vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những tác gia trung đại trong nền văn học Việt Nam. Là quan lớn nhưng ông nổi tiếng với một phong cách sống thanh cao, giản dị, gắn bó và hòa hợp với thiên nhiên, không màng vật chất, địa vị mà chỉ quan tâm tới cuộc sống và sự ấm no của nhân dân. Ông đặc biệt yêu thích cảnh vật sông suối, cây cỏ, ưa sự thanh tao, mộc mạc, một lối sống khác sa với sự sa hoa mà những vị quan lớn thời đó thường có. Chính vì vậy mà ông được nhân dân yêu mến hết lòng, được lập nhiều đền thờ ở nhiều nơi sau khi ông mất.
Trong cuộc đời của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng để lại cho đời sau nhiều áng văn, áng thơ rất đặc sắc mà một trong số đó là bài thơ “Nhàn”. Để làm được bài văn cảm nhận về bài thơ này, cần đọc kĩ văn bản, nắm bắt được những đặc sắc nghệ thuật, những tư tưởng, tình cảm mà nhà thơ gửi gắm để giải mã và gắn nó vào với sự cảm nhận của mỗi cá nhân. Bài viết dưới đây là một bài tham khảo cho dạng bài này.
Nền văn học trung đại đồ sộ đã mang đến cho chúng ta nhiều áng thơ hay, mang giá trị lớn lao. Trong số đó, không thể không nhắc đến bài thơ “Nhàn” của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ đề cao triết lí sống thanh cao của những vị danh nhơ đương thời:
Câu thơ đầu mở ra những hình ảnh quen thuộc: “mai, cuốc, cần câu” đều là những công cụ gắn liền với thôn dã, làm hiện lên nhân vật trữ tình với tư thế của một lão nông biết đến ruộng vườn, nhất định không phải tư thế đạo mạo của một bậc đại nho. Câu thơ ngắt nhịp thoải mái, sử dụng lặp lại từ “một” khiến lời thơ vang lên như một tiếng sấm rạch ròi, chứng tỏ nhà thơ đón lấy cuộc sống hết sức vui sướng, niềm vui vì được làm điều mình thích. “Thơ thẩn” là trạng thái ung dung, nhàn nhã, thoải mái, tác giả cảm thấy tự tin vì sự lựa chọn của mình. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, khẳng định người khác có thú vui riêng và tác giả cũng vậy. Hai câu đầu khẳng định nhàn không phải là lánh đời mà là sự lựa chọn cho mình có một không gian sống mà mình thấy thích thú, tự do tự tại
Hai câu đầu là lối sống tự do tự tại, hòa mình vào cuộc sống chung thì hai câu sau là sự lí giải sâu sắc về sự lựa chọn ấy:
“Ta” là nhà thơ, “người” là ai, chắc chắn không phải là thiên hạ mà là những kẻ ham công danh lợi lộc. Hai câu thơ có thể hiểu nơi vắng vẻ không phải là nơi lánh đời mà là nơi bản thân mình cảm thấy thích thú, sống thoải mái khác hẳn với chốn quan trường. Chốn thiên nhiên nơi đây là nơi thích hợp nhất để Nguyễn Bỉnh Khiêm tránh xa thói đời ô tạp, để giữ cho tâm hồn mình luôn trong sáng và thanh sạch hơn. Bẳng cách nói ngược “dại” mà thực chất là “khôn”, còn “khôn” nhưng thực chất lại là “dại”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sáng suốt lựa chọn lối sống đối lập với bao người, thoái khỏi chốn lợi danh, ganh đua để sống an nhiên và tự tại. Cách nói nhún nhường, khiêm tốn của bậc đại nho là lối ứng xửa minh triết của một bậc chân nho:
Nhàn là trở về với cuộc sống tự nhiên, thoát khỏi vòng ganh đua lợi lộc, thói tục, không bị vướng vào tiền tài, địa vị và giữ cho tâm hồn mình luôn khoáng đạt bởi:
Mùa nào thì gắn với sự vật ấy, đều có sẵn trong tự nhiên không phải vất vả kiếm tìm. Đây là hình ảnh của cuộc sống tự cung tự cấp nhưng vẫn hết sức đủ đầy và vui vẻ. Phải chăng tác giả đã đan xen vào đó triết lí vô vi của đạo giáo: Không làm gì can thiệp vào quy luật của tự nhiên mà để chúng tự phát triển, đề nghị con người có lối sống thuần theo tự nhiên hay sao? Thức ăn có sẵn trong tự nhiên tuy đạm bạc nhưng không phải là món ăn khoái khẩu, nhưng lại là cái nhàn thanh cao chứ không phải cái nhàn tục của hạng người phú quý, biếng nhác. Vì vậy câu thơ nghe nhẹ bẫng mà thanh thản, lâng lâng một niềm vui, cái nhẹ tênh của một cuộc sống không cần gắng gượng.
Tuy nhiên đến với cuộc sống nhàn phần nào cũng bởi đời ô trọc mà thôi. Có vẻ nhà thơ nhàn mà chưa thực sự nhàn, vẫn nhắc đến chuyện công danh:
|
Nguyen Binh Khiem is one of the medieval authors in Vietnamese literature. Although he is a great mandarin, he is famous for his noble, simple lifestyle, close to and in harmony with nature, not caring about material things or status but only caring about the life and well-being of the people. He especially loved the scenery of rivers, streams, trees, and the elegance and simplicity, a lifestyle different from the luxury that great mandarins of that time often had. That is why he was loved by the people wholeheartedly, and many temples were built in many places after his death.
During his life, Nguyen Binh Khiem also left behind many unique essays and poems, one of which is the poem "Nhan". To write an essay about this poem, you need to read the text carefully, grasp the artistic characteristics, thoughts, and feelings that the poet conveys to decode and attach it to the poet's feelings. each person. The article below is a reference article for this type of article.
The massive medieval literature has brought us many good poems of great value. Among them, it is impossible not to mention the poem "Nhan" by Trinh Nguyen Binh Khiem. The poem promotes the noble life philosophies of famous people of the time:
The first verse opens up familiar images: "apricot, hoe, fishing rod" are all tools associated with the countryside, presenting the lyrical character with the posture of an old farmer who knows the fields and gardens, especially Samadhi is not the dignified posture of a great Confucian. The poem's comfortable rhythm and repeated use of the word "one" make the poem sound like a clear thunderclap, proving that the poet embraces life with great joy, the joy of being able to do what he likes. "Lounging" is a leisurely, leisurely, comfortable state, the author feels confident about his choice. “Who” is a casual pronoun, affirming that other people have their own interests and so does the author. The first two sentences affirm that leisure is not an escape from life but a choice for yourself to have a living space that you enjoy and feel free about.
The first two sentences are about a free lifestyle, immersing yourself in common life, the next two sentences are a profound explanation of that choice:
"I" am the poet, who "you" are, certainly not the world but those who are greedy for fame and fortune. The two verses can be understood as a deserted place not as a place to hide from life but as a place where one feels pleasure and lives comfortably, different from the official place. This natural place is the most suitable place for Nguyen Binh Khiem to stay away from dirty life habits, to keep his soul always brighter and purer. By saying the opposite of "fool" but actually "smart", and "smart" but actually "fool", Nguyen Binh Khiem wisely chose a lifestyle contrary to many people, leaving the place of fame and fortune. compete to live peacefully and freely. The humble and humble way of speaking of a great scholar is the wise behavior of a true scholar:
Leisure means returning to a natural life, escaping the cycle of competition for profit and customs, not being entangled in money or status, and keeping one's soul always open because:
Every season is associated with that object and is available in nature without having to work hard to find it. This is the image of a self-sufficient life but still very full and happy. Is it true that the author has mixed into it the philosophy of Taoism: Do nothing to interfere with the laws of nature but let them develop on their own, suggesting that people have a purely natural lifestyle? The food available in nature, although frugal, is not a delicious dish, but it is a noble leisure, not the mundane leisure of rich, lazy people. Therefore, the poem sounds light and peaceful, filled with joy, the lightness of a life without effort.
However, coming to a leisurely life is partly due to a dirty life. It seems that the poet is leisurely but not really leisurely, still talking about career matters:
|
Đi khắp mọi miền dọc theo mảnh đất hình chữ S, người ta không khỏi tự hào, thán phục vẻ đẹp của muôn vàn danh lam thắng cảnh nơi đây. Còn gì hấp dẫn hơn những đền đài miếu mạo mang đậm tín ngưỡng tâm linh, bản sắc văn hóa dân tộc. Hay ghé qua những địa đạo, nhân chứng tồn tại qua biết bao thời gian bạo tàn ngược về với quá khứ đi tìm lịch sử dân tộc. Đôi khi là được dạo qua chiêm ngưỡng món quà ưu ái của ngụp lặn nơi những bờ biển dài, cát trắng hay leo lên tận đỉnh núi cheo leo – nóc nhà của đất nước. Và cũng có không ít người bị say mê, hấp dẫn trước vẻ đẹp nhẹ nhàng, bình yên, kết tinh những tinh hoa văn hóa con người của mảnh đất Hội An xinh đẹp. Không ồn ào phố thị, không lung linh, đồ sộ, Hội An là nơi con người ta tìm về để lắng lại, lắng nghe tâm hồn mình, từ từ hoài niệm những đẹp xưa cũ, nếp sống bình dị thường ngày đang dần lùi vào dĩ vãng. Dưới đây là một bài văn mang tính chất tham khảo cho đề bài: Giới thiệu danh lam thắng cảnh của quê hương, đất nước lớp 10 nhằm giúp các em định hình tốt hơn về đề văn cũng như có thêm đôi nét cảm nhận về thành phố Hội An xinh đẹp.
Xuôi từ Bắc vào Nam, ta bắt gặp không ít những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp được cả thế giới trầm trồ, ngưỡng mộ, ngợi ca: vịnh Hạ Long nước xanh trong với muôn ngàn đảo lớn nhỏ đủ mọi hình thù thú vị hay vẻ đẹp hoang sơ với bờ biển dài, cánh rừng nguyên sinh phong phú. Và khi bước vào miền Trung thì khó có ai muốn bỏ lỡ dịp được ghé qua chiêm ngưỡng vẻ đẹp, nét văn hóa riêng có của khu đô thị cổ Hội An.
Đà Nẵng vốn luôn nổi tiếng là một thành phố du lịch, sôi động nhưng chỉ cách xa thành phố 30km về phía Nam thành phố, người ta lại có thể được tìm về không khí yên tĩnh rời xa thanh âm ồn ào phố thị. Tựa như dòng nước hạ lưu của con sông Thu Bồn chảy qua, Hội An khoác lên mình chiếc áo giản dị, thanh bình khó cưỡng. Dạo bước qua những con đường nhỏ, ta như dạo bước giữa dòng thời gian ngược về với quá khứ xa xưa. Không còn là những tòa nhà chọc trời, những nhà máy xi măng cốt thép, bên đường chỉ là những dãy nhà cổ ngói son thâm thấp, san sát nhau. Những bức tường từng được sơn xanh, quét vàng rực rỡ giờ đây cũng đã in đậm dấu vết của thời gian đi qua. Không cầu kỳ, tô vẽ, kiến trúc những ngôi nhà giản dị, đơn sơ. Cánh cửa gỗ trước nhà có khi có thêm đôi ba biển hiệu phía trên, có khi là một vài dòng chữ Hán được khắc tỉ mỉ, nắn nót hai bên. Và cũng có đôi khi ta bắt gặp đôi ba ngôi nhà cổ kính với dàn hoa giấy xinh xinh bồng bềnh theo làn gió. rủ xuống bậu cửa sổ với cánh cửa khép hờ.Và vẻ đẹp của nơi đây khiến cho con người ta say mê nhất chính là khi bóng tối phủ xuống giăng mắc khắp góc phố, con hẻm. Không hề tối tăm, không hề lạnh lẽo, người ta sững người say đắm thả hồn vào trong thữ ánh sáng diệu kì của ngọn đèn lồng trước mỗi căn nhà. Ánh sáng êm dịu, nhẹ nhàng hắt vào mỗi góc nhà, mảnh hiên làm cho ngôi nhà cổ thêm phần dịu dàng, bí ẩn. Từng là một trung tâm buôn bán lớn, sao nơi này có thể thiếu đi những hàng quán, sập hàng với đủ thứ quà đủ sắc đủ màu. Đó là một vài tiệm may với những chiếc áo dài được cắt may một cách cầu kỳ được treo ở trước nhà cẩn thận, chau chuốt. Đôi khi là một vài những thức quà giản dị nhưng không kém phần tinh tế, chi chút. Dọc qua những con phố ngập tràn ánh đèn lồng, bên con sông Hoài, là đôi ba hàng quán nơi người ta xì xụp món cao lầu nghi ngút khói, hay đôi khi là vài ba chiếc bánh xoài ngọt thơm. Mùi thơm hòa vào trong tiếng mái chèo khua nước trên sông. Những con đò chầm chậm đưa khách dạo qua các con phố cổ chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó theo dòng nước nhẹ nhàng, đôi khi còn có thể được thưởng thức một vài câu hò hay vài ba câu chuyện xưa cũ của mảnh đất cổ xưa này. Và rồi bất chợt họ ngây ngất khi nhìn thấy xung quanh con đò, hàng ngàn hoa đăng trôi bồng bềnh trở theo muôn ngàn những hi vong, khao khát tỏa sáng khắp mặt sông. Xa xa vắt nối đôi bờ là chùa Cầu, hình ảnh đậm nét, tượng trưng cho phố cổ Hội An. Được người Nhật Bản xây với niềm tin có thể xóa bỏ mọi điều xấu, đem đến bình yên, nhưng ngôi chùa không hề vắng bóng những nét đặc trưng văn hóa rất riêng của đất Việt. Qua cây cầu uốn lượn mềm mại du khách không chỉ được ngắm nhìn toàn cảnh, thưởng thức kiến trúc tinh xảo, mà có thể gửi lời cầu mong đến vị thần bảo hộ xứ sở Bắc Đế Trấn Võ mang đến niềm vui cho con người. Tạm xa rời góc phố cổ yên bình, người ta có thể hòa mình vào khu chợ đông đúc ban đêm – nơi ồn ào bước chân kẻ mua người bán, ngập tràn thứ đồ đặc sắc thú vị. Đó là một góc đường rực sáng chiếc đèn lồng lụa đủ sắc đủ màu, là sập hàng bày đủ những chiếc thiệp, món đồ chơi sặc sỡ mang hình chiếc cầu, ngôi nhà đặc trưng của nơi đây. Còn là cả những món quà vặt hấp dẫn, ngon mắt, lạ miệng khiến người thưởng thức thích thú. Màn đêm thưa dần, chợ cũng đã tàn, những tia nắng ban mai trả lại cho con phố không khí bình yên, dễ chịu.Trên những cung đường thưa thớt người, nhịp sống như chậm lại, đều đều. Những con người phố cổ thân thiện, đầy nhiệt tình, sôi nổi nay lại trở về với dáng vẻ hồn hậu, tĩnh lặng hàng ngày. Thi thoảng ở đôi ba góc phố, có tiếng rao của người bán hàng dạo qua hay một vài tiếng chuông xe đạp chở theo sau là những gánh hoa tươi vẫn còn đọng sương đêm. Xa xa con sông thả mình vào làn nắng dịu ngọt cùng những cơn gió dịu êm, nghỉ ngơi sau một đêm dài bận rộn không nghỉ. Mọi vật như tĩnh lại chầm chậm lắng nghe thanh âm của thiên nhiên đất trời, cảm nhận không khí cổ xưa của nơi đây.
Từng góc phố, căn nhà của Hội An đều mang đậm dấu vết của của một thời lịch sử, văn hóa rực rỡ, vàng son đã qua của đất nước. Mỗi lần ghé qua khu phố cổ, người ta lại thêm tự hào về vẻ đẹp quê hương cũng như thêm hiểu biết về cuộc sống và con người giản dị nơi đây.
Du khách bốn phương khi đặt chân lên dải đất hình chữ S, lòng không khỏi luyến lưu trước vẻ đẹp vừa hoang sơ vừa thơ mộng của cụm danh thắng Tràng An, Bái Đính tại Ninh Bình.
Dừng chân ở Tràng An, mỗi buổi sáng bầu trời quang đãng, không gian trong lành làm tâm hồn ta khoan khoái, dễ chịu. Dòng sông uốn lượn mềm mại như con trăn khổng lồ, vắt qua cánh đồng phì nhiêu, thung lũng, ôm ấp những dãy núi cao ngất, uy nghi. Ngồi trên chiếc thuyền, ta giống như các nhà thám hiểm đang khám phá vùng đất mới, thưởng thức điều kì diệu của thiên nhiên. Làn nước xanh biếc, nhìn thấu đáy, nơi đàn cá mải tìm chỗ trú khi thấy mặt nước chuyển động, nơi những hòn đá cuội đủ màu sắc nằm phơi mình trong dòng nước mát lành. Sắc nước không xanh màu xanh canh hến mà ánh lên màu bích ngọc, lặng ánh chiếu bầu trời cao vời vợi. Con thuyền dưới sự điều khiển khéo léo, nhịp nhàng của người lái, rẽ nước nhẹ nhàng, từ từ xuôi đi, đưa ta chiêm ngưỡng quang cảnh dọc đôi bờ con nước. Những ngọn núi đá kì vĩ dựng giữa trời, sững sững như những bức tường thành vững chắc. Cây cối mọc ra tua tủa, xanh mát, vài chú dê chậm rãi ngẩng đầu, ngước nhìn những người khách bằng đôi mắt ngơ ngác, hiền lành. Có dịp, từng đàn vịt trời sà xuống lặn ngụp, thấy người chúng lại hoảng hốt vỗ cánh bay đi. Thiên nhiên Tràng An làm ta thấy tâm hồn tự tại, thư thái hơn trước nhịp sống yên ả. Điều kì thú nhất ở Tràng An là ngắm nhìn các hang động tự nhiên, nơi ghi dấu bàn tay tài hoa của tạo hóa. Từng dải nhũ thạch lung linh, ảo huyền dưới ánh đèn mờ. Nước phản chiếu ánh sáng làm không gian như rộng ra nhưng chiều dài, rộng của từng ngóc nghách trong hang là khác nhau. Sự thông thạo của người lái thuyền dẫn ta tham quan suối nước cảm nhận vị mát lạnh của làn nước. Hơi nước ngưng tụ trong khoảng không gian tạo cảm giác lành lạnh, những giọt nước rỏ xuống tong tong, sự luân chuyển trạng thái ấy làm vẻ đẹp trong hạng động còn nguyên vẹn. Khu sinh thái ở đây giúp ta có cơ hội tận hưởng những món ăn đặc sản của vùng miền và sự tiếp đón nhiệt tình, gần gũi của người dân địa phương.
|
Đi khắp mọi miền dọc theo mảnh đất hình chữ S, người ta không khỏi tự hào, thán phục vẻ đẹp của muôn vàn danh lam thắng cảnh nơi đây. Còn gì hấp dẫn hơn những đền đài miếu mạo mang đậm tín ngưỡng tâm linh, bản sắc văn hóa dân tộc. Hay ghé qua những địa đạo, nhân chứng tồn tại qua biết bao thời gian bạo tàn ngược về với quá khứ đi tìm lịch sử dân tộc. Đôi khi là được dạo qua chiêm ngưỡng món quà ưu ái của ngụp lặn nơi những bờ biển dài, cát trắng hay leo lên tận đỉnh núi cheo leo – nóc nhà của đất nước. Và cũng có không ít người bị say mê, hấp dẫn trước vẻ đẹp nhẹ nhàng, bình yên, kết tinh những tinh hoa văn hóa con người của mảnh đất Hội An xinh đẹp. Không ồn ào phố thị, không lung linh, đồ sộ, Hội An là nơi con người ta tìm về để lắng lại, lắng nghe tâm hồn mình, từ từ hoài niệm những đẹp xưa cũ, nếp sống bình dị thường ngày đang dần lùi vào dĩ vãng. Dưới đây là một bài văn mang tính chất tham khảo cho đề bài: Giới thiệu danh lam thắng cảnh của quê hương, đất nước lớp 10 nhằm giúp các em định hình tốt hơn về đề văn cũng như có thêm đôi nét cảm nhận về thành phố Hội An xinh đẹp.
Xuôi từ Bắc vào Nam, ta bắt gặp không ít những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp được cả thế giới trầm trồ, ngưỡng mộ, ngợi ca: vịnh Hạ Long nước xanh trong với muôn ngàn đảo lớn nhỏ đủ mọi hình thù thú vị hay vẻ đẹp hoang sơ với bờ biển dài, cánh rừng nguyên sinh phong phú. Và khi bước vào miền Trung thì khó có ai muốn bỏ lỡ dịp được ghé qua chiêm ngưỡng vẻ đẹp, nét văn hóa riêng có của khu đô thị cổ Hội An.
Đà Nẵng vốn luôn nổi tiếng là một thành phố du lịch, sôi động nhưng chỉ cách xa thành phố 30km về phía Nam thành phố, người ta lại có thể được tìm về không khí yên tĩnh rời xa thanh âm ồn ào phố thị. Tựa như dòng nước hạ lưu của con sông Thu Bồn chảy qua, Hội An khoác lên mình chiếc áo giản dị, thanh bình khó cưỡng. Dạo bước qua những con đường nhỏ, ta như dạo bước giữa dòng thời gian ngược về với quá khứ xa xưa. Không còn là những tòa nhà chọc trời, những nhà máy xi măng cốt thép, bên đường chỉ là những dãy nhà cổ ngói son thâm thấp, san sát nhau. Những bức tường từng được sơn xanh, quét vàng rực rỡ giờ đây cũng đã in đậm dấu vết của thời gian đi qua. Không cầu kỳ, tô vẽ, kiến trúc những ngôi nhà giản dị, đơn sơ. Cánh cửa gỗ trước nhà có khi có thêm đôi ba biển hiệu phía trên, có khi là một vài dòng chữ Hán được khắc tỉ mỉ, nắn nót hai bên. Và cũng có đôi khi ta bắt gặp đôi ba ngôi nhà cổ kính với dàn hoa giấy xinh xinh bồng bềnh theo làn gió. rủ xuống bậu cửa sổ với cánh cửa khép hờ.Và vẻ đẹp của nơi đây khiến cho con người ta say mê nhất chính là khi bóng tối phủ xuống giăng mắc khắp góc phố, con hẻm. Không hề tối tăm, không hề lạnh lẽo, người ta sững người say đắm thả hồn vào trong thữ ánh sáng diệu kì của ngọn đèn lồng trước mỗi căn nhà. Ánh sáng êm dịu, nhẹ nhàng hắt vào mỗi góc nhà, mảnh hiên làm cho ngôi nhà cổ thêm phần dịu dàng, bí ẩn. Từng là một trung tâm buôn bán lớn, sao nơi này có thể thiếu đi những hàng quán, sập hàng với đủ thứ quà đủ sắc đủ màu. Đó là một vài tiệm may với những chiếc áo dài được cắt may một cách cầu kỳ được treo ở trước nhà cẩn thận, chau chuốt. Đôi khi là một vài những thức quà giản dị nhưng không kém phần tinh tế, chi chút. Dọc qua những con phố ngập tràn ánh đèn lồng, bên con sông Hoài, là đôi ba hàng quán nơi người ta xì xụp món cao lầu nghi ngút khói, hay đôi khi là vài ba chiếc bánh xoài ngọt thơm. Mùi thơm hòa vào trong tiếng mái chèo khua nước trên sông. Những con đò chầm chậm đưa khách dạo qua các con phố cổ chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó theo dòng nước nhẹ nhàng, đôi khi còn có thể được thưởng thức một vài câu hò hay vài ba câu chuyện xưa cũ của mảnh đất cổ xưa này. Và rồi bất chợt họ ngây ngất khi nhìn thấy xung quanh con đò, hàng ngàn hoa đăng trôi bồng bềnh trở theo muôn ngàn những hi vong, khao khát tỏa sáng khắp mặt sông. Xa xa vắt nối đôi bờ là chùa Cầu, hình ảnh đậm nét, tượng trưng cho phố cổ Hội An. Được người Nhật Bản xây với niềm tin có thể xóa bỏ mọi điều xấu, đem đến bình yên, nhưng ngôi chùa không hề vắng bóng những nét đặc trưng văn hóa rất riêng của đất Việt. Qua cây cầu uốn lượn mềm mại du khách không chỉ được ngắm nhìn toàn cảnh, thưởng thức kiến trúc tinh xảo, mà có thể gửi lời cầu mong đến vị thần bảo hộ xứ sở Bắc Đế Trấn Võ mang đến niềm vui cho con người. Tạm xa rời góc phố cổ yên bình, người ta có thể hòa mình vào khu chợ đông đúc ban đêm – nơi ồn ào bước chân kẻ mua người bán, ngập tràn thứ đồ đặc sắc thú vị. Đó là một góc đường rực sáng chiếc đèn lồng lụa đủ sắc đủ màu, là sập hàng bày đủ những chiếc thiệp, món đồ chơi sặc sỡ mang hình chiếc cầu, ngôi nhà đặc trưng của nơi đây. Còn là cả những món quà vặt hấp dẫn, ngon mắt, lạ miệng khiến người thưởng thức thích thú. Màn đêm thưa dần, chợ cũng đã tàn, những tia nắng ban mai trả lại cho con phố không khí bình yên, dễ chịu.Trên những cung đường thưa thớt người, nhịp sống như chậm lại, đều đều. Những con người phố cổ thân thiện, đầy nhiệt tình, sôi nổi nay lại trở về với dáng vẻ hồn hậu, tĩnh lặng hàng ngày. Thi thoảng ở đôi ba góc phố, có tiếng rao của người bán hàng dạo qua hay một vài tiếng chuông xe đạp chở theo sau là những gánh hoa tươi vẫn còn đọng sương đêm. Xa xa con sông thả mình vào làn nắng dịu ngọt cùng những cơn gió dịu êm, nghỉ ngơi sau một đêm dài bận rộn không nghỉ. Mọi vật như tĩnh lại chầm chậm lắng nghe thanh âm của thiên nhiên đất trời, cảm nhận không khí cổ xưa của nơi đây.
Từng góc phố, căn nhà của Hội An đều mang đậm dấu vết của của một thời lịch sử, văn hóa rực rỡ, vàng son đã qua của đất nước. Mỗi lần ghé qua khu phố cổ, người ta lại thêm tự hào về vẻ đẹp quê hương cũng như thêm hiểu biết về cuộc sống và con người giản dị nơi đây.
Du khách bốn phương khi đặt chân lên dải đất hình chữ S, lòng không khỏi luyến lưu trước vẻ đẹp vừa hoang sơ vừa thơ mộng của cụm danh thắng Tràng An, Bái Đính tại Ninh Bình.
