id
int64 0
23k
| passage
stringlengths 27
4.61k
| metadata
dict |
---|---|---|
22,400 | Title: Viktor Fedorovych Yanukovych
Viktor Fedorovych Yanukovych (tiếng Ukraina: "Viktor Fedorovyč Janukovyč"; ) (sinh ngày 9 tháng 7 năm 1950, Yenakiieve, Tỉnh Donetsk) là một nhà chính trị Ukraina gốc Ukraina và từng là tổng thống quốc gia này cho đến ngày 22 tháng 2 năm 2014. Hiện ông là công dân của Liên bang Nga kể từ tháng 10/2014 và được chính quyền Nga bảo vệ khỏi sự truy nã của Interpol.
Yanukovych đã giữ chức Thống đốc tỉnh Donetsk năm 1997 và 2002. Yanukoych cũng đã giữ cương vị thủ tướng Ukraina hai lần từ 21 tháng 11 năm 2002 đến 31 tháng 12 năm 2004 dưới thời tổng thống Leonid Kuchma và từ ngày 4 tháng 8 năm 2006 đến ngày 18 tháng 12 năm 2007 dưới thời tổng thống Viktor Yushchenko, đối thủ chính trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2004.
Yanukovych là lãnh đạo đảng đối lập lúc ra tranh cử tổng thống, Đảng Khu vực ở Verkhovna Rada (nghị viện). Yanukovych đã vượt qua vòng một trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2010, tranh cử với Yulia Tymoshenko trong vòng hai. Yanukovych đã thắng cử với tỷ lệ 48,95% phiếu bầu so với tỷ lệ 45,47% bầu cho Tymoshenko
Thời thơ ấu.
Viktor Yanukovych sinh ra ở làng Zhukovka gần Yenakiieve tại Tỉnh Donetsk, vào thời kỳ đó thuộc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina (nay là Ukraina độc lập). Cha của Yanukovych là một tài xế tàu hỏa người Belarus,
Xuất thân từ Yanuki, Vitebsk oblast. Mẹ ông là một y tá Nga và qua đời khi Yanukovych được hai tuổi. Khi ông đã là một thiếu niên, ông lớn lên trong sự vắng mặt của cha và thiếu người mẹ, và sau đó được bà nuôi dưỡng. Yanukovych tự coi mình là một người Ukraina. "Thời thơ ấu của tôi là khó khăn và đói khổ. Tôi lớn lên mà không có mẹ do mẹ tôi đã mất khi tôi lên hai. Tôi đi bằng chân trần trên đường phố. Tôi đã phải đấu tranh cho bản thân mình mỗi ngày", Yanukovych đã nhận xét về thời thơ ấu của ông.
Biến cố chính trị 2013-2014. | {
"split": 0,
"title": "Viktor Fedorovych Yanukovych",
"token_count": 506
} |
22,401 | Title: Viktor Fedorovych Yanukovych
Vào tháng 11 năm 2013 một loạt biến cố xảy ra với tổng thống Yanukovych. Những cuộc biểu tình và chiếm đóng Quảng trường Độc lập do những người biểu tình thuộc phe đối lập - Ukraina thân EU (phe "liên minh mới") thực hiện, xuất phát từ việc ông Yanukovych từ chối ký kết hiệp định liên kết giữa Ukraina và EU (Ukraine–European Union Association Agreement) và quay sang tìm sự trợ giúp từ phía Nga để nhận được khoản viện trợ tài chính lên tới 15 tỉ USD cũng như kết hợp quan hệ chặt chẽ hơn với Nga. Đến tháng 1 năm 2014 thì các cuộc biểu tình đã trở nên căng thẳng dẫn tới xô xát giữa lực lượng biểu tình và lực lượng an ninh, dẫn tới đổ máu cho cả hai bên.
Đến giữa tháng 2 năm 2014, những cuộc đàm phán giữa ông Yanukovych và phe đối lập đã thất bại. Trên Quảng trường Maidan "các tay súng bắn tỉa" được "liên minh mới" thuê đã bắn vào cả hai phía để kích động xung đột bạo lực , làm 28 người biểu tình cùng với 7 cảnh sát và một người dân thường đứng ngoài xem bị giết chết và 335 người bị thương chỉ riêng ngày 18 tháng 2. Tổng cộng có ít nhất 77 người đã phải bỏ mạng và hàng trăm người bị thương cho đến ngày 21 tháng 2 (tin của bộ Y tế) trong những cuộc đụng độ đẫm máu tại thủ đô Kiev. Ông Yanukovych đã bị Quốc hội Ukraina bỏ phiếu bãi bỏ tư cách tổng thống vào ngày 22 tháng 2 với 328 trên 340 phiếu thuận. Chủ tịch Quốc hội Oleksandr Turchynov cho biết ông Yanukovych đã "từ bỏ trách nhiệm theo hiến pháp, đe dọa chức năng của nhà nước, toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Ukraina". Tuy nhiên, Hiến pháp Ukraina đã quy định việc bãi miễn Tổng thống phải thông qua bỏ phiếu toàn dân , như vậy cuộc bỏ phiếu của Quốc hội Ukraina mới chính là hành động vi hiến, vì vậy ông Yanykovych và những người ủng hộ coi đây là hành vi đảo chính bất hợp pháp. | {
"split": 1,
"title": "Viktor Fedorovych Yanukovych",
"token_count": 458
} |
22,402 | Title: Viktor Fedorovych Yanukovych
Cuộc bầu cử tổng thống mới được tổ chức vào ngày 25 tháng 5 năm 2014, với tổng thống tạm quyền hiện tại là Oleksandr Turchynov. Yanukovych về Kharkov, một thành phố công nghiệp ở phía Đông Bắc của Ukraina. Nhà ông, một biệt thự ở ngoại ô Kiev bị bỏ trống, và mở cửa cho dân vào xem. Người ta tìm thấy rất nhiều văn kiện, tài liệu bị quăng xuống hồ. Nói chuyện trên đài truyền hình địa phương, ông vẫn không công nhận việc hạ bệ mình của quốc hội là hợp pháp. Theo tin tức của hãng thông tấn Interfax, Yanukovych đã bị cảnh sát biên phòng chận lại, khi định trốn ra ngoại quốc với một máy bay tư từ thành phố Donetsk, quê của ông..
Ngày 23.02.2014, Yanukovych đã bị chính đảng của mình lên án là bỏ chạy hèn nhát, phản bội cũng như là đã lừa dối Ukraina và bóc lột đất nước. Bộ trưởng bộ nội vụ tạm thời Arsen Avakov cho biết Yanukovych đang bị truy nã với tội là chịu trách nhiệm cho cái chết của những người biểu tình , bất chấp sự thật là các tay súng bắn tỉa đã được liên minh mới thuê giết người để kích động bạo lực .
Theo tin của thông tấn xã RBK ngày 27/02/2014, Yanukovych hiện đang dưỡng bệnh gần Moskva. Ông xin chính quyền Nga bảo vệ cá nhân vì cảm thấy bị đe dọa và đã được chấp nhận. Ông vẫn cho mình là tổng thống hợp pháp của Ukraina và biểu quyết của quốc hội là không có giá trị pháp lý.
Cuộc sống tại Nga.
Trong cuộc phỏng vấn đầu tiên sau khi đến Nga ngày 2 tháng 4 năm 2014, Viktor Yanukovych nói rằng ông đã ‘sai’ khi kêu gọi Nga đưa quân vào Krym và hứa sẽ thuyết phục Nga trả lại khu tự trị này cho Ukraine.
Điều tra về tham nhũng và rửa tiền. | {
"split": 2,
"title": "Viktor Fedorovych Yanukovych",
"token_count": 419
} |
22,403 | Title: Viktor Fedorovych Yanukovych
Sau khi Yanukovych rời Kiev, biệt thự của ông ở ngoại ô Kiev (rộng 140 ha, gồm nhiều dinh thự và hồ nước, bãi cỏ) bị bỏ trống và mở cửa cho dân vào xem. Người dân được thấy tận mắt cuộc sống xa xỉ của ông, trong khi lương năm chính thức của ông chỉ có 20.000 USD, mà chỉ riêng mùa xuân năm 2010, ông đã chi 53 nghìn USD để mua các loại đèn thắp sáng.
Ngày 26 tháng 2 năm 2014, Công tố viên trưởng tạm quyền của Ukraine cho biết là Ukraina sẽ liên lạc với các tổ chức quốc tế, chính thức yêu cầu hỗ trợ tìm ra các tài khoản ngân hàng và tài sản của Yanukovych và các cấp dưới sở hữu. Yanukovych cũng bị nghi ngờ là đã tạo điều kiện thuận lợi cho con trai, người này vốn là một nha sỹ, đã trở thành tỷ phú nhờ có được những khoản đầu tư sinh lợi nhiều nhất ở Ukraina.
Ngày 28.02.2014, Thụy Sĩ và Áo đã khóa tài khoản của 20 người trong đó có Viktor Yanukovych và con là Oleksandr, cũng như nhiều bộ trưởng khác trong chính phủ của ông ta, và mở cuộc điều ta về rửa tiền, và tham nhũng.
Người đứng đầu Bộ Nội vụ Ukraine Arsen Avakov cho biết chính quyền đã tịch thu số tài sản gồm tiền trong tài khoản và chứng khoán ở nước ngoài của ông Yanukovych đã bị tịch thu trị giá lên tới 2 tỷ USD. Theo ông Avakov, số tài sản trên của Yanukovych còn nhiều hơn cả tổng ngân sách hàng năm của Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ và lực lượng An ninh Ukraine. Bộ Tư pháp Ukraine cũng đang phối hợp với các cơ quan có liên quan để ban hành luật sửa đổi cho phép xét xử vắng mặt cựu Tổng thống Yanukovych và cho phép gửi các tài sản tịch biên của ông vào ngân sách quốc gia. Tiết lộ trên được đưa ra sau khi Interpol công bố lệnh truy nã quốc tế đối với ông Yanukovych cùng con trai và một loạt quan chức cấp cao trong chính quyền của ông này như cựu Thủ tướng Mykola Azarov, Phó Thủ tướng Bohatyryova, Bộ trưởng Bộ Tài chính Yuriy Kolobov và người đứng đầu "Ukrtelecom" George Dzekon. | {
"split": 3,
"title": "Viktor Fedorovych Yanukovych",
"token_count": 493
} |
22,404 | Title: Viktor Fedorovych Yanukovych
Nga cho rằng những cáo buộc trên chỉ là sự vu khống của nhóm đảo chính để tạo cớ truy nã ông Yanukovych, họ khẳng định quyết tâm bảo vệ Yanukovych bằng cách trao cho ông quốc tịch Nga vào đầu tháng 10 năm 2014. Cùng được nhận quốc tịch Nga với ông còn có cựu Thủ tướng Ukraine Mikola Azarov và cựu Tổng Công tố Viktor Pshonok cũng như gia đình họ. | {
"split": 4,
"title": "Viktor Fedorovych Yanukovych",
"token_count": 102
} |
22,405 | Title: Viktoria Apanasenko
Victoria Apanasenko (tiếng Ukraina: Вікторія Апанасенко) (sinh ngày 18 tháng 6 năm 1994) là một người mẫu, người dẫn chương trình truyền hình, nữ diễn viên và hoa hậu người Ukraina đã chiến thắng cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Ukraine 2022. Cô sẽ đại diện cho Ukraine tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2022.. Ngoài ra,tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn Vũ 2022 cô còn đạt giải thưởng phụ là Best National Costume.
Tiểu sử.
Apanasenko sinh ra và lớn lên ở Chernigov cùng với cha mẹ và anh chị em của mình. Cô tốt nghiệp Đại học Quốc gia Taras Shevchenko ngành Công tác xã hội thuộc Khoa tâm lý và cũng học tại Đại học Công nghệ Quốc gia Chernihiv.
Các cuộc thi sắc đẹp.
Apanasenko bắt đầu sự nghiệp thi hoa hậu từ năm 2014, cô từng tham gia cuộc thi Miss Chernigov 2014 và giành chiến thắng trong cuộc thi. Ngày 22 tháng 9 năm 2015, Apanasenko nổi tiếng khi lọt vào chung kết Hoa hậu Ukraine 2015 và đoạt danh hiệu Công nương Ukraine 2016. Tổ chức Hoa hậu Hoàn vũ Ukraine, do hoàn cảnh chiến tranh hiện nay ở Ukraine, đã đặt tên cho Hoa hậu Hoàn vũ Ukraine 2021 là Á hậu 1 Apanasenko là tân Hoa hậu Hoàn vũ Ukraine 2022 bằng việc trở thành đại diện chính thức của Ukraine tại Hoa hậu Hoàn vũ 2022. | {
"split": 0,
"title": "Viktoria Apanasenko",
"token_count": 295
} |
22,406 | Title: Villa d'Este
Villa d'Este là một dinh thự thế kỷ 16 nằm ở Tivoli, gần Roma, Ý. Nó nổi tiếng với cảnh quan vườn thời Phục hưng thiết kế dạng bậc thang và đặc biệt khi có rất nhiều các đài phun nước tuyệt đẹp. Hiện nó là một bảo tàng của Ý, một Di sản thế giới được UNESCO công nhận từ năm 2001.
Lịch sử. | {
"split": 0,
"title": "Villa d'Este",
"token_count": 82
} |
22,407 | Title: Villa d'Este
Dinh thự này được Đức Hồng y Ippolito II của Este (1509-1572) là con trai thứ hai của Alfonso I của Este, Công tước Ferrara và cháu trai của Giáo hoàng Giáo hoàng Alexanđê VI. Gia tộc Este từng là lãnh chúa của Ferrara từ năm 1393 và nổi tiếng là người bảo trợ cho nghệ thuật và các học giả thời Phục hưng. Ippolito được định sẵn sẽ theo sự nghiệp ở nhà thờ khi mới chỉ mười tuổi ông đã là Tổng giám mục của Milano. Ở tuổi 27, ông đã được gửi đến Pháp để làm cố vấn cho vua François I và đến năm 1540, ông đã trở thành thành viên của Hội đồng tư vấn cho vua. Năm 30 tuổi, theo yêu cầu của vua thì Giáo hoàng Phaolô III sắc phong Hồng y. Nhờ các mối liên kết với giáo hội và hoàng gia, ông trở thành một trong những hồng y giàu có nhất lúc bấy giờ với thu nhập hàng năm khoảng 120.000 "scudi". Đồng thời ông cũng là một người bảo trợ cho nghệ thuật khi hỗ trợ một loạt các nghệ sĩ như nghệ sĩ điêu khắc Benvenuto Cellini, nhạc sĩ Pierluigi da Palestrina và nhà thơ Torquato Tasso. Chính vì vậy, dù có thu nhập rất lớn nhưng ông luôn trong cảnh nợ nần. Tân vương của Pháp là Henri II đã gửi ông làm đặc sứ đến Rome, nơi ông đóng vai trò chính đến chính trị và xã hội của thành phố. Ông đến và định mệnh sẽ trở thành Giáo hoàng và sử dụng tất cả tiền bạc và tầm ảnh hưởng của mình cho các mục tiêu, nhưng tại thời điểm đó Cải cách Kháng nghị và Công đồng Trentô nên phong cách sống ngông cuồng của ông đã chống lại chính ông. Từ ứng cử viên hàng đầu cho vị trí Giáo hoàng với sự ủng hộ của vua Pháp đã bị Gia tộc Habsburg chặn lại. Ông đã nhanh chóng rút lại ứng cử để ủng hộ ứng viên mới của Habsburg và được khen thưởng. Ngày 3 tháng 12 năm 1549, ông được chọn vào vị trí thủ hiến của Tivoli. Chức danh mới này có vẻ phù hợp với ông bởi ông là người say mê sưu tầm đồ cổ và vị trí đó trao cho ông quyền tài phán đối với Villa Adriana (Dinh thự của Hadrian) và các địa điểm khảo cổ khác vừa được khai quật. Nhưng ông vẫn không từ bỏ tham vọng trở thành Giáo hoàng khi có tới năm lần ứng cử nhưng đều thất bại. | {
"split": 1,
"title": "Villa d'Este",
"token_count": 526
} |
22,408 | Title: Villa d'Este
Tivoli từng là một nơi nghỉ dưỡng mùa hè phổ biến từ thời La Mã cổ đại do vị trí của nó, nhiệt độ lạnh và gần với Villa Adriana, nơi ở mùa hè của hoàng đế Hadrian. Chức danh thủ hiến Tivoli kèm với một nơi ở nằm trong tu viện dòng Biển Đức cũ được xây dựng vào thế kỷ thứ 9 trên nền móng của một dinh thự La Mã cũ. Năm 1256, nó được tặng lại cho dòng Phan-xít. Khu nhà này không đủ lớn cho một Hồng y lớn có tầm cỡ như Este, nhưng từ đây lại có một cái nhìn ngoạn mục xuống vùng nông thôn phía dưới, bao gồm cả Adriana, và có nguồn cung cấp nước tự nhiên dồi dào cho đài phun nước và khu vườn. Ông đã ủy nhiệm cho một học giả, một kiến trúc sư nổi bật là Pirro Ligorio, người đã nghiên cứu về Adriana và nhiều địa điểm La Mã lân cận khác, lên kế hoạch về một dinh thự và khu vườn mới vượt xa mọi thứ mà người La Mã đã xây dựng. Ông đã có được nguồn cung cấp đá cẩm thạch và những bức tượng khổng lồ từ tàn tích của Adriana. | {
"split": 2,
"title": "Villa d'Este",
"token_count": 252
} |
22,409 | Title: Villa d'Este
Vùng đất được mua lại và kế hoạch xây dựng bắt đầu vào cuối những năm 1550 nhưng ông đã bị phân tâm bởi các phái đoàn ngoại giao khác nhau và ông đã phải đến miền bắc Ý để giải quyết một cuộc chiến ở Parma, sau đó lại được vua Henri II gửi đến Sienna làm nhiệm vụ. Và phải mãi đến mùa hè năm 1555 ông mới trở lại Tivoli. Tuy nhiên vào tháng 9 năm 1555, ông bị Giáo hoàng Phaolô IV buộc tội buôn thần bán thánh. Mãi đến năm 1559 khi Giáo hoàng Phaolô IV qua đời, Giáo hoàng Piô IV mới nhậm chức đã khôi phục chức danh cho ông với tư cách là thủ hiến Tivoli. Công việc xây dựng bắt đầu khi ông trở lại vào tháng 7 năm 1560. Công trường xây dựng rộng lớn trên khu vực đất đòi hỏi việc phá rỡ nhà cửa, đường sá. Năm 1568, người dân địa phương đã đệ trình mười hai đơn từ kiện tụng khác nhau chống lại ông nhưng không ngăn cản được Ippolito II tiếp tục dự án. Từ năm 1563 đến 1565, một lượng lớn đất được sử dụng để tạo thêm các sân thượng, vòm cuốn, hang hốc và cả tượng đài Nymphaeum. Con sông Aniene gần đó được đổi dòng để làm nguồn cung cấp nước cho hệ thống hồ, vòi phun nước, kênh dẫn, đài phun nước, thác và cả trò chơi của nước. Khu vườn dốc với độ cao từ trên xuống là hơn 45 mét đặt ra thách thức. Các kênh đã được đào và 200 mét đường ống ngầm được đặt để mang nước từ ngọn núi nhân tạo dưới đài phun nước hình bầu dục đến phần còn lại của khu vườn. Theo các nguyên tắc thẩm mỹ thời Phục hưng, khu vườn được phân chia cẩn thận thành các phần, hoặc các ngăn, mỗi chiều rộng 30 mét, được bố trí dọc theo trục dọc thành năm trục bên. | {
"split": 3,
"title": "Villa d'Este",
"token_count": 420
} |
22,410 | Title: Villa d'Este
Toàn bộ kế hoạch cho khu dinh thự chính được thực hiện dưới sự chỉ đạo của kiến trúc-kỹ sư Alberto Galvani, trong khi họa sĩ trang trí nội thất chính bên trong tòa nhà là Livio Agresti tới từ Forlì. Năm 1565 và 1566, công việc trang trí nội thất của dinh thự bắt đầu. Việc trang trí được thực hiện bởi một nhóm các họa sĩ dưới thời Girolamo Muziano và Federico Zuccari. Năm 1566, hồng y Ippolito II đã nỗ lực lần thứ năm để được bầu làm Giáo hoàng, nhưng một lần nữa ông thất bại, và ông đã bị giáo hoàng mới là Giáo hoàng Piô V loại trừ. Chính vì vây, ông ngày càng chú ý đến việc trang trí tư dinh của mình hơn. Các nhóm họa sĩ và công nhân vữa mới đã làm việc từ năm 1567 đến 1572, dưới sự chỉ đạo của Girolamo Muziano, Livio Agresti, Cesare Nebbia, Durante Alberti, Metteo Neroni và Federico Zuccari. Các họa sĩ được sự hỗ trợ của các nhà điêu khắc Giovan Battista della Porta, Pirrino del Galgliardo, Gillis van den Vliete, Giovanni Malanca và Pierre de la Motte và các nghệ sĩ khảm, cũng như các kỹ sư đài phun nước, dẫn đầu bởi Pirro Ligorio, nhà thiết kế ban đầu của dự án, người đã trở lại để hoàn thành công việc vào năm 1567-68. | {
"split": 4,
"title": "Villa d'Este",
"token_count": 319
} |
22,411 | Title: Villa d'Este
Công việc điên cuồng diễn ra trong khi dự án bắt đầu chậm lại vào năm 1569, có lẽ là do những khó khăn tài chính của Hồng y, người không còn hy vọng được bầu làm Giáo hoàng và đã mất các vị trí béo bở tại Pháp. Ông dành nhiều thời gian hơn trong dinh thự, đọc và gặp gỡ các nhà thơ, nghệ sĩ và triết gia hàng đầu thời Phục hưng. Vào mùa hè năm 1572, ông đã chiêu đãi một vị khách quan trọng cuối cùng, đó là Giáo hoàng Grêgôriô XIII. Để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm quan trọng này, ông đã trang trí lại các tầng trên cùng của dinh thự và gấp rút hoàn thành đài phun nước rồng. Lễ tân phục vụ tiếp đón Giáo hoàng tiêu tốn của Hồng y hơn 5.000 "scudi" buộc ông phải cầm cố các đồ vật quý giá khác. Ngay sau buổi gặp, vào ngày 2 tháng 12 năm 1572, Đức Hồng y Ippolito II qua đời tại Rome và được chôn cất trong một ngôi mộ đơn giản ngay nhà thờ liền kề với dinh thự.
