadyrov thông báo rằng lực lượng Kadyrovites của ông đã giao tranh với lực lượng Ukraina ở Makarivka ("Ma-ka-ríp-ka"). Vào ngày 24 tháng 6 năm 2023, thứ trưởng quốc phòng Maliar báo cáo rằng các lực lượng Ukraine đã giải phóng làng Rivnopil ở phía nam tỉnh Donetsk. Vào ngày 4 tháng 7 năm 2023, một nguồn tin của Nga tuyên bố rằng các lực lượng Ukraina đã tiến đến ngoại ô Pryiutne ("Pờ-rít-tu-nê"), một ngôi làng cách Velyka Novosilka 15 km về phía tây nam Ukraina cũng đã sử dụng bom chùm tại nơi này, đây là một trung tâm hậu cần của Nga, được sử dụng để tiếp tế cho tất cả các lực lượng Nga trên mặt trận Velyka Novosilka, nếu thất thủ, các lực lượng Nga sẽ buộc phải rút lui về Staromlynivka, bỏ lại một số ngôi làng. Bắt đầu từ ngày 16 tháng 7 năm 2023, đã xảy ra giao tranh ác liệt trong và xung quanh làng Staromaiorske ("Sờ-ta-rô-mai-jo-xkê") đến ngày 26 tháng 7 năm 2023, các nguồn tin của Ukraina và Nga đều xác nhận rằng ngôi làng đã được lực lượng vũ trang Ukraine giải phóng. Các quan chức phương Tây đã cảnh báo về độ khó và độ dài dự kiến của cuộc phản công đối với Ukraina. Vào tháng 6 năm 2023, hai quan chức phương Tây và một quan chức quân sự cấp cao của Hoa Kỳ nói với CNN rằng các lực lượng Nga dường như tỏ ra "có năng lực" hơn so với những đánh giá dự kiến của phương Tây. Cùng tháng đó, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Lloyd Austin và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân là Tướng Mark Milley cảnh báo rằng một cuộc chiến sẽ kéo dài và với cái giá đắt. Vào ngày 14 tháng 6, các quan chức phương Tây nói rằng Ukraina đã chịu thương vong đáng kể khi họ tiếp cận các tuyến phòng thủ chính của Nga và động viên rằng những tổn thất như vậy không phải là điều bất ngờ đối với các lực lượng khi tấn công. Vào ngày 18 tháng 6 năm 2023, Bộ Quốc phòng Anh bình luận rằng cả lực lượng Nga và Ukraine đều đang chịu thương vong nặng nề ở khu vực giao tranh phía nam, đồng thời nêu rõ thêm rằng thương vong của Nga là cao nhất kể từ đỉnh điểm về trận giao tranh tồi tệ nhất ở Bakhmut vào tháng 3 năm 2023. Vào ngày 15 tháng 7, Tờ Thời báo New York đã đăng một bài báo đưa ra mức tổn thất thiết bị của Ukraine lên tới 20% trong thời gian đầu của cuộc tấn công và buộc Ukraine phải thay đổi chiến thuật để tập trung hơn vào các cuộc tấn công tiêu hao bằng pháo binh và tên lửa nhằm vào các vị trí của Nga để giảm tỷ lệ tổn thất ước tính xuống khoảng 10%.
Sargocentron spiniferum là một loài cá biển thuộc chi "Sargocentron" trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1775. Từ định danh "spiniferum" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "spinus" ("gai, ngạnh") và "ferum" (bắt nguồn từ "fero", "người mang theo"), hàm ý đề cập đến ngạnh rất dài ở xương trước nắp mang của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "S. spiniferum" có phân bố rộng khắp vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Biển Đỏ dọc theo Đông Phi, trải dài về phía đông đến quần đảo Hawaii và đảo Ducie (quần đảo Pitcairn), ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản (gồm cả quần đảo Ogasawara), giới hạn phía nam đến Nam Phi, Úc và đảo Rapa Iti. Loài này cũng được ghi nhận tại vùng biển Việt Nam, như đảo Lý Sơn, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. "S. spiniferum" sống đơn độc trên rạn san hô, từ đầm phá đến các rạn xa bờ, độ sâu đến ít nhất là 122 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "S. spiniferum" là 53,3 cm, và cũng là loài cá sơn đá lớn nhất họ. Chiều dài trung bình thường bắt gặp là 35 cm. Cá có màu đỏ, lưng sẫm hơn bụng; vảy cá viền trắng bạc. Một đốm lớn, đỏ thẫm ngay sau mắt, bao quanh bởi vệt sọc trắng. Gốc vây ngực cũng màu đỏ thẫm. Gai vây lưng màu đỏ thẫm. Các vây đều có màu vàng. Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 14–16; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia vây ở vây hậu môn: 9–10; Số tia vây ở vây ngực: 14–16; Số vảy đường bên: 41–46. Như những loài cá sơn đá khác, "S. spiniferum" thường ẩn mình dưới các gờ đá vào ban ngày và kiếm ăn ngay khi trời chập tối. Thức ăn của chúng chủ yếu là động vật giáp xác, đặc biệt là cua, nhưng đôi khi cũng ăn cả cá nhỏ. "S. spiniferum" có thể sống được đến ít nhất là 7 năm, được ghi nhận ở vùng Biển Đỏ của Ai Cập. Như một số loài cá sơn đá khác, "S. spiniferum" được ghi nhận là có thể tạo ra âm thanh. Qua giải mã trình tự gen 12S rRNA, "S. spiniferum" được xếp vào nhóm chị em với "Sargocentron caudimaculatum". "S. spiniferum" được nhắm mục tiêu trong nghề đánh bắt thủ công. Tuy nhiên, loài này có thể mang độc tố gây ngộ độc ciguatera. Trong năm 2014, khoảng 200 tấn sản lượng "S. spiniferum" được khai thác trên toàn cầu, riêng nửa phía bắc Biển Đỏ chiếm 55 tấn, nên khu vực này được xác định là ngư trường lớn nhất của loài này.
Đánh bắt cá ở Bangladesh Đánh bắt cá ở Bangladesh ("Fishing in Bangladesh") là việc khai thác, đánh bắt nguồn lợi cá và thủy hải sản ở Bangladesh. Bangladesh là một quốc gia ven biển tuyến đầu của Ấn Độ Dương có nguồn tài nguyên biển rất dồi dào ở vịnh Bengal. Quốc gia này có vùng đặc quyền kinh tế rộng 41.000 dặm vuông (110.000 km2), chiếm 73% diện tích đất nước. Mặt khác, Bangladesh là một quốc gia nhỏ và đang phát triển bị quá tải với áp lực dân số gần như không thể chịu nổi. Trong quá khứ, người dân Bangladesh chủ yếu phụ thuộc vào nguồn đạm (protein) trên đất liền. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra liên tục đã tiêu tốn diện tích đất đai vốn hạn hẹp, hiện giờ họ không có cách nào khác ngoài việc thu hoạch lượng protein dưới nước khổng lồ từ vịnh Bengal để có thể đáp ứng nhu cầu trong nước. Loại cá làm thực phẩm ở địa phương nói chung là các giống cá nước ngọt. Hơn 80% lượng protein động vật trong chế độ ăn uống của người dân Bangladesh đến từ cá. Sản lượng cá chiếm đến 6% GDP trong năm tài chính 1970, nhiều hơn gần 50% so với sản xuất công nghiệp hiện đại vào thời điểm đó. Hầu hết các ngư dân thương mại là những người theo đạo Hindu thuộc đẳng cấp thấp, những người kiếm đủ sống bằng cách làm việc trong những điều kiện thô sơ và nguy hiểm. Họ đem đến kỹ năng và sự khéo léo cao trong công việc, nhất là khi chứng kiến cái cách mà người ta làm cá điêu luyện điệu nghệ ở các chợ cá ("fish cutting in Bangladesh"); một vài trong số những người còn dám nghĩ dám làm với phương pháp đánh bắt bằng rái cá đã thuần hóa, chúng cư xử như những con chó chăn cừu, bơi dưới nước, lùa những con cá về phía lưới của ngư dân (và được thưởng cho mình một phần đánh bắt). Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp quốc (FAO) đã hỗ trợ ngành tôm và đánh bắt cá đáp ứng các tiêu chuẩn kiểm soát chất lượng và an toàn cá dựa trên Phân tích mối nguy Điểm kiểm soát tới hạn (HACCP). Tôm trong tự nhiên gắn liền với rừng ngập mặn. Các cửa sông ngập mặn như những cửa sông được tìm thấy ở Sundarbans phía tây nam Bangladesh có hệ sinh thái năng suất đặc biệt phong phú và cung cấp bãi đẻ cho tôm và cá. Nuôi tôm thâm canh thường liên quan đến việc chuyển đổi rừng ngập mặn thành ao nước mặn để nuôi tôm lớn. Tôm khô và cá khô là biểu tượng của ẩm thực Bangladesh. Tuy nhiên, theo báo cáo năm 2014 của Cục Lao động Quốc tế chúng cũng được xếp hạng trong số những hàng hóa được sản xuất từ lao động trẻ em và lao động cưỡng bức ở Bangladesh. Bộ Lao động Hoa Kỳ cũng báo cáo rằng "một số trẻ em làm việc trong điều kiện lao động cưỡng bức trong lĩnh vực đánh bắt cá khô để giúp gia đình trả nợ cho những người cho vay tiền địa phương".
Simon Elisor (sinh ngày 22 tháng 7 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Metz tại Ligue 1. Sự nghiệp thi đấu. Elisor bắt đầu sự nghiệp của mình tại câu lạc bộ Istres, trước khi gia nhập đội dự bị của AC Ajaccio. Anh ra mắt chuyên nghiệp cho đội bóng vào ngày 29 tháng 8 năm 2020, khi vào sân thay cho Faiz Mattoir trong trận thua 1-0 trước Caen tại Ligue 2. Ngày 4 tháng 10 năm 2020, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho đội bóng trong thất bại 5-1 trước Auxerre. Ngày 26 tháng 1 năm 2021, anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với AC Ajaccio, đồng thời được cho mượn tại FC Sète. Cho mượn tại Villefranche. Trong mùa giải 2021-2022, anh được cho mượn tại FC Villefranche, và ghi 17 bàn thắng sau 34 trận, bao gồm chuỗi 13 bàn thắng trong 14 trận. Anh cũng đã giành được danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất tháng 4, trong đó anh đã ghi được 5 bàn thắng. Ngày 11 tháng 7 năm 2022, anh ký hợp đồng có thời hạn 4 năm với Seraing. Tháng 1 năm 2023, anh tiếp tục được đem cho mượn, lần này là tại Stade Lavallois cho đến cuối mùa giải.. Vào cuối mùa giải, anh có nhiều bàn thắng, trong đó có cú đúp vào lưới Bastia vào ngày 6 tháng 5. Vào ngày 5 tháng 7 năm 2023, anh ký bản hợp đồng có thời hạn đến năm 2026 với câu lạc bộ Metz.
Volodymyr Vasylyovych Shcherbytsky (17 tháng 2 năm 1918 – 16 tháng 2 năm 1990) là một chính trị gia Liên Xô người Ukraina. Ông là Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Ukraina từ năm 1972 đến năm 1989. Shcherbytsky sinh ra tại Verkhnodniprovsk vào ngày 17 tháng 2 năm 1918, con của Vasily Grigorievich Shcherbytsky (1890-1949) và Tatyana Ivanovna Shcherbitskaya (1898-1990), chỉ hai tuần sau khi lực lượng Xô viết tiếp quản thành phố trong Chiến tranh Ukraina-Xô viết. Trong những năm đi học, ông từng là một nhà hoạt động và là thành viên của Komsomol từ năm 1931. Năm 1934, khi còn đi học, ông trở thành người hướng dẫn và vận động cho ủy ban quận của Komsomol. Năm 1936, ông vào Khoa Cơ khí tại Học viện Công nghệ Hóa học Dnepropetrovsk. Trong thời gian đào tạo, ông làm việc với tư cách là người vẽ sơ đồ thiết kế, nhà thiết kế và người điều khiển máy nén khí trong các nhà máy tại Dnepropetrovsk. Shcherbytsky tốt nghiệp Học viện Công nghệ Hóa học Dnepropetrovsk năm 1941 và cùng năm đó trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô. Sự nghiệp quân sự. Sau khi Đức xâm lược Liên Xô vào tháng 6 năm 1941, Shcherbytsky được huy động vào hàng ngũ của Hồng quân. Vì tốt nghiệp chuyên ngành thiết bị và máy móc hóa học, ông được cử đi học ngắn hạn tại Học viện Quân sự Phòng hóa mang tên Voroshilov, cơ quan này đã sơ tán từ Moskva đến Samarkand tại CHXHCNXV Uzbekistan. Sau khi tốt nghiệp, Shcherbytsky được bổ nhiệm làm trưởng đơn vị hóa học thuộc Trung đoàn Bộ binh 34 thuộc Sư đoàn Bộ binh 473 của Phương diện quân Ngoại Kavkaz. Vào tháng 11 năm 1941, sư đoàn được thành lập tại các thành phố Baku và Sumgayit tại CHXHCNXV Azerbaijan. Vào ngày 8 tháng 1 năm 1942, sư đoàn này được đổi tên thành Sư đoàn bộ binh 75, và vào tháng 4 cùng năm thì Shcherbytsky cùng sư đoàn tham gia cuộc xâm lược Iran của Anh-Xô. Cùng năm đó, ông phục vụ trong một lữ đoàn xe tăng. Vào tháng 3 năm 1943, Shcherbytsky được chuyển đến cục hóa học tại sở chỉ huy của Phương diện quân Ngoại Kavkaz, ông phục vụ tại đây cho đến khi chiến tranh kết thúc. Vào tháng 8 năm 1945, Phương diện quân Ngoại Kavkaz được tổ chức lại thành Quân khu Tbilisi và nhiệm vụ quân sự cuối cùng của Shcherbytsky là trợ lý trưởng của cục hóa học của sở chỉ huy quân khu về huấn luyện chiến đấu. Tháng 12 năm 1945, ông xuất ngũ với cấp bậc đại úy. Sự nghiệp chính trị. Sau Thế chiến II , ông làm kỹ sư tại Dneprodzerzhynsk (nay là Kamianske). Từ năm 1948 Shcherbytsky là công chức đảng trong Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1948, ông được bổ nhiệm làm Bí thư thứ hai của đảng ủy cộng sản thành phố Dniprodzerhynsk, ngay sau khi Leonid Brezhnev đảm nhận chức vụ Bí thư thứ nhất của đảng ủy khu vực. Ông kế nhiệm Brezhnev làm bí thư thứ nhất vào tháng 11 năm 1955. Tháng 12 năm 1957, ông được bổ nhiệm làm một bí thư trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Ukraina. Tháng 2 năm 1961, ông được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Ukraina, chức vụ cao thứ hai trong nước cộng hòa, nhưng vào tháng 6 năm 1963, ngay sau khi Petro Shelest được bổ nhiệm làm Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Ukraina, Shcherbytysky được chuyển sang chức vụ cấp thấp hơn là Bí thư thứ nhất đảng ủy khu vực Dnepropetrovsk. Vào ngày 16 tháng 10 năm 1965, sau khi Brezhnev lên đến vị trí tối cao với tư cách là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, Shcherbytsky được khôi phục vị trí cũ của mình là người đứng đầu chính phủ Ukraina. Vào tháng 5 năm 1972, Shelest được chuyển đến Moskva và được bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Do bước phát triển chính trị này, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Ukraina bầu Shcherbytysky làm Bí thư thứ nhất mới của họ; đây là chức vụ chính trị cao nhất trong CHXHCNXV Ukraina. Trong khi người tiền nhiệm của ông đã duy trì một mức độ độc lập với Moskva và khuyến khích một cách hạn chế nền văn hóa Ukraina bản địa, thì Shcherbytsky luôn trung thành với Brezhnev và thực hiện chính sách phù hợp. Tổng cộng, khoảng 37.000 đảng viên và quan chức chính phủ do Shelest bổ nhiệm đã bị thanh trừng- bị loại khỏi chức vụ của họ hoặc chuyển sang các vị trí chính trị ít ảnh hưởng hơn. Họ bị buộc tội mềm mỏng đối với chủ nghĩa dân tộc Ukraina - đàn áp chủ nghĩa dân tộc là một chính sách được Liên Xô thực hiện trong lịch sử nhằm duy trì hòa bình giữa các dân tộc trong biên giới của đất nước. Nổi tiếng nhất là nhà văn nổi tiếng người Ukraina Ivan Dziuba, đã bị kết án 5 năm trong trại lao động vì một ấn phẩm bị coi là đe dọa đến tình hữu nghị giữa nhân dân Liên Xô. Quyền cai trị của ông đối với CHXHCNXV Ukraina có đặc trưng là các chính sách mở rộng về tái tập trung hóa và đàn áp những người bất đồng chính kiến ​​kèm theo một cuộc tấn công rộng rãi vào văn hóa Ukraina và tăng cường Nga hóa. Trong thời gian Shcherbytsky cầm quyền, các vụ bắt giữ hàng loạt đã được thực hiện nhằm tống giam bất kỳ thành viên nào của giới trí thức dám bất đồng với các chính sách chính thức của nhà nước. Các tù nhân chính trị sau khi hết hạn bản án ngày càng nhiều người bị bắt giữ lại và chịu các bản án mới về tội hoạt động tội phạm. Việc giam giữ trong các viện tâm thần đã trở thành một phương pháp đàn áp chính trị mới. Báo chí tiếng Ukraina, các tổ chức học thuật và văn hóa vốn đã phát triển mạnh mẽ dưới thời Shelest, người tiền nhiệm của Shcherbytsky, đã bị Shcherbytsky đàn áp. Shcherbytsky cũng nhấn mạnh việc nói tiếng Nga tại các buổi họp chính thức trong khi Shelest nói tiếng Ukraina trong các sự kiện công cộng. Trong một bài phát biểu vào tháng 10 năm 1973 trước các đảng viên, Shcherbytsky tuyên bố rằng với tư cách là một "lực lượng theo chủ nghĩa quốc tế", người Ukraina có ý muốn "bày tỏ tình hữu nghị và tình anh em với tất cả nhân dân đất nước chúng tôi, nhưng trước hết là hướng về nhân dân Nga vĩ đại, văn hóa của họ, ngôn ngữ của họ - ngôn ngữ của Cách mạng, của Lenin, ngôn ngữ của sự giao lưu và đoàn kết quốc tế". Ông cũng tuyên bố rằng "kẻ thù lớn nhất của nhân dân Ukraina" là "chủ nghĩa dân tộc tư sản Ukraina cũng như chủ nghĩa Zion quốc tế". During Shcherbytsky's rule, Ukrainian-language education was greatly scaled back. Shcherbytsky là một nhân vật có ảnh hưởng tại Liên Xô. Vào tháng 4 năm 1971, ông được thăng chức thành viên Bộ Chính trị Liên Xô, trong cơ quan này ông vẫn là đồng minh thân cận của Leonid Brezhnev. Căn cứ quyền lực của ông được cho là một trong những nơi tham nhũng và bảo thủ nhất trong số các nước cộng hòa thuộc Liên Xô. Trong thời gian ông cầm quyền từ năm 1972 đến 1989, nền kinh tế Ukraina tiếp tục sa sút. Năm 1982, có tin đồn trong Điện Kremlin rằng vì sức khỏe suy yếu nên Brezhnev đã lên kế hoạch từ bỏ chức vụ Tổng Bí thư Đảng Cộng sản tại Hội nghị Trung ương sắp tới và bàn giao cho Shcherbytsky, nhưng khi Brezhnev đột ngột qua đời, vị trí của ông thuộc về Yuri Andropov. Đến khi nhà cải cách Mikhail Gorbachev nắm quyền tại Liên Xô, người này muốn cách chức Shcherbytsky ngay lập tức do đường lối cai trị cứng rắn của ông. Tuy nhiên, Gorbachev quyết định cho phép ông tại vị thêm vài năm nhằm khiến cho phong trào dân tộc chủ nghĩa Ukraina bị khuất phục. Sau thảm họa Chernobyl năm 1986, Shcherbytsky được lệnh của Tổng bí thư Gorbachev tiến hành cuộc diễu hành Ngày Quốc tế Lao động như thường lệ tại Khreshchatyk của Kiev vào ngày 1 tháng 5, để thể hiện cho mọi người rằng không có lý do gì phải hoảng sợ. Ông tiến hành kế hoạch này theo sắp xếp, dù biết rằng có nguy cơ phát tán bệnh phóng xạ, thậm chí còn đưa cháu trai của mình là Volodya đến dự lễ kỷ niệm. Nhưng ông đến muộn và than phiền với các phụ tá: "Ông ấy nói với tôi: 'Bạn sẽ đặt thẻ đảng của mình lên bàn nếu bạn làm hỏng cuộc diễu hành'." Vào ngày 20 tháng 9 năm 1989, Shcherbytsky mất tư cách thành viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô trong một cuộc thanh trừng các thành viên bảo thủ do Gorbachev thúc đẩy. Tám ngày sau, ông bị cách chức lãnh đạo Đảng Cộng sản Ukraina trong một hội nghị toàn thể tại Kiev do đích thân Gorbachev chủ trì. Shcherbytsky qua đời vào ngày 16 tháng 2 năm 1990 - một ngày trước sinh nhật lần thứ 72 của ông, cũng là lúc ông được cho là sẽ làm chứng tại Xô Viết Tối cao của CHXHCNXV Ukraina về các sự kiện liên quan đến thảm họa Chernobyl. Mặc dù phiên bản chính thức tuyên bố rằng nguyên nhân cái chết là do viêm phổi, nhưng có người cho rằng ông tự sát bằng cách tự bắn bằng súng carbine của ông, "không thể giải quyết không những việc kết thúc sự nghiệp của mình mà còn cả việc kết thúc trật tự chính trị và xã hội mà ông cả đời phục vụ". và đã để lại một bức thư tuyệt mệnh giải thích cho vợ cách xử lý số tiền trong tài khoản tiết kiệm của mình. Ông được an táng trong nghĩa trang Baikove tại Kyiv. Một con phố được đặt tên theo Shcherbytsky tại Kamianske nhưng đã được đổi tên thành phố Viacheslav Chornovil vào năm 2016 do luật phi cộng sản hóa của Ukraina. Cùng năm, một con phố mang tên ông tại Dnipro (trước đây là Dnepropetrovsk) được đổi tên thành phố Olena Blavatsky. Cuộc sống cá nhân. Shcherbytsky kết hôn với Ariadna Gavrilovna Shcherbitskaya, có họ khai sinh là Zheromskaya (1923–2015) vào ngày 13 tháng 11 năm 1945. Cặp đôi có hai con; con trai Valery (1946-1991) chết vì nghiện rượu và ma túy chỉ một năm sau khi Shcherbytsky mất, và con gái Olga (1953-2014) chết tại một bệnh viện tại Kiev sau một trận ốm nặng và kéo dài. Ông cũng có nhiều cháu và chắt. Olga kết hôn với doanh nhân người Bungari Borislav Dionisiev, khi đó là một người lính trong Quân đội Nhân dân Bungaria và là Tổng lãnh sự của Bungaria tại Odessa, trước khi ly hôn vào một ngày không xác định. Volodymyr Shcherbytsky từng hai lần được phong tặng Anh hùng Lao động Xã hội chủ nghĩa vào năm 1974 và 1977. Trong thời gian phục vụ công cộng, ông cũng nhận được nhiều giải thưởng và công nhận khác của nhà nước và dân sự, trong đó có Huân chương Lenin (năm 1958, 1968, 1971, 1973, 1977, 1983 và 1988), Huân chương Cách mạng Tháng Mười (năm 1978 và 1982), Huân chương Chiến tranh Vệ quốc hạng I (năm 1985), Huân chương "Vì sự nghiệp bảo vệ Kavkaz" (năm 1944) và nhiều huân chương khác. Ông cũng được Chính phủ Tiệp Khắc trao tặng Huân chương Tháng Hai Chiến thắng (năm 1978). Năm 1985, một bí thư của Đảng Cộng sản Ukraina là Leonid Kravchuk đề cập các vấn đề ý thức hệ khi chuẩn bị báo cáo cho Shcherbytsky cho các cuộc họp cấp ủy tiếp theo sau hội nghị toàn thể của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong báo cáo này, Kravchuk đã đề cập đến từ "perestroika". Ngay khi Shcherbytsky nghe thấy từ đó, ông ngăn Kravchuk lại và hỏi:
Petro Yukhymovych Shelest (14 tháng 2 năm 1908 – 22 tháng 1 năm 1996) là một chính trị gia Liên Xô người Ukraina. Ông từng là Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Ukraina, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô và là một đại biểu của Xô viết Tối cao của CHXHCNXV Ukraina. Sự nghiệp ban đầu. Petro Shelest sinh ra trong một gia đình nông dân Ukraina tại một làng gần Kharkov vào năm 1908. Ông học ngành kỹ thuật tại Kharkov, và làm các công việc trong ngành công nghiệp từ năm 1932 đến năm 1936. Năm 1928, ông gia nhập Đảng Cộng sản Liên Xô và tốt nghiệp Học viện Luyện kim Mariupol vào năm 1935. Ông phục vụ trong Hồng quân từ năm 1936 đến năm 1937, nhưng chuyển sang làm việc cho Đảng Cộng sản vào năm 1937, khi hàng nghìn đảng viên của đảng này bị cuốn vào Đại thanh trừng. Từ năm 1943 đến 1954, Shelest là trưởng quản đốc của một số nhà máy lớn tại Leningrad và Kiev. Từ năm 1954 đến năm 1963, ông lần lượt là Bí thư thứ hai Thành ủy Kiev, Bí thư thứ hai Tỉnh ủy và Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Kiev. Bí thư thứ nhất Ukraina. Sau khi Shelest được bổ nhiệm làm Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Ukraina vào năm 1963, ông bắt đầu điều hành Ukraina với một mức độ độc lập nhất định khỏi Moskva, đồng thời phát triển nền kinh tế của nước cộng hòa và khuyến khích văn hóa Ukraina. Chính trong nhiệm kỳ của ông, việc xây dựng bốn nhà máy hạt nhân tại Chernobyl đã bắt đầu. Ông từng gây phản cảm với nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Sergeyevich Khrushchyov, người này từng công khai chỉ trích Shelest trong chuyến thăm Hungary do việc giao thiết bị của Ukraina bị chậm trễ, khi đó nhận xét: "Hãy nhìn xem ông ấy ủ rũ như thế nào - cứ như thể bị một con nhím húc vào cổ họng vậy." Tháng 11 năm 1964, khi Khrushchev bị cách chức, Shelest được thăng chức thành viên chính thức của Đoàn chủ tịch (sau đổi tên thành Bộ Chính trị). Năm 1968, Shelest đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định phản ứng của chính phủ Liên Xô với Mùa xuân Praha, là sự nới lỏng kiểm soát chính trị đột ngột tại Tiệp Khắc, tạo ra một bầu không khí tràn sang phía tây Ukraina. Ông là thành viên Bộ Chính trị duy nhất bên cạnh Leonid Ilyich Brezhnev tham gia mọi cuộc gặp giữa các nhà lãnh đạo cộng sản Liên Xô và Tiệp Khắc trong năm đó. Phát biểu trước Ủy ban Trung ương của Đảng Cộng sản Liên Xô vào ngày 17 tháng 7 năm 1968, Shelest cáo buộc ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đàn áp những người cộng sản trong khi không cố gắng kiểm soát "những kẻ cơ hội cánh hữu". Ông tuyên bố: Trong các cuộc đàm phán vào ngày 30 tháng 7 năm 1968, ông mắng mỏ phái đoàn Tiệp Khắc, phàn nàn rằng "Các chương trình truyền hình, chương trình phát thanh, báo và tạp chí của các ông được phân phối đến các khu vực của chúng tôi gần biên giới của các bạn nhất, khiến người dân của chúng tôi đặt những câu hỏi đầy bối rối". Shelest tiếp tục xúc phạm František Kriegel, một người cộng sản Tiệp Khắc cấp cao và là cựu chiến binh trong Nội chiến Tây Ban Nha, gọi ông này là "Người Do Thái Galicia". Lãnh đạo đảng Tiệp Khắc là Alexander Dubček đã bỏ họp và sau đó đã gửi khiếu nại về lời bình luận và giọng điệu của Shelest. Vào ngày 3 tháng 8, Shelest đã bí mật gặp Vasiľ Biľak, một người Cộng sản Tiệp Khắc theo đường lối cứng rắn, người này đưa cho ông một lá thư mời chính phủ Liên Xô gửi quân đến để khôi phục chế độ độc tài. Điều này được sử dụng như một cái cớ cho cuộc xâm lược của Khối Warszawa vào ngày 20 tháng 8. Năm 1968, Shelest được trao tặng danh hiệu "Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa". Sự nghiệp sau này. Vào tháng 5 năm 1972, Shelest bất ngờ bị cách chức và được triệu đến Moskva, tại đây ông có một thời gian là phó chủ tịch Sovmin (Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô), một vai trò tương đối thấp đối với một ủy viên Bộ Chính trị. Vào tháng 4 năm 1973, ông bị loại khỏi Bộ Chính trị và vào tháng 5 được cho là đã từ chức vì vấn đề sức khỏe. Các nhà quan sát phương Tây ban đầu cho rằng ông bị sa thải vì quan điểm cứng rắn về chính sách đối ngoại. Nổi tiếng là việc ông kịch liệt phản đối chuyến thăm của Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đến Moskva vào ngày 22 tháng 5 năm 1972. Nhưng vào tháng 4 năm 1973, ông bị người kế nhiệm tại Ukraina là Volodymyr Vasylyovych Shcherbytsky tấn công công khai, trong khi một bài báo không ký tên trên báo chí Ukraina tố cáo một cuốn sách của Shelest, "O Ukraina, vùng đất Xô viết của chúng ta", xuất bản năm 1970, có chứa 'lỗi tư tưởng', 'lỗi thực tiễn' và 'lỗi biên tập' có khả năng khuyến khích chủ nghĩa dân tộc Ukraina. Bản thân Shelest đổ lỗi việc mình bị hạ bệ là do 'âm mưu' của Shcherbytsky và Brezhnev. Trong hồi ký của mình, ông chỉ trích phong cách chính quyền của họ là "chuyên quyền" và "phi cộng sản". Từ năm 1973 đến năm 1985, Shelest làm quản lý tại một phòng thiết kế máy bay gần Moskva. Sau khi Liên Xô sụp đổ, ông đã có thể thăm lại Ukraina sau gần 20 năm vắng mặt. Ông đã đến thăm Ukraina nhiều lần và thuyết trình về nhiệm kỳ lãnh đạo Ukraina của mình. Ông mất tại Moskva vào năm 1996.
Date Tadamune (伊達忠宗 (Y Đạt Trung Tông), Date Tadamune 23 tháng 1, 1600 – 10 tháng 8, 1658) là "daimyō" đời thứ 2 của Phiên Sendai thuộc xứ Tōhoku dưới thời Edo trong lịch sử Nhật Bản. Tadamune chào đời vào năm Khánh Trường thứ 12 (1600), có tên khai sinh là Torakikumaru (虎菊丸 / Hổ Cúc Hoàn) sau đổi là Sōjirō (総次郎 / Tổng Thứ Lang), là con trai thứ 2 của Date Masamune, "daimyō" đời thứ nhất của Sendai. Mặc dù là con thứ 2 song Tadamune vẫn vượt lên trên anh trai mình Date Hidemune để được chọn làm Thế tử, vì mẹ ông là chính thất của Masamune, trong khi Hidemune chỉ là con vợ lẽ. Năm lên 7, ông được hứa hôn với Ichi-hime, con gái thứ 5 của Mạc chúa Tokugawa Ieyasu; tuy nhiên, vị hôn thê đã chết chỉ sau đó 3 năm, và ông lại được hứa hôn lần nữa với con gái của Ikeda Terumasa, và cũng là cháu ngoại của Ieyasu. Năm 1611, Chinh di Đại tướng quân Tokugawa Hidetada đích thân tổ chức nghi lễ trưởng thành ("genpuku") cho Tadamune, và ban cho ông chức danh "Mimasaka-no-kami", và quan chức Chính ngũ vị hạ đại thần. Ông cũng được phép nhận họ giống với gia đình Tướng quân là Matsudaira như một vinh dự. Trong Cuộc vây hãm Osaka, ông cùng cha tham chiến đứng về phe Tokugawa Ieyasu, và theo lệnh của Ieyasu, Date Hidemune được thành lập một nhánh độc lập của gia tộc Date tại Uwajima ở Shikoku với lãnh địa 100.000 koku, trong khi Date Tadamune tiếp tục sẽ là người kế tục cho dòng chính của nhà Date. Tadamune được thăng lên hàm Chính Tứ vị hạ năm 1616. Năm 1624, tước hiệu của ông được đổi sang "Echizen-no-kami", và đổi lần cuối năm 1626 là "Sakonoe-gon-shōshō". Sau cái chết của phụ thân vào tháng 6 năm 1636, ông lên nối ngôi "daimyō" đời thứ 2, và chuyển tới Lâu đài Aoba ở Sendai vào tháng 8. Ông ngay lập tức nắm quyền kiểm soát lãnh địa bằng cách thay thế hai trong số sáu bugyō, và thiết lập lại một hệ thống thẩm phán và thanh tra nhiều người để giám sát nhiều hơn và loại bỏ tham nhũng và cai trị độc đoán. Ông đã theo dõi điều này vào năm sau bằng cách xuất bản một bộ quy tắc và quy định mới cho tên miền. Năm 1639, tước hiệu lịch sự của ông được đổi thành Mutsu-no-kami. Về mặt tài chính, từ năm 1640 đến năm 1643, ông đã ra lệnh khảo sát lại toàn bộ lãnh địa, và thống nhất dùng các đơn vị đo lường phù hợp với các tiêu chuẩn toàn quốc được sử dụng bởi Mạc phủ Tokugawa. Điều này đi kèm với cải cách ruộng đất quy mô lớn. Tadamune cũng thiết lập một hệ thống mà theo đó chính quyền mua tất cả gạo được sản xuất trong lãnh địa và bán lại ở Edo, trả tiền trước cho nông dân. Điều này khuyến khích việc canh tác và sản xuất lúa gạo ở các địa phương. Trong thời gian cai trị của Tadamune, lâu đài Sendai đã được hoàn thành, và ông đã tài trợ cho việc xây dựng nhiều ngôi đền và đền thờ, bao gồm Zuihōden năm 1637 và Sendai Tōshōgū năm 1654. Sau cái chết của Tadamune vào ngày 12 tháng 7 năm 1658, một trong số những thuộc hạ cao cấp của ông, Furuuchi Shigehiro, đã tự sát tuẫn chủ. Ngôi chúa vùng Sendai và ngôi thủ lĩnh dòng họ Date. được truyền cho Công tử thứ 6 làDate Tsunamune.
Trong thi đấu, vận động viên có thể thi đấu trang bị (equipped) hoặc không trang bị (unequipped) (thường được gọi là 'cổ điển' (classic) hoặc 'thô' (raw) trong IPF). Trang bị trong bối cảnh này là áo hỗ trợ (áo bench hoặc bộ đồ tập squat/deadlift hoặc quần đùi). Ở một số liên đoàn, được phép quấn đầu gối khi thi đấu trang bị. Vận động viên cũng có thể sử dụng đai tạ, quấn đầu gối, quấn cổ tay, và giày đặc biệt. Các cuộc thi lực tạ diễn ra trên khắp thế giới. Lực tạ là một môn thể thao Thế vận hội người khuyết tật (chỉ có bench press) từ năm 1984 và, theo IPF, cũng là một môn thể thao của Đại hội Thể thao Thế giới. Các cuộc thi địa phương, quốc gia và quốc tế cũng đã được phê chuẩn bởi các liên đoàn độc lập. Hạng cân và Danh mục. Phần lớn liên đoàn lực tạ sử dụng các hạng cân sau đây: Nam: 52 kg, 56 kg, 60 kg, 67.5 kg, 75 kg, 82.5 kg, 90 kg, 100 kg, 110 kg, 125 kg, 140 kg, 140 kg+ Nữ: 44 kg, 48 kg, 52 kg, 56 kg, 60 kg, 67.5 kg, 75 kg, 82.5 kg, 90 kg, 90 kg+ Tuy vậy, vào năm 2011, IPF giới thiệu các hạng cân mới sau đây: Nam: up to 53 kg (Sub-Junior/Junior), 59 kg, 66 kg, 74 kg, 83 kg, 93 kg, 105 kg, 120 kg, 120 kg+ Nữ: up to 43 kg (Sub-Junior/Junior), 47 kg, 52 kg, 57 kg, 63 kg, 69 kg, 76 kg, 84 kg, 84 kg+ Phụ thuộc vào liên đoàn nói chung nhưng mức tuổi trung bình như sau: 14-18 (Sub-Jr), 19-23 (Jr), Mọi lứa tuổi (Open), 40+ (Master) Một cuộc thi lực tạ diễn ra như sau:Mỗi lực sĩ được phép thực hiện ba lần thử mỗi bài nâng squat, bench press và deadlift, tùy thuộc vào liên đoàn mà họ đang nằm trong. Đối với mỗi hạng cân, người nâng có tổng điểm cao nhất sẽ thắng. Trong nhiều cuộc thi, vận động viên nâng có tổng điểm cao nhất so với hạng cân của họ cũng giành chiến thắng. Nếu hai hoặc nhiều vận động viên nâng đạt được tổng điểm bằng nhau, vận động viên nhẹ hơn xếp trên vận động viên nặng hơn.Các lực sĩ được đánh giá với những lực sĩ khác cùng giới tính, hạng cân và độ tuổi. Điều này giúp đảm bảo rằng thành tích của những vận động viên lực tạ được xếp hạng với những vận động viên gần thuộc tính, như Lamar Gant, người đã nâng tạ nặng gấp 5 lần trọng lượng cơ thể của mình, được công nhận cùng với thành tích của Danny Grigsby, người hiện đang giữ kỷ lục thế giới về deadlift mọi thời đại.
