id
int64
0
23k
passage
stringlengths
27
4.61k
metadata
dict
22,000
Title: Vườn quốc gia Kon Ka Kinh Kiểu rừng này có diện tích 7.956,2 ha, chiếm 18,9% tổng diện tích tự nhiên, phân bố rải rác ở các khu vực vùng biên phía Đông, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc của Vườn Quốc gia, ở những nơi có độ cao ≤ 1.000 m, lượng mưa bình quân năm từ 1.500 - 2.000 mm, nhiệt độ không khí trung bình năm từ 15 - 20 0C. Cấu trúc và thành phần các họ thực vật cây gỗ lá rộng tạo rừng của kiểu rừng này cũng tương tự như đối với kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới núi trung bình. Tùy vào mức độ tác động vào rừng, mà kiểu rừng này đượcchia thành các kiểu rừng chính như sau: Rừng hỗn giao cây lá rộng lá kim mưa mùa nhiệt đới núi trung bình Diện tích 1.780,8 ha, chiếm 4,2% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở đai cao ≥ 1.000 m tại vùng trung tâm của Vườn Quốc gia. Cấu trúc của kiểu rừng này được chia thành 4 tầng khá rõ ràng: Rừng tre nứa. Có diện tích nhỏ (640,7 ha), chiếm 1,5% tổng diện tích và phân bố rải rác ở  một số vùng ven của Vườn Quốc gia. Rừng được hình thành trên đất làm nương rẫy bị thoái hoá. Rừng trồng. Có diện tích 180,0 ha, chiếm 0,4 % tổng diện tích tự nhiên, chủ yếu là rừng Thông 3 lá, mật độ trồng 1.600 cây/ha, cây sinh trưởng tốt, trữ lượng bình quân của rừng khoảng 50 - 70 m3/ha. Động vật. Kết quả tổng hợp các công trình điều tra đa dạng sinh học tại Vườn Quốc Gia Kon Ka Kinh đã công bố cho đến tháng 8 năm 2011 cho thấy hệ động vật của Vườn rất đa dạng và phong phú với tổng số 556 loài, thuộc 91 họ và 30 bộ. Trong tổng số 556 loài động vật có xương sống và 205 loài động vật không có xương sống (như bướm) thuộc 10 họ trong bộ Cánh vẩy ("Lepidoptera"). Hệ động vật rừng vườn quốc gia Kon Ka Kinh có 16 loài đặc hữu là:
{ "split": 5, "title": "Vườn quốc gia Kon Ka Kinh", "token_count": 482 }
22,001
Title: Vườn quốc gia Kon Ka Kinh Ngoài những loài mới phát hiện và những loài có giá trị đặc hữu nêu trên, hệ động vật rừng vườn quốc gia Kon Ka Kinh còn có 38 loài thú quý hiếm, có giá trị bảo tồn nguồn gen và nghiên cứu khoa học, được ghi trong sách đỏ Việt Nam và Thế giới. Cụ thể:
{ "split": 6, "title": "Vườn quốc gia Kon Ka Kinh", "token_count": 74 }
22,002
Title: Vườn quốc gia Kundelungu Vườn quốc gia Kundelungu là một vườn quốc gia nằm tại Katanga, Cộng hòa Dân chủ Congo. Được thành lập vào ngày 30 tháng 11 năm 1970, vườn quốc gia có diện tích khoảng 7.600 km². Đây là nơi có Thác Lofoi cao , với dòng chảy liên tục là khiến nó là một trong số những thác nước cao nhất châu Phi và trên thế giới. Địa hình tại đây là đồi núi cao nguyên thấp và đồi thảo nguyên dao động từ 1.200-1.700 mét so với mực nước biển. Vườn quốc gia là nơi trú ẩn của nhiều loài động vật hoang dã đáng chú ý như Ngựa vằn, Linh dương lang, Linh dương đen Đông Phi, Linh dương Kudu lớn, Linh dương Eland, Linh dương lau sậy phía nam, Linh dương nước, Linh dương Bubale, Linh dương Klipspringer, Trâu rừng, Sư tử, Báo hoa mai, Báo săn, Chó hoang châu Phi, Linh cẩu, Chó rừng, Khỉ đầu chó, Khỉ lam, Culi Galago.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Kundelungu", "token_count": 244 }
22,003
Title: Vườn quốc gia Lençóis Maranhenses Vườn quốc gia Lençóis Maranhenses ("Parque Nacional dos Lençóis Maranhenses") là một vườn quốc gia nằm ở bang Maranhão, ở phía đông bắc Brasil, ngay phía đông của vịnh Baía de São José, giữa 02º19'–02º45' Nam và 42º44'–43º29' Tây. Đây là một khu vực thấp, bằng phẳng, đất đai thường xuyên bị ngập lụt cùng với những cồn cát lớn. Có diện tích khoảng 1500 km², và mặc dù có lượng mưa phong phú nhưng hầu như là không có thảm thực vật tại đây. Vườn quốc gia được thành lập vào ngày 2 tháng 6 năm 1981. Nơi đây cũng là bối cảnh chính của bộ phim Brasil "The House of Sand" sản xuất năm 2005, là cảnh quay trong bài hát Kadhal Anukkal và là một cảnh trong bộ phim Ấn Độ Enthiran. Mô tả. Bao gồm nhiều đụn cát trắng, lớn và sâu, trông Lençóis Maranhenses như một sa mạc, nhưng thực tế không phải vậy. Nằm ngay ngoài lưu vực Amazon, khu vực này thường có mùa mưa vào đầu năm. Mưa đã tạo nên một khung cảnh dị thường: nước sạch tụ lại ở các thung lũng giữa đụn cát, đồng thời một lớp đá không thấm nước dưới cát ngăn chặn việc nước thấm xuống đất. Kết quả là những đầm phá màu xanh và đen nằm giữa các đụn cát và lượng nước đạt đỉnh điểm nhất từ tháng 7 đến tháng 9. Các đầm phá này có nhiều loài cá đến khi chúng đầy nhất sau tháng 7 và thông với những con sông như Rio Negro. Đặc biệt, loài cá sói hay cá hổ ("Hoplias malabaricus") ngủ trong bùn và khu vực ẩm ướt kể cả khi các đầm phá gần cạn và xuất hiện ở mùa mưa kế tiếp. Cư dân. Theo những câu chuyện dân gian địa phương, đây là nơi định cư của người Caeté, người đã thức dậy một ngày nọ và thấy thị trấn của họ bị chôn vùi trong cát.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Lençóis Maranhenses", "token_count": 481 }
22,004
Title: Vườn quốc gia Lençóis Maranhenses Vườn quốc gia chỉ có nhiệm vụ bảo vệ hệ sinh thái nơi đây; vì thế nhiều người đã sinh sống ở đây. Đây cũng là vấn đề ở vườn quốc gia Jericoacoara gần đó. Những người này chủ yếu làm nghề đánh cá vào mùa mưa; đến mùa khô họ bỏ đi, đến những khu vực lân vận và làm việc trên những lô đất nhỏ. Tham quan. Nằm trên bờ đông bắc của bang Maranhão, bên bờ sông Preguiças, công viên vây quanh những đô thị như Humberto de Campos, Primeira Cruz, Santo Amaro do Maranhão và Barreirinhas. Có vài tuyến xe buýt/xe tải thường trực giữa Barreirinhas và São Luís (thủ phủ của Maranhão) với khoảng cách khoảng 260 km (160 dặm). Sông Preguiças nối vườn quốc gia với Atins, một thị trấn nhỏ ở rìa Nam của công viên. Những con đường quan trọng nhất gần công viên là BR-135, BR-222, MA-404, và MA-225. Lençois Maranhenses khá rộng lớn và không có con đường vào trực tiếp. Bởi trình trạng được bảo vệ, hầu hết các phương tiện giao thông không được phép vào. Lối vào công viên được làm riêng dành cho xe tải 4 bánh.
{ "split": 1, "title": "Vườn quốc gia Lençóis Maranhenses", "token_count": 292 }
22,005
Title: Vườn quốc gia Machakhela Vườn quốc gia Machakhela là một vườn quốc gia nằm ở thung lũng sông Machakhelistsqali, thuộc lãnh thổ tự trị Adjara, Gruzia. Được thành lập vào năm 2012, vườn quốc gia này có diện tích 8.733 hecta. Đây là nơi có cảnh quan độc đáo cùng với sự đa dạng sinh học của những cánh rừng rụng lá Euxine–Colchic. Bên trong vườn quốc gia còn có tàn tích của pháo đài trong khu vực lịch sử Machakheli, cầu vòm và máy ép rượu nho. Từ sườn núi Mtavarangelozi trong vườn quốc gia có tầm nhìn ra Batumi, thành phố lớn thứ hai của Gruzia và hẻm núi Machakhela.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Machakhela", "token_count": 168 }
22,006
Title: Vườn quốc gia Magura Vườn quốc gia Magura () là một công viên quốc gia nằm ở phía đông nam Ba Lan, gần Slovakia, trên ranh giới của Lesser Voivodeship Ba Lan và Subcarpathian Voivodeship. Nó bao gồm phần chính của lưu vực thượng lưu của sông Wisłoka. Khi vườn quốc gia được thành lập vào năm 1995, nó bao phủ 199.62 km², mặc dù bây giờ chỉ còn 194.39 km2, trong đó 185.31 km² là rừng. Công viên lấy tên từ khối núi được gọi là "Magura Wątkowska", sau Wtkowa, đỉnh cao nhất của nó. "Magura" cũng là tên của đỉnh cao thứ hai của khối này. Phong cảnh. Cảnh quan của Công viên Quốc gia Magurski là điển hình của sườn núi Beskid Niski và bao gồm chủ yếu là các đỉnh núi thấp và trung bình có rừng rậm. Trong số những sự kì lạ về địa chất, quan trọng nhất là "Diabli Kamień" ("Đá của quỷ") và khu bảo tồn "Kornuty". Phần chính của công viên bao gồm khối núi Magura Wątkowska, với đỉnh Wątkowa cao nhất của nó ở 847m trên mực nước biển. Những ngọn đồi quan trọng khác là Magura (842 m), Wielka Góra (719 m) và Nad Tysowym (713 m). Sông Wisłoka và các nhánh của nó là một trong những yếu tố quan trọng nhất của công viên. Wisłoka là một dòng sông núi điển hình, tạo ra những khe núi đẹp như tranh vẽ và thường xuyên thay đổi hướng đi của nó. Hệ thực vật và động vật. Thảm thực vật là một đặc điểm chuyển tiếp và phản ánh vị trí của công viên - giữa Carpathians phương Đông và phương Tây. Phần lớn của Công viên là rừng. Cây vân sam không phổ biến ở đây, điều đó có nghĩa là rừng là phần lớn tự nhiên.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Magura", "token_count": 427 }
22,007
Title: Vườn quốc gia Magura Hệ động vật ở đây rất phong phú trong - có 137 loài chim, bao gồm một số loài có nguy cơ tuyệt chủng như đại bàng và cú đại bàng cũng như cò. Ngoài ra còn có 35 loài động vật có vú bao gồm gấu nâu (chúng lang thang qua lại giữa Ba Lan và Slovakia), linh miêu, mèo hoang, sói và rái cá. Người ta cũng có thể tìm thấy cá, rắn, kỳ nhông và nhiều côn trùng. Ước tính trong Công viên có 200 loài động vật đang bị đe dọa. Định cư của con người. Dấu vết định cư lâu đời nhất của con người trong khu vực này vẫn là một thành trì tại Brzezowa, trên núi Walik. Nó là một phần của hệ thống các thành trì được xây dựng bởi bộ lạc Wislanie vào thế kỷ thứ 9 ở biên giới phía Nam của vùng đất của họ. Ngoài ra, người ta có thể tìm thấy các nhà thờ Chính thống nhỏ bằng gỗ, được xây dựng bởi Slavic Lemkos phía đông. Thật không may, một số tòa nhà bị hủy hoại. Trong một trong những túp lều của nông dân, tại làng Kolonia Olchowiec, có một bảo tàng nhỏ về văn hóa Lemko. Ngoài ra còn có rất nhiều nghĩa trang từ Thế chiến I, vì khu vực này trong một thời gian dài là một chiến trường giữa quân đội Nga và Áo-Đức. Một lời nhắc nhở bi thảm về Thế chiến II là nghĩa trang của 1250 người Do Thái, người đã bị Đức quốc xã sát hại vào năm 1942 tại đèo Halbów. Công viên có trụ sở tại làng Krempna.
{ "split": 1, "title": "Vườn quốc gia Magura", "token_count": 370 }
22,008
Title: Vườn quốc gia Mercantour Vườn quốc gia Mercantour ("Mễ Cần Thơ", ) là một vườn quốc gia của Pháp. Ngay từ khi được thành lập năm 1979, vườn quốc gia này đã chứng tỏ rất được ưa chuộng. Hàng năm có khoảng 800.000 du khách tới thăm vườn và hưởng thú đi bộ vì vườn có 600 km đường nhỏ dành cho khách bộ hành. Lịch sử. Để bảo vệ hệ động vật, lãnh thổ trung tâm của khối núi Mercantour đã được vua Victor-Emmanuel II xếp vào loại Khu bảo tồn thú săn hoàng gia từ năm 1859, sau đó là khu bảo tồn thú săn năm 1946 theo 1 nghị định của tỉnh trưởng, và Khu bảo tồn năm 1953 theo nghị định của bộ trưởng. Vườn quốc gia được thành lập năm 1979. Từ năm 1987, Vườn quốc gia này kết nghĩa với Vườn vùng lân cận "Parco naturale Alpi Marittime" trên đất Ý (trong khối núi Argentera). Hiện nay đang có kế hoạch nghiên cứu biến 2 Vườn này thành Vườn châu Âu. Địa lý. Diện tích của khu vườn quốc gia Mercantour là 685 km², gồm 1 khu trung tâm không có người cư ngụ bao gồm 7 thung lũng của các sông Roya, Bévéra, Vésubie, Tinée, Var/Cians (trong tỉnh Alpes-Maritimes) và của các sông Verdon, Ubaye (trong tỉnh Alpes-de-Haute-Provence) - cùng một khu ngoại vi gồm 28 làng, trong đó nhiều làng nằm ở nơi cao, che giấu sự phong phú về kiến trúc (nhiều nhà thờ được trang trí bằng những tranh tường và tranh bàn thờ nguyên thủy do các họa sĩ người thành phố Nice vẽ). Hơn 150 cảnh thôn dã trong khu vườn. Quanh núi Bego, có các hình khắc trên mặt đá phiến và đá granit. Các hình này có từ thời đại đồ đá mới và thời đại đồ đồng.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Mercantour", "token_count": 430 }
22,009
Title: Vườn quốc gia Mercantour Khu trung tâm vườn có các ngọn núi bao quanh như Mont Gélas (ngọn cao nhất trong dãy núi Alpes maritimes 3.143 m), Vallée des Merveilles nổi tiếng. Ở chân núi Mont Bégo, người ta có thể chiêm ngưỡng khoảng 37.000 hình khắc trên đá từ thời đại đồ đồng, trong đó có các hình vũ khí, gia súc, hình người, đôi khi rất kỳ bí. Hệ thực vật. Vườn quốc gia Mercantour có nhiều loài thực vật khác nhau, trong đó có sồi đá, ôliu, đỗ quyên, linh sam, vân sam, thông, thông rụng lá, cùng khoảng trên 2.000 loài cây hoa, trong đó khoảng 200 loài khá quý hiếm như sao bạc, huệ tây, tai hùm, cảnh thiên bờ giậu, hoa gấm, long đởm vv... Hệ động vật. Về động vật, vườn này có các loài sơn dương, macmot, chồn ecmin, dê núi Alpes, cừu rừng, hươu, hoẵng, thỏ rừng, heo rừng, chó sói Ý, gà gô, đại bàng, diều mốc vv... cùng nhiều loài khác nữa.
{ "split": 1, "title": "Vườn quốc gia Mercantour", "token_count": 270 }
22,010
Title: Vườn quốc gia Munga-Thirri Vườn quốc gia Munga-Thirri, tên cũ là Vườn quốc gia Sa mạch Simpson, là vườn quốc gia lớn nhất ở Queensland, Úc, Queensland, Australia, 1,495km về phía tây của Brisbane. Vườn quốc gia có diện tích hơn 10.000 km2 trên sa mạc Simpson xung quanh Poeppel Corner phía tây Birdsville và Bedourie ở khu vực Tây Trung bộ. Địa hình. Các đặc điểm chính của công viên là những cồn cát lớn có thể cao 50m và cách nhau khoảng 1km. Hầu hết các cồn cao từ 10 đến 35 m. Dải cát dài nhất có chiều dài 200km. Một trong những cồn cát nổi bật nhất được gọi là 'Big Red' và cách Birdsville 35km về phía tây. [2] Các đụn cát bắt đầu hình thành từ 30.000 năm trước. Cũng được tìm thấy trong công viên là hồ muối và đất sét cứng. Thực vật và động vật. Cảnh quan hỗ trợ đến 180 loài chim. Vườn quốc gia này bao gồm một phần của Vùng chim quan trọng của Vùng Simpson Desert, được BirdLife International xác định vì nó có môi trường sống thích hợp cho Eyrean grasswren.. Những động vật khác có thể nhìn thấy bao gồm dingo, tắc kè và con lạc đà hoang dã. Với sự suy giảm của bất kỳ cơn mưa đáng kể nào đó sẽ có sự chuyển đổi của hoa dại. Du lịch. Khách tham quan được khuyến khích đến thăm từ tháng 4 đến tháng 10 để tránh nhiệt độ ban ngày quá cao và đi du lịch trong một bữa tiệc có hai bên với thiết bị liên lạc đường dài. [1] Một chiếc xe 4 bánh là cần thiết để đi qua vườn quốc gia. Không có đường trong vườn quốc gia này. Đường chính được gọi là QAA Line. Mùa đông có thể đóng băng, trong khi nhiệt độ vào mùa hè có thể nóng tới 50 °. Cắm trại được phép trong phạm vi 500m của Đường QAA. Xe không được rời khỏi đường chính.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Munga-Thirri", "token_count": 456 }
22,011
Title: Vườn quốc gia Munga-Thirri Cơ quan kiểm lâm quản lý vườn quốc gia này có trụ sở tại Birdsville thỉnh thoảng đóng công viên khi những con sông ngập nước gây nguy hiểm cho khách du lịch. Số lượng khách du lịch ngày càng tăng đã cạn kiệt nguồn cung cấp gỗ đến mức mà các động vật bản địa có thể bị ảnh hưởng. Điều này đã dẫn đến các nhà chức trách khuyến khích việc sử dụng lò bếp gas. Lịch sử. Thổ dân đã sống trong khu vực từ nhiều thế hệ. Họ sống sót trong điều kiện khô ráo bằng cách đào ngập trong những trầm cảm giữa các cồn cát, một số trong đó sâu 7m. David Lindsay là người không phải là thổ dân đầu tiên vượt qua khu vực trung tâm và miền nam của sa mạc Simpson vào năm 1886. Cho đến năm 1936, Ted Colson vượt qua chiều dài của sa mạc. Một vườn quốc gia ở sa mạc lần đầu tiên được đề nghị vào năm 1965 bởi Hiệp hội các Vườn quốc gia. Công viên đã được mở rộng về phía bắc vào năm 1991. Việc mở rộng bao gồm các vùng đất khô cằn với một phạm vi đa dạng hơn của thảm thực vật.
{ "split": 1, "title": "Vườn quốc gia Munga-Thirri", "token_count": 261 }
22,012
Title: Vườn quốc gia Núi Đen Vườn quốc gia Núi Đen là một vườn quốc gia ở bang Queensland, Úc, cách thành phố Brisbane 1.539 km về phía tây bắc, và cách thành phố Cooktown 21 km dọc theo đường Mulligan Highway. Điểm hấp dẫn nhất của vườn quốc gia này là một ngọn núi gồm các tảng đá mòn granite màu đen, cao 1 km. Các khoảng cách giữa các tảng đá này thường rất lớn, trong đó nhiều khoảng cách dẫn tới các hang động. Các hang động này là nơi sinh sống của loài dơi. Một số người được cho là đã mất tích khi vào thám hiểm các hang động này. Chỉ có một người thám hiểm các hang này đã tìm được lối ra. Ông ta mô tả các hang này như một mạng lưới địa ngục, và nói sẽ không bao giờ trở lại đây.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Núi Đen", "token_count": 192 }
22,013
Title: Vườn quốc gia Núi lửa Isluga Vườn quốc gia Núi lửa Isluga () là một vườn quốc gia nằm trong dãy núi Andes, trong khu vực Tarapacá, gần với Colchane và nằm về phía nam của Khu dự trữ sinh quyển Lauca. Nó có diện tích 1.747 km² với độ cao dao động từ 2.100 đến 5.550 mét. Vườn quốc gia được đặt theo tên của Núi lửa Isluga cao 5.550 mét, và là ngọn núi cao nhất ở vườn quốc gia. Ngoài ra, một số đỉnh núi khác trong vườn quốc gia bao gồm Qinsachata, Tatajachura và Catarama. Cư dân chính tại đây là các loài thực vật núi cao, chủ yếu là xương rồng và "Polylepis". Ngoài ra, đây còn là nơi mang giá trị văn hóa của người Aymara bao gồm một số khu vực tổ chức nghi lễ như nhà thờ Isluga.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Núi lửa Isluga", "token_count": 208 }
22,014
Title: Vườn quốc gia Nanda Devi Vườn quốc gia Nanda Devi hay Khu dự trữ sinh quyển Nanda Devi là một vườn quốc gia được thành lập vào năm 1982 bao gồm khu vực tự nhiên xung quanh đỉnh Nanda Devi (7.816 mét) ở bang Uttarakhand, miền bắc Ấn Độ. Toàn bộ vườn quốc gia nằm ở độ cao trên so với mực nước biển trung bình. Vườn quốc gia được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 1988 trước khi được mở rộng thêm Vườn quốc gia Thung lũng các loài hoa vào năm 2005 đổi thành Nanda Devi và Vườn quốc gia Thung lũng các loài hoa. Trong ranh giới vườn quốc gia là Khu bảo tồn Nanda Devi, một lưu vực sông băng được bao quanh bởi các đỉnh núi cao và , đổ qua hẻm núi Rishi Ganga. Vườn quốc gia nằm trong khu dự trữ sinh quyển Nanda Devi có diện tích và một vùng đệm xung quanh của Nanda Devi và Vườn quốc gia Thung lũng các loài hoa rộng Thời gian tốt để tham quan vườn quốc gia là vào tháng 5-10. Lịch sử. Nỗ lực khám phá khu bảo tồn được ghi nhận đầu tiên là từ W. W. Graham vào năm 1883, người chỉ có thể tới được hẻm núi Rishi Ganga. Những nỗ lực khác của các nhà thám hiểm sau đó gồm của T. G. Longstaff (năm 1870), Hugh Ruttledge (vào các năm 1926, 1927 và 1932) đã không đem đến kết quả tốt. Eric Shipton và H. W. Tilman đã tiến vào bên trong khu bảo tồn từ hẻm núi Rishi Ganga vào năm 1934, mở ra cuộc thám hiểm vào sâu được bên trong nó. Đến năm 1939, khu bảo tồn được tuyên bố là một khu bảo tồn trò chơi. Động thực vật. Thực vật.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Nanda Devi", "token_count": 413 }
22,015
Title: Vườn quốc gia Nanda Devi Vườn quốc gia là nơi có 312 loài hoa trong đó có 17 loài quý hiếm. Những loài thực vật chính tại đây gồm Linh sam, Bạch dương, Đỗ quyên và Bách xù. Đi sâu vào trong vườn quốc gia là khu vực núi cao có sự xuất hiện của những sông băng nên thảm thực vật ở đây khan hiếm và chủ yếu là các loài cây chịu khô hạn gồm Thông, Rêu, các loài Địa y và một số loài hoa đáng chú ý khác. Động vật. Nanda Devi có một số loài động vật có vú đáng chú ý gồm Hươu xạ bụng trắng, Sơn dương lục địa, Dê núi sừng ngắn Himalaya. Động vật ăn thịt đặc trưng bởi các loài Báo tuyết, Gấu đen Himalaya và có thể là cả Gấu nâu. Voọc Ấn Độ được tìm thấy trong vườn quốc gia còn loài Khỉ đốm được thấy tại khu vực lân cận giáp ranh. Trong cuộc thám hiểm năm 1993, có 114 loài chim đã được ghi nhận tại Nanda Devi.