Trong những năm sau đó. | {
"split": 5,
"title": "Villa d'Este",
"token_count": 247
} |
22,412 | Title: Villa d'Este
Với cái chết của Đức Hồng y Ippolito II vào năm 1572, dinh thự được truyền lại cho cháu trai của ông là Hồng y Luigi (1538-1586), người tiếp tục với các đài phun nước và khu vườn còn dang dở nhưng phải vật lộn vì chi phí bảo trì quá cao. Khi ông qua đời vào năm 1586, nó thuộc sở hữu của Hồng y phó tế, người có rất ít các hoạt động để duy trì công trình. Năm 1599, nó trở về thuộc sở hữu của gia tộc Este với tham vọng của Hồng y Alessandro của Este (1538-1624), người đã thực hiện một cuộc cải tạo lớn các khu vườn và đài phun nước mới ở các khu vườn phía dưới. Những người kế tục ông sau đó lần lượt là Công tước Modena bổ sung thêm các khu vườn và Francesco I (1629-1641) đã khôi phục nhiều cấu trúc đổ nát, bắt đầu trồng cây trong những khu vườn không có bóng râm trước đây. Đức Hồng y Rinaldo I đã ủy thác cho kiến trúc sư Gian Lorenzo Bernini xây dựng hai đài phun nước từ năm 1660-1661. Sau năm 1695, gia tộc Este không thể hỗ trợ chi phí cao cho việc xây dựng dinh thự nữa, thứ mà họ hiếm khi sử dụng và không mang lại thu nhập nào cả. Công trình đi vào sự suy giảm kéo dài. Sau năm 1751, đồ đạc được gửi đến Modena, và tác phẩm điêu khắc cổ đã dần bị xóa khỏi các khu vườn để bán cho các nhà sưu tập. Năm 1796, gia tộc Habsburg chiếm hữu dinh thự, sau khi Ercole III tiếp tục trao nó cho con gái Maria Beatrice, người đã kết hôn với Đại công tước Ferdinand của Habsburg. Nó đã bị bỏ rơi và đã bị hai người lính Pháp chiếm giữ, những kẻ đã lấy đi phần lớn trang trí còn sót lại của dinh thự. | {
"split": 6,
"title": "Villa d'Este",
"token_count": 403
} |
22,413 | Title: Villa d'Este
Giữa năm 1850 và 1896, dinh thự lại thuộc sở hữu của Đức hồng y Gustav von Hohenlohe, người đã khôi phục lại dinh thự và những khu vườn đổ nát, cây cối mọc um tùm.Nó một lần nữa thu hút các nghệ sĩ, nhạc sĩ và nhà văn. Nhà soạn nhạc Franz Liszt đã thực hiện một số chuyến thăm trong khoảng thời gian từ 1865 đến 1885 và viết ba bản nhạc piano, hai trong số đó có tựa đề "Aux cyprès de la Villa d'Este" và "Les jeux d'eau à la Villa d'Este" "mô tả vẻ đẹp của dinh thự. Nó nằm trong bộ ba tổ khúc piano độc tấu "Années de pèlerinage" của ông.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, dinh thự đã được Nhà nước Ý mua lại, bắt đầu cuộc đại trùng tu vào năm 1922. Nó được tân trang lại bằng những bức tranh từ các nhà kho của Phòng triển lãm Quốc gia Rome. Sau khi bị thiệt hại do bom vào năm 1944 trong Thế chiến lần thứ hai, và nhiều bức tường đã bị xuống cấp trong những năm sau chiến tranh do ô nhiễm môi trường, nhưng các chiến dịch phục hồi và bảo vệ đã cố gắng giữ nguyên vẹn các đặc điểm nổi tiếng của dinh thự và vườn. Tập thơ của Jean Garrigue có tựa đề "A Water Walk of Villa d'Este" (1959) được lấy cảm hứng từ những khu vườn của dinh thự. Kenneth Anger đã quay phim "Eaux d'Artifice" lấy bối cảnh tại đây. Nhiều đài phun nước không hoạt động trong nhiều năm đã được khôi phục và trình diễn mỗi ngày cho du khách ghé thăm.
Dinh thự. | {
"split": 7,
"title": "Villa d'Este",
"token_count": 366
} |
22,414 | Title: Villa d'Este
Ngày nay, lối vào chính của dinh thự là thông qua một cánh cửa nhỏ tại Quảng trường Trento, ngay cạnh lối vào Nhà thờ Santa-Maria Maggiore. Nhưng vào thời của Ippolito II, lối vào này hiếm khi được sử dụng. Khi đó du khách đến đây đi từ cửa ở khu vườn dưới cùng, sau đó đi lên từng bậc, qua các khu vườn, đài phun nước và dinh thự. Lối đi hiện tại có từ năm 1521, trước cả thời kỳ của Ippolito. Tiền sảnh sau cánh cửa trước đây từng được bao phủ bởi những bức tranh nhưng bị phá hủy bởi những vụ đánh bom trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Đó là những cảnh đơn sắc Cựu Ước, một vài trong số đó vẫn có thể được thấy. Niên đại của những bức tranh khoảng từ năm 1563-65 và có lẽ được tạo ra bởi GIrolamo Muziano. Đi qua tiền sảnh là Hội trường của những câu chuyện về Solomon, cho thấy những mảnh ghép cuộc đời của vua Solomon qua các bức vẽ. Chúng được cho là tác phẩm của Muziano và các thợ thủ công của ông vẽ năm 1565. | {
"split": 8,
"title": "Villa d'Este",
"token_count": 253
} |
22,415 | Title: Villa d'Este
Một sân trong là nơi có tu viện ban đầu được xây dựng vào năm 1566-67 được bao quanh bởi một phòng trưng bày. Trung tâm của sân là đài phun nước Venus, là đài phun nước duy nhất trong dinh thự vẫn giữ được vẻ ngoài và các họa tiết trang trí ban đầu. Đài phun nước này được thiết kế bởi Raffaelo Sangallo vào năm 1568-69, với hai cột đá doric và một bức tượng bán thân bằng đá cẩm thạch thế kỷ thứ tư của Hoàng đế Constatine. Trung tâm của đài phun nước là bức tượng của thần Venus đang ngủ được tạo ra từ thế kỷ 4 hoặc 5 TCN. Nước được đổ xuống từ một chiếc bình bên cạnh vị thần vào một bể chứa Labrum La Mã bằng đá cẩm thạch trắng thế kỷ thứ 2, với bên là đầu sư tử. Ba mặt của đài phun nước là sân trong thế kỷ 16 được đặt trên một tu viện dòng Biển Đức cũ. Đài phun nước trên một bức tường có một hốc và một hình vẽ theo nguyên mẫu Hy Lạp quen thuộc "Sleeping Ariadne" tại Bảo tàng Vatican. Hốc đá này có các nhũ đá trên cao với một hình ảnh nữ thần hoặc vệ nữ địa phương, mặc dù sách hướng dẫn đôi khi gọi cô là thần Venus. Nền của đài phun nước được trang trí với một bức phù điêu bằng vữa đã được mạ vàng và khắc họa những con đại bàng trắng, biểu tượng trên quốc huy của Nhà Este. Nó minh họa quá trình dòng sông chảy từ Núi Sant'Angelo đến dinh thự. Các trang trí điêu khắc xung quanh sân, đặc biệt là hình ảnh của Mộc qua, minh họa cho kỳ công thứ 11 của Hercules; trộm táo vàng từ Vườn Hesperides, nơi được bảo vệ bởi rồng Ladone. Hercules được cho là người bảo vệ khu vực Tiiburtin nơi có dinh thự này, và cũng được tuyên bố là tổ tiên của gia tộc Este.
Trong nghệ thuật. | {
"split": 9,
"title": "Villa d'Este",
"token_count": 438
} |
22,416 | Title: Villa d'Este
Rất ít khu vườn được nhiều nghệ sĩ đáng chú ý vẽ nhiều hơn Villa d'Este, đặc biệt là trong thời Phục hưng và thế kỷ 19. Do đó, các đặc điểm của khu vườn ảnh hưởng và được bắt chước trong nhiều khu vườn khác trên khắp châu Âu, từ Anh đến Nga. Vào thời Phục hưng, khu vườn của dinh thự này được xem là nơi trưng bày nghệ thuật cổ điển và công nghệ mới, nhưng vào cuối thế kỷ 18, khi khu vườn đạt sự đỉnh cao và rơi vào đổ nát, hình ảnh của khu vườn lãng mạn đẹp như tranh vẽ đã được khắc họa qua nhiều tác phẩm nghệ thuật. | {
"split": 10,
"title": "Villa d'Este",
"token_count": 143
} |
22,417 | Title: Villahermosa, Tabasco
Villahermosa (tên trước đây: San Juan Bautista) là một thành phố ở đông nam Mexico, thủ phủ của bang Tabasco. Thành phố này nằm bên bờ sông Grijalva. Cộng đồng dân cư này được thành lập cuối thế kỷ 16 và đã phát triển thành một trung tâm công nghiệp thương mại. Thành phố này có Đại học tự trị Juárez Tabasco (thành lập năm 1958); các bảo tàng: Tabasco, La Venta, một bảo tàng lộ thiên trưng bày các cổ vật từ khu khai quật khảo cổ La Venta. Tên gọi thành phố hiện nay được đặt năm 1915. | {
"split": 0,
"title": "Villahermosa, Tabasco",
"token_count": 138
} |
22,418 | Title: Villanúa
Villanúa là một đô thị trong tỉnh Huesca, Aragon, Tây Ban Nha. Theo điều tra dân số 2012 (INE), đô thị này có dân số là 475 người.
Trung tâm cũ, nhà thờ San Esteban (với một hình ảnh Romanesque bằng gỗ thế kỷ 11 của Đức mẹ Đồng trinh, "Đức Mẹ các Thiên Thần"), hang Las Güixas, cầu cạn đường sắt, mộ đá, nhà thờ San Juan và bị bỏ rơilàng của Cenarbe và Aruej, với nhà thờ La Mã San Vicente (c 12), tất cả trong một môi trường xinh đẹp có sông Aragon chảy ngang qua. Thị trấn nằm trên đường cũ Aragonese hành hương đến Santiago de Compostela, Lối đi thánh St James.
Lễ hội chính là ngày 08 tháng 9 (Giáng sinh của Virgin) và 26 tháng 12 (San Esteban). | {
"split": 0,
"title": "Villanúa",
"token_count": 190
} |
22,419 | Title: Villelongue-dels-Monts
Villelongue-dels-Monts (in Catalan "Vilallongua-dels-Monts") là một xã trong tỉnh Pyrénées-Orientales, vùng Occitanie phía nam nước Pháp. Xã Villelongue-dels-Monts nằm ở khu vực có độ cao trung bình mét trên mực nước biển.
Villelongue-dels-Monts có cự ly 33 km về phía nam Perpignan, 18 km về phía đông Địa Trung Hải và 17 km so với biên giới Tây Ban Nha. Các đô thị giáp ranh là: về phía bắc Banyuls-dels-Aspres, Brouilla và Saint-Génis-des-Fontaines; về phía đông Laroque-des-Albères; về phía nam l'Albère và về phía tây Montesquieu-des-Albères.
Thị trấn này là một phần của tổng Argelès-sur-Mer, gồm các thị trấn: Argelès-sur-Mer, Laroque-des-Albères, Montesquieu-des-Albères, Sorède, Saint-André, Saint-Génis-des-Fontaines, Palau-del-Vidre vàd Villelongue-dels-Monts. | {
"split": 0,
"title": "Villelongue-dels-Monts",
"token_count": 275
} |
22,420 | Title: Vilyuy
Vilyuy (cũng viết là "Vilyui", ) {là một sông tại cao nguyên Trung Siberi và là chi lưu dài nhất của sông Lena. Với chiều dài xấp xỉ 2.650 km, sông hầu như nằm trong lãnh thổ cộng hòa Sakha. Diện tích lưu vực sông là khoảng 491.000 km².
Vilyuy có đầu nguồn tại khu tự trị Evenk cũ, chảy về phía đông và sớm vào lãnh thổ Sakha. Sông sau đó chuyển hướng nam và đông nam sau đó lại trở lại hướng đông, và cuối cùng đổ vào Lena khoảng 350 km xuôi dòng từ Yakutsk, gần Sangar. Phía tây Vilyui và Chona là lưu vực sông Nizhnyaya Tunguska.
Lưu vực sông Vilyuy có dân cư thưa thớt. Các điểm định cư nhỏ xung quanh sông là Vilyuysk, Verkhnevilyuysk, Suntar và Nyurba.
Sông được thuật lại lần đầu tiên vào thế kỷ 17 và có liên quan đến quá trình xâm lược Siberi của người Nga.
Năm 1634, những người Cossack Nga do Voin Shakhov dẫn đầu đã thiết lập một điểm định cư mùa đông tại nơi hợp lưu giữa Vilyuy và Tyuken. Điểm định cư này đã trở thành trung tâm hành chính của khu vực trong vài thập kỷ, sau khi nó chuyển đến khu vực Yolyonnyokh về phía hạ du Vilyuy, nơi "ostrog" (điểm đinh cư được củng cố) Olensk (nay Vilyuysk) được thành lập vào năm 1773.
Vào thập niên 1950, kim cương được tìm thấy trong khu vực, khoảng 700 km từ cửa sông. Điều này đã dẫn đến việc hình thành mỏ Mir, cùng với các tuyến đường và sân bay, và tổ hợp đập Vilyuy được xây dựng để phục vụ cho việc khai thác kim cương. | {
"split": 0,
"title": "Vilyuy",
"token_count": 402
} |
22,421 | Title: Vimeo Livestream
Vimeo Livestream là một nền tảng phát trực tiếp video của Mỹ cho phép khách hàng phát nội dung video trực tiếp bằng máy ảnh hoặc máy tính thông qua Internet và người xem phát nội dung qua web, iOS, Android, Roku và Apple TV. Livestream yêu cầu đăng ký trả phí để các nhà cung cấp nội dung sử dụng; trước đây nó đã cung cấp một dịch vụ hỗ trợ quảng cáo miễn phí nhưng không còn hoạt động sau năm 2016.
Các khách hàng Livestream dịch vụ này của bao gồm Spotify, Gannett, Diễn đàn kinh tế thế giới, Tesla, SpaceX, NBA, RISD, Clinton Global Initiative, hơn 200 chi nhánh truyền hình địa phương và hàng ngàn người khác.
Lịch sử.
Livestream được thành lập ban đầu dưới tên Mogulus vào năm 2007 bởi Max Haot, Dayananda Nanjundappa, Phil Worthington, và Mark Kornfilt, và có văn phòng tại New York, Los Angeles, London, Zaporizhia và Bangalore. Nó được ra mắt với một dịch vụ phát trực tuyến miễn phí và giới thiệu dịch vụ nhãn trắng vào tháng 4 năm 2008 với Gannett là khách hàng đầu tiên. Vào tháng 7 năm 2008, Gannett đã đầu tư vào Mogulus với 10 triệu đô la tài trợ.
Vào tháng 5 năm 2009, Mogulus được đổi tên thành Livestream. Vào tháng 5 năm 2014, công ty đã chuyển trụ sở chính từ Chelsea đến Brooklyn, New York. Jesse Hertzberg được bổ nhiệm làm CEO vào tháng 4 năm 2015, cùng với tất cả bốn người sáng lập còn lại trong công ty đảm nhiệm các vai trò cao cấp. Năm 2017, Livestream bổ nhiệm người đồng sáng lập Mark Kornfilt làm CEO mới.
Vào ngày 26 tháng 9 năm 2017, Livestream đã được IAC mua lại thông qua công ty con Vimeo. Dịch vụ này được hy vọng là sẽ kết hợp nhân viên và công nghệ của Livestream vào một dịch vụ truyền phát video mới được ra mắt.
Sự kiện.
Buổi hòa nhạc. | {
"split": 0,
"title": "Vimeo Livestream",
"token_count": 425
} |
22,422 | Title: Vimeo Livestream
Vào tháng 9 năm 2009, Livestream bắt đầu cung cấp các trang kênh tùy chỉnh để phát sóng trực tuyến các sự kiện như các buổi hòa nhạc từ Kina Grannis, Pixie Lott, Eric Gales, David Gray và Foo Fighters. Những trang này tích hợp trò chuyện trực tiếp, Twitter và Facebook. Vào ngày 30 tháng 10 năm 2009, Foo Fighters đã biểu diễn buổi hòa nhạc trực tiếp đầu tiên trên internet từ không gian phòng thu Studio 606 ở Los Angeles. Người xem buổi hòa nhạc có thể tương tác trực tiếp với ban nhạc, đặt câu hỏi và yêu cầu các bài hát thông qua trang Facebook tùy chỉnh với tính năng trò chuyện tích hợp. Ban nhạc đã chơi 2 giờ 45 phút với những bản hit hay nhất cho hơn 150.000 người xem trên toàn thế giới.
Ban nhạc rock Saosin đã biểu diễn một buổi biểu diễn âm thanh độc quyền trong một văn phòng của Livestream và sau đó là một cuộc trò chuyện trực tiếp. Vào ngày 16 tháng 9 năm 2009, Boys Like Girls cũng đã chơi một màn trình diễn tương tác trên Facebook và được Livestream tài trợ. Tháng tiếp theo, ban nhạc rock Mỹ Thirty Seconds to Mars, gồm nam diễn viên Jared Leto và anh trai Shannon Leto đã phát trực tiếp một cuộc phỏng vấn với người hâm mộ của họ, nó cũng có sẵn để xem trên iPhone. Một buổi biểu diễn tại cửa hàng của ban nhạc rock Motion City Soundtrack đã được phát trực tiếp từ cửa hàng thu âm New Jersey Vintage Vinyl vào ngày 20 tháng 1 năm 2010
Các sự kiện khác.
Livestream tuyên bố sẽ phục vụ tốt hơn 10.000 khách hàng trả tiền và đã phát trực tuyến vài triệu sự kiện trong năm 2014. Khách hàng bao gồm tờ báo nổi tiếngNew York Times, Spotify, BBC, và một số giải đấu thể thao chuyên nghiệp và đại học trên khắp thế giới, Associated Press và Tesla. Livestream đã phát sóng các sự kiện lớn bao gồm cuộc đổ bộ của sao chổi Rosetta của Cơ quan Vũ trụ Châu Âu và lễ đón giao thừa tại Quảng trường Thời đại. | {
"split": 1,
"title": "Vimeo Livestream",
"token_count": 435
} |
22,423 | Title: Vimeo Livestream
Livestream cũng phát sóng một cuộc thảo luận giữa các nghệ sĩ hip-hop và reggae nổi tiếng. Rapper Nas và ngôi sao reggae Damian Marley đã thảo luận về "Distant Relatives", album và phim tài liệu của họ về nguồn gốc châu Phi chung của hip-hop và reggae. DJ Kool Herc và Red Alert cùng với huyền thoại dancehall U-Roy và nhà sản xuất lồng tiếng King Jammy cũng có mặt để thảo luận về mối liên hệ lịch sử và văn hóa giữa hai thể loại âm nhạc. | {
"split": 2,
"title": "Vimeo Livestream",
"token_count": 118
} |
22,424 | Title: Vincenzo (phim truyền hình)
Vincenzo () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc với sự tham gia của Song Joong-ki, Jeon Yeo-been và Ok Taec-yeon. Bộ phim được khởi chiếu trên tvN vào ngày 20 tháng 2 năm 2021 và phát sóng vào thứ Bảy và Chủ nhật hàng tuần lúc 21:00 (KST), mỗi tập phim được phát hành trên Netflix ở Hàn Quốc và quốc tế sau khi phát sóng trên tvN.
Nội dung.
Năm 8 tuổi, Park Joo-hyung (Song Joong-ki) đến Ý sau khi được một gia đình người Ý nhận nuôi. Sau đó anh gia nhập băng đảng Mafia, nơi anh được Don Fabio - người đứng đầu gia tộc Cassano nhận nuôi. Park Joo-hyung được đổi tên thành Vincenzo Cassano và trở thành luật sư người Ý. Anh làm việc cho Mafia với tư cách là một cố vấn và là cánh tay phải đáng tin cậy nhất của Don Fabio. Sau khi Fabio chết thì Paolo (con ruột của Fabio và là thủ lĩnh mới) cố gắng giết Vincenzo. Nên anh đã bỏ trốn đến Seoul ở Hàn Quốc và bắt đầu thu hồi một lượng vàng khổng lồ (15 tấn) được cất giấu trong mật thất nằm ở dưới tòa nhà Geumga-dong Plaza. Vincenzo đã giúp một ông trùm người Trung Quốc cất giữ vàng trong một kho tiền được bảo vệ bởi mafia trong khu phức hợp. Ông trùm chết. Vì không ai khác biết về số vàng đó. Vincenzo đã lên kế hoạch để lấy số vàng và sử dụng nó làm quỹ hưu trí của mình sau khi rời Ý. Tuy nhiên, một công ty bất động sản thuộc tập đoàn Babel đã chiếm quyền sở hữu tòa nhà một cách bất hợp pháp và Vincenzo phải sử dụng các kỹ năng của mình để lấy lại tòa nhà và khôi phục lại vận may của mình. Tại Hàn Quốc, Vincenzo đã gặp gỡ và quen biết với luật sư Hong Cha-Young (Jeon Yeo-bin), cô là kiểu luật sư sẽ làm mọi cách để thắng kiện. Vincenzo Cassano đã phải lòng Hong Cha-Young. Anh cũng đạt được công bằng xã hội theo cách riêng của mình.
Sản xuất. | {
"split": 0,
"title": "Vincenzo (phim truyền hình)",
"token_count": 464
} |
22,425 | Title: Vincenzo (phim truyền hình)
Vào tháng 5 năm 2020, đạo diễn Kim Hee-won và nhà biên kịch Park Jae-Bum đã cùng nhau hợp tác cho "Vincenzo". Vào tháng 7 năm 2020, có thông tin cho rằng Song Joong-ki và Jeon Yeo-been xem xét lời đề nghị đóng vai chính trong bộ phim, trong khi Ok Taec-yeon xác nhận tham gia bộ phim. Song Joong-ki và Jeon Yeo-been đã xác nhận sự xuất hiện của họ vào tháng sau.
Nhạc phim.
Đĩa đơn.
Phần 1
Phần 2
Phần 3
Phần 4
Phần 5
Phần 6
Đón nhận.
Tỷ suất người xem.
Tỷ suất người xem trung bình 7,7% đã được ghi nhận trên toàn quốc cho tập đầu tiên của bộ phim, khiến nó trở thành bộ phim truyền hình cuối tuần có tỷ suất người xem mở màn cao thứ tư trong lịch sử của tvN, đứng sau "Quý ngài Ánh dương", "Gặp gỡ" và "Chàng hậu".
Bộ phim hiện là bộ phim có tỷ suất người xem cao thứ 9 trong lịch sử truyền hình cáp Hàn Quốc. | {
"split": 1,
"title": "Vincenzo (phim truyền hình)",
"token_count": 250
} |
22,426 | Title: Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm
Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm (còn được gọi là Vinh Sơn Lê Quang Liêm, Vinh Sơn Hòa Bình, Vicente de la Paz 1732 – 1773) là một linh mục Dòng Đa Minh và là một vị thánh tử đạo Việt Nam.
Tiểu sử.