Dừng chân ở Tràng An, mỗi buổi sáng bầu trời quang đãng, không gian trong lành làm tâm hồn ta khoan khoái, dễ chịu. Dòng sông uốn lượn mềm mại như con trăn khổng lồ, vắt qua cánh đồng phì nhiêu, thung lũng, ôm ấp những dãy núi cao ngất, uy nghi. Ngồi trên chiếc thuyền, ta giống như các nhà thám hiểm đang khám phá vùng đất mới, thưởng thức điều kì diệu của thiên nhiên. Làn nước xanh biếc, nhìn thấu đáy, nơi đàn cá mải tìm chỗ trú khi thấy mặt nước chuyển động, nơi những hòn đá cuội đủ màu sắc nằm phơi mình trong dòng nước mát lành. Sắc nước không xanh màu xanh canh hến mà ánh lên màu bích ngọc, lặng ánh chiếu bầu trời cao vời vợi. Con thuyền dưới sự điều khiển khéo léo, nhịp nhàng của người lái, rẽ nước nhẹ nhàng, từ từ xuôi đi, đưa ta chiêm ngưỡng quang cảnh dọc đôi bờ con nước. Những ngọn núi đá kì vĩ dựng giữa trời, sững sững như những bức tường thành vững chắc. Cây cối mọc ra tua tủa, xanh mát, vài chú dê chậm rãi ngẩng đầu, ngước nhìn những người khách bằng đôi mắt ngơ ngác, hiền lành. Có dịp, từng đàn vịt trời sà xuống lặn ngụp, thấy người chúng lại hoảng hốt vỗ cánh bay đi. Thiên nhiên Tràng An làm ta thấy tâm hồn tự tại, thư thái hơn trước nhịp sống yên ả. Điều kì thú nhất ở Tràng An là ngắm nhìn các hang động tự nhiên, nơi ghi dấu bàn tay tài hoa của tạo hóa. Từng dải nhũ thạch lung linh, ảo huyền dưới ánh đèn mờ. Nước phản chiếu ánh sáng làm không gian như rộng ra nhưng chiều dài, rộng của từng ngóc nghách trong hang là khác nhau. Sự thông thạo của người lái thuyền dẫn ta tham quan suối nước cảm nhận vị mát lạnh của làn nước. Hơi nước ngưng tụ trong khoảng không gian tạo cảm giác lành lạnh, những giọt nước rỏ xuống tong tong, sự luân chuyển trạng thái ấy làm vẻ đẹp trong hạng động còn nguyên vẹn. Khu sinh thái ở đây giúp ta có cơ hội tận hưởng những món ăn đặc sản của vùng miền và sự tiếp đón nhiệt tình, gần gũi của người dân địa phương.
|
Đi khắp mọi miền dọc theo mảnh đất hình chữ S, người ta không khỏi tự hào, thán phục vẻ đẹp của muôn vàn danh lam thắng cảnh nơi đây. Còn gì hấp dẫn hơn những đền đài miếu mạo mang đậm tín ngưỡng tâm linh, bản sắc văn hóa dân tộc. Hay ghé qua những địa đạo, nhân chứng tồn tại qua biết bao thời gian bạo tàn ngược về với quá khứ đi tìm lịch sử dân tộc. Đôi khi là được dạo qua chiêm ngưỡng món quà ưu ái của ngụp lặn nơi những bờ biển dài, cát trắng hay leo lên tận đỉnh núi cheo leo – nóc nhà của đất nước. Và cũng có không ít người bị say mê, hấp dẫn trước vẻ đẹp nhẹ nhàng, bình yên, kết tinh những tinh hoa văn hóa con người của mảnh đất Hội An xinh đẹp. Không ồn ào phố thị, không lung linh, đồ sộ, Hội An là nơi con người ta tìm về để lắng lại, lắng nghe tâm hồn mình, từ từ hoài niệm những đẹp xưa cũ, nếp sống bình dị thường ngày đang dần lùi vào dĩ vãng. Dưới đây là một bài văn mang tính chất tham khảo cho đề bài: Giới thiệu danh lam thắng cảnh của quê hương, đất nước lớp 10 nhằm giúp các em định hình tốt hơn về đề văn cũng như có thêm đôi nét cảm nhận về thành phố Hội An xinh đẹp.
Xuôi từ Bắc vào Nam, ta bắt gặp không ít những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp được cả thế giới trầm trồ, ngưỡng mộ, ngợi ca: vịnh Hạ Long nước xanh trong với muôn ngàn đảo lớn nhỏ đủ mọi hình thù thú vị hay vẻ đẹp hoang sơ với bờ biển dài, cánh rừng nguyên sinh phong phú. Và khi bước vào miền Trung thì khó có ai muốn bỏ lỡ dịp được ghé qua chiêm ngưỡng vẻ đẹp, nét văn hóa riêng có của khu đô thị cổ Hội An.
Đà Nẵng vốn luôn nổi tiếng là một thành phố du lịch, sôi động nhưng chỉ cách xa thành phố 30km về phía Nam thành phố, người ta lại có thể được tìm về không khí yên tĩnh rời xa thanh âm ồn ào phố thị. Tựa như dòng nước hạ lưu của con sông Thu Bồn chảy qua, Hội An khoác lên mình chiếc áo giản dị, thanh bình khó cưỡng. Dạo bước qua những con đường nhỏ, ta như dạo bước giữa dòng thời gian ngược về với quá khứ xa xưa. Không còn là những tòa nhà chọc trời, những nhà máy xi măng cốt thép, bên đường chỉ là những dãy nhà cổ ngói son thâm thấp, san sát nhau. Những bức tường từng được sơn xanh, quét vàng rực rỡ giờ đây cũng đã in đậm dấu vết của thời gian đi qua. Không cầu kỳ, tô vẽ, kiến trúc những ngôi nhà giản dị, đơn sơ. Cánh cửa gỗ trước nhà có khi có thêm đôi ba biển hiệu phía trên, có khi là một vài dòng chữ Hán được khắc tỉ mỉ, nắn nót hai bên. Và cũng có đôi khi ta bắt gặp đôi ba ngôi nhà cổ kính với dàn hoa giấy xinh xinh bồng bềnh theo làn gió. rủ xuống bậu cửa sổ với cánh cửa khép hờ.Và vẻ đẹp của nơi đây khiến cho con người ta say mê nhất chính là khi bóng tối phủ xuống giăng mắc khắp góc phố, con hẻm. Không hề tối tăm, không hề lạnh lẽo, người ta sững người say đắm thả hồn vào trong thữ ánh sáng diệu kì của ngọn đèn lồng trước mỗi căn nhà. Ánh sáng êm dịu, nhẹ nhàng hắt vào mỗi góc nhà, mảnh hiên làm cho ngôi nhà cổ thêm phần dịu dàng, bí ẩn. Từng là một trung tâm buôn bán lớn, sao nơi này có thể thiếu đi những hàng quán, sập hàng với đủ thứ quà đủ sắc đủ màu. Đó là một vài tiệm may với những chiếc áo dài được cắt may một cách cầu kỳ được treo ở trước nhà cẩn thận, chau chuốt. Đôi khi là một vài những thức quà giản dị nhưng không kém phần tinh tế, chi chút. Dọc qua những con phố ngập tràn ánh đèn lồng, bên con sông Hoài, là đôi ba hàng quán nơi người ta xì xụp món cao lầu nghi ngút khói, hay đôi khi là vài ba chiếc bánh xoài ngọt thơm. Mùi thơm hòa vào trong tiếng mái chèo khua nước trên sông. Những con đò chầm chậm đưa khách dạo qua các con phố cổ chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó theo dòng nước nhẹ nhàng, đôi khi còn có thể được thưởng thức một vài câu hò hay vài ba câu chuyện xưa cũ của mảnh đất cổ xưa này. Và rồi bất chợt họ ngây ngất khi nhìn thấy xung quanh con đò, hàng ngàn hoa đăng trôi bồng bềnh trở theo muôn ngàn những hi vong, khao khát tỏa sáng khắp mặt sông. Xa xa vắt nối đôi bờ là chùa Cầu, hình ảnh đậm nét, tượng trưng cho phố cổ Hội An. Được người Nhật Bản xây với niềm tin có thể xóa bỏ mọi điều xấu, đem đến bình yên, nhưng ngôi chùa không hề vắng bóng những nét đặc trưng văn hóa rất riêng của đất Việt. Qua cây cầu uốn lượn mềm mại du khách không chỉ được ngắm nhìn toàn cảnh, thưởng thức kiến trúc tinh xảo, mà có thể gửi lời cầu mong đến vị thần bảo hộ xứ sở Bắc Đế Trấn Võ mang đến niềm vui cho con người. Tạm xa rời góc phố cổ yên bình, người ta có thể hòa mình vào khu chợ đông đúc ban đêm – nơi ồn ào bước chân kẻ mua người bán, ngập tràn thứ đồ đặc sắc thú vị. Đó là một góc đường rực sáng chiếc đèn lồng lụa đủ sắc đủ màu, là sập hàng bày đủ những chiếc thiệp, món đồ chơi sặc sỡ mang hình chiếc cầu, ngôi nhà đặc trưng của nơi đây. Còn là cả những món quà vặt hấp dẫn, ngon mắt, lạ miệng khiến người thưởng thức thích thú. Màn đêm thưa dần, chợ cũng đã tàn, những tia nắng ban mai trả lại cho con phố không khí bình yên, dễ chịu.Trên những cung đường thưa thớt người, nhịp sống như chậm lại, đều đều. Những con người phố cổ thân thiện, đầy nhiệt tình, sôi nổi nay lại trở về với dáng vẻ hồn hậu, tĩnh lặng hàng ngày. Thi thoảng ở đôi ba góc phố, có tiếng rao của người bán hàng dạo qua hay một vài tiếng chuông xe đạp chở theo sau là những gánh hoa tươi vẫn còn đọng sương đêm. Xa xa con sông thả mình vào làn nắng dịu ngọt cùng những cơn gió dịu êm, nghỉ ngơi sau một đêm dài bận rộn không nghỉ. Mọi vật như tĩnh lại chầm chậm lắng nghe thanh âm của thiên nhiên đất trời, cảm nhận không khí cổ xưa của nơi đây.
Từng góc phố, căn nhà của Hội An đều mang đậm dấu vết của của một thời lịch sử, văn hóa rực rỡ, vàng son đã qua của đất nước. Mỗi lần ghé qua khu phố cổ, người ta lại thêm tự hào về vẻ đẹp quê hương cũng như thêm hiểu biết về cuộc sống và con người giản dị nơi đây.
Du khách bốn phương khi đặt chân lên dải đất hình chữ S, lòng không khỏi luyến lưu trước vẻ đẹp vừa hoang sơ vừa thơ mộng của cụm danh thắng Tràng An, Bái Đính tại Ninh Bình.
Dừng chân ở Tràng An, mỗi buổi sáng bầu trời quang đãng, không gian trong lành làm tâm hồn ta khoan khoái, dễ chịu. Dòng sông uốn lượn mềm mại như con trăn khổng lồ, vắt qua cánh đồng phì nhiêu, thung lũng, ôm ấp những dãy núi cao ngất, uy nghi. Ngồi trên chiếc thuyền, ta giống như các nhà thám hiểm đang khám phá vùng đất mới, thưởng thức điều kì diệu của thiên nhiên. Làn nước xanh biếc, nhìn thấu đáy, nơi đàn cá mải tìm chỗ trú khi thấy mặt nước chuyển động, nơi những hòn đá cuội đủ màu sắc nằm phơi mình trong dòng nước mát lành. Sắc nước không xanh màu xanh canh hến mà ánh lên màu bích ngọc, lặng ánh chiếu bầu trời cao vời vợi. Con thuyền dưới sự điều khiển khéo léo, nhịp nhàng của người lái, rẽ nước nhẹ nhàng, từ từ xuôi đi, đưa ta chiêm ngưỡng quang cảnh dọc đôi bờ con nước. Những ngọn núi đá kì vĩ dựng giữa trời, sững sững như những bức tường thành vững chắc. Cây cối mọc ra tua tủa, xanh mát, vài chú dê chậm rãi ngẩng đầu, ngước nhìn những người khách bằng đôi mắt ngơ ngác, hiền lành. Có dịp, từng đàn vịt trời sà xuống lặn ngụp, thấy người chúng lại hoảng hốt vỗ cánh bay đi. Thiên nhiên Tràng An làm ta thấy tâm hồn tự tại, thư thái hơn trước nhịp sống yên ả. Điều kì thú nhất ở Tràng An là ngắm nhìn các hang động tự nhiên, nơi ghi dấu bàn tay tài hoa của tạo hóa. Từng dải nhũ thạch lung linh, ảo huyền dưới ánh đèn mờ. Nước phản chiếu ánh sáng làm không gian như rộng ra nhưng chiều dài, rộng của từng ngóc nghách trong hang là khác nhau. Sự thông thạo của người lái thuyền dẫn ta tham quan suối nước cảm nhận vị mát lạnh của làn nước. Hơi nước ngưng tụ trong khoảng không gian tạo cảm giác lành lạnh, những giọt nước rỏ xuống tong tong, sự luân chuyển trạng thái ấy làm vẻ đẹp trong hạng động còn nguyên vẹn. Khu sinh thái ở đây giúp ta có cơ hội tận hưởng những món ăn đặc sản của vùng miền và sự tiếp đón nhiệt tình, gần gũi của người dân địa phương.
|
Đi khắp mọi miền dọc theo mảnh đất hình chữ S, người ta không khỏi tự hào, thán phục vẻ đẹp của muôn vàn danh lam thắng cảnh nơi đây. Còn gì hấp dẫn hơn những đền đài miếu mạo mang đậm tín ngưỡng tâm linh, bản sắc văn hóa dân tộc. Hay ghé qua những địa đạo, nhân chứng tồn tại qua biết bao thời gian bạo tàn ngược về với quá khứ đi tìm lịch sử dân tộc. Đôi khi là được dạo qua chiêm ngưỡng món quà ưu ái của ngụp lặn nơi những bờ biển dài, cát trắng hay leo lên tận đỉnh núi cheo leo – nóc nhà của đất nước. Và cũng có không ít người bị say mê, hấp dẫn trước vẻ đẹp nhẹ nhàng, bình yên, kết tinh những tinh hoa văn hóa con người của mảnh đất Hội An xinh đẹp. Không ồn ào phố thị, không lung linh, đồ sộ, Hội An là nơi con người ta tìm về để lắng lại, lắng nghe tâm hồn mình, từ từ hoài niệm những đẹp xưa cũ, nếp sống bình dị thường ngày đang dần lùi vào dĩ vãng. Dưới đây là một bài văn mang tính chất tham khảo cho đề bài: Giới thiệu danh lam thắng cảnh của quê hương, đất nước lớp 10 nhằm giúp các em định hình tốt hơn về đề văn cũng như có thêm đôi nét cảm nhận về thành phố Hội An xinh đẹp.
Xuôi từ Bắc vào Nam, ta bắt gặp không ít những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp được cả thế giới trầm trồ, ngưỡng mộ, ngợi ca: vịnh Hạ Long nước xanh trong với muôn ngàn đảo lớn nhỏ đủ mọi hình thù thú vị hay vẻ đẹp hoang sơ với bờ biển dài, cánh rừng nguyên sinh phong phú. Và khi bước vào miền Trung thì khó có ai muốn bỏ lỡ dịp được ghé qua chiêm ngưỡng vẻ đẹp, nét văn hóa riêng có của khu đô thị cổ Hội An.
Đà Nẵng vốn luôn nổi tiếng là một thành phố du lịch, sôi động nhưng chỉ cách xa thành phố 30km về phía Nam thành phố, người ta lại có thể được tìm về không khí yên tĩnh rời xa thanh âm ồn ào phố thị. Tựa như dòng nước hạ lưu của con sông Thu Bồn chảy qua, Hội An khoác lên mình chiếc áo giản dị, thanh bình khó cưỡng. Dạo bước qua những con đường nhỏ, ta như dạo bước giữa dòng thời gian ngược về với quá khứ xa xưa. Không còn là những tòa nhà chọc trời, những nhà máy xi măng cốt thép, bên đường chỉ là những dãy nhà cổ ngói son thâm thấp, san sát nhau. Những bức tường từng được sơn xanh, quét vàng rực rỡ giờ đây cũng đã in đậm dấu vết của thời gian đi qua. Không cầu kỳ, tô vẽ, kiến trúc những ngôi nhà giản dị, đơn sơ. Cánh cửa gỗ trước nhà có khi có thêm đôi ba biển hiệu phía trên, có khi là một vài dòng chữ Hán được khắc tỉ mỉ, nắn nót hai bên. Và cũng có đôi khi ta bắt gặp đôi ba ngôi nhà cổ kính với dàn hoa giấy xinh xinh bồng bềnh theo làn gió. rủ xuống bậu cửa sổ với cánh cửa khép hờ.Và vẻ đẹp của nơi đây khiến cho con người ta say mê nhất chính là khi bóng tối phủ xuống giăng mắc khắp góc phố, con hẻm. Không hề tối tăm, không hề lạnh lẽo, người ta sững người say đắm thả hồn vào trong thữ ánh sáng diệu kì của ngọn đèn lồng trước mỗi căn nhà. Ánh sáng êm dịu, nhẹ nhàng hắt vào mỗi góc nhà, mảnh hiên làm cho ngôi nhà cổ thêm phần dịu dàng, bí ẩn. Từng là một trung tâm buôn bán lớn, sao nơi này có thể thiếu đi những hàng quán, sập hàng với đủ thứ quà đủ sắc đủ màu. Đó là một vài tiệm may với những chiếc áo dài được cắt may một cách cầu kỳ được treo ở trước nhà cẩn thận, chau chuốt. Đôi khi là một vài những thức quà giản dị nhưng không kém phần tinh tế, chi chút. Dọc qua những con phố ngập tràn ánh đèn lồng, bên con sông Hoài, là đôi ba hàng quán nơi người ta xì xụp món cao lầu nghi ngút khói, hay đôi khi là vài ba chiếc bánh xoài ngọt thơm. Mùi thơm hòa vào trong tiếng mái chèo khua nước trên sông. Những con đò chầm chậm đưa khách dạo qua các con phố cổ chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó theo dòng nước nhẹ nhàng, đôi khi còn có thể được thưởng thức một vài câu hò hay vài ba câu chuyện xưa cũ của mảnh đất cổ xưa này. Và rồi bất chợt họ ngây ngất khi nhìn thấy xung quanh con đò, hàng ngàn hoa đăng trôi bồng bềnh trở theo muôn ngàn những hi vong, khao khát tỏa sáng khắp mặt sông. Xa xa vắt nối đôi bờ là chùa Cầu, hình ảnh đậm nét, tượng trưng cho phố cổ Hội An. Được người Nhật Bản xây với niềm tin có thể xóa bỏ mọi điều xấu, đem đến bình yên, nhưng ngôi chùa không hề vắng bóng những nét đặc trưng văn hóa rất riêng của đất Việt. Qua cây cầu uốn lượn mềm mại du khách không chỉ được ngắm nhìn toàn cảnh, thưởng thức kiến trúc tinh xảo, mà có thể gửi lời cầu mong đến vị thần bảo hộ xứ sở Bắc Đế Trấn Võ mang đến niềm vui cho con người. Tạm xa rời góc phố cổ yên bình, người ta có thể hòa mình vào khu chợ đông đúc ban đêm – nơi ồn ào bước chân kẻ mua người bán, ngập tràn thứ đồ đặc sắc thú vị. Đó là một góc đường rực sáng chiếc đèn lồng lụa đủ sắc đủ màu, là sập hàng bày đủ những chiếc thiệp, món đồ chơi sặc sỡ mang hình chiếc cầu, ngôi nhà đặc trưng của nơi đây. Còn là cả những món quà vặt hấp dẫn, ngon mắt, lạ miệng khiến người thưởng thức thích thú. Màn đêm thưa dần, chợ cũng đã tàn, những tia nắng ban mai trả lại cho con phố không khí bình yên, dễ chịu.Trên những cung đường thưa thớt người, nhịp sống như chậm lại, đều đều. Những con người phố cổ thân thiện, đầy nhiệt tình, sôi nổi nay lại trở về với dáng vẻ hồn hậu, tĩnh lặng hàng ngày. Thi thoảng ở đôi ba góc phố, có tiếng rao của người bán hàng dạo qua hay một vài tiếng chuông xe đạp chở theo sau là những gánh hoa tươi vẫn còn đọng sương đêm. Xa xa con sông thả mình vào làn nắng dịu ngọt cùng những cơn gió dịu êm, nghỉ ngơi sau một đêm dài bận rộn không nghỉ. Mọi vật như tĩnh lại chầm chậm lắng nghe thanh âm của thiên nhiên đất trời, cảm nhận không khí cổ xưa của nơi đây.
Từng góc phố, căn nhà của Hội An đều mang đậm dấu vết của của một thời lịch sử, văn hóa rực rỡ, vàng son đã qua của đất nước. Mỗi lần ghé qua khu phố cổ, người ta lại thêm tự hào về vẻ đẹp quê hương cũng như thêm hiểu biết về cuộc sống và con người giản dị nơi đây.
Du khách bốn phương khi đặt chân lên dải đất hình chữ S, lòng không khỏi luyến lưu trước vẻ đẹp vừa hoang sơ vừa thơ mộng của cụm danh thắng Tràng An, Bái Đính tại Ninh Bình.
Dừng chân ở Tràng An, mỗi buổi sáng bầu trời quang đãng, không gian trong lành làm tâm hồn ta khoan khoái, dễ chịu. Dòng sông uốn lượn mềm mại như con trăn khổng lồ, vắt qua cánh đồng phì nhiêu, thung lũng, ôm ấp những dãy núi cao ngất, uy nghi. Ngồi trên chiếc thuyền, ta giống như các nhà thám hiểm đang khám phá vùng đất mới, thưởng thức điều kì diệu của thiên nhiên. Làn nước xanh biếc, nhìn thấu đáy, nơi đàn cá mải tìm chỗ trú khi thấy mặt nước chuyển động, nơi những hòn đá cuội đủ màu sắc nằm phơi mình trong dòng nước mát lành. Sắc nước không xanh màu xanh canh hến mà ánh lên màu bích ngọc, lặng ánh chiếu bầu trời cao vời vợi. Con thuyền dưới sự điều khiển khéo léo, nhịp nhàng của người lái, rẽ nước nhẹ nhàng, từ từ xuôi đi, đưa ta chiêm ngưỡng quang cảnh dọc đôi bờ con nước. Những ngọn núi đá kì vĩ dựng giữa trời, sững sững như những bức tường thành vững chắc. Cây cối mọc ra tua tủa, xanh mát, vài chú dê chậm rãi ngẩng đầu, ngước nhìn những người khách bằng đôi mắt ngơ ngác, hiền lành. Có dịp, từng đàn vịt trời sà xuống lặn ngụp, thấy người chúng lại hoảng hốt vỗ cánh bay đi. Thiên nhiên Tràng An làm ta thấy tâm hồn tự tại, thư thái hơn trước nhịp sống yên ả. Điều kì thú nhất ở Tràng An là ngắm nhìn các hang động tự nhiên, nơi ghi dấu bàn tay tài hoa của tạo hóa. Từng dải nhũ thạch lung linh, ảo huyền dưới ánh đèn mờ. Nước phản chiếu ánh sáng làm không gian như rộng ra nhưng chiều dài, rộng của từng ngóc nghách trong hang là khác nhau. Sự thông thạo của người lái thuyền dẫn ta tham quan suối nước cảm nhận vị mát lạnh của làn nước. Hơi nước ngưng tụ trong khoảng không gian tạo cảm giác lành lạnh, những giọt nước rỏ xuống tong tong, sự luân chuyển trạng thái ấy làm vẻ đẹp trong hạng động còn nguyên vẹn. Khu sinh thái ở đây giúp ta có cơ hội tận hưởng những món ăn đặc sản của vùng miền và sự tiếp đón nhiệt tình, gần gũi của người dân địa phương.
|
“Dưới ánh mặt trời không có nghề nào cao quý hơn nghề dạy học” (Comenxki) còn “thầy cô chính là người cầm tay, mở ra trí óc và chạm đến trái tim”. Thế mới thấy những người thầy, người cô ngày đêm tận tâm, hi sinh vì học trò có vị trí quan trọng đến chừng nào. Nếu thế giới này không có những nhà giáo cũng đồng nghĩa với việc sẽ không có tri thức, khoa học và sự tiến bộ của nhân loại. Mọi người sẽ chìm trong biển đen tăm tối. Thầy cô- người trao đến những đứa trẻ nhiều hơn là kiến thức. Họ xứng đáng được cả xã hội kính trọng và ngưỡng mộ. Bởi thế mà ông cha ta đã dạy “tôn sự trọng đạo”. Trong chương trình ngữ văn lớp 10, ở bài làm văn số 7 ta bắt gặp đề bài dân tộc ta có truyền thống tôn sư trọng đạo; theo anh chị truyền thống ấy được tiếp nối như thế nào trong cuộc sống thực tế ngày nay.Đây là một dạng nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lí. Khi làm bài các bạn cần đảm bảo các bước như giải thích, nêu biểu hiện, bàn luận, mở rộng. Sau đây là hai bài văn mẫu như những gợi ý để các bann tham khảo. Chúc các bạn thành công!
Kho tàng ca dao tục ngữ của cha ông đã để lại cho ta bao nhiêu bài học quý giá về cách sống, lối sống, cách ứng xử để trở thành người sống ý nghĩa, biết kính trên nhường dưới. Và chắc hẳn mỗi người từng trài qua thời học sinh cũng đều rất thấm thía lời dạy: “Tôn sư trọng đạo”
Dân gian xưa cũng đã đúc rút rằng:
“Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”
Như vậy vai trò, vị trí của người thầy luôn có tầm quan trọng trong việc giáo dục mỗi cá nhân. Tương tự như vậy thì “tôn sư” tức là tôn trọng, kính trọng của người học trò với thầy giáo trong quá trình học tập và trong cuộc sống. Còn “trọng đạo” là coi trọng, thực hiện đúng những đạo lí, đạo đức tốt đẹp của một con người. Như vậy, câu tục ngữ ngắn gọn, súc tích như một bài học, một châm ngôn sống đồng thời là lời nhắc nhở mọi người phải biết lễ phép, tôn trọng thầy cô. Đó không chỉ là đạo nghĩa tất yếu ở đời mà còn là sự thể hiện đạo đức của mỗi cá nhân.
Từ xa xưa, khi mà việc học hành chưa được bài bản thì dân ta cũng ý thức được rằng “không thầy đố mày làm nên”. Còn ở phương Bắc, họ quan niệm: “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” (một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy). Thời phong kiến, trong bậc thang giá trị, nhà giáo chỉ xếp sau nhà vua nhưng trước cha mẹ: “Quân- Sư- Phụ”. Ngày nay, những nhà giáo được cả xã hội vinh danh là “kĩ sư tâm hồn” còn nghề dạy học là “nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý” (Hồ Chí Minh). Lớp lớp bao thầy cô giáo đã đóng góp sức mình vào sự nghiệp trồng người, truyền đạt cho học trò mình không chỉ kiến thức sách vở mà còn là kĩ năng sống, cách làm người, cách đối nhân xử thế… để khi bước ra khỏi giảng đường, ta trưởng thành và chững chạc hơn, có thể hướng tới thành công dễ dàng và thuận tiện hơn bằng gói kiến thức đã được trang bị. Bản thân mỗi người khi nhận được sự giáo dục đầy tận tâm để khôn lớn, trưởng thành hơn mỗi ngày thì chắc hẳn từ sâu thẳm trái tim đều dành sự yêu quý, kính trọng và biết ơn với thầy cô giáo. Thời xa xưa, Platon, Aritxtot, Khổng Tử… đã trở thành những bậc thánh trong lòng học trò, được biết bao thế hệ ngưỡng vọng và kính trọng. Dù ở phương Đông hay phương Tây, mối quan hệ thầy trò có bình đẳng tới đâu thì vị trí đáng kính của người thầy vẫn không hề bị mai một.
“Tôn sư trọng đạo” là một truyền thống tốt đẹp của loài người đặc biệt là ở Việt Nam- một dân tộc luôn tâm niệm “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn”. Truyền thống ấy được kéo dài và kế thừa, phát huy theo suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Nếu trẻ em như một tờ giấy trắng tinh, đầy ngây thơ và trong sáng thì chính những người thầy người cô sẽ nắn nót, cẩn thận viết lên đó những điều hay lẽ phải, những chân trời kiến thức, những bài học làm người. Tôn trọng thầy cô giáo cũng là biểu hiện của tình yêu với tri thức, lòng ham học hỏi, ý chí và khát vọng vươn tới những điều đẹp đẽ trong cuộc sống. Đối với người dân Việt Nam, có một người thầy được coi là người thầy vĩ đại của muôn đời, cả đời tận trung vì dân vì nước thầy giáo Chu Văn An. Thầy Đồ Chiểu dù có bị mù cả hai mắt nhưng cả đời vẫn kiên trung, không chịu khuất phục trước sức mạnh của bè lũ xâm lược. Ngày nay, bao thế hệ học sinh Việt Nam lại dành sự tôn trọng cho thầy giáo Văn Như Cương- con người tận tâm trong sự nghiệp giáo dục, hết lòng dạy dỗ học sinh đến tận những ngày cuối đời. Những người thầy đáng kính đó sẽ mãi mãi được những học trò Việt Nam tôn trọng và ca tụng.