{ "split": 1, "title": "Vườn quốc gia Nanda Devi", "token_count": 233 }
22,016
Title: Vườn quốc gia Narew Vườn quốc gia Narew () là một vườn quốc gia ở tỉnh Podlaskie, đông bắc Ba Lan, có sông Narew chảy qua. Tổng diện tích vườn quốc gia có diện tích , trong đó chỉ có 20,57 km² thuộc sở hữu nhà nước. Vườn quốc gia Narew được thành lập năm 1996. Vườn quốc gia này nằm ở thượng thung lũng Narew, một khu vực đầm lầy giữa các thị xã Suraz và Rzedziany. Khoảng 90% diện tích khu vực vườn quốc gia này là đầm lầy hay vùng ngập nước. Ngoài sông Narew ra, ở đây còn có các sông nhỏ khác như Liza, Szeroka Struga, Awissa, Kurówka, Kowalówka, Turośnianka và Czaplinianka. Khu vực này có 179 loài chim, động vật có vú có 40 loài, có 22 loài cá. Vườn quốc gia Narew là một trong những vùng đất ngập nước được bảo vệ theo công ước Ramsar. Trong khu vực vườn có một bảo tàng khảo cổ tư nhân thuộc sở hữu của Władysław Litwinczuk. Khu vực quản lý nằm ở làng Kurowo. Vùng đệm có một khu vực bảo vệ ít nghiêm ngặt hơn với tên gọi công viên cảnh quan Narew. Liên kết ngoài. <br>
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Narew", "token_count": 307 }
22,017
Title: Vườn quốc gia Nuristan Vườn quốc gia Nuristan là một vườn quốc gia nằm tại tỉnh Nuristan, Afghanistan. Được thành lập vào ngày 5 tháng 6 năm 2020, trùng với ngày Môi trường Thế giới, đây là vườn quốc gia thứ ba tại Afghanistan sau Band-e Amir và Wakhan. Lịch sử. Một đề xuất ban đầu đã được soạn thảo vào năm 1981 với việc vườn quốc gia Nuristan sẽ được thành lập bao gồm tỉnh Kunar và Laghman. Ranh giới không bao gồm phần của tỉnh Nuristan mãi cho đến tháng 7 năm 1988 khi khu rừng chắn gió mùa tại đây được nhấn mạnh trong một báo cáo là không bị xáo trộn cũng như một tập hợp nhiều loài động vật hoang dã, kết hợp với lối sống truyền thống của người dân địa phương. Mặc dù báo cáo của Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc năm 2003 cho rằng 52% diện tích rừng bao phủ Nuristan, Laghman và Nangahar đã biến mất từ ​​năm 1977 đến 2002 và cơ quan này cũng đã đưa ra những cảnh báo về tình trạng khai thác gỗ bất hợp pháp tại đây. Năm 2008, Hiệp hội bảo tồn Động vật hoang dã đã có một báo cáo về sự hiện diện của nhiều loài động vật hoang dã tại khu vực này. Địa lý. Vườn quốc gia bao gồm toàn bộ vùng núi phía đông của tỉnh Nuristan, giáp biên giới Pakistan. Nó cũng bao gồm một phần của sông Pech và thung lũng Waygal. Động thực vật. Vườn quốc gia là nơi có một khu rừng gió mùa không bị xáo trộn. Đây là nơi trú ẩn quan trọng của báo tuyết, gấu đen Himalaya, sơn dương núi Pakistan, mèo báo, sói xám, chó rừng lông vàng, chồn họng vàng, nhím mào Ấn Độ cùng một số loài họ Mèo khác. Khu vực thung lũng Waygal được chỉ định là một vùng chim quan trọng, nơi sinh sống và sinh sản của ít nhất 53 loài.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Nuristan", "token_count": 427 }
22,018
Title: Vườn quốc gia Río Pilcomayo Vườn quốc gia Río Pilcomayo (tiếng Tây Ban Nha: "Parque Nacional Río Pilcomayo") là một vườn quốc gia nằm ở phía đông bắc của Argentina, thuộc tỉnh Formosa, trên khu vực biên giới với Paraguay. Vườn quốc gia được thành lập vào ngày 29 tháng 9 năm 1951 để bảo vệ các đặc điểm tự nhiên nơi đây như các khu vực đồng cỏ, đầm lầy, suối, hồ và rừng, điển hình của vùng sinh thái ẩm đồng bằng Chaco. Đây cũng là khu vực nằm trong danh sách các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế theo Công ước Ramsar. Tự nhiên. Địa hình. Nơi đây chiếm một diện tích lớn là đồng bằng, được hình thành từ Đại Cổ sinh và được đá tinh thể lấp đầy với các trầm tích hữu cơ và vô cơ, do đó tạo ra một bể trầm tích. Phần phía đông của vườn quốc gia bị chi phối bởi bùn và đất sét, tạo thành khu vực ít thấm nước, trong khi các phần phía tây chứa đất tơi và xốp hơn. Tại đây có đường đứt gãy đã được tạo ra trong quá trình kiến tạo của dãy núi Andes, nằm ​​song song với sông Paraguay. Địa hình vườn quốc gia là có độ dốc thoải xuống từ Tây sang Đông, có ít sự thay đổi về độ cao. Chính vì lẽ đó, trong thời gian mưa lớn và lũ lụt, khu vực này trở nên tràn ngập các hồ chứa nước được kết nối bằng các kênh rạch hình thành trong vùng thấp. Nguồn nước chính cung cấp cho khu vực chính là từ sông Pilcomayo. Cuối phía nam của vườn quốc gia có một hồ chứa nước lớn là Laguna Blanca, là môi trường sống cho nhiều loài chim di trú từ Bắc bán cầu. Khí hậu. Nơi đây có khí hậu cận nhiệt đới với nhiệt độ trung bình hàng năm là 23 °C (73 °F) và lượng mưa trung bình hàng năm 1.200 mm (47 in). Nhiệt độ mùa hè có thể vượt quá 40 °C (104 °F), nhưng trong mùa đông, tại đây có sương giá. Mùa đông khô, trong khi mưa chủ yếu trong tháng 3 và tháng 11. Động thực vật. Thực vật của vườn quốc gia được chia thành 4 khu vực riêng biệt.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Río Pilcomayo", "token_count": 507 }
22,019
Title: Vườn quốc gia Río Pilcomayo Vùng thảo nguyên bị chi phối bởi những cây Cọ thuộc loài "Copernicia alba" cao trót vót, cùng với những cây bụi thân thảo thuộc chi "Scirpus" cùng với các loài Họ Đậu như "Acacia caven" và "Prosopis nigra". Vùng đầm lầy bị chi phối bởi các loài thực vật thủy sinh nổi bao gồm: Bèo tây, Họ Kèo nèo, Họ Bá vương, Anh thảo nước.. Khu vực tiếp giáp với sông Pilcomayo thường xuyên bị ngập lụt bị chi phối bởi thực vật ven sông bao gồm các loài dây leo phụ sinh, thực vật biểu sinh, sung, "Ocotea". Thảm thực vật vùng cao hơn, tại các "hòn đảo" được tạo ra trong quá trình ngập lụt với sự hiện diện của cây Quebracho. Về động vật, đây là nhà của nhiều loài động vật có vú như: Hươu xám nhỏ, khỉ rú, báo sư tử,Lợn lòi Pecari, Chuột lang nước.. các loài chim Chim Chachalaca, Gà nước. Tại các vùng thấp là sự có mặt của Sói bờm, Đà điểu Nam Mỹ lớn, Chim mào bắt rắn. Môi trường nước là nơi sinh sống của cò, diệc, Cò thìa hồng và Vịt. Các loài cá có Cá sấu Caiman mõm lớn và Cá sấu Caiman Yacare cùng các loài rắn nước và trăn.
{ "split": 1, "title": "Vườn quốc gia Río Pilcomayo", "token_count": 352 }
22,020
Title: Vườn quốc gia Shannon Vườn quốc gia Shannon là một vườn quốc gia ở bờ biển phía Nam của Western Australia, về phía nam Perth và về phía đông nam Manjimup. Nó được tuyên bố là một vườn quốc gia vào năm 1988. Vườn quốc gia này bao gồm toàn bộ lưu vực sông Shannon. Khu vực này có các đầm lầy giàu sinh học và các khu heathlands cũng như sự phát triển cũ và các khu rừng karri tái sinh. Khu vực này phần lớn vẫn bị ảnh hưởng bởi việc khai thác gỗ cho đến những năm 1940 do sự không thể tiếp cận được của khu vực. Một nhà máy gỗ và thị trấn Shannon được thành lập vào giữa những năm 1940 do thiếu gỗ trong Thế chiến II. Thị trấn đã từng khoe khoang hơn 90 ngôi nhà và một hội trường, bưu điện, nhà thờ và trạm y tá. Một con đập được xây dựng vào năm 1949 để đảm bảo cung cấp nước trong những tháng hè. Các nhà máy cuối cùng đóng cửa vào năm 1968 và các ngôi nhà đã được bán và di chuyển rời khỏi townsite trống rót và một khu cắm trại bây giờ đứng là thị trấn đã từng làm. Khu vực được công nhận là một vườn quốc gia vào năm 1988 và hiện nay là một phần của Vùng hoang mạc Walpole. Khu cắm trại có nhà vệ sinh, bếp nướng khí đốt, vòi hoa sen nước nóng và hai dãy nhà có sẵn cho các trại viên trên cơ sở người đến trước được phục vụ trước tiên. Phí nhập cảnh áp dụng cho vườn quốc gia. Một chuyến đi chưa mở 48 km (30 mi) được gọi là Great Forest Trees Drive đã được hoàn thành vào năm 1996 và cung cấp cho du khách cơ hội để xem nhiều đặc điểm của công viên. Có các điểm dừng thông tin, các khu dã ngoại và các lối đi dọc theo đường lái xe.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Shannon", "token_count": 404 }
22,021
Title: Vườn quốc gia Tarutao Vườn quốc gia Biển Tarutao () bao gồm 51 đảo tọa lạc tại Biển Andaman, ngoài bờ biển của tỉnh Satun của phía Nam Thái Lan. Vườn quốc gia này bao gồm hai nhóm đảo: Tarutao () và Adang-Rawi (), rải rác từ 20 đến 70 km từ điểm cực Tây Nam của đất liền Thái Lan. Diện tích của vườn là 1490 km² (1260 km² biển và 230 km² đảo), Điểm cực Nam của vườn nằm ở biên giới với Malaysia. Tarutao đã trở thành vườn đại dương quốc gia của Thái Lan ngày 19 tháng 4 năm 1974. Từ "Tarutao" là tiếng Mã Lai có nghĩa là "xưa, nguyên thủ, bí ẩn". Trong khu vườn này có khu vực lặn thể thao. Các đảo chính. Có 7 hòn đảo đáng chú ýe trên quần đảo Tarutao/Adang-Rawi: Lịch sử. Vườn này được lập năm 1974. Năm 1982, vườn này được công nhận là Vườn di sản ASEAN. Vườn này cũng được đệ trình lên UNESCO để công nhận là di sản thế giới năm 1990 nhưng bị hoãn lại tại kỳ họp thứ 50 của Hội đồng Di sản Thế giới năm 1991. UNESCO yếu cầu quản lý mạnh mẽ hơn khu vực này.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Tarutao", "token_count": 294 }
22,022
Title: Vườn quốc gia Tatra, Slovakia Vườn quốc gia Tatra, Slovakia (tiếng Slovak: "Tatranský národný park," viết tắt: TANAP) là một trong chín vườn quốc gia nổi tiếng ở Slovakia, được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1949 (trong khi Vườn quốc gia Tatra ở Ba Lan được thành lập vào năm 1954). Đây cũng là vườn quốc gia lâu đời nhất ở Slovakia, với diện tích khu vực chính là 738 km² và diện tích khu vực bảo vệ là 307 km² (tổng diện tích là 1.045 km²). Vườn quốc gia có 600 km đường mòn đi bộ đường dài và 16 con đường dành cho xe đạp (được đánh dấu và bảo trì). Vị trí. Vườn quốc gia này nằm trên dãy núi Tatra. Đây cũng là dãy núi tạo thành biên giới tự nhiên giữa Slovakia và Ba Lan, và cũng là dãy núi cao nhất trong dãy núi Karpat. Vai trò. Vai trò chính của Vườn quốc gia Tatra, Slovakia gồm: Năm 1992, cả 2 Vườn quốc gia Tatra (TANAP ở Slovakia và TPN ở Ba Lan) được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới và có tầm quan trọng toàn cầu.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Tatra, Slovakia", "token_count": 282 }
22,023
Title: Vườn quốc gia Torndirrup Vườn quốc gia Torndirrup là một vườn quốc gia ở Tây Úc, Úc, cự ly về phía đông nam Perth và qua xa lộ Frenchman Bay có khoảng cách về phía nam Albany. Vườn quốc gia Torndirrup có nhiều thành hệ đá ấn tượng trên bờ biển. Chúng bao gồm Gap, Natural Bridge và Blowholes tất cả đều được tạo hình từ granit địa phương. Công viên nằm dọc theo bờ biển về phía tây của King George Sound và bao gồm một loạt các vách đá, những con hải lưu, lỗ hổng, bãi biển và bán đảo. Lịch sử. Khu vực này bao gồm ba loại đá chính, một trong số đó là gneiss. Lâu đời nhất trong số này được hình thành từ 1300-1600 triệu năm trước. Loại đá này có thể được nhìn thấy dọc theo các vách đá của Gap. Các đá granite được hình thành sau đó khi tấm Úc va chạm với Mảng Nam Cực 1160 triệu năm trước vì đá nóng chảy lên bề mặt. Những đá granit này có thể nhìn thấy được ở các đỉnh trên đỉnh Stony Hill. Vườn quốc gia được công bố vào năm 1918, một trong những công trình đầu tiên ở Tây Úc. Nó được đặt tên vào năm 1969 với cái tên của một gia tộc bản địa Úc sống trong khu vực. Người kiểm lâm đầu tiên được bổ nhiệm vào năm 1973. Đây là vườn quốc gia thường được du khách ghé thăm nhất ở Tây Úc, with approximately 250,000 visitors per annum. với khoảng 250.000 du khách mỗi năm. Trong năm 2010, một vụ cháy rừng lớn đã xảy ra trên diện tích 700 hecta (1.730 mẫu Anh) trong khu vực và gây ra việc đóng cửa con đường Frenchman Bay cách biệt khách du lịch và cư dân của khu vực. Vào năm 2015, một ngọn lửa khác đã đốt cháy được 616 hecta bụi đất giữa Stony Hill và Blowholes bao gồm phá hủy các quần thể quan trọng của loài "Banksia verticillata" đang bị đe dọa nghiêm trọng.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Torndirrup", "token_count": 447 }
22,024
Title: Vườn quốc gia Udegeyskaya Legenda Vườn quốc gia Udegeyskaya Legenda () (còn được gọi là Udege Legend) là một vườn quốc gia nằm trên những khu rừng rụng lá phong phú của sườn phía tây Sikhote-Alin, thuộc Krasnoarmeysky, Primorsky, Primorsky, Viễn Đông Nga. Sikhote-Alin là một dãy núi chạy theo hướng bắc-nam qua Primorsky. Vườn quốc gia được thiết lập để bảo vệ môi trường sống của những thung lũng sông sườn dốc phía tây và hỗ trợ văn hóa rừng của người Udege bản địa. Khu vực này được biết đến với hoạt động câu cá và chèo thuyền trên sông suối. Nó cũng là nơi ẩn náu của loài hổ Amur đang bị đe dọa. Vườn quốc gia này nằm cách thành phố Vladivostok khoảng 520 km về phía tây nam và Khabarovsk 440 km về phía tây bắc. Khu vực biển Nhật Bản tương đối ấm áp ở phía đông, bán đảo Triều Tiên ở phía nam còn phía tây gần với biên giới Trung Quốc. Địa hình. Vườn quốc gia này nằm ở trung điểm giữa nhiều khu vực bảo vệ tự nhiên khác. Phía đông là Khu bảo tồn thiên nhiên Sikhote-Alin nằm ở sườn đông dãy núi và lưu vực sông Amur. Về phía nam là hai khu bảo tồn tự nhiên khác Vườn quốc gia Zov Tigra và Khu bảo tồn thiên nhiên Lazovsky, về phía bắc là Vườn quốc gia Anyuysky cùng một số khu bảo tồn khác. Địa hình dao động từ 180 mét ở các vùng đất thấp ven sông cho đến đỉnh núi đạt 1.330 mét.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Udegeyskaya Legenda", "token_count": 394 }
22,025
Title: Vườn quốc gia Udegeyskaya Legenda Các con sông chảy trong khu vực này là sông Armu và sông Bolshaya Ussurka chảy về phía tây đổ vào sông Ussuri trước khi hòa vào dòng sông Amur đổ ra biển Okshotsk. Thung lũng sông chính của Ussurka chạy hướng về phía bắc-đông bắc, dọc theo đứt gãy Sikhote-Alin, nó có thể vượt qua bằng những chiếc thuyền nhỏ ở khu vực thấp hơn, với khúc sông cong và đầm lầy. Các thung lũng sông quanh co có độ dốc trung bình từ 10-15 nhưng thường là từ 15-25 độ. Ở thượng nguồn của dòng sông là những mỏn đá rất hiếm. Thung lũng sông Armu hai bên là là đá và dốc có nhiều ghềnh và thác nước.