Phạm Hiếu Liêm sinh năm 1732 tại làng Trà Lũ, phủ Thiên Trường, nay thuộc xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, thuộc Giáo phận Bùi Chu. Năm 1744, ông vào tu trong Nhà Chung tại Lục Thủy. Sáu năm sau, ông được linh mục Espinoza (tên Việt là Huy) chọn vào số các thanh niên hưởng học bổng của Vua Felipe V của Tây Ban Nha, gởi đi du học Manila, Philippines. Sau khi học xong tam khoa và tứ khoa tại Trường đại học San Juan de Letran, ông theo chương trình giáo dục đại học của Viện Đại học Santo Tomas trong khi vẫn cư trú tại trường cũ. Sau khi tốt nghiệp, tháng 9 năm 1753, cùng với ba bạn đồng môn cũng là đồng hương Đàng Ngoài của mình, thầy Liêm xin gia nhập Dòng Đa Minh. Năm sau, ông và các bạn tuyên khấn trọng thể, ông lấy tên hiệu là "Vinh Sơn Hòa Bình" (Vicente de la Paz). Năm 1758, ông thụ phong linh mục và hồi hương vào ngày 3 tháng 10 cùng năm.
Ngày 20 tháng 1 năm 1759, linh mục Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm đến Trung Linh và được bổ nhiệm làm giáo sư chủng viện của Địa phận Đông Đàng Ngoài được đặt tại đó. Sau một thời gian, ông lần lượt đảm nhiệm các xứ đạo như Quất Lâm, Lục Thủy, Trung Lễ, Trung Linh, Trung Lao và kiêm luôn cả vùng Lai Ổn sau khi linh mục Jacinto Castaneda Gia bị bắt. Trong thời gian đó, ông Hoàng Sáu là em của chúa Trịnh Doanh đã được ông rửa tội trước khi mất. | {
"split": 0,
"title": "Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm",
"token_count": 420
} |
22,427 | Title: Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm
Ngày 1 tháng 10 năm 1773, linh mục Liêm đang chuẩn bị cho các giáo hữu ở Lương Đống mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi thì bị quân lính vây bắt tại nhà một giáo dân tên là Nhiêu Nhuệ. Ông cùng hai cậu giúp lễ bị giải đến quan chánh tổng Xích Bích và bị giam tại đây 12 ngày. Sau đó, ông bị giải về Phố Hiến và gặp lại linh mục Gia đang bị giam ở đó. Ngày 20 tháng 10, hai linh mục Liêm và Gia cùng hai cậu giúp lễ bị giải lên kinh đô Thăng Long gặp chúa Trịnh Sâm, riêng hai ông phải mang gông đề 4 chữ "Hoa Lang Đạo Sư" (tức giáo sĩ Công giáo). Ngày 4 tháng 11, chúa Trịnh tuyên án trảm quyết hai linh mục Liêm và Gia và sẽ hành quyết sau 3 ngày. Ngay ngày hôm đó, chúa Trịnh đặc xá cho riêng ông nhưng ông lên tiếng rằng ông và linh mục Gia phải chung bản án: cùng bị kết án hoặc cùng được thả. Sau cùng, bản án không thay đổi, hai linh mục bị hành hình tại pháp trường Đồng Mơ, thi hài họ được an táng tại Nhà thờ Trung Linh.
Giáo hoàng Piô X suy tôn Chân phước cho linh mục Liêm vào ngày 20 tháng 5 năm 1906. Ngày 19 tháng 6 năm 1988, Giáo hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ông lên bậc Hiển thánh.
Thánh Phạm Hiếu Liêm là đồng bảo trợ của Trường San Juan de Letran mà ông từng học, đây là một trong những trường đại học cổ nhất Philippines và châu Á nói chung. Tên của ông đã từng được đặt cho một con đường tại phường 12, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh (nay là đường Hà Bá Tường).
Hội đồng tứ giáo. | {
"split": 1,
"title": "Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm",
"token_count": 391
} |
22,428 | Title: Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm
"Hội đồng tứ giáo" là một tác phẩm được lưu truyền khá rộng rãi, viết theo môtif đối thoại tôn giáo. Theo các đánh giá gần đây, câu chuyện này không nhất thiết là một dữ kiện lịch sử nhưng được viết nhằm mục đích hộ giáo. Truyện kể tại kinh thành có một quan lớn là chú của chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Mẹ của ông là bà Thượng Trâm, quê xứ Hải Dương, vốn theo đạo Công giáo. Nhiều lần, bà khuyên con theo đạo. Ông này liền nảy ra sáng kiến triệu tập đại diện bốn tôn giáo: Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo và Công giáo để trình bày về đạo của mình để quyết định theo một đạo. Cuộc trao đổi kéo dài ba ngày, mỗi ngày một vấn đề: nguồn gốc con người, mục đích cuộc đời này và đời sau của mỗi người. Linh mục Liêm và Gia đại diện cho Công giáo đã khéo léo trình bày đến nỗi quan lớn phải trầm trồ khen ngợi. Nhưng vì ông biết Chúa Trịnh vẫn cấm đạo Công giáo nên quan vẫn còn ngần ngại chưa theo.
Sau đó, vì tò mò, mẹ chúa Trịnh Sâm cũng cho triệu hai cha đến để giới thiệu đạo cho bà. Khi bà hỏi những người không theo đạo chết rồi sẽ đi về đâu, cha Liêm đáp "bẩm bà, sa hỏa ngục". Bà đùng đùng nổi giận và ép con là chúa Trịnh Sâm ra lệnh xử tử cả hai vị. | {
"split": 2,
"title": "Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm",
"token_count": 319
} |
22,429 | Title: Vinh Tân
Vinh Tân là một phường thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Việt Nam.
Địa lý.
Phường Vinh Tân có vị trí địa lý:
Lịch sử.
Phường Vinh Tân được thành lập vào tháng 4 năm 2008 do xã Vinh Tân cũ được ghép cùng một phần của xã Hưng Thịnh. Phường có diện tích tự nhiên 512,18 ha và 11.057 người.
Phường này này nằm bên tuyến kênh Nhà Lê, là tuyến đường thủy đầu tiên trong lịch sử Việt Nam từ kinh đô Hoa Lư đến Đèo Ngang và được xem là tuyến đường Hồ Chí Minh trên sông vì những đóng góp cho các cuộc chiến tranh của người Việt.
Chú thích.
Kỳ họp thứ 10 (tháng 9/2019), nhiệm kỳ 2016 - 2021, HĐND tỉnh Nghệ An đã xem xét, thảo luận, quyết nghị thông qua Nghị quyết thành lập, sáp nhập, đổi tên xóm, khối, bản ở các xã phường, thị trấn thuộc 7 huyện, thành, thị. Trong đó Phường Vinh Tân thành lập 2 khối mới: khối Phúc Thịnh có 335 hộ và khối Cửa Tiền có 430 hộ.
Đồng thời sát nhập 05 khối thành 02 khối: Khối Phúc Lộc (Khối Phúc Vinh, Khối Phúc Lộc, 121 hộ khối Phúc Tân) và Khối Quang Trung (khối Quang Trung, khối Quang Tiến và 41 hộ khối Phúc Tân). | {
"split": 0,
"title": "Vinh Tân",
"token_count": 286
} |
22,430 | Title: Vini kuhlii
Vini kuhlii là một loài chim trong họ Psittacidae.
Nó là một loài vẹt nhanh với bộ lông có màu sắc sống động; Lưng, cánh và chỏm đầu màu xanh lá cây, gáy và chân màu xanh biển và màu đỏ tươi bên dưới và má.
Môi trường sống.
Môi trường sinh sống là rừng tự nhiên và rừng trồng nhiệt đới vùng đất nhiệt đới tự nhiên. Giống như tất cả các loại Vini lycikeets, nó là một loài thực vật ăn thịt, và có một cái lưỡi chải để thu được mật hoa. Trên các hòn đảo bị che phủ bởi các khu rừng nguyên sinh và được bao phủ bởi các đồn điền dừa rộng lớn, loài chim nàu chỉ được tìm thấy ở các khu vực này. | {
"split": 0,
"title": "Vini kuhlii",
"token_count": 180
} |
22,431 | Title: Vinnie Jones
Vinnie Jones là một cầu thủ bóng đá người Wales, từ năm 1984 đến 1999 thi đấu với một số câu lạc bộ đáng chú ý là Wimbledon, Leeds United, Sheffield United và Chelsea. nay là một diễn viên. Anh được biết đến là một người có lối chơi bạo lực. Anh là cầu thủ từng nhận thẻ vàng nhanh nhất thế giới cho đến nay.
Sách.
Vào năm 1998, Jones viết một số cuốn tự truyện, "Vinnie: The Autobiography", which was later revised and reprinted a year later to include information on his first film appearance in "Lock, Stock and Two Smoking Barrels". | {
"split": 0,
"title": "Vinnie Jones",
"token_count": 141
} |
22,432 | Title: Vinorelbine
Vinorelbin (NVB),tên thương mại Navelbine, là một hóa chất được sử dụng để điều trị một số loại ung thư. Các loại ung thư này bao gồm ung thư vú và ung thư phổi không tế bào nhỏ. Đường dùng qua tiêm tĩnh mạch hoặc uống.
Tác dụng không mong muốn thường gặp bao gồm ức chế tủy xương, đau tại chỗ tiêm, nôn, mệt mỏi, tê bì, và tiêu chảy. Tác dụng không mong muốn nghiêm trọng khác có thể gây khó thở. Sử dụng khi mang thai có thể gây hại cho bào thai. Vinorelbin thuộc dòng vinca alkaloid. Nó tác dụng bằng cách phá vỡ những hoạt động bình thường của vi ống và nhờ đó ngăn cản phân bào.
Vinorelbin đã được chấp thuận sử dụng trong y tế ở Hoa Kỳ vào năm 1994. Nó là nằm trong danh mục thuộc thiết yếu của tổ chức Y tế thế giới, và thuốc hiệu quả và an toàn cần thiết trong hệ thống y tế.
Chỉ định.
Vinorelbin được chấp thuận cho điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ. Nó được sử dụng ưu tiên cho một só bệnh ung thư khác như ung thư vú di căn. Nó cũng hiệu quả trong rhabdomyosarcoma.
Tác dụng không mong muốn.
Vinorelbin có một số tác dụng không mong muốn:
Bệnh lý thần kinh ngoại biên do hóa trị (tê ngứa, đau dữ dội, và mẫn cảm lạnh, bắt đầu từ bàn tay và bàn chân và đôi khi lên đến cánh tay và chân ngày càng tiến triển ), giảm sức đề kháng, bầm tím và chảy máu, thiếu máu, táo bón, nôn, tiêu chảy, buồn nôn, mệt mỏi và suy nhược, viêm tĩnh mạch bị tiêm thuốc (viêm tĩnh mạch). Hiếm gặp hạ đường huyết nghiêm trọng.
Tác dụng không mong muốn ít gặp hơn là rụng tóc và phản ứng dị ứng
Dược lý.
Cơ chế diệt khối u là nhờ ức chế nguyên phân qua tương tác với tubulin.
Lịch sử. | {
"split": 0,
"title": "Vinorelbine",
"token_count": 436
} |
22,433 | Title: Vinorelbine
Vinorelbin được phát minh bởi dược sĩ Pierre Potier và cộng sự từ CNRS ở Pháp trong những năm 1980. Thuốc đã được chấp thuận ở Pháp trong năm 1989 dưới tên thương mại Navelbine giúp điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ. Nó đã tiếp tục được chấp thuận để điều trị ung thư vú di căn trong năm 1991. Vinorelbin nhận được chấp thuận của FDA vào tháng 12 năm 1994 được tài trợ bởi công ty Burroughs Wellcome. Tập đoàn Pierre Fabre là nơi cung cấp Navelbine ở Mỹ hiện tại.
Ở hầu hết các nước châu Âu, vinorelbin được chấp thuận để điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ và ung thư vú. Tại Hoa Kỳ, nó chỉ được chấp thuận cho ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Nguồn gốc.
Cây dừa cạn Madagasca "Catharanthus roseus" L.là nguồn gốc tự nhiên quan trọng của sản phẩm này, bao gồm catharanthine và vindoline và vinca alkaloids từ đó sản xuất: leurosine và vinblastine and vincristine. | {
"split": 1,
"title": "Vinorelbine",
"token_count": 240
} |
22,434 | Title: Viola Onwuliri
Viola Adaku Onwuliri (sinh ngày 18 tháng 6 năm 1956) là tên của một chính trị gia người Nigeria từng giữ chức bộ trưởng bộ ngoại giao và cũng là một giáo sư đại học chuyên giảng dạy về hóa sinh học.
Lí lịch.
Bà là con gái đầu lòng của gia đình hoàng gia của ông Eze Cletus và bà Ugoeze Dorathy Oparaoji ở bang Imo.
Trước đây, bà học ở trường trung học nữ Owerri, sau đó, bà học ngành hóa sinh học tại trường đại học Nigeria, Nsukka, bang Egunu và đại học Jos, bang Plateau. Tại đó, bà nhận được chứng chỉ tốt nghiệp chuyên môn (tiếng Anh: Professional Graduate Certificate in Education, viết tắt là PGCE), bằng thạc sĩ về hóa học hữu cơ ứng dụng, bằng tiến sĩ hóa sinh học phân tử. Tiếp đến, bà vào đại học Howard và trường y tế công cộng Harvard của Mỹ.
Sau đó, bà trở về Nigeria và làm công việc trợ lí sau khi tốt nghiệp. Đến năm 2004, bà trở thành giáo sư giảng dạy môn hóa sinh học. Khi này, bà và ông Celestine Onwuliri đã có năm người con.
Sự nghiệp.
Cũng vào năm 2004, Viola Adaku Onwuliri trở thành người Nigeria đầu tiên và cũng là người phụ nữ Nigeria đầu tiên được bầu chọn trở thành thành viên của Hiệp hội AIDS Quốc tế ở Geneva. Từ năm 2004 đến năm 2008, bà trở thành đại diện cho khu vực châu Phi, đến năm 2008, bà lại tái đắc cử.
Năm 2011, bà là ứng cử viên cho chức phó thống đốc bang Imo, đối thủ của bà là ông Ikedi Ohakim. Sau khi thua cuộc, thống đốc Rochas Okorocha của đảng chính trị đối lập đề nghị bà vị trí ủy viên trong bộ nội các. Bà đã từ chối lời đề nghị này một cách lịch thiệp.
Vào năm 2013, bà đã giành được chức chủ tịch của Mạng lưới phụ nữ toàn cầu châu Phi (tiếng Anh: GlobalPOWER Women Network Africa). Cuối năm đó, bà nhận được giải thưởng Lãnh đạo danh dự Bạch kim của Liên minh châu Âu về chính trị vào ngày 28 tháng 11 năm 2013 tại Stockholm, Thụy Điển. | {
"split": 0,
"title": "Viola Onwuliri",
"token_count": 476
} |
22,435 | Title: Viola Onwuliri
Cũng vào năm 2013, tổng thống Goodluck Jonathan cử bà, chủ tịch thượng viện David Mark và chính trị gia Stella Oduah-Ogiemwonyi sang Vatican để tham dự lễ nhận chức của giáo hoàng Phanxicô. | {
"split": 1,
"title": "Viola Onwuliri",
"token_count": 56
} |
22,436 | Title: Viola Shafik
Viola Shafik là một nhà lý luận, nhà iám tuyển và nhà làm phim người Ai Cập-Đức.
Đầu đời và sự nghiệp.
Shafik được sinh ra ở Schönaich, Baden-Wurmern, Đức, có cha là người Ai Cập và mẹ là người Đức. Bà học các chuyên ngành nghiên cứu phương Đông và nghiên cứu Đức học tại Học viện Mỹ thuật và năm 1994, nhận bằng Tiến sĩ. Luận án của cô, "Điện ảnh Ả Rập: Lịch sử và Bản sắc văn hóa" sau đó được xuất bản bằng tiếng Anh vào năm 1998. Cô sống ở New York vào năm 1996 do kết quả của một khoản trợ cấp từ Quỹ Nhân văn Rockefeller. Shafik đã giảng dạy tại Đại học Mỹ ở Cairo và Đại học Zürich. Cô cũng là một nhà tư vấn cho các sáng kiến đào tạo La Biennale di Venezuela, Phòng thí nghiệm Nhà biên kịch al-Rawi và Kết nối phim Dubai. Cô cũng có các liên hoan phim giám tuyển. Shafik là một dịch giả cho truyền hình Đức.
Cô hiện là Trưởng phòng Nghiên cứu của Trường Tài liệu Chương trình MENA (Trung Đông và Bắc Phi), một sáng kiến tập trung vào việc chỉ đạo và sản xuất các bộ phim tài liệu ở các nước Trung Đông và Bắc Phi. | {
"split": 0,
"title": "Viola Shafik",
"token_count": 278
} |
22,437 | Title: Violette Wautier
Violette Wautier (; sinh ngày 10 tháng 10 năm 1993), biệt danh Vee, là nữ ca sĩ, diễn viên người Thái Lan gốc Bỉ. Cô được biết đến qua cuộc thi "The Voice Thái Lan" mùa 2 (2013), sau đó cô bắt đầu đi hát và đóng phim. Cô đoạt giải "Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất" tại giải thưởng Suphannahong National Film Awards (2016) và phát hành album tiếng Anh "Glitter and Smoke" (2020).
Tiểu sử.
Violette Wautier sinh ngày 10/10/1993 tại Yokohama, Kanagawa, Nhật Bản. Cô là người Thái Lan gốc Bỉ.
Violette thành thạo 3 thứ tiếng Thái, Anh và Pháp. Không chỉ hát hay, diễn tốt, cô còn biết chơi guitar, piano và sáng tác nhạc.
Sự nghiệp.
Năm 20 tuổi, Violette tham gia cuộc thi "The Voice Thái Lan". Kể từ đó, cô bắt đầu thu âm các bản nhạc phim điện ảnh lẫn truyền hình, gặt hái nhiều giải thưởng trong cả hai lĩnh vực ca hát và diễn xuất.
Với khả năng đóng phim tự nhiên, Violette từng chiến thắng giải "Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất" tại sự kiện Suphannahong National Film Awards danh giá nhờ bộ phim "Bắt cóc trái tim" năm 2015.
Ca khúc ra mắt năm 2018 - "Smoke" đã giúp cô lập kỉ lục là nghệ sĩ solo người Thái sở hữu bài hát tiếng Anh nhiều view nhất trên YouTube (đạt hơn 60 triệu lượt xem). Bản hit này còn đứng đầu BXH 8 quốc gia như Thái Lan, Singapore, Malaysia
Violette bật mí Taylor Swift chính là người có sức ảnh hưởng lớn nhất, đồng thời cũng là thần tượng của mình. Theo đuổi dòng nhạc Pop thịnh hành, Violette không quên đa dạng hóa phong cách của mình, khi thì dịu dàng, nhẹ nhàng, lúc lại tươi tắn và sôi nổi. Hai single gần đây nhất cô xuất xưởng gồm "Brassac" và "I'd Do It Again" mang đậm style này. Cả hai single này đều góp mặt trong "Glitter And Smoke" - album đầu tay hoàn toàn bằng tiếng Anh mà "bông hồng lai" trình làng vào ngày 19 tháng 6. | {
"split": 0,
"title": "Violette Wautier",
"token_count": 479
} |
22,438 | Title: Virginia Blanco Tardío
Virginia Blanco Tardío (18 tháng 4 năm 1916 - 23 tháng 7 năm 1990) là một tín hữu người Bolivia của Giáo hội Công giáo Rôma đến từ Cochabamba và phục vụ trong vai trò của một thành viên của phong trào Công giáo Tiến hành. Bà là một nhà giáo lý và giáo dục nổi tiếng với việc mở một loạt các địa điểm khác nhau để phục vụ cho nhu cầu của người nghèo. Blanco cũng được trao giải thưởng Pro Ecclesia et Pontifice vào năm 1975 sau khi Giáo hoàng Phaolô VI công nhận công trạng của bà với phong trào Công giáo Tiến hành.
Án phong chân phước của Blanco đã bắt đầu khởi sự trong thời kỳ lãnh đạo của Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Từ ngày 23 tháng 10 năm 2000 bà được biết đến với danh hiệu Tôi tớ Chúa. Bà được tuyên bố là Đấng đáng kính vào năm 2015 sau khi Giáo hoàng Phanxicô công nhận đời sống đức hạnh anh hùng của bà.
Đời sống.
Virginia Blanco Tardío sinh ngày 18 tháng 4 năm 1916 tại Cochabamba là con gái thứ hai trong số bốn con gái của Luis Pio Blanco Unzueta (qua đời năm 1934) và Daria Tardío Quiroga; cha mẹ cô kết hôn vào năm 1906. Các anh chị em của cô là: Maria Luisa Blanco Tardío, Alicia Blanco Tardío và Maria Teresa Sarabia.
Blanco từng nghĩ về việc trở thành một nữ tu nhưng quyết định dừng việc thực hiện ước mơ này vì lý do sức khỏe. Suy nghĩ này xảy ra vào khoảng thời gian cái chết của cha bà khi bà chỉ mới 18 tuổi.
Bà đã nhận bằng trung học của mình về Cổ văn học tại trường Cao đẳng của Các nữ tu của Thánh Tâm Chúa Giêsu mà bà có liên quan với tư cách là một thành viên của Giáo đoàn Alumnae Marian. Blanco hiếu học và được biết đến với nền tảng hiểu biết văn hóa rộng lớn - bà sở hữu kiến thức uyên bác về kinh thánh và thần học và tiếp tục trở thành một giáo viên có uy tín, đồng thời cũng đảm nhiệm vai trò của một giáo lý viên. Bà dạy bảo trẻ em của công nhân thuộc nông trại. Bà được công nhận chức danh Giáo sư Tôn giáo ở tuổi 32 và dạy tôn giáo ở một số trường công lập trong tổng cộng bốn thập kỷ trong khi trong một thập kỷ làm việc với vai trò tình nguyện viên không công. | {
"split": 0,
"title": "Virginia Blanco Tardío",
"token_count": 504
} |
22,439 | Title: Virginia Blanco Tardío
Năm 1932, bà tham gia phong trào Công giáo Tiến hành. Blanco phục vụ với tư cách là Chủ tịch Phân ban Phụ nữ trẻ tuổi của phong trào này từ năm 1941 đến năm 1961 khi bà được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội Phụ Nữ của Giáo phận cho đến khi qua đời. Blanco thành lập một "Nhà bếp kinh tế" vào năm 1954 cho người nghèo và cũng thành lập "Nhóm cầu nguyện và tình bạn" vào năm 1962 - tư vấn viên của nhóm là linh mục dòng Tên Julián Sayos. Ngoài ra, bà cũng cho thành lập một trung tâm cung cấp dịch vụ y tế cho những người không có khả năng chăm sóc sức khỏe. Ngoài ra, bà cũng hỗ trợ trẻ em trong việc chuẩn bị đón nhận việc cử hành các bí tích và nhiều hơn một lần cử hành nghi thức rửa tội cho các đứa trẻ có nguy cơ tử vong.
Blanco gặp Giáo hoàng Piô XII vào năm 1950 tại Roma, người đã gọi bà là "Tông đồ Công giáo Tiến hành" và khuyến khích công việc của bà.