Ngày nay truyền thống “tôn sự trọng đạo” đã có nhiều điều cần phải bàn. Các thầu cô vẫn vậy, vẫn cần mẫn ngày đêm nghiên cứu, nghiền ngẫm để đem đến cho học trò những bài học, những kiến thức quý giá nhất. Vậy mà một số cô cậu học trò không ý thức được điều ấy, nhiều lần làm thầy cô phiền lòng như vô lễ với thầy cô giáo, xúc phạm họ… Phải chăng đó là những lần người ta chót quên đi đạo làm trò hay đó là hệ quả của một cuộc sống biến đổi đến không ngừng mà ở đó Internet và một số công cụ khác đã trở thành một con dao hai lưỡi? Xã hội đã, đang và sẽ phê phán những học sinh như thế.
Chúng ta đang là những học sinh- những mầm non tương lai của đất nước nên hãy tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; cùng góp phần dựng xây đất nước như một cách đáp đền công lao cô thầy
Người xưa từng nói:”Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” nghĩa là “Một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy”. Từ xưa đến nay, truyền thống “Tôn sư trọng đạo” đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi con người Việt Nam, trở thành chuẩn mực đạo đức cho mỗi con người vào mỗi thời đại. Dù có bao biến cố xảy ra, xã hội có thay đổi nhưng người thầy vẫn giữ một vị trí trang trọng trong cuộc sống của mỗi con người.
Trước hết, “tôn” là tôn trọng, “sư” là thầy, “đạo” là đạo lí, lễ nghĩa mà thầy răn dạy. Như vậy, “Tôn sư trọng đạo” tức là nhắc đến sự tôn kính, kính trọng tới những người thầy giáo về những đạo nghĩa mà thầy đã truyền dạy. Chỉ với 4 từ ngắn gọn mà người xưa đã gửi gắm vào đó biết bao nhiêu giá trị. Câu nói không chỉ nhắc nhở cho mọi người về truyền thống quý báu ấy, nó còn nhắc nhở những thế hệ sau này – những lớp người đi sau cần cố gắng gìn giữ và bảo toàn trọn vẹn truyền thống của dân tộc. Đó là một truyền thống hết sức tốt đẹp của con người Việt Nam ta, được lưu truyền qua nhiều thế hệ và cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Khi xưa ta đã bắt gặp những ông đồ dạy chữ, cụ Chu Văn An đã được tôn vinh là nhà giáo vĩ đại nhất trong lịch sử nước Việt, thì cho đến nay, chúng ta có hẳn một ngày lễ lớn để tôn vinh các nhà giáo. Đó là ngày Hiến chương các Nhà giáo Việt Nam 20-11, là dịp mà mỗi người học trò dù hiện tại hay đã từng đều trở về và bày tỏ lòng biết ơn tới những người đã từng dạy dỗ mình qua bao năm tháng. Cô thầy không sinh thành nhưng lại có công dưỡng dục chúng ta nên người. Bởi vậy, mỗi mùa tri ân đến là mỗi mùa học sinh trở về bày tỏ tình thương mến của mình với những người đã chèo lái con thuyền tri thức cần mẫn ngày đêm. Đôi khi chỉ cần là một sự trở lại thăm ngôi trường xưa, chỉ cần là một cuốn sổ hay một lời chúc cũng đủ làm thầy cô vui lắm rồi. Chứng kiến những lớp học trò mình từng dạy dỗ khi xưa đã nên người, thử hỏi thầy cô nào không thấy lòng mình vui?
Đối với những nhà giáo có công lao to lớn tới sự phát triển giáo dục, nhà nước đã ban tặng những danh hiệu Nhà giáo ưu tú, Nhà giáo nhân dân rất cao quý. Đó là những phần thưởng xứng đáng dành cho những người có sức cống hiến lớn lao dành cho nền giáo dục, là sự tri ân dành cho những con người đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp trồng người.
Làm thầy, không gì vui hơn là việc nhìn ngắm từng lớp thế hệ học trò trưởng thành. Bởi vậy, sự nên người của học sihn chĩnh là món quà to lớn nhất dành cho thầy cô. Việc thi đua cố gắng học tập tốt, rèn luyện tốt để dành bông hoa điểm mười cho thầy cô mùa 20-11 là một hoạt động hết sức ý nghĩa mà mỗi nhà trường đều phát động mỗi mùa tri ân đến. Nhìn ngắm những mầm non tương lai của đất nước cố gắng hết sức để dành những bông hoa điểm tốt để dành tặng cô thầy, đó là niềm vui lớn mà bất kì nhà giáo nào cũng muốn mình được tặng.
|
“Dưới ánh mặt trời không có nghề nào cao quý hơn nghề dạy học” (Comenxki) còn “thầy cô chính là người cầm tay, mở ra trí óc và chạm đến trái tim”. Thế mới thấy những người thầy, người cô ngày đêm tận tâm, hi sinh vì học trò có vị trí quan trọng đến chừng nào. Nếu thế giới này không có những nhà giáo cũng đồng nghĩa với việc sẽ không có tri thức, khoa học và sự tiến bộ của nhân loại. Mọi người sẽ chìm trong biển đen tăm tối. Thầy cô- người trao đến những đứa trẻ nhiều hơn là kiến thức. Họ xứng đáng được cả xã hội kính trọng và ngưỡng mộ. Bởi thế mà ông cha ta đã dạy “tôn sự trọng đạo”. Trong chương trình ngữ văn lớp 10, ở bài làm văn số 7 ta bắt gặp đề bài dân tộc ta có truyền thống tôn sư trọng đạo; theo anh chị truyền thống ấy được tiếp nối như thế nào trong cuộc sống thực tế ngày nay.Đây là một dạng nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lí. Khi làm bài các bạn cần đảm bảo các bước như giải thích, nêu biểu hiện, bàn luận, mở rộng. Sau đây là hai bài văn mẫu như những gợi ý để các bann tham khảo. Chúc các bạn thành công!
Kho tàng ca dao tục ngữ của cha ông đã để lại cho ta bao nhiêu bài học quý giá về cách sống, lối sống, cách ứng xử để trở thành người sống ý nghĩa, biết kính trên nhường dưới. Và chắc hẳn mỗi người từng trài qua thời học sinh cũng đều rất thấm thía lời dạy: “Tôn sư trọng đạo”
Dân gian xưa cũng đã đúc rút rằng:
“Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”
Như vậy vai trò, vị trí của người thầy luôn có tầm quan trọng trong việc giáo dục mỗi cá nhân. Tương tự như vậy thì “tôn sư” tức là tôn trọng, kính trọng của người học trò với thầy giáo trong quá trình học tập và trong cuộc sống. Còn “trọng đạo” là coi trọng, thực hiện đúng những đạo lí, đạo đức tốt đẹp của một con người. Như vậy, câu tục ngữ ngắn gọn, súc tích như một bài học, một châm ngôn sống đồng thời là lời nhắc nhở mọi người phải biết lễ phép, tôn trọng thầy cô. Đó không chỉ là đạo nghĩa tất yếu ở đời mà còn là sự thể hiện đạo đức của mỗi cá nhân.
Từ xa xưa, khi mà việc học hành chưa được bài bản thì dân ta cũng ý thức được rằng “không thầy đố mày làm nên”. Còn ở phương Bắc, họ quan niệm: “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” (một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy). Thời phong kiến, trong bậc thang giá trị, nhà giáo chỉ xếp sau nhà vua nhưng trước cha mẹ: “Quân- Sư- Phụ”. Ngày nay, những nhà giáo được cả xã hội vinh danh là “kĩ sư tâm hồn” còn nghề dạy học là “nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý” (Hồ Chí Minh). Lớp lớp bao thầy cô giáo đã đóng góp sức mình vào sự nghiệp trồng người, truyền đạt cho học trò mình không chỉ kiến thức sách vở mà còn là kĩ năng sống, cách làm người, cách đối nhân xử thế… để khi bước ra khỏi giảng đường, ta trưởng thành và chững chạc hơn, có thể hướng tới thành công dễ dàng và thuận tiện hơn bằng gói kiến thức đã được trang bị. Bản thân mỗi người khi nhận được sự giáo dục đầy tận tâm để khôn lớn, trưởng thành hơn mỗi ngày thì chắc hẳn từ sâu thẳm trái tim đều dành sự yêu quý, kính trọng và biết ơn với thầy cô giáo. Thời xa xưa, Platon, Aritxtot, Khổng Tử… đã trở thành những bậc thánh trong lòng học trò, được biết bao thế hệ ngưỡng vọng và kính trọng. Dù ở phương Đông hay phương Tây, mối quan hệ thầy trò có bình đẳng tới đâu thì vị trí đáng kính của người thầy vẫn không hề bị mai một.
“Tôn sư trọng đạo” là một truyền thống tốt đẹp của loài người đặc biệt là ở Việt Nam- một dân tộc luôn tâm niệm “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn”. Truyền thống ấy được kéo dài và kế thừa, phát huy theo suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Nếu trẻ em như một tờ giấy trắng tinh, đầy ngây thơ và trong sáng thì chính những người thầy người cô sẽ nắn nót, cẩn thận viết lên đó những điều hay lẽ phải, những chân trời kiến thức, những bài học làm người. Tôn trọng thầy cô giáo cũng là biểu hiện của tình yêu với tri thức, lòng ham học hỏi, ý chí và khát vọng vươn tới những điều đẹp đẽ trong cuộc sống. Đối với người dân Việt Nam, có một người thầy được coi là người thầy vĩ đại của muôn đời, cả đời tận trung vì dân vì nước thầy giáo Chu Văn An. Thầy Đồ Chiểu dù có bị mù cả hai mắt nhưng cả đời vẫn kiên trung, không chịu khuất phục trước sức mạnh của bè lũ xâm lược. Ngày nay, bao thế hệ học sinh Việt Nam lại dành sự tôn trọng cho thầy giáo Văn Như Cương- con người tận tâm trong sự nghiệp giáo dục, hết lòng dạy dỗ học sinh đến tận những ngày cuối đời. Những người thầy đáng kính đó sẽ mãi mãi được những học trò Việt Nam tôn trọng và ca tụng.
Ngày nay truyền thống “tôn sự trọng đạo” đã có nhiều điều cần phải bàn. Các thầu cô vẫn vậy, vẫn cần mẫn ngày đêm nghiên cứu, nghiền ngẫm để đem đến cho học trò những bài học, những kiến thức quý giá nhất. Vậy mà một số cô cậu học trò không ý thức được điều ấy, nhiều lần làm thầy cô phiền lòng như vô lễ với thầy cô giáo, xúc phạm họ… Phải chăng đó là những lần người ta chót quên đi đạo làm trò hay đó là hệ quả của một cuộc sống biến đổi đến không ngừng mà ở đó Internet và một số công cụ khác đã trở thành một con dao hai lưỡi? Xã hội đã, đang và sẽ phê phán những học sinh như thế.
Chúng ta đang là những học sinh- những mầm non tương lai của đất nước nên hãy tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; cùng góp phần dựng xây đất nước như một cách đáp đền công lao cô thầy
Người xưa từng nói:”Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” nghĩa là “Một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy”. Từ xưa đến nay, truyền thống “Tôn sư trọng đạo” đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi con người Việt Nam, trở thành chuẩn mực đạo đức cho mỗi con người vào mỗi thời đại. Dù có bao biến cố xảy ra, xã hội có thay đổi nhưng người thầy vẫn giữ một vị trí trang trọng trong cuộc sống của mỗi con người.
Trước hết, “tôn” là tôn trọng, “sư” là thầy, “đạo” là đạo lí, lễ nghĩa mà thầy răn dạy. Như vậy, “Tôn sư trọng đạo” tức là nhắc đến sự tôn kính, kính trọng tới những người thầy giáo về những đạo nghĩa mà thầy đã truyền dạy. Chỉ với 4 từ ngắn gọn mà người xưa đã gửi gắm vào đó biết bao nhiêu giá trị. Câu nói không chỉ nhắc nhở cho mọi người về truyền thống quý báu ấy, nó còn nhắc nhở những thế hệ sau này – những lớp người đi sau cần cố gắng gìn giữ và bảo toàn trọn vẹn truyền thống của dân tộc. Đó là một truyền thống hết sức tốt đẹp của con người Việt Nam ta, được lưu truyền qua nhiều thế hệ và cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Khi xưa ta đã bắt gặp những ông đồ dạy chữ, cụ Chu Văn An đã được tôn vinh là nhà giáo vĩ đại nhất trong lịch sử nước Việt, thì cho đến nay, chúng ta có hẳn một ngày lễ lớn để tôn vinh các nhà giáo. Đó là ngày Hiến chương các Nhà giáo Việt Nam 20-11, là dịp mà mỗi người học trò dù hiện tại hay đã từng đều trở về và bày tỏ lòng biết ơn tới những người đã từng dạy dỗ mình qua bao năm tháng. Cô thầy không sinh thành nhưng lại có công dưỡng dục chúng ta nên người. Bởi vậy, mỗi mùa tri ân đến là mỗi mùa học sinh trở về bày tỏ tình thương mến của mình với những người đã chèo lái con thuyền tri thức cần mẫn ngày đêm. Đôi khi chỉ cần là một sự trở lại thăm ngôi trường xưa, chỉ cần là một cuốn sổ hay một lời chúc cũng đủ làm thầy cô vui lắm rồi. Chứng kiến những lớp học trò mình từng dạy dỗ khi xưa đã nên người, thử hỏi thầy cô nào không thấy lòng mình vui?
Đối với những nhà giáo có công lao to lớn tới sự phát triển giáo dục, nhà nước đã ban tặng những danh hiệu Nhà giáo ưu tú, Nhà giáo nhân dân rất cao quý. Đó là những phần thưởng xứng đáng dành cho những người có sức cống hiến lớn lao dành cho nền giáo dục, là sự tri ân dành cho những con người đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp trồng người.
Làm thầy, không gì vui hơn là việc nhìn ngắm từng lớp thế hệ học trò trưởng thành. Bởi vậy, sự nên người của học sihn chĩnh là món quà to lớn nhất dành cho thầy cô. Việc thi đua cố gắng học tập tốt, rèn luyện tốt để dành bông hoa điểm mười cho thầy cô mùa 20-11 là một hoạt động hết sức ý nghĩa mà mỗi nhà trường đều phát động mỗi mùa tri ân đến. Nhìn ngắm những mầm non tương lai của đất nước cố gắng hết sức để dành những bông hoa điểm tốt để dành tặng cô thầy, đó là niềm vui lớn mà bất kì nhà giáo nào cũng muốn mình được tặng.
|
“Dưới ánh mặt trời không có nghề nào cao quý hơn nghề dạy học” (Comenxki) còn “thầy cô chính là người cầm tay, mở ra trí óc và chạm đến trái tim”. Thế mới thấy những người thầy, người cô ngày đêm tận tâm, hi sinh vì học trò có vị trí quan trọng đến chừng nào. Nếu thế giới này không có những nhà giáo cũng đồng nghĩa với việc sẽ không có tri thức, khoa học và sự tiến bộ của nhân loại. Mọi người sẽ chìm trong biển đen tăm tối. Thầy cô- người trao đến những đứa trẻ nhiều hơn là kiến thức. Họ xứng đáng được cả xã hội kính trọng và ngưỡng mộ. Bởi thế mà ông cha ta đã dạy “tôn sự trọng đạo”. Trong chương trình ngữ văn lớp 10, ở bài làm văn số 7 ta bắt gặp đề bài dân tộc ta có truyền thống tôn sư trọng đạo; theo anh chị truyền thống ấy được tiếp nối như thế nào trong cuộc sống thực tế ngày nay.Đây là một dạng nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lí. Khi làm bài các bạn cần đảm bảo các bước như giải thích, nêu biểu hiện, bàn luận, mở rộng. Sau đây là hai bài văn mẫu như những gợi ý để các bann tham khảo. Chúc các bạn thành công!
Kho tàng ca dao tục ngữ của cha ông đã để lại cho ta bao nhiêu bài học quý giá về cách sống, lối sống, cách ứng xử để trở thành người sống ý nghĩa, biết kính trên nhường dưới. Và chắc hẳn mỗi người từng trài qua thời học sinh cũng đều rất thấm thía lời dạy: “Tôn sư trọng đạo”
Dân gian xưa cũng đã đúc rút rằng:
“Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”
Như vậy vai trò, vị trí của người thầy luôn có tầm quan trọng trong việc giáo dục mỗi cá nhân. Tương tự như vậy thì “tôn sư” tức là tôn trọng, kính trọng của người học trò với thầy giáo trong quá trình học tập và trong cuộc sống. Còn “trọng đạo” là coi trọng, thực hiện đúng những đạo lí, đạo đức tốt đẹp của một con người. Như vậy, câu tục ngữ ngắn gọn, súc tích như một bài học, một châm ngôn sống đồng thời là lời nhắc nhở mọi người phải biết lễ phép, tôn trọng thầy cô. Đó không chỉ là đạo nghĩa tất yếu ở đời mà còn là sự thể hiện đạo đức của mỗi cá nhân.
Từ xa xưa, khi mà việc học hành chưa được bài bản thì dân ta cũng ý thức được rằng “không thầy đố mày làm nên”. Còn ở phương Bắc, họ quan niệm: “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” (một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy). Thời phong kiến, trong bậc thang giá trị, nhà giáo chỉ xếp sau nhà vua nhưng trước cha mẹ: “Quân- Sư- Phụ”. Ngày nay, những nhà giáo được cả xã hội vinh danh là “kĩ sư tâm hồn” còn nghề dạy học là “nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý” (Hồ Chí Minh). Lớp lớp bao thầy cô giáo đã đóng góp sức mình vào sự nghiệp trồng người, truyền đạt cho học trò mình không chỉ kiến thức sách vở mà còn là kĩ năng sống, cách làm người, cách đối nhân xử thế… để khi bước ra khỏi giảng đường, ta trưởng thành và chững chạc hơn, có thể hướng tới thành công dễ dàng và thuận tiện hơn bằng gói kiến thức đã được trang bị. Bản thân mỗi người khi nhận được sự giáo dục đầy tận tâm để khôn lớn, trưởng thành hơn mỗi ngày thì chắc hẳn từ sâu thẳm trái tim đều dành sự yêu quý, kính trọng và biết ơn với thầy cô giáo. Thời xa xưa, Platon, Aritxtot, Khổng Tử… đã trở thành những bậc thánh trong lòng học trò, được biết bao thế hệ ngưỡng vọng và kính trọng. Dù ở phương Đông hay phương Tây, mối quan hệ thầy trò có bình đẳng tới đâu thì vị trí đáng kính của người thầy vẫn không hề bị mai một.
“Tôn sư trọng đạo” là một truyền thống tốt đẹp của loài người đặc biệt là ở Việt Nam- một dân tộc luôn tâm niệm “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn”. Truyền thống ấy được kéo dài và kế thừa, phát huy theo suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Nếu trẻ em như một tờ giấy trắng tinh, đầy ngây thơ và trong sáng thì chính những người thầy người cô sẽ nắn nót, cẩn thận viết lên đó những điều hay lẽ phải, những chân trời kiến thức, những bài học làm người. Tôn trọng thầy cô giáo cũng là biểu hiện của tình yêu với tri thức, lòng ham học hỏi, ý chí và khát vọng vươn tới những điều đẹp đẽ trong cuộc sống. Đối với người dân Việt Nam, có một người thầy được coi là người thầy vĩ đại của muôn đời, cả đời tận trung vì dân vì nước thầy giáo Chu Văn An. Thầy Đồ Chiểu dù có bị mù cả hai mắt nhưng cả đời vẫn kiên trung, không chịu khuất phục trước sức mạnh của bè lũ xâm lược. Ngày nay, bao thế hệ học sinh Việt Nam lại dành sự tôn trọng cho thầy giáo Văn Như Cương- con người tận tâm trong sự nghiệp giáo dục, hết lòng dạy dỗ học sinh đến tận những ngày cuối đời. Những người thầy đáng kính đó sẽ mãi mãi được những học trò Việt Nam tôn trọng và ca tụng.
Ngày nay truyền thống “tôn sự trọng đạo” đã có nhiều điều cần phải bàn. Các thầu cô vẫn vậy, vẫn cần mẫn ngày đêm nghiên cứu, nghiền ngẫm để đem đến cho học trò những bài học, những kiến thức quý giá nhất. Vậy mà một số cô cậu học trò không ý thức được điều ấy, nhiều lần làm thầy cô phiền lòng như vô lễ với thầy cô giáo, xúc phạm họ… Phải chăng đó là những lần người ta chót quên đi đạo làm trò hay đó là hệ quả của một cuộc sống biến đổi đến không ngừng mà ở đó Internet và một số công cụ khác đã trở thành một con dao hai lưỡi? Xã hội đã, đang và sẽ phê phán những học sinh như thế.
Chúng ta đang là những học sinh- những mầm non tương lai của đất nước nên hãy tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; cùng góp phần dựng xây đất nước như một cách đáp đền công lao cô thầy
Người xưa từng nói:”Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” nghĩa là “Một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy”. Từ xưa đến nay, truyền thống “Tôn sư trọng đạo” đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi con người Việt Nam, trở thành chuẩn mực đạo đức cho mỗi con người vào mỗi thời đại. Dù có bao biến cố xảy ra, xã hội có thay đổi nhưng người thầy vẫn giữ một vị trí trang trọng trong cuộc sống của mỗi con người.
Trước hết, “tôn” là tôn trọng, “sư” là thầy, “đạo” là đạo lí, lễ nghĩa mà thầy răn dạy. Như vậy, “Tôn sư trọng đạo” tức là nhắc đến sự tôn kính, kính trọng tới những người thầy giáo về những đạo nghĩa mà thầy đã truyền dạy. Chỉ với 4 từ ngắn gọn mà người xưa đã gửi gắm vào đó biết bao nhiêu giá trị. Câu nói không chỉ nhắc nhở cho mọi người về truyền thống quý báu ấy, nó còn nhắc nhở những thế hệ sau này – những lớp người đi sau cần cố gắng gìn giữ và bảo toàn trọn vẹn truyền thống của dân tộc. Đó là một truyền thống hết sức tốt đẹp của con người Việt Nam ta, được lưu truyền qua nhiều thế hệ và cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Khi xưa ta đã bắt gặp những ông đồ dạy chữ, cụ Chu Văn An đã được tôn vinh là nhà giáo vĩ đại nhất trong lịch sử nước Việt, thì cho đến nay, chúng ta có hẳn một ngày lễ lớn để tôn vinh các nhà giáo. Đó là ngày Hiến chương các Nhà giáo Việt Nam 20-11, là dịp mà mỗi người học trò dù hiện tại hay đã từng đều trở về và bày tỏ lòng biết ơn tới những người đã từng dạy dỗ mình qua bao năm tháng. Cô thầy không sinh thành nhưng lại có công dưỡng dục chúng ta nên người. Bởi vậy, mỗi mùa tri ân đến là mỗi mùa học sinh trở về bày tỏ tình thương mến của mình với những người đã chèo lái con thuyền tri thức cần mẫn ngày đêm. Đôi khi chỉ cần là một sự trở lại thăm ngôi trường xưa, chỉ cần là một cuốn sổ hay một lời chúc cũng đủ làm thầy cô vui lắm rồi. Chứng kiến những lớp học trò mình từng dạy dỗ khi xưa đã nên người, thử hỏi thầy cô nào không thấy lòng mình vui?
Đối với những nhà giáo có công lao to lớn tới sự phát triển giáo dục, nhà nước đã ban tặng những danh hiệu Nhà giáo ưu tú, Nhà giáo nhân dân rất cao quý. Đó là những phần thưởng xứng đáng dành cho những người có sức cống hiến lớn lao dành cho nền giáo dục, là sự tri ân dành cho những con người đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp trồng người.
Làm thầy, không gì vui hơn là việc nhìn ngắm từng lớp thế hệ học trò trưởng thành. Bởi vậy, sự nên người của học sihn chĩnh là món quà to lớn nhất dành cho thầy cô. Việc thi đua cố gắng học tập tốt, rèn luyện tốt để dành bông hoa điểm mười cho thầy cô mùa 20-11 là một hoạt động hết sức ý nghĩa mà mỗi nhà trường đều phát động mỗi mùa tri ân đến. Nhìn ngắm những mầm non tương lai của đất nước cố gắng hết sức để dành những bông hoa điểm tốt để dành tặng cô thầy, đó là niềm vui lớn mà bất kì nhà giáo nào cũng muốn mình được tặng.
|
“Dưới ánh mặt trời không có nghề nào cao quý hơn nghề dạy học” (Comenxki) còn “thầy cô chính là người cầm tay, mở ra trí óc và chạm đến trái tim”. Thế mới thấy những người thầy, người cô ngày đêm tận tâm, hi sinh vì học trò có vị trí quan trọng đến chừng nào. Nếu thế giới này không có những nhà giáo cũng đồng nghĩa với việc sẽ không có tri thức, khoa học và sự tiến bộ của nhân loại. Mọi người sẽ chìm trong biển đen tăm tối. Thầy cô- người trao đến những đứa trẻ nhiều hơn là kiến thức. Họ xứng đáng được cả xã hội kính trọng và ngưỡng mộ. Bởi thế mà ông cha ta đã dạy “tôn sự trọng đạo”. Trong chương trình ngữ văn lớp 10, ở bài làm văn số 7 ta bắt gặp đề bài dân tộc ta có truyền thống tôn sư trọng đạo; theo anh chị truyền thống ấy được tiếp nối như thế nào trong cuộc sống thực tế ngày nay.Đây là một dạng nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lí. Khi làm bài các bạn cần đảm bảo các bước như giải thích, nêu biểu hiện, bàn luận, mở rộng. Sau đây là hai bài văn mẫu như những gợi ý để các bann tham khảo. Chúc các bạn thành công!
Kho tàng ca dao tục ngữ của cha ông đã để lại cho ta bao nhiêu bài học quý giá về cách sống, lối sống, cách ứng xử để trở thành người sống ý nghĩa, biết kính trên nhường dưới. Và chắc hẳn mỗi người từng trài qua thời học sinh cũng đều rất thấm thía lời dạy: “Tôn sư trọng đạo”
Dân gian xưa cũng đã đúc rút rằng:
“Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”
Như vậy vai trò, vị trí của người thầy luôn có tầm quan trọng trong việc giáo dục mỗi cá nhân. Tương tự như vậy thì “tôn sư” tức là tôn trọng, kính trọng của người học trò với thầy giáo trong quá trình học tập và trong cuộc sống. Còn “trọng đạo” là coi trọng, thực hiện đúng những đạo lí, đạo đức tốt đẹp của một con người. Như vậy, câu tục ngữ ngắn gọn, súc tích như một bài học, một châm ngôn sống đồng thời là lời nhắc nhở mọi người phải biết lễ phép, tôn trọng thầy cô. Đó không chỉ là đạo nghĩa tất yếu ở đời mà còn là sự thể hiện đạo đức của mỗi cá nhân.
Từ xa xưa, khi mà việc học hành chưa được bài bản thì dân ta cũng ý thức được rằng “không thầy đố mày làm nên”. Còn ở phương Bắc, họ quan niệm: “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” (một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy). Thời phong kiến, trong bậc thang giá trị, nhà giáo chỉ xếp sau nhà vua nhưng trước cha mẹ: “Quân- Sư- Phụ”. Ngày nay, những nhà giáo được cả xã hội vinh danh là “kĩ sư tâm hồn” còn nghề dạy học là “nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý” (Hồ Chí Minh). Lớp lớp bao thầy cô giáo đã đóng góp sức mình vào sự nghiệp trồng người, truyền đạt cho học trò mình không chỉ kiến thức sách vở mà còn là kĩ năng sống, cách làm người, cách đối nhân xử thế… để khi bước ra khỏi giảng đường, ta trưởng thành và chững chạc hơn, có thể hướng tới thành công dễ dàng và thuận tiện hơn bằng gói kiến thức đã được trang bị. Bản thân mỗi người khi nhận được sự giáo dục đầy tận tâm để khôn lớn, trưởng thành hơn mỗi ngày thì chắc hẳn từ sâu thẳm trái tim đều dành sự yêu quý, kính trọng và biết ơn với thầy cô giáo. Thời xa xưa, Platon, Aritxtot, Khổng Tử… đã trở thành những bậc thánh trong lòng học trò, được biết bao thế hệ ngưỡng vọng và kính trọng. Dù ở phương Đông hay phương Tây, mối quan hệ thầy trò có bình đẳng tới đâu thì vị trí đáng kính của người thầy vẫn không hề bị mai một.