Ca sĩ mặt nạ (mùa 2) Mùa thứ hai của chương trình Ca sĩ mặt nạ được phát sóng trên kênh truyền hình HTV2, VTVCab 1 và ứng dụng VieON từ ngày 4 tháng 8 năm 2023 đến ngày 16 tháng 12 năm 2023. Người chiến thắng mùa này là Anh Tú trong mascot "Voi Bản Đôn", hạng nhì là Orange trong mascot "Ong Bây Bi", và hạng ba là Hương Lan trong mascot "Cú Tây Bắc". Ban cố vấn và dẫn chương trình. Dàn cố vấn của chương trình đã được chương trình công bố vào ngày 26 tháng 7 năm 2023. Trấn Thành và Tóc Tiên đều trở lại ở vị trí cố vấn cố định, trong khi Bích Phương có lần đầu đảm nhiệm vị trí này khi tham gia chương trình. Ngô Kiến Huy tiếp tục đảm nhiệm vị trí người dẫn chương trình trong mùa này. Giống như mùa trước, các cố vấn khách mời cũng xuất hiện trong chương trình và thay đổi trong mỗi tập phát sóng, với Song Luân – người từng tham gia chương trình với mascot Nhím Uiza – là cố vấn khách mời trong tập đầu tiên của chương trình. Giữa các cố vấn cố định xuyên suốt là Trấn Thành, Tóc Tiên và Bích Phương, còn có thêm giải thưởng "Lỗ tai vàng" cho cố vấn xuất sắc nhất của mùa đó. Ở mùa này, Trấn Thành là người chiến thắng khi anh đoán đúng danh tính của 11/18 nhân vật, trong đó có cả mascot Cá Ngựa Đôi. Các thí sinh của chương trình lần lượt được nhà sản xuất tiết lộ từ cuối tháng 7 năm 2023. "Cô M23" là nhân vật đầu tiên được xác nhận tham gia mùa này khi xuất hiện tại chương trình "Sóng 23" vào đầu năm 2023, tuy nhiên nhân vật này không nằm trong số các thí sinh dự thi. Thay vào đó, danh tính của "Cô M23" – cùng với "Tiểu Phượng Hoàng" và "Nàng Mây", những mascot hỗ trợ trong mùa đầu tiên – đã được tiết lộ thông qua All-star Concert 2023, bao gồm Nhật Thủy, Orange và Lâm Bảo Ngọc. Trong vòng 1, 12 thí sinh được chia thành 3 bảng A, B, C và có những thí sinh phải lộ diện ngay từ tập đầu tiên, điều này rất khác so với mùa 1 khi các nhân vật chỉ bắt đầu lộ diện từ tập 4 trở đi. Bên cạnh các mascot thông thường, mùa này lần đầu tiên giới thiệu các mascot đôi bao gồm hai nhân vật bí ẩn cùng tham gia, danh tính của mascot này là hai nghệ sĩ thay vì một. Sang vòng 2, mỗi bảng có thêm hai thí sinh gia nhập nhóm thành viên chính thức. Sau thành công của mùa đầu tiên, khán giả chờ đợi vào sự trở lại của mùa thứ hai. Những thay đổi về luật chơi cũng như các nhân vật bí ẩn và mascot đã và đang thu hút được nhiều sự quan tâm của khán giả. Sau tập đầu tiên, hai mascot HippoHappy và Cú Tây Bắc được khán giả quan tâm nhiều nhất. Những tập phát sóng sau đó cũng khiến khán giả tò mò vì sự xuất hiện của các mascot mới, trong đó có mascot đôi "Cá Ngựa Đôi" lần đầu tiên xuất hiện trong chương trình. Theo "VnExpress", khán giả cho rằng mùa thứ 2 của chương trình thu hút công chúng nhờ hội tụ những giọng hát ấn tượng cả về mặt kỹ thuật lẫn cảm xúc. Chỉ sau hai tập, chương trình nói chung cũng như các tiết mục nói riêng thu hút sự quan tâm của cộng đồng mạng. Theo ghi nhận của "VieZ", tập 3 là tập đầu tiên mà khán giả "không muốn loại ai" vì những bản phối của ban nhạc Hoài Sa, nhất là tiết mục đối đầu giữa Madame Vịt và Chuột Cherry. Màn lộ diện sau đó của ca sĩ Khánh Linh trong mascot Madame Vịt khiến nhiều khán giả tiếc nuối vì cô không thể bước sâu hơn trong chương trình. Từ khóa "ca sĩ Khánh Linh" lọt top 2 tìm kiếm thịnh hành sau khi phần lộ diện của tập 3 được lên sóng. "VieZ" trích dẫn một bình luận của khán giả rằng 95% khán giả đoán sai mascot lộ diện của tập 3. Những tập đầu tiên khiến khán giả đặt nghi vấn về việc của chương trình kém sức hút hơn so với mùa đầu tiên với sự thay đổi luật chơi, mascot không đặc sắc, phần lộ diện thiếu đi cảm xúc, và đặc biệt là những phần trình diễn hầu như thiếu đi điểm nhấn và không để lại ấn tượng cho khán giả. Sau 4 tập, chỉ có tiết mục "Ngày mai người ta lấy chồng" của Voi Bản Đôn tạo được sức hút đáng kể. Tuy nhiên, từ tập 5, chương trình được nhiều khán giả cho là có sự chuyển biến tích cực hơn nhờ những bản phối mới của các mascot thể hiện trên sân khấu. Báo "Phụ nữ Việt Nam" cho biết chương trình đã lựa chọn được những ca khúc được nhiều người yêu thích nhằm thu hút khán giả đại chúng và củng cố được niềm tin vào sự khởi sắc trở lại của mùa thứ hai. Những tiết mục cũng vì thế mà trở nên ấn tượng hơn và chạm được đến cảm xúc của người nghe. Bên cạnh đó, nhiều khán giả cho rằng chương trình đã kịp thời nhận thức và đưa ra những thay đổi tích cực hơn so với những tập trước đó, từ thiết kế trang phục của các mascot trở nên bắt mắt hơn, đến sự biến hóa trong cách hát của các nghệ sĩ bí ẩn tạo nên sự bất ngờ và tiếc nuối cho khán giả khi có mascot lộ diện. Bài đánh giá của "Hoa Học Trò" cho biết việc mascot sẽ có thể phải lộ diện ngay từ lần xuất hiện đầu tiên sẽ giúp tăng thêm tính kịch tính cho chương trình, đồng thời hạn chế được việc chương trình bị kéo dài như đã xảy ra ở mùa đầu tiên. Cố vấn trong tập đầu tiên với sự xuất hiện của Bích Phương và khách mời Song Luân cũng nhận được sự yêu thích của khán giả; trong khi Trấn Thành được nhận xét là tiết chế hơn so với mùa đầu tiên. Theo báo "Tuổi Trẻ", ngoài những phần trình diễn của các mascot trong chương trình thì phần giao lưu giữa họ với ban cố vấn là một trong những yếu tố khá quan trọng để chương trình "Ca sĩ mặt nạ" thu hút khán giả. Bài viết nhận định, phần giao lưu ở mùa 2 được chuyên nghiệp hóa lên và bởi vậy nên thời gian dành cho phần này cũng kéo dài hơn. Một ý kiến của khán giả bên dưới video phát sóng của tập 3 cho biết: "Nghe hát là chính mà giao lưu nhiều quá... Tua mỏi tay". Theo báo "Dân Việt", mùa này không còn thu hút khán giả như những gì mà mùa đầu tiên đã làm được. Bài viết chỉ ra 3 nguyên nhân chính: không còn "hiệu ứng mùa đầu tiên", cố vấn mùa này bị cho là "diễn kịch" và chưa có tiết mục nào thật sự mang tính đột phá. Mặc dù vậy, bài viết khẳng định đây vẫn là một chương trình đáng xem với nhiều tiết mục được dàn dựng kỹ lưỡng cũng như sự xuất hiện của những giọng hát thực lực. Một bài viết trên báo "Người lao động" cho rằng việc khán giả cố gắng truy tìm bằng được danh tính thật của những mascot mỗi khi họ xuất hiện tại chương trình là một phần để tạo nên sức hút thú vị cho chương trình; minh chứng là việc chương trình luôn thuộc top đầu trong bảng xếp hạng xu hướng tìm kiếm. Những nghệ sĩ được khán giả dự đoán dù chỉ là ước chừng và cảm tính nhưng vẫn không ít lần khiến cộng đồng mạng xôn xao. Tính đến trưa ngày 17 tháng 8, có ba video về tập 2 của chương trình cùng lọt vào top thịnh hành trên YouTube. Cụ thể, phần trình diễn và vòng đối đầu của tập này có mặt trong top 5 với 2,8 triệu lượt xem và 23.000 lượt thích. Phần trình diễn của mascot "Voi Bản Đôn" trong tập này cũng gây ấn tượng với khán giả và lọt top 9 thịnh hành với 1,3 triệu lượt xem cùng hơn 12.000 lượt thích. Cũng nhờ phần trình diễn của "Voi Bản Đôn", ca khúc "Ngày mai người ta lấy chồng" gây sốt trở lại trên mạng xã hội. Bên cạnh đó, tiết mục lộ diện của cặp đôi mascot "Cá Ngựa Đôi" – với sự xuất hiện của Trương Thảo Nhi và Phạm Đình Thái Ngân – cũng lọt top thịnh hành chỉ sau chưa đầy 24 giờ phát hành. Vòng 3 của "Ca sĩ mặt nạ" mùa 2 với sự góp mặt của những mascot có giọng hát nội lực đã thu hút sự chú ý mạnh mẽ của mạng xã hội. Tập 7 của chương trình đạt top 3 thịnh hành trên YouTube chỉ sau 1 ngày phát sóng nhờ sức hút ở phần thể hiện của các mascot Cú Tây Bắc, Voi Bản Đôn, Nàng Tiên Hoa, và phần lộ diện nhận được nhiều lời khen của Vũ Thảo My trong mascot Cáo Tiểu Thư; cùng với đó là phần lộ diện trong tập 6 ở vị trí thứ 5. Hashtag "#CaSiMatNa" của chương trình cũng đem về hơn 1,3 tỷ lượt xem trên nền tảng TikTok. Theo bảng xếp hạng SocialTrend Ranking tuần từ ngày 19 đến 25 tháng 9, chương trình "Ca sĩ mặt nạ" mùa 2 đứng đầu bảng xếp hạng thịnh hành mảng âm nhạc trên mạng xã hội với hơn 72.000 lượt thảo luận. Tập 8 với màn lộ diện của "Thỏ Xỏ Khuyên" Hoàng Dũng cùng 4 phần trình diễn của các mascot đã lọt top 1 thịnh hành YouTube với gần 9.000 lượt thích và gần 2.000 bình luận chỉ sau 2 ngày lên sóng. Bất chấp việc bị đánh giá là "nhạt nhòa" hơn so với mùa đầu tiên, một thống kê chỉ ra rằng "Ca sĩ mặt nạ" mùa 2 là chương trình duy nhất trong năm 2023 có 5 trong tổng số 13 tập phát sóng lọt vào top thịnh hành trên YouTube, chứng tỏ chương trình vẫn thu hút những người yêu âm nhạc. Thành công của mùa đầu tiên khiến khán giả càng kỳ vọng hơn khi chương trình trở lại với mùa 2. Tuy nhiên, sau những tập phát sóng đầu tiên, chương trình lại chưa đáp ứng được những kỳ vọng đó của khán giả. Bài đánh giá của báo "Phụ nữ số" sau hai tập đầu tiên cho rằng có nhiều yếu tố khiến chương trình chưa thỏa mãn mong muốn của khán giả, chẳng hạn như nghệ sĩ lộ diện không đặc sắc và dễ đoán, những nghệ sĩ mùa này không gây sốt; trang phục mascot đơn giản, khiến phần nhìn trở nên kém thu hút. Việc cố gắng tạo nên điểm khác biệt như lùi thời điểm lộ diện mascot không thông báo trước bị cho là đang làm màu và làm hỏng cảm xúc của người xem. Nhiều khán giả chia sẻ với báo "Tuổi Trẻ" rằng sự thay đổi của chương trình ở mùa này khiến họ "chưa thật sự thỏa mãn". Bên cạnh việc những phần trình diễn của các mascot không tạo được sự lan tỏa như mùa đầu tiên, phần giao lưu, trò chuyện giữa các nghệ sĩ lại chiếm quá nhiều thời lượng của chương trình. Một khán giả cho rằng những lời phân tích của ban cố vấn về các mascot là khá dông dài và không tập trung vào chuyên môn giọng hát; thậm chí họ còn đưa ra những ý kiến để hướng đến một nhân vật khác thay vì hướng thẳng vào danh tính thật của mascot như mùa đầu tiên. Đánh giá tổng thể của "Zing News" về mùa 2 của chương trình cho thấy mặc dù vẫn có nhiều tiết mục ấn tượng, nhưng sức hút của chương trình không được như mùa đầu tiên phần lớn do phần dàn dựng và chất lượng âm nhạc. Sự thay đổi không báo trước về việc tách phần lộ diện ở tập 2 mang đến "hiệu ứng ngược" cho chương trình khi lượt xem từ tập 3 giảm mạnh, đến khi chương trình nhận ra được sai lầm và đưa phần lộ diện trở lại vào chung một tập từ tập 7 thì khán giả đã không còn có sự cuồng nhiệt với chương trình như ở mùa trước. Phần âm nhạc bị đánh giá là thiếu sáng tạo khi số lượng các ca khúc thể loại ballad ở mùa này quá nhiều, trong khi các ca khúc mới của các nhạc sĩ hoặc chính các mascot sáng tác không tạo được sức hút đáng kể với khán giả. Các giọng ca của mùa này mặc dù đảm bảo chất lượng nhưng không đồng nhất hay có sự phổ biến rộng rãi với công chúng như ở mùa đầu tiên, đặc biệt khi so sánh phong cách âm nhạc của Cú Tây Bắc so với các mascot còn lại. Sự cầu kỳ và đầu tư của những bộ trang phục mascot ở mùa đầu tiên khiến cho khán giả đặt nhiều kỳ vọng hơn vào trang phục của các mascot trong mùa thứ 2. Tuy nhiên, khi chương trình công bố teaser, nhiều khán giả cảm thấy không hài lòng vì chúng thiếu đầu tư hẳn so với mùa trước. Các mascot trong mùa này bị khán giả đánh giá là quá đơn giản vì trang phục thí sinh mặc giống như người bình thường, nếu không tính đến chiếc đầu được hóa trang. Nhiều ý kiến cho rằng nhà thiết kế Ngô Mạnh Đông Đông không có đủ thời gian để đầu tư kỹ lưỡng cho các mascot, bởi từ thời điểm kết thúc mùa 1 đến thời điểm bắt đầu mùa 2 chỉ cách nhau 9 tháng. Cũng có ý kiến cho rằng kinh phí sản xuất mùa 2 đã bị giảm đi đáng kể, ảnh hưởng đến việc đầu tư cho các mascot – vốn là yếu tố được cho là đầu tư khá tốn kém trong chương trình. Mặc dù vậy, nhiều khán giả vẫn chờ đợi vào sự nâng cấp của các mascot trong những vòng sau để tạo điểm nhấn khác lạ cho các nhân vật. Lùi phần công bố kết quả và lộ diện của tập 2#đổi 6. Tập 2 của chương trình phát sóng vào ngày 11 tháng 8 năm 2023 khiến nhiều khán giả phẫn nộ và tranh luận trên fanpage của chương trình bởi thay vì công bố kết quả vòng đối đầu và nhân vật phải lộ diện đầu tiên ở bảng B, chương trình lại kết thúc ngay và hẹn khán giả xem tiếp phần còn lại vào thứ tư tuần kế tiếp, tức là vào ngày 16 tháng 8 năm 2023. Họ cho rằng chương trình đang cố tình bày chiêu trò để câu kéo lượt xem và không tôn trọng khán giả, đồng thời khẳng định rằng sẽ không xem nữa nếu tình trạng này vẫn còn xảy ra trong những tập tiếp theo. Theo "VieZ", sự thay đổi trên khiến kết quả trở nên kịch tính và khó đoán hơn, nhưng theo "Hoa Học Trò", việc lùi lại như vậy dễ gây loãng mạch cảm xúc và sẽ khiến nhiều khán giả mới trở nên hoang mang về lịch phát sóng hay thời lượng của chương trình. Bản thân tập này cũng bị đánh giá thấp so với tập đầu tiên vì những tiết mục trong tập này đều mang hơi hướng ballad thay vì tiết tấu sôi động, khiến tổng thể tập 2 bị cho là một màu và thiếu điểm nhấn. Việc chia tách phần trình diễn và lộ diện tiếp tục kéo dài đến hết tập 6. Kể từ tập 7 trở đi, cả hai phần đã được gộp trở lại vào cùng một tập. Mặc dù vậy, một bài viết trên báo "Tuổi Trẻ" nhận xét rằng liệu sự thay đổi liên tục như thế này có phải là vì mục đích tăng lượt xem cho chương trình hay không, dù cho phần lộ diện tách ra từ tập 2 đến tập 6 chỉ kéo dài khoảng 30 phút. Ban cố vấn bị tố "diễn sâu". Ban cố vấn của mùa này đã gây ra sự khó chịu cho khán giả bởi cách thể hiện của họ trước ống kính. Mặc dù có những mascot có giọng hát quá đặc trưng khiến khán giả nhận ra ngay từ lúc hát, nhưng có thể vì muốn chương trình trở nên thêm thú vị mà ban cố vấn đã cố tình không nhận ra họ. Chẳng hạn như "Khỉ Hồng" – nhân vật của Ưng Hoàng Phúc trong tập 1, dù Tóc Tiên viết vào tờ giấy là Ưng Hoàng Phúc nhưng các cố vấn lại đưa ra những dự đoán khác nhau về danh tính của mascot Khỉ Hồng. Hay như Cừu Bông ở tập 2, dù chưa lộ diện nhưng nhiều khán giả đoán là Khởi My với màu giọng quá đặc trưng của cô, thậm chí còn có một clip cover bài hát "Bước qua đời nhau" của cô do chính cô chia sẻ trước đó – đây cũng là bài hát mà mascot Cừu Bông thể hiện trong chương trình; tuy vậy không một ai trong ban cố vấn đoán mascot này là Khởi My. VOH cho rằng do mùa 2 có những giọng hát quá đặc trưng nên việc ban cố vấn cố gắng giữ danh tính của các nghệ sĩ tham gia là điều dễ hiểu, nhưng có lẽ họ chưa làm điều đó được khéo léo, tạo cảm giác "chiêu trò", khiến cho khán giả cảm thấy phản cảm. Liên quan đến kết quả của tập 3. Tập 3 của chương trình khiến khán giả vô cùng tiếc nuối khi ca sĩ Khánh Linh – danh tính thật sự của mascot Madame Vịt phải ra về quá sớm, trong khi Thỏ Xỏ Khuyên, người được cho là có màn trình diễn tệ nhất tập này, lại giành chiến thắng áp đảo. Khán giả phỏng đoán rằng vì có quá ít thí sinh nam nên chương trình phải tìm cách giữ mascot này lại, tuy nhiên, phần thể hiện của Thỏ Xỏ Khuyên lại không đủ để thuyết phục được mục tiêu ấy, mascot này thậm chí còn bị so sánh với Chàng Lúa ở mùa 1. Đối với điều đó, những người dự đoán thân phận của Thỏ Xỏ Khuyên là ca sĩ Hoàng Dũng cũng đã lên tiếng bênh vực anh. Họ tranh biện rằng Hoàng Dũng vốn là một ca sĩ hát rất hay nhưng anh đã cố tình giấu giọng của mình lại ngay vòng đầu, hơn nữa anh đã chọn bài hát chưa phù hợp và cố vấn nghệ thuật của chương trình đã biên dựng phần trình diễn của anh chưa hợp lý. Khán giả tin rằng Hoàng Dũng sẽ thật sự lấy lại phong độ ở những vòng sau. Các manh mối không liên quan. Những manh mối liên quan đến các mascot ở mùa này bị cho là vô lý khi đã "đánh đố" khán giả đến mức không thể đoán ra được. Một số manh mối gây khó hiểu cho khán giả có thể kể đến như manh mối "chè khoai dẻo" của "Thỏ Xỏ Khuyên" Hoàng Dũng, manh mối về hình ảnh World Cup của "Madame Vịt" Khánh Linh, và manh mối "giảng viên dạy múa" của "Nàng Tiên Hoa" Dương Hoàng Yến. Ngoài ra, một vài nhân vật cũng xuất hiện các manh mối gây nhiễu nhằm đánh lừa người xem; chẳng hạn nhân vật "Cừu Bông" với các gợi ý "cô tiên", "2013" để khán giả đoán Miu Lê thay vì Khởi My. Nhiều khán giả cho rằng những manh mối mà chương trình cung cấp không còn đáng tin cậy nữa khi chỉ cần nghe giọng hát đã có thể đoán ra danh tính thật của các mascot. Nhiều khán giả phát hiện ra rằng ba phần lộ diện trong ba tập 4, 6 và 7 của "Bạch Khổng Tước" Hoàng Mỹ An, "Tê Giác Ngộ Nghĩnh" Châu Khải Phong và "Cáo Tiểu Thư" Vũ Thảo My đều nhận về cùng tỷ lệ bình chọn thấp nhất là 11,65%. Điều này đã khiến họ đặt nghi vấn liệu đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay có sự dàn xếp trước của nhà sản xuất. Sự xuất hiện của Châu Khải Phong trong mascot Tê Giác Ngộ Nghĩnh ở tập 6 đã dấy lên ý kiến cho rằng anh chỉ là "ca sĩ hội chợ" và không xứng đáng để xuất hiện tại "Ca sĩ mặt nạ". Đáp lại, anh bày tỏ rằng điều quan trọng nhất chính là sự cố gắng trong suốt hành trình ca hát của anh. Tập 9 của chương trình gây tranh cãi ngay khi tung teaser có sự xuất hiện của khách mời Đạt G. Cộng đồng mạng cho rằng một người từng dính vào scandal bạo hành bạn gái như anh không nên được mời vào một chương trình truyền hình về âm nhạc như "Ca sĩ mặt nạ". Bên lề chương trình. Đầu tháng 11, ban tổ chức "The Masked Singer Vietnam All-star Concert 2023" thông báo rằng sự kiện sẽ được tổ chức tại Trung tâm Triển lãm và Hội nghị Sài Gòn (SECC), thành phố Hồ Chí Minh với giá vé dao động từ 800.000 đến 5.000.000 đồng. Trong bối cảnh chương trình đang giảm sức hút, việc giá vé concert mùa 2 tăng lên so với mùa đầu tiên khiến nhiều khán giả có phần e ngại. Liên quan đến sự kiện All-star Concert. Sự kiện "All-star Concert" cùng với đêm công bố và trao giải của chương trình nhận về nhiều ý kiến trái chiều. Trước khi thứ hạng top 3 được công bố, nhiều khán giả đã đoán được danh tính của ba mascot Ong Bây Bi, Cú Tây Bắc và Voi Bản Đôn. Vì thời lượng concert kéo dài hơn 4 tiếng đồng hồ, nên nhiều khán giả không mong đợi vào phần lộ diện của các mascot và bỏ về khi chương trình vẫn còn chưa kết thúc. Bên cạnh lý do kết quả dễ đoán, các tiết mục trong chương trình cũng không đủ để kéo khán giả ở lại, nhất là khi có nhiều tiết mục pop-ballad được thể hiện xuyên suốt concert, và đem nhiều bản phối từng được thể hiện trong chương trình vào concert. Chất lượng âm thanh là yếu tố gây tranh cãi nhiều nhất trong concert, khiến phần lớn màn thể hiện của các ca sĩ, kể cả những giọng hát có kỹ thuật tốt đều bị lấn át bởi phần âm nhạc quá to. Ngay cả những phần trình diễn đầu tiên của "Bạch Khổng Tước" Hoàng Mỹ An hay "Cáo Tiểu Thư" Vũ Thảo My đều không thể nghe rõ được lời vì âm thanh quá nhỏ so với phần nhạc nền; phần thể hiện của "Cá Ngựa Đôi" Trương Thảo Nhi - Phạm Đình Thái Ngân cũng tạo cảm giác khô cứng, gượng ép và thiếu cảm xúc cho người nghe. Bên cạnh đó, nhiều khán giả nhận ra nhiều ca sĩ lựa chọn hát lip-sync (hát đè) thay vì hát live cho tiết mục của mình. Theo "Hoa Học Trò", nhiều mascot và nghệ sĩ còn bị hát trễ lời ngay trên sân khấu vì hệ thống tai nghe in-ear gặp vấn đề.
Tom Hiddleston tiếp tục đảm nhận vai Loki trong loạt phim, đóng cùng với Sophia Di Martino (Sylvie), Gugu Mbatha-Raw (Renslayer), Wunmi Mosaku (Hunter B-15), Eugene Cordero, Tara Strong (Miss Minutes), Neil Ellice , Jonathan Majors và Owen Wilson (Mobius) tiếp tục vai diễn của họ từ mùa đầu tiên, cùng với Rafael Casal, Kate Dickie, Liz Carr và Quan Kế Huy. Quá trình phát triển phần thứ hai đã bắt đầu vào tháng 11 năm 2020 và được xác nhận vào tháng 7 năm 2021, với Martin, Benson và Moorhead đều được thuê vào cuối tháng 2 năm 2022. Quá trình quay phim bắt đầu vào tháng 6 năm 2022 tại Pinewood Studios và kết thúc vào tháng 10. Dan DeLeeuw và Kasra Farahani được tiết lộ là đạo diễn, bổ sung cho mùa phim vào tháng 6 năm 2023. Mùa thứ hai dự kiến ​​ra mắt trên Disney+ ngày 6 tháng 10 năm 2023, bao gồm 6 tập. Phim sẽ là một phần của Giai đoạn 5 thuộc MCU. Tất cả 6 tập đều được biên kịch bởi Eric Martin, với Katharyn Blair đồng sáng tác tập 4 và 6. Benson và Moorhead làm phần lớn đạo diễn các tập phim, bao gồm cả tập 5. Dan DeLeeuw và Kasra Farahani cũng đạo diễn cho các tập phim. Quá trình phát triển phần thứ hai của "Loki" đã bắt đầu vào tháng 11 năm 2020. Vào tháng 1 năm 2021, biên kịch chính của phần đầu tiên Michael Waldron đã ký một thỏa thuận tổng thể với Disney bao gồm sự tham gia của anh ấy vào phần thứ hai của "Loki". Nhà sản xuất Nate Moore của Marvel Studios , người từng là nhà sản xuất điều hành của loạt phim "Chim ưng và Chiến binh mùa đông", tin rằng "Loki" có cốt truyện "thực sự bất kính, thông minh và hay ho" khiến loạt phim có nhiều phần thay vì một phần. Phần thứ hai đã được xác nhận thông qua một cảnh giữa các khoản tín dụng trong phần cuối của phần đầu tiên, được phát hành vào tháng 7 năm 2021, và ngôi sao Tom Hiddleston cho biết "các cuộc thảo luận sâu" về phần thứ hai đã được tiến hành. Đạo diễn Kate Herron của mùa đầu tiên cho biết cô ấy sẽ không trở lại trong mùa thứ hai vì cô ấy luôn dự định chỉ tham gia một mùa,  trong khi Waldron nói rằng "vẫn còn để xem" nếu anh ấy tham gia có liên quan. Vào tháng 2 năm 2022, bộ đôi đạo diễn Justin Benson và Aaron Moorhead được thuê để chỉ đạo phần lớn các tập cho mùa thứ hai. Trước đây họ đã đạo diễn hai tập của một loạt phim khác của Marvel Studios, "Moon Knight" (2022), thành công đến mức hãng phim muốn họ làm việc trong các dự án khác và họ nhanh chóng được chọn cho phần thứ hai của "Loki". Eric Martin, biên kịch của phần một, người đã đảm nhận một số nhiệm vụ của Waldron trong quá trình sản xuất phần đó,  được chỉ định viết tất cả sáu tập của phần hai, với Hiddleston và Waldron đã xác nhận sẽ trở lại với vai trò điều hành sản xuất . Benson và Moorhead rất hào hứng khi tiếp cận một nhân vật khác trong Loki, giống như Marc Spector / Moon Knight của Moon "Knight" , được định nghĩa là một kẻ bị ruồng bỏ và có "sự phức tạp khi bị [một] kẻ bị ruồng bỏ".  Quá trình tiền sản xuất đã bắt đầu vào cuối tháng 4 năm 2022.  Dan DeLeeuw , giám sát hiệu ứng hình ảnh và giám đốc đơn vị thứ hai của một số bộ phim MCU, và nhà thiết kế sản xuất phần một Kasra Farahani đã được tiết lộ là đạo diễn vào tháng 6 năm 2023.  Các nhà sản xuất điều hành cho mùa bao gồm Marvel Studios' Kevin Feige , Stephen Broussard , Louis D'Esposito , Victoria Alonso , Brad Winderbaum và Kevin R. Wright, cùng với Hiddleston, Benson và Moorhead, Martin và Waldron. Martin đã viết tất cả sáu tập, với Katharyn Blair đồng viết tập thứ tư và thứ sáu với anh ấy. Waldron cho biết phần này sẽ tiếp tục câu chuyện của phần đầu tiên nhưng theo một cách khác hẳn, phá bỏ những kỳ vọng và khám phá "mảnh đất cảm xúc mới" cho Loki. Hiddleston giải thích rằng Loki một lần nữa làm việc với Cơ quan quản lý phương sai thời gian (TVA) và làm việc với Mobius M. Mobius, mặc dù Mobius không nhớ Loki, và đã chất vấn Sylvie về hành động của cô ấy vào cuối mùa đầu tiên.  Anh ấy nói thêm rằng mùa thứ hai sẽ là "cuộc chiến giành linh hồn của TVA". Mùa giải sẽ giúp kết nối toàn bộ Saga đa vũ trụ của MCU. Hiddleston, Gugu Mbatha-Raw, Wunmi Mosaku, Eugene Cordero, Tara Strong, Owen Wilson và Sophia Di Martino trở lại từ mùa đầu tiên với vai Loki, Ravonna Renslayer, Hunter B-15, Casey / Hunter K- 5E, Miss Minutes, Mobius M. Mobius, và Sylvie. Jonathan Majors cũng trở lại trong phần này, miêu tả Victor Timely, một biến thể khác của He Who Remains , người mà anh ấy thể hiện trong phần đầu tiên, và Kang the Conqueror, người anh đóng trong phim "" (2023); Timely cũng được giới thiệu ở phần cuối của "Quantumania", xuất hiện trong cảnh mid-credit của bộ phim đó. Đạo diễn Peyton Reed nói rằng việc sử dụng cảnh này là tự nhiên do MCU tập trung vào các câu chuyện đa chiều và thực tế là phần và phim đang được phát triển đồng thời. Neil Ellice cũng trở lại với vai Thợ săn D-90.  Vào tháng 5 năm 2022, Feige tuyên bố rằng "toàn bộ dàn diễn viên" sẽ trở lại từ phần đầu tiên. Vào tháng 7 năm 2022, Rafael Casal đã được xác nhận sẽ tham gia một "vai chính" không được tiết lộ trong mùa giải.  Vào tháng 9, Kế Huy Quân được tiết lộ là đã được chọn vào vai nhân viên lưu trữ của TVA trong mùa phim, và Cordero được xác nhận sẽ tham gia một loạt phim thường xuyên trong mùa phim.  Feige đã đích thân liên hệ với Quân để hỏi liệu anh ấy có muốn tham gia MCU sau thành công khi trở lại diễn xuất trong bộ phim "Cuộc chiến đa vũ trụ" (2022) hay không. Vào tháng 12, Kate Dickie được tiết lộ là đã được chọn vào một vai không được tiết lộ, được cho là một nhân vật phản diện. Vào tháng 6, Liz Carrđã được tiết lộ là một phần của dàn diễn viên. Quá trình quay phim chính bắt đầu vào ngày 13 tháng 6 năm 2022, tại Hãng phim Pinewood ở Vương quốc Anh, với Benson và Moorhead chỉ đạo phần lớn các tập phim,  cùng với Dan DeLeeuw và Kasra Farahani,  và Isaac Bauman đóng vai trò là nhà quay phim.  Trước đây nó đã được báo cáo là sẽ bắt đầu vào tháng 1 năm 2022, với tiêu đề là "Kiến trúc sư". Vào tháng 7 năm 2022, quá trình quay phim diễn ra khắp London, và tại Xưởng đóng tàu lịch sử Chatham ở Kent ; các bộ ảnh chỉ bối cảnh những năm 1970 cho một số mùa.  Quá trình quay phim kết thúc vào tháng 10. Paul Zucker, Calum Ross và Emma McCleave trở lại từ mùa đầu tiên với vai trò biên tập viên. Natalie Holt dự kiến ​​sẽ trở lại từ mùa đầu tiên với tư cách là nhà soạn nhạc vào tháng 7 năm 2022,  và dự định bắt đầu ghi điểm cho mùa giải vào cuối năm 2022. Hiddleston, Di Martino và Wilson đã chia sẻ các cảnh quay của mùa tại D23 Expo 2022 cùng với thông báo tuyển diễn viên của Quan Kế Huy. Mùa thứ hai ​​ra mắt trên Disney+ vào ngày 6 tháng 10 năm 2023 và bao gồm 6 tập. Mùa phim sẽ là một phần thuộc Giai đoạn 5 của MCU.
Ngày em đẹp nhất Ngày em đẹp nhất (tiếng Hàn: 너의 결혼식, tiếng Anh: "On Your Wedding Day") là một bộ phim điện ảnh Hàn Quốc thuộc thể loại hài lãng mạn – chính kịch công chiếu năm 2018 do Lee Seok-geun viết kịch bản kiêm đạo diễn, với sự tham gia diễn xuất của hai diễn viên chính Park Bo-young và Kim Young-kwang. Tác phẩm là câu chuyện về tình bạn cũng như tình cảm của hai sinh viên Seung-hee và Woo-yeon dành cho nhau trong 10 năm. "Ngày em đẹp nhất" có buổi công chiếu tại Hàn Quốc vào ngày 22 tháng 8 năm 2018, và được ra mắt tại Việt Nam vào ngày 7 tháng 9 cùng năm. Hwan Seung-hee và Hwang Woo-yeon quen nhau từ khi còn là học sinh trung học. Woo-yeon thích Seung-hee nhưng không biết cô bạn của mình có thích mình hay không. Sau khi tốt nghiệp đại học, cả hai bắt đầu có những hướng đi riêng và rồi một ngày, Woo-yeon nhận được thiệp mời đám cưới từ mối tình đầu của mình. Trải qua 10 năm kỷ niệm ngọt ngào về mối tình đầu xen lẫn với những tiếc nuối về tình yêu không đúng thời điểm, liệu Woo-yeon sẽ có những cảm xúc và hành động như thế nào khi cầm trên tay tấm thiệp cưới của người con gái mà mình thương yêu nhất? Bộ phim được làm lại tại Trung Quốc với tựa đề "Hôn lễ của em". Tác phẩm được ra mắt vào ngày 30 tháng 4 năm 2021. Ngày 23 tháng 6 năm 2021, bộ phim được dự kiến sẽ làm lại dưới hình thức webtoon.
Lễ hội ẩm thực Lễ hội ẩm thực ("Food festival") là một lễ hội trong đó các loại thức ăn, đồ uống, thực phẩm đóng vai trò là chủ đề trung tâm. Trong văn hóa truyền thống thì những lễ hội này luôn là dịp để giao lưu, đoàn kết các cộng đồng với nhau thông qua sự kiện kỷ niệm sau khi thu hoạch và tạ ơn trên vì một mùa màng trồng trọt bội thu. Ngày nay, Lễ hội ẩm thực là sự kiện quảng bá nền ẩm thực quốc gia, địa phương, giới thiệu các đặc sản, món ngon vật lạ, sản vật địa phương nhằm thu hút khách du lịch trong các tour du lịch ẩm thực. Các lễ hội ẩm thực được coi là tác nhân lưu giữ di sản văn hóa địa phương, đồng thời tôn vinh di sản văn hóa này đồng thời thương mại hóa nó đến khán giả trong nước hoặc quốc tế. Lễ hội ẩm thực trên khắp thế giới thường dựa trên các kỹ thuật canh tác truyền thống, theo mùa Lễ hội ẩm thực có liên quan đến văn hóa ẩm thực của một vùng, miền, khu vực, cho dù thông qua việc chuẩn bị thức ăn phục vụ hay khoảng thời gian tổ chức lễ hội. Mặc dù phù hợp về mặt lịch sử với các giai đoạn thu hoạch lương thực có ý nghĩa văn hóa, các lễ hội ẩm thực đương đại thường được gắn kết với các tổ chức kinh doanh hoặc tổ chức phi lợi nhuận và tham gia rất nhiều hoạt động tiếp thị cho các lễ hội của họ, vì thành công của chúng được đo lường dựa trên doanh thu mà chúng tạo ra cho cộng đồng địa phương, khu vực hoặc thực thể ("entity") được đưa vào sự kiện. Các lễ hội ẩm thực hiện đại cũng chiếm một phần lớn của ngành du lịch ẩm thực, sử dụng các lễ hội ẩm thực và ẩm thực khu vực để hỗ trợ ngành du lịch rộng lớn hơn của một địa phương. Lễ hội ẩm thực đang nhanh chóng trở thành một phần của ngành du lịch ẩm thực đang mở rộng về quy mô. Bản thân du lịch ẩm thực đã trở thành một phần quan trọng của ngành du lịch trên toàn thế giới và sự hiện diện của các lễ hội ẩm thực đã hỗ trợ sự phát triển của các ngành nghề ăn theo ở địa phương. Lễ hội ẩm thực là một phần quan trọng trong việc xây dựng thương hiệu điểm đến cho nhiều vùng, tạo ra lý do dựa trên sự kiện để các cá nhân đến thăm các địa phương kém hấp dẫn hoặc ít tiếng tăm và quảng bá các sản phẩm và dịch vụ địa phương bên ngoài môi trường sản phẩm đô thị. Một số nghiên cứu điển hình đã chỉ ra rằng các lễ hội ẩm thực có khả năng cải thiện tính bền vững xã hội đồng thời hỗ trợ rất nhiều cho ngành du lịch và khách sạn nở rộ. Du lịch ẩm thực cũng là một lý do quan trọng khiến mọi người tham dự các lễ hội ẩm thực trên khắp thế giới.