Bà đã nhận được giải thưởng Pro Ecclesia et Pontifice vào tháng 12 năm 1965 sau khi Giáo hoàng Phaolô VI nhận thấy những đóng góp quan trọng của bà đối với việc truyền giảng và công việc của bà với phong trào Công giáo Tiến hành. Vào ngày 8 tháng 12 năm 1977, bà thành lập "Comedores Sociales" - hiện là một phần của "Policlinico Rosario" - mở ra để phục vụ nhu cầu của người nghèo; sau cái chết của bà, chị gái bà, bà Teresa Sarabia, tiếp tục công việc này. Bà đã nhận Thánh Thể từ Giáo hoàng Gioan Phaolô II tại một Thánh lễ trong chuyến viếng thăm của ông đến Bolivia vào ngày 11 tháng 5 năm 1988.
Thị lực của Blanco suy giảm rồi mất đi hoàn toàn vào cuối những năm 1980 và bà qua đời vì bị ngừng tim vào đêm ngày 23 tháng 7 năm 1990; bà đã thực hiện việc xưng tội lần cuối và nhận Thánh thể cuối cùng vào ngày 22 tháng 7. | {
"split": 1,
"title": "Virginia Blanco Tardío",
"token_count": 427
} |
22,440 | Title: Virtua Cop 2
Virtua Cop 2 là một trò chơi bắn súng nhẹ, được phát hành vào năm 1995 và phát triển nội bộ tại Sega bởi studio Sega AM2 của họ. Nó đã được chuyển đến trên hệ máy Sega Saturn năm 1996. Nó đã được phát hành trên PC vào năm 1997 và Sega Dreamcast vào năm 2000. Sau đó, nó đã được gửi kèm với "Virtua Cop" trong "Virtua Cop: Elite Edition" cho PlayStation 2 vào năm 2002.
Trò chơi này được biết đến như là Virtua Squad 2 để phát hành PC ở Bắc Mỹ.
Phiên bản kế thừa của trò chơi hiện nay là "Virtua Cop 3".
Lối chơi.
Người chơi sẽ vào vai một cảnh sát đặc nhiệm với nhiệm vụ duy nhất: hạ các tên tội phạm. Game có 3 màn cho người chơi với độ khó tăng dần. Người chơi điều khiển bằng cách rê chuột, click chuột trái để bắn và click chuột phải để nạp đạn đối với người chơi 1 và di chuyển bằng các phím mũi tên, nhấn số 0 để bắn và nhấn số 3 để nạp đạn đối với người chơi 2, bên cạnh đó là hàng loạt con tin có thể xuất hiện làm vướng đường bắn với câu "Somebody help me!" hoặc "Don't shoot!". Game có 2 con đường để bạn lựa chọn trong các màn, mỗi đường sẽ có một hướng đi khác nhau và độ khó khác nhau, cụ thể là:
Sau khi đã chiến thắng cả 3 màn, người chơi sẽ đến với màn đặc biệt. Màn này chỉ cần 15 phát bắn là hạ được trùm.
Kết thúc trò chơi, người chơi sẽ được xem thành tích của mình qua bảng xếp hạng.
Trước khi chơi, người chơi có thể cài đặt số mạng, số vạch máu. Theo mặc định thì người chơi sẽ bắt đầu với 5 mạng, trong mỗi mạng có 4 vạch máu. Mỗi lần bị khủng bố bắn hoặc bắn phải con tin thì một vạch máu sẽ biến mất. Nếu hết máu và mạng, trò chơi sẽ kết thúc.
Ở cuối mỗi màn, người chơi sẽ phải đối chọi với một tên trùm với khả năng siêu việt, cụ thể:
Game này có hệ thống tính điểm khác với Virtua Cop 1: Điểm sẽ xuất hiện sau khi kết thúc mỗi cảnh, qua màn, hoặc mất 1 mạng.
Vũ khí. | {
"split": 0,
"title": "Virtua Cop 2",
"token_count": 489
} |
22,441 | Title: Virtua Cop 2
Game có hệ thống vũ khí gồm súng lục 6 viên đi "tiếp tay" khủng bố. Trong game này còn có súng tự động, shotgun, súng magnum, súng trường và súng máy được giấu ở một số nơi như thùng gỗ, thùng rác... và bên cạnh đó là những can xăng/dầu có thể bắn vào gây nổ để giết nhiều tên địch một cách nhanh, gọn. Cụ thể: | {
"split": 1,
"title": "Virtua Cop 2",
"token_count": 96
} |
22,442 | Title: Virus RNA
Virus RNA là một loại virus có RNA (axit ribonucleic) làm vật chất di truyền của nó. Axít nucleic này thường là RNA chuỗi đơn (ssRNA) nhưng có thể là RNA chuỗi kép (dsRNA). Các bệnh do virus RNA gây ra bao gồm sốt xuất huyết Ebola, SARS, bệnh dại, cảm lạnh, cúm, viêm gan C, sốt Tây sông Nin, bại liệt và sởi.
Ủy ban quốc tế về phân loại virus (ICTV) phân loại virus RNA là virus thuộc nhóm III, nhóm IV hoặc nhóm V của hệ thống phân loại Baltimore phân loại virus và không xem xét virus có DNA trung gian trong vòng đời của chúng như virus RNA. Virus với RNA là vật liệu di truyền của chúng, trong đó cũng bao gồm các trung gian DNA trong chu kỳ sao chép của chúng được gọi là retrovirus, và bao gồm nhóm VI của phân loại Baltimore. Các retrovirus ở người đáng chú ý bao gồm HIV-1 và HIV-2, nguyên nhân gây bệnh AIDS.
Một thuật ngữ khác cho virus RNA loại trừ một cách rõ ràng retrovirus là ribovirus. | {
"split": 0,
"title": "Virus RNA",
"token_count": 248
} |
22,443 | Title: Virus Tây sông Nile
Virus Tây sông Nin là một loại virus RNA sợi đơn gây sốt Tây sông Nile. Nó là một thành viên của họ "Flaviviridae", đặc biệt từ chi "Flavivirus", cũng chứa virus Zika, virus sốt xuất huyết và virus sốt vàng. Virus West Nile chủ yếu lây truyền qua muỗi, chủ yếu là các loài thuộc chi "Culex". vật chủ chính của virus này là các loài chim, do đó virut vẫn nằm trong chu kỳ lây truyền "chim-muỗi-chim".
Cấu trúc.
Giống như hầu hết các flavirus khác, WNV là một loại virut có vỏ bọc đối xứng 20 mặt. Tái tạo hình ảnh và kính hiển vi cryoelectron cho thấy virion 45-50 được bao phủ bởi lớp vỏ protein tương đối mịn; cấu trúc này tương tự như virus sốt xuất huyết, một loại "Flavivirus" khác.. Vỏ protein được tạo thành từ hai protein cấu trúc: glycoprotein E và protein màng nhỏ M. Protein E có nhiều chức năng bao gồm liên kết với thụ thể, gắn virus và xâm nhập vào tế bào thông qua phản ứng tổng hợp màng. | {
"split": 0,
"title": "Virus Tây sông Nile",
"token_count": 264
} |
22,444 | Title: Virus dại
<indicator name="mới"></indicator>
Virus dại, tên khoa học Rabies lyssavirus, là một virus hướng thần kinh gây bệnh dại ở người và động vật. Virus này có ở hầu khắp mọi nơi trên thế giới, chỉ trừ châu Nam Cực và một số hòn đảo. Ngoài tự nhiên, dơi và động vật ăn thịt là vật chủ chính của virus, dù vậy nó có thể nhiễm vào gần như mọi loại động vật có vú. Con đường lây nhiễm chính của virus là từ nước bọt của động vật mang bệnh xâm nhập cơ thể động vật khác qua vết cắn. Con người nhiễm virus hầu hết là do bị chó cắn (hơn 99%). Virus dại không sống sót được bên ngoài vật chủ, nó có thể bị tiêu diệt bởi bức xạ tử ngoại, cực trị pH, dung môi hữu cơ, nhiệt độ cao, môi trường khô.
Virus dại là một virus RNA sợi đơn âm thuộc chi "Lyssavirus", họ "Rhabdoviridae". Hạt virus hoàn chỉnh (virion) có hình viên đạn với chiều dài 250 nm, đường kính 70 nm. Bộ gen RNA khá nhỏ chỉ khoảng 12 kilobase mã hóa năm protein: nucleoprotein (N), phosphoprotein (P), matrix protein (M), glycoprotein (G), và polymerase (L). Giống như mọi virus RNA sợi âm, bộ gen RNA của virus dại được bọc chặt bởi nucleprotein (N), tạo thành ribonucleoprotein (RNP) xoắn ốc. Chỉ RNP mới có thể làm khuôn cho phiên mã và sao chép. Lõi RNP bao gồm các protein N, P, và L được bao quanh bởi protein M có chức năng như cầu nối giữa lõi và màng, nơi protein G gắn vào. | {
"split": 0,
"title": "Virus dại",
"token_count": 414
} |
22,445 | Title: Virus dại
Sau khi xâm nhập cơ thể, virus dại tránh né bị hệ miễn dịch phát hiện và nhân bản trong mô cơ. Trong khi có năng lực thoát được phản ứng miễn dịch bẩm sinh, virus dễ bị trung hòa nếu kháng thể hiện diện. Virus sau đó bám vào thụ thể acetylcholine nicotine tại điểm giao thần kinh cơ rồi di chuyển trong sợi trục của dây thần kinh ngoại biên nhờ vận chuyển sợi trục ngược. Khi đã đến được neuron tủy sống, virus nhanh chóng phân tán ra khắp hệ thần kinh trung ương và nhiễm vào nhiều loại tế bào thần kinh. Về sau, virus lại lan tỏa ra khỏi hệ thần kinh trung ương đến nhiều cơ quan như tuyến nước bọt, da, giác mạc, tim. Việc xâm nhập tuyến nước bọt có ý nghĩa quan trọng giúp virus có thể lây nhiễm sang vật chủ mới qua hành vi cắn.
Quá trình phát tán nhanh chóng của virus từ neuron qua synapse sang neuron trong não và tủy sống gây viêm não tủy. Diễn biến lâm sàng của bệnh dại thường kết thúc với hôn mê, suy tim và suy hô hấp. Trước khi triệu chứng xuất hiện, bệnh dại có thể cứu chữa được bằng vắc-xin và globulin miễn dịch nhưng sau đó thì gần như là không và tỷ lệ tử vong là trên 99,9%. | {
"split": 1,
"title": "Virus dại",
"token_count": 290
} |
22,446 | Title: Virus khối u ở chuột
Virus khối u ở chuột (MMTV) là một retrovirus lây truyền qua sữa, có tính chất như virus HTL, virus HIV và BLV. Virus thuộc chi "Betaretrovirus". Năm 1936 John Joseph Bittner trong khi đang làm việc tại Phòng thí nghiệm Jackson tại Bar Harbor, Maine là người đề cập đến khái niệm "nhân tố trong sữa". Bittner đã đưa ra giả thuyết rằng một tác nhân gây ung thư, hay "nhân tố trong sữa", có thể được truyền từ những chuột cái bị ung thư vú sang chuột non chính là một loại virus trong sữa mẹ. Phần lớn các khối u ở vú chuột là do virus khối u ở chuột gây ra.
Lây nhiễm và vòng đời.
Một số chủng chuột mang virus nội sinh, nhưng nó cũng được truyền thẳng qua sữa từ mẹ sang con. Nó chứa dưới đoạn DNA của provirus được tích hợp trong DNA của tế bào lympho tuyến sữa. Các virus này được vận chuyển qua đường tiêu hóa đến các bản vá Peyer, nơi chúng lây nhiễm các đại thực bào của vật chủ mới và sau đó là các tế bào lympho.
Virus khối u ở chuột (MMTV) trước đây được phân loại là một retrovirus đơn giản; tuy nhiên, gần đây đã được chứng minh là retrovirus phức tạp. MMTV mã hóa một protein tạo ra mRNA tự điều chỉnh bổ sung, điều hòa, tương tự như protein điều hòa của HIV, hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người.
MMTV có thể được chuyển qua một con đường ngoại sinh hoặc nội sinh. Nếu virus được truyền ngoại sinh, nó sẽ được truyền từ chuột mẹ sang chuột con thông qua sữa.
Ngoài ra, chuột con có thể bị truyền dọc thông qua nhiễm trùng nội sinh, di truyền gen của virus trực tiếp từ cá thể mẹ trong dòng mầm. Những con chuột bị nhiễm bệnh theo cách này có tỷ lệ xuất hiện khối u cao hơn. Một retrovirus được coi là nội sinh với vật chủ sau khi DNA provirus được đưa vào DNA nhiễm sắc thể. Do đó, những con chuột có MMTV nội sinh có DNA của virus trong mọi tế bào của cơ thể, trên cơ sở virus có trong DNA của tinh trùng hoặc tế bào trứng được thụ tinh.
Phản ứng nội tiết DNA tích hợp của MMTV. | {
"split": 0,
"title": "Virus khối u ở chuột",
"token_count": 488
} |
22,447 | Title: Virus khối u ở chuột
MMTV nội sinh phản ứng với toàn bộ các loại hormone điều chỉnh sự phát triển và tiết sữa bình thường, phản ứng đã được chứng minh với các hormone steroid (androgen, glucocorticoids và progestin), cũng như prolactin.
Khi chuột đến tuổi dậy thì, virus bắt đầu biểu hiện qua mRNA của nó trong các mô nhạy cảm với estrogen. Kết quả là, sau khi dậy thì, tất cả các tế bào động vật có vú sẽ chứa retrovirus hoạt động và bắt đầu sao chép trong bộ gen và biểu hiện RNA thông tin virus trong tất cả các tế bào mô vú mới. | {
"split": 1,
"title": "Virus khối u ở chuột",
"token_count": 136
} |
22,448 | Title: Visakhapatnam
Visakhapatnam, còn gọi thông tục là Vizag, là thành phố lớn nhất và trung tâm tài chính của bang Andhra Pradesh. Đây là huyện lỵ của huyện Visakhapatnam và nơi đặt trung sở Đội hải quân miền Đông của hải quân Ấn Độ. Thành phố nằm giữa dãy Ghat Đông và bờ biển vịnh Bengal. Với dân số 2.035.922 người, Visakhapatnam là thành phố đông dân nhất bang và đông thứ 14 ở Ấn Độ. Nó có vùng đô thị lớn thứ 9 nước này, với dân số 5.340.000 người. Visakhapatnam có tổng sản lượng sản xuất 43,3 tỉ USD là và là thành phố đóng góp nhiều thứ chín cho tổng sản phẩm quốc nội của Ấn Độ (2016).
Lịch sử của Visakhapatnam kéo dài đến thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, khi nó được coi là một phần của Vương quốc Kalinga, và sau đó được cai trị bởi các triều đại Vengi, Pallava và Đông Ganga. Các tài liệu khảo cổ cho thấy thành phố hiện tại được xây dựng vào khoảng thế kỷ 11 và 12 với sự kiểm soát thành phố dao động giữa triều đại Chola và Vương quốc Gajapati, cho đến khi chinh phục bởi Đế chế Vijayanagara vào thế kỷ thứ 15. Bị chinh phục bởi người Mughals vào thế kỷ 16, các cường quốc châu Âu cuối cùng đã thiết lập lợi ích thương mại trong thành phố, và vào cuối thế kỷ 18, nó đã nằm dưới sự cai trị của Pháp. Quyền kiểm soát được chuyển cho người Anh vào năm 1804 và nó vẫn nằm dưới sự thống trị của thực dân Anh cho đến khi Ấn Độ giành độc lập vào năm 1947. | {
"split": 0,
"title": "Visakhapatnam",
"token_count": 360
} |
22,449 | Title: Visayas
Visayas (), hay quần đảo Visayas, là một trong ba phân vùng địa lý chính của Philippines, cùng với Luzon và Mindanao. Visayas nằm tại miền trung của quần đảo, gồm một số đảo chủ yếu nằm quanh biển Visayas, song Visayas còn được cho là cực đông bắc của biển Sulu. Cư dân địa phương chủ yếu là các dân tộc Visayas.
Các đảo lớn của Visayas là Panay, Negros, Cebu, Bohol, Leyte và Samar. Miền này cũng có thể bao gồm các tỉnh Masbate, Romblon và Palawan do liên hệ về dân tộc và ngôn ngữ. Visayas có ba vùng hành chính: Tây Visayas (7,1 triệu dân), Trung Visayas (6,8 triệu dân) và Đông Visayas (4,1 triệu dân) theo số liệu năm 2015.
Từ nguyên.
Thuật ngữ "Visayas" bắt nguồn từ tên gọi của đế quốc hàng hải Srivijaya () tại Sumatra vào thế kỷ 7. Trong tiếng Phạn, "sri" (श्री) nghĩa là "thuận lợi," hoặc "may mắn" và "vijaya" (विजय) nghĩa là "chiến thắng" hoặc "xuất sắc". Quần đảo Visayas và Sulu từng là vùng đất Ấn Độ giáo-Phật giáo và có các quốc gia lệ thuộc hoặc triều cống các đế quốc bên ngoài.
Lịch sử.
Những người Nam Đảo và Negrritos đã di cư đến các hòn đảo này trong khoảng từ 6.000 đến 30.000 năm trước kia. Vào thế kỷ 12, những người định cư từ các đế chế sụp đổ Srivijaya, Majapahit và Brunei đến định cư ở đảo Panay và các đảo xung quanh. Đến thế kỷ 12, các thương nhân Ả Rập và nhưng người tuỳ tùng thám hiểm quần đảo Mã Lai, họ đã cải đạo cho một số bộ tộc sang Hồi giáo và nhưng bộ tộc này sau đó thi hành cả Hồi giáo và thuyết vật linh. Người Visayas đã có các mối quan hệ ngoại giao chặt chẽ với các vương quốc mà ngày nay thuộc Malaysia và Indonesia | {
"split": 0,
"title": "Visayas",
"token_count": 472
} |
22,450 | Title: Visayas
Trong Cách mạng Philippines và cuộc chiến Mỹ-Philippines từ 1896-1913, đảo Negros và các đảo lân cận khác đã bắt đầu chiến đấu. Sau khi giành được độc lập từ năm 1946, vùng Visayas được thành lập và tái lập chính quyền và một số Tống thống của Philippines cũng đã xuất thân từ đây.
Năm 2005, đảo Palawan đã được chuyển sang Vùng VI (Tây Visayas) bởi Quyết định số 429 Tuy nhiên việc này đã bị hoãn lại. Do đó hiện nay Palawan vẫn thuộc Vùng IV-B (MIMAROPA).
Đơn vị Hành chính.
Các đảo chính từ tây sang đông (không tính Palawan) là: Panay, Negros, Cebu, Bohol, Leyte và đảo Samar.
Về hành chính, Visayas được chia thành 3 vùng, cụ thể là Tây Visayas, Trung Visayas và Đông Visayas. Visayas gồm 16 tỉnh và có 44 đại biểu trong Quốc hội Philippines.
Tây Visayas (Vùng VI).
Tây Visayas gồm có đảo Panay và phía tây đảo Negros. Trung tâm của vùng là Thành phố Iloilo. Các tỉnh là:
Trung Visayas (Vùng VII).
Trung Visayas gồm có đảo Cebu và Bohol và nửa phía đông đảo Negros. Tỉnh lỵ là Thành phố Cebu. Có các tỉnh:
Đông Visayas (Vùng VIII).
Đông Visayas gồm có các đảo Leyte và Samar. Trung tâm là Thành phố Tacloban. Có các tỉnh:
Ngôn ngữ.
Các ngôn ngữ chính tại Visayas là Hiligaynon or Ilonggo tại phần lớn Tây Visayas, Cebuano tại Trung Visayas, và Waray tại Đông Visayas, và cư dân cũng thông hiểu tiếng Filipino và tiếng Anh. Trong đó có nhiều ngôn ngữ khác nhau thi thoảng được được xác định là các phương ngữ của một ngôn ngữ chung. tiếng Tagalog được nhiều người thông hiểu nhưng ít khi được người dân sử dụng. Cũng như những khu vực khác của đất nước, tiếng Anh là ngôn ngữ sử dụng trong các trường đại học, trong hành chính, kinh doanh trong nước cũng quốc tế và du lịch.
Giả thuyết. | {
"split": 1,
"title": "Visayas",
"token_count": 472
} |
22,451 | Title: Visayas
Một lý thuyết hiện đại dựa trên một nghiên cứu về cấu trúc di truyền của mọi người là người Nam Đảo (Austronesian) từ Đài Loan đã định cư tại Luzon và di chuyển về phía nam tới Visayas, Kalimantan, Indonesia, sau đó đến các đảo ở Thái Bình Dương và phía đông Ấn Độ Dương.. Việc nghiên cứu mặc dù vậy không thể giải thích được sự di cư giữa các hòn đảo, mà cũng có thể, chẳng hạn như người Tagalog di cư đến Luzon.
Theo quan niệm dân gian của người Visayas, người Visayas là những người Mã Lai từ các đế chế sụp đổ Srivijaya và Majapahit di cư từ Kalimantan tới đảo Mindanao và Visayas, trong khi nhưng người Mã Lai khác đến Palawan qua ngả Sabah. Những người Mã Lai khác có thể đã vượt qua đảo Samar đến vùng Bicol ở Luzon. Quan điểm này cho rằng các nhóm bộ lạc cổ xưa đã đi qua Palawan có thể đã di cư đến đảo Luzon ngày nay.