“Tôn sư trọng đạo” là một truyền thống tốt đẹp của loài người đặc biệt là ở Việt Nam- một dân tộc luôn tâm niệm “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn”. Truyền thống ấy được kéo dài và kế thừa, phát huy theo suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Nếu trẻ em như một tờ giấy trắng tinh, đầy ngây thơ và trong sáng thì chính những người thầy người cô sẽ nắn nót, cẩn thận viết lên đó những điều hay lẽ phải, những chân trời kiến thức, những bài học làm người. Tôn trọng thầy cô giáo cũng là biểu hiện của tình yêu với tri thức, lòng ham học hỏi, ý chí và khát vọng vươn tới những điều đẹp đẽ trong cuộc sống. Đối với người dân Việt Nam, có một người thầy được coi là người thầy vĩ đại của muôn đời, cả đời tận trung vì dân vì nước thầy giáo Chu Văn An. Thầy Đồ Chiểu dù có bị mù cả hai mắt nhưng cả đời vẫn kiên trung, không chịu khuất phục trước sức mạnh của bè lũ xâm lược. Ngày nay, bao thế hệ học sinh Việt Nam lại dành sự tôn trọng cho thầy giáo Văn Như Cương- con người tận tâm trong sự nghiệp giáo dục, hết lòng dạy dỗ học sinh đến tận những ngày cuối đời. Những người thầy đáng kính đó sẽ mãi mãi được những học trò Việt Nam tôn trọng và ca tụng.
Ngày nay truyền thống “tôn sự trọng đạo” đã có nhiều điều cần phải bàn. Các thầu cô vẫn vậy, vẫn cần mẫn ngày đêm nghiên cứu, nghiền ngẫm để đem đến cho học trò những bài học, những kiến thức quý giá nhất. Vậy mà một số cô cậu học trò không ý thức được điều ấy, nhiều lần làm thầy cô phiền lòng như vô lễ với thầy cô giáo, xúc phạm họ… Phải chăng đó là những lần người ta chót quên đi đạo làm trò hay đó là hệ quả của một cuộc sống biến đổi đến không ngừng mà ở đó Internet và một số công cụ khác đã trở thành một con dao hai lưỡi? Xã hội đã, đang và sẽ phê phán những học sinh như thế.
Chúng ta đang là những học sinh- những mầm non tương lai của đất nước nên hãy tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; cùng góp phần dựng xây đất nước như một cách đáp đền công lao cô thầy
Người xưa từng nói:”Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” nghĩa là “Một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy”. Từ xưa đến nay, truyền thống “Tôn sư trọng đạo” đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi con người Việt Nam, trở thành chuẩn mực đạo đức cho mỗi con người vào mỗi thời đại. Dù có bao biến cố xảy ra, xã hội có thay đổi nhưng người thầy vẫn giữ một vị trí trang trọng trong cuộc sống của mỗi con người.
Trước hết, “tôn” là tôn trọng, “sư” là thầy, “đạo” là đạo lí, lễ nghĩa mà thầy răn dạy. Như vậy, “Tôn sư trọng đạo” tức là nhắc đến sự tôn kính, kính trọng tới những người thầy giáo về những đạo nghĩa mà thầy đã truyền dạy. Chỉ với 4 từ ngắn gọn mà người xưa đã gửi gắm vào đó biết bao nhiêu giá trị. Câu nói không chỉ nhắc nhở cho mọi người về truyền thống quý báu ấy, nó còn nhắc nhở những thế hệ sau này – những lớp người đi sau cần cố gắng gìn giữ và bảo toàn trọn vẹn truyền thống của dân tộc. Đó là một truyền thống hết sức tốt đẹp của con người Việt Nam ta, được lưu truyền qua nhiều thế hệ và cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Khi xưa ta đã bắt gặp những ông đồ dạy chữ, cụ Chu Văn An đã được tôn vinh là nhà giáo vĩ đại nhất trong lịch sử nước Việt, thì cho đến nay, chúng ta có hẳn một ngày lễ lớn để tôn vinh các nhà giáo. Đó là ngày Hiến chương các Nhà giáo Việt Nam 20-11, là dịp mà mỗi người học trò dù hiện tại hay đã từng đều trở về và bày tỏ lòng biết ơn tới những người đã từng dạy dỗ mình qua bao năm tháng. Cô thầy không sinh thành nhưng lại có công dưỡng dục chúng ta nên người. Bởi vậy, mỗi mùa tri ân đến là mỗi mùa học sinh trở về bày tỏ tình thương mến của mình với những người đã chèo lái con thuyền tri thức cần mẫn ngày đêm. Đôi khi chỉ cần là một sự trở lại thăm ngôi trường xưa, chỉ cần là một cuốn sổ hay một lời chúc cũng đủ làm thầy cô vui lắm rồi. Chứng kiến những lớp học trò mình từng dạy dỗ khi xưa đã nên người, thử hỏi thầy cô nào không thấy lòng mình vui?
Đối với những nhà giáo có công lao to lớn tới sự phát triển giáo dục, nhà nước đã ban tặng những danh hiệu Nhà giáo ưu tú, Nhà giáo nhân dân rất cao quý. Đó là những phần thưởng xứng đáng dành cho những người có sức cống hiến lớn lao dành cho nền giáo dục, là sự tri ân dành cho những con người đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp trồng người.
Làm thầy, không gì vui hơn là việc nhìn ngắm từng lớp thế hệ học trò trưởng thành. Bởi vậy, sự nên người của học sihn chĩnh là món quà to lớn nhất dành cho thầy cô. Việc thi đua cố gắng học tập tốt, rèn luyện tốt để dành bông hoa điểm mười cho thầy cô mùa 20-11 là một hoạt động hết sức ý nghĩa mà mỗi nhà trường đều phát động mỗi mùa tri ân đến. Nhìn ngắm những mầm non tương lai của đất nước cố gắng hết sức để dành những bông hoa điểm tốt để dành tặng cô thầy, đó là niềm vui lớn mà bất kì nhà giáo nào cũng muốn mình được tặng.
|
Văn chương là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi con người từ xưa đến nay. Từ khi lọt lòng, ta đã nghe bà, nghe mẹ ầu ơ những câu ca dao, những câu chuyện cổ tích thần kì. Lớn hơn thì chúng ta đắm chìm trong những vần thơ, lời văn của những thi sĩ nổi danh Việt Nam cũng như thế giới. Bước ra ngoài cuộc sống, ta chạm ngõ tới văn chương trong giao tiếp, tức là lời ăn tiếng nói hàng ngày. Đi đâu, văn chương cũng luôn gắn bó mật thiết với đời sống con người. Ấy vậy, mà ngày nay có không ít bạn trẻ đang tỏ ra thờ ơ, chán nản và dần từ bỏ môn ngữ văn. Vì vậy, mình muốn chia sẻ chút kinh nghiệm học văn mà mình đúc rút được.
Trước tiên, chúng ta cần nâng cao ý thức tự học. Đây là yếu tố tiên quyết cần thiết đối với môn ngữ văn nói riêng và tất cả các bộ môn học khác nói chung. Vậy tự học môn văn là tự học những gì? Trước hết, chúng ta cần tự học thông qua các nguồn kiến thức phong phú, tổng hợp khác nhau như sách giáo khoa, mạng xã hội,… Bạn cần khai thác kĩ trong sách giáo khoa. Bao giờ trong sách giáo khoa cũng có hai phần bạn nên chú ý, đó là mục Kết quả cần đạt và Ghi nhớ. Ở đây bạn sẽ xác định được kiến thức trọng tâm bạn cần học là gì. Về văn xuôi, chúng ta nhất định phải nắm đc diễn biến câu chuyện, cách kể và giọng điệu của nhà văn, nhân vật trung tâm và những chi tiết, sự kiện xoay quanh nhân vật trung tâm đó.Về thơ, cần phải nắm được cảm hứng chủ đạo của thơ, kết cấu cảm hứng của bài thơ, đoạn thơ, những chi tiết, hình ảnh mà nhà thơ sử dụng để bộc lộ cảm xúc. Về kịch, phải nắm được những mâu thuẫn, xung đột, các lời thoại quan trong… Từ các chi tiết nghệ thuật ấy, tìm ra tư tưởng và tình cảm mà nhà văn gửi gắm cũng như tài năng nghệ thuật của nhà văn.
Dựa vào đó bạn sẽ xây dựng kiến thức trọng tâm của bài học, kết hợp với phần giảng và cho ghi của thầy cô ở trên lớp để hoàn thiện. Khi đã xác định đầy đủ kiến thức cơ bản, sử dụng các câu hỏi gợi ý trong sách giáo khoa để tìm hiểu kiến thức, bạn tiến hành tìm hiểu các tài liệu bên ngoài. Sách tham khảo, internet là lựa chọn tiếp theo của bạn. Hiện nay có một thực trạng là có quá nhiều sách tham khảo, quá nhiều trang điện tử về môn văn, mà rất khó kiểm soát được. Để mua được những cuốn sách tốt, chúng ta nên nhờ thầy cô có uy tín giới thiệu. Khi đọc tài liệu tham khảo, chúng ta không nên “bê” nguyên một bài viết của người khác vào làm bài của mình. Những người cầm bút nên nhớ không bao giờ được Đạo Văn. Đọc sách tham khảo không phải chỉ để chép mà còn để xem cách thức làm bài, triển khai vấn đề…
Thứ hai là chúng ta cần tự học trong kĩ năng viết bạn, có nghĩa là cần tích cực, chăm chỉ rèn luyện khả năng viết cho trôi chảy, màu sắc hơn. Nhiều người luôn cho rằng, việc viết văn là năng khiếu. Điều này đúng một phần, nhưng việc chăm chỉ luyện viết cũng góp phần nâng cao khả năng viết lách rất nhiều cho người học. Trước tiên là phải nắm được dạng đề, bởi một dạng đề có cách triển khai khác nhau. Hiện nay đa số các bạn sẽ học và thi ở dạng văn nghị luận, nên sẽ chú tâm vào dạng văn này. Bạn tìm hiểu thật kĩ các kiểu văn nghị luận, bố cục, dàn ý bài văn nghị luận, các thao tác nghị luận, lập luận… Sau đó, bạn tìm cách đọc những bài văn mẫu. Việc đọc văn mẫu giúp ích cho bạn rất nhiều trong cách triển khai, tổ chức bố cục, diễn đạt, hành văn trong bài viết. Tiếp tục là bạn phải tự mình tập viết những đoạn văn ngắn, những bài văn nhỏ. Khi mới tập không được viết cái gì quá lớn, quà dài sẽ dễ gây tâm lý chán nản. Khi tập bạn nên bắt đầu bằng những cái dễ, sau đó mới đến những cái khó. Chỉ cần dành ra khoảng 30 phút mỗi ngày để luyện tập, có lẽ không phải là điều quá khó với bất cứ ai. Vì vậy, đừng ngại ngần mà hãy bắt tay vào thực hiện luôn.
Ngoài ra, còn một yếu tố cũng quan trọng không kém việc tự học đó là cần chọn giáo viên sao cho phù hợp với bản thân người học. Nếu được thầy cô giỏi, tâm huyết giảng dạy và hướng dẫn, chúng ta sẽ vẫn thấy văn học hấp dẫn và thú vị hơn, hiểu vấn đề sâu sắc hơn.
Học văn không quá khó,nó hoàn toàn dựa vào sự chăm chỉ, nỗ lực và hứng thú của bạn với bộ môn này. Vì vậy, đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh, khả năng hay ngại ngần một điều gì, hãy bắt tay vào học văn một các hiệu quả ngay lúc này để cải thiện khả năng học tập và giao tiếp của bản thân.
Văn học vốn là một bộ môn bắt buộc trong chương trình giáo dục nước nhà. Tuy nhiên lại có rất nhiều người cảm thấy ngán ngẩm với bộ môn này bởi không thể nào có thể tiếp cận và làm chủ được kiến thức của nó. Vậy làm sao để chúng ta có thể học văn một cách tốt nhất, đó là câu hỏi mà nhiều người vẫn đang đau đầu đi tìm kiếm câu trả lời.
Trước hết, tác phẩm văn học thực chất là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ được xây dựng bằng trí tưởng tượng, sự trải nghiệm và tài năng của người nghệ sĩ. Tuy nhiên không phải ai cũng “cảm” được những gì nhà văn viết, tôi cho rằng học văn cần một chút năng khiếu. Đó chính là tài năng thiên bẩm có khả năng tiếp nhận được nhiều hơn những gì người khác thấy được, có thể đồng điệu tâm hồn cùng tác giả, sau đó mới đến công việc đồng sáng tạo. Viết văn cũng cần có năng khiếu. Không phải ai cũng mang trong mình một khả năng viết ra được những gì mình cảm nhận bằng một thứ ngôn ngữ giàu sức gợi. Cho nên học văn rất cần có một chút tài lẻ thiên bẩm.
Muốn học văn một cách sâu sắc thì cần phải nắm chắc những kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa. Những hiểu biết về tác giả, tác phẩm, những tư tưởng mấu chốt mà một tác phẩm đem lại cần phải ghi lòng tạc dạ khi học một bài học. Phải nắm kiến thức cơ bản trước đã rồi mới đến những kiến thức nâng cao và sự tìm tòi, khám phá của chính mình. Có được nền tảng cơ bản thì những sáng tạo sau này mới không bị lệch nhịp. Học kĩ những kiến thức trọng tâm của bài học mới có thể có được nền móng vững chắc cho bài viết của mình.
Tuy nhiên năng khiếu hay kiến thức cơ bản không phải quyết định sự thành công của việc làm văn. Có năng khiếu nhưng không trau dồi, không khai thác và rèn giũa thì chẳng mấy chốc mà nó cũng tan biến. Kiến thức cơ bản hầu như bất cứ người nào cũng từng được dạy qua. Học văn là phải đọc nhiều: đọc sách văn học, sách tham khảo, tài liệu, thậm chí là cả những trang báo viết. Đọc là cách khiến vốn ngôn ngữ của ta mở rộng hơn, có thể học tập được cách triển khai vấn đề, cách viết của nhiều tác giả nổi tiếng. Tuy nhiên học tập không có nghĩa là sao chép, đọc chỉ là một cách ta thu lượm kiến thức, mở mang vốn trải nghiệm văn học để bài viết trở nên đặc sắc hơn. Mỗi khi đọc một bài văn hay, một câu thơ đẹp, bạn có thể chép lại trong một cuốn sổ tay để làm tư liệu. Những mẩu thơ đó có thể sẽ trở thành những dẫn chứng độc dáo cho những bài viết sau này, khiến vốn văn học của ta càng thêm phong phú hơn.
|
Văn chương là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi con người từ xưa đến nay. Từ khi lọt lòng, ta đã nghe bà, nghe mẹ ầu ơ những câu ca dao, những câu chuyện cổ tích thần kì. Lớn hơn thì chúng ta đắm chìm trong những vần thơ, lời văn của những thi sĩ nổi danh Việt Nam cũng như thế giới. Bước ra ngoài cuộc sống, ta chạm ngõ tới văn chương trong giao tiếp, tức là lời ăn tiếng nói hàng ngày. Đi đâu, văn chương cũng luôn gắn bó mật thiết với đời sống con người. Ấy vậy, mà ngày nay có không ít bạn trẻ đang tỏ ra thờ ơ, chán nản và dần từ bỏ môn ngữ văn. Vì vậy, mình muốn chia sẻ chút kinh nghiệm học văn mà mình đúc rút được.
Trước tiên, chúng ta cần nâng cao ý thức tự học. Đây là yếu tố tiên quyết cần thiết đối với môn ngữ văn nói riêng và tất cả các bộ môn học khác nói chung. Vậy tự học môn văn là tự học những gì? Trước hết, chúng ta cần tự học thông qua các nguồn kiến thức phong phú, tổng hợp khác nhau như sách giáo khoa, mạng xã hội,… Bạn cần khai thác kĩ trong sách giáo khoa. Bao giờ trong sách giáo khoa cũng có hai phần bạn nên chú ý, đó là mục Kết quả cần đạt và Ghi nhớ. Ở đây bạn sẽ xác định được kiến thức trọng tâm bạn cần học là gì. Về văn xuôi, chúng ta nhất định phải nắm đc diễn biến câu chuyện, cách kể và giọng điệu của nhà văn, nhân vật trung tâm và những chi tiết, sự kiện xoay quanh nhân vật trung tâm đó.Về thơ, cần phải nắm được cảm hứng chủ đạo của thơ, kết cấu cảm hứng của bài thơ, đoạn thơ, những chi tiết, hình ảnh mà nhà thơ sử dụng để bộc lộ cảm xúc. Về kịch, phải nắm được những mâu thuẫn, xung đột, các lời thoại quan trong… Từ các chi tiết nghệ thuật ấy, tìm ra tư tưởng và tình cảm mà nhà văn gửi gắm cũng như tài năng nghệ thuật của nhà văn.
Dựa vào đó bạn sẽ xây dựng kiến thức trọng tâm của bài học, kết hợp với phần giảng và cho ghi của thầy cô ở trên lớp để hoàn thiện. Khi đã xác định đầy đủ kiến thức cơ bản, sử dụng các câu hỏi gợi ý trong sách giáo khoa để tìm hiểu kiến thức, bạn tiến hành tìm hiểu các tài liệu bên ngoài. Sách tham khảo, internet là lựa chọn tiếp theo của bạn. Hiện nay có một thực trạng là có quá nhiều sách tham khảo, quá nhiều trang điện tử về môn văn, mà rất khó kiểm soát được. Để mua được những cuốn sách tốt, chúng ta nên nhờ thầy cô có uy tín giới thiệu. Khi đọc tài liệu tham khảo, chúng ta không nên “bê” nguyên một bài viết của người khác vào làm bài của mình. Những người cầm bút nên nhớ không bao giờ được Đạo Văn. Đọc sách tham khảo không phải chỉ để chép mà còn để xem cách thức làm bài, triển khai vấn đề…
Thứ hai là chúng ta cần tự học trong kĩ năng viết bạn, có nghĩa là cần tích cực, chăm chỉ rèn luyện khả năng viết cho trôi chảy, màu sắc hơn. Nhiều người luôn cho rằng, việc viết văn là năng khiếu. Điều này đúng một phần, nhưng việc chăm chỉ luyện viết cũng góp phần nâng cao khả năng viết lách rất nhiều cho người học. Trước tiên là phải nắm được dạng đề, bởi một dạng đề có cách triển khai khác nhau. Hiện nay đa số các bạn sẽ học và thi ở dạng văn nghị luận, nên sẽ chú tâm vào dạng văn này. Bạn tìm hiểu thật kĩ các kiểu văn nghị luận, bố cục, dàn ý bài văn nghị luận, các thao tác nghị luận, lập luận… Sau đó, bạn tìm cách đọc những bài văn mẫu. Việc đọc văn mẫu giúp ích cho bạn rất nhiều trong cách triển khai, tổ chức bố cục, diễn đạt, hành văn trong bài viết. Tiếp tục là bạn phải tự mình tập viết những đoạn văn ngắn, những bài văn nhỏ. Khi mới tập không được viết cái gì quá lớn, quà dài sẽ dễ gây tâm lý chán nản. Khi tập bạn nên bắt đầu bằng những cái dễ, sau đó mới đến những cái khó. Chỉ cần dành ra khoảng 30 phút mỗi ngày để luyện tập, có lẽ không phải là điều quá khó với bất cứ ai. Vì vậy, đừng ngại ngần mà hãy bắt tay vào thực hiện luôn.
Ngoài ra, còn một yếu tố cũng quan trọng không kém việc tự học đó là cần chọn giáo viên sao cho phù hợp với bản thân người học. Nếu được thầy cô giỏi, tâm huyết giảng dạy và hướng dẫn, chúng ta sẽ vẫn thấy văn học hấp dẫn và thú vị hơn, hiểu vấn đề sâu sắc hơn.
Học văn không quá khó,nó hoàn toàn dựa vào sự chăm chỉ, nỗ lực và hứng thú của bạn với bộ môn này. Vì vậy, đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh, khả năng hay ngại ngần một điều gì, hãy bắt tay vào học văn một các hiệu quả ngay lúc này để cải thiện khả năng học tập và giao tiếp của bản thân.
Văn học vốn là một bộ môn bắt buộc trong chương trình giáo dục nước nhà. Tuy nhiên lại có rất nhiều người cảm thấy ngán ngẩm với bộ môn này bởi không thể nào có thể tiếp cận và làm chủ được kiến thức của nó. Vậy làm sao để chúng ta có thể học văn một cách tốt nhất, đó là câu hỏi mà nhiều người vẫn đang đau đầu đi tìm kiếm câu trả lời.
Trước hết, tác phẩm văn học thực chất là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ được xây dựng bằng trí tưởng tượng, sự trải nghiệm và tài năng của người nghệ sĩ. Tuy nhiên không phải ai cũng “cảm” được những gì nhà văn viết, tôi cho rằng học văn cần một chút năng khiếu. Đó chính là tài năng thiên bẩm có khả năng tiếp nhận được nhiều hơn những gì người khác thấy được, có thể đồng điệu tâm hồn cùng tác giả, sau đó mới đến công việc đồng sáng tạo. Viết văn cũng cần có năng khiếu. Không phải ai cũng mang trong mình một khả năng viết ra được những gì mình cảm nhận bằng một thứ ngôn ngữ giàu sức gợi. Cho nên học văn rất cần có một chút tài lẻ thiên bẩm.
Muốn học văn một cách sâu sắc thì cần phải nắm chắc những kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa. Những hiểu biết về tác giả, tác phẩm, những tư tưởng mấu chốt mà một tác phẩm đem lại cần phải ghi lòng tạc dạ khi học một bài học. Phải nắm kiến thức cơ bản trước đã rồi mới đến những kiến thức nâng cao và sự tìm tòi, khám phá của chính mình. Có được nền tảng cơ bản thì những sáng tạo sau này mới không bị lệch nhịp. Học kĩ những kiến thức trọng tâm của bài học mới có thể có được nền móng vững chắc cho bài viết của mình.
Tuy nhiên năng khiếu hay kiến thức cơ bản không phải quyết định sự thành công của việc làm văn. Có năng khiếu nhưng không trau dồi, không khai thác và rèn giũa thì chẳng mấy chốc mà nó cũng tan biến. Kiến thức cơ bản hầu như bất cứ người nào cũng từng được dạy qua. Học văn là phải đọc nhiều: đọc sách văn học, sách tham khảo, tài liệu, thậm chí là cả những trang báo viết. Đọc là cách khiến vốn ngôn ngữ của ta mở rộng hơn, có thể học tập được cách triển khai vấn đề, cách viết của nhiều tác giả nổi tiếng. Tuy nhiên học tập không có nghĩa là sao chép, đọc chỉ là một cách ta thu lượm kiến thức, mở mang vốn trải nghiệm văn học để bài viết trở nên đặc sắc hơn. Mỗi khi đọc một bài văn hay, một câu thơ đẹp, bạn có thể chép lại trong một cuốn sổ tay để làm tư liệu. Những mẩu thơ đó có thể sẽ trở thành những dẫn chứng độc dáo cho những bài viết sau này, khiến vốn văn học của ta càng thêm phong phú hơn.
|
Văn chương là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi con người từ xưa đến nay. Từ khi lọt lòng, ta đã nghe bà, nghe mẹ ầu ơ những câu ca dao, những câu chuyện cổ tích thần kì. Lớn hơn thì chúng ta đắm chìm trong những vần thơ, lời văn của những thi sĩ nổi danh Việt Nam cũng như thế giới. Bước ra ngoài cuộc sống, ta chạm ngõ tới văn chương trong giao tiếp, tức là lời ăn tiếng nói hàng ngày. Đi đâu, văn chương cũng luôn gắn bó mật thiết với đời sống con người. Ấy vậy, mà ngày nay có không ít bạn trẻ đang tỏ ra thờ ơ, chán nản và dần từ bỏ môn ngữ văn. Vì vậy, mình muốn chia sẻ chút kinh nghiệm học văn mà mình đúc rút được.
Trước tiên, chúng ta cần nâng cao ý thức tự học. Đây là yếu tố tiên quyết cần thiết đối với môn ngữ văn nói riêng và tất cả các bộ môn học khác nói chung. Vậy tự học môn văn là tự học những gì? Trước hết, chúng ta cần tự học thông qua các nguồn kiến thức phong phú, tổng hợp khác nhau như sách giáo khoa, mạng xã hội,… Bạn cần khai thác kĩ trong sách giáo khoa. Bao giờ trong sách giáo khoa cũng có hai phần bạn nên chú ý, đó là mục Kết quả cần đạt và Ghi nhớ. Ở đây bạn sẽ xác định được kiến thức trọng tâm bạn cần học là gì. Về văn xuôi, chúng ta nhất định phải nắm đc diễn biến câu chuyện, cách kể và giọng điệu của nhà văn, nhân vật trung tâm và những chi tiết, sự kiện xoay quanh nhân vật trung tâm đó.Về thơ, cần phải nắm được cảm hứng chủ đạo của thơ, kết cấu cảm hứng của bài thơ, đoạn thơ, những chi tiết, hình ảnh mà nhà thơ sử dụng để bộc lộ cảm xúc. Về kịch, phải nắm được những mâu thuẫn, xung đột, các lời thoại quan trong… Từ các chi tiết nghệ thuật ấy, tìm ra tư tưởng và tình cảm mà nhà văn gửi gắm cũng như tài năng nghệ thuật của nhà văn.
Dựa vào đó bạn sẽ xây dựng kiến thức trọng tâm của bài học, kết hợp với phần giảng và cho ghi của thầy cô ở trên lớp để hoàn thiện. Khi đã xác định đầy đủ kiến thức cơ bản, sử dụng các câu hỏi gợi ý trong sách giáo khoa để tìm hiểu kiến thức, bạn tiến hành tìm hiểu các tài liệu bên ngoài. Sách tham khảo, internet là lựa chọn tiếp theo của bạn. Hiện nay có một thực trạng là có quá nhiều sách tham khảo, quá nhiều trang điện tử về môn văn, mà rất khó kiểm soát được. Để mua được những cuốn sách tốt, chúng ta nên nhờ thầy cô có uy tín giới thiệu. Khi đọc tài liệu tham khảo, chúng ta không nên “bê” nguyên một bài viết của người khác vào làm bài của mình. Những người cầm bút nên nhớ không bao giờ được Đạo Văn. Đọc sách tham khảo không phải chỉ để chép mà còn để xem cách thức làm bài, triển khai vấn đề…
Thứ hai là chúng ta cần tự học trong kĩ năng viết bạn, có nghĩa là cần tích cực, chăm chỉ rèn luyện khả năng viết cho trôi chảy, màu sắc hơn. Nhiều người luôn cho rằng, việc viết văn là năng khiếu. Điều này đúng một phần, nhưng việc chăm chỉ luyện viết cũng góp phần nâng cao khả năng viết lách rất nhiều cho người học. Trước tiên là phải nắm được dạng đề, bởi một dạng đề có cách triển khai khác nhau. Hiện nay đa số các bạn sẽ học và thi ở dạng văn nghị luận, nên sẽ chú tâm vào dạng văn này. Bạn tìm hiểu thật kĩ các kiểu văn nghị luận, bố cục, dàn ý bài văn nghị luận, các thao tác nghị luận, lập luận… Sau đó, bạn tìm cách đọc những bài văn mẫu. Việc đọc văn mẫu giúp ích cho bạn rất nhiều trong cách triển khai, tổ chức bố cục, diễn đạt, hành văn trong bài viết. Tiếp tục là bạn phải tự mình tập viết những đoạn văn ngắn, những bài văn nhỏ. Khi mới tập không được viết cái gì quá lớn, quà dài sẽ dễ gây tâm lý chán nản. Khi tập bạn nên bắt đầu bằng những cái dễ, sau đó mới đến những cái khó. Chỉ cần dành ra khoảng 30 phút mỗi ngày để luyện tập, có lẽ không phải là điều quá khó với bất cứ ai. Vì vậy, đừng ngại ngần mà hãy bắt tay vào thực hiện luôn.
Ngoài ra, còn một yếu tố cũng quan trọng không kém việc tự học đó là cần chọn giáo viên sao cho phù hợp với bản thân người học. Nếu được thầy cô giỏi, tâm huyết giảng dạy và hướng dẫn, chúng ta sẽ vẫn thấy văn học hấp dẫn và thú vị hơn, hiểu vấn đề sâu sắc hơn.