Date Tsunamune (伊達綱宗, Date Tsunamune 23 tháng 9, 1640 – 19 tháng 7, 1711) là một samurai sống vào Thời kỳ Edo trong lịch sử Nhật Bản, "daimyō" đời thứ 3 của Phiên Sendai ở miền bắc nước Nhật trong giai đoạn 1658 - 1660, và tộc trưởng đời thứ 19 của Gia tộc Date. Sự kế vị và nắm quyền của Tsunamune đã gặp nhiều sự phản đối của các thành viên gia tộc Date và các chư hầu, cuối cùng dẫn đến sự kiện "Date Sōdō" hay "Date Disturbance" năm 1671, một chủ đề về sau thường được khai thác trong các vở kịch và trở thành một trong những câu chuyện nổi tiếng về tình trạng bất ổn và mất đoàn kết giữa các daimyō thời kỳ Edo. Thế tử nhà Date. Tsunamune là con trai thứ 6 của Date Tadamune, daimyō đời thứ 2 của phiên Sendai, với một người thiếp tên là Kai-hime (1624 - 1642), con gái nuôi của Kushige Takachika, sau còn được biết đến với tên hiệu Tokushōin (得生院 / Đắc Sinh viện). Một người chị em của bà là Kushige Takako, là vợ lẽ của Thiên hoàng Go-Mizunoo và hạ sinh Thiên hoàng Go-sai, vì thế cũng có thể nói ông có bà con bên ngoại với Thiên hoàng. Tên thời thơ ấu của ông là Junnosuke (巳之介 / Tị Chi Giới). Do Kai-hime mất sớm khi Tsunamune vừa lên 2, nên ông được bế đến cho chính thất của Tadamune là Furihime (1607 – 1659) nuôi dưỡng. Năm 1645, người anh trai của ông là Thế tử Date Mitsumune qua đời không người nối dõi. Và theo lệnh của Chinh di Đại tướng quân Tokugawa Iemitsu, cậu bé Junnosuke vừa mới lên 3 đã trở thành người kế thừa chức daimyō của phiên Sendai. Năm 1654, dưới thời Tướng quân Tokugawa Ietsuna, ông được làm lễ Nguyên phục và được trao chức "Sakonoe-gon-shōshō" (Tả cận vệ Quyền thiếu tướng), hàm Tòng tứ vị hạ. Lên ngôi Lãnh chúa. Tháng 7 năm 1659, thân phụ Tadamune qua đời. Hai tháng sau đó, Thế tử Tsunamune năm đó 18 tuổi được Mạc phủ cho phép kế thừa chức vụ daimyō của vùng Sendai. Lên nắm quyền khi vừa 18 tuổi, Tsunamune bị chỉ trích vì sự thiếu kinh nghiệm, cùng với việc mãi đắm chìm trong rượu chè và mĩ nữ, chứ không quan tâm đến chính vụ. Phe chống đối trong gia tộc đứng đầu là người chú ruột của ông, Date Munekatsu, "daimyō" của Phiên Ichinoseki (con trai thứ 10 của Date Masamune); và được sự ủng hộ của một số họ hàng và chư hầu của nhà Date. Năm 1660, nhóm này tố cáo với rōjū (các quan chấp chính của Mạc phủ) về việc Tsunemune đã say xỉn và làm việc đồi bại ở một con kênh vào khoảng thời gian đi chầu Tướng quân ở Edo. Ngày 18 tháng 7 cùng năm, Tướng quân Ietsuna xuống lệnh cho Tsunamune từ nhiệm và ngôi Chúa được truyền cho người con trai mới lên 2 của ông, Kamechiyo, về sau đổi tên là Date Tsunamura . Do tân chúa còn nhỏ, quyền chấp chính được giao cho Date Munekatsu và cho một người chú khác của ông, Tamura Muneyoshi. Sự kiện này được coi là sự khởi đầu cho Date Sōdō, một loạt biến cố chính trị liên quan đến nhà Date, về sau trở thành chủ đề yêu thích của các vở kịch bunraku và kabuki. Theo như một trong những tin đồn được lưu truyền rộng rãi nhất, Date Munekatsu đầy mưu mô đã đưa Tsunamune trẻ tuổi đến một khu mại dâm (phố đèn đỏ) hợp pháp ở Edo tên là Yoshiwara, nơi ông nảy sinh tình cảm với một kĩ nữ tên là Takao. Tuy nhiên, do Takao đã được hứa hôn với một rōnin sau khi hết thời gian ở nhà thổ nên bà từ chối lời cầu hôn của Tsunamune. Không nản lòng, ông đề nghị dùng số vàng nặng bằng trọng lượng cơ thể của Takao để có được nàng. Các chủ nhà chứa tham lam vô đáy đã ăn gian bằng cách nhét thêm vật nặng vào tay áo của Takao khiến Tsunamune phải trả hơn 165 pound vàng. Tuy nhiên, khi ông đến đưa nàng ta đi đến nhà mình, thì nàng ta đã chạy trốn và gieo mình xuống sông. Trong cơ tức giận, Tsunamura túm tóc kéo Takao từ dưới nước lên, sau đó đâm chết nàng. Munekatsu và vây cánh nắm lấy cơ hội này để tố cáo Tsunamune với chính quyền Mạc phủ về hành vi bừa bãi này và buộc ông phải từ chức. Câu chuyện này trở thành cảm hứng của nhiều vở kịch bunraku và kabuki, và thu hút một số lượng lớn các nhà nghiên cứu trong những năm qua, những người đã cố gắng xác định xem có bất kỳ sự thật nào trong câu chuyện hay không. Có vẻ như Tsunamura đã đến thăm Yoshiwara và bị mê hoặc bởi cô gái tên Takao, nhưng bà qua đời năm 1659 vì bệnh chứ không phải do ông giết chết.. Trước vụ bê bối này, hội đồng các daimyō thân cận với nhà Date, gồm Ikeda Mitsumasa (phiên Okayama), Tadashige Tachibana (phiên Chikugo Yanagawa), và Kyogoku Takakuni (phiên Tango-Miyazu) đề nghị Đại lão Sakai Tadakiyo đứng ra khiển trách các thành viên cao tuổi trong nhà Date đồng thời khuyên giải Tsunamune, song ông không nghe theo lời Tadakiyo. Kết quả là các lãnh chúa buộc Tsunamune phải từ chức và trao quyền cho con trai. Vào ngày 19 tháng 7, theo lệnh của Munekatsu, bốn người thân tín của Tsunamune gồm Chikami Watanabe Kurozaemon, Sakamoto Hachirozaemon, Hata Yogoemon và Miyamoto Mataichi bị chém đầu. Tuy nhiên trong hồ sơ chính thức của gia tộc Date chỉ chép nguyên nhân khiến ông bị truất phế là tham luyến tửu sắc và không nghe lời can gái của bề tôi. 50 năm bị giam cầm. Những năm sau khi Tsunamune bị quản thúc, phiên Date trải qua rất nhiều biến cố dưới sự cai trị tệ hại của Date Munekatsu và Tamura Muneyoshi. Sau mười năm bạo lực và xung đột, Aki Muneshige, một thành viên họ xa với nhà Date và các thuộc hạ cũ của ông đã tố cáo với các quan chức Mạc phủ về sự quản lý yếu kém trong Lãnh địa Sendai. Aki và các quan trong lãnh địa đã được triệu tập đến phiên tòa của hội đồng rōjū do Đại lão Sakai Tadakiyo đứng đầu, để đối chất. Trong sự kiệ này, Harada Munesuke, thuộc hạ của của Date Munekatsu bị đuối lí trước Aki; sau đó nổi điên giết chết Aki, trước khi chính ông ta bị các binh lính giết chết. Mạc phủ đưa ra phán quyết ngả về phía Aki. Vị Chúa trẻ Date Tsunamura được phép tiếp tục giữa chức vị "daimyō"; tuy nhiên, Date Munekatsu và Tamura Muneyoshi bị buộc phải từ chức. Aki được tuyên dương như một hình mẫu về lòng trung thành, trong khi hành vi giết người trong một hội nghị lớn toàn các quan chức cấp cao bị coi là trọng tội; nên phán quyết dành cho Harada rất nghiêm khắc, các con trai và cháu trai của Harada đều bị xử tử. Sử gọi đây là sự kiện Date Sōdō (伊達騒動). Còn về Tsunamune, ông tiếp tục dành 50 năm cuối đời trong tình trạng quản thúc tại một dinh thự thuộc khu vực Ōi, thành Edo. Phần lớn thời gian ông dành cho hội họa (ông theo học với họa sư Kanō Tan'yū), thư pháp, thơ waka, tranh sơn mài Maki-e và rèn kiếm. Nhiều tác phẩm của ông đến nay vẫn còn và được trưng bày tại Bảo tàng Nghệ thuật Miyagi. Ông qua đời ngày 19 tháng 7 năm 1711 (niên hiệu Chính Đức nguyên niên) tại Edo, di hài được đưa về an táng trong khu lăng mộ Zuihōden dành cho gia tộc Date ở Sendai. Ngôi đền của ông bị phá hủy vào năm 1945 trong Cuộc ném bom Sendai thời Thế chiến II và được tái xây dựng năm 1981. Di hài của anh ta được bảo quản tốt đến mức có thể khám nghiệm tử thi, và kết quả cho thấy ông có chiều cao 158 cm và nhóm máu A+, nguyên nhân tử vong là do ung thư miệng. [[Thể loại:Gia tộc Date]] [[Thể loại:Tử vong vì bệnh ung thư ở Nhật Bản]] [[Thể loại:Người thời Edo]] [[Thể loại:Sinh năm 1640]] [[Thể loại:Mất năm 1711]]
Sargocentron caudimaculatum là một loài cá biển thuộc chi "Sargocentron" trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1838. Từ định danh "caudimaculatum" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "caudis" (số nhiều của "cauda", “đuôi”) và "maculatum" (“đốm”), hàm ý đề cập đến đốm trắng bạc (thường biến mất sau khi chết) ở cuống đuôi, ngay cuối gốc vây lưng của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "S. caudimaculatum" có phân bố rộng khắp vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Biển Đỏ dọc theo Đông Phi, trải dài về phía đông đến quần đảo Line và Polynésie thuộc Pháp, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản (gồm cả quần đảo Ogasawara), giới hạn phía nam đến Nam Phi và Úc. Ở Việt Nam, "S. caudimaculatum" được ghi nhận tại cù lao Chàm, đảo Lý Sơn, ngài khơi Bình Thuận, vịnh Nha Trang, Côn Đảo cùng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Thông qua kênh đào Suez, "S. caudimaculatum" đã đến được Địa Trung Hải, khi một cá thể được bắt tại bán đảo Bon (phía đông bắc Tunisia) ở độ sâu 60 m. Cá thể được xác định là loài này bằng cách nhận dạng phân tử qua mã vạch DNA. "S. caudimaculatum" sống đơn độc hoặc theo nhóm trên rạn san hô, từ đầm phá đến các rạn xa bờ, độ sâu đến ít nhất là 45 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "S. caudimaculatum" là 25 cm, thường bắt gặp với chiều dài trung bình là 18 cm. Cá có màu đỏ, khoảng 1/3 thân sau thường có màu trắng; vảy cá viền trắng bạc. Một đốm lớn, trắng bạc trên cuống đuôi, gần cuối gốc vây lưng. Gai vây lưng màu đỏ tươi. Các vây trong mờ, có viền đỏ thắm. Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 13–15; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–10; Số tia vây ở vây ngực: 13–15; Số vảy đường bên: 38–43. "S. caudimaculatum" là loài sống về đêm, thức ăn chủ yếu là cua và tôm. Qua giải mã trình tự gen 12S rRNA, "S. caudimaculatum" được xếp vào nhóm chị em với "Sargocentron spiniferum". "S. caudimaculatum" có giá trị thương mại nhỏ, cũng xuất hiện trong hoạt động buôn bán cá cảnh.
Praseodymi(III) oxalat là một hợp chất vô cơ của kim loại praseodymi và acid oxalic với công thức hóa học Pr2(C2O4)3. Hợp chất tạo thành tinh thể màu lục, không tan trong nước. Phản ứng của muối praseodymi với acid oxalic sẽ tạo ra kết tủa: Praseodymi(III) oxalat tạo thành tinh thể màu lục, tan ít trong nước. Hợp chất tạo thành tinh thể Pr2(C2O4)3·10H2O màu lục nhạt. Tetrahydrat Pr2(C2O4)3·4H2O màu lục có các hằng số mạng tinh thể a = 0,86358 nm, b = 0,95356 nm, c = 1,6885 nm. Hexahydrat Pr2(C2O4)3·6H2O có hai dạng: Decahydrat bị phân hủy từng bước khi đun nóng: Praseodymi(III) oxalat được coi là một chất trung gian trong quá trình tổng hợp praseodymi. Nó cũng được sử dụng để tạo màu cho một số loại thủy tinh và men. Nếu trộn với một số vật liệu khác, hợp chất này sẽ tạo cho thủy tinh màu vàng đậm. Pr2(C2O4)3 còn tạo một số hợp chất với N2H4, như: Các phức Pr2(C2O4)3·5,1N2H4·7H2O, Pr2(C2O4)3·3,5N2H4·6H2O và Pr2(C2O4)3·3N2H4·10H2O cũng đã được biết đến, chúng đều có màu lục nhạt. Phức Pr2(C2O4)3·"x"N2H4·"y"H2O với các cặp sau cũng đã được phát hiện:
Phạm Phanh (Hán tự: 范梈; 1272—1330), tự Hanh Phụ (亨父), hay còn gọi Đức Cơ (德機), nguyên quán ở Thanh Giang (清江) (nay là Chương Thụ (樟樹), tỉnh Giang Tây (江西)), là một thi nhân đời nhà Nguyên. Sinh vào năm Hàm Thuần (咸淳) thứ tám (1272) dưới thời vua Tống Độ Tông của triều đại nhà Tống, thời trẻ mồ côi và nghèo khổ, thuộc ngâm thành văn của Nhan Duyên Niên (顏延年, 384 - 456), Tạ Linh Vận (謝靈運, 385 - 433), năm Đại Đức (大德) thứ mười một đời nhà Nguyên (1307). Ông tới kinh đô và làm gia sư tại nhà của quan trung thừa Đổng Sĩ Tuyển (董士選). Ông được tiến cử làm chức Tả Vệ Giáo Thụ và từng làm quan Hải Nam Hải Bắc Đạo, Liêm Phóng Ty Chiếu Ma, Hàn Lâm Ưng Phụng, Đạo Tri Sự của vùng Phúc Kiến và Mân Hải, quan chí là Biên Tu của Hàn Lâm Viện, nhưng sau ông đã trở về quê nhà vì ốm bệnh. Ông từng làm thơ, thi sĩ Ngu Tập (虞集, 1272 — 1348) đương thời gọi những bài thơ của Phạm Phanh như là "Đường lâm Tấn thiếp" (một thành ngữ Trung Hoa, nghĩa đen là "thư pháp đời Đường hầu như là sao chép lại của đời Tấn", nghĩa bóng là ý chỉ sao chép tốt, làm tốt, nhưng lại chẳng nguyên gốc, độc đáo). Ông cùng với Ngu Tập, Dương Tải (楊載, 1271 — 1323), Yết Hề Tư (揭傒斯, 1274 — 1344), cả bốn người được lưu truyền là "Nguyên thi tứ đại gia" (元詩四大家). Năm Thiên Lịch (天曆) thứ hai (1329), ông đã từ quan vì mẹ ốm, không lâu sau mẹ ông qua đời. Năm Thiên Lịch (天曆) thứ ba (1330), Phạm Phanh cũng qua đời. Người đời gọi ông là "Văn Bạch Tiên Sinh" (文白先生). Ông là tác giả của bộ "Mộc thiên cấm ngữ" (木天禁語), "Thi học cấm luyến" (詩學禁臠).
WTA Poland Open 2023 Warsaw Open 2023 (còn được biết đến với BNP Paribas Warsaw Open vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt nữ thi đấu trên mặt sân cứng ngoài trời. Đây là lần thứ 3 giải WTA Poland Open được tổ chức, và là một phần của WTA 250 trong WTA Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại Legia Tennis Centre ở Warsaw, Ba Lan, từ ngày 24 đến ngày 30 tháng 7 năm 2023. Trước khi giải đấu bắt đầu, tay vợt Nga Vera Zvonareva đã bị cấm nhập cảnh vào Ba Lan vì lý do chính trị. Điều này đã khiến cô buộc phải rút lui khỏi giải đấu. † Bảng xếp hạng vào ngày 17 tháng 7 năm 2023. Vận động viên khác. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Bảo toàn thứ hạng: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Thua cuộc may mắn: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Margarita Betova → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Katie Boulter → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Marie Bouzková → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Camila Giorgi → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Rebeka Masarova → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ajla Tomljanović → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Lesia Tsurenko → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Markéta Vondroušová → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Wang Xinyu → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vera Zvonareva → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. † Bảng xếp hạng vào ngày 17 tháng 7 năm 2023. Vận động viên khác. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Maja Chwalińska / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Martyna Kubka / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ankita Raina / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Natela Dzalamidze / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Monica Niculescu → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ankita Raina / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Priska Nugroho / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jessy Rompies → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Oana Gavrilă / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Laura Siegemund / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vera Zvonareva → thay thế bởi #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Linda Fruhvirtová / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Iga Świątek đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Laura Siegemund, 6–0, 6–1 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Heather Watson / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Yanina Wickmayer đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Weronika Falkowska / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Katarzyna Piter, 6–4, 6–4
Pokémon Evolutions được tạo ra nhân ngày kỉ niệm 25 của Series Pokémon gồm có 8 tập . Đồng thời các nơi trong từng tập phim đều được lấy cảm hứng từ 8 khu vực khác nhau trong thế giới Pokemon. Bộ phim được công chiếu lần đầu tiên vào ngày 2 tháng 9 năm 2021. Phim được sản xuất bởi Andy Gose,Taito Okiura, kịch bản được viết bởi Benjamin Townsend và đạo diễn của bộ phim này là Daiki tomiyasu.
Komi Lje (Ԉ ԉ, chữ nghiêng: "Ԉ" "ԉ") là một chữ cái trong bảng chữ cái Molodtsov, một biến thể của bảng chữ cái Kirin. Nó chỉ được sử dụng trong chữ viết của tiếng Komi vào những năm 1920. Nó tương đương với chữ cái Kirin Lje (Љ љ). Một số dạng của nó tương tự như chữ cái 几 trong tiếng Trung Quốc.
Tripolitania thuộc Ottoman (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman: ایالت طرابلس غرب; tiếng Anh: "Ottoman Tripolitania") là phần đất duyên hải Bắc Phi, ngày nay thuộc Libya, từ năm 1551 đến 1912 nó nằm dưới quyền cai trị của Đế quốc Ottoman. Trong giai đoạn từ năm 1551 đến năm 1864, với tên gọi Eyalet Tripolitania (ایالت طرابلس غرب Eyālet-i Trâblus Gârb) hoặc "Bey" và khu vực lãnh thổ Tripoli của Barbary, sau đó, từ 1864 đến 1912, với tên gọi Vilayet Tripolitania (ولايت طرابلس غرب Vilâyet-i Trâblus Gârb). Nó còn được gọi là Vương quốc Tripoli, mặc dù về mặt kỹ thuật nó không phải là một vương quốc, mà là một tỉnh của Ottoman do các pasha (thống đốc) cai trị. Triều đại Karamanli cai trị tỉnh như một chế độ quân chủ cha truyền con nối trên thực tế từ năm 1711 đến năm 1835, mặc dù vẫn nằm dưới sự cai trị trên danh nghĩa của Ottoman và chịu quyền kiểm soát từ Constantinople. Bên cạnh lãnh thổ cốt lõi của Tripolitania, "Barca" cũng được coi là một phần của vương quốc Tripoli, bởi vì nó được cai trị bởi Pasha xứ Tripoli, cũng là toàn quyền trên danh nghĩa của Ottoman. Tên Ottoman của "Trablus Garb" có nghĩa đen là "Tripoli ở phía Tây" vì nhà nước đã có một Tripoli khác ở phía Đông cũng được gọi là Trablus do Selim I chinh phục sau Trận Marj Dabiq. Sau khi Tripolitania bị sáp nhập, tên của các eyalet được đổi thành "Tripoli ở Levant" (Trablus Şam) và "Tripoli ở phía Tây" là Tripolitania của La Mã (Trablus Garb). Tàn tích của nhiều thế kỷ dưới sự cai trị của Ottoman là sự hiện diện của một nhóm dân số gốc Thổ Nhĩ Kỳ và những người lai Thổ - "Kouloughlis". Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Sargocentron punctatissimum là một loài cá biển thuộc chi "Sargocentron" trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1829. Từ định danh "punctatissimum" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "puncta" (“lốm đốm”) và hậu tố "issimus" (biểu thị so sánh bậc nhất), hàm ý đề cập đến những chấm màu tím nhạt rất nhỏ trên vảy của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "S. punctatissimum" có phân bố rộng khắp vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Biển Đỏ dọc theo Đông Phi, trải dài về phía đông đến quần đảo Hawaii, quần đảo Marshall và đảo Phục Sinh, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản (gồm cả quần đảo Ogasawara), giới hạn phía nam đến Nam Phi, Úc và đảo Rapa Iti. Ở Việt Nam, "S. caudimaculatum" được ghi nhận tại quần đảo Trường Sa. "S. punctatissimum" sống trong khe hốc của rạn viền bờ hoặc trong các vũng thủy triều, ít khi thấy ở độ sâu hơn 30 m (nhưng đã được bắt gặp ở độ sâu đến 183 m tại Hawaii). Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "S. punctatissimum" là 23 cm. Loài này có màu đỏ ánh bạc. Gai vây lưng trắng, có dải viền màu đỏ tươi. Các vây trong mờ, đỏ hơn ở gần rìa. Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 12–14; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–9; Số vảy đường bên: 41–47. "S. punctatissimum" là loài sống về đêm, thức ăn chủ yếu là các loài giáp xác nhỏ và ấu trùng của chúng, cũng như giun nhiều tơ. Qua giải mã trình tự gen 12S rRNA, "S. punctatissimum" được xếp vào nhóm chị em với "Sargocentron macrosquamis". "S. punctatissimum" có giá trị thương mại không đáng kể, chủ yếu xuất hiện trong nghề đánh bắt thủ công, tuy nhiên vẫn có thể bị loại bỏ khỏi sản lượng khai thác. Ở Lakshadweep thì "S. punctatissimum" lại là một loài cá cảnh quan trọng.
Nghiên cứu sử học về sự Kitô giáo hóa Đế quốc La Mã Sự khuếch trướng của Kitô giáo từ gốc gác mơ hồ của nó vào khoảng năm 40, bấy giờ mới có ít hơn 1.000 tín đồ, thành tôn giáo lớn nhất của toàn bộ Đế quốc La Mã vào khoảng năm 350 CN, đã được khảo cứu dựa trên nhiều hướng nghiên cứu sử học khác nhau. Cho tới những thập kỷ cuối của thế kỷ 20, rất nhiều chuyên gia vẫn chấp nhận giả thuyết sụp đổ của Edward Gibbon trong cuốn "The History of the Decline and Fall of the Roman Empire", một tác phẩm sử học được xuất bản vào năm 1776. Gibbon cho rằng Pagan giáo vốn đã suy sụp kể từ thế kỷ thứ 2 và rốt cuộc bị trừ khử do chính sách áp đặt Kitô giáo theo kiểu từ-trên-xuống của Constantine, hoàng đế La Mã đầu tiên theo đạo Kitô, và các hoàng đế hậu thân vào thế kỷ thứ 4. Trong suốt 200 năm, giả thuyết của Gibbon và các phiên bản cải thiện của nó — mô hình xung đột và mô hình lập pháp — đã đưa ra được một trình thuật quan trọng về quá trình này. Mô hình xung đột cho rằng Kitô giáo lớn mạnh trong sự xung đột với Pagan giáo, giành được chiến thắng chỉ khi các hoàng đế La Mã bắt đầu cải đạo Kitô và áp dụng quyền lực nhằm ép buộc nhân dân phải cải đạo theo. Mặt khác, mô hình lập pháp thì dựa trên Bộ luật Theodosian chế bản năm 438. Vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, các khám phá mới về văn liệu cùng các nghiên cứu mới trong ngành khảo cổ và tiền tệ học, bên cạnh các lĩnh vực mới nổi như xã hội học và nhân học, kết hợp với mô hình tính toán hiện đại, đã đánh đổ phần lớn cách hiểu cũ về chủ đề này. Theo các giả thuyết hiện đại, Kitô giáo bén rễ vào thế kỷ thứ 3, trước thời Constantine; Pagan giáo phải tới tận thế kỷ thứ 4 mới lụi tàn; và quyền lập pháp thực chất không có ảnh hưởng mấy cho đến đời Justinian I (trị 527-565). Vào thế kỷ 21, mô hình xung đột không còn trọng lượng nữa, trong khi mô hình cơ sở lại trở nên thời thượng. Các học thuyết khác lại dựa trên các giả thiết về tâm lý học hoặc tiến hóa của chọn lọc văn hóa, theo đó thì nhiều học giả thế kỷ 21 khẳng định rằng các mô hình xã hội học như thuyết mạng lưới và sự khuếch tán phát kiến cho ta cái nhìn rõ ràng nhất về sự biến chuyển xã hội. Ngành xã hội học cho rằng đạo Kitô đã lan rộng theo chiều từ-dưới-lên; sở dĩ vì nó bao gồm các tập tục và ý tưởng như từ thiện, chủ nghĩa quân bình, tính dễ tiếp cận và một thông điệp rõ ràng, thu hút được các tầng lớp nhân dân. Hiệu ứng của sự biến chuyển tôn giáo này vẫn đang bị tranh cãi. Về nghiên cứu sử học. Theo quan điểm cũ, Pagan giáo — tức đa thần giáo Hy-La truyền thống đô thị — bên trong Đế quốc La Mã thường được coi là đã bắt đầu lụi tàn từ thế kỷ thứ 2 hoặc 1 TCN, bị gián đoạn bởi một đợt 'Phục Hưng' đời Augustus (trị 27 TCN – 14 CN). Người ta từng cho rằng tục thờ phụng hoàng đế La Mã, 'các giáo phái đông phương' và đạo Kitô là triệu chứng của cái quá trình suy sụp dần dần đó. Đạo Kitô nổi lên như một phong trào tôn giáo lớn ở Đế quốc La Mã, các vương quốc tây di, các quốc gia lân bang, cũng như một số khu vực thuộc Đế quốc Ba Tư và Sassanid. Trình thuật chính về sự trỗi dậy của đạo Kitô, trong suốt 200 năm kể từ năm 1776, được trích xuất chủ yếu từ tác phẩm "Decline and Fall" của Edward Gibbon. Gibbon đánh giá Constantine là một vị hoàng đế với "tham vọng vô hạn" và một sự khao khát danh vọng mãnh liệt; ông ta muốn áp đặt đạo Kitô lên phần còn lại của đế quốc như một nước cờ chính trị, bất cần đạo lý, để đạt được "trong vòng ít hơn một thế kỷ, cuộc chinh phục cuối cùng Đế quốc La Mã". Phải tới năm 1936 thì một số học giả như Arnaldo Momigliano mới đặt nghi vấn về quan điểm này. Năm 1953, nhà sử học nghệ thuật Alois Riegl đưa ra quan điểm độc đáo đầu tiên, cho rằng chưa từng tồn tại một sự khác biệt về chất lượng của nghệ thuật và chưa từng có một giai đoạn suy thoái cuối thời kỳ Cổ điển. Năm 1975, khái niệm "lịch sử" được mở rộng để bao gồm các nguồn nằm ngoài trình thuật cổ đại và các văn liệu cổ điển. Bằng chứng sử học giờ đây bao trùm cả các lĩnh vực khác như văn bản pháp luật, kinh tế học, lịch sử tư tưởng, tiền xu, bia mộ, kiến trúc, khảo cổ học, , các giả thuyết tổng hợp bằng chứng mới bắt đầu được đề ra. Một phần tư cuối của thế kỷ 20, ngành nghiên cứu này đã đạt được những tiến độ đáng kể. Tôn giáo La Mã. Tôn giáo ở Hy-La cổ đại khác biệt rất nhiều so với tôn giáo hiện đại. Ở Đế quốc La Mã thuở sớm, tôn giáo mang tính chất đa thần và cục bộ. Nó không chú trọng vào cá nhân, mà tập trung vào lợi ích của thành phố: nó là một tôn giáo dân sự mà trong đó nghi lễ là dạng thờ phụng chính. Chính trị và tôn giáo ở Hy-La hòa lẫn với nhau, và các nghi lễ công chúng được cử hành bởi các quan chức công cộng. Sự tôn kính đối với tục lệ tổ tiên là một phần rất quan trọng trong tín ngưỡng và thực hành đa thần giáo; thành viên trong xã hội địa phương được kỳ vọng tham gia vào các nghi lễ công cộng. Bài báo học thuật
Công Thương nhật báo Công Thương nhật báo là tờ báo tiếng Trung được xuất bản ở Hồng Kông dưới thời thuộc địa của Anh. Báo thuộc quyền sở hữu gián tiếp của #đổi (), một cựu tướng lĩnh Trung Hoa Dân Quốc và là con trai của nhà tài phiệt Hồng Kông Hà Đông. Đây là tờ báo ủng hộ Quốc Dân Đảng và phát hành theo lịch Dân quốc. Song song với "Công Thương vãn báo" () do "Công Thương nhật báo hữu hạn công ty" () xuất bản, được thành lập vào ngày 10 tháng 11 năm 1928. Nhà xuất bản này đã bị giải thể vào ngày 26 tháng 12 năm 1996, nhiều năm sau khi các tờ báo đình bản. "Công Thương nhật báo" cũng được xuất bản dưới dạng "ngoại phụ bản" (), nhắm vào Đài Loan. Ngài Hà Đông đã mua lại tờ "Công Thương nhật báo" vào năm 1929. Vào thời điểm đó, tờ báo này đang làm ăn thua lỗ.:308 Dưới quyền sở hữu của Hà Đông, nó đã trở thành một trong ba tờ báo tiếng Hoa hàng đầu ở Hồng Kông trong thập niên 1950 (hai tờ còn lại là "Tinh Đảo nhật báo" và "Hoa kiều nhật báo" ()), theo Hiệp hội Báo chí Hồng Kông. Ngay sau khi ký kết Tuyên bố chung Trung-Anh, "Công Thương nhật báo" đã đình bản, nói rằng nó không kiếm được lợi nhuận và không thể nhìn thấy con đường phía trước.:312
Giải phóng quân báo Giải phóng quân báo () hay gọi tắt là PLA Daily, là tờ báo chính thức của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1956. Về mặt thể chế, tờ "Giải phóng quân báo" là cơ quan ngôn luận của Quân ủy Trung ương, và với tư cách đó là phát ngôn viên của chính PLA. Đường lối xã luận của nó gần giống với đường lối được tìm thấy trên tờ báo chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc là "Nhân Dân nhật báo". Tờ báo này thường hay đưa tin về các câu chuyện thời sự liên quan đến PLA và các vấn đề quân sự khác, đồng thời đưa tiếng nói của quân đội vào lĩnh vực chính sách công để chủ yếu tiêu thụ trong nước. Tháng 8 năm 2010, một bài xã luận cho rằng chiến lược quân sự của Trung Quốc đã lỗi thời và Trung Quốc phải "dũng cảm học hỏi kinh nghiệm về văn hóa thông tin của quân đội nước ngoài", cùng với việc hiện đại hóa và mua sắm vật tư công khai. "Giải phóng quân báo", trong khi chính thức đóng vai trò là tiếng nói của quân đội, không đi xa khỏi thông điệp của chính Đảng khi nói đến chính sách đối ngoại. Học giả về chiến lược Alastair Iain Johnston viết: "Có một mối tương quan chặt chẽ giữa luận điệu chính sách đối ngoại trong—tiếng nói dân sự của Đảng Cộng sản Trung Quốc—"Nhân Dân nhật báo"—và tiếng nói quân sự của nó—"Giải phóng quân báo"". Sự xuất hiện các sáng kiến chính sách cưng chiều của giới lãnh đạo Trung Quốc trên các trang của "Giải phóng quân báo" thường được giới học giả coi là biểu hiện sức mạnh của họ trong quân đội. Giới học giả của Viện Nghiên cứu Chiến lược thuộc Trường Đại học Chiến tranh Lục quân Hoa Kỳ trích dẫn vô số lần xuất hiện tuyên truyền liên quan đến "khái niệm phát triển khoa học"—do lãnh đạo Đảng Hồ Cẩm Đào đưa ra—như bằng chứng cho thấy "ảnh hưởng đáng kể của Hồ Cẩm Đào đối với một số lĩnh vực phát triển của PLA kể từ năm 2004".
Hoa kiều nhật báo Hoa kiều nhật báo hoặc Overseas Chinese Daily News () là một tờ báo tiếng Hoa có trụ sở tại Hồng Kông. Báo được xuất bản từ năm 1925 đến năm 1995. Tờ báo này do Sầm Duy Hưu sáng lập sau khi gia đình Sầm nắm quyền kiểm soát công ty. Tờ báo được xuất bản dưới cái tên "Chinese General Merchants Daily" từ năm 1919 đến năm 1923 khi Tổng Thương hội Trung Hoa và "Daily Press" đồng sở hữu công ty này. Hợp đồng sau đó kết thúc và Tổng Thương hội Trung Hoa đã tự xuất bản tờ báo này. Năm 1925, báo được bán lại cho Sầm Duy Hưu. Nó được đổi tên thành "Hoa kiều nhật báo" bắt đầu xuất bản vào ngày 5 tháng 6 năm 1925. Tháng 12 năm 1941, Nhật Bản bắt đầu tiến quân vào chiếm đóng Hồng Kông. "Hoa kiều nhật báo" là một trong số ít tờ báo được phép tiếp tục xuất bản. Tờ báo đã sử dụng các kỹ năng viết khác nhau để vượt qua sự kiểm duyệt của chính phủ quân sự Nhật Bản và bí mật truyền tải thông điệp chống Nhật. Ngày 1 tháng 4 năm 1945, "Hoa kiều vãn báo" () được thành lập. Lần phát hành cuối cùng của tờ báo này là vào ngày 1 tháng 4 năm 1988. Năm 1985, người sáng lập Sầm Duy Hưu qua đời. Con trai ông là Sầm Tài Sinh không muốn tiếp tục điều hành tờ báo này nữa. Do đó, vào tháng 12 năm 1991, tờ báo được bán cho South China Morning Post. Tờ Post tiếp tục bán lại cho Hương Thụ Huy vào tháng 1 năm 1994 để rồi vị chủ mới này khiến cho tờ báo bán chạy hơn. Tuy nhiên, nó vẫn bị đình bản vì lý do tài chính vào ngày 12 tháng 1 năm 1995. Thống đốc Chris Patten cho biết ông rất buồn và tờ báo này nổi tiếng là liêm chính và quan tâm đến các giá trị cộng đồng.