Một lý thuyết bổ sung là ở thời kỳ đó, người dân Mã Lai đã di chuyển về phía bắc từ Mindanao tới Visayas và Luzon. các nhóm người Âu và người Hoa khác nhau cũng đã lai tạp với dân bản địa trong thời gian đó. | {
"split": 2,
"title": "Visayas",
"token_count": 282
} |
22,452 | Title: Vision of Love
"Vision of Love" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Mariah Carey nằm trong album phòng thu đầu tay mang chính tên cô (1990). Nó được phát hành vào ngày 15 tháng 5 năm 1990 như là đĩa đơn đầu tiên trích từ album bởi Columbia Records, đồng thời là đĩa đơn đầu tay trong sự nghiệp của nữ ca sĩ. Bài hát được đồng viết lời bởi Carey và Ben Margulies như là một trong những bản thu nháp được cô thu âm để gửi đến chủ tịch của Columbia lúc bấy giờ Tommy Mottola và giúp nữ ca sĩ đạt được hợp đồng thu âm với hãng đĩa, trước khi được thu âm lại và sản xuất bởi Rhett Lawrence và Narada Michael Walden. "Vision of Love" là một bản pop và R&B ballad kết hợp với những yếu tố từ soul và phúc âm mang nhịp điệu chậm, mang nội dung đề cập một mối quan hệ trong quá khứ và hiện tại với người tình của một cô gái, trong đó cô thể hiện "tầm nhìn trong tình yêu" mà cô mong muốn cũng như tình yêu hiện tại mà cô cảm nhận được với người yêu hiện tại, và là bản nhạc đầu tiên giúp giới thiệu kỹ thuật giọng sáo đã trở thành thương hiệu của Carey trong tương lai. | {
"split": 0,
"title": "Vision of Love",
"token_count": 272
} |
22,453 | Title: Vision of Love
Sau khi phát hành, "Vision of Love" nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao nội dung lời bài hát, chất giọng biến hóa linh hoạt của Carey cũng như việc sử dụng kỹ thuật melisma ấn tượng của cô. Ngoài ra, bài hát còn gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại những lễ trao giải lớn, bao gồm ba đề cử giải Grammy cho Thu âm của năm, Bài hát của năm và Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 33, và chiến thắng một giải sau. "Vision of Love" cũng tiếp nhận những thành công vượt trội về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Canada và New Zealand, và lọt vào top 10 ở nhiều quốc gia nó xuất hiện, trong đó bao gồm những thị trường lớn như Úc, Ireland, Hà Lan và Vương quốc Anh. Tại Hoa Kỳ, nó đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 trong bốn tuần liên tiếp, trở thành đĩa đơn quán quân đầu tiên của Carey cũng như đánh dấu chuỗi năm đĩa đơn đầu tay liên tiếp đứng đầu bảng xếp hạng của cô tại đây, giúp nữ ca sĩ trở thành nghệ sĩ đầu tiên và duy nhất trong lịch sử đạt được thành tích này. | {
"split": 1,
"title": "Vision of Love",
"token_count": 277
} |
22,454 | Title: Vision of Love
Video ca nhạc cho "Vision of Love" được đạo diễn bởi Andy Morahan, trong đó bao gồm những cảnh Carey trình diễn bài hát trong một nhà thờ lớn, nơi cô ngồi và hát trước một cửa sổ hình ảnh lớn. Để quảng bá bài hát, nữ ca sĩ đã trình diễn "Vision of Love" trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, bao gồm "The Arsenio Hall Show", "Good Morning America", "The Oprah Winfrey Show", "Saturday Night Live", "The Tonight Show Starring Johnny Carson", giải Grammy lần thứ 33 và "MTV Unplugged", cũng như trong nhiều chuyến lưu diễn của cô. Kể từ khi phát hành, nó đã được ghi nhận trong việc phổ biến kỹ thuật melisma trong nền âm nhạc đại chúng đương đại và truyền cảm hứng đến nhiều nghệ sĩ trong việc theo đuổi sự nghiệp âm nhạc, tiêu biểu phải kể đến Christina Aguilera, Beyoncé Knowles, Rihanna và Kelly Clarkson. Ngoài ra, bài hát còn được đưa vào tất cả những album tuyển tập của Carey, như "#1's" (1998), "Greatest Hits" (2001), "The Ballads" (2008) và "#1 to Infinity" (2015), cũng như xuất hiện trong nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình, bao gồm "All My Children", "Daria", "Santa Barbara" và "The Young and the Restless". | {
"split": 2,
"title": "Vision of Love",
"token_count": 305
} |
22,455 | Title: Vitamin D
Vitamin D là một nhóm các secosteroid tan được trong chất béo, có chức năng làm tăng cường khả năng hấp thu calci và phosphat ở đường ruột. Ở người, các hợp chất quan trọng nhất trong nhóm này là vitamin D3 (còn được gọi là cholecalciferol) và vitamin D2 (ergocalciferol). Cholecalciferol và ergocalciferol có thể đưa vào cơ thể qua việc ăn uống và các biện pháp bổ sung. Cơ thể cũng có thể tổng hợp vitamin D (đặc biệt là cholecalciferol) ở da, từ cholesterol, khi da được tiếp xúc đủ với ánh nắng mặt trời (vì thế nó còn được mệnh danh là "vitamin ánh nắng").
Mặc dù vitamin D thường được gọi là một vitamin, nhưng trong một ngữ nghĩa hẹp thì nó không phải là một vitamin thiết yếu trong chế độ ăn, bởi vì hầu hết động vật có vú đều có thể tự tổng hợp nó đủ cho cơ thể khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Một chất chỉ được phân loại là vitamin thiết yếu khi nó không thể được cơ thể tổng hợp đủ, mà phải nạp vào thông qua việc ăn uống. Tuy nhiên, cũng như các vitamin khác, người ta đã phát hiện ra sự thiếu hụt vitamin D trong khẩu phần ăn có thể gây ra bệnh, cụ thể là bệnh còi xương (một chứng loãng xương ở trẻ em). Vì thế, ở các nước phát triển, người ta thêm vitamin D vào khẩu phần ăn thiết yếu, chẳng hạn như sữa, để tránh các bệnh do thiếu hụt. | {
"split": 0,
"title": "Vitamin D",
"token_count": 340
} |
22,456 | Title: Vitamin D
Việc tổng hợp vitamin D khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, cùng với việc hấp thụ từ chế độ ăn uống đều giúp duy trì nồng độ thích hợp của vitamin này trong huyết thanh. Bằng chứng cho thấy sự tổng hợp từ ánh nắng mặt trời được điều chỉnh bởi một vòng hồi tiếp ngược (là vòng tự điều chỉnh lượng vitamin D cần tổng hợp tùy theo nhu cầu cần thiết của cơ thể), do đó có thể ngăn chặn ngộ độc, tuy nhiên, do không chắc chắn về nguy cơ gây ung thư từ ánh sáng mặt trời, cho nên viện Y học Hoa Kỳ (IOM) không đưa ra lời khuyên về lượng phơi nắng cần thiết để đáp ứng nhu cầu vitamin D cho cơ thể. Vì vậy, khi đưa ra Chế độ ăn tham khảo ("Dietary Reference Intake; DRI") thì người ta giả định rằng toàn bộ lượng vitamin D cần thiết là thông qua thực phẩm chứ không phải từ cơ thể tổng hợp thành, mặc dù điều này hiếm khi xảy ra. Ngoài việc sử dụng nó để ngăn ngừa loãng xương hoặc còi xương, thì không có bằng chứng gì về những ảnh hưởng tích cực khác đối với sức khỏe của việc bổ sung vitamin D một cách đại trà. Bằng chứng về lợi ích tốt nhất là cho sức khỏe của xương và làm giảm tỷ lệ tử vong ở phụ nữ cao tuổi.
Tại gan, cholecalciferol (vitamin D3) được chuyển hóa thành calcidiol, còn được gọi là calcifediol (INN), 25-hydroxycholecalciferol, hoặc 25-hydroxyvitamin D3 — viết tắt là 25(OH)D3. Ergocalciferol (vitamin D2) được chuyển hóa thành 25-hydroxyergocalciferol, còn được gọi là 25-hydroxyvitamin D2 — viết tắt là 25(OH)D2. Đây là hai chất chuyển hóa đặc trưng của vitamin D được đo nồng độ trong huyết thanh để xác định tình trạng vitamin D của một người. Một phần của calcidiol được chuyển hóa qua thận thành calcitriol, một chất hoạt hóa sinh học của vitamin D. Calcitriol tuần hoàn như một hormone trong máu, để điều chỉnh nồng độ calci và phosphate trong máu và thúc đẩy sự phát triển khỏe mạnh và tái tạo của xương. Calcitriol cũng ảnh hưởng đến chức năng thần kinh-cơ và hệ miễn dịch.
Tác dụng. | {
"split": 1,
"title": "Vitamin D",
"token_count": 501
} |
22,457 | Title: Vitamin D
Những ảnh hưởng của việc bổ sung vitamin D đối với sức khỏe là không chắc chắn. Viện Y học Hoa Kỳ (IOM) báo cáo rằng: "Việc bổ sung vitamin D và calci không có mối liên hệ đáng tin nào với bệnh ung thư, bệnh tim mạch và cao huyết áp, tiểu đường và hội chứng rối loạn chuyển hóa, hoạt động thể chất và té ngã, chức năng miễn dịch và các rối loạn tự miễn, nhiễm trùng, bệnh lý thần kinh-cơ, tiền sản giật; và các kết quả thường mâu thuẫn nhau". Một số nhà nghiên cứu cho rằng IOM đã đưa ra khẳng định quá dứt khoát trong khuyến nghị của mình và đã tính toán sai nồng độ vitamin D trong máu liên quan đến sức khỏe của xương. Các thành viên hội đồng của IOM cho rằng họ đã sử dụng một "quy trình chuẩn cho các khuyến nghị về chế độ ăn uống" và bản báo cáo được dựa trên các dữ liệu vững chắc. Nghiên cứu về việc bổ sung vitamin D, bao gồm cả thử nghiệm lâm sàng ở quy mô lớn, vẫn đang được tiếp tục.
Tổng giám đốc nghiên cứu và phát triển và là cố vấn trưởng của Bộ Y tế và NHS của Anh cho rằng trẻ em từ 6 tháng đến 5 tuổi cần dùng vitamin D bổ sung, đặc biệt là trong mùa đông. Tuy nhiên, bổ sung vitamin D không được khuyến khích đối với những người đã có đủ vitamin D từ chế độ ăn và từ ánh sáng mặt trời.
Tỷ lệ tử vong.
Nồng độ vitamin D trong máu thấp có liên quan đến tỷ lệ tử vong tăng, và cho phụ nữ cao tuổi bổ sung vitamin D3 trong quá trình điều dưỡng dường như làm giảm nguy cơ tử vong. Vitamin D2, alfacalcidol, và calcitriol có thể không có hiệu quả. Tuy nhiên, cả dư thừa lẫn thiếu hụt vitamin D đều gây ra rối loạn chức năng và lão hóa sớm. Nồng độ calcidiol trong huyết thanh có mối quan hệ theo một hình parabol với tỷ lệ tử vong với mọi căn nguyên.
Sức khỏe xương. | {
"split": 2,
"title": "Vitamin D",
"token_count": 443
} |
22,458 | Title: Vitamin D
Năm 2013, United States Preventive Services Task Force (lực lượng tác vụ phòng bệnh Hoa Kỳ) không tìm đủ bằng chứng để xác định phụ nữ khỏe mạnh nên sử dụng bổ sung calci và vitamin D để ngăn ngừa gãy xương. Cũng trong năm 2013, một phân tích tổng hợp cũng không tìm thấy bằng chứng chứng minh việc bổ sung vitamin D làm tăng mật độ xương và do đó không khuyến khích sử dụng nó để ngăn ngừa loãng xương.
Ở những bệnh nhân loãng xương, vitamin D có lẽ không thể làm giảm nguy cơ gãy xương. Ngoại trừ một số trường hợp được chăm sóc tại nhà cho thấy calci và vitamin D có thể ngăn ngừa gãy xương hông, tuy nhiên lại gây ra những vấn đề khác đối với dạ dày và thận. Bổ sung liều cao vitamin D cho người lớn hơn 65 tuổi có thể làm giảm nguy cơ gãy xương, nhưng dường như chỉ đúng khi khảo sát với một nhóm nhiều người sống chung trong một hội, hơn là những người sống đơn lẻ. Dù sao thì những bằng chứng về tác dụng của vitamin D đối với sức khỏe xương vẫn thiếu thuyết phục.
Thiếu vitamin D gây ra chứng nhuyễn xương (ở trẻ em còn gọi là còi xương). Sử dụng vitamin D cho trẻ em với nồng độ bình thường không cải thiện được mật độ xương. Ngoài ra, nồng độ vitamin D trong huyết thanh thấp có liên quan đến việc té ngã, và mật độ xương thấp.
Ung thư.
Nồng độ vitamin D thấp có liên quan đến một số bệnh ung thư và có thể làm tình trạng tồi tệ hơn đối với một số loại ung thư khác, tuy nhiên bổ sung vitamin D lại không cải thiện được tình trạng của những bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt. Hiện nay, không đủ bằng chứng chứng minh việc bổ sung vitamin D cho người có bệnh ung thư này là cần thiết. Kết quả nghiên cứu về tác dụng cải thiện hoặc gây hại của việc bổ sung vitamin D cho các bệnh nhân mắc các loại ung thư khác cũng không thuyết phục.
Bệnh tim mạch.
Thiếu bằng chứng về ảnh hưởng của việc bổ sung vitamin D đối với sức khỏe tim mạch. Dùng liều vừa cho đến liều cao có thể làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch nhưng kết quả lâm sàng vẫn còn nghi vấn.
Hệ miễn dịch. | {
"split": 3,
"title": "Vitamin D",
"token_count": 477
} |
22,459 | Title: Vitamin D
Tổng quát, những chức năng của vitamin D làm kích hoạt hệ miễn dịch không đặc hiệu (miễn dịch bẩm sinh, tự nhiên) và làm giảm hệ miễn dịch đặc hiệu (miễn dịch thích nghi). Thiếu vitamin D có liên quan đến việc tăng nguy cơ nhiễm virus. Vitamin D được mặc nhận có liên hệ với bệnh cúm. Vào mùa đông, do ánh sáng mặt trời ít dẫn đến việc thiếu vitamin D tổng hợp tự nhiên, là một trong những nguyên nhân làm tăng tỉ lệ mắc bệnh cúm trong mùa này. Thiếu vitamin D còn là một yếu tố gây nhiễm bệnh lao, và trong lịch sử, nó từng được sử dụng để điều trị bệnh này. Năm 2011, vitamin D được điều tra nghiên cứu bằng những thử nghiệm lâm sàng. Nó cũng có thể đóng một vai trò trong việc nhiễm HIV. Mặc dù có những dữ liệu dự kiến về mối liên hệ giữa việc thiếu vitamin D với bệnh hen suyễn, nhưng các bằng chứng về việc bổ sung vitamin D cho người bệnh thu được những hiệu quả có lợi vẫn thiếu thuyết phục. Do đó, hiện nay vẫn chưa khuyến cáo bổ sung vitamin D để phòng ngừa hoặc chữa trị bệnh hen suyễn.
Phụ nữ mang thai.
Thiếu hụt vitamin D trong thai kỳ có liên quan với bệnh tiểu đường do mang thai, tiền sản giật, và thai nhi nhỏ. Tuy nhiên, việc bổ sung vitamin D mang lại lợi ích không rõ ràng. Phụ nữ mang thai có đủ lượng vitamin D trong thời gian mang thai có thể có các kết quả miễn dịch tích cực. Thông thường, phụ nữ mang thai không được khuyên nên dùng thêm vitamin D. A trial of supplementation has found 4000 IU of vitamin D3 superior to lesser amount in pregnant women for achieving specific target blood levels.
Thiếu hụt.
Chế độ ăn uống thiếu vitamin D kết hợp việc tiếp xúc với ánh sáng mặt trời không đủ sẽ gây ra chứng nhuyễn xương (bệnh làm xương bị mềm, hay còi xương ở trẻ em). Trong các nước phát triển, đây là một bệnh hiếm gặp. Tuy nhiên, thiếu vitamin D đã trở thành vấn đề toàn cầu đối với người già và vẫn còn phổ biến ở trẻ em và người trưởng thành. Nồng độ calcidiol (25-hydroxy-vitamin D) trong máu thấp có thể là hậu quả của việc tránh nắng. Thiếu vitamin D gây suy giảm sự khoáng hóa xương và gây tổn thương xương dẫn đến bệnh mềm xương. | {
"split": 4,
"title": "Vitamin D",
"token_count": 511
} |
22,460 | Title: Vitamin D
Còi xương.
Bệnh còi xương ở trẻ em biểu thị những đặc điểm như tăng trưởng chậm, các xương dài bị mềm, yếu, và dị dạng, dẫn đến chúng bị cong khi phải đỡ trọng lượng cơ thể ở trẻ em bắt đầu tập đi. Tình trạng này đặc trưng bởi chân hình vòng cung, có thể do thiếu calci hoặc phosphor, cũng như thiếu vitamin D; hiện nay, phần lớn các trường hợp còi xương là từ các nước có thu nhập thấp ở châu Phi, châu Á, hay Trung Đông, hoặc ở những người bị rối loạn di truyền trong chuyển hóa và hấp thụ vitamin D. Bệnh còi xương được Francis Glisson mô tả lần đầu tiên vào năm 1650, ông cho biết cách đó 30 năm thì bệnh này đã xuất hiện ở các quận Dorset và Somerset. Năm 1857, John Snow đưa ra giả thiết cho rằng sau đó bệnh còi xương đã lan tràn rộng rãi ở Anh, nguyên nhân là do phèn được pha trong bánh mì.. Chế độ ăn uống đóng vai trò trong sự lan rộng của bệnh còi xương được Edward Mellanby xác minh trong khoảng 1918-1920.
Phân loại.
Vitamin D tồn tại ở một số dạng (vitamer) khác nhau (xem bảng). Hai dạng chính là vitamin D2 hay còn gọi là ergocalciferol và vitamin D3 hay cholecalciferol; vitamin D được viết không kèm theo chỉ số được hiểu là D2 hoặc D3 hoặc cả hai; chúng được gọi chung là calciferol. Cấu trúc hóa học của vitamin D2 được xác định lần đầu vào năm 1931. Vào năm 1935, cấu trúc hóa học của vitamin D3 đã được xác định và chứng minh là nó được tạo thành từ quá trình biến đổi của 7-dehydrocholesterol dưới tác động của tia cực tím.
Trong hóa học, các dạng khác nhau của vitamin D là những secosteroid; tức là, steroid bị gãy một trong những liên kết trong các vòng steroid. Sự khác biệt về cấu trúc giữa vitamin D2 và vitamin D3 nằm trong các chuỗi bên của chúng. Chuỗi bên của D2 chứa một liên kết đôi giữa cacbon 22 và 23, và một nhóm methyl trên cacbon 24.
Sinh tổng hợp. | {
"split": 5,
"title": "Vitamin D",
"token_count": 473
} |
22,461 | Title: Vitamin D
Vitamin D3 (cholecalciferol) được tổng hợp từ tác động của bức xạ tia cực tím (UV) trên tiền chất 7-dehydrocholesterol của nó. Da tạo ra vitamin D3 và cung cấp khoảng 90% nhu cầu vitamin D cho cơ thể. Phân tử này tự xuất hiện trong da động vật và trong sữa. Vitamin D3 có thể được tạo ra bằng cách cho da tiếp xúc hoặc phơi sữa (một phương thức thương mại) trực tiếp với tia cực tím. Vitamin D3 cũng được tìm thấy trong cá béo và dầu gan cá tuyết.
Vitamin D2 là một dẫn xuất của ergosterol, một sterol trong màng tế bào của nấm cựa gà. Sterol này cũng có trong một số loài thực vật phù du, động vật không xương sống, nấm men, và nấm lớn. Vitamin D2 (ergocalciferol) được sản xuất từ ergosterol trong cơ thể của các sinh vật này, dưới kích thích của tia cực tím. Cũng giống như tất cả các loại vitamin D khác, không thể tạo ra vitamin D2 nếu không có bức xạ cực tím. Các thực vật có diệp lục và động vật có xương sống không thể tự sản xuất vitamin D2, vì cơ thể chúng không có tiền chất ergosterol. Quy trình sinh học sản xuất 25(OH)D từ vitamin D2 được cho rằng tương tự như 25(OH)D3, dẫn đến xuất hiện một số tranh cãi về việc vitamin D2 hoàn toàn có thể hoặc không thể thay thế cho vitamin D3 trong chế độ ăn uống của con người.
Quang hóa.
Quá trình chuyển đổi từ 7-dehydrocholesterol thành Vitamin D3 (cholecalciferol) xảy ra theo hai bước. Trước tiên, 7-dehydrocholesterol được quang phân bởi tia cực tím trong một phản ứng vòng hóa electron ("electrocyclic") với 6-electron quay cùng chiều nhau ("conrotatory"). Sản phẩm được tạo thành là tiền vitamin D3. Tiền vitamin D3 sẽ tự đồng phân hóa thành vitamin D3 trong một phản ứng chuyển vị sigma hydride [1,7] ngược hướng của hệ thống pi liên hợp ("antarafacial"). Ở nhiệt độ phòng, để hoàn tất quá trình chuyển đổi từ tiền vitamin D3 thành vitamin D3 mất khoảng 12 ngày.
Tiến hóa. | {
"split": 6,
"title": "Vitamin D",
"token_count": 490
} |
22,462 | Title: Vitamin D
Sự quang hợp tạo thành vitamin D ở thực vật phù du trong đại dương đã tồn tại hơn 500 triệu năm và vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Mặc dù các loài động vật có xương sống nguyên thủy trong đại dương có thể hấp thu calci từ đại dương vào bộ xương của chúng và ăn các sinh vật phù du giàu vitamin D, nhưng động vật sống trên cạn lại cần một cách khác nhằm đáp ứng nhu cầu về vitamin D để vôi hóa bộ xương mà không dựa vào thực vật. Động vật có xương sống trên mặt đất đã tự tổng hợp ra vitamin D cho cơ thể từ hơn 350 triệu năm.
Vitamin D chỉ có thể được tổng hợp thông qua một quá trình quang hóa, vì vậy động vật có xương sống trên cạn đã phải ăn những thực phẩm có chứa vitamin D hoặc được tiếp xúc với ánh sáng mặt trời để tổng hợp vitamin D trong da của chúng nhằm đáp ứng yêu cầu vitamin D của cơ thể.
Tổng hợp ở da.
Vitamin D3 (cholecalciferol) được tạo ra thông qua quá trình quang hóa trong da từ 7-dehydrocholesterol. Từ 10000 đến 20000 IU vitamin D được tạo ra trong khoảng 30 phút trong da của hầu hết các loài động vật có xương sống, kể cả con người khi toàn bộ cơ thể tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. 7-dehydrocholesterol phản ứng với tia cực tím loại UVB, tức tia sáng có bước sóng trong khoảng 270 đến 300 nm, sự tổng hợp xảy ra cao nhất ở bước sóng từ 295 đến 297 nm. Những bước sóng này có trong ánh sáng mặt trời khi chỉ số UV lớn hơn 3, cũng như trong ánh sáng phát ra từ các đèn tử ngoại trong giường tắm nắng (phát chủ yếu UVA, nhưng cũng có từ 4-10% UVB). Ánh sáng mặt trời có chỉ số UV lớn hơn 3 chiếu hàng ngày tại các vùng nhiệt đới, chiếu hằng ngày vào mùa xuân và mùa hè tại các vùng ôn đới, và hầu như chẳng bao giờ có trong ánh sáng mặt trời tại khu vực Bắc cực. Ngay cả khi chỉ số UV đủ cao, nhưng việc tiếp xúc với ánh sáng xuyên qua những cửa sổ cũng không đủ vì thủy tinh ngăn chặn gần như hoàn toàn tia tử ngoại B (UVB). | {
"split": 7,
"title": "Vitamin D",
"token_count": 475
} |
22,463 | Title: Vitamin E
Vitamin E là tên gọi chung để chỉ hai lớp các phân tử (bao gồm các tocopherol và các tocotrienol) có tính hoạt động vitamin E trong dinh dưỡng. Vitamin E không phải là tên gọi cho một chất hóa học cụ thể, mà chính xác hơn là cho bất kỳ chất nào có trong tự nhiên mà có tính năng vitamin E trong dinh dưỡng. Chức năng chính của α-tocopherol trong cơ thể người dường như là của một chất chống oxy hóa. Nhiều phân tử được đề cập trong các bài chính về chúng như nói trên đây có thể chuyển hóa lẫn nhau trong cơ thể.
Các dạng.