Học văn không quá khó,nó hoàn toàn dựa vào sự chăm chỉ, nỗ lực và hứng thú của bạn với bộ môn này. Vì vậy, đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh, khả năng hay ngại ngần một điều gì, hãy bắt tay vào học văn một các hiệu quả ngay lúc này để cải thiện khả năng học tập và giao tiếp của bản thân.
Văn học vốn là một bộ môn bắt buộc trong chương trình giáo dục nước nhà. Tuy nhiên lại có rất nhiều người cảm thấy ngán ngẩm với bộ môn này bởi không thể nào có thể tiếp cận và làm chủ được kiến thức của nó. Vậy làm sao để chúng ta có thể học văn một cách tốt nhất, đó là câu hỏi mà nhiều người vẫn đang đau đầu đi tìm kiếm câu trả lời.
Trước hết, tác phẩm văn học thực chất là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ được xây dựng bằng trí tưởng tượng, sự trải nghiệm và tài năng của người nghệ sĩ. Tuy nhiên không phải ai cũng “cảm” được những gì nhà văn viết, tôi cho rằng học văn cần một chút năng khiếu. Đó chính là tài năng thiên bẩm có khả năng tiếp nhận được nhiều hơn những gì người khác thấy được, có thể đồng điệu tâm hồn cùng tác giả, sau đó mới đến công việc đồng sáng tạo. Viết văn cũng cần có năng khiếu. Không phải ai cũng mang trong mình một khả năng viết ra được những gì mình cảm nhận bằng một thứ ngôn ngữ giàu sức gợi. Cho nên học văn rất cần có một chút tài lẻ thiên bẩm.
Muốn học văn một cách sâu sắc thì cần phải nắm chắc những kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa. Những hiểu biết về tác giả, tác phẩm, những tư tưởng mấu chốt mà một tác phẩm đem lại cần phải ghi lòng tạc dạ khi học một bài học. Phải nắm kiến thức cơ bản trước đã rồi mới đến những kiến thức nâng cao và sự tìm tòi, khám phá của chính mình. Có được nền tảng cơ bản thì những sáng tạo sau này mới không bị lệch nhịp. Học kĩ những kiến thức trọng tâm của bài học mới có thể có được nền móng vững chắc cho bài viết của mình.
Tuy nhiên năng khiếu hay kiến thức cơ bản không phải quyết định sự thành công của việc làm văn. Có năng khiếu nhưng không trau dồi, không khai thác và rèn giũa thì chẳng mấy chốc mà nó cũng tan biến. Kiến thức cơ bản hầu như bất cứ người nào cũng từng được dạy qua. Học văn là phải đọc nhiều: đọc sách văn học, sách tham khảo, tài liệu, thậm chí là cả những trang báo viết. Đọc là cách khiến vốn ngôn ngữ của ta mở rộng hơn, có thể học tập được cách triển khai vấn đề, cách viết của nhiều tác giả nổi tiếng. Tuy nhiên học tập không có nghĩa là sao chép, đọc chỉ là một cách ta thu lượm kiến thức, mở mang vốn trải nghiệm văn học để bài viết trở nên đặc sắc hơn. Mỗi khi đọc một bài văn hay, một câu thơ đẹp, bạn có thể chép lại trong một cuốn sổ tay để làm tư liệu. Những mẩu thơ đó có thể sẽ trở thành những dẫn chứng độc dáo cho những bài viết sau này, khiến vốn văn học của ta càng thêm phong phú hơn.
|
Văn chương là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi con người từ xưa đến nay. Từ khi lọt lòng, ta đã nghe bà, nghe mẹ ầu ơ những câu ca dao, những câu chuyện cổ tích thần kì. Lớn hơn thì chúng ta đắm chìm trong những vần thơ, lời văn của những thi sĩ nổi danh Việt Nam cũng như thế giới. Bước ra ngoài cuộc sống, ta chạm ngõ tới văn chương trong giao tiếp, tức là lời ăn tiếng nói hàng ngày. Đi đâu, văn chương cũng luôn gắn bó mật thiết với đời sống con người. Ấy vậy, mà ngày nay có không ít bạn trẻ đang tỏ ra thờ ơ, chán nản và dần từ bỏ môn ngữ văn. Vì vậy, mình muốn chia sẻ chút kinh nghiệm học văn mà mình đúc rút được.
Trước tiên, chúng ta cần nâng cao ý thức tự học. Đây là yếu tố tiên quyết cần thiết đối với môn ngữ văn nói riêng và tất cả các bộ môn học khác nói chung. Vậy tự học môn văn là tự học những gì? Trước hết, chúng ta cần tự học thông qua các nguồn kiến thức phong phú, tổng hợp khác nhau như sách giáo khoa, mạng xã hội,… Bạn cần khai thác kĩ trong sách giáo khoa. Bao giờ trong sách giáo khoa cũng có hai phần bạn nên chú ý, đó là mục Kết quả cần đạt và Ghi nhớ. Ở đây bạn sẽ xác định được kiến thức trọng tâm bạn cần học là gì. Về văn xuôi, chúng ta nhất định phải nắm đc diễn biến câu chuyện, cách kể và giọng điệu của nhà văn, nhân vật trung tâm và những chi tiết, sự kiện xoay quanh nhân vật trung tâm đó.Về thơ, cần phải nắm được cảm hứng chủ đạo của thơ, kết cấu cảm hứng của bài thơ, đoạn thơ, những chi tiết, hình ảnh mà nhà thơ sử dụng để bộc lộ cảm xúc. Về kịch, phải nắm được những mâu thuẫn, xung đột, các lời thoại quan trong… Từ các chi tiết nghệ thuật ấy, tìm ra tư tưởng và tình cảm mà nhà văn gửi gắm cũng như tài năng nghệ thuật của nhà văn.
Dựa vào đó bạn sẽ xây dựng kiến thức trọng tâm của bài học, kết hợp với phần giảng và cho ghi của thầy cô ở trên lớp để hoàn thiện. Khi đã xác định đầy đủ kiến thức cơ bản, sử dụng các câu hỏi gợi ý trong sách giáo khoa để tìm hiểu kiến thức, bạn tiến hành tìm hiểu các tài liệu bên ngoài. Sách tham khảo, internet là lựa chọn tiếp theo của bạn. Hiện nay có một thực trạng là có quá nhiều sách tham khảo, quá nhiều trang điện tử về môn văn, mà rất khó kiểm soát được. Để mua được những cuốn sách tốt, chúng ta nên nhờ thầy cô có uy tín giới thiệu. Khi đọc tài liệu tham khảo, chúng ta không nên “bê” nguyên một bài viết của người khác vào làm bài của mình. Những người cầm bút nên nhớ không bao giờ được Đạo Văn. Đọc sách tham khảo không phải chỉ để chép mà còn để xem cách thức làm bài, triển khai vấn đề…
Thứ hai là chúng ta cần tự học trong kĩ năng viết bạn, có nghĩa là cần tích cực, chăm chỉ rèn luyện khả năng viết cho trôi chảy, màu sắc hơn. Nhiều người luôn cho rằng, việc viết văn là năng khiếu. Điều này đúng một phần, nhưng việc chăm chỉ luyện viết cũng góp phần nâng cao khả năng viết lách rất nhiều cho người học. Trước tiên là phải nắm được dạng đề, bởi một dạng đề có cách triển khai khác nhau. Hiện nay đa số các bạn sẽ học và thi ở dạng văn nghị luận, nên sẽ chú tâm vào dạng văn này. Bạn tìm hiểu thật kĩ các kiểu văn nghị luận, bố cục, dàn ý bài văn nghị luận, các thao tác nghị luận, lập luận… Sau đó, bạn tìm cách đọc những bài văn mẫu. Việc đọc văn mẫu giúp ích cho bạn rất nhiều trong cách triển khai, tổ chức bố cục, diễn đạt, hành văn trong bài viết. Tiếp tục là bạn phải tự mình tập viết những đoạn văn ngắn, những bài văn nhỏ. Khi mới tập không được viết cái gì quá lớn, quà dài sẽ dễ gây tâm lý chán nản. Khi tập bạn nên bắt đầu bằng những cái dễ, sau đó mới đến những cái khó. Chỉ cần dành ra khoảng 30 phút mỗi ngày để luyện tập, có lẽ không phải là điều quá khó với bất cứ ai. Vì vậy, đừng ngại ngần mà hãy bắt tay vào thực hiện luôn.
Ngoài ra, còn một yếu tố cũng quan trọng không kém việc tự học đó là cần chọn giáo viên sao cho phù hợp với bản thân người học. Nếu được thầy cô giỏi, tâm huyết giảng dạy và hướng dẫn, chúng ta sẽ vẫn thấy văn học hấp dẫn và thú vị hơn, hiểu vấn đề sâu sắc hơn.
Học văn không quá khó,nó hoàn toàn dựa vào sự chăm chỉ, nỗ lực và hứng thú của bạn với bộ môn này. Vì vậy, đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh, khả năng hay ngại ngần một điều gì, hãy bắt tay vào học văn một các hiệu quả ngay lúc này để cải thiện khả năng học tập và giao tiếp của bản thân.
Văn học vốn là một bộ môn bắt buộc trong chương trình giáo dục nước nhà. Tuy nhiên lại có rất nhiều người cảm thấy ngán ngẩm với bộ môn này bởi không thể nào có thể tiếp cận và làm chủ được kiến thức của nó. Vậy làm sao để chúng ta có thể học văn một cách tốt nhất, đó là câu hỏi mà nhiều người vẫn đang đau đầu đi tìm kiếm câu trả lời.
Trước hết, tác phẩm văn học thực chất là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ được xây dựng bằng trí tưởng tượng, sự trải nghiệm và tài năng của người nghệ sĩ. Tuy nhiên không phải ai cũng “cảm” được những gì nhà văn viết, tôi cho rằng học văn cần một chút năng khiếu. Đó chính là tài năng thiên bẩm có khả năng tiếp nhận được nhiều hơn những gì người khác thấy được, có thể đồng điệu tâm hồn cùng tác giả, sau đó mới đến công việc đồng sáng tạo. Viết văn cũng cần có năng khiếu. Không phải ai cũng mang trong mình một khả năng viết ra được những gì mình cảm nhận bằng một thứ ngôn ngữ giàu sức gợi. Cho nên học văn rất cần có một chút tài lẻ thiên bẩm.
Muốn học văn một cách sâu sắc thì cần phải nắm chắc những kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa. Những hiểu biết về tác giả, tác phẩm, những tư tưởng mấu chốt mà một tác phẩm đem lại cần phải ghi lòng tạc dạ khi học một bài học. Phải nắm kiến thức cơ bản trước đã rồi mới đến những kiến thức nâng cao và sự tìm tòi, khám phá của chính mình. Có được nền tảng cơ bản thì những sáng tạo sau này mới không bị lệch nhịp. Học kĩ những kiến thức trọng tâm của bài học mới có thể có được nền móng vững chắc cho bài viết của mình.
Tuy nhiên năng khiếu hay kiến thức cơ bản không phải quyết định sự thành công của việc làm văn. Có năng khiếu nhưng không trau dồi, không khai thác và rèn giũa thì chẳng mấy chốc mà nó cũng tan biến. Kiến thức cơ bản hầu như bất cứ người nào cũng từng được dạy qua. Học văn là phải đọc nhiều: đọc sách văn học, sách tham khảo, tài liệu, thậm chí là cả những trang báo viết. Đọc là cách khiến vốn ngôn ngữ của ta mở rộng hơn, có thể học tập được cách triển khai vấn đề, cách viết của nhiều tác giả nổi tiếng. Tuy nhiên học tập không có nghĩa là sao chép, đọc chỉ là một cách ta thu lượm kiến thức, mở mang vốn trải nghiệm văn học để bài viết trở nên đặc sắc hơn. Mỗi khi đọc một bài văn hay, một câu thơ đẹp, bạn có thể chép lại trong một cuốn sổ tay để làm tư liệu. Những mẩu thơ đó có thể sẽ trở thành những dẫn chứng độc dáo cho những bài viết sau này, khiến vốn văn học của ta càng thêm phong phú hơn.
|
Tự bao giờ đến bây giờ, thơ ca vẫn luôn có sức đồng cảm mãnh liệt với con người. Từ thuở sơ khai, khi con người bắt đầu cuộc sống nguyên sơ, thơ ca đã trở thành người bạn đường không thể thiếu. Những khi mệt nhọc hay nhàn hạ, khi đau buồn hay hạnh phúc, họ đều cất lên những câu ca để thể hiện nỗi lòng và tìm tiếng nói đồng cảm với mọi người. Và ca dao ra đời. Những câu ca dao yêu thương tình nghĩa đã làm phong phú đời sống tinh thần của con người, là tấm gương phản chiếu tâm hồn qua các thế hệ. Một trong những câu ca dao hay nhất là những câu viết về tình yêu đôi lứa. Có thể kể đến câu ca dao: “Trèo lên câu khế nửa ngày…” Trong chương trình lớp 10, các bạn sẽ được phân tích bài ca dao trên. Chú ý chia các câu thơ thành ý rõ ràng, hợp lí, phân tích có giọng điệu và cảm nhận riêng của mình. Sau đây sẽ là một số bài viết mẫu các bạn có thể tham khảo trước khi viết bài. Chúc các bạn học tập tốt!
Trong cuốn “Đaghetxtan của tôi”, nhà thơ Nga Raxun Gamzatop từng viết:
Những câu thơ hay nhất, rung cảm lòng người không phải là những câu thơ sang trọng, mực thước, là mẫu mực muôn thuở mà lại là những câu thơ giản dị đến không ngờ nhưng lại được cất lên từ chính tấm lòng chân thật của con người. Đó chính là những câu ca dao. Một trong những bài ca dao yêu thương tình nghĩa ghi dấu ấn trong lòng người đọc là bài ca dao:
Bài ca là tiếng nói tiếc nuối, xót xa của những chàng trai gặp cảnh tình duyên lỡ dở.
Bài ca dao mở đầu với thế hứng rất quen thuộc trong văn học dân gian, như bài ca dao:
Hay:
Trèo lên cây khế là việc rất bình thường, nhưng ở trên cây khế đến “nửa ngày” thì thật là vô lí! Nhưng chính cái vô lí ấy lại diễn đạt đúng tâm trạng của chàng trai: chua xót đến ngơ ngẩn. “Ai làm chua xót lòng này, khế ơi!”, câu đầu đã mở lối một cách hết sức tự nhiên cho lời tâm sự bật ra ở câu thứ hai. Nỗi chua xót trong lòng chàng trai vì “ai” đó, chỉ biết ngỏ cùng cây khế. Vì đâu mà chua xót? Vì một lí do nào đó, có thể là ngần ngại không dám nói ra lời yêu? vì cha mẹ không đồng ý? Hoặc vì gia cảnh? Nhưng dù sao thì họ cũng không thể vẹn tròn hạnh phúc. Chàng trai không biết làm gì, đành buông lời luyến tiếc: “Ai làm chua xót lòng này, khế ơi!” Âm điệu xót xa nằm ngay ở hai chữ “chua xót”- một nỗi đau nhức nhối, khôn nguôi. Đó không phải lời đãi bôi, nói vui đùa với cô gái mà là lời luyến tiếc. Bởi càng yêu nhiều lại càng tiếc nhiều, lại chỉ có thể ngậm ngùi:
Tuy tình duyên lỡ dở, tình cảm của chàng trai không trọn vẹn nhưng tấm lòng vẫn bền vững, thủy chung:
Những cặp hình ảnh sóng đôi: “mặt trăng” và “mặt trời”; “sao Hôm” và “sao Mai”, “sao Vượt” và “trăng” như hình ảnh của anh và em, của “ta” và “mình”. Có ngày thì không có đêm, có mặt trời thì không thể có mặt trăng, sao Hôm và sao Mai, sao Vượt và trăng dẫu cùng một bầu trời vẫn muôn trùng xa cách. Càng xa cách lại càng nhớ thương vời vợi, để rồi nỗi nhớ bật lên thành câu hỏi da diết: “Mình đi có nhớ ta chăng?”. Những câu hỏi như thế xuất hiện khá nhiều trong ca dao tình yêu:
Danh xưng “ta” và “mình” thể hiện sự gắn bó trong hai con người, thân thiết như vợ chồng. Với người con trai, người con gái ấy đã trở thành một phần không thể thiếu của cuộc sống. Dẫu anh và em phải xa cách, dẫu tình cảm không thể trọn vẹn thì chàng trai vẫn hướng về mình, về tình cảm đôi mình trong liên tưởng đẹp đẽ. Và vượt lên tất cả là tấm lòng son sắt không đổi thay- là lối sống cao đẹp trong ứng xử của tâm hồn, tính cách Việt.
|
From ever until now, poetry has always had the power to sympathize with people. Since the beginning of time, when people began their primitive lives, poetry has become an indispensable companion. When they are tired or leisurely, when they are sad or happy, they sing songs to express their feelings and find a voice to sympathize with everyone. And folk songs were born. Love and gratitude folk songs have enriched people's spiritual lives and are a mirror reflecting the soul through generations. One of the best folk songs are those about love between couples. We can mention the folk song: "Climb the star fruit tree for half a day..." In the 10th grade program, you will analyze the above folk song. Pay attention to dividing the verses into clear, logical ideas, analyzing with your own tone and feeling. Below are some sample articles that you can refer to before writing. Hope you learn well!
In the book "My Daghesttan", Russian poet Raxun Gamzatop once wrote:
The best verses that touch people's hearts are not the luxurious, exemplary verses that are eternal models, but the verses that are surprisingly simple but are sung from the true heart of the poet. human. Those are folk songs. One of the folk songs of love and gratitude that leaves an impression on the hearts of readers is the folk song:
The song is the voice of regret and sadness of boys who have had a failed love affair.
The folk song opens with a very familiar motif in folk literature, like the folk song:
Or:
Climbing a starfruit tree is a very normal thing, but staying on a starfruit tree for "half a day" is really unreasonable! But that absurdity accurately expressed the boy's mood: bitter to the point of bewilderment. “Who made this so sad, star fruit!”, the first sentence very naturally opens the way for the confession that pops out in the second sentence. The bitterness in the young man's heart because of that "someone" could only be addressed to the star fruit tree. Why is it bitter? For some reason, maybe he is hesitant to say the words of love? Because parents don't agree? Or because of family circumstances? But anyway, they cannot be completely happy. The boy didn't know what to do, so he let out a regretful voice: "Who made this sad, star fruit!" The tone of sadness lies right in the words "sour" - a painful, inconsolable pain. That was not a compliment or a joke to the girl, but a word of regret. Because the more you love, the more you regret, and you can only feel sad:
Although the love affair ended and the boy's feelings were not complete, his heart remained steadfast and faithful:
Pairs of parallel images: “moon” and “sun”; "Evening star" and "Morning star", "Crossing star" and "moon" are like images of you and me, of "us" and "yours". If there is a day there is no night, if there is a sun there cannot be a moon, the Evening star and the Morning star, the Surpass star and the moon, even though they are in the same sky, are still forever separate. The more we are apart, the more we miss each other, and then the nostalgia turns into a burning question: "Will you miss me when I'm gone?". Questions like that appear quite a lot in love folk songs:
The titles "I" and "me" express the attachment between two people, as close as husband and wife. For the boy, the girl has become an indispensable part of life. Even though you and I have to be apart, even though our feelings cannot be complete, the boy still looks towards him, about our love in a beautiful association. And beyond it all is an unchanging heart - a noble way of life in the conduct of the Vietnamese soul and character.
|
Tự bao giờ đến bây giờ, thơ ca vẫn luôn có sức đồng cảm mãnh liệt với con người. Từ thuở sơ khai, khi con người bắt đầu cuộc sống nguyên sơ, thơ ca đã trở thành người bạn đường không thể thiếu. Những khi mệt nhọc hay nhàn hạ, khi đau buồn hay hạnh phúc, họ đều cất lên những câu ca để thể hiện nỗi lòng và tìm tiếng nói đồng cảm với mọi người. Và ca dao ra đời. Những câu ca dao yêu thương tình nghĩa đã làm phong phú đời sống tinh thần của con người, là tấm gương phản chiếu tâm hồn qua các thế hệ. Một trong những câu ca dao hay nhất là những câu viết về tình yêu đôi lứa. Có thể kể đến câu ca dao: “Trèo lên câu khế nửa ngày…” Trong chương trình lớp 10, các bạn sẽ được phân tích bài ca dao trên. Chú ý chia các câu thơ thành ý rõ ràng, hợp lí, phân tích có giọng điệu và cảm nhận riêng của mình. Sau đây sẽ là một số bài viết mẫu các bạn có thể tham khảo trước khi viết bài. Chúc các bạn học tập tốt!
Trong cuốn “Đaghetxtan của tôi”, nhà thơ Nga Raxun Gamzatop từng viết:
Những câu thơ hay nhất, rung cảm lòng người không phải là những câu thơ sang trọng, mực thước, là mẫu mực muôn thuở mà lại là những câu thơ giản dị đến không ngờ nhưng lại được cất lên từ chính tấm lòng chân thật của con người. Đó chính là những câu ca dao. Một trong những bài ca dao yêu thương tình nghĩa ghi dấu ấn trong lòng người đọc là bài ca dao:
Bài ca là tiếng nói tiếc nuối, xót xa của những chàng trai gặp cảnh tình duyên lỡ dở.
Bài ca dao mở đầu với thế hứng rất quen thuộc trong văn học dân gian, như bài ca dao:
Hay:
Trèo lên cây khế là việc rất bình thường, nhưng ở trên cây khế đến “nửa ngày” thì thật là vô lí! Nhưng chính cái vô lí ấy lại diễn đạt đúng tâm trạng của chàng trai: chua xót đến ngơ ngẩn. “Ai làm chua xót lòng này, khế ơi!”, câu đầu đã mở lối một cách hết sức tự nhiên cho lời tâm sự bật ra ở câu thứ hai. Nỗi chua xót trong lòng chàng trai vì “ai” đó, chỉ biết ngỏ cùng cây khế. Vì đâu mà chua xót? Vì một lí do nào đó, có thể là ngần ngại không dám nói ra lời yêu? vì cha mẹ không đồng ý? Hoặc vì gia cảnh? Nhưng dù sao thì họ cũng không thể vẹn tròn hạnh phúc. Chàng trai không biết làm gì, đành buông lời luyến tiếc: “Ai làm chua xót lòng này, khế ơi!” Âm điệu xót xa nằm ngay ở hai chữ “chua xót”- một nỗi đau nhức nhối, khôn nguôi. Đó không phải lời đãi bôi, nói vui đùa với cô gái mà là lời luyến tiếc. Bởi càng yêu nhiều lại càng tiếc nhiều, lại chỉ có thể ngậm ngùi:
Tuy tình duyên lỡ dở, tình cảm của chàng trai không trọn vẹn nhưng tấm lòng vẫn bền vững, thủy chung:
Những cặp hình ảnh sóng đôi: “mặt trăng” và “mặt trời”; “sao Hôm” và “sao Mai”, “sao Vượt” và “trăng” như hình ảnh của anh và em, của “ta” và “mình”. Có ngày thì không có đêm, có mặt trời thì không thể có mặt trăng, sao Hôm và sao Mai, sao Vượt và trăng dẫu cùng một bầu trời vẫn muôn trùng xa cách. Càng xa cách lại càng nhớ thương vời vợi, để rồi nỗi nhớ bật lên thành câu hỏi da diết: “Mình đi có nhớ ta chăng?”. Những câu hỏi như thế xuất hiện khá nhiều trong ca dao tình yêu:
Danh xưng “ta” và “mình” thể hiện sự gắn bó trong hai con người, thân thiết như vợ chồng. Với người con trai, người con gái ấy đã trở thành một phần không thể thiếu của cuộc sống. Dẫu anh và em phải xa cách, dẫu tình cảm không thể trọn vẹn thì chàng trai vẫn hướng về mình, về tình cảm đôi mình trong liên tưởng đẹp đẽ. Và vượt lên tất cả là tấm lòng son sắt không đổi thay- là lối sống cao đẹp trong ứng xử của tâm hồn, tính cách Việt.
|
From ever until now, poetry has always had the power to sympathize with people. Since the beginning of time, when people began their primitive lives, poetry has become an indispensable companion. When they are tired or leisurely, when they are sad or happy, they sing songs to express their feelings and find a voice to sympathize with everyone. And folk songs were born. Love and gratitude folk songs have enriched people's spiritual lives and are a mirror reflecting the soul through generations. One of the best folk songs are those about love between couples. We can mention the folk song: "Climb the star fruit tree for half a day..." In the 10th grade program, you will analyze the above folk song. Pay attention to dividing the verses into clear, logical ideas, analyzing with your own tone and feeling. Below are some sample articles that you can refer to before writing. Hope you learn well!
In the book "My Daghesttan", Russian poet Raxun Gamzatop once wrote:
The best verses that touch people's hearts are not the luxurious, exemplary verses that are eternal models, but the verses that are surprisingly simple but are sung from the true heart of the poet. human. Those are folk songs. One of the folk songs of love and gratitude that leaves an impression on the hearts of readers is the folk song:
The song is the voice of regret and sadness of boys who have had a failed love affair.
The folk song opens with a very familiar motif in folk literature, like the folk song:
Or:
Climbing a starfruit tree is a very normal thing, but staying on a starfruit tree for "half a day" is really unreasonable! But that absurdity accurately expressed the boy's mood: bitter to the point of bewilderment. “Who made this so sad, star fruit!”, the first sentence very naturally opens the way for the confession that pops out in the second sentence. The bitterness in the young man's heart because of that "someone" could only be addressed to the star fruit tree. Why is it bitter? For some reason, maybe he is hesitant to say the words of love? Because parents don't agree? Or because of family circumstances? But anyway, they cannot be completely happy. The boy didn't know what to do, so he let out a regretful voice: "Who made this sad, star fruit!" The tone of sadness lies right in the words "sour" - a painful, inconsolable pain. That was not a compliment or a joke to the girl, but a word of regret. Because the more you love, the more you regret, and you can only feel sad:
Although the love affair ended and the boy's feelings were not complete, his heart remained steadfast and faithful:
Pairs of parallel images: “moon” and “sun”; "Evening star" and "Morning star", "Crossing star" and "moon" are like images of you and me, of "us" and "yours". If there is a day there is no night, if there is a sun there cannot be a moon, the Evening star and the Morning star, the Surpass star and the moon, even though they are in the same sky, are still forever separate. The more we are apart, the more we miss each other, and then the nostalgia turns into a burning question: "Will you miss me when I'm gone?". Questions like that appear quite a lot in love folk songs:
The titles "I" and "me" express the attachment between two people, as close as husband and wife. For the boy, the girl has become an indispensable part of life. Even though you and I have to be apart, even though our feelings cannot be complete, the boy still looks towards him, about our love in a beautiful association. And beyond it all is an unchanging heart - a noble way of life in the conduct of the Vietnamese soul and character.
|
Số phận và vẻ đẹp của người phụ nữ chưa bao giờ là một đề tài cũ trong kho tàng văn học Việt Nam. Từ những câu ca dao “Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ ngoài chợ biết vào tay ai” đến một ánh thiên cổ kì bút như “Truyện Kiều”, tất cả đều nhằm phản ánh được phần nào thân phận của họ. Nhưng có lẽ, sẽ thật thiếu sót nếu ta bỏ qua Nguyễn Dữ với tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”, bởi đó là bức tranh hoàn hảo nhất, không chỉ là về toàn cảnh xã hội phong kiến lúc bấy giờ, mà còn là chân dung người phụ nữ trong xã hội xưa. Để viết được bài văn nêu cảm nhận về tác phẩm, chúng ta phải đi theo bố cục nhất định, giới thiệu chung về tác giả tác phẩm, tóm tắt cốt truyện và cảm nhận về giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của tác phẩm. Chúng ta cần chú ý đến những câu văn thể hiện được những suy nghĩ riêng của chính chúng ta về tác phẩm ấy. Chúc các bạn làm bài thành công!
Mỗi một câu chuyện viết ra đều mang một ý nghĩa tự thân của nó, có tác dụng cảm hoá cuộc đời và con người. Nếu một tác phẩm văn học không mang được những ý nghĩa sâu xa như vậy, nó sẽ vẫn nằm trong sự băng hoại của thời gian. Và “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã vượt qua được quy luật của thời gian và không gian để đến với chúng ta ngày hôm nay.