{ "split": 1, "title": "Vườn quốc gia Udegeyskaya Legenda", "token_count": 191 }
22,026
Title: Vườn quốc gia Vesuvius Vườn quốc gia Vesuvius () là một vườn quốc gia nằm tại Ý, xung quanh khu vực tự nhiên của núi lửa Vesuvius đang hoạt động ở phía đông nam thành phố Napoli. Được thành lập vào ngày 5 tháng 6 năm 1995, vườn quốc gia có diện tích 135 km vuông. Trung tâm của vườn quốc gia là Monte Somma được biết đến là miệng núi lửa cổ xưa nhất không còn hoạt động và Vesuvius là ngọn núi lửa hiện vẫn còn hoạt động, được biết đến là nguyên nhân đã phá hủy thành phố Pompeii. Vườn quốc gia là nhà của 612 loài thực vật cùng 227 loài động vật hoang dã.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Vesuvius", "token_count": 150 }
22,027
Title: Vườn quốc gia Villarrica Vườn quốc gia Villarrica là một vườn quốc gia nằm ở dãy núi Andes, thuộc các vùng Araucanía và Los Ríos, Chile. Trung tâm của vườn quốc gia là ba ngọn núi lửa nằm ngang kéo dài đến dãy Andes là Villarrica, Quetrupillán, và Lanín. Các ngọn núi khác trong vườn quốc gia này còn có núi lửa Quinquilil (còn được gọi là "Colmillo del Diablo", cao 2.050 mét), và Cerro Las Peinetas, nằm ​​trên biên giới giữa Argentina và Chile. Địa hình vườn quốc gia dao động từ 600 - 3.776 mét (1.969 - 12.388 ft) với điểm cao nhất là tại đỉnh Lanín. Việc phân chia đường phân thủy giữa lưu vực sông Toltén và sông Valdivia chạy qua vườn quốc gia tạo thành ranh giới giữa Cautín với Valdivia. Vườn quốc gia là một phần của Khu dự trữ sinh quyển Rừng mưa ôn đới Nam Andes ("Bosques Templados Lluviosos de los Andes Australes"). Tự nhiên. Vườn quốc gia này bảo vệ vùng sinh thái Rừng mưa ôn đới Valdivian. Các loài thực vật bao gồm "Roble" ("Nothofagus obliqua") và "Raulí" ("Nothofagus alpina") ở khu vực có độ cao thấp hơn trong khi loài "Coihue" ("Nothofagus dombeyi") có mặt tại khu vực ẩm ướt nhất. Khu vực núi cao bị chi phối bởi những cánh rừng "Araucaria" ("Araucaria araucana"). Về động vật, đây là môi trường sống của các loài động vật hoang dã như sư tử, Cáo xám Argentina, Cáo Nam Mỹ, Pudu, Rái cá sông, Diều Harris, Chồn Grisons, chồn hôi mũi heo Molina, và Monito del monte.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Villarrica", "token_count": 424 }
22,028
Title: Vườn quốc gia Yok Đôn Vườn quốc gia Yok Đôn là một trong những khu rừng đặc dụng lớn nhất Việt Nam, thuộc 2 tỉnh Đắk Nông và Đắk Lắk. Vị trí địa lý. Vườn quốc gia Yok Don nằm trên địa bàn 7 xã thuộc 3 huyện: Xã Krông Na, huyện Buôn Đôn, xã Ea Bung, Chư M'Lanh huyện Ea Súp (tỉnh Đắk Lắk) và xã Ea Pô huyện Cư Jút (tỉnh Đăk Nông); vườn cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 40 km về phía tây bắc. Vườn quốc gia Yok Don được phê duyệt theo quyết định số 352/CT ngày 29 tháng 10 năm 1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam với mục đích bảo vệ 58.200 ha hệ sinh thái rừng khộp đất thấp. Ngày 24 tháng 6 năm 1992 Bộ Lâm nghiệp ra quyết định 301/TCLĐ thành lập Vườn quốc gia Yok Don trực thuộc Bộ Lâm nghiệp. Vườn quốc gia Yok Don được mở rộng theo quyết định số 39/2002/QĐ-TTg ngày 18 tháng 3 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam. Toạ độ địa lý: Từ 12°45′ đến 13°10′ vĩ bắc và từ 107°29′30″ đến 107°48′30″ kinh đông. Quy mô diện tích: Được mở rộng với diện tích 115.545 ha, trong đó phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là 80.947 ha, phân khu phục hồi sinh thái là 30.426 ha và phân khu dịch vụ hành chính là 4.172 ha. Vùng đệm: có diện tích 133.890 ha, bao gồm các xã bao quanh Vườn quốc gia. Vườn nằm trên một vùng tương đối bằng phẳng, với hai ngọn núi nhỏ ở phía nam của sông Serepôk. Rừng chủ yếu là rừng tự nhiên, phần lớn là rừng khộp. Yok Don cũng là vườn quốc gia duy nhất ở Việt Nam bảo tồn loại rừng đặc biệt này. Ranh giới của vườn quốc gia này như sau: Đa dạng sinh học.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia Yok Đôn", "token_count": 464 }
22,029
Title: Vườn quốc gia Yok Đôn Nơi đây có 89 loài động vật có vú, 305 loài chim, 48 loài bò sát, 16 loài lưỡng cư, 858 loài thực vật, hàng trăm loài cá nước ngọt và hàng ngàn loài côn trùng. Vườn có voi rừng, trâu rừng và bò tót, báo gấm, báo hoa mai, lợn rừng... Đây là nơi trú ngụ của một số loài động vật nguy cấp mang tính toàn cầu như: bò xám ("Bos sauveli"), mang lớn ("Megamuntiacus vuquangensis"), nai cà tông ("Cervus eldi"), bò banteng ("Bos javanicus"), voi châu Á ("Elephas maximus"), hổ ("Panthera tigris"), sói đỏ ("Cuon alpinus") và chà vá chân đen ("Pygathris nigripes"). Công tác điều tra vẫn đang tiếp tục, nhưng các kết quả nghiên cứu cho thấy vườn quốc gia Yok Đôn là một trong những nơi có khu hệ chim phong phú nhất Đông Dương. Các vấn đề. Ngành lâm nghiệp, chính quyền các cấp và ban quản lý vườn quốc gia Yok Don có nhiều nỗ lực trong quản lý bảo tồn đa dạng sinh học của vườn nhưng vẫn phải đối mặt với trạng săn bắt, xâm lấn đất đai và nguy cơ cháy rừng. Bên cạnh đó, xung quanh vườn còn tồn tại nhiều khu rừng rộng lớn, trong đó phần lớn được giao để khai thác gỗ thương phẩm do các lâm trường quốc doanh quản lý.
{ "split": 1, "title": "Vườn quốc gia Yok Đôn", "token_count": 331 }
22,030
Title: Vườn quốc gia cao nguyên Blackdown Vườn quốc gia Blackdown Tableland là một vườn quốc gia ở bang Queensland, Úc, cách thành phố Brisbane 576 km về phía tây bắc. Đây là một cao nguyên sa thạch cao 600 m, thình lình nổi lên từ khu đồng bằng bên dưới. Cao nguyên này có khí hậu địa phương ôn hòa hơn vùng đồng bằng chung quanh, có các rừng cây, bãi thạch nam, dương xỉ cùng nhiều cây và động vật khác; trong số đó có nhiều cây và động vật không tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác. Khu vực này là nơi cư ngụ truyền thống của người Ghungalu, một bộ tộc thổ dân. Trong vườn cũng có các hình khắc trên đá.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia cao nguyên Blackdown", "token_count": 163 }
22,031
Title: Vườn quốc gia núi Rinjani Vườn quốc gia Núi Rinjani là một vườn quốc gia trên đảo Lombok thuộc tỉnh Tây Nusa Tenggara, Indonesia. Vườn quốc gia này có diện tích khoảng và bao gồm các vùng núi. Nó được lấy theo tên của ngọn núi Rinjani ("Gunung Rinjani"), là ngọn núi lửa cao thứ ba của Indonesia với độ cao nằm bên trong vườn quốc gia. Động thực vật. Vườn quốc gia này là nơi sinh sống của nhiều loài thực vật có nguy cơ tuyệt chủng như: "Pterospermum", nhạc ngựa, sung kiêu, lát khét, "Vanda", "Usnea" và "Anaphalis". Ngoài ra còn có nhiều loài động vật quý hiếm được bảo vệ trong vườn quốc gia này, bao gồm vẹt mào, khỉ Surili, nhím Sunda, mang Ấn Độ, nai nhỏ Indonesia.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia núi Rinjani", "token_count": 199 }
22,032
Title: Vườn quốc gia sông Fitzgerald là một vườn quốc gia ở Tây Úc, Úc. Nó nằm cách về phía đông nam của Perth. Mô tả. Vườn quốc gia bao gồm các dãy núi Barren (Đông, Trung và Tây Barren), dãy Eyre và sông Fitzgerald. Nó là vùng lõi của khu dự trữ sinh quyển Sông Fitzgerald được UNESCO công nhận từ năm 1978. Có 62 chi thực vật có có mặt trong khu vực rộng 329.882 ha (815.160 mẫu Anh) và 48 loài khác hiếm khi được tìm thấy ở những nơi khác. Vườn quốc gia ghi nhận gần 40.000 lượt khách ghé thăm vào năm 2008, nhận được 20 triệu đôla tài trợ từ kế hoạch kích thích kinh tế của Chính phủ Liên bang và thêm 20 triệu đôla của chính quyền bang. Khoản đầu tư sẽ được sử dụng để tái phát triển và cải thiện đường trong công viên, xây dựng đường đi bộ từ thị trấn Bremer Bay đến Hopetoun và nâng cấp các cơ sở giải trí hiện có. Point Ann là một trong hai địa điểm ven biển ở Úc (cùng với vịnh Head of the Bight) mà những con Cá voi trơn phương nam đến sinh sản trong cuộc di cư vào mùa đông. Động thực vật. Khu vực này có hơn 1800 loài thực vật với 250 loài trong số này rất hiếm và 62 loài chỉ được tìm thấy trong ranh giới vườn quốc gia. Một số loài đáng chú ý gồm "Hakea victoria", "Pimelea physodes", "Banksia coccinea", "Banksia speciosa", "Eucalyptus preissiana", "Verticordia", "Eucalypt". Ba quần thể loài bạch đàn có mặt trong vườn quốc gia với số lượng khoảng 140 cây. Một loài nguy cấp là "Boronia clavata" có mặt trong vườn quốc gia bao gồm 5 quần thể có tổng số khoảng 100 cây. Hai loài có nguy cơ tuyệt chủng khác là "Ricinocarpos" và "Grevillea" cũng được tìm thấy tại đây.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia sông Fitzgerald", "token_count": 443 }
22,033
Title: Vườn quốc gia sông Fitzgerald Vườn quốc gia là nơi sinh sống của 22 loài động vật có vú, 200 loài chim, 41 loài bò sát và 12 loài ếch. Nó được xếp hạng là vùng chim quan trọng. Đáng chú ý trong số này có cu đất châu Úc, vẹt đêm phương Đông. Các loài chim di trú khác có đại bàng bụng trắng, yến hông trắng, nhàn Caspi. Các loài động vật có vú đáng chú ý gồm chuột Dibbler, chuột túi Tammar, chuột túi Woylie, chuột Bandicoot nâu phương Nam, mèo túi phía Tây, chuột Phascogale tai đỏ.
{ "split": 1, "title": "Vườn quốc gia sông Fitzgerald", "token_count": 151 }
22,034
Title: Vườn quốc gia Vườn quốc gia hay công viên quốc gia là một khu vực đất hay biển được bảo tồn bằng các quy định pháp luật của chính quyền sở tại. Vườn quốc gia được bảo vệ nghiêm ngặt khỏi sự khai thác, can thiệp bởi con người. Vườn quốc gia thường được thành lập ở những khu vực có địa mạo độc đáo có giá trị khoa học hoặc những khu vực có hệ sinh thái phong phú, có nhiều loài động-thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao cần được bảo vệ nghiêm ngặt trước sự khai thác của con người. Các vườn quốc gia là một khu vực được bảo vệ theo quy định của IUCN loại II. Vườn quốc gia lớn nhất thế giới là Vườn quốc gia Đông Bắc đảo Greenland được thành lập năm 1974. Định nghĩa. Theo định nghĩa của Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN) thì vườn quốc gia là: Theo quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam, thay thế cho Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ngày 11 tháng 1 năm 2001 về Quy chế quản lý rừng thì vườn quốc gia là một dạng rừng đặc dụng, được xác định trên các tiêu chí sau: Lịch sử.
{ "split": 0, "title": "Vườn quốc gia", "token_count": 281 }
22,035
Title: Vườn quốc gia Ý tưởng về việc thiết lập cảnh quan thiên nhiên đáng được bảo vệ cụ thể nào đó dưới sự bảo vệ có nguồn gốc từ đầu thế kỷ 19. Nhà thơ người Anh William Wordsworth năm 1810 đã viết về hồ District như là "một loại tài sản quốc gia trong đó mọi người có quyền và lợi ích, những người có mắt để nhận biết và trái tim để thưởng thức". Họa sĩ Mỹ George Catlin năm 1832, trong những chuyến đi về miền tây nước Mỹ, đã viết rằng thổ dân Bắc Mỹ tại Hoa Kỳ cần được bảo toàn: "bằng một số chính sách bảo vệ lớn của chính quyền... trong khu vườn tráng lệ... Một vườn quốc gia, chứa người và động vật, tất cả trong sự hoang dã và trong sạch của vẻ đẹp tự nhiên của họ!". Nam tước Thụy Điển gốc Phần Lan Adolf Erik Nordenskiöld cũng đưa ra ý kiến tương tự vào năm 1880. Nhà tự nhiên học người Mỹ gốc Scotland John Muir cũng đã đưa ra các cảm hứng trong việc thiết lập các vườn quốc gia, đề cập tới nhiều ý tưởng của các phong trào bảo tồn, môi trường và quyền động vật sau này. Ý tưởng chung của họ là giữ lại những điều kỳ diệu của thiên nhiên sao cho các thế hệ tương lai có thể thưởng thức chúng và tìm lại được chúng tại nơi đó. Ra đời. Cố gắng đầu tiên để thiết lập những vùng đất được bảo vệ là tại Hoa Kỳ, vào ngày 20 tháng 4 năm 1832, khi tổng thống Andrew Jackson ký một sắc luật để dự trữ 4 vùng đất xung quanh khu vực ngày nay là Hot Springs, Arkansas nhằm bảo vệ các suối nước nóng tự nhiên và các khu vực núi cận kề để chính quyền Hoa Kỳ sử dụng trong tương lai. Nó được biết đến như là Khu bảo tồn Hot Springs. Tuy nhiên đã không có cơ quan quyền lực nhà nước nào được thành lập và việc kiểm soát của liên bang đối với khu vực đã không được thiết lập một cách rõ ràng cho tới tận năm 1877.
{ "split": 1, "title": "Vườn quốc gia", "token_count": 427 }
22,036
Title: Vườn quốc gia Cố gắng tiếp theo nhằm thiết lập những vùng đất được bảo vệ cũng là tại Hoa Kỳ, khi tổng thống Abraham Lincoln ký sắc luật của Quốc hội Hoa Kỳ ngày 30 tháng 6 năm 1864, nhượng lại thung lũng Yosemite và rừng Mariposa với các cây cự sam (hay cù tùng khổng lồ) (sau này là Vườn quốc gia Yosemite) cho bang California, trong đó ghi rõ: Năm 1872, Vườn quốc gia Yellowstone đã được thành lập như là vườn quốc gia thật sự đầu tiên trên thế giới. Khi tin tức về các kỳ quan thiên nhiên của khu vực Yellowstone lần đầu tiên được công bố thì vùng đất này, khác với Yosemite, đang là một phần của lãnh thổ mà chưa một bang nào chiếm quyền quản lý, vì thế chính quyền liên bang đã chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý, một quá trình chính thức được hoàn thành vào ngày 1 tháng 10 năm 1890. Nó là cố gắng và lợi ích tổ hợp của các nhà bảo tồn, các chính khách và đặc biệt là các doanh nhân (cụ thể là công ty quản lý tuyến đường sắt Bắc Thái Bình Dương, mà hành trình đi qua Montana đã thu được lợi ích lớn nhờ sự tạo ra điểm hấp dẫn du khách này), để đảm bảo rằng Quốc hội Hoa Kỳ sẽ thông qua sắc luật nhằm thành lập Vườn quốc gia Yellowstone.
{ "split": 2, "title": "Vườn quốc gia", "token_count": 294 }
22,037
Title: Vườn quốc gia Wallace Stegner đã viết rằng vườn quốc gia là "ý tưởng tốt nhất của người Mỹ" – xuất phát từ việc bảo tồn mang tính hoàng tộc mà các chính thể Cựu thế giới phục vụ cho chính bản thân họ - để tạo ra sự bảo tồn dân chủ, mở cho tất cả mọi người, "nó phản ánh chúng ta ở khía cạnh tốt nhất, chứ không phải ở khía cạnh tệ nhất.". Tuy vậy, chỉ 44 năm sau khi thành lập các vườn quốc gia Yellowstone, Yosemite và gần 37 vườn quốc gia, khu bảo tồn khác thì cơ quan nhà nước quản lý toàn diện các khu vực này mới được thành lập tại Hoa Kỳ - đó là Cục Vườn Quốc gia Hoa Kỳ (NPS). Một điều thú vị là một doanh nhân, ông Stephen Mather, đã là người thúc đẩy mạnh mẽ nhất cho việc thành lập NPS, ông dã viết cho Franklin Knight Lane, khi đó là Bộ trưởng Nội vụ về nhu cầu đó. Lane đã mời Mather đến Washington, D.C để làm việc cùng ông trong soạn thảo và chờ sự thông qua của dự luật về tổ chức NPS, được Quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn và ký ngày 25 tháng 8 năm 1916. Số lượng các khu vực hiện tại do NPS quản lý tại Hoa Kỳ là 391, trong đó chỉ có 58 là các vườn quốc gia. Tại các quốc gia khác, ý tưởng về thành lập vườn quốc gia như Yellowstone cũng đã dần dần được chấp nhận. Tại Australia, Vườn quốc gia Hoàng gia đã được thành lập ở phía nam Sydney năm 1879. Tại Canada, Vườn quốc gia Banff (khi đó gọi là Vườn quốc gia núi Rocky) là vườn quốc gia đầu tiên của nước này vào năm 1885. New Zealand có vườn quốc gia đầu tiên vào năm 1887. Tại châu Âu các vườn quốc gia đầu tiên là tập hợp gồm 9 vườn tại Thụy Điển vào năm 1909. Hiện tại, châu Âu có 370 vườn quốc gia .
{ "split": 3, "title": "Vườn quốc gia", "token_count": 426 }
22,038
Title: Vườn quốc gia Sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, các vườn quốc gia đã được thành lập trên khắp thế giới. Vườn quốc gia Vanoise trong khu vực dãy núi Alps là vườn quốc gia đầu tiên của Pháp, thành lập năm 1963 sau khi diễn ra các cuộc biểu tình ngăn chặn một dự án du lịch tại đây. Tại Việt Nam, Vườn quốc gia Cúc Phương thành lập năm 1966 là vườn quốc gia đầu tiên của nước này. Các đặc trưng. Các vườn quốc gia thông thường nằm tại các khu vực chủ yếu là chưa phát triển, thường là những khu vực với động-thực vật bản địa quý hiếm và các hệ sinh thái đặc biệt (chẳng hạn cụ thể là các loài đang nguy cấp), sự đa dạng sinh học, hay các đặc trưng địa chất đặc biệt. Đôi khi, các vườn quốc gia cũng được thành lập tại các khu vực đã phát triển với mục tiêu làm cho khu vực đó trở lại gần giống như tình trạng ban đầu của nó, càng gần càng tốt. Tại một số quốc gia, chẳng hạn như tại Vương quốc Anh và Wales, các khu vực được dùng làm vườn quốc gia không phải là vùng hoang vu, cũng không do nhà nước sở hữu, và có thể bao gồm các khu dân cư và việc sử dụng đất là đáng kể, thông thường chúng là một bộ phận hợp thành của cảnh quan khu vực. Vườn quốc gia đầu tiên của Scotland, vườn quốc gia Loch Lomond và Trossachs, được thành lập tháng 7 năm 2002 và vườn quốc gia Cairngorms được thành lập tháng 3 năm 2003. Quản lý, sử dụng.
{ "split": 4, "title": "Vườn quốc gia", "token_count": 344 }
22,039
Title: Vườn quốc gia Phần lớn các vườn quốc gia có vai trò kép, một mặt đây là khu vực cung cấp nơi cư trú cho sự sống hoang dã, mặt khác nó lại phục vụ như là nơi du lịch phổ biến cho quần chúng. Việc quản lý các mâu thuẫn tiềm ẩn giữa hai mục đích này có thể là một vấn đề, cụ thể là du khách sẽ đem lại thu nhập cho vườn quốc gia và vườn quốc gia sử dụng nguồn thu nhập này để duy trì và phát triển các dự án bảo tồn. Các vườn quốc gia cũng là nguồn cung cấp các tài nguyên thiên nhiên có giá trị, chẳng hạn như gỗ, khoáng sản và các loại tài nguyên có giá trị khác. Sự cân bằng giữa nhu cầu khai thác các tài nguyên này với tổn thất do việc khai thác gây ra, thường là thách thức rất quan trọng đối với hệ thống quản lý vườn quốc gia. Các vườn quốc gia cũng hay bị đốn hạ bất hợp pháp và các dạng khai thác lậu khác, đôi khi là do tham nhũng. Điều này đe dọa tính nguyên vẹn của nhiều môi trường sống có giá trị. Các dạng bảo tồn khác. Một vài quốc gia cũng chọn các khu vực với tầm quan trọng lịch sử, khoa học hay văn hóa đặc biệt làm vườn quốc gia hoặc là các thực thể đặc biệt trong hệ thống vườn quốc gia của mình. Các quốc gia khác lại sử dụng kiểu khác cho việc bảo tồn các khu vực lịch sử. Một số các khu vực này, nếu đạt được các tiêu chuẩn đã đề ra, có thể được UNESCO công nhận là Di sản thế giới. Tại nhiều quốc gia, các cơ quan chính quyền địa phương có thể là tổ chức chịu trách nhiệm duy trì hệ thống vườn. Một số trong số các hệ thống vườn này cũng được gọi là vườn quốc gia. Một số nơi. Áo. Hiện tại, Áo có 6 vườn quốc gia với tổng diện tích 2.356 km², chiếm khoảng 2,8% diện tích nước này. Đức. Tại Đức hiện tại có 14 khu vực thiên nhiên có giá trị được gọi là vườn quốc gia. Với 9.134,31 km², các vườn quốc gia của Đức chiếm khoảng 2,6% diện tích nước này. Hoa Kỳ.
{ "split": 5, "title": "Vườn quốc gia", "token_count": 459 }
22,040
Title: Vườn quốc gia Hiện tại Hoa Kỳ có 58 vườn quốc gia chính thức, nhiều trong số đó đã trên 100 năm tuổi. Vườn quốc gia Yellowstone tại các bang Wyoming, Montana và Idaho được thành lập năm 1872 là vườn quốc gia đầu tiên trên thế giới. Việt Nam. Đến năm 2007, Việt Nam có 30 vườn quốc gia, với vườn quốc gia Cúc Phương thành lập năm 1966 là vườn quốc gia đầu tiên tại Việt Nam. Tổng diện tích các vườn quốc gia khoảng 10.350,74 km² (trong đó có 620,10 km² là mặt biển), chiếm khoảng 2,93% diện tích đất liền của nước này. Đến năm 2020, Việt Nam có 34 vườn quốc gia.
{ "split": 6, "title": "Vườn quốc gia", "token_count": 154 }
22,041
Title: Vượn mào đen phương Đông Vượn đen Đông Bắc còn được biết đến là Vượn Cao Vít (danh pháp khoa học: Nomascus nasutus) là một loài vượn từng phân bố rộng rãi ở Trung Quốc và Việt Nam. Vượn đen Đông Bắc từng được coi là đã tuyệt chủng trên lục địa từ những năm 1950 ở Trung Quốc và những năm 1960 ở Việt Nam. Năm 2002, chúng được tái phát hiện còn sinh sống ở một khu rừng nhỏ thuộc vùng núi đá vôi của huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam với số lượng 7 - 9 cá thể trong 3 đàn. Diễn biến quần thể Vượn Cao Vít Sau khi tái phát hiện Vượn Cao Vít với số lượng ban đầu là 7-9 cá thể, nhiều cuộc điều tra sau đó đã được tiến hành. Tháng 5 năm 2002 ghi nhận được 3 đàn với 17 cá thể. Tháng 8 cùng năm đó, một cuộc điều tra khác đã ghi nhận 5 đàn với số lượng từ 26-28 cá thể. Năm 2004 ghi nhận được 37 cá thể trong 8 đàn. Năm 2005 ghi nhận được 6 đàn với 30-31 cá thể. Cũng trong năm đó, Vũ Ngọc Thành và cs., (2005) ghi nhận được 10 đàn với 27 cá thể. Tháng 4 năm 2007 ghi nhận 7-8 đàn với số lượng từ 22 - 30 cá thể. Tháng 9 cùng năm, Lê Trọng Đạt và cs., (2007) ghi nhận được 17 đàn từ 94 - 96 cá thể. Sau khi so sánh và kết hợp với số đàn và số cá thể vượn ở khu rừng giáp ranh phía Trung Quốc, quần thể toàn cầu của loài này là 18 đàn với 110 cá thể. Kể từ năm 2007,cứ bốn năm một lần, FFI Việt Nam tổ chức một cuộc điều tra lại tổng thể quần thể vượn Cao vít. Năm 2012, Nguyễn Thế Cường và cs.,(2012) ghi nhận được 24 đàn và 129 cá thể. Năm 2016, quần thể vượn được ghi nhận là 21 - 22 đàn với 104 - 116 cá thể.