Vitamin E tự nhiên tồn tại dưới 8 dạng khác nhau, trong đó có 4 tocopherol và 4 tocotrienol. Tất cả đều có vòng chromanol, với nhóm hydroxyl có thể cung cấp nguyên tử hiđrô để khử các gốc tự do và nhóm R (phần còn lại của phân tử) sợ nước để cho phép thâm nhập vào các màng sinh học. Các tocopherol và tocotrienol đều có dạng alpha, beta, gamma và delta, được xác định theo số lượng và vị trí của các nhóm metyl trên vòng chromanol. Mỗi dạng có hoạt động sinh học hơi khác nhau.
Nguồn cung cấp.
Trong thực phẩm, các nguồn phổ biến nhất chứa vitamin E là các loại dầu thực vật như cọ dầu, hướng dương, ngô, đậu tương, ô liu. Các loại quả kiên, hạt hướng dương, quả nhót gai ("Hippophae" spp.), dương đào ("Actinidia" spp.) và mầm lúa mì cũng là các nguồn cung cấp vitamin E. Các nguồn khác có hạt ngũ cốc, cá, bơ lạc, các loại rau lá xanh. Mặc dù ban đầu vitamin E được chiết ra từ dầu mầm lúa mì, nhưng phần lớn các nguồn bổ sung vitamin E tự nhiên hiện nay lại tách ra từ dầu thực vật, thông thường là dầu đậu tương.
Hàm lượng vitamin E của một số nguồn như sau:
Các rối loạn liên quan.
Thiếu vitamin E.
Có thể gặp ở trẻ đẻ non, người lớn bị cắt túi mật. Khi thiếu Vitamin E kéo dài sẽ có các triệu chứng thần kinh như: thất điều, yếu cơ, rung giật nhãn cầu, xúc giác giảm nhạy cảm. | {
"split": 0,
"title": "Vitamin E",
"token_count": 501
} |
22,464 | Title: Vitamin E
Thiếu hụt vitamin E liên quan đến bệnh xơ nang, bệnh gan ứ mật mãn tính, bệnh rối loạn chuyển hóa chất béo, hội chứng ruột ngắn, hội chứng thiếu hụt vitamin E và các hội chứng kém hấp thu khác có thể dẫn đến mức độ thiệt hại khác nhau. Tuy nhiên vitamin E có tác dụng kháng vitamin K nên khi thiếu hụt có thể làm tăng nguy cơ của các vấn đề đông máu.
Thừa Vitamin E.
Nếu dùng Vitamin liều cao (trên 3000 IU mỗi ngày) có thể gây rối loạn tiêu hóa (buồn nôn, đầy hơi, đi lỏng, viêm ruột hoại tử). Tiêm tĩnh mạch liều cao có thể gây tử vong. | {
"split": 1,
"title": "Vitamin E",
"token_count": 156
} |
22,465 | Title: Vitamin tổng hợp
Vitamin tổng hợp là một chế phẩm nhằm phục vụ như một chế phẩm bổ sung - với vitamin, khoáng chất,và các chất dinh dưỡng khác.Các chế phẩm như vậy thường được bào chế và có sẵn ở dạng viên nén, viên nang,viên sủi... Khác với các công thức tiêm, chỉ có sẵn và được quản lý dưới sự giám sát y tế, vitamin tổng hợp được Ủy ban Codex Alimentarius (cơ quan của Liên Hợp Quốc về tiêu chuẩn thực phẩm) công nhận là một loại thực phẩm.
Ở những người khỏe mạnh, hầu hết các bằng chứng khoa học chỉ ra rằng bổ sung vitamin tổng hợp không giúp ngăn ngừa ung thư, bệnh tim hoặc các bệnh khác và việc bổ sung chúng thường xuyên là không cần thiết. Tuy nhiên, các nhóm người cụ thể có thể được hưởng lợi từ việc bổ sung vitamin tổng hợp, ví dụ, những người có dinh dưỡng kém hoặc những người có nguy cơ thoái hóa điểm vàng cao.
Không có định nghĩa khoa học tiêu chuẩn cho vitamin tổng hợp. Tại Hoa Kỳ, chất bổ sung vitamin tổng hợp/khoáng chất được định nghĩa là một chất bổ sung có chứa ba hoặc nhiều vitamin và khoáng chất không bao gồm thảo dược, hormone hoặc thuốc, trong đó mỗi loại vitamin và khoáng chất được bao gồm ở liều dưới mức chấp nhận được mức tiêu thụ được xác định bởi Hội đồng Thực phẩm và Dược phẩm, và không có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.
Sản phẩm và thành phần. | {
"split": 0,
"title": "Vitamin tổng hợp",
"token_count": 313
} |
22,466 | Title: Vitamin tổng hợp
Nhiều "công thức" vitamin tổng hợp có chứa vitamin C, B1, B2, B3, B5, B6, B7, B9, B12, A, E, D2 (hoặc D3), K, kali, iod, selen, borat, kẽm, calci, magiê, mangan, molypden, betacarotene và/hoặc sắt. Vitamin tổng hợp thường có sẵn trong một loạt các công thức dựa trên tuổi và giới tính, hoặc (như trong vitamin trước khi sinh) dựa trên nhu cầu dinh dưỡng cụ thể hơn; một loại vitamin tổng hợp cho nam giới có thể bao gồm ít chất sắt hơn, trong khi vitamin tổng hợp cho người cao niên có thể bao gồm thêm vitamin D. Một số công thức tạo ra một điểm bao gồm thêm chất chống oxy hóa. "Công thức có hiệu lực cao" bao gồm ít nhất hai phần ba các chất dinh dưỡng được yêu cầu của các chế độ ăn uống được khuyến nghị.
Một số chất dinh dưỡng, chẳng hạn như calci và magnesi, hiếm khi được đưa vào ở mức 100% mức được đề nghị vì viên thuốc sẽ trở nên quá lớn. Hầu hết các vitamin tổng hợp có ở dạng viên nang; viên nén, bột, chất lỏng và công thức tiêm cũng tồn tại. Tại Mỹ, FDA yêu cầu bất kỳ sản phẩm nào được bán trên thị trường dưới dạng "vitamin tổng hợp" phải chứa ít nhất ba loại vitamin và khoáng chất; hơn nữa, liều lượng phải nằm dưới "giới hạn trên có thể chịu được" và vitamin tổng hợp có thể không bao gồm thảo dược, hormone hoặc thuốc. | {
"split": 1,
"title": "Vitamin tổng hợp",
"token_count": 354
} |
22,467 | Title: Vito Cascio Ferro
Vito Cascio Ferro hoặc Vito Cascioferro (; 22 tháng 1 năm 1862 - 20 tháng 9 năm 1943), còn được gọi là Don Vito, là một thành viên nổi bật của Mafia Sicilia. Ông cũng đã hoạt động trong nhiều năm ở Hoa Kỳ. Ferro thường được miêu tả là " ông trùm của các ông trùm", mặc dù vị trí như vậy không tồn tại trong cấu trúc lỏng lẻo của Cosa Nostra ở Sicily.
Cuộc sống của Cascio Ferro đầy huyền thoại và bí ẩn. Ông đã trở thành một huyền thoại ngay cả khi còn sống, và huyền thoại đó chịu trách nhiệm một phần trong việc tạo ra hình ảnh của một quý ông "capomafia" (ông trùm Mafia) hào hiệp. Anh ta được coi là người chịu trách nhiệm cho vụ giết Joseph Petrosino năm 1909, người đứng đầu Đặc nhiệm Ý của Sở cảnh sát thành phố New York. Tuy nhiên, Ferro không bao giờ bị kết án về tội ác này.
Với sự phát triển của Chủ nghĩa phát xít ở Ý, vị trí không thể chạm tới của Ferro đã suy giảm. Ông đã bị bắt và bị kết án tử hình vào năm 1930 và ở tù cho đến khi chết. Có một số nhầm lẫn về năm chính xác của cái chết của ông, nhưng theo "La Stampa", Cascio Ferro đã chết vào ngày 20 tháng 9 năm 1943, trong nhà tù trên đảo Procida. | {
"split": 0,
"title": "Vito Cascio Ferro",
"token_count": 308
} |
22,468 | Title: Vittoria Colonna
Vittoria Colonna (tháng 4 năm 1492 – 25 tháng 2 năm 1547) – nhà thơ Ý thời Phục Hưng, bạn thân, người chiếm trọn trái tim của Michelangelo trong suốt cả chục năm.
Tiểu sử.
Con gái của quan đại thần Fabrizio Colonna. Lên 4 tuổi đã được gả cho Francesco Ferrante d'Ávalos, con trai của hầu tước Pescara. Từ nhỏ được học tiếng Latin, văn học Ý và làm thơ rất sớm. Năm 1509, hai người bước sang tuổi 17 thì làm đám cưới. Họ sống ở đảo Ischia đến năm 1511. Năm 1512 Francesco Ferrante d'Ávalos bị người Pháp bắt làm tù binh và đưa sang Pháp. Trong khoảng thời gian này hai người viết cho nhau những bức thư tha thiết cả bằng thơ cũng như văn xuôi. Năm 1525 Francesco Ferrante d'Ávalos bị thương nặng và mất cuối năm đó ở Milan, Vittoria Colonna trở thành góa phụ.
Năm 1536, nữ nhà thơ 47 tuổi trở thành bạn thân và người tình của danh họa Michelangelo 61 tuổi. Michelangelo tặng Vittoria Colonna nhiều bài thơ tình, nhiều bức tranh và dành cho bà nhiều thời gian. Vittoria Colonna trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho Michelangelo sáng tác những tuyệt tác như Cappella Sistina.
Vittoria Colonna qua đời năm 1547 trước sự chứng kiến của Michelangelo. | {
"split": 0,
"title": "Vittoria Colonna",
"token_count": 299
} |
22,469 | Title: Viva la Vida or Death and All His Friends
Viva la Vida or Death and All His Friends, còn có tên gọi tắt là Viva la Vida, là album phòng thu thứ tư của ban nhạc alternative rock người Anh Coldplay, phát hành vào ngày 12 tháng 6 năm 2008 bởi hãng Parlophone. Album đặt tên theo một cụm từ tiếng Tây Ban Nha mà dịch ra tiếng Việt có nghĩa là "Cuộc sống muôn năm". Ca từ trong album chủ yếu nói về tình yêu, sự sống, cái chết và chiến tranh.
Các buổi ghi âm album đã diễn ra từ tháng 6 năm 2007 đến tháng 4 năm 2008 với các nhà sản xuất Jon Hopkins, Rik Simpson, Markus Dravs và Brian Eno. Đây là album đầu tiên của nhóm có Eno tham gia với vai trò nhà sản xuất. Ban nhạc buộc mình thử nghiệm các phong cách mới, bởi như Eno yêu cầu thì mỗi bài hát trong album phải mang những nét đặc trưng riêng biệt, và bản thu âm “Viva la Vida” là phải nổi bật nhất. Theo dự định thì ban nhạc chỉ muốn làm album này với thời lượng 42 phút, tuy nhiên trên thực tế thì thời lượng của album dài hơn dự định. Ngày phát hành album đã bị trì hoãn nhiều lần. Bìa của album "Viva la Vida or Death and All His Friends" là bức tranh Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân do Eugène Delacroix vẽ.
Viva la Vida đạt thành công vang dội ở cả mặt thương mại lẫn giải thưởng. Năm đĩa đơn được phát hành để thúc đẩy quảng bá album bao gồm "Violet Hill" và "Viva la Vida" (tháng 5 năm 2008), "Lovers in Japan" và "Lost!" (tháng 11 năm 2008) và "Strawberry Swing" (tháng 9 năm 2009). Ca khúc chính "Viva la Vida" trở thành bài hát đầu tiên đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng ở cả Vương quốc Anh lẫn Mỹ. Album cũng đoạt giải Album Rock xuất sắc nhất tại lễ trao giải Grammy năm 2009 và còn được đề cử ở hạng mục Album của năm. Đây đồng thời còn là một trong những album bán chạy nhất năm 2008. Tính đến năm 2011, album đã bán hơn 10 triệu bản. Ngày 25 tháng 11 năm 2008 ban nhạc cho tái phát hành "Viva la Vida" với một ấn bản mới có chứa cả album gốc và EP "Prospekt's March".
Bối cảnh. | {
"split": 0,
"title": "Viva la Vida or Death and All His Friends",
"token_count": 508
} |
22,470 | Title: Viva la Vida or Death and All His Friends
Vào tháng 10 năm 2006, hai tuần sau khi tay bass Guy Berryman đón chào đứa con gái đầu lòng của mình, khiến anh trở thành thành viên thứ ba của nhóm có con; Guy phát biểu trước truyền thông rằng ban nhạc đang trong giai đoạn nghỉ năm năm. Đứa bé mới ra đời, và thực tế thì Coldplay cũng chẳng có lịch trình cho bất kỳ một chuyến lưu diễn hay buổi thu âm nào trong khoảng thời gian này, khiến cho những người hâm mộ tự hỏi liệu album mới của nhóm sẽ có thể phát hành cho đến tận năm 2010 không. Xua tan những hoài nghi đó, Ambrosia Healy, phát ngôn viên của Capitol Records đã gửi một email tới MTV rằng sẽ không có sự gián đoạn áp đặt nào cả. Tuy nhiên, cô cũng nói rõ rằng Coldplay đang thực sự "tận hưởng một khoảng thời gian nghỉ dài xứng đáng", và không có thời gian biểu nào cho việc theo dõi album thứ ba của nhóm "X&Y".
Việc thực hiện album sẽ bắt đầu vào tháng 11 năm 2006 và chỉ bị gián đoạn bởi chuyến lưu diễn Latin America Tour tháng 3 năm 2007.
Thu âm. | {
"split": 1,
"title": "Viva la Vida or Death and All His Friends",
"token_count": 250
} |
22,471 | Title: Viva la Vida or Death and All His Friends
Nhà sản xuất thu âm và nhạc sĩ nhạc điện tử người Anh Brian Eno đã đảm nhận công việc sản xuất album. Sau chuyến lưu diễn ở Mỹ Latin, Coldplay chuyển đến "The Bakery" để bắt tay vào việc thực hiện album. Các bài hát viết trong thời gian của họ ở phòng thu được miêu tả là ca từ "trừu tượng hơn, nhiều hình ảnh chân thực hơn" và âm nhạc thì "ít thẳng thắn, khôn khéo hơn". Ngoài ra Martin muốn chuyển đổi từ chất giọng thương hiệu falsetto của mình sang một chất giọng thấp hơn. Điều này đã thể hiện trong "Yes", nơi dấu nét chính trong nguồn cảm hứng Velvet Underground của bài hát chính là cao độ giọng hát của Chris ở mức thấp nhất từ trước đến nay, điều này do Brian Eno đề xuất để làm âm thanh trong mỗi bài hát của album mang màu sắc khác biệt. Trong một cuộc phỏng vấn với MTV, tay trống Will Champion phát biểu: "Một trong những vấn đề chính mà chúng tôi đang cố tập trung sửa đổi ở bản thu âm này là thay đổi bản sắc giọng hát, bởi Chris có một chất giọng rất dễ nhận biết". Coldplay đã tạo nên một sự chú ý ở những ảnh hưởng Tây Ban Nha sau khi thu âm ở một số nhà thờ và ở những nước nói tiếng Tây Ban Nha như Mexico ở Bắc Mỹ và Tây Ban Nha ở châu Âu, chẳng hạn như Barcelona. Tuy nhiên điểm nhấn ở đây là ảnh hưởng đó không có trong bất kì âm thanh riêng biệt nào nhưng lại tạo nên cảm giác chung ở các bài hát một cách tổng thể. Trên trang web của nhóm, ban nhạc cũng đã miêu tả việc đưa âm hưởng guitar và thiết bị thu âm cơ bản đến các nhà thờ và thử nghiệm với những loại âm thanh đặc biệt. | {
"split": 2,
"title": "Viva la Vida or Death and All His Friends",
"token_count": 381
} |
22,472 | Title: Viva la Vida or Death and All His Friends
Trong suốt quá trình thu âm album, Coldplay đã liên lạc với người hâm mộ thông qua trang web của ban nhạc. Nhóm đã viết nhạc cho "Famous Old Painters" và "Glass of Water" cuối năm 2007 và nhóm đang xem xét cho cả hai bài hát vào album nhưng không được các nhà sản xuất đón nhận, mặc dù vậy sau này nhóm đã thêm hai ca khúc vào danh sách bài hát thay thế của EP Prospekt's March. Album tiếp tục bị trì hoàn lâu hơn, nhưng một bài viết thông báo vào tháng 12 năm 2007 đã đưa ra dấu hiệu rằng giai đoạn thu âm gần như hoàn tất. Bài viết được ký chữ "Prospekt" càng làm tăng thêm tin đồn rằng đây sẽ là tiêu đề của album. Trong khi ban nhạc hoàn thiện thêm hai bài hát ("Lovers in Japan" và "Strawberry Swing"), nhóm phủ nhận rằng tên album được đặt là "Prospekt". Martin còn tiết lộ rằng anh đã đọc rất nhiều cuốn tiểu thuyết của Charles Dickens trong quá trình thu âm, việc này góp phần đưa hình ảnh gây hiệu ứng thị giác mạnh vào những ca khúc như Violet Hill" và "Cemeteries of London". Trong một buổi phỏng vấn cho kênh truyền hình Latin Mỹ Boomerang năm 2010, Chris nói rằng một nguồn cảm hứng lớn cho quá trình thu âm là tiểu thuyết "Những người khốn khổ", chẳng hạn như trên Viva la Vida có ghi chú những chủ đề cách mạng Pháp của cuốn sách trên. | {
"split": 3,
"title": "Viva la Vida or Death and All His Friends",
"token_count": 318
} |
22,473 | Title: Viva la Vida or Death and All His Friends
Khi được hỏi vì sao "Lovers in Japan" có một bài hát bổ sung, tay bass Guy Berryman giải thích rằng ban nhạc không thể dàn xếp lý trí của họ, bởi vì nhóm đã thảo luận rằng họ không hề muốn có thêm một ca khúc vào album, và thay vào đó họ muốn giữ cho album thật ngắn gọn với tổng cộng mười bài hát (và thời lượng dự kiến dưới 42 phút). Champion tiếp tục, "chúng tôi chỉ ưa thích có càng ít tiêu đề và thêm nhiều chất liệu. Về mặt tổng thể album đã có hầu hết điều đó, nhưng nó lại là ngắn nhất. Chúng tôi muốn làm cho album gần như bất khả thi đối với bạn để nghe hết nó chỉ trong một lần." Ngoài ra giọng ca Chris Martin còn tiết lộ ban nhạc đã luôn muốn có một tiêu đề bài hát chỉ hai trong một. Anh nói thêm rằng lý do có hai tiêu đề trong danh sách bài hát của "Viva la Vida or Death and All His Friends" là bởi ca sĩ-người viết nhạc Mỹ Justin Timberlake đã thực hiện điều đó cho album cuối cùng của anh "FutureSex/LoveSounds" (2006).
Nghệ sĩ violin Davide Rossi đã hợp tác với Coldplay để thu âm tiếng đàn acoustic của anh và tiếng violin điện (sau đó có khả năng đạt mức âm nốt thấp như tiếng bass thẳng đứng, do đó tạo nên một dàn nhạc đầy đủ). Tiếng đàn của anh nổi bật trong sáu ca khúc: Viva la Vida (bài hát sử dụng tiếng đàn của anh nhiều nhất), Violet Hill, Life In Technicolor, 42, Yes và Strawberry Swing. Một số ca khúc họ thu âm với Rossi đã không bị cắt bớt cho album nhưng vẫn được phát hành trong EP Propekt March. Những bài hát đó là: Life in Technicolor ii, Rainy Day và Prospekt March. | {
"split": 4,
"title": "Viva la Vida or Death and All His Friends",
"token_count": 408
} |
22,474 | Title: Viva la Vida or Death and All His Friends
Ngày 18 tháng 7 năm 2009, hai bài demo đầu từ phiên thu âm Viva la Vida đã rò rỉ trên mạng internet: ca khúc chưa từng nghe trước đây "Bloodless Revolution" và một phiên bản rất sớm của đĩa đơn trong Viva la Vida "Lovers in Japan". Một ngày sau đó một bài demo khác có tên gọi "St. Stephen" tiếp tục xuất hiện trên mạng. Ngày 20 tháng 7 năm 2009, sáu bài demo khác nữa bị rò rỉ: "The Fall of Man", "The Man Who Swears", "The Man Who Swears II" (thực ra chỉ là phần nửa thứ hai của "The Man Who Swears"). Ba ca khúc bị bỏ ngoài danh sách khác sau đó rò rỉ trên mạng internet: một bản nhạc khí của "Lukas" - bài hát chưa phát hành được gửi tới Natalie Imbruglia, "Solid Ground (Until The Water Floats Over)", một bài hát do ban nhạc viết nhạc và trình diễn trực tiếp năm 2006 và một bản nhạc khí của "Famous Old Painters".
Sáng tác và chủ đề.
"Viva la Vida" là một album nhạc rock, còn được mô tả cụ thể hơn như thể loại alternative rock, art rock, pop rock và indie pop. Nét đặc trưng của album còn ảnh hưởng bởi dream pop, art pop và baroque pop.
Về mặt âm nhạc, "Viva la Vida" trái ngược hẳn so với những album trước của ban nhạc. Ca khúc chủ đề sử dụng một dàn nhạc, trong khi "Lovers in Japan" nổi bật lên tiếng honky-tonk piano. "Lost!" bị ảnh hưởng bởi nhạc thổ dân, trong khi "Strawberry Swing" có sự pha trộn của nhạc Alfropop. Martin đã mô tả "Viva la Vida" giống như một hướng đi mới cho Coldplay: một cơ hội từ ba album trước của ban nhạc mà nhóm gọi là "trilogy" (bộ ba). Anh cho biết album thể hiện ít chất giọng falsetto cũng như anh cho phép cao độ giọng hát của mình thấp xuống để đạt quyền ưu tiên. Một số ca khúc, chẳng hạn như "Violet Hill" có những đoạn riff ghita bóp méo và tiếng blue trầm. | {
"split": 5,
"title": "Viva la Vida or Death and All His Friends",
"token_count": 483
} |
22,475 | Title: Viva la Vida or Death and All His Friends
Album bao gồm một loạt những chủ đề khác nhau như tình yêu, chiến tranh và các cuộc cách mạng. Không giống như những album trước, "Viva la Vida" có một cách tiếp cận tổng thể hơn, nó giải quyết với ít vấn đề cá nhân hơn và nhiều vấn đề nhân đạo hơn. Những ca khúc như một phiên bản nhạc khí của "Life in Technicolor II" (mà khiến nó không vào danh sách bài hát cuối cùng), "Violet Hill" và "Death and All His Friends" nói về chiến tranh và chính trị. Martin nói rõ ca từ của "Violet Hill" là một bài bình luận trên kênh Fox News. Chris Willman ("Entertainment Weekly") cũng coi "Violet Hill" là bài hát biểu tình chống chiến tranh đầu tiên từ ban nhạc. Những ca khúc khác như track đôi "Lovers in Japan/Reign of Love" và "Yes" lại nói về sự bền bỉ và lạc quan.