“Chuyện người con gái Nam Xương” nằm trong tập “Truyền kì mạn lục”, một trong những câu chuyện lạ lưu truyền trong dân gian được ghi chép lại. Lạ nhưng câu chuyện ấy không viển vông đến xa rời thực tế, mà nó như một tấm gương soi chiếu xã hội bấy giờ, là khúc ca cho tấm lòng nhân đạo của tác giả Nguyễn Dữ. Bởi những giá trị ấy mà đã hàng ngàn năm trôi qua, vẫn còn một tác phẩm đồng hành với chúng ta ngày hôm nay.
Truyện kể về người con gái vùng Nam Xương, tính đã dịu hiền nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Nàng được gả cho Trương Sinh, một chàng trai giàu có nhưng ít học, tính tình lại cục cằn hay ghen. Và chiến tranh nổ ra, Trương Sinh bị bắt đi lính, để mẹ già vợ trẻ ở nhà ngày đêm mong nhớ. Trương Sinh đi để lại cho Vũ Nương một người con trai, vì thương nhớ chồng nên nàng chỉ chiếc bóng trên tường và nói với con đó là cha. Ba năm sau, Trương Sinh trở về, nghi ngờ vợ mình thất tiết và đuổi đánh vợ, khiến nàng nhảy xuống sông mà tự vẫn. Một thời gian sau, Trương Sinh phát hiện ra sự thật, muốn vợ quay trở về nhưng mọi chuyện đã quá muộn. Cả câu chuyện như một vở kịch đau thương về số phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, tủi nhục, đau khổ đến nhường nào!
“Chuyện người con gái Nam Xương” còn tồn tại đến ngày hôm nay có lẽ là nhờ vào giá trị hiện thực sâu sắc của nó. Đó là bức tranh về hiện thực xã hội phong kiến chứa đầy những uất ức bất công, đặc biệt là với người phụ nữ. Vũ Nương dù mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp nhưng cũng không được lựa chọn hạnh phúc cho cuộc đời mình. Nàng vì trăm lạng bạc của mẹ Trương Sinh mà về làm dâu làm vợ của người, không ai biết nàng có hạnh phúc hay không. Rồi khi bị chồng nghi oan, nàng cũng không có quyền nói lên nỗi lòng của mình. Dù bị đánh đập, bị đuổi đi mà không được nói một lời giải thích. Chính chế độ nam quyền khi ấy là nguyên nhân dẫn đến cuộc đời bi kịch của Vũ Nương.
Trong tác phẩm, ta còn nhận ra một hiện thực tàn khốc hơn nữa, chính là chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Cuộc chiến ấy khiến mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha. Dù cho một người giàu có như Trương Sinh, cũng không tránh khỏi vòng vây đao kiếm. Tất cả đều là để phục vụ cho nhu cầu của những thế lực phong kiến tranh giành quyền lực mà đổ lên đầu con đỏ dân đen. Nếu như không có chiến tranh phong kiến, cũng không có ba năm xa cách đằng đẵng giữa Vũ Nương và chồng, cũng không có sự hiểu lầm đáng tiếc ấy. Vũ Nương phải chết, cũng một phần vì chiến tranh mà ra. Có thể nói, tác phẩm đã phản ánh chân thực được những hiện thực còn nhức nhối trong xã hội bấy giờ, để sau này người đời còn nhìn vào và hiểu rằng, đã có một thời lầm than như thế.
Nhưng một tác phẩm văn học sẽ không thể sống nếu nó chỉ là sự sao chép lại hiện thực một cách giản đơn. Trong hiện thực, ta còn phải thấy được cả tấm lòng của tác giả gửi gắm, hay chính là tiếng nói nhân đạo của Nguyễn Dữ trong tác phẩm của mình. Tiếng nói nhân đạo ấy trước hết thể hiện ở sự ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Vũ Nương được miêu tả là một cô gái, đã có tư dung tốt đẹp lại dịu hiền nết na. Nguyễn Dữ nhìn ra được những phẩm chất cao quý nhất trong tâm hồn người con gái ấy. Chính vẻ ngoài xinh đẹp và tính tình của nàng đã chiếm được trái tim chàng Trương Sinh, để chàng phải bắt mẹ hỏi cưới cho bằng được. Kể từ đó, Vũ Nương nổi bật lên là một người con hiếu thảo. Chồng đi lính, nàng hết lòng phụng sự, chăm lo cho mẹ chồng. Khi bà ốm, nàng tất tả lo toan thuốc thang, khi bà mất, nàng lo toàn ma chay cho thật chu đáo. Dẫu chỉ là mẹ chồng, nàng vẫn toàn tâm chăm sóc như bố mẹ. Đó là một tấm lòng thơm thảo, luôn dành sự biết ơn cho đấng sinh thành. Phẩm chất ấy thật đáng quý biết nhường nào.
Khi đã làm mẹ, Vũ Nương lại hết lòng yêu thương và chăm sóc con. Thương con lớn lên trong cảnh thiếu cha, ngày ngày nàng chỉ chiếc bóng trên tường và nói với con đó là cha nó. Ta có thể thấy một khao khát gia đình trọn vẹn để con được đủ đầy yêu thương. Bi kịch của cuộc đời Vũ Nương, có chăng cũng là từ tình yêu thương con ấy mà ra.
Nét nổi bật nhất trong vẻ đẹp của Vũ Nương có lẽ chính là tấm lòng chung thuỷ một lòng với chồng. Khi chồng ở nhà, nàng khôn khéo đảm đang không để chồng phật ý, khi chồng ra trận, nàng lại một lòng chăm sóc mẹ già con nhỏ. Nàng sống trong nỗi nhớ chồng, khao khát được gặp lại người chồng của mình. Nàng luôn giữ được hai chữ “tiết hạnh” để không có lỗi với chồng. Chiếc bóng xuất hiện mỗi đêm có lẽ là minh chứng rõ nhất cho sự thuỷ chung của Vũ Nương. Và đặc biệt, khi chết đi, nàng quay trở lại gặp chồng lần nữa, một mặt là khẳng định tấm lòng chung thuỷ, một mặt vẫn còn lưu luyến tình xưa nghĩa cũ. Tấm lòng chung thuỷ của Vũ Nương, không ai có thể phủ nhận. Đó chính là vẻ đẹp tiêu biểu nhất cho người phụ nữ Việt Nam, dù chịu bất công nhưng một lòng chung thuỷ.
Tiếng nói nhân đạo của Nguyễn Dữ, ta còn gặp ở sự đồng cảm với khát vọng hạnh phúc của con người. Cuộc đời Vũ Nương luôn là những chuỗi ngày bị ép buộc, chờ đợi. Nàng luôn khát khao về một mái ấm gia đình có đủ đầy tình yêu thương nhưng không thành hiện thực. Nguyễn Dữ để nàng sống hạnh phúc ở một thế giới khác, không còn khổ đau hờn ghen, chính là để hiện thực hoá ước mơ hạnh phúc của con người.
“Chuyện người con gái Nam Xương”, với những giá trị hiện thực và nhân đạo của mình, đã thực sự chạm được đến phần sâu kín nhất của trái tim con người. Đó là nỗi lòng của chính Nguyễn Dữ, là cặp mắt nhìn đời tinh anh sắc sảo và tấm lòng nồng ấm yêu thương. Tác phẩm đã cho ta thấy được cái tâm và cái tài của một nghệ sĩ lớn, đó mới là nghệ thuật chân chính ma muôn đời con người theo đuổi.
Thời gian vẫn sẽ tuần hoàn theo quy luật của nó, nhưng ta sẽ vẫn còn nhớ về tác phẩm để hoài niệm về quá khứ xa vắng, để đau xót, để yêu thương!
Văn học không ngừng kế thừa và tiếp biến hấp dẫn độc giả. Tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ cũng vậy, câu chuyện còn đọng lại trong ta nhiều suy nghĩ sâu sắc về xã hội phong kiến và thân phận người phụ nữ đương thời.
Hình ảnh xã hội phong kiến thu gọn trong gia đình nàng Vũ Nương với người chồng đa nghi, thất học, có thói gia trưởng là Trương Sinh. Khi nghi oan cho vợ, chàng mắng nhiếc, không chịu nghe Vũ Nương và hàng xóm phân trần, lại còn đánh đuổi nàng đi. Phải chăng đằng sau những hành động vũ phu ấy có cả một thế lực đen tối hậu thuẫn cho chàng? Quan niệm lạc hậu “ trọng nam khinh nữ” trở thành cái cớ che chở cho cơn giận phi lí của chàng Trương. Xã hội phong kiến còn xuất hiện làm chia rẽ hạnh phúc gia đình. Có lẽ chính những cuộc chiến phi nghĩa là nguyên nhân gián tiếp gây ra cảnh tan cửa nát nhà, khiến mẹ già mong nhớ con tới đổ bệnh, cảnh con không biết mặt cha, vợ xa chồng… Cảnh biệt ly đau thương càng làm Trương Sinh một mực nghi oan vợ ngoại tình. Tác giả Nguyễn Dữ giúp ta cảm nhận được những mất mát, bất công trong hoàn cảnh xã hội bấy giờ.
|
Số phận và vẻ đẹp của người phụ nữ chưa bao giờ là một đề tài cũ trong kho tàng văn học Việt Nam. Từ những câu ca dao “Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ ngoài chợ biết vào tay ai” đến một ánh thiên cổ kì bút như “Truyện Kiều”, tất cả đều nhằm phản ánh được phần nào thân phận của họ. Nhưng có lẽ, sẽ thật thiếu sót nếu ta bỏ qua Nguyễn Dữ với tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”, bởi đó là bức tranh hoàn hảo nhất, không chỉ là về toàn cảnh xã hội phong kiến lúc bấy giờ, mà còn là chân dung người phụ nữ trong xã hội xưa. Để viết được bài văn nêu cảm nhận về tác phẩm, chúng ta phải đi theo bố cục nhất định, giới thiệu chung về tác giả tác phẩm, tóm tắt cốt truyện và cảm nhận về giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của tác phẩm. Chúng ta cần chú ý đến những câu văn thể hiện được những suy nghĩ riêng của chính chúng ta về tác phẩm ấy. Chúc các bạn làm bài thành công!
Mỗi một câu chuyện viết ra đều mang một ý nghĩa tự thân của nó, có tác dụng cảm hoá cuộc đời và con người. Nếu một tác phẩm văn học không mang được những ý nghĩa sâu xa như vậy, nó sẽ vẫn nằm trong sự băng hoại của thời gian. Và “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã vượt qua được quy luật của thời gian và không gian để đến với chúng ta ngày hôm nay.
“Chuyện người con gái Nam Xương” nằm trong tập “Truyền kì mạn lục”, một trong những câu chuyện lạ lưu truyền trong dân gian được ghi chép lại. Lạ nhưng câu chuyện ấy không viển vông đến xa rời thực tế, mà nó như một tấm gương soi chiếu xã hội bấy giờ, là khúc ca cho tấm lòng nhân đạo của tác giả Nguyễn Dữ. Bởi những giá trị ấy mà đã hàng ngàn năm trôi qua, vẫn còn một tác phẩm đồng hành với chúng ta ngày hôm nay.
Truyện kể về người con gái vùng Nam Xương, tính đã dịu hiền nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Nàng được gả cho Trương Sinh, một chàng trai giàu có nhưng ít học, tính tình lại cục cằn hay ghen. Và chiến tranh nổ ra, Trương Sinh bị bắt đi lính, để mẹ già vợ trẻ ở nhà ngày đêm mong nhớ. Trương Sinh đi để lại cho Vũ Nương một người con trai, vì thương nhớ chồng nên nàng chỉ chiếc bóng trên tường và nói với con đó là cha. Ba năm sau, Trương Sinh trở về, nghi ngờ vợ mình thất tiết và đuổi đánh vợ, khiến nàng nhảy xuống sông mà tự vẫn. Một thời gian sau, Trương Sinh phát hiện ra sự thật, muốn vợ quay trở về nhưng mọi chuyện đã quá muộn. Cả câu chuyện như một vở kịch đau thương về số phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, tủi nhục, đau khổ đến nhường nào!
“Chuyện người con gái Nam Xương” còn tồn tại đến ngày hôm nay có lẽ là nhờ vào giá trị hiện thực sâu sắc của nó. Đó là bức tranh về hiện thực xã hội phong kiến chứa đầy những uất ức bất công, đặc biệt là với người phụ nữ. Vũ Nương dù mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp nhưng cũng không được lựa chọn hạnh phúc cho cuộc đời mình. Nàng vì trăm lạng bạc của mẹ Trương Sinh mà về làm dâu làm vợ của người, không ai biết nàng có hạnh phúc hay không. Rồi khi bị chồng nghi oan, nàng cũng không có quyền nói lên nỗi lòng của mình. Dù bị đánh đập, bị đuổi đi mà không được nói một lời giải thích. Chính chế độ nam quyền khi ấy là nguyên nhân dẫn đến cuộc đời bi kịch của Vũ Nương.
Trong tác phẩm, ta còn nhận ra một hiện thực tàn khốc hơn nữa, chính là chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Cuộc chiến ấy khiến mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha. Dù cho một người giàu có như Trương Sinh, cũng không tránh khỏi vòng vây đao kiếm. Tất cả đều là để phục vụ cho nhu cầu của những thế lực phong kiến tranh giành quyền lực mà đổ lên đầu con đỏ dân đen. Nếu như không có chiến tranh phong kiến, cũng không có ba năm xa cách đằng đẵng giữa Vũ Nương và chồng, cũng không có sự hiểu lầm đáng tiếc ấy. Vũ Nương phải chết, cũng một phần vì chiến tranh mà ra. Có thể nói, tác phẩm đã phản ánh chân thực được những hiện thực còn nhức nhối trong xã hội bấy giờ, để sau này người đời còn nhìn vào và hiểu rằng, đã có một thời lầm than như thế.
Nhưng một tác phẩm văn học sẽ không thể sống nếu nó chỉ là sự sao chép lại hiện thực một cách giản đơn. Trong hiện thực, ta còn phải thấy được cả tấm lòng của tác giả gửi gắm, hay chính là tiếng nói nhân đạo của Nguyễn Dữ trong tác phẩm của mình. Tiếng nói nhân đạo ấy trước hết thể hiện ở sự ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Vũ Nương được miêu tả là một cô gái, đã có tư dung tốt đẹp lại dịu hiền nết na. Nguyễn Dữ nhìn ra được những phẩm chất cao quý nhất trong tâm hồn người con gái ấy. Chính vẻ ngoài xinh đẹp và tính tình của nàng đã chiếm được trái tim chàng Trương Sinh, để chàng phải bắt mẹ hỏi cưới cho bằng được. Kể từ đó, Vũ Nương nổi bật lên là một người con hiếu thảo. Chồng đi lính, nàng hết lòng phụng sự, chăm lo cho mẹ chồng. Khi bà ốm, nàng tất tả lo toan thuốc thang, khi bà mất, nàng lo toàn ma chay cho thật chu đáo. Dẫu chỉ là mẹ chồng, nàng vẫn toàn tâm chăm sóc như bố mẹ. Đó là một tấm lòng thơm thảo, luôn dành sự biết ơn cho đấng sinh thành. Phẩm chất ấy thật đáng quý biết nhường nào.
Khi đã làm mẹ, Vũ Nương lại hết lòng yêu thương và chăm sóc con. Thương con lớn lên trong cảnh thiếu cha, ngày ngày nàng chỉ chiếc bóng trên tường và nói với con đó là cha nó. Ta có thể thấy một khao khát gia đình trọn vẹn để con được đủ đầy yêu thương. Bi kịch của cuộc đời Vũ Nương, có chăng cũng là từ tình yêu thương con ấy mà ra.
Nét nổi bật nhất trong vẻ đẹp của Vũ Nương có lẽ chính là tấm lòng chung thuỷ một lòng với chồng. Khi chồng ở nhà, nàng khôn khéo đảm đang không để chồng phật ý, khi chồng ra trận, nàng lại một lòng chăm sóc mẹ già con nhỏ. Nàng sống trong nỗi nhớ chồng, khao khát được gặp lại người chồng của mình. Nàng luôn giữ được hai chữ “tiết hạnh” để không có lỗi với chồng. Chiếc bóng xuất hiện mỗi đêm có lẽ là minh chứng rõ nhất cho sự thuỷ chung của Vũ Nương. Và đặc biệt, khi chết đi, nàng quay trở lại gặp chồng lần nữa, một mặt là khẳng định tấm lòng chung thuỷ, một mặt vẫn còn lưu luyến tình xưa nghĩa cũ. Tấm lòng chung thuỷ của Vũ Nương, không ai có thể phủ nhận. Đó chính là vẻ đẹp tiêu biểu nhất cho người phụ nữ Việt Nam, dù chịu bất công nhưng một lòng chung thuỷ.
Tiếng nói nhân đạo của Nguyễn Dữ, ta còn gặp ở sự đồng cảm với khát vọng hạnh phúc của con người. Cuộc đời Vũ Nương luôn là những chuỗi ngày bị ép buộc, chờ đợi. Nàng luôn khát khao về một mái ấm gia đình có đủ đầy tình yêu thương nhưng không thành hiện thực. Nguyễn Dữ để nàng sống hạnh phúc ở một thế giới khác, không còn khổ đau hờn ghen, chính là để hiện thực hoá ước mơ hạnh phúc của con người.
“Chuyện người con gái Nam Xương”, với những giá trị hiện thực và nhân đạo của mình, đã thực sự chạm được đến phần sâu kín nhất của trái tim con người. Đó là nỗi lòng của chính Nguyễn Dữ, là cặp mắt nhìn đời tinh anh sắc sảo và tấm lòng nồng ấm yêu thương. Tác phẩm đã cho ta thấy được cái tâm và cái tài của một nghệ sĩ lớn, đó mới là nghệ thuật chân chính ma muôn đời con người theo đuổi.
Thời gian vẫn sẽ tuần hoàn theo quy luật của nó, nhưng ta sẽ vẫn còn nhớ về tác phẩm để hoài niệm về quá khứ xa vắng, để đau xót, để yêu thương!
Văn học không ngừng kế thừa và tiếp biến hấp dẫn độc giả. Tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ cũng vậy, câu chuyện còn đọng lại trong ta nhiều suy nghĩ sâu sắc về xã hội phong kiến và thân phận người phụ nữ đương thời.
Hình ảnh xã hội phong kiến thu gọn trong gia đình nàng Vũ Nương với người chồng đa nghi, thất học, có thói gia trưởng là Trương Sinh. Khi nghi oan cho vợ, chàng mắng nhiếc, không chịu nghe Vũ Nương và hàng xóm phân trần, lại còn đánh đuổi nàng đi. Phải chăng đằng sau những hành động vũ phu ấy có cả một thế lực đen tối hậu thuẫn cho chàng? Quan niệm lạc hậu “ trọng nam khinh nữ” trở thành cái cớ che chở cho cơn giận phi lí của chàng Trương. Xã hội phong kiến còn xuất hiện làm chia rẽ hạnh phúc gia đình. Có lẽ chính những cuộc chiến phi nghĩa là nguyên nhân gián tiếp gây ra cảnh tan cửa nát nhà, khiến mẹ già mong nhớ con tới đổ bệnh, cảnh con không biết mặt cha, vợ xa chồng… Cảnh biệt ly đau thương càng làm Trương Sinh một mực nghi oan vợ ngoại tình. Tác giả Nguyễn Dữ giúp ta cảm nhận được những mất mát, bất công trong hoàn cảnh xã hội bấy giờ.
|
Số phận và vẻ đẹp của người phụ nữ chưa bao giờ là một đề tài cũ trong kho tàng văn học Việt Nam. Từ những câu ca dao “Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ ngoài chợ biết vào tay ai” đến một ánh thiên cổ kì bút như “Truyện Kiều”, tất cả đều nhằm phản ánh được phần nào thân phận của họ. Nhưng có lẽ, sẽ thật thiếu sót nếu ta bỏ qua Nguyễn Dữ với tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”, bởi đó là bức tranh hoàn hảo nhất, không chỉ là về toàn cảnh xã hội phong kiến lúc bấy giờ, mà còn là chân dung người phụ nữ trong xã hội xưa. Để viết được bài văn nêu cảm nhận về tác phẩm, chúng ta phải đi theo bố cục nhất định, giới thiệu chung về tác giả tác phẩm, tóm tắt cốt truyện và cảm nhận về giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của tác phẩm. Chúng ta cần chú ý đến những câu văn thể hiện được những suy nghĩ riêng của chính chúng ta về tác phẩm ấy. Chúc các bạn làm bài thành công!
Mỗi một câu chuyện viết ra đều mang một ý nghĩa tự thân của nó, có tác dụng cảm hoá cuộc đời và con người. Nếu một tác phẩm văn học không mang được những ý nghĩa sâu xa như vậy, nó sẽ vẫn nằm trong sự băng hoại của thời gian. Và “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã vượt qua được quy luật của thời gian và không gian để đến với chúng ta ngày hôm nay.
“Chuyện người con gái Nam Xương” nằm trong tập “Truyền kì mạn lục”, một trong những câu chuyện lạ lưu truyền trong dân gian được ghi chép lại. Lạ nhưng câu chuyện ấy không viển vông đến xa rời thực tế, mà nó như một tấm gương soi chiếu xã hội bấy giờ, là khúc ca cho tấm lòng nhân đạo của tác giả Nguyễn Dữ. Bởi những giá trị ấy mà đã hàng ngàn năm trôi qua, vẫn còn một tác phẩm đồng hành với chúng ta ngày hôm nay.
Truyện kể về người con gái vùng Nam Xương, tính đã dịu hiền nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Nàng được gả cho Trương Sinh, một chàng trai giàu có nhưng ít học, tính tình lại cục cằn hay ghen. Và chiến tranh nổ ra, Trương Sinh bị bắt đi lính, để mẹ già vợ trẻ ở nhà ngày đêm mong nhớ. Trương Sinh đi để lại cho Vũ Nương một người con trai, vì thương nhớ chồng nên nàng chỉ chiếc bóng trên tường và nói với con đó là cha. Ba năm sau, Trương Sinh trở về, nghi ngờ vợ mình thất tiết và đuổi đánh vợ, khiến nàng nhảy xuống sông mà tự vẫn. Một thời gian sau, Trương Sinh phát hiện ra sự thật, muốn vợ quay trở về nhưng mọi chuyện đã quá muộn. Cả câu chuyện như một vở kịch đau thương về số phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, tủi nhục, đau khổ đến nhường nào!
“Chuyện người con gái Nam Xương” còn tồn tại đến ngày hôm nay có lẽ là nhờ vào giá trị hiện thực sâu sắc của nó. Đó là bức tranh về hiện thực xã hội phong kiến chứa đầy những uất ức bất công, đặc biệt là với người phụ nữ. Vũ Nương dù mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp nhưng cũng không được lựa chọn hạnh phúc cho cuộc đời mình. Nàng vì trăm lạng bạc của mẹ Trương Sinh mà về làm dâu làm vợ của người, không ai biết nàng có hạnh phúc hay không. Rồi khi bị chồng nghi oan, nàng cũng không có quyền nói lên nỗi lòng của mình. Dù bị đánh đập, bị đuổi đi mà không được nói một lời giải thích. Chính chế độ nam quyền khi ấy là nguyên nhân dẫn đến cuộc đời bi kịch của Vũ Nương.
Trong tác phẩm, ta còn nhận ra một hiện thực tàn khốc hơn nữa, chính là chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Cuộc chiến ấy khiến mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha. Dù cho một người giàu có như Trương Sinh, cũng không tránh khỏi vòng vây đao kiếm. Tất cả đều là để phục vụ cho nhu cầu của những thế lực phong kiến tranh giành quyền lực mà đổ lên đầu con đỏ dân đen. Nếu như không có chiến tranh phong kiến, cũng không có ba năm xa cách đằng đẵng giữa Vũ Nương và chồng, cũng không có sự hiểu lầm đáng tiếc ấy. Vũ Nương phải chết, cũng một phần vì chiến tranh mà ra. Có thể nói, tác phẩm đã phản ánh chân thực được những hiện thực còn nhức nhối trong xã hội bấy giờ, để sau này người đời còn nhìn vào và hiểu rằng, đã có một thời lầm than như thế.
Nhưng một tác phẩm văn học sẽ không thể sống nếu nó chỉ là sự sao chép lại hiện thực một cách giản đơn. Trong hiện thực, ta còn phải thấy được cả tấm lòng của tác giả gửi gắm, hay chính là tiếng nói nhân đạo của Nguyễn Dữ trong tác phẩm của mình. Tiếng nói nhân đạo ấy trước hết thể hiện ở sự ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Vũ Nương được miêu tả là một cô gái, đã có tư dung tốt đẹp lại dịu hiền nết na. Nguyễn Dữ nhìn ra được những phẩm chất cao quý nhất trong tâm hồn người con gái ấy. Chính vẻ ngoài xinh đẹp và tính tình của nàng đã chiếm được trái tim chàng Trương Sinh, để chàng phải bắt mẹ hỏi cưới cho bằng được. Kể từ đó, Vũ Nương nổi bật lên là một người con hiếu thảo. Chồng đi lính, nàng hết lòng phụng sự, chăm lo cho mẹ chồng. Khi bà ốm, nàng tất tả lo toan thuốc thang, khi bà mất, nàng lo toàn ma chay cho thật chu đáo. Dẫu chỉ là mẹ chồng, nàng vẫn toàn tâm chăm sóc như bố mẹ. Đó là một tấm lòng thơm thảo, luôn dành sự biết ơn cho đấng sinh thành. Phẩm chất ấy thật đáng quý biết nhường nào.
Khi đã làm mẹ, Vũ Nương lại hết lòng yêu thương và chăm sóc con. Thương con lớn lên trong cảnh thiếu cha, ngày ngày nàng chỉ chiếc bóng trên tường và nói với con đó là cha nó. Ta có thể thấy một khao khát gia đình trọn vẹn để con được đủ đầy yêu thương. Bi kịch của cuộc đời Vũ Nương, có chăng cũng là từ tình yêu thương con ấy mà ra.
Nét nổi bật nhất trong vẻ đẹp của Vũ Nương có lẽ chính là tấm lòng chung thuỷ một lòng với chồng. Khi chồng ở nhà, nàng khôn khéo đảm đang không để chồng phật ý, khi chồng ra trận, nàng lại một lòng chăm sóc mẹ già con nhỏ. Nàng sống trong nỗi nhớ chồng, khao khát được gặp lại người chồng của mình. Nàng luôn giữ được hai chữ “tiết hạnh” để không có lỗi với chồng. Chiếc bóng xuất hiện mỗi đêm có lẽ là minh chứng rõ nhất cho sự thuỷ chung của Vũ Nương. Và đặc biệt, khi chết đi, nàng quay trở lại gặp chồng lần nữa, một mặt là khẳng định tấm lòng chung thuỷ, một mặt vẫn còn lưu luyến tình xưa nghĩa cũ. Tấm lòng chung thuỷ của Vũ Nương, không ai có thể phủ nhận. Đó chính là vẻ đẹp tiêu biểu nhất cho người phụ nữ Việt Nam, dù chịu bất công nhưng một lòng chung thuỷ.
Tiếng nói nhân đạo của Nguyễn Dữ, ta còn gặp ở sự đồng cảm với khát vọng hạnh phúc của con người. Cuộc đời Vũ Nương luôn là những chuỗi ngày bị ép buộc, chờ đợi. Nàng luôn khát khao về một mái ấm gia đình có đủ đầy tình yêu thương nhưng không thành hiện thực. Nguyễn Dữ để nàng sống hạnh phúc ở một thế giới khác, không còn khổ đau hờn ghen, chính là để hiện thực hoá ước mơ hạnh phúc của con người.
“Chuyện người con gái Nam Xương”, với những giá trị hiện thực và nhân đạo của mình, đã thực sự chạm được đến phần sâu kín nhất của trái tim con người. Đó là nỗi lòng của chính Nguyễn Dữ, là cặp mắt nhìn đời tinh anh sắc sảo và tấm lòng nồng ấm yêu thương. Tác phẩm đã cho ta thấy được cái tâm và cái tài của một nghệ sĩ lớn, đó mới là nghệ thuật chân chính ma muôn đời con người theo đuổi.