{ "split": 0, "title": "Vượn mào đen phương Đông", "token_count": 422 }
22,042
Title: Vượn mào đen phương Đông Vượn Cao Vít chỉ có một quần thể duy nhất trên thế giới, sinh sống trong diện tích hẹp và bị cô lập bởi các làng bản xung quanh cả bên phía Việt Nam và Trung Quốc nên tính dễ bị tổn thương rất cao và có nguy cơ bị tuyệt chủng lớn nếu xảy ra hiện tượng thời tiết cực đoan như băng tuyết kéo dài, dịch bệnh hoặc tác động của con người như cháy rừng. Do đó, ý tưởng về xây dựng một kế hoạch ứng phó khẩn cấp cho loài trong trường hợp xảy ra thiên tai, dịch bệnh, cháy rừng hoặc các tác nhân khác được ra đời. Năm 2018, một cuộc điều tra lại quần thể vượn Cao vít ở cả 2 bên Việt Nam và Trung Quốc do tổ chức FFI điều phối và tài trợ được tiến hành để đánh giá ảnh hưởng của thời tiết cực đoan do băng tuyết gây ra vào cuối năm 2016 đầu năm 2017. Tuy nhiên báo cáo điều tra chỉ đưa ra kết quả điều tra mà không có phân tích về mối liên quan của các yếu tố thời tiết đến sự sinh trưởng và phát triển của quần thể vượn. Vì vậy, kế hoạch ứng phó khẩn cấp cho loài trong điều kiện bất lợi không được xây dựng. Kết quả điều tra quần thể năm 2018 cho thấy, kích thước quần thể vượn gồm 20 - 22 đàn và 1 - 2 cá thể đực đơn lẻ với 83 - 134 cá thể được ghi nhận.
{ "split": 1, "title": "Vượn mào đen phương Đông", "token_count": 299 }
22,043
Title: Vượt ngục (phim truyền hình) Vượt ngục (tựa gốc tiếng Anh: Prison Break) là loạt phim truyền hình dài tập được sản xuất bởi Paul Scheuring và được kênh truyền hình Fox công chiếu vào ngày 29 tháng 8 năm 2005. Nội dung xoay quanh hai anh em: một người bị kết án tử hình vì một tội ác mình không gây ra, và người kia lập kế hoạch để giải thoát anh trai. Bộ phim do Adelstein-Parouse Productions, Original Television và hãng 20th Century Fox Television hợp tác sản xuất. Năm 2003, Fox từ chối sản xuất bộ phim. Sau sự thành công của các loạt phim dài tập khác như "Mất tích" và "24", FOX đã quyết định quay lại sản xuất bộ phim trong năm 2004. Phần 1 của bộ phim nhận được các nhận xét tích cực nói chung, và giữ vị trí cao trong các xếp hạng. Ban đầu phần 1 được thiết kế gồm 13 tập, nhưng sau đó được tăng thêm chín tập do sự thành công của loạt phim. "Vượt ngục" đã được đề cử cho một số giải thưởng, giành giải People's Choice Award và được đề cử cho Giải Quả cầu vàng năm 2005 cho phim phim truyền hình hay nhất. Tất cả bốn phần của bộ phim đã được phát hành dưới dạng DVD và Blu-ray. Bộ phim cũng được trình chiếu tại nhiều quốc gia trên thế giới. Thành công của bộ phim là cảm hứng để sản xuất những video ngắn cho điện thoại di động cũng như một số game ăn theo trên Internet. Phần 4 của Prison Break trở lại màn ảnh nhỏ vào ngày 17 tháng 4 năm 2009 với sáu tập phim cuối. Hai tập bổ sung có tiêu đề "The Old Ball and Chain" và "Free" cũng được sản xuất, và sau đó được gom thành một tập phim độc lập có tiêu đề "The Final Break". Tập phim này được phát hành trên DVD và Blu-ray vào ngày 21 tháng 7 năm 2009. "Vượt ngục" sẽ chính thức trở lại với format miniseries 9 tập trong Phần 5 vào ngày 4 tháng 4 năm 2017. Tóm tắt bộ phim. Phần 1.
{ "split": 0, "title": "Vượt ngục (phim truyền hình)", "token_count": 445 }
22,044
Title: Vượt ngục (phim truyền hình) Lincoln Burrows (Dominic Purcell) bị cáo buộc giết Terrence Steadman (Jeff Perry), anh trai của Phó Tổng thống Hoa Kỳ. Lincoln bị kết án tử hình và giam giữ tại trại giam Fox River để chờ thi hành án. Em trai của Lincoln, kỹ sư thông minh Michael Scofield (Wentworth Miller) tin rằng anh trai mình vô tội và lập tức lên kế hoạch giải cứu anh trai ra khỏi nhà tù. Để vào được Fox River, Michael thừa nhận mình phạm tội cướp có vũ trang. Trong tù, Michael làm bạn với bác sĩ Sara Tancredi (Sarah Wayne Callies) khi giả vờ bị bệnh tiểu đường để được ra vào bệnh xá hàng ngày. Cuộc chiến đầu của hai anh em nhằm tránh việc thi hành án được hỗ trợ bởi người bạn thân Veronica Donovan (Robin Tunney), người bắt đầu để điều tra về âm mưu gài bẫy Lincoln. Tuy nhiên, công việc của họ luôn bị cản trở bởi một tổ chức bí mật có tên gọi The Company. The Company chịu trách nhiệm về việc gài bẫy Lincoln, và họ làm vậy để buộc cha của Lincoln, Aldo Burrows, một thành viên cũ của The Company phải ra mặt. Hai anh em, cùng với sáu tù nhân khác: Fernando Sucre (Amaury Nolasco), Theodore "T-Bag" Bagwell (Robert Knepper), Benjamin Miles "C-Note" Franklin (Rockmond Dunbar), David "Tweener" Apolskis (Lane Garrison), John Abruzzi (Peter Stormare), và Charles "Haywire" Patoshik (Silas Weir Mitchell), đã vượt ngục thành công vào cuối phần 1. Phần 2.
{ "split": 1, "title": "Vượt ngục (phim truyền hình)", "token_count": 377 }
22,045
Title: Vượt ngục (phim truyền hình) Phần hai bắt đầu từ tám giờ kể từ lúc trốn thoát, tập trung chủ yếu vào từng tên tù vượt ngục. Nhà sáng lập bộ phim Paul Scheuring miêu tả phần hai là "Kẻ đào tẩu lần thứ tám" và so sánh nó với "nửa thứ hai của Cuộc đào thoát vĩ đại". Các tù nhân tách ra và chạy trốn đến nhiều nơi trên khắp đất nước trong khi giới chức trách luôn theo sát phía sau, săn đuổi họ vì những mục đích khác nhau. Brad Bellick (Wade Williams) bị nhà tù sa thải và tham gia cuộc truy lùng vì món tiền thưởng kếch xù, cộng thêm việc căm thù Michael Scofield cùng 7 người còn lại vì hắn nghĩ rằng do họ mà hắn mất công việc hắn đã làm cả đời người (sau đó hắn có thêm động lực để truy bắt họ khi hay tin về số tiền 5m$ của "DB Cooper" Charles Westmorlan). Vài người trong nhóm tù vượt ngục cùng nhau đi tìm số tiền lớn do Charles cất giấu. Đặc vụ liên bang Alexander Mahone (William Fichtner) được giao nhiệm vụ truy tìm và bắt sống tám tên tù vượt ngục, nhưng bị phát hiện đang làm việc cho The Company, tổ chức muốn họ phải chết. Khi Sara phát hiện ra bố mình, Thống đốc Frank Tancredi, bị giết chết, cô tìm gặp Michael, quyết định theo phe của anh trong khi hai anh em cố gắng hạ bệ đương kim tổng thống, một thành viên của The Company. Để đảm bảo sự an toàn của hai anh em, Sara ra đầu thú và phải đối mặt với phiên tòa. Trong suốt phiên tòa, lời khai của cựu mật vụ Paul Kellerman, người từng làm việc cho Chủ tịch The Company, giải oan cho Lincoln và Sara. Một số người trong nhóm tù vượt ngục bị giết hay bị bắt giam trở lại, nhưng hai anh em đã đến được Panama. Michael, T-Bag, Mahone, và Bellick bị chính quyền Panama bắt giữ và giam cầm tại Trại giam liên bang Sona. Phần 3.
{ "split": 2, "title": "Vượt ngục (phim truyền hình)", "token_count": 452 }
22,046
Title: Vượt ngục (phim truyền hình) Phần ba sau khi cả hai bên trong Sona, Sara và Lincoln bên ngoài ở Panama. Sona là một nhà tù được điều hành bởi các tù nhân và bảo vệ chỉ từ bên ngoài kể từ khi một cuộc bạo loạn xảy ra vào năm trước. Burrows nhanh chóng liên lạc với Gretchen Morgan (một công ty hợp tác là người phụ trách hoạt động ở Panama), người bắt cóc con trai anh, LJ (Marshall Allman) và Sara Tancredi (Sarah Wayne Callies), người phụ nữ Michael yêu. Anh cho biết, Công ty muốn Scofield để cứu thoát James Whistler (Chris Vance) khỏi Sona. Phần này nói về Michael và Whistler trong cuộc thử nghiệm trong việc xây dựng một kế hoạch trốn thoát, như Michael đã phải đối phó với căng thẳng cực độ và như Lincoln với những giao dịch hợp tác của Công ty Gretchen Morgan (Jodi Lyn O'Keefe). Sucre được một công việc tại nhà tù để hỗ trợ Michael trong kế hoạch trốn thoát. Khi Lincoln nỗ lực để giải cứu Sara và LJ sau một đầu mối cung cấp bởi Sara, Gretchen khẳng định đã chặt đầu Sara và gửi Lincoln một cái đầu trong một hộp như một lời cảnh báo. Khi phần 3 kết thúc,họ cố gắng xoay xở để trốn thoát cùng với Mahone. Ban đầu Sucre bị phát hiện bởi một người bảo vệ nhà tù và ném vào Sona chỉ sau khi thoát khỏi. LJ và Sofia (những người bị bắt trong một cuộc truy đuổi đảm bảo rằng Whistler sẽ đi với cô ấy) đang được chuyển giao cho Whistler, và Michael tìm cách trả thù Gretchen cho cái chết của Sara. Phần 4.
{ "split": 3, "title": "Vượt ngục (phim truyền hình)", "token_count": 379 }
22,047
Title: Vượt ngục (phim truyền hình) Cốt truyện chính của phần 4 xoay quanh một nhóm được tuyển dụng bởi một nhân viên của Cục An Ninh Nội Địa, đặc vụ Don Self nhằm chiếm đoạt Scylla. Nhóm này ban đầu tin rằng Scylla là danh sách đen của "the Company", sau đó biết rằng nó chứa đựng thông tin về một dạng năng lượng mới có thể tái sinh. Trong suốt nửa đầu của phần 4, nhóm này đã cố gắng để có được thẻ truy cập Scylla, và đột nhập vào trụ sở của "the Company" để ăn cắp nó. Cũng trong nửa đầu, Sara được phát hiện vẫn còn sống và Bellick đã chết, đặc vụ Self là một thành viên hai mặt đang lập kế hoạch để bán Scylla cho nhà thầu trả giá cao nhất. Miễn cưỡng, Lincoln đã quyết định tham gia vào "the Company" để lấy lại nó, trong khi Michael bị bệnh u não có tên là "hypothalamic hamartoma". Michael được chữa trị bởi "the Company". Sau đó, Michael biết được rằng mẹ của anh, Christina vẫn còn sống và chính bà cũng là một thành viên của "the Company", là người đứng đằng sau phi vụ chiếm đoạt Scylla để bán cho người trả giá cao nhất. Cuối cùng, series kết thúc tại Miami, nơi Scylla bị thu hồi bởi Michael và nhóm nghiên cứu, "the General" và "the Company" bị hạ bệ, Christina bị giết. Trong "Vượt Ngục: Cuộc vượt ngục cuối cùng", một câu chuyện được kể để giải thích những gì xảy ra trước tập cuối (do kết thúc của phần 4 là sau 4 năm kể từ khi Michael chết) và vết sẹo lạ trên vai của Sara. Câu chuyện này liên quan đến việc Sara bị bỏ tù tại trại giam ở quận Miami-Dade vì tội giết Christina Hampton. "the General" và T-Bag cũng được giam ở đó, "the General" muốn giết Sara và treo thưởng 100.000 $. Michael nghe về vụ giết người có thưởng này và đặt kế hoạch giải thoát cho cô. Cuối cùng, Michael hy sinh bản thân cho anh trai, vợ và con. Michael làm vậy cũng vì căn bệnh của chính anh, một khối u não. Phần 5.
{ "split": 4, "title": "Vượt ngục (phim truyền hình)", "token_count": 475 }
22,048
Title: Vượt ngục (phim truyền hình) Phần 5 mở đầu từ khi Theodore "T-Bag" Bagwell tiết lộ cho Lincoln và Sara biết rằng Michael vẫn còn sống trong nhà tù Ogygia ở Yemen với tên gọi Kaniel Outis- trùm khủng bố cực kỳ nguy hiểm bị FBI truy nã, và họ lên kế hoạch vượt ngục cực kì lớn với sự giúp đỡ của những người bạn cũ cùng với Sheba (Inbar Lavi) -một nhà hoạt động xã hội ở Yemen. Lúc này Sara đã kết hôn với Jacob nhưng không biết rằng anh ta chính là Poseidon- người có liên can đến Michael Scofield/Kaniel Outis. Cuộc đào tẩu khỏi Yemen diễn ra rất vất vả khi họ bị IS truy lùng vì đã giết thủ lĩnh Ramal, còn tại Mỹ Sara cùng con trai Mike liên tục bị đe doạ tính mạng từ A&W và Van Gogh- 2 sát thủ do Poseidon chỉ huy. Sau này Poseidon lộ diện là 1 tên mật vụ biến chất trong FBI đã lập 21-void & chọn Scofield làm tay sai cho hắn, đổi lại anh ta phải biến mất vĩnh viễn, nhưng sau đó Poseidon đã tìm mọi cách để thủ tiêu Scofield nhưng bất thành Dàn diễn viên và các nhân vật. "Vượt ngục" quy tụ một dàn diễn viên hùng hậu trong mỗi phần cùng với các diễn viên khách mời định kỳ. Phần một gồm mười diễn viên chính tập trung chủ yếu ờ Chicago hoặc Fox River. Phần hai gồm chín diễn viên chính; ba nhân vật bị chuyền từ vai chính sang vai phụ, một nhân vật khác chuyển thành nhân vật chính và một nhân vật mới xuất hiện. Phần ba giới thiệu thêm bốn nhân vật mới; hai trong số đó là các tù nhân tại nhà tù Sona. Đa số các thay đổi trong dàn diễn viên là do cái chết của các nhân vật. Nhà sáng lập bộ phim, Paul Scheuring, giải thích việc giết chết các nhân vật ‘làm khán giả thêm sợ hãi các nhân vật chính" và rằng "điều đó thật sự giúp chúng tôi cô đọng lại cốt truyện". Hai nhân vật chính của bộ phim, Lincoln Burrows và Michael Scofield, là hai nhân vật duy nhất luôn luôn xuất hiện trong tất cả các tập của bộ phim.
{ "split": 5, "title": "Vượt ngục (phim truyền hình)", "token_count": 497 }
22,049
Title: Vượt ngục (phim truyền hình) • Wentworth Miller (vai Michael Scofield) (Phần 1–4): Michael là em trai của Lincoln và từng là một kỹ sư kết cấu trước khi dành toàn bộ thời gian của mình nghiên cứu vụ án của anh trai. Trong suốt thời gian đó, Michael đã vạch ra một kế hoạch vượt ngục để đưa anh trai mình thoát khỏi nhà tù. Trong một cuộc phỏng vấn, Paul Scheuring nhớ lại rằng đa số các diễn viên đến thử vai "sẽ tham gia một trò chơi bí ẩn, nhưng trò chơi đó vô cùng tồi tệ và giả tạo". Một tuần trước khi bắt đầu sản xuất, Miller đến thử vai và Scheuring vô cùng ấn tượng về màn trình diễn của Miller. Anh được chọn vào ngày hôm sau. • Dominic Purcell (vai Lincoln Burrows) (Phần 1–4): Lincoln là một người ít hiểu biết và bị cáo buộc giết chết Terence Steadman, em trai Phó Tổng thống Hoa Kỳ. Purcell được chọn ba ngày trước khi bộ phim bắt đầu sản xuất và vì thế, anh là diễn viên tham gia đoàn làm phim muộn nhất. Anh tham gia thử vai trong lúc đang đóng vai Tommy Ravetto của bộ phim North Shore. Từ khi làm việc với John Doe, Purcell có một mối quan hệ thân cận với Fox. Vì thế, anh được đọc qua kịch bản của Vượt ngục. Ban đầu, Scheuring không tin rằng Purcell phù hợp với vai diễn vì kiểu tóc và nước da của anh trong buổi thử vai. Tuy nhiên, Purcell vẫn được chọn. Khi anh đến phim trường trong ngày khởi quay với một cái đầu cạo trọc, Scheuring vô cùng ấn tượng với vẻ ngoài khá giống nhau của hai nhân vật chính. • Robin Tunney (vai Veronica Donovan) (Phần 1–2): Veronica là bạn thân từ thuở bé của Lincoln và Michael. Trước sự khẩn cầu của Michael, cô quyết định xem lại vụ án của Lincoln và trở thành luật sư biện hộ cho Lincoln. • Marshall Allman (vai Lincoln "L. J." Burrows Jr.) (Phần 1–4): L.J. là con trai của Lincoln Burrows và bị tác động rất mạnh về tinh thần sau khi bố bị tuyên án tử hình. Cậu buộc phải lẩn trốn sau khi trở thành mục tiêu của những người muốn Lincoln phải chết.
{ "split": 6, "title": "Vượt ngục (phim truyền hình)", "token_count": 510 }
22,050
Title: Vượt ngục (phim truyền hình) • Amaury Nolasco (vai Fernando Sucre) (Phần 1–4): Sucre là bạn cùng phòng với Michael trong suốt thời gian tại Fox River. Anh trở thành đồng minh của Michael và Lincoln và là nhân vật đem lại tiếng cười giải tỏa căng thằng cho bộ phim. Câu chuyện của Sucre chủ yếu xoay quanh ước mơ của anh được đoàn tụ với người yêu. • Robert Knepper (vai Theodore "T-Bag" Bagwell) (Phần 1–4): T-Bag xuất hiện trong cả bốn phần của bộ phim, là một tên tội phạm xảo quyệt, tàn ác, ma mãnh và hơi quẫn trí, luôn luôn bị những người xung quanh khinh bỉ. T-Bag luôn làm mọi cách để có thứ hắn muốn và không bao giờ để bất cứ tứ gì cản đường hắn. • Peter Stormare (vai John Abruzzi) (Phần 1–2): Từng là "ông trùm" mafia ở Chicago, Abruzzi trở thành một tù nhân khét tiếng tại Fox River. Hắn ta đồng ý cung cấp một chiếc máy bay để vượt ngục, đổi lại Michael phải đưa cho hắn ta vị trí của nhân chứng đứng ra buộc tội hắn trước tòa, Otto Fibonacci. Abruzzi xuất hiện khá thường xuyên trong nửa đầu phần một và đầu phần hai. • Rockmond Dunbar (vai Benjamin Miles "C-Note" Franklin) (Phần 1–2, 4): Tuyệt vọng vì phải lẩn trốn gia đình mình, C-Note đe dọa Michael để được vào nhóm vượt ngục. C-Note là nhân vật chính trong phần một và phần hai, và sự xuất hiện của Franklin trong phần 4 đã góp phần giúp nhóm chống tổ chức của Michael được miễn hạn tù • Wade Williams (vai Brad Bellick) (Season 1–4): Xuất hiện trong suốt bốn phần, Bellick là đội trưởng lính canh của nhà tù Fox River. Sau khi đọc kịch bản, Williams thoạt tiên không muốn nhận vai Bellick vì nhân vật này quá "khủng khiếp và kinh tởm". Sự miễn cưỡng này là do Williams đang có con gái bốn tuổi. Tuy nhiên, người quản lý đã thuyết phục ông đến buổi thử vai và Williams được chọn vào vai Bellick.
{ "split": 7, "title": "Vượt ngục (phim truyền hình)", "token_count": 504 }
22,051
Title: Vượt ngục (phim truyền hình) • Sarah Wayne Callies (vai Sara Tancredi) (Phần 1–2, 4): Sara là bác sĩ tại nhà tù Fox River và là con gái của thống đốc Frank Tancredi, người có dính líu đến việc đưa Lincoln vào Fox River. Cô có cảm tình với Michael và cũng tiếp tay cho anh trong cuộc vượt ngục. Cuối cùng cô cũng tham gia bỏ trốn cùng những người khác. Callies là nữ diễn viên đầu tiên đến thử vai và cũng là người đầu tiên được chọn vào dàn diễn viên chính. • Paul Adelstein (vai Paul Kellerman) (Phần 1–2, 4): Kellerman là đặc vụ của Bộ Nội vụ Hoa Kỳ làm việc cho Phó tổng thống để đảm bảo cuộc hành hình Lincoln Burrows diễn ra êm thấm. Cuối cùng, tính cách của nhân vật này thay đổi, chuyển từ kẻ thù sang đồng minh của Michael và Lincoln. Kellerman là nhân vật chính trong suốt phần một và phần hai. • William Fichtner (vai Alexander Mahone) (Phần 2-3–4): Được giới thiệu là một đặc vụ FBI trong phần hai, nhiệm vụ của Mahone là truy tìm những tên tù vượt ngục. Sự tài trí của Mahone ngang ngửa với Michael và qua từng tập phim, những bí ẩn trong con người anh dần hé lộ. Trong phần ba, Mahone phát hiện mình bị tống giam tại nhà tù Sona cùng Michael và cuối cùng trở thành đồng minh của Michael trong phần bốn... Đón nhận. Thứ hạng và ý kiến của giới phê bình. Bảng xếp hạng sau đây dựa trên tổng số người xem trung bình mỗi tập phim do Nielsen Media Research ghi nhận. Thời gian ghi nhận bắt đầu từ cuối tháng chín (thời điểm bắt đầu phát sóng mỗi phần ở Mỹ) và kết thúc vào tháng 5 năm sau. Chiếu lại vào năm 2010 trên kênh VTV3 vào lúc 22h15' hàng tuần từ thứ 2 - 6 cuối tháng 4 đến hết tháng 7.