Coldplay đã sử dụng những trang phục cách mạng Pháp thông qua chuyến lưu diễn "Viva la Vida Tour" và trong các video sản xuất cho đĩa đơn của album. Chris Martin nói trong một buổi phỏng vấn cho "The Sun" "Một số người nói album này rất dũng cảm - tôi lại chỉ thấy dường như chúng tôi thật may mắn". Martin còn cho biết một nguồn cảm hứng lớn cho album là cuốn sách "Những người khốn khổ" của Victor Hugo.
Những tác phẩm của The Beatles rõ ràng là một nguồn cảm hứng lớn xuyên suốt album. Ví dụ như ca khúc "Violet Hill" có liên quan đến album của Beatles "Abbey Road", điều này có thể thấy trong tiêu đề bài hát có mượn nhịp điệu từ The Beatles. Ca khúc đặt tên theo con đường tiếp giáp với "Đường Abbey" ở London.
Thiết kế đồ họa. | {
"split": 6,
"title": "Viva la Vida or Death and All His Friends",
"token_count": 396
} |
22,476 | Title: Viva la Vida or Death and All His Friends
Những bức ảnh minh họa cho "Viva la Vida or Death and All His Friends" do Coldplay và Tappin Gofton thiết kế; Tappin từng là người thiết kế bìa "X&Y" ba năm trước. Phong cách thiết kế cho album đã mất nhiều tháng trời mới hoàn thành; đầu tiên nó phát triển từ một tập hợp những bản phác thảo quy mô lớn và những bức tranh in đầy hàm ý. Những ca từ và tiêu đề bài hát được táo bạo vẽ lên các bản đồ, cuốn sách, bản sao của những bức tranh cũ, những tờ báo và các loại vật dụng đã qua sử dụng. Công việc cuối cùng là chụp hình và một vài kiểu in bổ sung do máy tính thêm vào sau đó. | {
"split": 7,
"title": "Viva la Vida or Death and All His Friends",
"token_count": 166
} |
22,477 | Title: Viva la Vida or Death and All His Friends
Hầu hết các ca khúc từ album và EP "Prospekt's March" đều có một hoặc hai hình ảnh đồ họa. Trên tập sách nhỏ của album có tới chín bức tranh do ban nhạc thực hiện. Đầu tiên là bản đồ của Brazil màu xanh bao gồm một phần của ca từ trong "Glass of Water" sơn màu trắng. Tuy nhiên hình ảnh này sau được làm lại và sử dụng làm ảnh minh họa cho bìa đĩa đơn "Lost!". Bức hình thứ hai trong tập sách minh hoạ cho ca khúc "42". Bức hình bao gồm một phần trong quá trình sáng tác bài hát viết trên nền màu đỏ, cùng với một sọc màu đen bao phủ trung tâm. Bức hình thiết kế cho "Cemeteries of London" gồm có một hỉnh ảnh minh họa của London, tiêu đề bài hát và một nền màu tím hỗn độn. Một phần của ca từ được sử dụng trên đỉnh bức hình. Bức hình thiết kế cho "Reign of Love" gồm có các ca từ của bài hát vẽ trên một nền xanh lá cây. Ở giữa tập sách, hầu hết ca từ của album hiển thị chính giữa một vật thể không thể nhìn ra. Bức hình minh họa cho "Yes" bao gồm một trái tim bị xé và một dòng lời từ bài hát, "Chúa không dẫn tôi đến sự cám dỗ" ("Lord lead me not into temptation"). Bức tranh kế tiếp bức hình của bài hát có chứa ca từ của "Viva la Vida" sơn màu đen in trên nền xanh da trời, những ca từ cho ca khúc cũng xuất hiện trên bức hình. Trang cuối trong tập sách rất giản dị: một chữ số La Mã của số 7 sơn màu xanh lá cây và đỏ in trên nền vàng. Ban nhạc đã trình chiếu một số bức hình trên màn hình trong chuyến lưu diễn toàn cầu "Viva la Vida Tour" hoặc sử dụng trên những quả khí cầu lớn bên trong các địa điểm gặp gỡ. | {
"split": 8,
"title": "Viva la Vida or Death and All His Friends",
"token_count": 426
} |
22,478 | Title: Viva la Vida or Death and All His Friends
Có ba trang bìa cho album. Bìa trước dành cho ấn bản chuẩn là một bức tranh của Eugène Delacroix, có tên "Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân", được thay đổi một chút cho bìa bằng cách sử dụng một chiếc bút lông sơn trắng để vẽ "VIVA LA VIDA". Bìa in cho EP "Prospekt's March" cũng sử dụng dòng chữ tương tự một lần nữa nhưng sơn màu vàng và to hơn trên một nền đen trơn. Bìa cho EP Prospekt's March bao gồm một bức tranh khác của Eugène Delacroix ("Trận Poitiers"), và có dòng "Prospekt's March" vẽ trên bức tranh tương tự như cách "Viva la Vida" vẽ trên bức "Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân" cho bìa album chuẩn. Bìa sử dụng cho ấn bản "Asian Tour" có chữ "VIVA" sơn sọc đỏ đen đối lập với nền trắng. Bức tranh tương tự này từng được sử dụng làm ảnh đại diện cho trang web chính thức của Coldplay trong một thời gian, nó do ban nhạc tạo ra và do tay trống Will Champion sơn trên tường của phòng thu gọi là "The Bakery".
Quảng bá và phát hành.
Trong một cuộc phỏng vấn của tạp chí "Rolling Stone", giọng ca Chris Martin đã công bố ngày phát hành album và tiêu đề của nó, "Viva la Vida", một cụm từ Tây Ban Nha mà dịch sang tiếng Việt nghĩa là "một cuộc sống dài lâu". Nó lấy tên từ một bức tranh của Frida Kahlo, một nghệ sĩ người Mexico nổi tiếng vào thế kỷ 20. Bìa album là bức tranh năm 1830 của Eugène Delacroix có tên "Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân". Ngày 10 tháng 4 năm 2008, một mục tạp chí mới xuất hiện trên trang web của ban nhạc, công bố danh sách bài hát và ngày phát hành cũng như gợi ý về những ca khúc mới sẽ phát hành trước khi ra mắt album. Ban nhạc xác nhận "Violet Hill" là đĩa đơn đầu tiên từ "Viva la Vida" với ngày phát hành 5 tháng 5. Tháng 5 năm 2008 Coldplay đã chiếu một đoạn quảng cáo trên iTunes của Apple với ca khúc "Viva la Vida". | {
"split": 9,
"title": "Viva la Vida or Death and All His Friends",
"token_count": 496
} |
22,479 | Title: Viva la Vida or Death and All His Friends
Trang web chính thức của ban nhạc được cập nhật vào cuối tháng tư để tiết lộ hình minh họa chính thức của "Viva la Vida", cũng nhu bản miễn phí của đĩa đơn "Violet Hill", trở nên có sẵn để tải về trong một tuần từ 29 tháng 4 năm 2008.
Danh sách bài hát.
Phiên bản tháng ba của Prospekt.
Phiên bản tháng ba bao của"Viva la Vida: Prospekt" gồm "Prospekt's March" EP.
Tour edition DVD.
Ở một vài nước châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc... một phiên bản DVD đặc biệt đã được phát hành gồm 5 đoạn phim chính thức từ "Viva la Vida" và từ phim"Life in Technicolor II", từ "Prospekt's March" EP.
Bảng xếp hạng và chứng nhận.
Chứng nhận và doanh số.
!scope="row"|Chile (IFPI Chile)
!scope="row"|Turkey (Mü-Yap) | {
"split": 10,
"title": "Viva la Vida or Death and All His Friends",
"token_count": 211
} |
22,480 | Title: Vivian Burkhardt
Vivian Charlott Burkhardt (sinh ngày 24 tháng 1 năm 1986) là một hoa hậu. Cô đại diện cho Grenada tại Hoa hậu Thế giới 2007 tại Tam Á, Trung Quốc, nơi cô được chọn là một trong những người vào bán kết. Tốt nghiệp trường Cao đẳng Cộng đồng TA Marryshow với Bằng liên kết về Khoa học Tự nhiên, cô đã hoàn thành việc học của mình như một sinh viên dự bị tại Đại học St.George's Cô đã nhận bằng cử nhân Khoa học y tế mức độ cơ bản và hoàn thành bằng thạc sĩ tại Đại học St. George's
Vivian, một nửa là người Grenada và một nửa người Đức, sinh ra ở Đức và chuyển đến đảo Grenada khi cô 15 tuổi. Cô thông thạo tiếng Đức và tiếng Anh và biết một số ít tiếng Pháp. Một trong những lợi ích chính của cô là năng lượng thay thế và môi trường.
Hoa hậu Thế giới Grenada 2007.
Grenada đã giành chiến thắng Hoa hậu Thế giới 1970 với Jennifer Hosten. Vào ngày 2 tháng 4 năm 2007 tại Saint George's, Grenada, trong một cuộc thi do Hosten sản xuất, Vivian Charlott Burkhardt đã đăng quang Hoa hậu Grenada World 2007:
Thông báo được đưa ra trước khán giả tại G.B.S.S Hon, rằng Brenda Hood, Bộ trưởng Bộ Du lịch và Nghệ thuật biểu diễn, sẽ thực hiện lễ trao vương miện chính thức.
Vivian cũng giành được hai giải thưởng đặc biệt: Miss Fitness và People Choice.
Sự kiện Hoa hậu Thế giới 2007.
Grenada lần cuối tham gia Hoa hậu Thế giới 1996 khi Aria Johnson thi đấu ở Ấn Độ và Seychelles.
Vivian đại diện Grenada tại cuộc thi Hoa hậu Thế giới tại Trung Quốc vào tháng 11 năm 2007, cùng với 105 thí sinh khác từ khắp nơi trên thế giới. Cô nằm trong số 16 thí sinh lọt vào bán kết. Trước đó, cô đã được xướng tên trong số 21 thí sinh lọt vào vòng chung kết cho một sự kiện của Miss World Beach Beauty.
Cuộc sống cá nhân. | {
"split": 0,
"title": "Vivian Burkhardt",
"token_count": 446
} |
22,481 | Title: Vivian Burkhardt
Vivian Burkhardt, đã từng có thời gian hẹn hò với Lewis Hamilton, một tay đua F1 của McLaren-Mercedes. Cặp đôi đã dành thời gian tại Cannes nơi Vivian xuất hiện trên trang bìa của các tạp chí nơi cô biểu trên thảm đỏ. Sau khoảng thời gian này, cô trở lại vùng biển Caribbean vì một số cam kết gia đình. | {
"split": 1,
"title": "Vivian Burkhardt",
"token_count": 84
} |
22,482 | Title: Viviana Guzmán
Viviana Guzmán (sinh ngày 20 tháng 8 năm 1964) là một người chơi sáo, nhà soạn nhạc, vũ công và nhà thơ chuyên nghiệp người Chile, là người biểu diễn hơn 80 buổi hòa nhạc một năm và đã biểu diễn ở 122 quốc gia. Cô đã được tờ The New York Times miêu tả là "một nghệ sĩ giàu trí tưởng tượng". Nó cũng đã nói về bà rằng "Guzmán có lẽ là người thổi sáo đầu tiên sau người thầy Jean-Pierre Rampal của bà có thể xây dựng một sự nghiệp diễn đơn duy trì lâu đến vậy."
Tiểu sử và học vấn.
Sinh ra ở Concepcion, Chile, đã đến Hoa Kỳ khi là một đứa trẻ để được điều trị y tế bệnh trật khớp xương hông, và hiện đang sống gần San Francisco, California. Năm 15 tuổi, bà chơi nhạc với tư cách là một nghệ sĩ độc tấu với dàn nhạc, học dưới sự hướng dẫn của Jean-Pierre Rampal và được giới thiệu trên chương trình đặc biệt về âm nhạc John Denver được truyền hình trên toàn quốc của NBC. Guzmán cũng học cùng với Albert Tipton, James Galway, và Julius Baker.
Guzmán theo học tại trường Đại học Rice theo diện học bổng nghiên cứu sinh, tập trung vào y học trước tiên; sau đó, cô đã chọn âm nhạc như con đường sự nghiệp của mình và vào trường Juilliard qua đường học bổng. Guzmán đã ra mắt buổi biểu diễn của mình ở New York tại sảnh hòa nhạc Carnegie Hall.
Là người chiến thắng trong cuộc thi "Young Artists Auditions of Artists International" năm 1991, cô đã giành được nhiều Giải Nhất khác trong các cuộc thi bao gồm "New York Flute Club Competition"; "Five Towns Music and Arts Foundation" và "Performers of Connecticut Young Artists Competition". Cô cũng là người nhận học bổng của Trung tâm Lincoln; Viện Văn hóa Tây Ban Nha; Giải Shepherd; Giải thưởng Immanuel Olshan; Giải Hirsch; Giải thưởng Quỹ Phillips; và giải thưởng Ruth Burr. | {
"split": 0,
"title": "Viviana Guzmán",
"token_count": 443
} |
22,483 | Title: Vlad II Dracul
Vlad II , còn được gọi là Vlad Dracul hay Vlad the Dragon (trước năm 1395 đến tháng 11 năm 1447), là hoàng tử của Wallachia từ 1436 đến 1442, và từ 1443 đến 1447. Sinh ra là con trai của Mircea I của Wallachia, ông đã trải qua tuổi trẻ của mình tại tòa án của Sigismund của Luxembourg, người đã làm cho ông một thành viên của Order of the Dragon năm 1431 (do đó là cái gọi tắt của ông).Sigismund cũng công nhận anh ta là thủ phạm hợp pháp của Wallachia, cho phép anh ta định cư ở Transylvania gần đó. Vlad không thể khẳng định yêu cầu của mình trong suốt cuộc đời của anh trai, Alexander I Aldea, người thừa nhận quyền bá chủ của Murad II.
Sau khi Alexander Aldea qua đời năm 1436, Vlad đã chiếm Wallachia với sự hỗ trợ của Hungary. Sau cái chết của Sigismund của Luxembourg vào năm 1437, vị trí của Hungary bị suy yếu, khiến ông phải tỏ lòng tôn kính Murad II, bao gồm cả việc tham gia cuộc xâm lược của Murad II vào Transylvania vào mùa hè năm 1438. John Hunyadi, Voivod of Transylvania, đã đến Wallachia để thuyết phục Vlad tham gia cuộc thập tự chinh chống lại người Ottoman vào năm 1441. Sau khi Hunyadi định hướng một đội quân Ottoman ở Transylvania, vị vua đã yêu cầu Vlad đến Edirne, nơi ông bị bắt vào năm 1442. Hunyadi xâm chiếm Wallachia và đưa anh em họ Vlad,Basarab II, voivode. | {
"split": 0,
"title": "Vlad II Dracul",
"token_count": 351
} |
22,484 | Title: Vlad II Dracul
Vlad đã được thả ra trước cuối năm, nhưng ông đã để lại hai con trai của mình làm con tin trong Đế chế Ottoman. Ông được phục hồi trong Wallachia với sự hỗ trợ của Ottoman vào năm 1443. Ông vẫn trung lập trong Chiến dịch dài của Hunyadi chống đế chế Ottoman giữa tháng 1443 và tháng 1 năm 1444, nhưng ông đã gửi 4,000 k hors binh để chiến đấu chống lại người Ottoman trong cuộc Thập tự chinh Varna. Với sự hỗ trợ của đội tàu Burgundian, ông đã chiếm được pháo đài Ottoman quan trọng tại Giurgiu năm 1445. Ông lập hòa bình với Đế chế Ottoman vào năm 1446 hoặc 1447, góp phần làm xấu đi mối quan hệ của ông với Hunyadi. Hunyadi đã xâm chiếm Wallachia, buộc Vlad phải chạy trốn khỏi Târgovişte vào cuối tháng 11, nơi ông bị giết tại một ngôi làng gần đó.
Cuộc sống sơ khai.
Cuộc sống sơ khai của Vlad chưa được ghi lại. Ông được sinh ra trước năm 1395,và là một trong số rất nhiều người con bất hợp pháp của Mircea I Basarab. Các nhà viết tiểu sử hiện đại của Vlad đồng ý rằng ông đã được gửi đến để làm con tin choZygmundu Luxembourg, Vua của Hungary, vào năm 1395 hoặc 1396. Sigismund nói rằng Vlad đã được giáo dục tại tòa án của ông, cho thấy ông đã dành của mình thanh niên ở Buda, Nuremberg và các thành phố lớn khác của Hungary và Đế quốc La Mã
Mircea qua đời vào năm 1418, và con trai chính thức duy nhất của ông (và là đồng chủ tịch), Michael, đã thành công ông. Hai năm sau, Michael chết vì chiến đấu với anh họ của mình, Dan II (con trai của Mircea I, anh trai Dan I). Trong thập kỷ tiếp theo, Dan II và em ruột của Vlad, Radu II Praznaglava, đã chiến đấu chống lại nhau cho Wallachia. | {
"split": 1,
"title": "Vlad II Dracul",
"token_count": 430
} |
22,485 | Title: Vlad II Dracul
Vlad rời Buda cho Ba Lan mà không có giấy phép của Sigismund vào đầu năm 1423, nhưng đã bị bắt trước khi đến biên giới. Trước đó, Sigismund đã công nhận Dan II là nhà cai trị hợp pháp của Wallachia. Nhà sử học Byzantine, Doukas, ghi nhận rằng Vlad là "một sĩ quan trong quân đội" của Hoàng đế Byzantine, John VIII Palaiologos, và ông "đã tiếp cận" cung điện hoàng gia ở Constantinople. Nhà sử học Radu Florescu nói rằng Zygmunt đã chỉ định Vlad tiếp nhận John VIII (người đã đến Italy để tìm kiếm sự trợ giúp chống lại người Ottoman) tại Venice năm 1423, và Vlad cùng hoàng đế trở lại Constantinople. Sau khi nhận ra rằng John VIII không thể giúp anh ta chiếm Wallachia, Vlad trở lại Hungary vào năm 1429.
Sigismund đã làm cho Vlad trở thành một thành viên hạng nhất của Order of the Dragon (một trật tự lập dị được thiết lập bởi Sigismund) tại Nuremberg vào ngày 8 tháng 2 năm 1431.Các thành viên hạng nhất khác bao gồm Alfonso V của Aragon và Vytautas, Grand Duke of Lithuania. Huy hiệu hình rồng của trật tự đã làm nổi bật tiếng Anh của ông, "Dracul" ("con rồng"), mà con trai ông ta được biết đến như là"Dracula" ("con trai của Dracul"). Vlad đã tuyên thệ với Sigismund, người tuyên bố ông là hoàng tử hợp pháp của Wallachia. Vlad phải hứa rằng ông sẽ bảo vệ Giáo hội Công giáo La Mã.Tuy nhiên, Sigismund đã không giúp anh ta chiếm Wallachia. Mùa hè, anh trai của Vlad, Alexander I Aldea, đã xâm chiếm Wallachia với sự ủng hộ của Moldavia và cướp phá Dan II. | {
"split": 2,
"title": "Vlad II Dracul",
"token_count": 402
} |
22,486 | Title: Vlad II Dracul
Vlad đã không từ bỏ yêu cầu của mình cho Wallachia và định cư tại Transylvania. bức tranh tường Neo-Renaissance trong một ngôi nhà ba tầng ở quảng trường chính của Sighişoara (được khám phá vào năm kỷ niệm 500 năm con trai của Vlad Dracul, Dracula) có thể mô tả Vlad Dracul sau một bức tranh nguyên gốc, theo để Radu Florescu. bức tranh tường mô tả một người đàn ông oán trách với đôi mắt hình oval và mía dài mặc một chiếc khăn quấn trắng
Alexander Aldea đã đến Adrianople để tỏ lòng tôn kính Sultan Ottoman, Murad II, vào năm 1432. Vlad muốn xâm chiếm Wallachia với sự ủng hộ của các tên trùm Wallachia (hoặc những quý ông) đã trốn sang Transylvania, nhưng quan chức chính của Alexander Aldea, Albu, ngăn chặn cuộc xâm lược. Zygmunthan cho phép Vlad mua vũ khí và chỉ tập trung cho một đội quân bị lưu đày chỉ trong năm 1434.Năm 1435, Alexander Aldea ngã bệnh nặng và không bao giờ hồi phục.Lợi dụng bệnh của anh trai, Vlad đã đột nhập vào Wallachia, nhưng Alexander Aldea và các đồng minh Ottoman buộc ông phải rút lui.
Trị vì.
Nguyên tắc đầu tiên.
Các vùng đất trị vì khoảng 1390 bởi cha của Vlad Dracul, Mircea I Basarab
Alexander Aldea qua đời vào mùa thu năm 1436, cho phép Vlad Dracul nắm giữ Wallachia với sự hỗ trợ của Hungary. Ông đã không loại bỏ các quan chức của người tiền nhiệm với ngoại trừ Albu, người đã trở thành kẻ thù của ông. Vlad không xác nhận hiệp ước mà Alexander Aldea đã kết luận với Ottoman, gây ra một cuộc tấn công Ottoman vào Wallachia vào tháng Mười Một. | {
"split": 3,
"title": "Vlad II Dracul",
"token_count": 396
} |
22,487 | Title: Vlad II Dracul
Người bảo trợ của Vlad, Sigismund của Luxembourg, qua đời ngày 9 tháng 12 năm 1437. Cái chết của Zygmunt và sự nổi dậy của những nông dân Transylvan đã làm suy yếu Hungary, buộc Vlad phải tìm cách hòa giải với đế chế Ottoman. Ông đi đến Edirne và đã tuyên thệ nhậm chức với Murad II. Ông cũng hứa trả một khoản cống hiến hàng năm cho quốc vương và để hỗ trợ các chiến dịch quân sự của Ottoman trong lệnh của nhà vua. Không lâu sau đó, Murad II quyết định xâm chiếm Hungary và tập trung quân đội của mình tại Vidin.
Albert Habsburg (người là con rể của Zygmunz và người kế vị của Luxembourg) đã viết thư cho Vlad, ra lệnh cho anh ta bảo vệ Transylvania. Bỏ qua lệnh của nhà vua, Vlad gia nhập Murad II, người đã đến Wallachia vào đầu quân đội của mình vào mùa hạ năm 1438, và phục vụ ông như là hướng dẫn của ông. Quân Ottoman và Wallachia đột nhập vào Hungary tại Orşova. Họ định hướng quân đội của một Vlach "kenez" địa phương, Cândea, gần Haţeg. Họ đi dọc sông Mureş, chiếm Câlnic và Sebeş. Tại Sebeş, Vlad đã thuyết phục các nhà lãnh đạo của thành phố đưa ra mà không có sự phản đối, hứa hẹn sẽ bảo vệ tài sản của họ nếu họ đi cùng ông đến Wallachia. Ottoman và Wallachians đã bao vây Sibiu, nhưng cuộc bao vây kéo dài chỉ trong 8 ngày. Họ đã phá hủy vùng ngoại ô của Braşov, trước khi họ rời Hungary bị cướp bóc và chiếm hơn 30.000 tù nhân.