Ermenegildo "Gildo" Gasperoni (4 tháng 8 năm 1906 – 26 tháng 6 năm 1994) là một chính khách người San Marino. Ông từng là tổng bí thư và sau đó là chủ tịch Đảng Cộng sản San Marino. Gasperoni là con trai của một nghệ nhân từ San Marino. Khi còn trẻ, ông rời đất nước năm 1924. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp năm 1926. Gasperoni là nhà hoạt động của Đảng Cộng sản Luxembourg từ năm 1930 đến năm 1936. Ông tham gia Lữ đoàn Quốc tế trong Nội chiến Tây Ban Nha, giữ chức vụ chính ủy của Tiểu đoàn Garibaldi trong Lữ đoàn Quốc tế thứ Mười hai. Sau đó, ông chuyển sang làm chính ủy Trung tâm Quốc tế Tuyển chọn và Đào tạo Tình nguyện viên. Ông trở về quê hương vào năm 1940, bắt đầu hoạt động để thành lập Đảng Cộng sản San Marino. Đảng Cộng sản Ý đã tổ chức một chi nhánh địa phương ở San Marino vào năm 1921, nhưng đất nước này không có đảng cộng sản cho riêng mình. Vào ngày 7 tháng 7 năm 1941, Đảng Cộng sản San Marino được thành lập dưới sự lãnh đạo của Gasperoni. Từ năm 1949, ông là Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải trong chính phủ liên minh cộng sản - xã hội chủ nghĩa. Ngoài công việc chính trị, ông còn làm thợ sửa ô tô ở Borgo Maggiore vào thời điểm này. Gasperoni đại diện cho Đảng Cộng sản San Marino tại các sự kiện quốc tế khác nhau, chẳng hạn như Hội nghị Quốc tế các Đảng Cộng sản và Công nhân năm 1969 tại Moskva và Hội nghị các Đảng Cộng sản và Công nhân Châu Âu năm 1976 tại Berlin. Tại cả hai sự kiện này, Gasperoni đã lên tiếng chỉ trích các chính sách của Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1978, Gasperoni được bầu để phục vụ nhiệm kỳ sáu tháng với tư cách là một trong hai Đại chấp chính (tức đồng nguyên thủ quốc gia San Marino), cùng với chính khách xã hội chủ nghĩa Adriano Reffi. San Marino lần đầu tiên có một nguyên thủ quốc gia cộng sản sau hai thập kỷ. Trong chuyến thăm Liên Xô vào tháng 1 năm 1983, Gasperoni và tổng bí thư Đảng Cộng sản San Marino Umberto Barulli đã được trao tặng Huân chương Hữu nghị các Dân tộc tại một buổi lễ tại Điện Kremlin. Kể từ những năm 1980, Gasperoni được phong làm chủ tịch danh dự của Đảng Cộng sản San Marino.
の trong hiragana và ノ trong katakana là kana trong tiếng Nhật, cả hai đều đại diện cho một mora. Trong hệ thống thứ tự gojūon của các âm tiết tiếng Nhật, nó đứng ở vị trí thứ 25, giữa ね (ne) và は (ha). Nó đứng ở vị trí thứ 26 trong bài thơ "Iroha". Cả hai đều đại diện cho âm [no]. Dạng katakana được viết tương tự như bộ thủ Khang Hi 丿, bộ Phiệt. Giống như mọi ký tự hiragana khác, の được phát triển từ man'yōgana, kanji được sử dụng cho mục đích ngữ âm, được viết theo kiểu thảo thư. Cũng có thể tìm thấy các dạng biến thể của kana の theo dạng hentaigana và gyaru-moji. Thứ tự các nét. Để viết の, hãy bắt đầu ở phía trên phần trung tâm một chút, vuốt xuống theo đường chéo, sau đó làm một đường cong lên trên và tiếp tục uốn cong xung quanh, để lại một khoảng trống nhỏ ở phía dưới. Để viết ノ, chỉ cần thực hiện một đường cong cong từ trên cùng bên phải xuống dưới cùng bên trái. の là một phụ âm mũi-răng, được phát âm trên răng hàm trên, kết hợp với một nguyên âm tròn ở giữa để tạo thành một mora. Trong tiếng Nhật, cũng như trong hình thành từ ngữ, の có thể là trợ từ thể hiện sự sở hữu. Ví dụ, cụm từ: "わたしのでんわ/"watashi no denwa"" nghĩa là "điện thoại của tôi". の cũng đã phổ biến trên các bảng hiệu và nhãn hiệu có chứa tiếng Trung Quốc trên thế giới. Nó được sử dụng thay cho dấu sở hữu trong chữ Hán giản thể 的 ("de") hay dấu sở hữu trong chữ Hán phồn thể 之 ("zhī"), và の được phát âm giống như k tự tiếng Trung Quốc mà nó thay thế. Điều này thường được thực hiện để "nổi bật" hoặc để mang lại "cảm giác kỳ lạ/Nhật Bản", ví dụ: trong các nhãn hiệu thương mại, chẳng hạn như nhãn hiệu nước ép trái cây 鲜の每日C, trong đó の có thể được đọc theo cả hai kiểu: 之 ("zhī"), dấu sở hữu, và cả 汁 ("zhī"), nghĩa là "nước ép". Tại Hồng Kông, Cơ quan Đăng ký công ty đã mở rộng sự công nhận chính thức đối với thông lệ này và cho phép の được sử dụng trong tên tiếng Trung Quốc của các doanh nghiệp đã đăng ký; do đó, nó là biểu tượng không phải của tiếng Trung Quốc duy nhất theo thông lệ này (ngoài các dấu chấm câu không có giá trị phát âm).
Trận Marinka là trận chiến diễn ra ở thị trấn Marinka giữa Lực lượng vũ trang Nga với quân ly khai Cộng hòa nhân dân Donetsk chống lại Lực lượng vũ trang Ukraina nằm trong chiến dịch Nga xâm lược Ukraina. Trận chiến bắt đầu khi pháo kích vào thị trấn Marinka với cường độ ngày càng tăng từ ngày 17 tháng 2 năm 2022 đến ngày 22 tháng 2 năm 2022, khi Nga công nhận độc lập cho DPR và giao tranh bắt đầu tại thị trấn vào ngày 17 tháng 3 năm 2022. Đến tháng 11 năm 2022, phần lớn thị trấn Marinka đã bị phá hủy, không còn dân thường và một số tòa nhà đổ nát còn sót lại sau cuộc giao tranh khốc liệt. Vào ngày 25 tháng 12 năm 2023, phía Nga cho biết lực lượng của họ đã chiếm trọn thành phố nhưng quân đội Ukraine ban đầu phủ nhận tuyên bố này cho đến ngày hôm sau khi Tổng tư lệnh Ukraine Valerii Zaluzhnyi xác nhận Marinka đã thất thủ. Đợt pháo kích đầu tiên vào Marinka bắt đầu vào ngày 17 tháng 2 năm 2022, phương Tây cho rằng lực lượng DPR đã làm bị thương một nhân viên cứu trợ. Các cuộc pháo kích bắt đầu vào khoảng 9:30 sáng và kết thúc lúc 2:30 chiều, với tổng số khoảng 20 vụ nổ được ghi nhận. Pháo kích tăng cường trong những ngày trước khi Nga xâm lược Ukraine, giết chết hai binh sĩ Ukraina và làm bị thương bốn người khác. Cuộc chiến giành thành phố bắt đầu vào khoảng ngày 17 tháng 3 năm 2022, khi Bộ Quốc phòng Nga tuyên bố sai sự thật rằng lực lượng DPR đã chiếm được Marinka. Theo phía Ukraina thì vào ngày 30-31 tháng 3 năm 2022, các dịch vụ khẩn cấp của Ukraine đã dập tắt "hàng chục đám cháy" bùng phát trong thị trấn do đạn phốt pho trắng tung ra từ lực lượng Nga. Giao tranh tiếp diễn trong suốt năm 2022. Thậm chí giao tranh gia tăng từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 8, bắt đầu với một cuộc tấn công thất bại của Nga vào Marinka vào ngày 11 tháng 7 năm 2022. Vào tháng 1 năm 2023, những người lính Ukraine được phỏng vấn đã nói rằng giao tranh trên chiến trường ở Marinka là "địa ngục", và phần lớn các cuộc giao tranh diễn ra cách từ 10 đến 20 mét. Do phần lớn thị trấn bị phá hủy nên giao tranh diễn ra sau đống đổ nát, vật dụng đồ đạc ngổn ngang trong những căn nhà và tầng hầm. Đại tá Yaroslav Chepurnyi tuyên bố Lữ đoàn tấn công đường không số 79 đã chịu "tổn thất nặng nề nhất" trong số các đơn vị Ukraina trú đóng tại Marinka. Vào ngày 1 tháng 2, phía Ukraina tuyên bố đã gây ra ""tổn thất đáng kể" trong cuộc tấn công của Nga nhằm vào Marinka. Vào ngày 8 tháng 2 năm 2023, cựu Thứ trưởng Nội vụ Vitaly Kiselev đã làm rõ rằng các thành viên của Sư đoàn súng trường cơ giới số 150 đang củng cố lại các vị trí phòng thủ ở các khu vực phía tây Marinka. Theo Bộ Tổng tham mưu Ukraina, các cuộc đụng độ đã gia tăng vào ngày 2 tháng 2 năm 2023 với 13 trận đánh kéo dài hai giờ liền ở Marinka. Vào ngày 21 tháng 2 năm 2023, các cuộc tấn công kế tiếp của Nga vào Marinka đã bị đẩy lùi. Truyền thông Nga hồi tháng 4 năm 2023 thông báo lực lượng Ukraine đã bị Quân đội Nga đẩy lùi về vùng ngoại ô phía tây Marinka nơi các cuộc đụng độ đang diễn ra. Vào ngày 24 tháng 5 năm 2023, Bộ Tổng tham mưu Ukraina cho biết Marinka vẫn là một trong những tâm điểm của các cuộc đụng độ đang diễn ra trong chiến tranh. Vào ngày 31 tháng 5 năm 2023, Ramzan Kadyrov lãnh đạo của lực lượng Chechen đang chiến đấu ở Ukraina, tuyên bố rằng lực lượng của ông đã được điều chuyển đến mặt trận Marinka, bao gồm Lực lượng đặc nhiệm "Akhmat"". Các binh sĩ Ukraina ở mặt trận Marinka vào tháng 6 năm 2023 cho rằng binh lính Nga đông hơn quân Ukraina với tỷ lệ tương quan 4-1 về nhân lực và tỷ lệ tượng quan 6-1 về pháo binh. Hầu hết các trận chiến diễn ra ở cự ly gần và trong tầng hầm.
Bơ Vologda hay Vologodskoye Maslo (tiếng Nga: Волого́дское ма́сло), trước đây được biết đến với tên gọi Bơ Paris, là một loại bơ được làm tại vùng Vologda của Nga, được biết đến rộng rãi bởi hương vị ngọt ngào, mịn màng và hấp dẫn của nó. Nó có hương vị như vậy là từ quy trình sản xuất của nó, bao gồm một bộ nhiệt độ và hàm lượng chất béo chính xác; cũng như do thảm thực vật và giống bò được tìm thấy ở Vologda. Quá trình được sử dụng để tạo ra bơ Vologda được phát minh bởi Nikolai Vasilievich Vereshchagin, anh trai của một họa sĩ trong chiến tranh, Vasily Vereshchagin. Ông đã được truyền cảm hứng khi nếm thử món "bơ Norman" từ vùng Normandy của Pháp, tại Triển lãm Quốc tế năm 1867. Sau vài năm sản xuất bơ, Vereshchagin đã đưa sản phẩm của mình đến Hội chợ Thế giới Paris lần thứ ba diễn ra năm 1878, nơi nó đã giành được huy chương vàng. Sau đó, ông dán nhãn bơ của mình là "bơ Paris", và nó được biết đến như một món ngon ở cả Nga và châu Âu. Một nhà máy sản xuất bơ đã được xây dựng vào năm 1916. Năm 1917, trong cuộc Cách mạng Nga, nhà máy đã được tiếp quản bởi nhà nước, và việc sản xuất trở nên giảm dần. Sau đó, xuất khẩu của nó đã bị cấm. Năm 1939, chính quyền đã đổi tên nó thành bơ Vologda. Năm 1991, sau khi Liên Xô tan rã, các nhà máy tư nhân ở Vologda bắt đầu sản xuất lại bơ Vologda để xuất khẩu. Năm 2010, sau nhiều năm tràn lan hàng giả trên thị trường, chính phủ Nga tuyên bố rằng chỉ có bơ được tạo ra ở vùng Vologda mới được phép dán nhãn là bơ Vologda, tạo ra loại chỉ định xuất xứ được bảo hộ đầu tiên của Nga.
Tống biệt (bài hát) "Tống biệt" (Hán tự: 送别, "Bài hát tống biệt") là một bài hát được sáng tác bởi nhạc sĩ Lý Thúc Đồng (1880 — 1942). Ông đã sắp xếp lời bài hát theo giai điệu của bài hát giữa thế kỷ 19 "Dreaming of Home and Mother" (Mơ về Ngôi nhà tổ ấm và Mẹ) của nhà soạn nhạc người Mỹ John P. Ordway. Lý Thúc Đồng được biết đến bài hát này trong thời gian ông học tập tại Nhật Bản, thông qua một phiên bản tiếng Nhật "Lữ sầu" (tiếng Nhật: 旅愁; Hiragana:りょしゅう) khác của bài hát. Ca từ của bài hát "Tống biệt" có nét tương đồng như những câu ngắn câu dài trong thi phú Trung Hoa, lại mang sự tinh tế của thơ ca cổ điển. Tương phản với điều đó là ý nghĩa bài hát đơn giản, dùng chữ mộc mạc dễ hiểu của tác giả. Đồng thời, lời bài hát tiếng Hoa lại có thể hoà đồng với giai điệu gốc của bài hát rất tốt. Đằng sau lời ca ấy là câu chuyện về kỷ niệm tình bạn khi tác giả Lý Thúc Đồng từ biệt Hứa Ảo Viên (許幻園, 1878 — 1929). Bài hát không phải nghiễm nhiên mà trở thành một bài ly ca (驪歌) nổi tiếng, điển hình của người Trung Hoa. Phiên bản được lưu truyền rộng rãi nhất là từ bản chép tay của Phong Tử Khải (豐子愷, 1898 — 1975), một người học trò của Lý Thúc Đồng, và được trích dẫn trong tuyển tập "Năm mươi bài hát Trung Hoa nổi tiếng" (中文名歌五十曲): Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Tuy nhiên, phiên bản do EMI Hồng Kông phát hành năm 1935 và được hát bởi Long Tuần (龍珣), một học sinh của Trường Tiểu học Trực thuộc Đại học Sư phạm Bắc Bình (nay là Trường Tiểu học Trực thuộc Đại học Sư phạm Bắc Kinh), đính kèm đoạn trích dẫn sau đây, nguồn chưa được xác minh: Có một số phiên bản khác cũng sử dụng những lời ca sau và tuyên bố rằng tất cả chúng đều từng được viết ra bởi Lý Thúc Đồng, nhưng tựu chung là điều này chưa thể được kiểm chứng: Tiểu thuyết "Thành nam cựu sự" (城南舊事) của Lâm Hải Âm (林海音, 1918 — 2001) viết năm 1960, tại chương cuối, "Những đoá hoa của cha đã rơi tàn" (爸爸的花兒落了), có nhắc tới tình tiết theo đó nhân vật chính hát khúc ca tại buổi lễ tốt nghiệp của mình; Lời ca trong cuốn sách và bộ phim chuyển thể bao gồm dòng thứ nhất của đoạn thứ nhất và tất cả còn lại là của đoạn thứ hai, như được mô tả. Bạn của Lý Thúc Đồng, Trần Triết Phủ (陳哲甫) từng có lần viết một bản lời ca cho bài hát này Giai điệu bài hát. Do sử dụng tiếng Trung Hoa nên một phần nhỏ nhịp điệu khác với bài hát gốc. \tempo 4 = 96 g'4 e8(g) c2 | a4 c4 g2 | g4 c,8( d) e4 d8(c) | d2. r4 | g4 e8(g) c4. b8 | a4 c4 g2 | g4 d8(e8) f4. b,8 | c2. r4 | a'4 c4 c2 | b4 a8(b) c2 | a8( b) c( a) a( g) e( c) | d2. r4 | 長 亭 外 古 道 邊 芳 草 碧 連 天 晚 風 拂 柳 笛 聲 殘 夕 陽 山 外 山 天 之 涯 地 之 角 知 交 半 零 落 一 瓢 濁 酒 盡 餘 歡 今 宵 別 夢 寒 Lịch sử, nguồn gốc của bài hát. Về ngày sáng tác thực sự của bài hát "Dreaming of Home and Mother" còn có nhiều ý kiến khác nhau. Có người nói rằng nó được sáng tác vào năm 1851 để thể hiện niềm khao khát quê hương và mẹ trong cuộc Nội chiến Mỹ, cũng như nỗi buồn chiến tranh. Tuy nhiên, Nội chiến bắt đầu vào năm 1861, và nếu như bài hát thực sự được lấy cảm hứng từ chiến tranh thì nó đã không bao giờ được viết trước chiến tranh. Vì vậy, lý do cho năm sáng tác trở nên không đáng tin cậy. Trong thư viện của Đại học Johns Hopkins ở Hoa Kỳ, có một bản in nhạc "Dream Back Home" với năm xuất bản là 1868, trùng khớp với năm được ghi chép trên WorldCat, và được công nhận là một chứng cứ năm tháng thời gian đáng tin cậy hơn cả. Bài hát này từng được lưu hành rộng rãi ở Hoa Kỳ, sau đó lan toả sang Nhật Bản. Năm 1907, Inudou Kyuukei (tiếng Nhật: 犬童 球渓; Hiragana: いんどう きゅうけい), đang giảng dạy tại trường trung học nữ sinh Niigata, đã đặt lời Nhật cho bài hát và cải tên nó thành "Lữ sầu" (Ryoshuu; Hán tự: 旅愁; Hiragana:りょしゅう). Bài hát "Lữ sầu" được phát hành vào năm 1904. Từ năm 1905 đến năm 1910, Lý Thúc Đồng du học tại Nhật Bản. Trong thời gian ấy, ông đã ngẫu nhiên nghe được bài hát "Lữ sầu" và bị giai điệu của bài hát lay động và dịch lời bài hát đầu tiên của Inudou Kyuukei sang tiếng Trung: Sau khi trở về Trung Quốc, một người bạn tốt của ông, Hứa Ảo Viên (許幻園, 1878 — 1929), đã đến từ biệt. Ông rất cảm động và nhờ người vợ Nhật Bản của Hứa Ảo Viên chơi bài "Lữ sầu". Lý Thúc Đồng sau đó đã chỉnh lý lại bài hát cho phiên bản tiếng Trung và đặt tên nó là "Tống biệt" để bày tỏ sự trân quý kỷ niệm của ông với Hứa Ảo Viên. Bài hát "Tống biệt" được phát hành vào năm 1915。. Trong một thời gian dài ở Trung Quốc, người ta đã tin rằng bài "Tống biệt" hoàn toàn được sáng tác bởi Lý Thúc Đồng cả nhạc lẫn lời. Thế nhưng điều này có thể là do bản ghi âm sớm nhất lại là của Victor Talking Machine Company tại Camden, New Jersey, Hoa Kỳ vào ngày 11 tháng 3 năm 1916, ghi âm trên đĩa vinyl bởi Ivan Williams, một ca sĩ giọng tenor người Mỹ tại thời điểm đó. Điều này dẫn đến sự hiểu lầm rằng phiên bản tiếng Anh ra đời muộn hơn phiên bản tiếng Trung. Lời ca tiếng Anh của bài "Dreaming of Home and Mother" (phiên bản của Evan Williams): Chorus. brDreaming of home, dear old home, brHome of my childhood and mother- brOft When I wake 'tis sweet to find brI've been dreaming of home and mother.
Cá hồi máy rửa bát Cá hồi máy rửa bát () là một món cá Hoa Kỳ được nấu bằng nhiệt lượng của máy rửa bát, cụ thể hơn là vào quá trình sấy khô mà thường dùng cho bát đĩa, trong khoảng nhiệt độ từ 50 đến 60 độ C. Cách chế biến này thường không được khuyến khích và có thể dẫn đến các vấn đề như cá sống, ngộ độc thực phẩm, buồn nôn và nôn mửa. Các miếng cá hồi được tẩm ướp và bọc chặt trong ít nhất hai lớp giấy bạc và bỏ vào máy rửa bát. Tiếp theo, chỉnh máy rửa bát sang chế độ rửa và sấy khô rồi khởi động. Sau khi khởi động, miếng cá hồi được hun nóng, hấp hơi và nướng chín. Một ưu điểm của cách nấu này là không có mùi khi nấu. Một khi lớp giấy bạc đã được bọc chặt quanh cá, ta có thể bỏ bát đĩa vào rửa cùng lúc với khi nấu cá hồi. Máy rửa bát không tỏa nhiệt đều như bếp thông thường nên cá sẽ có thể không chín hoàn toàn. Các công ty sản xuất máy rửa chén và Báo cáo Người tiêu dùng đã khuyến cáo không nên nấu cá bằng máy rửa chén vì máy rửa chén không được thiết kế hoặc thử nghiệm để nấu ăn, máy rửa chén không có nhiệt độ ổn định như bếp và không chắc liệu máy rửa chén có làm nóng cá đủ để tiêu diệt mầm bệnh hay không. Kết quả có thể là ngộ độc thực phẩm. Bắt nguồn từ Hoa Kỳ, cách nấu này đã được Vincent Price giới thiệu năm 1975 trong chương trình "The Tonight Show" của Johnny Carson. Vincent miêu tả món ăn này là "một món ăn người ngu xuẩn nào cũng làm được ("a dish any fool can prepare")". Vào năm 2002, món ăn này đã được nấu trong chương trình [[Canada]] "[[The Surreal Gourmet]]" do [[Bob Blumer]] dẫn chương trình. Món ăn này cũng đã xuất hiện trên các bài báo của "[[The Wall Street Journal]]", [[NBC]], [[BBC]], "[[Vogue (tạp chí)|Vogue]]" và [[Choice|CHOICE]]. Ngoài ra, [[CBS]] News đã phỏng vấn tác giả [[Kym Douglas]] về cuốn sách cô viết "The Black Book of Hollywood Diet Secrets" trong đó có công thức cá hồi máy rửa bát. [[Thể loại:Món ăn với cá]]
Nedim Bajrami (sinh ngày 28 tháng 2 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ bóng đá Sassuolo. Sinh ra và lớn lên ở Thụy Sĩ với cha mẹ là người Albania gốc Tetovo, Bajrami đại diện cho các cấp độ trẻ của Thụy Sĩ rồi đến đội tuyển quốc gia Albania. "Tính đến ngày 11 tháng 11 năm 2023" "Tính đến ngày 17 tháng 11 năm 2023" Thống kê sự nghiệp. Bàn thắng quốc tế. "Bàn thắng và kết quả của Albania được để trước."
Bùi Tường Huân (ngày 14 tháng 8 năm 1924 – Tháng 5 năm 1988) là giáo sư, chính khách Việt Nam Cộng hòa, từng một thời giữ chức Tổng trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục và Thượng nghị sĩ Việt Nam Cộng hòa.:322 Bùi Tường Huân chào đời tại Hà Nội, miền bắc Việt Nam vào ngày 14 tháng 8 năm 1924.:322 Từ năm 1945 đến năm 1946, ông tham gia nhóm dân tộc chủ nghĩa Đại Việt Quốc dân Đảng.:322 Năm 1951, ông tốt nghiệp nghề luật sư tại Trường Luật Paris.:322 Năm 1952, tốt nghiệp Viện Nghiên cứu Chính trị Paris.:322 Năm 1958, ông thi đậu lấy bằng tiến sĩ kinh tế tại Trường Luật Paris.:322 Trong thời gian du học tại Pháp, ông còn làm chủ tịch Tổng hội Sinh viên, Học sinh Việt Nam tại Pháp vào năm 1951.:322 Sau khi trở về nước, ông làm giáo sư tại Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn và Huế.:322 Tổng thống Dương Văn Minh dự định chọn ông làm Tổng trưởng Bộ Quốc phòng trong nội các cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa nhưng chưa kịp thực hiện thì đã phải đầu hàng vào buổi trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trước khi Sài Gòn thất thủ, gia đình Bùi Tường Huân đã kịp rời khỏi Việt Nam sang Mỹ tị nạn, khiến ông đành phải ở lại Việt Nam một mình. Bùi Tường Huân qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh vào đầu tháng 5 năm 1988. Bùi Tường Huân tin theo tín ngưỡng Phật giáo và có hai con với vợ là Trần Thị Phương Thảo (tính đến năm 1974).:322
Bùi Văn Thinh (ngày 10 tháng 12 năm 1915 – ngày 2 tháng 1 năm 2000) là thẩm phán, quan chức và nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, từng là Tổng trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng trưởng Bộ Tư pháp và Tổng trưởng Bộ Nội vụ Quốc gia Việt Nam. Dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Nhật Bản. Bùi Văn Thinh chào đời tại tỉnh Sa Đéc, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương vào ngày 10 tháng 12 năm 1915. Ông tốt nghiệp Khoa Luật Đại học Đông Dương trong những năm đầu đời, từng là thẩm phán năm 1941, và phục vụ tại nhiều tòa án khác nhau từ năm 1941 đến năm 1947, rồi lên làm Chánh văn phòng Bộ Tư pháp năm 1947. Năm 1950, ông giữ chức Chưởng lý Tòa Phúc thẩm Quốc gia Sài Gòn, về sau kiêm luôn chức Giám đốc Hành chính Tư pháp của Bộ Tư pháp Quốc gia Việt Nam năm 1952, ít lâu sau ông nhậm chức Chánh án Tòa Phúc thẩm Hỗn hợp Sài Gòn vào tháng 7 năm 1953, từ năm 1954 đến năm 1955 ông giữ chức Tổng trưởng Bộ Tư pháp và Tổng trưởng Bộ Nội vụ Quốc gia Việt Nam. Tháng 10 năm 1955, Việt Nam Cộng hòa được thành lập, chức vụ "Tổng trưởng" đổi thành "Bộ trưởng".:185 Từ năm 1955 đến năm 1956, ông giữ chức Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa. Từ năm 1956 đến năm 1962, ông chuyển sang làm Đại sứ tại Nhật Bản. Bùi Văn Thinh qua đời tại Rueil-Malmaison, Hauts-de-Seine, Pháp vào ngày 2 tháng 1 năm 2000. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #FACEFF;" | Chức vụ ngoại giao ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #ccccff;" | Chức vụ chính trị
Bùi Văn Anh (ngày 12 tháng 10 năm 1930 – ngày 30 tháng 5 năm 2001) là nhà ngoại giao và luật sư Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức Tham tán Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Trung Hoa Dân Quốc, Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thụy Sĩ và các chức vụ khác. Bùi Văn Anh chào đời tại Rạch Giá, Liên bang Đông Dương ngày 12 tháng 10 (có thuyết nói là ngày 20 tháng 10) năm 1930.:12 Năm 1953, ông được cấp phép hành nghề luật sư tại Đại học Hà Nội.:12 Năm 1957, ông tốt nghiệp kỳ thi luật sư ở Sài Gòn.:12 Từ năm 1945 đến năm 1957, ông là luật sư tại Tòa Phúc thẩm Sài Gòn, và từ năm 1958 đến năm 1964 là luật sư tại Tòa Phúc thẩm Cần Thơ.:12 Năm 1965, ông giữ chức Tham tán Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ, và Tham tán Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Trung Hoa Dân Quốc năm 1966–1969.:12 Tháng 1 năm 1970, ông làm Đại biện lâm thời Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Hy Lạp.:12 Từ năm 1970 đến năm 1971, ông làm Đại biện lâm thời Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Thụy Sĩ, và từ năm 1972 đến năm 1975, ông là Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thụy Sĩ.:12 Bùi Văn Anh qua đời tại Hoa Kỳ ngày 30 tháng 5 năm 2001. Bùi Văn Anh tin theo tín ngưỡng Phật giáo. Ông đã kết hôn và có với vợ ít nhất bảy người con.:12
Tưởng Tiệp (Hán tự: 蔣捷; 1245 — 1301), tự Thắng Dục (勝欲), hiệu Trúc Sơn (竹山), là một nhà thơ vào cuối thời nhà Tống và đầu thời nhà Nguyên, cùng với Chu Mật (周密), Vương Nghi Tôn (王沂孫), Trương Viêm (張炎) được xếp vào hàng ngũ "Tống mạt tứ đại gia" 「宋末四大家」(tứ đại danh sư đời hậu Tống). Tưởng Tiệp sinh ra tại Dương Tiện (陽羨) (nay là Nghi Hưng, tỉnh Giang Tô). Ông làm Tiến Sĩ năm Hàm Thuần thứ mười (năm 1274) đời Tống Cung Đế, trong bài thơ "Nhất tiễn mai" của ông có câu "Hồng liễu anh đào, lục liễu ba tiêu." 「紅了櫻桃,綠了芭蕉」, nên khi được lưu danh, người đời thường gọi ông là "Anh Đào tiến sĩ" 「櫻桃進士」. Tưởng Tiệp sống trong thời kỳ nhà Tống đang sụp đổ và nạn quân Mông Cổ xâm chiếm Giang Nam. Đặc biệt là sau khi nhà Nam Tống sụp đổ, ông đã nhiều lần bị buộc phải di cư, do đó cuộc sống của ông rất bấp bênh nhưng rồi được triều Nguyên tha thứ, cho tha triệu lại về làm quan nhưng ông lại "Tang Lục bối giao tiến kỳ tài, tốt bất khẳng khởi" 「臧陸輩交薦其才,卒不肯起」(Được Tang Lục tiến cử, nhưng quân tiểu tốt không chịu động đậy), không làm nữa. Trong những năm cuối đời, ông định cư tại Thái Hồ, Trúc Sơn và viết nên bài "Trúc Sơn từ" (竹山詞). Hầu hết các thi từ của Tưởng Tiệp đều kế thừa từ Tô Thức (蘇軾; 1037 — 1101), Tân Khí Tật (辛棄疾; 1140 — 1207). Nội dung hầu như là về hoài tưởng đến cố hương, nỗi buồn của sông của núi, theo phong cách đa dạng. Bài nổi tiếng nhất của ông là "Ngu mỹ nhân" (虞美人), thể hiện bước chuyển mình trong phong thái, tâm tưởng trữ tình trong cuộc đời ông.
Sargocentron macrosquamis là một loài cá biển thuộc chi "Sargocentron" trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1984. Từ định danh "macrosquamis" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "macro" (“rộng lớn”) và "squamis" (“vảy”), hàm ý đề cập đến những vảy lớn ở phía sau nắp mang của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "S. macrosquamis" có phân bố ở Tây Ấn Độ Dương, từ Biển Đỏ dọc theo Đông Phi, băng qua các đảo quốc Seychelles, Madagascar và Mauritius (gồm cả Rodrigues), trải dài về phía đông đến Maldives và quần đảo Chagos. "S. macrosquamis" được quan sát ở độ sâu khoảng 4–22 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "S. macrosquamis" là 9 cm. Loài này có màu đỏ, trắng bạc dưới đầu, ngực và bụng; vảy cá ánh bạc. Thùy đuôi tròn rộng. Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 13–14; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia vây ở vây hậu môn: 9–10. Qua giải mã trình tự gen 12S rRNA, "S. macrosquamis" được xếp vào nhóm chị em với "Sargocentron punctatissimum".
Karine Jean-Pierre (sinh ngày 13 tháng 8 năm 1974) là một cố vấn chính trị người Mỹ, hiện là Thư ký Báo chí Nhà Trắng từ ngày 13 tháng 5 năm 2022. Bà là người da đen đầu tiên và là người LGBT công khai đầu tiên giữ chức vị này. Trước đó, bà từng là phó thư ký báo chí dưới thời Jen Psaki từ năm 2021 đến năm 2022 và là chánh văn phòng cho ứng cử viên Phó Tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2020. Trước khi hoạt động cùng Kamala Harris trong cuộc bầu cử năm 2020 và chính quyền Biden–Harris, Jean-Pierre là cố vấn cấp cao và người phát ngôn quốc gia của nhóm ủng hộ cấp tiến MoveO, đồng thời là giảng viên về các vấn đề quốc tế và công cộng tại Đại học Columbia. Đầu đời và học vấn. Jean-Pierre sinh ra ở Fort-de-France, Martinique, Pháp, cha mẹ là người Haiti. Bà có hai người em, đến 5 tuổi gia đình chuyển đến Queens Village, một vùng ở Queens, Thành phố New York. Mẹ bà làm phụ tá chăm sóc sức khỏe tại tại nhà bệnh nhân và hoạt động trong nhà thờ Ngũ tuần, cha làm tài xế taxi, ông được đào tạo thành kỹ sư. Jean-Pierre có trách nhiệm chăm sóc các em (nhỏ hơn mình tám và mười tuổi) vì cha mẹ đều làm việc sáu hoặc bảy ngày mỗi tuần. Trong cuốn hồi ký, Jean-Pierre cho biết việc xem cựu nghị sĩ #đổi có bài phát biểu quan trọng tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Dân chủ 1992 đã thay đổi hướng đi trong cuộc đời và sự nghiệp của mình: "Bà ấy là người phụ nữ da đen đầu tiên tham gia chính trị mà tôi chứng kiến. Trong thế giới những người xinh đẹp, đeo ngọc trai quyến rũ, Jordan chân thật và đáng tin." Jean-Pierre tốt nghiệp Trường trung học Kellenberg Memorial, một trường dự bị đại học ở Long Island vào năm 1993. Cha mẹ muốn bà theo học ngành y, nên bà theo học ngành khoa học sự sống tại Học viện Công nghệ New York nhưng không sống gần trường, nhưng có số điểm thấp trong bài kiểm tra tuyển sinh đại học y khoa. Thay đổi con đường sự nghiệp, bà đạt bằng cử nhân tại Học viện Công nghệ New York năm 1997. Bà đạt bằng Thạc sĩ Quan hệ Công chúng tại Khoa Quan hệ Công chúng và Quốc tế (SIPA), Đại học Columbia vào năm 2003, bà hoạt động trong các tổ chức sinh viên quản lý trường và quyết định theo chính trị. Tại Đại học Columbia, một trong những người hướng dẫn bà là Ester Fuchs, Jean-Pierre tham gia lớp học của Ester Fuchs trong học kỳ mùa thu năm 2001. Jean-Pierre thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp và Creole Haiti. Sự nghiệp ban đầu. Sau khi tốt nghiệp đại học, Jean-Pierre làm giám đốc về các vấn đề lập pháp và ngân sách cho ủy viên hội đồng thành phố New York James F. Gennaro. Năm 2006, bà được tuyển làm điều phối viên tiếp cận cộng đồng cho Walmart Watch ở Washington, D.C. Bà là giám đốc chính trị khu vực đông nam cho chiến dịch tranh cử tổng thống của John Edwards năm 2004. Bà gia nhập vào khoa Đại học Columbia vào năm 2014, bà là giảng viên về các vấn đề công cộng và quốc tế. Chính quyền Barack Obama. Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2008 của Barack Obama, Jean-Pierre là giám đốc chính trị khu vực đông nam của chiến dịch và là giám đốc chính trị khu vực Văn phòng Chính trị Nhà Trắng trong nhiệm kỳ đầu chính quyền Obama. Năm 2011, Jean-Pierre giữ chức Phó Giám đốc Bang Chiến trường cho chiến dịch tái tranh cử năm 2012 của Tổng thống Obama. Bà lãnh đạo việc chọn người đại diện và quá trình tiếp cận lá phiếu, đồng thời quản lý giao chiến chính trị ở các bang then chốt, cung cấp tài nguyên để giúp các bang xác định "hướng đi tốt nhất để họ ủng hộ chiến dịch." Jean-Pierre là người đại diện điều hành chiến dịch trong cuộc tranh cử tổng thống năm 2016 của Martin O'Malley. MoveOn và bình luận chính trị. Vào tháng 4 năm 2016, MoveOn bổ nhiệm Jean-Pierre làm cố vấn cấp cao và người phát ngôn quốc gia trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2016. MoveOn cho biết bà sẽ là "cố vấn và người phát ngôn trong hoạt động bầu cử của MoveOn, bao gồm nỗ lực lớn phản đối Donald Trump." Tháng 1 năm 2019, Jean-Pierre trở thành nhà phân tích chính trị cho NBC News và MSNBC. Jean-Pierre làm việc tại Trung tâm Đạo đức Cộng đồng và Đoàn thể. Vào tháng 12 năm 2018, Jean-Pierre được tờ "The Haitian Times" vinh danh là một trong sáu "Người tạo tin tức Haiti của năm". Chính quyền Joe Biden. Jean-Pierre là cố vấn cấp cao trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2020 của Joe Biden. Bà gia nhập đội Biden vào tháng 5 năm 2020 và giải thích với tờ "The Haiti Times" rằng mong muốn định hình tương lai là thúc đẩy đặc biệt; bà cho biết khi tiếp cận chiến dịch, bà nhìn con gái mình rồi ngẫm nghĩ: "Không thể vắng mặt trong cuộc bầu cử này". Vào tháng 8, có thông báo Jean-Pierre sẽ giữ chức Chánh văn phòng cho ứng cử viên phó tổng thống của Biden, vẫn chưa được thông báo. Ngày 29 tháng 11 năm 2020, đội chuyển tiếp Biden-Harris thông báo Jean-Pierre được bổ nhiệm làm Phó Thư ký Báo chí. Vào ngày 26 tháng 5 năm 2021, bà có buổi họp báo đầu tiên tại Nhà Trắng, trở thành người LGBTQ công khai đầu tiên thực hiện việc này và là phụ nữ người da đen đầu tiên kể từ năm 1991. Ngày 5 tháng 5 năm 2022, Jean-Pierre được chỉ định kế nhiệm Jen Psaki giữ chức Thư ký Báo chí Nhà Trắng vào ngày 13 tháng 5. Jean-Pierre là người da đen đầu tiên và là người LGBTQ công khai đầu tiên giữ chức vị này. Từ năm 2020, Jean-Pierre sinh sống ở vùng đô thị Washington cùng bạn đời #đổi , cựu phóng viên CNN và con gái họ. Năm 2019, Jean-Pierre xuất bản cuốn sách với tựa đề "Moving Forward: A Story of Hope, Hard Work, and the Promise of America". Bà nhìn lại cuộc đời mình và khích lệ mọi người tham gia vào chính trị. Cuốn sách được WJLA-TV mô tả là "phần hồi ký, một phần kêu gọi vũ trang".