{ "split": 8, "title": "Vượt ngục (phim truyền hình)", "token_count": 429 }
22,052
Title: Vượt ngục (phim truyền hình) Bộ phim khời chiếu ngày 29 tháng 8 năm 2005 và thu hút khoảng 10,5 triệu khán giả. Sự khởi đầu thuận lợi đã đem lại cho bộ phim nhiều lời nhận xét tích cực. Theo tờ The New York Times, Vượt ngục "hấp dẫn hơn nhiều so với hầu hết các bộ phim truyền hình khác, và chắc chắn là một trong những bộ phim độc đáo nhất", đồng thời khen ngợi bộ phim đã tạo ra một cốt truyện "hồi hộp gay cấn" và "vô cùng chân thực". Gillian Flynn của tờ Entertainment Weekly tuyên bố Vượt ngục làm một trong những bộ phim hay nhất năm 2005 cũng như không có lời thoại thừa..Do sự thành công về thứ hạng, Fox quyết định kéo dài Vượt ngục thêm chín tập, biến "Vượt ngục" trở thành bộ phim đầu tiên trong giai đoạn 2005-2006 được sản xuất đầy đủ 22 tập. Số người xem trung bình của phần một là 9,2 triệu người. Phân loại. Dựa vào nội dung và bối cảnh, Vượt Ngục nhắm đến đối tượng khán giả từ 18–34 tuổi. Bộ phim chứa nhiều nội dung không phù hợp như bạo lực, ngôn ngữ thô tục cũng như đề cập đến tình dục và ma túy. Bộ phim được xếp loại TV-14 tại Mỹ và Canada. Vượt ngục bị kiểm duyệt ở mức MA15+ ở Úc và New Zealand, A+18 ở Chile, PG ở Hong Kong, 18PL ở Malaysia, 12 ở Hà Lan, PG13V ở Nam Phi, 15 ở Anh khi phát hành DVD, và PS ở Cộng hòa Ireland. Tại Pháp, Hội đồng khảo sát lĩnh vực nghe nhìn cũng than phiền về mức độ bạo lực ở một số tập vượt quá mức cho phép. Cáo buộc vi phạm bản quyền.
{ "split": 9, "title": "Vượt ngục (phim truyền hình)", "token_count": 390 }
22,053
Title: Vượt ngục (phim truyền hình) Ngày 24 tháng 10 năm 2006, hãng thông tấn Associated Press đưa tin Donald và Robert Hughes đã đệ đơn kiện hãng Fox và nhà sáng lập kiêm giám đốc sản xuất của bộ phim, Paul Scheuring về tội vi phạm bản quyền, gây ra những thiệt hai chưa xác định và các chi phí khác. Họ khẳng định vào năm 2001, họ đã gửi cho Fox bản thảo ý tưởng dựa trên câu chuyện có thực của chính họ về một cuộc vượt ngục tại trại trẻ vị thành niên. Trong thập niên 1960, Donald Hughes đã thực hiện thành công một vụ vượt ngục giải cứu em trai mình, Robert Hughes, một người bị buộc tội oan. Phát hành. Truyền hình. Tại Canada, Vượt ngục được phát sóng trên kênh Global sớm hơn một giờ trước khi phát sóng trên Fox, ngoại trừ các vùng duyên hải được phát sóng sớm hơn hai giờ so với Fox. Vượt ngục là bộ phim mới duy nhất lọt vào tốp hai mươi chương trình truyền hình ăn khách nhất Canada, thu hút khoảng 876 000 khán giả lứa tuổi 18–49 và khoảng 1,4 triệu người xem trong toàn quốc. Tập đầu tiên của Vượt ngục được trình chiếu tại Úc trên mạng truyền hình Seven vào ngày 1 tháng 2 năm 2006 với khoảng 1,94 triệu người xem. Phần một của bộ phim thu hút khoảng 1,353 triệu khán giả. Sau khi tỉ lệ người xem phần hai có phần giam sút, Seven quyết định nhanh chóng trình chiếu phần ba, tuy nhiên,tỉ lệ người xem vẫn tiếp tục sụt giảm.
{ "split": 10, "title": "Vượt ngục (phim truyền hình)", "token_count": 334 }
22,054
Title: Vượt ngục (phim truyền hình) Phần một được trình chiếu tại Anh trên kênh Five, sau đó được phát lại trên kênh UKTV Goldtrước lúc phần hai lên sóng trên kênh Five. Trước khi phần ba được công chiếu, Sky 1 đả thương lượng bản quyền để được phát sóng với mức giá 500 000 bảng mỗi tập. Bộ phim được trình chiếu tại Pháp vào ngày 31 tháng 8 năm 2006 với khoảng 5,5 triệu người xem. Trong khi phần hai lên sóng vào ngày 13 tháng 9 năm 2007 thu hút 5,3 triệu khán giả. Phần một của Vượt ngục được phát sóng tại Hong Kong trên kênh TVB Pearl, trở thành bộ phim truyền hình nước ngoài thu hút nhiều khán giả nhất từ trước đến nay. Tập đầu tiên của phần một thu hút 260 000 khán giả trong khi tập cuối thu hút 470 000 người. Tập đầu tiên của phần hai có số lượng người xem là 270 000 người. Tại Việt Nam, Vượt ngục mới được Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC mua bản quyền công chiếu vào lúc 21:00 trên kênh VTC1, qua giọng thuyết minh Thy Mai. Ấn phẩm giải trí tại nhà. Bộ đĩa DVD và Bluray của mỗi phần được phát hành ở nhiều quốc gia ngay sau khi bộ phim được phát sóng. Tại Triển lãm Điện tử và Tiêu dùng 2006, Hãng 20th Century Fox Home Entertainment thông báo rằng bộ đĩa đầy đủ của phần một sẽ được dự kiến phát hành dưới dạng Bluray vào đầu năm 2007. Ngày phát hành thực tế được lùi lại đến ngày 13 tháng 11 năm 2007 và Vượt ngục trở thành bộ phim truyền hình đầu tiên được Fox phát hành dưới dạng Bluray. Bộ đĩa Bluray gồm sáu đĩa tổng hợp tất cả các tính năng đặc biệt của bộ đĩa DVD. Một bộ đĩa DVD của ba phần đầu được phát hành ngày 19 tháng 5 nam 2008 ở Khu vực 2. Tại Úc cũng như một số nước khác, bộ đĩa của Vượt ngục phần bốn được quảng cáo có tất cả bảy đĩa bao gồm cả tập phim đặc biệt cuối cùng, Vượt ngục: Cuộc đào tẩu cuối cùng. Phát hành trực tuyến.
{ "split": 11, "title": "Vượt ngục (phim truyền hình)", "token_count": 443 }
22,055
Title: Vượt ngục (phim truyền hình) Ngoài việc trình chiếu bộ phim trên truyền hình, các tập phim của Vượt ngục cũng được phát hành trên Internet. Kề từ ngày 9 tháng 5 năm 2006, khán giả có thể bắt đầu mua các tập phim trên cửa hàng trực tuyến iTunes Store. Sau khi trình chiếu tập đầu tiên của phần hai, Fox bắt đầu cho phép xem miễn phí các tập phim tại hơn 50 trang web, bao gồm AOL, Google, and Yahoo! cũng như mạng lưới rộng lớn của các trang này. Tuy nhiên, việc này chỉ giới hạn trong phạm vi Hoa Kỳ.
{ "split": 12, "title": "Vượt ngục (phim truyền hình)", "token_count": 128 }
22,056
Title: Vạch quang phổ Các vạch quang phổ là các vạch tối hoặc sáng trong một quang phổ liên tục và đồng dạng, do sự phát xạ hoặc hấp thụ ánh sáng trong một dải tần hẹp, so với các tần số lân cận. Quang phổ chứa các vạch quang phổ được gọi là quang phổ vạch. Các loại vạch phổ. Các vạch quang phổ là kết quả của sự tương tác giữa một hệ lượng tử (thường là các nguyên tử, nhưng đôi khi là các phân tử hoặc hạt nhân nguyên tử) và một photon đơn lẻ. Khi một photon có đúng lượng năng lượng để cho phép một sự thay đổi trong trạng thái năng lượng của hệ thống (trong trường hợp của một nguyên tử này thường là một electron làm thay đổi quỹ đạo), các photon được hấp thụ. Sau đó, nó sẽ truyền lại một cách tự nhiên, ở cùng tần số với nguyên bản hoặc theo tầng, trong đó tổng năng lượng của các photon phát ra sẽ bằng năng lượng của năng lượng được hấp thụ (giả sử hệ thống trở về trạng thái ban đầu). Một vạch quang phổ có thể được quan sát là vạch phát xạ hoặc vạch hấp thụ. Loại nào được quan sát đều phụ thuộc vào loại vật liệu và nhiệt độ của nó so với nguồn phát xạ khác. Một vạch hấp thụ được tạo ra khi các photon từ nguồn phổ rộng, nóng đi qua vật liệu lạnh. Cường độ ánh sáng, trên một dải tần số hẹp, bị giảm do sự hấp thụ của vật liệu và phát xạ lại theo các hướng ngẫu nhiên. Ngược lại, một vạch phát xạ sáng được tạo ra khi các photon từ vật liệu nóng được phát hiện với sự có mặt của phổ rộng từ nguồn lạnh. Cường độ ánh sáng, trên một dải tần số hẹp tăng lên do sự phát xạ của vật liệu.
{ "split": 0, "title": "Vạch quang phổ", "token_count": 406 }
22,057
Title: Vạch quang phổ Các vạch quang phổ có tính đặc hiệu nguyên tử cao và có thể được sử dụng để xác định thành phần hóa học của bất kỳ môi trường nào có khả năng cho ánh sáng đi qua nó. Một số nguyên tố được phát hiện bằng các quang phổ trung gian, bao gồm heli, thali và cesi. Các vạch quang phổ cũng phụ thuộc vào các điều kiện vật lý của chất khí, vì vậy chúng được sử dụng rộng rãi để xác định thành phần hóa học của các ngôi sao và các thiên thể khác không thể phân tích bằng các phương tiện khác, cũng như các điều kiện và tính chất vật lý của chúng. Các cơ chế khác ngoài tương tác nguyên tử – photon có thể tạo ra các vạch quang phổ. Tùy thuộc vào tương tác vật lý chính xác (với các phân tử, các hạt đơn lẻ, v.v.), tần số của các photon có liên quan sẽ rất khác nhau và các vạch đó có thể được quan sát trên phổ điện từ, từ sóng vô tuyến đến tia gamma. Đường quang phổ của các nguyên tố hóa học. Ánh sáng nhìn thấy được. Đối với mỗi phần tử, bảng dưới đây cho thấy các vạch quang phổ hiển thị trong phổ nhìn thấy được, từ khoảng 400 nm-700 nm. Bước sóng khác. "Các vạch quang phổ" thường ngụ ý rằng người ta đang nói về các vạch có bước sóng rơi vào phạm vi của phổ nhìn thấy được. Tuy nhiên, cũng có nhiều vạch quang phổ xuất hiện ở bước sóng ngoài phạm vi này. Ở bước sóng ngắn hơn nhiều của tia X, chúng được gọi là tia X đặc trưng. Các tần số khác cũng có các vạch phổ nguyên tử, chẳng hạn như dãy Lyman, nằm trong dải cực tím.
{ "split": 1, "title": "Vạch quang phổ", "token_count": 380 }
22,058
Title: Vạn Lý Trường Thành Vạn Lý Trường Thành (), gọi tắt là Trường Thành, là tên gọi chung cho nhiều thành lũy kéo dài hàng ngàn cây số từ Đông sang Tây, được xây dựng bằng đất và đá từ thế kỷ 5 TCN cho tới thế kỷ 16, để bảo vệ Trung Hoa khỏi những cuộc tấn công của người Hung Nô, Mông Cổ, Đột Quyết, và những bộ tộc du mục khác đến từ những vùng hiện thuộc Mông Cổ và Mãn Châu. Một số đoạn tường thành được xây dựng từ thế kỷ thứ 5 TCN, sau đó được Hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc là Tần Thủy Hoàng ra lệnh nối lại và xây thêm từ năm 220 TCN và 200 TCN và hiện chỉ còn sót lại ít di tích. Vạn Lý Trường Thành nổi tiếng được tham quan nhiều hiện nay được xây dưới thời nhà Minh (1368-1644). Các mục đích khác của Vạn Lý Trường Thành bao gồm kiểm soát biên giới, cho phép áp đặt thuế đối với hàng hóa vận chuyển theo con đường tơ lụa, quy định hoặc khuyến khích thương mại và kiểm soát xuất nhập cảnh. Hơn nữa, đặc điểm phòng thủ của Vạn Lý Trường Thành đã được tăng cường bằng việc xây dựng các tháp canh, doanh trại quân đội, trạm đóng quân, báo hiệu có giặc thông qua các phương tiện khói hoặc lửa, và thực tế là con đường của Vạn Lý Trường Thành cũng phục vụ như là một hành lang giao thông vận tải. Một nghiên cứu khảo cổ chi tiết, sử dụng những công nghệ hiện đại, được công bố vào năm 2009 kết luận rằng Vạn Lý Trường Thành do nhà Minh xây dựng có chiều dài 8.850 km. Nó bao gồm phần bức tường dài 6.259 km, phần hào dài 359 km, và phần lá chắn tự nhiên như đồi, sông dài 2.232 km. Một nghiên cứu khảo cổ chi tiết khác vào năm 2012 kết luận Vạn Lý Trường Thành có chiều dài 21.196 km. Chiều cao trung bình tường thành là 7m so với mặt đất, mặt trên của trường thành rộng trung bình 5-6m. Vạn Lý Trường Thành bắt đầu từ Sơn Hải quan trên bờ Biển Bột Hải ở phía đông, tại giới hạn giữa Trung Quốc bản thổ ("đất Trung Quốc gốc") và Mãn Châu đến Lop Nur ở phần phía đông nam Khu tự trị người Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương. Tên gọi.
{ "split": 0, "title": "Vạn Lý Trường Thành", "token_count": 512 }
22,059
Title: Vạn Lý Trường Thành Dãy các bức tường ngày nay có tên Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc đã được gọi bằng một số tên khác nhau. Tên tiếng Anh hiện tại đã hình thành từ các tường thuật nhiệt tình về "bức tường Trung Quốc" của khách du lịch châu Âu thời đó; vào cuối thế kỷ 19 "Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc" đã trở thành tên của các bức tường này. Trong tiếng Trung Quốc, dãy tường thành này được gọi là "Cháng chéng" (長城), có nghĩa là "trường thành". Thuật ngữ này có thể được tìm thấy trong sách sử (thế kỷ thứ 1 TCN), ghi nhận những bức tường được xây dựng thời Chiến Quốc, và chủ yếu các bức tường của Tần Thủy Hoàng xây dựng. Nghĩa của nó là dài "vạn lý" (nghĩa bóng là "vô tận"), phản ánh với tên đầy đủ của nó trong thời hiện đại (萬里長城 Vạn Lý Trường Thành), cũng xuất phát từ sách sử, mặc dù dòng chữ "Vạn Lý Trường Thành" hiếm khi được sử dụng cho đến thời hiện đại. Một ví dụ hiếm hoi được Đường sử viết năm 493, khi sách trích dẫn tướng ở biên giới Tan Daoji. Lịch sử. Ban đầu trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc, các nước nhỏ đã độc lập xây dựng các tường thành ở phương bắc nhằm tránh giặc Hung nô tràn xuống. Cho đến khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc thì ông cũng đã liên kết các tuyến phòng thủ rời rạc của các nước thành Vạn lý trường thành. Lý do để Tần Thủy Hoàng xây Vạn Lý Trường Thành bắt nguồn từ một câu "sấm": "Vong Tần giả, Hồ dã" "(Tần mất là do Hồ)". Tần Thủy Hoàng tưởng chữ "Hồ" là chỉ giặc Hồ phương Bắc. Dù người làm mất nhà Tần hóa ra là Thái tử "Hồ" Hợi, di sản mà hoàng đế thống nhất Trung Quốc để lại cũng đã đặt nền móng cho Vạn Lý Trường Thành sau này.
{ "split": 1, "title": "Vạn Lý Trường Thành", "token_count": 455 }
22,060
Title: Vạn Lý Trường Thành Một tường thành có tính chất phòng thủ biên giới phía bắc được xây dựng và duy trì bởi nhiều triều đại trong nhiều khoảng thời gian trong lịch sử Trung Quốc. Mục đích chính của nó là bảo vệ người Trung Quốc khỏi sự di cư của người Mông Cổ và người Thổ Nhĩ Kỳ. Có năm giai đoạn hình thành chính: Đoạn tường thành chính đầu tiên được xây dựng dưới thời cai trị của Tần Thủy Hoàng, vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tần với thời gian tồn tại ngắn ngủi. Bức tường này được hình thành bằng việc xây dựng và ghép nối nhiều đoạn tường thành của các vùng thời Chiến Quốc. Bức tường được nối vào nhau ở thời gian đó làm bằng đất nện với những tháp canh được xây ở các khoảng cách đều nhau. Nó nằm xa hơn về phía bắc so với Vạn lý trường thành hiện tại với điểm cực đông nằm ở Bắc Triều Tiên hiện nay. Chỉ còn ít phần của nó còn sót lại - các bức ảnh cho thấy những ụ đất thấp, dài. Triều đình bắt người dân phải làm việc để đắp thành, và các công nhân luôn bị nguy hiểm vì có thể bị bọn cướp tấn công. Bởi vì có nhiều người đã chết khi xây dựng thành, nó được đặt cho cái tên khủng khiếp, "Nghĩa địa dài nhất Trái Đất". Uớc tính có đến hàng trăm ngàn người, thậm chí có thể lên tới một triệu người đã chết khi xây trường thành ở thời nhà Tần.
{ "split": 2, "title": "Vạn Lý Trường Thành", "token_count": 323 }
22,061
Title: Vạn Lý Trường Thành Ước tính 300 ngàn binh lính với vô số tội nhân, quan lại phạm lỗi, nho sĩ không tuân lệnh đốt sách... phải làm khổ sai trong miền rừng núi trùng trùng điệp điệp, mùa đông thì lạnh buốt, nước đóng băng, mùa hè thì không khí nóng như nung, mù mịt cát bụi. Trên thành cất những đồn canh, và có đường rộng chạy ngựa được giữa các đồn với nhau. Không biết bao nhiêu lời than thở, bao nhiêu nước mắt của thân nhân những người đó, không văn nhân thi sĩ nào chép lại hết được. Trong dân gian còn truyền lại nỗi khổ của nàng Mạnh Khương: "Nàng thương nhớ chồng, đi 10 ngàn dặm đường để thăm chồng bị bắt đi xây thành, đến nơi thì chồng nàng đã chết rồi. Xung quanh chỉ là rừng núi và đá. Không biết kiếm xác chồng ở đâu, nàng tuyệt vọng, khóc mấy ngày mấy đêm, khóc tới nỗi chính cái thành cũng phải mủi lòng, tự động tách ra cho nàng tìm thấy hài cốt chồng." Bức tường dài tiếp theo được nhà Hán, nhà Tùy, và giai đoạn Thập Quốc xây dựng tiếp với cùng kiểu thiết kế. Nó được làm bằng đất nện với nhiều tháp canh nhiều tầng được xây cách nhau vài dặm. Các bức tường thành cũng đã bị hư hại nhiều và đã lẫn vào phong cảnh xung quanh, bị ăn mòn bởi gió và nước mưa. Về mặt quân sự, những bức tường này có ý nghĩa về mặt phân chia ranh giới hơn là công sự bảo vệ có giá trị. Chắc chắn rằng chiến lược quân sự của Trung Quốc không diễn ra quanh việc giữ vững bức tường thành.
{ "split": 3, "title": "Vạn Lý Trường Thành", "token_count": 365 }
22,062
Title: Vạn Lý Trường Thành Vạn Lý Trường Thành ngày nay được xây ở thời nhà Minh, bắt đầu khoảng năm 1368 và kết thúc khoảng năm 1640. Ước tính có khoảng 25.000 tháp canh đã được xây dựng dọc theo bức tường. Trong một đoạn trong kinh Koran, các nhà địa lý Ả Rập cũng liên hệ Alexander đại đế với việc xây dựng tường thành. Bức tường này được xây với tầm vóc to lớn bằng những vật liệu tốt (đá cứng được dùng ở các bề mặt và ở trên đỉnh thành) hơn so với trước đó. Mục đích đầu tiên của bức tường là để ngăn bước những giống người bán du mục phía bên ngoài (như người Mông Cổ dưới sự chỉ huy của hãn vương Altan và Oirats dưới sự chỉ huy của Esen Taiji) vào cướp bóc bên trong Trung Quốc khi họ sử dụng ngựa để di chuyển; hay ngăn cản sự quay trở về của họ với những thứ cướp bóc được. Vạn Lý Trường Thành thời nhà Minh bắt đầu từ điểm phía đông tại Sơn Hải Quan (山海关), gần Tần Hoàng Đảo, ở tỉnh Hà Bắc gần Vịnh Bột Hải. Kéo dài qua chín tỉnh và 100 huyện, 500 km cuối cùng vẫn còn nhưng đã thành những đống gạch vụn, và hiện nay nó kết thúc ở điểm cuối phía tây di tích lịch sử Gia Dục Quan (嘉峪关), nằm ở phía tây bắc tỉnh Cam Túc tại biên giới với Sa mạc Gobi và những ốc đảo của Con đường tơ lụa. Gia Dục Quan được xây để tiếp đón những nhà du hành dọc theo Con đường tơ lụa. Mặc dù Vạn Lý Trường Thành kết thúc ở Gia Dục Quan, tại đó có rất nhiều "phong hoả đài" (烽火台) trải dài về phía Gia Dục Quan dọc theo Con đường tơ lụa. Những đài quan sát đó dùng dấu hiệu bằng khói để cảnh báo có xâm lược.