Thời gian vẫn sẽ tuần hoàn theo quy luật của nó, nhưng ta sẽ vẫn còn nhớ về tác phẩm để hoài niệm về quá khứ xa vắng, để đau xót, để yêu thương!
Văn học không ngừng kế thừa và tiếp biến hấp dẫn độc giả. Tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ cũng vậy, câu chuyện còn đọng lại trong ta nhiều suy nghĩ sâu sắc về xã hội phong kiến và thân phận người phụ nữ đương thời.
Hình ảnh xã hội phong kiến thu gọn trong gia đình nàng Vũ Nương với người chồng đa nghi, thất học, có thói gia trưởng là Trương Sinh. Khi nghi oan cho vợ, chàng mắng nhiếc, không chịu nghe Vũ Nương và hàng xóm phân trần, lại còn đánh đuổi nàng đi. Phải chăng đằng sau những hành động vũ phu ấy có cả một thế lực đen tối hậu thuẫn cho chàng? Quan niệm lạc hậu “ trọng nam khinh nữ” trở thành cái cớ che chở cho cơn giận phi lí của chàng Trương. Xã hội phong kiến còn xuất hiện làm chia rẽ hạnh phúc gia đình. Có lẽ chính những cuộc chiến phi nghĩa là nguyên nhân gián tiếp gây ra cảnh tan cửa nát nhà, khiến mẹ già mong nhớ con tới đổ bệnh, cảnh con không biết mặt cha, vợ xa chồng… Cảnh biệt ly đau thương càng làm Trương Sinh một mực nghi oan vợ ngoại tình. Tác giả Nguyễn Dữ giúp ta cảm nhận được những mất mát, bất công trong hoàn cảnh xã hội bấy giờ.
|
Số phận và vẻ đẹp của người phụ nữ chưa bao giờ là một đề tài cũ trong kho tàng văn học Việt Nam. Từ những câu ca dao “Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ ngoài chợ biết vào tay ai” đến một ánh thiên cổ kì bút như “Truyện Kiều”, tất cả đều nhằm phản ánh được phần nào thân phận của họ. Nhưng có lẽ, sẽ thật thiếu sót nếu ta bỏ qua Nguyễn Dữ với tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”, bởi đó là bức tranh hoàn hảo nhất, không chỉ là về toàn cảnh xã hội phong kiến lúc bấy giờ, mà còn là chân dung người phụ nữ trong xã hội xưa. Để viết được bài văn nêu cảm nhận về tác phẩm, chúng ta phải đi theo bố cục nhất định, giới thiệu chung về tác giả tác phẩm, tóm tắt cốt truyện và cảm nhận về giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của tác phẩm. Chúng ta cần chú ý đến những câu văn thể hiện được những suy nghĩ riêng của chính chúng ta về tác phẩm ấy. Chúc các bạn làm bài thành công!
Mỗi một câu chuyện viết ra đều mang một ý nghĩa tự thân của nó, có tác dụng cảm hoá cuộc đời và con người. Nếu một tác phẩm văn học không mang được những ý nghĩa sâu xa như vậy, nó sẽ vẫn nằm trong sự băng hoại của thời gian. Và “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã vượt qua được quy luật của thời gian và không gian để đến với chúng ta ngày hôm nay.
“Chuyện người con gái Nam Xương” nằm trong tập “Truyền kì mạn lục”, một trong những câu chuyện lạ lưu truyền trong dân gian được ghi chép lại. Lạ nhưng câu chuyện ấy không viển vông đến xa rời thực tế, mà nó như một tấm gương soi chiếu xã hội bấy giờ, là khúc ca cho tấm lòng nhân đạo của tác giả Nguyễn Dữ. Bởi những giá trị ấy mà đã hàng ngàn năm trôi qua, vẫn còn một tác phẩm đồng hành với chúng ta ngày hôm nay.
Truyện kể về người con gái vùng Nam Xương, tính đã dịu hiền nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Nàng được gả cho Trương Sinh, một chàng trai giàu có nhưng ít học, tính tình lại cục cằn hay ghen. Và chiến tranh nổ ra, Trương Sinh bị bắt đi lính, để mẹ già vợ trẻ ở nhà ngày đêm mong nhớ. Trương Sinh đi để lại cho Vũ Nương một người con trai, vì thương nhớ chồng nên nàng chỉ chiếc bóng trên tường và nói với con đó là cha. Ba năm sau, Trương Sinh trở về, nghi ngờ vợ mình thất tiết và đuổi đánh vợ, khiến nàng nhảy xuống sông mà tự vẫn. Một thời gian sau, Trương Sinh phát hiện ra sự thật, muốn vợ quay trở về nhưng mọi chuyện đã quá muộn. Cả câu chuyện như một vở kịch đau thương về số phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, tủi nhục, đau khổ đến nhường nào!
“Chuyện người con gái Nam Xương” còn tồn tại đến ngày hôm nay có lẽ là nhờ vào giá trị hiện thực sâu sắc của nó. Đó là bức tranh về hiện thực xã hội phong kiến chứa đầy những uất ức bất công, đặc biệt là với người phụ nữ. Vũ Nương dù mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp nhưng cũng không được lựa chọn hạnh phúc cho cuộc đời mình. Nàng vì trăm lạng bạc của mẹ Trương Sinh mà về làm dâu làm vợ của người, không ai biết nàng có hạnh phúc hay không. Rồi khi bị chồng nghi oan, nàng cũng không có quyền nói lên nỗi lòng của mình. Dù bị đánh đập, bị đuổi đi mà không được nói một lời giải thích. Chính chế độ nam quyền khi ấy là nguyên nhân dẫn đến cuộc đời bi kịch của Vũ Nương.
Trong tác phẩm, ta còn nhận ra một hiện thực tàn khốc hơn nữa, chính là chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Cuộc chiến ấy khiến mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha. Dù cho một người giàu có như Trương Sinh, cũng không tránh khỏi vòng vây đao kiếm. Tất cả đều là để phục vụ cho nhu cầu của những thế lực phong kiến tranh giành quyền lực mà đổ lên đầu con đỏ dân đen. Nếu như không có chiến tranh phong kiến, cũng không có ba năm xa cách đằng đẵng giữa Vũ Nương và chồng, cũng không có sự hiểu lầm đáng tiếc ấy. Vũ Nương phải chết, cũng một phần vì chiến tranh mà ra. Có thể nói, tác phẩm đã phản ánh chân thực được những hiện thực còn nhức nhối trong xã hội bấy giờ, để sau này người đời còn nhìn vào và hiểu rằng, đã có một thời lầm than như thế.
Nhưng một tác phẩm văn học sẽ không thể sống nếu nó chỉ là sự sao chép lại hiện thực một cách giản đơn. Trong hiện thực, ta còn phải thấy được cả tấm lòng của tác giả gửi gắm, hay chính là tiếng nói nhân đạo của Nguyễn Dữ trong tác phẩm của mình. Tiếng nói nhân đạo ấy trước hết thể hiện ở sự ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Vũ Nương được miêu tả là một cô gái, đã có tư dung tốt đẹp lại dịu hiền nết na. Nguyễn Dữ nhìn ra được những phẩm chất cao quý nhất trong tâm hồn người con gái ấy. Chính vẻ ngoài xinh đẹp và tính tình của nàng đã chiếm được trái tim chàng Trương Sinh, để chàng phải bắt mẹ hỏi cưới cho bằng được. Kể từ đó, Vũ Nương nổi bật lên là một người con hiếu thảo. Chồng đi lính, nàng hết lòng phụng sự, chăm lo cho mẹ chồng. Khi bà ốm, nàng tất tả lo toan thuốc thang, khi bà mất, nàng lo toàn ma chay cho thật chu đáo. Dẫu chỉ là mẹ chồng, nàng vẫn toàn tâm chăm sóc như bố mẹ. Đó là một tấm lòng thơm thảo, luôn dành sự biết ơn cho đấng sinh thành. Phẩm chất ấy thật đáng quý biết nhường nào.
Khi đã làm mẹ, Vũ Nương lại hết lòng yêu thương và chăm sóc con. Thương con lớn lên trong cảnh thiếu cha, ngày ngày nàng chỉ chiếc bóng trên tường và nói với con đó là cha nó. Ta có thể thấy một khao khát gia đình trọn vẹn để con được đủ đầy yêu thương. Bi kịch của cuộc đời Vũ Nương, có chăng cũng là từ tình yêu thương con ấy mà ra.
Nét nổi bật nhất trong vẻ đẹp của Vũ Nương có lẽ chính là tấm lòng chung thuỷ một lòng với chồng. Khi chồng ở nhà, nàng khôn khéo đảm đang không để chồng phật ý, khi chồng ra trận, nàng lại một lòng chăm sóc mẹ già con nhỏ. Nàng sống trong nỗi nhớ chồng, khao khát được gặp lại người chồng của mình. Nàng luôn giữ được hai chữ “tiết hạnh” để không có lỗi với chồng. Chiếc bóng xuất hiện mỗi đêm có lẽ là minh chứng rõ nhất cho sự thuỷ chung của Vũ Nương. Và đặc biệt, khi chết đi, nàng quay trở lại gặp chồng lần nữa, một mặt là khẳng định tấm lòng chung thuỷ, một mặt vẫn còn lưu luyến tình xưa nghĩa cũ. Tấm lòng chung thuỷ của Vũ Nương, không ai có thể phủ nhận. Đó chính là vẻ đẹp tiêu biểu nhất cho người phụ nữ Việt Nam, dù chịu bất công nhưng một lòng chung thuỷ.
Tiếng nói nhân đạo của Nguyễn Dữ, ta còn gặp ở sự đồng cảm với khát vọng hạnh phúc của con người. Cuộc đời Vũ Nương luôn là những chuỗi ngày bị ép buộc, chờ đợi. Nàng luôn khát khao về một mái ấm gia đình có đủ đầy tình yêu thương nhưng không thành hiện thực. Nguyễn Dữ để nàng sống hạnh phúc ở một thế giới khác, không còn khổ đau hờn ghen, chính là để hiện thực hoá ước mơ hạnh phúc của con người.
“Chuyện người con gái Nam Xương”, với những giá trị hiện thực và nhân đạo của mình, đã thực sự chạm được đến phần sâu kín nhất của trái tim con người. Đó là nỗi lòng của chính Nguyễn Dữ, là cặp mắt nhìn đời tinh anh sắc sảo và tấm lòng nồng ấm yêu thương. Tác phẩm đã cho ta thấy được cái tâm và cái tài của một nghệ sĩ lớn, đó mới là nghệ thuật chân chính ma muôn đời con người theo đuổi.
Thời gian vẫn sẽ tuần hoàn theo quy luật của nó, nhưng ta sẽ vẫn còn nhớ về tác phẩm để hoài niệm về quá khứ xa vắng, để đau xót, để yêu thương!
Văn học không ngừng kế thừa và tiếp biến hấp dẫn độc giả. Tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ cũng vậy, câu chuyện còn đọng lại trong ta nhiều suy nghĩ sâu sắc về xã hội phong kiến và thân phận người phụ nữ đương thời.
Hình ảnh xã hội phong kiến thu gọn trong gia đình nàng Vũ Nương với người chồng đa nghi, thất học, có thói gia trưởng là Trương Sinh. Khi nghi oan cho vợ, chàng mắng nhiếc, không chịu nghe Vũ Nương và hàng xóm phân trần, lại còn đánh đuổi nàng đi. Phải chăng đằng sau những hành động vũ phu ấy có cả một thế lực đen tối hậu thuẫn cho chàng? Quan niệm lạc hậu “ trọng nam khinh nữ” trở thành cái cớ che chở cho cơn giận phi lí của chàng Trương. Xã hội phong kiến còn xuất hiện làm chia rẽ hạnh phúc gia đình. Có lẽ chính những cuộc chiến phi nghĩa là nguyên nhân gián tiếp gây ra cảnh tan cửa nát nhà, khiến mẹ già mong nhớ con tới đổ bệnh, cảnh con không biết mặt cha, vợ xa chồng… Cảnh biệt ly đau thương càng làm Trương Sinh một mực nghi oan vợ ngoại tình. Tác giả Nguyễn Dữ giúp ta cảm nhận được những mất mát, bất công trong hoàn cảnh xã hội bấy giờ.
|
Mỗi chúng ta luôn có những dấu mốc quan trọng trong cuộc đời của mình. Là khi cất tiếng khóc chào đời, là bước đi đầu tiên, hay lần đầu rời vòng tay cha mẹ để đến trường. Những cảm xúc ấy, sẽ là hành trang cho những bước đường của chúng ta. Nhưng rồi, chúng ta cũng sẽ chẳng thể quên được, có những bước chân đã nửa chín chắn trưởng thành, lại còn một nửa hồn nhiên khi ta bước chân vào cánh cổng trường THPT. Muốn ghi lại được những cảm xúc ấy, chúng ta phải tự mình trải nghiệm, bởi đó phải là cảm xúc xuất phát từ tận trái tim. Bài văn phải có được những cảm nhận về ngôi trường, thầy cô, bạn bè, những ngỡ ngàng rung động, lo lắng hay tự hào. Những kỉ niệm cấp hai của bạn có ùa về không, những nuối tiếc hay vui mừng có hiện lên không? Bạn sẽ tự hứa gì với bản thân khi bước vào một quãng đời mới chứ? Hãy viết ra những cảm xúc là chân thật, sâu kín nhất nhé. Chúc các bạn thành công!
Tôi đang ở độ tuổi đẹp nhất của cuộc đời con người. Mười sáu tuổi- chưa đủ để thật chín chắn trưởng thành, nhưng cũng không còn thơ dại như mười năm về trước. Tôi biết rung động, biết trân trọng nhiều khoảnh khắc hơn. Và hôm nay cũng là một trong những thời khắc đẹp của cuộc đời tôi. Hôm nay, tôi đi học…
Vậy là đã đến ngày tôi quay trở lại trường học sau hai tháng ngày hè. Vẫn là một ngày thu với trời xanh, nắng vàng và mây trắng. Mọi thứ vẫn thật hoàn hảo để bắt đầu một hành trình mới của năm học. Nắng vẫn nhẹ ôm lấy bờ vai tôi như chín năm qua đã từng, từng hàng cây vẫn xanh màu xanh bất tử của nó. Chỉ có điều, con đường đi học hôm nay đã rẽ sang một lối khác. Là con đường dẫn đến ngôi trường cấp ba đầy xa lạ.
Tôi đã vào cấp ba thật rồi! Cảm xúc ấy thật lạ khi ngôi trường hiện dần ra trước mắt tôi. Vẫn là màu vàng như bao ngôi trường khác, cánh cổng sắt vẫn mang một màu xanh tươi mới đến nao lòng. Nhưng ngôi trường này, thật lạ lẫm biết chừng nào! Ngôi trường ấy to lớn và bề thế hơn trường cấp hai của tôi rất nhiều, dường như nó ôm trong dáng hình của mình cả bề dày lịch sử bao nhiêu năm qua. Khuôn viên trường được chia thành nhiều dãy nhà khác nhau, có nhà hiệu bộ, nhà đa năng, các dãy học và sân trường rộng lớn với đầy những cây xanh. Ngôi trường có lẽ hôm nay trang trọng hơn rất nhiều những ngày thường. Những băng rô đỏ chói chào mừng học sinh lớp mười, bóng bay và cờ phấp phới bay trong gió như muốn chào đón lứa học sinh mới chúng tôi. Thật tự hào và hạnh phúc biết bao khi được đặt chân trở thành một phần của nơi đây. Đây sẽ là nơi tôi gắn bó trong suốt chặng đường cấp ba, sẽ là bước đệm để tôi trưởng thành, sẵn sàng đương đầu với các thử thách trong cuộc đời!
Tôi bước vào nhận lớp. Bạn bè của tôi đều là những người xa lạ. Trong lớp học ấy, tạo hoá ngẫu nhiên sắp xếp cho những người không quen biết ngồi chung một lớp với nhau. Tôi nhìn kĩ mặt từng người một. Có khuôn mặt của sự rụt rè lo lắng, có sự tự tin, có sự thân thiện, cũng có những người thấm đượm nỗi buồn. Họ buồn vì phải chia tay một ngôi trường cũ, buồn vì không quen ai trong lớp, hay buồn chuyện nào đó nữa, tôi cũng không thể đoán được. Ngồi bên cạnh tôi là một cậu bạn khá rụt rè, cúi gằm mặt xuống bàn mà không dám bắt chuyện với ai. Tôi cười thật tươi với cậu ấy, tôi muốn những người xung quanh tôi sẽ thật thoải mái khi ở bên nhau, để có thể học, chơi và tận hưởng cấp ba. Tôi tin, đó sẽ là những người làm cho cấp ba của tôi trở nên đẹp đẽ nhất khi tất cả đã trở thành gia đình.
Một lúc sau, cô giáo bước vào lớp. Cô không phải là nhân vật trong những khúc hát “cô giáo như mẹ hiền”, dỗ chúng tôi khi khóc, động viên chúng tôi, cũng không phải là người lãnh đạm đến lạnh lùng. Cô giản dị và đẹp lắm! Nụ cười của cô làm tan đi những lo lắng đang trở thành rào cản trong lòng tôi. Tôi như muốn mở lòng mình ra rộng hơn nữa, để được cô yêu thương, quan tâm. Cô dặn dò chúng tôi về những nội quy của trường lớp, nhắc chúng tôi cách soạn bài sao cho đúng, đối nhân xử thế ra sao. Cũng đúng thôi, chúng tôi không còn bé bỏng để được dạy về cách ăn mặc đúng đắn, cách đi đứng thế nào. Chúng tôi cần những bài học để trưởng thành, để lớn lên. Cô ơi, cô sẽ là người mẹ, người bạn, người cô của chúng con trong suốt thời gian chúng con trưởng thành. Con mong rằng, khi thời gian trôi qua, chúng ta sẽ hiểu, sẽ yêu thương và trân trọng nhau nhiều hơn.
Ngày đầu tiên tôi bước chân vào trường cấp ba là như vậy. Ra khỏi cổng trường, lòng tôi bỗng chợt trùng xuống. Một người cha đứng đợi con giữa trưa nắng gắt, những giọt mồ hôi thi nhau rơi trên khuôn mặt dạn dày sương gió. Nhưng trên gương mặt ấy, bừng lên niềm vui khôn tả khi con được vào một môi trường tốt để học. Thì ra, ngày đầu tiên của con cũng là những cảm xúc đầu tiên của cha mẹ. Tôi bỗng chợt nhớ về chín năm trước, cũng là lần đầu tiên tôi đi học. Ngày ấy, tôi vẫn là đứa bé rụt rè nép bên lưng mẹ, nhìn thầy cô và bạn bè mà hoảng sợ. Cũng là tôi, nhưng trong khoảnh khắc này, lòng lại chợt thấy nôn nao khi những dòng người tấp nập trên sân trường. Một mình tôi dám bước qua cánh cổng sắt ấy hoà vào đám bạn bè, để mẹ và cha đằng sau với cảm xúc lẫn lộn. Con sẽ trưởng thành mẹ ạ, sẽ tự bước đi được trên đôi chân của mình để chiến đấu với cuộc đời. Với tôi, đây có lẽ chính là khoảnh khắc đặc biệt nhất, khi đã biết tự mình buông ra khỏi vòng tay cha mẹ mà vẫy vùng.
Ngước nhìn ngôi trường một lần nữa, giờ nó đã trở nên rực rỡ hơn bao giờ hết dưới ánh nắng vàng. Màu vàng của hi vọng, của tự hào, của trách nhiệm. Thì ra, đặt chân được vào cánh cổng cấp ba ấy, tôi phải biết được rằng, đó là niềm tự hào mà cũng là gánh nặng của mình. Tự hào vì được học trong một ngôi trường có bề dày lịch sử, được mang danh ngôi trường có thành tích tốt như vậy. Nhưng nó cũng phải đi liền với trách nhiệm, phải cố gắng ra sao để giữ gìn và đóng góp cho thành tích của trường, như một sự trả ơn với những gì mình được nhận. Con đường phía trước của tôi rất dài, bởi ở tuổi mười sáu, tôi chẳng ngại điều gì mà không vùng vẫy với cuộc đời để làm đẹp cho cuộc sống, để cống hiến, để hi sinh. Khoảnh khắc bước vào cấp ba của tôi, chính là như vậy!
Tôi trở về nhà, với sự chín chắn trưởng thành hơn rất nhiều. Ngày hôm nay, tôi đã biết suy nghĩ nhiều hơn, cảm nhận kĩ hơn về thế giới xung quanh. Tôi sẽ chẳng bao giờ có thể quên được khoảnh khắc diệu kì ấy!
Mỗi độ thu về, trên bầu trời bàng bạc thả trôi từng đám mây, khi hàng cây trước ngõ buông những cánh lá vàng tươi…Lòng tôi lại bâng khuâng những ngày đầu tiên bước vào trường trung học phổ thông. Cảm xúc như ngày lễ ấy mới đến từ hôm qua.
Tôi có không ít những ngày tựu trường, nhưng ngôi trường trung học phổ thông dưới tỉnh còn khá xa lạ với một đứa học trò nông thôn như tôi ngày ấy. Ngày hôm trước, lòng tôi còn náo nức, rộn ràng bởi trường chọn là ước mơ của tôi bấy lâu, nhưng lúc ấy xen lẫn niềm xúc động, thoáng lo âu về ngôi trường mới. Hôm sau, khoác lên mình bộ đồng phục mới tinh, tôi vẫn không giấu nổi niềm tự hào, hãnh diện khi mình là cô sinh viên lớp mười, tôi thấy mình chững chạc hơn. Giống như bao lần trước, mẹ chở tôi đến trường ngày đầu tiên. Con đường làng lùi dần phía sau lưng, từng đàn chim ríu rít vẫy chào tôi. Tôi ngỡ ngàng trước dòng xe cộ tấp nập, đường phố nhộn nhịp khác hẳn sự nếp sống bình yên quê tôi. Chẳng mấy chốc, cánh cổng trường hiện ra sau tán lá bàng, lá phượng xanh tốt. Ngôi trường khang trang gồm năm dãy nhà cao tầng, một khoảng sân trường vuông vức, đủ rộng cho mọi hoạt động. Nhiều bạn học sinh cùng trang lứa với tôi cũng được cha mẹ chở tới trường, họ không có vẻ rụt rè như tôi. Tôi cứ ngồi trên xe, nhìn ngắm hết thảy mọi điều mới mẻ và xa lạ. Bức ảnh Bác được trước mặt dãy nhà A cùng lời khuyên răn, động viên mà tôi còn ấn tượng mãi:
Những anh chị khóa trước quen trường lớp, khoác cặp, nói chuyện rôm rả, có lẽ họ trao đổi về kì nghỉ hè lí thú đã qua. Cổng trường, sân trường đông nghịt người, những tấm băng rôn đỏ tươi tô điểm ngôi trường. Mẹ cũng hiểu tâm trạng của tôi lúc này, nhẹ nhàng cổ vũ tôi: “ Mạnh dạn lên đồng chí!”. Tôi mỉm cười, đáp “ Vâng”. Tiếng trống trường đã điểm, từng cậu học trò vào trường nhận lớp. Mẹ động viên, vỗ vai tôi đầy tin tưởng, vậy là tôi bước vào cánh cổng đang dang tay chào đón mình.
|
Mỗi chúng ta luôn có những dấu mốc quan trọng trong cuộc đời của mình. Là khi cất tiếng khóc chào đời, là bước đi đầu tiên, hay lần đầu rời vòng tay cha mẹ để đến trường. Những cảm xúc ấy, sẽ là hành trang cho những bước đường của chúng ta. Nhưng rồi, chúng ta cũng sẽ chẳng thể quên được, có những bước chân đã nửa chín chắn trưởng thành, lại còn một nửa hồn nhiên khi ta bước chân vào cánh cổng trường THPT. Muốn ghi lại được những cảm xúc ấy, chúng ta phải tự mình trải nghiệm, bởi đó phải là cảm xúc xuất phát từ tận trái tim. Bài văn phải có được những cảm nhận về ngôi trường, thầy cô, bạn bè, những ngỡ ngàng rung động, lo lắng hay tự hào. Những kỉ niệm cấp hai của bạn có ùa về không, những nuối tiếc hay vui mừng có hiện lên không? Bạn sẽ tự hứa gì với bản thân khi bước vào một quãng đời mới chứ? Hãy viết ra những cảm xúc là chân thật, sâu kín nhất nhé. Chúc các bạn thành công!
Tôi đang ở độ tuổi đẹp nhất của cuộc đời con người. Mười sáu tuổi- chưa đủ để thật chín chắn trưởng thành, nhưng cũng không còn thơ dại như mười năm về trước. Tôi biết rung động, biết trân trọng nhiều khoảnh khắc hơn. Và hôm nay cũng là một trong những thời khắc đẹp của cuộc đời tôi. Hôm nay, tôi đi học…
Vậy là đã đến ngày tôi quay trở lại trường học sau hai tháng ngày hè. Vẫn là một ngày thu với trời xanh, nắng vàng và mây trắng. Mọi thứ vẫn thật hoàn hảo để bắt đầu một hành trình mới của năm học. Nắng vẫn nhẹ ôm lấy bờ vai tôi như chín năm qua đã từng, từng hàng cây vẫn xanh màu xanh bất tử của nó. Chỉ có điều, con đường đi học hôm nay đã rẽ sang một lối khác. Là con đường dẫn đến ngôi trường cấp ba đầy xa lạ.
Tôi đã vào cấp ba thật rồi! Cảm xúc ấy thật lạ khi ngôi trường hiện dần ra trước mắt tôi. Vẫn là màu vàng như bao ngôi trường khác, cánh cổng sắt vẫn mang một màu xanh tươi mới đến nao lòng. Nhưng ngôi trường này, thật lạ lẫm biết chừng nào! Ngôi trường ấy to lớn và bề thế hơn trường cấp hai của tôi rất nhiều, dường như nó ôm trong dáng hình của mình cả bề dày lịch sử bao nhiêu năm qua. Khuôn viên trường được chia thành nhiều dãy nhà khác nhau, có nhà hiệu bộ, nhà đa năng, các dãy học và sân trường rộng lớn với đầy những cây xanh. Ngôi trường có lẽ hôm nay trang trọng hơn rất nhiều những ngày thường. Những băng rô đỏ chói chào mừng học sinh lớp mười, bóng bay và cờ phấp phới bay trong gió như muốn chào đón lứa học sinh mới chúng tôi. Thật tự hào và hạnh phúc biết bao khi được đặt chân trở thành một phần của nơi đây. Đây sẽ là nơi tôi gắn bó trong suốt chặng đường cấp ba, sẽ là bước đệm để tôi trưởng thành, sẵn sàng đương đầu với các thử thách trong cuộc đời!
Tôi bước vào nhận lớp. Bạn bè của tôi đều là những người xa lạ. Trong lớp học ấy, tạo hoá ngẫu nhiên sắp xếp cho những người không quen biết ngồi chung một lớp với nhau. Tôi nhìn kĩ mặt từng người một. Có khuôn mặt của sự rụt rè lo lắng, có sự tự tin, có sự thân thiện, cũng có những người thấm đượm nỗi buồn. Họ buồn vì phải chia tay một ngôi trường cũ, buồn vì không quen ai trong lớp, hay buồn chuyện nào đó nữa, tôi cũng không thể đoán được. Ngồi bên cạnh tôi là một cậu bạn khá rụt rè, cúi gằm mặt xuống bàn mà không dám bắt chuyện với ai. Tôi cười thật tươi với cậu ấy, tôi muốn những người xung quanh tôi sẽ thật thoải mái khi ở bên nhau, để có thể học, chơi và tận hưởng cấp ba. Tôi tin, đó sẽ là những người làm cho cấp ba của tôi trở nên đẹp đẽ nhất khi tất cả đã trở thành gia đình.