Bơ Yak (hay còn được gọi là Bơ dri hoặc su oil; , ) là một loại bơ được làm từ sữa của bò Tây Tạng ("Bos grunniens"). Nhiều cộng đồng chăn nuôi gia súc ở Trung Quốc, Ấn Độ, Mông Cổ, Nepal, Gilgit-Baltistan Pakistan và Tây Tạng sản xuất và tiêu thụ các chế phẩm sữa được làm từ sữa bò Tây Tạng, trong đó có cả bơ. Sữa yak nguyên chất có khoảng gấp đôi hàm lượng chất béo so với sữa bò nguyên chất, tạo ra một loại bơ có kết cấu gần giống với phô mai hơn. Nó là một thực phẩm thiết yếu và là thương phẩm cho cộng đồng chăn nuôi gia súc ở Trung Á và Cao nguyên Thanh Tạng. Bò Yak cung cấp cho những người chăn nuôi gia súc của chúng nhiều lợi ích khác nhau, bao gồm phân làm nhiên liệu, sức kéo, thịt, chất xơ và sữa. Không phải tất cả các cộng đồng chăn gia súc đều có truyền thống sử dụng sữa yak hoặc làm bơ, mặc dù ở các vùng đồng cỏ trên núi, việc làm này là phổ biến. Mỗi cá thể bò yak sản xuất ít sữa, vì vậy chỉ khi có đàn lớn, người chăn nuôi mới có thể thu được nhiều sữa. Mùa hè có nhiều sữa hơn mùa đông; biến sữa tươi thành bơ hoặc phô mai là cách dự trữ calo để sử dụng sau. Ở phía tây của Tây Tạng, sữa bò yak lần đầu tiên được lên men qua đêm. Vào mùa hè, chất giống như sữa chua thu được sẽ khuấy trong khoảng một giờ bằng cách nhúng một cái muôi gỗ liên tục vào một cái thùng gỗ cao. Vào mùa đông, sữa chua được tích lũy trong vài ngày, sau đó đổ vào dạ dày cừu đã bơm căng và lắc cho đến khi bơ hình thành. Bơ yak tươi được bảo quản theo một số cách và có thể để được đến một năm khi không tiếp xúc với không khí và được bảo quản trong điều kiện khô mát. Nó được khâu vào túi dạ dày cừu, bọc trong da bò Tây Tạng, hoặc bọc trong lá đỗ quyên lớn. Khi hộp được mở ra, bơ yak sẽ bắt đầu phân hủy; tạo ra các đường vân nấm mốc màu xanh tương tự như pho mát xanh. Từ tiếng Anh "yak" là từ mượn tiếng Tạng: གཡག་, tiếng Wylie: , nó chỉ đề cập đến con đực của loài, không cần phải nói là không sản xuất sữa (một bản dịch theo nghĩa đen sang tiếng Tây Tạng sẽ giống như nói "bơ bò đực"); con cái được gọi là tiếng Tây Tạng: འབྲི་, Wylie: 'bri, hoặc nak. Trong tiếng Anh, cũng như hầu hết các ngôn ngữ vay mượn từ này, "yak" thường được dùng cho cả hai giới tính. Trà bơ là món ăn chủ yếu hàng ngày trên khắp vùng Himalaya và thường được làm bằng bơ yak, trà, muối và nước được khuấy thành bọt. Đây là thức uống quốc gia của người Tây Tạng, họ uống tới 60 cốc nhỏ mỗi ngày để cung cấp nước và những dinh dưỡng cần thiết ở vùng núi cao, lạnh giá. Đôi khi, bơ ôi được sử dụng để tạo hương vị khác cho trà. Bơ yak tan chảy có thể được trộn với tỷ lệ gần bằng nhau với bột lúa mạch rang (tsampa). Bột thu được sẽ trộn với chà là hoặc hạt vừng, được dùng để tiếp khách. Nó cũng có thể được lưu trữ để sử dụng sau và sau đó được nấu chảy trong nước nóng, có thêm muối hoặc đường. Bơ Yak được sử dụng trong quá trình thuộc da truyền thống. Bơ cũ, ôi thiu được ưa chuộng hơn bơ tươi. Các mục đích sử dụng phi thực phẩm khác bao gồm làm nhiên liệu cho đèn bơ yak, dưỡng ẩm cho da, và nghệ thuật điêu khắc bơ truyền thống cho dịp lễ Losar. Những tác phẩm điêu khắc bơ yak như vậy có thể đạt chiều cao gần 10 mét. Ở Nepal, đặc biệt là ở Kathmandu, pho mát yak và bơ yak được sản xuất tại các nhà máy và được bán thương mại. Trong những năm 1997–1998, 26 tấn bơ đã được sản xuất và bán theo cách này ở Nepal.
Aleksandar Trajkovski (#đổi ; sinh ngày 5 tháng 9 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Macedonia, thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Bắc Macedonia. Chủ yếu là một tiền đạo, anh cũng có thể chơi ở vị trí tiền vệ cánh hoặc tiền vệ tấn công. Sự nghiệp quốc tế. Vào ngày 22 tháng 5 năm 2012, U-21 Macedonia đánh bại U-21 Hà Lan 1–0 trong một trận giao hữu, với bàn thắng duy nhất được ghi bởi trajkovski. Anh ra mắt cấp cao cho Macedonia vào ngày 10 tháng 8 năm 2011 trong chiến thắng 1–0 giao hữu trước Azerbaijan, và ghi bàn thắng đầu tiên hai năm bốn ngày sau đó để kết thúc chiến thắng 2–0 trên sân nhà trước những người hàng xóm Bulgaria trong một cuộc triển lãm khác. Anh đã ghi một hat-trick vào ngày 12 tháng 11 năm 2015 trong chiến thắng 4–1 trước Montenegro tại Sân vận động Philip II ở Skopje. Trajkovski đã được chọn cho UEFA Euro 2020, giải đấu lớn đầu tiên của Bắc Macedonia. Vào ngày 24 tháng 3 năm 2022, anh đã ghi một bàn thắng từ xa vào phút cuối trong trận đấu bán kết play-off vòng loại FIFA World Cup 2022 đánh bại Ý 1–0 tại sân câu lạc bộ cũ của anh ở Palermo, loại Ý khỏi FIFA World Cup lần thứ hai liên tiếp. "Tính đến ngày 24 tháng 3 năm 2022" "Tỉ số và kết quả liệt kê bàn thắng của Bắc Macedonia được tính trước, cột tỉ số cho biết tỉ số sau mỗi bàn thắng của Trajkovski."
Hạt Đại diện Tông tòa Savannakhet Hạt Đại diện Tông tòa Savannakhet (; ) là một Hạt Đại diện Tông tòa của Giáo hội Công giáo Rôma tại trung tâm nước Lào. Là một Hạt Đại diện Tông tòa, Hạt Đại diện Tông tòa Savannakhet được giao cho một Giám mục hiệu tòa quản lí, đồng thời không thuộc một Giáo tỉnh nào, thay vào đó là chịu sự quản lí trực tiếp của Tòa Thánh thông qua Bộ Truyền giáo. Hạt Đại diện Tông tòa Savannakhet là Hạt Đại diện Tông tòa lớn nhất tại Lào, bao phủ diện tích 48.100 km² bao gồm các tỉnh Savannakhet, Khammuane và một phần diện tích tỉnh Borikhamxay. Có khoảng 12.500 giáo dân trên dân số 2.7 triệu người của Hạt Đại diện Tông tòa. Trên toàn Hạt Đại diện Tông tòa có 54 giáo xứ và 6 linh mục. Hạt Phủ doãn Tông tòa Thakhek được thành lập vào ngày 21/12/1950, khi Hạt Đại diện Tông tòa Lào được tách ra làm hai. Phần phía tây ở Thái Lan được đổi tên thành Hạt Đại diện Tông tòa Thare, trong khi phần thuộc Lào trở thành Hạt Phủ doãn Tông tòa Thakhek. Ngày 24/2/1958, Hạt Phủ doãn Tông tòa được nâng cấp thành một Hạt Đại diện Tông tòa. Vào năm 1963, Hạt Đại diện Tông tòa Thakhek được đổi tên thành Hạt Đại diện Tông tòa Savannakhet, mặc dù tòa giám mục vẫn được đặt tại Thakhek ở tỉnh Khammuane. Năm 1967, phần phía nam Hạt Đại diện Tông tòa được tách ra để thành lập Hạt Đại diện Tông tòa Pakse.
Elon Musk mua lại Twitter Elon Musk mua lại Twitter là sự kiện tỉ phú Elon Musk đã bắt đầu thương vụ mua lại công ty mạng xã hội Twitter, Inc. vào ngày 14 tháng 4 năm 2022 và hoàn tất thương vụ vào ngày 27 tháng 10 năm 2022. Elon Musk đã mua cổ phần của công ty này vào tháng 1 năm 2022, trở thành cổ đông lớn nhất của công ty vào tháng 4 với 9,1% cổ phần sở hữu. Twitter đã mời Elon Musk tham gia hội đồng quản trị của mình, ban đầu lời đề nghị ban đầu ông chấp nhận, sau đó từ chối. Vào ngày 14 tháng 4 năm 2022, Elon Musk đã tự nguyện đưa ra lời đề nghị mua lại công ty, lúc đầu hội đồng quản trị của Twitter đã đáp lại bằng một chiến lược viên thuốc độc. Nhưng ngay sau đó, hội đồng quản trị nhất trí đã chấp nhận lời đề nghị mua lại trị giá 44 tỉ USD của Elon Musk vào ngày 25 tháng 4 năm 2022. Elon Musk tuyên bố rằng ông dự định cho ra mắt các tính năng mới cho Twitter bao gồm biến các thuật toán của nó thành nguồn mở, diệt các tài khoản spambot và thúc đẩy quyền tự do ngôn luận. Có nhiều ý kiến trái chiều xoay quanh sự kiện này. Một số đã khen ngợi kế hoạch cải cách, tầm nhìn và sự ủng hộ gia tăng tự do ngôn luận của Musk. Tuy nhiên, cũng có những lời chỉ trích về các hệ lụy như khả năng gia tăng thông tin sai lệch, quấy rối hay phát ngôn thù hận trên nền tảng. Tại Hoa Kỳ, phe bảo thủ phần lớn ủng hộ việc mua lại, trong khi phe tự do và cựu nhân viên Twitter lo ngại về ý định của Musk. Sau khi làm chủ, Musk đã bị chỉ trích dữ dội vì cách quản lý công ty của ông và việc đình chỉ tài khoản. Tỉ phú Elon Musk đã xuất bản dòng tweet đầu tiên lên tài khoản Twitter cá nhân của mình vào tháng 6 năm 2010. Thời điểm đó, tài khoản của ông có hơn 80 triệu người theo dõi vào tháng 4 năm 2022. Vào năm 2017, để đáp lại một dòng tweet gợi ý rằng ông nên mua Twitter, Inc. , Elon Musk trả lời: "Nó là bao nhiêu?" Vào ngày 24 tháng 3 năm 2022, Elon Musk bắt đầu đăng những dòng tweet chỉ trích Twitter, thăm dò ý kiến những người theo dõi của mình về việc liệu công ty có tuân thủ nguyên tắc tự do ngôn luận là điều cần thiết cho một nền dân chủ đang hoạt động hay không. Vài ngày sau, ông thảo luận về tương lai của truyền thông xã hội với người đồng sáng lập Twitter Jack Dorsey và khám phá khả năng tham gia hội đồng quản trị của Twitter với đồng giám đốc điều hành của công ty cổ phần tư nhân Silver Lake, Egon Durban. Ông ấy đã chuyển ý tưởng này tới chủ tịch hội đồng quản trị Twitter Bret Taylor và Giám đốc điều hành , đề xuất chuyển công ty thành tư nhân hoặc bắt đầu một nền tảng truyền thông xã hội đối thủ. Jack Dorsey đã trả lời Elon Musk bằng một tin nhắn văn bản, nói rằng ông ấy hy vọng Twitter có thể trở thành mã nguồn mở và đã thất bại trong việc thúc đẩy việc đưa Elon Musk vào hội đồng quản trị của Twitter một năm trước đó, một động thái khiến ông ấy rời bỏ vai trò Giám đốc điều hành của mình.
Tổng giáo phận Tegucigalpa Tổng giáo phận Tegucigalpa (; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Honduras. Hiện tại tổng giáo phận là tổng giáo phận đô thành duy nhất ở Honduras, quản lí Giáo tỉnh Tegucigalpa, giáo tỉnh duy nhất tại nước này. Nhà thờ chính tòa của tổng giáo phận là Nhà thờ chính tòa Tổng lãnh thiên thần Micae (Catedral Metropolitana de San Miguel de Arcángel), nằm tại thủ đô Tegucigalpa. Tổng giáo phận cũng có một Tiểu vương cung thành đường: Basílica de Nuestra Señora de Suyapa, cũng nằm tại Tegucigalpa. Đến năm 2014, trên toàn tổng giáo phận có 1.684.000 giáo dân (86,1% trên dân số 1,955,000), chia thành 58 giáo xứ và 3 giáo hội với 156 linh mục (79 linh mục triều, 77 linh mục dòng), 1 phó tế, 417 tu sĩ (97 nam tu sĩ, 320 nữ tu sĩ) và 37 chủng sinh.
Jakob Valdemar Olsson Johansson (sinh ngày 21 tháng 6 năm 1990) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thụy Điển từng thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự. Trở thành cầu thủ đầu tiên sinh vào những năm 1990 chơi tại Allsvenskan khi ở IFK Göteborg, anh tiếp tục đại diện cho AEK Athens và Rennes trước khi giải nghệ tại IFK Göteborg vào năm 2021. Khi thi đấu quốc tế đầy đủ từ năm 2013 đến năm 2019, anh đã có 18 trận cho Đội tuyển quốc gia Thụy Điển và được nhớ đến nhiều nhất khi ghi bàn vào lưới bàn thắng ấn định chiến thắng ở Vòng loại FIFA World Cup 2018 trước Ý khi Thụy Điển vượt qua vòng loại World Cup lần đầu tiên của họ sau 12 năm. Sự nghiệp quốc tế. Johansson ra mắt quốc tế trong trận giao hữu với Triều Tiên vào ngày 23 tháng 1 năm 2013. Anh đã ra mắt thi đấu trong một trận đấu vòng loại FIFA World Cup 2018 đấu với Pháp vào ngày 11 tháng 11 năm 2016. Vào ngày 10 tháng 11 năm 2017, Thụy Điển thắng Ý 1–0 trong trận lươt đi vòng ha vòng loại FIFA World Cup 2018 tại Friends Arena, và bàn thắng duy nhất đến khi Jakob Johansson khoan thủng lưới nhà từ khoảng cách 20 mét, qua một pha chệch hướng của Daniele De Rossi. Vào ngày 13 tháng 11 năm 2017, trong trận đấu mà Thụy Điển đã cầm hòa không bàn thắng ở trận lượt về tại San Siro để đánh bại Ý với tỷ số chung cuộc 1–0 tại vòng play-off FIFA World Cup 2018, Johansson phải đối mặt với chấn thương dây chằng chéo trước khiến anh phải nghỉ thi đấu 11 tháng. Do đó, anh cũng đã bỏ lỡ FIFA World Cup 2018. Thống kê sự nghiệp. Bàn thắng quốc tế "Tỷ số và kết quả liệt kê bàn thắng đầu tiên của Thụy Điển."
Giáo phận Đại Đồng Giáo phận Đại Đồng (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Trung Quốc, nằm trong Giáo tỉnh Thái Nguyên. Nhà thờ chính tòa của giáo phận là Nhà thờ chính tòa Khiết Tâm Đức Bà Maria ở địa cấp thị Đại Đồng (Sơn Tây) tuy nhiên hiện tại giáo phận đang trống tòa. Lãnh đạo giáo phận. Giám mục Giáo phận Đại Đồng
Lutjanus inermis là một loài cá biển thuộc chi "Lutjanus" trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1869. Tính từ định danh "inermis" trong tiếng Latinh có nghĩa là “không vũ trang”, hàm ý đề cập đến các gai vây lưng mỏng manh ở loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "L. inermis" có phân bố rộng rãi ở Đông Thái Bình Dương, từ mũi nam bán đảo Baja California và cửa vịnh California trải dài về phía nam đến Ecuador, bao gồm quần đảo Galápagos, đảo Malpelo và đảo Cocos xa bờ. "L. inermis" sống trên các rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu độ sâu ít nhất là 70 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. inermis" là 39 cm. Chiều dài thuần thục sinh dục là 23,9 cm đối với cá cái và 23,6 cm đối với cá đực. Cá trưởng thành có màu xám, với các sọc xám sẫm dọc hai bên lườn (~10 đường bên dưới đường bên và ~20 đường xiên trên đó). Chúng thường có vây đuôi và vây lưng màu vàng đặc trưng, kèm một sọc vàng từ giữa thân kéo dài ra sau cuống đuôi cũng màu vàng. Tuy nhiên, đôi khi chúng không có màu vàng hoặc màu vàng chỉ giới hạn trên vây đuôi. Khi chụp dưới nước sâu và khi mới được đánh bắt, chúng thường ửng đỏ trên cơ thể. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 13; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 11. Thức ăn của "L. inermis" bao gồm cá và một số loài thủy sinh không xương sống như giáp xác, cũng có thể ăn sinh vật phù du. Vào ban ngày, chúng hợp thành đàn từ 30 cá thể trở lên, đôi khi đứng im. Cá con bắt chước cá thia "Azurina atrilobata" và thường bơi cùng nhau. Hai thời kỳ sinh sản chính trong năm được ghi nhận ở "L. inermis" là vào khoảng tháng 2–tháng 4 và tháng 9–tháng 11.
Jiří của Kunštátu và Poděbrad (23 tháng 4 năm 1420 – 22 tháng 3 năm 1471) (tiếng Séc: Jiří z Poděbrad; tiếng Anh: George of Poděbrady) là vị vua thứ mười sáu của Vương quốc Séc, trị vì từ năm 1458–1471. Ông là một nhà lãnh đạo của Hussite, nhưng ôn hòa và khoan dung đối với đức tin Công giáo. Triều đại cai trị của ông được đánh dấu bằng những nỗ lực thành công duy trì hòa bình giữa người Hussite và người Công giáo ở Vương quốc Séc vốn bị chia rẽ về mặt tôn giáo. Chính vì điều này, Jiří cũng được gọi là "Vị vua của hai dân tộc" (tiếng Séc: "král dvojího lidu") và "Người bạn của hòa bình" (tiếng Séc: "přítel míru"). Vào thế kỷ 19, giai đoạn được gọi là thời Phục hưng đất nước Séc, Jiří bắt đầu được ca ngợi với tư cách là quốc vương Séc cuối cùng xét về nhận thức dân tộc. Có thể nói Jiří là một nhà ngoại giao vĩ đại trong thời đại ông và là một chiến binh dũng cảm chống lại sự thống trị của Giáo hội Công giáo. Trong thời hiện đại, người ta nhớ đến ông chủ yếu nhờ vào ý tưởng và những nỗ lực thiết lập các thể chế Cơ đốc giáo chung của châu Âu, ngày nay được coi là tầm nhìn lịch sử ban đầu về sự thống nhất chung của châu Âu. Jiří là con trai của Viktorín xứ Kunštátu và Poděbrad, một nhà quý tộc Bohemia có tổ tiên là người gốc Morava. Cha Jiří là một trong những thủ lĩnh dẫn đầu phe ôn hòa của người Hussite (được gọi là Utrakvismus) trong Chiến tranh Hussite. Mẹ của Jiří không được nhắc đến và có khả năng sự chào đời của ông là ngoài giá thú. Chính vì điều này, trong suốt cuộc đời mình, Jiří đã nhiều lần bị quấy rầy bằng những lời chế giễu về nguồn gốc xuất thân từ những kẻ thù của ông. Khi mười bốn tuổi, Jiří đã tự mình tham gia Trận chiến Lipan (1434), đánh dấu sự sụp đổ của các phe phái Hussite cấp tiến hơn (Taborites và Orebites) và sự kết thúc giai đoạn cách mạng của phong trào Hussite. Vào thời điểm này, Jiří là mồ côi, vì cha ông qua đời vào năm 1427. Hồi trẻ, với tư cách là một trong những nhà lãnh đạo của Hussite, Jiří đã đánh bại quân đội Áo của Vua Albert II. Albert là công tước của Áo, sau này ông đã kế vị Sigismund của Thánh chế La Mã làm Vua của Bohemia, Đức và Hungary. Jiří nhanh chóng trở thành một thành viên nổi bật của đảng Hussite sau cái chết của thủ lĩnh của đảng, Hynce Ptáček của Pirkstein vào năm 1444. Albert II được kế vị bởi con trai là Ladislav Pohrobek, trong thời gian trị vì của ông, Bohemia bị chia rẽ mạnh mẽ thành hai đảng: đảng trung thành với La Mã, do Oldřich II của Rosenberg lãnh đạo, và đảng Hussite, do Jiří lãnh đạo. Về sau, Jiří đã thành công gây dựng một lực lượng quân sự ở đông bắc Bohemia, nơi có người Hussite đông đảo và là nơi cố hữu của Lâu đài Litice. Năm 1448, Jiří dẫn quân khoảng 9000 người lính từ Kutná Hora đến Praha và sau đó chiếm được thủ đô mà hầu như không gặp phải khó khăn nào.
Sargocentron ittodai là một loài cá biển thuộc chi "Sargocentron" trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1902. Từ định danh "ittodai" cũng là tên thông thường của loài cá này tại đảo Nhật Bản, cũng là nơi thu thập mẫu định danh, được ghép bởi hai âm tiết: "itto" (“đứng hàng đầu”), có lẽ đề cập đến sự bắt mắt của nó, và "tai", một tên gọi chung đôi khi được áp dụng cho các thành viên của chi này. Phân bố và môi trường sống. "S. ittodai" có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Biển Đỏ và tỉnh KwaZulu-Natal (Nam Phi), cũng như các đảo quốc ngoài khơi Đông Phi, trải dài về phía đông đến quần đảo Marquises, ngược lên phía bắc đến Nhật Bản (gồm cả quần đảo Ogasawara), xa về phía nam đến bờ đông Úc (gồm cả ). "S. ittodai" cũng được ghi nhận tại Việt Nam cùng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. "S. ittodai" sống trên các rạn san hô viền bờ, có thể được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 190 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "S. ittodai" là 20 cm. Loài này có màu đỏ với các dải sọc đỏ và trắng dọc theo các hàng vảy cá (sọc đỏ hơi hẹp hơn so với sọc trắng). Tuy nhiên, sọc đỏ thường rộng hơn đối với các mẫu vật thu thập ở đảo Đài Loan và Nhật Bản. Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 13–14; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–10; Số vảy đường bên: 43–49. "S. ittodai" là loài ăn đêm, thức ăn là động vật giáp xác (chủ yếu cua và tôm). "S. ittodai" là một thành phần của nghề đánh bắt thủ công và đánh bắt quy mô nhỏ.
Mori Hinako ( (Sâm Nhật-Hướng-Tử), Mori Hinako 9 tháng 9 năm 2000 –) là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô thuộc về công ti NAX Promotion. Tháng 6/2020, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm với tư cách nữ diễn viên độc quyền của nhãn phim "KMHR (Kimihore)" của hãng SOD Create (sau khi xuất hiện trong ba phim, cô đã bắt đầu làm việc với tư cách là nữ diễn viên tự lập kế hoạch). Tháng 6/2020. cô đã tham gia cuộc thi MissiD 2021 của Kōdansha, và đã tiến vào vòng bán kết. Trong bảng xếp hạng sàn video FANZA hàng tuần ngày 5/12/2022, phim của cô "Không còn là Kamibukuro nữa! Tôi đã tuyển chọn cách phim nổi tiếng của Kaguyahime Pt, nên nếu bạn mua nó bây giờ, bạn chắc chắn sẽ có một bộ sưu tập 32 giờ!" (Kaguyahime Pt/Mōsozoku) đã xếp thứ nhất. 11/5/2023, cô cùng Hinata Himari tạo thành bộ đôi "Hinata Uta", và họ đã tổ chức một buổi diễn trực tiếp được tổ chức tại Sangenjaya Grapefruit Moon ở Tokyo. 3/7/2023, phim tổng hợp của cô "【Túi may mắn】S-Cute chỉ có những cô gái xinh đẹp 15 phim không cắt 38 tiếng bản ghi!"(【福袋】S-Cute 可愛い子だけ15作品をノーカット収録38時間!) phát hành tháng 12/2022 đã xếp thứ nhất trên bảng xếp hạng sàn video FANZA hàng tuần. Cô sinh ra tại Mie. Trên trang tự giới thiệu của MissiD 2021, có thông tin rằng cô đã tham gia một trường dạy làm đẹp, và tại thời điểm cô có hợp đồng độc quyền với KMHR, hồ sơ của cô cũng ghi rằng cô đã tham gia một trường dạy làm đẹp Trong một cuộc phỏng vấn, cô đã nói rằng cô đã quan hệ tình dục lần đầu năm 18 tuổi. Lí do cô trở thành nữ diễn viên khiêu dâm là cô thích phụ nữ đáng yêu và là người hâm mộ lớn của Ogura Yuna, và vì có những người phụ nữ đáng yêu đang làm nữ diễn viên khiêu dâm, cô bắt đầu quan tâm đến phim khiêu dâm và xem nó, rồi từ đó cô có mong muốn trở thành nữ diễn viên khiêu dâm. Mục tiêu của cô trong tương lai là trở thành nữ diễn viên khiêu dâm không chỉ được yêu thích bởi đàn ông, mà cả phụ nữ vì chính cô đã chọn vào ngành nhờ những người phụ nữ khác. Cô hiện tại đang đăng thông tin liên tục lên các mạng xã hội như Twitter. Sở thích của cô là trang điểm và hỗ trợ các thần tượng.。Món ăn yêu thích của cô là dâu tây, thịt nướng và mì ramen. Cô đã tham gia câu lạc bộ kèn đồng khi học trung học cơ sở và đảm nhận vị trí chơi saxophone. Phim yêu thích của cô là "Onna no ko kirai", và cuốn sách cô yêu thích là "Thế giới song song - Câu chuyện tình yêu". Vì tính cách vui vẻ của mình, cô được gọi là "cô gái tequila người không bao giờ bị ốm" trong loạt phim "Nếu bạn có thể chịu được các kĩ năng tuyệt vời, bạn sẽ nhận được★SEX xuất tinh mạnh!". [[Thể loại:Sinh năm 2000]] [[Thể loại:Nhân vật còn sống]] [[Thể loại:Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản]]
Fujii Shelly (, Fujii Shelly 18 tháng 2 năm 1990 –) là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô sinh ra tại Tokyo. Cô là một hāfu có bố là người Philippines và mẹ là người Nhật. Tên diễn của cô là ghép giữa Fujii Lena và SHELLY. Cô thuộc về công ti chủ quản Selection. Lần đầu cô quan hệ tình dục là với bạn trai vào mùa hè năm 16 tuổi. Khi cô học đại học năm đầu, cô đã xem phim người lớn và cảm thấy ấn tượng bởi sự quyến rũ của một nữ diễn viên khiêu dâm, vì thế nên cô đã đặt mục tiêu vào ngành phim khiêu dâm. Tháng 9/2008, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm. Trước đó cô đã mở một trang blog chính thức "Itoshi no Sherry" (いとしのシェリー). Cô đã kí một hợp đồng độc quyền với Million, một hãng phim đang không có nữ diễn viên độc quyền nào lúc đó sau khi Asao Rika nghỉ việc. Ngày 17/11 cùng năm, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm từ hãng "Mishin" với khẩu hiệu "Đẹp hơn người nổi tiếng". 24/3/2010, cô đã nhận giải Nữ diễn viên mới tại Giải thưởng truyền hình phim khiêu dâm Sky PerfecTV! 2010 của Sky PerfecTV!. Tháng 7 cùng năm, cô cùng Asakura Yū và Ōishi Nozomi thành lập nhóm thần tượng "Million Girls 2010". Năm 2011, cô cùng với Kasumi Kaho, Otsuka Saki, Saeki Nana, Mizuno Tsukasa và Hoshizuki Mayura đã xuất hiện trong cuốn sách "Trái tim trần" (裸心) (Tóm tắt câu chuyện của một nữ diễn viên khiêu dâm đến khi cô bắt đầu làm việc theo văn tiểu thuyết). Cô đã dừng đăng bài cập nhật lên blog chính thức vào ngày 14/10/2012 và Twitter vào ngày 4/12/2012. Ngày 31/12/2012, đại diện của KMP vào thời điểm đó Kita Akio đã thông báo rằng "Cô có một hợp đồng để diễn, tuy nhiên vì một lí do nào đó việc ghi hình không thể diễn ra". Cô đã gần như dừng hoạt động. 2/9/2014, một trang blog và Twitter mới của cô đã được lập, và bài đăng trên blog nói rằng tên diễn của cô đã đổi thành "Shelly". Ngoài ra, cô cũng đã chuyển văn phòng chủ quản sang Roseo. Ngày 19/10, phim đầu tiên sau khi cô trở lại ngành được phát hành, và cô tiếp tục hoạt động với tư cách nữ diễn viên độc quyền của Idea Pocket. Từ tháng 7/2015, cô trở thành nữ diễn viên độc quyền của Wanz Factory. Trong một số phim, tên diễn của cô được viết bằng các chữ katakana "シェリー" thay vì chữ Latinh. 28/2/2016, cô đã thông báo nghỉ việc nữ diễn viên khiêu dâm tại một sự kiện.
Vương triều 'Alawi (tiếng Ả Rập: سلالة العلويين الفيلاليين, chuyển tự La tinh: sulālat al-ʿalawiyyīn al-fīlāliyyīn) – cũng được dịch sang tiếng Anh là Alaouite, 'Alawid, Alawite – là hoàng tộc trị vì Vương quốc Ma Rốc hiện tại. Họ là một triều đại Sharif Ả Rập và tuyên bố có nguồn gốc từ nhà tiên tri Hồi giáo Muhammad thông qua cháu trai của ông, Hasan ibn Ali. Tổ tiên của họ ban đầu di cư đến vùng Tafilalt, thuộc Ma Rốc ngày nay, từ Yanbu trên bờ biển Hejaz vào thế kỷ XII hoặc XIII. Triều đại lên nắm quyền vào thế kỷ XVII, bắt đầu với Mawlay al-Sharif, người được tuyên bố là sultan của Tafilalt vào năm 1631. Con trai của ông là Al-Rashid, cai trị từ năm 1664 đến 1672, đã có thể thống nhất và bình định đất nước sau một thời gian dài của sự chia rẽ khu vực do sự suy yếu của Vương triều Saadi. Anh trai của ông, Isma'il, đã có một thời kỳ cai trị trung ương tập quyền mạnh mẽ từ năm 1672 đến năm 1727, một trong những vị quốc vương tại vị lâu nhất so với bất kỳ quốc vương Ma Rốc nào. Sau cái chết của Isma'il, đất nước rơi vào tình trạng hỗn loạn khi các con trai của ông tranh giành quyền kế vị, nhưng trật tự đã được thiết lập lại dưới triều đại lâu dài của Muhammad ibn Abdallah vào nửa sau của thế kỷ XVIII. Thế kỷ XIX được đánh dấu bằng ảnh hưởng ngày càng tăng của các cường quốc châu Âu. Vương tộc 'Alawis cai trị với tư cách là các quốc vương có chủ quyền cho đến năm 1912, khi chế độ bảo hộ của Pháp và chế độ bảo hộ của Tây Ban Nha được áp đặt lên Ma Rốc. Các quân chủ của Nhà 'Alawis được giữ lại như những vị vua tượng trưng dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Khi đất nước giành lại độc lập vào năm 1956, Mohammed V, người đã ủng hộ chính nghĩa dân tộc chủ nghĩa, đã tiếp tục 'vai trò của người Nhà 'Alawi với tư cách là nguyên thủ quốc gia độc lập. Ngay sau đó, vào năm 1957, ông lấy danh hiệu "Vua" thay vì "Sultan". Những người kế vị của ông, Hassan II và Mohammed VI (vị vua đang trị vì hiện tại), đã tiếp tục cai trị vương triều dưới cùng một danh hiệu. Ngày nay, chính phủ Ma Rốc chính thức là một chế độ quân chủ lập hiến, nhưng nhà vua vẫn giữ quyền lực độc đoán mạnh mẽ đối với nhà nước và các vấn đề công cộng, bất chấp một số cải cách chính trị trong những thập kỷ gần đây.
"Electric Touch" ( "Cú chạm mãnh liệt") là một bài hát của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ Taylor Swift hợp tác với ban nhạc rock người Mỹ Fall Out Boy. Được trích từ album tái thu âm thứ ba của cô mang tên "Speak Now (Taylor's Version)", bài hát được sáng tác bởi Swift kiêm vai trò đồng sản xuất với Aaron Dessner. Ca khúc được viết vào khoảng đầu năm 2010 nhưng đã bị loại khỏi vòng kiểm duyệt để cho vào danh sách ca khúc từ album gốc. Vào năm 2022, Swift đã bắt tay thực hiện tái thu âm lại bài hát và sản xuất cùng với Dessner. Với giai điệu kết hợp giữa hai thể loại pop punk và pop rock, "Electric Touch" được đặc trưng bởi những nhịp trống đầy sôi nổi cùng với những đoạn riff từ chiếc guitar điện và những quãng giọng cao vút của Swift và Patrick Stump. Bài hát kể về những mối lo ngại trong buổi hẹn hò đầu tiên. Từ những bài viết nhận xét về album "Speak Now (Taylor's Version)", nhiều nhà phê bình đã đánh giá cao cho ca khúc vì độ nổi bật đặc biệt cùng với nhịp điệu nặng nề, giai điệu chặt chẽ và màn hòa âm đầy ấn tượng giữa Swift và Stump. Electric Touch ra mắt ở vị trí thứ 37 trên bảng xếp hạng "Billboard" Global 200 và được xếp hạng tại Canada, Hoa Kỳ, New Zealand, Philippines và Úc. Taylor Swift đã phát hành album "Speak Now" vào năm 2010 và sau đó là ba album phòng thu tiếp theo dưới hãng thu âm Big Machine đến tháng 11 năm 2018 khi hợp đồng với hãng đã chính thức hết hạn. Cô đã rời khỏi Big Machine và đã ký hợp đồng với hãng thu âm mới Republic Records. Vào năm 2019, một doanh nhân người Mỹ tên là Scooter Braun đã mua lại hãng thu âm Big Machine. Vào tháng 8 năm 2019, Swift đã tố cáo việc Braun mua lại cả sáu album trên đồng thời cũng thông báo rằng cô sẽ thu âm lại cả sáu album phòng thu đầu tiên để tự mình sở hữu các bản gốc của chúng. Vào ngày 5 tháng 5 năm 2023, tại buổi biểu diễn Nashville đầu tiên trong chuyến lưu diễn The Eras Tour, Swift đã chính thức thông báo về album tái thu âm tiếp theo là "Speak Now (Taylor's Version)", đồng thời cô cũng thông báo về ngày phát hành của album, Vào ngày hôm sau, cô đã đăng một bài đăng nói về album này trên mọi nền tảng mạng xã hội. Swift nhấn mạnh những khó khăn mà cô đã từng phải đối mặt trong cuộc sống của mình trong thời gian mà cô viết bản ghi. Vào ngày 5 tháng 6, danh sách bài hát trong album đã chính thức được công bố, trong sáu bài hát còn lại của album có thêm nhan đề "from the Vault", ca khúc Electric Touch được tuyên bố sẽ hợp tác với ban nhạc Fall Out Boy. Âm nhạc và ca từ. "Electric Touch" là một bài hát thuộc hai thể loại nhạc pop là pop punk và pop rock được đặc trưng bởi những đoạn riff đầy mơ hồ từ chiếc guitar điện và những nhịp trống được đánh theo kĩ thuật crescendo. Nhiều nhà phê bình đã để lại nhiều lời nhận xét tích cực cho phần xây dựng của bài hát, họ cảm thấy có những yếu tố nổi bật mang tính "giao hưởng" xen lẫn với một chút sự "bay bổng" chính là điểm đặc biệt của ca khúc. Đặc biệt nhất, họ cũng đánh giá cao cho màn phối hợp của Swift và Stump khi giọng ca "mềm mại" của Swift hài hòa với chất giọng sắc bén của Patrick Stump. Ca khúc theo chân góc nhìn thứ nhất kể về những mối lo lắng, bi quan khi ở trong buổi hẹn hò đầu tiên. Phát hành và đón nhận. "Electric Touch" được đặt ở vị trí thứ 17 trong album và cùng được phát hành vào ngày 7 tháng 7 năm 2023 bởi hãng thu âm Republic Records. Trong tuần đầu tiên ra mắt tại Hoa Kỳ, ca khúc đứng thứ vị trí 35 trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 và vị trí thứ 16 trên bảng xếp hạng Hot Country Songs, đánh dấu bài hát đầu tiên của Fall Out Boy lọt vào bảng này. Ngoài ra, bài hát cũng đứng ở vị trí thứ 37 trên bảng xếp hạng "Billboard" Global 200 và được xếp hạng ở nhiều quốc gia như Canada, New Zealand, Philippines và Úc. Rachel R. Carroll từ trang "PopMatters" đánh giá cao tài năng của Swift khi mà có thể biến tấu toàn bộ ca khúc thành một tác phẩm đậm vị giao hưởng dù chỉ là nhỏ nhất. Mark Sutherland từ tạp chí "Rolling Stone UK" cho rằng Fall Out Boy đã đưa bài hát lên một "trạng thái bay bổng" nhờ tính pop punk vốn có của bài hát. Bobby Olivier từ tạp chí "Spin" đã ví bài hát với ca khúc "Castles Crumbling" và cho rằng, "Electric Touch" có nhịp độ mạnh hơn và là một "nhịp điệu được ép theo bốn lớp (four-on-the-floor) guitar đầy vui nhộn" với những nhịp pop rock banger không rõ ràng giữa những tiếng đập kỹ thuật số của "Midnights". Laura Shapes từ tờ "The Guardian" đã gọi "Electric Touch" là một "tiếng nổ đường đua" và đánh giá "cao một chút cho lịch sử xét lại để thực sự tôn vinh "Speak Now" là một canon theo phong cách emo". Danielle Chelosky từ trang "Uproxx" đánh giá cao cho màn kết hợp âm nhạc đầy ăn ý giữa Swift và Stump và phải thừa nhận cho giọng ca đầy "ấn tượng và mê hoặc" của họ. Nhà báo Maura Johnston từ tạp chí "Rolling Stone" đã ví nhạc phẩm như một "viên ngọc pop lung linh dài 4 phút" và cho rằng, Swift và Stump có màn phối hợp "rất thú vị" với nhau. Trong một bài đánh giá trái chiều khác, Jem Aswad từ tạp chí "Variety" đã gọi bài hát là ca khúc "From the Vault" kém hấp dẫn nhất về mặt sáng tác và cho lời hát của ca khúc là vô vị, Aswad còn không tin đây thực sự là một bài hát do chính Swift sáng tác. Đội ngũ thực hiện. Đội ngũ tham gia sản xuất cho ca khúc được điều chỉnh trong ghi chú trên bìa đĩa của album. [[Thể loại:Bài hát năm 2023]] [[Thể loại:Bài hát của Taylor Swift]] [[Thể loại:Bài hát của Fall Out Boy]] [[Thể loại:Bài hát viết bởi Taylor Swift]] [[Thể loại:Bài hát sản xuất bởi Aaron Dessner]] [[Thể loại:Bài hát pop punk Mỹ]] [[Thể loại:Bài hát pop rock Mỹ]]
Daniel Gygax (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1981) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thụy Sĩ chơi ở vị trí tiền vệ cánh hoặc tiền đạo hộ công. Gygax đã từng có 35 lần ra sân quốc tế cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Sĩ, và có trong danh sách tham dự 2 Giải vô địch bóng đá châu Âu và Giải vô địch bóng đá thế giới 2006. Sự nghiệp thi đấu. Gygax được sinh ra vào ngày 28 tháng 8 năm 1981 ở Zürich, Thụy Sĩ. Vào ngày 7 tháng 7 năm 2008, Gygax chuyển tới câu lạc bộ 1. FC Nürnberg tại Bundesliga 2. Anh rời đội bóng vào ngày 30 tháng 6 năm 2010 để gia nhập FC Luzern. Gygax, cùng với tân binh Hakan Yakin đã giúp đội bóng bất ngờ dẫn đầu trong nửa đầu Giải bóng đá vô địch quốc gia Thụy Sĩ mùa giải 2010–11. Anh đã ghi 7 bàn thắng cho đội bóng trong mùa giải đó. Gygax giải nghệ ở tuổi 35, vào cuối mùa giải 2016–17. Sự nghiệp quốc tế. Gygax ra mắt quốc tế cho Thụy Sĩ vào ngày 31 tháng 3 năm 2004, khi vào sân thay cho Hakan Yakin trong trận thua 1–0 trước Hy Lạp. Anh ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên vào ngày 6 tháng 6, trong chiến thắng 1-0 trước Liechtenstein. Tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004, anh đã chơi trong hai trận vòng bảng cuối cùng của Thụy Sĩ, và hai trận đầu tiên tại vòng bảng của Giải vô địch bóng đá thế giới 2006. Trận đấu quốc tế cuối cùng của anh diễn ra vào ngày 11 tháng 6 năm 2008, khi vào sân thay người trong trận thua 1-2 trước Thổ Nhĩ Kỳ tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008.