{ "split": 4, "title": "Vạn Lý Trường Thành", "token_count": 433 }
22,063
Title: Vạn Lý Trường Thành Năm 1644, người Mãn vượt qua bức tường thành bằng cách thuyết phục một vị tướng quan trọng là Ngô Tam Quế mở cửa những cánh cổng Sơn Hải Quan để cho người Mãn Châu vượt qua. Truyền thuyết kể rằng quân Mãn Châu mất ba ngày mới vượt hết qua đèo. Sau khi người Mãn Châu chinh phục Trung Quốc, bức tường thành không còn giá trị chiến lược quân sự nữa, đa phần bởi vì người Mãn Châu đã mở rộng quyền kiểm soát chính trị của họ ra xa phía bắc; vì vậy giống như thời nhà Nguyên, nhà Đường, và nhà Tống thì Vạn lý Trường thành đã mất đi hoàn toàn giá trị phòng thủ quân sự cho Trung Quốc vào thời nhà Thanh. Đoạn tường cuối cùng thời nhà Minh thực sự là một công sự quân sự về một số mặt. Tuy nhiên, các nhà sử học quân sự thường gạt bỏ giá trị thực của bức tường thành vĩ đại này. Người ta tốn cực kỳ nhiều tiền của và công sức để xây dựng, duy trì và đóng giữ. Số tiền nhà Minh chi phí vào bức tường này đáng ra có thể để chi vào cải thiện khả năng quân sự khác như mua pháo kiểu châu Âu hay súng trường. Sự thực là bức tường thành không có giá trị nhiều trong việc giúp ngăn chặn sự sụp đổ của nhà Minh. Tình trạng.
{ "split": 5, "title": "Vạn Lý Trường Thành", "token_count": 293 }
22,064
Title: Vạn Lý Trường Thành Trong khi một số đoạn gần các trung tâm du lịch được giữ gìn và thậm chí xây dựng lại, tại hầu hết các vị trí bức tường đang bị bỏ mặc không được sửa chữa, được dùng làm chỗ chơi cho những người dân làng và là nơi khai thác đá để làm đường hay làm nhà. Các bề mặt của tường thành còn bị sơn vẽ graffiti. Nhiều phần đã bị phá hủy vì bức thành nằm chắn đường tới các địa điểm xây dựng. Các phần không bị đụng chạm đến hay được sửa chữa là gần những điểm phát triển du lịch và thường bị những người bán hàng rong và khách du lịch làm giảm giá trị. Sa mạc Gobi cũng đang tiến sát tới bức tường thành ở một số địa điểm. Một số ước tính rằng chỉ 20% bức tường thành là đang ở tình trạng tốt. Năm 2005, các bức ảnh về một bữa tiệc điên dại trên Vạn lý trường thành xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng Trung Quốc. Chúng đã gây nên sự phẫn nộ bởi vì trong những bức ảnh do người nước ngoài, và người Trung Quốc chụp, những thanh niên uống rượu bia, đi tiểu tiện, đại tiện và có những hành vi tình dục trên bức thành được chiếu ở khắp nước. Tháng 8 năm 2012, một đoạn dài khoảng 36m của thành bị sụp đổ hoàn toàn. Sự Công Nhận. Bức tường thành trở thành Di sản thế giới của UNESCO vào năm 1987. Người Trung Quốc có câu nói 不到长城非好汉, có nghĩa "Bất đáo Trường Thành phi hảo hán" đã được khắc bia tại trường thành. Từ ngoài Trái Đất. Đã có một sự tranh cãi từ lâu về việc bức tường thành sẽ thế nào nếu nhìn từ vũ trụ. Quan điểm rằng nó có thể được nhìn thấy từ vũ trụ có vẻ xuất hiện trước khi có các chuyến bay của con người vào vũ trụ.
{ "split": 6, "title": "Vạn Lý Trường Thành", "token_count": 393 }
22,065
Title: Vạn Lý Trường Thành Trong cuốn sách "Cuốn sách thứ hai về những kỳ quan" của Richard Halliburton năm 1938 có nói Vạn Lý Trường Thành là vật nhân tạo duy nhất có thể nhìn thấy được từ Mặt Trăng, và một truyện tranh tên là "Tin hay không tin của Ripley" ở thời gian đó cũng đưa ra tuyên bố tương tự. Niềm tin này kéo dài và trở thành một truyền thuyết đô thị, thỉnh thoảng thậm chí xuất hiện cả trong những cuốn sách giáo khoa. Arthur Waldron, tác giả cuốn lịch sử Vạn Lý Trường Thành đáng tin cậy nhất trong mọi ngôn ngữ đã chỉ ra rằng sự tin tưởng vào việc Vạn Lý Trường Thành có thể nhìn thấy được từ Mặt Trăng cũng giống như sự phấn khích của một số người khi tin rằng có những "kênh đào" trên bề mặt Sao Hỏa vào cuối thế kỷ 19. Trên thực tế, Vạn Lý Trường Thành đơn giản là không thể nhìn thấy bằng mắt thường nếu không có công cụ hỗ trợ từ Mặt Trăng, chưa nói đến nhìn từ Sao Hỏa. Khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trăng khoảng một nghìn lần lớn hơn khoảng cách từ Trái Đất đến con tàu vũ trụ bay trên quỹ đạo gần Trái Đất. Nếu Vạn lý trường thành có thể nhìn thấy được từ Mặt Trăng, thì sẽ dễ dàng nhìn thấy nó từ quỹ đạo gần Trái Đất. Trên thực tế, từ quỹ đạo gần Trái Đất, nó rõ ràng là hơi thấy được, và chỉ trong những điều kiện tốt. Và nó cũng không rõ rệt hơn nhiều vật thể khác do con người tạo ra.
{ "split": 7, "title": "Vạn Lý Trường Thành", "token_count": 350 }
22,066
Title: Vạn Lý Trường Thành Một nhà du hành tàu con thoi thông báo rằng "chúng tôi có thể thấy những vật nhỏ như những đường băng sân bay [nhưng] Vạn Lý Trường Thành hầu như không nhìn thấy được từ khoảng cách 180 dặm (290 km) trở lên." Nhà du hành vũ trụ William Pogue cho rằng ông đã thấy nó từ Skylab nhưng phát hiện ra rằng trên thực tế ông đang nhìn vào Đại Vận Hà gần Bắc Kinh. Ông phát hiện ra Vạn Lý Trường Thành với ống nhòm, nhưng nói rằng "nó không thể nhìn thấy được bằng mắt thường không có thiết bị hỗ trợ". Một nhà du hành trong chương trình Apollo đã nói không một cấu trúc nào của con người có thể nhìn thấy từ khoảng cách vài nghìn dặm. Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Jake Garn tuyên bố có thể nhìn thấy Vạn Lý Trường Thành bằng mắt thường từ trên quỹ đạo của tàu vũ trụ đầu thập kỷ 1980, nhưng tuyên bố của ông còn đang bị nhiều nhà du hành vũ trụ chuyên nghiệp khác của Mỹ phản đối. Nhà du hành vũ trụ Dương Lợi Vĩ người Trung Quốc sau 21,5 giờ bay vòng quanh Trái Đất đến 14 lần, trở lại mặt đất đã xác minh trên truyền hình là không nhìn thấy được Vạn Lý Trường Thành từ không gian. Điều này dẫn đến việc Trung Quốc phải đính chính lại sách giáo khoa đã đăng thông tin này. Từ quỹ đạo Trái Đất tầm thấp nó có thể được nhìn thấy với điều kiện thời tiết tốt. Điều này giống như việc có thể thấy các đặc điểm của Mặt Trăng ở những thời điểm nhất định và không thấy chúng vào những thời điểm khác, vì sự thay đổi trong hướng ánh sáng. Vạn Lý Trường Thành chỉ rộng vài mét — kích thước tương đương với đường xa lộ và đường băng — và nó đồng màu với đất đá xung quanh. Cựu phi hành gia Mỹ Gene Cernan đã nói: "Ở quỹ đạo Trái Đất từ 160km đến 320km, Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc có thể nhìn thấy được bằng mắt thường." Ed Lu, Sĩ quan khoa học Expedition 7 trên Trạm vũ trụ quốc tế, nói thêm rằng, "...nó khó nhìn hơn nhiều vật thể khác. Và bạn phải biết tìm nó ở đâu".
{ "split": 8, "title": "Vạn Lý Trường Thành", "token_count": 479 }
22,067
Title: Vạn Lý Trường Thành Leroy Chiao, một nhà du hành người Mỹ gốc Hoa, đã chụp một bức ảnh từ Trạm vũ trụ quốc tế có hình bức tường thành. Nó còn không rõ đến mức ông không biết có phải đã thực sự chụp được nó hay không. Dựa trên bức ảnh đó, một tờ báo nhà nước của Trung Quốc đã kết luận rằng Vạn Lý Trường Thành có thể được nhìn thấy từ vũ trụ bằng mắt thường, trong những điều kiện quan sát tốt, nếu người ta biết chính xác phải tìm ở đâu. Ghi chú. ¹ 10.000 "lý" = 5.760 km. Tài liệu. ISBN 978-0-330-42241-3; ISBN 0-330-42241-3.
{ "split": 9, "title": "Vạn Lý Trường Thành", "token_count": 149 }
22,068
Title: Vạn Thịnh Vạn Thịnh (chữ Hán giản thể:万盛区, Hán Việt: Vạn Thịnh khu) từng là một quận thuộc thành phố trực thuộc trung ương Trùng Khánh, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quận này có diện tích 566 km2, dân số 270.000 người (năm 2006). Vạn Thịnh nằm ở đông nam của Trùng Khánh, cách trung tâm Trùng Khánh 82 km theo đường bộ. Phía bắc và đông giáp Nam Xuyên, tây giáp 綦江, nam giáp Quý Châu và Đồng 梓. Quận Vạn Thịnh được chia thành 7 trấn, 1 hương và 2 nhai đạo biện sự xứ. Tháng 10 năm 2011, Vạn Thịnh sáp nhập với huyện Kỳ Giang để tạo thành quận Kỳ Giang mới.
{ "split": 0, "title": "Vạn Thịnh", "token_count": 177 }
22,069
Title: Vạn diệp tập Vạn diệp tập (tiếng Nhật: 万葉集 "Man'yōshū") - với nghĩa khái quát có thể được hiểu là "tập thơ lưu truyền vạn đời", "tuyển tập hàng vạn bài thơ", "tập thơ vạn trang", "tập thơ vạn lời", "tập thơ của mười ngàn chiếc lá" là tuyển tập thơ của Nhật Bản lớn nhất và cổ xưa nhất còn lại đến ngày nay. Tập thơ có lẽ được Otomo Yakamochi (mất năm 785) và một số người khác biên soạn vào cuối năm 759 đời Thiên hoàng Junnin thời kỳ Nara, theo lệnh của hoàng đế đương triều. Tác giả. "Vạn diệp tập" quy tụ những tác giả trên toàn cõi Nhật Bản suốt bốn thế kỷ: từ hoàng đế, công chúa, vương phi, tướng lĩnh, cho tới binh sĩ, nông dân, người đốn củi, kẻ ăn mày... với gần 400 nhà thơ được định danh, còn lại là khuyết danh. Có thể thấy sự có mặt của chủ biên Otomo Yakamochi trong 16 tập với 415 thi phẩm. Đó là chưa kể ông còn đưa thêm vào thơ của cha ông là Tabito và của họ hàng nhà ông. Tuy nhiên, Yakamochi hoàn toàn xứng đáng, ông và cha của ông được đánh giá là hai trong năm nhà thơ lỗi lạc nhất của "Vạn diệp tập", gọi là "Vạn diệp ngũ đại gia" hay "Vạn diệp ngũ danh bút": bao gồm thi thánh Kakinomoto no Hitomaro (662?-710), nhà thơ của thiên nhiên Yamabe no Akahito (700-736), nhà thơ nhân thế Yamanoue no Okura (660-733), nhà thơ của nhãn quan trào lộng Ōtomo no Tabito (665-731) và thi nhân của cái tôi mang phong cách cá nhân rất hiện đại Ōtomo no Yakamochi (718?-785). Phân loại. Phân loại theo thể thơ. Toàn bộ Vạn diệp tập gồm 20 cuốn với 4496 bài thơ viết bằng chữ Nhật kana hay manyogana, hệ thống ghi âm tiếng Nhật bằng chữ Hán, sử dụng 3 thể thơ truyền thống của Nhật:
{ "split": 0, "title": "Vạn diệp tập", "token_count": 493 }
22,070
Title: Vạn diệp tập Một số tài liệu làm tròn số Vạn diệp tập gồm 4500 bài thơ trong đó có 4200 bài tanka, 260 chōka và 60 sedoka. Trong khi hai thể chōka và sedoka đạt được vẻ đẹp tráng lệ trong thời Nara nhưng đã không còn được ưa chuộng về sau, và các nhà nghiên cứu hiện nay khi tìm hiểu những thể loại này thường chỉ còn dựa vào hợp tuyển Vạn diệp tập, thì thể tanka vẫn tiếp tục phát triển và được đánh giá là thể thơ quan trọng nhất của mười hai thế kỷ thơ ca Nhật Bản, xứng đáng với tên gọi về sau là waka (和歌, Hòa ca, thơ Nhật). Mặc dù waka nguyên là tên chung cho các loại thơ khác nhau của người Nhật phân biệt với thơ Trung Quốc, nhưng từ cuối thế kỷ 8 trở đi chữ waka được xem là đồng nghĩa với tanka. Phân loại theo đề tài. Là một bộ bách khoa thư về văn hóa, con người và đất nước Nhật Bản cổ xưa, "Vạn diệp tập" bao quát những đề tài hết sức rộng lớn tập trung trong ba mảng chính: Ngoài kiểu phân loại có lẽ dựa theo cách phân chia thơ ca Trung Hoa như trên, còn có thể xếp các bài trong "Vạn diệp tập" theo chủ đề: thơ thù tạc, thơ trữ tình, thơ tự sự, thơ thường nhật, thơ nhật ký, thơ viễn du, v.v. Tuy nhiên hầu như không có các bài thơ giáo huấn, thơ thời sự, thơ châm biếm hay phản ánh chiến tranh, những đề tài phổ biến trong thơ ca Trung Hoa đương thời (thơ Đường), mặc dù ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa rất lớn trong đời sống Nhật Bản giai đoạn này, và các nhà thơ Nhật Bản cổ xưa rất am hiểu thơ Trung Hoa. Điều đó chứng tỏ nguồn cảm hứng thơ ca của các thi nhân Nhật Bản cổ đại hoàn toàn từ tiếng nói, tình cảm, tâm hồn và quê hương xứ sở Nhật Bản. Phân chia theo lịch đại. Cách phân chia này cho phép tách thơ của Vạn diệp tập thành 4 thời kỳ: Những đề tài chính.
{ "split": 1, "title": "Vạn diệp tập", "token_count": 464 }
22,071
Title: Vạn diệp tập Khi xem xét hệ thống đề tài của Vạn diệp tập, có thể nhận thấy "đề tài tình yêu và quan hệ nam nữ" thấm đẫm trong rất nhiều bài thơ và luôn là tâm điểm của Vạn diệp tập, thậm chí nhiều cuốn toàn thơ tình (quyển 8, quyển 2). Tình yêu trong Vạn diệp tập phản ánh những xúc cảm chân thành rất con người, không hề có sự khác biệt trong cách biểu cảm giữa một hoàng đế, một cung phi hay một nông dân, một người phụ nữ thuộc tầng lớp hạ lưu. Cũng có thể nhận thấy đặc điểm lớn phân biệt bản chất thơ tình trong Vạn diệp tập với thơ ca của những thời đại về sau cũng như với thơ tình Trung Hoa đương thời: thơ tình trong Vạn diệp tập luôn sử dụng hình thức biểu hiện tình yêu của một cá thể (hầu hết là tác giả) với một cá thể khác. Yêu không chỉ là nhận thức của người nói hướng tới một đối tượng bên ngoài, mà còn là sự tác động lên đối tượng ấy bằng những hành động như nụ hôn, ôm ấp, ngủ cùng, hoặc nằm cùng v.v. bao hàm những quan hệ thể xác cụ thể. Tình yêu trong Vạn diệp tập phản ánh đời sống tinh thần hòa ái tươi tắn không bị gò bó trong bất cứ một ràng buộc nào của mọi tầng lớp người dân Nhật Bản cổ đại.
{ "split": 2, "title": "Vạn diệp tập", "token_count": 321 }
22,072
Title: Vạn diệp tập Gần gũi với đề tài tình yêu, Vạn diệp tập còn bộc lộ đời sống tinh thần hết sức phong phú của con người qua những bài "vãn ca bi thương" viết khi đối diện với cái chết. Có năm loại vãn ca trong hợp tuyển: dạng vãn ca quan phương viết khi hoàng đế băng hà hay một thành viên trong hoàng tộc qua đời; những vãn ca do vợ hoặc chồng viết nhân cái chết của người kia; những bài văn tế của nhà thơ viết cho những người hoàn toàn xa lạ, chẳng hạn khi thấy một thi thể vô thừa nhận; những xúc cảm của con người tuôn ra đầu ngọn bút trong khoảng khắc ngắn ngủi trước khi chết (như khi sắp bị hành hình); và cuối cùng là những vãn ca viết để khóc thương cho những nhân vật truyền thuyết. Có một đặc điểm dễ nhận thấy ở đây, trừ trường hợp một số vãn ca viết cho một lễ tưởng niệm đặc biệt, phần lớn các vãn ca, do tính chất riêng tư của nó, có thể được xếp vào một thể loại thơ tình đã được chuyên biệt hóa, thực sự là tiếng lòng khóc than cho số kiếp người yêu.
{ "split": 3, "title": "Vạn diệp tập", "token_count": 263 }
22,073
Title: Vạn diệp tập Bên cạnh đề tài về tình yêu và nỗi bi ca, những bài thơ trong Vạn diệp tập nuôi dưỡng một "tình yêu vĩnh cửu với thiên nhiên" tương đối khác biệt với tình yêu con người và những xúc cảm do mất mát người thân tạo ra. Có lẽ bởi tình yêu khó tìm, mất mát khó tránh, nhưng tình cảm với thiên nhiên lại thường trực và bao giờ cũng có thể viết nên một bài thơ tả cảnh tuyệt đẹp. Thiên nhiên trong các bài thơ của Vạn diệp tập là những thắng cảnh nổi tiếng trên đất nước Phù Tang với ngọn núi Fuji, hồ Omi, vùng Yoshino, biển Iwami, cánh đồng hoa Murasaki, những đám mây hoa anh đào, hoa mận trong tuyết trắng và lá thu phong đỏ thắm. Tuy nhiên, chiếm số lượng lớn lao trong hợp tuyển, thiên nhiên không thuộc về những bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của các vùng miền, của bốn mùa, mà rất phổ biến trong các bài tình ca hay vãn ca. Có lẽ bởi vì tình yêu, hoa nở, chim, gió, ánh trắng có ý nghĩa với thi nhân và dường như hoa lá cỏ cây trong con mắt thi nhân cũng có đời sống của chúng. Một đặc điểm dễ nhận thấy là thiên nhiên được miêu tả không chỉ thuần Nhật, cách thức miêu tả thiên nhiên cũng hoàn toàn khác thơ cổ Trung Hoa vốn thiên về ước lệ và cá nhân nhà thơ hoàn toàn là khách quan so với ngoại cảnh. Những bài thơ trong Vạn diệp tập luôn cho thấy hình bóng con người như là một phần của thiên nhiên, thiên nhiên và con người luôn hòa trộn trong những xúc cảm thống nhất, cân bằng. Đối diện với thiên nhiên khiến tâm trạng nhà thơ luôn hướng về người yêu dấu.
{ "split": 4, "title": "Vạn diệp tập", "token_count": 385 }
22,074
Title: Vạn diệp tập Đề tài về tình yêu và thiên nhiên ở trên không lấn át "những đề tài khác": tình cảm mẹ con, tình bạn, tâm trạng của người lính thú xa nhà, sự hoài vọng tuổi thanh xuân của những người đã ở tuổi mãn chiều xế bóng, nỗi đau khi đối diện với bệnh tật, cảm hứng trước bầu rượu của thi nhân và được tập hợp thành từng cụm đề tài của Vạn diệp tập như những bài ca phương Đông, những bài ca lính thú, những bài ca xưa, mười ba bài tụng ca về rượu, thơ xướng họa v.v. Ý nghĩa. Với tất cả sự đồ sộ của khối lượng, sự bao quát lớn lao các tầng lớp sáng tác "từ quốc vương cho đến người đốn củi" và sự phong phú tuyệt vời về đề tài, công trình "Vạn diệp tập" không chỉ là kiệt tác của thời đại Nara mà còn xứng đáng là ngọn hải đăng của thơ ca Nhật Bản, không chỉ là tổng tập của thi ca Nhật Bản cổ đại mà còn xứng đáng là công trình độc nhất vô nhị không có bất cứ một công trình nào về sau được coi là tương đương với nó.
{ "split": 5, "title": "Vạn diệp tập", "token_count": 265 }
22,075
Title: Vả Vả, tên khoa học Ficus auriculata, là một loài cây thuộc chi "Ficus", nó có quả giống như sung nhưng lớn hơn và có lá to hơn. Đây là loài có nguồn gốc Hymalaya, miền nam Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Là loài cây thường xanh, nhưng trong một số vùng khí hậu, nó có thể rụng lá trong mùa đông.. Trong văn hóa đại chúng. Trong dân gian có câu "Lòng vả cũng như lòng sung" để ám chỉ một điều lòng ta thế nào thì lòng người cũng thế. Ta sao người vậy, chớ vội chê người mà không xét mình. Câu thành ngữ "ăn quả vả trả quả sung": Quả vả và quả sung cùng thuộc một loài, nhưng quả vả to gấp mười quả sung, và ngon hơn quả sung. Ăn quả vả trả quả sung là ăn của người ta nhiều mà trả người ta thì ít, nợ ơn thì to mà trả ơn thì nhỏ. Ẩm thực. Quả vả có thể dùng để chế biến một vài món ăn giống như rau.