Một lúc sau, cô giáo bước vào lớp. Cô không phải là nhân vật trong những khúc hát “cô giáo như mẹ hiền”, dỗ chúng tôi khi khóc, động viên chúng tôi, cũng không phải là người lãnh đạm đến lạnh lùng. Cô giản dị và đẹp lắm! Nụ cười của cô làm tan đi những lo lắng đang trở thành rào cản trong lòng tôi. Tôi như muốn mở lòng mình ra rộng hơn nữa, để được cô yêu thương, quan tâm. Cô dặn dò chúng tôi về những nội quy của trường lớp, nhắc chúng tôi cách soạn bài sao cho đúng, đối nhân xử thế ra sao. Cũng đúng thôi, chúng tôi không còn bé bỏng để được dạy về cách ăn mặc đúng đắn, cách đi đứng thế nào. Chúng tôi cần những bài học để trưởng thành, để lớn lên. Cô ơi, cô sẽ là người mẹ, người bạn, người cô của chúng con trong suốt thời gian chúng con trưởng thành. Con mong rằng, khi thời gian trôi qua, chúng ta sẽ hiểu, sẽ yêu thương và trân trọng nhau nhiều hơn.
Ngày đầu tiên tôi bước chân vào trường cấp ba là như vậy. Ra khỏi cổng trường, lòng tôi bỗng chợt trùng xuống. Một người cha đứng đợi con giữa trưa nắng gắt, những giọt mồ hôi thi nhau rơi trên khuôn mặt dạn dày sương gió. Nhưng trên gương mặt ấy, bừng lên niềm vui khôn tả khi con được vào một môi trường tốt để học. Thì ra, ngày đầu tiên của con cũng là những cảm xúc đầu tiên của cha mẹ. Tôi bỗng chợt nhớ về chín năm trước, cũng là lần đầu tiên tôi đi học. Ngày ấy, tôi vẫn là đứa bé rụt rè nép bên lưng mẹ, nhìn thầy cô và bạn bè mà hoảng sợ. Cũng là tôi, nhưng trong khoảnh khắc này, lòng lại chợt thấy nôn nao khi những dòng người tấp nập trên sân trường. Một mình tôi dám bước qua cánh cổng sắt ấy hoà vào đám bạn bè, để mẹ và cha đằng sau với cảm xúc lẫn lộn. Con sẽ trưởng thành mẹ ạ, sẽ tự bước đi được trên đôi chân của mình để chiến đấu với cuộc đời. Với tôi, đây có lẽ chính là khoảnh khắc đặc biệt nhất, khi đã biết tự mình buông ra khỏi vòng tay cha mẹ mà vẫy vùng.
Ngước nhìn ngôi trường một lần nữa, giờ nó đã trở nên rực rỡ hơn bao giờ hết dưới ánh nắng vàng. Màu vàng của hi vọng, của tự hào, của trách nhiệm. Thì ra, đặt chân được vào cánh cổng cấp ba ấy, tôi phải biết được rằng, đó là niềm tự hào mà cũng là gánh nặng của mình. Tự hào vì được học trong một ngôi trường có bề dày lịch sử, được mang danh ngôi trường có thành tích tốt như vậy. Nhưng nó cũng phải đi liền với trách nhiệm, phải cố gắng ra sao để giữ gìn và đóng góp cho thành tích của trường, như một sự trả ơn với những gì mình được nhận. Con đường phía trước của tôi rất dài, bởi ở tuổi mười sáu, tôi chẳng ngại điều gì mà không vùng vẫy với cuộc đời để làm đẹp cho cuộc sống, để cống hiến, để hi sinh. Khoảnh khắc bước vào cấp ba của tôi, chính là như vậy!
Tôi trở về nhà, với sự chín chắn trưởng thành hơn rất nhiều. Ngày hôm nay, tôi đã biết suy nghĩ nhiều hơn, cảm nhận kĩ hơn về thế giới xung quanh. Tôi sẽ chẳng bao giờ có thể quên được khoảnh khắc diệu kì ấy!
Mỗi độ thu về, trên bầu trời bàng bạc thả trôi từng đám mây, khi hàng cây trước ngõ buông những cánh lá vàng tươi…Lòng tôi lại bâng khuâng những ngày đầu tiên bước vào trường trung học phổ thông. Cảm xúc như ngày lễ ấy mới đến từ hôm qua.
Tôi có không ít những ngày tựu trường, nhưng ngôi trường trung học phổ thông dưới tỉnh còn khá xa lạ với một đứa học trò nông thôn như tôi ngày ấy. Ngày hôm trước, lòng tôi còn náo nức, rộn ràng bởi trường chọn là ước mơ của tôi bấy lâu, nhưng lúc ấy xen lẫn niềm xúc động, thoáng lo âu về ngôi trường mới. Hôm sau, khoác lên mình bộ đồng phục mới tinh, tôi vẫn không giấu nổi niềm tự hào, hãnh diện khi mình là cô sinh viên lớp mười, tôi thấy mình chững chạc hơn. Giống như bao lần trước, mẹ chở tôi đến trường ngày đầu tiên. Con đường làng lùi dần phía sau lưng, từng đàn chim ríu rít vẫy chào tôi. Tôi ngỡ ngàng trước dòng xe cộ tấp nập, đường phố nhộn nhịp khác hẳn sự nếp sống bình yên quê tôi. Chẳng mấy chốc, cánh cổng trường hiện ra sau tán lá bàng, lá phượng xanh tốt. Ngôi trường khang trang gồm năm dãy nhà cao tầng, một khoảng sân trường vuông vức, đủ rộng cho mọi hoạt động. Nhiều bạn học sinh cùng trang lứa với tôi cũng được cha mẹ chở tới trường, họ không có vẻ rụt rè như tôi. Tôi cứ ngồi trên xe, nhìn ngắm hết thảy mọi điều mới mẻ và xa lạ. Bức ảnh Bác được trước mặt dãy nhà A cùng lời khuyên răn, động viên mà tôi còn ấn tượng mãi:
Những anh chị khóa trước quen trường lớp, khoác cặp, nói chuyện rôm rả, có lẽ họ trao đổi về kì nghỉ hè lí thú đã qua. Cổng trường, sân trường đông nghịt người, những tấm băng rôn đỏ tươi tô điểm ngôi trường. Mẹ cũng hiểu tâm trạng của tôi lúc này, nhẹ nhàng cổ vũ tôi: “ Mạnh dạn lên đồng chí!”. Tôi mỉm cười, đáp “ Vâng”. Tiếng trống trường đã điểm, từng cậu học trò vào trường nhận lớp. Mẹ động viên, vỗ vai tôi đầy tin tưởng, vậy là tôi bước vào cánh cổng đang dang tay chào đón mình.
|
Mỗi chúng ta luôn có những dấu mốc quan trọng trong cuộc đời của mình. Là khi cất tiếng khóc chào đời, là bước đi đầu tiên, hay lần đầu rời vòng tay cha mẹ để đến trường. Những cảm xúc ấy, sẽ là hành trang cho những bước đường của chúng ta. Nhưng rồi, chúng ta cũng sẽ chẳng thể quên được, có những bước chân đã nửa chín chắn trưởng thành, lại còn một nửa hồn nhiên khi ta bước chân vào cánh cổng trường THPT. Muốn ghi lại được những cảm xúc ấy, chúng ta phải tự mình trải nghiệm, bởi đó phải là cảm xúc xuất phát từ tận trái tim. Bài văn phải có được những cảm nhận về ngôi trường, thầy cô, bạn bè, những ngỡ ngàng rung động, lo lắng hay tự hào. Những kỉ niệm cấp hai của bạn có ùa về không, những nuối tiếc hay vui mừng có hiện lên không? Bạn sẽ tự hứa gì với bản thân khi bước vào một quãng đời mới chứ? Hãy viết ra những cảm xúc là chân thật, sâu kín nhất nhé. Chúc các bạn thành công!
Tôi đang ở độ tuổi đẹp nhất của cuộc đời con người. Mười sáu tuổi- chưa đủ để thật chín chắn trưởng thành, nhưng cũng không còn thơ dại như mười năm về trước. Tôi biết rung động, biết trân trọng nhiều khoảnh khắc hơn. Và hôm nay cũng là một trong những thời khắc đẹp của cuộc đời tôi. Hôm nay, tôi đi học…
Vậy là đã đến ngày tôi quay trở lại trường học sau hai tháng ngày hè. Vẫn là một ngày thu với trời xanh, nắng vàng và mây trắng. Mọi thứ vẫn thật hoàn hảo để bắt đầu một hành trình mới của năm học. Nắng vẫn nhẹ ôm lấy bờ vai tôi như chín năm qua đã từng, từng hàng cây vẫn xanh màu xanh bất tử của nó. Chỉ có điều, con đường đi học hôm nay đã rẽ sang một lối khác. Là con đường dẫn đến ngôi trường cấp ba đầy xa lạ.
Tôi đã vào cấp ba thật rồi! Cảm xúc ấy thật lạ khi ngôi trường hiện dần ra trước mắt tôi. Vẫn là màu vàng như bao ngôi trường khác, cánh cổng sắt vẫn mang một màu xanh tươi mới đến nao lòng. Nhưng ngôi trường này, thật lạ lẫm biết chừng nào! Ngôi trường ấy to lớn và bề thế hơn trường cấp hai của tôi rất nhiều, dường như nó ôm trong dáng hình của mình cả bề dày lịch sử bao nhiêu năm qua. Khuôn viên trường được chia thành nhiều dãy nhà khác nhau, có nhà hiệu bộ, nhà đa năng, các dãy học và sân trường rộng lớn với đầy những cây xanh. Ngôi trường có lẽ hôm nay trang trọng hơn rất nhiều những ngày thường. Những băng rô đỏ chói chào mừng học sinh lớp mười, bóng bay và cờ phấp phới bay trong gió như muốn chào đón lứa học sinh mới chúng tôi. Thật tự hào và hạnh phúc biết bao khi được đặt chân trở thành một phần của nơi đây. Đây sẽ là nơi tôi gắn bó trong suốt chặng đường cấp ba, sẽ là bước đệm để tôi trưởng thành, sẵn sàng đương đầu với các thử thách trong cuộc đời!
Tôi bước vào nhận lớp. Bạn bè của tôi đều là những người xa lạ. Trong lớp học ấy, tạo hoá ngẫu nhiên sắp xếp cho những người không quen biết ngồi chung một lớp với nhau. Tôi nhìn kĩ mặt từng người một. Có khuôn mặt của sự rụt rè lo lắng, có sự tự tin, có sự thân thiện, cũng có những người thấm đượm nỗi buồn. Họ buồn vì phải chia tay một ngôi trường cũ, buồn vì không quen ai trong lớp, hay buồn chuyện nào đó nữa, tôi cũng không thể đoán được. Ngồi bên cạnh tôi là một cậu bạn khá rụt rè, cúi gằm mặt xuống bàn mà không dám bắt chuyện với ai. Tôi cười thật tươi với cậu ấy, tôi muốn những người xung quanh tôi sẽ thật thoải mái khi ở bên nhau, để có thể học, chơi và tận hưởng cấp ba. Tôi tin, đó sẽ là những người làm cho cấp ba của tôi trở nên đẹp đẽ nhất khi tất cả đã trở thành gia đình.
Một lúc sau, cô giáo bước vào lớp. Cô không phải là nhân vật trong những khúc hát “cô giáo như mẹ hiền”, dỗ chúng tôi khi khóc, động viên chúng tôi, cũng không phải là người lãnh đạm đến lạnh lùng. Cô giản dị và đẹp lắm! Nụ cười của cô làm tan đi những lo lắng đang trở thành rào cản trong lòng tôi. Tôi như muốn mở lòng mình ra rộng hơn nữa, để được cô yêu thương, quan tâm. Cô dặn dò chúng tôi về những nội quy của trường lớp, nhắc chúng tôi cách soạn bài sao cho đúng, đối nhân xử thế ra sao. Cũng đúng thôi, chúng tôi không còn bé bỏng để được dạy về cách ăn mặc đúng đắn, cách đi đứng thế nào. Chúng tôi cần những bài học để trưởng thành, để lớn lên. Cô ơi, cô sẽ là người mẹ, người bạn, người cô của chúng con trong suốt thời gian chúng con trưởng thành. Con mong rằng, khi thời gian trôi qua, chúng ta sẽ hiểu, sẽ yêu thương và trân trọng nhau nhiều hơn.
Ngày đầu tiên tôi bước chân vào trường cấp ba là như vậy. Ra khỏi cổng trường, lòng tôi bỗng chợt trùng xuống. Một người cha đứng đợi con giữa trưa nắng gắt, những giọt mồ hôi thi nhau rơi trên khuôn mặt dạn dày sương gió. Nhưng trên gương mặt ấy, bừng lên niềm vui khôn tả khi con được vào một môi trường tốt để học. Thì ra, ngày đầu tiên của con cũng là những cảm xúc đầu tiên của cha mẹ. Tôi bỗng chợt nhớ về chín năm trước, cũng là lần đầu tiên tôi đi học. Ngày ấy, tôi vẫn là đứa bé rụt rè nép bên lưng mẹ, nhìn thầy cô và bạn bè mà hoảng sợ. Cũng là tôi, nhưng trong khoảnh khắc này, lòng lại chợt thấy nôn nao khi những dòng người tấp nập trên sân trường. Một mình tôi dám bước qua cánh cổng sắt ấy hoà vào đám bạn bè, để mẹ và cha đằng sau với cảm xúc lẫn lộn. Con sẽ trưởng thành mẹ ạ, sẽ tự bước đi được trên đôi chân của mình để chiến đấu với cuộc đời. Với tôi, đây có lẽ chính là khoảnh khắc đặc biệt nhất, khi đã biết tự mình buông ra khỏi vòng tay cha mẹ mà vẫy vùng.
Ngước nhìn ngôi trường một lần nữa, giờ nó đã trở nên rực rỡ hơn bao giờ hết dưới ánh nắng vàng. Màu vàng của hi vọng, của tự hào, của trách nhiệm. Thì ra, đặt chân được vào cánh cổng cấp ba ấy, tôi phải biết được rằng, đó là niềm tự hào mà cũng là gánh nặng của mình. Tự hào vì được học trong một ngôi trường có bề dày lịch sử, được mang danh ngôi trường có thành tích tốt như vậy. Nhưng nó cũng phải đi liền với trách nhiệm, phải cố gắng ra sao để giữ gìn và đóng góp cho thành tích của trường, như một sự trả ơn với những gì mình được nhận. Con đường phía trước của tôi rất dài, bởi ở tuổi mười sáu, tôi chẳng ngại điều gì mà không vùng vẫy với cuộc đời để làm đẹp cho cuộc sống, để cống hiến, để hi sinh. Khoảnh khắc bước vào cấp ba của tôi, chính là như vậy!
Tôi trở về nhà, với sự chín chắn trưởng thành hơn rất nhiều. Ngày hôm nay, tôi đã biết suy nghĩ nhiều hơn, cảm nhận kĩ hơn về thế giới xung quanh. Tôi sẽ chẳng bao giờ có thể quên được khoảnh khắc diệu kì ấy!
Mỗi độ thu về, trên bầu trời bàng bạc thả trôi từng đám mây, khi hàng cây trước ngõ buông những cánh lá vàng tươi…Lòng tôi lại bâng khuâng những ngày đầu tiên bước vào trường trung học phổ thông. Cảm xúc như ngày lễ ấy mới đến từ hôm qua.
Tôi có không ít những ngày tựu trường, nhưng ngôi trường trung học phổ thông dưới tỉnh còn khá xa lạ với một đứa học trò nông thôn như tôi ngày ấy. Ngày hôm trước, lòng tôi còn náo nức, rộn ràng bởi trường chọn là ước mơ của tôi bấy lâu, nhưng lúc ấy xen lẫn niềm xúc động, thoáng lo âu về ngôi trường mới. Hôm sau, khoác lên mình bộ đồng phục mới tinh, tôi vẫn không giấu nổi niềm tự hào, hãnh diện khi mình là cô sinh viên lớp mười, tôi thấy mình chững chạc hơn. Giống như bao lần trước, mẹ chở tôi đến trường ngày đầu tiên. Con đường làng lùi dần phía sau lưng, từng đàn chim ríu rít vẫy chào tôi. Tôi ngỡ ngàng trước dòng xe cộ tấp nập, đường phố nhộn nhịp khác hẳn sự nếp sống bình yên quê tôi. Chẳng mấy chốc, cánh cổng trường hiện ra sau tán lá bàng, lá phượng xanh tốt. Ngôi trường khang trang gồm năm dãy nhà cao tầng, một khoảng sân trường vuông vức, đủ rộng cho mọi hoạt động. Nhiều bạn học sinh cùng trang lứa với tôi cũng được cha mẹ chở tới trường, họ không có vẻ rụt rè như tôi. Tôi cứ ngồi trên xe, nhìn ngắm hết thảy mọi điều mới mẻ và xa lạ. Bức ảnh Bác được trước mặt dãy nhà A cùng lời khuyên răn, động viên mà tôi còn ấn tượng mãi:
Những anh chị khóa trước quen trường lớp, khoác cặp, nói chuyện rôm rả, có lẽ họ trao đổi về kì nghỉ hè lí thú đã qua. Cổng trường, sân trường đông nghịt người, những tấm băng rôn đỏ tươi tô điểm ngôi trường. Mẹ cũng hiểu tâm trạng của tôi lúc này, nhẹ nhàng cổ vũ tôi: “ Mạnh dạn lên đồng chí!”. Tôi mỉm cười, đáp “ Vâng”. Tiếng trống trường đã điểm, từng cậu học trò vào trường nhận lớp. Mẹ động viên, vỗ vai tôi đầy tin tưởng, vậy là tôi bước vào cánh cổng đang dang tay chào đón mình.
|
Mỗi chúng ta luôn có những dấu mốc quan trọng trong cuộc đời của mình. Là khi cất tiếng khóc chào đời, là bước đi đầu tiên, hay lần đầu rời vòng tay cha mẹ để đến trường. Những cảm xúc ấy, sẽ là hành trang cho những bước đường của chúng ta. Nhưng rồi, chúng ta cũng sẽ chẳng thể quên được, có những bước chân đã nửa chín chắn trưởng thành, lại còn một nửa hồn nhiên khi ta bước chân vào cánh cổng trường THPT. Muốn ghi lại được những cảm xúc ấy, chúng ta phải tự mình trải nghiệm, bởi đó phải là cảm xúc xuất phát từ tận trái tim. Bài văn phải có được những cảm nhận về ngôi trường, thầy cô, bạn bè, những ngỡ ngàng rung động, lo lắng hay tự hào. Những kỉ niệm cấp hai của bạn có ùa về không, những nuối tiếc hay vui mừng có hiện lên không? Bạn sẽ tự hứa gì với bản thân khi bước vào một quãng đời mới chứ? Hãy viết ra những cảm xúc là chân thật, sâu kín nhất nhé. Chúc các bạn thành công!
Tôi đang ở độ tuổi đẹp nhất của cuộc đời con người. Mười sáu tuổi- chưa đủ để thật chín chắn trưởng thành, nhưng cũng không còn thơ dại như mười năm về trước. Tôi biết rung động, biết trân trọng nhiều khoảnh khắc hơn. Và hôm nay cũng là một trong những thời khắc đẹp của cuộc đời tôi. Hôm nay, tôi đi học…
Vậy là đã đến ngày tôi quay trở lại trường học sau hai tháng ngày hè. Vẫn là một ngày thu với trời xanh, nắng vàng và mây trắng. Mọi thứ vẫn thật hoàn hảo để bắt đầu một hành trình mới của năm học. Nắng vẫn nhẹ ôm lấy bờ vai tôi như chín năm qua đã từng, từng hàng cây vẫn xanh màu xanh bất tử của nó. Chỉ có điều, con đường đi học hôm nay đã rẽ sang một lối khác. Là con đường dẫn đến ngôi trường cấp ba đầy xa lạ.
Tôi đã vào cấp ba thật rồi! Cảm xúc ấy thật lạ khi ngôi trường hiện dần ra trước mắt tôi. Vẫn là màu vàng như bao ngôi trường khác, cánh cổng sắt vẫn mang một màu xanh tươi mới đến nao lòng. Nhưng ngôi trường này, thật lạ lẫm biết chừng nào! Ngôi trường ấy to lớn và bề thế hơn trường cấp hai của tôi rất nhiều, dường như nó ôm trong dáng hình của mình cả bề dày lịch sử bao nhiêu năm qua. Khuôn viên trường được chia thành nhiều dãy nhà khác nhau, có nhà hiệu bộ, nhà đa năng, các dãy học và sân trường rộng lớn với đầy những cây xanh. Ngôi trường có lẽ hôm nay trang trọng hơn rất nhiều những ngày thường. Những băng rô đỏ chói chào mừng học sinh lớp mười, bóng bay và cờ phấp phới bay trong gió như muốn chào đón lứa học sinh mới chúng tôi. Thật tự hào và hạnh phúc biết bao khi được đặt chân trở thành một phần của nơi đây. Đây sẽ là nơi tôi gắn bó trong suốt chặng đường cấp ba, sẽ là bước đệm để tôi trưởng thành, sẵn sàng đương đầu với các thử thách trong cuộc đời!
Tôi bước vào nhận lớp. Bạn bè của tôi đều là những người xa lạ. Trong lớp học ấy, tạo hoá ngẫu nhiên sắp xếp cho những người không quen biết ngồi chung một lớp với nhau. Tôi nhìn kĩ mặt từng người một. Có khuôn mặt của sự rụt rè lo lắng, có sự tự tin, có sự thân thiện, cũng có những người thấm đượm nỗi buồn. Họ buồn vì phải chia tay một ngôi trường cũ, buồn vì không quen ai trong lớp, hay buồn chuyện nào đó nữa, tôi cũng không thể đoán được. Ngồi bên cạnh tôi là một cậu bạn khá rụt rè, cúi gằm mặt xuống bàn mà không dám bắt chuyện với ai. Tôi cười thật tươi với cậu ấy, tôi muốn những người xung quanh tôi sẽ thật thoải mái khi ở bên nhau, để có thể học, chơi và tận hưởng cấp ba. Tôi tin, đó sẽ là những người làm cho cấp ba của tôi trở nên đẹp đẽ nhất khi tất cả đã trở thành gia đình.
Một lúc sau, cô giáo bước vào lớp. Cô không phải là nhân vật trong những khúc hát “cô giáo như mẹ hiền”, dỗ chúng tôi khi khóc, động viên chúng tôi, cũng không phải là người lãnh đạm đến lạnh lùng. Cô giản dị và đẹp lắm! Nụ cười của cô làm tan đi những lo lắng đang trở thành rào cản trong lòng tôi. Tôi như muốn mở lòng mình ra rộng hơn nữa, để được cô yêu thương, quan tâm. Cô dặn dò chúng tôi về những nội quy của trường lớp, nhắc chúng tôi cách soạn bài sao cho đúng, đối nhân xử thế ra sao. Cũng đúng thôi, chúng tôi không còn bé bỏng để được dạy về cách ăn mặc đúng đắn, cách đi đứng thế nào. Chúng tôi cần những bài học để trưởng thành, để lớn lên. Cô ơi, cô sẽ là người mẹ, người bạn, người cô của chúng con trong suốt thời gian chúng con trưởng thành. Con mong rằng, khi thời gian trôi qua, chúng ta sẽ hiểu, sẽ yêu thương và trân trọng nhau nhiều hơn.
Ngày đầu tiên tôi bước chân vào trường cấp ba là như vậy. Ra khỏi cổng trường, lòng tôi bỗng chợt trùng xuống. Một người cha đứng đợi con giữa trưa nắng gắt, những giọt mồ hôi thi nhau rơi trên khuôn mặt dạn dày sương gió. Nhưng trên gương mặt ấy, bừng lên niềm vui khôn tả khi con được vào một môi trường tốt để học. Thì ra, ngày đầu tiên của con cũng là những cảm xúc đầu tiên của cha mẹ. Tôi bỗng chợt nhớ về chín năm trước, cũng là lần đầu tiên tôi đi học. Ngày ấy, tôi vẫn là đứa bé rụt rè nép bên lưng mẹ, nhìn thầy cô và bạn bè mà hoảng sợ. Cũng là tôi, nhưng trong khoảnh khắc này, lòng lại chợt thấy nôn nao khi những dòng người tấp nập trên sân trường. Một mình tôi dám bước qua cánh cổng sắt ấy hoà vào đám bạn bè, để mẹ và cha đằng sau với cảm xúc lẫn lộn. Con sẽ trưởng thành mẹ ạ, sẽ tự bước đi được trên đôi chân của mình để chiến đấu với cuộc đời. Với tôi, đây có lẽ chính là khoảnh khắc đặc biệt nhất, khi đã biết tự mình buông ra khỏi vòng tay cha mẹ mà vẫy vùng.
Ngước nhìn ngôi trường một lần nữa, giờ nó đã trở nên rực rỡ hơn bao giờ hết dưới ánh nắng vàng. Màu vàng của hi vọng, của tự hào, của trách nhiệm. Thì ra, đặt chân được vào cánh cổng cấp ba ấy, tôi phải biết được rằng, đó là niềm tự hào mà cũng là gánh nặng của mình. Tự hào vì được học trong một ngôi trường có bề dày lịch sử, được mang danh ngôi trường có thành tích tốt như vậy. Nhưng nó cũng phải đi liền với trách nhiệm, phải cố gắng ra sao để giữ gìn và đóng góp cho thành tích của trường, như một sự trả ơn với những gì mình được nhận. Con đường phía trước của tôi rất dài, bởi ở tuổi mười sáu, tôi chẳng ngại điều gì mà không vùng vẫy với cuộc đời để làm đẹp cho cuộc sống, để cống hiến, để hi sinh. Khoảnh khắc bước vào cấp ba của tôi, chính là như vậy!
Tôi trở về nhà, với sự chín chắn trưởng thành hơn rất nhiều. Ngày hôm nay, tôi đã biết suy nghĩ nhiều hơn, cảm nhận kĩ hơn về thế giới xung quanh. Tôi sẽ chẳng bao giờ có thể quên được khoảnh khắc diệu kì ấy!
Mỗi độ thu về, trên bầu trời bàng bạc thả trôi từng đám mây, khi hàng cây trước ngõ buông những cánh lá vàng tươi…Lòng tôi lại bâng khuâng những ngày đầu tiên bước vào trường trung học phổ thông. Cảm xúc như ngày lễ ấy mới đến từ hôm qua.
Tôi có không ít những ngày tựu trường, nhưng ngôi trường trung học phổ thông dưới tỉnh còn khá xa lạ với một đứa học trò nông thôn như tôi ngày ấy. Ngày hôm trước, lòng tôi còn náo nức, rộn ràng bởi trường chọn là ước mơ của tôi bấy lâu, nhưng lúc ấy xen lẫn niềm xúc động, thoáng lo âu về ngôi trường mới. Hôm sau, khoác lên mình bộ đồng phục mới tinh, tôi vẫn không giấu nổi niềm tự hào, hãnh diện khi mình là cô sinh viên lớp mười, tôi thấy mình chững chạc hơn. Giống như bao lần trước, mẹ chở tôi đến trường ngày đầu tiên. Con đường làng lùi dần phía sau lưng, từng đàn chim ríu rít vẫy chào tôi. Tôi ngỡ ngàng trước dòng xe cộ tấp nập, đường phố nhộn nhịp khác hẳn sự nếp sống bình yên quê tôi. Chẳng mấy chốc, cánh cổng trường hiện ra sau tán lá bàng, lá phượng xanh tốt. Ngôi trường khang trang gồm năm dãy nhà cao tầng, một khoảng sân trường vuông vức, đủ rộng cho mọi hoạt động. Nhiều bạn học sinh cùng trang lứa với tôi cũng được cha mẹ chở tới trường, họ không có vẻ rụt rè như tôi. Tôi cứ ngồi trên xe, nhìn ngắm hết thảy mọi điều mới mẻ và xa lạ. Bức ảnh Bác được trước mặt dãy nhà A cùng lời khuyên răn, động viên mà tôi còn ấn tượng mãi:
Những anh chị khóa trước quen trường lớp, khoác cặp, nói chuyện rôm rả, có lẽ họ trao đổi về kì nghỉ hè lí thú đã qua. Cổng trường, sân trường đông nghịt người, những tấm băng rôn đỏ tươi tô điểm ngôi trường. Mẹ cũng hiểu tâm trạng của tôi lúc này, nhẹ nhàng cổ vũ tôi: “ Mạnh dạn lên đồng chí!”. Tôi mỉm cười, đáp “ Vâng”. Tiếng trống trường đã điểm, từng cậu học trò vào trường nhận lớp. Mẹ động viên, vỗ vai tôi đầy tin tưởng, vậy là tôi bước vào cánh cổng đang dang tay chào đón mình.
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.