Menno Bergsen (sinh ngày 26 tháng 8 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá người Hà Lan hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ NK Maribor tại Slovenian PrvaLiga. Ngoài Hà Lan ra, anh đã thi đấu tại Slovakia và Slovenia. Sự nghiệp thi đấu. Bergsen ra mắt chuyên nghiệp cho FC Dordrecht vào năm 2017. Anh chỉ chơi 2 trận cho Dordrecht trước khi chuyển sang FC Eindhoven vào năm 2018. Tháng 6 năm 2021, Bergsen gia nhập câu lạc bộ NK Maribor tại Slovenian PrvaLiga bằng bản hợp đồng kéo dài 2 năm. Anh có trận ra mắt giải quốc nội cho Maribor vào ngày 23 tháng 4 năm 2022, khi anh thay thế cho Ažbe Jug gặp chấn thương sau 15 phút.
Chiến tranh ở Abkhazia (1998) Chiến tranh ở Abkhazia (1998) là 1 cuộc nổi dậy của sắc tộc người Gruzia nhằm chống lại chính quyền ly khai thân Nga là Abkhazia, diễn ra ở quận Gali thuộc nhà nước tự xưng này. Cuộc xung đột đôi lúc được gọi là Chiến tranh 6 ngày của Abkhazia tuy nhiên cái tên này lại là dành cho chiền dịch chống lại phe du kích của Abhazia từ 20 đến 26 tháng 5, trong khi xung đột đã bắt đầu từ trước đó. Diễn biến xung đột. 18 tháng trước khi xung đột bắt đầu, các nhóm bán vũ trang Gruzia đã tấn công lực lượng quân đội Abkhazia và lính gìn giữ hòa bình Nga tại khu vực này. Vào đầu tháng 5, 300 chiến binh từ lực lượng bán quân sự Gruzia là Binh đoàn Trắng đã vượt biên sang Abkhazia, ngay sau đó chính phủ Abkhazia đã đặt quân đội của mình trong thế chuẩn bị chiến đấu. Binh đoàn Trắng đã nói rằng họ nhận lệnh từ Tamaz Nadareishvili, lãnh đạo của Chính phủ Cộng hòa Tự trị Abkhazia và thành viên của Hội đồng An ninh Gruzia. Ngoài ra, lãnh đạo của Mkhedrioni là Tornike Berishvili đã tuyên bố rằng 100 thành viên của họ cũng đang chiến đâu ở Abkhazia. Theo các nguồn Gruzia, kể từ ngày 2 và ngày 3 thàng 5 thì các lực lượng Gruzia đã giành quyền kiểm soát những ngôi làng ở Saberio, gần Inguri Dam, Khumushkuri, và đã giết 6 lính Abkhazia khi bọn họ đang cố tài chiếm 2 ngôi làng. Vào ngày 12 tháng 5, Germane Patsatsia đã nói rằng đã từ chức để tham chiến với lực lượng du kích Gruzia ở Abkhazia khi mà anh ta nói rằng họ đang kiểm soát quận Gali.
Người Cossack Zaporozhia, Quân Cossack Zaporozhia, Quân đoàn Zaporozhia, (, hoặc ) hoặc chỉ là người Zaporozhia () là những người Cossack sống bên kia (về phía hạ nguồn) các ghềnh sông Dnepr (Dnipro). Sich Zaporozhia phát triển nhanh chóng vào thế kỷ 15 từ các nông nô chạy trốn khỏi những nơi được kiểm soát chặt chẽ hơn trong Thịnh vượng chung Ba Lan–Litva. Sich được thành lập với tư cách một thực thể chính trị được tôn trọng, có một hệ thống chính phủ nghị viện. Trong suốt thế kỷ 16, 17 và cả thế kỷ 18, người Cossack Zaporozhia là một lực lượng chính trị và quân sự hùng mạnh từng thách thức quyền lực của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, nước Nga Sa hoàng và Hãn quốc Krym. Quân đoàn trải qua một loạt xung đột và liên minh với ba thế lực kể trên, bao gồm cả việc hỗ trợ một cuộc khởi nghĩa vào thế kỷ 18. Thủ lĩnh của họ đã ký một hiệp định với người Nga. Nhóm này bị Đế quốc Nga buộc phải giải tán vào cuối thế kỷ 18, và phần lớn dân cư di dời đến vùng Kuban tại rìa phía nam của Đế quốc Nga, trong khi những người khác thành lập các thành phố tại miền nam Ukraina và cuối cùng trở thành nông dân của nhà nước. Người Cossack đóng một vai trò quan trọng trong việc chinh phục các bộ lạc vùng Kavkaz và đổi lại được hưởng quyền tự do đáng kể do Sa hoàng ban cho. Tên gọi bắt nguồn từ vị trí công sự của họ, tức là Sich, tại "vùng đất bên kia các ghềnh", từ tiếng Ukraina "bên kia" và "các ghềnh". Không rõ thời điểm các cộng đồng Cossack đầu tiên tại hạ du sông Dnepr được hình thành. Có những dấu hiệu và câu chuyện về những người tương tự sống trên thảo nguyên Á-Âu ngay từ thế kỷ 12. Vào thời điểm đó, họ không được gọi là người Cossack, vì "cossack" là một từ cũng có trong ngôn ngữ Turk với nghĩa là một "người tự do", có chung từ nguyên với tên dân tộc "Kazakh". Sau này nó trở thành một từ tiếng Ukraina và tiếng Nga có nghĩa là "giặc cướp". Các thảo nguyên ở phía bắc của Biển Đen là nơi sinh sống của các bộ lạc du mục như người Cuman, Pecheneg và Khazar. Vai trò của các bộ lạc này trong quá trình hình thành dân tộc của người Cossack có tranh cãi, mặc dù các nguồn tin Cossack sau này tuyên bố về một tổ tiên Khazar bị Slavic hóa. Cũng có những nhóm người chạy trốn vào những thảo nguyên hoang dã này từ những vùng đất canh tác của Kiev Rus' để thoát khỏi sự áp bức hoặc truy đuổi tội phạm. Lối sống của họ phần lớn giống với lối sống của những người bây giờ được gọi là Cossack. Họ sống sót chủ yếu nhờ săn bắn, đánh cá, và cướp phá các bộ lạc gốc châu Á để lấy ngựa và thức ăn, nhưng họ cũng hòa trộn với những người du mục này cũng như chấp nhận nhiều đặc điểm văn hóa của họ. Vào thế kỷ 16, một nhà tổ chức là Dmytro Vyshnevetsky, một quý tộc Ukraina, đã hợp nhất các nhóm khác nhau này thành một tổ chức quân sự hùng mạnh. Người Cossack Zaporozhia có nhiều nguồn gốc xã hội và dân tộc khác nhau nhưng chủ yếu được tạo thành từ những nông nô bỏ trốn, những người thích sự tự do nguy hiểm trên thảo nguyên hoang dã hơn là cuộc sống dưới quyền thống trị của giới quý tộc Ba Lan. Tuy nhiên, thị dân, quý tộc nhỏ và thậm chí cả người Tatar Krym cũng trở thành một phần của Quân đoàn Cossack. Họ phải chấp nhận Chính thống giáo Đông phương là tôn giáo của họ và áp dụng các nghi lễ và lời cầu nguyện của giáo phái này. Giả thuyết du mục cho rằng người Cossack đến từ một hoặc nhiều dân tộc du mục sống ở những thời điểm khác nhau trên lãnh thổ phía bắc của Biển Đen. Theo giả thuyết này, tổ tiên của người Cossack là người Scythia, Sarmatia, Khazar, Cuman, Circassia (Adyghe), Tatar, và các dân tộc khác. Giả thuyết du mục về nguồn gốc của người Cossack được hình thành dưới ảnh hưởng của trường phái lịch sử Ba Lan thế kỷ 16-17 và được kết nối với lý thuyết về nguồn gốc Sarmatia của quý tộc nhỏ. Theo truyền thống lấy nguồn gốc của nhà nước hoặc dân tộc từ một dân tộc cổ xưa nhất định, các nhà biên niên sử Cossack của thế kỷ 18 đã ủng hộ giả thuyết nguồn gốc Khazar của người Cossack. Với sự mở rộng của cơ sở nguồn và sự hình thành của khoa học lịch sử, các giả thuyết du mục đã bị bác bỏ bởi sử học chính thức. Lần đầu tiên, Alexander Rigelman chỉ ra sự không hoàn hảo của giả thuyết. Vào thế kỷ 20, nhà khoa học người Nga Gumilyov là người biện hộ cho nguồn gốc Polovtsia của người Cossack. Vào thế kỷ 16, khi quyền thống trị của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva mở rộng về phía nam, người Cossack Zaporozhia hầu như, nếu tạm thời, được Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva coi là thần dân của họ. Người Cossack đăng ký là một phần của quân đội Thịnh vượng chung cho đến năm 1699. Vào khoảng cuối thế kỷ 16, mối quan hệ giữa Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva và Đế quốc Ottoman, vốn không thân thiện ngay từ đầu, đã trở nên căng thẳng hơn do người Cossack ngày càng xâm lấn. Từ phần thứ hai của thế kỷ 16, người Cossack bắt đầu đánh phá các lãnh thổ của Ottoman. Chính phủ Ba Lan-Litva không thể kiểm soát những người người Cossack có tính độc lập, nhưng vì họ trên danh nghĩa là thần dân của Thịnh vượng chung nên chính phủ phải chịu trách nhiệm với nạn nhân về các cuộc tấn công. Đối ứng lại, người Tatar dưới quyền cai trị của Ottoman đã phát động các cuộc tấn công vào Thịnh vượng chung, chủ yếu ở các vùng lãnh thổ đông nam thưa dân của Ukraina. Tuy nhiên, quân Cossack đánh phá các thành phố thương cảng giàu có ở vùng trung tâm của Đế quốc Ottoman, vốn chỉ cách cửa sông Dnepr hai ngày đi thuyền. Đến năm 1615 và 1625, người Cossack đã san bằng được các thị trấn ở ngoại ô Constantinople, buộc Sultan Ottoman Murad IV phải chạy trốn khỏi cung điện của mình. Cháu trai của ông là Sultan Mehmed IV có kết quả tốt hơn một chút khi là người nhận được Lời hồi đáp của người Cossack Zaporozhia truyền thuyết, một phản ứng tục tĩu trước sự khăng khăng của Mehmed rằng người Cossack phải phục tùng quyền uy của ông. Các hiệp ước liên tiếp giữa Đế quốc Ottoman và Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva kêu gọi cả hai bên kiểm soát người Cossack và người Tatar, nhưng việc thực thi hầu như không tồn tại ở cả hai bên. Trong các thỏa thuận nội bộ, do người Ba Lan ép buộc, người Cossack đồng ý đốt thuyền của họ và ngừng đánh phá. Tuy nhiên, thuyền có thể được đóng lại nhanh chóng và lối sống của người Cossack tôn vinh các cuộc đột kích và cướp bóc. Trong thời gian này, chế độ quân chủ Habsburg đôi khi bí mật sử dụng những kẻ đột kích Cossack để giảm bớt áp lực của Ottoman đối với biên giới của chính họ. Nhiều người Cossack và Tatar có ác cảm với nhau do thiệt hại từ các cuộc đột kích của cả hai bên gây ra. Theo sau các cuộc đột kích của người Cossack là sự trả đũa của người Tatar, hoặc người Tatar tấn công và sau đó là sự trả đũa của người Cossack, gần như là chuyện thường xuyên xảy ra. Sự hỗn loạn và chuỗi xung đột sau đó thường biến toàn bộ biên giới phía đông nam Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva thành một khu vực chiến tranh cường độ thấp và dẫn đến leo thang chiến tranh giữa Ba Lan-Litva và Ottoman, từ các cuộc chiến tranh quý nhân Moldavia đến Trận Cecora (1620) và các cuộc chiến tranh năm 1633–34. Số lượng người Cossack tăng lên, khi nông dân Ukraina chạy trốn khỏi chế độ nông nô trong Tlhịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Những nỗ lực của szlachta (quý tộc) nhằm biến người Cossack Zaporozhia thành nông nô đã làm xói mòn lòng trung thành từng khá mạnh mẽ của người Cossack đối với Thịnh vượng chung. Tham vọng của người Cossack về việc được công nhận ngang hàng với szlachta liên tục bị từ chối, và các kế hoạch chuyển đổi Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva thành Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva-Ruthenia (với người Cossack Ukraina) đạt được rất ít tiến triển, do người Cossack không ưa chuộng. Lòng trung thành mạnh mẽ trong lịch sử của người Cossack đối với Giáo hội Chính thống giáo Đông phương khiến họ mâu thuẫn với Thịnh vượng chung do Công giáo chi phối. Căng thẳng gia tăng khi các chính sách của Thịnh vượng chung chuyển từ tương đối khoan dung sang đàn áp giáo hội Chính thống giáo, khiến người Cossack chống Công giáo mạnh mẽ, vào thời điểm đó đồng nghĩa với chống Ba Lan. Lòng trung thành ngày càng suy yếu của người Cossack và sự kiêu ngạo của szlachta đối với họ đã dẫn đến một số cuộc nổi dậy của người Cossack chống lại Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva vào đầu thế kỷ 17. Cuối cùng, việc Quốc vương kiên quyết từ chối nhượng bộ trước yêu cầu mở rộng việc đăng ký Cossack là giọt nước tràn ly cuối cùng đã thúc đẩy cuộc khởi nghĩa lớn nhất và thành công nhất trong số này: Khởi nghĩa Khmelnytsky bắt đầu vào năm 1648. Cuộc khởi nghĩa là một trong loạt các sự kiện thảm khốc được gọi là Đại hồng thủy, làm suy yếu đáng kể Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva và tạo tiền đề cho sự tan rã của liên bang một trăm năm sau. Mặc dù Ba Lan có lẽ có kỵ binh tốt nhất ở châu Âu, nhưng bộ binh của họ lại kém hơn. Tuy nhiên, người Cossack Ukraina sở hữu bộ binh tốt nhất vào giữa thế kỷ 17. Vì Ba Lan tuyển dụng hầu hết bộ binh của họ từ Ukraina, nên khi vùng này thoát khỏi quyền cai trị của Ba Lan, quân đội của Thịnh vượng chung đã phải chịu tổn thất rất nhiều. Quân đoàn Zaporozhia với tư cách là một cơ sở chính trị-quân sự được phát triển dựa trên các truyền thống và tục lệ độc đáo được gọi là Bộ luật Cossack, được hình thành chủ yếu giữa những người Cossack của Quân đoàn Zaporozhia trong nhiều thập kỷ. Quân đoàn có đơn vị hành chính lãnh thổ và quân sự riêng: 38 kurin (sotnia) và 5 đến 8 "palanka" (các khu lãnh thổ) cũng như một hệ thống hành chính ban đầu với ba cấp: thủ lĩnh quân sự, sĩ quan quân sự, thủ lĩnh viễn chinh và palanka. Tất cả các sĩ quan (starshyna quân sự) được bầu bởi Hội đồng quân sự toàn thể trong một năm vào ngày 1 tháng 1. Dựa trên các phong tục và truyền thống giống nhau, các quyền và nghĩa vụ của các sĩ quan đã được hệ thống hóa rõ ràng. Quân đoàn Zaporozhia phát triển một hệ thống tư pháp sơ khai, trên cơ sở dựa vào Bộ luật Cossack theo tục lệ. Các quy tắc của bộ luật đã được khẳng định từ những mối quan hệ xã hội phát triển trong những người Cossack. Một số nguồn gọi Sich Zaporozhia là một "nước cộng hòa cossack", vì quyền lực cao nhất trong đó thuộc về hội đồng của tất cả các thành viên và do các nhà lãnh đạo của họ ("starshina") được bầu ra. Về mặt chính thức, thủ lĩnh của Quân đoàn Zaporozhia không bao giờ mang tước hiệu hetman, trong khi tất cả các thủ lĩnh của tổ chức cossack đều được gọi một cách không chính thức như vậy. Cơ quan quản lý cao nhất trong Quân đoàn Zaporozhia là Rada Sich (hội đồng). Hội đồng là cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp cao nhất của Quân đoàn Zaporozhia. Các quyết định của hội đồng được cho là ý kiến ​​​​của toàn bộ quân đoàn và bắt buộc mỗi thành viên đồng chí cossack phải chấp hành. Rada Sich được xem xét các vấn đề về chính sách đối nội và đối ngoại, tiến hành bầu cử "starshina" quân sự, phân chia ruộng đất được giao, hay trừng phạt những người phạm tội nặng nhất. Quân đoàn Zaporozhia có liên kết chặt chẽ với Quốc gia hetman Cossack, nhưng có chính quyền và trật tự của riêng mình. Đối với các hoạt động quân sự, người cossack của quân đoàn được tổ chức thành "Kish". Kish là một thuật ngữ cũ chỉ các trại được củng cố phòng thủ, được sử dụng trong thế kỷ 11-16 và sau đó được người Cossack áp dụng. Kish là cơ quan trung ương của chính phủ tại Sich có thẩm quyền quản lý hành chính, quân sự, tài chính, pháp lý và các vấn đề khác. Kish được bầu hàng năm tại Rada Sich (Rada đen). Cuộc bầu cử Kish diễn ra vào ngày 1 tháng 1, ngày 1 tháng 10 (Lễ Cầu thay Theotokos - Pokrova), hoặc vào ngày thứ 2-3 của Lễ Phục sinh. Có một tòa án quân sự Cossack trừng phạt nghiêm khắc hành vi bạo lực và trộm cắp của đồng bào, đem phụ nữ đến Sich, hoặc uống rượu trong thời kỳ xung đột. Ngoài ra còn có nhà thờ và trường học, cung cấp các phục vụ tôn giáo và giáo dục cơ bản. Về cơ bản, Giáo hội Chính thống giáo Đông phương được ưa thích hơn và là một phần của bản sắc dân tộc. Trong thời bình, người Cossack bận rộn với công việc của họ, sống cùng gia đình, nghiên cứu chiến lược, ngôn ngữ và giáo dục tân binh. Trái ngược với các đội quân khác, người Cossack được tự do lựa chọn vũ khí ưa thích của mình. Những người Cossack giàu có thích mặc áo giáp hạng nặng, trong khi lính bộ binh thích mặc quần áo đơn giản, mặc dù đôi khi họ cũng mặc áo giáp. Vào thời điểm đó, người Cossack là một trong những tổ chức quân sự tốt nhất tại châu Âu và được các đế quốc Nga, Ba Lan và Pháp sử dụng. Kurin của Quân đoàn Zaporozhia. Bên cạnh những kurin kể trên, còn có một số lượng lớn những kurin khác bên ngoài Quân đoàn. Biểu chương Cossack ("Kleinody"). Các vật phẩm quan trọng nhất của Quân đoàn là "Kleinody" Cossack (luôn là số nhiều; liên quan đến biểu chương đế quốc) bao gồm các dấu hiệu đặc trưng, biểu chương, vật tượng trưng quân sự quý giá của người Cossack Ukraina và được sử dụng cho đến thế kỷ 19. Kleinody được Quốc vương Ba Lan Stephen Báthory trao tặng cho người Cossack Zaporozhia vào ngày 20 tháng 8 năm 1576 cho Bohdan Ruzhynsky, trong số đó có khoruhva, biểu ngữ buncuk, "chùy" bulawa và một con dấu có huy hiệu trên đó mô tả một người Cossack với một "súng trường" "samopal". Kleinody được giao cho các trợ lý của hetman để bảo quản an toàn, do đó đã xuất hiện các cấp bậc như "chorąży" ( "người thủ kỳ"), "bunchuzhny" ("người giữ quyền trượng"). Thời kỳ sau của người Cossack, kleinody trở thành các chùy pernach, trống định âm (lytavry), cờ kurin (phù hiệu), dùi cui, và những thứ khác. Biểu tượng quyền lực cao nhất là chuỳ bulawa được mang bởi các hetman và kish-otaman. Ví dụ, Bohdan Khmelnytsky từ năm 1648 đã mang theo một chiếc bulawa bạc bọc vàng được trang trí với ngọc trai và các loại đá quý có giá trị khác. Các thượng tá Cossack có pernach - những chiếc bulawa nhỏ hơn được mang sau thắt lưng. Con dấu của Quân đoàn Zaporozhia được sản xuất ở dạng tròn bằng bạc với hình mô tả người Cossack đội mũ có đầu hồi trên đầu, mặc áo choàng kaftan có cúc trên ngực, với một thanh kiếm lưỡi cong ("shablya"), hộp thuốc súng ở một bên và một khẩu súng trường tự tạo ("samopal") trên vai trái. Xung quanh con dấu có dòng chữ «Печать славного Війська Запорізького Низового» ("Con dấu của Quân đoàn Zaporozhia vinh quang"). Con dấu của palanka và kurin có hình tròn hoặc hình chữ nhật với hình ảnh sư tử, nai, ngựa, mặt trăng, ngôi sao, vương miện, thương, kiếm và cung tên. Khoruhva chủ yếu có màu đỏ thẫm được thêu hình huy hiệu, thánh, thánh giá và các họa tiết khác. Nó luôn được mang phía trước đội quân bên cạnh hetman hoặc otaman. Phù hiệu ("znachok") là tên gọi cờ (sotnia) của kurin hoặc đại đội. Có một truyền thống khi vị thượng tá mới được bầu sẽ được yêu cầu chuẩn bị biểu ngữ của palanka bằng chi phí của ông. Một trong những biểu ngữ được bảo tồn cho đến năm 1845 tại Kuban và được làm bằng vải có hai màu: vàng và xanh lam. Trống định âm (lytavry) là những nồi hơi lớn bằng đồng được bọc da dùng để truyền các tín hiệu khác nhau (gọi người Cossack đến hội đồng, hoặc báo động). Mỗi vật phẩm của kleinody được cấp cho một thành viên được chỉ định rõ ràng của starshina Cossack (chức vụ sĩ quan). Ví dụ, trong Quân đoàn Zaporozhia, bulawa được trao cho otaman; khoruhva - cho toàn quân đoàn mặc dù được mang theo bởi một khorunzhy; bunchuk cũng được trao cho otaman, nhưng được mang bởi một đồng chí bunchuzhny hoặc bunchuk; con dấu được bảo quản bởi một thẩm phán quân sự, trong khi con dấu của kurin - dành cho otaman kurin, và con dấu của palanka - dành cho thượng tá của một palanka nào đó; những chiếc trống định âm thuộc sở hữu của một dovbysh (tay trống); các gậy quyền - cho một osavul quân sự; các phù hiệu được trao cho tất cả 38 kurin, thuộc khống chế của các đồng chí được chỉ định phù hiệu. Tất cả các vật phẩm của kleinody (ngoại trừ gậy đánh trống định âm) đều được cất giữ trong ngân khố nhà thờ Pokrova của Sich và chỉ được lấy ra theo lệnh đặc biệt của kish otaman. Các gậy đánh trống được giữ trong kurin với dovbysh được chỉ định. Đôi khi, kleidony được cho là cũng gồm một lọ mực lớn bằng bạc ("kalamar"), một vật tượng trưng của người ghi chép quân sự ("pysar") của Quân đoàn Zaporozhia. Các kleinody tương tự có trong cấp chỉ huy của Quốc gia hetman Cossack, người Cossack Kuban, Danube và các xã hội Cossack khác. Sau khi phá hủy Sich và thanh lý tổ chức người Cossack Ukraina, kleinody được thu thập và đưa đi cất giữ tại Bảo tàng Ermitazh và Nhà thờ chính tòa Biến hình tại Saint Petersburg, Bảo tàng vũ khí Kremlin tại Moskva cũng như những nơi cất giữ khác. Vào cuối thế kỷ 19, Ermitazh cất giữ 17 biểu ngữ kurin và một khoruhva, Nhà thờ chính tòa Biến hình chứa 20 biểu ngữ kurin, ba bunchuk, một bulawa bạc và một dùi cui bạc bọc vàng. Ngày nay không rõ số phận của những bảo vật quốc gia đó của người Ukraina. Sau Cách mạng tháng Hai năm 1917, Chính phủ lâm thời Nga thông qua các quyết định trao trả chúng cho Ukraina, tuy nhiên do các sự kiện của Cách mạng Tháng Mười cùng năm, quyết định này đã không được thực hiện. Với việc tuyên bố độc lập, chính phủ Ukraina đặt vấn đề trao trả các giá trị văn hóa quốc gia trước lãnh đạo Nga; Tuy nhiên, không có thỏa thuận cụ thể nào đạt được. Liên minh với Nga. Sau Hiệp định Pereyaslav năm 1654, Quân đoàn Zaporozhia trở thành thế lực nằm dưới quyền bảo hộ của Sa hoàng Nga, mặc dù họ được hưởng quyền tự trị gần như hoàn toàn trong một khoảng thời gian đáng kể. Sau khi Bohdan Khmelnytsky mất vào năm 1657, người kế vị của ông là Ivan Vyhovsky bắt đầu hướng về Ba Lan, do lo ngại trước việc Nga ngày càng can thiệp vào các công việc của Quốc gia hetman. Một nỗ lực đã được thực hiện để quay về Thịnh vượng chung gồm ba thành phần cấu thành, với việc người Cossack Zaporozhia gia nhập Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva bằng cách ký Hiệp định Hadiach (1658). Hiệp định đã được Sejm phê chuẩn nhưng đã bị các chiến sĩ Cossack từ chối tại Hermanivka Rada bởi vì họ không chấp nhận liên minh với Ba Lan Công giáo, thế lực mà họ cho là kẻ áp bức Cơ đốc giáo Chính thống. Những người Cossack tức giận đã hành quyết các "polkovnik" Prokip Vereshchaka và Stepan Sulyma, là cộng sự của Vyhovsky tại Sejm, và bản thân Vyhovsky thoát chết trong gang tấc. Người Zaporozhia duy trì một chính phủ phần lớn tách biệt với Quốc gia hetman. Người Zaporozhia bầu ra các nhà lãnh đạo của riêng họ, được gọi là Kish otaman, có nhiệm kỳ một năm. Trong thời kỳ này, xích mích giữa người Cossack của Quốc gia hetman và người Zaporozhia ngày càng leo thang. Người Cossack trong quá khứ từng chiến đấu để giành độc lập khỏi Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, và sau đó họ tham gia vào một số cuộc nổi dậy chống lại Sa hoàng, vì sợ mất các đặc quyền và quyền tự trị của mình. Ví dụ vào năm 1709, Quân đội Zaporozhia do Kost Hordiienko lãnh đạo đã tham gia cùng Hetman Ivan Mazepa chống lại Nga. Mazepa trước đây là cố vấn đáng tin cậy và là bạn thân của Sa hoàng Pyotr Đại đế, nhưng lại liên minh với Karl XII của Thụy Điển để chống lại Pyotr. Sau thất bại trong Trận Poltava, Pyotr đã ra lệnh tiêu diệt Sich Zaporozhia để trả đũa. Với cái chết của Mazepa tại Bessarabia vào năm 1709, hội đồng của ông đã bầu Pylyp Orlyk làm người kế vị. Orlyk ban hành dự án Hiến pháp, trong đó ông hứa sẽ hạn chế quyền lực của Hetman, bảo vệ vị trí đặc quyền của người Zaporozhia, thực hiện các biện pháp nhằm đạt được bình đẳng xã hội giữa họ, và các bước tiến tới việc tách Quân đoàn Zaporizhia khỏi Nhà nước Nga— nếu anh ta có được quyền lực trong Quốc gia hetman Cossack. Với sự hỗ trợ của Karl XII, Orlyk đã liên minh với người Tatar Krym và Ottoman để chống lại Nga, nhưng sau những thành công ban đầu của cuộc tấn công vào Nga năm 1711, chiến dịch của họ đã bị đánh bại và Orlyk phải sống lưu vong. Người Zaporozhia đã xây dựng một Sich mới dưới quyền bảo hộ của Ottoman, là Sich Oleshky trên hạ lưu sông Dnepr. Mặc dù một số người Zaporozhia đã quay trở lại quyền bảo hộ của Nga, nhưng nhà lãnh đạo nổi tiếng của họ Kost Hordiienko kiên quyết có thái độ chống Nga và không thể nối lại tình hữu nghị cho đến khi ông qua đời vào năm 1733. Trong Đế quốc Nga. Theo năm tháng, xích mích giữa người Cossack và chính phủ Sa hoàng Nga đã giảm bớt, và các đặc quyền đã được trao đổi để giảm bớt quyền tự trị của người Cossack. Những người Cossack Ukraina không đứng về phía Mazepa đã bầu ra Hetman Ivan Skoropadsky, một trong những polkovnik "chống Mazepa". Trong khi ủng hộ việc bảo vệ quyền tự trị của Quốc gia hetman và các đặc quyền của starshina, Skoropadsky cẩn thận tránh đối đầu công khai và vẫn trung thành trong liên minh với Nga. Để đáp ứng nhu cầu quân sự của Nga, Skoropadsky cho phép mười trung đoàn của Nga đóng quân trên lãnh thổ của Quốc gia hetman. Đồng thời, người Cossack tham gia vào các dự án xây dựng, củng cố và phát triển kênh tại Saint Petersburg, là một phần trong nỗ lực của Pyotr Đại đế nhằm thành lập thủ đô mới của Nga. Nhiều người đã không quay trở lại, và người ta thường nói rằng St. Peterburg "được xây dựng trên xương". Năm 1734, khi Nga đang chuẩn bị cho một cuộc chiến mới chống lại Đế quốc Ottoman, một thỏa thuận đã được thực hiện giữa Nga và người Cossack Zaporozhia là Hiệp định Lubny. Người Cossack Zaporozhia giành lại tất cả các vùng đất, đặc quyền, luật pháp và tục lệ trước đây của họ để đổi lấy việc phục vụ dưới quyền chỉ huy của Quân đội Nga đóng tại Kiev. Một "sich" mới (Nova Sich) được xây dựng để thay thế cái đã bị Pyotr Đại đế phá hủy. Lo ngại về khả năng Nga can thiệp vào công việc nội bộ của Zaporozhia, người Cossack bắt đầu cho những người nông dân Ukraina chạy trốn khỏi chế độ nông nô tại Ba Lan và Nga định cư trên vùng đất của mình. Đến năm 1762, 33.700 người Cossack và hơn 150.000 nông dân cư trú tại Zaporozhia. Vào cuối thế kỷ 18, phần lớn tầng lớp sĩ quan Cossack tại Ukraina được sáp nhập vào giới quý tộc Nga, nhưng người Cossack bình thường, bao gồm một phần đáng kể người Zaporozhia cũ, đã bị hạ xuống địa vị nông dân. Họ có thể duy trì quyền tự do của mình và tiếp tục cung cấp nơi ẩn náu cho những người chạy trốn khỏi chế độ nông nô tại Nga và Ba Lan, bao gồm cả những người theo thủ lĩnh nổi dậy Cossack Nga Yemelyan Pugachev, điều này làm dấy lên sự tức giận của Nữ hoàng Nga Yekaterina II. Kết quả là đến năm 1775, số lượng nông nô bỏ trốn từ Quốc gia hetman và phần Ukraina do Ba Lan cai trị đến Zaporozhia đã tăng lên 100.000 người. Hiệp định Küçük Kaynarca (1774) sáp nhập Hãn quốc Krym vào Nga, vì vậy nhu cầu phòng thủ biên giới xa về phía nam (mà người Zaporozhia đã thực hiện) không còn nữa. Quá trình thuộc địa hóa Novorossiya bắt đầu; một trong những thuộc địa nằm ngay cạnh vùng đất của Sich Zaporozhian là Tân Serbia. Điều này làm leo thang xung đột về quyền sở hữu đất đai với người Cossack, thường biến thành bạo lực. Kết thúc Quân đoàn Zaporozhia (1775). Quyết định giải tán Sich được thông qua tại hội đồng triều đình của Yekaterina Đại đế vào ngày 7 tháng 5 năm 1775. Tướng quân Peter Tekeli nhận lệnh chiếm đóng và thanh lý pháo đài chính của người Zaporozhia là Sich. Kế hoạch được giữ bí mật và các trung đoàn trở về từ cuộc chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ mà người Cossack cũng tham gia, đã được huy động cho chiến dịch. Họ bao gồm 31 trung đoàn (tổng cộng 65.000 quân). Cuộc tấn công diễn ra vào ngày 15 tháng 5 và kéo dài đến ngày 8 tháng 6. Lệnh được Grigory Potemkin đưa ra, người này từng chính thức trở thành một người Cossack Zaporozhia danh dự dưới cái tên Hrytsko Nechesa vài năm trước đó. Potemkin nhận được mệnh lệnh trực tiếp từ Nữ hoàng Yekaterina II, điều này được bà giải thích trong Sắc lệnh ngày 8 tháng 8 năm 1775: Vào ngày 5 tháng 6 năm 1775, quân của Tướng quân Tekeli chia thành 5 phân đội và bao vây Sich bằng pháo binh và bộ binh. Việc thiếu biên giới phía nam và kẻ thù trong những năm trước đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng chiến đấu của quân Cossack, họ nhận ra rằng bộ binh Nga sẽ tiêu diệt họ sau khi họ bị bao vây. Để đánh lừa người Cossack, một tin đồn đã được lan truyền rằng quân đội đang băng qua vùng đất của người Cossack trên đường bảo vệ biên giới. Cuộc bao vây bất ngờ là một đòn giáng mạnh vào tinh thần của người Cossack. Petro Kalnyshevsky có hai giờ để quyết định về tối hậu thư của Nữ hoàng. Dưới sự hướng dẫn của "starhyna" Lyakh, sau lưng Kalnyshevky, một âm mưu đã được hình thành khi một nhóm gồm 50 người Cossack đi đánh cá ở sông Inhul bên cạnh sông Nam Bug thuộc các tỉnh của Ottoman. Cái cớ là đủ để người Nga thả cho nhóm người Cossack này ra khỏi vòng vây, những người này tham gia cùng với năm nghìn người khác. Những người Cossack chạy trốn đã đến Đồng bằng sông Danube, tại nơi đó họ thành lập Sich Danube mới, dưới quyền bảo hộ của Đế quốc Ottoman. Khi Tekeli biết về việc trốn thoát, 12.000 người Cossack còn lại không còn nhiều việc để làm, Sich đã bị san bằng. Quân Cossack bị tước vũ khí trong một chiến dịch gần như không đổ máu, trong khi ngân khố và tài liệu lưu trữ của họ bị tịch thu. Kalnyshevsky bị bắt và đày đến Solovki, nơi ông sống trong cảnh giam cầm đến 112 tuổi. Hầu hết các thành viên Hội đồng Cossack cấp cao, chẳng hạn như Pavlo Holovaty và Ivan Hloba, cũng bị đàn áp và lưu đày, mặc dù các chỉ huy cấp thấp hơn và người Cossack bình thường được phép tham gia các trung đoàn kỵ binh hussar và dragoon của Nga. Sự kiện tiêu diệt Sich đã tạo ra khó khăn cho Đế quốc Nga. Việc Nga ủng hộ gia tăng các đặc quyền mà giới lãnh đạo Cossack cấp cao có được đã gây căng thẳng cho ngân sách, trong khi các quy định chặt chẽ hơn của Quân đội chính quy Nga đã ngăn cản nhiều người Cossack khác hợp nhất. Sự tồn tại của Sich Danube, vốn sẽ hỗ trợ Đế quốc Ottoman trong cuộc chiến tiếp theo, cũng gây rắc rối cho người Nga. Năm 1784, Potemkin thành lập "Quân đoàn những người Zaporozhia trung thành" (Войско верных Запорожцев) và định cư họ giữa sông Nam Bug và Dniester. Vì sự phục vụ của họ trong Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1787–92)]], họ đã được thưởng vùng đất Kuban và di cư đến đó vào năm 1792. Năm 1828, Sich Danube không còn tồn tại sau khi được Hoàng đế Nikolai I ân xá, và theo đó các thành viên của họ định cư trên bờ biển phía Bắc Azov giữa Berdyansk và Mariupol, thành lập Quân đoàn Cossack Azov. Cuối cùng vào năm 1862, họ cũng di cư đến Kuban và sáp nhập với người Cossack Kuban. Người Cossack Kuban đã phục vụ lợi ích của Nga cho đến Cách mạng Tháng Mười, và con cháu của họ hiện đang trải qua quá trình tái tạo tích cực cả về văn hóa và quân sự. 30.000 hậu duệ của những người Cossack đã từ chối trở về Nga vào năm 1828 vẫn sống tại khu vực đồng bằng sông Danube của Ukraina và Romania, tại đây họ theo đuổi lối sống săn bắn và câu cá truyền thống của người Cossack và được gọi là người Rusnak. Mặc dù vào năm 1775, Quân đoàn Zaporozhia chính thức không còn tồn tại, nhưng họ đã để lại một di sản văn hóa, chính trị và quân sự sâu sắc đối với Ukraina, Nga, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và các quốc gia khác có liên hệ với họ. Các liên minh hay thay đổi của người Cossack gây ra nhiều tranh luận, đặc biệt là trong thế kỷ 20. Đối với người Nga, Hiệp định Pereyaslav đã khiến cho nước Nga Sa hoàng và sau này là Đế quốc Nga thôi thúc chiếm lấy các vùng đất của người Ruthenia, yêu sách quyền lợi với tư cách là thể chế kế thừa duy nhất của Kiev Rus', và để Sa hoàng Nga được tuyên bố là người bảo hộ tất cả người Nga, đỉnh cao là phong trào chủ nghĩa liên Slav trong thế kỷ 19. Ngày nay, hầu hết người Cossack Kuban, hậu duệ hiện đại của người Zaporozhia, vẫn trung thành với Nga. Nhiều người đã chiến đấu trong các cuộc xung đột địa phương sau khi Liên Xô tan rã, và ngày nay họ giống như trước cuộc cách mạng khi tạo thành lực lượng bảo vệ riêng của Hoàng đế, khi phần lớn Trung đoàn Tổng thống Kremlin được tạo thành từ người Cossack Kuban. Đối với Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, Khởi nghĩa Khmelnytsky và việc người Cossack Zaporozhia thất thủ đánh dấu sự khởi đầu của quá trình liên bang kết thúc, cuối cùng là phân chia Ba Lan vào cuối thế kỷ 18. Một số phận tương tự đang chờ đợi cả Hãn quốc Krym và Đế quốc Ottoman; Sau khi hứng chịu nhiều cuộc đột kích và tấn công từ cả hai bên, người Cossack Zaporozhia đã hỗ trợ Quân đội Nga chấm dứt tham vọng mở rộng lên phía bắc và Trung Âu của Ottoman, và giống như Ba Lan, sau khi mất Krym thì Đế quốc Ottoman bắt đầu suy tàn. Di sản lịch sử của người Cossack Zaporozhia đã định hình và ảnh hưởng đến ý tưởng về chủ nghĩa dân tộc Ukraina vào nửa sau của thế kỷ 19. Các nhà sử học Ukraina, chẳng hạn như Adrian Kashchenko (1858–1921), Olena Apanovich và những người khác cho rằng việc bãi bỏ Sich Zaporozhia chung cuộc vào năm 1775 là sự kiện sụp đổ một thành trì lịch sử của Ukraina. Phong trào này tuyên bố một dân tộc Ukraina riêng biệt và cố gắng tuyên bố người Cossack Zaporozhia là tổ tiên. Trong thời kỳ Liên Xô, khía cạnh chủ nghĩa dân tộc đã (chính thức) không được nhấn mạnh nhằm dập tắt sự trỗi dậy của tình cảm dân tộc chủ nghĩa; lễ kỷ niệm vai trò lịch sử của người Cossack Zaporozhia trong việc bảo vệ Nga khỏi người Thổ Nhĩ Kỳ đã được nhấn mạnh. Sự kiện này đôi khi được người thân Ukraina mô tả là thân Nga. Năm 1990, chính phủ Liên Xô và phong trào độc lập Ukraina hợp tác tổ chức lễ kỷ niệm 500 năm Sich Zaporozhia. Trang phục, bài hát và âm nhạc của người Zaporozhia đã được đưa vào các buổi đồng diễn âm nhạc và vũ đạo chính thức của nhà nước, đồng thời ảnh hưởng đến hình ảnh của Ukraina trong những năm sau. Kể từ khi Ukraina giành được độc lập vào năm 1991, những nỗ lực khôi phục lối sống của người Cossack đã tập trung vào các cố gắng về chính trị, cưỡi ngựa và văn hóa. Vào tháng 11 năm 2016, các bài hát của người Cossack về tỉnh Dnipropetrovsk được ghi vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của UNESCO. Hiện tại, thành trì của người Cossack Zaporozhia là đảo Khortytsia được coi là một biểu tượng lập quốc Ukraina.