{ "split": 0, "title": "Vả", "token_count": 236 }
22,076
Title: Vận động (triết học Marx - Lenin) Vận động là một phạm trù của triết học Marx-Lenin dùng để chỉ về một phương thức tồn tại của vật chất (cùng với cặp phạm trù không gian và thời gian), đó là sự thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong không gian, vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp. Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin thì vận động không chỉ là sự thay đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của vật chất) mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi. Thông qua vận động, vật chất mới biểu hiện và bộc lộ bản chất của mình. Tính chất và phạm vi. Theo Engels thì vận động phải được hiểu theo nghĩa chung nhất tức là một quá trình bao trùm từ sự thay đổi đơn giản đến thay đổi tư duy. Với tính chất là sự biến đổi nói chung, thì vận động ""là thuộc tính cố hữu của vật chất" và "là phương thức tồn tại của vật chất"" có nghĩa là vật chất tồn tại bằng vận động (là phương thức của vật chất). Theo Ph.Ăng-ghen thì: Vật chất mà không vận động là điều không thể quan niệm được. Vận động là sự biến đổi nói chung không phụ thuộc vào tính chất, khuynh hướng hay kết quả của nó. Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện, bộc lộ sự tồn tại của mình. Trong vận động và thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình, khi con người nhận thức được những hình thức vận động của vật chất, qua đó nhận thức được bản thân vật chất. Vận động là sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất (là thuộc tính cố hữu của vật chất). Theo Ăng-ghen, vận động của vật chất do tác động qua lại giữa các yếu tố, các bộ phận khác nhau của bản thân sự vật, "sự tác động qua lại đó chính là sự vận động". Phân loại. Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại lúc đang sinh sống, Engels đã phân chia vận động thành 5 hình thức cơ bản (xếp từ đơn giản đến phức tạp). Đó là:
{ "split": 0, "title": "Vận động (triết học Marx - Lenin)", "token_count": 510 }
22,077
Title: Vận động (triết học Marx - Lenin) Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Nhưng các hình thức vận động thấp không có khả năng bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao hơn. Ví dụ: Trong vận động vật lý thì bao gồm vận động cơ học, trong vận động hóa học thì bao gồm vận động vật lý và trong vận động sinh học bao gồm vận động hóa học và vận động xã hội bao gồm vận động sinh học cũng như tất cả các vật động nêu trên. Tuy nhiên vận động cơ học không thể bao gồm vận động xã hội. Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận động xã hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận động, những trình độ này tương ứng với trình độ của các kết cấu vật chất. và trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau. Dù vậy, bản thân sự tồn tại của sự vật đó thường đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản. Chính bằng sự phân loại các hình thức vận động cơ bản, Engels đã góp phần đặt cơ sở cho sự phân loại các khoa học tương ứng với đối tượng nghiên cứu của chúng và chỉ ra cơ sở của khuynh hướng phân ngành và hợp ngành của các khoa học. Đứng im. Ngoài ra, quá trình vận động còn bao hàm trong nó hiện tượng đứng im. Theo quan điểm của triết học Mác - Lenin thì đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động đó là sự vận động trong trạng thái cân bằng, tức là những tính chất của vật chất chưa có sự biến đổi về cơ bản. Đứng im chỉ là hiện tượng tương đối và tạm thời. Theo Engels thì ""mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời" Đứng im còn được biểu hiện như một quá trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định, chưa thay đổi. Theo Engels thì "vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ phá hoại sự cân bằng riêng biệt""
{ "split": 1, "title": "Vận động (triết học Marx - Lenin)", "token_count": 465 }
22,078
Title: Vận tốc trôi Trong vật lý, vận tốc trôi (tiếng Anhː "drift velocity"), ký hiệu hoặc "formula_1", là vận tốc trung bình đạt được của các hạt tích điện, chẳng hạn như electron trong vật liệu dưới ảnh hưởng của điện trường. Nói chung, một electron trong dây dẫn sẽ chuyển động ngẫu nhiên với vận tốc Fermi, dẫn đến vận tốc trung bình bằng không. Tác động một điện trường vào chuyển động ngẫu nhiên này sẽ làm electron dịch chuyển có hướng, gọi là "trôi" ("drift"). Trong kim loại. Hạt mang điện có tác dụng chủ yếu trong kim loại là electron (hiếm khi là lỗ trống). Trong trường hợp không có điện trường, các hạt mang điện trong một vật dẫn ở nhiệt độ phòng sẽ chuyển động nhiệt vô hướng ngẫu nhiên ở tốc độ Fermi, do đó vận tốc trung bình của chúng bằng không, không có sự tạo ra dòng điện. Nếu có một hiệu điện thế đặt vào vật dẫn, vật dẫn này sẽ xuất hiện điện trường, các electron tự do đang chuyển động ngẫu nhiên sẽ di chuyển có hướng ngược chiều điện trường này. Kkhi chuyển sang di chuyển cùng hướng, vì các electron có vận tốc đầu khác nhau nên chúng va chạm liên tiếp, đặc biệt là phonon (có thể mất vận tốc nếu đi theo hướng điện trường), tạo ra vận tốc mới theo hướng đó ngoài vận tốc nhiệt ngẫu nhiên và tạo ra dòng điện. Kết quả là vận tốc trôi nhỏ xác định của các electron xuất hiện, đặt chồng lên chuyển động ngẫu nhiên của các electron tự do. Mặt khác vì có vận tốc đầu nên electron sẽ có gia tốc theo phương của điện trường, làm vận tốc trôi tăng lên dần. Do vận tốc trôi này, vận tốc tổng hợp sẽ có hướng ngược chiều điện trường. Liên hệ với định luật Ohm. Trong một vật dẫn có điện trở, vận tốc trôi tỷ lệ thuận với cường độ điện trường: Trong đó dấu "" thể hiện sự ngược chiều điện trường, formula_3 là một hệ số tỷ lệ, là cường độ điện trường. Ngoài ra, vận tốc trôi cũng tỷ lệ thuận với cường độ dòng điện và phụ thuộc vào thời gian trung bình giữa hai va chạm (hằng số):
{ "split": 0, "title": "Vận tốc trôi", "token_count": 478 }
22,079
Title: Vận tốc trôi Trong đó là khối lượng hiệu dụng của electron trong vật liệu, formula_5 là điện tích của 1 electron, thương số formula_6 là độ linh động electron, kí hiệu . Từ hai công thức (1) và (2), suy ra vận tốc trôi được xác định bởi công thức: Từ công thức (3), biết được mật độ electron có thể tính được mật độ dòng điện formula_8ː Từ công thức (4), có thể xác định điện trở suất ρ (hoặc độ dẫn σ) bằng công thức: formula_10 Thay vào (4), ta có công thức formula_11 (5) Phương trình (5) chính là một cách thể hiện khác của Định luật Ohm viết bởi Gustav Kirchhoff. Trong hệ đơn vị MKS, đơn vị của các đại lượng , và lần lượt là m/s, m2/(V·s) và V/m. Công thức khác. Công thức tính vận tốc trôi của các hạt mang điện trong vật dẫn có tiết diện không đổi như sau: Trong đó là vận tốc trôi của các electron, là mật độ dòng điện chạy qua vật dẫn, là mật độ hạt mang điện tích và là điện tích trên số hạt mang điện. Công thức này cũng có thể được viết là: Nhưng mật độ dòng điện và vận tốc trôi trên thực tế là các vectơ, vì vậy mối quan hệ này thường được viết là: Trong đóː là mật độ điện tích thể tích (đơn vị SI: coulomb trên mét khối). Xét về các tính chất cơ bản của dây dẫn kim loại hình trụ thẳng, trong đó các hạt mang điện là electron, biểu thức này có thể được viết lại thành: Trong đóː Ví dụ cụ thể. Điện được truyền phổ biến nhất trong dây đồng. Đồng có khối lượng riêng 8,94 g/cm³ và khối lượng nguyên tử là 63,546 g/mol, tương đương 140685,5 mol/m³. Trong một mol của bất kỳ nguyên tố nào cũng có 6,023 × 1023 nguyên tử (số Avogadro). Do đó, trong 1 m³ đồng có khoảng 8,5 × 1028 nguyên tử (6,02 × 1023 × 140685,5 mol/m³). Mỗi nguyên tử đồng cung cấp một electron tự do (electron dẫn), vì vậy bằng 8,5 × 1028 electron/m³.
{ "split": 1, "title": "Vận tốc trôi", "token_count": 489 }
22,080
Title: Vận tốc trôi Giả sử cường độ dòng điện và đường kính 2 mm (bán kính = 0,001 m). Dây này có tiết diện là × (0,001 m)2 = 3,14 × 10−6 m2 = 3,14 mm2. Điện tích của một electron là = -1,6 × 10−19 C. Vận tốc trôi do đó được tính như sau: Phân tích thứ nguyên: formula_18 Do đó, trong dây này các electron đang dịch chuyển với tốc độ . Trong trường hợp dòng điện xoay chiều 60 Hz, điều này có nghĩa là trong vòng nửa chu kỳ, độ dời của các electron nhỏ hơn 0,2 m. Nói cách khác, các electron dịch chuyển qua điểm tiếp xúc trong một công tắc sẽ không bao giờ thực sự rời khỏi công tắc. Để so sánh, vận tốc Fermi của các electron này (vận tốc trong điều kiện nhiệt độ phòng có thể được coi là vận tốc gần đúng của chúng khi không có dòng điện) là khoảng .
{ "split": 2, "title": "Vận tốc trôi", "token_count": 211 }
22,081
Title: Vật chất (triết học) Vật chất theo định nghĩa của Vladimir Ilyich Lenin là cái có trước, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức và là cái quyết định ý thức; là cái tác động lại vật chất; và nó có quan hệ biện chứng qua lại với nhau. Các quan điểm về vật chất. Phạm trù vật chất xuất hiện ngay từ khi triết học mới ra đời trong thời kỳ cổ đại, dưới chế độ chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên nội dung của phạm trù này không phải là bất biến mà luôn luôn biến đổi và phát triển. Khuynh hướng chung của các nhà triết học duy vật thời cổ đại là đi tìm một thực thể ban đầu nào đó và coi nó là yếu tố tạo ra tất cả các sự vật, hiện tượng khác nhau của thế giới, tất cả đều bắt nguồn từ đó và cuối cùng đều tan biến trong đó. Tức là họ muốn tìm một thực thể chung, là cơ sở bất biến của toàn bộ tồn tại, là cái được bảo toàn trong sự vật dù trạng thái và thuộc tính của sự vật có biến đổi và được gọi là vật chất (tiếng Latin là "materia"). Trong lịch sử triết học cổ đại, các nhà triết học duy vật cũng quan niệm vật chất rất khác nhau. Thales (624-547 trước Công nguyên) coi vật chất là nước, Anaximenes (585-524 trước Công nguyên) coi vật chất là không khí, Heraclitus (540-480 trước Công nguyên) coi vật chất là lửa, Democritus (460-370 trước Công nguyên) coi vật chất là các nguyên tử... Nói chung các nhà triết học cổ đại quan niệm vật chất dưới dạng cảm tính và quy vật chất thành một thực thể cụ thể, cố định. Mặc dù có những hạn chế về mặt lịch sử, song những quan niệm trên lại có ý nghĩa tích cực trong việc đấu tranh chống lại quan niệm duy tâm thời bấy giờ.
{ "split": 0, "title": "Vật chất (triết học)", "token_count": 418 }
22,082
Title: Vật chất (triết học) Đến thời kỳ cận đại, khoa học phát hiện ra sự tồn tại của nguyên tử, cho nên quan niệm của thuyết nguyên tử về cấu tạo của vật chất ngày càng được khẳng định. Trong giai đoạn thế kỷ 17 - thế kỷ 18, mặc dù đã có những bước phát triển, đã xuất hiện những tư tưởng biện chứng nhất định trong quan niệm về vật chất, song quan niệm đó ở các nhà triết học duy vật thời kỳ này về cơ bản vẫn mang tính chất cơ giới, đó là khuynh hướng đồng nhất vật chất với nguyên tử hoặc với khối lượng. Quan niệm này chịu ảnh hưởng khá mạnh bởi cơ học cổ điển của Newton, một lĩnh vực của vật lý được coi là phát triển hoàn thiện nhất thời bấy giờ. Cơ học cổ điển coi khối lượng của vật thể là đặc trưng cơ bản và bất biến của vật chất; thế giới bao gồm những vật thể lớn nhỏ khác nhau, cái nhỏ nhất không thể phân chia nhỏ hơn là các nguyên tử; đặc trưng cơ bản của mọi vật thể là khối lượng; tính tất yếu khách quan trong hiện thực là tính tất yếu khách quan được thể hiện qua các định luật cơ học của Newton; vật chất, vận động, không gian và thời gian là những thực thể khác nhau cùng tồn tại chứ không có quan hệ ràng buộc nội tại với nhau. Quan niệm này tồn tại và được các nhà triết học duy vật cũng như các nhà khoa học tự nhiên nổi tiếng sử dụng cho đến tận cuối thế kỷ 19.
{ "split": 1, "title": "Vật chất (triết học)", "token_count": 315 }
22,083
Title: Vật chất (triết học) Karl Marx và Friedrich Engels nêu lên sự đối lập giữa vật chất với ý thức, về tính thống nhất vật chất của thế giới, về tính khái quát của phạm trù vật chất và sự tồn tại của vật chất dưới các dạng cụ thể. Theo Engels thì cần phân biệt các dạng tồn tại khách quan của vật chất và khái niệm về vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không có tồn tại cảm tính khác với các đối tượng vật chất cụ thể. Theo ông "Những từ như vật chất và vận động chỉ là sự tóm tắt trong đó chúng ta tập hợp theo những thuộc tính của chúng, rất nhiều sự vật khác nhau có thể cảm biết được bằng giác quan". Engels đặc biệt nhấn mạnh phê phán quan điểm đem quy vật chất về nguyên tử, về những hạt nhỏ đồng nhất hoàn toàn giống nhau về chất, chỉ khác nhau về lượng, ông coi đó là siêu hình, mang tính cơ giới, qua đó ông nêu lên tính vô hạn và vô tận, tính không thể sáng tạo và không thể tiêu diệt được của vật chất và các hình thức tồn tại của nó là không gian và thời gian. Ở đây cần phân biệt quan niệm vật chất với tư cách là một phạm trù triết học với quan niệm của vật lý học và các khoa học khác về vật chất. Lenin định nghĩa vật chất: Ý nghĩa. Sự ra đời khái niệm về vật chất đặt nền tảng về nhận thức và phương pháp cho một thế giới quan khoa học, hiện đại; giúp lý giải mọi vận động và biến đổi của dạng vật chất trong xã hội và những hoạt động thực tiễn của con người. Phương thức tồn tại của vật chất. Phương thức tồn tại của vật chất là vận động. Vận động là mọi sự biến đổi nói chung, “là thuộc tính cố hữu của vật chất”, “là phương thức tồn tại của vật chất”, "là sự tự vận động của vật chất". Có năm hình thức cơ bản của vận động: vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hoá học, vận động sinh học và vận động xã hội. Quan hệ giữa các hình thức vận động: khác nhau về trình độ của vận động, vận động cao trên cơ sở vận động thấp, mỗi sự vật có nhiều hình thức vận động. Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối. Hình thức thức tồn tại của vật chất.
{ "split": 2, "title": "Vật chất (triết học)", "token_count": 499 }
22,084
Title: Vật chất (triết học) Hình thức thức tồn tại của vật chất gồm không gian, thời gian và vận động. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học. Phạm trù vật chất và mối liên hệ giữa vật chất và ý thức đã được các nhà triết học trước Marx quan tâm với nhiều quan điểm khác nhau và luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trong suốt lịch sử của triết học. Quan điểm Marxist cho rằng chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan có trước và độc lập với ý thức con người.
{ "split": 3, "title": "Vật chất (triết học)", "token_count": 157 }
22,085
Title: Vật lý hạt nhân Vật lý hạt nhân là một nhánh của vật lý đi sâu nghiên cứu về hạt nhân của nguyên tử (gọi tắt là hạt nhân). Các ứng dụng phổ biến nhất được biết đến của vật lý hạt nhân là sự tạo năng lượng hạt nhân và công nghệ vũ khí hạt nhân, nhưng các nghiên cứu đã được áp dụng trong nhiều lĩnh vực, bao gồm trong y học hạt nhân, hình ảnh cộng hưởng điện từ, cấy ion trong kỹ thuật vật liệu, bức xạ cacbon xác định tuổi trong địa chất học và khảo cổ học. Vật lý hạt nhân gồm 3 phần: mô tả các hạt cơ bản (prôtôn và nơtrôn) và các tương tác giữa chúng, phân loại và trình bày các tính chất của hạt nhân, và cung cấp các kỹ thuật tân tiến mà nó mang lại. Vật Lý Hạt phát triển ra nhóm vật lý hạt nhân. Trong đó, gồm Vật Lý Hạt Nhân Thiên Văn , một ứng dụng của vật lý hạt nhân vào vật lý thiên văn - giải thích cho các hoạt động của các vì sao trong ngân hà và căn nguyên của các nguyên tố hóa học. Lịch sử.
{ "split": 0, "title": "Vật lý hạt nhân", "token_count": 243 }
22,086
Title: Vật lý hạt nhân Lịch sử của vật lý hạt nhân như là một môn học khác với vật lý nguyên tử bắt đầu với việc phát hiện ra phóng xạ bởi Henri Becquerel năm 1896, trong khi điều tra hiện tượng lân quang trong muối uranium. Việc phát hiện ra các điện tử của Joseph John Thomson một năm sau đó là một sự chỉ ra cho thấy các nguyên tử có cấu trúc bên trong. Vào đầu thế kỷ 20, mô hình nguyên tử được chấp nhận là mô hình mứt mận (Plum pudding model) trong đó nguyên tử được hình dung như là một quả bóng điện tích dương lớn với các hạt electron điện tích âm được nhúng bên trong nó. Bước sang thế kỷ này các nhà vật lý cũng đã phát hiện ra ba loại bức xạ phát ra từ các nguyên tử, mà họ đặt tên là alpha, beta, và bức xạ gamma. Các thí nghiệm vào năm 1911 bởi Otto Hahn và James Chadwick vào năm 1914 phát hiện ra rằng quang phổ phân rã beta là liên tục chứ không phải là rời rạc. Có nghĩa là, các hạt điện từ bị đẩy khỏi nguyên tử với một loạt các nguồn năng lượng, chứ không phải là số rời rạc của các nguồn năng lượng đã được quan sát thấy trong phân rã gamma và alpha. Đây là một vấn đề đối với vật lý hạt nhân vào thời điểm đó, bởi vì nó chỉ ra rằng năng lượng không được bảo toàn trong các phân rã. Vào năm 1915, Albert Einstein xây dựng ý tưởng của sự tương đương năng lượng-khối lượng ("E = mc2" ). Dựa trên hiện tượng phóng xạ được ghi chép lại bởi Becquerel và Marie Curie xây dựng trước đó, đây là một sự giải thích về nguồn năng lượng phóng xạ. Về sau đã có sự khám phá ra rằng bản thân hạt nhân là sự kết thành của các phần nhỏ hơn, các nucleon. Vật lý hạt nhân hiện đại.
{ "split": 1, "title": "Vật lý hạt nhân", "token_count": 416 }
22,087
Title: Vật lý hạt nhân Một hạt nhân nặng có thể có hơn hàng trăm nucleon. Với một vài phương thức tương đối vẫn có thể áp dụng hệ thống cơ bản. Tuy nhiên, với những hạt đặc biệt sẽ cần dùng đến hệ thống lượng tử. Ví dụ về hệ thống cơ bản: Trong kết quả (SEMF - Semi-empirical mass formula), hạt nhân sở hữu năng lượng của một phần sức căng bề mặt và một phần lực đẩy điện tích ảnh hưởng đến hạt nhân của các hạt proton. Trong mô hình này có thể miêu tả được nhiều tính năng nuclei khác nhau, bao gồm cả tổng thể khuynh hướng của năng lượng liên kết với trọng điểm của số khối lượng. Đôi khi, có thể dùng để mô tả hiện tượng phân hạch hạt nhân.Nhưng với hiệu ứng lượng tử, khi dùng mô hình vỏ hạt nhân, được phát triển bởi Maria Goeppert Mayer và J. Hans D. Jensen. Các Nuclei với các số của các Neutron và Proton thường có tính ổn định. Bởi vì, phần mô hình vỏ hạt nhân luôn trong trạng thái đầy. Ngoài ra, còn có hệ thống mô hình hạt phản ứng boson, khi ghép các neutron và proton dưới dạng boson. Áp dụng thêm để phân tích hạt nhân từ gốc, bắt đầu bằng những nucleon và phản ứng của chúng. Đa phần những nghiên cứu trong vật lý hạt nhân luôn áp dụng trong những điều kiện ưu hóa như cường độ xoáy và kích thích năng lượng. Các nuclei có thể có hình dạng đa thể hoặc kích thước như định dạng hạt to neutron chuyển thành hạt proton. Những người thí nghiệm có thể tạo ra các định dạng nuclei theo ý muốn. Bằng cách sử dụng các máy tổng hợp nhân tạo để có được năng lượng hợp hạch hoặc các phản ứng chuyển hóa nucleon, tăng tia các ion từ máy gia tốc hạt. Khi tăng các tia với nguồn năng lượng cao có thể tạo ra các hạt nuclei có sức tỏa nhiệt bức xạ khủng khiếp. Ở giai đoạn này, những thí nghiệm đó đã chuyển tiếp sang từ vật chất hạt nhân bình thường sang một thể nhiệt hạch hoàn toàn mới, gọi là quark–gluon plasma. Trong định dạng này, các hạt quark sẽ tương tác với nhau, thay vì tách biệt. Chia tách hạt nhân.
{ "split": 2, "title": "Vật lý hạt nhân", "token_count": 500 }
22,088
Title: Vật lý hạt nhân Với 80 nguyên tố khác biệt phải có ít nhất một đồng vị ổn định không bao giờ bị chia tách, trong tổng số khoảng 252 nuclide ổn định. Tuy nhiên, hàng nghìn đồng vị đều được đánh giá là không ổn định. Những "đồng vị phóng xạ" có ước tính thời gian phân rã từ vài khắc trên giây cho đến hơn ngàn tỷ năm. Chia xoắn trên bảng thống kê như một hệ thống hoạt động của số nguyên tử và số neutron. Năng lượng liên kết của các nuclide được hình thành gọi là thung lũng ổn định () - hay còn gọi là bảng tính Segrè. Những nuclide ổn định luôn nằm bên dưới trong bảng thống kê sóng năng lượng của thung lũng này. Còn các nuclide không ổn định thường nằm trên phần còn lại của bảng và có liên kết năng lượng mỏng hơn. Nuclei có độ ổn định sẽ sở hữu các mật độ khoảng cách nhất định hoặc sự cân bằng trong cấu trúc hợp thành của các neutron và proton: nếu có quá ít hoặc quá nhiều các hạt neutron (so với mật độ của proton) sẽ dẫn đến sự chia tách (phân rã hạt nhân). Ví dụ 1: trong chia tách beta, một nitrogen-16 nguyên tử (7 proton, 9 neutron) được chuyển đổi thành oxygen-16 nguyên tử (8 proton, 8 neutron) chỉ với vài giây để tạo thành. Trong trường hợp của thí nghiệm hóa học này, nó sẽ làm tách ra một neutron trong nucleus của nitrogen để chuyển đổi bằng một vào trong một proton, lực này được sử dụng một electron và một Antineutrino (một định dạng phản vật chất của neutrino). Sau thí nghiệm, sẽ thu được một nguyên tố khác (Oxy) với số proton khác với nguyên tố ban đầu.