Sau khi quân đội Ottoman rời Wallachia, Vlad đã mời Albert Habsburg đặt những người vưtư đã bị bắt tại Sebeş miễn phí, nhưng nhà vua (người coi họ là kẻ phản bội) đã từ chối đề nghị của ông ta. Những nỗ lực của Vlad để duy trì sự cân bằng giữa Hungary và Ottoman đã làm cả nhà vua và ông sultan nghi ngờ về ý định thực sự của ông. Albert đã cho phép một người giả vờ lên ngôi của người Wallachia, Basarab (người con của Dan II) định cư tại Hungary. Người Ottoman tăng cường pháo đài của Giurgiu và phái thêm quân đội tới thành phố. | {
"split": 4,
"title": "Vlad II Dracul",
"token_count": 511
} |
22,488 | Title: Vlad II Dracul
Albert của Habsburg qua đời ngày 27 tháng 10 năm 1439. Phần lớn các nhà quý tộc Hungary đã bầu Władysław III của Ba Lan làm vua vào đầu năm 1440. Władysław đã làm cho chỉ huy quân đội tài năng, John Hunyadi, vương quốc Transylvania vào tháng 2 năm 1441. Hunyadi người đã quyết định khôi phục lại ảnh hưởng của Hungary tại Wallachia đã ra lệnh cho những người vương của Braşov đúc tiền xu cho Vlad khoảng 15 tháng Mười. Hai hoặc ba tuần sau đó, Hunyadi đến Târgovişte để gặp Vlad, yêu cầu ông tham gia một cuộc thập tự chinh chống đế chế Ottoman.
Sau khi Hunyadi đánh bại người Ottoman ở Transylvania vào tháng 3 năm 1442, thống đốc Ottoman của Bulgaria cáo buộc Vlad là kẻ phản bội, theo nhà sử học Ottoman thời hiện đại, Neşri. Murad triệu hồi Vlad đến Edirne để chứng tỏ sự trung thành của mình. Trước khi rời khỏi, Vlad đã làm cho người con trai cả của mình, Mircea, người cai trị Wallachia. Ngay sau khi ông đến Edirne, ông bị bắt giữ theo lệnh của nhà vua. Ông bị giam ở Gallipoli.
Sự bắt giam và quy luật thứ hai.
Con trai của Vlad Dracul, Vlad the Impaler (hay Dracula)
Murad đã gửi Hadım Şehabeddin, Beylerbey (hoặc thống đốc) của Rumelia, sang Wallachia vào tháng 8 năm 1442. Hunyadi đã tiêu diệt quân đội Ottoman ở dãy núi Carpathian vào tháng Chín, và đưa anh em họ của Vlad, Basarab, voivode của Wallachia. Trước cuối năm, Murad II đã phát hành Vlad. Vlad phải cam kết rằng ông sẽ không ủng hộ những kẻ thù của Đế quốc Ottoman và ông sẽ trả một khoản cống hiến hàng năm và gửi 500 con trai Wallachian để làm bộ trưởng bộ quân đội của quốc vương. Ông cũng bị buộc phải để lại hai con trai của mình, Vlad và Radu, làm con tin trong Đế chế Ottoman. | {
"split": 5,
"title": "Vlad II Dracul",
"token_count": 454
} |
22,489 | Title: Vlad II Dracul
Hoàn cảnh của việc quay trở về Wallachia của Vlad không rõ. Trong chiến dịch "Long" của Hunyadi chống đế chế Ottoman, kéo dài từ tháng 1443 đến tháng 1444, Vlad vẫn trung lập, đặc biệt là vì ông Sultan đã hứa sẽ thả bản án này vào năm 1443, của hai con trai ông.Trong các cuộc đàm phán hoà bình tiếp theo giữa Hungary và Đế chế Ottoman, Murad II đã sẵn sàng thả Vlad ra khỏi nghĩa vụ của mình để thăm viếng riêng tư của mình, nhưng vị giáo hoàng, Julian Cesarini, ngăn cản việc phê chuẩn hòa ước. Thay vào đó, ông kêu gọi Władysław tiếp tục cuộc thập tự chinh chống đế chế Ottoman. Theo nhà sử học Ba Lan, Jan Długosz, Vlad đã cố gắng ngăn cản Władysław III tấn công người Ottoman, nhắc nhở ông rằng Murad II đã đi săn với nhiều lực lượng hơn Władysław. Tuy nhiên, ông đã gửi 4,000 k hors binh dưới sự chỉ huy của con trai mình, Mircea, để chiến đấu chống lại người Ottoman.
Sau trận chiến, Hunyadi muốn trở lại Hungary qua Wallachia, nhưng ông bị bắt bởi quân lính Wallachia ở sông Danube. Vlad chỉ thả ông ta sau khi Lawrence Héderváry, Palatine của Hungary, đe dọa ông ta bằng một cuộc chiến tranh. Theo sử gia John Jefferson, Vlad đã giữ Hunyadi trong tình trạng bị giam giữ bởi vì ông muốn đưa ông ta đến với ông vua. Camil Mureşanu viết rằng Hunyadi chỉ bị giam cầm vì những người lính bắt ông không nhận ra ông. Nhà sử học Kurt W. Teptow nói, Vlad đã giữ Hunyadi chịu trách nhiệm về thảm hoạ và hầu như giết ông ta. Sau khi giải phóng Hunyadi, Vlad trao tặng những món quà quý giá và đi cùng anh đến tận biên giới Hungary. | {
"split": 6,
"title": "Vlad II Dracul",
"token_count": 420
} |
22,490 | Title: Vlad II Dracul
Một đội những người thuộc nhóm Burgundia tấn công hạm đội Ottoman trên Biển Đen vào mùa xuân năm 1445. Chỉ huy đội tàu, Walerand of Wavrin, phái các phái viên sang Hungary để bắt đầu đàm phán về một cuộc vận động chung chống lại đế chế Ottoman. Theo yêu cầu của Hunyadi, một trong những phái viên của Wavrin, Pedro Vasque de Saavedra, đã viếng thăm Vlad và thuyết phục ông gặp Wavrin. Vào tháng 7, Vlad đã tới Isaccea nơi anh ta liên minh với Wavrin. Vlad đã tập hợp quân đội từ 4.000 đến 6.000 quân và đặt nó dưới sự chỉ huy của con trai, Mircea.
Quân Burgundian và Wallachia đã vây hãm Silistra vào giữa tháng 9, nhưng họ không thể bắt được nó. Tuy nhiên, trước đó, họ đã chinh phục và phá hủy pháo đài nhỏ tại Tutrakan. Vlad thuyết phục Wavrin tấn công Giurgiu, nói rằng bất cứ khi nào Ottoman "muốn chửi mắng Wallachia hoặc Transylvania, họ và ngựa của họ có thể vượt qua" sông Danube gần hòn đảo được gia cố ở Giurgiu, nối với ngân hàng Wallachia bằng cây cầu. Trong cuộc bao vây của Giurgu, hai vòng sắt của một cuộc bắn phá lớn đột ngột nổ ra, giết chết hai người lính, bởi vì Vlad, người đã được chỉ huy của lửa, không cho phép các bombard để làm mát xuống giữa blows. Quân đội Ottoman của pháo đài đầu hàng dưới điều kiện cho phép họ được tự do để lại cho Đế chế Ottoman. Tuy nhiên, sau khi họ rời pháo đài, 2.000 lính Wallachia đã tấn công và tàn sát họ theo lệnh của Vlad, vì ông ta coi chỉ huy quân đội Ottoman chịu trách nhiệm về việc ông bị bắt làm tù năm 1442. | {
"split": 7,
"title": "Vlad II Dracul",
"token_count": 416
} |
22,491 | Title: Vlad II Dracul
Trước đó, quân đội Ottoman ở Ruse cũng đầu hàng. Vlad đã tị nạn cho hơn 11.000 người Bungari đã nổi dậy chống lại người Ottoman, giúp họ băng qua sông Danube vào Wallachia. Các đội tuần tra Burgundia và người Wallach đã tiếp cận Nicopolis, nơi mà một đội quân Hungary dưới sự chỉ huy của John Hunyadi đã gia nhập họ vào ngày 14 tháng 9. Tuy nhiên, một đợt sương giá sớm buộc các đội quân nổi dậy phải từ bỏ cuộc vận động vào tháng 10, vì họ sợ rằng sông Danube sẽ bị đóng băng.
Mối quan hệ giữa Wallachia và Hungary sớm xấu đi. Trong một lá thư viết vào cuối năm 1445 cho thị trấn Braşov, Vlad đã phàn nàn rằng các thương gia Wallachia đã bị bắt ở Transylvania, mặc dù ông đã để lại cho "những đứa trẻ nhỏ bị tàn sát vì hòa bình Kitô giáo để [ông] và [quốc gia của ông ta] [có thể] là chủ đề "của vua Hungary. Những lời của ông cho thấy ông tin rằng hai đứa con trai của ông đã bị giết chết trong Đế chế Ottoman, nhưng ông vua không làm tổn hại đến các chàng trai. Năm 1446 hay 1447, Vlad làm hòa với người Ottoman, thậm chí đồng ý trả lại người t ref nạn Bungari cho Đế quốc Ottoman. Ông đã can thiệp vào cuộc đấu tranh cho ngôi nhà Moldavia để ủng hộ Roman II của Moldavia vào tháng 7 năm 1447. Người Ba Lan cũng ủng hộ La Mã, nhưng đối thủ La Mã, Peter II, là con của Protegé của Hunyadi. | {
"split": 8,
"title": "Vlad II Dracul",
"token_count": 366
} |
22,492 | Title: Vlad II Dracul
Vào ngày 20 tháng 7 năm 1447, John Hunyadi đã ra lệnh cho những người lóng của Braşov để trú ẩn cho một người giả vờ lên ngôi vua Wallachia, Vladislav, người là anh em họ của Vlad. Hunyadi đột ngột đột nhập vào Wallachia vào cuối tháng mười, mang theo ông Vladislav (còn gọi là Dan). Vlad bỏ trốn khỏi Târgovişte, nhưng ông đã bị bắt và bị giết ở những đầm lầy ở Bălteni. Trong một lá thư viết ngày 4 tháng 12 năm 1447, Hunyadi đã tự tạo cho mình "voivode của vùng Transalpine" (Wallachia) và gọi Târgovişte là pháo đài của ông, ngụ ý rằng ông đã kiểm soát Wallachia vào thời gian đó. Hunyadi đặt Vladislav lên ngai vàng của Wallachia.
Nơi chôn cất của Vlad Dracul chưa được xác định. Cazacu nói, ông có thể được chôn cất trong Tu Viện Snagov. Florescu viết, Vlad Dracul được chôn trong một nhà nguyện trong Tu viện Dealu gần Târgovişte.
Gia đình.
Xem sơ đồ Tổ tiên của Vlad II Dracul của Wallachia tại link:
Theo một lý thuyết học thuật được chấp nhận rộng rãi, vợ của Vlad là "Cneajna", con gái của Alexander I của Moldavia. Bà được gọi là Eupraxia, theo Florescu. Nhà sử học Matei Cazacu viết rằng bà là vợ thứ hai. Anh ta không xác định người vợ đầu của Vlad. Con cháu của Vlad được biết đến với cái tên Drăculeşti, bởi vì họ thừa nhận sự che chở của Vlad như là người kế nhiệm họ (Dracula). Cuộc xung đột giữa Drăculeşti và Dăneşti (hậu duệ của Dan I của Wallachia), và những khe nứt giữa các thành viên của tuyến Drăculeşti đã góp phần vào sự bất ổn về chính trị trong Wallachia thế kỷ 15. | {
"split": 9,
"title": "Vlad II Dracul",
"token_count": 448
} |
22,493 | Title: Vlad II Dracul
Các con trai cả của Vlad, Mircea và Vlad Dracula, lần đầu tiên được đề cập trong điều lệ của Vlad vào ngày 20 tháng 1 năm 1437. Mircea sinh ra vào khoảng năm 1428, Vlad giữa 1429 và 1431. Anh trai của họ (con thứ ba của Vlad Dracul) Radu the Fair, sinh ra trước ngày 2 tháng 8 năm 1439. Florescu viết rằng con gái của Vlad Dracul, Alexandra, đã kết hôn với cậu bé Vignilă Florescu của Wallachian. Vlad Dracul cũng có cha con bất hợp pháp. Một nữ bá tước xứ Wallachia, Călţuna, đã sinh ra Vlad the Monk. Hầu như không có thông tin nào được biết về cuộc đời của một đứa con ngoài giá thú khác, Mircea. | {
"split": 10,
"title": "Vlad II Dracul",
"token_count": 172
} |
22,494 | Title: Vlad Mihalcea
Vlad Dumitru Mihalcea (sinh ngày 28 tháng 10 năm 1998 ở Brașov) là một cầu thủ bóng đá người România thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công cho Academica Clinceni theo dạng cho mượn từ Steaua București.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Steaua București.
Sau khi thi đấu cho đội trẻ FC Brașov, Mihalcea ký bản hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên vào tháng 6 năm 2015, khi anh đặt bút ký bản hợp đồng 6 năm với nhà vô địch România Steaua București. Anh có khởi đầu tốt đầu mùa giải với tư cách cầu thủ trẻ, khi có 2 pha kiến tạo và 1 bàn thắng trong 5 trận đấu giao hữu.
Thống kê sự nghiệp.
Câu lạc bộ.
"Thống kê chính xác đến trận đấu diễn ra ngày " | {
"split": 0,
"title": "Vlad Mihalcea",
"token_count": 167
} |
22,495 | Title: Vladimir Ivanovich Vernadsky
Vladimir Ivanovich Vernadsky (; ; 12 tháng 3 năm 1863 - 6 tháng 1 năm 1945) là một nhà khoáng vật học và địa hóa học người Nga và Liên Xô. Ông được coi là một trong những người sáng lập địa hóa học, sinh địa hóa học, và định tuổi bằng đồng vị phóng xạ. Ông cũng được biết đến như là người sáng lập Viện hàn lâm Khoa học Ucraina (nay là Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Ukraina). Ông được chú ý nhất trong cuốn sách năm 1926 "The Biosphere" trong đó ông vô tình phổ biến thuật ngữ sinh quyển năm 1885 của Eduard Suess, bằng cách đưa ra giả thuyết rằng sự sống là lực lượng địa chất định hình Trái Đất. Năm 1943, ông được trao giải thưởng Stalin.
Tiểu sử.
Vernadsky sinh ra ở Saint Petersburg, Đế quốc Nga, vào ngày trong gia đình của nhà kinh tế học người Nga gốc Ukraine Ivan Vernadsky (cư dân Kiev bản địa) và giảng viên âm nhạc Hanna Konstantynovych. Theo truyền thuyết gia đình, cha của ông là hậu duệ của người Cossak Zaporozhian. Ông từng là giáo sư kinh tế chính trị ở Kiev trước khi chuyển đến Saint Petersburg. Mẹ anh là một phụ nữ quý tộc Nga gốc Ukraine. Vernadsky tốt nghiệp Đại học bang Saint Petersburg năm 1885. Khi vị trí nhà khoáng vật học tại Đại học bang Saint Petersburg bị bỏ trống, và Vasily Dokuchaev, một nhà khoa học về đất, và Alexey Pavlov, một nhà địa chất, đã dạy Mineralogy một thời gian, Vernadsky đã chọn vào Mineralogy. Ông viết thư cho vợ Natasha vào ngày 20 tháng 6 năm 1888 từ Thụy Sĩ: | {
"split": 0,
"title": "Vladimir Ivanovich Vernadsky",
"token_count": 368
} |
22,496 | Title: Vladimir Konstantinovich Konovalov
Vladimir Konstantinovich Konovalov (tiếng Nga: "Владимир Константинович Коновалов", 5 tháng 12 [lịch Nga cũ: 22 tháng 11] năm 1911 – 29 tháng 11 năm 1967]) là một chỉ huy nổi bật của lực lượng hải quân tàu ngầm Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Anh hùng Liên Xô.
Xuất thân.
Ông sinh ra với tên Vulf Kalmanovich Konovalov ở làng Nadiyne (Zaporizhzhia Oblast, thuộc Ukraine ngày nay). Gia đình ông chuyển đến Donetsk khi ông còn nhỏ. Ông học tại Đại học Kỹ thuật Quốc gia Donetsk.
Binh nghiệp.
Ông gia nhập Hải quân Liên Xô năm 1932 và tốt nghiệp Trường Hải quân M. V. Frunze năm 1936. Sau khi tốt nghiệp, ông phục vụ trên các tàu ngầm trong Hạm đội Biển Đen. Bắt đầu từ tháng 10 năm 1940, ông chuyển sang Hạm đội Baltic và được bổ nhiệm làm chỉ huy thứ hai của tàu ngầm Liên Xô L-3, và ông được bổ nhiệm làm chỉ huy của tàu này vào tháng 3 năm 1943.
L-3 là một tàu ngầm quét mìn, nhưng nó cũng tham gia vào các hoạt động tấn công chống lại tàu biển của Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai, và đã thực hiện 11 cuộc tấn công bằng ngư lôi dưới sự chỉ huy của Konovalov.
Ngày 16 tháng 4 năm 1945, Konovalov đánh chìm tàu Goya của Đức, chở dân thường và quân nhân chạy trốn khỏi Mặt trận phía Đông. Ít nhất 6.000 người chết đuối, chỉ có 165 người được cứu. Đó là một trong những thảm họa hàng hải tồi tệ nhất từ trước đến nay. Theo một số phiên bản, L-3 cũng có thể đã đánh chìm một con tàu nhỏ 1411 GRT vào ngày 31 tháng 1 năm 1945, nhưng nó không được xác nhận.
Tàu ngầm của Konovalov cũng đặt 5 xà lan mìn gồm 52 quả thủy lôi trong chiến tranh, một trong số đó đã đánh chìm tàu Henry Lütgens có kích thước 1.141 GRT vào ngày 29 tháng 1 năm 1945. Một tàu phóng lôi T34 cũng có thể bị đánh chìm trên thủy lôi do L-3 đặt vào tháng 11 Ngày 20 năm 1944. | {
"split": 0,
"title": "Vladimir Konstantinovich Konovalov",
"token_count": 501
} |
22,497 | Title: Vladimir Konstantinovich Konovalov
Từ tháng 5 năm 1946 đến tháng 11 năm 1947, ông chỉ huy chiếc N-27 (trước đây là chiếc U-Boat U-3515 Kiểu XXI của Đức). Năm 1950, ông tốt nghiệp Trường Sĩ quan Tham mưu Voroshilov và từ năm 1958 chỉ huy lữ đoàn tàu ngầm của Hạm đội Baltic. Ông được phong quân hàm chuẩn đô đốc vào ngày 7 tháng 5 năm 1966, nhưng qua đời vì đột quỵ vào năm sau đó tại Leningrad.
Trong cuốn sách và bộ phim tiếp theo là Cuộc săn lùng Tháng Mười Đỏ, chiếc tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân lớp Alfa của Liên Xô hư cấu được đặt tên là V.K. Konovalov.
Khen thưởng.
Ông đã được trao tặng danh hiệu danh dự Anh hùng Liên Xô vì thành tích thời chiến mẫu mực vào ngày 8 tháng 7 năm 1945.
Trong suốt sự nghiệp của mình, Konovalov đã được tặng thưởng Huân chương Lenin (3 lần), Huân chương Ushakov hạng 2, Huân chương Chiến tranh Vệ quốc hạng 1 (2 lần) và Huân chương Sao Đỏ (2 lần). | {
"split": 1,
"title": "Vladimir Konstantinovich Konovalov",
"token_count": 247
} |
22,498 | Title: Vn-Index
VnIndex thể hiện biến động giá cổ phiếu giao dịch tại TTGDCK TP.HCM. Công thức tính chỉ số áp dụng đối với toàn bộ các cổ phiếu niêm yết tại TTGDCK nhằm thể hiện xu hướng giá cổ phiếu hàng ngày.
Phương pháp tính.
VnIndex được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước tính toán theo phương pháp chỉ số giá bình quân Passcher.
VN - Index được tính theo công thức sau:
Trong đó:
Các trường hợp điều chỉnh và cách điều chỉnh.
Trong đó:
Chọn rổ đại diện.
Rổ đại diện.
Cho đến giữa tháng 11/2008, rổ đại diện để tính VnIndex bao gồm tất cả các cổ phiếu được niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.
Danh sách công ty được chọn vào rổ đại diện.
Chỉ số chứng khoán Việt Nam ký hiệu là VN - Index. VN - Index xây dựng căn cứ vào giá trị thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm yết. Với hệ thống chỉ số này, nhà đầu tư có thể đánh giá và phân tích thị trường một cách tổng quát. | {
"split": 0,
"title": "Vn-Index",
"token_count": 241
} |
22,499 | Title: Vong Sarendy
Vong Sarendy (1929-1975) là Thiếu tướng Hải quân Quân lực Quốc gia Khmer. Nguyên Tư lệnh Hải quân Quốc gia Khmer (MNK) từ năm 1970 đến 1975 và là thành viên Ủy ban tối cao nước Cộng hòa Khmer hoạt động trong thời gian thủ đô Phnôm Pênh bị toàn quân Khmer Đỏ vây hãm.
Tiểu sử.
Thiếu thời.
Vong Sarendy sinh ra tại Phnôm Pênh vào ngày 3 tháng 10 năm 1929. Suốt thời thơ ấu sống cùng gia đình ở làng Mong tỉnh Battambang. Vào năm 11 tuổi, cha ông qua đời vì bạo bệnh, ít lâu sau ông cùng người anh trai đến Phnôm Pênh để hoàn thành việc học theo đúng di nguyện của người cha trước khi mất. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông bắt đầu vào học quân sự tại Pháp. Năm 1963, ông kết hôn với Nareine Saphon có ba con là Narendy (1963), Sirenda (1964) và Saphira (1966).
Binh nghiệp.
Tốt nghiệp năm 1954, Vong Sarendy nhận được học bổng vào học trường sĩ quan hải quân Brest ở Pháp. Ra trường với tấm bằng loại ưu và trở về Campuchia vào năm 1957, được bổ nhiệm làm Trung tá căn cứ hải quân Ream. Năm 1963, ông từ bỏ chức vụ để nhận học bổng quân sự tại Monterey, California, Mỹ nhưng phải vội về nước sau vụ ám sát Tổng thống John F. Kennedy, 2 tháng trước thời hạn. Quá trình thực tập của ông bị hủy bỏ khi Quốc trưởng Norodom Sihanouk quyết định đứng về phía Trung Quốc trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Vong Sarendy tiếp tục trải qua 2 năm thực tập tại Trường Quân sự "École Militaire" ở Paris vào năm 1968. Ngay khi trở về nước liền được thăng bậc Đại úy Hải quân và Tư lệnh Hải quân thứ hai trong Hải quân Quốc gia Khmer. | {
"split": 0,
"title": "Vong Sarendy",
"token_count": 409
} |
Subsets and Splits