Lahr (tên chính thức là Lahr/Schwarzwald) ( ] ); ) là một thị trấn thuộc bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Freiburg im Breisgau khoảng 50km về phía bắc, Strasbourg 40 km về phía đông nam và Karlsruhe 95 km về phía tây nam. Đây là đô thị lớn thứ hai ở huyện Ortenau xếp sau Offenburg. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Sargocentron tiereoides là một loài cá biển thuộc chi "Sargocentron" trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1853. Từ định danh "tiereoides" được ghép bởi hai âm tiết: "tiere" (trong danh pháp của "Sargocentron tiere") và hậu tố "oides" trong tiếng Latinh (“tương đồng”), đề cập đến sự tương đồng (về kiểu hình) của loài cá này với loài "S. tiere". Phân bố và môi trường sống. "S. tiereoides" có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Seychelles, Comoros và Réunion trải dài về phía đông đến quần đảo Line và quần đảo Tuamotu, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu và đảo Wake, xa về phía nam đến rạn san hô Great Barrier, Vanuatu và Tonga. "S. tiereoides" cũng được ghi nhận tại quần đảo Trường Sa (Việt Nam). "S. tiereoides" lần đầu được ghi nhận tại Địa Trung Hải, khi một cá thể được bắt tại bờ biển thành phố Damietta (Ai Cập) cùng với một cá thể "Sargocentron spinosissimum". Cả hai cá thể được xác định bằng cách kiểm tra hình thái và giải trình tự mã vạch DNA. Môi trường sống của "S. tiereoides" là rạn san hô ở các đới viền bờ và trong đầm phá, có thể được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 45 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "S. tiereoides" là 19,5 cm. Loài này có màu đỏ cam ánh bạc (cả trên má và mang) với các đường sọc đỏ sẫm dọc hai bên lườn. Gai vây lưng có dải đỏ tươi cận rìa, màng gai màu trắng mờ. Các vây có màu đỏ đến đỏ phớt vàng, rìa trên và dưới của vây đuôi màu đỏ sẫm, rìa trước của vây hậu môn và vây bụng màu trắng (có một dải cận rìa màu đỏ sẫm). Gốc vây ngực màu đỏ tươi. Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 12–14; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia vây ở vây hậu môn: 9–10; Số tia vây ở vây ngực: 14. Thức ăn của "S. tiereoides" chủ yếu là cua và tôm, và chúng kiếm ăn về đêm. Qua việc phân tích mã vạch DNA, "S. tiereoides" hợp thành nhóm đơn ngành với nhóm chị em "Sargocentron caudimaculatum" và "Sargocentron spiniferum". Có lẽ như những loài khác trong chi, "S. tiereoides" có khả năng là một thành phần của nghề đánh bắt thủ công.
Hóa học môi trường Hóa học môi trường (tiếng Anh: environmental chemistry) là lĩnh vực khoa học nghiên cứu về các hiện tượng hóa học và sinh hóa xảy ra ở những khu vực tự nhiên. Không nên nhầm lẫn với hóa học xanh, vốn tìm cách giảm ô nhiễm tiềm ẩn tại nguồn. Nó có thể được định nghĩa là nghiên cứu về nguồn gốc, phản ứng, vận chuyển, tác động và số phận của các loại hóa chất trong các môi trường không khí, đất và nước; và tác động từ hoạt động con người và hoạt động sinh học lên chúng. Hóa học môi trường là một ngành khoa học liên ngành bao gồm hóa học khí quyển, hóa học nước và hóa học đất, cũng như phụ thuộc nhiều vào hóa phân tích, các ngành liên quan đến môi trường và các ngành khoa học khác. Hóa học môi trường trước hết liên quan đến việc hiểu môi trường không bị ô nhiễm hoạt động như thế nào, hóa chất nào ở nồng độ nào hiện diện tự nhiên và có tác dụng gì. Nếu không có điều này thì sẽ không thể nghiên cứu chính xác tác động của con người đối với môi trường thông qua việc giải phóng các hóa chất. Các nhà hóa học môi trường dựa trên một loạt các thông tin từ hóa học và các ngành khoa học môi trường khác nhau để hỗ trợ nghiên cứu của họ về những gì đang xảy ra với một loại hóa chất trong môi trường. Các nội dung chung quan trọng từ hóa học bao gồm hiểu các phản ứng và phương trình hóa học, dung dịch, đơn vị đo, lấy mẫu và kỹ thuật phân tích. Contaminant là một loại hình tạp chất tồn tại trong tự nhiên khi có nồng độ ở mức cao hơn mức cố định. Điều này có thể là do hoạt động của con người và hoạt tính sinh học. Thuật ngữ "contaminant" thường được sử dụng thay thế cho chất gây ô nhiễm ("pollutant"), vốn là chất có tác động bất lợi đến môi trường xung quanh. Trong khi contaminant đôi khi được định nghĩa là một chất có trong môi trường do hoạt động của con người gây ra, nhưng không gây tác hại, đôi khi có trường hợp các tác động độc hại hoặc có hại do chúng chỉ trở nên rõ ràng vào một ngày sau đó. Môi trường như đất hoặc sinh vật như cá bị ảnh hưởng bởi contaminant hoặc chất gây ô nhiễm được gọi là "receptor", trong khi "sink" là môi trường hóa học hoặc loài giữ lại và tương tác với chất ô nhiễm như bồn carbon ("carbon sink") và tác động từ vi khuẩn. Chỉ số môi trường. Các phép đo hóa học về chất lượng nước bao gồm oxy hòa tan (DO), nhu cầu oxy hóa học (COD), nhu cầu oxy sinh hóa (BOD), tổng chất rắn hòa tan (TDS), độ pH, dinh dưỡng (nitrat và phosphor), kim loại nặng, hóa chất đất (bao gồm đồng, kẽm, cadmi, chì và thủy ngân) và thuốc bảo vệ thực vật. Hóa học môi trường được sử dụng bởi Cơ quan Môi trường ở Anh, Tài nguyên Thiên nhiên Wales, Cục Bảo vệ Môi sinh Hoa Kỳ, Hiệp hội Nhà phân tích công cộng, và các cơ quan môi trường và cơ quan nghiên cứu khác trên khắp thế giới để phát hiện và xác định bản chất và nguồn gốc của các chất ô nhiễm. Chúng có thể bao gồm: Phân tích hóa học định lượng là một phần quan trọng của hóa học môi trường, vì nó cung cấp dữ liệu nền cho hầu hết các nghiên cứu về môi trường. Các kỹ thuật phân tích phổ biến được sử dụng để xác định định lượng trong hóa học môi trường bao gồm hóa ướt cổ điển, chẳng hạn như phương pháp trọng lượng, chuẩn độ ("titration") và điện hóa. Các phương pháp phức tạp hơn được sử dụng để xác định vết kim loại và các hợp chất hữu cơ. Các kim loại thường được đo bằng phương pháp quang phổ nguyên tử và phương pháp khối phổ: Phương pháp phổ hấp thu nguyên tử (AAS) và Phát xạ nguyên tử plasma kết hợp cảm ứng (ICP-AES), hoặc kỹ thuật Đo phổ khối plasma kết hợp tự cảm (ICP-MS). Các hợp chất hữu cơ, bao gồm cả PAH, cũng thường được đo bằng các phương pháp khối phổ, chẳng hạn như sắc ký khí khối phổ (GC/MS) và sắc ký lỏng khối phổ (LC/MS). Phép đo khối phổ song song (MS/MS) và phép đo khối phổ độ phân giải cao/chính xác (HR/AM) cung cấp phần phụ trên mỗi nghìn tỷ lần phát hiện. Các phương pháp phi MS sử dụng GC và LC có đầu dò phổ quát hoặc cụ thể vẫn là mặt hàng chủ lực trong kho công cụ phân tích hiện có. Các thông số khác thường được đo trong hóa học môi trường là hóa chất phóng xạ. Đây là những chất gây ô nhiễm phát ra các chất phóng xạ, chẳng hạn như các hạt alpha và beta, gây nguy hiểm cho sức khỏe con người và môi trường. Máy đếm hạt và máy đếm nhấp nháy được sử dụng phổ biến nhất cho các phép đo này. Xét nghiệm sinh học và xét nghiệm miễn dịch được sử dụng để đánh giá độc tính của các tác động hóa học đối với các sinh vật khác nhau. Phản ứng chuỗi polymerase (PCR) có thể xác định các loài vi khuẩn và các sinh vật khác thông qua quá trình phân lập và khuếch đại gen DNA và RNA cụ thể và đây hứa hẹn là một kỹ thuật có giá trị để xác định ô nhiễm vi sinh vật trong môi trường. Các phương pháp phân tích đã công bố. Các phương pháp thử nghiệm bình duyệt đã được các cơ quan chính phủ và các tổ chức nghiên cứu tư nhân công bố. Các phương pháp đã công bố mà đã được phê duyệt thì phải được sử dụng khi thử nghiệm để chứng minh việc tuân thủ các yêu cầu quy định.
Tổng giáo phận Rabat Tổng giáo phận Rabat (; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Maroc. Tổng giáo phận được thành lập bởi Giáo hoàng Piô XI ngày 2/7/1923 dưới tên Hạt Đại diện Tông tòa Rabat, và được nâng cấp thành một tổng giáo phận bởi Giáo hoàng Piô XII vào ngày 14/9/1955. Nhà thờ mẹ và ngai tòa tổng giám mục được đặt tại Nhà thờ chính tòa Thánh Phêrô, Raba, Rabat. Tổng giám mục đương nhiệm là Cristóbal López Romero, được bổ nhiệm vào ngày 29/12/2017.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Đơn canh là phương pháp trồng một loại cây trồng duy nhất trong một cánh đồng cụ thể. Đơn canh được sử dụng rộng rãi trong thâm canh và trong nông nghiệp hữu cơ: cả một cánh đồng lúa mì 1.000 ha và một cánh đồng bắp cải hữu cơ 10 ha đều là loại đơn canh. Việc trồng đơn canh cho phép nông dân tăng cường hiệu quả trong việc gieo trồng, quản lý và thu hoạch, chủ yếu thông qua việc thuận lợi sử dụng máy móc trong các hoạt động này, nhưng đơn canh cũng có thể tăng nguy cơ bùng phát bệnh tật hoặc dịch sâu bọ. Đa dạng có thể được bổ sung cả về thời gian, như việc sử dụng luân canh hoặc tuần hoàn cây trồng, hoặc về không gian, thông qua việc trồng xen kẽ nhiều loại cây trên cùng một cánh đồng (xem bảng dưới đây). Đơn canh liên tục, hay còn được gọi là độc canh, trong đó nông dân trồng cùng một loại cây trồng liên tục hàng năm, có thể dẫn đến sự phát triển và lây lan nhanh chóng hơn của sâu bệnh và dịch bệnh trên một loại cây trồng dễ bị nhiễm bệnh. Thuật ngữ "nông nghiệp độc canh" đã được sử dụng để miêu tả việc luân phiên trồng chỉ một số ít loại cây trồng, như được thực hiện ở một số khu vực trên thế giới. Khái niệm đơn canh cũng có thể mở rộng đến (ví dụ) cuộc thảo luận về sự đa dạng trong cảnh quan đô thị. Trong bối cảnh nông nghiệp, thuật ngữ này miêu tả phương pháp trồng một loài cây duy nhất trong một cánh đồng. Ví dụ về đơn canh bao gồm các cánh đồng cỏ, cánh đồng lúa mì hoặc bắp, hoặc vườn táo. Trong đơn canh cây trồng, mỗi cây trồng trong cánh đồng đều có cùng yêu cầu về gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch, dẫn đến hiệu suất cao hơn và chi phí thấp hơn. Khi một loại cây trồng phù hợp với môi trường được quản lý tốt, đơn canh có thể sản xuất mức thu hoạch cao hơn so với đa canh. Các phương pháp hiện đại như trồng đơn canh và sử dụng phân bón tổng hợp đã giảm thiểu lượng đất cần thiết để sản xuất thực phẩm, gọi là đất dự trữ (land sparing). Đơn canh của cây lâu năm, chẳng hạn như dầu cọ châu Phi, mía đường, trà và pines, có thể dẫn đến vấn đề về đất và môi trường như axit hóa đất, suy thoái đất, và bệnh trên đất, ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất và bền vững trong nông nghiệp. Các phương pháp đa dạng hóa luân canh các loại cây trồng đơn canh có thể giảm thiểu rủi ro về bệnh tật và sự bùng phát sâu bọ. Tuy nhiên, càng ngắn hạn luân canh (ít loại cây trồng hơn) thì rủi ro càng cao. Có những ví dụ về luân canh ngắn hạn, chỉ hai năm, đã chọn lọc sâu bọ thích ứng với luân canh đó. Tóm lại, tác động tiêu cực của đơn canh dựa vào hai yếu tố; mất mát đa dạng sinh học và việc sử dụng thuốc trừ sâu. Các hệ sinh thái và môi trường sống khỏe mạnh là nơi cư trú của hàng trăm loài thực vật, côn trùng và động vật. Khi các diện tích lớn đất được sử dụng cho chỉ một loại cây trồng, cả môi trường cân bằng hoàn toàn bị xáo trộn. Các dịch vụ môi trường quan trọng mà bình thường được cung cấp bởi nhiều loài khác nhau bây giờ không được thực hiện. Mức độ đa dạng sinh học thấp trên đất nông nghiệp cũng có nghĩa là một số côn trùng không còn có kẻ thù tự nhiên, dẫn đến sự gia tăng không kiểm soát của số lượng chúng. Để kiểm soát sâu bệnh trên cây trồng, nông dân sử dụng thuốc trừ sâu nặng. Những chất này cũng có thể giảm thiểu mức độ đa dạng sinh học nhưng cũng là mối đe dọa cho các hồ nước do nước thải hóa chất. Trong lâm nghiệp, đơn canh ám chỉ việc trồng một loài cây duy nhất. Việc trồng đơn canh cung cấp năng suất cao hơn#đổi và thu hoạch hiệu quả hơn so với cây trồng trong các khu rừng tự nhiên. Các khu rừng chỉ chứa một loài cây thường là cách tự nhiên cây mọc, nhưng các khu rừng này có đa dạng về kích thước cây, với cây chết lẫn lộn với cây trưởng thành và cây trẻ. Trong lâm nghiệp, các khu rừng đơn canh được trồng và thu hoạch như một đơn vị cung cấp nguồn tài nguyên hạn chế cho các sinh vật hoang dã phụ thuộc vào cây chết và các vùng trống vì tất cả các cây đều có cùng kích thước; chúng thường được thu hoạch bằng cách chặt cây, điều này thay đổi hoàn toàn môi trường sống. Thu hoạch cơ khí cây có thể làm nén đất, ảnh hưởng bất lợi đến sự phát triển dưới tán cây. Việc trồng đơn canh cũng khiến cây trở nên dễ bị tổn thương khi bị nhiễm một mầm bệnh, bị tấn công bởi côn trùng, hoặc bị ảnh hưởng bởi điều kiện môi trường bất lợi. Đơn canh trên khu đất cư trú. Đơn canh cỏ trước đây tại Hoa Kỳ đã được ảnh hưởng bởi các khu vườn Anh và cảnh quan tòa lâu đài, nhưng việc thêm vào cảnh quan trang trí của Hoa Kỳ khá mới mẻ. Tính thẩm mỹ đã thúc đẩy sự tiến hóa của các khu vực xanh cư trú, với cỏ nhân tạo trở thành một bổ sung phổ biến cho nhiều ngôi nhà Hoa Kỳ. Cỏ nhân tạo là một loài không bản địa và yêu cầu mức độ bảo dưỡng cao. Tuy nhiên, nguyên nhân chính khiến nó được sử dụng rộng rãi chủ yếu đến từ áp lực xã hội. Tại cấp địa phương, chính quyền và tổ chức đã bắt tay vào việc thực hiện các thực tiễn đơn canh (hãy tưởng tượng các Hội viên chủ nhà). Các vấn đề khác nhau liên quan đến việc duy trì tài sản riêng tư đã xảy ra, chẳng hạn như duy trì thẩm mỹ và giá trị bất động sản. Sự không đồng ý trong việc duy trì cỏ dại, cỏ, , đã dẫn đến các vụ kiện dân sự hoặc thậm chí xâm phạm trực tiếp nhà hàng xóm. Giống như nông nghiệp, mức độ bảo dưỡng cao cần thiết cho cỏ nhân tạo đã tạo ra nhu cầu ngày càng cao về quản lý hóa chất, tức là thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc diệt côn trùng. Một nghiên cứu năm 1999 cho thấy trong một mẫu các dòng sông đô thị, ít nhất một loại thuốc trừ sâu được tìm thấy trong 99% các dòng sông. Một rủi ro chính liên quan đến thuốc trừ sâu trên cỏ là sự tiếp xúc của hóa chất vào nhà qua không khí, quần áo và đồ nội thất có thể gây hại nhiều hơn đối với trẻ em so với người trưởng thành bình thường. Đơn canh di truyền học. Mặc dù thường ám chỉ việc sản xuất cùng một loài cây trồng trong một khu vực (không gian), đơn canh cũng có thể ám chỉ việc trồng một giống cây trồng duy nhất trên một khu vực lớn hơn, sao cho có nhiều cây trồng trong khu vực có cùng bộ gen giống nhau. Khi tất cả các cây trong một khu vực có cùng độ tương tự về di truyền, một bệnh trên các cây trồng mà chúng không có kháng cự có thể tiêu diệt toàn bộ dân số cây trồng. #đổi nấm gỉ lá lúa đã gây nhiều lo âu trên toàn cầu, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến vụ mùa lúa ở Uganda và Kenya và đã bắt đầu lan rộng ở châu Á. Với các chủng cây lúa trên thế giới có bộ gen tương tự nhau sau Cuộc cách mạng xanh, tác động của các bệnh này đe dọa sản xuất nông nghiệp trên toàn cầu. Những ví dụ lịch sử về đơn canh di truyền học. Nạn đói lớn ở Ireland. Ở Ireland, việc sử dụng độc quyền một loại khoai tây, "lumper", đã dẫn đến Nạn đói lớn năm 1845-1849. Khoai tây lumpers cung cấp thực phẩm giá rẻ để nuôi dưỡng dân chúng Ireland. Khoai tây được truyền mang vô tính với ít hoặc không có biến thể di truyền. Khi "Phytophthora infestans" xuất hiện ở Ireland từ Châu Mỹ vào năm 1845, lumper không có kháng cự với bệnh tật, dẫn đến sự thất bại gần như hoàn toàn của mùa màng khoai tây trên toàn bộ Ireland. Cho đến những năm 1950, giống chuối "Gros Michel" đại diện cho hầu hết các loại chuối tiêu thụ ở Hoa Kỳ vì hương vị, hạt nhỏ và hiệu suất sản xuất của chúng. Hạt nhỏ của chuối này, dù hấp dẫn hơn so với loại hạt lớn ở các giống chuối khác ở châu Á, không phù hợp để trồng. Điều này có nghĩa là tất cả các cây chuối mới phải được trồng từ cục cành cắt từ cây khác. Kết quả của việc trồng suckers theo cách vô tính, tất cả các cây chuối được trồng đều có cùng bộ gen giống nhau, không có đặc điểm chống lại bệnh "Fusarium wilt", một bệnh nấm nhanh chóng lây lan trong vùng Caribe nơi chúng được trồng. Đầu những năm 1960, người trồng phải chuyển sang trồng giống chuối Cavendish, một giống được trồng theo cách tương tự. Giống chuối này đang chịu sự căng thẳng bệnh tật tương tự vì tất cả các chuối đều là bản sao của nhau và có thể nhanh chóng bị bại hoại như Gros Michel. Thuật ngữ này cũng được sử dụng khi một giống động vật nông nghiệp duy nhất được nuôi dưỡng trong các hoạt động nuôi trồng động vật tập trung lớn (CAFOs). Nhiều hệ thống sản xuất động vật nông nghiệp ngày nay dựa vào một số lượng nhỏ các giống được đặc biệt hóa cao. Tập trung mạnh vào một đặc điểm cụ thể (đầu ra) có thể đồng nghĩa với việc thiếu mất những đặc điểm khác mong muốn#đổi như sự sinh sản, khả năng kháng bệnh, sức khỏe, và bản năng làm mẹ. Vào đầu những năm 1990, đã quan sát thấy một số lượng ít của những chú trâu Holstein lớn lên không tốt và chết trong 6 tháng đầu đời. Tất cả đều được xác định là homozygous cho một đột biến trong gen gây chứng suy giảm gắn kết tiểu cầu bò. Đột biến này được tìm thấy với tần suất cao trong các quần thể Holstein trên toàn thế giới (15% ở bò đực tại Mỹ, 10% ở Đức và 16% ở Nhật.) Các nhà nghiên cứu nghiên cứu về huyết thống của động vật bị ảnh hưởng và động vật mang gen chủ, đã theo dõi nguồn gốc của đột biến đến một con bò duy nhất đã được sử dụng rộng rãi trong sản xuất động vật nông nghiệp. Năm 1990, có khoảng 4 triệu con bò Holstein ở Mỹ, làm cho tổng dân số bị ảnh hưởng xấp xỉ 600.000 con. Lợi ích của đa dạng di truyền. Mặc dù hệ thống nông nghiệp có ít hoặc không có sự đa dạng di truyền có thể gặp những nhược điểm, nhưng việc tăng cường đa dạng di truyền bằng cách giới thiệu các loài có di truyền biến đổi có thể đưa hệ thống trở nên bền vững hơn. Ví dụ, bằng cách có các cây trồng với những đặc điểm di truyền đa dạng về kháng bệnh và kháng côn trùng, có khả năng thấp hơn trong việc lây lan bệnh hoặc côn trùng gây hại trong khu vực. Điều này xảy ra vì nếu một loại cây trở nên nhiễm bệnh bởi một loại bệnh hoặc côn trùng cụ thể, có khả năng những cây khác xung quanh nó sẽ có gene bảo vệ chúng khỏi loại bệnh hoặc côn trùng đó. Điều này có thể giúp tăng năng suất mùa màng đồng thời giảm sử dụng thuốc trừ sâu và rủi ro tiếp xúc. Đơn chức năng là một khái niệm tương tự; tuy nhiên, hoàn toàn có thể một khu vực đất đơn chức năng có chức năng của nó được thực hiện bởi nhiều loài và do đó không gặp tất cả những bất lợi như đơn canh. Khi công nghiệp hóa đầu tiên đến nông nghiệp và trồng rừng, đơn chức năng đã được đề xuất là lý tưởng do sự ưu việt ban đầu về hiệu suất kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm sau đó, ý kiến đã thay đổi. Trong những năm gần đây, đã rõ ràng rằng đơn chức năng gặp một số nhược điểm giống như đơn canh, đặc biệt là sự thiếu hụt tác dụng tăng cường và không thể đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của con người.
Amphibia (phim truyền hình) Amphibia (tạm dịch: Thế giới lưỡng cư) là một bộ phim hoạt hình của Mỹ được sản xuất bởi Matt Braly. Bộ phim được công chiếu vào ngày 14 tháng 6 năm 2019 trên DisneyNOW và YouTube và vào ngày 17 tháng 6 năm 2019 trên Disney Channel. Lưu ý: "Phân đoạn dưới đây tiết lộ toàn bộ nội dung của tác phẩm." Câu chuyện kể về cô bé Anne Boonchuy, 13 tuổi, cùng 2 người bạn là Sasha Waybright và Marcy Wu đã bị đưa đến thế giới Amphibia qua một chiếc hộp nhạc. Đây là một hòn đảo lớn đầy ếch, cóc và thằn lằn. Những loài lưỡng cư ở đây đều giống với các loài lưỡng cư bình thường, nhưng chúng lại có thể nói và tư duy như con người. Anne rơi vào Wartwood, một thị trấn nhỏ nơi mà loài ếch sống, và tại đây, cô đã kết bạn với Sprig Plantar, một chú ếch trẻ màu hồng, Polly Plantar, em gái của Sprig và người ông Hopadiah Plantar. Sasha bị đưa đến Tháp Cóc, khu vực của đội quân cóc, và bị chúng bắt làm tù binh, tuy nhiên cô đã trở thành một chỉ huy trong hàng ngũ của chúng sau khi lập công. Còn Marcy thì bị đưa đến thủ đô của vùng đất Amphibia là Newtopia. Ở cuối mùa 1, Anne đã gặp lại Sasha, tuy nhiên Anne lại vô tình biết trước kế hoạch tiêu diệt đàn ếch của lũ cóc. Anne đã xảy ra mâu thuẫn với Sasha, và cô đã phải đánh nhau với Sasha để cứu đàn ếch. Tháp Cóc sụp đổ, Sasha cùng lũ cóc phải rút lui, còn Anne và đàn ếch thì về lại Wartwood. Ở mùa 2, Anne và nhà Plantar đặt chân đến thủ đô Newtopia. Anne gặp lại Marcy, và được gặp Vua Andrias, vua của các loài lưỡng cư. Ông đã đồng ý cho Anne và Marcy tìm 3 viên ngọc để kích hoạt lại chiếc hộp nhạc. Trong khi đó, Sasha và đội quân cóc âm mưu lật đổ Andrias, tuy nhiên khi đến Newtopia, họ đã đồng ý hợp tác cũng Anne và Marcy. Cả ba đã đến được ba ngôi đền kích hoạt ba viên đá và đã thành công. Tuy nhiên, Vua Andrias đã lật mặt, ngăn chặn việc kích hoạt hộp nhạc. Anne cùng nhà Plantar đã bị đưa trở về Trái Đất, nhưng Marcy đã bị đâm và được vua Andrias dùng làm thân thể cho một thực thể gọi là The Core (Lõi), còn Sasha phải rút lui. Anne được gặp lại gia đình tại mùa 3. Tại đây, cô đã phải nguỵ trang cho nhà Plantar để tránh bị Chính phủ dòm ngó, và để tránh robot của Andrias, được gọi là những Frobot. Tuy nhiên, Chính phủ đã bắt đầu để ý tới, và họ đã cố gắng để bắt nhà Plantar. Trong khi đó, ở Amphibia, Sasha đã lập được đội kháng chiến tại Wartwood. Anne và nhà Plantar đã trở về Wartwood để cố giải cứu Marcy nhưng không được. Ngay sau đó, vua Andrias xâm lược Trái Đất. Tuy nhiên, Anne và mọi người đã đánh bại được Vua Andrias và giải cứu Marcy. Ở cuối phim, Amphibia đã có chính phủ mới, còn Anne và hai người bạn của cô đã lớn lên và có công việc riêng của mình. Các tập phim ngoại truyện. Teen Girl in a Frog World. Teen Girl in a Frog World (tạm dịch: Cô bé ở thế giới Ếch) là series ngắn với 5 tập được công chiếu từ ngày 3/9/2019 đến ngày 1/10/2019 trên kênh YouTube của Disney Channel, kể về cuộc sống của Anne và nhà Plantar. Wild Amphibia (tạm dịch: Nơi hoang dã tại Amphibia) là series ngắn nói về những loài vật tại Amphibia, công chiếu từ ngày 13/11/2019 đến ngày 4/12/2019 trên kênh YouTube của Disney Channel. Các tập phim lấy phân cảnh từ các tập phim của Mùa 1 và được dẫn bởi Soggy Joe. Chibi Tiny Tales là các tập phim kể về cuộc sống thường ngày của Anne và nhà Plantar qua nét vẽ Chibi, được chiếu từ ngày 7/6/2020 đến ngày 12/7/2020 trên YouTube của Disney Channel. Lực lượng Cóc tại Tháp Cóc. Ở cuối phim, cả ba người trên đã tham gia một nhóm gọi là "Bog The Boys Moving Junk Service" của Bog. Nhà phê bình Emily Ashby của Common Sense Media đánh giá phim 4 trên 5 sao, nói rằng "Cuộc phiêu lưu của Anne và Sprig rất đáng xem, chủ yếu nhờ tính cách của hai nhân vật khá hợp nhau." và "bộ phim nói lên những vấn đề như bắt nạt, thao túng cảm xúc và có thể thu hút trẻ em và thanh thiếu niên bàn luận về chủ đề này." Bekah Burbank của "LaughingP" đánh giá tốt khả năng cân bằng sự hài hước và yếu tố kinh dị của phim, cũng như nhịp độ, nhân vật và hoạt ảnh ""Amphibia" có nhiều trò đùa và nội dung đáng sợ vừa đủ để thu hút sự chú ý của người xem. Bộ phim có cốt truyện nhanh và được chia thành hai tập dài 11 phút, tạo thành một tập phim hoàn chỉnh. Ngoài ra, đồ hoạ và các nhân vật cũng được thiết kế đẹp mắt." Phim đã giành được Giải Annie cho "Thiết kế nhân vật xuất sắc nhất" vào năm 2021 cho tập phim "The Shut-In!". Cùng năm đó, bộ phim được đề cử giải Emmy cho "Chương trình hoạt hình dành cho trẻ em xuất sắc", nhưng đã thua Hilda. Marcy's Journal: A Guide to Amphibia. Vào tháng 12 năm 2022, Disney Books và TokyoPop đã cho xuất bản cuốn sách Marcy's Journal: A Guide to Amphibia. Đây là cuốn sách dựa trên cuốn nhật ký về hành trình của nhân vật Marcy trong thế giới Amphibia, ghi lại những thứ mà cô gặp tại đây như các sinh vật, những người mà cô đã gặp ở đây. Cuốn sách được viết bởi Matt Braly và Adam Colas và có hình ảnh đuợc thiết kế bởi Catharina Sukiman.
Thuận Tần Na Lạp Thị (chữ Hán:順嬪那拉氏; 6 tháng 2 năm 1811 - 19 tháng 3 năm 1868), là một phi tần của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang đế. Thuận Tần Na Lạp Thị sinh ngày 6 tháng 2 năm Gia Khánh thứ 14 (1809) không rõ gia thế. Năm Đạo Quang thứ 8 (1828) tháng 3, Na Lạp Thị nhập cung cùng một đợt với Thành Quý nhân Nữu Hỗ Lộc Thị, được sơ phong Thuận Quý nhân (順貴人). Năm Đạo Quang thứ 9 (1829), bà bị giáng làm Thuận Thường Tại (順常在). Năm Đạo Quang thứ 30 (1850), Hàm Phong Đế lên ngôi tôn bà làm Hoàng khảo Thuận Quý nhân (皇考順貴人). Năm Hàm Phong thứ 11 (1861), Đồng Trị Đế lên ngôi tôn bà làm Hoàng tổ Thuận Tần (皇祖順嬪). Năm Đồng Trị thứ 7 (1868) ngày 19 tháng 3, bà qua đời hưởng thọ 57 tuổi. Quan tài của bà được táng vào Mộ Đông lăng (慕东陵) thuộc Thanh Tây lăng.
Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2023 Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2023 là giải đấu thứ 20 của FIFA Club World Cup, một giải đấu quốc tế câu lạc bộ bóng đá do FIFA tổ chức với sự tham dự các nhà vô địch đến từ 6 châu lục, cũng như nhà vô địch đến từ nước chủ nhà. Giải đấu được tổ chức tại Ả Rập Xê Út từ ngày 12 đến ngày 22 tháng 12 năm 2023. Đây sẽ là Giải vô địch thế giới các câu lạc bộ cuối cùng có 7 đội tham dự trước khi giải đấu được mở rộng lên thành 32 đội tại giải đấu được tổ chức vào năm 2025. Real Madrid hiện đang là nhà đương kim vô địch, nhưng họ đã không thể bảo vệ thành công danh hiệu của mình sau khi bị loại ở bán kết UEFA Champions League 2022–23 bởi nhà vô địch Manchester City. Câu lạc bộ Anh cũng đã giành chức vô địch sau khi đánh bại đội bóng đến từ Brazil Fluminense 4–0 trong trận chung kết, đánh dấu lần đầu tiên lên ngôi trong lịch sử. Mặc dù Giải vô địch thế giới các câu lạc bộ mở rộng, bốn năm một lần được lên kế hoạch cho 2025, FIFA đã xác nhận vào ngày 13 tháng 2 năm 2023 rằng giải đấu năm 2023 sẽ được tổ chức theo thể thức bảy đội trước đây. Đầu tháng đó, "UOL Esporte" báo cáo rằng Ả Rập Xê Út quan tâm đến việc tổ chức các giải đấu Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ năm 2023 và 2024. Ngày 14 tháng 2, Hội đồng FIFA đã xác nhận Ả Rập Xê Út là chủ nhà của giải đấu năm 2023. Các đội tham dự. Jeddah đã được xác nhận là thành phố đăng cai vào ngày 26 tháng 6 năm 2023. Giải đấu sẽ được tổ chức tại hai địa điểm trong một thành phố. Vòng đấu loại trực tiếp. Nếu trận đấu hòa sau thời gian thi đấu chính thức: Tất cả được diễn ra theo giờ địa phương, AST (). Cầu thủ ghi bàn. 1 bàn phản lưới nhà Các giải thưởng sau đây đã được trao khi giải đấu kết thúc. Rodri của Manchester City là cầu thủ đã giành được giải thưởng Quả bóng vàng. FIFA cũng trao giải cầu thủ xuất sắc nhất trận cho cá nhân cầu thủ xuất sắc nhất trong mỗi trận đấu tại giải đấu.
Yagi Nana ( (Bát-Mộc Nại-Nại), Yagi Nana 3 tháng 9 năm 2000 –) là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô sinh ra tại Nagano. Cô thuộc về công ti Mines. 13/12/2019, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm với phim "Tân binh 19 tuổi Yagi Nana ra mắt ngành Ứng cử viên ngôi sao thế hệ mới 10 năm có 1 với vẻ đẹp thuần khiết trong sáng" (新人AVデビュー19歳八木奈々 新世代スター候補10年に1人の純真ピュア美少女) (MOODYZ). Cô là nữ diễn viên độc quyền của MOODYZ kể từ phim ra mắt ngành đầu tiên. Khi cô tìm kiếm các công ti chủ quản trong ngành để tự tin hoạt động, cô đã tham gia công ti Mine's do đó là công ti dễ tìm nhất. Tại thời điểm nhà sản xuất của hãng phim thấy cô, họ đã biết cô là một ngôi sao và ngay lập tức kí hợp đồng độc quyền với cô. Như được nhắc đến bên dưới, đây là do Nana, một người tự đánh giá thấp bản thân, được đánh giá cao. Tháng 6/2020, cô được chọn làm 1 trong 10 người đẹp khỏa thân được chọn lọc bởi GRAPHIS, và ảnh áo tắm mới chụp của cô được đăng trong tạp chí hàng tuần. Ngoài ra, cô còn xếp thứ 7 trong hạng mục Tân binh trong thông cáo hàng tháng của FANZA "Diễn viên khiêu dâm này thật tuyệt! mùa hè 2020". Năm 2021, cô tham gia đóng phim chiếu mạng ""Tình yêu" của tôi có kì lạ không? Case.02 (私の”好き”って変ですか? Case.02) và đây cũng là lần đầu cô diễn trong phim điện ảnh ngoài đời. Cô cũng đóng thêm các phim chính kịch, ví dụ như khi thủ vai Kazama Nagi trong "Đạo diễn trần trụi 2". Tháng 8/2021, cô xếp thứ 63 trong "Bảng xếp hạng FLASH 2021 diễn viên nữ gợi cảm chọn bởi 300 độc giả". Năm 2023, cô đã làm người mẫu cho thuơng hiệu đồ lót GEMINItale. Sở thích của cô là đọc sách, nấu ăn, làm đồ thủ công và chơi duơng cầm. Cô là người hướng nội thích ở trong nhà và giết thời gian. Tất cả các món cô nấu khi đăng lên mạng xã hội đều được bình luận là được nấu một cách chuyên nghiệp. Cô đọc sách trước khi đi ngủ, và cô có sưu tầm khoảng 3000 cuốn sách tại nhà (90% là tiểu thuyết, số còn lại là sách ảnh và sách học thuật). Trong một cuộc phỏng vấn ngay trước khi vào ngành, cô đã nói "Tôi không nghĩ mọi người sẽ thích tô". Khi quay phim, cô đã không thể ngủ vào đêm hôm trước và đến trường quay với vòng mắt thâm quầng. Khẩu hiệu của cô là 'Một từ cảm ơn" (一言芳恩). Cuốn sách yêu thích của cô là "Son môi trên dư ảnh" của Tsutsui Yasutaka. Mặc dù cô thường được khen ngợi vì khả năng văn học và vẻ ngoài ưa nhìn, cô đã nói rằng "Tôi là một nữ diễn viên khiêu dâm, nên tôi muốn được [mọi người] nói là dâm dục và tìm đến các phim khiêu dâm hơn là thấy một bức ảnh đẹp và đáng yêu". Người cô ngưỡng mộ là Kawakami Nanami. Cô đã từng là một tình nguyện viên phúc lợi xã hội ở châu Âu, và mục tiêu của cô là làm một công việc liên quan đến chữa bệnh trong tuơng lai. Trên chuơng trình truyền hình "Tsuki Tomogura", cô đã thể hiện lhar năng diễn xuất chân thực như khóc và giận dữ, và khả năng này đã được khen ngợi bởi đồng nghiệp như Shiba của nhóm Mog Rider và Kusanagi của nhóm Miyashita Kusanagi.
Wallace and Gromit: A Close Shave (Dịch tiếng việt:Wallece và Gromit :một lần Suýt chết) là một bộ phim Hoạt hình tĩnh vật của Anh sản xuất bởi Aardman Animations cùng với Wallace and Gromit Ltd , BBC Bristol và BBC Children's International .Đây là bộ thứ ba có nhân vật chính là Wallace và Gromit,sau A Grand Day Out (1989) và The Wrong Trousers (1993).Bộ phim này đã giành được giải Giải Oscar cho phim hoạt hình xuất sắc nhất lần thứ 69 vào năm 1996 A "Close Shave" cũng chứng kiến ​​​​sự xuất hiện đầu tiên của Shaun,sau này Shaun được được làm nhân vật chính trong bộ phim hoạt hình Chú cừu Shaun. 62 Phố Tây Wallaby. Một đêm nọ, một chiếc xe tải chở đầy cừu dừng lại ở một ngọn đèn bên ngoài nhà của Wallace và Gromit , những người đã trở thành người lau cửa sổ và cửa sổ. Một trong số họ trốn thoát và quay trở lại nhà. Chiếc xe tải khởi động lại và rời đi. Ngày hôm sau, Wallace phải đối phó với ý tưởng bất chợt về khẩu súng thần công nấu cháo do anh sáng chế, thứ đang gặp trục trặc. Gromit nhận thấy rằng dây của máy đã bị gặm một phần. Nghĩ đến những con chuột, Wallace cũng thấy rằng kho cháo và pho mát của mình không được tha. Sau đó, anh ta nhận được một cuộc gọi từ một khách hàng, một người bán len. Đến ngay tại chỗ, trong khi Gromit lau cửa sổ, Wallace gặp Gwendoline Culdebelier , người đã nhận cơ sở từ cha cô, người phát minh ra bang của cô. Cô đi cùng với Preston , một con chó trông hung dữ, rời khỏi cửa hàng ngay sau đó. Con chó đến gặp Wallace và Gromit và lần theo dấu vết của những con cừu bỏ trốn. Tuy nhiên, anh ta bị gián đoạn bởi sự trở lại của hai đồng phạm, và phải trốn trong hầm. Trở về nhà, Wallace và Gromit phát hiện ra ngôi nhà lộn xộn, cũng như đàn cừu bẩn thỉu và đói khát. Wallace quyết định cho anh ta tắm bằng chiếc máy do anh ta sáng chế. Hệ thống gặp trục trặc và đưa con cừu vào một chiếc máy cạo râu tự động, chiếc máy này ngay lập tức đan một chiếc áo len nhỏ bằng len của con vật. Bất chấp sự cố bất cẩn này, Wallace tuyên bố kết luận về việc giặt giũ, và mang theo con cừu mà anh ta gọi là Shaun và người mà anh ta bắt anh ta mặc chiếc áo len dệt kim. Ngay sau đó, Preston ra khỏi nơi ẩn náu của mình và phát hiện ra kế hoạch của cỗ máy mà anh ta mang theo bên mình. Ngày hôm sau, Wallace và Gromit đảm nhiệm việc lau chùi đồng hồ của thị trấn, với sự trợ giúp của khẩu pháo cháo đã được chuyển đổi. Trong khi Wallace đến chào Gwendoline, Gromit đi theo Shaun, người đi cùng họ. Sau khi rơi vào một cái bẫy do Preston giăng ra, anh ta thả khoảng mười lăm con cừu từ xe tải của người sau, và bị nhốt ở đó trong khi cố gắng cởi trói cho Shaun. Đàn cừu tràn vào cửa hàng, mang Wallace ra khỏi Gwendoline, người mà anh ấy sẽ thổ lộ tình cảm của mình. Bị Preston bắt cóc, Gromit bị đưa ra trước công lý, bị buộc tội với bằng chứng giả là kẻ trộm cừu bị truy nã, và cuối cùng bị kết án tù chung thân. Trong tù, Gromit nhận được một câu đố, sau khi giải được, yêu cầu anh ta sẵn sàng vào một thời điểm cụ thể. Lúc tám giờ, Shaun xuất hiện ở cửa sổ nhà tù và dùng cưa điện cưa xuyên qua song sắt. Wallace xoay sở với sự giúp đỡ của bầy cừu để giúp bạn mình trốn thoát. Ngay sau đó, khi trốn cảnh sát trong một đồng cỏ cùng với bầy cừu, họ bất ngờ đưa Gwendoline và Preston, những kẻ trộm cừu thực sự, bắt cừu đi trong xe tải của họ. Trong khi Preston định đe dọa Shaun, người vẫn ở lại, Gwendoline đã ngăn anh ta lại và nói với anh ta về sự bực tức của cô ấy đối với những vụ trộm này. Cô ấy bị nhốt cùng với Shaun và những con cừu khác trong xe tải. Wallace và Gromit bắt đầu đuổi theo chiếc xe bằng chiếc mô tô sidecar của họ. Trên đường đi, sự gắn bó giữa hai phần của chiếc xe của họ nhường đường. Gromit sống sót sau một cú ngã chết người xuống khe núi bằng cách biến chiếc xe phụ của mình thành một chiếc máy bay và nạp cháo cho khẩu pháo của chiếc sau. Trong khi đó, Wallace đưa đàn cừu ra khỏi xe tải, chúng leo lên chiếc mô tô do Shaun lái. Nhưng bất chấp sự can thiệp của Gromit, một cú phanh đột ngột của Preston đã khiến Wallace và đàn cừu quay trở lại thùng xe tải, sau đó chiếc xe này đi vào một nhà kho bí mật. Gromit, người cùng chiếc máy bay của mình phải tránh đồng hồ thành phố, đã mất dấu anh ta. Trong nhà kho, Preston đưa Wallace, Gwendoline và đàn cừu đến một bản sao cỗ máy của Wallace, được chế tạo từ các kế hoạch bị đánh cắp. Nhưng Shaun, người đã trốn thoát, cố gắng báo cáo vị trí của họ cho Gromit, người lao vào nhà chứa máy bay bằng máy bay của mình, ném cháo vào Preston. Tuy nhiên, con chó đã vô hiệu hóa được máy bay và Gromit bị đẩy ra ngoài. Nhưng Shaun quản lý để đưa Preston vào máy cắt cỏ, nơi Gromit chọn tùy chọn "cạo sạch". Máy chạy và đan áo len từ lông chó trước khi bị phá hủy từ bên trong. Gwendoline sau đó nói với Wallace rằng Preston là một người máy do cha cô phát minh ra. Sau đó, cyber-bulldog thoát ra, nhưng bị phân tâm bởi một chiếc máy đang luồn chiếc áo len dệt kim vào người anh ta. Bị mù, anh ta kích hoạt một cỗ máy khác, một chiếc máy băm thịt cừu, và Gromit đẩy anh ta lên băng chuyền của chiếc máy này. Cuối cùng, Shaun là người xoay sở để đưa rô-bốt vào hàm của máy, biến nó thành bột nhão cơ học ngay lập tức. Vài ngày sau, Gwendoline đến thăm Wallace, cùng với Preston, người mà nhà phát minh đã xây dựng lại theo một phiên bản ngoan ngoãn hơn. Wallace đề nghị cô ấy đến để chia sẻ một miếng pho mát, nhưng Gwendoline bị dị ứng với nó. Sau đó cô ấy rời khỏi Wallace. Bực mình khi biết chúng tôi không chịu nổi pho mát, Wallace đổi ý và nhấc chiếc chuông của chiếc này lên để nếm thử. Ở đó, anh phát hiện ra Shaun, người đã ăn tất cả mọi thứ. A Close Shave nhân được Giải Oscar lần thứ 69 vào năm 1996 Theo trang Rotten Tomatoes , "A Close Shave" đạt số điểm tuyệt đối 100% dựa trên 19 bài phê bình, với điểm đánh giá trung bình là 8,6/10. Còn đối với IDM thì "A Close Shave" đạt được 8.1/10 điểm
Nagi Hikaru ( (Chỉ Quang), Nagi Hikaru 6 tháng 4 năm 1997 –) là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô thuộc về công ti Eightman. Các tên cũ của cô là Asuka Aka ( (Hữu-Thê-Hoa Phi), Asuka Aka) và Shiose ( (Tịch-Thế), Shiose). Ảnh áo tắm của cô được đăng tải lần đầu tiên trong tạp chí ảnh hàng tuần "FRIDAY" (số ngày 14/8/2020, Kōdansha) phát hành ngày 31/7/2020, và kể từ đó ảnh áo tắm của cô đã được đăng liên tục trong các tạp chí hàng tuần. Cô đã ra mắt ngành giải trí với sách ảnh "Big Baby" phát hành vào tháng 9 cùng năm. Tháng 10/2020, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm từ hãng S1 với khẩu hiệu "Dù sao thì mặt cũng đẹp--, Dù sao thì ngực cũng đẹp--". 14/12/2021, cô thông báo trên Twitter rằng cô đã đổi tên diễn từ Asuka Aka thành Shiose, mặc dù công ti chủ quản vẫn là T-Powers. 7/11/2022, cô thông báo trên Twitter rằng cô đã đổi tên diễn từ Shiose thành Nagi Hikaru, và cô đã chuyển công ti chủ quản từ T-Powers sang Eightman.
Samari(III) nitrat là một hợp chất vô cơ với công thức hóa học Sm(NO3)3. Nó tạo thành hexahydrat màu vàng nhạt, không mùi, phân hủy ở 50 °C thành dạng khan. Khi được làm nóng đến 420 °C, nó trở thành oxynitrat và ở 680 °C, nó bị phân hủy để tạo thành samari(III) oxide. Samari(III) nitrat là chất xúc tác acid Lewis có thể tạo ra dung dịch tiền chất nitrat để tạo chất xúc tác nano trong pin nhiên liệu tái tạo oxide rắn. Chất xúc tác nano được tạo ra bằng cách trộn samari(III) nitrat hexahydrat, stronti nitrat và cobalt(II) nitrat hexahydrat. Samari(III) nitrat cũng được sử dụng để điều chế ceria pha tạp samari, dùng cho việc tạo chất điện phân cho pin nhiên liệu. Ceria pha tạp samari được sản xuất bằng cách trộn hỗn hợp ceri(III) nitrat và samari(III) nitrat với triethylen glycol làm dung môi trong 5 giờ ở 200 °C. Sau đó, nó được sấy khô trong 4 giờ ở 110 °C, thu được chất rắn màu nâu. Sau đó, chất rắn được làm nóng đến 500 °C trong hai giờ để tạo ra ceria pha tạp samari. Sm(NO3)3 có thể tạo phức với N2H4. Phức Sm(NO3)3·3N2H4·4H2O là tinh thể màu vàng nhạt, tan trong nước, methanol, ethanol và không tan trong benzen, D20 °C = 2,79 g/cm³.
Aljaž Antolin (sinh ngày 2 tháng 8 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá người Slovenia hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Maribor tại Slovenian PrvaLiga. Sự nghiệp thi đấu. Antolin bắt đầu sự nghiệp của mình tại câu lạc bộ quê hương Ižakovci, và sau đó chơi cho Beltinci. Năm 2010, anh chuyển đến Mura 05 và gia nhập đội U-10 của câu lạc bộ. Sau khi Mura 05 phá sản vào năm 2013, anh chuyển sang câu lạc bộ mới thành lập, NŠ Mura. Vào ngày 11 tháng 2 năm 2021, Antolin ra mắt chuyên nghiệp cho Mura ở Slovenian PrvaLiga trong trận hòa không bàn thắng với Tabor Sežana. Anh ra sân tổng cộng 3 trận cho đội bóng tại giải quốc nội mùa giải 2020–21, đồng thời giành chức vô địch với đội bóng. Maribor và cho mượn tại Beltinci. Vào ngày 16 tháng 7 năm 2021, Antolin gia nhập Maribor theo bản hợp đồng kéo dài 4 năm. Vào tháng 8, anh được cho mượn ở câu lạc bộ Beltinci tại Giải bóng đá hạng nhì Slovenia. Sau khi ra sân 13 lần và ghi 4 bàn cho Beltinci trong nửa đầu mùa giải, anh quay trở lại Maribor trong nửa sau của mùa giải và ra mắt vào ngày 21 tháng 2 năm 2022, trong chiến thắng 4–1 trước Radomlje.
Tiếng Khwārezm (Tiếng Khwarezm: , "zβ'k 'y xw'rzm"; còn được gọi là tiếng Khwarazm, tiếng Chorasmia, tiếng Khorezm) là một ngôn ngữ Đông Iran có quan hệ gần gũi với tiếng Sogdia. Ngôn ngữ này được nói ở khu vực Khwarezm (Chorasmia), tập trung ở hạ lưu sông Amu Darya phía nam biển Aral (phần phía Bắc của cộng hòa Uzbekistan hiện nay và các khu vực lân cận của Kazakhstan và Turkmenistan). Sự hiểu biết của tiếng Khwarezm bị giới hạn ở giai đoạn Trung Iran của nó và, như với tiếng Sogdia, người ta biết rất ít về dạng cổ xưa của nó. Dựa trên chữ viết của các học giả Khwarezm Al-Biruni và Zamakhshari, ngôn ngữ này được sử dụng ít nhất cho đến thế kỉ 13, khi phần lớn của nó dần bị thay thế bởi tiếng Ba Tư, cũng như một số phương ngữ của các ngôn ngữ Turk. Các nguồn của tiếng Khwarezm bao gồm các thuật ngữ thiên văn được sử dụng bởi từ điển Ả Rập–Ba Tư–Khwarezm của al-Biruni, Zamakhshari và một số văn bản pháp lý sử dụng các thuật ngữ và trích dẫn tiếng Khwarezm để giải thích các khái niệm pháp lý nhất định, nổi bật nhất là Qunyat al-Munya của Mukhtār al-Zāhidī al-Ghazmīnī (ch. 1259/60).
Tinh vân lưỡng cực Tinh vân lưỡng cực là một loại tinh vân được đặc trưng bởi hai thùy ở hai bên của một ngôi sao trung tâm. Khoảng 10-20% tinh vân hành tinh là lưỡng cực. Mặc dù nguyên nhân chính xác của cấu trúc tinh vân này vẫn chưa được biết đến, nhưng người ta thường cho rằng nó ám chỉ sự hiện diện của một hệ sao đôi trung tâm với chu kỳ từ vài ngày đến vài năm. Khi một trong hai ngôi sao trục xuất các lớp bên ngoài của nó, ngôi sao còn lại làm gián đoạn dòng chảy vật chất để tạo thành hình dạng lưỡng cực.
Bưu điện Trung tâm Phnôm Pênh Bưu điện Trung tâm ở Phnôm Pênh, Campuchia là một tòa nhà được xây dựng từ thời Pháp thuộc và là trụ sở chính trực thuộc hệ thống bưu chính Campuchia. Tòa nhà này khai trương vào năm 1895, do kiến trúc sư và nhà quy hoạch thị trấn người Pháp Daniel Fabre thiết kế. Đây là một trong số những công trình trong khu hành chính của Pháp, tất cả đều được xây dựng theo phong cách giống nhau xung quanh một quảng trường trung tâm. Tòa nhà hành chính bưu điện được đặt tên theo quảng trường gọi là "Place de la Poste". Bưu điện Trung tâm có cửa sổ vòm kiểu La Mã, các cột có in hoa kiểu Corinth, ban công có lan can và cột, các bức tường và đồ trang trí điêu khắc; tòa nhà được thiết kế theo trường phái kiến trúc tân cổ điển trong bối cảnh Đông Nam Á. Một khu vườn lớn nằm phía trước tòa nhà đã được thay thế vào thập niên 1930 bằng một quảng trường công cộng. Mấy chái nhà ở phía bắc và phía nam được mở rộng trong cùng thời kỳ này. Trong thập niên 1940, một tòa tháp dạng xổm ở trung tâm có mái vòm đã bị dỡ bỏ và thay thế bằng "một dãy loa phóng thanh kỳ dị". Những sửa đổi tiếp theo đối với toàn bộ công trình đã diễn ra xuyên suốt thập niên 1950 và 1960. Cuối cùng vào năm 1991, một tầng được thêm vào mỗi chái nhà và xây cất theo phong cách tương tự như phong cách của công trình nguyên thủy. Kể từ đó, tòa nhà này có hai tầng, với kho lưu trữ ở tầng trệt và văn phòng hành chính dành cho dịch vụ bưu chính Campuchia ở tầng trên. Công trình đạt được hình thức cuối cùng khi việc trùng tu hoàn thành vào năm 2004. Năm 2011, đài BBC đã ca tụng tòa Bưu điện này là "vẻ đẹp sơn màu vàng được vây quanh từ bộ sưu tập đẹp nhất gồm các tòa nhà thời thuộc địa ở Phnôm Pênh." Tính đến năm 2020, tòa nhà này vẫn được sử dụng làm bưu điện và là văn phòng cho hệ thống bưu chính Campuchia. Tòa nhà đã được sử dụng liên tục từ năm 1895, ngoại trừ một thời gian ngắn dưới thời Khmer Đỏ cầm quyền khi ngân hàng trung ương bị phá hủy, tiền bị cấm và đô thị không có người ở. Có thể thấy Bưu điện Trung tâm trong bộ phim "City of Ghosts" công chiếu năm 2002.
Miklós Horthy de Nagybánya (tiếng Hungary: Vitéz "Nagybányai Horthy Miklós"; ]; tiếng Anh: "Nicholas Horthy"; Tiếng Đức: "Nikolaus Horthy Ritter von Nagybánya"; 18 tháng 6 năm 1868 – 9 tháng 2 năm 1957) là một đô đốc và chính khách người Hungary, từng là nhiếp chính của Vương quốc Hungary giữa hai cuộc Chiến tranh thế giới và hầu hết Thế chiến II - từ ngày 1 tháng 3 năm 1920 đến ngày 15 tháng 10 năm 1944. Horthy bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một trung úy trong Hải quân Áo-Hung vào năm 1896, và đạt cấp bậc chuẩn đô đốc vào năm 1918. Ông đã tham gia Trận chiến eo biển Otranto và trở thành tổng tư lệnh của Hải quân trong năm cuối cùng của Thế chiến thứ nhất; ông được thăng chức phó đô đốc và chỉ huy Hạm đội khi Hoàng đế-Vua Karl cách chức vị đô đốc trước đó khỏi chức vụ của ông ta sau những cuộc binh biến. Trong các cuộc cách mạng và can thiệp vào Hungary từ Tiệp Khắc, Romania và Nam Tư, Horthy trở về Budapest cùng với Quân đội hoàng gia Hungary; Nghị viện sau đó đã mời ông trở thành nhiếp chính của vương quốc. Trong suốt thời kỳ giữa hai cuộc chiến, Horthy đã lãnh đạo một chính quyền mang tính quốc gia bảo thủ và bài Do Thái. Hungary dưới thời Horthy đã cấm Đảng Cộng sản Hungary cũng như Đảng Arrow Cross, và theo đuổi chính sách đối ngoại phục hồi lãnh thỗ khi đối mặt với Hiệp ước Trianon năm 1920. Hoàng đế Karl I của Áo-Hung, cựu vương, đã hai lần cố gắng quay trở lại Hungary trước khi chính phủ Hungary nhượng bộ trước những lời đe dọa của Đồng minh về việc gia hạn chiến sự vào năm 1921. Karl sau đó bị áp giải ra khỏi Hungary để sống lưu vong. Về mặt tư tưởng là một người bảo thủ quốc gia, Horthy đôi khi bị coi là phát xít. Vào cuối những năm 1930, chính sách đối ngoại của Horthy đã khiến ông liên minh với Đức Quốc xã để chống lại Liên Xô. Với sự hỗ trợ của Adolf Hitler, Hungary đã thành công trong việc mua lại một số khu vực đã nhượng lại cho các nước láng giềng theo Hiệp ước Trianon. Dưới sự lãnh đạo của Horthy, Hungary đã hỗ trợ những người tị nạn Ba Lan vào năm 1939 và tham gia vào cuộc xâm lược của phe Trục vào Liên Xô vào tháng 6 năm 1941. Một số nhà sử học coi Horthy là người không nhiệt tình đóng góp cho nỗ lực chiến tranh của Đức và Holocaust ở Hungary (vì sợ rằng nó có thể phá hoại các thỏa thuận hòa bình với các lực lượng Đồng minh), ngoài ra còn có một số nỗ lực thực hiện một thỏa thuận bí mật với Đồng minh trong Thế chiến II sau khi rõ ràng rằng phe Trục sẽ thua cuộc chiến, do đó cuối cùng dẫn đến việc quân Đức xâm lược và nắm quyền kiểm soát Hungary vào tháng 3 năm 1944 trong Chiến dịch Margarethe. Tuy nhiên, trước khi Đức quốc xã chiếm đóng Hungary, 63.000 người Do Thái đã bị giết. Cuối năm 1944, 437.000 người Do Thái bị trục xuất đến Auschwitz-Birkenau, nơi phần lớn bị ngạt khí khi đến nơi. Nhà sử học người Serbia Zvonimir Golubović đã tuyên bố rằng Horthy không chỉ biết về những vụ thảm sát diệt chủng này mà còn tán thành chúng, chẳng hạn như những vụ trong Đột kích Novi Sad. Vào tháng 10 năm 1944, Horthy thông báo rằng Hungary đã tuyên bố đình chiến với Đồng minh và rút khỏi phe Trục. Ông buộc phải từ chức, bị quân Đức quản thúc và đưa đến Bayern. Khi chiến tranh kết thúc, ông bị quân đội Mỹ quản thúc. Sau khi cung cấp bằng chứng cho Phiên tòa xét xử tội ác chiến tranh của Phiên toà cấp Bộ năm 1948, Horthy định cư và sống những năm lưu vong còn lại ở Bồ Đào Nha. Hồi ký của ông, "Ein Leben für Ungarn" (Một cuộc sống cho Hungary), được xuất bản lần đầu năm 1953. Ông nổi tiếng là một nhân vật lịch sử gây tranh cãi ở Hungary đương đại. Cuộc sống đầu đời và Sự nghiệp hải quân. Miklós Horthy de Nagybánya sinh ra tại Kenderes trong một gia đình quý tộc nhỏ không có tước hiệu, hậu duệ của István Horti, được Hoàng đế Ferdinand II phong tước vào năm 1635. Cha của ông, István Horthy de Nagybánya, là thành viên của Viện Magnates, thượng viện của Quốc hội Hungary, và là lãnh chúa của một điền trang rộng 610 ha (1.500 mẫu Anh). Ông kết hôn với nữ quý tộc người Hungary là Paula Halassy de Dévaványa năm 1857. Miklós là con thứ tư trong số tám người con của họ, được nuôi dạy theo đạo Tin lành. Horthy vào Học viện Hải quân Hoàng gia và Hoàng gia Áo-Hung () tại Fiume (nay là Rijeka, Croatia) ở tuổi 14. Bởi vì ngôn ngữ chính thức của học viện hải quân là tiếng Đức, Horthy nói tiếng Hungary với giọng Áo-Đức nhẹ, nhưng đáng chú ý, trong suốt quãng đời còn lại của mình. Ông cũng nói được tiếng Ý, tiếng Croatia, tiếng Anh và tiếng Pháp. Khi còn trẻ, Horthy đã đi du lịch khắp thế giới và phục vụ với tư cách là nhà ngoại giao cho Áo-Hungary ở Đế quốc Ottoman và các quốc gia khác. Horthy kết hôn với Magdolna Purgly de Jószáshely ở Arad năm 1901. Họ có 4 người con: Magdolna (1902), Paula (1903), István (1904) và Miklós (1907). Từ năm 1911 đến năm 1914, ông là phụ tá hải quân cho Hoàng đế Franz Joseph I của Áo, người mà ông rất kính trọng. Vào đầu Thế chiến thứ nhất, Horthy là chỉ huy của thiết giáp hạm pre-dreadnought SMS Habsburg. Năm 1915, ông nổi tiếng về sự táo bạo khi chỉ huy tàu tuần dương hạng nhẹ mới SMS Novara. Ông đã lên kế hoạch cho cuộc tấn công vào Otranto Barrage năm 1917, dẫn đến Trận chiến eo biển Otranto, cuộc giao chiến hải quân lớn nhất trong cuộc chiến ở Biển Adriatic. Một hạm đội hợp nhất của Anh, Pháp và Ý đã gặp lực lượng Áo-Hung. Bất chấp ưu thế về quân số của hạm đội Đồng minh, lực lượng Áo đã giành chiến thắng sau trận chiến. Hạm đội Áo vẫn tương đối bình yên, tuy nhiên, Horthy bị thương. Sau cuộc binh biến Cattaro vào tháng 2 năm 1918, Hoàng đế Karl I của Áo đã chọn Horthy thay vì nhiều chỉ huy cấp cao khác làm Tổng tư lệnh mới của Hạm đội Đế quốc vào tháng 3 năm 1918. Vào tháng 6, Horthy lên kế hoạch cho một cuộc tấn công khác vào Otranto, và trong một cuộc khởi hành từ chiến lược thận trọng của những người tiền nhiệm, ông đã giao nhiệm vụ cho các thiết giáp hạm của đế chế. Khi đang chèo thuyền trong đêm, chiếc dreadnought 'SMS Szent István" đã gặp các tàu phóng lôi MAS của Ý và bị đánh chìm, khiến Horthy phải hủy bỏ nhiệm vụ. Ông đã cố gắng bảo toàn phần còn lại của hạm đội đế chế cho đến khi được Hoàng đế Karl ra lệnh giao nộp nó cho Nhà nước mới Nhà nước Slovene, Croat và Serb (tiền thân của Nam Tư) vào ngày 31 tháng 10. Chiến tranh kết thúc khiến Hungary trở thành một quốc gia không giáp biển, và cùng với đó, chính phủ mới không cần đến chuyên môn hải quân của Horthy. Ông ấy đã cùng gia đình nghỉ hưu tại khu đất riêng của mình tại Kenderes. Thời kỳ giữa chiến tranh, 1919–1939. Các nhà sử học đồng ý về chủ nghĩa bảo thủ của Hungary giữa hai cuộc chiến, Nhà sử học István Deák nói: ""Giữa năm 1919 và 1944, Hungary là một quốc gia cánh hữu. Được rèn giũa từ một di sản phản cách mạng, các chính phủ của nó ủng hộ chính sách "Cơ đốc giáo theo chủ nghĩa dân tộc"; họ ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, niềm tin và sự đoàn kết; họ coi thường Cách mạng Pháp, và họ từ chối các hệ tư tưởng tự do và xã hội chủ nghĩa của thế kỷ XIX. Các chính phủ coi Hungary như một bức tường thành chống lại Chủ nghĩa Bolshevik và các công cụ của Chủ nghĩa Bolshevik: chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa quốc tế và Hội Tam điểm. Họ duy trì sự cai trị của một nhóm nhỏ quý tộc, công chức và sĩ quan quân đội, và được người đứng đầu nhà nước, Đô đốc phản cách mạng, Đô đốc Horthy, bao vây với sự tán dương."" Tư lệnh quân đội quốc gia. Hai chấn thương sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đã định hình sâu sắc nên tinh thần và tương lai của quốc gia Hungary. Đầu tiên là sự mất mát, theo quy định của quân Đồng minh trong Thế chiến thứ nhất, phần lớn lãnh thổ Hungary giáp với các quốc gia khác. Đây là những vùng đất từng thuộc về Hungary (sau đó là một phần của Đế quốc Áo-Hung) nhưng hiện được nhượng chủ yếu cho Tiệp Khắc, Vương quốc România, Đệ Nhất Cộng hòa Áo và Vương quốc Nam Tư. Việc cắt bỏ, cuối cùng được phê chuẩn trong Hiệp ước Trianon năm 1920, khiến Hungary mất 2/3 lãnh thổ và 1/3 số người nói tiếng Hungary bản địa; điều này đã giáng cho dân chúng một đòn tâm lý khủng khiếp. Chấn thương thứ hai bắt đầu vào tháng 3 năm 1919, khi nhà lãnh đạo Cộng sản Béla Kun lên nắm quyền ở thủ đô Budapest, sau khi chính phủ dân chủ đầu tiên ở Hungary thất bại. Kun và những người trung thành của ông tuyên bố thành lập Cộng hòa Xô viết Hungary và hứa khôi phục lại sự vĩ đại trước đây của Hungary. Thay vào đó, những nỗ lực tái chinh phục của ông đã thất bại, và người Hungary bị đối xử với sự đàn áp kiểu Xô Viết dưới hình thức các băng nhóm vũ trang đe dọa hoặc sát hại kẻ thù của chế độ. Giai đoạn bạo lực này được gọi là Khủng bố Đỏ. Trong vòng vài tuần sau cuộc đảo chính, sự nổi tiếng của Kun giảm mạnh. Vào ngày 30 tháng 5 năm 1919, các chính trị gia chống cộng đã thành lập một chính phủ phản cách mạng ở thành phố Szeged phía Nam, lúc đó đang bị quân Pháp chiếm đóng. Ở đó, Gyula Károlyi, thủ tướng của chính phủ phản cách mạng, đã đề nghị cựu Đô đốc Horthy, vẫn được coi là một anh hùng chiến tranh, làm Bộ trưởng Bộ Chiến tranh trong chính phủ mới và nắm quyền chỉ huy một lực lượng phản cách mạng sẽ được đặt tên là Quân đội Quốc gia (tiếng Hungary: "Nemzeti Hadsereg"). Horthy đồng ý và ông ấy đến Szeged vào ngày 6 tháng 6. Ngay sau đó, theo lệnh của các cường quốc Đồng minh, một nội các đã được cải tổ và Horthy không được ngồi vào đó. Không nản lòng, Horthy đã cố gắng giữ quyền kiểm soát Quân đội Quốc gia bằng cách tách bộ chỉ huy quân đội khỏi Bộ Chiến tranh.
Danh sách nhà thơ và tác giả tiếng Ba Tư Danh sách này không đầy đủ, nhưng liên tục được mở rộng và bao gồm Các nhà thơ Ba Tư cũng như các nhà thơ viết bằng tiếng Ba Tư tới từ Iran, Azerbaijan, I Rắc, Georgia, Dagestan, Thổ Nhĩ Kỳ, Syria, Afghanistan, Turkmenistan, Tajikistan, Uzbekistan, Li-băng, Trung Quốc, Pakistan, Ấn Độ và nơi nào đó khác. Thế kỷ thứ 9. templatestyles src="Div col/"/*Rudaki (رودکی) Thế kỷ thứ 10. Thế kỷ thứ 11. Thế kỷ thứ 12. Thế kỷ thứ 13. Thế kỷ thứ 14. Thế kỷ thứ 15. Thế kỷ thứ 16. Thế kỷ thứ 17. Thế kỷ thứ 18. Thế kỷ thứ 19. Thế kỷ thứ 20.