{ "split": 3, "title": "Vật lý hạt nhân", "token_count": 397 }
22,089
Title: Vật lý hạt nhân Ví dụ 2: trong phân rã alpha, thường hay diễn ra trong các nuclei có tổng thể khối lượng nặng nhất (đặc nhất). Sự phân rã nguyên tố phóng xạ sẽ giải phóng một nucleus của helium (2 proton và 2 neutron), làm tăng thêm một nguyên tố, . Ở nhiều trường hợp, quá trình này sẽ diễn ra thành các chuỗi phản ứng có tính tương tự (chuỗi phân rã), bao gồm cả những phản ứng phân rã khác (thường là phân rã beta) cho đến khi nguyên tố ổn định được tạo thành.Ví dụ 3: trong phân rã gamma, một nuleus thường hay phân rã theo quá trình từ một hạt có tính tương tác năng lượng mạnh chuyển đổi thành hạt có mức năng lượng thấp hơn bằng cách chiếu tia gamma. Nguyên tố sẽ không thay đổi thành một nguyên tố khác trong quá trình này (cũng không diễn ra phản ứng chuyển đổi hạt nhân).Ngoài ra, còn có các dạng phân rã ngoại lai (exotic decay). Ví dụ như: trong phân rã , năng lượng từ một nuclei xung lực có thể xuyên vào quỹ đạo bên trong của các electron từ chính hạt nguyên tử, trong một quá trình tạo ra thêm gia tốc cho các hạt electron nhưng không phải là phản ứng beta và cũng không thay đổi một nguyên tố này thành nguyên tố khác. Tổng hợp hạt nhân.. Trong phản ứng tổng hợp hạt nhân nguyên tử, hai nuclei có tổng thể khối nhỏ sẽ được đưa lại gần để cho một lực mạnh hơn có thể kết nối chúng lại với nhau. Tương tác này cần một lực lớn hoặc lực hạt nhân để vượt qua được lực đẩy điện từ giữa các nuclei để tổng hợp chúng lại với nhau; Tuy nhiên, chỉ có thể thực hiện tổng hợp hạt nhân trong môi trường có áp suất cao hoặc nhiệt lượng cao. Khi các nuclei được tổng hợp, phản ứng sẽ phóng rất nhiều năng lượng ra bên ngoài để thu thập năng lượng. Ngoài ra, còn làm cho năng lượng bên trong các nucleus đã được tổng hợp sẽ vào thể năng lượng thấp. Sự liên kết năng lượng trên một nucleon sẽ làm tăng tổng số khối lượng lên bằng với khối lượng của nickel-62.
{ "split": 4, "title": "Vật lý hạt nhân", "token_count": 479 }
22,090
Title: Vật lý hạt nhân Các thiên thể định dạng ngôi sao (ví dụ như Mặt Trời) luôn tỏa nhiệt năng trong sự tổng hợp của 4 proton vào bên trong 1 nucleus của helium, gồm: 2 positron và 2 neutrino. Sự tổng hợp không kiểm soát của hydrogen vào bên trong helium được gọi là phản ứng nhiệt hạch (hoặc phản ứng nhật năng). Hiện nay, các viện nghiên cứu luôn phát triển thêm các công nghệ kiểm soát trong tổng hợp hạt nhân để đáp ứng các nhu cầu sử dụng theo thị trường kinh tế. Tổng hợp hạt nhân là khởi nguồn của năng lượng (gồm các thể khác nhau của ánh sáng và phóng xạ điện từ) được tạo ra từ lõi của toàn thể các ngôi sao thiên thể, có cả Mặt Trời của Trái Đất. Phân hạch hạt nhân.. ]Phân hạch hạt nhân là phản ứng ngược lại với tổng hợp hạt nhân. Khi một nuclei có tổng thể khối lượng nặng hơn Nickel-62, liên kết năng lượng trên một nucleon giảm theo số khối lượng. Vì vậy, đây là khả dĩ làm cho năng lượng được giải phóng ra bên ngoài nếu trường hợp một nucleus vỡ ra thành hai nucleus có tổng thể khối lượng nhẹ hơn. Quá trình phân rã alpha đặc biệt sẽ là tính chất luôn có trong phân hạch hạt nhân. Từ rất nhiều các nuclei có khối lượng nặng có thể tạo ra phản ứng sản sinh nhiều các neutron tự do. Đồng thời, các nuclei này cũng dễ dàng hấp thụ các neutron tự do được phóng ra từ trong phản ứng phân hạch đầu tiên. Trong chuỗi các phản ứng liên tục này, sẽ có khởi tạo ra neutron có khả năng tỏa nhiệt (bắt lửa mạnh). Phân hạch hạt nhân (hay còn gọi là chuỗi phản ứng hạt nhân) là công nghệ chỉ được dùng trong quân sự, quốc phòng, công nghệ du hành Vũ Trụ...
{ "split": 5, "title": "Vật lý hạt nhân", "token_count": 411 }
22,091
Title: Vật lý thống kê Vật lý thống kê là một ngành trong vật lý học, áp dụng các phương pháp thống kê để giải quyết các bài toán liên quan đến các hệ chứa một số rất lớn những phần tử, có số bậc tự do cao đến mức không thể giải chính xác bằng cách theo dõi từng phần tử, mà phải giả thiết các phần tử có tính hỗn loạn và tuân theo các quy luật thống kê. Ví dụ của các hệ có thể là các vật chất trong tự nhiên, chứa điện tử, quang tử, nguyên tử, phân tử, tồn tại dưới những trạng thái vật chất khác nhau (chất khí, chất lỏng, chất rắn, plasma...). Các phương pháp của vật lý thống kê hoàn toàn có thể mở rộng cho các hệ như hệ nơ-ron thần kinh, quần thể sinh vật, quần thể người trong xã hội, hay các hệ hỗn loạn trong kinh tế học. Một số bài toán của vật lý thống kê có lời giải đại số, nhờ các phép xấp xỉ hay phân tích chuỗi. Tuy nhiên đa số phải sử dụng các phương pháp số để giải, đặc biệt là phương pháp Monte-Carlo.
{ "split": 0, "title": "Vật lý thống kê", "token_count": 243 }
22,092
Title: Vật liệu kim loại Vật liệu kim loại hiện được phân làm hai loại: Vật liệu kim loại đen và vật liệu kim loại màu. Vật liệu kim loại đen. Vật liệu kim loại đen bao gồm gang,thép và các hợp kim của chúng(chứa đa phần là sắt). Đây là những hợp kim trên cơ sở sắt và cacbon. Thành phần cacbon được đánh giá bằng phần trăm khối lượng. Nếu trong 100 kg thép có 1 kg cacbon thì thành phần cacbon là 1%. Khi hàm lượng cacbon nhiều hơn 2,14% ta có gang, nếu nhỏ hơn 2,14% ta có thép. Thép. Thép gồm có "thép cacbon" và "thép hợp kim". Trên thực tế thép cacbon không có nghĩa là trong thành phần chỉ hoàn toàn là sắt và cacbon. Trong nền kim loại sắt, ngoài cacbon (<2,14%) còn có các tạp chất thông thường như Mn, Si, S, P và các tạp chất ngẫu nhiên như Cr, Ni, Cu, W, Ti, Mo... Khi hàm lượng các chất trên cao hơn một giá trị nào đó thì thép sẽ được coi là thép hợp kim. Thép cacbon. "Xem bài chính: Thép carbon" Trong thép cacbon, ngoài sắt ra người ta quan tâm chỉnh sửa thành phần của những nguyên tố sau đây: C (<2%), Mn (0,5-0,8%), Si (0,3-0,6%), P (0,05-0,06%), S (0,05-0,06%) Ngoài các nguyên tố trên, các tạp chất ngẫu nhiên khác nếu có thì càng tốt vì làm tăng cơ tính của thép nên không cần loại bỏ. Phosphor và lưu huỳnh là 2 kẻ thù của mọi loại thép. Chất lượng của thép cao hay thấp đôi khi được đánh giá qua hàm lượng phosphor và lưu huỳnh còn lại trong thành phần. Thép có chất lượng cao là thép không chứa quá 0,025% mỗi nguyên tố trên. Phosphor có mặt trong thép từ quặng hay từ than có mặt trong thép ở dạng hòa tan trong ferit hoặc liên kết với sắt dạng Fe3P làm dòn thép khi nguội, gọi là hiện tượng dòn nguội, hay bở nguội. Lưu huỳnh có mặt trong thép cũng từ quặng hay trong than.
{ "split": 0, "title": "Vật liệu kim loại", "token_count": 503 }
22,093
Title: Vật liệu kim loại Hỗn hợp cùng tinh (FeS + Fe) có nhiệt độ nóng chảy thấp hơn gang thép và nằm ở biên giới các hạt, khi nung nóng để gia công áp lực, pha cùng tinh này bị chảy ra, làm thép bị đứt ở biên hạt, có cảm giác như bị giòn, hiện tượng này gọi là giòn nóng, hay bở nóng. Mn và Si được cho vào khử ôxi còn trong kim loại lỏng khi nấu, trong đó tác dụng khử ôxi của silic mạnh hơn. Hai nguyên tố này khi có mặt trong sắt còn làm tăng độ bền, độ cứng nhưng tác dụng làm giảm độ dẻo độ dai rất mạnh nên người ta chỉ sử dụng chúng có hạn chế. Thép dùng làm các kết cấu thông thường trong ngành xây dựng (tấm, thanh, dây, ống, thép hình chữ U, chữ I...) là thép cacbon chất lượng thấp, phosphor và lưu huỳnh dưới 0,06%. Thép kết cấu (thép dùng làm các chi tiết máy thông thường) có chất lượng cao hơn, S < 0,04%, P < 0,035%. Thép này luôn được khử ôxi bằng cả mangan lẫn silic. Độ bền của thép tăng khi hàm lượng cacbon tăng, tuy nhiên không sử dụng lượng cacbon cao hơn 0,85% vì độ bền từ điểm đó trở đi sẽ không tăng nữa mà sẽ giảm. Thép kết cấu có hàm lượng cacbon là 0,85% chịu được độ bền kéo là 1150 MPa, nghĩa là nếu một dây thép bằng thép trên tiết diện 1 mm² có thể treo được 1 vật nặng 115 kg. Thép đường ray là thép 0,5-0,8% cacbon; 0,6-1% mangan; phosphor, lưu huỳnh < 0,04%, thường có nhà máy chế tạo riêng. Dây thép có độ bền kéo phụ thuộc vào cả lượng cacbon lẫn mức độ bị biến dạng khi kéo (khi sản xuất), thông thường lượng carbon không cao hơn 1,2%, giới hạn bền kéo có thể đạt rất cao, chẳng hạn sản xuất từ thép 1,2% cacbon, kéo nguội đến mức độ biến dạng là 90% thì dây có giới hạn bền là 4000 MPa nghĩa là 1 dây tiết diện 1 mm² treo được 400 kg. Thép hợp kim.
{ "split": 1, "title": "Vật liệu kim loại", "token_count": 504 }
22,094
Title: Vật liệu kim loại Thép hợp kim là thép (với thành phần chính là sắt và cacbon) được nấu pha trộn với các nguyên tố hoá học khác (đồng, mangan, niken...) với tổng lượng nguyên tố thêm vào nằm khoảng từ 1,0% đến 50% tổng khối lượng hỗn hợp để cải thiện chất lượng thép thành phẩm. Tuỳ theo số lượng khác nhau của các nguyên tố và tỷ lệ của chúng trong thép mà thay đổi độ cứng, độ đàn hồi, tính dễ uốn, sức bền và khả năng chống oxy hóa của thép thành phẩm. Tại Nga, Trung Quốc và một số nước phương đông, thép hợp kim được chia làm 3 nhóm: thép hợp kim thấp, thép hợp kim trung bình và thép hợp kim cao. Ở phương Tây chỉ phân biệt hai loại thấp và cao. Sự khác nhau giữa hai loại này không có sự ranh giới rõ ràng.[1][2] Theo tiêu chuẩn của Nga, thép hợp kim thấp có tổng lượng hợp kim nhỏ hơn 2,5%, ở thép hợp kim cao tỉ lệ này lớn hơn 10%. Thông thường, cụm từ "thép hợp kim" dùng để đề cập đến thép hợp kim thấp. - Ngoài kim loại đen (thép,gắng) các kim loại còn lại chủ yếu là kim loại màu. Kim loại màu thường được sử dụng dưới dạng hợp kim. - Kim loại màu dễ kéo dài, dễ dát mỏng, có tính chống mài mòn, tính chống ăn mòn cao, đa số có tính dẫn nhiệt và dẫn điện tốt. Các kim loại màu ít bị oxi hoá trong môi trường. Kim loại màu chủ yếu là đồng (Cu), nhôm (Al) và hợp kim của chúng. - Đồng, nhôm và hợp kim của chúng được dùng nhiều trong công nghiệp như: sản xuất đồ dùng gia đình, chế tại chi tiết máy, làm vật liệu dẫn điện...
{ "split": 2, "title": "Vật liệu kim loại", "token_count": 386 }
22,095
Title: Vật nuôi bị bỏ rơi Vật nuôi bị bỏ rơi ("Abandoned pet") hay bỏ rơi động vật là những con vật nuôi (thường là thú cưng) bị cố ý bỏ rơi bởi người chủ của chúng. Tính riêng ở nước Mỹ mỗi năm tốn khoảng 2 tỷ USD là khoản tiền người dân Mỹ chi trả cho các hoạt động giải cứu động vật, chăm sóc các loại vật nuôi bị bỏ rơi và tiêu hủy xác khi chúng chết. Rất nhiều tổ chức, nhóm bảo vệ và cứu hộ động vật được thành lập khắp các nước để giải cứu hàng ngàn con vật bị bỏ rơi, bị đối xử tàn tệ. Những con vật cưng thường bị bỏ rơi gồm thỏ kiểng, chó và mèo và các loài thú nuôi độc lạ khác. Mặc dù chó, mèo là những người bạn thân thiết nhất của con người nhưng chúng cũng là hai loại vật nuôi bị bỏ rơi nhiều nhất và thỏ chính là con vật bị bỏ rơi với số lượng lớn, vào 1999, Hiệp hội Ngăn chặn Ngược đãi động vật (SPCA) tại Singapore nhặt được 625 con thỏ nhà bị chủ bỏ rơi, tỷ lệ thỏ bị ném ra khỏi nhà tăng tới 116% so với năm 1998. Riêng ở Đài Loan, năm 2010 đã có hơn 16 ngàn con thỏ bị bỏ rơi và Hiệp hội Thỏ Đài Loan lo ngại sẽ còn có nhiều con vật bị bỏ rơi hơn. Ở Anh, chi phí chăm sóc mỗi năm cho mỗi con thỏ là £750, chúng bị bỏ rơi và mỗi năm có 67.000 con thỏ được giải cứu. Lý do.
{ "split": 0, "title": "Vật nuôi bị bỏ rơi", "token_count": 335 }
22,096
Title: Vật nuôi bị bỏ rơi Việc bỏ rơi vật nuôi thường xảy ra khi một người chủ sở hữu chết, khi một con vật nuôi trở nên gây rối hoặc phát triển quá lớn và không còn dễ thương như trước, hoặc nếu vật nuôi bị bắt bốc đồng. Trong lịch sử, Cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2010 đã dẫn đến một số vật nuôi bị bỏ rơi vì lý do kinh tế. Điển hình của nhóm này là vật nuôi bị bỏ lại khi nhà của chủ sở hữu bị tịch biên. Những động vật này có thể bị để lại một mình trên tòa nhà hoặc thả tại một nơi trú ẩn động vật. Chúng thường được phát hiện sau quá trình tịch biên nhà, khi người môi giới hoặc nhân viên ngân hàng vào nhà. Những con động vật đủ may mắn để sống sót cho đến khi chúng được phát hiện thường ở trong tình trạng kém do thiếu nguồn lực như thức ăn và nước uống vì không ai chu cấp cho chúng. Các quốc gia có những quy định pháp luật khác nhau về việc động vật bị bỏ rơi, nhưng nói chung, động vật bị bỏ rơi là sự việc xảy ra khi chính chủ hoặc người bảo hộ chăm sóc để chúng tại nơi công cộng hoặc nơi nào đó mà không hề có xu hướng mang chúng trở về hoặc cắt giảm nguồn chi phí chăm sóc chúng, ở Singapore, nếu đem bỏ rơi con vật sẽ bị phạt đến 12 tháng tù giam, hoặc 10.000 SGD (hơn 160 triệu đồng) hoặc cả hai. Vật nuôi bị bỏ rơi do thiếu thực phẩm ở Venezuela khi phải trải qua nhiều năm suy thoái kinh tế liên tiếp với tỷ lệ lạm phát ba con số, cuộc sống chật vật, thiếu hụt trầm trọng lương thực và thuốc men khiến nhiều gia đình ở nước này buộc phải bỏ rơi vật nuôi của họ và phó mặc số phận của chúng.
{ "split": 1, "title": "Vật nuôi bị bỏ rơi", "token_count": 377 }
22,097
Title: Vật nuôi bị bỏ rơi Ở Việt Nam, dù có nhiều văn bản nhưng việc thực thi pháp luật trong công tác bảo vệ và cứu hộ động vật rất khó khăn. Nhiều cơ quan chức năng rất lúng túng khi xử lý những động vật nhập lậu còn sống còn các hội, nhóm cứu hộ động vật chưa có tư cách pháp nhân, kinh phí còn hạn chế. Các tổ chức bảo vệ động vật tại châu Á đang cảnh báo một kết cục không thể tránh khỏi đối với loài thỏ, người ta thả chúng trong công viên hay khu bảo tồn, nơi những con thỏ tội nghiệp chết dần chết mòn trong đau đớn vì chúng không có khả năng sống sót trong môi trường hoang dã, thỏ cưng là loài rất yếu đuối và khó có thể tự sống sót được, nếu chúng được nuôi chăm sóc rồi bị thả ra đường thì cơ hội tồn tại gần như là không chưa hết, bị chủ bỏ rơi không phải là mối nguy lớn nhất đối với thỏ ở châu Á, bởi chúng vẫn còn cơ hội sống sót nhưng rơi vào tay các nhà hàng làm thịt thỏ mới là mối hiểm họa đáng sợ
{ "split": 2, "title": "Vật nuôi bị bỏ rơi", "token_count": 237 }
22,098
Title: Vật thể ngoài Hệ Mặt Trời Một vật thể ngoài Hệ Mặt Trời () là một vật thể nằm bên ngoài Hệ Mặt Trời. Nó không áp dụng cho sao hoặc các vật thể lớn hơn sao hay Hệ Mặt Trời như thiên hà. Nó chỉ được sử dụng cho các vật thể nhỏ hơn sao nằm ngoài Hệ Mặt Trời. Các ví dụ của vật thể ngoài Hệ Mặt Trời là: Một số đối tượng trong Hệ Mặt Trời như tiểu hành tinh, hành tinh lùn và thiên thể bên ngoài Sao Hải Vương hiếm hoặc chưa từng được phát hiện ngoài Hệ Mặt trời.
{ "split": 0, "title": "Vật thể ngoài Hệ Mặt Trời", "token_count": 117 }
22,099
Title: Vắc-xin Rotavirus Vắc-xin rotavirus là vắc-xin được sử dụng để bảo vệ chống lại nhiễm rotavirus, là nguyên nhân hàng đầu gây tiêu chảy nặng ở trẻ nhỏ. Vắc-xin phòng ngừa 15–34% tiêu chảy nặng ở các nước đang phát triển và 37–96% tiêu chảy nặng ở các nước phát triển. Vắc-xin làm giảm nguy cơ tử vong ở trẻ nhỏ do tiêu chảy. Tiêm chủng trẻ sơ sinh làm giảm tỷ lệ mắc bệnh ở người lớn tuổi và những người chưa được chủng ngừa. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị vắc-xin rotavirus nên có trong chương trình tiêm chủng thường xuyên của một quốc gia, đặc biệt là ở những nơi bệnh đang lưu hành. Chủng ngừa nên thực hiện cùng với việc thúc đẩy cho con bú sữa mẹ, rửa tay, sử dụng nước sạch và vệ sinh tốt. Vắc-xin được đưa vào cơ thể bằng đường uống và yêu cầu hai hoặc ba liều. Vắc-xin nên được chủng ngừa lúc trẻ sáu tuần tuổi. Vắc-xin an toàn, ngay cả những người bị nhiễm HIV/AIDS. Một loại vắc-xin trước đó không còn được sử dụng có mối liên kết đến bệnh lồng ruột, nhưng chưa tìm thấy ở phiên bản hiện tại. Nhưng do có nguy cơ tiềm ẩn, nên vắc xin cũng không được khuyến cáo cho trẻ nhỏ. Vắc-xin được bào chế từ rotavirus đã làm suy yếu. Vắc-xin rotavirus có mặt lần đầu tiên tại Hoa Kỳ vào năm 2006. Vắc-xin nằm trong Danh sách các thuốc thiết yếu của WHO, các loại thuốc hiệu quả và an toàn nhất cần thiết trong một hệ thống y tế. Chi phí bán buôn ở các nước đang phát triển là từ 6,96 đô la Mỹ đến 20,66 đô la cho mỗi liều tính đến năm 2014. In the United States it is more than US$200. Tại Hoa Kỳ, chi phí này là hơn 200 đô la Mỹ. Tính đến năm 2013 có hai loại vắc-xin có sẵn trên toàn cầu, Rotarix và RotaTeq. Những loại khác được sử dụng ở một số quốc gia.
{ "split": 0, "title": "Vắc-xin Rotavirus", "token_count": 477 }